26
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- TRẦN ĐĂNG KẾ QUÁ TRÌNH GI ẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (1992 – 2008) Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN HIỆN ĐẠI MÃ S: 62.22.54.05 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------

TRẦN ĐĂNG KẾ

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU

LONG (1992 – 2008)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN HIỆN ĐẠI MÃ SỐ: 62.22.54.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2015

Page 2: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Văn Sen

Phản biện: Phản biện 1: PGS. TS. Đinh Huy Liêm

Phản biện 2: TS. Lê Hữu Phước

Phản biện 3: PGS. TS. Đặng Văn Đoài

Phản biện đọc lập: 1. PGS. TS. Đinh Quang Hải

2. PGS. TS. Huỳnh Thị Gấm

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường tại Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn

Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 29 tháng 8 năm 2015.

Có thể tìm luận án tại:

Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

Thư viện Trung tâm ĐHQG – HCM.

Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Page 3: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Đăng Kế (1998), Biên niên lịch sử trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1976-1996).

2. Trần Đăng Kế -Viết chung (2004), Biên niên lịch sử trường Đại học Cảnh sát nhân dân (2000-2004).

3. Trần Đăng Kế (2006), Kỷ yếu “Công cuộc đổi mới ở Việt Nam những vấn đề khoa học và thực tiễn - An ninh, quốc phòng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay”, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Trần Đăng Kế (2007), Luận văn Thạc sĩ lịch sử: Giải quyết vấn đề tranh chấp ruộng đất sản xuất của đồng bào Khmer ở ĐBSCL (1988-2006). Mã số:5.03.15.

5. Trần Đăng Kế (2010), Nhận diện các yếu tố lịch sử ảnh hưởng đến an ninh trật tự trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Tạp chí CAND, số 9-2010, tr.59, tháng 9 năm 2010.

6. Trần Đăng Kế (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Công an nhân dân, số 11, năm 2011, tr.35-38.

7. Trần Đăng Kế (2011), Thể chế chính trị và dân chủ trong Hiến pháp, Tạp chí Công an nhân dân, số kỳ 2, tháng 3, năm 2011tr.35-38.

8. Trần Đăng Kế (2011), Một số bất cập trong Luật đất đai năm 2003, Tạp chí CAND, số 8-2011, tr.65, tháng 8 năm 2011.

9. Trần Đăng Kế (2011), Chủ nhiệm đề tài cấp cơ sở: Tác động của văn hóa, giáo dục đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của Công an các tỉnh ĐBSCL-Thực trạng và giải pháp phát huy hiệu quả. Mã số: SC.2011.T48.057.

10. Trần Đăng Kế (2012), Lịch sử xây dựng trường Đại học Cảnh sát nhân dân tại phường tân Phong, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Trần Đăng Kế (2012), Công đoàn trường Đại học Cảnh sát nhân dân: Bài học từ kinh nghiệm tổ chức, thực hiện phong trào thi đua “Lao động giỏi, Lao động sáng tạo”, Tạp chí Bảo hộ lao động, số tháng 11 năm 2012, tr.39-40.

12. Trần Đăng Kế (2013), Tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho công nhân các tỉnh ĐBSCL đáp ứng sự nghiệp CNH,HĐH, Tạp chí Lao động & Công đoàn, số 521, tr.10, (kỳ 1 tháng 4 năm 2013).

13. Trần Đăng Kế (2013), Những thành tựu thể hiện sự phát triển của trường Đại học Cảnh sát nhân dân sau 10 năm có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Tạp chí KHGDCSND, số 38 tháng 9, năm 2013, tr.52-55.

14. Trần Đăng Kế (2014), Về việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL từ 1992 đến 2003), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 461 (9-2014), tr.45-65.

15. Trần Đăng Kế (2014), Vài nét về tình hình quản lý và sử dụng ruộng đất ở ĐBSCL (2003-2008), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 286 (9-2014), tr.110.

16. Trần Đăng Kế (2014), Công tác thi đua khen thưởng và phong trào thi đua dạy tốt, học tốt tại trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Tạp chí KHGDCSND, số 60 (4/2015), tr.39-45.

Page 4: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

1

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Lý do chọn đề tài Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), ngay từ đầu Đảng ta đã xác định ruộng đất là vấn đề rất quan trọng. Giải quyết “vấn đề ruộng đất” không những đem lại ruộng đất cho người nông dân, mà còn tổ chức cho nông dân sử dụng tư liệu sản xuất có hiệu quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ, đưa nông dân đi vào con đường sản xuất lớn XHCN, góp phần giữ vững ổn định vùng nông thôn.

Để giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo đề ra chính sách ruộng đất phù hợp với từng giai đoạn cách mạng 1930-1945; 1945-1954; 1954-1975 tạo tiền đề quan trọng cho xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH) và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Sau năm 1975, Đảng đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền các tỉnh, thành ở ĐBSCL tập trung giải quyết tốt chính sách ruộng đất, như điều chỉnh ruộng đất; hàn gắn vết thương chiến tranh; thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, góp phần tạo ra những chuyển biến về kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Những thành tựu đạt được trong những năm đầu đi lên xây dựng CNXH và nhất là thời kỳ đổi mới đã góp phần đưa nông thôn ĐBSCL không ngừng phát triển ổn định về chính trị, xã hội, quốc phòng - an ninh; góp phần tăng trưởng giá trị xuất khẩu gạo, nông sản hàng hóa,... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được còn tồn tại, hạn chế, đó là: một bộ phận quần chúng nhân dân và cán bộ ở cơ sở trình độ còn thấp, chưa nhận thức hết tầm quan trọng và tác dụng của việc thực hiện chính sách ruộng đất cũng như Luật đất đai; còn lúng túng trong việc triển khai thực hiện các chính sách về ruộng đất. Chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng, Nhà nước còn có hạn chế, nhất là khi triển khai thực hiện ở ĐBSCL, như vấn đề lý luận về chính sách đất đai chưa được tổng kết rút kinh nghiệm; quan hệ sở hữu, sử dụng ruộng đất qua từng giai đoạn lịch sử chưa được giải quyết thỏa đáng; từ “Khoán 100” (1981) đến “Khoán 10” (1988) và việc thực hiện Luật đất đai 1993, 2003 còn nhiều lúng túng, chưa cụ thể để trao quyền sử dụng ruộng đất ngày càng nhiều hơn cho nông dân, xây dựng kinh tế nông hộ thực sự là đơn vị tự chủ. Một bộ phận cán bộ, cá nhân lợi dụng sự thiếu sót, sơ hở trong tổ chức thực hiện chính sách ruộng đất để thao túng ruộng đất, làm giàu cho cá nhân, xây dựng lợi ích nhóm; gây mâu thuẫn ở cơ sở; kích động, lôi kéo quần chúng tranh chấp đất đai, khiếu kiện, tố cáo kéo dài ở tỉnh, thành ĐBSCL,...

Để góp phần giải quyết vấn đề ruộng đất trước đây cũng như từ năm 1992 đến nay, nhiều nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu tổng kết lý luận và thực tiễn trên các phương diện về tình hình ruộng đất, tình hình phát triển công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản,... đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sở hữu ruộng đất, tranh chấp ruộng đất,... Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã góp phần cùng Đảng, Nhà nước và các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương ở ĐBSCL tháo

Page 5: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

2

gỡ những khó khăn, để tiếp tục triển khai thực hiện chính sách ruộng đất thuận lợi hơn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nội dung còn riêng biệt, gắn liền với từng tỉnh, thành địa phương, chưa có công trình nào nghiên cứu về quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL thời kỳ 1992 – 2008. Từ nhận thức về tầm quan trọng ĐBSCL Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở Đồng bằng sông Cửu Long (1992 - 2008)” để làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

1.2. Mục đích nghiên cứu Luận án hướng tới mục đích làm rõ quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở

ĐBSCL từ năm 1992 đến 2008, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc giải quyết vấn đề ruộng đất nói chung và việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL nói riêng.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL, trước và sau năm 1992 có nhiều tác giả tham gia

nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau, liên quan đến ruộng đất, như: Thứ nhất, nghiên cứu về lý luận và pháp luật ruộng đất có những tác phẩm,

công trình khoa học sau: Các tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện

Đảng: cung cấp những vấn đề cơ bản về vấn đề ruộng đất, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nhất là quan điểm của Lênin về “tự nguyện” của người nông dân khi vào hợp tác xã; tư tưởng, đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng CSVN về vấn đề ruộng đất, với khẩu hiệu “người cày có ruộng”.

Các tác giả Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) với tác phẩm“Vấn đề dân cày”; Viện nghiên cứu địa chính, Trung tâm nghiên cứu chính sách pháp luật đất đai (2005) với “Các chủ trương, văn bản quy phạm pháp luật mới về chính sách quản lý sử dụng đất đai”; PGS.TS. Trần Quốc Toản - Ban chủ nhiệm Chương trình KX-08-02, với tác phẩm “Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai lý luận và thực tiễn”; TS. Đinh Xuân Thảo với tác phẩm “Hoàn thiện chế định sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam hiện nay”; Phạm Hữu Nghị: “Những quan điểm mới của Luật đất đai 2003” (2004); Nguyễn Tấn Phát: “Chính sách đất đai ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” (2006); Nguyễn Thị Phượng: “Những bất cập trong quản lý nhà nước về đất đai hiện nay” (2007); Minh Huệ: “Sở hữu ruộng đất, vấn đề lớn cần giải quyết” (2008); Trần Đăng Kế: “Một số bất cập trong luật đất đai năm 2003”, tạp chí Công an nhân dân (2011); Nguyễn Sinh Cúc: “Nghiên cứu về nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 - 2002”.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu về ĐBSCL trong giai đoạn cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI trên các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đời sống như: GS. Phan Quang: “Đồng Bằng sông Cửu Long” (1981); PGS Huỳnh Lứa: “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ” (1987). Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Báo cáo nghiên cứu bước đầu về vùng đất Nam Bộ trong lịch sử” (2004) và “Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam” (2006) của Hội khoa học lịch sử Việt Nam.

Page 6: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

3

Các bài viết liên quan đến người Khmer ở ĐBSCL, như Ngô Đức Thịnh: “Người Khmer ĐBSCL là thành viên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, (1984); GS. Mạc Đường: “Vấn đề dân cư và dân tộc ở ĐBSCL vào những năm đầu thế kỉ XX” (1982),...

Thứ ba, những công trình nghiên cứu về vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL trong thời gian gần đây có các công trình sau: GS, TS. Phan An: “Một số vấn đề kinh tế - xã hội vùng nông thôn Khmer ĐBSCL”, “Vấn đề Dân tộc học ở ĐBSCL” (1981) và “Vài nét về ruộng đất nông thôn của người Khmer ở ĐBSCL”, trong “Sưu tầm Dân tộc học 1979” (1980); Phương Ngọc Thạch: “Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL; Nguyễn Văn Luật:“Suy nghĩ về tích tụ ruộng đất ở ĐBSCL” (2007); Lê Du Phong:“Hộ nông dân không đất và thiếu đất ở ĐBSCL” (1998); Phạm Thị Cầm - Vũ Văn Kỷ - Nguyễn Văn Phúc: “Kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở Việt Nam” (2003); Hoàng Liên: “Một dạng kinh tế hàng hóa ở nông thôn” (1980); Phạm Bảo Dương:“Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp trong nông nghiệp nông thôn” (2004); Trần Đăng Kế: luận văn thạc sĩ “Vấn đề tranh chấp đất đai sản xuất của đồng bào Khmer ở ĐBSCL 1988 - 2006”; TS Nguyễn Văn Nghệ: đề tài khoa học cấp Bộ “Giải quyết tranh chấp đất đai với vấn đề đảm bảo an ninh trật tự ở ĐBSCL - Thực trạng và giải pháp”; Trần Đăng Kế: “Về việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL từ 1992-2003”,tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 9-2014; “Vài nét về tình hình quản lý và sử dụng ruộng đất ở ĐBSCL (2003-2008)”, tạp chí Lịch sử Đảng, 9-2014; PGS, TS Trần quốc Toản: “Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai – Lý luận và thực tiễn; Chính sách ruộng đất ở nông thôn” (KX – 08 – 02), thuộc chương trình khoa học nhà nước Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn (KX-08), giai đoạn 1991 - 1995.

Nhìn chung, các công trình khoa học nghiên cứu về ĐBSCL có liên quan đến vấn đề ruộng đất được công bố ở các khía cạnh khác nhau từ năm 1992 đến năm 2008 rất phong phú, là nguồn tư liệu quan trọng định hướng cho luận án.

Kế thừa thành quả nghiên cứu khoa học của TS Lâm Quang Huyên về “Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam”; PGS, TS Võ Văn Sen: “Vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL của Việt Nam 1954 - 1975”; Nguyễn Thành Nam: Luận án tiến sĩ “Việc giải quyết vấn đề ruộng đất trong quá trình đi lên sản xuất lớn ở ĐBSCL giai đoạn 1986 - 1992” và những công trình mà tác giả tiếp cận, nghiên cứu đã được công bố, cùng những tài liệu trực tiếp khảo sát nghiên cứu tại các địa phương, các trung tâm lưu trữ của Trung ương, thư viện các trường Đại học để hoàn thành luận án.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là Quá trình giải quyết vấn đề ruộng

đất ở ĐBSCL thời kỳ 1992-2008. Nội dung bao gồm: tình hình thực hiện chính sách, pháp luật đất đai của Đảng, Nhà nước thời kỳ triển khai Luật đất đai năm 1993, 2003, các luật sửa đổi, bổ sung và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề ruộng đất; thực trạng tình hình ruộng đất ở ĐBSCL, những chuyển biến vấn đề quyền sở hữu, quyền sử dụng ruộng đất; tình hình và việc giải quyết tranh

Page 7: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

4

chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất; tác động của việc giải quyết vấn đề ruộng đất đối với phát triển kinh tế - xã hội; rút ra những đặc điểm, những vấn đề có tính quy luật của quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL.

3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình giải quyết vấn đề ruộng

đất giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2008 - Phạm vi không gian: Địa bàn nghiên cứu là vùng ĐBSCL, gồm 13 tỉnh,

thành: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ, trong đó tập trung nhất là các tỉnh có những nội dung liên quan đến mục đích nghiên cứu của luận án.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu sử dụng 4.1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất trong thời kỳ lịch sử hiện

đại là công việc hết sức khó khăn, khi nhiều vấn đề lịch sử, vấn đề lý luận chưa được tổng kết đánh giá đúng mức. Do đó, để nghiên cứu luận án áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng CSVN về vấn đề ruộng đất, vấn đề nông thôn, nông dân; phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic để nghiên cứu các vấn đề cụ thể trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất qua thực hiện Luật đất đai năm 1993, 2003 và các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước; phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê để tổng hợp đánh giá những đặc điểm, những vấn đề có tính quy luật trong giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn, nhằm rút ra những ưu điểm, hạn chế trong chính sách ruộng đất thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng như các giải pháp đã được thực hiện trong giải quyết về vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL từ 1992 đến 2008.

4.2. Nguồn tài liệu sử dụng Nguồn tài liệu chính sử dụng gồm các tài liệu điều tra, báo cáo, lưu trữ ở các

cơ quan lãnh đạo, quản lý và lưu trữ của Đảng, Nhà nước như văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, các Ban của Trung ương Đảng như Ban Tuyên giáo, Tổng cục Thống kê, các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, tài liệu lưu trữ của Tỉnh ủy, Thành ủy và Ủy ban nhân dân, các sở ban ngành, đặc biệt là sở thống kê của tỉnh, thành ĐBSCL,...

Bên cạnh nguồn tài liệu nói trên, luận án còn kế thừa các công trình nghiên cứu khác, để tham khảo, đối chiếu đảm bảo tính chính xác, đó là những tác phẩm, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, những bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành.

5. Những luận điểm chính và đóng góp mới của luận án Để thực hiện nội dung luận án, những luận điểm chính cần giải quyết: - Để giải quyết tốt vấn đề ruộng đất, thì chính sách ruộng đất phải được thể

hiện bằng luật, đó là cơ sở khoa học cho quá trình giải quyết.

Page 8: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

5

- Luật đất đai năm 1993, năm 2003 và các luật đất đai sửa đổi, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước là sự thể hiện việc Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai.

- Những bất cập của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai; sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành pháp luật về đất đai; sự thiếu gương mẫu, suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất.

- Chuyển biến về sở hữu ruộng đất với hai quyền: quyền sở hữu, quyền sử dụng ruộng đất là một tất yếu khách quan dẫn đến tích tụ, tập trung ruộng đất, là cơ sở hình thành các mô hình liên kết tổ chức sản xuất mới ở ĐBSCL.

- Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL đã xuất hiện các mối quan hệ mới giữa nông thôn - nông nghiệp - nông dân. Sự phân tầng xã hội, sự chuyển dịch kinh tế, sự liên kết tổ chức lại sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.

Luận án hoàn thành, có những đóng góp khoa học sau: - Luận án là một công trình nghiên cứu về lịch sử kinh tế thời kỳ cận, hiện

đại liên quan đến ĐBSCL, sẽ giúp nhân dân ta hiểu rõ hơn những thuận lợi và khó khăn về một vùng đất có vai trò, vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa của nước ta.

- Luận án phản ánh quá trình vận dụng vào thực tiễn từ chính sách, pháp luật đất đai của Đảng ở ĐBSCL; tình hình giải quyết vấn đề ruộng đất và những tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 1992-2008.

- Luận án giúp cho đội ngũ cán bộ và nhân dân ta hiểu rõ thêm những quan hệ có tính quy luật giữa hai quyền: quyền sở hữu, quyền sử dụng ruộng đất trong từng trường hợp cụ thể của ĐBSCL; thấy được một số mô hình sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL và hiệu quả của nó đối với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn trong thời kỳ đổi mới.

- Luận án tổng hợp và cung cấp những tư liệu khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy liên quan đến ruộng đất ở ĐBSCL.

6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung luận án gồm 3 chương, 9 tiết.

PHẦN NỘI DUNG Chương 1

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT

GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1992 1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và quá trình khai phá ĐBSCL 1.1.1. Điều kiện tự nhiên ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay gồm có 12 tỉnh và một thành

phố: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Có diện tích tự nhiên gần 40.602,3km2, chiếm 12,8% diện tích cả nước, dân số trên

Page 9: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

6

17.695 người. Có đường biên giới Tây Nam giáp Vương quốc Campuchia. Phía Đông giáp biển Đông với đường biển dài trên 700 km với khoảng 360.000 km2 khu vực đặc quyền kinh tế phía Nam, đất sử dụng cho nông nghiệp 26.500km2; đất phù sa chưa được khai thác chiếm khoảng 67 vạn ha. ĐBSCL có hai hệ thống sông chính: hệ thống sông Cửu Long (sông MêKông) dài 4.200km và sông Vàm Cỏ. ĐBSCL có hai mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch và mùa khô từ tháng 11 hàng năm đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ bình quân trong năm vào khoảng 26-27, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500 - 1900mm,...

ĐBSCL có hệ sinh thái tự nhiên rất độc đáo, đó là hệ sinh thái rừng ngập nước ngọt (Vườn quốc gia Tam Nông, rừng Trà Sư, vùng Đồng Tháp Mười), và rừng ngập mặn ven biển (Vườn quốc gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia U Minh Hạ), hệ sinh thái nông nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng ngập mặn ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre,... có vai trò quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, giữ cân bằng môi trường sinh thái.

Lúa gạo, nuôi trồng và đánh bắt hải sản chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế ĐBSCL; theo các tài liệu của tổ chức lương thực thế giới FAO Liên hợp quốc sản lượng, cá tôm ở bờ biển Tây Nam Bộ ước tính vào khoảng 490.000 tấn/năm. Vùng rừng ngập mặn với diện tích khoảng 350.000ha ở Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên còn cung cấp một nguồn lớn lâm sản, như tràm, đước, sú vẹt và động vật rừng. Ở ĐBSCL còn có vỉa than bùn rộng lớn khoảng 80.000ha, ở rừng U Minh, là nguồn nhiên liệu quí đồng thời là nguồn phân bón có giá trị đối với nông nghiệp.

Với điều kiện tự nhiên và lịch sử cấu tạo ĐBSCL có nhiều yếu tố thuận lợi cho việc phát triển các ngành kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp đặc biệt do đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà nên ĐBSCL là vùng trọng điểm trồng lúa của Việt Nam và khu vực.

1.1.2. Cư dân Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSCL là một vùng đất màu mỡ, rất thuận lợi cho sự cư trú và phát triển của

con người. “Đất lành chim đậu”, ĐBSCL là nơi cư trú khá sớm của nhiều thành phần dân cư, nhiều tôn giáo và hình thức tín ngưỡng khác nhau trong đó có, người Việt, người Chăm, người Khmer, người Hoa. Trước thế kỷ XVIII, văn hóa người Khmer có ảnh hưởng lớn ở vùng đất này, nhưng từ thế kỷ XVIII đến nay cư dân người Việt và văn hóa vượt trội của họ đã trở thành nền tảng căn bản cho toàn bộ vùng ĐBSCL. Dân số toàn vùng năm 1999 là 16.1334 người, tỷ lệ tăng bình quân giai đoạn 1989-1999 là 1,13%. Năm 2007 là 17.524.000 người, chiếm 20,6% dân số cả. Mật độ cư trú là 432 người/km2, gấp 1,7 lần mật độ bình quân cả nước. Tỉnh An Giang dẫn đầu khu vực với 2.231.000 người, thấp nhất là tỉnh Hậu Giang với 798.800 người. Người Khmer có mặt ở hầu hết các tỉnh ĐBSCL, nhất là ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang.

1.1.3. Sơ lược lịch sử phát triển ĐBSCL Công cuộc định cư khai phá đất đai ở ĐBSCL, qua các tư liệu sử học, khảo cổ

học, địa lý cho thấy người Khmer có mặt ở nơi này từ rất sớm. Nhưng qua các di

Page 10: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

7

tích để lại, thì sự xuất hiện của con người ở đầu Công nguyên lại gắn liền với Vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VI, điều đó cho thấy cư dân Phù Nam có mặt ở đây trước người Khmer. Những dấu tích được khai quật ở Óc Eo (Ba Thê - An Giang), nền Chùa (Kiên Giang), đã minh chứng điều đó. Song trong quá trình phát triển và biến mất của Vương quốc Phù Nam thì còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ. Đến thế kỷ XVII, số dân ở Nam Bộ có khoảng 20 vạn người, trong đó người Khmer cổ chưa phải là đa số, công cuộc khai phá ĐBSCL, ta thấy có công lao của người Khmer, nhưng bên cạnh đó còn có công lao to lớn của người Việt và người Hoa, nhất là người Việt đã đến chinh phục vùng đất này từ rất sớm. Người Khmer và người Hoa, người Việt tới ĐBSCL lập nghiệp, khai khẩn đất hoang chính họ đã cùng với người Khmer lao động đẩy lùi rừng hoang, đầm lầy, chinh phục đất bồi ven biển,... để ổn định cuộc sống mới. Đặc biệt, khi nhà Nguyễn thực thi chính sách mở rộng bờ cõi xuống phía Nam thì làn sóng người Việt đến ĐBSCL khai hoang lập ấp ngày càng nhiều. Chúa Nguyễn đã thực thi công cuộc khai phá đất đai ở ĐBSCL với quy mô và tổ chức ngày càng lớn và về cơ bản đến năm 1757, những phần đất còn lại ở ĐBSCL đã thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn chia vùng đất Nam bộ thành 3 trấn: Biên Hòa, Gia Định, Hà Tiên. Đến đời Minh Mạng, nhà Nguyễn chia thành 6 tỉnh gọi là Nam kỳ lục tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

1.2. Tình hình ruộng đất ở ĐBSCL trước năm 1992 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1954 Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, ĐBSCL trở thành "thuộc địa"

của thực dân Pháp. Mặc dù Nam kỳ được Pháp thiết lập chế độ thuộc địa nhưng tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến thể hiện rất rõ nét trong nền kinh tế ĐBSCL, đó là chế độ sở hữu ruộng đất. Ruộng đất ở ĐBSCL tập trung trong tay địa chủ phong kiến ở mức cao; ở Nam bộ có 2,3 triệu ha thì địa chủ chiếm hữu 56,9%. Tính đến năm 1900 tư bản Pháp chiếm 4346 ha ruộng đất ở Nam kỳ, riêng ĐBSCL tư bản Pháp chiếm hữu và khai thác trên 70% diện tích canh tác. Thực dân Pháp chiếm đoạt ruộng đất đã làm cho đời sống của người nông dân ĐBSCL hết sức cực khổ. Trong số gần một triệu ha ruộng đất mà tư bản Pháp chiếm được ở ĐBSCL thì hơn hai phần ba là đất trồng lúa; tư bản Pháp áp dụng phương thức phát canh thu tô, địa chủ phong kiến duy trì bóc lột nông dân dưới hình thức địa tô, nặng lãi và thuê mướn bóc lột nhân công. Chính sách bóc lột của tư bản Pháp và địa chủ phong kiến đã kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất trong nông nghiệp và bần cùng hóa nông dân.

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Đảng CSVN đã xác định Cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng sau khi thắng lợi sẽ đi tới xã hội Cộng sản”. Cách mạng Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là đánh đổ đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân. Về cơ bản đến cuối năm 1953 trên 50% ruộng đất của thực dân đã được chia cho nông dân, tầng lớp trung nông ở ĐBSCL có vai trò quyết định đối với sở hữu ruộng đất và tổ chức sản xuất.

Page 11: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

8

1.2.2. Giai đoạn 1954 - 1975 Ở miền Nam, Mỹ không thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ năm

1954, từng bước hất cẳng Pháp dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, xây dựng miền Nam thành căn cứ quân sự, thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Do vậy, thời kỳ 1954-1975 chế độ sở hữu ruộng đất ở ĐBSCL chuyển biến qua hai đợt cải cách lớn tương ứng với thời kỳ cầm quyền của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Ngô Đình Diệm thực hiện Chương trình cải cách điền địa để khôi phục quyền lợi của giai cấp địa chủ, mở đường cho việc thiết lập chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ, thì luật "Người cày có ruộng" của Nguyễn Văn Thiệu lại là bước mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn miền Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng.

1.2.3. Giai đoạn 1975 - 1985 Sau năm 1975, để tổ chức cho nông dân sản xuất, thực hiện các Nghị quyết số

24, 254 của Trung ương Đảng các cấp ủy Đảng, chính quyền ở ĐBSCL đã tổ chức đánh giá toàn diện tình hình sử dụng ruộng đất. Từ thực tiễn tình hình, các cấp chính quyền ĐBSCL triển khai chủ trương giữ nguyên canh, thực hiện điều chỉnh ruộng đất, cấp đất cho các hộ chưa có đất hoặc thiếu đất canh tác.

Thực hiện Chỉ thị 236-CT/TW, tháng 9-1976 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về giải quyết vấn đề ruộng đất ở miền Nam, tháng 9-1976 Chính phủ có Quyết định số 188-CT/CP về xóa bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân phong kiến ở miền Nam. Chủ trương này đã góp phần đẩy nhanh tiến độ điều chỉnh ruộng đất ở miền Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng. Quỹ đất dùng để điều chỉnh là từ ruộng đất thu hồi ruộng vắng chủ, ruộng đất của những chủ hộ có nhiều đất và một phần từ đất chưa sử dụng, đất khai hoang; tập trung ở các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Minh Hải. Việc điều chỉnh ruộng đất đạt được một số kết quả nhất định, phù hợp với đường lối cách mạng của Đảng đề ra là “người cày có ruộng”; song ở nông thôn ĐBSCL tỷ lệ hộ nông dân không có ruộng và thiếu ruộng đất sản xuất vẫn chiếm tỷ lệ cao, ở nhiều vùng còn đến 20 - 30% số hộ nông dân không có ruộng đất, ở một số nơi còn duy trì bóc lột.

Để đẩy mạnh việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở Nam bộ, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 75-CT/TƯ, ngày 15-11-1978; Quyết định số 319-CP, ngày 14-12-1978; Chỉ thị 100-CT/TƯ, ngày 13-01-1981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp và Chỉ thị 19, tháng 5-1983 về điều chỉnh ruộng đất và cải tạo nông nghiệp Nam bộ.

Tính đến năm 1982, qua 6 năm (1976-1982) thực hiện điều chỉnh ruộng đất, các tỉnh Nam bộ đã rút trên 270.000ha ruộng đất, gần bằng 1/10 diện tích canh tác để chia, cấp cho những hộ nông dân không có và thiếu đất. Năm 1983, Nam bộ chia 213.785ha cho các hộ thiếu đất. Trong đó Hậu Giang là tỉnh chia nhiều ruộng đất nhất. Năm 1985, hầu hết các tỉnh ĐBSCL đều báo cáo hoàn thành cơ bản phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Kết quả trong 10 năm, Nam bộ nói chung và ĐBSCL nói riêng đã hoàn thành điều chỉnh ruộng đất. Có 381.517ha ruộng đất được rút ra để điều chỉnh cho 40.342 hộ nông dân, bình quân mỗi hộ được từ 0,4 đến 0,8ha.

Page 12: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

9

Song, do nóng vội trong việc đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, do quá trình xây dựng ồ ạt TĐSX, HTX mang tính hình thức nên sau khi được thành lập các TĐSX, HTX bộc lộ ngay những yếu kém và dẫn đến mô hình tổ chức sản xuất này tan rã hàng loạt. Cuối năm 1979 đầu năm 1980, trong tổng số 13.000 TĐSX được xây dựng thì đã có 6.000 tập đoàn không thể tổ chức được sản xuất, số còn lại lúng túng và gặp không ít khó khăn. Năm 1980, trong nông thôn Nam bộ chỉ còn lại 3.789 TĐSX và 137 HTX với qui mô vừa và nhỏ, với khoảng 9% số hộ, 7% diện tích ruộng đất là mang tính tập thể, còn 90% nông dân làm ăn cá thể.

Cuối 1981, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, trên cơ sở kết quả đã đạt được đại hội tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp ở các tỉnh Nam bộ, từng bước phát huy tác dụng hợp tác hóa đối với việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN và xây dựng nông thôn mới". Nghị quyết Trung ương V (Khóa V) chủ trương: “Đối với ĐBSCL, phải tiến hành phân bố lại lao động trong vùng và tiếp nhận lao động từ nơi khác đến nhằm thâm canh, tăng vụ và sử dụng hết 50 vạn ha đất hoang hóa”.

Quá trình tập thể hoá, do đặt nặng việc phân biệt lợi ích kinh tế trên đất đai của hộ nông dân là không cần thiết, nên dẫn đến tình trạng cắt đất xâm canh và xáo canh diễn ra hết sức phức tạp ở nông thôn Nam bộ. Việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở miền Nam đã đưa lại kết quả nhất định là góp phần hoàn thành cách mạng ruộng đất, xoá bỏ chế độ chiếm hữu và bóc lột của đế quốc và địa chủ phong kiến trên phạm vi cả nước. Nhưng bên cạnh thắng lợi đó, trong điều chỉnh ruộng đất gắn liền với tập thể hoá, Đảng ta xác định đã mắc những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng trong việc điều chỉnh ruộng đất theo cách làm trên đã không tính đến lợi ích của người sản xuất và tình hình sở hữu tồn tại ở miền Nam sau 30-4-1975; đã vi phạm nghiêm trọng lợi ích của nông dân, đặc biệt là trung nông - nhân vật trung tâm của sản xuất nông sản hàng hoá ở Nam bộ, những người có vốn, lao động và kinh nghiệm sản xuất, đại biểu cho lực lượng sản xuất đang phát triển ở nông thôn Nam bộ. Việc điều chỉnh ruộng đất nhiều lần dẫn đến bình quân, cào bằng, xoá xâm canh, gây ra xáo canh, làm triệt tiêu động lực của sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Việc chia ruộng đất cho cả những người hoạt động trong các lĩnh vực phi nông nghiệp là không phù hợp, không phát huy được tiềm năng sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL.

1.3.4. Giai đoạn 1986 - 1992 Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI trên cơ sở đánh giá

những thành tựu và yếu kém tồn tại của chặng đường 10 năm (1975-1985), Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật về những sai lầm khuyết điểm của cách mạng nước ta thời kỳ đầu đi lên CNXH và đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đã đề ra 3 chương trình kinh tế lớn, đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, kinh tế quốc doanh, tập thể, phát huy vai trò chủ động sản xuất của người lao động. Tư tưởng chỉ đạo của nghị quyết là các kế hoạch và chính sách kinh tế là phải giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai thác mọi năng lực tiềm năng của đất nước, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đại hội xác định "nông nghiệp mặt trận hàng đầu, phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao

Page 13: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

10

cấp, sửa đổi các chính sách đòn bẩy kinh tế, giải phóng năng lực sản xuất của hàng chục triệu lao động với hàng triệu ha đất đai trong nền nông nghiệp".

Ngày 29-12-1987, Quốc hội thông qua Luật đất đai 1987 đã tháo gỡ những vướng mắc trong mối quan hệ giữa chế độ quản lý đất đai với việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc Luật quy định nghiêm cấm mua, bán, kể cả quyền chuyển nhượng đã trở thành rào cản quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất vào những hộ có khả năng và kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Mặc dù có sự chỉ đạo rất chặt chẽ của Trung ương và địa phương trên thực tế ở nông thôn ĐBSCL vẫn diễn ra quá trình tích tụ; đó là quá trình chuyển nhượng ruộng đất giữa các hộ nông dân với nhau diễn ra khá phổ biến. Tình hình chuyển nhượng ruộng đất, cho thấy nền kinh tế hàng hóa đã tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL.

Việc chuyển nhượng ruộng đất đã tạo nên những tiền đề mới, nông dân không còn bị trói chặt vào ruộng đất, có thể chuyển nhượng, chuyển đổi ngành nghề phù hợp với khả năng, làm cho sản xuất nông thôn sống động. Do giá trị của đất tăng cao, thị trường bất động sản ĐBSCL xuất hiện với việc nhiều người có nhu cầu mua đất và cũng có nhiều người muốn sang nhượng đất. Cơ cấu sở hữu ruộng đất có sự thay đổi tăng - giảm, những hộ có khả năng tổ chức sản xuất nhận chuyển nhượng, tăng diện diện tích, những hộ không có khả năng sản xuất chấp nhận chuyển nhượng và một số hộ do khó khăn phải cầm cố. Số hộ có diện tích ruộng đất (chiếm 72%); do thuê (15%); số hộ có ruộng đất giảm do chuyển nhượng, cầm cố (chiếm 13%) và tập trung ở những vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống. Việc thay đổi quy mô về sở hữu ruộng đất thực chất là quá trình tích tụ ruộng đất và đi cùng với nó là nhiều hộ nông dân chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp sang làm các nghề dịch vụ, kinh doanh trong nông nghiệp (chuyển dịch nội bộ ngành); nhiều hộ sau khi chuyển nhượng, cầm cố thì đi làm thuê. Sự phân tầng xã hội, sự phân hóa giàu nghèo diễm ra mạnh mẽ.

Luật đất đai năm 1987 và khoán 100, thời gian đầu có phát huy tác dụng tạo điều kiện cho người nông dân ĐBSCL phát triển sản xuất, tăng năng suất, sản lượng. Sản lượng lương thực ĐBSCL không ngừng tăng đã góp phần quan trọng giải quyết những khó khăn về lương thực của cả nước trong những năm (1982-1985). Trước nhưng những hạn chế của Luật đất đai năm 1987 và khoán 100 về chính sách hạn điền dẫn đến nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động chuyển sang khoán gọn và sau đó được Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) xác nhận và thường gọi là khoán 10. Số lượng kinh tế hộ tăng nhanh đến cuối năm 1993, ĐBSCL có 2.328 đơn vị kinh tế hộ chiếm 22,6% tổng số hộ cả nước; riêng An Giang có khoảng 30% số hộ sản xuất hàng hóa, 50% số hộ sản xuất tự túc, 20% số hộ sản xuất không đủ ăn.

Tình hình tranh chấp ruộng đất diễn từ năm 1986 và lan ra khắp cả nước, tập trung nhất, phổ biến nhất là ở ĐBSCL. Nhiều tỉnh, huyện do cơ sở không giải quyết thấu đáo để bà con tổ chức thành từng nhóm, từng đoàn kéo về các cơ quan Trung ương, Chính phủ tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội để đòi hỏi về ruộng đất.

Page 14: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

11

Tiểu kết chương 1 “Vấn đề ruộng đất” theo nghĩa “việc giải quyết ruộng đất cho nông dân” ở

ĐBSCL trong lịch sử cho đến đầu những năm 1990 đã trải qua nhiều quá trình hết sức phức tạp, chịu tác động của rất nhiều nhân tố chủ nghĩa thực dân cũ, chủ nghĩa thực dân mới, chính sách ruộng đất của Đảng ta trong cách mạng DTDCND dưới hình thái cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như những điều chỉnh ruộng đất cải tạo XHCN đối với nông nghiệp sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Về cơ bản đến năm 1975 chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp phong kiến đã bị xóa bỏ, ruộng đất về tay nông dân lao động, trong nông nghiệp đã bước đầu có sự phát triển chủ nghĩa tư bản; nông dân bị phân hóa thành các từng lớp khác nhau, tuy rằng Trung nông vẫn còn là nhân vật trung tâm ở ĐBSCL.

Từ năm 1975-1992, bên cạnh những thành tựu nhất định, thì những sai lầm, nóng vội trong điều chỉnh ruộng đất theo tinh thần “bình quân, cào bằng”, “tập thể hóa nông nghiệp” đã gây ra những xáo trộn lớn cho chế độ ruộng đất và sự phát triển kinh tế - xã hội ở ĐBSCL.

Chương 2 QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐBSCL GIAI ĐOẠN 1992-2002

2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ĐBSCL giai đoạn 1992- 2002 Từ năm 1992, cả nước thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc các khóa

VII, VIII, IX và đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, nhất là đổi mới về tư duy kinh tế. Tận dụng những thế mạnh của vùng đất rộng lớn giàu tiềm năng, nhân dân ĐBSCL đã tạo ra được một khối lượng sản phẩm to lớn về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản. Sản xuất lương thực, năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên, tính chung cả giai đoạn ước đạt trên 16 triệu tấn, bình quân một năm tăng thêm trên 1 triệu tấn. Nhiều tỉnh như An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp đạt trên 1 triệu tấn/năm. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,... hợp với quy luật và quy định của pháp luật đã tạo ra diện mạo mới trong nông thôn ĐBSCL. Sự ra đời các khu công nghiệp, các điểm công nghiệp đã gắn công nghiệp trực tiếp phục vụ nông nghiệp.

2.2. Luật đất đai 1993 và những vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL 2.2.1. Luật đất đai 1993 và chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước Luật đất đai năm 1993, các luật sửa đổi và chính sách kinh tế - xã hội ra đời

có sự kế thừa phát triển chính sách đất đai của cuộc Cách mạng ruộng đất mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ khi Đảng ra đời đến nay; đồng thời cụ thể hóa nội dung chiến lược của Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Nội dung quan trọng được luật quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài; Nhà nước giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất để sản xuất”.

Page 15: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

12

2.2.2. Tình hình triển khai thực hiện chính sách ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 1992-2002

Sau khi Luật đất đai năm 1993 ra đời, các tỉnh ĐBSCL đã sớm triển khai các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý sử dụng đất đai, tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ chức, thực hiện các nội dung quản lý, sử dụng ruộng đất. Các tỉnh đã tập trung lập bản đồ địa chính, lập quy hoạch sử dụng ruộng đất, thực hiện kiểm kê đất đai nhằm từng bước quản lý đất đai chặt chẽ từ thực địa đến sổ sách. Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp ngăn chặn tình trạng chuyển nhượng QSDĐ không đúng quy định của pháp luật; xây dựng Quy chế tiếp công dân và giải quyết đơn khiếu kiện, tố cáo của tổ chức, công dân trên địa bàn; Tăng cường giải quyết tranh chấp đất đai, nhất là tranh chấp đất đai ở vùng có đồng bào Khmer sinh sống.

2.2.3. Thay đổi trong quản lý nhà nước về đất đai ở ĐBSCL Triển khai Luật đất đai năm 1993, các tỉnh, thành ĐBSCL đã phân loại đất đai

theo diện tích được đưa vào sử dụng, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Quản lý tài chính về đất đai chủ yếu sử dụng công cụ hành chính mà chưa sử dụng công cụ điều tiết kinh tế cho phù hợp với quy luật kinh tế thị trường, hệ thống thuế chưa điều tiết được người có thu nhập cao từ kinh doanh bất động sản đã gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước và địa phương.

Hầu hết các tỉnh ĐBSCL đến năm 1995 đã hoàn thành quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đến năm 2010, tầm nhìn 2015-2020 và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Song, việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do làm gấp, để đảm bảo tiến độ và chưa có kinh nghiệm nên ngay sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phần lớn các tỉnh ĐBSCL từ năm 1996 đã đề nghị Chính phủ duyệt điều chỉnh, gây khó khăn cho công tác quản lý chung.

Công tác giao đất, cho thuê đất ở ĐBSCL đã đáp ứng yêu cầu sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, song cũng như tình hình chung trên cả nước, thủ tục còn rườm rà, thiếu kiểm tra xem xét khi có quyết định giao đất, cho thuê đất đối với dự án đầu tư. Tình trạng giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền, sử dụng đất sai mục đích được giao, xảy ra khá phổ biến, nhất là ở thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, Kiên Giang nơi có nhiều dự án đầu tư.

Hầu hết các tỉnh ĐBSCL công tác thu hồi đất được triển khai mạnh, phục vụ cho nhu cầu xây dựng các dự án, công trình kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn nhiều bất cập: giá bồi thường chưa hợp lý, quỹ nhà ở phục vụ cho công tác tái định cư chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân.

Đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ, quản lý các hợp đồng thuê đất, thống kê, kiểm kê đất đai triển khai còn chậm, nhất là cấp GCNQSDĐ do tình hình tranh chấp ruộng đất diễn ra khá phức tạp, nhất là các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Tiền Giang.

2.3. Tranh chấp, khiếu kiện về quản lý và sử dụng đất đai ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2002

2.3.1. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện Các dạng tranh chấp đất đai trong giai đoạn 1992 - 2002 ở ĐBSCL rất đa

dạng, phức tạp, đan xen lẫn nhau. Về cơ bản có thể được chia làm hai loại chủ yếu:

Page 16: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

13

các tranh chấp mà trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp; tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Từ công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách pháp luật đất đai các địa phương ĐBSCL đã phát hiện nhiều dạng vi phạm pháp luật đất đai, trong đó các vi phạm phổ biến nhất là: giao đất trái thẩm quyền, bán đất thu tiền trái pháp luật, chuyển nhượng và cho thuê đất trái phép, sử dụng đất không đúng mục đích, chuyển mục đích sử dụng đất tùy tiện, lấn chiếm đất đai, để đất hoang hóa không sử dụng trong thời gian dài, người sử dụng đất không thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước,... Các sai phạm chưa được xử lý kiên quyết, hình thức “phạt cho tồn tại” phổ biến ở ĐBSCL, không những không ngăn chặn vi phạm mà còn làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh khi thực thi pháp luật về đất đai, gây mất lòng tin trong nhân dân, dẫn đến khiếu kiện dài ngày và phức tạp.

Tình hình khiếu kiện đòi lại đất khi thực hiện chủ trương “nhường cơm, sẽ áo” ở giai đoạn 1980 - 1990 vẫn còn nhiều. Tính đến thời kỳ triển khai Luật đất đai 2003, các tỉnh phía Nam còn hơn 3.000 vụ khiếu kiện về đất đai chưa được giải quyết, trong đó có những trường hợp là người có công với cách mạng, đi hoạt động vắng nhà nhưng nhà, đất đã bị giao cho người khác sử dụng, nay trở về không có nhà ở hoặc không có đất sản xuất, tập trung chủ yếu ở ĐBSCL với trên 80% số vụ. Ở ĐBSCL còn có tranh chấp mới phát sinh: tranh chấp ruộng đất giữa người đi xây dựng vùng kinh tế mới, di cư tự do với người địa phương (chủ yếu ở Đồng Tháp Mười); tranh chấp những vùng đất bãi bồi ven sông, ven biển có giá trị nuôi trồng thủy sản (ở Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh), đường đi ngõ xóm, ranh giới đất ở, đất vườn,...

2.3.2. Giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về quản lý và sử dụng đất đai ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2002

Quá trình thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước và của lãnh đạo các cấp, các ngành ở địa phương, cũng như sự đồng thuận của bà con nông dân với nhau, ĐBSCL đã giải quyết được đa số các vụ tranh chấp ruộng đất, chỉ còn trên 10% số vụ tranh chấp phức tạp.

Quá trình giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về ruộng đất trong những năm 1998 - 2002 có xuất hiện hành vi của một số đối tượng lợi dụng việc tranh chấp, khiếu kiện của quần chúng nhân dân để trục lợi như: viết đơn thuê, lừa đảo, cò mồi, làm tiền,... Việc giải quyết hành chính không thành phải khởi tố, bắt giam, truy tố một số đối tượng,...

Thời gian từ 1997-2002 tranh chấp, khiếu kiện đất đai còn có liên quan đến yếu tố nước ngoài. Tình trạng một số người tham gia khiếu kiện tìm cách tiếp cận, quan hệ nhờ vả các tổ chức quốc tế, nước ngoài can thiệp với mong muốn sớm được giải quyết những khiếu kiện của họ hoặc có những ý đồ xấu về chính trị.

Việc giải quyết tranh chấp ruộng đất ở ĐBSCL được điều chỉnh theo hướng khắc phục tình trạng bình quân trước Luật đất đai năm 1993 về đất xen canh, xáo canh, cào bằng, điều chỉnh không hợp lý; đã giao lại cho chủ cũ với tổng diện tích

Page 17: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

14

26 vạn ha. Trường hợp chủ mới tiếp tục sử dụng thì được bồi hoàn “Hoa lợi ruộng đất” cho chủ cũ. Việc thực hiện điều chỉnh chủ yếu bà con nông dân thương lượng, thuyết phục, thỏa thuận với nhau để đôi bên cùng có lợi. Tăng cường công tác thanh tra, xử lý vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai và giải quyết các khiếu kiện, tố cáo, tranh chấp đất đai. Tập trung thanh tra theo quyết định 273/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý đất đai.

2.4. Tác động của chính sách ruộng đất đối với phát triển kinh tế - xã hội ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2002

2.4.1. Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Chính sách pháp luật đất đai là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội ĐBSCL

phát triển nhanh. Trong nông nghiệp, nhờ chính sách thừa nhận hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ và nhờ chính sách giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài nên nông nghiệp có điều kiện để tăng vượt bậc về năng suất và sản lượng. Năng suất đạt trên 45 tạ/ha, sản lượng toàn vùng đạt trên 16 triệu tấn lương thực. Giá trị sản xuất trên một diện tích đất nông nghiệp ở ĐBSCL năm 2000, đạt trên 20 triệu đồng/ha, tăng 55% so với năm 1990. ĐBSCL đã góp phần quan trọng bình ổn lương thực trong cả nước và góp phần xuất khẩu gạo, nông sản hàng đầu trên thế giới. Nhiều tỉnh ĐBSCL đạt trên 1 triệu tấn năm như An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, đời sống người nông dân được cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, ĐBSCL còn một số tồn tại liên quan đến đất đai đó là: một bộ phận nông dân thiếu đất sản xuất, tình hình di dân tự phát vẫn tiếp diễn, các địa phương lúng túng trong việc chuyển đổi nghề nghiệp cho các hộ thiếu đất sản xuất.

2.4.2. Hình thành quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất Luật đất đai năm 1993 đã phần nào “cởi trói” cho nông dân ĐBSCL. Song

quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất diễn ra cùng lúc với sự phân hóa giàu - nghèo trong nội bộ nông dân. Bộ phận nông dân có vốn liếng có sức lao động, biết tận dụng các lợi thế do đầu tư nhà nước đem lại như thủy lợi, giao thông, khuyến nông, khuyến ngư, giống mới, giá thu mua nông sản có lợi cho nông dân,... mạnh dạn chuyển nhượng ruộng đất hoặc thực hiện khai phá thêm đất hoang, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật nên đã đạt hiệu quả cao, thu lợi lớn và giàu lên ở nông thôn ĐBSCL, mua thêm ruộng; những nông dân nghèo khó phải “cấm cố” ruộng đất và một số đã mất đất hẳn vì không có khả năng trả nợ.

2.4.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân tầng xã hội

Thực hiện ba chương trình kinh tế mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đề ra, kinh tế ĐBSCL tăng trưởng, nhưng tăng chưa thật sự ổn định. Thu nhập bình quân một người trên tháng ở ĐBSCL từ năm 1996 đến năm 1999 tăng 141,19%. Tăng trưởng kinh tế ở ĐBSCL gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Các hoạt động công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp gia tăng đáng kể thể hiện qua cơ cấu sản phẩm sản xuất khu vực I, II, III. Khu vực I giảm, khu vực II tăng và tăng nhanh ở khu vực III. Tăng trưởng khu vực III điều

Page 18: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

15

đó nói lên có sự chuyển dịch lớn lao động nông thôn ĐBSCL sang lao động công nghiệp, dịch vụ và sự phân công lao động trong nông nghiệp.

Do nhiều nguyên nhân từ sự phát triển kinh tế-xã hội đã có sự phân tầng xã hội mạnh mẽ ở ĐBSCL. Sự phân tầng xã hội có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống, gia tăng sự đối kháng các lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của các tầng lớp dân cư. Sự đối kháng các lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội của các tầng lớp dân cư gia tăng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Tiểu kết chương 2 Giai đoạn 1992-2002, để góp phần phát triển kinh tế - xã hội việc giải quyết

vấn đề ruộng đất được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương ở ĐBSCL quan tâm, là nguồn lực là yếu tố “động” nhất trong triển khai thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng, Nhà nước ở vùng đất này. Giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL đã được xem xét cụ thể những yếu tố tác động về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, những vấn đề tồn tại do lịch sử; những nguyên nhân về chính trị - xã hội mới phát sinh, nhất là vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân và theo hướng gắn với pháp luật đất đai. Trong nông nghiệp việc tích tụ, tập trung ruộng đất, bố trí cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ đã tạo bước chuyển biến cho các liên kết sản xuất theo hình thức mới đó là hợp tác xã dịch vụ, xí nghiệp, công ty trong sản xuất nông nghiệp theo hướng làm ăn lớn XHCN, có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ giới hóa, nâng cao năng suất, hiệu quả sản phẩm hàng hóa đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

Giai đoạn từ năm 1992-2002, có nhiều tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất ở các tỉnh ĐBSCL. Điều đó cho thấy chính sách và pháp luật đất đai đúng đắn còn phải có một cơ chế quản lý phù hợp, tình hình tranh chấp ruộng đất giai đoạn này không chỉ nói lên còn có những bất cập trong cơ chế quản lý ruộng đất, cơ chế quản lý nông nghiệp mà còn là những bất cập trong thực hiện các chính sách xã hội và mối quan hệ công dân liên quan đến ruộng đất.

Chương 3 QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT Ở ĐBSCL GIAI ĐOẠN 2003-2008

3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ĐBSCL giai đoạn 2003-2008 Đây là Giai đoạn ĐBSCL cùng cả nước thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ IX, X, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ về đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản; xây dựng vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL; có sự đầu tư của Nhà nước và các nguồn đầu tư khác để phát triển cơ sở hạ tầng ĐBSCL góp phần phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội. Tình hình đời sống của các hộ nông dân ĐBSCL không ngừng được cải thiện, yên tâm đầu tư cho sản xuất và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Giá trị sản xuất hàng hóa nông nghiệp ở ĐBSCL đã góp phần quan trọng thu ngoại tệ, GDP cho quốc gia.

3.2. Luật đất đai 2003 và những vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008

Page 19: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

16

3.2.1. Luật đất đai năm 2003 và Chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước giai đoạn 2003-2008

Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai sửa đổi 1998, 2001 đã góp phần quan trọng giải phóng LLSX, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Bên cạnh thành quả đạt được, Luật đất đai năm 1993, các luật đất đai sửa đổi bổ sung và các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, chính sách xã hội có liên quan đến đất đai đã bộc lộ hạn chế, phát sinh nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Từ thực tiễn tình hình tổng kết thực hiện Luật đất đai năm 1993, ngày 06-11-2003 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật đất đai năm 2003 với nhiều nội dung đổi mới theo hướng hoàn thiện chính sách đất đai. Luật đất đai năm 2003 tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước, không thừa nhận chế độ sở hữu tư nhân hay bất kỳ một hình thức sở hữu nào khác. Nhà nước xây dựng hệ thống cơ quan quản lý đất đai thống nhất từ Trung ương đến địa phương, có sự phân cấp và tăng cường tính chủ động cho địa phương, đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý đất đai. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những người có công với đất nước mà có khó khăn thực sự về nhà ở sẽ được giải quyết theo chính sách chung của Nhà nước về người có công. Tạo điều kiện đối với những người trực tiếp sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; ưu đãi đầu tư, đào tạo nghề, phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sử dụng đất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đổi mới toàn diện về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Luật đất đai 2003 triển khai thực hiện sớm có những bất cập so với các luật khác và các chính sách kinh tế xã hội nên năm 2009, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết Luật số 34/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật nhà ở và điều 121 của Luật đất đai.

3.2.2. Những vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008 Từ năm 2003 đến 2008, ở ĐBSCL có sự biến động lớn về cơ cấu diện tích

ruộng đất, tổng diện tích các loại đất toàn vùng về cơ bản không thay đổi, nhưng có sự biến động cục bộ do phân loại mới (gồm 3 nhóm: nhóm đất nông nghiệp; nhóm đất phi nông nghiệp; nhóm đất chưa sử dụng), do phương pháp thống kê mới, điều tra chính xác hơn, do bổ sung diện tích đất khai hoang phục hóa,...

Các tỉnh có diện tích đất nông nghiệp cao: Long An, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang. Các tỉnh có diện tích đất trồng cây hàng năm cao: Kiên Giang, An Giang, Long An, Đồng Tháp, Sóc Trăng. Các tỉnh có diện tích đất trồng lúa cao: Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Long An, Sóc Trăng. Các tỉnh có diện tích đất trồng cây lâu năm cao: Bến Tre, Hậu Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Các tỉnh có diện tích đất lâm nghiệp cao: Cà Mau, Kiên Giang, Long An. Các tỉnh có diện tích đất nuôi trồng thủy sản cao: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bến Tre.

Page 20: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

17

Vấn đề lớn trong giải quyết vấn đề ruộng đất thời kỳ 2003 - 2008 là sự chu chuyển các loại đất sang đất phi nông nghiệp phù hợp với quá trình đô thị hóa, phát triển các dự án phục vụ kinh tế - xã hội. Đất phi nông nghiệp chủ yếu là đất ở kế đến là đất chuyên dùng; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất sông suối và mặt nước chuyên dùng; đất phi nông nghiệp khác. Phần lớn đất chuyển sang đất phi nông nghiệp là đất chưa sử dụng, một phần đất trồng lúa kém hiệu quả, đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội.

Để tăng cường công tác quản lý, sử dụng đất và xuất phát từ nhu cầu chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ công tác cấp giấy CNQSDĐ được UBND các tỉnh, thành ĐBSCL chỉ đạo sát sao. Nhìn chung đến năm 2008, phần lớn các tỉnh, thành ĐBSCL đã hoàn thành cơ bản lập hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ. Kết quả công tác cấp giấy chứng nhận đã thực sự đóng góp một phần quan trọng cho việc ổn định, phát triển và giữ gìn an ninh trật tự xã hội của các tỉnh, thành ĐBSCL.

Để phục vụ cho công tác quản lý, cùng với kiểm kê, tình hình quản lý, sử dụng đất nói chung, các tỉnh, thành ĐBSCL đồng thời tiến hành kiểm kê công tác giao đất, cho thuê đất, của các tổ chức được Nhà nước giao, cho thuê đất.

Công tác quản lý tài chính về ruộng đất được các tỉnh, thành ĐBSCL quan tâm lãnh đạo thực hiện triệt để, vì đây vừa là yêu cầu khách quan và cũng là công cụ quản lý quan trọng trong điều hành Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội.

Đặc biệt, trong thời kỳ này diện tích đất công cộng tăng đáng kể do mở rộng một số tuyến đường, mở rộng giao thông nông thôn, phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất,... ĐBSCL đã có những bước phát triển khá nhanh về cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội..

Song để khai thác có hiệu quả đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội thì diện tích đất chưa sử dụng, đất mặt nước, bãi bồi ven biển thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Tiền Giang còn rất lớn.

3.3. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp ruộng đất giai đoạn 2003-2008 3.3.1. Tình hình tranh chấp ruộng đất Trong những năm 2003 - 2008, tình hình tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về

lĩnh vực đất đai trên địa bàn các tỉnh, thành ĐBSCL tuy không tăng nhưng diễn biến phức tạp, mặc dù đã được các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể nỗ lực tập trung nhiều giải pháp để vừa giải quyết các vụ việc đang tồn đọng, vừa kiềm chế phát sinh mới. Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn, thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ gia tăng các vụ tranh chấp khiếu kiện, tố cáo phức tạp trên địa bàn, khi công tác xây dựng cơ sở hạ tầng được đẩy mạnh, các dự án có sử dụng diện tích đất lớn tiếp tục được đầu tư.

Nguyên nhân và nội dung dẫn đến tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo giai đoạn 2003 đến 2008 diễn biến phức tạp được các cấp chính quyền ĐBSCL xác định: Do nhận thức của nhân dân về chính sách pháp luật đất đai chưa thấu đáo, nhiều nội dung pháp luật đất đai sau khi triển khai thực hiện phát sinh những điểm chưa phù hợp, còn bất cập với các luật khác; các chính sách kinh tế - xã hội mới ban hành và có những nguyên nhân mới phát sinh như việc lợi dụng chức vụ,

Page 21: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

18

quyền hạn để tham nhũng, trục lợi trong thu hồi đất, lợi dụng chính sách thu hồi đất để bao chiếm; tố cáo chính quyền địa phương giao đất trái thẩm quyền, bồi thường không đủ diện tích đất, xét duyệt để bồi thường không đúng loại đất; tố cáo chính quyền địa phương quản lý sử dụng đất công ích sai mục đích; tố cáo cán bộ nhũng nhiễu, bao che, bồi thường đất không đúng đối tượng,... cơ chế mới về quản lý tài nguyên đất, về quản lý nông nghiệp được hình thành chưa đồng bộ,...

Trong các vụ tranh chấp, khiếu kiện phát sinh mới đứng đầu là đơn khiếu kiện có sự liên kết xã, huyện tổ chức theo từng đoàn, nhóm người mang theo cờ, băng rôn kéo đến trụ sở cơ quan Đảng, Nhà nước và có những hành vi vượt quá quyền khiếu kiện, tố cáo như: khiếu kiện dài ngày, đeo bám, nằm lỳ, gây mất trật tự công cộng, cản trở giao thông, chống người thi hành công vụ, lập ra các tổ chức, hội nhóm trái phép, rào đường, tổ chức canh gác cản trở các đoàn công tác, bất hợp tác kiểm tra,... Điển hình ở Cà Mau là vụ tranh chấp lấn chiếm bãi bồi ở huyện Ngọc Hiển, vụ lấn chiếm đất nông trường 402 huyện Trần Văn Thời, vụ cản trở giao thông đòi đền bù giải phóng mặt bằng ở huyện Cái Nước. Ở Sóc Trăng vụ các sư sãi đòi lại đất hiến của các đền, chùa sau giải phóng. Ở Kiên Giang, Trà Vinh tranh chấp, khiếu kiện về đất khai hoang lấn biển được quy hoạch xây dựng các dự án nhưng đến bù không thỏa đáng. Ở An Giang, tranh chấp, khiếu kiện tập trung chủ yếu các huyện biên giới, vùng có nhiều đồng bào Khmer sinh sống như Thoại Sơn, Tịnh Biên, Tri Tôn,....

Thời kỳ 2003-2008, tình hình tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất đã xuất hiện những nội dung liên quan đến chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” được Đảng ta đề ra trong thời kỳ thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và nay khi thực hiện chủ trương tích tụ ruộng đất, phát triển kinh tế trang trại với nhiều người tham gia ở Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ. Nhiều hộ nông dân do nhiều hoàn cảnh khác nhau thiếu ruộng đất để sản xuất hoặc không có ruộng đất để sản xuất, đời sống gia đình khó khăn chưa được giải quyết chuyển sang những ngành nghề phù hợp.

3.3.2. Giải quyết tranh chấp ở các địa phương Những năm đầu triển khai Luật đất đai năm 2003, công tác giải quyết tranh

chấp, khiếu kiện, tố cáo về đất đai ở ĐBSCL đã có những chuyển biến rất tích cực, số vụ tồn đọng hàng năm đã giảm đi nhiều so với trước, song các vụ mới lại xuất hiện, có vụ diễn biến phức tạp, quá trình giải quyết phải xác minh nhiều lần nên gặp phải khó khăn, đây cũng là áp lực lớn đối với thực hiện chính sách ruộng đất, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.

Ở tỉnh Cà Mau, tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo tập trung ở việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế vùng bán đảo Cà Mau; ở Bạc Liêu tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo tập trung ở nội bộ nhân dân về phân chia thừa kế, tính đến tháng 10 năm 2004 Bạc Liêu đã giải quyết được trên 60% số vụ, tạm ổn 23% và còn tồn đọng trên 10% số vụ còn phức tạp; ở Sóc Trăng số vụ tranh chấp, khiếu, kiện tố cáo không nhiều nhưng chủ yếu về đất đai, tính đến tháng 10 năm 2004 Sóc Trăng có 7/8 vụ, nhưng các vụ tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo có nhiều người tham gia nhất ở ĐBSCL. Các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang việc giải quyết

Page 22: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

19

tranh chấp được các cấp chính quyền tích cực giải quyết nhưng còn nhiều vụ tồn đọng nhất là Vĩnh Long và Tiền Giang.

3.4. Tác động của chính sách ruộng đất đối với phát triển kinh tế - xã hội ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008

3.4.1. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế ĐBSCL cung cấp khoảng 50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thủy sản, 70%

sản lượng trái cây của cả nước hàng năm. Với những lợi thế trên, ĐBSCL là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản, chế biến thủy sản phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Công thương tại hội nghị ngành Công thương các tỉnh ĐBSCL năm 2009 được tổ chức tại Tiền Giang vào cuối tháng 10/2009, thì tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ĐBSCL còn chậm, nông nghiệp chiếm trên 40% cơ cấu GDP, trong khi bình quân cả nước chỉ có trên 20%,...

3.4.2. Tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội ở ĐBSCL giai đoạn 2003-2008 Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước giai đoạn

2003-2008 đã có tác động toàn diện đến kinh - xã hội ĐBSCL. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng giai đoạn 2001- 2005 là 10,5%, giai đoạn 2006 - 2010 là 12%, trung bình giai đoạn 2001 - 2010 vào khoảng 11% (Trung bình của cả nước giai đoạn 2001 - 2010 là 7,3%,). Chính sách ruộng đất thời kỳ 2003-2008 đã có tác động mạnh kinh tế vùng, kinh tế trang trại, kinh tế hộ; đồng thời góp phần điều chỉnh mô hình kinh tế nông trường.

Vùng ĐBSCL có thể chia ra thành 3 vùng, (1) vùng ven biển; (2) vùng đệm giữa thành phố Hồ Chí Minh và ĐBSCL và (3) thành phố Cần Thơ và các tỉnh liền kề1, thì thấy rằng vùng thứ 3 tăng trưởng nhanh hơn từ năm 2007, khi thành phố Cần Thơ được tách ra thành đô thị trực thuộc Trung ương và được đầu tư thêm về cơ sở hạ tầng. Ngược lại, vùng 1 gồm các tỉnh ven biển tăng trưởng khá cao từ năm 1996 - 2003 thì sau đó tăng trưởng chậm hơn, còn các tỉnh vùng 2 thuộc khu vực tiếp giáp thành phố Hồ Chí Minh và vùng ĐBSCL luôn có tốc độ tăng trưởng chậm thời gian qua.

Các khu công nghiệp bắt đầu hình thành phát triển ở vùng ĐBSCL khoảng từ năm 2000, do ở đây đất nông nghiệp giá rẻ chi phí bồi hoàn thấp, nhà cửa cất tạm bợ chi phí di dời không cao nên việc xây dựng các khu công nghiệp có nhiều thuận lợi. Theo ngành công thương các địa phương ĐBSCL tính đến năm 2008 có 65 Khu công nghiệp được quy hoạch với diện tích 26.511ha.

Hợp tác xã nông nghiệp, ở thời kỳ này khác về bản chất so với hình thức HTX đã được vận động xây dựng trong những năm tám mươi của thế kỷ XX, là một tổ chức kinh tế do nông dân tự nguyện lập ra với nguồn vốn hoạt động do chính họ góp cổ phần và huy động từ các nguồn khác, nhằm duy trì, phát triển kinh tế hộ gia đình và tăng nhanh tỷ suất hàng hoá, đạt hiệu quả kinh tế cao. Phân bố rộng rãi ở các tỉnh trong khu vực ĐBSCL đó là: HTX trồng Nấm rơm, HTX trồng 1. Vùng 1 ven biển gồm các tỉnh Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng và Bạc Liêu; Vùng 2 – vùng đệm giữa thành phố Hồ chí Minh và ĐBSCL gồm Long An, Tiền Giang và Bến Tre; Vùng 3 gồm thành phố Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, và Hậu Giang.

Page 23: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

20

Chanh dây, HTX bưởi Năm roi Mỹ Hoà, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, HTX rau an toàn Phước Hậu, Long Hồ, các tổ đoàn kết sản xuất nấm rơm ở Vũng Liêm (Vĩnh Long); HTX xoài cát Hoà Lộc, Tiền Giang; Đồng Tháp; các làng nghề trồng và chế biến cây lác ở Vũng Liêm; các tổ sản xuất lúa giống ở Trà Vinh,...

Kinh tế trang trại, ở ĐBSCL hình thành sớm và ngày càng phát triển mạnh cả về quy mô và số lượng. Năm 1999 cả khu vực ĐBSCL có 19.259 trang trại chiếm 42,4% tổng trang trại cả nước, cao hơn đồng bằng sông Hồng 39,3%. Năm 2006, ĐBSCL có 54.442 trang trại. Năm 2008 cả nước có gần 72.000 trang trại, ĐBSCL chiếm hơn một nửa tổng số trang trại cả nước, mỗi tỉnh,thành phố ở ĐBSCL có hàng nghìn trang trại. Hầu hết những trang trại vùng ĐBSCL được thành lập từ vốn tự có, vốn vay chỉ chiếm khoảng 18%. Trang trại ở ĐBSCL theo mô hình “VAC” hoặc “VAC” cải tiến, quy mô nhỏ, phát triển tự phát, sử dụng lao động không nhiều, chủ yếu lao động gia đình, chưa hoàn toàn gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

Kinh tế nông hộ, với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản xuất theo cơ chế thị trường, các hộ nông dân ở ĐBSCL đã và đang tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất một cách năng động, đa dạng phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của từng hộ, tạo ra một thị trường hàng hóa phong phú và dồi dào.

Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL còn gắn với việc tổ chức lại sản xuất của các nông trường. Hiện nay ở ĐBSCL có 17 nông trường, các nông trường chủ yếu do các đơn vị quân đội quản lý sản xuất kém hiệu quả đã được sắp xép lại và tiếp tục được sắp xếp lại.

Tiểu kết chương 3 Từ năm 2003-2008, ở ĐBSCL có sự biến động lớn về diện tích đất do việc

phân loại đất thành 3 nhóm theo Luật đất đai năm 2003. Cùng với quy hoạch sử dụng đất các tỉnh ĐBSCL tập trung giao đất, lập hồ sơ quản lý sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ và giải quyết đơn thư khiếu kiện, tố cáo.

Giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL thời kỳ từ năm 2003-2008 tuy còn có chịu tác động của các yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, những tồn tại do lịch sử để lại,...Song đã có những yếu tố mới liên quan đến “vấn đề ruộng đất”, đó là yêu cầu cấp thiết của phát triển nông nghiệp hàng hóa, vấn đề xây dựng nông thôn mới,...

Hoạt động của các HTX theo mô hình liên kết sản xuất mới, chủ thể có liên quan trực tiếp đến QSDRĐ đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều HTX nông nghiệp đã đóng vai trò tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, góp sức xây dựng kết cấu hạ tầng, củng cố quan hệ kinh tế nông thôn.

Việc phân loại đất đai thành 3 nhóm lớn có thuận lợi cho quản lý và nắm được tình hình sử dụng đất đai, nhưng lại sớm bộc lộ những kẽ hở cho nạn tham nhũng trong quản lý sử dụng đất đai, trục lợi thông qua chuyển đổi mục đích sử dụng, nhất là khi quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, một phần diện tích đất nông nghiệp, đất chưa sử dụng chuyển sang đất phi nông nghiệp. Đó là nguyên nhân tiềm ẩn của việc phát sinh những tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về ruộng đất.

Page 24: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

21

Vấn đề có tính đột phá, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL thời kỳ 2003-2008 là quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất khắc phục sự sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, chuyển sang sản xuất tập trung quy mô lớn, có điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ giới hóa, nâng cao năng suất, hiệu quả và tạo nên sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, khối lượng lớn đủ sức cạnh tranh trên thị trường.

KẾT LUẬN Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất giai đoạn 1992 - 2008 ở ĐBSCL gắn

với thời kỳ cả nước thực hiện đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp sản xuất lương thực yếu kém trở thành một nước sản xuất lương thực, xuất khẩu lương thực đứng hàng đầu thế giới và khu vực Đông Nam Á. Để góp phần thu được những kết quả to lớn đó, các địa phương ĐBSCL đã giải quyết tốt vấn đề ruộng đất, nguồn tư liệu sản xuất quan trọng nhất của quá trình sản xuất. Điểm nổi bật của quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL thể hiện ở những điểm chính sau:

1. Đặc điểm nổi bật của quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2008

Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL là quá trình vận dụng sáng tạo chính sách ruộng đất, luật đất đai vào điều kiện cụ thể của ĐBSCL. Đây là thời kỳ ĐBSCL cùng cả nước thực hiện Luật đất đai 1993, 2003 và các luật đất đai sửa đổi. Tác dụng của chính sách ruộng đất là rất to lớn, đã góp phần từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý đất đai, quản lý nông nghiệp và triển khai Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, đưa đất nước ta nói chung và ĐBSCL thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng về lương thực, đưa ĐBSCL trở thành vùng trọng điểm sản xuất lương thực của cả nước, thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng.

Giai đoan 1992 - 2008, là thời kỳ tranh chấp và khiếu kiện đất đai nhiều và diễn biến phức tạp. Trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất giai đoạn 1992 - 2008 cũng đã phát sinh nhiều vi phạm trong quản lý sử dụng ruộng đất và tình trạng các hộ dân tranh chấp ruộng đất do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến các khiếu kiện tăng, giảm phụ thuộc vào thời gian triển khai Luật đất đai năm 1993, 2003. Có thể nói đây là thời kỳ tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo liên quan đến đất đai phục vụ cho sản xuất diễn biến phức tạp trong lịch sử dân tộc cho đến nay và diễn ra tập trung ở ĐBSCL; 100% tỉnh thành ở ĐBSCL có tranh chấp, khiếu kiện về đất đai.

Quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL giai đoạn 1992 - 2008, là quá trình chủ động đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 1978 - 1982 thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa và hợp tác hóa trong nông nghiệp, nông nghiệp ĐBSCL có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên, mô hình hợp tác trong nông nghiệp những năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng không phù hợp với tình hình ruộng đất ở ĐBSCL dẫn đến sự tan rã trong những năm 1982 - 1986. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng từ năm 1986 - 1991, nông nghiệp ĐBSCL có bước phát triển mới với mô hình tổ

Page 25: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

22

chức sản xuất phù hợp hơn tập trung về dịch vụ lao động việc làm, dịch vụ làm đất, gieo xạ và dịch vụ phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng. Các HTX nông - lâm - thủy sản dần thích nghi với phương thức hoạt động mới, làm tốt hơn vai trò hỗ trợ kinh tế hộ gia đình nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Kinh tế trang trại ngày càng phát triển và đóng góp vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm, thủy sản. Giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản không ngừng tăng góp phần quan trọng giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.

2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất và hướng phát triển

Chính sách ruộng đất phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng và phải được cụ thể hóa đối với từng vùng miền. Chính sách ruộng đất ở đây là sự thể hiện ý Đảng, lòng dân. Vì vậy, trong cách mạng GPDT Đảng đề ra khẩu hiệu “người cày có ruộng” và được nhân dân tin tưởng đi theo. Chính sách ruộng đất trong giai đoạn hiện nay, cùng với thực hiện nhiệm vụ khẩu hiệu “người cày có ruộng” còn phải gắn với thực hiện pháp luật đất đai với các luật và các chính sách kinh tế xã hội khác. Chính sách ruộng đất phải gắn với xây dựng cơ chế mới trong quản lý trên cơ sở giải quyết hai vấn đề lớn là quyền sở hữu và quyền sử dụng.

Chính sách đất đai chỉ có thể mang lại hiệu quả khi tiếp tục giải quyết tốt vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng. Giải quyết tốt quan hệ vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng sẽ hình thành được cơ chế quản lý phù hợp trong quản lý ruộng đất và quản lý nông nghiệp, thể hiện rõ vai trò chủ sở hữu của Nhà nước và quyền sử dụng ruộng đất của người dân theo Hiến Pháp và pháp luật.

Thực tiễn ĐBSCL cho thấy chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước đã góp phần thúc đẩy khai thác nguồn tài nguyên đất. Diện tích canh tác ở ĐBSCL tuy thu hẹp lại do quá trình đô thị hóa, do dân số tăng nhanh. Song để sản xuất ở ĐBSCL mang lại hiệu quả, trong những năm qua bên cạnh sản xuất lương thực các tỉnh, thành đã đẩy mạnh khai thác các nguồn tài nguyên từ đất; phát triển đồng bộ các tiềm năng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản trên cơ sở chuyển một phần diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày,... tăng cường công năng sử dụng đất, tăng vòng quay sử dụng đất.

Tình hình tranh chấp, khiếu kiện về đất đai ở ĐBSCL vẫn còn diễn ra và diễn biến phức tạp. Trong điều kiện không thể giải quyết được một cách triệt để những bất cập của luật đất đai với các luật khác, luật đất đai với các chính sách kinh tế - xã hội; tình hình trong nhân dân chưa có nhận thức thấu đáo về chính sách và pháp luật đất đai nhất là về quyền “sở hữu ruộng đất”, “sử dụng ruộng đất” thì sẽ còn nảy sinh những tranh chấp, khiếu kiện đất đai mới và diễn biến phức tạp. Vì vậy, phải tiếp tục có nhiều giải phải nhằm giải quyết tốt tranh chấp, khiếu kiện tố cáo về ruộng đất.

Bài học từ quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL và khuyến nghị Thứ nhất, từ chính sách ruộng đất của Đảng, Nhà nước, cần phải vận dụng

phù hợp với thực tiễn ĐBSCL đó là diện tích lớn, tiềm năng nhiều; phải kết hợp thực hiện các chính sách về an sinh xã hội đối với vùng có nhiều đồng bào Khmer,

Page 26: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH à H filetrƯỜng ĐẠi hỌc khoa hỌc xà hỘi vÀ nhÂn vĂn----- trẦn ĐĂng kẾ quÁ trÌnh giẢi quyẾt vẤn ĐỀ

23

đồng bào các tôn giáo sinh sống; giải quyết tốt những vấn đề do lịch sử, chiến tranh để lại.

Thứ hai, kịp thời đề xuất, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất, như vấn đề hạn điền trong quá trình tích tụ ruộng đất, vấn đề bố trí lại lao động để giải quyết lao động không có ruộng hoặc thiếu ruộng do quá trình tích tụ ruộng đất, thu hồi đất giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án, các khu công nghiệp dư dôi.

Thứ ba, trong giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL cần việc xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm, gần dân, vì dân. Giải quyết vấn đề ruộng đất là một cuộc cách mạng về lâu dài nhằm xóa bỏ bóc lột người nông dân thông qua “công cụ ruộng đất” trong nông thôn để đưa người nông dân trở thành những công dân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng đất nước mà trong đó “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” chính là hướng đi “an toàn” trong giải quyết vấn đề ruộng đất cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng.

Thứ tư, phải nghiên cứu những bài học lịch sử, tổng kết những vấn đề có tính quy luật trong giải quyết vấn đề ruộng đất phục vụ cho xây dựng chính sách ruộng đất.

Thứ năm, giải quyết vấn đề ruộng đất hiện nay ở ĐBSCL còn phải gắn với liên kết phát triển đô thị vùng theo hướng kinh tế xanh và phát triển bền vững và theo chủ trương của Thủ tướng Chính phủ về thành lập vùng kinh tế trọng điểm ở ĐBSCL.

Tóm lại, từ năm 1992-2008 và đến nay vấn đề ruộng đất tuy được Đảng, Nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền ĐBSCL quan tâm giải quyết. Song thực tiễn đặt ra còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Luật đất đai năm 2013 ra đời và có hiệu lực sẽ góp phần thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở ĐBSCL.