Transcript
Page 1: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

1

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU

1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU

1.1.1 Bối cảnh thực tiễn

Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2008, bất động sản (BĐS) là một trong

những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao qua hầu hết các chỉ tiêu thể hiện quy

mô cũng như hiệu quả. Theo Tổng cục Thống kê (2010a), trong giai này tốc độ tăng

trưởng bình quân về số lượng doanh nghiệp là 41,4%/năm, vốn kinh doanh là

36%/năm. Hầu hết các chỉ tiêu căn bản thể hiện quy mô và hiệu quả của doanh

nghiệp ngành BĐS đều tăng với tốc độ cao hơn mức trung bình của các ngành kinh

tế khác, chẳng hạn như tốc độ phát triển bình quân giai đoạn 2000­2008 của ngành

BĐS cao hơn mức trung bình của các ngành kinh tế trong cả nước về số lượng

doanh nghiệp là 20%, số lao động là 11%, nguồn vốn đầu tư là 15%, tài sản cố định

là 6%, doanh thu thuần là 14%, lợi nhuận trước thuế là 182%, thuế và các khoản

nộp ngân sách là 29% (Tổng cục Thống kê, 2010a). Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả

hoạt động kinh doanh của ngành BĐS có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với mức

trung bình của cả nước, đặc biệt là chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh và

tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao hơn mức chung của cả nước lần lượt là 150%

và 82% (Tổng cục Thống kê, 2010a). Tốc độ tăng trưởng cao là động lực thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành lớn nhất cả nước, theo Tổng cục Thống kê

(2010b) ngành BĐS thu hút 33,8% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt

Nam trong năm 2009.

Cũng giống như các ngành kinh tế khác ở Việt Nam, các giai đoạn phát triển

của ngành BĐS phụ thuộc nhiều vào các giai đoạn cải cách thể chế của quốc gia.

Xem xét các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên quan, Đào Anh Kiệt (2010) chia

quá trình phát triển thị trường BĐS Việt Nam làm ba giai đoạn là trước năm 1993,

từ 1993­2003, và từ năm 2003 đến nay. Các đặc điểm và bối cảnh nền kinh tế của

các giai đoạn trong quá trình phát triển thị trường BĐS Việt Nam được tóm tắt ở

Bảng 1.1.

Page 2: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

2

Bảng 1.1: Các giai đoạn phát triển của thị trường bất động sản Việt Nam

Giai đoạn Bối cảnh và khung pháp lý Đặc điểm

Trước

năm 1993

Hiến pháp năm 1980; luật đất đai

năm 1987: Người sử dụng đất

chỉ có quyền sử dụng, không có

quyền chuyển nhượng và các

quyền khác

­ Chủ yếu là các giao dịch phi chính

thức.

­ Rất ít doanh nghiệp kinh doanh BĐS.

­ Sản phẩm BĐS rất thô sơ, chủ yếu là

quyền sử dụng đất.

­ Giao dịch chủ yếu bằng vàng.

Từ năm

1993 đến

2003

Luật đất đai năm 1993: người sử

dụng đất có 5 quyền là chuyển

nhượng, thừa kế, cho thuê, thế

chấp và góp vốn; Pháp lệnh

1994: tất cả các tổ chức sử dụng

đất vào mục đích kinh doanh

chuyển sang hình thức thuê đất;

Khủng hoảng kinh tế khu vực

châu Á 1997; thí điểm chính

sách giao đất tại TP.HCM vào

năm 2000.

­ Chính thức xuất hiện ngành kinh

doanh BĐS tại Việt Nam.

­ BĐS chủ yếu là các giao dịch thứ cấp.

­ Ngoài sản phẩm đất thô, còn có thêm

hình thức phân lô bán nền rất phát

triển.

­ Khu vực nước ngoài bắt đầu quan tâm

đến thị trường BĐS Việt Nam với các

hình thức BOT, BT và liên doanh với

trong nước để phát triển sản phẩm ở

trình độ cao như cao ốc căn hộ, văn

phòng cho thuê, hạ tầng khu công

nghiệp, bến bãi.

Giai đoạn

2003 đến

nay

Nhiều văn bản pháp luật ra đời

để điều chỉnh thị trường: Luật

đất đai 2003, luật xây dựng, luật

nhà ở, luật kinh doanh BĐS;

Việt Nam gia nhập WTO; thị

trường chứng khoán phát triển.

Từ năm 2008 đến nay, Chính

phủ áp dụng chính sách tiền tệ

thắt chặt để kiềm chế lạm phát.

­ Sàn giao dịch BĐS ra đời.

­ Sản phẩm BĐS đa dạng từ thô sơ đến

cao cấp.

­ Có mối liên hệ khắn khít với thị

trường tài chính, chính sách tài chính

ảnh hưởng rất lớn đến thị trường BĐS.

­ Với chính sách tiền tệ thắt chặt của

Chính phủ từ năm 2008 làm hạn chế

giao dịch trên thị trường BĐS.

Nguồn: Tổng kết từ tham khảo Đào Anh Kiệt (2010).

Page 3: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

3

Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển, đến nay ngành BĐS Việt

Nam hình thành các sản phẩm kinh doanh đa dạng và thị trường đã hình thành nhiều

dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động của ngành như dịch vụ tư vấn pháp lý, quỹ đầu tư,

thẩm định giá trị BĐS. Tuy nhiên, ngành BĐS Việt Nam còn một số tồn tại xuất

phát từ chính sách điều tiết của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp BĐS như

sau:

Đối với chính sách điều tiết thị trường BĐS của Chính phủ:

Bảng 1.1 cho thấy các chính sách điều tiết của Chính phủ có tác động rất lớn

đối với đặc trưng và sự phát triển của thị trường BĐS Việt Nam. Với tốc độ phát

triển nhanh của thị trường BĐS đòi hỏi Chính phủ phải ban hành nhiều chính sách

để điều tiết thị trường. Từ năm 2008 đến 2010, Chính phủ Việt Nam đã ban hành

tổng số 49 văn bản luật và dưới luật để điều tiết thị trường BĐS 1 . Tuy nhiên, các

chính sách ban hành (nói chung cho cả nền kinh tế, trong đó có ngành BĐS) ít dựa

trên cơ sở liên kết giữa các chủ thể tham gia thị trường như doanh nghiệp, người

tiêu dùng, các định chế tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước lẫn nhau (Ohno,

2009; Porter & các cộng sự, 2010). Điều này hàm ý Chính phủ chưa nhận thức đầy

đủ tầm quan trọng của các mạng lưới liên kết trong vấn đề hoạch định chính sách.

Hệ quả là nhiều văn bản pháp luật ban hành còn rườm rà và chồng chéo (Porter &

các cộng sự, 2010).

Mặc dù Chính phủ khá nhạy bén trong ban hành các chính sách điều tiết thị

trường BĐS, nhưng vẫn còn thiếu các chính sách tạo ra các công cụ hỗ trợ vốn cho

thị trường, đặc biệt là các kênh huy động vốn dựa trên sự liên kết giữa các chủ thể

trên thị trường. Trong bối cảnh lạm phát, Chính phủ đang ngày càng ban hành nhiều

chính sách thắt chặt các kênh huy động vốn từ khách hàng (Vũ Đình Ánh, 2010).

Trong khi đó, kênh huy động vốn dưới hình thức các hình thức liên kết các chủ thể

tham gia thị trường thì chưa có ở Việt Nam. Chẳng hạn như quỹ tín thác BĐS (Real

Estate Investment Trust – REIT) chỉ bắt đầu nhận thức ở mức độ khái niệm tại Việt

Nam, chủ yếu là các quỹ ở nước ngoài đầu tư vào thị trường trong nước nhưng

1 Thống kê của tác giả luận án trên website: www.luatvietnam.vn (truy cập ngày 12/03/2011).

Page 4: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

4

không đáng kể (Trần Kim Chung, 2010); chưa có hệ thống tín dụng nhà ở như Thái

Lan (là hệ thống nhận tiền đặt cọc để cung cấp vốn vay xây dựng nhà ở); chưa có hệ

thống tiết kiệm nhà ở bắt buộc như ở Singapore (Bộ Xây dựng, 2010).

Bởi vì các cộng cụ huy động vốn còn hạn chế, nên thị trường BĐS Việt Nam

phụ thuộc rất nhiều vào thị trường tín dụng, khi lạm phát xảy ra (từ năm 2008 đến

nay) Chính phủ áp đặt chính sách tiền tệ thắt chặt làm đe dọa sự tồn tại của nhiều

doanh nghiệp BĐS. Do vậy, vấn đề cấp bách hiện nay đối với Chính phủ là cần phải

đa dạng các kênh huy động vốn ngoài ngân hàng với các hình thức dựa trên sự liên

kết các chủ thể tham gia thị trường có thể là một lựa chọn thay thế. Muốn làm được

điều này cần phải có một khung lý thuyết về sự liên kết xã hội để làm nền tảng.

Đối với hành vi của doanh nghiệp bất động sản:

Thứ nhất, trong công tác tìm kiếm quỹ đất phát triển dự án ưu thế nghiêng về

các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước (Porter & các cộng sự, 2010). Điều này

được nhiều chuyên gia (danh sách đính kèm phụ lục 2) giải thích một phần là do

yếu tố lịch sử để lại vì nguồn gốc đất đai trong nền kinh tế phần lớn thuộc sở hữu

quốc dân trước đây, hoặc là do các doanh nghiệp nhà nước được sự hỗ trợ từ các cơ

quan quản lý nhà nước. Mặt khác, tính minh bạch của các thông tin trên các loại thị

trường (trong đó có thị trường BĐS) ở Việt Nam hiện nay còn rất kém (Porter &

các cộng sự, 2010), trong khi đó quỹ đất phát triển dự án chủ yếu được thực hiện

theo quyết định giao đất của cơ quan quản lý nhà nước được phân công (Đào Anh

Kiệt, 2010). Do vậy, việc lựa chọn doanh nghiệp để giao đất phát triển dự án phụ

thuộc rất nhiều vào các mối quan hệ cá nhân của chủ doanh nghiệp với cá nhân lãnh

đạo của cơ quan quản lý nhà nước.

Bởi vì lợi ích mang lại từ các mối quan hệ với chính quyền được nhận thấy

rõ ràng, nên phần lớn các doanh nghiệp chủ yếu quan tâm đến việc thiết lập các mối

quan hệ với chính quyền, mà đánh đổi thời gian để quan tâm đến các lợi ích mang

lại từ mạng lưới bên trong và các chủ thể bên ngoài khác. Các doanh nghiệp đầu tư

thời gian, thậm chí tiền bạc vào việc tìm cách móc nối với chính quyền để trục lợi,

điều này làm các mối quan hệ trở thành nguồn lực có tác động tiêu cực đối với nền

Page 5: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

5

kinh tế (theo kết quả phỏng vấn chuyên gia của luận án năm 2010, danh sách có

đính kèm ở phụ lục 2). Với nhận thức như vậy thì doanh nghiệp rất khó có thể khai

thác hết các lợi ích từ các mối quan hệ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh.

Thứ hai, Doanh nghiệp BĐS Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Trong thời gần đây, quy mô vốn của doanh nghiệp BĐS có xu hướng tăng, nhưng

tính đến năm 2007 có đến 88% các doanh nghiệp BĐS có quy mô dưới 50 tỷ đồng

(con số này tính chung cho các ngành kinh tế cả nước là 95%, xem Hình 1.1),

khoảng 72% doanh nghiệp có quy mô lao động dưới 9 người (con số này tính chung

cho các ngành kinh tế cả nước là 55%, xem Hình 1.2). Các doanh nghiệp có quy mô

nhỏ rất khó tham gia tạo sản phẩm vì đặc trưng của ngành BĐS là ngành thâm dụng

vốn, nếu các doanh nghiệp này sử dụng các mối quan hệ cá nhân để dành quyền sử

dụng quỹ đất thì cũng không có khả năng triển khai. Lúc đó tất yếu sẽ dẫn đến hiện

tượng chuyển nhượng dự án trên giấy tờ, làm đẩy giá thành và giá bán BĐS ở thị

trường Việt Nam lên cao tương đối so với một số nước Châu Á (xem Hình 1.3).

Hình 1.1: Số doanh nghiệp BĐS theo quy mô vốn

0% 5% 10% 15% 20% 25% 30% 35% 40% 45% 50%

Dưới 0,5 tỷ đồng

Từ 0,5 đến

dưới 1 tỷ đồng

Từ 1 đến

dưới 5 tỷ đồng

Từ 5 đến

dưới 10 tỷ đồng

Từ 10 đến

dưới 50 tỷ đồng

Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng

Từ 200 đến dưới 500 tỷ đồng

Từ 500 tỷ đồng trở lên

Tỷ tron

g do

anh ng

hiệp th

eo quy

mô vố

n

Cả nước Bất động sản

Hình 1.2: Số doanh nghiệp BĐS theo quy mô lao động

0%

5%

10%

15%

20%

25%

30%

35%

40%

45%

Dưới 5

người

5­9 người

10­49 người

50­ 199 người

200­ 299 người

300­ 499 người

500­ 999 người

1000­ 4999 người

5000 người trở lên

Tỷ lệ số

doanh nghiệp theo quy mô lao

động

Cả nước Bất động sản

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2007 của Tổng cục Thống kê (2010a).

Page 6: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

6

Hình 1.3: Giá bán và cho thuê căn hộ hạng sang tại thị trường Châu Á năm 2010

Nguồn: Townsend (2011), trang 8.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ có thể phát triển dự án bằng

cách huy động vốn từ bên ngoài. Nhưng trên thị trường BĐS Việt Nam hiện nay các

kênh huy động vốn rất hạn chế, các doanh nghiệp chủ yếu vay vốn từ ngân hàng

thương mại và sử dụng vốn ứng trước của khách hàng để phát triển dự án. Điều này

thể hiện rất rõ trong thời gian từ năm 2007 đến nay, khi Chính phủ kiềm chế lạm

phát bằng chính sách tiền tệ thắt chặt đã tạo áp lực chi phí lãi vay lên các doanh

BĐS. Trước bối cảnh đó, buộc các doanh nghiệp tập trung huy động vốn từ khách

hàng bằng cách hạ giá các sản phẩm bất động sản trên giấy tờ (xem Hình 1.4 và

Hình 1.5) để có vốn hoàn thiện dự án, nhằm giảm áp lực lãi vay.

Hình 1.4: Giá chào bán căn hộ Hình 1.5: Giá cho thuê mặt bằng TTTM

Nguồn: Công ty CBRE (trích trong Townsend, 2011)

Thứ ba, các hoạt động phân phối sản phẩm trên thị trường BĐS Việt Nam

diễn biến phức tạp và nhiều cấp độ. Theo ước tính của Vũ Đình Ánh (2010) thì có

Page 7: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

7

khoảng 80% các giao dịch trên thị trường BĐS là phi chính thức. Trước năm 2007,

thị trường BĐS cùng với chứng khoán là một trong những kênh đầu tư phổ biến của

người dân (Vũ Đình Ánh, 2010), người mua BĐS cũng đồng thời đóng vài trò là

nhà đầu tư BĐS nên đẩy giá BĐS lên cao (xem Hình 1.3).

Mặt khác, theo thống kê của Công ty CBRE (trích trong Townsend, 2011)

trước năm 2007, trung bình mỗi dự án có đến 95% khách hàng của CBRE ở thành

phố Hồ Chí Minh mua nhà ở bằng nguồn vốn vay. Do vậy, từ năm 2007 đến nay,

chính sách tiền tệ thắt chặt được Chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát, làm cho

cầu BĐS giảm đi đáng kể (Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền, 2011).

Tóm lại, hai khía cạnh tồn tại trên thị trường BĐS là chính sách điều tiết

của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp có liên quan đến việc nhận thức chưa

đầy đủ về lợi ích và tác hại của các mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị

trường, nên chưa hoạch định được chính sách sử dụng các mối quan hệ tối ưu. Đối

với chính sách điều tiết vĩ mô, Chính phủ chưa quan tâm đúng mức đến sự liên kết

giữa các chủ thể trên thị trường nên dẫn đến hiệu ứng của chính sách không cao;

mặc dù các chính sách điều tiết thị trường được ban hành nhiều nhưng chưa tạo ra

sự đa dạng về các công cụ hỗ trợ thị trường, đặc biệt là các công cụ huy động vốn

cho doanh nghiệp BĐS. Đối với doanh nghiệp BĐS thì chịu sự chi phối nhiều bởi

mối quan hệ cá nhân của lãnh đạo doanh nghiệp với các cá nhân cơ quan quản lý

nhà nước trong việc tiếp cận quỹ đất, nên doanh nghiệp nhận thức về vai trò của các

mối quan hệ bị lệch lạc và chưa khai thác tối ưu và chưa sử dụng các mối quan hệ

để phục vụ cho các họat động kinh doanh.

Bởi vì hai khía cạnh tồn tại trên thị trường BĐS Việt Nam có liên quan đến

mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị trường, nên rất cần một khung lý thuyết

giúp doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách nhận thức và lượng hóa được

nguồn lực tồn tại trong các mối quan hệ của doanh nghiệp, cũng như chỉ ra đóng

góp của chúng trong các hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó, làm căn cứ khoa học

và thực tiễn giúp doanh nghiệp BĐS nhận diện và hoạch định các chương trình phát

triển và sử dụng các mối quan hệ phục vụ hoạt động kinh doanh; đồng thời qua đó

Page 8: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

8

cũng xác định được luận cứ khoa học và thực tiễn về mối liên kết giữa các chủ thể

tham gia thị trường, nhằm giúp Chính phủ hoạch định các chính sách điều tiết thị

trường BĐS.

1.1.2 Bối cảnh lý thuyết

Nguồn lực tồn tại trong các mối quan hệ là một dạng nguồn lực vô hình được

đề cập đến với tên gọi là vốn xã hội. Vốn xã hội được nhiều nhà nghiên cứu như

Coleman (1988, 1990), Putnam (1995, 2000), và Nahapiet & Ghosal (1998) định

nghĩa là một dạng nguồn lực tồn tại trong các mạng lưới quan hệ có chất lượng (như

sự tín nhiệm, chia sẻ, hỗ trợ) giữa các chủ thể tham gia. Các lý thuyết kinh tế thừa

nhận vốn xã hội là nền tảng ra quyết định của các chủ thể trong nền kinh tế, chúng

chi phối hành vi của doanh nghiệp, người tiêu dùng và các chính sách vĩ mô của

Chính phủ, và các quy luật kinh tế (Wilson, 2000; Wills & các cộng sự, 2004). Do

vậy, vốn xã hội được nghiên cứu dưới nhiều cấp độ khác nhau như quốc gia, cộng

đồng, doanh nghiệp (Woolcock & Narayan, 2000).

Ở cấp độ doanh nghiệp, vốn xã hội của doanh nghiệp được đề cập đến như là

chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp; mối quan hệ của doanh

nghiệp với các chủ thể bên ngoài; chất lượng mối quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận

chức năng bên trong doanh nghiệp. Các nghiên cứu vốn xã hội trong doanh nghiệp

đề cập đến từng khía cạnh riêng biệt kể trên, có thể tổng kết một vài nghiên cứu tiêu

biểu như sau:

Đối với vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp: Các nghiên cứu gần đây

như McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Paré & các cộng sự

(2008), Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự (2001), Tushman &

O’Reilly III (1997), Acquaah (2007) có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo doanh

nghiệp như là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo: tình hữu nghị, hỗ

trợ lẫn nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và sự cam kết. Tuy nhiên, các

nghiên cứu này chưa xây dựng được thang đo chất lượng cho từng mạng lưới quan

hệ của lãnh đạo, nên không tạo ra được các gợi ý xây dựng, phát triển và đánh giá

vốn xã hội.

Page 9: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

9

Đối với vốn xã hội bên ngoài: Các nghiên cứu của Jansen & các cộng sự

(2011), Yang & các cộng sự (2011), Landry & các cộng sự (2000) đề cập đến vốn

xã hội bên ngoài doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với

các chủ thể trong mạng lưới chiều ngang (khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp,

các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh

tranh trong cùng ngành) và mạng lưới chiều dọc (chính quyền các cấp và các công

ty mẹ ­ con trong cùng tập đoàn). Các nghiên cứu này không xây dựng thang đo

chất lượng mối quan hệ cho từng chủ thể trong mạng lưới, mà thay vào đó là đề cập

đến chất lượng của mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài nói

chung. Với các thang đo được xây dựng như vậy thì rất khó có thể giúp doanh

nghiệp phát triển và đánh giá vốn xã hội bên ngoài.

Đối với vốn xã hội bên trong: Có những nghiên cứu đề cập đến vốn xã hội

bên trong của doanh nghiệp thể hiện qua mối quan hệ giữa các cá nhân và bộ phận

chức năng, chẳng hạn như nghiên cứu của Schenkel & Garrison (2009), Nisbet

(2007), Goyal & Akhilesh (2007), Cheng & các cộng sự (2006). Các nghiên cứu

này tiếp cận vốn xã hội bên trong doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa

nhân viên và giữa các bộ phận chức năng với nhau. Nhưng các nghiên cứu này chưa

xây dựng thang đo và đánh giá tác động của chúng đến kết quả các hoạt động của

doanh nghiệp, nên chưa gợi ý được cách thức xây dựng và sử dụng vốn xã hội cho

doanh nghiệp.

Các nghiên cứu kể trên chỉ đề cập đến từng khía cạnh về vốn xã hội của

doanh nghiệp, chứ không đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp bao hàm cả ba khía

cạnh mạng lưới lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Điều này dẫn đến

kết quả nghiên cứu rất khó có thể xây dựng các chỉ tiêu đo lường và đánh giá vốn xã

hội một cách toàn diện. Do vậy, rất cần thiết phải có một nghiên cứu xây dựng các

thang đo vốn xã hội bao hàm cả ba khía cạnh bên ngoài, bên trong và lãnh đạo

doanh nghiệp, để từ đó gợi ý các chỉ tiêu đo lường và đánh giá vốn xã hội của doanh

nghiệp một cách toàn diện. Hơn nữa, các nghiên cứu kể trên được thực hiện không

phải thực hiện đối với ngành BĐS.

Comment [D1]: Hoán đổi thứ tự

Page 10: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

10

Như vậy, với các lý thuyết hiện tại thì chưa giải quyết được vấn đề thực tiễn

đặt ra đối với doanh nghiệp BĐS Việt Nam là cần một khung lý thuyết giúp doanh

nghiệp và các nhà hoạch định chính sách nhận thức và lượng hóa được nguồn lực

tồn tại trong các mối quan hệ (vốn xã hội) của doanh nghiệp, cũng như chỉ ra đóng

góp của vốn xã hội trong các hoạt động của doanh nghiệp để thông qua đó giúp

doanh nghiệp nhận diện và hoạch định các chương trình nhằm phát triển vốn xã hội

phục vụ hoạt động kinh doanh. Do vậy, rất cần phải nghiên cứu về vốn xã hội đóng

góp vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Như đã giới thiệu, hai khía cạnh tồn tại trên thị trường BĐS Việt Nam là

chính sách điều tiết của Chính phủ và hành vi của doanh nghiệp liên quan đến việc

chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích và tác hại của các mối quan hệ giữa các chủ thể

tham gia thị trường, hay nói cách khác là liên quan đến vốn xã hội. Trong khi đó,

các lý thuyết về vốn xã hội trong doanh nghiệp chỉ được nghiên cứu riêng lẻ từng

khía cạnh vốn xã hội bên ngoài, bên trong và lãnh đạo, và chúng được thực hiện

không phải đối với ngành BĐS Việt Nam, nên chưa giải quyết được vấn đề thực

tiễn đặt ra. Nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh

nghiệp BĐS Việt Nam được thực hiện nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn,

với các mục tiêu nghiên cứu của luận án như sau:

1. Khám phá và đo lường cấu trúc của vốn xã hội và các hoạt động trong quá

trình kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS ở Việt Nam.

2. Xây dựng mô hình lý thuyết về đóng góp vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS Việt Nam.

3. Kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho trường hợp điển hình: các

doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.

4. Đề xuất những gợi ý chính sách giúp doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí

Minh nâng cao kết quả các hoạt động thông qua sử dụng vốn xã hội. Đồng

Page 11: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

11

thời gợi ý chính sách giúp các nhà hoạch định chính sách và Chính phủ hỗ

trợ doanh nghiệp BĐS Việt Nam phát triển các hình thức liên kết xã hội tích

cực và hạn chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực.

1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Các mục tiêu nghiên cứu nêu trên nhằm giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng

cấu trúc vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS, cũng như chỉ ra đóng

góp của chúng vào các hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó giúp doanh nghiệp

nhận thức và hoạch định chiến lược sử dụng vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động

kinh doanh, cũng như thông qua đó làm cở sỡ để Chính phủ hoạch định các chính

sách vĩ mô nhằm hạn chế các hình thức liên kết các hội tiêu cực và hỗ trợ doanh

nghiệp BĐS phát triển vốn xã hội. Luận án nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào

các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam được thực hiện với các mục tiêu

trên, nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

1. Vốn xã hội và các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS Việt Nam được nhận

diện và đo lường như thế nào?

2. Vốn xã hội đóng góp vào các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS Việt Nam

như thế nào?

3. Nếu vốn xã hội có đóng góp vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS, thì

những gợi ý chính sách nào nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho doanh

nghiệp BĐS thông qua sử dụng vốn xã hội; cũng như gợi ý chính sách nào

giúp Chính phủ điều tiết thị trường BĐS theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp

phát triển các hình thức liên kết xã hội tích cực và hạn chế các hình thức liên

kết xã hội tiêu cực?

1.4 PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Phạm vi nghiên cứu:

Như đã nêu trên, vốn xã hội được nghiên cứu dưới nhiều cấp độ như quốc

gia, cộng đồng dân sự và doanh nghiệp. Trong luận án này chủ yếu nghiên cứu vốn

xã hội dưới cấp độ doanh nghiệp trong một ngành cụ thể là ngành BĐS.

Comment [D2]: Có sự hoán đổi vị trí

Page 12: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

12

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp BĐS có đồng thời hai chức năng

kinh doanh: tạo sản phẩm và phân phối sản phẩm BĐS. Đối tượng để xây dựng

thang đo và các giả thuyết nghiên cứu là các doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Các

thang đo và mô hình nghiên cứu được kiểm định cho trường hợp điển hình là các

doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.

1.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu của luận án được thực hiện gồm hai giai đoạn là: (1) xây dựng

thang đo và mô hình lý thuyết; và (2) kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho

trường hợp điển hình, cụ thể như sau:

Giai đọan một: Lược khảo lý thuyết có liên quan để thiết kế dàn bài thảo

luận tay đôi phục vụ cho nghiên cứu định tính lần thứ nhất nhằm khám phá cấu trúc

và phát triển thang đo sơ bộ của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp

BĐS. Đối tượng thảo luận tay đôi là các giám đốc hoặc phó giám đốc doanh nghiệp

BĐS ở Việt Nam bằng phương pháp chọn theo mục tiêu.

Sau đó thực hiện nghiên cứu định lượng sơ bộ trên mẫu gồm 150 quan sát là

các giám đốc doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh theo phương pháp chọn

mẫu phân tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp) để đánh giá

sơ bộ về tính nhất quán và cấu trúc thang đo. Hai công cụ sử dụng trong nghiên cứu

định lượng sơ bộ là (1) hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám

phá (Exploratary Factor Analysis, ký hiệu là EFA). Nghiên cứu sơ bộ sẽ sàng lọc

thang đo và xác định được cấu trúc thang đo dùng cho nghiên cứu chính thức ở giai

đoạn hai.

Sau khi nghiên cứu định lượng sơ bộ giúp định hình được cấu trúc thang đo

để làm cơ sở cho việc định nghĩa rõ ràng về các khái niệm nghiên cứu. Công việc

tiếp theo là thiết kế dàn bài thảo luận tay đôi để nghiên cứu định tính lần thứ hai để

xây dựng mô hình lý thuyết với các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các

hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.

Page 13: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

13

Giai đoạn hai: Kiểm định thang đo và các giả thuyết trong mô hình nghiên

cứu cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh trên cỡ mẫu

khảo sát là 216 doanh nghiệp với đối tuợng là giám đốc hoặc phó giám đốc các

doanh nghiệp BĐS. Cỡ mẫu nghiên cứu ở giai đoạn hai trên cơ sở kế thừa cỡ mẫu

của giai đoạn một (do kết quả đánh giá sơ bộ thang đo ở giai đoạn một rất ít biến

quan sát bị loại), và cũng chọn mẫu theo phương pháp phân tầng phi xác suất (phân

theo loại hình sở hữu doanh nghiệp). Dữ liệu thu thập được sử dụng để đánh giá

thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha), phân tích nhân tố khám

phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory Factor Analysis, ký hiệu

là CFA) để đánh giá độ tương thích với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá trị phân biệt,

giá trị hội tụ để điều chỉnh mô hình nghiên cứu. Cuối cùng là kiểm định mô hình lý

thuyết bằng công cụ mô hình cấu trúc tuyến tính (Structural Equation Modeling, ký

hiệu là SEM) để rút ra kết luận về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS. Từ đó làm cơ sở cho thảo luận chính sách nâng cao kết quả hoạt

động của doanh nghiệp thông qua sử dụng vốn xã hội; và gợi ý chính sách vĩ mô

cho Chính phủ điều tiết thị trường BĐS theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển

các hình thức liên kết vốn xã hội tích cực và hạn chế các hình thức liên kết xã hội

tiêu cực.

1.6 Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU

1.6.1 Ý nghĩa khoa học

Nhiều nhà nghiên cứu đã hoài nghi việc sử dụng khái niệm vốn xã hội trong

các nghiên cứu kinh tế và quản trị bởi tính khó đo lường của nó. Đã có nhiều nghiên

cứu nỗ lực trong việc đo lường vốn xã hội trên từng khía cạnh riêng lẻ như mạng

lưới của lãnh đạo doanh nghiệp hoặc bên ngoài hoặc bên trong doanh nghiệp nên

các thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp bị khiếm khuyết. Hơn nữa, các nghiên

cứu trước đây được thực hiện không phải thuộc ngành BĐS nên vẫn chưa chỉ ra

được đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động doanh nghiệp BĐS. Do vậy, nếu

mục tiêu nghiên cứu của luận án hoàn thành dự kiến sẽ có những đóng góp như sau:

Page 14: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

14

Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây chỉ đề cập đến từng khía cạnh riêng lẻ về

vốn xã hội của doanh nghiệp nên việc nhận diện chúng còn khiếm khuyết. Với mục

tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng thang đo vốn xã hội dựa trên nền tảng lý

thuyết, kết hợp với nghiên cứu định tính tại Việt Nam và nghiên cứu điển hình tại

thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kỳ vọng đóng góp về mặt khoa học là xây dựng được

thang đo vốn xã hội đầy đủ hơn các nghiên cứu trước đó, đảm bảo giá trị nội dung

và độ tin cậy để có thể kế thừa cho các nghiên cứu tiếp theo có liên quan.

Thứ hai, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là khám phá và đo lường các

nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS dựa trên lý thuyết, kết hợp với nghiên cứu

định tính tại Việt Nam và kiểm định điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kỳ

vọng xây dựng được các thang đo hoạt động của doanh nghiệp BĐS đảm bảo giá trị

nội dung và độ tin cậy để khẳng định giá trị kế thừa cho các nghiên cứu có liên quan

tại Việt Nam.

Thứ ba, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng mô hình lý thuyết

về đóng góp của vốn xã hội vào các doanh nghiệp BĐS Việt Nam và kiểm định cho

trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh, sẽ kỳ vọng chỉ ra những đóng góp

trực tiếp, gián tiếp của vốn xã hội vào các nhóm hoạt động của doanh nghiệp là

bằng chứng khoa học để khẳng định vốn xã hội là một trong những nguồn lực cần

được bổ sung trong công tác hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh của

doanh nghiệp BĐS, cũng như trong công tác hoạch định chính sách vĩ mô điều tiết

thị trường BĐS. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần kích thích những

nghiên cứu tiếp theo về mối liên hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động trong quá trình

kinh doanh không chỉ ở ngành BĐS mà còn đối với các ngành kinh tế khác.

1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn

Nếu đạt được các mục tiêu nghiên cứu và trả lời được câu hỏi nghiên cứu

nên trên, luận án kỳ vọng có những đóng góp về mặt thực tiễn cho các doanh nghiệp

BĐS và các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành BĐS của Việt Nam nói chung,

thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như sau:

Page 15: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

15

Thứ nhất, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng và kiểm định

thang đo vốn xã hội, sẽ dùng làm căn cứ để gợi ý các mục tiêu và tiêu chí đo lường

vốn xã hội với ba khía cạnh là chất lượng mạng lưới bên trong, bên ngoài và của

lãnh đạo doanh nghiệp. Qua đó, giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng được khuôn khổ

tạo lập, duy trì và sử dụng vốn xã hội trong doanh nghiệp BĐS. Từ đó, doanh

nghiệp có thể hoạch định các chương trình phát triển và sử dụng vốn xã hội để nâng

cao kết quả các hoạt động.

Thứ hai, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xây dựng được các thang đo

cho các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS, đồng thời chỉ ra chỉ ra được mối

liên hệ giữa các hoạt động, sẽ là cơ sở để gợi ý các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt

động đầu vào, sản xuất và đầu ra cho doanh nghiệp BĐS. Đóng góp này sẽ giúp

doanh nghiệp BĐS đánh giá được kết quả của hoạt động trong doanh nghiệp của họ

được hoàn thiện hơn.

Thứ ba, với mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác định cấu trúc của vốn xã

hội và khẳng định sự đóng góp của chúng vào các hoạt động của doanh nghiệp

BĐS, kỳ vọng chỉ ra được tác động tiêu cực và tích cực của các hình thức liên kết

xã hội của doanh nghiệp ngành BĐS của Việt Nam. Đó là luận cứ khoa học giúp

cho các cơ quan lập pháp, quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương liên quan

đến thị trường BĐS nhận diện sự vận động của nguồn lực vốn xã hội trên thị

trường. Để từ đó kịp thời có những chính sách phát huy các hình thức liên kết vốn

xã hội tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết vốn xã hội tiêu cực trong

thị trường BĐS quốc gia.

Cuối cùng là kết quả nghiên cứu của luận án sẽ phục vụ cho các hiệp hội

BĐS Việt Nam, hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí Minh nhận diện được sự quan tâm

của các thành viên khi tham gia hiệp hội, để ban chấp hành các hiệp hội tạo ra được

các giá trị từ mạng lưới liên kết phục vụ lợi ích của các thành viên tham gia.

Page 16: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

16

1.7 BỐ CỤC LUẬN ÁN

Kết cấu của luận án được trình bày trong sáu chương. Nội dung của từng

chương như sau:

Chương 1, giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm: vấn đề nghiên

cứu (bối cảnh thực tiễn và lý thuyết) để nhận dạng cơ hội nghiên cứu, mục tiêu

nghiên cứu, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, và dự kiến những đóng góp về

mặt khoa học và thực tiễn của luận án.

Chương 2, trình bày cơ sở lý thuyết và khung phân tích về mối liên hệ giữa

vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Trước hết là lược khảo các lý

thuyết để xây dựng định nghĩa vốn xã hội sử dụng cho luận án. Kế đến là lược khảo

các lý thuyết về các hoạt động trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nhằm

xác định cấu trúc của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Từ đó

chỉ ra khe hổng nghiên cứu và khung phân tích về mối liên hệ giữa vốn xã hội và

các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.

Chương 3, trình bày quy trình và phương pháp thực hiện nghiên cứu.

Chương này sẽ nêu ra quy trình thực nghiên cứu gồm hai giai đoạn: Giai đoạn một

là xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu; Giai đoạn 2 là kiểm định thang đo và

mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh. Giai

đoạn thứ nhất là từ nghiên cứu định tính lần thứ nhất để xây dựng thang đo sơ bộ,

kế đến là đánh giá sơ bộ thang đo để hình thành thang đo chính thức, nghiên cứu

định tính lần thứ hai để hình thành các giả thuyết và mô hình nghiên cứu. Giai đoạn

thứ hai là trình bày các công cụ sử dụng cho nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định

thang đo như hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA),

phân tích nhân tố khẳng định (CFA); kiểm định các giả thuyết nghiên cứu bằng mô

hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Bên cạnh đó, chương này cũng trình bày các

phương pháp chọn mẫu, tiêu chuẩn xác định cỡ mẫu trong từng giai đoạn nghiên

cứu.

Chương 4, xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp ngành

BĐS Việt Nam. Trước hết là xây dựng thang đo bằng phương pháp liện hệ lý thuyết

Page 17: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

17

và kết hợp với nghiên cứu định tính lần thứ nhất. Các thang đo được đánh giá sơ bộ

bằng nghiên cứu định lượng với công cụ sử dụng là Cronbach’s alpha và EFA trên

150 quan sát. Sau cùng là nghiên cứu định tính lần thứ hai để hình thành các giả

thuyết và mô hình nghiên cứu.

Chương 5, trình bày kết quả kiểm định thang đo và các giả thuyết nghiên cứu

đã xây dựng ở chương 4 cho trường hợp điển hình là các doanh nghiệp BĐS tại

thành phố Hồ Chí Minh. Chương này xác định đối tượng và cỡ mẫu dùng để kiểm

định thang đo. Kết quả kiểm định thang đo bằng các công cụ Cronbach’s alpha,

EFA, CFA để đánh mức độ phù hợp của mô hình với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá

trị phân biệt, độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Sau đó là kiểm định các giả

thuyết nghiên cứu và phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp bằng phương pháp mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Qua đó đánh

giá mức độ phù hợp của mô hình lý thuyết được xây dựng và xác định được các căn

cứ để gợi ý những chính sách ở chương 6.

Chương 6, tóm tắt kết quả nghiên cứu về đóng góp của vốn xã hội vào các

doanh nghiệp BĐS. Qua đó gợi ý một số chính sách nhằm góp phần giúp doanh

nghiệp nâng cao kết quả các hoạt động thông qua sử dụng vốn xã hội của doanh

nghiệp; đồng thời gợi ý các chính sách vĩ mô nhằm hỗ trợ doanh nghiệp BĐS phát

triển các hình thức liên kết xã hội tích cực và hạn chế các hình thức liên kết xã hội

tiêu cực trong thị trường BĐS. Cuối cùng là trình bày những đóng góp về mặt khoa

học và thực tiễn, cũng như những hạn chế của luận án và định hướng nghiên cứu

tiếp theo.

Phần cuối cùng của luận án là danh mục các công trình của tác giả có liên

quan đến luận án, danh mục các tài liệu tham khảo và các phụ lục.

Page 18: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

18

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA

VỐN XÃ HỘI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

BẤT ĐỘNG SẢN

Chương 2 sẽ lược khảo các quan điểm tiêu biểu về vốn xã hội để lựa chọn

các yếu tố cấu thành vốn xã hội sử dụng trong luận án, đồng thời kết hợp với các

chủ thể trong mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp để xây dựng cấu trúc vốn xã hội

cho doanh nghiệp. Kế đến là xem xét các lý thuyết về quá trình hoạt động của

doanh nghiệp BĐS để chỉ ra các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Sau cùng

là tích hợp hai khía cạnh trên để phát triển khung phân tích về mối liên hệ giữa vốn

xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.

2.1 TỔNG KẾT LÝ THUYẾT VỀ VỐN XÃ HỘI

2.1.1 Quá trình hình thành khái niệm vốn xã hội

° Giai đoạn từ năm 2000 trở về trước:

Woolcock & Narayan (2000, trang 229) cho rằng:

“Cụm từ vốn xã hội được sử dụng lần đầu tiên bởi Hanifan (1916), sau đó

chúng biến mất đi trong vài thập kỷ và tái hiện trở lại vào những năm của thập kỷ

năm mươi bởi các nhà xã hội học Seeley, Sim và Loosely (1956), những năm của

thập kỷ sáu mươi bởi nghiên cứu của Homans (1961), Jacobs (1961), và những năm

của thập kỷ bảy mươi bởi nhà kinh tế Loury (1977). Không ai trong số các tác giả

đó trích dẫn các nghiên cứu trước đó, nhưng tất cả đều đề cập đến đóng góp quan

trọng của các mối liên kết, ràng buộc trong cộng đồng. Các nghiên cứu của

Coleman (1988) về giáo dục và Putnam (1993) về sự tham gia của cộng đồng và thể

chế đã cung cấp nguồn cảm hứng cho nghiên cứu xung quanh các lĩnh vực: cộng

đồng; giáo dục; quản trị; y tế và môi trường; và kinh tế phát triển.”

Mặc dù vậy, các nhà nghiên cứu gần đây phát triển khái niệm vốn xã hội dựa

trên các khái niệm được đề xuất chủ yếu bởi các nghiên cứu của Bourdieu (1986),

Page 19: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

19

Coleman (1988, 1990), Putnam (1993, 1995, 2000), Fukuyama (1995, 1997), và

Nahapiet & Ghosal (1998).

Theo quan điểm Bourdieu (1986), vốn xã hội là các nguồn lực tồn tại trong

các mối liên hệ giữa các cá nhân hoặc tổ chức (gọi chung là chủ thể) trong bối cảnh

xã hội, thông qua đó các chủ thể nhận được lợi ích từ mạng lưới quan hệ như dễ

dàng huy động các nguồn lực khác và tạo ra nguồn vốn con người. Tuy nhiên,

Bourdieu chưa phân loại được cấu trúc của mạng lưới quan hệ của các cá nhân và

chưa đề cập đến các yếu tố chất lượng các mối quan hệ đó nên rất khó có thể xây

dựng các tiêu chí đo lường vốn xã hội dựa trên định nghĩa này.

Cũng tương tự như Bourdieu (1986), Coleman (1988, 1990) cho rằng vốn xã

hội được thành hình qua những thay đổi trong liên hệ giữa người với người, cụ thể

là những liên hệ dễ dàng hoá hành động. Điểm tiến bộ hơn so với Bourdieu là

Coleman đã chỉ ra được ba khía cạnh biểu hiện chất lượng của vốn xã hội, bao gồm:

nghĩa vụ, sự kỳ vọng, thông tin lẫn nhau và chuẩn mực tồn tại giữa các quan hệ xã

hội. Ba khía cạnh trên về sau đã được nhiều nghiên cứu kế thừa để phát triển thang

đo về chất lượng của các mạng lưới xã hội như nghiên cứu của Cohen & Field

(1998), Chou (2003). Tuy nhiên, hạn chế Coleman (1988, 1990) và Bourdieu (1986)

vẫn chưa chỉ ra được cấu trúc của các mạng lưới quan hệ.

Nahapiet và Ghosal (1998) cũng có quan điểm về vốn xã hội tương tự như

Bourdieu và Coleman khi cho rằng vốn xã hội bao gồm các nguồn lực thực tế và

tiềm ẩn bên trong mạng lưới các mối quan hệ được sở hữu bởi một tổ chức hoặc cá

nhân trong xã hội (gọi chung là chủ thể), thông qua mạng lưới đó các chủ thể trong

xã hội huy động được các nguồn lực khác. Nahapiet & Ghosal (1998) còn chỉ ra ba

khía cạnh của vốn xã hội là (1) khía cạnh cấu trúc mạng lưới: chỉ ra những ai trong

hệ thống phân cấp mạng lưới, tần suất kết nối giữa các chủ thể, kết cấu trong mạng

lưới; (2) là khía cạnh quan hệ: biểu hiện chất lượng của các mối quan hệ như sự tín

cẩn, kỳ vọng và chia sẻ lẫn nhau giữa các chủ thể trong mạng lưới; và (3) là khía

cạnh nhận thức: là những quy định về sự chia sẻ, ngôn ngữ, ký hiệu…để giao tiếp

và hành xử với nhau trong mạng lưới. Thực ra ba khía cạnh đề cập đến vốn xã hội

Page 20: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

20

của Nahapiet & Ghosal là cách lý giải khác về ba khía cạnh được đề cập bởi

Coleman (1988, 1990). Thực chất ba khía cạnh của vốn xã hội của Nahapiet &

Ghosal (1998) thì khía cạnh cấu trúc đề cập đến sự cấu thành mạng lưới, khía cạnh

quan hệ và nhận thức đề cập đến yếu tố chất lượng của mạng lưới. Về sau được

nhóm nghiên cứu Landry & các cộng sự (2000) sử dụng cho phân tích vốn xã hội

trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng giống như Coleman (1988, 1990) và Bourdieu

(1986), Nahapiet & Ghosal (1998) vẫn chưa phân loại rõ các loại mạng lưới quan

hệ.

Trong các nghiên cứu của Fukuyama (1995, 1997) đã khẳng định tầm quan

trọng của thuộc tính chất lượng mạng lưới quan hệ là sự tín cẩn ảnh hưởng đến sự

thành công trong các hoạt động kinh tế. Do vậy năm 1997, Ông đã chỉ rõ rằng vốn

xã hội có thể được định nghĩa đơn giản như sự tồn tại của các giá trị, chuẩn mực xã

hội giúp các thành viên vận dụng để hợp tác lẫn nhau (Fukuyama, 1997). Trong các

nghiên cứu của Fukuyama đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thuộc tính chất

lượng của các mạng lưới quan hệ, nhưng cũng có những hạn chế giống các nhà

nghiên cứu trước đó như Coleman (1988, 1990) và Bourdieu (1986), Nahapiet &

Ghosal (1998) là chưa phân loại được cấu trúc của mạng lưới quan hệ.

Putnam (1993) tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của chất lượng mạng lưới

quan hệ là sự tín cẩn, các chuẩn mực xã hội. Vài năm sau đó, ông (Putnam,1995) bổ

sung thêm một luận điểm nữa về chất lượng của mối quan hệ là sự kỳ vọng của

những người tham gia mạng lưới. Đến năm 2000, Ông (Putnam, 2000) đã phân biệt

các hình thức liên kết xã hội là co cụm vào nhau (bonding social capital), loại vươn

ra bên ngoài (bridging social capital). Loại co cụm vào nhau gây tác động tiêu cực

cho xã hội; loại vươn ra ngoài có tác động tích cực cho xã hội. Putnam (2000) đã

phân loại được cấu trúc của các mạng lưới xã hội thành hai nhóm là nhóm quan hệ

diễn ra theo chiều ngang và quan hệ diễn ra theo chiều dọc. Cấu trúc liên kết theo

chiều ngang một cách tình nguyện dựa trên lòng tin sẽ gia tăng năng suất cho xã

hội. Trong những xã hội mà sự tín cẩn không cao, sự tương tác hàng ngang bị thay

thế bởi các mối quan hệ theo chiều dọc thì không có vốn xã hội tích cực (Putnam,

Page 21: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

21

2000).

Như vậy, điểm tiến bộ hơn của Putnam (2000) so với Bourdieu (1986),

Coleman (1988, 1980), Nahapiet & Ghosal (1998) và Fukuyama (1995, 1997) về

vốn xã hội là phân loại được các loại mạng lưới quan hệ theo chiều ngang và chiều

dọc. Thêm vào đó Putnam (2000) cũng đã chỉ ra được cấu trúc của mối quan hệ có

tác động tiêu cực (co cụm vào nhau) và tích cực (vươn ra bên ngoài) cho xã hội.

Khái niệm nghiên cứu về vốn xã hội được hình thành hoàn thiện kể từ khi có

nghiên cứu của Putnam (2000). Vốn xã hội có thể tổng kết bởi hai đặc trưng là (1)

chất lượng của các mạng lưới quan hệ (hay gọi là khía cạnh nhận thức) như sự tín

cẩn, hỗ trợ, kỳ vọng lẫn nhau và các chuẩn mực, quy tắc hành xử, và các hình thức

liên kết co cụm vào nhau, vươn ra bên ngoài và kết nối; (2) cấu trúc của mạng lưới

bao gồm cơ cấu trong mạng lưới, tần suất kết nối giữa các chủ thể, nhận diện chủ

thể tham gia mạng lưới, và cấu trúc quan hệ chiều ngang và chiều dọc.

° Giai đoạn sau năm 2000:

Các nghiên cứu về vốn xã hội sau năm 2000 vẫn chưa thấy bổ sung thêm đặc

trưng nào về khái niệm vốn xã hội. Các nghiên cứu chủ yếu sử dụng các đặc trưng

của chất lượng mạng lưới quan hệ trong các mạng lưới khác nhau để xác định vốn

xã hội. Từ sau năm 2000, các nghiên cứu về vốn xã hội được đo lường dưới nhiều

cấp độ khác nhau như cấp độ quốc gia, cộng đồng, giữa các công ty và trong nội bộ

công ty.

Ở cấp độ quốc gia và cộng đồng thì có nhiều nghiên cứu xây dựng hệ thống

đo lường vốn xã hội cho quốc gia. Chẳng hạn như Sabatini (2005) đã xây dựng hệ

thống đo lường vốn xã hội ở Ý; ABS (2004) đo lường vốn xã hội ở Úc; Harper và

Kelly (2003) đo lường vốn xã hội ở Anh, và Lisakka (2006) đo lường vốn xã hội ở

Phần Lan. Hầu hết các nghiên cứu đo lường vốn xã hội ở cấp độ quốc gia đều phát

triển các chỉ số đo lường dựa trên hai yếu tố là chất lượng quan hệ và cấu trúc mạng

lưới.

Cũng tương tự, ở cấp độ doanh nghiệp các nhà nghiên cứu phát triển vốn xã

hội dựa trên hai đặc trưng chất lượng mạng lưới và cấu trúc mạng lưới. Dựa vào cấu

Page 22: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

22

trúc các mạng lưới quan hệ mà các nghiên cứu đề cập đến ba nhóm mạng lưới xã hội

của doanh nghiệp là mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, mạng lưới bên ngoài (giữa

doanh nghiệp với các đơn vị bên ngoài) và mạng lưới bên trong (nội bộ doanh

nghiệp)

+ Ở khía cạnh lãnh đạo doanh nghiệp có nghiên cứu của Tushman &

O’Reilly III (1997) và Yli­Renko & các cộng sự (2001). Các nghiên cứu này đề cập

đến vốn xã hội của lãnh đạo dựa trên sức mạnh của mối quan hệ của lãnh đạo với

các chủ thể như bạn bè, bạn bè, nhà tư vấn, chính quyền và các cơ quan truyền

thông.

+ Ở khía cạnh bên ngoài doanh nghiệp có nghiên cứu của Landry & cộng sự

(2000), Yang & các cộng sự (2011) đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp dựa trên

các đặc trưng của chất lượng mối quan hệ với các chủ thể bên ngoài doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Scupola & cộng sự (2009) đo lường vốn xã hội trong các mối quan

hệ với các chủ thể trong cùng một khu vực nhằm kỳ vọng có được cơ hội phát triển

kinh doanh, tiếp cận được các đối tác và các thông tin có liên quan đến công ty và

các mối quan hệ cá nhân giúp tiếp nhận được sự tư vấn giải quyết vấn đề kinh

doanh, tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội tác động có ý nghĩa đến

hiệu suất và khả năng tiếp cận thị trường.

+ Ở khía cạnh bên trong có nghiên cứu của Brookes & cộng sự (2006), Yang

& các cộng sự (2011) đo lường vốn xã hội bên trong của doanh nghiệp dựa trên mối

quan hệ giữa các bộ phận chức năng và các cá nhân. Nghiên cứu của Lee & các

cộng sự (2001) đo lượng vốn xã hội bằng sự tương tác giữa các thành viên trong

cùng nhóm làm việc biểu hiện qua sự chia sẻ thông tin, kiến thức và kỹ năng; Sự

tương tác này có vai trò nâng cao năng suất hoạt động nhóm.

2.1.2 Tổng kết các đặc trưng của khái niệm vốn xã hội

Các định nghĩa về vốn xã hội như lược khảo trên tuy khác nhau nhưng lại bổ

sung cho nhau. Tổng kết các quan điểm này có thể định nghĩa vốn xã hội là tổng

hợp các nguồn lực của cá nhân hoặc nhóm hoặc tổ chức (gọi chung là chủ thể) tồn

tại trong các mạng lưới quan hệ có chất lượng. Định nghĩa này bao gồm hai nhóm

Page 23: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

23

đặc trưng là cấu trúc của mạng lưới, chất lượng mạng lưới quan hệ được khái quát

như Bảng 2.1.

Bảng 2.1: Tổng kết các đặc trưng của vốn xã hội từ lược khảo lý thuyết

Tác giả và năm

Chất lượng mạng lưới Cấu trúc mạng lưới

Nhận thức mối

quan hệ: Tín cẩn,

chia sẻ, hỗ trợ,

chuẩn mực, nghĩa

vụ và sự kỳ vọng

lẫn nhau.

Sự liên kết:

Co cụm

vào nhau,

vươn ra bên

ngoài và

kết nối.

Sự tham gia vào

các tổ chức xã

hội: tần suất,

mức độ kết nối,

nhận được sự hỗ

trợ từ mạng lưới

Các

kênh

tương

tác.

cấu tổ

chức

mạng

lưới.

Mối

quan hệ

chiều

ngang,

chiều

dọc.

Buordieu (1986) X X

Coleman (1988) X X

Putnam (1993) X X

Putnam (1995) X X

Fukuyama (1995, 1997) X X

Nahapiet & Ghosal (1998) X X X

Putnam (2000) X X X X X X

Harper & Kelly, 2003);

ABS, (2004); Sabatini

(2005); Lisakka (2006).

X X X X X X

Landry và cộng sự (2000);

Brookes & cộng sự (2006); Yang, Alejandro

& Boles (2011); Lee & Pennings (2001).

X X X X

Yli­Renko, Autio, &

Sapienza (2001); Scupola

& cộng sự (2009);

Tushman & O’Reily III

(1997).

X X

Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết.

Page 24: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

24

Thứ nhất, cấu trúc mạng lưới quan hệ thể hiện qua ba khía cạnh: (1) Cơ cấu

tổ chức mạng lưới cho biết những ai tham gia mạng lưới và vị trí của họ trong mạng

lưới như thế nào; (2) Các chủ thể trong mạng lưới quan hệ với nhau chiều ngang

hay chiều dọc; (3) Các kênh tương tác (phương tiện tương tác) của các thành viên

trong mạng lưới liên hệ với nhau.

Thứ hai, chất lượng của các mạng lưới quan hệ biểu hiện qua ba khía cạnh là

(1) nhận thức về mối quan hệ như sự tín cẩn, kỳ vọng và chia sẻ kiến thức, kinh

nghiệm lẫn nhau giữa các chủ thể trong mạng lưới và các chuẩn mực trong các mối

quan hệ; (2) sự tham gia thể hiện qua tần suất tham gia vào các mạng lưới, mức độ

kết nối (phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên trong mạng lưới) và mức độ nhận

được hỗ trợ từ mạng lưới; (3) sự liên kết thể hiện qua các hình thức liên kết co cụm

vào nhau, vươn ra bên ngoài và kết nối.

2.1.3 Vốn xã hội trong các lý thuyết kinh tế học

Các nhà kinh tế học ít chú trọng đến việc xây dựng thang đo lường vốn xã

hội, mà chủ yếu tập trung vào việc so sánh vốn xã hội với các loại vốn cổ điển khác

và sử dụng vốn xã hội như là một nguồn lực giải thích các hiện tượng, quy luật kinh

tế.

Hans & Bolton (2003) cho rằng “vốn” là một điều kiện tiên quyết trong hoạt

động kinh doanh và cần thiết phải có một quan điểm về vốn xã hội để có thể so sánh

với vốn vật thể. Khi so sánh vốn xã hội với các loại vốn cổ điển khác, Hans &

Bolton (2003) cho thấy có những tương đồng rõ ràng, cũng như là những sự khác

biệt dễ nhận thấy giữa vốn xã hội và những loại vốn khác. Vốn xã hội có nhiều

điểm suy luận tương đồng như vốn vật chất (bao gồm máy móc, công cụ và thiết

bị) và vốn nhân lực. Vốn vật chất được tạo ra bởi sự thay đổi trong vật liệu để mang

lại những công cụ phục vụ sản xuất; vốn nhân lực được tạo ra bởi sự thay đổi trong

con người mang lại những kỹ năng và khả năng trong các hoạt động; còn vốn xã hội

có được thông qua những sự thay đổi trong mối liên hệ giữa con người để tạo điều

kiện thuận lợi cho hoạt động. Nếu vốn vật chất hoàn toàn hữu hình, được thể hiện

trong hình thức vật liệu có thể quan sát thì vốn nhân lực ít hữu hình, được thể hiện

Page 25: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

25

trong những kỹ năng và kiến thức được cung cấp bởi một cá nhân, còn vốn xã hội ít

hữu hình nhất vì nó tồn tại trong những mối liên hệ giữa cá nhân với nhau. Giống

như cả hai vốn vật chất và vốn nhân lực tạo điều kiện để hoạt động có năng suất,

vốn xã hội cũng vậy (Hans & Bolton, 2003).

Khi thảo luận về vai trò của vốn xã hội trong các quy luật, hiện tượng kinh

tế, Wilson (2000) cho rằng vốn xã hội và lòng tin là hai đặc trưng căn bản của nền

tảng ra quyết định của con người, chúng chi phối hầu hết các chủ thể, các chính

sách và các hoạt động trong nền kinh tế. Vốn xã hội tác động đến tăng trưởng kinh

tế của quốc gia thông qua chi phối đến tính khả thi của chính sách vĩ mô, môi

trường kinh doanh, chi phí giao dịch, các rào cản gia nhập ngành (Daut, 2006). Vốn

xã hội quyết định đến các chính sách của Chính phủ trong việc tạo ra các tính chắc

chắn hoặc không chắc chắn đối với các loại thị trường, từ đây quyết định khối lượng

giao dịch hàng hoá trên thị trường (Carey & Lawson, 2011). Còn Wills & các cộng

sự (2004) thì cho rằng vốn xã hội giúp giải quyết tốt các bài toán hợp tác, là một

trong những nhân tố quan trọng đóng góp vào tăng năng suất của vốn đầu tư và lao

động.

Các luận điểm về vai trò của vốn xã hội trong các quy luật, hiện tường của

nền kinh tế đã được Wallis & các cộng sự (2004) giải thích dựa vào dựa vào hàm

năng suất của Hall & Jones (1999) như phương trình 2.1, trong đó yi là sản lượng

bình quân đầu người của quốc gia i, Yi là tổng sản lượng của quốc gia i, Ki là vốn

vật thể, Hi là vốn con người, Li là số lượng lao động, Ai dùng để đo lường trình độ

công nghệ:

1 i i

i i i i

K H y A Y L

α α −

=

(2.1)

Wallis & các cộng sự (2004) đưa ra kịch bản là có hai quốc gia tương tự

nhau về vốn vật thể, con người và trình độ công nghệ, sự khác biệt về năng suất có

thể giải thích bằng sự khác nhau về hiệu quả của thể chế và các chuẩn mực xã hội.

Vốn xã hội (Si) tham gia vào giải thích năng suất biểu hiện ở phương trình 2.2.

Page 26: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

26

1 i i

i i i i

K H y A Si Y L

α α −

=

(2.2)

Phương trình 2.2 cho thấy vốn xã hội tác động đến năng suất bình quân của

quốc gia thông qua tăng năng suất lao động và năng suất vốn.

2.2 CÁC CHỦ THỂ TRONG MẠNG LƯỚI KINH DOANH VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

2.2.1 Các chủ thể trong mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp

Sự thành công của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vai trò của người

lãnh đạo doanh nghiệp. Lãnh đạo là trung tâm của chiến lược và tạo dựng các giá trị

vô hình cho doanh nghiệp (Barney, 1991; Ou & các cộng sự, 2006; Ray & các cộng

sự, 2004; Roberts & Dowling, 2002), đặc biệt là văn hóa doanh nghiệp. Tinh thần

doanh nhân của lãnh đạo là động cơ thúc đẩy sự năng động của doanh nghiệp và là

yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh (Wiklund & Shepherd, 2003). Tinh

thần doanh nhân được thể hiện qua năm yếu tố, đó là: sự tiên phong thực hiện, sự tự

quản, sự nhiệt tình, giả định về rủi ro (assumption of risk) và sự cải tiến (Lee & các

cộng sự, 2001). Năm yếu tố này chịu ảnh hưởng của các chủ thể trong các mạng

lưới quan hệ bao gồm dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan

báo chí, quan chức/nhân viên thuộc các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên

cứu, các câu lạc bộ (Tushman & O’Reilly III, 1997).

2.2.2 Các chủ thể trong mạng lưới kinh doanh thuộc môi trường bên ngoài

Porter (1985) đề xuất mô hình “năm áp lực cạnh tranh” đề cập đến ba chủ thể

có mối liên hệ trong mạng lưới kinh doanh thuộc môi trường bên ngoài theo chiều

ngang là khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh. Porter (1990)

và Landry & các cộng sự (2000) bổ sung thêm các chủ thể tham gia trong mạng lưới

kinh doanh của môi trường bên ngoài gồm các nhà tư vấn, cơ quan quản lý nhà

nước, cơ quan nghiên cứu phát triển và các hiệp hội. Các chủ thể trong môi trường

kinh doanh có thể phân loại theo các mối quan hệ của doanh nghiệp theo cấu trúc

chiều ngang và chiều dọc được tổng kết ở Hình 2.1.

Comment [D3]: Phần này chỉ dừng lại ở khám phá các chủ thể trong mạng lưới

Comment [D4]: Phần này chủ yếu đề cập đến mạng lưới quan hệ chung để làm cơ sở cho nghiên cứu định tính khám phá thang đo. Chưa rút ra mạng lưới quan hệ của lãnh đạo sử dụng trong luận án.

Page 27: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

27

Hình 2.1: Phân loại các chủ thể trong mạng lưới quan hệ bên ngoài

Nguồn: Tổng kết lý thuyết của Porter (1985, 1990) và Landry & các cộng sự (2000)

Các chủ thể quan hệ theo chiều ngang bao gồm khách hàng, nhà phân phối,

nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các

đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành; mối quan hệ theo chiều dọc bao gồm các mối

quan hệ với chính quyền các cấp, các công ty trong cùng tập đòan (công ty mẹ với

công ty con và giữa các công ty đồng cấp). Các chủ thể trong mạng lưới kinh doanh

bên ngoài có vai trò tạo ra cơ hội, thách thức và những lợi ích cho doanh nghiệp

dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Doanh nghiệp cần thiết lập các mối quan hệ phù

hợp với từng chủ thể để phát huy những lợi thế cũng như giảm bớt những yếu tố bất

lợi.

Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào khu vực đặt trụ sở kinh

doanh (Porter, 1990). Doanh nghiệp được đặt trong cụm liên kết tốt nhận được

nhiều cơ hội kinh doanh, tuyển dụng nhân sự, giải quyết các khó khăn về thủ tục

pháp lý, tiêu thụ sản phẩm và tìm kiếm các nguồn cung cấp. Porter (1990) cho rằng

yếu tố quyết định lợi thế quốc gia (có thể suy luận tương tự cho một cụm/ địa

phương) là các điều kiện về nhu cầu, các ngành hỗ trợ, điều kiện đầu vào, cấu trúc

và bối cảnh cạnh tranh, sự thay đổi của môi trường kinh doanh và Chính quyền/

Chính phủ.

Các chủ thể theo mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp

Các chủ thể theo mạng lưới quan hệ chiều ngang: Khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành.

Các chủ thể theo mạng lưới quan hệ chiều dọc: Chính quyền các cấp. Công ty mẹ ­ con.

Page 28: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

28

2.2.3 Các chủ thể của mạng lưới bên trong doanh nghiệp

Trong mô hình năm áp lực cạnh tranh của Porter (1985) và bảng điểm cân

bằng (balanced scorecard) của Kaplan & Norton (1996) có đề cập đến yếu tố nội tại

trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Các chủ thể tham gia trong môi

trường nội bộ là các cá nhân (các vị trí công việc) và các bộ phận chức năng trong

doanh nghiệp. Các chủ thể này là tác nhân quan trọng để đảm bảo cho các quá trình

trong doanh nghiệp được liên tục và đạt hiệu quả. Có nhiều nghiên cứu đề cập đến

các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của các chủ thể trong tổ chức. Chẳng

hạn các nghiên cứu của Roberts (2006), Schaufeli & Salanova (2007), Luthans &

Youssef (2007a, 2007b), Lee & các cộng sự (2001), Yli­Renko & các cộng sự

(2001), Koonmee & các cộng sự (2010), Luthans & các cộng sự (2008), và

Ramström (2008) đề cập đến các mối quan hệ giữa các cá nhân, bộ phận bên trong

tổ chức tác động đến hiệu quả công việc của từng cá nhân trong doanh nghiệp nói

riêng và của toàn bộ doanh nghiệp nói chung. Nhưng rất ít nghiên cứu đề cập đến

các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của các bộ phận chức năng trong cùng một

doanh nghiệp. Tuy nhiên, cá nhân luôn hoạt động tại một bộ phận chức năng cụ thể,

các chủ thể trong mạng lưới bên trong doanh nghiệp được xác định bao gồm nhân

viên, lãnh đạo và các bộ phận chức năng. Các chủ thể này được phân loại theo chiều

ngang và chiều dọc được tổng kết ở Hình 2.2 (phân chia theo cấu trúc mạng lưới

quan hệ của Putnam, 2000). Các mối quan hệ theo chiều ngang được đề cập đến

quan hệ giữa nhân viên với nhau, giữa các bộ phận chức năng với nhau; mối quan

hệ theo chiều dọc thể hiện mối quan hệ cá nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa

bộ phận chức năng cấp trên với bộ phận chức năng cấp dưới.

Page 29: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

29

Hình 2.2: Các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp

Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết Roberts (2006), Porter (1985), Kaplan &

Norton (1996), Schaufeli & Salanova (2007), Luthans &Youssef (2007a, 2007b),

Lee & các tác giả (2001), Yli­Renko & các cộng sự (2001), Koonmee & các cộng

sự (2010), và Luthans & các cộng sự (2008).

2.3 CẤU TRÚC VỐN XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP

Như phân tích ở mục 2.2, cấu trúc mạng lưới của doanh nghiệp được tách

thành ba loại là mạng lưới của lãnh đạo, mạng lưới bên ngoài và bên trong doanh

nghiệp. Trong khi đó vốn xã hội có hai đặc trưng căn bản là chất lượng mạng lưới

và cấu trúc của mạng lưới. Do vậy, các nhà nghiên cứu về vốn xã hội trong doanh

nghiệp thường đề cập đến vốn xã hội của doanh nghiệp trên ba khía cạnh riêng lẻ là

vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp.

2.3.1 Vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp

Các nghiên cứu của McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009),

Paré & các cộng sự (2008), Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự

(2001) và Acquaah (2007) có đề cập đến vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp như

là chất lượng của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo như tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn

nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội, sự cam kết. Còn Tushman & O’Reilly III

(1997) thì chỉ ra các cấu trúc của mạng lươi quan hệ của lãnh đạo như dòng họ, bạn

bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan báo chí, quan chức/nhân viên thuộc

các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên cứu, các câu lạc bộ. Tuy nhiên, chưa

Các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp

Mối quan hệ chiều ngang: ­ Mối quan hệ giữa nhân viên với

nhau ­ Mối quan hệ giữa các bộ phận

chức năng ngang cấp với nhau

Mối quan hệ chiều dọc: ­ Mối quan hệ giữa cá nhân cấp

trên với cá nhân cấp dưới, ­ Mối quan hệ giữa bộ phận

chức năng cấp trên với bộ phận chức năng cấp dưới.

Comment [D5]: Sắp xếp lại thứ tự

Page 30: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

30

thấy nghiên cứu nào tích hợp hai yếu tố chất lượng và cấu trúc mạng lưới quan hệ

nêu trên để hình thành thang đo vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp BĐS. Nghiên

cứu của luận án sẽ tích hợp hai yếu tố chất lượng và cấu trúc mạng lưới đó để xây

dựng thang đo cho vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp BĐS Việt Nam.

2.3.2 Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp

Nhiều nghiên cứu về vốn xã hội có đề cập đến vốn xã hội bên ngoài doanh

nghiệp như nghiên cứu của Jansen & các cộng sự (2011), Yang & các cộng sự

(2011) và Landry & các cộng sự (2000). Các nghiên cứu này đề cập đến vốn xã hội

bên ngoài doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các

chủ thể trong mạng lưới chiều ngang (khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các

doanh nghiệp trong cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh

trong cùng ngành) và mạng lưới chiều dọc (chính quyền các cấp và các công ty mẹ ­

con trong cùng tập đoàn). Các nghiên cứu này không xây dựng thang đo chất lượng

mối quan hệ cho từng chủ thể trong mạng lưới, mà thay vào đó là đặt ra những câu

hỏi đo lường chung về chất lượng quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên

ngoài.

Đối với nghiên cứu của Landry & cộng sự (2000) về vốn xã hội tác động đến

sự cải tiến của doanh nghiệp ở Canada. Trong nghiên cứu này tiếp cận vốn xã hội

dựa trên nhận thức về tầm quan trọng và sự tín cẩn của các mạng lưới quan hệ của

doanh nghiệp tác động đến động lực cải tiến sản phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy

doanh nghiệp có nhận thức về tầm quan trọng của mạng lưới với khách hàng, nhà

cung cấp, đơn vị tư vấn, công ty trong cùng tập đoàn, hệ thống phân phối càng cao

thì động lực cải tiến càng cao. Tuy nhiên các thang đo trong nghiên cứu này không

thể hiện các khía cạnh khác của chất lượng mạng lưới như hỗ trợ và chia sẻ, cũng

như chưa đề cập đến các mạng lưới bên trong và lãnh đạo của doanh nghiệp. Đồng

thời thang đo không được kiểm định thống kê về giá trị hội tụ và phân biệt (chỉ

kiểm định tính nhất quán). Do vậy, luận án này không sử dụng lại các thang đo vốn

xã hội bên ngoài từ những nghiên cứu trên, mà xây dựng thang đo dựa trên chất

Page 31: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

31

lượng của các mối quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài doanh

nghiệp BĐS.

2.3.3 Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp

Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp được đề cập đến trong các nghiên cứu

gần đây như Schenkel & Garrison (2009), Nisbet (2007), Goyal & Akhilesh (2007),

và Cheng & các cộng sự (2006). Các nghiên cứu này tiếp cận vốn xã hội bên trong

doanh nghiệp là chất lượng các mối quan hệ theo chiều ngang giữa nhân viên lẫn

nhau và các bộ phận chức năng lẫn nhau; và các mối quan hệ theo chiều dọc giữa cá

nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trên với bộ phận

chức năng cấp dưới. Nhưng các nghiên cứu này chưa xây dựng thang đo vốn xã hội

bên trong và chưa đánh giá tác động của chúng đến kết quả các hoạt động của

doanh nghiệp. Mặc dù chưa xây dựng thang đo, nhưng việc chỉ ra được cách thức

tiếp cận vốn xã hội bên trong doanh nghiệp sẽ được nghiên cứu này kế thừa để phát

triển thang đo cho doanh nghiệp BĐS.

Như vậy, kết quả lược khảo lý thuyết cho thấy vốn xã hội trong doanh

nghiệp được tiếp cận trên từng khía cạnh riêng lẻ là vốn xã hội bên trong, bên ngoài

và lãnh đạo doanh nghiệp. Ba khía cạnh này được tiếp cận riêng lẻ trong từng

nghiên cứu chứ chưa có nghiên cứu nào trong số các nghiên cứu được lược khảo đề

cập đến vốn xã hội của doanh nghiệp bao gồm cả ba khía cạnh trên. Do vậy, vốn xã

hội của doanh nghiệp đến nay vẫn còn khiếm khuyết trong việc đo lường. Nghiên

cứu này sẽ kết hợp ba khía cạnh vốn xã hội bên ngoài, bên trong và lãnh đạo doanh

nghiệp để xây dựng thang đo vốn xã hội cho doanh nghiệp. Cấu trúc thang đo vốn

xã hội của doanh nghiệp được minh họa ở Hình 2.3.

Hình 2.3: Cấu trúc vốn xã hội của doanh nghiệp trong luận án

Nguồn: Tổng kết từ lược khảo lý thuyết.

Sự cấu thành và chất luợng mạng lưới

Vốn xã hội bên trong

Vốn xã hội bên ngoài

Vốn xã hội của lãnh đạo

Page 32: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

32

2.4 CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN

2.4.1 Lịch sử hình thành ngành BĐS

Joroff & cộng sự (1993) mô tả BĐS như là một trong năm nguồn lực của tổ

chức bên cạnh các nguồn lực khác là lao động, vốn, công nghệ và kiến thức như

Hình 2.4. Tương tự với quan điểm của Joroff & các cộng sự (1993), Krumm (2001)

cho rằng đặc trưng của các quá trình phát triển của ngành BĐS gắn liền với quá

trình phát triển của các công ty trong các nền kinh tế như Bảng 2.2.

Hình 2.4: Năm nguồn lực của tổ chức

Nguồn:Joroff và các cộng sự (2003)

Trong giai đoạn đầu, khi công ty ở các nền kinh tế chủ yếu định hướng sản

xuất nội địa, chưa thực hiện chiến lược quốc tế hoá, thì BĐS chỉ đóng vai trò hỗ trợ

cho quá trình mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp. Trong giai đoạn này BĐS

chủ yếu được quan tâm ở khía cạnh kỹ thuật như thiết kế và xây dựng cho phù hợp

với công năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các công ty có bộ phận

chuyên trách thực hiện công tác thuê thiết kế, xây dựng văn phòng nhà xưởng cho

các chi nhánh, trụ sở nội địa.

Đến các giai đoạn từ những năm 1980 trở lại đây, khi tiến trình quốc tế hoá,

chuyên môn hoá diễn ra nhanh và sâu sắc, tạo ra áp lực lớn đối với các doanh

nghiệp về cạnh tranh quốc tế và đổi mới công nghệ. Điều này đòi hỏi các doanh

nghiệp phải tập trung nguồn lực cho việc nghiên cứu phát triển công nghệ, phát

triển phương thức phân phối linh hoạt, lựa chọn địa điểm giao dịch thuận lợi. Do

BĐS

Kiến thức

Nhân viên

Công nghệ

Vốn

Các nguồn lực trong các quá trình của doanh nghiệp

Page 33: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

33

đó, doanh nghiệp không thể phân tán nguồn lực để thực hiện các hoạt động xây

dựng nhà xưởng, văn phòng đặt trụ sở cho các công ty con địa phương và các địa

điểm phân phối. Thay vào đó các công ty đi thuê hoặc mua sản phẩm dịch vụ có

liên quan đến BĐS. Trước cơ hội đó, nhiều doanh nghiệp được thành lập để đáp

ứng cho các nhu cầu đó của nhiều công ty trên thế giới, đặc biệt là các công ty đa

quốc gia, ngành BĐS được ra đời và phát triển từ đó.

Bảng 2.2: Đặc trưng của doanh nghiệp BĐS qua các giai đoạn phát triển Các tập đoàn đa quốc gia Các công ty BĐS

Từ 1900 đến 1940

Khu vực dịch vụ

Định hướng nội địa. Hoạt động bán lẻ chủ yếu là công ty bạn bè.

BĐS để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng. Vai trò quan trọng của các thành viên bạn bè trong các công ty bán lẻ.

Khu vực sản xuất

Mở rộng quốc tế hoá sớm. Thành lập các công ty con địa phương do những khó khăn kiểm soát.

Tham gia về kỹ thuật. Liên kết giữa nghiên cứu và kỹ thuật.

Từ 1940 đến 1980

Khu vực dịch vụ

Hoạt động nội địa. Chức năng tổ chức. Chiến lược tăng trưởng.

Tài chính cho BĐS. Công ty kiến trúc. Lựa chọn vị trí.

Khu vực sản xuất

Hoạt động quốc tế hoá. Định hướng địa lý. Cơ cấu phân chia. Chiến lược phát triển. Mở rộng trụ sở chính.

BĐS như là phương tiện để sản xuất. BĐS trong phạm vi địa phương tổ chức các đơn vị kinh doanh.

Từ 1980 đến 2000

Khu vực dịch vụ

Mở rộng thông qua sáp nhập /mua lại. Mở rộng quốc tế. Đa dạng hóa sản phẩm. Địa lý / định hướng thị trường

Tập trung BĐS. Tái tập trung vào vai trò của các trung tâm ngành BĐS. Các hoạt động tập trung vào hòa giải và tư vấn.

Khu vực sản xuất

Phân chia các nhóm với các đơn vị kinh doanh. Xem xét lại vai trò của trụ sở chính. Định hướng sản phẩm. Phân chia theo vùng.

Sáng kiến phối hợp trong hoạt động BĐS. Các hoạt động tập trung vào tư vấn BĐS có tổ chức trong các đơn vị kinh doanh.

Nguồn: Krumm (2001).

Mặt khác, cũng trong giai đoạn từ 1980 trở lại đây, Chính phủ các nước quan

tâm nhiều hơn với công tác quy hoạch đất đai để tạo điều kiện cho sự phát triển bền

vững, đặc biệt quy hoạch các khu/cụm công nghiệp, đô thị, trung tâm thương mại và

giao cho doanh nghiệp phát triển thành các dự án BĐS. Khi ngành BĐS phát triển,

Page 34: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

34

đã cho ra đời các tổ chức tài chính trung gian phục vụ cho ngành, đặc biệt là ngân

hàng cho vay BĐS, quỹ tín thác BĐS, quỹ đầu tư BĐS và ở Việt Nam thì ngòai các

thể chế liên quan BĐS nêu trên còn có khả năng hình thành quỹ phát triển nhà ở,

quỹ tiết kiệm nhà ở.

2.4.2 Các đặc trưng của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS

Cũng như các ngành kinh tế khác, Krumm (2001) chia các doanh nghiệp

BĐS thành hai khu vực là sản xuất và dịch vụ. Khu vực dịch vụ tham gia vào các

chuỗi hoạt động tư vấn pháp lý, thiết kế, giám sát, phân phối và tư vấn tài chính;

khu vực sản xuất thực hiện các hoạt động xây dựng. Tương tự luận điểm của

Krumm (2001), Nelen (2008) đã chỉ ra sáu lĩnh vực kinh doanh trong doanh nghiệp

BĐS là tìm kiếm quỹ đất; nghiên cứu mô hình phát triển dự án trên khu đất và xin

cấp phép để xây dựng dự án; huy động vốn – tìm nguồn tài chính cho dự án; tìm

kiếm công ty xây dựng (nhằm đảm bảo tiến độ, chi phí và chất lượng); tìm kiếm

khách hàng cho thuê/ bán sản phẩm; bán (cho thuê) dự án cho các nhà đầu tư. Tích

hợp sáu lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp BĐS với mô hình chuỗi giá trị của

Porter (1985), có thể phân quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS thành 3 giai

đoạn là: (1) hoạt động đầu vào là tìm kiếm quỹ đất, mua hoặc thuê để phát triển dự

án, xin cấp phép, huy động vốn; (2) hoạt động sản xuất: triển khai xây dựng và các

hoạt động nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng và chi phí; (3) hoạt động đầu ra: tìm

kiếm khách hàng cho thuê hoặc bán (xem Hình 2.5).

Hình 2.5: Qui trình hoạt động của doanh nghiệp BĐS đề nghị cho nghiên cứu

của luận án

Nguồn: Tích hợp các luận điểm của Porter (1985), Krumm (2001) và Nelen (2008)

Hoạt động đầu vào

­ Tiềm kiếm và mua quỹ đất; ­ Xin phép; ­ Huy động vốn.

Hoạt động sản xuất

Xây dựng đảm bảo: tiến độ; chi phí, chất lượng.

Hoạt động đầu ra

Tìm khách hàng cho thuê/bán, kết quả bán hàng.

Page 35: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

35

Các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS có quan hệ mắt xích chuỗi giá trị trong

một doanh nghiệp, vì thế để đánh giá toàn diện kết quả kinh doanh, doanh nghiệp

cần đánh giá kết quả của cả ba nhóm hoạt động. Đồng thời khi xem xét vai trò của

vốn xã hội trong doanh nghiệp BĐS, cần phải đề cập đến đóng góp của vốn xã hội

vào các hoạt nhóm hoạt động này.

2.5 KHUNG PHÂN TÍCH CỦA NGHIÊN CỨU

Như phân tích ở mục 2.3 đã xây dựng được ba yếu tố cấu thành vốn xã hội là

vốn xã hội bên trong, vốn xã hội bên ngoài và vốn xã hội của lãnh đạo doanh

nghiệp; và mục 2.4 đã tổng kết được các nhóm hoạt động trong quá trình kinh

doanh của doanh nghiệp BĐS là các hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Mục

tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động

của doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Để đạt được mục tiêu tổng quát này, trước hết

phải xây dựng và kiểm định các thang đo cho vốn xã hội và các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS. Sau đó là phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động

của doanh nghiệp. Khung phân tích được trình bày như Hình 2.6

Qua lược khảo lý thuyết về vốn xã hội trong doanh nghiệp, cho thấy vốn xã

hội được các nghiên cứu trước đây đề cập đến từng khía cạnh riêng lẻ như vốn xã

hội bên ngoài hoặc vốn xã hội bên trong hoặc vốn xã hội của lãnh đạo. Do vậy, các

thang đo về vốn xã hội bị khiếm khuyết, không đề cập đầy đủ các mạng lưới quan

hệ có liên quan đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, nên chưa cung cấp được

một luận chứng khoa học giúp doanh nghiệp tạo lập, phát triển, sử dụng và đánh giá

vốn xã hội trong doanh nghiệp. Hơn nữa, các nghiên cứu đã lược khảo được thực

hiện không phải với đối tượng là ngành BĐS nên các thang đo khiếm khuyết đó

cũng không phù hợp để gợi ý chính sách xây dựng vốn xã hội cho doanh nghiệp

BĐS. Nghiên cứu của luận án sẽ cố gắng khắc phục các khiếm khuyết nêu trên bằng

cách xây dựng thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp BĐS tại Việt Nam bao hàm ba

khía cạnh vốn xã hội bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp.

Cũng tương tự đối với các hoạt động của doanh nghiệp BĐS, nghiên cứu của

luận án sẽ xây dựng các thang đo cho từng nhóm hoạt động. Thông qua các thang

Page 36: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

36

đo cho từng nhóm hoạt động là cơ sở để giúp các doanh nghiệp đánh giá kết quả

hoạt động.

Các thang đo vốn xã hội và các nhóm hoạt động trong doanh nghiệp BĐS

được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết được lược khảo ở phần trên, kết hợp với

nghiên cứu định tính tại doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Các thang đo này được kiểm

định chặt chẽ trước khi sử dụng để phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt

động của doanh nghiệp.

Hình 2.6: Khung phân tích mối liên hệ giữa vốn xã hội với các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS

Nguồn: Đề xuất của tác giả luận án

Mục tiêu tổng quát của luận án là phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các

hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Mục tiêu này được thực hiện dựa trên các giả

thuyết nghiên cứu có nền tảng lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam. Nghĩa là các giả

thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS phải

Vốn xã hội bên trong

Vốn xã hội của lãnh đạo

Vốn xã hội bên ngoài

Sự cấu thành và chất lượng mạng lưới

Hoạt động đầu vào

Hoạt động đầu ra

Hoạt động sản xuất

Các hoạt động của doanh nghiệp

Vốn xã hội của doanh nghiệp Các nhóm hoạt động của doanh nghiệp

Quan hệ nhân quả

Biểu hiện/đề cập đến

Page 37: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

37

được xây dựng dựa trên các lý thuyết có liên quan và được sự thừa nhận của các

chuyên gia trong lĩnh vực BĐS ở Việt Nam. Các giả thuyết nghiên cứu này được

kiểm định về mặt định lượng để khẳng định đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt

động của doanh nghiệp BĐS.

Page 38: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

38

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chương này sẽ trình bày phương pháp để thực hiện các mục tiêu nêu ra trong

khung phân tích ở Chương 2. Trước hết là thiết kế quy trình thực hiện nghiên cứu từ

lược khảo lý thuyết đi đến xây dựng và kiểm định các thang đo, mô hình nghiên cứu

với các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp

BĐS Việt Nam. Kế đến là trình bày các phương pháp và thiết kế mẫu nghiên cứu

cho từng bước trong các giai đoạn của quy trình nghiên cứu.

3.1 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU

Để giải quyết vấn đề nêu ra trong khung phân tích ở Chương 2 về đóng góp

của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Quy trình

nghiên cứu được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn một, xây dựng thang đo và mô

hình nghiên cứu với các giả thuyết đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS Việt Nam; Giai đoạn hai, kiểm định thang đo và mô hình nghiên

cứu đề xuất ở giai đoạn một cho trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh.

Quy trình thực hiện hai giai đoạn nghiên cứu được trình bày cụ thể như sau:

Giai đoạn một: Xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu với các giả

thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt

Nam, trong giai đoạn này được thực hiện gồm hai bước.

Bước 1 là xây dựng các thang đo: Từ khung phân tích đã hình thành được

các khái niệm về biến nghiên cứu làm căn cứ để soạn thảo dàn bài thảo luận tay đôi

dùng cho nghiên cứu định tính lần thứ nhất nhằm xây dựng các thang đo sơ bộ. Sau

đó là khảo sát thử (khoảng 10 người) để hiệu chỉnh tính nhất quán về cách hiểu của

đối tượng phỏng vấn về thang đo, để từ đó hình thành bản câu hỏi dùng cho nghiên

cứu định lượng sơ bộ (đánh giá thang đo sơ bộ). Nghiên cứu định lượng sơ bộ được

tiến hành trên 150 giám đốc (hoặc là phó giám đốc) để đánh giá thang đo bằng công

Page 39: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

39

cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm

sàng lọc thang đo sử dụng cho nghiên cứu giai đoạn hai loại. .

Bước 2 là xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu: sau khi nghiên cứu sơ

bộ giúp hoàn chỉnh các khái niệm nghiên cứu, làm cơ sở cho thiết kế dàn bài thảo

luận tay đôi lần thứ hai nhằm khám phá mối quan hệ giữa vốn xã hội và các hoạt

động của doanh nghiệp BĐS, để hình thành mô hình nghiên cứu với các giả thuyết

đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.

Giai đoạn hai: Kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp

điển hình. Giai đoạn hai được thực hiện với các bước sau:

Bước 3 là xác định đối tượng và phạm vi kiểm định thang đo và các giả

thuyết nghiên cứu là các doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi xác

định được đối tượng và phạm vi nghiên cứu sẽ tiến hành soạn thảo bản phỏng vấn

thể hiện các nội dung của các biến quan sát chính trong mô hình nghiên cứu và tổ

chức huấn luyện nhóm điều tra để thu thập và làm sạch dữ liệu.

Bước 4 là kiểm định thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha)

và phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để đánh

giá độ thích hợp, tính đơn hướng, giá trị phân biệt, giá trị hội tụ. Sau khi kiểm định

thang đo, mô hình nghiên cứu sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với dữ liệu.

Bước 5 là kiểm định mô hình lý thuyết bằng công cụ mô hình cấu trúc tuyến

tính (SEM) nhằm rút ra kết luận về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS. Từ đó thảo luận các chính sách nhằm nâng cao kết quả các hoạt

động của doanh nghiệp thông qua sử dụng vốn xã hội cho ngành BĐS tại Việt Nam

nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đồng thời qua đó cũng đề xuất

các chính sách vĩ mô nhằm hạn chế các hình thức liên kết xã hội tích cực và hỗ trợ

doanh nghiệp BĐS phát triển vốn xã hội.

Quy trình thực hiện nghiên cứu được tổng kết ở Hình 3.1

Page 40: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

40

Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu của luận án

Giai đoạn Các bước thực hiện nghiên cứu

Giai đoạn

một:

Xây dựng

thang đo và mô

hình nghiên

cứu.

Bước 1: Xây dựng các thang đo

Bước 2: Xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu

Giai đoạn hai:

Kiểm định

thang đo và mô

hình nghiên

cứu cho một

trường hợp

điển hình.

Bước 3: Xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu điển hình

Bước 4: Kiểm định thang đo và hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu

Bước 5: Kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu

Nguồn: Đề xuất của tác giả luận án. Ghi chú: n là ký hiệu cỡ mẫu.

Cơ sở lý thuyết về vốn xã hội và các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS

Khung phân tích

Nghiên cứu định tính lần thứ nhất Thang đo sơ bộ

Hoàn chỉnh thang đo và định hình các khái niệm nghiên cứu

Hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu cho phù hợp với

Phỏng vấn thử (n=10) Hiệu chỉnh thang đo

Đánh giá sơ bộ thang đo (n=150)

Nghiên cứu định tính lần thứ hai (n=10) Mô hình nghiên cứu

Xác định đối tượng và phạm vi kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu

Thu thập dữ liệu

Kiểm định thang đo Hiệu chỉnh mô hình

Kiểm định mô hình nghiên cứu Kết luận và gợi ý chính sách

Page 41: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

41

3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.2.1 Phương pháp xây dựng thang đo

Các thang đo trong nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động

của doanh nghiệp BĐS bao gồm thang đo vốn xã hội và các nhóm hoạt động của

doanh nghiệp. Các thang đo được xây dựng theo phương pháp như sau:

Từ lược khảo lý thuyết ở Chương 2 đã xác định được cấu trúc của vốn xã hội

(bao gồm chất lượng của mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong

doanh nghiệp) và các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS (bao gồm hoạt động đầu

vào, sản xuất và đầu ra). Căn cứ vào đó để thiết kế dàn bài thảo luận tay đôi phục vụ

cho nghiên cứu định tính lần thứ nhất (xem phụ lục 1) với đối tượng và phương

pháp chọn mẫu như sau: (1) Mẫu được thực hiện trên các lãnh đạo doanh nghiệp

thuộc các loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài và

ngoài nhà nước (xem danh sách chuyên gia phụ lục 2); (2) Cỡ mẫu không giới hạn

cho đến khi còn phát hiện các vấn đề mới. Thông tin thu thập được mô tả, phân loại

và kết nối các khái niệm để hình thành thang đo theo cách thức sau:

Hình thành thang đo vốn xã hội: Các thông tin thu thập từ thảo luận tay đôi

giúp định hình cấu trúc của các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo, bên ngoài và bên

trong doanh nghiệp BĐS. Kết hợp các khái niệm trong cấu trúc được mô tả với các

đặc trưng biểu hiện chất lượng của mối quan hệ để hình thành các thang đo vốn xã

hội của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp BĐS.

Hình thành thang đo các hoạt động của doanh nghiệp: Từ việc phân loại

các hoạt động của doanh nghiệp BĐS theo ba nhóm hoạt động đầu vào, sản xuất và

đầu ra. Kết hợp với sự ghi nhận về mong đợi của lãnh đạo doanh nghiệp BĐS trong

các nhóm hoạt động này để hình thành thang đo.

3.2.2 Phương pháp đánh giá sơ bộ thang đo

Các thang đo được xây dựng dựa trên liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định

tính đã đảm bảo giá trị nội dung, nhưng chưa khẳng định được độ tin cậy nên cần

được đánh giá sơ bộ trước khi thực hiện nghiên cứu chính thức. Việc đánh giá được

thực hiện dựa trên dữ liệu nghiên cứu 150 giám đốc doanh nghiệp BĐS được chọn

Page 42: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

42

theo phương pháp phân tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp)

tại thành phố Hồ Chí Minh). Mục tiêu của bước này là sàng lọc các biến nghiên cứu

quan sát dùng để đo lường các khái niệm nghiên cứu đã đề cập trong khung phân

tích của luận án. Các biến quan sát đạt yêu cầu dùng để đưa vào bản câu hỏi sử

dụng cho nghiên trường hợp điển hình. Mặt khác, qua đánh giá sơ bộ cũng xác định

lại cấu trúc của các khái niệm rõ ràng hơn, dùng làm căn cứ để nghiên cứu định tính

lần thứ hai, nhằm khám phá mối quan hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động của

doanh nghiệp BĐS, từ đó hình thành các giả thuyết và mô hình nghiên cứu.

Hai công cụ sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ bộ là hệ số tin cậy

(Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Hệ số Cronbach’s alpha

được sử dụng để loại các biến không phù hợp khi chúng có hệ số tương quan biến ­

tổng (Item – total correlation) nhỏ hơn 0,35 và tiêu chuẩn chọn thang đo khi nó có

hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) lớn hơn 0,6 (Hair & các tác giả, 1998). Tuy nhiên,

theo Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang (2008) thì nếu hệ số tin cậy

Cronbach’s alpha >0,95 thì cũng không tốt vì các biến đo lường hầu như là một.

Tiếp theo, phương pháp EFA được sử dụng để loại đi các biến quan sát có

trọng số tải (factor loading) nhỏ hơn 0,5. Phương sai trích hệ số sử dụng (princical

components) với phép quay vuông góc (varimax) và điểm dừng khi trích các yếu tố

(eigenvalue) bằng 1. Thang đo được chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng hoặc

lớn hơn 50% và trọng số nhân tố lớn nhất từ 0,5 trở lên (Gerbing & Anderson,

1988). Hệ số KMO nằm trong khoảng 0,5≤KMO≤1 thì có thể xem phân tích nhân tố

là thích hợp. Kiểm định Bartlett có mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,05 thì có thể xem các

biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Gerbing & Anderson, 1988).

3.2.3 Phương pháp phát triển giả thuyết và mô hình nghiên cứu

Đánh giá sơ bộ thang đo đã định hình lại cấu trúc của các khái niệm nghiên

cứu. Tiếp theo là dựa vào cấu trúc thang đo để định nghĩa lại các khái niệm vốn xã

hội và các hoạt động của doanh nghiệp để khám phá giả thuyết nghiên cứu. Các giả

thuyết nghiên cứu được xây dựng bằng cách liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định

Page 43: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

43

tính lần thứ hai với công cụ thảo luận tay đôi, dàn bài thảo luận bao gồm các nội

dung như sau:

(1) Giới thiệu về mục đích nghiên cứu.

(2) Định nghĩa các khái niệm vốn xã hội của lãnh đạo, bên trong, bên ngoài

doanh nghiệp; và khác khái niệm về hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của

doanh nghiệp BĐS. Phần này được xây dựng dựa trên kết quả của đánh giá sơ bộ

thang đo.

(3) Thảo luận về mối liên hệ giữa các thành phần của vốn xã hội với từng

nhóm hoạt động của doanh nghiệp để hình thành mô hình nghiên cứu với các giả

thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.

3.2.4 Phương pháp kiểm định thang đo cho nghiên cứu điển hình

Do các thang đo mới được xây dựng lần đầu nên hai phương pháp đánh giá

thang đo bằng hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá

(EFA) được thực hiện lại một lần nữa giúp sàng lọc sơ bộ và nhận dạng cấu trúc

thang đo (Hair và các tác giả, 1998). Tuy nhiên, để có kết luận cuối cùng về giá trị

của bộ thang đo cần sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định CFA

(Hurley & các tác giả, 1998, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai

Trang, 2008), vì CFA cho phép kiểm định cấu trúc lý thuyết của các thang đo như

mối quan hệ giữa một số khái niệm nghiên cứu với các khái niệm khác mà không bị

chệch do sai số đo lường (Steenkamp & Van Trijp, 1991, trích trong Nguyễn Đình

Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2008). Các tiêu chí đánh giá thang đo bằng công cụ

CFA như sau:

Thứ nhất là tính đơn nguyên: Một thang đo đạt được tính đơn nguyên nếu

mô hình thang đo tương ứng đạt được độ thích hợp chung (phù hợp với dữ liệu).

Mô hình được gọi là tương thích khi phép kiểm định Chi­bình phương (χ 2 ) có giá trị

mức ý nghĩa (p) lớn hơn 0,05 (Kline, 2010). Tuy nhiên vì Chi­bình phương có

nhược điểm là phụ thuộc vào kích thước mẫu. Do đó, có thể sử dụng đến các chỉ

tiêu khác: nếu một mô hình có giá trị CFI từ 0,9 đến 1, CMIN/df<2 (theo Kline

(2010) thì giá trị CMIN/df vẫn có thể chấp nhận ở mức nhỏ hơn 3) và RMSEA<0,8

Page 44: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

44

thì mô hình được xem là thích hợp với dữ liệu (Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị

Mai Trang, 2008).

Thứ hai là giá trị hội tụ: (1) hệ số hồi quy nhân tố (Factor loadings) có ý

nghĩa thống kê và có giá trị ≥ 0,5 (Hilderbrandt, 1987, trích trong Nguyễn Đình Thọ

& Nguyễn Thị Mai Trang, 2008); (2) Mô hình thỏa mãn phù hợp với dữ liệu.

Thứ ba là giá trị phân biệt: (1) Tương quan giữa hai thành phần của một

khái niệm hay giữa hai khái niệm nhỏ hơn 1 và có ý nghĩa; (2) Mô hình thỏa mãn

phù hợp với dữ liệu;

Thứ tư là độ tin cậy tổng hợp (αc) và phương sai trích (ρvc):

Độ tin cậy tổng hợp (αc) và phương sai trích (ρvc) được tính theo công thức

sau:

2

1

2 2

1 1

( )

( ) (1 )

p

i i

c p p

i i i i

λ α

λ λ

=

= =

= + −

∑ ∑ và

2

1

2 2

1 1

(1 )

p

i i

vc p p

i i i i

λ ρ

λ λ

=

= =

= + −

∑ ∑

Trong đó i λ là trọng số chuẩn hóa của biến quan sát thứ i, 1­ i λ 2 là phương

sai của sai số đo lường biến quan sát thứ i và p là biến quan sát của thang đo

(Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2009).

Theo Hair & các tác giả (1998) thang đo đảm bảo độ tin cậy khi độ tin cậy

tổng hợp phải lớn hơn 0,6 và phương sai trích phải lớn hơn 50%.

Việc kiểm định thang đo bằng công cụ CFA được tiến hành qua hai bước

sau:

Bước 1: Phân tích CFA riêng cho từng thang đo để khẳng định tính đơn

nguyên, độ tin cậy tổng hợp, phương sai trích và giá trị hội tụ. Ngoài ra đối với các

thang đo đa hướng kiểm định thêm về giá trị phân biệt giữa các thành phần của

thang đo.

Bước 2: Phân tích CFA chung cho tất cả các thang đo để kiểm định giá trị

hội tụ và giá trị phân biệt giữa các khái niệm nghiên cứu.

Page 45: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

45

Sau khi kiểm định các thang đo bằng công cụ CFA, các biến quan sát không

phù hợp sẽ tiếp tục bị loại. Do vậy, mô hình nghiên cứu sẽ được điều chỉnh cho phù

hợp với dữ liệu nghiên cứu trước khi thực hiện kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.

3.2.5 Phương pháp kiểm định giả thuyết và mô hình nghiên cứu cho trường

hợp điển hình

Phương pháp phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử dụng để

kiểm định mô hình lý thuyết. Mô hình SEM ngoài việc có ưu điểm hơn so với các

phương pháp truyền thống như hồi quy đa biến do tính được sai số đo lường, còn

cho phép kết hợp các khái niệm tiềm ẩn với đo lường của chúng và có thể xem xét

các đo lường độc lập hay kết hợp chung với mô hình lý thuyết cùng một lúc

(Hulland & các tác giả, 1996, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai

Trang, 2008). Phương pháp hợp lý tối đa (Maximum Likelihood) được sử dụng để

ước lượng các tham số trong mô hình nghiên cứu nếu dữ liệu có phân phối chuẩn.

Mô hình SEM trước hết được sử dụng để đánh giá sự thích hợp của mô hình

tương tự như CFA (mô hình được xem là thích hợp với dữ liệu khi các chỉ tiêu CFI

từ 0,9 đến 1, CMIN/df<2 và RMSEA<0,8). Kế đến là kiểm định các giả thuyết

trong mô hình nghiên cứu bằng các tham số giá trị ước lượng, giá trị tới hạn và mức

ý nghĩa của giá trị ước lượng (p).

3.3 THIẾT KẾ MẪU NGHIÊN CỨU

3.3.1 Thiết kế mẫu cho xây dựng thang đo sơ bộ

Việc xây dựng mô hình lý thuyết được thực hiện bằng phương pháp liên hệ

lý thuyết và nghiên cứu định tính với công cụ thảo luận tay đôi chủ yếu với các

giám đốc doanh nghiệp BĐS Việt Nam. Do vậy, phương pháp chọn mẫu theo mục

tiêu (purposeful sampling) được sử dụng trong giai đoạn này (Nguyễn Đình Thọ,

2010). Trước hết là tham gia vào các hội thảo do hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí

Minh và Việt Nam tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để nắm bắt thông

tin tổng quan về thị trường BĐS Việt Nam. Tiếp theo là tiếp cận với các giám đốc

doanh nghiệp BĐS có khả năng cung cấp thông tin sâu với kỹ thuật thảo luận tay

đôi (phỏng vấn sâu – indepth interviews) nhằm thu thập thông tin phục vụ cho quá

Page 46: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

46

trình xây dựng thang đo vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Cỡ

mẫu không giới hạn cho đến khi không còn phát hiện thêm vấn đề mới.

3.3.2 Thiết kế mẫu cho đánh giá sơ bộ thang đo

Sau khi thang đo sơ bộ được hình thành, nghiên cứu định lượng được thực

hiện đối với các doanh nghiệp BĐS ở thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá sơ bộ

thang đo nhằm xác định thang đo chính thức cho nghiên cứu giai đoạn hai. Phương

pháp lấy mẫu phân tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp)

được thực hiện với cỡ mẫu là 150 quan sát. Đối tượng trả lời phỏng vấn là giám đốc

hoặc phó giám đốc doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.

3.3.3 Thiết kế mẫu cho xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu

Sau khi đánh giá sơ bộ thang đo để hình thành thang đo chính thức và định

hình rõ ràng về cấu trúc của các khái niệm nghiên cứu. Nghiên cứu định tính lần thứ

hai được thực hiện bằng phương pháp thảo luận tay đôi nhằm xây dựng mô hình lý

thuyết. Dàn bài thảo luận tay đôi lần thứ hai được soạn thảo dựa trên kết quả nghiên

cứu sơ bộ với những câu hỏi về mối liên hệ giữa vốn xã xã hội với các hoạt động

của doanh nghiêp BĐS. Phương pháp chọn mẫu theo mục tiêu (purposeful

sampling) được sử dụng trong giai đoạn này (Nguyễn Đình Thọ, 2010). Đối tượng

phỏng vấn là giám đốc các doanh nghiệp BĐS, và cỡ mẫu không giới hạn cho đến

khi không còn phát hiện thêm vấn đề mới về mối liên hệ giữa vốn xã hội và các

hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam.

3.3.4 Phương pháp thiết kế mẫu cho kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết

cho nghiên cứu điển hình

Sau khi đã hình thành được thang đo chính thức và các giả thuyết cho mô

hình nghiên cứu, rất cần kiểm định các giả thuyết này trên phạm vi cả nước. Tuy

nhiên, điều này không thể thực hiện bởi vì hạn chế về thời gian và kinh phí. Do vậy,

mô hình nghiên cứu được kiểm định trên mẫu được chọn theo phương pháp phân

tầng phi xác suất (phân theo loại hình sở hữu doanh nghiệp), đối tượng khảo sát là

giám đốc hoặc phó giám đốc của các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí

Page 47: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

47

Minh. Việc chọn mẫu này nhằm mục đích là kiểm định mô hình cho trường hợp

điển hình, không nhằm mục đích kiểm định đại diện cho cả ngành BĐS Việt Nam.

Trong giai đoạn kiểm định mô hình lý thuyết, phương pháp phân tích dữ liệu

chính được sử dụng là mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Các nhà nghiên cứu

trong lĩnh vực này đều đồng ý là phương pháp này đòi hỏi phải có kích thước mẫu

lớn vì nó dựa trên lý thuyết phân phối mẫu lớn (Raykov & Widama, 1995, trích

trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2008). Kích thước mẫu phụ

thuộc vào phương pháp ước lượng, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nếu sử dụng

phương pháp hợp lý tối đa (Maximun Likelihood) thì kích thước mẫu tối thiểu phải

100 đến 150 (Hair & các tác giả, 1998). Theo kinh nghiệm, kích thước mẫu 300 là

tốt, 500 là rất tốt, và 1.000 là tuyệt vời (Comrey & Lee, 1992; Tabachnick & Fidell,

2001 (trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang, 2008)). Theo Bollen

(1998), kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho một tham số cần ước lượng, trong

luận án này sẽ vận dụng nguyên lý này để xác định kích thước mẫu cho kiểm định

mô hình lý thuyết. Trong trường hợp không đủ bậc tự do để phân tích cho từng biến

quan sát riêng lẻ trong mô hình thì sẽ gộp các biến quan sát cùng đo lường một

thành phần bằng phép tính trung bình. Việc xác định kích thước mẫu cụ thể sẽ được

thực hiện sau khi xây dựng được mô hình lý thuyết và thang đo chính thức.

3.4 TÓM TẮT PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Quy trình thực hiện nghiên cứu gồm hai giai đoạn là (1) xây dựng thang đo

và mô hình lý thuyết; (2) kiểm định thang đo và mô hình lý thuyết cho nghiên cứu

điển hình.

Các phương pháp được sử dụng cho giai đoạn xây dựng thang đo là nghiên

cứu định tính lần thứ nhất với công cụ thu thập thông tin là thảo luận tay đôi và xử

lý bằng phương pháp mô tả, phân loại và kết nối để hình thành thang đo sơ bộ.

Thang đo được hình thành từ nghiên cứu định tính được đánh giá sơ bộ bằng công

cụ Cronbach’s alpha và EFA với cỡ mẫu 150 quan sát để hình thành thang đo chính

thức và xác định lại cấu trúc của các thang đo thành phần. Sau đó, thực hiện nghiên

cứu định tính lần thứ hai để hình thành các giả thuyết và mô hình nghiên cứu.

Comment [D6]: Công thức tính toán cỡ mẫu áp dụng trong trường hợp này là không phù hợp, bởi vĩ cỡ mẫu được tính cho trường mục đích đtra là ước lượng GTTB hoặc tỷ lệ cho một biến số cụ thể. Luận án này không nhằm mục đích đó. Hơn nữa việc tính toán cở mẫu chủ yếu là với giả định sai số tối đa chấp nhận. Ở đây không đề cập đến sai số của một biến đại diện nào cả.

Page 48: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

48

Trong giai đoạn kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp

điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh với các công cụ được sử dụng là CFA dùng để

đánh giá thang đo và hiệu chỉnh mô hình nghiên cứu cho phù hợp với bộ dữ liệu;

phương pháp phân tích SEM được sử dụng để kiểm định mô hình nghiên cứu. Tóm

tắt quy trình, phương pháp và chọn mẫu được sử dụng cho nghiên cứu ở Bảng 3.1.

Bảng 3.1: Tóm tắt phương pháp nghiên cứu

Giai đoạn Các bước trong giai đoạn

Phương pháp nghiên cứu

Giai đoạn một: Xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu.

Bước 1: Xây dựng thang đo

Thảo luận tay đôi lần thứ nhất: Đối tượng là Giám đốc doanh nghiệp BĐS, dàn bài thảo luận lần thứ nhất, kỹ thuật mô tả, phân loại và kết nối để hình thành thang đo sơ bộ. Đánh giá thang đo sơ bộ với cỡ mẫu 150 giám đốc doanh nghiệp BĐS: ­ Cronbach’s alpha: Loại bỏ biến nghiên cứu có hệ số

tương quan biến – tổng nhỏ (<0,35); Kiểm tra hệ số Cronbach’s alpha (>0,6).

­ EFA: Kiểm tra nhân tố và phương sai trích được (>0,50); Loại các biến có trọng số EFA nhỏ (<0,60); hệ số 0,5≤KMO≤1; mức ý nghĩa của kiểm định Barlette <0,05

Bước 2: Xây dựng giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu

Thảo luận tay đôi lần thứ hai: Đối tượng là Giám đốc doanh nghiệp BĐS, dàn bài thảo luận lần thứ hai, kỹ thuật mô tả, phân loại và kết nối để hình thành mô hình nghiên cứu.

Giai đoạn hai: Kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình tại doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh.

Bước 3: Xác định đối tượng và phạm vi kiểm định

Đối tượng khảo sát là Giám đốc hoặc Phó giám đốc doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh. Chọn mẫu theo phương pháp thuận tiện; Cỡ mẫu phân bổ theo các loại hình sở hữu doanh nghiệp.

Bước 4: Kiểm định thang đo

­ Cronbach’s alpha; EFA với tiêu chí lựa chọn như bước 1 của giai đoạn một. ­CFA: Kiểm tra tính thích hợp của mô hình; loại các biến có trọng số CFA nhỏ (<0,5); Kiểm tra tính đơn nguyên, giá trị hội tụ và phân biệt.

Bước 5: Kiểm định giả thuyết nghiên cứu và mô hình

SEM: Đánh giá độ thích hợp (0,9<CFI; CMIN/df<2 và RMSEA<0,8).

Nguồn: Tổng kết của tác giả luận án.

Page 49: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

49

CHƯƠNG 4

XÂY DỰNG THANG ĐO VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓNG GÓP

CỦA VỐN XÃ HỘI VÀO CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM

Chương 4 sẽ thực hiện xây dựng thang đo, đánh giá sơ bộ thang đo và xây

dựng mô hình nghiên cứu với các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội trong quá

trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS Việt Nam (thực hiện giai đoạn một trong

quy trình nghiên cứu như đề xuất ở chương 3). Trước hết là xây dựng thang đo sơ

bộ cho các khái niệm nghiên cứu bằng phương pháp nghiên cứu định tính lần thứ

nhất. Kế đến là đánh giá sơ bộ thang đo trên cỡ mẫu 150 quan sát bằng công cụ hệ

số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA) để sàng lọc

thang đo không phù hợp, qua đó hình thành các biến quan sát cho nghiên cứu điển

hình. Cuối cùng là xây dựng mô hình nghiên cứu với các giả thuyết đóng góp của

vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS Việt Nam bằng phương pháp

nghiên cứu định tính lần thứ hai.

4.1 PHÁT TRIỂN THANG ĐO VỐN XÃ HỘI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG

CỦA DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM

4.1.1 Phát triển thang đo vốn xã hội

4.1.1.1 Vốn xã hội lãnh đạo doanh nghiệp

Từ lược khảo lý thuyết ở Chương 2 đã chỉ ra được chất lượng của các mạng

lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp. Chất lượng của các mạng lưới quan hệ bao

gồm: (1) nhận thức về mối quan hệ bao gồm sự tín cẩn, chia sẻ, hỗ trợ, chuẩn mực,

kỳ vọng lẫn nhau và thực hiện nghĩa vụ; (2) Sự liên kết với hình thức co cụm vào

nhau, vươn ra bên ngoài; (3) Sự tham gia vào các tổ chức xã hội như tần suất, mức

độ kết nối, nhận được sự hỗ trợ từ mạng lưới. Các chủ thể trong mạng lưới quan hệ

với lãnh đạo bạn bè, bạn bè, đối tác kinh doanh, đồng nghiệp, cơ quan báo chí, quan

chức/nhân viên thuộc các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên cứu, các câu

lạc bộ.

Comment [D7]: Mới việt lại phần giới thiệu

Page 50: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

50

Đối với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp BĐS ở Việt Nam thì mạng lưới xã

hội của họ được cấu thành giống như lý thuyết hay không? Để trả lời câu hỏi này,

trong các cuộc thảo luận với chuyên gia, tác giả nêu ra câu hỏi mở là: “Với tư cách

là lãnh đạo doanh nghiệp, Ông/ bà thường xuyên tìm đến ai để giúp đỡ khi doanh

nghiệp gặp phải những vấn đề cần tư vấn?”; câu hỏi thứ hai là: “đối tượng nào được

lãnh đạo doanh nghiệp thường xuyên nhờ giúp đỡ cho các hoạt động kinh doanh?”.

Hai câu hỏi trên được phỏng vấn với 10 lãnh đạo doanh nghiệp, tuy nhiên

khi hỏi đến người thứ 6 trở đi là không còn thêm nội dung mới. Kết quả khám phá

các chủ thể cấu thành mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp bao gồm dòng

họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng nghiệp, tóm tắt trong Bảng 4.1.

Bảng 4.1: Phân nhóm các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp

Mạng lưới Diễn giải mạng lưới

Mạng lưới dòng họ Mối quan hệ với bà con trong dòng họ.

Mạng lưới bạn bè Mối quan hệ với những người bạn thông qua hoạt động cá

nhân của người lãnh đạo.

Mạng lưới kinh doanh Khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh, nhà phân phối,

hiệp hội, đơn vị tư vấn…

Mạng lưới chính quyền Mối quan hệ của lãnh đạo với cá nhân thuộc cơ quan chính

quyền.

Mạng lưới đồng nghiệp Mối quan hệ của lãnh đạo với các đồng nghiệp.

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Sau đó là xem xét các mối quan hệ này được hình thành như thế nào và cách

thức chúng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Các câu hỏi nhằm vào mục đích này

được thiết kế dựa vào các yếu tố thể hiện chất lượng của mạng lưới quan hệ là nhận

thức về mối quan hệ, sự liên kết và tham gia. Câu hỏi mở như sau: “Ông/bà làm thế

nào có thể duy trì và khai thác các mối quan hệ xã hội để đạt được sự hỗ trợ cho bản

thân? Câu hỏi trên sử dụng để thảo luận với 10 giám đốc doanh nghiệp BĐS, nhưng

đến người thứ 6 không còn phát hiện nội dung mới. Kết quả thảo luận cho thấy có

bốn yếu tố cấu thành của chất lượng các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo là sự tham

gia thường xuyên vào các sự kiện của mạng lưới để duy trì và thiết lập các mối quan

Page 51: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

51

hệ, tin tưởng, chia sẻ và giúp đỡ. Theo Putnam (1995, 2000) bốn yếu tố này không

tách rời nhau mà có mối tương quan chặt chẽ với nhau vì vốn xã hội cần được duy

trì để tạo lòng tin hay sự tín cẩn để từ đó nhận được sự giúp đỡ và chia sẻ. Hầu hết

các nhà lãnh đạo cho rằng muốn nhận được sự giúp đỡ từ các mạng lưới xã hội,

điều quan trọng nhất là phải biết cách tạo lập các mối quan hệ thông qua việc tham

gia thường xuyên vào các sự kiện để duy trì mối quan hệ, phải tạo được lòng tin,

thông qua đó nhận được sự chia sẻ và giúp đỡ (tổng kết ở Hình 4.1).

Hình 4.1: Chất lượng các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Kế thừa ý tưởng về vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp từ các nghiên cứu

McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Paré & các cộng sự (2008),

Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự (2001), Tushman & O’Reilly

III (1997), Acquaah (2007) về tích hợp hai nội dung của chất lượng mạng lưới với

cấu trúc các mạng lưới vừa khám phá ở trên, các thang đo thành phần của vốn xã

hội lãnh đạo được hình thành với các thành phần biểu hiện chất lượng quan hệ của

lãnh đạo trong các mạng lưới dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và

đồng nghiệp được trình bày ở Bảng 4.2.

Tạo lập và duy trì

Tin tưởng

Chia sẻ

Nhận được giúp đỡ

Page 52: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

52

Bảng 4.2: Thang đo vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp Thành phần Ký hiệu và nội dung thang đo

Mạng lưới

dòng họ

Với tư cách là lãnh đạo doanh nghiệp,

L1: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với những người trong dòng họ

L2: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ những người trong dòng họ

L3: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ từ những người trong dòng họ

L4: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ những người trong dòng họ

Mạng lưới

Bạn bè

L5: Tôi đã thiết lập và duy trì tốt mối quan hệ với bạn bè của tôi

L6: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ bạn bè của tôi

L7: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ từ bạn bè của tôi

L8: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè của tôi

Mạng lưới

đối tác kinh

doanh

L9: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các đối tác kinh doanh

L10: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ các đối tác kinh doanh

L11: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ thông tin từ đối tác kinh doanh

L12: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ đối tác kinh doanh

Mạng lưới

chính quyền

L13: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền

L14: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ các cấp chính quyền

L15: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ thông tin từ các cấp chính quyền

L16: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ các cấp chính quyền

Mạng lưới

đồng nghiệp

L17: Tôi đã thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp

L18: Tôi luôn nhận được sự tin tưởng từ các đồng nghiệp

L19: Tôi luôn nhận được sự chia sẻ kiến thức từ các đồng nghiệp

L20: Tôi thường nhận được sự giúp đỡ từ các đồng nghiệp

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

4.1.1.2 Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp

Chương 2 đã chỉ ra ý tưởng xây dựng vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp từ

các nghiên cứu của Jansen & các cộng sự (2011), Yang & các cộng sự (2011),

Landry & các cộng sự (2000), trên cở sở tích hợp chất lượng và cấu trúc mạng lưới

quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài. Vốn xã hội bên ngoài thể hiện

chất lượng các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong mạng lưới

chiều ngang: khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong

cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành;

Page 53: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

53

và mạng lưới chiều dọc: chính quyền các cấp và các công ty mẹ­con trong cùng tập

đoàn.

Để phát triển thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp cho phù hợp với

các công ty BĐS Việt Nam, nghiên cứu thiết kế câu hỏi thảo luận tay đôi phục vụ

cho nghiên cứu định tính là: “doanh nghiệp Ông/ bà nhận được lợi ích từ việc tham

gia/thiết lập quan hệ với các đơn vị nào? và lợi ích nhận được là gì?”; Hai câu hỏi

trên được thực hiện trên 10 lãnh đạo doanh nghiệp, tuy nhiên phỏng vấn đến người

thứ 8 thì nội dung các câu trả lời không phát hiện thêm những điểm mới. Kết quả

cho thấy các chủ thể trong mạng lưới của doanh nghiệp gồm hai nhóm: nhóm thứ

nhất là các chủ thể theo quan hệ chiều ngang bao gồm khách hàng, nhà cung cấp,

đối thủ cạnh tranh, hiệp hội và hội chợ/triển lãm; nhóm thứ hai là các chủ thể có

mối quan hệ theo chiều dọc giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước

các cấp và các công ty trong cùng tập đòan. Các mạng lưới này được trình bày Hình

4.2.

Hình 4.2: Phân nhóm mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Để thiết lập vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp, trước hết là xuất phát từ việc

lựa chọn khu vực kinh doanh (cụm kinh doanh), bởi vì khu vực kinh doanh là không

gian chứa đựng các chủ thể trong mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp. Doanh

nghiệp thường có xu hướng lựa chọn khu vực kinh doanh có nhiều cơ hội tiếp cận

Mạng lưới quan hệ bên ngoài

Chiều ngang Khách hàng Nhà phân phối Nhà cung cấp Đơn vị tư vấn Hiệp hội

Chiều dọc Chính quyền các cấp; Các công ty mẹ/con trong cùng tập đoàn

Page 54: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

54

khách hàng, lựa chọn nhà cung cấp, nhà phân phối, đơn vị tư vấn, hiệp hội và ảnh

hưởng của chính sách phát triển địa phương (Porter, 1990; Landry và các cộng sự,

2000). Lựa chọn khu vực kinh doanh tốt là điều kiện cần để giúp doanh nghiệp

thuận lợi trong các hoạt động nhưng chưa đủ, mà cần biết cách tạo lập và duy trì các

mối quan hệ thông qua chiến lược, chính sách đối ngoại với sự cam kết thực hiện.

Làm như vậy sẽ tạo ra được uy tín và sự tin tưởng để nhận được lợi ích phản hồi từ

đối tác. Kết nối các nội dung này lại, có thể khái quát các thuộc tính chất lượng

quan hệ bên ngoài doanh nghiệp như Hình 4.3.

Hình 4.3: Chất lượng của các mạng lưới quan hệ bên ngoài doanh nghiệp

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Các thang đo thành phần của vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp biểu hiện

chất lượng của các mạng lưới quan hệ bên ngoài như khách hàng, nhà phân phối,

nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, hiệp hội, chính quyền các cấp, các công ty trong cùng

tập đoàn. Các thang đo được trình bày ở Bảng 4.3.

Lựa chọn cụm kinh doanh

Tạo lập

Duy trì

Tin tưởng

Giúp đỡ

Page 55: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

55

Bảng 4.3: Thang đo vốn xã hội bên ngoài của doanh nghiệp

Mạng lưới Ký hiệu và nội dung thang đo

Khách hàng EX21: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội phát triển khách hàng mới EX22: Doanh nghiệp chúng tôi luôn có chính sách thu hút thêm khách hàng EX23: Doanh nghiệp chúng tôi có chính sách chăm sóc khách hàng tốt EX24: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với khách hàng EX25: Khách hàng của doanh nghiệp chúng tôi tăng như mong muốn

Nhà phân phối

EX26: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội liên kết với nhà phân phối EX27: Chúng tôi luôn có chính sách trong việc phát triển thêm nhà phân phối EX28: Chúng tôi luôn có chính sách duy trì sự hợp tác với nhà phân phối EX29: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với nhà phân phối EX30: Nhà phân phối cho doanh nghiệp chúng tôi tăng như mong muốn

Nhà cung cấp EX31: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội lựa chọn nhà cung cấp tốt EX32: Chúng tôi luôn có chính sách tốt trong việc phát triển thêm nhà cung cấp EX33: Chúng tôi luôn có chính sách tốt để duy trì sự hợp tác với nhà cung cấp EX34: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin đối với nhà cung cấp EX35: Nhà cung cấp cho doanh nghiệp chúng tôi đạt chất lượng như mong muốn

Đơn vị tư vấn EX36: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội tiếp cận đơn vị tư vấn tốt EX37: Doanh nghiệp chúng tôi có chính sách phát triển thêm các đơn vị tư vấn EX38: Doanh nghiệp chúng tôi luôn có chính sách duy trì sự hợp tác với đơn vị tư vấn EX39: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với các đơn vị tư vấn EX40: Nhà tư vấn của doanh nghiệp chúng tôi đạt chất lượng mong muốn

Chính quyền các cấp

EX41: Trong khu vực này chúng tôi được hưởng lợi từ chính sách địa phương EX42: Chúng tôi có chiến lược tranh thủ sự hỗ trợ các chính sách của nhà nước EX43: Doanh nghiệp chúng tôi thường xuyên tham gia hỗ trợ cộng đồng EX44: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với chính quyền các cấp EX45: Chính quyền các cấp hỗ trợ cho doanh nghiệp của chúng tôi như mong muốn

Các công ty trong cùng tập đoàn

EX46: Trong khu vực này chúng tôi dễ dàng hợp tác với các đơn vị cùng tập đoàn EX47: Doanh nghiệp chúng tôi thực hiện tốt chiến lược của cả tập đoàn EX48: Chúng tôi có chính sách duy trì mối quan hệ tốt với các công ty cùng tập đoàn EX49: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin với các công ty cùng tập đoàn EX50: Chúng tôi nhận được sự hỗ trợ của các công ty cùng tập đoàn như mong muốn

Hiệp hội EX51: Trong khu vực này chúng tôi có nhiều cơ hội tham gia các hiệp hội EX52: Doanh nghiệp chúng tôi có chủ trương tham gia tất cả các hiệp hội có liên quan EX53: Doanh nghiệp chúng tôi chính sách duy trì tham gia các hiệp hội thường xuyên EX54: Doanh nghiệp chúng tôi tạo được lòng tin tốt đối với thành viên các hiệp hội EX55: Hiệp hội cung cấp thông tin cho chúng tôi đầy đủ và chính xác như mong muốn

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Page 56: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

56

4.1.1.3 Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp

Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp thể hiện chất lượng các mối quan hệ giữa

các chủ thể trong mạng lưới chiều ngang: mối quan hệ giữa nhân viên với nhau,

giữa các bộ phận chức năng với nhau; và chiều dọc: mối quan hệ giữa cá nhân cấp

trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trến với bộ phận chức năng

cấp dưới (Porter,1985; Kaplan và Norton, 1996; Schaufeli & Salanova, 2007;

Luthans &Youssef (2007a, 2007b); Lee & các tác giả , 2001; Yli­Renko & các

cộng sự, 2001; Koonmee & các cộng sự, 2010; Luthans & các cộng sự, 2008). Chất

lượng mối quan hệ biểu hiện qua sự hợp tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng

trong tổ chức như sự tin tưởng, sự chia sẻ kiến thức, sự hỗ trợ, đòan kết lẫn nhau để

hoàn thành các mục tiêu của tổ chức (Nahapiet & Ghosal, 1998).

Để xem xét sự phù hợp các yếu tố trên với việc đo lường vốn xã hội bên

trong của doanh nghiệp BĐS Việt Nam, nghiên cứu định tính bằng phương pháp

thảo luận tay đôi với câu hỏi: “Ông/bà vui lòng cho biết điều gì nâng cao kết quả

hợp tác trong công việc của các nhân viên/bộ phận chức năng trong công ty?”. Câu

hỏi này được thực hiện trên 10 giám đốc doanh nghiệp BĐS, nhưng hỏi đến người

thứ 8 thì không còn phát hiện nội dung mới. Kết quả thu được từ ý kiến các nhà

lãnh đạo doanh nghiệp BĐS cho rằng để các cá nhân/ bộ phận chức năng trong

doanh nghiệp hợp tác hiệu quả, trước hết cần có cơ chế khuyến khích nhân viên hợp

tác như quy trình hướng dẫn công việc, hệ thống giao tiếp, văn hóa công ty để từ đó

làm cơ sở cho mọi người sự tin tưởng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn

nhau. Tuy nhiên, cơ chế chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ, điều kiện đủ là lãnh

đạo cần phải có nghệ thuật kết nối mọi người/ bộ phận chức năng hợp tác lẫn nhau,

chẳng hạn như phương pháp giao việc theo mục tiêu, kiểm soát hành vi, giải quyết

xung đột. Chất lượng vốn xã hội bên trong được tổng kết như Hình 4.4.

Hình 4.4: Chất lượng quan hệ giữa nhân viên/bộ phận chức năng

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Tạo cơ chế hợp tác

Nghệ thuật triển khai cơ chế hợp tác

Duy trì và cải tiến cơ chế hợp tác

Biểu hiện của sự hợp tác

Page 57: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

57

Các yếu tố biểu hiện chất lượng của mối quan hệ được ghi nhận từ các

chuyên gia bao gồm sự nỗ lực tạo lập, duy trì và cải tiến cơ chế hợp tác. Cơ chế này

được đảm bảo thực thi bằng các nghệ thuật giao việc theo mục tiêu từ lãnh đạo cho

nhân viên và các bộ phận chức năng, đồng thời phải có hành động giám sát và giải

quyết xung đột hợp lý. Biểu hiện chất lượng của sự hợp tác được đánh giá thông

qua mức độ tin tưởng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau giữa các

nhân viên/ bộ phận chức năng trong tổ chức. Các thang đo thành phần của vốn xã

hội bên trong doanh nghiệp biểu hiện chất lượng của các mạng lưới quan hệ chiều

dọc và chiều ngang giữa cá nhân và bộ phận chức năng trong doanh nghiệp được

trình bày ở Bảng 4.4.

Bảng 4.4: Thang đo vốn xã hội bên trong doanh nghiệp Thành phần Ký hiệu và nội dung thang đo

Hợp tác giữa

các cá nhân

I56: Chúng tôi luôn chú trọng tạo ra cơ chế hợp tác giữa các cá nhân.

I57: Chúng tôi luôn giám sát sự hợp tác giữa các cá nhân.

I58: Cấp trên giao việc cho cấp dưới chú trọng đến sự hợp tác giữa các cá nhân

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

I59: Hầu hết mọi người trong công ty tin tưởng lẫn nhau.

I60: Hầu hết mọi người trong công ty rất sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm

cho nhau trong giải quyết các công việc.

I61: Sự hợp tác giữa các cá nhân ở doanh nghiệp chúng tôi đạt kết quả tốt.

Hợp tác các

bộ phận chức

năng

I62: Chúng tôi luôn chú trọng tạo ra cơ chế hợp tác giữa các bộ phận chức năng.

I63: Chúng tôi có cơ chế giám sát sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng.

I64: Cấp trên giao việc cho cấp dưới chú trọng đến sự hợp tác giữa các bộ phận

chức năng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

I65: Hầu hết các bộ phận chức năng trong công ty rất thiện chí hỗ trợ lẫn nhau

trong công việc để hoàn thành mục tiêu chung của công ty.

I66: Các công việc đạt hiệu quả cao của doanh nghiệp chúng tôi dựa trên sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng.

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất.

Như vậy, kết quả nghiên cứu định tính cho thấy vốn xã hội của doanh nghiệp

là thang đo đa hướng bậc ba. Thang đo này gồm ba thành phần bậc hai là vốn xã hội

của lãnh đạo, vốn xã hội bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thành phần của vốn

Page 58: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

58

xã hội lãnh đạo bao gồm 5 thành phần bậc ba là mạng lưới dòng họ, bạn bè, đối tác

kinh doanh, chính quyền các cấp và đồng nghiệp. Thành phần của vốn xã hội bên

ngoài của doanh nghiệp gồm 7 thành phần bậc ba là mạng lưới khách hàng, nhà

phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền, các công ty trong cùng tập

đoàn và các hiệp hội. Thành phần của vốn xã hội bên trong doanh nghiệp gồm 2

thành phần bậc ba là sự hợp tác các bộ phận chức năng và sự hợp tác giữa các cá

nhân trong doanh nghiệp. Kết quả phát triển thang đo được tổng kết ở Hình 4.5.

Hình 4.5: Cấu trúc vốn xã hội của doanh nghiệp trước khi đánh giá sơ bộ

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất của luận án.

Vốn xã hội của doanh nghiệp

Mạng lưới của lãnh đạo

Mạng lưới bên trong

Mạng lưới bên ngoài

Dòng họ

Bạn bè

Đối tác

Chính quyền

Đồng nghiệp

Chính quyền

Đơn vị tư vấn

Nhà cung cấp

Nhà phân phối

Khách hàng

Công ty cùng tập đoàn

Các hiệp hội

Hợp tác phòng ban

Hợp tác cá nhân

Page 59: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

59

4.1.2 Phát triển thang đo về các hoạt động trong quá trình kinh doanh của

doanh nghiệp bất động sản

Chương 2 đã tổng kết quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS bao gồm

3 giai đoạn là (1) hoạt động đầu vào: tìm kiếm quỹ đất mua để phát triển dự án, xin

cấp phép, huy động vốn; (2) hoạt động sản xuất: các hoạt động triển khai dự án

nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng và chi phí; (3) hoạt động đầu ra: tìm kiếm khách

hàng cho thuê hoặc bán.

Để kiểm chứng lại sự hợp lý của kết quả tích hợp này, nghiên cứu định tính

với phương pháp thảo luận tay đôi bởi câu hỏi mở: “Ông/bà vui lòng cho biết các

hoạt động trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS Việt Nam hiện

nay?”. Câu hỏi này được thảo luận đối với 10 giám đốc doanh nghiệp BĐS, nhưng

khi thảo luận đến người thứ 8 không phát hiện thêm nội dung mới. Ý kiến chuyên

gia được tổng kết cũng tương tự với phương pháp tích hợp các luận điểm trên, bao

gồm các nhóm hoạt động trong quá trình đầu vào, sản xuất và đầu ra.

Thứ nhất là nhóm hoạt động đầu vào: chủ yếu là tìm kiếm quỹ đất phát

triển dự án. Doanh nghiệp tìm kiếm quỹ đất bởi hai cách là thoả thuận nhận chuyển

nhượng lại quỹ đất của dân hoặc thuê đất của nhà nước. Việc nhận chuyển nhượng

quỹ đất từ người dân rất khó thực hiện bởi diện tích không đủ lớn để phát triển dự

án. Do vậy, các doanh nghiệp thường chọn giải pháp tiếp cận thông qua thuê lại đất

nhà nước, nhà nước giữ vai trò là người thu hồi đất rồi cho doanh nghiệp thuê lại.

Để đạt mục tiêu có được quỹ đất, doanh nghiệp phải thực hiện hàng loạt các hoạt

động như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tiềm năng của khu vực có quỹ đất,

phương án phát triển khu đất, phương cách quản lý dự án, phương án vốn, hoạt

động thiết kế quy hoạch, xin cấp phép. Như vậy, kết quả của hoạt động đầu vào

trong quá trình kinh doanh BĐS là sự thuận lợi trong việc xin cấp phép phát triển

dự án, tìm kiếm được nhà tư vấn thiết kế dự án như mong muốn, huy động được

vốn tài trợ cho dự án như mong muốn.

Thứ hai là nhóm hoạt động sản xuất: chủ yếu là các hoạt động triển khai dự

án để đạt được kết quả tốt. Ở Việt Nam tồn tại dưới ba hình thức phát triển dự án,

Page 60: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

60

(1) uỷ thác cho doanh nghiệp triển khai dự án, (2) tự thuê nhà thầu xây dựng dự án,

(3) doanh nghiệp tự xây dựng dự án. Kết quả của các hoạt động này là nhằm mục

tiêu về tiến độ, chi phí và chất lượng của các sản phẩm BĐS theo mô hình thiết kế

từ nhóm hoạt động đầu vào.

Thứ ba là nhóm hoạt động đầu ra: chủ yếu là phân phối sản phẩm của

doanh nghiệp. Các hoạt động của nhóm này dưới nhiều hình thức như ký thác sản

phẩm cho sàn giao dịch, giới thiệu sản phẩm, chăm sóc khách hàng. Ở Việt Nam

hình thức phân phối cũng đa dạng tùy thuộc vào sản phẩm bán hoặc cho thuê. Đối

với sản phẩm bán, các hình thức phân phối bao gồm: (1) bán sỉ cho các sàn giao

dịch, (2) bán sỉ cho các nhà đầu tư thứ cấp, (3) tự doanh nghiệp lập sàn giao dịch

phân phối sản phẩm. Đối với sản phẩm cho thuê, các hình thức phân phối bao gồm:

(1) doanh nghiệp tự điều hành khai thác kinh doanh sản phẩm, (2) ủy thác doanh

nghiệp khác sản xuất cho thuê sản phẩm. Tổng kết các hoạt động và phát triển thang

đo trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp BĐS Việt Nam ở Bảng 4.5.

Bảng 4.5: Thang đo các hoạt động trong doanh nghiệp bất động sản Nhóm

hoạt động Mục tiêu Ký hiệu và nội dung thang đo

Hoạt động

đầu vào

Xin cấp phép IP67: Doanh nghiệp chúng tôi dễ dàng trong việc xin cấp phép các dự án.

Thiết kế dự án IP68: Doanh nghiệp chúng tôi tìm được tư vấn dự án như mong muốn.

Huy động vốn IP69: Doanh nghiệp chúng tôi huy động được vốn như mong muốn.

Hoạt động

sản xuất

Tiến độ IP70: Tiến độ xây dựng các công trình của chúng tôi đúng với kế hoạch.

Chi phí IP71: Chi phí thực tế xây dựng công trình đúng với kế hoạch.

Chất lượng IP72: Các công trình của chúng tôi đạt được chất lượng như mong muốn.

Hoạt động

đầu ra

Marketing IP73: Doanh nghiệp chúng tôi thuận lợi trong hoạt động bán hàng.

phân phối IP74: Chúng tôi tìm kiếm được phân phối sản phẩm như mong muốn.

Doanh thu IP75: Doanh nghiệp chúng tôi đạt được doanh thu như mong muốn.

Thị phần IP76: Doanh nghiệp chúng tôi đạt được thị phần như mong muốn.

Nguồn: Tổng kết từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ nhất của luận án.

Page 61: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

61

4.2 ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ THANG ĐO

Các thang đo được xây dựng từ liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính đảm

bảo được giá trị nội dung, nhưng chưa được kiểm định qua nghiên cứu thực nghiệm

nên chưa đảm bảo độ tin cậy về cấu trúc. Vì vậy, rất cần thiết phải nghiên cứu định

lượng sơ bộ để loại các biến quan sát không phù hợp, cũng như xác định lại cấu trúc

thang đo để sử dụng cho nghiên cứu chính thức. Các thang đo được soạn thảo thành

bản câu hỏi nghiên cứu định lượng như Phụ lục 3. Nghiên cứu định lượng sơ bộ

được thực hiện trên 150 doanh nghiệp với đối tượng trả lời là lãnh đạo các doanh

nghiệp (giám đốc hoặc phó giám đốc) bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện tại

thành phố Hồ Chí Minh. Hai công cụ sử dụng trong nghiên cứu định lượng sơ bộ là

hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA). Hệ số

Cronbach’s alpha được sử dụng để loại các biến không phù hợp khi chúng có hệ số

tương quan biến ­ tổng (Item – total correlation) nhỏ hơn 0,35 và tiêu chuẩn chọn

thang đo khi nó có độ tin cậy (alpha) lớn hơn 0,6. Tiếp theo, phương pháp EFA

được sử dụng để loại đi các biến quan sát có trọng số (factor loading) nhỏ hơn 0,5.

Phương sai trích hệ số sử dụng (princical components) với phép quay vuông góc

(varimax) và điểm dừng khi trích các yếu tố (eigenvalue) bằng 1. Thang đo được

chấp nhận khi tổng phương sai trích bằng hoặc lớn hơn 50% và trọng số nhân tố lớn

nhất từ 0,5 trở lên.

4.2.1 Hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha)

Thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp

Kết quả đánh giá sơ bộ bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) cho

thấy các biến quan sát của các thang đo thành phần bậc ba đo lường vốn xã hội của

doanh nghiệp đều có hệ số tin cậy lớn hơn 0,6 và hệ số tương quan biến tổng đều

lớn hơn 0,35 (kết quả tính tóan xem mục 1, 2, 3, phụ lục 4). Điều này cho thấy các

biến quan sát thành phần bậc ba của khái niệm vốn xã hội đều đảm bảo tín nhất

quán nội tại. Do vậy, các biến quan sát của vốn xã hội đều được giữ lại để phân tích

nhân tố tiếp theo.

Page 62: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

62

Thang đo kết quả hoạt động doanh nghiệp

Theo thiết kế từ nghiên cứu định tính lần thứ nhất, các họat động trong doanh

nghiệp là các thang đo đơn hướng: thang đo nhóm hoạt động là hoạt động đầu vào

gồm ba biến quan sát IP67, IP68 và IP69; thang đo hoạt động sản xuất bao gồm

IP70, IP71 và IP72; và thang đo hoạt động đầu ra IP73, IP74, IP75 và IP76.

Kết quả đánh giá hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) được tổng kết ở mục 4,

phụ lục 4. Kết quả cho thấy các biến quan sát có tính nhất quán nội tại với hệ số hệ

số tin cậy đều lớn hơn 0,6 và tất cả các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến

tổng lớn hơn 0,35 nên tất cả các biến quan sát đều được giữ lại cho phân tích nhân

tố khám phá tiếp theo.

4.2.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp:

Sau khi phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s alpha, các thang đo được đánh giá tiếp theo bằng phân tích nhân tố khám phá (EFA). Phương pháp trích thành phần (Principal componts) với phép quay vuông góc (varimax) được sử dụng trong phân tích EFA. Hai tiêu chí để đánh giá thang đo là phương sai trích lớn hơn 50% và trọng số nhân tố phải lớn 0,5 (nếu biến quan sát nào nhỏ hơn 0,5 thì bị loại). Kết quả đánh giá cho thấy cấu trúc thang đo không thay đổi nhưng các biến quan sát có trọng số nhân tố nhỏ hơn 0,5 bị loại là 13 biến quan sát. Các biến bị loại lần lượt là EX34, EX30, L9, EX35, I56, EX24, EX25, EX52, EX53, EX51, EX27, EX26, EX54. Các biến quan sát còn lại đưa vào phân tích nhân tố đạt giá trị phương sai trích là 71,364% (lớn hơn 50%) và các trọng số nhân tố lớn hơn 0,5, hệ số KMO là 0,867 (lớn hơn 0,5); mức ý nghĩa kiểm định Bartlett là 0,000 (nhỏ hơn 0,05). Kết quả phân tích sau cùng được tổng kết ở Phụ lục 5. Cấu trúc thang đo vốn xã hội như sau:

­ Thang đo vốn xã hội của lãnh đạo bao gồm các thành phần mạng lưới dòng

họ (các biến quan sát L1, L2, L3 và L4), bạn bè (L5, L6, L7 và L8), đối tác kinh

doanh (L10, L11 và L12), chính quyền (L13, L14, L15 và L16) và đồng nghiệp

(L17, L18, L19 và L20). Như vậy cấu trúc của vốn xã hội lãnh đạo không đổi so với

giả thuyết ban đầu và chỉ có biến quan sát L9 thuộc mạng lưới đối tác kinh doanh bị

loại.

Page 63: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

63

­ Thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp bị loại mất đi mạng lưới hiệp

hội, các mạng lưới còn lại bao gồm: khách hàng (các biến quan sát EX21, EX22,

EX23), nhà phân phối (EX28 và EX29), nhà cung cấp (EX31, EX32 và EX33), đơn

vị tư vấn (EX36, EX37, EX38, EX39 và EX40), chính quyền (EX41, EX42, EX43,

EX44 và EX45) và các công ty trong cùng tập đòan (EX46, EX47, EX48, EX49 và

EX50). Như vậy cấu trúc thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp không đổi,

chỉ mất đi một mạng lưới là các hiệp hội.

­ Thang đo vốn xã hội bên trong của doanh nghiệp bị loại đi một biến quan

sát là I56, nhưng cấu trúc thang đo vẫn không thay đổi, bao gồm sự hợp tác giữa các

cá nhân (các biến quan sát I57, I58, I59, I60 và I61) và sự hợp tác giữa các bộ phận

chức năng (I62, I63, I64, I65 và I66).

Như vậy, cấu trúc thang đo vốn xã hội sau khi đánh giá sơ bộ bằng công cụ

hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích nhân tố (EFA) không đổi so với thiết

kế ban đầu, chỉ sàng lọc một số biến quan sát là EX34, EX30, L9, EX35, I56,

EX24, EX25, EX52, EX53, EX51, EX27, EX26 và EX54 được tổng kết ở Hình 4.6.

Các thang đo đơn hướng của hoạt động doanh nghiệp:

Các thang đo đơn hướng đo lường kết quả hoạt động doanh nghiệp vẫn

không thay đổi cấu trúc so với thiết kế ban đầu. Thang đo vốn xã hội bên trong vẫn

với các biến quan sát IP67, IP68 và IP69. Thang đo hoạt động sản xuất vẫn với các

biến quan sát IP70, IP71 và IP72. Thang đo hoạt động đầu ra vẫn với các biến quan

sát IP73, IP74, IP75 và IP76. Cấu trúc thang đo sau khi sàng lọc được tổng kết ở

Hình 4.7.

Page 64: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

64

Hình 4.6: Cấu trúc thang đo vốn xã hội sau khi đánh giá sơ bộ

Nguồn: Tổng kết sau khi đánh giá sơ bộ thang đo.

Hình 4.7: Cấu trúc các thang đo đơn hướng các hoạt động của doanh nghiệp

Hoạt động đầu vào Hoạt động sản xuất Hoạt động đầu ra

Nguồn: Tổng kết sau khi đánh giá sơ bộ thang đo.

Vốn xã hội của doanh nghiệp

Mạng lưới của lãnh đạo

Mạng lưới bên trong

Mạng lưới bên ngoài

Dòng họ

Bạn bè

Đối tác

Chính quyền

Đồng nghiệp

Chính quyền

Đơn vị tư vấn

Nhà cung cấp

Nhà phân phối

Khách hàng

Công ty cùng tập đoàn

Hợp tác phòng ban

Hợp tác cá nhân

Hoạt động đầu vào

Hoạt động sản xuất

Hoạt động đầu ra

IP67:Xin cấp phép

IP68:Tìm tư vấn

IP69: Huy động vốn

IP73: Marketing

IP74: Phân phối sản phẩm

IP75: Doanh thu

IP76: Thị phần

IP72: Chi phí dự án

IP70: Chất lượng dự án

IP71: Tiến độ dự án

Formatted: Font: 9 pt

Formatted: Font: 9 pt

Formatted: Font: 9 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 9 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 9 pt, Bold

Formatted: Font: 9 pt, Bold

Formatted: Font: 9 pt, Bold

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Page 65: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

65

Sau khi đánh giá sơ bộ thang đo bằng công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s

alpha) và phân tích nhân tố khám phá (EFA), đã sàng lọc các biến quan sát không

phù hợp và xác định lại cấu trúc của thang đo. Các biến quan sát được giữ lại sử

dụng để xây dựng bản câu hỏi cho nghiên cứu cho trường hợp điển hình tại các

doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, qua đánh giá sơ bộ các biến

quan sát bị loại không nhiều nên bản câu hỏi nghiên cứu định lượng sơ bộ được giữ

nguyên để thực hiện nghiên cứu ở giai đoạn hai.

4.3 XÂY DỰNG CÁC GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Đánh giá sơ bộ thang đo đã định hình lại cấu trúc của các khái niệm nghiên

cứu. Tiếp theo là dựa vào cấu trúc thang đo để định nghĩa lại các khái niệm nghiên

cứu về vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp để xây dựng các giả thuyết

nghiên cứu. Các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng bằng liên hệ lý thuyết và

nghiên cứu định tính với công cụ thảo luận tay đôi, dàn bài thảo luận tay đôi (xem

Phụ lục 6) bao gồm các nội dung như sau:

(1) Giới thiệu về mục đích nghiên cứu.

(2) Định nghĩa các khái niệm nghiên cứu vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài

và bên trong doanh nghiệp; và các khái niệm về hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu

ra của doanh nghiệp BĐS. Phần này được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá sơ bộ

thang đo.

(3) Thảo luận về mối liên hệ giữa các thành phần của vốn xã hội với các hoạt

động của doanh nghiệp.

Thảo luận thực hiện chủ yếu đối với các giám đốc doanh nghiệp BĐS Việt

Nam vào tháng 11 năm 2010 (danh sách chuyên gia được trình bày ở Phụ lục 7). Số

lượng chuyên gia thảo luận theo dự kiến ban đầu là không giới hạn, nhưng thảo luận

đến khoảng 8 người thì không còn phát hiện thêm điều gì mới nữa nên cỡ mẫu dừng

lại ở 10 người tham gia thảo luận. Các giả thuyết được đề xuất trên cơ sở kết hợp

kết quả của các nghiên cứu có liên quan với ý kiến chuyên gia trong nghiên cứu

định tính để khám phá các giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động

của doanh nghiệp BĐS.

Page 66: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

66

4.3.1 Giả thuyết về đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh

nghiệp bất động sản

Vốn xã hội của doanh nghiệp được cấu thành từ ba khía cạnh là vốn xã hội

của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp. Để xem xét tác động của vốn xã

hội đóng góp vào các hoạt động của doanh nghiệp thì phải xem xét tác động của

từng khía cạnh vốn xã hội.

Đối với khía cạnh vốn xã hội của lãnh đao:

Theo Tushman & O’Reilly (1997) cho rằng mạng lưới lãnh đạo doanh

nghiệp trong mối liên hệ với các chính quyền các cấp, báo chí, công chúng; các mối

quan hệ trong nghề nghiệp; khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh; cấp dưới;

đồng nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với khả năng tiếp cận thông tin, các nguồn

tài nguyên, cơ hội và sự ủng hộ. Các thuộc tính tiếp cận thông tin, nguồn tài nguyên

và cơ hội là những thuộc tính tương đồng với các hoạt động đầu vào của doanh

nghiệp BĐS, chẳng hạn như tìm kiếm quỹ đất, thuận lợi xin cấp phép.

Hơn nữa, Acquaah (2007) cũng khẳng định các mối quan hệ của lãnh đạo với

đóng vai trò quan trọng đến sự thành công của tổ chức. Còn Cialdini (2001) cho

rằng lãnh đạo gây ảnh hưởng đến người khác dựa trên tình hữu nghị, hỗ trợ lẫn

nhau, quyền lực, sự công nhận của xã hội và lời cam kết. Các luận điểm này hàm ý

rằng lãnh đạo của doanh nghiệp giữ vai trò quyết định kết quả các hoạt động của

doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp BĐS thì kết quả các hoạt động được phân

thành ba nhóm là hoạt động đầu vào như tìm kiếm quỹ đất, xin cấp phép và huy

động vốn; hoạt động sản xuất được đo lường bằng kết quả thực hiện các dự án đúng

tiến độ, chất lượng và chi phí; hoạt động đầu ra liên quan đến việc phân phối sản

phẩm. Điều này hàm ý rằng vốn xã hội của lãnh đạo ảnh hưởng đến các hoạt động

của doanh nghiệp.

Lãnh đạo doanh nghiệp đóng vai trò tạo ra môi trường văn hóa làm việc và

có chức năng hoạch định và động viên các nhân viên thực hiện nhiệm vụ mục tiêu

của doanh nghiệp (Wharton & Brunetto, 2009). Khi công việc được hoạch định tốt

và nhân viên được động viên làm việc tích cực sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ và

Page 67: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

67

tiết kiệm chi phí thực hiện các dự án (Ireland, 2006). Hơn nữa thông qua các mối

quan hệ với các đối tác kinh doanh mà lãnh đạo doanh nghiệp lựa chọn được các

nhà tư vấn, nhà thầu tốt đảm bảo các dự án hoàn thành đúng tiến độ, chi phí và chất

lượng kế hoạch (Stevens, 2002). Kết quả nghiên cứu định tính lần thứ hai nhiều

chuyên gia cho rằng vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp có ảnh hưởng dương đến

kết quả của các hoạt động sản xuất.

Mối quan hệ của lãnh đạo với các đối tác kinh doanh sẽ tạo ra khách hàng

tiềm năng cho các doanh nghiệp (Tansley & Newell, 2007). Ngoài ra lãnh đạo còn

đóng vai trò động viên quan trọng đối với hệ thống các nhà phân phối, khách hàng

chiến lược, chính quyền các cấp để thông qua đó nâng cao hiệu quả phân phối (Lee

& các cộng sự, 2001; Yang & các cộng sự, 2011). Trong nghiên cứu định tính lần

thứ hai cho thấy nhiều chuyên gia cho rằng mạng lưới của lãnh đạo doanh nghiệp

đóng vai trò quan trọng giúp doanh nghiệp phát triển hệ thống phấn phối, phát triển

thêm khách hàng và mở rộng thị phần.

Kết quả nghiên cứu định tính lần thứ hai cũng ủng hộ luận điểm trên, đa số

các chuyên gia tham gia thảo luận cho rằng vốn xã hội của lãnh đạo có vai trò quan

trong đối với các hoạt động đầu vào: tìm kiếm quỹ đất, xin cấp phép và huy động

vốn; lãnh đạo doanh nghiệp cũng đóng góp quan trọng vào sự thành bại của hoạt

động sản xuất và đầu ra. Vai trò của lãnh đạo là quan trọng bởi vì đa số các doanh

nghiệp BĐS Việt Nam mới được thành lập không lâu, hệ thống quản lý chưa được

chuẩn hóa nên sức mạnh vô hình của tổ chức chủ yếu là dựa vào lãnh đạo chứ

không phải là hệ thống quản lý như các quốc gia khác. Hơn nữa, Việt Nam là một

quốc gia bị chi phối bởi nền văn hóa Phương Đông nên quan hệ cá nhân để dễ dàng

giải quyết công việc mới là điều quan trọng hàng đầu.

Như vậy, kết quả liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ hai cho

thấy vốn xã hội của lãnh đạo có tác động tích cực đến các hoạt động của doanh

nghiệp. Tuy nhiên, trong các mạng lưới quan hệ xã hội của lãnh đạo được phân

thành hai loại mạng lưới quan hệ gây hiệu ứng đối với thị trường BĐS trái ngược

nhau. Các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp với dòng họ, bạn bè, đối

Page 68: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

68

tác kinh doanh và đồng nghiệp là những mạng lưới được giả thuyết đóng góp tích

cực vào việc tăng kết quả của các hoạt động của doanh nghiệp, thông qua đó chúng

cũng góp phần tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS như thúc đẩy sự hiệu quả

hợp tác, giảm chi phí giao dịch và thông tin bất cân xứng (Putnam, 2000; Webb,

2008; Waheduzzaman, 2010). Tuy nhiên, mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh

nghiệp với chính quyền cũng được giả thuyết là đóng góp tích cực vào các hoạt

động của doanh nghiệp (nhất là đối với công tác tiếp cận đất đai và huy động vốn),

nhưng mạng lưới quan hệ này gây hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường BĐS

(Putnam, 2000), bởi vì chúng biểu hiện sự bất bình đẳng trong ứng xử của chính

quyền đối với các doanh nghiệp trên thị trường BĐS (Bueno & các cộng sự, 2004;

Carey & Lawson, 2011).

Đối với vốn xã hội bên ngoài:

Nhiều nghiên cứu cho rằng chất lượng các mối quan hệ của doanh nghiệp với

các chủ thể trong môi trường kinh doanh có tác động đến kết quả kinh doanh của

doanh nghiệp. Chẳng hạn như (Grant, 2002) cho rằng chất lượng mối quan hệ tốt

với khách hàng, nhà cung cấp, ngân hàng, chính quyền giúp doanh nghiệp đạt được

kết quả kinh doanh tốt. Nghiên cứu của Landry & các cộng sự (2000) thì cho rằng

nhận thức về tầm quan trọng trong các mạng lưới khách hàng, nhà cung cấp, chính

quyền, đơn vị tư vấn, hiệp hội sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong các hoạt

động đầu vào và đầu ra. Acquaah (2007) thì kết luận rằng sự phát triển của vốn xã

hội từ các mạng lưới liên kết với những nhà quản lý cấp cao của các doanh nghiệp

khác, các nhân viên thuộc cơ quan quản lý nhà nước và các nhà lãnh đạo quần

chúng có tác động đáng kể tới thành tích của tổ chức. Nghĩa là các nghiên cứu trước

đây cho rằng chất lượng quan hệ của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh

(vốn xã hội bên ngoài) tác động đến kết quả của họat động đầu vào, sản xuất và đầu

ra.

Kết quả nghiên cứu định tính để khám phá các giả thuyết về đóng góp của vốn

xã hội bên ngoài vào các hoạt động doanh nghiệp BĐS Việt Nam cho thấy doanh

nghiệp BĐS kinh doanh có uy tín (lòng tin) đối với các chủ thể trong môi trường

Page 69: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

69

kinh doanh (vốn xã hội bên ngoài) sẽ dễ dàng nhận quỹ đất phát triển dự án và cơ

hội tiếp cận với các nguồn tín dụng. Thêm vào đó vốn xã hội bên ngoài của doanh

nghiệp tiếp nhận được thông tin từ nhà cung cấp, nhà thầu, tư vấn; khi doanh nghiệp

hành xử đúng mực với các tổ chức này thì sẽ dẫn đến tổ chức đó hành xử ngược lại

tương tự. Bên cạnh đó khi doanh nghiệp tạo dựng được lòng tin đối với khách hàng

sẽ thu hút được nhiều khách hàng trung thành, tạo lòng tin đối với nhà phân phối sẽ

thuận lợi phát triển mạng lưới bán hàng. Nghĩa là vốn xã hội bên ngoài tác động

trực tiếp đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Như vậy, kết quả nghiên cứu

định tính cũng ủng hộ các kết luận của các nghiên cứu có liên quan về đóng góp của

vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.

Trong cấu trúc các mạng lưới quan hệ bên ngoài doanh nghiệp BĐS, các mạng

lưới quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp và các

công ty trong cùng tập đoàn sẽ là các mạng lưới quan hệ gây hiệu ứng tích cực cho

thị trường BĐS, bởi vì chúng góp phần tạo ra kênh huy động vốn, giảm chi phí giao

dịch, tăng hiệu quả hợp tác, tiếp cận thông tin và chuyển giao tri thức (Yang & các

cộng sự, 2011). Nhưng mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp với chính quyền sẽ tạo

ra hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường BĐS, bởi vì chúng biểu hiện sự bất cập trong

các chính sách điều tiết thị trường của Chính phủ không đảm đương được vai trò tạo

“luật chơi” bình đẳng cho các chủ thể tham gia thị trường (Bueno & các cộng sự,

2004).

Đối với vốn xã hội bên trong:

Vốn xã hội giúp giải quyết các bài toán hợp tác và sự hợp tác giữa các chủ

thể bên trong doanh nghiệp làm tăng kết quả các hoạt động của doanh nghiệp

(Cheng & các cộng sự, 2006; Kurt, 2000; Emmerik & các cộng sự, 2011). Nghĩa là

sự hợp tác của các chủ thể bên trong doanh nghiệp có tác động đến kết quả các hoạt

động doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu định tính lần thứ nhất và đánh giá sơ bộ

thang đo cho thấy vốn xã hội bên trong của doanh nghiệp thể hiện sự hợp tác giữa

các cá nhân/bộ phận chức năng với nhau, để tạo được điều này doanh nghiệp cần có

chính sách duy trì mối quan hệ hợp tác bên trong doanh nghiệp. Nghiên cứu định

Page 70: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

70

tính lần thứ hai về khám phá đóng góp của vốn xã hội bên trong đến các hoạt động

doanh nghiệp BĐS cho thấy sức mạnh của sự đoàn kết sẽ giúp doanh nghiệp thực

hiện tốt hoạt động đầu vào như chuẩn bị tốt hồ sơ xin cấp phép; tác động tăng kết

quả của hoạt động sản xuất như tổ chức quản lý dự án đạt chất lượng, chi phí và tiến

độ; và tác động đến kết quả phát triển hệ thống phân phối, mở rộng thêm khách

hàng, tăng doanh thu, thị phần (hoạt động đầu ra). Như vậy, vốn xã hội bên trong

doanh nghiệp đóng góp tích cực đến cả ba nhóm hoạt động trong quá trình kinh

doanh, thông qua đó cũng tạo ra hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS như tăng

năng suất lao động, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức

(Ramström, 2008).

Tóm lại, từ việc liên hệ lý thuyết và kết hợp nghiên cứu định tính cho thấy vốn

xã hội bên ngoài, bên trong và lãnh đạo là các khía cạnh của vốn xã hội có tác động

dương đến kết quả các nhóm hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của doanh

nghiệp BĐS. Như vậy giả thuyết đặt ra như sau:

H1: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động đầu vào.

H2: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả hoạt động sản xuất.

H3: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả hoạt động đầu ra.

4.3.2 Giả thuyết về mối quan hệ giữa các hoạt động trong doanh nghiệp BĐS

Các hoạt động trong quá trình kinh doanh là một mắt xích giá trị của doanh

nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ lẫn nhau (Porter, 1985). Cũng tương đồng với lý

thuyết của Porter (1985), nhiều chuyên gia cho rằng hoạt động đầu vào có tác động

dương đến hoạt động sản xuất; hoạt động sản xuất có tác động dương đến hoạt động

đầu ra. Với các giả thuyết:

H4: Tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động sản xuất.

H5: Tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động đầu ra.

Page 71: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

71

H1+ H2+ H3+

H4+ H5+

Mô hình lý thuyết đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động trong quá trình

kinh doanh của doanh nghiệp BĐS được tổng kết ở Hình 4.8.

Hình 4.8: Mô hình lý thuyết đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp bất động sản Việt Nam

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ lược khảo lý thuyết và nghiên cứu định tính lần thứ hai.

Vốn xã hội của doanh nghiệp

Mạng lưới của lãnh đạo

Mạng lưới bên trong

Mạng lưới bên ngoài

Dòng họ

Bạn bè

Đối tác

Chính quyền

Đồng nghiệp

Chính quyền

Đơn vị tư vấn

Nhà cung cấp

Nhà phân phối

Khách hàng

Công ty cùng tập đoàn

Hợp tác giữa các phòng ban

Hợp tác giữa các

cá nhân

Hoạt động đầu vào

Hoạt động sản xuất

Hoạt động đầu ra

IP67:Xin cấp phép

IP68:Tìm kiếm tư vấn

IP69: H

uy động vốn

IP73: M

arketing

IP74: P

hân phối sản phẩm

IP75: D

oanh thu

IP72: C

hi phí dự án

IP70: C

hất lượng dự án

IP71: T

iến độ dự án

IP76: T

hị phần

Page 72: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

72

CHƯƠNG 5

KIỂM ĐỊNH THANG ĐO VÀ MÔ HÌNH LÝ THUYẾT CHO NGHIÊN CỨU

ĐIỂN HÌNH: DOANH NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chương 5 sẽ mô tả đặc điểm của mẫu khảo sát và thực hiện kiểm định độ tin

cậy, giá trị của thang đo và các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu. Trước hết,

công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha) được sử dụng để loại đi những biến quan

sát không đảm bảo tính nhất quán trong việc đo lường các khái niệm. Kế đến là

phương pháp nhân tố khám phá (EFA) dùng để xác định cấu trúc các thang đo cũng

như loại bỏ những biến không phù hợp. Các biến còn lại sẽ đưa vào phân tích nhân

tố khẳng định (CFA) để đánh giá tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, độ

tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Phân tích nhân tố khẳng định được thực hiện

trước hết cho thang đo đa hướng vốn xã hội theo trình tự bậc ba, bậc hai để kiểm

định tính đơn nguyên, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thành phần bậc hai

và giữa các thang đo bậc hai của vốn xã hội với nhau.

Kế đến, mô hình CFA được thiết kế chung cho các khái niệm đa hướng vốn

xã hội với các khái niệm đơn hướng hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Thiết kế

mô hình này với hai mục đích: (1) đánh giá mức độ tương thích của mô hình với dữ

liệu, tính đơn nguyên, giá trị hội tụ của các thang đo bậc hai của vốn xã hội (mức độ

hội tụ của ba thành phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài và bên trong

của khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp) và mức độ hội tụ của các biến quan sát

đo lường hoạt động đầu vào, hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra; (2) kiểm định

giá trị phân biệt giữa thang đo vốn xã hội, hoạt động đầu vào, hoạt động sản xuất và

hoạt động đầu ra. Sau khi phân tích CFA, công cụ hệ số tin cậy tổng hợp và phương

sai trích được sử dụng để đánh giá mức độ tin cậy của thang đo. Kết quả CFA giúp

xác định lại cấu trúc thang đo, mô hình kiểm định các giả thuyết nghiên cứu sẽ được

hiệu chỉnh cho phù hợp với dữ liệu khảo sát.

Page 73: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

73

Sau khi mô hình nghiên cứu được hiệu chỉnh, công cụ SEM được sử dụng để

ước lượng mô hình nghiên cứu, thông qua đó kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.

Kết quả ước lượng mô hình và giả thuyết nghiên cứu làm cơ sở cho phân tích đóng

góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.

5.1 ĐẶC ĐIỂM MẪU NGHIÊN CỨU

5.1.1 Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

Như đã giới thiệu, phương pháp phân tích dữ liệu chính được sử dụng là mô

hình cấu trúc tuyến tính (SEM). Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này đều đồng ý

là phương pháp này đòi hỏi phải có kích thước mẫu lớn vì nó dựa trên lý thuyết

phân phối mẫu lớn (Raykov & Widama, 1995; trích trong Nguyễn Đình Thọ &

Nguyễn Thị Mai Trang, 2008). Kích thước mẫu phụ thuộc vào phương pháp ước

lượng, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nếu sử dụng phương pháp hợp lý tối đa

(Maximun Likelihood) thì kích thước mẫu tối thiểu phải 100 đến 150 (Hair & các

tác giả, 1998). Theo Bollen (1998), kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho một tham

số cần ước lượng. Trong luận án này, sau khi nghiên cứu sơ bộ còn lại 63 biến quan

sát, cộng với 20 biến tiềm ẩn quan hệ với nhau theo năm giả thuyết nghiên cứu đề

nghị từ Chương 4. Nghĩa là có 88 tham số cần ước lượng, như vậy cỡ mẫu tối thiểu

phải là 440 quan sát (5 mẫu x 88 tham số cần ước lượng). Tuy nhiên, việc điều tra

440 quan sát với đối tượng là giám đốc doanh nghiệp BĐS thì rất khó thực hiện, bởi

vì số lượng doanh nghiệp BĐS không nhiều, theo Bộ Xây Dựng (2011), năm 2009

cả nước chỉ có khoảng 1.717 doanh nghiệp, trong đó thành phố Hồ Chí Minh có

khoảng 1.460 doanh nghiệp. Do đó, mô hình SEM được ước lượng dựa trên biến

trung bình (Bagozzi & Edward 1998, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị

Mai Trang, 2008) của các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội của lãnh

đạo (với 5 thành phần), vốn xã hội bên ngoài (với 6 thành phần) và vốn xã hội bên

trong (với 2 thành phần), cộng với 9 biến quan sát thuộc các hoạt động của doanh

nghiệp, 7 biến tiềm ẩn và 5 giả thuyết nghiên cứu thì số tham số cần ước lượng là

34 tham số, do vậy cỡ mẫu tối thiểu cần chưa đến 200. Như vậy, với cách thức xử lý

như trên với 216 quan sát là có cơ sở chấp nhận được.

Page 74: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

74

Bảng 5.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu

Đặc điểm Tần số Phần trăm Thời gian hoạt động: Ít hơn 2 năm 23 11 Từ 2 đến dưới 5 năm 85 39 Từ 6 đến dưới 10 năm 63 29 Trên 10 năm 45 21 Tổng 216 100 Nguồn vốn: Dưới 1 tỷ đồng 32 15 Từ 1 đến dưới 10 tỷ đồng 83 38 Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng 49 23 Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng 30 14 Trên 200 tỷ đồng 22 10 Tổng 216 100 Số lượng nhân viên: Ít hơn 10 người 43 20 Từ 10 đến 49 người 66 31 Từ 50 đến 199 người 66 31 Từ 200 đến 299 người 17 8 Từ 300 đến 499 người 11 5 Từ 500 trở lên 13 6 Tổng 216 100

Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

Để đạt được kích thước mẫu là 216 quan sát, 400 phiếu khảo sát được phát ra

và số phiếu thu về là 300. Sau khi thu hồi, có 84 phiếu không hợp lệ nên bị loại.

Trong các phiếu bị loại có 40 phiếu do đối tượng trả lời không phù hợp (không phải

là thành viên của ban giám đốc) và 44 phiếu có số lượng ô trống trên 10%. Vì vậy

kích thước mẫu cuối cùng dùng để xử lý là 216. Đặc điểm mẫu theo số lượng nhân

viên, thời gian hoạt động, nguồn vốn được trình bày trong Bảng 5.1.

Mẫu được chọn phân bổ theo loại hình sở hữu 2 doanh nghiệp, theo Bộ Xây

Dựng (2011), năm 2009 tại thành phố Hồ Chí Minh có 1.460 doanh nghiệp BĐS,

trong đó có 19 doanh nghiệp nhà nước (chiếm 1%), 1.383 doanh nghiệp ngoài nhà

2 Loại hình sở hữu doanh nghiệp trong luận án phân loại theo Tổng cục Thống kê Việt Nam với ba loại hình: (1) doanh nghiệp nhà nước: có từ 50% vốn nhà nước trở lên; (2) doanh nghiệp ngoài nhà nước: không có vốn nước ngoài và/hoặc có từ 49% vốn của nhà nước trở xuống; (3) doanh nghiệp có vốn nước ngoài.

Page 75: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

75

nước (chiếm 95%) và 58 doanh nghiệp có vốn nước ngoài (chiếm 4%). Bảng 5.2

cho thấy tỷ lệ phân bổ mẫu mặc dù không hoàn toàn tương thích với tỷ lệ của tổng

thể nhưng có thể chấp nhận được với mức độ xấp xỉ.

Bảng 5.2: So sánh tỷ lệ phân bổ mẫu với tổng thể theo loại hình sở hữu

Loại doanh nghiệp

Doanh nghiệp của tổng thể năm 2009

Doanh nghiệp của mẫu điều tra năm 2011

Số doanh nghiệp

Tỷ lệ Số doanh nghiệp

Tỷ lệ

Doanh nghiệp nhà nước 19 1% 19 9% Doanh nghiệp ngoài nhà nước 1.383 95% 184 85% Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 58 4% 13 6% Tổng số doanh nghiệp 1.460 100% 216 100%

Nguồn: Tính tóan theo dữ liệu Bộ Xây Dựng (2011) và điều tra của luận án năm 2011.

5.1.2 Các đặc điểm của loại hình sở hữu theo thời gian hoạt động và quy mô

doanh nghiệp BĐS trong mẫu

5.1.2.1 Thời gian hoạt động

Bảng 5.3 cho thấy có sự ảnh hưởng có ý nghĩa (mức ý nghĩa của χ 2 (6) =

0,001) của loại hình sở hữu đến thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Đa số các

doanh nghiệp nhà nước có thời gian hoạt động trên 10 năm, các doanh nghiệp ngoài

nhà nước chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây (hơn 53% doanh nghiệp có thời

gian hoạt động dưới 5 năm), các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài chủ yếu có thời

gian hoạt động từ 5 đến 10 năm (chiếm khoảng 46,3%).

Bảng 5.3: Số doanh nghiệp phân theo thời gian hoạt động và lọai hình sở hữu

Thời gian hoạt động Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp ngoài nhà nước

Doanh nghiệp nước ngoài

Cộng

Ít hơn 2 năm 1 21 1 23 Từ 2 đến dưới 5 năm 5 78 2 85 Từ 5 đến dưới 10 năm 2 55 6 63 Trên 10 năm 11 30 4 45 Tổng 19 184 13 216 Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

Comment [D8]: Thảo luận???

Page 76: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

76

5.1.2.2 Quy mô nguồn vốn của các loại hình doanh nghiệp

Bảng 5.4 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa (mức ý nghĩa của χ 2 (4) = 0,010)

giữa loại hình doanh nghiệp và quy mô nguồn vốn của doanh nghiệp. Đa số các

doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn lớn, có đến 42% doanh nghiệp có vốn hơn

hơn 50 tỷ đồng. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ,

đến 80% doanh nghiệp có nguồn vốn dưới 50 tỷ đồng. Các doanh nghiệp có vốn

nước ngoài chủ yếu là có nguồn vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm khoảng 77%).

Bảng 5.4: Số doanh nghiệp phân theo quy mô nguồn vốn và loại hình sở hữu

Thời gian hoạt động Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp ngoài nhà nước

Doanh nghiệp nước ngoài

Cộng

Dưới 1 tỷ 4 28 0 32 Từ 1 đến dưới10 tỷ đồng 3 77 3 83 Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng 4 41 4 49 Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng 2 25 3 30 Trên 200 tỷ đồng 6 13 3 22 Tổng 19 184 13 216 Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

5.1.2.3 Quy mô lao động của các loại hình doanh nghiệp

Bảng 5.5 cho thấy có sự ảnh hưởng có ý nghĩa (mức ý nghĩa của χ 2 (6) = 0,02)

của loại hình sở hữu đến quy mô lao động của doanh nghiệp. Đa số các doanh

nghiệp nhà nước có quy mô lao động lớn, có đến 90% doanh nghiệp có hơn 50 lao

động. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, đến 56%

doanh nghiệp có dưới 50 lao động. Các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài thì có

đến 61% doanh nghiệp có lao động 50 đến dưới 200 người.

Bảng 5.5: Số doanh nghiệp phân theo quy mô lao động và loại hình sở hữu

Thời gian hoạt động Doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp ngoài nhà nước

Doanh nghiệp nước ngoài

Cộng

Ít hơn 10 người 0 41 2 43 Từ 10 đến 49 người 2 62 2 66 Từ 50 đến 199 người 7 51 8 66 Từ 200 đến 299 người 3 13 1 17 Từ 300 đến 499 người 3 8 0 11 Từ 500 trở lên 4 9 0 13 Tổng 19 184 13 216 Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

Page 77: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

77

5.2 KIỂM ĐỊNH THANG ĐO BẰNG HỆ SỐ TIN CẬY VÀ PHÂN TÍCH

NHÂN TỐ KHÁM PHÁ

Do các thang đo được xây dựng mới nên trước khi sử dụng công cụ phân tích

nhân tố khẳng định (CFA) cần kiểm định độ tin cậy (Cronbach’s alpha) và phân tích

nhân tố khám phá (EFA) để đánh giá xác định cấu trúc của thang đo.

Kiểm định Cronbach’s alpha cho các thang đo thành phần bậc ba của vốn xã

hội và các hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy chỉ có biến quan sát IP76

thuộc khái niệm hoạt động đầu ra bị loại, các biến quan sát còn lại đều đảm bảo tính

nhất quán để đo lường các khái niệm nghiên cứu với hệ số tin cậy lớn hơn 0,6 và hệ

số tương quan biến tổng 0,35 (kết quả Cronbach’s alpha trình bày ở Phụ lục 8).

Phân tích nhân tố khám phá (EFA) được thực hiện chung cho các khái niệm

đa hướng vốn xã hội và riêng đối với từng thang đo đơn hướng các hoạt động đầu

vào, sản xuất và đầu ra của doanh nghiệp. Kết quả EFA cho các thang đo vốn xã hội

tách ra thành 13 nhân tố, không có biến quan sát nào bị loại (tất cả các trọng số

nhân tố đều lớn hơn 0,5 và phương sai trích lớn hơn 50%, hệ số KMO lớn hơn 0,5

và mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett nhỏ hơn 0,05) và cấu trúc của các nhân tố

không có sự thay đổi so với đánh giá sơ bộ ở giai đoạn một (kết quả phân tích nhân

tố khám phá được trình bày ở Phụ lục 9).

Như vậy, kết quả kiểm định thang đo bằng Cronbach’s alpha và EFA chỉ có

loại biến quan sát IP76, các biến quan sát còn lại tiếp tục đưa vào kiểm định bằng

công cụ phân tích nhân tố khẳng định (CFA).

5.3 KIỂM ĐỊNH THANG ĐO BẰNG PHÂN TÍCH NHÂN TỐ KHẲNG

ĐỊNH (CFA)

Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) được thực hiện trước hết là kiểm định

thang đo bậc ba thuộc các thành phần bậc hai của khái niệm vốn xã hội; kế đến là

kiểm định giá trị phân biệt và giá trị hội tụ giữa các thành phần bậc hai của vốn xã

hội; cuối cùng là phân tích nhân tố chung cho các khái niệm trong mô hình nghiên

cứu, bao gồm vốn xã hội, hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra của doanh nghiệp.

Page 78: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

78

5.3.1 Kiểm định các thang đo bậc ba của khái niệm vốn xã hội

5.3.1.1 Kiểm định thang đo vốn xã hội của lãnh đạo

Thang đo vốn xã hội lãnh đạo doanh nghiệp là thang đo đa hướng với năm

thành phần, đó là (1) mạng lưới dòng họ, (2) mạng lưới bạn bè; (3) mạng lưới đối

tác kinh doanh và (4) mạng lưới chính quyền địa phương; và (5) mạng lưới đồng

nghiệp.

Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt được độ tương thích với dữ liệu thị

trường, với χ 2 (134)=315,117 (P=0,000); TLI= 0,890; CFI= 0,913 và RMSEA= 0,079;

CMIN/dF=2,352. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát

đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất là 0,610), điều này khẳng định tính đơn nguyên và giá trị

hội tụ của các biến quan sát thuộc các thành phần vốn xã hội của lãnh đạo (xem

Hình 5.1). Tiếp theo, hệ số tương quan của các thành phần thuộc khái niệm vốn xã

hội lãnh đạo đều nhỏ hơn 1 đơn vị với mức ý nghĩa 1% (xem Bảng 5.6). Vì vậy, các

thành phần này đạt được giá trị phân biệt trong cùng một khái niệm.

Bảng 5.6: Hệ số tương quan giữa các khái niệm của vốn xã hội lãnh đạo

Mối quan hệ Tương

quan (r)

Sai số

chuẩn 1­r

Giá trị tới

hạn (1­r)

Mạng lưới bạn bè <­> Mạng lưới dòng họ 0,531 0,058 0,469 8,097

Mạng lưới bạn bè <­> Mạng lưới đối tác 0,528 0,058 0,472 8,130

Mạng lưới đối tác <­> Mạng lưới chính quyền 0,632 0,053 0,368 6,947

Mạng lưới bạn bè <­> Mạng lưới chính quyền 0,464 0,061 0,536 8,852

Mạng lưới chính quyền <­> Mạng lưới đồng nghiệp 0,471 0,060 0,529 8,773

Mạng lưới dòng họ <­> Mạng lưới chính quyền 0,375 0,063 0,625 9,863

Mạng lưới dòng họ <­> Mạng lưới đối tác 0,355 0,064 0,645 10,093

Mạng lưới đối tác <­> Mạng lưới đồng nghiệp 0,529 0,058 0,471 8,119

Mạng lưới bạn bè <­> Mạng lưới đồng nghiệp 0,542 0,057 0,458 7,973

Mạng lưới dòng họ <­> Mạng lưới đồng nghiệp 0,443 0,061 0,557 9,089

Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.1, Phụ lục 10).

Comment [D9]: Ở Đây muốn đề cập đế trọng số hồi quy của các biến quan sát chứ không nói đến môi tương quan giữa các khái niệm. Những số <0,5 là hệ số tương quan giữa các khái niệm.

Comment [D10]: Hệ số tương quan này nhằm để đánh giá giá trị phân biệt giữa các thành phần trong thang đo. Nếu chúng có ý nghĩa trong việc nhỏ hơn 1 thì coi như cặp khái niệm đó đạt giá trị phân biệt.

Page 79: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

79

Hình 5.1: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) thang đo vốn xã hội lãnh đạo

Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.1, Phụ lục 10).

5.3.1.2 Kiểm định thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp

Thang đo vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là thang đo đa hướng với sáu

thành phần, bao gồm (1) mạng lưới khách hàng, (2) mạng lưới nhà phân phối, (3)

mạng lưới nhà cung cấp; (4) mạng lưới nhà tư vấn, (5) mạng lưới chính quyền, (6)

mạng lưới các công ty cùng tập đoàn.

Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt được độ tương thích với dữ liệu thị

trường, với χ 2 (210)=404,34 (P=0,000); CFI= 0,934 và RMSEA= 0,066;

CMIN/DF=1,925. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát

đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất là 0,551), điều này khẳng định tính đơn nguyên và giá trị

hội tụ của các thành phần của vốn xã hội bên ngoài (xem Hình 5.2). Tiếp theo, hệ số

tương quan của các thành phần thuộc khái niệm vốn xã hội bên ngoài đều nhỏ hơn 1

[ ] 2 134 315,117 χ = (P=0,000); CFI= 0,913 và RMSEA= 0,079; CMIN/DF=2,352.

L4 Mạng lưới dòng họ

Mạng lưới bạn bè

Mạng lưới chính quyền

Mạng lưới đồng nghiệp

Mạng lưới đối tác

L3 L2 L1

L5 L6

L7

L8

L10

L11 L12

L13

L14 L15

L16

L17 L18

L19

L20

0,75 0,62 0,87

0,75

0,71 0,75

0,79 0,66

0,61

0,82 0,87

0,66

0,77 0,88

0,75

0,66 0,69

0,81

0,70

0,443

0,531

0,528

0,632 0,471

0,375

0,355

0,529

0,542

0,464

Page 80: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

80

đơn vị với mức ý nghĩa 1% (xem Bảng 5.7). Vì vậy, các thành phần này đạt được

giá trị phân biệt trong cùng một khái niệm.

Bảng 5.7: Hệ số tương quan giữa các khái niệm của vốn xã hội bên ngoài

Mối quan hệ Tương

quan (r)

Sai số

chuẩn 1­r

Giá trị tới

hạn (1­r)

Mạng lưới khách hàng <­> Mạng lưới chính quyền 0,476 0,060 0,524 8,716

Mạng lưới khách hàng <­> Công ty cùng tập đoàn 0,469 0,060 0,531 8,795

Mạng lưới khách hàng <­> Mạng lưới cung cấp 0,642 0,052 0,358 6,831

Mạng lưới phân phối <­> Mạng lưới chính quyền 0,494 0,059 0,506 8,513

Mạng lưới phân phối <­> Công ty cùng tập đoàn 0,336 0,064 0,664 10,313

Mạng lưới phân phối <­> Mạng lưới cung cấp 0,566 0,056 0,434 7,701

Mạng lưới tư vấn <­> Mạng lưới cung cấp 0,579 0,056 0,421 7,554

Mạng lưới chính quyền <­> Mạng lưới cung cấp 0,548 0,057 0,452 7,905

Mạng lưới khách hàng <­> Mạng lưới tư vấn 0,459 0,061 0,541 8,908

Mạng lưới phân phối <­> Mạng lưới khách hàng 0,551 0,057 0,449 7,871

Mạng lưới phân phối <­> Mạng lưới tư vấn 0,603 0,055 0,397 7,280

Mạng lưới tư vấn <­> Mạng lưới chính quyền 0,533 0,058 0,467 8,074

Mạng lưới tư vấn <­> Công ty cùng tập đoàn 0,474 0,060 0,526 8,739

Mạng lưới chính quyền <­> Công ty cùng tập đoàn 0,571 0,056 0,429 7,644

Công ty cùng tập đoàn <­> Mạng lưới cung cấp 0,546 0,057 0,454 7,927

Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.2, Phụ lục 10).

Page 81: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

81

Hình 5.2: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) của thang đo vốn xã hội bên ngoài

Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.2, Phụ lục 10).

5.3.1.3 Kiểm định thang đo vốn xã hội bên trong

Thang đo vốn xã hội bên trong doanh nghiệp là thang đo đa hướng với hai

thành phần bao gồm: (1) sự hợp tác giữa cá nhân trong công ty, (2) sự hợp tác giữa

các bộ phận chức năng. Kết quả CFA cho thấy mô hình đạt được độ tương thích với

dữ liệu thị trường, với χ 2 (33) =61,976 (P=0,002); CFI= 0,968 và RMSEA= 0,067;

CMIN/DF=1,878. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát

đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất là 0,612), điều này khẳng định tính đơn nguyên và giá trị

hội tụ của các thành phần trong thang đo vốn xã hội bên trong (xem Hình 5.3). Tiếp

EX42 EX40

EX39 EX41

[ ] 2 210 404,340 χ = (P=0,000); CFI= 0,934 và RMSEA= 0,066; CMIN/DF=1,925

EX21 EX22

Mạng lưới khách hàng

Công ty cùng tập đoàn

Mạng lưới chính quyền

Mạng lưới tư vấn

Mạng lưới phân phối

Mạng lưới cung cấp

EX23 EX28

EX29

EX31

EX32

EX33

EX36

EX37

EX38 EX43 EX44

EX45

EX46

EX47

EX48

EX49

EX50

0,551

0,566

0,579

0,533

0,571

0,469 6

0,642

0,459

0,476

0,603

0,494

0,336

0,546

0,548

0,551 0,816

0,832 0,807

0,874

0,750

0,827

0,779

0,638

0,841

0,778 0,766 0,640

0,615 0,621 0,728

0,715

0,827

0,833

0,858

0,933

0,889

0,780

Page 82: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

82

theo, hệ số tương quan giữa hai thành phần của khái niệm vốn xã hội bên trong nhỏ

hơn 1 đơn vị với mức ý nghĩa 1%. Vì vậy, các thành phần này đạt được giá trị phân

biệt trong cùng một khái niệm.

Hình 5.3: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) của thang đo vốn xã hội bên trong

Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 1.1.3, Phụ lục 10).

5.3.2 Kiểm định các thang đo bậc hai của khái niệm vốn xã hội

Thang đo bậc hai của vốn xã hội bao gồm vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã

hội bên trong và vốn xã hội bên ngoài. Ba thành phần này đo lường khái niệm vốn

xã hội của doanh nghiệp, nên cần phải xem xét giá trị hội tụ và phân biệt giữa

chúng. Mô hình được thiết kế chung để đánh giá mối liên hệ giữa các cặp 3 .

Kết quả CFA mô hình sau khi hiệu chỉnh đạt mức độ tương thích với dữ liệu

thị trường, với: χ 2 (46)=89,779 (P=0,000); CFI= 0,929, RMSEA= 0,078 và

CMIN/DF=2,321. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan sát

đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất 0,512), khẳng định tính đơn nguyên và giá trị hội tụ của

các nhân tố trong các thang đo bậc hai của vốn xã hội (xem Hình 5.4). Tiếp theo, hệ

số tương quan giữa các thang đo bậc hai đều nhỏ hơn 1 đơn vị với mức ý nghĩa 1%

3 Do kích thước mẫu không đủ lớn nên biến trung bình của các thang đo thành phần vốn xã hội lãnh đạo, bên ngoài và bên trong được sử dụng cho phân tích CFA giữa chúng với nhau.

Sự hợp tác giữa các cá nhân

Sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng

0,701

0,712

0,802

0,612

0,620

0,758

0,764

0,681

0,781

0,776 0,608

χ 2 (33)=61,976 (P=0,002); CFI= 0,968 và RMSEA= 0,064; CMIN/DF=1,878

I57

I58

I59

I60 I61

I62 I63

I64

I65

I66

Page 83: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

83

Đồng nghiệp

Khách hàng

Nhà cung cấp

Nhà phân phối

Nhà tư vấn Chính quyền

Công ty cùng tập đoàn

Hợp tác giữa các cá nhân

Hợp tác giữa các bộ phận

0,512

0,564 0,733

0,65

0,625 0,743

0,702 0,648

0,681 0,736 0,723

0,783

0,810 0,842

Dòng họ

Bạn bè Đối tác kinh doanh

Chính quyền 0,693

0,656

(xem Bảng 5.8). Vì vậy, các thành phần này đạt được giá trị phân biệt trong cùng

khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp.

Hình 5.4: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) của thang đo vốn xã hội

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011(xem mục 1.2, Phụ lục 10).

Bảng 5.8: Hệ số tương quan giữa các khái niệm bậc hai của vốn xã hội

Mối quan hệ Tương

quan (r)

Sai số

chuẩn 1­r

Giá trị tới

hạn (1­r)

Vốn xã hội bên ngoài <­> Vốn xã hội lãnh đạo 0,842 0,037 0,158 4,284

Vốn xã hội lãnh đạo <­> Vốn xã hội bên trong 0,810 0,040 0,190 4,740

Vốn xã hội bên ngoài <­> Vốn xã hội bên trong 0,783 0,043 0,217 5,103

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011(xem mục 1.2, Phụ lục 10).

Vốn xã hội lãnh đạo

Vốn xã hội bên trong

Vốn xã hội bên ngoài

χ 2 (46)=89,779 (P=0,000); CFI= 0,929, RMSEA= 0,078 và CMIN/DF=2,321

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Portuguese (Brazil)

Page 84: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

84

5.3.3 Phân tích nhân tố khẳng định chung cho các thang đo vốn xã hội, hoạt

động đầu vào, sản xuất và đầu ra

Trước khi ước lượng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm định các

giả thuyết nghiên cứu, các khái niệm trong mô hình lý thuyết cần được kiểm định

giá trị phân biệt lẫn nhau, cũng như các thành phần của khái niệm phải đảm bảo tính

đơn nguyên và giá trị hội tụ. Để kiểm định điều này, mô hình phân tích nhân tố

khẳng định được thiết kế chung cho các thang đo vốn xã hội 4 , hoạt động đầu vào,

hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra. Kết quả ước lượng mô hình ở Hình 5.5.

Kết quả CFA cho thấy mô hình sau khi hiệu chỉnh đạt mức độ tương thích

với dữ liệu thị trường, với: χ 2 (198) =399,692 (P=0,000); CFI= 0,906, RMSEA= 0,069

và CMIN/df = 2,019. Kết quả cũng cho thấy trọng số CFA của tất cả các biến quan

sát đều lớn hơn 0,5 (nhỏ nhất 0,54), khẳng định tính đơn nguyên và giá trị hội tụ của

các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội, hoạt động đầu vào, sản xuất và

đầu ra của doanh nghiệp.

Tiếp theo, hệ số tương quan giữa các thang đo đều nhỏ hơn 1 đơn vị với mức

ý nghĩa 1% (xem Bảng 5.9). Vì vậy, các thang đo vốn xã hội, hoạt động đầu vào,

hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra đạt được giá trị phân biệt.

Bảng 5.9: Hệ số tương quan giữa các khái niệm trong mô hình nghiên cứu

Mối quan hệ Tương

quan (r)

Sai số

chuẩn 1­r

Giá trị tới

hạn (1­r)

Vốn xã hội <­> Hoạt động đầu vào 0,65 0,052 0,350 6,738

Vốn xã hội <­> Hoạt động sản xuất 0,622 0,054 0,378 7,062

Hoạt động đầu ra <­> Vốn xã hội 0,709 0,048 0,291 6,036

Hoạt động đầu vào <­> Hoạt động sản xuất 0,598 0,055 0,402 7,337

Hoạt động đầu ra <­> Hoạt động sản xuất 0,822 0,039 0,178 4,572

Hoạt động đầu ra <­> Hoạt động đầu vào 0,778 0,043 0,222 5,169

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 10).

4 Vì khích thước mẫu không đủ lớn nên biến trung bình cho các thang đo thành phần của khái niệm vốn xã hội lãnh đạo, bên ngoài và bên trong được sử dụng cho phân tích CFA giữa nó với các khái niệm khác.

Page 85: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

85

0,68 0,64

0,72

0,60 0,82

0,78

0,94 0,93 0,85

0,54 0,55 0,7

0,7

0,67 0,76 0,70

0,75 0,60

0,75

0,69

0,66

0,66

0,69 0,89

0,78 0,72 0,75

0,78 0,79 0,73

0,76

Hình 5.5: Kết quả CFA (đã chuẩn hóa) giữa các khái niệm trong mô hình nghiên cứu

Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 10).

Vốn xã hội của doanh nghiệp

Mạng lưới của lãnh đạo

Mạng lưới bên trong

Mạng lưới bên ngoài

Dòng họ

Bạn bè

Đối tác

Chính quyền

Đồng nghiệp

Chính quyền

Đơn vị tư vấn

Nhà cung cấp

Nhà phân phối

Khách hàng

Công ty cùng tập đoàn

Hợp tác giữa các phòng ban

Hợp tác giữa các

cá nhân

IP67:Xin cấp phép

IP68:Tìm kiếm tư vấn

IP69: H

uy động vốn

IP73: M

arketing

IP74: Phân phối sản phẩm

IP75: D

oanh thu

IP72: C

hi phí dự án

IP70: C

hất lượng dự án

IP71: T

iến độ dự án

Hoạt động đầu vào

Hoạt động sản xuất

Hoạt động đầu ra

χ 2 (198)=399,692 (P=0,000), CFI= 0,906, RMSEA= 0,069 và CMIN/df = 2,019

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt, Bold

Formatted: Font: 10 pt, Bold

Formatted: Font: 10 pt, Bold

Page 86: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

86

5.4 KIỂM ĐỊNH ĐỘ TIN CẬY TỔNG HỢP VÀ PHƯƠNG SAI TRÍCH

Độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích được tính trên cơ sở trọng số nhân tố

ước lượng trong các mô hình CFA của các thang đo. Kết quả cho thấy tất cả các

nhân tố thành phần của khái niệm đa hướng và các khái niệm đơn hướng đều đạt

yêu cầu về độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Bảng 5.10 tóm tắt giá trị của độ

tin cậy tổng hợp và phương sai trích cùng với giá trị trung bình và độ lệch chuẩn

của các thang đo.

Bảng 5.10: Hệ số tin cậy tổng hợp và phương sai trích của các khái niệm

Khái niệm bậc nhất

Thành phần bậc hai Thành phần bậc ba Trung

bình

Độ lệch chuẩn

Độ tin cậy tổng hợp

Phương sai trích

Vốn xã

hội

Vốn xã hội

lãnh đạo

Mạng lưới dòng họ 5,56 1,03 0,84 0,57

Mạng lưới bạn bè 6,29 0,66 0,82 0,53

Mạng lưới đối tác 5,36 0,94 0,82 0,60

Mạng lưới chính quyền 5,39 1,01 0,85 0,59

Mạng lưới đồng nghiệp 5,85 0,82 0,81 0,51

Vốn xã hội

bên ngoài

Mạng lưới khách hàng 5,88 0,86 0,78 0,55

Mạng lưới phân phối 5,72 1,05 0,83 0,71

Mạng lưới cung cấp 5,50 1,00 0,83 0,62

Mạng lưới tư vấn 5,50 0,87 0,85 0,54

Mạng lưới chính quyền 5,25 1,02 0,83 0,50

Công ty cùng tập đoàn 5,34 1,20 0,93 0,74

Vốn xã hội

bên trong

Sự hợp tác giữa các cá

nhân

5,66 0,85 0,83 0,51

Sự hợp tác giữa các bộ

phận chức năng

5,77 0,83 0,85 0,54

Hoạt động đầu vào 5,09 1,06 0,83 0,63

Hoạt động sản xuất 5,59 0,91 0,79 0,56

Hoạt động đầu ra 5,36 0,95 0,77 0,53 Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

Page 87: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

87

5.5 MÔ TẢ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC NHÂN TỐ VÀ HIỆU CHỈNH

MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

5.5.1 Mô tả đặc trưng của vốn xã hội

Bảng 5.11 cho thấy doanh nghiệp BĐS nhận thức về vốn xã hội là tương đối

cao, cao hơn mức trung bình của thang đo (thang đo có mức độ đánh giá từ 1 đến 7,

nên mức độ trung bình là 3,5). Trong đó vốn xã hội bên trong là cao nhất, kế đến là

vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp, thấp nhất là vốn xã hội bên ngoài. Điều này

hàm ý rằng các doanh nghiệp BĐS quan tâm đến các mối quan hệ hợp tác bên trong

và cá nhân của lãnh đạo nhiều hơn là các mạng lưới quan hệ với các chủ thể bên

ngoài doanh nghiệp.

Bảng 5.11: Các tham số mô tả các thành phần bậc hai của vốn xã hội

Vốn xã hội Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên

Vốn xã hội của lãnh đạo 5,69 0,65 11%

Vốn xã hội bên ngoài 5,53 0,74 13%

Vốn xã hội bên trong 5,71 0,74 13%

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

Kết quả so sánh sự khác nhau về các thành phần bậc hai của vốn xã hội theo

loại hình doanh nghiệp cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa của vốn xã hội

của lãnh đạo, bên trong giữa các loại hình sở hữu doanh nghiệp. Chỉ có vốn xã hội

bên ngoài là khác nhau giữa các loại hình sở hữu: vốn xã hội bên ngoài của doanh

nghiệp nước ngoài là lớn nhất, kế đến là doanh nghiệp ngoài nhà nước và cuối cùng

là doanh nghiệp nhà nước (xem Bảng 5.12).

Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa về các thành phần bậc hai của

vốn xã hội theo quy mô nhân viên, quy mô nguồn vốn và thời gian hoạt động (xem

phụ lục 11). Điều này hàm ý rằng, vốn xã hội không tăng theo quy mô và thời gian

hoạt động của doanh nghiệp, hay nói cách khác các doanh nghiệp BĐS thành phố

Hồ Chí Minh chưa quan tâm đúng mức đến việc tạo lập và phát triển vốn xã hội

trong quá trình kinh doanh.

Page 88: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

88

Bảng 5.12: So sánh vốn xã hội giữa các loại hình doanh nghiệp

Cấu trúc vốn xã hội Loại hình doanh nghiệp

Số doanh nghiệp

Giá trị trung bình

Mức ý nghĩa phân tích phương sai (ANOVA)

Vốn xã hội của lãnh đạo

Doanh nghiệp nhà nước 19 5,40

0,103 Doanh nghiệp ngoài nhà nước 184 5,71

Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 13 5,82

Tổng 216 5,69 Vốn xã hội bên ngoài

Doanh nghiệp nhà nước 19 5,13

0,025 Doanh nghiệp ngoài nhà nước 184 5,55

Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 13 5,79

Tổng 216 5,53 Vốn xã hội bên trong

Doanh nghiệp nhà nước 19 5,40

0,128 Doanh nghiệp ngoài nhà nước 184 5,74

Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 13 5,86

Tổng 216 5,71

Nguồn: Tính tóan từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011.

5.5.2 Mô tả đặc trưng các nhóm hoạt động của doanh nghiệp

Hình 5.6 cho thấy đối với các hoạt động của doanh nghiệp BĐS thì hoạt

động sản xuất đạt kết quả cao nhất, kế đến là các hoạt động thuộc nhóm đầu ra và

thấp nhất là hoạt động đầu vào. Điều này cho thấy khó khăn nhất đối với các doanh

nghiệp là hoạt động đầu vào, bởi vì trong mẫu nghiên cứu tỷ lệ doanh nghiệp có quy

mô vốn nhỏ chiếm tỷ lệ cao (doanh nghiệp có quy mô nguồn vốn dưới 10 tỷ đồng

chiếm tỷ lệ 53,24% trong mẫu nghiên cứu).

Hình 5.6: So sánh kết quả các hoạt động của doanh nghiệp

5,09

5,59

5,36

4,8 4,9 5

5,1 5,2 5,3 5,4 5,5 5,6 5,7

Hoạt động đầu vào Hoạt động sản xuất Hoạt động đầu ra

Các hoạt động

Giá trị trung bình

Nguồn: Hình vẽ được thực hiện theo dữ liệu tính toán ở Bảng 5.10.

Page 89: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

89

5.5.3 Mô hình nghiên cứu điều chỉnh

Kết quả kiểm định thang đo cho thấy, các thang đo đạt mức độ tương thích

với dữ liệu, tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, độ tin cậy tổng hợp và

phương sai trích. Do vậy, về cơ bản các giả thuyết nghiên cứu không có sự điều

chỉnh.

Tuy nhiên, mô hình nghiên cứu có hai sự điều chỉnh như sau: (1) có một biến

quan sát là IP76 không đạt được giá trị tương quan nội tại để đo lường khái niệm

hoạt động đầu ra nên bị loại; (2) mô hình không đủ bậc tự do để có thể ước lượng

mô hình trên toàn bộ số quan sát, nên các biến thành phần bậc ba của vốn xã hội

được tính trung bình của các biến quan sát đo lường chúng.

Sau khi thực hiện hai điều chỉnh trên, mô hình kiểm định các giả thuyết

nghiên cứu sau khi điều chỉnh như Hình 5.7.

Page 90: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

90

H1+ H2+ H3+

H4+ H5+

Hình 5.7: Mô hình lý thuyết sau khi điều chỉnh

Nguồn: Điều chỉnh mô hình lý thuyết sau khi kiểm định thang đo.

Vốn xã hội của doanh nghiệp

Mạng lưới của lãnh đạo

Mạng lưới bên trong

Mạng lưới bên ngoài

Dòng họ

Bạn bè

Đối tác

Chính quyền

Đồng nghiệp

Chính quyền

Đơn vị tư vấn

Nhà phân phối

Công ty cùng tập đoàn

Hợp tác giữa các phòng ban

Hợp tác giữa cá nhân

IP67:Xin cấp phép

IP68:Tìm kiếm tư vấn

IP69: H

uy động vốn

IP73: M

arketing

IP74: Phân phối sản

IP75: D

oanh thu

IP72: C

hi phí dự án

IP70: C

hất lượng dự án

IP71: T

iến độ dự án

Hoạt động đầu vào

Hoạt động sản xuất

Hoạt động đầu ra

Nhà cung cấp

Khách hàng Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 10 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Formatted: Font: 8 pt

Page 91: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

91

5.6 KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

5.6.1 Ước lượng mô hình nghiên cứu

Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu như mô hình được điều chỉnh ở

Hình 5.8, cần kiểm tra phân phối của các biến trung bình thuộc thành phần bậc ba

của vốn xã hội và các biến quan sát thuộc các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.

Kết quả kiểm tra phân phối các biến quan sát cho thấy chúng không lệch nhiều với

phân phối chuẩn (các biến quan sát có gía trị độ lệch phần lớn nằm trong khoảng [­

1;+1], xem mục 1, Phụ lục 12). Vì vậy, phương pháp ước lượng hợp lý tối đa

(Maximum Likelihood) được sử dụng để ước lượng các tham số trong mô hình

(Muthen & Kaplan, 1985, trích trong Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang,

2008). Mô hình lý thuyết với các giả thuyết như sau:

H1: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả

họat động đầu vào;

H2: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả

hoạt động sản xuất;

H3: Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả

hoạt động đầu ra;

H4: Tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc tăng kết

quả hoạt động sản xuất;

H5: Tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc tăng kết

quả hoạt động đầu ra.

Kết quả ước lượng SEM cho mô hình lý thuyết sau khi điều chỉnh đạt mức

độ tương thích với dữ liệu thị trường, với: χ 2 (198)=405,695; CFI=0,903,

RMSEA=0,070, CMIN/df=2,049 (tuy kết quả này chưa phải là tốt lắm, nhưng có

thể chấp nhận được vì theo Kline (2010) thì giá trị CMIN/df vẫn có thể chấp nhận ở

mức nhỏ hơn 3). Kết quả mô hình được tổng kết ở Hình 5.8.

Page 92: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

92

0,660*** (H1+) 0,378*** (H2+) 0,316*** (H3+)

0,385*** (H1+) 0,661*** (H1+)

0,69 0,89

0,72 0,75

0,78 0,79 0,73

0,76 0,78

0,94 0,93 0,85

0,54 0,55 0,7 0,7

0,67 0,76 0,70 0,75

0,60

0,75 0,69

0,66

0,66

Hình 5.8: Kết quả SEM mô hình nghiên cứu (đã chuẩn hóa)

Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 12).

Ghi chú: (***) là hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%.

Vốn xã hội của doanh nghiệp

Mạng lưới của lãnh đạo

Mạng lưới bên trong

Mạng lưới bên ngoài

Dòng họ

Bạn bè

Đối tác

Chính quyền

Đồng nghiệp

Chính quyền

Đơn vị tư vấn

Nhà cung cấp

Nhà phân phối

Khách hàng

Công ty cùng tập đoàn

Hợp tác phòng ban

Hợp tác cá nhân

IP67:Xin cấp phép

IP68:Tìm kiếm tư vấn

IP69: H

uy động vốn

IP73: M

arketing

IP74: Phân phối sản phẩm

IP75: D

oanh thu

IP72: C

hi phí dự án

IP70: C

hất lượng dự án

IP71: T

iến độ dự án

Hoạt động đầu vào (0,436 Θ )

Hoạt động sản xuất (0,484 Θ )

Hoạt động đầu ra (0,802 Θ )

χ 2 (198)=405,695; CFI=0,903; RMSEA=0,070; CMIN/df=2,049; Θ Hệ số xác định.

Page 93: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

93

5.6.2 Kiểm định các giả thuyết

Kết quả ước lượng (chưa chuẩn hóa) của các tham số chính trong mô hình

hiệu chỉnh được trình bày ở Bảng 5.13 và kết quả ước lượng đã chuẩn hóa được

biểu diễn ở Hình 5.9. Các kết quả này cho thấy giả thuyết đều được chấp nhận ở

mức ý nghĩa 1%.

Bảng 5.13: Hệ số hồi quy (đã chuẩn hóa) của các mối quan hệ

Giả Thuyết Mối quan hệ giữa các khái niệm

Hệ số hồi quy

Sai số chuẩn

Giá trị tới hạn

Mức ý nghĩa

H1 Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động đầu vào

0,660 0,177 6,332 0,000

H2 Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động sản xuất

0,378 0,173 3,463 0,000

H3 Tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng kết quả họat động đầu ra

0,316 0,145 3,394 0,000

H4 Tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động sản xuất

0,385 0,094 3,822 0,000

H5 Tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc tăng kết quả hoạt động đầu ra

0,661 0,098 6,629 0,000

Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của luận án, năm 2011 (xem mục 2, Phụ lục 12).

Cụ thể, giả thuyết H1 tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia

tăng kết quả họat động đầu vào, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy

đã chuẩn hóa 0,660).

Giả thuyết H2, tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng

kết quả họat động sản xuất, được chấp nhận với mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã

chuẩn hóa 0,378).

Giả thuyết H3, tăng cường vốn xã hội tác động đồng biến với việc gia tăng

kết quả họat động đầu ra, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã

chuẩn hóa 0,316).

Giả thuyết H4, tăng kết quả hoạt động đầu vào tác động đồng biến với việc

tăng kết quả hoạt động sản xuất, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy

đã chuẩn hóa 0,385).

Page 94: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

94

Giả thuyết H5, tăng kết quả hoạt động sản xuất tác động đồng biến với việc

tăng kết quả hoạt động đầu ra, được chấp nhận ở mức ý nghĩa 1% (hệ số hồi quy đã

chuẩn hóa 0,661).

5.6.3 Phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp

Bảng 5.14 trình bày kết quả tính toán từ mô hình SEM về tác động trực tiếp,

gián tiếp và tổng giữa các khái niệm nghiên cứu. Căn cứ vào kết quả tính toán này

để phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các kết quả của các hoạt động trong

doanh nghiệp, cũng như mối liên hệ giữa các hoạt động của doanh nghiệp BĐS.

Bảng 5.14: Tác động trực tiếp, gián tiếp và tổng (chuẩn hóa) giữa các khái

niệm nghiên cứu

Biến phụ thuộc Tác động Vốn xã hội của doanh nghiệp

Hoạt động đầu vào

Hoạt động sản xuất

Hoạt động đầu vào Trực tiếp 0,660 Gián tiếp ­ Tổng 0,660

Hoạt động sản xuất Trực tiếp 0,378 0,385 Gián tiếp 0,254 ­ Tổng 0,632 0,385

Hoạt động đầu ra Trực tiếp 0,316 0,661 Gián tiếp 0,418 0,255 ­ Tổng 0,734 0,255 0,661

Nguồn: Tính toán từ kết quả ước lượng ở Hình 5.9 (xem mục 2, Phụ lục 12).

5.6.3.1 Đóng góp của vốn xã hội vào hoạt động đầu vào

Vốn xã hội của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến hoạt động đầu vào thể

hiện qua việc chấp nhận giả thuyết H1 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,660

(β tổng =β trực tiếp = 0,660). Thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo với chính quyền,

sự hỗ trợ từ các mối quan hệ với dòng họ, bạn bè giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn

trong việc tiếp cận dự án như thủ tục xin cấp phép, tìm kiếm tư vấn và huy động

vốn. Thêm vào đó, thông qua các mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp

như uy tín của doanh nghiệp với chính quyền, các nhà tư vấn và các công ty trong

cùng tập đoàn mà có thể tiếp cận với các tổ chức tài chính, thông qua mối quan hệ

Page 95: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

95

với khách hàng giúp doanh nghiệp huy động vốn từ khách hàng. Cuối cùng là sự

hợp tác giữa các cá nhân và các bộ phận chức năng trong công ty giúp doanh nghiệp

chuẩn bị tốt các thủ tục xin cấp phép và huy động vốn.

5.6.3.2 Đóng góp của vốn xã hội vào hoạt động sản xuất

Vốn xã hội tác động trực tiếp đến kết quả của hoạt động sản xuất thể hiện

qua giả thuyết H2 được chấp nhận với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,378 (βtrực tiếp=

0,378). Điều này được giải thích là thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo với

dòng họ, bạn bè, đối tác giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận và lựa chọn được các nhà

tư vấn phát triển dự án tốt; thiết lập mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp trong công

ty sẽ giúp động viên nhân viên làm việc tích cực để thông qua đó đảm bảo kết quả

thực hiện các dự án đúng tiến độ, chất lượng và chi phí. Thêm vào đó, doanh nghiệp

thiết lập mối quan hệ tốt với nhà cung cấp giúp đảm bảo tiến độ, chất lượng các

công trình thông qua mua được các nguyên vật liệu đầu vào đạt chất lượng, nhận

giao hàng đúng lúc, kịp thời; thiết lập mối quan hệ tốt với các nhà tư vấn để lựa

chọn các nhà tư vấn giám sát tốt để giám sát tiến độ và chất lượng công trình

(Konstantinos & các cộng sự, 2011), ; sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trong cùng

tập đoàn giúp lựa chọn đơn vị tư vấn, cũng như hỗ trợ cung cấp vốn để phát triển dự

án. Cuối cùng, sự hợp tác cá nhân và các bộ phận chức năng góp phần quan trọng

vào kết quả thực hiện dự án đúng tiến độ, chất lượng và tiết kiệm chi phí.

Mặt khác, vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt động sản xuất thông qua

hoạt động đầu vào với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,254: vốn xã hội tác động trực

tiếp đến hoạt động đầu vào với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,660, và hoạt đồng đầu

vào tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất với hệ số hồi quy đã chuẩn hóa là

0,385, nghĩa là vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt động sản xuất là 0,254 (βgián

tiếp= 0,660*0,385= 0,254).

Như vậy, tổng mức độ tác động của vốn xã hội đến hoạt động sản xuất với hệ

số hồi quy chuẩn hóa là 0,632 (β tổng =β trực tiếp + β gián tiếp =0,378+0,254=0,632).

Page 96: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

96

5.6.3.3 Vốn xã hội tác động đến hoạt động đầu ra

Vốn xã hội tác động trực tiếp đến hoạt động đầu ra thể hiện qua việc chấp

nhận giả thuyết H3 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,316. Sự tác động này được giải

thích như sau:

Thứ nhất, mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo giúp doanh nghiệp dễ

dàng trong các hoạt động phân phối sản phẩm. Chẳng hạn như thông qua các mối

quan hệ với bạn bè, dòng họ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong các hoạt động phát

triển hệ thống phân phối, thậm chí họ có thể là những khách hàng của doanh

nghiệp. Lãnh đạo thiết lập mối quan hệ với các đối tác kinh doanh sẽ duy trì được

khách hàng hiện hữu và có nhiều cơ hội tiếp cận được khách hàng mới thông qua

mối liên hệ bắc cầu. Thêm vào đó, lãnh đạo thiết lập mối quan hệ tốt với các nhân

viên bán hàng, những nhà phân phối sẽ khích thích tăng doanh số và mở rộng thị

phần. Mặt khác, thương hiệu cá nhân của lãnh đạo cũng góp phần tạo dựng được

lòng tin của khách hàng, nhà phân phối để thông qua đó đẩy nhanh hoạt động bán

hàng cho doanh nghiệp.

Thứ hai, sự hợp tác giữa các cá nhân trong tổ chức sẽ thúc đẩy hiệu quả của

việc bán hàng. Chẳng hạn như các nhân viên bán hàng chia sẻ kinh nghiệm, kiến

thức lẫn nhau về những hiểu biết, ứng xử với khách hàng, nhà phân phối cũng góp

phần làm tăng hiệu quả của hoạt động phân phối, mở rộng thị phần. Thêm vào đó,

sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng tốt sẽ tạo ra hệ thống làm việc hiệu quả,

thông qua đó giảm sự phàn nàn của khách hàng và tăng mức độ hài lòng cũng như

lòng trung thành của khách hàng.

Thứ ba, mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà phân phối có

ảnh hưởng đến sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng, từ đó ảnh hưởng

đến kết quả của các hoạt động đầu ra.

Bên cạnh đó, vốn xã hội cũng tác động trực tiếp đến hoạt động đầu vào (với

hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,660), mà hoạt động đầu vào tác động trực tiếp đến hoạt

động sản xuất (với hệ số hồi quy đã chuẩn hóa là 0,385), trong khi đó hoạt động sản

xuất tác động đến hoạt động đầu ra (với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,661), nghĩa là

Page 97: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

97

vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt động đầu ra thông qua hoạt động đầu vào và

sản xuất là 0,660*0,385*0,661 = 0,168. Thêm vào đó, vốn xã hội tác động trực tiếp

đến hoạt động sản xuất với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,378 và hoạt động sản xuất

tác động đến hoạt động đầu ra là 0,661, nghĩa là vốn xã hội tác động gián tiếp đến

hoạt động đầu ra thông qua hoạt động sản xuất là 0,378*0,661=0,250. Như vậy vốn

xã hội của doanh nghiệp tác động gián tiếp đến hoạt động đầu ra với hệ số hồi quy

chuẩn hóa là 0,418 (0,168+0,250 = 0,418).

Như vậy, tổng mức độ tác động của vốn xã hội đến hoạt động đầu ra của

doanh nghiệp với hệ số hồi quy trực tiếp cộng với hệ số hồi qui gián tiếp đã chuẩn

hóa là 0,734 (β tổng =β trực tiếp + β gián tiếp = 0,418+0,250 = 0,734).

5.6.4 Mối liên hệ giữa các hoạt động của doanh nghiệp

Các nhóm hoạt động của doanh nghiệp BĐS có mối liên hệ chặt chẽ với

nhau. Hoạt động đầu vào tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất thể hiện qua

việc chấp nhận giả thuyết H4 với hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,385. Điều này có

nghĩa là việc tìm kiếm dự án, thuê tư vấn và huy động vốn có sự ảnh hưởng đến tiến

độ, chất lượng và chi phí của dự án. Trong khi đó, hoạt động sản xuất tác động trực

tiếp đến hoạt động đầu ra thể hiện qua giả thuyết H5 được chấp nhận với hệ số hồi

đã quy chuẩn hoá là 0,661, nghĩa là hoạt động đầu vào tác động gián tiếp đến hoạt

động đầu ra là 0,385*0,661= 0,255.

5.7 HIỆU ỨNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI

THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

5.7.1 Hiệu ứng tích cực của vốn xã hội đối với thị trường bất động sản

Kết quả nghiên cứu đã khẳng định được vốn xã hội đóng góp tích cực vào

các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Đóng góp này tạo ra hiệu ứng tích cực đối

với thị trường BĐS Việt Nam, biểu hiện trên các phương diện sau:

Thứ nhất là vốn xã hội đóng vai trò tạo vốn cho thị trường BĐS thông qua

chấp nhận giả thuyết H1: vốn xã hội tác động dương có ý nghĩa với hoạt động đầu

vào, nghĩa là vốn xã hội đóng góp tích cực vào khả năng huy động vốn của doanh

nghiệp (bởi vì hoạt động đầu vào có biến quan sát IP69 đề cập đến khả năng huy

Page 98: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

98

động vốn). Điều này hàm ý vốn xã hội đóng vai trò tạo vốn cho thị trường BĐS, kết

quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hammervoll (2011), Zhang &

Fung (2006), khi cho rằng các mạng lưới quan hệ giúp tạo vốn cho các hoạt động

kinh tế.

Thứ hai là vốn xã hội đóng góp tích cực vào các hoạt động của doanh

nghiệp, mà các hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá qua các biến quan sát

biểu hiện mức độ thuận lợi trong hợp tác và tiết kiệm chi phí. Điều này hàm ý rằng

vốn xã hội góp phần cắt giảm chi phí và giải quyết tốt bài toàn hợp tác cho các hoạt

động. Suy rộng ra cho toàn nền kinh tế thì vốn xã hội góp phần cắt giảm chi phí

giao dịch và giải quyết tốt các bài toán phối hợp. Luận điểm này đã được chứng

minh qua các nghiên cứu thực nghiệm gần đây của Fernández (2011), Ross (2011)

và Martha & Howard (2011). Kết quả nghiên cứu của Fernández (2011) và Ross

(2011) cho thấy vốn xã hội đóng góp tích cực vào giảm chi phí giao dịch, còn

Martha & Howard (2011) thì chỉ ra được vốn xã hội góp phần giải quyết các bài

toán hợp tác để thúc đẩy các hoạt động kinh tế được thuận lợi. Các kết quả nghiên

cứu thực nghiệm trên cũng phù hợp với cách giải thích trước đó của Wills & các

cộng sự (2004) khi cho rằng vốn xã hội giúp tăng năng suất vốn và lao động của

quốc gia thông qua cắt giảm chi phí giao dịch và giải quyết các vấn đề về sự phối

hợp.

Thứ ba là kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đóng góp vào hoạt động

sản xuất và hoạt động đầu ra. Điều này có thể được giải thích bởi thông qua các

mạng lưới quan hệ với các chủ thể bên ngoài mà doanh nghiệp tiếp nhận được

thông tin và nhận chuyển giao tri thức để phục vụ kịp thời cho các hoạt động

(Glosiene, 2006; Tansley & Newell, 2007). Như vậy, trên thị trường BĐS thành phố

Hồ Chí Minh, sự liên kết xã hội đã góp phần chuyển tải thông tin, tri thức đến các

chủ thể tham gia mạng lưới, hay nói cách khác vốn xã hội tạo được hiệu ứng tốt về

thông tin và chuyển giao tri thức.

Page 99: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

99

5.7.2 Hiệu ứng tiêu cực của vốn xã hội đối với thị trường bất động sản

Ngoài những hiệu ứng tích cực của vốn xã hội nêu trên (mục 5.7.1), kết quả

nghiên cứu cũng cho thấy vốn xã hội tạo ra các hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường

BĐS. Theo Putnam (2000) thì các mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế

theo chiều dọc của hệ thống chính trị có tác động tiêu cực đến tổng thể nền kinh tế

(mặc dù chúng mang lại lợi ích cho chủ thể tham gia mạng lưới quan hệ đó). Các

mạng lưới quan hệ đó biểu hiện trong cấu trúc của thang đo vốn xã hội là các biến

quan sát đo lường chất lượng mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp với

chính quyền (L13, L14, L15 và L16) và của doanh nghiệp với chính quyền (EX41,

EX42, EX43, EX44 và EX45). Các biến quan sát này tác động dương có ý nghĩa

đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp (xem Hình 5.9), điều này hàm ý tính bất

cập của chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong vai trò tạo “luật chơi” bình

đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia, biểu hiện trên hai khía cạnh sau:

­ Mối quan hệ của lãnh đạo với chính quyền tác động dương có ý nghĩa đến

hoạt động đầu vào, trong đó có hoạt động tiếp cận quỹ đất, nghĩa là mối quan hệ của

cá nhân lãnh đạo doanh nghiệp này sẽ hạn chế cơ hội tiếp cận quỹ đất của các doanh

nghiệp khác (cho dù họ có năng lực triển khai dự án tốt hơn). Điều này sẽ dẫn đến

sự lựa chọn bất lợi của các cấp chính quyền trong việc giao đất cho doanh nghiệp:

có những doanh nghiệp vì không có mối quan hệ tốt với chính quyền nên không tiếp

cận được quỹ đất phát triển dự án; trong khi đó những doanh nghiệp có mối quan hệ

với chính quyền tiếp cận được quỹ đất, nhưng lại không có khả năng triển khai dự

án. Kết quả là bên có quỹ đất muốn bán quyền phát triển dự án do không có năng

lực triển khai, còn bên có năng lực triển khai nhưng không có quỹ đất nên muốn

mua; và lúc đó thị trường chuyển nhượng dự án sẽ hình thành dẫn đến chi phí cho

các dự án tăng lên cao. Bằng chứng cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia

có giá cả các sản phẩm BĐS thuộc nhóm cao so với các nước Châu Á như Hình 1.3.

­ Khi mối quan hệ với chính quyền tác động có ý nghĩa đến kết quả các hoạt

động, sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp BĐS có quan hệ tốt với chính

quyền về lợi thế tiếp cận quỹ đất mà ít quan tâm đến đầu tư thời gian và trí lực để

Page 100: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

100

nghiên cứu cải tiến công nghệ xây dựng và phân phối. Nghiêm trọng hơn là đa số

các doanh nghiệp trong ngành có suy nghĩ như vậy, sẽ dẫn đến phong trào thiết lập

mối quan hệ với quan chức để tiếp cận được dự án, sẽ triệt tiêu động lực cải tiến

công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành BĐS.

Page 101: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

101

CHƯƠNG 6

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

Chương 6 sẽ tóm tắt kết quả nghiên cứu để trên cơ sở đó đề xuất những gợi ý

nhằm nâng cao kết quả hoạt động của doanh nghiệp BĐS thông qua sử dụng vốn xã

hội; đồng thời trình bày những đóng góp, hạn chế của luận án và gợi ý hướng

nghiên cứu tiếp theo. Chương này bao gồm bốn phần chính: thứ nhất tóm tắt kết quả

nghiên cứu và ý nghĩa của chúng; thứ hai là một số gợi ý chính sách từ luận án; thứ

ba là những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn của luận án; cuối cùng là trình

bày những hạn chế của luận án và gợi ý các nghiên cứu tiếp theo.

6.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TỪ LUẬN ÁN

6.1.1 Kết quả xây dựng và kiểm định thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp

bất động sản

Kết quả liên hệ lý thuyết, nghiên cứu định tính và kiểm định cho trường hợp

điển hình tại các doanh nghiệp BĐS thành phố Hồ Chí Minh, đã xây dựng được các

thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp là thang đo bậc ba đảm bảo được giá trị nội

dung và độ tin cậy. Ba thành phần bậc hai của vốn xã hội là vốn xã hội của lãnh

đạo, bên ngoài và bên trong doanh nghiệp.

6.1.1.1 Kết quả xây dựng thang đo vốn xã hội

Thang đo vốn xã hội của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên liên hệ lý

thuyết và nghiên cứu định tính nên đảm bảo thang đo đạt được giá trị nội dung áp

dụng cho ngành BĐS Việt Nam. Kết quả xây dựng thang đo cho thấy vốn xã hội là

thang đo bậc ba với ba thành phần bậc hai vốn xã hội của lãnh đạo, bên ngoài và

bên trong doanh nghiệp như sau:

­ Thành phần vốn xã hội của lãnh đạo được xây dựng dựa trên ý tưởng từ các

nghiên cứu McCallum & O'Connell (2009), Truss & Gill (2009), Paré & các cộng

sự (2008), Wharton & Brunetto (2009), Cialdini & các cộng sự (2001), Tushman &

O’Reilly III (1997), Acquaah (2007) về tích hợp hai nội dung chất lượng mạng lưới

với cấu trúc các mạng lưới để hình thành các thang đo. Nghiên cứu định tính lần thứ

Page 102: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

102

nhất được thực hiện để khám phá các mạng lưới quan hệ của lãnh đạo bao gồm

mạng lưới dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng nghiệp. Chất

lượng các mối quan hệ được biểu hiện trên việc tạo lập và duy trì các mối quan hệ,

tín cẩn, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau giữa lãnh đạo với các mạng lưới quan hệ kể trên.

Từ đó hình thành các thang đo vốn xã hội của lãnh đạo là chất lượng của các mạng

lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp bao gồm dòng họ (những người thân trong

bạn bè, bà con, dòng họ), bạn bè (những người quen biết bên ngoài thông qua hoạt

động cá nhân của lãnh đạo), đối tác kinh doanh (mạng lưới quan hệ có được thông

qua hoạt động công việc kinh doanh của lãnh đạo), chính quyền (những cá nhân

thuộc cơ quan chính quyền các cấp mà lãnh đạo có thiết lập quan hệ) và đồng

nghiệp (những người làm việc cùng cơ quan).

­ Thành phần vốn xã hội bên ngoài được xây dựng dựa trên ý tưởng từ các

nghiên cứu của Jansen & các cộng sự (2011), Yang & các cộng sự (2011), Landry

& các cộng sự (2000). Các nghiên cứu này đề cập đến vốn xã hội như là chất lượng

của các mạng lưới quan hệ của doanh nghiệp với các chủ thể bên ngoài. Kết quả

nghiên cứu định tính khám phá các chủ thể thuộc mạng lưới bên ngoài doanh

nghiệp bao gồm các mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong mạng

lưới chiều ngang: khách hàng, phân phối, nhà cung cấp, các doanh nghiệp trong

cùng tập đoàn, đơn vị tư vấn, nghiên cứu, các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành;

và mạng lưới chiều dọc: Chính quyền các cấp và các công ty mẹ ­ công ty con. Chất

lượng của các mối quan hệ biểu hiện trước hết thông qua vị trí kinh doanh của

doanh nghiệp (lựa chọn cụm kinh doanh) và các chỉ tiêu đo lường chất lượng như

sự tạo lập, duy trì, tin tưởng, chia sẻ và hỗ trợ giữa doanh nghiệp với các chủ thể

thuộc mạng lưới quan hệ bên ngoài. Tích hợp yếu tố chất lượng và cấu trúc của

mạng lưới hình thành thang đo vốn xã hội bên ngoài là chất lượng các mối quan hệ

giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong môi trường kinh doanh như khách hàng,

nhà phân phối, nhà cung cấp, chính quyền các cấp, đơn vị tư vấn, các công ty trong

cùng tập đoàn và các hiệp hội.

Page 103: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

103

­ Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp thể hiện chất lượng các mối quan hệ giữa

các chủ thể bên trong doanh nghiệp theo mạng lưới chiều ngang: mối quan hệ giữa

nhân viên với nhau, giữa các bộ phận chức năng với nhau; và chiều dọc: mối quan

hệ giữa cá nhân cấp trên với cá nhân cấp dưới, giữa bộ phận chức năng cấp trên với

bộ phận chức năng cấp dưới (Porter,1985; Kaplan & Norton, 1996; Roberts, 2006;

Schaufeli & Salanova, 2007; Luthans &Youssef (2007a, 2007b); Lee và các tác giả,

2007; Yli­Renko & các cộng sự, 2001; Koonmee & các cộng sự, 2010; Luthans &

các cộng sự, 2008). Chất lượng mối quan hệ biểu hiện qua sự hợp tác giữa các cá

nhân/ bộ phận chức năng trong tổ chức như sự tin tưởng, sự chia sẻ kiến thức, sự hỗ

trợ, đoàn kết lẫn nhau để hoàn thành các mục tiêu của tổ chức (Nahapiet & Ghosal,

1998). Kết quả nghiên cứu định tính đã xây dựng các thang đo cho vốn xã hội bên

trong biểu hiện chất lượng các mối quan hệ giữa các cá nhân lẫn nhau và các đơn vị

chức năng lẫn nhau trong doanh nghiệp. Các yếu tố biểu hiện chất lượng của mối

quan hệ bao gồm sự nỗ lực tạo lập, duy trì và cải tiến cơ chế hợp tác. Cơ chế này

được đảm bảo thực thi bằng các nghệ thuật động viên của lãnh đạo cho nhân viên và

các bộ phận chức năng, đồng thời phải có hành động giám sát và biện pháp giải

quyết xung đột hợp lý. Chất lượng vốn xã hội được đánh giá thông qua mức độ tin

tưởng, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhân viên/ bộ

phận chức năng trong tổ chức.

6.1.1.2 Kết quả kiểm định thang đo vốn xã hội

Thang đo vốn xã hội được kiểm định cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS

tại thành phố Hồ Chí Minh bằng các công cụ hệ số tin cậy (Cronbach’s alpha), phân

tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng định (CFA). Kết quả cho

thấy, thang đo vốn xã hội đảm bảo tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt,

độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích. Trong quá trình kiểm định thang đo không

có biến quan sát nào bị loại và cấu trúc thang đo không có sự thay đổi so với xây

dựng từ nghiên cứu định tính và đánh giá sơ bộ ban đầu.

Vốn xã hội của doanh nghiệp sau khi kiểm định thang đo với cấu trúc gồm

ba thành phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài và vốn xã

Page 104: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

104

hội bên trong. Vốn xã hội bên trong gồm chất lượng các mạng lưới dòng họ, bạn bè,

đối tác, chính quyền và đồng nghiệp. Vốn xã hội bên ngoài gồm chất lượng các

mạng lưới khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền,

các công ty trong cùng tập đoàn. Vốn xã hội bên trong bao gồm sự hợp tác giữa cá

nhân và bộ phận chức năng.

Các nghiên cứu trước đây đề cập đến vốn xã hội chỉ với từng khía cạnh riêng

lẻ của mạng lưới bên ngoài hoặc bên trong hoặc của lãnh đạo nên việc đo lường vốn

xã hội vẫn còn khiếm khuyết. Nghiên cứu này đã khắc phục được khiếm khuyết trên

với thang đo vốn xã hội là thang đo đa hướng hội tụ đầy đủ cả ba nhóm mạng lưới

trên (mạng lưới bên ngoài, bên trong và lãnh đạo doanh nghiệp). Đóng góp này là

cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp BĐS Việt Nam nhận diện đầy đủ các chỉ tiêu

đo lường và đánh giá vốn xã hội của doanh nghiệp.

6.1.2 Kết quả xây dựng và kiểm định thang đo các hoạt động của doanh

nghiệp bất động sản

Các nhóm hoạt động trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được phát

triển dựa trên cơ sở tích hợp các nghiên cứu của Porter (1985), Krumm (2000) và

Nelen (2008) với nghiên cứu định tính. Kết quả xây dựng thang đo đã chỉ ra ba

nhóm hoạt động của các doanh nghiệp BĐS là các thang đo đơn hướng: (1) Hoạt

động đầu vào: tìm kiếm quỹ đất mua để phát triển dự án, xin cấp phép, huy động

vốn; (2) Hoạt động sản xuất: triển khai xây dựng và các hoạt động nhằm đảm bảo

tiến độ, chất lượng và chi phí của các dự án; (3) Hoạt động đầu ra: tìm kiếm khách

hàng cho thuê hoặc bán.

Các thang đo được đánh giá lần lượt bằng các công cụ hệ số tin cậy

(Cronbach’s alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích nhân tố khẳng

định (CFA). Kết quả cho thấy thang đo các nhóm hoạt động của doanh nghiệp đảm

bảo tính đơn nguyên, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt, độ tin cậy tổng hợp và phương

sai trích. Trong quá trình kiểm định thang đo chỉ có biến quan sát IP76 thuộc nhóm

hoạt động đầu ra bị loại và không có sự thay đổi cấu trúc so với thiết kế ban đầu.

Page 105: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

105

Việc xây dựng thang đo các hoạt động của doanh nghiệp BĐS sẽ góp phần

giúp doanh nghiệp nhận diện được các tiêu chí đo lường và đánh giá kết quả hoạt

động toàn diện hơn.

6.1.3 Kết quả ước lượng và kiểm định mô hình nghiên cứu

Kết quả ước lượng SEM cho thấy mô hình lý thuyết đạt được độ tương thích

với dữ liệu thị trường và các giả thuyết nghiên cứu đều được chấp nhận ở mức ý

nghĩa 1%. Kết quả nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa các họat động trong doanh

nghiệp và đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp.

6.1.3.1 Mối liên hệ các hoạt động của doanh nghiệp

Kết quả nghiên cứu cho thấy các hoạt động của doanh nghiệp có tương quan

với nhau, cụ thể là hoạt động đầu vào tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất,

hoạt động sản xuất tác động trực tiếp đến hoạt động đầu ra. Điều này cũng hàm ý là

hoạt động đầu vào cũng tác động gián tiếp đến hoạt động đầu ra. Kết quả nghiên

cứu này là phù hợp với lý thuyết chuỗi giá trị doanh nghiệp được đề xuất bởi Porter

(1985) cho rằng các hoạt động trong chuỗi giá trị có ảnh hưởng dây chuyền với

nhau.

6.1.3.2 Đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp

Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đóng góp vào tất cả các hoạt động

của doanh nghiệp, trong đó đóng góp trực tiếp lớn nhất đến hoạt động đầu vào, kế

đến là hoạt động sản xuất và đầu ra. Tuy nhiên vốn xã hội còn có tác động gián tiếp

đến hoạt động sản xuất và đầu ra. Do vậy, tổng mức độ tác động (tổng tác động gián

tiếp và trực tiếp) của vốn xã hội đến hoạt động đầu ra là cao nhất, kế đến là hoạt

động sản xuất và thấp nhất là hoạt động đầu vào.

Vốn xã hội của doanh nghiệp tác động trực tiếp đến hoạt động đầu vào. Điều

này được giải thích là thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo với chính quyền,

sự hỗ trợ từ các mối quan hệ với dòng họ, bạn bè giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn

trong việc tiếp cận dự án như thủ tục xin cấp phép, tìm kiếm tư vấn tốt và huy động

vốn. Thêm vào đó thông qua các mạng lưới quan hệ bên ngoài của doanh nghiệp

như uy tín của doanh nghiệp với chính quyền, các nhà tư vấn và các công ty trong

Page 106: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

106

cùng tập đoàn mà có thể tiếp cận các tổ chức tài chính, thông qua mối quan hệ với

khách hàng giúp doanh nghiệp huy động vốn từ khách hàng. Cuối cùng là sự hợp

tác giữa các cá nhân và các bộ phận chức năng bên trong giúp doanh nghiệp chuẩn

bị tốt các thủ tục xin cấp phép và huy động vốn.

Vốn xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến kết quả của hoạt động sản xuất

được giải thích thông qua mạng lưới quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp với dòng

họ, bạn bè, đối tác giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận và lựa chọn được các nhà tư

vấn phát triển dự án tốt, thiết lập mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp trong công ty

sẽ giúp động viên nhân viên làm việc tích cực để thông qua đó đảm bảo kết quả

thực hiện các dự án đúng tiến độ, chất lượng và chi phí. Thêm vào đó, doanh nghiệp

thiết lập mối quan hệ tốt với nhà cung cấp giúp đảm bảo tiến độ, chất lượng các

công trình thông qua mua được các nguyên vật liệu đầu vào tốt, nhận giao hàng

đúng lúc, kịp thời; thiết lập mối quan hệ tốt với các nhà tư vấn để lựa chọn các nhà

tư vấn giám sát đạt chất lượng, đảm bảo tiến độ công trình; sự hỗ trợ của các doanh

nghiệp trong cùng tập đoàn giúp lựa chọn tư vấn, cũng như hỗ trợ cung cấp vốn để

dự án đảm bảo được tiến độ thi công. Cuối cùng, sự hợp tác cá nhân và các bộ phận

chức năng góp phần quan trọng vào đảm bảo kết quả thực hiện dự án đúng tiến độ,

chất lượng, và tiết kiệm chi phí. Mặt khác vốn xã hội tác động gián tiếp đến hoạt

động sản xuất thông qua hoạt động đầu vào.

Vốn xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đầu ra được giải

thích như sau:

Thứ nhất, mối quan hệ của cá nhân lãnh đạo giúp doanh nghiệp dễ dàng

trong các hoạt động phân phối sản phẩm. Chẳng hạn như thông qua các mối quan hệ

với bạn bè, dòng họ giúp doanh nghiệp thuận lợi trong các hoạt động phát triển hệ

thống phân phối, thậm chí họ có thể là những khách hàng của doanh nghiệp. Lãnh

đạo doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ với các đối tác kinh doanh sẽ duy trì được

khách hàng hiện hữu và có nhiều cơ hội tiếp cận được khách hàng mới thông qua

mối liên hệ bắc cầu. Thêm vào đó, mối quan hệ của lãnh đạo với các nhân viên bán

hàng tốt sẽ động viên họ nổ lực tăng doanh số và mở rộng thị phần. Mặt khác

Page 107: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

107

thương hiệu cá nhân của lãnh đạo cũng góp phần tạo dựng được lòng tin của khách

hàng, nhà phân phối để thông qua đó thúc đẩy kết quả hoạt động bán hàng của

doanh nghiệp.

Thứ hai, sự hợp tác giữa các cá nhân trong doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hiệu

quả bán hàng. Chẳng hạn như các nhân viên bán hàng chia sẻ kinh nghiệm, kiến

thức lẫn nhau về khách hàng, nhà phân phối để góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt

động phân phối, mở rộng thị phần. Thêm vào đó, sự hợp tác giữa các bộ phần chức

năng tốt sẽ tạo ra hệ thống làm việc hiệu quả, thông qua đó giảm sự phàn nàn và

tăng mức độ hài lòng cũng như lòng trung thành của khách hàng.

Thứ ba, mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, nhà phân phối có

ảnh hưởng đến sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng, từ đó ảnh hưởng

đến kết quả của các hoạt động đầu ra. Bên cạnh đó, vốn xã hội tác động gián tiếp

đến hoạt động đầu ra thông qua hoạt động đầu vào và sản xuất.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực tác

động có ý nghĩa đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Điều này hàm ý rằng

doanh nghiệp cần hoạch định sử dụng nguồn lực vốn xã hội để phục vụ cho các hoạt

động của doanh nghiệp BĐS.

6.1.4 Vốn xã hội tạo hiệu ứng tích cực và tiêu cực cho thị trường bất động sản

Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội đóng góp tích cực vào kết quả các

hoạt động của doanh nghiệp, sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS bao

gồm: tạo vốn, giảm chi phí giao dịch, thuận lợi trong sự phối hợp, lan toả thông tin,

chuyển giao tri thức trên thị trường BĐS. Bên cạnh đó, vốn xã hội cũng tạo ra hiệu

ứng tiêu cực được biểu hiện qua sự bất cập trong chính sách điều tiết vĩ mô của

Chính phủ trong vai trò tạo “luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia

thị trường BĐS, đây là nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn bất lợi trong các chính

sách trong các chính sách giao đất của Chính phủ cho doanh nghiệp, và tạo tâm lý ỷ

lại của các doanh nghiệp vào các mối quan hệ với chính quyền để dành quyền tiếp

cận quỹ đất nhằm chuyển nhượng dự án.

Page 108: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

108

6.2 MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH TỪ LUẬN ÁN

6.2.1 Gợi ý chính sách giúp doanh nghiệp bất động sản đo lường và đánh giá

kết quả hoạt động

Muốn nâng cao kết quả các hoạt động, doanh nghiệp cần xác định tiêu chí đo

lường để đánh giá chúng. Dựa vào kết quả xây dựng và kiểm định thang đo các hoạt

động của doanh nghiệp BĐS, tác giả luận án đề nghị:

Nhóm gợi ý thứ nhất, xây dựng các mục tiêu và tiêu chí đo lường kết quả

hoạt động của doanh nghiệp trong từng nhóm hoạt

động như sau:

Thứ nhất là đối với hoạt động đầu vào: doanh nghiệp phải liên tục tăng quỹ

đất và huy động vốn phát triển dự án với các mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường:

(1) tiếp cận được quỹ đất có vị trí chiến lược, được đo lường bằng số quỹ đất được

cấp phép bình quân, thời gian bình quân hoàn thành thủ tục đầu tư cho một dự án;

(2) xác định được mô hình phát triển dự án đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng,

được đo lường bằng số dự án có mô hình thiết kế và phương thức triển khai mới

bình quân; (3) Đảm bảo huy động đủ nguồn vốn phát triển dự án, được đo lường

bằng thời gian huy động vốn bình quân cho mỗi dự án, số kênh huy động vốn bình

quân cho mỗi dự án.

Thứ hai là đối với hoạt động sản xuất: doanh nghiệp phải đảm bảo các dự án

thực hiện theo đúng tiến độ, chi phí và đạt chất lượng với các mục tiêu cụ thể và

tiêu chí đo lường: (1) Dự án triển khai đúng tiến độ, được đo lường bằng tỷ lệ dự án

triển khai chậm tiến độ, chi phí phát sinh do dự án chậm tiến độ bình quân; (2) Dự

án triển khai đúng chi phí kế hoạch, được đo lường bằng tỷ lệ dự án hoàn thành có

chi phí vượt kế hoạch, tỷ lệ chi phí thựcc tế so với chi phí kế hoạch bình quân; (3)

Dự án đạt được chất lượng yêu cầu, được đo lường bằng tỷ lệ dự án đạt chất lượng

yêu cầu bình quân, tỷ lệ chi phí do không đảm bảo chất lượng trên chi phí kế hoạch

bình quân.

Thứ ba là đối với hoạt động đầu ra: doanh nghiệp phải liên tục tăng khả năng

phân phối và gia tăng thị phần, với mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường: (1) liên tục

Page 109: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

109

nâng cao hiệu quả Marketing, được đo lường bằng tốc độ tăng số lượng khách hàng

quan tâm đến sản phẩm của công ty; (2) liên tục nâng cao hiệu quả phân phối, được

đo lường bằng thời gian phân phối sản phẩm cho một dự án bình quân; (3) liên tục

nâng cao kết quả bán hàng, được đo lường bằng tốc độ tăng doanh thu bình quân.

Các mục tiêu và tiêu chí đo lường kết quả của các nhóm hoạt động trong

doanh nghiệp BĐS được tổng kết ở Bảng 6.1.

Bảng 6.1: Mục tiêu, đo lường kết quả hoạt động của doanh nghiệp BĐS

Nhóm hoạt động

Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cụ thể Đo lường

Hoạt động đầu vào

Liên tục gia tăng quỹ đất và huy động vốn cho phát triển các dự án BĐS

Tiếp cận được các quỹ đất có vị trí chiến lược phát triển dự án

Số quỹ đất được cấp phép bình quân; Thời gian bình quân hoàn thành thủ tục đầu tư cho một dự án

Tìm được mô hình phát triển dự án đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng

Số dự án có mô hình thiết kế và phương thức triển khai mới bình quân

Đảm bảo huy động đủ nguồn vốn phát triển dự án

Thời gian huy động vốn bình quân cho mỗi dự án Số kênh huy động vốn bình quân cho mỗi dự án

Hoạt động sản xuất

Đảm bảo các dự án thực hiện theo đúng tiến độ, chi phí và đạt chất lượng

Dự án triển khai đúng tiến độ

Tỷ lệ dự án triển khai chậm tiến độ, Chi phí phát sinh do dự án chậm tiến độ bình quân

Dự án triển khai đúng chi phí kế hoạch

Tỷ lệ dự án hoàn thành có chi phí vượt kế hoạch Tỷ lệ chi phí vượt kế hoạch so với chi phí kế hoạch bình quân

Dự án đạt được chất lượng yêu cầu

Tỷ lệ dự án đạt chất lượng yêu cầu bình quân; Tỷ lệ chi phí do không đảm bảo chất lượng trên chi phí kế hoạch bình quân

Hoạt động đầu ra

Liên tục tăng khả năng phân phối và gia tăng thị phần

Nâng cao hiệu quả Marketing

Tốc độ tăng số khách hàng quan tâm đến sản phẩm của công ty

Nâng cao hiệu quả phân phối

Thời gian phân phối sản phẩm cho một dự án bình quân

Nâng cao kết quả bán hàng

Tốc độ tăng doanh thu bình quân

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu.

Page 110: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

110

6.2.2 Gợi ý chính sách giúp doanh nghiệp bất động sản nâng cao kết quả hoạt

động thông qua sử dụng vốn xã hội

Vốn xã hội của doanh nghiệp tồn tại trong các mạng lưới quan hệ có chất

lượng của doanh nghiệp được phân thành ba nhóm mạng lưới của lãnh đạo, bên

ngoài và bên trong doanh nghiệp. Chất lượng của ba mạng lưới này có tương quan

chặt chẽ với nhau và đảm bảo độ giá trị và tin cậy để đo lường một khái niệm vốn

xã hội của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực

tác động có ý nghĩa đến các hoạt động đầu vào (thuận lợi trong xin cấp phép, tìm

kiếm tư vấn và huy động vốn), sản xuất (tiến độ, chi phí và chất lượng các công

trình) và đầu ra (marketing, phân phối, bán hàng) của doanh nghiệp BĐS. Để nâng

cao kết quả hoạt động, doanh nghiệp nên quan tâm đến việc sử dụng vốn xã hội bởi

các lý do sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp là một thực thể tồn tại trong môi trường kinh doanh

phụ thuộc nhiều vào các chủ thể bên ngoài như khách hàng, nhà phân phối, nhà

cung cấp, đơn vị tư vấn, các công ty trong cùng tập đoàn, chính quyền các cấp

(Porter, 1985; Yang & các cộng sự , 2011). Mỗi một chủ thể trong môi trường kinh

doanh giống như bộ phận cấu thành nên kết quả hoạt động của doanh nghiệp, nếu

doanh nghiệp không thiết lập quan hệ tốt với các chủ thể sẽ gặp khó khăn trong các

quá trình. Ngược lại, doanh nghiệp thiết lập tốt các mối quan hệ với các chủ thể này

sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh và làm nên sự khác biệt, đặc biệt trong môi trường kinh

doanh ở các nước Phương Đông như Việt Nam, các mối quan hệ đóng vai trò hàng

đầu trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Thật vậy kết quả kiểm định mô hình lý

thuyết cho thấy vốn xã hội (trong đó có thành phần vốn xã hội bên ngoài) có tác

động đến hoạt động đầu vào như thuận lợi trong việc xin cấp phép, huy động vốn

triển khai dự án và tìm kiếm nhà tư vấn phát triển dự án; tác động đến hoạt động

đầu ra như thuận lợi trong việc mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm, tăng thị

phần, doanh thu; và tác động dương đến hoạt động sản xuất như đảm bảo chi phí,

tiến độ và chất lượng công trình.

Page 111: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

111

Thứ hai, người lãnh đạo có thể được ví như “thuyền trưởng”, có vai trò định

hướng và đồng hành trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Phẩm chất và

năng lực của lãnh đạo được chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó môi

trường quan hệ là một yếu tố có vai trò quyết định (Paré và các cộng sự, 2008). Môi

trường quan hệ của lãnh đạo bao gồm: dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính

quyền các cấp, các câu lạc bộ ảnh hưởng đến phẩm chất và năng lực của họ

(Tushman & O’Reilly III, 1997; Acquaah, 2007; Paré & các cộng sự, 2008;

Wharton & Brunetto, 2009). Chẳng hạn như khi người lãnh đạo đi học thì tiếp xúc

với bạn bè, thầy cô để rồi từ đó họ có kiến thức và có phương pháp tư duy; thông

qua mối quan hệ với chính quyền địa phương mà lãnh đạo quen với cách làm việc

của họ để từ đó biết hành xử cho phù hợp; tiếp xúc với đối tác kinh doanh thường

xuyên thì sẽ có được kinh nghiệm làm việc với họ... Khi mạng lưới quan hệ của

lãnh đạo càng rộng, càng sâu thì sẽ huy động được nhiều nguồn lực hữu hình và vô

hình để hỗ trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Điều này được minh chứng từ

kết quả kiểm định mô hình lý thuyết tại thành phố Hồ Chí Minh, vốn xã hội (trong

đó có thành phần chất lượng mạng lưới quan hệ của lãnh đạo) tác động có ý nghĩa

đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra.

Cuối cùng, trung tâm của mọi hoạt động của doanh nghiệp là con người và

hệ thống quản lý, là các yếu tố bên trong của doanh nghiệp. Hệ thống quản lý bao

gồm cơ cấu tổ chức, quy chế, điều lệ, chính sách chất lượng, quy trình hướng dẫn

công việc và các quy định…(Kaplan & Norton, 1996). Mỗi cá nhân là một tế bào

của doanh nghiệp, thuộc các bộ phận chức năng khác nhau theo quy định của cơ cấu

tổ chức. Chính sự hợp tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng quyết định hiệu quả

sử dụng các nguồn lực hữu hình cũng như góp phần tạo ra giá trị vô hình cho doanh

nghiệp. Công cụ để nâng cao sự hợp tác được các doanh nghiệp sử dụng là cơ chế

tạo ra sự hợp tác và lựa chọn con người phù hợp để đảm bảo cơ chế được thực thi.

Sự hợp tác giữa các cá nhân theo chiều ngang và chiều dọc cao sẽ mang lại kết quả

hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp. Sự hợp tác giữa các cá nhân cao sẽ mang

đến kết quả hoạt động trong doanh nghiệp sẽ cao, thêm vào đó sự phối hợp và hỗ

Page 112: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

112

trợ lẫn nhau giữa các bộ phận chức năng sẽ thúc đẩy tiến độ các hoạt động được

nhanh chóng. Sự phản biện có thiện chí lẫn nhau giữa các bộ phận chức năng giảm

những sai lầm hệ thống. Hai chủ thể bên trong doanh nghiệp được đề cập đến là cá

nhân và bộ phận chức năng cấu thành vốn xã hội bên trong (là thành phần đạt giá trị

hội tụ trong khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp) tác động có ý nghĩa trực tiếp

đến hoạt động đầu vào và sản xuất trong trường hợp nghiên cứu tại thành phố Hồ

Chí Minh.

Từ ba lý do trên, cho thấy vốn xã hội là một nguồn lực rất cần thiết phải đưa

vào trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Trước hết là doanh nghiệp cần

phải nhận thức đầy đủ về nguồn lực vốn xã hội. Kế đến là xây dựng chiến lược phát

triển vốn xã hội cho doanh nghiệp. Sau cùng là phải liên tục phát triển, duy trì và sử

dụng vốn xã hội để nâng cao kết quả các hoạt động kinh doanh. Các gợi ý cụ thể

được trình bày như sau:

Nhóm gợi ý thứ hai: Nhận thức vốn xã hội là nguồn lực cần thiết phải đưa

vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp BĐS.

Thông thường, theo phương pháp truyền thống trong một bản chiến lược và

kế hoạch đề cập đến hai nguồn lực cơ bản là nguồn lực hữu hình và thời gian phục

vụ cho các nhiệm vụ chiến lược và kế hoạch. Kết quả nghiên cứu này cho thấy vốn

xã hội có ảnh hưởng đến các nhóm hoạt động của doanh nghiệp, do vậy cần đưa

thêm nguồn lực vốn xã hội vào để hoạch định chiến lược và kế hoạch trong tất cả

các lĩnh vực bên trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như trong xác định tầm nhìn, sứ

mệnh, mục tiêu phải xây dựng các chỉ tiêu có liên quan đến phát triển nguồn lực

vốn xã hội, cũng như phải có kế hoạch sử dụng vốn xã hội để phục vụ cho các mục

tiêu khác.

Nhóm gợi ý thứ ba: xây dựng khung phân tích tiếp cận vốn xã hội cho doanh

nghiệp BĐS.

Chiến lược của các doanh nghiệp BĐS nên đề cập đến ba thành phần của vốn

xã hội trong quá trình phát triển của doanh nghiệp. Trong chiến lược của doanh

nghiệp nên xác định việc gia tăng vốn xã hội như là các mục tiêu cần hướng đến.

Page 113: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

113

Đối với người lãnh đạo đòi hỏi chất lượng các mối quan hệ của họ trong các mạng

lưới dòng họ, bạn bè, đối tác, chính quyền và đồng nghiệp phải tăng lên. Đối với

các đối tác bên ngoài thì đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết lập các được các mối quan

hệ để đảm bảo được lòng trung thành và hỗ trợ của khách hàng, nhà phân phối, nhà

cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền và các công ty trong cùng tập đoàn. Đối với

mỗi cá nhân và bộ phận chức năng bên trong đòi hỏi phải tạo ra được cơ chế hợp tác

và cải thiện được sự hợp tác. Khuôn khổ mục tiêu chiến lược phát triển vốn xã hội

của doanh nghiệp tổng kết ở Hình 6.1.

Hình 6.1: Vốn xã hội trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu.

Các mục tiêu trong chiến lược phát triển vốn xã hội của doanh nghiệp được

xác định với các tiêu chí đo lường của ba nhóm mạng lưới lãnh đạo, bên ngoài và

bên trong được trình bày trong Bảng 6.2, mục tiêu chiến lược cụ thể của từng nhóm

như sau:

Nhóm thứ nhất là đối với vốn xã hội của lãnh đạo. Mục tiêu tổng quát của

nhóm này là phải đảm bảo duy trì và liên tục tăng chất lượng các các mối quan hệ

đối với dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh và chính quyền các cấp có khả năng

chuyển hóa các mối quan hệ này thành lợi ích cho doanh nghiệp. Mục tiêu cụ thể và

tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ dòng họ,

Chiến lược doanh nghiệp

Mạng lưới bên ngoài: Lựa chọn cụm kinh doanh, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với: Khách hàng; Nhà phân phối; Nhà cung cấp; Đơn vị tư vấn; Chính quyền; Các công ty trong cùng tập đoàn.

Mạng lưới lãnh đạo Tạo lập và duy trì các mối quan hệ của lãnh đạo với: dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng nghiệp

Sự hợp tác bên trong Tạo lập và duy trì cơ chế hợp tác giữa các cá nhân lẫn nhau và các bộ phận chức năng lẫn nhau

Page 114: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

114

được đo lường bằng các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ

dòng họ bình quân; (2) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ bạn bè, được đo

lường cụ thể bằng các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè

bình quân; (3) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đối tác kinh doanh, được đo

lường cụ thể bằng chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ đối tác

bình quân; (4) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ chính quyền, được đo lường

bằng các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ chính quyền bình

quân; (5) Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đồng nghiệp, được đo lường bằng

các chỉ tiêu số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ các đồng nghiệp bình

quân.

Nhóm thứ hai là đối với mục tiêu chiến lược của vốn xã hội bên ngoài doanh

nghiệp. Mục tiêu tổng quát của nhóm này là phải đảm bảo duy trì và liên tục tăng

chất lượng các mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp như đối với khách hàng, nhà

phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, chính quyền các cấp, các công ty trong

cùng tập đoàn có khả năng chuyển hóa các mối quan hệ này thành lợi ích cho doanh

nghiệp. Mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Lòng trung thành của

khách hàng cũ và phát triển thêm khách hàng mới thông qua kênh khách hàng cũ

giới thiệu, được đo lường bằng các tiêu chí số lần khách hàng cũ mua hàng bình

quân, số khách hàng mới mua hàng do khách hàng cũ giới thiệu bình quân; (2)

Lòng trung thành của nhà phân phối cũ và phát triển thêm nhà phân phối mới, được

cụ thể bằng các chỉ tiêu đo lường là số sản phẩm đuợc nhà phân phối cũ bán, số nhà

phân phối mới, số lượng chính sách ban hành duy trì hệ thống phân phối; (3) Nhà

cung cấp chấp nhận bán chịu và giao hàng đạt chất lượng và đúng tiến độ, được cụ

thể bằng các tiêu chí đo lường là thời gian bán chịu bình quân, tỷ lệ giao hàng chậm

tiến độ, tỷ lệ giao hàng không đạt chất lượng; (4) Chất lượng của tư vấn, được cụ

thể bằng các tiêu chí đo lường là số đề xuất tư vấn có giá trị được sử dụng bình

quân; (5) Nhận được sự giúp đỡ và ưu tiên từ chính quyền các cấp, được cụ thể

bằng các chỉ tiêu đo lường là số thông tin có giá trị được thông báo kịp thời, số lần

ưu đãi từ chính quyền bình quân; (6) Nhận được sự giúp đỡ từ các công ty trong

Page 115: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

115

cùng tập đoàn, được cụ thể bằng các tiêu chí đo lường là số lần nhận được sự trợ

giúp bình quân.

Bảng 6.2: Mục tiêu, đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp bất động sản

Các khía cạnh

Mục tiêu tổng quát Mục tiêu cụ thể Đo lường

Mạng lưới của lãnh đạo

Liên tục duy trì và tăng chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo để hỗ trợ cho công việc điều hành doanh nghiệp

Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ dòng họ.

Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ dòng họ bình quân.

Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ bạn bè.

Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ bạn bè bình quân.

Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đối tác.

Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ đối tác bình quân.

Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ chính quyền.

Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ từ chính quyền bình quân.

Thông tin được chia sẻ và sự giúp đỡ từ đồng nghiệp.

Số thông tin và số lần nhận được sự giúp đỡ bình quân từ chính quyền.

Mạng lưới bên ngoài

Liên tục duy trì và tăng chất lượng các mối quan hệ bên ngoài doanh nghiệp

Lòng trung thành của khách hàng cũ và phát triển thêm khách hàng mới thông qua kênh khách hàng cũ giới thiệu.

Số lần khách hàng cũ mua hàng bình quân; Số khách hàng mới mua hàng do khách hàng cũ giới thiệu bình quân.

Lòng trung thành của nhà phân phối cũ và phát triển thêm nhà phân phối mới thông qua kênh nhà phân phối cũ giới thiệu.

Số sản phẩm đuợc nhà phân phối cũ bán; Số nhà phân phối mới đăng ký do nhà phân phối cũ giới thiệu; Số lượng chính sách ban hành duy trì hệ thống phân phối.

Nhà cung cấp chấp nhận bán chịu và giao hàng đạt chất lượng và đúng tiến độ.

Thời gian bán chịu bình quân; Tỷ lệ giao hàng chậm tiến độ; Tỷ lệ giao hàng không đạt chất lượng.

Chất lượng của tư vấn. Số đề xuất tư vấn có giá trị được sử dụng bình quân.

Nhận được sự giúp đỡ, ưu tiên từ chính quyền các cấp.

Số thông tin có giá trị được thông báo kịp thời; Số lần ưu đãi từ chính quyền bình quân.

Nhận được sự giúp đỡ từ các công ty trong cùng tập đoàn.

Số lần nhận được sự trợ giúp bình quân.

Sự hợp tác bên trong

Liên tục tạo ra cơ chế hợp tác hiệu quả và gia tăng giá trị từ sự hợp tác bên trong.

Cơ chế tạo ra và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả.

Số kiến thức mới bình quân được cập nhật mới trong tổ chức; Mức độ tin tưởng và chia sẻ giữa các cá nhân; Số lần xung đột giữa cá nhân.

Cơ chế tạo ra và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả.

Thời gian thực hiện bình quân của từng quy trình.

Nguồn: Đề xuất của tác giả từ kết quả nghiên cứu.

Page 116: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

116

Nhóm thứ ba là đối với mục tiêu chiến lược của sự hợp tác bên trong doanh

nghiệp. Mục tiêu tổng quát của nhóm này là liên tục tạo ra cơ chế hợp tác hiệu quả

và gia tăng giá trị từ sự hợp tác giữa các cá nhân, các bộ phận chức năng lẫn nhau

trong một tổ chức. Mục tiêu cụ thể và tiêu chí đo lường bao gồm: (1) Cơ chế tạo ra

và giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả, được cụ thể bằng các chỉ tiêu đo lường là số

kiến thức mới bình quân được cập nhật mới trong tổ chức, mức độ tin tưởng và chia

sẻ giữa các cá nhân, số lần xung đột giữa cá nhân trong tổ chức; (2) Cơ chế tạo ra và

giám sát hợp tác cá nhân hiệu quả, được cụ thể bằng các tiêu chí đo lường là thời

gian thực hiện bình quân của từng quy trình công việc

Để chiến lược phát triển vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động của doanh

nghiệp BĐS được thành công, cần phải nuôi dưỡng và phát triển vốn xã hội của

doanh nghiệp. Để làm được điều này, luận án đề nghị nhóm gợi ý thứ tư, thứ năm

và thứ sáu như sau:

Nhóm gợi ý thứ tư: Tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng vốn xã hội của

lãnh đạo doanh nghiệp.

Như phân tích ở trên vốn xã hội của lãnh đạo là thành phần đạt giá trị hội tụ

để đo lường khái niệm vốn xã hội của doanh nghiệp, mà vốn xã hội thì ảnh hưởng

có ý nghĩa đến các họat động kinh doanh. Nghĩa là vốn xã hội của lãnh đạo cũng có

ảnh hưởng đến hầu hết hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra doanh nghiệp BĐS.

Vốn xã hội lãnh đạo bao gồm chất lượng các mối quan hệ của lãnh đạo với các

mạng lưới cá nhân như dòng họ, bạn bè, đối tác kinh doanh, chính quyền và đồng

nghiệp. Điều này hàm ý rằng muốn nuôi dưỡng và phát triển vốn xã hội lãnh đạo thì

phải nuôi dưỡng và phát triển chất lượng quan hệ của lãnh đạo với các mạng lưới

này, theo các gợi ý như sau:

Thứ nhất, cần phải tạo lập và duy trì các mối quan hệ với những người thân

trong dòng họ và bạn bè. Để làm được điều này trước hết cá nhân lãnh đạo phải biết

thực hiện cân bằng trong cuộc sống, giành thời gian thăm viếng, tin tưởng và nhiệt

tình giúp đỡ người trong dòng họ và bạn bè. Các mối quan hệ cá nhân là nơi bày tỏ

những căng thẳng trong công việc, điều này góp phần làm tăng chất lượng cho cuộc

Page 117: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

117

sống, qua đó sẽ khởi nguồn cho các ý tưởng kinh doanh, cũng như vượt qua và giải

quyết các vấn đề khó khăn trong công việc. Hơn nữa các mối liên hệ cá nhân có thể

nhận được sự giúp đỡ vật chất hoặc tinh thần để lãnh đạo thực hiện tốt các hoạt

động của doanh nghiệp.

Thứ hai, tạo lập và duy trì mối quan hệ cá nhân giữa lãnh đạo với các đối tác

kinh doanh và chính quyền các cấp. Để làm được điều này, lãnh đạo doanh nghiệp

phải xem đối tác và cá nhân ở các tổ chức chính quyền như những người bạn, phải

thường xuyên liên lạc, thăm hỏi, gặp gỡ và giúp đỡ với tư cách cá nhân để tạo dựng

lòng tin. Bởi vì thiết lập mối quan hệ với chủ thể này sẽ giúp giải quyết các công

việc thuận lợi, cũng như tạo cơ hội tiếp cận dự án tốt và thiết lập hệ thống bán hàng

hiệu quả.

Thứ ba, tạo lập và duy trì các mối quan hệ với các cá nhân là cấp dưới trong

công ty cũng như các cá nhân trong cùng tập đoàn. Thiết lập mối quan hệ tốt với

cấp dưới để tạo uy tín, lòng tin và động lực để phát huy tối đa năng suất lao động

của nguồn nhân lực trong công ty; thiết lập mối quan hệ với cá nhân của công ty

khác trong cùng tập đoàn để tranh thủ sự ủng hộ. Để tạo lập và duy trì các mối quan

hệ này, cần phải hành xử đúng các quy định và văn hóa của công ty, nhiệt tình hợp

tác với các cá nhân, bộ phận chức năng và các doanh nghiệp trong cùng tập đoàn để

kỳ vọng nhận được sự hỗ trợ ngược lại. Thêm vào đó, lãnh đạo doanh nghiệp nên

thiết lập và tham gia các mạng lưới sinh hoạt mang tính chất cá nhân (ngoài công

việc) với các đồng nghiệp để tạo ra sự linh hoạt trong giải quyết công việc.

Nhóm gợi ý thứ năm: Tạo lập, duy trì, phát triển và sử dụng vốn xã hội bên

ngoài doanh nghiệp.

Vốn xã hội bên ngoài doanh nghiệp là thành phần đạt giá trị hội tụ trong việc

đo lường vốn xã hội có ảnh hưởng đến hầu hết các nhóm hoạt động doanh nghiệp

BĐS. Vốn xã hội bên ngoài bao gồm chất lượng các mối quan hệ của doanh nghiệp

với các mạng lưới bán hàng (nhà phân phối, khách hàng), nhà cung cấp, đơn vị tư

vấn, công ty trong cùng tập đoàn và chính quyền. Nghĩa là muốn nuôi dưỡng và

Comment [u11]: Nên bỏ

Comment [u12]: Xem lại

Page 118: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

118

phát triển vốn xã hội bên ngoài thì phải nuôi dưỡng và phát triển các mạng lưới này,

với các gợi ý như sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp phải có bộ phận hoặc nhóm chuyên trách thực hiện

hoạt động quan hệ với các chủ thể bên ngoài. Bộ phận này có chức năng xác định

các chủ thể doanh nghiệp cần tạo lập và duy trì mối quan hệ cũng như xây dựng

hình ảnh doanh nghiệp đối với nhận thức của họ về doanh nghiệp. Kết quả nghiên

cứu ở các doanh nghiệp BĐS tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra các chủ thể đó bao

gồm khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn, các công ty trong

cùng tập đoàn và chính quyền các cấp.

Thứ hai, cần xây dựng các chính sách cụ thể trong mối quan hệ với từng chủ

thể trong mạng lưới bên ngoài doanh nghiệp. Đối với khách hàng và nhà phân phối

thì chính sách thông qua duy trì sản phẩm chất lượng, tạo giá trị khi sử dụng sản

phẩm (giá trị tạo ra trong khâu phân phối), chăm sóc khách hàng, hỗ trợ nhà phân

phối trong hoạt động bán hàng (như động viên, khuyến khích, chiết khấu, hoa

hồng). Đối với nhà cung cấp thì đảm bảo uy tín trong thanh toán và sự chặt chẽ

trong các hợp đồng thu mua. Đối với nhà tư vấn cần xây dựng kênh lựa chọn, tôn

trọng và cam kết thực hiện trong khi sử dụng tư vấn. Đối với chính quyền phải

thường xuyên tham gia các chương trình do chính quyền phát động. Đối với các

công ty trong cùng tập đoàn thì phải cam kết trong các thỏa thuận hợp tác và hỗ trợ

nhiệt tình.

Thứ ba, trong hầu hết các hoạt động quan hệ cộng đồng cần xác định đối

tượng trực tiếp và đối tượng gián tiếp thực hiện phát triển mối quan hệ với từng chủ

thể trong mạng lưới bên ngoài. Chẳng hạn như đối với khách hàng thì nhân viên bán

hàng là đối tượng trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với nhà phân phối

thì nhân viên liên hệ với đại lý là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với

đơn vị tư vấn thì lãnh đạo là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp; đối với các

công ty trong cùng tập đoàn, chính quyền thì lãnh đạo và bộ phận quan hệ cộng

đồng là trực tiếp, các bộ phận còn lại là gián tiếp… Khi xác định được các đối

Page 119: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

119

tượng này thì cần chú trọng đến khâu lựa chọn nhân sự phù hợp và đào tạo chính

sách quan hệ cộng đồng cho các đối tượng thực hiện.

Nhóm gợi ý thứ sáu: Tạo lập, nuôi dưỡng, phát triển và sử dụng vốn xã hội

bên trong doanh nghiệp.

Vốn xã hội bên trong doanh nghiệp cũng là thành phần đạt giá trị hội tụ trong

việc đo lường vốn xã hội của doanh nghiệp, có tác động đến hầu hết các hoạt động

của doanh nghiệp; chúng tác động đến hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Vốn

xã hội bên trong bao gồm chất lượng các mối quan hệ theo chiều ngang và chiều

dọc giữa cá nhân/ bộ phận chức năng lẫn nhau, vì vậy để nuôi dưỡng và phát triển

vốn xã hội bên trong cần trú trọng đến hai mạng lưới này theo các gợi ý như sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý cần chú trọng đến sự hợp

tác giữa các cá nhân/ bộ phận chức năng lẫn nhau theo các mối quan hệ kể cả chiều

dọc và chiều ngang. Cần xác định quan điểm cho rằng sức mạnh của tổ chức không

phải dựa vào sự xuất sắc đơn lẻ từng cá nhân mà phải dựa trên hệ thống quản lý

được thiết lập dựa trên sự hợp tác của cá nhân/bộ phận chức năng. Xây dựng được

hệ thống, cải tiến hệ thống và cam kết thực hiện đúng quy trình của hệ thống hợp

tác trong công việc chẳng những tạo ra được giá trị vô hình cho doanh nghiệp mà

còn giúp doanh nghiệp bảo vệ được các bí quyết công nghệ nói chung.

Thứ hai, khi xây dựng hệ thống quản lý cần đưa vào các giá trị văn hóa

doanh nghiệp và mô tả phẩm chất nhân sự có liên quan đến mỗi quy trình hoạt

động. Cần chú ý đến cơ chế nội hoá kiến thức của cá nhân vào trong tổ chức thông

qua các biện pháp khuyến khích sự chia sẻ, nhân rộng những kiến thức chia sẻ có

giá trị để phát huy, bảo tồn và sử dụng chúng phục vụ cho các mục tiêu của doanh

nghiệp.

6.2.3 Gợi ý chính sách vĩ mô hỗ trợ doanh nghiệp phát triển vốn xã hội tạo

hiệu ứng tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo

hiệu ứng tiêu cực trên thị trường bất động sản

Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội của doanh nghiệp đóng góp tích cực

vào các hoạt động của doanh nghiệp, qua đó tạo ra hiệu ứng tích cực và tiêu cực cho

Page 120: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

120

thị trường BĐS. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất gợi ý thứ bảy và thứ tám nhằm hỗ

trợ doanh nghiệp phát triển các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu ứng tích cực và

hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu ứng tiêu cực.

Nhóm gợi ý thứ bảy: Gợi ý chính sách vĩ mô tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp phát triển vốn xã hội dưới hình thức liên kết

tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường BĐS.

Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội tạo hiệu ứng tích cực cho thị

trường BĐS biểu hiện qua việc tạo điều kiện huy động vốn cho thị trường; giảm chi

phí giao dịch, tạo thuận lợi cho sự hợp tác giữa các chủ thể tham gia thị trường; góp

phần lan tỏa thông tin và chuyển giao tri thức cho thị trường BĐS. Nhiều nghiên

cứu cho rằng các hình thức liên kết tạo hiệu ứng tích cực của vốn xã hội thường

thấy ở các quốc gia có môi trường thể chế tốt, đặc biệt là sự hiện diện của các kênh

tương tác do Chính phủ tạo ra (Fukyyama, 1995; De soto, 2000; Thornburn, 2006).

Trong các khía cạnh vốn xã hội của doanh nghiệp thì vốn xã hội bên ngoài rất cần

sự hỗ trợ từ Chính phủ trong việc tạo lập các kênh tương tác giữa doanh nghiệp với

các chủ thể như khách hàng, nhà phân phối, nhà cung cấp, đơn vị tư vấn và chính

quyền. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển vốn xã hội bên ngoài nên tập

trung vào các nội dung sau:

Thứ nhất là Chính phủ nên xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho

sự hình thành và phát triển đa dạng các công cụ tài chính dựa trên sự liên kết của

các chủ thể tham gia thị trường như quỹ tín thác BĐS (quỹ này ở Việt Nam chưa có

và nó được lồng ghép vào quỹ phát triển và tiết kiệm nhà ở đã được triển khai về

mặt pháp lý) mà các quốc gia phát triển đang áp dụng và mang lại kết quả huy động

vốn rất tốt cho các chủ thể trên thị trường. Chính sách này sẽ góp phần tạo ra vốn xã

hội cho thị trường BĐS, thông qua đó cũng tạo thêm cung tín dụng cho thị trường

này.

Thứ hai là sử dụng các công cụ liên kết xã hội giữa các chủ thể tham gia thị

trường để giúp các khách hàng, nhà cung, doanh nghiệp nắm bắt thông tin lẫn nhau

để dễ dàng trong các giao dịch giữa họ, qua đó làm giảm chi phí và thời gian giao

Page 121: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

121

dịch trên trị trường BĐS. Để làm được điều này, Chính phủ cần ban hành các quy

định về xếp hạng uy tín của doanh nghiệp, chế độ minh bạch thông tin của các

doanh nghiệp tham gia thị trường.

Thứ ba là Chính phủ nên hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các mối quan hệ

bán hàng bằng các chính sách khuyến khích và hỗ trợ thành lập các tổ chức tiêu

dùng như hội chợ, triển lãm sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển mạng lưới

xã hội với khách hàng, nhà cung cấp và phân phối. Để thông qua đó giúp doanh

nghiệp tiếp cận được thông tin để ra các quyết định kinh doanh hợp lý, đồng thời

các tổ chức đó cũng là nơi trao đổi công nghệ giữa các doanh nghiệp với nhau.

Thứ ba là Chính phủ nên có những chương trình đầu tư phát triển các kênh

tương tác xã hội giữa các doanh nghiệp trong ngành BĐS, giữa doanh nghiệp ngành

BĐS với ngành có liên quan, giữa doanh nghiệp BĐS với các nhà làm chính sách

điều tiết thị trường. Các kênh tương tác này nên được sự hỗ trợ của các công cụ

mạng lưới công nghệ thông tin, đảm bảo sự thuận tiện trong việc trao đổi thông tin

giữa các chủ thể trong mạng lưới.

Cuối cùng là cần có những chính sách tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết phát

triển giữa các doanh nghiệp có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước đối với

ngành BĐS. Thông qua đó, các doanh nghiệp trong nước tiếp thu công nghệ quản lý

và cải tiến công nghệ, tránh được sự cạnh tranh trực diện. Bởi vì kết quả nghiên cứu

cho thấy vốn xã hội bên ngoài của doanh nghiệp nước ngoài cao hơn các doanh

nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước. Điều này hàm ý doanh nghiệp có vốn nước

ngoài có nhiều cơ hội phát triển dự án và phân phối sản phẩm thành công hơn hai

loại hình doanh nghiệp còn lại. Việc doanh nghiệp khu vực nhà nước và ngoài nhà

nước liên kết với doanh nghiệp nước ngoài là một cách thức tiếp cận mạng lưới

kinh doanh toàn cầu.

Nhóm gợi ý thứ tám là xây dựng các chính sách hạn chế các hình thức liên

kết xã hội tạo hiệu ứng tiêu cực cho thị trường BĐS.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy vốn xã hội cũng tạo ra hiệu ứng tiêu cực

được biểu hiện qua sự bất cập trong chính sách tiết vĩ mô của Chính phủ trong vai

Page 122: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

122

trò tạo “luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường BĐS, đây là

nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn bất lợi trong các chính sách giao đất cho doanh

nghiệp của Chính phủ, và tạo tâm lý ỷ lại cho các doanh nghiệp vào các mối quan

hệ với chính quyền để giành quyền tiếp cận quỹ đất nhằm chuyển nhượng dự án.

Các gợi ý chính sách sau đây nhằm hạn chế các hình thức liên kết xã hội tạo hiệu

ứng tiêu cực cho thị trường BĐS:

­ Xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn quy trình xin cấp phép dự án rõ

ràng, minh bạch tạo điều kiện tiếp cận quỹ đất và giải quyết các thủ tục đất đai công

bằng đối với tất cả các doanh nghiệp. Cần xây dựng các tiêu chí sàng lọc, lựa chọn

doanh nghiệp có đủ năng lực về công nghệ, kinh nghiệm và tài chính để cấp phép

đầu tư các dự án BĐS. Bởi vì kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ của doanh

nghiệp với chính quyền địa phương tác động có ý nghĩa đối với hoạt động đầu vào

(có biến quan sát về khả năng tiếp cận quỹ đất).

­ Ngăn cấm các hành vi chuyển nhượng dự án đã được cấp phép mà chưa

qua xây dựng. Biện pháp này với mục đích là ngăn chặn tình trạng có nhiều doanh

nghiệp lợi dụng các mối quan hệ với chính quyền các cấp để được cấp phép dự án

sau đó chuyển nhượng lại. Thông qua đó sẽ góp phần giảm chi phí đầu tư và hạ giá

thành cho ngành BĐS.

6.3 NHỮNG ĐÓNG GÓP CHÍNH CỦA LUẬN ÁN

6.3.1 Đóng góp về mặt khoa học

Nhiều nhà nghiên cứu đã hoài nghi việc sử dụng khái niệm vốn xã hội trong

các nghiên cứu kinh tế và quản trị bởi tính khó đo lường của nó. Đã có nhiều nghiên

cứu nỗ lực trong việc đo lường vốn xã hội trên từng khía cạnh riêng lẻ như mạng

lưới bên ngoài hoặc bên trong hoặc lãnh đạo doanh nghiệp nên các thang đo vốn xã

hội của doanh nghiệp bị khiếm khuyết. Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây được

thực hiện không phải thuộc ngành BĐS nên vẫn chưa chỉ ra được đóng góp của vốn

xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp BĐS. Luận án này góp phần hạn chế

những khiếm khuyết trên với những đóng góp như sau:

Page 123: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

123

Thứ nhất các nghiên cứu trước đây chỉ đề cập đến từng khía cạnh riêng lẻ

của vốn xã hội nên việc nhận diện vốn xã hội của doanh nghiệp còn bị khiếm

khuyết. Luận án đã xây dựng được thang đo vốn xã hội hoàn thiện hơn, đề cập đến

ba khía cạnh của mạng lưới bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp. Thang

đo vốn xã hội được xây dựng dựa trên liên hệ lý thuyết và nghiên cứu định tính nên

đảm bảo đạt được giá nội dung. Đồng thời các thang đo được kiểm định tại trường

hợp thành phố Hồ Chí Minh đảm bảo được tính đơn nguyên, giá trị phân biệt, độ tin

cậy tổng hợp và phương sai trích. Như vậy, đóng góp trước hết của luận án về mặt

khoa học là xây dựng được thang đo vốn xã hội đầy đủ hơn các nghiên cứu trước

đó, đảm bảo giá trị kế thừa cho các nghiên cứu tiếp theo có liên quan đến vốn xã hội

trong doanh nghiệp.

Thứ hai, nghiên cứu đã nhận dạng được các nhóm hoạt động của doanh

nghiệp BĐS là hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Việc nhận diện các nhóm

hoạt động của doanh nghiệp dựa trên lý thuyết chuỗi giá trị của Porter (1985) và các

luận điểm Krumm (2001), Nelen (2008) và kết hợp với nghiên cứu định tính nên

các thang đo phù hợp cho điều kiện Việt Nam và đảm bảo đạt được giá trị nội dung.

Các thang đo đã được kiểm định độ tin cậy cho trường hợp các doanh nghiệp BĐS

thành phố Hồ Chí Minh. Việc xây dựng được thang đo các hoạt động của doanh

nghiệp BĐS đảm bảo giá trị nội dung và độ tin cậy nên có giá trị kế thừa cho các

nghiên cứu có liên quan tại Việt Nam.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được những đóng góp trực tiếp, gián

tiếp của vốn xã hội vào các nhóm hoạt động của doanh nghiệp là bằng chứng để

khẳng định vốn xã hội là một trong những nguồn lực cần được bổ sung trong công

tác hoạch định và thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp BĐS. Hơn

nữa, kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần kích thích những nghiên cứu tiếp theo về

mối liên hệ giữa vốn xã hội và các hoạt động trong quá trình kinh doanh không chỉ

ở ngành BĐS mà còn đối với các ngành kinh tế khác.

Page 124: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

124

6.3.2 Đóng góp về mặt thực tiễn

Nghiên cứu này đã có những đóng góp thực tiễn cho các doanh nghiệp BĐS

và các cơ quan quản lý nhà nước đối với ngành BĐS của Việt Nam nói chung,

thành phố Hồ Chí Minh nói riêng như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu đã xây dựng và kiểm định thang đo vốn xã hội là căn

cứ để luận án gợi ý các mục tiêu và tiêu chí đo lường vốn xã hội với ba khía cạnh là

chất lượng mạng lưới bên trong, bên ngoài và lãnh đạo doanh nghiệp. Việc gợi ý

này góp phần giúp doanh nghiệp nhận diện và đánh giá được vốn xã hội trong

doanh nghiệp. Việc đánh giá này là việc làm thường xuyên để doanh nghiệp thay

đổi chiến lược kinh doanh cho phù hợp với những biến đổi của thị trường BĐS. Qua

đó giúp doanh nghiệp BĐS nhận dạng được khuôn khổ tạo lập, sử dụng, duy trì và

phát triển vốn xã hội trong doanh nghiệp BĐS. Từ đó, doanh nghiệp có thể hoạch

định các chương trình nhằm phát triển và sử dụng vốn xã hội để nâng cao kết quả

các hoạt động.

Thứ hai, nghiên cứu đã xây dựng được các thang đo cho các nhóm hoạt động

của doanh nghiệp đảm bảo được giá trị nội dung và độ tin cậy. Đồng thời cũng đã

chỉ ra được mối liên hệ giữa các hoạt động về mặt lý thuyết cũng như kiểm chứng

thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để gợi ý các chỉ

tiêu đo lường kết quả hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra cho doanh nghiệp BĐS.

Đóng góp này sẽ giúp doanh nghiệp BĐS đánh giá được kết quả hoạt động trong

doanh nghiệp của họ được toàn diện hơn.

Thứ ba, nghiên cứu cũng chỉ ra được tác động tiêu cực và tích cực của các

hình thức liên kết xã hội của doanh nghiệp ngành BĐS của Việt Nam. Đó là luận cứ

khoa học giúp cho các cơ quan lập pháp, quản lý nhà nước cấp trung ương và địa

phương liên quan đến thị trường BĐS nhận diện sự vận động của nguồn lực vốn xã

hội trên thị trường. Để từ đó kịp thời có những chính sách phát huy các hình thức

liên kết vốn xã hội tích cực, đồng thời hạn chế các hình thức liên kết vốn xã hội tiêu

cực trong thị trường BĐS quốc gia.

Page 125: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

125

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu sẽ phục vụ cho các hiệp hội BĐS Việt Nam,

hiệp hội BĐS thành phố Hồ Chí Minh nhận diện được sự quan tâm của các thành

viên khi tham gia hiệp hội, để ban chấp hành các hiệp hội tạo ra được các giá trị từ

mạng lưới liên kết phục vụ lợi ích của các thành viên tham gia.

6.4 HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ GỢI Ý NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

6.4.1 Hạn chế của luận án

Bên cạnh những đóng góp trên, luận án còn những hạn chế sau:

Thứ nhất, các thang đo được xây dựng và kiểm định trong môi trường thể

chế của Việt Nam nhưng chỉ được kiểm định cho trường hợp thành phố Hồ Chí

Minh nên kết quả nghiên cứu không đạt tính đại diện và chưa chắc là sẽ đúng tại các

tỉnh /thành khác trong cả nước.

Thứ hai, các thang đo được kiểm định với kích thước mẫu trung bình, nên

không đủ bậc tự do để ước lượng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) với tất cả các

biến quan sát, thay vào đó là chỉ ước lượng đối với các biến trung bình của các

thang đo. Việc ước lượng như trên không thể hiện giá trị của từng biến quan sát cá

biệt trong mô hình nghiên cứu.

Thứ ba, thang đo vốn xã hội và hoạt động trong doanh nghiệp được xây dựng

cho ngành BĐS gắn với đặc thù của ngành nên không thể áp dụng cho doanh nghiệp

các ngành khác. Hơn nữa, ngành BĐS tại Việt Nam mới được hình thành gần 20

năm nên hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, nên các thang đo xây dựng trong điều

kiện này có thể sẽ không còn phù hợp cho thị trường ở các nước khác đã có hành

lang pháp lý hoàn thiện hơn, cũng như đối với thị trường BĐS Việt Nam trong

tương lai.

Thứ tư, bối cảnh xây dựng thang đo, mô hình lý thuyết và kiểm định cho

trường hợp thành phố Hồ Chí Minh vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011 là khoảng

thời gian nền kinh tế Việt Nam đang trong bối cảnh lạm phát nên hoạt động của các

doanh nghiệp BĐS không ở trong trạng thái bình thường. Do vậy, tính ổn định của

kết quả nghiên cứu có thể không được đảm bảo lâu dài.

Page 126: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

126

6.4.2 Gợi ý hướng nghiên cứu tiếp theo

Từ những hạn chế nêu trên, cần có các nghiên cứu tiếp theo về vốn xã hội

trong doanh nghiệp khắc phục những hạn chế, cũng như tìm thêm bằng chứng để

đánh giá việc sử dụng vốn xã hội như là nguồn lực của doanh nghiệp như sau:

Thứ nhất, thang đo và mô hình nghiên cứu chỉ mới kiểm định tại thành phố

Hồ Chí Minh nên chưa thể khẳng định được sự phù hợp đối với các địa phương

khác. Điều này hàm ý rằng các gợi ý từ nghiên cứu có thể không phù hợp cho tất cả

các địa phương ở Việt Nam. Do vậy, cần có các nghiên cứu tiếp theo để kiểm định

thang đo và mô hình lý thuyết cho ngành BĐS ở địa phương khác.

Thứ hai, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định

(CFA) và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) là các phương pháp dựa trên cỡ mẫu

lớn. Mặc dù cỡ mẫu nghiên cứu có thể chấp nhận được nhưng không lớn lắm, do

vậy cần có các nghiên cứu tiếp theo thực hiện trên kích thước mẫu lớn hơn.

Thứ ba, do nghiên cứu này được thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế lạm

phát nên đe dọa tính ổn định của kết quả nghiên cứu. Cần có những nghiên cứu tiếp

theo thực hiện trong trạng thái nền kinh tế bình thường (không có lạm phát, khủng

hoảng kinh tế) để kiểm chứng lại kết quả nghiên cứu.

Thứ tư, vốn xã hội được khẳng định là nguồn lực cần thiết đối với doanh

nghiệp ngành BĐS. Nhưng với nghiên cứu này chưa thể khẳng là chúng phù hợp

cho các ngành kinh tế khác. Do vậy, cần thiết có những nghiên cứu tiếp theo để xem

xét vốn xã hội trong các ngành kinh tế khác.

Page 127: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

127

KẾT LUẬN

Luận án nghiên cứu đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh

nghiệp BĐS Việt Nam được thực hiện với mục tiêu nghiên cứu là khám phá cấu

trúc của vốn xã hội và các hoạt động của doanh nghiệp ngành Bất động sản (BĐS).

Đồng thời phân tích đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của doanh nghiệp

BĐS. Qua đó gợi ý các chính sách giúp doanh nghiệp BĐS sử dụng vốn xã hội để

nâng cao kết quả hoạt động, đồng thời gợi ý chính sách vĩ mô giúp Chính phủ hạn

chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các hình

thức liên kết xã hội tích cực.

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu trên, luận án được thực hiện qua hai

giai đoạn: giai đoạn một là xây dựng thang đo và mô hình nghiên cứu với đối tượng

là các doanh nghiệp bất động sản Việt Nam (doanh nghiệp có hai chức năng tạo sản

phẩm và phân phối sản phẩm), với phương pháp nghiên cứu định tính bằng kỹ thuật

phỏng vấn chuyên gia (thảo luận tay đôi); và giai đoạn hai là kiểm định thang đo và

mô hình nghiên cứu cho trường hợp điển hình với đối tượng là các doanh nghiệp bất

động sản thành phố Hồ Chí Minh, bằng các phương pháp hệ số tin cậy (Cronbach’s

alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), mô

hình cấu trúc tuyến tính (SEM).

Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được thang đo đảm bảo giá trị nội dung và

độ tin cậy, bao gồm: thang đo vốn xã hội là thang đo đa hướng bậc ba với các thành

phần bậc hai là vốn xã hội của lãnh đạo, vốn xã hội bên ngoài, vốn xã hội bên trong

doanh nghiệp; Các hoạt động của doanh nghiệp là các thang đo đơn hướng, bao gồm

hoạt động đầu vào, sản xuất và đầu ra. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định được vốn

xã hội đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp BĐS.

Đóng góp này tạo ra hiệu ứng tích cực và tiêu cực đối với thị trường BĐS Việt

Nam: Hiệu ứng tích cực là vốn xã hội góp phần tạo vốn cho thị trường, giảm chi phí

giao dịch, thúc đẩy hợp tác hiệu quả, thông tin và chuyển giao tri thức trên thị

trường BĐS; Hiệu ứng tiêu cực của vốn xã hội là tạo ra những bất cập của chính

sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong việc không đảm đương được vai trò tạo

Page 128: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

128

“luật chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường, dẫn đến sự lựa

chọn bất lợi của Chính phủ và tâm lý ỷ lại của doanh nghiệp trong một số hoạt động

của ngành BĐS.

Kết quả nghiên cứu là cơ sở để gợi ý các chính sách giúp doanh nghiệp đánh

giá kết quả các hoạt động (gợi ý thứ nhất), nhận diện và đo lường vốn xã hội (gợi ý

thứ hai và thứ ba), sử dụng vốn xã hội phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp

(gợi ý thứ tư, thứ năm và thứ sáu). Đồng thời cũng gợi ý chính sách vĩ mô giúp

Chính phủ hạn chế các hình thức liên kết xã hội tiêu cực và hỗ trợ doanh nghiệp

phát triển các hình thức liên kết xã hội tích cực (gợi ý thứ bảy và thứ tám).

Kết quả nghiên cứu đã góp phần đáp ứng được yêu cầu từ thực tiễn là bổ

sung luận cứ khoa học giúp cho doanh nghiệp BĐS sử dụng vốn xã hội phục vụ cho

hoạt động kinh doanh, cũng như giúp Chính phủ quan tâm đến vốn xã hội trong việc

ban hành các chính sách điều tiết thị trường. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng

đóng góp về mặt lý thuyết là bổ sung vào sự khiếm khuyết trong việc đo lường vốn

xã hội trong các nghiên cứu trước đó.

Page 129: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

129

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

Tiếng việt: Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Đóng góp của vốn xã hội vào

các hoạt động của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Kiểm định cho trường hợp điển hình tại thành phố Hồ Chí Minh”, Kỹ yếu hội thảo khoa học Ổn định Kinh tế Vĩ mô và Phát triển Kinh tế, tháng 10 năm 2011, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, trang 412­432.

Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước: tiếp cận khả năng điều tiết vĩ mô và tác động hỗ trợ”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 252, trang 22­30.

Huỳnh Thanh Điền (2011), “Ảnh hưởng vốn xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp đến việc tiếp cận quỹ đất phát triển dự án bất động sản”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 251, trang 29­36.

Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập và lạm phát: Phân tích tình huống ngành bất động sản Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 246, trang 2­9.

Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân: tiếp cận các giải pháp giảm thiểu tác động lấn át và nâng cao tác động hỗ trợ”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 245, trang 2­7.

Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Vốn xã hội và sự năng động trong phát triển kinh tế địa phương tại Việt Nam”. Trong sách Những vấn đề kinh tế xã hội trong cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011), chủ biên Trương Giang Long và Trần Hòang Ngân. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2011, trang 207 – 223.

Huỳnh Thanh Điền (2008), “Đóng góp của Vốn xã hội vào sự cải tiến doanh nghiệp”, Tạp chí phát triển Kinh tế, số 214, trang 48­53.

Tiếng Anh: Nguyen Trong Hoai & Huynh Thanh Dien (2010), “Framework for Analyzing

Social Capital in Vietnamese Companies: An Overview of Literature and Empirical Researches”, The Economic Development Review, No. 191, pp. 14­19.

Page 130: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

130

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt:

Vũ Đình Ánh (2010), Nhận dạng nguồn vốn “nóng” cho thị trường bất động sản,

trình bày tại Hội thảo do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ

chức ngày 14/5/2010.

Bộ Xây Dựng (2011), “Chiến lược phát triển nhà ở Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo

do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 11/3/2011.

Trần Kim Chung (2010), Lựa chọn kênh huy động vốn nào cho doanh nghiệp bất

động sản, trình bày tại hội thảo “những giải pháp về vốn cho thị trường bất

động sản năm 2010”, do hiệp hội bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ

chức ngày 14/05/2010.

Nguyễn Trọng Hoài & Huỳnh Thanh Điền (2011), “Áp lực cạnh tranh đối với

doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập và lạm phát: Phân tích tình

huống ngành bất động sản Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 246,

trang 2­9.

Đào Anh Kiệt (2010), Thị trường Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh: Cơ hội và

Thách thức, trình bày tại Hội thảo do Hiệp hội Bất động sản tổ chức ngày

12/05/2010, thành phố Hồ Chí Minh.

Porter & Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2010), “Báo cáo đánh giá

năng lực cạnh tranh của quốc gia của Việt Nam”, Viện Kinh tế Quản lý

Trung ương, Hà Nội.

Nguyễn Đình Thọ (2010), Phương pháp nghiên cứu định tính, Bài giảng số 3, môn

phương pháp nghiên cứu khoa học, lớp nghiên cứu sinh khóa 2009, trường

ĐH Kinh tế TP.HCM.

Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2009), Nghiên cứu khoa học quản trị

kinh doanh, NXB Thống kê, thành phố Hồ Chí Minh.

Page 131: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

131

Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2008), Nghiên cứu Khoa học

Marketing: Ứng dụng Mô hình Cấu trúc Tuyến tính SEM, NXB ĐH Quốc gia

TPHCM, thành phồ Hồ Chí Minh

Thornburn (2006), “An toàn tài sản và đảm bảo tăng trưởng kinh tế”, trình bày tại

hội thảo do Hiệp hội Bất động sản thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, ngày

25/09/2006.

Townsend (2011), “Dự báo táo bạo”, Hội thảo Dự báo táo bạo 2011 tại Hà Nội vào

ngày 12/01/2011.

Tổng cục Thống kê (2010a), “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu của thế kỷ 21”,

NXB Thống Kê, Hà Nội.

Tổng cục Thống kê (2010b), “Niên giám thống kê Việt Nam năm 2009”, Nhà xuất

bản Thống kê.

Page 132: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

132

Tiếng Anh:

ABS (2004), Measuring Social Capital: An Australian Framework and Indicators

http://www.ausstats.abs.gov.au/Ausstats/free.nsf/Lookup/13C0688F6B98DD

45CA256E360077D526/$File/13780_2004.pdf (truy cập ngày 10/5/2009).

Acquaah M. (2007), “Business Strategy and Competitive Advantage in Family

Businesses in Ghana: The Role of Social Networking Relationships”. A

Presentation at “Entrepreneurship in Africa” conference, Syracuse, NY,

April 1­2, 2010.

Barney J. B. (1991), “Firm resources and sustained competitive advantage”. Journal

of Management, 17(1), 99­120.

Bueno E., Salmador M.P., Rodríguez O. (2004), "The role of social capital in

today's economy: Empirical evidence and proposal of a new model of

intellectual capital", Journal of Intellectual Capital, Vol. 5 Iss: 4, pp.556 –

574.

Bollen K.A. (1989), Structural Equation with Latent Variables, New York: John

Wiley & Sons.

Bourdieu P. (1986). The Form of Capital, in Richardson, J. E. (ed.) Handbook of

Theory of Research for the Sociology of Education, 241­258, New

York:Greenwood.

Brookes N.J., Morton S.C., Dainty, A.R.J. & Burns, N.D. (2006). “Social processes,

patterns and practices and project knowledge management: A theoretical

framework and an empirical investigation”. International Journal of Project

Management, Volume 24, Issue 6, August 2006, Pages 474­482

Carey S., Lawson B. (2011), "Governance and social capital formation in buyer­

supplier relationships", Journal of Manufacturing Technology Management,

Vol. 22 Iss: 2, pp.152 ­ 170

Cheng C.N., Tzeng L.C., Ou W­M., & TiChang K. (2006), “The Relationship

among Social Capital, Entrepreneurial Orientation, Organizational Resources

and Entrepreneurial Performance for New Ventures”

Page 133: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

133

http://bai2006.atisr.org/CD/Papers/2006bai6030.doc (truy cập ngày

03/03/2010).

Chou Y.K. (2003), “Modelling the Impact of Network Social Capital on Business

and Technological Innovations”

http://www.economics.unimelb.edu.au/SITE/research/workingpapers/wp03/8

90.pdf (truy cập ngày 20/01/2009).

Cialdini R. B., Wosinska W., Barrett D. W., Butner J., & Gornik­Durose, M.

(2001), “The differential impact of two social influence principles on

individualists and collectivists in Poland and the United States”. Website

http://mba.tuck.dartmouth.edu/pages/faculty/petia.petrova/Petrova%20Web

%20site%20material/Personality%20and%20Individual%20Differences%20­

%20Final.pdf

Cohen S.S. & Fields G. (1999), “Social capital and capital gains in Silicon Valley”,

California Management Review, 41 (2): 108­130.

Coleman J. (1988), “Social capital in the creation of human capital”, American

Journal of Sociology, 94: s95­s120.

Coleman J. (1990), Foundations of Social Theory, Cambridge: Harvard University

Press.

Daut S. (2006), “Social capital Macedonia and its impact on the economic growth”,

Center for Economic Analyses (CEA), http://www.cea.org.mk/

Documents/LGU_Project/Third_USAID_report_social_capita.pdf (truy cập

ngày 12/21/2009).

De Soto H. (2000), The Mystery of Capital: Why Capitalism Triumphs in the West

and Fails Everywhere Else, Bantam Press – Black Swan edition, London.

Emmerik H.V., Jawahar I.M, Schreurs B & Cuyper N. D, (2011), "Social capital,

team efficacy and team potency: The mediating role of team learning

behaviors", Career Development International, Vol. 16 Iss: 1, pp.82 – 99.

Fernández O.M. (2011), The moderating role of trust in contractual choice, British

Food Journal, Vol. 113 Iss: 3, pp.374 – 390.

Page 134: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

134

Fukuyama F. (1995), Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity,

London: Penguin Books.

Fukuyama F. (1997), The End of Order, London: Centre for Post­collectivist

Studies.

Gerbing W.D. & Anderson J.C. (1988), “An update paradigm for scale development

incorporating unidimensionality and its assessment”, Journal of Marketing

Research, 25(2): 186­192

Goyal. A. & Akhilesh K.B. (2007), "Interplay among innovativeness, cognitive

intelligence, emotional intelligence and social capital of work teams", Team

Performance Management, Vol. 13 Iss: 7/8, pp.206 – 226

Glosiene A. (2006), Social Capital and Information Technology, Journal of

Documentation, Vol. 62 Iss: 5, pp.640 ­ 642

Grant R. (2002), Contemporary Strategy Analysis: Conepts, Techniques

Applications, Oxford, Backwell.

Hammervoll T. (2011), "Honeymoons in Supply Chain Relationships: the effects of

financial capital, social capital and psychological commitment", International

Journal of Logistics Management, The, Vol. 22 Iss: 2

Hans W. & Bolton, R. (2003), ‘Local Social Capital and Entrepreneurship’. Small

Business Economics, Vol. 21.

Hair, Anderson, Tatham & Black (1998). Multivariate Data Analysis, Prentical­Hall

International, Inc.

Harper R. & Kelly M. (2003), “Measuring Social Capital in the United Kingdom”.

www.statistics.gov.uk/socialcapital (truy cập ngày 10/10/2008).

Ireland L.R. (2006), Project Management. McGraw­Hill Professional, 2006.

Jansen R J.G., Curseu D.P.L., Vermeulen P.A.M, Geurts J.L.A., & Gibcus P.

(2011), "Social capital as a decision aid in strategic decision­making in

service organizations", Management Decision, Vol. 49 Iss: 5.

Joroff M.L., Porter W.L., Feinberg B. & Kukla C. (2003), "The agile workplace",

Journal of Corporate Real Estate, Vol. 5 Iss: 4, pp.293 ­ 311

Kaplan R. & Norton D. (1996), The Balanced Scorecard. Harvard Business School

Page 135: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

135

Kline, R.B. (2010), Principles and Practice of Structural Equation Modeling, The

Guilford Press, Third Edition.

Konstantinos J., Manolis S. C. & Harris G. P., (2011), A new evaluation procedure

in real estate projects, Journal of Property Investment & Finance, Vol. 29

Iss: 3, pp.280 – 296.

Koonmee K, Singhapakdi A, Virakul B. & Lee D.J. (2010), “Ethics

institutionalization, quality of work life, and employee job – related

outcomes : A survey of human resource managers in Thailand”; Journal of

Business Research; 63 : 20­26.

Krumm P.J.M.M. (2001), "History of real estate management from a corporate

perspective", Facilities, Vol. 19 Iss: 7/8, pp.276 – 286.

Kurt A. (2000), "Social Capital within the Urban Small­Firm­Sector in Developing

Countries: A Form of Modern Organization or a Reason for Economic

Backwardness?" Presented at "Constituting the Commons: Crafting

Sustainable Commons in the New Millennium," the Eighth Conference of

the International Association for the Study of Common Property,

Bloomington, Indiana, USA, May 31­June 4, 2000.

http://dlc.dlib.indiana.edu/documents/dir0/00/00/10/06/index.html (truy cập

ngày 22/04/2009).

Landry R., Lamari M. & Amara N. (2000), “Does Social Capital Determine

Innovation? To What Extent?”

http://kuuc.chair.ulaval.ca/francais/pdf/apropos/publication5.pdf (truy cập

ngày 02/02/2008).

Lee C., Lee K. & Pennings J. M.(2001), “Internal capabilities, external networks,

and performance: a study on technology­based ventures”. Strategic

Management Journal, vol 22, pp 615­640.

Lisakka L. (2006), “Social Capital in Finland”, Statistical Review,

http://www.pdfbe.com/e9/e9151b592754dcf3­download.pdf (truy cập ngày

10/7/2010).

Page 136: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

136

Luthans F. & Youssef C. M. (2007a), “Positive organizational behavior in the

workplace: The impact of hope, optimism, and resiliency”, Journal of

Management, Vol 33, pp 774–800.

Luthans F. & Youssef C. M. (2007b), “Emerging positive organizational behavior.

Journal of Management, Vol 33, pp 321–349.

Luthans F., Norman S.M., Avolio B.J. & Avey J.B. (2008), “The Mediating Role of

Psychological Capital in the Supportive Organization Climate – Employee

Performance Relationship”, Journal of Organizational Behavior; Vol 29, pp

219­238.

Martha A.M., Howard E. A. (2011), Networking strategies for entrepreneurs:

balancing cohesion and diversity, International Journal of Entrepreneurial

Behaviour & Research, Vol. 17 Iss: 1, pp.7 ­ 38

McCallum S. & O'Connell D. (2009), "Social capital and leadership development:

Building stronger leadership through enhanced relational skills", Leadership

& Organization Development Journal, Vol. 30, pp.152 – 166

Nahapiet J. & Ghoshal S. (1998), “Social capital, intellectual capital, and

organizational advantage”, The Academy of Management Review, 23 (2):

242­266.

Nelen H. (2008), "Real estate and serious forms of crime", International Journal of

Social Economics, Vol. 35, pp.751 – 762

Nisbet P. (2007), "Human capital vs social capital: Employment security and self­

employment in the UK construction industry", International Journal of

Social Economics, Vol. 34, pp.525 – 537

Ohno K. (2009), “Avoiding the Middle – income Trap: Renovating Industrial Policy

Formulation in Vietnam”, ASEAN Economic Bulletin, Vol 26, No1, pp25­43.

Ou W.M., Abratt R., & Dion P.(2006), “The influence of retailer reputation on store

patronage”, Journal of Retailing and Consumer Services, Vol 13(3), pp 221­

230.

Paré S., Menzies T. V., Filion L.J., & Brenner, G.A. (2008), "Social capital and co­

leadership in ethnic enterprises in Canada", Journal of Enterprising

Page 137: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

137

Communities: People and Places in the Global Economy”, Vol. 2, pp.52 –

72

Putnam R.D. (1993), “The Prosperous Community. Social Capital and Public Life”,

The American Prospect, Vol. 13, pp. 35­42.

Putnam R.D. (1995), “Bowling alone: America’s declining social capital”, Journal

of Democracy, Vol. 6 No. 1, pp. 65­78.

Putnam R.D., (2000). Bowling Alone. The Collapse and Revival of American

Community, New York. NY: Simon & Schuster.

Porter M. E. (1985), Competitive Advantage, Free Press, New York.

Porter M.E. (1990), The Competitive Advantage of Nations, Free Press, New York.

Ramström J. (2008), “Inter­organizational meets inter­personal: An exploratory

study of social capital processes in relationships between Northern European

and ethnic Chinese firms”. Industrial Marketing Management, Volume 37,

Issue 5, July 2008, Pages 502­512

Ray G., Barney J. B. & Muhanna W. A.(2004), “Capabilities, business processes,

and competitive advantage: Choosing the dependent variable in empirical

tests of the resource­based view”. Strategic Management Journal, vol 25(1).

Roberts L. M. (2006), “Shifting the lens on organizational life: The added value of

positive scholarship”, Academy of Management Review, Vol 31, pp 292–305.

Roberts P. W., & Dowling, G. R.(2002), “Corporate reputation and sustained

superior financial performance”, Strategic Management Journal, vol 23(12),

pp 1077­1093.

Ross A. (2011), Supply chain management in an uncertain economic climate: a UK

perspective, Construction Innovation: Information, Process, Management,

Vol. 11 Iss: 1, pp.5 – 13.

Sabatini F. (2005), “Meauring Social Capoital in Italy: An Exploratory Analysis”,

Working Paper n. 12 Aprile 2005. website: www.ecofo.unibo.it (truy cập

25/9/2010)

Schaufeli W. B. & Salanova M. (2007), “Work engagement: An emerging

psychological concept and its implications for organizations”, In S. W.

Page 138: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

138

Gilliland, D. D. Steiner, & D. P. Skarlicki (Eds.), Research in social issues in

management: Managing social and ethical issues in organizations (Vol. 5, pp.

135–177). Greenwich, CT: Information Age Publishers.

Schenkel M.T., & Garrison G. (2009), "Exploring the roles of social capital and

team­efficacy in virtual entrepreneurial team performance", Management

Research News, Vol. 32 Iss: 6, pp.525 – 538

Scupola. A., López­Nicolás. C., & Steinfield. C. (2009), “Social Capital, ICT Use

and Company Performance: Findings from the Medicon Valley Biotech

Cluster, For presentation at the International Conference on Organizational

Learning, Knowledge and Capabilities (OLKC)”, Amsterdam, The

Netherlands, April 26­28, 2009.

https://www.msu.edu/~steinfie/OLKCpaper2009.pdf (truy cập ngày

12/11/2010).

Stevens M. (2002), Project Management Pathways. Association for Project

Management. APM Publishing Limited.

Tansley C. & Newell S. (2007), "Project social capital, leadership and trust: A study

of human resource information systems development", Journal of

Managerial Psychology, Vol. 22, pp.350 – 368

Tushman & O’Reilly III C. (1997), Winning through innovation, Havard Business

Shool Press.

Truss C. & Gill J. (2009), "Managing the HR function: the role of social capital",

Personnel Review, Vol. 38, pp.674 – 695

Waheduzzaman (2010), "Value of people's participation for good governance in

developing countries", Transforming Government: People, Process and

Policy, Vol. 4 Iss: 4, pp.386 – 402.

Woolcock M. & Narayan. D. (2000), “Social Capital: Implications for Development

Theory, Research, and Policy”. Final version submitted to the World Bank

Research Observer. To be published in Vol. 15(2), pp.225­249.

http://www.oecd.org/dataoecd/5/13/1824913.pdf (truy cập ngày 25/5/2009)

Page 139: Tailieu.vncty.com   nghien cuu-dong_gop_cua_von_xa_hoi_vao_cac_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_bds_viet_nam

139

Wallis J., Killerby, P., & Dollery B. (2004), "Social economics and social capital",

International Journal of Social Economics, Vol. 31 Iss: 3, pp.239 – 258.

Webb C. (2008), "Measuring social capital and knowledge networks", Journal of

Knowledge Management, Vol. 12, pp.65 – 78.

Wharton R.F. & BrunettoY. (2009), "Female entrepreneurs as managers: The role

of social capital in facilitating a learning culture, Gender in Management”,

An International Journal, Vol. 24, pp.14 – 31.

Wiklund J. & Shepherd D.(2003), “Knowledge­based resources, entrepreneurial

orientation, and the performance of small and medium­sized business”,

Strategic Management Journal, Vol 24, pp 1307­1314.

Wilson P.N. (2000), “Social capitap, Trust, and the agribusiness of economics”,

Journal of Agricultural and Resource Economics, Vol 35, pp 1­13.

Yang J., Alejandro T.G.B., & Boles J.S. (2011), "The role of social capital and

knowledge transfer in selling center performance", Journal of Business &

Industrial Marketing, Vol. 26, pp.152 – 161.

Yli­Renko H., Autio E. & Sapienza H. J.(2001), “Social capital, knowledge

acquisition, and knowledge exploitation in young technology­based firms”,

Strategic Management Journal, vol 22, pp 587­613.

Zhang Q. & Fung H.G. (2006), China's social capital and financial performance of

private enterprises, Journal of Small Business and Enterprise Development,

Vol. 13 Iss: 2, pp.198 – 207.