61

Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tạp chí Văn hóa - Lịch sử - Ẩm thực - Du lịch Việt Nam dành cho giới trẻ. Chủ đề số 13: Ngày ấy đâu rồi?

Citation preview

Page 1: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13
Page 2: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

15/06/2012

Món ăn con trẻ

05

23

37

Trò vui năm cũ. 05Chơi chòi - Thú của miền quê. 09

Mùa dế. 11Vu vu xoay tròn trong ký ức. 13Mo cau và cậu bé thành thị. 15

Sân trường rộn rã. 17Tạt lon.19

Con trai viết cho Con gái. 21

23. Người đã tặng tôi một nhánh sơ-ri.25. Màu hoa dẻ.27. Mùa chùm ruột đong đầy nỗi nhớ.28. Bình bát dầm đường.29. Nhớ bần.31. Hoa cứt lợn - hoa của miền quê.33. Nặng nợ cỏ may.34. Tản mạn cùng trái cóc.35. Mùa thanh long chín

Trò chơi thơ ấu

13

Cây lá tuổi thơ

37. Canh chua trái giác.39. Bánh quê.42. Kem chuối của mẹ.43. Bánh ít hồn quê.45. Bánh lọt, ăn và nhớ.47. Mùi vị quê hương.49. Khoai từ thương nhớ.51. Ngọt lành bánh lá “thúi địt”.

5353. Ngày ấy đâu rồi?55. Vườn xinh.57. Ký ức xe đò - Những chuyến xe trong hành trình tuổi thơ.

Miền ký ức

Page 3: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

Hào khí Đông A

02

Tạp chí

Trưởng nhóm biên tậpBất Hối Mục Đồng

[email protected]

Phó nhóm biên tậpLưu Thanh Nguyên

Biên tập nội dungThanh Nguyên, Khắc Huy

Trang Đặng

Trình bàyViệt Quang, Khắc Huy

Phụ trách kỹ thuật chungNguyễn Minh Vũ

[email protected]

Phụ trách bạn đọcMinh Quân

[email protected]

Thư từ góp ý xin gửi về: [email protected]

Bạn muốn tham gia thực hiện tạp chí? Hãy liên lạc với chúng

tôi qua Email: [email protected] hoặc

[email protected]

Tranh bìa“Em và mèo con”

bé Bích Ngọc - Hà Nội

Bản quyền © 2012 - lophocvuive.com

Những ghi chép vụn

Hôm qua trong lúc đi tìm một cuốn sổ tay cũ, tôi đã bắt gặp lại những dòng cảm nghĩ của mình ghi lại cách đây đã lâu :

“Tôi nhớ hàng chè đậu đỏ trên con đường dẫn vào trường, nơi tụ tập của bạn bè trong những giờ trống tiết”. “Còn nhớ hoài đứa bạn chỉ thích ăn vụng trong lớp mà không bao giờ chịu ăn sáng ở nhà”. “Còn nhớ hoài có lần tổ chức liên hoan, lớp trưởng dặn dò bếp chính: mầy ráng làm sao chặt cho đủ ba mươi bốn miếng thịt, vì tụi mình có ba mươi bốn đứa mà có mỗi một con gà để nấu cà ri”. “Còn nhớ hoài những mẫu giấy to bằng hai ngón tay, chuyền đi từ đầu lớp tới cuối lớp và trong đó ghi vỏn vẹn mấy chữ: cậu có chùm ruột cho tớ xin vài trái ăn cho đỡ buồn ngủ”. “Còn nhớ những năm vào đêm giao thừa chong mắt ngồi canh nồi mứt dừa với má, để làm gì? để chỉ xin vét chỗ khét dưới đáy nồi”. “Còn nhớ năm mười bảy tuổi, đã được gọi là nhớn mà còn bị má đét cho mấy roi vào mông vì tội đi ăn khao nhà bạn về nhà sau chín giờ tối”. Đó là tất cả những gì tôi nhớ. Bây giờ nó vẫn còn nằm đó, trong những ngăn tủ của ký ức, lẫn lộn với bao lo âu cho cuộc sống hiện tại. Nhiều khi moi óc để tìm một điều cần phải nhớ cho công việc ngày mai tôi lại chợt bắt gặp ngăn tủ chứa kỷ niệm ấu thơ ấy. Cứ như thể những cái “còn nhớ” của tôi sống với tôi hằng ngày trong đời sống hoàn toàn khác hẳn với tôi của những năm về trước.

“Tôi muốn quay ngược lại thời gian và trở lại tuổi thơ…Khi Bố là “Anh Hùng”…“Tình yêu” là cái ôm của mẹ…Nơi cao nhất là “bờ vai của cha”…“Kẻ thù” lớn nhất chỉ là anh chị em ruột…Điều duy nhất có thể gây “Đau đớn” là xước đầu gối…Thứ duy nhất “Vỡ vụn” là đồ chơi…“Tạm biệt” nghĩa là “Hẹn ngày mai gặp lại”…

Thanh Nguyên

Page 4: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

Trò chơi thơ ấu

05

ình chẳng nhớ tự bao giờ mình bắt đầu biết nghịch ngợm và biết chơi, nhưng

vẫn cứ nhớ hoài món đồ chơi đầu tiên được mẹ mua cho. Đó là chiếc xe tăng bốn bánh không dây thiều (cót). Thuở đó mình cứ bò ra đất đẩy xe tới lui rồi làm tiếng xe chạy bằng miệng ùn ùn. Chán chê rồi nhưng chẳng có gì khác để chơi tiếp nên mẹ lại buộc xe vào một sợi dây để mình kéo đi lân la từ đầu nhà đến cuối nhà, rồi lâu lâu lại được kéo ra trước ngõ cho nó rong đuổi qua nhà thằng Khanh cùng xóm. Ấy vây mà thấy quý chiếc xe đến lạ lùng . Đi đâu cũng có nó và rất hãnh diện vì mình cũng có một món đồ chơi như ai.

Rồi đất nước giải phóng. Xe tăng chơi đến một lúc nào đó cũng chán. Những ngày đầu tiên đến trường, được học bài hát “Hoan hô chú bộ đội bắn Mỹ tài ghê...”, rồi được thấy mấy thằng học cùng lớp cầm mấy khẩu AK hay súng ngắn đen đủi bằng

nhựa bóp cò kêu rarara. Thế là cứ đến giờ chơi, thằng làm bộ đội, thằng làm giặc bắn nhau chí chóe để có lúc phải có thằng lăn ra chết rồi mới thôi. Có khi lớp con trai thì đông như bộ đội về làng, mà súng ống thì chỉ có không hơn ba cây, thế là chỉ có ba anh bộ đội. Đám còn lại làm giặc giơ tay đầu hàng quỳ xuống hết, từng thằng bị xử bắn rồi lần lượt lăn đùng ra chết.

Ngày còn ngơ ngáo chập chững bước ra ngõ xem các anh lớn cùng xóm chơi bắn bi (marbles), nhìn ngắm những viên bi óng ánh và đẹp vô cùng. Bi thì cũng có nhiều loại khác nhau. Bi chai trong vắt không màu. Bi sữa màu trắng đục pha lẫn những màu nâu hoặc đỏ tương tự như lớp vỏ bọc của cây kẹo kéo. Bi khế nhìn vô chỉ thấy các vân bên trong có cùng một màu và bi bình thường thì các vân được pha trộn màu sắc khác nhau. Các anh chỉ chơi bắn bi ăn bi.

Bùi Xuân Giao

M

Page 5: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

06

Trò chơi thơ ấu

Các loại bi được phân theo giá trị khác nhau tùy theo màu sắc và độ đẹp cũng như cũ mới của từng viên bi. Họ chơi bi lỗ (dân cư xá gọi là bi lô để nghe nhẹ nhàng và lịch sự hơn). Có lúc sang hơn họ chơi bi ca rê, rất nhiều bi được xếp vào một hình tam giác, bắn văng ra viên nào thì ăn viên đó. Bắn bi thì cũng có nhiều kiểu bắn và người chơi cũng phải vân dụng đầu óc để tính toán chút đỉnh. Sau này mình lớn lên, dân chơi bi thì đông lên nhưng bi không sản xuất ra nhiều thêm, thành ra có lúc bắn bi ăn búng tai hoặc sang hơn thì ăn tiền. Thỉnh thoảng thằng nào lượm đâu ra được viên bi đẹp, đem ra xóm khoe, cả đàm chuyền nhau xem say mê như được xem của lạ vậy. Có một điều rất lạ và đặc biệt là dân Cư Xá và dân Nam Hòa ở cách nhau chỉ một con đường Bắc Hải nhỏ xíu, nhưng khi bắn bi lại chơi theo 2 luật hoàn toàn khác nhau, thành ra chẳng bao giờ dân cư xá lại đi so bi với dân Nam Hoà cả. Nghĩ cũng lạ.

Trò chơi thứ hai là chơi đánh cù hay bông vụ (dzụ) mà một số người Nam hay gọi. Hồi đó chơi đánh cù thì cứ ra tiệm mua con cù về rồi tự tìm đinh đóng vào nó và tìm dây quấn rồi cứ thế chơi. Kẻ nào lười biếng thì cứ tìm con ốc bắt mấy cây đỡ vành xe

đạp đóng vô con cù rồi xong. Cù này được gọi là cù đinh ốc. Lợi điểm của nó là nó rất dễ quay và ít khi bị chổng dầu lên vì đinh ốc quá ngắn. Siêng hơn thì tìm một cây đinh dài và đâp dẹp một đầu ra. Sau đó đóng vào cù rồi quấn thêm dây thun để tiện việc quấn dây lúc chơi. Cù loại này được gọi là cù đinh hay cù đinh xà beng. Cù đinh khi đánh xuống trúng con cù khác thì có thể để lại dấu vết hoặc có khi chẻ đôi con cù kia luôn.

Chơi đánh cù thì cũng đơn giản lắm. Một vòng tròn nhỏ được vẽ ra. Sau đó tất cả kẻ tham gia đều phải đánh con cù mình xuống cho nó quay. Cù nào ngừng quay trước thì sẽ phải đặt nó vô vòng cho mọi người tra tấn. Khi tra tấn con cù trong vòng tròn , nếu cù của bất cứ ai không quay trên đinh mà chổng đinh lên trời hoặc lăn lông lốc thì cũng sẽ phải đặt con cù mình cùng chung số phận với con cù ban đầu. Lúc này kẻ ở ngoài vòng nếu muốn cứu bồ thì có thể đánh văng con cù mình muốn cứu ra khỏi vòng tử, lúc đó sẽ được thoát nạn và kẻ được cứu sẽ được tra tấn con cù nằm trong vòng. Thỉnh thoảng nếu cả đám muốn chơi ép ai thì tự nguyện chết hết bỏ tất cả cù vô vòng chỉ để một kẻ đứng ngoài cứu bồ.

Page 6: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

Trò chơi thơ ấu

07

Tuy nhiên kẻ cuối cùng này nếu chẳng may không làm con cù mình quay được khi đánh vào một đống cù như vậy thì tất cả những con cù nằm trong vòng tròn sẽ được trở ra và anh chàng xấu số cuối cùng kia bắt buộc phải để mạng mình cho mọi người tra tấn. Hồi xưa chơi đánh cù lâu lâu cứ muốn ép đứa nào, lại nháy mắt nhau rôì một hai ba cùng thảy cù vô vòng tròn và miệng cùng nhau vui ca chỉ một câu: “Sâu bọ nó lên làm người và sâu bọ nó lên làm người”. Lúc đó là biết có thằng sắp bị xấu số. Cách chơi và luật chơi mỗi nơi mỗi chỗ khác nhau , mình chỉ nhớ xóm nhỏ của mình thì chơi như vậy.

Rồi chơi đến những con thú hay lính bằng nhựa gọi là chơi lính hoặc chơi thú. Hồi đó nhớ có thằng Lý Tiểu Long nhựa trong có giá trị cao nhất. Những con thú to, lạ và hiếm thì được định giá cao hơn những con thú nhỏ xấu và không hiếm gặp. Chơi thú thì chỉ đơn giản chọi nhau hoặc vẽ mức chơi bật tường. Có khi cũng dùng những lá bài đỏ đen gọi là đánh bài ăn thú. Nhiều khi thua hết rồi nếu có tiền có thể mua được tùy theo định giá của kẻ chơi. Hồi đó có lúc mình cũng thu hoạch được một bịch kha khá. Thỉnh thoảng đem về nhà xếp tất cả ra ngắm nghía một hồi rồi gom lại cất đi, xem như của cải riêng của mình vậy.

Có những năm nghèo quá, chẳng có gì chơi, khi đó quyết định đi tìm bao thuốc lá hoặc những nắp chai, tự định giá cho những thứ này rồi chơi đánh đáo bằng nút phén (nút chai) hoặc đánh bài ăn bao thuốc lá. Chơi nút phén thì không nhậu cũng biết rất nhiều thứ bia 33, con cọp, Heineken, Tiger, Foster... rồi Cocacola, Hòa Bình, Tribeco. Bao thuốc lá thì ôi thôi đủ hiệu. Từ Capstan, Dunhill, Salem, Marboro cho đến Ruby quân đội, Apsara, Mai, Đà Lạt... Mỗi nắp chai, mỗi bao thuốc lá đều có một giá trị nhất định.

Page 7: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

08

Trò chơi thơ ấu

Trò chơi thì nhiều vô kể. Những trò như năm mười, năm mười quăng lon (trò này bị đừ chết luôn), banh lỗ, banh tù, chơi u, chơi keo, nhảy dây, nhảy lộn, lò cò, lò cò sủn, ốc dit táng, rượt bắt, đá gà (dùng đùi mổ), đá banh nhựa, chia phe đánh nhau, khích cho hai đứa đồng cân đồng sức đập lộn để cả đám coi không tốn tiền v.v...thì xóm nào cũng chơi cả. Những ngày Tết đến thì rủ nhau mua thuốc nổ về quấn pháo hoặc thuốc bồi quấn giấy bạc đốt cho nó bay chơi. Có những tay siêng năng hơn, tìm gỗ về vẽ kiểu rồi cưa ra những khẩu súng bắn pháo thật bắt mắt. Thỉnh thoảng cũng có đứa nghĩ ra những trò quái đản như dùng ống bọc dây điện (ống nhựa trắng), vo những viên đất sét nhỏ nhét vô ống rồi thổi vào nhau. Có lần mình bị một thằng thổi trúng mặt ở cự ly khá gần, ôm mặt rên một hồi mới thấy hết đau.

Mùa mưa đến, bạn bè rủ nhau lên tận hồ tắm Cộng Hoà mua cần câu và trứng kiến làm mồi đi câu cá. Thỉnh thoảng cũng dắt nhau đi vòng vòng cư xá tìm nhà nào cây có ổ kiến thọc lấy trứng đem về đi câu. Lúc nào hẻo hơn thì ra chợ mua vài con tôm rồi dùng nó làm mồi. Mùa nắng thì cũng có thể đi câu lươn ở những miệng cống chung quanh cư xá. Cứ có một sợi dây cước dài và cứng, một lưỡi câu móc vô một con giun đất, tìm một lỗ nào mà nghĩ là lươn nó cóthể bò ra ăn thì cứ thọc lưỡi câu cùng con giun đất đó xuống và dùng mấy ngón tay se sợi dây cho con trùn chạy qua lại. Lúc nào may mắn sẽ có một chú lươn ra phập mồi, thế là có môt bữa lươn. Hồi đó mình chỉ đi theo bạn ở xóm chứ chẳng bao giờ bắt gì đem về nhà sất.

Thời gian qua nhanh, những trò chơi đầy vui nhộn ngày xưa chỉ là những gì của quá khứ. Những âm thanh, những tiếng la đêm về khi chơi rượt bắt. Vẫn nhớ tấm thân nhễ nhại mồ hôi bao thằng rượt mà không bắt được vì quá trơn trượt. Vẫn nhớ là người hùng lao về cứu một hàng tù binh dài ngoằng, lạng qua được 2- 3 thằng ráng đưa tay ra để cứu bồ, mừng và hả hê khi mọi người được cứu thoát, cuộc rượt đuổi lại tiếp diễn như chẳng bao giờ muốn chấm dứt...Thuở nghèo khó nhưng đầy niềm vui.

Page 8: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

09

Trò chơi thơ ấu

Như trẻ con miệt quê nhắc đến chơi nhà chòi là biết, là mắt sáng rỡ lên cái niềm vui của những lúc tụm năm tụm ba ( trò này phải đông người mới vui ). Còn con nít thành thị chắc chỉ có ngẩn tò te ra mà gãi đầu gãi tai thôi. Mà con trai với con gái chơi nhà chòi khác nhau nhiều lắm đa, đối với các cậu thì chia nhau đứa chặt cây, chặt lá (thường là những cành cây nhỏ dùng dựng nhà, và lá chuối hay lá dừa để lớp mái nhà). Đứa thì hì

hục dùng dao làm cỏ của mẹ đào đất, đào bốn cái lỗ để

chôn mấy cây cột, phải chôn cho thật chắc. Có lúc mới dựng lên xong, vừa chạm nhẹ đã đổ sụp xuống tan tành. Nhưng không bao giờ bỏ cuộc.

Cả đám hì hục một hồi rồi cũng xong. Từng đứa thay phiên nhau chui vào căn nhà chòi nhỏ xíu để tận hưởng cái thành phẩm của mình một cách thích thú.

Về phần các cô thì còn thêm phần bày trò bán hàng và nấu thức ăn. Có lửa, khói đàng hoàng. Nấu thiệt nhưng chỉ ăn giả thôi. Trò bán bánh mì thịt là được ưa thích nhất. Nguyên liệu bao gồm lục bình, lục bình và lục bình. Nghĩa là tụi nhỏ dùng lục bình (lục bình được cắt ra từng khúc dài, thành từng khoanh tròn, sợi dài nhỏ) để làm ổ bánh mì, thịt, và chả, …Mỗi một nguyên liệu là một

hình dạng khác nhau. Mỗi lần bán cho khách cứ y như thật mà làm: cắt bánh mì ra làm đôi cho tất cả phần thịt, chả, rau… vào bên trong lấy giấy gói lại (giấy là lá lục bình) và giao cho khách. Mỗi đứa một ổ ăn ngon lành. Mà ăn thì phải trả tiền à nha. Đó là quy luật ngàn đời rồi, ai không chịu khó đi hái lá làm tiền thì không bán. Tiền là lá mà đứa nào muốn kiếm bao nhiêu cũng được.

Chơi chòithú của miền quê

Ai nói trẻ con nơi thành phố sung sướng

chứ tôi không thấy sướng chút nào. Ở

thành thị bị bao quanh bởi đồ chơi điện tử chớp đèn chói lóa,

nhà cửa lô nhô san sát nhau không thấy

được bóng ông trăng già, không chơi được

những trò chơi rất đỗi bình dị mà lấp lánh niềm

vui thơ dại.

Nghiêu Hương

Page 9: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

10

Trò chơi thơ ấu

Đó còn là món gỏi cuốn rất công phu ... Đầu tiên chặt cây mục trụ (Loài cây lá kim, gai nhọn, thân có bốn cạnh và mọng nước. Cây có hoa rất đẹp giống hoa Thanh Long, ở quê nó người ta hay trồng làm hàng rào cho vườn trái cây) phải tìm cho bằng được nhánh còn non, bự cẩn thận chặt nếu không bị gai đâm thì đau điếng. Chặt xong, gạt dọc theo thân bỏ bốn hàng gai nhọn, cắt khúc độ chừng khoảng một cuốn gỏi cuốn, mỗi khúc lột da được bốn miếng bánh tráng.

Sau khi có bánh tráng thì đi tìm hẹ. Hẹ là những cây cỏ cú mọc ven đường. Cỏ này giống hẹ lắm, từ lá tới thân y chang chỉ khác là mềm hơn lá hẹ. Nhân bên trong phải chọn đúng dừa xiêm nhỏ mới chịu tại vì cái lý do đơn giản hết sức là dừa xiêm trái non khi tách cuống ra sẽ có những chấm đỏ son màu hồng hồng đẹp, chỉ thế thôi ... Nhiều lúc, có cây dừa dưới gốc người ta mới bồi bùn nhưng có trái dừa non rụng đẹp cũng ráng bấm bụng chui vô lụm.

Dừa non được băm nhuyễn, lát sau đổi màu sang nâu rất đẹp. Hẹ được lặt và cắt khúc, bánh tráng được lột thành từng miếng. Còn thân cây mục trụ cắt lát có màu trắng xanh rất đẹp. Tất cả cuộn lại thành một cuộn gỏi cuốn tuổi thơ thật ngây ngất và đẹp lạ kỳ rất ít người có được. Làm xong ngắm đi ngắm lại nhiều lần, giả bộ măm măm rồi tung lên trời, hứng lấy sự hồn nhiên trong trẻo.

Ăn rồi phải uống chứ!. Pha đủ thứ nước giải khát có nhiều mà và mùi thơm, dùng lá dứa có màu xanh, lá cẩm có màu đỏ tía làm nguyên liệu pha chế. Đào một cái lỗ nhóm lửa nấu cái thứ nước ấy lên, mùi thơm của lá dứa lan tỏa. Ăn uống no nê rồi, lại quay sang trò chơi búp bê. Mà làm gì có tiền để được chơi búp bê bằng nhựa. Cả một gia đình búp bê cũng được chế từ lục bình, khắc những con búp bê với đầy đủ mắt, mũi, miệng, tay, chân. Muốn khắc bao nhiêu mà chả được, vì lục bình thì bao la ở dưới sông và mấy cái ao cạnh nhà.

Page 10: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

11

Trò chơi thơ ấu

Ham chơi ở đây không phải là ham chơi như Hoàng Phủ Ngọc Tường hay Nguyễn Tuân – cái thứ ham chơi tử tế vì đã làm được nhiều điều đẹp cho đời – mà là ham chơi thuần túy của con trẻ, ham chơi vì hiếu kỳ, vì mong muốn được trải nghiệm các cung bậc cảm xúc do cuộc chơi mang tới.

Nghiệm lại tất cả, tôi đoan chắc mình ham chơi là do có hạnh phúc được phát triển một cách tự do nhất. Học tập đúng thứ mình thích, rong chơi mê mải theo chúng bạn trọn những mùa hè miên man. Điều hay nhất và là điều tôi không hiểu nhất là trong một mùa hè ba tháng dài tưởng như không có kết thúc ấy lại có chia ra những “mùa” nhỏ nhỏ nữa. “Mùa” đá banh, “mùa” tạt hình tạt lon, “mùa” bắn bi, “mùa” thả diều, “mùa” đập nắp khoén chọi gạch, “mùa” dế…. Chẳng hiểu một mùa bắt đầu như thế nào và kết thúc lúc nao, chỉ nhớ rằng khi có một đứa trong đám con nít chung xóm hét toáng lên: “Chơi… đi tụi mày ơi” thì cả lũ chạy u đi sửa soạn, mua bóng về hì hụi nhét vào nhau làm banh hai lớp đá cho sướng chân, se sẽ đi lấy khung nón lá của mẹ, cơm nguội, giấy báo trong nhà làm nên những cánh diều xoãi cánh lên cao thật cao…. Cực khổ và công phu như vậy nhưng cũng chỉ cần lại có người hét lên (?) “Hết mùa… rồi nha, chuyển qua chơi…” thì tất cả những thức đó nhanh chóng bay vèo vào góc nhà, gầm giường.

“Mùa dế” của chúng tôi bắt đầu khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống.Khi mà những hoa phượng vỹ đã bắt đầu đỏ rực trên cành, là lúc chúng tôi - những đứa học trò tiểu học xếp bút nghiên, sách đèn lại để nghỉ hè.

“Những cơn mưa đầu mùa thường làm đau cây lúa.Những cơn mưa đầu mùa thường làm ướt cánh chim..!”

( lời bài hát của nhạc sĩ Trần Long Ẩn )

Mùa dếĐến ngày hôm nay, đã có nhiều bạn bè, đồng nghiệp, người thân từng nhận xét tôi. Có người nói tôi đẹp, có người nói hơi lãng đãng, có người lại nói là hơi vô tâm và sợ trách nhiệm. Tất cả những nhận xét đó tôi thấy đều đúng cả, nhưng tôi tự thấy rằng chân dung đúng nhất của mình phải là một người ham chơi.

Tiểu Nguyên

Page 11: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

12

Trò chơi thơ ấu

Tụi tôi đêm nào cũng ra ngoài những cây cột đèn đường, dõi mắt nhìn lên chờ những chú dế bay mỏi cánh sẽ đáp xuống đất. Lúc ấy thì mạnh đứa nào, đứa nấy chạy lại, thò tay chụp, bắt…có lúc hai ba thằng giành giật nhau một con dế! Khi kẻ thắng cuộc bắt được con dế rồi, mở bàn tay ra để xem và xẹp mất nguồn hý hửng vì…con dế đã dẹp lép!

Những con dế cồ than đen kịt, những con dế cồ lửa cánh màu vàng, có lẽ đã từng đi vào giấc mơ trẻ thơ của không ít người.Chúng nó quả là những chiến binh oai hùng, dũng cảm. Chân to, càng nhọn, thân mình bóng bẩy, lại rất linh hoạt, nhanh nhẹn, tiếng gáy lảnh lót, kiêu hùng. Những con dế nhỏ này nhưng lại sở hữu những bản năng chiến đấu tuyệt vời, thu hút không biết bao nhiêu là ánh nhìn và lòng ngưỡng mộ của bọn trẻ chúng tôi.Đi lật đất, đào hang, đổ nước để bắt dế là một niềm sung sướng không gì kể xiết. Có hang đổ gần chục lít nước và con dế vẫn không chòi đầu lên. Cảm giác tóm được một con dế dũng mãnh thật là rất vui. Nhưng đó là khi tôi đã lơn lớn tý, ít nhất cũng lớp 2, lớp 3. Hộp dùng đựng dế thì cũng đủ loại, có đứa tỉ mẩn dùng đất sét nặn thành cái hộp để bỏ dế, có ngăn chứa cỏ, ngăn cho dế ở đàng hoàng. Có thằng thì dùng hộp thuốc tể, trên có miếng kính bán ở các tiệm thuốc Bắc để đựng, lại có thằng dùng cả cái thùng “Cạt – tông” để nuôi dế, thức ăn cho dế thì cứ bứt cỏ lứt hoặc rau sam mà cho ăn.

Để chuẩn bị đá dế, ngắt một cọng tóc tròng vào cổ con dế của mình, thổi phù phù cho dế bay và “say máu ngà” ( có khi bị “tổ trác” vì lúc dế giang cánh bay, lúc xếp cánh lại có chú…xếp ngược cánh, tiếng “gáy” nghe rè rè, nhỏ xíu lúc đó được dịp cười thỏa thích nhé) rồi thả vào cái hộp giấy, hoặc hộp sắt tây cho đá với dế của đối phương. Dùng một cây chân nhang, quấn vào đó vài cọng tóc, có khi ngắt đầu một con dế nào đó cắm vào chân nhang rồi cứ thế mà “ráy” cho dế hăng lên, lùa cho hai con dế đối đầu nhau để thư hùng. Con nào chạy là thua, chứ không như đá gà có con phải nằm tại chỗ! Nếu đá theo kiểu “bắt xác” thì người thắng được phép bắt con dế của người thua, đem về cho…gà ăn! Mà dế thua chỗ nầy, lại thắng chỗ khác nên tôi cứ là thích mê.Tới bây giờ, tôi vẫn còn khoái chơi dế, nhiều khi dế bay vào sân nhà theo những bóng sau trận mưa đầu mùa, tôi cũng tìm bắt vài con, thả vào hộp nuôi, lâu lâu đem ra cho chúng đá với nhau, và để nghe dế “gáy”! Tiếng dế nỉ non trong đêm trường cô tịch trong bê-tông cốt thép làm sống lại biết bao nhiêu kỷ niệm thuở ấu thơ, sao mà da diết nhớ thương làng quê, nhớ những cánh đồng lộng gió, nhớ thương thời tuổi nhỏ quá đi thôi!

Page 12: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

13

Trò chơi thơ ấu

ay cầm “món đồ chơi” bằng gỗ, được quấn rất nhiều vòng bằng dây gai (một loại dây thừng mảnh nhỏ), cậu bạn ném nó xuống đất và giật mạnh sợi dây.

Nó xoay tít nhiều vòng trong tiếng reo hò của lũ chúng tôi. Rồi những “món đồ chơi” tương tự như thế được ném xuống, Có đứa tiu nghỉu vì “món đồ chơi” của nó lọt vào cái vòng được vẽ bằng phấn trên đất.

Có lẽ một số bạn sẽ đoán được tôi đang nói đến “món đồ chơi” gì rồi, phải không? Đó là trò chơi mà đã rất lâu rồi không còn xuất hiện ở vùng thành thị và cũng đã dần dần mất tích ở nông thôn. Chính là trò đánh quay, đánh cù, đánh bông vụ.

Những ngày còn thơ bé, chỉ mới biết chạy lon ton, tôi đã mê tít những trò chơi của lũ con trai trong xóm. Những chiếc bông vụ mà lũ con trai ấy thường hay gọi là con quay, con cù, đã thu hút tôi bởi những tiếng “bụp” khi bổ xuống, tiếng vút của dây quay và nhất là tiếng “vu vu vu” khi chiếc bông vụ quay tròn. Tôi vẫn nhớ rất rõ những giây phút say mê nhìn ngắm bông vụ xoay tít và di chuyển rất nhanh thành những đường vẽ lạ lùng trên mặt đất. Để rồi khi nó dừng lại, cảm giác luyến tiếc cứ vấn vương mãi trong lòng tôi.

Tuyết Anh

T

Page 13: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

14

Trò chơi thơ ấu

Ngày ấy, con cù của lũ trẻ chúng tôi thường được làm bằng gỗ thường, có hình gần giống giọt nước, bên ngoài màu vàng nâu bóng loáng, nhưng chỉ chơi được chừng vài tháng là vứt. Đứa nào có được con cù bằng gỗ tốt hoặc bằng sừng thì thường chỉ đem ra khoe rồi giấu biệt đi, hoặc để dùng khi được nẻ phạt. Nẻ phạt tức là những con cù của những đứa bị thua sẽ phải nằm trong vòng tròn, để những đứa thắng bổ cù vào, và thường thì sẽ làm cho con cù thua bị lõm hoặc có khi vỡ toác ra.

Tôi đã từng tự mua cho mình vài con cù, lấy bút chì sáp tô màu, vẽ hoa các kiểu, rồi đem ra chơi cùng lũ con trai trong xóm. Lúc đầu, vì là con gái, lại còn nhỏ, nên chúng nó cũng nhẹ tay, nhường cho thắng được vài ván. Nhưng rồi, chơi một lúc, hăng máu lên, chúng nó chẳng nhường nữa. Đương nhiên, sức con gái làm sao bổ cù mạnh bằng con trai? Tôi thua liên tục, con cù yêu thích nhất của tôi bị nẻ phạt đến vỡ toác. Thế là tôi khóc lóc, chạy về nhà mách mẹ. Sau đấy là một trận đòn vì nhiều cái tội: Đi chơi vào buổi trưa nắng, bỏ ăn sáng lấy tiền mua cù, nghịch bút màu và chơi trò chơi nguy hiểm (mẹ tôi cứ sợ con cù lúc bổ xuống, nhỡ văng lên trúng vào mặt). Thế là thôi, bỏ hẳn thói đua đòi tập chơi cù!

Không được chơi nữa và ăn một trận đòn, nhưng tôi vẫn cứ lén lút trốn ngủ trưa, để ra xem lũ con trai đánh cù. Thỉnh thoảng, những đứa tốt bụng lại cho tôi được nẻ phạt “ké”. Những con cù bị nẻ cứ văng nhẹ lên và chịu những vết lõm đáng thương. Thế nhưng, được nẻ phạt cũng rất thích, nên tôi cũng không lấy gì làm áy náy cho lắm!

Say mê là thế, nhưng khi lớn lên thêm 1,2 tuổi nữa thôi, tôi lại dần quên mất trò chơi đánh cù ấy, lại tiếp tục yêu thích những trò chơi mới, hấp dẫn hơn như nhảy dây, lò cò,… Cũng chẳng biết vì nó dần bị lũ trẻ lãng quên do có quá nhiều trò chơi hấp dẫn khác, hay vì người bán cũng không muốn bán một món đồ chơi “ế khách” nữa?

Tuổi thơ qua đi, mỗi lần nhớ lại, tôi như được nghe thấy tiếng “vu vu” của con cù đang xoay tít, đơn giản mà say mê đến lạ thường. Nhưng ngày nay, muốn đi tìm một con cù bằng gỗ, đơn giản, màu vàng nâu bóng loáng là một điều rất khó. Tôi thử tìm kiếm trên mạng internet, nhưng chỉ có những con cù điện tử hay những con cù có hình dáng lạ, màu sắc sặc sỡ. Và tôi cũng băn khoăn: Tìm ở đâu một đám trẻ chơi đánh cù, để những ký ức trò chơi thời thơ bé được đánh thức?

Page 14: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

15

Trò chơi thơ ấu

Mo caucậu bé thành thị&

Nó cuốn phăng đi hết thảy son phấn và mặt nạ, những nụ cười và nhiệt tình giả tạo mà bản thân phải dựng nên cho những người mình không hề thương mến. Trả lại cho tôi một miền xanh thẳm, trả lại hết cho tôi những ngày trong sáng và trọn vẹn nhất với chính bản thân mình

Ngôi nhà hàng xóm, vào những ngày đó, là của một gia đình người Bắc. Nếu mình không lầm lẫn quá đáng thì người bố trong gia đình tên là Hồng, người mẹ tên Hiền. Thật kỳ lạ là mình chắc chắn nhớ mình rất thích qua nhà đó chơi, ngày nào cũng vậy, trong suốt một thời gian rất dài. Có lẽ là do ngôi nhà đó có một chiếc dương cầm rất to, rất đẹp và cô bé hàng xóm thì cực kì dễ thương. Tôi không nhớ được tên cô ấy nữa, nhưng tôi lại nhớ rất rõ khuôn mặt của bạn ấy, có thể lấy tay mà vẽ lên không khí cái mũi hĩnh đôi lúc chun lại, đôi môi đỏ hồng đào, tóc tết thành hai dải bím và nước da trắng, rất trắng. Tôi không còn có thể nhớ hết được hai chúng tôi đã nói gì với nhau những ngày đó, nhưng tôi nhớ như in những giây phút vắt vẻo, đòng đưa chân chờ bạn ấy học đàn xong, và lần nào cũng giống nhau – khi bạn ấy học xong sẽ gọi mình tới ngồi cùng – hai đứa cùng đồ, rê, mi, fa, sol, la… trên những phím bấm tựa như ngọc ấy.

Càng ngồi nhớ, mình càng ngạc nhiên vô cùng. Vì mình nhớ quá nhiều về ngôi nhà đó và những gì đã chia sẻ với nó. Mình nhớ hai bác rất quý mình, luôn cho mình vào ngồi chơi với cô bé. Nhớ bác trai đi làm về lúc nào cũng mua một bó rau muống, nhớ bác gái lúc nào cũng rót nước bột sắn dây ép mình uống. Nhớ một lần náo loạn cả xóm vì con trăn nhà bác ấy nuôi bị sổng ra. Và nhớ mình đã kéo cô bé đó trên chiếc mo cau đi trọn một con hẻm.

Hôm nay lội mưa về nhà, bước tới cổng, ngó sang nhà hàng xóm thì chợt như

thấy tim mình đông cứng lại trong phút

chốc. Kí ức, kí ức như ngàn cơn lũ

cuồn cuộn tràn về, nhấn chìm và cuốn trôi hết những đau

đớn, muộn phiền, mệt mỏi của một ngày

luôn rất dài.

Thanh Nguyên

Page 15: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

16

Tôi không biết những chiếc mo cau đó xuất hiện như thế nào, chỉ biết một ngày bạn ấy bước qua nhà mình và nói : “Nhanh nhanh, qua mình cho bạn xem cái này hay lắm”. Rồi cô ấy ấn cho tôi một chiếc mo cau khô và nói : “ Mình ngồi lên, bạn kéo mình đi nhé”. Và thế là tôi kéo thật, kéo bạn ấy đi từ đầu đến cuối hẻm, một cách nhiệt tình và sung sướng. Đối với con trẻ, từ đầu con hẻm nơi xóm mình ra đến đường cái là một nơi nào đó rất nguy hiểm, không được đi đâu nếu không có người lớn kèm theo, thế nhưng chúng tôi đã băng ngang qua đó để đi sang con hẻm đối diện và vòng ngược trở lại. Khó mà diễn tả cho đúng cái cảm giác của chúng tôi lúc đó, hai đứa đều sợ, rồi lại thích thú, rồi lại sợ và cuối cùng thở phào khi về tới nhà. Mo cau, nó là xe bí ngô, là phi thuyền vũ trụ của chúng tôi, cho chúng tôi biết một cái “thế giới” khác hẳn.

Đôi khi có những lúc tôi trở chứng không chịu kéo thì đòi “oẳn tù tì”, ai thắng thì được ngồi lên “xe” cho người thua kéo. Thế nhưng, tôi toàn thua cô bé ấy cả, có lẽ ai đó nói đúng “con gái lúc nào cũng thông minh hơn con trai”. Có đôi khi không cẩn thận, vuột tay khỏi tàu cau, vậy là ngã “xe” té lăn cù dưới đất, để rồi cả hai chúng tôi buông ra những tràng cười giòn tan. Té rồi lại đi tiếp, vừa kéo vừa hát vang. Chiếc mo cau từ từ bị mòn đi, có khi cô ấy bị rách đít quần do mo cau rách, và sẽ bị mẹ mắng cho một trận vì ham chơi để rách quần.

Nhưng như những giấc mơ đều sẽ biến mất, buổi tiệc nào cũng phải chia tay ra về, cô bé ấy đã đi mất trong một ngày sang thu. Một ngày tôi về thì nhà bác hàng xóm đã dọn đi mất, tất cả những người đáng yêu đó đều đã đi mất, chỉ còn lại chiếc ổ khóa to sụ và những cánh cửa chớp im lìm. Mẹ tôi nói chỉ có bác Hiền ở nhà chào hàng xóm và đi theo xe tải, có lẽ bác trai đã chở cô ấy đi theo luôn khi đón lúc đi học về. Điều tệ nhất của trí nhớ là nó thường xuyên chơi khăm ta, nó giấu đi mất những kỉ niệm đau buồn đã xảy ra, để cuối cùng ta lạc lối trong muôn trùng ẩn ức. Tôi không nhớ lúc đó mình có khóc không, nhưng bây giờ thì tôi đang khóc như trẻ nhỏ. Điều kì diệu trên đời này có lẽ ít lắm, nhưng tôi mong cô ấy lại trở về và tôi sẽ lại tự nguyện nói : “Đi xe mo cau kéo nữa không?”. Bạn ấy gật đầu, hai bím tóc rung rinh, chúng tôi lại cười vang….

Trò chơi thơ ấu

Page 16: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

17

Trò chơi thơ ấu

Sân trường rộn rãHồi cấp một, từ lớp một đến lớp 3 mình được mẹ đèo đi học vì hai mẹ con cùng chung trường, đến khi lên lớp 4, 5 thì ngày ngày mình phải thực hiện cuộc hành trình dài hơn nửa tiếng để tới trường tiểu học Trung Nhất ở Phú Nhuận. Trường nằm sâu trong hẻm nên rất yên tĩnh cộng thêm khoảng sân trường rộng rãi, tha hồ mà chạy nhảy.

“Tùng tùng tùng ….”, tiếng trống giờ ra chơi vang lên. Đây là âm thanh mà bất kì đứa học sinh nào cũng mong muốn được nghe sau những giờ học dài đằng đẵng. Sau khi đứng lên chào thầy cô, mấy đứa con trai trong lớp chạy thục mạng xuống sân trường, cố chiếm cho được một gốc cây bàng để chơi bắn bi. Sân trường được tráng xi-măng nên chỉ còn những gốc cây bàng, cây phượng là chỗ còn đất để chơi bắn bi lỗ và nơi đây cũng rất mát mẻ do tàn cây lớn che mát.

... Sau khi chiếm được một gốc cây, mình với tụi bạn bắt đầu hì hục làm lỗ. Kiếm được một khúc cây chắc chắn, mình ra sức đào lỗ. Lỗ chỉ cần sâu khoảng 2,3 cm là đủ cho hòn bi rớt xuống rồi, còn rộng bao nhiêu thì tùy người chơi. Tay đào, tay phủi đất, miệng thì thổi liên tục. Đào một hồi cũng được bảy tám cái lỗ. Vậy là xong phần khởi động. Luật chơi cũng đơn giản, ai bắn bi của mình vô hết tất cả các lỗ đầu tiên là thắng, ai thua chót sẽ chịu một hình phạt vô cùng “đau lòng xót của”. Hình phạt đó là bi của nạn nhân trở thành mục tiêu để những người khác bắn, thay vì bắn vô lỗ.

Nghiêu Hương

Page 17: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

18

Trò chơi thơ ấu

Hậu quả là sau vài lần về chót thì bi đã sứt mẻ, nhất là khi bị bi sắt bắn trúng. Nào anh em, bắt đầu nhập cuộc, nếu ít người thì chơi cá nhân, còn đông thì bắt bồ. Sau khi phân chia đội thì tới màn sắp xếp thứ tự xuất phát. Ai bắn bi vô lỗ đầu tiên sẽ được đi trước. Sau khi thứ tự đã an bài thì màn chính bắt đầu: chiến đấu. Những viên bi bắt đầu lăn tròn trên khoảnh sân cát nhỏ nhắn, cong cong quanh gốc cây bàng.

... Bắn bi cũng như đánh trận vậy, cũng có kĩ thuật và chiến thuật. Trước hết là kĩ thuật. Người bắn bi chuyên nghiệp thì sử dụng duy nhất một ngón, thay đổi lực ngón tay và góc của ngón tay so với mặt đất để điều khiển viên bi theo ý muốn. Còn những bạn mới chơi thì sử dụng nhiều ngón khác nhau. Ngón giữa để bắn bi đi xa và mạnh, ngón út hay áp út chuyên trị những đường bi cần sự nhẹ nhàng, mềm mại. Nhiều cao thủ còn tập thêm những chiêu kĩ thuật lạ lùng như bắn bi bằng ngón cái, ngón trỏ hay bắn bằng tay không thuận. Tuy nhiên, yếu tố then chốt là khi chuẩn bị bắn thì ngón trụ (ngón cái tay phải) phải vững, ngón trỏ và ngón giữa tay trái kết hợp với ngón giữa tay phải để giữ bi một cách mềm mại, thoải mái.

Phần còn lại là điều khiển lực ngón tay, cái này được cải thiện theo thời gian chinh chiến. Mình cũng đã tập hết tất cả các ngón tay, nên giờ ngón nào cũng bị gãy gập hết. Đó là về phần kĩ thuật. Phần chiến thuật thì đa dạng hơn nếu chơi theo đội. Nổi bật trong các chiến thuật đó là đẩy bi đối thủ càng xa lỗ càng tốt. Đây là chiến thuật gây ức chế cho đối phương, nhất là đối với những bạn không có kĩ thuật bắn xa tốt. Có thể miêu tả chiến thuật này một cách ngắn gọn là bắn vào bi của đối thủ để nó văng ra xa lỗ, còn bi của mình thì chui tọt vào lỗ. Chỉ đơn giản vậy thôi.

... Mãi lo nhìn các bạn bắn, giờ đã tới phiên mình bắn rồi. Thiệt là căng thẳng. Mắt thì chăm chăm nhìn lỗ phía trước, ngón tay thì căng đủ lực, ngón cái chấm trụ chắc xuống nền đất và … bắn. Nín thở, hồi hộp nhìn theo viên bi. Viên bi đang cuồn cuộn lăn tới lỗ, lọt vô lỗ và … trồi lên chạy tiếp thêm một quãng nữa mới chịu dừng lại. Ôi, thiệt là tiếc !

... Vậy đó, bắn bi chỉ đơn giản là vậy thôi. Nhưng bắn bi đã để lại trong mình nhiều cảm xúc khó quên. Cái cảm giác từng ngón tay được tiếp xúc với nền đất lành lạnh, để rồi sau khi kết thúc cuộc chơi thì tay đứa nào cũng lấm lem đất cát. Cái cảm giác nâng niu, ngắm nghía từng viên bi xanh xanh, đỏ đỏ đủ màu sắc mà mình đã nhín tiền ăn sáng mấy bữa để mua thiệt là thích. Mình thích nhất là viên bi màu trắng sữa có ba màu xanh đỏ vàng. Rồi cái tiếng bi va vào nhau cốp cốp, tiếng cười hể hả sau mỗi lần bắn bi vào lỗ hay tiếng xuýt xoa khi bắn hụt. Tiếng cười đùa vui vẻ, hồn nhiên, vô tư của chúng bạn. Bây giờ thì khắp nơi là xi-măng, muốn kiếm một mảnh đất nhỏ để đào vài lỗ chơi bắn bi cũng khó. Mà có lẽ bây giờ bi chỉ được dùng để trang trí trong mấy chậu bông, bình hoa cho đẹp chứ không còn lăn lông lốc trên nền đất như thuở xưa nữa. Ôi nhớ lắm, bắn bi.

Page 18: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

Trò chơi thơ ấu

19

Tạt lon

Đã là trẻ con thì dường như không có cái gì là bỏ đi cả dù chỉ là một cái lon - mọi người vẫn thường gọi là “lon sữa bò”, chỉ là một cái lon trống rỗng thôi, không chứa gì hết - ấy thế mà không nỡ vứt đi, ngày qua ngày, thời gian cứ trôi, lăn lóc một cách lười biếng ở góc nhà.

Cái lon mặc định nằm trong một bộ sưu tập những thứ linh tinh và vớ vẩn mọi trẻ con hay tha về: những cọng thun, những nắp chai bia – chai nước ngọt, một bộ đá mót từ công trường xây dựng… Rồi đến một ngày được bọn trẻ con lên cơn siêng thắt lại làm dây để nhảy, đập dẹp ra thành nắp khoén chọi nhau, lựa ra những viên tròn đẹp làm thành bộ gạch chiến để chơi thẩy… Tất cả những thức ấy hợp lại thành “trò chơi dân gian” của trẻ con, trở thành mùa hè bất tận của chúng.

Sân chơi tạt lon là một bãi đất trống. Vẽ một cái vòng

tròn và đặt lon vào, vẽ một vạch cách khoảng 5 hay 6 bước chân. Sau đó người chơi đứng gần lon và lấy dép ném vào vạch xem ai sẽ là người giữ lon, ai sẽ tạt lon. Dép người nào gần vạch hoặc trúng vạch sẽ tạt lon, dép người nào xa vạch nhất sẽ giữ lon. Nói đến đây chắc hẳn các bạn đều biết người giữ lon là khổ sở nhất rồi. Người tạt lon sẽ đứng ở vạch và lấy dép...ném vào vòng, sao cho lon văng càng xa càng tốt. Còn người giữ lon phải chạy đi nhặt về. Và người tạt lon phải chạy lên để nhặt dép về nếu để người giữ lon bắt được thì xem như sẽ thay thế người giữ lon.

Tiểu Nguyên

Page 19: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

20

Trò chơi thơ ấu

Ôi, đúng là khổ sở cho người giữ lon, không đủ nhanh là sẽ bị đừ luôn. Đặc biệt những bạn hơi béo mà chạy đi nhặt lon cứ thở hổn hển thật tội nghiệp. Nhưng đấy cũng là một cách giảm cân đó chứ.... Trong trường hợp người tạt lon mà không tạt trúng thì phải chạy lên lấy dép về làm sao mà không cho người giữ lon chạm vào khi đụng đến dép, thật khó phải không. Trò chơi này đòi hỏi phải: “ném nhanh, rút gọn”, phải đánh lạc hướng người giữ lon thì mới thắng được, nếu không sẽ trở thành người giữ lon. Chẳng ai muốn trở thành người giữ lon tí nào

Nhưng lon không chỉ được trẻ con cùng chơi tạt với nhau , mà còn được chơi trò “ma lon” nữa cơ. Trò này không dành cho những bạn sợ ma đâu nhé. Đúng 12h đêm, trò này có đòi hỏi ngặt nghèo như vậy, mọi người ra nghĩa trang, mua bánh kẹo rồi thắp vái gì đó. Sau đó mọi người mỗi người cầm một cây nhang. Rồi mọi người bỗng nhiên chạy, lon cũng chạy theo một người, cũng chẳng biết tại sao lon chạy được nữa. Người đó dừng lại và vứt cây nhang xuống thì lon cũng dừng lại. Thì ra có một người lén lấy dây cột vào chân cậu bạn ấy. Dĩ nhiên cậu ấy chạy thì lon cũng chạy theo, người dừng thì lon cũng dừng. Vậy mà mọi người cứ tưởng là có ma. Bí mật ấy chỉ có cái lon và người cột dây biết thôi. Mà kể ra trò này cũng vui nhỉ, vừa chạy vừa thở hổn hển... Ngoài ra, mùa trung thu về thì ống lon còn được biến hóa thành lồng đèn. Cách làm rất dễ: lấy đinh đụt thủng hai đầu hộp lon, rồi dùng dây chì kéo những đường thẳng, xong nhúng hộp lùn xuống, thế là có những chiếc lồng đèn thắp nến tỏa sáng mà không bị cháy như lồng đèn giấy

Thời gian cứ dần trôi qua, con trẻ dần dần rời xa những ống lon ngày xưa . Có lẽ vì phải tập trung vào việc học. Những trò chơi trên online càng ngày càng hấp dẫn chúng hơn. Chúng đã quên rồi ư? Thời gian không bao giờ quay ngược nhưng tôi vẫn mong rằng lại được nghe những âm thanh lóc cóc sướng tai vô cùng , tuổi thơ được trả lại mùa hè trọn vẹn - được chạy nhảy, vui đùa, được cười rộn rã hồn nhiên, được trở về bên những cánh đồng bát ngát...

Page 20: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

21

Trò chơi thơ ấu

Con trai viết cho Con gái

Nhớ lắm những buổi trưa hè nắng rát, trong khi chờ cơm mẹ nấu , những đứa bạn trong xóm rủ nhau chơi nhảy dây. Cả trai cả gái, đứa thấp đứa cao, đứa mập đứa ốm có hết, rủ nhau mua thun về thắt lại thành dây dài và chắc hệt như con rít, có đứa còn lấy dây quấn quanh trên đầu rồi múa theo giống những người thôi miên rắn trong tivi. Sau một hồi túm tụm lại thắt dây, chẳng mấy chốc đã có ngay món đồ chơi vừa tiết kiệm tiền vừa tốt cho sức khỏe. Thế là bắt đầu xúm nhau lại oảnh tù xì, hai đứa bị thua sẽ phải đứng làm cột giăng dây ra cho những đứa khác nhảy. Ban đầu chỉ là nhảy qua nhảy lại một sợi dây đơn hay chúng tôi còn gọi là BAY CAO, sau rồi nghĩ ra những cách nhảy dây khác dùng đến hai sợi dây với những cái tên khác chúng tự đặt ra, cứ như thế con trẻ lớn lên với những vòng quay của sợi dây.

Những ngày trời mưa, khi không thể nào nhảy dây được, mỗi đứa đều ở trong nhà, thế nhưng dường như mưa không cản trở được thú vui trẻ nhỏ đó, bèn tự thắt dây và chơi trong nhà. Vì sợi thun là thứ

luôn có sẵn trong mọi nhà nên Con gái hay dấm dúi giấu mẹ lấy dây thắt lại một sợi mảnh, sau đó xếp những chiếc ghế trong nhà lại, cột dây vào chân ghế và bắt đầu nhảy. Ắt hẳn Con gái hay bị mẹ la vì cái tật cứ mê thích thứ gì, việc gì là quên ăn quên ngủ. Thật vậy, Con gái có thể nhảy dây mãi từ ngày này qua ngày khác chẳng khi nào biết chán là gì, cảm giác khi nhảy qua những vòng dây đó như thể được chắp thêm đôi cánh, cứ thế mà nhún nhảy, tung bay, cảm giác tự do, dễ chịu đến khó tả.

Trò chơi nhảy dây đã theo Con gái từ khi 6, 7 tuổi đến khi tôi bước vào ngôi trường cấp 3, áp lực của việc học, cộng với việc những đứa bạn trong xóm mỗi đứa cũng một trường rồi, chẳng có đứa nào rảnh rỗi, rồi Con gái dường như quên mất người bạn thân thiết đó là sợi dây thun dùng để chơi nhảy dây ngày nào. Cho đến một ngày, trong giờ ra chơi, Con gái đứng trên lầu hai nhìn xuống sân trường, bỗng nhìn thấy hình ảnh những cô cậu học trò lớp 10 mới nhập học đang rủ nhau chơi nhảy dây.

Ngày nhỏ, dường như Con gái là cô nhóc khá

tinh nghịch thì phải , mỗi khi đi học về, quăng cặp sách vào nhà xong

là chạy đi chơi ngay với những đứa bạn trong xóm. Ngày ấy trẻ con

hầu như đều là con của những gia đình nghèo,

thế nên thường thì chúng tự tạo ra trò chơi bằng các thứ có

sẵn hoặc tìm kiếm được quanh nhà chứ không

như trẻ con bây giờ, chỉ cần có tiền là có được món đồ chơi nhiều màu

sắc với nhiều chức năng.

Nghiêu Hương

Page 21: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

22

Trò chơi thơ ấu

Tuổi thơ như sống lại, nhớ về những ngày tháng tuổi thơ tôi đã qua, về những buổi trưa hè nắng rát, về những đứa bạn đen trũi vì trời nắng, về những vòng quay, những tiếng reo hò cãi vả vì có đứa chơi ăn gian, về những nụ cười khi nhảy qua được một độ cao nào đó, hay những giọt nước mắt khi ngã đau...Ôi tuổi thơ, ôi trò chơi yêu thích!

Nhờ trò chơi nhảy dây ấy mà Con gái có một sức khỏe rất tốt, nhất là đôi bắp chân, cực kì rắn chắc. Nhưng hơn tất cả, nó là niềm vui, sự hạnh phúc giản đơn của tuổi thơ. Không kìm nén được sự nhung nhớ lâu ngày, Con gái vội chạy xuống sân trường, xin tham gia chung với các em lớp dưới. Đã lớn và cao hơn ngày xưa rất nhiều rồi, thế nên tưởng chừng như những độ cao ngày trước quả chẳng có gì khó khăn cho việc chinh phục. Nghĩ thế nàng quấn ngang tà áo dài, xăn xăn hai cái ống quần lên, cố nhảy qua sau đó là té cái bạch. Vẫn còn đau với cú ngã khi nãy, thế nhưng Con gái cũng kịp nhận ra, khi con người ta lớn, cũng là lúc mọi thứ xung quanh ta đã thay đổi. Có những độ cao,

những giới hạn ta có thể với tới được, rồi xuất hiện những độ cao, những giới hạn ta phải nỗ lực hết mình thì mới tới được, nhưng sẽ có những giới hạn, những độ cao không bao giờ ta với tới được hoặc là nó không còn phù hợp với ta. Nhảy dây cũng thế !

Dù Con gái đã cao lên rất nhiều, dù độ cao đó Con gái nghĩ là nàng có thể BAY qua được, dù có quấn tà áo dài lại và nhảy qua thì một điều là Con gái đã không còn ở cái tuổi có thể nhảy qua nó nữa.

Con gái bây giờ đã lớn, đã bước qua cái tuổi 16,17 lâu rồi, đã thôi cái thời bị quản thúc của thầy cô rồi, đã như một người được tự do, thế nhưng, cảm giác tự do bây giờ không còn như ngày trước, không còn như lúc Con gái cảm thấy khi nhảy dây nữa. Có thể nói, Con gái đang chơi nhảy dây với cuộc đời này, cứ phải lên, rồi lại xuống, phải khéo léo, phải làm thế nào để không bị mắc lỗi, cũng không bị những vòng quay cuộc sống này nuốt chửng. Thật khó khăn !

Tôi chợt nhận ra, tuổi thơ của tôi và nàng đã qua, và giờ chỉ còn lại những thi vị của cảm xúc, chút vấn vương về một trò chơi trẻ nhỏ, một thời không bao giờ tôi quên được.

Tôi nhớ tuổi thơ tôi !Bên những vòng quay ...

những vòng quay ...những nụ cười ... trẻ nhỏ ...

hồn nhiên ...quay mãi ...quay mãi ...

BAY CAO ...BAY XA ...

XA ...

Page 22: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

23

Cây trái tuổi thơ

Sau khi phải tiếp liên tục mấy lượt khách khứa đến chúc Tết suốt từ chiều, Ba tôi định ra khép cổng để ăn tối thì anh bước vào. Hơi ngạc nhiên, nhưng ông vẫn vui vẻ mời anh vào nhà. Ba tôi có biết gia đình anh nhưng không đủ thân để đến thăm nhau vào ngày Tết. Hơn nữa, anh thật là một vị khách…lỡ cỡ. Hơi quá tuổi để là bạn học của tôi, nhưng lại quá trẻ để là khách của Ba tôi.

Dù vậy, anh vẫn là một vị khách đến chúc Tết, và như thường lệ, tôi nhận nhiệm vụ mời trà trong khi cả nhà rút xuống bếp tranh thủ ăn cơm. Vị khách của tôi chẳng nói gì cả. Không một lời suốt mười lăm phút. Anh chỉ lặng yên ngắm những tấm ảnh gia đình đặt chen chúc dưới tấm kính mặt bàn. Và tôi cũng vậy. Chúng tôi chẳng có gì chung, không chung trường, không chung bạn, không chung xóm. Chúng tôi chưa từng trò chuyện và thậm chí tôi không biết tên anh. Điều duy nhất tôi biết là nhà anh nằm trên con đường tôi thường đi học, trước sân nhà có một cây sơ ri –

vốn rất hiếm thấy ở quê tôi.

Tôi luôn yêu những cái cây, nhất là những loại cây lá nhỏ. Đối với tôi, chúng luôn có vẻ gì đó dịu dàng. Vì thế, tôi vẫn ngắm nghía cây sơ ri đó mỗi lần đi ngang, những nhánh cây mảnh và dài, những chiếc lá nhỏ không đều nhau nhưng có màu xanh đậm đà mạnh mẽ. Thỉnh thoảng, từ trong các nách lá, chìa ra vài chùm hoa màu hồng nhạt bé xíu, e thẹn…Và nấp kín đâu đó, là những trái sơ ri nửa xanh nửa đỏ. Dường như chẳng có ai chăm sóc cây sơ ri ấy, nên nó không bao giờ có nhiều trái, chỉ đôi chùm lấp ló như để trang trí vậy thôi. Một vài lần, khi thấy trong nhà không có ai, tôi ghé lại sát bên rào và thò tay bứt vội một chùm hoa về để trên bàn học.

Cũng có lúc tôi thấp thoáng nhìn thấy anh, nhưng không để ý đến. Vả lại, những năm học cấp hai qua rất nhanh, tôi lên cấp ba và đến trường bằng con đường khác từ hai năm trước. Cây sơ ri thậm chí chỉ còn là ký ức.

Mãi rất lâu, rất lâu sau này, tôi mới hiểu vì sao tối Mồng Ba năm đó,

chàng trai ấy đến nhà tôi.

Đông Vy

Page 23: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

24

Cây trái tuổi thơ

Mồng Ba Tết năm tôi học lớp Mười một, lần đầu tiên tôi thực sự đối mặt với một chàng trai lạ trong một tình cảnh thật ngượng ngùng. Tôi là chủ nhà bất đắc dĩ, anh là khách không mời. Và dường như chẳng ai có ý định bắt chuyện. Tôi len lén quan sát vị khách của mình. Tóc anh cắt ngắn để lộ vầng trán phẳng và rộng, sống mũi cao nổi bật trên gương mặt gầy, làn da xanh, mắt sáng. Những ngón dài một cách lạ lùng cứ nắm chặt lấy nhau. Đẹp trai. Nhưng nhút nhát. Tôi kết luận.

Uống hết sạch ba tách trà nhỏ, anh mới bắt đầu cất tiếng:

- Em khỏe không?- Dạ …khỏe.- …..

“Đầu tiên là sức khỏe” – tôi nhủ thầm trong bụng. Tôi đã đọc ở đâu đó về cuộc trò chuyện điển hình của những con người nhàm chán. Đầu tiên họ sẽ hỏi thăm sức khỏe. Và sau đó, nói chuyện thời tiết.

- Uhm, Tết năm nay tự nhiên lạnh quá…- anh ngẩng đầu lên – lạnh hơn hẳn mọi năm.

Tôi không kềm được tiếng cười.

- Đầu tiên là sức khỏe, sau đó là thời tiết.- Em nói sao?- Dạ không có gì, em chỉ buồn cười thôi, trong sách viết rằng khi không biết nói chuyện gì, người ta sẽ hỏi thăm sức khỏe, sau đó nói chuyện thời tiết.

Tôi trả lời, và tiếp tục cười, thậm chí hơi đắc ý tự khen mình đã ứng đối thật thông minh, đầy châm

biếm. Đã tỏ ra “cao tay” trước một anh chàng lớn hơn mình vài tuổi. Trong khi đó, anh nhìn thẳng vào tôi, ngỡ ngàng một lúc lâu, cho tới khi tôi bắt gặp ánh nhìn đó và im bặt. Nhưng đã muộn. Anh đứng lên chúc gia đình năm mới an khang thịnh vượng và xin phép ra về. Tôi đứng trước hiên nhà ngơ ngác nhìn anh bước ra khỏi cổng, rồi rất nhanh, quay trở lại với nhánh sơ ri trên tay:

- Thật ra, anh định nói rằng năm nay trời quá lạnh, nên những chùm hoa sơ ri mà anh dự định hái tặng em đã rụng hết rồi. Dù sao…Mừng em năm mới!

Trao cho tôi hai nhánh sơ ri xanh rì lá, anh quay lưng và bước thẳng vào bóng đêm. Còn tôi sững sờ đến nỗi không kịp thốt lên lời nào, chỉ đứng lặng trước hiên nhà một lúc lâu thật lâu… đến khi từng tế bào trong người tôi đều nhận ra rằng Tết năm ấy thực sự lạnh. Rất lạnh.

Khi tôi bước vào nhà, Ba tôi đã đứng đó, nét mặt nghiêm nghị. Từ dưới bếp, Ba đã nghe trọn câu chuyện. “ Kể cả khi con không có chút cảm tình nào với người ta, Ba cũng không chấp nhận được. Cách xử sự của con là quá sức khiếm nhã, nhất là trong ngày Tết.”

“Còn hơn cả sự khiếm nhã” – tôi nghĩ thầm trong bụng và bỗng dưng muốn khóc.

Mãi rất lâu, rất lâu sau này, tôi mới hiểu vì sao tối Mồng Ba năm đó, chàng trai ấy đến nhà tôi. Sau Tết, cả gia đình anh đã đi định cư ở nước ngoài. Ngôi nhà sau đó được bán cho một người ở nơi khác đến, và người ta xây lên một căn

nhà mới, sau khi đập nhà cũ đi và chặt sạch những cây nhỏ quanh

vườn, cả cây sơ ri “của tôi”.

Ngày Tết, người ta thường đến thăm nhau. Ngày Tết, người ta có một cái cớ thật đẹp để đến thăm nhau. Ngày Tết, người ta thường hồ hởi chào đón cả những người lần đầu tiên gặp mặt. Và anh, anh tưởng đã có một cơ hội cuối cùng hoàn hảo để đến gặp cô gái mà anh vẫn thường bắt gặp hái trộm hoa sơ ri nhà mình. Và kể cho cô ấy nghe vài câu chuyện…Những câu chuyện có thể bắt đầu với lời nhận xét về thời tiết. Nhưng cô ấy đã bật cười, và thậm chí, châm biếm....

Tôi vẫn thường bắt gặp những chiếc xe ba gác chở đầy ắp sơ ri chạy trên các đường phố Sài Gòn. Và khi ấy, tôi lại nhớ đến người con trai đã ghé lại nhà tôi vào một tối mồng Ba tết, để tặng tôi một nhánh sơ ri với những chùm hoa đã rụng.Tôi cứ tự hỏi mình rất nhiều lần trong suốt những năm tháng sau này, hỏi mãi, nhưng không bao giờ tôi có thể biết được, rằng mình có để lỡ điều gì khác nữa hay không, ngoài những chùm hoa sơ ri lẽ ra vẫn còn ở trên cành. Một điều gì đó đã theo anh bước khỏi hiên nhà tôi vào một đêm đầu xuân.

Tết năm ấy trời rất lạnh.

Page 24: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

25

Cây trái tuổi thơ

ôi nhớ đến quay quắt màu hoa ấy - cái màu của nắng tháng

năm nhuốm xuộm đôi mi thiếu nữ, cái màu quen thuộc của con đường làng hãy còn hằn lên đó dấu chân của bà, của mẹ, của những người phụ nữ lam lũ quê tôi. Ấy là màu hoa dẻ em tôi cài trên tóc, môi phiêm phiếm cười…

“Bờ cây chen chúc láChùm dẻ treo nơi nàoGió đưa hương thơm lạTrẻ đi trường xôn xao

Cánh mềm như lá nonVàng mơ như trái chínHoa dẻ treo thầm kínTừng chùm trong lá cây…”

Tôi sinh ra ở một miền quê nghèo cách thủ đô cả trăm cây số đường trường, lớn lên trong cái hoang dại của núi rừng Đông Bắc, với màu tím man mác của hoa sim hoa mua, với cái vị ngòn ngọt chan chat của những trái ổi dại, với mùi hương da diết của bông dẻ ngoài kia. Hoa dẻ để em gái gài lên áo, để chị tôi cài lên suối tóc mơ, để mẹ già ủ thơm chăn gối, để nội tôi thả ấm trà xanh thắp hương cho ông, để trai gái trong làng bày tỏ nỗi niềm sâu kín. Tuổi thơ tôi thơm mùi hương hoa dẻ!

Tôi không biết cây dẻ kia có tự bao

giờ. Chỉ nghe nội kể, ngày nội về làm dâu làng này, hoa đã chín vàng rực cả một góc trời. Đám rước đi đến đó, tất thảy không ai bảo ai đều dừng lại. Các bậc tiền bối song thân nhất nhất kéo cô dâu chú rể còn đang thẹn thùng đến trước gốc hoa, thành tâm khấn vái, những mong được vĩnh kết đồng tâm.

“Chẳng biết thần hoa có phù hộ hay không, nhưng vợ chồng sống với nhau hơn 60 năm, cũng chẳng bao giờ có chuyện cơm không lành, canh không ngọt. Cứ bình thản mà cùng nhau đi qua như thế…”

Nghe nội vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa kể, đôi mắt đã hằn vệt thời gian hướng về một nơi xa xăm vẫn ánh lên những tia trong trẻo kì diệu. Trong đôi mắt ấy, tôi bỗng mơ thấy một cảnh tượng, cô dâu trẻ e lệ nép vào tán hoa, chú rể mới ngại ngùng ngắt một chùm hoa cài lên mái tóc đen cho vợ, từng chùm dẻ đong đưa, đong đưa…

Người già yêu hoa dẻ với một chút hoài niệm, thanh niên gửi hi vọng trong chùm dẻ kia. Riêng lũ nhóc chúng tôi, yêu hoa kia vì sự trong sáng, vì vẻ đạm mạc của loài hoa dại ít người hay…

Hồng Mây

T

Page 25: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

26

Cây trái tuổi thơ

“Bạn trai vin cành háiBạn gái lượm đầy tay

Bạn trai, túi áo đầyBạn gái, cài sau nón.

Chùm này hoa vàng rộmRủ nhau dành tặng côLớp học chưa đến giờĐã thơm bàn cô giáo.”

Xuân Hoài không phải là nhà thơ nổi tiếng,

nhưng “Chùm Hoa Dẻ” của ông là những vần thơ thanh

tân nhất mà tôi được biết. Nó ấp ủ trong tôi một mối tình chung thủy. Ấy là mối tình với lũy tre xanh cót ca cót két xào xạc đêm hè gió lộng, là mối tình với giếng nước bên sân mỗi chiều mẹ tôi buông tóc gội đầu, là mối tình với những con đom đóm đêm đêm thả mình ẩn hiện sau tán cọ xòe ô, là mối tình với ngôi làng có cái tên hơi quê mùa – Tập Lục.

Chẳng có loài hoa nào như hoa dẻ phải dùng đến từ “chín” để hình dung độ xuân thì. Từng chùm dẻ năm cánh mong manh, mềm mại và dễ bị tổn thương ngay cả trong cái nắng của mùa thu đã khiến hoa kia lâu “chín” mà lại chóng tàn. Hoa dẻ xanh màu vương vương lá mạ, một mạt hương nhè nhẹ ngan ngát thế thôi. Nhưng khi hoa chín, ấy là lúc sắc hoa rộ nhất, hương thơm nồng nàn nhất. Màu hoa và mùi hương quyến rũ ấy thế mà lại ở trên một loài hoa dại, tạo hóa cũng thật khéo trêu ngươi. Hoa dẻ đời sống ngắn ngủi là thế, nhưng hương thơm thì còn mãi kể cả khi cánh hoa đã úa tàn, khô héo…

Đã 10 năm trời tôi không về lại ngôi làng ấy, màu hoa kia cũng chỉ còn là chút kí ức ngọt ngào còn vương lại sau những nỗi lo toan mê mải của thời tuổi trẻ. Tôi không về, hay đúng hơn là không dám về, vì rằng đâu còn ai ở đấy. Cả nhà tôi đã chuyển ra thành phố từ khi tôi vào cấp hai. Bà nội cũng yếu dần, một thân một mình không tránh khỏi cô liêu. Thế là theo cái lệ “phu tử tòng tử” muôn đời ấy, bà cũng chỉ biết thở dài theo bác tôi xuống thủ đô. Nhưng một người phụ nữ cả đời chỉ quanh quanh không quá chiếc ao đầu làng, lấy việc chăm sóc gia đình làm lẽ sống, ẩn mình trong mùi hương hoa dại, liệu có thể thoải mái ở một thành phố hoa lệ nhưng khắc nghiệt này không? Ngày nội đi, bác tôi đi khắp Hà Nội để tìm mua một chùm dẻ tươi song không thấy. Mẹ tôi mắt nhấp nhoáng nước, lôi từ trong bọc ra một món hoa dẻ khô, nhẹ nhàng nhét vào tay người mất. Lạ thật, hương hoa kia vẫn cứ nồng nàn như thủa còn tươi trên cành.

Tôi bỗng nhận ra, tôi đã lãng quên mùi hoa ấy quá lâu rồi…“Nội à, con sẽ lại về thăm quê mình…”

Trong suy nghĩ của tôi bỗng vụt ra một cảnh tượng: chú rể ngại ngùng cài lên mái tóc đen huyền của cô dâu của mình một bông dẻ, thầm thệ ước vĩnh kết đồng tâm.Chỉ có điều, cô dâu đang e thẹn nép dưới tán hoa vàng xuộm ấy, lại có khuôn mặt giống hệt tôi.

Hình như, tôi thấy nội hơi hơi mỉm cười…

Page 26: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

27

Cây trái tuổi thơ

háng 3, gió như một đứa trẻ mới tập đi bị nhốt vào

chiếc cũi tre không đủ sức cứ quanh quẩn một vùng. Nắng điên người như muốn thiêu rụi tất cả sự sống. Nắng làm mấy chậu xương rồng trước nhà khô quắt, màu xanh biến mất, thay vào toàn gai đâm ra tua tủa trong như con sâu đo. Mới gần 7 giờ sáng, nắng đã đủ sức làm cho con người chảy mồ hôi ròng ròng. Nắng theo dấu chân người, bám chặt vào những con bò gầy rộc xương đang nhởn nhơ gặm những gốc rạ mòn lẹt giữa đồng...

Đầu tháng 3, mùa chùm ruột bắt đầu. Từ những cành cây chùm ruột mảnh khảnh nhú lên những lá non bé tẹo xanh ngắt. Chúng lớn nhanh theo từng ngày nắng xanh ngọt lịm. Chẳng mấy chốc, trên những cành cây xuất hiện chùm trái non nhỏ tẹo xanh lơ chát ngắt, cựa mình theo ngày nắng. Những chùm chùm ruột không sợ nắng. Trái lại, chúng ưa nắng, nắng nhiều sẽ giúp chúng cho trái nhiều hơn. Cây chùm ruột nặng oằn trái. Chúng lớn nhanh chóng mặt. Từ màu xanh, theo ngày nắng chúng chuyển sang màu vàng nhạt rồi lớn dần to bằng viên bi và ngả màu vàng ươm ngon mắt. Khi ấy chúng đã chín, chúng bắt đầu

lìa cành rụng xuống đất...

Tháng 3, hàng chùm ruột sau nhà trĩu cành. Nhứt lại hái chùm ruột làm mứt mang ra chợ bán. Mứt chùm ruột Nhứt làm ngon tuyệt! Nhứt cũng hay làm món chùm ruột đâm nhuyễn cùng một trái ớt hiểm, nêm thêm muối, bột ngọt. Món này mà đưa một thìa vào miệng, ngay lập tức muốn ăn thìa thứ hai...

Tháng 3 nắng hạn, đồng ruộng nứt nẻ. Những con mương dẫn nước vào ruộng cạn khô, chỉ còn trơ lại vài vũng nước trũng. Những con cá bé thoi thóp thở, ưỡn bụng chờ chết vì thời tiết quá nóng bức, chỉ những con lớn hơn mới đủ sức chui sâu xuống bùn duy trì sự sống, khao khát chờ cơn mưa đầu mùa. Nhứt xắn tay áo và ống quần, cầm cái xô nhỏ men theo bờ ruộng, thọc tay xuống trũng nước. Những con cá trồi đầu lên bắn bùn tung tóe. Chẳng mấy chốc chúng nằm gọn lỏn trong cái xô, nào là cá sặc, cá rô, thậm chí là một cặp cá lóc... Nhứt lại men theo bờ ruộng hái từng cọng rau đắng đồng non xanh mơn mởn, bẻ cái bắp chuối hột, vài cọng ngò gai, vài trái ớt hiểm chín mọng, cuối cùng là một chùm chùm ruột to nhất. Nồi canh chua chùm ruột bốc khói thơm phức cả gian nhà.

Canh chua chùm ruột ngon đáo để. Thịt cá ngọt, vị chua của chùm ruột, chan chát của bắp chuối, đắng của rau đắng đồng... cứ tê tê ở đầu lưỡi, len đến tận kẽ răng. Nhứt cười múc cho tôi chén thứ hai canh chua chùm ruột. Nhứt bảo: “Canh chua chùm ruột món ăn dân dã, hiếm người biết nấu”. Tôi hồ hởi đón lấy chén canh: “Mai Nhứt nấu canh chua chùm ruột nữa nghen!”. Nhứt cười giòn: “Nhứt sẽ đãi canh chua chùm ruột cho tới mùa mưa xuống, chùm ruột rụng hết thì thôi...”. Bữa cơm quê ấm áp còn vang mãi nụ cười...

Tháng 3, mùa chùm ruột lại bắt đầu. Nhứt đã về với đất vì căn bệnh ung thư quái ác không chừa một ai. Ông ngoại của Nhứt già không đủ sức mang ghế đẩu với tay hái chùm chùm ruột chín vàng ươm. Ngoại chỉ đủ sức nhặt những trái rụng thả xuống ao cá. Ngoại nhớ Nhứt, len lén quẹt dòng nước mắt... Tháng 3, tôi đi giữa phố, đầy vơi nỗi nhớ: Nắng tháng ba - Mùa chùm ruột - Con cá đồng mắc cạn - Nồi canh chua chùm ruột - Nhứt của tôi - Quê nhà. Tôi bật khóc ...

Nguyễn Hoàng Nhân - TGPN

T

Page 27: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

28

Cây trái tuổi thơ

heo lời của ông tôi thì cây bình bát tự mọc chứ chẳng ai trồng. Một cây mọc lên, theo thời gian thì cây đâm hoa, kết trái. Trái chín rụng xuống,

nhiều cây con lại mọc lên… Cứ thế mà bình bát ken dầy thành hàng rào bao bọc xung quanh nhà ông bà. Trái bình bát còn sống có màu xanh khi chín chuyển sang màu vàng và có một mùi thơm rất đặc trưng.

Mỗi mùa hè theo chân ba mẹ về quê, vòng tay chào ông bà xong là tôi đã kéo tay cô Út ra vườn tìm hái trái bình bát. Chọn hái trái chín cây, đem về bỏ vào khạp gạo đậy kín cho bình bát chín mùi (khi ấy ăn mới ngon). Bóc bỏ lớp vỏ bên ngoài, bỏ cùi, cho bình bát vào ly rồi dầm với một ít đường, cho thêm một ít nước đá là có ngay một món ăn với cái mùi rất đặc trưng, có vị ngọt lịm và mát lạnh! Nhưng ít khi cô cháu tôi ăn theo đúng “bài bản” ấy, mà thường thì nhặt trái chín rụng cho vào áo, cột chặt lại rồi leo lên ngồi vắt vẻo trên mấy trảng cây, hoặc trên mấy cây dừa nằm de ra mé ao; cắn một miếng bình bát lại bẻ một miếng thảy xuống cho cá quẫy nước để vui tai. Tôi “thơm thảo” vậy mà cô Út vẫn hay trêu rằng, “Con nhỏ này ham ăn với… cá”, vì tôi chỉ ăn phần thịt bao quanh hạt bình bát rồi nhả hạt xuống ao cá, trong khi cô tôi thì ăn luôn cả hạt. Đến bây giờ, thú thật thì tôi cũng chẳng biết ăn bình bát theo cách của tôi và cô Út ai đúng, ai sai, nhưng ăn theo cách của tôi thì… mỏi miệng thật!

Bình bát nhiều hột, như mãng cầu vậy. Nhưng mãng cầu ít vương vấn quá, bóc vỏ cũng lẹ mà ăn cũng lẹ. Tôi thương cái trái hình tim màu vàng ấy quá đỗi, hương cái khó, cái khăn khi tận hưởng hương vị tuyệt vời, đó là cả một sự nếm trải. Và có lẽ, vì nó gắn với tuổi thơ, gắn với những niềm ao ước, trông mong.

Những lần từ quê lên thăm con cháu, ông bà tôi lại tay xách nách mang lỉnh kỉnh, nào là gà vịt, cá mắm, dừa khô…, và có cả những trái bình bát vàng ươm, bóng loáng. Khi ấy, trong căn phòng nhỏ của tôi lại sực nức cái mùi hăng nồng đặc trưng của trái bình bát - loại trái cây dân dã đã gắn liền với ký ức tuổi thơ tôi…

Bất Hối tổng hợp

T

Page 28: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

29

Cây trái tuổi thơ

oa bần nở tím màu thương nhớ - tím con sông rạch bãi cồn. Dù cho năm tháng đi

qua. Dù cho nắng táp mưa sa. Biển khơi sóng vỗ dập dồn, thủy chung bám mãi giữ cồn, giữ cho đời thơm ngát hương quê…”.

Hồi nhỏ, tôi thường nghe người ta hát vậy thôi chứ có biết hay ho thế nào đâu. Đã vậy, tía tôi còn đốn hết mấy cây bần mọc cặp mé sông. Tía nói, bần là bần hàn, bần cùng cơ cực, trước cửa nhà có bần thì làm ăn sao khấm khá nổi. Còn bần mọc chỗ khác như sau nhà, bãi bồi… thì tía nói kệ nó, không ăn thua tới mình. Đối với bọn trẻ chúng tôi chẳng quan tâm gì chuyện ấy. Có điều, mỗi khi thèm ăn trái bần hay má cần nấu canh chua hoặc làm nước mắm thì không phải ra trước cửa nhà là có!

Hồi nhỏ, chúng tôi hay rủ nhau đi hái trái bần ăn với muối ớt, muối tiêu hoặc mắm đồng. Trái bần tròn như trái quýt nhưng dẹp hơn, màu xanh rất đậm đà. Vỏ bần mỏng, bóng lưỡng, bên trong đầy những hột cỡ hột mè nằm liền kề nhau. Trái bần còn sống ăn có vị chát, khi chín hơi chua, ngòn ngọt và tỏa ra mùi thơm đặc trưng đến quyến rũ. Bần chín quanh năm suốt tháng, nhất là độ khoảng tháng tư đến tháng mười âm lịch, bần chín rụng trôi đầy mặt sông. Mỗi lần tía đi cắm câu có cá lóc bự, má kêu tôi đi kiếm vài trái bần về làm nước mắm. “Cá lóc nước trui chấm nước mắm bần là khỏi chê, thấy mình cỡ chúa Nguyễn đó chớ!”. Tía thường nhậu và khen như vậy. Sau này tía mới kể là

nghe đồn, lúc chúa Nguyễn Ánh chạy trốn nghĩa quân Tây Sơn vào lánh nạn ở các nhánh sông, cửa rạch vùng Cửu Long, người dân đã dâng lên cho chúa ăn món cơm nguội với mắm cá chốt chấm bần chua. Chúa ăn khen nức khen nở loại trái dân dã, hoang vu mà ngon đến lạ kỳ. Như để trả ơn, Chúa đã ban thưởng cho bần cái tên khá mĩ miều là Thủy Liễu (không phải xã Thủy Liễu thuộc huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang đâu nghen!).

Cũng hồi nhỏ, bọn tôi vẫn thường chơi trò cô dâu - chú rể. Chúng tôi chặt lá dừa làm mái nhà, lấy lá chuối làm vách như một… tổ uyên ương. Rồi thì, bọn con trai leo lên hái bông bần để cài lên tóc tụi con gái. Bông bần có vô số cánh tròn như tăm tre, trắng nõn nà; phần “ngọn” có hạt phấn long lanh, phần “gốc” phơn phớt tím, gần đài đỏ ao, tiểu nhụy tím rịm… Tất cả được bao bọc bảo vệ bởi những cánh búp xanh thắm, cứng nhưng dễ gãy, tua tủa như sao biển. Một lần, chúng tôi leo lên cây bần hái bông thì bị… bầy ong lá rượt. Đang ở trên cây không có đường chạy đành nhảy ùm xuống sông, vừa ngoi đầu định lội vô bờ thì bị chúng chặn đầu chích mấy phát, đau nhức quá, khóc hu hu về mét má. Từ đó, má cấm tiệt không được leo bần, dù hái bông hay bẻ trái! Nhiều lúc thèm ăn trái bần nhưng sợ má đánh đòn, đi chợ không thấy ai bày bán, đem thắc mắc hỏi má thì má nói: “Từ xưa tới giờ không ai đem bần đi bán đâu, con!”…

Hồ Kiên Giang - TBKTSG

“H

Page 29: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

30

Cây trái tuổi thơ

Mang ký ức tuổi thơ hồn nhiên dong ruổi khắp miền khắp chốn, rày đây mai đó, lắm lúc ăn lẩu chua nấu bằng giấm, trái me, trái xoài, trái giác, trái sấu… chợt nhớ trái bần chảy cả nước miếng. Đôi lúc xách giỏ ra chợ hỏi chị bán rau cải, chị cười: “Em không biết trái bần đâu!”. Nghe chị nói mà thấy thương quá loài cây hoang dại mọc tự nhiên hoặc được trồng ở cồn bãi ven sông, ven biển để phòng hộ xoáy mòn, cũng là chống sạt lở nơi đầu ghềnh, cuối bãi! Thương biết bao loài cây dân dã với lớp vỏ bọc xù xì xấu xí mà rễ cứ vươn lên bùn non giữ chặt thân vượt qua mưa nắng thời gian!...

Lần nào có dịp về quê tôi cũng được thưởng thức món canh chua bần, nước mắm bần như thuở nào, lúc trở lại thành phố muốn ăn tìm đỏ con mắt nhưng không chỗ nào bán cả. Mới đây, nghe đồn bà Tư Cúc ở Trà Vinh đã “nghiên cứu, chế biến” được bột bần, mứt bần, kẹo bần… tung ra thị trường tạo thành thương hiệu khá đắt khách. Chủ yếu người ở tỉnh, thành phố mua về để làm quà hay đãi bạn bè, như một kiểu quản bá, giới thiệu sản phẩm dân dã tưởng bỏ đi nghiễm nhiên trở thành… đặc sản! Bởi lẽ, trái bần hoàn toàn sạch, không hề nhiễm bất cứ hóa chất nào và được xác nhận nó còn có tác dụng ổn định đường huyết, lợi cho tim mạch. Mặt khác, các loại bột bần, mứt bần, kẹo bần được đựng trong keo, hủ, đảm bảo vệ sinh, giá thành chỉ 15

ngàn/ 250 gram, thời gian sử dụng từ 15 – 20 ngày, đặc biệt là lạ miệng, ăn một lần chẳng dễ gì quên hương vị thanh tao nơi đầu lưỡi! Và nữa, cây bần có độ tuổi mười năm có thể cho khoảng một tấn trái; và với bạt ngàn bờ bãi, cồn ốc, đê hộ… ở vùng châu thổ Cửu Long thì nguồn nguyên liệu này bao giờ mới cạn kiệt được chứ! Còn nhớ, cách đây không lâu, tôi đã được uống rượu bần bên cù lao Tân Lộc (Thành phố Cần Thơ) do người dân bản địa chế biến. Một lần thôi, vậy mà mãi đến bây giờ vẫn nhớ mãi dư vị chua chua, ngòn ngọt, cay nồng được chiết xuất từ loại trái cây hoang dại ấy.

Chao ôi! Bây giờ nếu tía tôi còn sống thì có lẽ tía không tin rằng thứ trái mà ai cũng nghĩ rằng sẽ mang lại sự bần hàn, cơ cực trong cuộc mưu sinh giờ đã… lên đời, đã có mặt ngày càng nhiều trong bữa cơm của mọi người từ nông thôn đến thành thị. Dĩ nhiên, nó cũng sẽ làm cho thu nhập kinh tế nhiều gia đình ở quê tôi thay đổi, phát triển thêm lên!

Có điều, người ta không bao giờ gọi nó cái tên mĩ miều mà chúa Nguyễn đã ban tặng là “Bột Thủy Liễu”, “Mứt Thủy Liễu”, “Kẹo Thủy Liễu” hay “Rượu Thủy Liễu”… và gì gì nữa. Bởi lẽ ai cũng nhớ và không thể quên cái tên “cúng cơm” của nó là “Bần”, vì vậy nên cứ gọi “Bần”.

Ừ, là “Bần”. Chỉ đơn giản vậy thôi!

Page 30: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

31

Cây trái tuổi thơ

ao con không gội cây cứt lợn như các mợ bảo. Hồi xưa mẹ toàn gội đầu cây

cứt lợn, dày tóc lắm con ạ. Thôi nhá, từ nay không được gội xà phòng nữa nó rụng hết tóc đấy…’’( trích trong tiểu thuyết ‘’Sóng ở đáy sông”- Lê Lựu ). Hoa cứt lợn là một loại hoa khá phổ biến trong dân gian Việt Nam. Ở vùng nông thôn hầu như ai cũng biết loại hoa này. Với tôi hoa cứt lợn là hoa của miền quê, của nỗi nhớ và của những kỉ niệm...Hoa cứt lợn còn có tên khá đẹp là hoa ngũ sắc (hay là hoa ngũ vị, cây cỏ hôi; tên khoa học là Ageratum conyzoides). Còn gọi theo y học cổ truyền là : hoắc hương kế, bạch hoa thảo. Là một loại cây nhỏ, thân nhiều lông mềm, cao chừng 25-50 cm, có hoa nhỏ màu tím nhạt . Cây mọc hoang ở khắp nơi, nhiều nhất là nông thôn.

Hơn 20 năm về trước, cây hoa cứt lợn chính là loại cây mà mẹ tôi thường dùng để gội đầu cho cả gia đình. Hồi đó cây cỏ nhiều chứ không ít như bây giờ. Tôi nhớ mãi hình ảnh lẽo đẽo theo mẹ tìm các loại cây cỏ mọc hoang trong vườn

hay ở ven đường về để nấu nước gội đầu. Lúc đó tôi cũng chẳng biết công dụng của nó là gì, chỉ thấy mẹ mang theo liềm và cắt rất nhanh. Tôi cũng học theo lấy tay ngắt, cho lên mũi hít lấy hít để đến độ khó chịu mà hắt hơi rõ to. Mẹ tôi quay sang mắng “Hoa cứt lợn đấy, ngửi nhiều là mũi bị thúi đó con..’’ Thế mà tôi tưởng thật, sợ quá hét toáng lên và từ dạo đó không dám ngửi cây cứt lợn nữa.

Khi quê hương tôi còn nghèo thì cây cỏ thay thế cho dầu gội, chẳng riêng nhà tôi mà rất nhiều gia đình trong xóm cũng dùng cây cỏ nấu nước gội đầu. Mẹ tôi giải thích với tôi rằng “hoa cứt lợn có tên xấu như vậy là vì nó mọc ở gần bãi phân của con lợn..’’ Tôi cứ gọi là tin sái cổ. Sau cái lần giải thích đó tôi bắt mẹ phải nấu bồ kết gội đầu chứ không dùng hoa cứt lợn nữa vì theo hình dung của tôi thì loại hoa này dơ bẩn quá nên không thể nấu nước gội đầu được. Mẹ lại phải “dụ khị” tôi rằng: “Đầu con có cứt trâu, phải gội cây này mới hết…’’

Hoài Trang

“S

Page 31: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

32

Cây trái tuổi thơ

Tôi cũng không nhớ nổi đầu mình có “cứt trâu” hay không nhưng khi lớn lên tôi biết được trẻ con mới sinh thì trên đỉnh đầu thường có một lớp vảy màu vàng tro của dầu mỡ, hoặc màu nâu vàng, hay màu đen lởm chởm dày mỏng không đều nhau. Lớp vảy ấy (thường gọi là “cứt trâu”) được hình thành do tuyến nhờn của da tiết ra chất nhờn và da đầu bị chết rồi hoá sừng, tích tụ lại trong thời gian dài tạo nên một lớp vảy lỗ chỗ, dày mỏng không đều nhau. …nhưng khi được 4,5 tuổi là cứt trâu tự biến mất. Nhớ lại cái hồi tôi 7 hay 8 tuổi gì đó nghe mẹ nói vậy mà cứ tin “cứt trâu” là “cứt trâu” thật vậy!

Không thể phủ nhận công dụng của việc gội đầu bằng cây cứt lợn, tóc tôi chẳng bao giờ bị gàu, lúc nào cũng suôn mượt và đen nhánh. Sau này khi quen gội với các loại cây cỏ tôi đâm ra khoái chí vô cùng, gội xong tóc có mùi thơm nhẹ và rất dễ chịu. Mẹ tôi thường nấu cây cứt lợn chung với cây cỏ mần chầu, hương nhu, lá sả, lá tám…Đun sôi kỹ cho những cây đó cho chín rồi vớt ra chậu và lấy tay vò cho nát, sau đó lại đổ

nước vô rồi vớt lá bỏ đi.

Ngoài tác dụng về tóc thì trong dân gian còn truyền nhau cách trị bệnh viêm xoang rất hiệu quả. Có lần em trai tôi bị viêm xoang, cũng uống nhiều thuốc nhưng không khỏi. Kéo dài gần 4 tháng liền, mọi người trong nhà ai cũng lo lắng. Sau đó có bà cụ trong xóm mách với mẹ là dùng thân cây cứt lợn, rứa sạch, giã nát rồi vắt lấy nước nhỏ vào mũi cho em. Nước của cây Cứt lợn khá cay, khi nhỏ sẽ gây cảm giác khó chịu nhưng hiệu quả rất tốt, chỉ trong vòng 4 ngày em trai đỡ hẳn. Mẹ sợ tái phát nên bắt em nhỏ hàng ngày trong vòng 2 tuần thì em khỏi hẳn viêm xoang.

Bây giờ mỗi lần về thăm lại quê, tôi không còn nhìn thấy hình ảnh cây cứt lợn mọc tím ngắt ven đường như xưa nữa. Thay vào đó là những bức tường cao hay một bãi đất trống, trơ trọi đến vô duyên. Cảnh cũ nay đâu, chỉ còn lãng đãng “hồn thu thảo”, nghĩ đến những ngày theo mẹ hái hoa cứt lợn mà lại thấy bồi hồi xao xuyến.

Page 32: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

ao nhiêu niềm vui, nỗi buồn của con người diễn ra ven sông, ven bãi bồi cỏ may đều biết hết. Cỏ

may ghi vào ký ức, hòa vào niềm vui chung của con người và buồn với nỗi buồn của riêng ai ngồi một mình bên bờ sông vắng lặng.

Chiều chiều lũ trẻ lùa bò sang sông. Có đứa bám lấy đuôi bò lội theo cho qua con nước. Có đứa ngồi hẳn trên lưng bò, miệng hò hét vang sông. Lũ con gái tóc đuôi gà nón cời, nón lá vẫn không giữ được màu da nõn nà vì nắng gió. Con trai cóc ngán cái nắng chang chang như đổ lửa giữa ngày hè. Chúng cởi trần, phóng xuống sông thi nhau bơi ào ào rồi tự chấm giải nhất, nhì, ba... Tắm chán chê, lũ nhóc phóng lên bờ sông ngồi phơi nắng cho đỡ lạnh...

Lúc lùa bò trở về phía bên này sông, lũ trẻ ào lên bờ đuổi bắt nhau mệt nhoài. Nhìn lại quần áo đứa nào cũng găm đầy cỏ may. Những bông cỏ đơn sơ, hiền lành găm vào quần áo như gởi gắm tình yêu của thiên nhiên đối với con người. Cả lũ ngồi tỉ mẩn gỡ cỏ may, gỡ hoài, gỡ mãi trong câu chuyện râm ran không đầu không cuối. Dường như cỏ may chỉ thích găm vào nền vải, không trầy xước chân tay nên chẳng ai nỡ giận.

Có những chiều lũ trẻ chúng tôi men theo bờ sông mải mê câu cá. Cá chẳng cắn câu, lòng tức giận bồi hồi, cắm cần, đi đào khoai đất soi, lấy cỏ khô chụm lại thổi lửa pho pho. Đến khi khoai nức mùi thơm mới chia nhau ăn, ăn xong miệng đứa nào cũng đen như hôn vào đít chảo. Thế là cả lũ bật lên tiếng cười sảng khoái.Có những chiều tôi và cô bé nhà hàng xóm loay hoay trong mảnh vườn nhỏ đầy cỏ may và hoa dại. Chúng tôi ngắt những bông hoa li ti với đủ sắc màu gợi cảm cắm vào các chai lọ sắp thành hàng làm “lối hoa” rồi ngồi đá gà bằng cỏ

gấu. Sau những lần tôi quấn quýt với cỏ may, mẹ phải ngồi hàng giờ gỡ từng bông cỏ, mắng yêu: “Chó con của mẹ lúc nào quần áo cũng dăng dít cỏ may. Mẹ chẳng sống được lâu dài để gỡ cỏ cho con”.

Tôi không thể nhớ nổi có bao nhiêu lần mẹ ngồi gỡ cỏ trên quần áo của tôi. Rồi có lần tôi nhận ra mắt mẹ không còn sáng như xưa. Từ ấy, mỗi lần rong chơi trên đồng về tôi ngồi lặng lẽ gỡ cỏ may. Loài cỏ đem lại sự phiền toái cho tôi và lũ nhóc, tuyệt nhiên không nghe ai kêu ca vì cỏ bao giờ, vì nó dệt nên sự hồn nhiên, trong trẻo của tuổi thơ. Sau này, có những lần tôi cùng lũ bạn học đốt lửa trại ngoài bãi đất soi ven sông. Chúng tôi thong thả men dọc bờ sông nghe tiếng cá quẫy, tiếng nước róc rách, nghe thời gian đọng lại những phút giây đẹp nhất của lứa tuổi học trò. Tôi chợt thấy có đôi bạn ngồi gỡ cỏ may cho nhau để rồi sau đó cả lớp dự lửa trại châm chọc nhau làm “hai người” mắc cỡ muốn chết! Đó là bài học đắt giá khiến tôi nhút nhát mỗi lần ngồi bên em trên bờ sông.

Bông cỏ may làm vật chứng cho những cuộc hẹn hò vào lúc chiều tà. Cỏ may đi vào nỗi nhớ của tôi bằng cảm giác bồi hồi: “... Vôi nồng thấm miếng trầu cay/ Cỏ may nệm gối hương say tóc thề...”. Một chút tình vẩn vơ của thời trai trẻ không ngờ nặng nợ một đời thật khó gỡ ra. hững chiều dọc triền sông quê, cỏ may múa hát có gió reo khúc hoan ca. Cỏ vẫy tay chào các bé mục đồng, cỏ làm nơi ém quân bí mật cho lũ trẻ chăn bò lập trận giả chia phe đánh nhau. Trẻ em vô tư giơ roi chăn bò, nhắm nhía làm súng, miệng nổ tằng! tằng! Thú vị. Chúng chả cần biết chiến tranh là bi kịch lớn nhất của nhân loại.

33

Cây trái tuổi thơ

Trần Quốc Cưỡng - BHG

B

Page 33: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

34

Cây trái tuổi thơ

Thời học sinh, không ai mà không biết đến trái cóc, thứ trái cây có hình dáng đơn sơ nhưng đủ vị chua, ngọt, dòn, mềm...tùy theo trái sống chín, nhưng mang nhiều kỷ niệm đáng nhớ của lứa tuổi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Cây cóc tán rộng, lớn như cây, ổi, mận, cao ngang nóc nhà. Cây cóc lá xanh mướt, có thể to bằng bàn tay nhưng cánh lá kết thành từng chùm, sợi tua tủa, mềm rũ như bộ vi của cá ông tiên.

Mỗi Hè về quê chơi, thú vui của bọn trẻ thành phố là leo lên cây cóc, lựa một cành vững chắc để ngồi vắt vẻo vừa hái trái vừa ăn, ăn xong cầm cái hột trên tay, canh ai đi ngang chọi trúng đầu rồi ngồi im ru, trốn sâu trong lùm cây.

Cóc sống có da màu xanh, láng mướt. Gọt đi lớp vỏ ngoài ta sẽ có lớp thịt xanh nhạt bên trong. Tựa như xoài sống, cóc sống rất chua. Hàng quán trước trường hay trong xóm thường dùng mũi daorạch nguyên vòng tròn phía trên tựa như cái nấm, tách bên dưới thân cóc ra từng múi như cánh hoa nở. Ghim cóc trên đầu cây tre nhỏ rồi ngâm vào nước ngâm (thành phần là muối đường và ớt) Cóc sống ăn với mắm ruốc ngon số 1, kế đến là muối ớt. Nghĩ đến múi cóc quẹt với tí mắm ruốc cho vào miệng. Cóc giòn tan, chua chua lẫn với vị vừa béo vừa mặn của

Mắm....Ngồi nhai nhóp nhép ai đi ngang qua nhìn thấy mà không chảy nước miếng thì chắc không phải là học trò.

Gọt cóc sống thường thường là dùng dao bào . Nếu không có dao, kẹp trái cóc vào kẹt cửa, đóng lại, nhẹ thì trái cóc sẽ nứt ra là đôi, mạnh thì bể làm ba làm tư, càng dể cạp bỏ vỏ hơn. Còn nhà nào chỉ có cửa sắt, không có cửa gỗ thì chọi trái cóc vào tường, kết quả mạnh nhẹ tương tự như cho vào kẹt cửa .

Trái cóc chín cây thì vỏ có màu vàng đồng, bóng lưỡng . Bào lớp vỏ ngoài ra sẽ thấy bên trong là lớp thịt mọng nước. Thịt cóc chín thường mềm, chua chua ngọt ngọt . Trái hơi già quá lứa thì thịt có xơ, vì thế khi lựa cóc chín nên lựa trái vàng lợt thịt sẽ mềm và đở xơ hơn màu vàng sậm.

Trái cóc đã gọt sạch bỏ, đưa lên miệng cắn, vị chua ngọt từ nước cóc ứa ra mê ly . Nữ sinh đi học mặc áo trắng thường rất cẩn thận khi ăn cóc chín vì nước màu vàng của cóc khi dính vào áo trắng giặt rất khó phai, có giặt kỹ cách mấy vẫn để lại vết ố trên áo . Nếu ngồi ăn vụn trong lớp, không có khăn giấy lau tay thì canh me đứa con trai nào ngồi cạnh mà mình ghét, làm bộ hỏi mượn đồ bằng cách đưa bàn tay dính nước cóc ra khều lên áo anh ta . Thế là tay sạch mà còn được một phen “hả giận”.

Theo BSM

Page 34: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

35

Cây trái tuổi thơ

ó một thời, trái thanh long là nỗi háo hức của chúng tôi mỗi khi đi xa trở về nhà. Khi ấy, chưa có những biện pháp ép thanh long ra hoa, cho trái

trái mùa nên thanh long chín rộ tự nhiên vào mùa hè. Những trái thanh long dù don don hay mập tròn, căng bóng luôn được trẻ con vồ vập một cách nhiệt tình nhất, cổ súy thêm cho quan niệm của người lớn: ăn nó mát, lành!

Cái thời bao cấp, đi học xa nhà, sức thanh niên ăn gì cũng thấy ngon, không biết no mà, những bữa cơm thì luôn thường trực lỏng chỏng mấy miếng thịt mỡ trôi lửng lờ trong tô canh chỉ toàn nước. Ngay cả rau xanh không hiểu sao cũng thiếu thì, những trái thanh long chín mỏng vỏ, xẻ làm sáu, rồi chỉ cần lột nhẹ cái phần vỏ màu đỏ bên ngoài, tận hưởng từ từ vị ngọt thanh pha chút xíu chua chua, mát miệng luôn là “thiên đường của mơ ước”. Thiên đường hơn nữa là trái thanh long có thể ăn no, ăn hết, không lựa bỏ hột như mãng cầu hay sapôchê!

Cái thời mà, mỗi khi đến Nha Trang, món quà đầu tiên khách nghĩ đến là trái thanh long mang về, nó không quá cao sang, đắt đỏ nhưng cũng không tầm thường khiến người nhận thờ ơ.

Thời gian trôi đi, cuộc sống với những biến động thăng trầm, trái thanh long cũng không loại trừ quy luật “thịnh - suy”. Khi thanh long được trồng công nghiệp đại trà và xuất bán ra nước ngoài thì người tiêu thụ trong nước lại thấy nó thường hơn so với những loại trái cây khác. Và rồi, để tạo thương hiệu, người ta lấy giống ngoại nhập về, bày thêm cho thanh long đủ kiểu ruột vàng, ruột đỏ…

Đào Thị Thanh Tuyền

C

Page 35: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

36

Cây trái tuổi thơ

Tôi cũng như nhiều người thờ ơ nhìn trái thanh long theo kiểu cái gì nhiều quá cũng không ngon. Nhất là khi nó không còn được trồng theo cách tự nhiên mà tạo hóa sắp đặt.

Thanh Long vào mùa đỏ rực ở chợ chỉ có các bà nội trợ lớn tuổi mua về đơm ngày rằm hay chưng bàn thờ ông địa. Nhiều khi chưng đến héo, nhăn nhúm lớp vỏ ngoài, không ai ăn, đành bỏ!

Tuy nhiên, mới đây, có dịp ngồi trên xe lửa đi dọc dải đất miền Trung, nhìn đồng lúa nối tiếp đồng lúa chen lẫn những cánh rừng cây thưa thớt khô cằn, những đồi cát nắng nóng bỏng, chói mắt, tôi chợt bàng hoàng khi thấy hoa thanh long nở trắng từng vạt đồi. Thanh long mọc tự nhiên gá vào cây lớn dạng mít, xoài, vươn ra xung quanh những cánh tay xương rồng dài ngoẵng đính trên đó những bông hoa thanh long đài cát, duyên dáng, dịu dàng, sáng rực một vùng cây khô, xơ xác. Và rồi, kỳ diệu hơn nữa vừa hết vạt đồi hoa trắng lớp, rừng bỗng rực lên bởi một “giàn đồng ca” của thanh long chín đỏ vào mùa. Người ta nói rằng ở một nơi nào đó, khi nhiệt độ ngày và đêm chênh lệch nhau khá cao, cây sẽ cho trái ngọt hơn. Riêng với thanh long, trái chín mọng trên cây tích lũy tối đa độ ngọt nên tôi tin chắc rằng những trái thanh long rừng này sẽ rất ngon. Chợt hiểu, thanh long về chợ bây giờ không ngon do người ta đã không chờ đến khi chất ngọt của trái được chuyển hóa hết trên cây. Trái chín dễ hỏng khi vận chuyển, mà thanh long lại có đặc tính không tiếp tục chín hay ngọt thêm sau khi hái xuống.

Từng vạt thanh long lướt qua cùng lúc ký ức được kích hoạt nhanh chóng. Ở đó trái thanh long là sự thèm thuồng kèm thêm nỗi nhớ nhà nhiều khi đến quay quắt. Ở đó có trái thanh long ướp lạnh hay ly thanh long đá - đường mẹ làm sẵn, dịu mát những trưa hè nóng nực. Ở đó là những mùa thanh long chín treo lủng lẳng, đặc gật trên cây mít phía sau nhà. Ở đó có một thời khó khăn, mỗi trái thanh long được mẹ bọc kỹ mấy lần lớp giấy báo, đặt nhẹ nhàng trong chiếc giỏ cũng lót mấy lớp giấy mang vào Sài gòn cho dì. Có những bữa cơm gia đình đầy ắp tiếng cười vui khi mẹ dọn lên món tráng miệng cuối cùng. Một thời cha vất vả ngược xuôi, mẹ chắt chiu từng đồng bạc mong con cái nên người.

Ôi, những mùa thanh long êm đềm, mùa ngọt ngào yêu thương!

Page 36: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

37

Món ăn con trẻ

ị của trái giác cũng tùy theo độ trưởng thành mà chua chát, chua thanh hay chua

ngòn ngọt, rứt một quả cho vào miệng cắn nhẹ, vị chua làm người ta nhăn mặt, thè lưỡi ra lưỡi nhuộm tím như mực mồng tơi.

Mỗi lần về quê nội, tôi lại cùng mấy đứa em họ chèo thuyền đi hái trái giác về nấu canh chua. Như bao vùng quê khác của miền Tây, quê nội đi đâu cũng gặp sông và kênh rạch, phương tiện đi lại chủ yếu vẫn là thuyền gỗ (xuồng chèo). Dọc hai bên bờ sông là những trảng dừa nước xanh rờn, mỗi khi làm nhà mới hay phải sửa chữa lại nóc nhà bị dột, Cô dượng tôi lại chọn những lá dừa to, chắc khỏe và vừa già đem róc làm đôi rồi phơi cho dôn dốt, sau đó dùng lợp nhà, gọi là lá chằm đóp. Ở quê nội, để có một căn nhà mới, ngoài việc dọn sạch một khoảng đất trống rồi đắp đất lên cao cho ra dáng nền nhà thì nguyên vật liệu hầu hết đều cây nhà lá vườn, kể cả nhân công. Chủ nhà chỉ cần nấu một bữa ăn cho thợ là chỉ trong một buổi sáng rường cột coi như dựng lên sẵn sàng, chỉ cần thêm vài tiếng đồng hồ buổi trưa nữa, mái nhà đã được “xóc nóc” và vách nhà đã mới tinh màu lá chằm. Làm nhà miền sông nước rất nhanh và rẻ bởi hầu như nhà ai cũng sở hữu vài xẻo dừa nước, vài liếp tre tàu, tre mạnh tông và dây choại thì tha hồ

cắt. Cộng với tay nghề con nhà nông nên những căn nhà lá ấy cứ tồn tại cùng thời gian và nằm sâu trong ký ức tuổi thơ không biết bao nhiêu lớp trẻ.

Không chỉ chuẩn bị chu đáo về phần nguyên vật liệu cho việc cất nhà từ lâu mà cả thức ăn nấu cho thợ thầy hôm dựng “đòn tay” (tức là dựng khung sườn ngôi nhà) cũng được chuẩn bị công phu. Tôi nhớ hoài hôm cất nhà cho em họ tôi ra riêng, Cô Sáu tôi chuẩn bị thức ăn cho thầy thợ gồm vài món cá kho mặn bình dị (cũng là nhờ mấy cần câu cắm) và một nồi canh chua trái giác cực kỳ ngon. Cô tôi nói “trời nắng ăn canh chua là đúng sách”. Tôi vinh dự được tham gia vào nồi canh chua ấy bằng việc đi hái trái giác cùng với vài đứa con của Cô tôi.

Trái giác là một loại trái tròn dẹp như quả bần ổi, tuy nhiên chúng rất nhỏ và thường dính rối với nhau từng chùm. Là một loại thân leo mọc quấn quanh những lùm cây ven sông rạch và các bụi dừa nước nên dây trái giác rất dài, do chúng thường bò quẩn quanh nên tạo thành từng lùm rậm rạp. Lá trái giác trông như lá nho nhưng mỏng manh và nhỏ hơn nhiều, chúng cũng có những tua dây như những cánh tay bám rất chặt vào thân cây chủ.

CTV LHVV

V

Page 37: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

38

Món ăn con trẻ

Trái giác còn non bé xíu như hạt đậu xanh sẽ có màu xanh trong trong, trái giác trưởng thành màu xanh sẽ sậm hơn và bóng lưỡng, thế nhưng ngon nhất là trái giác chín, chúng có màu đỏ nâu hoặc đen thẫm. Vị của trái giác cũng tùy theo độ trưởng thành mà chua chát, chua thanh hay chua ngòn ngọt, rứt một quả cho vào miệng cắn nhẹ, vị chua làm người ta nhăn mặt, thè lưỡi ra lưỡi nhuộm tím như mực mồng tơi, tiếng cười thích chí của chúng tôi vang dọc đoạn sông vắng…

Việc vạch lá cây tìm những chùm trái giác chín mọng bao giờ cũng làm bọn trẻ thị thành như tôi thích thú. Thế nhưng vẫn chưa thích bằng việc vừa bơi dọc các vạt dừa nước vừa nhổ bông súng bỏ lên xuồng. Khi trái giác được một rổ to thì bông súng cũng đầy ắp. Xem chừng đã đủ nồi canh chua khoảng chục người ăn là lúc chúng tôi quay xuồng trở về. Bình thường thì có nhiều loại trái chua để nấu canh chua nhưng mùa lợp nhà bao giờ cũng là canh chua trái giác nấu bông súng với cá lóc hoặc cá rô mề. Mọi thứ đã được làm sạch, chỉ còn chờ tụi nhỏ đem trái giác và bông súng về là bắt bếp nấu canh.

Cô tôi nấu một nồi nước nhỏ rồi bỏ trái giác còn lẫn cả cuống đã rửa sạch vào. Vừa ngồi tước bông súng tôi vừa nhìn Cô Sáu nghiền nát thịt trái giác tạo nên một màu nâu tím như mực tím học trò, sau khi đã vớt bỏ hạt và xác, phần nước chua ấy được pha vào nồi nước nấu canh. Một bên Cô sáu để rổ cá, một bên là dĩa ớt xắt nhỏ và một dĩa các loại rau nêm như quế, ngò gai, ngò om… xắt nhỏ, chúng được trồng quanh năm, hễ ăn món gì cần là nguyên liệu đã có sẵn. Cô không dùng muối mà dùng nước mắm để

nêm nên vị canh chua đậm đà hết sức. Cô đợi nước sôi bỏ bông súng vào rồi nhanh tay nhấc ra khỏi bếp, thuận tiện lắm. Các công đoạn nấu canh chua thật đơn giản, không phức tạp cầu kỳ nhưng khâu nêm nếm mới làm tôi phục Cô sáu nhất. Không biết Cô tôi nêm thế nào mà khi húp muỗng nước canh, cái vị chua chát đi đâu mất, chỉ còn lại một vị chua ngon ngọt nơi đầu lưỡi. Cô tôi nói canh chua phải nêm cho “cứng”, sau đó cho rau nêm và ớt hiểm vô. Màu tím thẫm của nước canh trông thật ấn tượng và hấp dẫn. Bông súng không để chín trên bếp nên ăn vào vẫn còn giòn và ngọt.

Một buổi trưa đầy nắng, tôi ngồi trên đám lá dừa đang róc dở dưới tán cây còng bên cạnh bờ sông nghe cánh thợ lợp nhà vừa ăn vừa kháo chuyện. Trong bếp ăn dã chiến, Cô tôi cười rạng rỡ tay thoăn thoắt múc canh vớt cá, bới cơm. Tôi như thấy căn nhà đã làm xong trong chớp mắt. Bữa cơm thợ giản dị với nồi canh chua trái giác ăn cho mát” của Cô sáu khiến tuổi thơ tôi bình yên quá đỗi…

Page 38: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

39

Món ăn con trẻ

hường thì, ở đất Sài Thành, con người vội vàng đi về nhưng lắm lúc, nhạt miệng, lại muốn tìm “vị xa xưa”, muốn nếm “hương kỷ niệm”. Nhưng trời có lúc nào cũng chiều theo ý? Rồi nỗi bâng khuâng man mác đó cũng chìm vào cái nhộn nhịp nơi phố thị. Lắm lúc ta như quên hết ta từ đâu đến, ta từng như thế nào, cứ bước đi như có lực đẩy vô hình không cho dừng lại, mà rướn mình theo hoa lệ vẩn vơ trước mắt. Thảng hoặc, một chiều mưa Sài Gòn, đâu đó trong con hẻm nhỏ dài hun hút, ngoài khung cửa khép kín vang lên lời rao run run khản đặc “Ai... bánh da lợn hôn ...” Tiếng rao thảng thốt, đứt đoạn, hụt hơi chìm vào rả rích cơn mưa. Ta giật mình, bật tung chốt cửa, ngóng trông! Ngóng trông bóng dáng, ngóng trông âm thanh, ngóng trông hình khối? Không! Không phải! Hình như ta đang ngóng cái gì đó xa xăm, mơ hồ mà quen thuộc, đang lẩn khuất đâu đó giữa khung cảnh này. Phải chăng, chính cơn mưa làm nảy nở những thiết tha thương nhớ,

làm mềm lòng người con xa xứ?

Ừ thì, con người suốt đời chỉ lẩn quẩn, chìm đắm mãi vào những nỗi ngóng trông. Còn nhớ lúc nhỏ, lắm khi tha thẩn đợi chờ, chỉ đơn giản là chờ vòng tay ấm áp của bà, của mẹ về nhà sau phiên chợ, kèm theo dăm thức quà bánh nho nhỏ. Một đùm bánh nếp nhưn chuối gói lá dừa, một bọc bánh bò bông xanh, tím hay một lát bánh da lợn dinh dính, ngòn ngọt, thơm tho cũng làm ta rộn ràng đến lạ! Ta chẳng thể nào quên được cái vị ngon mê ly của bữa bánh đợi chờ. Cảm giác bóc từ từ lớp lá gói, hay gỡ từng lát bánh sao mà hồi hộp, ngọt ngào như nụ hôn tình đầu. Niềm vui của trẻ con ngày ấy đơn sơ quá, chỉ cần chiếc bánh bò hấp, nở ra ba cánh, phơn phớt tím màu lá cẩm, hay xanh tươi rói của lá dứa, lấm tấm vài hạt mè hay vài chiếc bánh quy làm bằng bột nếp, ép khuôn lên lá chuối, ở giữa điểm thêm chút màu đỏ chót để phân biệt nhưn đậu với nhưn dừa cũng đủ cho cả ngày hứng khởi.

Lúc đi xa đứa con miệt vườn

hay nhớ những gì? Có người bảo

đó là bến nước bên dòng sông

xanh mướt mát, có người nói là quán nước nhỏ ven đường rộn rã, cũng có khi

đó là “người muôn năm cũ” giờ

chẳng biết lưu lạc chốn nào,

hay nói như Vũ Bằng: “Nhớ tất

cả, mà không nhớ gì rõ rệt”.

Đôi khi nỗi nhớ là thoáng buông lòng lắng lại khi bắt gặp chút quê mùa trên sề bánh

ế chiều mưa Sài Gòn, trong con

hẻm nhỏ.

Khắc Huy

T

Page 39: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

40

Món ăn con trẻ

Sướng nhất và nhớ nhất là lúc làm bánh ngày Tết hay giỗ ông bà. Trong không khí chộn rộn, người lớn gói bánh, con nít tíu tít chạy quanh . Bánh làm ra cũng lắm màu, nhiều vẻ, bánh tét màu lá cẩm, màu là dứa, trộn đậu đen, đậu phộng hoặc dừa nạo vào nếp, bánh tét nhưn ngọt, nhưn mỡ hành, trứng vịt, thịt ba rọi, nhưn chuối...lại có cả bánh ít làm bằng bột nếp, nhưn đậu xanh, nhưn dừa, hoặc tôm, thịt gói bằng lá chuối xanh đem hấp chín. Và ở góc nào đó giữa khu vườn tươi mát miên man, có đứa nhóc nhẩn nha cắn từng chút, từng chút một, phân vân nửa muốn ngốn ngấu cho đã thèm, nửa lại luyến tiếc nhinh nhính để dành hương vị thơm ngon.

Đôi khi, trên con phố quen thuộc, nhà cửa san sát, mặt tiền phơi bày hết vẻ tráng lệ sang trọng, ta bắt gặp hàng bánh nép mình dưới gốc cây me tươi tắn. Dừng lại, chọn vài món. Cũng thứ bánh ấy, cũng gạo, cũng nếp, cũng nước cốt dừa lại được làm lớn hơn, đẹp hơn mà sao vị cứ thấy nhàn nhạt, ngây ngấy. Những thức bánh hình như được

làm từ một lò, bỏ mối khắp phố phường thiếu hẳn đi vị tài tình, công chăm chút của con người chất phác thôn dã, lại không được tẩm ướp thêm tấm lòng thương con, thương cháu thành ra bề ngoài mang vẻ lịch lãm, đầy đặn nhưng kì thực chỉ ẩn chứa sự tầm thường của “miếng tồi tàn”, chẳng đáng bận lòng để nó trôi nhanh chóng vào con vị.

Quả là, cái sự ăn uống không phải đơn giản, người ta vừa nếm vị, vừa ngửi mùi, vừa lắng nghe thanh âm, vừa chìm vào khung cảnh. Món nào cho ta thưởng thức đầy đủ hương, thanh, sắc, vị sẽ làm ta nhớ mãi. Mà kể cũng lạ, lúc người ta da diết nhớ thì người ta hay tưởng tượng. Ngon, ngọt, béo, bùi chưa đủ, ta còn nêm nếm vào đó chút trữ tình thôn quê đầm ấm, chút dịu êm thương mến của thân bằng quyến thuộc để mà ước ao, thèm thuồng.

Những thứ mà ta không để ý, bỏ quên đi lại trở thành to tát, quan trọng. Những món bánh tủn mủn, quê mùa, bị rẻ rúng đã thành một phần tình cảm, tâm hồn. Ta nhớ bánh!

Page 40: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

41

Món ăn con trẻ

Nhớ chân đồng, góc ruộng, nhớ con trâu nhởn nhơ gặm cỏ miệt đồng bằng thẳng tắp, nhớ cánh cò soãi rộng tung bay giữa ráng chiều tha thẩn. Nhớ mùi trầu, mùi thuốc trên áo bà ba nâu sồng của bà; mùi nắng tỏa ra từ vòng tay của mẹ! Càng nhớ, ta càng hụt hẫng, tự trong đáy lòng có nỗi tủi thân nào nó lâng lâng, chực trào.

Tôi vẫn nhớ từng khuôn mặt của những người bán rong hay đi ngang ngõ nhà. Một bà bán bánh tét, thấp người, nhỏ con gánh đôi quang đầy ắp, luôn cười típ mắt khi bán được hàng, một anh cục mịch phanh ngực áo cất giọng trầm trầm cưỡi con xe đạp lủng lẳng từng chùm bánh dừa trên gui-đông, một chị bầu bĩnh đậm người cắp theo thúng bánh cam bánh vòng với đôi mắt rụt rè nài nỉ. Nơi nào họ đi qua, nơi đó rộn rã bước chân con trẻ. Có đáng là bao? Bán hết chừng ấy cũng chỉ được vài chục ngàn lời, ấy thế mà, ngày qua ngày, họ vẫn cần cù, lam lũ chắt chiu lấy tinh hoa của thiên nhiên, đất trời, sông nước miệt vườn, họ đem cái công tỉ mẩn sớm hôm để mang đến nét rạng rỡ trên môi cười thơ ngây của đám con nít mà đổi lại niềm vui đắt hàng trong cuộc mưu sinh. Dù cho thời cuộc có thay đổi, đất này trải lắm cuộc bể dâu thì hình ảnh cần cù chân chất ấy khó mà phải nhạt được trong tâm thức của người Việt. Thiết nghĩ cái gì đã qua bao nhiêu năm tháng vẫn hiển hiện giá trị vững chắc, tươi mới, gắn liền với tâm tư tình cảm của cộng đồng như vậy chắc hẳn

cũng nên tôn là “ Quốc gia chi bảo”.

Và, chiều nay bà cụ bán bánh dưới mưa, dõi ánh nhìn dao dác vào những khung cửa khép kín gợi cho ta nỗi thương cảm triền miên của người con tha hương, tưởng chừng như đã bị vùi lấp hẳn. Vẫy tay gọi rồi nhón lấy lát bánh nho nhỏ, dinh dính mà mừng rỡ như thuở còn vụng dại ngày xưa, đỡ nhè nhẹ mà rụt rè thường thức. Nhắm mắt để thấy mình năm cũ, tĩnh tâm để gặp lại cố nhân. Đã đành đấy chỉ là vớt vát hoài niệm nhưng cũng tìm được chút thanh thản thoáng qua mà trù tính một cuộc trở về nơi nhau rốn.

Tôi, đứa con của sông nước miệt vườn vẫn hay thơ thẩn nghĩ ngợi về cảnh cũ, thường nảy nở những nỗi nhớ sâu xa, đằm thắm mà thả lạc phách chu du vào dĩ vãng. Con người có “tình” thì nặng lòng về quá khứ như vậy. Chắng biết bao nhiêu sát na đã trôi qua vùn vụt mà vật đổi sao dời nhanh như chớp mắt. Cuộc sống cứ phát triển, đô thị lấn dần nông thôn, liệu những bước chân rong ruổi của bà, anh, chị bán những thức bánh quê mùa sẽ thưa dần rồi mất hút đi? Tận sâu trong đáy lòng tôi vẫn hy vọng điều đó không bao giờ thành hiện thực để còn có chốn mà gửi niềm thương nhớ mông lung và để cho đám con cháu sau này vẫn còn một sợi chỉ kết liên vào cái gốc văn hóa cổ truyền, tự hào là người Việt Nam, ăn thức ăn Việt Nam giữa khung cảnh trữ tình hàm ẩn của Việt Nam.

Page 41: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

42

Món ăn con trẻ

Kem chuối của mẹ

ừ cái ngày chúng ta oe oe chào đời đến lúc bước về thế giới mai hậu, có ngàn con

người đi qua, có vô số sự việc mà ta chạm mặt. Ta nhớ đó, rồi ta lại quên đi trong chất chồng bao bận bịu của cuộc sống. Nhưng trong cái vòng nhớ - quên ấy, mãi mãi có những điều nằm lại, không phai nhòa đi mà cứ rõ ràng lên thêm, xanh mướt như ngọc khiến trái tim bồi hồi như vẫn còn những ngày son trẻ.

Đã là kỉ niệm thì muôn hình vạn trạng, có việc gắn với người thương, có việc gắn với một đồ vật cụ thể. Đối với tôi, đó là cái bàn ủi than con gà, mỗi lần ủi đồ phải trải lá chuối lên, lá khô thì thay mới. Những ngày cận tết, cái bàn ủi được chuyền tay nhau trong cả xóm cho con trẻ có tấm áo phẳng phiu, nghĩa láng giềng cũng từ đó mà thêm bền chặt.

Đó còn là cái tủ lạnh Liên Xô cổ lỗ sĩ, chạy kêu ầm ầm ào ào mà mẹ cặm cụi làm từng bọc ya-ua, từng cây kem chuối vừa cho con có cái để ăn vặt, vừa tỉ mẩn cóp nhặt tiền lo toan sinh kế những ngày bao cấp thiếu thốn.

Tôi nhớ hoài, nhớ hoài hình ảnh mẹ ngồi làm từng que kem chuối. Chuối xiêm mua về một buồng, đèo thêm trong giỏ bàng là đậu phộng rang đập dập và dừa rám nạo sợi. Những thức này làm ở nhà cũng được, nhớ là chỉ lấy cơm dừa phía trên thôi, vì

phía gần sát với vỏ dừa sẽ không còn ngọt và sẽ khó tạo thành sợi, khi làm kem chuối sẽ không ngon và không đẹp mắt; đậu phộng hột bỏ lên chảo nóng, thêm chút muối rang cho thật vàng đều. Sau đó bóc vỏ thật sạch bỏ vô cối đâm hơi dập là được.

Mẹ đặt trái chuối xiêm chín vào bao nilon, đặt lên tấm thớt phía dưới, sau đó đặt thêm tấm thớt phía trên lấy tay ấn vừa sức xuống cho trái chuối xiêm hơi dẹp một chút, sau đó lấy thớt phía trên ra và cho dừa nạo sợi và đậu phộng đập dập lên miếng chuối. Ép thêm một chút nữa cho dừa và đậu phộng quyện vào miếng chuối. Cây kem chuối vậy là đã ra hình ra dáng. Cuối cùng là cho hết vào tủ lạnh. Trong lúc mẹ làm thì mình cứ tỉ mỉ bóc lấy đậu phộng rang mà bỏ vào miệng, nhiệt tình đến mức mẹ lấy cây đũa đét yêu vào mông rồi nói : “Ra đường chơi với bạn đi, nhanh nhanh cho mẹ làm”. Đến ngày hôm nay, mình còn nhớ cái cây đũa đó đét vào như thế nào, cái giòn giòn của đậu phộng như thế nào. Không thể quên, mãi mãi không thể quên.

Nói cho đúng là làm để bán mà thường xuyên là mình đi học về nhón tay lấy ra một cái. Cái lạnh tê đầu lưỡi, béo bùi của dừa là niềm sung sướng nhỏ xíu trong những ngày thơ đó, là cái neo giữ mình lại để không cằn cỗi ra vì bon chen, là tất cả đảm đang và vén khéo của mẹ dành cho con...

Phong Lan - Nghiêu Hương

T

Page 42: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

43

Món ăn con trẻ

hị Thuỷ ở Mỹ Tho gởi con lên nhà tôi đi học. Mỗi lần lên thăm con, chị mang lên

một giỏ quà, ngoài các loại trái cây, lần nào cũng có vài ba chục cái bánh ít.

Trái cây thì tôi không quan tâm nhưng bánh ít thì lần nào cũng vậy, nó cứ làm cho tôi mừng vui như con trẻ được mẹ cho quà, cầm cầm, bóp bóp, chọn ngay một cái nhưn đậu, một cái nhưn dừa, lột ra ăn ngấu nghiến, bột dính miệng dính tay. Ngon là một chuyện, nhưng khó tả nổi cái cảm giác nao nao, nhớ thương về một cánh đồng

Hồi ấy, mỗi mùa ruộng mẹ tôi thường dành một công đất để cấy nếp, bởi nếp làm ra được nhiều thứ bánh cho ngày tết, ngày rằm, ngày giỗ ông bà và cả ngày đầy tháng, ngày thôi nôi con trẻ. Cuối năm, khi gió bấc vùn vụt thổi về, cả cánh đồng lúa vàng rờn rợn sóng, tôi lội ra thăm đám nếp và báo với mẹ tôi rằng nếp đã đỏ đuôi, giống như thứ trái cây vừa mới hườm hườm. Mẹ tôi hiểu tôi muốn gì, bà xách chiếc vòng gặt ra đồng, chị tôi chuẩn bị lột dừa khô, tôi bơi xuồng đi mượn cái cối bồng, lòng nôn nao, mường tượng đến mẻ cốm dẹp đầu tiên.

Vẫn không tìm được câu trả lời rằng ai là người nghĩ ra cách làm cốm dẹp? Những hạt nếp đỏ đuôi cho vào chảo, rang đều cho nóng lên, vừa chín tới rồi đổ vào cái cối bồng – cối làm bằng một khúc cây to, khoét một lỗ tròn, sâu chính giữa – dùng cây chày vồ quết mạnh, quết một hồi, vỏ nếp rang nóng giòn nát ra thành bụi cám, ruột nếp nóng dẻo dẹp lại từng hạt mỏng tanh thành cốm dẹp. Cốm dẹp trộn với đường mía, dừa nạo trở thành một món ăn độc đáo của đồng quê, thơm lừng mùi nếp mới, ngòn ngọt vị mía đường cộng với cái béo béo của dừa khô.

Cánh đồng quê tôi, cánh đồng Chó Ngáp, mẹ tôi hay gọi là cái xứ đồng khô cỏ cháy. Mùa hạn, nhìn mút tầm mắt chỉ thấy rạ khô, cỏ khô và nắng, nắng chập chờn như nhảy múa, xa xa ẩn hiện một khu vườn. Sau nhiều trận giao tranh, bom đạn, pháo bầy đã biến những khu vườn ấy thành vườn hoang, xơ xác.

Gần tết, bọn trẻ chúng tôi hay băng đồng, hướng về những khu vườn ấy, mót từng tàu lá chuối để gói bánh ít, có khi phải giành nhau: “Bụi chuối này tao thấy trước, của tao!” Về nhà, thấy mẹ tôi đang còng lưng ngồi xay bột. Nếp phải ngâm nước trước một đêm, vút sạch, ngâm lại lần nữa, tay trái cầm cây muỗng, múc từng muỗng nếp đổ vào cối đá, tay phải cầm cán cối quay đều.

Bột nếp được hứng trong cái bao vải ú trắng đặt trong một cái thau, cái bao ấy được gọi thành danh là cái bao bồng bột. Sau khi xay xong, cái bao bồng bột được dằn giữa hai thớt cối, để qua đêm cho nước rỏ khô mới đem bột ra nhồi làm bánh. Bánh ít luôn được làm hai loại, bánh nhưn đậu và bánh nhưn dừa. Nhưn dừa làm bằng dừa nạo, xào với đường mía cho thật dẻo, thật khô. Nhưn đậu làm bằng đậu xanh ngâm nước một đêm, đãi sạch vỏ, nấu cho khô nước, trộn với một ít dừa nạo. Cả hai được vắt thành từng viên nhỏ, làm nhưn cho lớp bột nếp bên ngoài. Bánh nhưn đậu thì bột pha đường, màu nâu, nhưn lạt. Bánh nhưn dừa thì bột lạt, màu trắng, nhưn ngọt.

Tôi vẫn không quên hình ảnh mẹ tôi ngồi gói từng chiếc bánh ít, bốc một cục bột, bóp cho nó dẹp lại, bỏ cái nhưn vào, vo tròn, cho vào chiếc lá chuối xếp thành hình chóp nón, túm lại rồi xếp thêm hai lớp lá chuối bên ngoài, thoáng chốc đã thành chiếc bánh.

hồn quêVõ Đắc Danh - SGTT

C

Page 43: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

44

Món ăn con trẻKhi những chiếc bánh được sắp xếp một cách trật tự vào nồi hấp, lửa cháy bừng lên là anh em tôi kéo nhau đến ngồi bó gối, co ro, há hốc quanh bếp lửa, hồi hộp đợi chờ. Thời gian chầm chậm trôi qua, mẹ tôi giở nắp nồi ra cho hơi khói bốc lên rồi đậy lại, gọi là lấy hơi, chúng tôi nhìn thấy từng chiếc bánh ngả màu nâu mà bụng dạ cồn cào, thèm khát. Khi mẹ tôi giở nắp nồi lần thứ hai thì chúng tôi nhốn nháo lên, mừng reo bánh chín. Đứa thì đòi bánh nhưn đậu, đứa thì đòi bánh nhưn dừa. Bốc ra, vừa thổi vừa ăn, bột dính đầy tay đầy miệng, vậy mà sung sướng, mà đã cơn thèm.

Phần bột thừa do thiếu nhưn được mẹ tôi nhồi với đường rồi ém vài cái dĩa nhôm đem phơi trên mái nhà cho khô cứng, gọi là bánh tổ. Sau tết khoảng mười ngày, nửa tháng, mẹ tôi đem những cái bánh tổ ấy ra, cắt từng lát mỏng, chiên mỡ, nó mềm ra, phồng lên, ăn vừa ngọt vừa thơm. Mẹ tôi cười chua xót: “Tội nghiệp con nhà nghèo, giữa đồng khô cỏ cháy, ăn cái gì cũng thấy ngon !”

Giữa đồng khô cỏ cháy, nghèo khó, chiến tranh, nhưng ngày giỗ của mỗi nhà là ngày hội tụ của dòng họ, của xóm làng. Trước đám giỗ ba bốn ngày là mẹ tôi phải thức khuya dậy sớm, ngâm nếp, ngâm đậu, xay bột, nạo dừa làm bánh ít. Khách đến, mỗi người mang theo một chai rượu nho, đặt lên bàn thờ. Khi về, chủ nhà hồi lại một bọc bánh ít làm quà, ít hay nhiều tuỳ theo số lượng trẻ con ở nhà của khách. Bởi vậy, mỗi lần đám giỗ, mẹ tôi phải gói ít nhất hai ba thúng táo bánh ít mới đủ để vừa đãi khách, vừa làm quà cho khách mang về. Ngược lại, mỗi lần mẹ tôi đi đám giỗ, tôi ở nhà nơm nớp đợi chờ. Khi thấy bóng dáng bà luộm thuộm từ xa, tôi băng đồng chạy, bất chấp đất nẻ hay lỗ chân trâu để đón lấy gói quà toòng teng trên tay mẹ. Đám giỗ ở những gia đình khá giả hoặc trúng mùa, ngoài bánh ít, có khi còn thêm mấy cái bánh bò, bánh da lợn, bánh kẹp cuốn, bánh bông lan. Nhưng bánh ít vẫn là món quà không bao giờ thiếu. Hồi ấy chúng tôi có một

nhóm bạn cùng lứa, cùng nghề đi thả rập cua. Hừng đông, mỗi thằng một chiếc xuồng bơi đi, thả rập xong là gom lại, kể chuyện tiếu lâm hoặc chơi tú lơ khơ. Hễ nhà thằng nào có đám giỗ là biết chắc ngày hôm sau, dưới khoang xuồng thằng đó cũng có một bọc vài ba chục cái bánh ít để chia nhau. Chỉ có vậy thôi mà lấy làm oai, mà hãnh diện, mà được coi trọng suốt cả ngày.

Mấy mươi năm xa quê, cứ tưởng gió bụi thị thành đã xoá nhoà ký ức. Rồi bất chợt, giỏ quà của chị Thuỷ gợi lại trong tôi một nỗi nhớ cồn cào. Một hôm về Mỹ Tho, chị Thuỷ đưa tôi đến thăm lò bánh ít của bà Bảy Kim ở xóm đình Mỹ Phong nằm giữa khu vườn ngoại ô thành phố. Gọi là lò bánh, nhưng trước mắt tôi là một không khí đầm ấm như cảnh gói bánh chuẩn bị cho ngày giỗ của một gia đình khá giả ngày xưa. Năm ba người gói, hai người hấp, ba người xếp bánh. Bà Bảy năm nay đã 74 tuổi nhưng vẫn ngồi xếp từng chiếc bánh vào bao, không có vẻ gì là một bà chủ. Bà nói hồi xưa, bà là một người khéo tay, chuyên đi gói bánh cho bà con trong xóm. Về sau, nhiều gia đình không đủ điều kiện để gói bánh tại nhà nên gởi tiền cho bà làm như một dịch vụ, rồi cái dịch vụ ấy phát triển dần, bà làm bánh theo đơn đặt hàng, có ngày phải làm hàng ngàn cái bánh ít. Bánh cho đám giỗ, bánh cho cúng rằm, bánh làm quà cho người thân, bánh cho thương lái mang lên Sài Gòn bỏ mối, bánh cho mấy chị hàng rong khắp các phố phường. Thì ra bánh ít vẫn còn tồn tại giữa nghìn trùng những nhãn hàng bánh tây, bánh ta nổi tiếng. Phải chăng vì nó chứa đựng cái hồn quê trong ký ức con người.

Mấy mươi năm làm kẻ thị thành, tôi đã biết nhận quà từ người khác và tặng quà cho người khác, những chai rượu ngoại, những hộp bánh ngoại gói trong giấy kính thắt nơ lịch sự, sang trọng và đầy trân trọng. Nhưng những cái bánh ít sần sùi bỏ trong cái giỏ đệm bàng của chị Thuỷ nó vẫn làm cho tôi nao dạ nao lòng.

Page 44: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

45

Món ăn con trẻ

Bánh lọtăn và nhớ

Thức bánh mà tôi nhớ nhất là bánh lọt. Ngày ấy, nhà cô còn nghèo lắm làm

gì có nhiều tiền để mua quà bánh,

cho nên bánh cho bọn trẻ con đều phải tự tay

làm lấy.

Ngày nhỏ tôi thích nhất là được về nhà cô tôi chơi. Nhà cô ở quê nên có nhiều thú tiêu khiển mà tụi con nít ở thành phố như tui không có được. Như thả diều trên đồng ruộng, như nặn trâu đất, hay thọc hang bắt cua, mò ốc,… Thích hơn cả là được ăn các loại bánh quê do bàn tay khéo léo của cô tôi làm ra.

Thức bánh mà tôi nhớ nhất là bánh lọt. Ngày ấy, nhà cô còn nghèo lắm làm gì có nhiều tiền để mua quà bánh, cho nên bánh cho bọn trẻ con đều phải tự tay làm lấy.

Cô tôi phải ngâm gạo từ đêm trước với mắt khóm cho gạo được dẻo và trong. Khi gạo đã mềm cô tôi vớt ra để cho ráo nước. Xong, cô lôi ra cái cối xay bột cũ kỹ bám đầy bụi, cô chùi rửa rồi múc từng muỗng gạo cho vào giữa cối xay, cô quay hùng hục, lớp lớp nước bột trắng chảy ào ào xuống dưới một chiếc bồng bằng vải đã khéo léo cột vào miệng cối. Xay hết lớp gạo cuối cùng cũng là lúc cô tôi tươm mồ hôi ướt cả áo, nhìn áo cô thấm ướt mồ hôi tôi hơi buồn. Nhưng

rồi một lát sau, món bánh lọt lại làm lòng tôi chộn rộn. Tôi chạy lên nhà trên chơi với các em là con của cô, để chờ đợi thời khắc được ăn bánh lọt.

Trong thời gian chờ cho bột đặc sệt để làm bánh, cô tôi chạy ra sau hè, dùng cái cây sào dài cột vào đó cái liềm cắt lúa, giật một phát trái dừa lủng lẳng trên cây trượt xuống cái ùm. Cô tôi thoăn thoắt đôi tay tách vỏ, bóc vỏ, và trái dừa sạch lông lốc như cái đầu thầy chùa. Cô mạnh tay dùng mặt sóng của cái mác lớn phập vào trái dừa khô, trái dừa nứt làm đôi, nước chảy ròng ròng ra. Cô tách trái dừa ra làm hai miếng, đặt lên bàn nạo dừa xoay nghiên ngửa miếng dừa trong chốc lát đã sạch nhẵn, cô tiếp tục miếng thứ hai. Trong khi ngồi nhìn cô nạo dừa, tôi thường nhón tay bóc miếng dừa nạo trên cùng vừa ngọt vừa béo cho vào miệng. Cô tôi lành tính, cho nên không la con cháu bao giờ, ăn được cứ cho nó ăn, miễn sao nó lớn khôn và học giỏi, ngoan ngoãn là được rồi. Tôi cũng là một trong những đứa cháu đạt được tiêu chí đó nên cô cũng rất cưng chìu tôi.

Thùy Trang

Page 45: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

46

Món ăn con trẻ

Cô tôi lấy miếng vải the, cho tất cả dừa nạo vào và vắt lấy một chén nước đầu tiên gọi là nước cốt, sau đó cô cho nước ấm vào vắt sạch dừa nạo, gọi là nước dảo. Bắt nồi nước cốt dảo lên bếp cô tôi cho vào ít muối và đường, đợi cho nước cốt sôi và hơi sánh lại, cô cho chén nước cốt vào và không quên cho ít nước bột mì tinh pha loãng để nước cốt dừa sền sệt, sau cùng cô cho vào hành lá xắt nhuyễn, vậy là có món nước cốt để chan vào bánh lọt.

Ngoài nước cốt thì món bánh lọt phải có thêm một loại nước nữa là nước đường. Nước đường thì làm rất dễ, chỉ việc cho đường tán vào nồi và cho ít nước vào đun cho đến khi đường tan hết ra là được. Nhưng để nước đường thơm, cô tôi cho thêm vào đó vài lát gừng xắt mỏng. Cô nói sẽ tăng thêm hương vị cho bánh lọt và cũng làm cho ấm bụng vì sợ nước cốt không hợp với bụng trẻ con chúng tôi.Khi bột đã đặc cứng trong chiếc bồng vải, cô tôi lấy bột ra nhào cho bột dẻo và trong. Nồi nước đặt trên bếp cũng sôi lăn tăn, cô tôi cho bột vào và đậy nắp nồi lại

vài phút. Thi thoảng cô tôi thăm chừng xem bột chín chưa bằng chiếc đũa bếp, cô nói khi nào bột trong và dính vào nhau không bám vào đũa bếp là được.

Khi bột đã chín, cô tôi chuẩn bị một cái thau nước lạnh, bên trên là hai chiếc đũa dài dùng làm giá đỡ cho chiếc rỗ bằng tre đan khít vào nhau. Cô múc từng vá bột cho vào rỗ tre rồi dùng vá ấn bột xuống chiếc rỗ. Từng con đuôn nhỏ từ từ chui qua chiếc lỗ và rớt xuống thau nước phía dưới, nên gọi là bánh lọt. Khi tất cả các con đuôn chui hết xuống thau nước, cô tôi lại dùng vá vớt bánh trong thau nước cho vào chiếc rỗ khác cho ráo nước. Và đến đây là đã có món bánh lọt thơm ngon cho vào miệng. Bọn con nít chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy vô sóng chén tìm cho mình chiếc chén bự nhất để múc bánh lọt thật nhiều. Cô tôi đứng sẵn ở chiếc bàn có bày bánh lọt, nước đường, nước cốt dừa y như cô bán bánh ngoài chợ. Bọn tôi từng đứa một đưa chén cho cô múc như là mua hàng nhưng mà chẳng đứa nào có tiền trả cho bà chủ tốt bụng. Đứa nào cũng được múc đầy chén bánh,

rưới thêm chút nước đường, rồi chút nước cốt. Bưng lại chiếc bàn nhỏ phía trước sân nhà ngồi ăn, tôi cho từng muỗng bánh lọt vào miệng và cảm nhận cái vị day day của bột gạo, cái vị ngọt có chút cay cay của gừng tươi, cái vị beo béo bùi bùi của nước cốt dừa thắng sệt, tất cả quyện vào nhau tạo nên một hương vị đặc trưng của loại bánh quê Nam Bộ. Gió ngoài đồng thổi vào mát rượi, trên tay mỗi đứa là một chén bánh lọt ăn vào giữa trưa hè thì còn gì bằng. Bánh lọt cũng có thể cho thêm nước đá vào cho mát, nhưng khi cho đá vào chén bánh thì nước đường và nước cốt sẽ lạt đi. Tuy nhiên, nếu ai có tủ lạnh thì vẫn có thể giữ trong tủ dành ăn lâu ngày mà hương vị sẽ không bị phai đi như bỏ nước đá vào chén bánh lọt.Hương vị ngày cũ giờ chẳng còn được mấy, vì cô tôi giờ đã luống tuổi, còn tôi thì phải đi làm xa, thi thoảng muốn ăn bánh lọt nhưng sợ cô vất vả, thế là chạy ù ra chợ mua hai bịch về ăn. Cũng là bánh lọt nhưng cái vị bánh chợ không ngọt ngào và thơm đậm đà như bánh cô làm, vì bánh cô tôi làm còn có cả hương vị yêu thương dành cho cháu.

Page 46: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

47

Món ăn con trẻ

Mùi vị quê hương

à thành, như ai đó đã nói, không có một thức quà nào mang phong vị riêng, song lại là nơi

tụ hội của tinh hoa quà Việt. Đã từng lang thang khắp các con phố, chen chân vào một ngõ nhỏ, đủ loại mùi vị, đủ loại hương sắc, song vẫn thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Một cái gì mà thủ đô rộng lớn hoa lệ không thể mang lại, một cái gì đó mà những thức quà nhiều màu sắc và hương vị hấp dẫn kia không đủ sức quyến rũ tôi. Tôi như người mơ lạc vào chốn không gian sâu thẳm, mải mê đi tìm một thứ quý giá không tên... Chiều nay, nhận được quà của mẹ gửi từ quê lên. Khẽ khàng mở chiếc cạp lồng được bọc kĩ càng qua hai lần vải, cẩn thận và chu tất như con người của mẹ. Hương thơm nhè nhẹ như xâm thực cả vào không gian, vướng vất nơi chóp mũi rồi tan biến luôn. Từng chiếc bánh hình cái tai xinh xinh màu trắng gạo, xếp gọn gàng dưới lớp lá chuối xanh rì, cái màu xanh bắt mắt của cây lúa đương thì con gái, xanh như màu áo người quân tử buổi phân ly. Khẽ cắn một miếng nho nhỏ, cơ thể chợt bừng lên một cảm giác mãnh liệt mà rất đỗi dịu dàng. Vị ngầy ngậy của thịt heo bằm lẫn với cái nồng nồngcủa hành hoa, ngòn ngọt của bột gạo tẻ. Cả năm giác quan đều ngập trong hương vị kỳ diệu ấy. Cái hương vị khiến tôi đã lao vào cuộc truy tầm mải miết bấy lâu mà vẫn không kết quả, ấy là - hương vị của quê hương...

Tôi thấy mình như bé lại, cái hồi còn để chỏm, mắt ngân ngấn nước mỗi khi phải ở nhà một mình cho bố mẹ đi làm. Mỗi khi như thế, mẹ lại giúi cho một bọc bánh tai còn hôi hổi gói trong lá chuối, ôm tôi vào lòng, hôn lên má, thủ thỉ: “ Khi nào con ăn hết bánh, thì mẹ sẽ về...” Nhà tôi khi ấy hãy còn nghèo, một bát phở gà hay cháo lươn chỉ tồn tại trong những cơn mộng mị vô thức. Bánh tai 500đ một cái, sáng nào bác bán bánh cũng đến giao hàng tận nơi. Chiếc bánh to bằng lòng bàn tay, nặn thành hình cái tai xinh xinh, vỏ bánh màu trắng, vừa mềm vừa thơm. Thêm chút

nước chấm chua ngọt, cắn một miếng, cả khoang miệng tràn ngập hương thơm. Nhắm mắt lại để cảm thụ sâu thêm, chỉ thấy như cái vị beo béo ngầy ngậy của thịt mỡ tan ngay nơi đầu lưỡi, cái đậm đà của thịt nạc bằm với mộc nhĩ, thêm chút hành hoa. Mà cái giống bột gạo tẻ, chỉ hai cái là ôm bụng suýt xoa. Bánh tai không kén người ăn, kẻ giàu người nghèo đều có thể thưởng thức cả.

Lại như khi tôi vào cấp 1, mỗi sáng thấy bạn trong xóm í ới là ba chân bốn cẳng ôm cặp chạy

vội, quên cả ăn sáng vì lỡ dậy muộn. Mà cũng không hẳn là quên, bao tháng bao năm, ăn mãi một thức, tôi ngán nó như kẻ giàu ngán thịt cá, người nghèo ngán rau dưa. Giờ ra chơi, bụng kêu rục rịch, buồn thỉu buồn thiu cất sách vở vào cặp, lại thấy một gói hãy còn ấm ấm nằm yên vị nơi góc trái ngăn ngoài cùng. Là mẹ trước khi đi làm sợ tôi bỏ bữa nên chuẩn bị sẵn, phòng khi con đói lòng. Bụng vẫn đang réo ầm, nhưng chả hiểu sao nhìn thấy thức ấy, trong lòng tôi nhen lên một nỗi bực dọc không tên, cầm lấy vứt bịch một cái vào thùng rác, len lén như kẻ đi ăn cắp. Những học sinh thời tôi bấy giờ vẫn luôn được giáo dục rằng:”một hạt thóc vàng chín giọt mồ hôi.” Cơm ăn áo mặc hàng ngày, tuy không đến nỗi kham khó như những năm 1986 trở về trước, song hành động vứt bỏ thức ăn nếu bị bắt gặp, cũng không phải chuyện dễ dàng tha thứ.

Hồng Mây

H

Page 47: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

48

Món ăn con trẻ

Không biết từ khi nào, bánh tai bỗng biến mất. Xã hội đi vào guồng quay thời đại của nó, mỗi người dường như bận rộn với những lo lắng của riêng mình, thời gian ngồi lại với nhau ăn một bữa sáng là rất khó. Tôi - như bao đứa học sinh cũng trang lứa khác, thời gian biểu chỉ biết có học - ăn - ngủ. Sáng sớm khi trời hãy còn mờ mờ đã phải dậy ngáp ngắn ngáp dài đạp 5 cây số đến trường, hai mắt díu lại nhìn không rõ đường. Hôm nào kịp thì mua vội cái bánh mì nhét cho đầy dạ dày, nếu muộn quá thì cũng đành nhịn luôn. Bánh mì 2000d một cái, khô không khốc, chán hơn nhai cơm nguội gạo Khang Dân, tỗi bống nhớ đến điên dại cái món bánh tai ngày xưa ấy. Bác bán bánh cũng theo con trai chuyển về Hà Nội. Những hàng quán sang trọng thi nhau mọc lên, nào cháo lươn, miến gà, phở bò, hủ tiếu... Bánh tai chìm nghỉm rồi biến mất lúc nào không ai hay. Sau này đi học xa, bạn bè tỉnh xa vẫn thường hay hỏi: “Phú Thọ có đặc sản gì?” Cười hóm hỉnh, tôi bảo: có giấy vệ sinh Bãi Bằng và phân lân Supe, sản xuất liên hoàn đấy, chúng mày có thích hôm nào về tao mang cho ít.” Trong đầu tôi cái món “bánh tai” mơ hồ như chưa từng tồn tại, tựa như viên sỏi ném xuống mặt hồ, chỉ thấy sủi tăm một tí rồi biến mất luôn... Gọi điện về cho mẹ, nghe giọng nói trầm trầm ấm áp mà rất đỗi dịu dàng ấy, tôi thấy mình hãy còn thơ trẻ lắm, hãy còn cần được mẹ bao bọc lắm. Không gian vẫn còn thơm mùi hương bánh tai, len lỏi theo tôi cả vào trong những cơn mộng mị. Trong mơ, tôi thấy mình là cô bé mặc váy hoa mẹ may, tóc tết hai bên, ngồi dưới gốc cọ chơi đồ hàng. Mẹ ngồi bên bếp củi, lửa liu riu, tiếng nước sôi reo xình xịch, hương bánh tai đang chín tới theo làn khói bay lên trời xanh...

Mùi vị ...Như miền cát trắng trải dài vô tận,

Giữ dấu chân mang cả tiếng lòng theoTuổi thơ trôi như một giấc chiêm bao

Đi qua rồi mới thấy vấn vương lạ.***

“Thủa còn thơ ngày hai buổi tới trườngYêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

Ai bảo chăn trâu là khổ,Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao »

Cơn mơ nào mang theo giấc chiêm bao Đưa hồn tôi về thời thơ ấu,

Những tháng ngày nằm nghe bà kểChuyện Thạch Sanh, hay cô Tấm hiền lành

Những ông Bụt, bà Tiên giữa cõi đời hư thực

Và đâu đó những mảnh đời bất hạnhCủa chàng Cóc hay Cô bé lọ lem.

Yêu sao!Những con người quên thân vì nghĩa lớn.

Những mảnh đời oan trái gặp vận mayVà đâu đó có bước chân ai

Trong linh hồn từng trang truyện nhỏ.

Dẫu bước chân qua bao miền đất lạ,Sao quên nổi nỗi nhớ mong nhà

Trong những gánh hàng rong của bà của mẹ

Là cả tuổi thơ với khúc bánh miếng quà.

Lặng nghe,Nhịp đập của không gian và thời gian tĩnh

lặngQuay trở về với dòng chảy tuổi thơ

Tiếng ầu ơ mỗi buổi chiều bà ru ngủQua đi rồi để lại tiếng lòng ai

Tuổi thơ qua như dòng nước chảy dàiChỉ còn trong hồi ức miền kỉ niệm

Chỉ còn trong lồng ngực những hoài mongVề một thời xa xưa ta còn nhớ

Thổn thức lòng khẽ gọi…..Tuổi thơ ơi!

Tiếng gọituổi thơ

Tinh Nguyen

Page 48: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

49

Món ăn con trẻ

Khoai từ thương nhớ

Thời tiết giao mùa, bà mẹ lụi cụi mở tủ lấy ra chiếc áo ấm, phủi, giũ, khoác vội buổi sáng cho trẻ đến trường (đến giờ ra chơi thì áo một nơi, người một ngả!). Trời lạnh, mau đói, ăn thứ gì cũng ngon, bà mẹ đi chợ nhẩm tính: món canh, món mặn, món xào … Canh rau, canh chua ngó lơ chỗ khác, mùa này phải là canh khoai, canh củ … Chợ lác đác vài rổ khoai từ, giống khoai từ lông đầu mùa củ don don, không lớn quá cũng không nhỏ quá đánh thức ký ức của người mẹ trở về những ngày xưa còn bé ….

Ừ. Cái ngày lên ba, lên năm ấy, sáng nào cũng lũn đũn theo ông ngoại ra vườn, ông vác cái cuốc, cháu tha cái gàu… Ông săm soi luống khoai từ rồi ông hì hụi cắm chà cho dây leo. Cháu lụp xụp hết luống này đến luống khác, có lúc vấp té cái oạch làm ông giật mình: “Có sao không cháu. Đất hư quá hén, làm cháu ông đau …”.

Tôi nhớ hồi ấy, tầm tháng 4, những cơn mưa giông đi qua làm đất mềm, ông tôi đánh luống xuống khoai từ. Những củ khoai làm giống ông để dành từ mùa thu hoạch trước, có cái mầm bé tí nhú lên giống như cái mầm răng sữa con nít. Tôi thấy ông tôi vùi củ khoai xuống đất, lấp lại. Rồi thôi! Tôi cũng chẳng biết nó lên dây khi nào, chỉ thấy ngày nào ông cũng lục sục ngoài vườn để đến tháng 10, ông đào lên cho bà đem ra chợ. Và suốt mùa đông chúng tôi tha hồ được ăn đủ món chế biến từ khoai từ, khi thì bà đem luộc, khi thì mẹ nấu canh, hôm mẹ đổi tông nấu chè …. Trưa ăn canh khoai từ no căng rốn, nhưng xế dậy có củ khoai từ chấm đường cát vẫn cứ ngon ….

Tháng 10, bắt đầu là gió, gió đêm xào xạc thổi lá khô chạy lăn xoăn trên hè phố. Ngày, mặt trời chơi trốn tìm trong mây, nắng - lúc nhặt, lúc khoan; để cuối cùng là mưa, lác đác rồi dồn dập. Mưa ề à tới giáng sinh mới thực sự chấm dứt, chuyển sang mùa khô và lạnh. Bốn mùa, tám tiết cứ như thế …. Quy luật của muôn đời.

Tinh NguyenBình An

Page 49: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

50

Món ăn con trẻ

Bên rổ khoai nóng hổi bà kể câu chuyện tiếu lâm nghe đến thuộc lòng mà đứa nào cũng xô nhau giành cho được chỗ ngồi cạnh bà và sát cạnh rổ khoai. Tay lột vỏ khoai xoay tròn, giọng bà đều đều: Có một anh nhà giàu có mà keo kiệt và xấu bụng, lại có tánh hay ăn vụng và tham ăn, còn thêm tính sợ vợ! Một hôm vợ đi vắng sai anh ở nhà nấu cơm, anh tranh thủ lấy khoai từ đem luộc. Khoai chín, đứa con đi chơi về, đói bụng theo đòi lẳng nhẳng: “Từ cha…”. Anh tham ăn, trợn mắt, nạt con: “Đồ bất hiếu, con mà đòi từ cha à?”. Đứa con vẫn lẻo nhẻo đòi “từ cha”, bực mình anh phát vào mông một cái đau điếng làm thằng nhỏ khóc ré. Lúc ấy người vợ về đến, hoảng quá anh bỏ mấy củ khoai vào ống quần, buộc túm lại. Khoai nóng làm anh chàng nhảy loi choi. Vợ ngạc nhiên hỏi: “Ông làm cái gì thế?”. Chồng giả lả: “Thấy mẹ mày về, tao mừng …”

Chuyện của bà kéo dài, thêm thắt, mỗi ngày một đoạn kết. Hôm thì bà cho anh chồng bị vợ đánh, chạy ra khỏi nhà gặp thần, hôm thì bà cho gặp ma … Mỗi lần bà kể xong chúng tôi lại cười ồ, rồi giành nhau củ khoai bà vừa bóc vỏ ….

Canh khoai từ ngon nhất là nấu với tôm tươi. Khoai gọt vỏ, rửa sạch, cắt đôi (tạo mặt phẳng cho miếng khoai bám vào thớt) rồi lấy lưỡi dao đập dập. Tôm tao qua mỡ, hành phi cho thấm, rồi đổ nước vào. Nước sôi bỏ khoai từ vào, cho sôi vài dạo, miếng khoai mềm rục rồi nêm nếm, bắt xuống bỏ hành ngò. Đơn giản vậy thôi mà ngon vô cùng. Hôm nào nấu nồi cơm lỡ khô một chút có canh khoai từ “trị”. Lua lua một loáng chén cơm sạch trơn. Trời mưa lạnh, nồi cơm nóng, chỉ cần một món

mặn như mắm ruốc kho thịt hay món cá chưng mặn và tô canh khoai từ. Gắp miếng thịt, và miếng cơm (cắn miếng ớt xiêm) rồi húp miếng canh. Chua choa, chẳng có gì bằng. Đứa nào ăn chậm, chan canh khoai từ vào tô cũng thành ăn nhanh….Canh khoai từ nấu với thịt nạc cũng ngon. Nói chung, khoai từ vốn đã

ngon rồi nên không kén thứ nấu.Mùa khoai từ kéo dài đến tháng chạp. Rộ nhất là tháng 11, mùa mưa, mùa lạnh. Lúc này chẳng cần phải lựa củ nào cũng ngon, cũng bùi, chẳng có củ nào lượng sượng. Ngày trước có loại khoai từ chạch, dẻo, không bùi, chắc người ta không chuộng nên giờ không thấy.

Mùa khoai từ. Một tuần nhà tôi có đến hai bữa ăn canh khoai từ. Thằng bé con ăn chậm lại học buổi chiều. Có canh khoai từ chẳng cần phải nhắc ăn nhanh. Lũ trẻ con đôi khi thắc mắc vì thấy thực đơn bị trùng lắp món canh khoai từ hơi nhiều. Tôi giải thích: “Mùa nào thức ấy, mùa khoai từ chỉ có hai tháng!”. Và tôi bắt chước bà ngày xưa gia vị thêm vào mâm cơm: “Có một anh nhà giàu có mà keo kiệt và xấu bụng, lại có tánh hay ăn vụng và tham ăn, còn thêm tính sợ vợ….”

Lũ trẻ con ồ lên: “Mẹ bịa rồi làm gì có người nào xấu tính thế!”

Page 50: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

51

Món ăn con trẻ

Ngọt lành bánh lá “thúi địt”

ã nhận mình là người miền Tây thì không ai không biết đến món bánh lá. Thức bánh giản dị đơn sơ ấy

nhưng ai một lần nhắc đến đều không khỏi bùi ngùi về một quãng đời ấu thơ, chẳng đẹp như miền cổ tích nhưng là những chuỗi ngày êm đềm, đáng nhớ biết bao. Nơi ấy có những tháng ngày rong ruổi khắp cánh đồng mênh mông với những trò chơi con nít, nơi ấy có gia đình êm ấm cùng bạn bè thầy cô. Thời gian trôi đi mà cứ ngỡ mình còn nhỏ, những đêm dài miên man thả nổi ký ức mình trôi theo miền nhớ thương ấy, những kỷ niệm có tên cũng có kỷ niệm không tên, tất cả thật ấm lòng..

Có người nhớ tới bánh lá mà run run ngỡ như thấy những mùa màng bội thu, thóc gạo đủng đỉnh có dư để mà làm bánh, còn người khác có thể là cơn thổn thức dễ chịu khi được trôi ngược về những ngày mà niềm vui nằm trong chiếc giỏ bàng đi chợ của mẹ, trong cối xay bột đang quay đều của dì, bên bàn tay thoăn thoắt nặn bột của bà... Và sẽ có nhiều, nhiều miền ký ức xanh thẳm khác nữa của bạn, của chúng ta

Muốn làm bánh lá thì hôm trước phải lấy gạo ngâm, xong rồi bỏ vào cối đá, xay nhuyễn thành bột. Mà cái vụ xay bột này con nít rất khoái, cứ đeo lấy giằng cối xay mà đòi đẩy, nặng dễ sợ luôn. Phá chơi chứ xay làm sao nổi, các dì, các cô sức lực điền mà còn ì ạch khi xay bột, nói chi tới cái mấy đứa con nít quê ốm như cọng hành! Bột xay xong rồi bỏ vào bao, “bồng” lại để ngày hôm sau “nắn” bánh”. Khi bắt tay vào làm thì cắt bột ra thành từng khối nhỏ, rồi ngắt bột, vo bột thành từng viên gần bằng viên chè trôi nước, đặt lên lá khô ép bột cho đều bằng tay, thành một lớp mỏng lên lá. Lá ở đây phải dùng lá dừa nước được “róc” sẵn trước, ngoài ra còn phải cắt người thì đi hái lá “thúi địt. Nói xin lỗi, bánh lá mà không có lá “thúi địt” pha vào thì không còn cái hồn của bánh lá nữa, cũng có người làm bánh với lá dứa nhưng làm sao bằng lá “thúi địt”.

Tiểu Nguyên

Đ

Page 51: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

52

Món ăn con trẻ

Lá dừa nước hái về cả nhà xúm lại lặt cho hết những cái “mắt” lá, lau sạch rồi bóc bột nặn dài theo chiều dài của cọng lá dừa nước. Khi thấy nhiều rồi thì bỏ khoanh tròn vào cái “xững” hấp đang sôi sùng sục trên bếp lò, bánh chín lấy ra gỡ bỏ vào mâm, vào dĩa gì đó rồi tiếp tục nặn cho tới khi nào hết bột thì thôi. Khoái nhất là thỉnh thoảng “nhón” một cục bột nặn thành hình con trâu, len lén bỏ vào nồi hấp để chút nữa lấy ra ăn, cục bột bấy giờ không thành con trâu mà thành cái con gì ấy. Không sao, cứ chấm nước cốt dừa là chơi tuốt, bệnh gì mà cữ? Cánh đàn ông thì leo bẻ dừa, nạo vắt làm nước cốt, bánh lá mà ăn với nước cốt dừa thì phải nói là tuyệt trần đời, không có gì ngon hơn thế.

Cũng có những khi ở một vài nơi, các ngoại – các mẹ cho lũ con ăn bánh lá cắt nhỏ cho vào đĩa có sẵn gỏi dưa leo và chan lên một ít nước mắm chua với nước cốt dừa. Thế là cả đàn con kẻ lớn tồng ngồng, người còn nhỏ xíu chụm đầu lại vừa chan vừa húp soàn soạt. Ăn đến 3, 4 đĩa, ăn đến đổ mồ hôi. Phần họ thì ra hè kéo vạt áo lau nước mắt, khóc vì thấy lũ trẻ tề tựu ăn ngon một bữa.

Bây giờ, cuộc sống văn minh, hiện đại quá nên cái gì cũng có sẵn. Muốn làm bánh bằng bột gì cũng đều có bán tại các cửa hàng, người mua chỉ việc mua về rồi pha, chế, đâu có ai ở không mà đem gạo đi ngâm, đi xay. Nhiều lúc, thấy nhơ nhớ món bánh lá, cất công đi tìm “đỏ con mắt bên phải, xốn con mắt bên trái” mới được một người bán bánh lá. Nhưng khi ăn vào sao vẫn cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó…Tại bột pha sẵn không ngon hay là thiếu đi cái hương vị của “lá thúi địt” mà người ăn cảm thấy không ngon? Tốc độ “đô thị hoá” đã làm những giàn lá thúi địt mọc ven sông, ven rào bị tàn phá rồi, còn đâu mà làm bánh? Lá dừa nước dùng để nặn bánh bây giờ cũng rất khó tìm giữa cái thành phố toàn nhà cao tầng. Cũng có thể thay thế lá dừa nước bằng lá mít, nhưng nó lại mất đi cái hình dáng dài theo khuôn lá dừa nước, ăn cũng không thấy ngon.

Mùa mưa bây giờ làm gì có bánh lá để cùng làm, cùng ăn như ngày ấy! Mưa có thể gội rửa mọi thứ nhưng món bánh lá dẻo dai bởi bột ngâm thơm, thơm tho trắng ngần bởi nước tro tàu, lá dừa nước... sẽ không bao giờ mất đi trong tâm trí tôi. Ơi bánh lá ngày xưa, món bánh kỷ niệm của một thời thơ ấu…

Page 52: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

53

Miền ký ức

ạo này, trong những dịp về thăm nhà, mẹ hay nhẩn nha kể cho tôi nghe những câu chuyện

về thời thơ ấu của mình. Mẹ bảo, hình như tới một độ tuổi nào đó người ta hay nghĩ ngợi về quá khứ, về những năm tháng đã xa tít mù. Ngày trước, hồi mẹ còn trẻ, bà ngoại cũng hay kể chuyện “ngày xưa” của mình cho mẹ nghe. Sau này khi con “có tuổi” một chút, con sẽ thấy lòng mình luôn hướng về những kỷ niệm ấu thơ.

Tôi, nếu tính về tuổi đời, quả thực còn rất trẻ, trẻ lắm, nhưng không hiểu sao lòng cứ hay vẩn vơ nhớ những gì đã thuộc về quá khứ, đã trải qua từ lâu. Có khi, bất chợt một chiều mưa rỉ rả ở đất Sài thành cũng gợi lại những cơn mưa lá me rơi đầy ngoài khung cửa sổ của khu tập thể cũ kỹ loang đầy vết rêu. Hoặc đôi lúc vệt nắng xiên xiên vàng quạch trong chiều mùa hạ dựng lại kỷ niệm cũ, mím môi, trợn mắt, hăng hắc cười cùng tiếng bi ve tạch tạch chạm nhau dưới tán cây dương già. Hay đơn giản chỉ là thấp thoáng bóng đôi bạn nhỏ tung tăng trên hè phố cũng làm mình thấy gờn gợn, da diết trong lòng. Chúng bạn thời thơ ấu giờ lưu lạc nơi đâu?

Dạo đó, tôi còn nhỏ lắm, vẫn còn mơ mộng về chốn cổ tích xa xôi, nhiệm mầu, thường dõi mắt qua khung cửa nhỏ nhìn những chùm lá xoài lung lay xào xạc mà tưởng như ở đó có con chim biết nói đang tán gẫu với lũ ve. Nhưng tôi cũng sớm biết ghen tị, thèm thuồng khi thấy đồ ăn ngon, thức lạ. Trong khuôn viên khu tập thể, một gia đình thuê của cơ quan khoảng sân rộng phía trái mở quán ăn. Cái gia đình nhỏ ấy có bốn người, người cha râu kẽm

phương phi mang cái tợn của ông chủ hàng quán, người mẹ dong dỏng cao gầy mặt thoáng nét buồn, tay chân không ngơi nghỉ, lại sinh một trai, một gái ăn nhiều, học giỏi. Quán mở rất đông khách. Tôi từng ghen với hai anh em nhà nọ bởi chúng được ăn đầy thức ngon, được ngủ nệm ấm và được xem vi-đê-ô mỗi ngày.

Còn nhớ năm đó cây chùm ruột sát góc tường bao khu nhà sai trái dữ lắm, từng chùm cứ lúc lắc bắt thèm, chảy cả nước miếng nhưng tôi lúc ấy gầy còm, lại nhát gan, sợ té nên không dám trèo lên hái, chỉ dám đứng nhìn mà thèm thuồng. Thằng anh nhà ấy vốn cao to khỏe mạnh, đu leo lên tường mà mang xuống cả rổ chùm ruột cho đứa em chấm muối nhâm nhi. Tôi đứng tần ngần, muốn xin nhưng không mở lời được cứ nhìn từng trái một được nút chùn chụt trong nụ cười khoái chí của chúng mà cơn giận dỗi trong lòng tôi càng lúc càng sôi sục. Trong thoáng chốc, không nghĩ ngợi, tôi vớ lấy hòn đá bên cạnh. Đứa con gái chảy máu đầu, còn tôi bị mẹ cho trận đòn nhừ tử. Từ lúc đó tôi càng ghét hai anh em nhà nó.

Rồi thời gian sau, ông chủ quán bất ngờ phát hiện mình bị ung thư gan, bao nhiêu tiền bạc buôn bán dành dụm được theo ông xuống mồ. Hàng quán bay. Từng cục gạch tàu lót nền cũng bị khựi lên đem bán. Ba mẹ con dắt díu nhau đi đâu không rõ. Qua lời kể chắp nối của người lớn, tôi chỉ biết họ đi trốn nợ ở nơi xa lắc nào đó. Một gia đình tan đàn, hai tương lai tắt ngấm! Một tổ ấm xẻ nghé, ba mảnh đời lưu lạc. Thỉnh thoảng nhớ đến họ, tôi không khỏi chạnh lòng!

Phan Khắc Huy

D

Page 53: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

54

Miền ký ức

Chẳng biết phải cái duyên hay không mà từ nhỏ tôi đã hay thân với nhiều chị bạn hơn tuổi. Mẹ thường nói rằng: Con Muỗi nếu ốm đi chút thì đẹp lắm! Chị bạn tôi vốn là con bà bếp ở mướn của quán nhậu, dáng đậm người, gương mặt hồn hậu, làn da ngăm đen nhưng láng o. Chị hơn tôi ba tuổi, mang cái tên thật dung dị mà gần gũi quá đỗi: Muỗi. Hàng ngày chị hay tranh thủ giờ thưa khách mà chơi lò cò nhảy dây với bọn tôi. Tôi còn nhớ mãi cái nhoẻn miệng cười tươi rói mỗi khi chị thắng bọn tôi trong những trò chơi con trẻ. Chị thường ngồi xem bọn tôi học bài hoặc nhờ bọn tôi đọc truyện cho nghe. Mỗi dịp đó, tôi lại đòi đổi chầu kem, chầu bánh và cứ vô tư chọn thứ mắc nhất - cũng là ngon nhất trên quầy quà - nhưng chị vẫn vui vẻ mua cho. Một lần như vậy tôi lại bị mẹ mắng mà lòng ấm ức vô cùng, chẳng qua đó là sự trao đổi công bằng thôi mà!

Rồi khi cái quán nhỏ tan tành theo ông chủ, tôi không còn gặp chị Muỗi, nghe nói rằng chị đi ở cho nhà nào đó xa xôi. Mãi sau này tôi mới biết, từ nhỏ chị đã bị ba bỏ rơi, lớn lên đi làm mướn phụ mẹ, không được đi học. Với chị, biết chữ mãi là giấc mơ xa vời. Không biết bây giờ Muỗi lưu lạc nơi nào, cho tôi gửi lại chút niềm ân hận, ân tình năm xưa?

Tôi vốn tuổi con Mèo, có bà dì gọi Mão riết rồi chết tên. Năm đó, cơ quan mẹ cho người ta thuê thêm cái sân trống bên phải mở quán cà phê. Vậy là, trong cái đám con nít lộn xộn hay tụ tập bắn bi lại xuất hiện một thằng gầy nhom có cú cu-lê điệu nghệ - thằng Tí - cháu bà chủ quán cà phê. Tôi vốn lớn hơn nó một tuổi, tôi cao, nó thấp, tôi đậm, nó gầy nhom, tôi học rất khá, bắn bi dở ẹc, nó học í ẹ mà bắn bi thiện nghệ, tóm lại tôi với nó hình như là hai mặt đối lập nhưng lại bổ sung cho nhau, làm nên cặp Mão-Tí “song hùng” giữa giang hồ khu tập thể. Thằng Tí sún răng mà rất hay cười, làm trò rất khéo, lại đầu têu trong các phong trào nhảy dây, lắc vòng giảm béo ở khu tập thể. Nếu có ai hỏi: “Ba, mẹ mày đâu Tí?”, nó

hồn nhiên trả lời ngay: “Ba đi đá gà, mẹ đi bán bia ôm rồi!”. Lắm lúc tôi thấy ganh tị với nó vô cùng, nó được tự do bay nhảy, làm những gì mình thích, không ai la rầy cả, lại được các cô, dì, chú, bác thương vì sai gì cũng làm. Lần nọ, tôi xách kiếm nhựa múa tít những chiêu thức kiếm hiệp học lóm trong phim, chặt gần trụi lá cây sứ trước cổng cơ quan mẹ rồi đổ thừa cho nó mà hả hê vô cùng. Nó bị mắng vốn, bị mắng nhưng vẫn cười và vẫn chơi với tôi thân thiết. Tí à, tao còn nhớ mãi nụ cười của mày, tao còn nợ mày sự vô lo và bình an. Nếu mai này có dịp, tao muốn cụng với mày vài ly, rồi cười lại với nhau nụ cười thơ trẻ!

Thời gian cứ trôi mải miết, chục năm vèo qua đi, những chục năm khác cũng sẽ nhanh đến không ngờ! Đến lúc giật mình, nhìn quanh tự hỏi, người năm cũ đi đâu mất? Nếu có một chuyến tàu chở ta ngược lại thời gian xin cho tôi một vé để được thấy lại chính mình năm xưa nắc nẻ cười cùng lũ bạn, để được đắm chìm trong huyên náo của khung trời thơ ấu. Nhưng thực tế chẳng có con tàu cũng như sự quay về nào, thôi thì đành gửi lưu luyến, nhớ thương vào những khoảnh khắc bất chợt bật tiếng gọi tên người năm cũ.

Page 54: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

55

Miền ký ức

ăm nay vải mất mùa, những gốc vải già trong vườn dường như cũng mệt mỏi

rệu rạo lắm rồi. Quả không được to tròn, mẩy mình như mấy năm trước. Hôm em đi, quả còn chưa chín tới, mẹ vội vã khoác tấm áo thô, lần lần lựa lựa khắp vườn chọn những quả ngon nhất, cắt hết lá cành, tẩn mận bọc trong túi nilon dúi vào balo cho em. Em gái nhỏ nhìn mẹ cười bảo: “Không còn lá, không còn cành, nom chúng nó cứ như ông sư.” Cả nhà cười vang, bảo em chỉ thích ăn ông sư vải.

Nhà em có một khu vườn khá rộng, nếu không muốn nói là khá lạc lõng giữa khu trung tâm tuyền những biệt thự này. Không phải vì nhà em giàu, mà mảnh đất nơi đây vốn là mồ hôi công sức ông ngoại mất bao mồ hôi nước mắt khai khẩn ra. Đó là ngôi nhà đầu tiên, khi mà xung quanh vẫn còn là một dải đồi chạy tít tắp,

thi thoảng những ngày kham khó, mùa màng thất bát, lũ khỉ còn kéo về quậy phá tung beng. Chưa có những chiếc xe hơi đắt tiền, chưa có những biệt thự mọc lên như nấm, chưa có những người hàng xóm sống cạnh nhau hơn hai mươi năm vẫn chưa tỏ mặt. Mảnh đất mà ông ngoại khẩn hoang dễ đến phải nửa cái dải phố này, nhưng mà vì chính sách, vì đồng tiền, vì những mối quan hệ mà em cũng chỉ lờ mờ, nên khu vườn mẹ kể kia chỉ còn là một mảnh xinh xinh trong mắt em. Đôi khi em thấy mẹ lặng lẽ thở dài, đôi mắt đẹp với rèm mi cong cong không vì mấy vệt chân chim nơi khóe mà bớt vẻ nhung huyền đã lấp lánh nước. Em dường như hiểu, lại dường như không thấu nỗi buồn của mẹ, chỉ lỏn lẻn vén đôi tay xinh ôm lấy mẹ, dụi mặt vào lưng, rồi cười khanh khách. Thế là - mẹ em hết buồn!

Hồng Mây

N

Page 55: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

56

Miền ký ức

Khu vườn xinh xinh không hẳn là mênh mông lắm, nhưng là cả một mảng màu huyền diệu trong mắt cô thiếu nữ chưa kịp lớn. Có màu xám xám của hàng rào thép gai, màu xanh mươn mướt của bụi rau ngót, màu tím nhàn nhạt của đám hoa rau muống, màu phơn phớt ngả sắc tím của cây cà già đứng đơn côi trong góc. Là màu vàng rượm đôi mi thiếu nữ của chùm dẻ đong đưa tình tứ, màu tường vi dịu dàng của đóa hồng dây e ấp lung linh trong gió, màu tinh khiết của đám hoa trà kia... Và hương... Trời ạ, phải đứng giữa khu vườn, căng đầy lồng ngực, mở toang hai lá phổi, ngửa mặt lên trời, để gió làm kẻ trung gian đưa làn hương kia quyến rũ ta. Nếu không phải kẻ mê luyến thiên nhiên sẽ khó có thể tận tình hưởng thụ hết hương sắc ấy. Là mùi nhàn nhạt mà lan xa xa mãi của giàn thiên lý, là mùi man dại của đám hoa dẻ ẩn sau hương ngọt ngào của giàn mướp kia... Và vị, ấy chính là vị ngòn mê đắm và hơi chan chát nơi đầu lưỡi của những chùm vải đỏ, vị ngọt ngào mềm mại của những trái xoài tượng đung đưa khêu gợi gió kia, là vị giòn tan man mát của những trái hông ngâm độ

rằm tháng Tám... Tất cả, tất cả quyện vào nhau, tan chảy, tạo thành một mùi vị tuyệt dịu, và đỉnh điểm là một cú sốc man dại Đó chính là xúc động của Jean - Baptiste Granouille khi váng vất thấy được mùi hương tối thượng” - mùi hương trinh nữ. Phải, cả khu vườn này như một thiếu nữ đầy xuân sắc ngày đêm liếc mắt đưa tình khêu gợi ta.

Hà Nội đẹp lắm, thương lắm. Một Hà Nội cổ kính và trầm mặc. Một Hà Nội cổ kính và xa hoa. Nhưng Hà Nội không có vườn yêu kia, không có mẹ để em vén tay xinh ôm lấy hít hà. Nhưng Hà Nội có hi vọng, là hi vọng của mẹ và vườn xinh len lén trốn trong chùm vải đầu mùa, trong quả thị thơm đặt nơi đầu giường, lặng lẽ theo em vào giấc ngủ mơ. Hà Nội nắng và gắt hơn vùng trung du quê hương. Đi học về, khe khẽ mở cánh cửa tủ, nơi có múi vải mẹ yêu tách sẵn cho em, thêm vài viên đá trộn vào, khẽ chạm vào vành môi nhỏ, em thấy hương kia dịu ngọt lan tỏa khắp không gian, như tay ai nhẹ nhàng lau đi những giọt mồ hôi còn đọng trên trán...

Page 56: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

57

Miền ký ức

Ký ức xe đòNhữNg chuyếN xe troNg hàNh trìNh tuổi thơ

Sôi nổi hơn là bình luận về các loại xe mình được ngồi, được tận hưởng cảm giác đi nhanh vù vù mà khối người đi đường phải né mình vào lề đường chật hẹp đầy bụi đỏ, ngước nhìn những hành khách oai vệ đang ngồi mơ mộng trên xe.

Đi tới đi lui trong huyện chủ yếu dựa vào xe bò và xe ngựa, đi đâu cũng thấy phân súc vật, ngửi mùi cỏ cây và mồ hôi bụi bặm. Ai có nhiều tiền hơn một ít thì đi bằng xe lam. Những chiếc xe ba bánh này chở được mười hai người hoặc thậm chí là hai mươi với hàng hóa cồng kềnh trên mui. Tài xế ra sức đạp máy xe như đạp xe hon đa, nếu không thì hai ba hành khách phải phụ đẩy ì ạch. Những chiếc xe lam phành phạch phun khói xanh ngùn ngụt luôn làm náo động thị trấn thanh bình vào buổi sáng và xế chiều. Những chiếc cần xé đựng đầy cá tôm miệt biển, bầu bí rau xanh từ giồng cát quyện với khói xe luôn cho thị trấn một mùi ngòn ngọt tanh tanh khó quên đến kỳ lạ. Có đôi lần tụi nhỏ chúng tôi thèm đi xe lắm, bèn trốn mình ngồi đại lên một chiếc xe đi Tiệm Tôm còn vắng khách, bác tài không để ý nổ máy chạy

luôn. Chúng tôi phát hoảng, phần vì không có tiền, phần vì xe chạy càng xa, đánh liều la lên bác ơi cho con xuống. Vậy là có một kỷ niệm không bao giờ quên, hóa ra muốn đi xa hay muốn thưởng thức điều kỳ thú trên đời thì chúng ta đều phải trả giá cả.

Những chiếc xe lam dần dần bị xe Daihatsu đánh bại, nó có bốn bánh an toàn hơn nhiều, chạy nhanh và sang trọng hơn bao giờ hết. Loại này chỉ có thuần một màu trắng sữa, tiếng máy chạy êm êm như xe đò thu nhỏ. Hai băng ghế bằng gỗ nhưng có một lớp nệm mỏng, dù sao cũng trông có vẻ êm ái và sang trọng hơn ngồi xe bò cọc cạch hoặc xe lam thô kệch. Tôi còn nhớ bản thân hay bồn chồn mỗi khi qua phà Rạch Miễu để được ngồi trong chiếc xe be bé này chạy từ đấy đến bến xe Mỹ Tho. Độ khoảng bốn cây số nhưng đó là một hành trình khá dài và quan trọng trong chuyến đi, vì nó là một chặng đường tất yếu của bất kỳ chuyến đi nào từ Bến Tre đến Sài Gòn, giao điểm giữa miền quê và đô thị. Và đó cũng là một sự so sánh về vận tốc, sự êm ái hay cả về mặt tiền bạc so với chặng từ Mỹ Tho đến Sài Gòn hoa lệ.

Mỗi hành trình có một vài chuyến xe, và mỗi chặng đường đều có hành khách đáp các chuyến xe khác nhau. Tôi cũng như những thằng nhỏ đồng lứa luôn mơ màng về một chuyến đi xa ra khỏi thị trấn miền biển nhỏ bé cô quạnh. Tụi tôi gân cổ cãi nhau hay túm tụm kể lể về một chuyến đi đâu đó hiếm hoi trong đời.

Nguyễn Hồng Chí - VNE

Page 57: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

58

Miền ký ức

Xe đi Sài Gòn bao giờ cũng xinh đẹp hơn cả, có hai đèn vuông, hai ống khói ốm nhách phía sau chọc thẳng lên trời, sơn sọc xanh sọc đỏ mà một số ông hay cho rằng nó trông giống như màu cái quần xịp! Cả thị trấn mỗi ngày chỉ có ba chuyến xuất phát đi Sài Gòn: chuyến lúc 4 giờ, 5 giờ và 6 giờ nên lơ xe lúc nào cũng hò hét, kênh kiệu ra phết vì xe của họ hầu như là cục nhưn của cả bến xe. Hành khách cũng trông có vẻ mỹ miều hơn, quần áo tươm tất, phần lớn là dân đi mua hàng tiêu dùng từ chợ Bình Tây, An Đông, hay Tân Định. Trong túi áo, túi quần của họ luôn mang theo củ tỏi nhằm trừ tà, tiền được lận vào áo lót bên trong có gài vài cây kim tây cứ như là sắp đi buôn hàng triệu đô la không bằng. Thời ấy đã diễn ra tệ nạn móc túi trên chặng xe lam từ bến xe Miền Tây vào Chợ Lớn. Chiếc xe lam màu vàng máy nổ tành tạch rảo khắp phố phường đô thị đón khách bất kỳ nơi nào, đến độ họ phải đánh liều đu mình tòn ten phía sau, bên trong chật như nêm nên tạo cơ hội tốt cho người xấu tay che nón lá, tay kia lòn vào móc túi mấy người ngủ gà gật từ các tỉnh đổ xô lên thành thị sau một chặng đi dài mệt nhọc. Thật là không thoải mái chút nào cả so với chuyến xe đi từ huyện đến Sài Gòn khi mỗi một hành khách được sở hữu một cái ghế ngồi, tuy đôi khi họ phải nhét tay vào lòng để có chỗ cho hành khách khác ngồi ké một phần đít lúc xe đón quá nhiều khách dọc đường. Những chiếc xe đò này không phải đẩy khi khởi động máy, không cần phải đốt gáo dừa ở phía trước nắp cạc bô hay đốt ngọn đèn dầu tù mù hoặc bó đuốc lá dừa rừng rực lửa khi chạy vào ban đêm như xe từ Bến Tre về Ba Tri .

Thủa ấy tôi còn nhớ chiếc xe đò Ba Tri đi Bến Tre toàn hiệu DeSoto màu đỏ chạch với một số ghế quay mặt về

phía trước và bốn năm hàng ghế làm bằng cây ở phía sau mà hành khách phải nương người khe khẽ mỗi khi bánh xe lăn vào ổ gà ổ vịt to tướng, không khéo thì đầu bị va cành cành vào hai thanh gỗ bên hông xe. Xe nào khá hơn thì có ghế dựa hẳn hoi làm bằng sợi ny lông màu xanh đỏ rách tả tơi mà tôi nghĩ nó trông giống như các sợi tua mà kép cải lương thường hay đeo khi đóng vai tướng võ trên sân khấu. Nhiều khi tôi mơ có được 22 đồng để mua vé đi và về từ Ba Tri đến Bến Tre hầu trải nghiệm cảm giác được đàng hoàng ngồi trên một ghế cạnh cửa sổ rộng thênh mà không phải ngồi bó gối trong lòng người lớn, nhìn cảnh vật chạy thụt lùi từ từ lại phía sau, cảm giác giựt người mỗi khi tài xế sang số. Nói cho cùng điều này cũng chỉ là mơ mộng hết sức viễn vông vì một đồng chị em tôi còn không có thì nói chi đến cả chục bạc. Vì thế nên chúng tôi rất thích chiều chiều rảo bộ ra bến xe huyện, ngắm thỏa thích những chiếc xe đò xanh đỏ và rờ vào những bánh xe bự chảng đỏ lòm sau chặng đường dài nhuốm đầy bụi đất đỏ. Có bác tài tử tế, cho tôi leo lên chơi, tò mò đi dọc theo hai hàng ghế và ngửi mùi khói xăng lẫn mùi nước mắm và cá biển để mộng tưởng về một chuyến đi xa vời đến một xứ sở phù hoa.

Page 58: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

59

Miền ký ức

Nhưng nếu nói về mặt phù phiếm miệt đồng bằng thì phải kể đến bến xe Mỹ Tho thời ấy. Nó hao hao giống bến xe Miền Tây ở chỗ đông nghẹt người ta và đủ loại xe khách từ nhỏ đến lớn, kẻ đến người đi nhộn nhịp từ khuya. Hành khách chen chúc xếp hàng mua cho được tấm vé đi Sài Gòn, người này mắng nhiếc người kia khi lấn hàng, miệng nhóp nhép ăn đủ loại hàng rong. Lắm khi tôi tiếc hùi hụi khi trễ phà, trễ luôn chuyến xe đò loại 50 ghế đi Sài Gòn. Chúng tôi phải nhét mình vào một chiếc xe đò cải biên có từ đời Bảo Đại. Nó chẳng có ghế gì sất mà nhà xe chỉ trải vài tấm chiếu cáu bẩn để hành khách nhóc nhách ngồi bẹp ở bên trong. Tôi thường càu nhàu vì bị tê chân với chặng đường 75 cây số trong ba tiếng đồng hồ. Hành khách thường chẳng thấy được cảnh vật gì cả trong cái hộp bít bùng này, chỉ toàn mùi mồ hôi và mùi ôi ôi từ một số bà khách ói mửa say xe hay xức dầu gió kim. Ngầy ngật và mỏi mòn trong những chuyến xe tạp nhạp là vậy nhưng mẹ lại cho rằng mình còn may khi đón được chiếc xe này còn hơn phải đứng chờ chuyến khác lại

phát sinh ra chuyện ăn uống lôi thôi tốn tiền! Nhưng dù có cực một ít nhưng tôi thích đi Sài Gòn lắm. Lũ nhỏ chúng tôi khù khờ nao nức đến nỗi ngủ không được khi được mẹ cho đi chơi trong chuyến buôn thuốc tây cùng với các dì ở Sài Gòn. Thời buổi bao cấp gian nan, nói trên lý thuyết ai cũng có được phần hàng của nhà nước phân phối, mua đi bán lại vải vóc còn bị cho là mua gian bán lậu thì nói chi đến chuyện mua bán dược phẩm. Vậy mà lũ nhóc vui lạ. Có lẽ bởi vì cuộc sống nghèo hèn quá độ mà mỗi khi được thoát ra khỏi cánh cửa nhà và ngao du xứ lạ lại là kinh nghiệm để đời chăng?

Nhưng không hẳn lúc nào đi xe cũng thú vị. Người ta nói tài xế tuyến Hậu Giang giành khách chạy bạt mạng. Họ thường chạy từ từ khi ra khỏi ngã ba Trung Lương, được một đỗi khi xe khác từ Sài Gòn đổ về hay từ Mỹ Tho ra bến thì họ bắt đầu nháy nhó với nhau và rồi tăng tốc. Cả chiếc xe đò 50 chỗ như một chiếc xe tăng chạy đua trên quốc lộ: ầm ầm trong gió lồng lộng, lạng qua lách lại rất điệu nghệ. Nhưng chỉ tội cho mấy

bà già ngất ngư trên xe, miệng méo xệch niệm a di đà hay gọi tên tổ tiên cứu nạn, vật vựa say xe, nửa sống nửa chết. Tài xế đâu thèm quan tâm, rú ga chạy ào ào như ma đuổi, lấn lề tưởng như chạy bừa xuống ruộng. Tôi chẳng có chút cảm giác thưởng thức chuyến xe chút nào cả vì gió quất vào mặt đến độ không thở được, lạnh cóng, tay vịn cứng ngắc vào hàng ghế trước, tai ù ù, người nôn nao khó chịu. Chạy nhanh đó, nhưng hễ anh lơ xe la làng nói thằng Mỹ Thuận bỏ cuộc rồi thì tài xế đột ngột giảm ga, chạy từ từ như đi hóng mát, rồi lại vọt lên cái vù. Nhưng đấy là xe còn tốt, chứ chặng đường từ ngã ba An Thái Trung vào Cao Lãnh thì khác. Những chiếc xe khách này được làm từ xe hàng, thùng sau được đóng lại với bốn hàng ghế gỗ có thể chở được hơn 50 người, luôn được khởi động bằng sức người, chạy rịch tang khoảng 20 cây số một giờ nên chặng này 35 cây số mà hành khách phải mất non 2 tiếng. Đường đi đã xấu, xe lại rị mọ bò qua lết lại trên đường nên hành khách tuyệt đối không nên ngủ gật trên xe vì đầu có thể va vào thành xe chảy máu như chơi.

Page 59: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

60

Miền ký ức

Có khi xe đang chạy rì rì bỗng nghiêng qua một bên, bánh sau sút ra chạy lộc cộc nhanh hơn cả chiếc xe rồi thản nhiên lăn xuống ruộng. Hành khách chẳng sợ chi cả, chỉ ồ lên thán phục anh lơ xe tội nghiệp phải hớt hơ hớt hải đuổi theo nó, miệng văng tục um trời! Suốt chặng này không có một ai bị ói cả, chỉ tội toàn thân bị nhức rêm vào ngày hôm sau mà thôi. Nỗi thèm khát được leo lên xe đò để đi chơi xa của tôi chưa bao giờ dừng lại cho đến tận thời đại học. Có bà chị coi bói bài cho tôi, nói khơi khơi rằng số tôi sau này được đi xe hơi chứ không bỡn. Mà ngẫm ra thì đúng thật vì bây giờ tôi đi xe hơi nhiều lắm. Đi vòng vòng trong nội thị thì có thể gọi một chiếc tắc xi, tài xế lịch sự mở cửa mời lên xe và được đối xử như thượng đế thật sự, chỉ mỗi tội trả tiền nhiều quá, thấy đau lòng xót của mà thôi. Đi Sài Gòn cũng không phải cần chầu chực tranh giành vé xe nữa, chỉ cần gọi điện thoại cho hàng loạt các công ty xe khách chất lượng cao, được người ta đưa đón tận nhà, lại được tặng chai nước suối, cái khăn giấy lạnh. Xem ra một số công

ty còn phục vụ hành khách như thể đi bằng máy bay, có nhân viên cầm micro thông báo tuyến đường và cung cách phục vụ trên xe. Đoạn đường Sài Gòn đi Cần Thơ 168 cây số chỉ như là một chuyến đi nghỉ mát trên xe. Riết rồi đâm chán. Mỗi lần cứ nghĩ đến việc đi xa, ngồi trên xe không biết làm gì, chỉ ngủ, nghe nhạc tào lao hay xem vài bộ phim hài vô vị thì lại cảm thấy mỏi mệt. Cứ nghĩ đến những công việc đang chờ mình đằng sau hành trình và những người mình phải bỏ lại phía sau mà cảm thấy nôn nao khó chịu, đôi khi chia tay lại còn thấy đau lòng. Đôi khi tôi cố tìm lại cảm giác bồi hồi mỗi khi bước lên xe đò, nhưng thật tình những điều lo âu và ưu tư trong cuộc sống đã tiêu diệt lòng đam mê đi lại. Tôi bắt đầu ngại di chuyển. Hôm qua một thằng bạn rủ tôi đi uống cà phê bằng chiếc Camry trị giá một tỷ đồng của nó, tôi lại thấy một ít ghen tị, một ít tủi thân cho phận bần sĩ muôn đời. Bạn tôi vẫn hồn nhiên tự thuở nào, ham thích phiêu lưu bằng những chiếc xe hơi đời mới, chứ không phải xe lam hay xe đò buổi nao. Người tôi cứ như bị hít chặt vào ghế da khi nó tăng tốc từ 40 cây số một giờ

lên gấp đôi, mặt cứ ngẩn ra như kẻ bị thịt không am tường cách thưởng thức điều xa xỉ mà cuộc đời trao tặng. Xem ra những gì mình muốn hưởng thụ đều luôn phải trả một cái giá nào đó. Người bạn tôi vẫn như vậy nhưng hơi xa vời một ít khi nó luôn nói về những chuyến đi làm ăn xa xôi với những được hơn mà công cuộc thời thế tạo ra. Những chuyến xe đò ngày xưa chắc chỉ còn tồn tại trong những giấc mơ vô chừng của bạn mà thôi.

Giấc mơ về những hành trình xa xôi của tôi từ từ phần nào đã trở thành sự thật. Đôi khi lang bạt ra Bắc, đi rong ngoài Trung, lang thang ở miệt đồng bằng hay la cà nơi này nơi nọ ở nước ngoài, thấy bản thân mình đã còn đi xa hơn những nơi mình từng khao khát đặt chân đến, thấy cuộc đời trải rộng mênh mông, vốn dĩ dành cho mọi người. Cứ thấy nếu mình hãy còn có khát vọng về những chuyến đi chơi rong ruổi trong đời thì cuộc đời lại tiếp tục cho mình những mơ ước về những hành trình khác. Và như vậy những chiếc xe đò ngày xưa vẫn chạy hoài trong cuộc hành trình đi tìm ước mơ xa vời của tôi.

60

Miền ký ức

Page 60: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

Lời cám ơn &cáo lỗiKính gửi: Quý tác giả có bài đăng tạp chí và bạn đọc.

Tạp chí LHVVđược sáng lập và xuất bản trên mạng là một nỗ lực cá nhân nhằm phổ biến đến độc giả nói chung và giúp các bạn trẻ Việt Nam nói riêng những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử, văn hóa, du lịch, ẩm thực nước nhà. Với phương châm “Lan truyền tinh hoa Việt”, tạp chí xuất bản không vì mục đích lợi nhuận. Với tư cách là người sáng lập tạp chí, tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất các bạn đã ủng hộ, cổ võ tinh thần, gửi bài cho tạp chí.

Về vấn đề tác quyền, tôi xin cáo lỗi với quý tác giả đã có bài, ảnh đăng trên tạp chí nhưng chưa nhận được liên lạc xin phép từ LHVV. Bài vở trên tạp chí rút từ diễn đàn lophocvuive.com do các bạn thành viên đóng góp, LHVV đã cố gắng truy tầm tài liệu gốc và ghi rõ tên tác giả. Những tác giả phổ biến e-mail trên mạng, LHVV sẽ liên lạc trực tiếp, gửi thư xin phép sử dụng bài viết kèm lời xin lỗi và một bản tạp chí. Ngoài ra do khuôn khổ trang, Bất Hối xin phép biên tập lại câu chữ cho tinh gọn, vừa vặn mà không ảnh hưởng đến nội dung truyền tải. Cuối cùng do mục đích phi lợi nhuận, LHVV cũng không có nguồn thu để hỗ trợ tác quyền. Vậy kính mong quý tác giả vì tinh thần hiếu học, phổ biến kiến thức cho cộng đồng mà thông cảm cho LHVV về vấn đề quyền tác giả.

Xin trân trọng cám ơn và mong muốn nhận được nhiều hơn sự ủng hộ cũng như cộng tác từ quý bạn.

Bất Hối Mục Đồng - Phan Khắc Huy

Page 61: Tạp chí Lớp Học Vui Vẻ số 13

13Trò vui năm cũ.

Chơi chòi - thú của miền quê.Tạt lon.

Người đã tặng tôi một nhánh sơ ri.

Mùa thanh long chín.Ngày ấy đâu rồi,

cho tôi tìm lại...Ký ức xe đò.

15/06/2012