Upload
others
View
9
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ________________________________________________
LÊ THẾ TÂM
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO CHẤT LỎNG TỪ TRÊN
NỀN OXIT SẮT SIÊU THUẬN TỪ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG
DỤNG CHỤP ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ MRI
Chuyên ngành: Hóa vô cơ
Mã số: 9.44.01.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ________________________________________________
LÊ THẾ TÂM
NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO CHẤT LỎNG TỪ TRÊN
NỀN OXIT SẮT SIÊU THUẬN TỪ ĐỊNH HƯỚNG ỨNG
DỤNG CHỤP ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ MRI
Chuyên ngành: Hóa vô cơ
Mã số: 9.44.01.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. TRẦN ĐẠI LÂM
PGS. TS. NGUYỄN HOA DU
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
của GS.TS. Trần Đại Lâm và PGS.TS. Nguyễn Hoa Du. Các số liệu, kết quả sử dụng
trong luận án được trích dẫn từ các bài báo đã được sự đồng ý của các đồng tác giả. Các
số liệu, kết quả này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận án
Lê Thế Tâm
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất của mình tới
GS.TS. Trần Đại Lâm và PGS.TS. Nguyễn Hoa Du - những người Thầy hướng dẫn và
thầy giáo TS. Lê Trọng Lư vì đã đã dành cho tôi sự động viên, giúp đỡ tận tình và những
định hướng khoa học hiệu quả trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Bản luận án này sẽ không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ của các đồng
nghiệp. Tôi xin được cảm ơn sự cộng tác và giúp đỡ đầy hiệu quả của TS. Phạm Hồng
Nam, TS. Vương Thị Kim Oanh, NCS. Nguyễn Thị Ngọc Linh, CN. Lê Thị Thanh Tâm
và các cán bộ Phòng Vật liệu nano y sinh, Phòng Vật lý vật liệu từ và siêu dẫn - Viện
Khoa học vật liệu (VKHVL), Phòng Kỹ thuật điện, Điện tử - Viện Kỹ thuật nhiệt đới
(VKTNĐ) - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VHLKHCNVN), vì sự
giúp đỡ thực hiện các phép đo và sự quan tâm động viên hết sức quý báu với tôi trong
quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới cán bộ bộ môn Mô phôi và Tế bào thuộc Khoa
Sinh học Trường đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHKHTN) - Đại học Quốc gia Hà Nội
(ĐHQGHN), và Phòng Sinh học thực nghiệm - Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên
(VHHHCTN), VHLKHCNVN vì những hợp tác nghiên cứu trong các ứng dụng y sinh.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới BS. ThS Nguyễn Thị Hường, BS. Nguyễn
Văn Đông và các cán bộ Khoa chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Quốc tế Vinh vì sự giúp
đỡ thực hiện các phép đo và những bàn luận khoa học quý báu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi của cơ sở đào tạo
là Học viện Khoa học và Công nghệ cùng VKHVL, VKTNĐ - VHLKHCNVN, và Viện
Công nghệ Hóa sinh - Môi trường, trường Đại học Vinh cơ quan mà tôi công tác, trong
quá trình thực hiện luận án.
Luận án được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí từ đề tài nghiên cứu cấp nhà nước,
Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia phát triển công
nghiệp Hóa dược đến năm 2020 của GS. Trần Đại Lâm, Viện Khoa học vật liệu
(VKHVL) - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, và đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo với mã số B2019-TDV-03 (Lê Thế Tâm). Luận án được
thực hiện tại Phòng Vật liệu nano y sinh và Phòng Vật lý vật liệu từ và siêu dẫn
(VKHVL, VHLKH NVN); Phòng Kỹ thuật Điện - Điện tử (Viện Kỹ thuật nhiệt đới,
VHLKH NVN) và Viện Công nghệ Hóa sinh - Môi trường, trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin được cảm ơn tới Ban lãnh đạo Viện CNHS-Môi trường, trường Đại
học Vinh, bộ phận quản lý đào tạo Viện Hóa học đã luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho tôi trong quá trình thực hiện bản luận án.
Sau cùng, tôi muốn gửi tình cảm yêu thương nhất và sự biết ơn tới vợ, con, bố,
mẹ, cũng như tất cả những người thân trong gia đình và bạn bè đã luôn cổ vũ, động
viên để tôi vượt qua khó khăn hoàn thành tốt nội dung nghiên cứu trong bản luận án
này.
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2019
Tác giả luận án
Lê Thế Tâm
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU FERIT SPINEL VÀ PHƯƠNG PHÁP
CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH BẰNG KỸ THUẬT CHỤP MRI ...................................... 5
1.1. Cấu trúc và tính chất của vật liệu ferit spinel .......................................................... 5
1.1.1. Cấu trúc của vật liệu ferit spinel ........................................................................... 5
1.1.2. Tính chất từ của vật liệu ferit spinel ..................................................................... 6
1.1.3. Vật liệu siêu thuận từ ............................................................................................. 8
1.2. Tình hình nghiên cứu vật liệu nano từ trong và ngoài nước ................................. 12
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ..................................................................... 12
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ....................................................................... 15
1.3. Các phương pháp chế tạo chất lỏng từ .................................................................. 17
1.3.1. Các phương pháp tổng hợp vật liệu nano từ ....................................................... 17
1.3.2. Các công nghệ bọc hạt trong dung môi nước ..................................................... 23
1.3.3. Các quy trình chuyển pha từ dung môi hữu cơ sang dung môi nước ................. 29
1.4. Các ứng dụng trong y sinh ..................................................................................... 34
Kết luận chương 1 ........................................................................................................ 47
CHƯƠNG 2: KỸ THUẬT THỰC NGHIỆM ............................................................... 48
2.1. Chế tạo chất lỏng từ trên nền hạt Fe3O4 tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt ...... 48
2.1.1. Hóa chất và thiết bị ............................................................................................. 48
2.1.2. Quy trình chế tạo hạt nano Fe3O4 ....................................................................... 48
2.1.3. Quy trình chế tạo chất lỏng từ Fe3O4 bọc chitosan ............................................ 49
2.2. Tổng hợp hạt nano từ Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt ........................... 52
2.3. Phương pháp quy hoạch thực nghiệm ................................................................... 57
2.3.1. Quy hoạch thực nghiệm ...................................................................................... 57
2.4. Các phương pháp đặc trưng ................................................................................... 62
2.4.1. Nhiễu xạ tia X ..................................................................................................... 62
2.4.2. Phổ hấp thụ hồng ngoại ...................................................................................... 63
2.4.3. Phân tích nhiệt .................................................................................................... 63
2.4.4. Hiển vi điện tử .................................................................................................... 64
2.4.5. Phổ tán xạ laze động (DLS) ................................................................................ 67
2.4.6. Phương pháp đánh giá độc tính của chất lỏng từ lên tế bào ung thư và tế bào lành .. 67
2.4.7. Đo và chụp ảnh cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) ................................................. 70
Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 74
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU HỆ CHẤT LỎNG TỪ TRÊN NỀN Fe TỔNG HỢP BẰNG
PHƯƠNG PHÁP THỦY NHIỆT ................................................................................. 75
3.1. Thực hiện quy hoạch thực nghiệm bậc hai ba mức tối ưu .................................... 76
3.2. Đặc trưng về cấu trúc và hình thái của hạt nano từ tính Fe3O4 bọc chitosan ......... 83
3.3. Đặc trưng về độ bền của hệ chất lỏng từ Fe3O4 bọc chitosan ............................... 88
3.4. Thử nghiệm đánh giá độc tính của hệ chất lỏng từ Fe3O4 bọc chitosan ................ 90
Kết luận chương 3 ........................................................................................................ 95
CHƯƠNG 4: NGHIÊN CỨU HỆ CHẤT LỎNG TỪ TRÊN NỀN OXIT SẮT TỔNG
HỢP BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN HỦY NHIỆT ................................................... 96
4.1. Khảo sát ảnh hưởng của dung môi và nhiệt độ lên tính chất của hạt Fe3O4 ......... 96
4.1.1. Đặc trưng cấu trúc, hình thái của hạt nano Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp phân
hủy nhiệt ....................................................................................................................... 97
4.1.2. Tính chất từ ....................................................................................................... 100
4.1.3. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian lên tính chất của hạt Fe3O4 ........................ 101
4.2. Chế tạo chất lỏng từ chứa hạt nano từ tính Fe3O4 bọc bằng PMAO ................... 104
4.3. Thử nghiệm đánh giá độc tính của hệ chất lỏng từ Fe3O4 chuyển pha và bọc bằng
PMAO ......................................................................................................................... 109
Kết luận chương 4 ...................................................................................................... 113
CHƯƠNG 5: ĐẶC TRƯNG ĐỘ HỒI PHỤC r1, r2, THỬ NGHIỆM ĐỘC TÍNH VÀ
ĐÁNH GIÁ ĐỘ TƯƠNG PHẢN ẢNH BẰNG KỸ THUẬT CHỤP ẢNH CỘNG
HƯỞNG TỪ MRI ...................................................................................................... 114
5.1. Đánh giá độ hồi phục r1, r2 của các hệ chất lỏng từ chế tạo bằng các phương pháp
khác nhau .................................................................................................................... 114
5.1.1. Đánh giá độ hồi phục r1, r2 của hệ chất lỏng từ ................................................ 114
5.1.2. Đánh giá khả năng tương phản trong các môi trường khác nhau của hệ chất lỏng từ .. 118
5.2. Khảo sát khả năng ứng dụng chất lỏng từ trên động vật thí nghiệm ................... 123
5.2.1. Thử nghiệm in-vivo đánh giá khả năng ứng dụng hệ chất lỏng từ tính nano Fe3O4
làm thuốc tương phản trong kỹ thuật cộng hưởng từ MRI trên động vật .................. 123
5.2.2. Thử nghiệm in-vivo đánh giá khả năng ứng dụng hệ chất lỏng từ tính nano Fe3O4
làm thuốc tương phản trong chẩn mô bệnh ung thư bằng kỹ thuật cộng hưởng từ MRI
trên động vật ............................................................................................................... 130
Kết luận chương 5 ...................................................................................................... 137
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................. 138
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ .......................................................... 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 142
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Thông số bán kính của một số ion kim loại . ................................................. 5
Bảng 1.2. Phân bố ion trong các vị trí của cấu trúc spinel. ............................................ 6
Bảng 1.3. Bảng tổng kết các loại polyme bọc hạt nano từ và các ưu điểm
của chúng ...................................................................................................................... 28
Bảng 1.4. Tín hiệu T1W và T2W của các mô/dịch cơ thể ........................................... 40
Bảng 1.5. Các chất tương phản MRI nền oxit sắt ......................................................... 44
Bảng 1.6. Các chất tương phản MRI nền oxit sắt: đặc trưng kích thước hạt, cơ quan đích,
liều sử dụng và đường truyền thuốc .............................................................................. 44
Bảng 2.1: Giá trị mã hóa và giá trị thực nghiệm của các yếu tố thực nghiệm. ............ 51
Bảng 2.2: Ma trận thực nghiệm và kết quả tổng hợp chất lỏng từ theo từng thí nghiệm .... 51
Bảng 2.3. Sự phụ thuộc độ ổn định của hệ keo vào giá trị thế Zeta .............................. 67
Bảng 2.4 a. Chuẩn bị dãy nồng độ của hệ chất lỏng .................................................... 71
Bảng 2.4 b. Chuẩn bị dãy nồng độ của hệ chất lỏng ................................................... 71
Bảng 2.5. Các tham số chuỗi hình ảnh được sử dụng trong chụp ảnh MRI ................. 73
Bảng 3.1. Giá trị mã hóa và giá trị thực nghiệm của các yếu tố thực nghiệm. ............ 76
Bảng 3.2. Ma trận thực nghiệm và kết quả tổng hợp chất lỏng từ theo từng thí nghiệm ....... 77
Bảng 3.3. Kết quả phân tích ANOVA tối ưu quá trình tổng hợp các yếu tố. .............. 78
Bảng 3.4. Các giải pháp tối ưu với hàm lượng 3 biến xác định và giá trị hàm mong đợi
tối ưu ............................................................................................................................. 81
Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra giá trị từ độ bão hòa Ms thu được từ mô hình và thực tế ...... 82
Bảng 3.6. Các vị trí hấp thụ chính của các chất ........................................................... 84
Bảng 3.7. Hằng số mạng (a), kích thước tinh thể trung bình (DXRD), kích thước hạt trung bình
(DFESEM) của các mẫu hạt nano Fe3O4 tổng hợp ở các điều kiện phản ứng khác nhau .......... 86
Bảng 4.1. Giá trị từ độ bao gồm cả lớp vỏ và lõi (Fe3O4 +OA+OLA, PMAO), kích thước
hạt trung bình (DTEM) .................................................................................................. 100
Bảng 4.2. Hằng số mạng (a), kích thước tinh thể trung bình (DXRD), kích thước hạt trung
bình (DTEM), từ độ tại 10 kOe (Ms10kOe), lực kháng từ (Hc) của các mẫu hạt nano ...... 102
Bảng 5.1. Kết quả tính toán độ hồi phục r1, r2 và tỷ số r1/r2 cho mẫu Fe3O4@PMAO,
Fe3O4@CS và chất so sánh Resovist ......................................................................... 117
Bảng 5.2. Một số tham số chuỗi hình ảnh được sử dụng trong chụp ảnh MRI .......... 124
sau 15 phút, (d) sau 30 phút. ....................................................................................... 134
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình 1.1. Cấu trúc tinh thể của vật liệu ferit spinel . ...................................................... 5
Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể và sự sắp xếp mômen từ trong vật liệu Fe3O4. ................... 6
Hình 1.4. Đường cong từ trễ đo độ từ hóa của vật liệu siêu thuận từ (superparamagnetic,
SPM) và sắt từ (ferromagnetic, FM) với lực kháng từ Hệ từ độ bão hòa Ms, độ từ dư Mr
. ....................................................................................................................................... 9
Hình 1.5. Sự phụ thuộc lực kháng từ (Hc) của Fe3O4 vào kích thước hạt ................... 10
Hình 1.6. Mô hình thuốc lõi nano đa chức năng .......................................................... 13
Hình 1.7. Minh họa các ứng dụng của hạt siêu thuận từ Fe3O4 trong chẩn đoán ung thư
(hiệu ứng MRI) và điều trị ung thư (hiệu ứng nhiệt trị) ............................................... 14
Hình 1.8. Tổng hợp hạt nano bằng phương pháp hot injection ..................................... 21
Hình 1.9. Cấu trúc của một vài chất hoạt động bề mặt được sử dụng trong tổng hợp hạt
nano trong dung môi hữu cơ ......................................................................................... 22
Hình 1.10. Mô hình bọc hạt nano từ .............................................................................. 23
Hình 1.11. Các ảnh TEM: A) Các hạt nano sắt được phủ cacbon chế tạo bằng phương pháp
nổ cảm ứng nhiệt phân của ferrocene; B) Các hạt nano sắt trong một ma trận cacbon chế
tạo bằng phương pháp lắng đọng hóa học pha hơi; C) Các hạt nano coban được cacbon bảo
vệ chế tạo bằng phương pháp nhiệt phân cồn polyfurfuryl ............................................. 25
Hình 1.12. Sơ đồ minh họa bước thứ nhất của phản ứng xúc tác ngưng tụ
tetraethylorthosilicate (TEOS) ...................................................................................... 26
Hình 1.13. Các ảnh TEM của các hạt nano sắt oxit và sắt với lớp ngoài SiO2: A) Tổ hợp
keo phân tán đơn bao gồm các hạt nano hematite trong khối cầu silic 100 nm; B) Các
hạt nano hematite có dạng bát diện trong lớp vở SiO2 dày 50 nm; C) các hạt nano oxit
sắt từ trong hình cầu silic; D) Các đám nano sắt kẹp trong chất keo SiO2 . ................. 26
Hình 1.14. Các phương pháp chuyển pha hạt nano từ sang môi trường nước .............. 29
Hình 1.15. Minh họa quy trình chuyển pha ligand exchange sử dụng poly với các nhóm
chức COOH ................................................................................................................. 30
Hình 1.16. Ảnh TEM (a) và phổ DLS (b) của hạt nano Fe3O4 bọc bởi phân tử dophamine
sulfonate (DS), và quy trình tổng hợp và cấu trúc phân tử của DS (c). Hình nhỏ bên trong
(hình a) là ảnh chụp các hạt Fe3O4 bọc bởi các phân tử DS phân tán trong nước ............. 31
Hình 1.17. Minh họa quy trình chuyển pha sử dụng các amphiphilic polymer: DSPE-
PEG (phần trên), PMAO (Phần giữa) và Fluronic (phần hình dưới) ............................ 32
Hình 1.18. Mô hình quá trình bọc hệ hạt nano bằng PAA và bọc bằng PMAO ........... 32
Hình 1.19. Mô hình bọc hạt nano Fe3O4 của nhóm tác giả Sun ................................... 33
Hình 1.20. Các ứng dụng của hạt nano từ tính ............................................................. 34
Hình 1.21. Mô hình cấu tạo máy MRI. Radio Frequancy Coil: cuộn phát sóng tần số
radio, Gradient coils: cuộn gradient, Maggnet: Từ trường, Scanner: Bộ phận
quét, Patient: Bệnh nhân. Patient Table: Bàn bệnh nhân. ............................................ 36
Hình 1.22. Nguyên lý của MRI và vai trò của hạt nano từ tính làm thuốc tăng tương
phản (a) spin từ (m) của các proton nước tiến động xung quanh hướng của từ trường bên
ngoài B0; (b) sau khi áp dụng một xung RF, m tiến động công góc với B0; (c) m hồi phục
trở lại trạng thái cân bằng ban đầu của nó thông qua theo chế độ hồi phục chiều dọc (T1)
và (d) ngang (T2); (e) Khi có mặt nano từ tính, các spin của các proton nước bắt đầu tiến
động không đồng nhất dưới tác dụng bổ sung của trường lưỡng cực cục bộ(B1, gây ra
bởi các hạt nano. Do đó các hồi phục xảy ra nhanh hơn và tạo ra một tín hiệu MRI mạnh
hơn ................................................................................................................................ 37
Hình 1.23. Tạo ảnh T2, T1 điều chỉnh .......................................................................... 40
Hình 1.24. Hiệu ứng tương phản của các hạt nano từ tính trong nước ......................... 41
Hạt nano từ tính được chức năng hóa để liên kết với một số mô nhất định sẽ có tác dụng
đánh dấu hiệu quả hơn. Hiện tại có thể chia các chất tương phản làm 3 loại tương ứng
với các cơ chế T1 và theo 1 cơ chế mới phát hiện gần đây là cơ chế trao đổi bão hòa
kèm theo chuyến hóa chất ............................................................................................ 41
Hình 1.25. Cơ chế trao đổi bão hòa kèm theo chuyển hóa chất (CEST) ..................... 42
Hình 1.26. Phân loại các thuốc tăng tương phản tương ứng với các cơ chế Tl, T2 và CEST...... 43
Hình 1.27. Công thức hóa học và sản phẩm OMNISCAN của thuốc tương phản T1 . 43
Hình 1.28. Vai trò ảnh hưởng của kích thước hạt lên hình ảnh trọng T2 MRI của
Fe3O4(4, 6, 9,12 nm) trong từ trường 1,5T ................................................................... 45
Hình 1.29. Giá trị T1 và T2 và hình ảnh MRI của hợp kim nano FeCo/C, so sánh với 2
sản phẩm thương mại là Feridex và Magnevist ............................................................. 46
Hình 1.30. Chế độ chụp MRI nanohybrid, T1, T2 và multimodal ............................... 46
Hình 2.1.Quy trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 bằng phương pháp thủy nhiệt. .............. 49
Hình 2.2. Quy trình tổng hợp hạt nano từ tính Fe3O4 bọc Chitosan ............................ 50
Hình 2.3. Hệ thiết bị dùng để chế tạo hệ hạt Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt (a)
và (b) sơ đồ quá trình thay đổi nhiệt độ và thời gian tổng hợp hạt nano Fe3O4. .......... 54
Hình 2.4. Quy trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt ...... 54
Hình 2.5. Mô hình quá trình chuyển pha và bọc hệ hạt nano bằng PMAO ................. 56
Hình 2.6. Quy trình chuyển pha và bọc hạt Fe3O4 bằng PMAO .................................. 56
Hình 2.7. Sơ đồ tín hiệu của quy hoạch thực nghiệm .................................................. 58
Hình 2.8. Vùng xác định ABCD các yếu tố yếu tố ảnh hưởng và vùng lân cận .......... 60
Hình 2.9. Vùng xác định A’B’C’D’các yếu tố ảnh hưởng và vùng lân cận ................ 60
Hình 2.10. Sơ đồ nhiễu xạ tia X từ một số mặt phẳng hữu hạn ................................... 62
Hình 2.11. Thiết bị nhiễu xạ tia X ................................................................................ 63
Hình 2.12. Sơ đồ mô tả các tín hiệu nhận được từ mẫu trong ảnh SEM ...................... 65
Hình 2.13. Kính hiển vi điện tử quét HITACHI S-4800 .............................................. 65
Hình 2.14. Kính hiển vi điện tửtruyền qua JEOL TEM ............................................... 65
Hình 2.15. Hệ đo VSM ................................................................................................. 66
Hình 2.16. Máy đo MalvernZetasizer và Horiba SZ-100 ............................................. 67
Hình 2.17. Xác định giá trị IC50 trực tiếp dựa vào đồ thị đáp ứng liều của các dòng tế
bào khi thử thuốc với các nồng độ khác nhau .............................................................. 68
Hình 2.18. Chuẩn bị đĩa giếng chứa các mẫu chất lỏng từ: Fe3O4@PMAO, Fe3O4@CS,
Resovist và mẫu đối chứng agar 2% (trên) và sơ đồ chụp các bước chụp ảnh bằng kỹ
thuật MRI (dưới) ........................................................................................................... 72
Hình 3.1. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố theo phân tích ANOVA (p<0,05). ......... 78
Hình 3.2: Mô hình (dự đoán) so với giá trị thực nghiệm trong quá trình tổng hợp hạt
nano từ tính (MNPs) ..................................................................................................... 79
Hình 3.3: Đồ thị bề mặt đáp ứng biểu diễn sự tác động của từng cặp yếu tố (AB, AC)
đến giá trị từ độ và mức độ mong muốn theo các cặp tương tác. ................................. 80
Hình 3.4: Đường cong từ độ bão hòa của các mẫu hạt nano Fe3O4 bọc chitosan ở các
điều kiện tổng hợp khác nhau và tại điều kiện tối ưu bằng phương pháp thủy nhiệt ... 80
Hình 3.5. Đường M(H) fit theo hàm Langevin của mẫu tại điều kiện tối ưu ............... 83
Hình 3.6. Mô hình liên kết của hạt nano từ Fe3O4 với chitosan khi phân tán hạt từ trong
mạng lưới chitosan ……………………………………………………………………83
Hình 3.7. Ảnh nhiễu xạ tia X của vật liệu nano Fe3O4 tinh khiết và vật liệu nano ..... 84
Hình 3.8. Phổ FTIR của Chitosan (CS), Fe3O4 và hạt nano từ tính Fe3O4@CS .......... 85
Hình 3.9. Ảnh FESEM của mẫu Fe3O4 tổng hợp ở các điều kiện phản ứng khác nhau. ... 86
Hình 3.10. Ảnh TEM hạt Fe3O4@CS điều chế ở điều kiện khác nhau chế tạo bằng
phương pháp thủy nhiệt. ............................................................................................... 87
Hình 3.11. Ảnh TEM hạt Fe3O4@CS điều chế ở điều kiện tối ưu (nồng độ Fe3+ 0,21M;
nhiệt độ phản ứng 1650C; thời gian ủ mẫu 2 giờ 55 phút) chế tạo bằng phương pháp thủy
nhiệt (a) và giản đồ phân tích nhiệt TGA với lớp vỏ bọc CS (b) ................................. 87
Hình 3.12. Giản đồ phân bố kích thước hạt (DLS) của chất lỏng từ Fe3O4@CS tại các
giá trị pH khác nhau (a) và nồng độ muối NaCl khác nhau (b) ................................... 88
Hình 3.13. Giản đồ phân bố kích thước hạt (DLS) của Fe3O4@CS ở các nồng độ muối
100 mM (a) và 300 mM (b) .......................................................................................... 89
Hình 3.14. Quá trình quét thế Zeta của các hạt nano phân tán trong chất lỏng ở các thời
điểm khác nhau: cho 0 ngày (a), 90 ngày (b), 180 ngày (c), và (d) ảnh của huyền phù
Fe3O4@CS dưới tác động của từ trường trong phòng nhiệt độ trong 90 ngày. ............ 90
Hình 3.15. Đường cong từ hóa của các mẫu Fe3O4@CS sau 90 ngày chế tạo. Đường liền
nét là đường làm khớp theo hàm Langevin. ................................................................. 90
Hình 3.16: Hình thái của tế bào Sarcoma 180 đạt chuẩn trước khi tiến hành thử nghiệm
MTT .............................................................................................................................. 91
Hình 3.17. Phản ứng trong thử nghiêm màu MTT ....................................................... 91
Hình 3.18. Tỷ lệ sống sót của tế bào Sarcoma 180 sau khi ủ trong 48 tiếng với
Fe3O4@CS. Dãy đồng độ thử nghiệm như sau: (C1): 500 µg/ml, (C2): 250 µg/ml, (C3):
125 µg/ml, (C4): 62,5 µg/ml, (C5): 30,25 µg/ml and (C6): 15,125 µg/ml. Các giá trị
được biểu diễn dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (SD) .............................. 92
Hình 3.19. Hình thái tế bào Sarcoma 180 quan sát dưới kính hiển vi soi ngược. CA: đối chứng
sinh học. CB: Đối chứng dung môi DMSO. Dải nồng độ chất lỏng từ Fe3O4@CS (C1): 500
µg/ml, (C2): 250 µg/ml, (C3): 125 µg/ml, (C4): 62.5 µg/ml, (C5): 30.25 µg/ml and (C6):
15.125 µg/ml. Hình ảnh quan sát dưới vật kính 20X, độ phóng đại 5.6. ........................... 93
Hình 4.1. Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các nhiệt độ phản ứng khác
nhau trong các dung môi khác nhau ............................................................................. 97
Hình 4.2. Ảnh TEM hạt của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các nhiệt độ khác nhau trong
các dung môi khác nhau trong thời gian 1 giờ ............................................................. 98
Hình 4.3. Ảnh HRTEM hạt của các mẫu Fe3O4 được chế tạo bằng phương pháp phân
hủy nhiệt trong hỗn hợp dung môi dibenzyl ete và 1-octadecene ................................ 99
Hình 4.4. Đường cong từ hóa và đường cong từ hóa phóng đại trong vùng từ trường nhỏ
dùng để xác định Hc của các mẫu ở các nhiệt độ trong các dung môi khác nhau .......... 101
Hình 4.5. Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các thời gian phản ứng khác
nhau trong vùng từ 0,5 đến 2 giờ tại nhiệt độ phản ứng 298 oC. ................................ 101
Hình 4.6. Ảnh TEM hạt của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các thời gian khác nhau ở
nhiệt độ phản ứng 310oC. ........................................................................................... 102
Hình 4.7. Đường cong từ hóa và đường cong từ hóa phóng đại trong vùng từ trường nhỏ
dùng để xác định Hc của các mẫu ở các thời gian khác nhau .................................... 103
Hình 4.8. Ảnh mẫu Fe3O4 trước và sau khi chuyển pha (a) và ảnh HRTEM của hạt Fe3O4
trước khi chuyển pha và bọc PMAO trong dung môi hexane và hạt Fe3O4 bọc bởi PMAO
trong nước (b) ............................................................................................................. 104
Hình 4.9. Ảnh TEM của các mẫu: Fe3O4@PMAO (a) và Fe3O4@PMAO pha loãng ... 105
Hình 4.10. Ảnh HRTEM hạt của các mẫu Fe3O4 sau khi được chuyển pha .............. 105
Hình 4.11. Phổ FTIR của Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp phân hủy nệt với lớp vỏ b bọc OA,
OLA (a), của PMAO (b) và của vật liệu sau khi chuyển pha và bọc bằng PMAO (c) .......... 106
Hình 4.12. Giản đồ TGA của Fe3O4 với lớp vỏ bọc OA, OLA chế tạo bằng phương pháp
phân hủy nhiệt (a) và sau khi bọc PMAO (b) ............................................................. 107
Hình 4.13. Gía trị thế zeta và hình ảnh mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO sau 1 tháng chế
tạo (a) 3 tháng (b) và sau 6 tháng chế tạo (c) ............................................................. 107
Hình 4.14. Đường M(H) ở nhiệt độ phòng của các mẫu Fe3O4, Fe3O4@PMAO ...... 108
Hình 4.15. Hình ảnh mẫu chất lỏng trong các môi trường nồng độ muối khác nhau. .... 108
Hình 4.16. Gía trị thế zeta và hình ảnh mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO ở các nồng độ
muối khác nhau ........................................................................................................... 109
Hình 4.17. Kết quả độc tính của hệ nano từ Fe3O4@PMAO trên ba dòng tế bào ung thư
người Hep-G2, MCF-7 và RD cùng 1 dòng tế bào lành của khỉ Vero. Nồng độ của
Fe3O4@PMAO trong đồ thì này là 25 ug/ml; DMSO được dùng làm đối chứng dung
môi và chất chuẩn pha trong DMSO được dùng làm đối chứng dương. .................... 110
Hình 4.18. Hình ảnh tế bào quan sát dưới kính hiển vi Optika 4083.B1 với vật kính 40X.
Tế bào ung thư gan Hep-G2 trong DMSO (A) và ủ với 25 ug/ml chất lỏng nano từ
Fe3O4@PMAO (B). Tế bào thận khỉ Vero trong DMSO (C) và ủ với 25 ug/ml chất lỏng
nano từ Fe3O4@PMAO (D). ....................................................................................... 110
Hình 5.1. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W, TR=
100 ms (a), TR =200 ms (b), TR =400 ms (c), TE =12 ms đối với các mẫu (A) hệ nano
từ Fe3O4@PMAO trong môi trường agar 2%, (B) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi
trường agar 2%. Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng là (1) 2,5 µg/ml, (2) 5,0 µg/ml, (3) 10,0
µg/ml, (4) 15,0 µg/ml, (5) 25,0 µg/ml và (6) 30,0 µg/ml. .......................................... 115
Hình 5.2. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W, TE =11
ms (a), TE =23 ms (b), TE = 34 ms (c), TE= 57 ms (d), TE =91 ms (e), TE =113 ms (f),
TR =4000 ms đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO trong môi trường agar
2%, (B) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi trường agar 2%. Nồng độ sắt từ trong mỗi
giếng là (1) 2,5 µg/ml, (2) 5,0 µg/ml, (3) 10,0 µg/ml, (4) 15,0 µg/ml, (5) 25,0 µg/ml và
(6) 30,0 µg/ml. ............................................................................................................ 116
Hình 5.3. Đường cong hồi phục T2 (suy giảm về 0) đo cho các mẫu chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO (a) Fe3O4@CS (b) ở các nồng độ khác nhau. ................................... 116
Hình 5.4. Tốc độ hồi phục ngang (a) và hồi phục dọc (b) của mẫu chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO (a) và Fe3O4@CS (b). 116
Bảng 5.1. Kết quả tính toán độ hồi phục r1, r2 và tỷ số r1/r2 cho mẫu Fe3O4@PMAO,
Fe3O4@CS và chất so sánh Resovist ......................................................................... 117
Hình 5.5. Hình ảnh chụp MRI xác định độ hồi phục r1, r2. ....................................... 118
Hình 5.6. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W trong
môi trường nước, TE= 12 ms (a), TE =25 ms (b), TE =37 ms (c), TE =50 ms (d), TE=
62 ms (e), TE =75 ms (f), TR =4000 ms đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO
trong môi trường nước, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran (Resovist) trong môi trường
agar 2%, (C) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi trường nước, (D) Mẫu đối chứng (không
có hạt từ) trong môi trường nước ............................................................................... 119
Hình 5.7. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W trong môi
trường nước, TR= 100 ms (a), TR =400 ms (b), TE =15 ms đối với các mẫu (A) hệ nano
từ Fe3O4@PMAO trong môi trường nước, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran (Resovist)
trong môi trường nước, (C) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi trường nước, (D) Mẫu đối
chứng (không có hạt từ) trong môi trường nước. Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng là .. 119
Hình 5.8. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W trong
môi trường pH khác nhau, TE= 11 ms (a), TE = 23 ms (b), TE =34 ms (c), TE =57 ms
(d) đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran
(Resovist). Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng 45,0 µg/ml trong môi trường có ........... 121
Hình 5.9. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W trong
môi trường pH khác nhau, TR= 100 ms (a), TR = 200 ms (b), TR =400 ms (c), TE =12
ms đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran
(Resovist). Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng 45,0 µg/ml trong môi trường có (1) pH =2,
(2) pH =3, (3) pH =7, (4) pH =9, (5) pH =12. ............................................................ 121
Hình 5.10. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W trong
môi trường nồng độ muối khác nhau .............................................................................. 122
Hình 5.11. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W trong
môi trường nồng độ muối khác nhau, TR= 100 ms (a), TR =400 ms (b), TE =12 ms đối
với các mẫu (A) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran (Resovist), (B) Hệ nano từ Fe3O4@PMAO,
(C) Mẫu đối chứng (không có hạt từ) trong môi trường nước. Nồng độ sắt từ trong mỗi
giếng 45,0 µg/ml trong môi trường có nồng độ muối khác nhau (1) 50 mM, (2) 100 mM,
(3) 150 mM, (4) 200 mM. .......................................................................................... 123
Fe3O4 làm thuốc tương phản trong kỹ thuật cộng hưởng từ MRI trên động vật ........ 123
Hình 5.12. Hình ảnh thỏ trước khi được đưa vào máy chụp MRI. ............................ 125
Hình 5.13. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên thận thỏ của hệ
nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T1W (SAGITAL), TE= 9,2 ms, TR =659 ms đối với (A)
Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. ......................... 126
Hình 5.14. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên mô gan thỏ của
hệ nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T1W (SAGITAL), TE= 9,2 ms, TR =659 ms đối với
(A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. ................... 126
Hình 5.15. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên mô gan thỏ của
hệ nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (SAGITAL), TE= 94 ms, TR =3571 ms đối với
(A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. ................... 127
Hình 5.16. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên thận thỏ của hệ
nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (SAGITAL), TE= 94 ms, TR =3571 ms đối với (A)
Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. ......................... 128
Hình 5.17. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano Fe3O@PMAO
ở chế độ T1W (CORONAL) trên thỏ, TE= 20 ms, TR =550 ms đối với (A) Thỏ trước khi tiêm
chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. (a) Trước tiêm, (b) sau tiêm. .................... 129
Hình 5.18. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (CORONAL) trên thỏ, TE= 112 ms, TR =7500 ms đối
với (A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. (a) Trước
tiêm, (b) sau tiêm 30 phút, (c) sau tiêm 60 phút. ........................................................ 129
Hình 5.19. Chuột nhắt trắng Swiss. ............................................................................ 131
Hình 5.20. Chuột trắng swiss lên u báng ở đùi sau 15 ngày tạo khối u…………….. 131
Hình 5.21. Tiêm tĩnh mạch (a) và tiêm trực tiếp tại khối u (b) trên chuột nhắt trắng.
..................................................................................................................................... 131
Hình 5.22. Một số hình ảnh chuột sau khi gây mê trước khi đưa vào chụp ảnh MRI. ... 133
Hình 5.23. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (CORONAL) trên chuột, TE= 91 ms, TR =3970 ms trên chuột.
………………………………………………………………………………………………….133
Hình 5.24. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (AXIAL) trên khối u chuột sau khi tiêm tiêm trực tiếp
khối u, TE= 91 ms, TR =3970 ms trên chuột. (a) không tiêm, (b) ngay sau tiêm, (c) sau
15 phút, (d) sau 30 phút. ............................................................................................. 134
Hình 5.25. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (AXIAL) trên khối u chuột sau khi tiêm theo tĩnh mạch, TE=
91 ms, TR =3970 ms trên chuột. (a) không tiêm, (b) sau 2 giờ, (c) sau 12 giờ, (d) sau 24 giờ.
..................................................................................................................................... 135
Hình 5.26. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (AXIAL) trên mô gan chuột, TE= 91 ms, TR =3970 ms
trên chuột. (a) không tiêm, (b) tiêm tĩnh mạch. .......................................................... 136
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
I. Danh mục các ký hiệu
A Tỷ số tăng sinh
Aex Hệ số tương tác trao đổi
dSP Kích thước giới hạn siêu thuận từ
EA Năng lượng dị hướng tinh thể
Ec Năng lượng dị hướng hình dạng
Hc Lực kháng từ
Hd Trường khử từ
Hext Từ trường ngoài
IC50 Nồng độ ức chế (Inhibited Concentration)
K Hằng số dị huớng từ tinh thể
K1 và K2 Hằng số dị hướng từ bậc 1 và 2
L(x) Hàm Langevin
MLag Từ độ khớp theo hàm Langevin
N Thừa số khử từ
rc Bán kính đơn đômen tới hạn
TH Giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng thử với mẫu
TB Nhiệt độ khóa
Tz Giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng nuôi tế bào ở thời
điểm zero lúc bắt đầu tra mẫu để thử
V Thể tích hạt
VH Giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng thử với dung
môi
κ Góc giữa từ độ và trục dễ
μ0 Độ từ thẩm chân không
φ Góc giữa trục dễ của hạt nano từ và từ trường ngoài
Ms Từ độ bão hòa
Mco, Msh Từ độ lõi, từ độ vỏ
Tmax Nhiệt độ cực đại
T Nhiệt độ
T1, T1W Thời gian hồi phục spin-mạng (dọc) - Chụp MRI theo chế độ trọng T1
T2, T2W Thời gian hồi phục spin-spin (ngang) - Chụp MRI theo chế độ trọng
T2
R1 Tốc độ hồi phục dọc
R2 Tốc độ hồi phục ngang
r1 Độ hồi phục dọc
r2 Độ hồi phục ngang
B, H Từ trường
f Tần số
C Nồng độ
@ Được bọc bởi
II. Danh mục các chữ viết tắt
Tiếng Anh
AAS Atomic Absorption Spectroscopy (Phổ hấp phụ nguyên tử)
DLS Dynamic Light Scattering (Tán xạ ánh sáng động)
EDS Energy Dispersion Spectroscopy (Phổ phân tán năng lượng tia X)
FT-IR Fourier Transformation Infrared (Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier)
ILP Intrinsic Loss Power (Công suất tổn hao riêng)
MIH MNPs Magnetic Inductive Heating (Đốt nóng cảm ứng từ) Magnetice Nano
Particles (Các hạt nano từ)
MRI Magnetic Resonance Imaging (Ảnh cộng hưởng từ)
PPMS Physical Property Measurement System (Hệ đo các tính chất vật lý)
SAR Specific Absorption Rate (Tốc độ hấp phụ riêng)
SEM Scanning Electron Microscope (Kính hiển vi điện tử quét)
TGA Thermogrametric Analysis (Phân tích nhiệt vi trọng)
VSM Vibrating Sample Magnetometer (Từ kế mẫu rung)
XRD X-ray Diffraction (Nhiễu xạ tia X)
CS Chitosan
DPA Phân tử dopamine
DSC (Differential Scaning Calorimetry) Phân tích nhiệt lượng quét vi sai
DSPE-PEG 1,2-distearoyl-sn-glycero-3-phosphoethanolamine-N [amino
(polyethylene glycol)-2000
DTA Phân tích nhiệt vi sai (Differential Thermal Analysis)
FA Các axit béo
FC Làm lạnh có từ trường
FE-SEM Field Emission Scanning Electron Microscope (Kính hiển vi điện tử
quét- phát xạ trường)
IO Iron oxide (Hạt nano oxit sắt)
OLA Oleylamine
PAA Axit polyacrylic
PEG Polyethyleneglycol
PMAO Poly (maleic anhydride-alt-1-octadecene)
PMMA Polymethylmethacrylate
SQUID Superconducting quantum interference device (Giao thoa kế lượng tử
siêu dẫn)
TEM Transmission Electron Microscopy (Kính hiển vi điện tử truyền qua)
TOPO Trioctylphosphine oxide
ZFC Làm lạnh không có từ trường
Tiếng Việt
CHTHN Cộng hưởng từ hạt nhân
CNNNUT Công nghệ Nano Ung thư
ĐCSH Đối chứng sinh học
TBUT Tế bào ung thư
D Kích thước hạt nano
1
MỞ ĐẦU
Công nghệ nano đã và đang làm thay đổi đời sống của con người. Các nghiên cứu
từ cơ bản đến ứng dụng trong lĩnh vực này giúp chúng ta hiểu biết tường tận hơn về các
tính chất đặc biệt và lý thú của vật liệu khi ở kích thước nano, qua đó phát huy các ưu
điểm nổi bật, hạn chế và ngăn ngừa các tác hại có thể có để từng bước ứng dụng công
nghệ và vật liệu nano vào phục vụ cuộc sống ngày một tốt hơn. Hạt nano từ tính là một
ví dụ điển hình trong ứng dụng hạt nano vào lĩnh vực y sinh học do đặc điểm dễ chế tạo,
giá thành thấp và tính tương thích cao với cơ thể sống. Gần đây các ứng dụng của hạt
nano từ trong các ứng dụng y sinh, đặc biệt là trong chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật
cộng hưởng từ MRI đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới [49,
138, 109, 108]. Hiện nay trong chẩn đoán hình ảnh bằng chụp cộng hưởng từ MRI, các
tác nhân tương phản T1 đã trở thành thương phẩm truyền thống, đó là phức của ion
thuận từ có trị số mômen spin lớn như Gd3+ (có 7 điện tử chưa ghép cặp) [65, 111, 29,
15]. Các ion Gd3+ này được kết hợp với các phân tử như DTPA (axit dietylentriamin
penta axetic) và tạo ra các cấu trúc dạng phức vòng chelat Gd-DTPA [33]. Trong quá
trình hồi phục, sự tương tác giữa mômen từ của proton với mômen từ của các ion thuận
từ khiến cho thời gian T1 bị giảm, nhờ vậy tốc độ hồi phục R1 tăng lên. Nồng độ các
tác nhân là khác nhau trong mỗi vùng mô tế bào, do vậy mang lại hiệu quả tương phản
trên ảnh chụp MRI. Trong khoảng gần 20 năm nay, cùng với sự phát triển của công nghệ
nano hạt nano sắt oxit (iron oxide - IO) đang được nghiên cứu mạnh và thực tế đến nay
đã có nhiều dòng sản phẩm thương mại chất tăng mức độ tương phản MRI dùng loại vật
liệu sắt oxit này, chứng minh rằng các sắt oxit-MRI có thể cho chất lượng tăng mức độ
tương phản tốt hơn cả loại Gd-DTPA vì hạt sắt oxit có hệ số cảm từ lớn hơn [143, 40,
154,107, 12]. Các chất IO-MRI có thể làm giảm cả T1 và T2, tăng được tốc độ hồi phục
MRI chụp theo cả 2 chế độ chụp MRI trọng Tl và trọng T2 [96,152, 163, 131, 18]. Các
yêu cầu quan trọng đối với sản phẩm tăng tương phản ảnh MRI là hạt nano từ tính phải
có độ phân bố hạt tương đối đều và từ độ bão hòa đủ lớn, và chất bọc phải có độ tương
hợp sinh học tốt [49,75,116, 61]. Trong khi một số sản phẩm thương mại trên thế giới
như Resovist dùng chất bọc là dextran [103, 135], với hạt lõi cỡ 65nm tạo ra từ độ bão
hòa khoảng 65 emu/g. Các sản phẩm với cỡ hạt trong vùng 20-40nm như AMI-227:
Sinerem/Combidex là thích hợp với bạch huyết và xương [23]. Trong khoảng 10 năm
gần đây người ta đang nghiên cứu để chế tạo các hạt nano siêu thuận từ với cỡ hạt nhỏ
hơn 20 nm (còn được gọi là loại siêu nhỏ nếu cỡ hạt D<10 nm) và đặc biệt là các hạt sắt
oxit có đánh dấu từ nhằm mục đích chụp ảnh MRI hướng đích (targeted imaging) [24,
62, 118, 95, 122]. Tại Việt Nam, cho đến nay việc chế tạo các hạt nano nói chung và hạt
2
nano từ nói riêng đã được tập trung nghiên cứu theo hai phương diện: Nghiên cứu cơ
bản và nghiên cứu định hướng ứng dụng. Các kết quả nghiên cứu sâu sắc được công bố
chủ yếu từ các cơ sở nghiên cứu mạnh như: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách
khoa Hà Nội và Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam [98, 129, 76, 89]. Việc
tổng hợp vật liệu nano từ đa phần được thực hiện trong môi trường nước và bằng các
phương pháp tổng hợp như phương pháp đồng kết tủa, phương pháp thủy nhiệt, phương
pháp vi sóng và phương pháp tổng hợp điện hóa siêu âm. Do tổng hợp trong môi trường
nước nên các hạt nano từ chế tạo được có chất lượng chưa cao, các hạt không đồng đều
về cỡ hạt và không đồng nhất về hình dạng và vì vậy chúng bị hạn chế sử dụng cho các
ứng dụng in vivo trong y sinh như dùng làm thuốc tương phản trong chẩn đoán hình ảnh
bằng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ MRI, đốt nóng cảm ứng từ v.v, ngoài ra chính sự
không đồng đều đó còn ảnh hưởng ngay cả đến kết quả nghiên cứu các tính chất từ của
chúng. Do đó, cho đến nay việc lựa chọn các điều kiện trong quá trình chế tạo chất lỏng
từ tính nano Fe3O4 nhằm chế tạo ra các hạt có cỡ hạt bé, có sự phân bố đều, đồng nhất
về hình dạng, độ bền cao, từ tính cao và có khả năng tương thích sinh học cao, nhờ đó
có khả năng ứng dụng làm thuốc tương phản trong chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật
chụp cộng hưởng từ MRI, tạo ra các trị số tối ưu của các xung TR, TE khi chụp theo chế
độ T1, T2, đồng thời xác định trị số hồi phục r1, r2 để đánh giá chất lượng của chất lỏng
từ làm thuốc tương phản trong chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ
MRI vẫn đang đòi hỏi những nghiên cứu tiếp tục một cách toàn diện và có hệ thống.
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về vật liệu nano từ trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, căn cứ vào tiềm lực nghiên cứu, đào tạo tiến sĩ của Học viện Khoa học và Công
nghệ, Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam, dưới sự hướng dẫn của tập thể
các nhà khoa học giàu kinh nghiệm, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu chế tạo chất
lỏng từ trên nền oxit sắt siêu thuận từ định hướng ứng dụng chụp ảnh cộng hưởng
từ MRI” để thực hiện cho nội dung luận án này.
Mục tiêu luận án:
Mục tiêu của luận án nhằm xây dựng được qui trình chế tạo chất lỏng từ tính kích
thước nano trên nền oxit sắt siêu thuận từ (kích thước hạt đồng đều và từ độ bão hòa
cao) với công nghệ ổn định; nghiên cứu đặc trưng các tính chất từ của các hạt nano từ;
đánh giá độc tính và thử nghiệm tác động lên tế bào, hướng tới mục đích làm thuốc tăng
tương phản trong chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật chụp ảnh cộng hưởng từ MRI, ứng
dụng trong xác định chính xác mô bệnh ung thư. Các nhóm nội dung chính sau đã được
tiến hành trong luận án:
1. Tổng hợp thành công hạt nano siêu thuận từ Fe3O4 có kích thước hạt đồng đều
3
và từ độ bão hòa cao bằng phương pháp thủy nhiệt và phân hủy nhiệt.
2. Chế tạo thành công các mẫu chất lỏng từ có độ bền cao trên nền hạt nano siêu
thuận từ Fe3O4 tổng hợp bằng hai phương pháp trên.
3. Nghiên cứu đánh giá độc tính và độ bền của hệ chất lỏng từ.
4. Nghiên cứu khả năng ứng dụng làm chất tăng cường độ tương phản ảnh trong
kỹ thuật chụp cộng hưởng từ MRI.
Nội dung của luận án được trình bày bao gồm:
Chương 1 trình bày tổng quan giới thiệu về cấu trúc, tính chất của vật liệu ferit
spinel, các phương pháp chế tạo hạt nano nói chung và đặc biệt đối với hạt nano từ Fe3O4
nói riêng. Các quy trình bọc hạt cũng như các quá trình chuyển pha trên nền hạt nano từ
Fe3O4 cũng được trình bày tổng quát. Trong chương 2, các quy trình chế tạo hạt Fe3O4,
quy trình chế tạo chất lỏng từ trên nền hạt Fe3O4 và nguyên lý của các phép đo nhằm
phân tích và biện luận các kết quả trong luận án được trình bày chi tiết. Các kết quả thu
nhận được của luận án và các thảo luận liên quan được tập trung trình bày chi tiết trong
chương 3, chương 4 và chương 5. Chương 3 trình bày các kết quả nghiên cứu tổng hợp
vật liệu Fe3O4 bằng phương pháp thủy nhiệt cùng các kết quả phân tích về cấu trúc, hình
thái học, và các tính chất từ của chúng. Các kết quả nghiên cứu trong chương 4 liên quan
đến hệ vật liệu Fe3O4 được tổng hợp bằng phương pháp phân hủy nhiệt cùng các đặc
trưng cấu trúc, hình thái, và tính chất từ được trình bày, phân tích và biện luận chi tiết.
Chương 5 trình bày các kết quả nghiên cứu định hướng ứng dụng trong y sinh bao gồm
các kết quả nghiên cứu độ bền, đánh giá độc tính và thử nghiệm làm chất tăng cường độ
tương phản ảnh trong chụp cộng hưởng từ MRI.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án:
Bản thân việc tổ chức thực hiện đề tài đã có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển
một hướng khoa học công nghệ đa ngành là công nghệ nano cho Y học. Sẽ có sự trao
đổi học thuật, học hỏi lẫn nhau giữa các nhóm nghiên cứu trong các ngành xưa nay xem
như độc lập với nhau. Về mặt khoa học, từ độ của hệ hạt từ cho ứng dụng y sinh bị ảnh
hưởng rất mạnh bởi nhiều yếu tố mà cơ chế của các ảnh hưởng này vẫn là vấn đề chưa
được nghiên cứu một cách cơ bản. Nhiều hệ hạt nano từ sau khi chế tạo có từ độ bão
hòa bị suy giảm đến 60-70% so với vật liệu khối. Đối với ứng dụng y sinh, việc này lại
càng quan trọng, vì chế tạo được hệ có từ độ cao sẽ giảm được liều lượng chất lỏng từ
cần đưa vào cơ thể sống, đồng nghĩa với giảm được độc hại trong chẩn đoán và điều trị
bệnh.
4
Đối với ứng dụng chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư, công nghệ nano nói chung
đang tạo một kỳ vọng lớn, đó là có thể đóng góp vào việc giải quyết vấn đề chẩn đoán
bệnh sớm và thuốc đưa tới đích hay vùng can thiệp được khu trú tại đích. Đề tài thực
hiện có đặt mục tiêu dùng chất lỏng từ nâng cao được độ tương phản chụp ảnh cộng
hưởng từ hạt nhân (CHTHN), có thể góp phần phân tích mô ung thư giai đoạn sớm. Đối
với nước ta, nếu chế tạo được chất lỏng từ làm chất tăng tương phản cũng sẽ đảm bảo
được một lượng đáng kể nhu cầu thuốc tăng tương phản đang nhập khẩu hiện nay.
Những đóng góp mới của luận án:
Đưa ra được quy trình ổn định chế tạo chất lỏng từ tính và hồ sơ đánh giá chất
lượng độc tính của hệ chất lỏng từ tính để làm thuốc tăng tương phản trong chẩn đoán
chụp ảnh MRI đạt tiêu chuẩn được ứng dụng với các tiêu chí tương đương sản phẩm
nhập ngoại Resovist (Schering AG, CHLB Đức), mở ra định hướng ứng dụng vật liệu
nano này trong y-sinh học nhằm phát hiện, chẩn đoán sớm, chính xác tế bào ung thư,
khối ung thư. Nâng cao được hiểu năng tương phản ảnh MRI nhằm xác định chính xác
xác mô bệnh ung thư, các chất lỏng từ chế tạo được. Thiết lập được hồ sơ thử nghiệm
in-vivo thuốc tăng tương phản.
Phương pháp nghiên cứu:
Đây là đề tài nghiên cứu thực nghiệm, các phương pháp nghiên cứu sử dụng đều
là các phương pháp thực nghiệm. Đề tài đã sử dụng các thiết bị tốt nhất tại phòng thí
nghiệm trọng điểm của Viện Khoa học vật liệu, thiết bị chụp ảnh cộng hưởng từ MRI
hiện đại nhất khu vực Bắc Miền Trung tại bệnh viện Quốc tế Vinh thuộc tập đoàn Hoàn
Mỹ, trung tâm thực hành thí nghiệm trường Đại học Vinh, và một số thiết bị đo đạc đặc
thù tại các Trường và Viện nghiên cứu ở Hà Nội.
Bố cục của luận án:
Luận án có 137 trang (chưa bao gồm tài liệu tham khảo), bao gồm phần mở đầu, 5
chương nội dung và kết luận. Cụ thể như sau:
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU FERIT SPINEL
CHƯƠNG 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU HỆ CHẤT LỎNG TỪ TRÊN NỀN Fe3O4 SIÊU THUẬN
TỪ TỔNG HỢP BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỦY NHIỆT
CHƯƠNG 4: NGHIÊN CỨU HỆ CHẤT LỎNG TỪ TRÊN NỀN Fe3O4 SIÊU THUẬN
TỪ TỔNG HỢP BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN HỦY NHIỆT
CHƯƠNG 5: ĐẶC TRƯNG ĐỘ HỒI PHỤC r1, r2 và ĐỘC TÍNH, ĐÁNH GIÁ ĐỘ
TƯƠNG PHẢN ẢNH BẰNG KỸ THUẬT CHỤP ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ MRI
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU FERIT SPINEL VÀ PHƯƠNG
PHÁP CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH BẰNG KỸ THUẬT CHỤP MRI
1.1. Cấu trúc và tính chất của vật liệu ferit spinel
1.1.1. Cấu trúc của vật liệu ferit spinel
Ferit spinel là thuật ngữ dùng để chỉ loại vật liệu có cấu trúc hai phân mạng mà các
tương tác giữa chúng là phản sắt từ hoặc ferit từ [24]. Một đơn vị ô cơ sở của ferit spinel
(với hằng số mạng tinh thể, a 8,4 nm) được hình thành bởi 32 nguyên tử O2- và 24 cation
(Fe2+, Zn2+, Co2+, Mn2+, Ni2+, Mg2+, Fe3+, Gd3+). Trong một ô cơ sở có 96 vị trí cho các
cation (64 ở vị trí bát diện, 32 ở vị trí tứ diện). Số cation ở vị trí bát diện nhiều hơn ở vị
trí tứ diện (A), cụ thể có 16 cation chiếm ở vị trí bát diện (B) trong khi đó ở vị trí tứ diện
có 8 cation (bao gồm cation hóa trị 2+ hoặc 3+).
Hình 1.1. Cấu trúc tinh thể của vật liệu
ferit spinel [24].
Bảng 1.1. Thông số bán kính của một số
ion kim loại [1, 24].
Ion Bán kính (nm)
Fe2+ 0,083
Fe3+ 0,067
Co2+ 0,072
Mn2+ 0,091
Zn2+ 0,082
Cấu trúc ferit spinel thường có dạng (A)[B2]O4 được mô tả bởi khối lập phương
bao gồm cả các ion oxy (hình 1.1). Với bán kính ion của ôxy là 0,132 nm lớn hơn rất
nhiều so với bán kính ion của các kim loại trong cấu trúc (0,06 ÷ 0,091 nm) (bảng 1.1)
do đó ion này trong mạng hầu như nằm sát nhau và tạo thành một mạng lập phương
tâm mặt xếp chặt [1]. Một ô cơ sở của ferit spinel chứa 8 nguyên tử (A)[B2]O4, các ion
kim loại hóa trị 2+ và 3+ có thể có mặt ở các vị A và B trong cấu trúc ferit spinel. Ở cả
hai ví trí A và B xen kẽ bởi các nút mạng bị chiếm chỗ bởi các cation. Khi tất cả các
cation hóa trị 2+ chiếm ở vị trí A, trong khi tất cả các cation hóa trị 3+ chiếm ở vị trí B,
kiểu sắp sếp cation như vậy được gọi là cấu trúc spinel thuận (A)[B2]O4. Khi tất cả các
cation hóa trị 2+ chiếm ở vị trí B, một nửa cation hóa trị 3+ chiếm ở vị trí A và một nửa
ở vị trí B, gọi là cấu trúc spinel hỗn hợp với dạng sau (B)[AB]O4 (bảng 1.2).
6
Bảng 1.2. Phân bố ion trong các vị trí của cấu trúc spinel [1, 4].
Vị trí Số vị trí có
sẵn
Số được sử
dụng
Kiểu cấu trúc
Spinel thuận Spinel đảo
(A) 64 8 8 Me2+ 8 Fe3+
(B) 32 16 16 Fe3+ 8 Me2+, 8 Fe3+
Fe3O4 (Magnetite) là hợp chất ôxít phổ biến của nguyên tố sắt, vật liệu này thuộc
họ vật liệu ferit spinel. Vật liệu Fe3O4 có cấu trúc spinel đảo. Công thức phân tử:
Fe3O4 = FeO. Fe2O3 = Fe. Fe2O4. Mô hình ion: [Fe3+]A[ Fe3+Fe2+]B O42-
Các ion O2- hình thành nên mạng lập phương tâm mặt với hằng số mạng
a = 0,8398 nm. Các ion Fe3+, Fe2+ có bán kính ion nhỏ hơn nên sẽ phân bố trong khoảng
trống giữa các ion O2-. Vì ion Fe2+ chiếm 1/4 ở vị trí bát diện và ion Fe3+ thì được chia
bằng nhau: 1/8 ở vị trí tứ diện và 1/4 ở vị trí bát diện nên magnetite có cấu trúc spinel
đảo. Cấu trúc này được mô tả như hình 1.2, trong đó một ô cơ bản bao gồm 8 ô đơn vị
và có công thức Fe24O32 phân bố như sau [21]:
Fe3+8A[ Fe2+
8 Fe3+8 ] BO32
Trong đó A là vị trí bát diện còn B là vị trí tứ diện. Trong spinel đảo Fe3O4, ion Fe3+
có mặt ở cả hai phân mạng nhưng vì momen từ của ion này sắp xếp đối song nên mômen
từ tổng cộng chỉ do ion Fe2+ quyết định, tính chất này được mô tả như hình 1.2.
Hình 1.2. Cấu trúc tinh thể và sự sắp xếp mômen từ trong vật liệu Fe3O4.
1.1.2. Tính chất từ của vật liệu ferit spinel
Các vật liệu khi hưởng ứng với từ trường thì sẽ có tính chất từ. Đặc trưng tính chất
từ của các vật liệu là độ từ hóa và độ từ cảm:
- Độ từ hóa là momen từ trung bình của mẫu vật (hoặc trong một đơn vị thể tích
của mẫu vật). Nếu từ trường không quá lớn thì độ từ hòa M tỷ lệ với cường độ từ trường
H: M = χ H
- Độ từ cảm χ, là tỷ số của độ từ hóa và từ trường, biểu hiện sự hưởng ứng của vật
liệu với từ trường ngoài: χ =𝑀
𝐻 (độ từ cảm này có thể âm hoặc dương, thường được tính
theo đơn vị thích hợp sao cho độ từ cảm không có thứ nguyên).
7
Dưới tác dụng của một từ trường bên ngoài, phụ thuộc vào hưởng ứng của từ trường
ngoài mà người ta phân vật liệu thành các dạng như sau: nghịch từ (DM), thuận từ (PM),
sắt từ (FM) và siêu thuận từ (SPM).
a) Thuận từ
Các chất có χ >0 gọi là chất thuận từ. Tính thuận từ thường thể hiện khá yếu và
phụ thuộc vào nhiệt độ. Chẳng hạn ở nhiệt độ phòng thì χ ~ 10-4.
Vật liệu thuận từ là những vật liệu mà khi không có từ trường ngoài tác dụng thì
các moment từ nguyên tử định hướng hỗn loạn, điều này dẫn đến moemnt từ trung bình
bằng không, độ từ hóa bằng không. Khi có từ trường ngoài tác dụng thì các moment từ
nguyên tử sẽ định hướng theo từ trường ngoài và xuất hiện độ từ hóa cùng chiều với từ
trường ngoài.
b) Nghịch từ
Các chất có χ < 0 gọi là chất nghịch từ. Thông thường tính nghịch từ thể hiện rất
yếu |𝜒|~ 10-6.
Chất nghịch từ là chất bị từ hóa ngược chiều từ trường ngoài. Khi từ trường không
thật lớn, ta có M = χ H với χ < 0. Tính nghịch từ có liên quan với xu hướng của các điện
tích muốn chắn phần trong của vật thể khỏi từ trường ngoài (tuân theo định luật Lentz
của hiện tượng cảm ứng điện từ).
c) Sắt từ
Vật liệu sắt từ là các chất có tính từ mạnh, hay khả năng hưởng ứng mạnh dưới tác
dụng của từ trường ngoài, mà tiêu biểu là sắt (Fe), và tên gọi “sắt từ” được đặt cho nhóm
các chất có tính chất giống với sắt. Các chất sắt từ có hành vi gần giống với các chất
thuận từ ở đặc điểm hưởng ứng thuận theo từ trường ngoài. Đặc trưng của chúng là ở
dưới nhiệt độ nào đó (tùy từng chất) tồn tại momen từ trung bình một cách tự phát (gọi
là độ từ hóa tự phát) ngay khi không có từ trường ngoài. Ở 0 K, các momen từ nguyên
tử sắp xếp trật tự ngày khi không có từ trường ngoài. Giá trị của độ từ cảm χ của các
chất từ trật tự này lớn hơn nhiều so với chất thuận từ và chất nghịch từ.
Các thông số xác định tính chất của vật liệu từ, ngoài độ cảm từ còn có từ độ bão
hòa (từ độ đạt cực đại từ trường lớn, MS), độ từ dư (từ độ còn dư sau khi ngừng tác động
của từ trường ngoài MR), lực kháng từ (từ trường ngoài cần thiết để một hệ sau khi đạt
được trạng thái bão hòa từ, bị khử từ, HC).
d) Siêu thuận từ
Siêu thuận từ là trạng thái từ tính xảy ra ở các vật liệu từ, mà ở đó vật liệu biểu
hiện cá tính chất giống như các chất thuận từ, ngay ở dưới nhiệt độ Curie (TC, nhiệt độ
chuyển pha sắt từ - thuận từ) hay nhiệt độ Neel (TN, nhiệt độ chuyển pha sắt từ- thuận
từ). Đây là một hiệu ứng kích thước, về mặt bản chất là sự thắng thế của năng lượng
nhiệt so với năng lượng định hướng khi kích thước của hạt quá nhỏ. Các thảo luận chi
tiết về vật liệu siêu thuận từ sẽ được trình bày chi tiết dưới đây.
8
1.1.3. Vật liệu siêu thuận từ
1.1.3.1. Đômen từ
Trong vật liệu từ, ở dưới nhiệt độ Curie (hay nhiệt độ Neel) có tồn tại từ độ từ hóa
tự phát của vật liệu, nghĩa là độ từ hóa tồn tại ngày cả khi không có từ trường. Với vật
liệu có kích thước thông thường, momen từ của các vật thường bằng không (trạng thái
khử từ). Điều này được Weiss giải thích rằng vật liệu được chia thành các đômen. Trong
mỗi đômen vecto từ hóa tự phát có hướng xác định. Nhưng các đômen khác nhau thì
vecto từ hóa tự phát sẽ có hướng khác nhau. Các đômen lân cận phân cách nhau bởi
vách đômen. Qua vách đômen, hướng của momen từ dần thay đổi.
Thông thường các đômen có kích thước vi mô và trong đa tinh thể, mỗi hạt có thể
chứa một số đômen đơn. Do đó, một vật rắn sẽ có một số lượng lớn các đômen với
những hướng từ hóa khác nhau. Momen từ hóa M của vật rắn sẽ là tổng vecto từ hóa
của tất cả các đômen. Phần đóng góp của mỗi đômen phụ thuộc vào thể tích của nó. Nếu
không có từ trường ngoài, năng lượng nhiệt làm cho momen từ của các đômen trong
toàn khối sẽ sắp xếp hỗn độn, do đó độ từ hóa của vật rắn vẫn bằng).
Hình 1.3. Sự phân chia thành đômen, vách đômen trong vật liệu khối
Khi có từ trường ngoài tác dụng, các đômen thay đổi hình dạng và kích thước nhờ
sự dịch chuyển các vách đômen. Những đômen nào có momen từ gần với hướng của từ
trường sẽ được mở rộng, còn những đômen nào có momen từ có hướng với từ trường sẽ
bị thu hẹp lại. Qua đó sẽ làm tăng năng lượng của hệ, độ từ hóa của vật liệu sẽ tăng dần
đến một giới hạn gọi là từ độ bão hòa. Tại đó hướng của momen từ trùng với hướng của
từ trường.
1.1.3.2. Tính chất siêu thuận từ
Một vật liệu sắt từ được cấu tạo bởi một hệ các hạt (thể tích V), các hạt này tương
tác và liên kết với nhau. Giả sử nếu ta giảm dần kích thước các hạt thì năng lượng dị
hướng KV giảm dần, nếu ta tiếp tục giảm thì đến một lúc nào đó KV<< kT, năng lượng
nhiệt sẽ thắng năng lượng dị hướng và vật sẽ mang đặc trưng của một chất thuận từ.
Thông thường, lực liên kết bên trong vật liệu sắt từ làm cho các momen từ trong nguyên
9
tử sắp xếp song song với nhau, tạo nên một từ trường bên trong rất lớn. Đó cũng là điểm
khác biệt giữa vật liệu sắt từ và vật liệu thuận từ. Khi nhiệt độ lớn hơn nhiệt đọ Curie
(hay nhiệt độ Neel đối với vật liệu phản sắt từ), dao động nhiệt đủ lớn để thắng lại các
lực liên kết bên trong, làm cho các momen từ nguyên tử dao động tự do. Do đó không
còn từ trường bên trong nữa, và vật liệu thể hiện tính thuận từ. Trong một vật liệu không
đồng nhất, người ta có thể quan sát được cả tính sắt từ và thuận từ của các phân tử ở
cùng một nhiệt độ, tức là xảy ra hiện tượng sắt thuận từ.
Hình 1.4. Đường cong từ trễ đo độ từ hóa của vật liệu siêu thuận từ
(superparamagnetic, SPM) và sắt từ (ferromagnetic, FM) với lực kháng từ Hệ từ độ
bão hòa Ms, độ từ dư Mr [32].
Hệ là siêu thuận từ khi lực kháng từ, HC→ 0 và các momen từ m của các hạt sắp
xếp hỗn loạn khi từ trường ngoài bị tắt. Điều này thể hiện bằng sự trùng khít nhau của
đường cong M(H) nạp từ (đo khi H tăng) và khử từ (đo khi H giảm qua điểm 0).
Tính siêu thuận từ có được đối với các chất sắt từ có cấu tạo bởi các hạt tinh thể
nhỏ. Khi kích thước hạt lớn, hệ sẽ ở trạng thái đa đômen (tức là mỗi hạt sẽ cấu tạo bởi
nhiều đômen từ). Khi kích thước hạt giảm dần, chất sẽ chuyển sang trạng thái đơn
đômen, có nghĩa là mỗi hạt sẽ là một đômen. Khi kích thước hạt giảm quá nhỏ, năng
lượng định hướng (mà chi phối chủ yếu ở đây là năng lượng dị hướng từ tinh thể) nhỏ
hơn nhiều so với năng lượng nhiệt, khi đó năng lượng nhiệt sẽ phá vỡ sự định hướng
song song của momen từ, và khi đó momen từ của hệ hạt sẽ định hướng hỗn loạn như
trong chất thuận từ [24]. Giới hạn siêu thuận từ xảy ra khi năng lượng định hướng nhỏ
hơn năng lượng nhiệt, khi:
K1Vo<<kB T (1.1)
10
Với K1, V0 lần lượt là hằng số dị hướng từ tinh thể bậc 1 của vật liệu, thể tích của
hạt, kB, T là hằng số Boltzmann, nhiệt độ của môi trường xung quanh.
Khi xảy ra hiện tượng siêu thuận từ, chất vẫn có momen từ lớn của chất sắt từ,
nhưng lại thể hiện các hành vi của chất thuận từ, có nghĩa là momen từ biến đổi theo
Langevin [24]:
0 0
0 0
H k TNI cth
V k T H
= −
(1.2)
Với N/V là mật độ hạt, H là từ trường.
Hai đặc trưng cơ bản của các chất siêu thuận từ là:
- Đường cong từ hóa không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ.
- Không có hiện tượng từ trễ, có nghĩa là lực kháng từ HC bằng 0
Hình 1.5. Sự phụ thuộc lực kháng từ (Hc) của Fe3O4 vào kích thước hạt [66]
Có hai vùng kích thước đặc trưng cho tính chất từ của hệ MNPs là kích thước
đơn đômen, Dc, và kích thước siêu thuận từ, Dsp. Kích thước tới hạn Dc được liên hệ
với dị hướng hiệu dụng Keff, hằng số tương tác trao đổi A, từ độ bão hòa M bởi công
thức:
Dc 2
0
.18
effA K
M (1.3)
Ở đây 0 là độ thẩm từ chân không. Giá trị Dc phụ thuộc mạnh vào loại vật liệu, ví
dụ như Dc = 7, 15,55 và 128mm tương ứng cho các hạt nano Co(fcc), Fe, Ni và Fe3O4
[73]. Kích thước siêu thuận từ bé hơn kích thước đơn đômen, chẳng hạn với hạt
magnetite, Fe3O4, Dsp 9nm.
Một đặc tính quan trọng khác của siêu thuận từ là ngay khi có từ trường
ngoài, các momen từ m của các hạt không phải định hướng cố định theo hướng từ
trường ngoài mà có thể dao động theo cơ chế hồi phục gọi là hồi phục Neel. Thời
11
gian hồi phục Neel, τ, phụ thuộc vào tương quan giữa rào thế Keff.V và nhiệt năng
kB.T:
0 expeff
B
K V
k T
=
(1.4)
ở đây Keff là hằng số dị hướng từ của vật liệu, V là thể tích của hạt, T là nhiệt độ
của hệ τo = 10-9s.
1.1.3.3. Chất lỏng từ và hiệu ứng nhiệt trị
Các chất siêu thuận từ đang được quan tâm nghiên cứu rất mạnh, nhờ khả năng hồi
đáp nhanh với sự tác dụng của từ trường bên ngoài được sử dụng trong các hạt nano từ
tính. Do đó dùng để chế tạo các chất lỏng từ (magnetic fluid) trong các ứng dụng y sinh.
Đối với vật liệu siêu thuận từ, từ dư và lực kháng từ bằng không, có tính chất như vật
liệu thuận từ, nhưng chúng lại nhạy với từ trường hơn, có từ độ lớn như của chất sắt từ.
Điều đó có nghĩa là, vật liệu sẽ hưởng ứng dưới tác động của từ trường ngoài nhưng khi
ngừng tác động của từ trường ngoài, vật liệu sẽ không còn từ tính nữa, đây là một đặc
điểm rất quan trọng khi dùng vật liệu này cho các ứng dụng y sinh học. Các vật liệu siêu
thuận từ, hạt nano từ tính dùng trong y sinh học cần phải thỏa mãn ba điều kiện sau: tính
đồng nhất của các hạt cao, từ độ bão hòa lớn và vật liệu có tính tương hợp sinh họ (không
có độc tính). Tính đồng nhất về kích thước là tính chất liên quan nhiều đến phương pháp
chế tạo còn từ độ bão hòa và tính tương hợp sinh học liên quan đến bản chất của vật
liệu.
Các hạt nano từ được chức năng hóa bề mặt có thể phân tán đồng nhất trong dung
môi gọi là chất lỏng từ (còn gọi là nước từ). Một chất lỏng từ gồm ba thành phần: hạt
nano từ tính, chất chức hóa bề mặt và dung môi. Hạt nano từ tính là thành phần quyết
định đến tính chất từ của chất lỏng từ. Chất chức năng hóa bề mặt có tác dụng làm cho
hạt nano phân tán trong dung môi, tránh các hạt kết tụ lại với nhau ngay cả khi có mặt
của từ trường ngoài. Ngoài ra nó còn có tác dụng “che phủ” hạt nano khỏi sự đào thải
của hệ thống bảo vệ cơ thể sống và tạo các mối liên kết hóa học với các phân tử khác.
Các chất chức hóa bề mặt thường gặp như polyme hữu cơ, kim loại Au, các oxit vô cơ
(như SiO2, Al2O3) và xa hơn nữa là sử dụng các phân tử có hoạt tính sinh học. Dung môi
là chất lỏng mang toàn bộ hệ.
Một hệ vận tải thuốc đa chức năng với hạt lõi là hạt nano từ tính (nano vecto) có
thể “đảm đương” thêm ba chức năng đó là: (i) chức năng tăng độ tương phản (contrast
agent), (ii) chức năng hướng đích (targeting) và (iii) chức năng chữa trị (therapy). Cơ sở
cho việc thiết kế các chức năng này là nhờ hạt nano từ có momen từ M, mà khi tương
12
tác với một từ trường ngoài H, hệ sẽ gây nên sự thay đổi tín hiệu của cộng hưởng từ hạt
nhân MRI của vùng mô nơi hạt từ khu trú (ứng dụng cho trường hợp (i)), được lôi kéo
và hoặc neo đậu tại địa điểm mong muốn (ứng dụng cho trường hợp (ii)) và gây gia
nhiệt cục bộ (ứng dụng cho trường hợp (iii)). Các ứng dụng của hạt siêu thuận từ Fe3O4
trong chẩn đoán (hiệu ứng MRI) và điều trị ung thư (hiệu ứng nhiệt trị) được trình bày
ở hình 1.6 và 1.7.
1.2. Tình hình nghiên cứu vật liệu nano từ trong và ngoài nước
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Các kết quả nghiên cứu KH-CN Nano cho tới đầu những năm 2000 trên thế giới
đã sớm chứng tỏ triển vọng tiềm tàng của ứng dụng công nghệ và vật liệu nano cho y
học, thể hiện ở chỗ đã hình thành một lĩnh vực khoa học liên ngành mới đang được hết
sức quan tâm là Nano Y học (Nanomedicine) mà ngành chuyên sâu hơn là Công nghệ
Nano Ung thư-CNNNUT (Cancer nanotechnology) [31, 26, 20, 153]. Đối với
CNNNUT, người ta đã có thể chế tạo một số hệ nanovector dẫn thuốc bằng con đường
tiêm ví dụ như: các liposome dùng cho chữa ung thư vú, các chất từ tính tăng tương
phản trong chụp ảnh cộng hưởng từ hạt nhân MRI kích thước nano và hướng đích sinh
học và các phương pháp phân tích mới dựa trên hạt nano cho việc phát hiện với tính đặc
hiệu cao các thực thể sinh học như DNA và protein. Theo quan điểm của nhiều chuyên
gia thuộc Viện Ung thư Quốc gia (NCI) Hoa Kỳ thì các đặc tính định hình cho lĩnh vực
CNNNUT chính là tiềm năng mang tính đột phá (breakthrough) cho việc chẩn đoán,
điều trị và ngăn ngừa ung thư thể hiện qua vài ví dụ nêu trên. Nói là tính đột phá vì trong
suốt gần 40 năm qua mặc dù các nước phát triển đã đầu tư khá nhiều nguồn lực nghiên
cứu nhưng các phương pháp chữa trị ung thư hiện nay hầu như chưa có được sự tiến bộ
gì đáng kể. Người ta vẫn sử dụng 3 phương pháp truyền thống là giải phẫu, xạ trị và hóa
trị. Các phương pháp này thực chất chỉ mới tác động ở cấp độ “vĩ mô” (kích thước trên
milimet), do vậy khi điều trị thường gây hiệu ứng phụ (giết chết cả vùng tế bào hoặc mô
lành, gây rụng tóc v.v..), và hiệu quả, trung bình, chỉ có thể cứu sống được chưa tới 10%
các ca đã điều trị. Trong khi đó, dự báo của tổ chức y tế thế giới (WHO) cho thấy tỷ lệ
mắc bệnh ung thư trên toàn cầu từ năm 2005 đến 2020 có thể tăng gần 50% và sẽ có
thêm khoảng 15 triệu ca mắc bệnh mới, trong đó tại châu Á sẽ tăng 60% với số bệnh
nhân mới khoảng 7,1 triệu người. Ở Việt Nam, số ca mắc bệnh ung thư hàng năm ước
tính cũng đến khoảng 120.000 người, còn số bệnh nhân tử vong hàng năm vì căn bệnh
này là khoảng 70.000. Đứng trước nhu cầu và tiềm năng dự báo nói trên, nhiều quốc gia
13
trên thế giới, không chỉ các nước đã phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc
mà các nước mới nổi khác như Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan (TQ), Singapore, Nga,
Úc, v.v.. đang đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu lĩnh vực nano y sinh và cụ thể là
CNNNUT.
Hình 1.6. Mô hình thuốc lõi nano đa chức năng
Để thiết kế được một hệ tải thuốc đa chức năng nanovector, người ta thường dùng
một nhân là hạt nano, mà vật liệu có thể thuộc các loại khác nhau như chấm lượng từ
(bán dẫn), các oxit kim loại (bán dẫn, điện môi), các hạt nano polymer và hạt nano từ.
Trong các loại hạt lõi nói trên hạt nano từ tính (MNP) chiếm vị trí khá quan trọng, đó là
nhờ ngoài các đặc tính chung về bề mặt của hạt nano loại hạt từ tính còn có thể “đảm
đương” thêm 3 chức năng của hệ tải thuốc đa chức năng đề cập trên hình 1a, đó là: (i)
chức năng tăng độ tương phản (contrast agent, là nội dung chính của đề tài này), (ii)
chức năng hướng đích (targeting) và chức năng chữa trị (therapy). Bảo đảm cho việc
thiết kế các chức năng này là nhờ hạt nano từ có mô men từ m, mà khi tương tác với
một từ trường ngoài H, hệ sẽ gây nên sự thay đổi tín hiệu ảnh cộng hưởng từ hạt nhân
MRI cửa vùng mô nơi MNP khu trú (ứng dụng cho trường hợp (i)), được lôi kéo và hoặc
neo đậu tại địa điểm mong muốn (ứng dụng cho trường hợp (ii) và gây gia nhiệt cục bộ
(ứng dụng cho trường hợp (iii). Các ứng dụng của hạt siêu thuận từ Fe3O4 trong chẩn
đoán ung thư (hiệu ứng MRI) và điều trị ung thư (hiệu ứng nhiệt trị) được trình bày ở
hình dưới.
H
14
Hình 1.7. Minh họa các ứng dụng của hạt siêu thuận từ Fe3O4 trong chẩn
đoán ung thư (hiệu ứng MRI) và điều trị ung thư (hiệu ứng nhiệt trị)
Về các phương pháp chế tạo: Các hệ nanovector lõi hạt từ, các tổng quan [36, 37,
13, 50] cho thấy, cho đến nay người ta đã sử dụng khá đa dạng các phương pháp hóa-lý
để chế tạo các hệ vật liệu có thành phần lõi và vỏ khác nhau như:
Phương pháp đồng kết tủa (Co-precipitation): Là phương pháp hóa học dễ và thuận
tiện. Phương pháp cho đến nay đã được sử dụng chủ yếu là tổng hợp hạt nano ôxit sắt
(cả Fe3O4 và γ-Fe2O3), kích thước của hạt nằm trong khoảng 5-20nm, và từ độ bão hòa
phổ biến đạt được cỡ 30-50 chung, còn bé hơn rất nhiều so với từ độ của mẫu khối,
90emu/g [100,123 114].
Phương pháp phân hủy nhiệt (Thermal Decomposition): Phương pháp này sử dụng
các tiền chất cơ kim, dùng nhiệt độ (từ 150 - 350C) để phân hủy và có thể chế tạo các
nano tinh thể từ tính như các ôxit sắt từ dịch thước có thể từ 5-50nm), hoặc các hạt nano
từ kim loại hợp kim (Co, CoPt, FePt, FeP…)[129, 48, 28].
Phương pháp vi nhũ tương (Microemulsion): Đây là phương pháp phân tán 2 chất
lỏng có độ ưa kỵ nước rất khác nhau, từ đó tạo phản ứng (cơ chế đồng kết tủa hoặc sol-
gel) tổng hợp các oxit đơn hoặc đa kim loại [5, 82]. Ưu điểm của phương pháp này là
thu được các hạt mịn với độ phân bố rất đều. Người ta đã sử dụng phương pháp này để
chế tạo các hạt nano ferrit spinel MFe2O4 và hoặc oxit sắt.
Phương pháp nhiệt thủy nhiệt (Hydrothermal synthesis): Sử dụng điều kiện thủy
phân đã chế tạo hàng loạt các oxit sắt từ, như Fe3O4, CoFe2O4 kích thước khá đồng đều
trong vùng 9-12nm, và khi dùng thêm một số hóa chất phụ trợ (như ethylene glycol)
kết hợp ủ nhiệt tại 2000C một vài ngày có thể thu được hệ hạt oxit sắt kích thước 200-
800nm khá đều [134, 73, 142].
Phương pháp hóa siêu âm (Sonochemical): Sử dụng phương pháp hóa siêu âm có
thể chế tạo được hệ oxit sắt bọc chitosan, kích thước như của phương pháp đồng kết tủa
15
(cỡ 15nm) nhưng nhờ có độ tinh thể tốt hơn nên từ độ bão hòa đạt trên 80emu/g. Phương
pháp này còn cho ưu điểm là có thể sử dụng chất hoạt hóa bề mặt loại phổ biến như axit
oleic kết hợp trong quá trình chế tạo và bọc hạt nano.
Các hệ hạt nano từ khi tổng hợp phải được tiến hành ổn định bằng cách bọc một
lớp bảo vệ (hình 1.7). Quá trình này có thể tiến hành đồng thời với quá trình tổng hợp
hoặc sau khi hệ hạt nano đã tổng hợp xong. Lớp bọc bảo vệ có thể là chất vô cơ và hoặc
hữu cơ. Với các hạt lõi là kim loại sắt từ người ta có thể tạo lớp bảo vệ bằng cách thụ
động hóa bề mặt bằng một lớp oxit, ví dụ như Co@CoO. Rất nhiều trường hợp người ta
sử dụng các polymer để bền hóa các hạt nano từ (như đối với Fe3O4, MnFe2O4...). Gần
đây nhằm ứng dụng cho y sinh nhiều hệ hạt nano từ đã được nghiên cứu bao bọc bởi
kim loại như Au, cacbon. Quá trình bọc ổn định có thể ảnh hưởng mạnh đến tính chất
từ của các hạt trong lõi. Đối với trường hợp vật liệu bọc là hữu cơ (như polymer chẳng
hạn) hoặc vô cơ phi từ hoặc phi kim loại (silica) tính chất từ chỉ phụ thuộc tính tương
tác dipole giữa các hạt. Đối với các hệ hạt đa lớp từ tính khác như lõi kim loại từ, vỏ
ferrit từ hoặc lõi kim loại từ vỏ kim loại Au hoặc C, các đặc trưng từ tính sẽ trở nên phức
tạp hơn nhiều. Do vì các hệ cấu trúc nano dị tính chất này có thể cho một số tính chất
mới khả dụng nên mấy năm gần đây được giới nghiên cứu rất quan tâm. Gần đây (2011)
nhóm nghiên cứu tại Hàn Quốc vừa công bố kết quả nghiên cứu hệ hạt nano lõi là
CoFe2O4 vỏ là MnFe2O4 có kích thước khoảng 15nm cho tính chất từ ghép tương tác
(exchange-coupling) lợi dụng được cả tính từ cứng (Hc lớn) của hạt lõi với từ mềm (Hc
nhỏ) của vỏ, nâng được hiệu suất gia nhiệt (sẽ trình bày ở dưới) lên trên 10 lần, áp dụng
cho nhiệt trị chữa lành khối u trên chuột thí nghiệm với liều chất lỏng từ tiêm vào giảm
được một bậc.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, một số nhóm nghiên cứu ở Viện Khoa học vật liệu, Trung tâm Đào
tạo Quốc tế về Khoa học vật liệu - Trường ĐH Bách khoa Hà nội và ĐH Quốc gia Hà
nội (ĐHQGHN) cũng đã có công bố về chế tạo các hạt nano từ cho ứng dụng y sinh và
cho các nghiên cứu cơ bản. Đi tiên phong trong việc chế tạo các hạt nano từ cho các ứng
dụng y sinh nói chung và đặc biệt là cho các ứng dụng đốt từ nói riêng là nhóm của GS.
Nguyễn Xuân Phúc ở Viện Khoa học vật liệu - Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ
Việt Nam. Phòng thí nghiệm Vật liệu nano y sinh hiện nay và trước đây là phòng Vật lý
vật liệu từ và siêu dẫn của Viện Khoa học vật liệu đã bắt đầu nghiên cứu về hạt nano từ
thông qua đề tài NCCB “Nghiên cứu một số phương pháp chế tạo, các tính chất của một
số vậtliệu hạt nano từ tính”, thực hiện trong giai đoạn 2006-2007. Kết quả chính của đề
tài cấp Bộ này là đã thử nghiệm thành công việc bọc hệ hạt nano Fe3O4 bằng tinh bột
16
(starch), từ đó thử nghiệm in-vitro chất lỏng từ này cho thấy hiệu ứng diệt tế bào ung
thư dưới tác động nhiệt từ. Tuy nhiên, chất lỏng hạt từ magnetit bọc tinh bột,
Fe3O4@starch, đã không thể đưa vào cơ thể chuột thí nghiệm được. Viện Khoa học vật
liệu, sau đó được Viện KHCNVN tài trợ một đề tài độc lập giai đoạn 2009-2010 với đầu
đề 'Nghiên cứu công nghệ chế tạo một số vật liệu hạt nano Fe3O4 theo định hướng ứng
dụng trong y sinh”, với mục tiêu là tập hợp đội ngũ liên ngành, phối hợp công nghệ vật
liệu với công nghệ sinh học. Kết quả đã chế tạo được chất lỏng từ lõi là hạt Fe3O4 đồng
kết tủa, bọc bằng một loại co-polyme (styreile-axit acrylic), đính với kháng
nguyên/kháng thể virus viêm gan B để nhằm tăng độ nhạy phân tích vi khuẩn bệnh có
đánh dấu và làm giàu từ. Các đề tài này đã ở giai đoạn kết thúc với một số kết quả nghiên
cứu đối về hạt nano từ cho y sinh đáng chú ý như: đã bước đầu thử nghiệm in-vitro và
in-vivo với loại Fe3O4@ copolymer (styrene-axit acrylic) diệt được tế bào và u báng
(Sarcoma 180). Tuy nhiên vấn đề độc tính của copolymer (styrene-axit acrylic) cũng
như hiệu ứng làm tăng độ tương phản cho MRI của hạt từ là những vấn đề chưa được
giải quyết sau đề tài này.
Hiện tại nhóm của GS. Nguyễn Xuân Phúc kết hợp với nhóm của TS. Lê Trọng
Lư (Viện Kỹ thuật nhiệt đới - Viện KHCNVN) đã bắt đầu chuyển hướng sang tổng hợp
bằng phương pháp phân hủy nhiệt trong dung môi hữu cơ với các hệ vật liệu như: Fe3O4,
CoFe2O4 hoặc các cấu trúc lõi vỏ trên nền hợp kim CoFe có chất lượng cao cho ứng
dụng nhiệt từ trị tế bào ung thư và làm chất tương phản trong kỹ thuật chụp ảnh cộng
hưởng từ MRI [98, 125, 75, 84].
Hạt nano từ được một số nhà Vật lý ở Đại học Bách khoa Hà Nội (do GS. TSKH
Thân Đức Hiền chủ trì) quan tâm nghiên cứu từ năm 2004-2005 và đến nay tập thể này
định hướng mục tiêu ứng dụng là cho điện tử và cơ khí. Nhóm nghiên cứu Ở Đại học
KHTN-ĐHQG Hà Nội do GS. TSKH. Nguyễn Hoàng Lương và PGS. TS. Nguyễn
Hoàng Hải chủ trì đã và đang tiến hành một vài đề tài nghiên cứu chế tạo các hạt nano
từ tính và định hướng ứng dụng cho xử lý môi trường hoặc phân tích DNA. Tại đây
hàng loạt các hệ vật liệu nano từ như: ôxít sắt từ (Fe2O3, Fe3O4), ferit (CoFe2O4,
NiFe2O4) hoặc hợp kim FePt và CoPt đã được chế tạo cho mục đích nghiên cứu cơ bản
[126, 101, 78,43]. Việc tổng hợp vật liệu đa phần được thực hiện trong môi trường nước
và hoàng loạt các phương pháp tổng hợp như: phương pháp đồng kết tủa, phương pháp
tổng hợp với sự hỗ trợ của sóng microwave hoặc phương pháp tổng hợp điện hóa siêu
âm. Trong hầu hết các công trình đã công bố của nhóm tác giả này, các hạt nano từ chế
tạo ra có chất lượng thấp, các hạt không đồng đều về kích thước và không đồng nhất về
hình dạng và vì vậy hạn chế khả năng sử dụng cho các ứng dụng in vivo trong y sinh
như MRI, đốt từ.
17
Việc nghiên cứu chế tạo hạt nano Fe3O4 làm chất tăng tương phản chụp ảnh (MRI)
đã được nhóm của PGS.TS Trần Hoàng Hải (Viện Vật lý Tp HCM) tiến hành trong các
năm 2007-2010 với sự tài trợ của một đề tài cấp Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam
và một đề tài NCCB của Quỹ NAFOSTED, tuy nhiên kết quả chỉ dừng lại ở mức thử
nghiệm ban đầu. Hiện trong nước chưa có một công bố nào về việc tổng hợp các hạt
nano từ cho phép điều khiển tốt về hình dạng, kích thước, độ đồng nhất và có tính lặp
lại cao. Ngoài ra, trong nước cũng thiếu các nghiên cứu có tính hệ thống về vai trò của
các phân tử hữu cơ (surfactants, ligands...) đến hình thái, tính chất từ, xúc tác, khả năng
phân tán và độ bền của các hạt trong môi trường nước.
1.3. Các phương pháp chế tạo chất lỏng từ
1.3.1. Các phương pháp tổng hợp vật liệu nano từ
Có rất nhiều phương pháp chế tạo hạt nano nói chung và hạt nano từ nói riêng như
phương pháp vật lý và phương pháp hóa học. Song có thể chia làm 2 nguyên tắc chính
đó là, nghiền nhỏ vật liệu khối đến kích thước nano (top-down) và hình thành hạt nano
từ việc kết hợp các nguyên tử (bottom-up). Nguyên tắc thứ nhất bao gồm các phương
pháp nghiền và biến dạng như nghiền hành tinh và nghiền rung. Nguyên tắc thứ 2 bao
gồm phương pháp vật lý và phương pháp hoá học. Phương pháp nghiền có ưu điểm là
đơn giản và chế tạo được vật liệu có khối lượng lớn, tuy nhiên nhược điểm là cho sản
phẩm có tính đồng nhất không cao vì không khống chế được quá trình hình thành hạt
nano. Với các ứng dụng trong y sinh, vật liệu thường được chế tạo bằng một số phương
pháp hoá học như phương pháp đồng kết tủa, solgel, vi nhũ tương, thủy nhiệt, phân hủy
nhiệt, vi lưu, v.v... Các phương pháp hóa học có thể tạo ra các hạt nano với độ đồng nhất
khá cao và tạo môi trường thuận lợi để có thể bọc hạt và chuyển pha các hạt từ môi
trường dầu sang môi trường nước. Mỗi phương pháp nêu trên đều có những đặc điểm
khác nhau. Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày một số phương pháp thường được sử dụng
trong tổng hợp vật liệu nano từ tính.
1.3.1.1. Phương pháp đồng kết tủa
Trong số các phương pháp hóa học để tổng hợp hạt nano từ, phương pháp đồng
kết tủa được sử dụng phổ biến nhất do kỹ thuật đơn giản, không đòi hỏi các trang thiết
bị và các tiền chất đắt tiền. Với phương pháp này hạt thường được tổng hợp trong dung
môi là nước dưới điều kiện kiềm (thu được bằng cách thêm hydroxit (NaOH) hoặc amoni
hydroxit (NH4OH)). Quá trình này thường được dùng để tổng hợp các hạt nano ôxit và
ferit. Phương trình phản ứng hóa học dùng tổng hợp các hạt ferit có thể được biểu diễn
như sau:
M2+ +2Fe3+ + 8OH- → MFe2O4 + 4H2O (1)
Trong đó M là: Fe, Co, Ni, Mn, Zn, Mg.
18
Một trong những nhóm nghiên cứu đầu tiên về phương pháp đồng kết tủa phải kể
đến nhóm của tác giả Massart đã sử dụng phương pháp đồng kết tủa để chế tạo hạt nano
oxit sắt vào năm 1981. Theo nhóm tác giả này, các hạt nano Fe3O4 được tạo ra bằng
cách kết tủa dung dịch muối FeCl2 và FeCl3 trong môi trường kiềm. Kích thước, hình
dạng và độ phân tán của hạt phụ thuộc nhiều tới các yếu tố như: môi trường kiềm, độ
pH, tốc độ nhỏ giọt, tốc độ khuấy và tỷ lệ Fe2+/Fe3+. Tùy vào từng điều kiện phản ứng
có thể thu được hạt có kích thước từ 4,2 - 16,6 nm. Nhóm tác giả này cũng tiến hành
nghiên cứu ảnh hưởng của chất hữu cơ (ion citrate) lên kích thước hạt nano Fe3O4. Khi
tăng lượng ion citrate, các hạt nano bọc citrate giảm từ 8nm xuống 3nm. Trong phương
pháp đồng kết tủa, tỷ lệ Fe2+/Fe3+là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành
hạt nano từ Fe3O4. Jolivet đã nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ x= Fe2+/Fe3+ lên thành
phần, kích thước, hình dáng cũng như tính chất từ của hạt nano kết tủa. Khi tỷ lệ
Fe2+/Fe3+ nhỏ sản phẩm tạo ra có dạng oxit sắt ngậm nước. Với x = 0.3 ngoài pha Fe3O4
còn tồn tại pha hydroxit của sắt. Với x = 0.5 các hạt tạo ra đơn pha Fe3O4 và tương đối
đồng nhất.
Một số nhóm tác giả khác cũng cho rằng, việc kiểm soát hình dạng, kích thước, độ
đồng nhất và cấu trúc của hạt có thể được thực hiện bằng cách điều chỉnh độ pH, bản
chất của các tiền chất ban đầu, nhiệt độ cũng như nồng độ của chất phản ứng. Ví dụ như,
Chinnasamy đã tiến hành một loạt các nghiên cứu tổng hợp hạt CoFe2O4 sử dụng các
tiền chất là CoCl2 và FeCl3 ở điều kiện nhiệt độ và độ pH khác nhau. Kết quả đã chỉ ra
rằng khi tăng nhiệt độ phản ứng từ 70 lến 98oC, kích thước hạt sẽ tăng từ 14 - 18 nm.
Trong khi thay đổi nồng độ NaOH trong dải từ 0,7 - 1,3 M, kích thước hạt CoFe2O4 có
thể điều khiển trong khoảng từ 6 -19 nm.
Nhìn chung, phương pháp đồng kết tủa chế tạo khá đơn giản vì sử dụng ngay nước
làm dung môi và không cần phải sử dụng đến chất hoạt động bề mặt, chính điều này đã
làm cho các hạt từ tạo thành thường có co cụm lại với nhau. Để ngăn chặn sự kết đám
của các hạt nano, các tác giả đã nghiên cứu ra một “ligand’’ làm ổn định hạt (dùng bọc
hạt) thường được đưa vào trong thời gian tổng hợp. Trong nhiều trường hợp sự kết tủa
của hạt có thể tránh bằng cách hấp thụ các ion như H+ hay OH- lên bề mặt hạt trong các
điều kiện pH khác nhau.
Việc thêm các ligand với mục đích làm ổn định hạt (chống kết đám, khống chế
kích thước hạt) như polyme hoặc các chất hoạt động bề mặt vào trong quá trình tổng
hợp hạt nano từ bằng phương pháp đồng kết tủa là rất quan trọng. Sự có mặt của ligand
không chỉ giúp các hạt phân tán tốt trong dung môi tổng hợp mà còn góp phần điều
khiển kích thước hạt. Ngoài ra các nhóm chức của các ligand còn cho phép liên kết các
hạt nano với các phân tử sinh học cho mục đích ứng dụng trong lĩnh vực y sinh như đã
nêu ở trên. Bergemam và các cộng sự đã công bố kết quả tổng hợp hạt nano Fe3O4 phân
19
tán trong nước bằng cách đồng kết tủa muối sắt cacbonat (FeCO3) trong dung dịch
hydroxit (NaOH). Kích thước hạt thu được có thể khống chế từ vài chục nanomet đến
hơn 1 micromet đơn giản chỉ bằng cách tăng nhiệt độ từ 5 oC đến 100 oC dưới sự có mặt
của các ligand khác nhau như tinh bột, polysaccharit, polyacrylic hoặc polyvinyl alcohol
polyme. Li và các cộng sự đã công bố nghiên cứu tổng hợp hạt nano Fe3O4 bền trong
nước bằng cách đồng kết tủa Fe3+ và Fe2+ trong dung dịch amoni đậm đặc có mặt poly
methacrylic acid- pentaerythritol tetrakis (PMAA-PTTM) polyme. Theo đó, kích thước
của hạt có thể thay đổi từ 4,5 - 6,1 nm bằng cách giảm số lượng của nhóm COOH trên
polyme (giảm trọng lượng phân tử polyme). Bề mặt của hạt nano chế tạo được sau đó
có thể được gắn với các phân tử axit glumic để tạo ra các hạt nano phát quang. Sử dụng
cách tổng hợp tương tự để tổng hợp các hạt Fe3O4 bọc bởi dextran, Paul và các đồng
nghiệp đã cho thấy rằng bằng cách thay đổi trọng lượng phân tử của polyme, không chỉ
kích thước hạt mà cả tính chất từ của hạt có thể điều khiển được. Tăng trọng lượng phân
tử polyme từ 1.000 đến 70.000 g mol-1 làm giảm kích thước hạt từ 2,7 µm đến 21 nm.
Mặc dù có ưu điểm là đơn giản, rẻ tiền và ít gây tác động đến môi trường do sử
dụng dung môi là nước. Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là tạo ra các hạt nano
có chất lượng kém, các hạt tạo ra thường không đồng đều về kích thước (với sai số
kích thước > 30%), không đồng nhất về hình dạng và thường có mức độ tinh thể hoá
thấp.
1.3.1.2. Phương pháp vi nhũ tương
Phương pháp vi nhũ tương là phương pháp tạo hạt nano nhờ vào các phản ứng bên
trong các hạt micen của các hệ vi nhũ tương. Có thể hiểu hệ vi nhũ tương là sự phân tán
cân bằng nhiệt động của hai pha lỏng (nước - dầu) không tan lẫn nhau khi có chất hoạt
động bề mặt đồng thời các phân tử chất hoạt động bề mặt sẽ hình thành một đơn lớp tại
bề mặt tiếp giáp giữa dầu - nước. Trong cấu trúc này, pha nước phân tán thành các giọt
nước nhỏ được bao xung quanh bởi một đơn lớp phân tử chất hoạt động bề mặt gọi là
các hạt micen. Kích thước của hạt micelle được xác định bằng tỷ lệ nước trên chất hoạt
động bề mặt. Khi trộn hai hệ vi nhũ tương chứa các chất phản ứng, các hạt micelle sẽ
kết tụ vào nhau và tạo phản ứng trong hạt micelle. Sản phẩm sau phản ứng được thu hồi
khi thêm một số dung môi vào hệ nhũ tương như: cồn, axeton. Các hạt nano từ được chế
tạo bằng phương pháp vi nhũ tương thường có dạng hình cầu hoặc ống với phân bố kích
thước hạt hẹp.
1.3.1.3. Phương pháp sol-gel
Một phương pháp thông dụng khác hiện đang được sử dụng phổ biến để tổng hợp
các vật liệu nano nói chung và các hệ nano ferit nói riêng là phương pháp sol-gel. Kỹ
thuật sol-gel liên quan đến quá trình phản ứng thuỷ phân (hydrolysis) và phản ứng hoá
đặc (condensation) của các muối vô cơ hoà tan trong dung môi thông thường là nước
20
hoặc cồn (sol) dưới điều kiện axít hoặc kiềm. Tiếp theo của các phản ứng này là quá
trình polyme hoá hay là các phản ứng tạo gel để tạo thành một mạng không gian 3 chiều
các liên kết metal-oxide. Sản phẩm cuối cùng của quá trình thu được bằng cách loại bỏ
dung môi thông qua việc xử lý nhiệt. Các thông số của phản ứng như bản chất của dung
môi, nhiệt độ, độ pH và nồng độ của các các tiền chất ban đầu cũng như tốc độ khuấy
ảnh hưởng đến cấu trúc và hình thái của các hạt ferit thu được. Ví dụ như, bản chất dung
môi và độ pH của dung dịch ảnh hưởng tới động học của các phản ứng thuỷ phân và hoá
đặc cũng như điểm trung tính và độ bền của các sol, do đó có vai trò quyết định đến kích
thước và sự kết đám của các hạt ferit tạo thành. Tương tự như phương pháp đồng kết
tủa, phương pháp sol-gel có ưu điểm là rẻ tiền, tương đối thân thiện môi trường và cho
phép tổng hợp được các hạt nano với khối lượng lớn. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất
của phương pháp này là tạo ra sản phẩm chủ yếu ở dạng vô định hình, ngoài ra các hạt
nano tạo thành thường bị kết đám và rất khó điều khiển hình dạng và độ đồng đều.
1.3.1.4. Phương pháp thủy nhiệt
Tổng hợp hạt nano bằng phương pháp thủy nhiệt được thực hiện dựa trên khả năng
thủy phân và khử nước của các muối ở áp suất và nhiệt độ cao. Phản ứng hóa học luôn
được thực hiện trong các hệ kín (nồi hấp hoặc autoclave) ở áp suất cao. Ở nhiệt độ cao,
sự hòa tan và khả năng phản ứng của các chất tăng lên. Nhiều tiền chất không tan trong
nước ở điều kiện bình thường có thể được sử dụng trong phương pháp thủy nhiệt. Hiện
nay quá trình thủy nhiệt đang được sử dụng rộng rãi để tổng hợp các hạt nano từ tính
như ôxít, ferit hoặc hợp kim. Các thông số như áp suất, nhiệt độ, thời gian phản ứng,
nồng độ tiền chất và độ pH có thể được sử dụng để điều khiển kích thước, hình dạng và
độ kết tinh của sản phẩm. Có hai cơ chế để hình thành hạt nano từ dưới các điều kiện
thủy nhiệt là có sử dụng chất hoạt động hoặc không dùng chất hoạt động bề mặt. Wang
và cộng sự đã sử dụng phương pháp này để chế tạo hạt nano Fe3O4 có độ tinh thể hóa
cao mà không sử dụng chất hoạt động bề mặt. Mẫu hạt thu được có kích thước 40 nm
và mômen từ bão hòa 85 emu/g. Khi sử dụng chất hoạt động bề mặt sodium bis (2-
ethylhexyl) sulfosuccinate (AOT), Zheng và cộng sự thu được hạt có kích thước 27 nm
và hạt thể hiện tính siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng...
Tổng hợp hạt nano bằng phương pháp thủy nhiệt có ưu điểm là thân thiện với môi
trường vì nó không sử dụng đến bất kỳ dung môi hữu cơ nào cũng như không yêu cầu
bất kỳ công đoạn xử lý nhiệt nào sau khi tổng hợp mà vẫn cho ra các sản phẩm có mức
độ tinh thể hóa cao. Phương pháp này còn có thể chế tạo ra các hạt nano với khả năng
điều khiển về kích thước và hình dạng. Ngoài ra, các hạt nano nhiều thành phần (các
loại vật liệu gốm kích thước nano) không phải luôn dễ dàng tổng hợp bằng phương pháp
hóa ướt khác, có thể được tổng hợp bởi phương pháp thủy nhiệt. Nhược điểm của
21
phương pháp này là việc sử dụng nồi hấp hoặc lò phản ứng áp suất cao để tổng hợp mẫu
và điều này có thể gây nên rủi ro cháy nổ.
1.3.1.5. Phương pháp phân hủy nhiệt
Trong số các phương pháp tổng hợp hạt nano đã nói ở trên, mỗi phương pháp đều
đem đến những ưu nhược điểm riêng và cho phép kiểm soát kích thước, hình dạng, tính
chất của hạt nano theo cách riêng. Nhưng trong một số ứng dụng chẳng hạn như ứng
dụng đốt từ trong y sinh thì yêu cầu độ đồng nhất về hình dạng, đồng đều về kích thước
cũng như khả năng điều khiển tốt kích thước hạt được đặt lên hàng đầu, thì hầu như các
phương pháp nói trên chưa cho hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, một phương
pháp tổng hợp mới liên quan đến sự phân hủy nhiệt các tiền chất trong dung môi hữu cơ
ở nhiệt độ cao để tạo ra các hạt nano từ được các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt
quan tâm. Với phương pháp này, các hạt nano từ thường được tạo thành bằng cách phun
nhanh các tiền chất là các hợp chất hữu cơ của nguyên tố kim loại cần tổng hợp vào
trong dung môi hữu cơ đang sôi với sự có mặt của chất hoạt động bề mặt (phương pháp
hot injection) [93] hoặc bằng cách đun nóng từ từ hỗn hợp phản ứng từ nhiệt độ phòng
lên nhiệt độ sôi của dung môi (phương pháp heating up)) [121, 33, 77,137]. Hình 1.8
minh họa kỹ thuật tổng hợp hạt nano bằng phương pháp hot injection.
Hình 1.8. Tổng hợp hạt nano bằng phương pháp hot injection [93]
Các hợp chất hữu cơ của các kim loại như cacbonyl, hoặc các hợp chất
acetylacetonat là các tiền chất phổ biến nhất được sử dụng trong phương pháp này. Mặc
dù muối kim loại vô cơ sulphat hoặc chlorua cũng thường được sử dụng. Các axit béo
(FA), oleylamin (OLA), trioctylphosphin oxit (TOPO) hoặc hỗn hợp của chúng được sử
dụng rộng rãi như là các chất hoạt động bề mặt [148]. Cấu trúc của một vài chất hoạt
động bề mặt thông dụng dùng để tổng hợp hạt nano trong dung môi hữu cơ được chỉ ra
trên hình 1.9. Để điều chỉnh hình thái và độ đồng đều của hạt, các thông số phản ứng
như: tỉ lệ nồng độ của tiền chất/chất hoạt động bề mặt, nồng độ của các chất hoặc thời
gian phản ứng thường được sử dụng [22, 128]. Ngoài ra, các yếu tố thực nghiệm khác
như nhiệt độ phản ứng, tốc độ gia nhiệt hoặc loại dung môi sử dụng cũng đóng một vai
22
trò quan trọng trong việc quyết định hình dạng, kích thước và độ đồng đều của các hạt
nano [149-151, 44].
Hình 1.9. Cấu trúc của một vài chất hoạt động bề mặt được sử dụng
trong tổng hợp hạt nano trong dung môi hữu cơ
Tổng hợp hạt nano trong dung môi hữu cơ ở nhiệt độ cao mang đến nhiều ưu điểm
vượt trội hơn các phương pháp khác. Thứ nhất, hạt thu được ở nhiệt độ cao có mức độ
tinh thể hóa cao. Thứ hai, tốc độ tạo mầm (nucleation) và phát triển (growth) của hạt
nano có thể dễ dàng điều khiển được bằng cách thay đổi nhiệt độ phản ứng. Sự phát
triển của các hạt nano có thể được dừng lại bất kỳ thời điểm nào bằng cách làm nguội
phản ứng, điều đó là rất quan trọng và nó quyết định không chỉ kích thước, độ đồng đều
hạt mà còn ảnh hưởng đến cả hình dạng hoặc cấu trúc pha tinh thể của sản phẩm. Ví dụ
như, Puntes và các cộng sự đã tổng hợp các hạt nano Co bằng cách phun nhanh Co2(CO)8
vào dung dịch dichlorobenzene có chứa hỗn hợp chất hoạt động bề mặt acid oleic (OA)
và trioctylphosphine oxide (TOPO) ở nhiệt độ 182oC. Phản ứng được làm nguội nhanh
tại các thời điểm khác nhau dẫn đến sự hình thành các hình dạng khác nhau. Ban đầu
tác giả thu được các đĩa nano (nanodisk) Co với kích thước từ 4x25 đến 4x75 nm. Khi
tăng thời gian phản ứng, các đĩa nano chuyển sang dạng hình cầu rất đồng đều với kích
thước 8 nm. Ngoài ra tác giả cũng quan sát thấy rằng cấu trúc pha tinh thể của sản phẩm
thu được chuyển từ dạng sáu phương xếp chặt hcp-Co với các đĩa nano ở thời gian phản
ứng ngắn sang thành dạng ε-Co của các hạt nano hình cầu khi kéo dài thời gian phản
ứng. Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng sử dụng các hợp chất cacbonyl có ưu
điểm là tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, tuy nhiên các tiền chất này rất độc hại, tác
động xấu đối với môi trường và không bền ở điều kiện thông thường (nhiệt độ phòng và
môi trường không khí). Việc cân đo các hóa chất cũng như tổng hợp mẫu cần thực hiện
dưới điều kiện khí trơ (N2 hoặc Ar).
23
Với ưu điểm vượt trội hơn các phương pháp khác, chúng tôi sử dụng phương pháp
này để chế tạo hạt nano oxit sắt trong luận án, việc tổng hợp mẫu được thực hiện bằng
phương pháp phân hủy nhiệt trong dung môi hữu cơ. Ở đây, thay vì sử dụng các tiền
chất là các muối cacbonyl (Co2(CO)8 và Fe(CO)5) độc hại và không bền, chúng tôi đã
sử dụng hợp chất acetylacetonate của sắt Fe(acac)3. Các hợp chất này không độc hại và
bền ở điều kiện thường do đó cho phép tiến hành các thí nghiệm một cách tiện lợi hơn.
Các chất hoạt động bề mặt sử dụng là axit oleic (OA) và oleylamine (OLA), OLA được
sử dụng với mục đích vừa là chất hoạt động bề mặt vừa là tác nhân khử. Dibenzyl ether
được sử dụng làm dung môi để tổng hợp mẫu [89, 129].
1.3.2. Các công nghệ bọc hạt trong dung môi nước
Đối với các hạt nano được tổng hợp bằng phương pháp hóa học trong dung môi
nước thì việc bọc hạt hay chức năng hóa bề mặt hạt nano sau khi chế tạo là một yếu tố
rất quan trọng để có thể vừa đảm bảo được tính chất từ cũng như tính tương hợp sinh
học. Khi bề mặt được bọc và chức năng hóa, các hạt nano dễ dàng phân tán trong một
dung môi phù hợp và trở thành những hạt keo đồng nhất gọi là chất lỏng từ. Thông
thường các hạt nano thường được bọc bởi các nhóm vật liệu sau: nhóm vật liệu vô cơ,
nhóm vật liệu hữu cơ và nhóm các phân tử sinh học. Nếu giả thuyết các hạt nano từ là
lõi, vật liệu bọc là vỏ thì mô hình bọc hạt được chia thành ba loại: Lõi - vỏ, ma trận
(Mosaic-bọc một đám hạt, vỏ - lõi), vỏ - lõi - vỏ (hình 1.10). Trong mô hình lõi vỏ các
hạt nano từ được bọc đơn hạt bởi các vật liệu bọc, với mô hình ma trận vật liệu bọc có
thể bọc một đám các hạt nano từ hoặc các hạt nano từ bao xung quanh vật liệu bọc. Khi
một lớp vỏ các phân tử hữu cơ bọc lên một cấu trúc vỏ - lõi của các hạt nano từ chúng
ta sẽ có mô hình bọc vỏ -lõi -vỏ.
Hình 1.10. Mô hình bọc hạt nano từ [46]
24
Các hạt keo từ ổn định trong chất lỏng nhờ sự cân bằng giữa các lực tác dụng lên
hạt bao gồm lực hút và lực đẩy giữa các hạt. Việc sử dụng vật liệu bọc phụ thuộc vào
mục đích ứng dụng của hạt nano từ, sao cho tương tác đẩy giữa các hạt là lớn nhất để
tránh sự kết đám các hạt cũng như thu được chất keo ổn định.
1.3.2.1. Bọc hạt bằng lớp vỏ vô cơ
Ngoài các vật liệu hữu cơ, một số kim loại hay vật liệu vô cơ phi kim cũng được
dùng để bọc hạt oxit sắt như: vàng, bạc, platin, palladium, cacbon hay silica. Tùy vào
từng mục đích ứng dụng để lựa chọn vật liệu kim loại bọc phù hợp. Với các ứng dụng
trong y sinh và ứng dụng làm chất xúc tác các hạt nano từ có thể bọc bằng vàng, bạc hay
cacbon để tránh oxi hóa và giảm giá trị mô men từ của chúng theo thời gian. Thông
thường, có hai phương pháp để bọc hạt nano từ bằng vật liệu đơn kim loại sạch. Phương
pháp thứ nhất là khử trực tiếp các ion kim loại này lên bề mặt hạt nano từ. Theo phương
pháp này, Mandal và cộng sự đã tiến hành khử trực tiếp Au+ và Ag+ lên bề mặt hạt nano
Fe3O4 và thu được hạt có kích thước từ 18 đến 30 nm có tính chất từ ổn định trong thời
gian dài. Phương pháp thứ hai là phương pháp phổ biến, với phương pháp này các hạt
nao từ thường được bọc bằng một lớp vỏ hữu cơ và sau đó các ion đơn kim loại được
khử trực tiếp lên bề mặt của hệ hạt bọc hữu cơ - nano từ. Với phương pháp này một số
tác giả nghiên cứu bọc vật liệu vàng lên hạt nano từ, lớp vỏ bọc vàng không những làm
tăng tính ổn định của hạt nano từ trong dung dịch mà nó còn giúp gắn các thực thể sinh
học có nhóm -SH trên bề mặt hạt cho các ứng dụng y sinh. Theo nghiên cứu của nhóm
tác giả Wei Wu, hạt nano từ hoàn toàn được bọc bởi kim loại vàng với kích thước sau
bọc là 30 nm và giá trị mô men từ khá cao cỡ 63 emu/g. Trong ứng dụng ghi từ và làm
mực in, các hạt nano từ thường được bọc bằng cacbon. Lớp cacbon không những bảo
vệ hạt nano từ khỏi bị oxi hóa mà chúng còn tạo ra lực đẩy Van der waal ngăn các hạt
kết đám. Mặc dù vật liệu bọc C có làm giảm giá trị mô men từ của hạt nano từ nhưng
chúng có nhiều ưu điểm hơn một số vật liệu vô cơ khác như: tính bền cơ học cao, khả
năng chịu nhiệt lớn có hoạt tính hóa học mạnh và tương hợp sinh học. Có nhiều cách để
bọc C lên bề mặt hạt nano từ, theo phương pháp của Wang và cộng sự họ tiến hành bọc
cacbon lên hạt nano từ Fe3O4 bằng cách đốt nóng dung dịch chứa hạt nano Fe3O4 bọc
glucose và axit oleic. Mặc dù lớp vỏ bọc C có rất nhiều ưu điểm nhưng hạn chế của
phương pháp là rất khó khăn về mặt thực nghiệm và khó tránh khỏi việc tạo ra các liên
kết cacbon từ phản ứng ở nhiệt độ cao. Hơn nữa, các hạt thu được thường có sự phân bố
rộng. Hình 1.11 miêu tả ba mẫu hạt nano từ được phủ graphite. Từ hình ảnh HR-TEM
ta quan sát thấy lớp vỏ bọc bao quanh hạt nano sắt và coban chứng tỏ có hình thành lớp
vỏ graphite.
25
Hình 1.11. Các ảnh TEM: A) Các hạt nano sắt được phủ cacbon chế tạo bằng phương
pháp nổ cảm ứng nhiệt phân của ferrocene; B) Các hạt nano sắt trong một ma trận cacbon
chế tạo bằng phương pháp lắng đọng hóa học pha hơi; C) Các hạt nano coban được cacbon
bảo vệ chế tạo bằng phương pháp nhiệt phân cồn polyfurfuryl [79].
Tuy nhiên, phụ thuộc vào mỗi phương pháp tổng hợp, các hạt thường bị kẹp trong
ma trận cacbon, cho nên sản phẩm có diện tích bề mặt chế tạo thường thấp hơn, giới hạn
tính năng đặc biệt từ tính của chúng, như sự phục hồi Brown, và làm cho phân tán không
đồng nhất trong pha lỏng. Tuy vậy, việc phủ các hạt nano kim loại bằng graphite được
các nhà khoa học nghiên cứu khá nhiều, do những đặc tính độc đáo của chúng như khả
năng ổn định trong môi trường axit và bazơ.
Ngoài các vật liệu như vàng, bạc, cacbon thì silica cũng là vật liệu phổ biến được
dùng để bọc hạt nano từ. Ưu điểm nổi trội của vật liệu này là: Tính bền cơ học cao, ổn
định các hạt nano oxit sắt trong dung dịch tránh tương tác giữa các hạt ngăn chúng kết
đám; hệ hạt Silic bọc nano oxit sắt có tính tương hợp sinh học và tính tan trong nước;
dễ dàng chế tạo và điều khiển được độ dày lớp vỏ bọc. Hơn nữa, bề mặt SiO2 cho phép
chức năng hóa dễ dàng với tác nhân cặp cùng silan, điều đó làm cho nó có tính hấp dẫn
lớn cho xúc tác, dẫn thuốc và mục đích chiết tách. Hầu hết các ứng dụng thông thường
sử dụng cách tiếp cận là bọc silica lên các hạt nano Fe3O4 trong phòng thí nghiệm bằng
phương pháp sol - gel, phun nhiệt phân, vi nhũ tương, và kỹ thuật nhúng tẩm. Đặc biệt
bằng con đường sol - gel, việc phủ lớp được lặp lại trên kim loại hoặc oxit kim loại bằng
lớp vỏ silica có thể điều chỉnh được độ dày đã được báo cáo trong nhiều công trình. Điều
khiển quá trình lớn lên của tinh thể silic được Koble và cộng sự phát minh năm 1956.
Mười hai năm sau, Stober và Fink có cách tiếp cận đơn giản hơn theo hướng tổng hợp
đơn phân tán các hạt keo silic hình cầu.
26
Hình 1.12. Sơ đồ minh họa bước thứ nhất của phản ứng xúc tác ngưng tụ
tetraethylorthosilicate (TEOS) [45].
Quy trình trên cơ sở thủy phân silic ankoxides trong dung môi cồn vừa phải với
pH có giá trị lớn. Trên hình 1.12 trình bày bước đầu tiên của sự thủy phân xúc tác và
ngưng tụ; sử dụng tiến trình này để chế tạo cấu trúc có tính chất lõi/vỏ, tính tương thích
giữa bề mặt các hạt lõi và dung dịch silica ban đầu cần được biết chắc chắn.
Có nhiều bề mặt phủ trực tiếp được silica do tính chất hóa học hòa tan vô hạn của
silica ban đầu. Ví dụ, chất keo bao gồm magnetite, khoáng đất sét và titania có thể liên
kết chặt chẽ với các hạt silica hình cầu. Về chế tạo, đơn thuần ta phải tạo được sự phân
bố đồng nhất của chất keo trong suốt quá trình phản ứng. Có nhiều loại các hạt keo được
phủ theo phương thức hoạt tính bề mặt, chất ổn định, hoặc tác nhân cặp silane bằng các
tiến trình tương tự nhau. Quá trình chế tạo được điều khiển dễ dàng bởi sự tập trung của
silicon alkoxides, lượng dung môi hữu cơ, tính kiềm hoặc lượng nước trộn trong quá
trình phản ứng. Trong hình 1.13 miêu tả bốn hợp tử lõi/vỏ với lõi là các hạt nano -
Fe2O3, Fe3O4 và -Fe.
Hình 1.13. Các ảnh TEM của các hạt nano sắt oxit và sắt với lớp ngoài SiO2: A) Tổ hợp
keo phân tán đơn bao gồm các hạt nano hematite trong khối cầu silic 100 nm; B) Các
hạt nano hematite có dạng bát diện trong lớp vở SiO2 dày 50 nm; C) các hạt nano oxit
sắt từ trong hình cầu silic; D) Các đám nano sắt kẹp trong chất keo SiO2 [140].
Tính chất của các tổ hợp có thể được điều chỉnh tốt hơn nữa bằng phương pháp tạo
xốp. Bằng phương pháp này, các cấu trúc lỗ mịn sẽ được chế tạo với lớp vỏ bọc silic,
nó dẫn đến sự gia tăng diện tích bề mặt dễ dàng. Nếu như, lớp lõi được làm thành hệ
rỗng, chúng có thể được sử dụng là các tâm trong xúc tác dị thể nhiệt độ cao. Tuy nhiên,
27
cho đến hiện nay, một số đặc trưng của lớp phủ silica như kìm hãm ảnh hưởng nung,
nhưng nó không đủ hấp dẫn để khai thác trong lĩnh vực xúc tác hay khoa học vật liệu.
Bên cạnh các thuận lợi này, sự bảo vệ của keo với lớp vỏ silica không hòa tan hết trong
các dung dịch cho các mục đích sử dụng khác nhau. Ví dụ, các mẩu silica thể hiện tính
chất thông thường là điện trở thấp khi giá trị pH cao. Hơn nữa, lớp vỏ không thể ngăn
chặn vật liệu lõi khỏi bị oxi hóa hoặc quá trình khử. Do đó, lớp bọc silica trên các hạt
nano nền sắt không thích hợp cho các ứng dụng trong môi trường axit mạnh hoặc trong
môi trường khí oxi hóa.
1.3.2.2. Bọc hạt bằng lớp vỏ hữu cơ
Hiện nay, các polyme có phân tử lớn thu hút được nhiều quan tâm của các nhà
khoa học bởi lớp vỏ bọc này tạo ra lực đẩy lớn, cân bằng với các lực hút tác động lên
hạt nano như lực từ hay lực Van Der Waals. Ngoài ra các hạt nano khi chức năng hóa
bằng polymer có các tính chất vật lý và hóa học khá lý thú. Vật liệu bọc polymer được
chia thành hai loại: polyme tổng hợp và polymer tự nhiên (bảng 1.3). Để bọc hạt nano
từ bằng lớp vỏ bọc polyme người ta thường dựa trên hai hướng chính. Một là theo từng
mục đích ứng dụng của hạt nano từ, hai là theo mục đích chế tạo hạt nano từ với hình
dạng và thành phần đã xác định. Gupta và cộng sự đã sử dụng phương pháp vi nhũ tương
để tổng hợp hệ hạt nano từ bọc PEG có kích thước khoảng 40-50 nm và lớp vỏ polyme
tan trong nước [40]. Phép phân tích 3-(4,5-dimethehylthiazol-2-yl)-2,5-
diphenyltetrazolium bromine cho thấy rằng hệ hạt bọc không gây độc với cơ thể con
người và có thể ứng dụng trong một số thí nghiệm invivo và invitro. Phương pháp
polyme hóa và phương pháp tổng hợp in-situ được sử dụng trong quá trình bọc hạt sẽ
cho hạt đồng đều và nồng độ hạt từ cao. Nhóm nghiên cứu Zhang sử dụng các phân tử
polyme dạng gel trong quá trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 [161]. Đầu tiên các muối kim
loại được đính với hạt gel axit N-isopropyl acrylamide - acrylic gắn với N, N’-
methylene bisacrylamine (BIS), sau đó các hạt nano Fe3O4 được tổng hợp in-situ trong
hạt gel bằng phương pháp đồng kết tủa. Cách tổng hợp này tạo ra hạt nano có kích thước
8.1nm và nồng độ cao 0,724g/1g polyme đồng thời cho tính chất từ tốt. Ngoài các nghiên
cứu trên, cách bọc hạt nano từ bằng các phân tử polyme có độ ổn định cao và tương hợp
sinh học tốt hiện nay vẫn còn là thử thách lớn đối với các nhà khoa học.
Bảng 1.3. Bảng tổng kết các loại polyme bọc hạt nano từ và các ưu điểm
của chúng [141].
Polyme Tên Ưu điểm
Tự nhiên Dextran
Tạo ra trên bề mặt hạt nano các tương tác phân cực,
thời gian sống trong mạch máu lâu, ổn định và
tương hợp sinh học.
28
Starch Tương hợp sinh học, ứng dụng trong MRI và dẫn
thuốc.
Gelatin Sử dụng như chất tạo gel, có tính tan trong nước,
tương hợp sinh học.
Chitosan Không độc, tan trong nước, sử dụng rộng rãi trong
phân phối gene.
Tổng hợp
Poly(ethyleneglycol
) (PEG)
Có tính tan trong nước, tương hợp sinh học, tồn tại
trong mạch máu.
Polyvinyllcohol
(PVA) Ngăn kết đám, phân tán tốt.
Poly lactide axit Tăng đặc tính sinh học, không độc, dễ dàng tương
tác thực thể sinh học.
Sodium Alginate
(Bán tổng hợp) Tăng tính ổn định và tương hợp sinh học.
Polymethylmethacr
ylate (PMMA) Ứng dụng trong dẫn thuốc và tách chiết.
Polyacrylic acid
(PAA) Tăng tính ổn định và tương hợp sinh học.
1.3.2.3. Bọc hạt bằng các phân tử sinh học
Một số phân tử sinh học như protein, polypeptit, kháng nguyên và biotin có thể
bao quanh các hạt nano từ trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các nhóm chức hóa học. Với các
ứng dụng trong y sinh thì việc sử dụng các phân tử sinh học để chức năng hóa bề mặt
hạt nano từ là một lợi thế rất lớn. Các phân tử này làm tăng tính tương hợp sinh học của
các hạt nano từ và ngụy trang hạt nano giống như những thực thể sinh học. Bằng phương
pháp vi nhũ tương Zhang và cộng sự đã dùng serum albumin của người (HAS) bọc hạt
nano Fe3O4 [159]. Họ sử dụng hệ hạt bọc này như một chất mang đồng vị phóng xạ của
nguyên tố 188Re và thấy rằng hệ hạt có thể gắn với nguyên tố 188Re ứng dụng trong xạ
trị.
Các bước bọc hạt nano từ bằng các phân tử sinh học thường tiến hành hai bước:
Đầu tiên là tổng hợp hệ hạt nano từ có lớp vỏ bọc bằng các chất hữu cơ phân tử nhỏ
hoặc polyme, sau đó gắn các phân tử sinh học lên hệ hạt bọc thông qua các liên kết hóa
học hoặc hấp phụ vật lý. Một nghiên cứu điển hình cho cách tổng hợp này là nghiên cứu
của Lee và cộng sự [63]. Nghiên cứu của họ tập trung vào gắn γ-Fe3O4 bằng các chuỗi
oligonucleotit đơn. Đầu tiên họ tạo hệ hạt nano bọc bởi phân tử chứa nhóm cacboxylic
tan trong nước, sau đó họ sử dụng chất: 1-Ethyl-3- (3- dimethylaminopropyl)
carbodiimide (EDC) như thuốc thử, họ thành công khi gắn protein, streptavidin lên bề
mặt hạt nano. Hệ hạt bọc bởi Streptavidin có thể dễ dàng đính với phân tử biotin nối với
chuỗi oligonucleotide đơn. Các hạt nano từ khi gắn với phân tử sinh học có khả năng
29
ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực sinh học đặc biệt trong tách chiết hay trong chụp
ảnh cộng hưởng từ.
1.3.3. Các quy trình chuyển pha từ dung môi hữu cơ sang dung môi nước
Trong các ứng dụng y sinh, ngoài đòi hỏi về chất lượng hạt nhỏ, đồng đều và từ
tính mạnh, thì một yêu cầu không thể thiếu được với các hạt nano từ là khả năng phân
tán tốt, bền trong môi trường nước và dưới điều kiện sinh học (tương thích sinh học)
[161]. Để thu được các hạt nano từ có chất lượng cao, việc chế tạo mẫu thường được
tiến hành trong dung môi hữu cơ ở nhiệt độ sôi cao [110, 146] như: benzyl ther, phenyl
ether, octadecen… Do đó, trước khi có thể sử dụng trong y sinh, các hạt nano từ này cần
phải được chuyển từ dung môi hữu cơ sang dung môi nước thông qua các quy trình
chuyển pha (phase transfer process). Hiện nay trên thế giới có 3 xu thế để chuyển các
hạt nano từ từ dung môi hữu cơ sang dung môi nước đó là: Thay thế các phân tử hữu cơ
kị nước (hydrophobic) trên bề mặt hạt nano từ bằng các phân tử ưa nước (ligand
exchange methods), bọc các hạt nano từ bằng 1 lớp vỏ ưa nước sử dụng các amphiphilic
polyme (encapsulation methods) và quy trình chuyển pha liên quan đến phản ứng silica
hóa (silanisation methods). Hình 1.14 miêu tả 3 phương pháp phổ biến dùng để chuyển
hạt các nano từ từ dung môi hữu cơ sang môi trường nước.
Hình 1.14. Các phương pháp chuyển pha hạt nano từ sang môi trường nước [158]
1.3.3.1. Phản ứng chuyển pha ligand exchange
Ligand exchange là một trong những quá trình được sử dụng phổ biến nhất để
chuyển các hạt nano tổng hợp trong dung môi hữu cơ sang dung môi nước. Với quá
trình này, các phân tử ligand kỵ nước (hydrophobic ligands) trên bề mặt hạt được thay
thế bởi các ligands ưa nước (hydrophilic ligand) và giúp cho các hạt phân tán tốt trong
nước cũng như mang đến các tính chất và nhóm chức mới trên bề mặt hạt.
30
Về mặt nguyên tắc, các phân tử hydrophilic ligand cần phải mang những nhóm
chức giúp nó bám vào bề mặt hạt nano chắc hơn so với các ligand kỵ nước. Hàng loạt
các hydrophilic ligands với các nhóm chức khác nhau như: COOH, NH2 hoặc OH
thường xuyên được sử dụng trong quá trình chuyển pha ligand exchange này. Ví dụ,
Ying và các cộng sự đã phát triển một quy trình chuyển pha để phân tán các hạt nano
Fe2O3 sang nước sử dụng poly (acrylic acid) PAA polyme [158]. Các hạt nano Fe2O3
ban đầu được tổng hợp trong dung môi hữu cơ và bọc oleic acid được làm phân tán trong
nước thông qua việc thay thế các OA trên bề mặt của chúng bởi các phân tử PAA. PAA
có mang đồng thời nhiều nhóm chức COOH do đó tạo ra liên kết rất mạnh với bề mặt
hạt. Kết quả là các hạt thu được phân tán tốt và bền trong nước. Hình 1.15 minh họa quy
trình ligand exchange thay thế các phân tử OA bởi PAA trên bề mặt hạt nano Fe2O3.
Hình 1.15. Minh họa quy trình chuyển pha ligand exchange sử dụng poly [acrylic
acid] (PAA) với các nhóm chức COOH [95]
Các hydrophilic ligand có mang phân tử dophamine (DPA), chẳng hạn như PEG-
DPA hoặc sulfonate-DPA, cũng được sử dụng phổ biến trong các phản ứng ligand
exchange do liên kết mạnh giữa 2 nhóm chức OH trên phân tử DPA và bề mặt hạt [143].
Sun và các đồng nghiệp đã phát triển hạt nano Fe3O4 bọc bởi PEG với khả năng giảm
thiểu đáng kể các hạt bị hấp thụ bởi tế bào macrophage của hệ thống miễn dịch [144].
Các hạt nano oxide sắt ban đầu được tổng hợp trong dung môi hữu cơ thông qua phản
ứng phân hủy muối Fe (III) acetylacetonate ở nhiệt độ cao dưới sự có mặt của chất hoạt
động bề mặt OA. Quá trình phân tán các hạt thu được trong nước được thực hiện nhờ
phản ứng ligand exchange thay thế phân tử OA bằng phân tử PEG-DPA [156]. Nghiên
cứu của nhóm tác giả này cho thấy rằng các hạt nano Fe3O4 bọc bởi PEG-DPA hầu như
không bị hấp thụ bởi tế bào Macrophage Cells khi tăng trọng lượng phân tử của PEG.
Điều này được các tác giả giải thích là do sự hình thành một lớp chặt khít (dense coating)
các phân tử PEG trên bề mặt hạt ở khối lượng phân tử PEG lớn (Mw = 3.000-20.000
g/ml).
31
.
Hình 1.16. Ảnh TEM (a) và phổ DLS (b) của hạt nano Fe3O4 bọc bởi phân tử dophamine
sulfonate (DS), và quy trình tổng hợp và cấu trúc phân tử của DS (c). Hình nhỏ bên trong
(hình a) là ảnh chụp các hạt Fe3O4 bọc bởi các phân tử DS phân tán trong nước [137]
Sử dụng DPA như những nhóm chức, Hyeon và các đồng nghiệp đã tổng hợp thành
công các phân tử dopamine sulfonate (DS) và sử dụng chúng như tác nhân chuyển pha
giúp phân tán các hạt Fe3O4 trong nước hình 1.16 [69, 137].
1.3.3.2. Quy trình bọc các hạt nano từ bằng các polyme lưỡng tính (amphiphilic polyme)
Phản ứng chuyển pha (ligand exchange) cho dù được sử dụng rất phổ biến cho các
quá trình chuyển pha hạt nano từ dung môi hữu cơ sang nước tuy nhiên nó có nhược
điểm là phụ thuộc vào liên kết hóa học giữa bề mặt của hạt nano và nhóm chức của
ligand sử dụng. Như chúng ta đã biết, các loại hạt nano khác nhau có liên kết mạnh yếu
khác nhau với các nhóm chức của các ligand. Ví dụ các hạt nano kim loại như: Au, Pt
hoặc Ag liên kết mạnh với các nhóm chức thiol (SH) hoặc amine (NH2). Các hạt nano
từ như Fe3O4 hoặc CoFe2O4,…tạo ra liên kết mạnh với nhóm chức cacboxylic hoặc
phosphat. Do đó với mỗi một hệ vật liệu cụ thể đòi hỏi một nhóm chức tương ứng và
điều này dẫn tới một quy trình ligand exchange chỉ có thể áp dụng cho một loại vật liệu
cụ thể. Thời gian gần đây một số nghiên cứu quan tâm phát triển quy trình chuyển pha
mang tính tổng quát (có thể áp dụng cho nhiều loại vật liệu) sử dụng polyme lưỡng tính
(amphiphilic polymer) [156, 88]. Các polyme thường được sử dụng gồm có Fluronic
127, 1,2-distearoyl-sn-glycero-3-phosphoethanolamine-N-[amino(polyethylene
glycol)-2000] viết tắt là (DSPE-PEG) hoặc poly(maleic anhydride-alt-1-octadecene)
viết tắt là (PMAO-PEG) [85]. Ưu điểm của phương pháp này là có thể áp dụng cho hầu
hết các loại hạt nano tổng hợp trong dung môi hữu cơ.
32
Hình 1.17. Minh họa quy trình chuyển pha sử dụng các amphiphilic polymer: DSPE-
PEG (phần trên), PMAO (Phần giữa) và Fluronic (phần hình dưới) [85]
Hình 1.17 minh họa các quy trình chuyển pha sử dụng DSPE-PEG, PMAO và
Furonic 127. Theo quy trình này, phần kỵ nước (hydrophobic) của các polyme sẽ bám
vào bề mặt của hạt nano thông qua tương tác hydrophobic-hydrophobic với các phân tử
(thường là axit oleic hoặc oleylamine) trên bề mặt hạt trong khi đó phần ưa nước
(hydrophilic) có thể là các nhóm chức hoặc các chuỗi polyme ưa nước sẽ hướng ra ngoài
và giúp cho các hạt sau khi bọc phân tán tốt trong nước.
Hình 1.18. Mô hình quá trình bọc hệ hạt nano bằng PAA (a)
và bọc bằng PMAO (b) [70]
33
Sun và cộng sự đã tổng hợp các hạt nano Fe3O4 có kích thước từ 3 đến 20 nm bằng
phản ứng của dung dịch Fe(acac)3 và 1,2-hexandecanediol trong axit oleic và oleylamine
ở nhiệt độ cao (hình 1.18). Theo cách này các hạt nano với bề mặt kị nước được biến
đổi thành hạt có bề mặt ưa nước bằng cách thêm chất hoạt động bề mặt lưỡng cực như
tetramethylammonium11-aminoundecanoate. Với phương pháp chế tạo tương tự, Fan
và cộng sự đã chế tạo hạt nano γ-Fe2O3 phân tán trong nước có phân bố hạt hẹp (13±2
nm) thông qua phản ứng trao đổi phối tử. Các hạt nano siêu thuận từ phân tán ổn định
không kết đám trong môi trường pH từ 3-9, đồng thời các hạt này có thể gắn thêm phân
tử chức năng biotin với hiệu suất 96 %. Mặc dù phương pháp này có nhiều lợi thế trong
chế tạo chất lỏng từ nhưng các phản ứng trao đổi phối tử diễn ra phức tạp và khó khống
chế tốc độ trao đổi do đó khó khăn của phương pháp này là điều khiển quá trình trao đổi
phối tử.
Hình 1.19. Mô hình bọc hạt nano Fe3O4 của nhóm tác giả Sun [147].
1.3.3.3. Quy trình bọc các hạt nano từ bằng các phân tử silane
Một quy trình chuyển pha khác liên quan đến việc sử dụng các phân tử silane để
bọc các hạt nano nói riêng và hạt nano từ nói chung cho mục tiêu phân tán trong nước
hiện nay cũng đang được quan tâm nghiên cứu. Sử dụng các phân tử silane như
Tetraethyl orthosilicate (thường là TEOS) [45] làm tác nhân chuyển pha có một số ưu
điểm như: Tính tương thích sinh học cao của lớp vỏ silica tạo thành, liên kết vững chắc
giữa nhóm chức silanol của phân tử silica với bề mặt hạt cùng với liên kết ngang giữa
chúng cho phép tạo ra một lớp vỏ vững chắc bao bọc xung quanh hạt. Ngoài ra khả năng
chức năng hóa dễ dàng bề mặt hạt nano sau khi bọc silica mang lại tiềm năng ứng dụng
lớn của hệ hạt sau khi bọc trong lĩnh vực y sinh.
34
1.4. Các ứng dụng trong y sinh
Các hạt nano từ có tiềm năng ứng dụng trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau như
công nghệ thông tin [102, 139], xử lý môi trường [91, 160], chất xúc tác [17, 51] và đặc
biệt là trong lĩnh vực y sinh [76, 109]. Trong y sinh, các hạt nano từ có thể được sử dụng
để tách chiết các phân tử sinh học dùng từ trường [113], các chất dẫn thuốc hướng đích
[7], các chất làm tăng độ tương phản trong kỹ thuật chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) [76,
94, 63, 138] và ứng dụng đốt từ bằng từ trường trong điều trị bệnh ung thư [99, 106].
Tuy nhiên, luận án này tập trung nghiên cứu định hướng ứng dụng hạt nano từ Fe3O4
làm chất tăng cường ảnh cộng hưởng từ hạt nhân (MRI). Ứng dụng này được trình bày
chi tiết dưới đây.
Hình 1.20. Các ứng dụng của hạt nano từ tính
Chất lỏng từ làm thuốc tương phản ảnh (contrast agent) MRI
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) là một phương pháp thu nhận hình ảnh của
các cơ quan trong cơ thể sống và quan sát lượng nước bên trong các cấu trúc của các cơ
quan. Giữa thập niên 1940, Felix Block và Edward Furcell nghiên cứu tác động từ trường
và hạt nhân; hiện tượng hấp thụ năng lượng sóng của hạt nhân; cấu trúc và chuyển động
phân tử qua phân tích phổ tần số. Năm 1971, Raymond Damadian nhận xét có sự khác
biệt thông số cộng hưởng từ hạt nhân của mô gan bình thường và mô gan bệnh lý ở
chuột. Điều này, thúc đẩy việc nghiên cứu cộng hưởng từ trong ứng dụng phát hiện
bệnh. Năm 1972, Hounsfield giới thiệu máy cắt lớp điện toán (CT). Năm 1973, Paul C
35
Lauterbur cho xuất bản bài báo đầu tiên gợi ý khảo sát hình ảnh bằng cộng hưởng từ.
Sau đó ông đã tạo được hình ảnh cắt ngang cộng hưởng từ hạt nhân đầu tiên (của mẫu
nước). Năm 1977, Damadian thu được hình ánh cộng hưởng từ hạt nhân của cơ thể và
Peter Mansfield phát triển kỹ thuật tạo ảnh nhanh: echo-planar (EPI). Máy MRI đầu tiên
ra đời vào 1977 và hình MRI đầu tiên thu được vào ngày 03/07/1977. Năm 1987, kỹ
thuật tạo ảnh nhanh (EPI) dùng khảo sát hoạt động tim. Năm 1993, kỹ thuật MRI chức
năng (functional MRI) phát triển, cho phép nghiên cứu chức năng các vùng khác nhau
của não người. Từ khi ra đời, kỹ thuật chụp cộng hưởng từ được xem là một phát minh
tối quan trọng trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị bệnh. Nó giúp ghi lại hình ảnh của
tất cả các bộ phận cơ thể, đặc biệt là não bộ và tủy sống. Về cơ bản, kỹ thuật này đã biến
các nguyên tử hydro trong mô cơ thể thành những bộ máy truyền sóng radio siêu việt.
Chúng hiện diện ở mọi ngóc ngách trong cơ thể, do nguyên tử hydro có trong vô số phân
tử nước ở khắp các nội tạng. Bằng việc truy tìm vị trí của các nguyên tử hydro, máy
chụp MRI có thể ghi lại hình ảnh của tất cả các cơ quan. Hiện tượng này gần giống như
khi ta bay qua một thành phố vào ban đêm và thấy rõ đường nét ranh giới của mọi công
trình trong thành phố qua việc xác định vị trí của các ánh đèn. Ngày 6-10-2003, Hội
đồng Nobel đã công bố giải Nobel y học năm 2003 về tay hai tác giả lý thuyết cộng
hưởng từ, là các ông Paul C. Lauterbur, 74 tuổi, người Mỹ và ông Peter Mansfield, người
Anh, do đã có công phát triển kỹ thuật MRI (cộng hưởng từ ảnh) đạt đến đỉnh cao như
ngày nay, cho phép ghi lại những hình ảnh ngoạn mục về não bộ và toàn bộ nội tạng cơ
thể mà không cần phẫu thuật, đã chứng minh được những tín hiệu phát ra từ cơ thể nhằm
đáp lại từ trường có thể được phân tích bằng toán học. Hội đồng giải Nobel khẳng định,
kỹ thuật MRI là bước đột phá trong lĩnh vực chẩn đoán và nghiên cứu y học. Hiện nay,
thế giới có hơn 60 triệu ca bệnh được xác định chính xác nhờ MRI hằng năm.
Nguyên lý MRI
Chụp ảnh cộng hưởng từ MRI dựa trên tín hiệu cộng hưởng từ hạt nhân của các
proton khi có tác dụng kết hợp giữa một từ trường một chiều mạnh và một trường sóng
điện từ ngang (5 100 MHz). Các nguyên tử có số proton và neutron là số chẵn thì
không tạo ra tín hiệu trong khảo sát cộng hưởng từ (như12C, 16O). Nhiều nguyên tử có
số proton và neutron là số lẻ trong cơ thể đều có thể tham gia vào quá trình tạo ảnh trong
cộng hưởng từ như: 1H, 13C, 19F, 23Na, 31P. Tuy nhiên, proton 1H là được sử dụng rộng
rãi nhất trong quá trình khảo sát cộng hưởng từ do proton này có trong hầu hết các cấu
trúc cơ thể (chiếm đến 63%) và cho tín hiệu tốt nhất so với các nguyên tố khác trong cơ
thể.
36
Hình 1.21. Mô hình cấu tạo máy MRI. Radio Frequancy Coil: cuộn phát sóng tần số
radio, Gradient coils: cuộn gradient, Maggnet: Từ trường, Scanner: Bộ phận
quét, Patient: Bệnh nhân. Patient Table: Bàn bệnh nhân.
Khi cơ thể ở ngoài từ trường và không có từ trường mạnh bên ngoài, các momen
từ của các proton hydro sắp xếp phân tán, không theo hướng nhất định, tổng các vectơ
từ bị triệt tiêu. Khi đặt cơ thể vào từ trường, dưới tác động từ trường ngoài, do khác biệt
mức năng lượng, các proton sắp xếp theo 2 hướng: cùng hướng và nghịch hướng với từ
trường ngoài (parallel và antiparallel). Các proton sẽ dao động cộng hưởng nếu như tần
số của từ trường trùng với tần số Larmor của proton, ω0 = B0( là hệ số từ cơ của
proton). Mặc dù momen từ của một proton rất nhỏ (bằng 1,5 x 10-3 mô men từ của điện
tử) nhưng vì trong cơ thể động vật có một lượng rất lớn proton (khoảng 6 x1019
proton/mm3 nước) nên có thể tạo ra một hiệu ứng có thể đo được. Nếu tác dụng một từ
trường tĩnh cố định có cường độ B0 = 1 T thì sẽ có ba phần triệu (3 x 10-6) proton (tương
đương với 6 x1019 x 3 x10-6 = l,8 x 1014 proton) định hướng theo phương của từ trường
ngoài B0. Tín hiệu này có thể đo được bằng hấp thụ cộng hưởng như sau: tác dụng một
từ trường xoay chiều vuông góc với từ trường cố định B0 và có tần số bằng tần số tuế
sai Larmor ω0 = B0của proton thì sự hấp thụ cộng hưởng sẽ xảy ra. Với hạt nhân nguyên
tử hiđrô 1H, tỉ số từ cơ 2,67 x 108 rad s-l Tl): Tần số tuế sai Larmor sẽ tương ứng với tần
số sóng vô tuyến và có giá trị là 42,57 MHz. Khi chỉ có từ trường cố định, proton sẽ tuế
sai xung quanh hướng của từ trường. Khi từ trường xoay chiều được phát ra, mặc dù
cường độ của từ trường này yếu hơn nhiều so với từ trường cố định nhưng vì tần số của
nó đúng bằng tần số tuế sai nên momen từ của proton sẽ hướng theo phương của từ
trường xoay chiều, tức là vuông góc với từ trường cố định. Thực tế người ta tác dụng từ
trường xoay chiều theo từng xung, độ dài của xung đủ lớn để tạo hưởng ứng liên kết của
37
mômen từ mà máy đo có thể đo được. Khi từ trường xoay chiều ngừng tác động, mômen
từ sẽ trở lại phương của từ trường cố định. Một cuộn dây thu tín hiệu sẽ thu lại thời gian
hồi phục cả mômen từ của proton trở lại phương của từ trường Bo sau khi được khuyếch
đại 50 - 100 lần.
Hình 1.22. Nguyên lý của MRI và vai trò của hạt nano từ tính làm thuốc tăng tương
phản (a) spin từ (m) của các proton nước tiến động xung quanh hướng của từ trường
bên ngoài B0; (b) sau khi áp dụng một xung RF, m tiến động công góc với B0; (c) m
hồi phục trở lại trạng thái cân bằng ban đầu của nó thông qua theo chế độ hồi phục
chiều dọc (T1) và (d) ngang (T2); (e) Khi có mặt nano từ tính, các spin của các proton
nước bắt đầu tiến động không đồng nhất dưới tác dụng bổ sung của trường lưỡng cực
cục bộ(B1, gây ra bởi các hạt nano. Do đó các hồi phục xảy ra nhanh hơn và tạo ra
một tín hiệu MRI mạnh hơn [145].
Theo hình 1.22, B0 song song với trục z tín hiệu hồi phục cho bởi:
)2
exp()sin(T
tmM xy
−+=
Trong đó thời gian hồi phục dọc T1 (spin-mạng) và thời gian hồi phục ngang T2
(spin-spin), t là thời gian và là hằng số pha. T1 đặc trưng cho sự mất mát nhiệt lượng ra
môi trường xung quanh và là phép đo thể hiện liên kết từ giữa spin và môi trường. Hồi
phục theo phương x, y tương đối nhanh và được điều khiển bởi sự lệch liên kết pha của
proton tuế sai do tương tác từ giữa các proton với nhau và với các mô men thăng giáng
ở trong các mô T2 đặc trưng cho sự lệch pha của prôtôn với từ trường xoay chiều. Tuy
)exp(11T
mM Z
−−=
38
nhiên sự lệch pha có thể do sự bất đồng nhất của từ trường nên giá trị T2 được thay thế
bằng giá trị T2:
1/T*2 = 1 /T2 + B0/2
B0 là sự biến thiên của từ trường cố định có thể do sự biến dạng địa phương của từ
trường hoặc do sự thay đổi của độ cảm từ.
Các giá trị T1 và T2* có thể giảm đi khi có mặt của hạt nano từ tính. Sự có mặt của
chứng làm nhiễu loạn tù trường địa phương nên làm T2 thay đổi giá trị rất nhiều. Giá trị
của T1 cũng thay đổi nhưng ở mức độ yếu hơn. Dựa trên đặc tính của từng mô trong cơ
thể, tùy loại mô mà độ hấp thụ hạt năng mạnh hay yếu. Từ trường xoay chiều tác dụng
thường được khởi động theo từ xung. Các thông số quan trọng là chu kì của xung (thời
gian giữa hai xung liên tiếp) và thời gian trễ (thời gian khi bật xung đến khi đo tín hiệu).
Chu kì ngắn sẽ tăng hiệu ứng T1, chu kì dài làm cho các proton đạt được trạng thái hồi
phục dọc hoàn toàn nên làm giảm T1. Thời gian trễ ngắn làm giảm T2, thời gian trễ dài
làm tăng T2. Như vậy ta có thể thu tín hiệu dựa trên T1 (tối ưu hóa chu kì và giảm thời
gian trễ) hoặc T2 (chu kì và thời gian trễ dài).
Chụp ảnh MRI gồm 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Các hạt nhân đều sắp xếp một cách ngẫu nhiên và từ trường của
chúng triệt tiêu lẫn nhau do đó không có từ trường dư ra để ghi nhận được. Khi có một
từ trường mạnh tác động từ bên ngoài các mô men từ của hạt nhân sẽ sắp hàng song
song cùng hướng hoặc ngược hướng của từ trường, ngoài ra chúng còn chuyển động
dần chung quanh hướng của từ trường bên ngoài nó. Các vectơ từ hạt nhân sắp hàng
song song cùng chiều với hướng từ trường bên ngoài có số lượng lớn hơn các vectơ từ
hạt nhân sắp nhân sắp hàng ngược chiểu và chúng không thể triệt tiêu hết, do đó có
mạng lưới từ hoá theo hướng của tử trường bên ngoài. Các vectơ tạo ra hiện tượng từ
hoá chủ yếu theo hướng của từ trường bên ngoài; đó là trạng thái cân bằng. Trong trạng
thái cân bằng không có một tín hiệu nào có thể được ghi nhận. Khi trạng thái cân bằng
đó bị xáo trộn sẽ có tín hiệu được hình thành.
+ Giai đoạn 2 (Kích thích hạt nhân): Hiện tượng sắp hàng hạt nhân kết thúc thì các
hạt nhân phôton hydro sẽ phóng thích năng lượng dùng để sắp hàng chúng để trở về vị
trí ban đầu. Tốc độ phóng thích các phôton này dựa vào năng lượng được phóng thích.
Thời gian cần thiết cho 63% vectơ khôi phục theo chiều dọc gọi là T1. Thời gian cần
thiết để cho 63% vectơ khôi phục theo chiều ngang gọi là T2.
+ Giai đoạn 3 (Ghi nhận tín hiệu): Khi các phôton trở lại sắp hàng như cũ do ảnh
hưởng từtrường bên ngoài chúng phóng thích năng lượng dưới dạng tín hiệu tần số vô
tuyến. Cường độ phát ra từ một đơn vị khối lượng mô được thể hiện trên một thang màu
từ trắng đến đen, trên đó màu trắng là cường độ tín hiệu cao, màu đen là không có tín
39
hiệu. Cường độ tín hiệu của một loại mô phụ thuộc vào thời gian khôi phục lại từ tính
T1 và T2, mật độ phô ton của nó.
+ Giai đoạn 4 (Tạo hình ảnh): T1 tạo ra tín hiệu MRI mạnh và cho thấy hình ảnh
các cấu trúc giải phẫu với T1 dịch não tuỷ, lớp vỏ xương, không khí và máu lưu thông
với tốc độ cao tạo ra những tín hiệu không đáng kể và thể hiện màu sẫm. Chất trắng và
chất xám biểu hiện bằng màu xám khác nhau và chất xám đậm hơn. Với T1 thì mô mỡ
có màu sáng đó là lợi thế lớn nhất để ghi hình mô mỡ trong hốc mắt, ngoài màng cứng
tuỷ xương và cột sống. Máu tụ mạn tính có hình ảnh tín hiệu cao vả thể hiện ảnh màu
trắng. Tuy nhiên sự khác biệt giữa hàm lượng nước trong mô không lớn thì độ nhạy hình
ảnh T1 không cao. Do đó không thể ghi hình được ở những tổn thương nhỏ không đè
đẩy cấu trúc giải phẫu.
Chế độ chụp T1W, T2W và PDW
Như đã biết ở trên cường độ tín hiệu tăng dần từ 0 đến cực đại trong thời gian T1
và giảm dần từ cực đại trở về 0 trong thời gian T2. Nhằm tạo ra sự tương phản tốt nhất
về hình ảnh của các mô, người ta phải chọn thời điểm T1 và T2 thích hợp để thu nhận
các tín hiệu bức xạ cung cấp cho quá trình tạo ảnh.
TR (Time of Repetition) là khoảng thời gian từ khi bắt đầu giãn dọc đến khi mức
độ từ hoá của mô được đo để tạo ra tương phản ảnh. Xác định giá trị TR là xác định thời
điềm chụp ảnh.
TE (Time of E cho event) là khoảng thời gian từ khi bất đầu giãn ngang đến khi
mức độ từ hoá của mô được đo đề rạo ra tương phản ảnh. Các giá trị kết hợp giữa TE và
TR được chọn qua các bảng tuỳ thuộc vào từng loại mô.
Bằng cách điều chỉnh các giá trị TR và TE của T1 và T2, ta thu được các tương
phản ảnh tương ứng ảnh của T1 và T2 trong trường hợp này gọi là T1 điều chỉnh (T1-
weighted: T1W) và T2 điều chỉnh (T2-weighted: T2W). Nhằm tạo ảnh T1 điều chỉnh,
người ta cần chọn một giá trị TR tương ứng với thời gian mà tại đó tương phản T1 lớn
nhất giữa hai loại mô. Nếu lựa chọn TR dài hơn sẽ tạo ra cường độ tín hiệu lớn hơn
nhưng tương phản T1 ít hơn. Việc lựa chọn TR thích hợp với các giá trị T1 của mô rất
có ý nghĩa trong chẩn đoán lâm sàng, đặc biệt khi phân biệt giữa mô lành và mô bệnh
lý. Nếu giá trị TR được chọn bằng giá trị T1 của mô, đó là ảnh được chụp khi mô trở lại
63% sự nhiễm từ mô của nó.
Nhằm tạo ảnh T2 điều chỉnh, người ta cần chọn một giá trị TE tương ứng với thời
gian mà tại đó tương phản T2 lớn nhất giữa hai loại mô. Tương phản T2 cực đại thu
được bằng cách dùng TE tương đối dài. Tuy nhiên, nếu dùng TE quá dài thì sự nhiễm
từ và tín hiệu RF lại quá thấp để hình thành một ảnh.
40
Một kỹ thuật tạo ảnh hay gặp nữa là PD (Proton Density), là ảnh khảo sát mật độ
proton. Khi sự nhiễm từ dọc đạt giá từ cực đại thì tương phản theo thời gian T1 sẽ kém
đi. Lúc này tương phản ảnh do mật độ proton của mô quyết định. Do vậy, nếu ta chọn
giá trị TR tương đối dài để tạo ảnh tương phản mật độ proton thì gọi là ảnh mật độ proton
điều chỉnh (muốn Density-weighted: PDW).
Hình 1.23. Tạo ảnh T2, T1 điều chỉnh [42]
Tín hiệu các mô/dịch cơ thể
Nguyên tử Hydro trong cơ thể dưới tác động từ trường và sóng radio, hấp thụ và
phóng thích năng lượng sóng RF. Các mô cơ thể khác nhau sẽ hấp thụ và phóng thích
năng lượng khác nhau. Quá trình phóng thích năng lượng được máy thu nhận, xử lý,
chuyển đổi thành các tín hiệu hình ảnh. Hình ảnh MRI có độ tương phản cao, chi tiết
giải phẫu tốt, khả năng tái tạo 3D, không có tác dụng phụ như X quang nên ngày càng
được chỉ định rộng rãi không chỉ cho thần kinh mà còn cho nhiều lĩnh vực khác: cơ
xương khớp, tim mạch, bụng.
Bảng 1.4. Tín hiệu T1W và T2W của các mô/dịch cơ thể
Mô/dịch cơ thể Ví dụ T1W T2W
Khí Phổi, ruột Không Không
Mô giàu chất khoáng Xương, sỏi Không Không
Mô Collagen Dây chằng, gân, mô xơ Thấp Thấp
Mỡ Mỡ, tủy xương Cao Cao
Nước tự do Thận, phù, dịch não tủy Thấp Cao
Dịch protein Kén, áp-xe, dịch khớp Trung gian Cao
Tương phản ảnh MRI thường được tăng cường tự nhiên bởi sự có mặt của các hợp
chất thuận từ trong cơ thể. Các hợp chất này có khả năng làm tăng tốc độ hồi phục sớm
của các proton trong phân tử nước và được đặc trưng bằng các tham số R1 = 1/T1 hoặc
R2 = 1/T2. Ví dụ, hạt nano ôxít sắt được bao phủ dextran có tính tương hợp sinh học và
41
có thể được đào thải qua gan sau khi sử dụng. Các hạt nano này được phát hiện bởi màng
lưới nội mô của cơ thể. Độ tương phản dựa trên hiện tượng các mô khác nhau sẽ hấp thu
khác nhau. Ví dụ các hạt nano có đường kính 30nm có thể nhanh chóng đi vào gan và
ty trong khi những cơ quan khác thì chậm hơn. Như vậy, mật độ hạt nano ở các cơ quan
là khác nhau, dẫn đến sự nhiễu loạn từ trường địa phương cũng khác nhau làm tăng độ
tương phản trong ảnh cộng hưởng từ do thời gian hồi phục bị thay đổi khi đi từ mô này
đến mô khác. Những hạt có kích thước nhỏ sẽ có thời gian tồn tại trong cơ thể lâu hơn
vì màng lưới nội mô nhận biết chúng khó hơn. Các hạt nano như là một chất tương phản
MRI có thể đi đến tủy xương, mạch máu, hệ thần kinh. Chú ý rằng màng lưới nội mô
của các tế bào ung thư hoạt động không hiệu quả như các tế bào khỏe mạnh thông
thường. Do đó, thời gian hồi phục của các proton trong các tế bào ung không bị ảnh
hưởng nhiều. Dựa trên điều này người ta xác định được các hạch bạch huyết, ung thư
gan và ung thư não.
Các cơ chế T1, T2 và CEST
Trong nhiều trường hợp chẩn đoán, sự khác nhau của R1 (hoặc R2) giữa các mô
tế bào là nhỏ và việc sử dụng các chất tương phản bổ sung từ bên ngoài là cần thiết để
nâng cao giá trị chẩn đoán của MRI.
Hình 1.24. Hiệu ứng tương phản của các hạt nano từ tính trong nước [54]
Hạt nano từ tính được chức năng hóa để liên kết với một số mô nhất định sẽ có
tác dụng đánh dấu hiệu quả hơn. Hiện tại có thể chia các chất tương phản làm 3 loại
tương ứng với các cơ chế T1 [33, 152, 135], T2 [104, 135] và theo 1 cơ chế mới phát
hiện gần đây là cơ chế trao đổi bão hòa kèm theo chuyến hóa chất (CEST: Chemical
Exchange Saturation Transfer) [19].
42
Hình 1.25. Cơ chế trao đổi bão hòa kèm theo chuyển hóa chất (CEST)[19]
Bằng cách bão hòa chọn lọc một tín hiệu proton cụ thể (liên kết với một phân tử
cụ thể hoặc chất tăng tương phản CEST) trong trao đổi với các phân tử nước xung quanh,
các tín hiệu MRI từ các phân tử nước với số lượng lớn xung quanh cũng bị suy giảm.
Hình ảnh thu được có và không có RF bão hòa xung tiết lộ vị trí của chất tăng tương
phản CEST. Trao đổi hóa học phải có trong chế độ trung gian nơi trao đổi là đủ nhanh
để làm bão hòa một cách hiệu quả các tín hiệu nước với số lượng lớn nhưng đủ chậm để
có một sự khác biệt giữa độ dịch chuyển giữa các proton trao đổi và proton nước cộng
hưởng. Độ lớn của hiệu ứng CEST do đó phụ thuộc vào cả vận tốc trao đổi và số proton
trao đổi. Cơ chế của T1, T2 và CEST cũng như các hợp chất sử dụng được minh họa
dưới đây:
43
Hình 1.26. Phân loại các thuốc tăng tương phản tương ứng với các cơ chế Tl, T2 và CEST [59]
Thuốc tăng tương phản theo cơ chế T1
Các tác nhân tương phản Tl đã thành thương phẩm truyền thống là phức của ion
thuận từ có giá trị mômen spin lớn như Gd3+ (có 7 điện tử chưa ghép cặp). Các ion Gd3+
này được kết hợp với các phân tử như DTPA (diethylenetriaminepentaacetic axit) và tạo
thành các cấu trúc dạng phức “càng cua” Gd-DTPA [33]. Trong quá trình hồi phục, sự
tương tác giữa mômen từ của proton với mômen từ của các ion thuận từ khiến thời gian
T1 bị suy giảm, nhờ vậy tốc độ hồi phục R1 tăng lên [47, 33]. Nồng độ các tác nhân là
khác nhau ở mỗi vùng mô tế bào, do vậy mang lại hiệu quả tương phản trên ảnh chụp
MRI.
Hình 1.27. Công thức hóa học và sản phẩm OMNISCAN của thuốc tương phản T1
Thuốc tăng tương phản theo cơ chế T2
Trong khoảng gần 20 năm nay, cùng với sự phát triển của công nghệ nano hạt nano
oxit sắt IO) đang được nghiên cứu mạnh [135, 103, 35] và thực tế đến nay đã có nhiều
dòng sản phẩm thương mại chất tăng tương phản MRI dùng loại vật liệu IO này, chứng
minh rằng các IO-MRI có thể cho chất lượng tăng tương phản tốt hơn cả loại Gd-DTPA
do vì hạt oxit sắt có hệ số cảm cảm từ lớn hơn [135, 163]. Các chất IO-MRI có thể làm
giảm cả T1 và T2, tăng được tốc độ hồi phục MRI chụp theo cả 2 chế độ chụp MRI
trọng Tl và trọng T2 [162, 163]. Các đặc trưng vật liệu, kích thước hệ hạt tương phản
IO-MRI, hiệu dụng và tình trạng sử dụng được trình bày trong bảng 1.10 và bảng 1.11.
Kích thước hạt IO trải trong vùng rất rộng (từ 20nm đến hàng trăm và thậm chí 1000nm),
do đó có thể ảnh hưởng đến các tính chất hóa lý và động dược học cũng như ứng dụng
lâm sàng của chúng. Các hạt to với kích thước từ 50-300nm.
44
Bảng 1.5. Các chất tương phản MRI nền oxit sắt [105,136]
Tác nhân Phân loại Tên tổng quát Tên thương
mại Công ty Trạng thái
AMI-121
Oral SPIO
(Oxit sắt
siêu thuận
từ)
Ferumoxsil Lumirem
Gastromark
Guerbet
Advanced
Magnetics
Đã chấp thuận
Đã chấp thuận
OMP Oral SPIO Abdoscan Nycomed Đã chấp thuận
AMI-25 SSPIO Ferumoxide Endorem
Feridex IV
Guerbet
Berlex
Laboratories
Đã chấp thuận
Đã chấp thuận
SHU
555A SSPIO Resovist Schering
Hoàn thành thử
nghiệm lâm
sàng pha 3
AMI-227 USPIO Ferumoxtran Sinerem
Combidexa
Guerbet
Advanced
Magnetics
Nghiên cứu lâm
sàng pha 3
Nghiên cứu lâm
sàng pha 3
NC100150 USPIO Clariscan Nycomed Nghiên cứu lâm
sàng pha 3
Bảng 1.6. Các chất tương phản MRI nền oxit sắt: đặc trưng kích thước hạt, cơ quan
đích, liều sử dụng và đường truyền thuốc [136,103]
Tác nhân Kích
thước hạt Cơ quan đích Liều dùng Cách dùng
AMI-121 300nm Ruột/dạ dày 1.5-3.9 mmol-1l Fe
400-600 ml Uống
OMP 35µm Ruột/dạ dày 0.5 g/l 400-600 ml Uống
AMI-25 80-150
nm Gan/lá lách 15 µmol Fe/kg
Truyền tĩnh mạch
chậm
SHU 555A 62 nm
Gan/lá lách
Tĩnh mạch
Chụp hình mạch máu
bằng cộng hưởng từ
mạch máu
8 µmol Fe/kg
4-16 µmol Fe/kg
10 µmol Fe/kg
Truyền tĩnh mạch
nhanh
Truyền tĩnh mạch
nhanh
Truyền tĩnh mạch
nhanh
AMI-227 20-40 nm
Hạch bạch huyết
Chụp hình mạch máu
bằng cộng hưởng từ
mạch máu
30-45 µmol Fe/kg
14-30µmol Fe/kg
Truyền tĩnh mạch
chậm
Truyền tĩnh mạch
chậm
NC100150 20 nm
Tĩnh mạch
Chụp hình mạch máu
bằng cộng hưởng từ
mạch máu
7 µmol Fe/kg
50-100 µmol Fe/kg
Truyền tĩnh mạch
nhanh
Truyền tĩnh mạch
nhanh
45
Các yêu cầu quan trọng đối với sản phẩm tăng tương phản ảnh MRI là hạt nano từ
tính phải có độ phân bố kích thước hạt tương đối đều và từ độ bão hòa đủ lớnvà chất
bọc phải có độ tương hợp sinh học tốt. Trong khi Resovist dùng chất bọc là dextran, với
hạt lõi cỡ 65 nm cho từ độ bão hòa cỡ 65 emu/g [103, 135]. Các sản phẩm với kích thước
hạt trong vùng 20-40nm như AMI-227: Sinerem/Combidex thì thích hợp với bạch huyết
và xương [136]. Trong khoảng 10 năm cuối đây người ta đang nghiên cứu để chế tạo
các hạt nano siêu thuận từ với kích thước bé hơn 20nm (còn gọi là loại siêu bé nếu kích
thước D<10nm) [35,115] và đặc biệt là các hạt oxit sắt có đánh dấu từ mục đích chụp
ảnh MRI định đích (targeted imaging) [41, 155]. Một số nghiên cứu mới đây tìm cách
nâng từ độ bão hòa Ms, chẳng hạn như các tác giả Eun và CS đã sử dụng phương pháp
hóa siêu âm, chế tạo được hệ hạt nano Fe3O4 kích thước khoảng 50nm, được bọc
chitosan và cho từ độ bão hòa đạt khoảng 80emu/g với chất lượng ảnh MRI tương đương
của Resovist [90]. Rất mới đây, năm 2009, các tác giả Thoeny và CS [124] đã sử dụng
chất tương phản IO siêu mịn để có thể phát hiện bạch huyết di căn ung thư tại đốt xương
chậu của bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến dùng kỹ thuật phối hợp trọng khuyếch tán
với MRI (DW-MRI). Cũng đã có một số thành công trong việc sử dụng chất tương phản
nền Fe/oxit sắt để chẩn đoán ung thư trực tràng [57].
Hình 1.28. Vai trò ảnh hưởng của kích thước hạt lên hình ảnh trọng T2 MRI
của Fe3O4(4, 6, 9,12 nm) trong từ trường 1,5T [64]
Các hạt nano ferrit spinel cũng không độc và tương thích sinh học, nhưng mô men
từ riêng của nó không được cao (khoảng 80 emu/g tại nhiệt độ phòng cho mẫu khối).
Tuy nhiên mới đây, nhóm nghiên cứu Lee và CS [60] đã thành công trong việc nâng
được gần 110emu/g (tính theo lượng ion sắt từ) khi tạo được hệ lõi vỏ
CoFe2O4@MnFe2O4 kích thước 15nm nhờ khai thác được hiệu ứng ghép trao đổi. Các
46
hạt nano lõi kim loại sắt từ có từ độ bão hòa cao, nhưng dễ bị oxy hóa nên cần tìm giải
pháp bao bọc bảo vệ. Loại lõi FePt bọc Fe2O3 cũng cho tiềm năng tăng tương phản MRI
tốt. Người ta dự đoán rằng, các hệ hạt nano lõi thuần sắt với từ độ bão hòa trên 110
emu/g rất có thể sẽ làm tăng mạnh tương phản ảnh MRI [120].
Hình 1.29. Giá trị T1 và T2 và hình ảnh MRI của hợp kim nano FeCo/C, so sánh với 2
sản phẩm thương mại là Feridex và Magnevist (TE= 60 ms, TR = 3000 ms) [109].
So với các thuốc tương phản ảnh MRI thông thường, các thuốc cấu trúc nano có
nhiều ưu điểm quan trọng. Đầu tiên, thông qua biến tính và chức năng hóa bề mặt, tính
ổn định và có mang các nhóm chức năng phù hợp cho các mục đích sinh học khác nhau
có thể đạt được. Thứ hai, thông qua hình dạng, kích thước và thành phần điều chỉnh,
mức độ tương phản khác nhau của hình ảnh MRI có thể được thay đổi. Thứ ba, các cấu
trúc nano có thể tạo các hybrid với các kháng thể hoặc các phân tử sinh học khác và
thông qua liên hợp với các đầu dò phân tử này tính chất hình ảnh có thể cho phép nhận
hình ảnh MRI đa phương thức (multimodal).
Hình 1.30. Chế độ chụp MRI nanohybrid, T1, T2 và multimodal [27]
47
Kết luận chương 1
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày tóm tắt một vài khái niệm cơ bản của
vật liệu từ nói chung và Fe3O4 nói riêng. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước đã
được tổng quan chi tiết về các phương pháp chế tạo hạt nano từ, chất lỏng từ trên nền
hạt Fe3O4 cho một số ứng dụng y sinh, đặc biệt trong chụp cộng hưởng từ MRI. Các cơ
chế tạo hình ảnh của hạt nano từ trong từ trường làm sáng tỏ khả năng ứng dụng của hạt
nano từ trong chụp ảnh cộng hưởng từ MRI và cho thấy tiềm năng ứng dụng của hạt
nano từ trong phương pháp chẩn đoán hình ảnh xác định chính xác mô bệnh ung thư.
Ngoài ra ứng dụng của hạt nano từ trong tăng cường độ tương phản ảnh cộng hưởng từ
cũng được đánh giá qua tín hiệu của 2 kiểu hồi phục khác nhau: hồi phục dọc và hồi
phục ngang được đặc trưng bởi T1 - thời gian hồi phục dọc và T2 - thời gian hồi phục
ngang hay các đại lượng nghịch đảo R1 và R2 của các thời gian hồi phục đặc trưng này.
Việc nghiên cứu tính chất từ và các hiện tượng vật lý liên quan của các hạt nano từ cho
đến hiện nay vẫn là một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Đặc biệt là các nghiên cứu ứng
dụng hạt nano vào thực tiễn vẫn đang là tâm điểm thu hút các nhà khoa học không chỉ
ở ngành vật lý mà còn ở nhiều ngành khác như hoá, lý, sinh.
48
CHƯƠNG 2: KỸ THUẬT THỰC NGHIỆM
Trong nghiên cứu vật liệu, việc thiết kế chế tạo thành công các mẫu nghiên cứu là
một yêu cầu hết sức quan trọng. Thực tế hiện nay, hạt nano từ tính có thể được chế tạo
theo hai nguyên tắc: Nghiền nhỏ vật liêu khối đến kích thước nano (top-down) và hình
thành hạt nano từ việc kết hợp các nguyên tử (bottom-up). Để có thể chế tạo ra các mẫu
hạt nano có tính chất siêu thuận từ và ứng dụng được trong y sinh thì phương pháp hóa
học được sử dụng phổ biến hơn cả. Chương này sẽ giới thiệu quy trình chế tạo mẫu hạt
nano Fe3O4 bằng hai phương pháp thủy nhiệt và phân hủy nhiệt. Với mục đích chế tạo
chất lỏng từ, các quy trình bọc và quy trình chuyển pha trên nền hạt Fe3O4 được chế tạo
bằng 2 phương pháp kể trên cũng được trình bày chi tiết. Ngoài ra, các phương pháp đo
đạc, phân tích tính chất liên quan trực tiếp đến các vật liệu chế tạo được cũng được trình
bày khái quát trong chương này.
2.1. Chế tạo chất lỏng từ trên nền hạt Fe3O4 tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt
Phương pháp thủy nhiệt thường được thực hiện trong nồi hấp (autoclave), các phản
ứng diễn ra trong điều kiện áp suất và nhiệt độ được điều chỉnh theo mong muốn, phản
ứng xảy ra trong dung dịch. Nhiệt độ được đặt trên điểm sôi của nước, đạt đến áp suất
hơi bão hòa. Ở điều kiện siêu tới hạn này, nước hoạt động như một chất phản ứng để gia
tốc động học của phản ứng thủy phân. Chất kiềm hoặc axit đóng vai trò như là chất giả
xúc tác cho phản ứng. Khống chế kích thước và hình thái sản phẩm của phản ứng thủy
nhiệt bằng cách thay đổi các điều kiện của dung dịch như là: pH, lực ion, nồng độ chất
hoạt động bề mặt, nồng độ cation, anion, dung môi; và các điều kiện xử lý như: nhiệt
độ, thời gian và khuấy. Hạt nano từ Fe3O4 được chế tạo bằng phương pháp thuỷ nhiệt
theo cách tiến hành thực nghiệm của các nhóm tác giả [169, 170] với hóa chất và thiết
bị như sau:
2.1.1. Hóa chất và thiết bị
Các hóa chất dùng để tổng hợp mẫu là các sản phẩm thương mại của các hãng
Sigma - Aldrich và Merck, với độ sạch 99,99%. Trong đó các hóa chất dùng để tổng
hợp mẫu bao gồm: FeCl2.4H2O, FeCl3.6H2O, NaOH và HCl. Các thiết bị dùng để hỗ trợ
trong quá trình chế tạo và thu rửa mẫu bao gồm: Bình Teflon, bình autoclave, máy khuấy
từ, máy rung siêu âm, máy ly tâm và tủ sấy mẫu.
2.1.2. Quy trình chế tạo hạt nano Fe3O4
Hòa tan x (g) Fe3+ trong 10ml nước khử ion và y (g) Fe2+ trong 10 ml nước đề ion
trộn đều với nhau sao cho tỷ lệ ion Fe2+ /Fe3+ là ½ (với x, y tùy thuộc vào từng thí
nghiệm). Khuấy liên tục đến khi dung dịch đồng nhất (dung dịch A). Tiến hành phản
49
ứng tạo hạt bằng cách nhỏ từ từ dung dịch A xuống bình cầu chứa sẵn dung dịch NaOH
2M trong môi trường khí N2, dung dịch chuyển từ màu nâu đỏ sang màu đen lúc này
mầm kết tủa Fe3O4 bắt đầu hình thành. Tốc độ khuấy từ được giữ cố định trong suốt quá
trình phản ứng. Lượng NaOH dư để sự tạo thành lượng Fe3O4 là lớn nhất và đảm bảo
rằng giá trị pH= 10-12.
Toàn bộ dung dịch này được chuyển vào bình thủy nhiệt (autoclave) và được gia
nhiệt ở nhiệt độ 120oC - 180oC, thời gian phản ứng khảo sát từ 2giờ đến 4giờ với nồng
độ muối Fe3+ từ 0,1-0,25M. Sản phẩm sau phản ứng được làm nguội tự nhiên, dùng nam
châm đất hiếm lắng các hạt Fe3O4 xuống dưới đáy, và rửa bằng nước cất đề ion 5-7 lần
sao cho pH=7. Sau đó tiếp tục rửa bằng axeton 2- 3 lần với mục đích loại bỏ các tạp chất
còn dư thừa trong quá trình phản ứng.
Hạt Fe3O4 thu được chia làm 2 phần: một phần được sấy đông khô, phần còn lại
chuẩn bị cho quá trình bọc bằng Chitosan. Quá trình chế tạo hạt nano từ tính Fe3O4 bằng
phương pháp thủy nhiệt có thể tóm tắt như trong hình 2.1.
Hình 2.1.Quy trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 bằng phương pháp thủy nhiệt.
2.1.3. Quy trình chế tạo chất lỏng từ Fe3O4 bọc chitosan
Hạt nano Fe3O4 thu được từ các phương pháp trên được lọc rửa bằng nước cất đến
pH=7. Sau đó các hạt nano Fe3O4 được hòa tan trong 10 ml nước cất đề ion và rung siêu
âm trong vòng 1 giờđể cho các hạt phân tán đều.
Hòa tan 0,1g chitosan trong 100ml dung dịch axit axetic 2%, khuấy từ trong 2giờ
và lọc trên phễu Buchner. Sau đó nhỏ từ từ dung dịch chitosan vào bình cầu chứa hạt
nano từ tính Fe3O4 thu được ở trên, đồng thời sục khí N2 liên tục và rung siêu âm 45
50
phút. Sau khi phản ứng kết thúc gạn rửa kết tủa và đưa đi sấy đông khô trong môi trường
chân không ở nhiệt độ -86oC khoảng 8-10giờ, hạt nano từ thu được được đem đi đo cấu
trúc, hình thái và tính chất từ.
Quy trình chế tạo hạt nano Fe3O4 bọc Chitosan có thể tóm tắt như sau (Hình 2.2):
Hình 2.2. Quy trình tổng hợp hạt nano từ tính Fe3O4 bọc Chitosan
Dựa vào các yêu cầu của phương pháp thủy nhiệt, trong phạm vi nghiên cứu đề tài
chúng tôi tiến hành khảo sát một số điều kiện ảnh hưởng đến quá trình hình thành pha
và kích thước hạt nano Fe3O4 như: nhiệt độ phản ứng, nồng độ chất tham gia phản ứng,
nhiệt độ bọc...
Chọn các yếu tố ảnh hưởng:
Giá trị từ độ bão hòa và kích thước hạt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố công nghệ
như: thời gian, nhiệt độ, giá trị pH, nồng độ muối ban đầu, tốc độ khấy từ… Tùy vào
phương pháp chế tạo và điều kiện, thiết bị thí nghiệm mà chúng tôi lựa chọn nhân tố ảnh
hưởng khác nhau. Ở đây trong phương pháp thủy nhiệt, các yếu tố được lựa chọn:
A: Nhiệt độ ủ mẫu B: Thời gian phản ứng
C: Nồng độ Fe3+ Hàm mục tiêu Y: giá trị từ độ bão hòa mong đợi
Thực hiện quy hoạch thực nghiệm bậc hai ba mức tối ưu:
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn miền khảo sát của ba yếu tố nhiệt độ, thời gian
và nồng độ để có thể chế tạo ra những hạt nano có kích thước nhỏ và độ từ tính cao như
sau: nhiệt độ ủ mẫu 120oC-180oC, thời gian phản ứng từ 2 đến 4 giờ, nồng độ Fe3+ 0,1M
đến 0,2M với hàm mục tiêu là từ độ bão hòa Ms (emu/g). Tương tự phương pháp đồng
kết tủa số liệu được xử lí bằng phần mềm thống kê Design-Expert 7.1 để phân tích các hệ
51
số hồi quy, bề mặt đáp ứng và tối ưu hóa với hàm mong đợi và lựa chọn phương án quy
hoạch thực nghiệm bậc hai ba mức tối ưu với k là các yếu tố ảnh hưởng.
Phương trình hồi quy có dạng:
Y = b0+ b1A + b2B + b3C + b12AB +b13AC + b23BC +b11A2 +b22B2 +b33C2
Trong đó: b0 là hệ số hồi quy
b1, b2, b3: hệ số tuyến tính b12, b13, b23, b11, b22, b33: hệ số tương tác đôi
Mối tương quan giữa giá trị mã hóa và giá trị thực được chỉ ra ở bảng 2.1.
Bảng 2.1: Giá trị mã hóa và giá trị thực nghiệm của các yếu tố thực nghiệm.
Biến số Ký hiệu Đơn vị Ký hiệu giá trị mã hóa Mức anpha*
(+/- 1.414) -1 0 +1
Nhiệt độ ủ
mẫu (A) X1
oC 120 150 180 192,426
107,574
Thời gian
(B) X2 h (giờ) 2 3 4
4,41
1,59
Nồng độ
Fe3+ (C) X3 M(mol/l) 0.1 0.17 0.25
0,28
0,17
Quy hoạch thực nghiệm đưa ra bảng ma trận thực nghiệm gồm 13 thí nghiệm,
trong đó có 2k-1 thí nghiệm ở biên, 2k thí nghiệm ở điểm sao và 3 thí nghiệm tại tâm (n0)
với hàm mục tiêu là từ độ bão hòa (emu/g). Để hạn chế rủi ro bất ngờ, thứ tự của thí
nghiệm được chọn ngẫu nhiên. Giá trị mã hóa và kết quả thiết kế với ma trận thực
nghiệm được trình bày ở bảng 2.2.
Bảng 2.2: Ma trận thực nghiệm và kết quả tổng hợp chất lỏng từ theo từng thí nghiệm
STT Mức độ Nhiệt độ ủ
mẫu (A)
Thời
gian (B)
Nồng độ
Fe3+ (C) A B C
1 + + - 180 4,00 0,1
2 + - + 180 2,00 0,25
3 - + + 120 4,00 0,25
4 - - - 120 2,00 0,10
5 -1,414 0 0 107,57 3,00 0,17
6 1,414 0 0 192,43 3,00 0,17
7 0 -1,414 0 150 1,59 0,17
8 0 1,414 0 150 4,41 0,17
9 0 0 -1,414 150 3,00 0,07
10 0 0 1,414 150 3,00 0,28
11 0 0 0 150 3,00 0,17
12 0 0 0 150 3,00 0,17
13 0 0 0 150 3,00 0,17
52
2.2. Tổng hợp hạt nano từ Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt
Khi chế tạo hạt nano oxit sắt rất nhiều công trình sử dụng các phương pháp hóa
ướt dùng dung môi là nước, như phương pháp đồng kết tủa, thủy nhiệt, phương pháp vi
sóng hay phương pháp hóa siêu âm. Các phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, tuy
nhiên hạn chế của các phương pháp này là từ độ bão hòa thấp và kích thước hạt không
đồng đều. Phương pháp phân hủy nhiệt (tổng hợp hạt trong dung môi hữu cơ ở nhiệt độ
sôi cao) có thể giải quyết được các tồn tại nêu trên, tức là cho phép chế tạo ra các hạt có
kích thước bé, đồng đều nhưng từ độ bão hòa cao. Công trình khởi xướng cho tổng hợp
hạt nano sắt từ bằng con đường phân hủy nhiệt là của Sun và CS vào năm 2004. Nguyên
lý chung của phương pháp này là: dùng tiền chất là phức chất cơ kim chứa ion từ + chất
hoạt động bề mặt và trong dung môi hữu cơ, với quy trình gia tăng nhiệt độ thích hợp
để khống chế quá trình tạo mầm và phát triển hạt trong không gian giới hạn vùng kích
thước nano. Yếu tố nhiệt độ cao (đến khoảng 300oC) có thể giúp cho quá trình tạo tinh
thể được hoàn hảo, nhờ vậy mà từ độ của hạt nano sản phẩm được nâng cao.
Để chế tạo hạt nano Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt, đã sử dụng các hóa
chất có độ tinhkhiết cao thuộc hãng Sigma- Aldrich (Singapore) bao gồm:
Fe (III) acetylacetonate (Fe(acac)3) 99,99%, Fe (II) acetylacetonate (Fe(acac)2)
99,99%.
Dung môi sử dụng tổng hợp và rửa mẫu: Dibenzyl ether 99%, Octadecene 90%,
n-Hexane 99%, chloroform trên 99%.
Chất hoạt động bề mặt và chất khử: Axit Oleic (OA) 99%, Oleylamine (OLA)99%,
Octadecanol (OCD-ol) 95%.
Polymer dùng để chuyển pha các hạt từ dung môi hữu cơ sang nước: poly (maleic
anhydride-alt-1-octadecene) (PMAO).
Chất lượng của mẫu (đồng đều của kích thước hạt, độ hoàn hảo tinh thể) tổng hợp
bằng phương pháp phân hủy nhiệt thường phụ thuộc vào các tham số thực nghiệm như
nồng độ tiền chất, tỉ lệ nồng độ chất hoạt bề mặt, bản chất của dung môi cũng như là các
thông số về thời gian và nhiệt độ phản ứng [51-53]. Trong số các yếu tố thực nghiệm
trên thì các tham số thời gian, nhiệt độ phản ứng và bản chất dung môi có ảnh hưởng
lớn đến tính chất của hạt nano từ. Ảnh hưởng của ba tham số này được tập trung khảo
sát và trình bày dưới đây nhằm tìm ra các điều kiện tối ưu, chế tạo ra các hạt nano từ
Fe3O4 có từ độ bão hòa cao mà kích thước hạt nằm trong vùng siêu thuận từ để có thể
ứng dụng tốt hơn trong tăng cường độ tương phản ảnh cộng hưởng từ hạt nhân MRI.
Nội dung nghiên cứu bao gồm: (i) Khảo sát ảnh hưởng của các tham số công nghệ
như bản chất dung môi, thời gian và nhiệt độ phản ứng lên sự hình thành pha, hình thái
53
và từ độ bão hòa của các hạt nano Fe3O4. (ii) Khảo sát các đặc trưng vật lý của các hạt
nano từ Fe3O4 ở các vùng kích thước khác nhau với mục đích lựa chọn ra mẫu có chất
lượng tốt nhất để nghiên cứu chế tạo chất lỏng từ. Mục đích cuối cùng là tìm ra được
quy trình công nghệ thích hợp để chế tạo được hạt nano Fe3O4 theo yêu cầu đề ra.
➢ Hệ mẫu thứ nhất chế tạo theo sự thay đổi dung môi kết hợp thay đổi nhiệt độ
tổng hợp. Các mẫu được ký hiệu lần lượt là: DIO, OIO, và OIO-DIO tương ứng với
dung môi là: dibenzyl ete, octadencen và hỗn hợp dibenzyl ete + octadecnene (tỉ lệ 1:1:
về thể tích). Thời gian phản ứng được chọn là 1 giờ tại nhiệt độ sôi của các dung môi.
Các mẫu được ký hiệu lần lượt là: DIO1, DIO2 và DIO3 với nhiệt độ phản ứng cao nhất
tăng là 265oC, 285 oC, 298oC (đối với dung môi dibenzyl ete); OIO1, OIO2, OIO3 với
nhiệt độ phản ứng cao nhất tương ứng là 270oC, 300oC, 320oC (đối với dung môi
octadecene) và OIO-DIO1, OIO-DIO2 và OIO-DIO3 với nhiệt độ phản ứng cao nhất
tương ứng là 270oC, 295oC, 310oC với hỗn hợp của hai dung môi.
➢ Hệ mẫu thứ hai chế tạo trong dung môi hỗn hợp dibenzyl ether và octadencene,
các hạt nano từ Fe3O4 được chế tạo với các thời gian phản ứng khác nhau trong cùng
một nhiệt độ 310oC (nhiệt độ sôi của dung môi). Các mẫu được ký hiệu lần lượt là: OIO-
DIO4, OIO-DIO5 và OIO-DIO6 tương ứng với thời gian phản ứng tăng dần từ: 0,5; 1,0
và 2 giờ.
Các công việc nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm thực hành thí nghiệm
trường Đại học Vinh, Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Viện Khoa học vật liệu trên thiết bị
tổng hợp mẫu tự xây dựng. Quy trình chế tạo hạt Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy
nhiệt được miêu tả trong hình 2.3 và hình 2.4.
54
Hình 2.3. Hệ thiết bị dùng để chế tạo hệ hạt Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt
(a) và (b) sơ đồ quá trình thay đổi nhiệt độ và thời gian tổng hợp hạt nano Fe3O4.
Hình 2.4. Quy trình tổng hợp hạt nano Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt
55
Quy trình tổng hợp mẫu được thể hiện trên hình 2.4. Tùy theo yêu cầu của thí
nghiệm, các tiền chất ban đầu, Fe(acac)3, Fe(acac)2 (có thể bổ sung) và Octadecanol
được cho vàobình 3 cổ dung tích 100 ml cùng một lượng chất hoạt động bề mặt OA,
OLA và hai dung môi Octadecene, Dibenzyl ether với tổng là 40 ml. Đặt bình chứa hỗn
hợp phản ứng trên lên bếp nhiệt có khuấy từ, bộ gia nhiệt phụ trợ cùng hệ thống làm
mátvà cấp khí nitơ. Bật máy khuấy từ, giữ dung dịch ở nhiệt độ phòng trong thời gian
30 phút. Sau đó tăng dần nhiệt độ lên 100oC để loại bỏ hơi nước có trong dung dịch phản
ứng, giữ ở nhiệt độ này 30 phút. Tiếp tục tăng đến 200oC và duy trì trong 30 phút. Cuối
cùng tăng nhiệt độ lên 298-320oC (tùy thuộc vào dung môi), giữ ở thời gian 60 phút.
Tốc độ tăng nhiệt cho các giai đoạn là 7oC/phút. Trong quá trình thực hiện khí nitơ được
cấp liên tục để tạo môi trường trơ cho quá trình tổng hợp. Sau đó, dung dịch được làm
nguội tự nhiên đến nhiệt độ trong phòng và rửa bằng etanol kết hợp ly tâm trước khi
phân tán trong dung môi n-hexan hoặc clorofom ta thu được hạt nano từ Fe3O4. Các mẫu
được sấy khô trước khi khảo sát các đặc trưng cấu trúc, kích thước hạt và tính chất từ.
Chi tiết các bước nâng nhiệt được thể hiện ở hình 2.3c.
Hệ hạt nano Fe3O4 được tổng hợp trên thiết bị gia nhiệt với nhiệt độ lên đến 450oC
và độ chính xác 1oC (hình 2.3a). Bộ điều khiển nhiệt độ có 4 chế độ nâng nhiệt khác
nhau, tùy từng yêu cầu của thí nghiệm. Hệ còn có một máy khuấy từ gia nhiệt với tốc
độ có thể điều chỉnh từ 0-1000 vòng/phút. Ngoài ra, mẫu và một sốvật dụng khác được
rửa bằng hệ cung cấp khí N2, máy ly tâm, máy rung siêu âm.
Chế tạo chất lỏng từ chứa hạt nano từ tính Fe3O4 bọc bằng PMAO
Để ứng dụng trong y sinh, đối với các mẫu chế tạo bằng phương pháp phân hủy
nhiệt, do các hạt nano thu được bị phủ bởi một lớp mỏng chất hoạt động bề mặt hòa tan
trong dung môi hữu cơ nhưng khó phân tán trong môi trường nước. Do vậy, để tạo được
chất lỏng từ dung môi nước, cần tiến hành một công đoạn gọi là quá trình chuyển pha
(phase transfer process). Trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi đã nghiên cứu quá
trình chuyển pha bằng cách trao đổi ligan và bọc hạt bằng poly (maleic anhydride-alt-1-
octadecene) (PMAO). Đây là một polyme có giá thành rẻ và sẵn có nên đã được sử dụng
như một tác nhân chuyển pha sang môi trường nước đối với vật liệu nano nghiên cứu
gần đây [68-69]. PMAO là polyme với cấu trúc phân tử gồm 2 phần chính như được
chỉ ra trên hình 2.5. Phần kỵ nước là chuỗi hydrocacbon có chức năng giúp các phân tử
PMAO bám vào hạt thông qua liên kết hydrophobic-hydrophobic (kỵ nước - kỵ nước)
với các phân tử OA và OLA trên bề mặt hạt. Phần ưu nước chứa gốc anhydrit có vai trò
giúp các hạt phân tán trong môi trường nước. Trong quá trình rung siêu âm các phân tử
PMAO sẽ bám vào bề mặt hạt thông qua tương tác giữa phần kỵ nước với các phân tử
56
OA, OLA trên bề mặt. Các hạt Fe3O4 sau khi được bọc PMAO trở thành hydrophilic và
có khả năng phân tán trong nước.
F e 3 O 4
F e 3 O 4
F e 3 O 4
Hình 2.5. Mô hình quá trình chuyển pha và bọc hệ hạt nano bằng PMAO
Quy trình chuyển pha và bọc hạt nano từ Fe3O4 bằng poly (maleic anhydride-alt-
1-octadecene) (PMAO) thể hiện ở Hình 2.6.
Hình 2.6. Quy trình chuyển pha và bọc hạt Fe3O4 bằng PMAO
Các hạt nano sau khi tổng hợp được rửa nhằm loại bỏ tạp chất là các chất dư và
sản phẩm phụ trong quá trình tổng hợp. Sau đó cân lấy một lượng chính xác hạt nano từ
Fe3O4 rồi phân tán trong clorofom (theo tỉ lệ cứ 50 mg hạt từ phân tán trong 1 ml
clorofom), xử lý bằng siêu âm 10 phút để đảm bảo các hạt phân tán đều. Lấy một lượng
poly (anhydrit-alt-1-octadexenmaleic) (PMAO) và phân tán trong clorofom (theo tỉ lệ
cứ 100 mg PMAO trong 1 ml clorofom), xử lý bằng siêu âm từ 3 đến 5 phút cho tan
đều. Trộn 2 dung dịch này lại với nhau và xử lý bằng siêu âm khoảng 30 phút đảm bảo
57
dung dịch được trộn đều, không lắng cặn. Sản phẩm thu được được khuấy đều ở nhiệt
độ trong phòng cho đến khi clorofom (khoảng thời gian 3-4 giờ) bay hết ta thu được
chất rắn dạng sệt, tiếp tục cho dung dịch NaOH 1M vào, khuấy từ cho đến khi phân tán
đều (khoảng 10-12 giờ), sau đó tiến hành rửa bằng nước cất cho đến khi thu được dung
dịch màu đen, thu được các hạt Fe3O4 phân tán trong nước.
2.3. Phương pháp quy hoạch thực nghiệm
2.3.1. Quy hoạch thực nghiệm
Trong các nghiên cứu thực nghiệm hoá học và công nghệ hoá học, có rất nhiều các
bài toán thực nghiệm được mô tả thành bài toán cực trị: xác định điều kiện tối ưu của quá
trình, thành phần tối ưu của hỗn hợp… Sự phân bố thích hợp của các điểm trong không
gian nhân tố và phép biến đổi tuyến tính toạ độ đã khắc phục được những nhược điểm của
phương pháp cổ điển và chỉ ra sự tương quan giữa các hệ số của phương trình hồi quy
[15,16]. Việc chọn kế hoạch thực nghiệm dựa vào nhiệm vụ nghiên cứu và đặc tính của
đối tượng. Quá trình nghiên cứu thường được tiến hành theo từng giai đoạn. Như vậy, khả
năng điều khiển tối ưu bằng thực nghiệm được hình thành.
Quy hoạch hoá thực nghiệm cho phép thay đổi đồng thời tất cả các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình đồng thời cho phép đánh giá định lượng các hiệu ứng cơ bản và các
hiệu ứng tương hỗ với số lần thí nghiệm là ít nhất nhưng sai số tối thiểu so với phương
pháp nghiên cứu cổ điển. Để xác lập mô tả thống kê đối tượng hoá học và công nghệ
hoá học, cần thực hiện các bước sau: xác định các thông số của mô hình mô tả hệ, xác
lập cấu trúc hệ; xác định hàm toán mô tả; xác định các tham số của hàm toán; kiểm tra
tính tương hợp mô tả đó.
2.3.1.1. Xác định hệ
Số các yếu tố độc lập tối đa ảnh hưởng lên hệ xác định theo công thức:
F = Fđk + Fh
Fđk: bậc tự do điều khiển Fh: bậc tự do hình học của hệ
Tuỳ theo yêu cầu nghiên cứu ta chỉ cần chọn k yếu tố (k ≤ F) ảnh hưởng lên hàm
mục tiêu y nào đó. Việc lựa chọn này cần căn cứ vào các yếu tố sau:
- Đặc điểm của hệ cần nghiên cứu: ở đây ta cần phải tìm xem những yếu tố nào
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hệ mà ta nghiên cứu rồi liệt kê chúng ra.
- Đặc điểm thiết bị sử dụng khi nghiên cứu và thực nghiệm: ở đây chủ yếu là các
yếu tố đặc trưng cho tính chất hình học của thiết bị, loại thiết bị.
- Những đặc điểm gây ra bởi quá trình: gồm các yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt đến
hiệu suất của quá trình hoặc đến các yếu tố mục tiêu mà ta đang cần nghiên cứu.
Như vậy, sau khi liệt kê được tất cả những yếu tố ảnh hưởng trên ta mới chọn ra một
số các yếu tố quan trọng nhất nhưng cần chú ý là các yếu tố này phải độc lập với nhau.
58
2.3.1.2. Xác định cấu trúc của hệ
Hệ chỉ là một phần tử mà ta không biết rõ cấu trúc và tính chất bên trong. Do đối
tượng nghiên cứu của quy hoạch thực nghiệm thường dùng là những hệ phức tạp, với
cơ chế chưa được hiểu biết đầy đủ nhờ các mô hình lý thuyết, nên có thể hình dung
chúng như “hộp đen” trong hệ thống điều khiển gồm các tín hiệu đầu vào và đầu ra (hình
2.7).
Hình 2.7. Sơ đồ tín hiệu của quy hoạch thực nghiệm
Các tín hiệu đầu vào được chia thành các nhóm:
- Các biến kiểm tra được và điều khiển được, mà người nghiên cứu có thể điều
chỉnh theo dự định, biểu diễn bằng véctơ: X = [x1, x2, …, xn] thường là các biến thay
đổi theo thời gian một cách đơn điệu.
- Các biến kiểm tra được, nhưng không điều khiển được, biểu diễn bằng véctơ:
Z = [z1, z2, …, zk] là các biến ngẫu nhiên, có tính hệ thống nào đó.
- Các biến không kiểm tra và không điều khiển được, biểu diễn bằng véctơ:
E = [e1,e2, …, ef] thuộc loại ngẫu nhiên, thường được gọi là “nhiễu” trong các
thực nghiệm.
Véctơ Y = [y1, y2, …, yh] gồm các chỉ tiêu đầu ra dùng để đánh giá đối tượng
nghiên cứu, nó phụ thuộc vào các thông số ảnh hưởng.
2.3.1.3. Xác định hàm toán mô tả hệ
Hàm toán mô tả hệ có dạng y = (xj) là hàm nhiều biến (j = 1÷ k). Việc chọn biến
ra y dựa trên cơ sở:
- Kết quả quan sát ở những đại lượng ra y1, …, yq là những đại lượng ngẫu nhiên
có phân bố chuẩn độc lập.
- Hàm mục tiêu có thể là những chỉ tiêu công nghệ hay chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật…
- Kết quả của hàm mục tiêu mong đợi nghĩa là khi lặp lại nhiều lần cùng một thí
nghiệm thì giá trị thu được không sai lệch lớn.
Hàm nhiều biến này có thể khai triển thành dạng tổng quát:
Yq = βo +1
k
j
j jx=
+ , 1
k
j uj
ju j u
u
x x=
+ 2
1
k
j
jj jx=
+…
Trong đó:
59
y: hàm hồi quy lý thuyết với q chỉ tiêu.
β0: hệ số hằng lý thuyết;
βuj: hệ số tương hỗ kép lý thuyết;
βj: hệ số tuyến tính lý thuyết;
βjj: hệ số bình phương (hệ số phi tuyến tính) lý thuyết.
2.3.1.4. Xác định các tham số của mô hình thống kê
Xác định các hệ số của phương trình hồi quy phải dùng thực nghiệm. Số thực
nghiệm phải lớn hơn hoặc bằng số tham số của mô hình N ≥ l (giá trị bằng khi bão hoà),
trong đó l là số tham số của mô hình.
Các hệ số của phương trình trên được xác định theo phương pháp bình phương tối
thiểu, nghĩa là tổng sai số bình phương của hàm thực nghiệm và lý thuyết phải bé nhất:
1
2
( )N
i i
i
yy
=
= − → min
iY
: giá trị tính từ hàm hồi quy lý thuyết.
1 1 , 1
2
2
1
( ... i o j j ju j u
N k k k
i j j u jj i
jj jY b x b x x bb x= = = =
= − + + + +
→ min
Tức là phải thoả mãn điều kiện: 0jb
=
với j= 0,k
0ujb
=
với u,j= 0,k , u j; 0
jjb
=
với j =1,k
Hệ trên sẽ hình thành hệ phương trình chuẩn.
Căn cứ trên hệ phương trình chuẩn sẽ xác định được các hệ số b.
Viết dưới dạng ma trận: X*X*B = X*Y
B = [X*X]-1 *X*Y
X: ma trận các yếu tố thực nghiệm độc lập (biến số)
x: biến mã hoá được xác định như sau:
0
j j
j
j
zx
z
z
−= (j=1,2,…k) ; zj giá trị thực của biến xj.
Zj0: giá trị trung bình của biến Zj (hay mức cơ sở) được tính theo công thức:
0
2
max min
j j
j
Z ZZ
+=
Zjmax: mức cao của biến Zj
Zjmin: mức thấp của biến Zj
60
2
max min
j j
j
Z ZZ
−=
Điểm có toạ độ (z1o, z2
o, …, zko) gọi là tâm kế hoạch, z j: là khoảng thay đổi theo
trục zj.Từ hệ toạ độ (z1, z2, …, zk) ta chuyển sang hệ toạ độ không thứ nguyên mới (x1,
x2, …, xk) nhờ biểu thức biến đổi là:
o
j j
j
j
z zx
z
−=
(j=1, 2,..,k)
Trong hệ không thứ nguyên toạ độ mức trên là +1, toạ độ mức dưới là -1, toạ độ
tâm kế hoạch bằng 0 và trùng với gốc toạ độ.
2.3.1.5. Cơ sở chọn tâm thí nghiệm
Trước hết cần xác định phạm vi biến thiên trong của các yếu tố trong vùng lân cận
nhờ thông tin từ tài liệu và thực nghiệm. Sau đó sẽ chọn được mức cơ bản của từng yếu
tố (tức là toạ độ điểm M) và phạm vi thay đổi của nó. Điểm M được coi là mức cơ sở
(mức trung bình). Sau khi có mức cơ sở tiếp tục chọn các mức đối xứng (với điểm M)
để tiến hành thực nghiệm.
Hình dưới đây biểu diễn khoảng biến thiên hai yếu tố x1 và x2 xác định bằng hình
chữ nhật ABCD của khoảng xác định các yếu tố. Không gian các yếu tố ảnh hưởng trùng
với mặt phẳng x1Ox2. Ứng với từng điểm của khoảng xác định các yếu tố thì có một
điểm trong bề mặt tối ưu. Với trục toạ độ dưới đây mặt tối ưu nằm trong phạm vi ABCD.
Sau khi chọn mức cơ sở của từng yếu tố, ta chọn mức biến thiên của chúng. Số lượng
mức phụ thuộc vào số thí nghiệm và phải chọn thế nào để tìm được hệ số phương trình
hồi quy và xác định được sự tương thích của mô hình đó. Trong mô hình tuyến tính, số
mức biến thiên thường lấy là 2. Hai mức đó chọn đối xứng nhau qua mức cơ sở, thường
được gọi là mức trên, mức dưới.
Hình 2.8. Vùng xác định ABCD các yếu
tố yếu tố ảnh hưởng và vùng lân cận
Hình 2.9. Vùng xác định A’B’C’D’các
yếu tố ảnh hưởng và vùng lân cận
Khoảng cách từ mức cơ sở đến mức trên hoặc mức dưới gọi là khoảng biến thiên
của các yếu tố. Khoảng biến thiên phải đảm bảo giới hạn cần thiết không nhỏ hơn độ sai
61
lệch cho phép. Khi nghiên cứu các hiện tượng, quá trình có độ chính xác cao cần chọn
khoảng biến thiên hẹp. Khoảng biến thiên hẹp của các yếu tố không được lớn hơn 10%
khoảng xác định của yếu tố đó. Với khoảng biến thiên trung bình thì độ lớn của nó trong
khoảng 30%.
Ma trận X* là ma trận chuyển vị của ma trận X
X = (Xij) với i = 1÷N và j = 1÷k
Ma trận (X*X)-1 gọi là ma trận tương quan (nêu lên tương quan biến và hàm
hồi quy).
2.2.1.6. Kiểm tra tính có nghĩa của hệ số hồi quy
Sau khi xác định các hệ số b của phương trình hồi quy theo N thí nghiệm, phải
kiểm tra tính có nghĩa của hệ số hồi quy nhờ chuẩn số Student tbj. Theo tiêu chuẩn
Student ta có:
j
bj
bj
bt
s=
Sbj độ lệch tiêu chuẩn của hệ số bj, được tính như sau:
1
2
2
llb Nj
i
ij
SS
x=
=
Sll2: là phương sai lặp được tính theo công thức:
2
20
1
1
1
m
l
i
l oi ysm
y−
=
= −
−
yoi là giá trị hàm mục tiêu ở thực nghiệm i tại tâm kế hoạch.
0Y là giá trị trung bình của m thực nghiệm tại tâm kế hoạch
1
0 1o
m
i
iY yim =
= =
2
1
N
i
jix=
là tổng các số hạng bình phương của véctơ cột xi của ma trận thực nghiệm.
m: số thực nghiệm phải lặp tại tâm kế hoạch.
Tra bảng tiêu chuẩn Student ứng với mức ý nghĩa p và bậc tự do lặp f2 = m-1 và
thường chọn p = 0,05÷0,01.
Nếu tb ≥ tp (f2) thì b tồn tại với mức ý nghĩa tương ứng như ta mong muốn.
Nếu không, b sẽ không tồn tại và ta loại bỏ b khỏi phương trình hồi quy.
Nếu ma trận X trực giao (tức là tích vô hướng của mọi véctơ cột là bằng 0) thì khi
bỏ b ta vẫn dùng phương trình hồi quy đã tìm.
Nếu ma trận X không trực giao, phải tính toán lại tất cả hệ số b có nghĩa.
62
2.3.1.7. Kiểm tra tính tương hợp của mô hình thống kê
Dùng tiêu chuẩn Fisher:
2
2
du
ll
Fs
s=
Phương sai dư: 2 1
N
i i
idu
y Y
sN l
=
=
−
−
l: số hệ số có nghĩa trong phương trình hồi quy
f1= N-l là bậc tự do của phương sai dư.
f2= m-1 là số bậc tự do của phương sai lặp.
Tra bảng giá trị Fp, f1, f2 nếu F< Fp, f1, f2 thì mô hình tương hợp.
2.4. Các phương pháp đặc trưng
2.4.1. Nhiễu xạ tia X
Phổ nhiễu xạ tia X (X-Ray Diffraction) là sử dụng phổ nhiễu xạ Rơnghen để xác
định thành phần cấu trúc mạng tinh thể của mẫu cần nghiên cứu với độ tin cậy cao.
Nguyên lý chung của phương pháp nhiễu xạ tia X: dựa trên hiện tượng nhiễu xạ
tia X của các vật liệu kết tinh mà xác định kích thước tinh thể dựa vào ảnh hưởng khác
nhau của kích thước tinh thể lên phổ nhiễu xạ. Do cấu tạo mạng tinh thể của nguyên tử
hay ion được phân bố đều đặn trong không gian theo một qui luật nhất định, khoảng
cách giữa các nút mạng vào khoảng vài Å tức là xấp xỉ với bước sóng tia Rơnghen (tia
X). Do đó khi chiếu chùm tia X có bước sóng λ vào mặt tinh thể của vật liệu thì mạng
tinh thể này đóng vai trò như một cách tử nhiễu xạ (hình 2.10)
Hình 2.10. Sơ đồ nhiễu xạ tia X từ một số mặt phẳng hữu hạn
Kích thước trung bình của tinh thể được xác định theo phương trình
0,89
cosr
= (nm)
Trong đó:
r: kích thước tinh thể (nm).
λ: bước sóng tia X của Cu (nm).
β: radian bán độ rộng của vạch quang phổ.
: vị trí góc xuất hiện nhiễu xạ cực đại.
63
Phương pháp này cho phép xác định pha cấu trúc, phân tích định tính, định lượng
các pha tinh thể, hằng số mạng, mức độ biến dạng mạng, so sánh xác định tương đối
hàm lượng pha tạp, từ đó cho phép điều chỉnh quy trình chế tạo vật liệu và góp phần lý
giải các hiện tượng vật lý.
Hình 2.11. Thiết bị nhiễu xạ tia X
Các phép đo và phân tích pha tinh thể của mẫu được khảo sát trên thiết bị nhiễu xạ
kế tia X D8 Advance Bruker (Đức) sử dụng bức xạ Cu-kα (λ= 1,5406 Å) tại phòng thí
nghiệm Hóa vô cơ, Đại học KHTN, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.4.2. Phổ hấp thụ hồng ngoại
Phương pháp phổ hồng ngoại (IR) cung cấp thông tin về cấu trúc phân tử nhanh
không đòi hỏi các phương pháp tính toán phức tạp. Phổ hồng ngoại (FT - IR) là một
trong những kĩ thuật được sử dụng nhiều nhất để khẳng định hạt nano từ đã được chức
năng hoá do tính đơn giản và sẵn có của phép đo này. Phổ hồng ngoại cho biết về trạng
thái kích thích của các dao động hoặc trạng thái quay của phân tử. Trong hạt từ, các dao
động này liên quan đến sự kéo căng liên kết giữa nguyên tử sắt và các phân tử khác.
Dựa vào tần số đặc trưng, cường độ đỉnh trong phổ hồng ngoại, người ta có thể phán
đoán trực tiếp về sự có mặt của các nhóm chức, các liên kết xác định trong phân tử
nghiên cứu, từ đó xác định được cấu trúc của chất nghiên cứu. Các phép đo và phân tích
phổ hồng ngoại trong luận án được thực hiện trên máy Nicolet 6700 trong vùng 4000 -
400 cm-1 tại phòng thí nghiệm Hóa vô cơ, Đại học KHTN, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.4.3. Phân tích nhiệt
Phương pháp phân tích nhiệt là phương pháp hóa lý thường dùng để phân tích cấu
trúc vật liệu, cung cấp những thông tin về tính chất nhiệt của vật liệu và xác định nhiệt
độ nung khi tiến hành khảo sát nhiệt độ nung mẫu. Bản chất của phương pháp nhiệt là
64
dựa vào hiệu ứng nhiệt để nghiên cứu những quá trình phát sinh khi đun nóng hoặc làm
nguội chất. Từ trên giản đồ nhiệt với các đường DTA (Differential Thermal Analysis)
và TGA (Thermo Gravimetric Analysis) thu được từ kết quả phân tích nhiệt ta có thể
giải thích được các quá trình lý hóa xảy ra khi tiến hành nung mẫu. Trên giản đồ phân
tích nhiệt gồm các đường cơ bản sau:
- Đường TG (Thermogram): ghi lại sự biến đổi đơn thuần về nhiệt độ của mẫu theo
thời gian. Cho biết nhiệt độ xảy ra sự biến đổi của mẫu.
- Đường TGA (Thermo Gravimetric Analysis): khảo sát sự biến đổi khối lượng
của mẫu trong quá trình đun nóng. Cho phép xác định sự thay đổi thành phần của mẫu
khi xảy ra hiệu ứng nhiệt.
- Đường DTA (Differential Thermal Analysis): cho phép phát hiện sự chênh lệch
nhiệt độ của mẫu nghiên cứu với mẫu chuẩn trong quá trình nâng nhiệt. Nhờ đó có thể
xác định được các hiệu ứng nhiệt xảy ra là tỏa nhiệt hay thu nhiệt.
Từ các giản đồ nhiệt với các đường DTA, DTG, TG thu được từ bộ phận xử lý
thông tin ta giải thích được các quá trình hóa lí xảy ra khi tiến hành nung mẫu có chứa
từ một đến nhiều cấu tử. Đó là quá trình chuyển hoá thù hình (qua DTA), các quá trình
phân huỷ nhiệt, các quá trình phản ứng xảy ra giữa chất nghiên cứu và khí quyển trong
lò nung. Các thông tin thu được từ giản đồ nhiệt không những cho phép giải thích cơ
chế của quá trình mà còn cho phép xác định thành phần định tính và định lượng của các
pha có trong mẫu, cho phép tiến hành tính toán các giá trị nhiệt động và động học của
quá trình xảy ra trong mẫu. Các phép đo phân tích nhiệt trong luận án được thực hiện
trên hệ máy Labsys 18TG/DSC Setaram (Pháp) với tốc độ nâng nhiệt là 10oC/phút trong
môi trường không khí từ 30oC đến 800oC tại phòng thí nghiệm Hóa vô cơ, Đại học
KHTN, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.4.4. Hiển vi điện tử
2.4.4.1. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM)
Kỹ thuật hiển vi điện tử quét cho phép quan sát và đánh giá các đặc trưng của các
vật liệu vô cơ cũng như hữu cơ trong khoảng kích thước từ nm tới µm. Tính thông dụng
của SEM bắt nguồn từ khả năng thu nhận các ảnh ba chiều từ các bề mặt của các loại
vật liệu khác nhau. Trong ảnh SEM, vùng được khảo sát và phân tích được chiếu xạ bởi
chùm điện tử có kích thước nhỏ. Tương tác của chùm điện tử và mẫu tạo ra các loại tín
hiệu: Secondary electron (-SE), điện tử tán xạ ngược (Backscattered electrons - BSE),
các tia X đặc trưng (hình 2.12).
65
Hình 2.12. Sơ đồ mô tả các tín hiệu nhận được từ mẫu trong ảnh SEM
Hình 2.13. Kính hiển vi điện tử quét HITACHI S-4800
Các phép đo và phân tích ảnh SEM được xác định trên kính hiển vi điện tử quét
phát xạ trường Hitachi S-4800 (Nhật Bản) độ phóng đại 800.000 lần tại tại Viện Khoa
học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.4.4.2. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Hiển vi điện tử truyền qua là phương pháp hiển vi điện tử được phát triển với thiết
kế mô phỏng phương pháp hiển vi quang học truyền qua. Phương pháp này sử dụng một
chùm điện tử thay thế chùm sáng chiếu xuyên qua mẫu và thu được những thông tin về
cấu trúc và thành phần của nó giống như cách sử dụng hiển vi quang học.
Hình 2.14. Kính hiển vi điện tửtruyền qua JEOL TEM
66
Các phép đo và phân tích ảnh TEM của vật liệu được chụp trên kính hiển vi điện
tửtruyền qua TEM JEOL1010 (hình 2.14), đặt tại Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương với
hiệu điện thế từ 40 đến 100 kV, độ phân giải đối với điểm ảnh là 0,2 nm.
Hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HRTEM) là một chế độ ghi ảnh của kính
hiển vi điện tử truyền qua cho phép quan sát hình ảnh vi cấu trúc của vật rắn với độ phân
giải cao đến đến cấp độ từng lớp nguyên tử. Trong đó, ảnh HRTEM nhận được dựa trên
nguyên lý tương phản pha nhờ sự giao thoa giữa chùm điện tử truyền qua mẫu thẳng
góc và chùm điện tử tán xạ (có thể đạt được độ phân giải đến 0,05 nm). Nhờ đó, ảnh
HRTEM cho biết được các thông tin về vi cấu trúc, vị trí nguyên tử, hướng phát triển
tinh thể, kích tinh thước tinh thể, hình dáng, kích thước của vật liệu.
Nhiễu xạ điển tử lựa chọn vùng (SAED) là kỹ thuật tinh thể học được kết hợp trong
kính hiển vi TEM hoặc HRTEM để xác định cấu trúc ở các vùng lựa chọn khác nhau
của hệ vật liệu. Ảnh HRTEM và SAED trong luận án được khảo sát trên hệ kính hiển vi
điện tử phân giải cao Zeiss Libra 200 HTFE MC với gia tốc điện tử ở 200 kV Phòng thí
nghiệm Địa chất, Địa kỹ thuật, Địa môi trường và Ứng phó biến đổi khí hậu, Khoa Địa
chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN (Geology, Geoengineering,
Geoenvironment and Climate Change Labs - Faculty of Geology - Hanoi University of
Science - Vietnam National University, Hanoi).
2.4.4.3. Phương pháp từ kế mẫu rung (VSM)
Nguyên lý hoạt động cơ bản của hệ đo từ dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ. Khi
mẫu được rung, từ thông qua cuộn dây thu biến thiên và làm xuất hiện một hiệu điện thế
xoay chiều ở hai đầu cuộn dây. Hiệu điện thế này được khuếch đại bằng một máy khuếch
đại lọc lựa tần số nhạy pha trước khi đi đến bộ xử lý để hiển thị kết quả.
Hình 2.15. Hệ đo VSM
Các phép đo tính chất từ đối với các mẫu sử dụng trong luận án được thực hiện
trên hệ từ kế mẫu rung (VSM - Vibrating Sample Magnetometer) tại phòng Vật lý vật
67
liệu Từ và Siêu dẫn - Viện khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
2.4.5. Phổ tán xạ laze động (DLS)
Phân bố kích thước hạt và phân bố thế zeta của các mẫu trong luận án được xác
định bằng phương pháp tán xạ laser động trên thiết bị Zetasizer - Nano ZS của hãng
Malvern - UK được đặt tại Viện khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam và
thiết bị Horiba SZ-100 tại Khoa Y dược, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đại lượng đặc trưng
cho độ ổn định của hệ phân tán keo là thế Zeta (ζ). Nguyên lý của máy đo dựa trên mối
liên hệ giữa kích thước hạt keo trong chất lỏng và tốc độ chuyển động Brown của chúng.
Tốc độ chuyển động Brown của các hạt lơ lửng trong chất lỏng được đo đạc thông qua
việc phân tích cường độ tán xạ (dynamic light scattering - DLS) của chùm tia laser khi
chiếu vào mẫu dung dịch có chứa các hạt có kích thước nhỏ hơn bước sóng ánh sáng
chiếu tới.
Hình 2.16. Máy đo MalvernZetasizer và Horiba SZ-100
Thế Zeta thể hiện mức độ đẩy giữa các hạt tích điện cùng dấu gần nhau trong hệ
phân tán. Đối với các phân tử và các hạt đủ nhỏ, thế Zeta cao (âm hoặc dương) sẽ cho
độ ổn định cao, hệ phân tán sẽ chống lại sự keo tụ.
Bảng 2.3. Sự phụ thuộc độ ổn định của hệ keo vào giá trị thế Zeta
Thế zeta (mV) Độ ổn định của hệ keo
0 - ± 5 Kết tụ hay tập hợp thành từng đám rất nhanh
±10 - ± 30 Bắt đầu không ổn định
±30 - ± 40 Độ ổn định trung bình
±40 - ± 60 Độ ổn định rất tốt
≥ 61 Độ ổn định rất tốt
2.4.6. Phương pháp đánh giá độc tính của chất lỏng từ lên tế bào ung thư và tế bào lành
Các phương pháp đánh giá độc tính của chất lỏng từ lên các dòng tế bào sinh học
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Phòng Sinh học thực nghiệm, Viện
Hóa học các hợp chất thiên nhiên, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam.
68
Để thử độc tính của hệ chất lỏng từ Fe3O4@CS trên dòng tế bào ung thư
Sarcoma180 nuôi cấy, bộ kit CellTiter 96® Non-Radioactive CellProliferation Assay
của hãng Promega (gọi tắt là phương pháp MTT) được sử dụng. Phương pháp MTT có
ưu điểm là độ nhạy và độ chính xác cao, các bước thực hiện đơn giản, trong thời gian
ngắn, do đó thường sử dụng kiểm tra độc tính để sàng lọc thuốc với số lượng lớn, trên
nhiều nồng độ thuốc khác nhau. Kết quả thu được cho ra giá trị IC50, từ đó đánh giá
được độ độc của thuốc cần nghiên cứu.
Dựa vào giá trị mật độ quang học, ta xác định được % tỷ số tăng sinh (A) của
tế bào, từ đó đánh giá được độ độc đối với tế bào của chế phẩm. A được tính theo
công thức:
𝐴% =𝑇𝐻 − 𝑇𝑍
𝑉𝐻 − 𝑇𝑍
Trong đó: VH Giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng thử với dung môi
TH: Giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng thử với mẫu
Tz: Giá trị trung bình của mật độ quang học ở các giếng nuôi tế bào ở thời
điểm zero lúc bắt đầu tra mẫu để thử.
Dựa vào giá trị A (%) ứng với dải nồng độ ta sẽ vẽ được đồ thị theo logarit và thu
được phương trình của A (%) (trục y) theo nồng độ (trục x): y = f(x) gọi là đường cong
đáp ứng liều. Khi y = 50% thì x = IC50 (Inhibited Concentration) là nồng độ gây ức chế
sự sinh trưởng 50%. Hầu hết các nghiên cứu độc tính của thuốc đối với tế bào đều sử
dụng giá trị IC50 để đánh giá. IC50 là giá trị tại 1 điểm trên trục x tương ứng với giao
điểm của đường thẳng P và đường cong đáp ứng liều. Nếu A = 50% tương đương với
việc chế phẩm đem thử đã ức chế tăng sinh tế bào 50% so với đối chứng IC50%
(inhibitory concentration). Nếu A = 0% (T =Tz) tương đương với việc chế phẩm đã ức
chế toàn bộ quá trình tăng sinh tế bào. Nếu A < 0% (T < Tz) tương đương với việc chế
phẩm thử gây độc và làm chết tế bào. Liều mà tại đó giá trị A= - 50% được gọi là liều
gây độc và làm chết 50 % tế bào ban đầu, kí hiệu là IC50% (cytotoxicity Index).
Hình 2.17. Xác định giá trị IC50 trực tiếp dựa vào đồ thị đáp ứng liều của các dòng tế
bào khi thử thuốc với các nồng độ khác nhau
69
Theo phương pháp của Skehan &cs. (1990) và Likhitwitayawuid&cs. (1993) được
áp dụng tại Viện nghiên cứu ung thư Quốc gia của Mỹ (NCI) và trường đại học Dược,
đại học Tổng hợp Illinois, Chicago, Mỹ. Hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO được thử
nghiệm đánh giá độc tính trên các dòng tế bào lành và tế bào ung thư khác nhau.
Dòng tế bào (cell lines)
+ Dòng Hep-G2 (Human hepatocellular carcinoma - Ung thư gan)
+ Dòng RD (Human rhabdomyosarcoma - Ung thư mô liên kết)
+ Dòng MCF-7 (Human breast adenocarcinoma - Ung thư vú)
+ Dòng Vero (Vero cells - Tế bào biểu mô thận khỉ)
Môi trường và các dụng cụ, hóa chất:
Môi trường DMEM (Dulbecco’s Modified Eagle Medium) hoặc MEME
(Minimum Essential Medium with Eagle’s salt) có bổ sung L- glutamine, Sodium
piruvat, NaHCO3, PSF (Penicillin- Streptomycin sulfate - Fungizone); NAA (Non-
Essential Amino Acids); 10% BCS (Bovine Calf Serum); Tripsin-EDTA 0,05%; DMSO
(Dimethyl Sulfoside); TCA (Trichloro Acetic acid); Tris Base; PBS (Phosphate
Buffered Saline); SRB (Sulfo Rhodamine B); Acid Acetic.
Các dụng cụ dùng 1 lần: Bình nuôi cấy tế bào, phiến vi lượng 96 giếng, pipet
pasteur, các đầu týp cho micropipet…
Chất chuẩn chứng dương tính:
+ Dùng chất chuẩn có khả năng diệt tế bào: Ellipticine, Vinblastine hoặc Taxol
pha trong DMSO
Tính kết quả:
- Kết quả được đọc trên máy ELISA ở bước sóng 495 - 515nm.
- Giá trị CS (Cell Survival): là khả năng sống sót của tế bào ở nồng độ nào đó của chất
thử tính theo % so với đối chứng. Dựa trên kết quả đo được của chứng OD (ngày 0), DMSO
10% và so sánh với giá trị OD khi trộn mẫu để tìm giá trị CS (%) theo công thức:
𝐶𝑆% =OD (mẫu) − OD (ngày 0)
OD (DMSO) − OD (ngày 0) 𝑥 100
- Giá trị CS% sau khi tính theo công thức trên, đựơc đưa vào tính toán Excel để
tìm ra % trung bình ± độ lệch tiêu chuẩn của phép thử được lặp lại 3 lần theo công thức
của Ducan như sau: Độ lệch tiêu chuẩn σ
𝜎 = √(∑(𝑥𝑖 − �̅�)^2)/(𝑛 − 1)
- Các mẫu có biểu hiện hoạt tính (CS < 50%) sẽ được chọn ra để thử nghiệm tiếp
để tìm giá trị IC50.
70
Giá trị IC50 (50% Inhibitory Concentration) là nồng độ của mẫu thử mà tại đó ức
chế được 50% số lượng tế bào nghiên cứu. Dùng giá trị CS của 10 thang nồng độ, dựa
vào chương trình Table curve theo thang gía trị logarit của đường cong phát triển tế bào
và nồng độ chất thửđể tính giá trị IC50.
1/y = a + blnX
Trong đó Y: nồng độ chất thử; X: Giá trị CS (%)
2.4.7. Đo và chụp ảnh cộng hưởng từ hạt nhân (MRI)
Các phép đo và chụp ảnh MRI trên các mẫu chất lỏng từ Fe3O4@CS và
Fe3O4@PMAO ở các nồng độ khác nhau được thực hiện trên thiết bị cộng hưởng từ
Siemens (Model: MAGNETOM Avanto 1.5 T), tần số từ trường xoay chiều 64 MHz, từ
trường 1,5 tesla tại Bệnh viện Quốc tế Vinh, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Bằng thử
nghiệm này, khả năng tăng độ tương phản của hệ chất lỏng từ được khảo sát. Từ đó tính
được r1, r2 (độ hồi phục dọc và độ hồi phục ngang) của hệ chất lỏng từ.
Toàn bộ các dụng cụ, thiết bị và hóa chất gồm:
- Vật liệu nano lõi sắt từ Fe3O4 bọc polymer CS (Chitosan), nồng độ lõi sắt từ 5
mg/ml (hệ nano Fe3O4 @CS).
- Vật liệu nano lõi sắt từ Fe3O4 bọc polymer PMAO (poly maleic anhydride-alt-1-
octadecene), nồng độ lõi sắt từ 5 mg/ml, (hệ nano Fe3O4@PMAO).
- Vật liệu nano lõi sắt từ Fe3O4 bọc dextran (sản phẩm thương mại Resovist của
Schering, Đức) làm chất đối chứng so sánh.
- Thỏ trắng trọng lượng 2 kg. Thỏ, chuột được tiêm theo đường tĩnh mạch và tiêm
trực tiếp khối u.
- Đĩa nuôi cấy tế bào 24 giếng. Pipet man 1000µl, đầu corning, Agar, bếp nhiệt từ.
- Hệ thống thiết bị cộng hưởng từ Siemens, tần số từ trường xoay chiều 64 MHz,
từ trường 1,5 tesla
Chuẩn bị mẫu:
Pha 500ml agar 2%: đun nóng và khuấy đều trong 10-15 phút (nếu sử dụng lò vi
sóng thì chú ý tắt lò ngay khi thấy sôi).
Chuẩn bị đĩa 24 giếng: Ghi rõ kí hiệu lên cả nắp lẫn cạnh giếng để tránh nhầm lẫn.
Bước 1: Tra dung dịch hệ nano từ.
Hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO có nồng độ pha loãng trong vùng từ 0 - 0,3 mmol
(tính cho nguyên tố Fe) với các nồng độ: 0,025 mM; 0,05 mM; 0,1 mM; 0,15 mM; 0,25
mM và 0,3 mM tương ứng với các nồng độ 2,5 µg/ml; 5,0 µg/ml; 10,0 µg/ml, 15,0 µg/ml,
25,0 µg/ml và 30,0 µg/ml (tính theo chất lỏng từ Fe3O4@PMAO) được cho vào trong các
giếng có dung tích 2 ml (với 1 lớp dưới có chứa 0,3 ml agar 2%) của đĩa giếng, sau đó
cho tiếp 0,7 ml agar 2% lên ở phía trên của giếng (Bảng 2.4 và Hình 2.18).
71
Dãy đĩa giếng cuối cùng được pha dung dịch agar 2% được dùng làm mẫu đối
chứng. Chuẩn bị các hệ hạt nano từ, tính toán thể tích sẽ tra và mỗi giếng của mỗi hệ.
Bảng 2.4 a. Chuẩn bị dãy nồng độ của hệ chất lỏng từ Fe3O4 @CS, Fe3O4@PMAO
Mẫu M1 M2 M3 M4 M5 M6
Hệ chất lỏng
từ Fe3O4
@PMAO (A)
2,5
µg/mlFe3O
4@PMAO
+ 700 µl
agar
5,0
µg/mlFe3O4
@PMAO +
700 µl agar
10,0
µg/mlFe3O4@
PMAO + 700
µl agar
15,0
µg/mlFe3O4@
PMAO + 700
µl agar
25,0
µg/mlFe3O4@
PMAO + 700
µl agar
30,0 µg/ml
agar
Fe3O4@PMA
O + 700 µl
agar
Hệ chất lỏng
từ Fe3O4 @CS
(B)
2,5
µg/mlFe3O
4@CS +
700 µl agar
5,0
µg/mlFe3O4
@CS + 700
µl agar
10,0
µg/mlFe3O4@
CS + 700 µl
agar
15,0
µg/mlFe3O4@
CS + 700 µl
agar
25,0
µg/mlFe3O4@
CS + 700 µl
agar
30,0 µg/ml
agar
Fe3O4@CS +
700 µl agar
Bảng 2.4 b. Chuẩn bị dãy nồng độ của hệ chất lỏng từ Fe3O4 @CS,
Fe3O4@PMAO,Resovist
Mẫu M1 M2 M3 M4 M5
Mẫu
đối
chứng
agar
2%
(D)
Hệ chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO
(A)
5,0
µg/mlFe3O4@PMAO
+ 700 µl agar
10,0
µg/mlFe3O4@PMAO
+ 700 µl agar
15,0
µg/mlFe3O4@PMAO
+ 700 µl agar
30,0
µg/mlFe3O4@PMAO
+ 700 µl agar
45,0
µg/mlFe3O4@PMAO
+ 700 µl agar
700 µl
agar
Hệ chất lỏng từ
Resovist
(B)
5,0 µg/mlResovist +
700 µl agar
10,0 µg/mlResovist +
700 µl agar
15,0 µg/mlResovist +
700 µl agar
30,0 µg/mlResovist +
700 µl agar
45,0 µg/mlResovist +
700 µl agar
700 µl
agar
Hệ chất lỏng từ
Fe3O4@CS
(C)
5,0 µg/mlFe3O4@CS
+ 700 µl agar
10,0
µg/mlFe3O4@CS +
700 µl agar
15,0
µg/mlFe3O4@CS +
700 µl agar
30,0
µg/mlFe3O4@CS +
700 µl agar
45,0
µg/mlFe3O4@CS +
700 µl agar
700 µl
agar
Bước 2: Tra vào mỗi giếng 700 µl agar 2% (có thể thay đổi sao cho phù hợp nhưng
phải đảm bảo cột dung dịch cuối cùng đủ cao để tiến hành cắt lớp chụp MRI).
Lưu ý: Tra agar nhẹ nhàng, tuyệt đối tránh tạo bọt khí (có thể tra dọc theo thành
giếng hoặc tra thẳng vào giữa đáy giếng khi đã quen tay). Nếu xuất hiện bọt khí thì phải
dùng đầu corn để chọc vỡ.
72
Hình 2.18. Chuẩn bị đĩa giếng chứa các mẫu chất lỏng từ: Fe3O4@PMAO,
Fe3O4@CS, Resovist và mẫu đối chứng agar 2% (trên) và sơ đồ chụp các bước chụp
ảnh bằng kỹ thuật MRI (dưới)
Phương pháp đo
Chụp ảnh:
Hệ số r1 (độ hồi phục dọc) được đo theo trình tự spin-echo (SE) biến thiên TR,
còn r2 (độ hồi phục ngang) đo theo trình tự xung Multi-Slice Multi-Echo (MSME) giữ
TR cố định. Sử dụng phầm mềm syngofastView (syngo is a registered trademark
owned by Siemens Healthcare GmbH) và EFilm Workstation (Merge Healthcare) xác
định cường độ tín hiệu trên diện tích vùng quan tâm (region of interest - ROIs) (cm2).
Phương trình đơn exponential được sử dụng để tính độ tăng trở lại giá trị cực đại T1:
𝑦 = 𝐴 + 𝐶 (1 − 𝑒−𝑇𝑅
𝑇1 ) (1)
Đường cong suy giảm tín hiệu được fit bởi phương trình suy giảm đơn
exponential để tính T2 theo biểu thức sau: 𝑦 = 𝐴 + 𝐶𝑒−𝑇𝐸
𝑇2 (2)
Trình tự xung Multi-Slice Multi-Echo (MSME) để xác định đường cong suy giảm
và phục hồi được thực hiện với các tham số sau: TE hiệu dụng với 09 tiếng vọng trong
vùng 4,25-138 ms, TR = 3500 ms, từ trường quan sát (FOV) x-y 208x230 mm2, chiều
dày lát cắt 3 mm, kích thước ma trận 343x512 cho độ phân giải x-y 200 µm2, số các lần
lấy trung bình bằng 2, tổng thời gian ghi dữ liệu là 46 phút 09 giây. Các mẫu đo T1 được
thực hiện với việc dùng trình tự xung spin-echo (SE) biến thiên TR, với các tham số sau:
TE = 15 ms, TRs trải từ 50 đến 3500 ms, FOV x-y 208x230 mm2, độ dày lớp cắt 10
73
mm, kích thước ma trận 174x320 cho độ phân giải x-y 200 µm2, số lần lấy trung bình
bằng 2, toàn bộ thời gian lấy mẫu là 01 giờ 21 phút.
Bảng 2.5. Các tham số chuỗi hình ảnh được sử dụng trong chụp ảnh MRI
Parameter (Thông số) Value (Gía trị) T1 Value (Gía trị) T2
Scanning sequence (Chuỗi hình ảnh) SE MSME
MR Acquisition Type 2D 2D
Slide thickness (Độ dày lát cắt) 3 3
Repetition time (Thời gian lặp lại - TR) 50 đến 3500 ms 3970
Echo time (Thời gian vọng - TE) 15 ms 4,25 đến 139 ms
Average (Trung bình) 2 2
FOV (Trường quan sát) 208x230 mm2 208x230 mm2
Acquisition Matrix (Ma trận) 174x320 343x512
Slide direction (Hướng chụp) Axial Axial
Slide number (Số lát cắt) 8 đến 10 ảnh 8 đến 10 ảnh
Flip angle (Góc lật) 150 150
Image resolution (Độ phân giải ảnh) 256x140 pixels 256x140 pixels
Scan duration (Thời gian quét) Khoảng 1 giờ 21 phút Khoảng 46 phút
Từ các phép làm khớp các đường hồi phục bằng các hàm đơn exponential, đã thu
được các giá trị thời gian hồi phục T1, T2 theo biểu thức (1), (2) (Hình 2.18). Nghịch
đảo của các thời gian hồi phục T1, T2 là các giá trị tốc độ hồi phục R1, R2 tương ứng
cho mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO. Đường phụ thuộc R1 và R2 vào nồng độ được xây
dựng để tính toán các giá trị độ hồi phục dọc và ngang r1 và r2 cho mẫu chất lỏng này.
74
Kết luận chương 2
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày các phương pháp thực nghiệm chế tạo
mẫu vật liệu, đo đạc, phân tích các đặc trưng và tính chất từ của các hạt nano Fe3O4 được
chế tạo bằng phương pháp thủy nhiệt và phương pháp phân hủy nhiệt. Các quy trình chế
tạo chất lỏng từ dùng CS trên nền hạt Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp thủy nhiệt và các
quy trình chế tạo chất lỏng từ bằng cách chuyển pha và bọc bằng PMAO trên nền hạt
Fe3O4 tổng hợp bằng phương pháp phân hủy nhiệt cũng được đề cập. Các thiết bị sử
dụng trong đề tài là các thiết bị hiện đại có độ chính xác và độ tin cậy cao. Đa số các
phép đo đạc và phân tích được tiến hành trên các thiết bị tại Phòng thí nghiệm Trọng
điểm Quốc gia thuộc Viện khoa học vật liệu. Ngoài ra một số phép đo đạc và nghiên
cứu tại các cơ sở nghiên cứu khác như: Trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hóa
học các hợp chất thiên nhiên - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bệnh
viện Quốc tế Vinh, Nghệ An. Các kết quả thực nghiệm sẽ được phân tích và bàn luận
trong các chương 3, chương 4 và chương 5.
75
CHƯƠNG 3: NGHIÊN CỨU HỆ CHẤT LỎNG TỪ TRÊN NỀN Fe
TỔNG HỢP BẰNG PHƯƠNG PHÁP THỦY NHIỆT
Như đã đề cập ở trên, để ứng dụng trong lĩnh vực y sinh các hạt nano từ cần đáp ứng
các tiêu chuẩn về kích thước hạt đồng đều nằm trong vùng siêu thuận từ, từ độ bão hòa
cao và đặc biệt chất lỏng từ có độ bền theo thời gian và có tính tương thích sinh học cao.
Nhằm đáp ứng các yêu cầu này, cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu tập trung vào các hạt
nano từ như: Fe3O4, CoFe2O4, MnFe2O4. Tuy nhiên hạt nano từ Fe3O4 vẫn là vật liệu được
quan tâm nghiên cứu nhiều nhất vì chúng có nhiều ưu điểm vượt bậc so với các vật liệu
khác ở các khía cạnh như độ bền hóa học, dễ khống chế kích thước và từ độ cao tại nhiệt
độ phòng. Chính vì thế, nhiều phương pháp chế tạo hạt nano từ Fe3O4 đã được thực hiện
nhằm tạo ra các hạt nano có độ đồng nhất cao và tạo môi trường thuận lợi để có thể bọc
hạt trong các môi trường khác nhau. Có thể kể đến các phương pháp sau: đồng kết tủa,
solgel, vi nhũ tương, thủy nhiệt và phân hủy nhiệt v.v.. Phương pháp thủy nhiệt là phương
pháp tổng hợp vật liệu trong hệ kín với việc đưa nhiệt độ của hỗn hợp phản ứng lên cao
hơn nhiệt độ sôi của dung môi tương ứng. Điều này đạt được bằng cách đặt hỗn hợp tiền
chất bên trong bình phản ứng (autoclave). Ưu điểm của phương pháp thủy nhiệt so với
các phương pháp khác như đồng kết tủa, sol-gel là tạo được vật liệu có độ tinh thể tốt
[142, 73]. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến để chế tạo hạt nano từ cho các ứng
dụng trong y sinh. Tuy nhiên, chất lượng và kích thước của hạt nano tạo ra phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố thực nghiệm như: độ pH, nhiệt độ, nồng độ và tỷ lệ các chất tham
gia phản ứng [132]. Nếu không khống chế tốt các điều kiện thực nghiệm hạt nano thu
được thường có phân bố kích thước rộng đồng thời độ tinh thể kém, ngoài pha Fe3O4 có
thể tồn tại các pha khác như α-Fe2O3 hay các hydroxit vô định hình. Điều này dẫn đến sự
suy giảm của từ tính và hạn chế khả năng ứng dụng của hạt nano Fe3O4. Bên cạnh đó, để
có thể đưa vào ứng dụng trong y sinh thì hạt nano Fe3O4 kích thước hạt đủ nhỏ, mômen
từ bão hòa cao và đặc biệt phải thể hiện đặc tính siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng [73]. Các
kết quả nghiên cứu cho thấy trạng thái từ trong các hạt nano Fe3O4 phụ thuộc nhiều vào
kích thước hạt, hình dạng và điều kiện tổng hợp [68, 149]. Nhiệt độ, thời gian phản ứng
và nồng độ tiền chất là các tham số chính ở phương pháp này. Với dung môi là nước thông
thường nhiệt độ sử dụng để tổng hợp vật liệu ở 200oC trong thời gian từ 8 đến 72 giờ thì
kích thước hạt nano thu được thường lớn khoảng 200 nm - 800 nm [67]. Trong khi đó với
một số ứng dụng trong y sinh, yêu cầu kích thước hạt nano từ 10 nm - 20 nm [74]. Do đó,
với mỗi hệ mẫu khác nhau đòi hỏi phải có những nghiên cứu cụ thể. Trong chương này,
chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những điều kiện tối ưu ảnh hưởng tới kích thước hạt và
76
momen từ bão hòa của vật liệu nano từ tính Fe3O4 bọc chitosan tổng hợp bằng phương
pháp thủy nhiệt.
Các nghiên cứu tối ưu hóa trước đây được thực hiện bằng phương pháp tối ưu đơn
yếu tố không phản ánh được sự tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố và phương pháp tối ưu
này không hiển thị ảnh hưởng thực của các yếu tố lên tính chất từ của vật liệu. Để khắc
phục vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp đáp ứng bề mặt RSM với phương án
cấu trúc có tâm (CCD) để tối ưu hóa giá trị các yếu tố ảnh hưởng đến tính chất từ của vật
liệu. Phương pháp bề mặt đáp ứng (RSM) là một phương pháp sử dụng toán học và thống
kê được áp dụng rộng rãi để xác định ảnh hưởng của các yếu tố và để tối ưu hóa quá trình
tổng hợp vật liệu. Để phân tích mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố ảnh hưởng (tham số
thực nghiệm), cũng như sự tác động đồng thời của các yếu tố lên hàm mục tiêu, chúng tôi
sử dụng phần mềm Design-Expert 7.1 (Stat-Ease, Inc, Minneapolis, USA) để thiết lập một
kế hoạch (ma trận) thực nghiệm nhằm tối ưu hóa các điều kiện tổng hợp. Từ đó đưa ra
mô hình toán học thống kê thực nghiệm theo các tiêu chuẩn thống kê, đánh giá được sai
số của quá trình thực nghiệm theo các tiêu chuẩn thống kê cho phép xét ảnh hưởng của
các yếu tố, đánh giá được vai trò qua lại giữa các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến hàm
mục tiêu với mức độ tin cậy cần thiết.
3.1. Thực hiện quy hoạch thực nghiệm bậc hai ba mức tối ưu
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn miền khảo sát của ba yếu tố nhiệt độ, thời
gian và nồng độ để có thể chế tạo ra những hạt nano có kích thước nhỏ và từ độ bão hòa
cao như sau: nhiệt độ ủ mẫu 120oC-180oC, thời gian phản ứng 2 giờ đến 4 giờ, nồng độ
Fe3+ 0,1M - 0,2M với hàm mục tiêu là từ độ bão hòa (emu/g). Mối tương quan giữa giá
trị mã hóa và giá trị thực được chỉ ra ở bảng 3.1 (Chương 3)
Bảng 3.1. Giá trị mã hóa và giá trị thực nghiệm của các yếu tố thực nghiệm.
Biến số Ký
hiệu Đơn vị
Ký hiệu giá trị mã hóa Mức anpha*
(+/- 1.414) -1 0 +1
Nhiệt độ ủ mẫu (A) X1 oC 120 150 180
192,426
107,574
Thời gian (B) X2 h (giờ) 2 3 4 4,41
1,59
Nồng độ Fe3+ (C) X3 M(mol/l) 0,1 0,17 0.25 0,28
0,17
Sử dụng phương pháp đáp ứng bề mặt với phương án cấu trúc có tâm (RSM-CCD),
số liệu được xử lí bằng phần mềm thống kê Design-Expert 7.1 để phân tích các hệ số
hồi quy, bề mặt đáp ứng và tối ưu hóa với hàm mong đợi và lựa chọn phương án quy
77
hoạch thực nghiệm bậc hai ba mức tối ưu với k là các yếu tố ảnh hưởng.
Phương trình hồi quy có dạng:
Y = b0+ b1A + b2B + b3C + b12AB +b13AC + b23BC +b11A2 +b22B2 +b33C2
Trong đó: b0 là hệ số hồi quy
b1, b2, b3: hệ số tuyến tính b12, b13, b23, b11, b22, b33: hệ số tương tác đôi
Quy hoạch thực nghiệm đưa ra bảng ma trận thực nghiệm gồm 13 thí nghiệm,
trong đó có 2k-1 thí nghiệm ở biên, 2k thí nghiệm ở điểm sao và 3 thí nghiệm tại tâm (n0)
với hàm mục tiêu là từ độ bão hòa (emu/g). Để hạn chế rủi ro bất ngờ, thứ tự của thí
nghiệm được chọn ngẫu nhiên. Giá trị mã hóa và kết quả thiết kế với ma trận thực
nghiệm được trình bày ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Ma trận thực nghiệm và kết quả tổng hợp chất lỏng từ theo từng thí nghiệm
STT
Mức độ Nhiệt độ ủ
mẫu (A)
Thời
gian (B)
Nồng độ
Fe3+ (C)
Từ độ bão
hòa (emu/g) A B C
1 + + - 180 4,00 0,1 34,73
2 + - + 180 2,00 0,25 53,22
3 - + + 120 4,00 0,25 61,89
4 - - - 120 2,00 0,10 57,26
5 -1,414 0 0 107,57 3,00 0,17 55,38
6 1,414 0 0 192,43 3,00 0,17 63,21
7 0 -1,414 0 150 1,59 0,17 61,4
8 0 1,414 0 150 4,41 0,17 60,07
9 0 0 -1,414 150 3,00 0,07 46,67
10 0 0 1,414 150 3,00 0,28 59,96
11 0 0 0 150 3,00 0,17 66,67
12 0 0 0 150 3,00 0,17 63,32
13 0 0 0 150 3,00 0,17 64,68
Phân tích sự có ý nghĩa của mô hình với thực nghiệm
Phân tích sự phù hợp của mô hình và sự có ý nghĩa của mô hình được đánh giá qua
phân tích ANOVA (bảng 3.3) và các chỉ số tương quan. Sự có ý nghĩa của các hệ số hồi
quy được kiểm định bởi chuẩn F, với các giá trị p < 0,05 cho biết các hệ số hồi quy có
ý nghĩa. Như vậy, ở bảng 3.3 cho thấy giá trị “Model- F-value” là 35,75, mô hình hoàn
toàn có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 99,08%. Với tất cả các yếu tố nhiệt độ ủ mẫu,
thời gian, nồng độ Fe3+ và từng cặp các yếu tố này đều có giá trị p < 0,05 cho biết từng
yếu tố này cũng tương tác với nhau và đều có ý nghĩa (bảng 3.3) điều này được minh
họa rõ hơn khi quan sát bề mặt đáp ứng ở hình 3.2. Chuẩn F cho “sự không tương thích
78
Lack of fit” của mô hình là 6,38 (p=0,1275), điều đó chứng tỏ mô hình có 12,17% không
tương thích với thực nghiệm (hình 3.2). Kết quả thu được cho thấy, các yếu tố nhiệt độ
ủ mẫu, thời gian, nồng độ Fe3+ đều có ảnh hưởng đến quá trình tạo hạt nano Fe3O4 (hình
3.1)
Hình 3.1. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố theo phân tích ANOVA (p<0,05).
Bảng 3.3. Kết quả phân tích ANOVA tối ưu quá trình tổng hợp các yếu tố.
Yếu tố
Tổng
bình
phương
Bậc
tự do
Trung bình
bình
phương
Giá trị F Giá trị p
prob > F
Mô hình 927,16 9 103,02 35,75 0,0068a Tin cậy
A-Nhiệt độ ủ mẫu 30,65 1 30,65 10,64 0,0038a
B- Thời gian 12,90 1 18,90 7,31 0,0457b
C- nồng độ Fe3+ 88,31 1 88,31 30,64 0,0116b
AB 25,09 1 35,09 9,27 0,0308b
AC 221,80 1 221,80 76,96 0,0031a
BC 16,81 1 23,81 5,83 0,0346b
A2 96,44 1 96,44 33,46 0,0103b
B2 62,98 1 62,98 21,85 0,0185b
C2 310,37 1 310,37 107,69 0,0019a
Sự không tương thích 6,58 1 6,58 6,38 0,1275 Không
tin cậy
R2=0,9908 R2 hiệu chỉnh=0,9630
a có ý nghĩa độ tin cậy α= 0,01; bcó ý nghĩa độ tin cậy α = 0,05.
79
Bảng 3.3 cũng chỉ ra kết quả phân tích sự phù hợp và có ý nghĩa của mô hình với
thực nghiệm. Kết quả phân tích ANOVA cho thấy giá trị R2 là 0,9908 và giá trị R2 hiệu
chỉnh là 0,9630 chứng tỏ giá trị từ độ thu được từ thực nghiệm gần với dự đoán của mô
hình (hình 3.2).
Hình 3.2: Mô hình (dự đoán) so với giá trị thực nghiệm trong quá trình
tổng hợp hạt nano từ tính (MNPs)
Từ các giá trị phân tích có nghĩa trên, giá trị hàm mong đợi được phần mềm DX7
đưa ra được biểu diễn theo phương trình cụ thể sau:
Y= 66,06 + 2,77A- 0,47B + 4,70C - 1,17AB + 2,90AC+ 10,53BC - 3,77A2 - 3,04B2 - 6,76C2.
Trong đó Y là giá trị từ độ bão hòa mong đợi A, B, C là giá trị nhiệt độ ủ mẫu, thời
gian, nồng độ Fe3+.
Mô hình hóa dạng 3D và 2D giá trị từ độ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nhiệt độ ủ
mẫu, thời gian ủ mẫu, nồng độ muối Fe3+ được thể hiện ở hình 3.3 và 3.4 (sử dụng phần
mềm Design expert 7.1). Bề mặt đáp ứng thể hiện sự tương tác của từng cặp yếu tố và
từ biểu đồ này có thể xác định được giá trị tối ưu của từng yếu tố làm cho hàm đáp ứng
cực đại. Mô hình đã dự đoán giá trị từ độ bão hòa (emu/g) tối đa đạt được 67,91(emu/g)
ở giá trị các yếu tố: Nhiệt độ ủ mẫu 1650C, thời gian ủ mẫu 2 giờ 55 phút và nồng độ
muối sắt 0,21M, và kết quả thực nghiệm thu được là 68,12 (emu/g) (mẫu M_opt) (hình
3.4).
80
Hình 3.3: Đồ thị bề mặt đáp ứng biểu diễn sự tác động của từng cặp yếu tố (AB, AC)
đến giá trị từ độ và mức độ mong muốn theo các cặp tương tác.
Hình 3.4: Đường cong từ độ bão hòa của các mẫu hạt nano Fe3O4 bọc chitosan ở các
điều kiện tổng hợp khác nhau và tại điều kiện tối ưu bằng phương pháp thủy nhiệt
Hình 3.4 là các đường cong từ hóa của các mẫu Fe3O4 chế tạo với các điều
kiện phản ứng khác nhau.
81
Tiến hành kiểm tra tính đúng đắn của các giải pháp tối ưu, tiến hành các thí nghiệm
kiểm chứng tại điểm tối ưu mô hình đưa ra, từ đó chọn cặp biến cho kết quả hàm mong
đợi tối ưu nhất. 20 giải pháp tối ưu với hàm lượng 3 biến xác định là nhiệt độ phản ứng
(A), thời gian phản ứng (B), nồng độ muối Fe3+ (C) từ sử dụng thuật toàn hàm mong đợi
bằng phương pháp đáp ứng bề mặt cũng được đưa ra ở đây, kết hợp với phương trình
hàm mong đã được tìm ra ở trên, giá trị từ độ bão hòa Ms tính được tương ứng với 3
biến xác định được trình bày ở bảng 3.4.
Bảng 3.4. Các giải pháp tối ưu với hàm lượng 3 biến xác định và giá trị
hàm mong đợi tối ưu
STT Nhiệt độ tổng hợp, 0C Thời gian
nung, giờ
Nồng độ ban đầu
Ion Fe3+ (mol/l) Ms (emu/g)
1 171,92 3,94 0,20 67,50
2 147,60 3,75 0,24 69,46
3 178,09 3,84 0,23 69,89
4 151,69 3,96 0,22 69,36
5 170,83 3,10 0,20 67,92
6 168,33 3,04 0,23 67,73
7 167,77 2,87 0,19 67,12
8 171,66 3,63 0,20 67,64
9 171,45 3,36 0,22 69,11
10 142,95 3,61 0,23 67,93
11 169,68 2,94 0,20 66,80
12 166,45 2,70 0,20 67,62
13 163,41 2,85 0,18 66,88
14 152,25 3,44 0,21 68,44
15 167,53 3,21 0,21 68,76
16 173,21 2,81 0,20 67,01
17 154,36 3,31 0,20 67,95
18 165,58 2,78 0,20 67,07
19 152,48 2,98 0,21 66,99
20 164,09 2,72 0,18 66,83
Bảng kết quả tối ưu cho thấy với 3 cặp giá trị biến nhiệt độ phản ứng (A), thời gian
phản ứng (B), nồng độ muối Fe3+ (C) khác nhau các giá trị hàm mong đợi thu được là
khác nhau không đáng kể. Điều đó cho thấy tính đúng đắn của mô hình tối ưu. Bảng 3.4
cho thấy, 5 tổ hợp thành phần nhiệt độ phản ứng (A), thời gian phản ứng (B), nồng độ
muối Fe3+ (C) tại các điểm có số thứ tự là 7, 11, 12, 13, 14 cho giá trị từ độ bão hòa Ms
82
mong đợi cao và tương đương nhau tại các điều kiện tối ưu thuận lợi nhất cho quá trình
tổng hợp vật liệu. Tiến hành các thí nghiệm kiểm chứng tại 5 điểm tối ưu mô hình đưa ra
ở bảng 3.4 từ đó chọn cặp biến cho kết quả hàm mong đợi tối ưu nhất (bảng 3.5).
Bảng 3.5. Kết quả kiểm tra giá trị từ độ bão hòa Ms thu được từ mô hình và thực tế
STT Nhiệt độ tổng
hợp, 0C
Thời gian
nung, giờ
Nồng độ ban
đầu Ion Fe3+
(mol/l)
Ms (emu/g)
(Mô hình)
Ms
(Thực tế)
7 167,77 2,87 0,19 67,1269 65,21
11 169,68 2,94 0,20 66,8039 66,92
12 166,45 2,70 0,20 67,6287 68,12
13 163,41 2,85 0,18 66,8807 64,06
14 152,25 3,44 0,21 68,446 67,01
Từ kết quả kiểm tra thực nghiệm ở bảng 3.5, giá trị tối ưu cho 3 biến được xác định
như sau: nhiệt độ phản ứng 165-1700C, thời gian phản ứng 2 giờ 50 phút, nồng độ Fe3+
là 0.2 M, giá trị từ độ bão hòa thu được là 68,12 emu/g. Bằng phép chụp kính hiển vi
điện tử truyền qua cho thấy hình dạng của các hạt nano từ Fe3O4@CS là hình cầu và
tương đối đồng đều với kích thước trung bình là 13,43 nm (hình 3.11)
Như vậy, bằng việc thay đổi các thông số thực nghiệm như thời gian, nồng độ tiền
chất và nhiệt độ phản ứng, các mẫu có kích thước hạt khác nhau đã được chế tạo và
chính sự thay đổi kích thước hạt này dẫn đến sự thay đổi các giá trị từ độ. Nhằm mục
đích tìm ra được các mẫu có kích thước đồng đều và từ độ bão hòa cao để có thể ứng
dụng được trong y sinh, mẫu chế tạo được ở vùng kích thước được coi là giới hạn về
kích thước siêu thuận từ của hạt Fe3O4 đã được lựa chọn để khảo sát đặc tính siêu thuận
từ của chúng [16]. Đường từ hóa của mẫu được coi là siêu thuận từ ở nhiệt độ phòng
phải tuân theo hàm Langevin theo biểu thức (3.1).
M = nμL (μH
kT) = nμ [coth (
μH
kT) −
kT
μH] (3.1)
Hình 3.5 mô tả đường fit theo hàm Langevin của các mẫu ở điều kiện tối ưu M11
- M13 tại từ trường 10 kOe. Từ hình này cho thấy số liệu thực nghiệm trên đường đo
M(H) của tất cả các mẫu được đo ở nhiệt độ 300 K gần trùng khớp theo hàm Langevin
với độ chính xác cao (R2 > 0,998). Sự không hoàn toàn trùng khít của đường thực nghiệm
với đường lý thuyết cho chất thuận từ (mô tả bởi hàm Langevin) có thể được giải thích
là do vẫn còn lực tương tác nhỏ giữa các hạt từ và có thể do từ trường 10 kOe là chưa
đủ để từ hóa bão hòa mẫu.
83
Hình 3.5. Đường M(H) fit theo hàm Langevin của mẫu tại điều kiện tối ưu
3.2. Đặc trưng về cấu trúc và hình thái của hạt nano từ tính Fe3O4 bọc chitosan
Dưới tác nhân kiềm các hạt nano từ tính Fe3O4 được hình thành phân tán trong
mạng lưới CS tạo liên kết phối trí với các nhóm -NH2 và -OH.
Hình 3.6. Mô hình liên kết của hạt nano từ Fe3O4 với chitosan khi phân tán hạt từ
trong mạng lưới chitosan
Để xem xét ảnh hưởng của lớp vỏ bọc đến cấu trúc của vật liệu, các mẫu chất lỏng
từ sau khi đã sấy khô được chụp phổ nhiễu xạ tia X và so sánh với mẫu chưa bọc. Kết
quả đo giãn đồ nhiễu xạ XRD của vật liệu nano từ tính Fe3O4 trước khi bọc và vật liệu
nano Fe3O4 bọc CS được thể hiện ở hình 3.7.
Hình 3.7 cho thấy tất cả các vạch nhiễu xạ của các mẫu đều trùng vạch chuẩn của
Fe3O4 với cấu trúc spinel. Cụ thể các đỉnh pic với cường độ đáng kể tương ứng phù hợp
với giá trị dhkl của Fe3O4 tại (220), (311), (222), (400), (422), (511), và (440). Việc kết
hợp với chitosan làm các pic của mẫu nano Fe3O4@CS có độ nhiễu hơn các pic của mẫu
84
Fe3O4 tuy nhiên không làm thay đổi cấu trúc tinh thể. Lý do có thể từ sự đóng góp của
lớp vỏ bọc, kết quả tương tự cũng được công bố bởi nhóm tác giả [68, 58].
Hình 3.7. Ảnh nhiễu xạ tia X của vật liệu nano Fe3O4 tinh khiết
và vật liệu nano Fe3O4@CS
Để thấy rõ hơn sự liên kết giữa lớp vỏ bọc và bề mặt hạt nano từ, phổ hồng ngoại
của các mẫu CS, Fe3O4 và mẫu Fe3O4 bọc CS đã được đo và phân tích. Hình 3.8 trình bày
phổ hấp thụ hồng ngoại FT-IR của các mẫu CS, Fe3O4, và Fe3O4@CS. Các vị trí pic hấp
thụ chính của các chất tham gia và tạo thành của phản ứng thể hiện trong bảng 3.6
Bảng 3.6. Các vị trí hấp thụ chính của các chất
Mẫu ν OH ν NH2 ν CH ν NH2 ν CH ν C-O-C ν C-OH
CS 3442 2921 1635 1384 1153 1043
Fe3O4@CS 3452 3425 2922 1630 1384 1153 1043
Hình 3.8 (a) cho thấy, trên phổ hồng ngoại của mẫu Fe3O4@CS xuất hiện các dao
động đặc trưng liên quan đến các nhóm chức của hạt Fe3O4 và lớp vỏ bọc CS. Từ phổ
hồng ngoại của mẫu này có xuất hiện đỉnh tại vị trí 500-550 cm-1 là đỉnh đặc trưng của
liên kết Fe-O-Fe trong Fe3O4. Sự có mặt của các đỉnh xuất hiện trên phổ của mẫu
Fe3O4@CS đều đặc trưng cho các nhóm chức của CS. Điều này chứng tỏ rằng các hạt
nano Fe3O4 đã được bọc bởi CS. Các đỉnh tương ứng với các dao động đặc trưng của
các liên kết có trong CS trong nghiên cứu này cũng được công bố bởi nhóm tác giả [ 10,
100]. Như vậy, kết quả nghiên cứu phổ hồng ngoại các mẫu Fe3O4@CS cho thấy hạt
nano từ Fe3O4 đã được bọc bởi CS.
85
Hình 3.8. Phổ FTIR của Chitosan (CS), Fe3O4 và hạt nano từ tính Fe3O4@CS
Để có thông tin chính xác hơn về hình dạng và kích thước hạt ảnh hiển vi điện tử
quét phát xạ trường (FESEM) và kính hiển vi điện tử truyền qua TEM đã được thực
hiện. Hình 3.9 trình bày ảnh FESEM của các mẫu vật liệu nano Fe3O4 được tổng hợp ở
các điều kiện khác nhau, kết quả cho thấy tất cả các mẫu đều có dạng cầu với kích thước
tương đối đồng đều.
86
Hình 3.9. Ảnh FESEM của mẫu Fe3O4 tổng hợp ở các điều kiện phản ứng khác nhau.
Từ giản đồ XR ở hình 3.9, chúng tôi đã xác định kích thước tinh thể của các hệ
mẫu bằng cách sử dụng công thức Scherrer [83].
DXRD = 0.89λ
βcosθ
Trong đó =1,5406 Å là bước sóng của bức xạ uK, là độ bán rộng vạch nhiễu
xạ. Các kết quả tính toán kích thước hạt nano Fe3O4 từ phổ nhiễu xạ XRD được khẳng
định khi sử dụng phương pháp kính hiển vi điện tử truyền qua TEM (Bảng 3.7)
Bảng 3.7. Hằng số mạng (a), kích thước tinh thể trung bình (DXRD), kích thước hạt trung
bình (DFESEM) của các mẫu hạt nano Fe3O4 tổng hợp ở các điều kiện phản ứng khác nhau
Tên mẫu M4 M8 M11 Mopt
Thời gian phản ứng 2 giờ 4 giờ 25 phút 3 giờ 2 giờ 55 phút
Nhiệt độ ủ mẫu 1200C 1500C 1500C 1650C
Nồng độ Fe3+ (M) 0,1 0,17 0,17 0,21
a (Å) 8,371 8,381 8,378 8,379
DXRD (nm) 9,6 12,7 10,3 11,1
DTEM (nm) 11,6±1,2 14,03±0,7 13,15±0,8 13,43±0,5
Trên ảnh TEM (hình 3.10 và 3.11), các hạt có dạng hình cầu với kích thước nhỏ từ
12-18 nm và tương đối đồng đều, các hạt sau khi bọc Fe3O4@CS có kích thước lớn hơn
so với hạt Fe3O4 trước khi bọc. Tuy nhiên các hạt khi phân tán trong nước chưa được
dạng đơn phân tán, các nhóm có hiện tượng co nhóm lại với phần lớp vỏ hữu cơ chitosan
khoảng 21,5% (hình 3.11b). Đồ thị phân bố kích thước hạt của mẫu xác định từ ảnh
TEM, được trình bày bên phải trên hình 3.10
87
Hình 3.10. Ảnh TEM hạt Fe3O4@CS điều chế ở điều kiện khác nhau chế tạo bằng
phương pháp thủy nhiệt.
(a)
(b)
Hình 3.11. Ảnh TEM hạt Fe3O4@CS điều chế ở điều kiện tối ưu (nồng độ Fe3+
0,21M; nhiệt độ phản ứng 1650C; thời gian ủ mẫu 2 giờ 55 phút) chế tạo bằng phương
pháp thủy nhiệt (a) và giản đồ phân tích nhiệt TGA với lớp vỏ bọc CS (b)
Ta thấy sự phân bố kích thước hạt của các mẫu là tương đối hẹp giá trị kích thước
trung bình của các mẫu hạt Fe3O4 bọc chitosan tăng dần trong khoảng từ 12 nm đến
18nm tương ứng với nhiệt độ phản ứng, thời gian phản ứng tăng dần. Phân bố kích thước
hạt của các mẫu là phân bố Gauss, chứng tỏ các hạt được hình thành trong trạng thái gần
như cân bằng, các phân bố tương đối hẹp và phù hợp với các kết quả nghiên cứu khác
trên thế giới [11, 55, 117]. Như vậy, khi nhiệt độ, thời gian phản ứng tăng kích thước
tinh thể cũng như kích thước hạt thực tăng theo nguyên nhân là do nhiệt độ, thời gian
phản ứng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển mầm hạt trong dung dịch, khi
nhiệt độ, thời gian phản ứng tăng sẽ làm tăng quá trình khuếch tán và kết tụ mầm hạt,
do đó sẽ thu được hạt có kích thước lớn hơn [121, 6, 133]. Khi so sánh giá trị kích thước
88
tinh thể và kích thước hạt thực, thấy có sự chênh lệch giữa hai giá trị này. Kích thước
hạt thực của các mẫu được xác định từ ảnh TEM lớn hơn kích thước tinh thể xác định
từ nhiễu xạ tia X. Sự sai khác giữa hai phương pháp là do việc xác định kích thước tinh
thể bằng nhiễu xạ tia X là phương pháp gián tiếp và phương pháp hiển vi điện tử quét là
trực tiếp. Hai phương pháp này có tính thống kê khác nhau, phương pháp nhiễu xạ tia X
ghi nhận kết quả trên tập hợp có số lượng hạt lớn hơn rất nhiều so với các phương pháp
hiển vi điện tử [39, 71].
3.3. Đặc trưng về độ bền của hệ chất lỏng từ Fe3O4 bọc chitosan
Trong điều kiện sinh học, các hạt nano bị tác động bởi rất nhiều các yếu tố như sự
thay đổi độ pH, nồng độ muối, sự tương tác với các protein và đặc biệt là tác động của
các enzyme. Sự tương tác giữa các hạt nano với các thực thể sinh học rất phức tạp do đó
rất khó đánh giá, tuy nhiên trên thực tế người ta thường đánh giá độ bền của các hạt
trong điều kiện y sinh thông qua sự tác động của nồng độ muối và độ pH. Để đánh giá
độ bền của các mẫu chất lỏng, đại lượng đặc trưng cho độ ổn định của hệ phân tán keo
là thế Zeta và sự phân bố kích thước hạt (DLS).
Trong phần này độ bền của mẫu Fe3O4@CS được kiểm tra bằng cách thay đổi độ
pH và nồng độ muối, được đánh giá thông qua việc quan sát trực tiếp bằng mắt thường
và đo kích thước hạt trong môi trường chất lỏng bằng phương pháp phổ tán xạ laze động
(dynamic light scattering - DLS). Hình 3.12 là hình ảnh mẫu chất lỏng trong các môi
trường pH và nồng độ muối khác nhau.
(a) (b)
Hình 3.12. Giản đồ phân bố kích thước hạt (DLS) của chất lỏng từ Fe3O4@CS tại các
giá trị pH khác nhau (a) và nồng độ muối NaCl khác nhau (b)
Quan sát hình 3.12 ta thấy, mẫu chất lỏng Fe3O4 @CS phân tán tốt trong nước,
không có hiện tượng kết đám khi giá trị pH thay đổi trong phạm vi rộng từ 2 cho đến
12. Kết quả trên phổ DLS chỉ ra một đỉnh duy nhất ở vị trí khoảng 30 - 35 nm đối với
các mẫu mẫu ở pH từ 2 đến 10. Ở pH 11.5 và 12 có sự tăng về kích thước hạt nhưng
89
không đáng kể với giá trị DLS thu được 40 nm và 50 nm tương ứng. Điều này cho thấy,
khi thay đổi pH trong dải từ 2 - 12 thì các hạt vẫn bền trong dung dịch chất lỏng.
Ngoài yếu tố về pH thì nồng độ muối của dung dịch là một trong những yếu tố ảnh
hưởng rất mạnh đến độ bền của hạt, trong điều kiện y sinh (nồng độ NaCl ≈ 158 mM).
Quan sát hình 3.12 ta thấy, khi thay đổi nồng độ muối từ 50 mM đến 300 mM, mẫu phân
tán tốt trong nước khi nồng độ muối lên đến 300 mM, với sự phân bố kích thước 30 đến
40 nm tương ứng. Kích thước hạt trong môi trường chất lỏng của mẫu Fe3O4 @CS được
đo cho các mẫu tiêu biểu ở nồng độ muối 100 mM và 300 mM được thể hiện trên hình
3.13.
(a) (b)
Hình 3.13. Giản đồ phân bố kích thước hạt (DLS) của Fe3O4@CS ở các nồng độ muối
100 mM (a) và 300 mM (b)
Để đánh giá độ bền của các mẫu theo thời gian, mẫu chất lỏng Fe3O4@CS được
xác định lại thế zeta trong các khoảng thời gian khác nhau: 3 tháng và 6 tháng (Hình
3.14). Kết quả cho thấy sau 3 và 6 tháng mẫu chất lỏng từ vẫn phân tán tốt, không bị kết
tủa và thế zeta có giá trị lớn +44 mV và +28 mV tương ứng nằm trong trong giới hạn có
độ ổn định tốt so với thời điểm chế tạo mẫu là +45 mV. Như vậy bằng việc xác định độ
bền của mẫu chất lỏng Fe3O4@CS trong môi trường trường sinh lý cho thấy mẫu chất
lỏng có độ bền cao trong dải pH rộng, thời gian dài và có độ bền khi nồng độ muối lên
tới 300 mM. Điều này cho thấy, mẫu chất lỏng Fe3O4@CS có tính chất đáp ứng được
trong điều kiện y sinh.
(a) (b)
90
(c) (d)
Hình 3.14. Gía trị thế Zeta của mẫu chất lỏng từ ở các thời điểm khác nhau: cho 0
ngày (a), 90 ngày (b), 180 ngày (c), và (d) ảnh của huyền phù Fe3O4@CS dưới tác
động của từ trường trong phòng nhiệt độ trong 90 ngày.
Hình 3.15. Đường cong từ hóa của các mẫu Fe3O4@CS sau 90 ngày chế tạo. Đường
liền nét là đường làm khớp theo hàm Langevin.
3.4. Thử nghiệm đánh giá độc tính của hệ chất lỏng từ Fe3O4 bọc chitosan
Đánh giá độc tính tế bào in vitro được thực hiện dựa trên thử nghiệm màu MTT sử
dụng bộ kit CellTiter 96® Non-Radioactive Cell Proliferation của hãng Promega. Tiến
hành nạp 5x103 tế bào Sarcoma 180 trong 180ul môi trường vào các giếng của đĩa nuôi
cấy 96 giếng và ủ trong 24 giờ trước khi tiến hành thử thuốc. Tiếp đó bổ sung 20 µl dung
dịch nano để đạt dải nồng độ lần lượt là 15.125 µg/ml, 30.25 µg/ml, 62.5 µg/ml, 125
µg/ml, 250 µg/ml, 500 µg/mlvà 1000 µg/ml. Sau khi tiến hành ủ 48 tiếng trong tủ ấm nuôi
cấy, tiến hành hút bỏ 100ul môi trường ở mỗi giếng và bổ sung vào 20ul dung dịch nhuộm
MTT rồi ủ trong bóng tối trong 4 giờ. Phản ứng bị dừng hoàn toàn bằng cách ủ 100ul
dung dịch hòa tan trong 1 tiếng đồng hồ, dung dịch này được cung cấp sẵn trong bộ kit.
Sử dụng máy đo Microplate Reader để đo mật độ quang học của dung dịch trong các
giếng ở bước sóng 490nm. Dựa vào mật độ quang học, ta xác định được % tỷ lệ tăng sinh
của tế bào, từ đó đánh giá được độ độc của dung dịch nano đối với tế bào qua giá trị IC50
được tính toán bằng công cụ Microsoft Excel.Tế bào Sarcoma 180 được bảo quản đông
91
lạnh trong bình nito lỏng tại -196°C; tiến hành rã đông ở 37°C trong 3-5 phút và ly tâm
với tốc độ 1300rpm trong 5 phút rồi thu lấy phần tế bào lắng đọng đem đi nuôi cấy trong
môi trường RPMI 1640 (Roswell Park Memorial Institute) với 10% huyết thanh FBS và
1% hỗn hợp kháng sinh gồm penicillin và streptomycin. Kết quả nhân nuôi thể hiện trong
hình 1 cho thấy tế bào có hình thái tròn đều với tỷ lệ sống trên 95%, đạt điều kiện để tiếp
tục tiến hành thử nghiệm MTT.
Hình 3.16: Hình thái của tế bào Sarcoma 180 đạt chuẩn
trước khi tiến hành thử nghiệm MTT
Hình 3.17. Phản ứng trong thử nghiêm màu MTT
Phân tích đo màu MTT được tiến hành với dòng tế bào ung thư mô liên kết
Sarcoma 180 để đánh giá độ độc của vật liệu nano Fe3O4@CS trên tế bào động vật có
vú. Phương pháp này được đưa ra bởi Tim Mosmann lần đầu tiên trên tạp chí
Immunological Methods vào năm 1983 [86], dựa trên sự khác biệt giữa tế bào sống và
tế bào chết khi chỉ các tế bào sống có thể tiến hành trao đổi chất qua hoạt động của ty
thể. Trong thử nghiệm này, dưới tác dụng của enzyme succinate dehydrogenase trong
ty thể, hợp chất muối hòa tan 3-(4,5-dimethylthiazol-2-yl)- 2,5-diphenyl tetrazolium
bromide có màu vàng sẽ bị phân cắt thành hợp chất formazan có màu tím và kết tủa
(hình 3.17). Nồng đồ tinh thể formazan tỷ lệ thuận với số lượng tế bào sống sót ở mỗi
giếng trong khoảng thời gian phân tích. Phương pháp MTT có ưu điểm là độ chính xác
và độ nhạy cao do vậy được xem là một trong những kỹ thuật định lượng tiện lợi và
đáng tin cậy để đánh giá độc tính để sàng lọc thuốc. Ngoài ra giá trị IC50 (the half-
maximum inhibitory concentration - liều ức chế tối đa một nửa) được định nghĩa là nồng
92
độ chất thử nghiệm mà tại đó có khả năng ức chế quá trình chuyển hóa sinh học của
50% tế bào (Pharmacology 2009), đây là một giá trị điển hình để đánh giá khả năng ức
chế tăng trưởng mạnh yếu và độc tính của một chất lên tế bào.
Hình 3.18. Tỷ lệ sống sót của tế bào Sarcoma 180 sau khi ủ trong 48 tiếng với
Fe3O4@CS. Dãy đồng độ thử nghiệm như sau: (C1): 500 µg/ml, (C2): 250 µg/ml,
(C3): 125 µg/ml, (C4): 62,5 µg/ml, (C5): 30,25 µg/ml and (C6): 15,125 µg/ml. Các
giá trị được biểu diễn dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (SD)
Kết quả của thử nghiệm MTT được thể hiện trong hình 3.18, qua đó, chất lỏng
nano từ Fe3O4@CS không gây độc cho tế bào Sarcoma 180 với 83% - 106% tế bào sống
sót sau khi ủ 48 tiếng với chất lỏng nano từ với các nồng độ 15.125 µg/ml và 30.25
µg/ml. Khi tiến hành tăng nồng độ hạt nano lên tới 62.5 µg/ml, 125 µg/ml, 250 và 500
µg/ml, tỷ lệ tế bào sống sót giảm xuống tương ứng là 66.1%, 38.4%, 17.8% và 2.8135%.
Theo đó, độc tính của chế phẩm nano từ Fe3O4@CS có tính chất tuyến tính với nồng độ
khi sự gia tăng nồng độ chất lỏng từ dẫn tới việc làm giảm sự sinh trưởng của tế bào.
Giá trị IC50 được tính bằng công cụ Microsoft Excel cho thấy chất lỏng nano từ
Fe3O4@CS trên dòng tế bào Sar180 sau 48 giờ có IC50 là 178.5 ± 22 µg/ml. Có thể kết
luận rằng, chất lỏng nano từ Fe3O4@CS có IC50 khá cao và không gây độc đối với tế
bào.
Tác động độc tính của một chất lên tế bào không chỉ thể hiện ở tỷ lệ tăng sinh mà
còn có ảnh hưởng tới hình thái của tế bào. Chính vì vậy theo dõi sự thay đổi hình dạng
đặc trưng của tế bào cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tác động và độc tính
của vật liệu thử nghiệm lên các dòng tế bào.
93
Hình 3.19. Hình thái tế bào Sarcoma 180 quan sát dưới kính hiển vi soi ngược. CA: đối
chứng sinh học. CB: Đối chứng dung môi DMSO. Dải nồng độ chất lỏng từ Fe3O4@CS
(C1): 500 µg/ml, (C2): 250 µg/ml, (C3): 125 µg/ml, (C4): 62.5 µg/ml, (C5): 30.25
µg/ml and (C6): 15.125 µg/ml. Hình ảnh quan sát dưới vật kính 20X, độ phóng đại 5.6.
Kết quả quan sát hình thái tế bào qua kính hiển vi ánh sang ngược cho thấy kết
luận trên là phù hợp. Hình ảnh ở các nồng độ thấp (hình 3.19.C3-C6) cho thấy không có
sự khác biệt về hình thái tế bào và trạng thái môi trường đối với hai giếng đối chứng.
Trong hình 3.19.C1, tại nồng độ chất lỏng từ cao nhất (500ug/ml), các hạt nano từ bám
dính tạo thành khối và phủ một lớp lên về mặt tế bào, tuy nhiên, hình dạng cầu tròn của
tế bào vẫn được duy trì và không có khác biệt so với đối chứng, đồng thời không phát
hiện xác tế bào chết bất thường trong môi trường. Do đó, tỷ lệ tế bào sống ở hai giếng
thử với nồng độ chất lỏng từ 250 ug/ml và 500 ug/ml thấp hơn nhiều so với đối chứng
có thể giải thích do mật độ có mặt của hạt nano từ trong môi trường quá cao dẫn tới sự
ức chế sinh trưởng của tế bào Sarcoma 180.
Các công trình nghiên cứu đã công bố trước đây cũng cho thấy kết luận tương tự về
độc tính của chất lỏng nano từ phụ thuộc tuyến tính với nồng độ thử nghiệm. Tuy nhiên,
kết quả IC50 thu được khi thử nghiệm độc tính hạt nano từ bọc chitosan trên dòng tế bào
của người như ung thư gan HepG2 [72], ung thư cổ tử cung HeLa [112] và ung thư phổi
A549 đều thu được giá trị cao hơn so với chất lỏng từ Fe3O4@CS được tổng hợp trong
nghiên cứu này. Một điều không thể so sánh đó là các dòng tế bào ung thư của người và
chuột có những đặc tính sinh học khác nhau nhất định dẫn tới sự sai biệt trong phản ứng
với cùng một loại chất thử nghiệm. Bên cạnh đó, đây là kết quả so sánh các mẫu thử
nghiệm thu được ở ba nghiên cứu độc lập, vì vậy quá trình tổng hợp vật liệu cũng như
kích thước, cấu trúc khác nhau của ba loại hạt nano từ cũng ảnh hưởng rất lớn tới độc tính
của chúng lên tế bào. Trong đó độ đề acetyl hóa DD của vỏ chitosan là một tác nhân quan
trọng ảnh hưởng tới sự hấp thụ tế bào và độc tính của vật liệu [53]. Hạt nano từ bọc
94
chitosan trong nghiên cứu này có kích thước nhỏ (13.43nm) và giá trị DD cao (>75%)
nên có thể xuyên qua lớp màng tế bào dựa trên tương tác giữa vùng tích điện âm trên
màng tế bào và nhóm amino của vỏ chitosan [97], sau khi xâm nhập vào tế bào các hạt
nano từ này có thể gây tổn thương lên ty thể [80] tiêu thể (lysosome) và tăng sự hình thành
các gốc tự do có oxy (ROS) dẫn tới sự mất cân bằng oxi hóa trong tế bào. Điều này có thể
dẫn tới lo ngại rằng phương pháp MTT có thể không phản ánh chính xác độc tính của vật
liệu khi hoạt động của ty thể có thể bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập của hạt nano từ vào tế
bào. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra rằng vật liệu nano từ bọc chitosan
không gây độc mạnh lên dòng tế bào ung thư (giá trị IC50 thu được đều lớn hơn 100
ug/ml), do đó có thể thấy vật liệu được tổng hợp trong nghiên cứu này không gây tổn
thương lớn đối với ty thể. Bên cạnh đó, nghiên cứu [80] cũng chỉ ra rằng vỏ bọc
oligosaccharide chitosan có thể làm giảm đáng kể độc tính của vật liệu nano từ lên tế bào
và hạn chế ROS.
Từ kết quả thử nghiệm in vitro thu được cũng như so sánh với các công bố gần
đây, có thể kết luận rằng vật liệu nano từ bọc chitosan Fe3O4@CS không gây độc lên
dòng tế bào ung thư chuột Sarcoma 180. Bên cạnh đó, cần thực hiện các đánh giá sinh
học khác trong tương lai nhằm tối ưu hóa cấu trúc vật liệu nano từ Fe3O4@CS cho các
ứng dụng riêng biệt trong chẩn đoán và điều trị ung thư lâm sàng.
95
Kết luận chương 3
- Đã chế tạo thành công chất lỏng từ trên nền hạt nano từ Fe3O4 tổng hợp bằng
phương pháp thủy nhiệt bằng cách bọc chitosan (CS) có kích thước từ 10 - 20 nm tương
ứng, đã tối ưu hóa các điều kiện ảnh hưởng đến tính chất từ với các giá trị từ độ thu được
là 68 emu/g tại điều kiện tối ưu. Các hạt nano với DTEM <15 nm thể hiện tính chất siêu
thuận từ ở nhiệt độ phòng.
- Phân tích phổ hồng ngoại cho thấy sự liên kết giữa lớp vỏ bọc và hạt từ. Kích thước
hạt và độ bền của mẫu chất lỏng từ Fe3O4 bọc CS được khảo sát bằng phương pháp phổ
tán xạ laze động. Kết quả cho thấy mẫu chất lỏng Fe3O4 bọc CS có kích thước động nằm
trong khoảng 30-40 nm, và có độ bền cao trong các điều kiện khác nhau.
- Thử nghiệm khả năng gây độc trên tế bào, kết quả cho thấy mẫu chất lỏng có độc
tính thấp, không gây độc tính trên dòng tế bào ung thư mô liên kết Sar.180 ngay ở cả
nồng độ cao 125 µg/ml, với giá trị IC50 của chế phẩm chất lỏng từ Fe3O4@CS là
176,74±25,2 µg/ml.
Các kết quả thu nhận được từ phương pháp thủy nhiệt là tương đối khả quan. Tuy
nhiên, do tổng hợp mẫu trong dung môi nước nên sản phẩm tạo ra có chất lượng chưa
cao (kích thước hạt chưa đồng đều, có hiện tượng kết đám, các hạt chưa đơn phân tán).
Để khắc phục những hạn chế này, phương pháp phân hủy nhiệt được tổng hợp trong
dung môi hữu cơ ở nhiệt độ sôi cao đã được sử dụng và kết quả sẽ được trình bày trong
chương 4.
96
CHƯƠNG 4: NGHIÊN CỨU HỆ CHẤT LỎNG TỪ TRÊN NỀN OXIT SẮT
TỔNG HỢP BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN HỦY NHIỆT
Khi chế tạo hạt nano oxit sắt rất nhiều công trình sử dụng các phương pháp hóa
ướt dùng dung môi là nước, như phương pháp đồng kết tủa, thủy nhiệt, phương pháp vi
sóng hay phương pháp hóa siêu âm. Các phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, tuy
nhiên hạn chế của các phương pháp này là từ độ bão hòa thấp, kích thước hạt không
đồng đều và không đơn phân tán. Phương pháp phân hủy nhiệt (tổng hợp hạt trong dung
môi hữu cơ ở nhiệt độ sôi cao) có thể giải quyết được các tồn tại nêu trên, tức là cho
phép chế tạo ra các hạt có kích thước bé, đồng đều và đơn phân tán nhưng từ độ bão hòa
cao [129, 119]. Công trình khởi xướng cho tổng hợp hạt nano sắt từ bằng con đường
phân hủy nhiệt là của Sun và CS vào năm 2004 [129, 92]. Nguyên lý chung của phương
pháp này là: dùng tiền chất là phức chất cơ kim chứa ion từ + chất hoạt động bề mặt và
trong dung môi hữu cơ, với quy trình gia tăng nhiệt độ thích hợp để khống chế quá trình
tạo mầm và phát triển hạt trong không gian giới hạn vùng kích thước nano. Yếu tố nhiệt
độ cao (đến khoảng 300oC) có thể giúp cho quá trình tạo tinh thể được hoàn hảo, nhờ
vậy mà từ độ của hạt nano sản phẩm được nâng cao [151, 44]. Chất lượng của mẫu (đồng
đều của kích thước hạt, đơn phân tán và độ hoàn hảo tinh thể) tổng hợp bằng phương
pháp phân hủy nhiệt thường phụ thuộc vào các tham số thực nghiệm như nồng độ tiền
chất, tỉ lệ nồng độ chất hoạt bề mặt, bản chất của dung môi cũng như là các thông số về
thời gian và nhiệt độ phản ứng. Trong số các yếu tố thực nghiệm trên thì các tham số
bản chất dung môi, thời gian và nhiệt độ phản ứng có ảnh hưởng lớn đến tính chất của
hạt nano từ [148, 110]. Ảnh hưởng của ba tham số này được tập trung khảo sát và trình
bày dưới đây nhằm tìm ra các điều kiện tối ưu, chế tạo ra các hạt nano từ Fe3O4 có từ độ
bão hòa cao mà kích thước hạt nằm trong vùng siêu thuận từ để có thể ứng dụng tốt hơn
trong tăng cường độ tương phản ảnh cộng hưởng từ hạt nhân MRI.
4.1. Khảo sát ảnh hưởng của dung môi và nhiệt độ lên tính chất của hạt Fe3O4
Thông thường sự hình thành và phát triển hạt nano từ trong quá trình chế tạo mẫu
bằng phương pháp phân hủy nhiệt phụ thuộc vào yếu tố như nhiệt độ và thời gian phản
ứng. Tuy nhiên, bản chất dung môi cũng là một yếu tố rất cần thiết trong quá trình hình
thành và phát triển hạt. Một số tác giả cho rằng nếu không chú ý đến bản chất dung môi
mà chỉ chú ý đến yếu tố chất hoạt động bề mặt, tỉ lệ các chất hoạt động bề mặt, thời gian
và nhiệt độ thì rất khó điều khiển được kích thước hạt và hình dạng của hạt [22, 128,
34]. Vì vậy, trong phần này dung môi ảnh hưởng đến tính chất của hạt từ, hình dạng và
sự đơn phân tán được tập trung khảo sát để tìm ra dung môi tốt nhất cho các khảo sát
tiếp theo. Thông thường phương pháp phân hủy nhiệt được thực hiện ở nhiệt độ sôi của
dung môi để thu được hạt có chất lượng tốt nhất. Trong luận án, ngoài việc sử dụng
97
dung môi dibenzyl ether, octadecene còn sử dụng chất hoạt động bề mặt như axit oleic,
olaylamine và octadecanol.
Các mẫu được ký hiệu lần lượt là: DIO, OIO, và OIO-DIO tương ứng với dung
môi là: dibenzyl ete, octadencen và hỗn hợp dibenzyl ete + octadecnene (tỉ lệ 1:1: về thể
tích). Thời gian phản ứng được chọn là 1 giờ tại nhiệt độ sôi của các dung môi. Các mẫu
được ký hiệu lần lượt là: DIO1, DIO2 và DIO3 với nhiệt độ phản ứng cao nhất tăng là
265oC, 285oC, 298oC (đối với dung môi dibenzyl ete); OIO1, OIO2, OIO3 với nhiệt độ
phản ứng cao nhất tương ứng là 270oC, 300oC, 320oC (đối với dung môi octadecene)
và OIO-DIO1, OIO-DIO2 và OIO-DIO3 với nhiệt độ phản ứng cao nhất tương ứng là
270oC, 295oC, 310oC với hỗn hợp của hai dung môi.
4.1.1. Đặc trưng cấu trúc, hình thái của hạt nano Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp
phân hủy nhiệt
Hình 4.1 trình bày giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu chế tạo ở các nhiệt độ phản
ứng khác nhau trong các dung môi khác nhau. Nhìn chung, các giản đồ này có các đỉnh
nhiễu xạ đặc trưng cho vật liệu có cấu trúc ferrit spinel giống như các giản đồ nhiễu xạ
tia X của các mẫu chế tạo bằng phương pháp thủy nhiệt đã trình bày trong chương 3
mục 3.2. Tuy nhiên mỗi phương pháp lại cho các đỉnh nhiễu xạ trên giản đồ XRD của
hạt nano từ Fe3O4 có độ rõ nét khác nhau. Trong phương pháp phân hủy nhiệt do tổng
hợp trong dung môi hữu cơ và sử dụng chất hoạt động bề mặt (axit oleic, olaylamine và
octadecanol) vì vậy các hạt Fe3O4 tạo thành có một lớp vỏ bọc bên ngoài (bọc in-situ).
Chính lớp vỏ bọc này đã làm cho giản đồ nhiễu xạ bị nhiễu nền, các đỉnh thể hiện không
rõ nét bằng giản đồ nhiễu xạ tia X tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt. Mặt khác các
hạt hình thành theo phương pháp phân hủy nhiệt có kích thước bé hơn nhiều so với
phương pháp thủy nhiệt, điều này cũng làm cho tín hiệu của giãn đồ nhiễu xạ tia X
không rõ nét bằng tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt. Các kết quả này cũng tương
tự như kết quả công bố của một số nhóm tác giả khác về giản đồ nhiễu xạ tia X [157].
Hình 4.1. Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các nhiệt độ phản
ứng khác nhau trong các dung môi khác nhau
98
Hình 4.2 trình bày ảnh hiển vi điện tử truyền qua (TEM) của các mẫu được chế
tạo ở các nhiệt độ phản ứng khác nhau.
Hình 4.2. Ảnh TEM hạt của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các nhiệt độ khác nhau
trong các dung môi khác nhau trong thời gian 1 giờ
Kết quả thu được từ ảnh TEM cho thấy, đối với các mẫu DIO3 được tổng hợp ở
nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ sôi của dung môi thu được kích thước hạt trung bình nhỏ từ
4,0 nm đến 8 nm. Các hạt phát triển với kích thước không đồng đều, biên hạt không rõ
99
nét. Với mẫu DIO được chế tạo ở nhiệt độ sôi của dung môi dibenzyl ether (298oC) có
kích thước hạt trung bình là 12,6 nm, quan sát ảnh TEM nhận thấy phân bố kích thước
hạt không đồng đều, phân bố rộng, biên hạt trở nên rõ nét hơn so với 2 mẫu được tổng
hợp ở nhiệt độ thấp, tuy nhiên hình dạng các hạt không đồng nhất. Trong khi đó đối với
mẫu tổng hợp trong dung môi octadecene và hỗn hợp hai dung môi octadecene và
dibenzyl ether thì dù ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ sôi của dung môi nhưng các hạt thu
được khá đồng nhất về hình dạng, đơn phân tán và kích thước bé và đồng đều từ 6,0 đến
10 nm. Đặc biệt ở nhiệt độ sôi cao trên 300oC của dung môi, các hạt thu được có dạng
đồng nhất hình cầu, biên hạt rõ nét, với kích thước hạt đồng đều có giá trị trung bình
10,2 nm (hình 4.2). Sự phân bố kích thước hạt của các mẫu tổng hợp bằng phương p háp
phân hủy nhiệt là tương đối hẹp, đơn phân tán hơn so với phương pháp thủy nhiệt và
phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới [117, 55, 11, 81].
Hình 4.3. Ảnh HRTEM hạt của các mẫu Fe3O4 được chế tạo bằng phương pháp
phân hủy nhiệt trong hỗn hợp dung môi dibenzyl ete và 1-octadecene
Để thấy rõ được cấu trúc của mẫu hạt nano Fe3O4, chúng tôi đã tiến hành chụp ảnh
hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HRTEM) kết hợp với đo nhiễu xạ điện tử lựa
chọn vùng (SEAD - selected are electron diffraction) trên hình 4.3. Kết quả ảnh SEAD
trên hình 4.3 xuất hiện đồng thời các điểm sáng (spot light) trên các vòng tròn đồng tâm
với bán kính tương ứng với các mặt phẳng nhiễu xạ của pha tinh thể Fe3O4. Đây là minh
chứng rõ ràng cho thấy sự hình thành cấu trúc của pha tinh thể của vật liệu Fe3O4. Phân
tích ảnh HRTEM thông qua phần mềm Digital-Micrograph GMS-3 thu được ảnh vùng
lựa chọn trên ảnh HRTEM như hình 4.3, tương ứng cho khoảng cách d giữa các mặt
phẳng tinh thể của vật liệu trên hình 4.3. Khoảng cách d giữa các mặt phẳng tinh thể của
100
vật liệu xác định được có giá trị lần lượt là 2,61 Aº tương ứng với mặt phẳng (311) của
tinh thể nano Fe3O4 phù hợp với các kết quả đã được công bố [161].
Hơn nữa, hình 4.3 cho thấy tinh thể nano Fe3O4 đều có cấu trúc lập phương phù
hợp với kết quả số liệu thu được trên giản đồ XRD.
Như vậy, bằng việc khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ nhận thấy mẫu được chế tạo
ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ dung môi cho các hạt có kích thước nhỏ, không đồng đều,
biên hạt không rõ nét. Dung môi dibenzyl ether cho các hạt không đồng nhất về hình
dạng, kích thước không đồng đều so với dung môi octadecene. Các hạt có kích thước
đồng đều với biên hạt rõ nét hơn khi nhiệt độ phản ứng được tăng lên 300 đến 310oC và
320oC. Điều này cho thấy nhiệt độ và bản chất của dung môi là yếu tố quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển hạt. Tổng hợp mẫu bằng cả 2 phương pháp thủy nhiệt
và phân hủy nhiệt đều có xu hướng chung là khi tăng nhiệt độ phản ứng thì kích thước
hạt tăng lên và đồng đều hơn [6, 133].
4.1.2. Tính chất từ
Hình 4.4 là các đường cong từ hóa của các mẫu Fe3O4 ở các nhiệt độ trong các
dung môi phản ứng khác nhau. Từ độ của các mẫu xác định tại từ trường đo cực đại 10
kOe ở nhiệt độ phòng. Cụ thể, giá trị M10kOe của các mẫu thu được có giá trị 48 emu/g,
51 emu/g, 56 emu/g tương ứng với các mẫu OIO1, OIO2 và OIO3 (bảng 4.1). Các kết
quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả chụp TEM, kích thước hạt tăng và từ độ tăng
theo nhiệt độ phản ứng [149, 133].
Bảng 4.1. Giá trị từ độ bao gồm cả lớp vỏ và lõi (Fe3O4 +OA+OLA, PMAO),
kích thước hạt trung bình (DTEM)
Tên mẫu Ms (11kOe)
(emu/g)
Hc
(Oe)
a
(Å)
DXRD
(nm)
DTEM
(nm)
OIO
M1 48 3 8,362 6,8 8,6±1,6
M2 51 6 8,363 7,9 9,2±0,6
M3 56 8 8,371 8,8 10,2±0,5
DIO
M1 45 8 8,362 6,7 8,2±1,5
M2 58 23 8,371 10,2 11,2±2,1
M3 63 32 8,378 11,5 13,6±3,2
OIO-DIO
M1 51 2 8,363 7,1 8,5±1,2
M2 59 8 8,370 8,2 10,3±0,5
M3 62 12 8,371 9,1 11,1±0,2
101
Từ hình 4.4 quan sát đường từ hóa của các mẫu trong vùng từ trường nhỏ cho thấy
lực kháng từ của các OIO1 đến OIO3 đều nhỏ hơn 10 Oe (bảng 4.1). Ảnh hưởng của
kích thước hạt lên độ kháng từ của vật liệu đã được giải thích chi tiết trong mục 1.1.3.1
chương 1.
Hình 4.4. Đường cong từ hóa và đường cong từ hóa phóng đại trong vùng từ trường
nhỏ dùng để xác định Hc của các mẫu ở các nhiệt độ trong các dung môi khác nhau
4.1.3. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian lên tính chất của hạt Fe3O4
Trong dung môi hỗn hợp dibenzyl ether và octadencene, các hạt nano từ Fe3O4
được chế tạo với các thời gian phản ứng khác nhau trong cùng một nhiệt độ 310 oC (nhiệt
độ sôi của dung môi). Các mẫu được ký hiệu lần lượt là: OIO-DIO4, OIO-DIO5 và OIO-
DIO6 tương ứng với thời gian phản ứng tăng dần từ: 0,5; 1,0 và 2 giờ.
Hình 4.5 là giản đồ XRD của các mẫu bột Fe3O4 được tổng hợp ở các thời gian
phản ứng khác nhau. Nhìn chung, các giản đồ này có các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng cho
vật liệu có cấu trúc ferrit spinel giống như các giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu chế
tạo bằng phương pháp thủy nhiệt đã trình bày trong chương 3. Trong phương pháp phân
hủy nhiệt do tổng hợp trong dung môi hữu cơ và sử dụng chất hoạt động bề mặt (axit
oleic và olaylamine) vì vậy các hạt Fe3O4 tạo thành có một lớp vỏ bọc bên ngoài. Chính
lớp vỏ bọc này đã làm cho giản đồ nhiễu xạ bị nhiễu nền, các đỉnh thể hiện không rõ nét
bằng giản đồ nhiễu xạ tia X tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt [157].
Hình 4.5. Giản đồ XRD của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các thời gian phản ứng
khác nhau trong vùng từ 0,5 đến 2 giờ tại nhiệt độ phản ứng 298 oC.
102
Kích thước hạt của các mẫu cũng được đánh giá một cách định tính thông qua việc
so sánh độ rộng vạch nhiễu xạ trên giản đồ XRD của các mẫu trên hình 4.5. Từ hình này
có thể thấy rằng, khi tăng thời gian phản ứng thì độ rộng vạch phổ thu hẹp lại chứng tỏ
kích thước tinh thể đã tăng lên và kết tinh tốt hơn. Kết quả cho thấy kích thước tinh thể
trung bình (DXRD) tăng theo thời gian phản ứng với các giá trị lần lượt là 5,2; 9,6 và 11,2
nm (các kết quả được thể hiện chi tiết trong bảng 4.2).
Bảng 4.2. Hằng số mạng (a), kích thước tinh thể trung bình (DXRD), kích thước hạt trung
bình (DTEM), từ độ tại 10 kOe (Ms10kOe), lực kháng từ (Hc) của các mẫu hạt nano Fe3O4
Tên mẫu OIO-DIO4 OIO-DIO5 OIO-DIO6
Thời gian phản ứng 30 phút 60 phút 120 phút
a (Å) 8,362 8,365 8,376
DXRD (nm) 5,2 9,6 11,2
DTEM (nm) 7,52±1,1 11,03±0,5 13,15±0,8
Ms10kOe (emu/g) 53 63 65
Hc (Oe) 7,5 9,4 14,1
Hình 4.6. Ảnh TEM hạt của các mẫu Fe3O4 được chế tạo ở các thời gian khác nhau ở
nhiệt độ phản ứng 310oC.
Hình 4.6 trình bày ảnh TEM của các mẫu vật liệu nano Fe3O4. Hình 4.6 cho thấy
trong tất cả các mẫu đều có mặt các hạt hình cubic và hình cầu với kích thước tương đối
đồng đều. Đồ thị phân bố kích thước hạt của các mẫu được thể hiện trong cột bên phải
của hình 4.4. Sự phân bố kích thước hạt của các mẫu là tương đối hẹp và phù hợp với
các kết quả nghiên cứu khác trên thế giới [11, 55]. Kích thước hạt trung bình (DTEM) của
các mẫu tăng từ 75,2 nm đến 13,15 nm tương ứng với thời gian phản ứng tăng từ: 0,5
giờ đến 2 giờ. Nhìn vào ảnh TEM chúng ta nhận thấy biên hạt trở nên rõ nét hơn khi
thời gian phản ứng tăng.
Như vậy khi tăng thời gian phản ứng thì kích thước hạt tăng giống như đã quan
sát thấy khi chế tạo hạt dùng phương pháp thủy nhiệt nhưng độ đồng đều của các hạt
thu nhận được tốt hơn. Bản chất nâng cao sự đồng đều hạt của phương pháp phân hủy
103
nhiệt là do quá trình tổng hợp hạt được tiến hành trong dung môi hữu cơ ở nhiệt độ cao
và sử dụng chất hoạt động bề mặt (axit oleic và olaylamine). Do dung môi hữu cơ có
nhiệt độ sôi cao hơn dung môi nước nên quá trình tổng hợp mẫu xảy ra ở nhiệt độ cao
đã làm cho các hạt phát triển hoàn thiện về cấu trúc tinh thể và làm cho biên hạt trở nên
rõ nét hơn. Mặt khác, chất hoạt động bề mặt tạo lớp bao có sức căng bề mặt lớn trên bề
mặt của các hạt giảm sự kết đám khiến các hạt phát triển đồng đều hơn. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả [52, 81, 22]. Khi so
sánh kích thước tinh thể được xác định từ phổ nhiễu xạ tia X và kích thước hạt thực từ
ảnh TEM cho thấy kích thước tinh thể nhỏ hơn kích thước hạt thực. Sự sai khác giữa hai
phương pháp này đã được giải thích trong mục 3.1.1.2 ở chương 3 [121].
Hình 4.7 là các đường cong từ hóa của các mẫu Fe3O4 chế tạo với các thời gian
phản ứng khác nhau. Từ độ lớn nhất của các mẫu được xác định tại từ trường đo cực
đại 10 kOe ở nhiệt độ phòng. Từ hình này có thể thấy từ độ lớn nhất tăng theo thời gian
phản ứng và đạt giá trị cao nhất 65 emu/g khi thời gian phản ứng kéo dài đến 2 giờ (chi
tiết xem trong bảng 4.2). Cũng giống như phương pháp thủy nhiệt, khi tăng thời gian
phản ứng dẫn đến sự lớn lên về kích thước hạt và dẫn đến tăng từ tính của hạt nano
Fe3O4 [133, 149]. Nhìn vào kết quả bảng 4.2 ta thấy mẫu ở thời gian phản ứng 1,0 giờ
(mẫu OIO-DIO5), giá trị từ độ đã đạt giá trị 63 emu/g. Khi kéo dài thời gian phản ứng
lên 2 giờ (mẫu OIO- DIO6) thì giá trị này gần như không thay đổi chỉ đạt 65 emu/g.
Điều này chứng tỏ thời gian phản ứng 2 giờ đã tạo ra trạng thái bão hòa của từ độ. Tuy
nhiên, thời gian kéo dài có thể dẫn đến kích thước hạt lớn do đó giá trị lực kháng từ lớn
và có thể không đạt được trạng thái siêu thuận từ [16, 30]. Do vậy, thời gian phản ứng
cho các thí nghiệm tiếp theo được giữ tại 1 giờ, vừa tiết kiệm được thời gian chế tạo
mẫu cũng như hạn chế được quá trình bay hơi trong dung dịch phản ứng mà vẫn đảm
bảo được chất lượng của vật liệu chế tạo được.
Hình 4.7. Đường cong từ hóa và đường cong từ hóa phóng đại trong vùng từ trường
nhỏ dùng để xác định Hc của các mẫu ở các thời gian khác nhau
104
Như vậy, bằng việc thay đổi thời gian phản ứng, các mẫu hạt nano Fe3O4 đơn pha
có kích thước từ 7,52 nm đến 13,15 nm tương ứng với giá trị từ độ tăng từ 53 emu/g đến
65 emu/g đã được chế tạo. Kết quả trong bảng 4.2 cho thấy, mẫu OIO-DIO6 được chế
tạo ở thời gian phản ứng 1 giờ cho kích thước hạt đồng đều và từ độ cao nhất đồng thời
giá trị Hc thu nhận được là nhỏ hơn 10Oe được lựa chọn làm điều kiện tối ưu để tiếp tục
khảo sát thử nghiệm ứng dụng trong chụp cổng hưởng từ MRI.
4.2. Chế tạo chất lỏng từ chứa hạt nano từ tính Fe3O4 bọc bằng PMAO
Để ứng dụng trong y sinh, đối với các mẫu chế tạo bằng phương pháp phân hủy
nhiệt, do các hạt nano thu được bị phủ bởi một lớp mỏng chất hoạt động bề mặt hòa tan
trong dung môi hữu cơ nhưng khó phân tán trong môi trường nước. Do vậy, để tạo được
chất lỏng từ dung môi nước, cần tiến hành một công đoạn gọi là quá trình chuyển pha
(phase transfer process). Hiện nay, có 3 cách thực hiện chuyển pha: (i) thay đổi ligan -
thay phân tử hữu cơ kỵ nước (chất hoạt hóa bề mặt) bằng phân tử ưa nước, (ii) bọc phủ
bằng polyme lưỡng tính, (iii) silica hóa lớp vỏ. Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi đã
nghiên cứu quá trình chuyển pha bằng cách trao đổi ligan và bọc hạt bằng poly (maleic
anhydride-alt-1-octadecene) (PMAO). Đây là một polyme có giá thành rẻ và sẵn có nên
đã được sử dụng như một tác nhân chuyển pha sang môi trường nước đối với vật liệu nano
nghiên cứu gần đây [16, 147]. PMAO là polyme với cấu trúc phân tử gồm 2 phần chính
như được chỉ ra trên hình 1.20. Phần kỵ nước là chuỗi hydrocacbon có chức năng giúp
các phân tử PMAO bám vào hạt thông qua liên kết hydrophobic-hydrophobic (kỵ nước -
kỵ nước) với các phân tử OA và OLA trên bề mặt hạt. Phần ưu nước chứa gốc anhydrit
có vai trò giúp các hạt phân tán trong môi trường nước. Trong quá trình rung siêu âm các
phân tử PMAO sẽ bám vào bề mặt hạt thông qua tương tác giữa phần kỵ nước với các
phân tử OA, OLA trên bề mặt. Các hạt Fe3O4 sau khi được bọc PMAO trở thành
hydrophilic và có khả năng phân tán trong nước.
Hình 4.8 là ảnh chụp của mẫu trước và sau khi chuyển pha bằng PMAO trong dung
môi n-hexane và nước. Có thể thấy mẫu trước khi bọc PMAO phân tán rất tốt trong
hexane và hoàn toàn không phân tán trong nước (hình 4.8a). Sau khi bọc PMAO, bề mặt
của các hạt Fe3O4 trở thành hydrophilic và phân tán tốt trong nước, không phân tán trong
hexane (hình 4.8b). Như vậy, có thể nhận định rằng lớp polyme đã bao phủ lên bề mặt
các hạt và giúp chúng ổn định, phân tán tốt trong nước.
(a) (b)
Hình 4.8. Ảnh mẫu Fe3O4 trước và sau khi chuyển pha (a) và ảnh HRTEM của hạt Fe3O4
trước khi chuyển pha và bọc PMAO trong dung môi hexane và hạt Fe3O4 bọc bởi PMAO
trong nước (b)
F e 3 O 4
F e 3 O 4
F e 3 O 4
105
Các mẫu chế tạo được đặc trưng các tính chất bằng các phép đo: Nhiễu xạ tia X
(XRD), hiển vi điện tử truyền qua (TEM), và kính hiển vi điển tử phân giải cao HRTEM
đường cong từ trễ tại nhiệt độ phòng bằng từ kế mẫu rung (VSM).
Sự thay đổi về kích thước và hình dạng của các hạt nano từ Fe3O4 trước và sau khi
bọc hình thái học của các mẫu được nghiên trên ảnh TEM của chúng và trình bày trên
hình 4.9.
(a) (b)
Hình 4.9. Ảnh TEM của các mẫu: Fe3O4@PMAO (a) và Fe3O4@PMAO pha loãng
Quan sát ảnh TEM trên hình 4.9 cho thấy các mẫu sau khi bọc vẫn có cả dạng hình
cầu, với kích thước hạt phân bố đồng đều. Kích thước hạt của các mẫu sau khi bọc đều
lớn hơn so với kích thước hạt của mẫu ban đầu, tương ứng với kích thước trung bình là
9,6 nm và 12,1 nm.
Hình 4.10. Ảnh HRTEM hạt của các mẫu Fe3O4 sau khi được chuyển pha
Trong phương pháp phân huỷ nhiệt, do tổng hợp trong dung môi hữu cơ và sử
dụng chất hoạt động bề mặt (axit oleic và oleylamin) nên các hạt Fe3O4 tạo thành có một
lớp vỏ bọc bên ngoài, giữ cho các hạt tinh thể có kích thước nhỏ. Để biết các hạt tạo
106
thành có được bọc bởi các chất hoạt động bề mặt hay không, mẫu chứa hạt nano từ sau
khi chế tạo được đo phổ hấp thụ hồng ngoại và giãn đồ phân tích nhiệt TGA (hình 4.11).
Kết quả hình 4.11 cho thấy, phổ hồng ngoại và giãn đồ phân tán tích có các dải hấp thụ
đặc trưng của các dao động nhóm chức của OA, OLA và của Fe3O4 [ 81]. Các dải ở
2915cm-1 và 2849cm-1 là dao động hóa trị của liên kết C-H [81]. Hai dải tại 1520cm-1
và 1400cm-1 lần lượt được quy gán cho dao động hóa trị bất đối xứng và đối xứng của
nhóm chức cacboxylat (COO-). Các đỉnh này xuất hiện là do trên bề mặt hạt vật liệu
xuất hiện lớp vỏ bọc của OA và OLA. Dải hấp thụ mạnh tại vị trí 573 cm-1 của nhóm
Fe-O đặc trưng cho hạt nano từ Fe3O4 [81].
Trên phổ hồng ngoại của mẫu Fe3O4@PMAO hình 4.11, sự xuất hiện các dải hấp
thụ ở 1536 cm-1 và 1414 cm-1 tương ứng với dao động hoá trị đối xứng và bất đối xứng
của nhóm cacboxylat trong axit oleic chứng tỏ có liên kết giữa nguyên tử Fe và nhóm
COO- trên bề mặt hạt. Hai dải tại 1856 cm-1 và 1780 cm-1 trong phổ IR của PMAO là
do sự đóng góp của vòng anhyđrit. Sau khi bọc bằng PMAO, sự dịch chuyển của hai dải
này đến 1562 cm-1 và 1402 cm-1 chứng tỏ sự mở vòng anhyđrit của PMAO thành các
nhóm COO. Điều này cho thấy có sự tương tác giữa hạt từ với PMAO, và tương tác này
giúp hạt Fe3O4 bọc bằng PMAO tan được trong nước [56]. Dải hấp thụ mạnh tại vị trí
556 cm-1 của nhóm Fe-O đặc trưng cho hạt nano từ Fe3O4. Như vậy, phổ hồng ngoại đã
chứng minh được sự tạo thành các hạt nano từ Fe3O4@OA, OLA và Fe3O4@PMAO sau
khi hạt nano từ được chuyển pha và bọc bởi polyme nói trên.
Hình 4.11. Phổ FTIR của Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp phân hủy nệt với lớp vỏ b bọc
OA, OLA (a), của PMAO (b) và của vật liệu sau khi chuyển pha và bọc bằng PMAO (c)
Để xác định tỉ phần đóng góp của lớp vỏ hữu cơ, một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến sự suy giảm giá trị từ độ bão hòa, thành phần của mẫu OIO-IOI3 chứa hạt nano từ
Fe3O4@OA, OLA được khảo sát bằng phương pháp phân tích nhiệt TGA. Giản đồ phân
107
tích nhiệt của mẫu Fe3O4@ OA, OLA (hình 4.12a) cho thấy mẫu có sự mất khối ở 4 giai
đoạn. Giai đoạn mất khối đầu tiên khoảng 0,96% ở nhiệt độ 25 - 200oC do lượng nước
ẩm. Giai đoạn thứ 2 giảm khối lượng 3,52% trong khoảng 200 - 3000C kèm theo đỉnh
thu nhiệt ở 236oC được cho là sự thoát dung môi hữu cơ hấp phụ trên bề mặt hạt. Giai
đoạn thứ 3 giảm 8,44% xảy ra trong khoảng 300 - 500oC ứng với đỉnh thu nhiệt ở nhiệt
độ 389oC. Sự mất khối này có thể do sự phân hủy một phần các hợp chất hữu cơ (OA
và OLA) để loại bỏ nhóm chức như NH2. Giai đoạn thứ 4 từ 500 - 800 oC, mẫu mất khối
khoảng 2,81 % điều này có thể cho rằng do mẫu được đo trong không khí nên xảy ra sự
phân hủy một phần nhỏ các hạt nano Fe3O4 [161]. Như vậy, dựa vào quá trình mất khối
trên đường TGA ở giai đoạn (25- 450oC) ta có thể xác định được giá trị khối lượng thực
của lõi Fe3O4. Kết quả tính toán cho thấy: lớp vỏ bọc in-situ OA, OLA trong mẫu chế
tạo bằng phương pháp phân hủy nhiệt chiếm 12,92 %.
Hình 4.12. Giản đồ TGA của Fe3O4 với lớp vỏ bọc OA, OLA chế tạo bằng phương
pháp phân hủy nhiệt (a) và sau khi bọc PMAO (b)
Để đánh giá độ bền của các mẫu chất lỏng, đại lượng đặc trưng cho độ ổn định của hệ
phân tán keo là thế Zeta [164]. Độ bền của các mẫu chất lỏng được thể hiện qua thế zeta
trên hình 4.13. Từ hình này ta thấy, mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO có thế zeta cao, sau
một thời gian chế tạo với các giá trị tương ứng 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng là -40,1 mV, -
38,2 mV, -34mV. Dựa theo tiêu chuẩn đánh giá độ bền cho thấy 2 mẫu chất lỏng
Fe3O4@PMAO đều được đánh giá là có độ bền cao [14, 161, 164].
Hình 4.13. Gía trị thế zeta và hình ảnh mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO sau 1 tháng
chế tạo (a) 3 tháng (b) và sau 6 tháng chế tạo (c)
108
Hình 4.14. Đường M(H) ở nhiệt độ phòng của các mẫu Fe3O4, Fe3O4@PMAO
Từ hình 4.14 có thể thấy, số liệu thực nghiệm trên đường đo M(H) của mẫu chưa
bọc (Fe3O4) và mẫu chất lỏng chứa hạt Fe3O4@PMAO khớp hoàn toàn theo hàm
Langevin, có thể cho rằng các mẫu chất lỏng từ này có tính chất siêu thuận từ ở nhiệt độ
phòng. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của lớp vỏ bọc lên tính chất từ cũng đã được nghiên cứu
khi so sánh giữa mẫu chưa bọc (Fe3O4) và mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO (hình 4.14). Mẫu
chất lỏng còn lại chuyển pha và bọc bằng PMAO đã làm giảm từ độ so với mẫu ban đầu.
Mômen từ của mẫu Fe3O4@PMAO bị giảm nhiều hơn từ 63 emu/g xuống 60 emu/g (giảm
khoảng 4,76% so với mẫu chưa bọc). Sự suy giảm từ độ của mẫu sau khi bọc so với mẫu
ban đầu được giả thiết là do ảnh hưởng phi từ của lớp vỏ bọc.
Trước khi làm ứng dụng trong tăng cường độ tương phản ảnh cộng hưởng từ hạt
nhân, ngoài việc xác định độ bền trong môi trường nước, độ bền của mẫu chất lỏng này
trong môi trường sinh lý (ở các nồng độ muối và môi trường pH khác nhau) được khảo
sát [89, 9, 87]. Hình 4.15 là hình ảnh mẫu chất lỏng trong các môi trường nồng độ muối
khác nhau.
Hình 4.15. Hình ảnh mẫu chất lỏng trong các môi trường nồng độ muối khác nhau.
Quan sát hình 4.15 ta thấy, mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO phân tán tốt trong nước,
không có hiện tượng kết đám khi giá trị nồng độ muối thay đổi trong phạm vi rộng từ
50 cho đến 250 mM. Độ bền thế zeta trong môi trường chất lỏng của mẫu Fe3O4@PMAO
được đo cho 2 mẫu tiêu biểu ở 200 mM và 250 mM trên hình 4.16.
109
Hình 4.16. Gía trị thế zeta và hình ảnh mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO
ở các nồng độ muối khác nhau
Như vậy, qua việc khảo sát độ bền của các mẫu chất lỏng ở các giá trị nồng độ
muối khác nhau cho thấy, mẫu chất lỏng bền ở điều niện nồng độ muối rộng, với giá trị
từ 0-250 mM, các mẫu chất lỏng này hoàn toàn có thể ứng dụng được trong điều kiện y
sinh.
4.3. Thử nghiệm đánh giá độc tính của hệ chất lỏng từ Fe3O4 chuyển pha và bọc
bằng PMAO
Độc tính trên tế bào của hệ vật liệu nano từ PMAO được đánh giá trên ba dòng tế
bào ung thư người Hep-G2, MCF-7, RD và một dòng tế bào lành từ khỉ Vero bằng
phương pháp Sulforhodamine B (SRB). Đối chứng dương tính sử dụng chất chuẩn có
khả năng gây độc tế bào như Ellipticine, Vinblastine hoặc Taxol pha trong DMSO. Theo
đó 5 x 10^3 tế bào mỗi loại sẽ được nạp vào các giếng có chứa 180ul môi trường tương
thích của đĩa nuôi cấy 96 giếng và ủ trong 24 giờ trước khi tiến hành thử thuốc với dải
nồng độ 5 ug/ml, 10 ug/ml và 25 ug/ml. Sau 72 giờ, tiến hành loại bỏ môi trường, rửa
bằng dung dịch PBS Ca2+Mg2+ và cố định tế bào bằng dung dịch TCA (Trichloroacetic
acid) trong 1 tiếng hoặc qua đêm. Sau khi đĩa hoàn toàn khô ráo, Bổ sung 100ul dung
dịch SRB vào mỗi giếng và ủ trong 1 giờ tại nhiệt độ phòng. Các mẫu nhuộm không tạo
liên kết sẽ bị rửa trôi bằng dung dịch acid acetic 1%. Thêm vào 100ul dung dịch Tris-
base 20mM để hòa tan chất nhuộm trước khi tiến hành đo OD bằng máy đo Microplate
Reader tại bước sóng 495-515 nm để tìm ra tỷ lệ tăng sinh tế bào. Đồ thị và giá trị IC50
được tính toán, biểu diễn bằng công cụ Microsoft Excel.
Đối với các dòng tế bào Hep-G2, MCF-7, RD và Vero, kết quả kiểm tra ban đầu
cho thấy tất cả đều đạt tiêu chuẩn để tiến hành thử nghiệm SRB. Thử nghiệm SRB được
phát triển nào năm 1990 bởi Skehan cùng cộng sự [211] và cũng là một trong các phương
pháp sàng lọc độc tính tế bào in vitro phổ biến hiện nay. Phương pháp này dựa trên việc
SRB có khả năng bám vào thành phần protein của tế bào đã được cố định bằng hợp chất
TCA trước đó. SRB là một chất nhuộm aminoxanthene có màu hồng nhạt, trong môi
trường axit nhẹ, hai nhóm sulfonic trong cấu trúc của chất này sẽ liên kết với gốc amino
acid và ngược lại, mất liên kết trong môi trường bazo. Lượng chất nhuộm chiết ra từ tế
bào bị nhuộm tỉ lệ thuận với lượng tế bào. Phương pháp này đo được kết quả kể cả khi
110
tỷ lệ che phủ bề mặt đĩa của tế bào chỉ 1% hay thậm chí là 200% chứng tỏ phổ nhạy
rộng và có thể đánh giá tăng trưởng của tế bào trong thời gian dài [38].
Hình 4.17. Kết quả độc tính của hệ nano từ Fe3O4@PMAO trên ba dòng tế bào ung
thư người Hep-G2, MCF-7 và RD cùng 1 dòng tế bào lành của khỉ Vero. Nồng độ của
Fe3O4@PMAO trong đồ thì này là 25 ug/ml; DMSO được dùng làm đối chứng dung
môi và chất chuẩn pha trong DMSO được dùng làm đối chứng dương.
Kết quả phân tích SRB trên bốn dòng tế bào được biểu diễn trong hình 4.18 cho thấy
DMSO tại nồng độ thử nghiệm không có tác động gây độc trên tế bào với 100% tế bào tăng
sinh trong khi chất chuẩn ở mẫu đối chứng dương lại gần như diệt toàn bộ tế bào ung thư
chỉ sau 72h và gây ức chế tăng sinh mạnh đối với tế bào lành. So sánh với kết quả của đĩa
ủ với hệ chất lỏng nano từ Fe3O4@PMAO, nhận thấy các giá trị gần như không thay đổi
nhiều so với đối chứng dung môi với tỷ lệ tế bào tăng sinh trên dòng tế bào Hep-G2, MCF-
7, RD và Vero lần lượt là 95.45%, 99.64%, 99.63% vào 100%. Qua đó kết luận rằng hệ vật
liệu Fe3O4@PMAO hoàn toàn không có tác dụng gây độc lên bốn dòng tế bào này. Một
điều đáng lưu ý là tác động của Fe3O4@PMAO lên dòng tế bào lành Vero tương tự đối với
ba dòng tế bào ung thư trong khi vẫn có sự khác biệt đáng kể khi so sánh độc tính của chất
chuẩn trên dòng tế bào ung thư và tế bào thường.
Hình 4.18. Hình ảnh tế bào quan sát dưới kính hiển vi Optika 4083.B1 với vật kính
40X. Tế bào ung thư gan Hep-G2 trong DMSO (A) và ủ với 25 ug/ml chất lỏng nano
từ Fe3O4@PMAO (B). Tế bào thận khỉ Vero trong DMSO (C) và ủ với 25 ug/ml chất
lỏng nano từ Fe3O4@PMAO (D).
111
Hình 4.18 cho thấy tuy có sự khác biệt về độ che phủ tế bào nhưng không đáng kể,
đặc biệt, không có sự thay đổi về hình thái giữa mẫu đối chứng và mẫu ủ với vật liệu
nano.
Các công trình nghiên cứu đã công bố trước đây cũng cho thấy kết luận tương tự về
sự phụ thuộc tuyến tính của độc tính của chất lỏng nano từ với nồng độ thử nghiệm. Tuy
nhiên, kết quả IC50 thu được khi thử nghiệm độc tính hạt nano từ bọc chitosan trên dòng
tế bào của người như ung thư gan HepG2 [127], ung thư cổ tử cung HeLa [86] và ung thư
phổi A549 đều thu được giá trị cao hơn so với chất lỏng từ Fe3O4@CS được tổng hợp
trong nghiên cứu này. Một điều không thể so sánh đó là các dòng tế bào ung thư của người
và chuột có những đặc tính sinh học khác nhau nhất định dẫn tới sự sai biệt trong phản
ứng với cùng một loại chất thử nghiệm. Bên cạnh đó, đây là kết quả so sánh các mẫu thử
nghiệm thu được ở ba nghiên cứu độc lập, vì vậy quá trình tổng hợp vật liệu cũng như
kích thước, cấu trúc khác nhau của ba loại hạt nano từ cũng ảnh hưởng rất lớn tới độc tính
của chúng lên tế bào. Trong đó độ đề acetyl hóa DD của vỏ chitosan là một tác nhân quan
trọng ảnh hưởng tới sự hấp thụ tế bào và độc tính của vật liệu [53]. Hạt nano từ bọc
chitosan trong nghiên cứu này có kích thước nhỏ (13.43nm) và giá trị DD cao (>75%)
nên có thể xuyên qua lớp màng tế bào dựa trên tương tác giữa vùng tích điện âm trên
màng tế bào và nhóm amino của vỏ chitosan [112] sau khi xâm nhập vào tế bào các hạt
nano từ này có thể gây tổn thương lên ty thể [80] tiêu thể (lysosome) và tăng sự hình thành
các gốc tự do có oxy (ROS) dẫn tới sự mất cân bằng oxi hóa trong tế bào. Điều này có thể
dẫn tới lo ngại rằng phương pháp MTT có thể không phản ánh chính xác độc tính của vật
liệu khi hoạt động của ty thể có thể bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập của hạt nano từ vào tế
bào. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra rằng vật liệu nano từ bọc chitosan
không gây độc mạnh lên dòng tế bào ung thư (giá trị IC50 thu được đều lớn hơn 100
ug/ml), do đó có thể thấy vật liệu được tổng hợp trong nghiên cứu này không gây tổn
thương lớn đối với ty thể. Bên cạnh đó, nghiên cứu của [38] cũng chỉ ra rằng vỏ bọc
oligosaccharide chitosan có thể làm giảm đáng kể độc tính của vật liệu nano từ lên tế bào
và hạn chế ROS.
Trong khi đó, các nghiên cứu về độc tính của các hệ nano vỏ bọc PMAO với tính chất
lõi khác nhau trên nhiều dòng tế bào cho thấy hệ nano sắt từ Fe3O4@PMAO tổng hợp được
trong đề tài này có sự tương thích cao với cả tế bào ung thư và tế bào thường. Hiện nay
chưa có nhiều nghiên cứu được công bố về độc tính hoặc tính tương thích sinh học của hệ
nano từ bọc PMAO trên các dòng tế bào, mở ra một cơ hội lớn trong nghiên cứu và phát
triển hệ vật liệu này cho các ứng dụng trong y - sinh học.
Từ kết quả thử nghiệm in vitro thu được cũng như so sánh với các công bố gần
đây, có thể kết luận rằng vật liệu nano từ bọc chitosan Fe3O4@CS không gây độc lên
dòng tế bào ung thư chuột Sarcoma 180 và vật liệu nano từ bọc PMAO không gây độc
112
lên ba dòng tế bào ung thư người Hep-G2, MCF-7, RD và dòng tế bào lành của khỉ
Vero. Có thể thấy, việc đánh giá độc tính in vitro của cả hai hệ vật liệu trên đã bước đầu
đưa ra kết quả khá khá quan. Điều này cho thấy vật liệu Fe3O4@CS và Fe3O4@PMAO
có tiềm năng lớn trong ứng dụng chẩn đoán hình ảnh và điều trị ung thư bằng phương
pháp nhiệt từ trị hoặc là yếu tố vận chuyển trong điều trị hướng đích bởi các ứng dụng
này đòi hỏi việc tìm ra một tác nhân có khả năng xâm nhập vào tế bào ung thư nhưng
không gây độc tới các tế bào thường. Tuy nhiên cần thực hiện các đánh giá sinh học
khác trong tương lai nhằm tối ưu hóa cấu trúc vật liệu nano từ Fe3O4@CS và
Fe3O4@PMAO cũng như tìm hiểu rõ con đường, cơ chế tác động của nano từ khi tiến
vào cơ thể; đồng thời tiến hành thử nghiệm trên mô hình động vật in vivo để có được
những đánh giá sát sao về hiệu quả ứng dụng của hai hệ nano từ Fe3O4@CS và
Fe3O4@PMAO trong chẩn đoán và điều trị ung thư lâm sàng.
113
Kết luận chương 4
Trong chương này, chúng tôi đã trình bày chi tiết về quy trình công nghệ và kết
kết quả chế tạo hạt nano từ Fe3O4 bằng phương pháp phân hủy nhiệt. Các quy trình chế
tạo chất lỏng từ chuyển pha và bọc bằng PMAO trên nền hạt Fe3O4 tổng hợp bằng
phương pháp phân hủy nhiệt đã được đề cập.
Đã chế tạo thành công hạt nano từ Fe3O4 có cấu trúc spinel với kích thước hạt trung
bình từ 5,2 - 11,2 nm tương ứng với các giá trị từ độ thay đổi từ 54 - 65 emu/g. Đã chế
tạo thành công chất lỏng từ trên nền hạt Fe3O4 tổng hợp bằng phương pháp phân hủy
nhiệt bằng cách bọc PMAO. Độ bền của các mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO được xác
định bằng phương pháp đo thế zeta. Kết quả cho thấy mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO có
độ bền cao, hoàn toàn đáp ứng yêu cầu ứng dụng trong y sinh.
114
CHƯƠNG 5: ĐẶC TRƯNG ĐỘ HỒI PHỤC r1, r2, THỬ NGHIỆM ĐỘC TÍNH
VÀ ĐÁNH GIÁ ĐỘ TƯƠNG PHẢN ẢNH BẰNG KỸ THUẬT CHỤP ẢNH
CỘNG HƯỞNG TỪ MRI
5.1. Đánh giá độ hồi phục r1, r2 của các hệ chất lỏng từ chế tạo bằng các phương
pháp khác nhau
Ứng dụng của hạt nano từ trong tăng cường độ tương phản ảnh cộng hưởng từ
cũng được đánh giá qua tín hiệu của 2 kiểu hồi phục khác nhau: hồi phục dọc và hồi
phục ngang được đặc trưng bởi T1 - thời gian hồi phục dọc và T2 - thời gian hồi phục
ngang hay các đại lượng nghịch đảo R1 và R2 của các thời gian hồi phục đặc trưng này.
Cuối cùng, các thử nghiệm so sánh đánh giá khả năng tương phản của hệ chất lỏng từ
chế tạo được với sản phẩm thương mại Resovist trong các môi trường khác nhau, điều
đó đã chứng minh rằng các nano oxit sắt có thể được dùng làm chất tăng tương phản
ảnh cộng hưởng từ tốt hơn cả loại Gd-DTPA (T1W) do hạt oxit sắt có hệ số cảm từ lớn
hơn.
5.1.1. Đánh giá độ hồi phục r1, r2 của hệ chất lỏng từ
Bằng thử nghiệm này, khả năng tăng độ tương phản của hệ chất lỏng từ được khảo
sát. Từ đó tính được r1, r2 (độ hồi phục dọc và độ hồi phục ngang) của hệ chất lỏng từ.
Hình 5.1 và hình 5.2 là ảnh cộng hưởng từ của mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO ở
các nồng độ: 2,5 µg/ml, 5,0 µg/ml, 10 µg/ml, 15 µg/ml, 25 µg/ml và 30 µg/ml theo chế
độ trọng T1, T2 ở các điều kiện chụp giá trị TR, TE khác nhau.
Từ hình 5.1 và hình 5.2 ta thấy, mẫu đối chứng agar 2% có ảnh mầu trắng là mẫu
có nồng độ C = 0 µg/ml (không có nồng độ của mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO). Sáu ảnh
thứ tự từ trắng đến đen đặt trong các giếng theo chiều từ trái sang phải là của các mẫu
có nồng độ tương ứng: 2,5; 5; 10; 15; 25; và 30 µg/ml. Sự tương phản thay đổi rất rõ
ràng khi thay đổi một lượng nhỏ nồng độ của mẫu Fe3O4@PMAO. Các chất tương phản
ảnh MRI có tác động giống nhau là làm tăng giá trị tín hiệu chế độ chụp ảnh trọng T1
(tăng tốc độ hồi phục dọc R1) và làm giảm tín hiệu chế độ chụp trọng T2 (giảm tốc độ
hồi phục ngang R2). Nghịch đảo của các thời gian hồi phục T1, T2 là tốc độ hồi phục
R1, R2. Tuy vậy, khả năng tăng hay giảm tín hiệu này lại phụ thuộc vào độ hồi phục ri
(i = 1,2, tương ứng cho hồi phục dọc và hồi phục ngang) của từng chất lỏng từ cụ thể.
Độ hồi phục ri của các chất lỏng từ có thể xác định từ quan hệ tuyến tính giữa tốc độ hồi
phục Rx với nồng độ Cx của ion từ trong chất lỏng pha loãng (hình 5.2).
R1,2 = 1/T1,2 = Ro1,2 + r1,2.C (5.1)
115
Trong đó: R1,2 - tốc độ hồi phục, Ro1,2 - tốc độ hồi phục khi không có chất tương
phản, r1,2 - hằng số độ hồi phục tính theo đơn vị (mM.s)-1, C - nồng độ chất tương phản
tính theo đơn vị milimol (1mM = 10-3M/lit).
TE = 12; TR = 100 TE = 12; TR = 200
TE = 12; TR = 400
Hình 5.1. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W, TR=
100 ms (a), TR =200 ms (b), TR =400 ms (c), TE =12 ms đối với các mẫu (A) hệ nano
từ Fe3O4@PMAO trong môi trường agar 2%, (B) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi
trường agar 2%. Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng là (1) 2,5 µg/ml, (2) 5,0 µg/ml, (3) 10,0
µg/ml, (4) 15,0 µg/ml, (5) 25,0 µg/ml và (6) 30,0 µg/ml.
TE = 11; TR = 3970 TE = 23; TR = 3970
TE = 34; TR = 3970 TE = 57; TR = 3970
TE = 91; TR = 3970 TE=113; TR=3970
116
TE = 91; TR = 3970
Hình 5.2. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W, TE
=11 ms (a), TE =23 ms (b), TE = 34 ms (c), TE= 57 ms (d), TE =91 ms (e), TE =113
ms (f), TR =4000 ms đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO trong môi trường
agar 2%, (B) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi trường agar 2%. Nồng độ sắt từ trong
mỗi giếng là (1) 2,5 µg/ml, (2) 5,0 µg/ml, (3) 10,0 µg/ml, (4) 15,0 µg/ml, (5) 25,0
µg/ml và (6) 30,0 µg/ml.
Hình 5.3. Đường cong hồi phục T2 (suy giảm về 0) đo cho các mẫu chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO (a) Fe3O4@CS (b) ở các nồng độ khác nhau.
(a) (b)
Hình 5.4. Tốc độ hồi phục ngang (a) và hồi phục dọc (b) của mẫu chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO (a) và Fe3O4@CS (b).
117
Bảng 5.1. Kết quả tính toán độ hồi phục r1, r2 và tỷ số r1/r2 cho mẫu Fe3O4@PMAO,
Fe3O4@CS và chất so sánh Resovist [105, 135]
Tên gọi Thành phần,
Cấu trúc
Kích
thước
thủy động
(nm)
Độ thư giản r2
(mM-1 s-1)/Tesla
(T)
Hướng đích Công ty
Magnevist Gd-DTPA - T1 agent Toàn bộ cơ thể
Bayer Schering
(Đức)
Omniscan Gd-DTPA-
BMA
- T1 agent Toàn bộ cơ thể
GE-Healthcare
(Mỹ) và
Nycomed
(Nauy)
Ferumoxides
(Feridex IV,
Endorem)
Dextran-
coated SPIOs
80-150 nm T2 agent
120, 1.5T
Hệ thống nội mô
(RES),
Gan
Đánh dấu tế bào
Advanced
Magnetics (Mỹ)
AMI-25,
Feridex
Dextran-
coated SPIOs
58 nm T2 agent,
107, 0.47 T
Sinerem
(AMI-227)
Dextran-
coated
USPIOs
15-30 nm T2 agent
65, 1.5T
U máu Guerbet
(France)
Ferumoxytol Carboxylmet
hyl-dextran
coated
USPIOs
30 nm T2 agent
89, 1.5T
Đại thực bào
U máu
Advanced
Magnetics
(U.S.A)
VSOP-C184
Ferropharm
Citrate-
coated SPIOs
7 nm
T2 agent
33.4, 1.5T
- Guerbet,
Advanced
Magnetics
Ferucarbotran
(SHU-555A),
Resovist
Carboxydextr
an-coated
USPIOsa
60 nm T2 agent,
189, 1.5 T
Gan Bayer Schering
(Germany)
MION-46L Dextran-
coated
USPIO
18-24 nm T2 agent,
35, 0.47T
Gan
SHU-555C
Ferucarbotran,
Supravist
Dextran-
coated
USPIO
20 nm T2 agent,
90, 1.5 T
U máu Bayer Schering
(Germany)
Fe3O4@CS Chitosan-
coated SPIOs
50 nm T2 agent,
130.32, 1.5 T
- -
Fe3O4@PMA
O
PMAO-
coated SPIOs
30 nm T2 agent,
151.99, 1.5 T
- -
Việc làm khớp hàm phụ thuộc của R1 và R2 vào nồng độ mẫu chất lỏng theo biểu
thức (3) cho thấy sự phụ thuộc này là tuyến tính. Từ bảng 5.1, ta thấy rằng mẫu chất
lỏng từ chuyển pha, bọc bằng PMAO và bọc bằng CS của chúng tôi cho độ hồi phục
ngang cao hơn hẳn giá trị của chất thương phẩm Resovist. Như vậy, đúng như mong
muốn, chất lỏng từ hạt siêu thuận từ trên nền Fe3O4 của chúng tôi có thể sử dụng làm
chất tăng tương phản chụp ảnh MRI theo chế độ trọng T2 tốt được.
118
5.1.2. Đánh giá khả năng tương phản trong các môi trường khác nhau của hệ chất lỏng từ
Hình 5.5. Hình ảnh chụp MRI xác định độ hồi phục r1, r2.
5.1.2.1. Đánh giá khả năng tương phản trong môi trường nước của hệ chất lỏng từ và
sản phẩm thương mại Resovist
Xét về bản chất, Fe3O4 bọc polyme và Resovist đều có bản chất giống nhau, đều
là các chất siêu thuận từ. Do đó, chúng sẽ tác động trực tiếp tới thời gian hồi phục T2,
làm tăng độ tương phản của hình ảnh trong hình trọng T2. Để xác nhận lại một lần nữa,
chúng tôi thực hiện đánh giá khả năng gây tương phản hình ảnh của hai hệ hạt nano này
trên môi trường nước, môi trường pH và nồng độ muối khác nhau. Kết quả được thể
hiện trên hình 5.7 đến hình 5.12.
TE=12; TR=4000 (a) TE=25; TR=4000 (b)
TE=37; TR=4000 (c) TE=50; TR=4000 (d)
119
TE=62; TR=4000 (e) TE=75; TR=4000 (f)
Hình 5.6. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W trong
môi trường nước, TE= 12 ms (a), TE =25 ms (b), TE =37 ms (c), TE =50 ms (d), TE=
62 ms (e), TE =75 ms (f), TR =4000 ms đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO
trong môi trường nước, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran (Resovist) trong môi trường
agar 2%, (C) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi trường nước, (D) Mẫu đối chứng (không
có hạt từ) trong môi trường nước. Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng là (1) 5,0 µg/ml, (2)
10,0 µg/ml, (3) 15,0 µg/ml, (4) 30,0 µg/ml, (5) 45,0 µg/ml.
Khi loại bỏ ảnh hưởng của những yếu tố như protein và lipid từ tế bào, hình ảnh
MRI trên môi trường nước cho thấy Fe3O4 bọc polyme PMAO cho độ tương phản tốt
hơn ở T2, resovist cho độ tương phản tốt hơn ở T1.
TE=15; TR=100 (a) TE=15; TR=400 (b)
Hình 5.7. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W trong
môi trường nước, TR= 100 ms (a), TR =400 ms (b), TE =15 ms đối với các mẫu (A) hệ
nano từ Fe3O4@PMAO trong môi trường nước, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran
(Resovist) trong môi trường nước, (C) Hệ nano từ Fe3O4@CS trong môi trường nước, (D)
Mẫu đối chứng (không có hạt từ) trong môi trường nước. Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng
là (1) 5,0 µg/ml, (2) 10,0 µg/ml, (3) 15,0 µg/ml, (4) 30,0 µg/ml, (5) 45,0 µg/ml.
Từ hình 5.6 ta thấy, mẫu đối chứng nước cất ở dãy giếng (cột dọc) cuối cùng có
ảnh màu trắng là mẫu có nồng độ C=0 µg/mL (không có nồng độ của mẫu chất lỏng
Fe3O4@CS, Fe3O4@PMAO, Resovit). 3 dãy giếng ngang từ trên xuống được chuẩn bị
ứng với nồng độ của các mẫu Fe3O4@PMAO, Resovist và mẫu Fe3O4@CS thủy nhiệt
có nồng độ tương ứng: 5, 10, 15, 30 và 45 µg /ml. Sự tương phản thay đổi rất rõ ràng
khi thay đổi một lượng nhỏ nồng độ của các mẫu Fe3O4@CS, Fe3O4@PMAO cũng như
sản phẩm thương mại Resovist.
120
Khi có mặt nano từ tính, các spin của các proton nước bắt đầu tiến động không
đồng nhất dưới tác dụng bổ sung của trường lưỡng cực cục bộ (B1), gây ra bởi các hạt
nano. Do đó các hồi phục xảy ra nhanh hơn và tạo ra một tín hiệu MRI mạnh hơn.
Như đã biết ở trên cường độ tín hiệu tăng dần từ 0 đến cực đại trong thời gian T1
và giảm dần từ cực đại trở về 0 trong thời gian T2. Nhằm tạo ra sự tương phàn tốt nhất
về hình ảnh của các mô, người ta phải chọn thời điểm Tl và T2 thích hợp để thu nhận
các tín hiệu bức xạ cung cấp cho quá trình tạo ảnh. Bằng cách điều chỉnh các giá trị TR
và TE của T1 và T2, ta thu được các tương phản ánh tương ứng ảnh của T1 và T2 trong
trường hợp này gọi là T1 điều chỉnh (T1-weighted: T1W) và T2 điều chỉnh (T2-
weighted: T2W).
Sự khác biệt trong tương phản ảnh ở chế độ chụp T2W (Hình 5.6) được thể hiện
rất rõ ràng. Có thể thấy rõ tín hiệu tối tăng dần theo nồng độ vật liệu nano có trong các
giếng so với đối chứng sinh học (giếng 6) cũng như so sánh giữa các mẫu khác nhau. Ở
những nồng độ cao như 30 µg/ml của mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO tín hiệu tối gần
như chiếm toàn bộ giếng, thậm chí không còn thấy tín hiệu màu sáng (giếng số 4) khi
chụp ở chế độ TE, TR thích hợp, điều đó cho thấy hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO có giá
trị từ độ bão hòa cao hơn sẽ cho cường độ tương phản ảnh tốt hơn. Giữa hai mẫu
Fe3O4@CS chế tạo bằng phương pháp thủy nhiệt và Resovist thì khi chụp ở chế độ T2W
thì đều cho sự tương phản so với mẫu đối chứng, hình ảnh tương phản tương đương
nhau. Tuy nhiên đối với mẫu Fe3O4@CS và Resovist thì hình ảnh có cường độ tương
phản cao đòi hỏi phải ở nồng độ cao hơn ở 45 µg /ml và ở giá trị TE, TR dài hơn so với
khi chụp đối với mẫu Fe3O4@PMAO. Điều này có thể giải thích do mẫu chế tạo theo
phương pháp phân hủy nhiệt thực hiện ở nhiệt độ cao nên độ tinh thể hóa của Fe3O4 cao,
dẫn đến giá trị từ độ bão hòa cao hơn so với mẫu Fe3O4@CS và Resovist chế tạo theo
phương pháp thủy nhiệt và phương pháp đồng kết tủa. Đối với chế độ chụp T1W thể
hiện qua hình 5.8, quy luật trên vẫn đúng tuy nhiên tín hiệu cộng hưởng cũng như sự
tương phản trong hình ảnh kém hơn và không phân biệt rõ khi thay đổi nồng độ và khi
thay đổi chế độ chụp ở các giá trị TR, TE khác nhau.
5.1.2.2. Đánh giá khả năng tương phản trong môi trường pH thay đổi của hệ chất lỏng
từ và sản phẩm thương mại Resovist
TE=11; TR=3970 (a) TE=23; TR=3970 (b)
121
TE=34; TR=3970 (c) TE=57; TR=3970 (d)
Hình 5.8. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W trong
môi trường pH khác nhau, TE= 11 ms (a), TE = 23 ms (b), TE =34 ms (c), TE =57 ms
(d) đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran
(Resovist). Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng 45,0 µg/ml trong môi trường có (1) pH =2,
(2) pH =3, (3) pH =7, (4) pH =9, (5) pH =12.
Hình ảnh MRI trên môi trường pH khác nhau cho thấy Fe3O4 bọc polyme cho độ
tương phản tốt hơn ở T2 và cường độ tín hiệu giảm mạnh tại pH=7, mẫu resovist cho độ
tương phản tốt ở T2, cường độ tín hiệu thấp hơn (giếng số 3).
TE=12; TR=100 (a) TE=12; TR=200 (b)
TE=12; TR=400 (c)
Hình 5.9. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W trong
môi trường pH khác nhau, TR= 100 ms (a), TR = 200 ms (b), TR =400 ms (c), TE =12
ms đối với các mẫu (A) hệ nano từ Fe3O4@PMAO, (B) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran
(Resovist). Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng 45,0 µg/ml trong môi trường có (1) pH =2,
(2) pH =3, (3) pH =7, (4) pH =9, (5) pH =12.
Sự khác biệt trong tương phản ảnh ở chế độ chụp T2W (Hình 5.8) được thể hiện
rõ ràng hơn so với ở chế độ trọng T1 (T1W) (Hình 5.9). Có thể thấy rõ tín hiệu hầu như
không thay đổi khí tăng giá trị pH của môi trường từ 2 đến 12. Ở môi trường sinh lý của
mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO tín hiệu tối gần như chiếm toàn bộ giếng, thậm chí
không còn thấy tín hiệu mầu sáng (giếng số 3) khi chụp ở chế độ TE, TR thích hợp, điều
122
đó cho thấy hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO cho cường độ tương phản ảnh tốt, tương
đương với sản phẩm thương mại Resovist phù hợp trong ứng dụng MRI.
5.1.2.3. Đánh giá khả năng tương phản trong môi trường có nồng độ muối thay đổi của
hệ chất lỏng từ và sản phẩm thương mại Resovist.
Ngoài yếu tố về pH thì nồng độ muối của dung dịch là một trong những yếu tố ảnh
hưởng rất mạnh đến độ bền của hạt, trong điều kiện y sinh (nồng độ NaCl ≈ 156 mM)
[73]. Khi thay đổi nồng độ muối từ 50 mM đến 400 mM, mẫu phân tán tốt trong nước
khi nồng độ muối lên đến 200 mM và ở nồng độ cao hơn thì mẫu đã có hiện tượng bị
kết tủa. Do đó chúng tôi tiến hành chụp ảnh cộng hưởng từ trong điều kiện nồng độ muối
thay đổi từ 50 mM đến 200 mM.
TE=11; TR=3970 (a) TE=23; TR=3970 (b)
TE=57; TR=3970 (c) TE=75; TR=3970 (d)
TE=87; TR=3970 (e)
Hình 5.10. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T2W trong
môi trường nồng độ muối khác nhau, TE= 11 ms (a), TE =23 ms (b), TE =57 ms (c),
TE=75ms (d), TE 87 ms (e), TR =3970 ms đối với các mẫu (A) Hệ nano từ
Fe3O4@Dextran (Resovist), (B) Hệ nano từ Fe3O4@PMAO, (C) Mẫu đối chứng (không
có hạt từ) trong môi trường nước. Nồng độ sắt từ trong mỗi giếng 45,0 µg/ml trong môi
trường có nồng độ muối khác nhau (1) 50 mM, (2) 100 mM, (3) 150 mM, (4) 200 mM.
Hình ảnh MRI trên môi trường có nồng độ muối khác nhau cho thấy Fe3O4 bọc
polyme và mẫu mẫu resovist đều cho độ tương phản tốt hơn ở T2 và cường độ tín hiệu
tốt ngay tại môi trường có nồng độ muối cao (200 Mm). Điều này cho thấy, mẫu chất
lỏng Fe3O4@PMAO có tính chất phù hợp trong điều kiện y sinh [74].
123
TE=12; TR=100 (a) TE=12; TR=400 (b)
Hình 5.11. Hình ảnh chụp cộng hưởng từ hạt nhân của hệ nano từ ở chế độ T1W trong
môi trường nồng độ muối khác nhau, TR= 100 ms (a), TR =400 ms (b), TE =12 ms đối
với các mẫu (A) Hệ nano từ Fe3O4@Dextran (Resovist), (B) Hệ nano từ Fe3O4@PMAO,
(C) Mẫu đối chứng (không có hạt từ) trong môi trường nước. Nồng độ sắt từ trong mỗi
giếng 45,0 µg/ml trong môi trường có nồng độ muối khác nhau (1) 50 mM, (2) 100 mM,
(3) 150 mM, (4) 200 mM.
5.2. Khảo sát khả năng ứng dụng chất lỏng từ trên động vật thí nghiệm
5.2.1. Thử nghiệm in-vivo đánh giá khả năng ứng dụng hệ chất lỏng từ tính nano
Fe3O4 làm thuốc tương phản trong kỹ thuật cộng hưởng từ MRI trên động vật
Như đã giới thiệu trong phần mở đầu, các đại lượng thời gian đặc trưng cho 2 quá
trình hồi phục T1 và T2 phụ thuộc vào môi trường xung quang proton, do vậy phản ánh
cấu trúc vi mô của mô sinh học. Các thời gian T1 và T2 chính là đại lượng thể hiện
cường độ điểm ảnh MRI. Tác động của chất tương phản từ là làm thay đổi môi trường
từ do đó thay đổi các giá trị T này. Trong các thiết bị thương mại ứng dụng trong bệnh
viện, bác sĩ thường chỉ chú ý lấy tín hiệu đầu ra là ảnh nên việc nghiên cứu một cách
định lượng phẩm chất của sản phẩm chất tăng tương phản là không thực hiện được. Đấy
chính là lý do một vài nghiên cứu trước đây (của ĐT PGS. Trần Hoàng Hải) chỉ dừng ở
giá trị định tính, minh họa tiềm năng.
Trong đề tài này, sau khi tiến hành các nghiên cứu đo đạc độ hồi phục của chất
tăng tương phản trên thiết bị Siemens 1,5T, tần số từ trường 64 MHz, từ trường B1=1,5T
(đã trình bày trong Mục 5.1), chúng tôi đã tiến hành các nghiên cứu in-vivo và ex-vivo
cho các mẫu u chuột và thỏ thí nghiệm trên thiết bị cộng hưởng từ Siemens, tần số từ
trường xoay chiều 64 MHz, từ trường 1,5 tesla tại Bệnh viện Quốc tế Vinh, thành phố
Vinh, Tỉnh Nghệ An. Hình ảnh trọng T1 (hồi phục dọc) được đo theo trình tự spin-echo
(SE) biến thiên TR, TE cố định (TE<50 ms), còn T2 (hồi phục ngang) đo theo trình tự
xung Turbo spin-Echo (TSE) giữ TR cố định (TR>3500 ms), từ trường quan sát (FOV)
x-y 290x290 mm2, chiều dày lát cắt 5 mm, kích thước ma trận 298x320 cho độ phân
giải x-y 200 µm2, số các lần lấy trung bình bằng 3 (đối với thỏ). Đối với chuột vì kích
thước bé hơn nên các thông số chụp ảnh như sau: từ trường quan sát (FOV) x-y 172x190
124
mm2, chiều dày lát cắt 3,5 mm, kích thước ma trận 343x512 cho độ phân giải x-y 200
µm2, số các lần lấy trung bình bằng 2. Sử dụng phầm mềm syngofastView (syngo
is a registered trademark owned by Siemens Healthcare GmbH) và EFilm Workstation
(Merge Healthcare) xác định cường độ tín hiệu trên diện tích vùng quan tâm (region of
interest - ROIs) (cm2).
Bảng 5.2. Một số tham số chuỗi hình ảnh được sử dụng trong chụp ảnh MRI
Parameter (Thông số) Value (Gía trị) T1 Value (Gía trị) T2
Scanning sequence (Chuỗi hình ảnh) SE TSE
MR Acquisition Type 2D 2D
Slide thickness (Độ dày lát cắt) 3,5/5 mm 3,5/5 mm
Repetition time (Thời gian lặp lại - TR) <1000 ms >3500 ms
Echo time (Thời gian vọng - TE) <50 ms >50 ms
Average (Trung bình) 2 hoặc 3 2 hoặc 3
FOV (Trường quan sát) 310x310/290x290 172x190/290x290
Acquisition Matrix (Ma trận) 298x320 343x512
Slide direction (Hướng chụp) Coronal/Sagital/Axial Coronal/Sagital/Axial
Slide number (Số lát cắt) 16 đến 25 ảnh 16 đến 25 ảnh
Flip angle (Góc lật) 160 150
Image resolution (Độ phân giải ảnh) 256x140 pixels 256x140 pixels
Scan duration (Thời gian quét) Khoảng 15 phút Khoảng 26 phút
Nhằm tạo ảnh T1 điều chỉnh, người ta cần chọn một giá trị TR tương ứng với thời
gian mà tại đó tương phản T1 lớn nhất giữa hai loại mô. Nếu lựa chọn TR dài hơn sẽ tạo
ra cường độ tín hiệu lớn hơn nhưng tương phản T1 ít hơn. Việc lựa chọn TR thích hợp
với các giá trị T1 của mô rất có ý nghĩa trong chẩn đoán lâm sàng, đặc biệt khi phân biệt
giữa mô lành và mô bệnh lý. Nếu giá trị TR được chọn bằng giá trị T1 của mô, đó là ảnh
được chụp khi mô trở lại 63% sự nhiễm từ mô của nó.
Nhằm tạo ảnh T2 điều chỉnh, người ta cần chọn một giá trị TE tương ứng với thời
gian mà tại đó tương phản T2 lớn nhất giữa hai loại mô. Tương phản T2 cực đại thu
được bằng cách dùng TE tương đối dài. Tuy nhiên, nếu dùng TE quá dài thì sự nhiễm
từ và tín hiệu RF lại quá thấp đê hình thành một ảnh.
Các chất lỏng hạt nano từ tác động thay đổi mạnh giá trị T2 nên sự nhiễu loạn từ
trường làm tín hiệu cộng hưởng từ tại vùng có hạt nano siêu thuận từ kém hơn hơn so
với các vùng xung quanh, cũng có nghĩa là hình ảnh sẽ tối hơn. Do vậy, để đánh giá khả
năng tăng tương phản của vật liệu này chúng tôi sẽ chú trọng đánh giá khả năng gây tối
hình ảnh của nó theo chế độ chụp trọng T2 (T2W) hơn là tác động tương phản theo chế
độ chụp trọng T1 (T1W) mà ảnh hưởng là tăng độ sáng ảnh.
Các hình ảnh MRI trên mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO thử nghiệm trên thỏ được
sử dụng trên máy đo cộng hưởng từ hãng Siemens có từ trường 1,5 Tesla. Thỏ được
125
tiêm theo đường tĩnh mạch với 5 ml hạt từ có nồng độ là 3 mg/ml (tương ứng với 0,16
mM Fe).
Gây tê: Sau khi tiêm chất lỏng từ thỏ sẽ được gây mê dạng hít (isoflurane)
hoặc tiêm thuốc mê Ketamine với xylazine * 22 - 50 mg/kg với 2,5 - 10 mg/kg
xylazine. Ở đây thỏ sẽ được tiêm thuốc mê 45 mg ketamine với 5mg xylazine, bằng
cách tiêm tĩnh mạch ở tai với con thỏ có trọng lượng 1,5 kg.
Tần số hình ảnh: Thỏ được chụp trước và sau khi tiêm chất lỏng từ để so sánh tín
hiệu hình ảnh. Quá trình chụp MRI quét kéo dài từ giữa 15 phút và 2 giờ (nếu dùng gây
mê isoflurane thì sẽ cho các buổi chụp ảnh lâu hơn, và khi các động vật đang được chụp
ảnh tại các khoảng thường xuyên).
Hình 5.12. Hình ảnh thỏ trước khi được đưa vào máy chụp MRI.
Các hình ảnh MRI trên thỏ trước và sau khi tiêm chất lỏng từ được chụp ở 2 chế
độ khác nhau, chụp theo chế độ T1 (hồi phục dọc) và chụp theo chế tộ T2 (hồi phục
ngang) thể hiện qua hình 5.13 đến hình 5.16.
126
Hình 5.13. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên thận thỏ của
hệ nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T1W (SAGITAL), TE= 9,2 ms, TR =659 ms đối với (A)
Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ.
Hình 5.14. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên mô gan thỏ
của hệ nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T1W (SAGITAL), TE= 9,2 ms, TR =659 ms đối
với (A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ.
127
Hình 5.13 và 5.14 cho thấy hình ảnh các bộ phận của thọ trước khi tiêm hầu như
đều có một màu xám, không phân biệt rõ được vùng ranh giới của các bộ phân nội quan
của Thỏ. Cụ thể phải chụp với các góc và lát cắt khác nhau mới thấy rõ hình ảnh Thận
trái và Thận phải của Thỏ. Trong khi đó hình 5.13 sau khi tiêm chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO cho thấy hình ảnh theo chế độ trọng T1 có sự thay đổi cường độ tương
phản không đáng kể nhưng vẫn có thể thấy rõ vị trị Thận trái và Thận phải cũng như
hình ảnh Gan (Hình 5.13a, hình 5.14) của Thọ tại cùng một góc và lát cắt khi chụp.
Hình 5.15. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên mô gan thỏ
của hệ nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (SAGITAL), TE= 94 ms, TR =3571 ms đối
với (A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ.
128
Hình 5.16. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ trên thận thỏ của
hệ nano Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (SAGITAL), TE= 94 ms, TR =3571 ms đối với
(A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ.
Kết quả cho thấy, sau thời gian 10 phút tiêm thuốc (mẫu chất lỏng từ
Fe3O4@PMAO) các cơ quan nội tạng của thỏ trên ảnh MRI đã thể hiện rõ ràng hơn so
với ảnh MRI trước khi tiêm thuốc. So với ảnh MRI chụp theo chế độ T1 thì ảnh MRI
chụp theo chế độ T2 cho độ tương phản rõ nét hơn nhiều. Tại vị trí mô gan (Hình 5.13),
khi chụp theo chế độ ảnh trọng T1 với TR=659 ms, TE=9,2 ms với xung spin-echo thì
độ sáng tối hình ảnh tại mô gan hầu như không thay đổi với tỉ lệ cường độ tín hiệu trước
khi tiêm Ia=325 và cường độ tín hiệu sau khi tiêm Ib=369. Trong khi khi chụp ảnh theo
trọng T2 (TR=3571 ms, TE=94 ms với trình tự xung turbo spin echo) thì độ sáng tối
hình ảnh tại mô gan thay đổi với tỉ lệ cường độ tín hiệu giảm Ia/Ib=2,3 lần. Từ kết quả
hình 5.15 và hình 5.16 cho thấy hình ảnh Thận và Gan của Thỏ sau khi tiêm chất lỏng
từ đã giảm cường độ tín hiệu rất đáng kể so với trước khi tiêm, sự xuất hiện vùng tối
màu rõ rệt, ta có thể thấy rõ độ tương phản ở vùng Thận và thấy được vành của Thận
cũng như kích thước của Thận (chỗ mũi tên đỏ).
129
Hình 5.17. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O@PMAO ở chế độ T1W (CORONAL) trên thỏ, TE= 20 ms, TR =550 ms đối với (A) Thỏ
trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. (a) Trước tiêm, (b) sau tiêm.
Hình 5.18. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (CORONAL) trên thỏ, TE= 112 ms, TR =7500 ms đối với
(A) Thỏ trước khi tiêm chất lỏng từ, (B) Thỏ sau khi tiêm chất lỏng từ. (a) Trước tiêm,
(b) sau tiêm 30 phút, (c) sau tiêm 60 phút.
130
Từ hình 5.17 và hình 5.18 cho thấy, sau thời gian 30 phút tiêm thuốc (mẫu chất
lỏng từ Fe3O4@PMAO) hình (b), các cơ quan nội tạng của thỏ trên ảnh MRI đã thể hiện
rõ ràng hơn hơn so với ảnh MRI trước khi tiêm thuốc (hình a). Cụ thể khi lấy một diện
tích tại mô gan trước và sau khi tiêm tương ứng là 2,1 cm2 thì cường độ tín hiệu thay
đổi từ 180,7 xuống 32 (tương ứng thay đổi 5,65 lần so với trước khi tiêm). Điều đó cho
thấy chất lỏng từ có khả năng làm thay đổi độ tương phản rất mạnh. Với các ảnh MRI
được chụp ở thời gian 60 phút (c) cũng cho ảnh rõ nét như ảnh MRI ở thời gian 30 phút
(a). Tuy nhiên nhìn kỹ vào hình ảnh Thận, ta có thể thấy cường độ giảm rõ rệt, điều đó
cho thấy thuốc bắt đầu được thải trừ ra khỏi cơ thể và cũng tương tự như phần trên chúng
tôi nhận định rằng sau thời gian 60 phút thuốc bắt đào thải ra khỏi cơ thể thỏ. So với ảnh
MRI chụp theo chế độ T1 (hình 5.17) thì ảnh MRI chụp theo chế độ T2 cho độ tương
phản rõ nét hơn nhiều. Ảnh MRI chụp theo chế độ T2 rõ hơn chế độ T1 có thể được giải
thích như sau:
Khi chụp tác nhân tăng tương phản theo cơ chế T1 về bản chất hóa học, các tác
nhân tương phản T1 là phức của ion thuận từ có giá trị mômen spin lớn như Gd3+. Trong
quá trình hồi phục, sự tương tác giữa các mômen từ của các ion thuận từ khiến thời gian
T1 bị suy giảm nhờ vậy tốc độ hồi phục R1 tăng lên. Trong khi các tác nhân tăng tương
phản theo chế độ T2 là dòng sản phẩm thương mại sử dụng hạt nano oxit sắt làm chất
tương phản MRI, về mặt lý thuyết hạt nano oxit sắt có thể cho chất lượng tăng tương
phản tốt hơn cả loại Gd - DTPA vì hạt oxit sắt có hệ số cảm từ lớn đây chính là lý do
chụp ảnh theo chế độ T2 cho ảnh rõ nét hơn so với chụp ảnh ở chế độ T1 [65].
Kết quả thu được trên ảnh MRI đối với mẫu Fe3O4@PMAO được thử nghiệm ở
các nồng độ khác nhau và thử nghiệm trên thỏ cho thấy hệ vật liệu được nghiên cứu có
chất lượng tốt (với kích thước hạt đồng đều, từ tính mạnh, phân tán tốt và có độ bền
cao). Đặc biệt, mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO có giá trị r2 cao hơn so với mẫu thương
phẩm Resovist. Các kết quả thử nghiệm này cho thấy, mẫu chất lỏng Fe3O4@PMAO có
tính chất hoàn toàn phù hợp trong ứng dụng MRI.
5.2.2. Thử nghiệm in-vivo đánh giá khả năng ứng dụng hệ chất lỏng từ tính nano
Fe3O4 làm thuốc tương phản trong chẩn mô bệnh ung thư bằng kỹ thuật cộng hưởng
từ MRI trên động vật
Chuột nhắt trắng Swiss 8 tuần tuổi (trọng lượng 18-20g) dùng để gây u, được Viện
vệ sinh dịch tễ Trung ương cung cấp. Chuột được nuôi trong điều kiện nhiệt độ ổn định
25 - 27ºC, được cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ, đảm bảo khỏe mạnh khi bắt đầu
thí nghiệm.
131
Hình 5.19. Chuột nhắt trắng Swiss.
Phương pháp tạo u rắn dưới da cho chuột nhắt trắng Swiss bằng cấy ghép dòng tế
bào Sarcoma 180. Tế bào ung thư Sarcoma 180 là dòng tế bào ung thư mô liên kết được
phân tách từ chuột S. Webster. Dòng tế bào sử dụng trong nghiên cứu này được cung
cấp bởi nhóm nghiên cứu Ung thư học thực nghiệm, Bộ môn Tế bào, Trường Đại học
Khoa học tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội. Hằng ngày theo dõi sự phát triển của khối
u bằng cách quan sát và đo kích thước, tính thể tích u. Tiến hành đo chiều dài và chiều
rộng của khối u bằng thước kẹp hoặc thước dây.
Hình 5.20. Chuột trắng swiss lên u báng ở đùi sau 15 ngày tạo khối u.
Để khảo sát khả năng tạo tương phản ảnh của các chất lỏng từ bằng kỹ thuật chụp
cộng hưởng từ hạt nhân, chúng tôi làm thí nghiệm trên chuột Swiss mang u rắn dưới da.
Đưa chất lỏng từ vào chuột bằng tiêm tĩnh mạch chuột hoặc tiêm trực tiếp tại vị trí khối
u, chụp ảnh MRI, quan sát và so sánh với hình ảnh chuột ở nhóm đối chứng. Từ đó kết
luận là hạt từ có khả năng gây tương phản ảnh hay không?
Hình 5.21. Tiêm tĩnh mạch (a) và tiêm trực tiếp tại khối u (b) trên chuột nhắt trắng.
132
Ở chuột thì có một số tĩnh mạch lớn có thể sử dụng để tiêm như: tĩnh mạch đuôi,
tĩnh mạch bàn chân. Trong thí nghiệm này, chúng tôi sử dụng tĩnh mạch đuôi để truyền
chất lỏng từ vào cơ thể chuột. Cách tiêm trực tiếp chất lỏng từ vào khối u khá đơn giản
và không đòi hỏi nhiều kỹ thuật như tiêm tĩnh mạch. Ưu điểm của cách tiêm này chính
là chất lỏng từ được đưa trực tiếp vào vị trí khối u, tránh sự thất thoát khi lưu thông trong
cơ thể hay mạch máu. Tuy nhiên cần phải xác định thể tích tiêm chất lỏng từ phù hợp
để phù hợp giữa thể tích khối u và thể tích tiêm, đảm bảo chất lỏng không bị trào ngược
lại sau khi rút tiêm hoặc tràn sang các vị trí lân cận.
Sau khi gây u rắn dưới da thành công trên chuột, chọn 6 chuột có kích thước u
tương đương nhau và 1 chuột bình thường:
Chuột A: Đối chứng sinh học (không có khối u).
Chuột B: Đối chứng ung thư.
Chuột C: Tiêm 30 µl hạt từ Fe3O4@PMAO tương ứng 0,27 mg hạt từ
Fe3O4@PMAO vào tĩnh mạch đuôi chuột trước khi chụp 2 giờ.
Chuột D: Tiêm 30 µl hạt từ Fe3O4@PMAO tương ứng 0,27 mg hạt từ
Fe3O4@PMAO vào tĩnh mạch đuôi chuột trước khi chụp 12 giờ.
Chuột E: Tiêm 30 µl hạt từ Fe3O4@PMAO tương ứng 0,27 mg hạt từ
Fe3O4@PMAO vào tĩnh mạch đuôi chuột trước khi chụp 24 giờ.
Chuột F: Tiêm 20 µl Fe3O4@PMAO tương ứng 0,18 mg hạt từ Fe3O4@PMAO
trực tiếp vào khối u, chụp ngay sau khi tiêm
Chuột G: Tiêm 20 µl Fe3O4@PMAO tương ứng 0,18 mg hạt từ Fe3O4@PMAO
trực tiếp vào khối u, chụp 30 phút sau khi tiêm
Gây tê: Ở đây chuột sẽ được tiêm 100 µl thuốc mê gồm diazepam + ketamine (tỉ lệ
thể tích 1:2), bằng cách tiêm dưới ổ bụng (kỹ thuật IP - Intraperitoneal injection) với chuột
có trọng lượng 50 g. Chúng tôi đã tiến hành các nghiên cứu in-vivo và ex-vivo cho các
mẫu u chuột trên thiết bị cộng hưởng từ Siemens, tần số từ trường xoay chiều 64 MHz, từ
trường 1,5 tesla tại Bệnh viện Quốc tế Vinh, thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An. Hình ảnh
trọng T1 (hồi phục dọc) được đo theo trình tự spin-echo (SE) biến thiên TR, TE cố định
(TE<50 ms), còn T2 (hồi phục ngang) đo theo trình tự xung Multi-Slice Multi-Echo
(MSME) giữ TR cố định (TR>3500 ms), từ trường quan sát (FOV) x-y 172x190 mm2,
chiều dày lát cắt 50 mm, kích thước ma trận 343x512 cho độ phân giải x-y 200 µm2, số
các lần lấy trung bình bằng 2. Sử dụng phần mềm syngofastView (syngo is a
registered trademark owned by Siemens Healthcare GmbH) xác định cường độ tín hiệu
trên diện tích vùng quan tâm (region of interest - ROIs) (cm2). Chúng tôi tiến hành chụp
liên tiếp ở các thời điểm 0; 15 phút và 30 phút sau khi tiêm hạt từ vào khối u và sau 2 giờ,
6 giờ và 12 giờ sau khi tiêm theo tĩnh mạch đuôi.
133
Hình 5.22. Một số hình ảnh chuột sau khi gây mê trước khi đưa vào chụp ảnh MRI.
Chúng tôi tiến hành chụp MRI và thu được hình ảnh chụp ở thời điểm ngay sau
khi tiêm trực tiếp hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO vào khối u chuột và tiêm theo tĩnh
mạch (Hình 5.23 và hình 5.24). Sự phân bố đồng đều trong toàn bộ khối u của hệ nano
Fe3O4@PMAO liên quan trực tiếp đến hiệu quả của vật liệu trong ứng dụng vào chụp
cộng hưởng từ (MRI) vì nó cho phép xây dựng hình ảnh khối u một cách thực tế. Để
đánh giá sự phân bố của hệ nano Fe3O4@PMAO trong khối u rắn dưới da chuột, khối u
sau khi được tiêm hệ nano từ sẽ được theo dõi theo thời gian dưới góc chụp 90o theo
kiểu Axial và Coronal.
Ở Hình 5.23, thấy rõ được khối u của chuột C, F, G. Khối u của chuột C, E, F, G
có độ tương phản cao hơn nhiều (tối hơn) so với khối u của chuột B. Cường độ tín hiệu
tại khối u thay đổi từ 284,6 xuống 249 tương ứng với chuột F và G. Điều đó cho thấy
chất lỏng từ đã bắt đầu lan đều trên khắp khối u và đã làm thay đổi cường độ tín hiệu.
Trong khi đối với chuột C, mặc dù đưa chất lỏng từ theo tĩnh mạch những cũng đã có
sự thay đổi tín hiệu tại khối u rõ ràng, cụ thể cường độ tín hiệu tại chuột đối chứng ung
thư B là 296,5 giảm xuống 226,8. Điều này cho thấy hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO có
khả năng làm thuốc tương phản trong chẩn doán hình ảnh mô bệnh.
Hình 5.23. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (CORONAL) trên chuột, TE= 91 ms, TR =3970 ms trên chuột.
134
Với kích thước hai chiều trung bình khoảng 15x10 mm, trong điều kiện bình
thường, gần như không quan sát được sự có mặt của khối u trên cơ thể chuột. Tuy nhiên,
sau khi tiêm hệ nano từ Fe3O4@PMAO, có thể nhận thấy một vùng tối màu có hình dạng
tương tự khối u xuất hiện trên ảnh chụp (Hình 5.23). Như vậy, sự có mặt của hạt nano
từ đã hỗ trợ hệ thống chụp cộng hưởng từ 1,5T phát hiện được khối u ngay ở nồng độ
vật liệu thấp (0,18 mg hạt từ). (Hình 5.24). Như vậy lượng tiêm 0,18 mg hạt từ cho phép
phát hiện khối u trên hình ảnh nhưng chưa đủ để hệ nano có thể phát tán ra toàn bộ khối
u trong thời gian 15 phút, tín hiệu chụp cho thấy vật liệu nano gần như bao phủ toàn bộ
khối u vào thời điểm 30 phút sau khi tiêm và duy trì liên tục trong gần 1h sau đó (Hình
5.24).
Hình 5.24. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (AXIAL) trên khối u chuột sau khi tiêm tiêm trực tiếp
khối u, TE= 91 ms, TR =3970 ms trên chuột. (a) không tiêm, (b) ngay sau tiêm,
(c) sau 15 phút, (d) sau 30 phút.
Khảo sát các thời điểm khác nhau sau khi tiêm trực tiếp hạt nano từ vào khối u
chuột cho thấy độ tương phản trên hình ảnh MRI tăng dần theo thời gian. Với lượng hạt
nano từ tiêm vào khối u, hình ảnh cho thấy có sự lan rộng của vật liệu theo thời gian
(Hình 5.24). Kết quả thu được trên ảnh MRI cho thấy sau khi tiêm trực tiếp chất lỏng từ
135
vào khối u thì xuất hiện vùng tối màu rõ rệt, khác biệt so với chuột đối chứng ung thư
không tiêm, đồng thời thấy rõ độ tương phản vùng khối u, vành khối u, kích thước khối
u sau khi tiêm 30 phút. Để chứng minh cho sự tập trung của hạt từ tại khối u, hình 5.23
và hình 5.24 dạng bảng màu sắc cho thấy sự xuất hiện màu tím ứng với cường độ tín
hiệu giảm [14]→ điều này cho phép sử dụng hệ chất lỏng từ ứng dụng trong việc chuẩn
đoán ung thư và hỗ trợ trong điều trị. Sau 30 phút tiêm hạt từ vào khối u, vùng đen trong
khối u của chuột D, F rộng hơn nhiều so với thời điểm ngay sau khi tiêm (Hình 5.24)→
Các hạt nano từ sau khi được tiêm vào khối u thì có xu hướng lan rộng ra toàn khối u →
Giúp độ tương phản trong ảnh chụp MRI khối u của chuột không ngừng tăng lên cho tới
khi hạt từ phân tán bão hòa trong khối u→ hệ chất lỏng từ Fe3O4@PMAO chế tạo được
có khả năng làm tăng độ tương phản hình ảnh trong chụp MRI khối u của chuột ở giai
đoạn u muộn.
Khi đưa chất lỏng từ vào khối u chuột qua tiêm tĩnh mạch chuột.
Hình 5.25. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (AXIAL) trên khối u chuột sau khi tiêm theo tĩnh mạch, TE= 91
ms, TR =3970 ms trên chuột. (a) không tiêm, (b) sau 2 giờ, (c) sau 12 giờ, (d) sau 24 giờ.
Qua hình 5.25, ta thấy độ tương phản của hình ảnh khi chụp MRI khối u ở các
chuột chưa có sự khác biệt nhiều. Kết quả thu được trên ảnh MRI cho thấy sau khi tiêm
chất lỏng từ vào chuột theo tĩnh mạch đuôi thì sau 2 giờ vẫn chưa quan sát được những
vùng tối màu rõ, điều đó cho thấy lượng hạt nano đến được với khối u rắn rất ít sau khi
tiêm tĩnh mạch sau một thời gian ngắn. Điều này có thể giải thích do khi tiêm theo tĩnh
mạch các hạt nano từ sẽ theo hệ tuần hoàn đến các cơ quan được coi là đích đến của sắt
trong cơ thể là gan, thận, lách và bạch huyết, cụ thể tại vị trí các mô này cho thấy sự
giảm tín hiệu rõ rệt sau khi tiêm chất lỏng từ (hình 5.26 và hình 5.27), còn các mô và cơ
quan khác như khối u nếu không có gắn phân tử hướng đích thì sẽ cần thời gian lâu hơn
để chất lỏng từ tuần hoàn theo máu tới.
136
Tuy nhiên, sau thời gian 12 giờ sau khi tiêm thấy xuất hiện các điểm đen trong
vùng khối u ở chuột D, và gần như tối đen vùng khối u ở chuột E sau 24 giờ. Điều đó
cho thấy có một lượng rất ít hạt từ đến được vị trí khối u chuột sau khi tiêm một thời
gian ngắn hạt từ qua tĩnh mạch chuột. Vùng đen ở khối u thu được sau 12 giờ trở đi cho
phép xác định rõ vùng khối u, vành của khối u và cấu trúc chiều sâu của khối u→ điều
này cho phép sử dụng hệ chất lỏng từ ứng dụng trong việc chuẩn đoán ung thư và hỗ trợ
trong điều trị. Tuy nhiên khi đưa chất lỏng từ vào trực tiếp khối u cho độ tương phản
của khối u trong ảnh chụp MRI cao hơn so với đưa chất lỏng từ vào tĩnh mạch chuột
trong thời gian ngắn.
Hình 5.26. Khả năng tăng tương phản hình ảnh chụp cộng hưởng từ của hệ nano
Fe3O4@PMAO ở chế độ T2W (AXIAL) trên mô gan chuột, TE= 91 ms, TR =3970 ms
trên chuột. (a) không tiêm, (b) tiêm tĩnh mạch.
Khi đưa chất lỏng từ vào tĩnh mạch chuột, hình ảnh khối u khi chụp MRI cũng
được tăng độ tương phản. Tuy nhiên khi đưa chất lỏng từ vào trực tiếp khối u cho độ
tương phản của khối u trong ảnh chụp MRI cao hơn so với đưa chất lỏng từ vào tĩnh
mạch chuột trong thời gian ngắn. Điều này mở ra tiềm năng lớn trong việc chuẩn đoán
sớm cũng như hỗ trợ điều trị ung thư.
137
Kết luận chương 5
Kết quả xác định sự tăng cường độ tương phản ảnh cộng hưởng từ trên mẫu
Fe3O4@CS và Fe3O4@PMAO với các nồng độ khác nhau có độ tương phản tốt tăng dần
theo nồng độ. Độ hồi phục của mẫu chất lỏng này có giá trị r2 tương ứng 127,15 và
151,99 mM-1s-1 cao hơn so với mẫu thương phẩm Resovist.
Chúng tôi thực hiện đánh giá khả năng tăng độ tương phản hình ảnh của hệ hạt
nano chế tạo được trong môi trường nước, môi trường pH và nồng độ muối khác nhau.
Hình ảnh MRI trên môi trường có nồng độ muối khác nhau cho thấy Fe3O4 bọc polyme
cho độ tương phản tốt hơn ở T2 và cường độ tín hiệu tốt ngay tại môi trường có nồng
độ muối cao (200 mM). Tín hiệu hầu như không thay đổi khí tăng giá trị pH của môi
trường từ 2 đến 12. Ở môi trường sinh lý của mẫu chất lỏng từ Fe3O4@PMAO cho tín
hiệu hình ảnh MRI cao.
Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu khả năng ứng dụng mẫu chất lỏng từ
trong y sinh dựa trên các thí nghiệm in-vitro và in-vivo. Mẫu Fe3O4@PMAO có độ bền
cao trong môi trường sinh lý và hoàn toàn không gây độc tính trên dòng tế bào ung thư
mô liên kết Sar.180. Nghiên cứu in-vitro, ex-vivo và in-vivo khả năng tăng tương phản
MRI cho thấy nhiều chất lỏng từ của nhóm đề tài chế tạo đều thể hiện tính tăng tương
phản tốt. Áp dụng hệ Fe3O4@PMAO cho khối u rắn dưới da, cho thấy tiềm năng cho
phép quan sát hình dáng và cấu trúc chi tiết khối u ở các giai đoạn, hỗ trợ cho chẩn đoán
và điều trị.
138
KẾT LUẬN CHUNG
Từ các kết quả nghiên cứu chi tiết và các thảo luận thích hợp, một số kết luận
chính được rút ra như sau:
1. Đã chế tạo thành công chất lỏng từ trên nền hạt Fe3O4 bằng phương pháp thủy
nhiệt bằng polyme tự nhiên chitosan (CS). Đã tối ưu hóa các yếu tố ảnh hưởng đến tính
chất từ. Mẫu chất lỏng Fe3O4@CS có độ bền cao trong môi trường sinh lý.
2. Đã chế tạo thành công chất lỏng từ trên nền hạt Fe3O4 bằng phương pháp phân
hủy nhiệt bằng cách chuyển pha và bọc bằng polyme PMAO. Mẫu chất lỏng
Fe3O4@PMAO có độ bền cao trong các điều kiện khác nhau, các hạt đơn phân tán, kích
thước đồng đều.
3. Khảo sát độc tính cho thấy các hệ Fe3O4@CS, Fe3O4@PMAO đều cho chỉ số
IC50 tốt. Mẫu chất lỏng chế tạo không có khả năng gây độc tế bào.
4. Đã xác định độ hồi phục CHTHN của 2 hệ Fe3O4@CS, Fe3O4@PMAO cho thấy
các hệ chế tạo đều cho giá trị r2 cao đạt trên 150 mM-1s-1 đối với mẫu Fe3O4@PMAO,
cao hơn cả chất thương phẩm Resovist. Các chất này, khi đưa thử nghiệm chụp ảnh MRI
đều thể hiện tiềm năng tốt cho ứng dụng làm tăng độ tương phản.
5. Nghiên cứu in-vitro, ex-vivo và in-vivo khả năng tăng tương phản MRI cho
thấy nhiều chất lỏng từ của nhóm đề tài chế tạo đều thể hiện tính tăng tương phản tốt.
Áp dụng hệ Fe3O4@PMAO cho khối u rắn dưới da và u gan, cho thấy tiềm năng cho
phép quan sát hình dáng và cấu trúc chi tiết khối u ở các giai đoạn, hỗ trợ cho chẩn đoán
và điều trị.
139
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ
A. CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
1. Vu Thi Thu, An Ngoc Mai, Le The Tam, Hoang Van Trung, Phung Thi Thu, Bui
Quang Tien, Nguyen Tran Thuat, Tran Dai Lam. Fabrication of PDMS-Based
microfluidic devices: Appliaction for synthesis of magnetic nanoparticles. Journal of
electronic materials (SCI), Q2, IF2017 1.579. Vol 45, Issue 5, 2016, pp 2576-2581.
DOI 10.1007/s11664-016-4424-6.
2. Le The Tam, Nguyen Hoa Du, Le Trong Lu, Phan Thi Hong Tuyet, Nguyen Quoc
Thang, Nguyen Thi Ngoc Linh, Nguyen Thi Hai Hoa, Tran Dai Lam. Magnetic Fe3O4
nanoparticle imaging T2 contrast agent synthesized by optimized hydrothermal
method. Submited to Royal Society of Chemistry Advances (SCI) 2019, Q1,
IF2017 2.936 (Under Review).
3. Trần Đại Lâm, Lê Thế Tâm, Lê Trọng Lư, Vương Thị Kim Oanh, Đỗ Hùng Mạnh,
Nguyễn Xuân Phúc, Phạm Hồng Nam, Trần Đại Lâm. Quy trình chế tạo hệ chất lỏng
từ tính nano Fe3O4 để làm thuốc tương phản trong chẩn đoán hình ảnh bằng kỹ thuật
cộng hưởng từ MRI. Sở hữu trí tuệ (Sáng chế). Số đơn SC 1-2018-01215. Đã chấp
nhận đơn hợp lệ và đã công bố trên công báo sở hữu công nghiệp số 365/T8, tập A:
58762
4. Le The Tam, Nguyen Hoa Du, Tran Dai Lam, Le Thi Nhan, Nguyen Van Toan. Study
on some factor of magnetic fluid chitosan-coated Fe3O4 nanoparticles fabrication via
hydrothermal method for Biomedicine, 2016. Viet Nam Journal of science and
technology, Vol 54, 2C, 2016, pp 341-347.
5. Le The Tam, Vuong Thi Kim Oanh, Nguyen Hoa Du, Tran Dai Lam. Optimization
of co-precipitation reaction involving main experimental factors on crystallite size of
chitosan-coated magnetic nanoparticles Fe3O4 by response surface method with
central composite designs. Vietnam Journal of Chemistry, No 5e1,2 (54), 2016,
207-211.
6. Nguyen Hoa Du, Le The Tam, Tran Dai Lam, Phan Thi Hong Tuyet, Tran Thi Huong.
Optimization factors affected saturation Magnetic fluid Chitosan-coated Fe3O4 in co-
precipitation reaction by Response surface method with central composite designs,
2016. Viet Nam Journal of science and technology, Vol 54, 2B, 2016, pp 142-148.
7. Le The Tam, Vuong Thi Kim Oanh, Nguyen Hoa Du, Le Trong Lu, Le Hai Dang,
Nguyen Thi Hai Hoa, Le Ngoc Tu, Tran Dai Lam. Magnetic resonance imaging (MRI)
application of Fe3O4 based ferrofluid synthesized by thermal decomposition using
140
poly (maleic anhydride -alt-1-octadecene) (PMAO). Viet Nam Journal of Science
and Technology, Vol 56, 1A, 2018, pp 174-182.
8. Le The Tam, Tran Dai Lam, Nguyen Hoa Du, Phan Thi Hong Tuyet, Nguyen Quoc
Thang. Synthesis, characterization and MRI application of Fe3O4 liquid was
synthesized by hydrothermal with using Sodium Alginate. Proceedings of the the
Scientific Conference Chemical, Material and Environmental Engineering for
Sustainable Development (CME2018), in Quy Nhon City Vietnam, pp 49-56.
9. Lê Thế Tâm, Nguyễn Hoa Du, Nguyễn Quốc Thắng, Phan Thị Hồng Tuyết, Lê Trọng
Lư, Nguyễn Thị Ngọc Linh, Võ Kiều Anh, Phạm Hồng Nam, Trần Đại Lâm. Chế tạo
chất lỏng từ tính chứa Fe3O4@PMAO cho ứng dụng MRI điều chế bằng phương pháp
phân hủy nhiệt. Tạp chí Hóa học, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam (2018). Vol
56(6e2), pp 63-69.
B. CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1. Vuong Thi Kim Oanh, Tran Dai Lam, Vu Thi Thu, Le Trong Lu, Le The Tam, Pham
Hong Nam, Do Hung Manh, Nguyen Xuan Phuc. A novel route for making highly
stable Fe3O4 fluid with poly-acrylic acid as phase transfer ligand, 2016. Journal of
electronic materials (SCI), Q2, IF2017 1.579. Vol 45, Issue 8, 2016, pp 4010-4017.
DOI: 10.1007/s11664-016-4650-y.
2. Le The Tam, Nguyen Thi Thanh Huong, Nguyen Thien Vuong, Nguyen Tuan Anh,
Le Trong Lu, Tran Dai Lam, Thai Hoang, Nguyen Thi Mai, Dinh Duc Anh. Effect of
SiO2-Ag nanocomposites on the thermal, mechanical and antibacterial properties of
water-based acrylic coating. Journal Materials Chemistry and Physics (2019),
(SCI), Q2, IF2017 2.210. DOI: https://doi.org/10.1016/j.matchemphys.2019.05.001.
3. Nguyen Thien Vuong, Xuan Thang Dam; Truc Vy Do; The Tam Le; Thi Ngoc Linh
Nguyen; Dai Lam Tran; Trong Lu Le; Duc Anh Dinh; Quoc Trung Vu; Tran Chien
Dang; Phuong Nguyen-Tri. Crosslinking process and characteristics of UV-curable
acrylate/Fe3O4-Ag nanocomposite coating. Submited to Journal Polyme (SCI), Q1.
4. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Lê Thị Thanh Tâm, Lê Thế Tâm, Ngô Thanh Dung, Phạm
Hồng Nam, Nguyễn Văn Đàm Thiên, Nguyễn Hoa Du, Phan Ngọc Hồng, Trần Đại
Lâm. Nghiên cứu chế tạo và khảo sát độ bền của chất lỏng từ mangan ferit trong nước.
Tạp chí Hóa học, Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam (2018). Vol 56(6e2), pp 214-219.
5. Vuong Thi Kim Oanh, Le The Tam, Do Hai Doan, Nguyen Xuan Truong, Tran Dai
Lam. Study of improving application ability of ferrofluid based on Fe3O4 magnetic
nanoparticles in hyperthermia and MRI contrast enhancement. Submited to
Materials Chemistry and Physics (SCI). Q2, IF2017 2.210.
141
6. Vuong Thi Kim Oanh, Do Hai Doan, Nguyen Xuan Truong, Le The Tam, Le Trong
Lu, Tran Dai Lam. Effect of size and shape on magnetic properties of Fe3O4
nanoparticles. Proceedings: The 9th International Workshop on Advanced
Materials Science and Nanotechnology, IWAMSN 2018, pp 121-127.
7. Vuong Thi Kim Oanh, Do Hai Doan, Nguyen Xuan Truong, Le The Tam, Le Trong
Lu, Tran Dai Lam. Study on preparation of magnetic fluid based on synthesized Fe3O4
magnetic nanoparticles in water and organic solvents. Journal of Science and
Technology, Thai Nguyen University, 190(14) pp 91-96.
8. Trần Đại Lâm, Lê Thế Tâm, Nguyễn Xuân Phúc. Quy trình công nghệ chế tạo hệ dẫn
thuốc (Cur) nano Ag/CS, (Cur) Fe3O4/CS. Sở hữu trí tuệ (GPHI). Số đơn SC 2-
2018-00351. Đã chấp nhận đơn hợp lệ và đã được công bố trên công báo sở hữu công
nghiệp số 369/T12, tập A:3977.
9. Le The Tam, Nguyen Hoa Du, Le Thi Hong Nhung, Duong Thi Ngoc Hang, Ngo
Minh Duc, Tran Thi Phuong Thu. Synthesis, characterization of cobalt ferrite
(CoFe2O4) nanoparticles by co-precipitation and hydrothermal methods. Vinh
University Journal of Science, Vol 46-2A, 2017, pp 58-65.
10. Le The Tam, Nguyen Hoa Du, Phan Thi Hong Tuyet, Tran Dai Lam, Le Hai Dang,
Le Thi Hong Nhung, Pham Hong Nam, Nguyen Thi Hai Hoa, Nguyen Quoc Thang,
Nguyen Thanh Binh. Hydrothermal synthesis of PEG-coated CoFe2O4 nanoparticles:
structural properties and hyperthemia application (2017). The 6th Asian
Symposium on Advanced Materials: Chemistry, Physics & Biomedicine of
Functional and Novel Materials (ASAM-6) in Hanoi, Vietnam, pp 445-451.
11. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Lê Thế Tâm, Lê Thị Thanh Tâm, Ngô Thanh Dung, Phạm
Hồng Na, Đoàn Thanh Tùng, Phan Ngọc Hồng, Trần Đại Lâm, Lê Trọng Lư. Ảnh
hưởng của tiền chất vô cơ đến kích thước, độ đồng đều và tính chất từ của hạt nano
Fe3O4 chế tạo bằng phương pháp phân hủy nhiệt. Tạp chí Hóa học, Viện Hàn lâm
KHCN Việt Nam (2019), Tập 57, 2E1,2, pp 22-26.
12. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Lê Thế Tâm, Trịnh Đình Khá, Ngô Thanh Dung, Lê Thị
Thanh Tâm, Võ Kiều Anh, Hoàng Yến Nhi, Lê Trọng Lư. Nghiên cứu chế tạo và hoạt
tính kháng khuẩn của hệ nano lai Fe3O4@Ag. Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh
học, 2019 (Đã chấp nhận đăng).
142
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Hữu Đức, (2008), Vật liệu từ cấu trúc nano và điện tử học spin, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Trần Đại Lâm, (2015), Vật liệu Nano sinh học, Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và
Công nghệ.
3. Phạm Hoài Linh, (2013), Nghiên cứu chế tạo chất lỏng từ nền hạt nano Fe3O4 ứng
dụng trong y sinh, Luận án tiến sĩ Khoa học vật liệu.
4. Nguyễn Phú Thùy, (2003), Vật lý các hiện tượng từ, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Tiếng Anh
5. Abollino, O., Stura, I., Argenziano, M., Ansari, S., Ficiarà, E., Ruffinatti, F., Guiot,
C., Cavalli, R., D’Agata, F. (2019). Magnetic Iron Oxide Nanoparticles: Synthesis,
Characterization and Functionalization for Biomedical Applications in the Central
Nervous System. Materials (Basel). 12: 465.
6. 6. Ahmadi, S., Chia, C.H., Zakaria, S., Saeedfar, K., Asim, N. (2012). Synthesis of
Fe3O4nanocrystals using hydrothermal approach. J. Magn. Magn. Mater. 324:
4147-4150.
7. Alexiou, C., Arnold, W., Klein, R.J., Parak, F.G., Hulin, P., Bergemann, C.,
Erhardt, W., Wagenpfeil, S., Lu, A.S. (2000). Locoregional Cancer Treatment with
Magnetic Drug Targeting 1.: 6641-6648.
8. Alexiou, C., Jurgons, R., Schmid, R.J., Bergemann, C., Henke, J., Erhardt, W.,
Huenges, E., Parak, F. (2003). Magnetic drug targeting - Biodistribution of the
magnetic carrier and the chemotherapeutic agent mitoxantrone after locoregional
cancer treatment. J. Drug Target. 11: 139-149.
9. Article, R. (2012). Superparamagnetic iron oxide based MRI contrast agents:
Current status of clinical applic ... Page 1 of 5 Superparamagnetic iron oxide
based MRI contrast agents: current status of clinical application
Superparamagnetic iron oxide based MRI contrast agen. Imaging: 1-5.
10. Arum, Y., Oh, Y.O., Kang, H.W., Ahn, S.H., Oh, J. (2015). Chitosan-coated Fe3O4
magnetic nanoparticles as carrier of cisplatin for drug delivery. Fish. Aquat. Sci.
18: 89-98.
11. Behdadfar, B., Kermanpur, A., Sadeghi-aliabadi, H., Morales, P. (2012). Journal
of Solid State Chemistry Synthesis of high intrinsic loss power aqueous ferrofluids
of iron oxide nanoparticles by citric acid-assisted hydrothermal-reduction route.
J. Solid State Chem. 187: 20-26.
12. Biehl, P., von der Lühe, M., Dutz, S., và Schacher, F.H. (2018). Synthesis,
characterization, and applications of magnetic nanoparticles featuring
polyzwitterionic coatings. Polymers (Basel). 10.
13. Book Review (2001).: 2001.
143
14. Brien, R.W.O., Midmore, B.R., Lamb, A., Hunter, R.J. (2006). Electroacoustic
Studies of Moderately Concentrated Colloidal Suspensions.: 301-312.
15. Caravan, P., Ellison, J.J., McMurry, T.J., Lauffer, R.B. (1999). Gadolinium(III)
Chelates as MRI Contrast Agents: Structure, Dynamics, and Applications. Chem.
Rev. 99: 2293-352.
16. Caruntu, D., Caruntu, G., Connor, C.J.O. (2007). Magnetic Properties of Variable-
sized Fe3O4 Nanoparticles Synthesized from Non-aqueous Homogeneous Solutions
of Polyols. 40: 5801-5809.
17. Catalysts, C.N., Nishino, H., Yasuda, S., Namai, T., Futaba, D.N., Yamada, T.,
Yumura, M., Iijima, S., Hata, K. (2007). Water-Assisted Highly Efficient Synthesis
of Single-Walled Carbon Nanotubes Forests from.: 17961-17965.
18. Cha, R., Li, J., Liu, Y., Zhang, Y., Xie, Q., Zhang, M. (2017). Fe3O4nanoparticles
modified by CD-containing star polymer for MRI and drug delivery. Colloids
Surfaces B Biointerfaces 158: 213-221.
19. Chan, K.W.Y., Bulte, J.W.M., Mcmahon, M.T. (2014). Diamagnetic chemical
exchange saturation transfer (diaCEST) liposomes: Physicochemical properties
and imaging applications. Wiley Interdiscip. Rev. Nanomedicine
Nanobiotechnology 6: 111-124.
20. Chaturvedi, V.K., Singh, A., Singh, V.K., Singh, M.P. (2018). Cancer
Nanotechnology : A New Revolution for Cancer Diagnosis and Therapy Cancer
Nanotechnology : A New Revolution for Cancer Diagnosis and Therapy.
21. Chem, J.M., Liu, X.L., Fan, M., Yi, B., Yang, Y., Guang, S., Xue, M., Fan, D.
(2012). Optimization of surface coating on Fe3O4 nanoparticles for high
performance magnetic hyperthermia agents †.: 8235-8244.
22. Chin, S.F., Pang, S.C., Tan, C.H. (2011). Green Synthesis of Magnetite
Nanoparticles (via Thermal Decomposition Method ) with Controllable Size and
Shape. 2: 299-302.
23. Comments, A. (2003). Ferumoxtran-10. 4: 52-54.
24. Corot, C. Warlin, D. (2013). Superparamagnetic iron oxide nanoparticles for MRI:
Contrast media pharmaceutical company R&D perspective. Wiley Interdiscip.
Rev. Nanomedicine Nanobiotechnology 5: 411-422.
25. Cuenca, A.G., Hochwald, S.N., Delano, M., Cance, W.G., Grobmyer, S.R. (2006).
Emerging Implications of Nanotechnology on Cancer Diagnostics and
Therapeutics.
26. Cullity, B.D. Graham, C.D. Introduction to magnetic materials.
27. De, M., Chou, S.S., Joshi, H.M., Dravid, V.P. (2011). Hybrid magnetic
nanostructures (MNS) for magnetic resonance imaging applications. Adv. Drug
Deliv. Rev. 63: 1282-1299.
28. Dung, N.T., Long, N.V., Tam, L.T.T., Nam, P.H., Tung, L.D., Phuc, N.X., Lu,
L.T., Kim Thanh, N.T. (2017). High magnetisation, monodisperse and water-
144
dispersible CoFe@Pt core/shell nanoparticles. Nanoscale 9: 8952-8961.
29. Estelrich, J., Sánchez-Martín, M.J., và Busquets, M.A. (2015). Nanoparticles in
magnetic resonance imaging: From simple to dual contrast agents. Int. J.
Nanomedicine 10: 1727-1741.
30. Feng, J., Mao, J., Wen, X., Tu, M. (2011). Ultrasonic-assisted in situ synthesis and
characterization of superparamagnetic Fe3O4 nanoparticles. J. Alloys Compd.
509: 9093-9097.
31. Ferrari, M. (2005). CANCER NANOTECHNOLOGY : 5.
32. Figuerola, A., Manna, L., George, C., Morello, G., Krahne, R., Deka, S. (2013).
Catalytic Properties of Nanorods.
33. Gao, L. và c.s. (2017). A Novel Gd-DTPA-conjugated Poly(L-ϒ 3-glutamyl-
glutamine)-paclitaxel Polymeric Delivery System for Tumor Theranostics. Sci.
Rep. 7: 1-13.
34. Gao, S., Xu, Z., Hou, Y., Xing, R., Hao, R., Sun, S. (2010). Synthesis,
Functionalization, and Biomedical Applications of Multifunctional Magnetic
Nanoparticles. Adv. Mater. 22: 2729-2742.
35. Gkagkanasiou, M., Ploussi, A., Gazouli, M., Efstathopoulos, E.P. (2016). USPIO-
Enhanced MRI Neuroimaging: A Review. J. Neuroimaging 26: 161-168.
36. Gubin, S. (2009a). Magnetic Nanoparticles. Wiley-VCH.
37. Gubin, S.P. (2009b). Magnetic Nanoparticles. Wiley-VCH.
38. Guller, A.E., Generalova, A.N., Petersen, E. V, Nechaev, A. V, Trusova, I.A.,
Landyshev, N., Nadort, A., Grebenik, E.A., Deyev, S.M., Shekhter, A.B., Zvyagin,
A. V Cytotoxicity and non-specific cellular uptake of bare and surface-modified
upconversion nanoparticles in human skin cells.
39. Guo, S., Wu, H., Gao, G., Zhou, X., Zhang, Y. (2012). Control on the formation of
Fe3O4 nanoparticles on chemically reduced graphene oxide surfaces.
CrystEngComm 14: 499-504.
40. Gupta, A.K. Gupta, M. (2005). Synthesis and surface engineering of iron oxide
nanoparticles for biomedical applications. Biomaterials 26: 3995-4021.
41. De Haas, H.J., Arbustini, E., Fuster, V., Kramer, C.M., Narula, J. (2014).
Molecular imaging of the cardiac extracellular matrix. Circ. Res. 114: 903-915.
42. Hahn1950a Spin Echoes.pdf.
43. Tran Hoang Hai, Le Hong Phuc , Le Khanh Vinh , Bui Duc Long , Truong Thuy
Kieu. (2013). Immobilising of anti-HPV18 and E . coli O157 : H7 antibodies on
magnetic silica-coated Fe3O4 for early diagnosis of cervical cancer and diarrhoea
,. IJNT 8 (3-5 ) Paper 208.
44. Hao Zeng, Philip M. Rice, Shan X. Wang, and S.S. (2004). Shape-Controlled
Synthesis and Shape-Induced Texture of MnFe2O4 Nanoparticles. J. AM. CHEM.
SOC. 126: 11458-11459.
45. He, Y.P., Wang, S.Q., Li, C.R., Miao, Y.M., Wu, Z.Y., Zou, B.S. (2005). Synthesis
145
and characterization of functionalized silica-coated Fe 3O4 superparamagnetic
nanocrystals for biological applications. J. Phys. D. Appl. Phys. 38: 1342-1350.
46. Hedayatnasab, Z., Abnisa, F., Wan Daud, W.M.A. (2018). Investigation properties
of superparamagnetic nanoparticles and magnetic field-dependent hyperthermia
therapy. IOP Conf. Ser. Mater. Sci. Eng. 334.
47. Hermann, P., Kotek, J., Kubíček, V., Lukeš, I. (2008). Gadolinium(III) complexes
as MRI contrast agents: Ligand design and properties of the complexes. Dalt.
Trans. 9226: 3027-3047.
48. Ho, D., Sun, X., Sun, S. (2011). Monodisperse magnetic nanoparticles for
theranostic applications. Acc. Chem. Res. 44: 875-882.
49. Hola, K., Markova, Z., Zoppellaro, G., Tucek, J., Zboril, R. (2015). Tailored
functionalization of iron oxide nanoparticles for MRI, drug delivery, magnetic
separation and immobilization of biosubstances. Biotechnol. Adv. 33: 1162-1176.
50. Horµk, D., Babic, M., Beneð, M.J. (2007). Review Preparation and properties of
magnetic nano- and microsized particles for biological and environmental
separations.: 1751-1772.
51. Hu, L., Peng, Q., Li, Y. (2008). Selective Synthesis of Co3O4 Nanocrystal with
Different Shape and Crystal.: 16136-16137.
52. Huang, J.-H., Parab, H.J., Liu, R., Lai, T., Hsiao, M., Chen, C., Sheu, H., Chen, J.,
Tsai, D., Hwu, Y. (2008). Investigation of the Growth Mechanism of Iron Oxide
Nanoparticles via a Seed-Mediated Method and Its Cytotoxicity Studies.: 15684-
15690.
53. Huang, M., Khor, E., Lim, L.Y. (2004). Uptake and Cytotoxicity of Chitosan
Molecules and Nanoparticles: Effects of Molecular Weight and Degree of
Deacetylation. Pharm. Res. 21: 344-353.
54. Huang, S.H. Juang, R.S. (2011). Biochemical and biomedical applications of
multifunctional magnetic nanoparticles: A review. J. Nanoparticle Res. 13: 4411-
4430.
55. Iida, H., Takayanagi, K., Nakanishi, T., Osaka, T. (2007). Synthesis of Fe3O4
nanoparticles with various sizes and magnetic properties by controlled hydrolysis.
314: 274-280.
56. Insausti, M., Salado, J., Castellanos, I., Lezama, L., Gil de Muro, I., de la Fuente,
J.M., Garaio, E., Plazaola, F., Rojo, T. (2012). Tailoring biocompatible Fe3O4
nanoparticles for applications to magnetic hyperthermia. 8232: 823210.
57. Jhaveri, K.S. Hosseini-Nik, H. (2015). MRI of rectal cancer: An overview and
update on recent advances. Am. J. Roentgenol. 205: W42-W55.
58. Jie, Z., Ying, X., Nian, B., Wu, C. (2008). Hydrothermal synthesis and self-
assembly of magnetite (Fe3O4 ) nanoparticles with the magnetic and
electrochemical properties. 310: 5453-5457.
59. Khemtong, C., Kessinger, C.W., Gao, J. (2009). Polymeric nanomedicine for
146
cancer MR imaging and drug delivery. Chem. Commun. 7345: 3497-3510.
60. Kim, D., Kim, S.-J., Park, B., Choi, H., Rhee, C., Son, J., Lee, S., Sim, I. (2016).
Characterization of the CoFe2O4@MnFe2O4 Magnetic Particles Using
Differential Phase Contrast in STEM. Microsc. Microanal. 22: 1712-1713.
61. Kumar, S., Kumar, B.S.H., Khushu, S. (2016). Increased transverse relaxivity in
ultrasmall superparamagnetic iron oxide nanoparticles used as MRI contrast
agent for biomedical imaging.
62. Laurent, S., Dutz, S., Häfeli, U.O., Mahmoudi, M. (2011). Magnetic fluid
hyperthermia: Focus on superparamagnetic iron oxide nanoparticles. Adv.
Colloid Interface Sci. 166: 8-23.
63. Lee, J.H., Huh, Y.M., Jun, Y.W., Seo, J.W., Jang, J.T., Song, H.T., Kim, S., Cho,
E.J., Yoon, H.G., Suh, J.S., Cheon, J. (2007). Artificially engineered magnetic
nanoparticles for ultra-sensitive molecular imaging. Nat. Med. 13: 95-99.
64. Lee, N. Hyeon, T. (2012). Designed synthesis of uniformly sized iron oxide
nanoparticles for efficient magnetic resonance imaging contrast agents. Chem.
Soc. Rev. 41: 2575-2589.
65. Li, F., Zhi, D., Luo, Y., Zhang, J., Nan, X., Zhang, Y., Zhou, W., Qiu, B., Wen, L.,
Liang, G. (2016). Core/shell Fe3O4 /Gd2O3 nanocubes as T 1 -T 2 dual modal MRI
contrast agents. Nanoscale 8: 12826-12833.
66. Li, Q., Kartikowati, C.W., Horie, S., Ogi, T., Iwaki, T., và Okuyama, K. (2017).
Correlation between particle size / domain structure and magnetic properties of
highly crystalline Fe3O4 nanoparticles. Sci. Rep.: 1-4.
67. Li, Y., Chen, J., Li, X., Deng, H., Wang, X., Peng, Q. (2005). Monodisperse
Magnetic Single-Crystal Ferrite Microspheres. Angew. Chemie Int. Ed. 44: 2782-
2785.
68. Liang, J., Li, L., Luo, M., Fang, J., Hu, Y. (2010). Synthesis and properties of
magnetite Fe3O4 via a simple hydrothermal route. 12: 1422-1425.
69. Ling, D. Hyeon, T. (2013). Chemical design of biocompatible iron oxide
nanoparticles for medical applications. Small 9: 1450-1466.
70. Liu, C., Wang, Z., Wang, X., Li, Z. (2011a). Surface modification of hydrophobic
NaYF4:Yb,Er upconversion nanophosphors and their applications for
immunoassay. Sci. China Chem. 54: 1292-1297.
71. Liu, X., Shi, H., Yang, Y., Jia, X., Liang, X. (2011b). Dispersibility, Shape and
Magnetic Properties of Nano-Fe3O4 Particles. Mater. Sci. Appl. 02: 1644-1653.
72. Loutfy, S.A., El-din, H.M.A., Elberry, M., Allam, N.G., Hasanin, M.T.M.,
Abdellah, A.M. (2016). Synthesis , characterization and cytotoxic evaluation of
chitosan nanoparticles : in vitro liver cancer model. Adv. Nat. Sci. Nanosci.
Nanotechnol.: 0.
73. Lu, A.H., Salabas, E.L., và Schüth, F. (2007). Magnetic nanoparticles: Synthesis,
protection, functionalization, and application. Angew. Chemie - Int. Ed. 46: 1222-
147
1244.
74. Lu, L.T., Dung, N.T., Tung, L.D., Thanh, C.T., Quy, O.K., Chuc, N. V.,
Maenosono, S., Thanh, N.T.K. (2015). Synthesis of magnetic cobalt ferrite
nanoparticles with controlled morphology, monodispersity and composition: The
influence of solvent, surfactant, reductant and synthetic conditions. Nanoscale 7:
19596-19610.
75. Lu, L.T., Tung, D., Robinson, I., Ung, D., Tan, B., Long, J., Cooper, I., De, D.G.F.,
Thi, N., Thanh, K. (2008a). Size and shape control for water-soluble magnetic
cobalt nanoparticles using polymer ligands.: 2453-2458.
76. Lu, L.T., Tung, L.D., Long, J., Fernig, D.G., Thanh, N.T.K. (2009). Facile
synthesis of stable, water-soluble magnetic CoPt hollow nanostructures assisted
by multi-thiol ligands. J. Mater. Chem. 19: 6023-6028.
77. Lu, Y., Lu, X., Mayers, B.T., Herricks, T., Xia, Y. (2008b). Synthesis and
characterization of magnetic Co nanoparticles: A comparison study of three
different capping surfactants. J. Solid State Chem. 181: 1530-1538.
78. Luong, N.H., Phu, N.D., Hai, N.H., Thi, N., Thuy, D. (2011). Conference -
IWAMN2009 - Surface Modification of SiO2 -Coated FePt Nanoparticles with
Amino Groups. 9: 536-538.
79. Lyubutin, I.S., Egorova, T.B., Baskakov, A.O., Starchikov, S.S., Davydov, V.A.,
Kulikova, L.F., Agafonov, V.N. (2018). Mechanism of Transformation of
Ferrocene into Carbon-Encapsulated Iron Carbide Nanoparticles at High
Pressures and Temperatures. Inorg. Chem. 57: 14895-14903.
80. Mahmoudi, M., Laurent, S., Shokrgozar, M.A., Hosseinkhani, M. (2011). Toxicity
Evaluations of Superparamagnetic Iron Oxide Nanoparticles: Cell “Vision”
versus Physicochemical Properties of Nanoparticles. ACS Nano 5: 7263-7276.
81. Maity, D., Choo, S.G., Yi, J., Ding, J., Xue, J.M. (2009). Synthesis of magnetite
nanoparticles via a solvent-free thermal decomposition route. J. Magn. Magn.
Mater. 321: 1256-1259.
82. Malik, M.A., Wani, M.Y., Hashim, M.A. (2012). Microemulsion method: A novel
route to synthesize organic and inorganic nanomaterials. 1st Nano Update. Arab.
J. Chem. 5: 397-417.
83. Maqsood, A., Gul, I.H., Abbasi, A.Z., Amin, F., Anis-ur-Rehman, M. (2006).
Structural, magnetic and electrical properties of Co1−xZnxFe2O4 synthesized by
co-precipitation method. J. Magn. Magn. Mater. 311: 494-499.
84. Meng, X., Seton, H.C., Lu, L.T., Prior, I.A., Thanh, N.T.K., Song, B. (2011).
Magnetic CoPt nanoparticles as MRI contrast agent for transplanted neural stem
cells detection. Nanoscale 3: 977-984.
85. Michalska, M., Florczak, A., Dams-Kozlowska, H., Gapinski, J., Jurga, S., và
Schneider, R. (2016). Peptide-functionalized ZCIS QDs as fluorescent nanoprobe
for targeted HER2-positive breast cancer cells imaging. Acta Biomater. 35: 293-
148
304.
86. Mosmann, T. (1983). Rapid Colorimetric Assay for Cellular Growth and Survival :
Application to Proliferation and Cytotoxicity Assays. 65: 55-63.
87. Nam, P.H., Lu, L.T., Linh, P.H., Manh, D.H., Thanh Tam, L.T., Phuc, N.X., Phong,
P.T., Lee, I.J. (2018). Polymer-coated cobalt ferrite nanoparticles: Synthesis,
characterization, and toxicity for hyperthermia applications. New J. Chem. 42:
14530-14541.
88. Ni, D., Bu, W., Ehlerding, E.B., Cai, W. (2017). Chem Soc Rev Engineering of
inorganic nanoparticles as. Chem. Soc. Rev. 46: 7438-7468.
89. Oanh, V.T.K., Lam, T.D., Thu, V.T., Lu, L.T., Nam, P.H., Tam, L.T., Manh, D.H.,
và Phuc, N.X. (2016). A Novel Route for Preparing Highly Stable Fe3O4 Fluid with
Poly(Acrylic Acid) as Phase Transfer Ligand. J. Electron. Mater. 45: 4010-4017.
90. Oh, M., Lee, K.S., Chung, E.J., Eun, C.K., Bae, J.S., Kim, E.G., Kim, S.J. (2014).
Usefulness of Diffusion-Weighted MRI for Differentiation between Parkinson’s
Disease and Parkinson Variant of Multiple System Atrophy. J. Mov. Disord. 2: 64-
68.
91. Oliveira, A.A.S., Tristão, J.C., Ardisson, J.D., Dias, A., Lago, R.M., Mud, R.
(2011). Applied Catalysis B : Environmental Production of nanostructured
magnetic composites based on Fe0 nuclei coated with carbon nanofibers and
nanotubes from red mud waste and ethanol.Applied Catal. B, Environ. 105: 163-
170.
92. Park, J., An, K., Hwang, Y., Park, J., Noh, H., Kim, J., Park, J., Hwang, N., Hyeon,
T. (2004). monodisperse nanocrystals. 3: 891-895.
93. Park, J., Joo, J., Kwon, S.G., Jang, Y., Hyeon, T. (2007). Synthesis of
Monodisperse Spherical Nanocrystals Angewandte.: 4630-4660.
94. Parkes, L.M., Hodgson, R., Lu, L.T., Tung, L.D., Robinson, I., Fernig, D.G.,
Thanh, N.T.K. (2008). Cobalt nanoparticles as a novel magnetic resonance
contrast agent — relaxivities at 1 . 5 and 3 Tesla.: 1-7.
95. Peng, E., Wang, F., Xue, J.M. (2015). Nanostructured magnetic nanocomposites
as MRI. J. Mater. Chem. B Mater. Biol. Med. 00: 1-36.
96. Peng, Y.K., Tsang, S.C.E., và Chou, P.T. (2016). Chemical design of nanoprobes
for T1-weighted magnetic resonance imaging. Mater. Today 19: 336-348.
97. Petri-Fink, A., Chastellain, M., Juillerat-Jeanneret, L., Ferrari, A., Hofmann, H.
(2005). Development of functionalized superparamagnetic iron oxide
nanoparticles for interaction with human cancer cells. Biomaterials 26: 2685-
2694.
98. Pham, H.N., Pham, T.H.G., Nguyen, D.T., Phan, Q.T., Le, T.T.H., Ha, P.T., Do,
H.M., Hoang, T.M.N., Nguyen, X.P. (2017a). Magnetic inductive heating of
organs of mouse models treated by copolymer coated Fe3O4 nanoparticles. Adv.
Nat. Sci. Nanosci. Nanotechnol. 8.
149
99. Pham, H.N., Pham, T.H.G., Nguyen, D.T., Phan, Q.T., Le, T.T.H., Ha, P.T., Do,
H.M., Hoang, T.M.N., Nguyen, X.P. (2017b). Magnetic inductive heating of
organs of mouse models treated by copolymer coated Fe3O4 nanoparticles. Adv.
Nat. Sci. Nanosci. Nanotechnol. 8 (2017) 025013 (10pp).
100. Pham, L., Manh, D.H., Thanh, P.P. (2014). Magnetic Properties of Fe3O4
Nanoparticles Synthesized by Coprecipitation Method. Journal of
Superconductivity and Novel Magnetism, 27(9), 2111-2115.
101. Phong, P.C., Hoang, L.H., Chau, N., Phu, N.D., Luong, N.H., Hai, N.H. (2009).
Arsenic removal from water by magnetic Fe 1− x Cox Fe2O4 and Fe1− y NiyFe2O4
nanoparticles . J. Exp. Nanosci. 4: 253-258.
102. Pillai, V. S, D.O. (1996). of mnad gneucm magnetic ~ i materials Synthesis of high-
coercivity cobalt ferrite particles using water-in-oil microemulsions. 163: 243-
248.
103. Reimer, P. (2003). Ferucarbotran (Resovist ): a new clinically approved RES-
specific contrast agent for contrast-enhanced MRI of the liver : properties , clinical
development , and applications.: 1266-1276.
104. Rezayan, A.H., Mosavi, M., Kheirjou, S., Amoabediny, G., Ardestani, M.S.,
Mohammadnejad, J. (2016). Monodisperse magnetite (Fe3O4) nanoparticles
modified with water soluble polymers for the diagnosis of breast cancer by MRI
method. J. Magn. Magn. Mater. 420: 210-217.
105. Rohrer, M., Bauer, H., Mintorovitch, J., Requardt, M., Weinmann, H.J. (2005).
Comparison of magnetic properties of MRI contrast media solutions at different
magnetic field strengths. Invest. Radiol. 40: 715-724.
106. Salunkhe, A.B., Khot, V.M., Ruso, J.M., Patil, S.I. (2016). Water dispersible
superparamagnetic Cobalt iron oxide nanoparticles for magnetic fluid
hyperthermia. J. Magn. Magn. Mater. 419: 533-542.
107. Schmieder, A.H., Caruthers, S.D., Keupp, J., Wickline, S.A., Lanza, G.M. (2015).
Pharmaceutical Engineering — Review Recent Advances in 19 Fluorine Magnetic
Resonance Imaging with Perfl uorocarbon Emulsions. 1: 475-489.
108. Sebastiani, G. và Gilbert, G. (2016). Liver Fibrosis : Review of Current Imaging
and MRI Quantification Techniques.
109. Seo, W.S., Lee, J.H., Sun, X., Suzuki, Y., Mann, D., Liu, Z., Terashima, M., Yang,
P.C., McConnell, M. V., Nishimura, D.G., Dai, H. (2006). FeCo/graphitic-shell
nanocrystals as advanced magnetic-resonance-imaging and near-infrared agents.
Nat. Mater. 5: 971-976.
110. Seo, W.S., Shim, J.H., Oh, S.J., Lee, E.K., Hur, N.H., Park, J.T. (2005). Phase-
and size-controlled synthesis of hexagonal and cubic CoO nanocrystals. J. Am.
Chem. Soc. 127: 6188-6189.
111. Shokrollahi, H. (2013). Contrast agents for MRI. Mater. Sci. Eng. C 33: 4485-
4497.
150
112. Shukla, S., Jadaun, A., Arora, V., Sinha, R.K., Biyani, N., Jain, V.K. (2015). In
vitro toxicity assessment of chitosan oligosaccharide coated iron oxide
nanoparticles. Toxicol. Reports 2: 27-39.
113. Siemann-herzberg, M.F.M., Hobley, T.J., Thomas, O.R.T. (2006). Protein
purification using magnetic adsorbent particles.: 505-516.
114. Singh, A.K., Srivastava, O.N., và Singh, K. (2017). Shape and Size-Dependent
Magnetic Properties of Fe3O4 Nanoparticles Synthesized Using Piperidine.
Nanoscale Res. Lett. 12: 298.
115. Smits, L.P., Zheng, K.H., Nederveen, A.J., Coolen, B.F., Tiessens, F., Stroes, E.S.
(2017). Evaluation of ultrasmall superparamagnetic iron-oxide (USPIO)
enhanced MRI with ferumoxytol to quantify arterial wall inflammation.
Atherosclerosis 263: 211-218.
116. Song, Q., Ding, Y., Wang, Z.L., Zhang, Z.J. (2006). Formation of orientation-
ordered superlattices of magnetite magnetic nanocrystals from shape-segregated
self-assemblies. J. Phys. Chem. B 110: 25547-25550.
117. Srivastava, M., Singh, J., Yashpal, M., Kumar, D., Mishra, R.K., Tripathi, S., Ojha,
A.K. (2012). Synthesis of superparamagnetic bare Fe3O4 nanostructures and core
/ shell (Fe3O4 / alginate ) nanocomposites. Carbohydr. Polym. 89: 821-829.
118. Stephen, Z.R., Kievit, F.M., Zhang, M. (2011). Magnetite nanoparticles for
medical MR imaging. Mater. Today 14: 330-338.
119. Sun, S., Zeng, H., Robinson, D.B., Raoux, S., Rice, P.M., Wang, S.X., Li, G.
(2004). Monodisperse MFe2O4 (M ) Fe , Co , Mn ) Nanoparticles. 4: 126-132.
120. Takahashi, M., Koymen, A., Mohanty, S., Kangasniemi, K., Chaudhary, R. (2017).
Fe Core-Carbon Shell Nanoparticles as Advanced MRI Contrast Enhancer. J.
Funct. Biomater. 8: 46.
121. Taylor, P., Dung, T.T., Danh, T.M., Hoa, L.T.M., Chien, D.M., Duc, N.H.
Structural and magnetic properties of starch-coated magnetite nanoparticles.: 37-
41.
122. Thangavel, K. Saritaş, E.Ü. (2017). Aqueous paramagnetic solutions for MRI
phantoms at 3 T: A detailed study on relaxivities. Turkish J. Electr. Eng. Comput.
Sci. 25: 2108-2121.
123. Thien, T., Phuong, T., Dai, L., Hung, M., Thu, T. (2011). Colloids and Surfaces
A : Physicochemical and Engineering Aspects Design of carboxylated Fe3O4 / poly
(styrene-co-acrylic acid ) ferrofluids with highly efficient magnetic heating effect.
Colloids Surfaces A Physicochem. Eng. Asp. 384: 23-30.
124. Thoeny, H.C. Ross, B.D. (2010). Predicting and monitoring cancer treatment
response with diffusion-weighted MRI. J. Magn. Reson. Imaging 32: 2-16.
125. Thu, T., Mai, T., Ha, P.T., Pham, H.N. (2012). Chitosan and O-carboxymethyl
chitosan modified Fe3O4 for hyperthermic treatment. 015006.
126. Tuan, M.A. Hai, N.H. (2009). DNA enrichment by functionalized magnetic
151
nanoparticles for on-site and fast detection of virus in biomedical application. J.
Phys. Conf. Ser. 187: 4-10.
127. Vichai, V. Kirtikara, K. (2006). Sulforhodamine B colorimetric assay for
cytotoxicity screening. 1: 1112-1116.
128. Vreeland, E.C. và c.s. (2015). Enhanced Nanoparticle Size Control by Extending
LaMer ’ s Mechanism.
129. Vuong, T.K.O., Tran, D.L., Le, T.L., Pham, D.V., Pham, H.N., Ngo, T.H. Le, Do,
H.M., Nguyen, X.P. (2015). Synthesis of high-magnetization and monodisperse
Fe3O4nanoparticles via thermal decomposition. Mater. Chem. Phys. 163: 537-544.
130. Wang, C., Peng, S., Lacroix, L., Sun, S. (2009). Synthesis of High Magnetic
Moment CoFe Nanoparticles via Interfacial Diffusion in Core / Shell Structured
Co / Fe Nanoparticles.: 380-385.
131. Wang, G., Gao, W., Zhang, X., Mei, X. (2016). Au Nanocage Functionalized with
Ultra-small Fe3O4Nanoparticles for Targeting T1-T2Dual MRI and CT Imaging of
Tumor. Sci. Rep. 6: 1-10.
132. Wang, J., Chen, Q., Hou, B., Peng, Z. (2004a). Synthesis and Magnetic Properties
of Single-Crystals of MnFe2O4 Nanorods. Eur. J. Inorg. Chem. 2004: 1165-1168.
133. Wang, J., Sun, J., Sun, Q., Chen, Q. (2003). One-step hydrothermal process to
prepare highly crystalline Fe3O4nanoparticles with improved magnetic properties.
Mater. Res. Bull. 38: 1113-1118.
134. Wang, J., Zeng, C., Peng, Z., Chen, Q. (2004b). Synthesis and magnetic properties
of Zn1-xMnxFe2O4 nanoparticles. Phys. B Condens. Matter 349: 124-128.
135. Wang, Y.-X.J. (2011). Superparamagnetic iron oxide based MRI contrast agents:
Current status of clinical application. Quant Imaging Med Surg 1: 35-44.
136. Wang, Y.J. (2015). Current status of superparamagnetic iron oxide contrast
agents for liver magnetic resonance imaging. 21: 13400-13402.
137. Wei, H., Insin, N., Lee, J., Han, H., Cordero, J.M., Liu, W., Bawendi, M.G. (2012).
Compact Zwitterion-Coated Iron Oxide Nanoparticles for Biological
Applications.: 20-23.
138. Weis, C. (2014). Labeling of cancer cells with magnetic nanoparticles for magnetic
resonance imaging. Magn. Reson. Med. 71: 1896-1905.
139. Weller, D., Moser, A., Folks, L., Best, M.E., Lee, W., Toney, M.F., Schwickert,
M., Thiele, J., và Doerner, M.F. (2000). High K u Materials Approach to 100 Gbits
/ in 2.
140. Wu, S.H., Lin, C.Y., Hung, Y., Chen, W., Chang, C., Mou, C.Y. (2011). PEGylated
silica nanoparticles encapsulating multiple magnetite nanocrystals for high-
performance microscopic magnetic resonance angiography. J. Biomed. Mater.
Res. - Part B Appl. Biomater. 99 B: 81-88.
141. Wu, W., He, Q., Jiang, C. (2008). Magnetic iron oxide nanoparticles: Synthesis
and surface functionalization strategies. Nanoscale Res. Lett. 3: 397-415.
152
142. Xiao, L., Zhou, T., Meng, J. (2009). Hydrothermal synthesis of Mn-Zn ferrites from
spent alkaline Zn-Mn batteries. Particuology 7: 491-495.
143. Xie, B.J., Xu, C., Kohler, N., Hou, Y., Sun, S. (2007a). Controlled PEGylation of
Monodisperse Fe3O4 Nanoparticles for Reduced Non-Specific Uptake by
Macrophage Cells: 3163-3166.
144. Xie, J., Xu, C., Kohler, N., Hou, Y., Sun, S. (2007b). Controlled PEGylation of
monodisperse Fe3O4 nanoparticles for reduced non-specific uptake by
macrophage cells. Adv. Mater. 19: 3163-3166.
145. Xu, C., Mu, L., Roes, I., Miranda-Nieves, D., Nahrendorf, M., Ankrum, J.A., Zhao,
W., Karp, J.M. (2011a). Nanoparticle-based monitoring of cell therapy.
Nanotechnology 22.
146. Xu, S.T., Ma, Y.Q., Zheng, G.H., Dai, Z.X. (2015). Simultaneous effects of surface
spins: Rarely large coercivity, high remanence magnetization and jumps in the
hysteresis loops observed in CoFe2O4 nanoparticles. Nanoscale 7: 6520-6526.
147. Xu, Y., Qin, Y., Palchoudhury, S., Bao, Y. (2011b). Water-Soluble Iron Oxide
Nanoparticles with High Stability and Selective Surface Functionality.: 8990-
8997.
148. Xu, Z., Shen, C., Hou, Y., Gao, H., Sun, S. (2009). Oleylamine as both reducing
agent and stabilizer in a facile synthesis of magnetite nanoparticles. Chem. Mater.
21: 1778-1780.
149. Yan, A., Liu, X., Qiu, G., Wu, H. (2008). Solvothermal synthesis and
characterization of size-controlled Fe3O4 nanoparticles. 458: 487-491.
150. Yang, H., Ogawa, T., Hasegawa, D., Takahashi, M. Synthesis and magnetic
properties of monodisperse magnetite nanocubes.: 1-4.
151. Yang, H., Ogawa, T., Hasegawa, D., Takahashi, M. (2008). Synthesis and magnetic
properties of monodisperse magnetite nanocubes. J. Appl. Phys. 103: 1-4.
152. Yang, M., Gao, L., Liu, K., Luo, C., Wang, Y., Yu, L., Peng, H., Zhang, W. (2015).
Characterization of Fe3O4/SiO2/Gd2O(CO3)2core/shell/shell nanoparticles as T1
and T2 dual mode MRI contrast agent. Talanta 131: 661-665.
153. Ye, F., Zhao, Y., El-sayed, R., Muhammed, M. (2018). Nano Today Advances in
nanotechnology for cancer biomarkers. Nano Today 18: 103-123.
154. You, J., Shi, M., Dong, L., Xu, K. (2018). T 1 - T 2 molecular magnetic resonance
imaging of renal carcinoma cells based on nano-contrast agents.: 4607-4625.
155. Zeng, C., Tian, J., Shang, W., Liang, X., Chen, Q., Liang, X., Fang, C., Yang, J.,
Wang, K., Chi, C. (2017). Theranostic imaging of liver cancer using targeted
optical/MRI dual-modal probes. Oncotarget 8: 32741-32751.
156. Zhai, J., Scoble, J.A., Li, N., Lovrecz, G., Waddington, L.J., Tran, N., Muir, B.W.,
Coia, G., Kirby, N., Drummond, C.J., Mulet, X. (2015). Epidermal growth factor
receptor-targeted lipid nanoparticles retain self-assembled nanostructures and
provide high specificity. Nanoscale 7: 2905-2913.
153
157. Zhang, L., He, R., Gu, H.C. (2006). Oleic acid coating on the monodisperse
magnetite nanoparticles. Appl. Surf. Sci. 253: 2611-2617.
158. Zhang, T., Ge, J., Hu, Y., Yin, Y. (2007). A general approach for transferring
hydrophobic nanocrystals into water. Nano Lett. 7: 3203-3207.
159. Zhang, W., Xu, C., Yin, G.-Q., Zhang, X.-E., Wang, Q., Li, F. (2017).
Encapsulation of Inorganic Nanomaterials inside Virus-Based Nanoparticles for
Bioimaging. Nanotheranostics 1: 358-368.
160. Zhang, X., Niu, H., Pan, Y., Shi, Y., Cai, Y. (2010). Magnetite Nanoparticles :
Preparation and Application in Extraction of Trace Pollutants from Environmental
Water Samples. 82: 2363-2371.
161. Zhang, Z. Feng, S.S. (2006). Nanoparticles of poly(lactide)/vitamin E TPGS
copolymer for cancer chemotherapy: Synthesis, formulation, characterization and
in vitro drug release. Biomaterials 27: 262-270.
162. Zhu, D., Liu, F., Ma, L., Liu, D., Wang, Z. (2013). Nanoparticle-based systems for
T1-weighted magnetic resonance imaging contrast agents. Int. J. Mol. Sci. 14:
10591-10607.
163. Zhu, H., Zhang, L., Liu, Y., Zhou, Y., Wang, K., Xie, X., Song, L., Wang, D., Han,
C., Chen, Q. (2016). Aptamer-PEG-modified Fe3O4@Mn as a novel T1-and T2-
dual-model MRI contrast agent targeting hypoxia-induced cancer stem cells. Sci.
Rep. 6: 1-12.
164. M.I. Ltd, (April 2013). Zetasizer nano user manual.