260
TÂM LÝ HỌC TÂM LÝ HỌC Tác giả: TS. Đinh Phương Duy LỜI NÓI ĐẦU Khoa học Tâm lí đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong các hoạt động đa dạng của xã hội. Đặc biệt trong hoạt động giáo dục và kinh doanh, việc ứng dụng các thành quả nghiên cứu tâm lí đang được khai thác rất thành công và hiệu quả. Nhiều trường chuyên nghiệp chọn lựa học phần Tâm lí học cho sinh viên nghiên cứu, học tập, đã được đông đảo sinh viên thích thú và ủng hộ. Trong xu thế đổi mới phương pháp nghiên cứu tâm lí và đổi mới cách thức phổ biến kiến thức Tâm lí học cho đông đảo bạn đọc với nhiều đối tượng đa dạng, tập sách Tâm lí học này được biên soạn lại trên cơ sở nội dung chính của học phần Tâm lí học đại cương nhằm giúp các bạn sinh viên, những người quan tâm đến khoa học Tâm lí có tài liệu tham khảo, nghiên cứu và ứng dụng... Tác giả tập sách này có ý thức chú trọng nhiều đến những vấn đề thực tiễn, do đó có nhiều câu chuyện được trích lại để dẫn dắt và giải thích vấn đề.

saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

TÂM LÝ HỌCTÂM LÝ HỌC

Tác giả: TS. Đinh Phương Duy

LỜI NÓI ĐẦU

Khoa học Tâm lí đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong các hoạt

động đa dạng của xã hội. Đặc biệt trong hoạt động giáo dục và kinh doanh, việc

ứng dụng các thành quả nghiên cứu tâm lí đang được khai thác rất thành công

và hiệu quả. Nhiều trường chuyên nghiệp chọn lựa học phần Tâm lí học cho

sinh viên nghiên cứu, học tập, đã được đông đảo sinh viên thích thú và ủng hộ.

Trong xu thế đổi mới phương pháp nghiên cứu tâm lí và đổi mới cách

thức phổ biến kiến thức Tâm lí học cho đông đảo bạn đọc với nhiều đối tượng

đa dạng, tập sách Tâm lí học này được biên soạn lại trên cơ sở nội dung chính

của học phần Tâm lí học đại cương nhằm giúp các bạn sinh viên, những người

quan tâm đến khoa học Tâm lí có tài liệu tham khảo, nghiên cứu và ứng dụng...

Tác giả tập sách này có ý thức chú trọng nhiều đến những vấn đề thực tiễn, do

đó có nhiều câu chuyện được trích lại để dẫn dắt và giải thích vấn đề.

Tác giả đã hết sức cố gắng để biên soạn tập sách này nhưng chắc chắn

vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành

của bạn đọc gần xa.

Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Giáo dục đã tạo điều kiện thuận lợi

để tập sách này được xuất bản.

Trân trọng kính chào!

Tác Giả

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. KHOA HỌC TÂM LÝ1.1. Khái niệm "Tâm lí người"

Page 2: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Khi người ta cố gắng để tìm hiểu tâm lí của một ai đó nghĩa là họ đang

muốn biết điều gì của người ấy? Tâm lí có phải là một thuật ngữ chỉ những vấn

đề huyền bí của con người? Phải chăng chúng ta không thể nào hiểu được tâm

lí của một con người cụ thể?... Hãy lưu ý đến những từ có chữ "TÂM" sau đây

và có vài nhận xét:

Tâm hồn, tâm linh, tâm trí, tâm trạng, tâm địa, tâm can, tâm thần, tâm sự,

tâm tình, tâm tính, tâm tưởng, tâm thành, tâm bịnh, tâm giao, tâm đắc, tâm thức,

tâm tư,…

Nhân tâm, thiện tâm, ác tâm, bình tâm, an tâm, khổ tâm, lưu tâm, quyết

tâm, thành tâm, đan tâm, can tâm, đồng tâm, dã tâm, tà tâm, mĩ tâm, hảo tâm,

kiên tâm, từ tâm, tịnh tâm, thương tâm, lao tâm, vô tâm, nhẫn tâm, bận tâm...

Những từ trên đây có liên quan gì đến tâm lí không? Phải chăng đó là

những khái niệm của Tâm lí học?...

Người ta đã yêu như thế nào, tại sao mình nhớ người này mà không nhớ

người kia? Những giấc mơ hãi hùng hoặc đầy chất lãng mạn có liên quan gì với

nhau? Tại sao có lúc con người lại thấy mênh mông buồn mà chẳng rõ nguyên

nhân, có lúc căng thẳng hay nhiều khi hết sức hiền hoà và nhẫn nại?... Trong

thực tế đã có nhiều trường hợp con người rơi vào tình trạng mất cảm giác, mất

trí nhớ hoặc mất hết lí trí, tại sao như thế? Có lúc chúng ta đã không làm chủ

được mình, đã có những hành vi không nên làm nhưng lại biết mình sai ngay

sau đó, tại sao họ cố tình làm những điều biết chắc có thể mang lại sự phiền

phức cho mình?

Cũng có lúc người ta tự hỏi về thân phận của mình, tự hỏi về tương lai

của mình nhưng rồi họ hoàn toàn tuyệt vọng. Với bạn, bạn có bao giờ cho rằng,

trong cuộc sống, người Nữ và Nam sẽ có những phản ứng khác nhau trước

những hoàn cảnh hay trước những kích thích giống nhau? Bạn có cho rằng

những thông tin người ta có thể ghi nhớ được lại tuỳ thuộc vào tâm trạng của

con người hay phụ thuộc vào trạng thái tinh thần của con người lúc ấy không?

Bạn là người hướng nội hay hướng ngoại, là người duy cảm hay duy lí...?

Page 3: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Thuật ngữ "tâm lí", "tâm hồn" đã có từ lâu trong tiếng Việt. Từ điển tiếng

Việt năm 1988 đã định nghĩa một cách tổng quát rằng "tâm lí" là ý nghĩ tình cảm,

tâm tư, nguyện vọng, ý chí, thái độ, sở thích... làm thành đời sống nội tâm, thế

giới bên trong của con người. Nói một cách chung nhất, tâm lí bao gồm tất cả

những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều

hành một hành động, hoạt động của con người. Tìm hiểu tâm lí của con người

nghĩa là tìm hiểu về suy nghĩ tình cảm, ước muốn, nguyện vọng... của họ. Các

hiện tượng tâm lí, các hiện tượng tinh thần đóng vai trò đặc biệt quan trọng

trong đời sống của con người, trong quan hệ giữa con người cũng như giữa con

người và xã hội loài người. Một số người cho rằng "tâm lí" là lí lẽ của trái tim, là

những vấn đề liên quan đến tình cảm... nhưng thật ra không chỉ là của trái tim

mà còn là của "khối óc" nữa...

1.2. Tâm lí học

Những vấn đề trên đây sẽ được khoa học tâm lí giải thích và giúp chúng

ta phần nào trong việc lí giải những hiện tượng, sự kiện như đã mô tả trong

cuộc sống thực tế. Khoa học tâm lí hay Tâm lí học là một ngành khoa học

nghiên cứu về tâm lí, trong đó đặc biệt là nghiên cứu tâm lí Người. Mục tiêu lớn

của Tâm lí học là đem lại một cái nhìn sâu sắc và khái quát về những vấn đề đã

được khám phá về hoạt động của não bộ, của trí tuệ, của hành vi. Sau đó, Tâm

lí học cố gắng tìm cách để phác thảo, đề nghị phương cách vận dụng tri thức

Tâm lí học trong cuộc sống...

Có thể nói rằng, Tâm lí học là một khoa học nghiên cứu về các hiện tượng

tâm lí, về hành vi và đời sống tinh thần của con người. Tâm lí học có liên quan

đến rất nhiều ngành khoa học khác. Là một môn khoa học xã hội nhưng không

hoàn toàn chỉ là những vấn đề "xã hội" đơn thuần mà Tâm lí học có liên quan

mật thiết với Sinh lí học, Thần kinh học, Kinh tế học, Chính trị học, Nhân học,

Vật lí học... Nhiều ngành khoa học hành vi, nhiều ngành khoa học xã hội đã dựa

vào tri thức tâm lí để đưa ra các nguyên tắc ứng dụng của họ... Ngày nay, Tâm

lí học là khoa học xuyên văn hoá, nó có liên quan đến các ứng xử giống nhau và

khác nhau từ các vùng trên thế giới, nó có những quy tắc thích ứng chung cho

nhiều vấn đề đối với con người. "Tâm lí học nắm giữ chiếc chìa khoá để hiểu

Page 4: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

một cách tổng quát sự vận hành con người (function) như thế nào. Khi khám

phá ra những điều nhà Tâm lí học biết về con người nói chung thì ta có thể ứng

dụng sự hiểu biết đó để thay đối ứng xử của bản thân và ứng xử của người

khác theo chiều hướng tốt hơn".

1.2.1. Đối tượng của Tâm lí học:

Bàn về đối tượng của Tâm lí học nghĩa là trả lời các câu hỏi: Con người

nghiên cứu tâm lí người khác thông qua cái gì; Điều gì là phương tiện để nghiên

cứu tâm lí người; Tâm lí người được bộc lộ thông qua các hình thức nào?

Trước hết, tâm lí (tâm tư, tình cảm, thái độ...) của con người luôn bộc lộ ra

ngoài bằng hành vi. Có thể quan sát hành vi cụ thể của một người trong một tình

huống cụ thể nào đó để nhận dạng về diễn biến tâm lí của họ lúc đó. Đời sống

tâm lí của con người luôn luôn được bộc lộ ra ngoài bằng hành vi và các dấu

hiệu nhất định. Hành vi là gì! Theo nghĩa hẹp, hành vi là cử chỉ, ngôn ngữ, động

tác... Theo nghĩa rộng, hành vi là tất cả các hoạt động trí tuệ, tình cảm có ý thức

và không ý thức. Khi xem xét hành vi của một cá nhân, cần chú ý đến ba khía

cạnh của nó, đó là cơ thể, tinh thần và xã hội. Hành vi là tất cả các dấu hiệu có

thể quan sát được của con người, được xem xét trong một tổng thể các phản

ứng của con người trước tác động của môi trường..

Như vậy, trước hết Tâm lí học xem hành vi của con người là đối tượng

nghiên cứu của mình, thông qua hành vi, các chủ thể sẽ có thể phát hiện được

những dấu hiệu, những diễn biến, những đặc điểm tâm lí của một khách thể nào

đó.

Mặt khác, Tâm lí học là một trong các khoa học trung gian tức là nghiên

cứu các dạng vận động chuyển tiếp từ dạng vận động này sang dạng vận động

khác. Tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật

sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào não người sinh ra hiện tượng

tâm lí, với tư cách là một hiện tượng tinh thần. Ở khía cạnh này, đối tượng của

Tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần do

thế giới khách quan tác động vào não người sinh ra, gọi chung là các hoạt động

tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt

Page 5: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

động tâm lí thông qua những hiện tượng tâm lí. Hiện tượng tâm lí là những hiện

tượng phản ánh đời sống tinh thần của con người, phản ánh tâm hồn con

người. Những hiện tượng tâm lí nói lên suy nghĩ, tình cảm của một cá nhân hay

của một nhóm xã hội nào đó. Các hiện tượng tâm lí người có thể chứa đựng,

chuyển tải ý nguyện của một cá nhân hay cộng đồng, bộc lộ ý tưởng, nhận thức

của một chủ thể nào đó. Có thể nói đối tượng của Tâm lí học rất đa dạng, từ

những điều quan sát được trong thực tiễn đến những ý tưởng còn ẩn chứa

trong tâm thức của họ, còn bị che khuất bởi các thói quen của họ nhưng đều có

khuynh hướng bộc lộ ra ngoài và hình thành nên những hiện tượng tâm lí chung

hay đặc biệt.

1.2.2. Nhiệm vụ của Tâm lí học

Nhiệm vụ của Tâm lí học có thể xem như các mục tiêu mà khoa học này

muốn đạt được thông qua hệ thống tri thức và các phương pháp của chính khoa

học này. Giải quyết được các nhiệm vụ, các nhà tâm lí sẽ có điều kiện tiếp cận

với các vấn đề thực tiễn một cách bài bản hơn, ý nghĩa hơn. Tâm lí học có một

số nhiệm vụ cụ thể như sau:

- Phát hiện các hiện tượng và sự kiện tâm lí xảy ra trong cuộc sống thực

tế. Những hiện tượng tâm lí xảy ra đan xen với những hiện tượng khác (hiện

tượng Sinh học, Hoá học, Vật lí học, Xã hội học, Kinh tế học, Văn hoá học...) và

có những quy luật hình thành nhất định, các nhà Tâm lí học phải sử dụng các

phương pháp thích hợp để xác định vấn đề, phát hiện diễn biến tâm lí nảy sinh

ở các chủ thể. Sau khi phát hiện, các nhà tâm lí còn có nhiệm vụ mô tả điều đã

xảy ra một cách rất khách quan, tìm kiếm những mối liên quan ý nghĩa giữa các

kích thích và các đáp ứng của chủ thể và những thay đổi nếu có của liên quan

ấy. Việc mô tả khách quan phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, trong đó

đặc biệt nhấn mạnh đến điều nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy được.

- Tìm hiểu các quy luật nảy sinh, hình thành, phát triển và biểu hiện của

những hiện tượng và sự kiện ấy để có thể giải thích chúng một cách khoa học

và rõ ràng. Những điều được giải thích sẽ là nền tảng của quá trình suy luận

logic để đưa ra được những phán đoán khoa học, những nhận định thực tiễn.

Page 6: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Dù với những cách giải thích nào, các nhà tâm lí phải tìm cách kiểm chứng với

các dữ kiện đã được thu thập một cách hệ thống. Trên cơ sở giải thích một cách

khoa học các hiện tượng, sự kiện tâm lí, khoa học tâm lí sẽ chứng minh được

nguồn gốc của các hiện tượng này và quan trọng hơn là hình thành được một

số cơ sở lí luận và thực tiễn để xây dựng hệ thống lí thuyết cho ngành khoa học

này.

- Sau khi đã giải thích được các cơ chế, các quy luật của hành vi hoặc các

hiện tượng tâm lí nào đó, các nhà tâm lí có cơ sở để dự báo điều gì sẽ xảy ra,

những ứng xử nào có thể xuất hiện trên cơ sở những mối liên hệ đã phân tích.

Dự báo chính xác điều xảy ra sau một hành vi hay một ứng xử nào đó sẽ rất có

ích cho tiến trình nghiên cứu thực tiễn, nó là cơ sở của những ứng dụng Tâm lí

học trong hoạt động thực tiễn cũng như trong cuộc sống thực tế. Một trong

những kì vọng mà các nhà tâm lí phải tìm mọi cách đáp ứng là Tâm lí học phải

có hàng loạt các phương pháp, các biện pháp thực tế để dự đoán, dự báo các

diễn biến tâm lí dây chuyền hoặc độc lập sau một hiện tượng hay một đặc điểm

tâm lí nào đó được thể hiện ở chủ thể.

- Đưa ra được những giải pháp hữu hiệu để con người nghiên cứu, xem

xét và có thể phát triển nhân tố con người một cách hiệu quả nhất. Chính điều

này làm tăng khả năng của Tâm lí học trong quá trình cải thiện chất lượng cuộc

sống, cải thiện tính chất của các mối quan hệ người - người trong xã hội. Tâm lí

học sẽ làm phong phú thêm cuộc sống từ những phương cách hợp lí mà nó đề

xuất để môi trường sống trở nên dễ chịu hơn, do đó kết quả hoạt động có thể sẽ

cao hơn nữa... Nhiệm vụ này thể hiện một cách rõ ràng nhất tính chất ứng dụng

của tâm lí trong thực tiễn, Tâm lí học không phải chỉ là một khoa học với hàng

loạt khái niệm lí thuyết mà còn là việc ứng đụng, vận dụng lí thuyết đó vào thực

tế cuộc sống như thế nào nữa.

Tâm lí học là một khoa học thực hiện rất nhiều nhiệm vụ trong đó có

nhiệm vụ lí giải những hiện tượng rất gần gũi và gắn bó với cuộc sống thực tế,

nếu được nghiên cứu với phương pháp phù hợp, Tâm lí học có thể giúp con

người nhận rõ mình và người khác... để cải thiện chất lượng cuộc sống. Chính

Tâm lí học đã phát triển thành rất nhiều chuyên ngành đa dạng mang tính ứng

Page 7: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

dụng thiết thực trên cơ sở nền tảng phương pháp luận vững chắc là chủ nghĩa

Mac - Lênin và Tâm lí học hoạt động. Thành quả của Tâm lí học đã được khẳng

định trong thực tiễn, đóng góp rất nhiều vào kho tàng tri thức lí luận của xã hội

nhưng vẫn còn rất hạn chế so với tính chất và khả năng của nó vốn có.

Có một vấn đề hẳn ai cũng có thể thừa nhận là Tâm lí học có thể được

vận dụng trong bất kì lĩnh vực hoạt động nào môi trường sống nào từ khoa học,

kĩ thuật nói chung đến các chuyên ngành cụ thể, chi tiết bởi vì ở bất kì lĩnh vực

nào, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi

trường... cũng là hiện tượng then chốt và yếu tố tinh thần, yếu tố tâm lí luôn hiện

hữu trong các quan hệ đó. Nghiên cứu và bổ sung lí luận là điều hết sức cần

thiết nhưng cần có định hướng và liều lượng thích hợp vì có thể nói, hệ lí luận

của Tâm lí học đã tương đối ổn định như đã thể hiện trong Tâm lí học đại

cương, Tâm lí học phát triển, Tâm lí học nhân cách... Vấn đề cần quan tâm hiện

nay là làm thế nào để các ngành tâm lí cụ thể phát huy được thế mạnh vốn có

của mình để góp phần lành mạnh hoá và tích cực hoá cuộc sống. Không ai phủ

nhận tầm quan trọng của Tâm lí học, của việc tìm kiếm những lĩnh vực tâm lí

mới nhưng điều cốt lõi thể hiện tính thiết thực của khoa học này là những kĩ

năng tâm lí nào có thể vận dụng và phát huy tác dụng? Kĩ năng tâm lí là sự kết

hợp các thao tác chứa đựng "hàm lượng tâm lí nhất định" nhằm thay đổi hành vi

theo hướng thuận lợi cho hoạt động của con người, làm cho con người có thể

gặt hái được nhiều thành công hơn, kết quả lao động đạt được nhiều hơn. Kĩ

năng tâm lí là sự chuyển tải lí thuyết tâm lí thành một hệ thống hành vi có chủ

đích, có kế hoạch để hiện thực hoá lí tưởng sống của con người.

Thành quả của Tâm lí học có nhiều cơ hội để phát huy trong điều kiện

thực tế khi chất lượng các mối quan hệ, khi đời sống tinh thần của con người

ngày càng được nhấn mạnh và đóng góp rất lớn vào phúc lợi xã hội, vào nền

kinh tế đang phát triển vững chắc. Nền kinh tế tri thức phát triển và mang tính

định hướng cho kinh tế tương lai là một nền tảng vững chắc để các tri thức tâm

lí phát huy sức mạnh cũng như hỗ trợ tích cực cho các chủ nhân của nền kinh tế

ấy. Các nhóm chủ thể sẽ không thể phát triển mạnh mẽ nếu đời sống tinh thần

Page 8: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

không thuận lợi, không thoải mái để có một môi trường hoàn hảo cho tích lũy tri

thức, cho việc biến tri thức thành sức mạnh vật chất.

- Trước hết, hướng nghiên cứu ứng đụng tâm lí trong việc tạo dựng hạnh

phúc trong gia đình là một thực tế khi xu thế nảy sinh cơ cấu gia đình mới ngày

càng rõ nét trong khi sự chuẩn bị về tinh thần, tâm lí là hết sức hời hợt. Do đó,

nhiều vấn đề tưởng chừng vô hại nhưng lại rất nguy hiểm đang xuất hiện trong

gia đình, trong quan hệ thân thuộc trên nền tảng một hệ giá trị đang dần thay đổi

và khẳng định lại. Nơi nuôi dưỡng đội ngũ trí thức, một đội ngũ đầu tàu của nền

kinh tê tri thức có vẻ như đang mất dần phương hướng và phát triển một cách

ngẫu hứng, tự phát. Những nguyên nhân nào dẫn đến việc gia đình không đủ

thời gian dành cho "không khí trẻ thơ"? Không khí trẻ thơ ở đây không chỉ là của

trẻ em mà còn là sự thanh thản, sự vui tươi và chút lãng mạn riêng tư của mỗi

gia đình. Nguyên nhân nào dẫn đến việc các cặp vợ chồng khi chưa hết tuần

trăng mật đã phải vội vã chia tay...?

- Hướng nghiên cứu ứng dụng Tâm lí học để cải thiện tình trạng học sinh

bỏ học, chán học hay bỏ nhà "đi bụi mỗi khi có sự cố nào đó. Áp lực học tập đè

nặng lên các em học sinh bắt đầu từ đâu, các áp lực tâm lí ấy có ảnh hưởng

như thế nào đến trí lực cũng như thể lực của các em? Công tác tư vấn học

đường đang được nhiều người quan tâm có giá trị như thế nào trong thực tiễn,

việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh được người lớn, thầy cô giáo định

hướng, hướng dẫn như thế nào cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi...

- Các nhà quản lí thể hiện quyền lực của mình như thế nào mà ít bị phản

ứng hay bằng cách nào để có thể khơi dậy được tiềm năng sáng tạo của người

thừa hành...

Tâm lí học còn nhiều điều, rất nhiều điều phải làm để nâng cao vị thế của

khoa học này, để khẳng định sự hữu ích của khoa học trong hoạt động thực

tiễn, để Tâm lí học không chỉ là "kiến thức phổ thông, nhỏ to tâm sự". Phát huy

nhân tố con người trên cơ sở vận dụng thành công và có kết quả các thành tựu

của khoa học tâm lí chỉ có thể thực hiện khi kết hợp được lí thuyết tâm lí và

Page 9: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

những kĩ năng cụ thể trong cuộc sống vốn đã hết sức đa dạng và nhiều biến hoá

bất ngờ.

Câu chuyện thứ nhất

"Năm 20 tuổi, tôi là một nữ điều dưỡng đang thực tập tại một Bệnh viện

Nhi.

So với Viện Tim hoặc Bệnh viện Đa khoa, công việc ở Bệnh viện Nhi có

vẻ dễ như trở bàn tay. Tôi vốn có khiếu kết bạn với trẻ con nên chắc chắn tôi sẽ

vượt qua dễ dàng và chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp.

Chris là một cậu bé 8 tuổi vô cùng hiếu động. Cậu lén bố mẹ vào thám

thính công trường đang xây dựng cạnh nhà và bị té gãy tay trái, tay bị nhiễm

trùng và phải cưa bỏ nó đi. Tôi được chỉ định làm y tá hậu phẫu cho Chris.

Khi sức khoẻ của cậu bé dần dần khá lên cũng là lúc cậu đau khổ nhận ra

sự mất mát của mình. Cậu nằm một chỗ, chờ giúp đỡ, không chịu làm vệ sinh

cá nhân. Tôi nhẹ nhàng khích lệ: "Cháu đâu có ở mãi trong bệnh viện, cháu phải

học cách tự chăm sóc...". Cậu bé giận dữ la lên: "Cháu có thể làm gì với một

tay.... Tôi vắt óc tìm một câu trả lời thích hợp, cuối cùng tôi bảo: "Dù sao cháu

vẫn còn tay phải". " Nhưng cháu thuận tay trái...", cậu bé kêu lên đầy thất vọng.

Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình vô dụng và vô tâm đến thế. Sao tôi lại

tưởng rằng mọi người đều thuận tay phải cơ chứ! Sáng hôm sau, tôi trở lại với

cuộn băng dính. Vòng cuộn băng quanh cổ tay, tôi bảo cậu bé: "Cháu thuận tay

trái còn cô thuận tay phải. Cô sẽ dán tay phải của cô vào hàng nút áo sau lưng

cháu. Bây giờ mỗi khi cô làm việc gì bằng tay trái cháu phải làm theo bằng tay

phải. Nào, cháu muốn bắt dầu bằng việc gì?. Nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, cậu bé

càu nhàu: Cháu mới ngủ dậy, cháu cần đánh răng.... Tôi xoay xở mở nắp ống

kem, đặt bàn chải lên mặt bàn, tìm cách nặn kem lên chiếc bàn chải đang ngả

nghiêng... Sau gần 10 phút nỗ lực với kem vương vãi đầy trên bàn, tôi mới hoàn

tất được công việc. "Cháu có thể làm nhanh hơn...", cậu bé tuyên bố, và khi làm

nhanh hơn thật, cậu bé mỉm cười chiến thắng.

Page 10: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Hai tuần sau đó trôi qua nhanh chóng. Chúng tôi biến mọi công việc hằng

ngày thành những cuộc đua tài hào hứng. Chúng tôi cài nút áo, phết bơ lên

bánh mì, cột dây giày... Không còn phân biệt tuổi tác, chúng tôi là hai vận động

viên đang ra sức đua tài. Lúc tôi hết thời gian thực tập cũng là lúc cậu bé rời

bệnh viện, tự tin đối mặt với cuộc sống... Khi hôn tạm biệt cậu bé, tôi không cầm

được nước mắt.

Đã 30 năm trôi qua kể từ ngày ấy, cuộc đời tôi đã bao phen "chìm nổi".

Mỗi lần phải đương đầu với thử thách, tôi lại nhớ đến cậu bé. Và mỗi khi cảm

thấy mệt mỏi, nản lòng, tôi lại lẳng lặng vào phòng tắm. Giấu tay phải ra sau, lấy

kem và đánh răng bằng tay trái... (Trái tim có điều kì diệu - Báo Tuổi Trẻ, NXB

Trẻ)

Hãy thử bình luận xem điều cốt lõi nào đã làm cô điều dưỡng dễ thương

và cậu bể đang khủng hoảng niềm tin có được những ngây hồn nhiên, tươi dẹp

để vượt qua thử thách của cả hai người?

1.2.3. Các ngành Tâm lí học

Câu chuyện thứ hai

Trận động đất kinh hoàng làm hàng trăm ngàn người thiệt mạng ở Đông Á

năm 2004 đã để lại một dư âm tiêu cực đối với các hiểm hoạ của thiên nhiên.

Đằng sau trận động đất này có biết bao vấn đề cần quan tâm, cần thực hiện để

khôi phục sự thanh thản vốn có của cư dân trong vùng trước đó, làm sao để

khách du lịch an tâm và vẫn nuôi ý định trở lại vùng đất "nghiệt ngã" ấy? Các

nhà quản lí và khoa học nghĩ gì về điều này? Các nhà Tâm lí học vào cuộc ra

sao?...

Có rất nhiều ngành khoa học quan tâm để cố gắng khắc phục hậu quả

của vấn đề, trong đó có Tâm lí học với nhiều ngành tâm lí có tính chuyên biệt,

có thể kể đến một số ngành tâm lí học ứng dụng để khẳng định sự đa dạng và

phong phú của các ngành tâm lí học sau đây:

- Tâm lí học xã hội nghiên cứu những vấn đề tâm lí nảy sinh trong sự

tương tác giữa các cá nhân, nghiên cứu diễn biến tâm lí của cộng đồng dân

cư.... đề xuất các phương hướng ổn định tinh thần, phát triển khuynh hướng

Page 11: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

dựa vào nhau để tồn tại giúp đỡ nhau và chia sẻ với nhau những trăn trở cũng

như những nỗi niềm của sự mất mát... Tâm lí học xã hội sẽ tiếp tục nghiên cứu

những hiện tượng tâm lí khác phản ánh trí tuệ, tình cảm, tâm trạng, nguyện

vọng... của các cộng đồng, nghiên cứu các trạng thái tâm lí bất thường vào

những thời điểm không bình thường hoặc bình thường nào đó của xã hội...

- Tâm lí học phát triển nghiên cứu những khuynh hướng tâm lí mới xuất

hiện đối với từng lứa tuổi khác nhau nhằm khái quát sự ảnh hưởng của sự cố

khủng khiếp này đến con người ở các lứa tuổi khác nhau như thế nào. Kết quả

nghiên cứu này giúp các nhà Tâm lí học phát triển, bổ sung các giá trị để khẳng

định quá trình phát triển tâm lí của cả đời người.

- Tâm lí học y tế tìm cách xem xét, khám phá mối liên hệ giữa sự đau đớn

của cơ thể hay bệnh tật, nhận dạng các hành vi có liên quan đến sức khoẻ từ

hậu quả của sự cố nhằm giúp các nhà quản lí có điều kiện tham khảo khi đưa ra

các quyết định quản lí nào đó.

- Tâm lí học lâm sàng chuyên nghiên cứu, chẩn đoán và điều trị hành vi

bất thường từ những cuộc khủng hoảng, từ những điều bất hạnh đã xảy ra, từ

sự thương tiếc những người gặp nạn. Tâm lí học lâm sàng tìm cách nhận dạng

các rối loạn tâm lí ban đầu để giải thích tính chất của các mối quan hệ giữa các

thành viên trong cộng đồng trong quá trình "bị" rối nhiễu tâm lí như thế nào...

Ngoài ra một số ngành tâm lí khác sẽ đóng góp thành quả của mình trong

việc lí giải các vấn đề nảy sinh trong quá trình khôi phục, hồi phục và hình thành

các hiện tượng phản ánh đời sống tinh thần của cộng đồng.

2. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TRONG TÂM LÝ HỌC HIỆN ĐẠICó Chể xem xét một số quan điểm cơ bản như là những trường phái tâm

lí có giá trị khoa học nhất định và có đóng góp cho một nền Tâm lí học thực

nghiệm ngày nay. Những trường phái này tiếp cận theo nhiều cách khác nhau

với những phương pháp khác nhau nhưng đều có mục tiêu góp phần lí giải các

hiện tượng tâm lí của con người và đề xuất các hình thức thích ứng phù hợp.

2.1. Tâm lí học hành vi

Page 12: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tâm lí học hành vi xuất phát từ Mĩ và được nhà Tâm lí học người Mĩ J.

Watson (1878 - 1958) khởi xướng. Trong những năm 1920, J. Watson khẳng

định rằng có thể thấu hiểu hành vi của con người bằng việc nghiên cứu và thay

đổi môi trường mà trong đó con người tiến hành các thao tác, các hoạt động.

Ông cho rằng, bằng cách kiểm soát chặt chẽ môi trường của con người thì có

thể hiểu được bất kì hành vi nào, ông còn cho rằng: "Hãy giao cho tôi chục trẻ

em khoẻ mạnh, có thể hình tốt, thế giới đặc biệt của riêng tôi sẽ nuôi dưỡng

chúng và bảo đảm chọn bất kì trẻ nào để đào tạo trở thành bất cứ chuyên gia

nào mà tối muốn: Bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, thương gia, và ngay cả là một gã

hành khất hay trộm cắp, không cần biết đến tài năng, khuynh hướng, thiên

hướng, khả năng, năng khiếu và chủng tộc của tổ tiên" (Watson 1924). Các nhà

Tâm lí học hành vi cho rằng Tâm lí học chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể con

người cũng như ở động vật. Hành vi, theo các nhà Tâm lí học hành vi lúc ấy,

được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một

kích thích nào đó. J. Watson đã lưu ý đến tính khách quan của tâm lí người, tâm

lí có nguồn gốc bên ngoài và là những biểu hiện có thể quan sát được. Các nhà

tâm lí học hành vi cũng cho rằng nghiên cứu tâm lí tức là nghiên cứu hành vi và

cũng có nghĩa là nghiên cứu những điều quan sát được mà thôi.

2.2. Tâm lí học Gestalt

Tâm lí học Gestalt được ra đời ở Đức và còn được gọi là Tâm lí học cấu

trúc vì các nhà tâm lí thuộc trường phái này đi sâu nghiên cứu các quy luật về

tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật bừng sáng của tư duy. Bằng

hàng loạt các thực nghiệm, các nhà Tâm lí học Gestalt khẳng định rằng các quy

luật của tri giác, tư duy và tâm lí của con người do các cấu trúc đã có trước của

não quyết định. Thành quả nghiên cứu của các nhà Tâm lí học Gestalt đã đóng

góp rất nhiều cho lĩnh vực trị liệu và nghệ thuật.

2.3. Tâm phân học

Thuyết Tâm phân học do S. Freud (1859 - 1939), một bác sĩ người áo xây

dựng nên. Freud tách con người thành ba khối bao gồm cái ấy (vô thức), cái tôi

và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tình dục, tự

Page 13: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống

tâm lí và hành vi của con người. Cái ấy tồn tại theo nguyên tắc đòi hỏi và thoả

mãn. Cái tôi được xem là con người thường ngày, con người có ý thức và tồn

tại theo nguyên tắc hiện thực. "Cái tôi" bị giằng co bởi những thúc đẩy nguyên

khởi và những mệnh lệnh cấm đoán của cái siêu tôi.

Theo S. Freud thì hành vi của con người được quyết định trong tầng sâu

thẳm của nhân cách - bằng con đường vô thức, và đời sống tình cảm của con

người được đặt trên nền tảng xung khắc giữa yêu thương - thù hận, thu hút - xô

đẩy, khoái lạc - đau khổ, sống - chết...

Có thể nói rằng đóng góp lớn nhất của S. Freud cho ngành tâm lí là đề

cao tầm quan trọng của vô thức.

Sau S. Freud, A. Adler tiếp tục dòng tâm phân với những khía cạnh mới,

hướng đến tâm thần kinh trị liệu và xây dựng Tâm lí học cá nhân, nhấn mạnh

đến những bản năng thống trị của ý thức. Theo A. Adler, tất cả những giá trị đều

bắt nguồn từ những nhu cầu của đời sống xã hội, cần phải tìm cách hoà hợp

những nhu cầu cá nhân và đòi hỏi của xã hội, mỗi cá nhân phải có phương cách

điều khiển đời sống.

C.G. Jung đề xuất một khái niệm mới: Tâm lí học phân tích, ông coi nhân

cách là một cái mặt nạ của cá nhân đã được xã hội hoá, như một nhân vật đang

đóng vai trên sân khấu và chính C.G. Jung đã đưa ra khái niệm vô thức tập thể.

2.4. Tâm lí học nhân bản

Trường phái Tâm lí học nhân bản được khởi xướng bởi hai nhà tâm lí

C.Rogers (1902 - 1987) và A. Maslow. Tâm lí học nhân bản đặt trọng tâm nơi

phẩm giá con người, trong thế giới riêng tư của con người, trong sự liên hệ với

tha nhân và trong sự chủ động tìm tòi ý nghĩa cho cuộc sống.

Theo C. Rogers thì bản chất của con người là tốt đẹp, con người cần có

điều kiện tâm lí để tăng trưởng và để trở thành chính mình trong cuộc sống tràn

đầy nghĩa.

Page 14: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

A. Maslow đã nêu ra nhiều mức độ nhu cầu cơ bản của con người xếp

thứ tự từ thấp đến cao. Đó là nhu cầu sinh lí cơ bản, nhu cầu an toàn, nhu cầu

về quan hệ xã hội, nhu cầu được tôn trọng, và nhu cầu phát huy bản ngã, thành

đạt. Theo A. Maslow, Tâm lí học nhân bản không mang tính chất mô tả hay

nghiên cứu thuần tuý, mà nó đề nghi con người hành động và hành động có

hiệu quả, nó làm nảy sinh một lối sống cho một người không những trong nội

tâm của chính mình mà còn cho chính người đó xét như là một thực thể xã hội,

một thành phần của tập thể. Cũng theo ông, Tâm lí học nhân bản chỉ là một

bước quá độ, một sự chuẩn bị cho Tâm lí học "siêu bản vị" vượt hẳn con người,

tập trung vào vũ trụ hơn là vào những nhu cầu hay tiện ích của con người.

2.5. Tâm lí học nhận thức

Tâm lí học nhận thức xem hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu

của mình. Đặc điểm nổi bật của trường phái này là nghiên cứu tâm lí con người,

nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và não

bộ. Theo thuyết nhận thức thì con người hành động vì con người suy nghĩ, con

người suy nghĩ vì lí do thiết kế tự nhiên của não bộ trang bị cho con người làm

như vậy. Mô hình nhận thức cho thấy, một số ứng xử có ý nghĩa nhất xuất hiện

từ cách suy nghĩ hoàn toàn mới mẻ chứ không phải từ các cách có thể dự đoán,

đã được vận dụng trong quá khứ. Trong cách tiếp cận này, con người thường

khởi sự công việc không tốt và cũng không xấu, tuy nhiên với khả năng tiềm ẩn,

với các chương trình của tâm trí, có thể hình thành cái thiện, cái ác... Trường

phái nhận thức thể hiện ý tưởng, để hiểu được con người, trước hết cần hiểu

được nhận thức của người đó.

2.6. Tâm lí hoạt động

Trường phái Tâm lí học hoạt động do các nhà Tâm lí học Liên Xô (cũ)

khởi xướng mà đứng đầu là L.X. Vugoski (1896 - 1934). Trường phái này lấy

triết học Mac - Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận, xây dựng nên Tâm

lí học lịch sử người. Các nhà Tâm lí học hoạt động xem tâm lí người là sự phản

ánh thế giới khách quan vào não người thông qua hoạt động. Tâm lí người

mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, nó được hình thành, phát triển và thể

Page 15: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã

hội.

3. NHỮNG HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ NGƯỜI3.1. Cơ sở của tâm lí người

3.1.1. Cơ sở tự nhiên của tâm lí

- Di truyền và tâm lí

Di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống, bảo đảm sự tái tạo ở thế

hệ mới những nét giống về mặt sinh vật đối với thế hệ trước, bảo đảm năng lực

đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.

Tư chât là một tổ hợp bao gồm cả những đặc điểm giải phẫu vừa là

những đặc điểm chức năng tâm sinh lí mà cá thể đã đạt trong một giai đoạn

phát triển nhất định dưới ảnh hưởng của môi trường sống và hoạt động.

Di truyền đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển

tâm lí con người, di truyền tham gia vào việc tạo thành những đặc điểm giải

phẫu sinh lí của cơ thể, trong đó có những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của hệ

thần kinh - cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lí. Di truyền đóng vai trò tiền

đề trong sự phát triển của cá nhân. Trước đây nhiều người nghi ngờ vai trò của

di truyền, cho rằng di truyền không có ảnh hưởng nhiều đến quá trình hình

thành những nét tâm lí đặc biệt của con người nhưng gần đây, các công trình

nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh tầm quan trọng của di truyền trong việc

định hình các đặc điểm tâm lí các đặc điểm nhân cách của con người.

- Não và tâm lí

Trong lịch sử tiến hoá, sự nảy sinh và phát triển tâm lí, ý thức, trí tuệ...

gắn liền với sự nảy sinh và phát triển của hệ thần kinh với đỉnh cao cuối cùng là

vỏ não của con người. Vỏ não người cùng các bộ phận dưới vỏ não là cơ sở vật

chất, là nơi tồn tại của cảm giác, tri giác, tưởng tượng, trí nhớ, chú ý, tư duy, ý

thức, vô thức... Không có não và vỏ não hay não hoặc vỏ não không bình

thường thì không có tâm lí hoặc tâm lí không bình thường. Tuy nhiên cần phải

Page 16: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

chú ý rằng, chỉ khi não hoạt động thì mới có tâm lí. Người ta đã chế tạo một loại

máy có thể đọc được suy nghĩ của người qua theo dõi hoạt động của não. Loại

máy cộng hưởng từ (MRI) tại Đại học Illinois (Mĩ) có thể đọc suy nghĩ của con

người bằng cách theo dõi các tế bào thần kinh trong não. Các nhà khoa học cho

biết đây là một trong những máy MRI hiện đại nhất thế giới. Với khả năng đọc

suy nghĩ của con người, máy có thể mở ra đường hướng mới trong việc chẩn

đoán các chứng bệnh như đột quỵ, tự kỉ, Alzheimer và các bệnh rối loạn tinh

thần khác. Chức năng chính của máy là phát hiện xem con người đang suy nghĩ

gì và có nhiều ứng dụng tích cực khác nhưng nhiều người vẫn lo ngại về cách

con người sử dụng máy. "Con người ta có thể bị ném vào tù vì bị nghi là khủng

bố dựa trên những gì mà máy đọc được từ não của họ", một nhà khoa học nhận

xét.

Câu chuyện thứ ba

Các nhà khoa học thần kinh Mĩ đã tìm thấy "điểm nhân ái" trong não con

người.

"Mặc dù việc hiểu biết chức năng của vùng não này không nhất thiết xác

định điều gì, nhưng nó cũng có thể cho chúng ta những mấu chốt về nguồn gốc

của các thái độ xã hội quan trọng như lòng vị tha chẳng hạn", theo tác giả cuộc

nghiên cứu Scott Huettel, giáo sư trợ giảng về tâm lí tại Trung tâm Y khoa Đại

học Duke.

Các chuyên gia thường ghi nhận lòng vị tha dường như làm cho người ta

"hết mình". Thế thì nó phát triển như thế nào và tại sao? Để giúp giải quyết bài

toán này, nhóm của giáo sư Huettel đã cho những người tham gia cuộc nghiên

cứu chơi nhiều trò chơi khác nhau, và bảo họ rằng nếu thắng, họ sẽ được

thưởng tiền cho riêng mình hoặc tiền đó được tặng cho một tổ chức từ thiện.

Những nhà nghiên cứu sử dụng máy chụp ảnh chức năng kĩ thuật cao (fMRl) để

quan sát "những điểm nóng" của hoạt động trong não những người tham gia.

Những người tham gia cũng được yêu cầu điền một bản câu hỏi nhằm

đánh giá mức độ ích kỉ hoặc vị tha của họ. Họ phản ứng khác nhau tuỳ theo họ

Page 17: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

được tiền cho riêng mình hoặc món tiền đó dành cho tổ chức từ thiện. Trong

cuộc nghiên cứu, những người có lòng nhân ái nhất có hoạt động mạnh nhất tại

rãnh não thái dương phía trên - phía sau, nơi thường có liên quan đến việc xử lí

thông tin đến, đưa ra các mối quan hệ xã hội và kiểm soát cử động.

Giáo sư Huettel nói ông rất ngạc nhiên về kết quả nghiên cứu: "Chúng tôi

thực hiện thí nghiệm này với ý nghĩ rằng lòng vị tha thật sự là một chức năng

của hệ thống tưởng thưởng của não - những người vị tha sẽ đơn giản cảm thấy

lòng vị tha được tưởng thưởng nhiều hơn". (theo Sinhua)

- Định khu chức năng tâm lí trong não

Trên vỏ não có các miền nhất định, mỗi miền là cơ sở vật chất của các

hiện tượng tâm lí tương ứng. Một miền có thể tham gia vào nhiều hiện tượng

tâm lí. Các miền phục vụ cho một hiện tượng tâm lí hợp thành một hệ thống

chức năng. Hệ thống chức năng này hoạt động một cách cơ động, tuỳ thuộc vào

yêu cầu của chủ thể, vào đặc điểm không gian, thời gian và không bất biến.

Vỏ não có một số vùng chức năng quan trọng và riêng biệt: Đó là vùng thị

giác, vùng thính giác, vùng vị giác, vùng cảm giác cơ thể, vùng vận động, vùng

viết ngôn ngữ, vùng nói ngôn ngữ, vùng nghe hiểu tiếng nói, vùng nhìn hiểu chữ

viết.

Não được phân thành hai phần tương đối giống nhau và đối xứng nhau

gọi là bán cầu não trái và bán cầu não phải. Nhiều nghiên cứu cho thấy hai bán

cầu não này đảm trách các chức năng khác nhau mặc dù có những điểm không

tương đồng tuỳ thuộc các đặc điểm cá nhân hoặc giới tính. Kết quả nghiên cứu

cho biết bán cầu não trái chuyên về các công việc đòi hỏi năng lực ngôn ngữ

như các kĩ năng nói, đọc, tư duy... Bán cầu não phải điều khiển các loại năng

lực chuyên biệt trong các lĩnh vực phi ngôn ngữ như nhận biết các hình dạng vật

chất, hiểu biết về không gian, diễn tả cảm xúc, cảm thụ âm nhạc...

Câu chuyện thứ tư

Não có thể làm hai việc cùng lúc không?

Page 18: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Những nhà nghiên cứu đã khám phá lí do tại sao con người cảm thấy khó

khăn khi làm hai việc cùng một lúc.

Một "thắt nút chai" xuất hiện trong não khi những người tham gia thử

nghiệm thực hiện hai nhiệm vụ đồng thời. Nghiên cứu tìm thấy não làm việc

chậm lại khi cố gắng thực hiện một nhiệm vụ thứ hai khoảng 300 mili giây sau

khi "cổ chai" xuất hiện trong não. Những phát hiện này dẫn đến việc cấm hoàn

toàn nghe điện thoại trong khi lái xe.

Những người tham gia được đề nghị nhấn vào một phím máy tính thích

hợp phát ra những âm thanh khác nhau để trả lời các nhiệm vụ đề nghị khác

nhau. Những nhà nghiên cứu từ Trường Đại học Vanderbilt (Mĩ) đã dùng máy

siêu âm MRI quét qua não những người tham gia để nhận diện những sự thay

đổi thành phần ôxi hoá trong máu. Họ tìm thấy vùng não thuỳ trán giữa và hai

bên có sự thay đổi không cân xứng. Điều này cho thấy não không có khả năng

xử lí hai nhiệm vụ song song, dẫn tới hiện tượng "thắt nút chai". Tiến sĩ S. Paul,

trưởng nhóm nghiên cứu, cho rằng những nghiên cứu trên cho thấy con người

bị giới hạn trong khả năng làm hai việc cùng một lúc. Hiện tượng này được gọi

là "giao thoa nhiệm vụ kép". Nghiên cứu nơi xảy ra hiện tượng "thắt cổ chai"

trong não, các nhà khoa học thấy rằng trong khi tế bào thần kinh não trả lời

mệnh lệnh thứ nhất thì tế bào khác tiếp nhận một mệnh lệnh mới phải "xếp

hàng" chờ. Các tế bào thần kinh não không thể hoạt động cùng lúc dẫn đến hiện

tượng "thắt cổ chai" nói trên.

Nhóm nghiên cứu cũng thực hiện đối với người lái máy bay. Họ thấy khi

nghe điện thoại trong lúc lái máy bay, nguy cơ tai nạn cao hơn 4 lần. Từ đó,

ngành hàng không có quy định tắt điện thoại khi lên máy bay. (theo VietNam

Net)

Những nghiên cứu mới đã tìm hiểu quá trình xử lí của bộ não ở các cấp

độ cao và thấp. Một quyết định tức thì sẽ tốt hơn là nghiền ngẫm vấn đề, khi bạn

phải trả lời nhanh các câu hỏi.

Những người tham gia được yêu cầu tìm ra một biểu tượng bị đảo lộn

trên một màn hình gồm hơn 650 biểu tượng giống nhau. Những ai đưa ra quyết

Page 19: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

định một cách bản năng, tức thì, đạt kết quả chính xác hơn những ai phải suy

nghĩ lâu hơn cho câu trả lời.

"Kết quả này có vẻ như đi ngược lại logic. Mọi người nghĩ rằng sẽ đưa ra

quyết định chính xác hơn nếu có thêm nhiều thời gian xem xét. Nhưng thực tế,

họ lại làm tốt hơn khi hầu như không có thời gian để suy nghĩ", tác giả nghiên

cứu Li Zhaoping tại Đại học London nói.

Các nhà nghiên cứu nhận biết được khi nào thì người tham gia tìm thấy

được biểu tượng mục tiêu, bằng cách theo dõi cử động mắt. Một khi mắt của

người tham gia định vị được mục tiêu, các nhà nghiên cứu tắt màn hình, giới

hạn khoảng thời gian mắt người nán lại trên biểu tượng trong 0 - 1,5 giây. Người

tham gia sẽ phải trả lời vật thể khác biệt đó ở bên phải hay bên trái màn hình.

Những ai chỉ có chưa tới một giây để nhìn biểu tượng trả lời chính xác hơn

những ai được nhìn hơn 1 giây..

Zhaoping lí giải kết quả bắt nguồn từ sự khác biệt trong khả năng mà bộ

não tiềm thức và ý thức nhận biết biểu tượng. Trong khi tiềm thức có thể nhận

ra sự khác biệt giữa một quả táo bị lộn ngược với quả táo đứng thẳng, thì ý thức

chỉ thấy rằng đó là 2 quả táo.

Khi được cho thêm thời gian để tham gia vào quá trình xử lí cao cấp của

nhận thức, người tham gia đoán sai bởi sự nhận thức đã lấn át quyết định của

tiềm thức ở cấp độ thấp hơn.

Zhaoping cho rằng:"Nếu như quá trình nhận thức ở cấp cao và thấp đều

đưa đến chung một kết luận, thì không có vấn đề gì"; "Nhưng thường thì bản

năng và ý thức cấp cao của chúng ta lại mâu thuẫn, và trong trường hợp này,

bản năng thường bị che khuất bởi bộ óc lí trí.

- Phản xạ và tâm lí

Hoạt động tâm lí vừa có bản chất phản ánh vừa có bản chất phản xạ.

Toàn bộ hoạt động của não là hoạt động phản xạ.

Page 20: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Phản xạ có điều kiện là hoạt động tự tạo của con người dưới tác dụng

của giáo dục trên cơ sở tạo mối liên hệ giữa trung khu của phản xạ có điều kiện

và trung khu của phản xạ không điều kiện tương ứng.

Hoạt động thần kinh cấp cao, hệ thống các phản xạ có điều kiện là cơ sở

sinh lí của các hiện tượng tâm lí. Tất cả các thói quen, tập tục, hành vi, hành

động, hoạt động đều có cơ sở sinh lí thần kinh là các phản xạ có điều kiện.

3.1.2. Cơ sở xã hội của tâm lí

- Quan hệ xã hội, nền văn hoá xã hội và tâm lí

Con người luôn chịu sự tác động của các mối quan hệ xã hội nhất định.

Chủ nghĩa Marx đã khẳng định rằng các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con

người. Theo Marx thì "...bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng,

vốn có của từng cá nhân riêng lẻ, trong tính hiện thực của nó, bản chất con

người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" (Luận cương về Pheubach). Quan hệ

xã hội trước hết là quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế, chế độ xã hội - chính trị,

quan hệ con người - con người, quan hệ đạo đức, pháp quyền, tôn giáo... Quy

luật cơ bản chi phối sự phát triển xã hội loài người là quy luật quan hệ sản xuất

phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất chứ không phải là quy

luật chọn lọc tự nhiên.

Các quy luật xã hội tác động đến con người làm biến đổi những hoạt động

tâm lí trong đó tác động của giáo dục là cực kì quan trọng.

Tâm lí của con người phát triển thông qua sự lĩnh hội nền vãn hoá xã hội

để tái tạo những thuộc tính, năng lực của cá thể mỗi người, tiếp thu năng lực

bản chất người.

- Hoạt động và tâm lí

Tâm lí con người hình thành và phát triển chủ yếu theo các quy luật lịch

sử - xã hội. Cuộc sống của con người là một chuỗi những hoạt động giao tiếp.

Tâm lí người với đỉnh cao là ý thức được hình thành và phát triển bằng hoạt

động và giao tiếp.

Page 21: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Bằng hoạt động và trong

các hoạt động này, mỗi cá thể hình thành và phát triển năng lực, tính tình, đạo

đức của mình. Nói một cách khác, bằng hoạt động và trong hoạt động, mỗi cá

thể người tự tạo ra mình, tự tạo ra nhân cách của mình.

Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình và thế

giới chung quanh, thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Trong sự tác động này ở

con người sẽ diễn ra hai quá trình, đó là quá trình khách thể hoá và quá trình

chủ thể hoá. Có thể giải thích rằng trong hoạt động, nghĩa là trong quan hệ giữa

con người và thế giới bên ngoài, con người vừa thay đổi thế giới bên ngoài vừa

thay đổi bản thân mình, con người vừa tạo ra sản phẩm lao động, vừa tạo ra

nhân cách bản thân.

Giao tiếp và tâm lí.

Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa người và người nhằm trao đổi thông

tin, tình cảm, ý chí, nguyện vọng, nhận thức... để hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp

làm hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này và chủ thể khác.

Giao tiếp có một số chức năng và có thể chia các chức năng này thành

hai nhóm. Nhóm thứ nhất có chức năng thuần tuý xã hội và nhóm thứ hai có

chức năng tâm lí xã hội. Nhóm chức năng thứ nhất gồm các chức năng giao tiếp

phục vụ các nhu cầu chung của con người. Trong trường hợp này giao tiếp thực

hiện chức năng thông tin, tổ chức, điều khiển, động viên, phối hợp hành động.

Nhóm chức năng thứ hai gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của

từng thành viên của xã hội, thực hiện nhu cầu có quan hệ giữa bản thân và

người khác.

Nhờ giao tiếp giữa các thế hệ, giữa nhóm này và nhóm kia, cũng như nhờ

hoạt động vui chơi, lao động, học tập, nghỉ ngơi... mà tâm lí người được nảy

sinh và phát triển. Cùng với hoạt động, giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình

thành và phát triển tâm lí người.

Có thể nói rằng tâm lí người là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, tâm lí

người là kinh nghiệm của xã hội chuyển thành kinh nghiệm của bản thân thông

qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng. Hoạt động

Page 22: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

và giao tiếp, mối quan hệ giữa chúng là quy luật tổng quát hình thành và biểu lộ

tâm lí người.

3.2. Bản chất của tâm lí người

Tìm hiểu bản chất của tâm lí người nghĩa là tìm cách hiểu rõ thực chất

tình cảm, nhận thức, ý chí, nguyện vọng, tâm tư... của con người là gì? Tại sao

người ta lại thích điều này mà không thích điều kia, yêu người này khinh bỉ

người khác...! Việc nghiên cứu bản chất của tâm lí người có ý nghĩa quan trọng

đối với việc lí giải các hiện tượng bất thường trong đời sống tinh thần và mang

lại giá trị thực tiễn rất lớn trong công tác giáo dục của xã hội. Bản chất của tâm lí

người thể hiện ở các vấn đề sau đây:

3.2.1. Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người

thông qua chủ thể. Một trong những cơ sở tự nhiên của tâm lí người là não và

hoạt động của não. Trên cơ sở tiếp nhận các kích thích từ môi trường xung

quanh, hoạt động của não sẽ là cơ sở hình thành những đặc điểm tâm lí của

chủ thể.

Các hiện tượng khách quan được phản ánh thông qua lăng kính chủ quan

của con người. Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá

lẫn nhau, từ phản ánh cơ, vật lí hoá đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội,

trong đó có phản ánh tâm lí. Phản ánh được hiểu là sự tác động từ hệ thống này

lên hệ thống kia và để lại những dấu vết nhất định ở cả hai hệ thống đó. Phản

ánh tâm lí chính là sự tác động từ hệ thống thứ nhất là hiện thực khách quan

đến hệ thống thứ hai là con ngươi với tư cách là một chủ thể. Như vậy, những

dấu vết của sự phản ánh là kết quả của sự tương tác giữa hai hệ thống, trong

đó con người với tư cách là hệ thống thứ nhất tiếp nhận các kích thích từ môi

trường, tạo ra hình ảnh tâm lí và rồi chính hình ảnh ấy trở thành một tác nhân

mới tác động đến môi trường thông qua các hình thức tồn tại của chính họ.

Những hiện tượng tâm lí của con người là kết quả của quá trình kích thích, tiếp

nhận và phản ứng của chủ thể, tâm lí của con người không phải đã được định

sắn, không phải đã được "lập trình" từ lúc thiếu thời và chỉ có biểu lộ trung thành

với chương trình đó. Con người phải tham gia tích cực vào thế giới xung quanh

Page 23: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

thì mới có thể có những phản ánh tâm lí mới có đời sống tâm lí sinh động và tích

cực.

Phản ánh tâm lí tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới. Hình ảnh tâm lí mang

tính sinh động, sáng tạo chứ không phải là sự sao chụp như hình ảnh vật lí.

Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân mang hình ảnh

tâm lí đó bởi vì khi phản ánh, con người đã bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan

rất lớn. Những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến kết quả phản ánh (hay hình ảnh

phán ánh) có thể là: hoàn cảnh khác nhau, trình độ, giới tính, kinh nghiệm, mục

tiêu, phương pháp, văn hoá, điều kiện, môi trường... Trên cơ sở những phân

tích trên đây, cần lưu ý một số vấn đề có tính phương pháp luận khi nghiên cứu

và vận dụng tâm lí học trong thực tiễn cuộc sống.

Tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu cũng

như khi giáo dục, thay đổi tâm lí người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con

người sống và phát triển. Tâm lí của con người không bao giờ tách rời điều kiện

sống, sinh hoạt và sự thích ứng của từng người. Cần chú ý đến quan điểm lịch

sử - cụ thể trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tâm lí người để tránh sự áp đặt

vô tình hoặc thiếu khách quan.

Tâm lí người mang tính chủ thể và có tính chủ quan, vì thế cần chú ý đến

cái riêng trong tâm lí mỗi người. Mỗi người là một thế giới độc đáo, không ai

giống ai về đời sống tinh thần, do đó không thể và sẽ không bao giờ có thể làm

người khác hoàn toàn giống một ai đó mà chỉ có thể tìm cách làm cho suy nghĩ,

tình cảm, thái độ của họ phù hợp với chuẩn mực nào đó thôi. Sẽ không thể có

một con người nào là bản sao của người khác (mặc dù đã có sản phẩm của

sinh sản vô tính). Trong thực tiễn cần chú ý đến việc chấp nhận sự khác biệt

giữa các chủ thể để hoà hợp, hợp tác và chung sống để cả hai bên đều có lợi.

Trong hoạt động và sinh hoạt, việc chấp nhận giới hạn của mình và chấp nhận

người khác, tôn trọng những điều không giống với nhận thức hoặc tình cảm của

mình là một trong các phẩm chất cần thiết để chứng minh giá trị của cá nhân, để

có thể vượt qua sự thấp kém của mỗi người.

Page 24: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì vậy phải tổ chức

hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu hình thành và phát triển tâm lí

người. Tuy nhiên, tổ chức hoạt động và giao tiếp phải tôn trọng các nguyên tắc

ứng xử mang tính chất văn hoá và phù hợp với yêu cầu nền văn minh.

3.2.2. Tâm lí người có bản chất xã hội, bị ảnh hưởng và quy định bởi các

mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ giữa người với người. Bản chất xã

hội của tâm lí người được thể hiện ở những vấn đề sau đây:

- Tâm lí người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người đã biến thành

của riêng từng người. Nhờ có giao lưu giữa những người trong gia đình, bè ban,

tập thể, làng xã và rộng hơn nữa, mỗi hiện tượng tâm lí nảy sinh ra trong “đầu

óc” mỗi cá nhân sẽ không "nằm yên" ở đó mà thông qua trao đổi, tiếp xúc, chia

vui sẻ buồn, bắt chước... sẽ lây lan, ảnh hưởng đến nhiều người khác, chuyển

thành hiện tượng tâm lí chung của nhiều người. Chính những hiện tượng tâm lí

như vậy một khi đã hình thành có thể trở thành một sức mạnh vật chất to lớn,

làm biến đổi cả tự nhiên và xã hội. Sau khi được sinh ra, con người sống trong

môi trường xã hội và dưới ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá vật chất và văn

hoá tinh thần ở thời điểm đó sẽ hình thành bản chất xã hội của con người. Điều

làm cho con người vượt trội các loài vật là họ có thể tự rèn luyện mình, có thể

tiếp nhận sự giáo dục và tự giáo đục.

- Tâm lí người chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triển của xã hội, bị ảnh

hưởng bởi sự thay đổi của các thiết chế xã hội, chế độ xã hội. Sự ảnh hưởng

này được nhận thấy qua biểu hiện của hành vi ứng xử của con người với thế

giới chung quanh. Nhận thức, tình cảm của con người không bị giới hạn khi con

người tiếp cận với các nền văn minh khác nhau, tiếp cận các giá trị văn hoá

khác nhau...

- Tâm lí người chịu ảnh hưởng bởi các biến cố của xã hội và của cá nhân,

những biến cố này có thể làm thay đổi cấu trúc và cả chức năng tâm - sinh lí của

con người, có thể làm con người biến thành một người hoàn toàn khác, một

người tự "lột xác" mình.

3.3. Tinh chất của các hiện tượng tâm lí người

Page 25: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Có thể căn cứ vào nhiều yếu tố để nhận dạng các hiện tượng tâm lí

người, trong đó có các tính chất của nó. Những tính chất này sẽ làm sáng rõ

hơn về bản chất của tâm lí, làm nổi bật hơn sắc màu của đời sống tinh thần của

con người trong các hoàn cảnh và môi trường khác nhau.

Những hiện tượng tâm lí người có một số tính chất sau đây:

- Những hiện tượng tâm lí người là những hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh

thần, thuộc về tâm hồn và luôn bộc lộ ra ngoài bằng hành vi, hành động... Mọi

diễn biến tâm lí của con người đều có thể biểu hiện thông qua hoạt động và

những phản ứng khác của các chủ thể. Thông thường, nhìn nét mặt, quan sát

hành động của ai đó, người ta có thể dự đoán, phát hiện được tâm trạng, cảm

xúc hoặc các diễn biến tâm lí khác của con người trong một thời điểm nhất định

nào đó. Một số trường phái, đặc biệt là các nhà hành vi học đã có nhiều nghiên

cứu cho thấy có thể dự đoán tâm hồn, tinh thần của con người thông qua cách

thức họ hành xử, thông qua những phản ứng tự nhiên, vô thức. Quan sát là một

trong những phương pháp nghiên cứu tâm lí người có hiệu quả từ chính đặc

điểm này.

- Những hiện tượng tâm lí người bị chi phối bởi một số quy luật nhất định,

những quy luật này ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người. Sự hình

thành các đặc điểm tâm lí của con người không phải hoàn toàn ngẫu nhiên hoặc

tự nhiên mà theo những thói quen, những hình thức mang tính quy luật. Những

quy luật tâm lí này có nguồn gốc từ quá trình thích ứng của chủ thể dưới tác

động của môi trường văn hoá, của phong tục tập quán hoặc của một kho tàng

kinh nghiệm nào đó.

- Những hiện tượng tâm lí người vừa có tính cá biệt vừa có tính khái quát,

điển hình. Tính cá biệt thể hiện ở chỗ, các cá nhân hoặc những chủ thể cố định

có khuynh hướng hình thành và bộc lộ các đặc điểm tâm lí phản ánh sự độc đáo

của chính mình, sự riêng biệt của mình. Tính khái quát, điển hình được thể hiện

ở các dấu hiệu đặc trưng của cộng đồng được bộc lộ thông qua các hành vi cá

nhân mà người đó là thành viên của cộng đồng. Tính khái quát có thể nói lên

những phong cách sống đặc trưng, những phương cách thích ứng đặc trưng

Page 26: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

của một địa bàn dân cư, của một tầng lớp nào đó. Chính đặc điểm này giúp quá

trình đánh giá, nhận xét cũng như ứng xử với người xung quanh có căn cứ để

có thể đạt hiệu quả cao nhất khi con người biết được, hiểu được những nét đặc

trưng của các đối tác.

- Những hiện tượng tâm lí người có sức mạnh thần kì, có thể tạo nên nội

lực mạnh mẽ. Chính sức mạnh này có thể làm chủ thể có những hành vi bất

thường hoặc phi thường. Người ta có thể "biến đau thương thành sức mạnh"

hoặc "dời non lấp bể" nếu họ nhận thức vấn đề rõ ràng và có một tình cảm

mạnh mẽ. Trong dân gian có câu: "Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng

lội, mây đèo cũng qua" như một khẳng định cho sức mạnh của tình yêu đôi lứa,

sức mạnh của đời sống tâm lí, của tâm hồn.

- Những hiện tượng tâm lí người rất phong phú, đa dạng và cũng hết sức

phức tạp. Con người không phải bao giờ cũng thể hiện tất cả điều mình nghĩ,

điều mình muốn mà họ có thể dùng các động tác giả có khi vô tình hoặc có lúc

đầy toan tính để thể hiện một nhu cầu, một nguyện vọng hay một ý chí nào đó.

Hiện tượng "bằng mặt mà không bằng lòng" là một dấu hiệu cụ thể của sự phức

tạp trong ứng xử, trong đánh giá con người. Mặt khác, những biểu hiện tâm lí,

những quá trình tinh thần diễn ra ở con người có thể ở nhiều khía cạnh rất khác

nhau, một niềm vui, nỗi buồn có thể được diễn tả ở nhiều góc độ khác nhau với

các tính chất khác nhau.

- Có sự tác động qua lại lẫn nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau trong một

sự liên hệ rất mật thiết. Những hiện tượng tâm lí chi phối lẫn nhau, sinh thành ra

nhau, chế ước nhau và hỗ trợ cho nhau. Một hành ví nào đó chưa chắc đã phản

ánh chính xác tâm lí của một chủ thể dù những quan sát cho thấy những biểu

hiện rất rõ ràng, trong quá trình nhận xét, đánh giá con người cần lưu ý đến tính

thống nhất giữa các hiện tượng tâm lí. Trong thực tiễn, không có bất kì niềm vui

hoặc nỗi buồn nào xuất hiện một cách vô cớ mà luôn có những nguyên nhân

nhất định.

- Những hiện tượng tâm lí người vừa có tính tích cực vừa có tính bảo thủ.

Sự tích cực hay bảo thủ sẽ tuỳ thuộc vào cách thức con người tiếp cận và vận

Page 27: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

dụng nó trong hoạt động thực tiễn và thực tế cuộc sống. Nếu biết phát huy thế

mạnh tiềm tàng của hiện tượng tâm lí thì chính nó sẽ trở thành tác nhân tích cực

kích thích hoạt động mạnh mẽ của con người và ngược lại.

3.4. Phân loại các hiện tượng tâm lí người

Có nhiều cách phân loại khác nhau đối với các hiện tượng tâm lí người:

- Phân biệt hiện tượng tâm lí cá nhân và hiện tượng tâm lí xã hội.

- Phân biệt hiện tượng tâm lí sống động và hiện tượng tâm lí tiềm tàng.

- Phân biệt về phương diện chức năng, vận động, quá trình, với phương

diện một cấu tạo, một "sản phẩm". Ví dụ như sự suy nghĩ là một quá trình, một

chức năng tâm lí...

- Phân biệt hiện tượng tâm lí có ý thức và hiện tượng tâm lí chưa ý thức

được, những hiện tượng vô thức.

- Phân biệt các hiện tượng tâm lí theo thời gian tồn tại và vị trí tương đối

của chúng trong nhân cách. Phân biệt các quá trình tâm lí; các trạng thái tâm lí

và các thuộc tính tâm lí.

4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍ HỌCPhương pháp của mỗi khoa học phụ thuộc vào đối tượng của nó, tức là

vào cái mà nó nghiên cứu. Những phương pháp của tâm lí học là những cách

thức thu thập và vạch rõ những sự kiện tâm lí, sự hình thành nhân cách, các

quy luật và cơ chế của chúng. Sau đây là một số phương pháp luận và phương

pháp nghiên cứu cơ bản:

4.1. Những vấn đề phương pháp luận

4.1.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống

Con người là một chỉnh thể, quan hệ giữa con người với thế giới xung

quanh rất đa dạng và phức tạp, con người là một hệ thống tương đối hoàn chỉnh

có khả năng tự điều chỉnh và điều khiển chính mình. Nghiên cứu các hiện tượng

tâm lí của con người sẽ phải được tiến hành trong quan hệ đa chiều với những

Page 28: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hệ thống phức tạp tạo ra thế giới của con người, thế giới loài người..

Aphannaxev nhận định: "Con người là một tồn tại xã hội thành tố chính của bất

cứ một hệ thống xã hội nào. Theo chừng mực nào đó, con người là đại biểu chủ

chốt cuối cùng của các đặc điểm hệ thống xã hội."... (theo B.Ph. Lomov). Cá

nhân là một thành tố quan trọng trong rất nhiều tiểu hệ thống của xã hội và có

mặt trong nhiều hướng phát triển của nó, trong đó có nhiều hình thức khác

nhau. Khi xem xét, nghiên cứu tâm lí người, nhà nghiên cứu cần đặt khách thể

nghiên cứu trong một hệ thống nhất định, trong một chuỗi các hệ thống... để có

cơ hội phát hiện được bản chất thật của vấn đề... Theo B.Ph. Lomov, tiếp cận

hệ thống trong nghiên cứu một hiện tượng nào đó phải được xem xét ở nhiều

bình diện:

- Hiện tượng tâm lí được xem như một đơn vị có chất lượng, một hệ

thống có những quy luật đặc trưng.

- Một bộ phận của những cấu trúc vĩ mô có những quy luật mà hiện tượng

tâm lí phải tuân theo.

- Ở phương diện hệ thống vi mô cũng có những quy luật mà hiện tượng

tâm lí phải tuân theo.

- Ở phương diện tương tác với bên ngoài của nó, nghĩa là cùng với điều

kiện tồn tại của các hiện tượng tâm lí được nghiên cứu,

4.1.2. Phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách

Theo cách tiếp cận hoạt động, việc nghiên cứu tâm lí phải dựa trên các

nguyên tắc phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và lịch sử. Con

người là chủ thể của hoạt động, và các thuộc tính nhân cách của con người

cũng như các chức năng tâm sinh lí như các cấu tạo tâm lí mới giữ vai trò định

hướng và điều khiển điều chỉnh hoạt động. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, cách

tiếp cận hoạt động - nhân cách có những ý nghĩa sâu sắc:

Khẳng định hoạt động là bản thể của tâm lí, ý thức, nghĩa là tâm lí, ý thức

nảy sinh từ hoạt động. Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lí học người.

Sự phát triển phức tạp và các chuyển hoá của hoạt động con người kéo theo sự

phát triển phức tạp và chuyển hoá tâm lí người.

Page 29: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Phản ánh tâm lí không tách rời hoạt động. Hoạt động vừa tạo ra tâm lí

vừa sử dụng các phản ánh tâm lí làm khâu trung gian của hoạt động, tác động

vào đối tượng.

- Tất cả các chức năng tâm sinh lí, các quá trình và thuộc tính tâm lí trong

đó có ý thức và nhân cách đều được nghiên cứu như là các hoạt động, nghĩa là

đặt hiện tượng được nghiên cứu vào cấu trúc tâm lí vĩ mô của hoạt động đó.

- Ở cấp hoạt động, con người không còn là một "cá thể người), con người

thực hiện các hoạt động, thực hiện các thao tác để làm một hành động nhằm đạt

được mục đích cụ thể nào đó.

Phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách là phương pháp tương

đồng với nội dung của thế giới tâm lí. Nó nghiên cứu tâm lí như là tính chủ thể

của nhân cách được quy định một cách khách quan, tức nảy sinh bằng hoạt

động có đối tượng, bằng giao tiếp.

4.2. Những phương pháp cụ thể

4.2.1. Phương pháp quan sát

Quan sát là quá trình tri giác có chủ định, là quá trình theo dõi, thu thập

dấu hiệu của hành động và cả hành động và hoạt động của đối tượng trong điều

kiện tự nhiên để phán đoán, nhận xét về cái "tâm lí" đã điều khiển chúng để từ

đó tổng kết được các quy luật, cơ chế... vận hành: Quan sát phải được tiến

hành trong điều kiện khách quan và kết quả quan sát tuỳ thuộc vào mục tiêu của

nhà nghiên cứu. Sau đây là một số điều kiện giúp cho quá trình quan sát có chất

lượng:

- Nghiệm thể (đối tượng được quan sát) không được biết người khác

đang quan sát mình thì những biểu hiện quan sát được mới có tính chất trung

thực, nghĩa là việc quan sát được tiến hành một cách tự nhiên, không được sắp

đặt hoặc dàn cảnh, không thông báo trước cho các nghiệm thể.

- Nếu có nhiều người cùng quan sát và có tính chất độc lập với nhau thì

nên thống nhất về mục đích và cách thức ghi nhận thông tin. Sự thống nhất này

giúp cho các nhà quan sát có điều kiện đưa ra được các kết luận tương đồng và

Page 30: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

nhất quán. Các nhà quan sát cũng nên thống nhất về những nội dung cần quan

sát để có thể có những kết luận cuối cùng hợp lí.

- Lúc chưa thuận tiện thì nên quan sát theo một khía cạnh được lựa chọn

nào đó mà thôi trước khi tiến đến quan sát toàn diện.

Phương pháp quan sát là một phương pháp khó có thể thay thế để sơ bộ

thu thập sự kiện, và đòi hỏi nhiều thời gian, công sức. Tuy nhiên bằng quan sát,

chúng ta chỉ nhìn thấy những gì chúng ta đã biết, chứ không thể "nhìn thấy" cái

chưa biết được, cái không thể tri giác được.

4.2.2. Phương pháp thực nghiệm

Thực nghiệm là phương pháp có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu tâm lí.

Thực nghiệm là quá trình chủ động tác động vào hiện thực trong những điều

kiện khách quan đã được khống chế để gây ra hiện tượng cần nghiên cứu, lặp

đi lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra một quan hệ nhân quả, tính quy luật của hiện

tượng nghiên cứu. Phương pháp thực nghiệm có nhiều giá trị trong việc khẳng

định một giả thuyết khi các nghiệm thể thực hiện các yêu cầu trong hoàn cảnh

rất khách quan.

Người ta thường sử dụng hai loại thực nghiệm:

- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm

Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành dưới điều kiện

khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài để làm nảy sinh

một nội dung tâm lí cần nghiên cứu. Các nhà du hành vũ trụ trước khi được

tuyển chọn để được đào tạo trở thành phi công, họ phải trải qua kì sách hạch

thực tế thông qua những thực nghiệm trong phòng thí nghiệm để đo các thông

số sinh học, tâm lí... theo yêu cầu của một nhà du hành.

Thực nghiệm tự nhiên

Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện bình thường của

cuộc sống và hoạt động. Trong quá trình thực nghiệm, nhà nghiên cứu có thể

chủ động tạo ra những biểu hiện và diễn biến tâm lí bằng cách khống chế một

Page 31: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu làm nổi bật những yếu tố quan

trọng cho việc nghiên cứu.

Tuỳ theo mục đích và nhiệm vụ mà có thể phân biệt thực nghiệm tự nhiên

là thực nghiệm nhận định hay thực nghiệm hình thành:

- Thực nghiệm nhận định hay thực nghiệm mô tả chủ yếu nêu lên thực

trạng của vấn đề nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể. Thông qua thực nghiệm

này, nhà nghiên cứu sẽ có số liệu cần thiết để mô tả một sự kiện hay một vấn đề

nào đó một cách có căn cứ và có độ tin cậy cao.

- Thực nghiệm hình thành là tiến hành các tác động nhằm hình thành một

tính chất tâm lí nào đó ở nghiệm thể. Thực nghiệm hình thành thường được sử

dụng để chứng minh tính khả thi của một biện pháp tâm lí, một hình thức nào đó

có thể hiện những đặc điểm tâm lí cụ thể.

4.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm lao động

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm lao động dựa vào các sản phẩm vật

chất và tinh thần của đối tượng để nghiên cứu các chức năng tâm lí của họ vì

trong sản phẩm ấy chứa đựng một số dấu vết tâm lí, nhân cách của chính đối

tượng. Sản phẩm lao động là kết quả của quá trình vận động, hoạt động của

chủ thể, thông qua sản phẩm này, nhà nghiên cứu sẽ phát hiện được những đặc

điểm tâm lí phổ biến hoặc chủ yếu của họ vì các đặc điểm tâm lí được hình

thành và thể hiện qua và bằng hoạt động.

4.2.4. Phương pháp trắc nghiệm

Trắc nghiệm là một phép thử để "đo lường" tâm lí mà trước đó đã được

tiêu chuẩn hoá trên một số lượng người có tính chất tiêu biểu. Một phép kiểm tra

trắc nghiệm tâm lí, hay còn gọi là test, trọn bộ thường có 4 phần là văn bản test,

hướng dẫn cách thức và các bước tiến hành, hướng dẫn đánh giá và bảng

chuẩn hoá.

Những test thông dụng trên thế giới, nhiều nhất là về lĩnh vực nhận thức,

nhờ một quá trình xây dựng công phu và có tính khoa học, đã được quy trình

Page 32: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hoá chặt chẽ nên nếu sử dụng đúng có thể giúp chúng tá phân loại được những

vấn đề cần thiết trong nghiên cứu và ứng dụng.

4.2.5. Phương pháp đàm thoại

Đó là cách đặt những câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để

thu thập thêm những thông tin cần thiết. Việc tiến hành các cuộc đàm thoại sẽ

giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu được nhiều thông tin xác thực và có độ tin cậy

cao nhưng cần phải có kĩ thuật nhất định. Quá trình đàm thoại sẽ có nhiều giá trị

khi nó được tiến hành trong những trạng thái tâm lí phù hợp của nghiệm thể với

các yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng cần chuẩn bị trước các

nội dung cần tìm hiểu, cần trò chuyện và những phương án thay thế,

4.2.6. Phương pháp điều tra

Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối

tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một số vấn đề nào

đó, có thể trả lời viết hay trả lời miệng và được ghi lại. Phương pháp điều tra

được phát huy nhiều trong trường hợp thăm dò nhận thức, thái độ chung của

cộng đồng đối với một vấn đề nào đó.

Tóm lại, có khá nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lí người, mỗi phương

pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Để có thể nghiên cứu các

chức năng tâm lí một cách khoa học, chúng ta cần sử dụng nhiều phương pháp

trong sự kết hợp đồng bộ và phù hợp với những điều kiện cụ thể.

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm tòi, khám phá bản chất và các

quy luật vận động của thế giới, quá trình này được tổ chức hết sức chặt chẽ và

phải chọn lọc sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp. Phương pháp

gắn liền với hoạt động trong ý thức của con người là một trong những yếu tố

quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.

Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người

những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người những hiểu

biết về phương pháp nhận thức. Ngày nay, cùng với khoa học, người ta chú ý

khá nhiều đến phương pháp luận khoa học trong nghiên cứu. Phương pháp

Page 33: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

luận được xem như một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể

xác định con đường và phạm vi nghiên cứu.

Tâm lí học là một khoa học thực chứng. Nghiên cứu Tâm lí học đòi hỏi

phải có sự tích luỹ thật nhiều sự kiện phong phú, đa dạng để từ đó hệ thống

hoá, khái quát hoá các quy luật chung trong rất nhiều trường hợp. Có thể nói

thực tiễn hoạt động có một giá trị quyết định đến kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên,

giải thích các sự kiện xã hội bao giờ cũng phải tuân theo một quan điểm nhất

quán, đặc biệt người nghiên cứu phải lưu ý đến những vấn đề của Triết học.

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu Tâm lí học nói riêng

và khoa học xã hội nói chung, trong đó có cách tiếp cận giá trị và quan điểm

thực tiễn, theo chúng tôi, có tính phổ biến tương đối trong tương quan với kết

quả.

Giá trị, hiểu theo nghĩa khách thể là những hiện tượng nhất định của hiện

thực có ý nghĩa đối với con người, đối với xã hội và với nền văn hoá. Tất cả các

đối tượng của hoạt động, các mối quan hệ xã hội, những hiện tượng tự nhiên...

đều có thể trở thành những đối tượng của quan hệ giá trị nghĩa là đều được

đánh giá thật hay giả, đẹp hay xấu, thiện hay ác... Phương thức và tiêu chuẩn

để tiến hành việc đánh giá các hiện tượng xã hội được củng cố trong các hành

vi xã hội, trong văn hoá, trong ý thức cá nhân con người và đó là những giá trị

chủ quan, đóng vai trò định hướng hành động con người.

Giá trị khách thể và giá trị chủ quan là hai cực của quan hệ giá trị và luôn

hướng tới sự thống nhất với nhau.

Nghiên cứu, phát hiện những hiện tượng xã hội theo cách tiếp cận giá trị

là hướng tới ý nghĩa đích thực của những hiện tượng ấy trong quan hệ biện

chứng giữa giá trị chủ quan và giá trị khách thể. Các sự kiện, hiện tượng được

phơi bày và được các nhóm xã hội nhận thức, đánh giá theo những chuẩn giá trị

có bản chất xã hội. Một khi giá trị đã được xác lập, nó phải được tôn trọng và

được phán xét đúng mức. Giá trị khẳng định tư cách tồn tại của các hiện tượng

xã hội, nó phản ánh xu thế xã hội và một phần tâm trạng, ước muốn, nguyện

vọng, tư tưởng... của các chủ thể xác lập giá trị.

Page 34: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tiếp cận giá trị hướng chủ thể quan tâm đến sự xuất hiện, hình thành tự

nhiên của một hiện tượng xã hội như những hiện tượng không phụ thuộc vào ý

muốn chủ quan hay những tác động, những áp lực từ các giá trị nhận thức, giá

trị được thừa nhận. Giá trị thật và giá trị thừa nhận trùng hợp nhau là điều lí

tưởng, nhưng quan trọng hơn là phải hết sức cẩn thận đối diện với những giá trị

hư ảo lại được thừa nhận. Giá trị hư ảo được thừa nhận làm con người có thể

trở nên phi thực tế, ảo tưởng và không hiểu rõ được mình, không nhận rõ được

giá trị thực của mình.

Tiếp cận giá trị trong nghiên cứu Tâm lí học, trong nghiên cứu Khoa học

xã hội là tôn trọng sự thật của vấn đề, tôn trọng tính khách quan của quá trình

hình thành, phát triển của các hiện tượng xã hội. Điều này cho thấy, thực tế, có

những sự thật không tương thích với ý chí và kì vọng của chủ thể nhưng nó vẫn

cứ có giá trị nhất định. Tôn trọng sự thật, không cường điệu, không đơn giản

vấn đề sẽ là một điều kiện hữu ích cho việc nghiên cứu bản chất của vấn đề tìm

cách định hướng giá trị phù hợp.

Tiếp cận giá trị trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học xã hội là chú ý

tương quan của các chuẩn mực xã hội, đặt đối tượng nghiên cứu trong một tổng

thể với giá trị thực của hệ thống. Tiếp cận giá trị cũng bộc lộ tính khách quan

nghiên cứu khoa học, thừa nhận các giá trị thật, không chấp nhận các giá trị hư

ảo.

Mặc khác giá trị của một con người, một sự kiện hay hiện tượng xã hội

bao giờ cũng được thực tiễn xác minh. Tương quan này giúp chủ thể lưu ý đến

nguyên tắc thực tiễn trong quá trình nghiên cứu Khoa học xã hội.

Diễn biến của hiện thực là những diễn biến khách quan, với những sự

kiện đa dạng, phức tạp, có thể phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau.

Nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn là động lực thúc đẩy các

hoạt động nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu khoa học thực chất là hướng tới sự khai phá các sự kiện để

phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người. Điều này thể hiện ở chỗ mọi đề

tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát từ thực tiễn và công

Page 35: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

trình nghiên cứu phải có ý nghĩa thực tiễn. Thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là

động lực, vừa là mục.tiêu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu

khoa học, đặc biệt là Tâm lí học, hoặc Khoa học xã hội.

Bảo đảm nguyên tắc thực tiễn trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học

xã hội là phải phân tích, chứng minh những mâu thuẫn, những giá trị thực của

vấn đề trong thực tiễn sinh động. Nghiên cứu khoa học phải thể hiện được sự

gắn bó song hành giữa lí thuyết và hiện thực, phải loại bỏ những giá trị hư ảo ở

chủ thể nghiên cứu.

Sản phẩm của nghiên cứu khoa học xã hội, dù chỉ là các khái niệm, hay

các mô hình nào đó nhưng luôn hướng tới một quy trình hoạt động, một quá

trình vận động chủ quan của xã hội. Giá trị của sản phẩm sẽ tuỳ thuộc vào tính

ứng dụng, tính khả thi của nó. Kết quả nghiên cứu của khoa học xã hội không

thể đo được một cách cụ thể như Vật lí học nhưng có thể xác định được dễ

dàng thông qua một số phương pháp phù hợp. Nhiều công trình nghiên cứu

khoa học xã hội được tiến hành rất công phu, độ tin cậy rất cao nhưng không có

ý nghĩa hoặc vô giá trị vì được hoàn chỉnh một cách lí thuyết, minh hoạ cho

nhận thức của con người mà không tạo được một cơ hội để thực hành.

Xác định nhu cầu của thực tiễn là một yêu cầu của nguyên tắc thực tiễn

trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học xã hội. Tuy nhiên, việc xác định nhu

cầu của thực tiễn không phải đơn giản như xác định nhu cầu của bản thân

(thậm chí nhu cầu của bản thân nhiều lúc cũng không thể xác định được một

cách chính xác) mà là kết quả của một quá trình tìm tòi, đối chiếu. Những vấn đề

cần được nghiên cứu có phải là điều hệ trọng, là đòi hỏi của cuộc sống sinh

động hay chỉ là những mặt nổi của thực tế trong nhận thức chủ quan của chủ

thể. Nghiên cứu Tâm lí học để hướng tới một sự thay đổi hành vi thích hợp

trong tính đa dạng của hiện thực, hướng tới một sự thích ứng chủ động làm cho

cuộc sống xã hội ngày càng sinh động và hiệu quả là một quá trình nghiên cứu

mang tính thực tiễn cao. Nghiên cứu Tâm lí học để giải quyết những bế tắc của

tâm hồn, giúp con người vượt qua các trở ngại tinh thần, bộc lộ giá trị thật của

mình, đóng góp công sức cho sự phát triển của bản thân và cộng đồng là một

Page 36: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

quá trình nghiên cứu triển vọng và có tính thuyết phục đối với yêu cầu chung

của xã hội.

Trong nghiên cứu, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định khoa học của quá

trình nghiên cứu, đặc biệt là vấn đề thử nghiệm, mở rộng thử nghiệm, nâng cao

trình độ sử dụng phương pháp và phương tiện nghiên cứu để bảo đảm tính

khoa học của các kết luận và tính hiệu lực của các biện pháp.

Giá trị và thực tiễn là hai vấn đề phụ thuộc nhau. Thực tiễn chứng minh

giá trị và ngược lại, giá trị thể hiện trong thực tiễn và làm phong phú thực tiễn.

Kết hợp hai khuynh hướng ấy trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học xã hội

sẽ rất có ý nghĩa và dĩ nhiên, kết quả cũng rất có giá trị.

Công trình nghiên cứu nào cũng sẽ được thực tiễn kiểm nghiệm và đánh

giá chính xác giá trị của nó. Xuyên suốt quan điểm giá trị và thực tiễn là điều

kiện để có thể đạt kết quả cao trong nghiên cứu, thể hiện tính ứng dụng thực sự

từ những vấn đề có tính lí luận sâu sắc.

TÓM LƯỢC CHƯƠNG 1Tâm lí học là một khoa học nghiên cứu về đời sống tinh thần của con

người, nghiên cứu về tâm hồn con người. Tâm lí học là một bộ môn khoa học có

tính chất ứng dụng rất rõ ràng. Những hiện tượng tâm lí của con người luôn

được bộc lộ ra ngoài bằng hành vi, hoạt động... Tâm lí người được hình thành

và phát triển trong hoạt động.

Tâm lí người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội, tâm lí người

cũng mang bản chất xã hội.

Tuỳ theo đối tượng và điều kiện mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều

phương pháp nghiên cứu tâm lí thích hợp.

Page 37: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Chương 2: "HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC"Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con ngươi phải nhận thức,

bày tỏ thái độ và hành động với thế giới ấy. Nhận thức, tình cảm và hành động

là ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người.

Trong quá trình hoạt động, sự nhận thức, phản ánh hiện thực khách quan,

những hình ảnh tâm lí sẽ giúp con người hiểu biết hiện thực xung quanh, hiểu

biết chính mình một cách sâu sắc nhất. Những hiểu biết này sẽ là một nền tảng

vững chắc cho việc sống cùng nhau trong cộng đồng và cũng sẽ là cơ sở để

con người biểu lộ tình cảm cũng như kiểm nghiệm tình cảm của mình trước

thực tại nói chung, trước người khác nói riêng. Với sự hiểu biết và tình cảm đã

có, con người sẽ có đủ hành trang để tiến hành các hoạt động có mục đích

nhằm mang lại một chất lượng mới cho cuộc sống của chính mình và của cộng

đồng. Chương này sẽ trình bày các quá trình nhận thức của con người, các điều

kiện cần thiết và thích hợp để con người có thể nhận thức chính xác. Những

chương tiếp sau sẽ trình bày đến đời sống tình cảm của con người, đến những

quy luật chung của tình cảm và những biểu hiện đặc biệt của nó. Cuối cùng sẽ

trình bày về những nỗ lực tiến hành hoạt động của con người trong những hoàn

cảnh khác nhau.

1. NHẬN THỨC CẢM TÍNHCảm tính nghĩa là chỉ "cảm" mà thôi, chỉ lướt qua những dấu hiệu bên

ngoài mà chưa tìm hiểu những cội nguồn bên trong. Nhận thức cảm tính là quá

trình phản ánh các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện

tượng đó đang tác động vào các cơ quan thụ cảm của con người. Nhận thức là

một quá trình được xảy ra từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ mơ hồ

đến sâu sắc...

1.1. Cảm giác

1.1.1. Khái niệm

Mỗi sự vật, hiện tượng xung quanh đều được bộc lộ bởi hàng loạt các tính

chất bề ngoài như màu sắc, kích thước, hình dáng, trọng lượng... Những tính

Page 38: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

chất đó được liên hệ với bộ não con người là nhờ cảm giác. Những tính chất

này tác động vào từng giác quan của chúng ta cho ta những cảm giác cụ thể.

Thông qua các cơ quan cảm giác, con người nhận được những thông tin hoàn

toàn khác hẳn về các hiện tượng của môi trường bên trong và bên ngoài con

người.

Có thể nhận thấy rằng cảm giác là hình thức đầu tiên mà qua đó mối liên

hệ tâm lí của cơ thể với môi trường được thiết lập. Cảm giác là mức độ phản

ánh đầu tiên, thấp nhất của con người nói chung và của hoạt động nhận thức

nói riêng.

Cảm giác là quá trình tâm lí đơn giản nhất phản ánh những thuộc tính

riêng lẻ, bên ngoài của các vật thể và các trạng thái bên trong cơ thể được nảy

sinh do sự tác động trực tiếp của các kích thích bằng vật chất lên các cơ quan

thụ cảm của con người.

Sự phản ánh trực tiếp bằng giác quan về các đặc tính khách quan của vật

thể và hiện tượng của thế giới xung quanh cho phép con người giải quyết nhiều

nhiệm vụ thuộc về nhận thức. Cảm giác có những vai trò quan trọng sau:

- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người trong hiện

thực khách quan. Nếu không có cảm giác, con người không thể biết mình đang

ở đâu, đang tiếp xúc với cái gì, đang đối diện với tình trạng nào... do đó, họ

không thể biết cách thích ứng như thế nào với thực tại. Nhờ có cảm giác, con

người biết mình đang tồn tại, đang tiếp xúc với thế giới xung quanh.

- Cảm giác là nguồn cung cấp các điều kiện cho những hình thức nhận

thức cao hơn, cảm giác là nguồn gốc của hiểu biết. Có nhận biết được các kích

thích dù rất bé, con người mới biết được điều gì đó lớn hơn, nhiều hơn.

- Cảm giác là điều kiện quan trọng để bảo đảm trạng thái hoạt động tinh

thần của con người được bình thường. Khi không có cảm giác hoặc mất cảm

giác, con người sẽ không thể thiết lập mối quan hệ giữa hiện thực khách quan

và não bộ, không thể thích ứng được với những biến đổi của môi trường.

- Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan, đặc biệt quan

trọng đối với người bị khuyết tật.

Page 39: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Không có sự phản ánh bằng cảm giác thì không thể có quá trình so sánh

cái tiếp thu được trực tiếp trong thời điểm này với cái đã tiếp thu trước đây, với

hình ảnh của sự vật hay hiện tượng.

1.1.2. Các loại cảm giác

Các kích thích từ hiện thực khách quan tác động vào chủ thể thông qua

các cơ quan thụ cảm hay là các cơ quan cảm giác. Khi cơ quan thụ cảm tiếp

nhận kích thích, chúng được truyền lên trung ương thần kinh và được nhận diện

là cảm giác gì. Các cảm giác được hình thành sẽ mang lại nhiều ý nghĩa thực

tiễn hơn đối với chủ thể nếu nó là kết quả của quá trình phản ánh tích cực từ

các kích thích, nghĩa là chủ thể chủ động "đi tìm cảm giác".

1.1.2.1. Những cảm giác bên ngoài

Những cảm giác bên ngoài phản ánh những đặc tính của các sự vật và

hiện tượng của môi trường bên ngoài. Những cảm giác bên ngoài xuất hiện khi

có các kích thích đến các cơ quan thụ cảm từ bên ngoài cơ thể.

- Cảm giác nhìn (thị giác)

Mắt là bộ phận thụ cảm của cơ quan phân tích thị giác và là một trong

những cơ quan cảm giác cơ bản của con người. Sự tác động của ánh sáng lên

mắt luôn luôn kèm theo một quá trình nhất định, gây nên cảm giác về một màu

sắc nhất định, một hình thể nhất định... Thị giác không chỉ hoạt động trong lúc

chủ thể mở mắt mà ngay cả lúc bờ mi khép kín thị giác cũng được phát huy tác

dụng. Nhờ các cơ quan tư tưởng hỗ trợ (trong kinh nghiệm) nên ngay khi nhắm

mắt, con người cũng có thể "thấy" được những hình ảnh sống động trong hiện

thực lúc đó.

Nhờ cơ quan phân tích thị giác mà con người có thể phân biệt đến 180

sắc điệu của màu sắc và hơn 10.000 sắc thái giữa các sắc điệu đó.

Màu sắc và tâm trạng con người

Page 40: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Màu sắc có ảnh hưởng sâu sắc đến cảm xúc và tinh thần của con người.

Mỗi màu sắc trong 7 dãy sắc màu của ánh sáng trắng có ảnh hưởng khác nhau

lên não bộ và tác động đến sức khoẻ của con người.

Ngay từ xa xưa, người ta đã nghiên cứu màu sắc để áp dụng chữa trị một

số bệnh. Và ngay trong y học cổ truyền cũng có các nguyên lí pha trộn toa thuốc

chữa bệnh liên quan đến màu sắc.

Màu đỏ và cam thể hiện sức mạnh và tham vọng. Màu đỏ còn thể hiện sự

căng thẳng, tức giận. Màu này kích thích thần kinh và sẽ gây nhiều tác động lên

cơ thể: tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng cường hoạt động của các cơ quan

trong cơ thể. Dùng màu đỏ, cam trong trang trí nội thất sẽ đem lại cảm giác ấm

áp, hưng phấn, giúp người bị cảm lạnh, trầm cảm lấy lại cân bằng.

Màu vàng đặc trưng cho hạnh phúc biểu thị cho trí tuệ, thúc đẩy tư duy,

xây dựng lòng tự tin và lạc quan. Màu này giúp điều trị các chứng bệnh liên

quan đến sự buồn phiền, rối loạn của não bộ. Căn phòng màu vàng giúp bệnh

nhân giảm được đau đớn, kích thích các tuyến ngoại tiết, đồng thời dễ gây buồn

nôn. Không nên dùng màu vàng cho các phương tiện giao thông.

Màu lục hay màu xanh lá là biểu hiện của thiên nhiên có thể giúp con

người cảm thông với nhau và gần gũi với thiên nhiên. Màu này tạo cảm giác dễ

chịu và thoải mái. Các nghiên cứu cho thấy màu xanh lá kích thích hệ thống

miễn dịch của cơ thể, tăng cường phòng chống bệnh tật, giúp thư giãn thần

kinh, làm dịu mắt, tốt cho người bệnh tim mạch.

Màu lam hay màu xanh dương chính là màu của biển cả, làm con người

cảm thấy an bình và quên đi sức ép của cuộc sống. Màu xanh dương được ứng

dụng trong chữa trị chứng mất ngủ và một số rối loạn hành vi của trẻ nhỏ. Y học

cổ truyền còn áp dụng màu này để chữa chứng đau nửa đầu, chống trầm cảm.

(theo Tạp chí Thời Trang Trẻ)

- Cảm giác nghe (thính giác)

Cảm giác nghe do những sóng âm, những dao động của không khí gây

nên. Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ

Page 41: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

(tần số dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao

động). Các âm thanh do các dao động có chu kì với tần số ổn định sinh ra là tiêu

biểu đối với các sắc điệu âm nhạc. Các âm thanh với các dao động không có

chu kì, với biên độ và tần số không ổn định là tiêu biểu với tạp âm. Cảm giác

nghe có ý nghĩa rất lớn trong đời sống con người, đặc biệt trong giao lưu ngôn

ngữ và cảm nhận một số loại hình nghệ thuật. Nhiều trường hợp, thính giác tỏ

ra "có ích" cho con người hơn thị giác, giúp con người nghe động và chuẩn bị

hành vi đối phó...

- Cảm giác nếm (vị giác)

Cảm giác nếm được tạo nên do tác động của các thuộc tính hoá học của

các chất hoà tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác ở lưỡi, họng và

vòm miệng. Các cảm giác vị giác xác định những đặc tính về chất của thức ăn

mà con người tiếp thu và phụ thuộc rất nhiều vào cảm giác đói. Những dấu hiệu

cơ bản của cảm giác nếm là ngọt, cay, chua, mặn...

- Cảm giác da (xúc giác)

Cảm giác da do những kích thích cơ học và nhiệt độ tác động lên da tạo

nên. Tay chân và làn da là nơi tiếp nhận các kích thích rất nhạy cảm tạo nên các

cảm xúc mới lạ. Trên cơ thể người, có những đầu dây thần kinh thật mạnh để

tiếp nhận những cử chỉ thân thiện, âu yếm của người khác làm tăng cảm giác

như vuốt ve, sờ mó... Xúc giác là một bộ phận chủ yếu trong việc khơi dậy cảm

xúc tiềm năng. Trong giao tiếp, việc tạo các xúc giác phù hợp rất cần thiết để

thiết lập một liên hệ hữu ích, thân ái và hiệu quả.

- Cảm giác ngửi (khứu giác)

Cảm giác ngửi do các phân tử của chất bay hơi tác động lên màng ngoài

của khoang mũi cùng không khí gây nên. Cảm giác ngửi cho biết tính chất của

mùi. Con người có khứu giác nhạy bén có thể phân loại ngay tức thì những mùi

vị lên trung ương thần kinh, phát tín hiệu về những hình thức chủ thể phải chuẩn

bị và đối phó với tình trạng hiện tại. Ngay lúc tiếp nhận và nhận dạng mùi vị,

khứu giác sẽ có "phản ứng" mau lẹ hỗ trợ cho thị giác, vị giác hay xúc giác...

Page 42: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Để cảm nhận được mùi thơm, mũi phải có tế bào khứu giác. Ở mũi người

bình thường có khoảng 5 triệu tế bào này. Đó là các nơron song cực, có lông

khứu giác hướng về phía niêm mạc mũi, còn sợi trục nối với nơron đa cực. Từ

các nơron đa cực, các sợi trục đi ra tạo thành dây thần kinh khứu giác. Nơi tiếp

xúc giữa nơron song cực và nơron đa cực là các búi khứu giác, mỗi búi nhận

khoảng 23.000 sợi trục.

Cơ chế nhận biết "ngào ngạt hương bay" của mũi là một cơ chế hoá học,

trong đó cấu trúc không gian của phân tử mang mùi có ý nghĩa quyết định.

Mỗi phân tử mùi có một cấu trúc riêng. Muốn nhận biết được mùi, phân tử

mùi phải tiếp xúc với tế bào khứu giác. Chất mùi nào càng dễ bay hơi thì càng

dễ kích thích khứu giác.

Mỗi chất có một ngưỡng mùi riêng (tính theo tỉ lệ số phân tử tự do trong

một thể tích không khí nhất định). Mức độ mùi hương phụ thuộc vào số nguyên

tử cacbon trong phân tử chất tạo mùi. Khi số nguyên tử cacbon càng ít thì mùi

hương càng rõ và ngược lại. Sở dĩ như vậy vì cacbon càng nhiều thì trọng

lượng phân tử càng lớn và chất tạo mùi càng khó bay hơi. Và nếu phân tử chất

đó không bay hơi được thì làm sao mùi có thể tác động vào tế bào khứu giác.

Mũi cảm thụ mùi như thế nào? Theo Thuyết hoá học lập thể, hệ thống

khứu giác gồm nhiều tế bào nhận cảm, mỗi tế bào tương ứng với một mùi cơ

bản riêng biệt. Và phân tử gây ra cảm giác mùi bằng cách nằm gọn vào phần

nhận của tế bào đó. Một số phân tử mùi có thể lọt vừa vào 2 - 3 phần nhận cảm

có dạng khác nhau, tạo ra mùi phức hợp, pha trộn giữa 2 – 3 mùi cơ bản.

Theo Thuyết vật lí phân tử thì mùi phát ra những sóng vô tuyến mà tế bào

khứu giác sẽ thu như máy thu thanh, thu hình. Theo trường phái này, người ta

hi vọng sẽ tạo ra được những phim phát ra mùi: Bên cạnh đường ghi âm thanh

có đường các sóng mùi cho phép khán giả có cảm giác về mùi như mùi thuốc

súng trong các trận chiến đấu, hay mùi hoa hồng khi thấy cảnh vườn hoa.

1.1.2.2. Những cảm giác bên trong

Page 43: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Những cảm giác bên trong do cơ quan nội tạng phản ứng tạo nên. Các cơ

quan nội tạng tiếp nhận kích thích từ những tác động, co bóp của quá trình hoạt

động của các hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết, hệ cơ, hệ xương.

- Cảm giác vận động

Cảm giác vận động được tạo nên khi các cơ, khớp xương trong cơ thể bị

kích thích. Cơ quan thụ cảm của cảm giác vận động nằm trong các cơ gân,

khớp xương giúp con người xác nhận tình trạng vận động của mình trong các

tình huống nhất định.

- Cảm giác thăng bằng

Cảm giác thăng bằng cho ta biết vị trí và phương hướng chuyển động của

đầu so với phương của trọng lực. Khi cơ quan thăng bằng bị kích thích quá mức

sẽ gây ra mất thăng bằng, con người cảm thấy chóng mặt, có khi nôn mửa. Cơ

quan thụ cảm của cảm giác thăng bằng nằm ở thành của ba ống bán khuyên ở

tai trong và có liên quan mật thiết với nội quan.

- Cảm giác cơ thể

Cảm giác cơ thể cho biết tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng,

gồm các cảm giác đói, no, khát... Chủ thể sẽ có cảm giác từ các xung động lên

thành ruột hoặc các bộ phận khác của cơ thể, thực chất đó cũng chính các xúc

giác mà thôi.

Trên đây là hai nhóm cảm giác lớn gồm một số cảm giác cơ bản. Trên

thực tế các cảm giác luôn tác động qua lại với nhau, tạo ra sự đa dạng phong

phú về khả năng cảm giác của con người.

Câu Chuyện thứ năm

"Khi thai nhi hình thành, lập tức nó bị "nhấn chìm" vào thế giới tràn ngập

màu sắc và âm thanh, đó là chưa kể các mùi vị khác nhau. Các nhà khoa học

nhận thấy thai nhi có khả năng của một miếng bọt biển, vì “hấp thụ” các thông

tin đa dạng đó khá dễ dàng.

Page 44: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Chỉ khi khoa học phát triển, các kĩ thuật mới cho phép nghiên cứu môi

trường của thai nhi lúc nó còn nằm êm ấm trong bụng mẹ, người ta mới biết thật

ra thai nhi đã học" từ rất sớm khi nó mới thành hình.

Vai trò của não bộ thai nhi và các cơ quan cảm giác của nó rất quan trọng

với việc học trong bụng mẹ. Các cấu trúc này không đồng nhất, quá trình "học

hỏi" của thai nhi cũng khác nhau cho từng khu vực và bộ phận. Có khi một khả

năng còn phải cần thời gian khá lâu ở tuổi trẻ thơ mới thật sự hoàn chỉnh.

Các khám phá mới của khoa học về những khả năng của thai nhi bao

gồm:

Vị giác: Sau khi thành hình được khoảng 13 tuần, các nhà khoa học nhận

thấy các dấu hiệu là thai nhi đã phát triển khả năng về vị giác.

Khứu giác: Khi khảo sát những đứa trẻ bị sinh sớm, người ta nhận thấy

chúng đã có phản ứng với mùi bạc hà ở tuần lễ thứ 29 trong bụng mẹ. Tới tuần

lễ thứ 36 thì thai nhi đã có phản ứng hoàn toàn với mùi.

Thính giác: Bộ phận gọi là ốc tai - khá quan trọng với thính giác của con

người - có thể đã hoạt động ở thai nhi vào tuần lễ thứ 18. Các bộ phận khác của

tai tiếp tục được phát triển cho đến tháng thứ 5.

Thị giác: Vào khoảng tuần thứ 20, tim của thai nhi gia tăng nhịp đập chút

đỉnh do một bóng đen phía trước tử cung bà mẹ sáng lên. Đó là phản ứng đầu

tiên về thị giác của thai nhi.

Xúc giác: Mới vào tuần thứ 7, vài nơi trên cơ thể thai nhi đã tỏ ra mẫn cảm

với vài đụng chạm. Cả thân thể bé sẽ có phản ứng xúc giác vào tuần thứ 13 hay

14.

Mặc dù dạ con của bà mẹ là "cái tổ êm đềm" cho thai nhi, song nó vẫn

"nghe ngóng" thế giới bên ngoài và luôn học tập kinh nghiệm mới. Nước ối - bầu

chất lỏng bồng bềnh của thai nhi - luôn giúp nó nhận diện. Các phân tử mùi

thấm vào nước ối cũng được thai nhi cảm nhận và nhớ lại. Người ta nhận thấy

những bé mới chào đời thích mùi và vị của thực phẩm mà mẹ của nó dùng trong

thời kì thai nghén.

Page 45: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Âm thanh ồn ào nhất đối với nó khi còn trong bụng mẹ chính là bà mẹ:

tiếng nói, nhịp tim, thậm chí âm thanh của sự tiêu hoá thực phẩm của mẹ, nó

cũng nghe hết. Các âm thanh ngoài cơ thể cũng có thể đến tai thai nhi nhưng đã

biến dạng.

Xúc giác và thị giác khó hơn. Thai nhi có thể sờ chạm thành của dạ con

bằng bàn tay; và có thể vài ánh sáng xuyên qua màng của đường tiểu tiện,

được nó nhận thấy. Nhưng khoa học chưa rõ những kinh nghiệm này đã được

thai nhi hấp thu như thế nào.

Các chuyên gia cho là những đứa bé sinh sớm cần được săn sóc để có

được những kinh nghiệm của một em bé bình thường. Họ căn dặn cha mẹ nên

dịu dàng "nói chuyện" nhiều với con, làm massage cho con và kích thích thị lực

cho con. Cho con bú sữa mẹ đối với trẻ sinh sớm là tốt nhất, khiến nó cảm nhận

vị của sữa, hương thơm và tiếp xúc với da của mẹ mình.

Người ta còn nhận thấy khi mang thai, người mẹ thay đổi thường xuyên

khẩu vị có thể giúp con mình chấp nhận nhiều mùi vị thực phẩm sau này".

(theo The Parent review)

1.1.3. Các quy luật của cảm giác

1.1.3.1. Quy luật về ngưỡng cảm giác

Không phải mọi kích thích tác động vào các giác quan đều gây ra cảm

giác. Kích thích quá yếu không đủ gây nên cảm giác và kích thích quá mạnh có

thể làm mất cảm giác. Muốn gây ra cảm giác thì kích thích phải đạt tới một giới

hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng

cảm giác. Có hai loại ngưỡng cảm giác là ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt.

Ngưỡng tuyệt đối là cường độ kích thích yếu nhất và mạnh nhất để có thể

có cảm giác. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai

kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng sai biệt.

Ngưỡng cảm giác sẽ khác nhau ở mỗi loại cảm giác và ở mỗi người khác

nhau. Khả năng cảm nhận được các kích thích tác động vào giác quan đủ gây

ra cảm giác gọi là độ nhạy cảm của giác quan ấy. Người có độ nhạy cảm cao

Page 46: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

khi ngưỡng cảm giác của họ rất thấp và ngược lại. Như vậy, trong thực tế, muốn

tạo ra cảm giác để con người bước đầu nhận thức được xung quanh thì phải có

các kích thích tới ngưỡng và nằm trong ngưỡng cho phép.

1.1.3.2. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác

Cảm giác của con người có khả năng thích ứng với các kích thích để bảo

đảm cho sự phản ánh tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh.

Sự thích ứng của cảm giác là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù

hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Quy luật chung về sự thích ứng

của cảm giác là giảm độ nhạy cảm khi gặp kích thích mạnh và tăng độ nhạy cảm

khi gặp kích thích yếu. Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát

triển do hoạt động rèn luyện và tính chất nghề nghiệp. Sở thích ứng cảm giác

giúp con người tự điều chỉnh được hành vi cũng như tự cân bằng được trạng

thái cơ thể của mình.

1.1.3.3. Quy luật tác động qua lại giữa các cảm giác

Các cảm giác không tồn tại một cách độc lập, riêng rẽ mà chúng có sự tác

động qua lại với nhau. Kết quả của sự tác động qua lại là làm thay đổi độ nhạy

cảm của một cảm giác này dưới tác động của cảm giác kia. Quy luật chung là

sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của

một cơ quan phân tích khác và ngược lại.

Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hoặc nối

tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại.

Một biểu hiện khác của quy luật tác động qua lại là khả năng bù trừ của

các cảm giác. Khả năng này thường dễ thấy ở những người khuyết tật.

Câu chuyện thứ sáu

Người cảm nhận được màu sắc

Khi lngrid Carey nói là cô đảm nhận được màu sắc, không có nghĩa là cô

nói cô đã nhìn thấy màu sắc xanh đỏ... mà là cô thực sự cảm nhận chúng, cô có

thể nếm, sờ, nghe thấy, ngửi thấy được chúng...

Page 47: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Cô sinh viên 20 tuổi này học năm thứ ba của Trường Đại học Maine được

cho là có khả năng synesthesia, loại cảm giác kết hợp là một hiện tượng hiếm

cho phép người ta có thể cùng lúc nhiều giác quan hoà quyện chung. Với Carey

chữ và số, cảm giác và xúc động tâm lí, ngày và tháng... đều có liên kết với màu

sắc. Chữ "N" là màu nâu đất, số "9" có màu cam và tháng 7 có màu hơi xanh lá

cây. Đau chỗ ống quyển thì phân thành hai loại hỗn hợp màu sắc cam và vàng,

đỏ và tía. Màu sắc trong thế giới của Carey có những tính chất mà chúng ta sẽ

không bao giờ nghĩ ra: đỏ thì cứng, mạnh mẽ và bền bỉ trong khi màu vàng thì

mềm dẻo, rực rỡ nhưng mãnh liệt.

Sau một thời gian dài bị coi như hoang tưởng hoặc một dấu hiệu tâm

thần, loạn trí... trong những năm gần đây, synesthesia đã được các nhà khoa

học miễn cưỡng nhìn nhận như một hiện tượng có thật trên cơ sở thần kinh học

thật sự. Ngày nay, các nhà khoa học còn tin rằng nó là chìa khoá dẫn đến

những hiểu biết về hoạt động của não, cách tác động của nhận thức... Thế

nhưng nguyên nhân dẫn đến các cảm giác này vẫn còn là một điều bí ẩn.

Có ý kiến cho rằng nguyên nhân do có một sự mọc nhánh thần kinh mới

bất thường trong não dẫn đến việc phá bỏ các giới hạn thông thường vốn có

giữa các giác quan. Vì vậy theo thuyết này, synesthesia là một tập hợp các hoạt

động của các giác quan nằm gần nhau vốn lẽ ra phải phân lập với nhau.

Một lí thuyết khác dựa trên một nghiên cứu của Daphne Maure và

Catherine Mondloch thuộc Trường Đại học McMaster, Ontario, Canada tiến

hành cho rằng hầu như tất cả các trẻ em bắt đầu cuộc sống đều có khả năng

synesthesia. Theo thuyết này thì động vật và con người khi sinh ra đều có bộ

não non nớt dễ uốn nắn. Các kết nối giữa các phần giác quan khác nhau tồn tại

cho đến khi bị cắt đi hay chậm lại khi trưởng thành.

Maure và Mondloch đưa ra giả thuyết khi các nối giữa các giác quan hoạt

động như đã thấy ở một số thí nghiệm, trẻ em sẽ nhận biết thế giới giống như

những người lớn bị synesthesia. Cũng dựa trên lí thuyết này người ta cho rằng

trẻ em không có 5 giác quan riêng mà chỉ có một giác quan bao gồm tất cả các

Page 48: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

khả năng để đáp ứng với tất cả các kích thích bên ngoài. Vì vậy một khi bé nghe

tiếng mẹ, đồng thời bé cũng thấy được tiếng mẹ và ngửi được mẹ.

Nhiều người bị synesthesia tự cảm thấy khó chịu vì khả năng bất thường

của mình. Họ cảm thấy đơn độc và bị cô lập trong cõi riêng của mình. Vì vậy,

những nghiên cứu về synesthesia rất cần thiết cho chính họ. Các nghiên cứu

phát hiện ra những người bị synesthesia gồm nhiều loại người khác nhau.

Thuyết này dựa trên các kết nối thần kinh mà tất cả chúng ta đều có, do đó có

thể giúp giải thích tại sao các loại ma tuý, thuốc kích thích có thể khiến một số

người có triệu chứng synesthesia.

(theo Live Science ngày 22-2-2005, KHPT số 14(752))

Theo Si mon Baron - Cohen Trường Đại học Cambridge thì synesthesia là

từ gốc Hi Lạp, syn (kết hợp) và aithesis (cảm giác). Nếu bạn hỏi một người có

hiện tượng synesthesia là họ có muốn vứt bỏ khả năng đặc biệt của mình không

thì hầu hết sẽ trả lời là không. Lí do là họ đã quen như vậy rồi, nay nếu mất đi

khả năng này họ sẽ có cảm giác như bị mất đi một giác quan vậy.

1.2. Tri giác

1.2.1. Khái niệm

Tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó không phải là tổng

số các thuộc tính riêng rẽ mà là một sự phản ánh sự vật hiện tượng nói chung

trong tống hoà các thuộc tính của nó. Tri giác là nhận thức một vật thể với vị trí

và những thuộc tính của nó. Tri giác là biết về sự vật, hiện tượng một cách hoàn

chỉnh nhưng chỉ ở mức độ bề ngoài, là cơ sở để con người suy nghĩ tìm cách

thấu hiểu vấn đề một cách sâu sắc.

Một cách tổng quát, tri giác là quá mình phản ánh một cách trọn vẹn

những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động

vào các giác quan.

1.2.2. Sự hình thành tự giác

Các cảm giác được truyền đến một trung khu thần kinh rồi đến vỏ não,

nơi đó tống hợp với các cảm giác khác cùng với kí ức... để trở thành một tri

Page 49: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

giác. Ví dụ một trái dưa khi được tri giác gợi ra nhiều cảm giác khác nhau, hình

ảnh trái dưa được hình thành từ những cảm giác về hình dáng, màu sắc, mùi

vị...

1.2.3. Đặc điểm của tri giác

- Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trọn vẹn. Tính trọn vẹn

của tri giác là do tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật hiện tượng quy

định. Kinh nghiệm có ý nghĩa rất lớn trong quá trình tri giác trọn vẹn này, chỉ cần

một số chi tiết của sự vật, hiện tượng, chúng ta đã có thể tri giác được sự vật

một cách chính xác.

- Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.

- Tri giác có tính không đổi mặc dù có tính biến dạng rất lớn của các điều

kiện nơi xảy ra quá trình tri giác, nhưng các hình vật thể mà ta tri giác có tính

chất cố định, không thay đổi về hình dáng, độ lớn, màu sắc...

- Tri giác là quá trình tích cực, được gắn liền với hoạt động con người. Tri

giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào đó, tri giác

mang tính xã hội. Con người sẽ không cố gắng để biết điều gì đó nếu điều đó

không xuất phát từ yêu cầu của công việc, của hoạt động hay của một nhân tố

nào khác, điều này cho thấy tri giác mang tính xã hội rất rõ.

1.2.4. Các loại tri giác

Có nhiều cách phân loại tri giác, có thể nêu lên một số cách phân loại chủ

yếu sau đây:

- Dựa trên bộ máy phân tích nào giữ vai trò trực tiếp tham gia vào quá

trình tri giác. Với cách phân loại này, có thể chia thành tri giác nhìn, tri giác

nghe, tri giác ngửi, tri giác sờ mó...

- Một sự phân loại khác của tri giác là dựa vào sự phản ánh những hình

thức tồn tại khác nhau của sự vật, hiện tượng. Theo cách phân loại này có các

loại tri giác chủ yếu là tri giác các thuộc tính không gian của đối tượng, tri giác

các thuộc tính thời gian của đối tượng, tri giác sự chuyển động của đối tượng và

tri giác con người.

Page 50: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tri giác không gian

Tri giác không gian là sự phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan,

là điều kiện cần thiết để con người định hướng trong môi trường.

Tri giác không gian bao gồm sự tri giác hình dáng của sự vật, sự tri giác

độ lớn của sự vật, sự tri giác chiều sâu, độ xa của sự vật, sự tri giác phương

hướng. Trong tri giác không gian, cơ quan phân tích thị giác giữ vai trò quan

trọng, sau đó là cảm giác vận động...

Tri giác thư giãn

Loại tri giác này phản ánh độ lâu, độ nhanh, nhịp điệu, tính liên tục hoặc

gián đoạn của sự diễn biến trong thời gian. Tri giác thời gian cũng xác định thời

điểm nhất định, xác định tính tương đối của thời gian.

Tri giác vận động

Tri giác vận động là sự phản ánh những biến đổi về vị trí của các sự vật

trong không gian. Tri giác vận động có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào tri

giác không gian và thời gian. Con người có thể nhận biết tốc độ di chuyển của

chính mình, xác định sự co giãn của các cơ hoặc những biểu hiện của sự co

bóp của các cơ quan nội tạng...

Tri giác con người

Tri giác con người là một quá trình nhận thức lẫn nhau của con người

trong những điều kiện giao lưu trực tiếp. Sự tri giác con người có ý nghĩa rất lớn

trong hoạt động thực tiễn vì nó thể hiện chức năng điều chỉnh hình ảnh tâm lí

trong quá trình hoạt động và giao tiếp cùng nhau.

Các loại tri giác không gian, thời gian, vận động và tri giác con người có

quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, giúp con người tri giác thế giới

một cách trọn vẹn.

1.2.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tri giác

1.2.5.1. Kinh nghiệm trong quá khứ

Page 51: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tri giác của con người chịu ảnh hưởng của quá khứ rất mạnh. Con người

nhận biết đối tượng một phần do thói quen và những điều đã biết trong hoạt

động và trong cuộc sống. Máy chụp hình cũng gồm thấu kính như đôi mắt

nhưng hình chụp khác hình nhìn bằng mắt vì máy chụp ghi hình không dựa vào

kinh nghiệm.

Nhưng cũng chính do kinh nghiệm mà nhiều lúc con người tri giác thiếu

chính xác. Có nhiều lúc có người đi thăm một phong cảnh hoàn toàn xa lạ

nhưng lại có cảm nghĩ rằng hình như đã gặp những hình ảnh quen thuộc ở đó.

Hiện tượng này do kinh nghiệm lưu lại trong trí nhớ về những lần ngoạn cảnh

nơi khác trộn lẫn với thực tế đang tri giác gây nên.

1.2.5.2. Nhu cầu hiện tại

Nhu cầu đã hướng dẫn tri giác của con người về cái họ cần. Thông

thường một nhu cầu khó đạt, con người hay gán cho nó một giá trị lớn. Còn một

nhu cầu dễ thoả mãn, con người lại hay xem thường giá trị của nó. Một khi nhu

cầu đã được thoả mãn, tri giác của con người về đối tượng sẽ trở nên khách

quan hơn.

1.2.5.3. Tình cảm hiện tại

Tình cảm ảnh hưởng mạnh mẽ đến tri giác nhất là ở tuổi nhỏ khi những

hiểu biết chưa được kiện toàn. Tâm trạng hiện tại của con người sẽ chi phối rõ

ràng đến những hình ảnh đang tri giác, vì vậy mới thấy thật hay cho câu "người

buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

1.2.6. Các quy luật cơ bản của tri giác

1.2.6.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác

Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật,

hiện tượng nhất định của thế giới xung quanh. Quá trình tri giác xảy ra một cách

chân thực theo yêu cầu của nhiệm vụ thực tiễn, con người luôn trả lời được

châu hỏi họ đang tri giác cái gì? Họ tri giác như thế nào?

1.2.6.2. Quy luật về tính chọn lựa của tri giác

Page 52: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Con người không thể đồng thời tri giác tất cả các sự vật, hiện tượng đa

dạng đang tác động mà chỉ tách đối tượng ra khỏi bối cảnh. Quy lựa chọn lựa

của tri giác nói lên rất rõ tính chủ thể của tâm lí con người. Trong hiện thực, bao

giờ con người cũng cố gắng đi tìm cái mình cần để nhận dạng, để biết, để thoả

mãn nhu cầu nhận thức của mình...

1.2.6.3. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác

Tri giác con người diễn ra có ý thức và bao giờ con người cũng gọi được

tên của sự vật, hiện tượng một cách cụ thể hoặc khái quát. Những hình ảnh tác

động đến con người có thể được mỗi người tri giác theo quan điểm, mong đợi

chủ quan của con người nhưng luôn được con người "gán" cho một ý nghĩa cụ

thể nào đó. Hình ảnh của một đám mây trên bầu trời có thể được con người

tưởng tượng để "nhận ra" hình ảnh ấy giống cái gì, một ngư ông hay một người

lính, một con rồng hay bầy thiên nga...

1.2.6.4. Quy luật tổng giác

Ngoài các yếu tố kích thích bên ngoài, tri giác còn bị quy định bởi một loạt

các nhân tố nằm bên trong chủ thể tri giác như thái độ, động cơ, sở thích, mục

đích.

Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lí con người, vào đặc

điểm nhân cách của họ được gọi là hiện tượng tổng giác. Thực chất, tổng giác

là hiện tượng tri giác phụ thuộc vào trạng thái tâm lí của chủ thể trong các tình

huống nhất định.

1.2.7. Sự sai lầm của tri giác

Không phải lúc nào con người cũng có thể tri giác chính xác một sự vật,

sự kiện hay hiện tượng nào đó vì nhiều lí do; họ có thể sai lầm trong tri giác. Tri

giác sai lầm là tri giác không chính xác về một sự vật, hiện tượng có thật. Có

những sai lầm do đối tượng tạo nên nhưng cũng có những sai lầm do chính chủ

thể tạo ra từ diễn biến tâm lí của mình lúc đó. Sự sai lầm của tri giác có thể chia

làm ba loại:

Page 53: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Sai lầm do hiện tượng vật lí tạo nên: ánh sáng phản chiếu hay khúc xạ

có thể gây ra hiện tượng tri giác sai lầm. Lái xe trên xa lộ vào buổi trưa nắng

gắt, người lái có cảm giác phía trước có một vũng nước, đó là ví dụ của tri giác

sai lầm. Các cháu nhỏ thường rất thích thú các trò chơi được thiết kế theo quy

luật phản chiếu của các loại gương phẳng, gương lồi, gương lõm... để tạo ra

hình thù quái dị, làm méo mó hình thức của mình như trong các nhà cười của

những trung tâm giải trí, các trò chơi "thực tế ảo" cũng là kết quả của việc áp

dụng sự sai lầm này của tri giác.

- Sai lầm do giác quan tạo nên: Các giác quan của con người có thể bị

đánh lừa trong những điều kiện nhất định, do đó tri giác có thể sai lầm trong

trường hợp này. Ngâm hai tay đồng thời vào hai chậu nước với nhiệt độ cao

thấp khác nhau rõ rệt, sau đó cho hai tay vào chậu nước lạnh, người ta có cảm

giác và tri giác khác nhau về "khu vực" nước quanh bàn tay nhúng vào, đó là sự

sai lầm do giác quan tạo nên.

- Sai lầm do đại não gây nên là những sai lầm chịu ảnh hưởng của thần

kinh, của những phản ứng tâm lí tạo nên. Sai lầm này có thể chia thành những

loại sau đây:

- Sai lầm do nhu cầu gây nên. Người đang khát nước nghe gió thổi tưởng

như nước chảy đâu đó. Chính nhu cầu về nước uống đã làm con người nhầm

tưởng tiếng cọ xát của những hạt cát trong sa mạc như tiếng róc rách của một

con suối.

- Sai lầm do tình cảm gây nên. Người sợ hãi một đe dọa từ bên ngoài tới,

thấy cây động đậy tưởng có ai đang rượt đuổi theo mình. Trẻ con thường "nhầm

tưởng" các người đẹp là mẹ yêu quý của các cháu. Nhìn thần tượng thường

thấy là "cô tiên" hay nhìn kẻ thù thì nghĩ đó là "mụ phù thuỷ".

- Sai lầm do không chú ý mà nên. Có lúc nghe lầm, nhìn nhầm vì thiếu sự

chú ý nhất định.

Các trường hợp sai lầm của tri giác có rất nhiều ứng dụng trong hoạt

động thực tiễn, trong nghệ thuật, trong quảng cáo...

Page 54: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Ảo giác không phải là sự sai lầm của tri giác về một đối tượng có thật mà

là phản ánh về một đối tượng không có thực. Ảo giác không do giác quan mang

lại mà là sản phẩm của đại não và là kết quả của sự phóng ngoại tình cảm, tư

tưởng của chủ thể ra ngoài.

Giải được bí ẩn của những bóng sáng kì lạ!

Giáo sư Jack Pettigrew và một bóng sáng.

Hãy tưởng tượng bạn đang ngồi trong phòng khách, đột nhiên một bóng

sáng xuất hiện lơ lửng giữa nhà. Khi bạn nghiêng đầu để xem điều gì đã tạo nên

thứ ánh sáng kì dị đó, nó cũng nghiêng theo... Đó chính là những bóng sáng

(còn gọi là Min Min light), thường thấy ở Australia.

Kì thực, những bóng sáng này chỉ là ảo ảnh của các nguồn sáng đôi khi ở

cách đó hàng trăm kilômét, Giáo sư Jack Pettigrew, Đại học Queensland ở

Brisbane, Australia, vừa khẳng định như vậy trên tạp chí Clinical and

Experimental Optometry.

Pettigrew đã nghiên cứu hiện tượng này ở hạt Channel, miền Tây

Queensland, nơi nó đã ám ảnh người dân địa phương trong nhiều năm qua.

"Ngay cả những người đàn ông dạn dày nhất cũng phải chảy nước mắt vì sợ

hãi", ông nói.

Lần đầu tiên chạm chán với Min Min light, Pettigrew tưởng rằng đó là sao

Kim. Nhưng không phải thế," nó đi xuống đường chân trời và nằm yên ở đó một

lúc". Lần sau đó, khi đang lái xe với hai cộng sự, Pettigrew trông thấy một đốm

sáng mà thoạt đầu họ tự nhủ đó là mắt của một con mèo ở cách đó khoảng 50

mét. Tuy nhiên, khi họ dừng xe và tắt đèn pha, đốm sáng kia vẫn còn ở nguyên

đó, nhảy nhót xung quanh như thể nó là một sinh thể sống. Chúng tôi đã tranh

cãi kịch liệt, không thể đồng ý với nhau được đó là cái gì và ở cách bao xa.

Bộ ba đã lái xe xuyên qua vùng đồng bằng và sử dụng một chiếc la bàn

trên ô tô để tính ra khoảng cách tới đốm sáng. Nhưng sau 5 km la bàn trên xe

vẫn không hề đổi hướng. "Chúng tôi phỏng đoán nó phải nằm cách đó khoảng

Page 55: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

300 km trên đường chân trời". Về sau, ba người mới biết có một chiếc xe đã đi

ngược chiều ở đúng thời điểm họ nhìn thấy đốm sáng.

Pettigrew, người từng biết đến hiện tượng ảo ảnh - trong đó các cảnh vật

ở rất xa dường như đang treo ngược trên bầu trời - cho rằng điều này có thể

giúp giải thích các Min Min light. ánh sáng bị khúc xạ, đi theo đường cong của

mặt cầu.

Ảo ảnh xuất hiện khi có hiện tượng nghịch nhiệt, tức là không khí lạnh

đậm đặc nằm bên dưới sát với mặt đất, còn lớp khí ấm ở bên trên. Trong điều

kiện như vậy, ánh sáng từ mặt đất chiếu lên sẽ bị khúc xạ, và đi theo đường

cong ôm lấy Trái Đất, thay vì chiếu thẳng ra ngoài (ảnh). Luẩn quẩn trong lớp

khí lạnh này, ánh sáng có thể xuất hiện ở cách xa nguồn của nó hàng trăm km,

tạo nên ảo ảnh ở đó.

Để thử nghiệm giả thuyết rằng Min Min light thực sự là một hiện tượng ảo

ảnh trong đêm, Pettigrew đã thực hiện thí nghiệm cho thấy ông có thể tạo ra một

thứ tưởng tự như vậy.

Trước hết, Pettigrew chọn một đêm có thời tiết thuận lợi: đêm lạnh sau

một ngày trời nóng, ít gió. Sau đó, ông lái xe 10 km vòng qua một khu đồi tới

điểm nằm dưới đường đi chuẩn của ánh sáng (đường thẳng). Điều kì lạ đã xuất

hiện, 6 người quan sát vẫn nhìn thấy ánh sáng của chiếc xe hơi lơ lửng trên

đường chân trời.

Ảo ảnh của một rặng núi ở xa. Nó tan đi khi Mặt Trời sưởi ấm lớp khí sát

mặt đất. Buổi sáng sau đêm trình diễn, Pettigrew cho biết đã nhìn thấy ảo ảnh

của một rặng núi ở xa tại khu vực này. Điều đó ủng hộ giả thuyết cho rằng Min

Min light được tạo ra trong một điều kiện đặc biệt của khí quyển. "Thông thường

ta không thể nhìn thấy rặng núi đó, vì nó nằm dưới đường chân trời. Nhưng

trong điều kiện nghịch nhiệt, nó xuất hiện lơ lửng trên cao, và dần dần tan đi,

cuối cùng thì biến mất khi Mặt Trời sưởi ấm lớp không khí sát mặt đất.

Cơ hội nhìn thấy Min Min light và ảo ánh ban ngày ở hạt Channel là rất

cao, vì vùng này bằng phẳng với các chỗ trũng nhẹ, nơi không khí lạnh rất dễ bị

giữ lại. Hơn nữa ở đây, người ta thường nhìn thấy rõ chân trời.

Page 56: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

(theo ABC online)

1.2.8. Quan sát và năng lực quan sát

Quan sát là hình thức tri giác cao nhất, mang tính tích cực chủ động và có

mục đích rõ ràng. Quá trình quan sát trong hoạt động tạo nên năng lực quan sát.

Năng lực quan sát là khả năng tri giác nhanh chóng và chính xác những

điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng cho dù những điểm

ấy khó nhận thấy hoặc có vẻ thứ yếu. Năng lực quan sát ở mỗi người khác nhau

và phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của con người.

Câu chuyện thứ bảy

Cơ hội quan sát

Trò giải trí gần đây được nhiều người lưu ý là chơi bài dưới nhiều thể loại

khác nhau và là loại trò chơi đấu trí để giải trí. Đã là trò chơi đấu trí thì người

chơi phải căng thẳng và luôn phải quan sát suy đoán để có quyết định phù hợp.

Đây là cơ hội tốt để bạn quan sát con người trong hoàn cảnh cụ thể: có kích

thích (atimulus) và có phản ứng (response). Việc quan sát ban đầu của bạn tập

trung vào thói quen, cá tính của mỗi đối thủ. Mỗi đối thủ trong hoàn cảnh đầy

kịch tính sẽ quên cái vỏ bên ngoài vẫn đóng mà lộ dần những nét đặc thù có

tính bản chất của họ. Có người lên bài trầm lặng, có người nói năng huyên

thuyên khi bắt bài, người chậm rãi hút thuốc uống trà, người vội vàng xoa bài,

người méo miệng tìm kiếm các quân bài mong đợi... Khi toan tính một nước đi

hay đón đợi con bài của đối thủ, có người mặt đỏ gay nhưng người khác mặt

hồng hào và người kia mặt xanh lại. Đó là những điều bình thường đã quan sát

được trong tình trạng bình thường. Hãy cố gắng quan sát những biến đổi hay

điều bất thường của chủ thể trong những tình huống nhất định. Một đối thủ đang

nói huyên thuyên chợt im bặt, một người vốn trầm ngâm lại nói chuyện tiếu lâm,

nét mặt người này biến sắc, người kia rung nhẹ, đó là dấu hiệu của những toan

tính quyết định.

Page 57: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Khi hệ thần kinh thực vật hưng phấn gây ra những biến đổi trên sinh lí con

người. Đó là những biểu lộ nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người trừ

một số người có sự luyện tập dày dạn. Sau đây là những lưu ý khi quan sát một

người nào đó:

- Chú ý cử động của đôi tay và sự biến đổi của nét mặt, nhất là vùng xung

quanh mắt và quanh miệng của đối tượng.

- Người có bộ mặt lạnh lẽo, trơ trơ có thể chứa đựng ác ý với ta hay thù

hận ta, nhất là khi ta quan sát mà người không biết.

- Khuôn mặt đối tượng có nét căng thẳng thì có thể hiểu đối tượng đang

có dấu hiệu tâm lí bị giày vò hay đang có tình trạng xung đột nội tâm nào đó.

- Những động tác không cần thiết ở ngón tay nói riêng hay thân thể nói

chung như bẻ ngón tay, bắt tréo chân... đều có thể là dấu hiệu của sự bồn chồn,

nóng nảy, hoảng hốt lo lắng, tự vệ.

- Người châm chọc hay tỏ thái độ quá lễ nghi ngọt ngào có thể là biểu

hiện của ý đồ không tích cực đối với người nào đó.

- Người nói huyên thuyên không ngừng có thể là đang cố gắng che đậy

điều gì đó hoặc thầm kín, hoặc bí mật...

- Mặt trắng xanh, động mạch cổ, thái dương nổi lên, ngón tay run rẩy,

nuốt nước bọt, tay ướt mồ hôi là dấu hiệu của tâm trạng quá hưng phấn.

- Người lẩn tránh ánh mắt của ta có thể là người đang nói dối...

Sau đây là những điểm trọng yếu nên quan sát:

- Đang là người trầm lặng chợt trở nên nói nhiều

- Tự nhiên biểu lộ sự sợ hãi điều gì đó

- Nói những điều thật giả lẫn lộn

- Có dáng vẻ hốt hoảng, tâm thần bất ổn

- Ngôn ngữ tự nhiên ra vẻ huyênh hoang

- Có những cử động vô nghĩa ở chân tay, cơ thể

Page 58: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Vẽ vời câu chuyện

- Đón ý bạn hay làm ra vẻ bí mật, làm bộ giận dữ vì tự ái

- Tìm cách thanh minh điều gì đó thái quá...

(theo "Tri tâm thuật, NXB Trẻ, 1994).

Câu chuyện thứ tám

Hãy nói vào tai phải và hát vào tai trái

Tai trái và tai phải của con người xử lí âm thanh khác nhau. Một nghiên

cứu mới trên trẻ sơ sinh đã tìm thấy tai phải lọc tiếng nói tốt hơn, trong khi tai

trái lại lắng nghe âm nhạc hợp hơn.

Người ta vẫn biết rằng não phải và não trái xử lí âm thanh khác nhau,

nhưng sự khác biệt đó được cho là bắt nguồn từ những đặc tính tế bào của

từng bán cầu não. Nghiên cứu mới đã cho thấy sự khác biệt nằm ngay ở trong

tai.

Yvonne Sininger tại Đại học California cho rằng: "Chúng ta vẫn luôn cho

rằng tai phải và tai trái là làm việc như nhau. Nên sẽ không khác biệt nếu một

người bị khiêm thính ở bên trái hay phải. Nhưng nay chúng tôi tìm thấy nó sẽ có

ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển ngôn ngữ và âm thanh của người đó.

Phát hiện có thể giúp bác sĩ đẩy mạnh sự phát triển ngôn ngữ và lời nói ở

trẻ khiếm thính và phục hồi khả năng nghe ở người điếc.

Sininger và cộng sự đã nghiên cứu trên hơn 3.000 trẻ sơ sinh bằng cách

đặt những máy ampli nhỏ xíu trong tế bào lông của tai trong. Những tế bào này

sẽ khuyếch đại sự rung động âm thanh, chuyển những rung động đó tới tế bào

thần kinh và đưa tới não.

Các nhà khoa học cũng gắn một máy dò âm nhỏ xíu vào trong tai trẻ. Máy

này sẽ phát ra 2 loại âm thanh khác nhau và đo sự khuyếch đại rung động. Họ

tìm thấy những tiếng gõ như lời nói tạo ra sự khuyếch đại lớn hơn trong tai phải,

còn thanh giống âm nhạc thì được khuyếch đại lớn hơn trong tai trái.

Page 59: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

"Chúng tôi ngạc nhiên khi tìm thấy sự khuếch đại âm thanh ở hai tai là

khác nhau. Nó song song với việc từng bán cầu não xử lí âm thanh và lời nói

thế nào, trừ việc hai bên hoán đổi cho nhau do sự liên kết chéo trong não",

Sininger kết luận.

Barbara Cone - Wesson, đồng tác giả tại Đại học Arizona, phát biểu: kết

quả chúng tôi đã khẳng định quá trình xử lí âm thanh bắt đầu ngay từ tai trước

khi vào trong não. Ngay khi mới sinh, tai trẻ đã được cấu tạo để phân biệt 2 loại

âm thanh khác nhau và gửi tới những vùng thích hợp trong não".

(theo AFP)

2. NHẬN THỨC LÍ TÍNHNhận thức lý tính là quá trình nhận thức để có kết quả, là hiểu được vấn

đề chứ không chỉ dừng lại ở mức độ biết bên ngoài, là sự phản ánh những vấn

đề thuộc về bản chất, là mức độ cao của quá trình tìm, biết rồi ngộ ra và hiểu

vấn đề. Lí tính là quá trình nhận thức cấp độ cao, kết quả của nhận thức cảm

tính có thể xem như là một trong các thông số để xem xét, nhận định về giá trị,

về nhân cách của một cá nhân trong tình trạng bình thường. Nhận thức lí tính có

hai quá trình có quan hệ mật thiết và hỗ trợ cho nhau.

2.1. Tư duy

2.1.1. Khái niệm

Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người chỉ mới phản ánh các thuộc tính

trực quan, cụ thể, bề ngoài; phản ánh một cách trực tiếp những sự vật, hiện

tượng đang tác động. Mặt khác, ở mức độ cảm tính, con người không thể phản

ánh được những dấu hiệu bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng.

Nhiệm vụ của cuộc sống và hoạt động thực tiễn luôn đòi hỏi con người

phải thấu hiểu những cái chưa biết ngày một sâu sắc và chính xác hơn. Quá

trình nhận thức như vậy được gọi là tư duy.

Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những

mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong

Page 60: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hiện thực khách quan mà trước đó con người chưa biết. Tư duy là quá trình suy

nghĩ, tìm kiếm những đáp số cho các bài toán của khoa học và của cuộc đời.

2.1.2. Đặc điểm của tư duy

Thuộc bậc thang nhận thức cao – nhận thức lý tính – tư duy có những đặc

điểm cơ bản sau:

2.1.2.1. Tính có vấn đề của tư duy

Không phải bất kì tác động nào của hoàn cảnh đều tạo nên tư duy. Tư

duy chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống mà bằng vốn hiểu

biết cũ, bằng phương pháp hành động cũ, con người không thể giải quyết được.

Để nhận thức, con người cần phải vượt ra khỏi phạm vi cũ và đi tìm cái mới, đạt

mục đích mới. Những hoàn cảnh như thế gọi là hoàn cảnh có vấn đề.

Hoàn cảnh có vấn đề kích thích con người tư duy. Muốn vậy con người

cần nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề. Chủ thể phải có

nhu cầu giải quyết, nhu cầu nhận thức và phải có tri thức cần thiết liên quan đến

vấn đề. Muốn con người tư duy phải đặt con người trước các tình huống có vấn

đề để họ cảm thấy bức xúc và khao khát suy nghĩ, tìm tòi và thoả mãn nhu cầu

của họ.

2.1.2.2. Tính gián tiếp của tư duy

Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng và quy luật giữa

chúng nhờ sử dụng các công cụ, phương tiện... và các kết quả nhận thức của

loài người cùng kinh nghiệm của cá nhân. Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện

chỗ nó được biểu hiện trong ngôn ngữ, con người dùng ngôn ngữ để tư duy...

2.1.2.3. Tính trừu tượng và khái quát của tư duy

Tư duy có khả năng đi sâu vào nhiều sự vật, hiện tượng nhằm tìm ra

những thuộc tính chung, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa

chúng. Vì thế tư duy mang tính khái quát và trừu tượng.

Nhờ có tính khái quát và trừu tượng, tư duy không chỉ giải quyết những

nhiệm vụ hiện tại mà còn cả những nhiệm vụ trong tương lai của con người.

2.1.2.4. Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính

Page 61: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tư duy và nhận thức cảm tính là hai mức độ khác nhau nhưng không tách

rời nhau mà có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong

hoạt động nhận thức thống nhất và biện chứng. Con đường nhận thức hiện thực

sẽ bắt đầu từ những điều tai nghe mắt thấy rồi mới đến tích cực suy nghĩ và giải

quyết vấn đề, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng...

2.1.2.5. Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ

Tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không đồng

nhất với nhau, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Mặt khác, bằng con đường

tư duy, ngôn ngữ của con người sẽ được cải thiện, được rèn luyện và trau

chuốt... Tư duy như thế nào thì ngôn ngữ của con người như thế đó... Trong

quá trình thích ứng với các biến đổi của môi trường, các chủ thể sử dụng ngôn

ngữ để diễn đạt ý tưởng, sự diễn đạt ngôn ngữ là một chỉ số để nghiên cứu mức

độ sâu sắc hay bản chất của phương pháp tư duy của họ:

Cơ quan hàng không vũ trụ Mĩ (NASA) đã chế tạo một hệ thống có thể

"nói thay" cho con người trong những trường hợp con người không thể nói

được: Hệ thống này hoạt động thông qua các điện cực được gắn vào cổ họng

của người sử dụng để dò tìm các dấu hiệu sinh học diễn ra khi người này đọc

hay độc thoại. Những dấu hiệu này sau đó sẽ được chuyển thành văn bản hoặc

lời nói nhờ một phương pháp xử lí tổng hợp. Cụ thể là các kí hiệu sẽ được

truyền qua một bộ xử lí trong máy tính, tiếp đến là qua một phần mềm đặc biệt

được lập trình để nhận biết các từ như dừng, đi, quẹo phải, trái... Theo các nhà

khoa học, công nghệ này sẽ rất có ích cho phi hành gia, thợ lặn hoặc lính cứu

hoả để thông tin chính xác trong các môi trường làm việc đặc biệt như ngoài vũ

trụ, dưới nước hoặc trong các toà nhà bị hoả hoạn. (Thanh Niên online)

2.1.2.6. Tư duy là một quá trình

Hoạt động tâm lí nào của con người đều được xem là một hình ảnh chủ

quan về thế giới khách quan và còn được xem xét như một quá trình. Tư duy có

nảy sinh, diễn biến và có kết thúc. Người ta không thể ngay lập tức có được một

quyết định hay một đáp số nào đó mà phải trải qua một thời gian nhất định để

tìm tòi, sáng tạo và suy nghĩ... Do đó, cá nhân sẽ tích cực tư duy nếu họ được

Page 62: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tự do lựa chọn phương pháp trong những quỹ thời gian nhất định, quá trình thay

đổi tư duy sẽ không thể diễn ra có hiệu quả trong thời gian ngắn...

2.1.2.7. Tư duy có liên quan mật thiết với cảm xúc.

Nói cách khác, cảm xúc có ảnh hưởng đến phương pháp tư duy của mỗi

người. Cảm xúc thể hiện sự phù hợp giữa những điều chúng ta nghĩ với những

điều chúng ta cần trong một hoàn cảnh nhất định. Một cảm xúc tức thời có thể

kích thích con người tư duy cho dù lúc đó hoàn cảnh có vấn đề vẫn chưa rõ

ràng.

2.1.3. Vai trò của tư duy

Tư duy mở rộng giới hạn của nhận thức, tạo ra khả năng để vượt ra ngoài

những giới hạn của kinh nghiệm trực tiếp do cảm giác và tri giác đem lại.

Tư duy cải tạo thông tin của nhận thức cảm tính, làm cho chúng có ý

nghĩa hơn cho hoạt động của con người. Tư duy tiết kiệm công sức của con

người trong quá trình đi tìm tri thức và giúp con người đạt đến những kết quả

cao.

2.1.4. Các giai đoạn của tư duy

Tư duy là một hành động và có những giai đoạn nhất định sau đây:

2.1.4.1. Xác định vấn đề và biểu đạt thành nhiệm vụ tư duy

Xác định những mâu thuẫn trong tình huống có vấn đề, mâu thuẫn giữa

cái đã biết và cái phải tìm, tạo ra nhu cầu cần giải quyết, tìm thấy những tri thức

đã có trong kinh nghiệm và xác định nhiệm vụ tư duy. Việc xác định vấn đề rõ

ràng hay không rõ ràng có tầm quan trọng đặc biệt để hình dung phương pháp,

áp dụng các thao tác tư duy.

2.1.4.2. Huy động các tri thức

Làm xuất hiện trong đầu những mối liên tưởng chung quanh vấn đề đang

cần giải quyết. Những kinh nghiệm chủ quan của chủ thể được rà soát, những

tình huống đã gặp trong hiện thực được tái hiện, những tri thức khoa học hoặc

cuộc sống được lục tìm để hình thành một mô hình thông tin liên kết.

Page 63: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

2.1.4.3. Sàng lọc các liên tưởng

Gạt bỏ những điều không cần thiết, loại bỏ những kinh nghiệm hoặc thành

kiến không phù hợp và hình thành giả thuyết. Giả thuyết là những kết quả giả

định khi các thao tác tư duy được tiến hành. Việc hình thành giả thuyết xảy ra

rất nhanh trong chủ thể có khi không kịp xác định thời gian cụ thể.

2.1.4.4. Kiểm tra giả thuyết

Sau khi vận dụng các thao tác tư duy trong điều kiện có thể, chủ thể sẽ so

sánh kết quả tư duy thực với giả thuyết đã xác định. Nếu giả thuyết đúng thì tiến

hành giải quyết vấn đề. Nếu giả thuyết sai thì phủ định nó và hình thành giả

thuyết mới về cách giải quyết vấn đề.

2.1.4.5. Giải quyết vấn đề

Giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, kiểm tra lại kết quả. Giải quyết vấn đề

là sự hình thành một quyết định để "làm" chứ chưa phải là hành động thực tế.

2.1.5. Các thao tác tư duy

Tư duy là một hành động trí tuệ được diễn ra bằng cách tiến hành những

thao tác trí tuệ nhất định. Có rất nhiều thao tác trí tuệ tham gia vào một quá trình

tư duy cụ thể, có thể nêu lên một số thao tác tư duy cơ bản sau đây:

2.1.5.1. Phân tích và tổng hợp

Phân tích là tách toàn thể thành các yếu tố, các thành phần cấu tạo nên

nó, phân tích không phải là phân chia mà là xem xét vấn đề theo những lớp giá

trị hoặc lớp tính chất chung nào đó. Người ta có thể phân tích một sự kiện dưới

góc độ tâm lí, góc độ sinh lí, góc độ kinh tế... đó là một thao tác tư duy.

Tổng hợp là thao tác trong đó chủ thể đưa những thuộc tính, thành phần

đã được phân tích thành một chỉnh thể, một toàn thể. Tổng hợp cũng không có

nghĩa là gộp một cách đơn giản các thành phần mà là kết hợp để hình thành

một chỉnh thể với những ý nghĩa cụ thể.

2.1.5.2. So sánh

Page 64: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

So sánh là thao tác trí tuệ dùng trí óc để xác định sự giống nhau và khác

nhau giữa các sự vật, hiện tượng. So sánh cũng có nghĩa là đặt sự vật này "bên

cạnh" sự vật kia để đối chiếu, để tìm mối liên hệ và phân biệt các sự kiện ấy...

2.1.5.3. Trừu tượng hoá và khái quát hoá

Trừu tượng hoá là gạt bỏ những thuộc tính, những bộ phận, những quan

hệ không cần thiết về một phương diện nào đó và chỉ giữ lại những yếu tố cần

thiết để tư duy.

Khái quát hoá là thao tác chủ thể tìm ra một thuộc tính chung cho vô số

hiện tượng hay sự vật. Con người vừa là một khái niệm trừu tượng vừa là một

khái niệm có tính khái quát cao khi chúng ta tri giác, suy nghĩ về con người

không phải chỉ lưu ý đến trang phục, hình thể hoặc chỉ về một ai đó với những

đặc thù của họ.

2.1.5.4. Cụ thể hoá

Cụ thể hoá là thao tác chủ thể chuyển từ trừu tượng hoá và khái quát hoá

về với hiện tượng cụ thể. Nhờ cụ thể hoá mà tư duy luôn gắn liền với trực quan

sinh động, không xa rời thực tế khách quan.

2.1.6. Các phẩm chất tư duy của con người

Tư duy ở con người có một số phẩm chất và những phẩm chất này nếu

được thể hiện ở từng người sẽ nói lên được phần nào về phương pháp, về bản

chất hoạt động trí tuệ của mỗi người. Con người có thể có một số phẩm chất tư

duy chung như sau

- Mức độ sâu sắc và khái quát của tư duy.

- Khả năng cơ động, linh hoạt và mềm dẻo của tư duy.

- Tính logic, chặt chẽ của tư duy.

- Óc bình luận, đánh giá.

- Khả năng độc lập của tư duy.

Bàn về kết quả tư duy của cá nhân, trong tài liệu nghiên cứu của các nhà

khoa học thuộc Trường Đại học Quốc gia Úc, những người thuận tay trái

Page 65: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

thường tư duy nhanh hơn người thuận tay phải và đặc biệt là có khả năng

truyền thông tin nhanh trong hoàn cảnh phức tạp.

Theo các nhà khoa học, việc thuận tay phải hay tay trái là một đặc tính di

truyền như màu mắt hoặc giới tính... chứ hoàn toàn không phải là dị tật bẩm

sinh. Hai bán cầu não được nối với nhau bằng một vòm não gồm nhiều dây thần

kinh. Mỗi nửa bán cầu não có nhiệm vụ chỉ huy mọi hoạt động của nửa cơ thể ở

vị trí đối diện. Ở người thuận tay phải, mọi hoạt động của tay do bán cầu não trái

chỉ huy và ngược lại.

Trong trường hợp người thuận tay trái bị buộc dùng tay phải một cách

thường xuyên, điều này sẽ hạn chế khả năng chỉ huy của phần bán cầu não

mạnh hơn (ở đây là bán cầu não phải) và phần bán cầu não yếu hơn (bán cầu

não trái) sẽ bị "làm việc" quá tải.

Do đó, các nhà khoa học khuyến cáo không nên thay đổi bản năng sử

dụng tay trái của người thuận cánh tay này, vì như vậy có nghĩa là can thiệp thô

bạo vào khả năng hoạt động của não và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho

cuộc sống của họ, như trong việc tư duy, tập trung suy nghĩ hay khả năng điều

khiển cá nhân...

2.1.7. Các loại tư duy

Có thể phân loại tư duy theo nhiều phương diện khác nhau.

Xét theo phương diện hình thành và phát triển tư duy thì có thể chia tư

duy thành ba loại:

2.1.7.1. Tư duy trực quan hành động

Là loại tư duy có cả ở con người và động vật cao cấp. Đó là tư duy bằng

các thao tác cụ thể hướng vào việc giải quyết một số tình huống cụ thể.

2.1.7.2. Tư duy trực quan hình ảnh

Là loại tư duy phát triển ở mức cao hơn, chỉ có ở người. Đối với loại tư

duy này, việc giải quyết vấn đề dựa trên các hình ảnh của sự vật, hiện tượng.

2.1.7.3. Tư duy trừu tượng

Page 66: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Là loại tư duy phát triển ở mức cao nhất, chỉ có ở người. Loại tư duy này

giải quyết vấn đề dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ logic và gắn bó chặt

chẽ với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm phương tiện để tư duy.

Xét theo cách giải quyết vấn đề thì có thể chia tư duy làm ba loại:

2.1.7.4. Tư duy thực hành

Tư duy thực hành với nhiệm vụ đề ra một cách trực quan, dưới hình thức

cụ thể và được giải quyết bằng những hành động thực hành, vừa thực hành vừa

tìm cách thức giải quyết tiếp theo.

2.1.7.5. Tư duy hình ảnh cụ thể.

Với tư duy hình ảnh cụ thể, việc giải quyết nhiệm vụ dựa trên hình ảnh

trực quan đã có. Loại tư duy hình ảnh cụ thể rất có ý nghĩa trong quá trình thực

hiện các kĩ năng thực hành, các hình thức lao động cụ thể.

2.1.7.6. Tư duy lí luận

Tư duy lí luận đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri

thức lí luận để giải quyết những vấn đề không cụ thể, những vấn đề cần có cơ

sở lí thuyết.

Trong thực tế, con người thường ít khi sử dụng chỉ một loại tư duy nào đó mà

thường sử dụng phối hợp nhiều loại tư duy, trong đó có một loại tư duy nhất

định nào đó giữ vai trò chủ yếu.

2.1.7.7. Tư duy sáng tạo

Mỗi người làm việc, không thể không suy nghĩ và đòi hỏi cải tiến công việc

phải là cơ sở cho mọi suy nghĩ của chúng ta. Nói cách khác, mỗi người chúng ta

đều cần suy nghĩ để sáng tạo. Tư duy sáng tạo là tài nguyên cơ bản nhất của

mỗi con người. Chúng ta cần sáng tạo vì chúng ta cảm thấy rằng, mọi việc cần

được thực hiện theo cách đơn giản hơn và tốt hơn. Dù chúng ta tài giỏi như thế

nào, chúng ta vẫn luôn mong muốn tốt hơn nữa.

Sáng tạo gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới (đổi mới), sáng chế, các

ý tưởng mới, các phương án lựa chọn mới. Sự sáng tạo thuộc về năng lực ra

quyết định, thuộc về sự kết hợp độc đáo hoặc liên tưởng, phát ra các ý tưởng

Page 67: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

đạt được kết quả mới và ích lợi. Mọi người có thể dùng tính sáng tạo của mình

để đặt vấn đề một cách bao quát, phát triển các phương án lựa chọn, làm phong

phú các khả năng và tưởng tượng các hậu quả có thể nảy sinh. Tóm lại, bạn

làm được gì mới, khác và có ích lợi, đấy là sáng tạo. Sự sáng tạo nảy sinh ở

một tầng lớp và mọi giai đoạn trong cuộc sống của chúng ta.

Đối với một công ti hay tổ chức, tài nguyên quan trọng nhất chính là

nguồn nhân lực, tức là những người làm việc cho công ti, tổ chức. Họ gồm các

thợ bảo trì, những người bán hàng, các công nhân trong dây chuyền sản xuất,

những người đánh máy... và các cán bộ quản lí mọi cấp bậc. Nguồn nhân lực

của công ti làm cho các tài nguyên khác hoạt động, mang lại hiệu quả cao.

Thiếu nhân sự tốt, một công ti, tổ chức, dù được trang bị máy móc hoàn hảo

nhất, được tài trợ tốt nhất, sẽ hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, mỗi người trong

mỗi cơ cấu tổ chức cần học phương pháp luận (các thủ thuật cơ bản, các

phương pháp, lí thuyết) về tư duy sáng tạo. Điều này làm cho cơ cấu tổ chức

của bạn mạnh lên rất nhiều. Trong mỗi cơ cấu tổ chức, càng nhiều người học

phương pháp luận về tư duy sáng tạo, tổ chức hoạt động càng có hiệu quả.

Câu Chuyện thứ chín

Tư duy có năng lượng và chữa bệnh bằng tư duy (theo Priroda I

Chelovec, từ Tri thức trẻ).

Thuật ngữ "Wholedynamic", xuất xứ từ tiếng Anh, có nghĩa như khoa học

nghiên cứu về sự sống, như là sự vận động tổng hoà của một tổng thể bao gồm

cơ thể sống, tinh thần và tư duy của con người. Theo quan niệm của

Wholedynamic, tư duy và tình cảm của con người thực chất cũng là những sinh

thể sống trong mỗi chung ta và con người phải luôn tạo ra sự "chung sống hoà

bình" giữa các sinh thể vô hình và hữu hình đó.

Vemon Vulf, nhà Tâm thần học nổi tiếng ở Mĩ nhận xét: "khi chúng ta tập

trung suy nghĩ về một điều gì đó "tốt" hay "xấu", ý nghĩ đó ngay tức khắc tác

động lên chính cơ thể chúng ta. Mọi niềm vui sướng, bệnh tật đều do những suy

nghĩ, lo âu của con người tạo nên. Ý nghĩ về tinh thần không chỉ là sự phản ánh

Page 68: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

bản thân mỗi chúng ta mà còn là những sinh thể tách rời cơ thể và “sống” cuộc

sống riêng của nó. V.Vulf gọi những sinh thể đó là những Wholedyma, nghĩa là

những dạng tư duy có năng lượng. Ông đã nghiên cứu thành công phương

pháp chế ngự các Wholedyma và giúp nhiều người vượt qua những khủng

hoảng tâm lí và chữa được một số bệnh tật.

Phương pháp của V.Vulf vừa đơn giản vừa phức tạp. "Khách hàng" khi

đến gặp V.Vulf phải trả lời một loạt câu hỏi. Nội dung các câu trả lời đó sẽ làm rõ

nguyên nhân của những vướng mắc trong cuộc sống. Mục đích cuối cùng của

V. Vulf là tạo ra xung quanh "khách hàng" một trường đặc biệt, gọi là trường tình

thương hoặc trường tình yêu, cũng giống như từ trường, điện trường, trường

hấp dẫn trong Vật lí học.

Về nguyên tắc, bất kể một ai cũng có thể tạo ra xung quanh mình một

trường tình yêu. Chỉ cần nhắm mắt lại và tự mình dùng tình cảm yêu thương

tưởng tượng ra một không gian tràn ngập tình cảm xung quanh mình. Để làm

được điều đó vừa phải tập luyện vừa phải có quan niệm về sự thống nhất giữa

con người và vũ trụ, về sự tồn tại của các mối quan hệ xuyên thấu mọi vật. Cần

nhận thức rõ ràng, mọi tư duy và tình cảm của con người đều có năng lượng, có

sức mạnh tái tạo hoặc phá hoại sự sống của con người.

Nguyên nhân chủ yếu của mọi sự rắc rối, phiền muộn trong cuộc sống là

do các ý nghĩ và tình cảm tiêu cực của con người gây ra. Các hình thức tư duy

như sợ hãi, đau khổ, ác, sẽ tạo ra các chương trình khá bền vững có tác dụng

huỷ hoại sự sống của con người. Khi con người chỉ chăm chú nghĩ về cái xấu,

sự sống sẽ trở nên tồi tệ và ngược lại. Như vậy, Wholedynamic vừa là khoa học

về khả năng kéo dài cuộc sống vừa là môn khoa học dạy chúng ta nên sống thế

nào cho khoẻ mạnh. Nếu Vật lí, Hoá học và các khoa học khác phát hiện ra các

biến đổi của tự nhiên và dùng các quy luật đó để khống chế, điều khiển tự nhiên

thì cũng tương tự, Wholedynamic là khoa học về sự sống, về các sinh thể, cũng

nghiên cứu các quy luật giao tiếp, nhận thức, nghiên cứu ngôn ngữ của sự

sống.

Page 69: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Có thể coi con người như là cái bình để đựng tư tưởng, tình cảm. Giống

như trong tự nhiên, chất thể có tác đụng đối với bình đựng nó. Tư tưởng, tình

cảm cũng có tác động trở lại đối với con người. Những lối tư duy nào có tác

dụng huỷ hoại sự sống đều có tác dụng ngăn chặn dòng thông tin tốt lành từ vũ

trụ đến với con người. Ngược lại những tư tưởng lành mạnh, tốt đẹp cũng có

tác dụng "bật đèn xanh" để đón nhận dòng thông tin tốt đẹp từ vũ trụ.

Trong thế kỉ XX đã có hàng ngàn ví dụ chứng minh các bệnh nhân mắc

bệnh hiểm nghèo trở nên khoẻ mạnh và qua khỏi bệnh tật nhờ vào lòng tin,

niềm lạc quan mạnh mẽ và tâm niệm qua khỏi sóng gió. Nếu ai đó muốn mình

khoẻ mạnh, trước hết cần nghĩ rằng mình không có bệnh, bởi lẽ ý nghĩ cũng là

một sinh thể có tác động mầu nhiệm tới cơ thể vật lí của chúng ta. Trong vật lí

học có quy luật tác dụng và phản tác dụng do Newton vĩ đại phát minh ra cách

đây mấy thế kỉ. Theo quy luật này, khi một thực thể tác động một lực lên một

thực thể khác, ngay tức khắc sẽ chịu tác dụng của một phản lực từ vật thể kia:

Nếu một người có ý nghĩ và tình cảm bực bội hoặc ghen tức đối với người khác

thì trước hết ý nghĩ và tình cảm đó có tác dụng tàn phá sức khoẻ tinh thần và

tâm trí đối với chủ thể. Tư duy thông thái của người xưa có câu: Sắt tạo ra gỉ,

đến lượt mình gỉ lại gặm nhấm tàn phá sắt". Quy luật đó cũng tương tự như

trong quá trình tâm lí và tư duy của con người. Ý nghĩ và tình cảm tiêu cực

trước hết có tác dụng xấu đối với người tạo ra và mang nó.

Nhận thức của con người cũng giống như một video camera. Mỗi một

khoảnh khắc chúng ta nhận được một khối lượng lớn thông tin từ các cơ quan

xúc cảm dưới tác dụng của ánh sáng, âm thanh, mùi vị, sóng điện từ. Cuộc

sống của chúng ta đầy ắp những thông tin như vậy. Để tránh bị quá tải và căng

thẳng trước cuộc tấn công dữ dội của thông tin, con người sử dụng nguyên tắc

hội tụ. Khi chúng ta hội tụ vào những suy nghĩ đen tối, tất cả những xu hướng

tiêu cực trong cuộc sống của chúng ta sẽ được khuyếch đại. Khi chúng ta quá

suy nghĩ về bệnh tật, chúng ta sẽ cảm thấy ốm đau và cuộc sống sẽ đầy rẫy

những cảm xúc buồn thảm. Ngược lại khi chúng ta hội tụ vào những hình tượng

tư duy tốt đẹp, cơ thể nhận được những xung lượng có lợi cho sức khoẻ. Anbe

Anxtanh đã từng nói: "Nếu một ai đó tập trung được toàn bộ năng lượng tư duy

Page 70: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

của mình vào một vấn đề nào đó trong vòng 3 phút, người đó không những có

thể tìm được cách giải quyết vấn đề mà còn có thể trở thành thiên tài.".

Trong mỗi con người chúng ta đều có một góc bình yên, ở đó không có

những suy nghĩ về bệnh tật, nỗi sợ hãi, sự ức chế, ghen tuông đố kị. Khi chúng

ta hoà nhập được vào góc đó, dù chỉ trong khoảnh khắc, những khả năng có vẻ

khiêm nhường và nhỏ nhoi của chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ đến mức ngoài

sức tưởng tượng dường như không có gì ngăn cản nổi, sẽ tạo ra những thay

đổi lớn lao, mở ra những khả năng vô tận để phát triển hài hoà và sáng tạo. Góc

bình yên đó có thể là những kỉ niệm êm đềm thời thơ ấu, những cảnh đẹp tuyệt

mĩ của thiên nhiên được chứng kiến và ghi lại bằng những dấu ấn mạnh mẽ

trong tâm khảm.

Wholedynamic ngày nay đã ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của khoa học

và đời sống. Trong hoạt động giáo dục, Wholedynamic phát hiện khuyến khích

những nội năng trong nhân cách của học sinh. Ví dụ trong giảng dạy văn học,

trước đây, khoa học sư phạm chỉ tập trung phân tích các tác phẩm văn học

nghệ thuật, ngày nay dưới ánh sáng của khoa học Wholedynamic, việc giảng

dạy văn học còn tập trung vào sự cảm nhận tình cảm và tư tưởng sâu sắc của

tác phẩm như để hoà nhập vào tác phẩm trên cơ sở khai thác bản năng, xúc

cảm hài hoà và các định hướng thần sống động của con người. Cách giáo dục

đó tạo cho học sinh một niềm say mê tự nhiên và họ sẽ không cảm thấy việc

học là một gánh nặng bắt buộc về tâm lí và trí tuệ. Việc giảng dạy ngoại ngữ

cũng có những thay đổi căn bản. Học sinh được thay đổi phương pháp suy nghĩ

và cảm nhận thế giới bằng chính thứ ngoại ngữ mà họ đang tiếp nhận. Theo

cách học mới, học sinh không bị nhồi nhét thông tin mà học cách tạo lập các

hình ảnh tư duy. Nhờ thế thời gian học tập được rút ngắn, kiến thức được ghi

nhớ lâu, thậm chí đến suốt đời. Điều căn bản là việc học trở nên thú vị hào hứng

và cần thiết cho cuộc sống như hơi thở và thức ăn vậy.

Trong lĩnh vực sinh học, quan niệm của Wholedynamic, mỗi một tế bào

sống là một hình mẫu sống động cho toàn bộ cơ thể. Mỗi tế bào trong hàng tỉ tế

bào ngoài chức năng hoạt động sống bình thường còn đảm nhận một chức

năng nhất định. Tế bào có khả năng chuyển các xung thần kinh từ trường thông

Page 71: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tin. Tế bào biết rất rõ thông tin nào cần chuyển, chuyển đi đâu và lúc nào. Do đó,

các tế bào dường như sống trong một cộng đồng phối hợp chặt chẽ, hài hoà

đến mức gần như tuyệt đối.

Theo nhận xét của các nhà khoa học trong các cuộc hội thảo,

Wholedynamic sẽ là phương pháp tư duy của thế kỉ XXI, vì đó là phương pháp

tổng thể. Khi mỗi chúng ta cảm nhận được sự thống nhất giữa con người và vũ

trụ thì vũ trụ nằm ngay trong mỗi con người chúng ta.

2.2. Tưởng tượng

2.2.1. Khái niệm

Trong hoạt động thực tiễn, không phải bất kì hoàn cảnh có vấn đề nào,

tình huống nào cũng được giải quyết bằng tư duy. Điều này cũng có nghĩa là

không phải trường hợp nào cũng có đầy đủ dữ kiện để tìm ra giải pháp một cách

hợp lí và chặt chẽ. Trong những trường hợp này, con người không thể bằng tư

duy để giải quyết mà phải dùng một cách thức nhận thức khác, nhận thức bằng

tưởng tượng.

Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ánh những cái chưa từng có

trong kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những

biểu tượng đã có (những hình ảnh cũ trong trí nhớ).

Trong khi tạo một biểu tượng mới nào đó trong trí tưởng tượng, con

người không thể tưởng tượng ra một điều gì hoàn toàn mới chưa được tri giác

bao giờ. Khác với tư duy, tưởng tượng không giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ

một cách hoàn toàn chính xác mà chỉ là một mô hình để kiểm nghiệm mà thôi.

2.2.2. Đặc điểm của tưởng tượng

- Cũng như tư duy, tưởng tượng chỉ nảy sinh trong tình huống có vấn đề,

trước nhu cầu khám phá, phát hiện làm sáng tỏ cái mới, nhưng chỉ khi tính bất

định của hoàn cảnh quá lớn, không thể tư duy được. Do vậy cách giải quyết vấn

đề của tưởng tượng không có sự chặt chẽ chuẩn xác.

- Tưởng tượng là quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu

bằng hình ảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao.

Page 72: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nhờ những hình

ảnh cụ thể đã rừng tri giác, con người dễ "mường tượng" được vấn đề và hình

thành những biểu tượng mới.

- Sự phát sinh tưởng tượng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện thể chất, điều

kiện xã hội và các yếu tố tâm lí của cá nhân.

2.2.3. Vai trò của tưởng tượng

- Tưởng tượng cần thiết trong bất kì hoạt động nào của con người. Việc

học tập, lao động, sáng tác, trò chơi... chỉ có thể có kết quả nếu có quá trình

tưởng tượng.

- Tưởng tượng cần thiết cho mọi hoạt động. Ý nghĩa quan trọng nhất của

tưởng tượng là cho phép con người hình dung được kết quả trung gian và cuối

cùng của lao động.

- Tưởng tượng tạo nên một hình mẫu sáng tươi, giúp con người giảm bớt

sự căng thẳng để tiếp cận với hiện thực, hướng về tương lai, kích thích con

người để đạt được những kết quả lớn lao, thực hiện được các ước muốn sáng

tạo của mình.

- Tưởng tượng ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nhân

cách con người, trước hết là sự phát triển về mặt đạo đức. Hình mẫu người lí

tưởng mà con người muốn vươn tới là kết quả của quá trình tưởng tượng, trên

cơ sở đó con người phấn đấu theo hình ảnh mẫu mực đã xây dựng.

Nói chung tưởng tượng là công cụ mạnh mẽ của con người để nhận thức

và cải tạo thế giới.

2.2.4. Các loại tưởng tượng

Tuỳ theo tính tích cực và hiệu quả của tưởng tượng, người ta chia thành

một số loại sau đây:

2.2.4.1. Tưởng tượng lành mạnh

Tưởng tượng lành mạnh là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm

đáp ứng những nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người. Tưởng

tượng này gồm hai loại là tái tạo và sáng tạo. Tưởng tượng tái tạo hay tưởng

Page 73: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tượng phục hồi là loại hình tạo ra những hình ảnh mới đối với cá nhân người

tưởng tượng và dựa trên sự mô tả của người khác, của tài liệu... Tưởng tượng

sáng tạo là quá trình xây dựng nên những hình mới chưa từng có trong kinh

nghiệm cá nhân cũng như chưa có trong xã hội, được hiện thực hoá trong các

sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị.

2.2.4.2. Tưởng tượng không lành mạnh

Tưởng tượng không lành mạnh tạo ra những hình ảnh không được thể

hiện trong cuộc sống, đưa ra những chương trình hành vi không được thực

hiện, tưởng tượng để thay thế cho hoạt động mà thôi. Tưởng tượng không lành

mạnh có thể xảy ra có chủ định hoặc không chủ định.

2.2.4.3. Ước mơ

Ước mơ là loại tưởng tượng tổng quát, hướng về tương lai, biểu hiện

những mong muốn, ước ao gắn liền với nhu cầu con người.

Những hình tượng mà con người dựng lên trong mơ ước của mình có

những đặc điểm như sau:

- Tính chất cụ thể, sinh động sáng sủa của hình tượng, có nhiều chi tiết

vụn vặt.

- Cách thức cụ thể để thực hiện ước mơ không rõ ràng, chỉ tưởng tượng

những biện pháp rất chung chung.

- Hình tượng đầy xúc cảm, đầy quyến rũ với người ước mơ.

- Kết hợp ước mơ với lòng tin sẽ có thể thực hiện được nó, với lòng mong

muốn tha thiết để biến ước mơ thành hiện thực.

Nhờ những đặc điểm trên đây, ước mơ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy

sáng kiến, tăng thêm sức mạnh cho con người trong những lúc khó khăn nhất.

Cũng cần phân biệt những ước mơ tươi sáng với những ước mơ xa rời cuộc

sống, những ước vọng trống rỗng vô căn cứ và có thể gọi đó là ảo tưởng.

2.2.5. Những cách phản ánh tái tạo hiện thực trong quá trình tưởng tượng

Page 74: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Lao động không những là nguồn phát sinh ra tưởng tượng mà còn là

phương tiện thường xuyên để hoàn chỉnh và phát triển nó. Lao động đã hỗ trợ

cho sự hình thành và cải tiến những cách thức thay đổi và biến hoá biểu tượng

ở con người trong quá trình tưởng tượng. Hình ảnh của tưởng tượng được tạo

ra bằng nhiều cách khác nhau:

- Thay đổi độ lớn, kích thước, số lượng của vật hay của các thành phần

của sự vật so với thực tế tạo nên những hình tượng tưởng tượng như con

người khổng lồ, Phật trăm tay...

- Kết hợp, gắn vào tưởng tượng của mình những thành phần hoặc những

nguyên tố bị tách rời từ các đối tượng khác nhau tạo nên một biểu tượng mới

chưa hề tồn tại trong thực tế. Hình ảnh con rồng trong lịch sử Việt Nam là một ví

dụ.

- Tạo nên hình ảnh mới bằng cách nhấn mạnh một tính chất hoặc một yếu

tố nào đó của đối tượng. Đây là một hình thức cường điệu vấn đề, ví dụ như các

bức tranh châm biếm.

- Tạo ra một hình tượng mới sau khi khái quát các nét có chung ở nhiều

đối tượng cùng loại (kiểu mẫu hoá một hình tượng trong văn học). Cũng có thể

xem đây là phương pháp điển hình hoá, tổng hợp sáng tạo, khái quát những

thuộc tính và đặc điểm cá biệt, điển hình của nhân cách.

3. NGÔN NGỮ VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC3.1. Khái niệm

Trong hoạt động thực tiễn, con người nhận thức thế giới, tiếp thu kinh

nghiệm sống, truyền đạt ý tưởng của cá nhân cho người khác và thực hiện

nhiều vai trò xã hội khác là nhờ ngôn ngữ.

Trong quá trình sống và hoạt động cùng nhau, con người có nhu cầu phải

giao tiếp, trao đổi, tiếp xúc với nhau và nhận thức hiện thực. Khi lao động cùng

nhau, hai quá trình giao tiếp và nhận thức không tách rời nhau - con người lao

động để thông báo cho nhau về sự vật, hiện tượng nào đó, nhưng để thông báo

Page 75: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tới con người lại phải khái quát sự vật, hiện tượng ấy vào trong một lớp, một

nhóm các sự vật, hiện tượng cùng loại. Trong trường hợp này ngôn ngữ đã ra

đời và đáp ứng được nhu cầu thống nhất các hoạt động đó.

Trong sinh hoạt, con người sử dụng các kí hiệu để thực hiện hoạt động

của mình. Kí hiệu cũng có chức năng của công cụ - hướng vào hoạt động và

làm thay đổi hoạt động tuỳ theo các thuộc tính vốn có trong kí hiệu. Ngôn ngữ là

một hệ thống các kí hiệu – từ ngữ. Kí hiệu - từ ngữ là một hiện tượng tồn tại

khách quan trong đời sống tinh thần con người, là một phương tiện xã hội đặc

biệt. Kí hiệu từ ngữ làm thay đổi hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ, hoạt

động bên trong, nó hương vào và làm trung gian hoá cho các hoạt động tâm lí

cấp cao của con người như tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng...

Ngôn ngữ là phương tiện truyền thông tư tưởng hay tình cảm. Nhưng một

ngôn ngữ trưởng thành bao giờ cũng là một hệ thống kí hiệu có tính quy ước và

có thể nói ngôn ngữ là những kí hiệu có giá trị giống nhau đối với mỗi cá thể của

cùng một tập thể dùng để biểu hiện tình cảm hay tư tưởng. Ngôn ngữ là một hệ

thống kí hiệu đặc biệt, dùng làm phương tiện giao tiếp và công cụ để tư duy.

3.2. Các chức năng của ngôn ngữ

3.2.1. Chức năng chỉ nghĩa

Ngôn ngữ được dùng để chỉ chính sự vật, hiện tượng nghĩa là làm vật

thay thế cho sự vật, hiện tượng. Ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có thể được

biểu hiện qua sự khách quan hoá của ngôn ngữ ngoài phạm vi nhận thức cảm

tính. Chức năng chỉ nghĩa của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng làm

phương tiện tồn tại, truyền đạt và nắm vững kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài

người.

3.2.2. Chức năng truyền thông

Xã hội loài người tồn tại dựa trên sự trao đổi. Sự trao đổi tạo thành một

quá trình tiếp xúc liên tục giữa người và người. Tiếng nói là mối liên hệ sinh

động bền bỉ và phong phú nhất, nối liền các thế hệ đã, đang và sẽ sống của một

dân tộc thành một chuỗi lịch sử vĩ đại. Trong gia đình, trong cơ quan, trong một

quốc gia, con người sử dụng ngôn ngữ để truyền thông, thông báo cho nhau

Page 76: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

những ý muốn, nguyện vọng, tình cảm một cách chính xác nhất. Ngôn ngữ là

phương tiện truyền thông chính xác nhất giữa con người.

Ngôn ngữ, yếu tố của văn hoá, nó giúp con người tích luỹ và lưu truyền di

sản tinh thần của tổ tiên. Ngôn ngữ còn là công cụ để truyền tay văn hoá, khoa

học.

Chức năng truyền thông của ngôn ngữ gọi là chức năng giao tiếp. Giao

tiếp bao giờ cũng dẫn đến thay đổi hành vi.

3.2.3. Chức năng khái quát hoá

Ngôn ngữ là sản phẩm lịch sử của xã hội. Cả một dân tộc hoặc xã hội là

người sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ chứ không phải của vài người cá biệt nào.

Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng lẻ mà chỉ một loại, một lớp sự

vật, hiện tượng có chung những thuộc tính bản chất: Vì vậy ngôn ngữ là

phương tiện hữu hiệu của hoạt động trí tuệ.

Hoạt động trí tuệ bao giờ cũng có tính khái quát và không thể tự diễn ra,

mà phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện. Chức năng khái quát hoá của ngôn

ngữ còn gọi là chức năng nhận thức hay chức năng làm công cụ hoạt động trí

tuệ.

3.3. Các tính chất cơ bàn của ngôn ngữ

3.3.1. Tính nội dung của ngôn ngữ

Tính nội dung được xác định bằng số lượng những ý nghĩ, tình cảm,

nguyện vọng muốn chuyển tải, nói lên mức độ và sự tương ứng với thực tại của

chúng. Ngôn ngữ có thể giàu hoặc nghèo nội dung tuỳ theo số lượng và tính

chất của các ý nghĩ, tình cảm và mong muốn được biểu lộ ra. Có thể gọi ngôn

ngữ là có nội dung nếu một vấn đề nào đó được trình bày một cách tường tận,

nếu tình cảm và ý nghĩ trong đó thực thà và sâu sắc. Trái lại, những tình cảm và

ý nghĩ hạn chế, trống rỗng, hời hợt sẽ làm cho ngôn ngữ ít nội dung.

Tính nội dung của ngôn ngữ phụ thuộc vào việc lựa chọn và sử dụng các

từ để biểu lộ ý nghĩ, tình cảm và nguyện vọng của con người. Một người có vốn

từ giàu và đa dạng có thể biểu lộ những ý nghĩ và các sắc thái khác nhau của ý

Page 77: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

nghĩ một cách thích đáng. Vốn từ ấy là điều kiện cho ngôn ngữ có nội dung.

Nhưng cần chú ý rằng vốn từ ấy chưa đủ làm cho ngôn ngữ có nội dung mà còn

phải biết cách lựa chọn sử dụng thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể.

3.3.2. Tính dễ hiểu của ngôn ngữ

Ngôn ngữ sẽ trở nên dễ hiểu khi nó bao gồm nhưng câu ngắn, không lạm

dụng quá nhiều từ chuyên môn và cấu trúc ngữ pháp biểu hiện được bản chất

của ý nghĩ cần diễn đạt.

3.3.3. Tính diễn cảm của ngôn ngữ

Ngôn ngữ có thể mang tính diễn cảm trong sáng, mạnh mẽ hoặc ngược

lại, mờ mịt, rời rạc. Tính diễn cảm của ngôn ngữ được bảo đảm trước hết nhờ

cách phát ngôn, nhấn mạnh đúng chỗ, lên xuống giọng hợp lí. Những điều này

được biểu hiện thông qua ngữ điệu của người nói.

3.3.4. Tính tác động của ngôn ngữ

Tính tác động là ảnh hưởng của ngôn ngữ đến tư tưởng, tình cảm và ý

chí của người khác, tới niềm tin và cách cư xử của họ.

Phương tiện tác động của ngôn ngữ có ý nghĩa lớn trong công tác giáo

dục cũng như chỉ huy, lãnh đạo. Tính tác động của ngôn ngữ trước tiên được

thể hiện ở nội dung tư tưởng của nó. Nếu nội dung của ngôn ngữ phản ánh

được quyền lợi và nhu cầu của một số người nào đó, nếu nội dung ấy giúp họ

nhận thức đúng được bản chất của sự kiện thì ngôn ngữ ấy có khả năng củng

cố niềm tin của con người. Lòng trung thực và tính thuyết phục của người nói sẽ

buộc người nghe phải tin vào lời nói của chính mình cũng có ý nghĩa lớn.

Ý nghĩa tác động của ngôn ngữ rất khác nhau. Bằng ngôn ngữ, chủ thể có

thể dạy bảo người khác, khuyên răn họ, ngăn ngừa những hậu quả do hành vi

của họ gây ra... Trong ngôn ngữ có thể biểu hiện lời yêu cầu, ra lệnh, cấm đoán.

Tất cả những điều ấy thực hiện bằng các biện pháp phát ngôn theo văn phạm

và lời văn nhất định.

Dạy bảo và căn dặn làm cho ngôn ngữ có đặc điểm riêng - ngôn ngữ

mang tính chất giảng giải, phân tích những mặt trái và mặt phải của một hành

Page 78: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

động. Trong lời căn dặn, người nói trước hết cần làm cho người nghe hiểu được

hành vi và có thái độ nhất định đối với hành vi đó.

Lời khuyên nói ra trong trường hợp khi người kia dao động, chưa dứt

khoát hoặc không biết nên làm như thế nào. Giọng nói có tính chất lời khuyên

nên đầy sự tin tưởng vào khả năng, tính hợp lí và cần thiết phải làm chính điều

ấy chứ không phải là một hành vi nào ngược lại.

Chỉ dẫn có ý nghĩa tác động, nói ra một cách ngắn gọn, không cho phép

bàn tán, không gây ra ngờ vực trong việc thực hiện vấn đề nào đó.

Thỉnh cầu có mục đích đạt được ở người kia sự đáp ứng một lợi ích nào

đó của mình.

Ra lệnh có mục đích tác động trực tiếp lên ý chí người khác, đó là lời yêu

cầu, đòi hỏi thực hiện một điều gì đó. Giọng nói khi ra lệnh biểu lộ nghị lực và ý

chí của người ra lệnh. Bản thân giọng nói khi đó đã không cho phép có ý kiến

chống lại điều này làm cho ra lệnh khác với lời thỉnh cầu.

Những tính chất của ngôn ngữ trên đây cho ta một sự khẳng định rằng

ngôn ngữ của con người hoàn toàn khác với con vật. Cũng dùng tín hiệu để

truyền thông nhưng tín hiệu loài vật dùng thì bất biến và hạn chế. Tín hiệu của

loài vật chỉ dùng cho đồng loại, không thể phố biến cho loài khác. Tín hiệu của

loài vật mang tính chất di truyền, không có sự đối thoại và hết sức giới hạn.

Ngôn ngữ của con người biến đổi không ngừng, đào thải cái cũ và bổ

sung những thành quả mới. Hơn nữa, con người đã thành công trong việc đem

ngôn ngữ loài người huấn luyện cho một số loài vật để chúng hiểu rõ ý muốn

của người muốn điều khiển chúng.

3.4. Các loại ngôn ngữ

Có một số loại ngôn ngữ liên quan với nhau trên những bình diện nhất

định, người ta chia ngôn ngữ thành mấy loại sau đây:

3.4.1. Ngôn ngữ bên ngoài

Ngôn ngữ bên ngoài gồm ngôn ngữ bằng lời và ngôn ngữ không lời, trong

ngôn ngữ bằng lời có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.

Page 79: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Ngôn ngữ nói

Ngôn ngữ nói biểu hiện qua âm thanh, phục vụ cho mục đích tiếp xúc trực

tiếp với người khác và bao giờ cũng hướng tới người nghe. Ngôn ngữ nói có thể

là 1 độc thoại hay đối thoại.

Ngôn ngữ độc thoại thể hiện khi người nói trong khoảng thời gian khá lâu

để giải bày tư tưởng của mình mà không bị người khác ngắt lời. Ngôn ngữ độc

thoại có đặc điểm là nó trình bày tuần tự và trọn vẹn ý định nói, hình thức văn

phạm đầy đủ. Các hình thức ngôn ngữ độc thoại là các bài giảng, bài báo cáo,

đọc thơ văn...

Ngôn ngữ độc thoại có những đặc điểm sau đây

- Có tính triển khai mạnh. Trong lời nói độc thoại, do rất ít sử dụng các

thông tin ngoài ngôn ngữ nên để người nghe hay người đọc hiểu được, người

nói cần phải nhắc đến, gợi ra hay miêu tả đối tượng được nói đến.

- Có tính chủ động và không rõ ràng. Ngôn ngữ độc thoại đòi hói phải xác

định rõ nội dung truyền đạt và phải biết xây dựng nội dung một cách có chủ định

và phải biết thể hiện nó theo một trình tự xác định, chủ động.

- Có tính tổ chức cao. Để độc thoại, người nói phải lập chương trình, kế

hoạch không phải cho từng câu hay từng phát ngôn riêng lẻ mà là cho toàn bộ

lời độc thoại của mình:

Ngôn ngữ đối thoại là cuộc hội thoại có sự tham gia của ít nhất hai người.

Khác với độc thoại, ngôn ngữ đối thoại không liên tục, nó không phụ thuộc vào

kế hoạch đã định trước mà phụ thuộc vào tính chất và quá trình toạ đàm, bao

giờ cũng gắn bó với sự cần thiết phải trả lời các câu hỏi hoặc những lời phản hồi

của đôi bên. Cấu trúc văn phạm của loại ngôn ngữ này có những điểm khác

biệt, ít khi nó bao gồm những câu trọn vẹn, đúng cú pháp.

Ngôn ngữ đối thoại có mấy đặc điểm sau:

- Có tính chất rút gọn. Do người nói và người nghe đều có mặt trong hoàn

cảnh giao tiếp cụ thể nên có nhiều nội dung không cần thể hiện nhờ ngôn ngữ

Page 80: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

mà được thay bằng ngôn ngữ phụ như cử chỉ, điệu bộ... vì vậy, nhiều khi ngôn

ngữ đối thoại rất khó hiểu đối với những người không tham gia đối thoại.

- Ít có tính chủ động và thường bị động. Những lời đối đáp trong ngôn ngữ

đối thoại thường tuỳ thuộc vào những tình huống cụ thể nên ít được kế hoạch

hoá.

- Ít có tính tổ chức. Những lời đối đáp trong ngôn ngữ đối thoại thường

không có chương trình, không được dự liệu trước một cách có hệ thống.

Ngôn ngữ viết

Ngôn ngữ viết về mặt cấu trúc đầy đủ hơn và có tính chất cú pháp hơn.

Ngôn ngữ viết không hướng tới người nghe mà là viết cho người đọc và là

người trực tiếp tri giác ngôn ngữ sống của tác giả và vì vậy cũng không có khả

năng tóm được ý của ngôn ngữ.

Ngôn ngữ viết đòi hỏi phải lột tả mối liên quan của những tư tưởng định

biểu lộ. Ngôn ngữ viết có một số tính chất sau đây:

- Tính triển khai của ngôn ngữ viết không mạnh. Ngôn ngữ viết không có

mối liên hệ ngược với người nói chuyện, không sử dụng các phương tiện hỗ trợ.

- Tính chỉ định, chủ động và tổ chức rất cao và chặt chẽ. Chủ thể sử dụng

ngôn ngữ viết một cách gián tiếp, người viết không thể đánh giá hết những phản

ứng của người đọc. Để thực hiện những điều muốn biểu lộ và người đọc không

thể hiểu sai điều định viết, cần phải ý thức thật rõ mức độ phù hợp, có lợi hay

không của các phương tiện ngôn ngữ được lựa chọn.

Ngôn ngữ không lời

Ngôn ngữ không lời là loại ngôn ngữ không được thể hiện bằng lời nói

hoặc chữ viết mà thể hiện qua những phương tiện khác như ánh mắt, nụ cười,

cử chỉ, điệu bộ, sự chuyển động của cơ thể, hành vi... Ngôn ngữ không lời có

giá trị cao khi chủ thể biết cách sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn với ngôn ngữ

bằng lời.

Thử đọc ý nghĩ qua ngôn ngữ cơ thể!

Page 81: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Ngôn ngữ cơ thể được hiểu chung nhất là những hành vi vô thức của cơ

thể, biểu hiện một thông điệp. Các ví dụ sau đây về ngôn ngữ cơ thể có thể rất

hữu ích trong việc giao tiếp và sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn những gì người khác

muốn nói.

Ngôn ngữ cử chỉ là một dạng giao tiếp sử dụng các cử động của cơ thể

hoặc điệu bộ thay cho âm thanh, tiếng nói và các dạng giao tiếp khác. Trong tất

cả các bài phát biểu hằng ngày và khoa học tâm lí chung khái niệm chung nhất

thường được gán cho ngôn ngữ cơ thể là những hành vi vô thức, mặc dù sự

phân cách giữa hai loại: ngôn ngữ cơ thể vô thức và có ý thức vẫn còn đang gây

tranh cãi. Chẳng hạn, một nụ cười có thể được tạo ra một cách có chủ ý hoặc

không.

Ngôn ngữ cơ thể bắt nguồn từ giao tiếp động vật. Mối liên quan giữa ngôn

ngữ cơ thể và sự giao tiếp của động vật đã được bàn đến từ lâu. Ngôn ngữ cơ

thể là sản phẩm của cả gene và ảnh hướng của môi trường. Những đứa trẻ mù

cũng cười mỉm và cười to ngay cả khi chúng không bao giờ biết đến nụ cười.

Nhà phong tục học người Iran Eibl-Eibesfeldt khẳng định rằng một số yếu

tố cơ bản của loại ngôn ngữ này là đặc điểm chung của các nền văn hoá, và vì

thế gắn với những hành động bản năng. Một số dạng ngôn ngữ cơ thể người có

tính kế thừa từ cử chỉ giao tiếp của các loài linh trưởng khác, mặc dù thường

mang những thay đổi về ý nghĩa. Nhiều cử chỉ tinh tế hơn, thay đổi theo các nền

văn hoá (chẳng hạn điệu bộ diễn tả "có" hoặc là “không”) bắt buộc phải được

học hoặc thay đổi trong quá trình học hỏi, thường do những quan sát vô thức từ

môi trường.

Hãy xem các ví dụ sau gây:

- Đứng chống tay vào hông nghĩa là đã sẵn sàng hay sự hung hăng.

- Nếu một người ngồi trong tư thế chân bắt chéo một chân đá nhẹ thì có

nghĩa là anh ta đang rầu muốn chết.

- Tay bất chéo lên ngực phản ánh sự tự vệ.

- Nếu ai đó tì tay vào má nghĩa là họ đang nghĩ hay ước lượng diều gì đó.

Page 82: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Sờ xoa nhẹ lên mũi nghĩa là sự phản đối, nghi ngại, nói dối.

- Ngả đầu vào tay, mắt cúi xuống cũng tỏ ý buồn rầu.

- Ai đó xoa tay vào nhau chứng tỏ họ đã biết cách giải quyết chuyện gì.

- Người ngồi với đôi tay quàng sau đầu và bắt chéo chân nghĩa là anh ta

tin tưởng và cảm thấy tốt đẹp.

- Nghiêng đầu nghĩa là thích thú.

- Khi ai đó gõ vào cằm, nghĩa là anh hay chị ta đang ra quyết định.

(theo Pravda)

3.4.2. Ngôn ngữ bên trong

Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ dành cho chính chủ thể, không thể dùng

nó để liên hệ với người khác. Ngôn ngữ bên trong có ý nghĩa rất lớn đối với đời

sống con người vì nó liên quan mật thiết với tư duy. Ngôn ngữ bên trong tham

gia vào tất cả các quá trình tư duy nhằm giải quyết bất kì vấn đề gì.

Đặc điểm của ngôn ngữ bên trong là không biểu thị bằng tiếng mà sự biểu

thị được thay thế bằng những cử chỉ ngôn ngữ phôi thai. Mặc dù hoàn toàn

không biểu hiện bằng lời, ngôn ngữ bên trong vẫn phải phục tùng các quy tắc

văn phạm, đặc trưng cho cách nói của người ấy, chỉ có điều nó không lộ rõ như

ngôn ngữ bên ngoài.

Các dạng ngôn ngữ trên đây có sự liên hệ mật thiết và có thể chuyển hoá

cho nhau. Chất lượng của mỗi ngôn ngữ tuỳ thuộc vào sự rèn luyện và ý thức

của mỗi cá nhân trong quá trình hoạt động của mình.

3.5. Vai trò của ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một trong hai yếu tố đã làm cho con vật trở thành người. Nói

cách khác ngôn ngữ đã góp phần tích cực làm cho các quá trình tâm lí của con

người có chất lượng khác hẳn so với con vật. Ngôn ngữ đã góp phần làm cố

định những kinh nghiệm của loài người, nhờ đó thế hệ sau có được sức mạnh

tinh thần của thế hệ trước. Có thể nói, ngôn ngữ liên quan đến tất cả các quá

Page 83: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

trình tâm lí của con người, là thành tố quan trọng nhất về mặt nội dung và cấu

trúc tâm lí người, đặc biệt là các quá trình nhận thức.

- Vai trò của ngôn ngữ trong quá trình nhận thức cảm tính

Ngôn ngữ ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến độ nhạy cảm của cảm giác, làm

cho cảm giác được thu nhận rõ ràng hơn, chắc chắn hơn. Ngôn ngữ đóng vai

trò kích thích các cảm giác của con người trong quá trình con người tiếp xúc với

môi trường xung quanh.

Ngôn ngữ làm cho các quá trình tri giác diễn ra dễ dàng hơn, nhanh

chóng và làm cho các sự vật, hiện tượng tri giác được trở nên khách quan, đầy

đủ, chính xác hơn. Khi quan sát, ngôn ngữ lại càng trở nên cần thiết hơn nhiều

vì quan sát là tri giác tích cực, có chủ định và có mục đích. Nhờ ngôn ngữ mà

tính có chủ định, tính có mục đích, tính có ý thức được biểu đạt, điều chỉnh, điều

khiển.

Đối với trí nhớ, ngôn ngữ cũng có ảnh hưởng quan trọng. Ngôn ngữ tham

gia tích cực vào các quá trình trí nhớ. Việc ghi nhớ sẽ trở nên dễ dàng hơn và

có kết quả tốt hơn nếu ta nói lên thành lời điều cần ghi nhớ.

Không có ngôn ngữ, sự ghi nhớ có chủ định sẽ không thể thực hiện được.

Ngôn ngữ là một phương tiện để ghi nhớ, là một hình thức để lưu giữ

những điều cần nhớ. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể chuyển hẳn những thông

tin cần nhớ ra bên ngoài con người. Chính như vậy, con người lưu giữ và truyền

đạt được kinh nghiệm của mình cho thế hệ sau.

- Vai trò của ngôn ngữ trong nhận thức lí tính

Ngôn ngữ liên quan chặt chẽ đến tư duy con người. Ngôn ngữ và tư duy

không đồng nhất với nhau. Tư duy dùng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ

trong quá trình tư duy. Chính điều này làm cho tư duy của con người khác về

chất so với con vật.

Lời nói bên trong là công cụ quan trọng của tư duy, đặc biệt khi giải quyết

những nhiệm vụ khó khăn. Ngôn ngữ cũng giữ vai trò lớn trong tưởng tượng.

Ngôn ngữ là phương tiện để hình thành và biểu đạt, duy trì những hình ảnh mới

Page 84: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

của tưởng tượng. Ngôn ngữ giúp làm chính xác hoá các hình ảnh của tưởng

tượng đang nảy sinh, gắn chúng lại với nhau. Ngôn ngữ làm cho quá trình

tưởng tượng biến thành một quá trình có ý thức, được điều khiển tích cực có kết

quả và chất lượng cao.

Ngôn ngữ liên quan mật thiết với tư tưởng. Tư tưởng tạo ra ngôn ngữ và

ngôn ngữ kiện toàn tư tưởng. Trong quá trình biểu hiện tư tưởng, ngôn ngữ đã

làm công việc kết hợp, hoàn bị tư tưởng. Ngôn ngữ cũng xã hội hoá tư tưởng,

nhờ nó tư tưởng được truyền thông. Thông qua các mối quan hệ xã hội được

thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ mà tư tưởng cá nhân phong phú thêm.

3.6. Sử dụng ngôn ngữ

Việc sử dụng ngôn ngữ một cách hợp lí và có những nghệ thuật nhất định

sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao giá trị cuộc sống. Như chúng ta đã

biết, ngôn ngữ là phương tiện truyền thông tư tưởng hay tình cảm. Nhưng một

ngôn ngữ trưởng thành bao giờ cũng là một hệ thống các kí hiệu có tính quy

ước. Tính chất quy ước của ngôn ngữ khiến nó trở nên trừu tượng và khái quát.

Cần biết cách nói và viết một ngôn ngữ thành một nghệ thuật nói, một

nghệ thuật viết. Một ngôn ngữ được xem là hoàn chỉnh nếu mỗi từ chỉ thể hiện

một ý tưởng mà thôi. Tuy nhiên, ngôn ngữ luôn luôn hạn chế không thể thoả

mãn cho việc diễn tả đủ tình ý cá nhân trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy cùng

một từ, con người có thể gán cho nó những ý nghĩa khác nhau tuỳ lúc, tuỳ nơi.

Từ đó nảy sinh nghệ thuật nói, nghệ thuật viết.

Tuy lựa lời mà nói nghĩa là có thể sử dụng các biện pháp tu từ cho câu

văn bóng bẩy, đẹp đẽ hơn, nhưng không thể quên mục đích chính của ngôn ngữ

là truyền tải tư tưởng. Muốn đạt yêu cầu này, ngôn ngữ đòi hỏi sự trong sáng,

mềm dẻo và uyển chuyển.

Trong nghệ thuật nói chuyện nên sử dụng ngôn ngữ cảm xúc. Ngôn ngữ

cảm xúc gồm cử chỉ, thái độ, các biểu lộ cảm xúc, giọng nói, sự thinh lặng... nhờ

đó ngôn ngữ sẽ tăng thêm sức thuyết phục.

Page 85: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Có thể nói rằng, ngôn ngữ mở rộng và phong phú hoá trí tuệ, khách quan

hoá tình cảm và chính xác hoá tư tưởng, giúp chủ thể vượt khỏi sự mơ hồ, sai

lệch, chủ quan, cho phép con người phán đoán, suy luận đạt chân lí.

4. TRÍ NHỚ VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC4.1. Khái niệm

Trí nhớ là quá trình ghi nhớ, gìn giữ và nhớ lại những kinh nghiệm đã trải

qua trong quá khứ. Các hình ảnh của tri giác, ý nghĩ, khát vọng, hoạt động, hành

vi của con người đã xảy ra trong kinh nghiệm trước đây thường không phải biến

đi không để lại dấu vết gì, mà còn lưu lại dưới dạng các hình ảnh trí nhớ nhất

định. Các hình ảnh này được gọi là biểu tượng, chúng tham gia một cách hữu

cơ vào các hoạt động tâm lí tiếp theo. Nét đặc trưng nhất của trí nhớ là trung

thành với tất cả những gì cá nhân đã trải qua, trí nhớ hoạt động một cách máy

móc, trí nhớ không làm thay đổi một chút gì trong các yếu tố đã được cá nhân

trải qua. Những vấn đề này làm phân biệt trí nhớ với các quá trình nhận thức và

đặc biệt phân biệt với tưởng tượng. Chỉ có con người mới có trí nhớ, máy tính

giúp chúng ta lưu trữ thông tin và sử dụng thông tin khi cần thiết nhưng máy tính

chỉ có bộ nhớ mà không có trí nhớ.

4.2. Ý nghĩa của trí nhớ trong hoạt động của con người

Trí nhớ là quá trình tâm lí có liên quan chặt chẽ với toàn bộ đời sống tâm

lí con người. Nhờ có trí nhớ mà con người hình thành nên được các biểu tượng

về các sự vật hay hiện tượng đã được tri giác trước đây. Nhờ vậy, nội dung của

ý thức con người không giới hạn trong các cảm giác và tri giác hiện có mà còn

bao gồm cả những kinh nghiệm và kiến thức đã thu được trước đây. Con người

nhớ các ý nghĩ của mình, giữ gìn trong trí nhớ của mình các khái niệm đã nảy

sinh về các vật thể và các quy luật tồn tại của nó. Trí nhớ cho phép con người

sử dụng các khái niệm vào trong hoạt động, trong hành vi tương lai. Nếu không

có trí nhớ, tư duy của con người sẽ bị hạn chế rất nhiều, bởi vì nó chỉ dựa trên

những tài liệu thu được trong quá trình tri giác trực tiếp mà thôi.

Page 86: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lí

bình thường, ổn định, lành mạnh. Trí nhớ cũng là điều kiện để con người phát

triển các chức năng tâm lí bậc cao, tích luỹ kinh nghiệm và sử dụng kinh nghiệm

đó ngày càng tốt hơn trong đời sống và trong hoạt động, đáp ứng ngày càng

cao những yêu cầu của cuộc sống cá nhân và xã hội.

Trí nhớ tham gia một cách hữu cơ vào quá trình tri giác. Bất kì một sự tri

giác nào cũng đòi hỏi phải hiểu được cái phải tri giác, và điều đó chỉ có thể thực

hiện được với sự tham gia của các biểu tượng từ kinh nghiệm trước đây khi

chúng được nhớ lại trong trí nhớ. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra

quá trình nhận thức lí tính (tư duy và tưởng tượng) và làm cho quá trình này đạt

được kết quả hợp lí, trí nhớ đã cung cấp các tài liệu do nhận thức cảm tính thu

nhận cho quá trình nhận thức lí tính một cách chính xác và đầy đủ.

4.3. Cơ sở sinh lí của trí nhớ

Cơ sơ sinh lí của trí nhớ là những dấu vết của quá trình thần kinh đã có

trước đây và đang được giữ gìn trong vỏ não nhờ có tính dẻo của hệ thần kinh.

Bất kì một quá trình thần kinh nào do kích thích bên ngoài gây nên dù là hưng

phấn hay ức chế, cũng đều xảy ra đối với tế bào thần kinh mà không phải không

để lại dấu vết nào. Lí luận về sự hình thành những đường liên hệ thần kinh tạm

thời của Paplop được xem là lí luận về cơ chế hình thành trí nhớ cá nhân. Phản

xạ có điều kiện là cơ sở sinh lí của sự ghi nhớ. Sự củng cố, bảo vệ đường liên

hệ tạm thời được thành lập là cơ sở sinh lí của sự giữ gìn và tái hiện.

Các mối liên hệ thần kinh tạm thời được tạo nên nhờ tri giác cũng không

phải không đổi. Trong quá trình hoạt động đa dạng của con người, chúng luôn

luôn thay đổi và phức tạp hoá thêm, đồng thời vừa tham gia vào cái mới với

những sự hưng phấn còn lưu lại khác, vừa được cấu tạo lại dưới ảnh hưởng

của những kinh nghiệm ngày càng được mở rộng thêm.

Trong vỏ não, mỗi lần có sự nhớ lại thì lại xảy ra một quá trình sinh lí mới

không phải là sự sao chép hoàn toàn cái đã xảy ra khi tri giác. Vì vậy biểu tượng

được nhớ lại trong trí nhớ cũng không phải là sự sao chép hoàn toàn đúng tri

giác trước đây, mà luôn luôn có sự biến dạng ít nhiều..

Page 87: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

4.4. Các loại trí nhớ

Trí nhớ được phân loại tuỳ theo đặc điểm của hoạt động trong đó diễn ra

quá trình ghi nhớ cũng như tái hiện. Có thể phân ra các loại trí nhớ sau đây:

4.4.1. Căn cứ vào nội dung được phản ánh

Căn cứ vào nội dung được phản ánh, trí nhớ có thể được phân loại thành:

- Trí nhớ vận động

Loại trí nhớ này phản ánh những cử động và hệ thống cử động, chủ thể

nhớ lại những sự vận động, những hành động mà mình đã thực hiện trước đây,

họ không hành động lại nhưng họ có biểu tượng về hành động, vận động ấy. Trí

nhớ vận động có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành những kĩ xảo thực

hành và lao động.

- Trí nhớ cảm xúc

Trí nhớ cảm xúc phản ánh những rung cảm, tình cảm đã diễn ra trong

hoạt động trước đây. Những cảm xúc, tình cảm trở thành những tín hiệu đặc

biệt, hoặc thúc đẩy con người hành động hoặc nhắc nhở con người về những

hành vi trước đây đã gây ra tình cảm ấy. Khi trở về một nơi nào đó đầy ắp

những kỉ niệm xưa, không gian cũ trước mắt, con người cũ trước mắt... sẽ làm

chủ thể nhớ lại những cảm xúc từng có trước đây ở không gian này, với những

con người này.

- Trí nhớ hình ảnh

Trí nhớ hình ảnh là loại trí nhớ phản ánh những hình ảnh, biểu tượng thị

giác, khứu giác, vị giác của các sự vật, hiện tượng đã tác động trước đây. Loại

trí nhớ này có thể đạt đến một trình độ phát triển rất cao thường trong những

điều kiện nó phải bù trừ hoặc thay thế cho những loại trí nhớ đã bị mất. Trí nhớ

hình ảnh đặc biệt phát huy trong loại hình lao động nghệ thuật.

- Trí nhớ từ ngữ - logic

Loại trí nhớ này phản ánh những tư tưởng, ý nghĩ của con người, ý nghĩ,

tư tưởng không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được. Vì vậy, người ta gọi trí

nhớ này là trí nhớ từ ngữ - logic.

Page 88: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

4.4.2. Căn cứ vào tính mục đích

Căn cứ vào tính mục đích, trí nhớ có thể được phân loại thành:

- Trí nhớ không chủ định

Trí nhớ không chủ định là loại trí nhớ trong đó việc ghi nhớ, gìn giữ và tái

hiện một cái gì đó được thực hiện không theo một mục đích trước, không được

thực hiện theo một kế hoạch đã xác định trước. Trí nhớ không chủ định thường

xuất phát từ các yếu tố tình huống, bên ngoài.

- Trí nhớ có chủ định

Trí nhớ có chủ định là loại trí nhớ có mục đích khi ghi nhớ, gìn giữ và tái

hiện cái gì đó. Trong trường hợp này, con người dùng các biện pháp kĩ thuật để

ghi nhớ.

4.4.3. Căn cứ vào sự tồn tại theo thời gian

Căn cứ vào sự tồn tại theo thời gian, trí nhớ có thể được phân loại thành:

- Trí nhớ ngắn hạn

Là loại trí nhớ ở ngay sau giai đoạn vừa ghi nhớ, trong một khoảng thời

gian rất ngắn. Khi một tài liệu nào đó được củng cố trong trí nhớ thì nó cần

được chủ thể thay đổi, sắp xếp một cách thích hợp. Việc sắp xếp này cần một

khoảng thời gian nhất định, gọi là thời gian củng cố. Trí nhớ ngắn hạn được con

người sử dụng trong trường hợp phải thực hiện những thao tác tức thời. Sau khi

hành động này đã hoàn thành thao tác thì trí nhớ sẽ không cần thiết nữa. Vì vậy,

nhiều lúc người ta gọi trí nhớ ngắn hạn là trí nhớ thao tác, trí nhớ hành động.

- Trí nhớ dài hạn

Trí nhớ dài hạn xảy ra khi thời gian củng cố các dấu vết được kéo dài sau

nhiều lần lặp lại và tái hiện, những dấu vết ấy được giữ gìn lâu. Để trí nhớ dài

hạn có chất lượng tốt, ở giai đoạn đầu, cá nhân cần có sự luyện tập để củng cố,

tái hiện nhiều lần và sử dụng nhiều biện pháp ghi nhớ khác nhau.

Tuỳ theo nhiệm vụ và yêu cầu khác nhau trong hoạt động của con người,

cả hai loại trí nhớ này có vai trò quan trọng trong đời sống và lao động.

Page 89: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

4.4.4. Căn cứ quv sự hoạt động của các giác quan

Trong quá trình hoạt động, mỗi người thường thiên về việc sử dụng một

giác quan nào đó là chủ yếu khi ghi nhớ, củng cố, tái hiện. Đó là một đặc điểm

cá nhân của trí nhớ mà khi rèn luyện, mỗi người cần lưu ý tới.

Các loại trí nhớ dù được phân biệt dưới các dạng khác nhau, được con

người sử dụng ít hay nhiều tuỳ thuộc vào hoàn cảnh nhưng đều có sự liên hệ

mật thiết với nhau và có sự ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau.

4.5. Các giai đoạn của trí nhớ

Trí nhớ bao gồm nhiều quá trình và thành phần khác nhau tạo nên những

nét riêng biệt trong sự hình thành phát triển trí nhớ của con người. Quá trình

hình thành trí nhớ được chia thành 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn riêng lẻ có một

chức năng xác định nhưng chúng không đối lập nhau mà bổ sung, chuyển hoá

cho nhau.

4.5.1. Quá trình ghi nhớ

Muốn có trí nhớ về một sự vật hay hiện tượng nào đó, trước hết phải ghi

nhận ấn tượng về nó. Sự ghi nhớ là quá trình đưa tài liệu vào ý thức, gắn tài liệu

đó với những kiến thức đã thu nhận bằng nhiều hình thức khác nhau để làm

điều kiện cho sự lưu giữ sau này. Có thể hiểu đơn giản ghi nhớ là quá trình

nhập dữ liệu, nhập thông tin vào bộ nhớ. Quá trình ghi nhớ rất quan trọng trong

việc tiếp thu kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm. Những ấn tượng có thể được chủ

thể ghi nhớ một cách chủ động hay thụ động, nói cách khác là có chủ định hay

không chủ định.

4.5.1.1. Ghi nhớ có chủ định hay chủ động

Sự ghi nhớ có chủ định diễn ra trong hành động theo mục đích ghi nhớ

được cá nhân đặt ra một cách rõ ràng, đồng thời có ý định tìm kiếm những biện

pháp có tính chất kĩ thuật để đạt mục đích ghi nhớ. Ghi nhớ có chủ định là sản

phẩm của hành động mang tính kĩ thuật rõ nét, trong đó bản thân sự ghi nhớ là

mục đích của những hành động ấy. Kết quả của sự ghi nhớ có chủ định phụ

Page 90: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

thuộc rất nhiều vào động cơ, mục tiêu... của sự ghi nhớ. Có thể có những

phương pháp ghi nhớ sau:

- Những ấn tượng, tài liệu có thể được ghi nhớ một cách máy móc (lặp lại

nhiều lần để nhớ một chi tiết nào đó như học ngoại ngữ chẳng hạn...). Chủ thể

cũng có thể sử dụng các luật liên tưởng để ghi nhớ tài liệu. Biện pháp ghi nhớ

này thường tìm cách đưa vào trí nhớ tất cả những gì có trong tài liệu một cách

chính xác và chi tiết. Tuy nhiên các tài liệu trong trí nhớ ít có sự liên quan bản

chất với nhau, do vậy tài liệu có thể dễ bị quên.

Những ấn tượng, tài liệu có thể được chủ thể ghi nhớ bằng cách sắp xếp

có hệ thống cùng với những kinh nghiệm đã có. Đây là quá trình ghi nhớ ý nghĩa

hay ghi nhớ logic. Biện pháp ghi nhớ này giúp con người ghi nhớ được nội dung

của tài liệu và những nội dung này được gắn với tri thức cũ, những kinh nghiệm

đã qua. Do đó tài liệu sẽ được lưu giữ lâu hơn, chắc chắn hơn..

Có thể trong quá trình chủ động ghi nhớ, chủ thể dùng những hình thức,

phương pháp đặc thù tuỳ thuộc vào đặc điểm chủ quan của chủ thể và của tài

liệu, có thể là những hình thức ghi nhớ máy móc hoặc ghi nhớ logic.

4.5.1.2. Ghi nhớ không chủ định

Ghi nhớ không chủ định là loại ghi nhớ được thực hiện mà không cần

phải đặt ra mục đích từ trước. Nó không đòi hỏi một sự nỗ lực ý chí nào mà

dường như được thực hiện một cách tự nhiên. Nhưng không phải mọi sự kiện,

hiện tượng đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Trước hết, độ

bền vững và độ lâu dài của ghi nhớ không chủ định phụ thuộc vào màu sắc, sự

di động và những đặc điểm khác của đối tượng. Ghi nhớ không chủ định đặc

biệt có hiệu quả khi nó được gắn với những cảm xúc rõ ràng và mạnh mẽ. Hứng

thú có vai trò quan trọng đối với ghi nhớ không chủ định.

Những ấn tượng, tài liệu nếu được ghi nhận trực tiếp sẽ có tác dụng hữu

hiệu hơn và cần có sự luyện tập của chủ thể. Trong quá trình ghi nhớ, về mặt

thời gian cũng có thể áp dụng phương pháp phân tán hay tập trung. Trong

phương pháp phân tán, thời gian ghi nhớ được chia thành nhiều giai đoạn.

Page 91: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Trong phương pháp tập trung, sự ghi nhớ cần được tiến hành liên tục cho đến

khi hoàn thành công việc.

Về phía tài liệu cần ghi nhớ, có thể dùng phương pháp cục bộ hay toàn

thể. Khi tài liệu đơn giản, rõ ràng thì phương pháp toàn thể hữu hiệu hơn và

ngược lại.

4.5.2. Giữ gìn tài liệu

Khi các sự kiện đã được ghi nhớ, nó cần được lưu giữ, bảo quản để có

thể tái hiện sau này. Tuy nhiên con người khác máy vi tính, nghĩa là những sự

kiện có thể bị quên. Muốn bảo quản được tốt, giữ gìn kĩ lưỡng, các ấn tượng, tài

liệu phải có cường độ mạnh nghĩa là in sâu vào tâm trí chủ thể, tạo thành một

"đường mòn" sâu sắc, trở thành một dấu vết thật đậm trong bộ nhớ của chủ thể.

Quá trình gìn giữ cũng có thể có tính chất tích cực hay tiêu cực. Sự giữ

gìn tích cực là sự gìn giữ được thực hiện bằng cách nhớ lại các tài liệu đã được

ghi nhớ mà không cần phải tri giác lại tài liệu đó. Sự gìn giữ tiêu cực là sự gìn

giữ được dựa trên sự tri giác lại nhiều lần tài liệu một cách đơn giản.

4.5.3. Nhớ lại

Nhớ lại là hình thức tái hiện không diễn ra sự tri giác lại đối tượng. Nhớ lại

bao giờ cũng theo những quy luật liên tưởng, bao giờ cũng có những nguyên

nhân nhất định. Người ta phân biệt hai loại nhớ lại là nhớ lại có chủ định và nhớ

lại không chủ định.

- Nhớ lại không chủ định là một tài liệu đã được tri giác trước đây sẽ xảy

ra trong trí nhớ khi có những hình ảnh tương tự bừng lên trong ý thức của chủ

thể hầu như tự phát mà chủ thể không có ý định nhớ lại.

- Nhớ lại có chủ định xảy ra trong trường hợp khi chủ thể đặt ra nhiệm vụ

phải nhớ một cái gì đó.

Đặc điểm của việc nhớ lại có chủ định là tính chất có chủ định của nó.

Việc nhớ lại xảy ra một cách có tổ chức và như vậy chỉ trong những điều kiện

chủ thể có sự chuẩn bị trong quá trình hoạt động thì việc nhớ có chủ định mới

có giá trị đầy đủ.

Page 92: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Hồi tưởng là quá trình nhớ lại có liên quan đến việc phải khắc phục một

số khó khăn và có lúc đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí rất lớn.

Trong lúc nhớ lại luôn luôn xảy ra sự nhận lại ở những mức độ khác nhau,

từ cảm giác yếu ớt về sự quen thuộc của tài liệu cần nhớ đến sự tin chắc hoàn

toàn về điều nhớ lại rất chính xác. Trong một số trường hợp đặc biệt, sự nhận

lại có thể tạo nên ảo giác về sự hiểu biết thực tế, gây nên lòng tin không đúng

vào việc ghi nhớ vững chắc về tài liệu mà trong thực tế không hề có sự ghi nhớ

đó.

4.6. Sự liên tưởng

Bất kì sự ghi nhớ hay học thuộc nào cũng đòi hỏi phải thiết lập các mối

liên hệ thần kinh tương ứng hay còn gọi là liên tưởng. Liên tưởng được xem

như là một hình thức tư tưởng của con người. Sau đây là một số quy luật trong

quá trình liên tưởng:

4.6.1. Luật tương đồng

Liên tưởng dựa vào sự giống nhau của các mối liên hệ thần kinh do hai

đối tượng giống nhau gây nên hay nói một cách khác, hai hình ảnh giống nhau,

thấy hình ảnh này sẽ làm ta nhớ hình ảnh kia.

Luật tương đồng của tương phản rất quan trọng trong bất kì hoạt động

nào. Nhờ có nó mà con người có thể so sánh các sự kiện đang tri giác với các

sự kiện đã trở thành kinh nghiệm, tìm ra những nét chung, riêng của chúng, giúp

con người tiếp thu và ghi nhớ tài liệu tốt hơn.

4.6.2. Luật tương phản

Sự tri giác một sự kiện, hiện tượng nào đó gây nên trong trí nhớ hồi ức về

một sự kiện, hiện tượng khác có những dấu hiệu hoàn toàn ngược lại.

4.6.3. Luật tiếp cận

Các sự kiện, hiện tượng gần nhau hoặc xảy ra liên tiếp nhau, khi tri giác

sự vật, hiện tượng này sẽ nhớ đến hiện tượng, sự vật kia.

4.7. Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ

Page 93: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ thể hiện ở đặc điểm của quá trình trí nhớ

và đặc điểm của nội dung trí nhớ, nghĩa là phân biệt ở chỗ con người ghi nhớ

những gì và ghi nhớ như thế nào.

Khả năng ghi nhớ của con người không giống nhau và phát triển cũng

khác nhau. Có người rất nhạy bén về trí nhớ gắn liền với giác quan này, người

kia với sự gắn liền với giác quan khác. Các đặc điểm khác nhau của quá trình

ghi nhớ được thể hiện trong tốc độ, độ chính xác, độ bền vững của sự ghi nhớ

và sự nhanh chóng tái hiện.

Những khác biệt cá nhân về sự ghi nhớ liên quan đến các kiểu thần kinh,

đặc biệt với các đặc điểm về cường độ và tính linh hoạt của các quá trình thần

kinh. Các đặc điểm của quá trình ghi nhớ cũng phụ thuộc vào điều kiện sống và

giáo dục, trước hết vào cách thức ghi nhớ của từng người. Sự khác biệt cá

nhân về trí nhớ thể hiện ở các kiểu trí nhớ khác nhau.

Tuỳ thuộc vào tính chất của tài liệu cần ghi nhớ, các cá nhân thường có

các kiểu trí nhớ khác nhau như kiểu trí nhớ trực quan - hình ảnh (người thuộc

kiểu trí nhớ này thường dễ dàng nhớ các tài liệu giàu hình ảnh như các tranh

ảnh, vẽ...), kiểu trí nhớ từ ngữ - trừu tượng (dễ dàng ghi nhớ lại tài liệu ngôn

ngữ như khái niệm, tư tưởng...) và kiểu trí nhớ trung gian. Các kiểu trí nhớ này

phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại giữa hai hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai

của hoạt động thần kinh cấp cao. Những yêu cầu của cuộc sống và hoạt động

làm nảy sinh các kiểu trí nhớ phù hợp.

Theo một nghiên cứu của các nhà khoa học Canada công bố ngày

19/9/2006, trẻ em được học nhạc từ nhỏ sẽ có trí nhớ tốt hơn những em không

học nhạc, thậm chí chỉ số IQ cũng có thể tăng lên.

Chủ nhiệm công trình nghiên cứu, Giáo sư tâm lí Laurel Trainor thuộc Đại

học McMaster ở tỉnh Ontario của Canada, cho biết đây là nghiên cứu đầu tiên

cho thấy phản xạ não của trẻ nhỏ được học nhạc và không học nhạc có sự thay

đổi khác nhau trong từng khoảng thời gian, và sau khoảng 1 năm học nhạc, trẻ

học nhạc có khả năng nhớ tốt hơn những em không học.

Page 94: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Các nhà khoa học đã theo dõi 2 nhóm trẻ, được học nhạc và không học

nhạc, ở độ tuổi 4 đến 6 tuổi, với 4 cuộc kiểm tra trong vòng 1 năm. Các em phải

hoàn thành 2 bài kiểm tra, bài kiểm tra âm nhạc, yêu cầu trẻ phải phân biệt giữa

các đoạn hoà âm, nhịp điệu và giai điệu, còn trong bài kiểm tra trí nhớ thì trẻ

phải nhắc lại một loạt các con số được nghe trước đó.

Kết quả là sau 1 năm, ngoài việc có khả năng thẩm âm tốt hơn, nhóm trẻ

học nhạc còn có thể tăng cường khả năng ghi nhớ với các lĩnh vực ngoài âm

nhạc như đọc viết, từ ngữ, toán học.

4.8. Quên

Quên là không tái hiện được nội dung đã ghi nhớ trước đó vào những thời

điểm cần thiết. Quên diễn ra ở các mức độ khác nhau, có điều tưởng như không

thể nào quên, có điều phải cố gắng hết sức mới có thể nhớ được, có sự vật,

hiện tượng không thể nhớ lại nổi. Tuy nhiên không tái hiện được lúc đó không

phải là quên hoàn toàn, ở một thời điểm khác tài liệu có thể xuất hiện trở lại. Có

những điều chủ thể cần nhớ cấp kì, cần tái hiện ngay lập tức nhưng đã không

thể tái hiện, nhưng sau đó khi tình huống không cần phải nhớ tài liệu đó nữa thì

có thể nhớ lại một cách rất chính xác.

Quên có nhiều nguyên nhân, có thể do quá bị dồn nén phải nhớ, có thể do

không ghi nhận rõ ràng, thiếu chú ý khi ghi nhớ, có thể do không lặp đi lặp lại,

sự quên diễn ra có những quy luật nhất định, quên cũng có những lợi ích nhất

định trong nhận thức nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Quên giúp con

người loại bỏ được những hoài niệm vô ích, quên giúp con người thu thập kiến

thức dễ dàng hơn, quên cũng giúp con người khỏi lệ thuộc vào quá khứ một

cách quá nhiều.

4.9. Sự sai lầm của trí nhớ

Trong một số trường hợp, giữa điều con người tri giác và điều con người

ghi nhớ có một khoảng cách nhất định. Con người có tình cảm, có trí tuệ nên

những ấn tượng ghi lại mang dấu ấn lựa chọn. Nội dung của trí nhớ vì vậy có

thể bị cường điệu hay giản lược bớt, bị tiêu chuẩn hoá hay hợp lí hoá. Như vậy,

do suy luận hay động cơ tình cảm mà ấn tượng ghi lại trong trí nhớ về một kỉ

Page 95: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

niệm, một sự kiện có thể trở nên sai lầm. Ngoài ra những điều kiện về thể xác,

tâm lí và môi trường cũng ảnh hưởng rất sâu sắc đến việc ghi nhớ, nhớ lại và

nhận lại. Một sự xáo trộn tâm lí hay sinh lí, những áp lực từ hoàn cảnh dễ khiến

trí nhớ của một con người trở nên sai lầm.

Câu Chuyện thứ mười

Trí nhớ rất cần thiết cho cuộc sống. Trí nhớ tốt là tài sản: nó có thể gia

tăng triển vọng nghề nghiệp, giúp chúng ta nhớ tên và khuôn mặt người khác.

Và tạo sự thoải mái cho cuộc sống thường nhật. Suốt cuộc đời, chúng ta có thể

lưu trữ được lượng thông tin nhiều gấp 500 lần cuốn Bách khoa toàn thư của

nước Anh. Dưới đây là những cách đơn giản để gia tăng trí nhớ của bạn:

Thư giãn

Căng thẳng có thể làm giảm trí nhớ. Đó là lí do khi lo âu, bạn thường mất

hàng giờ để cố nhớ lại điều gì đó. Trớ trêu thay, nó chỉ xuất hiện khi bạn thôi

nghĩ đến! Đó là do chất trung gian thần kinh của não sẽ hoạt động hiệu quả hơn

khi bạn nghĩ ngợi.

Căng thẳng làm cơ thể tiết ra hormon Cortisol gây mất tập trung. Chất

hormon này thúc đẩy việc sản xuất insulin và ngăn không cho vùng hồi hải mã

(trung tâm kí ức chính của não) sử dụng đủ đường huyết để não có năng lượng

cho việc ghi nhớ. Ngoài ra, sự căng thẳng cũng gây khó khăn cho việc "truy cập"

kí ức đã được lưu trữ. Tập nghỉ ngơi bằng yoga hoặc thiền và khi bộ nhớ "trêu

ngươi", bạn hãy dành 5 phút để hít thở thật sâu.

Giảm giờ xem truyền hình

Việc xem truyền hình quá nhiều làm cho não trở nên thụ động. Mỗi ngày

hãy dành ít nhất 1 giờ để tập luyện trí não như đọc sách báo, chơi cờ, giải ô chữ

để kích thích phản ứng nhanh nhẹn của trí óc. Hoạt động trí óc còn làm chậm

quá trình mất trí nhớ xảy ra ở những người có tuổi.

Dùng thức ăn bổ dưỡng cho não

Page 96: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Những thức ăn bổ dưỡng cho não có nhiều lecithin, vitamin C và các

vitamin nhóm B. Những chất này hỗ trợ việc sản xuất acetilcholine - chất trung

gian thần kinh phong phú nhất và là "người vận chuyển" kí ức, suy nghĩ chính

trong não. Lecithin có trong đậu nành, trứng, đậu phộng, mầm lúa mì, gan;

Vitamin B có trong gan, thận, thịt nạc, sữa và sữa chua, còn vitamin C có trong

rau quả cam và chanh.

Đặc biệt các loài cá như cá mòi, cá hồi được mệnh danh là "thức ăn của

não" vì có nhiều acid béo cần thiết cho hoạt động của não.

Hấp thụ chất bổ

Chất co-enzym Q10 do cơ thể sản xuất sẽ cung cấp năng lượng đã được

chứng minh làm giảm các triệu chứng bệnh Alzheimer có lẽ do kích thích hoạt

động của não bằng cách tăng tuần hoàn máu. Chất này giúp thông suốt các

mạch máu não, gia tăng trí nhớ và sự tỉnh táo và đồng thời làm chậm quá trình

lão hoá. Bạn có thể tìm thấy enzym này trong cá, thịt bò, thịt heo và các loại rau

xanh. Các chuyên gia khuyên nên hấp thụ 10mg/ngày.

Dùng mùi hương

Chúng ta đều biết mùi hương đặc trưng tạo ra trí nhớ mãnh liệt, chúng

còn được dùng để tăng trí nhớ. Người lớn có thể học nhanh gấp 2 lần bình

thường khi trong phòng có mùi hương hoa. Nếu bạn cho vài giọt dầu thơm bạn

thích vào một chén nước ấm, bạn sẽ lưu giữ bất cứ thông tin nào cùng với mùi

hương đó. Khi bạn cần nhớ lại, chỉ cần cho vài giọt dầu thơm đó vào miếng vải

và ngửi: bạn sẽ hồi tưởng từng chi tiết một cách tự nhiên... Các mùi hương

thường được dùng để gia tăng trí nhớ là mùi hương cây húng quế (bergamot),

mùi chanh, mùi cây hương thơ (rosemary).

Tổ chức những suy nghĩ một cách hợp lí.

Một cách để nhớ những thông tin mới là liên tưởng nó với những kí ức dài

hạn đã được lưu giữ. Ví dụ, muốn nhớ một danh sách theo thứ tự, bạn nên liên

tưởng nó với vật quen thuộc như ngôi nhà chẳng hạn. Ghi hình những đồ vật

trong phòng và khi muốn nhớ lại danh sách, bạn chỉ cần "đi lướt" qua ngôi nhà

trong óc. Hình ảnh càng sống động và cường điệu, bạn càng dễ nhớ hơn.

Page 97: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Viết hay vẽ một cái gì đó

Việc phác hoạ hình thể hay tranh trong lúc gọi điện thoại thì không phải là

điều vô bổ, nó tăng trí nhớ của bạn đấy? Các nhà Tâm lí học tại Đại học

Sheffield (Anh) cho rằng: việc vẽ hay viết sẽ gia tăng khả năng tập trung trí nhớ

và học tập. Tiến sĩ Jackie Andrade chia những người tình nguyện thành 2 nhóm

để nghe những cuốn băng có nội dung nhạt nhẽo. Nhóm 1 chỉ lắng nghe để tìm

các từ chính, còn nhóm 2 vừa lắng nghe từ chính vừa đánh bóng các hình trên

tờ giấy. Kết quả là nhóm 2 đã nhớ nhiều thông tin hơn nhóm 1.

(theo Phụ san Khoa học phổ thông, số 427, 1998)

Giảm trí nhớ ở người lớn tuổi: những điều cần biết

Suy giảm trí nhớ (SGTN) hậu quả cuối cùng là sa sút trí tuệ, là bệnh lí ít

được quan tâm tại các nước đang phát triển. Điều này xuất phát từ quan điểm

cho rằng tuổi già phải quên, lú lẫn. Quan niệm sai lầm này đã và đang ảnh

hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống người cao tuổi, vì sẽ khiến bệnh nhân

bị SGTN đến tình trạng bị cô lập.

Để điều trị cho bệnh nhân SGTN, sa sút trí tuệ, tại Mĩ người ta đã phải

tiêu tốn 50 tỉ USD/năm. Theo một số nghiên cứu tại Mĩ, tỉ lệ sa sút trí tuệ là 10%

ở người trên 70 tuổi, 20% - 40% ở người trên 85 tuổi.

* Bốn loại trí nhớ

Quá trình thu giữ thông tin của trí nhớ theo thời gian có thể phân thành 4

loại: Trí nhớ trực giác, trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ gần và trí nhớ xa (trí nhớ dài

hạn).

Trí nhớ trực giác kéo dài khoảng 1 - 2 giây bằng cách nghe. Trí nhớ ngắn

hại có thể kéo dài khoảng 30 giây và có khả năng nhớ 5 - 10 chủ đề. Trí nhớ

gần kéo dài vài phút đến vài tuần, để đi vào vùng nhớ này thông tin phải trải qua

một tiến trình củng cố trong một thời gian nhất định. Trí nhớ dài hạn lưu trữ vài

tuần đến một thời điểm nào đó trong cuộc sống.

* Sáu biểu hiện của sự giảm trí nhớ:

- Quên những đồ vật đã từng dùng rất thường xuyên.

Page 98: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Quên cách sử dụng những đồ vật đã từng dùng rất nhiều lần.

- Gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận thông tin mới.

- Hay lặp lại một câu hay một câu chuyện trong cùng một buổi trò chuyện.

- Gặp khó khăn trong việc chọn và giữ tiền.

- Không thể giữ nếp sinh hoạt thường ngày.

* Phát hiện sớm SGTN qua các dấu hiệu sau:

- Có than phiền về trí nhớ.

- Trí nhớ có giảm so với tuổi.

- Các hoạt động đời sống hàng ngày vẫn bình thường.

- Chức năng nhận thức chung vẫn bình thường.

- Không có sa sút trí tuệ.

Cần lưu ý là người thân đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp phát

hiện sớm những dấu hiệu SGTN ở người bệnh. Nếu có dấu hiệu nghi ngờ,

người thân nên nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế chuyên khoa để

khám và điều trị.

* Điều trị SCTN bằng cách không dùng thuốc

SGTN do tuổi là một tiến trình tự nhiên của sự lão hoá nên chưa đến mức

phải điều trị bằng thuốc mà chỉ cần áp dụng tích cực các biện pháp điều trị

không dùng thuốc như liệt kê danh sách các công việc cần phải làm, lập thời

gian biểu cho công việc hằng ngày, làm theo thời gian biểu công việc đã lập, đề

ra những mục quan trọng cần chú ý thực hiện.

Ví dụ: Luôn đặt chìa khoá ở một chỗ nhất định, lặp lại tên của người vừa

mới gặp, tạo những thú vui giúp người lớn tuổi luôn bận rộn (chơi cây cảnh,

chim, sưu tập tem...), vận động trí óc, giữ những tài liệu lưu trữ thông tin, sự

kiện như sổ ghi chép, album hình...

Page 99: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Khi nào bệnh nhân đã được-thầy thuốc chuyên khoa khám và định bệnh

là SGTN bệnh lí (không phải là SGTN do tuổi) thì mới có thể được điều trị bằng

thuốc.

* Đề phòng SGTN

Đề phòng SGTN bằng cách thường xuyên hoạt động trí não, tránh uống

rượu (uống rượu quá nhiều làm tăng trigliceride trong máu và làm tăng nguy cơ

nhũn não), tập thể dục (có tác đụng làm giảm huyết áp hạ thấp tần suất bệnh tim

mạch, giúp làm giảm trọng lượng cơ thể, giảm fibrinogen huyết tương...), ăn

uống đúng cách (ăn nhiều trái cây, chất xơ, rau cải, hạn chế ăn nhiều chất béo

và chất ngọt, chất đạm nên ăn vừa đủ theo nhu cầu, ăn giảm muối để giảm đáng

kể huyết áp và do đó làm giảm tỉ lệ tai biến mạch máu não).

(theo Báo Người lao động)

TÓM LƯỢC CHƯƠNG 2Chương 2 trình bày về các quá trình nhận thức và những quá trình tâm lí

khác liên quan đến hoạt động nhận thức của con người.

Hoạt động nhận thức của con người được tiến hành qua hai giai đoạn,

nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.

Nhận thức cảm tính là quá trình phản ánh những thuộc tính bề ngoài của

sự vật hiện tượng khi nó trực tiếp tác động vào các giác quan. Nhận thức cảm

tính được thể hiện ở cảm giác và tri giác, hai mức độ từ thấp đến cao.

Nhận thức lí tính là quá trình phản ánh những thuộc tính bản chất bên

trong, những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng, được thể hiện

trong quá trình tư duy và tưởng tượng.

Ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu từ ngữ của con người, là phương tiện truyền

thông và tư duy hữu hiệu của con người. Ngôn ngữ có liên quan mật thiết với

các quá trình nhận thức.

Trí nhớ là quá trình ghi lại, gìn giữ, nhớ lại và nhận lại những kinh nghiệm

đã xảy ra trong hoạt động và trong cuộc sống của con người. Trí nhớ liên quan

mật thiết với quá trình nhận thức. Trí nhớ là điều kiện quan trọng để nhận thức.

Page 100: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Mỗi cá nhân tuỳ theo những đặc điểm về thể chất, điều kiện sống và sự

phát triển tâm lí, luôn luôn có những sự khác biệt về các quá trình nhận thức, về

phương pháp, về nội dung và về cách thức ứng dụng các quá trình tâm lí trong

cuộc sống.

Chương 3: Ý THỨC VÀ VÔ THỨCCăn cứ vào tính tự giác, mức độ sáng tỏ của các hiện tượng tâm lí và

phạm vi bao quát của nó, người ta có thể phân chia các hiện tượng tâm lí thành

3 cấp độ. Ở mỗi cấp độ, chúng ta có thể gặp hầu hết các biểu hiện của các hiện

tượng tâm lí nêu trên. Chương 3 sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến đời

sống vô thức và ý thức như hai mặt tích cực bổ sung cho nhau trong quá trình

sống và hoạt động của con người.

1. Ý THỨC1.1. Khái niệm

Ranh giới giữa cấp độ vô thức và ý thức không rành mạch lắm nhưng

không phải là không thể vượt qua, nhất là trong điều kiện thường xuyên có sự

chuyển hoá lẫn nhau giữa ý thức và vô thức.

Có thể đơn giản thấy rằng, ý thức là sự nhận biết trực tiếp mà con người

có về mình và về mọi hoạt động của mình. Trong trường hợp này, bất kì điều gì,

bất kì kích thích nào tác động đến chủ thể đều nhận biết được, chủ thể đang

trong trạng thái ý thức. Cụm từ "tôi đang ý thức được tính nghiêm trọng của vấn

đề..." là một hình thức nhận biết của con người nhưng không phải là tri giác hay

tư duy.

Ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất chỉ riêng con người mới có,

là khả năng con người hiểu được các tri thức mà con người đã tiếp thu được.

Có thể xem ý thức là cặp mắt thứ hai của con người soi vào hình ảnh tâm lí do

cặp mắt thứ nhất đem lại. Với ý nghĩa này, con vật không có ý thức, con vật

không thể có được sự phản ánh lần thứ hai, sự phản ánh cấp 2 như con người.

Page 101: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Những hành vi ý thức là những hành vi xảy ra trong điều kiện chủ thể xác định

được về không gian, thời gian và những đặc điểm bên ngoài chủ thể.

1.2. Đặc điểm của thức

Ý thức có những đặc điểm sau đây:

1.2.1. Tính nhận thức

Nhiều trường hợp việc "có ý thức" cũng đồng nghĩa với có hiểu biết, có tri

thức, và như K. Marx nói: "Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại, và theo đó

một cái gì đó tồn tại với ý thức là tri thức. Nói một cách khác, ý thức là tri thức

của tri thức

1.2.2. Biểu hiện thái độ

Biểu hiện thái độ trong ý thức nghĩa là có những rung cảm sẽ dẫn đến

hành động với cái đã được con người nhận thức. Biết được vấn đề, cảm được

vấn đề, con người sẽ ý thức được mình cần phải làm gì, làm như thế nào.

1.2.3. Tính chất chủ định

Sự chủ định, chủ tâm, sự dự kiến trước là một đặc trưng của ý thức, của

một hành vì ý thức... Và nhờ sự chủ định và có chủ tâm mà con người sẽ có

những hành động hợp lí, hợp tình, hợp quy luật...

1.3. Các hình thức của ý thức

Ý thức có những hình thức sau đây:

1.3.1. Ý thức đối tượng

Là toàn thể những hiện tượng tâm lí, quá trình tâm lí hay thuộc tính tâm lí

mà chủ thể nhận biết được về những gì bên ngoài mình, những gì xảy ra xung

quanh mình, đó là ý thức về người khác, về thế giới khách quan.

1.3.2. Ý thức chủ thể

Là sự nhận biết về chính bản thân, về những gì đang diễn ra nơi chính

minh, ý thức chủ thể có hai cấp độ:

- Ý thức tự phát

Page 102: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Ý thức tự phát là sự nhận biết trực tiếp và tức khắc của chủ thể về những

trạng thái tâm lí xuất hiện trong chính họ mà chưa vận dụng ý chí để chú ý hay

suy xét. Có những người ý thức về giá trị của mình một cách tự nhiên nhờ vào

những thái độ của người khác đối với mình, nhờ cách ứng xử của họ với mình

mà không cần "lao tâm khổ tứ" để căng thẳng suy đoán.

- Ý thức phản tỉnh

Ý thức phản ánh hay tự ý thức là ý thức quay về chính chủ thể, tập trung

chú ý và phân tích những gì đã ghi nhận để đạt được sự chính xác, minh bạch

hơn. Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức, bắt đầu hình thành ở con

người từ tuổi lên ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:

- Cá nhân tự nhận thức và tự ý thức về bản thân mình từ hình thức bên

ngoài đến nội dung bên trong của tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội của

chính mình.

- Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá.

- Tự điều khiển, tự điều chỉnh hành vi:

- Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân.

1.4. Cấu trúc của ý thức

Ý thức là một cấu trúc tâm lí phức tạp bao gồm nhiều mặt, là một chỉnh

thể mang lại cho thế giới tâm hồn con người một chất lượng mới. Trong ý thức

có hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con

người. Đó là mặt nhận thức, mặt thái độ và kèm theo sự năng động của ý thức.

- Nhận thức của ý thức là các quá trình nhận thức cảm tính mang lại

những tài liệu đầu tiên cho ý thức, là tầng bậc thấp của ý thức. Nhờ cảm giác và

tri giác mà bức tranh cảm tính về thế giới khách quan được nảy sinh trong ý

thức. Trí nhớ giúp chúng ta tái tạo những biểu tượng của quá khứ trong ý thức.

Các quá trình nhận thức lí tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức, đem lại cho

con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan.

- Thái độ của ý thức, nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ

đánh giá của chủ thể đối với thế giới.

Page 103: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Sự năng động của ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người

làm hoạt động của con người có ý thức.

Trong quá trình sống và làm việc, muốn giáo dục ý thức cho con người thì

cần chú ý đến sự thống nhất hữu cơ giữa các thành phần trong cấu trúc của ý

thức, nghĩa là không nên xem nhẹ thành phần nào mà cần đồng thời giáo dục tri

thức và tình cảm cho con người. Một người có thể mất hết ý thức khi không còn

tình cảm hoặc khi tình cảm của họ trong trạng thái hết sức căng thẳng, xúc động

không kiềm chế được hành vi. Ngược lại, một người thiếu kiến thức, thiếu hiểu

biết cũng có thể sẽ trở thành chủ nhân của những hành động bất thường, không

ý thức được điều mình nghĩ, việc mình làm.

1.5. Ý thức nhóm và ý thức tập thể

Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức của cá nhân sẽ phát

triển dần đến trình độ ý thức xã hội, ý thức nhóm, ý thức cộng đồng như ý thức

về gia đình, ý thức về dòng họ, ý thức dân tộc... Trong cuộc sống khi con người

hành động, hoạt động với ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, mỗi con người có

thể thêm sức mạnh tinh thần mới mà người ấy chưa bao giờ có được khi chỉ

hoạt động với ý thức cá nhân.

Một cách tổng quát, ý thức và vô thức là hai mặt của một thể thống nhất.

Trong nhiều trường hợp ý thức và vô thức có thể chuyển hoá cho nhau. Trong

hoạt động, khi ta tập trung toàn bộ ý thức của mình vào một đối tượng quan

trọng nào đó thì đối với đối tượng khác không quan trọng, dĩ nhiên ta không thể

phản ánh chúng một cách có ý thức đầy đủ. Ở những trường hợp như vậy vô

thức cũng là một điều kiện cần thiết của hoạt động, giúp cho hoạt động tập trung

vào đối tượng quan trọng nhằm đạt được hiệu quả và chất lượng cao nhất.

Khi lưu ý đến ý thức chúng ta có thể xem xét thêm về mấy vấn đề sau:

- Có những người lớn, "bình thường" về tâm lí, sống trong một xã hội văn

minh mà vì những lí do nào đó tâm lí vẫn không phát triển đến mức tự ý thức

được như đáng lí đã có ở người trưởng thành. Họ đã không ý thức được vai trò,

vị trí cũng như giá trị của mình vì nhiều lí do khác nhau.

Page 104: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Cũng như thế, có thể có những người trưởng thành, sức khoẻ tâm thần

bình thường, nhưng chưa phát triển đến cấp độ ý thức nhóm, ý thức xã hội, lại

càng ít người hơn đạt đến trình độ ý thức tập thể chân chính. Những người này

chỉ sống cho mỗi cá nhân mình, sống chỉ vì lợi ích của mình mà không quan tâm

đến lợi ích chung của nhiều người. (theo Nguyễn Quang Uẩn)

2. VÔ THỨC2.1. Khái niệm

Trong hoạt động và cuộc sống nổi chung, ngoài những hiện tượng tâm lí

có ý thức, chúng ta còn gặp hàng loạt những hiện tượng tâm lí chưa ý thức

được hay là những hiện tượng tâm lí vô thức. Có thể nói, một phần lớn và quan

trọng của đời sống tâm linh vượt ra ngoài tầm hiểu biết của cái tôi (ý thức). Theo

S.Freud thì "Vô thức là một quá trình tâm lí mà sự hiện hữu được chứng minh

qua những biểu lộ của nó, nhưng chúng ta không biết gì về nó mặc dù nó đã xảy

ra trong ta".

Nhiều thực nghiệm đã chứng minh rằng những hiện tượng tâm lí vô thức

có vai trò nhất định trong đời sống của con người. Có thể nói cách khác, vô thức

là hiện tượng tâm lí ở tầng bậc chưa ý thức được, nơi mà ý thức không thực

hiện chức năng của mình. Những hiện tượng tâm lí vô thức là những hiện tượng

xảy ra trong điều kiện chủ thể của hành vi không thể xác định được về mặt

không gian cũng như thời gian. Những hiện tượng tâm lí vô thức thường có tính

chất mâu thuẫn nhau. Trong hệ thống của các quá trình vô thức không có logic,

không có phủ nhận, không hoài nghi về mức độ xác thực... Những xúc động,

ham muốn, thúc đẩy... hiện hữu cạnh nhau mà không ảnh hưởng lên nhau và

mâu thuẫn nhau. Những hiện tượng tâm lí vô thức cũng còn có tính chất phi

thực tại. Vô thức được ví như những tảng băng chìm đang trôi trên biển, nó

không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi nhưng vẫn hiện hữu và đợi chờ ngày

tan băng. Vô thức như những điều vừa bí ẩn, vừa bình thường, vừa sâu kín,

vừa mở ngỏ...

2.2. Những hiện tượng tâm lí vô thức thường gặp

Page 105: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau:

- Những hiện tượng có tính chất bản năng (bản năng dinh dưỡng, bản

năng tự vệ, bản năng sinh dục...) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức và mang

tính chất bẩm sinh, di truyền. Liên hệ với bản năng là những hành vi xung động

của con người khi không "chế ngự" được đòi hỏi của mình.

- Những hiện tượng tiềm ý thức xảy ra bất thường trong những điều kiện

cụ thể. Ví dụ con người có lúc thấy thích một cái gì đó, nhưng hiểu rõ vì sao và

lúc thấy thích, lúc không...

- Những hiện tượng tâm lí vốn là ý thúc nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần

chuyển thành dưới ý thức - vô thức. Đó là những tập quán, thói quen, những kỹ

xảo thành thục của con người. Những hiện tượng này được đặt tên là những

hiện tượng có tính chất tiềm thức.

- Những hiện tượng có tính chất trực giác, phát hiện những vấn đề bất

ngờ mà không hề được chuẩn bị, không có sự tham gia của ý thức lúc ấy, linh

cảm là một trong những hiện tượng như vậy.

Có những người thoát chết vì được linh tính mách bảo. Có những phát

minh khoa học nhờ vào linh tính. Những câu chuyện về linh cảm vẫn đang là sự

bí ẩn. Thậm chí các nhà khoa học cũng chưa khẳng định có hay không giác

quan thứ sáu của con người.

Nhiều phát minh ra đời không phải bằng các phương pháp logic mà bằng

chính linh cảm của các nhà nghiên cứu. Nhà hoá học người Nga Medeleev đã

phát minh ra Định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học sau một giấc mơ. Ông

đã dành gần trọn cuộc đời mình để tìm hiểu về các nguyên tố hoá học. Loay

hoay với rất nhiều công cụ khoa học, Medeleev vẫn không thể xây dựng được

bảng tuần hoàn các nguyên tố. Thế rồi trong một giấc mơ, ông thấy bảng tuần

hoàn hiện rõ ra trước mắt.

Khi tỉnh giấc, ông đã chép và công bố công trình khoa học nổi tiếng của

mình kèm theo phương pháp... nằm mơ. Điều này dấy lên một cuộc tranh luận

tốn nhiều giấy mực. Một phe cho rằng đó chính là linh cảm có liên quan đến các

thế lực siêu nhiên mà con người không thể biết và giải thích (bất khả tri). Phe

Page 106: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

khác cho rằng Medeleev đã nghiên cứu hàng chục năm vấn đề này, công trình

khoa học đã "ngấm" vào người và khi chín muồi thì kết quả hiện ra trong giấc

mơ chỉ là một cách biểu hiện.

Còn nhiều ví dụ khác về linh cảm của các nhà khoa học. Đơn cử như việc

viện sĩ Xobolev của Nga tìm ra kim cương ở vùng Lakutsk, viện sĩ Muratov tìm

ra dầu mỏ ở vùng Tây Xiberi. Những phát hiện của họ đều bằng linh tính. Bản

thân các nhà khoa học cũng không thể hiểu nổi những thành công của họ phần

nhiều do kiến thức, kinh nghiệm hay do linh tính mách bảo.

Nhiều nhà quân sự, chính tri cũng có khả năng linh cảm trước một số vấn

đề. Một số người cũng nhờ "giác quan thứ sáu" mà thoát chết. Thủ tướng Anh

Churchill đã thoát chết trong gang tấc do linh tính mách bảo. Năm 1944, khi Thế

chiến thứ 2 đang diễn ra ác liệt, một lần Churchill đang chuẩn bị rời trận địa thì

máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người lái xe vội vàng nổ máy cho xe đi.

Không hiểu sao, Churchill không chịu vào xe mà vòng chạy ra phía sau. Đúng

lúc ấy, một quả bom nổ cạnh cửa xe tạo thành một hố bom lớn, ngay chỗ

Churchill vừa đứng. Ông đã viết trong hồi kí: "Dường như có một sức mạnh nội

tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng".

Sau này, các nhà khoa học đã lí giải rằng trong cơ thể con người có một

"hệ thống cảnh báo vô hình". Hệ thống linh cảm này đã tồn tại và tiến hoá trong

hàng triệu năm. Nó nhắc nhở con người những dấu hiệu của sự nguy hiểm để

phòng và tránh, giống như một thứ vũ khí vô hình trong cuộc đấu tranh sinh tồn

của tự nhiên. Ở một số ít người, hệ thống này hoạt động mạnh; còn ở đa số là

"yếu ớt" và chỉ bộc lộ trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Con người có thể linh cảm được cái chết

Không ai có thể biết trước thời điểm nào và nguyên nhân gì sẽ dẫn dắt

mình sang thế giới bên kia. Tuy nhiên, với một số người sắp đối mặt với cái

chết, tiềm thức lại mách bảo cho họ hoặc người thân. Người ta gọi đó là thần

giao cách cảm khi lưỡi hái tử thần đang cận kề.

Ông Grigoriy Doronin ở thị trấn Sergiev Posad, miền đông nam nước Nga

kể lại, tối đó vợ ông đi làm vẻ, căng thẳng, mệt mỏi. Bà đột nhiên bật ra câu nói:

Page 107: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

"Em thấy chán nản quá. Chắc em chẳng còn ở thế giới này được bao lâu nữa".

Ngày hôm sau, hai vợ chồng họ gặp tai nạn ôtô, người vợ qua đời.

Nhà thơ Nga Lermontov đã kể lại câu chuyện khi ông còn là sĩ quan biên

phòng ở Kabkaz. Một hôm, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình và nhìn

thấy một người có vẻ khác lạ hiện rõ trên nét mặt so với ngày thường

Lermontov bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất

đắc kì tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về".

Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm

chết.

Nhóm bác sĩ người Mĩ là William Green, Stefan Goldstein và Alex Moss,

chuyên nghiên cứu hiện tượng chết, đã tìm hiểu hàng nghìn câu chuyện ẩn

đằng sau các bệnh nhân ra đi "bất đắc kì tử". Các kết quả cho thấy, đa số họ có

những hành động khác thường hay những lời nói gở trước cái chết của mình.

Có hay không khả năng linh cảm?

Nhiều nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới đã nghiên cứu về hiện tượng

nhìn thấy trước tương lai. Một phòng thí nghiệm được dựng lên ở Matxcơva

(Nga) vào cuối những năm 1970 để tìm hiểu về hiện tượng linh cảm. Các nghiên

cứu cho thấy, một số người dường như được trang bị khả năng nhìn thấy tương

lai và nói trước những sự kiện mà họ có thể không biết gì về nó.

Theo một số học giả, tất cả những em bé sơ sinh đều được trời phú cho ít

nhất là 7 năng lực, trong đó có khả năng nhìn trước tương lai và thần giao cách

cảm. Tuy nhiên, hai năng lực đặc biệt này biến mất mà không để lại dấu vết

trong vòng 6 - 7 năm sau đó.

Tại sao chúng lại biến mất? Bất chấp vô số bằng chứng được ghi nhận về

khả năng tiên tri, đến nay người ta vẫn chưa có được câu trả lời thoả đáng nào.

Nhà khoa học Ronald Rensink thuộc Đại học Biritish Columbia, Canada,

cho rằng có khả năng tồn tại một vài dạng giác quan bí ẩn của con người. Ông

gọi đó là "ishgt". Trong thí nghiệm của mình, ông cho 40 người xem một loạt ảnh

rung rinh trên một màn hình máy tính. Mỗi bức ảnh xuất hiện trong khoảng 1/4

Page 108: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

giây và sau đó là màn hình nền màu xám trong thời gian ngắn. Đôi khi bức ảnh

giữ nguyên gốc, đôi khi có thay đổi nhỏ rất khó nhận ra.

Khoảng 1/3 số người tham gia cho biết họ cảm thấy bức ảnh đã biến đổi.

Rensink cho rằng hệ thống thi giác của chúng ta có thể đã tạo cảm giác mạnh

về điều gì đó thay đổi, ngay cả khi chúng ta không hình dung được sai khác đó

trong kí ức. Ông chưa lí giải được quá trình vật lí nào đã tạo ra: "ishgt", nhưng

cho biết có thể xác định sự tồn tại của hiện tượng này thông qua việc chụp ảnh

não. Ishgt cũng có thể tác động tới các giác quan khác, chẳng hạn gây ra linh

cảm rằng có ai đó đứng sau lưng, mặc dù mắt ta không nhìn thấy người đó.

(theo VietNam net)

- Những hiện tượng có tính chất bệnh lí như hành vi của người bị bệnh

tâm thần nặng.

- Những hiện tượng tâm lí biểu hiện ở các giấc mơ, trong tình trạng bị ám

thi, bị thôi miên

- Những hiện tượng tâm lí vô thức khi hệ thần kinh bị tấn công hoặc tê liệt

như lúc say rượu...

Vài trường hợp không thể giải thích bằng động cơ ý thức

* Một cậu bé 7 tuổi rất hiền lành, khoẻ mạnh và ngoan ngoãn với bố mẹ

và người xung quanh, ai cũng cho rằng đó là một cậu bé nhiều triển vọng. Tuy

nhiên từ khi mẹ sinh em bé thứ hai, cậu bé có những thay đổi bất thường. Từ

trước đến giờ cậu không đái dầm nhưng từ khi có em, cậu lại đái dầm hằng

đêm. Không ai hiểu điều gì xảy ra và người lớn bắt đầu la rầy, quở trách cậu bé,

nhiều khi cậu chỉ biết khóc. Bố mẹ tìm đến một bác sĩ để khám cho cậu bé

nhưng với nhiều chủng loại thuốc khác nhau, chứng đái dầm vẫn không hết. Một

chuyên gia tâm lí biết chuyện và nhận định đây là một phản ứng tự vệ, một hình

thức thoái bộ có tính chất vô thức. Chuyên gia tâm lí cho rằng do lo lắng, ghen tị

về sự chăm sóc chu đáo của cha mẹ và những người xung quanh với em bé sơ

sinh mà quên mất giá trị của cậu, con người ngây thơ của cậu hình thành một

khát vọng là hãy... nhỏ trở lại để lại được cưng chiều như em bé nên lúc ngủ em

bé phải... tè. Khi được khuyến nghị, bố mẹ và người thân trong nhà cậu bé để

Page 109: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tâm, chăm sóc cậu nhiều hơn, khát vọng đã thoả nguyện và sau đó cậu đã

không còn chứng đái dầm nữa.

* Một người con gái muốn gọi điện thoại đến người bạn khác giới để trả

lời về lời mời đi du lịch của anh ấy nhưng khi bấm số điện thoại lại nhầm sang

số của một người bạn gái thân thuộc của mình. Tại sao có sự nhầm lẫn này khi

hai người bạn với hai loại tình cảm rất khác nhau? Hoá ra khi được hỏi về quan

hệ giữa cô gái và anh bạn kia thì được cô ta trả lời là: mình chẳng thích anh ta,

người gì mà cứ hay xía vào chuyện người khác. Thực chất, trong thâm tâm lúc

gọi điện thoại cho anh chàng, cô ta đã muốn từ chối lời mời nên vô tình gọi

nhầm số bạn gái của mình, một sự vô tình nhưng có nguồn gốc vô thức. Khi đã

không muốn, mọi thứ đều có thể quên hoặc lơ đễnh, không chú ý.

Câu chuyện thứ nuời một: Về những giấc mơ

Người ta nằm mơ ở mọi lứa tuổi. Trong giấc ngủ dài 7 - 8 tiếng, một

người có thể trải qua 9 giấc mơ. Phụ nữ có nhiều giấc mơ đẹp hơn và trong

mộng, họ hay thấy mình và hay phát thành tiếng hơn.

Với người xưa, giấc mơ thường được hiểu là sự báo trước điềm lành dữ.

Cũng có quan điểm cho rằng giấc mơ là sự diễn đạt huyền bí, không đầy đủ

những cảm xúc, ý nghĩ, ước mơ của con người; hoặc quan hệ đến quá khứ,

nhất là thời thơ ấu... giấc mơ là một hình thức của tâm lí vô thức ở con người.

Hai nhà khoa học Aserinxkin và Kleitman cho rằng có mối liên hệ giữa giai đoạn

ngủ REM (Rapid eye movements) với việc ghi nhớ giấc mơ. Hiện khoa học đã

xác định được chính xác từng giai đoạn của giấc ngủ, biết rõ khi nào bắt đầu

giấc mơ. Mặc dù quá trình chuyển tiếp từ trạng thái thức sang ngủ chưa được

xác định, nhưng đa số nhà khoa học cho rằng nó diễn ra do tác động của các

chất được tích tụ ở cơ thể trong suốt thời gian thức.

Giấc ngủ gồm 2 giai đoạn: ngủ thật và ngủ mơ. Một đêm thường có 5 chu

kì như vậy. Mỗi chu kì kéo dài 60 - 90 phút. Giai đoạn ngủ thật chia làm 4 phần.

Phần đầu là ngủ thiếp, thời lượng khác nhau tuỳ từng người; giấc ngủ lúc này

rất chập chờn và chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng có thể làm tỉnh giấc. Phần 2

Page 110: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

là ngủ nhẹ, chúng ta không còn cảm giác mình đang thức nữa, nhịp sóng điện

não giảm, biên độ sóng hạ thấp, thân nhiệt hạ từ từ, trên điện não đồ ở phần 1

và 2 bắt đầu xuất hiện những "nút ngủ" tức là những chùm sóng có tần số 14 -

46 chu kì/giây. Ở phần 3, người ngủ có nhịp thở chậm hẳn lại để chuẩn bị bước

sang phần 4 là ngủ sâu. Ở phần 4, trên điện não đồ, hầu hết là các dao động rất

chậm ứng với sóng delta, thân nhiệt hạ xuống. Tiếng động mạnh đột ngột có thể

làm người ngủ thức dậy, nhưng tiếng động mạnh đều đều thì dường như không

ảnh hưởng đến giấc ngủ. Tuy nhiên, bộ não vẫn làm việc và ghi nhận tiếng động

ấy nên sự nghỉ ngơi không được hoàn chỉnh lắm.

Bốn phần nói trên của giai đoạn ngủ thật chiếm khoảng 80% thời gian ngủ

mỗi đêm. Thường sau 90 phút kể từ lúc bắt đầu ngủ, chúng ta chuyển sang giai

đoạn REM. Ở chu kì đầu, giai đoạn này kéo dài khoảng 4 - 5 phút, nhưng càng

về khuya sẽ càng dài. Giai đoạn REM thường nối tiếp với phần 4 của giai đoạn

ngủ thật. Sau khi kết thúc giai đoạn REM, nếu người ngủ không thức dậy thì

toàn bộ chu kì sẽ lặp lại.

Giai đoạn ngủ mơ thường đến tức khắc và kèm theo những dấu hiệu đặc

trưng. Rõ nhất là những chuyển động đảo nhanh của mắt, các nhịp độ hoạt

động của thần kinh đều thay đổi và trở nên không đều đặn, giống như ở trạng

thái thức. Giai đoạn REM chính là giai đoạn của những giấc mơ. Giấc mơ có

đến vào những giai đoạn khác, nhưng đó chỉ là những hình ảnh mơ hồ, rời rạc

và phần lớn là trừu tượng. Khi thức giấc, chúng ta thường không nhớ được các

giấc mơ diễn ra trong phần 3 và phần 4 của giai đoạn ngủ thật, ngược lại với

giai đoạn REM. Qua theo dõi người ngủ được đánh thức trong giai đoạn REM,

các nhà khoa học kết luận rằng, giấc mơ không phải yếu tố ngẫu nhiên mà là

những hiện tượng gắn liền với hoạt động của não. Tác động của một số chất

nhất định vào tế bào não có thể ảnh hưởng đến giấc mơ.

Một số nhà nghiên cứu chia giấc mơ theo tính chất của nó, như tính hiện

thực có sự tham gia của chính người nằm mơ: mơ lành, mơ dữ, mơ kèm theo

hành động, mơ có các yếu tố sinh lí, giấc mơ có nhiều cảm thụ của các giác

quan, khoảng cách thời gian câu chuyện trong giấc mơ. Việc phân chia này

chưa phải hoàn chỉnh, song nó giúp cho việc đánh giá và phân loại giấc mơ.

Page 111: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Giấc mơ của hai giới nam và nữ cũng có sự khác biệt, ít nhất là ở các điểm như:

phụ nữ thường thấy mình trong mơ nhiều hơn, có nhiều giấc mơ đẹp và mơ

phát thành tiếng nhiều hơn.

Nếu thức dậy vào giai đoạn REM, hầu như ta đều nhớ lại được giấc mơ.

Vai trỏ của ngủ và mơ

Giấc ngủ sâu rất cần thiết cho não nghỉ ngơi và hồi phục. Trong quá trình

hoạt động khi thức, các tế bào bị mất đi một chất nhất định, trước hết là chất

ATP (Adenosintriphosphat), diện tích các tế bào nhỏ đi. Khi nghỉ ngơi, các quá

trình sẽ diễn ra theo chiều ngược lại, năng lượng được tích tụ và tế bào được

hiệu chỉnh, giúp não được phục hồi và tỉnh táo.

Còn giai đoạn REM thì sao? Lúc này, bộ não lại bắt đầu tiêu hao năng

lượng, song để làm gì? Giai đoạn ngủ mơ không có ở loài bò sát, song đã bắt

đầu có ở chim. Theo giáo sư Michael jouvet thì ở giai đoạn ngủ mơ, người ngủ

hoàn toàn thoát khỏi tác động của thế giới bên ngoài, trừ các điểm đã nói ở trên.

Chính trong giai đoạn này, có những cơ chế được đưa vào hoạt động để đem lại

cho cơ thể một trạng thái cân bằng. Những sai lệch nảy sinh do hoạt động ban

ngày được bù lại bằng giấc mơ, cho dù giấc mơ đó có thể là rõ ràng hay rối ren.

Khoa học ngày nay vẫn chưa xác định được đầy đủ ý nghĩa của giấc mơ. Cũng

có nhà khoa học cho rằng giấc mơ là sự thể hiện những ước vọng bị kìm hãm

về mặt sinh lí; hoặc là một phương thức bảo tồn của con người giúp cơ thể lấy

lại những gì đã mất ban ngày.

Câu chuyện thứ mười hai: Trí nhớ giả và thôi miên

Từ lâu, thôi miên được xem là một liệu pháp kì diệu để chỉnh sửa những

trục trặc trong đời sống tinh thần của con người. Nhưng không phải lúc nào

cách này cũng được ủng hộ, vì nó từng tạo ra sự biến thái đa nhân cách gây

hậu quả thảm khốc. Tất cả chỉ do trí nhớ giả...

Tái tạo trí nhớ

Hãy thư giãn đi, nào, nào...", câu nói vang lên nhè nhẹ, ru ngủ người phụ

nữ. Chị mơ màng kể lại những gì mình thấy trong giấc ngủ chập chờn: một bãi

Page 112: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

biển xanh ngắt, sóng vỗ nhẹ, một luồng sáng dịu". Khi tỉnh dậy chị hầu như thấy

lại trọn vẹn những gì mà mình quên mất sau khi bị tai nạn giao thông cách đây 2

tháng. Tại Trung tâm liệu pháp thôi miên thuộc Đại học Texas, Mĩ, bác sĩ William

Kerry đang chữa trị cho hơn 100 bệnh nhân bị chứng suy giảm trí nhớ sau

những chấn thương liên quan đến não…

Nhiều người may mắn sống sót nhưng hoàn toàn quên mọi kỉ niệm, không

nhớ gì quá khứ. Những chuyện như vậy rất nguy hiểm, vì ảnh hường nghiêm

trọng đến đời sống tinh thần bệnh nhân và cả những người xung quanh. Thôi

miên đang được Mĩ và vài nước châu âu xem là phương thuốc kì diệu giúp tái

tạo trí nhớ, gây dựng lại trí nhớ đã bị kí ức xoá sạch trong não. Nếu cần một lời

lí giải cặn kẽ cho cơ chế "quên và nhớ" của não thì khoa học bó tay, nhưng thôi

miên lại biết cách tái tạo kỉ niệm tại một vùng nào đó trên não.

Tại Đại học Concordia (Canada), thôi miên cũng đang được giáo sư jean

Roch Laurence áp dụng triệt để cho những người mất đi "trí nhớ tự thân", loại trí

nhớ có nhiệm vụ ghi chép và lưu trữ trong tiềm thức đủ loại kỉ niệm, từ mơ hồ

thuở bé đến những quá khứ in đậm do có ấn tượng mạnh. Bạn không thể quên -

trên nguyên tắc - một kỉ niệm vui hay buồn có ảnh hưởng đến đời bạn, nhưng tai

nạn lao động hoặc tai nạn giao thông làm nó bị xoá sổ thì quả là tai hoạ. Theo

thăm dò của Tạp chí La Recherche, khoảng 90% gia đình của những bệnh nhân

như thế vô cùng đau khổ khi một thành viên trong gia đình họ không còn nhớ

chút gì.

Tuy nhiên, không phải lúc nào thôi miên cũng thành công, vì khoảng 11 %

trường hợp bỗng bị gán ghép kí ức giả, nghĩa là nhớ lại những chuyện không

phải của mình! Chuyện khó tin này diễn ra ở mức độ trùng hợp, làm nhiều nhà

nghiên cứu phải băn khoăn. Jean Baptiste Verona là một chàng trai 26 tuổi ở

Québec. Anh bị tông xe khá nặng và mất trí nhớ. Sau khi được chữa trị bằng

thôi miên, anh chợt "nhớ" những hình ảnh lạ hoắc mà cả gia đình và bạn bè đều

không biết. Chẳng hạn, Verona kiên quyết cho rằng mình từng đi cắm trại trong

rừng với 4 người bạn thân cách đây 10 năm, trong khi những người này đều xác

nhận không có.

Page 113: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Những chuyện như vậy là cực kì khó hiểu, càng khó hiểu hơn khi nhiều

người có cùng "trí nhớ giả" như nhau. Dominique và Allien đều được giúp đỡ

bằng thôi miên. Cả hai không quen biết nhau, nhưng đều có trí nhớ giả là có một

buổi đi xem phim với một anh chàng xa lạ. Lời mô tả của hai phụ nữ này hoàn

toàn giống nhau. Thật khó nếu đòi hỏi lời giải thích về vùng não nào chịu tác

động của thôi miên và tại sao hai người xa lạ lại có thể có chung trí nhớ giả.

Thận trọng với trí nhớ giả

Về phương diện pháp lí, trí nhớ giả đôi lúc tỏ ra nguy hiểm, vì nó có thể

gây tai hoạ cho một người vô tội. Cuối thập niên 1980, trí nhớ giả từng tạo nên

mức độ phức tạp và nhầm lần cho nhiều dự án. Nếu một thủ phạm gây án và bỏ

trốn, sau đó, nạn nhân bỗng có trí nhớ giả và kể "vanh vách" chân dung hoặc

hành động của một ai đó thì quả là một bi kịch. Khi gặp mặt một người vô tội,

người bệnh bị rối loạn kí ức bỗng gào lên: "Chính hắn đã làm nhục tôi" hoặc

"Chính hắn đã đụng vào tôi và bỏ chạy thì cảnh sát có thể gieo nghi vấn ngay

lập tức. Từ lâu, khoa học đã gọi triệu chứng này là kỉ niệm giả hay sai lạc. Trước

đây, khái niệm này chỉ được dùng để chỉ những kỉ niệm khủng khiếp tưởng

chừng đã bị quên sau chấn thương, nhưng sau đó được phục hồi. Về sau, nó

còn được dùng để chỉ trí nhớ giả. Ở Mĩ - vào thập niên 1990 - đã phải thành lập

một Tổ chức bảo vệ nạn nhân của trí nhớ giả, nhằm giảm thiểu ngộ nhận trong

xét xử. Canada cũng từng trình lên Bộ Tư pháp - vào năm 1997 - dự án thành

lập Hội bảo vệ những người vô tội bị trí nhớ giả gieo vạ.

Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, dù thôi miên liệu pháp đạt được những kết

quả rõ ràng. Liệu nó có làm xã hội thêm bất ổn một khi thủ phạm đích thực ung

dung trong khi kẻ vô tội bỗng mắc vào vòng lao lí? Trong tác phẩm "Động lực

của trí nhớ", tác giả Michelle Fugain của Pháp cũng nhấn mạnh rằng cơ chế

"thu nhận tất cả" của não cần được xem xét lại cẩn thận, vì không phải lúc nào

não cũng có quyền năng chính xác. Cơ chế vận hành đầy phức tạp và bí ẩn của

não đôi khi cho ra những tình huống sai lạc rất lớn mà các nhà Thần kinh học

chưa thể giải đáp.

Page 114: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Cũng theo Michelle, trong khi đọc một bài báo, người ta đã để não tập

trung vào việc "đọc hiểu và ghi nhớ", nhưng có những kí ức vẫn vô tình được

não ghi lại mà con người không hay biết, chẳng hạn, mùi nấu nướng đâu đó,

tiếng nhạc văng vẳng từ nhà bên cạnh hoặc một màu sắc thoảng qua. Kí ức-"vô

nghĩa" như vậy có thể được lập trình một cách hết sức tai hại trong não, sau đó

kết hợp với nội dung bài báo và cho ra một thứ "kí ức cocktail" chết người. Nếu

chúng ta khoẻ mạnh thì món cocktail ấy ngủ yên trong não và không có khuynh

hướng vùng dậy. Nếu trí nhớ bị lung lay, món cocktail hổ lốn ấy có thể được não

ghi nhận đậm hơn và cho ra phía trước, nghĩa là có thể xuất hiện bất cứ lúc nào

và đánh lừa ý thức của con người. Khi đó, một phụ nữ bị làm nhục - sau khi

được giúp đỡ bằng thôi miền - bỗng "nhớ" lại gương mặt và hình dạng của thủ

phạm tưởng tượng, chỉ vì tình cờ đọc lại bài báo kia (hoặc bài báo có nội dung

tương tự), đúng lúc mùi thức ăn hay màu sắc khi xưa cùng xuất hiện. Nói nôm

na là vậy, nhưng những gì xảy ra trong não thì không ai hiểu được. Bạn không

tài nào ghi nhớ được vài số điện thoại nào đó, nhưng não đã lưu trữ chúng mà

bạn không hay biết. Một lúc nào đó, não bỗng bật ra và ra lệnh (tai hại) cho bạn

rằng "đó là số điện thoại của thủ phạm". Khi đó, nạn nhân vô tội sẽ gặp vô số

rắc rối với cảnh sát.

Khoảng cuối thập niên 1990, Đại học Arizona của Mĩ cho ra thuyết "chi tiết

ngầm", nghĩa là nhấn mạnh và lí giải giá trị của những chi tiết vô nghĩa trong

não. Những gì mà con người ghi nhớ kĩ, nhớ dai đôi khi lại là hời hợt. Những gì

tưởng chừng vô hại, mau quên lại được não lưu lại rất kĩ và đợi lúc bùng nổ.

Theo thống kê của Hiệp hội Thôi miên liệu pháp của Bỉ, có gần 70% bệnh nhân

mất trí nhớ hoặc bị bệnh Alzheimer bỗng khôi phục trí nhớ theo kiểu chi tiết",

nghĩa là không nhớ lại được nội dung quan trọng, mà lại nhớ vanh vách các tiểu

tiết tầm phào dù chuyện đã xảy ra cách đó nửa thế kỉ! Theo giáo sư Alex

Rochefort của Pháp, thời gian có lúc đóng vai trò rất lớn với những tiểu tiết như

thế. Cụ thể, một chi tiết vô nghĩa được lưu lại, sau đó, qua thời gian, hàng loạt

chi tiết vô nghĩa khác được nạp tiếp và nằm đó. Một lúc nào đó, do não bị trục

trặc, chúng có thể kết hợp rất bền vững và nhanh chóng để cho ra một kỉ niệm

giả mà con người cứ tin chắc là thật. Ở Đại học Washington, những kiểu trí nhớ

Page 115: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

như thế được gọi là "nhân tạo", không phải theo kiều robot hay máy tính mà là

một kiểu "sáng tác tai hại". Điều mà khoa học chắc chắn là nếu thôi miên liệu

pháp không chen vào thì trí nhớ giả rất hiếm khi xuất hiện.

Theo Hiệp hội Tâm lí học của Mĩ (APS), thôi miên liệu pháp là con dao hai

lưỡi Giáo sư Elizabeth Loftus của Hiệp hội này vô cùng kinh ngạc khi thấy thí

nghiệm của bà đã cho ra một kết quả kì lạ: hơn 70% số người được thí nghiệm

đã có trí nhớ giả trùng hợp 100%. Đó là lời kể về thuở nhỏ mình bị lạc trong một

trung tâm thương mại sầm uất, cha mẹ đi đâu không biết, chỉ còn một mình

đứng gào khóc giữa đám đông xa lạ. Lẽ nào thôi miên liệu pháp đã "lập trình"

hàng loạt cho những bộ não của những chủ thể khác nhau? Một số ít bệnh nhân

lại rơi vào tình trạng "lạm phát kỉ niệm", nghĩa là nhớ lung tung, nhớ đủ thứ trên

đời, cả những chuyện mà não sáng tác ra. Một số nhà Thần kinh học thì cho

rằng khi trẻ em chưa được 3 tuổi thì não chưa hoàn thiện. Một kỉ niệm mạnh có

thể làm não bị trục trặc và tạo ra những chương trình giả. Kết luận này ra đời vì

đa phần những người có trí nhớ giả đều có kỉ niệm mạnh trước 3 tuổi, chẳng

hạn bị tai nạn dẫn đến chấn thương ở đầu bị xâm hại cơ thể hoặc bị ám ảnh.

(theo Vietnam Net)

3. CHÚ Ý3.1. Khái niệm

Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một sự vật hay một nhóm sự vật,

hiện tượng, để định hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh - tâm lí cần

thiết cho hoạt động tiến hành hiệu quả. Có thể nói rằng chú ý mang tính chất

chọn lựa, chúng ta chỉ chọn lựa từ một số lượng lớn các đối tượng và lấy ra một

số để tập trung vào đó tiến hành hoạt động tâm lí của mình.

Khi có chú ý thì hoạt động tâm lí sẽ trở nên có tổ chức hơn, không có chú

ý, thí dụ như ở trạng thái buồn ngủ thì các ý nghĩ sẽ diễn ra mang tính chất hỗn

loạn, chúng liên hệ với nhau một cách ngẫu nhiên, thay thế nhau do những mối

quan hệ liên tưởng máy móc đơn thuần, không có kế hoạch, không có trật tự.

Chú ý thường đi kèm với những biểu hiện bên ngoài như nhìn đăm đăm,

dỏng tai lên nghe, quay mặt về phía đối tượng gây ra chú ý... Nhưng những biểu

Page 116: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hiện này chỉ là bề ngoài vì người ta có thể "vờ chú ý" hoặc "vờ không chú ý". Sự

chú ý là một yếu tố quan trọng trong các hoạt động nghề nghiệp, chủ thể cần

biết phân phối chú ý như thế nào cho hợp lí và lúc nào thì tập trung chú ý...

3.2. Các loại chú ý

3.2.1. Chú ý không chủ định

Là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần đến sự nỗ lực bản

thân. Chú ý không chủ định thường do cường độ, tính chất bất ngờ, mới lạ,

tương phản... của các tác động và nhất là do tính hấp dẫn của đối tượng đối với

chủ thể gây ra. Chú ý không chủ định tuy không được chủ thể dự liệu nhưng có

ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình định hướng hành vi của mỗi cá nhân, đặc

biệt đối với những tác động mới lạ ngoài dự liệu của chủ thể.

3.2.2. Chú ý có chủ định

Là loại chú ý có mục đích định trước và cần sự nỗ lực của bản thân. Loại

chú ý này thường có thể duy trì tương đối lâu dài nhưng thường gây căng

thẳng, mệt mỏi... Loại chú ý có chủ định thường hướng đến các sự kiện, hiện

tượng hay vấn đề có liên quan đến nhu cầu, hoạt động của chủ thể, đó là sự

chú ý mang tính định hướng của mỗi người.

3.2.3. Chú ý sau chủ định

Loại chú ý này vốn là chú ý có chủ định, nhưng không đòi hỏi sự căng

thẳng của ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung hoạt động tới mức khoái cảm,

đem lại hiệu quả cao của chú ý. Như vậy chú ý có chủ định đã biến thành chú ý

sau chủ định. Chú ý sau chủ định là sự lưu tâm về đối tượng sau khi chủ thể có

một liên hệ tích cực nào đó đối với đối tượng.

3.3. Các tính chất cơ bản của chú ý

3.3.1. Sức tập trung của chú ý

Sức tập trung của chú ý, có khi còn gọi là tập trung tư tưởng, là khả năng

chỉ chú ý đến một phạm vi đối tượng tương đối hẹp, cần thiết cho hành động lúc

đó và không lưu ý đến những sự vật, hiện tượng khác. Ở mỗi người nhất định,

Page 117: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

sức tập trung chú ý càng cao thì cường độ chú ý càng lớn, càng giúp cho hành

động chính xác hơn, nhưng sức tập trung cao cũng biểu hiện ở sự thoát li các

đối tượng khác. Hiện tượng "đãng trí bác học" là vì quá say mê tập trung chú ý

vào một đối tượng nào đó mà quên mất mọi chuyện khác trên thế giới lúc ấy. Sự

tập trung chú ý cũng là một chỉ số để đánh giá hiệu quả thích ứng của từng chủ

thể đối với các biến đổi của môi trường.

3.3.2. Sự bền vững của chú ý

Đây là khả năng tập trung lâu dài hay nhanh chóng vào một phạm vi đối

tượng của hoạt động. Ngược với độ bền vững là sự phân tán chú ý. Phân tán

chú ý diễn ra theo chu kì gọi là sự dao động của chú ý. Sự dao động chú ý có

thể quan sát thấy ngay cả khi chú ý tập trung và vững chắc nhất. Sự dao động

đó biểu hiện ở chỗ mặc dù có tập trung vững chắc vào một hoạt động nhất định

nào đó thì sự chú ý vẫn chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác để rồi sau

một khoảng thời gian ngắn lại quay về đối tượng cũ.

3.3.3. Sự phân phối chú ý

Phân phối chú ý là khả năng cùng một lúc chú ý đến nhiều đối tượng hay

nhiều hoạt động khác nhau một cách có chủ định và đầy đủ.

3.3.4. Sự di chuyển chú ý

Di chuyển chú ý là khả năng lần lượt tập trung chú ý vào những phạm vi

đối tượng nhất định của một hoạt động hoặc nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Khả

năng di chuyển chú ý ở từng người như là một phẩm chất cá nhân riêng biệt.

Các tính chất hay thuộc tính của chú ý có quan hệ bổ sung cho nhau. Mỗi

tính chất có thể giữ vai trò tích cực hay không tuỳ thuộc vào chỗ chúng ta biết

sử dụng từng tính chất hay phối hợp các tính chất tuỳ theo yêu cầu của hoạt

động.

TÓM LƯỢC CHƯƠNG 3Có những hiện tượng tâm lí được chủ thể ý thức nhưng cũng có rất nhiều

hiện tượng tâm lí chưa được hay không được chủ thể ý thức.

Page 118: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Vô thức có vai trò quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người.

Chú ý là một trong những điều kiện giúp con người hoạt động có ý thức.

Chú ý có một số đặc điểm nói lên sự khác biệt chú ý ở cá nhân.

Chương 4: TÌNH CẢM

1. CẢM XÚC1.1. Khái niệm chung về cảm xúc

Cảm xúc là sự rung động của bản thân con người đối với hiện thực cũng

như sự rung động của trạng thái chủ quan nảy sinh trong quá trình tác động

tương hỗ với môi trường xung quanh và trong quá trình thoả mãn nhu cầu của

mình.

Cảm xúc cũng như các quá trình tâm lí khác, xuất hiện có tính chất phản

xạ, vì vậy nó là sự phản ánh của thế giới hiện thực tác động vào con người.

Cảm xúc là một hình thức đặc biệt của sự phản ánh quá trình thực tế tác động

lẫn nhau giữa con người với môi trường xung quanh nhưng khác với quá trình

trí tuệ như cảm giác, tri giác, tư duy cảm xúc chỉ phản ánh những mặt của hiện

thực được thể hiện nổi bật lên như một quá trình thực tế tác động lẫn nhau giữa

con người với môi trường khi các nhu cầu của họ được thoả mãn.

Có bốn loại cảm xúc điển hình là vui, buồn, sợ hãi và giận dữ, những cảm

xúc này thường gây nên những biến đổi nhất định. Cũng có thể cho rằng cảm

xúc là một tình trạng tâm lí mãnh liệt, nhất thời, chóng qua do một hình ảnh, một

kích thích gây ra kèm theo những biến đổi về tâm sinh lí.

Ngoài những nguyên nhân tạo cảm xúc, con người có sự khác nhau về

tính dễ xúc cảm để bộc lộ cảm xúc. Tính dễ xúc cảm của một cá nhân làm cá

nhân đó bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Sự tác động của những hiện tượng

nào đó có thể gây nên sự thoả mãn hay không thoả mãn, thích hay không thích,

một sự kiện nào đó có thể làm chủ thể vui hay buồn, có thể rung động một cách

dễ chịu hay khó chịu. Cùng một tin buồn, người ít cảm xúc có thể lạnh lùng, bình

tĩnh, còn người đa cảm có thể bị rối loạn toàn bộ sinh hoạt nội tâm cũng như thể

Page 119: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

xác. Mức độ cảm xúc khác nhau vì có sự khác biệt về tính cảm xúc ở mỗi cá

nhân.

Cần phân biệt cảm xúc và xúc cảm, xúc cảm là sự trải nghiệm của chủ thể

khi có sự thoả mãn nhu cầu nhưng đó chỉ là sự trải nghiệm thụ động, không tạo

nên một khuynh hướng nào để chủ thể có thể tiếp tục bị kích thích, một xúc cảm

không tạo nên động lực của hành vi. Cảm xúc là khái niệm gắn liền với định

hướng hoạt động, là phản ứng mang tính kích thích để chủ thể lựa chọn

phương pháp thích ứng. Cảm xúc dùng để chỉ phản ứng của con người còn xúc

cảm còn dùng để mô tả phản ứng của con vật.

1.2. Những đặc điểm của cảm xúc

1.2.1. Cảm xúc có những biểu hiện bề ngoài rất rõ ràng

Đặc điểm tiêu biểu của cảm xúc con người và động vật là các trạng thái

tâm lí chủ quan bên trong luôn có những biểu hiện bên ngoài nhất định qua cử

chỉ, nét mặt, đặc điểm tư thế, động tác và cả những phản ứng có liên quan đến

những thay đổi trong hoạt động của hệ tim mạch, hô hấp, tuyến nội tiết... Khi sợ

hãi, mặt con người có thể tái mét, hành động trở nên gò bó. Khi bối rối, mặt con

người có thể đỏ bừng lên, toát mồ hôi. Khi sung sướng, người ta cười, hơi thở

trở nên sâu hơn, động tác trở nên thoải mái hơn. Cảm xúc cũng thể hiện ở

giọng nói của chủ thể. Những vận động diễn cảm của nét mặt xảy ra do hoạt

động của một nhóm cơ đặc biệt trên mặt là những cơ thực hiện các động tác rất

khác nhau và có sự phân biệt vô cùng tinh tế, do đó tạo nên những sắc thái vô

cùng phong phú của nét mặt khi có những rung động cảm xúc khác nhau. Có

thể nói rằng cảm xúc xuất hiện thường kèm theo những biến đổi về tâm - sinh lí.

Người ta có thể "biến sắc" khi gặp sự cố bất thường, nguy hiểm và người ta có

thể mất khôn ngoan khi đang trong cơn giận dữ. Hoạt động của các cơ thường

xảy ra một cách không ý thức, một cách tổng hợp rất phức tạp.

Dây thần kinh mặt với vô số các nhánh của nó sẽ phân bố thần kinh cho

tất cả các cơ trên điệu bộ, nét mặt. Con người có thể nhìn cười hay nén nỗi

buồn của mình không cho biểu hiện trên nét mặt, người ta có thể cười khi họ

Page 120: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hoàn toàn không vui chút nào hoặc có thể thể hiện sự không thoả mãn một cách

giả tạo.

Những động tác diễn cảm không ý thức khi rung động cảm xúc xảy ra

không chỉ do các cơ mặt mà còn do toàn bộ cơ bắp trong cơ thể. Con người

thường nắm chặt nắm tay một cách không ý thức khi tức giận, lùi lại và làm

động tác đẩy ra khi kinh tởm...

Khi sợ hãi đến một mức nhất định thì người ta biểu hiện hoạt tính vận

động khác thường như chạy nhanh hơn, nhảy cao hơn để tránh nguy hiểm

chẳng hạn. Khi giận dữ tột cùng, người ta cũng thấy sức mạnh cơ bắp và động

tác đột ngột khác thường.

Về mặt tâm lí, cảm xúc có thể làm tê liệt tạm thời các phán đoán, suy luận

và ý chí của cá nhân.

1.2.2. Các cảm xúc rất đa dạng và phong phú

Sự phong phú của các cảm xúc không chỉ về mặt nội dung của các hiện

tượng mà nó có liên quan tới, mà còn theo các đặc điểm về chất của mình và

theo vô số các sắc thái cảm xúc tương tự. Sự sợ hãi không chỉ xuất phát từ sự

khiếp đảm hay khi chủ thể đối diện với tình trạng bị kích động mà còn có thể bắt

đầu từ sự thiếu tự tin ở chính chủ thể. Người ta có thể vui vì nhiều lý do khác

nhau và niềm vui của mỗi lí do cũng hoàn toàn khác nhau.

1.2.3. Tùy theo loại cảm xúc mà những dấu hiệu bộc lộ sẽ khác nhau

Niềm vui làm khuôn mặt rạng rỡ, cười tươi thêm, tuần hoàn và hô hấp

thoải mái trong lúc nỗi buồn lại làm vẻ mặt sạm lại, mắt mất thần, nhăn nhó…

Cảm xúc xuất hiện và biểu hiện tuỳ thuộc vào trạng thái chủ quan của chủ thể và

tuỳ thuộc vào tính chất của các kích thích.

1.3. Vai trò của cảm xúc trong cuộc sống và trong hoạt động của con người

Khi con người thoả mãn được một nhu cầu nào đó hay không, một cảm

xúc tương ứng sẽ được hình thành, có thể là dương tính, có thể là âm tính. Các

Page 121: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

cảm xúc có những vai trò nhất định trong quá trình sống và làm việc của con

người.

1.3.1. Cảm xúc như một hình thức thích ứng với hoàn cảnh xung quanh

Theo quan điểm tích cực, cảm xúc làm quân bình đời sống tâm lí trong

quá trình cá nhân tiếp nhận những kích thích bất thường. Người ta có thể khóc

để làm vơi bớt nỗi buồn đau hoặc có thể la hét để làm giảm bớt sự phấn kích.

Cảm xúc là một cơ chế giúp con người tự cân bằng đời sống tâm lí, giúp con

người biết cách xác định phương hướng hành động sau đó.

1.3.2. Cảm xúc có vai trò kích thích hành động

Cảm xúc gắn liền với những nhu cầu, động lực của sự phát triển và là

nguyên nhân của những xáo trộn tâm lí tạm thời. Do đó nó có tác dụng kích

thích hành động một cách mạnh mẽ. Cảm xúc là nguồn gốc của sáng tạo nghệ

thuật, là cơ sở để có những hành vi phi thường, là điều kiện để có những cách

thức thích nghi độc đáo của các chủ thể.

1.3.3. Cảm xúc đóng vai trò tích cực trong quá trình giao tiếp

Trong giao tiếp giữa người với người, cảm xúc đóng vai trò truyền đạt

quan trọng. Cảm xúc mang lại cho con người ngôn ngữ truyền cảm, con người

biểu lộ thái độ cảm xúc của mình đối với người khác, với các sự kiện, hiện

tượng khác nhau bằng ngữ điệu, cử chỉ, điệu bộ, do đó gây nên phản ứng đáp

lại của người khác.

Sự đa dạng, phong phú và trong sáng của cảm xúc sẽ làm cho kinh

nghiệm sống của con người trở nên phong phú hơn, làm cho quan hệ tương hỗ

giữa cá nhân con người có nội dung đầy đủ hơn.

1.4. Các loại cảm xúc

Các cảm xúc có thể được phân chia thành các dạng thành phần căn cứ

vào các dấu hiệu đặc trưng đối với chúng về cường độ, thời gian tồn tại... Sau

đây là những dạng cảm xúc tiêu biểu.

1.4.1. Tâm trạng

Page 122: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tâm trạng là một trong những dạng phổ biến nhất của các trạng thái cảm

xúc của con người. Tâm trạng có những đặc điểm sau:

- Cường độ yếu, tâm trạng thể hiện với cường độ rung động cảm xúc yếu.

Tâm trạng là một trạng thái cảm xúc chung bao trùm lên toàn bộ các rung động

và làm nền cho hoạt động của con người, có ảnh hưởng rõ rệt đến hành vi của

con người. Nguồn gốc của tâm trạng rất khác nhau, có nguồn gốc gần và xa,

trực tiếp hoặc gián tiếp.

- Thời gian tồn tại của một tâm trạng kéo dài đáng kể, tâm trạng bao giờ

cũng là một trạng thái có sự kéo dài, các cảm xúc tương ứng phát triển chậm và

duy trì. trong một khoảng thời gian nhất định. Một tâm trạng nhất định có thể làm

con người bị ảnh hưởng, bị Phân tâm có khi hằng tuần, hằng tháng hoặc lâu

hơn nữa...

- Không rõ ràng, "không ý thức". Khi đã ở trong một trạng thái nào đó, con

người vẫn không giải thích được nguyên nhân, không liên hệ được với các đối

tượng khác xác định nào đó. Khi con người giải thích được các nguyên nhân

gây ra tâm trạng thì tâm trạng đó đã biến mất. Điều này không có nghĩa là các

tâm trạng hình thành một cách vô cớ nhưng sự xuất hiện của nó có lúc khiến

con người không kiểm soát được.

- Tâm trạng mang tính chất phân tán đặc biệt. Tâm trạng để lại dấu ấn của

mình trên tất cả những ý nghĩ, thái độ, hành động của con người trong thời điểm

đang có tâm trạng đó. Sự hình thành và thay đổi tâm trạng có thể bị ảnh hưởng

bởi các nhân tố chủ quan và khách quan, những nhân tố bên ngoài và bên trong

chủ thể.

Sau đây có thể lưu ý đến một số nguyên nhân chủ yếu của các tâm trạng:

- Các quá trình và các trạng thái khác nhau của cơ thể. Trạng thái cơ thể

không tốt có thể gây nên tâm trạng không lành mạnh và ngược lại. Vì vậy muốn

duy trì tâm trạng lành mạnh, cằn chú ý đến việc chăm sóc sức khoẻ.

- Các đặc điểm của môi trường xung quanh con người, nơi con người

sống và làm việc. Những kích thích, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến việc

hình thành những tâm trạng nhất định. Màu sắc, âm thanh, khí hậu... có ảnh

Page 123: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hưởng nhất định đến việc hình thành hoặc thay đổi tâm trạng. Đặc điểm này có

thể được vận dụng để tạo nên những tâm trạng phù hợp với tính chất của tình

huống hoặc tính chất của hoạt động: các Y Bác sĩ thường mặc áo bảo hộ (blue)

màu trắng hoặc xanh da trời, các chức sắc tôn giáo mặc trang phục có màu

tương thích với nghi lễ...

- Các đặc điểm tác động lẫn nhau giữa người với người. Các tâm trạng có

thể truyền từ người này qua người kia trong quá trình tiếp xúc qua lại với nhau.

- Những ý nghĩ và biểu tượng của con người, biểu hiện sự thoả mãn hay

không thoả mãn với hành vi của con người, với kết quả hoạt động của họ... sẽ

ảnh hưởng đến việc hình thành những tâm trạng nhất định.

1.4.2. Xúc động

Khi các cảm xúc xảy ra với cường độ mạnh mẽ và biểu hiện đột ngột thì

gọi đó là xúc động. Những đặc điểm nổi bật của xúc động là:

- Rung động cảm xúc biểu hiện bên ngoài mãnh liệt, các quá trình hưng

phấn và ức chế trong não rất mạnh. Đồng thời hoạt động của các trung khu

dưới vỏ não cũng được tăng cường và xuất hiện những rung động cảm xúc bản

năng sâu sắc.

- Những rung động cảm xúc xảy ra trong thời gian ngắn, với những đặc

điểm riêng. Xúc động vừa là một quá trình tích cực, vừa không kéo dài lâu và

biến đi rất nhanh.

- Những rung động cảm xúc xảy ra có tính chất không có ý thức ở mức

đáng kể. Ở trạng thái xúc động, con người có lúc hoàn toàn không nhận thức

được rằng họ đang làm gì, không thể điều khiển được hành vi, hoạt động của

họ, họ hoàn toàn bị rung động cảm xúc chi phối.

- Rung động cảm xúc thể hiện sự lan toả rất rõ ràng.

2. TÌNH CẢM2.1. Khái niệm

Page 124: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tình cảm là thái độ cảm xúc ổn định của con người đối với những sự vật,

hiện tượng của hiện thực khách quan có liên quan đến nhu cầu và động cơ của

họ.

Cũng như nhận thức, tình cảm cũng phản ánh hiện thực khách quan và

mang tính chất chủ thể sâu sắc nhưng có những đặc điểm riêng khác biệt so với

phản ánh trong nhận thức.

Tình cảm là những rung động cảm xúc mạnh hơn tâm trạng nhưng lại yếu

hơn xúc động nhiều, đó là những cảm xúc có cường độ trung bình, nhưng đồng

thời lại có những cấu trúc tâm lí rõ ràng. Tình cảm không kéo dài lâu như tâm

trạng mà mang tính chất tiềm tàng, sâu lắng.

2.2. Những đặc điểm của tình cảm

2.2.1. Tính nhận thức

Đặc điểm nổi bật của tình cảm là chủ thể luôn luôn nhận thức được các

nguyên nhân gây nên chúng. Ba yếu tố nhận thức, rung động và thể hiện cảm

xúc tạo nên tình cảm của con người.

2.2.2. Tínhh đối tượng

Tình cảm không lan toả như xúc động mà luôn hướng vào một đối tượng

nhất định. Tình cảm có liên hệ chặt chẽ với hoạt động, các tình huống cụ thể

gây nên những rung động nhất định.

2.2.3. Tính ổn định

Tình cảm là một thuộc tính tâm lí của con người, là những kết cấu tâm lí

ổn định, tiềm tàng của nhân cách, rất khó hình thành nhưng cũng rất khó mất đi.

2.2.4. Tính xã hộị

Tình cảm thực hiện chức năng tỏ thái độ của con người, tình cảm mang

tính chất xã hội, chứ không phải là những phản ứng tâm lí đơn thuần.

2.3. Các loại tình cảm

Page 125: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tình cảm là những rung động cảm xúc rất phức tạp và đa dạng. Ví dụ:

căn cứ vào nội dung và nguyên nhân phát sinh, người ta phân chia thành tình

cảm cấp thấp và cấp cao.

2.3.1. Tình cảm cấp thấp

Loại tình cảm này liên quan chủ yếu đến các quá trình sinh học trong cơ

thể, liên quan đến sự thoả mãn những nhu cầu tự nhiên của con người.

2.3.2. Tình cảm cấp cao

Loại tình cảm này xuất hiện liên quan đến việc thoả mãn các nhu cầu xã

hội, nhu cầu tinh thần của con người. Các loại tình cảm này tham gia một cách

hữu cơ vào tất cả mọi hình thức hoạt động, ảnh hưởng mạnh mẽ, rõ ràng đến

tính tích cực của con người.

2.3.3. Tình cảm đạo đức

Tình cảm đạo đức biểu thị thái độ của con người đối với các yêu cầu đạo

đức trong xã hội, trong quan hệ giữa người với người. Các tình cảm đạo đức sẽ

tốt đẹp khi các hành động và hành vi của con người do các tình cảm ấy xác định

tương ứng với các yêu cầu của xã hội và được xã hội khuyến khích, đánh giá

cao.

Tình cảm đạo đức gắn chặt với thế giới quan của con người, với các ý

nghĩ, tư tưởng, nguyên tắc và truyền thống của họ. Các biểu tượng hay ý nghĩ

phát sinh trong ý thức con người vừa gắn với tình cảm đạo đức vừa trở thành

nguồn kích thích đối với hoạt động.

2.3.4. Tình cảm có trí tuệ

Tình cảm trí tuệ là tình cảm gắn với hoạt động nhận thức của con người,

chúng nảy sinh trong quá trình học tập và hoạt động khoa học cũng như trong

hoạt động sáng tạo ở các môn nghệ thuật, khoa học và kĩ thuật khác nhau. Tình

cảm trí tuệ rất đa dạng, được thể hiện bởi ý nghĩ rõ ràng hay mơ hồ, nghi ngờ

một vấn đề nào đó. Tình cảm trí tuệ thể hiện ở sự ngạc nhiên khi bắt gặp cái

mới, cái bất thường chưa từng được biết...

2.3.5. Tình cảm thẫm mĩ

Page 126: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tình cảm thẩm mĩ được hình thành do vẻ đẹp hay sự xấu xí của các đối

tượng được tri giác tạo nên. Tình cảm thẩm mĩ có thể mang tính chất nhận thức

khi chúng xuất hiện gắn với sự tri giác hiện thực khách quan, chúng có thể trở

nên tích cực khi tham gia một cách hữu cơ vào hoạt động của con người.

2.3.6. Tình yêu (đôi lứa)

Tình yêu được hiểu như một phạm trù vĩnh hằng. Đề tài tình yêu vẫn là đề

tài hấp dẫn nhất từ trước đến nay, nhất là tình yêu đôi lứa. Tình yêu đẹp có vai

trò rất lớn trong đời sống con người nói chung và tuổi trẻ nói riêng.

Tình yêu là động lực thúc đẩy con người hoạt động rất mạnh mẽ nếu tình

yêu xuất phát từ những cảm xúc lành mạnh và được bồi đắp dưới một môi

trường trong sáng.

Những đặc điểm của tình yêu:

- Tình yêu không phải là trạng thái tình cảm bình thường, đơn thuần.

- Tình yêu là nguồn sức mạnh tác động đến toàn bộ cuộc sống, hoạt động

và sức sáng tạo của con người.

- Tình yêu dành cho một và chỉ cho một người khác giới nhất định.

- Tình yêu có tính chất bền vững.

- Tình yêu mang sắc thái dân tộc.

- Tình yêu mang tiếng nói địa phương.

2.4. Vai trò của tình cảm

Với nhận thức, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người

tìm tòi chân lí, ngược lại, nhận thức là cơ sở của tình cảm. tình cảm là chất liệu

của sáng tạo nghệ thuật.

Tình cảm có quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lí của con

người và nó đóng vai trò điều hoà, thiết lập trật tự cho cuộc sống. Giữa hai thái

cực trong sinh hoạt ở con người, sự xung động và tình trạng quán tính, tình cảm

giữ cho chúng thế quân bình. Thiếu tình cảm, con người sẽ rơi vào một trong

hai thái cực và mất hết khả năng thích nghi.

Page 127: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

2.5. Các quy luật của đời sống tình cảm

2.5.1. Quy luật di chuyển

Quy luật này được thể hiện ở chỗ, tình cảm có thể chuyển từ đối tượng

này sang đối tượng khác hoặc từ nội dung này sang nội dung khác, tuỳ thuộc

vào đối tượng của tình cảm. Hiện tượng di chuyển tình cảm có thể xuất hiện

dưới nhiều hình thức, có thể là sự chuyển tình cảm từ người sang vật. Một cuốn

nhật kí của người bạn thân, một kỉ vật nào đó gắn liền với cuộc sống của một cá

nhân nhất định đã làm cho con người bồi hồi, cảm kích.

2.5.2 Quy luật lây lan tình cảm

Tình cảm của người này có thể truyền, lây sang người khác. Nền tảng

của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm của con người. Một hình thức lây

lan là sự đồng cảm. Đồng cảm là khuynh hướng đưa con người tới chỗ hiểu biết

nhau hơn. Tính chất nổi bật của sự đồng cảm là sự thu hút con người, sự đồng

cảm có đối tượng là con người chứ không phải con vật. Sự đồng cảm toàn diện

phải có sự lôi cuốn hai chiều giữa chủ thể và người kia.

2.5.3. Quy luật tương phản

Tình cảm có sự tác động qua lại với nhau, sự xuất hiện hoặc sự suy yếu

đi của một tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một tình cảm khác xảy ra

đồng thời hoặc nối tiếp nó.

2.5.4. Quy luật pha trộn

Pha trộn tình cảm là sự kết hợp màu sắc âm tính và màu sắc dương tính

của nó, màu sắc âm tính còn là nguồn gốc và điều kiện để nảy sinh màu sắc

dương tính. Tính pha trộn cho phép hai loại tình cảm đối nghịch nhau có thể

cùng tồn tại ở một con người, chúng không loại trừ nhau, mà quy định lẫn nhau.

2.5.5. Quy luật thích ứng tình cảm

Một tình cảm nào đó được lặp đi lặp lại nhiều lần một cách không thay đổi

thì cuối cùng sẽ bị suy yếu, chai sạn.

2.5.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm

Page 128: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tình cảm được hình thành từ các cảm xúc, do các cảm xúc cùng loại

được động hình hoá. Nếu không có cảm xúc, vô cảm thì không có tình cảm gì

cả.

Tình cảm được hình thành từ các cảm xúc, nhưng khi đã hình thành thì

tình cảm lại được thể hiện qua các xúc cảm đa dạng và chi phối các cảm xúc.

Các quy luật của đời sống tình cảm được thể hiện vô cùng phong phú và

đa dạng trong cuộc sống của con người, các quy luật này ảnh hưởng đến đời

sống tình cảm của con người một cách tự nhiên, trong nhiều trường hợp, con

người không thể nhận biết được là họ đang bị các quy luật chi phối.

3. ĐAM MÊ3.1. Khái niệm

Đam mê là một khuynh hướng chiếm ưu thế, có thể trở thành thống trị và

độc tôn phá vỡ sự quân bình của đời sống tâm lí. Con người có nhiều nỗi đam

mê như đam mê tiền bạc, đam mê quyền lực, đam mê tình yêu, nghiện các chất

độc hại...

Trong cuộc sống, có người lúc đầu có khuynh hướng chuộng tiền tài, dần

dần khuynh hướng tiền bạc trở thành thống trị, con người sẽ trở nên bị lệ thuộc

vào tiền bạc và đến mức độ cuối cùng, con người chỉ còn biết có tiền, khuynh

hướng tiền bạc trở nên độc tôn, người ta coi tiền bạc như lí tưởng của cuộc

sống, trong tình trạng thức, ngủ, con người đều nhìn thấy tiền ở khắp mọi nơi,

con người đã đam mê tiền.

3.2. Một vài loại đam mê điển hình

3.2.1. Tình yêu

Giữa chủ thể và một đối tượng, nếu tình cảm nảy sinh, tình yêu nảy nở là

chuyện rất bình thường. Nhưng nếu một lúc nào đó, tình yêu của chủ thể dành

cho đối tượng mỗi ngày thêm mãnh liệt, nó lấn át dần các loại ảnh cảm khác và

có thể trở thành độc tôn hay chuyên nhất, lúc đó chủ thể đã rơi vào tình trạng

đam mê.

Page 129: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

3.2.2. Lòng đam mê khoa học nghệ thuật

Có rất nhiều nhà khoa học, nhiều nghệ sĩ đã hi sinh cả cuộc đời để theo

đuổi các giá trị "Chân", "Thiện", "Mĩ". Họ đã dấn thân sáng tạo giá trị mới với sự

đam mê cuồng nhiệt. Trong họ, tất cả mọi khuynh hướng khác đều trở nên vô

nghĩa nếu không có sự liên quan gì đến những điều họ đang ấp ủ, kì vọng...

Nhờ đam mê những giá trị cao đẹp, con người đã sáng tạo nên những

thành quả rất đáng tự hào.

3.2.3. Nghiện chất độc hại

Ngoài trạng thái đam mê các giá trị "Chân", "Thiện", "Mĩ", cũng cần lưu ý

đến các dạng nghiện chất độc hại. Những đam mê này có những tác hại khôn

lường cho đời sống của con người. Khi con người rơi vào những đam mê như

vậy, họ sẽ hoàn toàn rơi vào tình trạng nô lệ chất độc hại, sự sụp đổ về mặt tâm

lí, sinh lý sẽ diễn ra rất nhanh chóng và khốc liệt.

Tuỳ theo tác dụng, người ta phân biệt chất độc hại gây cảm giác khoan

khoái như thuốc phiện, cocain, loại gây say sưa như rượu, loại gây kích thích

như thuốc lá và các loại thuốc gây ảo giác khác.

Nghiện ngập huỷ diệt nhân cách là gánh nặng cho xã hội và là mối đe doạ

cho nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Nhân loại văn minh, cuộc sống tiến bộ và vì hạnh

phúc của muôn người, chúng ta không thể để loại đam mê này tồn tại.

3.3. Những điều kiện nảy sinh đam mê

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đam mê do những nguyên nhân sâu xa

nơi vô thức mà có, nhưng điều đó không thể phủ nhận rằng có những điều kiện

tâm sinh lí hay môi trường nhất định làm xuất hiện và phát triển đam mê.

3.3.1. Điều kiện tâm lí

Một cá nhân có tâm hồn lành mạnh, ý chí vững bền và được giáo dục

những lí tưởng cao đẹp, không thể có những đam mê thấp hèn mà trái lại ở họ

sẽ có thể có những đam mê hướng về những giá trị tinh thần cao cả. Vì thế,

trong cuộc sống, sinh hoạt, việc bồi bổ sức mạnh tinh thần là điều cần thiết.

Page 130: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Những niềm đam mê khác nhau cũng sẽ tuỳ thuộc vào lứa tuổi nhất định,

thông thường tuổi trẻ với những đam mê tình yêu, người trưởng thành với đam

mê danh vọng, người già với đam mê tiền bạc...

3.3.2. Điều kiện sinh lí

Cơ thể khoẻ mạnh, tràn đầy sinh lực khó có thể trở thành mảnh đất xấu

cho những loại đam mê thấp hèn. Luyện tập thân thể là phương cách hữu hiệu

để loại trừ các đam mê xấu.

3.3.3. Môi trường xung quanh

Con người sống trong xã hội tốt, gia đình tốt là môi trường thuận tiện phát

sinh những đam mê cao thượng. Trong một môi trường lành mạnh, tích cực sẽ

có nhiều con người tậnn tụy với nghĩa vụ) hi sinh cho người khác và say mê

sáng tạo, tìm tòi các giá trị mới làm đẹp cuộc đời, hướng đến những đam mê

tinh thần cao quý. Nếu tình yêu chẳng có ai cạnh tranh, phú quý không có người

tranh giành thì khó có người đam mê tình yêu, danh vọng.

3.4. Ảnh hưởng của đam mê trong đời sống

3.4.1. Về trí tuệ

Đam mê làm cho cá nhân thường chỉ có vẻ sáng suốt với đối tượng này

mà mù quáng đối với đối tượng khác, sinh hoạt trí tuệ trở nên nghèo nàn, sai

sót. Khi đam mê, lí luận thường sai lệch, nhiều khi ngụy biện. Đam mê thường

tạo nên những mâu thuẫn giữa hai thái cực, giữa sáng suốt và mù quáng, giữa

mãnh liệt và yếu đuối, giữa phong phú và nghèo nàn

3.4.2. Về tình cảm

Khi đam mê, con người thường xúc động nhiều với đối tượng này, khô

khan, tàn nhẫn với người khác. Kẻ biển lận sáng mắt, ấm lòng với tiền bạc,

nhưng lại lạnh lùng, tàn nhẫn với vợ (chồng), con.

3.4.3. Về hoạt động

Khi đam mê, trong hoạt động của con người thường mất quân bình, thiếu

tự chủ trong hoạt động.

Page 131: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Trong cuộc sống, nếu đam mê chỉ ở mức độ một khuynh hướng ưu thế

hay nổi bật thì nó có tác dụng điều hoà hành động, nó trở thành khuynh hướng

chủ đạo cho việc hội nhập các khuynh hướng khác. Nếu đam mê chỉ là khuynh

hướng nổi bật thì sẽ có tác dụng tạo nên những kích thích yêu đời, sáng tạo.

Con người, ai cũng có một tình cảm chan hoà với những xúc làm cảm nổi

bật lên từng cá tính của con người. Khác biệt hoàn toàn với động vật, con người

có thêm một quyền lực nội tại để tự mình làm nổi bật tư cách của mình, vượt lên

cao hơn hẳn so với loài động vật, quyền lực nội tại đó là lí trí. Lí trí giúp con

người phân biệt được những điều tốt, xấu, hay, dở, làm cho con người ngày

càng tự tin hơn. Lí trí can thiệp vào đời sống tình cảm của con người. Sự kết

hợp hài hoà giữa tình và lí là một sự kết hợp cần thiết trong mọi hoạt động của

con người trên con đường tự khẳng định mình.

TÓM LƯỢC CHƯƠNG 4 Khi nhu cầu của con người được thoả mãn, những cảm xúc sẽ xuất hiện

và có những tính chất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ thoả mãn nhu cầu như

thế nào.

Tình cảm là một hệ thống thái độ của con người đối với những sự vật,

hiện tượng có liên quan đến việc thoả mãn nhu cầu của họ. Tình cảm bị ảnh

hưởng bởi những quy luật nhất định. Tình cảm có vai trò đặc biệt quan trọng

trong đời sống con người.

Đam mê là một biểu hiện trong đời sống tình cảm, nó có ảnh hưởng đến

đời sống của con người.

Chương 5: Ý CHÍ VÀ HÀNH VI Ý CHÍ

1. Ý CHÍ1.1. Khái niệm

Page 132: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Ý chí là khả năng giúp con người hoàn thành những hành vi đã định nhằm

đạt mục đích đã được đặt ra, là khả năng điều hoà và điều khiển có ý thức hành

vi của bản thân mình.

Ý chí là điểm hội tụ của nhận thức và tình cảm hướng vào hoạt động của

con người. Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện

những hành vi có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn. Con

người không chỉ phản ánh hiện thực trong cảm giác, tri giác, biểu tượng và khái

niệm của mình, mà còn tác động và làm thay đổi môi trường xung quanh theo

những nhu cầu, ý định và lợi ích của mình. Trong hoạt động sống, loài vật cũng

có tác động vào môi trường bên ngoài, nhưng trong sự thích nghi không có sự ý

thức với môi trường ấy. Ý chí có thể được xem là khả năng ức chế nhu cầu của

con người.

Ý chí là một phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí nhân

cách, vì không phải ai cũng có những nỗ lực giống nhau, không phải ai cũng có

sự điều hoà hành vi giống nhau.

Ý chí của con người được hình thành và biến đổi tuỳ theo những điều

kiện xã hội - lịch sử, tuỳ theo những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Tính

chất của những mục đích và của những gì thúc đẩy đối với hành động ở con

người được quyết định ở chỗ từng người tạo lập và biến đổi nhu cầu của bản

thân.

Giá trị chân chính của ý chí không chỉ căn cứ ý chí đó như thế nào (cao

hay thấp, mạnh hay yếu) mà còn là nó được định hướng vào cái gì, vì vậy cần

phân biệt mức độ ý chí và nội dung đạo đức của ý chí.

Mục đích hành động của con người được phản ánh trong ý chí là do

những điều kiện cụ thể của hoạt động khách quan quy định. Trong khi điều

khiển hành vi con người, với sự nỗ lực của bản thân chủ thể, ý chí đã thể hiện

tính tích cực, thể hiện sự tự do tương đối của chủ thể trong việc lựa chọn các

điều kiện, phương tiện, phương pháp để đạt được mục tiêu.

Page 133: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Sự điều chỉnh của ý chí đối với hành vi con người là do những điều kiện

mà con người sống và lao động quy định. Ý chí thể hiện tính tích cực có ý thức

của chủ thể, tính tích cực này có mục đích và tác động một cách có kế hoạch.

1.2. Vai trò của ý chí

Ý chí là quá trình chống lại đam mê, dục vọng bên trong và khó khăn của

thế giới bên ngoài, phát huy sự tự do của con người. Dục vọng của con người

nếu bị ức chế quá độ hay buông lỏng đều gây nên những hậu quả tai hại và làm

mất hiệu năng của ý chí.

Nhờ ý chí mà con người có sức mạnh phi thường, vượt qua muôn vàn

khó khăn, trở ngại tưởng như không vượt nổi. Nhờ ý chí mà con người tổ chức

được hoạt động của mình biến đổi được tự nhiên và xã hội, tạo ra được những

giá trị vật chất và tinh thần, thực hiện được những kế hoạch lớn trong đời, có

được những phát kiến khoa học phi thường...

1.3. Các phẩm chất ý chí

Trong quá trình hoạt động, con người sẽ hình thành cho mình những

phẩm chất ý chí cần thiết đặc trưng cho nhân cách của họ và có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc thực hiện lí tưởng sống. Sau đây là một số phẩm chất ý

chí cơ bản:

1.3.1. Tính mục đích

Đây là một sản phẩm rất quan trọng của ý chí là khả năng con người, với

tư cách là chủ thể của hoạt động, biết xác định những mục đích gần và mục

đích xa, có mục đích bộ phận và mục đích tổng thể của cuộc đời... Tính mục

đích của ý chí cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự

giác. Tính mục đích của con người bị ảnh hưởng bởi lí tưởng sống và các

nguyên tắc sống của cá nhân.

1.3.2. Tính quét đoán

Quyết đoán là khả năng đưa ra được những quyết định kịp thời và dứt

khoát mà không có những tình trạng dao động không cần thiết. Một con người

quyết đoán là con người làm chủ được hoạt động trí tuệ của mình, một con

Page 134: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

người có sự tự tin mạnh mẽ. Tính quyết đoán xuất phát từ trình độ trí tuệ và

lòng dũng cảm.

1.3.3. Tính độc lập

Độc lập là năng lực quyết định và thực hiện hành động không chịu ảnh

hưởng của người khác. Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ chủ thể không dễ

bị ám thị, bị áp đặt một cách suy nghĩ, một hành động nào đó. Tính độc lập

không phải thể hiện ở sự bướng bỉnh, khăng khăng chống lại những điều gì

khác với mình. Tính độc lập giúp con người hình thành được niềm tin vào sức

mạnh của chính bản thân mình.

1.3.4. Tính kiên trì

Tính kiên trì thể hiện ở cường độ của ý chí, cho phép con người có những

quyết định kịp thời trong những hoàn cảnh khó khăn và kiên trì thực hiện mục

tiêu đã xác định. Kiên trì không phải là sự lì lợm cũng không phải là sự ương

bướng.

1.3.5. Tính tự chủ

Tự chủ là khả năng làm chủ được bản thân mình trong những trường hợp

có những xung đột tâm lí bên trong. Người tự chủ có khả năng duy trì được sự

kiểm soát đầy đủ đối với hành vi của mình, chiến thắng được những thúc đẩy

không mong muốn. Người tự chủ thường có khả năng kìm hãm những hành

động không cần thiết hoặc có hại trong những tình huống cụ thể.

Lịch sử có rất nhiều tấm gương nổi bật về tính kiên nhẫn. Trường hợp của

Jullo Iglesias là một điển hình. Năm 20 tuổi, cậu bé bị tai nạn giao thông và bị

tàn tật hai chân và cả đời phải đi lại trên xe lăn nhưng Julio không chấp nhận số

phận như vậy và cậu kiên quyết tập luyện 12 tiếng đồng hồ một ngày trong hai

tháng chỉ để cử động ngón chân. Và cứ như thế kiên trì trong hai năm, cậu bé

bắt đầu cử động và sử dụng được hai bàn chân. Cậu tự dùng tay đẩy xe lăn

chạy lên xuống lối đi đến nhà bố mẹ, hi vọng một ngày nào đó đôi chân sẽ bắt

đầu làm việc trở lại.

Page 135: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Cậu bé yêu cầu người ta lắp kính dọc theo lối đi đến nhà bố mẹ để cậu có

thể tự cố gắng hơn nữa khi tự đẩy xe đi. Cuối cùng sự kiên nhẫn và kiên quyết

hết mình của cậu đã giúp cậu bé lấy lại thân hình của mình như xưa. Và việc

này được công nhận là một hiện tượng siêu phàm của con người. (theo Đời

thay đổi khi chúng ta thay đổi)

Anh Nguyễn Ngọc Ký, đôi tay bị teo từ nhỏ, những tưởng anh không thể

làm được gì vì không sử dụng được tay nhưng anh lại trở thành một thầy giáo

nổi tiếng, hiện nay vẫn còn đang công tác ở TP. Hồ Chí Minh. Quyết không

khuất phục "số phận", Anh Ký đã miệt mài luyện tập để viết bằng chân và điều

đó đã trở thành điều bình thường với anh. Đôi chân thay thế đôi tay và còn viết

đẹp hơn nhiều người viết bằng tay, đó quả là một tấm gương về sự rèn luyện ý

chí ở con người.

2. HÀNH VI Ý CHÍ2.1. Khái niệm

Hành vi ý chí là những hành vi có ý thức, có suy nghĩ hướng về một mục

đích đã được xác định.

Hành vi ý chí có đặc điểm tiêu biểu là chúng có tính mục đích tự giác, do

đó phải tập trung chú ý đến một mức độ nhất định khi thực hiện. Các hành vi ý

chí có liên hệ mật thiết với các quá trình tư duy vì điều quan trọng trong các

hành vi đó là phải nhận thức được các điều kiện và hoàn cảnh nơi con người

tiến hành hoạt động. Hành vi ý chí cũng có thể được xác định như những hoạt

động được thực hiện tương ứng với tính chất và mức độ nhận thức của con

người. Tư duy chỉ có thể được thực hiện, phát triển đầy đủ và có kết quả trong

các hành vi ý chí.

Hành vi ý chí luôn liên hệ với hoạt động, những hoạt động nhất định là cơ

sở để đạt được mục đích đã được xác định. Các hành vi ý chí bao giờ cũng có

sự lựa chọn phương tiện và biện pháp tiến hành, hành vi ý chí luôn có sự điều

chỉnh, điều khiển ý thức. Tuy nhiên hành vi ý chí cũng có những mức độ nhất

định.

Page 136: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Hành vi ý chí đơn giản là những hành vi có mục đích rõ ràng, nhưng sự

lựa chọn phương tiện, biện pháp thực hiện cũng như sự nỗ lực khó khăn không

thể đầy đủ.

Hành vi ý chí cấp bách là những hành vi xảy ra trong một thời gian rất

ngắn ngủi, đòi hỏi phải có sự quyết định và sự thực hiện quyết định trong một

thời gian rất nhanh. Trong hành vi này, mục đích, phương tiện, cũng như sự nỗ

lực bản thân hầu như hoà quyện cùng nhau.

Hành vi ý chí phức tạp là loại hành vi điển hình, mục đích, phương tiện,

sự nỗ lực được thực hiện một cách rõ ràng.

2.2. Cơ cấu tâm lí của hành vi ý chí

2.2.1. Giải đoạn chuẩn bị

- Kích thích thực hiện hành vi ý chí

Những kích thích sẽ xảy ra khi chủ thể nhận thức vấn đề, có thể là những

nhận thức rất mơ hồ về những nhu cầu vừa nảy sinh, cũng có thể là sự nhận

thức về sự khó khăn mới xuất hiện. Trong hầu hết các trường hợp, sự nhận

thức đều có liên quan đến trạng thái cảm xúc tương ứng với nhu cầu ấy...

- Mục đích hành động được xác định

Những hành vi ý chí được thực hiện ở chỗ nó được kết thúc với một kết

quả đã được xác định trước trong biểu tượng của chủ đề ngay từ khi còn chưa

bắt đầu thực hiện hành động. Khi không có những biểu tượng về mục đích thì

hoạt động sẽ mất tính chất ý thức, sẽ không còn là hoạt động có tính chủ đích

nữa.

- Các phương tiện, phương pháp cần thiết được lựa chọn

Lựa chọn các phương tiện và phương pháp thích hợp là một giai đoạn rất

quan trọng để tiến hành các hành vi ý chí, nếu các biểu tượng này không có

hoặc có không rõ ràng thì các hành vi ý chí có thể không thực hiện được.

- Ý định thực hiện hoạt động nhất định

Page 137: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Khi không có ý định như thế thì hoạt động khó có thể hoạt động được cho

dù đã có những biểu tượng về mục đích và phương thức hoạt động rất rõ ràng.

- Quyết định thực hiện hoạt động

Kết quả của những đấu tranh bản thân là việc đưa đến những quyết định.

Quyết định là việc kết thúc giai đoạn chuẩn bị cho hành vi ý chí. Quyết định

nghĩa là dừng lại ở mục đích và những phương pháp, phương tiện tiến hành

hành vi ý chí. Người ta có thể phân biệt các loại quyết định sau đây:

- Quyết định thông thường

Là quyết định hầu như không tách rời khỏi các ý muốn cụ thể, thể hiện

tiêu biểu qua các hành vi ý chí đơn giản, dễ dàng xảy ra, không có sự dao động

gì và thường không có sự đấu tranh giữa các động cơ hoặc sự đấu tranh ấy bị

hạn chế đối đa. Quyết định thông thường là quyết định được vận dụng theo

truyền thống đã hình thành mà không cần có sự nỗ lực đặc biệt nào.

- Quyết định không có đủ cơ sở

Là quyết định được đưa ra trong những tình huống khó khăn mà chủ thể

chưa có sự chuẩn bị để vượt qua. Thông thường, những quyết định như vậy

xảy ra ở những người thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không

có lí tưởng sống rõ ràng.

- Quyết định có ý thức

Là quyết định tiêu biểu đối với hành vi ý chí được thực hiện một cách độc

lập sau khi đã phân tích kĩ các tình huống. Những quyết định loại này thường

gắn liền với sự nhận thức đầy đủ bản chất, tầm quan trọng và sự cần thiết của

hành động cần tiến hành.

- Nỗ lực ý chi

Sự nỗ lực ý chí thể hiện ở sự chú ý tập trung vào hoạt động cần thiết,

hoặc ở sự kích thích chủ thể hoạt động, mặc dù có những khó khăn trở ngại nảy

sinh trên con đường đạt tới mục đích.

Page 138: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Sự nỗ lực ý chí thường khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm

của những khó khăn phải nỗ lực để vượt qua. Có thể phân thành mấy nhóm khó

khăn sau đây:

Những khó khăn khách quan do những đặc điểm tiêu biểu của bản thân

các đối tượng và các hiện tượng khác nhau quy định.

Những khó khăn chủ quan do những đặc điểm riêng của bản thân chủ

thể, do những mối quan hệ đã hình thành giữa chủ thể với hiện thực xung

quanh quy định.

Các hành vi ý chí để khắc phục những khó khăn khách quan luôn gắn với

việc tiếp thu những thao tác làm việc cần thiết và phải có sự tập luyện.

Các hành vi ý chí để khắc phục những khó khăn chủ quan luôn gắn với

việc giáo dục nghĩa vụ và trách nhiệm đối với công việc chủ thể đang thực hiện,

giáo dục khả năng kiềm chế cảm xúc có ảnh hưởng đến những việc thực hiện

các hành vi cụ thể.

2.1.2. Giai đoạn thực hiện quyết định đã đề ra

Việc thực hiện được tiến hành bằng các thao tác hoạt động nhất định

nhằm đạt tới mục đích với những phương thức nhất định. Thiếu giai đoạn này

thì không thể có hành vi ý chí nữa.

2.2.3. Giai đoạn đánh giá kết quả của hành vi

Sau khi các hành vi ý chí được thực hiện, con người bao giờ cũng đánh

giá các kết quả đã đạt được. Việc đánh giá này rất cần thiết để rút kinh nghiệm

cho những hành vi sau đó. Việc đánh giá hành vi ý chí có một ý nghĩa thực tiễn

rất lớn trong hoạt động của con người, nó trở thành sự kích thích và động cơ đối

với hoạt động tiếp theo. Sự đánh giá xấu thường là động cơ dẫn đến việc đình

chỉ hoặc sửa chữa những hành động hiện tại. Sự đánh giá tốt sẽ kích thích việc

tiếp tục tăng cường và cải tiến hành động đang thực hiện.

2.3. Động cơ của hành vi ý chí

Các hành vi ý chí là những hành động có ý thức được con người tiến

hành trong những điều kiện cụ thể và theo những động cơ nhất định.

Page 139: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Động cơ là bất kì một sự rung động tâm lí nào làm chất liệu kích thích chủ

thể hoạt động hoặc kìm hãm hoạt động.

Các động cơ của hành vi ý chí rất đa dạng, tô điểm thêm cho ước mơ của

con người với những sắc thái cảm xúc nhất định. Thông thường các động cơ

của hành vi ý chí luôn mang tính chất có ý thức nhưng không phải tất cả các

động cơ được biểu hiện đầy đủ trong các hoạt động. Người ta phân biệt các giai

đoạn phát triển sau đây của các động cơ, từ những biểu hiện ban đầu đến

những biểu hiện có ý thức hoàn toàn ở người lớn.

2.3.1. Ý hướng

Ý hướng thể hiện rõ nhất ở trẻ em tuổi sơ sinh, ý hướng liên quan chặt

chẽ với những cảm giác thông thường về sự thoả mãn mà tử đó có được xu

hướng và hình thức riêng của mình. Tính chất tích cực là đặc điểm tiêu biểu của

ý hướng với tất cả tính không có ý thức của mình, nên ý hướng có thể được

xem như là yếu tố xuất phát trong việc hình thành động cơ ý chí.

2.3.2. Khát vọng

Tuỳ theo sự phát triển của ý thức. Ý hướng sẽ dần dần trở nên rõ ràng

hơn. Điều đó xảy ra khi ý hướng không có ý thức nhằm thoả mãn nhu cầu vừa

nảy sinh là gặp trở ngại và không thể thực hiện được. Trong trường hợp nhu

cầu không được thoả mãn sẽ bắt đầu được nhận thức dưới dạng khát vọng có

phần mơ hồ với một đối tượng tương đối xác định.

2.3.3. Nguyện vọng

Nguyện vọng thể hiện ở biểu tượng rõ ràng và xác định mục đích mà chủ

thể hướng đến. Nguyện vọng bao giờ cũng gắn với tương lai, với những điều

chưa có trong hiện tại và chưa xảy ra trong quá khứ, nhưng đó là điều chủ thể

muốn làm được hoặc muốn đạt được. Những biểu tượng về phương tiện thực

hiện chưa được xuất hiện rõ ràng.

2.3.4. Ý muốn

Đây là giai đoạn cao hơn trong sự phát triển của các động cơ, trong

trường hợp biểu tượng về mục đích và về phương tiện đã có sự kết hợp.

Page 140: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

So với nguyện vọng đơn giản thì ý muốn có ánh chất thực tế và tích cực

hơn, trong ý muốn luôn thể hiện ý định thực hiện hoạt động, biểu hiện khát vọng

đạt mục đích nhờ phương tiện nhất định.

Thông thường, lúc xảy ra các hành vi ý chí phức tạp luôn có một số động

cơ khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau. Các động cơ đó tác động lẫn nhau, kiềm

chế hành vi ý chí đồng thời gây nên trạng thái dao động bên trong và trạng thái

đó được gọi là sự đấu tranh giữa các động cơ. Cuộc sống tinh thần của con

người càng phong phú thì các động cơ chi phối con người càng cao hơn và

phức tạp hơn. Bản thân quá trình đấu tranh giữa các động cơ luôn phản ánh các

mâu thuẫn giữa cảm giác sợ hãi và ý thức nghĩa vụ, giữa được phép và không

được phép, giữa những lý tưởng xã hội và những khát vọng, cảm xúc của cá

nhân.

Những hành vi, hành động không xác định được những phương tiện,

phương pháp thực hiện và mơ hồ về mục đích có thể xem như những hành vi,

hành động duy ý chí.

2.4. Rèn luyện ý chí

Ý chí có thể được rèn luyện bằng nhiều phương pháp khác nhau chủ yếu

dựa trên mức độ và tính chất của sự quyết tâm của con người.

- Cố gắng xây dựng những thói quen tốt, luôn chống lại những đam mê vô

thức

- Luôn ý thức chính mình, chống lại những cử chỉ máy móc.

- Luôn cố gắng làm chủ những rung động, cố gắng điều hoà cuộc sống,

mỗi ngày làm một việc gì đó chứng tỏ mình mạnh hơn sự thúc đẩy của bản

năng.

3. THÓI QUEN – TẬP QUÁN3.1. Khái niệm

Trong cuộc sống và hoạt động, không phải lúc nào con người cũng tiến

hành các hành vi ý chí, không phải hành vi nào của con người cũng là hành vi ý

Page 141: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

chí. Bên cạnh những hành vi ý chí, con người còn có một loại hành vi, hành

động khác, phối hợp, hỗ trợ cho hành vi ý chí đó là hành vi, hành động tự động

hoá.

Hành động tự động hoá là hành động lúc đầu vốn là hành vi, hành động ý

chí nhưng do được lặp lại nhiều lần hay do tệp luyện mà trở thành tự động,

nghĩa là không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức. Trong một hành vi ý

chí, thường có một số thành phần đã được tự động hoá. Nhờ vậy, ý thức và

nghi lực được tập trung vào những thành phần chủ yếu, quan trọng của hoạt

động.

Tập quán là một khả năng được hình thành bởi sự tiếp tục của cùng một

trạng thái thường xuyên giúp cho cá nhân chịu đựng hay hoạt động dễ dàng ít

cần đến sự cố gắng. Có thể có những thói quen hoạt động, thói quen tinh thần,

thói quen chịu đựng một tình trạng nào đó...

Thói quen - tập quán là loại hoạt động tự động hoá đã trở thành nhu cầu

của con người.

3.2. Kĩ xảo và thói quen

Kĩ xảo và thói quen giống nhau ở chỗ đều là hành động tự động hoá,

nhưng giữa kĩ xảo và thói quen có những sự khác nhau rõ rệt.

Kĩ xảo là loại hành động tự động hoá một cách có ý thức, nghĩa là được

tự động hoá nhờ luyện tập. Những hành động kĩ xảo có những đặc điểm sau

đây: Kĩ xảo không có sự kiểm soát thường xuyên của ý chí, không cần có sự

kiểm tra bằng thi giác.

- Động tác mang tính chất khái quát, không có động tác thừa, kết quả cao

mà ít tốn năng lượng thần kinh và cơ bắp nhất.

- Kĩ xảo được hình thành trên cơ sở những kĩ năng sơ đẳng.

Cùng là hành động tự động hoá nhưng kĩ xảo mang tính chất kỹ thuật

thuần tuý còn thói quen mang tính chất nhu cầu, nếp sống của con người.

Page 142: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Con đường hình thành chủ yếu của kĩ xảo là sự luyện tập có mục đích và

có hệ thống còn thói quen được hình thành bằng nhau con đường khác nhau

trong đó có con đường tự phát.

Thói quen có tính bền vững cao hơn kĩ xảo, nó gắn chặt với hoạt động và

hành vi con người vững chắc hơn so với kĩ xảo, thói quen rất khó thay đổi, khó

sửa chữa hơn kĩ xảo.

Thói quen được đánh giá về mặt đạo đức, có những thói quen tốt, có

những thói quen xấu, những thói quen có lợi, những thói quen có hại.

3.3. Những quy luật hình thành kĩ xảo

Sự hình thành kĩ xảo không chỉ dẫn đến sự củng cố mà còn dẫn đến sự

hoàn thiện hành động bằng cách lĩnh hội các thủ thuật làm việc ngày có hiệu

quả hơn. Quá trình luyện tập để hình thành kĩ xảo diễn ra theo các quy luật sau:

3.3.1. Quyt luật sự tiên bộ không đồng đều về kĩ xảo

Trong quá trình hình thành kĩ xảo, kết quả luyện tập không đồng đều, lúc

tiến bộ nhanh, lúc tiến bộ chậm. Kết quả luyện tập kĩ xảo không chỉ phụ thuộc

vào số lần củng cố mà còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân chủ quan và

khách quan khác.

3.3.2. Quy luật đỉnh của phương pháp luyện tập

Mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất đối

với nó và không thể nâng kết quả lên cao hơn nữa. Mức kết quả cao nhất mà

mỗi phương pháp luyện tập có thể đem lại được gọi là "đỉnh" của phương pháp

đó. Muốn đạt được kết quả cao hơn nữa, trong luyện tập cần biết thay đổi không

ngừng phương pháp luyện tập, sử dụng phương pháp có đỉnh cao hơn.

3.3.3. Quy luật tác động qua lại giữa kĩ xảo cũ và kĩ xảo mới

Trong quá trình hình thành kĩ xảo mới, những kĩ xảo cũ đã có ở người

luyện tập có ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành kĩ xảo mới.

3.3.4. Quy luật dập tắt kĩ xảo

Page 143: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Một kĩ xảo đã được hình thành, nhưng nếu không được sử dụng thường

xuyên thì sẽ bị suy yếu và có thể mất hẳn, đó là sự dập tắt kĩ xảo. Trong quá

trình hoạt động cần có sự ôn luyện thường xuyên để củng cố và không làm mất

kĩ xảo đã có.

3.4. Giá trị của những thói quen

Những thói quen – tập quán có giá trị nhất định trong hoạt động và đời

sống con người. Thói quen có thể có lợi hoặc có hại cho hoạt động cụ thể của

con người.

3.4.1. Những lợi ích của chói quen

Thói quen - tập quán làm không gian của con người thêm lan rộng, giúp trí

tuệ có điều kiện hướng vào những điều có giá trị cao hơn.

- Thói quen - tập quán huấn luyện cho con người những tình cảm tốt: kiên

nhẫn, trầm tĩnh, bớt rối loạn tâm hồn.

- Thói quen - tập quán giúp con người mở rộng phạm vi ý thức và giảm

bớt cường độ chú ý, tăng cường sức mạnh tri thức.

3.4.2. Những điều không có lợi của thói quen

- Con người dễ trở thành máy móc, rập khuôn trong hoạt động thực tiễn.

- Trong đời sống tình cảm, làm cho con người dễ thụ động trong việc chịu

đựng kham khổ, sắt đá, làm tình cảm bớt phong phú, mất đi tính chất nghệ sĩ

trong hoạt động.

- Trong đời sống trí tuệ, dễ có những thành kiến trong tư tưởng, trong

phương pháp tư duy làm mất đi tính sáng tạo dẫn đến những lối mòn trong sự

tiếp thu tư tưởng, trong việc tìm tòi chân lí.

4. SỰ SAI LỆCH HÀNH VI XÃ HỘINhững hành vi sai lệch là những hành vi không hợp với chuẩn nhất định,

những chuẩn mực này do xã hội thừa nhận và ấn định.

Page 144: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Các nhà sinh học xem xét hành vi trong mối liên hệ với môi trường, hành

vi là những phản ứng của cơ thể nhằm thích nghi với môi trường. Theo hướng

này thì chuẩn mực để đánh giá hành vi là mức độ thích nghi của cơ thể đối với

môi trường, những hành vi được xem là làm cho cơ thể không thích nghi được

với môi trường là hành vi không hợp chuẩn, hay hành vi lệch chuẩn.

Tuy nhiên con người không chỉ thích nghi với môi trường tự nhiên mà còn

thích nghi với các môi trường xã hội nữa. Những người theo thuyết hành vi mới

cho rằng con người có sự lựa chọn các kích thích, con người chỉ trả lời các kích

thích có lợi cho chính mình. Quá trình sống là quá trình đáp ứng lại các kích

thích có lợi cho con người. Theo quan điểm này thì chuẩn mực để đánh giá

hành vi cũng vẫn là mức độ thích nghi của con người với môi trường.

Trong Tâm lí học hiện đại, con người là chủ thể tích cực của hoạt động,

họ làm chủ bản thân và làm chủ môi trường chứ không phải chỉ là một cá thể

thích nghi một cách thụ động với môi trường. Những hành vi của con người bao

giờ cũng hướng đến những mục tiêu nhất định, và hành vi con người luôn luôn

được thay đổi, phát triển chứ không phải bất biến. Hành vi của con người là

những hành vi tích cực để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và có tính chất xã

hội rõ ràng. Hành vi của con người bị chi phối, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, vì

vậy xem xét chuẩn mực hành vi phải xem xét hành vi của con người trong một

môi trường nào đó, trong một cộng đồng người nhất định.

Có thể có những căn cứ để xem xét chuẩn mực hành vi như sau:

- Chuẩn mực được xem xét trên cơ sở một mẫu số chung nhất định của

những người trong một cộng đống, những hành vi tương tự như nhau trong một

hoàn cảnh xác định nào đó được xem là chuẩn. Những hành vi của người nào

đó không giống như vậy có thể xem là hành vi lệch chuẩn.

- Chuẩn mực được hướng dẫn, được quy định, được thống nhất trên cơ

sở những giá trị của xã hội, của cộng đồng. Loại chuẩn mực này được hình

thành trên nền tảng những yêu cầu chung của cộng đồng đối với từng thành

viên. Vì vậy, những hành vi nào trái với hướng dẫn, trái với những nguyên tắc

đã có, trái với những yêu cầu chung thì được xem là những hành vi lệch chuẩn.

Page 145: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Chuẩn mực được xác định trên cơ sở những quy ước của cá nhân,

những quy ước này không mâu thuẫn với giá trị xã hội nói chung nhưng quy

định mục tiêu riêng của cá nhân ấy. Những hành vi phù hợp với mục đích của

cá nhân được xem là hành vi hợp chuẩn, và ngược lại những hành vi không phù

hợp với mục đích cá nhân được xem là hành vi lệch chuẩn.

Có thể nhận thấy rằng những hành vi lệch chuẩn hay không là do sự đánh

giá khách quan của xã hội, của những người xung quanh. Những hành vi lệch

chuẩn như một hiện tượng xã hội, nó được đánh giá không phục thuộc vào sự

phán xét chủ quan của cá nhân. Sự bình thường hay bất bình thường của các

hành vi hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá bình thường của cộng đồng.

Có hai mức độ sai lệch hành vi con người dưới góc độ tâm lí. Những

hành vi sai lệch ở mức độ thấp và không thể hiện thường xuyên. Trong trường

hợp này, cá nhân có những biểu hiện không bình thường ở hành vi nhưng

không ảnh hưởng đến hoạt động chung của cộng đồng cũng như đến đời sống

của gia đình và của chính họ. Những hành vi ở mức độ này, cộng đồng có thể

chấp nhận được nhưng vẫn có những trở ngại trong tâm lí ở một mức độ nhất

định. Những hành vi sai lệch mức độ cao hơn và xảy ra có tính chất thường

xuyên, những hành vi này có ảnh hưởng đến đời sống riêng và chung của con

người và cộng động. Những hành vi sai lệch mức độ cao như thế thường là các

hành vi bệnh lí, cần được trị liệu với những phương pháp thích hợp.

Tâm thần là một trong những lĩnh vực "khó khăn" và ít được khai phá nhất

của y học. Một bác sĩ tâm thần có thể không bao giờ biết chắc những gì trong

đầu bệnh nhân. Có rất nhiều loại bệnh, chứng lệch lạc và rối loạn khác nhau

trong căn bệnh này. Dưới đây là những chứng đáng quan tâm nhất.

- Hội chứng cánh tay lạ

Đây là một rối loạn thần kinh khiến cho tay của người bệnh dường như

tồn tại một cách độc lập với cơ thể. Đôi khi người bệnh không ý thức được bàn

tay đang làm gì, cho đến khi nó thu hút sự chú ý của anh (hay chị) ta. Bàn tay lạ

có thể tạo ra những hành vi phức tạp như phá hỏng các nút bấm hoặc cởi quần

áo.

Page 146: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Hội chứng giọng nói lạ

Hội chứng khiến cho người ta nói thứ ngôn ngữ bản địa theo cách như

thể người nước ngoài đang nói. Chẳng hạn, một người bản địa châu Mĩ có thể

nói bằng giọng mang ngữ âm kiểu Pháp. Hội chứng này thường xuất hiện sau

một chấn thương não nghiêm trọng, chẳng hạn cơn đột qụy.

- Hội chứng Capgras (ảo giác gấp đôi)

Đây là một rối loạn hiếm gặp, ở đó người bệnh có ảo tưởng rằng một

người có liên hệ mật thiết với mình, chẳng hạn một thành viên trong gia đình, bị

thay thế bởi một kẻ mạo danh giống hệt.

- Nỗi sợ con số 13 (Triskaidekaphobia)

Adolf Hitler là một người như vậy. Nỗi sợ hãi đặc biệt thứ sáu ngày 13

được gọi là paraskavedekatriaphobia hay friggatriskaidekaphobia. Nỗi sợ số 4 ở

Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc được gọi là Tetraphobia.

- Làm việc quá nhiều (Bigorexia)

Bigorexia hay Muscle dysmorphia là dạng rối loạn mà ở đó một người bị

ám ảnh rằng anh ta không đủ vạm vỡ. Hội chứng này có thể khiến bệnh nhân:

- Liên tục soi lại mình trong gương

- Đau khổ vì bỏ qua một bài tập thể dục

- Sẵn sàng uống những loại thuốc nguy hiểm

- Bỏ bê công việc, bạn bè, gia đình chỉ để luyện tập

- Sưu tầm quá nhiều sách (Bibliomania)

Hội chứng này là một rối loạn ám ảnh ép buộc, liên quan đến việc thu thập

sách để chỉ ra nơi nào mà các mối quan hệ xã hội hoặc sức khoẻ đang xuống

cấp. Việc mua rất nhiều bản sao của cùng một cuốn sách, nhà xuất bản và tích

lũy chúng ngoài khả năng sử dụng hoặc đọc thường là triệu chứng của

Bibliomania.

- Hội chứng đầu nổ tung

Page 147: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Nó khiến cho bệnh nhân thường xuyên trải nghiệm những tiếng ồn kinh

khủng như thể nó phát ra ở trong đầu anh (chị) ta, thường được mô tả như một

vụ nổ hoặc tiếng gầm rú. Điều này thường xuyên xảy ra trong 1 - 2 giờ khi rơi

vào giấc ngủ, nhưng không phải là kết quả của một giấc mơ.

- Trichotillomania

Là một rối loạn kiểm soát bốc đồng, được đặc trưng bởi việc lặp lại những

thôi thúc nhổ tóc trên đầu, nhổ râu, lông mũi, lông mu, lông mày hoặc các loại

lông khác trên cơ thể. Hội chứng này có thể có họ hàng xa với chứng rối loạn

ám ảnh ép buộc.

- Sợ đàn ông (Androphobia)

Androphobia là nỗi sợ đần ông dai dẳng và bất thường. Người bệnh cảm

thấy lo lắng ngay cả khi họ biết rằng có thể họ chẳng phải đối mặt với nỗi sợ

thực sự nào. Nỗi sợ này có thể là vô hạn, và thường bắt nguồn từ một sự việc

cụ thể nào đó như một trải nghiệm đau đớn khi còn trẻ.

- Giả ốm để được quan tâm (Munchausen syndrome)

Ở hội chứng này, người bệnh giả đò, thổi phồng, hoặc tạo ra các triệu

chứng ốm để thu hút sự cảm thông, chú ý và an ủi của bác sĩ.

4.1. Chuẩn mực xã hội

Chuẩn mực xã hội là một giá trị rất cần thiết và không thể thiếu trong các

mối quan hệ khác nhau. Chuẩn mực xã hội là một trong những phương tiện định

hướng hành vi, kiểm tra hành vi của một cá nhân hay của một nhóm người.

Chuẩn mực xã hội quy định những giá trị cơ bản, những mục tiêu cơ bản,

những điều kiện, những giới hạn cho phép, các hình thức, cung cách ứng xử

mẫu mực trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống con người.

Chuẩn mực là những giá trị, những quy tắc, những yêu cầu của xã hội đối

với cá nhân cũng như đối với cộng đồng. Những quy tắc, giá trị này có thể được

thừa nhận một cách công khai thông qua những văn bản cụ thể, nhưng cũng có

thể được lưu giữ trong truyền thống có tính chất quy ước không bằng lời. Chuẩn

Page 148: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

mực xã hội nào cũng có 3 thuộc tính là tính lợi ích, tính bắt buộc và tính khả thi

trong thực tế. Có thể có những loại chuẩn mực sau đây:

- Chuẩn mực đạo đức: Chuẩn mực này quy định và những giá trị đạo đức,

những nguyên tắc, ràng buộc đạo đức... được mọi người thừa nhận như một

truyền thống, vì vậy chuẩn mực này có tính linh động rất cao. Sự ảnh hưởng

của chuẩn mực đạo đức thường thông qua cơ chế tâm lí bên trong con người,

được vận dụng, xử lí rất linh hoạt và mềm dẻo.

- Chuẩn mực pháp luật: Là hệ thống các quy tắc định hướng hành vi cá

nhân có tính chất khách quan được ghi thành văn bản. Chuẩn mưc pháp luật rõ

ràng và có những hướng dẫn cụ thể là khuôn phép không có tính chất mềm

mỏng trong việc thi hành.

- Phong tục truyền thống: Là chuẩn mực nói lên tính chất văn hoá của

cộng đồng, là những nguyên tắc, quy ước sinh hoạt trong cộng đồng đã hình

thành trong lịch sử. Phong tục và tập quán có thể được lưu giữa trong gia đình

và có thể được ghi nhận công khai hoặc có tính chất truyền thống:

- Chuẩn mực chính trị: Là những tiêu chuẩn hướng dẫn hành vi con người

trong đời sống chính trị trong môi trường hoạt động chính trị.

- Chuẩn mục thẩm mĩ: Là những quy ước và các giá trị trong hoạt động

sáng tạo nghệ thuật, trong việc thưởng thức cái đẹp, trong các hành vi đạo đức,

trong việc cảm thụ thẩm mỹ nói chung.

4.2. Sư sai lệch hành vi xã hội

Hành vi của con người luôn được xã hội phán xét, đánh giá dưới nhiều

khía cạnh khác nhau. Những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội được xem

là hành vi hợp chuẩn và ngược lại những hành vi không hợp chuẩn được gọi là

hành vi sai lệch.

Sự sai lệch hành vi xã hội có thể có nhiều nguyên nhân, có những nguyên

nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có thể có những nguyên nhân như

sau:

Page 149: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Trong hoạt động, trong lúc thể hiện các hành vi, cá nhân có sự hiểu biết

không thật đúng, không chính xác về các chuẩn mực xã hội, vì vậy, trong hành

động, họ có những hành vi lệch chuẩn vì những nhận thức không đúng đó.

Trong trường hợp này chủ thể của các hành vi lệch chuẩn không biết rằng mình

đang có những sai lệch nhất định.

- Trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội, có thể cá nhân không

chấp nhận những chuẩn mực xã hội nào đó, nhận thức của cá nhân về chuẩn

mực không thống nhất với mô hình chung của xã hội, cá nhân hành động theo

quan niệm riêng, mục tiêu riêng của mình, khác với chuẩn mực chung. Trong

trường hợp này, cá nhân thực hiện những hành vi một cách có ý thức với sự tin

tưởng nhất định và vì vậy, cá nhân luôn cho rằng mình đúng, không chịu thừa

nhận mình sai.

- Trong quá trình hoạt động, cá nhân biết mình sai nhưng vẫn không từ bỏ

mục tiêu của mình, vẫn vi phạm chuẩn mực chung. Những hành vi lệch chuẩn

này xảy ra do chủ thể không tự kiềm chế được mình, xã hội cũng không có

những biện pháp tác động thích hợp để kiểm tra, tỏ thái độ một cách chính xác.

- Trong quá trình phát triển chung, xã hội có những biến đổi nhất định, các

chuẩn mực cũng thay đổi theo sự biến đổi ấy, chuẩn mực xã hội không còn phù

hợp với điều kiện xã hội lịch sử cụ thể, cá nhân không có những tiêu chuẩn mới

để làm chỗ dựa, họ cũng đã thực hiện những hành vi sai lệch.

Các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội rất đa dạng và có thể biểu hiện

dưới dạng hành vi cá nhân hay hành vi của một cộng đồng.

Các hành vi sai lệch chuẩn mực có những tác động không tích cực cho

các nhân cách, nó gây nên những hậu quả xấu cho cá nhân và cho xã hội, làm

suy thoái nhân cách, làm tổn thương con người về mặt thể xác và tinh thần.

TÓM LƯỰC CHƯƠNG 5- Ý chí là quá trình nỗ lực vượt qua khó khăn, trở ngại để hoàn thành

những hành vi, hoạt động có mục đích ý chí là khả năng điều hoà và điều khiển

có ý thức hành vi của cá nhân.

Page 150: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Hành vi ý chí là hành vi có ý thức, có cân nhắc và luôn hướng về một

mục đích đã được đặt ra. Hành vi ý chí trải qua nhiều giai đoạn và có những

thang bậc động cơ nhất định.

- Thói quen, kĩ xảo là những hành vi, hành động tự động hoá và có những

đóng góp quan trọng trong quá trình hoàn thành những mục tiêu của con người.

Chương 6: NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH

Tâm lí người có bản chất xã hội, là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài

người đã được biến thành của riêng từng người trong quá trình con người thâm

nhập vào các mối quan hệ xã hội. Việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lí người

phải hướng đến mức độ hoạt động - nhân cách. Trong điều kiện này, tâm lí

được xét trong quá trình hình thành và phát triển bằng hoạt động ở từng người

và hoạt động này diễn ra trong sự tự hoà nhập vào các mối quan hệ xã hội đa

dạng, trong mối liên hệ với hoạt động của người khác. Hình thành tâm lí con

người nghĩa là xây dựng một mô hình người phù hợp với các giá trị xã hội, tức

là xây dựng một nhân cách. Nhân cách là vấn đề trung tâm của khoa học tâm lí

và là một đầu mối quan trọng của nhiều khoa học khác, vì vậy việc hiểu rõ vấn

đề nhân cách cũng giúp con người hiểu rõ hơn các vấn đề xã hội - lịch sử.

1. KHÁI NIỆM VỀ NHÂN CÁCH1.1. Khái niệm

Đã có rất nhiễu ngành khoa học nghiên cứu về con người và xây dựng

nên những mô hình với những nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào cách tiếp cận

khác nhau.

Có người cho rằng trong con người bình thường đang hiện hữu, có một

con người nhỏ xíu bên trong điều khiển mọi phản ứng của thể xác để thích nghi

với sự biến đổi của thế giới xung quanh, con người nhỏ xíu này trở thành một

quyền năng đầy sức mạnh và có tính chất huyền bí.

Page 151: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Cũng có người cho rằng có một "con người bản năng", họ xem con người

là một sinh vật đơn thuần, mọi hoạt động của con người đều do bản năng quy

định. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng con người có bản năng sống nhưng là bản năng

được xã hội hoá khác hẳn với những bản năng thuần tuý của con vật.

Cũng có lúc người ta đưa ra khái niệm con người kĩ thuật, con người

chính trị, con người xã hội...

K.Marx đã đưa ra một quan điểm rất khoa học về con người." Bản chất

con người không phải là cái chung chung, trừu tượng vốn có của mỗi cá nhân

riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối

quan hệ xã hội" (K.Marx, Luận cương về Feuerbach). Chính ông cũng đã phát

biểu: "Bản chất của "con người đặc thù" không phải là bộ râu của nó, không phải

là máu của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó, mà là phẩm

chất xã hội của nó". (K.Marx, Góp phần phê phán triết học pháp quyền của

Hegel, NXB Sự thật, Hà Nội. 1977, trang 86)

Con người là một sản phẩm của lịch sử xã hội, là một thực thể mang bản

chất xã hội bao gồm những phẩm chất, những thuộc tính có ý nghĩa xã hội được

hình thành trong quá trình sống và kết quả của sự tác động qua lại giữa người

và người.

Con người vẫn là một bộ phận, là khâu tiến hoá cao nhất của tự nhiên và

là một thực thể mang bản chất tự nhiên - sinh học, mang trong mình sức sống

của tự nhiên. Con người đóng vai trò quyết định trong tất cả các yếu tố kiến tạo

nên một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc trong bất kì tình huống nào, trong bất kì

điều kiện nào.

Trong mỗi người tồn tại rất nhiều mối quan hệ. Tuỳ thuộc vào các mối

quan hệ này mà con người trong những trường hợp cụ thể được nhìn nhận như

một chủ thể hoặc như một nhân cách. Khi con người được nhìn nhận như một

đại diện của loài, thì con người đó là một cá nhân (một cá thể người). Cá nhân

là một khái niệm chung cho những con người cụ thể sống trong một cộng đồng,

một xã hội nhất định, không phân biệt trên bất kì lĩnh vực nào. Khi cá nhân tiến

Page 152: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hành các hoạt động có mục đích, có ý thức với những hành vi ý chí nhất định,

cá nhân ấy được xem như một chủ thể.

Khi xem xét, nhìn nhận một con người với tư cách là một thành viên của

xã hội, một chủ thể của các mối quan hệ và các hoạt động thì con người ấy

được đánh giá như một nhân cách.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách.

Các học thuyết có tính chất sinh vật hoá nhân cách cho rằng bản chất của

nhân cách nằm trong mâu thuẫn giữa các bản năng sống và bản năng chết là ở

các đặc điểm hình thể, ở góc mặt hay ở thể tạng của con người.

Quan điểm xã hội hoá nhân cách một cách máy móc lấy sự xem xét các

quan hệ xã hội để thay thế một cách đơn giản các thuộc tính tâm lí của cá nhân.

Cũng có quan điểm quá rộng về nhân cách, chỉ chú ý đến những nét chung mà

bỏ qua cái riêng của con người, ngược lại cũng có quan điểm chỉ chú trọng đến

cái riêng mà xem nhẹ cái chung, cái khái quát của cá nhân.

Khái quát những nét đặc trưng từ những nhận định trên đây, một định

nghĩa về nhân cách được các nhà tâm lí chấp thuận đã được đưa ra:

Nhân cách là một hệ thống các đặc điểm tâm - sinh lí của một cá nhân

quy định giá trị xã hội và những hành vi xã hội của cá nhân ấy. Nhân cách thể

hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người, nhân cách là chất lượng tích hợp

của cá nhân.

Những thuộc tính tâm sinh lí hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ

với nhau, tác động lẫn nhau, làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định.

Những thuộc tính trong hệ thống ấy có cái chung từ xã hội, từ các mối quan hệ

trong xã hội nhưng đã trở thành cái riêng của từng người. Giá trị xã hội của con

người thể hiện ở những việc làm, trong cung cách ứng xử, hành vi, hành động,

hoạt động phổ biến và được xã hội đánh giá. Những thuộc tính tâm lí tạo nên

nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp độ sau đây:

- Cấp bộ bên trong cá nhân, bộc lộ trong không gian tồn tại của riêng cá

nhân. Cấp độ này thể hiện tính cá thể, tính khác biệt cá thể, tính độc đáo của

Page 153: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

nhân cách trong phạm vi của tính phổ biến. Cấp độ này phản ánh mặt văn hoá -

lịch sử của cá nhân cụ thể, với tư cách là chủ thể của tính tích cực xã hội.

- Cấp độ liên cá nhân của nhân cách tồn tại trong sự giao tiếp giữa chủ

thể với cá nhân khác. Nhân cách chỉ có thể được nhìn nhận, phản ánh trong hệ

thống những mối quan hệ liên cá nhân, trong hoạt động cộng đồng và trong

quan hệ hợp tác lẫn nhau.

- Cấp độ siêu cá nhân của nhân cách được biểu hiện ra ngoài bằng hoạt

động và các sản phẩm của con người.

Nhân cách phản ánh ở mức độ siêu cá nhân tồn tại trên các cá nhân, trên

các mối liên hệ cá nhân, thoát ra ngoài các cá nhân cụ thể.

Sự toàn vẹn của nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển thông

qua sự thống nhất của cả ba cấp độ nói trên. Nhân cách của một cá nhân không

phải được sinh ra đồng thời với việc một con người được sinh ra mà được sinh

thành, phát triển dần dần bằng hoạt động và giao tiếp của từng người trong suốt

cuộc đời

1.2. Những đặc điểm cơ bản của nhân cách

1.2.1. Tính thống nhất của nhân cách

Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa các phẩm chất và khả năng,

giữa đạo đức và năng lực của con người. Nhân cách bao giờ cũng tác động như

một con người cụ thể "hiện thực và sống động" kết hợp hài hoà trong bản thân

sự phong phú của cái phổ biến, cái riêng và cái đơn nhất.

1.2.2. Tính ổn định của nhân cách

Những đặc điểm tâm lí nói lên bộ mặt tâm lí - xã hội của cá nhân, quy định

giá trị làm người của cá nhân. Những thuộc tính của nhân cách được hình thành

trong hoạt động nhưng không phải dễ dàng, đơn giản mà hết sức khó khăn và

do đó những thuộc tính này mang tính chất bền vững, khó mất đi khi đã được

hình thành. Trong thực tế, từng nét nhân cách có thể bị thay đổi do hoàn cảnh,

cuộc sống nhưng một cách tổng quát, chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn

vẹn, tương đối ổn định.

Page 154: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

1.2.3. Tính giao tiếp của nhân cách

Nhân cách chỉ có thể hình thành và phát triển trong hoạt động và mối

quan hệ giao tiếp với những nhân cách khác. Nhu cầu giao tiếp được nhìn nhận

như một nhu cầu bẩm sinh của con người. Thông qua giao tiếp, con người gia

nhập vào các quan hệ xã hội, tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá

trị xã hội. Cũng qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận

theo các quan hệ xã hội.

1.2.4. Tính tích cự của nhân cách

Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội,

vì vậy nhân cách thể hiện tính tích cực rất rõ ràng. Một cá nhân được thừa nhận

là nhân cách khi cá nhân ấy tích cực hoạt động, nhờ vào việc nhận thức, cải tạo

thế giới xung quanh và cải tạo cả chính bản thân mình. Giá trị đích thực của

nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét

ở tính tích cực của nhân cách. Nhân cách luôn có khuynh hướng vươn tới

những giá trị cao đẹp hơn trong quá trình sống và làm việc trong xã hội.

1.3. Vấn đề bản ngã

Các nhà tâm lí cho rằng nhân cách gồm ba loại bản ngã. Mặc dù sự thể

hiện rất đa dạng và phong phú, mỗi người chỉ là một nhân cách thống nhất giữa

các bản ngã sau đây:

1.3.1. Cái tôi thể lí

- Cơ thể của tôi và tôi chỉ là một mà thôi: đẹp, xấu, cao, lùn, trắng, đen,

răng đẹp, mắt cật thị...

- Trang phục chỉ là sự nối dài của cơ thể: thời trang hay không, kiểu cách

tạo sự thoải mái, tự tin hay không.

1.3.2. Cái tôi xã hội

- Tên họ là gì, giá trị của cá nhân trong quan hệ gia đình, bạn bè, đồng

nghiệp, nghề nghiệp...

- Những giá trị con người được khoác lên hằng ngày ở nhà, trong cơ

quan, cái tôi trong cái nhìn của người khác.

Page 155: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

1.3.3. Cái tôi tâm tí

- Những tư tưởng, tình cảm, sở thích, nguyện vọng, năng lực của cá nhân

trong quá khứ, trong hiện tai...

- Những điều thầm kín không thể thổ lộ cùng người khác.

- Cái tôi bí ẩn, con người là một ẩn số ngay cả với chính mình, có nhiều

điều mình không thể biết về mình.

2. CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA NHÂN CÁCHKhi nghiên cứu về cấu trúc của nhân cách, nhiều nhà tâm lí đã đưa ra

nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Theo A. G. Covaliov thì nhân cách bao gồm các quá trình tâm lí, các trạng

thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí của cá nhân.

Cũng có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản:

nhận thức, tình cảm và ý chí.

K.K. Platonov lại đưa ra 4 tiểu cấu trúc của nhân cách như sau:

- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi

và có thể cả những thuộc tính có tính chất bệnh lí.

- Tiểu cấu trúc về đặc điểm của những quá trình tâm lí như nhận thức

cảm tính, lí tính...

- Tiểu cấu trúc về vốn sống, kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo...

- Tiểu cấu trúc về xu hướng của nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng...

- Có quan điểm xem xét nhân cách với cấu trúc gồm hai mặt thống nhất

với nhau là đức và tài.

Cấu trúc của nhân cách khá phức tạp, gồm nhiều thành phần có liên quan

mật thiết với nhau, tạo nên một cấu trúc tương đối ổn định nhưng không kém

phần linh hoạt trong mối quan hệ.

Page 156: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Sau đây là kiểu cấu trúc bốn thành phần tác động qua lại với nhau như

bốn thuộc tính của một thể thống nhất: xu hướng, năng lực, tính cách và tính khí

của con người.

2.1. Xu hướng của nhân cách

Hoạt động của con người bao giờ cũng được định hướng bởi những động

cơ chủ quan, những động cơ này sẽ làm tăng tính tích cực của chủ thể hoạt

động và được thể hiện trong các mục tiêu của chủ thể ấy.

Nói một cách tổng quát, con người sẽ làm việc và hoạt động một cách tích

cực vì những động lực chủ quan này tạo thành xu hướng của con người, thể

hiện xu hướng tâm lí bên trong của nhân cách.

Xu hướng của nhân cách là một hệ thống các động lực quy định tính tích

cực và sự lựa chọn các thái độ của con người trong quá trình hoạt động và tồn

tại của mình.

Xu hướng cá nhân là những nét riêng hay tính chất cá nhân, khi tổng hợp

lại sẽ xác định động cơ và các đặc điểm hành vi của con người trong những

điều kiện và môi trường nhất định. Sau đây là các động lực chủ quan trong xu

hướng của nhân cách:

2.1.1. Nhu cầu

Để tồn tại, mỗi cơ thể sống còn có những điều kiện và phương tiện nhất

định do môi trường bên ngoài mang lại. Trong hoạt động, con người cũng cần

những điều kiện và phương tiện như vậy, nghĩa là con người có những nhu cầu

nhất định.

Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người cần được thoả mãn để tồn tại

và phát triển trong những điều kiện cụ thể.

Khi có nhu cầu và muốn thoả mãn được những đòi hỏi ấy, con người chỉ

có thể tích cực tìm kiếm những phương cách phù hợp để đáp ứng, điều này cho

thấy rõ ràng rằng, nhu cầu là một động lực tâm lí thúc đẩy con người hoạt động

và hoạt động tích cực hơn. Quá trình thoả mãn nhu cầu là một quá trình năng

Page 157: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

động hoá chủ thể, là quá trình chủ động thích nghi của chủ thể để có thể đạt đến

những mục tiêu xác định.

* Những đặc điểm của nhu cầu

Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng, nghĩa là những đòi hỏi

của con người luôn hướng về những đối tượng cụ thể, có thể là đối tượng vật

chất hay đối tượng tinh thần. Khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng

sự thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động

nhằm tới đối tượng.

Nội dung của nhu cầu thường do những điều kiện và cách thức thoả mãn

nó quy định.

Nhu cầu có tính chu kì, nghĩa là sau khi được đáp ứng không phải nhu

cầu hoàn toàn mất đi mà lại tiếp tục xuất hiện ở một thời điểm khác, với mức độ

khác. Một yêu cầu về điều gì đó chỉ xảy ra một lần, mang tính chất đơn lẻ và

không lặp lại nữa thì nó sẽ không biến thành nhu cầu và không đặc trưng cho

đặc điểm tâm lí của cá nhân.

Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật là

mang tính chất khá ổn định và bị hạn chế về cơ bản ở những nhu cầu sinh vật,

nhu cầu của con người luôn thay đổi trong quá trình sinh sống. Nhu cầu của con

người xuất phát từ cơ sở xã hội vì nhu cầu con người có bản chất xã hội.

Sự thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu luôn kèm theo những cảm xúc

nhất định. Khi một nhu cầu được thoả mãn, nhận thức về sự thoả mãn nhu cầu

biến thành lợi ích của con người.

Nhu cầu của con người rất đa dạng. Nhu cầu của xã hội ngày một phong

phú hơn, mặt khác những định chế của xã hội cũng có tác dụng tạo ra những

biện pháp nhằm ràng buộc sự tăng trưởng quá mức của nhu cầu. Những biện

pháp này giúp con người có thể đình hoãn sự thoả mãn những nhu cầu của

mình và còn có thể giúp con người từ bỏ nhu cầu của mình vì người khác.

Ngoài việc kìm hãm đà phát triển quá độ của nhu cầu, xã hội còn là nơi bảo vệ

cho nhu cầu con người được phát triển đầy đủ. Vai trò của xã hội là điều hoà

Page 158: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

những đòi hỏi giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân và tập thể để quân bình đời

sống tâm lí của con người.

Trong cuộc sống thực tế, người ta có thể chia nhu cầu làm nhiều loại khác

nhau, có những nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội, có những nhu cầu vật chất

và nhu cầu tinh thần. Việc phân chia như thế chỉ mang tính chất quy ước ở một

mức độ nhất định. Trên thực tế không có một nhu cầu nào của con người lại

không mang tính chất xã hội.

Cách thức thoả mãn nhu cầu của con người có thể được xem xét trên

những loại hình sau đây:

- Thoả mãn thuận lợi: đây là trường hợp khi con người có nhu cầu, họ gặp

ngay đối tượng để thoả mãn và có thể thoả mãn một cách thuận lợi.

- Không thể thoả mãn ngay được: khi nhu cầu xuất hiện, nhưng vì chịu sự

ảnh hưởng của một số nhân tố nào đó, con người không có điều kiện để thoả

mãn ngay được mà phải tạm thời đình hoãn một thời gian mới có cơ hội. Trong

trường hợp này con người thích nghi bằng cách thoả mãn nhu cầu bằng tư

tưởng và có thể cho tằng nhu cầu là một trong những nguồn gốc của ý thức.

- Ức chế nhu cầu: một trường hợp khác, khi nhu cầu không được thoả

mãn ngay vừa lúc xuất hiện, con người có thể đình hoãn việc thoả mãn hay có

thể tìm cách ức chế nhu cầu ấy. Việc ức chế đòi hỏi con người phải có ý chí

mạnh mẽ để có thể từ bỏ những đòi hỏi nhất định.

- Chôn sâu nhu cầu vào tiềm thức: đối với những nhu cầu không thể thoả

mãn được trong thực tế và ý thức con người đã ức chế nó, chủ thể ném sâu nhu

cầu vào cõi vô thức và chờ cơ hội để bộc lộ.

Khi nhu cầu không được thoả mãn, con người thường có những cách xứ

lí khác nhau, những cách xử lí này có thể tạo thành những phản ứng có tính

chất tự vệ của con người để thích nghi với thực tại, điều hoà đời sống tâm lí.

* Đánh giá nhu cầu

Khi xem xét về mặt nhu cầu cần chú ý rằng mỗi cá nhân có nhiều nhu cầu

với các loại hình khác nhau và luôn sắp xếp các nhu cầu ấy theo một thang bậc

Page 159: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

nhất định theo một thứ tự ưu tiên. Chính sự sắp xếp thang bậc nhu cầu này sẽ

bộc lộ giá trị xã hội của con ngươi. Mặt khác có thể cùng một nhu cầu nhưng hai

chủ thể sẽ có những phương cách thoả mãn hoàn toàn khác nhau, phương

cách đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân sẽ bộc lộ giá trị của họ.

2.1.2. Hứng thú

Các nhu cầu của con người có hai mặt, một mặt như là những rung động

cảm xúc đặc biệt về các yêu cầu thực tế đòi hỏi phải được thoả mãn ngay, mặt

khác như là nhận thức về các nhu cầu dưới dạng các biểu tượng nào đó. Sự

nhận thức nhu cầu dưới dạng các biểu tượng như vậy là điều kiện để hình

thành hứng thú.

Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó,

vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa mang lại những rung cảm tích cực trong

quá trình hoạt động của cá nhân ấy.

Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt

động nhận thức, tăng năng suất lao động. Vì vậy, cũng như nhu cầu, hứng thú

là một trong các động lực trong hệ thống động lực của nhân cách.

* Những đặc điểm của hứng thú:

Hứng thú là sự chú ý không có ý thức xuất hiện nhanh chóng và biểu hiện

ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động.

- Hứng thú luôn luôn rất cụ thể, hứng thú đối với các vật thể, các hiện

tượng, các hoạt động nhất định...

- Hứng thú của con người mang bản chất xã hội và do đó tạo nên sự khác

biệt cá nhân thông qua những hứng thú cụ thể, những sở thích nhất định.

* Sự khác biệt cá nhân về hứng chú:

- Nội dung và tính chất của các hứng thú. Người ta phân biệt các hứng

thú sâu sắc và hứng thú hời hợt; hứng thú mạnh mẽ là hứng thú hoàn toàn bao

trùm con người và kích thích con người hoạt động nghiêm túc, khắc phục khó

khăn, hứng thú hoạt động là hứng thú mà người ta thích thoả mãn sự tò mò của

mình nhiều hơn, đồng thời thích sử dụng thành quả của người khác. Hứng thú

Page 160: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tích cực là hứng thú kích động người ta tham gia những hoạt động nhất định và

tự mình đạt lấy những mục đích mà mình quan tâm.

- Tính bền vững hay tính dễ chuyển của các hứng thú thể hiện trong sự

kéo dài hay không của nó.

- Tính bó hẹp hay tính đa dang của các hứng thú, khi ở một người các

hứng thú được tập trung vào một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó thì ở người

khác các hứng thú lại bao trùm các lĩnh vực kiến thức và các hình thức hoạt

động khác nhau.

Thông thường người ta hiểu một cách không đúng bản chất của hứng thú

và chỉ xem nó như là sự thích thú bề ngoài cũng như sự tò mò hiếu kì mà thôi.

Thực chất hứng thú chân chính chỉ xuất hiện khi có những kiến thức mà chủ thể

biết được trong lĩnh vực mà họ quan tâm, hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực đó,

sự thoả mãn cảm xúc mà người ta tiếp nhận được do có những kiến thức và có

hình thức hoạt động ở trên.

2.1.3. Thế giới quan

Thế giới quan là một hệ thống các quan điểm của cá nhân về tự nhiên, xã

hội và về chính bản thân mình, thế giới quan xác định phương châm hành động

của con người.

Thế giới quan của một người riêng lẻ luôn luôn được xác định bởi thời đại

lịch sử và ý thức xã hội, được hình thành trong cả cuộc sống dưới ảnh hưởng

của giáo dục và trong quá trình tham gia tích cực vào các quan hệ xã hội.

Niềm tin là một phẩm chất của thế giới quan, là cái kết tinh các quan

điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể hiện, trở thành chân lí vững

bền trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con ngươi nghị lực, ý chí để hành động

phù hợp với quan điểm đã được chấp nhận.

Niềm tin được hình thành từ đơn giản đến phức tạp và có tính chất không

đồng đều tuỳ thuộc vào diễn biến chung của xã hội.

Thế giới quan và niềm tin trở thành một động lực thúc đẩy những hành vi

xã hội của nhân cách và là những động cơ tâm lí có tính chất tiềm tàng.

Page 161: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

2.1.4. Lí tưởng

Lí tưởng là một mục tiêu cao đẹp, một mô hình hoàn chỉnh, một hình ảnh

mẫu mực và trọn vẹn có sức lôi cuốn con người vươn tới một cách mạnh mẽ.

Khi con người xác định một lí tưởng sống, hoạt động của họ sẽ trở nên

năng động hơn, ý chí của họ sẽ được hình thành mãnh liệt hơn để có thể tiến tới

lí tưởng cao quý, lí tưởng trở thành một động lực trong hệ thống động lực của

xu hướng.

Lí tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức

năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân, là động lực thúc

đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình

thành và phát triển cá nhân. Con người sống không có lí tưởng như cây cối

thiếu ánh mặt trời như có người đã phát biểu như vậy.

Lí tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Lí tưởng bao giờ

cũng được xây dựng từ những hình ảnh có thật trong hiện thực và đã được khái

quát hoá trong nhận thức của con người. Nếu không có những chất liệu hiện

thực ấy, những hình ảnh được phản ánh chỉ là hình ảnh ảo tưởng mà thôi. Tuy

nhiên, lí tướng không phải là những gì đơn giản, mộc mạc mà là những hình

ảnh trong tương lai phản ánh xu thế phát triển của con người, lí tưởng mang

tính chất xã hội lịch sử, lí tưởng thoát ra ngoài cái giới hạn của những hình ảnh

cụ thể.

2.2. Tính cách của nhân cách

2.2.1. Khái niệm

Tính cách là một thuộc tính tâm lí của cá nhân bao gồm một hệ thống thái

độ của cá nhân với hiện thực xung quanh thể hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ

phong cách giao tiếp...

Khái niệm tính cách không bao gồm tất cả những gì tiêu biểu đối với con

người, như các đặc điểm tri giác, trí nhớ, chú ý... hoặc các tính chất khác như

năng lực hứng thú mặc dù những tính chất này có tham gia ở một mức độ nhất

định vào sự hình thành tính cách.

Page 162: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Có thể cho rằng tính cách biểu hiện qua những đặc điểm của cá tính để

lại dấu vết rõ ràng trong hành vi của con người, trong quan hệ giữa con người

với người khác và với thế giới bên ngoài. Người ta xem tính cách là một chế độ,

một cơ cấu bên trong thể hiện sự thống nhất của các tính chất đặc biệt của cá

nhân như một thực thể xã hội. Biết được tính cách một người nghĩa là biết được

những tính chất cơ bản biểu hiện với một logic nhất định và tuần tự bên trong

qua các hành vi của họ, qua thái độ của họ đối với chính họ, đối với mọi giá trị

khách quan.

2.2.2. Đặc điểm của tính cách

- Tính ổn định và tính bền vững

Tính cách là một thuộc tính của cá nhân, là những tính chất, những phản

ứng có tính chất ổn định và rất bền vững. Trong hoạt động, các hành vi của con

người luôn luôn phản ánh những nét tính cách tiêu biểu, những hoàn cảnh giống

nhau thường có những phản ứng giống nhau một cách ổn định. Điều này khẳng

định rằng con người có thể dự đoán về tính tình của người khác thông qua quan

sát phong thái, hành vi của họ một cách có hệ thống. Những nét tính cách đã

được hình thành từ trong quá trình sống trở nên rất ổn định, khó thay đổi và để

lại trong cuộc sống những dấu ấn mạnh mẽ.

- Tính độc đáo, riêng biệt

Các nét tính cách được hình thành theo những mối liên hệ bên trong nhất

định và chịu ảnh hưởng của những động cơ cá nhân, chịu ảnh hưởng bởi

những điều kiện xã hội, tự nhiên nhất định.

- Tính xã hội

Tính cách được hình thành và phát triển trong quá trình sống và hoạt

động, các yếu tố sinh học có ảnh hưởng rất ít đến quá trình hình thành tính

cách. Tính cách được hình thành, phụ thuộc phần lớn vào các quan hệ xã hội.

- Tính điển hình

Tính cách của con người vừa phản ánh tính chất riêng biệt của cá nhân

nhưng cũng phản ánh nguồn gốc các mối quan hệ nguồn gốc văn hoá của cá

Page 163: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

nhân ấy, hay nói cách khác, tính cách cá nhân phản ánh tính chất của cộng

đồng mà cá nhân ấy là một thành viên.

2.2.3. Cơ cấu của tính cách

Tính cách được hình thành từ vô số các nét tính cách khác nhau nhưng

không phải là một sự cộng lại đơn giản mà là một sự kết hợp rất phức tạp. Các

nét tính cách hợp thành tính cách có sự liên hệ với nhau và tạo nên một cơ cấu

hoàn chỉnh của tính cách.

Tính cách bao gồm một hệ thống các thái độ và hệ thống hành vi, cử chỉ,

cách nói năng tương ứng.

- Hệ thống thái độ của cá nhân

- Thái độ đối với bản thân mình, thể hiện ở cách đánh giá chính bản thân,

trách nhiệm đối với bản thân được biểu hiện ở những nét tính cách như khiêm

tốn, lòng tự trọng, tinh thần phê bình...

- Thái độ đối với người khác, thể hiện ở mối quan hệ giữa cá nhân với mọi

người xung quanh, biểu hiện ở những nét tính cách như lòng nhân đạo, quý

trọng con người, tinh thần đồng đội, tình đồng nghiệp, tính cởi mở, chân tình,

công bằng...

- Thái độ đối với xã hội, thể hiện ở cung cách ứng xử trong xã hội; cách

thức đối phó với các nguyên tắc của xã hội và biểu hiện bằng các nét tính cách

như lòng yêu nước, tinh thần dân chủ, tính kỉ luật...

- Thái độ đối với công việc như lòng yêu nghề, yêu lao động, tinh thần

trách nhiệm...

- Hệ thống hành vi, cử chỉ, cung cách ứng xử của cá nhân

Hệ thống thái độ nói trên luôn luôn được thể hiện ra ngoài một cách cụ

thể. Hệ thống hành vi, cử chỉ... rất đa dạng và chịu sự chi phối của hệ thống thái

độ nói trên. Có thể xem hệ thống thái độ là nội dung của tính cách. Người có

tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi,

cử chỉ, cung cách ứng xử, trong đó nội dung là thành phần chủ đạo. Nội dung và

Page 164: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hình thức của tính cách không tách rời nhau mà luôn thống nhất hữu cơ với

nhau.

Không thể có một cá nhân nào chỉ có toàn những nét tính cách tốt và

cũng không thể có người nào chỉ toàn những nét tính cách xấu. Tính cách của

con người là một hệ thống gồm nhiều nét tính cách, cả những nét tính cách tốt

và những nét tính cách xấu. Tuy nhiên tỉ lệ giữa chúng sẽ cho thấy tính cách đặc

trưng của cá nhân đó như thế nào.

2.2.4. Giáo dục tính cách

Có thể nhận thấy có ba quan điểm về sự thay đổi tính cách sau đây:

- Thuyết định mệnh cho rằng: tính tình, tính cách con người bị lệ thuộc

vào số mệnh của từng cá nhân và vì vậy, không thể thay đổi tính cách hay

không thể giáo dục tính cách được.

- Quan điểm thứ hai cho rằng: đến sau năm tuổi, tính cách con người

được hình thành một cách rõ ràng và sau đó được xã hội hoá.

- Quan điểm thứ ba cho rằng: nhân cách con người thay đổi không ngừng

và vì vậy tính cách đó có thể được hình thành và thay đổi bằng các tác động

giáo dục.

Cơ sở hình thành nên những nét tính cách tốt là những nhu cầu cấp cao

của cá nhân. Vì vậy, điều kiện để giáo dục tính cách là củng cố trong con người

những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, những nhu cầu xã hội lành mạnh.

Cái mạnh và cái yếu của tính cách phụ thuộc vào nội dung của cá tính,

vào các đặc điểm của những nhu cầu và hướng tâm lí của cá nhân ấy. Nhờ có ý

chí dựa trên những ý hướng vững chắc nên con người mới có thể ức chế, kìm

hãm sự xung động đang cản trở mục đích có thể điều khiển một cách hợp lí

hành vi, các xung động, tính khí và có thể sử dụng toàn bộ nghị lực để đạt được

mục đích cơ bản.

Ở mỗi cá nhân, muốn thay đổi tính cách trước hết phải ý thức rõ về tính

cách của mình như thế nào, bổ sung những thiếu sót của nó theo hướng của cá

nhân ấy. Rèn luyện ý chí như là xương sống của tính cách: tính mục đích, tính

Page 165: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

tích cực, tính kỉ luật, tính cương quyết... phẩm chất ý chí sẽ hình thành những

nét tính cách nếu nó bền vững và luôn xuất hiện trong hành vi ý chí. Việc giáo

dục tính cách được chú trọng ở việc đưa chủ thể tham gia vào các hoạt động đa

dạng có chủ đích để hình thành các nét tính cách cụ thể, chỉ có hoạt động mới

có thể tác động để thay đổi và ươm mầm một tính cách mới.

Giáo dục tính cách cũng được tiến hành thông qua sự giáo dục thế giới

quan và nhân sinh quan phát triển hứng thú, hình thành những nhu cầu và

hướng tâm lí có ý nghĩa đặc biệt cho hành vi đạo đức sau này.

Con đường tự giáo dục tính cách là con đường có nhiều ý nghĩa nhất để

hội nhập với hoạt động xã hội và cuộc sống chung của nhân loại.

2.3. Năng lực của nhân cách

2.3.1. Khái niệm

Ngoài những đặc điểm về động cơ, tính cách, con người cần có những

khả năng nhất định để thực hiện các hoạt động cần thiết bảo đảm cho sự tồn tại

tích cực của mình, con người cần có năng lực để giải quyết vấn đề.

Năng lực là một hệ thống các đặc điểm tâm sinh lí phù hợp với những yêu

cầu đặc trưng của mọi hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt động có kết quả.

Trong các hình thức hoạt động, thực tế bất kì người nào cũng có thể tiếp

thu một số kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo tối thiểu là cái làm cho con người có thể

hoạt động. Trong những điều kiện bên ngoài như nhau thì những người khác

nhau có thể tiếp thu với một chất lượng hoàn toàn khác nhau. Mỗi cá nhân có

một cấu trúc tâm sinh lí khác nhau để thích nghi với các dạng hoạt động, năng

lực của cá nhân sẽ hoàn toàn khác nhau.

Khi xem xét bản chất của năng lực, cần chú ý đến các yếu tố cơ bản nhất:

năng lực là những sự khác biệt về tâm lí cá nhân làm cho người này khác người

kia. Năng lực không phải là bất kì những sự khác nhau cá biệt chung chung mà

chỉ là những sự khác biệt có liên quan đến hiệu quả của việc thực hiện hoạt

động nào đó.

2.3.2. Cấu trúc của năng lực

Page 166: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Năng lực của con người được hình thành trong quá trình sống và thích

ứng của mỗi cá nhân, là quá trình tích lũy riêng biệt của chủ thể để có thể thực

hiện có kết quả một hoạt động nào đó. Năng lực được hình thành từ những

thành tố sau đây:

- Tri thức, là một hệ thống kiến thức được cá nhân biến thành của riêng

mình. Tri thức là thành tố rất quan trọng để đánh giá một người có năng lực hay

không. Sự thông hiểu vấn đề, việc biết rõ bản chất sự việc là điều kiện không

thể thiếu để chủ thể hoạt động có hiệu quả cao. Năng lực của con người được

yêu cầu với hai loại tri thức căn bản là tri thức phổ thông và tri thức chuyên môn.

- Kĩ năng, là một hệ thống các thao tác của chủ thể được phối hợp một

cách nhuần nhuyễn để thực hiện công việc có hiệu quả mà ít tiêu hao năng

lượng. Kĩ năng là cách thức vận dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn, là

phương pháp thực hành của chủ thể để hoạt động được hoàn tất nhanh chóng,

đúng yêu cầu và bảo đảm tiến độ. Một người có tri thức nhưng thiếu kĩ năng

thực hành cũng chỉ là một người lí thuyết suông.

- Kinh nghiệm, là những giá trị những tinh hoa được chủ thể tích lũy qua

hoạt động thực tiễn, qua quá trình lao động nhất định. Người có kinh nghiệm sẽ

dựa vào tri thức và kĩ năng của mình sẽ tiến hành hoạt động một cách có kết

quả.

Có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thích hợp là điều kiện rất cần thiết cho việc

thực hiện có kết quả một hoạt động. Có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh

vực nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực này. Tri thức, kĩ

năng, kĩ xảo không đồng nhất với năng lực nhưng có quan hệ mật thiết với năng

lực. Năng lực giúp con người tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo dễ dàng và nhanh

chóng hơn.

Năng lực không phải là trình độ, không phải là kinh nghiệm dày dạn mà

con người có được, trình độ và kinh nghiệm chỉ tạo điều kiện cho năng lực phát

triển và được phát huy mà thôi.

Năng lực luôn gắn liền với một hoạt động nhất định, kết quả của hoạt

động sẽ là cơ sở đánh giá năng lực con người trên lĩnh vực hoạt động ấy. Năng

Page 167: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

lực được hình thành trong hoạt động thực tiễn, được phát triển trong quá trình

lao động sáng tạo chứ không phải tăng trưởng tỉ lệ với tuổi tác hay những địa vị

của cá nhân.

2.3.3. Phân loại năng lực

Người ta có thể chia năng lực ra thành nhiều loại khác nhau tùy theo cách

thức họ xem xét, tuy nhiên có thể chia thành hai loại cơ bản sau:

- Năng lực chung

Năng lực chung là những năng lực cần thiết cho tất cả các loại hình hoạt

động khác nhau, từ những hoạt động có những tính chất khoa học kĩ thuật đến

những hoạt động lao động chân tay hoặc lao động nghệ thuật, ví dụ như những

đặc điểm về thể lực, trí tuệ... (quan sát, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, ngôn

ngữ)...). Năng lực chung như là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh

vực hoạt động có kết quả.

- Năng lực riêng hay năng lực chuyên môn

Năng lực chuyên môn là sự thể hiện độc đáo các đặc điểm riêng, có tính

đặc trưng và chỉ phù hợp với những yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên

biệt nhất định để có kết quả cao. Ví dụ như năng lực hội hoạ, năng lực sư phạm,

năng lực thể thao, năng lực quản lí...

Cả hai loại năng lực này luôn luôn bổ sung cho nhau và hỗ trợ nhau để

chủ thể hoạt động hoàn thành công việc.

2.3.4. Sự hình thành và phát triển năng lực

- Điều kiện thể lí

Tư chất là những đặc điểm giải phẫu sinh lí bẩm sinh của cơ thể, những

đặc điểm này làm cho sự phát triển năng lực diễn ra dễ dàng hơn. Đối với các

năng lực chủ yếu trong hoạt động vận động thì các tư chất có thể là các đặc

điểm về hệ thần kinh cơ, còn đối với các năng lực trong hoạt động lao động trí

óc thì tính linh hoạt của hệ thần kinh, là sự tuần hoàn tốt của não... Ngoài những

yếu tố bẩm sinh di truyền, trong tư chất còn có những yếu tố tự tạo trong cuộc

sống cá thể. Đặc điểm di truyền có được thể hiện và bảo tồn ở thế hệ sau hay

Page 168: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

không là phụ thuộc vào hoàn cảnh sống. Như vậy tư chất là một trong những

điều kiện hình thành năng lực, nhưng tư chất không quy định trước sự phát triển

của các năng lực. Trên cơ sở của tư chất, các cá nhân có thể hình thành những

năng lực rất khác nhau trong hoạt động. Những tiền đề bẩm sinh được phát

triển nhanh chóng, những yếu tố chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục hoàn thiện trong

quá trình hoạt động và thích nghi với môi trường và cuộc sống.

- Điều kiện tâm lí

Những đặc điểm về xu hướng, hứng thú cá nhân có liên quan đến sự hình

thành và phát triển năng lực. Năng lực sẽ không thể phát triển nếu chủ thể

không yêu thích công việc của mình hoặc không có sự hứng thú rõ ràng đối với

một hoạt động nhất định. Hứng thú có thể trở thành chỉ số của năng lực đang

phát triển.

Việc phát triển các năng lực phải liên hệ cả với các động cơ hoạt động,

các niềm tin vững chắc. Nhịp độ phát triển của năng lực cũng không đồng đều

và phụ thuộc vào lứa tuổi con người. Có những thời hạn tối ưu để hình thành và

phát triển các năng lực chuyên biệt, những thời kì này các nhà nghiên cứu gọi là

thời kì nhạy cảm, đúng thì, đúng lứa.

- Điều kiện xã hội

Năng khiếu là mầm mống của năng lực, tuy nhiên có năng khiếu chưa có

nghĩa là sẽ có năng lực. Muốn phát triển năng khiếu thành năng lực phải có môi

trường xung quanh tương ứng và có sự giáo dục có chủ đích. Sự giáo dục có

chủ đích sẽ giúp năng khiếu phát triển đúng hướng tâm lí của cá nhân. Môi

trường sống, hoàn cảnh xã hội, quá trình hoạt động, lao động cần cù sẽ là điều

kiện thuận lợi để phát triển năng lực.

2.3.5. Các mức độ phát triển của năng lực

Năng lực có thể phát triển đạt đến những mức độ khác nhau, có thể có

hai mức sau:

- Tài năng

Page 169: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Tài năng là sự kết hợp nhiều năng lực, biểu hiện ở các phẩm chất phát

triển đến mức rất cao và có các năng lực cá nhân rất độc đáo, chủ thể hoàn

thành hoạt động một cách sáng tạo. Chỉ có thể có một tổ hợp nhiều năng lực đã

phát triển đạt đến trình độ cao mới có thể cho phép xem một người là có tài

trong một lĩnh vực hoạt động nào đó.

- Thiên tài

Thiên tài là một mức phát triển cao nhất của các năng lực. Thiên tài là

những sự sáng tạo thúc đẩy cả nhân loại tiến lên phía trước. Thiên tài biểu hiện

ở mức độ kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của con người.

2.4. Tính khí của nhân cách

2.4.1. Khái niệm

Tính khí là sự biểu lộ về mặt tốc độ, cường độ, nhịp độ của hành vi, cử

chỉ, cung cách ứng xử của con người trong hoạt động và trong cuộc sống. Tính

khí thể hiện rất rõ diễn biến của hoạt động tâm lí của con người.

Các đặc điểm của tính khí rất vững chắc và tương đối ổn định, chúng thể

hiện ở chủ thể trong những điều kiện hoạt động rất khác nhau và làm cho hành

vi của chủ thể mang màu sắc cảm xúc.

Đã từ rất lâu, các nhà tâm lí lưu ý đến những sự khác nhau có tính chất

rất cá biệt trong hành vi của con người. Từ thời xưa, nhiều người có kinh

nghiệm đã ghi nhận rằng có những "hình ảnh hành vi" tiêu biểu nhất nào đó:

trong một tình huống như nhau, một người có những đặc tính tâm lí nhất định sẽ

hành động chỉ như thế này thôi mà không thể như thế khác (theo PA Rudich).

Thực tế cho thấy, với cùng một kích thích từ môi trường bên ngoài, những cá

nhân khác nhau sẽ có những hành vi, cách đáp ứng hoàn toàn khác nhau. Sự

khác nhau ấy phần lớn là do tính khí quy định.

2.4.2. Cơ sở sinh lí của tính khí

I.P. Paplop đã đưa ra bốn kiểu hoạt động thần kinh cao cấp mà biểu hiện

của chúng là bốn kiểu tính khí khác nhau. Các kiểu hoạt động thần kinh này thể

Page 170: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

hiện tiêu biểu bởi một tổng hợp nhất định các chỉ số về những tính chất cơ bản

của các quá trình hưng phấn, ức chế, sức mạnh, tính linh hoạt và tính cân bằng.

Những tính chất của hệ thần kinh trong sự phân loại của Paplop, khi được

phối hợp với nhau theo những cách thức nhất định sẽ tạo nên bốn kiểu hoạt

động thần kinh cao cấp ảnh hưởng đến bốn kiểu tính khí: hệ thần kinh yếu - kiểu

yếu; hệ thần kinh mạnh - cân bằng - linh hoạt - kiểu sinh động; hệ thần kinh

mạnh cân bằng - trơ lì - kiểu trơ lì; hệ thần kinh mạnh - không cân bằng - kiểu

không kìm chế được.

Cần chú ý rằng, kiểu thần kinh là khái niệm của sinh học, còn tính khí là

khái niệm của tâm lí học, do đó chúng không hoàn toàn giống nhau. Tính khí là

đặc tính diễn biến của hoạt động, nó không chỉ biểu hiện ở kết quả cuối cùng

của hoạt động mà còn biểu hiện ở sự diễn biến của hoạt động đó nữa.

2.4.3. Các kiểu tính khí

Khi đề cập đến các kiểu tính khí, người ta lưu ý đến các tính chất cơ bản

của chúng như sau đây:.

- Tính nhạy cảm cao

Tính nhạy cảm thể hiện ở cường độ tối thiểu cần thiết của kích thích từ

ngoài để gây nên một phản ứng tâm lí nào đó. Cùng một mức độ không thoả

mãn nhu cầu, nhưng một người thì hầu như chưa nhận thấy trong lúc người

khác thì đã thấy hết sức khó chịu, đó là sự khác nhau về tính nhạy cảm của tính

khí.

- Tính phản ứng, dễ xúc cảm

Chức năng của tính chất này được xác định bởi sức mạnh của phản ứng

cảm xúc của con người đối với các tác nhân kích thích từ bên ngoài vào bên

trong.

- Tính đề kháng

Tính đề kháng là sự chống lại các điều kiện không thuận lợi làm ức chế

hoạt động. Nếu không có tính đề kháng thì sẽ rất khó thích nghi với sự phát triển

các tố chất và tính chất khác nhau của cá nhân ở trình độ cao.

Page 171: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Tính cứng rắn và tính dễ thay đổi

Tính cứng rắn thể hiện tiêu biểu ở sự không dễ thích nghi với các điều

kiện bên ngoài, tính dễ thay đổi thì thể hiện ở sự dễ dàng thích nghi. Con người

có tính dễ thay đổi sẽ có thể nhanh chóng hoà nhập được với môi trường mới lạ

và những hoàn cảnh đặc biệt.

- Tính kích thích sự chú ý

Khi mức độ mới mẻ càng ít mà vẫn thu hút sự chú ý thì sự chú ý của cá

nhân có tính kích thích cao.

Tính khí được xác định không phải bởi một tính chất riêng rẽ nào mà là sự

tương quan mang tính quy luật giữa tất cả mọi tính chất. Những tính chất nêu

trên biểu hiện khác nhau cả trong các kiểu tính khí riêng biệt.

Sau đây là những kiểu tính khí dưới dạng hoàn chỉnh theo tâm lí học hiện

đại:

2.4.3.1. Tính khí sôi nổi tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, không cân

bằng.

Người có tính khí sôi nổi có quá trình nhận thức nhanh và thường bị các

yếu tố cảm tính chi phối mạnh mẽ vì hành vi thường mang tính kích thích tăng

cao. Hoạt động của người sôi nổi rất mạnh mẽ, dứt khoát và thường mang tính

chất chu kì, tức là hay chuyển từ hoạt động tích cực sang giảm sút đột ngột do

hứng thú bị giảm sút hay sức mạnh tâm lí bị kiệt quệ.

Người có tính khí sôi nổi bộc lộ cảm xúc một cách chân thật qua nét mặt,

cử chỉ, khó kìm nén cảm xúc. Có thể nói người sôi nổi là người nhanh nhẹn, có

tính linh hoạt vận động cao nhưng nhiều lúc khó làm chủ được chính mình.

2.4.3.2. Tính khí linh hoạt tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, cân bằng

và có sự linh hoạt.

Người linh hoạt cũng có tính linh hoạt vận động cao nhưng dễ thích nghi

hơn trong những điều kiện sống luôn thay đổi. Người linh hoạt nhận thức nhanh

nhưng thường ít có tính tập trung chú ý và có biểu hiện chủ quan. Người linh

hoạt có tính nhạy cảm không đáng kể, vì vậy những yếu tố mạnh mẽ của hoạt

Page 172: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

động không phải lúc nào cũng gây ảnh hưởng xấu đến hành vi của họ. Hoạt

động của người linh hoạt thường biểu hiện sự nhanh nhẹn và có sự mềm dẻo.

Trong hoạt động họ cũng có thể dễ dàng di chuyển sự chú ý.

Người linh hoạt thường dễ thiết lập mối quan hệ với người xung quanh,

giao tiếp rộng và thường không có phản ứng xấu đột ngột đối với hành vi của

người khác.

2.4.3.3. Tính khí điềm tĩnh tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, cân bằng

nhưng không có sự linh hoạt.

Người có tính khí điềm tĩnh thường có tính kích thích yếu, tính dễ xúc cảm

yếu. Các quá trình tâm lí của người điềm tĩnh diễn ra chậm, nhận thức thường

kĩ lưỡng và kiên trì. Người điềm tĩnh tiến hành hoạt động rất chắc chắn và

thường theo những dự định nhất định, họ thường tỏ ra cẩn thận, nguyên tắc

trong hoạt động.

Do có sự ức chế mạnh làm cân bằng quá trình hưng phấn nên người

điềm tĩnh có thể kiềm chế mọi xung đột của mình và có thể che giấu cảm xúc,

không dễ bị thu hút bởi sự tác động của các tác nhân kích thích bên ngoài lôi

cuốn.

2.4.3.4. Tính khí ưu tư thường ứng với kiểu thần kinh yếu.

Người ưu tư thường có tính nhạy cảm cao, họ nhận thức vấn đề một cách

tỉ mỉ và ít có khuynh hướng khái quát hoá vấn đề. Người ưu tư thường có tính

đối phó với những tình huống thay đổi đột ngột. Hoạt động của người ưu tư có

tính chất dè dặt và có khuynh hướng thăm dò rất lâu.

Người ưu tư có đời sống tình cảm sâu sắc, họ thường ít muốn bộc lộ cảm

xúc và không muốn làm phiền lòng người khác trong các mối quan hệ. Ở người

ưu tư, quá trình ức chế thường chiếm ưu thế, vì vậy những tác nhân kích thích

mạnh mẽ sẽ dễ dẫn đến sự ức chế quá mức kéo theo sự giảm sút hoạt động

một cách đột ngột.

Việc phân chia tính khí chỉ mang tính quy ước và có ý nghĩa tâm lí nhiều

hơn. Trong thực tế, không có cá nhân nào chỉ có duy nhất một kiểu tính khí nào

Page 173: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

cũng như không có người nào mà lại hoàn toàn không có biểu hiện của một loại

tính khí nhất định.

Việc phân chia các loại tính khí như trên có nhiều ý nghĩa ứng dụng trong

các hoạt động thực tiễn như quản lí, tổ chức...

3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCHNhân cách không phải được sinh ra, không phải có sẵn và được bộc lộ

dần trong cuộc sống mà là một cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát triển

trong quá trình sống, hoạt động, giao tiếp... Chính bằng các hoạt động xã hội,

con người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung năng lực bản chất

người chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan đến hoạt động của

họ.

Sự phát triển nhân cách thường bao gồm một số lĩnh vực phát triển có

tính chất cụ thể như sau:

- Sự phát triển về mặt thể chất, biểu hiện ở sự tăng trưởng về cơ bắp,

chiều cao, trọng lượng... tiến đến sự hoàn thiện của các giác quan.

- Sự phát triển về mặt tâm lí thể hiện ở sự biến đổi về các quá trình tư

duy, tưởng tượng, tình cảm, ý chí, định hướng giá trị, nếp sống, thói quen, tính

tình...

- Sự phát triển về mặt xã hội, biểu hiện ở sự tham gia vào các mối quan

hệ xã hội, vào các mặt của đời sống xã hội, trong các mối quan hệ truyền thống

gia đình, làng xóm...

Sự phát triển nhân cách như là sự phát triển toàn bộ các sức mạnh của

con người. Quá trình phát triển nhân cách không chỉ là những biến đổi về lượng

mà là những biến đổi về chất trong mỗi con người.

Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người chịu sự tác động

của nhiều yếu tố, trong đó ngoài yếu tố bẩm sinh, di truyền thì giáo dục, hoạt

động, giao tiếp và cộng đồng có ý nghĩa quyết định.

3.1. Bẩm sinh, di truyền và nhân cách

Page 174: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Di truyền có một vai trò quan trọng đối với một số đặc điểm sinh học của

con người. Di truyền không quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách

nhưng là những tiền đề vật chất cần thiết cho sự định hướng phát triển của con

người trong một số lĩnh vực nhất định. Nếu biết phát huy những đặc điểm di

truyền một cách có căn cứ khoa học và đúng thời cơ, sự phát triển nhân cách

của con người sẽ có điều kiện thuận lợi hơn nữa trong sự kết hợp với các yếu tố

khác.

3.2. Giáo dục và nhân cách

Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có

kế hoạch ảnh hưởng đến con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách

con người theo những yêu cầu của xã hội.

Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm cả những tác động của việc dạy học

lẫn các tác động khác như tác động của gia đình và các tác động ngoài trường

học... Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu như là quá trình tác động tới thế hệ

trẻ về mặt đạo đức, tư tưởng, hành vi, động cơ và những thói quen cư xử thích

hợp...

Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển

nhân cách.

- Giáo dục xác định phương hướng cho việc hình thành và phát triển

những mô hình nhân cách trong tương lai, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Quá

trình này được thực hiện bằng các mục tiêu đào tạo của nhà trường các cấp và

các cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.

- Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước sự phát triển của

hiện thực và thúc đẩy sự phát triển với những dự báo khoa học.

- Giáo dục có thể tạo điều kiện để con người phát huy tối đa những thế

mạnh của con người, mang lại những tiến bộ mà các yếu tố khác như di truyền

và hoàn cảnh không thể có được.

Page 175: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

- Thông qua các tác động giáo dục, người đi trước truyền lại cho thế hệ

sau những tri thức, kinh nghiệm quý báu dưới các nội dung giáo dục có chọn

lọc.

Giáo dục có vai trò chủ đạo quyết định sự hình thành và phát triển nhân

cách, nhưng cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của giáo dục, giáo dục không

phải là chìa khoá vạn năng vượt qua ý chí con người. Giáo dục không phải chỉ

là sự tác động một chiều của những người làm công tác giáo dục mà còn bao

gồm cả hoạt động tích cực của người được giáo dục, giáo dục không tách rời tự

giáo dục.

3.3. Hoạt động và nhân cách

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định sự

hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người mang tính xã hội,

mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định.

Thông qua hai quá trình chủ thể hoá và khách thể hoá, nhân cách con

người được bộc lộ và hình thành. Thông qua hoạt động, con người dần dần

hoàn chỉnh bản thân, hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu

của hoạt động và của xã hội.

Sự hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo

ở mỗi thời kì nhất định. Hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình

thành và phát triển nhân cách, sự thay đổi nội dung hoạt động, thay đổi phương

pháp có ý nghĩa rất tích cực trong việc lôi cuốn cá nhân tham gia vào các quá

trình hoàn thiện bản thân.

3.4. Giao tiếp và nhân cách

Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Không có

giao tiếp con người không thể trao đổi cùng nhau, không thể bộc lộ những đặc

điểm tâm lí tiềm tàng của mình. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu

xã hội cơ bản và xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại.

Page 176: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Nhờ giao tiếp, con người hội nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các giá

trị xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp

tài năng của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội.

Trong giao tiếp, chủ thể còn nhận thức được chính mình, bằng giao tiếp,

con người có thể thay đổi chính mình để tự hoàn thiện bản thân. Giao tiếp là

hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là nhân tố cơ bản trong

việc hình thành và phát triển nhân cách, tuy nhiên hoạt động và giao tiếp của

con người chỉ có thể được tiến hành có kết quả trong cộng đồng, trong nhóm xã

hội.

3.5. Nhóm và nhân cách

Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã

hội, nhưng con người lớn lên không thể tách rời các cộng đồng của mình. Con

người là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, là thành viên của gia đình, của

nhóm bạn, của các đơn vi xã hội khác nhau...

Nhóm có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách,

trong cộng đồng luôn diễn ra các quá trình tâm lí như thích ứng lẫn nhau, quá

trình phân hoá, liên kết nhau trong hoạt động cùng nhau. Ảnh hưởng của xã hội,

của các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm và tác động đến từng người.

Ngược lại mỗi cá nhân tác động đến cộng đồng, tới xã hội và tới các cá nhân

khác cũng thông qua các nhóm.

Như vậy, các yếu tố bẩm sinh, di truyền, giáo dục, hoạt động, giao tiếp, và

cộng đồng có tác động đan xen nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá

trình hình thành và phát triển nhân cách.

Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác

động chủ đạo của giáo dục sẽ dẫn đến sự hình thành một cấu trúc nhân cách

tương đối ổn định. Trong cuộc sống, cá nhân có thể bằng nhiều phương cách

khác nhau tự hoàn thiện mình và cũng có thể có những mâu thuẫn với các giá trị

nhất định của xã hội. Vì vậy, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện là hết sức quan

trọng trong việc hoàn thiện nhân cách.

Page 177: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

TÓM LƯỢC CHƯƠNG 6- Nhân cách là một khái niệm trung tâm của Tâm lí học, nhân cách là một

hệ thống các đặc điểm tâm - sinh lí quy định giá trị và hành vi xã hội của cá

nhân.

- Nhân cách được hiểu theo nhiều cấu trúc khác nhau. Cấu trúc 4 thành

phần gồm xu hướng, năng lực, tính cách và tính khí là cấu trúc phổ biến nhất.

- Nhân cách không phải có sẵn mà được hình thành và phát triển trong

cuộc sống, trong hoạt động và giao tiếp, chịu sự ảnh hưởng của giáo dục và các

môi trường nhất định.

- Quá trình tự rèn luyện, tự giáo dục có một ý nghĩa rất quan trọng trong

vấn đề hoàn thiện nhân cách.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Robert S. Feldman, Những điều trọng yếu trong Tâm lí học, NXB Thống

kê, 2003.

2. Robert S. Feldman, Tâm lí học căn bản, NXB VHTT, 2004.

3. Hoàng Minh Hùng, Tri tâm thuật, NXB Trẻ TP. HCM, 1994.

4. Đặng Phương Kiệt, Cơ sở Tâm lí học ứng dụng, NXB ĐHQG Hà Nội,

2001.

5. B.Ph. Lomov, Những vấn đề lí luận và phương pháp luận Tâm lí học,

NXB ĐHQG Hà Nội, 2000.

6. Hoàng Thanh Minh, Bạn biết gì về giác quan và cảm xúc, NXB Tổng hợp

Đồng Tháp, 1995.

7. Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Đức Hưởng, Các lí thuyết phát triển Tâm lí

người, NXB ĐHSP Hà Nội, 2003.

8. P.A.Rudich, Tâm lí học. NXB TDTT Hà Nội, 19S6.

9. Thanh Niên 0nline...

Page 178: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

10. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lí học đại cương, NXB Giáo dục Hà Nội,

2001.

11. Vietnam Net...

MỤC LỤC Lời Nói Đầu

Chương 1: Những vấn đề chung

1. Khoa học tâm lí

2. Các quan điểm cơ bản trong Tâm lí học hiện đại

3. Những hiện tượng tâm lí người

4. Các phương pháp nghiên cứu Tâm lí học

Chương 2: Hoạt động nhận thức

1. Nhận thức cảm tính

2. Nhận thức lí tính

3. Ngôn ngữ và hoạt động nhận thức

4. Trí nhớ và hoạt động nhận thức

Chương 3: ý thức và vô thức

1. Ý thức

2. Vô thức

3. Chú ý

Chương 4: Tình cảm

1. Cảm xúc

2. Tình cảm

3. Đam mê

Chương 5: Ý chí và hành vi ý chí

Page 179: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

1. Ý chí

2. Hành vi ý chí

3. Thói quen - tập quán

4. Sự sai lệch hành vi xã

Chương 6: Nhân cách và sự hình thành nhân cách

1. Khái niệm về nhân cách

2. Cấu trúc tâm lí của nhân cách

3. Sự hình thành và phát triển nhân cách

TÀI LIỆU THAM KHẢO

--//--

TÂM LÝ HỌC

Tác giả:

TS. ĐINH PHƯƠNG DUY

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC – NĂM 2007

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI

Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO

Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dung:

Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam

XÀ THIỆN HOÀNG

Biên tập nội dung:

TRỊNH XUÂN VIÊN – NGUYỄN MINH HIẾU

Biên tập kỹ thuật:

BÙI XUÂN DƯƠNG

Trình bày bìa:

HÀ TUỆ HƯƠNG

Page 180: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/20.TamLyHoc.docx  · Web viewTÂM LÝ HỌC. TÂM LÝ HỌC. Tác giả: TS. Đinh Phương Duy. LỜI NÓI ĐẦU. Khoa học Tâm lí đang

Sửa bản in:

ĐỨC VIÊN – MINH HIẾU – HỒNG HOA

Chế bản:

PHÒNG THIẾT KẾ - CHẾ BẢN

Mã sách: 7G066m7 – ĐTN.

In 2.000 bản (QĐ 5), khổ 17 x 24cm tại Công ty In Nguyễn Văn Thảnh, số 48

Nguyễn Huệ, TXVL, tỉnh Vĩnh Long

Số ĐKKH xuất bản: 457-2007/CXB/1-1004/GD. Số in: 11GC.

In xong và nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2007.