215
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THÚY HIỀN CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954-1975) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 62 22 03 13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Trần Ngọc Long 2. PGS.TS Trương Công Huỳnh Kỳ HUẾ - NĂM 2015 0

(1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

  • Upload
    vudieu

  • View
    226

  • Download
    4

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THÚY HIỀN

CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

(1954-1975)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 62 22 03 13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS Trần Ngọc Long

2. PGS.TS Trương Công Huỳnh Kỳ

HUẾ - NĂM 2015

0

Page 2: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

An toàn khu: ATK

Ban Chấp hành Trung ương: BCHTƯ

Bộ Tư lệnh: BTL

Hà Nội: HN

Hội đồng nhân dân: HĐND

Lực lượng vũ trang: LLVT

Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam: MTDTGPMN

Mặt trận Dân tộc giải phóng: MTDTGP

Nhà xuất bản: Nxb

Phủ Thủ tướng: PTT

Trung tâm lưu trữ: TTLT

Thành phố: Tp

Ủy ban nhân dân cách mạng: UBNDCM

Việt Nam Cộng hòa: VNCH

1

Page 3: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

MỤC LỤC

Trang phụ bìa ....................................................................................................i Lời cam đoan .....................................................................................................ii Lời cảm ơn ...................................................................................................... iii Mục lục ..............................................................................................................2 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT ......................................................... 0

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................ 6

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................. 9

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................... 10

4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................... 11

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN .................................................................... 12 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN..........................................................................12 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................... 13

1.1. Tình hình nghiên cứu ............................................................................. 13

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng nói chung. 13

1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ........................................................................... 18

1.1.3. Nhóm các công trình trực tiếp phản ánh hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ ........................................................ 19

1.2. Những vấn đề luận án kế thừa từ các công trình nghiên cứu đã xuất bản................................................................................................................... 30

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ..................................... 30

CHƯƠNG 2: KHÔI PHỤC VÀ BẢO VỆ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ (1954-1960) ............................................................... 32

2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ ....................................... 32

2

Page 4: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội ...................................................... 32

2.1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Trung Trung Bộ . 43

2.1.3. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình vận động Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp ....................... 48

2.2. Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung bộ (1954-1960) ................................................................................................................ 56

2.2.1. Âm mưu và thủ đoạn xóa bỏ căn cứ địa cách mạng của địch ............... 56

2.2.2. Chủ trương của ta .................................................................................. 59

2.2.3. Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...................................... 62

2.3. Cuộc đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ..................................... 73

* Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 78

CHƯƠNG 3: KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ (1961-1975). 80

3.1. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965) .......................................... 80

3.1.1. Tiếp tục củng cố các căn cứ địa miền núi, phát triển căn cứ địa ở vùng đồng bằng ........................................................................................................ 80

3.1.2. Đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa ........................................ 86

3.2. Chủ động xây dựng kết hợp với bảo vệ căn cứ địa cách mạng, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968) .............. 92

3.2.1. Phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng đáp ứng yêu cầu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ............................................................................... 92

3.2.2. Tổ chức chiến đấu, đánh thắng các cuộc hành quân càn quét của địch vào căn cứ ........................................................................................................ 98

3.2.3. Phát huy vai trò hậu phương tại chỗ của căn cứ địa cách mạng ......... 104

3.3. Khôi phục căn cứ địa cách mạng, tạo thế và lực mới góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (1969-1975) ........................................... 107

3

Page 5: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

3.3.1. Củng cố căn cứ địa cách mạng sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (1969-1973) ................................................................................. 107

3.3.2. Đẩy mạnh phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng (1973-1975) ........ 114

* Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 121

CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 124

4.1. Một số đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ ...... 124

4.1.1. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ phong phú về loại hình, đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức ........................................................... 124

4.1.2. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ thường xuyên có sự biến động ....................................................................................................................... 129

4.1.3. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp .................................................................................................. 131

4.1.4. Hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh ................................................... 133

4.2. Vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ ...................... 135

4.2.1. Nơi đứng chân và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy kháng chiến của Khu V và các tỉnh trên địa bàn ........................................... 135

4.2.2. Là hậu phương tại chỗ, trực tiếp bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các lực lượng kháng chiến; nơi nhân dân gửi gắm niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng .............................................................................. 137

4.2.3. Là bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT tổ chức các chiến dịch, trận đánh tiêu hao sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích ............... 139

4.2.4. Là nơi tiếp nhận sự chi viện bằng đường bộ, đường biển cho chiến trường Khu V, góp phần hình thành thế bao vây chia cắt, trực tiếp uy hiếp lực lượng của địch ở Trung Trung Bộ................................................................. 141

4.3. Một số bài học kinh nghiệm ................................................................ 144

4.3.1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải chú trọng đặc điểm địa – chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế, địa – văn hoá của địa phương .......................... 144

4

Page 6: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

4.3.2. Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng .................... 146

4.3.3. Tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng ......................................................................... 148

4.3.4. Xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện, kết hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng ........................................................... 152

4.3.5. Kết hợp đồng thời việc xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi với xây dựng căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, “lõm chính trị” trong nội đô ................................................................................................... 155

* Tiểu kết chương 4 ....................................................................................... 157

KẾT LUẬN .................................................................................................. 158

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................................................... 162

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 163

NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ ............................................................................. 1

5

Page 7: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh hay vận động cách mạng, vấn đề căn

cứ địa – hậu phương trở thành vấn đề mang tính quy luật, đồng thời là nhân tố

thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh, khởi nghĩa hay các cuộc

cách mạng. Tiến trình lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định

điều này. Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, trên cơ sở quán triệt và

vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng

vào nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng

Cộng sản Việt Nam hết sức chú trọng vấn đề xây dựng căn cứ địa, đây là một trong

những nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám

năm 1945 thắng lợi một phần là nhờ có Căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai, Căn cứ địa

Cao Bằng, Khu giải phóng Việt Bắc và hàng chục chiến khu trong cả nước. Bước

vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương

Đảng chọn và xây dựng Căn cứ địa Việt Bắc trở thành trung tâm đầu não của cuộc

kháng chiến. Nhiều vùng tự do, căn cứ địa – hậu phương đã được xây dựng trên

khắp cả nước: Thanh – Nghệ – Tĩnh, Nam – Ngãi – Bình – Phú, Đồng Tháp Mười,

U Minh, Chiến khu Đ… Đây là một nhân tố hết sức quan trọng đưa đến thắng lợi

của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954).

Từ năm 1954 đến 1975, để chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc

Mỹ – một nước đế quốc mạnh nhất thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến

nay, Đảng ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng để giải phóng miền Nam, bảo

vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

trong cả nước. Để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng to lớn này, ngoài việc xây dựng

miền Bắc thành hậu phương vững mạnh, thành căn cứ địa cách mạng của cả nước,

Đảng ta còn chủ trương xây dựng và phát triển hệ thống căn cứ địa trên các địa bàn

chiến lược ở miền Nam như Trị Thiên, Tây Nguyên, Trung Trung Bộ, Nam Trung

6

Page 8: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ… Do tác động của mục tiêu và nhiệm vụ cách

mạng đặt ra, cũng như các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội ở khu vực,

vùng miền mà ở miền Nam thời chống Mỹ có nhiều loại hình căn cứ địa với các quy

mô khác nhau. Mặt khác, các căn cứ địa cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ có

những điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều nét riêng do điều kiện lịch sử địa

phương quy định. Song, tất cả các căn cứ địa đã góp phần tạo ra tiềm lực to lớn

để quân và dân miền Nam đánh thắng các chiến lược chiến tranh xâm lược của

đế quốc Mỹ.

Với vai trò và vị trí to lớn trên đây, vấn đề căn cứ địa trở thành một phận hữu

cơ của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ. Đây là một đối

tượng lịch sử cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ vai trò và vị trí của một phương

thức chiến tranh cách mạng, góp phần làm sáng tỏ đầy đủ về lịch sử của cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại do dân tộc ta tiến hành. Vấn đề căn cứ địa thời

chống Mỹ không chỉ cần và phải được khôi phục, đánh giá một cách khách quan với

những biểu hiện của nó, mà còn phải làm rõ những điểm nổi bật có tính vùng miền

của các căn cứ địa trên các địa bàn chiến lược ở miền Nam.

Để góp phần thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên, vấn đề nghiên

cứu căn cứ địa cách mạng ở khu vực Trung Trung Bộ (bao gồm các tỉnh, thành phố:

Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) cũng đặt ra hết sức cần

thiết. Đây là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng ở Khu V; là cửa ngõ từ Biển

Đông vào miền Trung và Tây Nguyên; là bàn đạp để tỏa đi các hướng chiến lược và

các chiến trường khác, đồng thời cũng là điểm đầu tiếp nhận sự chi viện từ miền

Bắc vào bằng đường bộ và đường biển. Vì vậy, Trung Trung Bộ là địa bàn giao

tranh ác liệt giữa ta và địch. Tại đây, nhiều căn cứ địa cách mạng đã được xây dựng

như: Khu Sông Đà (Đà Nẵng), Nước Oa, Nước Là, Sơn – Cẩm – Hà, Tiên Sơn

(Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Tây (Quảng Ngãi), Núi Bà, Hòn Chè (Bình Định),

Thồ Lồ, Vân Hòa (Phú Yên)… Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã

hoàn thành tốt chức năng và nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn vào thắng lợi của

7

Page 9: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại địa bàn cũng như trong sự nghiệp kháng

chiến chống Mỹ nói chung của cả dân tộc.

Lịch sử hình thành, phát triển cùng những đóng góp của các căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ lâu đã thu hút

sự quan tâm của giới nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do khác nhau,

vấn đề căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ mới chỉ được đề cập một cách khái

lược trong các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên

chiến trường Khu V cũng như trong các công trình tổng kết lịch sử truyền thống địa

phương. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) sẽ mang lại nhiều ý nghĩa khoa học và

thực tiễn.

Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ quá trình hình thành, phát triển, vai trò,

vị trí, đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước. Qua đó, bổ sung một số tư liệu làm rõ vai trò lãnh đạo của các

cấp ủy Đảng đối với vấn đề căn cứ địa; sự linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động tổ

chức, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các vùng miền. Kết quả nghiên cứu sẽ góp

phần làm sáng tỏ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và chiến lược xây dựng

căn cứ địa đã được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước ở Trung Trung Bộ.

Kết quả nghiên cứu của luận án còn góp phần bổ sung kiến thức nghiên cứu

về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, đặc biệt là đối với

Trung Trung Bộ nói riêng.

Về ý nghĩa thực tiễn, từ những cứ liệu nghiên cứu để bước đầu rút ra những

bài học kinh nghiệm là một yêu cầu cần thiết nhằm phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ

xây dựng thế trận an ninh – quốc phòng trên địa bàn hiện nay. Kết quả nghiên cứu

của luận án cũng sẽ góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước và cách

mạng cho các tầng lớp nhân dân, là cơ sở để trùng tu và bảo tồn các di tích căn cứ

địa kháng chiến thời chống Mỹ. Đây còn là nguồn tài liệu quý báu để nghiên cứu và

dạy học về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở các bậc học.

8

Page 10: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn vấn đề Căn

cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) làm

đề tài nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu:

Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Phạm vi nghiên cứu:

Về thời gian: Từ năm 1954 đến năm 1975. Tuy nhiên, để việc trình bày nội

dung chính được logic, luận án có đề cập khái quát các căn cứ địa cách mạng trước

năm 1954.

Về không gian: Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, địa bàn Trung

Trung Bộ bao gồm các địa phương: Quảng Nam – Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình

Định, Phú Yên. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ tháng 7-1962, chính quyền

Việt Nam Cộng hòa chia Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai tỉnh Quảng Nam và

Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam gồm 9 quận: Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Đức

Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Hòa Vang, Quế Sơn, Thượng Đức và thị xã Đà Nẵng.

Tỉnh Quảng Tín gồm 6 quận: Hậu Đức, Hiệp Đức, Lý Tín, Tam Kỳ, Tiên Phước và

Thăng Bình. Về phía chính quyền cách mạng, từ cuối năm 1962 đến năm 1967, tỉnh

Quảng Nam – Đà Nẵng được tách lại thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà. Tỉnh

Quảng Nam (chính quyền Việt Nam Cộng hòa gọi là tỉnh Quảng Tín) gồm các

huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, Phước Sơn, Trà My. Tỉnh

Quảng Đà (địch gọi là tỉnh Quảng Nam) gồm các huyện Hòa Vang, Đại Lộc, Điện

Bàn, Duy Xuyên, Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, thị xã Hội An và thành phố

Đà Nẵng. Từ năm 1964 đến tháng 11-1967, thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy V,

thành phố Đà Nẵng tách ra khỏi tỉnh Quảng Đà, gồm 3 quận: quận Nhất, quận Nhì

và quận Ba. Tháng 11-1967, trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân,

tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng hợp nhất thành Đặc khu Quảng Đà. So với

các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, mặc dù Quảng Nam – Đà Nẵng là địa

bàn trải qua nhiều lần tách, nhập, song về cơ bản địa giới hành chính của địa

9

Page 11: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

phương này không thay đổi. Do vậy, từ đây đến khi kết thúc cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước, Trung Trung Bộ bao gồm: Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng

Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

Như vậy, về cơ bản địa bàn Trung Trung Bộ không có sự thay đổi, chủ yếu

vẫn bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,

Phú Yên.

Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về căn cứ địa cách

mạng trong chiến tranh giải phóng; những yếu tố tác động đến quá trình phục hồi,

xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa (điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư,

tình hình kinh tế – xã hội, truyền thống lịch sử; tình hình xây dựng căn cứ địa trước

khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ); những âm mưu, thủ đoạn đánh phá căn

cứ của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa; chủ trương của Đảng về xây dựng

căn cứ địa trong mỗi giai đoạn cách mạng; hoạt động xây dựng căn cứ về các mặt:

chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội; các cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ; đặc

điểm, vai trò và một số bài học đúc rút từ quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa

cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục đích:

Nghiên cứu, phục dựng một cách căn bản và tương đối đầy đủ về hệ thống căn

cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy,

giáo dục truyền thống và bổ sung tư liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

của quân và dân trên địa bàn. Bên cạnh đó, luận án góp phần cung cấp những luận

cứ cho việc xây dựng thế trận an ninh – quốc phòng ở địa bàn Trung Trung Bộ

trong tình hình mới.

Nhiệm vụ:

Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung giải quyết một số nhiệm vụ

chủ yếu sau:

- Luận giải và làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ

và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ.

10

Page 12: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

- Phân tích những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng

hòa trong việc xóa bỏ căn cứ địa; chủ trương, biện pháp xây dựng và bảo vệ căn cứ

địa cách mạng của Trung ương Đảng và đảng bộ các địa phương; hoạt động của

quân và dân các tỉnh Trung Trung Bộ trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy

vai trò của căn cứ địa, hậu phương tại chỗ.

- Luận giải và làm rõ những đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung

Trung Bộ đặt trong mối quan hệ đối sánh với căn cứ địa ở một số vùng miền; đúc

rút những bài học kinh nghiệm về xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung

Trung Bộ.

4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nguồn tư liệu bao gồm:

- Các văn kiện: Hệ thống các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà

nước và Quân đội nhân dân Việt Nam về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Tác phẩm của các vị lãnh tụ và lãnh đạo: Tác phẩm của Hồ Chí Minh, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội về cách mạng giải phóng dân tộc, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc.

- Tài liệu lưu trữ: Các tài liệu liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hiện được lưu trữ ở Bộ Tư lệnh Quân khu V; Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí Minh; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam; Viện Lịch sử Đảng; Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

- Các công trình nghiên cứu đã công bố: Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Viện Mác – Lênin, Viện Lịch sử Đảng; Các chuyên khảo, bài viết, báo cáo khoa học đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành trong những năm gần đây; Các công trình Lịch sử Đảng bộ, Lịch sử kháng chiến và Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân địa phương các tỉnh, thành phố, quận (huyện) trên địa bàn; Các luận án, luận văn về đề tài căn cứ địa cách mạng đã được bảo vệ và xuất bản.

- Tài liệu khảo sát thực tế: Tài liệu khảo sát thực địa tại các di tích căn cứ địa

cách mạng trên địa bàn nghiên cứu.

11

Page 13: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

- Các hồi ký cách mạng: Hồi ký và lời kể của các cán bộ lão thành cách mạng, nhân chứng lịch sử sống và hoạt động ở địa bàn Trung Trung Bộ.

Phương pháp nghiên cứu:

Kết hợp sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu. Ngoài

ra, trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng một số phương pháp: so sánh, thống kê,

phân tích, tổng hợp, khái quát trên cơ sở khảo cứu các nguồn tư liệu văn bản, thực

địa và tiếp xúc nhân chứng lịch sử. Riêng đối với nguồn tư liệu khai thác từ các

nhân chứng lịch sử, tác giả tiến hành đối chiếu, so sánh với các tư liệu văn bản để

chọn lọc, khai thác những thông tin có giá trị tin cậy.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

- Luận án phục dựng một cách tổng thể về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Thông qua những phân tích, luận giải có tính khoa học, luận án khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong quá trình vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa, hậu phương vào thực tiễn cách mạng ở Trung Trung Bộ.

- Đánh giá một cách tương đối khách quan về vai trò của căn cứ địa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung Trung Bộ.

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy lịch sử kháng chiến chống Mỹ, lịch sử địa phương và giáo dục truyền thống ở Trung Trung Bộ.

6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN

Ngoài Mở đầu (7 trang), Kết luận (4 trang), Danh mục các công trình khoa học

liên quan đã công bố (1 trang), Tài liệu tham khảo (15 trang), Phụ lục (34 trang),

nội dung chính của luận án được chia làm 4 chương.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu (19 trang)

Chương 2: Khôi phục và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

(1954-1960) (48 trang)

Chương 3: Kết hợp xây dựng với bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ (1961-1975) (44 trang)

Chương 4: Đặc điểm, vai trò và bài học kinh nghiệm (34 trang)

12

Page 14: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu

Liên quan đến nội dung luận án đã có một số công trình trong nước phản ánh,

đề cập với nhiều cấp độ và từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, tựu trung lại

có thể khu trú vào các nhóm như sau:

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng nói chung

Vấn đề căn cứ địa được đề cập trước hết phải kể đến là công trình Chiến thuật

du kích của Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia,

HN, 2011) và Chọn căn cứ địa của Trường Chinh (Cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân Việt Nam, Tập 1, Nxb Sự Thật, HN, 1976). Các công trình này xác định

căn cứ địa là nơi có địa thế hiểm yếu, vừa có lợi cho việc tiến công, vừa có lợi cho

việc phòng ngự của lực lượng du kích. Việc xây dựng căn cứ địa gắn liền với xây

dựng lực lượng vũ trang (LLVT). Một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định

trong việc lựa chọn địa bàn xây dựng căn cứ địa là phải có sự ủng hộ, giúp đỡ của

đông đảo quần chúng nhân dân.

Vấn đề căn cứ địa còn được đề cập khá cụ thể ở một số công trình, trong đó

có thể kể đến là Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng của Võ Nguyên Giáp

(Viện Khoa học Quân sự, HN, 1974). Ở công trình này, tác giả đã khái quát những

đặc trưng cơ bản của căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng; phân tích

và luận giải về vai trò của căn cứ địa cách mạng. Trong đó, nhấn mạnh sự cần thiết

phải giải quyết vấn đề xây dựng địa bàn đứng chân và tiềm lực kháng chiến, nếu

không có đường lối đúng đắn để thực hiện vấn đề này thì không thể tiến hành chiến

tranh cách mạng lâu dài nhằm đi đến thắng lợi. Tác giả khẳng định chỗ đứng chân

của cách mạng để tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh là cơ sở chính trị, căn cứ địa,

hậu phương. Đây là vấn đề quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng. Bên cạnh

đó, tác giả cũng vạch ra quy luật hình thành và phát triển của cơ sở chính trị, căn cứ

13

Page 15: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

địa, hậu phương trong chiến tranh nhân dân ở nước ta là phải triệt để dựa vào nhân

dân, đi từ xây dựng cơ sở chính trị của quần chúng đến xây dựng căn cứ địa, hậu

phương từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn

chỉnh. Bài giảng xác định trong chiến tranh nhân dân rộng lớn, địa bàn nông thôn là

chỗ dựa vững chắc và lâu dài của cách mạng. Do vậy, việc xây dựng căn cứ địa, hậu

phương vững mạnh ở nông thôn rừng núi và đồng bằng là yêu cầu “có tính chất

chiến lược của chiến tranh nhân dân” [103, tr. 231]. Ngoài ra, cũng phải hết sức coi

trọng việc xây dựng cơ sở chính trị ở thành thị. Có xây dựng được căn cứ địa, hậu

phương tại chỗ ở khắp nơi, cách mạng mới có thể xây dựng, phát huy được tiềm lực

của từng địa phương, từng chiến trường để đánh địch một cách rộng khắp, tạo thành

thế cài răng lược giữa ta và địch. Do đó, có thể uy hiếp và tiến công địch một cách

thường xuyên. Tập Bài giảng đường lối quân sự của Đảng thể hiện sự chỉ đạo hết

sức sâu sắc của Võ Nguyên Giáp đối với vấn đề xây dựng căn cứ địa – hậu

phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong công trình Nghiên cứu văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước của

Viện Mác – Lênin và Viện Lịch sử Quân sự – Bộ Quốc phòng, (Nxb Sự Thật, HN,

1986) có bài Vấn đề hậu phương – căn cứ địa và tuyến hậu cần chiến lược trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Ngô Vi Thiện. Bài viết phân tích chủ trương

của Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, xây

dựng căn cứ địa ở chiến trường miền Nam và tuyến hậu cần vận tải – chiến lược

trong kháng chiến chống Mỹ.

Căn cứ địa cách mạng: truyền thống và hiện tại của Văn Tạo đăng trên Tạp

chí Lịch sử quân sự số 4-1995, phân tích nội dung và bản chất của căn cứ địa cách

mạng. Trong đó, tác giả luận giải điều kiện hình thành căn cứ địa, tính chất dân tộc

và cách mạng của căn cứ địa thể hiện trên các mặt: địa – chính trị, địa – quân sự, địa

– kinh tế, địa – văn hóa; đặc điểm, vai trò của căn cứ địa cách mạng trong hai cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Nhìn chung, những công trình trên đã khái quát những điều kiện hình thành

cũng như việc lựa chọn địa bàn xây dựng căn cứ địa; đồng thời luận giải, phân tích

14

Page 16: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

vai trò của căn cứ địa trong chiến tranh giải phóng. Những vấn đề mang tính lý luận

này sẽ trở thành tư tưởng chỉ đạo và “kim chỉ nam” cho quá trình xây dựng, bảo vệ

và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng.

Vấn đề căn cứ địa cách mạng cũng được đề cập cụ thể hơn trong một số công

trình lịch sử trong đó có thể kể đến như: Quân khu 5. Thắng lợi và những bài học

trong kháng chiến chống Mỹ, Tập Hai, (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1982); Tổng

kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học (Nxb Chính trị

Quốc gia, HN, 1996); Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975). Thắng lợi và

bài học (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2000). Đây là những công trình tổng kết sự

lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong đó tập

trung vào một số nội dung cơ bản và cốt yếu: đường lối chiến lược, sách lược và

phương pháp cách mạng; những bài học kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình

tiến hành chiến tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch

Hồ Chí Minh. Ở các công trình này, vấn đề căn cứ địa được luận giải, phân tích

dưới góc độ là “một vấn đề lớn trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”

[11, tr. 237], “vấn đề cốt tử trong chiến tranh cách mạng” [61, tr. 161]. Vai trò của

căn cứ địa trong quá trình kháng chiến được làm rõ: là nơi đứng chân của các cơ

quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến, nơi xây dựng lực lượng cách mạng; là bàn đạp

xuất phát của LLVT tiến công địch, nơi tiếp nhận mọi nguồn chi viện và khai thác

tại chỗ ngày càng nhiều sức người sức của phục vụ cho nhu cầu chiến trường. Một

trong những bài học cơ bản được các công trình luận giải khá sâu sắc là phải dựa

vào nhân dân, phát huy sức mạnh nhân dân trong xây dựng và bảo vệ căn cứ vững

mạnh. Đánh giá về vấn đề xây dựng hệ thống căn cứ địa và hậu phương trong hai

cuộc kháng chiến, các công trình khẳng định đây là bước phát triển mới về lý luận

chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) gồm 9 tập của Bộ

Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật,

HN, 2013) là công trình nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước. Ở Tập IX của bộ sách này có đề cập khá sâu vấn đề căn cứ

15

Page 17: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

địa cách mạng ở miền Nam với tư cách là “nhân tố trực tiếp bảo đảm thắng lợi của

cuộc kháng chiến chống Mỹ ”[44, tr. 368]. Công trình khái quát những đóng góp

của căn cứ địa cách mạng miền Nam: cung cấp sức người, sức của cho chiến

trường; cơ sở để xây dựng, duy trì và phát triển lực lượng cách mạng; địa bàn đứng

chân của bộ đội chủ lực; một trong những nhân tố cơ bản để xây dựng thế chiến

lược của chiến tranh nhân dân; nơi tiếp nhận, bảo quản, phân phối vũ khí, phương

tiện chiến tranh, hàng hóa từ miền Bắc chi viện cho miền Nam; một trong những

nhân tố cơ bản để xây dựng và tăng cường tiềm lực, sức mạnh của cách mạng. Tuy

nhiên, do đối tượng nghiên cứu và phạm vi phản ánh rộng, bao gồm các chiều cạnh

của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nên vấn đề căn cứ địa cách mạng chỉ

được đề cập, phản ánh một cách khái lược, chủ yếu tập trung vào đánh giá vai trò của

căn cứ địa cách mạng, chưa có điều kiện tập trung khảo cứu quá trình phát triển cũng

như đặc điểm của căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Dưới góc độ nghiên cứu sâu về hậu phương – căn cứ địa trong chiến tranh

cách mạng Việt Nam, cuốn Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-

1975) (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1997) là công trình nghiên cứu có tính chất hệ

thống và toàn diện nhất về quá trình xây dựng và phát huy vai trò của hậu phương

trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Công

trình tập trung kiến giải về vai trò của các căn cứ địa cách mạng với tư cách là hậu

phương tại chỗ ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ; đồng thời khẳng định

hậu phương tại chỗ là một trong những nhân tố cơ bản để xây dựng và tăng cường

tiềm lực, sức mạnh của cách mạng và phát triển chiến tranh nhân dân trên khắp ba

vùng chiến lược. Thế và lực của cách mạng có thể chuyển hóa từ yếu sang mạnh

dựa trên cơ sở của việc xây dựng hệ thống căn cứ địa – hậu phương vững chắc.

Công trình đặc biệt nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong việc xây dựng căn cứ địa

– hậu phương vững mạnh: nói đến căn cứ địa – hậu phương là nói đến vai trò của

nhân dân, căn cứ địa – hậu phương vững chắc trước hết và chủ yếu là ở lòng dân.

Có dân là có tất cả [33, tr. 281- 282].

16

Page 18: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trên Tạp chí Phát triển Nhân lực số 3(29)-2012 có bài viết Căn cứ địa, một

biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong 30 năm chiến tranh giải

phóng của Trần Đơn, đã luận giải về vấn đề căn cứ địa; đồng thời khái quát làm nổi

bật vai trò của căn cứ địa trong chiến tranh cách mạng Việt Nam: đó là khu vực tập

kết các cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến; nơi đứng chân và tổ chức chiến

đấu, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy; nơi củng cố và huấn luyện các LLVT

cách mạng của toàn miền, khu và các địa phương; là đầu mối các hành lang chiến

lược, là chỗ dựa tin cậy của các lực lượng kháng chiến, nơi bảo đảm một phần quan

trọng tiềm lực của cuộc kháng chiến; là chỗ dựa, nơi bày thế trận tiêu diệt đối

phương tại chỗ; đồng thời làm nơi xuất phát, bàn đạp cho các lực lượng kháng chiến

tiến công địch ngoài căn cứ…[102, tr. 36-37-38]. Tác giả bài viết khẳng định:

“Trong chiến tranh cách mạng Việt Nam, căn cứ địa đã tồn tại như một biểu tượng

của cuộc kháng chiến, tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh tinh thần của toàn dân; là chỗ

dựa về mặt chính trị tinh thần, nơi hướng về, hy vọng và khích lệ đồng bào khắp

nơi kháng chiến” [102, tr. 39]. Tuy nhiên, do phạm vi bài đăng trên tạp chí bị giới

hạn bởi dung lượng, nên còn nhiều nội dung về căn cứ địa cách mạng chưa được

khảo cứu.

Tóm lại, qua các công trình nêu trên, những vấn đề lý luận về căn cứ địa đã

được làm sáng tỏ bao gồm: xây dựng căn cứ địa là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa

quyết định đối với thắng lợi của chiến tranh nhân dân; địa bàn được lựa chọn để xây

dựng căn cứ phải đảm bảo thế tiến công và phòng ngự của LLVT; quy luật xây

dựng căn cứ là phải dựa vào nhân dân; vai trò của căn cứ địa đối với cuộc kháng

chiến chống Mỹ: địa bàn đứng chân của lực lượng kháng chiến, bàn đạp xuất phát

tiến công địch của LLVT, hậu phương tại chỗ của chiến tranh nhân dân… Những

vấn đề mang tính lý luận trên đây sẽ là cơ sở cho việc hoạch định đường lối kháng

chiến và thực tiễn chỉ đạo hoạt động xây dựng, bảo vệ, phát huy vai trò của căn cứ

địa cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

17

Page 19: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng ở miền

Nam trong kháng chiến chống Mỹ

Chủ đề căn cứ địa cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ nói

chung cũng đã được khảo cứu trong một số công trình nghiên cứu, luận án Tiến sĩ

lịch sử:

Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945-1954),(Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

1996) của Hồ Sơn Đài là công trình nghiên cứu quá trình xây dựng, đặc điểm phát

triển và luận giải vai trò quan trọng của các chiến khu đối với cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Căn cứ địa kháng chiến

chống Mỹ ở miền Đông Nam Bộ (1954-1975), luận án Tiến sĩ Lịch sử của Trần Thị

Nhung, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, 2001 đã đi sâu khảo cứu

khá công phu về tổ chức và hoạt động của các căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ

trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975). Căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh trong

chiến tranh giải phóng (1945-1975) của Bộ Tư lệnh (BTL) Quân Khu 7 – Tỉnh ủy

Tây Ninh (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2002) là tập hợp những bài viết của nhiều

tác giả về quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng

ở Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ. Căn cứ địa U Minh trong hai cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), luận án Tiến sĩ

Lịch sử của Trần Ngọc Long, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, 2006 là công trình

nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp của Căn cứ địa U

Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược

(1945-1975). Căn cứ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Cực Nam Trung Bộ (1954-

1975), luận án Tiến sĩ lịch sử của Chu Đình Lộc, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam,

2011 đi sâu nghiên cứu về quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của các

căn cứ kháng chiến ở Cực Nam Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1954-

1975). Kỷ yếu hội thảo khoa học Căn cứ địa cách mạng tỉnh Bình Thuận trong 30

năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) của Quân Khu 7 và Tỉnh ủy Bình Thuận,

tháng 8-2012 là tập hợp các bài viết về quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai

18

Page 20: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

trò của căn cứ địa cách mạng ở Bình Thuận trong hai cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Nhìn chung, đây là những công trình chuyên khảo về một số căn cứ địa cụ thể

tiêu biểu ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bằng nhiều cách tiếp

cận, phân tích và luận giải khác nhau, các công trình nêu trên đều tập trung làm rõ

những nội dung thuộc về, hoặc liên quan đến căn cứ địa cách mạng như: bối cảnh ra

đời; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với sự thành lập và

hoạt động của các căn cứ địa cách mạng; cuộc đấu tranh bảo vệ và phát huy vai trò

của căn cứ địa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đặc điểm của các

căn cứ địa; những bài học kinh nghiệm được rút ra và vận dụng trong sự nghiệp bảo

vệ Tổ quốc hiện nay. Qua việc nghiên cứu những công trình kể trên, tác giả có điều

kiện kế thừa về mặt phương pháp luận trong nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng.

Hơn nữa, đây cũng là một hệ thống tư liệu quý để tác giả thực hiện việc so sánh, đối

chiếu, trên cơ sở đó rút ra những đặc điểm riêng của địa phương.

1.1.3. Nhóm các công trình trực tiếp phản ánh hoạt động xây dựng và bảo

vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (Nxb Quân đội nhân dân,

1975) là công trình phục dựng tương đối có hệ thống và toàn diện về cuộc khởi

nghĩa Trà Bồng và phong trào cách mạng ở miền Tây Quảng Ngãi trong những năm

1954-1960. Liên quan đến vấn đề căn cứ địa, công trình phản ánh cuộc chiến đấu

chống lại các hoạt động càn quét của địch, bảo vệ căn cứ địa cách mạng của quân

dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi; đồng thời tái hiện khá rõ hoạt động xây

dựng, củng cố Căn cứ địa Trà Bồng trên các mặt kinh tế, văn hóa, giáo dục.

Khu 5 – 30 năm chiến tranh giải phóng (Tập II, Tập III) của Trần Quý Cát

(BTL Quân Khu 5 xuất bản năm 1989) và Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975)

của Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (Nxb Chính trị Quốc

gia, HN, 1995) là những công trình chủ yếu phục dựng một cách cơ bản cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn các tỉnh thuộc Khu V và Nam Trung Bộ.

Trong các công trình này, chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng,

19

Page 21: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

quá trình ra đời, hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng của quân dân các

tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên được

trình bày một cách khái lược, đan xen với diễn biến của cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước trên địa bàn Khu V và Nam Trung Bộ.

Những sự kiện lịch sử hậu cần chiến trường Khu V (1954-1975) của Cục hậu

cần – Quân Khu 5 (Nxb Đà Nẵng, 1989) và Công tác Đảng, công tác chính trị

LLVT Quân Khu V (1945-2000) – Biên niên, Tập 2, Quyển 1 (1954-1965) của Đảng

ủy – BTL Quân Khu V (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2002) là các công trình chứa

đựng những thông tin thuộc về hoặc liên quan đến vấn đề căn cứ địa được trình bày

dưới hình thức biên niên lịch sử bao gồm: chủ trương về xây dựng căn cứ địa cách

mạng của Liên Khu ủy V và Đảng bộ các địa phương; hoạt động xây dựng, đấu

tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng của Khu V, của các địa phương ở Trung Trung

Bộ; các hoạt động sản xuất lương thực, vũ khí, tiếp nhận, vận chuyển hàng chi viện

của miền Bắc cho chiến trường Khu V.

Trong công trình Một số kinh nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa

phương ở Khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của BTL Quân

Khu 5 – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 1999), các

tác giả khái quát về đặc điểm tình hình và những bước phát triển của chiến tranh

nhân dân trên địa bàn Khu V. Qua đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm về chỉ đạo

chiến tranh nhân dân ở địa phương trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đánh

giá quá trình xây dựng căn cứ địa cách mạng trên chiến trường Khu V, công trình

nhận định đây là “vấn đề chiến lược cơ bản trong chỉ đạo chiến tranh” [51, tr. 125].

Bàn về vấn đề căn cứ địa, hậu phương trực tiếp trên chiến trường Khu V, các tác giả

chỉ rõ: “căn cứ địa là những vùng ta đã giải phóng và đã được xây dựng toàn diện cả

về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” [51, tr. 140]; việc xây dựng căn cứ

địa phải đáp ứng yêu cầu liên hoàn, nhiều huyện, nhiều tỉnh nhằm đảm bảo mọi nhu

cầu xây dựng và chiến đấu cho các lực lượng bám trụ và chiến đấu. Dựa trên thực

tiễn chiến đấu ở chiến trường Khu V, công trình đưa ra một số kiến giải về điều

kiện để xây dựng căn cứ địa, đó là: có cơ sở chính trị vững chắc, có LLVT mạnh, có

20

Page 22: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

địa hình thuận lợi để tiến công và phòng thủ, có khả năng tối thiểu về đảm bảo cơ

sở vật chất, kỹ thuật. Đối với Khu V, địa bàn để xây dựng các căn cứ địa là Tây

Nguyên và miền Tây các tỉnh ven biển Nam – Ngãi – Bình – Phú. Có thể xem đây

là công trình đã đề cập tương đối sâu về căn cứ địa cách mạng trên địa bàn Khu V.

Chuyên đề Xây dựng và bảo vệ hệ thống căn cứ địa phương trên chiến trường

Khu 5 trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975) do Bộ Tổng Tham mưu

biên soạn (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2001) có thể được coi là công trình tổng

kết có tính chất chuyên khảo đi sâu phân tích quá trình hình thành, xây dựng và bảo

vệ căn cứ địa cách mạng trên địa bàn Khu V; qua đó rút ra một số bài học kinh

nghiệm: xây dựng hệ thống căn cứ liên hoàn cả ở rừng núi và đồng bằng đảm bảo

cho yêu cầu phát triển của từng giai đoạn kháng chiến; từ những căn cứ địa nhỏ lẻ,

phát triển thành hệ thống căn cứ địa liên hoàn, hình thành hậu phương tại chỗ; xây

dựng đi đôi với bảo vệ căn cứ địa; căn cứ địa – hậu phương tại chỗ phải đáp ứng

yêu cầu chiến đấu và xây dựng của từng thời điểm chiến tranh. Đây là một chuyên

đề tổng kết; vả lại do địa bàn phản ánh khá rộng (bao gồm cả Tây Nguyên) nên

những nội dung được đề cập đều mang tính khái quát, sơ lược. Đặc biệt là quá

trình hình thành, phát triển, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng căn cứ địa ở các

tỉnh, thành phố thuộc Trung Trung Bộ chưa được đi sâu nghiên cứu một cách có

hệ thống.

Công trình Vành đai diệt Mỹ trên chiến trường Khu 5 – một sáng tạo của

chiến tranh nhân dân Việt Nam của BTL Quân Khu 5 – Viện Lịch sử Quân sự Việt

Nam (Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2002) cũng đề cập đến căn cứ địa cách mạng

thông qua cách tiếp cận từ việc khảo cứu các “căn cứ lõm”0F

1 trong hoạt động của

“vành đai diệt Mỹ”. Một số bài viết trong cuốn sách đã tập trung luận giải sự khác

nhau giữa “căn cứ lõm” và căn cứ chiến đấu; đồng thời nêu bật vai trò của một số

1 Căn cứ lõm, căn cứ của lực lượng kháng chiến nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ; xuất hiện trong chiến tranh nhân dân Việt Nam để đấu tranh chống địch có hiệu quả. Căn cứ lõm thường có quy mô không lớn nhưng chiếm giữ vị trí xung yếu mà lực lượng kháng chiến dựa vào đó để xây dựng và phát triển lực lượng phục vụ cho đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang trong vùng địch hậu (Bộ Quốc phòng – Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (2007), Từ điển thuật ngữ Quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, HN, tr. 96)

21

Page 23: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

“căn cứ lõm” tiêu biểu như: Đa Mặn – Mỹ Thị, Thạc Gián ở Đà Nẵng trong những

năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, đây là một cuốn kỷ yếu Hội

thảo; hơn nữa đối tượng nghiên cứu là “Vành đai diệt Mỹ” nên vấn đề căn cứ địa

cũng chưa được phản ánh nhiều.

Công trình Lịch sử Quân sự Việt Nam, Tập 11: Cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954-1975) của Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (Nxb

Chính trị Quốc gia, HN, 2005) cũng đề cập một cách khái lược đến sự hình thành

của một số căn cứ địa cách mạng ở Hiên (Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ

(Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma Dú (Phú Yên), Bác Ái (Ninh

Thuận), trong đó tập trung vào hoạt động đấu tranh chống địch dồn dân, bảo vệ căn

cứ địa cách mạng của đồng bào Vĩnh Thạnh (2-1959), cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và

miền Tây Quảng Ngãi (8-1959).

Công trình Lịch sử Giao bưu – Thông tin các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh

Thuận và Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) do Bộ Bưu

chính Viễn thông – Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam biên soạn (Nxb

Bưu Điện, 2005) cung cấp những thông tin về quá trình hình thành, xây dựng và

phát triển của các tuyến hành lang, mạng lưới giao bưu, thông tin nội tỉnh, liên tỉnh

phục vụ đưa đón cán bộ, liên lạc, chuyển tài liệu về căn cứ ở các tỉnh từ Quảng Trị

đến Ninh Thuận và Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Công trình Lịch sử ngành hậu cần LLVT tỉnh Phú Yên (1945-1975) do Đảng

ủy – Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Yên xuất bản năm 2005 đã luận giải về quá trình

hình thành các căn cứ địa cách mạng ở Phú Yên cũng như hoạt động tiếp nhận, cất

giấu, vận chuyển vũ khí, thuốc men của Trung ương tại Vũng Rô theo tuyến

đường Hồ Chí Minh trên biển; công tác sản xuất tự cấp, tự túc, công tác quân y,

vấn đề sản xuất vũ khí ở các căn cứ địa trên địa bàn Phú Yên trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước.

Công trình Lịch sử An ninh Khu V thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

(1954-1975) của Bộ Công an – Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân –

22

Page 24: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Viện Lịch sử Công an, (Nxb Công an nhân dân, 2008) phản ánh sự chỉ đạo, lãnh

đạo của Ban An ninh Khu V đối với hoạt động bảo vệ Đảng, bảo vệ vùng giải

phóng và căn cứ địa cách mạng. Bên cạnh đó, một số cuộc chiến đấu chống địch

càn quét, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng của khu, của các tỉnh thuộc Trung

Trung Bộ cũng được trình bày tương đối cụ thể trong công trình này.

Công trình Quá trình xây dựng và truyền thống của Ban Tổ chức Liên Khu ủy

V (1945-1975) (Ban liên lạc Ban tổ chức Liên Khu ủy V xuất bản năm 2008) đi sâu

làm rõ một số nội dung liên quan đến hoạt động xây dựng căn cứ địa bao gồm:

chuẩn hóa địa điểm đóng cơ quan của Liên khu V, Khu ủy V trong kháng chiến

chống Mỹ; diễn biến cuộc chiến đấu bảo vệ Mật khu Đỗ Xá (4-1963); phong trào

xây dựng làng chiến đấu; hoạt động sản xuất và huy động sự đóng góp của nhân

dân đối với cuộc kháng chiến.

Trong các công trình Lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình

Định (1954-1975) (Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định xuất bản năm 1996); Lịch sử

Phú Yên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) (Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy

Phú Yên ấn hành năm 1996); Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1954-1975) (Nxb,

Chính trị Quốc gia, HN, 1999); Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-

1975) (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2006), vấn đề căn cứ địa cách mạng được phản

ánh ở nhiều khía cạnh: chủ trương của Đảng bộ địa phương về xây dựng căn cứ địa

cách mạng; hoạt động chiến đấu của LLVT và nhân dân chống các cuộc hành quân

càn quét của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH), bảo vệ căn cứ địa; một

số thành quả trong quá trình xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng trên các lĩnh vực

quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu khá

rộng nên những nội dung liên quan đến vấn đề căn cứ địa cũng chỉ được trình bày

một cách khái lược, không đầy đủ. Quá trình ra đời, quy mô, nhiệm vụ, vai trò của

từng căn cứ địa chưa được làm rõ. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu chủ yếu dựa

trên nguồn tư liệu của chính quyền cách mạng mà chưa có sự khai thác tài liệu của

chính quyền VNCH để có sự so sánh, đối chiếu, kiểm chứng nhằm phân tích một

cách khách quan khoa học về âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch đối với các căn

23

Page 25: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cứ địa cách mạng; địa điểm đóng cơ quan; tổ chức hoạt động, vai trò của các căn cứ

địa… Tuy nhiên, đây vẫn là nguồn tài liệu chính thống cung cấp những tư liệu, sự

kiện, những đánh giá có giá trị tin cậy cao đối với tác giả trong quá trình thực hiện

luận án.

Các công trình của LLVT cấp tỉnh: Quảng Ngãi Lịch sử chiến tranh nhân dân

30 năm (1945-1975), (Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình và Bộ Chỉ huy Quân sự Nghĩa

Bình,1988); Bình Định Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), (Bộ Chỉ

huy Quân sự tỉnh Bình Định xuất bản năm 1992); Phú Yên 30 năm chiến tranh giải

phóng (1945-1975), (Bộ Chỉ huy Quân sự Phú Yên xuất bản năm 1993); Lịch sử

LLVT nhân dân tỉnh Quảng Nam, Tập II (1954-1975) (Nxb Quân đội nhân dân, HN,

2003) cũng đề cập một số nội dung thuộc về hoặc liên quan đến vấn đề căn cứ địa

bao gồm: chủ trương của Đảng bộ địa phương đối với công tác xây dựng căn cứ địa

cách mạng, âm mưu và thủ đoạn đánh phá của Mỹ và chính quyền VNCH đối với

các căn cứ, các cuộc chiến đấu của LLVT và nhân dân làm thất bại các cuộc càn

quét lớn của địch vào căn cứ địa, phong trào bố phòng chiến đấu bảo vệ căn cứ

địa... Tuy nhiên, ở các công trình này, vấn đề căn cứ địa cách mạng cũng chỉ được

đề cập, phản ánh một cách khái lược chủ yếu trên lĩnh vực quân sự; các hoạt động

xây dựng căn cứ địa cách mạng về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội hầu như chỉ

được đề cập thoảng qua.

Ngoài các công trình kể trên, còn có một số bài báo đăng trên các tạp chí

chuyên ngành đề cập đến hoạt động xây dựng căn cứ địa ở Khu V nói chung, hoặc

một số căn cứ tiêu biểu ở các địa phương.

Bài Tìm hiểu quá trình hình thành căn cứ địa miền núi Khu V trong kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước của Trần Hữu Đính, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3-

1986 đã phân tích, luận giải âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch đối với miền

núi Khu V; nhấn mạnh chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng,

quá trình phát triển các “khu bất hợp pháp” thành những căn cứ đứng chân vững

chắc của cách mạng như căn cứ Tung Bủng, Cô Sia, Tân Túc, Đắc Min, xã Đoàn,

xã Hiếu (Kon Tum), huyện 2, huyện 7 (An Khê), Nam – Bắc đường 9 (Trị Thiên),

24

Page 26: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ (Quảng Ngãi), Tây Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma

Dú (Phú Yên), huyện Hiên (Quảng Nam); đồng thời trình bày khái quát diễn

biến một số cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng căn cứ địa của quân dân Bác Ái

(Ninh Thuận), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Trà Bồng (Quảng Ngãi) trong giai

đoạn 1954-1960.

Đi sâu phản ánh các hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở miền

núi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng có bài Vai trò của các dân tộc ít người ở miền núi

tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) của

Nguyễn Tiến Hỷ, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 4-1987. Ở bài viết này, tác giả phân

tích làm nổi bật những đóng góp to lớn của các dân tộc miền núi Quảng Nam – Đà

Nẵng trong phong trào khởi nghĩa vũ trang và xây dựng căn cứ địa đầu tiên của tỉnh.

Bài Về khởi nghĩa từng phần ở miền núi Khu V năm 1959 của Nguyễn Văn

Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng số 1-1988 đã luận giải bối cảnh ra đời và vai trò của

các căn cứ địa cách mạng ở miền núi Khu V đối với cuộc Đồng khởi (1959-1960)

như: Tung Bủng, Tân Túc, Đắc Min, xã Đoàn, xã Hiếu (Kon Tum), huyện 2, huyện

7 (An Khê), Nam – Bắc đường 9 (Trị Thiên), Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ (Quảng

Ngãi), Tây Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ, Ma Dú (Phú Yên), huyện Hiên

(Quảng Nam)… Bên cạnh đó, bài viết cũng phân tích tác động của cuộc khởi nghĩa

từng phần của nhân dân miền núi Khu V, mà đỉnh cao là khởi nghĩa Trà Bồng đối

với việc bảo vệ và phát triển căn cứ địa cách mạng ở miền núi.

Bài Căn cứ Nước Là – Mật khu Đỗ Xá của Trần Văn Giáp, Tạp chí Lịch sử

Quân sự tháng 8-2011 đã tập trung khảo cứu một căn cứ cụ thể, trong đó đi sâu

phân tích vị trí chiến lược của Căn cứ Nước Là – Mật khu Đỗ Xá, sự chỉ đạo của

Liên Khu ủy V đối với phong trào cách mạng Khu V tại căn cứ; diễn biến của một

số cuộc chiến đấu tiêu biểu làm thất bại các cuộc càn quét lớn của địch đánh vào

căn cứ trong những năm 1962, 1963.

Bài Khu căn cứ Nước Oa, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng 11-2011 của Phan

Thị Ánh Tuyết giới thiệu khái quát về địa điểm đứng chân của Khu ủy và BTL

Quân Khu V trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy

25

Page 27: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

nhiên, bài viết chỉ ở dạng giới thiệu tư liệu, chưa làm rõ được vai trò, nhiệm vụ của

Căn cứ Nước Oa trong kháng chiến chống Mỹ.

Về phía tác giả luận án, cũng đã công bố một số bài viết trên các tạp chí

chuyên ngành liên quan trực tiếp đến đề tài như: Căn cứ K20 trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước, Tạp chí Lịch sử Quân sự tháng 6-2011; Khu Sông Đà trong

kháng chiến chống Mỹ, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà

Nẵng tháng 1-2011; Đấu tranh bảo vệ căn cứ Trà Bồng trong kháng chiến chống

Mỹ (1959-1965), Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng

tháng 3-2012; Các bài viết luận giải hoàn cảnh ra đời, vai trò và hoạt động đấu tranh

của các căn cứ: K20, Sông Đà, Trà Bồng trong kháng chiến chống Mỹ. Riêng bài

Kế hoạch chống phá căn cứ địa kháng chiến ở các tỉnh duyên hải Trung Trung Bộ

của chính quyền VNCH trong“Chiến tranh đặc biệt”, Tạp chí Lịch sử Quân sự

tháng 3-2013 đi sâu phân tích các thủ đoạn, biện pháp đánh phá của địch trên các

phương diện quân sự, chính trị, kinh tế đối với căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung

Bộ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Gần đây có

bài Tìm hiểu một số căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú

trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại

học Đà Nẵng tháng 8-2014, đề cập đến quá trình hình thành, tổ chức và hoạt động

của một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở các tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng,

Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trong kháng chiến chống Pháp.

Nghiên cứu dưới góc độ luận văn Thạc sĩ, tác giả Đậu Văn Việt với đề tài Khu

Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Bình Định (1962-1975),

Trường Đại học Quy Nhơn (2008), đã làm rõ cơ sở, điều kiện và chủ trương xây

dựng căn cứ địa cách mạng ở Khu Đông của Tỉnh ủy Bình Định trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước; một số hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Khu

Đông. Qua công trình này, tác giả góp phần tái hiện bức tranh hiện thực lịch sử về

quá trình hình thành và phát triển của căn cứ địa cách mạng ở Khu Đông, làm rõ

đặc điểm, vai trò và những đóng góp của căn cứ đối với cuộc kháng chiến chống

Mỹ ở tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu nghiên cứu diễn biến của sự kiện

26

Page 28: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

lịch sử, chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và bảo vệ căn

cứ địa. Bên cạnh đó, Khu Đông chỉ là một bộ phận trong hệ thống căn cứ địa cách

mạng của tỉnh Bình Định, tác giả chưa có sự so sánh đối chiếu với các căn cứ khác.

Đề tài Căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước (1954-1975), luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Quy Nhơn (2011) của Nguyễn

Phương Anh trình bày khái quát các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, bối cảnh ra

đời, quá trình xây dựng và phát triển của căn cứ Tỉnh ủy Quảng Ngãi trong kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước; các hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ. Từ đó, rút ra

đặc điểm, vai trò và những kinh nghiệm trong xây dựng căn cứ Tỉnh ủy Quảng

Ngãi. Ở công trình này, do giới hạn của một đề tài Thạc sĩ, tác giả chưa có điều kiện

đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Quảng Ngãi mà chỉ giới

thiệu một số căn cứ tiêu biểu.

Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, nhiều cuộc hội

thảo khoa học về căn cứ địa cách mạng đã được tổ chức, thu hút sự quan tâm của

nhiều nhà khoa học và nhân chứng lịch sử.

Tháng 10-2003, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Yên phối

hợp với Sở Văn hóa – Thông tin và Ủy ban nhân dân huyện Sơn Hòa tổ chức Hội

thảo Di tích căn cứ kháng chiến tỉnh Phú Yên. Hội thảo tập trung làm rõ một số nội

dung: Phục dựng tương đối chân thực di tích một số căn cứ kháng chiến: Thồ Lồ –

Ma Dú (Đồng Xuân), Phước Tân, Sơn Long – Sơn Định – Sơn Xuân (Sơn Hòa);

xác định và chuẩn hóa địa điểm trú đóng của một số cơ quan Đảng, chính quyền,

mặt trận, dân vận, quân sự, công an, bệnh viện... Xác định địa điểm diễn ra nhiều sự

kiện lịch sử quan trọng như Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ II (tháng 1-1965), Đại hội

Đảng bộ Tỉnh lần thứ V (9-1973), các kỳ đại hội chính trị hiệp thương bầu Ủy ban

nhân dân cách mạng (UBNDCM) lâm thời... Hội thảo khẳng định việc khảo sát,

nghiên cứu, bảo tồn và tôn tạo di tích các căn cứ kháng chiến là việc làm hết sức

cần thiết. Nhìn chung, các bài tham luận tại hội thảo chủ yếu tập trung vào vấn đề

tôn tạo, bảo tồn các di tích căn cứ cách mạng trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

Tháng 7-2012, Hội thảo khoa học Căn cứ Liên Khu ủy 5 tại các huyện Bến

27

Page 29: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Hiên, Bến Giằng, tỉnh Quảng Nam (1955-1959) do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng

Nam tổ chức quy tụ hàng chục nhà nghiên cứu và các nhân chứng với hơn 30 bài

viết về Căn cứ Liên Khu ủy V. Mặc dù chưa làm rõ được quy mô, các hoạt động

xây dựng, bảo vệ Căn cứ Liên Khu ủy V nhưng nhìn chung, các tác giả đã cung cấp

một số tư liệu về hoàn cảnh ra đời, bộ máy hoạt động, các địa điểm đóng cơ quan,

vai trò của đồng bào miền núi các huyện Đông Giang, Tây Giang (Quảng Nam)

trong việc bảo vệ căn cứ; đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo của Liên Khu ủy V đối với

phong trào cách mạng ở các địa phương thuộc Khu V trong giai đoạn (1955-1959).

Tháng 8-2012, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh

Quảng Nam và Huyện ủy Tiên Phước tổ chức Hội thảo khoa học“50 năm chiến

dịch vượt sông Tiên, giải phóng Sơn – Cẩm – Hà (25/9/1962-25/9/2012)”. Tại hội

thảo đã có một số bài tham luận liên quan đến sự ra đời, vai trò và hoạt động của

Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tháng 4-2013, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam và Huyện ủy Thăng Bình

tổ chức Hội thảo khoa học“Căn cứ lõm Bầu Bính – Ý nghĩa và bài học kinh

nghiệm”. Với hàng chục bài viết của các nhà nghiên cứu và nhân chứng lịch sử, hội

thảo đã xác định rõ thời gian hình thành và tồn tại của căn cứ; sự lãnh đạo của

Huyện ủy Thăng Bình; hoạt động chiến đấu của quân dân và vai trò của “Căn cứ

lõm” Bầu Bính trong hai năm 1971-1972. Hội thảo khẳng định vị trí, vai trò, tầm

quan trọng và giá trị lịch sử của “Căn cứ lõm” Bầu Bính, một “căn cứ lõm” lũy thép

anh hùng”, một căn cứ điển hình của tỉnh Quảng Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

Lịch sử căn cứ địa cách mạng tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), (Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2013) do

tập thể tác giả Nguyễn Duy Luân, Nguyễn Văn Thưởng, Lê Xuân Đồng và Nguyễn

Văn Viễn biên soạn là công trình phục dựng, tổng kết và đánh giá một cách tương

đối đầy đủ về quá trình hình thành, xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của các căn

cứ địa cách mạng ở tỉnh Phú Yên qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và

đế quốc Mỹ xâm lược. Tuy nhiên, ở công trình này, các tác giả chủ yếu mô tả căn

cứ địa về mặt địa hình, về xây dựng LLVT; đồng thời tập trung tái hiện các cuộc

28

Page 30: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chiến đấu bảo vệ căn cứ địa. Hoạt động xây dựng căn cứ về chính trị, kinh tế, văn

hóa – xã hội chưa được đề cập.

Hòn Tàu đi cùng năm tháng do Huyện ủy Quế Sơn xuất bản năm 2013, là tập

hợp các bài viết của nhiều tác giả từng sống, hoạt động tại Căn cứ Hòn Tàu trong

thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Các tác giả phân tích khái quát vị trí

chiến lược của Căn cứ Hòn Tàu; đồng thời làm rõ vai trò và những đóng góp của

căn cứ đối với các cuộc kháng chiến chống xâm lược ở Quảng Nam – Đà Nẵng.

Một cách tổng quát, dưới nhiều góc độ nghiên cứu và phản ánh khác nhau, các

công trình nêu trên đã giải quyết được một số vấn đề:

- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về căn cứ địa cách mạng; khẳng định

vai trò của căn cứ địa cách mạng đối với thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; đồng thời nêu lên được những điều kiện cơ

bản để xây dựng căn cứ địa vững mạnh mà một trong những yếu tố quan trọng hàng

đầu là biết dựa vào dân, xây dựng căn cứ lòng dân.

- Làm rõ được sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ các địa phương đối với vấn

đề xây dựng “đất đứng chân” trong kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, trong đó có

Đảng bộ các tỉnh ở Trung Trung Bộ.

- Tái hiện một số hoạt động chiến đấu chống càn quét, bảo vệ căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ; khái quát sơ lược một số hoạt động về xây dựng LLVT,

phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng.

- Bước đầu đưa ra những nhận xét, đánh giá về một số căn cứ địa riêng lẻ.

Bên cạnh những vấn đề đã được làm sáng tỏ, do bị giới hạn bởi đối tượng,

phạm vi nghiên cứu và một số vấn đề thuộc về tư liệu, phương pháp khảo cứu nên

các công trình nêu trên vẫn chưa làm sáng tỏ được các vấn đề:

- Các công trình chưa tái hiện, phục dựng, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ

quá trình hình thành, phát triển và những đóng góp của các căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ mà chỉ mới dừng lại mức trình bày khái lược về sự ra đời, hoạt

động của một số căn cứ tiêu biểu.

29

Page 31: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

- Các công trình chỉ tập trung chủ yếu phản ánh những thành quả đạt được trên

một số mặt: kinh tế, quân sự, văn hóa – xã hội, chưa luận giải và làm rõ những hạn

chế, khó khăn trong hoạt động xây dựng căn cứ ở Trung Trung Bộ nói chung.

- Trong quá trình nghiên cứu, chưa có sự so sánh với các địa phương, các khu

vực khác trong cả nước để tìm ra những đặc điểm riêng của căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ.

- Việc nghiên cứu tổng kết hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu dựa

trên các tài liệu của phía cách mạng, chưa có sự tham chiếu với các tài liệu của đối

phương. Vì vậy, chưa thể hiện được cái nhìn “đa chiều” đối vấn đề căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ.

1.2. Những vấn đề luận án kế thừa từ các công trình nghiên cứu đã xuất bản

- Một là, phương pháp luận nghiên cứu vấn đề căn cứ địa cách mạng: Nắm

vững lý luận, khảo cứu tài liệu và tham chiếu thực tế, so sánh giữa các vùng miền.

- Hai là, những vấn đề lý luận về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải

phóng dân tộc: Điều kiện xây dựng căn cứ địa, việc lựa chọn địa bàn phù hợp, hoạt

động xây dựng căn cứ vững mạnh toàn diện, kết hợp hoạt động xây dựng và chiến

đấu bảo vệ, xây dựng căn cứ lòng dân.

- Ba là, hệ thống tư liệu về căn cứ địa cách mạng ở các vùng miền khác nhau

để có cái nhìn tổng quan, trên cơ sở đó tiến hành so sánh, đối chiếu, tìm ra những

đặc điểm riêng của căn cứ địa ở Trung Trung Bộ.

- Bốn là, những kết quả nghiên cứu về một số căn cứ tiêu biểu ở các địa

phương Trung Trung Bộ trên các phương diện: quá trình ra đời, tổ chức hoạt động,

vai trò của căn cứ địa trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là một bộ phận trong hệ thống căn

cứ địa cách mạng ở Khu V và toàn miền Nam. Các căn cứ được hình thành rất sớm,

ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời

không ngừng phát triển, đứng vững và phát huy vai trò to lớn đối với cuộc kháng

chiến tại các địa phương. Song, các công trình nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc khảo

30

Page 32: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cứu ở một vài địa phương, một số căn cứ tiêu biểu, chưa có điều kiện đi sâu nghiên

cứu một cách toàn diện về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Do

vậy, những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, đó là:

- Phục dựng một cách đầy đủ, có hệ thống quá trình xây dựng, bảo vệ và phát

huy vai trò của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trên các lĩnh vực: quân

sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế.

- Luận giải, làm rõ hơn âm mưu, thủ đoạn đánh phá của quân Mỹ – VNCH đối

với căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong mỗi giai đoạn lịch sử trên các

lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế.

- Trên cơ sở khảo cứu, bổ sung và hệ thống hóa tư liệu từ nhiều nguồn để xây

dựng góc nhìn “đa chiều” về căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ.

- Trong quá trình nghiên cứu, luận án sẽ rút ra và khái quát những đặc điểm

của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ, đặt trong sự tham chiếu với căn

cứ địa cách mạng ở Cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và các căn cứ khác ở miền

Nam. Trên cơ sở đó, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt của hệ thống căn

cứ địa ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Kết quả nghiên cứu sẽ nhằm tiếp tục khẳng định và làm nổi bật những đóng

góp to lớn của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình đánh bại

các chiến lược chiến tranh: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt

Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và chính quyền VNCH trên chiến trường Khu V. Qua

đó, khái quát những kinh nghiệm từ quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò

căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ để vận dụng vào công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Tóm lại, yêu cầu tổng kết về mặt lý luận cũng như thực tiễn cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước nói chung, quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn

cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng nói riêng đòi hỏi cần phải có những

công trình nghiên cứu chuyên khảo, mang tính hệ thống về căn cứ địa cách mạng.

Nghiên cứu về căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước nhằm đáp ứng yêu cầu nêu trên hay nói một cách khác, đó là một đòi

hỏi tất yếu, khách quan.

31

Page 33: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

CHƯƠNG 2

KHÔI PHỤC VÀ BẢO VỆ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG

Ở TRUNG TRUNG BỘ (1954-1960)

2.1. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò

căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội

Về phân vùng địa lý tự nhiên ở Việt Nam, giới nghiên cứu có các quan điểm

khác nhau. Theo Vũ Tự Lập, vùng Bắc Trung Bộ là địa bàn các tỉnh: Thanh Hóa,

Nghệ Tĩnh (tức là Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay); vùng Trung Trung Bộ gồm các

tỉnh, thành phố: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà

Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên; các tỉnh, thành phố còn lại của miền

Trung là tỉnh Khánh Hòa, Thuận Hải (tức là Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay)

thuộc khu vực Nam Trung Bộ [118, tr. 87].

Theo sự phân chia của nhà nghiên cứu Lê Bá Thảo, Bắc Trung Bộ gồm các

tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Vùng Trung Trung Bộ của Việt

Nam kéo dài từ Quảng Bình cho đến Nam Quảng Ngãi [140, tr. 393]. Khu vực Nam

Trung Bộ trải rộng trên các tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và

Bình Thuận [140, tr. 413].

Khi nghiên cứu về địa danh và địa giới hành chính của Việt Nam trong giai

đoạn 1945-2002, tác giả Nguyễn Quang Ân xác định vùng duyên hải Nam Trung

Bộ gồm có: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa

[2, tr. 90].

Gần đây, trong quá trình nghiên cứu về địa lý kinh tế – xã hội Việt Nam, tác

giả Lê Quang Thông cho rằng vùng Nam Trung Bộ bao gồm các tỉnh, thành phố:

Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,

Bình Thuận, Gia Lai, KonTum, Đắc Lắc, Lâm Đồng [144, tr. 369].

Theo tài liệu Tình hình chung Liên khu V (1945-1950), lưu tại Viện Lịch

Đảng, miền Nam Trung Bộ (hay còn gọi là Liên khu V) gồm có Quảng Nam,

32

Page 34: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc,

Kon Tum, Gia Lai, Đồng Nai Thượng, Lâm Viên. Địa thế Nam Trung Bộ gồm 2

vùng: vùng đồng bằng và vùng miền núi. Trong đó, vùng đồng bằng được chia

thành 2 miền: Miền Trung Trung Bộ gồm 4 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình

Định, Phú Yên. Miền cực Nam Trung Bộ gồm: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình

Thuận, Phan Thiết [146, tr. 1] .

Trong công trình Trung Trung Bộ đánh giỏi toàn diện (Nxb Quân đội nhân

dân, HN, 1972), chiến trường Trung Trung Bộ bao gồm các tỉnh: Quảng Đà, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc

[156, tr. 73-77].

Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, địa giới

hành chính quân sự của các tỉnh Trung Trung Bộ thuộc địa bàn Chiến khu 5 và

Chiến khu 6. Vào cuối năm 1948, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Liên

khu V được hình thành trên cơ sở hợp nhất các khu 5, 6, 15, gồm 12 tỉnh của Nam

Trung Bộ (sau này là Khu V). Cùng thời gian này, Ủy ban Kháng chiến hành chính

Nam Trung Bộ và Liên Khu ủy V cũng được thành lập để thực hiện sự lãnh đạo, chỉ

huy cuộc kháng chiến ở Liên khu V. Riêng đối với Quảng Nam và Đà Nẵng, năm

1946, tiến hành hợp nhất thành liên tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Từ năm 1950 đến

năm 1952, tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Tuy nhiên, đến tháng 3-

1952, tái hợp thành một đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Từ đây

đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung Trung Bộ thuộc địa

bàn Liên khu V và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Liên Khu ủy V.

Trong giai đoạn 1955-1966, theo sự phân chia của chính quyền VNCH, miền

Nam Việt Nam gồm có Đô Thành Sài Gòn, Trung Nguyên Trung phần, Cao

Nguyên Trung phần, Đông Nam phần và Tây Nam phần. Trong đó, Trung Nguyên

Trung phần bao gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Bình Thuận [2, tr. 66-71]. Từ năm

1967 đến trước 30-4-1975, theo sự điều chỉnh của đối phương, lúc này, miền Nam

Việt Nam gồm có Đô Thành Sài Gòn, Trung Nguyên Trung phần, Cao Nguyên

Trung phần và Nam Phần (bao gồm Đông Nam phần và Tây Nam phần trước đó sáp

33

Page 35: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

nhập lại). Trong đó, Trung Nguyên Trung phần lúc này vẫn bao gồm các tỉnh từ

Quảng Trị đến Bình Thuận [2, tr. 71-76 ]. Như vậy, các tỉnh Trung Trung Bộ về cơ

bản vẫn thuộc Trung Nguyên Trung phần. Hơn nữa, ở đây vẫn giữ là một đơn vị

hành chính cấp tỉnh như trước đó. Về địa giới quân sự, từ tháng 6-1957, các tỉnh

thuộc Trung Trung Bộ nằm trên địa bàn thuộc vùng I và vùng II chiến thuật của

Quân đội VNCH. Đó là Khu chiến thuật 12 (Quân đoàn 1), Khu chiến thuật 22

(Quân đoàn 2) [34, tr. 130-132]. Tháng 7-1962, Quảng Nam được tách ra thành 2

tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, còn Đà Nẵng vẫn là đơn vị hành chính độc lập. Tuy

nhiên, về địa giới quân sự không có sự thay đổi.

Về phía cách mạng, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước, địa giới hành chính – quân sự của Trung Trung Bộ gắn liền với địa bàn

chỉ đạo của Liên tỉnh I, Liên tỉnh II. Đến giữa năm 1961, Bộ Chính trị quyết định tổ

chức chiến trường Nam Trung Bộ thành Khu V và Khu VI. Khu V gồm các tỉnh

Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum,

Gia Lai. Cuối năm 1962, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được tách thành 2 tỉnh Quảng

Nam và Quảng Đà. Theo sự chỉ đạo của Khu ủy V, từ tháng 10-1967, thành phố Đà

Nẵng tách khỏi tỉnh Quảng Đà, gồm 3 quận: quận Nhất, quận Nhì, quận Ba. Đến

tháng 11-1967, tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng hợp nhất thành Đặc khu

Quảng Đà. Mặc dù Quảng Nam – Đà Nẵng là tỉnh có sự chia tách, điều chỉnh về tên

gọi, địa giới hành chính nhiều lần nhưng về cơ bản, trong suốt quá trình kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước, các tỉnh Trung Trung Bộ thuộc địa bàn Khu V và sự chỉ

đạo trực tiếp của Khu ủy V.

Như vậy, do sự chi phối bởi điều kiện chiến trường nên sự phân chia về địa

giới hành chính ở các tỉnh của Khu V thường xuyên có sự biến động. Vì vậy, theo

chúng tôi quan niệm Trung Trung Bộ bao gồm: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,

Bình Định, Phú Yên (hay còn gọi là các tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú) cũng chỉ

mang tính tương đối.

Theo sự phân hóa lãnh thổ, Trung Trung Bộ nằm ở trung độ của đất nước, có

diện tích khoảng 27.857,9 km², bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam,

34

Page 36: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Phía Đông của các tỉnh Trung Trung Bộ được

bao bọc bởi Biển Đông. Phía Tây giáp một phần với Lào và phần chủ yếu giáp với

Tây Nguyên. Phía Bắc giáp với Bắc Trung Bộ, phía Nam giáp với Nam Trung Bộ.

Điều kiện tự nhiên: Khu vực Trung Trung Bộ thuộc phần cuối của dãy Trường

Sơn Bắc và nửa phần đầu của dãy Trường Sơn Nam, có hình dạng vòng cung vươn

ra Biển Đông. Địa hình chia làm 3 vùng rõ rệt:

Vùng rừng núi ở Trung Trung Bộ chiếm khoảng 3/4 diện tích. Miền núi phía

Tây Trung Trung Bộ là nơi tập trung nhiều ngọn núi cao trên 1.000 m như: núi Cà

Đam 1.413 m, núi Đá Vách 1.115 m, núi U Bò 1.100 m, núi Cao Muôn 1.085 m

(Quảng Ngãi); núi Bà 1.100 m, núi Dương An 1.000 m (Bình Định); núi Chư Treng

1.238 m, núi La Hiên 1.318 m, hòn Dù 1.470 m, hòn Chúa 1.310 m, núi Chư Ninh

1.636 m (Phú Yên). Quảng Nam là nơi có nhiều ngọn núi cao trên 2.000 m như núi

Lum Heo 2.045 m, núi Tiên 2.032 m, Hòn Tà Xiêu 2.053 m, núi Ngọc Niay 2.259

m, Ngọc Kring 2.025 m, núi Ngọc Linh 2.598 m. Do địa hình có xu hướng thấp dần

từ Tây sang Đông nên ở Trung Trung Bộ, các ngọn núi thường có sườn dốc đứng,

hiểm trở, nối liền với nhau, nhiều nơi vươn sát ra biển, trên núi có nhiều hang, gộp,

hốc đá tự nhiên, rất thuận lợi cho hoạt động quân sự: cất giấu vũ khí, lương thực, trú

quân và thực hiện tác chiến. Núi rừng ở Trung Trung Bộ là kho tài nguyên phong

phú về lâm thổ sản với nhiều loại gỗ quý: lim, trắc, huỳnh đàn, gõ, hương, mun, các

loại thú rừng: hổ, voi, gấu, lợn, nai, tê tê, trăn… cùng các loại dược liệu quý: sâm

Ngọc Linh, quế, sa nhân, trầm hương… Trong kháng chiến, bộ đội chủ lực và nhân

dân khai thác tài nguyên rừng phục vụ việc xây dựng nhà ở, doanh trại, cơ quan căn

cứ. Tài nguyên rừng là nguồn cung cấp đáng kể về lương thực, thực phẩm, thuốc

chữa bệnh cho cán bộ, nhân dân các căn cứ địa. Trên địa bàn rừng núi rộng lớn,

quân dân các căn cứ tích cực tổ chức các hoạt động sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi,

chế tạo vũ khí, thuốc chữa bệnh. Qua đó, đã giải quyết được một phần nhu cầu tại

chỗ của căn cứ, giảm bớt gánh nặng chi viện từ miền Bắc. Bên cạnh những điều

kiện thuận lợi cho việc tạo dựng một nền kinh tế tự cấp, tự túc, vùng rừng núi Trung

Trung Bộ trùng điệp là khu vực có thế liên hoàn nối liền với Tây Nguyên và Lào. Ở

35

Page 37: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

đây có đường hành lang chiến lược Bắc – Nam đi qua, có những địa bàn hiểm trở,

làm chỗ đứng chân thuận tiện cho lực lượng kháng chiến. Tuy nhiên, do địa hình

núi cao, dốc đứng, sông suối chia cắt, thiên nhiên khắc nghiệt có những tác động

tiêu cực, gây ảnh hưởng đến vấn đề tổ chức xây dựng căn cứ địa và hoạt động cơ

động của LLVT.

Vùng đồng bằng ven biển chiếm 1/4 diện tích, chủ yếu có quy mô nhỏ, hẹp, bị

đồi núi chia cắt thành nhiều mảnh. Các huyện đồng bằng: Đại Lộc, Duy Xuyên,

Thăng Bình, Điện Bàn (Quảng Nam); Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành,

Mộ Đức, Đức Phổ (Quảng Ngãi); Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, An

Nhơn, Tuy Phước, Tây Sơn (Bình Định); Tuy Hòa, Tuy An, Sông Cầu (Phú Yên) là

nơi tập trung dân cư đông đúc. Một số thành phố, thị xã, cảng biển: Đà Nẵng,

Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa tương đối sầm uất. Vùng đồng bằng Trung Trung

Bộ là nơi cung cấp nhân tài và vật lực cho kháng chiến. Một số nơi có thể xây dựng

thành căn cứ du kích, căn cứ lõm.

Vùng biển và hải đảo thuộc Trung Trung Bộ trải dài từ đèo Hải Vân (Đà

Nẵng) đến Vũng Rô (Phú Yên) với chiều dài khoảng 612 km. Bờ biển Trung Trung

Bộ có các bán đảo: Sơn Trà (Đà Nẵng); Phương Mai (Bình Định); Tuy Phong –

Vĩnh Cửu, Vịnh Hòa, Xuân Thịnh, An Ninh Đông, An Hải, An Hòa (Phú Yên) và

các vịnh Xuân Đài, Vũng Rô. Đây là những vị trí thuận lợi cho việc xây dựng các

căn cứ quân sự, các điểm tiếp nhận sự chi viện hàng hóa, vũ khí từ miền Bắc vào

theo đường biển. Nhiều dãy núi ăn thông ra biển như Hải Vân (Đà Nẵng); Núi Bà,

Bích Kê, Dương An, (Bình Định); Cù Mông, Đèo Cả (Phú Yên); các khu rừng ven

biển ở Trung Trung Bộ rất thuận lợi cho lực lượng kháng chiến sử dụng làm nơi cất

giấu vũ khí, trú quân, sử dụng làm bàn đạp để tấn công vào căn cứ của địch.

Ngoài khơi bờ biển Trung Trung Bộ có hàng chục đảo lớn nhỏ: quần đảo

Hoàng Sa (Đà Nẵng); cụm đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam); đảo Lý Sơn (Quảng

Ngãi), đảo Cù Lao Xanh (Bình Định); các đảo Bàn Than, Nhất Tự Sơn, Hải Phú,

Hòn Yến, Hòn Chùa, Hòn Dứa, Hòn Cô (Phú Yên). Địa hình các đảo được bao bọc

bởi núi cao, bên trong có nhiều hang động và bãi đổ bộ tự nhiên có thể hình thành

36

Page 38: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

các căn cứ, nơi tiếp nhận nguồn viện trợ từ miền Bắc và các tuyến vận chuyển bằng

đường biển.

Trung Trung Bộ có các sông chính: Thu Bồn, Vu Gia, Tam Kỳ (Quảng Nam);

Trà Bồng, Trà Khúc, Vệ, Trà Câu (Quảng Ngãi); Kôn, Lại Giang, La Tinh, Hà

Thanh (Bình Định); Ba, Kỳ Lộ, Bàn Thạch, Cà Lúi, Cầu, Hinh, Krông Năng, Năng,

Trà Bương, Con, Đồng Bò (Phú Yên). Đặc điểm của các sông là bắt nguồn từ

những vùng núi cao của dãy Trường Sơn và đều đổ ra Biển Đông. Các sông ngắn,

độ dốc lớn, lòng sông cạn và hẹp, dòng chảy mạnh, lại có nhiều thác ghềnh ở

thượng lưu nên mùa mưa thường gây lũ lụt lớn. Ngược lại, mùa khô lại khô cạn ở

hạ lưu, giảm mực nước ngầm và tạo điều kiện cho sự xâm nhập mặn của biển. Hệ

thống sông ngòi có vai trò quan trọng trong việc vận chuyển lương thực, vũ khí phục

vụ hoạt động chiến đấu ở các căn cứ địa. Tuy nhiên, nó cũng gây nhiều khó khăn đối

với hoạt động cơ động của LLVT trong hành quân tác chiến, nhất là cơ giới.

Về khí hậu, Trung Trung Bộ có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nhiệt độ trung

bình 26 º C. Ở các vùng núi cao, nhiệt độ trung bình 23,5 º C. Thời tiết ở đây được

chia làm 2 mùa mưa, nắng rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ

tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa nhiều vào 4 tháng cuối năm nên dễ gây lũ lụt,

ngập úng, ách tắc cho hoạt động sản xuất.

Về giao thông, để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, Mỹ và chính quyền VNCH đã tiến hành tu sửa, nâng cấp nhiều tuyến đường huyết mạch chạy qua địa bàn Trung Trung Bộ như Quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, Quốc lộ 14 từ Đà Nẵng lên Tây Nguyên nối liền với Đông Nam Bộ, Quốc lộ 14D xuất phát từ Bến Giằng (Quảng Nam) lên tận biên giới Việt – Lào, Quốc lộ 19 nối liền Bình Định với các tỉnh Tây Nguyên và Hạ Lào, Đường số 7 nối liền Tuy Hòa với Gia Lai. Ngoài ra, các tuyến đường Liên tỉnh lộ 6; Liên tỉnh lộ 7, Liên tỉnh lộ 9 đi qua địa bàn các tỉnh Bình Định, Phú Yên cũng thường xuyên được tu bổ, mở rộng. Bên cạnh đó, mỗi tỉnh đều có hệ thống tỉnh lộ nối liền các thành phố, thị xã, thị trấn, các huyện đồng bằng và miền núi. Hệ thống giao thông với nhiều tuyến Quốc lộ, đường liên tỉnh, nội tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cơ động chiến đấu, tác chiến của

37

Page 39: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

LLVT các binh chủng. Tuy nhiên, đây cũng là điểm bất lợi vì địch có thể cơ động tấn công vào các căn cứ địa từ nhiều hướng bằng các phương tiện chiến tranh hiện đại.

Song song với hệ thống giao thông đường bộ, đối phương còn xây dựng một

hệ thống các cảng biển: Đà Nẵng, Tiên Sa, Quy Nhơn, Vũng Rô cùng với các sân

bay: Đà Nẵng, Xuân Thiều, Nước Mặn, Chu Lai, Quy Nhơn, Phù Cát, Củng Sơn,

Sông Cầu, Chóp Chài, Đồng Tre, Đông Tác... Hệ thống sân bay, cảng biển ở Trung

Trung Bộ chủ yếu phục vụ cho các hoạt động quân sự.

Bên cạnh đó, trong kháng chiến chống Pháp, năm 1947, chính quyền cách

mạng ở các tỉnh Trung Trung Bộ đã huy động lực lượng xây dựng, phục hồi tuyến

đường sắt Liên khu V dài 300 km từ Quảng Nam đến Phú Yên. Trong kháng chiến

chống Mỹ, tuyến đường Đông Trường Sơn đi qua các tỉnh: Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Bình Định, Phú Yên lên Tây Nguyên. Trên tuyến đường vận chuyển trên

biển, Khu Sông Đà (Đà Nẵng) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tuyến

vận tải trên biển thực hiện nhiệm vụ đưa cán bộ từ Nam ra Bắc hoặc vận chuyển cán

bộ cùng hàng hóa từ miền Bắc vào Nam; bến Vũng Rô (Phú Yên) trở thành nơi tiếp

nhận vũ khí, thuốc men từ những “tàu Không số” ở miền Bắc chuyển vào.

Với điều kiện địa lý tự nhiên như trên, Trung Trung Bộ là địa bàn có vị trí

chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch. Đây là cửa ngõ từ Biển Đông vào Tây

Nguyên và Đông Dương, là đầu mối giao thông của các chiến trường trong cả nước.

Từ địa thế mặt hướng ra Biển Đông, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, địa hình

khu vực này vừa có thế bao quát vừa có thế mở rộng, đồng thời là bàn đạp để tỏa đi

các hướng chiến lược khác. Trong chiến tranh, Trung Trung Bộ trở thành địa bàn

tranh chấp quyết liệt giữa ta và địch.

Đối với Mỹ và VNCH, Trung Trung Bộ là bàn đạp để tiến công ra các tỉnh

xung quanh, nắm giữ Tây Nguyên, khống chế Biển Đông, tiến tới làm chủ Đông

Dương. Hệ thống các cảng biển và sân bay lớn ở Trung Trung Bộ là một đầu cầu

quan trọng để triển khai lực lượng và cơ sở hậu cần, kỹ thuật cho cuộc chiến tranh

xâm lược, là khu vực trọng yếu để tiếp nhận bộ phận lớn vũ khí và phương tiện

chiến tranh. Vì vậy, để kiểm soát địa bàn này, đối phương đã bố trí một lực lượng

38

Page 40: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chủ lực mạnh. Cuối năm 1968, lực lượng quân Mỹ, đồng minh và VNCH ở Trung

Trung Bộ có 248.100 quân, trong đó có 120.000 quân Mỹ, 30.000 quân đồng minh

và 98.100 quân VNCH [53, tr. 1]. Đà Nẵng được xây dựng trở thành khu liên hợp

quân sự lớn thứ hai ở miền Nam. Bên cạnh hệ thống sân bay và cảng biển hiện đại,

ngoài khơi vịnh Đà Nẵng còn có tàu sân bay thuộc Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên

túc trực ngày đêm. Hệ thống căn cứ quân sự và hậu cần hiện đại được thiết lập ở

Trung Trung Bộ nhằm phục vụ cho nhu cầu chiến tranh không chỉ ở Khu V mà cả

chiến trường Đông Dương.

Đối với ta, Trung Trung Bộ là địa bàn trung tâm, có hành lang chiến lược nối

liền 2 miền Nam – Bắc, hội đủ các yếu tố “thiên thời – địa lợi – nhân hòa” có thể

xây dựng thành các căn cứ địa chiến lược lâu dài cho khu vực miền Trung và các

nước Đông Dương. Địa bàn hiểm trở với núi rừng trùng điệp liên hoàn giữa các địa

phương và các vùng chiến lược, tiến có thể công, thoái có thế thủ, thuận lợi cho

hoạt động chiến tranh nhân dân. Lực lượng chủ lực nếu làm chủ được Trung Trung

Bộ sẽ có điều kiện chia cắt lực lượng địch ở các tỉnh miền Trung và Sài Gòn, tạo

điều kiện để tiến công và nắm giữ Tây Nguyên. Do vậy, ngay từ mùa Hè năm 1958,

Liên khu V đã ra Nghị quyết về xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Tây các tỉnh

đồng bằng Khu V.

Tóm lại, Trung Trung Bộ có địa thế hiểm trở với núi rừng trùng điệp kín đáo, liên hoàn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tiến công và phòng thủ của LLVT. Hơn nữa, cũng rất tiện lợi cho việc cất giấu kho tàng, vũ khí, che giấu, bảo tồn lực lượng và triển khai hoạt động chiến tranh du kích. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên với khí hậu khắc nghiệt, đất đai kém màu mỡ, địa hình chia cắt bởi núi cao, rừng thẳm, địch thường xuyên đánh phá ác liệt lại ở xa sự chi viện của Trung ương đã ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa.

Đời sống kinh tế của dân cư ở Trung Trung Bộ bao gồm nhiều ngành nghề:

nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… Song, trình độ sản xuất

nói chung còn thấp, chủ yếu là lao động thủ công. Vùng đồng bằng, ruộng đất tương

đối phì nhiêu, sản xuất hai vụ lúa một năm. Bên cạnh cây lương thực, nhân dân còn

trồng các loại cây công nghiệp: thuốc lá, mía, bông, chè, hồ tiêu… Một số nghề thủ

39

Page 41: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

công: đúc đồng, chế tác đá, mộc, rèn, dệt chiếu, làm mắm, làm đường, làm muối,

đóng tàu… rất phát triển. Ở ven biển và hải đảo, ngư dân chủ yếu sống bằng nghề

chài lưới, đánh bắt thủy hải sản. Tại các đô thị ven biển, hoạt động thương mại, dịch

vụ khá phát triển. Sự phát triển đa dạng của các ngành nghề tạo điều kiện cho việc

huy động sự đóng góp của nhân dân từ nhiều nguồn khác nhau cho kháng chiến.

Ở vùng rừng núi Trung Trung Bộ, đời sống kinh tế mang tính chất tự nhiên, tự

túc, tự cấp. Ngoài việc phát rẫy trồng lúa, trỉa bắp, trồng sắn, đồng bào các dân tộc

còn khai thác các nguồn lương thực, thực phẩm sẵn có trong tự nhiên. Do kỹ thuật

canh tác lạc hậu, tập quán du canh du cư nên năng suất thấp, thường phải chịu cảnh

quanh năm thiếu đói từ 4 đến 6 tháng. Mặc dù đời sống còn nhiều khó khăn, song

đồng bào vẫn hăng hái tham gia xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Nhờ đó, các căn cứ đã

vượt qua được những giai đoạn đầy cam go, thử thách của chiến tranh.

Mặc dù trình độ lực lượng sản xuất còn thấp nhưng Trung Trung Bộ là địa bàn

có tiềm năng kinh tế trên các lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, thủ

công nghiệp. Điều này tạo thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực phục vụ

kháng chiến, góp phần hỗ trợ hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Về xã hội, Trung Trung Bộ là địa bàn cư trú của nhiều cộng đồng dân cư với những đặc điểm xã hội đa dạng ở các vùng miền. Ở đây, người Kinh chiếm 95%, các dân tộc thiểu số là Cơtu, Xêđăng, Cor, Hrê, BaNa, Chăm… chiếm 5%. Trong kháng chiến chống Mỹ, vùng này có khoảng hơn 3 triệu người. Dân số ở Trung Trung Bộ phân bố không đồng đều. Người Kinh, người Hoa chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng. Đồng bào dân tộc thiểu số sống rải rác ở vùng núi thuộc miền Tây Trung Trung Bộ. Tuy có nguồn gốc hình thành từ nhiều địa bàn khác nhau nhưng nhìn chung cộng đồng cư dân ở đây giàu lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, bền bỉ trong gian khó, cần cù trong lao động, đoàn kết trong đấu tranh. Đây là điểm lợi thế trong việc xây dựng và bảo vệ các căn cứ địa. Song, đặc điểm xã hội cũng có một số bất lợi đối với vấn đề xây dựng căn cứ địa với quy mô lớn, đặc biệt là ở miền rừng núi mật độ dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại trong đời sống xã hội, gây khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động của Đảng.

40

Page 42: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trong đời sống tinh thần của các dân tộc ở Trung Trung Bộ tồn tại nhiều tín

ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Thờ cúng tổ tiên, ông bà là tín ngưỡng truyền thống

của người Kinh. Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận nhân dân theo Đạo Phật và

Thiên Chúa. Trong quan niệm của đồng bào các dân tộc miền núi thì mọi vật đều có

thần linh. Hằng năm, trong các dịp lễ hội, đồng bào thường tổ chức lễ cúng thần

linh, mong các thần phù hộ cho mùa màng tốt tươi, kinh tế phát triển, đời sống ấm

no. Mặc dù có những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau nhưng các dân tộc đều hướng

vào việc tôn trọng các vị anh hùng dân tộc, những người có công lập làng, giữ đất.

Đây là điều kiện thuận lợi để Đảng xây dựng khối đoàn kết các cộng đồng dân tộc,

tuyên truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng.

Tuy nhiên, lợi dụng sự đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc, đặc biệt là

ở các vùng cao, các thế lực xâm lược và chính quyền tay sai đã tìm cách lợi dụng,

lôi kéo, gây chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Ở miền núi Liên khu V, Mỹ và chính

quyền Ngô Đình Diệm thực hiện thủ đoạn xảo quyệt nhằm gây xích mích giữa dân

tộc Kinh với đồng bào Thượng bằng cách: “Tổ chức cho đồng bào Kinh trong các

dinh điền đi ăn cắp tài sản, lấy hoa màu của đồng bào Thượng, tổ chức đồng bào

Thượng giết trâu bò của đồng bào Kinh, thâm độc hơn nữa chúng xúi giục đồng bào

Kinh làm những việc để va chạm đến phong tục tập quán của đồng bào Thượng.

Dùng người dân tộc này cai trị người dân tộc khác, dùng binh lính của dân tộc này

đàn áp bắt giết dân tộc khác” [162, tr. 19-20]. Vì vậy trong công tác giáo dục, vận

động đối với đồng bào các dân tộc miền núi phải hết sức khéo léo, mềm dẻo, tôn

trọng phong tục tập quán của họ.

Trong lịch sử hình thành, phát triển của mình, đồng bào các dân tộc đã dũng

cảm vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến đồng

thời luôn thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng, cần cù trong lao động sản xuất, bền

bỉ chống chọi để vượt qua những hạn chế của điều kiện tự nhiên. Qua quá trình đấu

tranh đã hình thành nên tính cách đặc trưng của cư dân miền núi Trung Trung Bộ đó

là: trung thực, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức,

41

Page 43: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

yêu chuộng hòa bình, tự do, có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, thủy chung

sâu sắc. Từ khi được giác ngộ cách mạng, đồng bào một lòng đi theo Đảng và Bác

Hồ. Những nhân tố này là điều kiện cực kỳ thuận lợi cho hoạt động xây dựng căn

cứ địa cách mạng ở miền rừng núi. Tuy nhiên, sự phân bố dân cư thưa thớt, trình độ

dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại trong đời sống đồng bào,

các thủ đoạn chia rẽ, chống phá của địch cũng gây những bất lợi đối với quá trình

xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng.

Trong cộng đồng dân cư đa dạng ở Trung Trung Bộ đã có sự phân hóa sâu sắc

về mặt cơ cấu giai cấp xã hội. Ở đồng bằng và đô thị, trước Cách mạng Tháng Tám

năm 1945, các giai cấp cơ bản trong xã hội gồm có địa chủ, nông dân, công nhân, tư

sản, tiểu tư sản. Khác với đồng bằng, ở vùng rừng núi, xã hội của các dân tộc thiểu

số Trung Trung Bộ, sự phân hóa giai cấp, phân hóa giàu nghèo chưa diễn ra rõ nét

và khá chậm chạp. Về tổ chức, làng là một cộng đồng, một số người sống trong một

phạm vi đất đai nhất định có quan hệ mật thiết với nhau trong sản xuất, phong tục

tập quán, giao dịch sinh hoạt hàng ngày. Chủ yếu là ở làng tự quản trị giữa nhân dân

với nhau không phải bằng luật pháp mà là bằng phong tục tập quán [133, tr. 10].

Thường trong mỗi làng có nhiều người có quan hệ cùng huyết thống. Về cơ bản,

quan hệ trong các gia đình đã chuyển sang chế độ phụ hệ. Tuy nhiên, vai trò của

người phụ nữ vẫn rất quan trọng, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất nương, rẫy,

nội trợ. Đứng đầu làng là các chủ làng, già làng. Họ là những người có uy thế chính

trị trong làng, nắm giữ và chấp hành phong tục tập quán trong làng, có kinh nghiệm

trong sản xuất, hiểu biết về luật tục, có trách nhiệm trong việc quyết định chọn đất

lập làng, chọn nguồn nước, chọn vùng rẫy canh tác, cúng tế thần linh, giải quyết các

vụ việc tranh chấp, phân xử những việc vi phạm đến tập quán. Trong kháng chiến,

các già làng có vai trò quan trọng trong việc vận động, thuyết phục đồng bào các

dân tộc đấu tranh chống địch dồn dân vào các khu tập trung, xây dựng các “làng bí

mật”, lập cứ trong núi.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực hiện chính sách “chia để trị”, mục đích của thực dân Pháp là chia rẽ giữa đồng bào dân tộc với người Kinh, chia

42

Page 44: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

rẽ trong nội bộ các dân tộc miền núi. Sau này, đế quốc Mỹ tiếp tục tiến hành những thủ đoạn hết sức thâm độc về chính trị, kinh tế, xã hội nhằm chia rẽ, lôi kéo, khống chế đồng bào, đẩy mạnh việc phát triển các tổ chức phản động ở miền núi. Thậm chí, ở một số nơi, địch còn sử dụng vật chất và tôn giáo để mê hoặc nhân dân. Sau khi hòa bình được lập lại không lâu, vợ chồng mục sư người Mỹ là Smith và mục sư Kiều Toản đã có mặt ở huyện Giằng (thuộc miền núi tỉnh Quảng Nam). Cùng với việc xây dựng một ngôi nhà thờ ở thôn Tài Mộc, họ đã tiến hành “xâm nhập vào các bản làng thuộc xã Bến Yên, dùng của cải và kinh thánh để mua chuộc, mê hoặc quần chúng. Mục đích của những nhà truyền giáo này không ngoài việc phát triển đạo Tin lành và làm “tai mắt” cho Mỹ – Diệm trong chặng đường đầu xâm nhập vào một vùng của Trường Sơn nổi tiếng bất khuất” [75, tr. 196].

Những chính sách, thủ đoạn xảo quyệt của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tuy không khuất phục được quần chúng, không làm lung lay ý chí của họ nhưng cũng gây không ít khó khăn cho quá trình củng cố và mở rộng căn cứ địa cách mạng. Hiểu rõ được bản chất của kẻ thù thông qua sự giác ngộ của cán bộ cách mạng, nhân dân Trung Trung Bộ vẫn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, bất khuất, kiên cường, đoàn kết chống xâm lược, đóng góp sức mình xây dựng và bảo vệ căn cứ.

Về xã hội, trình độ phát triển của các dân tộc ở Trung Trung Bộ chênh lệch

theo từng vùng miền. Đặc điểm kinh tế, xã hội đa dạng, chưa tương đồng trong hệ

thống xã hội đang chịu sự chi phối của các thế lực xâm lược, dân số cư trú đông đúc

ở đồng bằng nhưng lại thưa thớt ở miền núi là những khó khăn ảnh hưởng đến việc

xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Tuy nhiên, nhân dân Trung Trung Bộ có tinh thần yêu

nước quật khởi, giàu truyền thống đấu tranh chống áp bức, bất công, luôn đi đầu

trên trận tuyến chống xâm lược chính là những điều kiện thuận lợi cơ bản để xây

dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng.

2.1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Trung Trung Bộ

Lịch sử hình thành và phát triển của các địa phương ở Trung Trung Bộ đã hun

đúc nên những truyền thống văn hóa, trong đó tiêu biểu là truyền thống yêu nước,

chống áp bức, bất công, chống xâm lược.

43

Page 45: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ nhất, nhân dân Trung

Trung Bộ đã anh dũng đứng lên đánh Pháp. Quân dân Đà Nẵng sát cánh cùng quân

đội triều đình nhà Nguyễn tích cực chặn đánh quân địch ngay khi chúng vừa xâm

nhập. Với một lực lượng tham chiến hùng hậu, gồm 16 chiến hạm trang bị đại bác,

tổng quân số 2.350 lính Âu – Phi, lại thêm 2 đại đội “lính bản xứ” gồm các giáo dân

phản động, bọn thổ phỉ và dân phu Tàu, thế nhưng sau 18 tháng 22 ngày giao chiến

tại Đà Nẵng (1-9-1858 đến 23-3-1860), liên quân Pháp – Tây Ban Nha bị tổn thất

nặng nề, buộc phải bỏ mặt trận Đà Nẵng, để lại “một tháp hài cốt chứa ngàn thánh

giá” [132, tr. 50].

Năm 1885, phong trào Cần Vương được phát động, các tỉnh Trung Trung Bộ

là những địa phương đầu tiên trong cả nước hưởng ứng phong trào. Quảng Nam có

phong trào Nghĩa hội do Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Trần

Đỉnh, Nguyễn Thành, Nguyễn Hanh, Ông Ích Thiện lãnh đạo. Các ông cùng nghĩa

quân dựa vào thung lũng Trung Lộc (Quế Sơn), nơi có núi cao bao bọc để xây dựng

căn cứ đánh Pháp. Ở Quảng Ngãi nổi lên phong trào chống Pháp của Lê Trung

Đình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Tôn Tường, Thái Thú, Lê Vịnh. Ở Bình

Định, Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ lập căn cứ kháng chiến tại

vùng núi Lộc Đổng (phía Tây tổng Phú Phong nay thuộc thôn Phú Hiệp, thị trấn

Phú Phong, huyện Tây Sơn) để chống Pháp. Ở Phú Yên, cử nhân Lê Thành Phương

và các nhà yêu nước Nguyễn Hào Sự, Nguyễn Thị Vân Đương, Lê Thành Bính,

Đặng Đức Vĩ, Tán Trương, Tán Lý, Tán Thiều lập căn cứ ở núi Một, núi Chóp

Vung, núi Hòn Đồn, núi La Hiên, núi Sầm để tiến hành cuộc kháng chiến chống

Pháp. Dựa vào vùng rừng núi phía Tây của tỉnh, nghĩa quân xây dựng các căn cứ

địa Vân Hòa, Hà Đang – Thồ Lồ trở thành những căn cứ sơn phòng làm nơi rút lui,

bảo toàn lực lượng. Để bảo vệ căn cứ nằm sâu trong đất liền, nghĩa quân Cần

Vương ở Phú Yên còn xây dựng một hệ thống phòng thủ vững chắc ở bờ biển nhằm

chặn đánh quân Pháp đổ bộ bằng đường biển. Hệ thống phòng thủ ven biển và các

căn cứ sơn phòng ở miền Tây đã trở thành hậu cứ vững chắc cho phong trào Cần

Vương ở Phú Yên.

44

Page 46: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản

diễn ra sôi nổi ở nhiều địa phương trên cả nước. Trung Trung Bộ trở thành nơi khởi

phát của phong trào Duy Tân, Duy Tân Hội và phong trào Đông Du do các sĩ phu

yêu nước tiêu biểu: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Phan Thúc

Duyện, Lê Bá Trinh, Nguyễn Thành lãnh đạo. Với nhiệm vụ chính là “chấn dân khí,

khai dân trí, hậu dân sinh”, phong trào Duy Tân diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế,

chính trị, văn hóa – xã hội dưới nhiều hình thức phong phú như lập các Hội tóc

ngắn, Hội học, Hội thương, Hội nông… Bắt đầu từ làng Phú Lâm (nay thuộc xã

Tiên Sơn, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam), chỉ trong một thời gian ngắn,

phong trào lan rộng ra các địa phương Trung Trung Bộ. Những làng Duy Tân điển

hình của Quảng Nam bấy giờ là Phú Lâm, Diên Phong và Phúc Bình. Nhằm mở

mang tri thức cho nhân dân, truyền bá tư tưởng dân quyền chống đế quốc và phong

kiến, khơi dậy lòng yêu nước, thực hiện nếp sống văn minh, nhiều trường học được

lập ra để dạy chữ Quốc ngữ, toán, khoa học thường thức… Các nhà nho và phú hào

có tư tưởng tiến bộ bỏ tiền ra lập thương hội, mở xưởng sản xuất thủ công.

Phong trào Duy Tân thể hiện tinh thần cương quyết chống lại cường quyền nô

dịch, khát vọng xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tiến bộ của nhân dân Trung

Trung Bộ. Tổ chức Duy Tân Hội và phong trào Đông Du ở Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Bình Định đóng vai trò tích cực trong cuộc vận động đưa hàng trăm thanh

niên Việt Nam sang Nhật du học.

Tư tưởng duy tân cải cách của các sĩ phu yêu nước trong phong trào Duy Tân

được truyền bá vào quần chúng đang bị ách áp bức, bóc lột nặng nề của đế quốc

thực dân đè nặng đã làm bùng phát một phong trào đấu tranh mới hết sức quyết liệt

– phong trào chống sưu thuế năm 1908. Khởi đầu từ Đại Lộc (Quảng Nam), với

hàng trăm quần chúng kéo đến bao vây Tòa Công sứ Pháp ở Hội An đòi trừng trị tên

tri huyện độc ác và xin giảm xâu, phong trào nhanh chóng lan rộng ra các địa phương

ở Trung Trung Bộ đồng thời cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào chống sưu thuế ở các

tỉnh Trung Kỳ. Phong trào thể hiện tinh thần anh dũng quật khởi của nhân dân Trung

Trung Bộ trong cuộc đấu tranh chống cường quyền áp bức, giành độc lập, tự do.

45

Page 47: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với phong trào chống sưu thuế năm

1908 đã không khuất phục được những người con yêu nước ở Trung Trung Bộ.

Năm 1916, các sĩ phu Thái Phiên, Trần Cao Vân ở Quảng Nam và tổ chức Việt Nam

Quang Phục Hội lại bí mật chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa với sự liên kết tham gia

của các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị. Tuy nhiên, kế

hoạch bị lộ, khởi nghĩa không thành. Mặc dù thất bại nhưng kế hoạch khởi nghĩa là

sự tiếp nối truyền thống yêu nước, quật khởi của nhân dân Trung Trung Bộ.

Ở vùng rừng núi Trung Trung Bộ, phong trào đấu tranh chống Pháp của đồng

bào các dân tộc diễn ra mạnh mẽ. Năm 1900, Võ Trứ và Trần Cao Vân dựa vào núi

La Hiên (Phú Yên) xây dựng căn cứ chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa của hai ông thu

hút được sự tham gia của hàng ngàn đồng bào Kinh – Thượng thuộc các huyện

Đồng Xuân, Sơn Hòa, Tuy An. Từ năm 1900 đến năm 1925, đồng bào các dân tộc

Hrê, Cadong, Cor ở các huyện miền núi Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng

(Quảng Ngãi) dưới sự chỉ huy của Đinh Đoàn, Đinh Đầu, Đinh Tăm, Đinh Mẫn,

Đinh Tôm, Đinh Boóc… nổi dậy đấu tranh chống Pháp và tay sai đánh thuế và bắt

dân đi xâu. Trong những năm 1902-1908 đồng bào Ba Na, Hrê, Chăm ở các huyện

Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh (Bình Định) dưới sự lãnh đạo của Trương Các,

Nguyễn Thiện, Ưng Văn Lê, Ưng Văn Diện, Hoàng Văn Chùy, Nguyễn Văn Tính,

Võ Trứ nổi dậy chống sưu cao thuế nặng, chống bắt lính, chống thực dân Pháp lên

vùng rừng núi chiếm đất để thăm dò vàng, cô – ban… Tuy bị thực dân Pháp dập tắt

nhưng các cuộc đấu tranh tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược

bảo vệ nền độc lập, tự do của đồng bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ.

Đầu những năm 20 của thế kỉ XX, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam. Trung Trung Bộ trở thành khu vực sớm tiếp nhận hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong những năm 1926-1928, các tổ chức tiền thân của Đảng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng xuất hiện ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Năm 1929, các Đảng bộ Cộng sản đã được hình thành ở Trung Trung Bộ. Tháng 7-1929, một số chi bộ “Dự bị Cộng sản” ra đời ở Quảng Ngãi. Đến cuối năm 1929, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Quảng Nam và Thị uỷ lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng Đà Nẵng được

46

Page 48: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

thành lập. Tại Bình Định, trong tháng 3 và tháng 8-1930, chi bộ Cộng sản nhà máy đèn Qui Nhơn và chi bộ huyện Hoài Nhơn được hình thành. Tháng 10-1930, chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở thôn Đồng Bé, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Sự ra đời của các chi bộ Đảng không chỉ đánh dấu bước ngoặt trong phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Trung Trung Bộ mà còn tạo điều kiện thuận lợi để đưa phong trào chuyển sang một giai đoạn mới.

Sau hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt

Nam đầu năm 1930, các tổ chức Đảng ở các địa phương thuộc Trung Trung Bộ đều

nhất trí chuyển sang gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của

Đảng, phong trào cách mạng 1930-1931 đã diễn ra hết sức quyết liệt trên địa bàn

Trung Trung Bộ. Trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930, cờ đỏ búa

liềm và truyền đơn cách mạng xuất hiện trên các đường phố, trong rạp chiếu bóng

Nguyễn Khoa Lệ (nay là rạp 29-3 Đà Nẵng), thậm chí ngay trên nóc Sở Cảnh sát

thành phố, trước dinh Tổng đốc Quảng Nam ở huyện Điện Bàn. Tỉnh ủy Quảng

Nam tổ chức nhiều buổi diễn thuyết kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng

đánh đổ thực dân phong kiến, ủng hộ phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh. Từ cuối

tháng 10-1930 đến tháng 1-1931, nhân dân các huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh, Mộ Đức,

Tư Nghĩa, Bình Sơn, Ba Tơ, Nghĩa Hành và huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) nổi

dậy kéo về các huyện lỵ đập phá huyện đường, nhà lao, giải thoát tù chính trị, buộc

thực dân Pháp và chính quyền tay sai phải giải quyết các yêu sách của nhân dân.

Nhiều cuộc tổng bãi công, bãi thị diễn ra trong toàn tỉnh. Truyền đơn, biểu ngữ, cờ

đỏ búa liềm tung bay khắp nơi. Mặc dù thực dân Pháp đàn áp, khủng bố hết sức dã

man nhưng Quảng Ngãi được xem là nơi có phong trào mạnh nhất ở phía Nam

Trung Kỳ [77, tr. 229]. Nối tiếp Quảng Ngãi, từ tháng 3-1931 đến tháng 6-1931,

Tỉnh ủy Phú Yên tổ chức nhiều cuộc mít tinh kêu gọi nhân dân đứng lên chống chế

độ thực dân phong kiến, chống khủng bố trắng ở Nghệ Tĩnh và Quảng Ngãi.

Phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định được đánh dấu bằng đỉnh cao là

cuộc biểu tình vũ trang đêm ngày 22 rạng ngày 23-7-1931 của 3.000 nông dân với

sự bảo vệ của lực lượng tự vệ đỏ từ Hoài Nhơn kéo về phủ lỵ Bồng Sơn. Bất chấp

sự đàn áp tàn khốc của thực dân Pháp và tay sai làm nhiều người bị bắt và hàng

47

Page 49: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

trăm quần chúng bị thương, đoàn biểu tình vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu phản

đối chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, vừa kêu gọi binh lính địch đứng

về phía nhân dân, đòi các quyền dân tộc dân chủ. Cuộc biểu tình được xem là “một

đòn tiến công bất ngờ và quyết liệt, làm rung chuyển bộ máy chính quyền cơ sở của

đế quốc phong kiến tại nhiều làng xã Hoài Nhơn”, là “đỉnh cao, tiêu biểu cho khí

thế tiến công của công nhân và nông dân Bình Định trong cao trào 1930-1931” [74,

tr. 66-67]. Phong trào cách mạng 1930-1931 ở Trung Trung Bộ tuy bị thực dân

Pháp đàn áp nhưng nó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của quần

chúng cách mạng nơi đây.

Năm 1937, miền Tây Phú Yên nổ ra phong trào chống làm xâu, đòi giảm thuế đinh, do Săm – Brăm (hội Chàm) khởi xướng. Phong trào mang màu sắc tôn giáo và còn được gọi là phong trào “Nước Xu” bởi vì những người tham gia đều nộp một đồng xu và tin rằng nếu uống nước thần do Săm – Brăm lấy từ con suối linh thiêng thì đạn Pháp bắn không chết. Được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, từ miền núi huyện Sơn Hòa, phong trào lan rộng khắp miền núi Trung Trung Bộ và Tây nguyên. Nhân dân không đi nộp thuế, không đi xâu, dời làng, bất hợp tác với Pháp… Từ đó hình thành những làng võ trang chống Pháp kéo dài cuộc chiến đấu đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Truyền thống yêu nước, quật khởi của nhân dân Trung Trung Bộ là cơ sở thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ địa trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.

2.1.3. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình vận động Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp

Trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các địa phương ở

Trung Trung Bộ tích cực xây dựng LLVT và căn cứ địa. Trước ngày Tổng khởi

nghĩa, Trung Trung Bộ xây dựng các đội du kích: Vũ Hùng (Quảng Nam), Ba Tơ

(Quảng Ngãi) cùng hàng ngàn đội viên tự vệ ở các địa phương. Tỉnh Quảng Nam

xây dựng căn cứ ở Phú Túc, Ô Rây, Đồng Xanh, Đồng Nghệ (Hòa Vang), Làng Rô,

Đhaprang (nguồn Phước Sơn), Bù Ngót (Quế Sơn). Từ vùng núi Cao Muôn, đội du

kích Ba Tơ (Quảng Ngãi) tiến về đồng bằng, xây dựng căn cứ tại Chiến khu Vĩnh

48

Page 50: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Tuy (Sơn Tịnh) và Chiến khu Núi Lớn (Mộ Đức). Tỉnh Bình Định cũng chuẩn bị

hậu cứ ở An Đỗ, An Sơn (Hoài Nhơn), Lộc Giang, Lộc Bài (Hoài Ân), Đại An, Đại

Bình (An Nhơn). Trên cơ sở lực lượng tự vệ và căn cứ đã được xây dựng, Đảng bộ

các tỉnh đã chủ động nắm bắt thời cơ cách mạng, nhanh chóng phát động quần

chúng nổi dậy giành chính quyền thắng lợi ở hầu hết địa phương.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân Trung Trung Bộ đã

tích cực xây dựng căn cứ để tiến hành kháng chiến lâu dài. Nhiều căn cứ địa cách

mạng được hình thành, trở thành nơi đóng trú của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo cấp

khu, tỉnh, huyện; nơi xây dựng, huấn luyện LLVT các địa phương, nổi bật là các

căn cứ:

Khu Sông Đà (Mật danh B36): Được thành lập vào tháng 3-1950 theo chủ

trương của Khu ủy khu V và Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ.

Đây là khu căn cứ nổi bao gồm tất cả ngư dân và những người sống bằng nghề sông

biển từ Cẩm Lệ xuống dọc sông Hàn, vòng quanh qua Vũng Thùng với khoảng

11.000 dân, trong đó có 2 vạn ghe và cư dân trên bờ, tạo thành 2 xã Lỗ Sài và Hóa

Sơn thuộc xã Hòa Cường. Từ khi thành lập đến khi Hiệp định Genève năm 1954

được ký kết, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ và nhân dân khu

căn cứ nổi Sông Đà là nắm chắc tình hình quân Pháp thông qua tin tức và hoạt động

ở cảng, các bến bãi kho tàng, thực hiện nhiệm vụ phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự

của quân Pháp; lấy của địch phục vụ kháng chiến. Hình thức phá hoại có nhiều cách

như: làm đứt xích cần cẩu, dây choàng, đánh rơi các kiện hàng xuống sông biển,

chọc thủng bao bì để hàng rơi vãi trong khi bốc dỡ. Đối với vũ khí, thuốc men, thực

phẩm có bao bì bằng kim loại hay thủy tinh khi đánh rơi xuống biển, anh chị em

công nhân tìm cách đánh dấu. Sau đó, lựa lúc địch sơ hở tiến hành trục vớt đưa về

phục vụ kháng chiến. Hơn thế nữa, từ cuối năm 1953, Khu Sông Đà còn là nơi diễn

ra phong trào đấu tranh quyết liệt của quần chúng đòi thực hiện các yêu cầu dân

sinh: chống Pháp đổ sắt thép xuống sông biển, miễn giảm thuế, được tự do ra biển

làm ăn kết hợp các khẩu hiệu chính trị: Chấm dứt chiến tranh; Nước Việt Nam hòa

bình, độc lập. Với cơ sở mạnh, trong những năm 1953-1954, nhiều ghe thuyền của

49

Page 51: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

ngư dân Sông Đà trở thành nơi nuôi giấu cán bộ vào hoạt động, trong đó có một số

cán bộ cao cấp: Trương Chí Cương – Khu ủy viên khu V, Bí thư Liên Tỉnh Quảng

Nam – Đà Nẵng, các cán bộ của Thành ủy Đà Nẵng: Trần Nhành, Trần Hữu Cử…

Chiến khu Trung Man: Cuối năm 1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc

đang diễn ra quyết liệt trong thành phố Đà Nẵng, để chuẩn bị kháng chiến lâu dài,

Huyện ủy Hòa Vang họp hội nghị chủ trương xây dựng Chiến khu Trung Man ở

miền núi phía Tây của huyện. Huyện ủy thành lập Ban cán sự Tây Bắc Hòa Vang

gồm các ông Trần Tiếp, Chế Viết Đổng, Nguyễn Sâm, Phạm Khương, Cónh Thung,

Cónh Liệu… do Trần Tiếp – Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy làm Bí thư. Huyện

vận động đồng bào dân tộc, cán bộ chuyển hàng chục tấn lương thực và nhiều tài

liệu quan trọng, xây dựng chiến khu ở vùng Trung Man. Từ năm 1950, chiến khu

Trung Man và vùng rừng núi Tây Bắc Hòa Vang không những là chỗ dựa của lực

lượng cách mạng Hòa Vang mà còn là địa bàn đứng chân của Thành ủy Đà Nẵng, là

căn cứ địa quan trọng của bộ đội chủ lực khu và tỉnh. Miền Tây Hòa Vang là nơi

huyện, tỉnh đặt các cơ quan và trại sản xuất: BTL tiền phương Trung đoàn 96, trại

sản xuất Phan Cửu Vinh của huyện Hòa Vang, trại sản xuất Nguyễn Huệ của Ủy

ban kháng chiến tỉnh, trại sản xuất Tu Bhầu của Tỉnh ủy, xưởng cơ khí chế lựu đạn

và sửa chữa súng của Tỉnh đội, trại sản xuất của Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93.

Đồng bào Cơtu ở đây đã có nhiều đóng góp đáng kể trong việc cung cấp lương

thực, thực phẩm, bảo vệ an ninh căn cứ địa.

Căn cứ Tiên Phước: Từ cuối năm 1947, huyện Tiên Phước trở thành căn cứ

địa của tỉnh Quảng Nam. Nhiều cơ quan lãnh đạo và cơ quan chuyên môn của tỉnh

về đóng tại huyện nhà. Tỉnh ủy đứng chân ở thôn 2 và thôn 3 xã Tiên Sơn. Ủy ban

kháng chiến – hành chính tỉnh ban đầu đóng ở Tiên Châu, Tiên Kỳ, về sau đóng ở

xã Tiên Phong. Trường Thiếu sinh quân đóng ở thôn 1 xã Tiên Phong (1952-1953).

Tại Tiên Phước còn có các cơ quan, đơn vị: trại sản xuất, công binh xưởng, xưởng

giấy, xưởng hóa chất, bệnh viện quân dân y, kho thóc nông nghiệp của tỉnh… Công

binh xưởng QB.150 đóng trên địa bàn xã Tiên Cảnh, là một cơ sở quốc phòng khá

lớn với trên 300 công nhân quân giới. Mặc dù phải nhiều lần di chuyển địa điểm do

50

Page 52: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

bị quân Pháp phát hiện và ném bom nhưng đơn vị này vẫn tồn tại và hoạt động cho

đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, sau đó chuyển ra miền Bắc. Xưởng

quân giới của Tỉnh đội sản xuất lựu đạn cũng đóng ở khu vực Tiên Thọ, Tiên Cảnh.

Xưởng sản xuất giấy của Ban Trợ cấp tự túc tỉnh đóng ở thôn 3 xã Tiên Cảnh. Bên

cạnh vai trò là căn cứ địa của tỉnh, Tiên Phước còn thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối

với nước bạn Lào và Campuchia. Từ khi Khu đặc biệt Hạ Lào trực thuộc BTL Liên

khu V và Ban Cán sự Đông Bắc Miên được thành lập vào tháng 8-1948 và đầu năm

1950, Tiên Phước trở thành hậu phương, căn cứ địa của cách mạng Lào và Đông

Bắc Miên. Một trung đoàn bộ đội Hạ Lào đóng quân ở các xã Tiên Phong, Tiên Mỹ,

Tiên Kỳ. Trong những năm 1950-1951, xã Tiên Phong là nơi đóng cơ quan phòng

Biên chính Hạ Lào. Tại đây còn có trường Thiếu sinh quân của các bạn Lào. Quân

đội Campuchia cũng có thời gian đứng chân ở Tiên Phước. Bộ đội Việt Nam đã hết

lòng giúp đỡ các đơn vị bộ đội bạn trong việc huấn luyện quân sự. Năm 1952, mặc

dù nạn đói lớn xảy ra nhưng nhân dân Tiên Phước vẫn chu cấp đầy đủ lương thực,

thực phẩm cho các đơn vị bộ đội Lào và Campuchia.

Khu kháng chiến Hạ Lào: Tháng 2-1949, thực hiện thỏa thuận giữa Chính

phủ độc lập Lâm thời It – xa – ra (Lào) và Ủy ban Kháng chiến miền Nam Trung

Bộ về việc giúp nước bạn thành lập khu kháng chiến, tỉnh Quảng Nam vinh dự

được chọn trở thành nơi đứng chân của Khu kháng chiến Hạ Lào. Khu kháng chiến

Hạ Lào do ông Xi – Thôn – Com – Ma – Đăm làm Khu trưởng, Xổm – Man – Nô –

Viêng và Đoàn Huyên của Việt Nam làm Phó Trưởng khu; đồng thời được xây

dựng trên địa bàn rộng lớn bao gồm các xã Tam Dân, Tam Thái, Tam Đại, Tam An,

Tam Phước (Phú Ninh) và xã Tam Ngọc (thành phố Tam Kỳ) ngày nay. Căn cứ đầu

não của khu kháng chiến đặt tại vườn nhà ông Nguyễn Soạn (thôn Thạnh Đức, xã

Tam Dân cũ, nay thuộc thị trấn Phú Thịnh, Phú Ninh). Từ khi thành lập đến năm

1951, đây là nơi tập luyện chiến đấu, học tập chính trị, quân sự; nơi cung cấp vũ khí

lương thực, quân trang quân dụng cho chiến trường Lào. Mỗi đợt huấn luyện có trên

600 chiến sĩ của Lào, được nhân dân xã Tam Dân giúp đỡ chỗ ăn, ở, sinh hoạt. Khu

kháng chiến Hạ Lào ở Tam Kỳ là biểu tượng cao đẹp của tình hữu nghị giữa hai dân

51

Page 53: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

tộc Việt – Lào trong kháng chiến chống Pháp. Vào cuối năm 1951, Chính phủ liên

hiệp kháng chiến và Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào It – xa – ra được thành lập,

phong trào cách mạng Lào phát triển mạnh mẽ, có căn cứ đứng chân trong nước,

nên đến đây căn cứ của bạn trên đất Quảng Nam không còn nữa.

Căn cứ của đội du kích Ba Tơ: Gồm 3 chiến khu: Cao Muôn (Ba Vinh, Ba Tơ),

Núi Lớn (Tây Mộ Đức), Vĩnh Tuy (hay Vĩnh Sơn, Sơn Tịnh) ở tỉnh Quảng Ngãi.

Chiến khu Cao Muôn: Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, vào giữa

tháng 3-1945, đội du kích Ba Tơ chuyển lên vùng núi Cao Muôn thuộc phía Tây

Nam xã Ba Chùa (huyện Ba Tơ) để xây dựng chiến khu, củng cố và phát triển lực

lượng. Từ Núi Cao Muôn, đội du kích Ba Tơ thực hiện công tác vận động quần

chúng, xây dựng căn cứ địa, đồng thời tranh thủ thời gian chấn chỉnh tổ chức, giáo

dục chính trị và huấn luyện quân sự. Eo Chim, Nước Lá, Nước Nẻ, Bến Buôn, Cao

Muôn Thượng, Hang Én là những địa bàn mà đội du kích tiến hành hoạt động tuyên

truyền, vận động đồng bào Thượng cùng nhau đứng lên đánh đuổi Nhật – Pháp, xây

dựng tình đoàn kết Kinh – Thượng. Thông qua việc nắm các già làng, trưởng bản,

chánh tổng, lý hương… đội vận động nhân dân giúp đỡ cách mạng và cùng dân làng

làm lễ ăn thề “không làm cho Nhật, không phản bội nhau”. Qua gần 2 tháng tuyên

truyền và hoạt động của đội, “khắp rừng núi Ba Tơ đâu đâu cũng hừng hực khí thế

đánh Nhật, đuổi Tây” [143, tr. 73].

Chiến khu Núi Lớn: Sau khi chuyển về hoạt động ở đồng bằng, Đại đội Hoàng

Hoa Thám của đội du kích Ba Tơ đứng chân ở Chiến khu Núi Lớn phía Tây huyện

Mộ Đức. Tại đây có kho lương thực, lò rèn sản xuất vũ khí vũ trang cho du kích và

tự vệ, có nơi ở và làm việc của cơ quan ấn loát, tạp chí Xung Phong làm chức năng

giáo dục nội bộ và khuyếch trương ảnh hưởng của đội, cổ vũ phong trào cách mạng

trong tỉnh. Tại Chiến khu Núi Lớn, đội du kích Ba Tơ nhanh chóng xây dựng, phát

triển lực lượng. Đến đầu tháng 8-1945, Đại đội Hoàng Hoa Thám đã có 5 trung đội;

đồng thời trở thành lực lượng nòng cốt hỗ trợ nhân dân vũ trang khởi nghĩa giành

chính quyền ở các địa phương trong tỉnh Quảng Ngãi.

52

Page 54: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Chiến khu Vĩnh Tuy (hay Vĩnh Sơn): Cùng với hoạt động của Đại đội Hoàng

Hoa Thám, Đại đội Phan Đình Phùng của đội du kích Ba Tơ do các đồng chí Phạm

Kiệt, Võ Thứ... chỉ huy tổ chức xây dựng chiến khu tại Vĩnh Tuy (Tịnh Hiệp, Sơn

Tịnh). Ðây là nơi có địa thế núi non hiểm trở và có đầu mối giao thông với các

huyện Sơn Hà, Trà Bồng, Minh Long, Tư Nghĩa, Bình Sơn. Tại Chiến khu Vĩnh

Tuy, đội du kích Ba Tơ nhanh chóng phát triển lực lượng, đến đầu tháng 8-1945,

Đại đội Phan Đình Phùng có 5 trung đội. Bên cạnh lò rèn sản xuất vũ khí vũ trang

cho du kích và tự vệ, ở đây còn xây dựng Xưởng công binh Từ Nhại. Đây là xưởng

quân giới đầu tiên của Liên khu V chính thức hoạt động vào tháng 12-1945. Vũ khí

chế tạo là lựu đạn, mìn, bom ba càng, sửa chữa súng hỏng hóc từ các chiến trường

đưa về và sau này còn chế tạo cả súng SKZ. Sau hơn hai năm hoạt động, tháng 7-

1948, Xưởng Từ Nhại bị máy bay Pháp phát hiện thả bom, bắn phá. Tuy thiệt hại

không lớn nhưng để đảm bảo an toàn, một thời gian sau đó, xưởng sơ tán đến nơi

khác và lại tiếp tục sản xuất vũ khí, cung cấp cho các chiến trường miền Nam đến

ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.

Căn cứ Khu ủy Khu V: Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, để giữ vững

vùng tự do và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, qua chuyến thị sát tình hình ở

chiến trường Khu V, Khu ủy chọn xây dựng căn cứ tại thôn Thế Thạnh, xã Ân

Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Diện tích khu căn cứ rộng 3.000 m². Tại

đây, lãnh đạo Khu ủy cũng như đại diện Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ đã

tổ chức các cuộc họp quyết định những vấn đề quan trọng đối với cuộc kháng chiến

chống Pháp ở Liên khu V. Ngôi nhà của gia đình cụ Nguyễn Trọng Phủ ở thôn Thế

Thạnh, xã Ân Thạnh được chọn là nơi đóng và làm việc của cơ quan Khu ủy khu V.

Cũng tại đây, tháng 4 và tháng 7-1948, ông Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương

Đảng và Chính phủ, triệu tập Hội nghị quân – dân – chính – Đảng và Hội nghị Quân

sự Nam Trung Bộ, vạch ra những chủ trương và biện pháp cụ thể cho cuộc kháng

chiến toàn khu. Được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Liên Khu ủy khu V,

trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Ân Thạnh cũng như

toàn huyện Hoài Ân đạt được những thành quả đáng tự hào: phòng chống đói, cứu

đói; tăng gia sản xuất đảm bảo lương thực, thực phẩm; xóa nạn mù chữ; xây dựng

53

Page 55: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

hậu phương vững chắc, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Căn cứ Khu ủy và các cơ

quan của Khu V, góp phần giữ vững vùng tự do trong thời kỳ gay go ác liệt; xây

dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, huy động và đóng góp nhân tài, vật lực

cho kháng chiến; hoàn thành nhiệm vụ hậu phương đối với cả chiến trường Khu V,

góp phần đáng kể vào thắng lợi chung của cả nước. Bên cạnh đó, Hoài Ân còn là

căn cứ của tỉnh Bình Định trong suốt thời kỳ chống Pháp.

Căn cứ Thồ Lồ: Giữa năm 1951, trước tình hình thực dân Pháp xây dựng hệ

thống đồn bốt ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Đắc Lắc và Phú Yên đồng thời tăng

cường hoạt động đánh phá ở các huyện miền núi, lấn chiếm, uy hiếp vùng đồng

bằng, Tỉnh ủy và Tỉnh đội Phú Yên chủ trương xây dựng căn cứ địa ở xã Thồ Lồ,

huyện Đồng Xuân. Địa bàn này có diện tích khoảng 400 km², giáp ranh hai tỉnh

Bình Định và Gia Lai. Địa hình của căn cứ rất hiểm trở với núi cao, rừng rậm, sông

suối bao bọc xung quanh. Tuy nhiên, từ Thồ Lồ có thể mở nhiều con đường giao

liên chiến lược xuyên suốt từ Nam ra Bắc. Hơn nữa, đây cũng là cửa ngõ liên lạc từ

tỉnh Phú Yên ra Liên khu V. Thồ Lồ là nơi cư trú của 800 đồng bào Bana thuộc các

buôn: Ma Bơi, Ma Hàm, Ma Tí, Ma Quân, Ma Kheo, Suối Cát, Ma Gâm, Ma Gời.

Tại Thồ Lồ, sau một thời gian dài trụ bám, Đội công tác 250 do ông Cao Xuân

Thiêm phụ trách tổ chức xây dựng chính quyền, đoàn thể cấp xã, buôn; phát động

phong trào du kích chiến tranh; vận động nhân dân thực hiện rào làng, làm hầm

chông, bố phòng canh gác đề phòng biệt kích, gián điệp xâm nhập; xây dựng và bảo

vệ căn cứ. Đầu tháng 1-1954, trước khi quân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào Phú

Yên, Đội 250 huy động nhân dân chuẩn bị lán trại, đào hầm, tham gia mở đường từ

Thồ Lồ xuống tỉnh và khu, bảo vệ an toàn cho các cơ quan và cơ sở của tỉnh dời lên

đây. Ngày 20-1-1954, khi lực lượng thủy lục không quân Pháp đổ bộ lên đất Phú

Yên, các cơ quan, bệnh viện, kho tàng dự trữ vũ khí, lương thực của tỉnh đã kịp thời

chuyển lên buôn Suối Cát và được bảo vệ an toàn. Thồ Lồ là nơi đứng chân an toàn

của các cơ quan tỉnh Phú Yên cho đến khi kết thúc cuộc chiến chống Pháp và trong

suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này. Đối phương đánh giá Căn

cứ Thồ Lồ là nơi mà lực lượng kháng chiến có khả năng giải quyết được 3 yếu điểm

54

Page 56: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

quan trọng: “Nơi thối thủ bất khả xâm phạm, nơi nuôi dưỡng sinh lực của cán bộ,

nơi trung tâm của nền kinh tế tự túc suốt thời gian tranh đấu. Ngoài ra, Thồ Lồ còn

được xem như là một dưỡng đường bí mật cho bọn cán bộ hoạt động bất hợp pháp

trong lúc ốm đau về đây nghỉ ngơi” [136, tr. 1].

Tóm lại, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được hình thành với sự

đa dạng về quy mô, hình thức tổ chức linh hoạt, phù hợp với điều kiện địa lý, dân

cư và cơ sở xã hội từng địa phương. Tất cả hợp thành hệ thống liên hoàn, tạo chỗ

dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến ở địa phương, đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất

từ Trung ương đến cơ sở. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là điểm xuất

phát của các LLVT tiến công địch ở nhiều hướng, đồng thời là nơi tập kết đưa đón

cán bộ ra Bắc vào Nam. Hơn thế nữa, đây cũng là địa bàn đứng chân của Khu ủy V

để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Liên khu V.

Các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ được xây dựng và thực hiện những yêu cầu,

nhiệm vụ như nhiều căn cứ địa khác trong cả nước. Tuy nhiên, do đặc điểm chiến

trường, điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư và xã hội, bên cạnh những điểm tương

đồng, các căn cứ ở đây còn có một số đặc điểm:

- Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp

không chỉ được hình thành trong quá trình kháng chiến chống Pháp mà còn ra đời

từ trước khởi nghĩa giành chính quyền (8-1945). Để tiến hành kháng chiến lâu dài,

quân dân đã lựa chọn những khu vực có địa thế thuận lợi về địa hình, dân cư, vị trí

chiến lược trong việc xây dựng các căn cứ địa. Nhìn chung, các căn cứ địa ở Trung

Trung Bộ trong kháng chiến chống Pháp được xây dựng chủ yếu ở khu vực miền

núi các tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

- Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được tổ chức linh hoạt, với nhiều

quy mô, loại hình phong phú, có căn cứ ở vùng sông biển, có căn cứ ở miền núi, có

căn cứ của Khu ủy, có căn cứ mang tính chất quốc tế. Đây là một hệ thống căn cứ

độc đáo, tồn tại và phát triển ngay trong lòng địch và ở vùng tự do của Liên khu V,

tạo thế bao vây, chia cắt đồng thời uy hiếp địch ở nhiều địa bàn. Nhờ cách thức tổ

chức đa dạng, linh hoạt của các loại hình căn cứ, quân dân các địa phương đã tận

dụng được những ưu thế về điều kiện tự nhiên, quân sự, kinh tế – xã hội, đặc trưng

55

Page 57: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

vùng miền, động viên được sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong xây dựng, bảo vệ

và phát huy vai trò của căn cứ đồng thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trong việc

giúp đỡ nước bạn Lào xây dựng căn cứ kháng chiến.

- Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không chỉ là địa bàn đứng chân của

các lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến; nơi xây dựng, huấn luyện của LLVT,

mà còn là nơi tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến. Các căn cứ: Trung Man,

Tiên Phước, Khu kháng chiến Hạ Lào và Khu ủy Khu V trở thành nơi đứng chân an

toàn cho LLVT khu, LLVT nước bạn Lào và Khu ủy V trong suốt cuộc kháng chiến

chống Pháp. Được hình thành và phát triển trên vùng tự do rộng lớn của Liên khu

V, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã kịp thời nhận được sự lãnh đạo,

chỉ đạo của Trung ương và Liên khu V đối với cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng

thời đảm bảo sự liên lạc thông suốt giữa các địa phương. Các căn cứ địa cách mạng

trở thành chỗ dựa vững chắc về mọi mặt của cuộc kháng chiến, góp phần để quân

dân tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp trên địa bàn, từ đó tạo cơ sở

để bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ.

2.2. Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung bộ (1954-1960)

2.2.1. Âm mưu và thủ đoạn xóa bỏ căn cứ địa cách mạng của địch

Sau khi Hiệp định Genève được ký kết (21-7-1954), đế quốc Mỹ và chính

quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính sách cai trị phát xít, tàn bạo nhằm thực hiện

mục tiêu chống phá, tiêu diệt phong trào cách mạng, biến miền Nam thành thuộc địa

kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ, thực hiện chia cắt lâu dài Việt Nam.

Song song với việc xây dựng, củng cố bộ máy chính quyền các cấp từ Trung ương

đến địa phương, phát triển lực lượng quân sự, địch tiến hành khủng bố dã man đối

với những người yêu nước, tham gia kháng chiến cũ, thực hiện “tố Cộng” trên toàn

miền Nam. Từ năm 1956, sau khi đánh phá ác liệt vùng đồng bằng Trung Trung Bộ,

đối phương tập trung lực lượng đánh phá miền núi. Âm mưu của địch là sử dụng

lực lượng quân sự và gián điệp tiến hành dồn dân, chiếm đất, lập dinh điền, cướp

bóc, bao vây, phá hoại kinh tế, cắt đứt quan hệ giữa miền núi và đồng bằng, tìm mọi

cách kiểm soát nhân dân để tiêu diệt các căn cứ địa miền núi, đồng thời xây dựng

56

Page 58: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

căn cứ quân sự tại đây [24, tr .1]. Trong quá trình thực hiện âm mưu trên, đối

phương áp dụng nhiều thủ đoạn xảo quyệt về mọi mặt:

Về quân sự: Để tạo bàn đạp cho hoạt động đánh phá các căn cứ địa, địch tiến

hành xây dựng hàng loạt các đồn bốt ở miền núi. Tại Khu B1 và Bến Hiên (Quảng

Nam), chúng thiết lập và củng cố các đồn Pahó (Phù Mưa), Pagiếu (Éo), Picaroong

(Bến Hiên), Galâu, Kaxăh và đặt các trạm kiểm soát ở Xơm Lang (Nhiều), Capoòh

(Phù Du), Prao… Ở Trà Bồng (Quảng Ngãi), đối phương xây dựng 13 đồn binh lớn:

Nà Niêu, Trà Cú, Làng Ngãi, Trà Xinh, Trà Khê, Trà Lãnh, Đá Líp, Eo Reo, Eo

Chim, Nước Vọt, Tầm Rung, Con Ieng, Tà Lạt. Lực lượng quân đội ở các đồn trạm

này thực hiện thọc sâu vào các làng, nương rẫy nhằm đánh bật tổ chức Đảng, cán

bộ, đảng viên ra khỏi quần chúng. Bên cạnh đó, địch tổ chức bắt lính trong đồng

bào các dân tộc, củng cố lực lượng dân vệ ở miền núi. Song song với các hoạt động

trên, từ năm 1955 đến năm 1960, chúng mở hàng chục cuộc hành quân càn quét cấp

tiểu đoàn, trung đoàn đánh vào các căn cứ: B1 (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng

Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ (Phú Yên). Trong các cuộc tấn công vào

căn cứ địa miền núi, địch huy động lực lượng chính quy, tiến hành dài ngày. Điển

hình như chiến dịch Bình định miền Thượng được phát động đồng loạt tại 4 quận

miền núi của tỉnh Quảng Nam là: Trà My, Phước Sơn, Hiên Giằng và Hòa Tân vào

đầu tháng 1-1959 kéo dài đến 6 tháng với sự tham gia của “8 đại đội Bảo An và các

nhân viên trong bộ máy chính quyền cùng một số cán bộ các Đoàn thể chính trị”

[168, tr. 1].

Về chính trị: Đối phương tiến hành củng cố bộ máy hành chính ở miền núi,

phát triển lực lượng gián điệp. Dựa vào một số lái buôn, lính cũ, lưu manh, đầu

hàng, địch xây dựng lực lượng gián điệp hoạt động ở vùng giáp ranh miền núi và

đồng bằng, xung quanh các cứ điểm… thực hiện nắm tình hình, phao tin, gây căng

thẳng trong nhân dân, thăm dò dư luận, chuẩn bị cho các cuộc lùng sục, càn quét tấn

công vào các căn cứ địa. Một mặt, địch tăng cường khủng bố, kiểm soát gắt gao

hoạt động của đồng bào, mặt khác chúng tìm cách mua chuộc các tù trưởng, già

làng, bày trò “ăn yên” 1F

1, thực hiện chính sách tôn giáo hóa thông qua việc “tuyên

1 Lễ đâm trâu tế thần, cầu yên hằng năm

57

Page 59: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

truyền giáo lý đi đôi với chính sách mua chuộc ưu đãi, cho quần áo, thuốc men...

dùng tranh ảnh, sách báo, ảnh đức chúa trời để tuyên truyền giảng đạo” [162, tr. 20]

nhằm lôi kéo quần chúng… Thêm vào đó, địch còn tìm cách chia rẽ sự đoàn kết

Kinh – Thượng, chia rẽ đồng bào các dân tộc. Tại Trà My (Quảng Nam), năm 1957,

địch tổ chức cướp tài sản của đồng bào ở thôn Lon Lói và Mường Phin sau đó đổ tội

cho cách mạng để ly gián cách mạng với quần chúng nhân dân, gây chia rẽ Kinh –

Thượng [29, tr. 12-13]. Nhằm phá chỗ dựa của lực lượng kháng chiến, tách nhân

dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng, địch đẩy mạnh hoạt động dồn dân, trong đó

chúng không từ một thủ đoạn nào từ mua chuộc, dụ dỗ đến đốt nhà, bắn giết. Ở

Quảng Nam, chúng tổ chức đốt nhà dân, dùng lưỡi lê, báng súng thúc ép 170 dân

làng Padương (Bến Giằng) về Thạnh Mỹ sống tập trung, dồn dân ở Phú Túc (Trung

Man) ra bìa rừng, cưỡng bức nhân dân xã Nú (Trà My) vào khu Nước Trắng. Ở

Bình Định, chúng dồn dân thượng nguồn huyện An Lão vào khu dồn Đất Dài, dồn

dân huyện Vĩnh Thạnh, Vân Canh vào các khu xung quanh quận lỵ. Ở Phú Yên, dân

6 xã của huyện Sơn Hòa và các xã Phước Tân, Đá Mài, Phú Mỡ (thuộc Tây Đồng

Xuân) bị dồn xuống Đồng Cam, Đồng Tre, Phước Lãnh... Đến năm 1958, địch đã

dồn 2.000 dân Vân Canh (Bình Định) về gần đường [24, tr .9].

Về kinh tế: Thực hiện phong tỏa về kinh tế, độc quyền mua rẻ các loại lâm

thổ sản miền núi. Trong các cuộc hành quân càn quét, địch ra sức cướp bóc, phá

hoại tài sản, mùa màng của nhân dân. Tháng 7-1959, 24 rẫy lúa non của đồng bào

xã Vĩnh Hiệp (Vĩnh Thạnh) bị địch phá nát [3, tr. 43]. Ở Căn cứ Trà Bồng, những

tháng đầu năm 1960, nhà cửa của nhân dân bị đốt sạch, có nơi bị đốt đi đốt lại từ 30

đến 40 lần [107, tr. 207]. Thêm vào đó, lợi dụng đời sống khó khăn của đồng bào,

đối phương thực hiện thủ đoạn mỵ dân thông qua việc cử một số đơn vị quân đội

tìm cách “gần gũi đồng bào Thượng, thực hiện các công tác dân vận: cắt tóc, phát

thuốc chữa bệnh, tắm gội cho trẻ em [168, tr. 5]. Trong cuộc hành quân thám sát

vùng Thồ Lồ tháng 6-1958, địch tiến hành trao tặng phẩm cho đồng bào Thượng:

hột cườm, khăn choàng, mền, mùng, muối…[164, tr. 1].

Các thủ đoạn đánh phá của địch đã làm cho phong trào cách mạng và các căn

cứ địa miền núi Trung Trung Bộ gặp không ít khó khăn, tổn thất. Giữa năm 1955,

58

Page 60: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

trong một đợt khủng bố tại hai xã Trà Thủy và Trà Sơn (Trà Bồng), 13 người đã bị

giết hại và nhiều người bắt đi [4, tr. 142]. Chỉ trong đợt đánh phá tháng 8-1957, ở

Căn cứ Vĩnh Thạnh, hàng trăm người bị chúng tra tấn dã man tại chỗ, 45 người bị

bắt đi [3, tr. 32]. Tài sản, mùa màng bị phá hủy làm cho đời sống cán bộ, nhân dân

các căn cứ gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, nạn đói, bệnh tật hoành hành. Do sự

kiểm soát gắt gao của địch, hoạt động liên hệ, tiếp tế của đồng bào đối với cán bộ và

các căn cứ trở nên khó khăn. Khi địch thực hiện khủng bố ác liệt ở đồng bằng, địa

bàn miền núi trở thành nơi trú chân an toàn của nhiều cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên,

lúc địch tập trung lực lượng đánh mạnh lên miền núi thì số cán bộ của Đảng từ đồng

bằng lên hoạt động phải tản đi nhiều nơi hoặc phải tạm ẩn nấp sâu hơn trong rừng

thẳm, núi cao. Nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, huyện bị tù đày, hy sinh. Sự

lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với nhân dân vì thế phần nào cũng bị tách rời. Trong

bối cảnh đó, việc xây dựng cơ sở chính trị, khôi phục các căn cứ địa miền núi được

đặt ra một cách thúc bách nhằm bảo tồn, giữ gìn lực lượng, bảo vệ cán bộ lãnh đạo,

chỉ huy của Đảng và quần chúng nòng cốt để tiến hành kháng chiến lâu dài.

2.2.2. Chủ trương của ta

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi

trọng vấn đề xây dựng căn cứ địa làm chỗ dựa lâu dài cho cách mạng. Từ những

ngày đầu chuẩn bị lực lượng cho cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám, Người viết

tác phẩm Chiến thuật du kích trong đó xác định: căn cứ địa là nơi để nghỉ ngơi,

huấn luyện lực lượng, tích trữ lương thực, vũ khí. Địa bàn xây dựng căn cứ phải

đảm bảo sự hiểm trở, bí mật để địch khó phát hiện nhưng cũng phải thuận lợi cho

việc tiến công và phòng thủ của lực lượng kháng chiến. Nguyên tắc cơ bản của nơi

này là “phải có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ” [124, tr.

536]. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng căn cứ

địa, hậu phương trên khắp mọi miền đất nước, ở vùng rừng núi, đồng bằng, đồng

thời xây dựng những cơ sở chính trị của quần chúng ở thành thị [47, tr. 388]. Song,

theo Người, căn cứ, hậu phương vững chắc nhất chính là lòng dân. Do vậy, muốn

xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh, nhất thiết phải dựa chắc vào nhân

dân, phát huy sức mạnh to lớn và tiềm tàng của nhân dân về mọi mặt [47, tr. 370].

59

Page 61: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trong xây dựng căn cứ, Hồ Chí Minh yêu cầu bộ đội và du kích cùng với nhiệm vụ

đánh giặc phải chú trọng vấn đề kinh tế, bởi vì: “Nếu chỉ biết đánh mà không nghĩ

đến kinh tế thì khi hết gạo sẽ không đánh được” [125, tr. 446]. Bên cạnh đó, việc

mở rộng chiến tranh du kích là cách thức để “tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch,

để chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; khuấy rối, phá hoại,

kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn

ngụy binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập

và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch” [126, tr. 28]. Để tiến hành

cuộc kháng chiến lâu dài, Hồ Chí Minh xác định phải xây dựng căn cứ địa, hậu

phương vững mạnh toàn diện về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa [47,

tr. 378].

Nhằm chuẩn bị lực lượng và địa bàn đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng chủ trương đi từ xây dựng cơ sở chính trị làm nơi đứng chân cho các lực lượng cách mạng ở thành thị và nông thôn, tiến lên xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi. Nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (4-1945) xác định: “tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật” [78, tr. 391]. Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Việt Minh (6-1945) đề ra kế hoạch “củng cố Khu giải phóng thành một căn cứ địa kháng Nhật vững chắc” [78, tr. 542]. Tháng 7-1945, Đảng xác định những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng căn cứ địa bao gồm:

“1. Điều kiện địa lý: Địa thế hiểm trở có thể che chở cho bộ đội: trong khi bộ đội phòng ngự hay rút lui, quân địch không thể tiến đánh một cách dễ dàng.

2. Điều kiện quân sự: Vị trí tiện cho việc tiến công quân địch, không xa những

chỗ nhất định quân địch phải đóng giữ hoặc qua lại.

3. Điều kiện kinh tế: Thổ sản có thể cung cấp cho bộ đội sống, mặc dù quân

địch vây hãm.

4. Điều kiện chính trị: Tổ chức cách mạng trong quần chúng khá mạnh, có thể

giúp đỡ bộ đội về mọi mặt [60, tr. 332-333].

Các quan điểm trên trở thành cơ sở cho việc hoạch định đường lối chiến tranh

nhân dân của Đảng sau này. Để tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài,

60

Page 62: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Đảng chỉ đạo các địa phương “mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh

ngay cả ở sau lưng địch, trong ruột địch và tổ chức căn cứ địa không những ở rừng

núi mà cả ở đồng bằng” [79, tr.180]. Thực hiện chủ trương của Đảng, nhiều vùng

căn cứ địa, hậu phương đã được xây dựng trên khắp cả nước như: Việt Bắc, Thanh

– Nghệ – Tĩnh, Nam – Ngãi – Bình – Phú, Đồng Tháp Mười, U Minh, Chiến khu

Đ… Chính sự tồn tại và hoạt động của hệ thống căn cứ địa phát triển rộng khắp từ

miền núi đến đồng bằng đô thị đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống Pháp.

Từ năm 1954, nhận rõ âm mưu xâm lược và chia cắt lâu dài Việt Nam của đế

quốc Mỹ nên ngay từ rất sớm, Đảng đã có chủ trương tiếp tục duy trì, củng cố các

căn cứ địa từ kháng chiến chống Pháp để làm chỗ dựa cho cách mạng. Hội nghị lần

thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ) Đảng (15-7-1954) xác định: “Hướng

công tác của ta là củng cố cơ sở ở những vùng căn cứ cũ, dựa vào những vùng đó

mà phát triển vào những nơi trung tâm chính trị, kinh tế và những nơi có tính chất

quan trọng về mặt quân sự; đồng thời tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp

pháp ở các thành thị và chú trọng gây cơ sở ở các vùng nông thôn rộng lớn ngoài

căn cứ cũ.” [80, tr. 197]. Năm 1956, trước tình hình đế quốc Mỹ và chính quyền

Ngô Đình Diệm tiến hành khủng bố, tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam,

Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 8 và ngày 9-6-1956 đã đề ra nhiệm vụ chung của cách

mạng miền Nam lúc này là: “Cần củng cố các LLVT và bán vũ trang hiện có làm

chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản

để duy trì và phát triển LLVT. Tổ chức các đội tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ

các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết” [81, tr. 228].

Đối với hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Nam, tư tưởng chỉ

đạo của Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (1-1959) là: “Để bảo vệ

các cơ quan đầu não và che giấu cán bộ, cần xây dựng ở các địa phương những cơ

sở an toàn và khu an toàn” [82, tr. 91]. Từ giữa năm 1958, Liên Khu ủy V đề ra chủ

trương xây dựng Tây nguyên và miền núi các tỉnh thành căn cứ địa cách mạng, xây

dựng LLVT và nửa vũ trang ở miền núi để làm nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo

vệ cán bộ [109, tr. 261].

61

Page 63: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Tháng 4-1960, Nghị quyết Hội nghị Liên Khu ủy V mở rộng chủ trương:

“Khẩn trương xây dựng Tây nguyên và miền Tây thành căn cứ địa vững chắc, làm

trở lực mạnh mẽ cho đồng bằng, tạo thế chung cho cách mạng ở miền Nam, đồng

thời để đón thời cơ khi thuận lợi, quyết tâm giữ vững, khôi phục và phát triển vững

chắc cơ sở và phong trào quần chúng đồng bằng góp phần xây dựng và bảo vệ căn

cứ” [83, tr. 1.109]. Nghị quyết đã vạch ra nhiệm vụ cụ thể nhằm củng cố, mở rộng

và nối liền các trung tâm căn cứ, tiến lên thực sự làm chủ rừng núi; kiên quyết lãnh

đạo quần chúng đấu tranh chống địch cướp bóc, dồn dân, chiếm đất, càn quét,

khủng bố bằng đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị rộng rãi, bố phòng tích cực,

kết hợp đấu tranh vũ trang cần thiết. Tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, đẩy

mạnh phát triển kinh tế, khẩn trương xây dựng LLVT, củng cố và phát triển cơ sở

cách mạng mạnh mẽ, đều khắp, chú ý xây dựng cơ sở Đảng, tranh thủ nắm chắc

chính quyền, nhất là ở xã thôn [83, tr. 1.113-1.114].

Chủ trương của Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng và Liên Khu ủy V về xây dựng

căn cứ địa cách mạng đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu thực tế của phong trào cách

mạng ở Trung Trung Bộ.

2.2.3. Quá trình phục hồi căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đáp

ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Quán triệt chủ trương của các cấp ủy Đảng về xây dựng căn cứ địa cách mạng

trong tình hình mới, các địa phương ở Trung Trung Bộ tích cực đẩy mạnh việc xây

dựng, phục hồi các căn cứ địa miền núi. Quá trình này bắt đầu từ hoạt động xây

dựng cơ sở chính trị trong quần chúng. Nhằm bám sát nhân dân và địa bàn hoạt

động, người cán bộ cách mạng thực hiện “bốn cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm,

cùng hòa xương máu với nhân dân. Cán bộ đóng khố, xâu tai, búi tóc, choàng mền,

vác giáo, mang gùi để thực sự hòa nhập với cuộc sống của đồng bào các dân tộc,

đồng thời thực hiện tuyên truyền, vận động họ tham gia xây dựng căn cứ, bảo vệ cơ

sở cách mạng. Bản tin tức của đối phương cho biết về hoạt động tuyên truyền vận

động gây cơ sở của các cán bộ cách mạng ở miền núi xã Ba Độc thuộc Căn cứ Trà

Bồng (Quảng Ngãi): “7 cán bộ ở Bắc vĩ tuyến mới hồi kết phối hợp với cán bộ nằm

62

Page 64: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

vùng ở xã Ba Độc, điều khiển 1 toán khác độ 20 tên có võ trang đầy đủ tổ chức cho

đồng bào Thượng học tập, phát rẫy trồng trọt và tổ chức canh gác cẩn thận. 1 tiểu đội

Việt cộng nằm vùng có súng, 100 Thượng cộng chạy núi có giáo mác thường trú ẩn

tại các vùng làng Rầm, làng Vò, làng Sao Trot để nắm đồng bào Thượng và hướng

dẫn họ chống đối lại chính quyền ta” [131, tr. 21].

Trong quá trình tuyên truyền, vận động gây cơ sở, cán bộ hướng dẫn đồng

bào các dân tộc đấu tranh chống các thủ đoạn phá hoại của địch.

Để hạn chế sự cướp phá của địch, bảo vệ tài sản nhân dân, chuẩn bị cho cuộc

kháng chiến lâu dài. Cán bộ hướng dẫn đồng bào dời làng lên núi cao, xây dựng các

làng bí mật trong rừng sâu để cất giữ tài sản, tích trữ lương thực, muối… Bản tin

tức hoạt động của phía đối phương cho biết: trong đợt hành quân Thượng vận tháng

2-1959, tại vùng rừng núi quận Thượng Đức 2F

1(Quảng Nam) địch phát hiện thấy “90

tấn lúa tích trữ mà Thượng dân vùng này chỉ độ 100 người mà thôi” [131, tr. 5]. Ở

Căn cứ Thồ Lồ (Phú Yên): “Ngày 1-4-1959, tại buôn Ma – Choi đã có 4 Việt cộng

về tại buôn vận động 15 Thượng dân trốn theo chúng, di chuyển qua Làng – Len

đến Cà – Te và đi về Suối Cát. Tiếp đến ngày 2-4-1959, bọn Việt cộng xúi dục

Thượng dân dời làng đi nơi khác làm ăn” [131, tr. 33]. Để đối phó với việc địch bắt

thanh niên đi lính, lập các đơn vị dân vệ người dân tộc, các căn cứ tổ chức đưa

thanh niên ra rừng tạm lánh trong các làng bí mật, tổ chức làng bí mật thành nơi đào

tạo cán bộ cho phong trào cách mạng.

Nhằm giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết giữa các dân tộc, được sự hướng dẫn

của cán bộ, đồng bào các dân tộc miền núi Quảng Nam tổ chức Đại hội đoàn kết

giữa các dân tộc trong làng và giữa các làng với nhau. Trong Đại hội, các làng thực

hiện giao ước: “Trong làng nếu người nào theo địch thì làng đó xử, nếu làng theo

giặc thì làng khác xử”[151, tr. 397]. Từ sự giao ước này, đồng bào hết lòng giúp đỡ

cách mạng, tham gia hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa.

1 Thuộc vùng Bến Giằng và 1 số xã của huyện Đại Lộc cũ, tỉnh Quảng Nam.

63

Page 65: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Để hạn chế sự xâm nhập của địch lên miền núi, đồng bào dùng lý lẽ, dựa vào các

phong tục tập quán, phao tin “giặc mùa” 3F

1, sử dụng tục kiêng cữ để đấu tranh.

Tháng 8-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung lực lượng uy hiếp, xúc

tát các làng đồng bào Kinh ở Khu B1 (Quảng Nam) về đồng bằng. Ban Cán sự Khu

B1 quyết định tổ chức cho đồng bào Cơtu phối hợp chặt chẽ với đồng bào Kinh đấu

tranh trực diện với địch bằng cách đưa ra các lý lẽ vừa đơn giản, vừa sắc bén: người

Kinh và đồng bào Cơtu trong vùng lâu nay có quan hệ trao đổi, mua bán với nhau,

nợ nần đôi bên chưa giải quyết xong nên không ai được bắt người Kinh dời núi, làm

thất bại âm mưu của địch; căn cứ địa được giữ vững, cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ

tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đóng tại đây được bảo vệ an toàn, bí mật.

Dưới hình thức “giặc mùa”, tháng 5-1958, lợi dụng đêm tối trời, các tổ công

tác bí mật của đồng bào vùng cao huyện Hiên (Quảng Nam) tổ chức bao vây đồn

Hiên, dùng tên và bùi nhùi lửa bắn cháy đồn địch. Sau đó phao tin người từ vùng

cao xuống làm “giặc mùa” và lấy cớ đó không cho địch vào làng để bảo vệ an toàn

cho các cơ sở cách mạng ở đây. Dưới hình thức cắm chông, gài bẫy chống thú rừng,

đồng bào Ba Na (Vĩnh Thạnh) ngăn chặn không cho địch vào rẫy tìm kiếm dấu vết

hoạt động của cán bộ. Để giữ thế hợp pháp, một số nơi ở miền Tây Quảng Nam,

Vĩnh Thạnh, Thồ Lồ đồng bào còn bí mật tổ chức tiêu diệt ác ôn, tề điệp rồi phao

tin chúng bị thú rừng ăn thịt.

Trong quá trình đấu tranh trực tiếp với địch, đồng bào các dân tộc miền núi

Trung Trung Bộ với các hình thức đấu tranh phong phú đã hạn chế hoạt động lùng

sục, càn quét của đối phương vào các bản làng, bảo vệ an toàn cho cán bộ và nơi

đóng trú của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến ở địa phương. Nhờ đó,

lượng chính trị quần chúng được bảo tồn để tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu mới.

Từ việc thực hiện “bốn cùng” với nhân dân, cán bộ, đảng viên của Đảng đã xây

dựng được chỗ đứng vững chắc trong lòng nhân dân. Nhiều cán bộ cao cấp của

1 Người Cơtu cho rằng, mỗi khi nhà có chuyện không lành như: đau ốm, chết, giận hờn, hôn nhân trục trặc hoặc làng bản hạn hán, mất mùa, đói đau, dịch bệnh là do “Giàng” (Trời), ma rừng. Do vậy, để thoát khỏi những chuyện đó, phải đi đâm chết người làng khác lấy máu để cúng “Giàng”, cúng ma. Tục này thường xảy ra hằng năm vào khoảng tháng 1, 2, 3 âm lịch (sau mùa tuốt lúa) và các tháng 6, 7, 8 (sau mùa trỉa lúa).

64

Page 66: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Đảng như: Bí thư Khu ủy V – Võ Chí Công, cán bộ nằm vùng hoạt động ở miền

Tây Phú Yên (1954-1960) – Cao Xuân Thiêm… đã được đồng bào các dân tộc hết

sức tin yêu, che chở, bất chấp hiểm nguy.

Nhằm hỗ trợ hoạt động xây dựng và bảo vệ địa bàn đứng chân, các căn cứ

chủ động xây dựng LLVT tại chỗ. Từ đầu năm 1959, hầu hết các thôn ở Căn cứ Thồ

Lồ đều có tổ, xã có tiểu đội du kích [57, tr. 52]. Tại miền núi Quảng Nam, các đội

tự vệ ở các thôn bản cũng được hình thành. Phần lớn thanh niên tham gia dân quân

du kích. Lực lượng du kích, tự vệ được trang bị vũ khí thô sơ: cung, nỏ, giáo, mác

đồng thời thường xuyên tiến hành việc tuần tra, canh gác, cắm chông, gài bẫy ở

những địa điểm địch có thể thường hay qua lại, ngăn chặn và hạn chế hoạt động

lùng sục, càn quét của chúng vào các thôn bản, bảo vệ an toàn nơi ăn ở của cán bộ.

Đi đôi với phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi, quá trình phục hồi

các căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Trung Trung Bộ diễn ra hết sức khẩn trương, từ

đồng bằng đến miền núi, từ các cơ quan lãnh đạo của Khu V đến các địa phương.

Ở Đà Nẵng, trong những năm 1954-1957, Khu Sông Đà là nơi đứng chân của

cơ quan Thành ủy Đà Nẵng. Tháng 7-1955, tỉnh Quảng Nam thành lập Căn cứ B1

trên cơ sở tách hai xã miền núi Hòa Bắc và Hòa Nam của huyện Hòa Vang. Đây là

nơi đứng chân của Tỉnh ủy trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Tháng 10-

1955, Tỉnh ủy Quảng Ngãi xây dựng các xã người Cor ở phía Nam huyện Trà Bồng

là Trà Xinh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Tây, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Nham, Trà Lãnh

làm trung tâm căn cứ của tỉnh. Cuối 1955, tỉnh Bình Định xây dựng căn cứ tại Vĩnh

Thạnh. Ở Phú Yên, từ năm 1955, Căn cứ Thồ Lồ – Ma Dú tiếp được khôi phục, mở

rộng trở thành nơi đứng chân của Tỉnh ủy và các cơ quan chuyên môn.

Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo đối với phong trào cách mạng miền

núi các tỉnh Liên khu V, từ cuối năm 1955, Liên Khu ủy V chuyển cơ quan từ phía

Tây Thừa Thiên vào đứng chân ở Căn cứ Bến Hiên, Bến Giằng (nay thuộc các

huyện Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang, tỉnh Quảng Nam). Khu vực này có

địa hình tập trung nhiều núi cao, dốc lớn, lại bị chia cắt bởi sông suối chằng chịt,

giao thông ban đầu chủ yếu là đường mòn nhỏ hẹp. Tuy nhiên, lại gần với Đà Nẵng

65

Page 67: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

để tiện cho việc chỉ đạo phong trào thành phố. Bên cạnh đó, vùng Bến Giằng còn

nằm trong hành lang nối liền với Căn cứ kháng chiến Hạ Lào. Để đảm bảo bí mật,

tránh sự truy tróc của địch, Liên Khu ủy liên tục di chuyển địa điểm. Khi mới

chuyển từ phía Tây Thừa Thiên vào, cơ quan Liên Khu ủy đứng chân ở làng Lồ Ô

(nay thuộc xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng) sau lần lượt chuyển

đến các địa điểm: làng Liêu (thôn Lấy), làng Vàu (xã Tư), làng Điềm (nay là thôn

An Điềm, xã Tư), làng So, làng BhơlôSơn (nay là thôn Sơn, xã Sông Kôn). Năm

1957 di chuyển về làng Liu, Nam huyện Bến Hiên, lên thôn A Dinh rồi chuyển lên

thôn Pra’ Pượp. Năm 1958, do quân đội VNCH tăng cường đánh phá gắt gao ở

đồng bằng, chiếm đóng một số chốt điểm ở vùng thấp Bến Hiên, để đảm bảo an

toàn, cơ quan Liên Khu ủy chuyển lên các làng A Vương, Man Tra (xã A Vương);

A Bươp (nay là thôn RBượp, xã A Tiêng); sau đến làng Bơr’ning (thôn Pơr’ning, xã

Lăng); các làng xã này đều thuộc huyện Tây Giang. Sau Hội nghị Liên Khu ủy vào

giữa năm 1958 tại làng Bơr’ning, cơ quan Liên Khu ủy chuyển đến làng Lìa Tía

(nay thuộc xã Lăng, huyện Tây Giang), sau lên làng Đak Năng, huyện Bến Giằng.

Các địa điểm đứng chân trong căn cứ của Liên Khu ủy V, lúc đầu chỉ là những lán

trại, lợp bằng lá cọ, đào hầm bí mật để trú ẩn, đời sống cán bộ, chiến sĩ vô cùng khó

khăn, thiếu thốn. Mặc dù địch lùng sục, khủng bố hết sức ác liệt, tìm cách bao vây

cô lập, triệt mọi ngả chi viện nhưng Căn cứ Liên Khu ủy V vẫn đứng vững tại Bến

Hiên, Bến Giằng trong thời gian khá lâu. Cuối năm 1959, Liên Khu ủy V quyết định

chuyển cơ quan vào Căn cứ Nước Là, phía Tây huyện Trà My, kết thúc thời kỳ

đứng chân tại các căn cứ ở huyện Bến Hiên, Bến Giằng.

Trong những năm 1958-1960, bên cạnh một số căn cứ ở đồng bằng, đại bộ

phận miền núi phía Tây Trung Trung Bộ đã được giải phóng. Tại đây, các căn cứ

địa cách mạng được xây dựng, củng cố và mở rộng:

- Căn cứ Nước Oa (hay Vườn Cam) thuộc xã Trà Tân, huyện Bắc Trà My

Căn cứ Nước Oa nằm dưới chân dãy núi mẹ Hòn Bà. Phía trước là sông

Trường và sông Nước Oa, xung quanh là các thung lũng lớn nhỏ, rừng già kín đáo,

che chở bao bọc. Được xây dựng trên một ngọn đồi um tùm cây cối, Căn cứ Nước

66

Page 68: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Oa nằm cách xa tụ điểm dân cư. Nơi đây vừa có thế công vừa có thế thủ lại thuận

lợi cho việc trú ẩn, cất giấu vũ khí, làm bàn đạp tiến công; nơi ém quân và di

chuyển vào Nam ra Bắc. Đặc biệt, địa bàn này có thể tiếp cận với đồng bằng, khai

thác nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ đáp ứng yêu cầu của các lực

lượng bám trụ tại căn cứ, kể cả trong trường hợp bị bao vây, phong tỏa. Từ giữa

năm 1960 đến năm 1973, Nước Oa trở thành nơi đứng chân của Khu ủy và BTL

Quân khu V. Nơi đây cũng được xem là căn cứ địa đầu tiên của Khu ủy và BTL

Quân khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Căn cứ Nước Là (Mật khu Đỗ Xá), thuộc xã Trà Mai, huyện Nam Trà My

tỉnh Quảng Nam

Trung tâm của căn cứ là khu vực Tákpor, Nước Là, Ngok La. Khu vực này

nằm dưới chân những ngọn núi cao như Hòn Bà ở phía Bắc có độ cao 1.347 m, phía

Tây – Tây Nam là núi Ngọc Linh cao 2.598 m. Căn cứ trải rộng trên một địa bàn

hiểm trở, dựa lưng vào Tây Nguyên, tiếp giáp với tỉnh Kon Tum, Gia Lai và miền

núi tỉnh Quảng Ngãi. Địa điểm này thuận tiện cho việc cơ động giữa các tỉnh. Bên

trong căn cứ có hệ thống sông suối chằng chịt, ngoài con sông chính là Sông Tranh

còn có các sông phụ như: Trường, Leng, Nước Xa, Nước Là, Nước Ta, Nước Pui,

Nước Oa, Nước Vin… Ở Nước Là, các cơ quan của Khu ủy có điều thuận lợi để

triển khai cơ sở làm việc. Hơn nữa, đây còn là nơi có nguồn thực phẩm dồi dào để

cung cấp cho các lực lượng tại căn cứ. Căn cứ Nước Là là nơi đứng chân của Liên

Khu ủy – Ban Quân sự khu V từ năm 1960 đến năm 1963.

- Khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam

Năm 1959, thực hiện chủ trương của Liên Khu ủy V về xây dựng căn cứ liên

hoàn nối liền giữa căn cứ miền núi của Liên khu với căn cứ nước bạn ở Đông Hạ

Lào, Tỉnh ủy Quảng Nam quyết định lấy 4 xã của huyện Giằng (Laêê, Coong Năng,

Đaktoih, Đácpree) cùng với 4 xã của huyện Hiên (Bhaleê, Ch’ơơm. Axan, Trhy)

giáp biên giới Việt – Lào thành lập Căn cứ huyện Hải Nam. Đây là căn cứ bàn đạp

để Đảng ủy và cán bộ, đảng viên ở Hải Nam bắt liên lạc với lực lượng kháng chiến

nước bạn Lào. Trên cơ sở đó, giúp bạn xây dựng Căn cứ miền Đông Hạ Lào, đặc

67

Page 69: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

biệt là việc mở lớp huấn luyện quân sự và giúp đỡ về vũ khí đạn dược. Tuy nhiên,

một năm sau đó, vào tháng 8-1960, huyện Hải Nam được sáp nhập với các huyện

Hiên, Giằng, và miền Tây Hòa Vang thành huyện Thống Nhất. Ở vị trí nằm trên

trục hành lang Nam – Bắc, giáp với biên giới nước bạn Lào, lại nằm sát vùng đồng

bằng Bắc Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, với núi rừng mênh mông hiểm trở,

giàu nguồn lâm thổ sản quý, khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam trở

thành nơi đứng chân của Tỉnh ủy trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ.

- Khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi

Từ giữa năm 1958, vùng rừng núi miền Tây Quảng Ngãi đã hình thành 3 căn

cứ lớn: 22 xã nối liền nhau ở vùng cao 2 huyện Trà Bồng và Sơn Hà; 12 xã tiếp giáp

giữa 3 huyện Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ; 8 xã phía Nam huyện Ba Tơ. Trung tâm

căn cứ của Tỉnh là Khu II, bao gồm các xã: Trà Tân, Trà Bùi, Trà Phong, Trà Lãnh,

Trà Nham, Trà Thọ, Trà Xinh, Trà Trung, Trà Tây (Trà Bồng). Một năm sau đó,

được sự hỗ trợ của đơn vị vũ trang 339, liên tục trong 8 ngày đêm, từ ngày 28-8 đến

ngày 4-9-1959, nhân dân Trà Bồng vùng dậy đập tan bộ máy chính quyền thôn xã,

quét sạch đồn bốt của địch, mở ra một vùng căn cứ địa rộng lớn gồm toàn bộ vùng

cao huyện Trà Bồng, Sơn Hà và trên 20 xã khác ở các huyện Ba Tơ, Minh Long.

Đến cuối năm 1960, căn cứ địa miền Tây Quảng Ngãi tiếp tục được mở rộng với 54

xã hoàn toàn giải phóng (bao gồm 19 xã thuộc huyện Trà Bồng, 10 xã Sơn Tây, 8

xã Sơn Hà, 13 xã Ba Tơ và 4 xã Minh Long) [152, tr. 4].

- Khu căn cứ miền Tây tỉnh Bình Định bao gồm hầu hết huyện Vĩnh Thạnh,

toàn bộ vùng cao huyện An Lão và 3 xã vùng cao huyện Vân Canh.

Trung tâm căn cứ là vùng cao Vĩnh Thạnh. Đây là nơi đứng chân của Liên Tỉnh

II, Tỉnh ủy Bình Định, Huyện ủy trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ.

- Khu căn cứ miền Tây tỉnh Phú Yên bao gồm các xã Quang Hiển, Tân Vinh,

Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ thuộc các huyện miền Tây, Sơn Hòa.

Cuối năm 1960, thực hiện chủ trương giải phóng toàn miền Tây của Đại hội

tỉnh Đảng bộ (9-1960), được sự hỗ trợ của các đơn vị vũ trang, nhân dân miền Tây,

Sơn Hòa dồn dập nổi dậy, giành quyền làm chủ các xã Quang Hiển, Tân Vinh,

Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ, hình thành nên khu căn cứ liên hoàn

68

Page 70: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

rộng lớn chiếm 1/10 diện tích đất đai của tỉnh với số dân là 13.000 người [5, tr. 68].

Khu căn cứ miền Tây tỉnh Phú Yên là bàn đạp vững chắc để lực lượng cách mạng

tiến xuống giải phóng đồng bằng, vùng tiếp giáp với vùng giải phóng Bắc Khánh

Hòa, bảo đảm an toàn cho hành lang chiến lược của Trung ương từ Bắc vào Nam.

Như vậy, trên cơ sở các căn cứ địa được xây dựng từ thời kháng chiến chống

Pháp, các cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng

Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã chủ động củng cố, tái lập, biến vùng rừng núi phía

Tây các tỉnh thành căn cứ địa rộng lớn, tồn tại trong suốt cuộc kháng chiến chống

Mỹ. Đánh giá về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong những

năm 1958-1960, đối phương nhận xét: “Những vùng căn cứ địa này đã dần hình

thành được thế liên hoàn hỗ trợ với nhau, nhất là về phía Tây và Bắc Quốc lộ 19,

Đông và Bắc Quốc lộ 14”. Địch cũng thừa nhận: “Tình hình hoạt động của Việt

cộng ở vùng căn cứ địa Cao Nguyên và Miền Tây các tỉnh Trung Nguyên với sự lấn

dần vùng cận sơn đang tạo ra một uy thế đe dọa an ninh đối với toàn bộ vùng đồng

bằng Trung Phần” [137, tr. 10].

Song song với việc xác định địa bàn đóng trú cho các cơ quan lãnh đạo, chỉ

huy kháng chiến và LLVT, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ bước đầu tiến

hành xây dựng về mọi mặt:

Về chính trị: Cấp ủy Đảng ở các căn cứ triển khai sâu rộng việc học tập Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng đối với đa số cán bộ, đảng viên, LLVT và nhân dân nhằm tạo sự nhất trí về tư tưởng và hành động cho quân dân đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Công tác phát triển Đảng được chú trọng, nhiều đoàn viên và quần chúng tích cực hoạt động, đã qua thử thách được bồi dưỡng để đứng vào hàng ngũ của Đảng. Đến năm 1959, căn cứ địa miền Tây Quảng Nam có 523 đảng viên với 83 chi bộ, đa số các thôn đều có tổ Đảng, chi bộ Đảng [151, tr. 399]. Chi bộ Đảng ở Căn cứ Thồ Lồ (Phú Yên) phát triển được 15 đảng viên [57, tr. 52]. Hình thức chính quyền tự quản bước đầu được thành lập ở một số căn cứ. Từ năm 1956, Căn cứ Thồ Lồ đã thành lập chính quyền tự quản. Sau khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, Ủy ban nhân dân tự quản xã, thôn, một hình thức tổ chức chính quyền của nhân dân ra đời ở các căn cứ địa miền núi Quảng Ngãi. Bên cạnh

69

Page 71: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

đó, các đoàn thể: Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng, Hội phụ nữ giải phóng, Hội nông dân giải phóng… cũng từng bước được hình thành. Tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể ở các căn cứ địa đã thực sự phát huy vai trò trong việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch dồn dân, phát triển kinh tế, xây dựng đời sống mới.

Về kinh tế: Trước sự đánh phá ác liệt của địch ở đồng bằng, số cán bộ ở miền xuôi thoát ly lên miền núi ngày càng nhiều. Do vậy, để giải quyết vấn đề lương thực, các căn cứ chủ động đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Vào cuối năm 1960, sau khi Miền Tây được giải phóng, tỉnh Phú Yên thành lập 4 điểm sản xuất tự túc ở Cà Lúi, Thồ Lồ, Tân Lương, Tân Vinh [92, tr. 176]. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, trại sản xuất lúa và cung cấp lúa giống ở Nà Niêu thuộc Căn cứ Trà Bồng cũng được hình thành [63, tr. 107]. Các cơ quan, đơn vị ở các căn cứ vừa làm nhiệm vụ chuyên môn vừa tổ chức phát nương, trồng thêm ngô, sắn. Thêm vào đó, một số cán bộ còn được cử đi thọc sâu xuống đồng bằng vận động sự đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng phong trào làm “Rẫy cách mạng”, đồng bào các dân tộc tích cực khai phá đất rừng làm rẫy, tỉa lúa, tỉa bắp, trồng mỳ để ủng hộ cách mạng. Các Tổ đoàn kết sản xuất được thành lập ở các thôn, làng để giúp nhau tăng gia sản xuất. Sau khi thu hoạch sắn, lúa, đồng bào chỉ để lại một ít để dùng trong gia đình, còn bao nhiêu hiến cho cách mạng. Trong năm 1960, đồng bào Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định), đóng góp được hơn 20.000 kg thóc và hàng chục tấn mỳ [8, tr. 150]. Nhờ đẩy mạnh sản xuất và tích cực khơi thông nguồn hàng từ đồng bằng, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã chủ động giải quyết vấn đề lương thực tại chỗ khi sự chi viện của Trung ương chưa đến kịp, đồng thời đóng góp một phần cho kháng chiến.

Về văn hóa – xã hội: Được sự tuyên truyền vận động của cán bộ cách mạng, đồng bào tự nguyện từ bỏ các tập tục lạc hậu có ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và sức khỏe, trong đó thành công nhất là việc bỏ tục “trả đầu” 4F

1, một tập tục đã tồn tại lâu đời ở miền núi Quảng Nam, Quảng Ngãi… Nhằm nâng cao trình độ văn hóa cho đồng bào các dân tộc, năm 1956 và 1959, Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam đã

1 Trước đây, trong quan hệ hôn nhân của người Cơtu, nhà trai phải trả cho nhà gái một số của cải nhất định như chiêng, ché…do hai bên thỏa thuận. Nếu hôn nhân thuận tình thì không có vấn đề gì.Tuy nhiên, trong trường hợp người con gái không chấp nhận về nhà chồng như đã hứa hôn thì nhà trai sẽ đòi lại số của cải đã cho nhà gái, thậm chí đòi đền nhiều hơn. Nếu nhà gái không chấp nhận trả đủ của cải theo yêu cầu thì nhà trai sẽ đến dọa nạt, dùng vũ lực đối với nhà gái, do đó có thể dẫn đến chém giết lẫn nhau. (Lịch sử Đảng bộ huyện Đông Giang (1945-2005), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, tr. 28)

70

Page 72: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cử cán bộ Kinh am hiểu tiếng dân tộc phiên âm tiếng Cơtu, Cadong thành chữ viết và tổ chức các lớp học để dạy cho đồng bào. Trong những năm 1960-1962, tiếng dân tộc Cor, Hrê, Cadong và Bana được phiên âm thành chữ viết để dạy cho đồng bào căn cứ địa miền núi Quảng Ngãi và Bình Định. Phong trào xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa được triển khai mạnh mẽ ở các căn cứ. Năm 1958, căn cứ địa miền Tây Quảng Ngãi đồng loạt mở các lớp Bổ túc văn hóa tập trung. Lớp Bổ túc văn hóa tập trung đầu tiên được khai giảng tại ranh giới giữa 2 xã Trà Khê và Trà Quân (thuộc Căn cứ Trà Bồng) ngày 5-10-1958 với 50 học viên là cán bộ huyện, cán bộ chủ chốt và cơ sở ở các xã, thôn, nóc [160, tr. 726-727]. Qua học tập văn hóa, đồng bào thấy rõ được âm mưu xâm lược, tội ác của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, hiểu được đường lối kháng chiến, chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Từ đó, tự tích cực tham gia hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa.

Công tác y tế bước đầu được chú trọng. Cán bộ về tận các bản làng vận động

đồng bào giữ gìn vệ sinh, thực hiện phong trào ba sạch: ăn sạch, uống sạch, ở sạch.

Các cơ quan, đơn vị và nhân dân còn chủ động tìm kiếm, chế biến thuốc nam chữa

bệnh. Nhờ làm tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh nên đã hạn chế được một số dịch

bệnh, các bệnh thông thường của nhân dân cũng được chữa khỏi từ nguồn thuốc

nam tại chỗ.

Phong trào văn hóa, văn nghệ phát triển mạnh mẽ tạo không khí vui tươi, lạc

quan cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong chiến đấu và sản xuất. Văn nghệ quần

chúng phát triển sôi nổi góp phần cổ vũ, động viên tinh thần chống Mỹ xâm lược và

tay sai trong các tầng lớp nhân dân, đồng thời làm tươi mới thêm bộ mặt căn cứ địa.

Về quân sự: Các căn cứ tổ chức huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí thô sơ cho

lực lượng tự vệ và du kích. Công tác bố phòng, lập các tuyến chiến đấu, rào làng,

cắm chông được triển khai rộng khắp các thôn làng. Bên cạnh lực lượng tự vệ và du

kích, LLVT tập trung bước đầu được thành lập ở địa phương. Tháng 3-1959 và

tháng 12-1959, hai tỉnh Quảng Ngãi và Phú Yên thành lập hai đơn vị vũ trang đầu

tiên lấy tên là 339 và B95. Tháng 1-1960, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành lập

đơn vị đặc công H29, đơn vị quân báo H32, các khung đại đội lấy tên là H21, H30,

H31, H35, H36, H37. Tháng 9-1960, tỉnh Bình Định thành lập đội vũ trang tập

71

Page 73: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

trung đầu tiên của tỉnh lấy tên Đơn vị 2-9. Nhiệm vụ của các đơn vị vũ trang chủ

yếu là bảo vệ căn cứ địa, hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh của quần chúng.

Ở Trung Trung Bộ, cùng với hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng, các

tuyến vận tải chiến lược bằng đường biển cũng được hình thành từ rất sớm. Với địa

thế thuận lợi có nhiều dãy núi ăn ra biển và cửa sông, Khu Sông Đà (Đà Nẵng) trở

thành nơi tổ chức nhiều chuyến vượt biển đưa cán bộ từ Đà Nẵng ra Bắc, hoặc từ

Bắc vào, góp phần vào việc mở đường giao thông vận tải trên biển. Mở đầu là

chuyến đưa Khu ủy viên khu V – Bí thư Liên Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng Trương

Chí Cương cùng hơn 20 cán bộ từ Căn cứ Sông Đà đi Bình Định, sau đó từ Bình

Định ra miền Bắc bằng đường biển vào đầu năm 1955. Sau thành công của chuyến

đi này, từ năm 1956 đến đầu năm 1958, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thống nhất

Trung ương, Khu Sông Đà và đường dây C2 (tên công khai là Tập đoàn đánh cá

Sông Đà ở cửa biển Nhật Lệ – Quảng Bình, có trạm liên lạc ở Vĩnh Mốc – Vĩnh

Linh) đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển thuốc men, giấy bạc, tài liệu, máy móc cho

Thành ủy; đồng thời tổ chức nhiều chuyến vượt biển đưa cán bộ từ Đà Nẵng ra Bắc,

hoặc từ Bắc vào. Hầu hết các chuyến vượt biển đưa cán bộ ra Bắc, đưa tài liệu, hàng

hóa từ Bắc vào đều do ngư dân Căn cứ Sông Đà đảm nhiệm.

Những tháng cuối năm 1959, căn cứ địa cách mạng ven biển Trung Trung Bộ

tiếp nhận 500 kg vũ khí, thuốc chữa bệnh. Nhờ có sự chi viện kịp thời này mà

phong trào cách mạng Khu V được “tiếp thêm sức”. Bên cạnh đó, các căn cứ địa

miền núi tiếp nhận 1700 súng bộ binh, 850 dao găm, 188 kg thuốc nổ, một số ống

nhòm, bản đồ, địa đồ… Số hàng này đã được Khu ủy V chuyển tiếp vào phía trong,

kịp thời trang bị cho các đội vũ trang và tự vệ vừa mới ra đời [30, tr. 476].

Tóm lại, hệ thống căn cứ địa cách mạng được xây dựng cùng với đường hành

lang chiến lược trên bộ và trên biển đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển

của phong trào cách mạng ở Khu V. Chính nhờ hệ thống căn cứ địa miền núi ở Khu

V nói chung cũng như ở Trung Trung Bộ nói riêng sớm được xây dựng nên mặc dù

gặp nhiều khó khăn tổn thất, nhưng khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục

bộ tại địa bàn này đã sớm nổ ra và từ đó đi lên một cách vững chắc [51, tr. 141]. Sự

72

Page 74: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

ra đời, phát triển của hệ thống căn cứ địa cách mạng và thực tiễn chiến trường miền

Nam là cơ sở quan trọng để Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng miền

Nam là: “có khởi nghĩa bộ phận, lập căn cứ địa, có chiến tranh du kích rồi tiến lên

tổng khởi nghĩa” [64, tr. 31]. Từ đây, việc xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của

hệ thống căn cứ địa cách mạng trở thành nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần thực

hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

2.3. Cuộc đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng

Để bảo vệ các căn cứ địa cách mạng trước những thủ đoạn đánh phá của đế

quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, các cấp ủy Đảng, chính quyền và quân

dân Trung Trung Bộ đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt trên nhiều phương diện.

Về chính trị, tư tưởng: Cán bộ, đảng viên của Đảng luôn bám sát quần chúng,

hòa mình vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc để tuyên truyền, vận động họ

tham gia hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Từ khi được Đảng giác ngộ, đồng

bào luôn tin tưởng, trung thành với cách mạng, sẵn sàng nuôi giấu cán bộ, bảo vệ

căn cứ. Địch đã tiến hành hàng loạt các cuộc hành quân lùng sục, càn quét vào các

làng bản. Song, cho dù chúng thực hiện nhiều thủ đoạn tàn khốc, từ bắn giết, giam

cầm đến đốt phá, dụ dỗ bằng của cải vật chất nhưng đi đến đâu cũng bắt gặp câu trả

lời “không nghe, không thấy và không biết”. Ở Căn cứ Vĩnh Thạnh, sau hơn 10

ngày đêm thực hiện khủng bố, vây ráp tra tấn hàng trăm người, địch vẫn không thể

nào uy hiếp được nhân dân xã Vĩnh Hiệp. Nhờ sự trung thành tuyệt đối của đồng

bào, sự che chở, giúp đỡ của họ mà nhiều cán bộ lãnh đạo và căn cứ đã được bảo vệ

an toàn. Bên cạnh đó, cán bộ tìm cách tranh thủ, lôi kéo các tầng lớp trên, đặc biệt

là già làng, trưởng bản, vận động họ ủng hộ phong trào đấu tranh của quần chúng.

Lực lượng này có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào

tham gia đấu tranh với địch, bảo vệ cán bộ, bảo vệ căn cứ.

Về công tác bố phòng chiến đấu, chống gián điệp xâm nhập: Các căn cứ tổ

chức rào làng; cắm chông, thò; xây dựng các tuyến chiến đấu. Hệ thống hầm chông,

bãi chông, bẫy đá và mang cung liên hoàn được bố trí xung quanh làng, trên rẫy,

trên khắp các nẻo đường đi và cả những làng bí mật trong rừng, nơi cất giấu tài

73

Page 75: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

sản… Từ giữa tháng 8-1959, ở Căn cứ Trà Bồng, 400 đồng bào Trà Giang, Trà

Thủy cùng các xã lân cận tiến hành rào đường, cắm chông, cất giấu tài sản. Nhiều

thôn nóc bỏ làng, rút sâu vào núi để chống địch [91, tr. 85]. Dựa vào địa thế núi

rừng hiểm trở, đồng bào Bana ở Căn cứ Vĩnh Thạnh xây dựng 3 tuyến chiến đấu.

Tuyến một gồm các ngả đường vào làng, có đội tự vệ canh gác. Tuyến hai gồm

mạng lưới hầm và bãi chông, bẫy đá, mang cung dày đặc cùng những ổ tác chiến lợi

hại, bất ngờ nhằm ngăn chặn địch sục xạo vào làng bí mật. Tuyến thứ ba là nơi ở

của dân, vừa là nơi cất giấu lương thực, tài sản đồng thời phục vụ các tuyến trước

chiến đấu [8, tr. 141]. Mạng lưới bố phòng nhân dân rộng rãi đã phát huy tác dụng

trong việc ngăn chặn, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, lùng sục của địch.

Ngày 7-9-1959, mặc dù địch sử dụng cả Sư đoàn 22 VNCH, gồm 10.000

quân cùng lực lượng công dân vụ, bảo an, dân vệ từ Trà My (Quảng Nam) vào, Sơn

Hà ra, Trung Châu lên, tiến đánh Căn cứ Trà Bồng và vùng cao Sơn Hà. Thế nhưng

khi vừa đặt chân đến đây, địch đã rơi ngay vào các trận địa được bố trí sẵn. Những

bẫy đá, bãi chông liên hoàn, ổ phục kích trở thành nỗi khiếp sợ của kẻ thù khiến cho

chúng không thể thực hiện được ý định của mình và phải vội vã tháo lui.

Tháng 5-1960, nhân dân Bô Lô (Hiên) sử dụng hệ thống chông, thò; đặt, cắm

khắp rừng núi đẩy lùi cuộc càn của đối phương đánh sâu vào căn cứ địa, tìm diệt cơ

quan đầu não kháng chiến của Quảng Nam. Đơn vị 299 của LLVT Quảng Ngãi tổ

chức cắm 2.000 cây chông và phục kích ở chân núi Ba Điền, bẻ gãy cuộc càn của

địch tấn công căn cứ địa ở Ba Tơ và Minh Long.

Đi đôi với hoạt động bố phòng chiến đấu, công tác phòng gian bảo mật,

chống gián điệp xâm nhập luôn được chú trọng. Cấp ủy Đảng, chính quyền và các

đoàn thể thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức phòng gian bảo mật cho cán bộ,

nhân dân, kịp thời phát hiện xử lý những vụ xâm nhập, phá hoại của địch, bảo vệ an

toàn căn cứ. Với phương châm “dùng dọa dẫm chống dọa dẫm”, năm 1956, sau khi

nhận được tin báo của đồng bào về hai tên gián điệp giả làm thương nhân xâm nhập

vào khu B1 (Quảng Nam) để dò la tình hình, Ban cán sự khu B1 đã vận động nhân

dân làng Bharvang (Ban Mai) phao tin “giặc mùa” đồng thời tổ chức reo hò, nổi

trống mõ liên hồi, cử đàn ông, thanh niên, cầm gương giáo ra đứng trước sân làng

74

Page 76: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

sẵn sàng chiến đấu với “giặc mùa”. Những việc làm này khiến cho hai tên gián điệp

khiếp sợ phải nhanh chóng thuê người dẫn đường rút lui ngay trong buổi sáng hôm

sau. Việc phao tin “giặc mùa” đuổi gián điệp ra khỏi Căn cứ B1 được xem là một sự

kiện khá sớm trong việc thực hiện chủ trương dùng phong tục tập quán chống địch,

nói cách khác là “dùng dọa dẫm chống dọa dẫm” của Ban cán sự miền Tây Quảng

Nam lúc bấy giờ [76, tr. 86]. Đầu năm 1957, tự vệ Căn cứ Thồ Lồ đã kịp thời phát

hiện và trừng trị hai tên gián điệp Mỹ từ Vân Canh lên dò la tin tức căn cứ [122, tr.

171]. Tháng 6-1959, 6 tên thám báo dùng hai chiếc thuyền từ hướng đồng bằng

ngược sông Tranh lên huyện Giằng để dò la tin tức nắm tình hình hoạt động của cơ

quan Khu ủy V và đường Trường Sơn đang mở ở đây cũng sớm bị LLVT và du

kích địa phương phát hiện, tiêu diệt [29, tr.17].

Về tổ chức đấu tranh chống chính sách dồn dân của địch: Song song với

những lĩnh vực kể trên, đây cũng là một trong những trận địa quyết liệt có vai trò

quyết định trong vấn đề bảo vệ vững chắc các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ.

Ở Quảng Nam, mùa Thu năm 1957, với âm mưu dồn dân về khu hành chính

Thạnh Mỹ, tách ly dân ra khỏi ảnh hưởng của Đảng, địch bắt dân làng Padương

(một thôn thuộc xã Bến Yên, huyện Giằng), đi xây dựng trại tập trung. Tuy nhiên,

chỉ có một bộ phận nhân dân buộc phải ở lại, còn phần lớn đi lên ngọn khe Hara xây

dựng làng bí mật cho cách mạng. Một số người dân còn lại trong làng vừa lo thu

hoạch mùa màng, vừa gùi cõng lương thực, muối, công cụ, đồ đạc thiết yếu thường

xuyên tiếp tế cho làng bí mật. Số đi dựng trại tập trung cho địch cố gắng kéo dài

thời gian xây dựng để dân làng có thời gian xây dựng căn cứ. Sau gần ba tháng, trại

tập trung của địch hoàn thành thì căn cứ cũng được xây dựng xong. Trước thủ đoạn

dồn dân quyết liệt của địch, Ban cán sự miền Tây Quảng Nam và Huyện ủy huyện

Giằng đi đến quyết định thành lập một đội vũ trang đầu tiên của huyện gồm 10 đội

viên, hoạt động che mắt địch dưới hình thức “giặc mùa” để hỗ trợ cho đấu tranh

của đồng bào ở khu dồn.

Ở Bình Định, dưới chiêu bài “định cư”,“cải thiện đời sống đồng bào Thượng”,

địch thực hiện âm mưu dồn dân Vĩnh Thạnh về các khu tập trung quanh quận lỵ để

trực tiếp kìm kẹp dân, cô lập căn cứ địa. Tháng 4-1958, địch mở hàng chục cuộc

75

Page 77: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

hành quân càn quét vào các làng Tơ Lok, Tơ Lek, Hà Ri; đồng thời tiến hành bao

vây kinh tế; cấm nhân dân ra khỏi làng, lên rừng phát rẫy và thu hái lâm thổ sản;

cấm mua bán với người Kinh nhằm triệt phá nguồn tiếp tế cho căn cứ địa. Tuy

nhiên, nhân dân đã bằng mọi cách tổ chức di chuyển tài sản, lương thực, thực phẩm

vào rừng. Sau gần 4 tháng chuẩn bị, đêm ngày 6-2-1959 (29 tháng Chạp năm Mậu

Tuất), nhân cơ hội quân địch ở địa phương kéo về quận ăn Tết, Ban cán sự và già

làng 2 xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo đã huy động nhân dân 11 làng gồm Tơ Lok, Tơ

Lek và Hà Ri (Vĩnh Hiệp); 2 làng Kdriek, Konron, 2 làng Konyong, Konnia,

KonDzin và Pnang (Vĩnh Hảo) nhất loạt nổi dậy dời làng vào rừng lập căn cứ.

Được tin nhân dân Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo dời làng lên núi cao lập căn cứ, đầu

tháng 3-1959, địch cho 1 đại đội bảo an mở cuộc hành quân càn quét làng Tơ Lok.

Tuy nhiên, khi vào các làng địch sa ngay vào trận địa phục kích với hệ thống các

bãi chông, mang cung liên hoàn, bẫy đá. Du kích và đồng bào Tơ Lok đã đẩy lùi

nhiều cuộc càn quét nhằm vào căn cứ. Từ cuối tháng 7-1959 đến tháng 9-1960, Mỹ

và chính quyền Ngô Đình Diệm mở nhiều cuộc tấn công lớn vào Căn cứ Vĩnh

Thạnh. Phối hợp chặt chẽ với Vĩnh Thạnh, phong trào rào làng bố phòng, làm chủ

buôn làng của đồng bào Vân Canh, An Lão cũng phát triển mạnh mẽ. Cuối năm

1959, ta làm chủ hoàn toàn 4 xã vùng cao: Canh Lồ, Canh Phong, Canh Tất và

Canh Thông. Đầu năm 1960, các xã An Đồng, An Tân, An Ninh, An Cư, An Dân,

An Mỹ được giải phóng tạo nên một vùng căn cứ rộng lớn.

Trong phong trào chống dồn dân ở Bình Định năm 1959, Vĩnh Thạnh được

đánh giá là “ngọn cờ đầu”. Thắng lợi này không những góp phần làm thất bại âm

mưu và biện pháp chiến lược của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đánh phá căn

cứ địa miền núi, mà còn trực tiếp bảo vệ tuyến hành lang chiến lược của Liên khu

V, củng cố và mở rộng căn cứ địa ở miền Tây; cổ vũ, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào

các huyện đồng bằng trong tỉnh [3, tr. 47].

Ở Phú Yên, nhằm đánh phá Căn cứ Thồ Lồ, địch tìm cách mua chuộc, dụ dỗ

đồng bào ở đây. Trong năm 1955, Ngô Đình Diệm đích thân đến Sông Cầu (Phú

Yên) cho mời 10 già làng ở Thồ Lồ xuống ăn cơm “đoàn kết”. Cán bộ cách mạng

đã kịp thời giải thích cho đồng bào hiểu âm mưu của đối phương; đồng thời hướng

76

Page 78: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

dẫn cho họ cách đối phó. Khi chúng tiến hành mua chuộc, dụ dỗ, họ tìm cách từ

chối hoặc trì hoãn. Khi địch làm găng, già làng cùng đồng bào chấp nhận một số

yêu sách, nhưng khi chúng về thì lại xóa bỏ hết. Tranh thủ khoảng thời gian trì

hoãn, đồng bào các buôn làng trong căn cứ tổ chức cắm chông, gài thò, xây dựng

các ATK (An toàn khu) dự phòng trong rừng sâu, di chuyển tài sản vào các làng bí

mật, đồng thời cũng chủ động canh gác đề phòng địch bất ngờ đánh vào căn cứ. Sau

hơn 2 năm đấu tranh giằng co, tuy cũng có lúc phải nhân nhượng địch về một số

yêu sách nhưng về cơ bản, nhân dân vẫn giữ vững quyền làm chủ căn cứ địa. Các

thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ để thực hiện âm mưu dồn dân của địch đều bất thành.

Tháng 2-1958, Ngô Đình Diệm huy động một lực lượng quân lớn tiến công

vào Căn cứ Thồ Lồ từ ba hướng: Vân Canh (Bình Định), Đồng Xuân (Phú Yên) kéo

lên và Cheo Reo (Gia Lai) kéo xuống. Trong lần đánh phá này, chúng tổ chức vây

làng, bắt dân di chuyển đồ đạc, đốt sạch nhà cửa. Đối phó với kế hoạch dồn dân của

địch, cán bộ hướng dẫn nhân dân di chuyển vào các khu dã chiến trong rừng sâu;

đồng thời cắm chông, gài thò, dùng vũ khí thô sơ đánh địch để tự vệ.

Sau hơn một tháng lùng sục, vây ráp, địch chỉ cưỡng bức được chưa đầy 200

dân đưa về khu tập trung ở gần quận lỵ Vân Canh. Nhưng chỉ vài ngày sau đó, phần

lớn số này đã tìm cách chạy về căn cứ.

Thời gian sau đó, tuy Ngô Đình Diệm còn nhiều lần tập trung lực lượng đánh

phá căn cứ nhưng với kinh nghiệm từ những lần đấu tranh trước đây, quân và dân

Căn cứ Thồ Lồ đã khéo léo tận dụng địa hình rừng núi hiểm trở kết hợp vũ trang tự

vệ bằng các loại vũ khí thô sơ để giữ vững được quyền làm chủ và phát triển thực

lực cách mạng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa.

Như vậy, với sự chuẩn bị và sự chủ động đấu tranh trên nhiều phương diện, các

căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã đối phó một cách hiệu quả với các thủ đoạn đánh

phá của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Thắng lợi của cuộc đấu tranh

bảo vệ căn cứ địa ở Trung Trung Bộ trong giai đoạn 1954-1960 có tác dụng giữ gìn,

bảo tồn lực lượng cách mạng, củng cố hệ thống căn cứ địa vừa mới được phục hồi,

tạo hành lang để lực lượng cách mạng tiến về đồng bằng. Kết quả này cũng tạo tiền

đề cho thắng lợi của phong trào cách mạng trong giai đoạn sau.

77

Page 79: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

* Tiểu kết chương 2

Trung Trung Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược, điều kiện địa hình, dân cư,

truyền thống lịch sử – xã hội thuận lợi cho hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ

địa. Trên cơ sở dựa vào và phát huy tối đa những yếu tố thuận lợi của điều kiện địa

lý tự nhiên, xã hội: địa hình đa dạng, rừng núi rộng lớn, sông biển nối liền, địa thế

quân sự “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, nhân dân giàu truyền thống yêu nước,

chống xâm lược, đồng thời tích cực khắc phục một số hạn chế, khó khăn như: địa

hình hiểm trở dễ bị chia cắt, cô lập, núi cao, sông suối ngắn, dốc, thiên tai bão, lũ

thường xuyên xảy ra, điều kiện kinh tế khó khăn, mật độ dân cư thưa thớt ở miền

núi... quân dân Trung Trung Bộ đã tích cực xây dựng các căn cứ địa làm nơi đứng

chân an toàn cho các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy và LLVT. Trước ngày Tổng khởi

Tháng Tám năm 1945, các căn cứ địa được xây dựng ở Phú Túc, Ô Rây, Đồng

Xanh, Đồng Nghệ (Quảng Nam); Núi Lớn, Vĩnh Tuy (Quảng Ngãi); An Đỗ, An

Sơn (Hoài Nhơn), Lộc Giang, Lộc Bài (Hoài Ân), Đại An, Đại Bình (An Nhơn)

thuộc tỉnh Bình Định. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để tiến

hành kháng chiến lâu dài, nhiều căn cứ tiếp tục được xây dựng như: Khu Sông Đà

(Đà Nẵng), Chiến khu Trung Man, Căn cứ Tiên Phước, Khu kháng chiến Hạ Lào

(Quảng Nam), Căn cứ Khu ủy khu V (Bình Định), Căn cứ Thồ Lồ (Phú Yên)… Từ

các căn cứ địa, vùng giải phóng, vùng tự do của Liên khu V không ngừng được mở

rộng ở miền núi và đồng bằng. Các căn cứ địa được xây dựng với sự đa dạng về quy

mô, cách thức tổ chức, tồn tại trong vùng địch kiểm soát và vùng tự do của Liên khu

V đã trở thành địa bàn đứng chân an toàn của các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của

tỉnh, khu, nước bạn Lào; là nơi xây dựng và bồi dưỡng tiềm lực, cung cấp nguồn lực

to lớn về sức người, sức của cho kháng chiến; đồng thời là bàn đạp xuất phát của

các LLVT tiến công tiêu diệt địch ngoài căn cứ. Căn cứ địa cách mạng ở Trung

Trung Bộ trở thành điểm tựa, niềm tin của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

không chỉ đối với nhân dân địa phương mà còn cả đối với lực lượng kháng chiến

nước bạn Lào. Hoạt động xây dựng căn cứ địa được tiến hành toàn diện trên các

lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, theo mô hình của một chế độ mới –

chế độ dân chủ nhân dân. Mặc dù chưa thật vững chắc nhưng những thành quả và

78

Page 80: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

kinh nghiệm trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chính là những cơ sở, nền tảng

quý báu cho quân dân Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.

Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quán triệt

đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nhằm đối phó với những âm mưu và thủ

đoạn đánh phá mới của địch, quân dân các địa phương Trung Trung Bộ đã khẩn

trương phục hồi, xây dựng các căn cứ địa đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến lâu

dài. Các căn cứ Sông Đà (Đà Nẵng), Nước Oa, Nước Là, Trà Bồng, Sơn Tây

(Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ Lồ (Phú Yên)… trở thành nơi đứng

chân an toàn của hàng ngàn cán bộ đảng viên và lực lượng kháng chiến ở Khu V

đồng thời cũng là nơi diễn ra các phong trào đấu tranh bền bỉ, quyết liệt của đồng

bào các dân tộc để bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở cách mạng. Sự phát triển của phong

trào quần chúng đã góp phần tích cực vào việc giữ gìn lực lượng cách mạng, bảo vệ

an toàn các căn cứ địa. Nhờ đó, các căn cứ địa có điều kiện xây dựng, củng cố thực

lực để hỗ trợ phong trào đấu tranh quần chúng. Từ những hoạt động bám đất, bám

dân gây cơ sở ban đầu, đến năm 1960, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã không

ngừng mở rộng, phát triển, hình thành một hệ thống tương đối vững chắc ở địa bàn

miền núi, trở thành bàn đạp để lực lượng kháng chiến tiếp tục tạo nên những bước

chuyển biến quan trọng trong giai đoạn tiếp theo.

79

Page 81: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

CHƯƠNG 3

KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY

VAI TRÒ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ

(1961-1975)

3.1. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong giai đoạn chống chiến lược

“Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965)

3.1.1. Tiếp tục củng cố các căn cứ địa miền núi, phát triển căn cứ địa ở

vùng đồng bằng

Thắng lợi của nhân dân miền Nam trong phong trào “Đồng khởi” đã làm lung

lay bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm. Vì

vậy, từ năm 1961, Mỹ chuyển sang áp dụng chiến lược chiến tranh mới: “Chiến

tranh đặc biệt”, thiết lập một hệ thống “ấp chiến lược” ở nông thôn đồng bằng, miền

núi; kể cả vùng vành đai các đô thị; tổ chức hàng loạt cuộc hành quân càn quét với

quy mô lớn vào các căn cứ địa cách mạng.

Để cách mạng miền Nam tiếp tục phát triển, vấn đề bảo vệ, xây dựng và mở

rộng căn cứ địa cách mạng trở thành một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Nó đảm bảo

cho việc xây dựng và phát triển thực lực cách mạng; đảm bảo cho việc tiến công

quân địch và bảo vệ phong trào; bảo đảm cho việc chỉ đạo cách mạng ở cả miền

Nam và trên từng vùng, miền; bảo đảm chỗ đứng chân của lực lượng cách mạng và

các cơ quan đầu não kháng chiến. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng

căn cứ địa cách mạng ở miền Nam là cần khẩn trương củng cố hơn nữa các vùng

căn cứ hiện có; đẩy mạnh việc xây những căn cứ còn yếu, đồng thời phát triển căn

cứ địa ngày càng rộng lớn hơn [84, tr. 711-713].

Nhằm đối phó với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, quân và dân các địa

phương Trung Trung Bộ vừa tích cực bảo vệ, xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở

miền núi thành địa bàn đứng chân vững chắc cho lực lượng kháng chiến; vừa đẩy

80

Page 82: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

mạnh việc mở rộng vùng giải phóng ở đồng bằng, xây dựng các căn cứ du kích, cơ

sở chính trị ở vùng địch kiểm soát, các lõm chính trị trong nội đô, hình thành hệ

thống căn cứ rộng khắp, tạo thế liên hoàn để phát huy thế trận chiến tranh nhân dân

trên địa bàn.

Tháng 5-1961, Trung ương Đảng quyết định tổ chức chiến trường miền Trung

thành hai Khu: Khu V và Khu VI. Khu V gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,

Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai. Một trong

những nhiệm vụ quan trọng của Khu V là xây dựng căn cứ địa miền núi, phát triển

LLVT. Tháng 7-1961, BTL Quân khu V được thành lập tại Căn cứ Nước Là, huyện

Trà My (Quảng Nam). LLVT tập trung của Quân khu biên chế thành 6 tiểu đoàn bộ

binh: 20, 30, 50, 60, 70, 90, hai tiểu đoàn trợ chiến: 200, 300 và 2 đại đội đặc công.

Phần lớn lực lượng này đều đứng chân ở Trà My. Tại căn cứ địa ở các tỉnh, LLVT

được tổ chức đến cấp đại đội bộ binh và binh chủng. Ở huyện tổ chức cấp trung đội,

xã tổ chức cấp tiểu đội đến trung đội dân quân (du kích), thôn tổ chức cấp tiểu đội

dân quân (du kích).

Từ cuối năm 1961, thực hiện nghị quyết của Quân ủy Trung ương đối với

chiến trường Khu V là tiêu diệt sinh lực địch và xây dựng căn cứ địa cách mạng ở

miền núi, xây dựng hậu phương trực tiếp của cách mạng miền Nam; tiến lên làm

chủ rừng núi, giành lại nông thôn đồng bằng [94, tr. 207], Khu ủy V và các Tỉnh ủy

chủ trương đẩy mạnh hoạt động củng cố, mở rộng căn cứ địa và vùng giải phóng ở

đồng bằng.

Trong năm 1961, các xã Poa, Riềng, Zút, Kót, Nú, nơi sinh sống của đồng bào

Cor thuộc huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam, được tách ra và nhập với một số xã của

huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) để thành lập Căn cứ Liên Trà, đặt dưới sự chỉ đạo

trực tiếp của Khu ủy V. Ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi, từ sau Hội nghị Tỉnh ủy (6-

1961), các đơn vị vũ trang của tỉnh là 339, 89, 299 phối hợp với LLVT của Quân

khu V tổ chức tập kích, tiêu diệt địch, giải phóng hoàn toàn các huyện Sơn Hà, Ba

Tơ, bẻ gãy cuộc càn của địch vào Căn cứ Trà Bồng, hình thành nên một vùng căn

cứ liên hoàn gồm 60 xã được giải phóng từ Trà Bồng qua Sơn Hà đến Ba Tơ [4, tr.

81

Page 83: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

185]. Tại Phú Yên, Huyện ủy Tuy Hòa xây dựng Căn cứ du kích Miền Đông trong

vùng địch tạm chiếm ở đồng bằng Tuy Hòa. Căn cứ Miền Đông thuộc phần cuối

của dãy Trường Sơn, có nhiều ngọn núi cao hiểm trở, nhiều hang động tự nhiên, rất

thuận lợi cho việc cất giấu vũ khí, đóng quân, tổ chức chiến đấu. Ở đây còn có

đường hành lang chiến lược Bắc – Nam đi qua, có nguồn tiếp tế từ các hướng Hòa

Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân. Địa thế núi giáp biển, còn một phần giáp đồng bằng là

điều kiện lý tưởng cho hoạt động quân sự. Do vậy, ngay từ đầu năm 1961, Huyện

ủy Tuy Hòa xây dựng địa bàn này thành căn cứ địa cách mạng. Ở huyện miền núi

Đồng Xuân (Tuy Hòa), vào cuối tháng 9-1961, LLVT và nhân dân nổi dậy tiêu diệt

ác ôn, giành quyền làm chủ, giải phóng hơn một nửa xã Xuân Quang nối liền với

Căn cứ địa Miền Tây trở thành địa bàn đứng chân của LLVT và các cơ quan của

tỉnh ở vùng giáp ranh đồng bằng. Bước sang năm 1962, trên cơ sở ba xã Sơn Long,

Sơn Định, Sơn Xuân đã được giải phóng, tỉnh Phú Yên xây dựng Căn cứ địa Vân

Hòa. Đây cũng là nơi đứng chân của hầu hết các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt

trận, quân sự, công an, tài chính, giao liên… tỉnh Phú Yên.

Cũng trong năm 1962, căn cứ địa các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng

Ngãi, Bình Định, Phú Yên tiếp tục được mở rộng, phát triển ở nhiều địa bàn.

Ngày 25-9-1962, LLVT Quân khu V phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh

Quảng Nam mở chiến dịch “Vượt sông Tiên”. Thắng lợi của chiến dịch này đã hình

thành căn cứ địa cách mạng: Sơn – Cẩm – Hà. Địa bàn này có một vị thế chiến lược

hết sức quan trọng. Đây là một thung lũng, nhưng khá hiểm yếu, địch muốn tấn

công phải vượt qua các con đường độc đạo, có đèo cao như: Đường 614 Tiên Phước

– Phước Cẩm, qua dãy Núi Vú; đường 615 Tam Kỳ – Phước Cẩm qua đèo Eo Gió;

Thăng Bình – Phước Sơn phải vượt qua dãy Núi Ngang, hoặc phải qua dốc Xoài,

Sông Khang lên Phước Hà. Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà ra đời đã mở ra khả năng uy

hiếp hệ thống phòng ngự của địch; nối thông với Căn cứ Trà My, đồng thời tỏa ra

vùng đồng bằng trung du của tỉnh bao gồm các huyện: Hiệp Đức, Quế Sơn, Thăng

Bình, Tam Kỳ… Sau khi Sơn – Cẩm – Hà được giải phóng và trở thành một căn cứ

82

Page 84: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

địa cách mạng có thế công thủ toàn diện thì các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng

Nam chuyển về đứng chân tại đây để trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến.

Tại vùng đồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi, Huyện ủy Bình Sơn xây dựng “căn

cứ lõm” ở Nam Bình (Bình Nguyên), Đông Bình (Bình Chánh) mang mật danh là

Triều Tiên. Căn cứ ở Đồng Lớn (An Điềm) gọi là Đà Lạt, ở Phước Bình, Phú Lễ,

Phước Thuận lấy mật danh là Liên Xô và Căn cứ núi Thình Thình.

Ở địa bàn giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, Tỉnh ủy Bình Định xây

dựng Núi Bà trở thành căn cứ địa cách mạng của Khu Đông. Đây là dãy núi cao

nhất ở Bình Định, diện tích khoảng 90 km², địa hình hiểm trở, có thế công thủ toàn

diện. Cùng với hệ thống rừng rậm, lòng núi có trên 30 hốc đá và hang động lớn đủ

khả năng làm chỗ trú ẩn cho cả một tiểu đoàn, rất thuận lợi cho việc cất giấu lương

thực, vũ khí. Địa thế Núi Bà vừa giáp với biển, vừa giáp với đồng bằng nên lực

lượng cách mạng dễ dàng hoạt động và rút lui an toàn. Núi Bà là địa bàn rất thuận

lợi cho việc xây dựng nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến.

Vì vậy, trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các cơ quan và

LLVT của tỉnh Bình Định đều đóng ở đây. Để xây dựng địa bàn đứng chân và mở

rộng hoạt động xuống đồng bằng cho lực lượng kháng chiến, từ sau thắng lợi của

phong trào “Đồng khởi”, các “căn cứ lõm” được xây dựng quanh Núi Bà: Tân

Thanh, Vĩnh Hội (Cát Chánh) và Lộc Khánh (Cát Thắng) hình thành hành lang và

tạo ra bàn đạp để Tỉnh ủy Bình Định đưa lực lượng xuống bám trụ Khu Đông

(Đông An Nhơn – Đông Nam Phù Cát – Đông Bắc Tuy Phước). Thêm vào đó, từ

tháng 7-1962, Tỉnh ủy và Ban cán sự Tỉnh đội đưa đơn vị 117B vào lập căn cứ ở

huyện Vân Canh. Trên cơ sở đó, xây dựng bàn đạp cho việc mở rộng vùng giải

phóng ở phía Nam. Đến cuối năm 1962, căn cứ địa miền núi tỉnh Bình Định tiếp tục

được củng cố và mở rộng thêm một số làng thuộc vùng thấp của huyện An Lão và

Vân Canh, với 16.050 dân. Các “căn cứ lõm” bước đầu được hình thành ở các thôn

vùng sâu phía Đông đường quốc lộ số 1 (Hoài Mỹ, Hoài Đức thuộc huyện Hoài

Nhơn; Mỹ Đức, Mỹ Thọ thuộc huyện Phù Mỹ; Cát Khánh, Cát Thắng thuộc Phù

Cát), tạo thế tiến công địch ngay tại vùng giáp ranh và vùng sâu [3, tr. 64].

83

Page 85: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Vào giữa năm 1964, vùng giải phóng đã được mở rộng ở hầu hết địa bàn miền

núi và một phần nông thôn đồng bằng của tỉnh Phú Yên. Nhiều địa bàn ven biển

cũng thuộc quyền kiểm soát của cách mạng. Trên cơ sở sự thuận lợi này, Tỉnh ủy tổ

chức tiếp nhận hàng hóa chi viện của miền Bắc bằng đường biển. Bến Vũng Rô

thuộc Căn cứ địa Miền Đông (Phú Yên) trở thành căn cứ tiếp nhận và trung chuyển

vũ khí, hàng chi viện của Miền Bắc cho ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc bằng

đường biển. Để thực hiện nhiệm vụ này, Liên Tỉnh ủy III, Tỉnh ủy Phú Yên và

Huyện ủy Tuy Hòa đã huy động lực lượng thanh niên cùng nhân dân các xã Hòa

Hiệp, Hòa Xuân, Hòa Tân, Hòa Thịnh, Hòa Mỹ tổ chức bí mật dọn dẹp bến bãi,

chọn nơi cất giấu ở các gộp đá, xây dựng cầu tàu dã chiến ra biển dài 20 m để tiếp

nhận và cất giấu hàng hóa. Khi các chuyến “tàu Không số” cập bến Vũng Rô, trên

tuyến đường được mở từ Căn cứ Đá Bàn (Hòa Thịnh) đi Bãi Xép – Miền Đông, lực

lượng dân công không quản ngày đêm, trèo đèo lội suối vận chuyển hàng hóa về

căn cứ địa và đi các tỉnh Khánh Hòa, Đắc Lắc. Ba chuyến “tàu Không số” đã cập

bến Vũng Rô thành công. Nhờ đó, Khu V tiếp nhận 200 tấn vũ khí, bổ sung kịp thời

cho LLVT Phân khu Nam Phú Yên, góp phần vào việc đánh bại chiến lược “Chiến

tranh đặc biệt” trên chiến trường Khu V [161, tr. 94].

Tháng 8-1964, nhằm mở rộng căn cứ ở vùng cao phía Tây xuống vùng núi

phía Đông để làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng, Tỉnh ủy Bình Định chọn dãy núi

Hòn Chè (nay thuộc thôn Hội Sơn và Thạch Bàn Tây, xã Cát Sơn, huyện Phù Cát)

làm căn cứ của Tỉnh ủy để bảo tồn và phát triển lực lượng, tổ chức chống địch càn

quét. Về mặt quân sự, Căn cứ Hòn Chè vừa đảm bảo được các yếu tố phòng ngự

chiến lược, vừa thuận lợi trong việc triển khai lực lượng xuống uy hiếp mặt trận

Khu Đông và tỉnh lỵ Bình Định. Khi bị địch càn quét đánh phá ác liệt, lực lượng

cách mạng có thể rút về vùng hậu cứ phía Tây. Về mặt hậu cần, Căn cứ Hòn Chè có

thể tiếp nhận sự chi viện từ đồng bằng, đảm bảo binh lương để kháng chiến lâu dài.

Cùng thời điểm này, ở thị xã Tuy Hòa (Phú Yên), Căn cứ Đá Bàn thuộc thôn

Cẩm Tú, xã Hòa Kiến, thị xã Tuy Hòa cũng được xây dựng. Địa bàn này giáp với

84

Page 86: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

núi rừng Hòa Quang ở ba mặt Bắc, Tây, Nam. Từ Đá Bàn có thể cơ động lên căn cứ

của tỉnh ở Sơn Long, về căn cứ của huyện Tuy Hòa 2 ở vùng núi Tây Hòa Quang.

Tại các đô thị trong vùng địch kiểm soát như Đà Nẵng, Quy Nhơn, thị xã

Quảng Ngãi, thị xã Tuy Hòa và vùng ven đô, lực lượng kháng chiến xây dựng được

nhiều cơ sở chính trị, hầm bí mật, các “lõm” chính trị… K20 (Đà Nẵng) là “lõm”

chính trị tiêu biểu được xây dựng từ cuối năm 1964. Trên cơ sở sự phát triển của

phong trào cách mạng ở Đa Mặn, Mỹ Đa, thực hiện sự chỉ đạo của Thành ủy Đà

Nẵng, Quận ủy quận Ba xây dựng khối phố Đa Mặn thành một “lõm chính trị”, lấy

mật danh là K20. Căn cứ K20 có diện tích khoảng 3 km², địa hình chủ yếu là đồng

ruộng và sông, lạch. Tại xóm Đồng (thôn Nước Mặn) có 32 hộ gia đình sinh sống

trở thành nơi trú đóng của khoảng từ 50 đến 100 cán bộ, chiến sỹ, biệt động, du

kích. K20 cũng là nơi đứng chân của các cơ quan tiền phương của Thành ủy, Thành

đội, Quận ủy – Quận đội quận Ba và các phân đội đặc công, công binh, pháo binh,

quân báo, trinh sát cấp trên về trú quân.

Cũng trong năm 1964, Ban cán sự Đảng Quy Nhơn xây dựng “căn cứ lõm” tại

thôn Hưng Thạnh, một địa bàn sát nách thành phố Quy Nhơn. Nhờ đó, cán bộ có

điều kiện bám sát, kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân ở đô thị.

Từ năm 1965, Hòa Kiến là “căn cứ lõm” điển hình của tỉnh Phú Yên. Căn cứ

Hòa Kiến nằm trên Quốc lộ 1, cách thị xã Tuy Hòa 3 km về phía Bắc và xung

quanh núi Chóp Chài. Với hệ thống hầm bí mật được xây dựng tại các thôn Thanh

Đức, Minh Đức, Ngọc Phong, Phước Hậu, Liên Trì, Ninh Tịnh, địa bàn này trở

thành nơi đứng chân an toàn cho lực lượng cán bộ đi về hoạt động trụ bám.

Các cơ sở chính trị, hầm bí mật, các “lõm” chính trị trong vùng địch kiểm soát

trở thành nơi nuôi giấu cán bộ, nơi LLVT từ bên ngoài vào bám trụ để hoạt động,

nơi tuyên truyền giác ngộ cách mạng đối với các tầng lớp nhân dân, nơi gây dựng

và phát triển lực lượng cách mạng tại chỗ, động viên, huy động sự ủng hộ của các

tầng lớp nhân dân để phục vụ cho kháng chiến, khi cần thiết có thể làm nội ứng

hoặc phối hợp với lực lượng bên ngoài để đánh địch.

Đến cuối năm 1965, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục được củng cố và

mở rộng đặc biệt là tại các vùng giáp ranh và đồng bằng. Các căn cứ mới được xây

85

Page 87: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

dựng: K20, Sơn – Cẩm – Hà, Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xô, Núi Bà, Hòn Chè, Vân

Hòa, Đá Bàn, Hòa Kiến không ngừng được củng cố, phát triển. Một số căn cứ ven

biển đồng thời là bến bãi tiếp nhận hàng vận chuyển trên biển cũng được thành lập

ở Vũng Rô (Phú Yên), Lộ Diêu (Bình Định), Đạm Thủy (Quảng Ngãi).

3.1.2. Đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa

Căn cứ địa cách mạng phát triển rộng khắp và liên hoàn ở miền núi phía Tây

Trung Trung Bộ đã tạo thế bao vây trực tiếp uy hiếp các cơ quan đầu não của Mỹ và

VNCH ở vùng đồng bằng. Đối với chính quyền VNCH, việc đối phó với các căn cứ

trở thành “vấn đề cấp thiết trước mắt cần phải tiến hành một cách khẩn trương gấp

rút hơn bao giờ hết” [137, tr. 30]. Đối phương xác định: “Cần tập trung sự chú ý

vào miền núi các tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú vì đó là những vùng căn cứ mạnh

nhất của Việt cộng ”[137, tr. 33]. Âm mưu của địch trong việc đánh phá căn cứ địa

khá thâm hiểm nhằm triệt tiêu các chỗ dựa của căn cứ địa, đó là “tiến hành tiêu diệt

mọi mặt từ lực lượng chính trị (cán bộ, cơ sở quần chúng và nhân dân theo Việt

cộng), đến lực lượng quân sự (kể cả các LLVT và bán vũ trang) đến lực lượng kinh

tế (kho tàng, nương rẫy, các cơ sở tiểu thủ công nghệ...)” [137, tr. 33]. Để thực hiện

mục tiêu trên, Mỹ và chính quyền VNCH đã thực hiện nhiều thủ đoạn đánh phá

thâm độc và tàn bạo trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế.

Về quân sự: Mỹ và chính quyền VNCH tập trung thực hiện ba mục tiêu lớn.

Trước hết là tiến hành triệt phá những địa bàn mà chúng cho là “Mật khu” của

Việt cộng ở Liên khu V, trọng điểm là Căn cứ Liên khu V, Căn cứ Liên tỉnh II ở

phía Tây Bình Định, căn cứ và hành lang các Tỉnh ủy Quảng Nam, Quảng Ngãi,

Bình Định, Phú Yên. Việc tiến hành triệt phá được thực hiện theo ba giai đoạn. Đầu

tiên chúng cho máy bay quan sát, xác định tọa độ, nơi đứng chân của các cơ quan

trên. Sau đó, dùng máy bay thả bom, nhiên liệu thiêu hủy; đồng thời thả khí giới,

bom nổ chậm. Cuối cùng là mở các cuộc hành quân bình định, dựa vào các cứ điểm

đóng quân đã được thiết lập từ trước, tiến công trực diện vào các căn cứ địa.

Thứ hai, thiết lập một hệ thống cứ điểm thọc sâu vào các căn cứ địa của Việt

cộng. Đây là vấn đề trọng tâm trong kế hoạch đối phó với căn cứ địa cách mạng ở

86

Page 88: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trung Trung Bộ. Mục đích của việc xây dựng hệ thống cứ điểm của địch là vừa tấn

công vào các căn cứ địa cách mạng, vừa phòng thủ; tạo địa bàn để quấy rối hậu

phương tại chỗ của cách mạng; tiêu hao và tiêu diệt lực lượng cách mạng; ngăn cản

sự tiến công của lực lượng kháng chiến xuống vùng đồng bằng và thành phố; gây

thanh thế để chiêu dụ nhân dân, từng bước bình định miền núi.

Thứ ba, thiết lập hành lang “ấp chiến lược” dọc vùng tiền sơn để ngăn chặn sự

thâm nhập của đối phương, triệt phá hệ thống cơ sở tổ chức chính trị ở vùng miền

núi giáp ranh đồng bằng, cắt đứt sự giao lưu giữa miền núi và đồng bằng, xây dựng

hệ thống công sự ngầm và các chòi trinh sát ở những địa điểm thuận lợi để theo dõi

hoạt động của đối phương.

Theo kế hoạch của VNCH, ba công tác: Tiêu diệt các Mật khu, thiết lập một

hệ thống đồn bốt thọc sâu vào rừng núi và xây dựng hành lang làng, ấp chiến lược

dọc vùng tiền sơn “cần phải được tiến hành đồng thời” nhằm “tạo thế dựa cho

nhau” [137, tr. 35].

Về chính trị: Mỹ và chính quyền VNCH tiến hành củng cố bộ máy chính

quyền cấp thôn xã, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ người dân tộc để đưa vào bộ máy

chính quyền các cấp. Bên cạnh đó, chúng tìm cách nắm lực lượng quần chúng thông

qua việc chỉnh đốn các tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng hòa, Đoàn Thanh niên bảo

vệ hương thôn, Hiệp hội Phụ nữ, Hội Nông dân. Để đánh vào địa bàn miền núi và

các căn cứ địa cách mạng, đối phương tổ chức các chiến dịch tuyên truyền tâm lý

với quy mô lớn, trong đó máy bay được sử dụng như là phương tiện hữu hiệu để “tổ

chức những cuộc phóng thanh chiêu dụ rộng rãi dân Thượng” và “rải truyền đơn

kêu gọi cán bộ và LLVT Việt cộng quay về với chính nghĩa, phổ biến chính sách

khoan dung của Chính phủ, đường lối “phân biệt kháng chiến với Cộng sản” [137,

tr. 40]. Điều nguy hiểm hơn cả là Mỹ và chính quyền VNCH chủ trương sử dụng số

cán bộ lãnh đạo có uy tín của cách mạng bị bắt, hoặc đầu hàng nhằm lôi kéo, dụ dỗ

quần chúng, cán bộ và bộ đội ở các căn cứ địa. Cách thức thực hiện rất đa dạng và

nham hiểm, ví như sử dụng những cán bộ Việt cộng đã bị bắt hoặc xuất thú, chú

trọng những cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng và uy tín ở địa phương, viết thơ tranh thủ

87

Page 89: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cả về mặt tình cảm và lý trí, in thành truyền đơn có ảnh hưởng và chữ ký, kêu gọi cán

bộ và binh sĩ Việt cộng trở về với quốc gia dân tộc, trở về với gia đình, tiếp tục sự

nghiệp cách mạng “Phản Cộng – Bài Phong – Đả Thực” [137, tr. 40].

Về kinh tế: Máy bay của Mỹ và quân đội VNCH thường xuyên ném bom, phá

hoại mùa màng và hoạt động sản xuất ở vùng trung tâm căn cứ địa. Trong các cuộc

càn, chúng ra sức cướp bóc lúa gạo, đốt phá nhà cửa, tài sản của nhân dân vùng ven

căn cứ đồng thời thực hiện bao vây phong tỏa kinh tế, cấm nhân dân đi lại buôn bán

giao lưu giữa vùng thấp với vùng cao, giữa căn cứ với vùng ven. Đối với một số

vùng đồng bào dân tộc, để “giành dân”, đối phương tìm cách lôi kéo bằng thủ đoạn

“tiếp tế muối, rựa, vải, mở rộng hoạt động y tế, vệ sinh, văn hóa, phát huy quan hệ

trao đổi giữa hai vùng rừng núi và đồng bằng để bồi dưỡng nâng cao mức sống cho

dân Thượng” [137, tr. 40]. Hoạt động chống phá của Mỹ và VNCH về kinh tế đã

làm cho đời sống của cán bộ, nhân dân căn cứ địa và công tác vận động đối với

đồng bào các dân tộc gặp không ít khó khăn.

Trong bối cảnh đó, vượt qua những khó khăn của thời kỳ đầu mới được thành

lập và sự đánh phá ác liệt của địch, quân dân các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã

tích cực, chủ động tổ chức bố phòng, chiến đấu bảo vệ căn cứ một cách hiệu quả.

Xây dựng LLVT là một trong những nhiệm vụ căn bản nhằm đảm bảo sức

mạnh chiến đấu bảo vệ căn cứ địa. Đầu năm 1964, Trung ương tăng cường cho Khu

V bốn tiểu đoàn bộ binh 304, 40, 93, 97, Tiểu đoàn 303 súng máy phòng không 12

ly 7 và 2 tiểu đoàn quân bổ sung 305, 306. Tháng 4-1964, khối LLVT địa phương

các tỉnh Trung Trung Bộ được xây dựng đến cấp tiểu đoàn. Quảng Đà: Tiểu đoàn

75; Quảng Nam: Tiểu đoàn 70; Quảng Ngãi: Tiểu đoàn 83; Bình Định: Tiểu đoàn

50; Phú Yên: hai Tiểu đoàn 30 và 85. Năm 1965, thực hiện sự chỉ đạo của Quân khu

về xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, các tỉnh Quảng

Đà, Quảng Ngãi, Bình Định mỗi tỉnh có hai tiểu đoàn tập trung, các huyện có từ

một đến hai đại đội. LLVT Khu V lúc này đã có 37.000 quân chủ lực, 21.000 quân

địa phương, 95.000 du kích [109, tr. 325], lực lượng này trải rộng khắp các địa bàn

căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ.

88

Page 90: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Từ đầu năm 1961, địch mở những cuộc hành quân càn quét quy mô lớn đánh

vào các căn cứ địa cách mạng ở miền núi Trung Trung Bộ. Với tinh thần quyết tâm

bảo vệ căn cứ, quân và dân các căn cứ địa đã kiên cường bám trụ, chủ động, sáng

tạo, tích cực chiến đấu đập tan nhiều cuộc càn quét của địch.

Ngày 28-2-1961, phát hiện cơ quan Khu ủy V đang đóng ở Nước Là, đối

phương huy động một tiểu đoàn với sự yểm trợ của trực thăng thực hiện đổ quân,

bao vây đánh phá cơ quan, tiêu diệt lực lượng kháng chiến ở Nước Là nhưng chúng

bị tổn thất nặng, buộc phải bỏ dở cuộc hành quân.

Tháng 9-1962, địch sử dụng chiến thuật “trực thăng vận” dùng 24 máy bay lên

thẳng, 2 khu trục yểm hộ đổ quân xuống Căn cứ Nà Niêu, Trà Bồng (Quảng Ngãi)

với ý định mở cuộc càn quét quy mô lớn vào vùng giải phóng nhưng thất bại. Để

chủ động đánh địch, một hệ thống công sự bao quanh khu vực dự kiến địch đổ quân

đã được gấp rút xây dựng. Trong trận đánh này, các lực lượng bảo vệ căn cứ đã bắn

rơi 12 máy bay lên thẳng, tiêu diệt và làm bị thương 70 quân, đẩy chúng ra khỏi

hành lang căn cứ địa, bảo vệ được cơ quan lãnh đạo của Khu V [91, tr .109].

Trong năm 1963, mức độ đánh phá của đối phương ngày càng trở nên ác liệt

hơn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm chiến đấu của các năm 1960-1962, quân dân căn

cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã kiên cường bám trụ, đánh thắng hầu hết các

cuộc càn quét quy mô lớn của đối phương vào các căn cứ địa cách mạng, gây cho

chúng nhiều thương vong, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến.

Tháng 2-1963, Sư đoàn 2 VNCH phối hợp với lực lượng địa phương quân

cùng sự yểm trợ của phi pháo, thiết giáp tiến hành hai cuộc càn quét lớn mang tên

“Lam Sơn 7” và “Lam Sơn 8” tấn công vào Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà. Dưới sự chỉ

đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Nam, Huyện ủy Tiên Phước, du kích, bộ đội địa

phương, bộ đội chủ lực tỉnh đã quyết tâm trụ bám, chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt lực

lượng địch, làm thất bại âm mưu tái chiếm, bình định của chúng. Tiểu đoàn 70

LLVT tỉnh phân tán trực tiếp xuống tận các xã, thôn để kèm cặp lực lượng du kích.

Phong trào du kích chiến tranh được phát động rộng rãi. LLVT và du kích vận dụng

linh hoạt các hình thức tác chiến như tập kích, bắn tỉa… lừa dụ địch vào các bãi

89

Page 91: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chông, hầm chông, bẫy đá để tiêu hao, tiêu diệt khiến cho chúng hoang mang, chùn

bước khi tổ chức các cuộc càn quét vào căn cứ địa.

Đầu tháng 3-1963, địch mở chiến dịch “Dân Thắng” càn quét ác liệt dài ngày

vào Căn cứ Miền Tây và Vân Hòa của tỉnh Phú Yên. 26 máy bay trực thăng liên

tiếp đổ quân xuống các xã Sơn Long, Sơn Định, Sơn Xuân, phối hợp với các cánh

quân bộ được sự yểm trợ của pháo binh, máy bay từ các hướng Củng Sơn, Tuy An,

Đồng Xuân càn lên Căn cứ Vân Hòa. LLVT Vân Hòa phối hợp với LLVT tỉnh mở

nhiều trận đánh lớn, đặc biệt là Đại đội 375 đã liên tục chiến đấu, diệt hơn 200 quân

địch, bảo vệ vững chắc căn cứ địa [90, tr. 107].

Tháng 4-1963, để bảo vệ Mật khu Đỗ Xá, bộ đội địa phương và du kích Trà

Bồng phối hợp với quân chủ lực của Khu V cùng với quân dân các địa bàn lân cận

tổ chức chiến đấu liên tục bao vây và tấn công địch, “tiêu diệt 600 quân, bắn rơi và

làm hỏng 20 trực thăng buộc địch phải vội vã rút quân” [91, tr.111].

Sau thất bại của 2 cuộc càn “Lam Sơn 7” và “Lam Sơn 8” ở Sơn – Cẩm –

Hà, từ tháng 7 đến tháng 10-1963, địch tiếp tục mở các cuộc càn “Bình Châu” với

lực lượng đông nhất lên đến gần 16 tiểu đoàn, có xe tăng và máy bay yểm trợ đánh

vào căn cứ địa từ nhiều hướng. Sáng ngày 7-7-1963, chúng cho 5 xe M113 đi trước

mở đường thăm dò, tiếp đó là một tiểu đoàn bộ binh và một đại đội biệt động quân

từ Việt An (Thăng Bình) tiến vào Tiên Sơn. Với thế trận được chuẩn bị từ trước, du

kích Tiên Sơn phối hợp với một tổ trinh sát của Tiểu đoàn 70 tổ chức chặn đón đánh

ngay từ đầu, làm tiêu hao một bộ phận quân địch, khiến số còn lại phải rút quân về

Việt An vào trưa ngày hôm sau. Tuy nhiên, vào ngày 9-7-1963, chúng lại tiếp tục

mở cuộc càn với quy mô lớn. 23 xe M113 cùng phi pháo yểm trợ cho 9 cánh quân

tấn công vào trọng điểm Tiên Sơn. Sau khi xây dựng các con đường dã chiến từ

Định Sơn sang Tiên Hà, Tiên Hà đi Tiên Châu, Dương Sủng đi thôn 5 Tiên Sơn, đối

phương tăng cường huy động thêm 25 xe GMC chở lính, dây thép gai, cọc sắt và sự

yểm trợ của M113 thực hiện việc gom dân và lập ấp chiến lược. Lực lượng trụ bám

ở căn cứ địa kiên quyết chống càn, ngày đêm chiến đấu, quần nhau với địch, ngăn

chặn được các mũi tiến công, tập kích, bắn tỉa, quấy rối buộc chúng phải luôn đối

90

Page 92: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

phó. Trong tháng 8-1863, địch tiếp tục điều quân mở rộng diện càn quét. Tuy nhiên,

bộ đội tỉnh, huyện, du kích kiên cường bám giữ trận địa, bảo vệ vững chắc Căn cứ

địa Sơn – Cẩm – Hà. Bước sang tháng 9-1963, địch vẫn ngoan cố ra sức mở rộng

càn quét, đánh vào Tiên Phong, nơi đứng chân của cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam.

Tại đây, bộ đội địa phương tỉnh và du kích chặn đánh quyết liệt, gây cho chúng

những tổn thất nặng nề. Vì vậy, đối phương chuyển sang tập trung quân hình thành

các chiến đoàn, đưa Sư đoàn 2 VNCH lên càn quét trở lại Tiên Sơn, Tiên Cẩm, Tiên

Phong. 26 chiếc trực thăng liên tiếp đổ quân xuống đóng một số chốt điểm tại Tiên

Sơn. Từ Tam Kỳ, 10 tiểu đoàn địch kéo lên đóng rải rác ở các xã Tiên Sơn, Tiên

Cẩm, Tiên Phong, Tiên Mỹ và một số xã của huyện Tam Kỳ, Thăng Bình. Cuộc

chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng lần này được thực hiện trên cả ba mũi giáp

công. Thực hiện kế hoạch phối hợp giữa Tỉnh đội và Huyện đội, trong khi LLVT

tỉnh đánh vào các ấp chiến lược ở Tiên Sơn, thôn 4 Tiên Cẩm, Gò Bụp, Tiên Phong;

bộ đội huyện, du kích các xã nhân cơ hội này đã đẩy mạnh hoạt động giải phóng các

xã Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Cẩm. Cùng lúc này, phong trào du kích chiến tranh

các xã phát triển mạnh mẽ, lực lượng du kích các xã quần bám đánh địch, tham gia

chống càn, liên tục quấy rối địch. Hỗ trợ cho hoạt động quân sự của LLVT, phong

trào đấu tranh chính trị của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức. Ở Tiên Sơn, Tiên

Cẩm, nhân dân cùng du kích, bộ đội phá rào thép gai, lấp chiến hào của địch vừa

xây dựng. Quần chúng đấu tranh đòi chính quyền địch phải bồi thường lúa, nhà cửa

bị đốt, đòi chồng con bị bắt lính trở về… Kết quả là, trong năm 1963, các mũi đấu

tranh của LLVT và quần chúng đã làm phá sản chiến dịch “Bình Châu”, bảo vệ

vững chắc Căn cứ địa Sơn – Cẩm – Hà.

Tháng 5-1964, lực lượng an ninh vũ trang của tỉnh Quảng Ngãi và huyện Trà

Bồng tiếp tục bẻ gãy cuộc càn mang tên “Chiến dịch Quyết thắng 202” của quân đội

VNCH tấn công vào Căn cứ Mang Xinh, bảo vệ an toàn cho phần lớn các cơ quan,

kho tàng, các cơ sở sản xuất, đường dây, trạm trại trong căn cứ.

Trong điều kiện địch đánh phá ngày càng ác liệt, việc đẩy mạnh phong trào du

kích chiến tranh trở thành yêu cầu tất yếu, góp phần quan trọng vào hoạt động chiến

91

Page 93: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

đấu bảo vệ các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Lực lượng du kích các địa phương

không ngừng được củng cố và tăng cường. Đầu năm 1964, căn cứ địa miền núi

Trung Trung Bộ có 4.964 du kích (Quảng Đà 818 người, Quảng Nam 1.151 người,

Quảng Ngãi 1.365 người, Bình Định 1.295 người, Phú Yên 335 người), đồng bằng

có 4.240 du kích (Quảng Đà 800 người, Quảng Nam 1.076 người, Quảng Ngãi 602

người, Bình Định 912 người, Phú yên 850 người) [50, tr. 50]. Mỗi thôn thành lập 1

trung đội dân quân, xã có từ 1 đến 2 trung đội du kích. Hệ thống làng chiến đấu

được chú trọng xây dựng vững chắc. Cuối 1965, Quảng Đà có 107 thôn và 5 xã xây

dựng làng chiến đấu, huy động 49.350 ngày công của quần chúng tham gia phát

triển 229 tuyến chiến đấu dài 3.727 m và nhiều bờ rào, chông thò, cạm bẫy [97, tr.

50]. Quảng Ngãi cũng xây dựng 294 thôn chiến đấu, đào được gần 20 km địa đạo và

710 km giao thông hào, 845 công sự chiến đấu, 26.547 hầm chống tăng [4, tr. 230].

Các thôn xã chiến đấu được xây dựng vững mạnh đã phát huy tác dụng tốt trong

việc chống lại các hoạt động lùng sục, càn quét của địch vào căn cứ địa.

Song song với hoạt động chiến đấu bảo vệ căn cứ địa của LLVT và nhân dân,

bộ máy an ninh các cấp phối hợp cùng lực lượng quần chúng ở các buôn, làng điều

tra nghiên cứu, nắm tình hình địch, phát hiện và phá mạng lưới điệp báo, làm thất

bại âm mưu đánh phá căn cứ địa từ bên trong của đối phương.

3.2. Chủ động xây dựng kết hợp với bảo vệ căn cứ địa cách mạng, góp phần

đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968)

3.2.1. Phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng đáp ứng yêu cầu chống

chiến lược “Chiến tranh cục bộ”

Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, giữa năm 1965, đế quốc

Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân vào miền

Nam với hy vọng từng bước phản công giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Mục tiêu cơ bản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là “tìm diệt” lực lượng chủ

lực quân giải phóng, phá căn cứ du kích, thực hiện chương trình “bình định” vùng

chiếm đóng.

92

Page 94: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Song song với việc đưa hơn nửa triệu quân Mỹ và đồng minh cùng một khối

lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đế quốc Mỹ

nhanh chóng bố trí lại lực lượng, tăng cường trang bị vũ khí chiến đấu hiện đại cho

quân đội VNCH, tiếp tục kiên cố hóa hệ thống phòng thủ ở những địa bàn chiến

lược; gấp rút xây dựng hệ thống cầu đường, bến cảng, sân bay, kho tàng… để phục

vụ cho nhu cầu chiến tranh. Trên địa bàn Trung Trung Bộ, Mỹ xây dựng các căn cứ

quân sự hiện đại: Căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, Căn cứ Chu Lai, Căn cứ Khâm

Đức – Ngok Tavak, sân bay Phù Cát, một số sân bay dã chiến ở Quảng Ngãi, thiết

lập một hệ thống đồn bốt lấn sâu vào vùng giải phóng, tạo bàn đạp cho các cuộc càn

quét đánh phá vào các căn cứ địa cách mạng.

Trước tình hình đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, tháng 8-1965

Quân Khu ủy V đề ra nhiệm vụ: Cần phải “Củng cố và mở rộng căn cứ địa cách

mạng; tích cực rèn luyện bồi dưỡng và phát triển lực lượng; nhanh chóng nâng cao

sức chiến đấu bộ đội góp phần xứng đáng làm thay đổi lực lượng so sánh có lợi cho

ta, cùng toàn dân giành một bước thắng lợi quyết định” [94, tr. 470].

Thực hiện chủ trương trên, quân dân Trung Trung Bộ tích cực đẩy mạnh xây

dựng căn cứ địa cách mạng, đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến đấu mới với những

cam go và thử thách mới: đương đầu trực tiếp với quân Mỹ và quân đồng minh.

Việc xây dựng căn cứ địa cách mạng được triển khai toàn diện trên các mặt:

Về chính trị: Các cấp ủy Đảng, chính quyền thường xuyên đẩy mạnh việc

tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, của

MTDTGPMN Việt Nam nhằm thống nhất nhận thức và hành động cho quân dân

các căn cứ địa. Nhiều lớp chỉnh huấn, hội nghị về công tác tư tưởng, các lớp bồi

dưỡng về chính trị được tổ chức cho cán bộ, LLVT và nhân dân trong các căn cứ

địa đã góp phần nâng cao bản lĩnh, tinh thần chiến đấu cho quân dân. Công tác phát

triển Đảng, xây dựng các đoàn thể quần chúng, củng cố bộ máy chính quyền nhân

dân vững mạnh, kiên quyết trấn áp đối với lực lượng phản cách mạng được tăng

cường. Cán bộ, đảng viên, LLVT giữ vai trò tiên phong, gương mẫu chấp hành chủ

trương đường lối, chính sách của Đảng đặc biệt là chính sách dân tộc, tôn giáo.

93

Page 95: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Công tác vận động đồng bào các dân tộc được tiến hành hết sức linh hoạt, khéo léo

trên cơ sở tôn trọng phong tục tập quán đồng thời phát huy truyền thống đánh giặc

giữ làng của đồng bào. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng ở các địa phương

Trung Trung Bộ chủ động lập kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở từng địa phương;

đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tích cực

thực hiện kế hoạch này.

Nhằm ổn định tư tưởng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ cho quân dân các căn cứ

địa, tháng 5-1965 Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Trung Trung Bộ mở cuộc

vận động “Nhà nhà đón thư Đảng, bàn việc đánh Mỹ, cứu nhà, cứu nước”, phát

động phong trào “Toàn dân hiến kế đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhiều địa

phương tổ chức “Hội nghị Diên Hồng” bàn cách đánh Mỹ, thành lập các đội quyết

tử đánh Mỹ. Những cuộc vận động và phong trào thi đua trên đã tạo nên không khí

hào hứng, sôi nổi đánh Mỹ trong căn cứ địa; lực lượng trụ bám tại nhiều căn cứ về

cơ bản đã khắc phục được tư tưởng: “gờm Mỹ, sợ Mỹ”, nhất là từ sau chiến thắng

Núi Thành (Quảng Nam). Sự ra đời của các “vành đai diệt Mỹ” ở Chu Lai, Núi

Thành, Hòa Vang… cũng góp phần tạo nên không khí phấn khởi cho đông đảo quân

dân các căn cứ địa cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Cục miền Nam và Ủy ban

MTDTGPMN Việt Nam về tích cực củng cố chính quyền cách mạng, đặc biệt là

chính quyền cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, căn cứ địa các tỉnh

Trung Trung Bộ tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền

cấp thôn, xã, huyện. Trong năm 1965, đã có 96/126 thôn, xã vùng giải phóng miền

núi và đồng bằng của tỉnh Bình Định thành lập chính quyền tự quản thôn, xã, động

viên nhân dân đoàn kết xây dựng căn cứ địa và bảo vệ vùng giải phóng [3, tr. 107-

108]. Năm 1966, 4 xã căn cứ thuộc miền núi tỉnh Quảng Đà tiến hành bầu Hội đồng

nhân dân (HĐND) và Ủy ban tự quản [98, tr. 36]. Năm 1968, Quảng Ngãi là địa

phương tiến hành xây dựng chính quyền cấp huyện với 8 huyện thành lập HĐND

giải phóng và UBNDCM, 128 xã trong tổng số 179 xã có chính quyền cách mạng

thông qua bầu cử của nhân dân [154, tr. 19].

94

Page 96: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Về xây dựng kinh tế: Để giải quyết vấn đề lương thực cho các lực lượng trụ

bám tại căn cứ, từ cơ quan Khu ủy V, BTL Quân khu đến các tỉnh, các cơ quan ban

ngành, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đều tổ chức sản xuất tự túc.

Trong năm 1966, nhờ tích cực thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất mà một số

đơn vị thuộc Sư đoàn 2 tự túc được bốn tháng ăn [62, tr. 202]. Các đơn vị và cơ

quan Tỉnh đội Phú Yên sản xuất thu hoạch được gần 138 tấn lúa, trồng được

1.112.000 gốc sắn, thu hơn 2.400 tấn sắn củ, 50 tấn bắp, 30 tấn khoai lang và hơn 3

tấn đậu các loại [122, tr. 283].

Hoạt động tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc được thực hiện thông qua các

tuyến vận tải cả bằng đường bộ, đường biển. Từ năm 1965 đến 1967, đã có 1.171

tấn hàng hóa được tập kết về các căn cứ địa của Khu V [62, tr.178]. Bên cạnh đó, để

trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động vận tải, từ tháng 10-1966, Khu ủy và BTL

Quân khu thành lập Tổng đoàn vận tải hành lang đồng thời tổ chức hai hệ vận tải

đường dọc và đường ngang. Trục đường dọc theo hướng Bắc – Nam do các đoàn

Bình Sơn, Nam Sơn, Tây Sơn đảm nhận, có nhiệm vụ tiếp nhận hàng chi viện từ

miền Bắc vào. Hệ đường ngang do các tiểu đoàn thanh niên xung phong: Bắc Hải,

Trung Hải, Nam Hải, Thượng Hải, Hắc Hải, Bình Hải đảm nhận, có nhiệm vụ tiếp

nhận lương thực, thực phẩm, thuốc men… từ bên ngoài đến các căn cứ địa hoặc do

cơ quan kinh tài thu mua, chuyển từ bên ngoài tập kết về căn cứ.

Hoạt động sản xuất của nhân dân tại các căn cứ góp phần quan trọng vào việc

xây dựng tiềm lực kinh tế kháng chiến. Để khuyến khích phát triển sản xuất, chính

quyền cách mạng ở các căn cứ thực hiện việc cấp ruộng đất và giảm tô cho nông

dân; đẩy mạnh phong trào hợp tác tương trợ lao động. Năm 1966, căn cứ địa miền

núi Quảng Đà có 439 tổ hợp tác với 8.186 tổ viên, chiếm 99,4% lao động tham gia

[98, tr. 34]. Năm 1968, các căn cứ địa vùng đồng bằng Quảng Ngãi có 279 tổ vòng

đổi công với 88.962 tổ viên, căn cứ địa miền núi có 765 tổ vòng công hợp tác tương

trợ lao động với 12.972 tổ viên [153, tr. 37]. Việc kiện toàn các tổ vần công và tổ

hợp tác đã góp phần giữ vững sản xuất, giải quyết được nhu cầu đời sống nhân dân

các căn cứ địa, huy động được nhiều lương thực phục vụ cho kháng chiến.

95

Page 97: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Cùng với việc động viên các lực lượng trong căn cứ địa tích cực đẩy mạnh

tăng gia sản xuất, công tác vận động sự đóng góp của nhân dân vùng địch tạm

chiếm cũng góp phần đáng kể vào việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến tại các

căn cứ địa. Chỉ riêng trong năm 1965, nhân dân vùng giải phóng, căn cứ địa Quảng

Ngãi, Bình Định đóng góp 7.000 tấn lúa, 62 triệu đồng và 1 triệu 60 vạn ngày công

phục vụ chiến trường [57, tr. 242]. Giữa năm 1966, sau 45 ngày đêm thực hiện công

tác vận động ở vùng địch, lực lượng hậu cần tỉnh Phú Yên động viên thu mua hơn

50 tấn gạo, gần 2 tấn thực phẩm đưa lên căn cứ [93, tr.114].

Mặc dù địch đánh phá ác liệt, hoạt động giao lưu hàng hóa giữa vùng địch tạm

chiếm và vùng giải phóng vẫn được duy trì thường xuyên. Trong giai đoạn 1965-

1968, tại các “cửa khẩu”, lực lượng Ban Kinh tài của tỉnh Quảng Ngãi tiếp nhận vận

chuyển khai thác gần 1.500 tấn muối, 2.000 tấn gạo và hàng ngàn tấn hàng hóa khác

[160, tr. 416]. Tỉnh Phú Yên vận chuyển được hàng trăm tấn lương thực từ các cửa

khẩu về căn cứ, gần 50 tấn vũ khí, quân trang của Quân khu chi viện từ đường dây

Trung ương về [93, tr. 119]. Nhờ đó, đã đảm bảo phục vụ các nhu cầu tối thiểu cho

đời sống và chiến đấu của quân dân, tăng cường tiềm lực kinh tế cho căn cứ địa;

đồng thời cũng góp phần làm suy giảm một phần hậu phương, hậu cần của địch.

Về văn hóa – xã hội: Các cấp ủy Đảng, chính quyền chú trọng xây dựng nền

văn hóa mới, tiến bộ phục vụ yêu cầu kháng chiến. Thông qua các phương tiện: Đài

phát thanh giải phóng, báo chí giải phóng, các đoàn văn công giải phóng, các đội

chiếu bóng lưu động, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Mặt trận được

tuyên truyền phổ biến sâu rộng đến tận các bản, làng, đến từng người dân tại căn cứ

địa. Hoạt động văn hóa hướng vào việc tuyên truyền phổ biến nếp sống văn hóa

mới, động viên nhân dân xóa bỏ, cải tiến các phong tục lạc hậu; đồng thời giáo dục

động viên lòng yêu nước căm thù giặc, phát huy những thành tích trong chiến đấu

và sản xuất. Bên cạnh các hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp, phong trào

văn hóa văn nghệ quần chúng phát triển sôi nổi tạo không khí vui tươi, lành mạnh

trong đời sống tinh thần của bộ đội và nhân dân căn cứ địa.

96

Page 98: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, công tác giáo dục ở các căn cứ địa vẫn có

bước phát triển. Phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ trong nhân dân không

ngừng được đẩy mạnh. Tháng 5-1965, xã Ba Khâm (thuộc Căn cứ huyện Ba Tơ,

Quảng Ngãi) được công nhận là ngọn cờ xóa mù chữ của Trung Trung Bộ và được

tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Ba [160, tr. 727]. Năm 1966, các căn cứ

địa miền núi Quảng Đà mở 85 lớp bình dân học vụ với trên 1.000 học sinh, 24 lớp

phổ thông với 900 học sinh và bổ túc văn hóa cho 450 người [98, tr. 35]. Giai đoạn

1965-1968, vùng giải phóng đồng bằng và căn cứ miền núi tỉnh Bình Định có

28.343 học sinh cấp I, 45 lớp cấp II với 1.766 học sinh [23, tr. 155]. Nhìn chung,

hoạt động giáo dục cách mạng không chỉ nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ, nhân

dân ở các căn cứ địa mà còn góp phần đào tạo, bồi dưỡng một lực lượng cán bộ

đông đảo, phục vụ yêu cầu của cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước sau này.

Công tác y tế tại các căn cứ địa tập trung vào việc chăm sóc sức khỏe nhân

dân và cán bộ chiến sỹ, đảm bảo yêu cầu sản xuất và kháng chiến. Mạng lưới y tế

được hình thành từ huyện đến xã cùng với các đội phẫu thuật ở vùng sâu đã khắc

phục khó khăn đảm bảo yêu cầu chữa bệnh, phòng bệnh cho nhân dân, cấp cứu,

điều trị thương binh. Bên cạnh việc chủ động hướng dẫn nhân dân căn cứ địa thực

hiện vệ sinh, phòng bệnh, chống chất độc hóa học có kết quả, các cơ sở y tế còn tích

cực tìm kiếm cây thuốc nam, bào chế, sản xuất được thuốc chữa bệnh tại chỗ. Trong

năm 1966, y tế căn cứ địa miền núi Quảng Đà đã chữa vết thương và chữa lành

bệnh cho 1.312 người, sản xuất được nhiều loại thuốc để chữa bệnh và phòng bệnh

cho nhân dân [98, tr. 36]. Y tế Phú Yên sản xuất được 19.500 viên thuốc chữa bệnh

sốt rét, 2.000 viên thuốc đau bụng, 2.000 viên thuốc bổ, 14 kg bông hút nước [122,

tr. 284]. Nhờ đẩy mạnh vệ sinh phòng bệnh, ngành y tế đã kịp thời dập tắt các bệnh

dịch vừa chớm nở, giảm tình trạng đau ốm trong cán bộ, nhân dân căn cứ địa.

Về quân sự: Phát triển LLVT ba thứ quân, thực hiện “quốc phòng hóa toàn

dân”, triển khai thế trận quốc phòng toàn dân trong xây dựng và chiến đấu bảo vệ

căn cứ, xây dựng các phương án phòng ngự và phối hợp chiến đấu giữa các căn cứ

địa với nhau. Hệ thống làng chiến đấu được xây dựng trong và bao quanh các căn

97

Page 99: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cứ địa đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường sức mạnh quân sự làm thất bại

các cuộc hành quân càn quét, các cuộc xâm nhập bằng “trực thăng vận”, biệt kích

của quân Mỹ – VNCH vào căn cứ địa cách mạng.

Song song với hoạt động xây dựng LLVT ba thứ quân, các lực lượng trụ bám tại căn cứ địa tăng cường thực hiện công tác bố phòng, bảo vệ căn cứ địa, kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích. Trong năm 1965, LLVT và du kích các xã căn cứ miền núi tỉnh Quảng Đà đã đánh 25 trận, tiêu diệt hàng trăm quân địch [97, tr. 50]. Bên cạnh đó, phong trào xây dựng làng xã chiến đấu cũng được triển khai rộng khắp. Đến năm 1966, 32 xã thuộc các căn cứ địa cách mạng miền núi của tỉnh Quảng Nam được xây dựng trở thành thôn xã chiến đấu có khả năng chống được các loại càn của quân Mỹ – VNCH [147, tr. 37].

Đặc biệt trong năm 1968, phong trào diễn ra hết sức sôi nổi ở Quảng Đà,

Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Ở Căn cứ Nam Giang (Quảng Đà), nhân dân

vót, cắm trên 1 triệu cây chông, gài 980 lưỡi thò, đào 235 hầm trú ẩn ở nhà, 314

hầm ở rẫy và dọc đường, 151 công sự chiến đấu, bố phòng 6 tuyến chiến đấu ở

những nơi trọng yếu, 8 khu vực thường xuyên canh gác cẩn mật đề phòng biệt kích

Mỹ nhảy dù thâm nhập căn cứ [13, tr. 230]. Các huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà,

Ba Tơ, Giá Vụt (Quảng Ngãi) đã bố phòng 501.695 cây chông các loại trên 25 đồi

núi [153, tr. 9]. Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) chế tạo 2.161 mang cung, xây

dựng 505 hầm chông, 16 hầm chống phi pháo và hàng trăm bẫy đá, chông đập,

chông bay [8, tr .213]. Nhờ có hệ thống làng xã chiến đấu liên hoàn và hệ thống

công sự, địa đạo vững chắc nên LLVT địa phương và chủ lực của Khu có thể trụ

bám, tổ chức chiến đấu bẻ gẫy các cuộc phản công lớn của quân Mỹ và VNCH, góp

phần đánh thắng nhiều cuộc hành quân lùng sục của địch vào các căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ.

3.2.2. Tổ chức chiến đấu, đánh thắng các cuộc hành quân càn quét của

địch vào căn cứ

Một trong những mục tiêu của đế quốc Mỹ trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là tìm diệt lực lượng chủ lực và các cơ quan đầu não kháng chiến. Để thực hiện mục tiêu này, quân Mỹ và VNCH mở nhiều cuộc hành quân càn quét, đánh phá

98

Page 100: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

quyết liệt vào hai chiến trường trọng điểm là miền Đông Nam Bộ và Khu V. Đối với các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ, địch tăng cường lực lượng, sử dụng mọi thủ đoạn đánh phá. Tháng 4-1965 với sự hỗ trợ của máy bay B.52 và pháo binh, đối phương tổ chức hai cuộc càn quét cấp trung đoàn vào Căn cứ Núi Bà, nơi đứng chân của Tỉnh ủy Bình Định. Trong tháng 1-1966, quân Mỹ và đồng minh liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh vào Bắc Bình Định, Nam Quảng Ngãi và vùng giải phóng Nam Phú Yên với mục tiêu “tìm diệt” các đơn vị chủ lực của Quân khu V và các tỉnh, triệt phá căn cứ địa cách mạng, bảo vệ an toàn cho các căn cứ của Mỹ dọc ven biển Trung Trung Bộ. Tháng 2-1966, 5 tiểu đoàn lính Mỹ thực hiện cuộc càn quét vào Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà của tỉnh Quảng Nam. Tháng 9-1966, quân Mỹ – VNCH tiếp tục tổ chức cuộc càn quét cấp sư đoàn kéo dài suốt một tháng vào Căn cứ Núi Bà (Bình Định). Cuối tháng 10-1966, Lữ đoàn 1 Sư đoàn 4 quân Mỹ mở cuộc càn quét mang tên “Adams” đánh vào Căn cứ Vân Hòa, Tây Đồng Xuân của tỉnh Phú Yên. Trong các cuộc hành quân đánh phá các căn cứ địa, vùng giải phóng, địch sử dụng cả máy bay B.52 và hàng trăm tấn chất độc hóa học nhằm triệt phá tận gốc các cơ sở kinh tế, kho tàng, trục hành lang của Khu và các tỉnh. Song song với những hoạt động đánh phá về quân sự, Mỹ và quân đội VNCH tung lực lượng thám báo, biệt đội sưu tầm giả dạng quân giải phóng, thanh niên trốn bắt lính, người khai thác lâm sản… để xâm nhập các căn cứ địa, gây cơ sở hoạt động thu thập tin tức; điều tra địa điểm cơ quan kho tàng, nơi đóng quân ở các căn cứ địa… Qua đó, chỉ điểm cho máy bay đến đánh phá.

Để bảo vệ vững chắc các căn cứ địa cách mạng, LLVT và nhân dân tích cực tổ

chức các hoạt động chiến đấu, từng bước làm thất bại nhiều cuộc tấn công của địch

vào căn cứ. Chỉ tính từ tháng 1-1965 đến tháng 9-1966, du kích các căn cứ địa miền

núi Trung Trung Bộ và các tỉnh miền núi khác trên địa bàn Khu V thực hiện độc lập

chiến đấu tiêu diệt 3.979 quân địch, hạ 115 máy bay, bắn bị thương 125 chiếc khác,

phá hủy 164 xe, 42 cầu cống, 156 km đường ô tô, thu 449 súng [52, tr. 5], trong đó

có nhiều trận chống càn tiêu biểu.

Ngày 18-9-1965, phát hiện lực lượng của Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 Sao Vàng đang luyện quân tại thung lũng Thuận Ninh (huyện Bình Khê, Bình Định), đối phương tiến hành một cuộc càn lớn với sự tham gia 2.000 lính Mỹ cùng sự yểm trợ

99

Page 101: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

của máy bay, pháo binh nhằm tiêu diệt lực lượng bộ đội chủ lực ở đây. Để đối phó với địch, lực lượng an ninh vũ trang bảo vệ căn cứ tỉnh Bình Định phối hợp với bộ đội và du kích địa phương tổ chức chặn đánh, tiêu diệt hơn 200 quân Mỹ, bắn cháy 11 máy bay lên thẳng, bẻ gãy cuộc càn quét, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đứng chân tại đây [28, tr. 151].

Tháng 10-1965, khi quân Mỹ – VNCH tiến hành cày ủi, âm mưu lập “vành đai

trắng” ở Căn cứ K20 (Đà Nẵng), một số đảng viên và quần chúng trung kiên đã

dũng cảm đứng ra cản đầu xe địch, hoặc nằm chặn xe ủi, không cho địch cày ủi; số

khác thông qua thông dịch viên thực hiện công tác binh vận thuyết phục lính Mỹ

không cày ủi ruộng đồng, bắn giết dân thường. Nhiều mẹ, nhiều chị và các em thiếu

nhi bất chấp cả nguy hiểm nhảy lên xe địch thuyết phục, thậm chí ép buộc tài xế

không cho xe đi cày ủi phá hoa màu. Trước những phương thức đấu tranh chính trị

phong phú và kiên quyết, địch đã phải nhượng bộ. Căn cứ K20 được giữ vững.

Ngày 14-12-1965, hơn 1.200 lính thủy đánh bộ Mỹ được huy động tấn công

vào Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà (Quảng Nam). Tuy nhiên, khi vào đây, đi đến đâu

chúng cũng vấp phải hầm chông, bãi mìn do nhân dân và du kích cài đặt. Lực lượng

du kích các xã Tiên Sơn, Tiên Cẩm lúc ẩn, lúc hiện liên tục bắn tỉa, phục kích, tập

kích làm chết và bị thương hàng chục quân Mỹ. Sau 3 ngày bị tiêu hao lực lượng,

chiều ngày 17, địch kéo xuống Cẩm Khê. Lúc này, Trung đoàn Ba Gia và một bộ

phận lực lượng của Tiểu đoàn 70 dựa vào địa hình quanh co, vực thẳm, tổ chức bao

vây, phục kích, tiêu diệt hơn 400 quân địch, bắn rơi 3 máy bay. Đây là lần đầu tiên trên

chiến trường Quảng Nam, cuộc hành quân “tìm diệt” với quy mô cấp tiểu đoàn của

địch hoàn toàn thất bại [14, tr. 128]. Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà vẫn đứng vững.

Mặc dù bị thua đau, nhưng vào tháng 2-1966, Mỹ vẫn tiếp tục đổ quân càn

quét Căn cứ địa Sơn – Cẩm – Hà. Một tiểu đoàn quân Mỹ được trực thăng đổ

xuống hai xã Tiên Sơn, Tiên Hà rồi nống ra Tiên Cẩm. Tại đây, chúng bị du kích

các xã Sơn – Cẩm – Hà phối hợp cùng bộ đội huyện chặn đánh quyết liệt buộc

phải bỏ cuộc càn, rút chạy khỏi địa bàn căn cứ địa cách mạng được mệnh danh là

“vùng đất thánh” này.

100

Page 102: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Ngày 13-6-1966, sau khi bắn pháo tới tấp vào vùng giải phóng, đối phương

huy động khoảng 1.000 quân Mỹ – VNCH, 28 lượt máy bay trực thăng, với sự yểm

trợ của 5 thuyền máy và nhiều vũ khí hiện đại, càn quét Căn cứ rừng dừa Bảy Mẫu

(thị xã Hội An). Các lực lượng trong và ngoài căn cứ phối hợp chặn đánh quyết liệt,

bảo vệ vững chắc Căn cứ rừng dừa Bảy Mẫu.

Từ ngày 25 đến ngày 30-6-1966, Sư đoàn không vận số 1 của Mỹ mở cuộc tấn

công vào Sơn Long, Sơn Định, Kỳ Lộ, Cây Vừng, Đồng Cam, Phước Tân thuộc

Căn cứ Vân Hòa (tỉnh Phú Yên). Hàng trăm máy bay, trong đó có cả B.52 và pháo

binh các loại liên tục oanh tạc, bắn phá vào căn cứ. Lính Nam Triều Tiên lùng sục

từng khu rừng, núi đá. Máy bay Mỹ còn rải chất độc hóa học nhằm hủy diệt cuộc

sống ở căn cứ địa. Để kịp thời chống lại cuộc càn quét này, Tiểu đoàn 13 đang trên

đường hành quân đã nhanh chóng triển khai đội hình tổ chức phục kích, đánh thiệt

hại nặng một cánh quân Mỹ tại Bằng Kè (Sơn Định), diệt 120 quân địch đồng thời

phối hợp với LLVT các xã bắn rơi 1 máy bay và làm bị thương 3 chiếc khác. Đến

ngày 2-7-1966, quân Mỹ và đồng minh buộc phải rút quân khỏi Căn cứ Vân Hòa

[90, tr. 124].

Ác liệt hơn cả là vào các ngày 17 và 18-9-1966, Mỹ và VNCH huy động lực

lượng hùng hậu gồm Sư đoàn Mãnh Hổ, một bộ phận Sư đoàn Bạch Mã (Nam Triều

Tiên), một lữ đoàn không vận Mỹ và hai trung đoàn của Sư đoàn 22 VNCH mở

cuộc càn quét xung quanh Căn cứ Núi Bà (tỉnh Bình Định). Lúc này, LLVT của

tỉnh, các địa phương và nhân dân trên căn cứ có khoảng 1 vạn người. Ngày 22-9-

1966, sau khi cho máy bay B.52 ném bom dữ dội, với khẩu hiệu “Lật đá bắt Cộng

sản”, địch tiến hành lùng sục từng hang đá, ném lựu đạn, dùng xăng đốt, rải chất

độc hóa học. Tuy nhiên, lực lượng bám trụ trên núi vẫn kiên quyết đánh trả đến

cùng trong nhiều ngày, khiến cho kế hoạch tấn công tiêu diệt Căn cứ Núi Bà của

quân Mỹ – VNCH không thực hiện được. Do đó, chúng điên cuồng tàn sát giết hại

hơn 60 đồng bào xã Cát Hải và trên 50 đồng bào xã Cát Tiến là những địa phương ở

quanh chân núi. Trước những hy sinh, tổn thất của nhân dân và lực lượng cách

mạng tại căn cứ, Tỉnh ủy, Ban cán sự, Ban chỉ huy Tỉnh đội đã nghiêm khắc kiểm

101

Page 103: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

điểm và nhận khuyết điểm: “thiếu cảnh giác, không nắm vững bản chất và âm mưu,

thủ đoạn tàn ác của địch, đặc biệt là đối với bọn lính Nam Triều Tiên, từ đó thiếu

chỉ đạo tổ chức cụ thể cho nhân dân và LLVT địa phương các huyện phía Nam tích

cực chuẩn bị phương án đối phó với các cuộc càn quét lớn của địch” [110, tr. 310].

Bước sang năm 1967, quân Mỹ – VNCH tập trung lực lượng đánh mạnh vào

Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà (Quảng Nam) và các căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi.

Tháng 8-1967, cùng với việc đổ quân xuống khu vực đồi tranh Ba Xã, địch thả Lữ

đoàn 196 American đổ bộ đánh phá căn cứ. Ở Tiên Cẩm, một tiểu đoàn quân

VNCH kết hợp với quân Mỹ tiến hành càn quét, xúc tát dân. Chi bộ Đảng ở đây vừa

kịp thời phát động quần chúng trực diện đấu tranh chính trị với địch, vừa tổ chức

lực lượng du kích chiến đấu ngăn chặn cuộc càn của quân Mỹ – VNCH ngay khi

chúng đổ quân, buộc địch phải bỏ dở cuộc càn. Tại căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng

Ngãi, quân Mỹ và đồng minh mở “Chiến dịch càn Sông Hre” với mục đích truy tìm

và tiêu diệt các lực lượng quân chủ lực, quân địa phương của khu, tỉnh, huyện.

Trong trận càn này, địch sử dụng lực lượng lớn gồm nhiều binh chủng, phối hợp

không quân với bộ binh đánh phá ác liệt, thực hiện thọc sâu vào các căn cứ địa.

Được sự chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy Quảng Ngãi, LLVT các huyện Ba Tơ, Sông

Hre phối hợp với Tiểu đoàn 20, Tiểu đoàn 107 của tỉnh tổ chức chiến đấu đánh bại

cuộc càn của quân Mỹ và tay sai. Bị thất bại nặng nề, địch phải bỏ dở cuộc tấn công

vào căn cứ địa và rút chạy khỏi Sông Hre.

Hoạt động chiến đấu của quân dân tại căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

đã góp phần đáng kể cùng các địa phương ở Khu V tiêu diệt một bộ phận quan

trọng sinh lực địch. Chỉ tính từ tháng 1-1965 đến tháng 9-1966, bộ đội chủ lực, bộ

đội địa phương và dân quân du kích tại các căn cứ địa miền núi Khu V đã liên tục

chiến đấu, loại khỏi vòng chiến gần 22.100 quân địch, trong đó có khoảng 3.000

quân Mỹ, bắn rơi và phá hủy 321 máy bay, bắn bị thương 148 chiếc khác, phá hủy

365 xe quân sự các loại [52, tr. 3]. Nhờ đó, các cơ quan, đơn vị, kho tàng, đường

hành lang vận chuyển tại các căn cứ địa đều được giữ vững. Chính Đại sứ Hoa Kỳ

tại miền Nam Việt Nam Henry Cabot Lodge, Jr. phải thừa nhận: Các mục tiêu làm

102

Page 104: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

hao tổn lực lượng của Việt cộng; tiêu diệt quân chính quy, ngăn chặn chiến tranh du

kích phát triển; hậu phương của đối phương bất ổn định… đều không thực hiện

được [28, tr. 173].

Mặc dù quân Mỹ – VNCH đánh phá hết sức ác liệt song một số căn cứ địa

cách mạng ở Trung Trung Bộ vẫn được tiếp tục được xây dựng, tiêu biểu là Căn cứ

Hòn Tàu. Đây là dãy núi thuộc hệ thống núi Đông Trường Sơn, nằm trong địa phận

tỉnh Quảng Nam. Dãy núi Hòn Tàu nằm ở vị trí giáp ranh giữa các huyện Quế Sơn,

Nông Sơn, Duy Xuyên; có độ cao 935 m so với mặt nước biển, diện tích khoảng

100 km². Trên núi có nhiều ngọn núi hiểm trở như Nhà Muỗi, Cù Hang, Mặt Rạng;

nhiều hang động có sức chứa số lượng người lớn, dùng làm nơi trú quân, cất giấu

vũ khí, lương thực rất thuận lợi. Bên cạnh đó, trong núi còn có các mạch nước

ngầm, nhiều loại cây rừng nguyên sinh và động vật quý hiếm. Hòn Tàu là khu vực

xung yếu có vị trí chiến lược quan trọng, là tấm bình phong che chắn khu vực Bắc

Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Do vậy, từ cuối năm 1967 đến 1975, Hòn Tàu

trở thành căn cứ và là hậu phương tại chỗ, nơi đứng chân an toàn của Huyện ủy Quế

Sơn, Đặc khu ủy Quảng Đà và Bộ chỉ huy Mặt trận 4.

Để mở rộng hệ thống căn cứ địa và khai thông các hành lang chiến lược, thực

hiện chủ trương của Khu ủy V, tháng 5-1968, Sư đoàn 2 thuộc LLVT Khu V mở

chiến dịch Khâm Đức, tiêu diệt cụm cứ điểm Ngok Tavak – Khâm Đức (Quảng

Nam). Tiến hành thắng lợi chiến dịch này, LLVT đã khai thông hành lang chiến

lược Bắc – Nam và Đông – Tây, nối hậu phương lớn miền Bắc với Tây Nguyên, Hạ

Lào, mở thông cửa ngõ xuống đồng bằng – đoạn đường 14 từ Giằng (Quảng Nam)

lên giáp với đường vận chuyển cơ giới ở biên giới Việt – Lào. Nhờ đó, các căn cứ

địa có điều kiện tiếp nhận được một số trang bị vũ khí, lương thực, thực phẩm, kịp

thời giải quyết khó khăn, tiếp tục củng cố và tăng cường thực lực cách mạng để

bước vào cuộc chiến đấu mới.

Sau chiến thắng Khâm Đức – Ngok Tavak, toàn bộ huyện Phước Sơn được

giải phóng, địa bàn căn cứ địa cách mạng của Khu V được mở rộng. Năm 1969,

Khu ủy V quyết định chuyển từ Căn cứ Nam Giang về Trà My (Quảng Nam), một

103

Page 105: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

địa bàn tiếp giáp ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum để trực tiếp lãnh đạo,

chỉ đạo phong trào cách mạng của Khu V.

Song song với hoạt động chiến đấu chống càn quét, phong trào bảo mật, phòng gian, chống gián điệp, trấn áp bọn phản cách mạng không ngừng được tăng cường tại các căn cứ địa. Lực lượng an ninh đã kịp thời phát hiện và đối phó hiệu quả đối với các âm mưu thủ đoạn chống phá từ bên trong của địch. Đầu năm 1966, lực lượng an ninh Quảng Nam phát hiện và triệt phá mạng lưới tình báo “Biệt đội sưu tầm” mang mật hiệu “Con két” do Nguyễn Tích chỉ huy. Trong năm 1967, an ninh huyện Hoài Nhơn (Bình Định) phát hiện và vây bắt toán “Biệt kích hải thuyền” thu vũ khí và máy truyền tin; an ninh tỉnh Phú Yên cũng phát hiện và xử lý 7 vụ gián điệp tung vào các căn cứ địa và vùng giải phóng [28, tr. 190-192].

Nhằm phát huy cao độ vai trò của quần chúng trong hoạt động bảo vệ căn cứ

địa, lực lượng an ninh bố trí các tổ công tác bám sát địa bàn phát động phong trào

“phòng gian bảo mật” chống do thám, gián điệp, biệt kích và bọn phản động tay sai.

Qua phát động, quần chúng ở nhiều nơi đã tự giác tổ chức ra các ban “bảo vệ nông

thôn”, “ban bảo mật”, “trạm gác” làm công tác bảo vệ an ninh, trật tự tại các căn cứ

địa. Quần chúng cũng kịp thời cung cấp tin tức và hoạt động của bọn do thám, gián

điệp, biệt kích. Nhờ đó, các lực lượng bảo vệ căn cứ có kế hoạch chủ động đối phó

và trấn áp.

Đi đôi với việc mở rộng căn cứ, công tác quản lý hành chính công khai cũng

được chú trọng. An ninh các tỉnh thuộc Trung Trung Bộ tăng cường công tác tuần

tra, kiểm soát, tổ chức cấp giấy chứng nhận cho cán bộ, nhân dân trong căn cứ địa;

phối hợp với dân quân, du kích tổ chức kiểm soát lưu động, tuần tra đề phòng ngăn

chặn các hoạt động xâm nhập của bọn gián điệp, hoạt động gây rối của bọn tội

phạm hình sự, giữ gìn an ninh, trật tự tại các căn cứ địa.

3.2.3. Phát huy vai trò hậu phương tại chỗ của căn cứ địa cách mạng

Bên cạnh hoạt động củng cố, phát triển thực lực cách mạng về mọi mặt, quân

và dân tại các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ vừa tích cực đóng góp sức người, sức

của phục vụ chiến trường, vừa phối hợp với bộ đội chủ lực tổ chức đánh địch.

Trong hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, một bộ

104

Page 106: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

phận LLVT và dân công ở các căn cứ địa cách mạng tham gia diệt ác phá kìm, tiến

công các đồn bốt, cứ điểm quân sự, sở chỉ huy và các cơ quan đầu não của địch.

Thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy và BTL Quân khu V, một tháng trước khi

diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các cơ quan, ban,

ngành trong các căn cứ huy động hơn một nửa số cán bộ, nhân viên cùng hàng

nghìn đồng bào các dân tộc tham gia chiến dịch vận chuyển vũ khí [49, tr. 110].

Phần lớn căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trở thành hậu phương trực tiếp

phục vụ chiến trường và là bàn đạp để các LLVT thực hiện cuộc Tổng tiến công và

nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chi bộ Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở căn cứ địa

vận động thanh niên tòng quân nhập ngũ, nhân dân tham gia vận chuyển lương

thực, vũ khí, phục vụ LLVT đánh địch ở phía trước.

Tại Khu Sông Đà (Đà Nẵng), các tổ chức cơ sở Đảng và quần chúng cách

mạng tham gia vận chuyển và cất giấu vũ khí ở những nơi bí mật an toàn. Nhiều

ngư dân ở Lỗ Sài, Hóa Sơn, Cầm Chánh, Trung Lương huy động ghe thuyền phục

vụ đưa bộ đội tiến vào thành phố Đà Nẵng. Trong đêm 30 rạng ngày 31-1-1968, khi

LLVT thành phố tấn công vào các sân bay Nước Mặn, Đà Nẵng... mở màn cho cuộc

Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân tại Quảng Đà, ngư dân Sông Đà phối hợp

với đồng bào các xã Hòa Hải, Hòa Xuân, Hòa Cường chuẩn bị 100 chiếc thuyền, 3

ca nô đưa bộ đội vào thành phố.

Cùng với Khu Sông Đà, Căn cứ K20 cũng là nơi tổ chức nhiều cuộc họp và đề

ra những quyết định quan trọng của Quận ủy quận Ba. K20 chính là nơi tập kết vũ

khí và lực lượng trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở Đà Nẵng.

Nhân dân K20 tổ chức tốt công tác hậu cần: thu dọn chiến trường, cứu chữa thương

binh, phục vụ bộ đội tấn công sân bay Nước Mặn.

Với khẩu hiệu: “Đóng cửa nhà, trẻ già vận chuyển”, nhân dân căn cứ địa miền

núi huyện Đông Giang và Tây Giang 5F

1 (Quảng Đà) hăng hái tham gia tiếp lương, tải

đạn ra phía trước. Đội thiếu niên xã A Vương gần 100 em nêu cao tinh thần “tuổi

1 Tháng 3-1963, Tỉnh ủy Quảng Đà giải thể huyện Thống Nhất để thành lập 3 huyện mới: Huyện Nam Giang gồm phần đất huyện Bến Giằng; huyện Đông Giang và Tây Giang gồm phần đất Bến Hiên và khu B1(tức miền Tây Hòa Vang và vùng Trhy trước kia)

105

Page 107: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

nhỏ chí lớn làm việc anh hùng” vận chuyển 3,5 tấn hàng hóa phục vụ chiến trường.

Bhúôch, một thanh niên mù hai mắt song vẫn tích cực tham gia suốt 5 tháng, cả ban

ngày và ban đêm. Mỗi chuyến anh chuyển được 46 kg hàng [76, tr. 142]. Trong 4

tháng, Căn cứ Nam Giang huy động 790 người đi dân công phục vụ từ 3 đến 4 tháng,

tham gia vận chuyển 300 tấn vũ khí cho mặt trận Quảng Đà [75, tr. 324].

Các căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi huy động 5.576 lượt người với

45.623 ngày công, vận chuyển 229 tấn lương thực, thực phẩm và đồ dùng quân sự

phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 [4, tr. 265].

Nhân dân Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) đóng góp 35.659 ngày công, đội

dân công thường trực với khoảng 300 người, phục vụ liên tục 3 tháng (từ tháng 12-

1967 đến hết tháng 2-1968) để vận chuyển vũ khí cho bộ đội đánh địch. Cũng trong

đợt này, có 97 thanh niên hăng hái gia nhập LLVT huyện, tỉnh và chủ lực Khu.

Riêng trong nửa đầu tháng 1-1968 với số thóc thu được từ sự đóng góp của nhân

dân là 52.085 kg thóc, Vĩnh Thạnh trở thành huyện đứng đầu toàn tỉnh Bình Định

về thu thóc động viên Xuân 1968 [8, tr. 210].

Trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Căn cứ Núi Bà (Bình Định) là điểm tập kết của

các đơn vị trước khi đánh vào thị xã Quy Nhơn. Nhờ có bàn đạp này mà cuộc tiến

công ở Quy Nhơn diễn ra đúng kế hoạch, LLVT và nhân dân đã làm chủ thành phố

trong 7 ngày. Sau Tết Mậu Thân, các đơn vị lại rút về Căn cứ Núi Bà để củng cố,

xây dựng lực lượng. Núi Bà tiếp tục trở thành bàn đạp của lực lượng kháng chiến tiến

công vào các căn cứ của địch, vây ép Quy Nhơn. Bên cạnh đó, Căn cứ Núi Bà còn

làm nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng nguồn cho cách mạng bằng cách đưa đón cán bộ qua

Đầm Thị Nại rồi tung về hậu phương địch ở Quy Nhơn, Tuy Phước hoạt động.

Ở Phú Yên, một bộ phận LLVT từ Căn cứ Vân Hòa tiến xuống thị xã Tuy

Hòa, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh ở đồng bằng. Số còn lại phối hợp với lực

lượng du kích tổ chức tập kích vào sân bay, quận lỵ Sơn Hòa, Phú Đức, lô cốt Cây

Da… phá khu dồn Sơn Hà, đột nhập đánh địch ở Bắc Lý, Xóm Mới… tấn công vào

chi khu, quận lỵ hành chính Củng Sơn. Sau đó, tiếp tục đánh vào sân bay và khu

dồn Sơn Hà, giải phóng cho hơn 2.000 dân trở về làng cũ làm ăn.

Tóm lại, trong giai đoạn 1965-1968, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã góp

106

Page 108: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

sức cùng hệ thống căn cứ địa, căn cứ du kích, “lõm chính trị” ở Khu V động viên tại

chỗ được số quân bằng 43% tổng số quân tuyển tại chỗ trong suốt cuộc chiến tranh;

đã khai thác tại chỗ được 78% tổng số lương thực, 94% số thực phẩm sử dụng tại

chiến trường [61, tr. 167-168].

3.3. Khôi phục căn cứ địa cách mạng, tạo thế và lực mới góp phần kết thúc

thắng lợi cuộc kháng chiến (1969-1975)

3.3.1. Củng cố căn cứ địa cách mạng sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu

Thân 1968 (1969-1973)

Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, LLVT các căn cứ địa bị sụt

giảm quân số một cách đáng kể. Sản xuất của nhân dân và cơ quan, đơn vị ở các căn

cứ địa giảm sút do tập trung phục vụ chiến đấu, tham gia lực lượng nổi dậy ở thành

phố. Trong khi đó, Mỹ và chính quyền VNCH tăng cường bao vây và phá hoại kinh

tế. Nguồn gạo lấy từ vùng địch ra lúc có, lúc không. Bộ đội, cơ quan và dân các căn

cứ địa thiếu đói nghiêm trọng. Mặt khác, từ sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh

cục bộ”, đế quốc Mỹ chuyển sang thực thi một chiến lược chiến tranh mới: “Việt

Nam hóa chiến tranh”. Để triển khai chiến lược này, song song với việc phát triển

và hiện đại hóa quân đội, quân Mỹ – VNCH tập trung mở hàng loạt các cuộc phản

kích đánh phá các căn cứ địa, vùng giải phóng, hành lang chiến lược nhằm triệt phá

cơ sở kinh tế, cắt đứt sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Chỉ trong 10 ngày đầu

năm 1969, đã có 180 lần máy bay B.52 của địch thả trên 5.000 tấn bom vào căn cứ

của BTL Quân Khu V dọc sông Tranh (Quảng Nam). Mỗi ngày, địch huy động

hàng trăm lượt máy bay B.52 ném hàng ngàn tấn bom hạng nặng xuống hủy diệt

Căn cứ Hòn Tàu – Mặt Rạng, nơi đứng chân của Đặc Khu ủy Quảng Đà. Ở Căn cứ

Sơn – Cẩm – Hà (Quảng Nam), với thủ đoạn sử dụng “Mỹ lết”, quân Mỹ dùng từ 5

đến 7 lính Mỹ cơ động luồn sâu vào đây thực hiện hoạt động phục kích gây sát

thương cho cán bộ, chiến sĩ rồi nhanh chóng rút đi. “Mỹ lết” gây nhiều tổn thất và

hoang mang trong cán bộ, bộ đội đi lại hoạt động trong căn cứ. Chỉ riêng trong năm

1969, quân Mỹ – VNCH đã tiến hành 90 trận càn vào các căn cứ huyện Ba Tơ,

Sông Hre (Quảng Ngãi) và hơn 50 trận càn vào vùng giáp ranh hành lang của Căn

cứ Vĩnh Thạnh, An Lão (Bình Định).

107

Page 109: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Những hoạt động càn quét, đánh phá của quân Mỹ – VNCH đã gây tổn thất

cho các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Một số căn cứ ở đồng bằng bị địch cày ủi trở

thành vùng trắng, nhân dân bị bắt tập trung vào khu dồn, LLVT phải bật lên các căn

cứ địa ở vùng núi phía Tây. Các căn cứ địa miền núi rơi vào tình trạng cô lập, đời

sống sinh hoạt, chiến đấu của bộ đội và nhân dân đã khó khăn, thiếu thốn lại càng

trở nên thiếu thốn, gian khổ hơn. Tình trạng thiếu đói, dịch bệnh diễn ra phổ biến.

Các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến phải lùi vào các vùng núi cao, vùng sâu.

“Các cơ quan Đảng, chính quyền của Khu V liên tục phải di chuyển địa điểm từ

Quảng Nam, Quảng Đà đến sát Quảng Ngãi, Kon Tum” [28, tr. 225]. Cơ quan Đặc

Khu ủy Quảng Đà, Mặt trận 4 ở Nam Giang phải di chuyển chỗ trú quân nhiều lần.

Trong tháng 2 và tháng 3-1969, Căn cứ Nam Giang có 879 người bị đói kiệt, 6 xã bị

lạt muối, dịch bệnh hoành hành [13, tr. 236]. Năm đợt càn quét dài ngày của Mỹ và

quân đội VNCH vào Căn cứ Vân Hòa (Phú Yên) trong tháng 1-1969 đã hủy diệt

hơn 1 triệu gốc sắn, hàng chục ha lúa, bắp, đốt phá gần 200 ngôi nhà, chòi trại của

nhân dân và cơ quan [73, tr. 107]. Song song với hoạt động đánh phá các căn cứ địa

miền núi, ở đô thị, địch khủng bố hết sức gắt gao. Tại Căn cứ K20 (Đà Nẵng), trong

vòng chưa đầy 1 tháng đã có đến 5 cán bộ trong Ban Thường vụ Quận ủy quận Ba

hy sinh. Phong trào cách mạng tại Nước Mặn, Đa Phước (Đà Nẵng) bị đánh phá,

cán bộ bất hợp pháp và hợp pháp phải bật ra ngoài [70, tr. 187]. Tại Căn cứ Bầu Bính

(Quảng Nam) chỉ trong hai năm trụ bám (1971-1972) đã tổn thất trên 150 cán bộ, bộ

đội, du kích và nhân dân; trong đó có 1 phó bí thư Huyện ủy, 3 ủy viên Ban Thường vụ

và 1 Huyện ủy viên [138, tr. 6].

Để nhanh chóng phục hồi thực lực cách mạng, đáp ứng yêu cầu đánh bại chiến

lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tháng 3-1970, Khu ủy V đề ra nhiệm vụ: “Tăng

cường xây dựng vùng giải phóng, căn cứ toàn diện mạnh mẽ, đánh bại bình định,

lấn chiếm, bảo vệ vững chắc vùng ta, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế tự cung

tự cấp, cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ và nhân dân” [95, tr. 22].

Thực hiện chủ trương của Khu ủy, quân dân Trung Trung Bộ tích cực củng cố,

xây dựng thực lực căn cứ toàn diện về mọi mặt.

108

Page 110: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trên lĩnh vực kinh tế, các cơ quan, đơn vị đứng chân tại căn cứ đều thành lập

bộ phận sản xuất và lập trại sản xuất, trồng các loại cây lương thực và rau màu

quanh năm. Một số cán bộ nông nghiệp được tỉnh, huyện điều động về hướng dẫn

nhân dân trong các căn cứ áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp để tăng năng

xuất lương thực và chăn nuôi. Nhờ đẩy mạnh sản xuất, 6 tháng đầu năm 1970, nhân

dân Căn cứ Bắc Trà My thu hơn 2.300 tấn lương thực, tăng gần gấp hai lần thời

gian trước đó [66, tr. 181]. Đến cuối năm 1970, các căn cứ địa tỉnh Phú Yên trồng 2

triệu gốc sắn, thu hoạch lúa ở các căn cứ địa và vùng giáp ranh tỉnh Phú Yên đạt

100 tấn [5, tr. 187].

Song song với hoạt động sản xuất của nhân dân căn cứ địa, các cơ quan kinh

tài thông qua cơ sở cách mạng vận động đồng bào vùng địch kiểm soát lợi dụng sơ

hở của địch thu mua, vận chuyển lương thực, thực phẩm đến “cửa khẩu” và chuyển

ra căn cứ. Triển khai “chiến dịch gạo”, giữa năm 1971, ngành hậu cần Quân khu,

LLVT của Khu V và các tỉnh tập trung dồn sức thu mua và vận chuyển lương thực

về căn cứ. Hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, phụ nữ, các em thiếu nhi đã vượt qua sự

kiểm soát gắt gao của chính quyền VNCH, vận chuyển gạo từ vùng địch ra căn cứ.

Những biện pháp trên đã góp phần giải quyết những khó khăn trước mắt, ngăn chặn

được nạn đói tại các căn cứ địa.

Cùng với việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất, được sự quan tâm của các cấp ủy

Đảng, chính quyền, đời sống văn hóa, xã hội ở căn cứ địa tiếp tục có nhiều tiến bộ.

Một số hủ tục mê tín, dị đoan từng bước được hạn chế. Đông đảo các tầng lớp nhân

dân tích cực tham gia cuộc vận động xây dựng nếp sống mới. Văn hóa, văn nghệ

phát triển mạnh mẽ trở thành phong trào rộng lớn trong quần chúng, tạo không khí

lạc quan, vui tươi ở nhiều căn cứ địa. Các đoàn văn công, văn nghệ giải phóng, các

đội văn nghệ nghiệp dư ở các huyện thường xuyên đem lời ca tiếng hát phục vụ

nhân dân, góp phần bồi dưỡng tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, động viên

quần chúng hăng hái sản xuất, tích cực đóng góp cho kháng chiến. Phong trào bình

dân học vụ thu hút sự tham gia của đông đảo cán bộ, bộ đội và nhân dân. Nhiều căn

cứ địa đã hoàn thành việc thanh toán nạn mù chữ đồng thời trở thành những đơn vị

điển hình trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội. Tháng 12-1969, Căn cứ Trà Bồng

109

Page 111: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

được công nhận hoàn thành xoá mù chữ [160, tr. 728]. Năm 1972, nổi bật trong

phong trào bình dân học vụ ở Căn cứ Nam Giang là xã Chaval, một xã đã hoàn

thành việc thanh toán mù chữ cho 499 người từ trước đến nay chưa được học hành

[75, tr. 374]. Bên cạnh đó, phong trào xây dựng làng “Ba sạch” (Ăn sạch, ở sạch,

uống sạch), bài trừ các hủ tục lạc hậu, xây dựng đời sống mới được đồng bào các

dân tộc ở đây hưởng ứng sôi nổi. Về kinh tế, Nam Giang còn là một huyện điển

hình trong xây dựng kinh tế ở Khu A. Nghề trồng lúa nước, các tiến bộ kỹ thuật,

giống mới đã được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp, nhiều nghề thủ công như

rèn, dệt, đan lát được mở mang. Với những tiến bộ về đời sống văn hóa, xã hội,

kinh tế, Căn cứ Nam Giang, thuộc đặc khu Lam Sơn trở thành huyện điển hình

trong toàn Khu A. Đây là địa phương được công nhận là huyện “Hai đủ” (đủ ăn, đủ

mặc), và “Năm có” (có sức khỏe, có học hành, có đường đi, có nhà ở và có ruộng”

[111, tr. 220].

Đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình xây dựng và củng cố thực lực

cách mạng ở các căn cứ địa là các phong trào thi đua yêu nước. Nhờ sự phát triển

sôi nổi của các phong trào: Vòng đổi công hợp tác, Đi dân công phục vụ tiền tuyến,

Phụ nữ “ba đảm đang”, Thanh niên “5 xung phong”, “Tiếng hát át tiếng bom”…

nhiều căn cứ địa đã huy động được tiềm lực to lớn về sức người, sức của; đồng thời

tạo ra không khí lạc quan tin tưởng, động viên đồng bào, chiến sĩ vượt qua mọi khó

khăn, gian khổ để đưa sự nghiệp kháng chiến đi đến ngày thắng lợi.

Ở Căn cứ huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), với phong trào thi đua “Lập công đền

ơn Bác”, “Quyết tâm thực hiện Di chúc Bác”, nhân dân tích cực đẩy mạnh hoạt

động sản xuất và phục vụ chiến đấu. Tổng sản lượng lương thực quy thóc cả năm

1970 đạt 2.884 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 412 kg, mức cao nhất trong

năm 1969-1972. Nhờ sản xuất tăng khá nên trong năm 1972 nhân dân tự nguyện

đóng góp cho kháng chiến 85 tấn lương thực, hàng triệu gốc mỳ [72, tr. 250-251].

Cùng thời gian này, với tinh thần thi đua “Cõng thêm 1 kg hàng là diệt thêm một

tên giặc Mỹ”, lực lượng dân công Căn cứ Sơn Tây vận chuyển được 230.000 tấn

110

Page 112: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

hàng đến các chiến trường của tỉnh Quảng Ngãi và các tỉnh miền Nam Trung Bộ

[72, tr. 252].

Từ sau năm 1971, tại các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ, các phong

trào thi đua vẫn tiếp tục diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là phong trào tăng gia sản xuất, du

kích chiến tranh và phục vụ tiền tuyến. Các cấp ủy Đảng, chính quyền động viên

nhân dân tăng cường hoạt động bố phòng chiến đấu, chống địch càn quét, lấn

chiếm, bảo vệ căn cứ địa. Do sản xuất được đẩy mạnh nên các căn cứ địa về cơ bản

đã tự túc được lương thực; hơn nữa còn có dự trữ, nhân dân hăng hái đóng đảm phụ

và bán cho cách mạng. Nhân dân Căn cứ Nam Giang huy động 43.097 ngày công

vận chuyển vũ khí, hàng hóa lương thực, thực phẩm đồng thời đóng góp nuôi quân

12.418 ang lúa, 3.322 ang bắp, 8.859 ang sắn khô [13, tr. 267- 269]. Nhân dân căn

cứ địa miền núi tỉnh Bình Định cũng đóng góp 36 tấn gạo, 315.000 gốc mỳ, huy

động 1.650 dân công dài hạn, 2.050 dân công ngắn hạn, 5.200 lượt người phục vụ

tại chỗ, rào 1.500 m rào chiến đấu, cắm gần 2 triệu chông, đào 120 hầm chông, 490

hầm chống phi pháo, chế tạo 150 mang cung [148, tr. 8-9]. Công tác vận chuyển

lương thực, vũ khí phục vụ cho các đơn vị chiến đấu phía trước được đảm bảo tiến

hành khẩn trương, kịp thời và hiệu quả.

Trong những năm đầu khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa

chiến tranh”, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đứng trước nhiều khó khăn, thử thách.

Tuy nhiên, vượt qua những thử thách khắc nghiệt của chiến tranh, chỉ trong một

thời gian ngắn, các căn cứ địa đã nhanh chóng củng cố thực lực về mọi mặt: sản

xuất tự túc được đẩy mạnh; đời sống văn hóa, tinh thần của quân dân được cải

thiện; LLVT phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Đi đôi với hoạt động củng cố về mọi mặt, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp

tục được mở rộng, phát triển.

Năm 1970, nhằm giúp cho Đảng bộ các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam tập trung

đối phó với chiến lược “tìm diệt”, “quét và giữ” của địch, Khu ủy quyết định tách

một số huyện miền núi các tỉnh cùng với Kon Tum để thành lập khu căn cứ đặc biệt

của Khu gọi là Khu A. Khu A gồm 11 huyện, 117 xã, 63.556 dân giải phóng, được

111

Page 113: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chia thành 4 đặc khu: Lam Sơn, Nam Trà, Yên Thế, Sơn Trà [111, tr. 219]. Trong

đó, miền Tây Quảng Nam, Quảng Đà nơi có địa bàn hiểm trở, địch khó kiểm soát

đồng thời là vùng căn cứ địa khá an toàn được chia làm 2 khu Lam Sơn, Nam Trà.

Nam Trà gồm các huyện: Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My; Lam Sơn có các

huyện Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang. Hai khu Lam Sơn, Nam Trà được tách

ra khỏi sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, Quảng Đà và chịu sự lãnh đạo trực tiếp

của Khu ủy V. Ở miền núi Quảng Ngãi, khu Sơn Trà được thành lập trên cơ sở sáp

nhập huyện Sơn Tây với huyện Trà Bồng.

Bên cạnh căn cứ địa của Khu, các tỉnh Trung Trung Bộ xây dựng thêm một

số căn cứ địa mới, theo đó là sự điều chỉnh thế trận bố phòng, bảo vệ căn cứ địa. Ở

Quảng Nam, tháng 7-1969, Khu ủy V và Tỉnh ủy Quảng Nam thành lập Căn cứ

huyện Quế Tiên trên cơ sở sáp nhập các xã: Sơn Hòa, Sơn An (Quế Thọ), Sơn Bình

(Quế Bình), Sơn Hiệp (Quế Lâm), Sơn Tân (Hiệp Thuận, Hiệp Hòa) của huyện Quế

Sơn; Bình Lâm, Thăng Phước của huyện Thăng Bình và Phước Sơn, Phước Cẩm,

Phước Hà của huyện Tiên Phước. Tổng dân số khoảng 11.000 người. Đầu năm

1971, Đảng uỷ xã Bình Dương (Thăng Bình) phối hợp với bộ đội tỉnh, huyện đứng

chân ở vùng Đông Thăng Bình xây dựng “Căn cứ lõm” Bầu Bính làm bàn đạp để

tấn công vào vùng Đông Thăng Bình.

Từ năm 1973-1975, Tỉnh ủy Quảng Nam xây dựng Chiến khu Tiên Sơn tại

xã Tiên Sơn, huyện Tiên Phước. Với diện tích khoảng 81.780 m², Tiên Sơn là vùng

đất “địa lợi, nhân hòa”, có vị trí hiểm yếu với dãy núi Dương Bồ làm điểm tựa. Khi

có địch càn quét, đánh phá, các cơ quan, đơn vị tạm rút vào núi Dương Bồ dễ dàng.

Từ Tiên Sơn có tuyến đường giao thông dẫn đến các huyện Quế Sơn, Thăng Bình,

Tam Kỳ thuận lợi cho việc chỉ đạo phong trào cách mạng mở rộng xuống vùng

Đông của tỉnh. Chiến khu Tiên Sơn là căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Nam và các ban

ngành trong hai năm 1973-1975.

Ở Phú Yên, tháng 7-1970, thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy V, Tỉnh ủy Phú

Yên thành lập một huyện căn cứ mới lấy tên là Tây Nam bao gồm các xã: Sông

Hinh, Tân Lập, Đức Bình, Phú Đức, Chí Thán, Dinh Điền, Mả Vôi và 3 xã Ea –

112

Page 114: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

trol, Ea – bia, Ea – bá của tỉnh Đắc Lắc nhập về. Dân số khoảng 3.500 người, trong

đó có hơn 80% là đồng bào các dân tộc Ê đê, Chăm, Ba Na… và 20% người Kinh.

Trong những năm 1969-1972, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục đẩy mạnh

công tác bố phòng chiến đấu chống địch lấn chiếm. Bên cạnh hệ thống chông, mìn,

bẫy đá, nhân dân Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi) còn đào thêm 1.200 công sự bắn

máy bay và chống phi pháo [91, tr. 151]. LLVT Căn cứ Vĩnh Thạnh phối hợp cùng

du kích xã Bình Quang và nhân dân phá nát đoạn đường từ Tiên Thuận (Bình Giang

– Bình Khê) đi về Định Bình (quận lỵ Vĩnh Thạnh) để ngăn cản hoạt động hành

quân lấn chiếm của quân Mỹ –VNCH.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5-1970, 4 tiểu đoàn của Sư đoàn bộ binh Mỹ số 1 và

Lữ đoàn 1, Sư đoàn dù Mỹ số 101 mở cuộc càn vào Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình

Định), du kích xã Lơ Yang đã tổ chức đánh phủ đầu và quần đánh suốt cả ngày đêm

dồn địch vào thế bị động [8, tr. 233].

Tại Quảng Ngãi, giữa năm 1970, phối hợp cùng Sơn Hà, quân dân Căn cứ Sơn

Tây liên tiếp bẻ gãy ba cuộc càn cấp trung đoàn của địch tấn công vào căn cứ.

Trong trận đánh địch càn quét vào Căn cứ xã Sơn Trung, ngày 17-6-1970, chỉ trong

vòng 20 phút, bộ đội tỉnh, huyện và du kích các xã đã hình thành các mũi tiến công

ngăn chặn quyết liệt khiến địch phải nhanh chóng tháo chạy. Căn cứ của tỉnh, các

kho tàng và đường hành lang chiến lược ở đây được bảo vệ an toàn. Trong 2 năm

1971-1972, du kích và bộ đội khu Nam Trà phối hợp với chủ lực Khu V đánh 244

trận, loại khỏi vòng chiến đấu 1.365 quân địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa [20, tr. 6].

Nhờ làm tốt công tác bố phòng và tổ chức chiến đấu nên các cơ quan lãnh đạo,

chỉ huy kháng chiến, các kho tàng trong căn cứ được bảo vệ an toàn; những thiệt hại

về tài sản, tính mạng trong nhân dân cũng giảm đáng kể; nhiều cuộc hành quân càn

quét của quân Mỹ – VNCH vào căn cứ địa bị tổn thất nặng nề.

Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, các “căn cứ lõm” ở đồng

bằng, các cơ sở chính trị, hầm bí mật ở đô thị và vùng giải phóng các tỉnh Quảng

Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên tập trung củng cố, khôi phục

đảm bảo sự liên lạc với các căn cứ địa cách mạng ở vùng rừng núi, kịp thời tiếp

nhận sự chỉ đạo của Khu ủy và BTL Quân khu V, Tỉnh ủy các tỉnh, tạo ra điều kiện

113

Page 115: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

thuận lợi để quân dân trên địa bàn chuyển sang thời kỳ đấu tranh hoàn thành sự

nghiệp giải phóng.

3.3.2. Đẩy mạnh phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng (1973-1975)

Sau các thất bại liên tiếp trong Xuân – Hè năm 1972 và trong cuộc chiến tranh

phá hoại miền Bắc lần thứ hai, đế quốc Mỹ buộc phải kí Hiệp định Paris 1973 về

chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định, quân Mỹ và

đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam, điều này đã mở ra cục diện mới trên chiến

trường miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng cách mạng tiến tới giành

thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ vẫn tiếp

tục theo đuổi chính sách xâm lược. Khi rút quân về nước, cùng với việc giữ lại hơn

hai vạn cố vấn quân sự đội lốt dân sự, Mỹ đổi tên Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (MACV

– thành lập năm 1961) thành cơ quan ngoại giao (DAO) đồng thời tiếp tục viện trợ

quân sự, kinh tế cho phía VNCH. Trong năm 1973, Mỹ tăng viện trợ cấp tốc cho

chính quyền VNCH 2.670 triệu đô la, 700 máy bay, 500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe

bọc thép 2.000.000 tấn vật tư chiến tranh [69, tr. 436].

Được sự hậu thuẫn của Mỹ, chính quyền VNCH ra sức đôn quân bắt lính,

trắng trợn tuyên bố “không có hòa bình, không có ngừng bắn, không có tổng tuyển

cử”. Đối phương huy động lực lượng lớn quân đội để thực hiện kế hoạch “tràn ngập

lãnh thổ”, giành dân, lấn đất xóa thế “da báo”, trước hết là giành lại các vùng giải

phóng, các trục giao thông chiến lược.

Ở Trung Trung Bộ, quân đội VNCH tăng cường các hoạt động càn quét đánh

phá. Từ cuối tháng 1-1973, đối phương tổ chức nhiều cuộc hành quân cấp tiểu đoàn,

có sự hỗ trợ của máy bay và pháo binh, tiến công lấn chiếm các vùng giải phóng và

căn cứ địa. Tháng 2-1973, chúng huy động lực lượng gồm các sư đoàn, liên đoàn

biệt động, quân địa phương với sự yểm trợ của xe tăng, máy bay đánh vào vùng giải

phóng và căn cứ địa các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Đối

phương thực hiện bao vây kinh tế, phong tỏa các hành lang, cửa khẩu khiến cho

việc giao lưu, đi lại giữa vùng ta, vùng địch kiểm soát hết sức khó khăn. Bên cạnh

114

Page 116: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

đó, địch còn đẩy mạnh việc cài cắm gián điệp, tung thám báo, biệt kích nhằm ngăn

trở hoạt động sản xuất, đánh phá hậu cứ các cơ quan, đơn vị bộ đội. Trong những

tháng cuối năm 1973, quân VNCH đã 56 lần đổ biệt kích vào các căn cứ địa, vùng

giải phóng tỉnh Bình Định [3, tr. 244]. Hoạt động đánh phá của địch đã gây không ít

khó khăn cho các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Đến cuối tháng 6-1973,

hầu hết các “lõm du kích” mới mở ra ở vùng A, B Điện Bàn, vùng giải phóng Tây

Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc của tỉnh Quảng Đà đều bị địch chiếm lại. Lương thực,

thuốc men đều thiếu thốn, đời sống của cán bộ, LLVT và nhân dân các căn cứ địa

hết sức gian khổ.

Trước tình hình đó, Trung ương đã kịp thời có ý kiến chỉ đạo đối với hoạt

động xây dựng, củng cố và phát triển căn cứ địa cách mạng ở Khu V: “Đánh bại

một bước quan trọng kế hoạch “bình định” lấn chiếm ở vùng đồng bằng, vùng giáp

ranh, giữ vững các lõm giải phóng của ta, thu hồi những vùng bị địch lấn chiếm,

thiết lập và phát triển thế làm chủ của nhân dân, tăng thêm lực lượng dự trữ cho

kháng chiến, thu hẹp vùng kiểm soát nguồn nhân lực, vật lực của địch, giành thế

mạnh về ta. Giữ vững vùng giải phóng rộng lớn và các căn cứ địa của ta, tiêu diệt

bọn biệt kích, thám báo, sẵn sàng đánh bại các cuộc hành quân của địch vào vùng

ta, mở rộng vùng giải phóng có trọng điểm, ở những nơi có điều kiện, nhằm hoàn

chỉnh thêm một bước vùng ta kiểm soát” [64, tr. 335-336].

Thấu triệt tinh thần đó, Khu ủy V xác định nhiệm vụ trước mắt: tiến hành

mở rộng căn cứ, giữ vững và phát triển thực lực cách mạng. Riêng ở các căn cứ

và vùng giải phóng, tăng cường xây dựng kinh tế là nhiệm vụ rất quan trọng [96,

tr. 16].

Thực hiện chủ trương của các cấp ủy Đảng, hoạt động xây dựng căn cứ địa

được tiến hành trên nhiều mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, làm chỗ dựa

vững chắc cho phong trào kháng chiến.

Về quân sự: Các căn cứ địa tích cực đẩy mạnh phát triển LLVT, tăng cường

công tác huấn luyện quân sự và bố phòng chiến đấu. Ở Quảng Nam, từ giữa năm

1973, nhằm chống địch lấn chiếm, bảo vệ vùng căn cứ phía Tây của tỉnh, đặc biệt là

115

Page 117: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

đối với Căn cứ Quế Tiên, khu vực Tây Thăng Bình – Quế Sơn – Hiệp Đức do các

đơn vị của Sư đoàn 2 chốt giữ được xây dựng thành một thế trận liên hoàn với hệ

thống gồm 1.021 hầm chiến đấu, hầm nghỉ ngơi, hầm hỏa khí; hơn 10 km giao

thông hào nối từ Châu Sơn – Liệt Kiểm, Lạc Sơn, Núi Giai, đối diện với Sư đoàn 3

của địch [27, tr. 340]. Khu ủy và BTL Quân Khu V cũng quyết định giải thể các đặc

khu Nam Trà, Lam Sơn, Sơn Trà. Từ năm 1973, các đặc khu được sáp nhập trở lại

với các huyện miền núi; đồng thời trực thuộc sự chỉ đạo của Tỉnh ủy các tỉnh Quảng

Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Giữa năm 1973, cơ quan Khu ủy và BTL Quân khu

V chuyển từ Căn cứ Nước Oa (Trà My) về Phước Trà (nay là xã Sông Trà), huyện

Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

Phước Trà là khu căn cứ lớn với diện tích gần 21 ha, nằm cách thị trấn Tân An

(huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam) 15 km về phía Tây, cách Tỉnh lộ 612 khoảng 4

km về phía Nam. Từ địa bàn này có thể tỏa về vùng đồng bằng rất thuận tiện cả

bằng đường bộ và đường thủy. Đây là căn cứ của Khu ủy và BTL Quân Khu V

trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1973-1975).

Việc bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ địa vừa mới mở rộng được chú trọng.

Trong năm 1974, các căn cứ địa ở Bình Định đã xây dựng 60 trạm gác ở những nơi

xung yếu, rào trên 250.000 m rào chiến đấu, gài hàng trăm kg chất nổ và hàng triệu

cây chông, xây dựng nhiều hệ thống chốt điểm tương đối kiên cố để chống địch.

[149, tr. 38].

Về chính trị: Tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể cách mạng được

củng cố từ tỉnh, huyện đến các xã, thôn. Trong năm 1974, các căn cứ địa miền núi

tỉnh Bình Định có 43 cán bộ trong HĐND cấp huyện, 14 cán bộ ủy ban, 242 cán bộ

trong HĐND cấp xã, 384 cán bộ trong uỷ ban xã thôn [145, tr. 19]. UBNDCM lâm

thời được thành lập ở 9 huyện, thị xã thuộc căn cứ địa tỉnh Phú Yên. Riêng hai

huyện Miền Tây và Tây Nam tổ chức bầu HĐND với 43 thành viên [105, tr. 211].

Chính quyền cách mạng thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, đặc

biệt là chính sách hòa hợp dân tộc. Nhờ đó, khối đoàn kết dân tộc ở căn cứ địa

không ngừng được xây dựng, củng cố. Hệ thống chính quyền và các đoàn thể quần

116

Page 118: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chúng đã phát huy được vai trò, hiệu lực trong việc ổn định tình hình trật tự xã hội,

phát triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống ở các căn cứ địa.

Về kinh tế: Để giải quyết vấn đề lương thực, tháng 7-1973, Quân khu V thành

lập Binh đoàn xây dựng kinh tế 773, gồm 6.500 cán bộ, chiến sĩ. Binh đoàn kết hợp

với nhân dân các địa phương sử dụng các nguồn lực tại chỗ và cơ sở vật chất, máy

móc, phương tiện kỹ thuật được chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc vào, xây

dựng tại các căn cứ địa những cơ sở sản xuất nông nghiệp ở Khâm Đức (Quảng

Đà), Diên Bình (Kon Tum), Ba Tơ (Quảng Ngãi), An Lão (Bình Định).

Nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp, chính quyền cách mạng ở các căn

cứ đẩy mạnh thực hiện việc cấp ruộng đất, cho vay vốn, giống, trâu bò cho nông

dân. Phong trào hợp tác tiếp tục được củng cố và phát triển. Năm 1974, căn cứ địa

miền núi tỉnh Quảng Đà có 70 hợp tác xã có ruộng, 48 hợp tác có đất khai hoang

thành thục. Có 87 hợp tác có lò rèn và 10 hợp tác biết dùng trâu cày ruộng [144, tr.

5]. Các căn cứ miền núi tỉnh Bình Định có 114 tổ hợp tác, 7.437 nhân khẩu, 3.569

lao động [145, tr. 19]. Phong trào sản xuất tự túc phát triển mạnh mẽ ở các cơ quan,

đơn vị và các địa phương. Cán bộ, bộ đội và công nhân viên các căn cứ địa ở Khu V

đã thu hoạch hàng ngàn tấn lương thực, tự túc từ 3 đến 4 tháng ăn. Nhờ đẩy mạnh

khai hoang phục hóa, diện tích đất trồng trọt tại các căn cứ địa tăng lên 115.000 ha.

Trong hai năm 1973-1974, nhân dân tại các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ đã đóng

đảm phụ nuôi quân 64.000 tấn lương thực, bán cho Ban kinh tế của Khu ủy 8.500

tấn [69, tr. 496]. Việc tiếp nhận 11.000 tấn gạo từ hậu phương lớn miền Bắc đã góp

phần tăng cường dự trữ lương thực cho các căn cứ địa ở miền núi Khu V. Bên cạnh

đó, hệ thống các kho tàng dự trữ, các tuyến giao thông vận tải cũng nhanh chóng

được xây dựng. Chỉ trong thời gian chưa đầy 2 tháng, nhân dân Căn cứ huyện Quế

Tiên (Quảng Nam) đã cùng nhân dân các huyện Phước Sơn, Tiên Phước, Quế Sơn,

Thăng Bình… và bộ đội Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V làm xong tuyến đường dài

gần 100 km phục vụ cho việc vận chuyển của các loại ô tô cơ giới tham gia chiến

dịch giải phóng Nông Sơn – Trung Phước [67, tr. 147].

117

Page 119: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Về văn hóa – xã hội: Chính quyền cách mạng luôn luôn chăm lo việc xây

dựng trường học, tổ chức hoạt động y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe cán

bộ, chiến sỹ và nhân dân, phát triển các hoạt động văn hóa văn nghệ trong căn cứ

địa. Năm 1974, các căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Đà đã xây dựng được 55 trường

thôn, 20 trường xã và 3 trường bổ túc huyện với số lượng 1.969 học sinh. Ngành y

tế đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng dịch, phát động phong trào “làng ba sạch”,

chống dịch bệnh kịp thời, tiến hành tiêm chủng cho 6.242 người dân [144, tr. 5].

Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có quy mô, đặc điểm khác nhau và

thành quả xây dựng đạt được ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung

đây là thời kỳ công tác xây dựng căn cứ địa được chú trọng một cách toàn diện

nhất. Bộ mặt từng căn cứ có những khởi sắc, thể hiện được vai trò và tính ưu việt

của chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân. Điều này đã thu hút, động viên được

một bộ phận nhân dân từ các đô thị chuyển đến sinh sống, làm ăn. Nhiều căn cứ địa

từ chỗ không có dân trở thành có dân và ngày càng nhiều dân.

Năm 1974, phối hợp với quân chủ lực của BTL Quân khu V, quân dân căn cứ

địa ở Trung Trung Bộ tham gia các Chiến dịch Xuân – Hè, Chiến dịch Tổng hợp

Hè, Chiến dịch Tổng hợp Thu, bức rút hàng loạt cụm cứ điểm và hàng trăm chốt

địch góp phần mở rộng vùng giải phóng, củng cố hệ thống căn cứ địa.

Ngày 17-7-1974, Sư đoàn 2 chủ lực Quân khu V nổ súng tiêu diệt cụm cứ điểm lớn Nông Sơn – Trung Phước, cách Đà Nẵng 45 km về phía Tây Nam. Tiếp đó, từ ngày 29-7-1974 đến 7-8-1974, Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324), cùng các đơn vị pháo binh, công binh, phòng không phối thuộc và lực lượng bộ đội địa phương huyện Đại Lộc tổ chức chiến dịch tấn công giải phóng Thượng Đức, một căn cứ quân sự lớn nhất ở miền Nam Việt Nam của địch nằm trên địa phận xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, Quảng Nam. Trong năm 1974, với hai thắng lợi liên tiếp ở Nông Sơn – Trung Phước, Thượng Đức, căn cứ địa ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà tiếp tục được củng cố và hoàn chỉnh, mạng lưới giao thông phát triển xuống tận vùng giáp ranh, uy hiếp trực tiếp các căn cứ lớn của địch.

Cuối năm 1974, bốn huyện: Ba Tơ, Sông Hre, Minh Long của tỉnh Quảng Ngãi có 115/186 xã được giải phóng hoàn toàn. Các tuyến đường cơ giới: Nà Niêu

118

Page 120: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

(Trà Bồng) đi Tân An (Sơn Tịnh); Sông Hre đi Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ, Mộ Đức và cả tuyến đường từ Ba Tơ, Đức Phổ nối liền với tuyến đường chiến lược liên tỉnh vào Bình Định được hoàn thành. Nhờ đó, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, nối liền với căn cứ địa miền núi trở thành hậu phương vững chắc cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.

Tại Bình Định, đến cuối năm 1974, căn cứ địa, vùng giải phóng được mở ra 2 huyện miền núi là Vĩnh Thạnh và An Lão; đại bộ phận huyện Vân Canh và Hoài Ân, 18 xã 50 thôn đồng bằng với 106.472 dân [3, tr. 260]. Bên cạnh đó, đường Hồ Chí Minh đã vào đến Bắc và Tây Bắc Bình Định. Tuyến đường vận tải cơ giới chiến dịch từ An Lão đến Bắc Đường 19 cũng thông suốt. Các con sông: An Lão, Kim Sơn, Côn được khơi thông luồng lạch đảm bảo cho thuyền trọng tải 500-1.200 kg có thể xuôi ngược trong mùa khô. Hai tuyến đường An Lão – Ân Nghĩa (Hoài Ân) và Kon Hà Nừng – dốc Bà Bơi, tuyến dọc hai bờ sông Côn xuống Bắc Đường 19 cùng các đường nhánh được xây dựng đã góp phần đảm bảo giao thông liên lạc thông suốt giữa miền núi và đồng bằng, đặc biệt là giữa các căn cứ địa.

Nhìn chung, đến cuối năm 1974, hầu hết các căn cứ địa cách mạng ở miền núi và giáp ranh các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đều được mở rộng, nối thông nhờ hệ thống giao thông nội tỉnh, liên tỉnh và tuyến hành lang chiến lược của Trung ương đi qua.

Trên cơ sở những chuyển biến thuận lợi của tình hình chiến trường miền Nam, để tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, cuối năm 1974, Bộ Chính trị chỉ đạo các địa phương: “Cần khẩn trương xây dựng vùng căn cứ, giải phóng, các xã, ấp mới mở và các lõm giải phóng xen kẽ ở vùng nông thôn phía trước vững mạnh về mọi mặt để dồn sức ra phía trước tấn công địch” [89, tr. 378]. Các địa phương ở Trung Trung Bộ và Khu V thực hiện nhiệm vụ mở thông hành lang nối liền Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực Miền tiến đánh Sài Gòn [89, tr. 195].

Tại các căn cứ địa cách mạng, trên tinh thần đoàn kết, hòa giải và hòa hợp dân tộc, chính quyền cách mạng thực hiện nghiêm túc 10 chính sách của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, căn cứ địa cách mạng ở

119

Page 121: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trung Trung Bộ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc điều động lực lượng

phối hợp, tham gia chiến đấu cùng với các đơn vị chủ lực.

Từ cuối năm 1974 đầu năm 1975, nhân dân ở căn cứ địa thuộc các tỉnh Quảng

Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên tích cực tham gia cùng các đơn

vị vũ trang tiến hành mở gấp nhiều con đường phục vụ cho việc vận chuyển vũ khí

lương thực, thực phẩm ra chiến trường. Nhân dân Căn cứ Quế Tiên (Quảng Nam)

cùng với Trung đoàn 803 công binh Quân Khu V tiến hành sửa chữa và làm mới hai

tuyến đường dài, một tuyến từ An Tráng qua các xã Phước Hà, Phước Cẩm lên

điểm cao 228 (Núi Vú Em) và một tuyến từ Núi Ngang qua Phước Sơn lên Chà Vu.

Bên cạnh đó, còn làm mới các tuyến đường ngắn Hiệp Đức – An Tráng – Thôn 1,

Phước Cẩm – Hiệp Đức – Trà My – Diên Yên. Được sự động viên của Huyện ủy và

chính quyền, ngư dân các vạn chài tự nguyện đem hàng trăm ghe thuyền để chuyển

hàng ra phía trước phục vụ chiến dịch. Đến cuối tháng 2-1975, đã có 179 tấn đạn,

136 tấn lương thực, thực phẩm được nhân dân Căn cứ Quế Tiên phối hợp cùng các

huyện bạn và bộ đội Quân khu V đưa ra tuyến trước [67, tr. 150].

Nhân dân Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định) cùng các đơn vị công binh của Khu

và Sư đoàn 3 mở các con đường nhánh kết hợp với vận chuyển vũ khí, lương thực,

thực phẩm phục vụ các đơn vị cắt Đường 19 của Sư đoàn 3, đoạn từ Lăng Mai

Xuân Thưởng (Bình Tường) lên ngã ba Vườn Xoài (Bình Quang).

Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Phú Yên, tại 3 huyện căn cứ địa cách mạng: Sơn

Hòa, Miền Tây, Tây Nam, hàng ngàn người dân đã tham gia khai thông các tuyến

đường từ Miền Tây Phú Yên nối liền với đường chiến lược Hồ Chí Minh: Đường số

6 chạy từ Cà Lúi đến Đồng Xuân, Tuy An; Đường số 7 từ Tây Nguyên xuống đồng

bằng Tuy Hòa.

Tháng 3-1975, nhân dân và LLVT tại các căn cứ địa tích cực phối hợp cùng

các đơn vị chủ lực tiến về giải phóng nhiều thành phố, thị xã. Tại Đà Nẵng, trên cơ

sở chủ động nắm bắt diễn biến của tình hình chiến trường, Chi bộ cùng Ban khởi

nghĩa Căn cứ K20 lãnh đạo nhân dân và 2 trung đội tự vệ kéo về sân bay Nước Mặn

phối hợp với Trung đoàn 97 nhanh chóng làm chủ sân bay góp phần giải phóng

120

Page 122: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

hoàn toàn thành phố Đà Nẵng vào ngày 29-3-1975. Lực lượng tự vệ Khu Sông Đà

chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng, kho An Đồn... vận động phần lớn binh lính, sĩ quan

quân đội VNCH trên địa bàn quận Ba tự động rã ngũ, giao nộp kho An Đồn cho lực

lượng cách mạng một cách an toàn.

Ở Quảng Nam, các đơn vị V45, V11 và lực lượng du kích các xã thuộc Căn cứ

huyện Quế Tiên được huy động tham gia trực tiếp chiến đấu, hiệp đồng chặt chẽ với

bộ đội chủ lực của Khu, LLVT tỉnh bao vây, tấn công và tiêu diệt các cứ điểm Núi

Vú, Chóp Chài, cầu Ông Triệu, Bình Định, Bình Lãnh.

Trong những ngày đầu tháng 3-1975, lực lượng bộ đội, du kích địa phương

đang đứng chân tại Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi) tham gia phối hợp cùng bộ đội

chủ lực của tỉnh tổ chức truy quét tàn quân VNCH đang tháo chạy, thu nhiều vũ khí,

xe pháo các loại, đồng thời đưa số dân bị chúng bắt đi theo quay trở về làng cũ.

Cùng thời gian này, bộ đội địa phương và du kích xã thôn Căn cứ Vĩnh Thạnh

(Bình Định) phối hợp với Tiểu đoàn 51 và Đ10 đặc công tỉnh và LLVT hai huyện

Bình Khê, An Nhơn mở khu chiến Đông Bắc Bình Khê – Tây An Nhơn.

Trong mùa Xuân lịch sử năm 1975, quân dân tại căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ đã huy động cao độ sức người, sức của để đóng góp cho sự nghiệp

giải phóng quê nhà. LLVT huyện, dân quân, du kích các xã căn cứ địa được động

viên tối đa tham gia chiến đấu. Hàng chục ngàn dân công mở đường, tải đạn, vận

chuyển hàng hóa, đưa thương binh về tuyến sau… Bên cạnh đó, nhân dân còn đóng

góp rất lớn về lương thực, thực phẩm, nhân lực, vật lực phục vụ các LLVT. Họ

tham gia tích cực vào công tác bảo đảm hậu cần cho các đơn vị, phối hợp cùng các

LLVT nổi dậy phá đồn địch, tham gia diệt ác trừ gian, tiếp quản, giữ gìn an ninh,

trật tự tại căn cứ địa, vùng giải phóng.

* Tiểu kết chương 3

Trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt (1961-1965)”, hệ

thống căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục được củng cố một cách toàn diện và

không ngừng được mở rộng. Bên cạnh các căn cứ địa miền núi, ở vùng giáp ranh và

đồng bằng, nhiều căn cứ mới tiếp tục được xây dựng, mở rộng như: Sơn – Cẩm –

121

Page 123: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Hà (Quảng Nam); Núi Bà, Hòn Chè (Bình Định); Vân Hòa, Đá Bàn (Phú Yên)…

Các “căn cứ lõm” ngay trong lòng địch cũng được hình thành: K20 (Đà Nẵng);

Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xô (Quảng Ngãi); các thôn bao quanh Căn cứ Núi Bà

(Bình Định) là Tân Thanh, Vĩnh Hội (Cát Chánh) và Lộc Khánh (Cát Thắng); Hòa

Kiến (Phú Yên)… Địch đã tiến hành nhiều cuộc hành quân lớn, đánh phá ác liệt vào

các căn cứ. Tuy nhiên, nhờ không ngừng được xây dựng và củng cố về mọi mặt:

chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quân sự, quân và dân các căn cứ địa cách mạng

ở Trung Trung Bộ đã bẻ gãy hầu hết các cuộc càn quét của địch. Các căn cứ địa

không những không bị xóa sổ mà còn trở thành chỗ dựa vững chắc để LLVT tổ

chức các cuộc chiến đấu tiến công địch ở bên ngoài căn cứ, làm thất bại âm mưu

“bình định” và “tìm diệt” của đối phương.

Trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ (1965-1968)”, căn cứ

địa cách mạng ở Trung Trung Bộ tiếp tục phát triển thực lực về mọi mặt; đồng thời

không ngừng phát huy cao độ vai trò hậu phương tại chỗ trong việc huy động một

cách tối đa các nguồn lực phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu

Thân 1968. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã góp phần đánh bại chiến

lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ tại địa bàn.

Trên cơ sở những thành quả, kinh nghiệm xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách

mạng của các giai đoạn trước, bước vào giai đoạn chống chiến lược “Việt Nam hóa

chiến tranh (1969-1975)”, mặc dù các căn cứ địa cách mạng gặp nhiều khó khăn do

Mỹ và chính quyền VNCH đẩy mạnh hoạt động đánh phá nhưng với cách thức tổ

chức linh hoạt, tích cực chủ động khai thác tiềm năng sẵn có tại chỗ, thực hiện vừa

sản xuất vừa tích cực đánh địch, tăng cường xây dựng lực lượng về mọi mặt, căn cứ

địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã vượt qua được những khó khăn, thử thách cam

go, các lực lượng kiên trì trụ bám lâu dài. Giai đoạn này, một số căn cứ đã được mở

rộng và phát triển thêm như: Lam Sơn, Nam Trà, Sơn Trà, Quế Tiên, Bầu Bính,

Phước Trà, Tây Nam… Với thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, các căn cứ địa

cách mạng đã trở thành điểm tựa vững chắc cho phong trào kháng chiến và là địa

122

Page 124: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

điểm xuất phát của các LLVT hiệp đồng với các đơn vị chủ lực tổ chức tiến công

địch ở phía trước.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, quân dân căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ tập trung huy động tối đa nguồn nhân lực, vật lực phục vụ

chiến trường tại chỗ, phục vụ các cánh quân cơ động tiến về Sài Gòn. Các căn cứ đã

cung cấp một phần đáng kể lương thực, thực phẩm, tham gia vận chuyển vũ khí cho

LLVT; đồng thời còn phối hợp tổ chức chiến đấu với các đơn vị chủ lực, tham gia

cuộc tổng tiến công, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng miền Nam,

thống nhất Tổ quốc.

123

Page 125: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

CHƯƠNG 4

ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

4.1. Một số đặc điểm của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

Cũng giống như căn cứ địa ở những vùng miền khác ở miền Nam, căn cứ địa

cách mạng ở Trung Trung Bộ có cùng một số đặc điểm chung là được xây dựng từ

các cơ sở chính trị đến xây dựng các căn cứ có quy mô nhỏ, rồi từ quy mô nhỏ phát

triển thành các căn cứ địa có quy mô lớn; từ những địa bàn đứng chân ban đầu đến

hình thành một hệ thống căn cứ địa cách mạng rộng lớn; hoạt động xây dựng căn cứ

địa được tiến hành toàn diện trên nhiều mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, kết

hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng căn cứ… Tuy nhiên, ngoài những đặc

điểm chung đó, do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, tình hình chiến trường, điều

kiện tự nhiên, dân cư, xã hội ở địa phương nên căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung

Bộ còn có một số đặc điểm nổi bật.

4.1.1. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ phong phú về loại hình,

đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức

Trên cơ sở điều kiện địa lý tự nhiên, xã hội và thực tiễn chiến trường, quân

dân Trung Trung Bộ xây dựng hệ thống căn cứ địa với sự phong phú về loại hình,

quy mô và hình thức tổ chức.

Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ tồn tại với nhiều loại hình: Có căn cứ

được xây dựng ở miền núi, có căn cứ ở vùng giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi,

có căn cứ ở ven sông biển, có “căn cứ lõm” trong vùng địch kiểm soát.

Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các cơ quan

lãnh đạo, chỉ huy cuộc kháng chiến đã dựa vào địa bàn rừng núi để giữ gìn, bảo tồn

lực lượng cách mạng; đồng thời từng bước dựa vào các nhân tố “địa – quân sự”,

“địa – chính trị” , “địa – văn hóa” để xây dựng căn cứ địa làm chỗ đứng chân lâu

dài. Căn cứ địa ở miền rừng núi Trung Trung Bộ có: Nước Oa, Nước Là, Phước

Trà, Quế Tiên (Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Tây (Quảng Ngãi), Vĩnh Thạnh (Bình

Định), Vân Hòa, Tây Nam (Phú Yên)… Đa số các căn cứ này có quy mô, diện tích

124

Page 126: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

không phải là lớn nếu so với một số căn cứ địa ở Tây Nguyên, miền Đông hay miền

Tây Nam Bộ nhưng phần lớn đều có ATK. Những khu vực này được xây dựng khá

hoàn chỉnh, được bảo vệ chắc chắn, là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ

đạo kháng chiến cấp khu, tỉnh, huyện. Ở đây, chính quyền cách mạng, LLVT, các

đoàn thể quần chúng được thành lập và hoạt động công khai, nhân dân hoàn toàn

làm chủ mọi mặt đời sống xã hội.

Ở vùng giáp ranh giữa miền núi và đồng bằng, có các căn cứ: Sơn – Cẩm –

Hà, Tiên Sơn, Hòn Tàu (Quảng Nam), Vĩnh Tuy (Quảng Ngãi), Núi Bà, Hòn Chè

(Bình Định), Đá Bàn (Phú Yên)… Thời kỳ quân Mỹ – VNCH đánh phá mạnh, nhờ

các căn cứ dạng này mà lực lượng kháng chiến có thể cơ động rút lên các căn cứ địa

miền núi hoặc dựa vào hệ thống căn cứ địa loại này để trụ bám. Đây cũng là khu

vực bàn đạp để khi có thời cơ, lực lượng kháng chiến tiến về giải phóng đồng bằng,

mở rộng căn cứ địa, vùng giải phóng.

Đối với vùng đồng bằng, địa bàn đông dân, nhiều của nhưng cũng là nơi Mỹ

và chính quyền VNCH kiểm soát gắt gao thì có một số căn cứ tiền phương tiêu biểu

như Ba Làng An (Quảng Ngãi). Đối với vùng sông, biển có các căn cứ như: Khu

Sông Đà (Đà Nẵng), rừng dừa Bảy Mẫu (Quảng Nam), Miền Đông (Phú Yên).

Cách thức tổ chức của các căn cứ ở đây là dựa vào ngư dân, ghe thuyền, các cồn

nổi, rừng dừa nước, bến bãi… để đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, tổ chức đánh

địch, tiếp nhận sự chi viện của miền Bắc.

Ngoài ra, còn có các “căn cứ lõm”: K20 (Đà Nẵng), Bầu Bính (Quảng Nam);

Triều Tiên, Liên Xô (Quảng Ngãi); Hòa Kiến, Chóp Chài (Phú Yên)… Đây là

những căn cứ nằm trong vùng địch hậu. Tại các căn cứ này, cán bộ dựa vào dân, hệ

thống hầm bí mật, công sự mật để hoạt động. Loại hình “căn cứ lõm” trở thành nơi

đứng chân an toàn trong lòng địch của các cơ quan, lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến;

nơi cất giấu vũ khí, lương thực; đồng thời làm bàn đạp xuất phát của LLVT trước

những trận đánh lớn tấn công vào sào huyệt của địch.

Ở đô thị, nơi tập trung cơ quan đầu não của địch, lực lượng kháng chiến xây

dựng cơ sở chính trị, hầm bí mật để nuôi giấu, che chở cán bộ, nơi ém quân của các

125

Page 127: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

nhóm biệt động. Loại hình này tồn tại với quy mô nhỏ trong một vài gia đình cơ sở;

có trường hợp trong khu phố hoặc địa bàn vùng giáp ranh giữa nông thôn và đô thị.

Bên cạnh sự phong phú về loại hình, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

còn được xây dựng với nhiều quy mô: một xã (Căn cứ Tiên Sơn, Căn cứ Thồ Lồ),

một huyện (Căn cứ Trà Bồng, Căn cứ Sơn Tây, Căn cứ Vĩnh Thạnh, Căn cứ Tây

Nam), liên huyện (Căn cứ Hải Nam, Căn cứ Quế Tiên)… Khác với Đông Nam Bộ,

Tây Nam Bộ, Cực Nam Trung Bộ, bên cạnh cấp Khu, cấp tỉnh, cấp huyện, căn cứ

địa ở Trung Trung Bộ còn tồn tại cấp đặc khu. Khu A được thành lập năm 1970 trên

cơ sở tách nhập một số huyện miền núi của tỉnh Kontum và các tỉnh Quảng Nam,

Quảng Đà, Quảng Ngãi bao gồm 4 đặc khu: Lam Sơn, Nam Trà, Yên Thế, Sơn Trà.

Các đặc khu đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy V. Mặc dù chỉ tồn tại trong

một thời gian ngắn từ năm 1970 đến năm 1973 nhưng Khu A được xây dựng thành

một khu căn cứ mạnh về các mặt, bước đầu thể nghiệm mô hình của chế độ mới –

chế độ dân chủ nhân dân. Qua đó, phản ánh sự quan tâm đặc biệt của Khu ủy đối

với vấn đề xây dựng căn cứ địa miền núi. Sự ra đời của Khu A bao gồm các đặc khu

kể trên là nét độc đáo trong hoạt động xây dựng căn cứ miền núi Trung Trung Bộ.

Hình thức tổ chức của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ khá đa

dạng. Từ năm 1955, nhằm phục vụ cho hoạt động xây dựng căn cứ, tỉnh Quảng

Nam thành lập Ban Căn cứ giao thông chăm lo việc xây dựng nơi đóng cơ quan

Tỉnh ủy và giao thông liên lạc. Tỉnh Quảng Ngãi cũng thành lập Ban xây dựng và

bảo vệ căn cứ. Đầu năm 1960, Thường vụ Khu ủy V thành lập Ban căn cứ thực hiện

nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Liên khu ủy và căn cứ chung. Tùy thuộc vào tình hình

phát triển của cuộc kháng chiến và yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng

các căn cứ có hình thức tổ chức phù hợp. Ở cấp khu, bên cạnh các bộ phận: cơ yếu,

sản xuất, y tế, xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí, hệ thống kho tàng… Các căn cứ

thành lập các Ban phụ trách các hoạt động chuyên môn. Căn cứ Nước Oa có Ban Tổ

chức Khu ủy V, Ban Quân sự Khu V, Ban Tài mậu Khu V (lo hậu cần)… Căn cứ

Nước Là có Ban Tổ chức Khu ủy V, Ban Quân sự Khu V, Ban Kinh tài Khu V, Ban

Tuyên huấn Khu V, Ban Dân vận Khu V… Căn cứ Phước Trà có Ban Tổ chức Khu

126

Page 128: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

ủy Khu V, Ban Tuyên huấn Khu ủy Khu V, Ban đại diện Chính phủ Cách mạng

Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Ở cấp tỉnh, các căn cứ đều thành lập các

Ban sản xuất, Ban Tuyên giáo, Ban quân dân y, Ban an ninh, Xưởng quân giới. Tuy

nhiên, tùy theo tình hình địa phương mà một số căn cứ cũng có cách thức tổ chức

riêng: Căn cứ Núi Bà có Ban chỉ đạo tiền phương được thành lập bao gồm các bộ

phận như: binh vận, tuyên huấn, giao liên, y tế, hậu cần, xưởng in… và một đại đội

chủ lực của tỉnh. Ở Căn cứ Hòn Tàu, bên cạnh các cơ quan như: Ban Tuyên huấn,

Ban Tổ chức, Ban Kiểm Tra; các ngành Tài Mậu, Lương thực, Y tế… còn có Sở chỉ

huy của Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 và các đơn vị trực thuộc. Từ khi mới được xây dựng

(1964), Căn cứ lõm K20 đã có các chi bộ đảng, các tiểu đội du kích và các đoàn thể

quần chúng cùng với khoảng 2.000 dân. Ngược lại, ở “Căn cứ lõm” Bầu Bính trong

hơn một năm đầu thành lập (1971), căn cứ không có dân cư, chỉ có cán bộ, bộ đội

và du kích bám trụ hoạt động. Cho đến tháng 5-1972, sau khi LLVT tỉnh Quảng

Nam mở lại vùng Đông Thăng Bình, tiêu diệt các chốt điểm của địch, phát động

quần chúng phá khu dồn trở về quê cũ làm ăn sinh sống, số dân Căn cứ Bầu Bính

lúc này mới tăng lên 300 người.

Mặc dù được xây dựng với sự phong phú về loại hình, đa dạng về quy mô và

hình thức tổ chức nhưng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ chủ yếu tập trung

ở địa bàn rừng núi.

Miền núi Trung Trung Bộ thuộc phần cuối của dãy Trường Sơn Bắc và nửa

phần đầu của dãy Trường Sơn Nam. Đây là khu vực có nhiều dãy núi cao với nhiều

hang động và rừng già kín đáo, có thể sử dụng làm nơi ẩn nấp, cất giấu lương thực,

vũ khí, tránh sự tấn công của kẻ địch. Vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Nam – Ngãi

– Bình – Phú nối liền với nhau, tiếp giáp với nước bạn Lào, đồng thời liên hoàn với

Tây Nguyên là địa thế “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Với lợi thế về quân sự và

diện tích chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, vùng rừng núi Trung Trung Bộ là địa bàn

lý tưởng để xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đa phần căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ được xây dựng chủ yếu ở miền núi phía Tây. Các căn cứ của Khu

127

Page 129: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

ủy và BTL Quân khu V: Nước Oa, Nước Là, Phước Trà đều được xây dựng ở các

huyện miền núi Trà My, Hiệp Đức, Hiên, Giằng của tỉnh Quảng Nam. Các căn cứ

Hải Nam, Thống Nhất và các đặc khu Nam Trà, Lam Sơn, Sơn Trà được xây dựng

trên địa bàn các huyện miền núi: Hiên, Giằng (Quảng Nam), Sơn Tây, Trà Bồng

(Quảng Ngãi). Ba khu căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Ngãi ra đời vào giữa

năm 1958 và các Căn cứ Trà Bồng, Sơn Tây được xây dựng chủ yếu tập trung trên

địa bàn các huyện miền núi Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Căn cứ địa Vĩnh

Thạnh, Hòn Dồ, Hầm Hô, Núi Bà, Hòn Chè là những căn cứ nằm ở khu vực rừng

núi các huyện Vĩnh Thạnh, Tây Sơn và Phù Cát tỉnh Bình Định. Căn cứ địa Thồ Lồ

– Ma Dú, Vân Hòa được xây dựng tại khu vực rừng núi hiểm trở của các huyện

Đồng Xuân, Sơn Hòa của tỉnh Phú Yên.

Cùng với lợi thế về quân sự, địa bàn rừng núi còn là nơi có thể tận dụng để

khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên bảo đảm hậu cần tại chỗ; xây dựng nền sản

xuất tự cấp, tự túc nhằm giải quyết một phần quan trọng nhu cầu lương thực, thực

phẩm cho căn cứ địa khi sự chi viện của miền Bắc chưa đến kịp. Dựa vào địa bàn

rừng núi rộng lớn, liên hoàn, các căn cứ địa tiến hành xây dựng, củng cố lực lượng

kháng chiến; xây dựng hệ thống kho tàng, xưởng, trạm, xây dựng các công trình

quân sự phục vụ kháng chiến lâu dài.

Bên cạnh đó, vùng rừng núi Trung Trung Bộ còn là nơi cư trú tập trung của

đồng bào các dân tộc thiểu số: Cơ tu, Mnông, Cadong, Cor, Hrê, Ba Na, Chăm…

Mặc dù trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nhưng đồng

bào các dân tộc miền núi Trung Trung Bộ giàu truyền thống đấu tranh chống áp

bức, bất công. Từ những năm đầu thế kỷ XX miền núi Trung Trung Bộ đã liên tiếp

nổ ra những cuộc vũ trang chống Pháp của đồng bào Cadong, Cor, Hrê, Ba Na...

Truyền thống đấu tranh chống áp bức, cường quyền của đồng bào các dân tộc miền

núi Trung Trung Bộ là cơ sở hết sức thuận lợi đối với hoạt động xây dựng và bảo vệ

căn cứ địa trong kháng chiến chống Mỹ sau này.

Tóm lại, việc xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng với sự phong phú về

loại hình, đa dạng về quy mô và hình thức tổ chức đồng thời tập trung chủ yếu ở địa

128

Page 130: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

bàn miền núi là một sự lựa chọn sáng tạo, phù hợp với quy luật phát triển của cuộc

chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhờ đó, quân dân Trung Trung Bộ đã giải quyết

được vấn đề đất đứng chân tương đối an toàn, xây dựng, củng cố lực lượng, tạo thế

đứng vững chắc về quân sự để trường kỳ kháng chiến.

4.1.2. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ thường xuyên có sự biến động Trong kháng chiến chống Mỹ, các căn cứ ở miền Đông Nam Bộ như: Căn cứ

Minh Đạm, Căn cứ Tây Ninh và Chiến khu Đ hoặc các căn cứ ở miền Tây Nam Bộ

như: Căn cứ Ba Hòn, Căn cứ U Minh, Căn cứ Bảy Núi đều được hình thành và phát

triển trên một địa bàn nhất định, các căn cứ không có sự biến động về quy mô. Tuy

nhiên, khác với Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, ở Trung Trung Bộ, quy mô các căn

cứ địa có sự thay đổi tùy theo tình hình phát triển của cuộc kháng chiến. Bên cạnh

đó, từ căn cứ của Khu ủy V cho đến căn cứ của các địa phương thường xuyên phải

di chuyển địa điểm đóng trú, địa bàn hoạt động và đa phần các ATK cũng không cố

định như ở Việt Bắc, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Sở dĩ các căn cứ địa ở Trung

Trung Bộ thường xuyên có sự biến động là vì một số lý do: Thứ nhất, Trung Trung

Bộ có đặc điểm địa hình hiểm trở, chia cắt, việc hỗ trợ, liên lạc giữa các căn cứ là

hết sức khó khăn nên khi địch tổ chức tấn công từ nhiều hướng, các căn cứ địa

thường dễ bị cô lập. Do vậy, để có thể đứng vững và phát huy vai trò đối với cuộc

kháng chiến, các căn cứ phải thường xuyên phải di chuyển, tìm kiếm những nơi an

toàn hơn. Thực tế cho thấy, trong kháng chiến chống Mỹ, mặc dù phải thường

xuyên di chuyển địa điểm, địa bàn đóng trú ở các huyện miền núi Hiên, Giằng, Trà

My, Phước Sơn, Hiệp Đức của tỉnh Quảng Nam nhưng căn cứ của Liên Khu ủy V

vẫn được bảo vệ an toàn, đảm bảo được sự lãnh đạo của Khu ủy đối với phong trào

cách mạng ở Khu V. Thứ hai, Khu V cũng như các tỉnh Trung Trung Bộ là địa bàn

trung chuyển cán bộ, LLVT, hàng hóa chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Đây

cũng là điểm đầu của tuyến vận tải chiến lược – đường Hồ Chí Minh trên biển, trên

bộ. Một số lượng lớn cán bộ, bộ đội chủ lực, hàng hóa trước khi được chuyển về

các địa phương đều tập trung tại căn cứ địa của Khu V và Trung Trung Bộ. Do vậy,

địa bàn này cũng là chiến trường đánh phá ác liệt của địch. Hơn nữa, Trung Trung

129

Page 131: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Bộ lại là nơi số lượng quân Mỹ và đồng minh tập trung đông hơn so với Đông Nam

Bộ, Tây Nam Bộ. Cơ sở hậu cần của địch ở đây tương đối thuận lợi cho việc triển

khai hoạt động chiến tranh. Vì vậy, địch tập trung lực lượng đánh phá nhằm phá

hủy các tuyến hành lang chiến lược, kho vũ khí, hàng hóa chi viện từ miền Bắc,

tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta. Để hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn, bí mật,

các căn cứ ở Trung Trung Bộ phải thường xuyên di chuyển địa điểm. Thứ ba, do

yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, các căn cứ ở Trung Trung Bộ có thể được

sáp nhập, chia tách hoặc xây dựng mới. Điển hình như: Căn cứ huyện Quế Tiên

(1969), Khu A và Căn cứ Tây Nam (1970), Căn cứ Tiên Sơn và Căn cứ Phước Trà

(1973)… Bên cạnh đó, tùy thuộc vào tình hình phát triển của cuộc kháng chiến, địa

bàn hoạt động, quy mô căn cứ cũng có sự thay đổi. Trong giai đoạn từ 1960-1965,

đặc biệt là từ sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi, cùng với sự phát triển của

vùng làm chủ, vùng giải phóng, địa bàn các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ cũng

được mở rộng mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968,

nhiều vùng giải phóng, căn cứ địa bị lấn chiếm, tình trạng mất đất, mất dân diễn ra

ở một số nơi, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ phải liên tục di chuyển địa điểm, lùi

sâu địa bàn hoạt động vào trong núi cao, rừng sâu.

Để khắc phục sự biến động và đảm bảo phát huy hiệu quả vai trò của các căn

cứ địa đối với cuộc kháng chiến, các cấp Đảng bộ, chính quyền ở Trung Trung Bộ

đã phát huy cao độ tinh thần chiến đấu kiên cường, ý thức phòng gian bảo mật của

LLVT và nhân dân nhằm bảo vệ căn cứ vững chắc. Mặt khác, cũng không ngừng

đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở các địa phương. Qua đó, ngày càng mở rộng

địa bàn hoạt động của các căn cứ địa. Thực tiễn cuộc kháng chiến cho thấy, mặc dù

thường xuyên phải di chuyển địa điểm, thay đổi địa bàn đóng trú, cơ sở vật chất,

nhân lực có thể bị địch đánh phá và chịu những tổn thất nhất định song các cơ quan

đầu não kháng chiến vẫn được bảo vệ an toàn. Trong những thời điểm địch đánh

phá ác liệt, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến có khi phải lùi vào sâu hơn,

hoặc phải chuyển vùng hoạt động nhưng về cơ bản cùng với sự phát triển của cuộc

kháng chiến, quy mô, địa bàn hoạt động của các căn cứ địa cách mạng ở Trung

130

Page 132: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trung Bộ vẫn không ngừng được mở rộng, phát triển gắn liền với sự phát triển của

phong trào kháng chiến ở địa phương. Trong những năm 1955-1959, Căn cứ Liên

Khu ủy V đứng chân tại vùng Bến Hiên, Bến Giằng của tỉnh Quảng Nam. Đây là

giai đoạn địch khủng bố, truy tróc hết sức ác liệt nhưng Căn cứ Liên Khu ủy V vẫn

được bảo vệ an toàn chính là nhờ sự bảo vệ, che chở của đồng bào các dân tộc. Sau

này, khi Liên khu ủy chuyển căn cứ vào Nước Là (Trà My), nhờ làm tốt công tác bố

phòng chiến đấu và ý thức phòng gian bảo mật trong quân dân nên các hoạt động

xâm nhập, đánh phá của địch đều được quần chúng và LLVT kịp thời phát hiện và

đối phó hiệu quả. Trong những năm 1959-1960, căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Nam

đứng chân ở các huyện miền núi Hiên, Giằng và miền Tây Hòa Vang, cuối năm

1962, trên cơ sở phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ, để mở rộng địa

bàn căn cứ, nối liền đồng bằng với miền núi, từ cuối tháng 9-1962, bộ đội địa

phương tỉnh Quảng Nam và LLVT Quân khu V đã phối hợp tiến hành thắng lợi

chiến dịch “Vượt sông Tiên”, giải phóng các xã Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà

thuộc phía Tây Bắc huyện Tiên Phước, hình thành căn cứ địa cách mạng: Sơn –

Cẩm – Hà. Quá trình di chuyển các cơ quan và hoạt động xây dựng căn cứ diễn ra ở

nhiều địa phương, vùng miền khác nhau đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy

phong trào cách mạng ở những địa phương nơi căn cứ đứng chân, đóng trú.

4.1.3. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có khả năng đảm bảo sản

xuất tự túc, tự cấp

Trong quá trình kháng chiến, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã

có nhiều cố gắng trong việc xây dựng nền sản xuất tự túc, tự cấp. Thực tiễn cho

thấy, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi sự chi viện của

miền Bắc chưa đến kịp, quân dân các địa phương gần như phải tự lực cánh sinh

trong hoạt động xây dựng, bảo vệ căn cứ địa. Về sau, khi các căn cứ địa ngày càng

mở rộng, phát triển, quân dân đã tích cực tiến hành các hoạt động sản xuất: trồng

trọt, chăn nuôi, chế tạo vũ khí thô sơ, thuốc chữa bệnh... Bên cạnh việc đáp ứng nhu

cầu tại chỗ, với sự cố gắng vượt bậc, một số căn cứ còn có những đóng góp đáng kể

cho kháng chiến về lương thực, thực phẩm, nhân lực. Điều này cho thấy những nỗ

131

Page 133: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

lực hết lớn lao của quân dân trong việc xây dựng nền kinh tế kháng chiến cũng như

khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp của các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Tuy

nhiên, khả năng này vẫn còn hạn chế, bởi vì một số lý do. Thứ nhất, khác với Miền

Đông Nam Bộ là khu vực có địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí

hậu tương đối thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp, thì Trung Trung Bộ lại

là nơi có địa hình chia cắt, đồng bằng nhỏ, hẹp, đất đai kém màu mỡ, khí hậu khắc

nghiệt, mưa bão, hạn hán thường xuyên xảy ra. Do vậy, sản xuất nông nghiệp tương

đối bấp bênh, năng xuất lương thực thấp, sản lượng lúa gạo không dồi dào như ở

Miền Đông Nam Bộ. Ở các căn cứ địa miền núi, nguồn gạo sản xuất được rất ít ỏi,

cán bộ, chiến sĩ và nhân dân phải thường xuyên sử dụng sắn, khoai, ngô, củ mài để

ăn thay cơm. Đặc biệt, trong những thời điểm địch tiến hành bao vây, phong tỏa,

hạn chế sự giao lưu giữa miền núi và đồng bằng, một số căn cứ bị cô lập, nguồn

lương thực, thuốc men dự trữ hạn hẹp, đời sống của các lực lượng trụ bám ở đây vô

cùng khó khăn, gian khổ. Thứ hai, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ chủ yếu tập

trung ở miền rừng núi, nơi có địa hình hiểm trở, giao thông khó khăn. Mặt khác,

Trung Trung Bộ cũng không có một hệ thống kênh rạch chằng chịt giàu nguồn thủy

hải sản và thuận lợi cho giao lưu hàng hóa như ở Đông Nam Bộ. Điều này cũng tạo

nên sự hạn chế đối với sự phát triển của nền sản xuất tự cấp, tự túc... Những yếu tố

trên đã khiến cho việc duy trì kinh tế tự cấp, tự túc là hết sức khó khăn và đa phần

các căn cứ đều thiếu lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh… Vì vậy, để duy trì

cuộc chiến đấu lâu dài, các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ rất cần sự chi viện từ hậu

phương miền Bắc. Sự chi viện này bao gồm nhiều mặt từ lương thực, thực phẩm,

thuốc men, vũ khí, đạn dược đến con người. Trong khi chờ đợi sự chi viện từ bên

ngoài, các căn cứ phải tự lực cánh sinh trong việc giải quyết tình hình khó khăn

trên. Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất tại chỗ, các căn cứ tổ chức tiếp tế từ vùng

địch, khai thác, thu mua, động viên sự đóng góp của nhân dân các địa phương.

Nhiều cán bộ, chiến sĩ được cử về vùng địch thu mua lương thực, khơi thông luồng

hàng. Để vận chuyển được lương thực, hàng hóa về căn cứ, nhiều người đã phải hy

sinh cả xương máu. Do vậy, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân ở vùng giáp

132

Page 134: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

ranh đấu tranh với địch đòi tự do mua bán, trao đổi hàng hóa giữa vùng ta và vùng

địch, chống việc bao vây phong tỏa về kinh tế miền núi, động viên nhân dân các địa

phương bán lương thực, hàng hóa ủng hộ cách mạng cũng góp phần hỗ trợ đáng kể

cho nền kinh tế ở các căn cứ. Vấn đề xây dựng các cơ sở chính trị ở nội đô có vai

trò quan trọng trong việc tạo nguồn tiếp tế vận chuyển lương thực, thuốc men, các

nhu yếu phẩm từ các đô thị cho các căn cứ địa. Việc thực hiện các giải pháp trên đã

phần nào giúp cho các căn cứ địa có điều kiện duy trì nền kinh tế kháng chiến trong

một chừng mực nhất định. Để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài, căn cứ địa cách

mạng ở Trung Trung Bộ vẫn rất cần sự chi viện kịp thời của hậu phương lớn miền

Bắc. Thực tế cuộc kháng chiến cũng cho thấy, việc tiếp nhận sự chi viện mọi mặt

của hậu phương lớn miền Bắc chính là nguồn lực cơ bản để tăng cường sức mạnh

về mọi mặt cho các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. Nhờ có nguồn lực này, các căn

cứ đã không ngừng được củng cố, phát triển thực lực về mọi mặt. Từ đó, góp phần

đắc lực vào việc thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng ở các địa phương.

4.1.4. Hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ dễ bị chia cắt, cô

lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh

Ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, các căn cứ địa thường được xây dựng

tập trung trên một địa hình nhất định (vùng đồng bằng, rừng cao su, rừng ngập mặn,

đồi núi thấp). Nhìn chung, địa hình ở những khu vực này tương đối bằng phẳng nên

việc di chuyển của các cơ quan và LLVT tương đối thuận lợi. Nếu địch đánh phá ở

căn cứ này, các lực lượng trụ bám có thể di chuyển sang căn cứ khác để bảo tồn lực

lượng, hạn chế tổn thất. Mặt khác, việc tiếp nhận sự chi viện từ miền Bắc ở Đông

Nam Bộ, Tây Nam Bộ cũng tương đối thuận lợi hơn so với Trung Trung Bộ. Vì thế,

các căn cứ có điều kiện dự trữ tương đối khá về mặt hậu cần. Khi bị địch đánh phá,

các căn cứ có khả năng hỗ trợ kịp thời cho nhau về nhiều mặt: LLVT, vũ khí, lương

thực. Bên cạnh đó, các căn cứ còn thực hiện sự phối hợp, hiệp đồng tác chiến trong

các cuộc chiến đấu chống lại các cuộc càn quét quy mô lớn của địch. Vì vậy, tính

liên hoàn giữa các căn cứ là khá vững chắc và cho dù địch đánh phá hết sức ác liệt,

các căn cứ vẫn khó có thể bị chia cắt, cô lập. Khác với Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ,

133

Page 135: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được xây dựng trải rộng trên nhiều loại địa

hình: vùng rừng núi, rừng núi giáp ranh đồng bằng, sông lạch. Trong quá trình

kháng chiến chống Mỹ, chủ trương và cách thức tiến hành của Đảng là xây dựng hệ

thống căn cứ liên hoàn giữa các vùng miền. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động xây

dựng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ chưa thể bảo đảm được việc thực

hiện vấn đề này một cách hoàn toàn vì một số lý do. Thứ nhất, hoạt động giao thông

liên lạc giữa các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ được thực hiện trong điều kiện địa

hình đa dạng, hiểm trở cùng với sự kiểm soát gắt gao của địch ở nhiều địa bàn là hết

sức khó khăn. Do vậy, khi địch tập trung lực lượng đánh phá ở căn cứ này, việc di

chuyển sang căn cứ khác để bảo tồn lực lượng không thể thuận lợi như ở Đông Nam

Bộ, Tây Nam Bộ. Thứ hai, phần lớn các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tập trung chủ

yếu ở vùng rừng núi với quy mô vừa và nhỏ. Việc tiếp nhận sự chi viện của miền

Bắc đối với các căn cứ cũng bị hạn chế hơn nhiều so với Đông Nam Bộ và Tây

Nam Bộ. Do vậy, khả năng dự trữ về hậu cần không lớn. Địa hình hiểm trở, giao

thông đi lại khó khăn cũng ảnh hưởng đến khả năng hỗ trợ và phối hợp chiến đấu

giữa các căn cứ khi bị địch đánh phá. Những yếu tố trên đã làm cho tính liên hoàn

giữa các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tương đối lỏng lẻo. Vì vậy, khi địch tập trung

lực lượng đánh phá mạnh, phong tỏa từ nhiều hướng, các căn cứ dễ bị chia cắt, cô

lập, khả năng nhận được sự hỗ trợ, chi viện từ bên ngoài rất khó khăn. Có những

thời điểm, các căn cứ phải độc lập chiến đấu chống lại các cuộc càn quét, đánh phá

của địch. Trong một số trường hợp, các lực lượng trụ bám phải lùi sâu vào các hang

động, hốc đá, rừng già kín đáo để trú ẩn và đảm bảo an toàn. Tháng 9-1966, địch

tập trung lực lượng bao vây, phong tỏa, đánh phá Căn cứ Núi Bà (Bình Định) từ

nhiều hướng. Các lực lượng trụ bám tại Núi Bà đã phải độc lập chiến đấu trong

hàng tháng trời. Sau đó rút lui lên phía Tây để bảo toàn lực lượng. Tháng 9-1969,

địch bao vây Căn cứ Hòn Tàu (Quảng Đà) gần 1 tháng, các lực lượng trụ bám ở đây

đã lùi dần vào các hang động, hốc đá, đồng thời họ phải độc lập chiến đấu trong

điều kiện nguồn lương thực cạn kiệt, vũ khí thiếu thốn. Do khả năng dự trữ về hậu

134

Page 136: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cần của các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không lớn nên nếu bị địch bao

vây, phong tỏa dài ngày, cuộc sống và chiến đấu của quân dân ở đây là vô cùng gian

khổ hơn nhiều so với các căn cứ ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Vì vậy, để bảo

vệ các căn cứ, bên cạnh việc xây dựng LLVT đủ mạnh, một hệ thống bố phòng chặt

chẽ, chuẩn bị một nguồn hậu cần dự trữ tương đối dồi dào để có đủ sức mạnh đối

phó với các cuộc tấn công của địch, cần triển khai thế trận chiến tranh nhân dân

rộng khắp để có thể bảo vệ căn cứ từ xa, đồng thời đảm bảo hệ thống thông tin liên

lạc với các căn cứ và địa phương lân cận, kịp thời có sự hỗ trợ khi bị địch đánh

phá. Thực tế này cũng góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa dạng về quá

trình xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua.

4.2. Vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

Mặc dù chịu sự chi phối của điều kiện địa hình; thường xuyên có sự biến

động; khả năng sản xuất tự cấp, tự túc còn hạn chế; hệ thống căn cứ dễ bị chia cắt,

cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh phá mạnh, song vượt lên trên những trở

ngại này, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ không những đã đứng vững trước

nhiều cuộc tiến công càn quét, đánh phá của quân Mỹ, quân đồng minh và quân đội

VNCH mà còn có nhiều đóng góp quan trọng đối với cuộc kháng chiến tại các địa

phương nói riêng, sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc nói chung.

4.2.1. Nơi đứng chân và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ

huy kháng chiến của Khu V và các tỉnh trên địa bàn

Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trước hết là nơi đứng chân an toàn

cho các cơ quan đầu não của Liên tỉnh II, Khu V, các tỉnh, các huyện trên địa bàn.

Cơ quan Liên tỉnh II đứng chân ở vùng căn cứ địa cách mạng của Tỉnh ủy

Bình Định. Mặc dù di chuyển trên nhiều địa bàn khác nhau như Tam Kỳ, Quế Sơn,

Duy Xuyên, Phước Sơn, Hiên, Giằng nhưng trong những năm 1960-1963, 1965-

1967, 1970-1972, các cơ quan Khu ủy và BTL Quân Khu V chủ yếu đứng chân ở

Nước Oa, Nước Là thuộc vùng rừng núi Trà My (Quảng Nam). Từ 1973 đến 1975,

cơ quan Khu ủy V chuyển về Căn cứ Phước Trà (Quảng Nam).

135

Page 137: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Ở cấp thành phố, cơ quan Thành ủy Đà Nẵng đóng ở Khu Sông Đà, Căn cứ

K20. Ở cấp tỉnh, Căn cứ Sơn – Cẩm – Hà, Chiến khu Tiên Sơn là nơi đứng chân của

Tỉnh ủy Quảng Nam. Căn cứ Hòn Tàu là nơi đóng cơ quan của Đặc khu ủy Quảng

Đà. Khu II (Trà Bồng) là trung tâm căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Ban chỉ đạo

tiền phương và các cơ quan Tỉnh ủy Bình Định đóng cơ quan ở các Căn cứ Núi Bà,

Hòn Chè (Phù Cát). Tỉnh ủy Phú Yên đứng chân ở Căn cứ Thồ Lồ – Ma Dú (Đồng

Xuân), Vân Hòa (Sơn Hòa)… Ở cấp huyện, căn cứ của Huyện ủy Hòa Vang (Đà

Nẵng) đóng tại thôn Phú Túc, xã Hòa Phú (Hòa Vang). Địa đạo Phú An (xã Đại

Thắng, Đại Lộc, Quảng Nam) là căn cứ tiền phương của Đặc khu ủy Quảng Đà;

đồng thời cũng là nơi đứng chân của Huyện ủy Đại Lộc. Đặc biệt, địa điểm này còn

là nơi tiếp nhận các nguồn cán bộ và quân chủ lực từ hậu phương lớn bổ sung cho

chiến trường; đồng thời là nơi làm việc và hội họp của Đặc khu ủy Quảng Đà, Khu

ủy Khu V và Mặt trận 4 (1965-1972). Đây cũng là nơi trú chân an toàn của các cán

bộ lãnh đạo cao cấp: Võ Chí Công – Bí thư Khu ủy Khu V, Chu Huy Mân – Phó Bí

thư – Tư lệnh Quân khu V, Đoàn Khuê – Phó Chính ủy Khu V, Nguyễn Chánh – Tư

lệnh Mặt trận 4 Quảng Đà, Giáp Văn Cương – Thường vụ Đặc Khu ủy – Phó Tư

lệnh – Tham mưu trưởng Mặt trận 4 cùng nhiều vị lãnh đạo, tướng lĩnh khác đã

từng chiến đấu, công tác trên chiến trường Quảng Đà cũng có mặt tại đây.

Huyện ủy Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) đứng chân tại Căn cứ Vĩnh Tuy. Chiến khu

Rừng Nà (Đức Thạnh, Mộ Đức, Quảng Ngãi) là nơi đóng cơ quan của Huyện ủy

Mộ Đức. Các căn cứ Hòn Dồ, Hầm Hô là nơi đứng chân của Huyện ủy Tây Sơn

(Bình Định). Thị ủy Tuy Hòa đóng cơ quan tại Căn cứ địa Đá Bàn… Từ sau thắng

lợi của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, bên cạnh việc tái lập,

duy trì các căn cứ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhiều căn cứ địa mới tiếp tục

được xây dựng, mở rộng và không ngừng phát triển về mọi mặt trong quá trình

kháng chiến chống Mỹ. Từ những căn cứ riêng lẻ, dần dần phát triển thành mạng

lưới rộng khắp, tạo thế liên hoàn, đảm bảo đáp ứng nhu cầu đóng trú, sinh hoạt,

chiến đấu và bảo vệ cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến trên địa bàn.

Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là nơi đảm bảo sự liên lạc và tiếp nhận sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc; nơi diễn ra nhiều hội nghị đề ra

136

Page 138: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

những chủ trương, quyết định quan trọng của cuộc kháng chiến. Tại Căn cứ Nước Là, Liên Khu ủy V đã đề ra những biện pháp triển khai Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng. Nơi đây là địa điểm tập kết của nhiều cán bộ, LLVT từ miền Bắc vào trước khi được điều động về tham gia chiến đấu ở các địa phương. Hội nghị Liên khu ủy mở rộng tháng 4-1960 và Hội nghị Quân Khu ủy tháng 7-1961 được tổ chức tại Nước Là đã đề ra các chủ trương: phát động quần chúng ở miền núi chống càn quét, đẩy mạnh xây dựng LLVT ở cả 3 vùng chiến lược và đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, xây dựng và mở rộng căn cứ địa, xây dựng các cơ quan: quân y, quân giới, các đơn vị sản xuất. Căn cứ Nước Oa là nơi diễn ra Đại hội Khu ủy lần thứ III. Tại đây, Khu uỷ và BTL Quân khu V tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ các trung đoàn, sư đoàn, cán bộ các tỉnh trong toàn Khu về học tập nghị quyết của Đảng; đồng thời đề ra những nghị quyết quan trọng chỉ đạo hoạt động quân sự trong năm 1971-1972, quyết định mở các chiến dịch, các trận đánh của LLVT Quân khu V. Tháng 12-1973, tại Căn cứ Phước Trà, trên tinh thần quán triệt Nghị quyết 21 của BCHTƯ Đảng “nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên” [88, tr. 232], Đại hội đại biểu Đảng bộ Khu V lần thứ III đã thảo luận và ra nghị quyết mở các chiến dịch lớn diệt địch, mở rộng vùng giải phóng trên các chiến trường từ Tây Nguyên đến đồng bằng, tạo thời cơ thuận lợi tiến đến giải phóng các tỉnh trong toàn Khu V.

Những căn cứ địa cách mạng cấp tỉnh, thành phố, cấp huyện là nơi diễn ra các

kỳ đại hội, hội nghị của các cấp ủy Đảng, nơi tổ chức học tập và triển khai thực hiện

chủ trương, đường lối, kế hoạch chỉ đạo cuộc kháng chiến của Đảng đối với Trung

Trung Bộ.

4.2.2. Là hậu phương tại chỗ, trực tiếp bảo đảm cung cấp sức người, sức

của cho các lực lượng kháng chiến; nơi nhân dân gửi gắm niềm tin vào thắng

lợi của sự nghiệp cách mạng

Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ là hậu phương tại chỗ, trực tiếp

bảo đảm cung cấp sức người, sức của cho các lực lượng kháng chiến ở địa phương.

Ở địa bàn miền núi Trung Trung Bộ, điều kiện giao thông hết sức khó khăn do địch

thường xuyên đánh phá, phong tỏa. Các bến bãi thuộc bờ biển ở vùng đồng bằng bị

137

Page 139: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

địch kiểm soát hết sức gắt gao. Do vậy, việc tiếp nhận sự chi viện của cấp trên cho

địa bàn Trung Trung Bộ là hết sức khó khăn. Vượt qua những trở ngại này, các cấp

ủy Đảng và chính quyền đã kiên cường bám đất, bám dân, chủ động, sáng tạo trong

sản xuất và chiến đấu, xây dựng căn cứ địa cách mạng, dựa vào đó để đảm bảo duy

trì và phát triển lực lượng kháng chiến. Quân dân các căn cứ tích cực tận dụng, khai

thác những nguồn tài nguyên sẵn có trong tự nhiên để đáp ứng nhu cầu của đời sống

và chiến đấu.

Trong điều kiện vùng giải phóng còn nhỏ hẹp, vùng tranh chấp thường xuyên

bị địch đánh phá ác liệt thì các căn cứ địa ở miền núi trở thành hậu phương tại chỗ,

đảm bảo cung cấp một phần quan trọng nhu cầu về nhân lực, vật lực cho lực lượng

kháng chiến. Để làm được điều này, quân và dân tại nhiều căn cứ địa đã chủ động

đẩy mạnh hoạt động tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, coi đây là một trong những

nhiệm vụ quan trọng để tăng cường tiềm lực căn cứ địa. Bên cạnh việc khai thác các

sản phẩm sẵn có trong tự nhiên: thịt thú rừng, cá, tôm, các loại rau, củ… Nhiều cơ

quan, đơn vị và nhân dân còn tích cực khai phá đất đai ở những khu vực thung lũng,

sườn đồi, núi để trồng các loại cây lương thực: lúa, ngô, khoai, sắn đồng thời chăn

nuôi thêm một số loại gia súc, gia cầm: trâu, bò, dê, lợn, gà; tận dụng nguyên vật

liệu tại chỗ để xây dựng nhà cửa, lán trại, chế tạo vũ khí thô sơ: chông, thò, cung,

nỏ… Nguồn dược liệu quý từ rừng được khai thác, chế biến để phục vụ hoạt động y

tế. Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, một số căn cứ ở miền núi như:

Hiên, Sơn Tây, Vĩnh Thạnh, Thồ Lồ, Vân Hòa là nơi phong trào thi đua sản xuất

diễn ra sôi nổi, nguồn lương thực, thực phẩm không những đáp ứng đủ nhu cầu tại

chỗ mà còn có dự trữ. Được sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, năng suất và sản

lượng lương thực của đồng bào các dân tộc đã được cải thiện đáng kể. Nhờ sự chủ

động trong xây dựng nền kinh tế kháng chiến, các căn cứ địa không những đã giải

quyết được nhu cầu tại chỗ mà còn tích cực đóng góp cho kháng chiến. Nhân dân

căn cứ địa ở Trung Trung Bộ vừa đẩy mạnh sản xuất, ủng hộ lương thực cho kháng

chiến, vừa hăng hái đi dân công phục vụ chiến trường, thực hiện hoạt động phòng

gian bảo mật, phối hợp chiến đấu đánh địch bảo vệ căn cứ, tham gia LLVT; đặc biệt

138

Page 140: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

là tham gia phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, cuộc Tổng

tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Ở vùng đồng bằng, các cơ sở chính trị, “căn cứ

lõm” ở đô thị tuy không phải là nơi trực tiếp sản xuất tự cấp tự túc nhưng là nơi tổ

chức quyên góp ủng hộ kháng chiến từ các tầng lớp nhân dân trong vùng địch kiểm

soát, nơi vận động, tổ chức đưa thanh niên thoát ly tham gia kháng chiến. Thông

qua phong trào đóng quỹ nuôi quân, hũ gạo tiết kiệm, các đường dây tiếp tế, nhân

dân vùng địch đã tích cực tham gia ủng hộ kháng chiến. Đây cũng là nguồn lực

quan trọng tiếp thêm sức mạnh cho căn cứ địa.

Bên cạnh những đóng góp về nhân lực, vật lực cho kháng chiến, căn cứ địa

cách mạng ở Trung Trung Bộ còn là điểm tựa tinh thần, là nơi gửi gắm niềm tin của

nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Sự ra đời và lớn mạnh của các căn

cứ địa cách mạng gắn liền với sự thay đổi cục diện chiến trường và sự phát triển của

cuộc kháng chiến. Căn cứ địa cách mạng trở thành biểu tượng cho ý chí, sức mạnh

của chiến tranh cách mạng, của tinh thần yêu nước, chống xâm lược của quân và

dân Trung Trung Bộ. Căn cứ địa cách mạng là chỗ dựa về chính trị, tinh thần, là nơi

để đồng bào các dân tộc hướng về Đảng, Bác Hồ, củng cố niềm tin vào thắng lợi

của sự nghiệp cách mạng, tích cực tham gia kháng chiến.

4.2.3. Là bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT tổ chức các chiến

dịch, trận đánh tiêu hao sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích

Để tổ chức các chiến dịch, trận đánh lớn tấn công vào sào huyệt của địch, các

cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến và LLVT cần phải có đất đứng chân an toàn.

Nơi đó chính là căn cứ địa cách mạng. Căn cứ là địa bàn chuẩn bị về hậu cần và

LLVT cho các trận đánh tiến công quân địch ở bên ngoài. Trong cuộc Tổng tiến

công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, mọi công tác chuẩn bị từ lực lượng chính trị,

LLVT, cho đến việc vận chuyển vũ khí, tài liệu, truyền đạt mệnh lệnh tổng tiến

công và nổi dậy, phân công các đồng chí dẫn đường cho LLVT đều được chuẩn bị

tại Căn cứ K20. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, tại Căn cứ Hòn

Tàu, Đặc khu ủy Quảng Đà đã vạch kế hoạch tấn công và nổi dậy giải phóng Đà

Nẵng; đồng thời tổ chức và phân công các mũi tấn công về giải phóng thành phố.

139

Page 141: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Tại Căn cứ Tiên Sơn, tháng 3-1975, Tỉnh ủy Quảng Nam chỉ đạo bộ đội địa phương

phối hợp với quân chủ lực đập tan Chi khu quận lỵ Tiên Phước – Phước Lâm, từ đó

tiến về giải phóng thị xã Tam Kỳ, tỉnh lỵ Quảng Tín, tạo thế bao vây cô lập Đà

Nẵng, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch giải phóng thành phố này.

Trên cơ sở sự chuẩn bị về hậu cần và LLVT, căn cứ địa trở thành bàn đạp

xuất phát tiến công của các LLVT, tổ chức các chiến dịch, trận đánh tiêu hao sinh

lực địch và phát triển chiến tranh du kích. Từ căn cứ, LLVT tiến công vào các cứ

điểm, đồn bốt của địch. Đêm ngày 26, rạng ngày 27-3-1965, xuất phát từ Khu Sông

Đà, một đơn vị đặc công đánh thủy tổ chức đánh chiếc tàu US.LST550 của Mỹ trên

sông Hàn ngay khi địch chưa kịp bốc dỡ hàng hóa. Tháng 10-1965, trong trận tập

kích vào sân bay Nước Mặn, Căn cứ K20 trở thành điểm ém quân và xuất phát an

toàn của Tiểu đoàn đặc công 489. Từ trung tuần tháng 11-1965, Căn cứ Sơn – Cẩm

– Hà đóng vai trò bàn đạp để Sư đoàn 2 thuộc LLVT Quân khu V mở trận tấn công

chi khu quận lỵ Hiệp Đức. Trong những năm sau này, Sư đoàn 2 cũng luôn lấy Sơn

– Cẩm – Hà làm bàn đạp để mở các chiến dịch tiến công hoặc những đợt hoạt động

hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng ở các huyện Hiệp Đức, Quế Sơn, Thăng

Bình, Bắc Tam Kỳ, Tiên Phước. Hơn thế nữa, Sơn – Cẩm – Hà còn là căn cứ địa,

hậu phương và bàn đạp cho các tiểu đoàn tập trung của tỉnh Quảng Nam trong hoạt

động chiến đấu suốt những năm kháng chiến chống Mỹ. Chiến khu Vĩnh Sơn là nơi

trú quân của các LLVT để tổ chức hai trận đánh lịch sử: Ba Gia (5-1965) và Vạn

Tường (8-1965). Từ Căn cứ Núi Bà, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 12 Sư đoàn 3 Sao

Vàng tiến về giải phóng quận lỵ Tuy Phước vào ngày 22-12-1967. Từ những vị trí

ém quân ở “Căn cứ lõm” Liên Trì, Ninh Tịnh (Thị xã Tuy Hòa), Đại đội đặc công

202 xuất kích đánh vào Trung đoàn 47 quân đội VNCH, Khu cố vấn Mỹ và Tỉnh

đường Phú Yên trong đêm 30 Tết Mậu Thân 1968. Trong chiến dịch Thu năm 1972,

các tiểu đoàn 70, 72, 74 và Sở chỉ huy tiền phương của tỉnh Quảng Nam đã tập kết

lực lượng tại “Căn cứ lõm” Bầu Bính, sau đó tiến công tiêu diệt các chốt điểm của

địch ở Mù U, Cù Đồi, giải phóng xã Bình Dương, huyện Thăng Bình.

140

Page 142: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Bên cạnh đó, các căn cứ còn là địa bàn để lực lượng kháng chiến phát triển

mạnh mẽ chiến tranh du kích. Để đối phó với những cuộc càn quét của địch, bảo vệ

căn cứ địa, lực lượng du kích phối hợp cùng LLVT sử dụng hầm chông, bẫy đá… tổ

chức mai phục, đánh và tiêu hao nhiều bộ phận sinh lực địch. Điển hình là các cuộc

tấn công quy mô lớn của địch vào Mật khu Đỗ Xá trong năm 1962, 1963… đều bị

lực lượng du kích và bộ đội chủ lực bẻ gãy, hàng chục máy bay địch bị bắn rơi.

4.2.4. Là nơi tiếp nhận sự chi viện bằng đường bộ, đường biển cho chiến

trường Khu V, góp phần hình thành thế bao vây chia cắt, trực tiếp uy hiếp lực

lượng của địch ở Trung Trung Bộ

Trong kháng chiến chống Mỹ, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ

được xây dựng nằm trên tuyến hành lang chiến lược Bắc – Nam, nơi các tuyến giao

thông chi viện bằng đường bộ và đường biển đi qua, nơi tiếp nhận và vận chuyển

nguồn hàng chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc vào. Phần lớn các căn cứ địa nằm

trên tuyến hành lang chiến lược H50 và hành lang chiến lược của Trung ương.

Tuyến đường Hồ Chí Minh trên bộ dài trên 400 km nối liền các tỉnh Quảng Đà,

Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc đi qua căn cứ

huyện Hiên (Quảng Nam), Sơn Tây, Trà Bồng (Quảng Ngãi). Tuyến vận chuyển

Bắc – Nam trên biển đi qua các căn cứ: Khu Sông Đà (Đà Nẵng), Đức Phổ (Quảng

Ngãi), Lộ Diêu (Bình Định), Vũng Rô (Phú Yên). Vì vậy, ngoài nhiệm vụ hậu

phương tại chỗ cho cuộc kháng chiến tại địa phương, các căn cứ địa còn là nơi tiếp

nhận và trung chuyển nguồn chi viện của Trung ương cho những tỉnh bạn. Một khối

lượng lớn hàng hóa, vũ khí, cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào chi viện cho Khu V,

Tây Nguyên, Nam Bộ được chuyển qua các tuyến đường vận chuyển của Trung

Trung Bộ. Hệ thống căn cứ địa có vai trò trong việc duy trì và bảo vệ an toàn tuyến

hành lang chiến lược Bắc – Nam đi qua địa bàn các tỉnh Trung Trung Bộ. Để đảm

nhận vai trò này, hầu hết các căn cứ đều có lực lượng chuyên trách tham gia bảo vệ

đường hành lang, các trạm giao liên, vận chuyển phục vụ đường hành lang.

Hoạt động tiếp nhận sự chi viện hàng hóa từ miền Bắc vào Khu V được thực

hiện từ rất sớm. Ngay từ chuyến đi đầu tiên vào cuối năm 1955, Tập đoàn đánh cá

141

Page 143: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Sông Đà đã mang vào Khu V một số tài liệu của Trung ương để chỉ đạo phong trào

cách mạng cùng với 200.000 đồng tiền VNCH, 2 chiếc máy chữ, nhiều thuốc men,

vải vóc…[150, tr. 258]. Sau khi Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng ra đời, ngoài

nhiệm vụ vận chuyển người, tài liệu, các thuyền của Tập đoàn đánh cá Sông Đà còn

chuyên chở vũ khí, đạn dược cho các chiến trường từ những căn cứ ở ven biển Khu

V vào đến Đông Nam Bộ.

Bước vào giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, yêu cầu về vũ

khí, hàng hóa cho chiến trường Khu V rất lớn và cấp thiết. Để đưa hàng chi viện

theo đường biển vào các bến ở Khu V, Trung ương đã chỉ đạo cho Liên tỉnh III và

các địa phương chuẩn bị những điều kiện về bến bãi, nhân lực, phương tiện vận

chuyển, xây dựng địa bàn để tiếp nhận, bảo vệ hàng hóa. Năm 1964, bến Lộ Diêu

(Bình Định) được chọn là nơi tiếp nhận hàng chi viện từ các “tàu Không số”. Đây là

bãi ngang thuộc thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn (Bình Định). Khu

vực này có địa thế biệt lập với một mặt giáp biển và ba mặt giáp núi. Ở hai đầu thôn

có đèo Lộ Diêu (xã Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn). Phía Nam là đèo Hà Ra, một địa

bàn thuộc vùng giải phóng của xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ, nơi có tổ chức Đảng,

các đoàn thể quần chúng phát triển mạnh. Với những đặc điểm trên, bến Lộ Diêu hội

đủ các điều kiện để “tàu Không số” cập bến. Đêm 31-10-1964, Tàu 401 chở 33 tấn vũ

khí vào bến Lộ Diêu. Tranh thủ thời gian ngay trong đêm, lực lượng du kích và dân

quân nhanh chóng chuyển vũ khí lên bờ và cất giấu ở nơi an toàn. Sau chuyến mở

đường, theo báo cáo của Đại tá Trương Thái Ất, nguyên chủ nhiệm Chính trị Đoàn

125, cho đến năm 1971, tổng cộng có 3 chuyến “tàu Không số” vào Bình Định với số

hàng hóa là 89 tấn [129, tr. 234].

Bến thứ hai là Vũng Rô (Phú Yên), một trong những bến quan trọng thực hiện

nhiệm vụ tiếp nhận chi viện của Trung ương. Đây là vùng biển tương đối sâu nằm

trong địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp dãy

núi Đá Bia cao 706 m. Phía Nam giáp Hòn Nưa. Phía Tây giáp dãy đèo Cả, Quốc lộ

1A và đường sắt. Phía Đông có mũi Điện (còn gọi là Mũi Nạy). Với ba mặt được

bao bọc bởi núi, vịnh Vũng Rô là khu vực khá kín đáo. Núi Đá Bia và Mũi Điện là

142

Page 144: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

những mục tiêu định hướng, chỉ đường rất thuận lợi cho tàu khi xác định điểm

chuyển hướng để vào bến. Địa hình Vũng Rô vừa có núi non hiểm trở bao bọc, lại

có nhiều hang, gộp đá rất thuận tiện cho việc xây dựng căn cứ tiếp nhận và cất giấu

tạm thời chờ vận chuyển về vùng giải phóng. Hơn thế nữa, ngoài việc huy động dân

công vận chuyển bằng đường bộ, ở đây còn có thể sử dụng thuyền của ngư dân để

vận chuyển hàng hóa theo cửa sông Đà Nông để lên phía Tây đường quốc lộ. Bên

cạnh đó, địa bàn Vũng Rô cũng là nơi tiếp giáp vùng giải phóng rộng lớn bao gồm

các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân. Lực lượng du kích và dân quân ở đây khá mạnh. Tuy

nhiên, ngoài những yếu tố thuận lợi kể trên, Vũng Rô có một số hạn chế như: Khu

vực bến nằm sát quốc lộ 1A, đường sắt, đường hàng không Bắc Nam, thường xuyên

có phương tiện đi lại, địch dễ phát hiện; địa hình trống trải không có kênh rạch cây

cối um tùm để cất giấu khi tàu cần lưu lại bốc hàng; cửa vào vịnh Vũng Rô là cửa

độc đạo giữa Hòn Nưa và Mũi Điện, nếu địch phát hiện án ngữ cửa vịnh thì “tàu

Không số” khó thoát ra Biển Đông. Trên cơ sở đánh giá các yếu tố thuận lợi và khó

khăn nêu trên, Hội nghị Ban Thường vụ Liên Tỉnh ủy III và Phân khu Nam quyết

định chọn Vũng Rô làm căn cứ để đón tàu của miền Bắc vào chi viện cho Khu V.

Trong kháng chiến chống Mỹ, từ cuối 1964 đến đầu năm 1965 đã có bốn chuyến tàu

cập bến Vũng Rô, trong đó có ba chuyến thành công, một chuyến bị địch phát hiện

(Tàu 143).

Sau sự kiện Tàu 143 ở Vũng Rô bị phát hiện, địch tăng cường hoạt động tuần

tiễu, phong tỏa Biển Đông. Vượt qua thời điểm khó khăn này, các “tàu Không số”

vẫn tiếp tục những chuyến hàng vào Nam. Cuối năm 1966, Tàu 41 chở 59 tấn vũ

khí vào bến Phổ An, Đức Phổ (Quảng Ngãi). Những năm sau đó, các bến Lộ Diêu

(Bình Định), Phổ An, Đức Phổ (Quảng Ngãi) tiếp tục là điểm đến của các “tàu

Không số”. Mặc dù có một số chuyến cập bến không thành công nhưng nhờ đó, các

địa phương có điều kiện tiếp nhận số lượng đáng kể vũ khí, hàng hóa đáp ứng yêu

cầu của cuộc kháng chiến.

Bên cạnh các bến bãi đảm nhận nhiệm vụ tiếp nhận sự chi viện từ miền Bắc,

các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ còn là nơi có nhiều kho tàng thực hiện việc bảo

quản, trung chuyển vũ khí, hàng hóa cho các địa phương ở Khu V. Điều này góp

143

Page 145: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

phần tăng cường thực lực cho các căn cứ, hỗ trợ phong trào cách mạng ở các địa

phương. Những bến bãi như: Khu Sông Đà, Lộ Diêu, Vũng Rô, Phổ An… đã tồn tại

và hoạt động ngay trên chính địa bàn mà địch đang trực tiếp kiểm soát. Thực tế này

cũng tạo nên một thế tiến công chiến lược mới cho lực lượng cách mạng, thực sự uy

hiếp trực tiếp đối với lực lượng địch ở Trung Trung Bộ.

4.3. Một số bài học kinh nghiệm

4.3.1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải chú trọng đặc điểm địa –

chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế, địa – văn hoá của địa phương

Về đặc điểm địa – chính trị, Trung Trung Bộ là vùng đất luôn đi đầu trên trận tuyến chống xâm lược, là nơi mở đầu các phong trào yêu nước và tiếp nhận từ rất sớm những hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trải qua quá trình lịch sử, truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất trong đấu tranh chống áp bức, bất công, chống xâm lược đã trở thành đặc điểm địa – chính trị nổi bật của vùng đất này. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, truyền thống này tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 và đỉnh cao là cuộc Tổng khởi giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Với đặc điểm địa – chính trị nêu trên, Trung Trung Bộ hội đủ yếu tố “nhân hòa” cho việc xây dựng, mở rộng và phát triển các căn cứ địa.

Về đặc điểm địa – quân sự, Trung Trung Bộ có vị trí chiến lược quan trọng ở

khu vực miền Trung, là cửa ngõ từ Biển Đông vào Tây Nguyên và Đông Dương; là

đầu mối giao thông và là cầu nối đi các chiến trường trong cả nước. Đặc biệt, địa

bàn rừng núi Trung Trung Bộ là nơi “tiến có thể công, thoái có thế thủ”, thuận lợi

cho hoạt động chiến tranh nhân dân. Quân dân các địa phương đã biết tận dụng triệt

để lợi thế này để xây dựng nơi đây thành các căn cứ địa cách mạng. Trong quá trình

kháng chiến, địa bàn rừng núi các tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình

Định, Phú Yên trở thành nơi tổ chức, xây dựng LLVT, chuẩn bị điều kiện cần thiết

để LLVT tiến về đồng bằng, mở rộng vùng làm chủ. Với việc xây dựng hệ thống

các căn cứ địa cách mạng ở miền rừng núi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,

lực lượng cách mạng đã làm chủ 3/4 diện tích đất đai trên toàn địa bàn Trung Trung

Bộ, tạo thế bao vây khiến cho địch co cụm về đồng bằng, ven đô.

Về đặc điểm địa – kinh tế, tuy địa bàn này còn nghèo nàn, lạc hậu nhưng trên

144

Page 146: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

cơ sở tận dụng đất đai, sản vật sẵn có trong tự nhiên, quân dân Trung Trung Bộ có

thể chủ động tổ chức sản xuất để giải quyết một phần nhu cầu đời sống cho cán bộ,

chiến sĩ và nhân dân. Hầu hết các căn cứ địa đều triển khai có hiệu quả hoạt động

tăng gia sản xuất. Mặc dù hoạt động sản xuất kinh tế ở miền núi còn hạn chế nhưng

điều quan trọng là đã góp phần giảm bớt gánh nặng chi viện của Trung ương. Việc

phát triển kinh tế tự túc, tự cấp ở các căn cứ miền núi là hoạt động có ý nghĩa thiết

thực nhằm tận dụng, khai thác những ưu thế về địa – kinh tế của vùng rừng núi

trong xây dựng, phát triển căn cứ địa. Nhờ đó, cho dù địch đánh phá ác liệt, thực

hiện bao vây phong tỏa về kinh tế, các căn cứ vẫn đứng vững và phát huy vai trò đối

với cuộc kháng chiến tại địa bàn. Khác với miền núi, ở vùng đồng bằng, hoạt động

sản xuất của nhân dân tương đối thuận lợi, sản lượng lương thực có phần dồi dào

hơn, các loại hàng hóa phong phú hơn. Việc khai thác tối đa nguồn lợi kinh tế ở

đồng bằng để phục vụ cho kháng chiến là yêu cầu tất yếu. Các căn cứ du kích, “căn

cứ lõm” vừa là nơi trực tiếp sản xuất, vừa là nơi thu hút, động viên cao nhất sự đóng

góp về kinh tế của nhân dân cho kháng chiến. Một cách khái quát, đặc điểm địa –

kinh tế ở Trung Trung Bộ về cơ bản đảm bảo đáp ứng được yêu cầu xây dựng hệ

thống căn cứ địa cách mạng.

Về đặc điểm địa – văn hóa, như đã phân tích ở phần trên, căn cứ địa ở Trung

Trung Bộ chủ yếu được xây dựng ở miền rừng núi. Đây là địa bàn cư trú của nhiều

dân tộc với sự đa dạng về văn hóa. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những nét

tương đồng về văn hóa giữa các dân tộc. Sự tương đồng biểu hiện ở truyền thống

đoàn kết, tính cộng đồng; tinh thần yêu chuộng tự do, dũng cảm đấu tranh chống

cường quyền áp bức và khả năng bền bỉ chịu đựng gian khó. Từ những nét tương

đồng đó, qua sự tuyên truyền, giác ngộ của Đảng, đồng bào các dân tộc hăng hái

tham gia xây dựng các làng bí mật, lập cứ, đấu tranh chống địch dồn dân, trở thành

chỗ dựa quan trọng trong hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng.

Tóm lại, dựa vào đặc điểm địa – chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế, địa –

văn hoá của địa phương, quân dân Trung Trung Bộ đã biết khai thác hiệu quả để

xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng một cách phù hợp. Nhờ đó, các căn cứ địa

145

Page 147: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

đã không ngừng phát triển lớn mạnh và phát huy vai trò đối với cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước tại địa phương.

4.3.2. Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể

nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng

Trong quá trình kháng chiến, sự ra đời và phát triển của các căn cứ địa cách

mạng luôn gắn liền với vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân

dân. Nơi nào tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân mạnh thì nơi ấy

huy động được nguồn lực đóng góp cho kháng chiến càng nhiều. Do vậy, việc phát

huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong quá trình

xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng là vấn đề hết sức quan trọng nhằm đảm

bảo sự tồn tại và phát triển của căn cứ địa cách mạng.

Để phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ chức Đảng phải được xây dựng vững

mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, việc học

tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, việc triển khai các đợt chỉnh huấn đối với các

tổ chức Đảng và đảng viên được thực hiện một cách nghiêm túc theo sự chỉ đạo của

Khu ủy V. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nên tuyệt đại đa số cán bộ,

đảng viên của Đảng đều tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, hết lòng

phụng sự nhân dân, được nhân dân tin yêu. Nhiều tấm gương chiến đấu bền bỉ, hy

sinh anh dũng của cán bộ, đảng viên đã làm tăng thêm lòng tin yêu của nhân dân đối

với Đảng. Cán bộ, đảng viên của Đảng, đặc biệt là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt

luôn bám sát địa bàn, dựa vào dân, tận tụy chiến đấu hy sinh vì nhân dân. Đa số cán

bộ, đảng viên của Đảng phát huy được vai trò là lực lượng tiên phong, gương mẫu

trong mọi hoạt động. Những biểu hiện sai lệch về tư tưởng của một phận cán bộ,

đảng viên trong tổ chức Đảng được chấn chỉnh kịp thời.

Trong công tác cán bộ, tổ chức Đảng đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng

đội ngũ cán bộ tại chỗ. Từ đầu năm 1959, tại Căn cứ Vĩnh Thạnh đã mở lớp huấn

luyện tập trung đầu tiên cho gần 60 nam nữ thanh niên ưu tú để đào tạo cán bộ cơ sở

[8, tr. 151]. Năm 1974, căn cứ địa miền núi Quảng Đà cử 32 đồng chí đi học trường

Đảng tỉnh, khu; 87 đồng chí đi học các lớp bổ túc văn hóa, cán bộ trường tỉnh,

146

Page 148: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

huyện [144, tr. 6]. Khu V, các tỉnh liên tục mở các lớp bồi dưỡng, huấn luyện cho

hàng ngàn cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, đã tạo được nguồn cán bộ đáp ứng được yêu

cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến; đồng thời bổ sung cho LLVT. Ở căn cứ địa, tổ

chức Đảng, đảng viên thực sự trở thành trung tâm đoàn kết các dân tộc, các tầng lớp

xã hội. Sự tiên phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên trong hoạt động xây dựng

và bảo vệ căn cứ, trong các phong trào thi đua sản xuất và chiến đấu đã lôi cuốn,

động viên các tầng lớp nhân dân căn cứ địa nỗ lực, tự cường vượt lên mọi gian khổ,

hy sinh hăng hái tham gia kháng chiến.

Bên cạnh công tác xây dựng Đảng, vấn đề xây dựng chính quyền nhân dân là

một trong những nhiệm vụ căn bản của các căn cứ địa. Chính quyền phải thật sự

vững mạnh, được nhân dân ủng hộ mới đủ sức điều hành, quản lý mọi mặt đời sống,

xã hội, mới có khả năng huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến. Ở nhiều nơi,

chính quyền tự quản của nhân dân được thành lập ngay từ khi căn cứ địa mới được

hình thành. Từ năm 1956, chính quyền tự quản của nhân dân được thành lập ở Căn

cứ địa Thồ Lồ (Phú Yên). Tháng 9-1959, Ủy ban nhân dân tự quản xã đầu tiên được

thành lập ở xã Trà Phong (Căn cứ Trà Bồng) [63, tr. 75]. Hệ thống chính quyền

nhân dân được thành lập tùy theo quy mô của các căn cứ địa cách mạng. Có căn cứ

thành lập được chính quyền cấp xã, thôn, huyện như: Căn cứ Quế Tiên (Quảng

Nam), Căn cứ Trà Bồng (Quảng Ngãi), Căn cứ Vĩnh Thạnh (Bình Định), Căn cứ

Tây Nam (Phú Yên)… Có căn cứ thành lập được chính quyền nhân dân từ cấp tỉnh,

huyện đến xã thôn như Căn cứ Vân Hòa (Phú Yên)… Chính quyền nhân dân đã

thực sự phát huy vai trò trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ

trương, đường lối chính sách của Đảng, tổ chức các hoạt động sản xuất, xây dựng

đời sống mới, huy động đóng góp nghĩa vụ nuôi quân, giữ gìn trật tự an ninh căn cứ

địa, động viên lực lượng tham gia dân công và LLVT.

Được sự quan tâm của Đảng, chính quyền, từ sau sự ra đời của MTDTGPMN

Việt Nam, ở nhiều căn cứ, các đoàn thể nhân dân như: MTDTGP, Đoàn Thanh niên

nhân dân cách mạng, Hội phụ nữ giải phóng, Hội Phụ lão được thành lập và phát

triển rộng khắp. Các tổ chức đoàn thể có vai trò tích cực trong việc đoàn kết các

tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, giáo dục, động viên nhân dân chấp hành đường lối,

147

Page 149: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chính sách của Đảng, hăng hái tham gia đóng góp cho kháng chiến: chế tạo vũ khí

thô sơ, đi dân công làm đường, nộp thuế đảm phụ, tham gia tòng quân nhập ngũ…

4.3.3. Tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực

hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chủ trương của Trung ương Đảng đối

với việc giải quyết vấn đề dân tộc ở miền Nam là: “Cách mạng miền Nam phải có

chính sách đúng đắn đối với các dân tộc ít người để phá âm mưu xây dựng căn cứ

của địch, phá chính sách chia rẽ dân tộc của địch để mở rộng Mặt trận Dân tộc

thống nhất ở miền Nam, để xây dựng căn cứ cách mạng của nhân dân miền Nam”

[162, tr. 7]. Chủ trương đó xuất phát từ thực tế phần lớn căn cứ địa ở Trung Trung

Bộ được xây dựng ở miền rừng núi – nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Vì

vậy, các cấp ủy Đảng, chính quyền, LLVT tại các căn cứ đã chú trọng thực hiện các

vấn đề:

Thứ nhất, trên tinh thần quán triệt chủ trương của Chính phủ Cách mạng lâm

thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về việc “thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn

kết giữa các dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, thực hiện bình

đẳng giữa các tôn giáo” [9, tr. 431], trong quá trình vận động đồng bào các dân tộc

tham gia hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ, cán bộ đảng viên luôn tôn trọng

phong tục tập quán, tự do tín ngưỡng của nhân dân. Trong quan hệ giữa các dân tộc,

cán bộ chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền vận động, xây dựng quan hệ bình đẳng,

xóa bỏ sự kỳ thị giữa các dân tộc, tăng cường sự hợp tác, tương trợ, tình đoàn kết

trong nội bộ các dân tộc, giữa các dân tộc. Khi địch thực hiện thủ đoạn chia rẽ các

dân tộc, cán bộ luôn luôn lấy đoàn kết dân tộc làm trọng, xem Kinh – Thượng là anh

em một nhà, lấy chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và lý tưởng “Đất nước

Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mục tiêu

[18, tr. 180]. Nhờ đó, đã đập tan những âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực

phản động, tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc cùng chung sống trong các căn

cứ, củng cố niềm tin của đồng bào vào chính sách dân tộc của Đảng.

Thứ hai, tranh thủ lôi kéo các tầng lớp bên trên người dân tộc và những người

làm việc trong bộ máy của địch ở các thôn, xã. Cán bộ vận động các già làng,

148

Page 150: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

trưởng bản đồng tình với các cuộc đấu tranh của quần chúng. Lực lượng này đã phát

huy vai trò tích cực trong việc thuyết phục, động viên đồng bào tham gia đấu tranh

chống địch dồn dân, xây dựng và bảo vệ các căn cứ: B1 (Quảng Nam), Vĩnh Thạnh

(Bình Định), Thồ Lồ (Phú Yên)… Bên cạnh đó, nhằm tăng cường, củng cố khối

đoàn kết dân tộc, các căn cứ còn mời họ tham gia vào Ủy ban nhân dân tự quản, tổ

chức mặt trận ở xã, huyện… Tháng 1-1961, một nhân sĩ người dân tộc Cor được

bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân tự quản huyện Trà Bồng [63, tr.100]. Đối với

những người làm việc trong bộ máy của địch thì vận động, xây dựng họ thành cơ sở

cách mạng, biến chính quyền cơ sở của địch thành chính quyền hai mặt, bên ngoài

là của địch, bên trong do lực lượng cách mạng nắm. Tại Căn cứ K20 (Đà Nẵng),

ngay trong ấp chiến lược Xóm Mới, lực lượng kháng chiến vẫn xây dựng được cơ

sở mật. Ở các làng Mỹ Thị, Đa Mỹ, Nước Mặn, Xóm Cát... Tuy bên ngoài là tổ

chức chính quyền địch quản lý, nhưng bên trong ta xây dựng được tổ chức Đảng,

thành lập các tiểu đội du kích, các đoàn thể quần chúng.

Thứ ba, các cấp ủy Đảng, chính quyền luôn chăm lo nâng cao đời sống mọi

mặt cho đồng bào các dân tộc. Đây là việc làm hết sức thiết thực, một trong những

nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc của Đảng, nhất là tại các căn cứ địa

miền núi. Thực tế hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã

chỉ ra rằng, có đem lại những lợi ích cụ thể trong đời sống các dân tộc, cách mạng

mới có thể tạo dựng được niềm tin của đồng bào, mới có thể huy động tập hợp, đoàn

kết được các lực lượng dân tộc.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến những năm kháng chiến

chống Pháp, chống Mỹ, đời sống của đa số đồng bào các dân tộc miền núi Trung

Trung Bộ còn hết sức khó khăn, lạc hậu. Vì vậy, việc từng bước nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho đồng bào, tạo điều kiện cho sự phát triển bình đẳng giữa

các dân tộc đã trở thành mục tiêu quan trọng mà các cấp ủy Đảng, chính quyền ở

các căn cứ hướng đến. Đây cũng là cách làm thiết thực nhất để củng cố niềm tin của

người dân đối với chính sách dân tộc của Đảng, tạo động lực để đồng bào hăng hái

đứng lên đoàn kết đấu tranh chống xâm lược. Hơn nữa, việc nâng cao đời sống vật

149

Page 151: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

chất và tinh thần cho đồng bào còn có ý nghĩa bồi dưỡng sức dân, củng cố thực lực

cách mạng cho các căn cứ địa.

Phát triển kinh tế là một trong vấn đề cơ bản nhằm từng bước nâng cao đời

sống đồng bào các dân tộc. Ở nhiều căn cứ, được sự hướng dẫn của cán bộ, đồng

bào các dân tộc hăng hái khai thác đất đai, tổ chức lao động sản xuất, cải tiến cách

thức sản xuất như: thực hiện vòng công hợp tác, làm rẫy kết hợp trồng lúa nước ở

những địa bàn thuận lợi, phát triển chăn nuôi, tăng cường trồng các loại cây màu…

Nhờ đó, các căn cứ địa không những đã giải quyết được nạn đói kinh niên trước đó

mà còn có dự trữ, đóng góp nghĩa vụ và bán cho chính quyền cách mạng. Tuy

nhiên, điều quan trọng hơn cả là cách thức sản xuất mới đã làm thay đổi tập quán

canh tác lạc hậu, tạo điều kiện cho việc hình thành quan hệ sản xuất mới, xây dựng

không khí mới trong hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế ở miền núi.

Đi đôi với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhiều chính sách tiến bộ về chính

trị, văn hóa cũng được thực thi bao gồm: tổ chức cho nhân dân tham gia bầu chính

quyền tự quản ở xã, thôn; tổ chức phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ, vận

động nhân dân từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, hướng dẫn xây dựng đời sống

văn hóa mới tiến bộ… Tất cả những việc làm này đã làm thay đổi căn bản đời sống

vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc tại các căn cứ địa. Từ cuộc sống

nghèo khổ, lạc hậu, phụ thuộc vào tự nhiên và người đứng đầu các làng bản, tộc họ,

đồng bào vươn lên làm chủ bản làng, rừng núi, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ

trong quan hệ với các dân tộc xung quanh. Một cuộc sống mới được hình thành trên

tinh thần tự do lao động sản xuất, đoàn kết, tương trợ, hợp tác diễn ra ở nhiều làng

bản. Những đổi thay này thực sự mang lại niềm tin tưởng lớn lao cho đồng bào

đối với sự lãnh đạo của Đảng. Chính niềm tin ấy đã cổ vũ đồng bào gắn bó chặt

chẽ với căn cứ địa, hết lòng đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.

Thứ tư, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc. Đây là vấn đề có tầm

quan trọng đặc biệt trong chính sách dân tộc của Đảng. Đồng bào dân tộc luôn tự

hào, tin tưởng về người đại biểu của dân tộc mình, đặc biệt là đối với những cán bộ

người dân tộc đã được Đảng bồi dưỡng, đào tạo. Chính cán bộ người dân tộc mới

am hiểu về địa bàn, phong tục tập quán, tâm lý, nguyện vọng của đồng bào mình, dễ

150

Page 152: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

truyền đạt, vận động họ tham gia xây dựng và bảo vệ căn cứ địa. Từ sau khởi nghĩa

Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, người dân tộc Cor tham gia vào ban lãnh đạo

tỉnh. Đến Đại hội lần thứ nhất của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2-1960), trong tổng số

17 người được bầu vào ban lãnh đạo tỉnh có 3 người dân tộc Hrê, 2 người dân tộc

Cor tham gia [63, tr. 106].

Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc, tạo điều kiện để họ làm việc,

cống hiến cho địa phương cũng là cách thức để nâng cao uy tín, năng lực cho cán bộ

người dân tộc. Qua đó, thể hiện niềm tin của Đảng vào khả năng của quần chúng

người dân tộc. Việc làm này không những khẳng định quan điểm, đường lối đúng

đắn của Đảng về công tác quần chúng mà còn góp phần củng cố niềm tin của đồng

bào đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Trong thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung Trung Bộ, đã

có nhiều cán bộ người dân tộc được Đảng đào tạo, bồi dưỡng nắm giữ những vị trí

chủ chốt như: Bhriu Trứ (thôn Chrlac, xã Racông, huyện Nam Giang) là đảng viên

người dân tộc đầu tiên được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Đà; Đinh

Xuân Ba (dân tộc Rhe), Đinh Thoang và Đinh Tý (dân tộc Ba Na) là Tỉnh ủy viên

tỉnh Bình Định. Họ đều là những cán bộ trưởng thành từ các căn cứ địa cách mạng.

Chính sách đúng đắn của Đảng trong việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ và

thực tiễn cuộc kháng chiến làm cho đội ngũ cán bộ đảng viên người dân tộc trưởng

thành nhanh. Ở nhiều địa phương, lực lượng này đã có những đóng góp quan trọng

trong quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng miền núi. Khi

địch tiến hành các cuộc càn quét lớn vào căn cứ địa, chi bộ Đảng vững vàng lãnh

đạo nhân dân tổ chức bố phòng, đánh địch, kiên quyết giữ vững quyền làm chủ, đẩy

lùi các cuộc càn quét của địch. Điển hình như các xã: Chà Val, La Dêê (Căn cứ

Nam Giang); Thồ Lồ, Bầu Bèng, Phú Mỡ (Căn cứ Thồ Lồ – Ma Dú)… đã trở thành

những “mảnh đất thánh” của phong trào cách mạng Khu V, được Nhà nước phong

tặng danh hiệu là những xã anh hùng.

Nhờ giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc mà hàng ngàn cán bộ, đảng viên của

Đảng bám trụ hoạt động tại các căn cứ địa vùng rừng núi đã được đồng bào các dân

tộc nơi đây đùm bọc, chở che. Nhiều cuộc đấu tranh của đồng bào miền núi góp

151

Page 153: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

phần làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn đánh phá của địch, bảo vệ an toàn căn cứ

địa cách mạng, tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc tại nhiều căn cứ địa

luôn được giữ vững, đồng bào hết lòng ủng hộ nhân lực, vật lực cho kháng chiến.

4.3.4. Xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện, kết hợp xây

dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng Sự ra đời của các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ mới chỉ là thắng lợi bước đầu.

Để các căn cứ có thể đứng vững và phát huy vai trò đối với cuộc kháng chiến thì

cần phải ra sức xây dựng củng cố về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đồng

thời kết hợp hài hòa giữa hai nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng.

Trong xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng về chính trị là nhiệm vụ hàng

đầu cần được coi trọng bởi vì sự vững chắc của căn cứ địa trước hết phải dựa vào

“thế trận lòng dân”; tức là sự giác ngộ cách mạng, sự nhất trí về chính trị, tinh thần

của nhân dân, dựa vào sự vững chắc của các tổ chức chính trị của quần chúng cách

mạng [103, tr. 241]. Đối với địa bàn Trung Trung Bộ, xây dựng về chính trị được

thực hiện thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước,

nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, động viên nhân dân hăng hái khắc

phục khó khăn, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Trong

quá trình kháng chiến, sự tuyên truyền giáo dục của Đảng, chính quyền, các đoàn

thể đã làm cho trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng ngày càng được nâng cao.

Chủ trương, đường lối kháng chiến và chính sách dân tộc của Đảng trở thành niềm

tin, động lực to lớn cổ vũ đồng bào vượt qua mọi hy sinh, thử thách, giữ vững

quyền làm chủ, xây dựng cuộc sống mới tại các căn cứ địa.

Để xây dựng về chính trị, việc củng cố hoạt động của tổ chức Đảng ở căn cứ

địa được hết sức chú trọng. Tại đây, chi bộ Đảng phải thực sự trở thành những pháo

đài vững chắc, có khả năng bám trụ kiên cường, đứng vững được ở địa phương

trong mọi tình thế và có đủ năng lực lãnh đạo cuộc kháng chiến ở địa phương [103,

tr. 242]. Bên cạnh tổ chức Đảng, việc củng cố, xây dựng hệ thống chính quyền nhân

dân vững mạnh, phát triển rộng rãi các đoàn thể quần chúng cũng là những điều

kiện cơ bản để xây dựng, phát triển căn cứ địa cách mạng.

152

Page 154: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Xây dựng căn cứ về chính trị sẽ tạo nên sự nhất trí cao độ về chính trị tinh thần

để tiến hành nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, đồng thời góp phần duy trì và củng cố

chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở cho công cuộc xây dựng đất nước sau này.

Xây dựng căn cứ địa cách mạng về quân sự là nhiệm vụ quan trọng nhằm thực

hiện hoạt động bảo vệ và mở rộng căn cứ. Trong đó, LLVT ba thứ quân được xây

dựng vững mạnh là nòng cốt trong chiến đấu đánh địch bảo vệ căn cứ địa. Phát triển

LLVT ở các căn cứ địa phải biết dựa vào nhân dân, bắt đầu từ việc giáo dục, giác

ngộ chính trị cho quần chúng tiến lên xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, du kích

và bộ đội địa phương. Đến năm 1965, dân quân du kích tại các căn cứ địa thuộc các

tỉnh: Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định đã phát triển nhanh chóng đạt tỉ lệ 4% ở

đồng bằng và 9% ở miền núi [69, tr. 220]. Những năm về sau, tỉ lệ này ngày càng

tăng lên. Ở Căn cứ Sơn Tây (Quảng Ngãi), năm 1969, lực lượng dân quân du kích

đạt 14% dân số [72, tr. 247]. Với sự tham gia của đông đảo lực lượng đoàn viên,

đảng viên, chất lượng LLVT ngày càng được nâng lên. Năm 1968, tại Căn cứ Vĩnh

Thạnh (Bình Định), tỷ lệ đảng viên chiếm 15%, tỷ lệ đoàn viên chiếm 22% trong

lực lượng du kích xã thôn [8, tr. 213]. Ngoài việc tham gia LLVT địa phương ở căn

cứ (dân quân, du kích xã, bộ đội huyện); nhiều thanh niên đã thoát ly gia nhập

LLVT tỉnh, khu; nhiều người dân (không phân biệt tuổi tác, giới tính) cũng hăng hái

đi dân công phục vụ chiến đấu.

Lực lượng du kích tại các căn cứ địa còn trực tiếp tham gia chiến đấu. Tiêu

biểu như du kích Căn cứ Nam Trà trong năm 1971 tham gia đánh 226 trận, loại khỏi

vòng chiến hơn 1.300 quân địch, bắn rơi 16 máy bay, thu 1.000 viên đạn [20, tr. 5].

Từ năm 1969 đến 1972, du kích Căn cứ Sơn Tây phối hợp với Sơn Hà đánh địch

374 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 3.000 quân địch, bắn rơi 27 máy bay, bắn

hỏng 26 chiếc khác, thu 159 súng các loại [7, tr. 228].

LLVT địa phương không ngừng trưởng thành về chất lượng, số lượng, phong

trào xây dựng thôn xã chiến đấu phát triển mạnh mẽ cùng với thế trận chiến tranh

nhân dân được triển khai sâu rộng đảm bảo thế đứng vững chắc cho các căn cứ địa

cách mạng. Các cuộc càn quét, tấn công của địch vào căn cứ địa đều bị LLVT và

153

Page 155: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

nhân dân đánh trả quyết liệt. Địch không những không thực hiện được mục tiêu hủy

diệt tận gốc các căn cứ địa cách mạng mà ngược lại chúng còn bị tổn thất nặng nề.

Xây dựng kinh tế căn cứ địa là một nội dung hết sức quan trọng nhằm duy trì

và phát triển tiềm lực kháng chiến, duy trì và phát triển cuộc chiến đấu lâu dài. Vấn

đề xây dựng nền kinh tế kháng chiến ở các căn cứ địa cách mạng, đặc biệt là ở miền

núi Trung Trung Bộ rất khó khăn do trình độ sản xuất thấp, kỹ thuật canh tác lạc

hậu, địch lại thường xuyên đánh phá và bao vây, phong tỏa về kinh tế. Do vậy, ngay

khi được hình thành, để tồn tại và đứng vững, các căn cứ địa thực hiện việc xây

dựng nền kinh tế tự túc, tự cấp nhằm giải quyết nhu cầu về đời sống và chiến đấu

của cán bộ, LLVT và nhân dân trong căn cứ. Hoạt động xây dựng kinh tế căn cứ địa

tập trung vào việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của

quân dân, hạn chế nạn đói đồng thời có nguồn dự trữ; tăng cường sản xuất các loại

thuốc trong ngành y tế từ nguyên liệu tại chỗ; chế tạo vũ khí thô sơ, duy trì một số

ngành nghề thủ công: mộc, rèn, dệt; tăng cường mở rộng giao lưu hàng hóa giữa

vùng ta và vùng địch thông qua các “cửa khẩu”; đẩy mạnh khơi thông các luồng

hàng từ vùng địch dưới hình thức các chợ vùng giải phóng… Bên cạnh đó, việc

động viên sự đóng góp của nhân dân ở đồng bằng, các đô thị cũng góp phần đáng

kể trong việc hỗ trợ hoạt động xây dựng nền kinh tế kháng chiến ở các căn cứ địa.

Song song với các lĩnh vực kể trên, xây dựng về văn hóa cũng là một nội dung

thiết yếu nhằm xây dựng nền văn hóa mới tiến bộ, đời sống mới giản dị, lạc quan

phù hợp với yêu cầu cuộc kháng chiến. Xây dựng về văn hóa căn cứ địa ở Trung

Trung Bộ tập trung vào các hoạt động: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ

trương, đường lối chính sách của Đảng, của MTDTGPMN Việt Nam, đấu tranh

chống các luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của kẻ địch; Phát động phong trào bình dân

học vụ; Động viên nhân dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu; Đẩy mạnh phong trào văn

hóa nghệ thuật quần chúng nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, tạo không khí vui

tươi lạc quan cách mạng, động viên quân dân tích cực tham gia kháng chiến.

Xây dựng căn cứ địa về mọi mặt là biện pháp tích cực để tạo nên sức mạnh

bảo vệ căn cứ.

154

Page 156: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Các căn cứ ở Trung Trung Bộ được hình thành và phát triển rộng khắp ở nhiều

địa phương đã thực sự uy hiếp lực lượng địch, nó trở thành mục tiêu, trọng điểm

đánh phá của đối phương. Tính chất của cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ rất quyết liệt.

Địch thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân càn quét nhằm triệt tiêu lực lượng

và các cơ quan đầu não kháng chiến ở căn cứ, thực hiện giành đất, giành dân với phía

cách mạng. Vì vậy, xây dựng căn cứ phải gắn liền với cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ,

giữ đất, giữ dân. Để bảo vệ căn cứ phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn

đánh phá của địch mới bảo vệ được căn cứ. Đây là quá trình đấu tranh liên tục, kiên

trì, bền bỉ. Hoạt động bảo vệ căn cứ được thực hiện bằng nhiều biện pháp.

Trước hết là tích cực đánh địch để mở rộng căn cứ của ta, thu hẹp địa bàn

chiếm đóng của địch. Các căn cứ chủ động chống địch càn quét, huy động sức mạnh

tổng hợp của LLVT ba thứ quân, xây dựng phương án tác chiến phù hợp nhằm làm

thất bại các âm mưu và thủ đoạn đánh phá của địch, giữ vững căn cứ địa. Thứ hai là

tăng cường công tác phòng gian, bảo mật, loại trừ những phần tử phản động, gián

điệp; đồng thời đẩy mạnh hoạt động tuần tra canh gác, giữ gìn an ninh trật tự cũng

là một trong những cách thức tích cực để bảo vệ căn cứ địa.

Tuy nhiên, nếu địch tập trung lực lượng mạnh để tấn công vào căn cứ trong

khi lực lượng ở căn cứ chưa đủ sức đối phó thì cần thay đổi phương thức đấu tranh,

có thể kết hợp sử dụng đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận trong đấu tranh bảo

vệ căn cứ.

Việc kết hợp xây dựng với bảo vệ căn cứ phản ánh quy luật chung của lịch sử

dân tộc đó là dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chế độ mới gắn liền với bảo

vệ chế độ mới.

4.3.5. Kết hợp đồng thời việc xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi

với xây dựng căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, “lõm chính trị”

trong nội đô Cùng với việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở miền núi, các cấp ủy

Đảng, chính quyền ở Trung Trung Bộ đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng các căn cứ du kích ở vùng đồng bằng; các cơ sở, các “lõm chính trị” ở nội đô. Căn cứ du kích ở đồng bằng có: Núi Thình Thình (Quảng Ngãi); Miền Đông (Tuy Hòa 1)…

155

Page 157: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

“Căn cứ lõm” có: K20 (Đà Nẵng), Bầu Bính (Quảng Nam); Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xô (Quảng Ngãi); Hưng Thạnh, Phước Hậu (ven Qui Nhơn), Hòa Kiến, Chóp Chài (Phú Yên)… Đặc điểm nổi bật của các căn cứ này là được xây dựng ngay trong vùng địch, ở những địa bàn có vị trí chiến lược. Ví như Căn cứ K20 nằm trên vành đai từ Quy Mỹ đến đèo Ông Gấm, sát nách phía Đông con đường Đà Nẵng (Sơn Trà) đi Hội An và nhất là gần sân bay Nước Mặn của địch. Phía Nam “Căn cứ lõm” Bầu Bính giáp với một dãy chốt điểm của địch, phía Tây là sông, vùng giáp ranh giữa ta và địch. Các căn cứ Hòa Kiến, Chóp Chài nằm án ngữ Quốc lộ 1, sát nách hang ổ chính quyền VNCH ở thị xã Tuy Hòa… Các “căn cứ lõm” được xây dựng dựa trên những điều kiện: có cơ sở chính trị vững chắc, có LLVT để tự vệ, có hệ thống hầm bí mật, công sự mật. Quy mô của các căn cứ du kích, cơ sở, “căn cứ lõm” thường nhỏ, diện tích chỉ khoảng 2-3 km², dân số khoảng vài trăm người trở lên, cá biệt có “căn cứ lõm” không có dân (“Căn cứ lõm” Bầu Bính trong thời gian đầu mới thành lập). Tại các căn cứ này, lực lượng tự vệ mật, du kích mật đóng vai trò chủ chốt trong chiến đấu bảo vệ căn cứ. Nguyên tắc hoạt động của căn cứ du kích, cơ sở, “căn cứ lõm” là đảm bảo bí mật tuyệt đối, dựa vào sự trung thành tuyệt đối của nhân dân. Nhờ có các căn cứ du kích ở đồng bằng, các cơ sở, các “căn cứ lõm” mà cán bộ lãnh đạo, du kích, tự vệ mật có điều kiện thuận lợi để bám chắc trong dân, gây dựng cơ sở, kịp thời tiêu diệt bọn ác ôn, phát triển phong trào cách mạng ở đồng bằng và đô thị. Dựa vào hệ thống hầm bí mật, công sự mật và thế trận lòng dân vững chắc, các căn cứ du kích, cơ sở, các “lõm chính trị” trở thành nơi nuôi giấu các đồng chí lãnh đạo, nơi ém quân của LLVT trước những trận tiến công vào sào huyệt của địch, nơi tích trữ vũ khí, lương thực, chăm sóc thương binh… Ở Trung Trung Bộ, các căn cứ du kích, cơ sở, các “lõm chính trị” được xây dựng đều khắp ở các vùng đồng bằng đông dân, nhiều của, các đô thị và vùng ven đô, tạo thành mạng lưới rộng rãi tồn tại đan xen trong thế cài răng lược giữa ta và địch ở nhiều địa bàn. Đây cũng là nơi xây dựng lực lượng, động viên sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân trong vùng địch cho kháng chiến. Tại đây, chi bộ Đảng đã kịp thời lãnh đạo, phát động nhân dân đấu tranh chính trị hỗ trợ cho đấu tranh quân sự, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của quân Mỹ – VNCH vào căn cứ địa, bảo vệ an toàn nơi đứng chân của LLVT và các đồng chí lãnh đạo. Các căn cứ: Núi Thình Thình,

156

Page 158: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

K20, Bầu Bính, Hòa Kiến… đã trở thành những “vùng đất thép” tồn tại ngay trong hậu phương của địch khiến cho chúng gặp không ít khó khăn, tổn thất trong việc đối phó. Các căn cứ du kích ở đồng bằng, các cơ sở, các “căn cứ lõm” không tồn tại biệt lập mà nối thông với các căn cứ địa ở miền núi thông qua hệ thống liên lạc hợp pháp và bất hợp pháp, đảm bảo sự liên lạc, sự chỉ đạo, lãnh đạo giữa các vùng miền, tạo thuận lợi cho cán bộ và LLVT trong hoạt động lãnh đạo và tổ chức chiến đấu; đồng thời cũng góp phần hình thành thế bao vây trực tiếp uy hiếp các cơ quan đầu não của địch ngay tại sào huyệt của chúng. Căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, “lõm chính trị” trong nội đô tiêu biểu cho niềm tin, ý chí và sức mạnh chiến đấu của nhân dân vùng địch trong thế đối đầu trực tiếp với kẻ thù. Sự hình thành, phát triển và đứng vững của các căn cứ trong vùng địch phản ảnh sự linh hoạt, sáng tạo của quân dân trong hoạt động tổ chức xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, lõm chính trị về cơ bản đã phát huy được vai trò đối với cuộc kháng chiến tại địa phương.

* Tiểu kết chương 4 Được khôi phục, xây dựng trên cơ sở yêu cầu tất yếu của cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã không ngừng được mở rộng, phát triển thực lực về mọi mặt. Các căn cứ hợp thành hệ thống liên hoàn trải rộng khắp các vùng, miền, các địa phương trên địa bàn Trung Trung Bộ đã thực sự phát huy vai trò không chỉ là nơi đóng cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến, nơi củng cố và xây dựng LLVT mà còn là nơi đảm nhận công tác hậu cần, cung cấp một phần nhân lực, vật lực cho kháng chiến. Đặc biệt, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp nhận và trung chuyển sự chi viện của Trung ương cho các tỉnh ở Khu V và Đông Nam Bộ. Sự tồn tại, đứng vững của các căn cứ không những đã tạo nên thế và lực mới cho cuộc kháng chiến mà còn phản ánh sự linh hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức xây dựng căn cứ địa đồng thời thể hiện thế tiến công chiến lược của phong trào cách mạng ở Trung Trung Bộ. Những kinh nghiệm được đúc rút từ quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ góp phần bổ sung đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và làm phong phú lý luận quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

157

Page 159: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

KẾT LUẬN

1. Trung Trung Bộ là địa bàn có điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội thuận lợi

cho hoạt động xây dựng căn cứ địa cách mạng. Trong cuộc vận động cách mạng

Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, nhiều căn cứ địa được xây dựng

ở vùng rừng núi, sông biển, đồng bằng. Các căn cứ đã đáp ứng được yêu cầu khách

quan của khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, đồng thời góp phần quan trọng vào

thắng lợi chung của cả dân tộc. Từ sau hiệp định Genève năm 1954, nhằm đối phó

với chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình

Diệm đối với phong trào cách mạng miền Nam, quân dân các địa phương Trung

Trung Bộ đã tích cực khôi phục các căn cứ địa được xây dựng trong thời kỳ kháng

chiến chống Pháp để giữ gìn, bảo vệ lực lượng, từng bước tạo thế và lực đáp ứng

yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ thực tiễn đấu tranh của quần

chúng và yêu cầu của phong trào cách mạng trong tình hình mới, Trung ương Đảng

và Liên Khu ủy V đã sớm xác định đường lối xây dựng căn cứ địa cách mạng ở

miền Nam, đặc biệt là đối với địa bàn Tây Nguyên và miền núi các tỉnh. Quán triệt

và vận dụng sáng tạo đường lối của các cấp ủy Đảng, quân dân Trung Trung Bộ đã

kiên trì đấu tranh làm thất bại âm mưu dồn dân, tiêu diệt lực lượng cách mạng của

địch; đồng thời tiếp tục khôi phục, củng cố, xây dựng thêm nhiều căn cứ địa mới

đảm bảo đáp ứng yêu cầu xây dựng đất đứng chân và tiềm lực để chuẩn bị tiến hành

kháng chiến lâu dài. Việc khôi phục, xây dựng kịp thời các căn cứ địa đã tạo điều

kiện để quân dân Trung Trung Bộ sớm nổi dậy tiến hành khởi nghĩa từng phần và

chiến tranh du kích cục bộ. Mặc dù đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH đã sử dụng

nhiều thủ đoạn chiến tranh vô cùng tàn khốc nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng và

triệt phá căn cứ địa nhưng với ý chí cách mạng kiên cường và tinh thần bền bỉ đấu

tranh, quân và dân Trung Trung Bộ đã vượt qua nhiều gian nan, thử thách, bảo vệ

vững chắc và phát huy hiệu quả vai trò của hệ thống căn cứ địa cách mạng, nỗ lực

góp phần quan trọng cùng chiến trường toàn Khu V từng bước làm thất bại các

chiến lược chiến tranh của đối phương.

158

Page 160: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

2. Quá trình xây dựng và phát triển của các căn cứ địa cách mạng ở Trung

Trung Bộ diễn ra cam go, quyết liệt và liên tục. Đó là quá trình đấu tranh toàn diện,

bền bỉ, gian nan và không tránh khỏi những bước quanh co, thậm chí tổn thất nhất

định. Song từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, các cán bộ, đảng viên đã biết dựa vào

nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết cộng đồng các dân

tộc, gắn liền việc động viên sự đóng góp của nhân dân với chăm lo bồi dưỡng, củng

cố sức dân. Để làm được điều này, các cấp ủy Đảng, chính quyền ở các căn cứ địa

thường xuyên thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ nhận thức

của nhân dân về nhiệm vụ, vai trò, ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước, từ đó tích cực tham gia xây dựng căn cứ địa; đồng thời chú trọng đẩy mạnh

phát triển kinh tế, giáo dục, y tế… từng bước cải thiện đời sống người dân, xây

dựng những nền tảng ban đầu của chế độ mới. Quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ

địa được tiến hành thường xuyên trên cơ sở lấy “căn cứ lòng dân” làm nền tảng căn

cứ vững chắc nhất. Trải qua quá trình hình thành, phát triển và đứng vững qua nhiều

thử thách ác liệt của chiến tranh, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong

kháng chiến chống Mỹ là biểu trưng cho tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên

cường, sức mạnh đoàn kết và niềm tin to lớn của cộng đồng các dân tộc đối với

Đảng, Bác Hồ.

3. Chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên và đặc điểm chiến trường Khu V,

căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là

sự đa dạng về loại hình, phong phú về quy mô, linh hoạt trong hình thức tổ chức,

hợp thành hệ thống liên hoàn, thuận lợi cho hoạt động di chuyển và trụ bám của các

lực lượng kháng chiến. Các căn cứ tồn tại đan xen khắp ba vùng chiến lược tạo thế

cài răng lược, uy hiếp lực lượng địch ở các địa bàn. Bên cạnh đó, căn cứ địa ở

Trung Trung Bộ cũng có một số đặc điểm riêng như: thường xuyên có sự biến

động; có khả năng đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp; dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập

trung lực lượng đánh phá mạnh. Tuy nhiên, vượt lên những trở ngại và thử thách

cam go của chiến tranh, các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ nhìn chung

đều đứng vững và liên tục được mở rộng, củng cố về mọi mặt. Sự tồn tại và phát

159

Page 161: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

triển của các căn cứ phản ánh thế tiến công chiến lược linh hoạt, bền bỉ của quân

dân Trung Trung Bộ. Với sự đa dạng như đã nêu trên, quân dân Trung Trung Bộ đã

giải quyết được vấn đề đất đứng chân và xây dựng tiềm lực kháng chiến ở cả ba

vùng chiến lược.

4. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ có vai trò quan trọng góp phần

vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn và ở miền

Nam. Trong quá trình xây dựng, phát triển, nhờ không ngừng được củng cố thực lực

về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, căn cứ địa cách mạng ở Trung

Trung Bộ không những có đủ sức mạnh để đánh bại các thủ đoạn đánh phá của

quân Mỹ – VNCH mà còn trực tiếp đóng góp về nhân tài, vật lực phối hợp cùng các

đơn vị bộ đội chủ lực đánh địch ở các chiến trường. Hoạt động chiến đấu ở các căn

cứ địa đã góp phần tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, khiến cho kẻ thù gặp không

ít tổn thất; đồng thời tạo thế và lực mới cho lực lượng kháng chiến ở các địa

phương. Có thể nói, sự ra đời và hoạt động của các căn cứ địa cách mạng đã tiếp

thêm sức mạnh cho phong trào cách mạng ở Trung Trung Bộ. Căn cứ địa cách

mạng trở thành tâm điểm cơ bản để đoàn kết các cộng đồng dân tộc, phát huy cao

độ truyền thống đấu tranh chống xâm lược, chống áp bức bất công, làm hậu phương

trực tiếp cho cuộc kháng chiến ở địa phương; vừa giữ vai trò là bàn đạp, kết nối các

chiến trường Trị Thiên, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên trong một cục diện chiến

trường chung của Khu V và toàn miền Nam. Căn cứ địa ở Trung Trung Bộ còn là

nơi đảm bảo vai trò tiếp nhận, trung chuyển sự chi viện vật chất, con người của hậu

phương lớn miền Bắc cho Khu V và Nam Bộ theo đường biển, đường bộ.

5. Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng ở

Trung Trung Bộ đã để lại một số bài học kinh nghiệm, đó là: xây dựng căn cứ địa

cách mạng phải chú trọng đặc điểm địa – chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế, địa

– văn hoá của từng địa phương; phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền và

các đoàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng;

xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh toàn diện, kết hợp xây dựng với bảo vệ,

bảo vệ để xây dựng; tiến hành đồng thời việc xây dựng căn cứ địa cách mạng ở

160

Page 162: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

miền núi với xây dựng căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, các cơ sở, “lõm

chính trị” trong nội đô. Đặc biệt là việc tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn

kết toàn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, dựa vào dân, phát huy thế

trận lòng dân, không ngừng chăm lo bồi dưỡng sức dân là vấn đề có ý nghĩa quyết

định đối với thành công của quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò căn cứ

địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. Cho đến nay, những bài học kinh nghiệm này vẫn

giữ nguyên giá trị đặc biệt là đối với hoạt động lãnh đạo, xây dựng khu vực phòng

thủ, củng cố quốc phòng an ninh ở các địa phương Trung Trung Bộ đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Những nội dung cơ bản nêu trên được rút ra từ việc khảo cứu quá trình xây

dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó cũng là những trang lịch sử đầy tự hào của

quân dân Trung Trung Bộ trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc vừa qua.

161

Page 163: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN

ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Thúy Hiền (2011), “Căn cứ K20 trong kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 234.

2. Trần Thúy Hiền (2011), “Khu Sông Đà trong kháng chiến chống Mỹ”,

Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số 1.

3. Trần Thúy Hiền (2012), “Đấu tranh bảo vệ Căn cứ Trà Bồng trong kháng

chiến chống Mỹ (1959-1965)”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư

phạm Đà Nẵng, số 3.

4. Trần Thúy Hiền (2013), “Kế hoạch chống phá căn cứ địa kháng chiến ở

các tỉnh duyên hải Trung Trung Bộ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong

“Chiến tranh đặc biệt”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 255.

5. Trần Thúy Hiền (2014), “Tìm hiểu một số căn cứ địa cách mạng ở các

tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)”, Tạp

chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 8.

6. Trần Thúy Hiền (2014), “Hoạt động giáo dục – đào tạo ở căn cứ địa miền núi

các tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú trong kháng chiến chống Mỹ, những năm 1954-

1965”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số 13.

162

Page 164: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Phương Anh (2011), Căn cứ của Tỉnh ủy Quảng Ngãi trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quy

Nhơn năm 2011.

2. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành chính (1945-2002), Nxb Thông Tấn, HN.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định (1996), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1954-1975), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định xuất bản.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1945-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1996), Lịch sử Phú Yên kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Ban Tuyên giáo tỉnh Phú Yên xuất bản.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Phù Cát

(1930-1975), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phù Cát xuất bản.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Sơn Hà (1993), Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Hà (1945-1990), Thường vụ Huyện ủy Sơn Hà xuất bản.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh (1945-1975), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh xuất bản.

9. Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam (2008), Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 2 (1955-1976), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

10. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

11. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

163

Page 165: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

12. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh

cách mạng Việt Nam (1945-1975). Thắng lợi và bài học, Nxb Chính

trị Quốc gia, HN.

13. Ban Chỉ huy quân sự huyện Nam Giang (2001), Lịch sử LLVT huyện Nam Giang

(1945-1975), Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam xuất bản.

14. Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Phước (1999), Lịch sử LLVT nhân dân huyện Tiên

Phước (1945-1975), Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Phước xuất bản.

15. Ban Chỉ huy quân sự huyện Đồng Xuân (1998), LLVT huyện Đồng Xuân 30 năm

chiến đấu và trưởng thành (1945-1975), Ban Chỉ huy quân sự huyện

Đồng Xuân xuất bản.

16. Ban Chỉ huy quân sự quận Ngũ Hành Sơn (2009), Lịch sử LLVT Quận Ngũ

Hành Sơn (1945-2005), Ban Chỉ huy quân sự quận Ngũ Hành Sơn

xuất bản.

17. Ban Liên lạc Ban Tổ chức Liên khu ủy V (2008), Quá trình xây dựng và truyền

thống của Ban Tổ chức Liên khu ủy V (1945-1975), Ban Liên lạc Ban

Tổ chức Liên khu ủy V xuất bản.

18. Ban Liên lạc Văn phòng khu ủy V (2004), Văn phòng Liên khu ủy V(1945-

1975), Nxb Đà Nẵng.

19. Bản nghiên cứu địch tình và bình địa Mật khu Đỗ Xá, TTLT Quốc gia II. Tp. Hồ

Chí Minh, kí hiệu PTT 15299.

20. Ban Quân sự miền Tây Quảng Nam (1972), Dự thảo Báo cáo tổng kết nhân dân

du kích chiến tranh từ tháng 1 năm 1971 đến tháng 11 năm 1972, Tài

liệu lưu tại Bộ Chỉ huy quân sự Tỉnh Quảng Nam.

21. Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng (1997), Lịch sử Đảng bộ thành phố Đà

Nẵng, Tập II, Nxb Đà Nẵng.

22. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2000), Đội du kích Ba Tơ nhớ lại và suy

nghĩ, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

164

Page 166: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

23. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Định (2004), 70 năm công tác tuyên giáo của

Đảng bộ Bình Định (1930-2000), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Định

xuất bản.

24. Báo cáo bổ sung về tình hình miền núi Liên khu V, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử

Đảng, kí hiệu K5/13.7

25. Báo cáo tình hình địch ta ở Khu 5 từ năm 1961 đến tháng 8-1974, tài liệu Viện

Lịch sử Đảng, kí hiệu II3/6/24.24.

26. Bộ Bưu chính Viễn thông – Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam

(2005), Lịch sử Giao bưu – Thông tin các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh

Thuận và Tây Nguyên thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954- 1975),

Nxb Bưu Điện.

27. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam (2003), Lịch sử LLVT nhân dân tỉnh

Quảng Nam, Tập II (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân.

28. Bộ Công an – Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân – Viện Lịch sử

Công an (2008), Lịch sử An ninh Khu V thời kỳ kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Công an nhân dân, HN.

29. Bộ Công an – Công An tỉnh Quảng Nam (2000), Công an nhân dân tỉnh Quảng

Nam Biên niên sự kiện (1954-1975), Bộ Công an – Công An tỉnh

Quảng Nam xuất bản.

30. Bộ Giao thông Vận tải (1999), Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam, Nxb Giao

thông Vận tải, Hà Nội.

31. Bộ Quốc phòng – Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (2007), Từ điển thuật

ngữ Quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, HN.

32. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1988), Cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975) – Những sự kiện quân sự, Bộ Quốc

phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam xuất bản.

33. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến

tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân, HN.

165

Page 167: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

34. Bộ Quốc Phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Hệ thống tổ chức

quân sự của Mỹ và VNCH trong chiến tranh Việt Nam, Nxb Quân đội

nhân dân, HN.

35. Bộ Quốc Phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tập II, Nxb Quân đội nhân

dân, HN.

36. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập I: Nguyên nhân chiến tranh,

Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

37. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập II: Chuyển chiến lược, Nxb

Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

38. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập III: Đánh thắng chiến tranh đặc

biệt, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

39. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập IV: Cuộc đụng đầu lịch sử, Nxb

Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

40. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập V: Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

41. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập VI: Thắng Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

42. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập VII: Thắng lợi quyết định năm

1972, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

43. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập VIII: Toàn thắng, Nxb Chính trị

Quốc gia – Sự Thật, HN.

166

Page 168: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

44. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Tập IX: Tính chất, đặc điểm, tầm

vóc và bài học lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, HN.

45. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử Quân sự Việt

Nam, Tập 11:Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975),

Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

46. Bộ Quốc Phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2002), Sự nghiệp tư tưởng

quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, HN.

47. Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2002), Tư tưởng quân sự Hồ

Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân.

48. Bộ Tổng tham mưu – Cục dân quân tự vệ (2011), Bản đồ phục vụ công tác quốc

phòng, quân sự địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN.

49. Bộ Tổng tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân tại địa phương –

Chuyên đề: Xây dựng và bảo vệ hệ thống căn cứ địa phương trên

chiến trường Khu 5 trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-

1975), Nxb Quân đội nhân dân, HN.

50. BTL Quân khu V (1964), Dàn bài báo cáo cho Đoàn X (Đoàn kiểm tra TW

3.1964), Hồ sơ 26, kí hiệu K1– T1– B – N2 – H1 – QKU26 – 4/77,

Tài liệu kho lưu trữ BTL Quân khu V.

51. BTL Quân khu 5 – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Một số kinh nghiệm

chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu 5 trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội nhân dân, HN.

52. BTL Quân khu V (1966), Phong trào chiến tranh du kích ở miền núi Khu V từ

1965 đến tháng 9 năm 1966, Hồ sơ 47, Kí hiệu K1 – T1 – B – N2 –

H1 – QKU47 – 4/16, Tài liệu kho lưu trữ BTL Quân khu V.

53. BTL Quân khu V (1968), Thống Kê lực lượng địch ở các tỉnh (Tính đến 31-12-

1968), Hồ sơ 62, kí hiệu K1 – T1 – B – N2 – H1 – QKU62 – 2/4, Tài

liệu kho lưu trữ BTL Quân khu V.

167

Page 169: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

54. BTL Quân khu 7 – Tỉnh ủy Tây Ninh (2002), Căn cứ địa cách mạng ở Tây Ninh

trong chiến tranh giải phóng (1945-1975), Nxb Quân đội nhân dân.

55. BTL Quân khu 5 – Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2002), Vành đai diệt Mỹ

trên chiến trường Khu 5. Một sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt

Nam, Nxb Quân đội nhân dân, HN.

56. Trần Quý Cát (1986), Khu 5 – 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập I, BTL Quân

khu 5 xuất bản.

57. Trần Quý Cát (1989), Khu 5 – 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập II, BTL

Quân khu 5 xuất bản.

58. Trần Quý Cát (1989), Khu 5 – 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập III, BTL

Quân khu 5 xuất bản.

59. Trần Quý Cát – Nguyễn Như Cảnh – Trần Như Tiếp (1994), Hậu cần Quân khu

5 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Cục Hậu cần Quân khu

5 xuất bản.

60. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Tập I,

Nxb Sự Thật, HN.

61. Vũ Hoài Chương (1982), Quân khu 5. Thắng lợi và những bài học trong kháng

chiến chống Mỹ, Tập Hai, Nxb Quân đội nhân dân, HN.

62. Cục Hậu cần – Quân khu 5 (1989), Những sự kiện lịch sử hậu cần chiến trường

Khu V (1954-1975), Nxb Đà Nẵng.

63. Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (1975), Nxb Quân đội nhân

dân.

64. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, HN.

65. Hồ Sơn Đài (1996), Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945-1954), Nxb Tp. Hồ

Chí Minh.

66. Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Trà My (1988), Những sự kiện lịch sử

huyện Trà My (1945-1975), Nxb Đà Nẵng.

67. Đảng bộ huyện Hiệp Đức (1999), Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Hiệp Đức

(1930-1999), Đảng bộ huyện Hiệp Đức ấn hành.

168

Page 170: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

68. Đảng bộ huyện Tiên Phước (1993), Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Tiên

Phước (1858-1975), Đảng bộ huyện Tiên Phước xuất bản.

69. Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam – Đảng bộ Quân Khu 5 (2010), Lịch sử

Đảng bộ Quân Khu 5 (1946-2010), Tập 2, Nxb Quân đội Nhân dân.

70. Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn (2005), Lịch sử Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn

(1930-2000), Đảng bộ quận Ngũ Hành Sơn xuất bản.

71. Đảng bộ quận Sơn Trà (2000), Lịch sử Đảng bộ Quận Sơn Trà (1930-1975),

Nxb Đà Nẵng.

72. Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1999), Truyền thống yêu nước của nhân dân và lịch

sử Đảng bộ huyện Sơn Tây (1930-1998), Ban Chấp hành Đảng bộ

huyện Sơn Tây xuất bản.

73. Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Sơn Hòa (1945-1975),

Huyện ủy Sơn Hòa xuất bản.

74. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945),

Tập I, Nxb Tổng Hợp Bình Định.

75. Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Giằng (1989), Những sự kiện lịch sử huyện

Giằng (1885-1975), Nxb Đà Nẵng.

76. Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Hiên (1986), Những sự kiện lịch sử Đảng bộ

huyện Hiên (1945-1975), Nxb Đà Nẵng.

77. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2 (1930), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

78. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7 (1940-1945),

Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

79. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8 (1945-1947),

Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

80. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 15 (1954), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

81. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 17 (1956), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

169

Page 171: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

82. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 20 (1959), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

83. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 21 (1960), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 22 (1961), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 23 (1962), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 26 (1965), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 31 (1970), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 34 (1973), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 35 (1974), Nxb

Chính trị Quốc gia, HN.

90. Đảng ủy – Ban Chỉ huy quân sự huyện Sơn Hòa (2005), Lịch sử LLVT nhân dân

huyện Sơn Hòa (1945-2004), Đảng ủy – Ban Chỉ huy quân sự huyện

Sơn Hòa xuất bản.

91. Đảng ủy – Ban Chỉ huy quân sự huyện Trà Bồng (2010), Lịch sử LLVT nhân

dân huyện Trà Bồng (1945-2010), Nxb Quân đội nhân dân.

92. Đảng ủy – Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên (2009), Lịch sử LLVT Tỉnh Phú

Yên (1945-2005), Nxb Quân đội nhân dân, HN.

93. Đảng ủy – Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên (2005), Lịch sử ngành hậu cần

LLVT tỉnh Phú Yên (1945-1975), Đảng ủy – Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh

Phú Yên xuất bản.

94. Đảng ủy – BTL Quân khu V (2002), Công tác Đảng, công tác chính trị LLVT

Quân khu V (1945-2000)(Biên niên), Tập 2, Quyển 1, Nxb Quân đội

nhân dân, HN.

170

Page 172: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

95. Đảng ủy Quân khu V (1970), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy lần thứ X tháng 3-

1970, Hồ sơ số 82, kí hiệu: K1 – T1– B – N2 – H1– QKU82 – 1/31,

Tài liệu lưu tại Kho lưu trữ BTL Quân khu V.

96. Đảng ủy Quân khu V (1974), Nghị quyết Hội nghị Quân Khu ủy V tháng 10 năm

1974, Hồ sơ 24 , kí hiệu K1 – T1 –B – N2 – H1- QKU 2/24, Tài liệu

lưu trữ BTL Quân khu V.

97. Đặc khu ủy Quảng Đà (1965), Báo cáo tình hình địch và hoạt động của ta trong

năm 1965, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu

hồ sơ 39 – III.

98. Đặc khu ủy Quảng Đà (1966), Báo cáo tổng kết tình hình năm 1966, Tài liệu lưu

tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu I – 38 III.

99. Trần Hữu Đính (1986), “Tìm hiểu quá trình hình thành căn cứ địa miền núi Khu

V trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, số 3 -1986, tr. 11-19.

100. Trần Văn Đôn – Tư lệnh Quân đoàn I, Kiêm Tư lệnh Vùng I Chiến thuật (1962),

Trích yếu: Đề nghị không quân oanh kích các mục tiêu thuộc VICT,

TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 7500.

101. Trần Văn Đôn – Tư lệnh Quân đoàn I, Kiêm Tư lệnh Vùng I Chiến thuật

(1962), Phụ bản – Kết quả xạ kích các cơ sở Việt Cộng trên dãy

Trường Sơn (Phía Tây và Tây Nam Quảng Ngãi), TTLT Quốc gia II ,

Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 7500.

102. Trần Đơn (2012), “Căn cứ địa, một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách

mạng trong 30 năm chiến tranh giải phóng”, Tạp chí Phát triển Nhân

lực, số 3-2012, tr. 36-40.

103. Võ Nguyên Giáp (1974), Bài giảng về đường lối quân sự của Đảng, Viện khoa

học Quân sự, HN.

104. Trần Văn Giáp (2011), “Căn cứ Nước là – Mật khu Đỗ Xá”, Tạp chí Lịch sử

quân sự, tháng 8-2011, tr. 34-36.

105. Nhiều tác giả (2001), Phú Yên một thời để nhớ, Tập I, Thư viện Phú Yên xuất bản.

171

Page 173: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

106. Nhiều tác giả (2003), Phú Yên một thời để nhớ, Tập II, Thư viện Phú Yên xuất bản.

107. Bùi Minh Hải – Vũ Văn Sum (1988), Quảng Ngãi Lịch sử chiến tranh nhân

dân 30 năm (1945-1975), Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình – Bộ chỉ huy

quân sự Nghĩa Bình xuất bản.

108. Hòn Tàu đi cùng năm tháng (2013), Huyện ủy Quế Sơn xuất bản.

109. Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (1995), Nam Trung Bộ

kháng chiến (1945-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

110. Cao Hùng – Nguyễn Hoài An (1992), Bình Định Lịch sử chiến tranh nhân dân

30 năm (1945-1975), Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định xuất bản.

111. Huyện ủy Nam Giang (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Nam Giang (1945-

1975), Huyện ủy Nam Giang xuất bản.

112. Nguyễn Tiến Hỷ (1987), “Vai trò của các dân tộc ít người ở miền núi tỉnh

Quảng Nam – Đà Nẵng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954-

1975)”, Tạp chí Lịch sử Đảng số 4-1987, tr. 23-29.

113. Kế hoạch bình định tỉnh Quảng Ngãi tháng 12-1961, TTLT Quốc gia II, Tp.

Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT 15234.

114. Kế hoạch hoạt động miền rừng núi trong mùa mưa, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ

Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 8107.

115. Kỷ yếu Hội thảo (7-2012), Căn cứ Liên khu ủy 5 tại các huyện Bến Hiên, Bến

Giằng, tỉnh Quảng Nam (1955-1959), Tỉnh ủy Quảng Nam – Ban

Tuyên giáo xuất bản.

116. Kỷ yếu Hội thảo (8-2012), “50 năm Chiến dịch vượt sông Tiên, giải phóng Sơn

– Cẩm – Hà (25/9/1962-25/9/2012)”, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng

Nam – Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam – Huyện ủy Tiên Phước

xuất bản.

117. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Căn cứ địa cách mạng tỉnh Bình Thuận trong 30

năm chiến tranh giải phóng (1930-1945), Quân khu VII – Tỉnh ủy

Bình Thuận ấn hành tháng 8-2012.

172

Page 174: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

118. Vũ Tự Lập – Christian Taillard (1994), Atlas du Viêt – Nam Atlat Việt Nam

An Atlas of VietNam, Reclus – La Documentation Francaise.

119. Trần Ngọc Long (2006), Căn cứ địa U Minh trong hai cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), Luận án

Tiến sĩ Sử học Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.

120. Chu Đình Lộc (2011), Căn cứ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở cực Nam

Trung Bộ (1954 -1975), Luận án Tiến sĩ Sử học Viện Lịch sử Quân sự

Việt Nam.

121. Nguyễn Duy Luân (chủ biên) – Nguyễn Văn Thưởng, Lê Xuân Đồng, Nguyễn

Văn Viễn (2013), Lịch sử căn cứ địa cách mạng tỉnh Phú Yên trong

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-

1975), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, HN.

122. Nguyễn Lưu (1993), Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), Bộ

Chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên xuất bản.

123. Mật khu Đỗ Xá, căn cứ Nước Là – Khí phách của một thời và mãi mãi (2010),

Huyện ủy – Ủy ban nhân dân huyện Nam Trà My xuất bản.

124. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

125. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

126. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

127. Nguyễn Văn Minh (1988), “Về khởi nghĩa từng phần ở miền núi Khu V năm

1959”, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 1-1988, tr. 36-42.

128. Trần Thị Nhung (2001), Căn cứ địa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền

Đông Nam Bộ (1954-1975), Luận án Tiến sĩ Sử học Viện Khoa học

Xã hội Tp. Hồ Chí Minh.

129. Đặng Phong (2008), 5 đường mòn Hồ Chí Minh, Nxb Tri Thức.

130. Phụ bản IV – Tình báo, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất

Cộng hòa 7599.

173

Page 175: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

131. Phụ bản tin tức về các xã Thượng dân lưng chừng và xấu tại các tỉnh Trung

nguyên Trung phần tính đến ngày 5-8-1960, TTLT Quốc gia II, Tp.

Hồ Chí Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 6551.

132. Dương Trung Quốc, Trần Hữu Đính, Nguyễn Văn Nhật, Nguyễn Tố Uyên

(1996), Lịch sử thành phố Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng.

133. Sơ lược đặc điểm và tính chất vùng dân tộc thiểu số Liên khu 5 và miền Đông

Nam bộ (1962), Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, kí hiệu K5/15.3.

134. Tài liệu Hội thảo khoa học “Di tích căn cứ kháng chiến tỉnh Phú Yên (2003”),

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Yên phối hợp với Sở

văn hóa – Thông tin và Ủy ban nhân dân huyện Sơn Hòa ấn hành.

135. Tài liệu tọa đàm về bảo tồn, phát huy giá trị căn cứ Đặc Khu ủy Quảng Đà,

Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ấn hành năm 2011.

136. Tài liệu về Mật khu Thồ Lồ, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT

5233.

137. Tài liệu về vấn đề đối phó với mật khu VC ở Trung cao nguyên Trung phần,

TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT 15234.

138. Tài liệu phục vụ Hội thảo khoa học“Căn cứ lõm Bầu Bính – Ý nghĩa và bài

học kinh nghiệm” (4-2013), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam và

Huyện ủy Thăng Bình ấn hành.

139. Văn Tạo (1995), Căn cứ địa cách mạng: Truyền thống và hiện tại, Tạp chí

Lịch sử Quân sự tháng 4/1995.

140. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới.

141. Cao Xuân Thiêm – Nguyễn Niên – Nguyễn Kiều Hưng (2010), Các dân tộc

thiểu số miền Tây Phú Yên trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và

chống Mỹ (1945-1975), Sở khoa học và công nghệ Phú Yên xuất bản.

142. Lê Quang Thông (chủ biên) (2007), Địa lý kinh tế – xã hội Việt Nam, Nxb Đại

học Sư phạm.

174

Page 176: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

143. Thường vụ Đảng ủy và BTL Quân khu V – Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi

(2000), Lịch sử đội du kích Ba Tơ (1945-1946), Nxb Quân đội nhân

dân, HN.

144. Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà (1974), Báo cáo tổng kết tình hình xây

dựng căn cứ miền núi năm 1974, Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo

Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu L – 38 III.

145. Thường vụ Tỉnh ủy Bình Định (1974), Tổng kết năm 1974, Tài liệu lưu trữ

Tỉnh ủy Bình Định.

146. Tình hình chung Liên khu V (1945-1950), Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng,

kí hiệu K5/4.3

147. Tỉnh đội Quảng Nam (1966), Dự thảo báo cáo phong trào du kích chiến tranh

của tỉnh Quảng Nam từ 1961 đến 1966, Tài liệu lưu tại Bộ chỉ huy

quân sự tỉnh Quảng Nam.

148. Tỉnh ủy Bình Định (1972), Báo cáo 11 tháng trong năm 1972 theo chỉ thị của

A.15, Tài liệu lưu trữ Tỉnh ủy Bình Định.

149. Tỉnh ủy Bình Định (1974), Báo cáo tình hình địch – ta (Từ 28-01– 30-8-1974),

Tài liệu lưu trữ Tỉnh ủy Bình Định.

150. Tỉnh ủy Quảng Nam – Thành ủy Đà Nẵng (1997), Những ngày giữ lửa. Khởi

đầu cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ trên địa

bàn Quảng Nam – Đà Nẵng (1954-1959), Nxb Đà Nẵng.

151. Tỉnh ủy Quảng Nam – Thành ủy Đà Nẵng (2006), Lịch sử Đảng bộ Quảng

Nam – Đà Nẵng (1930-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, HN.

152. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (1960), Công văn về tình hình một số mặt hoạt động của

tỉnh, tài liệu lưu trữ của Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Quảng Ngãi, cặp hồ sơ

số 2.

153. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (1968), Báo cáo tổng kết phong trào thi đua của tỉnh năm

1968, Tài liệu lưu trữ của Phòng lưu trữ tỉnh ủy Quảng Ngãi, cặp hồ

sơ số 3.

175

Page 177: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

154. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (1968), Tạp chí Cờ Hồng (số đặc biệt kỉ niệm Đại hội đại

biểu Tỉnh Đảng bộ lần thứ III trong kháng chiến chống Mỹ (10-1968),

Tài liệu lưu trữ tại Phòng lưu trữ Tỉnh ủy Quảng Ngãi, cặp hồ sơ số 2.

155. Trung Nguyên Trung Phần tỉnh Phú Yên (1962), Trích yếu: V/v Hải Đăng Mũi

Nậy bị Việt cộng tấn công, TTLT Quốc gia II Tp. Hồ Chí Minh, kí

hiệu: Đệ nhất Cộng hòa 7282.

156. Trung Trung Bộ đánh giỏi toàn diện (1972), Nxb Quân đội nhân dân, HN.

157. Phan Thị Ánh Tuyết (2011), “Khu căn cứ Nước Oa”, Tạp chí Lịch sử Quân sự

tháng 11-2011, tr. 47-48.

158. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2006), Địa chí Bình Định, Tập Lịch sử, Nxb

Đà Nẵng.

159. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định và Sở Khoa học Công Nghệ (2007), Địa chí

Bình Định, Tập Kinh tế, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định và Sở Khoa

học Công Nghệ xuất bản.

160. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2008), Địa chí Quảng Ngãi, Nxb Từ Điển

Bách Khoa, HN.

161. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên – Sở Khoa học công nghệ (2007) Vũng Rô –

Những chuyến tàu lịch sử, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên – Sở Khoa

học công nghệ xuất bản.

162. Vấn đề xây dựng thực lực chính trị ở miền núi, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử

Đảng, kí hiệu K5/16.3

163. Viện Mác – Lênin và Viện Lịch sử Quân sự – Bộ Quốc phòng (1986), Nghiên

cứu văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, HN.

164. Trung Tá Cao Văn Viên – Biệt Bộ Tham mưu Trưởng Tổng Thống Phủ (5-

1958), Trích yếu: Xin tặng phẩm cho chiến dịch dân vận miền

Thượng, TTLT Quốc gia II Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu PTT 5233.

165. Đậu Văn Việt (2008), Khu Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

ở Bình Định (1962-1975), Luận văn Thạc sĩ Đại học Quy Nhơn năm

2008.

176

Page 178: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

166. VNCH – Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu – Phòng nhì (1961), Bản

nghiên cứu tình hình tỉnh Phú Yên, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí

Minh, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 6635.

167. VNCH – Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu – Phòng nhì (1961), Kế hoạch

bình định tỉnh Phú Yên, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu

Đệ nhất Cộng hòa 6635.

168. VNCH – Tòa Hành Chánh Quảng Nam (1959), Phiếu trình Tổng thống VNCH,

TTLT Quốc gia II, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 5742.

169. VNCH – Quân đội VNCH Vùng I, Khu 12 chiến thuật, Bộ tham mưu – Phòng

2, Bản đề nghị mục tiêu oanh kích tại khu 12 chiến thuật, TTLT Quốc

Gia II, kí hiệu Đệ nhất Cộng hòa 7500.

170. VNCH – Quân lực VNCH Vùng II chiến thuật, Khu chiến thuật 22, Tiểu khu

Bình Định (1965), Kế hoạch lũng đoạn mật Khu và đường giao liên

VC, TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: PTT 335.

177

Page 179: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ

1. Ông Phan Đấu, nguyên cán bộ Văn phòng Liên Khu ủy V, trợ lý Bí thư Khu ủy

V – Võ Chí Công. Địa chỉ: Số 44, đường Tống Phước Phổ, phường

Hòa Cường Bắc, quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng.

2. Bà Vũ Thị Xuân Hồng, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Quảng Đà. Địa chỉ: Số

02, đường Bình Hòa 3, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, Tp. Đà

Nẵng.

3. Ông Lê Hữu Lộc, nguyên cán bộ Trung đoàn 2, Sư đoàn 3 – Sao Vàng, Trưởng

Ban biên tập Báo Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ. Địa chỉ: Số

102, đường Nguyễn Văn Thoại, phường Bắc Mỹ An, quận Ngũ Hành

Sơn, Tp. Đà Nẵng

4. Ông Mai Văn Mạnh, nguyên cán bộ kho Hậu cần Tỉnh đội Quảng Ngãi (1960-

1962). Địa chỉ: Thôn Tân Thạnh, xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh

Quảng Ngãi.

5. Ông Nguyễn Viết Nghiệm, nguyên cán bộ Ban Tuyên huấn Quân Khu V. Địa

chỉ: Số 14, đường 8, phường Bình An, quận 2, Tp. Hồ Chí Minh.

6. Ông Cao Xuân Thiêm, nguyên Phó Chủ Tịch tỉnh Khánh Hòa, cán bộ bám trụ

Căn cứ Thồ Lồ và miền Tây Phú Yên (1946-1960). Địa chỉ: Số 303,

đường Trường Chinh, phường 2, Tp. Tuy Hòa.

1

Page 180: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Bản đồ các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 5 ....................................... P.1 PHỤ LỤC 2: Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ..................................................................................... P.2 PHỤ LỤC 3: Căn cứ địa cách mạng ở Tp. Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ............................................................................................. P.3 PHỤ LỤC 4: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ..................................................................................... P.4 PHỤ LỤC 5: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ..................................................................................... P.5 PHỤ LỤC 6: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ............................................................................................. P.6 PHỤ LỤC 7: Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ............................................................................................. P.7 PHỤ LỤC 8: Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) ................................................ P.8 PHỤ LỤC 9: Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ............................................................... P.11 PHỤ LỤC 10: Một số cuộc nổi dậy ở căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ ....... P.14 PHỤ LỤC 11: Một số căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ (1962-1963) .......... P.16 PHỤ LỤC 12: Địa điểm đứng chân của cơ quan Liên khu, Khu ủy V trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ .......................................................................................... P.17 PHỤ LỤC 13: Một số hình ảnh hoạt động ở căn cứ địa cách mạng ..................... P.18 PHỤ LỤC 14: Các quận (huyện), xã (phường) thuộc địa bàn các căn cứ địa cách mạng được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ....................................................................................................................... P.24 PHỤ LỤC 15: Mật khu Đỗ Xá .............................................................................. P.27 PHỤ LỤC 16: Bản đề nghị mục tiêu các Khu vực oanh kích .............................. P.28 PHỤ LỤC 17: Kết quả xạ kích các cơ sở Việt cộng trên dải Trường Sơn (phía Tây và Tây Nam Quảng Ngãi) ..................................................................................... P.29 PHỤ LỤC 18: Trích yếu v/v Hải Đăng Mũi Nậy bị Việt cộng tấn công ............ P.32

2

Page 181: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 19: Bản nghiên cứu tình hình tỉnh Phú Yên ........................................... P.32

3

Page 182: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 1

Bản đồ các tỉnh thuộc địa bàn Quân khu 5

Nguồn: Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5

Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011

P.1

Page 183: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 2 Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011

P.2

Page 184: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 3 Căn cứ địa cách mạng ở Tp. Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011

P.3

Page 185: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 4 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương Quân khu 5

Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011

P.4

Page 186: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 5 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương

Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011

5

Page 187: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 6 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Bình Định trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương

Quân khu 5, Nxb Quân đội nhân dân, HN, 2011

6

Page 188: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 7 Căn cứ địa cách mạng ở tỉnh Phú Yên trong kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Nguồn: Tác giả tự lập dựa trên Bản đồ phục vụ công tác quốc phòng, địa phương

Quân khu 5, Nxb Quân đội Nhân dân, HN, 2011

7

Page 189: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 8 Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

TT

Tên gọi và thời gian thành lập

Địa điểm, quy mô và địa hình

Dân số và lực lượng kháng chiến

Tổ chức căn cứ địa cách mạng

1 - Sông Đà (B36) - 1950

- Căn cứ nổi bao gồm tất cả ngư dân và những người sống bằng nghề sông biển từ Cẩm Lệ xuống dọc sông Hàn, vòng quanh qua Vũng Thùng

- 11.000 dân - Nơi đứng chân của cán bộ cấp Khu, Tỉnh, Thành ủy Đà Nẵng

- Có bến đưa cán bộ ra Bắc vào Nam

2 - Trung Man - 1950

- Vùng núi phía Tây huyện Hòa Vang

- Nơi đứng chân của huyện ủy Hòa Vang, bộ đội chủ lực Khu V, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng

- Có các trại sản xuất - Có xưởng cơ khí chế lựu đạn và sửa chữa súng của Tỉnh đội

3 - Tiên Phước - 1947

- Huyện Tiên Phước - Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam - Nơi đứng chân của một số đơn vị bộ đội Lào, Campuchia - Nơi đóng cơ quan phòng Biên chính Hạ Lào

- Có Trường Thiếu sinh quân, các trại sản xuất, xưởng quân giới của Tỉnh đội, xưởng sản xuất giấy của Ban Trợ cấp tự túc tỉnh, bệnh viện quân y, kho thóc nông nghiệp của Tỉnh

4 - Khu kháng chiến Hạ Lào

- Bao gồm các xã Tam Dân, Tam Thái, Tam Đại, Tam An, Tam

- Nơi tập luyện chiến đấu, học tập chính trị, quân sự; nơi cung cấp

- Khu trưởng : Ông Xi – Thôn –Com – Ma – Đăm

8

Page 190: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

- 1949 Phước (Phú Ninh) và xã Tam Ngọc (thành phố Tam Kỳ) ngày nay

vũ khí lương thực, quân trang quân dụng cho chiến trường Lào

- Phó Trưởng khu: Ông Xổm – Man – Nô – Viêng và Ông Đoàn Huyên - Mỗi đợt huấn luyện có trên 600 chiến sĩ của Lào

5 - Cao Muôn - 1945

- Vùng núi Cao Muôn thuộc phía Tây nam xã Ba Chùa (huyện Ba Tơ)

- Nơi đứng chân của đội Du kích Ba Tơ - Quân số 17 người

Ban chỉ huy Đội: Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Nguyễn Khoách

6 - Núi Lớn - 1945

- Phía Tây huyện Mộ Đức

- Nơi đứng chân của đội Du kích Ba Tơ - Đại đội Phan Đình Phùng với 5 trung đội

- Có kho lương thực, lò rèn sản xuất vũ khí vũ trang cho du kích và tự vệ, - Có nơi ở và làm việc của cơ quan ấn loát, tạp chí Xung Phong

7

- Vĩnh Sơn (hay Vĩnh Tuy) - 1945

- Thuộc thôn Vĩnh Tuy, xã Tịnh Hiệp, huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) - Là nơi có địa thế núi non hiểm trở và có đầu mối giao thông với các huyện Sơn Hà, Trà Bồng, Minh Long, Tư Nghĩa, Bình Sơn

- Nơi đứng chân của đội Du kích Ba Tơ - Đại đội Hoàng Hoa Thám với 5 trung đội

- Xưởng công binh Từ Nhại

8 - Khu ủy Khu V - 1945

- Ở thôn Thế Thạnh, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

- Nơi đóng và làm việc của cơ quan Khu ủy Khu V.

- Cơ quan Liên Khu ủy Liên khu V, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam

9

Page 191: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Trung bộ, cơ quan Thông tin tuyên truyền, Tòa án, Tư pháp, Mặt trận Liên Việt, Nhà xuất bản Sự Thật, Nhà in Sao Vàng, Cơ quan in bạc Tín phiếu…

9 - Thồ Lồ - 1951

- Địa hình của căn cứ này rất hiểm trở với núi cao, rừng rậm, sông suối bao bọc xung quanh, giáp ranh hai tỉnh Bình Định và Gia Lai - Diện tích 400 km².

- Dân số khoảng 800 người - Là nơi đứng chân của các cơ quan Tỉnh Phú Yên

- Có chính quyền, các tổ chức đoàn thể - Đội vũ trang công tác 250

10

- Xuân Quang (Đồng Xuân) - 1952

- Địa hình hiểm trở và có tầm quan sát địch rất rộng. - Vùng đất này giáp ranh nhiều tỉnh: Bình Định, Gia Lai, Đắc Lắc, tiện liên lạc với Khu ủy V. - Diện tích: 352, 5 km².

- Là nơi đứng chân của Tỉnh ủy Phú Yên - Đại đội du kích tập trung và trung đội dân quân tự vệ

- Có xưởng quân giới Triêm Đức, Vực Ông; xưởng sản xuất giấy Phước Lộc

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo

10

Page 192: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 9 Một số căn cứ địa cách mạng tiêu biểu ở Trung Trung Bộ trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

TT Tên

Căn cứ địa Địa hình Tổ chức căn cứ địa

1 Nước Là Rừng núi hiểm trở Nơi đứng chân của Khu ủy và BTL Quân khu V

2 Nước Oa Rừng núi hiểm trở Nơi đứng chân của Liên Khu ủy – Ban Quân sự Khu V

3 Phước Trà Rừng núi hiểm trở Nơi đứng chân của Khu ủy – Quân Khu V; Có chính quyền, LLVT cấp huyện

4 Sông Đà

(B36) Cửa sông, ven biển

Nơi đứng chân của Thành ủy Đà Nẵng, Đảng bộ Khu Sông Đà

5 K20 Đồng ruộng, sông lạch

Nơi đứng chân của Thành ủy Đà Nẵng, Quận ủy Quận Ba, Đặc Khu ủy Quảng Đà và các LLVT Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,

6 B1 Rừng núi hiểm trở Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng

7 Rừng dừa Bảy Mẫu

Sông nước, nhiều cây cối chủ yếu là

dừa nước

Nơi đứng chân của Thị ủy và LLVT thị xã Hội An

8 Sơn – Cẩm –

– Hà Núi giáp đồng bằng

Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam

9 Tiên Sơn Núi giáp đồng bằng Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam

10 Quế Tiên Núi giáp đồng bằng

Tương đương với huyện, có 10 xã: Sơn Hòa, Sơn An, Sơn Bình, Sơn Hiệp, Sơn Tân, Bình Lâm, Thăng Phước, Phước Sơn, Phước Cẩm, Phước Hà

11

Page 193: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

11 Nam Trà Rừng núi Tương đương cấp Đặc Khu gồm các huyện: Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My

12 Lam Sơn Rừng núi Tương đương cấp Đặc Khu các huyện: Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang

13 Bầu Bính Nổng cát, ruộng lúa Nơi đứng chân của huyện ủy và LLVT Thăng Bình

14 Hòn Tàu Rừng núi hiểm trở

Nơi đứng chân của Đặc khu ủy Quảng Đà, Bộ Tư lệnh Mặt trận 4 và LLVT Quân khu V và nhiều cơ quan thuộc Thành ủy Đà Nẵng

15 Trà Bồng Rừng núi hiểm trở Tương đương cấp huyện, trong căn cứ có Huyện ủy, Huyện đội Trà Bồng

16 Sơn Trà Rừng núi hiểm trở Tương đương cấp Đặc Khu gồm các huyện Sơn Tây và Trà Bồng

17 Sơn Tây Rừng núi hiểm trở Tương đương cấp huyện, trong căn cứ có Huyện ủy, Huyện đội Sơn Tây

18 Vĩnh Tuy Núi giáp đồng bằng Nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo Khu V, Tỉnh Quảng Ngãi và Huyện ủy Sơn Tịnh

19 Ba Làng An Đồng bằng ven biển

Gồm các xã Bình Phú, Bình Châu, Bình Tân (Bình Sơn), Tịnh Kì, Tịnh Hòa, Tịnh Khê (Sơn Tịnh): nơi đứng chân của sở chỉ huy tiền phương tỉnh Quảng Ngãi

20 Núi Bà Rừng núi hiểm trở giáp với biển và đồng bằng

Nơi đứng chân của Khu Đông Bình Định và Ban chỉ đạo tiền phương của tỉnh, các cơ quan của tỉnh

21 Hòn Chè

Rừng núi hiểm trở

Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Bình Định

12

Page 194: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

22 Hầm Hô

Rừng núi hiểm trở

Nơi đứng chân của cán bộ Khu, tỉnh Bình Định, huyện Tây Sơn

23 Thồ Lồ - Ma

Dú Rừng núi hiểm trở

Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Phú Yên

24 Vân Hòa

Rừng núi hiểm trở

Nơi đứng chân của Tỉnh ủy Phú Yên

25 Miền Đông Đồng bằng ven biển Nơi đứng chân của lực lượng cách mạng huyện Tuy Hòa 1

26 Miền Tây Rừng núi hiểm trở Nơi đứng chân của các lực lượng Liên khu V, tỉnh Phú Yên và huyện Tuy Hòa 1

27 Đá Bàn Núi giáp đồng bằng Nơi đứng chân của Thị ủy Tuy Hòa

28 Tây Nam Rừng núi hiểm trở Tương đương cấp huyện, trong căn cứ có Huyện ủy, Huyện đội

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo

13

Page 195: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 10 Một số cuộc nổi dậy ở căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ

(1959-1960)

TT Thời gian Địa

phương Lực lượng tham gia Kết quả

1 6-2-1959 Vĩnh Thạnh

- Đảng bộ huyện Vĩnh Thạnh - Nhân dân 11 làng thuộc 2 xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo

- Phá kế hoạch dồn dân của địch, xây dựng làng chiến đấu. - Vùng giải phóng Vĩnh Hiệp và toàn huyện vẫn được giữ vững

2 28-8-1959 đến cuối 10-1959

Huyện Trà Bồng và miền Tây

- Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban cán sự miền Tây lãnh đạo - Đồng bào Cor, Hrê, Cadong, Kinh - Có sự hỗ trợ của đơn 339, 299, 89

- Đốt cháy đồn địch, phá vỡ cuộc bầu cử quốc hội bù nhìn của chế độ Mỹ - Diệm. - 40 xã các huyện miền Tây được hoàn toàn giải phóng

3 12-3-1960

Làng Ông Tía, xã Phước Nham, huyện Phước Sơn (Quảng Nam

- Huyện ủy Phước Sơn lãnh đạo - 30 gia đình nhân dân làng Ông Tía - Có sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ

- Tiêu diệt toàn bộ tiểu đội ngụy quân đóng tại đây, thu 6 khẩu súng và toàn bộ đạn dược.. - Xây dựng làng Ông Tía thành làng chiến đấu

4 Đầu năm 1960

An Lão (Bình Định)

- Huyện ủy An Lão - Nhân dân các làng ở An Lão

- Giành quyền làm chủ ở các xã An Đồng, An Tân, An Ninh, An Cư, An Dân, An Mỹ

5 20-9-1960 Miền Tây (Phú Yên)

- Tỉnh ủy Phú Yên lãnh đạo Đội vũ trang công tác, 20 dân quân du kích của 2 xã Thồ Lồ và Phú Mỡ

- Giải phóng ấp Phú Giang với khoảng 1.000 dân

14

Page 196: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

6 10-1960

Huyện Trà Bồng và miền

Tây

- Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Ban cán sự miền Tây lãnh đạo Đồng bào Kinh – Thượng - Có sự hỗ trợ của LLVT

- Phá hàng loạt các đồn địch - Hình thành vùng căn cứ địa và vùng giải phóng gồm 54 xã hoàn toàn giải phóng (thuộc huyện Trà Bồng, Sơn Tây, Sơn Hà , Ba Tơ Minh Long) - Thành lập chính quyền tự quản ở các thôn, xã)

7 11-1960 Miền Tây (Phú Yên)

- Tỉnh ủy Phú Yên lãnh đạo Ban cán sự miền Tây, nhân dân địa phương và sự hỗ trợ của các đơn vị vũ trang

- Giành quyền làm chủ ở các xã Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ - Thành lập chính quyền tự quản của nhân dân

8 12-1960 An Lão (Bình Định)

- Huyện ủy An Lão - Đồng bào trong khu tập Gò Nĩ – Đất Dài - Có sự hỗ trợ của đơn vị 2/9

- Phá khu tập trung, bung về làng cũ

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo

15

Page 197: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 11

Một số căn cứ địa miền núi Trung Trung Bộ (1962-1963)

Năm Địa phương

Số dân

Vùng

căn cứ

(Người)

Số dân

Vùng

tranh chấp

(Người)

Số dân

Vùng địch

kiểm soát

(Người)

Số dân

Vùng mở

ra trong

năm 1961

(Người)

1962

Miền Tây

Quảng Nam 39.393 650

Miền Tây

Quảng Ngãi 35.000 31.387 6.000 22.000

Miền Tây

Bình Định 20.650 7.800

Miền Tây Phú Yên 8.320 1.150 2.700

1963

Miền Tây

Quảng Đà 18.793

Miền Tây

Quảng Nam 20.514 736

Miền Tây

Quảng Ngãi 35.000 12.378 25.000

Miền Tây

Bình Định 18.370 2.280

Miền Tây Phú Yên 7.470 2.000

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập dựa trên cơ sở Báo cáo số liệu 1961-1963, tài liệu

lưu tại Kho lưu trữ BTL Quân khu V

16

Page 198: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 12

Địa điểm đứng chân của cơ quan Liên khu, Khu ủy V trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

STT Thời gian Biệt danh

Những tên làng, nóc, nước, xã, huyện nơi đóng cơ quan

1 1955 Chân núi Bạch Mã – Thừa Thiên Huế 2 1956 Trung Mang, huyện Hiên, phía Tây Đà Nẵng 3 1957 - 1959 Nam huyện Hiên, Quảng Nam – Đà Nẵng 4 1960 A1 Nước Là xã Can, huyện Trà My 5 1962 A2 Xã Ngheo Nóc Ông Một dốc Voi huyện Trà My 6 1964 A3 Xã Kỳ Sơn, Kỳ Quế, huyện Tam Kỳ,

tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng 7 1965 A4 Nóc ông Đồi, xã Trà Giác, huyện Trà My,

tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng 8 1966 A6 Nước Leng xã Trà Leng, huyện Trà My 9 1967 A6 Nước Ta thôn Xuân Rỉa, xã Íp, huyện Trà My

10 1968 A7 Tây Quế Sơn trên cây gỗ vuông 11 1968 A7 Tây Duy Xuyên, Quảng Nam 12 1968 - 1969 A81/2 Xã Phước Thành, Phước Sơn

tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng 13 1969 A9 Sông Thanh, huyện Giằng 14 1969 A10 Làng A Rỏ huyện Giằng 15 1970 A11 Nước Leng xã Trà Leng, huyện Trà My 16 1971 A12 Xuân Rỉa, xã Íp, huyện Trà My 17 1972 A13 Nước I, Trà My 18 1973 A13 Nước Oa thôn 3, Trà My 19 1973 - 1975 A14 Xã Phước Gia, Phước Trà huyện Hiệp Đức,

Quảng Nam

Nguồn: Quá trình xây dựng và truyền thống của Ban Tổ chức Liên Khu ủy V (1945-1975), Ban Liên lạc Ban Tổ chức Liên Khu ủy V xuất bản năm 2008

17

Page 199: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 13 Một số hình ảnh hoạt động ở căn cứ địa cách mạng

Đội vũ trang công tác Căn cứ Thồ Lồ Gặp mặt “Đội diệt ác” ở Căn cứ Thồ Lồ

năm 1957

Nguồn: Các dân tộc thiểu số miền Tây Phú Yên trong 2 cuộc kháng chiến chống

Pháp và chống Mỹ, Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên xuất bản năm 2010

Học tập Nghị quyết 15 của BCHTƯ Đảng khóa II tại căn cứ địa miền núi

Quảng Nam (đầu tháng 6-1959)

Nhân dân vận chuyển vũ khí, lương thực về căn cứ địa cách mạng tỉnh

Quảng Nam (1962)

N

NhàNguồn: Quảng Nam 45 năm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,

Nxb Thông tấn, HN,

18

Page 200: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Một buổi sinh hoạt chính trị ở căn cứ địa

(1964)

“Chông treo”, một loại chông được sử dụng phổ biến để bảo vệ căn cứ địa ở

Quảng Nam N

NhàNguồn: Quảng Nam 45 năm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,

Nxb Thông tấn, HN, 2010

Ban chấp hành Khu ủy V cùng các Đại

biểu Chiến sĩ thi đua diệt Mỹ tại Căn cứ

Trà My (1966)

Nguồn: Nhà truyền thống Khu di tích Phước Trà

Hội nghị Khu ủy tại Căn cứ

Sông Thanh (Nam Giang) 1968

19

Page 201: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Thường vụ Khu ủy V họp bàn triển khai

công tác tại Căn cứ Trà My năm 1969

Toàn cảnh Đại hội Đảng bộ Khu V lần

thứ III năm 1970 tại Căn cứ Nam Giang

Nguồn: Nhà truyền thống Khu di tích Phước Trà

Di tích Căn cứ Rừng Nà (xã Đức

Thạnh, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi)

Khu ruộng sản xuất của Tỉnh ủy

ở Căn cứ địa Bàu Sơn (Quảng Ngãi)

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh Quảng Ngãi

20

Page 202: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Thanh niên xung phong Căn cứ địa

Vĩnh Thạnh tải đạn ra chiến trường

phục vụ chiến dịch mùa Xuân năm 1972

Tăng gia sản xuất ở căn cứ địa

Trung chuyển hàng từ căn cứ địa ra

chiến trường

Một cửa hàng mậu dịch

trong Căn cứ địa Vĩnh Thạnh

Nguồn: Bảo tàng Bình Định

21

Page 203: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Các dân tộc tham gia mở đường lên

Căn cứ Bàu Nung

Xây dựng lán trại cho cơ quan Tỉnh ủy

ở căn cứ địa miền núi tỉnh Quảng Ngãi

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh Quảng Ngãi

Vũng Rô nơi tiếp nhận vũ khí từ những chuyến tàu Không số, năm1964

Nguồn: Lịch sử căn cứ địa cách mạng tỉnh Phú Yên trong kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược 1954-1975, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2013

22

Page 204: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Một số đồ dùng cá nhân của Bí thư Khu ủy V – Võ Chí Công tại Căn cứ Phước Trà

Nguồn: Nhà truyền thống Khu di tích Phước Trà

Hầm trú ẩn của Bí thư Khu ủy V – Võ Chí Công tại Căn cứ Phước Trà

Ao cá tại Căn cứ Phước Trà

Nhà làm việc của Bí thư Khu ủy V – Võ Chí Công tại Căn cứ Phước Trà

23

Page 205: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 14

Các quận (huyện), xã (phường) thuộc địa bàn căn cứ địa cách mạng được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực

lượng vũ trang Nhân dân” TT Đơn vị Vùng căn cứ

1 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân Quận Sơn Trà Sông Đà

2 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân phường An Hải Tây Sông Đà

3 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân phường Phước Mỹ Sông Đà

4 Cán bộ, nhân dân và LLVT và nhân dân phường Thọ Quang Sông Đà

5 Cán bộ, nhân dân và LLVT Quận Ngũ Hành Sơn K20

6 Cán bộ, nhân dân và LLVT phường Bắc Mỹ An K20

7 Cán bộ, nhân dân và LLVT huyện Hòa Vang Huyện ủy Hòa Vang

8 Cán bộ, nhân dân và LLVT xã Hòa Thượng (nay là xã Hòa Phú) Huyện ủy Hòa Vang

9 LLVT và nhân dân xã Cẩm Thanh Rừng Dừa Bẩy Mẫu

10 LLVT và nhân dân huyện Tiên Phước Sơn – Cẩm – Hà

11 LLVT và nhân dân xã Tiên Cẩm Sơn – Cẩm – Hà

12 LLVT và nhân dân xã Tiên Hà Sơn – Cẩm – Hà

13 LLVT và nhân dân xã Tiên Sơn Sơn – Cẩm – Hà

14 LLVT và nhân dân xã Tiên Sơn Tiên Sơn

15 LLVT nhân dân huyện Hiên Hiên

16 LLVT và nhân dân xã Atiêng Hiên

17 LLVT và nhân dân xã Ba Hiên

18 LLVT và nhân dân xã Avương Hiên

19 LLVT và nhân dân huyện Nam Giang Nam Giang

20 LLVT và nhân dân thị trấn Thành Mỹ Nam Giang

21 LLVT và nhân dân xã Chà Val Nam Giang

22 LLVT và nhân dân xã La Dêê Nam Giang

24

Page 206: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

23 LLVT và nhân dân xã Zuôih Nam Giang

24 LLVT và nhân dân huyện Hiệp Đức Phước Trà

25 LLVT và nhân dân xã Phước Trà Phước Trà

26 LLVT và nhân dân xã Hòa Hiệp Quế Tiên

27 LLVT và nhân dân xã Quế Bình Quế Tiên

28 LLVT và nhân dân xã Bình Lâm Quế Tiên

29 LLVT và nhân dân xã Quế Thọ Quế Tiên

30 LLVT và nhân dân xã Thăng Phước Quế Tiên

31 LLVT và nhân dân huyện Trà My Nước Oa, Nước Là

32 LLVT và nhân dân xã Trà Mai Nước Là

33 LLVT và nhân dân xã Trà Giác Nước Là

34 LLVT nhân dân xã Bình Dương Bầu Bính

35 LLVT và nhân dân xã Tịnh Hiệp Vĩnh Sơn

36 LLVT và nhân dân xã Sơn Kỳ Bàu Nung

37 LLVT và nhân dân xã Long Môn Long Môn

38 LLVT và nhân dân xã Nghĩa Sơn Đá Sơn

39 LLVT và nhân dân xã Đức Thạnh Rừng Nà

40 LLVT và nhân dân huyện Sơn Tây Sơn Tây

41 LLVT nhân dân huyện Trà Bồng Trà Bồng

42 LLVT và nhân dân xã Trà Sơn Trà Bồng

43 LLVT và nhân dân xã Trà Tân Trà Bồng

44 LLVT và nhân dân xã Trà Hiệp Trà Bồng

45 LLVT và nhân dân xã Trà Bùi Trà Bồng

46 LLVT và nhân dân xã Trà Lâm Trà Bồng

47 LLVT và nhân dân xã Trà Phong (nay thuộc Tây Trà) Trà Bồng

48 LLVT và nhân dân xã Trà Lãnh (nay thuộc Tây Trà) Trà Bồng

49 LLVT và nhân dân xã Trà Trung (nay thuộc Tây Trà) Trà Bồng

50 LLVT và nhân dân xã Trà Giang Trà Bồng

51 LLVT và nhân dân huyện Vĩnh Thạnh Vĩnh Thạnh

52 LLVT và nhân dân xã Vĩnh Hiệp Vĩnh Thạnh

25

Page 207: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

53 LLVT và nhân dân xã Bình Quang Vĩnh Thạnh

54 LLVT và nhân dân xã Cát Hanh Khu Đông Bình Định

55 LLVT và nhân dân xã Cát Hiệp Khu Đông Bình Định

56 LLVT và nhân dân xã Bình Phú Hầm Hô

57 LLVT và nhân dân xã Phú Mỡ Thồ Lồ -Ma Dú

58 LLVT và nhân dân xã Phước Tân Thồ Lồ - Ma Dú

59 LLVT và nhân dân xã Xuân Phước Thồ Lồ - Ma Dú

60 LLVT và nhân dân xã Cà Lúi Thồ Lồ - Ma Dú

61 LLVT và nhân dân huyện Sơn Hòa Vân Hòa

62 LLVT và nhân dân xã Sơn Định Vân Hòa

63 LLVT và nhân dân xã Sơn Long Vân Hòa

64 LLVT và nhân dân xã Sơn Xuân Vân Hòa

65 LLVT và nhân dân xã Xuân Quang Xuân Quang

66 LLVT và nhân dân xã Hòa Kiến Đá Bàn

67 LLVT và nhân dân xã Hòa Hiệp Miền Đông Tuy Hòa

68 LLVT và nhân dân xã Sông Hinh Tây Nam

69 LLVT và nhân dân xã Hòa Thịnh Miền Tây Tuy Hòa

70 LLVT và nhân dân xã Hòa Mỹ Miền Tây Tuy Hòa

71 LLVT và nhân dân xã Hòa Quang Tuy Hòa 2

72 LLVT và nhân dân xã Hòa Định Tuy Hòa 2

73 LLVT và nhân dân xã An Lĩnh An Lĩnh – Tuy An

74 LLVT và nhân dân xã An Xuân Địa đạo Gò Thì Thùng

75 LLVT và nhân dân xã An Dân Gò Chay – Mỹ Long

Nguồn: Nghiên cứu sinh lập trên cơ sở số liệu từ tài liệu tham khảo

26

Page 208: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 15 Mật khu Đỗ Xá

Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, Kí hiệu hồ sơ: PTT 15299

27

Page 209: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 16 Bản đề nghị mục tiêu các Khu vực oanh kích thuộc Vùng I chiến thuật

Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa 7500

28

Page 210: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 17 Kết quả xạ kích các cơ sở Việt cộng trên dải Trường Sơn (phía

Tây và Tây Nam Quảng Ngãi)

Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa 7500)

29

Page 211: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 18

Trích yếu v/v Hải Đăng Mũi Nậy bị Việt cộng tấn công

30

Page 212: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa 7282

31

Page 213: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

PHỤ LỤC 19 Bản nghiên cứu tình hình tỉnh Phú Yên

32

Page 214: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

33

Page 215: (1954-1975) - hueuni.edu.vnhueuni.edu.vn/sdh/attachments/article/1021/toàn văn luận án.pdf · ĐẠi hỌc huẾ. trƯỜng ĐẠi hỌc sƯ phẠm. trẦn thÚy hiỀn. cĂn

Nguồn: TTLT Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, kí hiệu hồ sơ: Đệ nhất Cộng hòa 6635

34