137
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH KỶ YẾU HỘI NGHỊ SƠ KẾT 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23 –NQ/TW NGÀY 16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ VIỆC “TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI” Hà Nội 4/2013

Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới". Đăng trên vanhien.vn

Citation preview

Page 1: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

KỶ YẾU HỘI NGHỊ

SƠ KẾT 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23 –NQ/TW

NGÀY 16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ VIỆC “TIẾP TỤC

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT

TRONG THỜI KỲ MỚI”

Hà Nội 4/2013

Page 2: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

2

MỤC LỤC

Nội dung Trang

1. Báo cáo sơ kết của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo sơ kết 05 năm triển khai thực hiện nghị quyết số 23-NQ/TW

ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ chính trị - Ông Hồ Việt Hà, Vụ

trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

01

2. Ban Tuyên giáo Trung ương : Đánh giá kết quả sau 05 năm thực

hiện Nghị quyết 23-NQ/TW- Ông Vũ Công Hội, Phó Vụ trưởng Vụ

Văn hóa, Văn nghệ- Ban Tuyên giáo Trung ương

30

3. UBTQ Liên hiệp các Hội Văn học, Nghệ thuật Việt Nam: Báo cáo

hội thảo 5 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về văn học

nghệ thuật - Nhà văn Đỗ Kim Cuông, Phó Chủ tịch Thường trực Liên

hiệp các Hội VHNT Việt Nam

35

4. Cục Điện ảnh: Điện ảnh Việt Nam sau 5 năm triển khai Nghị quyết

23-NQ/TW của Bộ Chính trị - Bà Ngô Phương Lan, Cục Trưởng Cục

Điện ảnh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

40

5. Cục Nghệ thuật biểu diễn: Nghệ thuật biểu diễn việt Nam sau 05

năm triển khai thực hiện nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị:

những thành tựu, khó khăn, tồn tại và các giải pháp kiến nghị - Nhạc

sỹ Đào Đăng Hoàn, Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch

47

6. Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm: Ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh

và triển lãm sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW

ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị: những thành tựu, khó

khăn, tồn tại và các giải pháp kiến nghị- Bà Đoàn Thị thu Hương,

Phó Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch

56

7. Cục Di sản Văn hóa: Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn

hóa sau 05 năm triển khai Nghị quyết số 23/NQ-TW ngày 16 tháng 6

năm 2008 của Bộ Chính trị

67

8. Vụ Thư viện: Vai trò của thư viện trong việc bảo lưu và phát triển

văn học, nghệ thuật trong đời sống cộng đồng: những thành tựu, tồn

tại và các đề xuất kiến nghị- Bà Vũ Dương Thúy Ngà, Phó Vụ trưởng

Vụ Thư viện- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

72

9. Vụ Đào tạo: Công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật sau 5 năm thực

hiện nghị quyết số 23 NQ/TW của Bộ Chính trị - PGS.TS Đào Mạnh

Hùng, Vụ trưởng Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

78

10. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn

cùng các đề xuất, kiến nghị đối với thực trạng của văn học nghệ thuật

89

Page 3: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

3

Việt Nam sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW

ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chinh trị - Ông Bùi Hoài Sơn,

Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam– Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch

11. Bộ Tài chính (Vụ Chính sách thuế): Chính sách ưu đãi thuế đối với văn học, nghệ thuật sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 23/NQ-TW ngày

16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị- thực trạng và giải pháp- Ông

Tống Công Phi, Trưởng phòng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính

95

12. Bộ Tài chính (Vụ Hành chính sự nghiệp): Quản lý tài chính trong

lĩnh vực văn học, nghệ thuật sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị

quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị

102

13. Sở VHTTDL Tuyên Quang: Kết quả 05 năm thực hiện Nghị Quyết

số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển văn học, nghệ thuật

trong thời kỳ mới trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang: những khó khăn tồn

tại và các giải pháp kiến nghị tiếp tục triển khai thực hiện

107

14. Sở VHTTDL Bắc Ninh: Tham luận Hội nghị sơ kết 5 năm triển khai

thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục

xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”

113

15. Sở VHTTDL Lạng Sơn: Báo cáo tham luận Hội nghị Sơ kết 05 năm

(2008-2012) triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16

tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục xây dựng và phát

triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới

119

16. Sở VHTTDL Đà Nẵng: 05 năm thực hiện Nghị quyết Số 23-NQ/TW

của Bộ Chính trị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

125

17. Sở VHTTDL Thừa Thiên Huế: Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế

tiếp tục phát triển xứng tầm là trung tâm văn hóa du lịch đặc sắc của

Việt Nam

130

Page 4: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

1

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BÁO CÁO

SƠ KẾT 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

SỐ 23 NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

Hồ Việt Hà

Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Tài chính

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện

Nhân tại Công văn số 918/VPCP-KGVX ngày 29 tháng 01 năm 2013 của Văn

phòng Chính phủ về việc đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số

23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị “Về việc tiếp tục xây

dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” (dưới đây gọi tắt là

Nghị quyết 23), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch báo cáo sơ kết 05 năm thực

hiện Nghị quyết 23 giai đoạn 2008-2013 như sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ

23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

I. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH:

Văn học nghệ thuật, một bộ phận quan trọng của văn hóa, luôn được Đảng

và Nhà nước quan tâm. Hiến pháp năm 1992 (Điều 32) nêu rõ “Nhà nước đầu tư

phát triển văn hoá, văn học và nghệ thuật; tạo điều kiện để nhân dân được

thưởng thức những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát triển

các tài năng sáng tạo văn hóa nghệ thuật”. Từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm

1943, Đảng đã công khai quan điểm rõ ràng về văn hóa, theo đó văn hóa, chính

trị, kinh tế là ba yếu tố không thể tách rời. Năm 1998, Nghị quyết Trung ương 5

(khóa VIII) đề ra phương hướng, nhiệm vụ với quan điểm chỉ đạo “Vǎn hóa là

nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát

triển kinh tế- xã hội”.

Năm 2008, Nghị quyết 23 được ban hành đã thể hiện sự quan tâm của Đảng

đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Nghị quyết đánh giá những thành tựu đã đạt

được và những yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại qua 10 năm triển khai thực hiện

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, chủ trương

giải pháp để tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ

mới. Để tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch đã được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ “chủ trì phối hợp với Ủy ban toàn quốc

Page 5: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

2

Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt, các cơ quan hữu quan xây dựng các

cơ chế, chính sách, các quy định và thực hiện các nhiệm vụ được xác định trong

Nghị quyết về quản lý Nhà nước đối với văn học, nghệ thuật”. Việc triển khai

thực hiện Nghị quyết 23 trong giai đoạn 2008-2013 có những điều kiện thuận lợi

và khó khăn như sau:

1. Thuận lợi:

- Chính trị ổn định, kinh tế, xã hội có bước phát triển đáng kể, đời sống vật

chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt;

- Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển văn học, nghệ thuật, coi văn

học, nghệ thuật là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của văn hóa, đã có hành lang pháp lý

khuyến khích văn học, nghệ thuật phát triển mặc dù chưa đồng bộ;

- Đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam gồm nhiều thế hệ nối tiếp nhau có truyền

thống yêu nước, tâm huyết với nghề;

- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền

thông là điều kiện thuận lợi để phổ biến, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ

thuật;

- Văn học, nghệ thuật Việt Nam có sự giao lưu với các nước thông qua quá

trình hội nhập quốc tế.

2. Khó khăn:

- Cơ sở pháp lý khuyến khích phát triển văn học, nghệ thuật còn chưa đồng

bộ. Các chế độ ưu đãi cho văn nghệ sĩ còn thấp, chưa tương xứng với sức lao

động sáng tạo văn học, nghệ thuật của văn nghệ sĩ;

- Công tác quản lý Nhà nước ở nhiều lĩnh vực văn học, nghệ thuật còn nhiều

bất cập. Nhận thức về vai trò của văn học, nghệ thuật ở nhiều cấp lãnh đạo, quản

lý còn chưa đầy đủ. Hiệu quả đầu tư cho văn học, nghệ thuật chưa cao;

- Ngân sách Nhà nước đầu tư cho văn học, nghệ thuật còn hạn chế;

- Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây chịu ảnh hưởng chung của

suy thoái kinh tế toàn cầu. Bối cảnh khó khăn đó đã tác động đến tư tưởng, đời

sống tinh thần của nhân dân nói chung, đời sống văn học, nghệ thuật nói riêng;

Từ những đặc điểm tình hình trên, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng;

sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; sự nỗ lực, cố gắng của các cơ

quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương, công tác triển khai thực hiện Nghị

quyết 23 đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai thực hiện và đã đạt

được một số kết quả nhất định.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN:

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện Nghị quyết:

Page 6: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

3

- Ban Cán sự Đảng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cấp ủy cấp trên và các

tổ chức Đảng trong cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ đã chủ động tích cực triển khai

thực hiện kế hoạch tuyên truyền phổ biến Nghị quyết 23 trong hệ thống chính trị,

cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động.

- Bộ đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 23, phân

công nhiệm vụ cụ thể đến các đơn vị thuộc Bộ thực hiện xây dựng/sửa đổi, bổ

sung các văn bản quy phạm pháp luật triển khai Nghị quyết 23 (Thông báo số

207/TB-VP ngày 12/7/2010 của Văn phòng Bộ thông báo kết luận của Bộ trưởng

Hoàng Tuấn Anh về thực hiện Nghị quyết 23). Các cơ quan, đơn vị được giao

nhiệm vụ đã chủ động, tập trung xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp

luật theo sự phân công nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương và theo yêu cầu

công tác quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật.

2. Kết quả thực hiện những nhiệm vụ của Nghị quyết:

2.1. Công tác xây dựng cơ chế chính sách đối với văn học, nghệ thuật:

- Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã chủ động phối hợp với các cơ quan

liên quan như Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam,

Bộ Thông tin và Truyền thông… xây dựng các đề án trình Chính phủ và Thủ

tướng Chính phủ. Bộ đã triển khai xây dựng 05 đề án được phân công tại Công

văn số 73-KH/BTGTW ngày 9 tháng 4 năm 2009 của Ban Tuyên giáo Trung

ương về “Kế hoạch triển khai thực hiện các đề án Nghị quyết số 23-NQ/TW của

Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật”. Đến nay, các đề án này đã hoàn thành và

được thể chế hóa bằng các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (chi

tiết tại Phụ lục 1 đính kèm).

Bên cạnh các đề án cụ thể được Ban Bí thư và Ban Tuyên giáo Trung ương

giao xây dựng để triển khai thực hiện Nghị quyết 23, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các văn bản, đề

án trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về văn

học, nghệ thuật. Trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2012, có 27 văn bản pháp quy

do Bộ chủ trì xây dựng trình các cấp có thẩm quyền ban hành bao gồm: 03 Luật,

08 Nghị định Chính phủ, 05 Quyết định và 01 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ

và 11 Thông tư và văn bản hướng dẫn. Các luật đã được Quốc hội thông qua

gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2009), Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa (năm 2009), Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh (năm 2009) (chi tiết tại Phụ lục 2 đính

kèm).

Tiếp đó, trong năm 2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được phân công

chủ trì xây dựng 05 đề án triển khai Nghị quyết số 40/NQ-CP của Chính phủ về

“Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội

hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”. Nghị quyết 40/NQ-CP góp phần

đẩy nhanh việc thể chế hóa Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị thông qua mục tiêu

đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động dịch

vụ công như: hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật của các nhà hát, việc đặt

hàng các tác phẩm điện ảnh, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới rạp chiếu phim, các

Page 7: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

4

thiết chế văn hóa, khu văn hóa vui chơi giải trí phục vụ cộng đồng giai đoạn

2011-2020.…Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang khẩn trương phối

hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng các đề án được phân công để đảm bảo

tiến độ hoàn thành trình Chính phủ trong năm 2013 (chi tiết 05 đề án tại Phụ lục

3 đính kèm).

2.2. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật

2.2.1. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc trong lĩnh vực

văn học, nghệ thuật:

- Công tác quản lý nhà nước trong việc bảo tồn phát huy di sản văn hóa dân

tộc được triển khai quyết liệt, đạt hiệu quả tốt. Các văn bản pháp quy do Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng trình các cấp có thẩm quyền ban hành

như Luật sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ

sung Luật Di sản văn hóa, Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ

khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật

thể quốc gia….

- Công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trong lĩnh vực văn học, nghệ

thuật đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể của

Việt Nam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các địa phương

lập hồ sơ đề nghị và được Unesco công nhận đưa vào danh sách là Di sản văn hóa

phi vật thể của nhân loại và danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ

khẩn cấp như Quan họ Bắc Ninh (năm 2009), hát Ca trù (năm 2009), hát Xoan ở

Phú Thọ (2011).

- Nhiều hoạt động giới thiệu di sản văn học, nghệ thuật của Việt Nam với

thế giới được tổ chức hiệu quả như: Triển lãm “Nghệ thuật cổ Việt Nam- từ châu

thổ ra biển lớn”, triển lãm Nghề thủ công truyền thống và Văn hóa Việt Nam tại

Hàn Quốc….

2.2.2. Bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan:

- Công tác bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan được đẩy mạnh với việc

ban hành một loạt các văn bản pháp quy trong lĩnh vực như: Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Nghị định số 47/2009/NĐ-CP quy định

xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, Nghị định số

85/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết

hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền

tác giả, quyền liên quan….

Bên cạnh đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường công tác tuyên

truyền giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan. Từ năm 2008, Bộ đã

tổ chức quán triệt tới các đơn vị, địa phương trên cả nước Chỉ thị số 36/2008/CT-

TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền

tác giả, quyền liên quan. Nhiều hội thảo đã được tổ chức như Hội thảo tập tuấn

Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan, Hội thảo “Quyền của người

Page 8: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

5

biểu diễn” tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (2010), Hội thảo “Phát triển

công nghiệp sáng tạo” (phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO tổ

chức năm 2010), Hội thảo “Bảo hộ quyền tác giả trong phát triển ngành công

nghiệp phần mềm và âm nhạc” (phối hợp với Ủy ban quyền tác giả Hàn Quốc tổ

chức năm 2010), Hội thảo “Quản lý tập thể về quyền tác giả, quyền liên quan)

(phối hợp với WIPO và chính phủ Nhật bản tổ chức năm 2010)…

Bình quân mỗi năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp khoảng 4000

Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, xử lý và giải quyết 20-

40 đơn thư khiếu nại tố cáo về quyền tác giả, quyền liên quan.

2.2.3. Nghệ thuật biểu diễn:

- Chủ trì xây dựng một số văn bản pháp quy trong lĩnh vực trình các cấp có

thẩm quyền ban hành như: Nghị định số 79/2012/NĐ-CP của Chính phủ về biểu

diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh

doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu...

- Thực hiện có hiệu quả công tác kiểm duyệt, thẩm định nội dung và kiểm

tra các chương trình nghệ thuật ca, múa, nhạc, sân khấu, thời trang..., cấp phép

cho các đoàn nghệ thuật, ca sĩ đi biểu diễn ở nước ngoài và từ nước ngoài về Việt

Nam biểu diễn. Riêng trong năm 2011, Bộ đã cấp 6.930.000 tem nhãn, 289 giấy

phép công diễn, 10 giấy phép phát hành băng đĩa, duyệt 415 chương trình, băng

đĩa, lưu chiểu, cấp phép 533 nghệ sĩ là người nước ngoài và 35 đoàn nghệ thuật,

12 ban nhạc nước ngoài vào Việt Nam biểu diễn, 47 đoàn nghệ thuật Việt Nam và

194 nghệ sĩ Việt Nam ra nước ngoài giao lưu và biểu diễn nghệ thuật. Thẩm định,

cho phép nhập khẩu 75 chương trình băng đĩa ca nhạc của các nước, cho phép

phổ biến tại Việt Nam 300 ca khúc do người Việt Nam sáng tác trước năm 1975...

Việc bảo tồn các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống được chú trọng

thông qua việc tổ chức các chương trình liên hoan biểu diễn nghệ thuật như “Liên

hoan Hợp xướng quốc tế lần thứ I” tại Hội An- Quảng Nam, “Liên hoan sân khấu

dân ca kịch Bài chòi toàn quốc”, “Liên hoan múa rối dân gian toàn quốc” “Liên

hoan sân khấu chèo về đề tài hiện đại”. Các cuộc liên hoan thu hút từ 200-500

nghệ sĩ, diễn viên tham gia, nhiều chương trình, tiết mục tham gia liên hoan đạt

chất lượng cao, được dàn dựng công phu, phong phú về đề tài, đa dạng về thể

loại.

- Các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, biểu diễn phục vụ

đồng bào, động viên chiến sĩ vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa được tổ

chức thực hiện trên cả nước như: chương trình phục vụ Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XI của Đảng, chương trình nghệ thuật biểu diễn phục vụ động viên

bộ đội Trường Sa và DK1, chương trình phục vụ tuyên truyền bầu cử Quốc hội

khóa XIII, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.

- Công tác giao lưu quốc tế được đẩy mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa biểu diễn

nghệ thuật với chương trình xúc tiến du lịch và quảng bá nghệ thuật Việt Nam ra

thế giới. Một số chương trình tiêu biểu đã được tổ chức như: chương trình nghệ

thuật đón các nguyên thủ sang thăm Việt Nam, chào mừng Hội nghị cấp cao

ASEAN, chương trình nghệ thuật các ngày Văn hóa Việt Nam tại các nước trên

Page 9: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

6

thế giới và biểu diễn giao lưu văn hóa tại các nước như Pháp, Đức, Cuba, Mexico,

Trung quốc, Tây Ban Nha, Nhật bản..., “Liên hoan Ca múa nhạc ba nước Việt

Nam- Lào- Campuchia”, chương trình hòa nhạc Henessy cổ điển, chương trình

nghệ thuật Italia,...

- Đối với hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở các địa phương: các đơn vị nghệ

thuật địa phương đã khắc phục khó khăn, xây dựng nhiều chương trình mới góp

phần tuyên truyền, tôn vinh nghệ thuật truyền thống, định hướng đường lối văn

nghệ của Đảng.

2.2.4. Lĩnh vực Điện ảnh:

- Một số văn bản pháp quy đã được ban hành như Luật sửa đổi bổ sung một

số điều của Luật Điện ảnh, Nghị định số 54/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi

hành Luật Điện ảnh và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh,

Thông tư số 08/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy

định tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định phim của Đài truyền hình, đài

phát thanh- truyền hình…

- Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả hoạt động điện ảnh gắn với các ngày lễ, kỷ

niệm của đất nước như: các tuần phim tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị

trên phạm vi cả nước, các buổi giao lưu giữa nghệ sĩ với khán giả trong đó Những

ngày phim Việt Nam chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội

tổ chức trên 63 tỉnh- thành thu hút hàng chục ngàn lượt khán giả tới thưởng thức

và giao lưu.

- Tổ chức chiếu phim và giới thiệu điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài đã

mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều tác phẩm, tác giả, nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam

được tôn vinh tại các nước có nền điện ảnh phát triển. Các Liên hoan phim quốc

tế được tổ chức tại Việt Nam đã tạo cơ hội cho các nghệ sĩ trong nước trao đổi,

giao lưu với các nghệ sĩ quốc tế.

- Công tác đầu tư đặt hàng sản xuất các tác phẩm điện ảnh được thực hiện

hàng năm đã tạo ra một nguồn phim điện ảnh có chất lượng, có tính thẩm mỹ và

định hướng chính trị. Các bộ phim do Nhà nước đặt hàng chiếm tỉ trọng lớn trong

các tác phẩm điện ảnh đạt giải cao tại các Liên hoan phim trong nước. Nhiều bộ

phim do Nhà nước đầu tư đã đạt được các giải thưởng quốc tế như: phim “Chơi

vơi” (đạo diễn Bùi Thạc Chuyên”) đoạt giải khán giả tại Liên hoan phim quốc tế

Venice- Italia, phim “Đừng đốt” (đạo diễn Đặng Nhật Minh) đoạt giải tại Liên

hoan phim Fukuoka- Nhật Bản, phim “Trăng nơi đáy giếng” đoạt 3 giải thưởng

tại Liên hoan phim- Văn hóa Á châu tại Lion- Pháp.... Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch đang phối hợp với Bộ Tài chính để ban hành Thông tư về đấu thầu, đặt

hàng sản xuất phim nhằm nâng cao chất lượng sản xuất phim và tạo “sân chơi”

công bằng với mọi thành phần kinh tế.

- Hệ thống cụm rạp chiếu phim, cơ sở chiếu bóng có nhiều cố gắng đầu tư

theo xu hướng phát triển công nghệ, kỹ thuật. Trung tâm Chiếu phim quốc gia

khai trương phòng chiếu 4D cảm giác mạnh, Lào cai, Hà Giang đã xây dựng

phòng chiếu phim 3D, lồng ghép tuyên truyền bằng tiếng dân tộc…

Page 10: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

7

- Hoạt động kiểm tra, kiểm duyệt hoạt động điện ảnh trên toàn quốc được

thực hiện nhằm đảm bảo đúng định hướng và quy định của pháp luật.

2.2.5. Lĩnh vực Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm:

- Hoàn thiện dự thảo Nghị định quản lý hoạt động mỹ thuật trình Chính phủ

phê duyệt, xây dựng Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030, Thông tư hướng dẫn hoạt động nhiếp ảnh…

- Thực hiện tốt công tác cấp phép cho các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây

dựng tượng đài. Tổ chức thành công các cuộc triển lãm trong phạm vi cả nước và

quốc tế như Triễn lãm Mỹ thuật toàn quốc với gần 5000 tác phẩm của các họa sỹ,

nhà điêu khắc trong cả nước tham dự, Triển lãm mỹ thuật thiếu nhi toàn quốc tại

Hà Nội và Hải phòng, Triển lãm Festival Mỹ thuật trẻ, Triển lãm ảnh nghệ thuật

quốc tế FIAP tại Việt Nam với 42 quốc gia và khu vực lãnh thổ tham gia, Triển

lãm tranh sơn mài tại Bắc Kinh và Tân Cương- Trung quốc….

2.2.6. Công tác phát triển văn học, nghệ thuật:

- Tập trung xây dựng và ban hành các văn bản quản lý Nhà nước nhằm

thống nhất, đồng bộ về tổ chức, hoạt động và tiêu chí mô hình Trung tâm Văn

hóa-Thể thao các cấp như: Thông tư quy định Quy chế về tổ chức và hoạt động

của tổ chức sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch quận,

huyện, thị xã, thành phối trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

Thông tư quy định tiêu chí của Trung tâm Văn hóa- Thể thao quận, huyện, thị xã,

thành phố trực thuộc tỉnh.

- Các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị trọng đại của đất nước được tổ chức tốt,

tạo không khí vui tươi, phấn khởi, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo

của Đảng. Hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển rộng khắp ở cơ sở, chất lượng

các cuộc thi, hội diễn, liên hoan được nâng lên ngày càng thu hút đông đảo lực

lượng công chúng tham gia, đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của

mọi tầng lớp dân cư.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đội tuyên truyền lưu động ở các địa

phương, vai trò của Trung tâm Văn hóa cấp tỉnh đối với cơ sở.

- Công tác xây dựng phát triển văn hóa (trong đó có văn học nghệ thuật)

vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng. Nhiều hoạt động văn hóa, nghệ

thuật được tổ chức đã tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc giao lưu học hỏi lẫn

nhau với không khí phấn khởi, tin tưởng vào các chủ trương chính sách của Đảng

và Nhà nước, góp phần gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc trong văn học, nghệ

thuật như: Tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng

Đồng Bắc lần thứ VII tại Phú Thọ.... Tiếp tục nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ

văn học, nghệ thuật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số thông qua tổ chức các lớp

tập huấn cho cán bộ văn hóa các xã đặc biệt khó khăn tại các tỉnh Hà Giang,

Thanh Hóa, Gia Lai; thực hiện mục tiêu hỗ trợ phát triển văn học nghệ thuật vùng

sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số qua việc thực hiện tốt dự án sản xuất

và cung cấp sản phẩm văn hóa thông tin phù hợp cho các xã đặc biệt khó khăn, xã

biên giới, xã thuộc 62 huyện nghèo, xã vùng dân tộc trọng điểm.

Page 11: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

8

2.2.7. Hợp tác giao lưu quốc tế về văn học, nghệ thuật:

- Tăng cường năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực đối ngoại và

hợp tác quốc tế về văn học, nghệ thuật. Trong năm 2010-2011, đã có 33 văn bản,

chương trình hợp tác quốc tế được ký kết.

- Công tác hợp tác giao lưu quốc tế về văn học, nghệ thuật đã được đẩy

mạnh theo hướng hiệu quả và thực chất, tận dụng cơ hội và đối phó với những

thách thức mới nhằm thúc đẩy hoạt động đối ngoại phát triển, góp phần vào thành

công chung của hoạt động đối ngoại của Nhà nước. Qua các hoạt động ngoại giao

văn hóa, văn học, nghệ thuật, từng bước góp phần nâng cao uy tín, vị thế và hình

ảnh đất nước, con người, văn hóa nghệ thuật Việt Nam trên thế giới. Nhiều hoạt

động văn học, nghệ thuật quan trọng được tổ chức như: Tháng Việt Nam tại Pháp,

Những ngày văn hóa Việt Nam tại Liên bang Nga, Ukraina, Na Uy và Đan

Mạch…

- Nhiều dự án hợp tác tranh thủ sự hỗ trợ từ các nước được triển khai hiệu

quả trong đào tạo nhân lực, xúc tiến quảng bá. Công tác quảng bá, giới thiệu văn

học nghệ thuật Việt Nam được tiếp tục đẩy mạnh thông qua các lễ hội, các hoạt

động xúc tiến văn hóa, thể thao và du lịch có quy mô lớn tại nước ngoài, thông

qua cơ quan đại diện văn hóa, du lịch tại nước ngoài và trên các phương tiện

nghe, nhìn và truyền thông quốc tế.

2.2.8. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn học, nghệ thuật:

- Bộ đã hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ và được phê duyệt các đề án

“Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo các trường văn hóa, nghệ thuật”, “Đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật

giai đoạn 2010-2020”, “Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng trẻ lĩnh vực văn

hóa nghệ thuật”.

- Công tác quản lý nhà nước về đào tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật

được chú trọng, đạt hiệu quả, tạo sự chuyển biến mới về phát triển nhân lực theo

định hướng của Đảng và Nhà nước. Học sinh, sinh viên các trường văn hóa, nghệ

thuật sau khi tốt nghiệp ra trường phần lớn phát huy được khả năng tại lĩnh vực

công tác. Sinh viên năng khiếu tự khẳng định mình trong học tập, giao tiếp, bộc lộ

tư chất và phát huy khả năng.

- Trong giai đoạn 2008-2012, một số trường văn hóa nghệ thuật được thành

lập như Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Đà Nẵng, Trường Cao

đăng Văn hóa nghệ thuật và Du lịch Gia Lai, Trường Đại học Văn hóa- Du lịch

Thanh Hóa, trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Hà Tĩnh. Một số cơ sở đào tạo

được cấp có thẩm quyền cho phép mở ngành mới và tuyển sinh như Đại học Văn

hóa Hà Nội tổ chức kỳ thi tuyển sinh bổ sung ngành Sáng tác Văn học, Trường

Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An mở thêm 06 chuyên ngành đào tạo.

- Hoàn thành việc xây dựng 20 chương trình khung giáo dục đại học, trong

đó có 9 đại học, 11 cao đẳng, đến nay các chương trình khung này đã được Bộ

Giáo dục và Đào tạo ban hành để các trường Văn hóa Nghệ thuật trong cả nước

triển khai thực hiện.

Page 12: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

9

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

1. Những thành tựu đạt được:

- Hoàn thành các đề án do Ban Tuyên giáo Trung ương phân công triển

khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị, xây dựng danh mục các đề án cụ

thể và phân công tới các cơ quan, đơn vị xây dựng/sửa đổi, bổ sung các văn bản

pháp quy triển khai Nghị quyết 23.

- Công tác xây dựng pháp luật đạt thành tích tốt với 03 dự án luật đã hoàn

thành và trình Quốc hội thông qua. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ và của Bộ được ban hành, tiếp tục hoàn thiện hệ thống

pháp luật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

- Một số đề xuất, chính sách đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt có ý nghĩa kịp thời động viên văn nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực văn học

nghệ thuật như: bổ sung 30 tỷ đồng để hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo của Uỷ

ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và các Hội Văn

học nghệ thuật chuyên ngành ở trung ương, địa phương trong năm 2010; điều

chỉnh tăng kinh phí giải thưởng văn học, nghệ thuật hàng năm, trước hết là năm

2010 cho Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và

các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành ở trung ương.

- Qua 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23, lĩnh vực văn học, nghệ

thuật về cơ bản có những chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn học, nghệ

thuật có tính chuyên nghiệp hơn, có bước phát triển mới, số lượng tác phẩm có

giá trị đạt giải thưởng khu vực, quốc gia tăng lên đáng kể. Công tác lý luận phê

bình có chuyển biến tích cực, hoạt động phổ biến, sáng tác tác phẩm đa dạng,

phong phú. Các hoạt động phong trào có bước phát triển sâu rộng, thu hút ngày

càng đông các nghệ sĩ, tầng lớp nhân dân tham gia sáng tác, phục vụ có hiệu quả

các sự kiện chính trị, góp phần định hướng tư tưởng, thẩm mỹ của nhân dân.

- Các hoạt động văn học, nghệ thuật có sự đổi mới trong tổ chức và dàn

dựng, chất lượng nghệ thuật được nâng lên, gắn kết chặt chẽ, phục vụ hiệu quả

chính sách phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương. Một số chương trình,

hoạt động văn hóa, nghệ thuật lớn tạo được ấn tượng tốt trong nhân dân. Mức

hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa

được cải thiện.

- Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh.

Ngày càng có nhiều tổ chức xã hội và cá nhân tham gia vào công tác bảo vệ và

phát huy giá trị văn học, nghệ thuật.

- Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể trong lĩnh vực văn

học, nghệ thuật được triển khai tích cực.

- Công tác phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước đối với các Hội văn

học, nghệ thuật đã có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ hơn.

Page 13: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

10

- Ý thức pháp luật và thực thi pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan

đã có những chuyển biến nhất định. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm

trong lĩnh vực bản quyền tác giả được tập trung triển khai thực hiện.

- Hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật

được đẩy mạnh. Nhiều văn bản hiệp định, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về

phát triển văn hóa, nghệ thuật được ký kết và triển khai thực hiện.

2. Những khó khăn, tồn tại:

- Công tác thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng ở một số lĩnh

vực còn chậm, một số văn bản hướng dẫn Luật chậm ban hành hoặc đã ban hành

nhưng chưa cụ thể, chưa theo kịp những biến động của thực tiễn nên hiệu quả

thực hiện còn thấp. Nhiều chính sách, quy định đã ban hành nhưng chưa đi vào

đời sống. Việc ban hành các văn bản pháp quy ở nhiều khâu còn thiếu đồng bộ.

- Một số cơ chế chính sách phát triển văn học, nghệ thuật bộc lộ những bất

cập không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, thay thế

như chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác văn học nghệ thuật ở cơ sở,

chế độ đối với diễn viên, nghệ sĩ hết tuổi nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu....

Các chính sách về lương, phụ cấp đối với văn nghệ sĩ nhìn chung còn thấp, chưa

bù đắp được công sức sáng tạo. Đời sống văn nghệ sĩ nhìn chung còn khó khăn

nên nhiều nghệ sĩ chưa toàn tâm toàn ý cho các hoạt động nghệ thuật do phải tự

“bươn chải”, mưu sinh ….

- Đội ngũ cán bộ quản lý văn học, nghệ thuật ở cơ sở vẫn trong tình trạng

vừa thiếu và biến động nhiều, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ. Hiệu lực, hiệu quả

của công tác quản lý Nhà nước ở một số lĩnh vực chưa cao.

- Mức đầu tư ngân sách cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật còn thấp, chưa đáp

ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho thiết chế

văn hóa, nghệ thuật ở cơ sở còn thiếu. Chế độ đãi ngộ, đầu tư còn hạn chế, thiếu

tính động viên khuyến khích.

- Hoạt động văn học, nghệ thuật mặc dù có sự chuyển biến nhưng chưa

đồng bộ giữa các khâu sáng tác, phổ biến, tiêu thụ, lưu giữ tác phẩm. Số lượng tác

phẩm khá lớn nhưng chưa có nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ

thuật. tác giả thực sự tiêu biểu ở từng lĩnh vực còn ít. Nhiều tác phẩm văn học,

nghệ thuật được Nhà nước đặt hàng, tài trợ chậm tiến độ, chưa đạt được giá trị

mong muốn.

- Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thuật còn hạn chế, việc

huy động các nguồn lực phục vụ hoạt động văn hóa, nghệ thuật của nhiều địa

phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, biên giới còn nhiều khó khăn. Chưa có

nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đến được các vùng sâu, vùng xa, miền núi,

hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn

hóa, nghệ thuật giữa vùng đô thị với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc

còn nhiều cách biệt.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều bất cập, hiệu

quả chưa cao. Trong một số lĩnh vực đào tạo văn học, nghệ thuật, mô hình đào

tạo còn lạc hậu, giáo trình chưa đầy đủ và đồng bộ, lực lượng giảng viên thiếu,

Page 14: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

11

không chuyên nghiệp do thỉnh giảng nhiều…Chưa có những biện pháp hữu hiệu

phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Các ngành nghề đào tạo có mở rộng, bổ sung

nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Một số ngành đào tạo nghệ thuật

như: múa, xiếc, sân khấu truyền thống… gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh

do thiếu đầu vào.

- Số tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị của Việt Nam được giới thiệu ra

nước ngoài còn hạn chế. Mặc dù có sự chuẩn bị về nội dung, nghệ thuật và đã đạt

được những thành quả nhất định trong công tác quảng bá, giới thiệu hình ảnh Việt

Nam trên trường quốc tế nhưng so với yêu cầu thực tiễn, các hoạt động văn hóa,

nghệ thuật của Việt Nam ở nước ngoài chưa được triển khai có hệ thống và

thường phân tán, thiếu tính liên kết để tạo hiệu quả tổng thể. Chưa có kế hoạch

phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành địa phương và các tổ chức đối ngoại nhân

dân.

3. Nguyên nhân của những khó khăn tồn tại:

3.1. Nguyên nhân chủ quan:

- Năng lực xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy của một số cơ quan,

đơn vị chức năng còn hạn chế do hạn chế về chỉ tiêu biên chế cán bộ cũng như

năng lực cán bộ.

- Việc thực thi các văn bản pháp quy còn nhiều bất cập chủ yếu do nhận thức

và ý thức chấp hành pháp luật của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân chưa đầy đủ.

- Công tác quản lý hoạt động văn học, nghệ thuật ở nhiều cơ quan, đơn vị

chưa hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan quản lý

nhà nước với các Hội Văn học, nghệ thuật chưa thực sự chặt chẽ và thường

xuyên.

- Ý nghĩa, vị trí, vai trò của các hoạt động văn học, nghệ thuật trong xây

dựng và phát triển kinh tế- xã hội có lúc, có nơi vẫn chưa được các cấp ủy Đảng,

chính quyền và nhân dân nhận thức đúng đắn nên chưa quan tâm chỉ đạo, lãnh

đạo đầu tư thỏa đáng.

- Công tác đào tạo còn chưa hiệu quả do phương pháp giảng dạy và học tập

còn chậm đổi mới, không đồng bộ và thiếu cập nhật.

- Công tác quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật của Việt Nam ra nước

ngoài còn hạn chế do việc xây dựng kế hoạch, chương trình tổng thể để quảng bá

các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn thiếu chủ động, thiếu định hướng lâu dài.

Nguồn nhân lực thiếu hụt, năng lực hạn chế nên chất lượng tiết mục và tác phẩm

trong các chương trình văn hóa, nghệ thuật chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

3.2. Nguyên nhân khách quan:

- Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, luôn biến động, chưa

chịu tác động mạnh của xu hướng kinh tế thị trường và tiến bộ khoa học công

nghệ nên nhiều văn bản pháp quy mới ban hành trong thời gian ngắn đã không

còn phù hợp (ví dụ Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

Page 15: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

12

quyền tác giả và các quyền liên quan), đòi hỏi công tác xây dựng các văn bản

pháp quy phải liên tục cập nhật, điều chỉnh.

- Ngân sách Nhà nước và đầu tư xã hội cho các hoạt động văn học, nghệ

thuật còn thấp. Đặc biệt, trong giai đoạn 2009 đến nay, nền kinh tế Việt Nam chịu

ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới nên ngân sách chi tiêu công cho lĩnh vực

văn học, nghệ thuật được ngân sách hỗ trợ còn thấp so với nhu cầu.

- Công tác đào tạo trong các ngành nghệ thuật thiếu đầu vào khi tuyển sinh

do các ngành học này vất vả, đòi hỏi năng khiếu thực sự, nhưng công tác đầu ra

không đảm bảo, tuổi nghề hoạt động nghệ thuật không dài, thu nhập từ văn học,

nghệ thuật còn thấp, chưa đảm bảo đời sống. Chất lượng đào tạo, đặc biệt là các

ngành mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, múa, xiếc còn bất cập do ngân sách

chi cho đào tạo nghệ thuật hạn hẹp, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế

trong khi các ngành nghệ thuật đòi hỏi chi phí đào tạo lớn.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ

QUYẾT SỐ 23-NQ/TW TRONG THỜI GIAN TỚI NĂM 2015

I . Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp:

1. Phương hướng, nhiệm vụ:

- Đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm

túc, hiệu quả Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII

và các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, văn học,

nghệ thuật.

- Tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cơ quan

quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật.

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang

pháp lý cho văn học, nghệ thuật phát triển. Tăng cường phổ biến pháp luật, hướng

dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và phát huy

các giá trị văn học, nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

- Đầu tư cho công tác sáng tác, sưu tầm, gìn giữ, quảng bá trong và ngoài

nước những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị.

- Tăng cường xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống cơ sở vật chất cho các

thiết chế văn hóa, đặc biệt là cấp cơ sở.

- Tạo điều kiện cho hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát huy tiềm năng và

trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ nhằm tạo ra những tác phẩm có giá trị

cao về tư tưởng và nghệ thuật ngang tầm quốc gia, dân tộc và thời đại.

- Tập trung phát triển đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn học nghệ thuật.

- Mở rộng hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế, quảng bá giới thiệu văn hóa,

nghệ thuật Việt Nam thông qua hoạt động xúc tiến văn hóa, du lịch; thu hút các

nguồn lực từ bên ngoài hỗ trợ cho sự nghiệp phát triển văn học, nghê thuật.

Page 16: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

13

2. Giải pháp:

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác lãnh đạo, thực hiện tốt chỉ đạo của Đảng và

Nhà nước đối với văn học, nghệ thuật; tiếp tục phổ biến sâu rộng tinh thần Nghị

quyết 23 đến đông đảo quần chúng nhân dân. Tăng cường bồi dưỡng nâng cao

nhận thức về vai trò, vị trí, đặc trưng của văn học, nghệ thuật trong đời sống xã

hội cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống

chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

- Đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện 05 đề án triển khai Nghị quyết 23 do Bộ

chủ trì xây dựng đã được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ban hành.

Sau khi các đề án này được phê duyệt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phân

công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện (chi tiết tiến độ

triển khai thực hiện các đề án tại Phụ lục 4 đính kèm).

Trong năm 2013, hoàn thiện trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành

30 văn bản, đề án theo chức năng quản lý Nhà nước về văn học, nghệ thuật và 05

đề án triển khai Nghị quyết 40/NQ-CP (chi tiết tại Phụ lục 3 đính kèm)

- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích văn nghệ

sĩ sáng tạo các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao. Xây dựng cơ chế

chính sách, chế tài ổn định, đáp ứng yêu cầu xã hội hóa các hoạt động văn hóa,

nghệ thuật nhằm động viên, huy động có hiệu quả sức người, sức của của các

tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế- xã hội tham gia xây dựng và phát triển

văn học, nghệ thuật. Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển

văn học, nghệ thuật từ địa phương đến trung ương.

- Kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, tăng

cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các hoạt động văn học nghệ thuật. Có

chính sách bồi dưỡng, thu hút nhân tài, chăm lo đãi ngộ đội ngũ văn nghệ sĩ, tạo

điều kiện cho văn nghệ sĩ phát huy tài năng, gắn bó và cống hiến lâu dài. Thực

hiện cơ chế đặt hàng sáng tác, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá

trị cao.

- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và với các Hội

Văn học nghệ thuật trong công tác quản lý, sáng tác và phổ biến các tác phẩm văn

học nghệ thuật. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ ở các cơ quan

quản lý Nhà nước, các Hội Văn học, nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu, hiệu quả

công tác quản lý trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Tiếp tục kiện toàn tổ chức,

nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội Văn học nghệ thuật trung ương và địa

phương.

- Tăng mức đầu tư từ ngân sách trung ương và địa phương cho văn học,

nghệ thuật phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, tiếp tục bảo

đảm kinh phí cho các chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, tài trợ đặt hàng

các tác phẩm văn học, nghệ thuật.

- Tập trung hoàn thiện, đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng tài năng

văn học, nghệ thuật. Xây dựng hệ thống giáo trình, giáo án toàn diện, nâng cao

trình độ và hoàn thiện đội ngũ giảng viên tại các trường đào tạo văn học, nghệ

thuật.

Page 17: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

14

- Quan tâm nghiên cứu khoa học về hoạt động văn học nghệ thuật; kịp thời

phát hiện, phát triển các loại hình văn học nghệ thuật dân gian nhằm bảo tồn giá

trị văn hóa truyền thống của dân tộc

- Thực hiện có hiệu quả các hoạt động triển lãm, giao lưu văn hóa nhằm

giới thiệu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cho bạn bè trong nước và

quốc tế.

- Tổ chức có hiệu quả các hoạt động văn học nghệ thuật. Đẩy mạnh các hoạt

động sáng tác, phổ biến tác phẩm, lý luận phê bình, phấn đấu sáng tác những tác

phẩm có giá trị cao về quê hương đất nước và con người, truyền thống lịch sử

cách mạng của dân tộc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng

cường sự liên kết giữa Hội Văn học nghệ thuật với các Trung tâm văn hóa, Nhà

văn hóa và các thiết chế văn hóa khác trong việc phổ biến tác phẩm, đưa văn học

nghệ thuật phát triển toàn diện cả bề rộng lẫn bề sâu, góp phần định hướng tư

tưởng, giáo dục thẩm mỹ, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

- Tiếp tục cải tiến, nâng cao chất lượng các chuyên mục, chuyên đề về văn

học nghệ thuật trên các Đài Phát thanh truyền hình và báo chí; củng cố và mở

rộng mạng lưới phát hành tạp chí sáng tác nghiên cứu phê bình văn học nghệ

thuật.

II. Đề xuất, kiến nghị:

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ quan tâm chỉ đạo, giải quyết một số vấn đề sau:

1. Về chính sách:

- Chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp sớm tháo gỡ khó khăn vướng

mắc về chính sách đối với văn nghệ sĩ như: chính sách đối với nghệ sĩ, diễn viên,

vận động viên, huấn luyện viên đã hết tuổi nghề nhưng chưa đến tuổi nghỉ

hưu….Cần quan tâm đến chế độ tiền lương, chế độ nghỉ hưu phù hợp đối với đội

ngũ văn nghệ sĩ (đặc biệt là loại hình nghệ thuật truyền thống).

- Cho phép Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các Bộ

ngành chức năng xây dựng đề án cải cách toàn diện chế độ chính sách đối với văn

nghệ sĩ trình Thủ tướng phê duyệt theo cơ chế đặc thù (Chế độ nghỉ hưu sớm đối

với nghệ sĩ trong độ tuổi làm việc nhưng không còn khả năng biểu diễn nghệ

thuật; Chế độ lương; Chế độ bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn; Phụ cấp ưu đãi nghề;

Chế độ khuyến khích các nghệ sĩ, học sinh, sinh viên theo học các loại hình nghệ

thuật truyền thống).

- Kiến nghị chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan (Nội vụ, Tài chính, Công an,

Giáo dục đào tạo...) quan tâm, phối hợp trong việc xây dựng các chính sách bảo

vệ và phát triển văn học nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống.

- Chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2002

của Chính phủ về chế độ nhuận bút và điều chỉnh quy định về mức chi bồi dưỡng

Page 18: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

15

tập luyện, biểu diễn nghệ thuật tại Quyết định số 180/2006/QĐ- TTg ngày 09

tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp với thực tế.

- Bố trí hợp lý thời gian và tiến độ xây dựng các đề án, các văn bản pháp quy

trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Chính phủ khi phân công nhiệm vụ cho các Bộ,

ngành và các cơ quan liên quan để đảm bảo tính khả thi.

2. Về nguồn nhân lực:

- Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan:

+ Cho phép Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ động trong công tác đào

tạo, tuyển chọn, tuyển dụng nhân tài cho lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn kể cả đào

tạo ở nước ngoài.

+ Cho cơ chế đặc thù để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm thí điểm xét

nâng ngạch cho các nghệ sĩ thuộc 12 Nhà hát trực thuộc Bộ, các cơ sở để xây

dựng chính sách chung cho các nghệ sĩ trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật của cả

nước.

+ Tạo điều kiện nhiều hơn cho đội ngũ văn nghệ sĩ đi giao lưu, thực tế, tham

gia các trại sáng tác trong nước và quốc tế.

- Kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, cho phép các trường năng

khiếu nghệ thuật được tổ chức tuyển sinh không cùng đợt với các trường đại học,

cao đẳng khác trong toàn quốc để bảo đảm nguồn tuyển sinh cho các trường.

- Kiến nghị Bộ Giáo dục đào tạo và các cơ quan liên quan quan tâm đến

công tác định hướng, giáo dục nâng cao ý thức công dân, nhất là học sinh, sinh

viên về tinh thần trách nhiệm với Tổ Quốc trong việc bảo vệ và phát triển văn học

nghệ thuật; phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng các chính

sách động viên, khuyến khích cho nghệ sĩ, diễn viên và học sinh, sinh viên

chuyên ngành văn họá nghệ thuật, đặc biệt là các bộ môn nghệ thuật truyền

thống.

3. Về thiết chế, cơ sở vật chất, kinh phí:

Kiến nghị Ban Bí Thư, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ:

- Quan tâm tăng mạnh mức đầu tư phát triển hàng năm cho sự nghiệp văn

hóa nghệ thuật để thực hiện các Nghị định của Chính phủ, các đề án được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt để các văn bản này đi vào cuộc sống.

- Bố trí kinh phí để ứng dụng hiệu quả khoa học, công nghệ, phương tiện

hiện đại, trang thiết bị, máy móc theo công nghệ mới trong lĩnh vực văn họá nghệ

thuật.

- Bố trí kinh phí đầu tư phát triển để xây dựng thiết chế văn hóa hiện đại,

đồng bộ có trọng điểm hệ thống thiết chế văn hóa nghệ thuật như hệ thống Nhà

hát, Rạp chiếu phim để phổ biến tác phẩm văn học nghệ thuật phục vụ nhân dân,

Page 19: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

16

đồng thời tạo thị trường khuyến khích các đơn vị nghệ thuật, các hãng phim sản

xuất các tác phẩm nghệ thuật;

- Bố trí kinh phí đầu tư xây dựng các chương trình nghệ thuật, các bộ phim,

các công trình mỹ thuật chất lượng cao;

- Bố trí tăng ngân sách cho các đơn vị quản lý và biểu diễn nghệ thuật ở

Trung ương và địa phương.

- Tăng mức đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nghệ thuật biểu diễn,

Cho phép khôi phục lại Chương trình mục tiêu quốc gia về Điện ảnh giai đoạn

2015-2020;

- Miễn giảm tiền thuê đất, hạ mức thuế suất hoạt động sản xuất phim, biểu

diễn nghệ thuật và dịch vụ liên quan;

- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho công tác quảng bá điện ảnh, phát hành phim trong

nước và nước ngoài.

- Để từng bước thực hiện Đề án "Quy hoạch và Kế hoạch nâng cấp, xây mới

các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ

thuật) giai đoạn 2012-2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết

định số 88/QĐ-TTg ngày 09/01/2013, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bố trí trong

năm 2013 khoản kinh phí 500 tỷ đồng để triển khai các công việc cấp bách như

sau:

+ Triển khai công tác chuẩn bị đầu tư: Lập dự án đầu tư nâng cấp, xây mới

một số công trình văn hóa ưu tiên của giai đoạn 1 theo kế hoạch phân kỳ của Đề

án.

+ Đầu tư nâng cấp cho các công trình văn hóa từ quý III năm 2013 khi đã có

điều kiện đầy đủ thủ tục theo quy định hiện hành (dự án được phê duyệt, thiết kế

và tổng dự án..).

4. Về thực thi pháp luật

- Kiến nghị Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan liên quan đẩy

mạnh tuyên truyền Nghị quyết 23 trong hệ thống chính trị, lực lượng văn nghệ sĩ

và nhân dân;

- Kiến nghị Bộ Công an và cơ quan chức năng liên quan xử lý triệt để,

nghiêm minh tình trạng vi phạm bản quyền tác giả (băng đĩa lậu, tranh chép...),

bảo vệ quyền lợi hợp pháp đang bị xâm hại trong lĩnh vực nghệ thuật, triển khai

thực hiện tốt các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả. Có như vậy,

các nghệ sĩ và đơn vị nghệ thuật mới yên tâm sáng tạo và cống hiến trong một thị

trường cạnh tranh bình đẳng;

- Kiến nghị Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ

đạo các cơ quan báo chí đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng trong việc bảo tồn,

giới thiệu quảng bá và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đối với văn học, nghệ

thuật, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật truyền thống./.

Page 20: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

17

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

PHỤ LỤC 1

Kết quả xây dựng 05 đề án của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai

Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị theo sự phân công của Ban Tuyên giáo

Trung ương

(kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Tên đề án Kết quả thực hiện

1. Đề án

“Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt

động văn học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ,

đặt hàng đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật; chính

sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học

nghệ thuật”

Đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt

tại Quyết định số

316/QĐ-TTg ngày 01

tháng 3 năm 2011

2. Đề án

“Xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu

đãi... đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong

nước; văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và

giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào

Việt Nam; chính sách sưu tầm, chỉnh lý, bảo tồn, phát

huy, quảng bá di sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát

triển văn học, nghệ thuật quần chúng”

Đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt

tại Quyết định số

645/QĐ-TTg ngày 29

tháng 4 năm 2011

3. Đề án

“Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường

văn hoá, nghệ thuật giai đoạn 2011-2020”

Đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt

tại Quyết định số

1243/QĐ-TTg ngày

25 tháng 7 năm 2011

4. Đề án

“Trên cơ sở quy hoạch và rà soát, đánh giá lại các công

trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các

công trình văn hoá (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển

lãm) từ năm 2010-2020”

Đã được Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt

tại Quyết định số

88/QĐ-TTg ngày 09

tháng 01 năm 2013

5. Đề án

“Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Sở hữu

trí tuệ đối với hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật”

Thay thế bằng Đề án “Xây dựng Nghị định hướng dẫn

thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở

hữu trí tuệ”

Đã được Chính phủ

phê duyệt, ban hành

Nghị định số

85/2011/NĐ-CP ngày

20 tháng 9 năm 2011

Page 21: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

18

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

PHỤ LỤC 2

Các văn bản pháp quy đã ban hành về quản lý Nhà nước về văn

học, nghệ thuật (giai đoạn 2009-2012) (kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Quốc hội:

1. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2009)

2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa (năm 2009)

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh (năm 2009)

Chính phủ:

1. Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về

xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan;

2. Nghị định số 54/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện ảnh số 62/QH11 và Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12;

3. Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa;

4. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi bổ

sung một số điều của Luật di sản văn hóa;

5. Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22

tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định về quản lý nhà nước và bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ;

6. Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9

năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;

7. Nghị định số 109/2011/NĐ-CP ngày 02 tháng 12 năm 2011 sửa đổi bổ sung

một số điều của Nghị định số 47/2008/NĐ-CP ngày 13 tháng 5 năm 2009 của

Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan;

8. Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy

định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người

mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.

Page 22: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

19

Thủ tướng Chính phủ:

1. Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du

lịch giai đoạn 2011-2020”;

2. Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2011 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt đề án “Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình

văn học nghệ thuật của các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung

ương và các Hội Văn học nghệ thuật địa phương, tiếp tục hỗ trợ hoạt động

sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng cao ở Trung ương và địa phương giai

đoạn 2011-2015”;

3. Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 30 tháng 5 năm 2011 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong

lĩnh vực văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2011-2020;

4. Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 01 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính

phủ về việc phê duyệt Đề án “Khuyến khích sáng tác và công bố các tác phẩm

văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, cứu nước giải phóng

dân tộc, thống nhất đất nước giai đoạn 1930-1975”;

5. Quyết định số 649/QĐ-TTg, ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường năng lực quản lý, thực thi có hiệu quả pháp

luật bảo hộ quyền tác giả quyền liên quan đối với các tổ chức đại diện tập thể

quyền tác giả quyền liên quan tại Việt Nam đến năm 2015”;

6. Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng Chính

phủ về tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

1. Thông tư số 02/2011/TTLT/BVHTTDL-BTC ngày 07 tháng 3 năm 2011 của

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng

kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho hoạt động sáng tạo tác phẩm, công

trình văn học nghệ thuật ở Trung ương và các Hội Văn học nghệ thuật địa

phương giai đoạn 2011 – 2015;

2. Thông tư số 15/2012/TT-BVHTTDL ngày 13 tháng 12 năm 2012 của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn hoạt động giám định về quyền tác giả,

quyền liên quan;

3. Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL ngày 24 tháng 08 năm 2010 của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số điều tại Nghị định

số 75/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa;

4. Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 6 năm 2010 của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và

Page 23: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

20

lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn

hóa phi vật thể quốc gia;

5. Thông tư số 18/2010/TT-BVHTTDL ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng;

6. Thông tư số 08/2010/TT-BVHTTDL ngày 18/8/2010 của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch quy định tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định phim

của Đài Truyền hình, Đài Phát thanh- Truyền hình;

7. Thông tư số 17/2012/TT-BVHTTDL ngày 27 tháng 12 năm 2012 của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch quy định triển lãm, thi, liên hoan và sử dụng tác

phẩm nhiếp ảnh;

8. Quyết định số 3248/QĐ-BVHTTDL ngày 10/10/2011 của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch phê duyệt đề án “Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo văn

hóa nghệ thuật giai đoạn 2011-2020”.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Bộ, ngành liên quan:

1. Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTTDL-

BKHCN-BTP ngày 03 tháng 9 năm 2008 hướng dẫn áp dụng một số quy định

của pháp luật trong việc giải quyết các vụ tranh chấp về sở hữu trí tuệ tại Tòa

án nhân dân;

2. Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19 tháng 6

năm 2012 của Bộ Thông tin truyền thông và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong

việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và

mạng viễn thông;

3. Hướng dẫn số 73/BGDĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng 1 năm 2013 của Bộ

Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc sử dụng di

sản văn hóa trong dạy học ở các trường phổ thông và trung tâm giáo dục

thường xuyên.

Page 24: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

21

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

PHỤ LỤC 3

Các dự án, đề án do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì xây dựng dự

kiến trình các cấp có thẩm quyền ban hành

trong năm 2013 (kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

STT Tên văn bản Tiến độ hoàn

thành

I Các dự án, đề án do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

chủ trì xây dựng theo chức năng quản lý Nhà nước:

1. Luật Thư viện Quý IV/2013

2. Nghị định của Chính phủ về quản lý hoạt động mỹ thuật Quý II/2013

3. Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành

chính quyền tác giả, quyền liên quan

Quý II/2013

4. Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và du

lịch

Quý II/2013

5. Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, quy trình,

thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ Nhân

dân”, “Nghệ sĩ Ưu tú”

Quý II/2013

6. Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, quy trình,

thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng “Giải thưởng Hồ Chí

Minh” và “Giải thưởng Nhà nước” về văn học nghệ thuật

Quý II/2013

7. Nghị định của Chính phủ quy định tiêu chuẩn, quy trình,

thủ tục, hồ sơ đề nghị xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân

Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú”

Quý II/2013

8. Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế hoạt động và cơ

chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ

chức bộ máy, số người làm việc và tài chính đối với đơn

vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và

du lịch

Quý III/2013

9. Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

61/2002/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ nhuận bút cho

tác phẩm văn học, nghệ thuật

Quý IV/2013

Page 25: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

22

10. Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030

Quý III/2013

11. Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2030

Quý III/2013

12. Quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2030

Quý III/2013

13. Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020 và

tầm nhìn đến năm 2030

Quý IV/2013

14. Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa- thể dục

thể thao cơ sở và cơ sở văn hóa vui chơi, giải trí cho trẻ

em giai đoạn 2012-2020

Quý I/2013

15. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo văn hóa, thể thao

và du lịch giai đoạn 2011-2020

Quý II/2013

16. Quy hoạch tổng thể phát triển văn hóa, thể thao và du lịch

vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, tầm nhìn

đến năm 2030

Quý IV/2013

17. Quy hoạch tổng thể phát triển văn hóa, thể thao và du lịch

vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030

Quý IV/2013

18. Quy hoạch ngành nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020,

định hướng đến năm 2030

Quý IV/2013

19. Thông tư liên tịch hướng dẫn việc đấu thầu, đặt hàng sản

xuất phim có sử dụng ngân sách Nhà nước

Quý II/2013

20. Thông tư liên tịch hướng dẫn đấu thầu, đặt hàng, giao

nhiệm vụ cung cấp hoạt động biểu diễn nghệ thuật sử

dụng ngân sách nhà nước

Quý II/2013

21. Thông tư hướng dẫn quản lý việc chiếu phim 4D, 5D Quý II/2013

22. Thông tư trả công người làm mẫu vẽ đối với lĩnh vực Mỹ

thuật

2013

23. Thông tư liên tịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và

Bộ Tài chính) hướng dẫn chế độ quản lý đặc thù đối với

Đội chiếu bóng lưu động cấp tỉnh, thành phố

2013

24. Đề án Xây dựng Trung tâm Văn hóa Việt Nam ở nước

ngoài giai đoạn 2013-2020

Quý I/2013

25. Đề án về Chính sách quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ

thuật

Quý III/2013

26. Đề án về Chính sách thuế ưu đãi các tác phẩm văn học,

nghệ thuật

Quý III/2013

Page 26: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

23

27. Đề án tăng cường mức đầu tư cho kịch bản văn học, nghệ

thuật

Quý III/2013

28. Đề án điều chỉnh mức hỗ trợ tiền ăn của văn nghệ sĩ dự

Trại sáng tác tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật

2013

II. Các đề án triển khai thực hiện Nghị quyết số 40/NQ-

CP của Chính phủ:

1. Đề án “Đổi mới cơ chế tính giá dịch vụ trong lĩnh vực văn

hóa, thể thao”

Quý II/2013

2. Đề án “Xây dựng quy hoạch mạng lưới sân vận động, rạp

chiếu phim, các thiết chế văn hóa, khu văn hóa vui chơi

giải trí phục vụ cộng đồng giai đoạn 2011-2020

Quý II/2013

3. Đề án “Xây dựng cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cung

cấp đối với các sản phẩm, dịch vụ văn hóa do Nhà nước

yêu cầu”

Quý III/2013

4. Đề án “Xây dựng cơ chế hoạt động và cơ chế tự chủ, tự

chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,

số người làm việc và tài chính đối với đơn vị sự nghiêp

công lập trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch”

Quý III/2013

5. Đề án “Ban hành hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật và

tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng trong lĩnh vực văn hóa, thể

thao

Quý III/2013

Page 27: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

24

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHỤ LỤC 4

Tiến độ xây dựng các đề án nhánh của 05 đề án triển khai thực hiện Nghị

quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục xây dựng và phát

triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” của các đơn vị trực thuộc Bộ

(kèm theo Báo cáo số /BC-BVHTTDL ngày tháng năm 2013 của Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

STT Tên công việc Đơn vị chủ

trì

Tiến độ

thực hiện

1

Đề án 1: Xây dựng và rà soát các chế

độ chính sách đối với hoạt động văn

học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ

tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm

văn học nghệ thuật; Chính sách

khuyến khích sáng tác trong các hoạt

động văn học nghệ thuật”

Vụ Kế hoạch,

Tài chính

Quyết định số

316/QĐ-TTg

ngày 01/3/2011

2*

Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ

chế hoạt động và cơ chế tài chính (trong

đó có tiền lương) đối với các đơn vị sự

nghiệp công lập thuộc ngành văn hóa,

thể thao và du lịch

Vụ Tổ chức

cán bộ

Tờ trình số

229/TTr-

BVHTTDL

ngày 30/11/2009

3 Nghị định của Chính phủ về hoạt động

nghệ thuật biểu diễn

Cục Nghệ

thuật biểu

diễn

Nghị định số

79/2012/NĐ-CP

ngày 15/10/2012

4 Nghị định của Chính phủ về quản lý mỹ

thuật

Cục Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và

Triển lãm

Tờ trình số

29/TTr-

BVHTTDL

ngày 27/2/2012

5

Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở

hữu trí tuệ

Cục Bản

quyền tác giả

Nghị định số

85/NĐ-CP ngày

20/9/2011

6

Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng

viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa

nghệ thuật giai đoạn 2011-2020

Vụ Đào tạo

Quyết định số

808/QĐ-TTg

ngày 30/5/2011

7 Đề án Quy hoạch phát triển ngành mỹ

thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030

Cục Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và

Triển lãm

Đang dự thảo

Page 28: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

25

8

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về

quy hoạch tượng đài danh nhân anh

hùng dân tộc

Cục Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và

Triển lãm

Ngày 8/4/2011,

Bộ VHTTDL đã

báo cáo Bộ

Chính trị

9

Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện

giao kế hoạch, đặt hàng đấu thầu sản

xuất phim, mua bản quyền phim bằng

ngân sách Nhà nước

Cục Điện ảnh

Đang xin ý kiến

của các cơ quan

có liên quan để

hoàn thiện

10

Thông tư liên tịch hướng dẫn đấu thầu,

đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp hoạt

động biểu diễn nghệ thuật sử dụng ngân

sách nhà nước

Cục Nghệ

thuật biểu

diễn

Đang dự thảo

11*

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ ban

hành Quyết định về đào tạo, bồi dưỡng

và phát triển các tài năng trẻ trong lĩnh

vực VHNT

Vụ Đào tạo

Tờ trình số

249/TTr-

BVHTTDL

ngày 6/12/2010

12*

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết

định về “Đưa việc giáo dục nghệ thuật

truyền thống vào chương trình giáo dục

tiểu học và trung học cơ sở”

Vụ Đào tạo

Tờ trình số

272/TTr-

BVHTTDL

ngày 21/12/2010

13 Nghị định về xử phạt vi phạm hành

chính trong hoạt động văn hóa Vụ Pháp chế

Nghị định số

75/2010/NĐ-CP

ngày 12/7/2010

14 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi

bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh Cục Điện ảnh

Nghị định

54/NĐ-CP ngày

21/5/2010

15

Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Di

sản Văn hóa

Cuc Di sản

văn hóa

Nghị định số

98/2010/NĐ-CP

ngày 21/9/2010

16

Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số

121/2005/NĐ-CP về việc quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật Thi đua- Khen thưởng và Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

Thi đua- Khen thưởng (đối với tiền

thưởng cho danh hiệu Nghệ sĩ Nhân

dân, Nghệ sĩ Ưu tú)

Bộ Nội vụ

chủ trì

Vụ Thi đua

khen thưởng

làm đầu mối

phối hợp

Nghị định số

42/2010/NĐ-CP

ngày 15/4/2010

17

Đề án xây dựng cơ chế, giải pháp về nhà

ở (cho thuê hoặc bán) cho các Nghệ sĩ

Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú hiện đang gặp

nhiều khó khăn về nhà ở

Vụ Kế hoach,

Tài chính

Tờ trình số

135/TTr-

BVHTTDL

ngày 29/6/2010

Page 29: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

26

18

Thông tư liên tịch Hướng dẫn thực hiện

đặt hàng xuất bản phẩm sử dụng ngân

sách nhà nước

Bộ Thông tin

và Truyền

thông chủ trì

Vụ KHTC

làm đầu mối

phối hợp

Thông tư liên

tịch số

04/2011/TTLT-

BTTTT-BTC

ngày 10/01/2011

19

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết

định về việc đầu tư cho các loại hình

nghệ thuật truyền thống trong chương

trình mục tiêu quốc gia về văn hóa

Vụ Kế hoach,

Tài chính

Lồng ghép trong

CTMTQG về

văn hóa

20 Nghị định của Chính phủ về các Hội

Văn học, Nghệ thuật.

Bộ Nội vụ;

Vụ Tổ chức

cán bộ làm

đầu mối phối

hợp

Nghị định số

45/2010/NĐ-CP

ngày 21/4/2010

quy định về tổ

chức, hoạt động

và quản lý hội

21 Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số

61/2002/NĐ-CP về chế độ nhuận bút

Cục Bản

quyền tác giả

Đang dự thảo,

dự kiến trình

Lãnh đạo Bộ

quý IV/2013

22

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết

định về việc đầu tư kinh phí cho các

báo, tạp chí, nhà xuất bản của các Hội

VHNT

Liên hiệp các

Hội VHNT

Việt Nam

Vụ KHTC

làm đầu mối

phối hợp

Đang dự thảo,

dự kiến trình

Thủ tướng

Chính phủ trong

tháng 6/2013

23

Đề án “Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng

tạo tác phẩm, công trình văn học, nghệ

thuật của các Hội Văn học, nghệ thuật

chuyên ngành Trung ương và các Hội

Văn học, nghệ thuật địa phương. Tiếp

tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm

báo chí chất lượng cao ở Trung ương và

địa phương giai đoạn 2011-2015”

Liên Hiệp các

Hội VHNT

Việt Nam

Vụ KHTC

làm đầu mối

phối hợp

Quyết định số

369/QĐ-TTg

ngày 14/3/2011

của TTCP phê

duyệt Đề án

24

Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết

định về việc trao giải thưởng hàng năm

cho các tác giả trên lĩnh vực VHNT

Liên hiệp các

Hội VHNT

Việt Nam

Vụ KHTC

làm đầu mối

phối hợp

Đang dự thảo,

dự kiến trình

Thủ tướng

Chính phủ trong

tháng 6/2013

Page 30: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

27

25 Đề án 2: Đổi mới và nâng cao chất

lượng đào tạo của các trường văn hoá,

nghệ thuật giai đoạn 2011-2020

Vụ Đào tạo

Quyết định số

1243/QĐ-TTg

ngày 25/7/2011

26

Đề án 3: Xây dựng chính sách thẩm

định, quảng bá, thuế ưu đãi... đối với

các tác phẩm văn học, nghệ thuật

trong nước; văn hoá phẩm của Việt

Nam đưa ra nước ngoài và giới thiệu

tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế

giới vào Việt Nam; chính sách sưu tầm,

chỉnh lý, bảo tồn, phát huy, quảng bá di

sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát

triển văn học, nghệ thuật quần chúng

Vụ Kế hoạch,

Tài chính

Quyết định số

645/QĐ-TTg

ngày 29/4/2011

27* Chính sách về cơ chế thẩm định các tác

phẩm văn học, nghệ thuật

Vụ Kế hoạch,

Tài chính

Bộ VHTTDL đã

báo cáo tại Công

văn số

866/BVHTTDL-

KHTC ngày

24/3/2011

28 Chính sách về quảng bá các tác phẩm

văn học, nghệ thuật:

Viện Văn hóa

Nghệ thuật

VN

Đang hoàn thiện

29 Chính sách về thuế ưu đãi các tác phẩm

văn học, nghệ thuật

Viện Văn hóa

Nghệ thuật

VN

Đang hoàn thiện

30

Thông tư liên tịch quy định về chế độ,

danh mục và định mức chi phí cho các

hoạt động văn hóa đối ngoại, đặc biệt là

việc tổ chức Tuần Việt Nam ở nước

ngoài, các hoạt động quảng bá văn học,

nghệ thuật, đất nước, con người Việt

Nam ở nước ngoài:

Cục Hợp tác

quốc tế

Thông tư số

102/2012/TT-

BTC ngày

21/6/2012

31 Đề án Bảo tồn và phát huy nghệ thuật

biểu diễn truyền thống đến năm 2020

Viện Văn hóa

Nghệ thuật

VN

Tờ trình số

197/TTr-

BVHTTDL

ngày 24/10/2011

32

Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng

đồng giai đoạn 2011-2020

Vụ Thư viện Đang dự thảo,

dự kiến trình

Lãnh đạo Bộ

quý IV/2013

33 Thông tư quy định chế độ thưởng đặc Vụ Thi đua Đề nghị không

Page 31: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

28

thù cho các tác phẩm văn học nghệ thuật

đỉnh cao

khen thưởng ban hành, tránh

chồng chéo với

các văn bản

khác

34

Quy hoạch về thời gian, địa bàn, loại

hình nghệ thuật Việt Nam đi biểu diễn

nước ngoài giai đoạn 2011-2020

Cục Hợp tác

Quốc tế

Tờ trình số

19/TTr-

BVHTTDL

ngày 9/2/2011

35

Chương trình quốc gia về các loại sách

trọng yếu phục vụ công cuộc đổi mới và

phát triển đất nước trong giai đoạn mới

và được Chính phủ, Quốc hội bố trí

ngân sách hàng năm.

Vụ Thư viện

Thực hiện trong

Chương trình

Mục tiêu quốc

gia về văn hóa

hàng năm

36

Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà

soát, đánh giá lại các công trình hiện

có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây

mới các công trình văn hoá (nhà hát,

rạp chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm

2010-2020

Vụ Kế hoạch,

Tài chính

Quyết định số

88/QĐ-TTg

ngày 09/01/2013

37

Đề án 5: Xây dựng Thông tư hướng

dẫn thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ đối

với hoạt động văn hoá, văn học, nghệ

thuật

Cục Bản

quyền tác giả

Nghị định số

85/2011/NĐ-CP

ngày 20/9/2011

* Ghi chú:

1. Văn bản số 2: Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ chế hoạt động

và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương) đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch: Văn phòng Chính phủ đã

có Công văn số 1344/VPCP-KGVX ngày 03 tháng 3 năm 2010 nêu rõ ý

kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng: “Bộ Văn hóa, Thể thao

và Du lịch chủ trì cùng Bộ Tài chính, căn cứ Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt

động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại

hình dịch vụ sự nghiệp công” sau khi được Chính phủ phê duyệt, để nghiên

cứu hoàn chỉnh Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối

với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành văn hóa, thể thao và du lịch”,

bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, trình phê duyệt theo quy định”.

2. Văn bản số 11: Đề án trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết

định về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển các tài năng trẻ trong lĩnh vực

VHNT: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức Hội thi tài năng trẻ học

sinh, sinh viên các trường văn hóa, thể thao và du lịch lần thứ nhất năm

2012 tại Đà Nẵng. Thông qua hội thi này đã tuyển chọn các tài năng trẻ để

đưa đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài trong thời gian tới. Hiện nay, Bộ

Page 32: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

29

Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang thành lập Ban chỉ đạo, Tổ biên tập xây

dựng các dự án, quy chế tuyển chọn cán bộ, giảng viên, giáo viên, học sinh,

sinh viên văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và du lịch đi đào tạo, bồi

dưỡng ở nước ngoài năm 2013; thành lập hội đồng tuyển chọn cán bộ, giảng

viên, giáo viên, học sinh, sinh viên đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài.

3. Văn bản số 12: Đề án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về “Đưa

việc giáo dục nghệ thuật truyền thống vào chương trình giáo dục tiểu học và

trung học cơ sở”: Trên cơ sở Đề án này, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ

Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây

dựng và ban hành Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng

01 năm 2013 về việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ

thông, trung tâm giáo dục thường xuyên.

4. Văn bản số 27: Chính sách về cơ chế thẩm định các tác phẩm văn

học, nghệ thuật: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã báo cáo tại Công văn

số 866/BVHTTDL-KHTC ngày 24/3/2011 về việc Đề án trình Thủ tướng

Chính phủ quyết định về việc thẩm định các tác phẩm VHNT trong các

lĩnh vực: Điện ảnh, Nghệ thuật biểu diễn, Mỹ thuật nhiếp ảnh, Xuất bản

và văn học. Trong Công văn nêu rõ: “Tiếp thu ý kiến góp ý của các Cơ quan

liên quan, đặc biệt là ý kiến của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch thống nhất với quan điểm không nhất thiết phải trình Thủ tướng Chính

phủ quyết định phê duyệt đề án”, vì:

- Việc thẩm định các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong các lĩnh vực

điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật nhiếp ảnh, xuất bản và văn học

thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

- Các nội dung mang tính giải pháp của Dự thảo đề án bao gồm việc

ban hành các văn bản thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch.

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục nghiên cứu xây dựng, ban

hành các văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ, hoàn thiện hệ thống cơ chế

chính sách về thẩm định các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong các lĩnh

vực Điện ảnh, Nghệ thuật biểu diễn, Mỹ thuật nhiếp ảnh, Xuất bản và

Văn học

Page 33: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

30

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SAU 5 NĂM THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT 23 - NQ/TW

Vũ Công Hội

Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa, Văn nghệ

Ban Tuyên giáo Trung ương

1. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, văn nghệ dưới sự lãnh đạo

của Đảng cộng sản Việt Nam có 03 dấu mốc quan trọng: Đó là Đề cương văn hóa

Việt Nam năm 1943; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa VIII) “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” ngày 16/7/1998 và Nghị quyết 23 - NQ/ TW ngày

16/6/2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ

thuật trong thời kỳ mới”.

Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã tập trung đánh giá tình hình văn học,

nghệ thuật trong thời gian qua và đề ra mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ trương

và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ

mới. Về mục tiêu, nghị quyết nhấn mạnh: tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền

văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân

cách con người Việt Nam…; xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam

một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ

nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân

dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa

dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên

đất nước ta. Quan điểm chỉ đạo các hoạt động văn học nghệ thuật trong Nghị

quyết đã nhấn mạnh:

Văn học nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa;

là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người…

Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện,

bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm

của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của cả các tổ chức trong hệ

thống chính trị các cấp.

Các chủ trương và giải pháp thực hiện mà Nghị quyết đề ra bao gồm nhiều

lĩnh vực: sáng tác, lý luận, phê bình, sản xuất các tác phẩm văn học nghệ thuật

(VHNT); đào tạo bồi dưỡng đội ngũ hoạt động VHNT và công tác lãnh đạo, điều

hành quản lý, đầu tư, tài trợ các hoạt động VHNT…

2. Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị ra đời được những người hoạt động trên

lĩnh vực VHNT nói riêng, cả xã hội nói chung rất quan tâm. Vì trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bên

cạch những thành tựu đã đạt được, hoạt động văn học nghệ thuật còn bộc lộ nhiều

yếu kém, khuyết điểm: ít tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; hoạt

động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu về nhiều mặt chưa xứng đáng với

vai trò, vị trí của nó; một số tác phẩm văn học, nghệ thuật tầm thường, chất lượng

Page 34: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

31

kém được phát hành, truyền bá gây tác hại, ảnh hưởng xấu tới công chúng, nhất là

thế hệ trẻ; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ còn nhiều bất cập, yếu

kém, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước

bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, nội dung và phương pháp lãnh đạo chậm đổi

mới…mà nguyên nhân chính là: Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà

nước về quan điểm, chủ trương, chính sách, về đầu tư kinh phí cho lĩnh vực văn

học, nghệ thuật chưa đúng tầm và đúng mức. Chủ trương tăng trưởng kinh tế phải

đi đôi với phát triển văn hóa, văn nghệ - nền tảng tinh thần của xã hội - chưa được

quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Một số cấp ủy, chính quyền chưa coi trọng và

thiếu hiểu biết đầy đủ về vai trò, tính đặc thù của văn học, nghệ thuật, chậm thể

chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng. Đầu tư cho văn hóa, văn nghệ chưa

tương xứng với yêu cầu mới, chưa hợp lý và kém hiệu quả. Những vấn đề mà

Nghị quyết nêu ra được các cấp, các ngành quan tâm, có ảnh hưởng trong đời

sống xã hội. Ban Bí thư đã thành lập Ban Chỉ đạo triển khai một số Đề án thực

hiện Nghị quyết 23; Chính phủ, các bộ, ban, ngành, đoàn thể đã chủ động triển

khai với ý thức và tinh thần trách nhiệm cao. Ban Chỉ đạo đã phân công các cơ

quan, đơn vị thực hiện các đề án cụ thể như sau:

Đề án trình Chính phủ (có 07 đề án)

a/ Đề án 1: Xây dựng Nghị định về các Hội văn học, nghệ thuật trong thời

kỳ mới

- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Nội vụ

- Cơ quan phối hợp: Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương,

Ban cán sự đảng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc

Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt

Nam và các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.

b/ Đề án 2: Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt động văn

học, nghệ thuật và văn nghệ sĩ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn

học, nghệ thuật. Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn học,

nghệ thuật và thành lập Quỹ sáng tác.

- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ

Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng đoàn Uỷ ban toàn

quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và

các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.

c/ Đề án 3: Xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu đãi… đối với

các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong nước; văn hóa phẩm của Việt Nam đưa

ra nước ngoài và giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào Việt

Nam; chính sách bảo tồn, quảng bá, phát huy di sản văn học, nghệ thuật dân tộc,

nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý vốn văn học, nghệ thuật truyền thống, xây dựng và

phát huy văn học, nghệ thuật quần chúng; chính sách xuất bản, quảng bá các tác

phẩm văn học, nghệ thuật đến với công chúng qua các ấn phẩm văn hóa, các

phương tiện thông tin đại chúng.

Page 35: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

32

- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ

Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng đoàn Uỷ ban toàn

quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và

các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.

d/ Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà soát, đánh giá lại các công trình hiện

có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các công tình văn hóa (nhà hát, rạp

chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm 2010-2020.

- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ

Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng đoàn Uỷ ban toàn

quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và

các Hội văn học, nghệ thuật Trung ương.

e/ Đề án 5: Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ đối

với hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật.

- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Cơ quan phối hợp: các cơ quan hữu quan.

g/ Đề án 6: Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn

hóa, nghệ thuật.

- Cơ quan chủ trì: Ban cán sự Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

- Cơ quan phối hợp: Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên

giáo Trung ương.

h/ Đề án 7: Xây dựng chương trình giáo dục thẩm mỹ cho thanh thiếu niên,

đặc biệt là học sinh, sinh viên trong các trường học.

Cơ quan chủ trì: Bộ Giáo dục & Đào tạo

Cơ quan phối hợp: Bộ Văn hoá - Thể thao & Du lịch,Bộ Thông tin &

Truyền thông, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Tuyên

giáo Trung ương, các Hội VHNT Việt Nam.

Đề án trình Ban Bí thư (có 02 đề án).

i/ Đề án 8: Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo về văn học, nghệ thuật

trong hệ thống các trường chính trị-hành chính.

- Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

- Cơ quan phối hợp: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Giáo

dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

k/ Đề án 9: Tiêu chuẩn, cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh

vực văn hóa, văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.

- Cơ quan chủ trì: Ban Tổ chức Trung ương.

Page 36: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

33

- Cơ quan phối hợp: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Nội

vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đảng đoàn Liên hiệp các Hội văn học, nghệ

thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam và các Hội văn học, nghệ thuật Trung

ương.

Đến tháng 11/2010 đã có 3 đề án hoàn thành và ra được những chính sách cụ

thể. Đó là đề án do Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì:

Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo về văn học, nghệ thuật trong hệ thống

các trường chính trị- hành chính; Đề án do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì được

Ban Bí thư ban hành Quy định số 284-QĐ/TW, ngày 05/02/2010 về tiêu chuẩn, cơ

chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ

thật. Đề án do Bộ Nội vụ chủ trì trình Chính phủ ra Nghị định số 45/2010/NĐ-

CP. Ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, trong đó có

Chương VI: Một số quy định áp dụng đối với các hội có tính chất đặc thù( các hội

văn học nghệ thuật thuộc nhóm này). Đề án của Học viện Chính trị-Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh chính thức được triển khai từ năm 2010, đã tổ chức 24 lớp

bồi dưỡng cho học viên các tỉnh, thành (trung bình mỗi lớp có 100 học viên);

được đưa vào chương trình đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ của Viện Văn hóa và phát

triển.

Các đề án do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thiện trình Chính phủ

ban hành 09 Quyết định, 05 Nghị định; Bộ đã ban hành 01 Quyết định, 05 Thông

tư, phối hợp với Bộ Tài chính ban hành 01 Thông tư và hoàn thành gần 20 văn

bản dự kiến trình Thủ tướng ban hành trong thời gian tới liên quan đến các lĩnh

vực hoạt động mà Bộ quản lý về mặt Nhà nước. Trong số đó, tại Quyết định

369/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2011 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án

Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật của

các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và các hội văn học nghệ

thuật địa phương, tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng

cao ở trung ương và địa phương giai đoạn 2011-2015; Quyết định 844/QĐ-TTg

ngày 01 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng về việc phê duyệt Đề án “Khuyến khích

sáng tác và công bố các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng

và nghệ thuật, phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,

cứu nước giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước giai đoạn 1930- 1975”…Có

thể nói, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ động, tích cực trong việc xây

dựng, hoàn thiện những văn bản nhằm thực hiện Nghị quyết 23- NQ/TW.

Chính phủ đã kịp thời bổ xung 30 tỷ đồng cho hoạt động văn học, nghệ thuật

và nâng mức giải thưởng các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong năm 2010.

Thông qua Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam,

Chính phủ đã hỗ trợ sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật và báo

chí giai đoạn 2011-2015 với kinh phí 430 tỷ đồng. Trong điều kiện kinh tế còn

nhiều khó khăn, việc Chính phủ hỗ trợ cho văn học, nghệ thuật và báo chí là một

điều đáng quý, giúp cho đội ngũ văn nghệ sĩ, các hội văn học nghệ thuật, nhất là

những tỉnh còn nhiều khó khăn có điều kiện sáng tác, quảng bá tác phẩm. Ngoài

ra, một số dự án, một số cuộc vận động sáng tác khác do các hội chuyên ngành đề

xuất cũng được Chính phủ phê duyệt và cấp kinh phí.

Page 37: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

34

Một số địa phương đã chỉ đạo Hội văn học nghệ thuật, Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch cùng với các ban ngành xây dựng đề án phát triển văn học nghệ thuật

đến năm 2015-2020 (Hải Dương, Bến Tre…). Bổ sung về kinh phí cho hội

VHNT tổ chức các trại sáng tác, hỗ trợ in ấn, quảng bá tác phẩm. Đồng thời,

nhiều hình thức tôn vinh, khích lệ, động viên văn nghệ sĩ đã được các tỉnh tổ chức

như: Hàng năm xét, tặng giải cho những tác phẩm xuất sắc (Phú Thọ, Bắc Ninh,

TP Hồ Chí Minh…); tại các cuộc Liên hoan ảnh nghệ thuật, triển lãm mỹ thuật ỏ

các khu vực hàng năm, cùng với giải thưởng của Hội Trung ương, nhiều tỉnh đã

tặng thêm cho những tác giả là người địa phương. Nhiều doanh nghiệp của các

tỉnh đứng ra tài trợ cho hoạt động sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật. Có thể

nói, Nghị quyết 23 đã và đang đi vào cuộc sống với ý thức, tâm huyết của các

tầng lớp nhân dân trong xã hội.

3. Tuy vậy, sau 5 năm thực hiện, Nghị quyết 23-NQ/TW vẫn còn nhiều vấn

đề cần được tiếp tục triển khai. Một là, Chính phủ và các ngành hữu quan quan

tâm phối hợp giải quyết những vướng mắc về thể chế trong việc phát triển văn

học, nghệ thuật như: chính sách về chế độ làm việc, chế độ tiền lương đối với

nghệ thuật truyền thống( chèo, tuồng, cải lương, ca trù…). Thứ hai là vấn đề

nguồn nhân lực cho ngành (đào tạo, tuyển chọn, tuyển dụng, chính sách đãi ngộ

với những nghệ sĩ tài năng…). Thứ ba là, tăng cường cơ sở vật chất cho các thiết

chế văn hóa cơ sở, cho phép khôi phục lại Chương trình mục tiêu quốc gia về

Điện ảnh (giai đoạn 2015-2020), chú trọng đầu tư trang thiết bị cũng như khoa

học, công nghệ trong lĩnh vực điện ảnh. Thứ tư là, các ngành chức năng quan tâm

phối hợp với Bộ thực thi nghiêm minh pháp luật, khắc phục tình trạng vi phạm

bản quyền, thực thi Luật sở hữu trí tuệ..tạo môi trường sáng tạo lành mạnh. Đồng

thời đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng trong việc giữ gìn, giới thiệu quảng bá

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là các loại hình nghệ thuật truyền

thống.

4. Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết

23- NQ/TW trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong cán bộ lãnh đạo cấp ủy,

chính quyền từ Trung ương đến địa phương và đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức.

Trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng, Chính phủ luôn

quan tâm đến văn nghệ sĩ bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Ngành văn hóa nên tập trung nguồn lực giải quyết những vấn đề bức xúc

nhất hiện nay như: nghệ thuật truyền thống, hoạt động điện ảnh và đào tạo nhân

lực.

Tăng cường phối hợp hoạt động với các bộ, ngành chức năng, với các địa

phương trong cả nước để triển khai có hiệu quả những vấn đề liên quan đến quản

lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Nên có sự gắn bó chặt chẽ hơn

giữa các đơn vị thuộc Bộ với các Hội chuyên ngành Trung ương cũng như với Ủy

ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam.

Page 38: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

35

BÁO CÁO HỘI NGHỊ

5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 23 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ VĂN

HỌC NGHỆ THUẬT

Nhà văn Đỗ Kim Cuông

Phó Chủ tịch Thường trực

Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam

1. Về tổ chức hoạt động của các Hội Văn học nghệ thuật hiện nay

Theo số lượng thống kê chưa đầy đủ, biến động theo từng năm, hiện nay,

số lượng văn nghệ sỹ cả nước do các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố

quản lí là gần 40.000 người. Trong đó:

- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương: 18.000 người.

- Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố: xấp xỉ 22.000 người.

Cơ chế chỉ đạo, quản lí chung là: Cấp uỷ đảng trực tiếp chỉ đạo các Hội Văn

học nghệ thuật. Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Bộ Nội vụ, Sở

Nội vụ quản lí biên chế.

Nhìn chung, tổ chức các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương đến địa

phương đều được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ đạo, Nhà nước hỗ trợ kinh phí để

hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước và nhiệm vụ chính

trị của địa phương.

2. Đánh giá tổng quan về tình hình Văn học nghệ thuật hiện nay

Trong sáng tạo nghệ thuật, về căn bản, các tác phẩm văn nghệ đi đúng

hướng phản ánh hiện thực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hôm nay, các tác

giả tiếp tục tái hiện hiện thực cách mạng và kháng chiến hào hùng của dân tộc

(1945 – 1975), lịch sử kiên cường bất khuất và những truyền thống tốt đẹp của

nhân dân ta. Văn nghệ cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, cái mới tiến bộ, tạo dựng

những tấm gương điển hình của con người thời đại: người lao động sáng tạo

(công nhân, nông dân, trí thức), những người làm giàu chân chính cho đất nước

(thương nhân, nhà doanh nghiệp, nhà kinh doanh), bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an

ninh xã hội (chiến sĩ lực lượng vũ trang, công an nhân dân).

Văn nghệ phê phán khá mạnh mẽ cái tiêu cực (tình trạng mất dân chủ, tham

nhũng, lộng quyền và lạm quyền, thoái hóa biến chất về lý tưởng, đạo đức, lối

sống vị kỉ, không tinh nghĩa, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất thiển cận...).

Văn nghệ sĩ được đảm bảo tự do sáng tạo, được chú trọng bảo vệ bản quyền

về sáng tác, biểu diễn. Từ năm 2000 nhà nước đảm bảo hỗ trợ cho việc sáng tạo

và quảng bá tác phẩm, duy trì hoạt động của tổ chức Hội VHNT với tư cách là tổ

chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Nhà nước đã thực hiện thể chế hóa tổ chức

của Hội trong văn bản Pháp lệnh về Hội nghề nghiệp đặc thù trong đó có Hội

VHNT. Song, đội ngũ văn nghệ sỹ đã có sự phân hoá: một bộ phận lớn văn

Page 39: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

36

nghệ sỹ (những người cao tuổi gắn bó với cách mạng và kháng chiến) là lực

lượng nòng cốt trong các Hội Văn học nghệ thuật vẫn giữ quan điểm sáng tác của

Đảng. Còn một bộ phận văn nghệ sỹ trẻ, có tài, có tác phẩm hiện nay hành nghề

tự do, không muốn vào Hội. Tác phẩm của họ tự xuất bản, tổ chức biểu diễn, làm

phim theo đơn đặt hàng của các Háng tư nhân. Nội dung tác phẩm chủ yếu đề cập

tới hiện thực đời sống xã hội đương đại với cách nhìn, cách nghĩ của giới trẻ. Tác

phẩm ít có chiều sâu về tư tưởng, giá trị nhân văn nhưng lại được các cơ quan

truyền thông quảng bá rộng rãi có tác động không nhỏ đến thị hiếu thẩm mĩ cảu

công chúng (nhất là tầng lớp bình dân và giới trẻ).

Về nghiên cứu, lý luận, phê bình, đã đẩy lùi khuynh hướng phủ nhận thành

tựu của văn nghệ cách mạng, kháng chiến, kiên trì bảo vệ và phát triển đường lối

văn học nghệ thuật mácxit-leninit và tư tuởng văn nghệ Hồ Chí Minh.

Bước đầu quan tâm thu hút lực lượng văn nghệ sĩ Việt Nam yêu nước tiến

bộ đang định cư ở nước ngoài về nước tham gia sáng tác, biểu diễn, phát huy

những giá trị truyền thống văn nghệ của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Thực hiện hợp tác giao lưu văn hóa với nước ngoài qua dịch thuật, xuất bản,

lưu diễn, tổ chức trại sáng tác quốc tế ở Việt Nam và dự các liên hoan văn nghệ,

các cuộc thi biểu diễn ở nước ngoài.

Tuy nhiên mặt trận văn nghệ còn bộc lộ những khuyết nhuợc điểm:

- Cá biệt có VNS chưa đề cao trách nhiệm xã hội, công dân, suy giảm lòng

tin vào sự nghiệp cách mạng, phát ngôn, viết hồi ký, sách báo bộc lộ sự dao động

hoài nghi về lý tưởng và niềm tin về sự phát triển của đất nước trong vận hội mới.

- Vẫn tồn tại dai dẳng khuynh hướng thuơng mại hóa, giải trí tầm thường hóa ở

một số lĩnh vực, chi phối một bộ phận công chúng (âm nhạc, điện ảnh, sân khấu).

- Thiếu vắng những tác phẩm giá trị tâm huyết, để đời, của những cá tính

sáng tạo độc đáo, nghệ sĩ lớn bậc thầy. Còn có biểu hiện dễ dãi bằng lòng với tình

trạng nghiệp dư, “ăn xổi ở thì”, chiều theo thị hiếu cũ kĩ, hoặc tầm thường, thậm

chí lập dị, ngộ nhận dưới danh nghĩa các trào lưu thời thượng như: hậu hiện đại,

giải cấu trúc, đại tự sự...

3. Về tư tưởng của đội ngũ văn nghệ sỹ

Trước tình hình diễn biến phức tạp của xã hội hiện nay: thách thức khó

khăn về kinh tế, đời sống của đại bộ phận anh chị em văn nghệ sỹ còn vất vả, cơ

cực (kể cả người đang hưởng lương và người đã về hưu) đồng lương không đủ

sống, những tác động xấu của xã hội trong nước (tệ tham nhũng, cửa quyền, tệ

nạn xã hội…) và những thông tin kích động của kẻ xấu trên các trang mạng…,

vấn đề biển Đông… Nhưng nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng,

chính quyền từ trung ương đến địa phương, đại bộ phận anh chị em văn nghệ sĩ

vẫn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và những quyết sách của Đại hội Đảng

lần thứ XI vạch ra. Biểu hiện là: kiên trì, tâm huyết với công việc sáng tạo của

người nghệ sỹ, gắn bó với các giá trị truyền thống yêu nước và cách mạng, khẳng

định các giá trị đạo đức, nhân văn của dân tộc. Các cuộc thi sáng tác, các công

trình nghiên cứu, sưu tầm văn hóa, Văn học nghệ thuật do các Hội tổ chức vẫn

Page 40: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

37

được anh chị em văn nghệ sỹ tham gia hưởng ứng với sự say mê, tâm huyết. Có

thể khẳng định: Chính tình hình tư tưởng của đội ngũ văn nghệ sỹ hiện nay góp

phần quan trọng cho sự ổn định chính trị của xã hội, của đất nước.

Có được sự ổn định này là nhờ lòng yêu nước, gắn bó với sự nghiệp cách

mạng của Đảng, của dân tộc ở mỗi người văn nghệ sỹ. Nghị quyết 23 của Bộ

Chính trị về xây dựng và phát triển Văn học nghệ thuật trong tình hình mới làm

sáng rõ, minh bạch quan điểm của Đảng ta cùng với những cơ chế chính sách về

Văn học nghệ thuật và đời sống văn nghệ sỹ từng bước được cải thiện, tháo gỡ,

tạo được niềm tin của người nghệ sỹ với Đảng, gắn bó với vận mệnh của đất

nước.

- Việc Chính phủ tiếp tục “Hỗ trợ cho các công trình Văn học nghệ thuật và

báo chí giai đoạn 2011 - 2015” thực sự là nguồn khích lệ đối với văn nghệ sỹ và

báo chí cả nước. Tuy kinh phí hỗ trợ còn ít (80 tỷ đồng/năm), mỗi hội Văn học

nghệ thuật tỉnh, thành phố được hỗ trợ trên dưới 500 triệu đồng nhưng đã tháo gỡ

rất nhiều khó khăn cho các hoạt động văn nghệ của cả nước hiện nay, nhất là đối

với các địa phương còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế (các tỉnh, thành phố mức

thu nhập thấp, các tỉnh miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số).

Song tình hình tư tưởng của một số (rất ít) văn nghệ sỹ vẫn còn những biểu

hiện sau:

- Một số văn nghệ sỹ chưa thật sự tin tưởng vào các Nghị quyết của Đảng,

và Chính sách của Nhà nước (như việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về

củng cố xây dựng Đảng). Bộ phận này chịu tác động bởi những hiện tượng xấu

đang diễn ra trong xã hội như: tham nhũng, tiêu cực trong kinh tế, đất đai, sự lộng

hành của một số cán bộ có chức, có quyền không thực hiện đúng 19 điều quy

định đối với Đảng viên, tác động của các luồng thông tin xấu (qua báo chí, dư

luận xã hội…)

- Một số văn nghệ sỹ còn chịu tác động trực tiếp của những kẻ xấu gây chia

rẽ, kích động, phủ nhận thành quả của cách mạng và kháng chiến, lợi dụng tình

hình phức tạp đang diễn ra ở Biển đông, phê phán sự lãnh đạo của Đảng và Nhà

nước. Số văn nghệ sỹ này không nhiều, nhưng lợi dụng không khí đổi mới, dân

chủ công khai, sự lỏng lẻo trong quản lí báo chí, từng lúc, từng nơi tìm cách bộc

lộ, tạo dư luận chú ý.

Đây cũng là vấn đề rất cần được các cơ quan quản lý Văn học nghệ thuật

quan tâm. Kiên trì và kiên quyết đấu tranh không cho kẻ xấu lợi dụng thực hiện

âm mưu “diễn biến hoà bình” trong đội ngũ văn nghệ sỹ.

- Năm 2012, ở một số Hội VHNT các tỉnh thành phố đã tiến hành đại hội,

củng cố tổ chức bầu ra Ban chấp hành mới. Dấu hiệu đáng mừng là ở một số các

địa phương trước đây có tình trạng mất đoàn kết, kéo dài nhiệm kỳ của Đại hội đã

được khắc phục. Tuy nhiên qua thực tiễn công tác quản lý ở các Hội, đội ngũ lãnh

đạo ở một số Hội cũng còn nhiều bất cập, thiếu cán bộ lãnh đạo văn nghệ chuyên

trách, có uy tín cao về nghề nghiệp và trong hội viên. Cho đến nay ở một vài hội

biên chế hoạt động còn ít (3 - 5 người). Kinh phí hoạt động thấp, cơ sở vật chất để

phục vụ cho các hoạt động VHNT còn thiếu.

Page 41: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

38

4. Về công tác chỉ đạo, quản lý, thực hiện cơ chế chính sách đối với văn nghệ

Tài năng nói chung là quí hiếm, nhưng tài năng trong VHNT lại càng quí

và hiếm. Tài năng trong VHNT được thể hiện ở nhiều yếu tố, nhưng trước hết và

chủ yếu là ở đạo đức nghề nghiệp, thái độ công dân của văn nghệ sĩ và ở tác

phẩm, công trình của họ. Trong VHNT, nếu không có tài năng thì không thể tạo

ra được tác phẩm, công trình hay đáp ứng nhu cầu chân thiện mỹ của công chúng

và xã hội.

- Nhận diện cho đúng tài năng trong VHNT là trách nhiệm của Đảng, Nhà

nước và toàn xã hội, nhưng chủ yếu và trước hết là ở các cơ quan quản lý VHNT,

ở các Hội VHNT chuyên ngành Trung ương, ở các Hội VHNT tỉnh, thành phố.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước phát triển VHNT trong cơ chế thị trường,

định hướng XHCN, vì vậy hoạt động VHNT cần có sự lãnh đạo của Đảng và sự

quản lý của Nhà nước.

- Chống lại xu hướng nghiệp dư hóa trong VHNT theo tinh thần Nghị quyết 23

của Bộ Chính trị (khóa X) đang được các cơ quan quản lý VHNT và lãnh đạo các

Hội quan tâm chỉ đạo bằng việc xây dựng các qui chế hoạt động biểu diễn nghệ

thuật, xét tặng giải thưởng, các cuộc thi sáng tác, triển lãm khu vực…

- Chăm sóc, bồi dưỡng văn nghệ sĩ cả nước đã được Đảng và Nhà nước ta

quan tâm từ rất sớm, thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (năm

1998) về “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và

trong Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa X, năm 2008 về “Tiếp tục xây dựng,

phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”, trong Quyết định của Chính phủ

về kinh phí hỗ trợ sáng tạo, sưu tầm VHNT giai đoạn 1999 – 2015.

Ngay sau khi có các Nghị quyết của Đảng ra đời, cấp ủy và tổ chức Đảng

các cấp đã triển khai, quán triệt sâu rộng đến tận chi bộ, nhất là đối với đội ngũ

văn nghệ sĩ cả nước.

Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã xây dựng chương trình hành động cụ thể, với

nhiều đề án liên quan đến VHNT để tổ chức thực hiện, quan tâm bồi dưỡng đội

ngũ văn nghệ sĩ, đầu tư kinh phí, nắm bắt tâm tư, diễn biến tư tưởng của văn nghệ

sĩ để có biện pháp lãnh đạo kịp thời, do đó tạo được không khí đoàn kết, đồng

thuận, nhất trí cao trong xã hội.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng

cơ chế chính sách còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm.

- Một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn xem nhẹ vai trò của văn hóa

trong mối quan hệ với kinh tế, chưa nhận thức đúng vai trò của VHNT góp phần

củng cố trận địa tư tưởng của Đảng. Trong chỉ đạo điều hành còn thiếu sự quan tâm

đúng mức đến việc kiện toàn mô hình tổ chức các Hội VHNT ở địa phương, cơ sở

vật chất, điều kiện làm việc của các Hội còn nghèo nàn, kinh phí phục vụ cho hoạt

động sáng tạo nghệ thuật… còn hạn chế. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương

bố trí nhân sự chủ tịch Hội VHNT địa phương là người không am hiều về văn học

nghệ thuật, trái với Quyết dịnh 284 của Ban Bí thư qui định về người lãnh đạo

quản lý hội VHNT địa phương phải là người có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp.

Dẫn đến nội bộ thiếu đoàn kết, làm ảnh hưởng đến tư tưởng của hội viên.

Page 42: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

39

- Quản lý nhà nước về hoạt động VHNT còn buông lỏng nhất là hoạt động

biểu diễn. Một số đề án về VHNT chưa được thể chế hóa cụ thể. Báo, tạp chí, các

nhà xuất bản của các Hội còn gặp nhiều khó khăn trong phát hành, xuất bản mà

chưa được tháo gỡ, giải quyết phù hợp trong tình hình mới. Việc xét tặng giải

thưởng hàng năm của các Hội VHNT địa phương còn chưa thống nhất, có hội

trao hàng năm, có hội trao giải thưởng 3 hoặc 5 năm một lần do còn gặp khó khăn

về ngân sách…

- Quy định hệ số lương của nghệ sĩ biểu diễn (xiếc, múa, sân khấu) còn chưa

tương xứng với đặc thù nghề nghiệp nên anh chị em còn nhiều băn khoăn, khó

khăn trong cuộc sống, ảnh hưởng đến niềm say mê sáng tạo, cống hiến trong hoạt

động nghề nghiệp…

5. Giải pháp và kiến nghị

- Để công tác văn hoá, Văn học nghệ thuật thực sự đáp ứng với nhiệm vụ

tuyên truyền chính trị của Đảng và Nhà nước, cần nâng cao nhận thức cho các

cấp uỷ Đảng và chính quyền về vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ; xác định rõ

mô hình tổ chức Hội Văn học nghệ thuật là một mắt xích quan trọng trong công

tác tư tưởng, văn hóa của Đảng và Nhà nước.

- Trên cơ sở đó, từ Trung ương đến địa phương củng cố tổ chức các Hội

Văn học nghệ thuật. Bố trí cán bộ làm công tác Văn học nghệ thuật nắm vững

quan điểm, đường lối, các chính sách về văn hóa, văn nghệ của Đảng và Nhà

nước; tập hợp được đội ngũ văn nghệ sỹ, động viên sáng tác để có được những

sản phẩm văn hoá, văn nghệ tốt phục vụ nhân dân.

- Tăng cường biên chế, cơ sở vật chất cho một số Hội Văn học nghệ thuật ở

Trung ương và địa phương đủ mạnh để thực hiện công tác Văn học nghệ thuật.

Phải xem công tác văn hoá, văn nghệ là của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp uỷ

Đảng và chính quyền.

- Phối hợp với các bộ, ngành liên quan: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các

ban của Đảng xây dựng cơ chế chính sách về mặt tổ chức cho Văn học nghệ thuật.

- Cần có thái độ ứng xử đúng đối với cán bộ làm công tác Văn học nghệ

thuật là công chức Nhà nước vì bản thân đội ngũ này đã đi theo Đảng làm cách

mạng từ trước cách mạng tháng Tám.

Trước hết là giải quyết chế độ phụ cấp cho các cán bộ đang công tác ở các

Hội Văn học nghệ thuật (25%) như các cơ quan hành chính khác.

- Đề nghị Bộ Nội vụ có sự chỉ đạo trong ngành giải quyết biên chế đủ cho

các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và các Hội Văn học nghệ

thuật địa phương. Cụ thể là:

+ Ở các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và Hội Liên

hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Tp. Hồ

Chí Minh, biên chế tối thiểu là 25 - 30 người.

+ Ở các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố: 12-15 biên chế./.

Page 43: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

40

ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM SAU 5 NĂM TRIỂN KHAI

NGHỊ QUYẾT 23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

TS. Ngô Phương Lan

Cục trưởng Cục Điện ảnh

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

I. TÌNH HÌNH ĐIỆN ẢNH

1.1. Bối cảnh chung

Bối cảnh quốc tế

Trong 5 năm qua, bối cảnh điện ảnh trên thế giới có những thay đổi chính

tác động đến tình hình điện ảnh trong nước như sau:

- Xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới ngày càng mở rộng khiến việc hợp

tác điện ảnh càng phát triển.

- Công nghệ số phát triển kéo theo sự chuyển hướng cơ bản trong sản xuất

và phát hành phim ở tất cả các nước trên thế giới: từ phim nhựa 35 ly sang kỹ

thuật số chất lượng cao.

- Trong thời đại truyền thông con người có nhiều sự lựa chọn, nên điện ảnh

có nhiều “đối thủ” cạnh tranh.

- Điện ảnh Châu Á lên ngôi.

Bối cảnh trong nước

Chủ trương hội nhập quốc tế chủ động, tich cực, toàn diện của Đảng (Đại

hội Đảng XI) tạo điều kiện điện ảnh Việt Nam hội nhập và phát triển.

Việc mở cửa liên kết với nước ngoài trong sản xuất và phát hành phim.

Chủ trương xã hội hóa điện ảnh trong tất cả các khâu đem đến sự khởi sắc cho

điện ảnh nhưng cũng kéo theo sự lấn át của dòng phim thương mại, sự độc quyền

của các công ty nước ngoài trong phổ biến phim. Xu thế thị trường hóa, chạy theo

lợi nhuận của các hãng phim tư nhân (trong sản xuất, phát hành).

Cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO: Việt Nam không quy định

hạn ngạch phim nhập.

Các cơ sở điện ảnh của nhà nước có đội ngũ làm điện ảnh lâu năm nhưng

cơ chế tổ chức trì trệ, hoạt động kém hiệu quả; phương tiện kỹ thuật cũ kỹ và

thiếu đồng bộ…

2.1. Thành tựu về điện ảnh:

- Thực hiện chủ trương của nhà nước là đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động điện

ảnh, diện mạo điện ảnh Việt Nam trong 5 năm qua trở nên rất phong phú, thị

trường điện ảnh phục hồi và phát triển. Vai trò của các hãng phim tư nhân ngày

càng rõ rệt, phim tư nhân dần chiếm tỉ lệ áp đảo trong tổng số phim Việt Nam

phát hành ở rạp, thu hút lượng khán giả lớn (có phim đông người xem hơn và đạt

Page 44: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

41

doanh thu cao hơn phim “bom tấn” cúa Mỹ chiếu cùng thời điểm- Ví dụ phim Mỹ

nhân kế lập kỷ lục phòng vé với doanh thu 60 tỉ trong khoảng 1 tháng chiếu rạp);

một số phim tư nhân gần đây được đánh giá khá cao về nghề nghiệp (Thiên mệnh

anh hùng, Cánh đồng bất tận…).

- Phim do nhà nước đặt hàng và tài trợ sản xuất đảm bảo phục vụ nhiệm vụ

chính trị với chất lượng nghề nghiệp cao (Đừng đốt, Mùi cỏ cháy…); nhiều bộ

phim đạt giải tại các Liên hoan phim trong nước và quốc tế (Trăng nơi đáy

giếng, Chơi vơi…).

- Thế hệ các nhà làm phim trẻ xuất hiện dần tạo nên dấu ấn của lớp đạo diễn

thời hội nhập bên cạnh thế hệ đạo diễn thời kỳ đổi mới. Các đạo diễn trẻ có

những thử nghiệm đáng ghi nhận với các dòng phim khác nhau: phim nghệ thuật,

phim giải trí, phim độc lập… Tuy nhiên, chưa có sự vững chắc về phong cách

cũng như về xu hướng sáng tác của các đạo diễn trẻ.

- Bên cạnh các đạo diễn trẻ trong nước, sự xuất hiện đồng thời và liên tục

của các đạo diễn Việt kiều đã làm cho điện ảnh VN có những mầu sắc mới. Trong

vài năm trở lại đây, phim của các đạo diễn Việt kiều chiếm tỉ lệ cao ở rạp chiếu

phim, nhiều phim thương mại doanh thu cao bên cạnh một số phim được đánh giá

khá cao về nghề nghiệp. Ưu điểm của họ là tay nghề, kỹ thuật, thủ pháp hấp dẫn

khán giả nhưng nhược điểm là phim chưa đủ sâu sắc về ý tưởng do họ còn thiếu

vốn sống Việt Nam.

- Hệ thống văn bản pháp quy về điện ảnh dần hoàn thiện: Luật Điện ảnh số

62/2006/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số

31/2009/QH12; Nghị định số 54/2010/NĐ-CP ngày 21/5/2010 của Chính Phủ quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện ảnh số số 62/2006/QH11 và Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh số 31/2009/QH12. Các văn bản

này tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điện ảnh, thể hiện một số chính sách về

sản xuất, phát hành phổ biến phim…

1.3. Yếu kém, bất cập và nguyên nhân:

- Các cơ sở điện ảnh nhà nước trì trệ, hoạt động kém hiệu quả, đội ngũ có

nguy cơ tan rã vì các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, các hãng phim nhà nước vẫn đầy rẫy khó khăn, lúng túng trong

điều hành và trì trệ trong hoạt động. Mặc dù không còn chế độ làm phim bao cấp

từ lâu, nhưng đại đa số phim của các hãng làm ra, từ nguồn này hay nguồn khác,

đều là phim đặt hàng hoặc tài trợ của nhà nước. Tuy nhiên, hầu như không có bộ

phim nào được hoàn thành đúng hạn, nhiều phim chậm đến 2 năm hoặc lâu hơn

nên cần có những quy định rõ ràng hợp lý hơn để thay đổi từ phương thức và mức

độ đầu tư, cách quản lý điều hành, cách phân cấp trách nhiệm, đồng thời xác định

rõ trách nhiệm và ý thức của những người trực tiếp tham gia sáng tác và sản xuất

phim, những người nghệ sĩ.

Thứ hai, nhiều nghệ sĩ từ các hãng phim của nhà nước tỏ ra bi quan và chán

nản vì điện ảnh chưa được Nhà nước quan tâm thỏa đáng. Năm 2012 không có

kinh phí nhà nước đầu tư cho phim truyện; đời sống của văn nghệ sĩ nói chung

Page 45: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

42

khó khăn (bậc lương tối thiểu của nghệ sĩ có nơi chỉ đạt 650.000đ!). Nghệ phải tự

“bươn chải”, tìm việc làm ở các dài truyền hình (làm phim truyển hình nhiều tập)

hoặc các công ty tư nhân (phim giải trí, quảng cáo…) nên nhiều người tay nghề đi

xuống, quay lại làm phim điện ảnh không đạt chất lượng cao.

Thứ ba, mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của các cơ sở điện ảnh chưa

theo một hệ thống nhất quán: công ty cổ phần hay công ty TNHH MTV… rất khó

cho điều hành chung.

Thứ tư, việc quảng bá cho những phim được Nhà nước đặt hàng hoặc tài

trợ sản xuất vẫn quá mờ nhạt, yếu kém. Trong khi đó, tất cả các phim do tư nhân

đầu tư sản xuất đều có chiến dịch quảng cáo chu đáo và rầm rộ, bao trùm từ trước

khi phim bắt đầu được thực hiện cho đến khi phim phát hành ra rạp. Sự chênh

lệch về tuyên truyền, quảng bá, tiếp thị giữa phim tư nhân và phim nhà nước như

vẫn tồn tại lâu nay khiến không ít người tưởng rằng điện ảnh Việt Nam chuyển

hẳn sang “điện ảnh giải trí, thương mại, phục vụ tuổi teen”. Còn sự tuyên truyền

quá đáng cho những phim giải trí, “sành điệu” theo chuẩn ngoại quốc cũng phần

nào làm lệch chuẩn giá trị và gu thẩm mĩ của tầng lớp khán giả- thượng đế đông

đảo nhất là giới trẻ. Bởi vậy, cần một sự điều chỉnh của các cơ quan chức năng

cho việc đầu tư kinh phí và công sức thỏa đáng để quảng bá, tuyên truyền cho các

phim có giá trị, phim do nhà nước đặt hàng- tài trợ, đồng thời cần sự đúng mực và

công bằng của công luận để không có những bài “lăng sê” quá đáng cho các phim

thương mại rẻ tiền.

- Nhiều hãng phim tư nhân chạy theo thị hiếu một bộ phận khán giả, sản

xuất các phim “câu khách” dễ dãi, “hài nhảm”, hành động giải trí đơn thuần…

với mục đích thu lãi lớn.

Nhiều phim chỉ nhằm tận thu trong dịp Tết, lễ rồi “bỏ đi”. Qua khảo sát về

độ tuổi xem phim thì hầu hết khán giả đến rạp tại những thành phố lớn ở độ tuổi

từ 15 đến 35 (khoảng gần 70%) dẫn đến tình trạng khán giả trẻ chỉ thích xem các

phim giải trí - thậm chí phim “tầm phào”, hài tình huống, “chọc cười” lại thu hút

đông khán giả hơn các phim có giá trị, thậm chí các phim chính thống của Việt

Nam bị khán giả quay lưng.

- Việc tuân thủ cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO dẫn đến

không có hạn ngạch nhập phim dẫn đến nguy cơ xâm lấn của phim nhập ngày

càng cao. Qua khảo sát, thấy nhiều khán giả chỉ thích xem phim ngoại, nhất là

phim Mỹ. Tỷ lệ phim Mỹ chiếu rạp áp đảo phim Việt (70% phim chiếu rạp). Điều

này dẫn đến những thách thức rất khó vượt qua trong việc sản xuất và phổ biến

phim “nội”, nghĩa là khó bảo vệ nền Điện ảnh dân tộc. Mặt khác, các công ty

nước ngoài, liên doanh chỉ hoạt động ở các thành phố lớn (Hà Nội, Tp HCM, tiếp

đến là Hải Phòng, Đà Nẵng) nên khán giả ở các địa phương, đặc biệt là vùng

nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới hải đảo… không có điều kiện

được thưởng thức các tác phẩm điện ảnh.

- Điện ảnh ở địa phương tồn tại khó khăn, hệ thống rạp ở các tỉnh lạc hậu

và xuống cấp.

Page 46: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

43

Trang thiết bị và cơ sở vật chất của hầu hết các rạp địa phương đều cũ, lạc

hậu với thiết bị chiếu phim nhựa là chủ yếu, tiến tới khó có thể hoạt động khi cả

thế giới chuyển sang rạp kỹ thuật số. Hiện tại hầu hết rạp do nhà nước quản lý

doanh thu không đủ bù chi phí.. Nguồn phim hạn chế và bị động, phụ thuộc vào

các công ty tư nhân và nước ngoài. Nhiều trung tâm điện ảnh đã bị “xóa sổ” để

sáp nhập vào trung tâm văn hóa.

- Hạn chế trong đào tạo, phát triển nguồn lực và phát hiện- bồi dưỡng

nhân tài

Tuy có 2 trường Đại học Sân khấu Điện ảnh nhưng hiệu quả đào tạo không

cao do đầu vào yếu, mô hình đào tạo cũ, giáo trình không đầy đủ và đồng bộ, lực

lượng giảng viên thiếu, không chuyên nghiệp do thỉnh giảng nhiều… Nguồn lực

cung cấp cho điện ảnh chất lượng không cao, chưa thấy những biện pháp hữu ích

phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.

Hơn nữa, các nhà làm phim trẻ dường như có sự phân tán trong sáng tác,

lúng túng trong lựa chọn hướng đi và chưa thực sự hết lòng và tâm huyết với

nghề vì còn mải chạy theo “tiền tươi thóc thật” khi làm phim truyền hình dài tập

hoặc phim thương mại giải trí.

- Việc thực thi Luật Điện ảnh và các văn bản dưới Luật:

Luật Điện ảnh và Nghị định 54 xác định: “Đầu tư xây dựng, cải tạo, trang

thiết bị hiện đại, máy chiếu phim âm thanh lập thể cho rạp chiếu phim. Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các Bộ, ngành lập đề án phát triển quy mô

sản xuất phim và phổ biến phim để phim Việt Nam đạt ít nhất 30% trong tổng số

phim chiếu tại rạp và đạt ít nhất 40% trong tổng số phim phát sóng trên hệ thống

truyền hình”.

Bên cạnh đó, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện ảnh:

“Doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp xây dựng rạp chiếu phim để kinh doanh phổ

biến phim hoặc xây dựng công trình hoạt động điện ảnh khác được Nhà nước

giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Cơ sở điện ảnh được

miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy

định của pháp luật. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có

trách nhiệm điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của địa phương, ưu tiên dành quỹ

đất cho cơ sở điện ảnh; có chính sách, chế độ ưu đãi khuyến khích tổ chức, cá

nhân. Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch khu đô thị, khu dân cư phải

dành quỹ đất để xây dựng rạp chiếu phim ở vị trí trung tâm và tỷ lệ xây dựng rạp

phù hợp với quy mô phát triển dân số. Cơ sở điện ảnh xây dựng rạp chiếu phim

được hưởng chính sách ưu đãi…”

Tuy nhiên, Luật Điện ảnh và các văn bản dưới luật chưa đi vào cuộc sống.

Luật, Nghị định đã có từ mấy năm, tuy nhiên, một số văn bản quan trọng chưa

được ban hành (Thông tư đấu thầu sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhác

nước; Đề án Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh) nên định hướng của nhà nước chưa

phát huy được tác dụng, từ năm 2012 đến nay: vẫn còn ách tắc trong sản xuất

Page 47: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

44

phim nhà nước. Mặt khác, việc đưa Luật và các văn bản dưới Luật vào cuộc sống

còn có những hạn chế, nhất là việc triển khai Luật tới các địa phương.

II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐIỆN ẢNH:

2.1. Về quản lý nhà nước: xác định vai trò và định hướng của Nhà nước

trong phát triển sự nghiệp điện ảnh trên nguyên tắc khuyến khích xã hội hóa

những gì tư nhân không làm được thì cơ quan nhà nước sẽ chỉ đạo và triển

khai làm với sự đầu tư thỏa đáng

- Nhà nước chỉ đạo, đầu tư sản xuất các tác phẩm chính thống, giàu tính

nhân văn và điều tiết việc chiếu phim phục vụ nhiệm vụ chính trị, phim về đề tài

thiếu nhi, truyền thống lịch sử, dân tộc thiểu số, phim có giá trị tư tưởng và nghệ

thuật cao (thông qua việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện Thông tư

biên Bộ Văn hóa, Thế thao và Du lịch – Tài chính hướng dẫn việc đấu thấu và đặt

hàng sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhà nước). Quỹ hỗ trợ phát triển điện

ảnh Việt Nam khi được thành lập sẽ thưởng cho các tác phẩm có giá trị nội dung

và nghệ thuật, tài trợ để khuyến khích các bộ phim nghệ thuật, phim tác giả, phim

của đạo diễn trẻ tài năng… Đồng thời có cơ chế để thông qua Quỹ, thiết lập cơ

chế cơ chế để doanh thu điện ảnh quay lại tái đầu tư cho điện ảnh.

- Ở địa phương: Củng cố trung tâm điện ảnh ở tất cả các tỉnh, thành theo

một mô hình, cơ chế thông nhất: đơn vị sự nghiệp có thu. Phát huy chiếu bóng

lưu động (chế độ, chính sách, biên chế, phương tiện…)

2.2. Củng cố đội ngũ, nguồn nhân lực điện ảnh

- Đào tạo chính quy tại các trường đại học điện ảnh theo hướng chuyên

nghiệp và hiện đại. Mở khoa điện ảnh hoặc ngành điện ảnh tại một số trường đại

học tổng hợp theo hướng vừa nâng cao văn hóa điện ảnh, vừa tiếp cận với điện

ảnh chuyên nghiệp.

- Đào tạo lại- nâng cao tay nghề, nghiệp vụ ở các khu vực sáng tác, quản lý

sản xuất, kỹ thuật, tiếp thị… Đây là giải pháp quan trọng, nhất là mở các lớp đào

tạo ngắn hạn với chuyên gia nước ngoài và Việt Nam.

- Phát hiện và bồi dưỡng tài năng điện ảnh để: bồi dưỡng trong nước; cử đi

đào tạo ở nước ngoài… Trại sáng tác tài năng tại LHPQT Hà Nội lần thứ II là

một mô hình rất thành công để phát hiện và bồi dưỡng tài năng, vì vậy, nên mở

định kỳ Trại sáng tác này đồng thời với việc mở các khóa ngắn hạn hàng năm cho

các tài năng trẻ theo dạng nâng cao trình độ và nâng cao chất lượng học viên với

các giáo sư, chuyên gia nổi tiếng từ các nền điện ảnh phát triển.

2.3. Nâng cao năng lực quản lý ngành

- Quản lý nhà nước về điện ảnh ở cả trung ương và địa phương trong sản

xuất, phổ biến và kinh doanh điện ảnh.

- Thực thi đúng, đủ và hiệu quả Luật Điện ảnh, các văn bản dưới luật và các

quy định khác của pháp luật về điện ảnh trong các hoạt động điện ảnh, đưa pháp

luật đi vào cuộc sống.

Page 48: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

45

- Kiểm tra, thanh tra, xử phạt, khen thưởng

2.4. Xây dựng cơ sở kỹ thuật đồng bộ và đổi mới công nghệ điện ảnh

- Tìm bước đi chuẩn xác, đúng hướng để tận dụng, kết hợp và thay thế hợp

lý từ cơ sở vật chất kỹ thuật cũ sang công nghệ mới, thay thế thiết bị sản xuất và

chiếu phim nhựa sang thiết bị số chất lượng cao và phù hợp với thế giới.

- Đầu tư hệ thống thiết bị công nghệ số trong sản xuất phim và hệ thống rạp

chiếu phim (trung ương và địa phương), trong bảo quản và lưu trữ phim và các

lĩnh vực hoạt động khác của điện ảnh.

- Đầu tư cho hệ thống trường quay nội, trường quay ngoại đạt tiêu chuẩn từ

nhiều nguồn vốn.

2.5. Phát triển điện ảnh trên cơ sở mối quan hệ liên hoàn giữa sáng tác-

sản xuất- phổ biến phim

- Phát triển điện ảnh theo hướng chuyên nghiệp và đồng bộ để phục vụ tốt

nhiệm vụ chính trị, bồi dưỡng nhân cách và thẩm mỹ đồng thời đáp ứng nhu cầu

giải trí lành mạnh của khán giả.

- Thiết lập chuẩn giá trị cho tác phẩm điện ảnh thông qua các kỳ trao giải

thưởng, Liên hoan phim quốc gia, Liên hoan phim quốc tế Hà Nội.

- Triển khai tốt mối quan hệ hợp tác, gắn bó, hỗ trợ nhau cùng phát triển

giữa điện ảnh và truyền hình: nâng cao quản lý nhà nước đối với phim trên truyền

hình, tăng cường tuyên truyền điện ảnh trên truyền hình, hợp tác trong sản xuất

phim; hợp tác trong phổ biến phim thông qua việc xây dựng khung giờ chiếu

phim điện ảnh trên truyền hình… (thông qua biên bản ghi nhớ giữa Bộ Văn hóa,

Thế thao và Du lịch và Đài Truyền hình Việt Nam về điện ảnh- truyền hình).

- Xây dựng mối quan hệ hợp tác, gắn bó, hỗ trợ nhau cùng phát triển giữa

điện ảnh và báo chí- truyền thông.

2.6. Tạo lập vị trí của điện ảnh Việt Nam trong khu vực và trên thế giới

- Đưa phim Việt Nam ra thế giới ở 3 cấp độ:

+ Tham dự các Tuần phim Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Nam, các sự kiện

văn hóa nghệ thuật theo thỏa thuận, hiệp định, quan hệ ngoại giao… (phim đáp

ứng yêu cầu đối ngoại)

+ Tham dự các Liên hoan Phim quốc tế (phim có giá trị nghệ thuật và có tìm

tòi mới mẻ).

+ Thiết lập thị trường điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài (phim có giá trị

thương mại, giá trị nhân văn).

- Giới thiệu phim xuất sắc, có giá trị của nước ngoài tại Việt Nam.

- Xây dựng thương hiệu LHPQT Hà Nội thành một trong những LHPQT có

uy tín trong khu vực, thông qua đó đẩy mạnh hội nhập điện ảnh đồng thời quảng

bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới và tìm cơ hội hợp tác, phát triển điện ảnh.

Page 49: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

46

- Hợp tác, liên doanh làm phim với nước ngoài nhằm tăng nguồn thu đồng

thời tận dụng cơ hội học tập kinh nghiệm nghề nghiệp và kỹ thuật quốc tế để phát

triển điện ảnh Việt Nam.

I. KẾT LUẬN

Trên đây là những đánh giá sơ bộ về tình hình điện ảnh Việt Nam trong 5

năm triển khai thự hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị và những kiến

nghị để phát triển điện ảnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo chúng tôi có 2 giải

pháp quan trọng hàng đầu có thể tiến hành ngay được:

Một là, về phía ngành, việc tập hợp lực lượng, sự đồng tâm hiệp lực giữa các

cơ quan, tổ chức cá nhân làm điện ảnh, giữa các nhà quản lý và nghệ sĩ, giữa Cục

và Hội Điện ảnh, giữa điện ảnh nhà nước và tư nhân, giữa trung ương và địa

phương… Điều này trong hai năm qua Cục Điện ảnh đã dần làm được. Kết quả

tích cực của Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 ở Phú Yên (11/2011), Hội nghị

toàn quốc về Thực trạng và giải pháp đấy mạnh hoạt động phát hành và phổ biến

phim (7/2012), Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ II (11/2012) và Đợt kỷ

niệm 60 năm Bác Hồ ký Sắc lệnh thành lập Ngành Điện ảnh Cách mạng Việt

Nam đã chứng tỏ điều này.

Hai là, sự quan tâm thích đáng của Nhà nước đối với điện ảnh như một loại

hình nghệ thuật và công nghiệp văn hóa quan trọng. Điều này thể hiện trong

chính sách và nguồn kinh phí đầu tư, cơ chế khuyến khích sáng tác…, tất cả đang

nằm trong những văn bản, đề án cụ thể đang chờ được thông qua để sớm đưa vào

thực hiện (Thông tư đấu thầu sản xuất phim, Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh…).

Page 50: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

47

NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN VIỆT NAM SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ:

NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN, TỒN TẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP

KIẾN NGHỊ

Nhạc sỹ Đào Đăng Hoàn

Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn

Bộ Văn hóa, Thẻ thao và Du lịch

I. ĐÁNH GIÁ CHUNG

Trong lịch sử lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá của Đảng

Cộng sản Việt Nam cho đến nay đã để lại 3 mốc quan trọng, đó là những bước

ngoặt trong chiến lược lãnh đạo văn hoá, văn nghệ của Đảng ta.

Thứ nhất, Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943;

Thứ hai, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998;

Thứ ba, nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và

của đội ngũ văn nghệ sĩ, ngày 16 tháng 6 năm 2008 Bộ chính trị đã ban hành

Nghị quyết số 23-NQ/TW về việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ

thuật trong thời kỳ mới. Có thể nói, Nghị quyết số 23-NQ/TW ra đời có ý nghĩa hết

sức quan trọng trong việc phát triển văn học nghệ thuật dân tộc cho mọi chiến lược

phát triển và hoạt động văn học, nghệ thuật Việt Nam nói chung, ngành Nghệ thuật

biểu diễn nói riêng trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước.

Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Đảng dưới sự chỉ đạọ của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch, ngành Nghệ thuật biểu diễn đã tích cực chủ động phối

kết hợp với Hội văn học Nghệ thuật trung ương và địa phương, các Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch các tỉnh thành phố trong cả nước triển khai quyết liệt và đồng

bộ để thể chế hóa Nghị quyết một cách hiệu quả, thực sự đưa NQ vào đời sống

văn học nghệ thuật trong cả nước. Đặc biệt, là ngành Nghệ thuật biểu diễn đã có

những bước chuyển mình cụ thể như sau:

Ngày 01 tháng 3 năm 2011 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số

316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với

các hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng đối với

các tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các

hoạt động văn học, nghệ thuật” và đã được ban hành.

Theo đó các mục tiêu đã được xác định rõ ràng:

a) Tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác

phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; phát hiện và khẳng định những giá

trị mới làm phong phú và đa dạng đời sống văn hóa, văn nghệ; góp phần xây

dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Page 51: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

48

b) Từng bước hoàn thiện khung pháp lý đối với việc tài trợ, đặt hàng và

khuyến khích sáng tác trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

c) Xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp, bình đẳng đối với văn nghệ sĩ

trong các cơ sở công lập và ngoài công lập, bảo đảm cho văn nghệ sĩ tạo ra các

tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng; thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã

hội hóa của Đảng và Nhà nước.

d) Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đặc biệt với nhân tài của

đất nước trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

đ) Tôn trọng, phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động sáng tạo văn

học nghệ thuật, nghiên cứu, sưu tầm để tạo ra các sản phẩm văn học, công trình nghệ

thuật, gắn liền với phát huy trách nhiệm công dân của trí thức, văn nghệ sỹ.

e) Củng cố, đẩy mạnh hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung

ương và địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, phát huy tiềm năng sáng

tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sỹ trong cả nước.

II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

Trong gần 5 năm qua, các chính sách của Đảng, Nhà nước đã tác động tích

cực đến Sự nghiệp phát triển Văn học nhệ thuật nói chung, lĩnh vực Nghệ thuật

biểu diễn nói riêng. Căn cứ vào những chính sách đã ban hành, các cơ quan quản

lý nhà nước ở Trung ương, địa phương đã triển khai và có những biện pháp đầu

tư cơ bản cho 128 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp ở Trung ương, địa phương và

lực lượng vũ trang.

Hầu hết các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp đều đã có trụ sở làm việc

riêng, có nơi luyện tập cho các nghệ sỹ để cùng nhau sáng tạo ra những tác phẩm

văn học nghệ thuật, đáp ứng sự đòi hỏi của xã hội, nâng cao đời sống và nhu cầu

hưởng thụ của nhân dân. Chính sách của Nhà nước đã hỗ trợ toàn diện cho các

đơn vị nghệ thuật công lập mua sắm trang thiết bị âm thanh, ánh sáng, phương

tiện đi lại và nhiều thiết bị vật tư khác phục vụ cho công tác dàn dựng tác phẩm,

quảng bá tác phẩm tới công chúng.

Một số nhà hát ở trung ương và địa phương đã được đầu tư tài chính để xây

dựng rạp biểu diễn cố định, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị ổn định về cơ

sở vật chất, thường xuyên biểu diễn tại những nhà hát (rạp) sẵn có để phục vụ

nhân dân, góp phần tích cực vào công tác bảo tồn, lưu giữ, phát huy các giá trị

của nghệ thật truyền thống, từng bước tiếp thu những tinh hoa nền nghệ thuật tiên

tiến của nhân loại nhằm xây dựng nền nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc.

Các chính sách đầu tư của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực Nghệ thuật biểu

diễn đã tạo sự cởi mở, mang tính chủ động cho các đơn vị nghệ thuật. Các đơn vị

nghệ thuật công lập đều được xếp là đơn vị sự nghiệp có thu, quản lý theo cơ chế

gán thu, bù chi, được nhà nước tài trợ chênh lệch. Sự tài trợ của nhà nước trong điều

kiện hỗ trợ nghệ thuật biểu diễn phát triển theo định hướng, giữ vững chất lượng,

phát huy tính chủ động, sáng tạo của tập thể và cá nhân nghệ sỹ.

Page 52: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

49

Hệ thống các đơn vị nghệ thuật trong cả nước đã được quy hoạch theo

hướng tinh giản đầu mối, đầu tư phát triển chiều sâu cho các loại hình nghệ thuạt

truyền thống; khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia dưới

mọi hình thức để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.

Nhà nước đã đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống đào tạo nghệ thuật trong

cả nước hiện nay khá khang trang, có đủ phương tiện, thiết bị kỹ thuật, máy móc

phục vụ công tác giảng dạy, học tập cho sinh viên theo học nghệ thuật; có chế độ

ưu đãi cho sinh viên theo học các chuyên ngành nghệ thuật truyền thống Tuồng,

Chèo, Cải lương và những loại hình nghệ thuật mang tính đặc thù như Xiếc,

Múa…Sự đầu tư đồng bộ cho hệ thống các trường đào tạo nghệ thuật là nền tảng

cơ bản cho các đơn vị nghệ thuật trong toàn quốc.

Cụ thể, hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đã được ban

hành nhằm nâng cao vai trò quản lý và phát triển sự nghiệp đối với ngành Nghệ

thuật biểu diễn.

Ngày 14 tháng 03 năm 2011 Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định số

369/QĐ-TTg Phê duyệt“Đề án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công

trình văn học nghệ thuật, báo chí ở Trung ương và các Hội Văn học nghệ thuật

địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở các Hội Nhà báo địa phương giai đoạn 2011 - 2015”.

Ngày 01 tháng 6 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định

số 844/QĐ-TTg về việc “Đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật có

giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước giai đoạn

1930-1975”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Cục Nghệ thuật biểu diễn chủ

trì, triển khai thực hiện Quyết định trên về việc đặt hàng sáng tác các tác phẩm

ngành Nghệ thuật biểu diễn.

Ngày 27 tháng 7 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định

số 1270/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu

số Việt Nam đến năm 2020”. Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Cục

Nghệ thuật biểu diễn phối hợp với Vụ Văn hóa dân tộc triển khai dự án thành

phần với nhiệm vụ trọng tâm là “giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật

biểu diễn truyền thống các dân tộc thiểu số; sưu tầm, phục hồi và phát triển một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền”.

Ngày 09 tháng 01 năm 2013, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết

định số 88/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới

các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ

thuật) giai đoạn 2012 - 2020” nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống các công

trình văn hóa, đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân

dân, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam.

Ngày 18 tháng 12 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định

số 2406/QĐ-TTg Ban hành Danh mục các Chương trình mục tiêu quốc gia giai

đoạn 2012 - 2015, Trong đó, Dự án 5: Đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật

Page 53: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

50

truyền thống thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Văn hóa được Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch giao Cục Nghệ thuật biểu diễn triển khai thực hiện.

Ngày 05 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định

số 1211/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn

2012-2015 với Mục tiêu phát triển nghệ thuật truyền thống: Xây dựng mới 07

Trung tâm nghệ thuật biểu diễn nghệ thuật truyền thống tại một số vùng tiêu biểu;

trang bị cho các Trung tâm nghệ thuật biểu diễn truyền thống 10 xe ôtô ca chuyên

dụng chở diễn viên, 10 xe ôtô tải chuyên dụng chở trang thiết bị, 10 máy phát

điện công suất từ 20 KVAđến 30 KWA và một số thiết bị âm thanh, ánh sáng,

nhạc cụ, đạo cụ, trang phục chuyên dụng; đầu tư xây dựng 30 chương trình nghệ

thuật biểu diễn truyền thống cho các đơn vị công lập, 10 chương trình cho các

đơn vị ngoài công lập; xây dựng 60 chương trình phát trên sóng Truyền hình

chuyên mục: “Trò chuyện về Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Việt Nam” nhằm

giới thiệu và quảng bá tới đông đảo khán giả trong nước và quốc tế; tổ chức 40

đợt tập huấn về nghệ thuật biểu diễn truyền thống cho các đơn vị công lập và

ngoài công lập; tiếp tục đầu tư cho dự án “Sân khấu học đường” giai đoạn 2012 -

2015, thực hiện mỗi năm 06 chương trình ở các địa phương khác nhau.

Ngày 17 tháng 01 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã

ký Quyết định số 285/QĐ-BVHTTDL phê duyệt “Đề án tổ chức các Cuộc thi, Liên

hoan nghệ thuật Sân khấu và Ca múa nhạc chuyên nghiệp giai đoạn 2012 đến năm

2020, tầm nhìn 2030” nhằm tạo sự ổn định và phát triển bền vững trong quá trình

lao động sáng tạo nghệ thuật cho tất cả các đơn vị nghệ thuật trong và ngoài công lập

trên phạm vi toàn quốc. Đây là cơ sở để các đơn vị nghệ thuật chủ động chuẩn bị

nhân lực, tài chính, tác phẩm, phương thức hoạt động, phương pháp sáng tạo cho

phù hợp với tình hình thực tế của từng đơn vị. Các Cuộc thi, liên hoan nghệ thuật

chuyên nghiệp là một hoạt động mang ý nghĩa lớn, giúp cho các nhà quản lý nghệ

thuật, các đơn vị, các nghệ sỹ đánh giá, tổng kết kết quả hoạt động của từng loại hình

trong một thời gian dài; từ đó tìm ra phương hướng hoạt động, định hướng sáng tạo

để có nhiều tác phẩm đạt chất lượng cao phục vụ nhân dân. Các hoạt động này còn

tôn vinh các tập thể, các cá nhân đã có nhiều cống hiến trong quá trình lao động sáng

tạo nghệ thuật; là dịp để các nghệ sỹ giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau

nhằm nâng cao chất lượng tác phẩm.

Ngày 05 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số

79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người

đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu

gồm 5 chương 31 điều và có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Nghị định ra đời được

xem là biện pháp mạnh tay để chấn chỉnh các hoạt động biểu diễn, giải quyết nạn hát

nhép, ăn mặc phản cảm, vi phạm cấp phép biểu diễn đã diễn ra quá nhiều và gây bức

xúc trong dư luận thời gian qua. Đây là văn bản quy phạm pháp luật mang tính pháp

lý cao nhất về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở thời điểm hiện tại để định hướng, điều

chỉnh các hoạt động nghệ thuật biểu diễn.

Bên cạnh đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đầu tư kinh phí tổ chức

nhiều Liên hoan quốc tế tại Việt Nam nhằm giao lưu trao đổi Văn hóa, tiếp thu

những thành tựu của bạn bè quốc tế về nghệ thuật biểu diễn, giới thiệu các giá trị

Page 54: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

51

độc đáo của nghệ thuật Việt Nam tới cộng đồng quốc tế và nâng cao nhu cầu

hưởng thụ nghệ thuật của khán giải trong nước.

Các chính sách của Đảng và nhà nước bước đầu đã thu hút nhiều nguồn lực

xã hội tham gia các hoạt động sáng tạo và quảng bá tác phẩm trong lĩnh vực nghệ

thuật biểu diễn, thúc đẩy tiến trình xã hội hóa, hoạt động nghệ thuật.

Ngày 18 tháng 02 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

số 321/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về du lịch

giai đoạn 2013-2020. Trong đó, việc phát huy các loại hình nghệ thuật truyền

thống vừa thúc đẩy hoạt động biểu diễn, giới thiệu các giá trị văn hóa đặc sắc

vùng miền đến với du khách, vừa quảng bá du lịch, hỗ trợ xây dựng thương hiệu

cho các hoại hình du lịch tiêu biểu gắn với các địa phương, doanh nghiệp.

Hiện nay, nhằm tăng cường công tác quản lý và phát triển sự nghiệp, Cục

Nghệ thuật biểu diễn đã và đang triển khai xây dựng các Quy chế như:

- Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng nghệ thuật ngành Nghệ thuật

biểu diễn;

- Chương trình phối hợp hoạt động giữa Cục Nghệ thuật biểu diễn với Hội

văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương (Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam,

Hội Nhạc sỹ Việt Nam, Hội Nghệ sỹ Múa Việt Nam);

- Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo các cuộc thi, liên hoan nghệ thuật

chuyên nghiệp;

- Quy chế hoạt động của Ban Tổ chức các cuộc thi, liên hoan nghệ thuật

chuyên nghiệp.

III. NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI

Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nghệ thuật biểu diễn sân khấu và biểu diễn

ca múa nhạc là loại hình đặc biệt của hoạt động văn hoá, là lao động sáng tạo của

nghệ sỹ phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Trong những năm qua, tình

hình ngân sách Nhà nước có nhiều khó khăn, cùng với việc chuyển cơ chế bao

cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chính sách tài trợ của ngân sách

Nhà nước cho các đơn vị nghệ thuật chưa được hướng dẫn thống nhất, mỗi nơi

tiến hành một cách, nhiều đơn vị nghệ thuật chưa quan tâm đúng mức tới chất

lượng nghệ thuật, chạy theo thị hiếu tầm thường để doanh thu, các loại hình nghệ

thuật truyền thống bị sa sút nghiêm trọng.

* Về đầu tư cơ sở hạ tầng và các thiết chế

Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch

phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến 2010 đã đưa ra kế hoạch “cải tạo,

nâng cấp các rạp hát hiện có, đồng thời xây dựng mới một số nhà hát, trung tâm

văn hoá... Năm 2010 phấn đấu 100% các đơn vị nghệ thuật có sàn tập đủ điều

kiện luyện tập và dàn dựng tác phẩm” và đưa ra một danh mục các nhà hát sẽ

được xây dựng đến năm 2010. Tuy nhiên, hiện nay, chỉ có một số nhà hát được

nâng cấp, cải tạo như Rạp hát Hồng Hà giao cho Nhà hát Tuồng Việt Nam, Rạp

Page 55: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

52

Kim Mã giao cho Nhà hát Chèo Việt Nam; Rạp Công nhân giao cho Nhà hát

Kịch Hà Nội, 01 nhà hát được xây dựng mới là Trung tâm nghệ thuật Âu Cơ -

Nhà hát Ca, Múa, Nhạc Việt Nam, 01 nhà hát chuẩn bị khởi công xây dựng mới

là Nhà hát Ca, múa, nhạc dân gian Việt Bắc tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái

Nguyên.

Hiện cả nước có 128 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, hơn 200 đoàn nghệ

thuật xã hội hoá, hơn 41.000 đội văn nghệ cấp xã, phường, hàng trăm đội thông

tin tuyên truyền, chưa kể hơn 150 câu lạc bộ nghệ thuật tư nhân. Nhưng hiện nay

mới chỉ có gần 130 điểm biểu diễn nghệ thuật có mái che bao gồm nhà hát, rạp

hát, trung tâm văn hoá, cung văn hoá tập trung tại các thành phố lớn và chủ yếu

có từ thời Pháp. Nhiều tỉnh chưa có nhà hát, hoạt động Nghệ thuật biểu diễn được

thực hiện tại các nhà văn hóa. Tại không ít tỉnh, thành phố, thiết chế văn hoá ở

các vị trí đắc địa, trong đó có nhà hát, còn bị bán hoặc bị chuyển đổi mục đích sử

dụng. Một số rạp hát, trung tâm văn hoá mới xây ở xa trung tâm dân cư, không

tiện đường giao thông nên hiệu quả hoạt động Nghệ thuật biểu diễn không cao,

trong khi những địa điểm đẹp thường được dành để xây dựng nhà hàng, khách

sạn. Tại Hà Nội, trong số 12 đơn vị Nghệ thuật biểu diễn trung ương chỉ có 3 nhà

hát ở mặt tiền phố lớn, đi lại thuận tiện; còn lại, nếu đơn vị có rạp thì hầu như đều

nằm trong ngõ hẹp. Hầu hết các khu đô thị mới không có một công trình văn hóa

nào. Các nhà văn hóa, trung tâm văn hóa có thể dùng Biểu diễn nghệ thuật phần

lớn được xây dựng với chức năng hội trường, vì vậy sân khấu, âm thanh, ánh

sáng,… không được thiết kế phù hợp với hoạt động Nghệ thuật biểu diễn.

Về trang thiết bị, những năm gần đây, một số địa phương đã quan tâm đầu tư

cho các đoàn nghệ thuật của mình, nhưng nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này

còn rất hạn chế; các đơn vị Nghệ thuật biểu diễn công lập phải thường xuyên đối mặt

với tình trạng thiết bị âm thanh, ánh sáng, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho luyện

tập và biểu diễn thiếu thốn, cũ kỹ, lạc hậu. Một số nhà hát, cơ sở biểu diễn tuy được

sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị nhưng chất lượng không đáp ứng yêu cầu, hiệu

quả sử dụng không cao do không có chỗ lắp đặt, thiết bị máy móc chắp vá, không

đồng bộ, kỹ thuật viên sử dụng thiết bị âm thanh ánh sáng không được đào tạo

đúng chuyên ngành, ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật và không đáp ứng

được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của nhân dân.

* Chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp nghề và bồi dưỡng luyện tập

biểu diễn

Với đặc thù của lĩnh vực nghệ thuật, mọi sáng tạo đều mang dấu ấn riêng

của cá nhân. Các chế độ, chính sách đối với nghệ sĩ lại đang mang tính cào bằng,

không chú ý đến đặc thù của người lao động nghệ thuật. Vì vậy, không động viên

được sức sáng tạo của người nghệ sĩ.

+ Chính sách tiền lương

Hiện nay, theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính

phủ Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ

trang, trong đó thang lương của người hoạt động Nghệ thuật biểu diễn gồm ba

hạng (hạng I, hạng II, hạng III) với 26 bậc, nhưng tiêu chí cụ thể để xếp ngạch

Page 56: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

53

lương theo hạng cho diễn viên thì chưa được ban hành cụ thể. Theo quy định của

Bộ Nội vụ, việc nâng ngạch từ hạng III lên hạng II phải qua kỳ thi nâng ngạch

như viên chức ngành nghề khác. Nhưng nhiều năm qua, việc tổ chức thi nâng

ngạch cho ngành Nghệ thuật biểu diễn không được thực hiện. Nhiều nghệ sỹ

được Nhà nước đánh giá, công nhận và phong tặng các danh hiệu cao quý hiện

đang hoạt động hiệu quả trong các đơn vị nghệ thuật trung ương và địa phương đã

vượt khung lương diễn viên hạng III từ 15 năm tới 19 năm nay vẫn không có cơ

hội được xét hoặc thi nâng chuyển ngạch bậc...

+ Chế độ phụ cấp nghề và bồi dưỡng luyện tập biểu diễn

Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày 09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ

về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật

ngành Văn hóa-Thông tin và Thông tư liên tịch số 94/2006/TTLT/ BVHTT-BNV-

BTC ngày 01/12/2006 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg ngày

09/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ thì chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và bồi

dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật (diễn viên) trong các đơn vị nghệ thuật

của nhà nước thuộc ngành văn hoá, mức phụ cấp nghề nghiệp tùy theo loại hình

nghệ thuật đối với nghệ sĩ là 15% hoặc 20% lương cơ bản; bồi dưỡng luyện tập từ

10.000đ - 20.000đ/buổi và bồi dưỡng biểu diễn từ 20.000 đ - 50.000đ/buổi. Với mức

hưởng phụ cấp và bồi dưỡng luyện tập trên, các nghệ sỹ muốn gắn bó lâu dài với

nghề phải tìm thêm những công việc khác, nhiều khi không liên quan đến nghệ

thuật để có thể bảo đảm cuộc sống và duy trì nghề nghiệp.

* Chế độ nhuận bút

Chế độ nhuận bút hiện hành được quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ-

CP ngày 11 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số

21/2003/TTLT-BVHTT-BTC ngày 01 tháng 7 năm 2003 của liên tịch Bộ Văn

hóa - Thông tin (trước đây) và Bộ Tài chính hướng dẫn việc chi trả chế độ nhuận

bút, trích lập và sử dụng quỹ nhuận bút đối với một số loại hình tác phẩm.

Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 11/6/2002 của Chính phủ về chế độ

Nhuận bút quy định khung nhuận bút chi trả cho các tác giả trong nhiều lĩnh vực.

Tuy nhiên, một số thành phố lớn, các đoàn nghệ thuật có nguồn thu cao cho rằng

khung nhuận bút trong Nghị định là quá thấp. Nhưng một số tỉnh, các đơn vị

Nghệ thuật biểu diễn của địa phương cho rằng, mức quy định trong Nghị định 61

là cao, ngân sách địa phương không có khả năng chi trả. Cho nên, nhiều đơn vị

Nghệ thuật biểu diễn không áp dụng khung nhuận bút này, mà thực hiện chi trả

nhuận bút theo sự thỏa thuận với tác giả thông qua hợp đồng dân sự.

* Chế độ bảo hiểm xã hội

Do đặc thù hoạt động Nghệ thuật biểu diễn, đối với một số môn nghệ thuật

như xiếc, múa,... nghệ sĩ phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao, dễ xảy ra chấn

thương, tai nạn. Tuy nhiên, mức mua bảo hiểm cho diễn viên thường thấp, khi

xảy ra tai nạn, việc chi trả từ bảo hiểm không cao, không đảm bảo được quyền lợi

của nghệ sĩ.

Page 57: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

54

Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì chỉ thực hiện cho một số lao động

biểu diễn nghệ thuật (các nghệ sỹ) đủ điều kiện theo quy định mới được hưởng lương

hưu. Thực tế, hiện nay có nhiều nghệ sỹ vẫn còn sức khỏe, nhưng không còn khả năng

biểu diễn nghệ thuật, không thể đào tạo lại được, không bố trí được công việc khác,

vẫn còn trong biên chế và hưởng lương lại không thuộc đối tượng hưởng lương hưu

theo quy định vì có tuổi đời: nam từ đủ 50 tuổi đến dưới 55 tuổi, nữ từ đủ trẻ hóa được

đội ngũ, không khuyến khích nghệ sĩ trẻ hăng say sáng tạo.

* Chính sách thẩm định các tác phẩm nghệ thuật

Mức thu phí thẩm định quá thấp, không tương xứng với công sức bỏ ra cho

việc thẩm định, không phù hợp với các mức thu phí trong tương quan các ngành

kinh tế khác, không khuyến khích kịp thời các nhà chuyên môn hoạt động trong

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

- Văn bản ban hành đã được gần 8 năm trong khi tình trạng trượt giá diễn

ra từng ngày, riêng cải cách chế độ tiền lương cho người lao động (mặc dù thất

bại do bão giá) nhưng về con số đơn thuần cũng đã tăng gấp nhiều lần… Các văn

bản trên ban hành đã lâu, khung giá quá cứng nhắc, tình hình trượt giá cho đến

nay đã gấp 3.0 lần so với mức lương cơ bản. Mức thu phí thẩm định quá thấp,

không tương xứng với công sức bỏ ra cho việc thẩm định, không phù hợp với các

mức thu phí trong tương quan các ngành kinh tế khác, không khuyến khích kịp

thời cho các nhà chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực Văn hóa nói chung, Nghệ

thuật biểu diễn nói riêng.

* Chính sách đấu thầu đặt hàng tác phẩm

Các văn bản pháp quy về đấu thầu, đặt hàng hiện nay đã có, nhưng cho đến

thời điểm hiện tại chưa có văn bản nào quy định cụ thể về đấu thầu, đặt hàng

trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật sử dụng ngân sách Nhà nước. Vì vậy, các

hoạt động biểu diễn nghệ thuật không thể tiến hành đấu thầu như yêu cầu của

Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính

phủ ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự

nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước

IV. GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO NGÀNH NGHỆ THUẬT BIỂU

DIỄN TỪ NĂM 2013-2020, TẦM NHÌN 2030

1. Từ năm 2013 - 2015, đề nghị Nhà nước tăng mức đầu tư cho văn hóa nghệ

thuật tương đương với mức đầu tư cho Khoa học - Công nghệ là 2% tổng chi ngân

sách của nhà nước (Ngày 19/06/2012, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số

99/2012/TT-BTC hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước năm 2013.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 4/8/2012. Theo đó, lĩnh vực văn hóa

thông tin đạt tối thiểu 1,8%; lĩnh vực khoa học và công nghệ đạt tối thiểu 2% tổng chi ngân sách Nhà nước... ).

2. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các Văn bản quy phạm pháp luật có tính

pháp lý cao để điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn;

Page 58: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

55

Phấn đấu đến năm 2014 ban hành Pháp lệnh về Nghệ thuật biểu diễn, năm 2020

ban hành Luật Nghệ thuật biểu diễn.

3. Sửa Điều 6 Bộ Luật Lao động và Điều 51 Luật Bảo hiểm xã hội cho

phù hợp với đặc thù của ngành Nghệ thuật biểu diễn để đảm bảo quyền lợi của

người lao động.

4. Tiếp tục xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển ngành Nghệ thuật

biểu diễn; sắp xếp lại các đoàn nghệ thuật công lập trên cả nước; có chính sách cụ

thể hỗ trợ đầu tư tài chính cho các đoàn nghệ thuật truyền thống ở trung ương và

địa phương.

5. Chỉ đạo nghiên cứu để cụ thể hoá chính sách xã hội hóa và đẩy mạnh xã

hội hóa hoạt động Nghệ thuật biểu diễn; ban hành chính sách thuế và đất đai (giao

đất, cho thuê đất) phù hợp để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu

tư cơ sở vật chất và tham gia hoạt động Nghệ thuật biểu diễn.

6. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị cho

ngành Nghệ thuật biểu diễn; nghiêm cấm bán, chuyển đổi mục đích sử dụng đối

với các thiết chế văn hóa hiện đang quản lý và sử dụng.

7. Chỉ đạo các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, chế độ

phù hợp với đặc thù của ngành Nghệ thuật biểu diễn. Trong đó:

- Xem xét, sửa đổi, bổ sung chế độ tiền lương, phụ cấp, thù lao, nhuận bút;

hướng dẫn tổ chức thi, xét nâng ngạch cho diễn viên phù hợp với đặc thù lao

động ngành Nghệ thuật biểu diễn.

- Xem xét, sửa đổi các Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản chỉ đạo liên

quan đến bản quyền cho phù hợp với Luật Sở hữu trí tuệ, nhằm khuyến khích sáng

tạo và đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.

- Có cơ chế tuyển sinh phù hợp với đặc thù của các trường Văn hóa nghệ

thuật; tăng kinh phí đào tạo hợp lý; có chính sách miễn học phí cho học sinh các

bộ môn nghệ thuật truyền thống; có chính sách đưa đi đào tạo nước ngoài một số

ngành nghệ thuật mà Việt Nam chưa đào tạo được.

- Thí điểm việc giao tuyển sinh, đào tạo cho một số đơn vị nghệ thuật trung

ương để có được những diễn viên phù hợp với loại hình nghệ thuật mà đơn vị

đang thiếu nhân lực; bố trí kinh phí trong ngân sách hàng năm cho các đơn vị

nghệ thuật chuyên nghiệp về việc đào tạo, tuyển sinh.

8. Tiếp tục hoàn thiện quy định về trách nhiệm, quyền hạn, quan hệ công

tác cũng như cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước

về văn hóa ở trung ương và địa phương trong quản lý Nghệ thuật biểu diễn;

kiện toàn tổ chức, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh

các sai phạm trong lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn.

Trên đây là bài tham luận: Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam sau 5 năm triển

khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ chính trị, những thành tựu, khó

khăn, tồn tại và những giải pháp kiến nghị của Cục Nghệ thuật biểu diễn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Page 59: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

56

NGÀNH MỸ THUÂT, NHIẾP ẢNH VÀ TRIỂN LÃM

SAU 5 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT SỐ 23- NQ/TW NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ; NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN, TỒN TẠI

VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ

Đoàn Thị Thu Hương

Phó Cục trưởng

Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ-TW ngày 16 tháng 6

năm 2008 của Bộ Chính trị, ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm đã đạt

những những thành tựu đáng khích lệ. Với đặc trưng ngôn ngữ được quốc tế hóa,

Mỹ thuật và Nhiếp ảnh đã hội nhập rất sớm với thế giới, đáp ứng được những đòi

hỏi mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập

quốc tế; tiếp tục triển khai Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị “ Về tiếp tục xây dựng

và phát triển Văn học - Nghệ thuật trong thời kỳ mới”.

I. THÀNH TỰU

Được sự chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo Bộ, trong 5 năm qua, Cục Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và Triển lãm đã khẩn trương triển khai tích cực việc xây dựng các văn

bản quản lý nhà nước, dần dần từng bước hoàn thiện và hình thành hệ thống các

văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm.

Hoàn thành tốt các hoạt động sự nghiệp ở quy mô quốc gia, quốc tế. Phục vụ Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Phục vụ Đại lễ 1000 năm Thăng Long- Hà Nội.

Tổ chức thành công các triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh quy mô toàn quốc. Các

triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh đưa ra nước ngoài như Triển lãm ảnh tại Paris,

New York hay ở Tokyo đều để lại ấn tượng mạnh trong bạn bè quốc tế.

1.1. Về Công tác quản lý nhà nước

Công tác quản lý nhà nước là nhiệm vụ và chức năng quan trọng trong các

lĩnh vực quản lý của Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm cũng như của các Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, thành phố. Chưa bao giờ công tác quản lý nhà

nước, công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong ngành Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và Triển lãm lại trở nên cần thiết và cấp bách như hiện nay, khi mà lực

lượng, đối tượng hoạt động trong lĩnh vực này phát triển mạnh. Các hình thức

hoạt động ngày càng phong phú, đa dạng, sự quan tâm và tác động đến đời sống

xã hội ngày một nhiều, đặt ra những vấn đề cần có giải pháp hiệu quả trong công

tác quản lý.

1.1.1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Page 60: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

57

Trong 5 năm (2008-2013) công tác quản lý nhà nước ngành Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và Triển lãm đã tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản

quy phạm pháp luật về quản lý ngành. Đây là giai đoạn Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh

và Triển lãm tập trung vào việc xây dựng các văn bản quản lý Nhà nước, các văn

bản quy phạm pháp luật thiết yếu cho hoạt động của ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh

và Triển lãm; xây dựng văn bản mới và văn bản thay thế cho phù hợp với thực tế

phát triển.

- Xây dựng Nghị định Mỹ thuật:

Việc xây dựng Nghị định về hoạt động mỹ thuật là một cố gắng lớn để đáp

ứng đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước. Đây là Nghị định được xây dựng khi

chưa có luật hay pháp lệnh mỹ thuật. Quá trình xây dựng Nghị định đã được tiến

hành tích cực. Đến nay Nghị định đã hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ

ban hành trong thời gian tới. Đây sẽ là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực

pháp lý cao nhất của ngành Mỹ thuật từ trước đến nay, bao hàm các nội dung

quản lý từ sáng tác, triển lãm, thẩm định, mua bán, sao chép tác phẩm mỹ thuật,

xây dựng tượng đài, tranh hoành tráng, bảo quản, tu sửa, hạ giải công trình, tổ

chức trại sáng tác điêu khắc.v.v… Nhiều nội dung mới và cụ thể đã được đưa vào

Nghị định như các nội dung về chính sách của nhà nước đối với hoạt động mỹ

thuật; kinh phí cho các công trình công cộng, thẩm định, đấu giá, bảo quản… các

công trình mỹ thuật.v.v…

Cùng với việc xây dựng Nghị định về hoạt động mỹ thuật là dự thảo Thông

tư hướng dẫn Nghị định đã được tiến hành nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực

hiện các vấn đề trong Nghị định.

- Quy hoạch phát triển ngành:

Việc Quy hoạch phát triển ngành Mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030

cũng đang được tiến hành. Đây là Quy hoạch có tầm chiến lược để định hướng

phát triển ngành mỹ thuật từ nay đến 2020 và tiếp theo đến 2030. Nhiều vấn đề

cấp thiết và lâu dài cho sự phát triển của ngành Mỹ thuật sẽ được đưa vào Quy

hoạch để trình Chính phủ trong năm 2013.

- Quy hoạch tượng đài Quốc tổ Hùng Vương và danh nhân anh hùng dân

tộc cấp quốc gia đã được xây dựng xong và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt

trong thời gian tới.

- Đề án Quốc hoa và Lễ phục: Từ năm 2011, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và

Triển lãm cũng đã tiến hành xây dựng Đề án Quốc hoa và Lễ phục nhà nước. Đây

là những đề án có tác động xã hội rộng rãi, được sự quan tâm của các tầng lớp

nhân dân. Đề án Quốc hoa hiện nay đã hoàn thành để trình cấp có thẩm quyền

phê duyệt. Sau khi Đề án Quốc hoa được ban hành, Cục sẽ tiến hành xây dựng

Quy chế sử dụng Quốc hoa Việt Nam và các nội dung khác để tôn vinh và quảng

bá Quốc hoa Việt Nam. Đề án Lễ phục hiện đang trong quá trình thực hiện.

- Trong lĩnh vực Nhiếp ảnh, một lĩnh vực có số đông lực lượng tham gia,

có tính đại chúng cao, phổ biến nhanh và sâu rộng, phát triển mạnh trong đời

sống xã hội; Quy chế hoạt động Nhiếp ảnh trước đây cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề

Page 61: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

58

bất cập đặc biệt là trong việc sử dụng ảnh, quy chế này đã được thay thế bằng

Thông tư Nhiếp ảnh vừa được Bộ VHTTDL ban hành tháng 12 năm 2012.

- Công tác quản lý nhà nước lĩnh vực Triển lãm trước đây thuộc trách

nhiệm quản lý của Cục Văn hóa thông tin cơ sở. Sau khi sát nhập Bộ, được

chuyển giao về Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm. Trong lĩnh vực này, công

tác quản lý hiện vẫn còn có sự chồng chéo giữa các Bộ, ngành có các hoạt động

triển lãm. Hiện nay, hoạt động triển lãm diễn ra ở nhiều lĩnh vực, với nhiều nội

dung thuộc sự quản lý của các Bộ, ngành khác nhau. Ngoài các triển lãm mỹ

thuật, nhiếp ảnh diễn ra nhiều, liên tục thuộc sự quản lý đã rõ ràng của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì các triển lãm về

nông nghiệp, công nghiệp, y tế, hàng hóa tiêu dùng.v..v.. cũng diễn ra thường

xuyên nhưng sự quản lý nhà nước chưa thống nhất. Vai trò và trách nhiệm của Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành

phố hiện nay vẫn chủ yếu trong phạm vi chịu trách nhiệm và quản lý các triển

lãm có nội dung về Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các triển lãm văn hóa nghệ

thuật khác và triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh.

1.1.2. Công tác cấp giấy phép các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm

Tính trung bình hàng năm trên cả nước có khoảng 300 cuộc triển lãm mỹ

thuật, nhiếp ảnh ở các quy mô tổ chức từ triển lãm toàn quốc, triển lãm khu vực,

tỉnh, thành phố đến các triển lãm nhóm và cá nhân tác giả.

Công tác cấp giấy phép các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh là hoạt động

quản lý thường xuyên của Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm và các Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch.

Trong 5 năm qua, công tác này đã được thực hiện khá tốt và đã tạo được nề

nếp nhất định. Việc tiếp nhận hồ sơ xin phép, thụ lý hồ sơ và cấp giấy phép đã

được tiến hành đúng quy trình quy định; đảm bảo sự nghiêm túc trong nội dung

tư tưởng của các triển lãm theo đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, pháp luật

của Nhà nước.

Các triển lãm về nghệ thuật đương đại như sắp đặt, trình diễn, video art,

graffiti…, ảnh nude cũng là những vấn đề cần có cách nhìn nhận, đánh giá và giải

pháp phù hợp của cơ quan quản lý trong việc cấp giấy phép, vấn đề này đòi hỏi

cần có cán bộ quản lý có chuyên môn, nghiệp vụ, có nhận thức chính trị đúng đắn

và có quan niệm phù hợp với sự phát triển của văn học nghệ thuật hiện nay trong

xu thế hội nhập quốc tế.

Việc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chủ trương thành lập phòng văn

học nghệ thuật ở các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương là chủ

trương đúng đắn cần sớm được triển khai, phù hợp với đòi hỏi thực tế của công

tác quản lý và sự phát triển của văn học nghệ thuật trong đời sống, thiết thực triển

khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về xây dựng văn học nghệ thuật

trong tình hình mới.

Thực tế cho thấy những năm qua công tác văn học nghệ thuật ở một số địa

phương còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa thỏa đáng với hoạt động nghề

Page 62: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

59

nghiệp với sự đóng góp và tác động của văn học nghệ thuật đối với đời sống xã hội.

Việc khá nhiều Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch không có hoặc chưa có phòng

quản lý văn học nghệ thuật, không có cán bộ quản lý lĩnh vực tham mưu cho lãnh

đạo Sở mảng công tác này đã dẫn đến sự lúng túng trong quản lý, một số Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch không chỉ khó khăn khi làm công tác quản lý cấp giấy

phép các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm vì thiếu cán bộ, thiếu bộ máy

tổ chức mà còn có một số tỉnh, thành phố ủy thác các nhiệm vụ hoạt động sự

nghiệp Mỹ thuật, Nhiếp ảnh cho các Hội văn học nghệ thuật địa phương là một

thực tế có thật. Các hoạt động văn học nghệ thuật ở địa phương có các lĩnh vực

như điện ảnh (sản xuất và phát hành phim, chiếu phim), nghệ thuật biểu diễn (ca

múa, sân khấu) được các Sở quan tâm hơn, còn mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm,

văn học, thủ công mỹ nghệ.v.v… là những lĩnh vực chưa được quan tâm đúng

mức thậm chí bị coi là công việc của Hội văn nghệ.

Công tác cấp giấy phép xây dựng các công trình tượng đài, tranh hoành

tráng thời gian qua thực hiện theo Quy chế 05 về cơ bản là tốt, giảm thiểu được

các công trình không đảm bảo về chất lượng nghệ thuật. Tuy nhiên, trong lĩnh

vực này, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương cần khẩn trương phối

hợp với Sở Xây dựng tham mưu, đề xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

xây dựng quy hoạch tượng đài của địa phương, có quy hoạch quỹ đất cho các

công trình tượng đài trong quy hoạch tổng thể các tỉnh, thành phố, tránh tình

trạng khi có công trình mới giải tỏa, tìm đất xây dựng công trình.

Việc thành lập các Hội đồng nghệ thuật công trình tượng đài, tranh hoành

tráng cũng cần chấn chỉnh cho đúng thành phần, tỉ lệ các nhà chuyên môn. Về

vấn đề Hội đồng nghệ thuật xây dựng tượng đài, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và

Triển lãm đã tham mưu và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký

quyết định thành lập Hội đồng nghệ thuật tượng đài quốc gia (Quyết định số 2203

ngày 18 tháng 7 năm 2011) để các địa phương căn cứ và mời tham gia vào Hội

đồng của địa phương mình. Cần hạn chế xây dựng các tượng đài có quy mô quá

to lớn, đặc biệt cần chú trọng đến chất lượng nghệ thuật của tượng đài. Công tác

quy hoạch tượng đài cần được tiến hành song song với quy hoạch đô thị của các

địa phương.

1.1.3. Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và

Triển lãm

Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm

những năm qua đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được với thực tế

bởi lực lượng mỏng, thiếu thanh tra chuyên ngành của từng lĩnh vực. Một số vụ

việc chưa được xử lý kịp thời, còn chậm so với thực tế diễn biến của sự việc.

Hiện nay các sai phạm trong lĩnh vực Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm

vẫn tập trung vào một số vấn đề như: triển lãm không xin cấp giấy phép, xâm

phạm bản quyền tác giả, buôn bán tác phẩm giả mạo, sao chép không đúng quy

định, có một vài vụ việc tác phẩm sai phạm về nội dung chính trị đã được ngăn

chặn kịp thời. Thực tế cho thấy phải tăng cường công tác kiểm tra cấp giấy phép,

Page 63: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

60

hậu kiểm, kiểm tra, giám sát các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, có

cán bộ chuyên môn để tham mưu trực tiếp giải quyết vụ việc.

Tác phẩm nghệ thuật có sức lan tỏa lớn trong cộng đồng, đặc biệt là trong

giới trẻ, trí thức, việc tăng cường công tác kiểm tra, xử phạt cần được triển khai

thường xuyên, liên tục để có sự răn đe phòng ngừa từ trước, phòng ngừa hơn xử lý

hậu quả.

1.2. Hoạt động sự nghiệp

Các hoạt động sự nghiệp hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào các hoạt động

như sáng tác, công bố, phổ biến tác phẩm, xây dựng các công trình mỹ thuật, tổ

chức các trại sáng tác.v.v… Các hoạt động này ở các quy mô như toàn quốc, khu

vực, tỉnh, thành phố, đơn vị, cá nhân, thường xuyên diễn ra trong cả nước.

Một số cuộc triển lãm có quy mô lớn, tầm ảnh hưởng rộng như:

- Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc (5 năm 1 lần)

- Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc (5 năm 1 lần)

- Triển lãm điêu khắc (10 năm 1 lần)

- Triển lãm Mỹ thuật hàng năm của Hội Mỹ thuật Việt Nam diễn ra ở 8 khu

vực trong cả nước

- Triển lãm Nhiếp ảnh hàng năm của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam diễn

ra ở 8 khu vực trong cả nước

- Triển lãm Ảnh nghệ thuật toàn quốc (2 năm 1 lần)

- Triển lãm ảnh quốc tế Việt Nam của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam (2

năm 1 lần).

Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc (5 năm 1 lần) và Triển lãm ảnh nghệ thuật

toàn quốc (2 năm 1 lần) là hai triển lãm có quy mô lớn nhất hiện nay của ngành

Mỹ thuật và Nhiếp ảnh. Triển lãm nhằm tổng kết và đánh giá chặng đường sáng

tác của các nghệ sĩ, có thể nhìn nhận, đánh giá sự phát triển cũng như những hạn

chế của hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh thông qua các triển lãm này.

Ngoài các triển lãm định kỳ trên còn có nhiều triển lãm Mỹ thuật, Nhiếp

ảnh chuyên đề khác do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Hội Mỹ thuật

Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch, Hội Văn học nghệ thuật, các tổ chức, cá nhân tổ chức trong khắp cả nước thu

hút được đông đảo nghệ sĩ tham gia, tạo ra nhiều tác phẩm tốt phục vụ đời sống

văn hóa, tinh thần của nhân dân.

Triển lãm Mỹ thuật và Ảnh chuyên đề “Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh” đã thu hút được nghệ sỹ của cả nước tham dự.

Festival mỹ thuật trẻ đã quy tụ các nghệ sỹ trẻ đang thể nghiệm các dòng

mỹ thuật mới như: video art, sắp đặt, trình diễn…tạo được sự hung phấn cho các

nghệ sỹ trẻ khi có sự tương tác với công chúng.

Page 64: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

61

Triển lãm ảnh ý tưởng vừa qua đã tạo cho giới nhiếp ảnh một cách nhìn

mới, kích thích sự sáng tạo và phần nào giúp nghệ sỹ thay đổi cách nhìn, cách tư

duy sáng tạo của một trong những nhánh nhiếp ảnh đương đại.

Đề án 844 về đặt hàng sáng tác đề tài chiến tranh cách mạng thời kỳ 1930-

1945 đang được triển khai.

Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh của Việt Nam đưa ra trưng bày ở nước

ngoài thời gian qua đã làm tốt việc giới thiệu văn hóa nghệ thuật của Việt Nam

với bạn bè quốc tế. Các triển lãm như Triển lãm tranh sơn mài Việt Nam tại

Trung Quốc, Triển lãm ảnh nghệ thuật tại Pháp và Mỹ do Bộ VHTTDL tổ chức

cùng với các triển lãm do các cơ quan tổ chức, các địa phương, cá nhân, nhóm tác

giả Việt Nam trưng bày ở nhiều nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước

ASEAN, Đức, Hà Lan, Thụy Điển.v.v.. đã góp phần rất tích cực vào việc giới

thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam góp phần quảng bá cho du lịch.

Các triển lãm quốc tế vào Việt Nam thời gian qua cũng đã làm tốt việc giới

thiệu văn hóa và đất nước, con người các nước bè bạn quốc tế với nhân dân Việt

Nam, góp phần vào sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt

Nam và các nước trên thế giới: Triển lãm của 15 nhà Nhiếp ảnh nổi tiếng thế giới;

Triển lãm các họa sỹ nổi tiếng của Ấn Độ; Triển lãm của các họa sỹ trẻ Châu Á…

Trong cả nước hiện nay có khoảng 1.500 họa sĩ, nhà điêu khắc là hội viên

Hội Mỹ thuật Việt Nam; trên 800 hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và

hàng ngàn hội viên của các Hội văn học nghệ thuật địa phương. Đây là một lực

lượng nghệ sĩ đông đảo có chuyên môn nghiệp vụ tốt, sức sáng tạo dồi dào đang

tích cực đóng góp cho sự nghiệp phát triển của ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh.

Đến thời điểm này, trên cả nước đã có 370 công trình tượng đài, tranh

hoành tráng được xây dựng, một số địa phương đã có vườn tượng, tổ chức các

trại sáng tác điêu khắc như Hà Nội, Hải Phòng, Tp. Hồ Chí Minh, Phú Thọ, Ninh

Thuận, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Huế, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Hội An (Quảng Nam),

Bà Rịa- Vũng Tàu, An Giang đóng góp tích cực trong việc tôn vinh truyền thống

lịch sử, cách mạng tạo ra các tác phẩm điêu khắc đưa nghệ thuật đến gần với đại

chúng, góp phần làm đẹp môi trường, cảnh quan nghệ thuật phục vụ nhân dân.

Về công tác đào tạo Mỹ thuật, Nhiếp ảnh trong thời gian qua đã có những

chuyển biến về chất lượng, giáo trình, quy mô và ngành học, gắn với thực tế xã

hội hơn, phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên, nhiều vấn đề về

chất lượng đào tạo, quy mô, ngành học, số lượng tuyển sinh cũng là những vấn đề

cần nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp với sự phát triển.

Công tác bảo quản, lưu giữ các tác phẩm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh cũng cần

được quan tâm hơn nữa, gần đây giới Mỹ thuật rất vui mừng khi Bảo tàng Mỹ

thuật Tp. Hồ Chí Minh được cấp thêm diện tích trưng bày mới và có những thay

đổi trong cách thức trưng bày; Tp. Đà Nẵng cũng đã có đề án xây dựng Bảo tàng

Mỹ thuật Tp. Đà Nẵng; Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã chính thức bắt tay

vào việc xây dựng Trung tâm bảo quản, lưu giữ ảnh nghệ thuật; một số cá nhân,

đơn vị đã và đang triển khai xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật tư nhân, Nhà tưởng

niệm họa sĩ v.v…

Page 65: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

62

Công tác giám định tác phẩm và đấu giá tác phẩm mỹ thuật hiện nay còn

manh nha cả về tổ chức bộ máy và hoạt động, mặc dù nhu cầu của xã hội là có và

cần thiết trong quá trình phát triển.

Các hoạt động triển lãm văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch (ngoài triển

lãm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh) trong thời gian qua cơ bản là hoạt động tốt. Tuy nhiên

các địa phương nhìn chung còn ít quan tâm đến hoạt động triển lãm, có địa

phương có nhà trưng bày triển lãm, nhiều địa phương chưa có; nội dung hoạt

động nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực này chưa phong phú, chưa đáp ứng

được đòi hỏi của xã hội.

Các hoạt động sáng tác mẫu, kiểu dáng và triển lãm thủ công mỹ nghệ, mỹ

thuật ứng dụng là một trong những nội dung thuộc sự quản lý của Cục Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh và Triển lãm và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các địa phương

nhưng sự quan tâm ở lĩnh vực này chưa nhiều. Cái khó hiện nay là mô hình quản

lý còn phân tán. Mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật thủ công gắn nhiều với doanh

nghiệp và làng nghề thuộc sự quản lý nhà nước của Bộ Công thương và Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ngành văn hóa nên tập trung vào nội dung văn

hóa của mảng công tác này, đó là các hoạt động để khuyến khích sáng tạo ra

những kiểu dáng, mẫu mã mới vừa có yếu tố văn hóa, yếu tố thẩm mỹ và có công

năng hữu ích, thúc đẩy sự phát triển góp phần gìn giữ các giá trị của di sản truyền

thống của dân tộc và phát triển lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng phù hợp với đời sống hiện

đại.

II. KHÓ KHĂN, TỒN TẠI

Mở cửa và hội nhập kinh tế theo hướng toàn cầu hoá là xu thế khách quan

vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước

phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta

là nền tảng vững chắc tạo môi trường thuận lợi cho phát triển hoạt động của

ngành mỹ thuật theo tinh thần Nghị quyết 23 về tiếp tục xây dựng và phát triển

văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới. Ngành mỹ thuật phát triển và được mở

rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập, đồng thời cũng đang diễn ra cuộc đấu

tranh tư tưởng gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.

2.1. Tâm điểm là con người:

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp

tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt sẽ đưa thế giới từ kỷ nguyên công

nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và kinh tế tri thức. Nhân tố con người dần trở

thành trung tâm của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nhiều quốc gia đang hướng

tới nâng cao các chỉ số nguồn nhân lực và mức hưởng thụ văn hoá. Đầu tư cho

văn hoá - xã hội từ chỗ được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội chuyển thành đầu tư

cho con người, song song với sự phát triển là việc đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật,

đáp ứng với xu thế chung của thế giới. Trình độ dân trí ngày càng phát triển, nhu

cầu khán giả thưởng thức nghệ thuật thị giác ngày càng đòi hỏi cao.

Page 66: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

63

Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường vừa thúc đẩy các nguồn lực

cho hoạt động mỹ thuật, nhưng đồng thời cũng xuất hiện những biểu hiện tiêu cực

vì mục đích lợi nhuận mà coi nhẹ những giá trị văn hoá truyền thống.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, con người có nhiều sự lựa chọn nên mỹ

thuật gặp nhiều “đối thủ” cạnh tranh, người dân có thể đến rạp chiếu phim hay

nhà hát nhiều hơn nhà triển lãm;

Mỹ thuật và Nhiếp ảnh có đặc thù là sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ nhưng

sản phẩm của họ là tác phẩm nghệ thuật, có tính tư tưởng phục vụ rộng rãi nhân

dân và tác động đến xã hội rất lớn. Không nên nhìn nhận vì là sự sáng tạo của

từng cá nhân mà xem nhẹ, ít quan tâm hơn các lĩnh vực nghệ thuật khác.

2.2. Các ngành các cấp chưa chú trọng tới mỹ thuật:

Nhận thức của các ngành, các cấp đặc biệt là ở địa phương chưa đúng với

đặc thù và tính chất của ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh, chưa thấy hết tính tất yếu và

lợi ích lâu dài của mỹ thuật đối với xã hội. Tư duy, thói quen bao cấp, coi hoạt

động mỹ thuật như tuyên truyền, cổ động, chưa thấy được vai trò của mỹ thuật,

nhiếp ảnh trong việc tạo ra đời sống tinh thần, đời sống văn hóa, thẩm mỹ cho xã

hội vẫn còn tồn tại khá phổ biến trong các cấp các ngành. Mặt khác, văn hoá là

lĩnh vực nhạy cảm, mang tính định hướng tư tưởng nên trong chỉ đạo còn lúng

túng, chưa lường hết được những mặt trái nảy sinh trong quá trình thực hiện chủ

trương, chính sách và những mặt trái của cơ chế thị trường.

Công tác chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chưa theo kịp với

sự phát triển, chậm đổi mới, lúng túng và có mặt còn bất cập. Còn thiếu nhiều cơ

chế, chế độ chính sách đặc thù để tạo hành lang pháp lý, khuyến khích những mặt

tích cực, ngăn chặn tiêu cực trong công tác quản lý các hoạt động mỹ thuật, nhiếp

ảnh hiện nay.

Cơ sở vật chất, các Nhà triển lãm còn thiếu không đáp ứng được so với xu

thế phát triển; phương tiện còn cũ kỹ, lạc hậu, cơ chế tổ chức hoạt động còn trì

trệ, hoạt động kém hiệu quả

Việc sử dụng, tiêu thụ tác phẩm Mỹ thuật, Nhiếp ảnh hiện nay còn gặp

nhiều khó khăn do nhận thức và ý thức tự tôn, tôn vinh văn hóa của đất nước

chưa cao, nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều khu du lịch còn sử dụng tranh, ảnh của

nước ngoài để trang trí trụ sở, phòng làm việc, hội trường…

2.3. Chưa có thị trường mỹ thuật, nhiếp ảnh trong nước:

Thị trường mỹ thuật, nhiếp ảnh trong nước chưa phát triển, nạn sao chép

tranh sai quy định chưa kiểm soát được; thiếu các chế tài để xử lý. Hiện nay các

Gallery hoạt động dưới sự điều tiết của luật thương mại. Các giấy phép con do Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp đã bị bãi bỏ từ năm 2000, các chủ Gallery đều

không có bằng cấp về mỹ thuật hoặc có người tư vấn có bằng về mỹ thuật, nên

gây ra tình trạng lộn xộn trong kinh doanh mặt hàng đặc biệt này.

2.4. Cơ chế chính sách chưa phù hợp:

Page 67: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

64

Nguồn ngân sách phân bổ cho ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm chưa

xứng tầm

Nhiều chế độ chính sách mang tính đặc thù cho ngành mỹ thuật không phù

hợp (như nghị định 61/2002/NĐ-CP ban hành ngày 11 tháng 6 năm 2002 của

Chính phủ về chế độ nhuận bút đã lạc hậu so với hiện nay; chủ trương xã hội hoá

các hoạt động mỹ thuật chưa triển khai một cách sâu rộng, có hiệu quả.

Kế hoạch tổng thể cho ngành mỹ thuật chưa có; Hoạt động mỹ thuật thiếu

đồng bộ, thiếu chuyên nghiệp;

Công tác quản lý chất lượng nghệ thuật các triển lãm ra nước ngoài còn

buông lỏng;

Kinh phí cho việc tuyên truyền, quảng cáo còn hạn chế;

Cơ sở vật chất cho mỹ thuật còn thiếu, chưa có Nhà triển lãm riêng cho

chuyên ngành mỹ thuật; Mỹ thuật ở địa phương gặp nhiều khó khăn, chưa được

quan tâm;

Chưa xây dựng được Luật mỹ thuật.

III. KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP:

3.1. Về cơ chế chính sách:

Cần có cơ chế, chủ trương phân bổ nguồn ngân sách kịp thời để phát triển

ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh.

3.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước:

- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp

luật, xây dựng cho ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm hành lang pháp lý để

phát triển đúng định hướng, đúng đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng và pháp

luật của nhà nước, quy định quyền và trách nhiệm của các cá nhân, các tổ chức

tham gia vào hoạt động Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm.

Thông tư hướng dẫn hoạt động nhiếp ảnh.v.v... và tổ chức phổ biến tập

huấn các văn bản này đến các đơn vị.

- Công tác cấp giấy phép và kiểm tra các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh và

triển lãm cần được tăng cường; tổ chức các lớp tập huấn quy trình, thủ tục thẩm

định và cấp phép. Bên cạnh đó, cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực

cho cán bộ trong việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp quy; chủ động đề

xuất và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tế quản lý hoạt động mỹ thuật,

nhiếp ảnh và triển lãm.

- Cục Mỹ thuật Nhiếp ảnh và Triển lãm rất hoan nghênh chủ trương của Bộ

và mong đợi các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sớm cho thành lập phòng quản

lý văn học nghệ thuật tại các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Đây là chủ trương

đúng, phù hợp với thực tế. Đây sẽ là bước ngoặt quan trọng để các hoạt động văn

học nghệ thuật, trong đó có Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm có sự quản lý tích

Page 68: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

65

cực của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch để có điều kiện phát triển tốt trong

những năm tới.

3.3. Về hoạt động sự nghiệp:

- Khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo của các văn nghệ sĩ, chấp nhận những

hình thức nghệ thuật mới song song cùng tồn tại, với mục tiêu là tạo ra môi

trường thẩm mỹ lành mạnh, phong phú, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân

tộc.

- Tổ chức nhiều hoạt động thực tế sáng tác giúp cho tác giả có điều kiện

sáng tác các tác phẩm, công trình có quy mô, mang tầm tư tưởng và thời đại, phản

ánh được công cuộc xây dựng và bảo vệ của đất nước.

- Tăng cường giao lưu, trao đổi và học hỏi kinh nghiệm và giới thiệu nghệ

thuật và hình ảnh đất nước con người Việt Nam của các tác giả và tác phẩm trong

khu vực và trên thế giới. Tham gia triển lãm tại các ngày văn hóa Việt Nam, các

sự kiện văn hóa, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch của Việt Nam ở

nước ngoài.

- Tạo lập vị trí của mỹ thuật Việt Nam trong khu vực và thế giới. Đưa triển

lãm mỹ thuật của Việt Nam ra nước ngoài; Tham gia triển lãm tại các ngày văn

hóa Việt Nam, các sự kiện văn hóa, các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch

của Việt Nam ở nước ngoài. Tham gia các triển lãm quốc tế trong khu vực và thế

giới để từ đó thiết lập thị trường mỹ thuật Việt Nam ở nước ngoài

- Xây dựng cơ chế chính sách, biện pháp để hình thành thị trường Mỹ

thuật, Nhiếp ảnh trong nước: Để xây dựng ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh phát triển

bền vững, cần tạo ra thị trường trong nước, tiêu thụ, sử dụng tác phẩm của các nghệ

sĩ Việt Nam. Đây là vấn đề lớn cần có sự thay đổi nhận thức trong từng cá nhân, đơn

vị và phải xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ cho sự hình thành và phát triển thị

trường trong nước. Trước mắt, các bảo tàng, thư viện, các trụ sở cơ quan nhà nước,

các khu du lịch, khách sạn… cần mua tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh của các nghệ sĩ

Việt Nam để trưng bày, trang trí.

- Vấn đề mua tác phẩm mỹ thuật để lưu giữ trong các bảo tàng, sử dụng

trong các công sở, khách sạn, khu du lịch và các địa điểm công cộng khác cần trở

thành một chủ trương từ trung ương đến địa phương. Cần có cơ chế đặc thù cho

việc mua tác phẩm mỹ thuật cho các bảo tàng để lưu giữ được nhiều tác phẩm tốt,

có giá trị nghệ thuật cao cho thế hệ mai sau, hạn chế việc thất thoát tác phẩm ra

các bảo tàng và sưu tập tư nhân của thế giới.

- Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động của các Gallery, các đơn vị sao

chép tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh; xử phạt nghiêm minh các hoạt động xâm

phạm bản quyền tác giả và quyền liên quan.

- Cần tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa các hoạt động mỹ

thuật để ngoài nhà nước còn có nhiều các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân đầu

tư, giúp đỡ, phối hợp tổ chức các hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh.

Page 69: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

66

- Cần tăng cường công tác phổ cập về kiến thức mỹ thuật tạo cho cộng

đồng thông qua các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, trong các trường phổ thông

về sự hiểu biết và cảm thụ mỹ thuật một cách bài bản bằng hệ thống bài giảng

được đầu tư đúng mức. Chú ý quản lý các giáo trình hội họa điêu khắc tại các

trung tâm giáo dục ngoài giờ. Rất cần giáo trình cho các lớp bồi dưỡng tìm hiểu

kiến thức về hội họa tại các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung tâm ngoài giờ

thay về chỉ có lớp dạy vẽ.

- Cần chú ý nghiên cứu thực trạng không gian mỹ thuật hiện nay trên phạm

vi từng địa phương và cả nước: bao gồm hệ thống cây xanh, tiểu cảnh. Mỹ thuật

mặt tiền đường phố trong dịp Tết, lễ hội, chiếu sáng mỹ thuật ban đêm kể cả ánh

sáng mỹ thuật của quảng cáo về đêm. Đặc biệt là không gian tượng đài phù điêu,

lịch sử và nghệ thuật cho các đô thị. Nghệ thuật nơi công cộng hiện đang ở tình

trạng lạm phát dư thừa cái xấu, cái lãng phí hoặc là một sa mạc hoàn toàn thiếu

vắng mỹ thuật.

IV. KẾT LUẬN

Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Đảng, cùng với sự cố gắng phấn

đấu của ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, sự chỉ đạo kịp thời của Bộ Văn

hoá, Thể thao và Du lịch, sự phối hợp của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch địa

phương, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và các Hội

văn học nghệ thuật, ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đã có những thành

tựu đáng khích lệ, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản

sắc dân tộc.

Với những thành tích đạt được, hy vọng trong các năm tiếp theo ngành mỹ

thuật, nhiếp ảnh và triển lãm tiếp tục cố gắng hơn nữa trong công tác quản lý, chỉ

đạo điều hành các hoạt động để có nhiều tác phẩm mỹ thuật, nhiếp ảnh, nhiều

công trình nghệ thuật có giá trị cao, nhiều tác giả tài năng để đóng góp vào việc

nâng cao nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của nhân dân ngày càng cao tạo nên đời

sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày một phong phú, theo đúng tinh thần

Nghị quyết 23 của Đảng.

Page 70: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

67

CÔNG TÁC BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA

SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT SỐ 23/NQ-TW

NGÀY 16 - 6 - 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

Cục Di sản văn hóa

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

1. NGHỊ QUYẾT 23 VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN

VĂN HÓA

Trong quá trình triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành

Trung ương (Khóa VIII) của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, sự ra đời Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm

2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật

trong thời kỳ mới” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 23) có ý nghĩa đặc biệt đối với

sự phát triển của một lĩnh vực/thành tố quan trọng của nền văn hóa Việt Nam-

lĩnh vực văn học, nghệ thuật, trong bối cảnh đất nước bước sang thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Nghị quyết 23 đề cập nhiều vấn đề liên quan đến quan điểm của Đảng về

phát triển văn học, nghệ thuật. Tiếp cận từ lĩnh vực hoạt động bảo vệ và phát huy

giá trị di sản văn hóa, có thể nhận thấy một số nội dung của Nghị quyết trực tiếp

liên quan đến quan điểm chỉ đạo của Đảng ta nhằm đẩy mạnh các hoạt động của

lĩnh vực này nhằm góp phần vào sự phát triển văn học, nghệ thuật ở nước ta, cụ

thể:

- Về những thành tựu…, Nghị quyết khẳng định: “…Công tác sưu tầm, bảo

tồn, phát huy di sản văn học, nghệ thuật của các dân tộc đạt được những kết quả

thiết thực… Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển; nhiều câu lạc bộ văn

học, nghệ thuật ra đời, góp phần cổ vũ, động viên quần chúng sáng tạo, khai thác,

truyền bá các giá trị nghệ thuật cổ truyền và thưởng thức văn học, nghệ thuật,

nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân ở cơ sở…”.

- Về những yếu kém, khuyết điểm, Nghị quyết chỉ rõ: “…Thiếu định hướng

và tiêu chí cụ thể cho việc chọn lọc, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền

thống cũng như chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại trong thời gian qua

còn nhiều bất cập, có lúc không rõ tiêu chí, thiếu định hướng. Chưa xây dựng

được những công trình trung tâm lớn cho hoạt động văn hoá, nghệ thuật, tương

xứng với vị thế của đất nước thời kỳ mới…”.

- Từ đánh giá thực trạng đó, Nghị quyết đã nêu quan điểm chỉ đạo của

Đảng là: “…Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học,

nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá

trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn,

làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù

địch…”.

- Theo đó, là chủ trương và các giải pháp thực hiện:

Page 71: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

68

+ “… Xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch xã hội hoá các hoạt

động văn học, nghệ thuật, làm rõ các lĩnh vực cần xã hội hoá, lĩnh vực Nhà nước

và nhân dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải đầu tư bảo tồn, xây dựng và phát

triển… Xây dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ

thuật cổ truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết

và văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số…”.

+ “…Xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn

nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong

xã hội…”.

+ “…Tăng cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ quần chúng,

hướng dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và

phát huy các giá trị văn hoá, văn nghệ truyền thống của dân tộc…”.

Sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, công tác bảo vệ

và phát huy giá trị di sản văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu, tích cực góp phần

xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển kinh

tế - xã hội.

2. MỘT SỐ KẾT QUẢ TÍCH CỰC

2.1. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2009 đến nay, hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật về di sản văn hóa đã được tập trung xây dựng, ban hành, tạo ra

hành lang pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá

trị di sản văn hóa nói chung, di sản văn học, nghệ thuật nói riêng. Từ năm 2009

đến nay, có 1 Luật sửa đổi, 2 Nghị định và 8 Thông tư về lĩnh vực này được cơ quan

có thẩm quyền ban hành, trong đó có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

di sản văn hóa, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật di sản văn hóa, Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010

quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn

hoá phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia… Đối

tượng, phạm vi, nội dung điều chỉnh của các văn bản này có nhiều điểm mới, nhất

là những điều chỉnh nhằm thực hiện việc kiểm kê kho tàng di sản văn hóa vật thể

và phi vật thể, tôn vinh những người có tài và có công bảo vệ di sản văn hóa phi

vật thể, bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc,… đã thực sự tạo

ra cơ hội và điều kiện để những quan điểm, định hướng và giải pháp của Đảng về

vấn đề bảo tồn di sản văn hóa dân tộc nhằm phát triển văn học, nghệ thuật theo

tinh thần Nghị quyết 23 được triển khai có hiệu quả trong thực tiễn đời sống.

2.2. Tôn vinh những di sản văn hóa về văn học, nghệ thuật

- Về di sản văn hóa phi vật thể:

+ Từ năm 2008 đến nay, nhiều di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình

nghệ thuật trình diễn dân gian của Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu, lập hồ

sơ đề nghị và đã được UNESCO vinh danh, như: Dân ca Quan họ Bắc Ninh - Di

Page 72: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

69

sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2009); Hát Ca trù - Di sản văn hóa

phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp (2009); Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền

Sóc (Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - 2010); Hát Xoan Phú Thọ

- Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp (2011); Tín ngưỡng thờ

cúng Hùng Vương ở Phú Thọ - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(2012).

+ Việc kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể đã được tiến hành ở

nhiều địa phương trên cả nước; nhiều di sản văn hóa phi vật thể thuộc loại hình

ngữ văn dân gian và nghệ thuật trình diễn dân gian đã được lập hồ sơ khoa học.

Trên cơ sở đó, tháng 12/2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã

quyết định đưa 33 di sản văn hóa phi vật thể và Danh mục di sản văn hóa phi vật

thể quốc gia (đợt 1).

- Về di sản văn hoá vật thể:

+ Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1419/QĐ-TTg

xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh

là di tích quốc gia đặc biệt. Ngày 01/10/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết

định số 1426/QĐ-TTg công nhận 30 hiện vật và nhóm hiện vật là bảo vật quốc gia,

trong đó có những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật là cổ vật nổi tiếng (Trống đồng

Ngọc Lũ, Trống đồng Hoàng Hạ, Thạp đồng Đào Thịnh…), đặc biệt là có tác phẩm

“Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

+ Từ năm 2008 đến nay, thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn

hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hỗ trợ kinh phí cho tu bổ, tôn tạo nhiều

di tích nhằm tôn vinh các tác gia văn học, nghệ thuật lớn của nền văn học Việt

Nam: Khu di tích Nguyễn Du (tỉnh Hà Tĩnh) với tổng kinh phí là 4 tỷ đồng (năm

2011, 2012), dự kiến năm 2013 đầu tư 3 tỷ đồng; Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn

Đình Chiểu (tỉnh Bến Tre) là 1 tỷ đồng năm 2012; đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm

(thành phố Hải Phòng) là 3 tỷ đồng năm 2012, dự kiến năm 2013 đầu tư 2 tỷ

đồng; đền thờ Lê Văn Hưu (tỉnh Thanh Hóa) là 200 triệu đồng năm 2009; khu lưu

niệm Phan Bội Châu (tỉnh Thừa Thiên Huế) là 400 triệu đồng năm 2009, năm

2010 là 400 triệu đồng; khu lưu niệm Phan Chu Trinh (tỉnh Quảng Nam) đầu tư

300 triệu đồng năm 2008, năm 2010 là 200 triệu đồng năm 2011 là 400 triệu

đồng, năm 2012 là 800 triệu đồng; mộ Phan Chu Trinh (Thành phố Hồ Chí Minh)

là 300 triệu đồng năm 2011, năm 2012 là 1 tỷ đồng… Các di tích sau khi được tu

bổ, tôn tạo đã trở thành những sản phẩm văn hoá - du lịch đặc thù, góp phần hình

thành những điểm, tuyến du lịch hấp dẫn, đồng thời là nơi giáo dục truyền thống

yêu nước, bản sắc văn hóa dân tộc cho các thế hệ trẻ.

2.3. Về hoạt động bảo tàng

Hệ thống bảo tàng Việt Nam (bao gồm 136 bảo tàng, trong đó có 16 bảo

tàng ngoài công lập) ngày càng hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả. Nhiều bảo

tàng đã chú trọng vào hoạt động sưu tầm, lưu giữ, trưng bày và giới thiệu những

tác phẩm văn học nghệ thuật và sưu tập hiện vật có giá trị liên quan đến cuộc đời,

sự nghiệp của các tác gia văn học, nghệ thuật trong lịch sử và hiện tại. Đặc biệt,

một số bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng chuyên đề về văn học, nghệ thuật đã

Page 73: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

70

được thành lập, hoạt động ngày một hiệu quả, đã không chỉ bổ sung vào hệ thống

bảo tàng Việt Nam những khuôn diện mới, mà còn trực tiếp tham gia giữ gìn,

quảng bá di sản văn học, nghệ thuật Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển văn học,

nghệ thuật Việt Nam (Bảo tàng Văn học Việt Nam thuộc Hội Nhà vănViệt Nam

và các bảo tàng ngoài công như: Bảo tàng Mỹ thuật họa sĩ Tốt và gia đình, Bảo

tàng Mỹ thuật họa sĩ Phan Thị Ngọc Mỹ, Bảo tàng không gian văn hóa Mường,

Bảo tàng Văn hóa Việt,...).

2.4. Về xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị văn học, nghệ thuật:

Công tác xã hội hóa được đẩy mạnh, ngày càng thu hút nhiều tổ chức, cá

nhân tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhiều trung tâm/câu lạc bộ

Cồng chiêng, Ca trù, Quan họ, Hát Xoan, Đờn ca tài tử đã được phục hồi; hàng

trăm câu lạc bộ mới ra đời, hoạt động dưới hình thức các trung tâm nghiên cứu và

cơ sở diễn xướng dân gian theo đội, nhóm hoặc gia đình. Một số câu lạc bộ đã hoạt

động có uy tín, được các tổ chức nước ngoài mời tham gia liên hoan di sản văn hóa

phi vật thể quốc tế … Đây chính là những cơ hội tốt cho các chủ thể văn hóa được

giao lưu, học hỏi và tự giới thiệu với thế giới về di sản văn hóa của mình.

3. MỘT SỐ HẠN CHẾ

Có thể nói, trong từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động bảo vệ và phát huy giá

trị di sản văn học, nghệ thuật, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, vẫn

còn tồn tại những hạn chế, yếu kém:

3.1. Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về di sản

văn hóa tuy đã rất khẩn trương, tích cực, nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi

của thực tiễn, nhất là những văn bản điều chỉnh chính sách tôn vinh và ưu đãi

những người có công, có tài trong hoạt động sáng tạo, gìn giữ, trao truyền di sản

văn học, nghệ thuật (thuộc lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể). Đến nay, những

quy định cụ thể của Chính phủ về xét tặng các danh hiệu Nghệ nhân nhân dân,

Nghệ nhân ưu tú vẫn chưa được ban hành; theo đó, các văn bản do các Bộ, ngành

có liên quan đến việc xây dựng chính sách đãi ngộ cho các đối tượng này cũng

chưa có cơ sở để triển khai. Điều đó khiến các chủ trương, giải pháp về “…Xây

dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn nghệ sĩ có quá trình

cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong xã hội…” và “Xây

dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ

truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn

học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số…” - như tinh thần của Nghị quyết 23, chậm

được hiện thực hóa trong thực tiễn đời sống.

3.2. Công tác sưu tầm, gìn giữ và trưng bày giới thiệu các di sản văn học,

nghệ thuật, do còn gặp nhiều khó khăn, nên hiệu quả đạt được còn thấp. Bảo tàng

Văn học Việt Nam, sau hơn 10 năm xây dựng và trưng bày, đến nay vẫn chưa

thực sự hoàn thiện, hiện vật trưng bày còn nghèo; một số bảo tàng ngoài công lập

về văn học, nghệ thuật còn ít nhận được sự quan tâm hướng dẫn nghiệp vụ, hỗ trợ

việc tổ chức hoạt động của các địa phương và cơ quan chuyên môn chuyên

ngành… Vì thế, các bảo tàng và sưu tập về văn học, nghệ thuật chưa phát huy

Page 74: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

71

được hiệu quả của mình trong việc phục vụ các hoạt động sáng tạo mới (cung cấp

thông tin, tư liệu, kinh nghiệm, gợi xúc cảm…), vừa quảng bá giá trị di sản văn

học, nghệ thuật của đất nước với công chúng ở trong và ngoài nước.

3.3. Nguồn vốn đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn

học, nghệ thuật còn thấp, chưa ổn định và kịp thời. Điều đó không chỉ khiến cho

chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực hoạt động này ở các tổ chức công lập còn

chưa cao (Bảo tàng Văn học Việt Nam là một ví dụ), mà còn chưa tạo cơ hội/

“những cú hích” cho việc đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực công tác này. Cũng do

đó, việc triển khai chủ trương và giải pháp về “… Xây dựng và thực hiện có hiệu

quả kế hoạch xã hội hoá các hoạt động văn học, nghệ thuật, làm rõ các lĩnh vực

cần xã hội hoá, lĩnh vực Nhà nước và nhân dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải

đầu tư bảo tồn, xây dựng và phát triển…”, và “…Tăng cường các biện pháp xây

dựng, phát triển văn nghệ quần chúng, hướng dẫn, khuyến khích quần chúng

tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và phát huy các giá trị văn hoá, văn nghệ

truyền thống của dân tộc…”, theo tinh thần Nghị quyết 23, còn chưa đạt được kết

quả mong đợi.

4. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 23-NQ/TW, đưa Nghị quyết

23 vào thực tiễn đời sống, từ những trình bày trên đây, chúng tôi đề có một số đề

xuất, khuyến nghị sau đây:

1. Cần tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, phổ biến pháp luật nhằm

hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác

quản lý nhà nước về di sản văn hóa.

2. Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, trong đó

tập trung đầu tư cho công tác sưu tầm, gìn giữ những tác phẩm văn học nghệ

thuật có giá trị, tu bổ và tôn tạo di tích lưu niệm các tác gia văn học, nghệ thuật

trong lịch sử và các tác giả đã được nhà nước vinh danh qua các giải thưởng Hồ

Chí Minh, giải thưởng Nhà nước trong những năm qua.

3. Củng cố, hoàn thiện hệ thống thiết chế ngành di sản văn hóa, đồng thời tập

trung đầu tư xây dựng nguồn lực con người đảm bảo sự phát triển đồng bộ. Quan

tâm tới việc xây dựng cơ chế chính sách phù hợp, khuyến khích quần chúng tham

gia vào hoạt động sáng tạo, bảo vệ và phát huy di sản văn học, nghệ thuật.

Trong thời gian tới, nhà nước cần tập trung đầu tư, đồng thời Hội Nhà văn

Việt Nam cần tập trung hoàn thành việc xây dựng, trưng bày, tổ chức hoạt động

có hiệu quả Bảo tàng Văn học Việt Nam, đưa Bảo tàng trở thành mái nhà chung

của các nhà văn, của mọi người yêu mến văn chương, thành điểm đến hấp dẫn đối

với thế hệ trẻ nói riêng, công chúng ở trong và ngoài nước nói chung.

4. Xây dựng đề án bảo tồn, lưu giữ và phát huy giá trị các loại hình văn

học, nghệ thuật, đồng thời, đẩy mạnh hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa, đưa di

sản văn học, nghệ thuật tiêu biểu của Việt Nam ra nước ngoài nhằm quảng bá

hình ảnh, đất nước và con người Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam

trên trường quốc tế./.

Page 75: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

72

VAI TRÒ CỦA THƯ VIỆN TRONG VIỆC BẢO LƯU VÀ PHÁT TRIỂN

VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG: NHỮNG

THÀNH TỰU VÀ TỒN TẠI VÀ CÁC ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

Vũ Dương Thúy Ngà

Phó Vụ trưởng Vụ Thư viện

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

ĐẶT VẤN ĐỀ

Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu văn học nghệ thuật. Đã trong

một thời gian dài, quan niệm về người tài là người có đủ khả năng cầm, kỳ, thi,

họa. Quan niệm này đã có sự thay đổi, nhưng văn học nghệ thuật vẫn có một vai

trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.Với tầm nhìn cho

sự phát triển bền vững và lâu dài những giá trị vô giá về văn học nghệ thuật mà

các thế hệ người Việt Nam từ thuở Hùng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí

Minh ngày nay đã sáng tạo nên, ngày 16 tháng 6 năm 2008 Nghị quyết 23-

NQ/TW Bộ Chính Trị đã ra đời. Tinh thần của nghị quyết là tiếp tục xây dựng và

phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Nghị quyết đã nêu rõ: “Văn học,

nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết

yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động

lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát

triển toàn diện của con người Việt Nam…”

Từ nhận thức văn hoá và nghệ thuật là một trong những động lực

to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển

toàn diện của con người Việt Nam, Nghị quyết đã đưa ra định hướng cho ngành

văn hoá là: “Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học,

nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá

trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài” để làm giàu cho nền văn hoá hiện

đại và chia sẻ với thế giới những độc đáo của văn hoá nghệ thuật Việt Nam. Để

tránh những tác động tiêu cực trong đổi mới và mở cửa, Nghị quyết đã nhấn

mạnh: “đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt,

xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch”. Một trong số những mục tiêu của xây

dựng và phát triển văn học, nghệ thuật được xác định là: “xây dựng nhân cách

con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện,

mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [1].

Là một thiết chế văn hóa thực hiện việc thu thập, bảo quản và truyền bá các

di sản thư tịch của dân tộc và của nhân loại, thư viện đã có vai trò và đóng góp

một phần không nhỏ vào việc lưu giữ và phát triển văn học nghệ thuật trong đời

sống cộng đồng ở Việt Nam trong những năm vừa qua.

I. THƯ VIỆN VỚI VIỆC BẢO LƯU VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ

THUẬT TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG

Page 76: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

73

Việc thu thập, bảo lưu các cổ bản và bổ sung thêm các tác phẩm văn học

hiện đại ở trong và ngoài nước, cũng như các tài liệu nghệ thuật và tuyên truyền

giới thiệu chúng đến với cộng đồng đã được ngành thư viện đặc biệt quan tâm.

Chúng tôi nhận thức sâu sắc cùng với việc lưu giữ tài liệu trong thư viện cần phải

tiến hành song song với việc tuyên truyền, quảng bá để cộng đồng quan tâm và sử

dụng hiệu quả các tài liệu nói chung và tài liệu văn học, nghệ thuật nói riêng. Có

như vậy thư viện mới thực sự trở thành cơ quan giáo dục ngoài nhà trường, giúp

con người không ngừng hoàn thiện về nhân cách và bồi dưỡng, nâng cao khả

nâng cao khả năng viết văn và sáng tạo nghệ thuật.

1.1 . Việc thu thập và bảo quản các tài liệu văn học nghệ thuật tại các thư viện

Tài liệu văn học, nghệ thật là những di sản văn hóa thành văn ghi dấu sự

phát triển về tư duy, tình cảm, ước vọng của con người hướng tới sự công bằng

bác ái và cái đẹp trong các thời đại. Trên nền truyền thống một dân tộc quật

cường về sức sống trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, những tác phẩm văn

học dân gian, ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, cũng các tác phẩm văn học như Bài

thơ Thần của Lý Thường Kiệt, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Cáo Bình Ngô”

của Nguyễn Trãi, “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ tịch,... cùng với những điệu lý,

câu hát dân ca, những ca khúc, các tác phẩm nghệ thuật hội họa, điêu khắc, nhiếp

ảnh đã ảnh hưởng đến việc hình thành tâm hồn, nhân cách con người Việt hiện

đại ngày nay.

Trong thực tiễn hoạt động, thư viện đã có vai trò to lớn trong việc thu thập

và bảo lưu các tài liệu văn học, nghệ thuật. Sự thu thập này không chỉ đơn thuần

là hướng tới những tài liệu văn học nghệ thuật đã xuất bản, mà còn hướng tới thu

thập các tài liệu văn học nghệ thuật cổ trong quá khứ. Lưu giữ các tác phẩm đó

theo dòng thời gian là nhiệm vụ của thư viện và đó là đóng góp thiết thực của

ngành thư viện trong việc thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị.

Trong các thư viện công cộng, tỷ lệ các sách văn học nghệ thuật được lưu

giữ chiếm tới từ 30 đến 40%.

Trong các thư viện chuyên ngành văn học nghệ thuật, việc bảo lưu các tác

phẩm văn học nghệ thuật còn được thực hiện một cách đầy đủ hơn.

Thư viện Viện Văn học là một trong những thư viện chuyên ngành lớn nhất

sưu tập các tài liệu nghiên cứu văn học. Kho sách của Viện có hơn 130.000 bản

trong đó có 68.000 bản bao gồm sách nghiên cứu và sách sáng tác (66.800 bản) ,

bổ sung thêm khoảng 600 bản/năm; 110 loại báo và tạp chí trong và ngoài nước.

Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam có khoảng 4000 quyển sách,

500 báo cáo và album.

Thư viện Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam là thư viện chuyên ngành

âm nhạc. Vốn tài liệu của thư viện có hơn 40.000 đầu sách, được chia thành 3 kho

là kho mở, kho lưu trữ và kho dàn nhạc. Kho sách dàn nhạc lưu giữ hệ thống các

tổng phổ và phân phổ của dàn nhạc, các sáng tác của hầu hết các tác giả, các thời

kỳ âm nhạc... Kho đĩa nhạc khoảng 4.000 đĩa CD, VCD, DVD và laser được phân

loại theo tác giả, thể loại, thời kỳ, hình thức biểu diễn, nhạc cụ, nghệ sĩ biểu

Page 77: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

74

diễn... đáp ứng các nhu cầu của giảng viên, sinh viên học sinh trong việc tiếp cận

kho tàng âm nhạc của nhân loại và của Việt Nam. Để tạo điều kiện cho các sinh

viên và học viên có thể nghe nhạc, thư viện đã tổ chức các phòng nghe cá nhân và

tập thể.

Viện Phim Việt Nam đã xây dựng kho phim lưu trữ. Hiện kho lưu trữ của

viện (hai cơ sở ở Hà Nội và ở TP Hồ Chí Minh) lưu trữ gần 80.000 cuốn phim

nhựa, 20.000 tên phim, hàng chục ngàn băng video, được đánh giá là một trong

những kho lưu trữ phim tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Trong kho lưu trữ của

viện, tài liệu quý, có giá trị là bộ sưu tập phim điện ảnh cách mạng VN những

năm đầu tiên và Phim tư liệu về Đông Dương đầu thế kỷ do Viện Lưu trữ phim

Pháp tặng.

Trong các thư viện trường học, tài liệu văn học nghệ thuật đã được bổ sung

gắn liền với nội dung các môn học được giảng dạy trong trường, góp phần giúp

cho các em học sinh có thêm các tài liệu tham khảo và khơi dậy trong các em

lòng nhân ái, vị tha và hiểu biết thêm về cuộc sống muôn màu.

Không chỉ dừng lại sưu tập, bảo quản, các thư viện đã giúp cho người đọc

có thể khai thác, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: học tập, nghiên cứu, giải

trí, … Việc bảo lưu các tác phẩm này đã phục vụ đắc lực cho nhu cầu thưởng

thức văn học, nghệ thuật, nuôi lớn những tâm hồn và nâng cao đời sống tinh thần

của người dân. Nhiều thư viện tỉnh đã hỗ trợ đắc lực cho các Đài Phát thanh -

Truyền hình để giới thiệu sách trong chương trình đọc truyện đêm khuya, chuyên

mục tạp chí Văn hóa mỗi kỳ một tác phẩm, giới thiệu sách trên tạp chí văn hóa

của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tiêu biểu là thư viện tỉnh Vĩnh Long, Nghệ

An, …

Việc bảo lưu các tác phẩm không chỉ đơn thuần là việc lưu giữ trong kho

thư viện mà còn được thực hiện bằng nhiều hình thức chuyển dạng dưới dạng thu

nhỏ (vi phim, vi phiếu) hoặc số hóa. Thư viện Quốc gia Việt Nam, các thư viện

tỉnh và trung tâm học liệu đã số hóa được một số tác phẩm văn học có giá trị để

bảo quản văn bản gốc đồng thời tạo điều kiện cho nhiều người có thể sử dụng.

1.2 . Việc tuyên truyền, giới thiệu các tài liệu văn học nghệ thuật tại các thư viện

Để các tác phẩm văn học, nghệ thuật đến với người đọc, các thư viện thuộc

các loại hình khác nhau đã tiến hành nhiều hình thức tuyên truyền giới thiệu sách,

như: tổ chức các cuộc nói chuyện tác giả - tác phẩm, nói chuyện chuyên đề; tổ

chức các cuộc trưng bày, triển lãm; tổ chức các phương tiện tra cứu giúp cho

người đọc có thể tìm được các tác phẩm văn học một cách dễ dàng nhanh chóng

thong qua mục lục hộp phiếu và mục lục trực truyến.

Để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân sống ở vùng sâu,

vùng xa, các thư viện đã tiến hành phục vụ lưu động, luân chuyển sách với nhiều

hình thức khác nhau, bằng xe ô tô thư viện, bằng xe máy… Trong số đó, có

không ít các tác phẩm văn học, nghệ thuật..

Một số thư viện công cộng còn sử dụng hình thức sân khấu hóa việc giới thiệu,

đưa sách đưa thư viện đến với cộng đồng, thu hút được đông đảo người tham gia.

Page 78: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

75

Bên cạnh đó, việc thi kể chuyện sách được các thư viện tổ chức với các chủ đề khác

nhau diễn ra hàng năm đã giúp cho người đọc, đặc biệt là các em thiếu nhi quan tâm

đến các tác phẩm văn học nhiều hơn. Các cuộc thi viết về các tác phẩm văn học,

những cuốn sách làm ảnh hưởng đến cuộc đời em, các cuộc thi vẽ tranh theo sách đã

góp phần nuôi lớn mầm chân, thiện, mỹ trong tâm hồn trẻ, giúp các em nhận cảm

được vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống, từ đó khơi dậy khát vọng học hỏi, nghị lực

sống, tình yêu thương mãnh liệt của trẻ đối với con người và cuộc sống.

Trong các thư viện trường phổ thông: Tại thư viện trường phổ thông, cán

bộ thư viện đã chủ động phối hợp với giáo viên tìm ra các biện pháp hữu hiệu để

thu hút các em đọc sách. Tại trường THCS & THPT Nguyễn Tất Thành, các cán

bộ thư viện đã cùng các giáo viên chủ nhiệm tổ chức được rất nhiều hoạt động bổ

ích lôi cuốn các em học sinh đến với thư viện. Một trong những hoạt động nổi bật

nhất là cuộc thi: “Bình truyện ngắn chọn lọc về ngày nhà giáo Việt Nam” nhận

được sự hưởng ứng tham gia của rất nhiều các bạn học sinh của trường. Bên cạnh

đó, Thư viện còn kết hợp với giáo viên dạy văn tổ chức cho các em cuộc thi kể

truyện cười, qua đó khuyến khích các em có thêm hứng thú học về một thể loại

trong chương trình học ngữ văn [2].

1.3 Đánh giá về những thành tựu và tồn tại của thư viện trong việc

phát huy vai trò bảo lưu và phát triển văn học nghệ thuật sau năm năm thực

hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị

- Một số thành tựu

+ Với việc thu thập bảo quản các tác phẩm văn học nghệ thuật, thư viện đã

góp phần bảo lưu văn học nghệ thuật để có thể lưu truyền từ đời này sang đời

khác, đáp ứng nhu cầu đọc với nhiều mục đích khác nhau của người sử dụng.

+ Thông qua việc phục vụ nhu cầu đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật,

thư viện đã góp phần xây dựng nhân cách con người Việt Nam,

+ Với việc tổ chức các cuộc thi kể sách, vẽ tranh theo sách, viết bài cảm nhận

về những sách, thư viện đã góp phần phát triển khả năng sáng tạo văn học nghệ

thuật cho người đọc. Riêng năm 2012, tại Thư viện KHTH TP. Hồ Chí Minh có

32.640 học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 tham gia viết bài cảm nhận và 600.921 em tham

gia trong đó có 3.547 em khiếm thị tham gia cuộc thi nét vẽ xanh. Từ việc thu thập,

bảo quản và phục vụ nhu cầu tài liệu văn học nghệ thuật, thư viện đã hình thành

nên nguồn cảm hứng sáng tạo cho người đọc đặc biệt là các em thiếu niên.

- Một số điểm còn hạn chế

+ Do ngân sách dành cho thư viện còn chưa đảm bảo, nên các thư viện ở cơ

sở, thư viện trường học còn chưa bổ sung được các sách, các tài liệu văn học

nghệ thuật đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhiều thư viện huyện, thư viện xã,

thư viện trường học không có kinh phí để bổ sung sách. Nhà giáo Nhật Duy, tổ

trưởng tổ Ngữ văn của một trường phổ thông trong bài viết “Học sinh đọc gì ở

thư viện trường Trung học cơ sở?” đã nhận xét: “Điều dễ nhận thấy ở các thư

viện trường học hiện nay có một điểm chung là sách báo quá ít, nhiều đầu sách

không phục vụ được nhu cầu của thầy và trò bởi nó cũng chẳng có gì liên quan

Page 79: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

76

đến chuyên môn dạy và học. Và, một điều dễ nhận thấy nữa là thư viện nào cũng

vắng, không thấy bạn đọc, đặc biệt là các em học sinh” [3].

Qua phỏng vấn các cán bộ thư viện ở các tỉnh và các em học sinh, đặc biệt

là các em học sinh miền núi và vùng biên giới, nhu cầu đọc sách văn học, đặc biệt

là các truyện cổ tích, truyện tranh nhưng thư viện trường không có, chờ vào các

đợt luân chuyển thì vài tháng mới có một lần. Khi trao đổi với các lãnh đạo chính

quyền địa phương, chúng tôi được biết nhu cầu sách nói chung và sách văn học

nghệ thuật nói riêng bằng tiếng dân tộc của người Khơ me, người Chăm rất lớn

nhưng các thư viện chưa có các sách tiếng dân tộc.

Xu hướng đọc đã có sự thay đổi, từ những sách báo tài liệu truyền thống,

người dân đã có nhu cầu đọc dưới dạng điện tử, đọc qua mạng nhưng hiện nay do

kinh phí bổ sung hạn chế, và cũng do nguồn tài liệu điện tử về văn học nghệ thuật

trong các thư viện còn ít nên nhu cầu đọc, thưởng thức tác phẩm văn học nghệ

thuật dưới dạng kỹ thuật số còn chưa được đáp ứng.

II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

Để thư viện có thể phát huy những kết quả đạt được về thực hiện nghị

quyết 23 của Bộ Chính Trị, tiếp tục đưa hoạt động vào chiều sâu góp phần tích

cực vào việc bảo lưu và phát triển văn học nghệ thuật, có một số vấn đề đặt ra cần

có sự quan tâm của Chính phủ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và các cơ quan

chức năng. Từ thực tiễn với những hạn chế và các vấn đề đang đặt ra, Vụ Thư

viện xin đề xuất một số kiến nghị sau:

2.1. Đối với Nhà nước:

- Nhà nước cần có những đầu tư thích đáng cho các dự án thu thập và lưu

giữ các cổ bản văn học nghệ thuật còn đang lưu hành trong nhân dân, đặc biệt là

ở các địa phương vùng dân tộc. Coi đây là vốn quý hiếm bị lãng quên như các

trường ca, các sự tích anh hùng, các tác phẩm văn học, đặc biệt là các loại hình

nghệ thuật dân gian của 54 dân tộc anh em.

- Nhu cầu đọc sách của người dân tộc và người khiếm thị cũng là một vấn

đề được quan tâm. Nhà nước cần có chính sách trợ giá trong việc xuất bản sách

bằng tiếng dân tộc và sách chữ nổi, sách nói cho người khiếm thị đồng thời cấp

ngân sách cho các thư viện công cộng để có thể bổ sung các loại tài liệu này.

- Trong chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, cần bổ sung

thêm các nội dung trang bị xe thư viện lưu động cho các thư viện tỉnh, trang bị sách

cho để tiếp tục xây dựng kho sách lưu động cho các thư viện tỉnh, hỗ trợ kinh phí

xây dựng các thư viện huyện vùng sâu vùng xa, vùng thực sự khó khăn…

2.2. Đối với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch:

- Bộ sớm trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án phát triển văn hóa đọc trong

cộng đồng” để tạo ra chính sách, thu hút sự quan tâm, đầu tư của các bộ ngành

với việc đọc sách nói chung và đọc sách văn học nghệ thuật nói chung được tăng

Page 80: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

77

cường, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, khả năng tiếp cận với sách báo nói

chung và các tác phẩm văn học nghệ thuật nói riêng.

- Bộ cần có sự đề xuất với Chính phủ để mở rộng các nội dung liên quan

đến thư viện trong Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa để các

thư viện có thể tăng thêm sự đầu tư nhằm nâng cao khả năng bổ sung, luân

chuyển và tuyên truyền các tác tác phẩm văn học nghệ thuật đến với cộng đồng.

- Bộ cũng cần sớm cho thực hiện các sự án số hóa tài liệu để các thư viện và

người dân có thêm nguồn tài liệu số, đặc biệt là với các tác phẩm văn học, nghệ thuật

có giá trị và đặc sắc. Đây cũng là một hoạt động góp phần không nhỏ vào việc lưu

giữ và phát triển văn học nghệ thuật trong thời đại công nghệ thông tin phát triển.

2.3. Đối với ngành thư viện

- Các thư viện công cộng cần tăng cường phát triển vốn tài liệu nhằm đáp ứng

phần lớn nhu cầu học tập, nghiên cứu và giải trí của nhân dân; Đổi mới phương thức

phục vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của bạn đọc; Tích cực thực hiện việc luân

chuyển sách báo xuống cơ sở, thường xuyên tuyên truyền giới thiệu sách, tổ chức tốt

phong trào thi đọc sách báo, xây dựng ý thức, thói quen đọc sách báo cho người dân

trên địa bàn; Củng cố và đẩy mạnh hoạt động của thư viện cơ sở.

- Nâng cao nhận thức cho cán bộ thư viện về vai trò bảo lưu và phát triển

văn học nghệ thuật ở cộng đồng là một hoạt động lâu dài của toàn ngành.

- Các thư viện cần tăng cường tổ chức các hoạt động giới thiệu quảng bá

các tài liệu văn học và nghệ thuật tới rộng rãi công chúng, bạn đọc, nhất là học

sinh sinh viên để nuôi dưỡng tâm hồn Việt trong sáng của các em thiếu nhi; Tổ

chức các đợt thi tìm hiểu văn học nghệ thuật dân tộc ở các tỉnh, các huyện. Thông

qua đó tuyên truyền giới thiệu cho bạn đọc những tác phẩm văn học hay, những

loại hình nghệ thuật độc đáo. Hoạt động này thiết thực đóng góp cho việc bảo lưu

và phát triển vốn quý của dân tộc hiệu quả trong cộng đồng.

- Đối với thư viện trường phổ thông, cần được cấp thêm kinh phí để mua

những tác phẩm văn học phục vụ cho việc học và giải trí của các em.

- Tăng cường bổ sung thêm các tài liệu văn học nghệ thuật điện tử, các tài

liệu cho phép tiếp cận qua Internet để phạm vi sử dụng các tài liệu này được rộng

hơn, vượt ra ngoài giới hạn của các bức tường của tòa nhà thư viện

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị Quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát

triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới ngày 16/6/2008

2. Giới thiệu về thư viện trường THCS & THPT Nguyễn Tất Thành. Truy

cập tại: http://www.ntthnue.edu.vn/category/thu-vien.html

3. Học sinh đọc gì ở thư viện trường Trung học cơ sở ? Giáo dục và Thời

đại online ngày 6/1/2013, truy cập tại:

http://www.gdtd.vn/channel/2762/201301/hoc-sinh-doc-gi-o-thu-vien-truong-

THCS-1966095

Page 81: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

78

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VĂN HÓA NGHỆ THUẬT SAU 5 NĂM THỰC

HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

PGS.TS Đào Mạnh Hùng

Vụ trưởng Vụ Đào tạo

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Văn hoá nghệ thuật có vị trí đặc biệt quan trọng trên mặt trận tư tưởng, là

động lực cổ vũ toàn dân tộc đi theo con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và

Bác Hồ đã chọn. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam, dưới

sự lãnh đạo của Đảng, đến nay đã được thể hiện qua 3 dấu mốc quan trọng, đó

là: Đề cương Văn hoá Việt Nam năm 1943; Nghị quyết Trung ương 5 khoá (VIII)

của BCHTW Đảng năm 1998 và Nghị quyết 23-NQ/TW BCT BCHTW ngày

16/6/2008 “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam

trong thời kỳ mới”.

Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu một bước ngoặt lớn đối

với sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật. Nghị quyết tập trung vào các hoạt

động quan trọng, gồm: sáng tác, lý luận, phê bình; sản xuất, trình diễn, giao lưu,

hợp tác, sử dụng, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật; đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ hoạt động văn học, nghệ thuật; công tác lãnh đạo, điều hành, quản lý, đầu

tư, tài trợ đối với hoạt động văn học, nghệ thuật. Như Nghị quyết đã đánh giá,

trong thời gian qua văn học, nghệ thuật Việt Nam có bước phát triển mới, có

những biến đổi sâu sắc, những đặc điểm mới, đạt được nhiều thành tựu, nhưng

cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đan xen nhau….So với yêu cầu phát triển đất

nước và những định hướng được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá

VIII), hoạt động văn học, nghệ thuật thời gian qua đã bộc lộ một số yếu kém,

khuyết điểm.

Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định: Giải quyết tốt các yêu

cầu theo một định hướng đúng là một trong những nhân tố đảm bảo cho văn học,

nghệ thuật phát triển ngày càng phong phú, đa dạng, góp phần tích cực xây dựng

nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Đánh giá đúng những thành tựu đạt được, chỉ ra những yếu kém, khuyết

điểm, đặc biệt là những nguyên nhân của những thành tựu và yếu kém đó để sửa

chữa, khắc phục là cơ sở để phát triển nền văn học, nghệ thuật tương xứng với

tầm vóc của sự nghiệp đổi mới.

Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác

đào tạo văn hoá nghệ thuật, trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng,

Nhà nước, sự nghiệp đào tạo văn hoá nghệ thuật có những chuyển biến tích cực:

Mạng lưới các trường tiếp tục được củng cố và phát triển; quy mô đào tạo không

ngừng được mở rộng, các loại hình đào tạo được đa dạng hoá, đáp ứng nhu cầu

phát triển kinh tế-xã hội. Công tác xã hội hoá tiếp tục được đẩy mạnh; việc liên

kết đào tạo giữa các trường trung ương và địa phương ngày càng chặt chẽ và mở

rộng; công tác đào tạo cán bộ cho khu vực dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa

Page 82: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

79

được ưu tiên, chú trọng. Các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế trong đào tạo

tiếp tục được duy trì và phát triển, góp phần nâng cao chất lượng, đổi mới phương

thức đào tạo. Nhiều Nhà giáo được trao tặng những phần thưởng cao quý của

Đảng và Nhà nước; nhiều học sinh, sinh viên đạt được những thành tích cao trong

học tập, nghiên cứu khoa học và đoạt giải tại các kỳ thi tài năng nghệ thuật trong

nước và quốc tế … Có được những thành tích này là do các cơ sở đào tạo văn hoá

nghệ thuật đã phát huy được tinh thần nỗ lực, sáng tạo, chủ động, tự chủ, tự chịu

trách nhiệm và tập trung xây dựng, kiện toàn đội ngũ giáo viên, giảng viên, tăng

cường và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo. Bộ Văn

hoá, Thể thao và Du lịch đã xây dựng 3 đề án và đã được Chính Phủ phê duyệt đó

là các đề án: «Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hoá, thể thao và du lịch đến

năm 2020», «Đào tạo giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật

giai đoạn 2011-2020» và đề án «Đổi mơí và nâng cao chất lượng đào tạo của các

trường văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020» sau khi được Thủ tướng phê

duyệt, Bộ VHTTDL đã thành lập Ban chỉ đạo cả 3 đề án trên, phê duyệt kế hoạch

và đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị triển khai các đề án. Ngày 3/4/2013 Ban chỉ

đạo các đề án đã họp nghe báo cáo kết quả việc triển khai các đề án năm 2012 và

kế hoạch 2013. Đặc biệt với đề án theo nghị quyết 23-NQ/TW «Đổi mơí và nâng

cao chất lượng đào tạo của các trường văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020»

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai những công việc cụ thể sau :

+ Đổi mới công tác tuyển sinh, tốt nghiệp trong lĩnh vực văn hoá nghệ

thuật: Đề án Đổi mới công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy khối các

trường Văn hóa- Nghệ thuật đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê

duyệt (gọi tắt là Đề án 102) triển khai áp dụng thí điểm trong năm 2013 cho 10 cơ

sở đào tạo Văn hoá nghệ thuật. Hiệu quả của Đề án sẽ nâng cao chất lượng tuyển

sinh đầu vào, đáp ứng mục tiêu đào tạo của từng ngành và phù hợp điều kiện thực

tiễn, cũng như tính chất đặc thù đối với các ngành đào tạo tại các cơ sở đào tạo

đại học, cao đẳng khối Văn hóa - Nghệ thuật. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm cho các cơ sở đào tạo khối Văn hóa - Nghệ thuật trong công tác tuyển sinh.

Mở rộng nguồn tuyển sinh, nhằm nâng cao chất lượng tuyển chọn đầu vào, phù

hợp với đặc điểm và mục tiêu đào tạo nhân lực văn hóa nghệ thuật. Tạo điều kiện

thuận lợi tối đa cho thí sinh thi vào các ngành năng khiếu nghệ thuật của các cơ

sở đào tạo khối Văn hóa - Nghệ thuật, nhưng vẫn bảo đảm cho thí sinh có cơ hội

tham gia thi và xét tuyển vào các khối ngành khác.

+ Đổi mới về đào tạo, bồi dưỡng, phát triển tài năng: Tổ chức Hội thi tài

năng trẻ học sinh, sinh viên các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật nhằm lựa chọn, tôn

vinh tài năng, khích lệ học sinh, sinh viên tăng cường học hỏi, rèn luyện kỹ năng,

tích lũy kiến thức và đạo đức nghề nghiệp đảm bảo mục tiêu học tập để ngày mai

lập nghiệp. Qua đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch nhìn nhận và đánh giá chất

lượng đào tạo nhân lực tại các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật trên toàn quốc, để

từ đó có các biện pháp hỗ trợ, bồi dưỡng tài năng, nâng cao chất lượng đào tạo

nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời, các hội thi là dịp để các cơ sở đào

tạo văn hoá nghệ thuật có điều kiện giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong

công tác quản lý dạy và học.

Page 83: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

80

+ Đổi mới cơ cấu đào tạo và phát triển, hoàn thiện mạng lưới các cơ sở đào

tạo văn hoá nghệ thuật; tiến hành kiểm tra, đánh giá tổng thể thực trạng mạng

lưới các cơ sở đào tạo VHNT.

+ Đổi mới nội dung chương trình, giáo trình và phương thức đào tạo

VHNT trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học.

+ Xây dựng chương trình môn học trình độ đại học, cao đẳng các nhóm

ngành Mỹ thuật, Văn hoá, Múa, Sân khấu-Điện ảnh, âm nhạc.

+ Đổi mới công tác tuyển sinh, tốt nghiệp trong lĩnh vực văn hoá nghệ

thuật.

+ Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác quản lý, đào tạo của các trường

văn hoá nghệ thuật thông qua 3 hội nghị, hội thảo.

+ Xây dựng và triển khai dự án đào tạo Đại học và Sau đại học cho cán bộ,

giảng viên và sinh viên ở nước ngoài.

+ Xây dựng thông tư về chế độ giờ giảng, chế độ người mẫu, và chế độ hỗ

trợ tốt nghiệp cho học sinh sinh viên bảo vệ tốt nghiệp bằng tác phẩm.

Công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 23-

NQ/TW có thể khái quát như sau:

I. NHỮNG KẾT QUẢ DẠT DƯỢC

1. Mạng lưới các cơ sở đào tạo về văn hoá nghệ thuật trên toàn quốc

Tính tới năm 2012, trong cả nước có 56 cơ sở đào tạo chuyên nghiệp thuộc

lĩnh vực Văn hoá nghệ thuật, bao gồm:

1.1. Các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch (gọi tắt là trường Trung ương): có 16 cơ sở đào tạo Văn hóa nghệ

thuật, trong đó có 9 trường đại học, 4 trường cao đẳng, 2 trường trung cấp chuyên

nghiệp, 1 viện nghiên cứu có đào tạo tiến sĩ. Đây là các cơ sở đào tạo thuộc các

nhóm ngành: Âm nhạc, Văn hoá, Sân khấu - Điện ảnh, Mỹ thuật, Múa, Xiếc…

với các trình độ đào tạo: tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên

nghiệp. Trong số các trường trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có 7 cơ

sở đào tạo thạc sĩ (Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Nhạc viện Thành phố

Hồ Chí Minh, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Đại

học Mỹ thuật Việt Nam, Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và Đại học Sân

khấu-Điện ảnh Hà Nội) 4 cơ sở đào tạo được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ

đào tạo tiến sĩ thuộc lĩnh vực Âm nhạc, Mỹ thuật, Sân khấu, Điện ảnh, Văn hóa

học và Quản lý văn hoá (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Học viện Âm nhạc

quốc gia Việt Nam, Đại học Văn hóa Hà Nội và Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà

Nội).

1.2. Các trường văn hoá nghệ thuật thuộc tỉnh, thành phố: Có 36 trường do

các tỉnh, thành phố trực tiếp quản lý, trong đó có 01 trường đại học, 8 trường cao

đẳng, 27 trường trung cấp chuyên nghiệp. Đây là các cơ sở đào tạo đa ngành, đa

lĩnh vực, nhằm cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển văn hoá và

Page 84: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

81

nghệ thuật của địa phương, đồng thời làm nhiệm vụ tạo nguồn cho các trường văn

hóa nghệ thuật ở Trung ương.

1.3. Các trường đại học văn hóa nghệ thuật trực thuộc các Bộ, Ngành

khác, gồm 04 trường, trong đó 03 trường trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo và

01 trường trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Căn cứ vào nhu cầu đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật, từ nay đến năm

2015, dự kiến đề nghị Chính phủ thành lập 4 trường đại học trên cơ sở các

trường: Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai, Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật

Việt Bắc, Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Tây Bắc, Cao đẳng Múa Việt Nam. Như

vậy, tính đến năm 2015 sẽ có 13 trường đại học về văn hóa và nghệ thuật trực

thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Một số trường cao đẳng ở các địa

phương sẽ được nâng cấp thành các trường đại học theo quy hoạch chung.

Hệ thống các trường văn hoá nghệ thuật những năm qua đã được củng cố

và phát triển về mọi mặt, cơ sở vật chất đã được đầu tư nâng cấp và xây dựng

mới, các trường địa phương phân bố tập trung ở các tỉnh, thành phố có nhu cầu

phát triển lớn về văn hoá nghệ thuật, các trường ở trung ương phân bố ở 2 khu

vực chính là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn 2 cơ sở đào tạo

phục vụ cho khu vực miền núi dân tộc là Tây Bắc và Việt Bắc (đặt tại Hòa Bình

và Thái Nguyên).

2. Chương trình, giáo trình và các ngành đào tạo

Việc xây dựng chương trình khung đào tạo khối ngành văn hoá nghệ thuật

thống nhất trong cả nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và đổi mới

và nâng cao chất lượng đào tạo. Thực hiện ý kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo,

trong những năm qua, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã triển khai xây dựng

các chương trình khung giáo dục, trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên

nghiệp. Chương trình khung xây dựng có kết cấu mềm dẻo, vừa đảm bảo sự

thống nhất về mặt bằng trình độ chung của cả nước, phát huy tính chủ động của

từng trường, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền… nhằm đảm bảo tính

tiên tiến, hiện đại của nội dung chương trình và trình độ đào tạo. Cụ thể:

- Chương trình khung giáo dục đại học, trình độ đại học: Năm 2008, 2009

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng 20 chương trình khung và bàn giao

cho Bộ Giáo dục - Đào tạo. Đến nay các chương trình khung này đã được Bộ

Giáo dục và Đào tạo ban hành áp dụng thống nhất trong cả nước, gồm các ngành:

Piano, Biểu diễn nhạc cụ phương tây, Huấn luyện múa, Biểu diễn Kịch - Điện

ảnh, Quay phim, Thư viện-Thông tin, Bảo tồn - Bảo tàng (nay là Bảo tàng học),

Phát hành xuất bản phẩm, Hội hoạ, Đồ hoạ ứng dụng (nay là Thiết kế đồ hoạ),

Thanh nhạc, Biểu diễn nhạc cụ truyền thống, Sáng tác âm nhạc, Lý luận và lịch

sử mỹ thuật, Điêu khắc, Biên đạo múa, Đạo diễn điện ảnh, Công nghệ Điện ảnh -

Truyền hình, Nhiếp ảnh, Xuất bản.

- Chương trình đào tạo, trình độ thạc sĩ và tiến sĩ: Bộ Văn hoá, Thể thao và

Du lịch có 8 cơ sở đào tạo sau đại học đào tạo các lĩnh vực Văn hoá, Âm nhạc,

Mỹ thuật, Sân khấu, Điện ảnh. Trong đó có 4 cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh là

Nhạc viện Hà Nội và Viện Văn hoá nghệ thuật Việt Nam, Trường Đại học Văn

Page 85: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

82

hoá Hà Nội và Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội với 10 mã ngành đào

tạo ở trình độ thạc sĩ và 11 mã ngành ở trình độ tiến sĩ. Các cơ sở đào tạo đã xây

dựng chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ theo khung chương trình của Bộ Giáo

dục và Đào tạo quy định. Chương trình đào tạo thường xuyên được cập nhập, bổ

sung, điều chỉnh nội dung chương trình nhằm đảm bảo tính hợp lý, cân đối và phù

hợp với yêu cầu đào của từng chuyên ngành.

- Biên soạn giáo trình: Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đầu tư kinh phí và

giao cho các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ biên soạn giáo trình dùng chung trong

các trường văn hoá nghệ thuật nhằm giúp các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật

địa phương chưa có khả năng biên soạn giáo trình giảng dạy có thể áp dụng

những giáo trình đã được nghiệm thu.

- Danh mục ngành đào tạo khối văn hoá nghệ thuật: căn cứ vào tình hình

phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và xu thế hội nhập quốc tế, Bộ Văn hoá,

Thể thao và Du lịch đã đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo danh mục các ngành

đào tạo lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật trình độ đại học và cao đẳng, gồm 46 ngành

thuộc các nhóm ngành: Mỹ thuật, Nghệ thuật trình diễn, Nghệ thuật nghe nhìn,

Mỹ thuật ứng dụng, Thông tin - Thư viện, Lưu trữ - Bảo tàng, Xuất bản - Phát

hành, Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam… Về cơ bản Bộ Giáo dục và Đào tạo nhất

trí với đề xuất của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, và sẽ đưa khoảng 46 ngành

do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đề xuất vào danh mục ngành đào tạo của

Việt Nam.

3. Đội ngũ giảng viên, giáo viên

Đội ngũ giáo viên, giảng viên văn hóa nghệ thuật trong những năm gần đây

tăng về số lượng, nâng cao về trình độ đào tạo. Hầu hết các nhà giáo có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, tích cực học

tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm

vụ được giao. Với nỗ lực và lòng yêu nghề, đội ngũ giảng viên, giáo viên văn hoá

nghệ thuật trong cả nước đã góp phần tạo ra nguồn nhân lực hoạt động văn hoá

nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và góp phần xây dựng nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Hiện nay, đội ngũ giảng viên, giáo viên các trường văn hóa nghệ thuật có

trình độ sau đại học còn hạn chế so với tổng số giảng viên, giáo viên, chiếm tỉ lệ

rất thấp, nhiều giảng viên, chuyên gia có trình độ cao, được đào tạo cơ bản ở

trong nước và nước ngoài, tích luỹ được nhiều kiến thức, kinh nghiệm về chuyên

môn và nghiệp vụ đã lớn tuổi và nghỉ hưu. Việc gửi đi đào tạo ở nước ngoài một

số ngành mà trong nước chưa đủ sức đào tạo hoặc đào tạo nhưng với chất lượng

chưa cao trong những năm qua là rất ít. Tình hình đó khiến cho đội ngũ giảng

viên, giáo viên nói chung thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Số giảng viên,

giáo viên kế cận chưa đủ thời gian tích luỹ kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ

cũng như kinh nghiệm giảng dạy nên chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu về chất

lượng đào tạo. Để khắc phục tình trạng nêu trên, các trường văn hóa nghệ thuật ở

trung ương và địa phương, ngoài việc sử dụng số biên chế hiện có và giảng viên,

Page 86: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

83

giáo viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng, đã mời nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, các

nhà giáo đã nghỉ hưu có trình độ cao tham gia giảng dạy.

4. Hợp tác quốc tế về đào tạo

Sau sự kiện Liên Xô không còn nguồn hỗ trợ đào tạo của các nước trong

khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, việc gửi cán bộ, học sinh đi đào tạo ở nước

ngoài bằng ngân sách nhà nước bị hạn chế do chi phí đào tạo nghệ thuật ở nước

ngoài quá cao. Việc gửi đi đào tạo nghệ thuật ở nước ngoài chỉ được nối lại sau

khi có Quyết định của Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo cán bộ khoa học, kỹ

thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (Đề án 322) từ tháng 4

năm 2000. Tuy nhiên, với Đề án 322 và các đề án khác, số lượng cán bộ và giảng

viên, sinh viên được cử đi đào tạo ở trình độ đại học và sau đại học về văn hóa

nghệ thuật là rất ít từ nhiều lý do trong đó cơ bản là ngoại ngữ và học phí của các

trường Nghệ thuật ở các nước đều rất cao. Vì vậy, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch trong nội dung triển khai 2 đề án: «Đào tạo giảng viên trình độ cao trong lĩnh

vực văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020» và đề án «Đổi mơí và nâng cao

chất lượng đào tạo của các trường văn hoá nghệ thuật giai đoạn 2011-2020 » đã

ra quyết định thành lập số 1145/QĐ-BVHTTDL về việc thành lập ban chỉ đạo,

Hội đồng xét chọn cán bộ, giảng viên, giáo viên, học sinh , sinh viên Văn hoá

nghệ thuật, Thể dục thể thao và Du lịch đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài, đã

triển khai xây dựng quy chế và thông báo truyển sinh đi học nước ngoài bằng

ngân sách của đề án dự kiến tháng 10/2013 sẽ cử đoàn giảng viên và sinh viên

đầu tiên đi học ở nước ngoài theo nội dung của đề án. Trước đó đã chỉ đạo và tạo

điều kiện để các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ chủ động thiết lập các mối quan hệ

quốc tế trong đào tạo văn hóa nghệ thuật với các cơ sở đào tạo của Nga, Pháp,

Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Na Uy, Thuỵ Điển, Hàn Quốc... Thông qua

các mối quan hệ song phương với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài và sự giúp đỡ

của các tổ chức quốc tế, nhiều trường đã gửi cán bộ, học sinh, sinh viên đi đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ở nước ngoài và mời được các chuyên gia đến

giảng dạy tại các cơ sở đào tạo văn hoá nghệ thuật bằng nguồn kinh phí của Nhà

nước và các nguồn tài trợ khác.

5. Đầu tư cơ sở vật chất

Nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo

và nâng cao chất lượng đào tạo, trong những năm qua, các cơ sở đào tạo văn hoá

nghệ thuật trung ương và thuộc tỉnh, thành phố đã được tăng cường đầu tư xây

dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập ngày càng có

quy mô lớn và hiện đại, như: sửa sang, xây dựng ký túc xá cho học sinh, sinh

viên, xây dựng thêm nhiều phòng học, cung cấp nhiều trang thiết bị hiện đại đáp

ứng nhu cầu giảng dạy và học tập. Các trường: Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà

Nội, Học viện Âm nhạc Quốc gia, Cao đẳng Múa Việt Nam, Đại học Văn hoá Hà

Nội, Đại học Văn hoá TP. Hồ Chí Minh, Cao đẳng VHNT Việt Bắc, Cao đẳng

VHNT Tây Bắc... đều được đầu tư sửa chữa và xây mới cơ sở vật chất. Các

trường: Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh, Đại học Sân khấu, Điện ảnh TP.Hồ Chí

Minh, Trung cấp Múa TP. Hồ Chí Minh đều đang triển khai kế hoạch xây dựng

Page 87: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

84

cơ sở 2 tại các quận 2 và quận 9 TP. Hồ Chí Minh. Các trường: Đại học Sân khấu

Điện ảnh Hà Nội, Đại học Mỹ Thuật Việt Nam, Đại học Văn hoá Hà Nội và Học

viện Âm nhạc Quốc gia đang triển khai thủ tục xin đất tại Hà Nam để xây dựng

cơ sở 2. Học viện Âm nhạc Huế đang triển khai xây dựng cơ sở mới tại TP. Huế.

II. Những tồn tại

- Chất lượng đào tạo đạt hiệu quả chưa cao, chưa chú trọng nhiều đến thực

hành; đào tạo nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của xã hội;

nhân lực được đào tạo còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận

chính trị.

- Cơ cấu ngành nghề đào tạo và quy mô đào tạo tuy đã được đầu tư phát

triển nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự đáp ứng được với đòi hỏi của sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các ngành nghề đào tạo có mở rộng, bổ

sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được với nhu cầu của xã hội. Các ngành đào tạo

nghệ thuật như: Múa, Xiếc, Sân khấu truyền thống… gặp khó khăn trong công tác

tuyển sinh (thiếu nguồn tuyển). Cùng với những khó khăn trong công tác tuyển

sinh nghệ thuật, chi phí cho đào tạo lớn, trong khi ngân sách chi cho đào tạo nghệ

thuật hạn hẹp, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế nên chất lượng đào tạo,

nhất là đối với các ngành Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Xiếc bị

ảnh hưởng nhiều.

- Quy hoạch mạng lưới các trường còn bất hợp lý, không mang tính chiến

lược; bố trí các cơ sở đào tạo chưa phù hợp, chưa cập nhật được với tình hình

thực tế phát triển của Việt Nam dẫn đến hiệu quả đầu tư bị giảm; việc xây dựng

cơ sở hạ tầng còn mang tính chất tình thế, chưa có chiến lược lâu dài nên các

công trình xây dựng còn manh mún lạc hậu.

- Chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu sự linh hoạt và mềm dẻo, thiếu sự

liên thông, nặng phần lý thuyết chưa chú trọng đến phần thực hành; phương pháp

giảng dạy và học tập còn lạc hậu, chậm đổi mới, không đồng bộ và thiếu tính cập

nhật. Một số cơ sở đào tạo giáo trình còn lạc hậu, thiếu giáo trình chuẩn để giảng

dạy.

- Đội ngũ cán bộ, giảng viên hụt hẫng, thiếu về số lượng, hạn chế về chất

lượng, những cán bộ, giảng viên có trình độ cao và chuyên gia đầu ngành thiếu

nghiêm trọng; đội ngũ giảng viên ít tham gia nghiên cứu khoa học, chưa thực sự

toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp đào tạo văn hoá nghệ thuật. Việc phát hiện, đào

tạo, bồi dưỡng tài năng văn hoá nghệ thuật chưa được chú trọng.

- Quản lý nhà nước về đào tạo văn hoá nghệ thuật vẫn nặng tính hành

chính, quan liêu; cơ chế chính sách chưa tạo ra tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm

của các trường về nhân sự, về hoạch toán thu chi, về sản phẩm đào tạo, chưa tạo

sự cạnh tranh cần thiết để phát triển đào tạo văn hoá nghệ thuật trong xu thế hội

nhập. Quản lý ở các cơ sở đào tạo chưa đổi mới, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và

thói quen.

Page 88: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

85

- Văn bản pháp luật về giáo dục - đào tạo thiếu tính linh hoạt và mềm dẻo

chưa thực sự tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp đào tạo văn hoá nghệ thuật phát

triển, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc.

- Đầu tư cho đào tạo văn hoá nghệ thuật thấp và chưa được chú trọng.

- Các trường văn hoá nghệ thuật địa phương: việc đầu tư cơ sở vật chất và

trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập còn nhiều hạn chế; chưa có cơ chế,

chính sách tạo điều kiện liên kết đào tạo với nước ngoài.

III. Đề xuất, kiến nghị

1. Đổi mới cơ chế, chính sách và nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà

nước trong lĩnh vực đào tạo Văn hoá nghệ thuật

- Chính sách tăng cường đầu tư các nguồn lực phục vụ công tác đào tạo văn

hoá nghệ thuật trong cả nước, gồm: nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất.

- Chính sách đối với đội ngũ giảng viên, giáo viên văn hoá nghệ thuật: sử

dụng nghệ sĩ nổi tiếng, nhân dân, nghệ sĩ ưu tú vào việc giảng dạy (các môn thực

hành); thu hút Việt kiều và những người được đào tạo ở nước ngoài về tham gia

giảng dạy tại các cơ sở đào tạo.

- Chế độ học bổng đối với học sinh, sinh viên học các ngành nghệ thuật,

như: Tuồng, Chèo, Cải lương; biểu diễn nhạc cụ truyền thống; nhạc cụ phương

tây; kịch hát dân tộc; múa; xiếc...; đặc biệt chú trọng đến học sinh, sinh viên

miền núi, dân tộc và vùng sâu, vùng xa.

- Nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức, quản trị trường đại học, cơ cấu tổ

chức Hội đồng trường và cách thức quản lý trường.

2. Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn hóa nghệ thuật

- Thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ.

- Cơ chế, chính sách đối với việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn

hóa nghệ thuật, đặc biệt chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ

thuật độc đáo của dân tộc, trong đó thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:

+ Tổ chức các cuộc thi tài năng văn hóa nghệ thuật; các cơ sở đào tạo văn

hóa nghệ thuật trong cả nước có trách nhiệm phát hiện những em có năng khiếu

thực sự đề xuất với các Bộ, Ban ngành để có chế độ đào tạo, bồi dưỡng.

+ Được phép tuyển thẳng đối với những học sinh có tài năng thực sự (ưu

tiên những ngành nghệ thuật truyền thống); đào tạo dự bị đại học.

+ Có chế độ và cơ chế tài chính đầu tư cho việc đào tạo và bồi dưỡng tài

năng văn hóa nghệ thuật, cụ thể: chương trình, giáo trình đào tạo riêng; có đủ

trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác giảng dạy và học tập; nhà giáo và chuyên

gia giỏi ở trong nước và quốc tế giảng dạy; cử đi đào tạo, tham quam, thực tập và

tham gia các cuộc thi ở trong nước và nước ngoài...

Page 89: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

86

3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên, giáo viên và

cán bộ quản lý; đổi mới nội dung chương trình đào tạo, giáo trình giảng dạy và

phương pháp giảng dạy

- Giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý là lực lượng nòng cốt, có vai trò

quan trọng quyết định đối với thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và nâng cao chất

lượng đào tạo văn hoá nghệ thuật. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây

dựng và phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên có trình độ, kỹ năng và phẩm

chất tốt là một yêu cầu cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước. Vì vậy, hàng năm cần có kinh phí cho:

+ Cử cán bộ, giảng viên đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh ở nước

ngoài đối với các trường văn hóa nghệ thuật ở trung ương và địa phương.

+ Cử các đoàn cán bộ quản lý, giảng viên, giáo viên ở các trường văn hóa

nghệ thuật trung ương và địa phương đi nghiên cứu, khảo sát thực tế ở nước

ngoài.

+ Tăng cường mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và ngoại ngữ; 02 năm một lần tổ chức các hội thi

giáo viên dạy giỏi khối ngành văn hoá nghệ thuật.

- Đổi mới và nâng cao chất lượng chương trình, giáo trình đào tạo và

phương pháp giảng dạy.

+ Rà soát lại cấu trúc và quan hệ giữa các chương trình khung và nội dung

đào tạo của các trình độ đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, đảm

bảo sự liên thông giữa các trình độ đào tạo; xây dựng chương trình đào tạo tiếp

cận với chương trình đào tạo tiên tiến của các nước trên thế giới và trong khu vực.

Từng bước triển khai áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ.

+ Xây dựng chương trình giảng dạy liên thông giữa các trình độ đào tạo từ

trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học; chương trình giảng dạy có thể liên

thông với nước ngoài; xây dựng giáo trình điện tử; xây dựng thư viện điện tử.

+ Các môn học thực hành phải được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang

thiết bị phục vụ cho đào tạo, gồm: Trường quay, sân khấu, sàn tập, xưởng, phòng

hoà nhạc, phòng luyện thanh và các trang thiết bị khác phụ vụ giảng dạy và học

tập theo tiêu chuẩn tiên tiến; đổi mới phương thức dạy học, áp dụng cách thức

đánh giá hiện đại.

+ Đào tạo thí điểm một số chuyên ngành bằng tiếng Anh.

+ Đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học và khai thác có hiệu quả các đề tài

nghiên cứu khoa học; tăng cường việc giao cho một số cơ sở đào tạo xây dựng đề

tài nghiên cứu khoa học nhằm ứng dụng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo

văn hoá nghệ thuật.

+ Mua tài liệu của nước ngoài và chuyển giao công nghệ đào tạo của nước

ngoài vào Việt Nam; ứng dụng công nghệ hiện đại trong giảng dạy và học tập.

Page 90: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

87

+ Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống giáo trình chuẩn nhằm giúp các

cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật địa phương chưa

có khả năng biên soạn giáo trình giảng dạy.

3.4. Công tác tuyển sinh và tốt nghiệp

- Học sinh, sinh viên học các chuyên ngành nghệ thuật phải có năng khiếu,

vì vậy, để có cơ hội cho số đông thí sinh được dự thi và các cơ sở đào tạo có điều

kiện tuyển chọn được những thí sinh có năng khiếu thực sự, các cơ sở đào tạo văn

hoá nghệ thuật cần được tổ chức kỳ thi tuyển sinh riêng đối với trình độ đại học

và cao đẳng.

- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ chi phí tuyển sinh cho các cơ sở đào

tạo văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là đối với các trường phải đi đến vùng sâu, vùng

xa, vùng miền núi dân tộc thiểu số để tuyển sinh.

- Nhà nước cần hỗ trợ chi phí chuyên ngành cho kỳ thi tốt nghiệp đối với

lĩnh vực nghệ thuật, như : Âm nhạc, Mỹ thuật, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Xiếc, vì

những chuyên ngành này học sinh, sinh viên bảo vệ tốt nghiệp thông qua tác

phẩm nghệ thuật, chi phí cho các tác phẩm đó là rất lớn.

3.5. Hợp tác quốc tế trong đào tạo

- Mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy nhằm tạo điệu kiện trao đổi,

học hỏi và chuyển giao công nghệ giảng dạy;

- Liên kết đào tạo với các trường văn hoá nghệ thuật tiên tiến ở nước ngoài

và mời chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy tại Việt Nam; chú trọng việc liên kết

với nước ngoài đào tạo một số ngành mà xã hội đang cần nhưng trong nước chưa

có khả năng đào tạo. Đồng thời, trong khi liên kết cán bộ, giảng viên có thể học

hỏi được kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo và tiếp thu được chương

trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy để sau này các cơ sở đào tạo có thể chủ

động trong việc giảng dạy, cụ thể như ngành Công nghệ Âm nhạc, ngành Sản

xuất phim...

- Phối hợp với các cơ sở đào tạo nghệ thuật có uy tín ở nước ngoài trao đổi

đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, giáo viên văn hoá nghệ thuật.

- Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ đào tạo tiên tiến của

nước ngoài vào Việt Nam.

3.6. Quy hoạch mạng lưới trường và cơ cấu ngành nghề đào tạo

- Trên cơ sở nội dung Quy hoạch mạng lưới các trường VHNT, TDTT và

DL đã được Bộ Trưởng Bộ VHTTDL phê duyệt, rà soát, điều chỉnh, bổ sung

hoàn thiện hệ thống mạng lưới trường văn hoá nghệ thuật đến năm 2020 theo

ngành và trình độ đào tạo. Đảm bảo mỗi vùng kinh tế trọng điểm ít nhất có 01

trường đại học hoặc cao đẳng văn hoá nghệ thuật, xây dựng đề án đào tạo con em

đồng bào dân tộc thiểu số học tập theo chế độ nôị trú đang được xây dựng tại hai

trường: VHNT Việt Bắc và VHNT Tây Bắc. Hỗ trợ các địa phương triển khai

Page 91: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

88

thực hiện tốt Hướng dẫn số 73/HD-BGDĐT- BVHTTDL ngày 16/01/2013 về

việc sử dụng di sản văn hoá trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX.

Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường văn hóa nghệ thuật,

cung cấp nhiều nguồn nhân lực nghệ thuật đạt chất lượng cao cho đất nước qua

việc triển khai 03 đề án với những nội dung đã được thông qua tại cuộc họp Ban

chỉ đạo ngày 3/4/2012.

Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế tri thức bao gồm cả cả quá trình

phát triển kinh tế-kỹ thuật và phát triển văn hoá-xã hội theo hướng xây dựng nền

văn hoá Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc đang có những biến chuyển

mạnh mẽ. Quá trình ấy đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo

cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, vai trò của sự nghiệp giáo dục

và đào tạo nói chung, sự nghiệp đào tạo văn hoá, nghệ thuật nói riêng càng trở

nên quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định chất lượng nguồn nhân

lực cho đất nước. Sự nghiệp đào tạo văn hóa nghệ thuật rất cần có sự quan tâm và

chung tay của nhiều cấp ngành để đảm bảo hoàn chỉnh về chất và lượng theo xu

thế phát triển và hội nhập chung của giáo dục và đào tạo trên thế giới đạt 3 mục

tiêu lớn của Đảng ta đã thể hiện trong nghị quyết 23, một trong 3 mục tiêu đó là :

Xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển

mạnh mẽ nền văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới. Nâng cao chất

lượng các trường đào tạo văn học, nghệ thuật; hoàn thiện chương trình, nội dung,

giáo trình trong các trường cao đẳng, đại học giảng dạy các ngành đào tạo văn

học, nghệ thuật (sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo

diễn…); rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo,

bồi dưỡng văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này. Có kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài các năng khiếu, tài năng văn học, nghệ

thuật./.

Page 92: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

89

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÙNG CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

ĐỐI VỚI THỰC TRẠNG CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM

SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23 – NQ/TW

NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHINH TRỊ

Bùi Hoài Sơn

Phó Viện trưởng

Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam

MỞ ĐẦU

Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương

(khoá VIII) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên mục tiêu, nhiệm vụ xây

dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là những định

hướng quan trọng cho sự phát triển của văn hóa nói chung, văn học - nghệ thuật

nói riêng trong giai đoạn đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập

quốc tế.

10 năm kể từ khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương (khoá VIII), nhằm phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật và

của đội ngũ văn nghệ sĩ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp

tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Trong lĩnh vực

văn học, nghệ thuật, Nghị quyết 23 vừa là sự tổng kết những mặt đã làm được,

chưa làm được trong quá trình triển khai Nghị quyết Trung ương 5, vừa là sự đáp

ứng những đòi hỏi khách quan của thực tế đời sống văn học nghệ thuật trước

những thay đổi mạnh mẽ của đời sống xã hội.

5 năm đã trôi qua kể từ khi ban hành Nghị quyết 23, đây cũng là khoảng

thời gian đủ dài cần thiết để chúng ta có thể đánh giá lại những gì thực sự đã làm

được, chưa làm được trong việc triển khai Nghị quyết này trong cuộc sống, từ đó

có những định hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hơn nữa việc triển

khai Nghị quyết 23 trong đời sống văn học – nghệ thuật ở Việt Nam.

I. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG

VĂN HỌC – NGHỆ THUẬT VIỆT NAM SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI NGHỊ

QUYẾT SỐ 23-NQ/TW

Thực tế trong 05 năm gần đây cho thấy, sự biến động trong đời sống kinh tế,

xã hội và văn hóa diễn ra thực sự mạnh mẽ. Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phấn

đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước

công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, văn học, nghệ thuật nước ta

đứng trước những thời cơ, vận hội lớn, đồng thời cũng đứng trước những thách

thức mới gay gắt.

Văn học nghệ thuật ở một thời kỳ nhất định là tiếng nói của xã hội ở giai

đoạn đó. Trước hết chúng ta phải thừa nhận với nhau rằng, văn học nghệ thuật là

sự phản ánh xã hội một cách sinh động nhất. Không những thế, văn học nghệ

Page 93: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

90

thuật còn thể hiện đời sống tinh thần nói riêng, mặt bằng tinh thần của toàn xã hội

nói chung. Theo quan điểm của K. Marx, văn học nghệ thuật là yếu tố của cấu

trúc thượng tầng xã hội, phản ánh cơ sở hạ tầng cấu thành nên nó. Chính vì vậy,

trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trong những yếu tố không thể

thiếu là xây dựng một nền văn học nghệ thuật phản ánh được hết quá trình xây

dựng này, cũng như góp phần hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Chức năng của văn học nghệ thuật là nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ cũng

như giải trí và mang tính dự báo. Như vậy, nghệ thuật phản ánh thế giới theo cách

riêng của nó, phục vụ nhu cầu của khán giả cũng như chính người nghệ sĩ. Các

văn nghệ sĩ không phải là một thực thể tồn tại ngoài lề xã hội; văn nghệ sĩ viết,

sáng tác là để thông tin với xã hội tức là yêu cầu sự có mặt của xã hội; văn nghệ

sĩ biểu đạt nhân sinh quan của một nhóm người tồn tại dưới dạng tiềm năng, và

các văn nghệ sĩ với trực giác, cảm xúc, tài năng của mình, cá thể hóa nhân sinh

quan ấy bằng ngôn từ riêng của mình. Tác phẩm văn học nghệ thuật không chỉ là

tấm gương phản ánh những hiện tượng văn hóa, xã hội, kinh tế và lịch sử mà còn

sự góp phần vào việc tạo nên và hình thành nhận thức của xã hội.

Tuy vậy, trong bối cảnh xã hội hiện nay, thực tế đời sống có vô vàn hiện

tượng tiêu cực. Văn học nghệ thuật ra đời trong bối cảnh nền kinh tế thị trường

chắc chắn chịu những yếu tố chi phối của môi trường xã hội ấy. Chúng ta đã

chứng kiến rất nhiều các tác phẩm văn học - nghệ thuật chạy theo thị hiếu khán

giả. Tiền bạc cũng có sức quyến rũ và thế giới nghệ thuật phần lớn bị quyến rũ

bởi đồng tiền, vì thế, nhu cầu xã hội tạo ra những xu hướng sáng tác cho nghệ

thuật nói chung, văn học nói riêng. Theo thống kê trên mạng Internet, người Việt

Nam tra cứu thông tin về “sex” nhiều nhất trên thế giới. Trên truyền hình, báo

viết, có rất nhiều bài viết liên quan đến những câu chuyện giới tính (hở hang,

phòng the...). Với văn học nghệ thuật, những các tác phẩm văn học đề cập đến

giới tính như các tác phẩm Tình chuột, Bóng đè, Những sợi tóc màu tang lễ, Cô

gái điếm và 5 người đàn ông của Đỗ Hoàng Diệu, hai tập thơ Khát và Linh của Vi

Thuỳ Linh, Sợi xích của Lê Kiều Như... với cũng nằm trong xu thế chung của xã

hội này.

Như vậy, để đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được của Nghị

quyết 23-NQ/TW, chúng ta cần phải đặt tinh thần của Nghị quyết trong đúng bối

cảnh của nó, cũng như xem xét nó từ góc độ chức năng và vai trò của văn học

nghệ thuật. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải xem xét, đặc biệt là những yếu kém,

khuyết điểm được nêu trong Nghị quyết, để nhận thấy rằng, sau 05 năm triển khai

Nghị quyết, văn học nghệ thuật Việt Nam đã khắc phục được những yếu kém,

khuyết điểm gì! Cũng như việc xem xét các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, chủ

trương và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thòi

kỳ mới được đề ra trong Nghị quyết 23 có còn phù hợp với bối cảnh hiện nay hay

không?

Từ cách tiếp cận như vậy, chúng ta mới có thể làm sáng tỏ các phương diện

lý luận cũng như thực tiễn mà Nghị quyết 23-NQ/TW đặt ra.

Page 94: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

91

II. MỘT SỐ CƠ SỞ THỰC TIỄN TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ THỰC

TRẠNG VĂN HỌC – NGHỆ THUẬT VIỆT NAM SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI

NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW

Nghị quyết 23-NQ/TW đề ra 03 mục tiêu cơ bản sau:

- Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng

nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân;

phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục

tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả

về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững

chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp

đổi mới do Đảng lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết,

gắn bó cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, bảo đảm yêu

cầu phát triển của lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.

Để thực hiện các mục tiêu trên, Nghị quyết đề ra 03 quan điểm chỉ đạo gồm:

- Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá;

là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một

trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của

xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.

- Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm

nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn

học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng

con người; vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá - tinh thần

ngày càng cao của nhân dân. Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời

với tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Trên cơ sở

giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục

mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến

bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ

đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch.

- Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện,

bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm

của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ

thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện

thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ.

Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân

dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng

sự đất nước và dân tộc.

Page 95: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

92

Như vậy, cũng giống như Nghị quyết Trung ương năm, Nghị quyết 23 là

một cứ huých lớn để Đảng, các cơ quan văn hóa và các văn nghệ sĩ tiếp tục

nghiên cứu, đổi mới phát triển lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, nâng cao

tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần hướng dẫn điều chỉnh sáng tác, phê

bình có hiệu quả cũng như đổi mới và nâng cao các hoạt động công bố, giới thiệu

truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật tốt phục vụ đông đảo nhân dân; và tổ

chức nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học, nghệ thuật đương

đại để vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học, nghệ thuật đất nước.

Trên thực tế, để triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, các cấp lãnh

đạo và đội ngũ văn nghệ sĩ cả nước đã có nhiều chương trình, đề án thực hiện.

Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Hội Văn học

nghệ thuật, cũng như các tỉnh, thành phố đều có chương trình hành động để triển

khai Nghị quyết quan trọng này. Chẳng hạn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

triển khai xây dựng 4 đề án gồm: Đề án 1: Xây dựng và rà soát các chế độ chính

sách đối với hoạt động văn học nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng

đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật; Chính sách khuyến khích sáng tác trong

các hoạt động văn học nghệ thuật. Đề án 2: Đổi mới và nâng cao chất lượng đào

tạo của các trường văn hoá, nghệ thuật giai đoạn 2011-2020. Đề án 3: Xây dựng

chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu đãi… đối với các tác phẩm văn học,

nghệ thuật trong nước; văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và giới

thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào Việt Nam; chính sách sưu tầm,

chỉnh lý, bảo tồn, phát huy, quảng bá di sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát

triển văn học, nghệ thuật quần chúng. Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà soát,

đánh giá lại các công trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các

công trình văn hoá từ năm 2010-2020.

Từ những bối cảnh trên, cơ sở thực tiễn trong việc đánh giá thực trạng văn

học, nghệ thuật Việt Nam sau 05 năm triển khai Nghị quyết số 23-NQ/TW gồm:

Thứ nhất, đó là những chương trình, đề án, dự án, văn bản quy phạm pháp

luật, hướng dẫn… được triển khai từ khi có Nghị quyết 23. Trong đó, đặc biệt là

các chương trình, đề án nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của

các cấp uỷ đảng, cơ quan nhà nước; nội dung và phương thức lãnh đạo; Việc thể

chế hoá các nghị quyết, quan điểm; Sửa đổi, bổ sung các chính sách đối với văn

nghệ và văn nghệ sĩ; Xây dựng những công trình trung tâm lớn cho hoạt động văn

hoá, nghệ thuật, tương xứng với vị thế của đất nước thời kỳ mới; đổi mới nội

dung và phương thức hoạt động các Hội văn học, nghệ thuật.

Thứ hai là những đánh giá về sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ

lãnh đạo, văn nghệ sĩ và nhân dân đối với vai trò của văn học nghệ thuật trong

tình hình mới. Đặc biệt là những đánh giá về sự đổi mới trong nội dung và

phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật; ý thức về những tác

động phức tạp, tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, khi định hướng và xử lý

những vấn đề mới phát sinh trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.

Thứ ba là kết quả của các sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật theo

mục tiêu Nghị quyết 23 đặt ra. Trong đó, đặc biệt là những đánh giá liên quan đến

sáng tác, biểu diễn, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật thể hiện được tính

Page 96: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

93

chất tiên tiến và bản sắc dân tộc. Số lượng tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và

nghệ thuật. Các tác phẩm thể hiện lý tưởng xã hội, ý nghĩa xã hội, giá trị thẩm mỹ

rõ nét. Sự cảm nhận của các văn nghệ sĩ về những vấn đề mới của cuộc sống,

chiều sâu và tính phức tạp của quá trình chuyển biến mang tính lịch sử trong thời

kỳ mới của đất nước. Tính chuyên nghiệp trong các hoạt động văn học, nghệ

thuật. Tăng cường hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật nhằm giải đáp được

nhiều vấn đề của đời sống, gắn bó với thực tiễn sáng tác. Nghiên cứu và phát huy

tương xứng với vai trò và giá trị của lý luận văn nghệ và mỹ học mác-xít.

Thứ tư là sự phát triển về chất lượng và số lượng của đội ngũ văn nghệ sĩ,

các tài năng văn học, nghệ thuật. Trong đó cần đánh giá về công tác đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ: chương trình, nội dung; chất lượng đào tạo toàn diện

về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, đạo đức, thể chất; chú trọng đúng mức tính

đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng; việc gửi giảng viên và sinh viên

các ngành nghệ thuật đào tạo ở nước ngoài; đội ngũ giáo viên đầu đàn, có trình độ

chuyên môn cao; điều kiện và phương tiện phục vụ dạy và học; đội ngũ lý luận,

phê bình.

Thứ năm là số lượng và chất lượng quan hệ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực

văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt là các chương trình có tính dân tộc cao, có chất

lượng tốt để quảng bá ra nước ngoài; chọn lọc giới thiệu tinh hoa văn hóa nhân

loại, các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật tiến bộ được công chúng quan tâm đến

người dân trong nước.

III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ

Trên cơ sở tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phát triển văn học,

nghệ thuật đã được nêu trong Nghị quyết 23-NQ/TW, chúng tôi xin có một số đề

xuất và khuyến nghị sau:

- Để các đề án, chương trình, dự án, văn bản qui phạm pháp luật đi vào cuộc

sống, cần triển khai các lớp tập huấn nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn

xã hội nói chung, tầng lớp văn nghệ sĩ nói riêng đối với các lĩnh vực văn học,

nghệ thuật về các chủ đề cụ thể như: đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp

sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ

thuật nước nhà. Mục đích của các chương trình hành động này nhằm khuyến

khích văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân

dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu

tinh hoa văn hoá của nhân loại; lên án, phê phán không khoan nhượng những tiêu

cực, xấu xa đang cản trở sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam.

- Để tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ lãnh đạo, văn nghệ sĩ và

nhân dân đối với vai trò của văn học nghệ thuật trong tình hình mới, các cấp uỷ

đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá,

văn học, nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển, của từng địa phương,

từng ngành. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm được định

hướng chính trị; khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp thô bạo

đối với hoạt động văn học nghệ thuật, cũng như xu hướng thả nổi, không phê

Page 97: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

94

phán những tác giả, tác phẩm đi ngược lại các giá trị chân, thiện, mỹ, những giá

trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng. Cấp uỷ đảng các cấp có kế hoạch định kỳ

làm việc với lực lượng sáng tạo và hoạt động văn học, nghệ thuật.

- Để phát triển về chất lượng và số lượng của đội ngũ văn nghệ sĩ, các tài

năng văn học, nghệ thuật, chúng ta cần nâng cao chất lượng các trường đào tạo

văn học, nghệ thuật; hoàn thiện chương trình, nội dung, giáo trình trong các

trường cao đẳng, đại học, giảng dạy các ngành đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng

tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo diễn...). Trong đó cần rà

soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng

văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này. Có kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài các năng khiếu, tài năng văn học, nghệ thuật. Xây

dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu

lĩnh vực văn học, nghệ thuật có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đảm đương

công việc. Xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn

nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong

xã hội.

- Sáng tác văn học nghệ thuật là sự nghiệp của toàn dân. Khuyến khích mọi

người dân tham gia quá trình sáng tác văn học nghệ thuật là một trong những chủ

trương lớn. Vì vậy, cần tăng cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ

quần chúng, hướng dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn,

truyền dạy và phát huy các giá trị văn hoá, văn nghệ truyền thống của dân tộc.

Page 98: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

95

CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ ĐỐI VỚI VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT

SAU 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 23/NQ-TW NGÀY 16/06/2008

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Tống Công Phi

Trưởng phòng Vụ Chính sách thuế

Bộ Tài chính

Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) ngày

16/06/2008 “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ

mới” và Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ “về đẩy

mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao và môi

trường”; ngày 09/03/2009 Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành văn bản số

73/KH/BTGTW về Kế hoạch triển khai thực hiện các Đề án để đưa Nghị quyết

23-NQ/TW vào cuộc sống (Điểm 3) quy định: “Xây dựng chính sách thẩm định,

quảng bá, ưu đãi thuế… đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong nước;

văn hóa phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và giới thiệu tinh hoa văn

học,nghệ thuật của thế giới vào Việt Nam; …”.

Để triển khai các chủ trương và kế hoạch nêu trên, từ năm 2008 đến nay Bộ

Tài chính đã chủ trì, phối với các cơ quan hữu quan trình cấp có thẩm quyền ban

hành nhiều chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Trong

khuôn khổ hội thảo này; bài viết tập trung giới thiệu 2 phần chính ngoài phần mở

đầu và kết luận: (i) Thực trạng chính sách ưu đãi thuế đối với văn học, nghệ thuật

ở nước ta; (ii) giải pháp hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế trong thời gian tới.

1. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ ĐỐI VỚI VĂN HỌC,

NGHỆ THUẬT

a) Ưu đãi về thuế giá trị gia tăng (GTGT)

Thông tư về thuế GTGT số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 được ban

hành ngay sau khi có Nghị quyết số 23-NQ/TW và Nghị quyết số 05/2005/NQ-

CP; gần đây đã được thay thế bởi Thông tư số 06/2012/TT-BTC hướng dẫn về

Thuế GTGT hiện hành. Theo Thông tư 06/2012/TT-BTC hiện hành thì thuế

GTGT có 2 thuế suất: 5% và 10%; ngoài thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá,

dịch vụ xuất khẩu, trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế.

Những quy định về ưu đãi thuế GTGT đối với các hoạt động VHNT như sau:

(i) Ưu đãi bằng việc quy định không thuộc diện chịu thuế (không thu thuế):

Các dịch vụ và các sản phẩm VHNT không thuộc diện chịu thuế GTGT tại Điều

4, Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài chính, gồm:

+ Khoản 12: Duy tu, sửa chữa, xây dựng bằng nguồn vốn đóng góp của

nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo đối với các công trình văn hóa, nghệ thuật, công

trình phục vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và nhà ở cho đối tượng chính sách xã hội

(người có công theo quy định của pháp luật về người có công; đối tượng bảo

trợ xã hội hưởng trợ cấp từ ngân sách nhà nước; người thuộc hộ nghèo, cận

Page 99: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

96

nghèo và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật).

Trường hợp có sử dụng nguồn vốn khác ngoài vốn đóng góp của nhân

dân (bao gồm cả vốn đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân), vốn viện trợ nhân

đạo mà nguồn vốn khác không vượt quá 50% tổng số nguồn vốn sử dụng cho

công trình thì đối tượng không chịu thuế là toàn bộ giá trị công trình.

+ Khoản 13: Dạy học, dạy nghề theo quy định của pháp luật bao gồm

cả dạy ngoại ngữ, tin học; dạy múa, hát, hội họa, nhạc, kịch, xiếc, thể dục, thể

thao; nuôi dạy trẻ và dạy các nghề khác nhằm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình

độ văn hoá, kiến thức chuyên môn nghề nghiệp.

+ Khoản 15: Xuất bản, nhập khẩu, phát hành báo, tạp chí, bản tin chuyên

ngành, sách chính trị, sách giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách

khoa học-kỹ thuật, sách in bằng chữ dân tộc thiểu số và tranh, ảnh, áp phích tuyên

truyền cổ động, kể cả dưới dạng băng hoặc đĩa ghi tiếng, ghi hình, dữ liệu điện tử;

in tiền….Trong đó. gồm tranh, ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động là tranh, ảnh,

áp phích, các loại tờ rơi, tờ gấp phục vụ cho mục đích tuyên truyền, cổ động,

khẩu hiệu, ảnh lãnh tụ, Đảng kỳ, Quốc kỳ, Đoàn kỳ, Đội kỳ.

(ii) Ưu đãi được nộp thuế suất thấp 5%: Hầu hết văn hoá phẩm và các hoạt

động văn hoá, nghệ thuật cũng được xếp vào nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu

(như: Lương thực, thực phẩm, phân bón, thức ăn gia sức, nước sạch, thuốc chữa

bệnh,...) được áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% (Khoản 13, Điều 10 Thông tư

06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012) gồm: Hoạt động văn hoá, triển lãm, thể

dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và

chiếu phim . Cụ thể các hoạt động VHNT nộp thuế 5% gồm:

a) Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao, trừ các khoản

doanh thu như: bán hàng hoá, cho thuê sân bãi, gian hàng tại hội chợ, triển

lãm.

b) Hoạt động biểu diễn nghệ thuật như: tuồng, chèo, cải lương, ca, múa,

nhạc, kịch, xiếc; hoạt động biểu diễn nghệ thuật khác và dịch vụ tổ chức biểu

diễn nghệ thuật của các nhà hát hoặc đoàn tuồng, chèo, cải lương, ca, múa,

nhạc, kịch, xiếc có giấy phép hoạt động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

cấp.

c) Sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim, trừ các sản

phẩm không chịu thuế nêu tại khoản 15 Điều 4 Thông tư 06/2012/TT-BTC.

(iii) Ưu đãi áp dụng thuế suất 0% và còn được khấu trừ thuế GTGT đầu

vào: Văn hoá phẩm, dịch vụ văn hoá nghệ thuật xuất khẩu, kể cả dịch vụ và văn

hoá phẩm không thuộc diện chịu thuế xuất khẩu (xuất khẩu ra nước ngoài hoặc

vào khu phi quan thuế) được áp dụng thuế suất 0%, còn được khấu trừ và hoàn

thuế GTGT đầu vào.

(iv) Ngoài ra, để khuyến khích các cơ sở VHNT và các doanh nghiệp thuộc

lĩnh vực khác đầu tư vào lĩnh vực xã hội hoá, Điều 18 Thông tư 06/2012/TT-BTC

quy định:

- Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư đã đăng ký kinh doanh,

Page 100: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

97

đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, …đang trong giai đoạn

đầu tư, chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 01 năm trở lên thì

được hoàn thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo từng năm.

Trường hợp, nếu số thuế GTGT luỹ kế của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng

cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT.

- Cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo

phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư thì cơ

sở kinh doanh phải kê khai bù trừ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào

sử dụng cho dự án đầu tư mới cùng với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động

sản xuất kinh doanh đang thực hiện.

Sau khi bù trừ nếu có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử

dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết từ 200 triệu đồng trở lên thì được

hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư. Trường hợp số thuế GTGT đầu vào của

hoạt động sản xuất kinh doanh và dự án đầu tư dưới 200 triệu đồng và 3 tháng

chưa được khấu trừ hết thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo hướng dẫn tại

khoản 1 Điều này.

- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu

thuế GTGT đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được

khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng.

- Đối với dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại: chủ chương trình, dự

án hoặc nhà thầu chính, tổ chức do phía nhà tài trợ nước ngoài chỉ định việc

quản lý chương trình, dự án được hoàn lại số thuế GTGT đã trả đối với hàng hoá,

dịch vụ mua ở Việt Nam để sử dụng cho chương trình, dự án.

b) Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp

Tương tự Thuế GTGT, từ 2008 đến nay Bộ Tài chính đã ban hành nhiều

thông tư như: Thông tư 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008, Thông tư

123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 thay thế Thông tư 130/2008/TT-BTC, Thông

tư 199/2012/TT-BTC hướng dẫn chuyển đổi ưu đãi thuế TNDN,….Theo chính

sách thuế TNDN hiện hành thì thuế suất phổ thông thuế TNDN là 25% (ngoài 02

thuế suất ưu đãi: 10% và 20% áp dụng đối với một số ít ngành kinh tế mũi nhọn,

lĩnh vực xã hội hoá, phát triển khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội

quan trọng và các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn... tạo môi

trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh

tế). Trong đó, các quy định về ưu đãi thuế đối với lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật

như:

(i) Khoản 7, Điều 8 Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 hiện hành

quy định về thu nhập được miễn thuế TNDN: Khoản tài trợ nhận được để sử dụng

cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hoá, nghệ thuật, từ thiện, nhân đạo

và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam….Tổ chức nhận tài trợ quy định tại Khoản

này phải được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, thực hiện đúng

quy định của pháp luật về kế toán thống kê.

Page 101: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

98

(ii) Theo Điều 19 Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 quy định ưu

đãi về thuế suất thuế TNDN như sau:

Các doanh nghiệp, kể cả cơ sở VHNT thực hiện chủ trương xã hội hoá theo

tinh thần Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính

sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy

nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường mà đáp ứng các điều kiện (thuộc danh

mục, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn) quy định tại Quyết định 1466/QĐ-TTg ngày

10/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ và các điều kiện tại NĐ 124/NĐ-CP ngày

11/12/2008 của Chính phủ về thuế TNDN sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế

TNDN như sau:

- Được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian hoạt động đối

với phần thu nhập của doanh nghiệp có được từ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục

- đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường (sau đây gọi chung là

lĩnh vực xã hội hoá); đối với phần thu nhập của doanh nghiệp có được từ hoạt

động xuất bản theo quy định của Luật Xuất bản. Hoạt động xuất bản bao gồm các

lĩnh vực xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm theo quy định tại Luật Xuất

bản.

- Nếu cơ sở VHNT thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị

định số 124/2008/NĐ-CP thì được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn

mười lăm năm (15 năm); hoặc thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều

kiện kinh tế - xã hội khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định

số 124/2008/NĐ-CP thì được áp dụng thuế suất ưu đãi 20% trong thời gian mười

năm (10 năm).

Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi quy định tại Điều này được tính liên tục

từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu từ hoạt động được hưởng ưu đãi thuế. Hết

thời gian áp dụng mức thuế suất ưu đãi, doanh nghiệp chuyển sang áp dụng mức

thuế suất phổ thông:25%.

(iii) Hơn nữa, Điều 20 Thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012 quy

định ưu đãi về thời gian miễn, giảm thuế TNDN như sau:

1. Được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối

với:

a) Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị

định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ….

d) Doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hoá thực hiện tại địa

bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn quy định tại

Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của

Chính phủ”.

2. Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo đối

với doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hoá thực hiện tại địa bàn

không thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc

Page 102: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

99

biệt khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số

124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ.

3. Miễn thuế 2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo

đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh

tế - xã hội khó khăn quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số

124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ.

4. Thời gian miễn thuế, giảm thuế quy định tại Điều 20 này được tính liên

tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư được

hưởng ưu đãi thuế…;

(iv) Ngoài ra, khoản 4, Điều 23 Thông tư 123/2012/TT-BTC quy định ưu đãi

thuế đối với DN hoạt động trong lĩnh vực khác có thu nhập từ hoạt động trong

lĩnh vực xã hội hoá hoặc DN có hoạt động trong lĩnh vực xã hội hoá trước ngày

01/01/2009 cũng đwocj hưởng ưu đãi thuế TNDN. Cụ thể:

Doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhưng có phát sinh thu

nhập từ lĩnh vực xã hội hoá, nếu đủ điều kiện quy định của Thủ tướng Chính phủ

quy định thì áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời

gian hoạt động đối với phần thu nhập có được từ hoạt động trong lĩnh vực giáo dục

- đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường kể từ ngày 01/01/2009.

Doanh nghiệp có hoạt động trong lĩnh vực xã hội hoá trước ngày

01/01/2009 và đủ điều kiện do Thủ tướng Chính phủ quy định mà đang áp dụng

mức thuế suất cao hơn mức 10% đối với phần thu nhập từ hoạt động xã hội hoá

thì được chuyển sang áp dụng mức thuế suất 10% đối với phần thu nhập từ hoạt

động xã hội hoá kể từ ngày 01/01/2009.

Để được ưu đãi thuế TNDN, Điều 22 Thông tư 123/2012/TT-BTC quy

định về thủ tục thực hiện ưu đãi thuế TNDN nêu trên: Doanh nghiệp tự xác định

các điều kiện ưu đãi thuế, mức thuế suất ưu đãi, thời gian miễn thuế, giảm thuế,

số lỗ được trừ (-) vào thu nhập tính thuế để tự kê khai và tự quyết toán thuế với

cơ quan thuế.v.v…

Như vậy, thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết

05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ; Nhà nước đã dành nhiều ưu đãi

thuế đối với lĩnh vực VHNT,ếo với các lĩnh vực, ngành nghề khác thì mức ưu đãi

đối với lĩnh vực VHNT là cao nhất, điển hình như: Nhiều sản phẩm, dịch vụ văn

hoá nghệ thuật là không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc được áp dụng thuế suất

thấp nhất của thuế GTGT-5% như một số nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu khác.

Đối với cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật mới thành lập thực

hiện tại các địa bàn khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn được áp dụng thuế suất thuế

TNDN thấp nhất (10%) và trong suốt thời gian hoạt động; thời gian miễn cộng

với thời gian giảm thuế TNDN dài nhất - 13 năm; v.v...

II. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ TRONG

THỜI GIAN TỚI

Bên cạnh nhưng tác động tích cực của chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh

vực VHNT, các chính sách ưu đãi thuế nêu trên được áp dụng chủ yếu từ 2009

Page 103: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

100

đến nay, thời gian chưa dài, nên nchưa phát huy được tác dụng là khuyến khích

và thúc đẩy hoạt động VHNT nước ta phát triển để dần trở thành lĩnh vực quan

trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu không thể thiếu đối với đời

sống các dân tộc Việt Nam. Do đó, chính sách ưu đãi thuế cần tiếp tục hoàn thiện.

Thực hiện quan điểm, mục tiêu và giải pháp của Chiến lược phát triển

ngành văn hoá đến 2020, cùng với Kế hoạch triển khai thực hiện các Đề án Nghị

quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về VHNT, các giải pháp hướng hoàn thiện

chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực VHNT trong thời gian tới như sau:

1. Từ năm 2013 trở đi đề nghị tiếp tục hoàn thiện các chính sách ưu đãi

thuế theo hướng:

- Về thuế GTGT:

+ Trước năm 2009, dịch vụ biểu diễn nghệ thuật, sản phẩm phim, ảnh

không chịu thuế GTGT quy định tại Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 9/4/2009

của Bộ Tài chính, nhưng từ 1/1/2009 thì dịch vụ và văn hoá phẩm này thuộc diện

chịu thuế và nộp thuế với thuế suất 5%. Đề nghị sửa đổi Luật thuế GTGT quy

định dịch vụ biểu diễn nghệ thuật và văn hoá phẩm trên không chịu thuế GTGT

như trước năm 2009?

+ Thuế GTGT hiện hành quy định 2 thuế suất là 5% và 10%, chưa kể thuế

suất 0%, trong quá trình thực thi phát sinh vấn đề là những cơ sở kinh doanh hàng

hoá, dịch vụ thuế suất 5% sử dụng nguyên liệu đầu vào thuế suất 10% thì thuế

đầu vào luôn lớn hơn thuế đầu ra và doanh nghiệp luôn được khấu trừ thuế và rất

có lợi; ngược lại cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuế suất 10% sử dụng

nguyên liệu đầu vào 5%, thì thuế đầu vào luôn nhỏ hơn thuế đầu ra và doanh

nghiệp luôn bị thiệt thòi, tạo ra sân chơi không bình đẳng, làm giảm hiệu quả của

loại thuế này; đối với cơ sở kinh doanh thuộc lĩnh vực văn hoá nghệ thuật cũng

không là ngoại lệ. Hơn nữa, việc tồn tại 2 thuế suất thuế GTGT, chưa kể thuế suất

0%, làm cho phức tạp trong thực hiện. Vì vậy, kiến nghị:

Hoàn thiện Luật thuế GTGT theo hướng quy định chỉ 1 thuế suất (10%

hoặc 8%) thay vì hai thuế suất như hiện nay và áp dụng thống nhất cho mọi hàng

hoá, dịch vụ trong đó có văn hoá phẩm, dịch vụ VHNT.

- Về thuế thu nhập doanh nghiệp:

+ Trước bối cảnh hội nhập thế giới về kinh tế, văn hoá, nghệ thuật ngày

càng sâu rộng hơn, đòi hỏi Việt Nam cần đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế,

chính sách đối với lĩnh vực VHNT. Đề nghị hạ thuế suất thuế thu nhập doanh

nghiệp phổ thông từ 25% xuống khoảng 20%;

+ Lĩnh vực VHNT tiếp tục cần được đẩy mạnh xã hội hoá theo chủ trương

của Chính phủ; theo đó, đề nghị lĩnh vực này sẽ tiếp tục được hưởng các ưu đãi

về thuế TNDN như quy định hiện nay ở mức cao nhất cả về thuế suất và thời gian

miễn, giảm thuế TNDN...như đã nêu trên.

+ Mặt khác, thuế TNDN hiện hành đã sửa đổi tăng tỷ lệ khống chế đối với

chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất

kinh doanh; tuy nhiên sửa đổi này vẫn chưa phù hợp với thực tiễn nền kinh tế

Page 104: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

101

Việt Nam đang vận hành theo cơ chế thị trường, dẫn đến nhiều doanh nghiệp phải

nộp thuế TNDN với tỷ lệ cao hơn so với thuế suất phổ thông là 25%. Đề nghị

hoàn thiện theo hướng bỏ khống chế tỷ lệ chi khác được trừ khi tính thu nhập tính

thuế TNDN (cho phép cơ sở kinh doanh được trừ theo số thực tế chi ra khi xác

định thu nhập tính thuế cho phù hợp với cơ chế thị trường ở nước ta).

III. KẾT LUẬN

Chính sách ưu đãi thuế ít nhiều đã góp phần làm cho nền Văn hoá, nghệ

thuật Việt Nam trong những năm gần đây đã có bước phát triển mới, có những

biến đổi sâu sắc, những đặc điểm mới, đạt được nhiều thành tựu; Tuy nhiên, nền

VHNT nước ta cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đan xen nhau; đồng thời trước

bối cảnh hội nhập thế giới về kinh tế, văn hoá, nghệ thuật ngày càng sâu rộng

hơn, đòi hỏi Việt Nam cần thiết phải đổi mới, hoàn thiện nhiều hệ thống cơ chế,

chính sách, bao gồm cả chính sách ưu đãi thuế đối với lĩnh vực VHNT theo yêu

cầu của Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 16/6/2008 “về

tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.

Hy vọng khi chính sách ưu đãi thuế được hoàn thiện và trong tương lai

không xa, nền VHNT Việt nam sẽ đạt tới mục tiêu: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc, nhân cách con người Việt Nam ngày càng phát triển cao và đa dạng về chân,

thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước./.

Page 105: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

102

QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT

SAU 05 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW

NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ

Vụ Tài chính Hành chính sự nghiệp

Bộ Tài chính

I. CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG 05 NĂM TRIỂN KHAI

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW

Thực hiện chỉ đạo của Ban Bí thư (tại Thông báo số 219-TB/TW ngày

10/12/2009) về một số Đề án triển khai thực hiện Nghị quyết số 23/NQ-TW ngày

16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật

trong thời gian tới, Ban cán sự Đảng Bộ Tài chính đã phối hợp với Ban cán sự

Đảng các cơ quan: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL), Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng

đoàn Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật, Hội Nhà văn Việt

Nam và các Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương trong việc nghiên cứu, xây

dựng các chính sách, đề án phát triển văn học, nghệ thuật; cụ thể như sau:

1.1. Chủ động và phối hợp trong xây dựng cơ chế và bố trí kinh phí thực

hiện tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật:

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ và cơ quan liên quan trình Chính phủ ban

hành Quyết định số 39/2008/QĐ-TTg ngày 14/3/2008 về Quy chế đấu thầu, đặt

hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, trong đó

có lĩnh vực văn học, nghệ thuật; ban hành Thông tư số 105/2008/TT-BTC ngày

13/11/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Quyết định số

39/2008/QĐ-TTg.

- Phối hợp với Bộ VH,TT&DL, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT

trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung 30 tỷ đồng kinh phí hỗ trợ đầu tư sáng tạo

năm 2010 và 4,21 tỷ đồng kinh phí Giải thưởng năm 2010 của các Hội Văn học

Nghệ thuật ở Trung ương. Theo đó, giai đoạn 2006 - 2010 kinh phí thực hiện hỗ

trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật báo chí ở trung ương và các

Hội VHNT ở địa phương là 240 tỷ đồng.

- Phối hợp với Bộ VH,TT&DL, Liên hiệp các Hội VHNT trình Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định số 369/QĐ - TTg ngày 14/3/2011 phê duyệt Đề

án tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình VHNT, báo chí ở

Trung ương và các Hội VHNT địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng

cao ở địa phương giai đoạn 2011 - 2015 với tổng kinh phí đầu tư từ NSTW cả

giai đoạn là 425 tỷ đồng đồng; Ban hành Thông tư liên tịch số

02/2012/BVHTTDL-BTC ngày 07/3/2012 của Bộ Tài chính, Bộ VH,TT&DL

hướng dẫn thực hiện Quyết định số 369/QĐ-TTg.

- Bố trí kinh phí thực hiện Đề án khuyến khích sáng tác và công bố các tác

phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ cứu nước giải phóng dân

Page 106: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

103

tộc, thống nhất đất nước giai đoạn 1930-1975 (theo Quyết định số 844/QĐ-TTg

ngày 01/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ, kinh phí thực hiện Đề án đến 2015 là

65 tỷ đồng. NSNN đã cân đối 2012 - 2013 là 15,95 tỷ đồng).

- Phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể tham và Du lịch trình cấp thẩm quyền Dự

án công bố, phổ biến tài sản văn hoá văn nghệ dân gian các dân tộc Việt nam.

Giai đoạn 2008- 2012 đã lựa chọn, in phát hành 1.000 công trình với dự toán kinh

phí 91 tỷ đồng; tiếp tục phối hợp thẩm định kinh phí thực hiện in, phát hành 1.500

công trình trong giai đoạn 2013 - 2017 theo Quyết định số 1598/QĐ-TTg ngày

26/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ.

- Hàng năm NSNN bố trí qua Bộ VH,TT&DL để đặt hàng sản xuất các bộ

phim theo kế hoạch của Nhà nước, trợ giá xuất bản sách, báo, trợ cước vận

chuyển sách báo ra nước ngoài, văn hoá phẩm lên miền núi, hỗ trợ các đoàn nghệ

thuật đi biểu diễn ở nước ngoài: 2008 là 32.030 triệu đồng; năm 2009 là 30.600

triệu đồng; năm 2010 là 60.450 triệu đồng; năm 2011 là 71.550 triệu đồng; 2012

là 23.880 triệu đồng; 2013 là 26.940 triệu đồng (dự toán năm 2012, 2013 không

bao gồm kinh phí đặt hàng, tài trợ sản xuất phim truyện nhựa). Hiện nay, Bộ Tài

chính đang phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để khẩn trương ban

hành Thông tư hướng dẫn thông tư hướng dẫn chi tiết việc đặt hàng, lựa chọn dự

án sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định tại Nghị định số

54/2010/NĐ-CP để có căn cứ giao bổ sung dự toán đặt hàng phim truyện nhựa.

1.2. Chủ động bố trí kinh phí thực hiện chế độ thưởng trong sáng tạo văn

học nghệ thuật, báo chí:

Kinh phí từ NSNN hỗ trợ các Hội Văn học nghệ thuật ở Trung ương để thực

hiện xét chọn, trao giải thưởng văn học nghệ thuật hàng năm nhằm ghi nhận, tôn

vinh các tác giả, tác phẩm chất lượng cao, có đóng góp cho sự phát triển văn hóa -

xã hội của đất nước. Tổng dự toán chi từ NSNN chi xét chọn và trao giải thưởng

của các Hội VHNT khoảng 5.000 triệu đồng/năm.

Sự phối hợp của Bộ Tài chính trong việc triển khai các chính sách đặt hàng,

tài trợ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và thực hiện chế độ thưởng trong thời

gian quan đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các Hội VHNT đẩy mạnh hoạt

động sáng tạo, nghiên cứu, sưu tầm thêm nhiều đề tài mới trong các tác phẩm văn

học nghệ thuật, báo chí, khuyến khích đội ngũ các tác giả là những người dân tộc,

dân tộc thiểu số tham gia hoạt động sáng tác tác phẩm, góp phần thúc đẩy phát

triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường tình đoàn kết dân tộc, giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội.

3. Ưu tiên cân đối ngân sách cho lĩnh vực văn hóa (trong đó có hoạt động

văn học, nghệ thuật) đảm bảo ít nhất bằng 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước và

tăng dần hàng năm (năm 2008 là 8.152.000 triệu đồng, năm 2009 là 10.248.000

triệu đồng; năm 2010 là 11.850.000 triệu đồng; năm 2011 là 13.720.000 triệu

đồng; năm 2012 là 16.210.000 triệu đồng).

4. Phối hợp tham gia ý kiến với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong quá

trình xây dựng các Đề án triển khai thực hiện Nghị quyết 23 (Đề án 1: Xây dựng

và rà soát các chế độ chính sách đối với hoạt động văn học nghệ thuật và văn

Page 107: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

104

nghệ sỹ. Chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật. Chính

sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học nghệ thuật và thành lập

Quỹ sáng tác. Đề án 2: Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường

văn hoá, nghệ thuật. Đề án 3: Xây dựng các chính sách thẩm định, quảng bá, thuế

ưu đãi đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật trong nước; chính sách thẩm định,

quảng bá, thuế ưu đãi đối với văn hoá phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và

giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật truyền thống, xây dựng và phát huy văn

học, nghệ thuật quần chúng; chính sách xuất bản, quảng bá các tác phẩm văn học,

nghệ thuật đến với công chúng qua các ấn phẩm văn hóa, các phương tiện thông

tin đại chúng. Đề án 4: Trên cơ sở quy hoạch và rà soát, đánh giá lại các công

trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hoá (nhà

hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm 2010-2020.

5. Phối hợp xây dựng các chế độ về Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài

chính (trong đó có tiền lương và khung giá dịch vụ) đối với các đơn vị sự nghiệp

công lập ngành văn hoá, thể thao và du lịch; chế độ, chính sách đối với lao động

biểu diễn nghệ thuật nghỉ việc được hưởng chế độ hưu trước tuổi tại các đơn vị

nghệ thuật công lập; xây dựng dự thào Nghị định hoạt động Mỹ thuật; xây dựng

dự thảo quy hoạch tượng đài danh nhân anh hùng dân tộc; xây dựng quy hoạch

phát triển ngành Mỹ thuật đến năm 2020; xây dựng cơ chế tài chính và phối hợp

phân bổ và triển khai thực hiện Chương trình MTQG về văn hóa, trong đó có dự

án hỗ trợ các loại hình nghệ thuật truyền thống...

6. Phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số

45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động

và quản lý Hội; phối hợp xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết

định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 quy định hội có tính chất đặc thù và

được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động; chủ trì trình Thủ tướng

Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về

việc đảm bảo, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các Hội có tính chất

đặc thù. Theo đó, 11 Hội văn học nghệ thuật ở Trung ương là các Hội đặc thù

được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động. Tổng kinh phí NSNN cấp qua

11 Hội văn học nghệ thuật ở Trung ương giai đoạn 2008 - 2012 tăng dần hàng

năm (2008 là 53.866 triệu đồng; 2009 là 74.640 triệu đồng; 2010 là 93.711 triệu

đồng; 2011 là 98.044 triệu đồng; 2012 là 105.039 triệu đồng).

II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:

2.1 Về chính sách tài trợ, đặt hàng, hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật

Trong điều kiện ngân sách còn khó khăn do suy thoái kinh tế, Bộ Tài chính

luôn cố gắng cân đối đảm bảo kinh phí hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật theo dự

toán và tiến độ để các Hội Văn học nghệ thuật triển khai thực hiện. Thời gian qua,

thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật, nhiều trại sáng tác đã

được mở, nhiều tác phẩm, công trình đã được hỗ trợ. Tuy nhiên cần nhìn nhận

một cách khách quan rằng việc hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật còn có thể đạt

được kết quả tốt hơn nữa, nếu Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo sát sao

hơn, các Hội Văn học nghệ thuật Trung ương và địa phương triển khai tốt hơn các

Page 108: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

105

hoạt động hỗ trợ, tập trung hỗ trợ chiều sâu để khuyến khích phát triển các tác

phẩm, công trình chất lượng cao.

2.2 Về rà soát, quy hoạch, sắp xếp các tổ chức, biên chế Hội văn học nghệ

thuật ở Trung ương

Theo quy định tại Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 của

Thủ tướng Chính phủ về việc đảm bảo, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối

với các Hội có tính chất đặc thù, ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí chi hoạt

động thường xuyên của các Hội đặc thù căn cứ trên chỉ tiêu biên chế được cấp có

thẩm quyền giao. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các Hội ở Trung ương đã và đang

sử dụng số lượng biên chế vượt so với chỉ tiêu được giao từ những năm 1990. Đề

nghị các Hội Văn học Nghệ thuật ở Trung ương phối hợp với Bộ Nội vụ đánh giá,

rà soát, giao biên chế căn cứ trên quy mô hội viên và tính chất hoạt động đặc thù

của các Hội phù hợp với điều kiện hoạt động hiện nay.

2.3 Về đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách đối với các hoạt động văn học,

nghệ thuật để khuyến khích sáng tạo và phù hợp với đặc thù hoạt động

Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính

nghiên cứu để tiến tới thay đổi cơ bản phương thức hỗ trợ từ NSNN trong cung

cấp các sản phẩm văn học, nghệ thuật, chuyển từ việc giao dự toán ngân sách như

hiện nay sang thực hiện phương thức đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm vụ cung

cấp các sản phẩm văn học, nghệ thuật dựa trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế -

kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng của từng loại hình sản phẩm (theo quan

điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị nêu tại Thông báo số 37- TB/TW ngày 26/5/2011

thông báo kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các

đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự

nghiệp công”). Theo đó, Nhà nước tăng cường kinh phí để đặt hàng, mua hàng,

giao nhiệm vụ cung các các sản phẩm phục vụ nhiệm vụ chính trị (mua bản quyền

các tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng cao, có ảnh hưởng tích cực đến phát

triển kinh tế - xã hội để đặt hàng xuất bản, phổ biến; đặt hàng các phim truyện,

phim tài liệu, các buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, đặt hàng

các tác phẩm điêu khắc, mỹ thuật...).

2.4. Đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật:

Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lý Nhà nước về

văn học, nghệ thuật nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh và khuyến

khích nguồn lực xã hội đầu tư cho văn học, nghệ thuật theo chuẩn mực văn hóa

chung, chân, thiện, mỹ. Bên cạnh sự tăng cường đầu từ của NSNN, khuyến khích

tăng cường nguồn lực xã hội hóa đầu tư cho văn học, nghệ thuật là giải pháp không

thể xem nhẹ để văn học nghệ thuật luôn là động lực to lớn trực tiếp góp phần xây

dựng nên tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam.

II. KẾT LUẬN

Trong hơn 05 năm triển khai Nghị quyết số 23-NQ-TW ngày 16/6/2008 của

Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ

Page 109: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

106

mới, Bộ Tài chính đã chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan kịp

thời xây dựng các chính sách chế độ, cân đối kinh phí để đáp ứng ngày càng tốt

hơn yêu cầu phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới. Trong thời gian tới,

trên cơ sở đề xuất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan liên quan,

Bộ Tài chính sẽ tiếp tục tiếp tục đẩy mạnh phối hợp, tăng cường nghiên cứu đổi

mới để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn

học, nghệ thuật trong thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phần đấu đưa nước ta cơ bản trở

thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020./.

Page 110: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

107

KẾT QUẢ 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW NGÀY

16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ

THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG:

NHỮNG KHÓ KHĂN TỒN TẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ TIẾP

TỤC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

Sở VHTTDL tỉnh Tuyên Quang

Kính thưa quý vị đại biểu!

Kính thưa các đồng chí tham dự Hội nghị!

Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, có diện tích tự nhiên 5.809km2,

trong đó diện tích đồi, núi chiếm 73%, dân số của tỉnh trên 73 vạn người, gồm 22 dân

tộc anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 46,2%; dân tộc Tày chiếm

25,6%; dân tộc Dao chiếm 12,5%, còn lại là các dân tộc khác. Tỉnh Tuyên Quang có 6

huyện, 1 thành phố với 141 xã, phường, thị trấn và 2.095 thôn, bản, tổ dân phố.

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, sự nghiệp

văn học, nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang luôn được các cấp ủy Đảng,

chính quyền quan tâm, đầu tư phát triển, nhằm tiếp tục bảo vệ và phát huy giá trị

truyền thống tốt đẹp, tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi

công cuộc xây dựng, đổi mới của đất nước, của tỉnh, đồng thời tích cực xây dựng

môi trường văn hóa lành mạnh góp phần làm cho quê hương Tuyên Quang - "Thủ

đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến" ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Kính thưa các vị đại biểu!

Kính thưa các đồng chí!

Tuyên Quang - vùng đất lịch sử, nơi đã chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại

của dân tộc Việt Nam. Tại Tân Trào - "Thủ đô khu giải phóng", Bác Hồ và Trung

ương Đảng đã lãnh đạo tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành

công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở

Đông Nam Châu Á. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tuyên

Quang trở thành trung tâm "Thủ đô kháng chiến" của cả nước, luôn làm tròn nhiệm

vụ thiêng liêng: Xây dựng và bảo vệ Thủ đô kháng chiến, bảo vệ an toàn tuyệt đối

Bác Hồ và các cơ quan đầu não kháng chiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước, quân và dân Tuyên Quang vừa xây dựng bảo vệ quê hương, vừa tích cực

chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, cùng cả nước làm nên đại thắng mùa

xuân năm 1975. Lịch sử cách mạng đã hun đúc nên những giá trị truyền thống của

Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, đó là truyền thống yêu nước

nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Bác Hồ,

với cách mạng. Truyền thống lịch sử vẻ vang ấy đã và đang là động lực to lớn trong

công cuộc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điểm đến

hấp dẫn để các văn nghệ sỹ trong tỉnh và cả nước khơi nguồn cảm xúc, sáng tác

Page 111: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

108

những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, phản ánh sâu sắc truyền thống lịch sử

quê hương cách mạng - "Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến".

Kính thưa các vị đại biểu!

Kính thưa các đồng chí!

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết 23 của Bộ

Chính trị (Khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong

thời kỳ mới; Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Nghị quyết Đại

hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XV, sự nghiệp văn học, nghệ thuật

của tỉnh Tuyên Quang đã có bước phát triển quan trọng. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân

dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để sự

nghiệp văn học, nghệ thuật tỉnh nhà phát triển. Ban hành Quy định xét tặng "Giải

thưởng Tân Trào" (Quyết định số 36/2010/QĐ-UBND ngày 10/12/2010 của Ủy

ban nhân dân tỉnh); Quy định chế độ khen thưởng đối với các tập thể, cá nhân hoạt

động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, phát thanh - truyền hình của tỉnh đoạt giải

cấp khu vực, quốc gia và quốc tế (Quyết định số 05/2009/QĐ-UBND, ngày

17/6/2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh). Chú trọng đào tạo và phát triển đội ngũ văn

nghệ sỹ; quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, các các phương tiện làm việc,

bố trí biên chế, chế độ nhuận bút, đảm bảo nguồn kinh phí hỗ trợ sáng tác những

tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao, phản ánh bản sắc văn hóa truyền

thống của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung,

góp phần từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Đầu tư xây

dựng và hoàn thành một số thiết chế văn hóa trọng điểm cấp tỉnh như: Công viên

Hồ cây xanh, Trung tâm Hội nghị tỉnh, Bảo tàng tỉnh, Thư viện tỉnh, khởi công xây

dựng "Tượng đài Bác Hồ với nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang"... Đoàn

nghệ thuật dân tộc tỉnh được kiện toàn, củng cố đảm bảo chất lượng đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới.

Hàng năm, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên

Quang tổ chức gặp mặt đầu xuân đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo

tiêu biểu trên địa bàn toàn tỉnh, nhằm động viên, khuyến khích đội ngũ văn nghệ

sỹ tích cực đóng góp cho sự phát triển văn học, nghệ thuật của tỉnh. Năm 2011,

tổ chức thành công Đại hội Văn học - Nghệ thuật toàn tỉnh lần thứ VI. Đến nay,

Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh có 129 hội viên (trong đó có 58 hội viên được kết

nạp vào các Hội chuyên ngành Trung ương), sinh hoạt tại 8 chi hội: Văn học, Âm

nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Sân khấu, Kiến trúc và 2 Chi hội của các Hội chuyên

ngành Trung ương là Chi hội Văn nghệ dân gian và Chi hội Văn học Nghệ thuật các

dân tộc thiểu số. Các văn nghệ sỹ của tỉnh đã tích cực học tập, rèn luyện, tiếp tục

sáng tạo những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao,

đáp ứng yêu cầu và lòng mong muốn của Đảng ủy, chính quyền và nhân dân các dân

tộc tỉnh Tuyên Quang.

Năm 2012, tổ chức xét, chọn và trao tặng "Giải thưởng Tân Trào" cho 12 tác

phẩm, cụm tác phẩm văn học, nghệ thuật của 12 tác giả, cố tác giả thuộc các chuyên

ngành Âm nhạc, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Sân khấu và Văn học. Đó là những tác phẩm,

cụm tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật; có ảnh hưởng

Page 112: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

109

sâu sắc, sức lan tỏa rộng rãi trong đời sống xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị của

tỉnh, cổ vũ tinh thần lao động, sáng tạo, xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân các

dân tộc trong tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen và 50% giá trị giải thưởng

đối với các tác giả có tác phẩm đạt giải cao ở nước ngoài, Trung ương và khu vực cho

11 tác giả, trong đó có một Nhạc sỹ vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh

hiệu Nghệ sỹ Ưu tú (Nhạc sỹ - NSUT Vương Văn Vình, Đoàn Nghệ thuật dân tộc

tỉnh, trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Tổ chức thành công Cuộc thi

sáng tác biểu trưng (logo) tỉnh Tuyên Quang với sự tham gia của 188 tác giả là

họa sỹ, nhà thiết kế trong và ngoài tỉnh. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp

phần giới thiệu về truyền thống văn hóa, mảnh đất và con người Tuyên Quang,

gắn với các di tích lịch sử cách mạng; đồng thời phục vụ các nhiệm vụ chính trị,

phát triển kinh tế, văn hóa, đối nội, đối ngoại của tỉnh.

Bên cạnh các hoạt động về văn học, nghệ thuật, hoạt động biểu diễn nghệ thuật

chuyên nghiệp và văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh cũng được quan tâm phát

triển. Tỉnh Tuyên Quang hiện có 02 đơn vị hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên

nghiệp là Đoàn Nghệ thuật dân tộc tỉnh (trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

và Đoàn Ca múa nhạc xiếc Thanh Xuân (Đoàn nghệ thuật xã hội hóa); 141 đội văn

nghệ quần chúng xã, phường, thị trấn; 2.494 đội văn nghệ quần chúng thôn, bản, tổ

dân phố, cơ quan, trường học, lực lượng vũ trang; trên 50 câu lạc bộ đàn và hát dân ca

duy trì hoạt động bình quân 10.300 buổi/năm, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn

hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú trên địa bàn dân cư.

Công tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống của các

dân tộc được triển khai thực hiện có hiệu quả. Khai thác và phát triển các loại hình

nghệ thuật dân tộc truyền thống, tiêu biểu như hát Then (dân tộc Tày), hát Páo dung

(dân tộc Dao); hát Sình ca (dân tộc Cao Lan); hát Soọng cô (dân tộc Sán Dìu)...

Biên soạn, xuất bản các cuốn sách: "Di tích lịch sử - lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí

Minh trên đất Tuyên Quang"; "Lễ hội văn hóa truyền thống các dân tộc ở Tuyên

Quang"; Tập thơ Tày "Nhớ Pác Tạ"; sản xuất bộ phim tài liệu "Tuyên Quang ký

sự" (04 tập) phản ánh đất nước, con người và truyền thống đấu tranh cách mạng

của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang.

Hàng năm, mở các lớp tập huấn ở cơ sở; tổ chức và tham gia các kỳ Liên

hoan, hội diễn tại tỉnh, khu vực và Trung ương, trong đó có hát Then, đàn tính -

loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống đặc sắc của dân tộc Tày. Hiện nay, Ủy

ban nhân dân tỉnh giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với các tỉnh

vùng Việt Bắc triển khai các bước lập hồ sơ trình UNESCO công nhận hát Then

là di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần bảo vệ khẩn cấp; hoàn thành lập 02 hồ

sơ di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Tày (Lễ hội Lồng tông và Nghi lễ Then) đề

nghị công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngày 27/12/2012 Bộ

trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định số 5079/QĐ-

BVHTTDL, công bố Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đối với 02 di sản này.

Ngày 17 và 21/02/2013 Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã long trọng tổ chức

Lễ công bố và đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với Nghi lễ Then

và lễ hội Lồng tông (dân tộc Tày) tại 2 huyện Chiêm Hóa và Lâm Bình.

Page 113: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

110

Việc phục hồi, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích lịch sử cách

mạng và kháng chiến theo Quyết định số 984/QĐ-TTg ngày 25/10/1999 của Thủ

tướng Chính phủ và Quyết định số 1483/QĐ-CT ngày 31/10/2005 của Chủ tịch Uỷ

ban nhân dân tỉnh được triển khai có hiệu quả. Đến nay, hoàn thành phục hồi, tôn tạo

110 di tích lịch sử văn hoá theo dự án được duyệt; hoàn thành danh mục xếp hạng

118 di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, 179 di tích cấp tỉnh. Tháng 8/2012, khu

di lịch lịch sử văn hóa và sinh thái Tân Trào vinh dự được đón nhận Bằng xếp

hạng Di tích quốc gia đặc biệt, qua đó góp phần tôn vinh và khẳng định tầm vóc

lịch sử của "Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến", tăng thêm niềm tin,

niềm tự hào dân tộc, quyết tâm kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống

lịch sử của tỉnh và của đất nước.

Kính thưa các vị đại biểu!

Kính thưa các đồng chí!

Thực hiện Nghị quyết số 23 ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị, Chương trình

hành động số 20 ngày 28/10/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Hội Văn học

Nghệ thuật tỉnh phối hợp với Hội nhà báo tỉnh, các cơ quan báo chí Trung ương và

của tỉnh mở trại sáng tác; cử hội viên tham gia các trại sáng tác, lớp tập huấn, đi thực

tế do tỉnh và Trung ương tổ chức.

Trong 2 năm, 2011 và 2012, Hội đã phối hợp với Liên hiệp các hội văn học,

nghệ thuật Việt Nam, các Hội chuyên ngành Trung ương tổ chức 8 lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ, sáng tác về văn học, nghệ thuật, mỹ thuật, âm nhạc... cho các hội viên

Hội Văn học, nghệ thuật tỉnh và tổ chức thành công Hội thảo khoa học "Nâng cao

chất lượng Báo Tân Trào". Xuất bản bình quân 10 đầu sách/năm, trong đó có các tác

phẩm văn xuôi, truyện ngắn và thơ có nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật, tiêu biểu

như: "Giấc mơ hạt thóc" và "Khi tôi lớn" (Đinh Công Thủy); "Đêm trở giấc" (Tạ Bá

Hương); "Biển mặn" (Cao Xuân Thái); "Dọc miền lau" (Lê Na); trường ca "Chuyện

anh thuyền chài Trần Văn Sông" (Vũ Xuân Tửu)... Một số tác phẩm văn học nghệ

thuật dành giải thưởng quốc gia và khu vực như: Tiểu thuyết "Ma làng", "Cánh

đồng Chum" (Trịnh Thanh Phong); "Tân Trào rạng ngày Độc lập" (Phù Ninh);

"Thăm thẳm đường về" (Hồng Giang); tập truyện "Chuyện ở bản Pi - át" (Vũ Xuân

Tửu); "Je - ry lên rừng học hái thuốc nam" (Đỗ Anh Mỹ)... Ngoài ra, các tác phẩm

về Âm nhạc, Hội họa, Nhiếp ảnh, Sân khấu... cũng dành giải thưởng cao trong khu

vực và toàn quốc như: tác phẩm "Cháu của bà" của Họa sỹ Mai Mạnh Hùng (Giải

A triển lãm mỹ thuật khu vực, Giải B triển lãm Mỹ thuật Việt Nam); tác phẩm "Bất

biến" của Họa sỹ Lê Cù Thuần (Giải C triển lãm Mỹ thuật Việt Nam); ca khúc

"Tiếng lượn cọi quê em" của Nhạc sỹ - NSƯT Vương Vình, ca khúc "Đường về

Tân Trào" của Nhạc sỹ Tân Điều... Bên cạnh đó, các tác phẩm hưởng ứng Cuộc

vận động "Sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật báo chí" về đề tài

"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; "Tuyên Quang hội nhập

và phát triển"; "Tuyên Quang chung sức xây dựng nông thôn mới"... với những

truyện ký, bút ký, phóng sự, gương điển hình sản xuất kinh doanh giỏi đã được

phản ảnh đầy đủ và kịp thời trong công cuộc đổi mới quê hương, đất nước.

Kính thưa các vị đại biểu!

Page 114: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

111

Kính thưa các đồng chí!

Có được những kết quả như vậy là nhờ có sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát

sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp của các

cấp, các ngành tại địa phương và các Hội chuyên ngành của Trung ương. Tuy

nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết trên địa bàn tỉnh Tuyên

Quang còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Việc phổ biến, quán triệt và triển

khai thực hiện Nghị quyết ở một số cơ sở còn chậm; công tác lý luận, phê bình

văn học, nghệ thuật, khuyến khích hội viên các chi hội văn học, nghệ thuật, các

tầng lớp nhân dân tham gia góp ý, phê bình nâng cao chất lượng các tác phẩm còn

hạn chế; việc phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ trẻ, đặc biệt đối với văn

nghệ sỹ là người dân tộc thiểu số chưa kịp thời, chưa có cơ chế thu hút tài năng

về lĩnh vực văn học, nghệ thuật; việc triển khai Đề án thành lập cơ sở đào tạo văn

hóa, nghệ thuật và các công ty biểu diễn nghệ thuật còn chậm; có ít tác phẩm văn

học, nghệ thuật có giá trị, phản ánh sâu sắc truyền thống lịch sử quê hương cách

mạng - "Thủ đô khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến"; công tác tuyên truyền,

quảng bá, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật tới nhân dân, nhất là đồng

bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế...

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày

16/6/2008 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong

thời kỳ mới trong thời gian tiếp theo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tuyên

Quang đề xuất một số giải pháp thực hiện, như sau:

Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng để đội

ngũ sáng tác văn học, nghệ thuật nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn học, nghệ thuật và trách nhiệm công

dân đối với nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; đấu tranh

chống những luận điệu xuyên tạc, âm mưu "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù

địch, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ

văn nghệ sỹ sáng tạo, thực hiện chính sách thu hút, chế độ đãi ngộ để văn nghệ sỹ

có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật chung

của đất nước. Thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hoá các hoạt động văn học,

nghệ thuật. Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; xây dựng đề án và cơ chế

bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật dân gian truyền thống các

dân tộc mỗi địa phương.

Ba là, thường xuyên củng cố, đổi mới hoạt động của Hội Văn học - Nghệ

thuật, các Hội chuyên ngành, nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên đội ngũ

văn nghệ sỹ. Tiếp tục triển khai có hiệu quả việc "Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh"; hoạt động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ

thuật, báo chí về chủ đề "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",

gắn với các phong trào thi đua yêu nước tại các địa phương, cơ quan, đơn vị.

Bốn là, phát huy vai trò và hiệu quả quản lý Nhà nước về văn học, nghệ

thuật; tăng cường công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật nhằm khuyến

Page 115: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

112

khích văn nghệ sỹ và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia góp ý, phê bình để

nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học, nghệ thuật.

Năm là, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, nhận thức của các cấp ủy Đảng,

cán bộ, đảng viên đối với văn học, nghệ thuật, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý

trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực văn hóa

nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng. Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương

phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật vào kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Để triển khai thực hiện có hiệu quả những giải pháp nêu trên, Sở Văn hóa, Thể

thao và Du lịch Tuyên Quang xin kiến nghị, đề xuất, như sau:

- Đề nghị Trung ương sớm ban hành quy định về tổ chức bộ máy, biên chế

của Hội Văn học Nghệ thuật và các tờ báo, tạp chí của địa phương. Tăng cường

công tác quản lý, ngăn chặn các trang mạng xã hội có nội dung độc hại, gây ảnh

hưởng xấu trong xã hội.

- Kịp thời biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân hoạt động trong

lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, tỉnh Tuyên Quang rất

mong tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch; sự phối hợp từ phía các cơ quan trực thuộc Bộ, các Hội chuyên ngành của

Trung ương và các tỉnh bạn, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển văn học, nghệ

thuật của cả nước nói chung và của tỉnh Tuyên Quang nói riêng trong thời kỳ mới.

Xin trân trọng cảm ơn !

Page 116: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

113

THAM LUẬN HỘI NGHỊ

SƠ KẾT 5 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ “VỀ VIỆC TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT

TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI”

Nguyễn Văn Ảnh

Phó Giám đốc Sở VHTT&DL Bắc Ninh

Cấp ủy, lãnh đạo ngành VHTT&DL Bắc Ninh đã tích cực đề ra các chủ

trương, giải pháp chỉ đạo các đơn vị từ tỉnh tới cơ sở nhằm xây dựng và phát triển

văn học nghệ thuật, góp phần đáp ứng nhu cầu xã hội và phát triển nguồn nhân

lực phục vụ cho sự nghiệp văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.

Các đơn vị hoạt động nghệ thuật, như Nhà hát dân ca Quan họ Bắc Ninh,

Trung tâm văn hoá tỉnh, huyện, Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng, Trường

Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật và Du lịch, đội văn nghệ các huyện và cơ sở, các

câu lạc bộ thơ ca ... đã có sự chuyển biến mới về hoạt động sau khi triển khai

Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Ngành VHTT&DL đã tham mưu cho HĐND, UBND tỉnh một số văn bản

chính sách nhăn phát triển văn học nghệ thuật như: Quyết định về quy định tiêu

chuẩn công nhận nghệ nhân Dân ca quan họ; quyết định về chế độ giải thưởng hội

thi hát Dân ca quan họ đầu xuân hàng năm; quy định hỗ trợ nghệ nhân và diên

viên nhạc công nhân viên nhà hát Dân ca quan họ (đối với nghệ nhân mức hỗ trợ

1 triệu/ tháng và tiền bảo hiểm, tiền tử tuất; đối với diên viên nghệ sỹ, nhạc

công... mức hỗ trợ tăng gấp ba lần so với quy định của nhà nước); quỹ hỗ trợ tài

năng trẻ; quỹ tài năng Phạm Văn Trà; quyết định về thu hút nhân tài về công tác

tại tỉnh và hỗ trợ đào tạo; hỗ trợ xây dựng nhà văn hóa thôn, xã, hỗ trợ các trang

thiết bị của các nhà văn hóa...

Trình và được HĐND thông qua Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa

tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết số 20, 22

của Hội đồng nhân dân tỉnh, Quyết định số 100 và 101 của UBND tỉnh quy định

về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và tổ chức kỷ

niệm ngày truyền thống, đón nhận các danh hiệu thi đua trên địa bàn tỉnh; Quy

chế xét duyệt danh hiệu nghệ nhân quan họ...Hằng năm, xuất bản 4 số bản tin

VHTTDL Bắc Ninh tuyên truyền, phản ánh các sự kiện của đất nước, địa phương,

các hoạt động của ngành phát hành đến các thôn, khu dân cư trên địa bàn tỉnh;

website của sở.

Page 117: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

114

Trong những năm qua trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng tỉnh đã tổ

chức được gần 5 nghìn buổi chiếu, phục vụ trên 2 triệu lượt người xem. Trên Sân

văn hoá Cầu Gỗ tỉnh với sức chứa 3.500 người đã tổ chức được hơn 230 buổi

biểu diễn với nhiều thể loại như: Ca nhạc, Xiếc, Kịch nói, Cải lương; phục vụ trên

430 nghìn lượt người xem. Về hoạt động tại Rạp chiếu bóng Bắc Ninh, đã tổ chức

chiếu được hơn 1.000 buổi; Trong đó có hơn 500 buổi tuyên truyền nhiệm vụ

chính trị không doanh thu; phục vụ hàng trăm nghìn lượt người xem.Công tác sản

xuất và phát hành băng đĩa hình, đĩa phim, đã phát hành được hàng nghìn băng

đĩa.

Hoạt động thư viện đã cơ bản đáp ứng nhu cầu đọc, tìm kiếm thông tin cho

mọi đối tượng đến nghiên cứu, học tập, giải trí. Bảo tàng tỉnh thường xuyên tổ

chức các hoạt động nghiệp vụ và đạt được nhiều kết quả đáng kể, từ công tác sưu

tầm hiện vật, phân loại đến tổ chức trưng bày, triển lãm; hàng năm, lượng hiện

vật bảo tàng sưu tầm được đều đạt con số cao (trung bình từ 600 đến 1000 hiện

vật/năm) cùng hàng ngàn trang tư liệu, chụp và sưu tầm hàng trăm ảnh tư liệu.

Hiện Bảo tàng tỉnh đã sưu tầm được tổng cộng 3.550 hiện vật bảo tàng, 49 tài liệu

và 304 bản in dập bia đá.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho ngành văn hóa được duy trì

hằng năm với gần 100 học viên theo học tại trường Trung cấp Văn hoá, Nghệ

thuật và Du lịch và hàng trăm học viên tại các lớp bồi dưỡng hạt nhân văn nghệ ở

cơ sở; Trường còn thực hiện liên kết đào tạo với một số trường Đại học mở các

lớp đào tạo hệ chính quy, hệ vừa làm vừa học ở 02 cấp học: Đại học và Trung cấp

nhằm đáp ứng nhu cầu của người học, đồng thời giúp cho một số tỉnh bạn củng

cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành văn hóa, giáo dục.

Cùng với việc đào tạo, trường đã phối hợp với các ngành liên quan hoàn thiện

việc nghiên cứu, biên soạn giáo trình giảng dạy hát dân ca Quan họ Bắc Ninh, hát

Quan họ đối đáp, lý thuyết Quan họ bậc Trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy

03 năm của trường; tài liệu dạy hát dân ca Quan họ Bắc Ninh trong các trường

học trên địa bàn tỉnh. Những tài liệu này được Hội đồng thẩm định và đưa vào

giảng dạy bắt đầu từ năm học 2011- 2012.

Đối với các đơn vị biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, UBND tỉnh Bắc

Ninh đã phê duyệt đề án nâng cấp Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh thành Nhà hát

dân ca quan họ Bắc Ninh. Hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện để anh em nghệ sỹ

của đơn vị phấn đấu trở thành hội viên của Hội nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam, Hội

văn học nghệ thuật, Chi hội nhạc sĩ Việt Nam tỉnh Bắc Ninh... nhằm phát triển,

bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ, cộng tác viên trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.

Ngoài nhiệm vụ biểu diễn phục vụ các nhiệm vụ chính trị của tỉnh, tuyên truyền,

Page 118: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

115

quảng bá, giới thiệu về dân ca Quan họ Bắc Ninh với khán giả trong và ngoài

nước, kết hợp biểu diễn doanh thu, Nhà hát còn có nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn các

hình thức hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh truyền thống, nghiên cứu thể nghiệm các

loại hình ca hát Quan họ trên sân khấu và quảng bá về Dân ca Quan họ Bắc Ninh.

Hoạt động của Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh trong những năm qua đã đạt

nhiều kết quả đáng khích lệ, trong 5 năm từ 2008 đến năm 2012 Nhà hát đã tổ

chức biểu diễn 526 buổi cho gần 150 nghìn lượt người, chất lượng các chương

trình biểu diễn được nâng lên một cách rõ rệt, tinh thần thái độ phục vụ nhân dân

của tập thể cán bộ, diễn viên Nhà hát đã được đông đảo quần chúng nhân dân

trong cả nước, bạn bè quốc tế cũng như kiều bào ở nước ngoài khen ngợi và đánh

giá cao.

Ngày 30/9/2009 dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di

sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, ngành VHTT&DL đã tham mưu

cho UBND tỉnh chỉ đạo và triển khai nhiều dự án, đề án, chương trình hành động

nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di sản tiêu biểu như: tổ chức chuyền dậy dân

ca Quan họ cho hàng vạn nhân dân ở các gia đình, thôn, làng, các câu lạc bộ và

đặc biệt là các trường phổ thông trên toàn tỉnh; xây dựng trung tâm lưu trữ, bảo

tồn và khai thác di sản văn hóa DCQH Bắc Ninh; tổ chức kiểm kê di sản dân ca

Quan họ hàng năm; thành lập hiệp hội những người yêu dân ca Quan họ tỉnh Bắc

Ninh; tổ chức các đoàn nghệ thuật tham gia biểu diễn quảng bá về di sản DCQH

ở trong và ngoài nước; hàng năm tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt Về

miền Quan họ (4 chương trình) và phối hợp với các tỉnh thành trên cả nước tổ

chức quảng bá, giới thiệu về di sản DCQH Bắc Ninh; đưa dân ca quan họ trở

thành sản phẩm đặc biệt của các hoạt động du lịch trên địa bàn toàn tỉnh. Hàng

năm tổ chức hội thi hát DCQH đầu xuân.

Hoạt động văn hóa văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh ngày càng phát

triển sâu rộng. Hiện toàn tỉnh có tới trên 700 Đội văn nghệ, CLB văn nghệ thu hút

khoảng trên 20.000 diễn viên, hội viên không chuyên tham gia sinh hoạt. Các câu

lạc bộ, Đội văn nghệ này đã và đang được các cấp, các ngành, các địa phương

tương đối quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức các hoạt động, góp

phần tích cực trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Hoạt động của

các Câu lạc bộ, đội văn nghệ là nơi nuôi dưỡng các hạt nhân văn nghệ ở cơ sở và

là nguồn lực chính để tham gia các cuộc hội thi, liên hoan văn nghệ quần chúng

của tỉnh, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của các loại di sản văn hóa phi vật

thể, đặc biệt là dân ca Quan họ Bắc Ninh; tạo môi trường sinh hoạt văn hóa vui

tươi, lành mạnh, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần cho

người dân địa phương. Đây cũng là nội dung quan trọng trong chỉ tiêu xây dựng

Page 119: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

116

đời sống văn hóa ở cơ sở và Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa” tại các thôn, làng, khu phố.

Đối với Phong trào toàn dân “ĐKXDDDSVV” và việc thực hiện nghị quyết

số 20, 22 của HĐND tỉnh đến nay đạt nhiều kết quả đáng khích lệ:

Về phong trào toàn dân ĐKXDĐSVH: có sự vào cuộc của cả hệ thống chính

trị, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; đời sống vật chất và

tinh thần của người dân được nâng lên; các phong trào VHVN phát triển; nhiều

hội thi, hội diễn được tổ chức, số các CLB và người tham gia tăng hằng năm. tổng

số làng quan họ gốc là 44, làng quan họ phát triển là 329...

Về các di sản và lễ hội: tổng số hơn 500 lễ hội, hơn 1250 di tích, hoạt động

VHVN được tổ chức trong các lễ hội, c

Công nhận “Gia đình văn hóa”: Năm 2011, toàn tỉnh có 160.605 hộ đăng ký,

đạt 73,63% so với tổng số và số hộ được công nhận là 116.638 hộ, đạt 53% so với

tổng số. Năm 2012, có 241.115 hộ đăng ký, đạt 93,4% so với tổng số và được

công nhận 231.023 hộ, đạt 89,5% so với tổng số.

Công nhận làng, khu phố văn hóa: Năm 2011, có 229/698 làng, khu phố

được công nhận danh hiệu văn hóa các cấp, đạt 32,8% so với tổng số. Năm 2012,

có 453/726 làng, khu phố được công nhận danh hiệu văn hóa, đạt 62,4% so với

tổng số, tăng 29,6% so với năm 2011.

Từ năm 2008- 2012: Tập thể và cá nhân Hội VHNT đã xuất bản 64 đầu

sách, trong đó có 58 đầu sách văn học, 6 đầu sách nghệ thuật; Đã tổ chức và phối

hợp tổ chức 9 cuộc triển lãm tranh cổ động, triển lãm mỹ thuật và triển lãm ảnh

thời sự, nghệ thuật đều đặn hằng năm ở tỉnh với gần 350 tranh cổ động, hơn 300

tác phẩm hội họa, đồ họa, điêu khắc và mỹ thuật ứng dụng, hơn 400 ảnh thời sự -

nghệ thuật; tham gia đều đặn các cuộc triển lãm mỹ thuật, Liên hoan ảnh nghệ

thuật khu vực các tỉnh đồng bằng Sông Hồng với tổng số trên 150 tác phẩm mỹ

thuật, 83 tác phẩm ảnh nghệ thuật... Những năm vừa qua một số tác giả của Hội

đã có hàng chục kịch bản được Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt

Nam dàn dựng, phát sóng.

Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học,

nghệ thuật trong thời kỳ mới” đã được các cấp các ngành trong tỉnh Bắc Ninh

nghiêm túc quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện, qua 4 năm thực hiện đã thu

được một số kết quả quan trọng. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện của

các cấp uỷ đảng, chính quyền đối với hoạt động văn học, nghệ thuật được nâng

lên. Các hoạt động văn học nghệ thuật trong tỉnh đã nắm bắt và thực hiện đúng

định hướng của Đảng. Các tác phẩm thuộc các thể loại đều tập trung khai thác từ

Page 120: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

117

thực tế cuộc sống, sự phát triển kinh tế - xã hôi của địa phương làm cảm hứng và

chất liệu sáng tạo nghệ thuật, phản ánh sinh động, chân thực cuộc sống của nhân

dân Bắc Ninh trong thời kỳ hội nhập, đổi mới. Tính chuyên nghiệp trong các tác

phẩm ngày càng được khẳng định. Hoạt động văn học nghệ thuật của tỉnh nhìn

chung phát triển khá toàn diện, phong phú, đóng góp tích cực vào việc nâng cao

đời sống tinh thần của nhân dân, phát huy được vai trò là động lực góp phần xây

dựng và phát triển nền kinh tế xã hội của tỉnh.

Một số hạn chế

Mặc dù đã có những phát triển và thành tựu đạt được, song so với yêu cầu

phát triển của đời sống xã hội và xu thế hội nhập hiện nay, việc triển khai thực

hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) và Chương trình hành

động của Tỉnh ủy Bắc Ninh về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ

thuật trong thời kỳ mới” của tỉnh vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, đó là:

- Một số cấp uỷ, chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác văn học,

nghệ thuật. Công tác quản lý nhà nước về văn học, nghệ thuật có lúc, có nơi còn

hạn chế. Việc phối hợp giữa các đơn vị, sở, ngành, hội chưa được thường xuyên

và chủ động.

- Phong trào sáng tác của quần chúng chưa mạnh; hoạt động giữa các chuyên

ngành chưa đều; chưa có được những tác phẩm thật sự nổi trội, xứng tầm với

công cuộc đổi mới của tỉnh và của đất nước, còn không ít tác phẩm văn học, nghệ

thuật và hoạt động biểu diễn chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc văn

hoá của một vùng quê có truyền thống văn hiến lâu đời.

- Công tác lý luận phê bình còn hạn chế; chủ trương trẻ hóa hội viên của Hội

Văn học Nghệ thuật còn chậm; việc triển khai xây dựng “Đề án phát triển

VHNT” còn chậm; một số ít hội viên chưa hoạt động tích cực, còn có hội viên có

tác phẩm mang tư tưởng lệch lạc, trái với đường lối văn hoá, văn nghệ của Đảng.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm

công tác quản lý văn học - nghệ thuật chưa thật sự được quan tâm thường xuyên

và có kế hoạch, quy hoạch lâu dài.

Một số giải pháp

Để tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ

Chính trị (khoá X) về văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, Ngành VHTT&DL

tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh tiếp tục chỉ đạo thực hiện một

số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Page 121: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

118

1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lý nhà nước, của

chính quyền địa phương trong việc đổi mới cơ chế chính sách đối với văn học -

nghệ thuật. Đặc biệt là việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức vai trò vị trí, đặc trưng

của văn học - nghệ thuật cho cán bộ, đảng viên; nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý

trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo quản lý văn hóa văn nghệ.

2. Xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ của địa phương vững mạnh

theo hướng toàn diện cả về số lượng và chất lượng, đa dạng về loại hình sáng tạo.

Chú trọng việc kết hợp giữa tính dân tộc và hiện đại trong sáng tác, phù hợp với

năng lực nhận thức thẩm mỹ của công chúng. Tạo điều kiện cho Hội Văn học

nghệ thuật tỉnh trong việc phát hiện, bồi dưỡng lực lượng sáng tác trẻ, là nguồn

nhân lực kế thừa cho nhiều năm tiếp theo trong giai đoạn mới.

3. Chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí, phát thanh

truyền hình, các cơ quan chức năng và các địa phương trong tỉnh phối hợp chặt

chẽ với Hội văn học - Nghệ thuật tỉnh trong việc công bố, giới thiệu quảng bá các

tác phẩm, công trình nghệ thuật có chất lượng tốt để định hướng thẩm mỹ cho

công chúng; xây dựng và phát triển văn nghệ quần chúng, khuyến khích quần

chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hoá, văn

nghệ truyền thống.

4. Củng cố, đổi mới hoạt động của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, làm tốt vai

trò tập hợp, đoàn kết, phát huy tính chủ động sáng tạo của các chi hội và đội ngũ

văn nghệ sĩ.

5. Tăng cường bổ sung cơ sở vật chất, có chính sách cho công tác đào tạo

bồi dưỡng phát triển tài năng, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, chế độ khen

thưởng, khuyến khích kịp thời các văn nghệ sĩ có nhiều công lao cống hiến, có tác

phẩm chất lượng cao.

6. Xây dựng phong trào sáng tác quần chúng, tạo điều kiện để quần chúng

hưởng thụ VHNT ở các loại hình nghe, nhìn, đọc... Tiếp tục đầu tư xây dựng,

củng cố các thiết chế văn hóa phục vụ nhân dân như: rạp hát, rạp chiếu phim,

trung tâm triển lãm, CLB nghệ thuật cấp tỉnh, nhà văn hóa, phòng đọc sách, các

CLB cấp huyện, xã; trang bị thêm các dụng cụ, phương tiện hoạt động cho các

đơn vị nghệ thuật, máy móc thiết bị cho đội chiếu phim lưu động...

Page 122: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

119

BÁO CÁO THAM LUẬN

HỘI NGHỊ SƠ KẾT 05 NĂM (2008 - 2012) TRIỂN KHAI THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT 23-NQ/TW NGÀY 16/6/2008 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ

VIỆC TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ

THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI

Sở VHTTDL Lạng Sơn

Kính thưa quý vị đại biểu!

Thưa toàn thể Hội nghị!

Thay mặt cho Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lạng Sơn tham dự

Hội nghị Sơ kết 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về

việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học - nghệ thuật trong thời kỳ mới hôm

nay, tôi xin phát biểu tham luận về “Tình hình phát triển văn học nghệ thuật tỉnh

Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay”.

Kính thưa các quý vị đại biểu!

Thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về việc

tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới, trong những

năm qua, sự nghiệp văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn luôn nhận được sự quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các Bộ, Ngành Trung ương, Tỉnh ủy và UBND

tỉnh cũng như sự phối hợp của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở do đó sự

nghiệp văn học nghệ thuật của tỉnh ngày càng phát triển sâu rộng và khá sôi nổi

trên địa bàn toàn tỉnh. Hàng năm nhân dịp Kỷ niệm các ngày lễ lớn của tỉnh, của

đất nước, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã

phát động và tổ chức được nhiều hoạt động sáng tác, công bố phổ biến các tác

phẩm về văn học nghệ thuật tới hội viên và công chúng. Qua đó góp phần nâng

cao dân trí, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, làm phong phú đời sống tinh thần

nhân dân, cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn

toàn tỉnh hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương và của đất nước.

Hiện nay tỉnh Lạng Sơn có 01 Hội Văn học nghệ thuật tỉnh được thành lập

từ tháng 3 năm 1968, là tổ chức Hội công lập có chức năng tập hợp các văn nghệ

sỹ và những người có tâm huyết với sự nghiệp văn học nghệ thuật của tỉnh nhằm

phát huy mọi khả năng của hội viên, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, lý luận

phê bình, sưu tầm, sáng tạo các tác phẩm văn học nghệ thuật.

Nhìn chung trong những năm qua, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch,

Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn đã phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm

vụ của mình nhằm xây dựng và phát triển nền VHNT của tỉnh. Đội ngũ văn nghệ

sỹ ngày càng được nâng cao trình độ. Phong trào sáng tác, biểu diễn, xuất bản,

công bố phổ biến tác phẩm văn học nghệ thuật được quan tâm, chú trọng.

I. KẾT QUẢ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

1. Công tác tham mưu chỉ đạo, triển khai thực hiện:

Page 123: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

120

Nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh

Lạng Sơn ngày càng phát triển. Trong những năm qua, Ngành Văn hóa, Thể thao

và Du lịch, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã tích cực tham mưu cho Tỉnh ủy,

HĐND, UBND tỉnh ban hành một số cơ chế chính sách; cùng nhiều văn bản chỉ

đạo triển khai thực hiện. Cụ thể:

* Về cơ chế chính sách:

- Hiện nay UBND tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Chính sách trợ giá, trợ cước

in và phát triển Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng.

- Chính sách hỗ trợ biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp phục vụ vùng sâu,

vùng xa, vùng biên giới tỉnh Lạng Sơn (trung bình từ 3-5 triệu đồng/buổi). Ngoài

ra các diễn viên chuyên nghiệp được hưởng chế độ bồi dưỡng 20.000đ/người/01

buổi luyện tập và 50.000đ/người/01 buổi biểu diễn theo Quyết định số 180/QĐ-

TTg năm 2006 của Thủ tướng chính phủ.

- UBND tỉnh ban hành Quyết định số 02/2013/QĐ-UBND ngày

05/01/2013 về việc quy định chế độ quản lý đặc thù đối với Đội tuyên truyền lưu

động và mức chi bồi dưỡng tập luyện, biểu diễn đối với Đội tuyên truyền lưu

động, Đội Nghệ thuật quần chúng cấp tỉnh, cấp huyện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

- Căn cứ Đề án đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy

nghề, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đã được UBND tỉnh Lạng Sơn phê duyệt.

Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã áp dụng thực hiện chủ trương đẩy mạnh

XHH các lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (như thành lập các Hội, Câu lạc bộ, Đội

văn nghệ quần chúng); XHH tổ chức lĩnh vực truyền dạy các loại hình dân ca,

dân vũ..v.v..

* Về các văn bản chỉ đạo triển khai:

- Đã tham mưu xây dựng Giải thưởng Văn học nghệ thuật Hoàng Văn Thụ,

xét trao thưởng 5 năm/1 lần.

- Tham mưu ban hành Quyết định số 645/QĐ-UBND, ngày7/4/2008 quy

định về chế độ nhuận bút áp dụng cụ thể trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

- Tham mưu ban hành Quyết định số: 1442/QĐ - UBND, ngày 12/9/2011

của UBND tỉnh về phê duyệt Đề án phát triển Văn học Nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn

giai đoạn 2011-2015;

Bên cạnh đó hàng năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo Đoàn

nghệ thuật tỉnh, Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho đội

ngũ văn nghệ sỹ của Ngành tham gia các hoạt động sáng tác, khai thác, dàn dựng,

biểu diễn công bố các chương trình, tác phẩm mới, với định hướng 70% các

chương trình, tiết mục mang bản sắc dân tộc; 30% chương trình, tiết mục mang

yếu tố hiện đại..v.v..

Riêng Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, hàng năm đều xây dựng và ban hành các

Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế dân chủ, Quy chế làm việc của Hội; nhất là duy

trì thực hiện tốt Quy chế sử dụng Quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học

nghệ thuật; Chế độ nhuận bút... Qua đó nhằm tạo môi trường làm việc công khai,

Page 124: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

121

dân chủ, minh bạch cho cán bộ, hội viên; Khuyến khích, thúc đẩy sự nghiệp sáng

tác, sáng tạo, phổ biến tác phẩm văn học nghệ thuật trên địa bàn toàn tỉnh.

2. Kết quả hoạt động văn học nghệ thuật trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn:

2.1. Về đội ngũ cán bộ, văn nghệ sỹ của tỉnh:

Hiện nay đội ngũ cán bộ, văn nghệ sỹ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nhìn

chung đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và tổ chức các hoạt động văn hóa,

văn học nghệ thuật. Riêng Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, được nhà nước giao 17

biên chế, trong đó có 76,5% cán bộ có trình độ đại học trở lên. Văn phòng Hội có

04 bộ phận gồm: Phòng Hành chính - Quản trị, Ban sáng tác, Ban công tác hội

viên và Ban biên tập Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng. Trong suốt quá trình hoạt động

của Hội, đội ngũ cán bộ luôn gắn bó trách nhiệm, phục vụ tận tình cho sự nghiệp

văn học nghệ thuật của tỉnh nhà.

Hội quản lý 249 hội viên thuộc 05 Chuyên ngành: Văn học, Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh, Sân khấu - Âm nhạc, Kiến trúc. Trong đó có gần 80 hội viên thuộc

các Hội chuyên ngành Trung ương. Nhìn chung về cơ bản, đội ngũ cán bộ, văn

nghệ sĩ của tỉnh Lạng Sơn có lòng yêu ngành, yêu nghề; luôn tâm huyết, say mê

sáng tạo tác phẩm mới; góp phần tạo nên nền văn học nghệ thuật Xứ Lạng đậm

đà bản sắc văn hóa dân tộc.

2.2. Kết quả hoạt động của các Chuyên ngành trong những năm qua

Về lĩnh vực Văn xuôi: Văn xuôi có sự nở rộ về tác phẩm, bên cạnh các cây

bút thành danh của tỉnh đã xuất hiện một lớp trẻ, đang từng bước khẳng định vị trí

trên diễn đàn văn nghệ của tỉnh và cả nước. Các tác giả có tên tuổi trên diễn đàn

văn nghệ Lạng Sơn như Nhà văn Nguyễn Trường Thanh, Mã Thế Vinh, Vi Thị

Kim Bình. Một số cây bút trẻ như Ngô Bá Hoà, Dương Ngọc Ánh, Vi Thị Thu

Đạm, Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Nguyễn Thị Hoa, ... Một số tác giả đã được khẳng

định trong các Cuộc thi như: Tác giả Nguyễn Trường Thanh đạt Giải C giải

thưởng văn học nghệ thuật Hoàng Văn Thụ năm 2009 và đạt giải tác giả cao tuổi

của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2010; tác giả Vũ

Ngọc Chương đạt giải B trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ

năm 2009; tác giả Vi Thị Thu Đạm đạt giải C trong đợt xét giải thưởng VHNT

Hoàng Văn Thu năm 2009, tác giả Mã Thế Vinh đạt giải C trong đợt xét giải

thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009...

Về lĩnh vực Thơ: Thơ được duy trì và khẳng định về cả tác giả và tác phẩm.

Thơ viết bằng tiếng dân tộc thiểu số được duy trì và đóng góp trong việc giữ gìn

vốn ngôn ngữ và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc trong tỉnh. Tác giả sáng

tác thơ bằng tiếng dân tộc như: Hoàng Choóng, Mã Thế Vinh, vi Hồng Nhân,

Hoàng Kim Dung, .... Một số tác giả đã được khẳng định trong các cuộc thi như:

Tác giả Hoàng Choóng đạt giải B trong đợt xét giải thưởng VHNT Hoàng Văn

Thụ năm 2009, tác giả Ngô Bá Hoà đạt giải tác giả trẻ của Hội Nhà văn Việt nam

năm 2009 và đạt giải B trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ

năm 2009; tác giả Hàn Kỳ đạt giải C trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng

Page 125: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

122

Văn Thụ năm 2009; tác giả Trần Thành đạt giải C trong đợt xét tặng giải thưởng

VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009...

Về lĩnh vực Lý luận phê bình: Hội thảo văn học nghệ thuật càng làm rõ nét

với công chúng hiểu hơn về sự phát triển văn học nghệ thuật Lạng Sơn. Các tác

giả có tên tuổi trong lý luận phê bình như: Hoàng Văn An, Nguyễn Duy Bắc,

Nguyễn Đức Tâm, ... đã góp phần tích cực, định hướng và nâng cao hơn chất

lượng sáng tác văn học nghệ thuật của địa phương. Một số tác giả đã được khẳng

định trong các Cuộc thi như: Tác giả Hoàng Văn An đạt Giải B trong đợt xét giải

thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Mã Thế Vinh đạt giải C trong

đợt xét giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Nguyễn Duy Bắc

đạt giải C trong đợt xét giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009, ...

Về lĩnh vực Mỹ thuật: Mỹ thuật Lạng Sơn có nhiều tác phẩm phản ánh về

quê hương, hàng năm Hội đã tổ chức được các Trại sáng tác, thực tế sáng tác;

tham gia Triển lãm Mỹ thuật Khu vực III Tây Bắc - Việt Bắc và Triển lãm tại tỉnh

nhà. Một số tác giả đã được khẳng định qua các Cuộc thi, Triển lãm Khu vực

như: Nguyễn Lan Huyền được giải B giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm

2009; Đoàn Bích Thuỳ đạt giải B giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009

và đạt giải A cuộc thi sáng tác VHNT về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh năm 2010” và có tác phẩm trưng bày triển lãm 1000 năm

Thăng Long - Hà Nội năm 2010; tác giả Chu Thị Thiều đạt giải C giải thưởng

VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Cao Thanh Sơn được giải KK của Uỷ

ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2010, ...

Về lĩnh vực Nhiếp ảnh: Nhiếp ảnh là thế mạnh của văn học nghệ thuật

Lạng Sơn. Trong những năm qua Hội Văn học Nghệ thuật thường xuyên tổ chức

cho các hội viên Chuyên ngành Nhiếp ảnh đi thực tế sáng tác, mở Trại sáng tác,

Hội thảo Chuyên ngành nhằm nâng cao năng lực chuyên môn tạo ra những tác

phẩm nghệ thuật có giá trị về nội dung. Một số tác giả đã khẳng định mình trong

các Cuộc thi, Liên hoan như: Tác giả Đàm Sơn đạt giải A trong đợt xét tặng giải

thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Mã Thế Anh đạt giải B trong

đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Nguyễn Tiến

Thắng đạt giải B trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm

2009; tác giả Nguyễn Xuân Tiến đạt giải C trong đợt xét tặng giải thưởng VHNT

Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Vũ Kiên Cường đạt giải C trong đợt xét tặng

giải thưởng VHNT Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Đinh Huy Tưởng đạt giải

Nhất cuộc thi sáng tác VHNT của tỉnh kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí

Hoàng Văn Thụ năm 2009; tác giả Lưu Minh Dân đạt giải Ba Cuộc thi ảnh nghệ

thuật du lịch Toàn quốc lần thứ V năm 2010, ...

Về lĩnh vực Âm nhạc - Sân khấu:

+ Về sáng tác: Các nhạc sĩ đóng góp cho phong trào nhiều tác phẩm mới,

ca ngợi quê hương đất nước, các tác phẩm được dàn dựng tham gia các Liên

hoan, Hội diễn ngành, tỉnh và Trung ương.

+ Về Biểu diễn: Hiện nay tỉnh Lạng Sơn có duy nhất 01 Đoàn nghệ thuật

chuyên nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý. Hàng năm

Page 126: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

123

Đoàn nghệ thuật tỉnh thực hiện được trên 100 buổi biểu diễn phục vụ nhân dân,

nhất là nhân dân vùng sâu, vùng x, biên giới.

3. Công tác phối hợp phát động, tổ chức các cuộc thi:

Trong những năm gần đây, hai cơ quan gồm Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch và Hội Văn học nghệ thuật tỉnh luôn có sự phối hợp chặt chẽ trong việc phát

động tổ chức các Cuộc thi, các đợt sáng tác và công bố phổ biến tác phẩm văn

học nghệ thuật. Tính từ năm 2009 đến nay, 2 ngành đã phối hợp thực hiện gần 15

cuộc phát động sáng tác, tổ chức các đợt triển lãm chuyên đề; các ngày thơ, hội

thơ như:

Năm 2009: Phối hợp tổ chức Cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về “Học

tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; sáng tác văn học nghệ thuật

chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội”. Phối hợp tổ chức Giải

thưởng Mỹ thuật thiếu nhi tỉnh Lạng Sơn các năm 2009, 2010, 2011, 2012. Phối

hợp phát động cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về chủ đề kỷ niệm 100 năm

đồng chí Hoàng Văn Thụ (04/11/1909 -04/11/2009). Kết quả: Có 71 tác giả tham

gia với 138 tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, Ban tổ chức chấm và trao giải

cho 32 tác phẩm của 29 tác giả với các thể loại: Văn xuôi, Ca khúc, Mỹ thuật,

Nhiếp ảnh, thơ, kịch bản văn học.

Năm 2010: Phối hợp phát động Cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật về

chủ đề kỷ niệm 100 năm đồng chí Lương Văn Tri (17/8/1910-17/8/2010). Kết

quả: Có 110 tác giả tham gia đợt phát động, với 160 tác phẩm và 310 bài viết.

Ban tổ chức đã chấm và trao giải cho 29 tác phẩm. Tổ chức Lễ phát động cuộc thi

viết về gương “Người tốt, việc tốt” thu được 50 tác phẩm, trong đó có 17 tác

phẩm được Hội đồng nghệ thuật xét chọn trao giải thưởng.

Năm 2011: Phối hợp tổ chức phát động Cuộc vận động sáng tác ca khúc

viết về tỉnh Lạng Sơn nhân dịp chào mừng kỷ niệm 180 năm ngày thành lập tỉnh

(04/11/1831- 04/11/2011). Kết quả: Có 154 tác phẩm của 112 tác giả tham

gia.Ban tổ chức đã mời các nhạc sỹ có danh tiếng của Trung ương thực hiện

chấm, lựa chọn trao giải nhất, nhì, ba, khuyến khích cho 18 tác phẩm.

Năm 2012: Phối hợp xây dựng Kế hoạch phát động hưởng ứng Giải thưởng

sáng tác quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 -

2015; Phát động hưởng ứng sáng tác văn học nghệ thuật về “Nông nghiệp, nông

dân, nông thôn”...v.v..

Ngoài ra 2 ngành còn phối hợp tổ chức tốt các hoạt động Triển lãm về văn

học nghệ thuật nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của tỉnh, của đất nước như: Tổ

chức triển lãm Hội báo xuân; Triển lãm ảnh nghệ thuật chào mừng 120 năm ngày

sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Hoàng Văn

Thụ, 100 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri. Triển lãm “Thành tựu Mỹ

thuật, nhiếp ảnh Lạng Sơn 10 năm đầu thế kỷ XXI”. Đặc biệt năm 2012 đã phối

hợp đăng cai tổ chức thành công Triển lãm Mỹ thuật khu vực III Tây Bắc - Việt

Bắc lần thứ 17 tại Lạng Sơn..v.v.

Page 127: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

124

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. M t được:

Nhìn chung, từ khi thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ chính trị về

tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới và các Nghị

quyết, chỉ thị khác của Trung ương và của tỉnh, hoạt động Văn học Nghệ thuật

trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn có nhiều chuyển biến rõ rệt; luôn được cấp ủy, chính

quyền, các ban ngành đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở quan tâm, tạo điều kiện chăm lo

phát hiện, bồi dưỡng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật để các văn

nghệ sỹ tỉnh nhà từng bước phát triển và đáp ứng nhu cầu thời kỳ mới.

Hoạt động Văn học nghệ thuật Lạng Sơn từng bước phát triển mạnh mẽ, đa

dạng về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác. Các văn nghệ sỹ chịu

khó đi sâu tìm tòi, sáng tạo sáng tác nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị

tư tưởng và nghệ thuật cao, thể hiện khát vọng và tư tưởng lớn, tâm hồn cao đẹp

của dân tộc trong tình hình mới, vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu

cầu văn hoá - tinh thần ngày càng cao của nhân dân.

2. Hạn chế:

Việc triển khai một số chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội Văn học

Nghệ thuật tỉnh đôi khi còn chậm, hiệu quả chưa cao.

Tạp chí Văn nghệ Xứ Lạng tuy đã được cải tiến về nội dung và hình thức

tăng từ 32 trang lên 64 trang song về cơ bản vẫn chưa có sự đổi mới mang tính

bứt phá. Nguyên nhân cơ bản là thiếu tác phẩm - những tác phẩm thật sự chất

lượng của chính các hội viên gửi tới.

Cơ sở vật chất của tỉnh dành cho phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật

còn thiếu hoặc chưa thực sự đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng như: Phòng làm

việc của Hội Văn học nghệ thuật; chưa có trụ sở Trung tâm triển lãm văn học

nghệ thuật tỉnh.v.v.

Kinh phí hỗ trợ sáng tạo công trình Văn học Nghệ thuật chưa kịp thời, còn

thiếu để chi cho hoạt động chuyên môn.

III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

1. Đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Liên hiệp các Hội Văn học

nghệ thuật Việt Nam tiếp tục quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ tỉnh Lạng Sơn trong sự

nghiệp phát triển văn học nghệ thuật của tỉnh.

2. Đề nghị trung ương tiếp tục tăng cường nâng cao mức kinh phí cho Quỹ

hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật; có các cơ chế chính sách ưu tiên hỗ trợ, động

viên, khuyến khích cho tài năng là người dân tộc thiểu số thuộc tỉnh miền núi,

trong đó có Lạng Sơn.

Trên đây là một số ý kiến phát biểu tham luận với Hội nghị của Sở văn hóa,

thể thao và du lịch Lạng Sơn.

Trân trọng cảm ơn sự lắng nghe của quý vị đại biểu. Chúc Hội nghị thành

công tốt đ p !

Page 128: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

125

05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 23-NQ/TW

CỦA BỘ CHÍNH TRỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Sở VHTTDL TP Đà Nẵng

Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây

dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới” có ý nghĩa vô cùng quan

trọng hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc, nhằm phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và

của đội ngũ văn nghệ sĩ.

Được sự chỉ đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng đã chủ động tham mưu cho

UBND thành phố triển khai nội dung thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ

Chính trị và phối hợp với Liên hiệp các Hội VHNT thành phố Đà Nẵng tổ chức

nhiều hoạt động trên lĩnh vực văn học nghệ thuật và đã đạt được những kết quả

thiết thực.

Ngày 23/10/2008, Thành ủy Đà Nẵng ban hành Chương trình hành động số

29-CTr/TU về thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị

“về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới”.

Ngày 03/4/2009, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Kế hoạch số

1991/UBND-VX triển khai chương trình hành động của Thành ủy Đà Nẵng về

thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát

triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.

1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Bám sát yêu cầu và nội dung chỉ đạo của Thành uỷ, UBND thành phố Đà

Nẵng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai Kế hoạch thực hiện Chương

trình hành động số 29 Ctr/TU của Thành ủy Đà Nẵng tại văn bản số

392/SVHTTDL-NVVH ngày 27/2/2009 về việc phối hợp với Liên hiệp các Hội

VHNT thành phố Đà Nẵng tổ chức Lễ ký kết “Kế hoạch phối hợp công tác giữa Sở

Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố

Đà Nẵng các năm 2009-2010”; “Chương trình phối hợp công tác giữa Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch và Liên hiệp các Hội VHNT thành phố Đà Nẵng giai đoạn

2012-2015”, nhằm đưa Nghị quyết đi vào thực tế và triển khai có hiệu quả.

Sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị, thành

phố Đà Nẵng đã đạt được một số thành tích cụ thể như sau:

Đã tổ chức thành công nhiều chương trình văn hóa nghệ thuật cấp thành phố,

khu vực và toàn quốc; tham mưu để trình UBND thành phố về cơ chế, chính sách

đãi ngộ nghệ sĩ; phối hợp với Liên hiệp các Hội VHNT đề xuất lập nguồn vốn

ban đầu cho Quỹ Sáng tạo văn học, nghệ thuật; đề xuất UBND thành phố Đà

Nẵng xem xét chủ trương xây dựng Nhà sáng tác; phối hợp triển khai kế hoạch

chuẩn bị xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật thành phố; hoàn thiện cơ chế chính sách

Page 129: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

126

nhằm tăng cường vai trò của văn nghệ sĩ; thường xuyên trao đổi và thống nhất

trong việc đề xuất và kiến nghị với lãnh đạo thành phố đối với vấn đề phát triển

văn hóa, văn học, nghệ thuật của địa phương…

Tổ chức, duy trì nhiều hoạt động nhằm phát huy vai trò của văn học, nghệ

thuật và của đội ngũ văn nghệ sĩ thành phố như: Tham mưu tăng mức kinh phí

hoạt động hàng năm cho Liên hiệp các Hội VHNT và các Hội chuyên ngành; Tổ

chức xét giải thưởng VHNT 5 năm 1 lần cho các văn nghệ sĩ xuất sắc: Trong đợt

trao giải thưởng 5 năm giai đoạn 2004 -2009, thành phố đã trao 53 giải thưởng trị

giá 1 tỷ 300 triệu đồng; Phối hợp tổ chức nhiều hoạt động VHNT tiêu biểu: Tổ

chức 115 cuộc triển lãm, trưng bày mỹ thuật, nhiếp ảnh, văn học và báo chí trong

những dịp lễ lớn được tổ chức tại Đà Nẵng, thu hút hàng vạn lượt người xem qua

các Triển lãm chuyên đề khá quy mô như: “Bình chọn Quốc hoa Việt Nam”,

“101 khoảnh khắc về vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp”, “Các Di sản văn

hoá thế giới tại Việt Nam năm 2011”...Tất cả các hoạt động đã tạo nên môi

trường thẩm mỹ tốt, phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Tổ chức

các chuyến đi thực tế, tham gia các trại sáng tác, các liên hoan khu vực...

Đặc biệt trong năm 2012 hoạt động VHNT trên địa bàn thành phố có nhiều

khởi sắc, với nhiều hoạt động để lại dấu ấn đậm nét như:

- Sở VHTTDL tham mưu cho UBND thành phố ban hành Đề án “Phát triển

VHNT thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2015” làm cơ sở nền tảng và đề ra các

mục tiêu dài hạn, cũng như mục tiêu cụ thể để từng bước triển khai thực hiện và

góp phần phát triển VHNT thành phố, với những mục tiêu cụ thể như:

+ Đến năm 2015 đảm bảo số bản sách trong thư viện công cộng là 0,6

bản/người.

+ Đảm bảo đến năm 2015, bình quân số lượt người dân thành phố được xem

biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp là 4 lượt/người/năm, riêng đối với nhân dân

các xã vùng sâu, vùng xa và miền núi của huyện Hoà Vang là 2 lượt/người/năm.

+ Phát hành 01 đĩa DVD giới thiệu những ca khúc hay về Đà Nẵng vào năm

2013.

+ Tổ chức Cuộc thi sáng tác ca khúc về thành phố Đà Nẵng 2012- 2013.

+ Giai đoạn 2013-2015 tổ chức 02 đợt giới thiệu, phổ biến tác phẩm VHNT.

+ Đến năm 2015, đảm bảo 100% đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về

văn học nghệ thuật nắm rõ Luật bản quyền tác giả về văn học nghệ thuật, 80%

người dân Đà Nẵng hiểu biết về Luật bản quyền tác giả về văn học nghệ thuật.

+ Từng bước xã hội hóa các show diễn phục vụ khách du lịch tại Nhà hát

tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh và Bảo tàng Điêu khắc Chăm.

- Hoạt động của Cơ quan thường trực Liên hiệp Hội và các Hội chuyên

ngành ngày càng đi vào nề nếp, chuyên nghiệp với nhiều hoạt động chất lượng và

thường xuyên hơn như: Tổ chức các đợt sáng tác và triển lãm mỹ thuật; các cuộc

triển lãm ảnh nghệ thuật gắn với nhiều sự kiện chính trị của đất nước, thành phố;

Page 130: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

127

Tổ chức bản thảo và xuất bản nhiều đầu sách thuộc các lĩnh vực âm nhạc, sân

khấu, văn học, nghiên cứu văn hóa nghệ thuật.

+ Công tác đầu tư, khuyến khích sáng tạo VHNT cũng rất được quan tâm:

Liên hiệp Hội đã đầu tư nguồn hỗ trợ sáng tạo văn học nghệ thuật của Trung ương

cho 15 tác giả và 21 công trình tập thể với số tiền trên 700 triệu đồng để các tập

thể, cá nhân cũng các hội chuyên ngành thuộc Liên hiệp Hội có điều kiện thực

hiện tốt, phổ biến tác phẩm đến với đông đảo công chúng trong và ngoài thành

phố và nâng cao chất lượng sáng tác cho hội viên.

Chính vì vậy, năm 2012 đã để lại nhiều dấu ấn về sự phát triển đi lên của

VHNT thành phố Đà Nẵng:

- Đội ngũ văn nghệ sĩ của thành phố vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng

danh hiệu cao quý: Trao 8 Giải thưởng Nhà nước, 2 Nghệ sĩ Nhân dân, 12 Nghệ

sĩ Ưu tú cho các văn nghệ sĩ thành phố.

- Nhiều văn nghệ sĩ thành phố đạt nhiều giải thưởng cao trong nước, quốc tế,

khu vực tại các kỳ liên hoan, các cuộc thi như: tác phẩm Minh Sư đạt Giải A của

Hội Nhà Văn Việt Nam; tập thơ Nắng trên đồi đoạt giải C của Liên hiệp các Hội

Văn học-Nghệ thuật Việt Nam; 2 Giải C Cuộc Ảnh xuất sắc quốc gia của Hội

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, Huy chương đồng quốc tế; Giải C tại Triển lãm Mỹ

thuật khu vực, Huy chương đồng khu vực; Giải A trong đợt xét Giải thưởng Âm

nhạc khu vực miến Trung.

2. NHỮNG KHÓ KHĂN, TỒN TẠI

Bên cạnh những mặt đạt được, còn tồn tại một số hạn chế do cả những

nguyên nhân chủ quan và khách quan, như sau:

- Kinh phí đầu tư cho sáng tạo văn học nghệ thuật gặp khó khăn, từ đó có

ảnh hưởng đến các hoạt động chung, nhất là khâu đi thực tế sáng tác, phổ biến tác

phẩm, tổ chức các sự kiện, đời sống văn nghệ sĩ có nhiều khó khăn, chế độ chính

sách đối với cán bộ, công chức, viên chức cơ quan Văn học, nghệ thuật có chỗ

chưa hợp lý.

- Việc xã hội hóa các hoạt động văn học nghệ thuật trong thời gian qua có

những bước chuyển biến. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hội chuyên ngành chưa năng

động, vẫn trông chờ vào nguồn kinh phí từ nhà nước, chưa chú trọng đến công tác

xã hội hóa để nâng cao hoạt động văn học nghệ thuật phục vụ công chúng.

- Một số hoạt động văn học nghệ thuật tổ chức chưa ngang tầm, còn đơn

điệu, một phần cũng bởi nguồn kinh phí quá ít, từ đó dẫn đến hạn chế các hoạt

động.

- Một số nội dung phối hợp triển khai để trình Ủy ban nhân dân thành phố

Đà Nẵng nhưng chưa được phê duyệt, cần phải tiếp tục thực hiện và hoàn thiện

như: Quỹ sáng tạo VHNT, xây dựng Nhà sáng tác và một số cơ chế chính sách

nhằm nâng cao đời sống cho văn nghệ sĩ….

- Một số chương trình phối hợp tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật

chưa đảm bảo chất lượng và đáp ứng được quy mô. Nguyên nhân chủ yếu do

Page 131: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

128

nguồn kinh phí thiếu, chưa tập hợp được anh em văn nghệ sĩ có chuyên môn và

tâm huyết với nghề….

- Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành trong quá trình thực hiện chưa có sự

đồng thuận cao, chưa thấy rõ sự đóng góp của văn nghệ sĩ trong việc góp phần

quảng bá thành phố Đà Nẵng trong các diễn đàn trong nước và khu vực.

- Vẫn còn tồn tại quan niệm cho rằng đầu tư cho lĩnh vực văn học nghệ

thuật là đầu tư cho một ngành hoạt động hành chính như các ngành khác chứ

chưa phải đầu tư cho một sự nghiệp, một lĩnh vực hoạt động đa dạng, đa ngành,

mang tính đặc thù.

- Việc tạo điều kiện khuyến khích sáng tạo, do khó khăn về kinh phí nên

nhiều dự kiến về tổ chức các hoạt động phục vụ trực tiếp cho việc sáng tạo như đi

thực tế, giao lưu học hỏi kinh nghiệm, tổ chức trại sáng tác, tổ chức trưng bày,

công bố tác phẩm…còn hạn chế, khó tạo nên tác phẩm có tầm, mang tính khái

quát cao, trong khi hiện thực cuộc sống đã xuất hiện những vấn đề mới mẻ cần

được phản ánh, khái quát bằng hình tượng nghệ thuật…

3. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ

- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Đà Nẵng sẽ tiếp tục phối hợp với

Liên hiệp các Hội VHNTTP tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết 23-

NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển văn

học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới” thông qua “Chương trình phối hợp công

tác giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Liên hiệp các Hội VHNT thành phố

Đà Nẵng giai đoạn 2012-2015” và Đề án “Phát triển Văn học Nghệ thuật thành

phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2015”.

- Tiếp tục đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể mang tính khả thi để

thực hiện các nhiệm vụ đã nêu và đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

- Xây dựng cơ chế đầu tư phù hợp và thích đáng đối với các hoạt động văn

học nghệ thuật thành phố như đã đầu tư ở các lĩnh vực khác.

- Quan tâm, đầu tư cho các hoạt động văn học nghệ thuật, chế độ chính

sách với văn nghệ sĩ thành phố, trong đó cần có sự khen thưởng kịp thời để động

viên các văn nghệ sĩ sáng tạo. Về các cuộc giao lưu văn hóa trong và ngoài nước,

việc “chiêu hiền đãi sĩ”, thu hút nhân tài văn hoá nghệ thuật thành phố cũng cần

được quan tâm như đối với các lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và

các lĩnh vực kinh tế xã hội khác. Đây là những nội dung mang tính chiến lược cần

phải đầu tư.

- Quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thiết chế văn

hoá cấp quận, huyện và cơ sở để đáp ứng yêu cầu hoạt động. Đội ngũ cán bộ

chuyên môn về VHNT ở cấp cơ sở và cấp quận, huyện còn thiếu và yếu cần phải

quan tâm đào tạo thêm.

- Tăng kinh phí hoạt động cho Liên hiệp các Hội VHNT để Hội thực hiện

được các nhiệm vụ chính trị và đề nghị có cơ chế cho tạm ứng kinh phí để triển

khai kịp thời các hoạt động.

Page 132: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

129

- Tiếp tục đổi mới, phát triển lĩnh vực nghiên cứu, lý luận, phê bình văn

học - nghệ thuật, mở rộng giao lưu với nước ngoài. Xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ

thành phố ngang tầm với yêu cầu mới.

- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Liên hiệp các Hội

VHNT thành phố và các Hội chuyên ngành./.

Page 133: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

130

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT THỪA THIÊN HUẾ

TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN XỨNG TẦM LÀ TRUNG TÂM

VĂN HÓA DU LỊCH ĐẶC SẮC CỦA VIỆT NAM

Sở VHTTDL Thừa Thiên Huế

Cùng với những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội

và những thành tựu của văn học nghệ thuật cả nước trong những năm qua, văn

học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã có những đóng góp tích cực, có nhiều chuyển

biến mới trên nhiều lĩnh vực đáng ghi nhận. Các thế hệ văn nghệ sỹ đã gắn bó,

đoàn kết, vững vàng về tư tưởng chính trị, khắc phục khó khăn để sáng tác nhiều

công trình, tác phẩm văn học nghệ thuật phản ánh một cách sâu sắc, chân thực

những giá trị lịch sử dân tộc, khát vọng của nhân dân trong đời sống xã hội.

Với ý thức trách nhiệm công dân, với bản lĩnh năng động sáng tạo, lực

lượng văn học nghệ thuật đã cùng với nhân dân có những cống hiến mới, góp

phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Trong

những năm qua nhiều giải thưởng lớn trong và ngoài nước, nhiều đợt phong tặng

danh hiệu nghệ sĩ, huy chương đã được trao tặng cho nhiều tác phẩm, tác giả ở

Thừa Thiên Huế đã minh chứng sự phát triển lớn mạnh của văn học nghệ thuật

tỉnh nhà.

Trên lĩnh vực văn học đã tổ chức nhiều hoạt động văn học có ý nghĩa như:

giao lưu với các nhà văn, nhà thơ thuộc các Hội VHNT các tỉnh; tổ chức lễ kỷ

niệm ngày sinh các đại văn hào thế giới; gặp gỡ làm việc giao lưu với nhiều đoàn

nhà văn nước ngoài đến thăm Huế; phối hợp xuất bản nhiều bộ sách có giá trị,

công bố tác phẩm của hội viên. Đặc biệt trong các kỳ Festival Nghề truyền thống

Huế và Festival Huế, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông

Hương tổ chức nhiều hoạt động văn học nghệ thuật tạo được ấn tượng tốt trong

dư luận.

Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp và nghệ thuật quần chúng ngày càng

phát triển. Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có 2 đơn vị đào tạo nghệ thuật là

Học viện Âm nhạc Huế và Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật, 2 nhà hát công

lập là Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế và Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung

đình Huế, 6 đơn vị doanh nghiệp tổ chức biểu diễn nghệ thuật theo phương thức

xã hội hóa đã không ngừng sáng tạo, dàn dựng, khôi phục nhiều tác phẩm và tổ

chức biểu diễn. Các diễn viên, nghệ sỹ đã tham gia tích cực vào chương trình

nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, trong những dịp lễ kỷ niệm những ngày lễ

lớn của tỉnh, các chương trình tuyên truyền về biển đảo Tổ quốc, các chương

trình Festival Huế, chương trình Giao lưu văn hóa, đặc biệt là các chương trình

trong Năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012; các chương

trình của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng như giao lưu nhiều nước trên thế

giới như: CHLB Nga, CH Pháp, Nhật Bản ... Đội ngũ biên đạo múa trẻ được đào

tạo ngày càng phát triển đông đảo hơn. Các loại hình Nhã nhạc Cung đình Huế

(được UNESCO công nhận là Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu đại diện của

Page 134: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

131

nhân loại); múa hát Cung đình, lễ nhạc Cung đình, Tuồng Huế, Ca Huế, Ca kịch

Huế đã và đang được quan tâm khôi phục và phát triển. Nhiều tiết mục, chương

trình đặc sắc đã được giới thiệu với công chúng trong và ngoài nước qua các đợt

sinh hoạt văn hóa, các hoạt động phục vụ các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn của đất

nước. Vở ca kịch Huế “Hồ Chí Minh- Hồi ức màu đỏ” của Nhà hát Nghệ thuật Ca

kịch Huế đã bám sát đề tài học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

được đông đảo công chúng hào hứng đón nhận; đạt nhiều giải thưởng cấp quốc

gia và nhiều bằng khen, của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao

và Du lịch, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Đội ngũ nghệ sỹ, diễn viên

chuyên nghiệp ở Thừa Thiên Huế ngày càng phát triển, trong đó lực lượng của 3

nhà hát công lập có trên 300 cán bộ, diễn viên. Đến nay toàn tỉnh có 25 nghệ sỹ

được phong tặng Nghệ sỹ ưu tú, 2 nghệ sỹ được phong tặng Nghệ sỹ nhân dân.

Tại các lễ kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, các Festival Huế và Năm

Du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012 ... hoạt động âm nhạc cũng

đã tích cực đóng góp cho sự thành công chung của tỉnh và thành phố Huế. Nhiều

chương trình tổ chức biểu diễn và giới thiệu tác phẩm mới được thực hiện với sự

phối hợp với Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Huế, Đài Phát thanh Truyền

hình tỉnh, một số chương trình chất lượng cao được tường thuật trực tiếp trên

sóng VTV, TRT, HTV.

Các hoạt động văn nghệ dân gian đã đi vào cuộc sống và thực hiện Nghị

quyết TW5 (Khóa VIII) của Đảng về việc "Xây dựng và phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Tỉnh Thừa Thiên Huế đã hỗ trợ Hội

VNDG và nhà nghiên cứu Triều Nguyên ra mắt bộ “Tổng tập Văn nghệ dân gian

Thừa Thiên Huế”, gồm 6 tập. Nhiều bài viết về những kết quả sưu tầm, nghiên

cứu mới nhất, phần lớn do hội viên của Hội thực hiện đã được nhiều người chú ý.

Về kiến trúc: Bên cạnh các kiến trúc sư có kinh nghiệm công tác quản lý,

sáng tác đã có đông đảo kiến trúc sư trẻ năng động, nắm bắt nhanh kỹ thuật công

nghệ mới, có ý thức học tập nâng cao nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng

cao của cuộc sống và xã hội. Nhiều đồ án do các kiến trúc sư sáng tác đã để lại

nhiều ấn tượng tốt trong công chúng, nhiều tác phẩm đã được thể hiện ở một số

công trình kiến trúc tiêu biểu. Một số hội viên tham gia và đã đạt giải cao trong

các lần tham gia giải thưởng VHNT hằng năm.

Về hoạt động Nhiếp ảnh: Thừa Thiên Huế đã có những thành tích đáng kể

và đạt được nhiều giải cao trong nước và quốc tế. Nhiều lượt tác giả được đầu tư

cấp trung ương. Qua các kỳ Festival, Nhiếp ảnh TT. Huế đã có những nỗ lực

trong việc tổ chức các cuộc thi và triển lãm đã tạo được nhiều ấn tượng tốt đẹp

trong công chúng; qua đó nổi lên những gương mặt hội viên tiêu biểu tiếp tục

khẳng định vị trí của mình trên lĩnh vực nghệ thuật nhiếp ảnh. Thông qua việc

tham gia các cuộc liên hoan ảnh nghệ thuật 6 tỉnh Bắc Miền Trung, Liên hoan

Ảnh Nghệ thuật khu vực lần thứ 9 hoạt động nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế đã khẳng

định được vị trí hàng đầu của mình trong khu vực.

Hoạt động Mỹ thuật Thừa Thiên Huế: Đã tổ chức nhiều hoạt động góp

phần xây dựng nền Văn học và Nghệ thuật của tỉnh và có nhiều kết quả được

đánh giá cao trong giới mỹ thuật của cả nước và dư luận công chúng yêu nghệ

Page 135: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

132

thuật. Không khí sáng tác trong hội viên được duy trì liên tục, đạt nhiều kết quả,

nhiều tác giả giữ vững tay nghề và niềm hứng khởi sáng tác. Nhiều cuộc triển lãm

được duy trì hằng năm, nhiều trại sáng tác địa phương đã được tổ chức, đặc biệt

là các trại sáng tác Điêu khắc quốc tế, Điêu khắc dân gian trong các kỳ Festival

Huế đã thành công tốt đẹp, để lại nhiều tác phẩm có giá trị trưng bày hai bên bờ

sông Hương. góp phần tô điểm làm đẹp Cố đo Huế. Hoạt động tổ chức triển lãm

ngày càng mở rộng, thu hút nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia. Các cơ quan

như: Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế, Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng

tỉnh, Trường Đại học Nghệ thuật Huế, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Phòng Giáo

dục và Đào tạo thành phố Huế, các tổ chức như Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế,

Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán cũng đã phối hợp tổ chức nhiều cuộc

trưng bày, triển lãm.

Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng, Nhà trưng bày tác phẩm Nghệ thuật

Điềm Phùng Thị là hai cơ sở nghệ thuật thường xuyên đổi mới trưng bày, đáp

ứng nhu cầu tham quan du lịch và phục vụ các đối tượng đến học tập, nghiên cứu.

Cơ sở Nghệ thuật không gian mới (New Space Art Foundation) là đơn vị tư nhân

đã tổ chức nhiều cuộc trưng bày, triển lãm cho các tác giả trẻ tạo bầu không khí

hoạt động mỹ thuật khá mới lạ, sôi nổi trên địa bàn, thể hiện rõ hoạt động xã hội

hóa trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật.

Tạp chí Sông Hương từng bước nâng cao chất lượng cả về hình thức lẫn nội

dung, hoàn thành tốt nhiệm vụ xuất bản tạp chí định kỳ đóng góp cho sự phát

triển văn học nghệ thuật của tỉnh; đồng thời mở rộng giao lưu, trao đổi phê bình

lý luận văn học nghệ thuật, trở thành một tạp chí chuyên ngành có giá trị và có uy

tín đối với giới văn học nghệ thuật trong và ngoài nước.

Liên tục trong nhiều năm, Hội LHVHNT đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể

thao và Du lịch, Sở Giáo dục Đào tạo, Nhà Thiếu nhi Huế, Trung tâm Thanh

Thiếu nhi tỉnh, Tỉnh Đoàn, Thành Đoàn Huế, UB Dân số Gia đình và Trẻ em

tỉnh, Phòng Văn hóa Thông tin Thành phố Huế tổ chức thành công các trại sáng

tác thiếu nhi của thành phố Huế và các huyện, mở triển lãm chuyên đề định kỳ

hằng năm dành cho thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn và khuyết tật.

Hoạt động giao lưu trao đổi các loại hình VHNT với nước ngoài đã có

nhiều tiến bộ. Nhiều hội viên Hội Nhà văn, Hội Sân khấu, Hội Múa đã được đi

công tác, trao đổi văn hóa, biểu diễn nghệ thuật truyền thống ở các nước Trung

Quốc, Mỹ, Nhật, Pháp, Bỉ, Nga, Hàn Quốc ... Giới Nhiếp ảnh, Mỹ thuật đã gởi

nhiều tác phẩm mỹ thuật triển lãm quốc tế, nhiếp ảnh đi dự thi. Một số tác giả đã

được giải thưởng cao trong một số cuộc thi ảnh nghệ thuật quốc tế. 5 năm qua,

LH các Hội VHNT tỉnh đã đón nhiều đoàn văn nghệ sĩ của Pháp, Mỹ, Trung

Quốc, các Hội VHNT trong nước đến thăm và làm việc tại Huế. Nổi bật là các

trại điêu khắc quốc tế tại Huế đã thu hút nhiều nghệ sĩ điêu khắc từ 5 châu lục.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức nhiều hoạt động trong các

Festival Huế, trong Năm Du lịch Quốc gia duyên hải Bắc Trung bộ - Huế 2012

như: Liên hoan Sân khấu kịch chuyên nghiệp toàn quốc, Liên hoan Nhạc cụ

truyền thống các dân tộc Việt Nam, Liên hoan Hợp xướng quốc tế, các Ngày hội

văn hóa các dân tộc, Lễ hội truyền thống Đền huyền Trân…; các triển lãm văn

Page 136: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

133

hóa tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Thọ, Nghệ An, Đà Nẵng; sưu tầm,

quy hoạch các tác phẩm nghệ thuật, các khu tượng đài làm tăng giá trị văn hóa

cho Thành phố Huế.

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật

tỉnh Thừa Thiên Huế đã xây dựng kế hoạch liên ngành tổ chức thực hiện và phối

hợp thực hiện một số hoạt động hằng năm, được ghi nhận và đánh giá cao, như:

- Phối hợp với BCH Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức thành công “Hội thảo

Mỹ thuật khu vực Bắc miền Trung lần thứ I năm 2012”; trong khuôn khổ Chương

trình ký kết phối hợp hoạt động VHNT các vùng kinh đô Việt Nam xưa và nay

giai đoạn 2010 - 2015; chương trình Nhã nhạc Cung đình Huế tại đêm giao lưu và

hơn 200 đầu sách của các hội viên Thừa Thiên Huế trưng bày tại Trung tâm

Trưng bày- Triển lãm thành phố Việt Trì, nhân dịp giỗ tổ Hùng Vương năm 2012

tại Phú Thọ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với văn nghệ sĩ và những người hoạt

động VHNT các tỉnh bạn cũng như du khách thăm quan; phối hợp với Trung tâm

Hỗ trợ sáng tác- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Trại sáng tác VHNT tại

Đà Lạt và đã tổ chức triển lãm các tác phẩm sáng tác tại trại tạo ấn tượng đối với

văn nghệ sĩ và công chúng.

- Phối hợp tốt việc phát động phong trào sáng tác hưởng ứng tích cực học

tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh như thi tranh cổ

động, sáng tác văn thơ, kịch về đề tài này và tổ chức trưng bày, xuất bản những

tác phẩm hay, tốt; phối hợp tổ chức Triển lãm Mỹ thuật Mùa Xuân và Phòng

tranh Con Giáp; phối hợp tổ chức Ngày Thơ Việt Nam và Đêm Nguyên Tiêu

hàng năm; phối hợp tham gia Triển lãm Mỹ thuật 6 tỉnh khu vực Bắc Miền

Trung; Hội Âm nhạc phối hợp với Sở VHTTDL thực hiện thành công chương

trình nghệ thuật nhân ngày Âm nhạc Việt Nam, Liên hoan Âm nhạc Bắc miền

Trung, và các hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Liên hiệp

các Hội Văn học Nghệ thuật đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ

chức thành công nhiều chương trình văn hóa, nghệ thuật nhân dịp Đại lễ 1000

năm Thăng Long-Hà Nội, Năm Du lịch quốc gia duyên hải Bắc Trung bộ- Huế

2012.

Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 23 NQ-TW của Bộ Chính

trị về hoạt động văn học nghệ thuật của địa phương trong tình hình mới, tỉnh

Thừa Thiên Huế đã đề ra chủ trương và ban hành các nghị quyết, chương trình

hành động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Huế; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh

sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật; nâng cao chất lượng biểu diễn nghệ

thuật có sức lôi cuốn đối với công chúng; quan tâm đối với hoạt động lý luận văn

học nghệ thuật, cố gắng theo kịp thực tiễn sáng tác; xây dựng cơ chế, chính sách

đối với các hoạt động văn học nghệ thuật, với các nghệ sỹ; xây dựng, củng cố

thiết chế văn hoá; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động văn

học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế trong những năm qua đã

đồng hành và đã không tách rời với sự đổi mới, phát triển của đất nước, của tỉnh.

Tốc độ tăng trưởng về kinh tế, xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã làm thay

đổi diện mạo vùng đất Thừa Thiên Huế là thực tiễn sinh động góp phần nâng cao

nhận thức quan điểm, tư tưởng của giới văn nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo.

Page 137: Kỷ yếu hội nghị sơ kết 5 năm về văn học nghệ thuật (vanhien.vn)

134

Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế tiếp tục quán triệt tinh thần Nghị

quyết 23- NQ/TW của Bộ Chính trị và các nghị quyết của Tỉnh ủy Thừa Thiên

Huế, phát triển văn hóa văn nghệ theo đúng định hướng, đảm bảo các mục tiêu cơ

bản: Truyền thống - Dân tộc - Hiện đại; phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và

góp phần xây dựng Thừa Thiên Huế xứng tầm là trung tâm văn hóa và du lịch đặc

sắc, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam; xây dựng Thừa Thiên Huế sớm

trở thành thành phố trực thuộc Trung ương./.