Upload
phamdung
View
250
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
TÂM LÝ HỌCTÂM LÝ HỌC
Tác giả: TS. Đinh Phương Duy
LỜI NÓI ĐẦU
Khoa học Tâm lí đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong các hoạt
động đa dạng của xã hội. Đặc biệt trong hoạt động giáo dục và kinh doanh, việc
ứng dụng các thành quả nghiên cứu tâm lí đang được khai thác rất thành công
và hiệu quả. Nhiều trường chuyên nghiệp chọn lựa học phần Tâm lí học cho
sinh viên nghiên cứu, học tập, đã được đông đảo sinh viên thích thú và ủng hộ.
Trong xu thế đổi mới phương pháp nghiên cứu tâm lí và đổi mới cách
thức phổ biến kiến thức Tâm lí học cho đông đảo bạn đọc với nhiều đối tượng
đa dạng, tập sách Tâm lí học này được biên soạn lại trên cơ sở nội dung chính
của học phần Tâm lí học đại cương nhằm giúp các bạn sinh viên, những người
quan tâm đến khoa học Tâm lí có tài liệu tham khảo, nghiên cứu và ứng dụng...
Tác giả tập sách này có ý thức chú trọng nhiều đến những vấn đề thực tiễn, do
đó có nhiều câu chuyện được trích lại để dẫn dắt và giải thích vấn đề.
Tác giả đã hết sức cố gắng để biên soạn tập sách này nhưng chắc chắn
vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành
của bạn đọc gần xa.
Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Giáo dục đã tạo điều kiện thuận lợi
để tập sách này được xuất bản.
Trân trọng kính chào!
Tác Giả
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. KHOA HỌC TÂM LÝ1.1. Khái niệm "Tâm lí người"
Khi người ta cố gắng để tìm hiểu tâm lí của một ai đó nghĩa là họ đang
muốn biết điều gì của người ấy? Tâm lí có phải là một thuật ngữ chỉ những vấn
đề huyền bí của con người? Phải chăng chúng ta không thể nào hiểu được tâm
lí của một con người cụ thể?... Hãy lưu ý đến những từ có chữ "TÂM" sau đây
và có vài nhận xét:
Tâm hồn, tâm linh, tâm trí, tâm trạng, tâm địa, tâm can, tâm thần, tâm sự,
tâm tình, tâm tính, tâm tưởng, tâm thành, tâm bịnh, tâm giao, tâm đắc, tâm thức,
tâm tư,…
Nhân tâm, thiện tâm, ác tâm, bình tâm, an tâm, khổ tâm, lưu tâm, quyết
tâm, thành tâm, đan tâm, can tâm, đồng tâm, dã tâm, tà tâm, mĩ tâm, hảo tâm,
kiên tâm, từ tâm, tịnh tâm, thương tâm, lao tâm, vô tâm, nhẫn tâm, bận tâm...
Những từ trên đây có liên quan gì đến tâm lí không? Phải chăng đó là
những khái niệm của Tâm lí học?...
Người ta đã yêu như thế nào, tại sao mình nhớ người này mà không nhớ
người kia? Những giấc mơ hãi hùng hoặc đầy chất lãng mạn có liên quan gì với
nhau? Tại sao có lúc con người lại thấy mênh mông buồn mà chẳng rõ nguyên
nhân, có lúc căng thẳng hay nhiều khi hết sức hiền hoà và nhẫn nại?... Trong
thực tế đã có nhiều trường hợp con người rơi vào tình trạng mất cảm giác, mất
trí nhớ hoặc mất hết lí trí, tại sao như thế? Có lúc chúng ta đã không làm chủ
được mình, đã có những hành vi không nên làm nhưng lại biết mình sai ngay
sau đó, tại sao họ cố tình làm những điều biết chắc có thể mang lại sự phiền
phức cho mình?
Cũng có lúc người ta tự hỏi về thân phận của mình, tự hỏi về tương lai
của mình nhưng rồi họ hoàn toàn tuyệt vọng. Với bạn, bạn có bao giờ cho rằng,
trong cuộc sống, người Nữ và Nam sẽ có những phản ứng khác nhau trước
những hoàn cảnh hay trước những kích thích giống nhau? Bạn có cho rằng
những thông tin người ta có thể ghi nhớ được lại tuỳ thuộc vào tâm trạng của
con người hay phụ thuộc vào trạng thái tinh thần của con người lúc ấy không?
Bạn là người hướng nội hay hướng ngoại, là người duy cảm hay duy lí...?
Thuật ngữ "tâm lí", "tâm hồn" đã có từ lâu trong tiếng Việt. Từ điển tiếng
Việt năm 1988 đã định nghĩa một cách tổng quát rằng "tâm lí" là ý nghĩ tình cảm,
tâm tư, nguyện vọng, ý chí, thái độ, sở thích... làm thành đời sống nội tâm, thế
giới bên trong của con người. Nói một cách chung nhất, tâm lí bao gồm tất cả
những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều
hành một hành động, hoạt động của con người. Tìm hiểu tâm lí của con người
nghĩa là tìm hiểu về suy nghĩ tình cảm, ước muốn, nguyện vọng... của họ. Các
hiện tượng tâm lí, các hiện tượng tinh thần đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống của con người, trong quan hệ giữa con người cũng như giữa con
người và xã hội loài người. Một số người cho rằng "tâm lí" là lí lẽ của trái tim, là
những vấn đề liên quan đến tình cảm... nhưng thật ra không chỉ là của trái tim
mà còn là của "khối óc" nữa...
1.2. Tâm lí học
Những vấn đề trên đây sẽ được khoa học tâm lí giải thích và giúp chúng
ta phần nào trong việc lí giải những hiện tượng, sự kiện như đã mô tả trong
cuộc sống thực tế. Khoa học tâm lí hay Tâm lí học là một ngành khoa học
nghiên cứu về tâm lí, trong đó đặc biệt là nghiên cứu tâm lí Người. Mục tiêu lớn
của Tâm lí học là đem lại một cái nhìn sâu sắc và khái quát về những vấn đề đã
được khám phá về hoạt động của não bộ, của trí tuệ, của hành vi. Sau đó, Tâm
lí học cố gắng tìm cách để phác thảo, đề nghị phương cách vận dụng tri thức
Tâm lí học trong cuộc sống...
Có thể nói rằng, Tâm lí học là một khoa học nghiên cứu về các hiện tượng
tâm lí, về hành vi và đời sống tinh thần của con người. Tâm lí học có liên quan
đến rất nhiều ngành khoa học khác. Là một môn khoa học xã hội nhưng không
hoàn toàn chỉ là những vấn đề "xã hội" đơn thuần mà Tâm lí học có liên quan
mật thiết với Sinh lí học, Thần kinh học, Kinh tế học, Chính trị học, Nhân học,
Vật lí học... Nhiều ngành khoa học hành vi, nhiều ngành khoa học xã hội đã dựa
vào tri thức tâm lí để đưa ra các nguyên tắc ứng dụng của họ... Ngày nay, Tâm
lí học là khoa học xuyên văn hoá, nó có liên quan đến các ứng xử giống nhau và
khác nhau từ các vùng trên thế giới, nó có những quy tắc thích ứng chung cho
nhiều vấn đề đối với con người. "Tâm lí học nắm giữ chiếc chìa khoá để hiểu
một cách tổng quát sự vận hành con người (function) như thế nào. Khi khám
phá ra những điều nhà Tâm lí học biết về con người nói chung thì ta có thể ứng
dụng sự hiểu biết đó để thay đối ứng xử của bản thân và ứng xử của người
khác theo chiều hướng tốt hơn".
1.2.1. Đối tượng của Tâm lí học:
Bàn về đối tượng của Tâm lí học nghĩa là trả lời các câu hỏi: Con người
nghiên cứu tâm lí người khác thông qua cái gì; Điều gì là phương tiện để nghiên
cứu tâm lí người; Tâm lí người được bộc lộ thông qua các hình thức nào?
Trước hết, tâm lí (tâm tư, tình cảm, thái độ...) của con người luôn bộc lộ ra
ngoài bằng hành vi. Có thể quan sát hành vi cụ thể của một người trong một tình
huống cụ thể nào đó để nhận dạng về diễn biến tâm lí của họ lúc đó. Đời sống
tâm lí của con người luôn luôn được bộc lộ ra ngoài bằng hành vi và các dấu
hiệu nhất định. Hành vi là gì! Theo nghĩa hẹp, hành vi là cử chỉ, ngôn ngữ, động
tác... Theo nghĩa rộng, hành vi là tất cả các hoạt động trí tuệ, tình cảm có ý thức
và không ý thức. Khi xem xét hành vi của một cá nhân, cần chú ý đến ba khía
cạnh của nó, đó là cơ thể, tinh thần và xã hội. Hành vi là tất cả các dấu hiệu có
thể quan sát được của con người, được xem xét trong một tổng thể các phản
ứng của con người trước tác động của môi trường..
Như vậy, trước hết Tâm lí học xem hành vi của con người là đối tượng
nghiên cứu của mình, thông qua hành vi, các chủ thể sẽ có thể phát hiện được
những dấu hiệu, những diễn biến, những đặc điểm tâm lí của một khách thể nào
đó.
Mặt khác, Tâm lí học là một trong các khoa học trung gian tức là nghiên
cứu các dạng vận động chuyển tiếp từ dạng vận động này sang dạng vận động
khác. Tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật
sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào não người sinh ra hiện tượng
tâm lí, với tư cách là một hiện tượng tinh thần. Ở khía cạnh này, đối tượng của
Tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần do
thế giới khách quan tác động vào não người sinh ra, gọi chung là các hoạt động
tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt
động tâm lí thông qua những hiện tượng tâm lí. Hiện tượng tâm lí là những hiện
tượng phản ánh đời sống tinh thần của con người, phản ánh tâm hồn con
người. Những hiện tượng tâm lí nói lên suy nghĩ, tình cảm của một cá nhân hay
của một nhóm xã hội nào đó. Các hiện tượng tâm lí người có thể chứa đựng,
chuyển tải ý nguyện của một cá nhân hay cộng đồng, bộc lộ ý tưởng, nhận thức
của một chủ thể nào đó. Có thể nói đối tượng của Tâm lí học rất đa dạng, từ
những điều quan sát được trong thực tiễn đến những ý tưởng còn ẩn chứa
trong tâm thức của họ, còn bị che khuất bởi các thói quen của họ nhưng đều có
khuynh hướng bộc lộ ra ngoài và hình thành nên những hiện tượng tâm lí chung
hay đặc biệt.
1.2.2. Nhiệm vụ của Tâm lí học
Nhiệm vụ của Tâm lí học có thể xem như các mục tiêu mà khoa học này
muốn đạt được thông qua hệ thống tri thức và các phương pháp của chính khoa
học này. Giải quyết được các nhiệm vụ, các nhà tâm lí sẽ có điều kiện tiếp cận
với các vấn đề thực tiễn một cách bài bản hơn, ý nghĩa hơn. Tâm lí học có một
số nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Phát hiện các hiện tượng và sự kiện tâm lí xảy ra trong cuộc sống thực
tế. Những hiện tượng tâm lí xảy ra đan xen với những hiện tượng khác (hiện
tượng Sinh học, Hoá học, Vật lí học, Xã hội học, Kinh tế học, Văn hoá học...) và
có những quy luật hình thành nhất định, các nhà Tâm lí học phải sử dụng các
phương pháp thích hợp để xác định vấn đề, phát hiện diễn biến tâm lí nảy sinh
ở các chủ thể. Sau khi phát hiện, các nhà tâm lí còn có nhiệm vụ mô tả điều đã
xảy ra một cách rất khách quan, tìm kiếm những mối liên quan ý nghĩa giữa các
kích thích và các đáp ứng của chủ thể và những thay đổi nếu có của liên quan
ấy. Việc mô tả khách quan phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh đến điều nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy được.
- Tìm hiểu các quy luật nảy sinh, hình thành, phát triển và biểu hiện của
những hiện tượng và sự kiện ấy để có thể giải thích chúng một cách khoa học
và rõ ràng. Những điều được giải thích sẽ là nền tảng của quá trình suy luận
logic để đưa ra được những phán đoán khoa học, những nhận định thực tiễn.
Dù với những cách giải thích nào, các nhà tâm lí phải tìm cách kiểm chứng với
các dữ kiện đã được thu thập một cách hệ thống. Trên cơ sở giải thích một cách
khoa học các hiện tượng, sự kiện tâm lí, khoa học tâm lí sẽ chứng minh được
nguồn gốc của các hiện tượng này và quan trọng hơn là hình thành được một
số cơ sở lí luận và thực tiễn để xây dựng hệ thống lí thuyết cho ngành khoa học
này.
- Sau khi đã giải thích được các cơ chế, các quy luật của hành vi hoặc các
hiện tượng tâm lí nào đó, các nhà tâm lí có cơ sở để dự báo điều gì sẽ xảy ra,
những ứng xử nào có thể xuất hiện trên cơ sở những mối liên hệ đã phân tích.
Dự báo chính xác điều xảy ra sau một hành vi hay một ứng xử nào đó sẽ rất có
ích cho tiến trình nghiên cứu thực tiễn, nó là cơ sở của những ứng dụng Tâm lí
học trong hoạt động thực tiễn cũng như trong cuộc sống thực tế. Một trong
những kì vọng mà các nhà tâm lí phải tìm mọi cách đáp ứng là Tâm lí học phải
có hàng loạt các phương pháp, các biện pháp thực tế để dự đoán, dự báo các
diễn biến tâm lí dây chuyền hoặc độc lập sau một hiện tượng hay một đặc điểm
tâm lí nào đó được thể hiện ở chủ thể.
- Đưa ra được những giải pháp hữu hiệu để con người nghiên cứu, xem
xét và có thể phát triển nhân tố con người một cách hiệu quả nhất. Chính điều
này làm tăng khả năng của Tâm lí học trong quá trình cải thiện chất lượng cuộc
sống, cải thiện tính chất của các mối quan hệ người - người trong xã hội. Tâm lí
học sẽ làm phong phú thêm cuộc sống từ những phương cách hợp lí mà nó đề
xuất để môi trường sống trở nên dễ chịu hơn, do đó kết quả hoạt động có thể sẽ
cao hơn nữa... Nhiệm vụ này thể hiện một cách rõ ràng nhất tính chất ứng dụng
của tâm lí trong thực tiễn, Tâm lí học không phải chỉ là một khoa học với hàng
loạt khái niệm lí thuyết mà còn là việc ứng đụng, vận dụng lí thuyết đó vào thực
tế cuộc sống như thế nào nữa.
Tâm lí học là một khoa học thực hiện rất nhiều nhiệm vụ trong đó có
nhiệm vụ lí giải những hiện tượng rất gần gũi và gắn bó với cuộc sống thực tế,
nếu được nghiên cứu với phương pháp phù hợp, Tâm lí học có thể giúp con
người nhận rõ mình và người khác... để cải thiện chất lượng cuộc sống. Chính
Tâm lí học đã phát triển thành rất nhiều chuyên ngành đa dạng mang tính ứng
dụng thiết thực trên cơ sở nền tảng phương pháp luận vững chắc là chủ nghĩa
Mac - Lênin và Tâm lí học hoạt động. Thành quả của Tâm lí học đã được khẳng
định trong thực tiễn, đóng góp rất nhiều vào kho tàng tri thức lí luận của xã hội
nhưng vẫn còn rất hạn chế so với tính chất và khả năng của nó vốn có.
Có một vấn đề hẳn ai cũng có thể thừa nhận là Tâm lí học có thể được
vận dụng trong bất kì lĩnh vực hoạt động nào môi trường sống nào từ khoa học,
kĩ thuật nói chung đến các chuyên ngành cụ thể, chi tiết bởi vì ở bất kì lĩnh vực
nào, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với môi
trường... cũng là hiện tượng then chốt và yếu tố tinh thần, yếu tố tâm lí luôn hiện
hữu trong các quan hệ đó. Nghiên cứu và bổ sung lí luận là điều hết sức cần
thiết nhưng cần có định hướng và liều lượng thích hợp vì có thể nói, hệ lí luận
của Tâm lí học đã tương đối ổn định như đã thể hiện trong Tâm lí học đại
cương, Tâm lí học phát triển, Tâm lí học nhân cách... Vấn đề cần quan tâm hiện
nay là làm thế nào để các ngành tâm lí cụ thể phát huy được thế mạnh vốn có
của mình để góp phần lành mạnh hoá và tích cực hoá cuộc sống. Không ai phủ
nhận tầm quan trọng của Tâm lí học, của việc tìm kiếm những lĩnh vực tâm lí
mới nhưng điều cốt lõi thể hiện tính thiết thực của khoa học này là những kĩ
năng tâm lí nào có thể vận dụng và phát huy tác dụng? Kĩ năng tâm lí là sự kết
hợp các thao tác chứa đựng "hàm lượng tâm lí nhất định" nhằm thay đổi hành vi
theo hướng thuận lợi cho hoạt động của con người, làm cho con người có thể
gặt hái được nhiều thành công hơn, kết quả lao động đạt được nhiều hơn. Kĩ
năng tâm lí là sự chuyển tải lí thuyết tâm lí thành một hệ thống hành vi có chủ
đích, có kế hoạch để hiện thực hoá lí tưởng sống của con người.
Thành quả của Tâm lí học có nhiều cơ hội để phát huy trong điều kiện
thực tế khi chất lượng các mối quan hệ, khi đời sống tinh thần của con người
ngày càng được nhấn mạnh và đóng góp rất lớn vào phúc lợi xã hội, vào nền
kinh tế đang phát triển vững chắc. Nền kinh tế tri thức phát triển và mang tính
định hướng cho kinh tế tương lai là một nền tảng vững chắc để các tri thức tâm
lí phát huy sức mạnh cũng như hỗ trợ tích cực cho các chủ nhân của nền kinh tế
ấy. Các nhóm chủ thể sẽ không thể phát triển mạnh mẽ nếu đời sống tinh thần
không thuận lợi, không thoải mái để có một môi trường hoàn hảo cho tích lũy tri
thức, cho việc biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
- Trước hết, hướng nghiên cứu ứng đụng tâm lí trong việc tạo dựng hạnh
phúc trong gia đình là một thực tế khi xu thế nảy sinh cơ cấu gia đình mới ngày
càng rõ nét trong khi sự chuẩn bị về tinh thần, tâm lí là hết sức hời hợt. Do đó,
nhiều vấn đề tưởng chừng vô hại nhưng lại rất nguy hiểm đang xuất hiện trong
gia đình, trong quan hệ thân thuộc trên nền tảng một hệ giá trị đang dần thay đổi
và khẳng định lại. Nơi nuôi dưỡng đội ngũ trí thức, một đội ngũ đầu tàu của nền
kinh tê tri thức có vẻ như đang mất dần phương hướng và phát triển một cách
ngẫu hứng, tự phát. Những nguyên nhân nào dẫn đến việc gia đình không đủ
thời gian dành cho "không khí trẻ thơ"? Không khí trẻ thơ ở đây không chỉ là của
trẻ em mà còn là sự thanh thản, sự vui tươi và chút lãng mạn riêng tư của mỗi
gia đình. Nguyên nhân nào dẫn đến việc các cặp vợ chồng khi chưa hết tuần
trăng mật đã phải vội vã chia tay...?
- Hướng nghiên cứu ứng dụng Tâm lí học để cải thiện tình trạng học sinh
bỏ học, chán học hay bỏ nhà "đi bụi mỗi khi có sự cố nào đó. Áp lực học tập đè
nặng lên các em học sinh bắt đầu từ đâu, các áp lực tâm lí ấy có ảnh hưởng
như thế nào đến trí lực cũng như thể lực của các em? Công tác tư vấn học
đường đang được nhiều người quan tâm có giá trị như thế nào trong thực tiễn,
việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh được người lớn, thầy cô giáo định
hướng, hướng dẫn như thế nào cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi...
- Các nhà quản lí thể hiện quyền lực của mình như thế nào mà ít bị phản
ứng hay bằng cách nào để có thể khơi dậy được tiềm năng sáng tạo của người
thừa hành...
Tâm lí học còn nhiều điều, rất nhiều điều phải làm để nâng cao vị thế của
khoa học này, để khẳng định sự hữu ích của khoa học trong hoạt động thực
tiễn, để Tâm lí học không chỉ là "kiến thức phổ thông, nhỏ to tâm sự". Phát huy
nhân tố con người trên cơ sở vận dụng thành công và có kết quả các thành tựu
của khoa học tâm lí chỉ có thể thực hiện khi kết hợp được lí thuyết tâm lí và
những kĩ năng cụ thể trong cuộc sống vốn đã hết sức đa dạng và nhiều biến hoá
bất ngờ.
Câu chuyện thứ nhất
"Năm 20 tuổi, tôi là một nữ điều dưỡng đang thực tập tại một Bệnh viện
Nhi.
So với Viện Tim hoặc Bệnh viện Đa khoa, công việc ở Bệnh viện Nhi có
vẻ dễ như trở bàn tay. Tôi vốn có khiếu kết bạn với trẻ con nên chắc chắn tôi sẽ
vượt qua dễ dàng và chỉ còn chờ ngày tốt nghiệp.
Chris là một cậu bé 8 tuổi vô cùng hiếu động. Cậu lén bố mẹ vào thám
thính công trường đang xây dựng cạnh nhà và bị té gãy tay trái, tay bị nhiễm
trùng và phải cưa bỏ nó đi. Tôi được chỉ định làm y tá hậu phẫu cho Chris.
Khi sức khoẻ của cậu bé dần dần khá lên cũng là lúc cậu đau khổ nhận ra
sự mất mát của mình. Cậu nằm một chỗ, chờ giúp đỡ, không chịu làm vệ sinh
cá nhân. Tôi nhẹ nhàng khích lệ: "Cháu đâu có ở mãi trong bệnh viện, cháu phải
học cách tự chăm sóc...". Cậu bé giận dữ la lên: "Cháu có thể làm gì với một
tay.... Tôi vắt óc tìm một câu trả lời thích hợp, cuối cùng tôi bảo: "Dù sao cháu
vẫn còn tay phải". " Nhưng cháu thuận tay trái...", cậu bé kêu lên đầy thất vọng.
Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình vô dụng và vô tâm đến thế. Sao tôi lại
tưởng rằng mọi người đều thuận tay phải cơ chứ! Sáng hôm sau, tôi trở lại với
cuộn băng dính. Vòng cuộn băng quanh cổ tay, tôi bảo cậu bé: "Cháu thuận tay
trái còn cô thuận tay phải. Cô sẽ dán tay phải của cô vào hàng nút áo sau lưng
cháu. Bây giờ mỗi khi cô làm việc gì bằng tay trái cháu phải làm theo bằng tay
phải. Nào, cháu muốn bắt dầu bằng việc gì?. Nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, cậu bé
càu nhàu: Cháu mới ngủ dậy, cháu cần đánh răng.... Tôi xoay xở mở nắp ống
kem, đặt bàn chải lên mặt bàn, tìm cách nặn kem lên chiếc bàn chải đang ngả
nghiêng... Sau gần 10 phút nỗ lực với kem vương vãi đầy trên bàn, tôi mới hoàn
tất được công việc. "Cháu có thể làm nhanh hơn...", cậu bé tuyên bố, và khi làm
nhanh hơn thật, cậu bé mỉm cười chiến thắng.
Hai tuần sau đó trôi qua nhanh chóng. Chúng tôi biến mọi công việc hằng
ngày thành những cuộc đua tài hào hứng. Chúng tôi cài nút áo, phết bơ lên
bánh mì, cột dây giày... Không còn phân biệt tuổi tác, chúng tôi là hai vận động
viên đang ra sức đua tài. Lúc tôi hết thời gian thực tập cũng là lúc cậu bé rời
bệnh viện, tự tin đối mặt với cuộc sống... Khi hôn tạm biệt cậu bé, tôi không cầm
được nước mắt.
Đã 30 năm trôi qua kể từ ngày ấy, cuộc đời tôi đã bao phen "chìm nổi".
Mỗi lần phải đương đầu với thử thách, tôi lại nhớ đến cậu bé. Và mỗi khi cảm
thấy mệt mỏi, nản lòng, tôi lại lẳng lặng vào phòng tắm. Giấu tay phải ra sau, lấy
kem và đánh răng bằng tay trái... (Trái tim có điều kì diệu - Báo Tuổi Trẻ, NXB
Trẻ)
Hãy thử bình luận xem điều cốt lõi nào đã làm cô điều dưỡng dễ thương
và cậu bể đang khủng hoảng niềm tin có được những ngây hồn nhiên, tươi dẹp
để vượt qua thử thách của cả hai người?
1.2.3. Các ngành Tâm lí học
Câu chuyện thứ hai
Trận động đất kinh hoàng làm hàng trăm ngàn người thiệt mạng ở Đông Á
năm 2004 đã để lại một dư âm tiêu cực đối với các hiểm hoạ của thiên nhiên.
Đằng sau trận động đất này có biết bao vấn đề cần quan tâm, cần thực hiện để
khôi phục sự thanh thản vốn có của cư dân trong vùng trước đó, làm sao để
khách du lịch an tâm và vẫn nuôi ý định trở lại vùng đất "nghiệt ngã" ấy? Các
nhà quản lí và khoa học nghĩ gì về điều này? Các nhà Tâm lí học vào cuộc ra
sao?...
Có rất nhiều ngành khoa học quan tâm để cố gắng khắc phục hậu quả
của vấn đề, trong đó có Tâm lí học với nhiều ngành tâm lí có tính chuyên biệt,
có thể kể đến một số ngành tâm lí học ứng dụng để khẳng định sự đa dạng và
phong phú của các ngành tâm lí học sau đây:
- Tâm lí học xã hội nghiên cứu những vấn đề tâm lí nảy sinh trong sự
tương tác giữa các cá nhân, nghiên cứu diễn biến tâm lí của cộng đồng dân
cư.... đề xuất các phương hướng ổn định tinh thần, phát triển khuynh hướng
dựa vào nhau để tồn tại giúp đỡ nhau và chia sẻ với nhau những trăn trở cũng
như những nỗi niềm của sự mất mát... Tâm lí học xã hội sẽ tiếp tục nghiên cứu
những hiện tượng tâm lí khác phản ánh trí tuệ, tình cảm, tâm trạng, nguyện
vọng... của các cộng đồng, nghiên cứu các trạng thái tâm lí bất thường vào
những thời điểm không bình thường hoặc bình thường nào đó của xã hội...
- Tâm lí học phát triển nghiên cứu những khuynh hướng tâm lí mới xuất
hiện đối với từng lứa tuổi khác nhau nhằm khái quát sự ảnh hưởng của sự cố
khủng khiếp này đến con người ở các lứa tuổi khác nhau như thế nào. Kết quả
nghiên cứu này giúp các nhà Tâm lí học phát triển, bổ sung các giá trị để khẳng
định quá trình phát triển tâm lí của cả đời người.
- Tâm lí học y tế tìm cách xem xét, khám phá mối liên hệ giữa sự đau đớn
của cơ thể hay bệnh tật, nhận dạng các hành vi có liên quan đến sức khoẻ từ
hậu quả của sự cố nhằm giúp các nhà quản lí có điều kiện tham khảo khi đưa ra
các quyết định quản lí nào đó.
- Tâm lí học lâm sàng chuyên nghiên cứu, chẩn đoán và điều trị hành vi
bất thường từ những cuộc khủng hoảng, từ những điều bất hạnh đã xảy ra, từ
sự thương tiếc những người gặp nạn. Tâm lí học lâm sàng tìm cách nhận dạng
các rối loạn tâm lí ban đầu để giải thích tính chất của các mối quan hệ giữa các
thành viên trong cộng đồng trong quá trình "bị" rối nhiễu tâm lí như thế nào...
Ngoài ra một số ngành tâm lí khác sẽ đóng góp thành quả của mình trong
việc lí giải các vấn đề nảy sinh trong quá trình khôi phục, hồi phục và hình thành
các hiện tượng phản ánh đời sống tinh thần của cộng đồng.
2. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TRONG TÂM LÝ HỌC HIỆN ĐẠICó Chể xem xét một số quan điểm cơ bản như là những trường phái tâm
lí có giá trị khoa học nhất định và có đóng góp cho một nền Tâm lí học thực
nghiệm ngày nay. Những trường phái này tiếp cận theo nhiều cách khác nhau
với những phương pháp khác nhau nhưng đều có mục tiêu góp phần lí giải các
hiện tượng tâm lí của con người và đề xuất các hình thức thích ứng phù hợp.
2.1. Tâm lí học hành vi
Tâm lí học hành vi xuất phát từ Mĩ và được nhà Tâm lí học người Mĩ J.
Watson (1878 - 1958) khởi xướng. Trong những năm 1920, J. Watson khẳng
định rằng có thể thấu hiểu hành vi của con người bằng việc nghiên cứu và thay
đổi môi trường mà trong đó con người tiến hành các thao tác, các hoạt động.
Ông cho rằng, bằng cách kiểm soát chặt chẽ môi trường của con người thì có
thể hiểu được bất kì hành vi nào, ông còn cho rằng: "Hãy giao cho tôi chục trẻ
em khoẻ mạnh, có thể hình tốt, thế giới đặc biệt của riêng tôi sẽ nuôi dưỡng
chúng và bảo đảm chọn bất kì trẻ nào để đào tạo trở thành bất cứ chuyên gia
nào mà tối muốn: Bác sĩ, luật sư, nghệ sĩ, thương gia, và ngay cả là một gã
hành khất hay trộm cắp, không cần biết đến tài năng, khuynh hướng, thiên
hướng, khả năng, năng khiếu và chủng tộc của tổ tiên" (Watson 1924). Các nhà
Tâm lí học hành vi cho rằng Tâm lí học chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể con
người cũng như ở động vật. Hành vi, theo các nhà Tâm lí học hành vi lúc ấy,
được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một
kích thích nào đó. J. Watson đã lưu ý đến tính khách quan của tâm lí người, tâm
lí có nguồn gốc bên ngoài và là những biểu hiện có thể quan sát được. Các nhà
tâm lí học hành vi cũng cho rằng nghiên cứu tâm lí tức là nghiên cứu hành vi và
cũng có nghĩa là nghiên cứu những điều quan sát được mà thôi.
2.2. Tâm lí học Gestalt
Tâm lí học Gestalt được ra đời ở Đức và còn được gọi là Tâm lí học cấu
trúc vì các nhà tâm lí thuộc trường phái này đi sâu nghiên cứu các quy luật về
tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật bừng sáng của tư duy. Bằng
hàng loạt các thực nghiệm, các nhà Tâm lí học Gestalt khẳng định rằng các quy
luật của tri giác, tư duy và tâm lí của con người do các cấu trúc đã có trước của
não quyết định. Thành quả nghiên cứu của các nhà Tâm lí học Gestalt đã đóng
góp rất nhiều cho lĩnh vực trị liệu và nghệ thuật.
2.3. Tâm phân học
Thuyết Tâm phân học do S. Freud (1859 - 1939), một bác sĩ người áo xây
dựng nên. Freud tách con người thành ba khối bao gồm cái ấy (vô thức), cái tôi
và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tình dục, tự
vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống
tâm lí và hành vi của con người. Cái ấy tồn tại theo nguyên tắc đòi hỏi và thoả
mãn. Cái tôi được xem là con người thường ngày, con người có ý thức và tồn
tại theo nguyên tắc hiện thực. "Cái tôi" bị giằng co bởi những thúc đẩy nguyên
khởi và những mệnh lệnh cấm đoán của cái siêu tôi.
Theo S. Freud thì hành vi của con người được quyết định trong tầng sâu
thẳm của nhân cách - bằng con đường vô thức, và đời sống tình cảm của con
người được đặt trên nền tảng xung khắc giữa yêu thương - thù hận, thu hút - xô
đẩy, khoái lạc - đau khổ, sống - chết...
Có thể nói rằng đóng góp lớn nhất của S. Freud cho ngành tâm lí là đề
cao tầm quan trọng của vô thức.
Sau S. Freud, A. Adler tiếp tục dòng tâm phân với những khía cạnh mới,
hướng đến tâm thần kinh trị liệu và xây dựng Tâm lí học cá nhân, nhấn mạnh
đến những bản năng thống trị của ý thức. Theo A. Adler, tất cả những giá trị đều
bắt nguồn từ những nhu cầu của đời sống xã hội, cần phải tìm cách hoà hợp
những nhu cầu cá nhân và đòi hỏi của xã hội, mỗi cá nhân phải có phương cách
điều khiển đời sống.
C.G. Jung đề xuất một khái niệm mới: Tâm lí học phân tích, ông coi nhân
cách là một cái mặt nạ của cá nhân đã được xã hội hoá, như một nhân vật đang
đóng vai trên sân khấu và chính C.G. Jung đã đưa ra khái niệm vô thức tập thể.
2.4. Tâm lí học nhân bản
Trường phái Tâm lí học nhân bản được khởi xướng bởi hai nhà tâm lí
C.Rogers (1902 - 1987) và A. Maslow. Tâm lí học nhân bản đặt trọng tâm nơi
phẩm giá con người, trong thế giới riêng tư của con người, trong sự liên hệ với
tha nhân và trong sự chủ động tìm tòi ý nghĩa cho cuộc sống.
Theo C. Rogers thì bản chất của con người là tốt đẹp, con người cần có
điều kiện tâm lí để tăng trưởng và để trở thành chính mình trong cuộc sống tràn
đầy nghĩa.
A. Maslow đã nêu ra nhiều mức độ nhu cầu cơ bản của con người xếp
thứ tự từ thấp đến cao. Đó là nhu cầu sinh lí cơ bản, nhu cầu an toàn, nhu cầu
về quan hệ xã hội, nhu cầu được tôn trọng, và nhu cầu phát huy bản ngã, thành
đạt. Theo A. Maslow, Tâm lí học nhân bản không mang tính chất mô tả hay
nghiên cứu thuần tuý, mà nó đề nghi con người hành động và hành động có
hiệu quả, nó làm nảy sinh một lối sống cho một người không những trong nội
tâm của chính mình mà còn cho chính người đó xét như là một thực thể xã hội,
một thành phần của tập thể. Cũng theo ông, Tâm lí học nhân bản chỉ là một
bước quá độ, một sự chuẩn bị cho Tâm lí học "siêu bản vị" vượt hẳn con người,
tập trung vào vũ trụ hơn là vào những nhu cầu hay tiện ích của con người.
2.5. Tâm lí học nhận thức
Tâm lí học nhận thức xem hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu
của mình. Đặc điểm nổi bật của trường phái này là nghiên cứu tâm lí con người,
nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và não
bộ. Theo thuyết nhận thức thì con người hành động vì con người suy nghĩ, con
người suy nghĩ vì lí do thiết kế tự nhiên của não bộ trang bị cho con người làm
như vậy. Mô hình nhận thức cho thấy, một số ứng xử có ý nghĩa nhất xuất hiện
từ cách suy nghĩ hoàn toàn mới mẻ chứ không phải từ các cách có thể dự đoán,
đã được vận dụng trong quá khứ. Trong cách tiếp cận này, con người thường
khởi sự công việc không tốt và cũng không xấu, tuy nhiên với khả năng tiềm ẩn,
với các chương trình của tâm trí, có thể hình thành cái thiện, cái ác... Trường
phái nhận thức thể hiện ý tưởng, để hiểu được con người, trước hết cần hiểu
được nhận thức của người đó.
2.6. Tâm lí hoạt động
Trường phái Tâm lí học hoạt động do các nhà Tâm lí học Liên Xô (cũ)
khởi xướng mà đứng đầu là L.X. Vugoski (1896 - 1934). Trường phái này lấy
triết học Mac - Lênin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận, xây dựng nên Tâm
lí học lịch sử người. Các nhà Tâm lí học hoạt động xem tâm lí người là sự phản
ánh thế giới khách quan vào não người thông qua hoạt động. Tâm lí người
mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, nó được hình thành, phát triển và thể
hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã
hội.
3. NHỮNG HIỆN TƯỢNG TÂM LÍ NGƯỜI3.1. Cơ sở của tâm lí người
3.1.1. Cơ sở tự nhiên của tâm lí
- Di truyền và tâm lí
Di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống, bảo đảm sự tái tạo ở thế
hệ mới những nét giống về mặt sinh vật đối với thế hệ trước, bảo đảm năng lực
đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.
Tư chât là một tổ hợp bao gồm cả những đặc điểm giải phẫu vừa là
những đặc điểm chức năng tâm sinh lí mà cá thể đã đạt trong một giai đoạn
phát triển nhất định dưới ảnh hưởng của môi trường sống và hoạt động.
Di truyền đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển
tâm lí con người, di truyền tham gia vào việc tạo thành những đặc điểm giải
phẫu sinh lí của cơ thể, trong đó có những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của hệ
thần kinh - cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lí. Di truyền đóng vai trò tiền
đề trong sự phát triển của cá nhân. Trước đây nhiều người nghi ngờ vai trò của
di truyền, cho rằng di truyền không có ảnh hưởng nhiều đến quá trình hình
thành những nét tâm lí đặc biệt của con người nhưng gần đây, các công trình
nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh tầm quan trọng của di truyền trong việc
định hình các đặc điểm tâm lí các đặc điểm nhân cách của con người.
- Não và tâm lí
Trong lịch sử tiến hoá, sự nảy sinh và phát triển tâm lí, ý thức, trí tuệ...
gắn liền với sự nảy sinh và phát triển của hệ thần kinh với đỉnh cao cuối cùng là
vỏ não của con người. Vỏ não người cùng các bộ phận dưới vỏ não là cơ sở vật
chất, là nơi tồn tại của cảm giác, tri giác, tưởng tượng, trí nhớ, chú ý, tư duy, ý
thức, vô thức... Không có não và vỏ não hay não hoặc vỏ não không bình
thường thì không có tâm lí hoặc tâm lí không bình thường. Tuy nhiên cần phải
chú ý rằng, chỉ khi não hoạt động thì mới có tâm lí. Người ta đã chế tạo một loại
máy có thể đọc được suy nghĩ của người qua theo dõi hoạt động của não. Loại
máy cộng hưởng từ (MRI) tại Đại học Illinois (Mĩ) có thể đọc suy nghĩ của con
người bằng cách theo dõi các tế bào thần kinh trong não. Các nhà khoa học cho
biết đây là một trong những máy MRI hiện đại nhất thế giới. Với khả năng đọc
suy nghĩ của con người, máy có thể mở ra đường hướng mới trong việc chẩn
đoán các chứng bệnh như đột quỵ, tự kỉ, Alzheimer và các bệnh rối loạn tinh
thần khác. Chức năng chính của máy là phát hiện xem con người đang suy nghĩ
gì và có nhiều ứng dụng tích cực khác nhưng nhiều người vẫn lo ngại về cách
con người sử dụng máy. "Con người ta có thể bị ném vào tù vì bị nghi là khủng
bố dựa trên những gì mà máy đọc được từ não của họ", một nhà khoa học nhận
xét.
Câu chuyện thứ ba
Các nhà khoa học thần kinh Mĩ đã tìm thấy "điểm nhân ái" trong não con
người.
"Mặc dù việc hiểu biết chức năng của vùng não này không nhất thiết xác
định điều gì, nhưng nó cũng có thể cho chúng ta những mấu chốt về nguồn gốc
của các thái độ xã hội quan trọng như lòng vị tha chẳng hạn", theo tác giả cuộc
nghiên cứu Scott Huettel, giáo sư trợ giảng về tâm lí tại Trung tâm Y khoa Đại
học Duke.
Các chuyên gia thường ghi nhận lòng vị tha dường như làm cho người ta
"hết mình". Thế thì nó phát triển như thế nào và tại sao? Để giúp giải quyết bài
toán này, nhóm của giáo sư Huettel đã cho những người tham gia cuộc nghiên
cứu chơi nhiều trò chơi khác nhau, và bảo họ rằng nếu thắng, họ sẽ được
thưởng tiền cho riêng mình hoặc tiền đó được tặng cho một tổ chức từ thiện.
Những nhà nghiên cứu sử dụng máy chụp ảnh chức năng kĩ thuật cao (fMRl) để
quan sát "những điểm nóng" của hoạt động trong não những người tham gia.
Những người tham gia cũng được yêu cầu điền một bản câu hỏi nhằm
đánh giá mức độ ích kỉ hoặc vị tha của họ. Họ phản ứng khác nhau tuỳ theo họ
được tiền cho riêng mình hoặc món tiền đó dành cho tổ chức từ thiện. Trong
cuộc nghiên cứu, những người có lòng nhân ái nhất có hoạt động mạnh nhất tại
rãnh não thái dương phía trên - phía sau, nơi thường có liên quan đến việc xử lí
thông tin đến, đưa ra các mối quan hệ xã hội và kiểm soát cử động.
Giáo sư Huettel nói ông rất ngạc nhiên về kết quả nghiên cứu: "Chúng tôi
thực hiện thí nghiệm này với ý nghĩ rằng lòng vị tha thật sự là một chức năng
của hệ thống tưởng thưởng của não - những người vị tha sẽ đơn giản cảm thấy
lòng vị tha được tưởng thưởng nhiều hơn". (theo Sinhua)
- Định khu chức năng tâm lí trong não
Trên vỏ não có các miền nhất định, mỗi miền là cơ sở vật chất của các
hiện tượng tâm lí tương ứng. Một miền có thể tham gia vào nhiều hiện tượng
tâm lí. Các miền phục vụ cho một hiện tượng tâm lí hợp thành một hệ thống
chức năng. Hệ thống chức năng này hoạt động một cách cơ động, tuỳ thuộc vào
yêu cầu của chủ thể, vào đặc điểm không gian, thời gian và không bất biến.
Vỏ não có một số vùng chức năng quan trọng và riêng biệt: Đó là vùng thị
giác, vùng thính giác, vùng vị giác, vùng cảm giác cơ thể, vùng vận động, vùng
viết ngôn ngữ, vùng nói ngôn ngữ, vùng nghe hiểu tiếng nói, vùng nhìn hiểu chữ
viết.
Não được phân thành hai phần tương đối giống nhau và đối xứng nhau
gọi là bán cầu não trái và bán cầu não phải. Nhiều nghiên cứu cho thấy hai bán
cầu não này đảm trách các chức năng khác nhau mặc dù có những điểm không
tương đồng tuỳ thuộc các đặc điểm cá nhân hoặc giới tính. Kết quả nghiên cứu
cho biết bán cầu não trái chuyên về các công việc đòi hỏi năng lực ngôn ngữ
như các kĩ năng nói, đọc, tư duy... Bán cầu não phải điều khiển các loại năng
lực chuyên biệt trong các lĩnh vực phi ngôn ngữ như nhận biết các hình dạng vật
chất, hiểu biết về không gian, diễn tả cảm xúc, cảm thụ âm nhạc...
Câu chuyện thứ tư
Não có thể làm hai việc cùng lúc không?
Những nhà nghiên cứu đã khám phá lí do tại sao con người cảm thấy khó
khăn khi làm hai việc cùng một lúc.
Một "thắt nút chai" xuất hiện trong não khi những người tham gia thử
nghiệm thực hiện hai nhiệm vụ đồng thời. Nghiên cứu tìm thấy não làm việc
chậm lại khi cố gắng thực hiện một nhiệm vụ thứ hai khoảng 300 mili giây sau
khi "cổ chai" xuất hiện trong não. Những phát hiện này dẫn đến việc cấm hoàn
toàn nghe điện thoại trong khi lái xe.
Những người tham gia được đề nghị nhấn vào một phím máy tính thích
hợp phát ra những âm thanh khác nhau để trả lời các nhiệm vụ đề nghị khác
nhau. Những nhà nghiên cứu từ Trường Đại học Vanderbilt (Mĩ) đã dùng máy
siêu âm MRI quét qua não những người tham gia để nhận diện những sự thay
đổi thành phần ôxi hoá trong máu. Họ tìm thấy vùng não thuỳ trán giữa và hai
bên có sự thay đổi không cân xứng. Điều này cho thấy não không có khả năng
xử lí hai nhiệm vụ song song, dẫn tới hiện tượng "thắt nút chai". Tiến sĩ S. Paul,
trưởng nhóm nghiên cứu, cho rằng những nghiên cứu trên cho thấy con người
bị giới hạn trong khả năng làm hai việc cùng một lúc. Hiện tượng này được gọi
là "giao thoa nhiệm vụ kép". Nghiên cứu nơi xảy ra hiện tượng "thắt cổ chai"
trong não, các nhà khoa học thấy rằng trong khi tế bào thần kinh não trả lời
mệnh lệnh thứ nhất thì tế bào khác tiếp nhận một mệnh lệnh mới phải "xếp
hàng" chờ. Các tế bào thần kinh não không thể hoạt động cùng lúc dẫn đến hiện
tượng "thắt cổ chai" nói trên.
Nhóm nghiên cứu cũng thực hiện đối với người lái máy bay. Họ thấy khi
nghe điện thoại trong lúc lái máy bay, nguy cơ tai nạn cao hơn 4 lần. Từ đó,
ngành hàng không có quy định tắt điện thoại khi lên máy bay. (theo VietNam
Net)
Những nghiên cứu mới đã tìm hiểu quá trình xử lí của bộ não ở các cấp
độ cao và thấp. Một quyết định tức thì sẽ tốt hơn là nghiền ngẫm vấn đề, khi bạn
phải trả lời nhanh các câu hỏi.
Những người tham gia được yêu cầu tìm ra một biểu tượng bị đảo lộn
trên một màn hình gồm hơn 650 biểu tượng giống nhau. Những ai đưa ra quyết
định một cách bản năng, tức thì, đạt kết quả chính xác hơn những ai phải suy
nghĩ lâu hơn cho câu trả lời.
"Kết quả này có vẻ như đi ngược lại logic. Mọi người nghĩ rằng sẽ đưa ra
quyết định chính xác hơn nếu có thêm nhiều thời gian xem xét. Nhưng thực tế,
họ lại làm tốt hơn khi hầu như không có thời gian để suy nghĩ", tác giả nghiên
cứu Li Zhaoping tại Đại học London nói.
Các nhà nghiên cứu nhận biết được khi nào thì người tham gia tìm thấy
được biểu tượng mục tiêu, bằng cách theo dõi cử động mắt. Một khi mắt của
người tham gia định vị được mục tiêu, các nhà nghiên cứu tắt màn hình, giới
hạn khoảng thời gian mắt người nán lại trên biểu tượng trong 0 - 1,5 giây. Người
tham gia sẽ phải trả lời vật thể khác biệt đó ở bên phải hay bên trái màn hình.
Những ai chỉ có chưa tới một giây để nhìn biểu tượng trả lời chính xác hơn
những ai được nhìn hơn 1 giây..
Zhaoping lí giải kết quả bắt nguồn từ sự khác biệt trong khả năng mà bộ
não tiềm thức và ý thức nhận biết biểu tượng. Trong khi tiềm thức có thể nhận
ra sự khác biệt giữa một quả táo bị lộn ngược với quả táo đứng thẳng, thì ý thức
chỉ thấy rằng đó là 2 quả táo.
Khi được cho thêm thời gian để tham gia vào quá trình xử lí cao cấp của
nhận thức, người tham gia đoán sai bởi sự nhận thức đã lấn át quyết định của
tiềm thức ở cấp độ thấp hơn.
Zhaoping cho rằng:"Nếu như quá trình nhận thức ở cấp cao và thấp đều
đưa đến chung một kết luận, thì không có vấn đề gì"; "Nhưng thường thì bản
năng và ý thức cấp cao của chúng ta lại mâu thuẫn, và trong trường hợp này,
bản năng thường bị che khuất bởi bộ óc lí trí.
- Phản xạ và tâm lí
Hoạt động tâm lí vừa có bản chất phản ánh vừa có bản chất phản xạ.
Toàn bộ hoạt động của não là hoạt động phản xạ.
Phản xạ có điều kiện là hoạt động tự tạo của con người dưới tác dụng
của giáo dục trên cơ sở tạo mối liên hệ giữa trung khu của phản xạ có điều kiện
và trung khu của phản xạ không điều kiện tương ứng.
Hoạt động thần kinh cấp cao, hệ thống các phản xạ có điều kiện là cơ sở
sinh lí của các hiện tượng tâm lí. Tất cả các thói quen, tập tục, hành vi, hành
động, hoạt động đều có cơ sở sinh lí thần kinh là các phản xạ có điều kiện.
3.1.2. Cơ sở xã hội của tâm lí
- Quan hệ xã hội, nền văn hoá xã hội và tâm lí
Con người luôn chịu sự tác động của các mối quan hệ xã hội nhất định.
Chủ nghĩa Marx đã khẳng định rằng các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con
người. Theo Marx thì "...bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng,
vốn có của từng cá nhân riêng lẻ, trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" (Luận cương về Pheubach). Quan hệ
xã hội trước hết là quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế, chế độ xã hội - chính trị,
quan hệ con người - con người, quan hệ đạo đức, pháp quyền, tôn giáo... Quy
luật cơ bản chi phối sự phát triển xã hội loài người là quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất chứ không phải là quy
luật chọn lọc tự nhiên.
Các quy luật xã hội tác động đến con người làm biến đổi những hoạt động
tâm lí trong đó tác động của giáo dục là cực kì quan trọng.
Tâm lí của con người phát triển thông qua sự lĩnh hội nền vãn hoá xã hội
để tái tạo những thuộc tính, năng lực của cá thể mỗi người, tiếp thu năng lực
bản chất người.
- Hoạt động và tâm lí
Tâm lí con người hình thành và phát triển chủ yếu theo các quy luật lịch
sử - xã hội. Cuộc sống của con người là một chuỗi những hoạt động giao tiếp.
Tâm lí người với đỉnh cao là ý thức được hình thành và phát triển bằng hoạt
động và giao tiếp.
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Bằng hoạt động và trong
các hoạt động này, mỗi cá thể hình thành và phát triển năng lực, tính tình, đạo
đức của mình. Nói một cách khác, bằng hoạt động và trong hoạt động, mỗi cá
thể người tự tạo ra mình, tự tạo ra nhân cách của mình.
Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa mình và thế
giới chung quanh, thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Trong sự tác động này ở
con người sẽ diễn ra hai quá trình, đó là quá trình khách thể hoá và quá trình
chủ thể hoá. Có thể giải thích rằng trong hoạt động, nghĩa là trong quan hệ giữa
con người và thế giới bên ngoài, con người vừa thay đổi thế giới bên ngoài vừa
thay đổi bản thân mình, con người vừa tạo ra sản phẩm lao động, vừa tạo ra
nhân cách bản thân.
Giao tiếp và tâm lí.
Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa người và người nhằm trao đổi thông
tin, tình cảm, ý chí, nguyện vọng, nhận thức... để hiểu biết lẫn nhau. Giao tiếp
làm hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này và chủ thể khác.
Giao tiếp có một số chức năng và có thể chia các chức năng này thành
hai nhóm. Nhóm thứ nhất có chức năng thuần tuý xã hội và nhóm thứ hai có
chức năng tâm lí xã hội. Nhóm chức năng thứ nhất gồm các chức năng giao tiếp
phục vụ các nhu cầu chung của con người. Trong trường hợp này giao tiếp thực
hiện chức năng thông tin, tổ chức, điều khiển, động viên, phối hợp hành động.
Nhóm chức năng thứ hai gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của
từng thành viên của xã hội, thực hiện nhu cầu có quan hệ giữa bản thân và
người khác.
Nhờ giao tiếp giữa các thế hệ, giữa nhóm này và nhóm kia, cũng như nhờ
hoạt động vui chơi, lao động, học tập, nghỉ ngơi... mà tâm lí người được nảy
sinh và phát triển. Cùng với hoạt động, giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình
thành và phát triển tâm lí người.
Có thể nói rằng tâm lí người là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, tâm lí
người là kinh nghiệm của xã hội chuyển thành kinh nghiệm của bản thân thông
qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò quan trọng. Hoạt động
và giao tiếp, mối quan hệ giữa chúng là quy luật tổng quát hình thành và biểu lộ
tâm lí người.
3.2. Bản chất của tâm lí người
Tìm hiểu bản chất của tâm lí người nghĩa là tìm cách hiểu rõ thực chất
tình cảm, nhận thức, ý chí, nguyện vọng, tâm tư... của con người là gì? Tại sao
người ta lại thích điều này mà không thích điều kia, yêu người này khinh bỉ
người khác...! Việc nghiên cứu bản chất của tâm lí người có ý nghĩa quan trọng
đối với việc lí giải các hiện tượng bất thường trong đời sống tinh thần và mang
lại giá trị thực tiễn rất lớn trong công tác giáo dục của xã hội. Bản chất của tâm lí
người thể hiện ở các vấn đề sau đây:
3.2.1. Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người
thông qua chủ thể. Một trong những cơ sở tự nhiên của tâm lí người là não và
hoạt động của não. Trên cơ sở tiếp nhận các kích thích từ môi trường xung
quanh, hoạt động của não sẽ là cơ sở hình thành những đặc điểm tâm lí của
chủ thể.
Các hiện tượng khách quan được phản ánh thông qua lăng kính chủ quan
của con người. Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hoá
lẫn nhau, từ phản ánh cơ, vật lí hoá đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội,
trong đó có phản ánh tâm lí. Phản ánh được hiểu là sự tác động từ hệ thống này
lên hệ thống kia và để lại những dấu vết nhất định ở cả hai hệ thống đó. Phản
ánh tâm lí chính là sự tác động từ hệ thống thứ nhất là hiện thực khách quan
đến hệ thống thứ hai là con ngươi với tư cách là một chủ thể. Như vậy, những
dấu vết của sự phản ánh là kết quả của sự tương tác giữa hai hệ thống, trong
đó con người với tư cách là hệ thống thứ nhất tiếp nhận các kích thích từ môi
trường, tạo ra hình ảnh tâm lí và rồi chính hình ảnh ấy trở thành một tác nhân
mới tác động đến môi trường thông qua các hình thức tồn tại của chính họ.
Những hiện tượng tâm lí của con người là kết quả của quá trình kích thích, tiếp
nhận và phản ứng của chủ thể, tâm lí của con người không phải đã được định
sắn, không phải đã được "lập trình" từ lúc thiếu thời và chỉ có biểu lộ trung thành
với chương trình đó. Con người phải tham gia tích cực vào thế giới xung quanh
thì mới có thể có những phản ánh tâm lí mới có đời sống tâm lí sinh động và tích
cực.
Phản ánh tâm lí tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới. Hình ảnh tâm lí mang
tính sinh động, sáng tạo chứ không phải là sự sao chụp như hình ảnh vật lí.
Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân mang hình ảnh
tâm lí đó bởi vì khi phản ánh, con người đã bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan
rất lớn. Những yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến kết quả phản ánh (hay hình ảnh
phán ánh) có thể là: hoàn cảnh khác nhau, trình độ, giới tính, kinh nghiệm, mục
tiêu, phương pháp, văn hoá, điều kiện, môi trường... Trên cơ sở những phân
tích trên đây, cần lưu ý một số vấn đề có tính phương pháp luận khi nghiên cứu
và vận dụng tâm lí học trong thực tiễn cuộc sống.
Tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu cũng
như khi giáo dục, thay đổi tâm lí người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con
người sống và phát triển. Tâm lí của con người không bao giờ tách rời điều kiện
sống, sinh hoạt và sự thích ứng của từng người. Cần chú ý đến quan điểm lịch
sử - cụ thể trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tâm lí người để tránh sự áp đặt
vô tình hoặc thiếu khách quan.
Tâm lí người mang tính chủ thể và có tính chủ quan, vì thế cần chú ý đến
cái riêng trong tâm lí mỗi người. Mỗi người là một thế giới độc đáo, không ai
giống ai về đời sống tinh thần, do đó không thể và sẽ không bao giờ có thể làm
người khác hoàn toàn giống một ai đó mà chỉ có thể tìm cách làm cho suy nghĩ,
tình cảm, thái độ của họ phù hợp với chuẩn mực nào đó thôi. Sẽ không thể có
một con người nào là bản sao của người khác (mặc dù đã có sản phẩm của
sinh sản vô tính). Trong thực tiễn cần chú ý đến việc chấp nhận sự khác biệt
giữa các chủ thể để hoà hợp, hợp tác và chung sống để cả hai bên đều có lợi.
Trong hoạt động và sinh hoạt, việc chấp nhận giới hạn của mình và chấp nhận
người khác, tôn trọng những điều không giống với nhận thức hoặc tình cảm của
mình là một trong các phẩm chất cần thiết để chứng minh giá trị của cá nhân, để
có thể vượt qua sự thấp kém của mỗi người.
Tâm lí người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì vậy phải tổ chức
hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu hình thành và phát triển tâm lí
người. Tuy nhiên, tổ chức hoạt động và giao tiếp phải tôn trọng các nguyên tắc
ứng xử mang tính chất văn hoá và phù hợp với yêu cầu nền văn minh.
3.2.2. Tâm lí người có bản chất xã hội, bị ảnh hưởng và quy định bởi các
mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ giữa người với người. Bản chất xã
hội của tâm lí người được thể hiện ở những vấn đề sau đây:
- Tâm lí người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người đã biến thành
của riêng từng người. Nhờ có giao lưu giữa những người trong gia đình, bè ban,
tập thể, làng xã và rộng hơn nữa, mỗi hiện tượng tâm lí nảy sinh ra trong “đầu
óc” mỗi cá nhân sẽ không "nằm yên" ở đó mà thông qua trao đổi, tiếp xúc, chia
vui sẻ buồn, bắt chước... sẽ lây lan, ảnh hưởng đến nhiều người khác, chuyển
thành hiện tượng tâm lí chung của nhiều người. Chính những hiện tượng tâm lí
như vậy một khi đã hình thành có thể trở thành một sức mạnh vật chất to lớn,
làm biến đổi cả tự nhiên và xã hội. Sau khi được sinh ra, con người sống trong
môi trường xã hội và dưới ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần ở thời điểm đó sẽ hình thành bản chất xã hội của con người. Điều
làm cho con người vượt trội các loài vật là họ có thể tự rèn luyện mình, có thể
tiếp nhận sự giáo dục và tự giáo đục.
- Tâm lí người chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triển của xã hội, bị ảnh
hưởng bởi sự thay đổi của các thiết chế xã hội, chế độ xã hội. Sự ảnh hưởng
này được nhận thấy qua biểu hiện của hành vi ứng xử của con người với thế
giới chung quanh. Nhận thức, tình cảm của con người không bị giới hạn khi con
người tiếp cận với các nền văn minh khác nhau, tiếp cận các giá trị văn hoá
khác nhau...
- Tâm lí người chịu ảnh hưởng bởi các biến cố của xã hội và của cá nhân,
những biến cố này có thể làm thay đổi cấu trúc và cả chức năng tâm - sinh lí của
con người, có thể làm con người biến thành một người hoàn toàn khác, một
người tự "lột xác" mình.
3.3. Tinh chất của các hiện tượng tâm lí người
Có thể căn cứ vào nhiều yếu tố để nhận dạng các hiện tượng tâm lí
người, trong đó có các tính chất của nó. Những tính chất này sẽ làm sáng rõ
hơn về bản chất của tâm lí, làm nổi bật hơn sắc màu của đời sống tinh thần của
con người trong các hoàn cảnh và môi trường khác nhau.
Những hiện tượng tâm lí người có một số tính chất sau đây:
- Những hiện tượng tâm lí người là những hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh
thần, thuộc về tâm hồn và luôn bộc lộ ra ngoài bằng hành vi, hành động... Mọi
diễn biến tâm lí của con người đều có thể biểu hiện thông qua hoạt động và
những phản ứng khác của các chủ thể. Thông thường, nhìn nét mặt, quan sát
hành động của ai đó, người ta có thể dự đoán, phát hiện được tâm trạng, cảm
xúc hoặc các diễn biến tâm lí khác của con người trong một thời điểm nhất định
nào đó. Một số trường phái, đặc biệt là các nhà hành vi học đã có nhiều nghiên
cứu cho thấy có thể dự đoán tâm hồn, tinh thần của con người thông qua cách
thức họ hành xử, thông qua những phản ứng tự nhiên, vô thức. Quan sát là một
trong những phương pháp nghiên cứu tâm lí người có hiệu quả từ chính đặc
điểm này.
- Những hiện tượng tâm lí người bị chi phối bởi một số quy luật nhất định,
những quy luật này ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người. Sự hình
thành các đặc điểm tâm lí của con người không phải hoàn toàn ngẫu nhiên hoặc
tự nhiên mà theo những thói quen, những hình thức mang tính quy luật. Những
quy luật tâm lí này có nguồn gốc từ quá trình thích ứng của chủ thể dưới tác
động của môi trường văn hoá, của phong tục tập quán hoặc của một kho tàng
kinh nghiệm nào đó.
- Những hiện tượng tâm lí người vừa có tính cá biệt vừa có tính khái quát,
điển hình. Tính cá biệt thể hiện ở chỗ, các cá nhân hoặc những chủ thể cố định
có khuynh hướng hình thành và bộc lộ các đặc điểm tâm lí phản ánh sự độc đáo
của chính mình, sự riêng biệt của mình. Tính khái quát, điển hình được thể hiện
ở các dấu hiệu đặc trưng của cộng đồng được bộc lộ thông qua các hành vi cá
nhân mà người đó là thành viên của cộng đồng. Tính khái quát có thể nói lên
những phong cách sống đặc trưng, những phương cách thích ứng đặc trưng
của một địa bàn dân cư, của một tầng lớp nào đó. Chính đặc điểm này giúp quá
trình đánh giá, nhận xét cũng như ứng xử với người xung quanh có căn cứ để
có thể đạt hiệu quả cao nhất khi con người biết được, hiểu được những nét đặc
trưng của các đối tác.
- Những hiện tượng tâm lí người có sức mạnh thần kì, có thể tạo nên nội
lực mạnh mẽ. Chính sức mạnh này có thể làm chủ thể có những hành vi bất
thường hoặc phi thường. Người ta có thể "biến đau thương thành sức mạnh"
hoặc "dời non lấp bể" nếu họ nhận thức vấn đề rõ ràng và có một tình cảm
mạnh mẽ. Trong dân gian có câu: "Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng
lội, mây đèo cũng qua" như một khẳng định cho sức mạnh của tình yêu đôi lứa,
sức mạnh của đời sống tâm lí, của tâm hồn.
- Những hiện tượng tâm lí người rất phong phú, đa dạng và cũng hết sức
phức tạp. Con người không phải bao giờ cũng thể hiện tất cả điều mình nghĩ,
điều mình muốn mà họ có thể dùng các động tác giả có khi vô tình hoặc có lúc
đầy toan tính để thể hiện một nhu cầu, một nguyện vọng hay một ý chí nào đó.
Hiện tượng "bằng mặt mà không bằng lòng" là một dấu hiệu cụ thể của sự phức
tạp trong ứng xử, trong đánh giá con người. Mặt khác, những biểu hiện tâm lí,
những quá trình tinh thần diễn ra ở con người có thể ở nhiều khía cạnh rất khác
nhau, một niềm vui, nỗi buồn có thể được diễn tả ở nhiều góc độ khác nhau với
các tính chất khác nhau.
- Có sự tác động qua lại lẫn nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau trong một
sự liên hệ rất mật thiết. Những hiện tượng tâm lí chi phối lẫn nhau, sinh thành ra
nhau, chế ước nhau và hỗ trợ cho nhau. Một hành ví nào đó chưa chắc đã phản
ánh chính xác tâm lí của một chủ thể dù những quan sát cho thấy những biểu
hiện rất rõ ràng, trong quá trình nhận xét, đánh giá con người cần lưu ý đến tính
thống nhất giữa các hiện tượng tâm lí. Trong thực tiễn, không có bất kì niềm vui
hoặc nỗi buồn nào xuất hiện một cách vô cớ mà luôn có những nguyên nhân
nhất định.
- Những hiện tượng tâm lí người vừa có tính tích cực vừa có tính bảo thủ.
Sự tích cực hay bảo thủ sẽ tuỳ thuộc vào cách thức con người tiếp cận và vận
dụng nó trong hoạt động thực tiễn và thực tế cuộc sống. Nếu biết phát huy thế
mạnh tiềm tàng của hiện tượng tâm lí thì chính nó sẽ trở thành tác nhân tích cực
kích thích hoạt động mạnh mẽ của con người và ngược lại.
3.4. Phân loại các hiện tượng tâm lí người
Có nhiều cách phân loại khác nhau đối với các hiện tượng tâm lí người:
- Phân biệt hiện tượng tâm lí cá nhân và hiện tượng tâm lí xã hội.
- Phân biệt hiện tượng tâm lí sống động và hiện tượng tâm lí tiềm tàng.
- Phân biệt về phương diện chức năng, vận động, quá trình, với phương
diện một cấu tạo, một "sản phẩm". Ví dụ như sự suy nghĩ là một quá trình, một
chức năng tâm lí...
- Phân biệt hiện tượng tâm lí có ý thức và hiện tượng tâm lí chưa ý thức
được, những hiện tượng vô thức.
- Phân biệt các hiện tượng tâm lí theo thời gian tồn tại và vị trí tương đối
của chúng trong nhân cách. Phân biệt các quá trình tâm lí; các trạng thái tâm lí
và các thuộc tính tâm lí.
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍ HỌCPhương pháp của mỗi khoa học phụ thuộc vào đối tượng của nó, tức là
vào cái mà nó nghiên cứu. Những phương pháp của tâm lí học là những cách
thức thu thập và vạch rõ những sự kiện tâm lí, sự hình thành nhân cách, các
quy luật và cơ chế của chúng. Sau đây là một số phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu cơ bản:
4.1. Những vấn đề phương pháp luận
4.1.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Con người là một chỉnh thể, quan hệ giữa con người với thế giới xung
quanh rất đa dạng và phức tạp, con người là một hệ thống tương đối hoàn chỉnh
có khả năng tự điều chỉnh và điều khiển chính mình. Nghiên cứu các hiện tượng
tâm lí của con người sẽ phải được tiến hành trong quan hệ đa chiều với những
hệ thống phức tạp tạo ra thế giới của con người, thế giới loài người..
Aphannaxev nhận định: "Con người là một tồn tại xã hội thành tố chính của bất
cứ một hệ thống xã hội nào. Theo chừng mực nào đó, con người là đại biểu chủ
chốt cuối cùng của các đặc điểm hệ thống xã hội."... (theo B.Ph. Lomov). Cá
nhân là một thành tố quan trọng trong rất nhiều tiểu hệ thống của xã hội và có
mặt trong nhiều hướng phát triển của nó, trong đó có nhiều hình thức khác
nhau. Khi xem xét, nghiên cứu tâm lí người, nhà nghiên cứu cần đặt khách thể
nghiên cứu trong một hệ thống nhất định, trong một chuỗi các hệ thống... để có
cơ hội phát hiện được bản chất thật của vấn đề... Theo B.Ph. Lomov, tiếp cận
hệ thống trong nghiên cứu một hiện tượng nào đó phải được xem xét ở nhiều
bình diện:
- Hiện tượng tâm lí được xem như một đơn vị có chất lượng, một hệ
thống có những quy luật đặc trưng.
- Một bộ phận của những cấu trúc vĩ mô có những quy luật mà hiện tượng
tâm lí phải tuân theo.
- Ở phương diện hệ thống vi mô cũng có những quy luật mà hiện tượng
tâm lí phải tuân theo.
- Ở phương diện tương tác với bên ngoài của nó, nghĩa là cùng với điều
kiện tồn tại của các hiện tượng tâm lí được nghiên cứu,
4.1.2. Phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách
Theo cách tiếp cận hoạt động, việc nghiên cứu tâm lí phải dựa trên các
nguyên tắc phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và lịch sử. Con
người là chủ thể của hoạt động, và các thuộc tính nhân cách của con người
cũng như các chức năng tâm sinh lí như các cấu tạo tâm lí mới giữ vai trò định
hướng và điều khiển điều chỉnh hoạt động. Theo tác giả Phạm Minh Hạc, cách
tiếp cận hoạt động - nhân cách có những ý nghĩa sâu sắc:
Khẳng định hoạt động là bản thể của tâm lí, ý thức, nghĩa là tâm lí, ý thức
nảy sinh từ hoạt động. Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lí học người.
Sự phát triển phức tạp và các chuyển hoá của hoạt động con người kéo theo sự
phát triển phức tạp và chuyển hoá tâm lí người.
Phản ánh tâm lí không tách rời hoạt động. Hoạt động vừa tạo ra tâm lí
vừa sử dụng các phản ánh tâm lí làm khâu trung gian của hoạt động, tác động
vào đối tượng.
- Tất cả các chức năng tâm sinh lí, các quá trình và thuộc tính tâm lí trong
đó có ý thức và nhân cách đều được nghiên cứu như là các hoạt động, nghĩa là
đặt hiện tượng được nghiên cứu vào cấu trúc tâm lí vĩ mô của hoạt động đó.
- Ở cấp hoạt động, con người không còn là một "cá thể người), con người
thực hiện các hoạt động, thực hiện các thao tác để làm một hành động nhằm đạt
được mục đích cụ thể nào đó.
Phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách là phương pháp tương
đồng với nội dung của thế giới tâm lí. Nó nghiên cứu tâm lí như là tính chủ thể
của nhân cách được quy định một cách khách quan, tức nảy sinh bằng hoạt
động có đối tượng, bằng giao tiếp.
4.2. Những phương pháp cụ thể
4.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát là quá trình tri giác có chủ định, là quá trình theo dõi, thu thập
dấu hiệu của hành động và cả hành động và hoạt động của đối tượng trong điều
kiện tự nhiên để phán đoán, nhận xét về cái "tâm lí" đã điều khiển chúng để từ
đó tổng kết được các quy luật, cơ chế... vận hành: Quan sát phải được tiến
hành trong điều kiện khách quan và kết quả quan sát tuỳ thuộc vào mục tiêu của
nhà nghiên cứu. Sau đây là một số điều kiện giúp cho quá trình quan sát có chất
lượng:
- Nghiệm thể (đối tượng được quan sát) không được biết người khác
đang quan sát mình thì những biểu hiện quan sát được mới có tính chất trung
thực, nghĩa là việc quan sát được tiến hành một cách tự nhiên, không được sắp
đặt hoặc dàn cảnh, không thông báo trước cho các nghiệm thể.
- Nếu có nhiều người cùng quan sát và có tính chất độc lập với nhau thì
nên thống nhất về mục đích và cách thức ghi nhận thông tin. Sự thống nhất này
giúp cho các nhà quan sát có điều kiện đưa ra được các kết luận tương đồng và
nhất quán. Các nhà quan sát cũng nên thống nhất về những nội dung cần quan
sát để có thể có những kết luận cuối cùng hợp lí.
- Lúc chưa thuận tiện thì nên quan sát theo một khía cạnh được lựa chọn
nào đó mà thôi trước khi tiến đến quan sát toàn diện.
Phương pháp quan sát là một phương pháp khó có thể thay thế để sơ bộ
thu thập sự kiện, và đòi hỏi nhiều thời gian, công sức. Tuy nhiên bằng quan sát,
chúng ta chỉ nhìn thấy những gì chúng ta đã biết, chứ không thể "nhìn thấy" cái
chưa biết được, cái không thể tri giác được.
4.2.2. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là phương pháp có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu tâm lí.
Thực nghiệm là quá trình chủ động tác động vào hiện thực trong những điều
kiện khách quan đã được khống chế để gây ra hiện tượng cần nghiên cứu, lặp
đi lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra một quan hệ nhân quả, tính quy luật của hiện
tượng nghiên cứu. Phương pháp thực nghiệm có nhiều giá trị trong việc khẳng
định một giả thuyết khi các nghiệm thể thực hiện các yêu cầu trong hoàn cảnh
rất khách quan.
Người ta thường sử dụng hai loại thực nghiệm:
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành dưới điều kiện
khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài để làm nảy sinh
một nội dung tâm lí cần nghiên cứu. Các nhà du hành vũ trụ trước khi được
tuyển chọn để được đào tạo trở thành phi công, họ phải trải qua kì sách hạch
thực tế thông qua những thực nghiệm trong phòng thí nghiệm để đo các thông
số sinh học, tâm lí... theo yêu cầu của một nhà du hành.
Thực nghiệm tự nhiên
Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện bình thường của
cuộc sống và hoạt động. Trong quá trình thực nghiệm, nhà nghiên cứu có thể
chủ động tạo ra những biểu hiện và diễn biến tâm lí bằng cách khống chế một
số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu làm nổi bật những yếu tố quan
trọng cho việc nghiên cứu.
Tuỳ theo mục đích và nhiệm vụ mà có thể phân biệt thực nghiệm tự nhiên
là thực nghiệm nhận định hay thực nghiệm hình thành:
- Thực nghiệm nhận định hay thực nghiệm mô tả chủ yếu nêu lên thực
trạng của vấn đề nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể. Thông qua thực nghiệm
này, nhà nghiên cứu sẽ có số liệu cần thiết để mô tả một sự kiện hay một vấn đề
nào đó một cách có căn cứ và có độ tin cậy cao.
- Thực nghiệm hình thành là tiến hành các tác động nhằm hình thành một
tính chất tâm lí nào đó ở nghiệm thể. Thực nghiệm hình thành thường được sử
dụng để chứng minh tính khả thi của một biện pháp tâm lí, một hình thức nào đó
có thể hiện những đặc điểm tâm lí cụ thể.
4.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm lao động
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm lao động dựa vào các sản phẩm vật
chất và tinh thần của đối tượng để nghiên cứu các chức năng tâm lí của họ vì
trong sản phẩm ấy chứa đựng một số dấu vết tâm lí, nhân cách của chính đối
tượng. Sản phẩm lao động là kết quả của quá trình vận động, hoạt động của
chủ thể, thông qua sản phẩm này, nhà nghiên cứu sẽ phát hiện được những đặc
điểm tâm lí phổ biến hoặc chủ yếu của họ vì các đặc điểm tâm lí được hình
thành và thể hiện qua và bằng hoạt động.
4.2.4. Phương pháp trắc nghiệm
Trắc nghiệm là một phép thử để "đo lường" tâm lí mà trước đó đã được
tiêu chuẩn hoá trên một số lượng người có tính chất tiêu biểu. Một phép kiểm tra
trắc nghiệm tâm lí, hay còn gọi là test, trọn bộ thường có 4 phần là văn bản test,
hướng dẫn cách thức và các bước tiến hành, hướng dẫn đánh giá và bảng
chuẩn hoá.
Những test thông dụng trên thế giới, nhiều nhất là về lĩnh vực nhận thức,
nhờ một quá trình xây dựng công phu và có tính khoa học, đã được quy trình
hoá chặt chẽ nên nếu sử dụng đúng có thể giúp chúng tá phân loại được những
vấn đề cần thiết trong nghiên cứu và ứng dụng.
4.2.5. Phương pháp đàm thoại
Đó là cách đặt những câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để
thu thập thêm những thông tin cần thiết. Việc tiến hành các cuộc đàm thoại sẽ
giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu được nhiều thông tin xác thực và có độ tin cậy
cao nhưng cần phải có kĩ thuật nhất định. Quá trình đàm thoại sẽ có nhiều giá trị
khi nó được tiến hành trong những trạng thái tâm lí phù hợp của nghiệm thể với
các yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng cần chuẩn bị trước các
nội dung cần tìm hiểu, cần trò chuyện và những phương án thay thế,
4.2.6. Phương pháp điều tra
Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối
tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một số vấn đề nào
đó, có thể trả lời viết hay trả lời miệng và được ghi lại. Phương pháp điều tra
được phát huy nhiều trong trường hợp thăm dò nhận thức, thái độ chung của
cộng đồng đối với một vấn đề nào đó.
Tóm lại, có khá nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lí người, mỗi phương
pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Để có thể nghiên cứu các
chức năng tâm lí một cách khoa học, chúng ta cần sử dụng nhiều phương pháp
trong sự kết hợp đồng bộ và phù hợp với những điều kiện cụ thể.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động tìm tòi, khám phá bản chất và các
quy luật vận động của thế giới, quá trình này được tổ chức hết sức chặt chẽ và
phải chọn lọc sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp. Phương pháp
gắn liền với hoạt động trong ý thức của con người là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người
những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người những hiểu
biết về phương pháp nhận thức. Ngày nay, cùng với khoa học, người ta chú ý
khá nhiều đến phương pháp luận khoa học trong nghiên cứu. Phương pháp
luận được xem như một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể
xác định con đường và phạm vi nghiên cứu.
Tâm lí học là một khoa học thực chứng. Nghiên cứu Tâm lí học đòi hỏi
phải có sự tích luỹ thật nhiều sự kiện phong phú, đa dạng để từ đó hệ thống
hoá, khái quát hoá các quy luật chung trong rất nhiều trường hợp. Có thể nói
thực tiễn hoạt động có một giá trị quyết định đến kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên,
giải thích các sự kiện xã hội bao giờ cũng phải tuân theo một quan điểm nhất
quán, đặc biệt người nghiên cứu phải lưu ý đến những vấn đề của Triết học.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu Tâm lí học nói riêng
và khoa học xã hội nói chung, trong đó có cách tiếp cận giá trị và quan điểm
thực tiễn, theo chúng tôi, có tính phổ biến tương đối trong tương quan với kết
quả.
Giá trị, hiểu theo nghĩa khách thể là những hiện tượng nhất định của hiện
thực có ý nghĩa đối với con người, đối với xã hội và với nền văn hoá. Tất cả các
đối tượng của hoạt động, các mối quan hệ xã hội, những hiện tượng tự nhiên...
đều có thể trở thành những đối tượng của quan hệ giá trị nghĩa là đều được
đánh giá thật hay giả, đẹp hay xấu, thiện hay ác... Phương thức và tiêu chuẩn
để tiến hành việc đánh giá các hiện tượng xã hội được củng cố trong các hành
vi xã hội, trong văn hoá, trong ý thức cá nhân con người và đó là những giá trị
chủ quan, đóng vai trò định hướng hành động con người.
Giá trị khách thể và giá trị chủ quan là hai cực của quan hệ giá trị và luôn
hướng tới sự thống nhất với nhau.
Nghiên cứu, phát hiện những hiện tượng xã hội theo cách tiếp cận giá trị
là hướng tới ý nghĩa đích thực của những hiện tượng ấy trong quan hệ biện
chứng giữa giá trị chủ quan và giá trị khách thể. Các sự kiện, hiện tượng được
phơi bày và được các nhóm xã hội nhận thức, đánh giá theo những chuẩn giá trị
có bản chất xã hội. Một khi giá trị đã được xác lập, nó phải được tôn trọng và
được phán xét đúng mức. Giá trị khẳng định tư cách tồn tại của các hiện tượng
xã hội, nó phản ánh xu thế xã hội và một phần tâm trạng, ước muốn, nguyện
vọng, tư tưởng... của các chủ thể xác lập giá trị.
Tiếp cận giá trị hướng chủ thể quan tâm đến sự xuất hiện, hình thành tự
nhiên của một hiện tượng xã hội như những hiện tượng không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan hay những tác động, những áp lực từ các giá trị nhận thức, giá
trị được thừa nhận. Giá trị thật và giá trị thừa nhận trùng hợp nhau là điều lí
tưởng, nhưng quan trọng hơn là phải hết sức cẩn thận đối diện với những giá trị
hư ảo lại được thừa nhận. Giá trị hư ảo được thừa nhận làm con người có thể
trở nên phi thực tế, ảo tưởng và không hiểu rõ được mình, không nhận rõ được
giá trị thực của mình.
Tiếp cận giá trị trong nghiên cứu Tâm lí học, trong nghiên cứu Khoa học
xã hội là tôn trọng sự thật của vấn đề, tôn trọng tính khách quan của quá trình
hình thành, phát triển của các hiện tượng xã hội. Điều này cho thấy, thực tế, có
những sự thật không tương thích với ý chí và kì vọng của chủ thể nhưng nó vẫn
cứ có giá trị nhất định. Tôn trọng sự thật, không cường điệu, không đơn giản
vấn đề sẽ là một điều kiện hữu ích cho việc nghiên cứu bản chất của vấn đề tìm
cách định hướng giá trị phù hợp.
Tiếp cận giá trị trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học xã hội là chú ý
tương quan của các chuẩn mực xã hội, đặt đối tượng nghiên cứu trong một tổng
thể với giá trị thực của hệ thống. Tiếp cận giá trị cũng bộc lộ tính khách quan
nghiên cứu khoa học, thừa nhận các giá trị thật, không chấp nhận các giá trị hư
ảo.
Mặc khác giá trị của một con người, một sự kiện hay hiện tượng xã hội
bao giờ cũng được thực tiễn xác minh. Tương quan này giúp chủ thể lưu ý đến
nguyên tắc thực tiễn trong quá trình nghiên cứu Khoa học xã hội.
Diễn biến của hiện thực là những diễn biến khách quan, với những sự
kiện đa dạng, phức tạp, có thể phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn là động lực thúc đẩy các
hoạt động nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học thực chất là hướng tới sự khai phá các sự kiện để
phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người. Điều này thể hiện ở chỗ mọi đề
tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát từ thực tiễn và công
trình nghiên cứu phải có ý nghĩa thực tiễn. Thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là
động lực, vừa là mục.tiêu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu
khoa học, đặc biệt là Tâm lí học, hoặc Khoa học xã hội.
Bảo đảm nguyên tắc thực tiễn trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học
xã hội là phải phân tích, chứng minh những mâu thuẫn, những giá trị thực của
vấn đề trong thực tiễn sinh động. Nghiên cứu khoa học phải thể hiện được sự
gắn bó song hành giữa lí thuyết và hiện thực, phải loại bỏ những giá trị hư ảo ở
chủ thể nghiên cứu.
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học xã hội, dù chỉ là các khái niệm, hay
các mô hình nào đó nhưng luôn hướng tới một quy trình hoạt động, một quá
trình vận động chủ quan của xã hội. Giá trị của sản phẩm sẽ tuỳ thuộc vào tính
ứng dụng, tính khả thi của nó. Kết quả nghiên cứu của khoa học xã hội không
thể đo được một cách cụ thể như Vật lí học nhưng có thể xác định được dễ
dàng thông qua một số phương pháp phù hợp. Nhiều công trình nghiên cứu
khoa học xã hội được tiến hành rất công phu, độ tin cậy rất cao nhưng không có
ý nghĩa hoặc vô giá trị vì được hoàn chỉnh một cách lí thuyết, minh hoạ cho
nhận thức của con người mà không tạo được một cơ hội để thực hành.
Xác định nhu cầu của thực tiễn là một yêu cầu của nguyên tắc thực tiễn
trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học xã hội. Tuy nhiên, việc xác định nhu
cầu của thực tiễn không phải đơn giản như xác định nhu cầu của bản thân
(thậm chí nhu cầu của bản thân nhiều lúc cũng không thể xác định được một
cách chính xác) mà là kết quả của một quá trình tìm tòi, đối chiếu. Những vấn đề
cần được nghiên cứu có phải là điều hệ trọng, là đòi hỏi của cuộc sống sinh
động hay chỉ là những mặt nổi của thực tế trong nhận thức chủ quan của chủ
thể. Nghiên cứu Tâm lí học để hướng tới một sự thay đổi hành vi thích hợp
trong tính đa dạng của hiện thực, hướng tới một sự thích ứng chủ động làm cho
cuộc sống xã hội ngày càng sinh động và hiệu quả là một quá trình nghiên cứu
mang tính thực tiễn cao. Nghiên cứu Tâm lí học để giải quyết những bế tắc của
tâm hồn, giúp con người vượt qua các trở ngại tinh thần, bộc lộ giá trị thật của
mình, đóng góp công sức cho sự phát triển của bản thân và cộng đồng là một
quá trình nghiên cứu triển vọng và có tính thuyết phục đối với yêu cầu chung
của xã hội.
Trong nghiên cứu, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy định khoa học của quá
trình nghiên cứu, đặc biệt là vấn đề thử nghiệm, mở rộng thử nghiệm, nâng cao
trình độ sử dụng phương pháp và phương tiện nghiên cứu để bảo đảm tính
khoa học của các kết luận và tính hiệu lực của các biện pháp.
Giá trị và thực tiễn là hai vấn đề phụ thuộc nhau. Thực tiễn chứng minh
giá trị và ngược lại, giá trị thể hiện trong thực tiễn và làm phong phú thực tiễn.
Kết hợp hai khuynh hướng ấy trong nghiên cứu Tâm lí học và Khoa học xã hội
sẽ rất có ý nghĩa và dĩ nhiên, kết quả cũng rất có giá trị.
Công trình nghiên cứu nào cũng sẽ được thực tiễn kiểm nghiệm và đánh
giá chính xác giá trị của nó. Xuyên suốt quan điểm giá trị và thực tiễn là điều
kiện để có thể đạt kết quả cao trong nghiên cứu, thể hiện tính ứng dụng thực sự
từ những vấn đề có tính lí luận sâu sắc.
TÓM LƯỢC CHƯƠNG 1Tâm lí học là một khoa học nghiên cứu về đời sống tinh thần của con
người, nghiên cứu về tâm hồn con người. Tâm lí học là một bộ môn khoa học có
tính chất ứng dụng rất rõ ràng. Những hiện tượng tâm lí của con người luôn
được bộc lộ ra ngoài bằng hành vi, hoạt động... Tâm lí người được hình thành
và phát triển trong hoạt động.
Tâm lí người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội, tâm lí người
cũng mang bản chất xã hội.
Tuỳ theo đối tượng và điều kiện mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu tâm lí thích hợp.
Chương 2: "HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC"Sống và hoạt động trong thế giới khách quan, con ngươi phải nhận thức,
bày tỏ thái độ và hành động với thế giới ấy. Nhận thức, tình cảm và hành động
là ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người.
Trong quá trình hoạt động, sự nhận thức, phản ánh hiện thực khách quan,
những hình ảnh tâm lí sẽ giúp con người hiểu biết hiện thực xung quanh, hiểu
biết chính mình một cách sâu sắc nhất. Những hiểu biết này sẽ là một nền tảng
vững chắc cho việc sống cùng nhau trong cộng đồng và cũng sẽ là cơ sở để
con người biểu lộ tình cảm cũng như kiểm nghiệm tình cảm của mình trước
thực tại nói chung, trước người khác nói riêng. Với sự hiểu biết và tình cảm đã
có, con người sẽ có đủ hành trang để tiến hành các hoạt động có mục đích
nhằm mang lại một chất lượng mới cho cuộc sống của chính mình và của cộng
đồng. Chương này sẽ trình bày các quá trình nhận thức của con người, các điều
kiện cần thiết và thích hợp để con người có thể nhận thức chính xác. Những
chương tiếp sau sẽ trình bày đến đời sống tình cảm của con người, đến những
quy luật chung của tình cảm và những biểu hiện đặc biệt của nó. Cuối cùng sẽ
trình bày về những nỗ lực tiến hành hoạt động của con người trong những hoàn
cảnh khác nhau.
1. NHẬN THỨC CẢM TÍNHCảm tính nghĩa là chỉ "cảm" mà thôi, chỉ lướt qua những dấu hiệu bên
ngoài mà chưa tìm hiểu những cội nguồn bên trong. Nhận thức cảm tính là quá
trình phản ánh các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện
tượng đó đang tác động vào các cơ quan thụ cảm của con người. Nhận thức là
một quá trình được xảy ra từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ mơ hồ
đến sâu sắc...
1.1. Cảm giác
1.1.1. Khái niệm
Mỗi sự vật, hiện tượng xung quanh đều được bộc lộ bởi hàng loạt các tính
chất bề ngoài như màu sắc, kích thước, hình dáng, trọng lượng... Những tính
chất đó được liên hệ với bộ não con người là nhờ cảm giác. Những tính chất
này tác động vào từng giác quan của chúng ta cho ta những cảm giác cụ thể.
Thông qua các cơ quan cảm giác, con người nhận được những thông tin hoàn
toàn khác hẳn về các hiện tượng của môi trường bên trong và bên ngoài con
người.
Có thể nhận thấy rằng cảm giác là hình thức đầu tiên mà qua đó mối liên
hệ tâm lí của cơ thể với môi trường được thiết lập. Cảm giác là mức độ phản
ánh đầu tiên, thấp nhất của con người nói chung và của hoạt động nhận thức
nói riêng.
Cảm giác là quá trình tâm lí đơn giản nhất phản ánh những thuộc tính
riêng lẻ, bên ngoài của các vật thể và các trạng thái bên trong cơ thể được nảy
sinh do sự tác động trực tiếp của các kích thích bằng vật chất lên các cơ quan
thụ cảm của con người.
Sự phản ánh trực tiếp bằng giác quan về các đặc tính khách quan của vật
thể và hiện tượng của thế giới xung quanh cho phép con người giải quyết nhiều
nhiệm vụ thuộc về nhận thức. Cảm giác có những vai trò quan trọng sau:
- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người trong hiện
thực khách quan. Nếu không có cảm giác, con người không thể biết mình đang
ở đâu, đang tiếp xúc với cái gì, đang đối diện với tình trạng nào... do đó, họ
không thể biết cách thích ứng như thế nào với thực tại. Nhờ có cảm giác, con
người biết mình đang tồn tại, đang tiếp xúc với thế giới xung quanh.
- Cảm giác là nguồn cung cấp các điều kiện cho những hình thức nhận
thức cao hơn, cảm giác là nguồn gốc của hiểu biết. Có nhận biết được các kích
thích dù rất bé, con người mới biết được điều gì đó lớn hơn, nhiều hơn.
- Cảm giác là điều kiện quan trọng để bảo đảm trạng thái hoạt động tinh
thần của con người được bình thường. Khi không có cảm giác hoặc mất cảm
giác, con người sẽ không thể thiết lập mối quan hệ giữa hiện thực khách quan
và não bộ, không thể thích ứng được với những biến đổi của môi trường.
- Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan, đặc biệt quan
trọng đối với người bị khuyết tật.
- Không có sự phản ánh bằng cảm giác thì không thể có quá trình so sánh
cái tiếp thu được trực tiếp trong thời điểm này với cái đã tiếp thu trước đây, với
hình ảnh của sự vật hay hiện tượng.
1.1.2. Các loại cảm giác
Các kích thích từ hiện thực khách quan tác động vào chủ thể thông qua
các cơ quan thụ cảm hay là các cơ quan cảm giác. Khi cơ quan thụ cảm tiếp
nhận kích thích, chúng được truyền lên trung ương thần kinh và được nhận diện
là cảm giác gì. Các cảm giác được hình thành sẽ mang lại nhiều ý nghĩa thực
tiễn hơn đối với chủ thể nếu nó là kết quả của quá trình phản ánh tích cực từ
các kích thích, nghĩa là chủ thể chủ động "đi tìm cảm giác".
1.1.2.1. Những cảm giác bên ngoài
Những cảm giác bên ngoài phản ánh những đặc tính của các sự vật và
hiện tượng của môi trường bên ngoài. Những cảm giác bên ngoài xuất hiện khi
có các kích thích đến các cơ quan thụ cảm từ bên ngoài cơ thể.
- Cảm giác nhìn (thị giác)
Mắt là bộ phận thụ cảm của cơ quan phân tích thị giác và là một trong
những cơ quan cảm giác cơ bản của con người. Sự tác động của ánh sáng lên
mắt luôn luôn kèm theo một quá trình nhất định, gây nên cảm giác về một màu
sắc nhất định, một hình thể nhất định... Thị giác không chỉ hoạt động trong lúc
chủ thể mở mắt mà ngay cả lúc bờ mi khép kín thị giác cũng được phát huy tác
dụng. Nhờ các cơ quan tư tưởng hỗ trợ (trong kinh nghiệm) nên ngay khi nhắm
mắt, con người cũng có thể "thấy" được những hình ảnh sống động trong hiện
thực lúc đó.
Nhờ cơ quan phân tích thị giác mà con người có thể phân biệt đến 180
sắc điệu của màu sắc và hơn 10.000 sắc thái giữa các sắc điệu đó.
Màu sắc và tâm trạng con người
Màu sắc có ảnh hưởng sâu sắc đến cảm xúc và tinh thần của con người.
Mỗi màu sắc trong 7 dãy sắc màu của ánh sáng trắng có ảnh hưởng khác nhau
lên não bộ và tác động đến sức khoẻ của con người.
Ngay từ xa xưa, người ta đã nghiên cứu màu sắc để áp dụng chữa trị một
số bệnh. Và ngay trong y học cổ truyền cũng có các nguyên lí pha trộn toa thuốc
chữa bệnh liên quan đến màu sắc.
Màu đỏ và cam thể hiện sức mạnh và tham vọng. Màu đỏ còn thể hiện sự
căng thẳng, tức giận. Màu này kích thích thần kinh và sẽ gây nhiều tác động lên
cơ thể: tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng cường hoạt động của các cơ quan
trong cơ thể. Dùng màu đỏ, cam trong trang trí nội thất sẽ đem lại cảm giác ấm
áp, hưng phấn, giúp người bị cảm lạnh, trầm cảm lấy lại cân bằng.
Màu vàng đặc trưng cho hạnh phúc biểu thị cho trí tuệ, thúc đẩy tư duy,
xây dựng lòng tự tin và lạc quan. Màu này giúp điều trị các chứng bệnh liên
quan đến sự buồn phiền, rối loạn của não bộ. Căn phòng màu vàng giúp bệnh
nhân giảm được đau đớn, kích thích các tuyến ngoại tiết, đồng thời dễ gây buồn
nôn. Không nên dùng màu vàng cho các phương tiện giao thông.
Màu lục hay màu xanh lá là biểu hiện của thiên nhiên có thể giúp con
người cảm thông với nhau và gần gũi với thiên nhiên. Màu này tạo cảm giác dễ
chịu và thoải mái. Các nghiên cứu cho thấy màu xanh lá kích thích hệ thống
miễn dịch của cơ thể, tăng cường phòng chống bệnh tật, giúp thư giãn thần
kinh, làm dịu mắt, tốt cho người bệnh tim mạch.
Màu lam hay màu xanh dương chính là màu của biển cả, làm con người
cảm thấy an bình và quên đi sức ép của cuộc sống. Màu xanh dương được ứng
dụng trong chữa trị chứng mất ngủ và một số rối loạn hành vi của trẻ nhỏ. Y học
cổ truyền còn áp dụng màu này để chữa chứng đau nửa đầu, chống trầm cảm.
(theo Tạp chí Thời Trang Trẻ)
- Cảm giác nghe (thính giác)
Cảm giác nghe do những sóng âm, những dao động của không khí gây
nên. Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ
(tần số dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao
động). Các âm thanh do các dao động có chu kì với tần số ổn định sinh ra là tiêu
biểu đối với các sắc điệu âm nhạc. Các âm thanh với các dao động không có
chu kì, với biên độ và tần số không ổn định là tiêu biểu với tạp âm. Cảm giác
nghe có ý nghĩa rất lớn trong đời sống con người, đặc biệt trong giao lưu ngôn
ngữ và cảm nhận một số loại hình nghệ thuật. Nhiều trường hợp, thính giác tỏ
ra "có ích" cho con người hơn thị giác, giúp con người nghe động và chuẩn bị
hành vi đối phó...
- Cảm giác nếm (vị giác)
Cảm giác nếm được tạo nên do tác động của các thuộc tính hoá học của
các chất hoà tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác ở lưỡi, họng và
vòm miệng. Các cảm giác vị giác xác định những đặc tính về chất của thức ăn
mà con người tiếp thu và phụ thuộc rất nhiều vào cảm giác đói. Những dấu hiệu
cơ bản của cảm giác nếm là ngọt, cay, chua, mặn...
- Cảm giác da (xúc giác)
Cảm giác da do những kích thích cơ học và nhiệt độ tác động lên da tạo
nên. Tay chân và làn da là nơi tiếp nhận các kích thích rất nhạy cảm tạo nên các
cảm xúc mới lạ. Trên cơ thể người, có những đầu dây thần kinh thật mạnh để
tiếp nhận những cử chỉ thân thiện, âu yếm của người khác làm tăng cảm giác
như vuốt ve, sờ mó... Xúc giác là một bộ phận chủ yếu trong việc khơi dậy cảm
xúc tiềm năng. Trong giao tiếp, việc tạo các xúc giác phù hợp rất cần thiết để
thiết lập một liên hệ hữu ích, thân ái và hiệu quả.
- Cảm giác ngửi (khứu giác)
Cảm giác ngửi do các phân tử của chất bay hơi tác động lên màng ngoài
của khoang mũi cùng không khí gây nên. Cảm giác ngửi cho biết tính chất của
mùi. Con người có khứu giác nhạy bén có thể phân loại ngay tức thì những mùi
vị lên trung ương thần kinh, phát tín hiệu về những hình thức chủ thể phải chuẩn
bị và đối phó với tình trạng hiện tại. Ngay lúc tiếp nhận và nhận dạng mùi vị,
khứu giác sẽ có "phản ứng" mau lẹ hỗ trợ cho thị giác, vị giác hay xúc giác...
Để cảm nhận được mùi thơm, mũi phải có tế bào khứu giác. Ở mũi người
bình thường có khoảng 5 triệu tế bào này. Đó là các nơron song cực, có lông
khứu giác hướng về phía niêm mạc mũi, còn sợi trục nối với nơron đa cực. Từ
các nơron đa cực, các sợi trục đi ra tạo thành dây thần kinh khứu giác. Nơi tiếp
xúc giữa nơron song cực và nơron đa cực là các búi khứu giác, mỗi búi nhận
khoảng 23.000 sợi trục.
Cơ chế nhận biết "ngào ngạt hương bay" của mũi là một cơ chế hoá học,
trong đó cấu trúc không gian của phân tử mang mùi có ý nghĩa quyết định.
Mỗi phân tử mùi có một cấu trúc riêng. Muốn nhận biết được mùi, phân tử
mùi phải tiếp xúc với tế bào khứu giác. Chất mùi nào càng dễ bay hơi thì càng
dễ kích thích khứu giác.
Mỗi chất có một ngưỡng mùi riêng (tính theo tỉ lệ số phân tử tự do trong
một thể tích không khí nhất định). Mức độ mùi hương phụ thuộc vào số nguyên
tử cacbon trong phân tử chất tạo mùi. Khi số nguyên tử cacbon càng ít thì mùi
hương càng rõ và ngược lại. Sở dĩ như vậy vì cacbon càng nhiều thì trọng
lượng phân tử càng lớn và chất tạo mùi càng khó bay hơi. Và nếu phân tử chất
đó không bay hơi được thì làm sao mùi có thể tác động vào tế bào khứu giác.
Mũi cảm thụ mùi như thế nào? Theo Thuyết hoá học lập thể, hệ thống
khứu giác gồm nhiều tế bào nhận cảm, mỗi tế bào tương ứng với một mùi cơ
bản riêng biệt. Và phân tử gây ra cảm giác mùi bằng cách nằm gọn vào phần
nhận của tế bào đó. Một số phân tử mùi có thể lọt vừa vào 2 - 3 phần nhận cảm
có dạng khác nhau, tạo ra mùi phức hợp, pha trộn giữa 2 – 3 mùi cơ bản.
Theo Thuyết vật lí phân tử thì mùi phát ra những sóng vô tuyến mà tế bào
khứu giác sẽ thu như máy thu thanh, thu hình. Theo trường phái này, người ta
hi vọng sẽ tạo ra được những phim phát ra mùi: Bên cạnh đường ghi âm thanh
có đường các sóng mùi cho phép khán giả có cảm giác về mùi như mùi thuốc
súng trong các trận chiến đấu, hay mùi hoa hồng khi thấy cảnh vườn hoa.
1.1.2.2. Những cảm giác bên trong
Những cảm giác bên trong do cơ quan nội tạng phản ứng tạo nên. Các cơ
quan nội tạng tiếp nhận kích thích từ những tác động, co bóp của quá trình hoạt
động của các hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ bài tiết, hệ cơ, hệ xương.
- Cảm giác vận động
Cảm giác vận động được tạo nên khi các cơ, khớp xương trong cơ thể bị
kích thích. Cơ quan thụ cảm của cảm giác vận động nằm trong các cơ gân,
khớp xương giúp con người xác nhận tình trạng vận động của mình trong các
tình huống nhất định.
- Cảm giác thăng bằng
Cảm giác thăng bằng cho ta biết vị trí và phương hướng chuyển động của
đầu so với phương của trọng lực. Khi cơ quan thăng bằng bị kích thích quá mức
sẽ gây ra mất thăng bằng, con người cảm thấy chóng mặt, có khi nôn mửa. Cơ
quan thụ cảm của cảm giác thăng bằng nằm ở thành của ba ống bán khuyên ở
tai trong và có liên quan mật thiết với nội quan.
- Cảm giác cơ thể
Cảm giác cơ thể cho biết tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng,
gồm các cảm giác đói, no, khát... Chủ thể sẽ có cảm giác từ các xung động lên
thành ruột hoặc các bộ phận khác của cơ thể, thực chất đó cũng chính các xúc
giác mà thôi.
Trên đây là hai nhóm cảm giác lớn gồm một số cảm giác cơ bản. Trên
thực tế các cảm giác luôn tác động qua lại với nhau, tạo ra sự đa dạng phong
phú về khả năng cảm giác của con người.
Câu Chuyện thứ năm
"Khi thai nhi hình thành, lập tức nó bị "nhấn chìm" vào thế giới tràn ngập
màu sắc và âm thanh, đó là chưa kể các mùi vị khác nhau. Các nhà khoa học
nhận thấy thai nhi có khả năng của một miếng bọt biển, vì “hấp thụ” các thông
tin đa dạng đó khá dễ dàng.
Chỉ khi khoa học phát triển, các kĩ thuật mới cho phép nghiên cứu môi
trường của thai nhi lúc nó còn nằm êm ấm trong bụng mẹ, người ta mới biết thật
ra thai nhi đã học" từ rất sớm khi nó mới thành hình.
Vai trò của não bộ thai nhi và các cơ quan cảm giác của nó rất quan trọng
với việc học trong bụng mẹ. Các cấu trúc này không đồng nhất, quá trình "học
hỏi" của thai nhi cũng khác nhau cho từng khu vực và bộ phận. Có khi một khả
năng còn phải cần thời gian khá lâu ở tuổi trẻ thơ mới thật sự hoàn chỉnh.
Các khám phá mới của khoa học về những khả năng của thai nhi bao
gồm:
Vị giác: Sau khi thành hình được khoảng 13 tuần, các nhà khoa học nhận
thấy các dấu hiệu là thai nhi đã phát triển khả năng về vị giác.
Khứu giác: Khi khảo sát những đứa trẻ bị sinh sớm, người ta nhận thấy
chúng đã có phản ứng với mùi bạc hà ở tuần lễ thứ 29 trong bụng mẹ. Tới tuần
lễ thứ 36 thì thai nhi đã có phản ứng hoàn toàn với mùi.
Thính giác: Bộ phận gọi là ốc tai - khá quan trọng với thính giác của con
người - có thể đã hoạt động ở thai nhi vào tuần lễ thứ 18. Các bộ phận khác của
tai tiếp tục được phát triển cho đến tháng thứ 5.
Thị giác: Vào khoảng tuần thứ 20, tim của thai nhi gia tăng nhịp đập chút
đỉnh do một bóng đen phía trước tử cung bà mẹ sáng lên. Đó là phản ứng đầu
tiên về thị giác của thai nhi.
Xúc giác: Mới vào tuần thứ 7, vài nơi trên cơ thể thai nhi đã tỏ ra mẫn cảm
với vài đụng chạm. Cả thân thể bé sẽ có phản ứng xúc giác vào tuần thứ 13 hay
14.
Mặc dù dạ con của bà mẹ là "cái tổ êm đềm" cho thai nhi, song nó vẫn
"nghe ngóng" thế giới bên ngoài và luôn học tập kinh nghiệm mới. Nước ối - bầu
chất lỏng bồng bềnh của thai nhi - luôn giúp nó nhận diện. Các phân tử mùi
thấm vào nước ối cũng được thai nhi cảm nhận và nhớ lại. Người ta nhận thấy
những bé mới chào đời thích mùi và vị của thực phẩm mà mẹ của nó dùng trong
thời kì thai nghén.
Âm thanh ồn ào nhất đối với nó khi còn trong bụng mẹ chính là bà mẹ:
tiếng nói, nhịp tim, thậm chí âm thanh của sự tiêu hoá thực phẩm của mẹ, nó
cũng nghe hết. Các âm thanh ngoài cơ thể cũng có thể đến tai thai nhi nhưng đã
biến dạng.
Xúc giác và thị giác khó hơn. Thai nhi có thể sờ chạm thành của dạ con
bằng bàn tay; và có thể vài ánh sáng xuyên qua màng của đường tiểu tiện,
được nó nhận thấy. Nhưng khoa học chưa rõ những kinh nghiệm này đã được
thai nhi hấp thu như thế nào.
Các chuyên gia cho là những đứa bé sinh sớm cần được săn sóc để có
được những kinh nghiệm của một em bé bình thường. Họ căn dặn cha mẹ nên
dịu dàng "nói chuyện" nhiều với con, làm massage cho con và kích thích thị lực
cho con. Cho con bú sữa mẹ đối với trẻ sinh sớm là tốt nhất, khiến nó cảm nhận
vị của sữa, hương thơm và tiếp xúc với da của mẹ mình.
Người ta còn nhận thấy khi mang thai, người mẹ thay đổi thường xuyên
khẩu vị có thể giúp con mình chấp nhận nhiều mùi vị thực phẩm sau này".
(theo The Parent review)
1.1.3. Các quy luật của cảm giác
1.1.3.1. Quy luật về ngưỡng cảm giác
Không phải mọi kích thích tác động vào các giác quan đều gây ra cảm
giác. Kích thích quá yếu không đủ gây nên cảm giác và kích thích quá mạnh có
thể làm mất cảm giác. Muốn gây ra cảm giác thì kích thích phải đạt tới một giới
hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng
cảm giác. Có hai loại ngưỡng cảm giác là ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt.
Ngưỡng tuyệt đối là cường độ kích thích yếu nhất và mạnh nhất để có thể
có cảm giác. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai
kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng sai biệt.
Ngưỡng cảm giác sẽ khác nhau ở mỗi loại cảm giác và ở mỗi người khác
nhau. Khả năng cảm nhận được các kích thích tác động vào giác quan đủ gây
ra cảm giác gọi là độ nhạy cảm của giác quan ấy. Người có độ nhạy cảm cao
khi ngưỡng cảm giác của họ rất thấp và ngược lại. Như vậy, trong thực tế, muốn
tạo ra cảm giác để con người bước đầu nhận thức được xung quanh thì phải có
các kích thích tới ngưỡng và nằm trong ngưỡng cho phép.
1.1.3.2. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác
Cảm giác của con người có khả năng thích ứng với các kích thích để bảo
đảm cho sự phản ánh tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh.
Sự thích ứng của cảm giác là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù
hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Quy luật chung về sự thích ứng
của cảm giác là giảm độ nhạy cảm khi gặp kích thích mạnh và tăng độ nhạy cảm
khi gặp kích thích yếu. Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát
triển do hoạt động rèn luyện và tính chất nghề nghiệp. Sở thích ứng cảm giác
giúp con người tự điều chỉnh được hành vi cũng như tự cân bằng được trạng
thái cơ thể của mình.
1.1.3.3. Quy luật tác động qua lại giữa các cảm giác
Các cảm giác không tồn tại một cách độc lập, riêng rẽ mà chúng có sự tác
động qua lại với nhau. Kết quả của sự tác động qua lại là làm thay đổi độ nhạy
cảm của một cảm giác này dưới tác động của cảm giác kia. Quy luật chung là
sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của
một cơ quan phân tích khác và ngược lại.
Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hoặc nối
tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại.
Một biểu hiện khác của quy luật tác động qua lại là khả năng bù trừ của
các cảm giác. Khả năng này thường dễ thấy ở những người khuyết tật.
Câu chuyện thứ sáu
Người cảm nhận được màu sắc
Khi lngrid Carey nói là cô đảm nhận được màu sắc, không có nghĩa là cô
nói cô đã nhìn thấy màu sắc xanh đỏ... mà là cô thực sự cảm nhận chúng, cô có
thể nếm, sờ, nghe thấy, ngửi thấy được chúng...
Cô sinh viên 20 tuổi này học năm thứ ba của Trường Đại học Maine được
cho là có khả năng synesthesia, loại cảm giác kết hợp là một hiện tượng hiếm
cho phép người ta có thể cùng lúc nhiều giác quan hoà quyện chung. Với Carey
chữ và số, cảm giác và xúc động tâm lí, ngày và tháng... đều có liên kết với màu
sắc. Chữ "N" là màu nâu đất, số "9" có màu cam và tháng 7 có màu hơi xanh lá
cây. Đau chỗ ống quyển thì phân thành hai loại hỗn hợp màu sắc cam và vàng,
đỏ và tía. Màu sắc trong thế giới của Carey có những tính chất mà chúng ta sẽ
không bao giờ nghĩ ra: đỏ thì cứng, mạnh mẽ và bền bỉ trong khi màu vàng thì
mềm dẻo, rực rỡ nhưng mãnh liệt.
Sau một thời gian dài bị coi như hoang tưởng hoặc một dấu hiệu tâm
thần, loạn trí... trong những năm gần đây, synesthesia đã được các nhà khoa
học miễn cưỡng nhìn nhận như một hiện tượng có thật trên cơ sở thần kinh học
thật sự. Ngày nay, các nhà khoa học còn tin rằng nó là chìa khoá dẫn đến
những hiểu biết về hoạt động của não, cách tác động của nhận thức... Thế
nhưng nguyên nhân dẫn đến các cảm giác này vẫn còn là một điều bí ẩn.
Có ý kiến cho rằng nguyên nhân do có một sự mọc nhánh thần kinh mới
bất thường trong não dẫn đến việc phá bỏ các giới hạn thông thường vốn có
giữa các giác quan. Vì vậy theo thuyết này, synesthesia là một tập hợp các hoạt
động của các giác quan nằm gần nhau vốn lẽ ra phải phân lập với nhau.
Một lí thuyết khác dựa trên một nghiên cứu của Daphne Maure và
Catherine Mondloch thuộc Trường Đại học McMaster, Ontario, Canada tiến
hành cho rằng hầu như tất cả các trẻ em bắt đầu cuộc sống đều có khả năng
synesthesia. Theo thuyết này thì động vật và con người khi sinh ra đều có bộ
não non nớt dễ uốn nắn. Các kết nối giữa các phần giác quan khác nhau tồn tại
cho đến khi bị cắt đi hay chậm lại khi trưởng thành.
Maure và Mondloch đưa ra giả thuyết khi các nối giữa các giác quan hoạt
động như đã thấy ở một số thí nghiệm, trẻ em sẽ nhận biết thế giới giống như
những người lớn bị synesthesia. Cũng dựa trên lí thuyết này người ta cho rằng
trẻ em không có 5 giác quan riêng mà chỉ có một giác quan bao gồm tất cả các
khả năng để đáp ứng với tất cả các kích thích bên ngoài. Vì vậy một khi bé nghe
tiếng mẹ, đồng thời bé cũng thấy được tiếng mẹ và ngửi được mẹ.
Nhiều người bị synesthesia tự cảm thấy khó chịu vì khả năng bất thường
của mình. Họ cảm thấy đơn độc và bị cô lập trong cõi riêng của mình. Vì vậy,
những nghiên cứu về synesthesia rất cần thiết cho chính họ. Các nghiên cứu
phát hiện ra những người bị synesthesia gồm nhiều loại người khác nhau.
Thuyết này dựa trên các kết nối thần kinh mà tất cả chúng ta đều có, do đó có
thể giúp giải thích tại sao các loại ma tuý, thuốc kích thích có thể khiến một số
người có triệu chứng synesthesia.
(theo Live Science ngày 22-2-2005, KHPT số 14(752))
Theo Si mon Baron - Cohen Trường Đại học Cambridge thì synesthesia là
từ gốc Hi Lạp, syn (kết hợp) và aithesis (cảm giác). Nếu bạn hỏi một người có
hiện tượng synesthesia là họ có muốn vứt bỏ khả năng đặc biệt của mình không
thì hầu hết sẽ trả lời là không. Lí do là họ đã quen như vậy rồi, nay nếu mất đi
khả năng này họ sẽ có cảm giác như bị mất đi một giác quan vậy.
1.2. Tri giác
1.2.1. Khái niệm
Tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó không phải là tổng
số các thuộc tính riêng rẽ mà là một sự phản ánh sự vật hiện tượng nói chung
trong tống hoà các thuộc tính của nó. Tri giác là nhận thức một vật thể với vị trí
và những thuộc tính của nó. Tri giác là biết về sự vật, hiện tượng một cách hoàn
chỉnh nhưng chỉ ở mức độ bề ngoài, là cơ sở để con người suy nghĩ tìm cách
thấu hiểu vấn đề một cách sâu sắc.
Một cách tổng quát, tri giác là quá mình phản ánh một cách trọn vẹn
những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động
vào các giác quan.
1.2.2. Sự hình thành tự giác
Các cảm giác được truyền đến một trung khu thần kinh rồi đến vỏ não,
nơi đó tống hợp với các cảm giác khác cùng với kí ức... để trở thành một tri
giác. Ví dụ một trái dưa khi được tri giác gợi ra nhiều cảm giác khác nhau, hình
ảnh trái dưa được hình thành từ những cảm giác về hình dáng, màu sắc, mùi
vị...
1.2.3. Đặc điểm của tri giác
- Tri giác phản ánh sự vật hiện tượng một cách trọn vẹn. Tính trọn vẹn
của tri giác là do tính trọn vẹn khách quan của bản thân sự vật hiện tượng quy
định. Kinh nghiệm có ý nghĩa rất lớn trong quá trình tri giác trọn vẹn này, chỉ cần
một số chi tiết của sự vật, hiện tượng, chúng ta đã có thể tri giác được sự vật
một cách chính xác.
- Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
- Tri giác có tính không đổi mặc dù có tính biến dạng rất lớn của các điều
kiện nơi xảy ra quá trình tri giác, nhưng các hình vật thể mà ta tri giác có tính
chất cố định, không thay đổi về hình dáng, độ lớn, màu sắc...
- Tri giác là quá trình tích cực, được gắn liền với hoạt động con người. Tri
giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào đó, tri giác
mang tính xã hội. Con người sẽ không cố gắng để biết điều gì đó nếu điều đó
không xuất phát từ yêu cầu của công việc, của hoạt động hay của một nhân tố
nào khác, điều này cho thấy tri giác mang tính xã hội rất rõ.
1.2.4. Các loại tri giác
Có nhiều cách phân loại tri giác, có thể nêu lên một số cách phân loại chủ
yếu sau đây:
- Dựa trên bộ máy phân tích nào giữ vai trò trực tiếp tham gia vào quá
trình tri giác. Với cách phân loại này, có thể chia thành tri giác nhìn, tri giác
nghe, tri giác ngửi, tri giác sờ mó...
- Một sự phân loại khác của tri giác là dựa vào sự phản ánh những hình
thức tồn tại khác nhau của sự vật, hiện tượng. Theo cách phân loại này có các
loại tri giác chủ yếu là tri giác các thuộc tính không gian của đối tượng, tri giác
các thuộc tính thời gian của đối tượng, tri giác sự chuyển động của đối tượng và
tri giác con người.
Tri giác không gian
Tri giác không gian là sự phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan,
là điều kiện cần thiết để con người định hướng trong môi trường.
Tri giác không gian bao gồm sự tri giác hình dáng của sự vật, sự tri giác
độ lớn của sự vật, sự tri giác chiều sâu, độ xa của sự vật, sự tri giác phương
hướng. Trong tri giác không gian, cơ quan phân tích thị giác giữ vai trò quan
trọng, sau đó là cảm giác vận động...
Tri giác thư giãn
Loại tri giác này phản ánh độ lâu, độ nhanh, nhịp điệu, tính liên tục hoặc
gián đoạn của sự diễn biến trong thời gian. Tri giác thời gian cũng xác định thời
điểm nhất định, xác định tính tương đối của thời gian.
Tri giác vận động
Tri giác vận động là sự phản ánh những biến đổi về vị trí của các sự vật
trong không gian. Tri giác vận động có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào tri
giác không gian và thời gian. Con người có thể nhận biết tốc độ di chuyển của
chính mình, xác định sự co giãn của các cơ hoặc những biểu hiện của sự co
bóp của các cơ quan nội tạng...
Tri giác con người
Tri giác con người là một quá trình nhận thức lẫn nhau của con người
trong những điều kiện giao lưu trực tiếp. Sự tri giác con người có ý nghĩa rất lớn
trong hoạt động thực tiễn vì nó thể hiện chức năng điều chỉnh hình ảnh tâm lí
trong quá trình hoạt động và giao tiếp cùng nhau.
Các loại tri giác không gian, thời gian, vận động và tri giác con người có
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, giúp con người tri giác thế giới
một cách trọn vẹn.
1.2.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tri giác
1.2.5.1. Kinh nghiệm trong quá khứ
Tri giác của con người chịu ảnh hưởng của quá khứ rất mạnh. Con người
nhận biết đối tượng một phần do thói quen và những điều đã biết trong hoạt
động và trong cuộc sống. Máy chụp hình cũng gồm thấu kính như đôi mắt
nhưng hình chụp khác hình nhìn bằng mắt vì máy chụp ghi hình không dựa vào
kinh nghiệm.
Nhưng cũng chính do kinh nghiệm mà nhiều lúc con người tri giác thiếu
chính xác. Có nhiều lúc có người đi thăm một phong cảnh hoàn toàn xa lạ
nhưng lại có cảm nghĩ rằng hình như đã gặp những hình ảnh quen thuộc ở đó.
Hiện tượng này do kinh nghiệm lưu lại trong trí nhớ về những lần ngoạn cảnh
nơi khác trộn lẫn với thực tế đang tri giác gây nên.
1.2.5.2. Nhu cầu hiện tại
Nhu cầu đã hướng dẫn tri giác của con người về cái họ cần. Thông
thường một nhu cầu khó đạt, con người hay gán cho nó một giá trị lớn. Còn một
nhu cầu dễ thoả mãn, con người lại hay xem thường giá trị của nó. Một khi nhu
cầu đã được thoả mãn, tri giác của con người về đối tượng sẽ trở nên khách
quan hơn.
1.2.5.3. Tình cảm hiện tại
Tình cảm ảnh hưởng mạnh mẽ đến tri giác nhất là ở tuổi nhỏ khi những
hiểu biết chưa được kiện toàn. Tâm trạng hiện tại của con người sẽ chi phối rõ
ràng đến những hình ảnh đang tri giác, vì vậy mới thấy thật hay cho câu "người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
1.2.6. Các quy luật cơ bản của tri giác
1.2.6.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật,
hiện tượng nhất định của thế giới xung quanh. Quá trình tri giác xảy ra một cách
chân thực theo yêu cầu của nhiệm vụ thực tiễn, con người luôn trả lời được
châu hỏi họ đang tri giác cái gì? Họ tri giác như thế nào?
1.2.6.2. Quy luật về tính chọn lựa của tri giác
Con người không thể đồng thời tri giác tất cả các sự vật, hiện tượng đa
dạng đang tác động mà chỉ tách đối tượng ra khỏi bối cảnh. Quy lựa chọn lựa
của tri giác nói lên rất rõ tính chủ thể của tâm lí con người. Trong hiện thực, bao
giờ con người cũng cố gắng đi tìm cái mình cần để nhận dạng, để biết, để thoả
mãn nhu cầu nhận thức của mình...
1.2.6.3. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác
Tri giác con người diễn ra có ý thức và bao giờ con người cũng gọi được
tên của sự vật, hiện tượng một cách cụ thể hoặc khái quát. Những hình ảnh tác
động đến con người có thể được mỗi người tri giác theo quan điểm, mong đợi
chủ quan của con người nhưng luôn được con người "gán" cho một ý nghĩa cụ
thể nào đó. Hình ảnh của một đám mây trên bầu trời có thể được con người
tưởng tượng để "nhận ra" hình ảnh ấy giống cái gì, một ngư ông hay một người
lính, một con rồng hay bầy thiên nga...
1.2.6.4. Quy luật tổng giác
Ngoài các yếu tố kích thích bên ngoài, tri giác còn bị quy định bởi một loạt
các nhân tố nằm bên trong chủ thể tri giác như thái độ, động cơ, sở thích, mục
đích.
Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lí con người, vào đặc
điểm nhân cách của họ được gọi là hiện tượng tổng giác. Thực chất, tổng giác
là hiện tượng tri giác phụ thuộc vào trạng thái tâm lí của chủ thể trong các tình
huống nhất định.
1.2.7. Sự sai lầm của tri giác
Không phải lúc nào con người cũng có thể tri giác chính xác một sự vật,
sự kiện hay hiện tượng nào đó vì nhiều lí do; họ có thể sai lầm trong tri giác. Tri
giác sai lầm là tri giác không chính xác về một sự vật, hiện tượng có thật. Có
những sai lầm do đối tượng tạo nên nhưng cũng có những sai lầm do chính chủ
thể tạo ra từ diễn biến tâm lí của mình lúc đó. Sự sai lầm của tri giác có thể chia
làm ba loại:
- Sai lầm do hiện tượng vật lí tạo nên: ánh sáng phản chiếu hay khúc xạ
có thể gây ra hiện tượng tri giác sai lầm. Lái xe trên xa lộ vào buổi trưa nắng
gắt, người lái có cảm giác phía trước có một vũng nước, đó là ví dụ của tri giác
sai lầm. Các cháu nhỏ thường rất thích thú các trò chơi được thiết kế theo quy
luật phản chiếu của các loại gương phẳng, gương lồi, gương lõm... để tạo ra
hình thù quái dị, làm méo mó hình thức của mình như trong các nhà cười của
những trung tâm giải trí, các trò chơi "thực tế ảo" cũng là kết quả của việc áp
dụng sự sai lầm này của tri giác.
- Sai lầm do giác quan tạo nên: Các giác quan của con người có thể bị
đánh lừa trong những điều kiện nhất định, do đó tri giác có thể sai lầm trong
trường hợp này. Ngâm hai tay đồng thời vào hai chậu nước với nhiệt độ cao
thấp khác nhau rõ rệt, sau đó cho hai tay vào chậu nước lạnh, người ta có cảm
giác và tri giác khác nhau về "khu vực" nước quanh bàn tay nhúng vào, đó là sự
sai lầm do giác quan tạo nên.
- Sai lầm do đại não gây nên là những sai lầm chịu ảnh hưởng của thần
kinh, của những phản ứng tâm lí tạo nên. Sai lầm này có thể chia thành những
loại sau đây:
- Sai lầm do nhu cầu gây nên. Người đang khát nước nghe gió thổi tưởng
như nước chảy đâu đó. Chính nhu cầu về nước uống đã làm con người nhầm
tưởng tiếng cọ xát của những hạt cát trong sa mạc như tiếng róc rách của một
con suối.
- Sai lầm do tình cảm gây nên. Người sợ hãi một đe dọa từ bên ngoài tới,
thấy cây động đậy tưởng có ai đang rượt đuổi theo mình. Trẻ con thường "nhầm
tưởng" các người đẹp là mẹ yêu quý của các cháu. Nhìn thần tượng thường
thấy là "cô tiên" hay nhìn kẻ thù thì nghĩ đó là "mụ phù thuỷ".
- Sai lầm do không chú ý mà nên. Có lúc nghe lầm, nhìn nhầm vì thiếu sự
chú ý nhất định.
Các trường hợp sai lầm của tri giác có rất nhiều ứng dụng trong hoạt
động thực tiễn, trong nghệ thuật, trong quảng cáo...
Ảo giác không phải là sự sai lầm của tri giác về một đối tượng có thật mà
là phản ánh về một đối tượng không có thực. Ảo giác không do giác quan mang
lại mà là sản phẩm của đại não và là kết quả của sự phóng ngoại tình cảm, tư
tưởng của chủ thể ra ngoài.
Giải được bí ẩn của những bóng sáng kì lạ!
Giáo sư Jack Pettigrew và một bóng sáng.
Hãy tưởng tượng bạn đang ngồi trong phòng khách, đột nhiên một bóng
sáng xuất hiện lơ lửng giữa nhà. Khi bạn nghiêng đầu để xem điều gì đã tạo nên
thứ ánh sáng kì dị đó, nó cũng nghiêng theo... Đó chính là những bóng sáng
(còn gọi là Min Min light), thường thấy ở Australia.
Kì thực, những bóng sáng này chỉ là ảo ảnh của các nguồn sáng đôi khi ở
cách đó hàng trăm kilômét, Giáo sư Jack Pettigrew, Đại học Queensland ở
Brisbane, Australia, vừa khẳng định như vậy trên tạp chí Clinical and
Experimental Optometry.
Pettigrew đã nghiên cứu hiện tượng này ở hạt Channel, miền Tây
Queensland, nơi nó đã ám ảnh người dân địa phương trong nhiều năm qua.
"Ngay cả những người đàn ông dạn dày nhất cũng phải chảy nước mắt vì sợ
hãi", ông nói.
Lần đầu tiên chạm chán với Min Min light, Pettigrew tưởng rằng đó là sao
Kim. Nhưng không phải thế," nó đi xuống đường chân trời và nằm yên ở đó một
lúc". Lần sau đó, khi đang lái xe với hai cộng sự, Pettigrew trông thấy một đốm
sáng mà thoạt đầu họ tự nhủ đó là mắt của một con mèo ở cách đó khoảng 50
mét. Tuy nhiên, khi họ dừng xe và tắt đèn pha, đốm sáng kia vẫn còn ở nguyên
đó, nhảy nhót xung quanh như thể nó là một sinh thể sống. Chúng tôi đã tranh
cãi kịch liệt, không thể đồng ý với nhau được đó là cái gì và ở cách bao xa.
Bộ ba đã lái xe xuyên qua vùng đồng bằng và sử dụng một chiếc la bàn
trên ô tô để tính ra khoảng cách tới đốm sáng. Nhưng sau 5 km la bàn trên xe
vẫn không hề đổi hướng. "Chúng tôi phỏng đoán nó phải nằm cách đó khoảng
300 km trên đường chân trời". Về sau, ba người mới biết có một chiếc xe đã đi
ngược chiều ở đúng thời điểm họ nhìn thấy đốm sáng.
Pettigrew, người từng biết đến hiện tượng ảo ảnh - trong đó các cảnh vật
ở rất xa dường như đang treo ngược trên bầu trời - cho rằng điều này có thể
giúp giải thích các Min Min light. ánh sáng bị khúc xạ, đi theo đường cong của
mặt cầu.
Ảo ảnh xuất hiện khi có hiện tượng nghịch nhiệt, tức là không khí lạnh
đậm đặc nằm bên dưới sát với mặt đất, còn lớp khí ấm ở bên trên. Trong điều
kiện như vậy, ánh sáng từ mặt đất chiếu lên sẽ bị khúc xạ, và đi theo đường
cong ôm lấy Trái Đất, thay vì chiếu thẳng ra ngoài (ảnh). Luẩn quẩn trong lớp
khí lạnh này, ánh sáng có thể xuất hiện ở cách xa nguồn của nó hàng trăm km,
tạo nên ảo ảnh ở đó.
Để thử nghiệm giả thuyết rằng Min Min light thực sự là một hiện tượng ảo
ảnh trong đêm, Pettigrew đã thực hiện thí nghiệm cho thấy ông có thể tạo ra một
thứ tưởng tự như vậy.
Trước hết, Pettigrew chọn một đêm có thời tiết thuận lợi: đêm lạnh sau
một ngày trời nóng, ít gió. Sau đó, ông lái xe 10 km vòng qua một khu đồi tới
điểm nằm dưới đường đi chuẩn của ánh sáng (đường thẳng). Điều kì lạ đã xuất
hiện, 6 người quan sát vẫn nhìn thấy ánh sáng của chiếc xe hơi lơ lửng trên
đường chân trời.
Ảo ảnh của một rặng núi ở xa. Nó tan đi khi Mặt Trời sưởi ấm lớp khí sát
mặt đất. Buổi sáng sau đêm trình diễn, Pettigrew cho biết đã nhìn thấy ảo ảnh
của một rặng núi ở xa tại khu vực này. Điều đó ủng hộ giả thuyết cho rằng Min
Min light được tạo ra trong một điều kiện đặc biệt của khí quyển. "Thông thường
ta không thể nhìn thấy rặng núi đó, vì nó nằm dưới đường chân trời. Nhưng
trong điều kiện nghịch nhiệt, nó xuất hiện lơ lửng trên cao, và dần dần tan đi,
cuối cùng thì biến mất khi Mặt Trời sưởi ấm lớp không khí sát mặt đất.
Cơ hội nhìn thấy Min Min light và ảo ánh ban ngày ở hạt Channel là rất
cao, vì vùng này bằng phẳng với các chỗ trũng nhẹ, nơi không khí lạnh rất dễ bị
giữ lại. Hơn nữa ở đây, người ta thường nhìn thấy rõ chân trời.
(theo ABC online)
1.2.8. Quan sát và năng lực quan sát
Quan sát là hình thức tri giác cao nhất, mang tính tích cực chủ động và có
mục đích rõ ràng. Quá trình quan sát trong hoạt động tạo nên năng lực quan sát.
Năng lực quan sát là khả năng tri giác nhanh chóng và chính xác những
điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng cho dù những điểm
ấy khó nhận thấy hoặc có vẻ thứ yếu. Năng lực quan sát ở mỗi người khác nhau
và phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của con người.
Câu chuyện thứ bảy
Cơ hội quan sát
Trò giải trí gần đây được nhiều người lưu ý là chơi bài dưới nhiều thể loại
khác nhau và là loại trò chơi đấu trí để giải trí. Đã là trò chơi đấu trí thì người
chơi phải căng thẳng và luôn phải quan sát suy đoán để có quyết định phù hợp.
Đây là cơ hội tốt để bạn quan sát con người trong hoàn cảnh cụ thể: có kích
thích (atimulus) và có phản ứng (response). Việc quan sát ban đầu của bạn tập
trung vào thói quen, cá tính của mỗi đối thủ. Mỗi đối thủ trong hoàn cảnh đầy
kịch tính sẽ quên cái vỏ bên ngoài vẫn đóng mà lộ dần những nét đặc thù có
tính bản chất của họ. Có người lên bài trầm lặng, có người nói năng huyên
thuyên khi bắt bài, người chậm rãi hút thuốc uống trà, người vội vàng xoa bài,
người méo miệng tìm kiếm các quân bài mong đợi... Khi toan tính một nước đi
hay đón đợi con bài của đối thủ, có người mặt đỏ gay nhưng người khác mặt
hồng hào và người kia mặt xanh lại. Đó là những điều bình thường đã quan sát
được trong tình trạng bình thường. Hãy cố gắng quan sát những biến đổi hay
điều bất thường của chủ thể trong những tình huống nhất định. Một đối thủ đang
nói huyên thuyên chợt im bặt, một người vốn trầm ngâm lại nói chuyện tiếu lâm,
nét mặt người này biến sắc, người kia rung nhẹ, đó là dấu hiệu của những toan
tính quyết định.
Khi hệ thần kinh thực vật hưng phấn gây ra những biến đổi trên sinh lí con
người. Đó là những biểu lộ nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người trừ
một số người có sự luyện tập dày dạn. Sau đây là những lưu ý khi quan sát một
người nào đó:
- Chú ý cử động của đôi tay và sự biến đổi của nét mặt, nhất là vùng xung
quanh mắt và quanh miệng của đối tượng.
- Người có bộ mặt lạnh lẽo, trơ trơ có thể chứa đựng ác ý với ta hay thù
hận ta, nhất là khi ta quan sát mà người không biết.
- Khuôn mặt đối tượng có nét căng thẳng thì có thể hiểu đối tượng đang
có dấu hiệu tâm lí bị giày vò hay đang có tình trạng xung đột nội tâm nào đó.
- Những động tác không cần thiết ở ngón tay nói riêng hay thân thể nói
chung như bẻ ngón tay, bắt tréo chân... đều có thể là dấu hiệu của sự bồn chồn,
nóng nảy, hoảng hốt lo lắng, tự vệ.
- Người châm chọc hay tỏ thái độ quá lễ nghi ngọt ngào có thể là biểu
hiện của ý đồ không tích cực đối với người nào đó.
- Người nói huyên thuyên không ngừng có thể là đang cố gắng che đậy
điều gì đó hoặc thầm kín, hoặc bí mật...
- Mặt trắng xanh, động mạch cổ, thái dương nổi lên, ngón tay run rẩy,
nuốt nước bọt, tay ướt mồ hôi là dấu hiệu của tâm trạng quá hưng phấn.
- Người lẩn tránh ánh mắt của ta có thể là người đang nói dối...
Sau đây là những điểm trọng yếu nên quan sát:
- Đang là người trầm lặng chợt trở nên nói nhiều
- Tự nhiên biểu lộ sự sợ hãi điều gì đó
- Nói những điều thật giả lẫn lộn
- Có dáng vẻ hốt hoảng, tâm thần bất ổn
- Ngôn ngữ tự nhiên ra vẻ huyênh hoang
- Có những cử động vô nghĩa ở chân tay, cơ thể
- Vẽ vời câu chuyện
- Đón ý bạn hay làm ra vẻ bí mật, làm bộ giận dữ vì tự ái
- Tìm cách thanh minh điều gì đó thái quá...
(theo "Tri tâm thuật, NXB Trẻ, 1994).
Câu chuyện thứ tám
Hãy nói vào tai phải và hát vào tai trái
Tai trái và tai phải của con người xử lí âm thanh khác nhau. Một nghiên
cứu mới trên trẻ sơ sinh đã tìm thấy tai phải lọc tiếng nói tốt hơn, trong khi tai
trái lại lắng nghe âm nhạc hợp hơn.
Người ta vẫn biết rằng não phải và não trái xử lí âm thanh khác nhau,
nhưng sự khác biệt đó được cho là bắt nguồn từ những đặc tính tế bào của
từng bán cầu não. Nghiên cứu mới đã cho thấy sự khác biệt nằm ngay ở trong
tai.
Yvonne Sininger tại Đại học California cho rằng: "Chúng ta vẫn luôn cho
rằng tai phải và tai trái là làm việc như nhau. Nên sẽ không khác biệt nếu một
người bị khiêm thính ở bên trái hay phải. Nhưng nay chúng tôi tìm thấy nó sẽ có
ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển ngôn ngữ và âm thanh của người đó.
Phát hiện có thể giúp bác sĩ đẩy mạnh sự phát triển ngôn ngữ và lời nói ở
trẻ khiếm thính và phục hồi khả năng nghe ở người điếc.
Sininger và cộng sự đã nghiên cứu trên hơn 3.000 trẻ sơ sinh bằng cách
đặt những máy ampli nhỏ xíu trong tế bào lông của tai trong. Những tế bào này
sẽ khuyếch đại sự rung động âm thanh, chuyển những rung động đó tới tế bào
thần kinh và đưa tới não.
Các nhà khoa học cũng gắn một máy dò âm nhỏ xíu vào trong tai trẻ. Máy
này sẽ phát ra 2 loại âm thanh khác nhau và đo sự khuyếch đại rung động. Họ
tìm thấy những tiếng gõ như lời nói tạo ra sự khuyếch đại lớn hơn trong tai phải,
còn thanh giống âm nhạc thì được khuyếch đại lớn hơn trong tai trái.
"Chúng tôi ngạc nhiên khi tìm thấy sự khuếch đại âm thanh ở hai tai là
khác nhau. Nó song song với việc từng bán cầu não xử lí âm thanh và lời nói
thế nào, trừ việc hai bên hoán đổi cho nhau do sự liên kết chéo trong não",
Sininger kết luận.
Barbara Cone - Wesson, đồng tác giả tại Đại học Arizona, phát biểu: kết
quả chúng tôi đã khẳng định quá trình xử lí âm thanh bắt đầu ngay từ tai trước
khi vào trong não. Ngay khi mới sinh, tai trẻ đã được cấu tạo để phân biệt 2 loại
âm thanh khác nhau và gửi tới những vùng thích hợp trong não".
(theo AFP)
2. NHẬN THỨC LÍ TÍNHNhận thức lý tính là quá trình nhận thức để có kết quả, là hiểu được vấn
đề chứ không chỉ dừng lại ở mức độ biết bên ngoài, là sự phản ánh những vấn
đề thuộc về bản chất, là mức độ cao của quá trình tìm, biết rồi ngộ ra và hiểu
vấn đề. Lí tính là quá trình nhận thức cấp độ cao, kết quả của nhận thức cảm
tính có thể xem như là một trong các thông số để xem xét, nhận định về giá trị,
về nhân cách của một cá nhân trong tình trạng bình thường. Nhận thức lí tính có
hai quá trình có quan hệ mật thiết và hỗ trợ cho nhau.
2.1. Tư duy
2.1.1. Khái niệm
Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người chỉ mới phản ánh các thuộc tính
trực quan, cụ thể, bề ngoài; phản ánh một cách trực tiếp những sự vật, hiện
tượng đang tác động. Mặt khác, ở mức độ cảm tính, con người không thể phản
ánh được những dấu hiệu bên trong, bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nhiệm vụ của cuộc sống và hoạt động thực tiễn luôn đòi hỏi con người
phải thấu hiểu những cái chưa biết ngày một sâu sắc và chính xác hơn. Quá
trình nhận thức như vậy được gọi là tư duy.
Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó con người chưa biết. Tư duy là quá trình suy
nghĩ, tìm kiếm những đáp số cho các bài toán của khoa học và của cuộc đời.
2.1.2. Đặc điểm của tư duy
Thuộc bậc thang nhận thức cao – nhận thức lý tính – tư duy có những đặc
điểm cơ bản sau:
2.1.2.1. Tính có vấn đề của tư duy
Không phải bất kì tác động nào của hoàn cảnh đều tạo nên tư duy. Tư
duy chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống mà bằng vốn hiểu
biết cũ, bằng phương pháp hành động cũ, con người không thể giải quyết được.
Để nhận thức, con người cần phải vượt ra khỏi phạm vi cũ và đi tìm cái mới, đạt
mục đích mới. Những hoàn cảnh như thế gọi là hoàn cảnh có vấn đề.
Hoàn cảnh có vấn đề kích thích con người tư duy. Muốn vậy con người
cần nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề. Chủ thể phải có
nhu cầu giải quyết, nhu cầu nhận thức và phải có tri thức cần thiết liên quan đến
vấn đề. Muốn con người tư duy phải đặt con người trước các tình huống có vấn
đề để họ cảm thấy bức xúc và khao khát suy nghĩ, tìm tòi và thoả mãn nhu cầu
của họ.
2.1.2.2. Tính gián tiếp của tư duy
Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng và quy luật giữa
chúng nhờ sử dụng các công cụ, phương tiện... và các kết quả nhận thức của
loài người cùng kinh nghiệm của cá nhân. Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện
chỗ nó được biểu hiện trong ngôn ngữ, con người dùng ngôn ngữ để tư duy...
2.1.2.3. Tính trừu tượng và khái quát của tư duy
Tư duy có khả năng đi sâu vào nhiều sự vật, hiện tượng nhằm tìm ra
những thuộc tính chung, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa
chúng. Vì thế tư duy mang tính khái quát và trừu tượng.
Nhờ có tính khái quát và trừu tượng, tư duy không chỉ giải quyết những
nhiệm vụ hiện tại mà còn cả những nhiệm vụ trong tương lai của con người.
2.1.2.4. Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
Tư duy và nhận thức cảm tính là hai mức độ khác nhau nhưng không tách
rời nhau mà có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong
hoạt động nhận thức thống nhất và biện chứng. Con đường nhận thức hiện thực
sẽ bắt đầu từ những điều tai nghe mắt thấy rồi mới đến tích cực suy nghĩ và giải
quyết vấn đề, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng...
2.1.2.5. Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ
Tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không đồng
nhất với nhau, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Mặt khác, bằng con đường
tư duy, ngôn ngữ của con người sẽ được cải thiện, được rèn luyện và trau
chuốt... Tư duy như thế nào thì ngôn ngữ của con người như thế đó... Trong
quá trình thích ứng với các biến đổi của môi trường, các chủ thể sử dụng ngôn
ngữ để diễn đạt ý tưởng, sự diễn đạt ngôn ngữ là một chỉ số để nghiên cứu mức
độ sâu sắc hay bản chất của phương pháp tư duy của họ:
Cơ quan hàng không vũ trụ Mĩ (NASA) đã chế tạo một hệ thống có thể
"nói thay" cho con người trong những trường hợp con người không thể nói
được: Hệ thống này hoạt động thông qua các điện cực được gắn vào cổ họng
của người sử dụng để dò tìm các dấu hiệu sinh học diễn ra khi người này đọc
hay độc thoại. Những dấu hiệu này sau đó sẽ được chuyển thành văn bản hoặc
lời nói nhờ một phương pháp xử lí tổng hợp. Cụ thể là các kí hiệu sẽ được
truyền qua một bộ xử lí trong máy tính, tiếp đến là qua một phần mềm đặc biệt
được lập trình để nhận biết các từ như dừng, đi, quẹo phải, trái... Theo các nhà
khoa học, công nghệ này sẽ rất có ích cho phi hành gia, thợ lặn hoặc lính cứu
hoả để thông tin chính xác trong các môi trường làm việc đặc biệt như ngoài vũ
trụ, dưới nước hoặc trong các toà nhà bị hoả hoạn. (Thanh Niên online)
2.1.2.6. Tư duy là một quá trình
Hoạt động tâm lí nào của con người đều được xem là một hình ảnh chủ
quan về thế giới khách quan và còn được xem xét như một quá trình. Tư duy có
nảy sinh, diễn biến và có kết thúc. Người ta không thể ngay lập tức có được một
quyết định hay một đáp số nào đó mà phải trải qua một thời gian nhất định để
tìm tòi, sáng tạo và suy nghĩ... Do đó, cá nhân sẽ tích cực tư duy nếu họ được
tự do lựa chọn phương pháp trong những quỹ thời gian nhất định, quá trình thay
đổi tư duy sẽ không thể diễn ra có hiệu quả trong thời gian ngắn...
2.1.2.7. Tư duy có liên quan mật thiết với cảm xúc.
Nói cách khác, cảm xúc có ảnh hưởng đến phương pháp tư duy của mỗi
người. Cảm xúc thể hiện sự phù hợp giữa những điều chúng ta nghĩ với những
điều chúng ta cần trong một hoàn cảnh nhất định. Một cảm xúc tức thời có thể
kích thích con người tư duy cho dù lúc đó hoàn cảnh có vấn đề vẫn chưa rõ
ràng.
2.1.3. Vai trò của tư duy
Tư duy mở rộng giới hạn của nhận thức, tạo ra khả năng để vượt ra ngoài
những giới hạn của kinh nghiệm trực tiếp do cảm giác và tri giác đem lại.
Tư duy cải tạo thông tin của nhận thức cảm tính, làm cho chúng có ý
nghĩa hơn cho hoạt động của con người. Tư duy tiết kiệm công sức của con
người trong quá trình đi tìm tri thức và giúp con người đạt đến những kết quả
cao.
2.1.4. Các giai đoạn của tư duy
Tư duy là một hành động và có những giai đoạn nhất định sau đây:
2.1.4.1. Xác định vấn đề và biểu đạt thành nhiệm vụ tư duy
Xác định những mâu thuẫn trong tình huống có vấn đề, mâu thuẫn giữa
cái đã biết và cái phải tìm, tạo ra nhu cầu cần giải quyết, tìm thấy những tri thức
đã có trong kinh nghiệm và xác định nhiệm vụ tư duy. Việc xác định vấn đề rõ
ràng hay không rõ ràng có tầm quan trọng đặc biệt để hình dung phương pháp,
áp dụng các thao tác tư duy.
2.1.4.2. Huy động các tri thức
Làm xuất hiện trong đầu những mối liên tưởng chung quanh vấn đề đang
cần giải quyết. Những kinh nghiệm chủ quan của chủ thể được rà soát, những
tình huống đã gặp trong hiện thực được tái hiện, những tri thức khoa học hoặc
cuộc sống được lục tìm để hình thành một mô hình thông tin liên kết.
2.1.4.3. Sàng lọc các liên tưởng
Gạt bỏ những điều không cần thiết, loại bỏ những kinh nghiệm hoặc thành
kiến không phù hợp và hình thành giả thuyết. Giả thuyết là những kết quả giả
định khi các thao tác tư duy được tiến hành. Việc hình thành giả thuyết xảy ra
rất nhanh trong chủ thể có khi không kịp xác định thời gian cụ thể.
2.1.4.4. Kiểm tra giả thuyết
Sau khi vận dụng các thao tác tư duy trong điều kiện có thể, chủ thể sẽ so
sánh kết quả tư duy thực với giả thuyết đã xác định. Nếu giả thuyết đúng thì tiến
hành giải quyết vấn đề. Nếu giả thuyết sai thì phủ định nó và hình thành giả
thuyết mới về cách giải quyết vấn đề.
2.1.4.5. Giải quyết vấn đề
Giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, kiểm tra lại kết quả. Giải quyết vấn đề
là sự hình thành một quyết định để "làm" chứ chưa phải là hành động thực tế.
2.1.5. Các thao tác tư duy
Tư duy là một hành động trí tuệ được diễn ra bằng cách tiến hành những
thao tác trí tuệ nhất định. Có rất nhiều thao tác trí tuệ tham gia vào một quá trình
tư duy cụ thể, có thể nêu lên một số thao tác tư duy cơ bản sau đây:
2.1.5.1. Phân tích và tổng hợp
Phân tích là tách toàn thể thành các yếu tố, các thành phần cấu tạo nên
nó, phân tích không phải là phân chia mà là xem xét vấn đề theo những lớp giá
trị hoặc lớp tính chất chung nào đó. Người ta có thể phân tích một sự kiện dưới
góc độ tâm lí, góc độ sinh lí, góc độ kinh tế... đó là một thao tác tư duy.
Tổng hợp là thao tác trong đó chủ thể đưa những thuộc tính, thành phần
đã được phân tích thành một chỉnh thể, một toàn thể. Tổng hợp cũng không có
nghĩa là gộp một cách đơn giản các thành phần mà là kết hợp để hình thành
một chỉnh thể với những ý nghĩa cụ thể.
2.1.5.2. So sánh
So sánh là thao tác trí tuệ dùng trí óc để xác định sự giống nhau và khác
nhau giữa các sự vật, hiện tượng. So sánh cũng có nghĩa là đặt sự vật này "bên
cạnh" sự vật kia để đối chiếu, để tìm mối liên hệ và phân biệt các sự kiện ấy...
2.1.5.3. Trừu tượng hoá và khái quát hoá
Trừu tượng hoá là gạt bỏ những thuộc tính, những bộ phận, những quan
hệ không cần thiết về một phương diện nào đó và chỉ giữ lại những yếu tố cần
thiết để tư duy.
Khái quát hoá là thao tác chủ thể tìm ra một thuộc tính chung cho vô số
hiện tượng hay sự vật. Con người vừa là một khái niệm trừu tượng vừa là một
khái niệm có tính khái quát cao khi chúng ta tri giác, suy nghĩ về con người
không phải chỉ lưu ý đến trang phục, hình thể hoặc chỉ về một ai đó với những
đặc thù của họ.
2.1.5.4. Cụ thể hoá
Cụ thể hoá là thao tác chủ thể chuyển từ trừu tượng hoá và khái quát hoá
về với hiện tượng cụ thể. Nhờ cụ thể hoá mà tư duy luôn gắn liền với trực quan
sinh động, không xa rời thực tế khách quan.
2.1.6. Các phẩm chất tư duy của con người
Tư duy ở con người có một số phẩm chất và những phẩm chất này nếu
được thể hiện ở từng người sẽ nói lên được phần nào về phương pháp, về bản
chất hoạt động trí tuệ của mỗi người. Con người có thể có một số phẩm chất tư
duy chung như sau
- Mức độ sâu sắc và khái quát của tư duy.
- Khả năng cơ động, linh hoạt và mềm dẻo của tư duy.
- Tính logic, chặt chẽ của tư duy.
- Óc bình luận, đánh giá.
- Khả năng độc lập của tư duy.
Bàn về kết quả tư duy của cá nhân, trong tài liệu nghiên cứu của các nhà
khoa học thuộc Trường Đại học Quốc gia Úc, những người thuận tay trái
thường tư duy nhanh hơn người thuận tay phải và đặc biệt là có khả năng
truyền thông tin nhanh trong hoàn cảnh phức tạp.
Theo các nhà khoa học, việc thuận tay phải hay tay trái là một đặc tính di
truyền như màu mắt hoặc giới tính... chứ hoàn toàn không phải là dị tật bẩm
sinh. Hai bán cầu não được nối với nhau bằng một vòm não gồm nhiều dây thần
kinh. Mỗi nửa bán cầu não có nhiệm vụ chỉ huy mọi hoạt động của nửa cơ thể ở
vị trí đối diện. Ở người thuận tay phải, mọi hoạt động của tay do bán cầu não trái
chỉ huy và ngược lại.
Trong trường hợp người thuận tay trái bị buộc dùng tay phải một cách
thường xuyên, điều này sẽ hạn chế khả năng chỉ huy của phần bán cầu não
mạnh hơn (ở đây là bán cầu não phải) và phần bán cầu não yếu hơn (bán cầu
não trái) sẽ bị "làm việc" quá tải.
Do đó, các nhà khoa học khuyến cáo không nên thay đổi bản năng sử
dụng tay trái của người thuận cánh tay này, vì như vậy có nghĩa là can thiệp thô
bạo vào khả năng hoạt động của não và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho
cuộc sống của họ, như trong việc tư duy, tập trung suy nghĩ hay khả năng điều
khiển cá nhân...
2.1.7. Các loại tư duy
Có thể phân loại tư duy theo nhiều phương diện khác nhau.
Xét theo phương diện hình thành và phát triển tư duy thì có thể chia tư
duy thành ba loại:
2.1.7.1. Tư duy trực quan hành động
Là loại tư duy có cả ở con người và động vật cao cấp. Đó là tư duy bằng
các thao tác cụ thể hướng vào việc giải quyết một số tình huống cụ thể.
2.1.7.2. Tư duy trực quan hình ảnh
Là loại tư duy phát triển ở mức cao hơn, chỉ có ở người. Đối với loại tư
duy này, việc giải quyết vấn đề dựa trên các hình ảnh của sự vật, hiện tượng.
2.1.7.3. Tư duy trừu tượng
Là loại tư duy phát triển ở mức cao nhất, chỉ có ở người. Loại tư duy này
giải quyết vấn đề dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ logic và gắn bó chặt
chẽ với ngôn ngữ, lấy ngôn ngữ làm phương tiện để tư duy.
Xét theo cách giải quyết vấn đề thì có thể chia tư duy làm ba loại:
2.1.7.4. Tư duy thực hành
Tư duy thực hành với nhiệm vụ đề ra một cách trực quan, dưới hình thức
cụ thể và được giải quyết bằng những hành động thực hành, vừa thực hành vừa
tìm cách thức giải quyết tiếp theo.
2.1.7.5. Tư duy hình ảnh cụ thể.
Với tư duy hình ảnh cụ thể, việc giải quyết nhiệm vụ dựa trên hình ảnh
trực quan đã có. Loại tư duy hình ảnh cụ thể rất có ý nghĩa trong quá trình thực
hiện các kĩ năng thực hành, các hình thức lao động cụ thể.
2.1.7.6. Tư duy lí luận
Tư duy lí luận đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri
thức lí luận để giải quyết những vấn đề không cụ thể, những vấn đề cần có cơ
sở lí thuyết.
Trong thực tế, con người thường ít khi sử dụng chỉ một loại tư duy nào đó mà
thường sử dụng phối hợp nhiều loại tư duy, trong đó có một loại tư duy nhất
định nào đó giữ vai trò chủ yếu.
2.1.7.7. Tư duy sáng tạo
Mỗi người làm việc, không thể không suy nghĩ và đòi hỏi cải tiến công việc
phải là cơ sở cho mọi suy nghĩ của chúng ta. Nói cách khác, mỗi người chúng ta
đều cần suy nghĩ để sáng tạo. Tư duy sáng tạo là tài nguyên cơ bản nhất của
mỗi con người. Chúng ta cần sáng tạo vì chúng ta cảm thấy rằng, mọi việc cần
được thực hiện theo cách đơn giản hơn và tốt hơn. Dù chúng ta tài giỏi như thế
nào, chúng ta vẫn luôn mong muốn tốt hơn nữa.
Sáng tạo gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới (đổi mới), sáng chế, các
ý tưởng mới, các phương án lựa chọn mới. Sự sáng tạo thuộc về năng lực ra
quyết định, thuộc về sự kết hợp độc đáo hoặc liên tưởng, phát ra các ý tưởng
đạt được kết quả mới và ích lợi. Mọi người có thể dùng tính sáng tạo của mình
để đặt vấn đề một cách bao quát, phát triển các phương án lựa chọn, làm phong
phú các khả năng và tưởng tượng các hậu quả có thể nảy sinh. Tóm lại, bạn
làm được gì mới, khác và có ích lợi, đấy là sáng tạo. Sự sáng tạo nảy sinh ở
một tầng lớp và mọi giai đoạn trong cuộc sống của chúng ta.
Đối với một công ti hay tổ chức, tài nguyên quan trọng nhất chính là
nguồn nhân lực, tức là những người làm việc cho công ti, tổ chức. Họ gồm các
thợ bảo trì, những người bán hàng, các công nhân trong dây chuyền sản xuất,
những người đánh máy... và các cán bộ quản lí mọi cấp bậc. Nguồn nhân lực
của công ti làm cho các tài nguyên khác hoạt động, mang lại hiệu quả cao.
Thiếu nhân sự tốt, một công ti, tổ chức, dù được trang bị máy móc hoàn hảo
nhất, được tài trợ tốt nhất, sẽ hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, mỗi người trong
mỗi cơ cấu tổ chức cần học phương pháp luận (các thủ thuật cơ bản, các
phương pháp, lí thuyết) về tư duy sáng tạo. Điều này làm cho cơ cấu tổ chức
của bạn mạnh lên rất nhiều. Trong mỗi cơ cấu tổ chức, càng nhiều người học
phương pháp luận về tư duy sáng tạo, tổ chức hoạt động càng có hiệu quả.
Câu Chuyện thứ chín
Tư duy có năng lượng và chữa bệnh bằng tư duy (theo Priroda I
Chelovec, từ Tri thức trẻ).
Thuật ngữ "Wholedynamic", xuất xứ từ tiếng Anh, có nghĩa như khoa học
nghiên cứu về sự sống, như là sự vận động tổng hoà của một tổng thể bao gồm
cơ thể sống, tinh thần và tư duy của con người. Theo quan niệm của
Wholedynamic, tư duy và tình cảm của con người thực chất cũng là những sinh
thể sống trong mỗi chung ta và con người phải luôn tạo ra sự "chung sống hoà
bình" giữa các sinh thể vô hình và hữu hình đó.
Vemon Vulf, nhà Tâm thần học nổi tiếng ở Mĩ nhận xét: "khi chúng ta tập
trung suy nghĩ về một điều gì đó "tốt" hay "xấu", ý nghĩ đó ngay tức khắc tác
động lên chính cơ thể chúng ta. Mọi niềm vui sướng, bệnh tật đều do những suy
nghĩ, lo âu của con người tạo nên. Ý nghĩ về tinh thần không chỉ là sự phản ánh
bản thân mỗi chúng ta mà còn là những sinh thể tách rời cơ thể và “sống” cuộc
sống riêng của nó. V.Vulf gọi những sinh thể đó là những Wholedyma, nghĩa là
những dạng tư duy có năng lượng. Ông đã nghiên cứu thành công phương
pháp chế ngự các Wholedyma và giúp nhiều người vượt qua những khủng
hoảng tâm lí và chữa được một số bệnh tật.
Phương pháp của V.Vulf vừa đơn giản vừa phức tạp. "Khách hàng" khi
đến gặp V.Vulf phải trả lời một loạt câu hỏi. Nội dung các câu trả lời đó sẽ làm rõ
nguyên nhân của những vướng mắc trong cuộc sống. Mục đích cuối cùng của
V. Vulf là tạo ra xung quanh "khách hàng" một trường đặc biệt, gọi là trường tình
thương hoặc trường tình yêu, cũng giống như từ trường, điện trường, trường
hấp dẫn trong Vật lí học.
Về nguyên tắc, bất kể một ai cũng có thể tạo ra xung quanh mình một
trường tình yêu. Chỉ cần nhắm mắt lại và tự mình dùng tình cảm yêu thương
tưởng tượng ra một không gian tràn ngập tình cảm xung quanh mình. Để làm
được điều đó vừa phải tập luyện vừa phải có quan niệm về sự thống nhất giữa
con người và vũ trụ, về sự tồn tại của các mối quan hệ xuyên thấu mọi vật. Cần
nhận thức rõ ràng, mọi tư duy và tình cảm của con người đều có năng lượng, có
sức mạnh tái tạo hoặc phá hoại sự sống của con người.
Nguyên nhân chủ yếu của mọi sự rắc rối, phiền muộn trong cuộc sống là
do các ý nghĩ và tình cảm tiêu cực của con người gây ra. Các hình thức tư duy
như sợ hãi, đau khổ, ác, sẽ tạo ra các chương trình khá bền vững có tác dụng
huỷ hoại sự sống của con người. Khi con người chỉ chăm chú nghĩ về cái xấu,
sự sống sẽ trở nên tồi tệ và ngược lại. Như vậy, Wholedynamic vừa là khoa học
về khả năng kéo dài cuộc sống vừa là môn khoa học dạy chúng ta nên sống thế
nào cho khoẻ mạnh. Nếu Vật lí, Hoá học và các khoa học khác phát hiện ra các
biến đổi của tự nhiên và dùng các quy luật đó để khống chế, điều khiển tự nhiên
thì cũng tương tự, Wholedynamic là khoa học về sự sống, về các sinh thể, cũng
nghiên cứu các quy luật giao tiếp, nhận thức, nghiên cứu ngôn ngữ của sự
sống.
Có thể coi con người như là cái bình để đựng tư tưởng, tình cảm. Giống
như trong tự nhiên, chất thể có tác đụng đối với bình đựng nó. Tư tưởng, tình
cảm cũng có tác động trở lại đối với con người. Những lối tư duy nào có tác
dụng huỷ hoại sự sống đều có tác dụng ngăn chặn dòng thông tin tốt lành từ vũ
trụ đến với con người. Ngược lại những tư tưởng lành mạnh, tốt đẹp cũng có
tác dụng "bật đèn xanh" để đón nhận dòng thông tin tốt đẹp từ vũ trụ.
Trong thế kỉ XX đã có hàng ngàn ví dụ chứng minh các bệnh nhân mắc
bệnh hiểm nghèo trở nên khoẻ mạnh và qua khỏi bệnh tật nhờ vào lòng tin,
niềm lạc quan mạnh mẽ và tâm niệm qua khỏi sóng gió. Nếu ai đó muốn mình
khoẻ mạnh, trước hết cần nghĩ rằng mình không có bệnh, bởi lẽ ý nghĩ cũng là
một sinh thể có tác động mầu nhiệm tới cơ thể vật lí của chúng ta. Trong vật lí
học có quy luật tác dụng và phản tác dụng do Newton vĩ đại phát minh ra cách
đây mấy thế kỉ. Theo quy luật này, khi một thực thể tác động một lực lên một
thực thể khác, ngay tức khắc sẽ chịu tác dụng của một phản lực từ vật thể kia:
Nếu một người có ý nghĩ và tình cảm bực bội hoặc ghen tức đối với người khác
thì trước hết ý nghĩ và tình cảm đó có tác dụng tàn phá sức khoẻ tinh thần và
tâm trí đối với chủ thể. Tư duy thông thái của người xưa có câu: Sắt tạo ra gỉ,
đến lượt mình gỉ lại gặm nhấm tàn phá sắt". Quy luật đó cũng tương tự như
trong quá trình tâm lí và tư duy của con người. Ý nghĩ và tình cảm tiêu cực
trước hết có tác dụng xấu đối với người tạo ra và mang nó.
Nhận thức của con người cũng giống như một video camera. Mỗi một
khoảnh khắc chúng ta nhận được một khối lượng lớn thông tin từ các cơ quan
xúc cảm dưới tác dụng của ánh sáng, âm thanh, mùi vị, sóng điện từ. Cuộc
sống của chúng ta đầy ắp những thông tin như vậy. Để tránh bị quá tải và căng
thẳng trước cuộc tấn công dữ dội của thông tin, con người sử dụng nguyên tắc
hội tụ. Khi chúng ta hội tụ vào những suy nghĩ đen tối, tất cả những xu hướng
tiêu cực trong cuộc sống của chúng ta sẽ được khuyếch đại. Khi chúng ta quá
suy nghĩ về bệnh tật, chúng ta sẽ cảm thấy ốm đau và cuộc sống sẽ đầy rẫy
những cảm xúc buồn thảm. Ngược lại khi chúng ta hội tụ vào những hình tượng
tư duy tốt đẹp, cơ thể nhận được những xung lượng có lợi cho sức khoẻ. Anbe
Anxtanh đã từng nói: "Nếu một ai đó tập trung được toàn bộ năng lượng tư duy
của mình vào một vấn đề nào đó trong vòng 3 phút, người đó không những có
thể tìm được cách giải quyết vấn đề mà còn có thể trở thành thiên tài.".
Trong mỗi con người chúng ta đều có một góc bình yên, ở đó không có
những suy nghĩ về bệnh tật, nỗi sợ hãi, sự ức chế, ghen tuông đố kị. Khi chúng
ta hoà nhập được vào góc đó, dù chỉ trong khoảnh khắc, những khả năng có vẻ
khiêm nhường và nhỏ nhoi của chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ đến mức ngoài
sức tưởng tượng dường như không có gì ngăn cản nổi, sẽ tạo ra những thay
đổi lớn lao, mở ra những khả năng vô tận để phát triển hài hoà và sáng tạo. Góc
bình yên đó có thể là những kỉ niệm êm đềm thời thơ ấu, những cảnh đẹp tuyệt
mĩ của thiên nhiên được chứng kiến và ghi lại bằng những dấu ấn mạnh mẽ
trong tâm khảm.
Wholedynamic ngày nay đã ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của khoa học
và đời sống. Trong hoạt động giáo dục, Wholedynamic phát hiện khuyến khích
những nội năng trong nhân cách của học sinh. Ví dụ trong giảng dạy văn học,
trước đây, khoa học sư phạm chỉ tập trung phân tích các tác phẩm văn học
nghệ thuật, ngày nay dưới ánh sáng của khoa học Wholedynamic, việc giảng
dạy văn học còn tập trung vào sự cảm nhận tình cảm và tư tưởng sâu sắc của
tác phẩm như để hoà nhập vào tác phẩm trên cơ sở khai thác bản năng, xúc
cảm hài hoà và các định hướng thần sống động của con người. Cách giáo dục
đó tạo cho học sinh một niềm say mê tự nhiên và họ sẽ không cảm thấy việc
học là một gánh nặng bắt buộc về tâm lí và trí tuệ. Việc giảng dạy ngoại ngữ
cũng có những thay đổi căn bản. Học sinh được thay đổi phương pháp suy nghĩ
và cảm nhận thế giới bằng chính thứ ngoại ngữ mà họ đang tiếp nhận. Theo
cách học mới, học sinh không bị nhồi nhét thông tin mà học cách tạo lập các
hình ảnh tư duy. Nhờ thế thời gian học tập được rút ngắn, kiến thức được ghi
nhớ lâu, thậm chí đến suốt đời. Điều căn bản là việc học trở nên thú vị hào hứng
và cần thiết cho cuộc sống như hơi thở và thức ăn vậy.
Trong lĩnh vực sinh học, quan niệm của Wholedynamic, mỗi một tế bào
sống là một hình mẫu sống động cho toàn bộ cơ thể. Mỗi tế bào trong hàng tỉ tế
bào ngoài chức năng hoạt động sống bình thường còn đảm nhận một chức
năng nhất định. Tế bào có khả năng chuyển các xung thần kinh từ trường thông
tin. Tế bào biết rất rõ thông tin nào cần chuyển, chuyển đi đâu và lúc nào. Do đó,
các tế bào dường như sống trong một cộng đồng phối hợp chặt chẽ, hài hoà
đến mức gần như tuyệt đối.
Theo nhận xét của các nhà khoa học trong các cuộc hội thảo,
Wholedynamic sẽ là phương pháp tư duy của thế kỉ XXI, vì đó là phương pháp
tổng thể. Khi mỗi chúng ta cảm nhận được sự thống nhất giữa con người và vũ
trụ thì vũ trụ nằm ngay trong mỗi con người chúng ta.
2.2. Tưởng tượng
2.2.1. Khái niệm
Trong hoạt động thực tiễn, không phải bất kì hoàn cảnh có vấn đề nào,
tình huống nào cũng được giải quyết bằng tư duy. Điều này cũng có nghĩa là
không phải trường hợp nào cũng có đầy đủ dữ kiện để tìm ra giải pháp một cách
hợp lí và chặt chẽ. Trong những trường hợp này, con người không thể bằng tư
duy để giải quyết mà phải dùng một cách thức nhận thức khác, nhận thức bằng
tưởng tượng.
Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những
biểu tượng đã có (những hình ảnh cũ trong trí nhớ).
Trong khi tạo một biểu tượng mới nào đó trong trí tưởng tượng, con
người không thể tưởng tượng ra một điều gì hoàn toàn mới chưa được tri giác
bao giờ. Khác với tư duy, tưởng tượng không giải quyết vấn đề hay nhiệm vụ
một cách hoàn toàn chính xác mà chỉ là một mô hình để kiểm nghiệm mà thôi.
2.2.2. Đặc điểm của tưởng tượng
- Cũng như tư duy, tưởng tượng chỉ nảy sinh trong tình huống có vấn đề,
trước nhu cầu khám phá, phát hiện làm sáng tỏ cái mới, nhưng chỉ khi tính bất
định của hoàn cảnh quá lớn, không thể tư duy được. Do vậy cách giải quyết vấn
đề của tưởng tượng không có sự chặt chẽ chuẩn xác.
- Tưởng tượng là quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu
bằng hình ảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao.
- Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nhờ những hình
ảnh cụ thể đã rừng tri giác, con người dễ "mường tượng" được vấn đề và hình
thành những biểu tượng mới.
- Sự phát sinh tưởng tượng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện thể chất, điều
kiện xã hội và các yếu tố tâm lí của cá nhân.
2.2.3. Vai trò của tưởng tượng
- Tưởng tượng cần thiết trong bất kì hoạt động nào của con người. Việc
học tập, lao động, sáng tác, trò chơi... chỉ có thể có kết quả nếu có quá trình
tưởng tượng.
- Tưởng tượng cần thiết cho mọi hoạt động. Ý nghĩa quan trọng nhất của
tưởng tượng là cho phép con người hình dung được kết quả trung gian và cuối
cùng của lao động.
- Tưởng tượng tạo nên một hình mẫu sáng tươi, giúp con người giảm bớt
sự căng thẳng để tiếp cận với hiện thực, hướng về tương lai, kích thích con
người để đạt được những kết quả lớn lao, thực hiện được các ước muốn sáng
tạo của mình.
- Tưởng tượng ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nhân
cách con người, trước hết là sự phát triển về mặt đạo đức. Hình mẫu người lí
tưởng mà con người muốn vươn tới là kết quả của quá trình tưởng tượng, trên
cơ sở đó con người phấn đấu theo hình ảnh mẫu mực đã xây dựng.
Nói chung tưởng tượng là công cụ mạnh mẽ của con người để nhận thức
và cải tạo thế giới.
2.2.4. Các loại tưởng tượng
Tuỳ theo tính tích cực và hiệu quả của tưởng tượng, người ta chia thành
một số loại sau đây:
2.2.4.1. Tưởng tượng lành mạnh
Tưởng tượng lành mạnh là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm
đáp ứng những nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người. Tưởng
tượng này gồm hai loại là tái tạo và sáng tạo. Tưởng tượng tái tạo hay tưởng
tượng phục hồi là loại hình tạo ra những hình ảnh mới đối với cá nhân người
tưởng tượng và dựa trên sự mô tả của người khác, của tài liệu... Tưởng tượng
sáng tạo là quá trình xây dựng nên những hình mới chưa từng có trong kinh
nghiệm cá nhân cũng như chưa có trong xã hội, được hiện thực hoá trong các
sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị.
2.2.4.2. Tưởng tượng không lành mạnh
Tưởng tượng không lành mạnh tạo ra những hình ảnh không được thể
hiện trong cuộc sống, đưa ra những chương trình hành vi không được thực
hiện, tưởng tượng để thay thế cho hoạt động mà thôi. Tưởng tượng không lành
mạnh có thể xảy ra có chủ định hoặc không chủ định.
2.2.4.3. Ước mơ
Ước mơ là loại tưởng tượng tổng quát, hướng về tương lai, biểu hiện
những mong muốn, ước ao gắn liền với nhu cầu con người.
Những hình tượng mà con người dựng lên trong mơ ước của mình có
những đặc điểm như sau:
- Tính chất cụ thể, sinh động sáng sủa của hình tượng, có nhiều chi tiết
vụn vặt.
- Cách thức cụ thể để thực hiện ước mơ không rõ ràng, chỉ tưởng tượng
những biện pháp rất chung chung.
- Hình tượng đầy xúc cảm, đầy quyến rũ với người ước mơ.
- Kết hợp ước mơ với lòng tin sẽ có thể thực hiện được nó, với lòng mong
muốn tha thiết để biến ước mơ thành hiện thực.
Nhờ những đặc điểm trên đây, ước mơ đóng vai trò quan trọng thúc đẩy
sáng kiến, tăng thêm sức mạnh cho con người trong những lúc khó khăn nhất.
Cũng cần phân biệt những ước mơ tươi sáng với những ước mơ xa rời cuộc
sống, những ước vọng trống rỗng vô căn cứ và có thể gọi đó là ảo tưởng.
2.2.5. Những cách phản ánh tái tạo hiện thực trong quá trình tưởng tượng
Lao động không những là nguồn phát sinh ra tưởng tượng mà còn là
phương tiện thường xuyên để hoàn chỉnh và phát triển nó. Lao động đã hỗ trợ
cho sự hình thành và cải tiến những cách thức thay đổi và biến hoá biểu tượng
ở con người trong quá trình tưởng tượng. Hình ảnh của tưởng tượng được tạo
ra bằng nhiều cách khác nhau:
- Thay đổi độ lớn, kích thước, số lượng của vật hay của các thành phần
của sự vật so với thực tế tạo nên những hình tượng tưởng tượng như con
người khổng lồ, Phật trăm tay...
- Kết hợp, gắn vào tưởng tượng của mình những thành phần hoặc những
nguyên tố bị tách rời từ các đối tượng khác nhau tạo nên một biểu tượng mới
chưa hề tồn tại trong thực tế. Hình ảnh con rồng trong lịch sử Việt Nam là một ví
dụ.
- Tạo nên hình ảnh mới bằng cách nhấn mạnh một tính chất hoặc một yếu
tố nào đó của đối tượng. Đây là một hình thức cường điệu vấn đề, ví dụ như các
bức tranh châm biếm.
- Tạo ra một hình tượng mới sau khi khái quát các nét có chung ở nhiều
đối tượng cùng loại (kiểu mẫu hoá một hình tượng trong văn học). Cũng có thể
xem đây là phương pháp điển hình hoá, tổng hợp sáng tạo, khái quát những
thuộc tính và đặc điểm cá biệt, điển hình của nhân cách.
3. NGÔN NGỮ VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC3.1. Khái niệm
Trong hoạt động thực tiễn, con người nhận thức thế giới, tiếp thu kinh
nghiệm sống, truyền đạt ý tưởng của cá nhân cho người khác và thực hiện
nhiều vai trò xã hội khác là nhờ ngôn ngữ.
Trong quá trình sống và hoạt động cùng nhau, con người có nhu cầu phải
giao tiếp, trao đổi, tiếp xúc với nhau và nhận thức hiện thực. Khi lao động cùng
nhau, hai quá trình giao tiếp và nhận thức không tách rời nhau - con người lao
động để thông báo cho nhau về sự vật, hiện tượng nào đó, nhưng để thông báo
tới con người lại phải khái quát sự vật, hiện tượng ấy vào trong một lớp, một
nhóm các sự vật, hiện tượng cùng loại. Trong trường hợp này ngôn ngữ đã ra
đời và đáp ứng được nhu cầu thống nhất các hoạt động đó.
Trong sinh hoạt, con người sử dụng các kí hiệu để thực hiện hoạt động
của mình. Kí hiệu cũng có chức năng của công cụ - hướng vào hoạt động và
làm thay đổi hoạt động tuỳ theo các thuộc tính vốn có trong kí hiệu. Ngôn ngữ là
một hệ thống các kí hiệu – từ ngữ. Kí hiệu - từ ngữ là một hiện tượng tồn tại
khách quan trong đời sống tinh thần con người, là một phương tiện xã hội đặc
biệt. Kí hiệu từ ngữ làm thay đổi hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ, hoạt
động bên trong, nó hương vào và làm trung gian hoá cho các hoạt động tâm lí
cấp cao của con người như tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng...
Ngôn ngữ là phương tiện truyền thông tư tưởng hay tình cảm. Nhưng một
ngôn ngữ trưởng thành bao giờ cũng là một hệ thống kí hiệu có tính quy ước và
có thể nói ngôn ngữ là những kí hiệu có giá trị giống nhau đối với mỗi cá thể của
cùng một tập thể dùng để biểu hiện tình cảm hay tư tưởng. Ngôn ngữ là một hệ
thống kí hiệu đặc biệt, dùng làm phương tiện giao tiếp và công cụ để tư duy.
3.2. Các chức năng của ngôn ngữ
3.2.1. Chức năng chỉ nghĩa
Ngôn ngữ được dùng để chỉ chính sự vật, hiện tượng nghĩa là làm vật
thay thế cho sự vật, hiện tượng. Ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có thể được
biểu hiện qua sự khách quan hoá của ngôn ngữ ngoài phạm vi nhận thức cảm
tính. Chức năng chỉ nghĩa của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng làm
phương tiện tồn tại, truyền đạt và nắm vững kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài
người.
3.2.2. Chức năng truyền thông
Xã hội loài người tồn tại dựa trên sự trao đổi. Sự trao đổi tạo thành một
quá trình tiếp xúc liên tục giữa người và người. Tiếng nói là mối liên hệ sinh
động bền bỉ và phong phú nhất, nối liền các thế hệ đã, đang và sẽ sống của một
dân tộc thành một chuỗi lịch sử vĩ đại. Trong gia đình, trong cơ quan, trong một
quốc gia, con người sử dụng ngôn ngữ để truyền thông, thông báo cho nhau
những ý muốn, nguyện vọng, tình cảm một cách chính xác nhất. Ngôn ngữ là
phương tiện truyền thông chính xác nhất giữa con người.
Ngôn ngữ, yếu tố của văn hoá, nó giúp con người tích luỹ và lưu truyền di
sản tinh thần của tổ tiên. Ngôn ngữ còn là công cụ để truyền tay văn hoá, khoa
học.
Chức năng truyền thông của ngôn ngữ gọi là chức năng giao tiếp. Giao
tiếp bao giờ cũng dẫn đến thay đổi hành vi.
3.2.3. Chức năng khái quát hoá
Ngôn ngữ là sản phẩm lịch sử của xã hội. Cả một dân tộc hoặc xã hội là
người sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ chứ không phải của vài người cá biệt nào.
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng lẻ mà chỉ một loại, một lớp sự
vật, hiện tượng có chung những thuộc tính bản chất: Vì vậy ngôn ngữ là
phương tiện hữu hiệu của hoạt động trí tuệ.
Hoạt động trí tuệ bao giờ cũng có tính khái quát và không thể tự diễn ra,
mà phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện. Chức năng khái quát hoá của ngôn
ngữ còn gọi là chức năng nhận thức hay chức năng làm công cụ hoạt động trí
tuệ.
3.3. Các tính chất cơ bàn của ngôn ngữ
3.3.1. Tính nội dung của ngôn ngữ
Tính nội dung được xác định bằng số lượng những ý nghĩ, tình cảm,
nguyện vọng muốn chuyển tải, nói lên mức độ và sự tương ứng với thực tại của
chúng. Ngôn ngữ có thể giàu hoặc nghèo nội dung tuỳ theo số lượng và tính
chất của các ý nghĩ, tình cảm và mong muốn được biểu lộ ra. Có thể gọi ngôn
ngữ là có nội dung nếu một vấn đề nào đó được trình bày một cách tường tận,
nếu tình cảm và ý nghĩ trong đó thực thà và sâu sắc. Trái lại, những tình cảm và
ý nghĩ hạn chế, trống rỗng, hời hợt sẽ làm cho ngôn ngữ ít nội dung.
Tính nội dung của ngôn ngữ phụ thuộc vào việc lựa chọn và sử dụng các
từ để biểu lộ ý nghĩ, tình cảm và nguyện vọng của con người. Một người có vốn
từ giàu và đa dạng có thể biểu lộ những ý nghĩ và các sắc thái khác nhau của ý
nghĩ một cách thích đáng. Vốn từ ấy là điều kiện cho ngôn ngữ có nội dung.
Nhưng cần chú ý rằng vốn từ ấy chưa đủ làm cho ngôn ngữ có nội dung mà còn
phải biết cách lựa chọn sử dụng thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể.
3.3.2. Tính dễ hiểu của ngôn ngữ
Ngôn ngữ sẽ trở nên dễ hiểu khi nó bao gồm nhưng câu ngắn, không lạm
dụng quá nhiều từ chuyên môn và cấu trúc ngữ pháp biểu hiện được bản chất
của ý nghĩ cần diễn đạt.
3.3.3. Tính diễn cảm của ngôn ngữ
Ngôn ngữ có thể mang tính diễn cảm trong sáng, mạnh mẽ hoặc ngược
lại, mờ mịt, rời rạc. Tính diễn cảm của ngôn ngữ được bảo đảm trước hết nhờ
cách phát ngôn, nhấn mạnh đúng chỗ, lên xuống giọng hợp lí. Những điều này
được biểu hiện thông qua ngữ điệu của người nói.
3.3.4. Tính tác động của ngôn ngữ
Tính tác động là ảnh hưởng của ngôn ngữ đến tư tưởng, tình cảm và ý
chí của người khác, tới niềm tin và cách cư xử của họ.
Phương tiện tác động của ngôn ngữ có ý nghĩa lớn trong công tác giáo
dục cũng như chỉ huy, lãnh đạo. Tính tác động của ngôn ngữ trước tiên được
thể hiện ở nội dung tư tưởng của nó. Nếu nội dung của ngôn ngữ phản ánh
được quyền lợi và nhu cầu của một số người nào đó, nếu nội dung ấy giúp họ
nhận thức đúng được bản chất của sự kiện thì ngôn ngữ ấy có khả năng củng
cố niềm tin của con người. Lòng trung thực và tính thuyết phục của người nói sẽ
buộc người nghe phải tin vào lời nói của chính mình cũng có ý nghĩa lớn.
Ý nghĩa tác động của ngôn ngữ rất khác nhau. Bằng ngôn ngữ, chủ thể có
thể dạy bảo người khác, khuyên răn họ, ngăn ngừa những hậu quả do hành vi
của họ gây ra... Trong ngôn ngữ có thể biểu hiện lời yêu cầu, ra lệnh, cấm đoán.
Tất cả những điều ấy thực hiện bằng các biện pháp phát ngôn theo văn phạm
và lời văn nhất định.
Dạy bảo và căn dặn làm cho ngôn ngữ có đặc điểm riêng - ngôn ngữ
mang tính chất giảng giải, phân tích những mặt trái và mặt phải của một hành
động. Trong lời căn dặn, người nói trước hết cần làm cho người nghe hiểu được
hành vi và có thái độ nhất định đối với hành vi đó.
Lời khuyên nói ra trong trường hợp khi người kia dao động, chưa dứt
khoát hoặc không biết nên làm như thế nào. Giọng nói có tính chất lời khuyên
nên đầy sự tin tưởng vào khả năng, tính hợp lí và cần thiết phải làm chính điều
ấy chứ không phải là một hành vi nào ngược lại.
Chỉ dẫn có ý nghĩa tác động, nói ra một cách ngắn gọn, không cho phép
bàn tán, không gây ra ngờ vực trong việc thực hiện vấn đề nào đó.
Thỉnh cầu có mục đích đạt được ở người kia sự đáp ứng một lợi ích nào
đó của mình.
Ra lệnh có mục đích tác động trực tiếp lên ý chí người khác, đó là lời yêu
cầu, đòi hỏi thực hiện một điều gì đó. Giọng nói khi ra lệnh biểu lộ nghị lực và ý
chí của người ra lệnh. Bản thân giọng nói khi đó đã không cho phép có ý kiến
chống lại điều này làm cho ra lệnh khác với lời thỉnh cầu.
Những tính chất của ngôn ngữ trên đây cho ta một sự khẳng định rằng
ngôn ngữ của con người hoàn toàn khác với con vật. Cũng dùng tín hiệu để
truyền thông nhưng tín hiệu loài vật dùng thì bất biến và hạn chế. Tín hiệu của
loài vật chỉ dùng cho đồng loại, không thể phố biến cho loài khác. Tín hiệu của
loài vật mang tính chất di truyền, không có sự đối thoại và hết sức giới hạn.
Ngôn ngữ của con người biến đổi không ngừng, đào thải cái cũ và bổ
sung những thành quả mới. Hơn nữa, con người đã thành công trong việc đem
ngôn ngữ loài người huấn luyện cho một số loài vật để chúng hiểu rõ ý muốn
của người muốn điều khiển chúng.
3.4. Các loại ngôn ngữ
Có một số loại ngôn ngữ liên quan với nhau trên những bình diện nhất
định, người ta chia ngôn ngữ thành mấy loại sau đây:
3.4.1. Ngôn ngữ bên ngoài
Ngôn ngữ bên ngoài gồm ngôn ngữ bằng lời và ngôn ngữ không lời, trong
ngôn ngữ bằng lời có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ nói biểu hiện qua âm thanh, phục vụ cho mục đích tiếp xúc trực
tiếp với người khác và bao giờ cũng hướng tới người nghe. Ngôn ngữ nói có thể
là 1 độc thoại hay đối thoại.
Ngôn ngữ độc thoại thể hiện khi người nói trong khoảng thời gian khá lâu
để giải bày tư tưởng của mình mà không bị người khác ngắt lời. Ngôn ngữ độc
thoại có đặc điểm là nó trình bày tuần tự và trọn vẹn ý định nói, hình thức văn
phạm đầy đủ. Các hình thức ngôn ngữ độc thoại là các bài giảng, bài báo cáo,
đọc thơ văn...
Ngôn ngữ độc thoại có những đặc điểm sau đây
- Có tính triển khai mạnh. Trong lời nói độc thoại, do rất ít sử dụng các
thông tin ngoài ngôn ngữ nên để người nghe hay người đọc hiểu được, người
nói cần phải nhắc đến, gợi ra hay miêu tả đối tượng được nói đến.
- Có tính chủ động và không rõ ràng. Ngôn ngữ độc thoại đòi hói phải xác
định rõ nội dung truyền đạt và phải biết xây dựng nội dung một cách có chủ định
và phải biết thể hiện nó theo một trình tự xác định, chủ động.
- Có tính tổ chức cao. Để độc thoại, người nói phải lập chương trình, kế
hoạch không phải cho từng câu hay từng phát ngôn riêng lẻ mà là cho toàn bộ
lời độc thoại của mình:
Ngôn ngữ đối thoại là cuộc hội thoại có sự tham gia của ít nhất hai người.
Khác với độc thoại, ngôn ngữ đối thoại không liên tục, nó không phụ thuộc vào
kế hoạch đã định trước mà phụ thuộc vào tính chất và quá trình toạ đàm, bao
giờ cũng gắn bó với sự cần thiết phải trả lời các câu hỏi hoặc những lời phản hồi
của đôi bên. Cấu trúc văn phạm của loại ngôn ngữ này có những điểm khác
biệt, ít khi nó bao gồm những câu trọn vẹn, đúng cú pháp.
Ngôn ngữ đối thoại có mấy đặc điểm sau:
- Có tính chất rút gọn. Do người nói và người nghe đều có mặt trong hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể nên có nhiều nội dung không cần thể hiện nhờ ngôn ngữ
mà được thay bằng ngôn ngữ phụ như cử chỉ, điệu bộ... vì vậy, nhiều khi ngôn
ngữ đối thoại rất khó hiểu đối với những người không tham gia đối thoại.
- Ít có tính chủ động và thường bị động. Những lời đối đáp trong ngôn ngữ
đối thoại thường tuỳ thuộc vào những tình huống cụ thể nên ít được kế hoạch
hoá.
- Ít có tính tổ chức. Những lời đối đáp trong ngôn ngữ đối thoại thường
không có chương trình, không được dự liệu trước một cách có hệ thống.
Ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ viết về mặt cấu trúc đầy đủ hơn và có tính chất cú pháp hơn.
Ngôn ngữ viết không hướng tới người nghe mà là viết cho người đọc và là
người trực tiếp tri giác ngôn ngữ sống của tác giả và vì vậy cũng không có khả
năng tóm được ý của ngôn ngữ.
Ngôn ngữ viết đòi hỏi phải lột tả mối liên quan của những tư tưởng định
biểu lộ. Ngôn ngữ viết có một số tính chất sau đây:
- Tính triển khai của ngôn ngữ viết không mạnh. Ngôn ngữ viết không có
mối liên hệ ngược với người nói chuyện, không sử dụng các phương tiện hỗ trợ.
- Tính chỉ định, chủ động và tổ chức rất cao và chặt chẽ. Chủ thể sử dụng
ngôn ngữ viết một cách gián tiếp, người viết không thể đánh giá hết những phản
ứng của người đọc. Để thực hiện những điều muốn biểu lộ và người đọc không
thể hiểu sai điều định viết, cần phải ý thức thật rõ mức độ phù hợp, có lợi hay
không của các phương tiện ngôn ngữ được lựa chọn.
Ngôn ngữ không lời
Ngôn ngữ không lời là loại ngôn ngữ không được thể hiện bằng lời nói
hoặc chữ viết mà thể hiện qua những phương tiện khác như ánh mắt, nụ cười,
cử chỉ, điệu bộ, sự chuyển động của cơ thể, hành vi... Ngôn ngữ không lời có
giá trị cao khi chủ thể biết cách sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn với ngôn ngữ
bằng lời.
Thử đọc ý nghĩ qua ngôn ngữ cơ thể!
Ngôn ngữ cơ thể được hiểu chung nhất là những hành vi vô thức của cơ
thể, biểu hiện một thông điệp. Các ví dụ sau đây về ngôn ngữ cơ thể có thể rất
hữu ích trong việc giao tiếp và sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn những gì người khác
muốn nói.
Ngôn ngữ cử chỉ là một dạng giao tiếp sử dụng các cử động của cơ thể
hoặc điệu bộ thay cho âm thanh, tiếng nói và các dạng giao tiếp khác. Trong tất
cả các bài phát biểu hằng ngày và khoa học tâm lí chung khái niệm chung nhất
thường được gán cho ngôn ngữ cơ thể là những hành vi vô thức, mặc dù sự
phân cách giữa hai loại: ngôn ngữ cơ thể vô thức và có ý thức vẫn còn đang gây
tranh cãi. Chẳng hạn, một nụ cười có thể được tạo ra một cách có chủ ý hoặc
không.
Ngôn ngữ cơ thể bắt nguồn từ giao tiếp động vật. Mối liên quan giữa ngôn
ngữ cơ thể và sự giao tiếp của động vật đã được bàn đến từ lâu. Ngôn ngữ cơ
thể là sản phẩm của cả gene và ảnh hướng của môi trường. Những đứa trẻ mù
cũng cười mỉm và cười to ngay cả khi chúng không bao giờ biết đến nụ cười.
Nhà phong tục học người Iran Eibl-Eibesfeldt khẳng định rằng một số yếu
tố cơ bản của loại ngôn ngữ này là đặc điểm chung của các nền văn hoá, và vì
thế gắn với những hành động bản năng. Một số dạng ngôn ngữ cơ thể người có
tính kế thừa từ cử chỉ giao tiếp của các loài linh trưởng khác, mặc dù thường
mang những thay đổi về ý nghĩa. Nhiều cử chỉ tinh tế hơn, thay đổi theo các nền
văn hoá (chẳng hạn điệu bộ diễn tả "có" hoặc là “không”) bắt buộc phải được
học hoặc thay đổi trong quá trình học hỏi, thường do những quan sát vô thức từ
môi trường.
Hãy xem các ví dụ sau gây:
- Đứng chống tay vào hông nghĩa là đã sẵn sàng hay sự hung hăng.
- Nếu một người ngồi trong tư thế chân bắt chéo một chân đá nhẹ thì có
nghĩa là anh ta đang rầu muốn chết.
- Tay bất chéo lên ngực phản ánh sự tự vệ.
- Nếu ai đó tì tay vào má nghĩa là họ đang nghĩ hay ước lượng diều gì đó.
- Sờ xoa nhẹ lên mũi nghĩa là sự phản đối, nghi ngại, nói dối.
- Ngả đầu vào tay, mắt cúi xuống cũng tỏ ý buồn rầu.
- Ai đó xoa tay vào nhau chứng tỏ họ đã biết cách giải quyết chuyện gì.
- Người ngồi với đôi tay quàng sau đầu và bắt chéo chân nghĩa là anh ta
tin tưởng và cảm thấy tốt đẹp.
- Nghiêng đầu nghĩa là thích thú.
- Khi ai đó gõ vào cằm, nghĩa là anh hay chị ta đang ra quyết định.
(theo Pravda)
3.4.2. Ngôn ngữ bên trong
Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ dành cho chính chủ thể, không thể dùng
nó để liên hệ với người khác. Ngôn ngữ bên trong có ý nghĩa rất lớn đối với đời
sống con người vì nó liên quan mật thiết với tư duy. Ngôn ngữ bên trong tham
gia vào tất cả các quá trình tư duy nhằm giải quyết bất kì vấn đề gì.
Đặc điểm của ngôn ngữ bên trong là không biểu thị bằng tiếng mà sự biểu
thị được thay thế bằng những cử chỉ ngôn ngữ phôi thai. Mặc dù hoàn toàn
không biểu hiện bằng lời, ngôn ngữ bên trong vẫn phải phục tùng các quy tắc
văn phạm, đặc trưng cho cách nói của người ấy, chỉ có điều nó không lộ rõ như
ngôn ngữ bên ngoài.
Các dạng ngôn ngữ trên đây có sự liên hệ mật thiết và có thể chuyển hoá
cho nhau. Chất lượng của mỗi ngôn ngữ tuỳ thuộc vào sự rèn luyện và ý thức
của mỗi cá nhân trong quá trình hoạt động của mình.
3.5. Vai trò của ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một trong hai yếu tố đã làm cho con vật trở thành người. Nói
cách khác ngôn ngữ đã góp phần tích cực làm cho các quá trình tâm lí của con
người có chất lượng khác hẳn so với con vật. Ngôn ngữ đã góp phần làm cố
định những kinh nghiệm của loài người, nhờ đó thế hệ sau có được sức mạnh
tinh thần của thế hệ trước. Có thể nói, ngôn ngữ liên quan đến tất cả các quá
trình tâm lí của con người, là thành tố quan trọng nhất về mặt nội dung và cấu
trúc tâm lí người, đặc biệt là các quá trình nhận thức.
- Vai trò của ngôn ngữ trong quá trình nhận thức cảm tính
Ngôn ngữ ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến độ nhạy cảm của cảm giác, làm
cho cảm giác được thu nhận rõ ràng hơn, chắc chắn hơn. Ngôn ngữ đóng vai
trò kích thích các cảm giác của con người trong quá trình con người tiếp xúc với
môi trường xung quanh.
Ngôn ngữ làm cho các quá trình tri giác diễn ra dễ dàng hơn, nhanh
chóng và làm cho các sự vật, hiện tượng tri giác được trở nên khách quan, đầy
đủ, chính xác hơn. Khi quan sát, ngôn ngữ lại càng trở nên cần thiết hơn nhiều
vì quan sát là tri giác tích cực, có chủ định và có mục đích. Nhờ ngôn ngữ mà
tính có chủ định, tính có mục đích, tính có ý thức được biểu đạt, điều chỉnh, điều
khiển.
Đối với trí nhớ, ngôn ngữ cũng có ảnh hưởng quan trọng. Ngôn ngữ tham
gia tích cực vào các quá trình trí nhớ. Việc ghi nhớ sẽ trở nên dễ dàng hơn và
có kết quả tốt hơn nếu ta nói lên thành lời điều cần ghi nhớ.
Không có ngôn ngữ, sự ghi nhớ có chủ định sẽ không thể thực hiện được.
Ngôn ngữ là một phương tiện để ghi nhớ, là một hình thức để lưu giữ
những điều cần nhớ. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể chuyển hẳn những thông
tin cần nhớ ra bên ngoài con người. Chính như vậy, con người lưu giữ và truyền
đạt được kinh nghiệm của mình cho thế hệ sau.
- Vai trò của ngôn ngữ trong nhận thức lí tính
Ngôn ngữ liên quan chặt chẽ đến tư duy con người. Ngôn ngữ và tư duy
không đồng nhất với nhau. Tư duy dùng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ
trong quá trình tư duy. Chính điều này làm cho tư duy của con người khác về
chất so với con vật.
Lời nói bên trong là công cụ quan trọng của tư duy, đặc biệt khi giải quyết
những nhiệm vụ khó khăn. Ngôn ngữ cũng giữ vai trò lớn trong tưởng tượng.
Ngôn ngữ là phương tiện để hình thành và biểu đạt, duy trì những hình ảnh mới
của tưởng tượng. Ngôn ngữ giúp làm chính xác hoá các hình ảnh của tưởng
tượng đang nảy sinh, gắn chúng lại với nhau. Ngôn ngữ làm cho quá trình
tưởng tượng biến thành một quá trình có ý thức, được điều khiển tích cực có kết
quả và chất lượng cao.
Ngôn ngữ liên quan mật thiết với tư tưởng. Tư tưởng tạo ra ngôn ngữ và
ngôn ngữ kiện toàn tư tưởng. Trong quá trình biểu hiện tư tưởng, ngôn ngữ đã
làm công việc kết hợp, hoàn bị tư tưởng. Ngôn ngữ cũng xã hội hoá tư tưởng,
nhờ nó tư tưởng được truyền thông. Thông qua các mối quan hệ xã hội được
thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ mà tư tưởng cá nhân phong phú thêm.
3.6. Sử dụng ngôn ngữ
Việc sử dụng ngôn ngữ một cách hợp lí và có những nghệ thuật nhất định
sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao giá trị cuộc sống. Như chúng ta đã
biết, ngôn ngữ là phương tiện truyền thông tư tưởng hay tình cảm. Nhưng một
ngôn ngữ trưởng thành bao giờ cũng là một hệ thống các kí hiệu có tính quy
ước. Tính chất quy ước của ngôn ngữ khiến nó trở nên trừu tượng và khái quát.
Cần biết cách nói và viết một ngôn ngữ thành một nghệ thuật nói, một
nghệ thuật viết. Một ngôn ngữ được xem là hoàn chỉnh nếu mỗi từ chỉ thể hiện
một ý tưởng mà thôi. Tuy nhiên, ngôn ngữ luôn luôn hạn chế không thể thoả
mãn cho việc diễn tả đủ tình ý cá nhân trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy cùng
một từ, con người có thể gán cho nó những ý nghĩa khác nhau tuỳ lúc, tuỳ nơi.
Từ đó nảy sinh nghệ thuật nói, nghệ thuật viết.
Tuy lựa lời mà nói nghĩa là có thể sử dụng các biện pháp tu từ cho câu
văn bóng bẩy, đẹp đẽ hơn, nhưng không thể quên mục đích chính của ngôn ngữ
là truyền tải tư tưởng. Muốn đạt yêu cầu này, ngôn ngữ đòi hỏi sự trong sáng,
mềm dẻo và uyển chuyển.
Trong nghệ thuật nói chuyện nên sử dụng ngôn ngữ cảm xúc. Ngôn ngữ
cảm xúc gồm cử chỉ, thái độ, các biểu lộ cảm xúc, giọng nói, sự thinh lặng... nhờ
đó ngôn ngữ sẽ tăng thêm sức thuyết phục.
Có thể nói rằng, ngôn ngữ mở rộng và phong phú hoá trí tuệ, khách quan
hoá tình cảm và chính xác hoá tư tưởng, giúp chủ thể vượt khỏi sự mơ hồ, sai
lệch, chủ quan, cho phép con người phán đoán, suy luận đạt chân lí.
4. TRÍ NHỚ VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC4.1. Khái niệm
Trí nhớ là quá trình ghi nhớ, gìn giữ và nhớ lại những kinh nghiệm đã trải
qua trong quá khứ. Các hình ảnh của tri giác, ý nghĩ, khát vọng, hoạt động, hành
vi của con người đã xảy ra trong kinh nghiệm trước đây thường không phải biến
đi không để lại dấu vết gì, mà còn lưu lại dưới dạng các hình ảnh trí nhớ nhất
định. Các hình ảnh này được gọi là biểu tượng, chúng tham gia một cách hữu
cơ vào các hoạt động tâm lí tiếp theo. Nét đặc trưng nhất của trí nhớ là trung
thành với tất cả những gì cá nhân đã trải qua, trí nhớ hoạt động một cách máy
móc, trí nhớ không làm thay đổi một chút gì trong các yếu tố đã được cá nhân
trải qua. Những vấn đề này làm phân biệt trí nhớ với các quá trình nhận thức và
đặc biệt phân biệt với tưởng tượng. Chỉ có con người mới có trí nhớ, máy tính
giúp chúng ta lưu trữ thông tin và sử dụng thông tin khi cần thiết nhưng máy tính
chỉ có bộ nhớ mà không có trí nhớ.
4.2. Ý nghĩa của trí nhớ trong hoạt động của con người
Trí nhớ là quá trình tâm lí có liên quan chặt chẽ với toàn bộ đời sống tâm
lí con người. Nhờ có trí nhớ mà con người hình thành nên được các biểu tượng
về các sự vật hay hiện tượng đã được tri giác trước đây. Nhờ vậy, nội dung của
ý thức con người không giới hạn trong các cảm giác và tri giác hiện có mà còn
bao gồm cả những kinh nghiệm và kiến thức đã thu được trước đây. Con người
nhớ các ý nghĩ của mình, giữ gìn trong trí nhớ của mình các khái niệm đã nảy
sinh về các vật thể và các quy luật tồn tại của nó. Trí nhớ cho phép con người
sử dụng các khái niệm vào trong hoạt động, trong hành vi tương lai. Nếu không
có trí nhớ, tư duy của con người sẽ bị hạn chế rất nhiều, bởi vì nó chỉ dựa trên
những tài liệu thu được trong quá trình tri giác trực tiếp mà thôi.
Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lí
bình thường, ổn định, lành mạnh. Trí nhớ cũng là điều kiện để con người phát
triển các chức năng tâm lí bậc cao, tích luỹ kinh nghiệm và sử dụng kinh nghiệm
đó ngày càng tốt hơn trong đời sống và trong hoạt động, đáp ứng ngày càng
cao những yêu cầu của cuộc sống cá nhân và xã hội.
Trí nhớ tham gia một cách hữu cơ vào quá trình tri giác. Bất kì một sự tri
giác nào cũng đòi hỏi phải hiểu được cái phải tri giác, và điều đó chỉ có thể thực
hiện được với sự tham gia của các biểu tượng từ kinh nghiệm trước đây khi
chúng được nhớ lại trong trí nhớ. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra
quá trình nhận thức lí tính (tư duy và tưởng tượng) và làm cho quá trình này đạt
được kết quả hợp lí, trí nhớ đã cung cấp các tài liệu do nhận thức cảm tính thu
nhận cho quá trình nhận thức lí tính một cách chính xác và đầy đủ.
4.3. Cơ sở sinh lí của trí nhớ
Cơ sơ sinh lí của trí nhớ là những dấu vết của quá trình thần kinh đã có
trước đây và đang được giữ gìn trong vỏ não nhờ có tính dẻo của hệ thần kinh.
Bất kì một quá trình thần kinh nào do kích thích bên ngoài gây nên dù là hưng
phấn hay ức chế, cũng đều xảy ra đối với tế bào thần kinh mà không phải không
để lại dấu vết nào. Lí luận về sự hình thành những đường liên hệ thần kinh tạm
thời của Paplop được xem là lí luận về cơ chế hình thành trí nhớ cá nhân. Phản
xạ có điều kiện là cơ sở sinh lí của sự ghi nhớ. Sự củng cố, bảo vệ đường liên
hệ tạm thời được thành lập là cơ sở sinh lí của sự giữ gìn và tái hiện.
Các mối liên hệ thần kinh tạm thời được tạo nên nhờ tri giác cũng không
phải không đổi. Trong quá trình hoạt động đa dạng của con người, chúng luôn
luôn thay đổi và phức tạp hoá thêm, đồng thời vừa tham gia vào cái mới với
những sự hưng phấn còn lưu lại khác, vừa được cấu tạo lại dưới ảnh hưởng
của những kinh nghiệm ngày càng được mở rộng thêm.
Trong vỏ não, mỗi lần có sự nhớ lại thì lại xảy ra một quá trình sinh lí mới
không phải là sự sao chép hoàn toàn cái đã xảy ra khi tri giác. Vì vậy biểu tượng
được nhớ lại trong trí nhớ cũng không phải là sự sao chép hoàn toàn đúng tri
giác trước đây, mà luôn luôn có sự biến dạng ít nhiều..
4.4. Các loại trí nhớ
Trí nhớ được phân loại tuỳ theo đặc điểm của hoạt động trong đó diễn ra
quá trình ghi nhớ cũng như tái hiện. Có thể phân ra các loại trí nhớ sau đây:
4.4.1. Căn cứ vào nội dung được phản ánh
Căn cứ vào nội dung được phản ánh, trí nhớ có thể được phân loại thành:
- Trí nhớ vận động
Loại trí nhớ này phản ánh những cử động và hệ thống cử động, chủ thể
nhớ lại những sự vận động, những hành động mà mình đã thực hiện trước đây,
họ không hành động lại nhưng họ có biểu tượng về hành động, vận động ấy. Trí
nhớ vận động có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành những kĩ xảo thực
hành và lao động.
- Trí nhớ cảm xúc
Trí nhớ cảm xúc phản ánh những rung cảm, tình cảm đã diễn ra trong
hoạt động trước đây. Những cảm xúc, tình cảm trở thành những tín hiệu đặc
biệt, hoặc thúc đẩy con người hành động hoặc nhắc nhở con người về những
hành vi trước đây đã gây ra tình cảm ấy. Khi trở về một nơi nào đó đầy ắp
những kỉ niệm xưa, không gian cũ trước mắt, con người cũ trước mắt... sẽ làm
chủ thể nhớ lại những cảm xúc từng có trước đây ở không gian này, với những
con người này.
- Trí nhớ hình ảnh
Trí nhớ hình ảnh là loại trí nhớ phản ánh những hình ảnh, biểu tượng thị
giác, khứu giác, vị giác của các sự vật, hiện tượng đã tác động trước đây. Loại
trí nhớ này có thể đạt đến một trình độ phát triển rất cao thường trong những
điều kiện nó phải bù trừ hoặc thay thế cho những loại trí nhớ đã bị mất. Trí nhớ
hình ảnh đặc biệt phát huy trong loại hình lao động nghệ thuật.
- Trí nhớ từ ngữ - logic
Loại trí nhớ này phản ánh những tư tưởng, ý nghĩ của con người, ý nghĩ,
tư tưởng không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được. Vì vậy, người ta gọi trí
nhớ này là trí nhớ từ ngữ - logic.
4.4.2. Căn cứ vào tính mục đích
Căn cứ vào tính mục đích, trí nhớ có thể được phân loại thành:
- Trí nhớ không chủ định
Trí nhớ không chủ định là loại trí nhớ trong đó việc ghi nhớ, gìn giữ và tái
hiện một cái gì đó được thực hiện không theo một mục đích trước, không được
thực hiện theo một kế hoạch đã xác định trước. Trí nhớ không chủ định thường
xuất phát từ các yếu tố tình huống, bên ngoài.
- Trí nhớ có chủ định
Trí nhớ có chủ định là loại trí nhớ có mục đích khi ghi nhớ, gìn giữ và tái
hiện cái gì đó. Trong trường hợp này, con người dùng các biện pháp kĩ thuật để
ghi nhớ.
4.4.3. Căn cứ vào sự tồn tại theo thời gian
Căn cứ vào sự tồn tại theo thời gian, trí nhớ có thể được phân loại thành:
- Trí nhớ ngắn hạn
Là loại trí nhớ ở ngay sau giai đoạn vừa ghi nhớ, trong một khoảng thời
gian rất ngắn. Khi một tài liệu nào đó được củng cố trong trí nhớ thì nó cần
được chủ thể thay đổi, sắp xếp một cách thích hợp. Việc sắp xếp này cần một
khoảng thời gian nhất định, gọi là thời gian củng cố. Trí nhớ ngắn hạn được con
người sử dụng trong trường hợp phải thực hiện những thao tác tức thời. Sau khi
hành động này đã hoàn thành thao tác thì trí nhớ sẽ không cần thiết nữa. Vì vậy,
nhiều lúc người ta gọi trí nhớ ngắn hạn là trí nhớ thao tác, trí nhớ hành động.
- Trí nhớ dài hạn
Trí nhớ dài hạn xảy ra khi thời gian củng cố các dấu vết được kéo dài sau
nhiều lần lặp lại và tái hiện, những dấu vết ấy được giữ gìn lâu. Để trí nhớ dài
hạn có chất lượng tốt, ở giai đoạn đầu, cá nhân cần có sự luyện tập để củng cố,
tái hiện nhiều lần và sử dụng nhiều biện pháp ghi nhớ khác nhau.
Tuỳ theo nhiệm vụ và yêu cầu khác nhau trong hoạt động của con người,
cả hai loại trí nhớ này có vai trò quan trọng trong đời sống và lao động.
4.4.4. Căn cứ quv sự hoạt động của các giác quan
Trong quá trình hoạt động, mỗi người thường thiên về việc sử dụng một
giác quan nào đó là chủ yếu khi ghi nhớ, củng cố, tái hiện. Đó là một đặc điểm
cá nhân của trí nhớ mà khi rèn luyện, mỗi người cần lưu ý tới.
Các loại trí nhớ dù được phân biệt dưới các dạng khác nhau, được con
người sử dụng ít hay nhiều tuỳ thuộc vào hoàn cảnh nhưng đều có sự liên hệ
mật thiết với nhau và có sự ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau.
4.5. Các giai đoạn của trí nhớ
Trí nhớ bao gồm nhiều quá trình và thành phần khác nhau tạo nên những
nét riêng biệt trong sự hình thành phát triển trí nhớ của con người. Quá trình
hình thành trí nhớ được chia thành 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn riêng lẻ có một
chức năng xác định nhưng chúng không đối lập nhau mà bổ sung, chuyển hoá
cho nhau.
4.5.1. Quá trình ghi nhớ
Muốn có trí nhớ về một sự vật hay hiện tượng nào đó, trước hết phải ghi
nhận ấn tượng về nó. Sự ghi nhớ là quá trình đưa tài liệu vào ý thức, gắn tài liệu
đó với những kiến thức đã thu nhận bằng nhiều hình thức khác nhau để làm
điều kiện cho sự lưu giữ sau này. Có thể hiểu đơn giản ghi nhớ là quá trình
nhập dữ liệu, nhập thông tin vào bộ nhớ. Quá trình ghi nhớ rất quan trọng trong
việc tiếp thu kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm. Những ấn tượng có thể được chủ
thể ghi nhớ một cách chủ động hay thụ động, nói cách khác là có chủ định hay
không chủ định.
4.5.1.1. Ghi nhớ có chủ định hay chủ động
Sự ghi nhớ có chủ định diễn ra trong hành động theo mục đích ghi nhớ
được cá nhân đặt ra một cách rõ ràng, đồng thời có ý định tìm kiếm những biện
pháp có tính chất kĩ thuật để đạt mục đích ghi nhớ. Ghi nhớ có chủ định là sản
phẩm của hành động mang tính kĩ thuật rõ nét, trong đó bản thân sự ghi nhớ là
mục đích của những hành động ấy. Kết quả của sự ghi nhớ có chủ định phụ
thuộc rất nhiều vào động cơ, mục tiêu... của sự ghi nhớ. Có thể có những
phương pháp ghi nhớ sau:
- Những ấn tượng, tài liệu có thể được ghi nhớ một cách máy móc (lặp lại
nhiều lần để nhớ một chi tiết nào đó như học ngoại ngữ chẳng hạn...). Chủ thể
cũng có thể sử dụng các luật liên tưởng để ghi nhớ tài liệu. Biện pháp ghi nhớ
này thường tìm cách đưa vào trí nhớ tất cả những gì có trong tài liệu một cách
chính xác và chi tiết. Tuy nhiên các tài liệu trong trí nhớ ít có sự liên quan bản
chất với nhau, do vậy tài liệu có thể dễ bị quên.
Những ấn tượng, tài liệu có thể được chủ thể ghi nhớ bằng cách sắp xếp
có hệ thống cùng với những kinh nghiệm đã có. Đây là quá trình ghi nhớ ý nghĩa
hay ghi nhớ logic. Biện pháp ghi nhớ này giúp con người ghi nhớ được nội dung
của tài liệu và những nội dung này được gắn với tri thức cũ, những kinh nghiệm
đã qua. Do đó tài liệu sẽ được lưu giữ lâu hơn, chắc chắn hơn..
Có thể trong quá trình chủ động ghi nhớ, chủ thể dùng những hình thức,
phương pháp đặc thù tuỳ thuộc vào đặc điểm chủ quan của chủ thể và của tài
liệu, có thể là những hình thức ghi nhớ máy móc hoặc ghi nhớ logic.
4.5.1.2. Ghi nhớ không chủ định
Ghi nhớ không chủ định là loại ghi nhớ được thực hiện mà không cần
phải đặt ra mục đích từ trước. Nó không đòi hỏi một sự nỗ lực ý chí nào mà
dường như được thực hiện một cách tự nhiên. Nhưng không phải mọi sự kiện,
hiện tượng đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Trước hết, độ
bền vững và độ lâu dài của ghi nhớ không chủ định phụ thuộc vào màu sắc, sự
di động và những đặc điểm khác của đối tượng. Ghi nhớ không chủ định đặc
biệt có hiệu quả khi nó được gắn với những cảm xúc rõ ràng và mạnh mẽ. Hứng
thú có vai trò quan trọng đối với ghi nhớ không chủ định.
Những ấn tượng, tài liệu nếu được ghi nhận trực tiếp sẽ có tác dụng hữu
hiệu hơn và cần có sự luyện tập của chủ thể. Trong quá trình ghi nhớ, về mặt
thời gian cũng có thể áp dụng phương pháp phân tán hay tập trung. Trong
phương pháp phân tán, thời gian ghi nhớ được chia thành nhiều giai đoạn.
Trong phương pháp tập trung, sự ghi nhớ cần được tiến hành liên tục cho đến
khi hoàn thành công việc.
Về phía tài liệu cần ghi nhớ, có thể dùng phương pháp cục bộ hay toàn
thể. Khi tài liệu đơn giản, rõ ràng thì phương pháp toàn thể hữu hiệu hơn và
ngược lại.
4.5.2. Giữ gìn tài liệu
Khi các sự kiện đã được ghi nhớ, nó cần được lưu giữ, bảo quản để có
thể tái hiện sau này. Tuy nhiên con người khác máy vi tính, nghĩa là những sự
kiện có thể bị quên. Muốn bảo quản được tốt, giữ gìn kĩ lưỡng, các ấn tượng, tài
liệu phải có cường độ mạnh nghĩa là in sâu vào tâm trí chủ thể, tạo thành một
"đường mòn" sâu sắc, trở thành một dấu vết thật đậm trong bộ nhớ của chủ thể.
Quá trình gìn giữ cũng có thể có tính chất tích cực hay tiêu cực. Sự giữ
gìn tích cực là sự gìn giữ được thực hiện bằng cách nhớ lại các tài liệu đã được
ghi nhớ mà không cần phải tri giác lại tài liệu đó. Sự gìn giữ tiêu cực là sự gìn
giữ được dựa trên sự tri giác lại nhiều lần tài liệu một cách đơn giản.
4.5.3. Nhớ lại
Nhớ lại là hình thức tái hiện không diễn ra sự tri giác lại đối tượng. Nhớ lại
bao giờ cũng theo những quy luật liên tưởng, bao giờ cũng có những nguyên
nhân nhất định. Người ta phân biệt hai loại nhớ lại là nhớ lại có chủ định và nhớ
lại không chủ định.
- Nhớ lại không chủ định là một tài liệu đã được tri giác trước đây sẽ xảy
ra trong trí nhớ khi có những hình ảnh tương tự bừng lên trong ý thức của chủ
thể hầu như tự phát mà chủ thể không có ý định nhớ lại.
- Nhớ lại có chủ định xảy ra trong trường hợp khi chủ thể đặt ra nhiệm vụ
phải nhớ một cái gì đó.
Đặc điểm của việc nhớ lại có chủ định là tính chất có chủ định của nó.
Việc nhớ lại xảy ra một cách có tổ chức và như vậy chỉ trong những điều kiện
chủ thể có sự chuẩn bị trong quá trình hoạt động thì việc nhớ có chủ định mới
có giá trị đầy đủ.
Hồi tưởng là quá trình nhớ lại có liên quan đến việc phải khắc phục một
số khó khăn và có lúc đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí rất lớn.
Trong lúc nhớ lại luôn luôn xảy ra sự nhận lại ở những mức độ khác nhau,
từ cảm giác yếu ớt về sự quen thuộc của tài liệu cần nhớ đến sự tin chắc hoàn
toàn về điều nhớ lại rất chính xác. Trong một số trường hợp đặc biệt, sự nhận
lại có thể tạo nên ảo giác về sự hiểu biết thực tế, gây nên lòng tin không đúng
vào việc ghi nhớ vững chắc về tài liệu mà trong thực tế không hề có sự ghi nhớ
đó.
4.6. Sự liên tưởng
Bất kì sự ghi nhớ hay học thuộc nào cũng đòi hỏi phải thiết lập các mối
liên hệ thần kinh tương ứng hay còn gọi là liên tưởng. Liên tưởng được xem
như là một hình thức tư tưởng của con người. Sau đây là một số quy luật trong
quá trình liên tưởng:
4.6.1. Luật tương đồng
Liên tưởng dựa vào sự giống nhau của các mối liên hệ thần kinh do hai
đối tượng giống nhau gây nên hay nói một cách khác, hai hình ảnh giống nhau,
thấy hình ảnh này sẽ làm ta nhớ hình ảnh kia.
Luật tương đồng của tương phản rất quan trọng trong bất kì hoạt động
nào. Nhờ có nó mà con người có thể so sánh các sự kiện đang tri giác với các
sự kiện đã trở thành kinh nghiệm, tìm ra những nét chung, riêng của chúng, giúp
con người tiếp thu và ghi nhớ tài liệu tốt hơn.
4.6.2. Luật tương phản
Sự tri giác một sự kiện, hiện tượng nào đó gây nên trong trí nhớ hồi ức về
một sự kiện, hiện tượng khác có những dấu hiệu hoàn toàn ngược lại.
4.6.3. Luật tiếp cận
Các sự kiện, hiện tượng gần nhau hoặc xảy ra liên tiếp nhau, khi tri giác
sự vật, hiện tượng này sẽ nhớ đến hiện tượng, sự vật kia.
4.7. Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ
Sự khác biệt cá nhân về trí nhớ thể hiện ở đặc điểm của quá trình trí nhớ
và đặc điểm của nội dung trí nhớ, nghĩa là phân biệt ở chỗ con người ghi nhớ
những gì và ghi nhớ như thế nào.
Khả năng ghi nhớ của con người không giống nhau và phát triển cũng
khác nhau. Có người rất nhạy bén về trí nhớ gắn liền với giác quan này, người
kia với sự gắn liền với giác quan khác. Các đặc điểm khác nhau của quá trình
ghi nhớ được thể hiện trong tốc độ, độ chính xác, độ bền vững của sự ghi nhớ
và sự nhanh chóng tái hiện.
Những khác biệt cá nhân về sự ghi nhớ liên quan đến các kiểu thần kinh,
đặc biệt với các đặc điểm về cường độ và tính linh hoạt của các quá trình thần
kinh. Các đặc điểm của quá trình ghi nhớ cũng phụ thuộc vào điều kiện sống và
giáo dục, trước hết vào cách thức ghi nhớ của từng người. Sự khác biệt cá
nhân về trí nhớ thể hiện ở các kiểu trí nhớ khác nhau.
Tuỳ thuộc vào tính chất của tài liệu cần ghi nhớ, các cá nhân thường có
các kiểu trí nhớ khác nhau như kiểu trí nhớ trực quan - hình ảnh (người thuộc
kiểu trí nhớ này thường dễ dàng nhớ các tài liệu giàu hình ảnh như các tranh
ảnh, vẽ...), kiểu trí nhớ từ ngữ - trừu tượng (dễ dàng ghi nhớ lại tài liệu ngôn
ngữ như khái niệm, tư tưởng...) và kiểu trí nhớ trung gian. Các kiểu trí nhớ này
phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại giữa hai hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai
của hoạt động thần kinh cấp cao. Những yêu cầu của cuộc sống và hoạt động
làm nảy sinh các kiểu trí nhớ phù hợp.
Theo một nghiên cứu của các nhà khoa học Canada công bố ngày
19/9/2006, trẻ em được học nhạc từ nhỏ sẽ có trí nhớ tốt hơn những em không
học nhạc, thậm chí chỉ số IQ cũng có thể tăng lên.
Chủ nhiệm công trình nghiên cứu, Giáo sư tâm lí Laurel Trainor thuộc Đại
học McMaster ở tỉnh Ontario của Canada, cho biết đây là nghiên cứu đầu tiên
cho thấy phản xạ não của trẻ nhỏ được học nhạc và không học nhạc có sự thay
đổi khác nhau trong từng khoảng thời gian, và sau khoảng 1 năm học nhạc, trẻ
học nhạc có khả năng nhớ tốt hơn những em không học.
Các nhà khoa học đã theo dõi 2 nhóm trẻ, được học nhạc và không học
nhạc, ở độ tuổi 4 đến 6 tuổi, với 4 cuộc kiểm tra trong vòng 1 năm. Các em phải
hoàn thành 2 bài kiểm tra, bài kiểm tra âm nhạc, yêu cầu trẻ phải phân biệt giữa
các đoạn hoà âm, nhịp điệu và giai điệu, còn trong bài kiểm tra trí nhớ thì trẻ
phải nhắc lại một loạt các con số được nghe trước đó.
Kết quả là sau 1 năm, ngoài việc có khả năng thẩm âm tốt hơn, nhóm trẻ
học nhạc còn có thể tăng cường khả năng ghi nhớ với các lĩnh vực ngoài âm
nhạc như đọc viết, từ ngữ, toán học.
4.8. Quên
Quên là không tái hiện được nội dung đã ghi nhớ trước đó vào những thời
điểm cần thiết. Quên diễn ra ở các mức độ khác nhau, có điều tưởng như không
thể nào quên, có điều phải cố gắng hết sức mới có thể nhớ được, có sự vật,
hiện tượng không thể nhớ lại nổi. Tuy nhiên không tái hiện được lúc đó không
phải là quên hoàn toàn, ở một thời điểm khác tài liệu có thể xuất hiện trở lại. Có
những điều chủ thể cần nhớ cấp kì, cần tái hiện ngay lập tức nhưng đã không
thể tái hiện, nhưng sau đó khi tình huống không cần phải nhớ tài liệu đó nữa thì
có thể nhớ lại một cách rất chính xác.
Quên có nhiều nguyên nhân, có thể do quá bị dồn nén phải nhớ, có thể do
không ghi nhận rõ ràng, thiếu chú ý khi ghi nhớ, có thể do không lặp đi lặp lại,
sự quên diễn ra có những quy luật nhất định, quên cũng có những lợi ích nhất
định trong nhận thức nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Quên giúp con
người loại bỏ được những hoài niệm vô ích, quên giúp con người thu thập kiến
thức dễ dàng hơn, quên cũng giúp con người khỏi lệ thuộc vào quá khứ một
cách quá nhiều.
4.9. Sự sai lầm của trí nhớ
Trong một số trường hợp, giữa điều con người tri giác và điều con người
ghi nhớ có một khoảng cách nhất định. Con người có tình cảm, có trí tuệ nên
những ấn tượng ghi lại mang dấu ấn lựa chọn. Nội dung của trí nhớ vì vậy có
thể bị cường điệu hay giản lược bớt, bị tiêu chuẩn hoá hay hợp lí hoá. Như vậy,
do suy luận hay động cơ tình cảm mà ấn tượng ghi lại trong trí nhớ về một kỉ
niệm, một sự kiện có thể trở nên sai lầm. Ngoài ra những điều kiện về thể xác,
tâm lí và môi trường cũng ảnh hưởng rất sâu sắc đến việc ghi nhớ, nhớ lại và
nhận lại. Một sự xáo trộn tâm lí hay sinh lí, những áp lực từ hoàn cảnh dễ khiến
trí nhớ của một con người trở nên sai lầm.
Câu Chuyện thứ mười
Trí nhớ rất cần thiết cho cuộc sống. Trí nhớ tốt là tài sản: nó có thể gia
tăng triển vọng nghề nghiệp, giúp chúng ta nhớ tên và khuôn mặt người khác.
Và tạo sự thoải mái cho cuộc sống thường nhật. Suốt cuộc đời, chúng ta có thể
lưu trữ được lượng thông tin nhiều gấp 500 lần cuốn Bách khoa toàn thư của
nước Anh. Dưới đây là những cách đơn giản để gia tăng trí nhớ của bạn:
Thư giãn
Căng thẳng có thể làm giảm trí nhớ. Đó là lí do khi lo âu, bạn thường mất
hàng giờ để cố nhớ lại điều gì đó. Trớ trêu thay, nó chỉ xuất hiện khi bạn thôi
nghĩ đến! Đó là do chất trung gian thần kinh của não sẽ hoạt động hiệu quả hơn
khi bạn nghĩ ngợi.
Căng thẳng làm cơ thể tiết ra hormon Cortisol gây mất tập trung. Chất
hormon này thúc đẩy việc sản xuất insulin và ngăn không cho vùng hồi hải mã
(trung tâm kí ức chính của não) sử dụng đủ đường huyết để não có năng lượng
cho việc ghi nhớ. Ngoài ra, sự căng thẳng cũng gây khó khăn cho việc "truy cập"
kí ức đã được lưu trữ. Tập nghỉ ngơi bằng yoga hoặc thiền và khi bộ nhớ "trêu
ngươi", bạn hãy dành 5 phút để hít thở thật sâu.
Giảm giờ xem truyền hình
Việc xem truyền hình quá nhiều làm cho não trở nên thụ động. Mỗi ngày
hãy dành ít nhất 1 giờ để tập luyện trí não như đọc sách báo, chơi cờ, giải ô chữ
để kích thích phản ứng nhanh nhẹn của trí óc. Hoạt động trí óc còn làm chậm
quá trình mất trí nhớ xảy ra ở những người có tuổi.
Dùng thức ăn bổ dưỡng cho não
Những thức ăn bổ dưỡng cho não có nhiều lecithin, vitamin C và các
vitamin nhóm B. Những chất này hỗ trợ việc sản xuất acetilcholine - chất trung
gian thần kinh phong phú nhất và là "người vận chuyển" kí ức, suy nghĩ chính
trong não. Lecithin có trong đậu nành, trứng, đậu phộng, mầm lúa mì, gan;
Vitamin B có trong gan, thận, thịt nạc, sữa và sữa chua, còn vitamin C có trong
rau quả cam và chanh.
Đặc biệt các loài cá như cá mòi, cá hồi được mệnh danh là "thức ăn của
não" vì có nhiều acid béo cần thiết cho hoạt động của não.
Hấp thụ chất bổ
Chất co-enzym Q10 do cơ thể sản xuất sẽ cung cấp năng lượng đã được
chứng minh làm giảm các triệu chứng bệnh Alzheimer có lẽ do kích thích hoạt
động của não bằng cách tăng tuần hoàn máu. Chất này giúp thông suốt các
mạch máu não, gia tăng trí nhớ và sự tỉnh táo và đồng thời làm chậm quá trình
lão hoá. Bạn có thể tìm thấy enzym này trong cá, thịt bò, thịt heo và các loại rau
xanh. Các chuyên gia khuyên nên hấp thụ 10mg/ngày.
Dùng mùi hương
Chúng ta đều biết mùi hương đặc trưng tạo ra trí nhớ mãnh liệt, chúng
còn được dùng để tăng trí nhớ. Người lớn có thể học nhanh gấp 2 lần bình
thường khi trong phòng có mùi hương hoa. Nếu bạn cho vài giọt dầu thơm bạn
thích vào một chén nước ấm, bạn sẽ lưu giữ bất cứ thông tin nào cùng với mùi
hương đó. Khi bạn cần nhớ lại, chỉ cần cho vài giọt dầu thơm đó vào miếng vải
và ngửi: bạn sẽ hồi tưởng từng chi tiết một cách tự nhiên... Các mùi hương
thường được dùng để gia tăng trí nhớ là mùi hương cây húng quế (bergamot),
mùi chanh, mùi cây hương thơ (rosemary).
Tổ chức những suy nghĩ một cách hợp lí.
Một cách để nhớ những thông tin mới là liên tưởng nó với những kí ức dài
hạn đã được lưu giữ. Ví dụ, muốn nhớ một danh sách theo thứ tự, bạn nên liên
tưởng nó với vật quen thuộc như ngôi nhà chẳng hạn. Ghi hình những đồ vật
trong phòng và khi muốn nhớ lại danh sách, bạn chỉ cần "đi lướt" qua ngôi nhà
trong óc. Hình ảnh càng sống động và cường điệu, bạn càng dễ nhớ hơn.
Viết hay vẽ một cái gì đó
Việc phác hoạ hình thể hay tranh trong lúc gọi điện thoại thì không phải là
điều vô bổ, nó tăng trí nhớ của bạn đấy? Các nhà Tâm lí học tại Đại học
Sheffield (Anh) cho rằng: việc vẽ hay viết sẽ gia tăng khả năng tập trung trí nhớ
và học tập. Tiến sĩ Jackie Andrade chia những người tình nguyện thành 2 nhóm
để nghe những cuốn băng có nội dung nhạt nhẽo. Nhóm 1 chỉ lắng nghe để tìm
các từ chính, còn nhóm 2 vừa lắng nghe từ chính vừa đánh bóng các hình trên
tờ giấy. Kết quả là nhóm 2 đã nhớ nhiều thông tin hơn nhóm 1.
(theo Phụ san Khoa học phổ thông, số 427, 1998)
Giảm trí nhớ ở người lớn tuổi: những điều cần biết
Suy giảm trí nhớ (SGTN) hậu quả cuối cùng là sa sút trí tuệ, là bệnh lí ít
được quan tâm tại các nước đang phát triển. Điều này xuất phát từ quan điểm
cho rằng tuổi già phải quên, lú lẫn. Quan niệm sai lầm này đã và đang ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống người cao tuổi, vì sẽ khiến bệnh nhân
bị SGTN đến tình trạng bị cô lập.
Để điều trị cho bệnh nhân SGTN, sa sút trí tuệ, tại Mĩ người ta đã phải
tiêu tốn 50 tỉ USD/năm. Theo một số nghiên cứu tại Mĩ, tỉ lệ sa sút trí tuệ là 10%
ở người trên 70 tuổi, 20% - 40% ở người trên 85 tuổi.
* Bốn loại trí nhớ
Quá trình thu giữ thông tin của trí nhớ theo thời gian có thể phân thành 4
loại: Trí nhớ trực giác, trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ gần và trí nhớ xa (trí nhớ dài
hạn).
Trí nhớ trực giác kéo dài khoảng 1 - 2 giây bằng cách nghe. Trí nhớ ngắn
hại có thể kéo dài khoảng 30 giây và có khả năng nhớ 5 - 10 chủ đề. Trí nhớ
gần kéo dài vài phút đến vài tuần, để đi vào vùng nhớ này thông tin phải trải qua
một tiến trình củng cố trong một thời gian nhất định. Trí nhớ dài hạn lưu trữ vài
tuần đến một thời điểm nào đó trong cuộc sống.
* Sáu biểu hiện của sự giảm trí nhớ:
- Quên những đồ vật đã từng dùng rất thường xuyên.
- Quên cách sử dụng những đồ vật đã từng dùng rất nhiều lần.
- Gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận thông tin mới.
- Hay lặp lại một câu hay một câu chuyện trong cùng một buổi trò chuyện.
- Gặp khó khăn trong việc chọn và giữ tiền.
- Không thể giữ nếp sinh hoạt thường ngày.
* Phát hiện sớm SGTN qua các dấu hiệu sau:
- Có than phiền về trí nhớ.
- Trí nhớ có giảm so với tuổi.
- Các hoạt động đời sống hàng ngày vẫn bình thường.
- Chức năng nhận thức chung vẫn bình thường.
- Không có sa sút trí tuệ.
Cần lưu ý là người thân đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp phát
hiện sớm những dấu hiệu SGTN ở người bệnh. Nếu có dấu hiệu nghi ngờ,
người thân nên nhanh chóng đưa người bệnh đến cơ sở y tế chuyên khoa để
khám và điều trị.
* Điều trị SCTN bằng cách không dùng thuốc
SGTN do tuổi là một tiến trình tự nhiên của sự lão hoá nên chưa đến mức
phải điều trị bằng thuốc mà chỉ cần áp dụng tích cực các biện pháp điều trị
không dùng thuốc như liệt kê danh sách các công việc cần phải làm, lập thời
gian biểu cho công việc hằng ngày, làm theo thời gian biểu công việc đã lập, đề
ra những mục quan trọng cần chú ý thực hiện.
Ví dụ: Luôn đặt chìa khoá ở một chỗ nhất định, lặp lại tên của người vừa
mới gặp, tạo những thú vui giúp người lớn tuổi luôn bận rộn (chơi cây cảnh,
chim, sưu tập tem...), vận động trí óc, giữ những tài liệu lưu trữ thông tin, sự
kiện như sổ ghi chép, album hình...
Khi nào bệnh nhân đã được-thầy thuốc chuyên khoa khám và định bệnh
là SGTN bệnh lí (không phải là SGTN do tuổi) thì mới có thể được điều trị bằng
thuốc.
* Đề phòng SGTN
Đề phòng SGTN bằng cách thường xuyên hoạt động trí não, tránh uống
rượu (uống rượu quá nhiều làm tăng trigliceride trong máu và làm tăng nguy cơ
nhũn não), tập thể dục (có tác đụng làm giảm huyết áp hạ thấp tần suất bệnh tim
mạch, giúp làm giảm trọng lượng cơ thể, giảm fibrinogen huyết tương...), ăn
uống đúng cách (ăn nhiều trái cây, chất xơ, rau cải, hạn chế ăn nhiều chất béo
và chất ngọt, chất đạm nên ăn vừa đủ theo nhu cầu, ăn giảm muối để giảm đáng
kể huyết áp và do đó làm giảm tỉ lệ tai biến mạch máu não).
(theo Báo Người lao động)
TÓM LƯỢC CHƯƠNG 2Chương 2 trình bày về các quá trình nhận thức và những quá trình tâm lí
khác liên quan đến hoạt động nhận thức của con người.
Hoạt động nhận thức của con người được tiến hành qua hai giai đoạn,
nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.
Nhận thức cảm tính là quá trình phản ánh những thuộc tính bề ngoài của
sự vật hiện tượng khi nó trực tiếp tác động vào các giác quan. Nhận thức cảm
tính được thể hiện ở cảm giác và tri giác, hai mức độ từ thấp đến cao.
Nhận thức lí tính là quá trình phản ánh những thuộc tính bản chất bên
trong, những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng, được thể hiện
trong quá trình tư duy và tưởng tượng.
Ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu từ ngữ của con người, là phương tiện truyền
thông và tư duy hữu hiệu của con người. Ngôn ngữ có liên quan mật thiết với
các quá trình nhận thức.
Trí nhớ là quá trình ghi lại, gìn giữ, nhớ lại và nhận lại những kinh nghiệm
đã xảy ra trong hoạt động và trong cuộc sống của con người. Trí nhớ liên quan
mật thiết với quá trình nhận thức. Trí nhớ là điều kiện quan trọng để nhận thức.
Mỗi cá nhân tuỳ theo những đặc điểm về thể chất, điều kiện sống và sự
phát triển tâm lí, luôn luôn có những sự khác biệt về các quá trình nhận thức, về
phương pháp, về nội dung và về cách thức ứng dụng các quá trình tâm lí trong
cuộc sống.
Chương 3: Ý THỨC VÀ VÔ THỨCCăn cứ vào tính tự giác, mức độ sáng tỏ của các hiện tượng tâm lí và
phạm vi bao quát của nó, người ta có thể phân chia các hiện tượng tâm lí thành
3 cấp độ. Ở mỗi cấp độ, chúng ta có thể gặp hầu hết các biểu hiện của các hiện
tượng tâm lí nêu trên. Chương 3 sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến đời
sống vô thức và ý thức như hai mặt tích cực bổ sung cho nhau trong quá trình
sống và hoạt động của con người.
1. Ý THỨC1.1. Khái niệm
Ranh giới giữa cấp độ vô thức và ý thức không rành mạch lắm nhưng
không phải là không thể vượt qua, nhất là trong điều kiện thường xuyên có sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa ý thức và vô thức.
Có thể đơn giản thấy rằng, ý thức là sự nhận biết trực tiếp mà con người
có về mình và về mọi hoạt động của mình. Trong trường hợp này, bất kì điều gì,
bất kì kích thích nào tác động đến chủ thể đều nhận biết được, chủ thể đang
trong trạng thái ý thức. Cụm từ "tôi đang ý thức được tính nghiêm trọng của vấn
đề..." là một hình thức nhận biết của con người nhưng không phải là tri giác hay
tư duy.
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất chỉ riêng con người mới có,
là khả năng con người hiểu được các tri thức mà con người đã tiếp thu được.
Có thể xem ý thức là cặp mắt thứ hai của con người soi vào hình ảnh tâm lí do
cặp mắt thứ nhất đem lại. Với ý nghĩa này, con vật không có ý thức, con vật
không thể có được sự phản ánh lần thứ hai, sự phản ánh cấp 2 như con người.
Những hành vi ý thức là những hành vi xảy ra trong điều kiện chủ thể xác định
được về không gian, thời gian và những đặc điểm bên ngoài chủ thể.
1.2. Đặc điểm của thức
Ý thức có những đặc điểm sau đây:
1.2.1. Tính nhận thức
Nhiều trường hợp việc "có ý thức" cũng đồng nghĩa với có hiểu biết, có tri
thức, và như K. Marx nói: "Phương thức mà theo đó ý thức tồn tại, và theo đó
một cái gì đó tồn tại với ý thức là tri thức. Nói một cách khác, ý thức là tri thức
của tri thức
1.2.2. Biểu hiện thái độ
Biểu hiện thái độ trong ý thức nghĩa là có những rung cảm sẽ dẫn đến
hành động với cái đã được con người nhận thức. Biết được vấn đề, cảm được
vấn đề, con người sẽ ý thức được mình cần phải làm gì, làm như thế nào.
1.2.3. Tính chất chủ định
Sự chủ định, chủ tâm, sự dự kiến trước là một đặc trưng của ý thức, của
một hành vì ý thức... Và nhờ sự chủ định và có chủ tâm mà con người sẽ có
những hành động hợp lí, hợp tình, hợp quy luật...
1.3. Các hình thức của ý thức
Ý thức có những hình thức sau đây:
1.3.1. Ý thức đối tượng
Là toàn thể những hiện tượng tâm lí, quá trình tâm lí hay thuộc tính tâm lí
mà chủ thể nhận biết được về những gì bên ngoài mình, những gì xảy ra xung
quanh mình, đó là ý thức về người khác, về thế giới khách quan.
1.3.2. Ý thức chủ thể
Là sự nhận biết về chính bản thân, về những gì đang diễn ra nơi chính
minh, ý thức chủ thể có hai cấp độ:
- Ý thức tự phát
Ý thức tự phát là sự nhận biết trực tiếp và tức khắc của chủ thể về những
trạng thái tâm lí xuất hiện trong chính họ mà chưa vận dụng ý chí để chú ý hay
suy xét. Có những người ý thức về giá trị của mình một cách tự nhiên nhờ vào
những thái độ của người khác đối với mình, nhờ cách ứng xử của họ với mình
mà không cần "lao tâm khổ tứ" để căng thẳng suy đoán.
- Ý thức phản tỉnh
Ý thức phản ánh hay tự ý thức là ý thức quay về chính chủ thể, tập trung
chú ý và phân tích những gì đã ghi nhận để đạt được sự chính xác, minh bạch
hơn. Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức, bắt đầu hình thành ở con
người từ tuổi lên ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
- Cá nhân tự nhận thức và tự ý thức về bản thân mình từ hình thức bên
ngoài đến nội dung bên trong của tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội của
chính mình.
- Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá.
- Tự điều khiển, tự điều chỉnh hành vi:
- Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân.
1.4. Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một cấu trúc tâm lí phức tạp bao gồm nhiều mặt, là một chỉnh
thể mang lại cho thế giới tâm hồn con người một chất lượng mới. Trong ý thức
có hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con
người. Đó là mặt nhận thức, mặt thái độ và kèm theo sự năng động của ý thức.
- Nhận thức của ý thức là các quá trình nhận thức cảm tính mang lại
những tài liệu đầu tiên cho ý thức, là tầng bậc thấp của ý thức. Nhờ cảm giác và
tri giác mà bức tranh cảm tính về thế giới khách quan được nảy sinh trong ý
thức. Trí nhớ giúp chúng ta tái tạo những biểu tượng của quá khứ trong ý thức.
Các quá trình nhận thức lí tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức, đem lại cho
con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan.
- Thái độ của ý thức, nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ
đánh giá của chủ thể đối với thế giới.
Sự năng động của ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người
làm hoạt động của con người có ý thức.
Trong quá trình sống và làm việc, muốn giáo dục ý thức cho con người thì
cần chú ý đến sự thống nhất hữu cơ giữa các thành phần trong cấu trúc của ý
thức, nghĩa là không nên xem nhẹ thành phần nào mà cần đồng thời giáo dục tri
thức và tình cảm cho con người. Một người có thể mất hết ý thức khi không còn
tình cảm hoặc khi tình cảm của họ trong trạng thái hết sức căng thẳng, xúc động
không kiềm chế được hành vi. Ngược lại, một người thiếu kiến thức, thiếu hiểu
biết cũng có thể sẽ trở thành chủ nhân của những hành động bất thường, không
ý thức được điều mình nghĩ, việc mình làm.
1.5. Ý thức nhóm và ý thức tập thể
Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức của cá nhân sẽ phát
triển dần đến trình độ ý thức xã hội, ý thức nhóm, ý thức cộng đồng như ý thức
về gia đình, ý thức về dòng họ, ý thức dân tộc... Trong cuộc sống khi con người
hành động, hoạt động với ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, mỗi con người có
thể thêm sức mạnh tinh thần mới mà người ấy chưa bao giờ có được khi chỉ
hoạt động với ý thức cá nhân.
Một cách tổng quát, ý thức và vô thức là hai mặt của một thể thống nhất.
Trong nhiều trường hợp ý thức và vô thức có thể chuyển hoá cho nhau. Trong
hoạt động, khi ta tập trung toàn bộ ý thức của mình vào một đối tượng quan
trọng nào đó thì đối với đối tượng khác không quan trọng, dĩ nhiên ta không thể
phản ánh chúng một cách có ý thức đầy đủ. Ở những trường hợp như vậy vô
thức cũng là một điều kiện cần thiết của hoạt động, giúp cho hoạt động tập trung
vào đối tượng quan trọng nhằm đạt được hiệu quả và chất lượng cao nhất.
Khi lưu ý đến ý thức chúng ta có thể xem xét thêm về mấy vấn đề sau:
- Có những người lớn, "bình thường" về tâm lí, sống trong một xã hội văn
minh mà vì những lí do nào đó tâm lí vẫn không phát triển đến mức tự ý thức
được như đáng lí đã có ở người trưởng thành. Họ đã không ý thức được vai trò,
vị trí cũng như giá trị của mình vì nhiều lí do khác nhau.
- Cũng như thế, có thể có những người trưởng thành, sức khoẻ tâm thần
bình thường, nhưng chưa phát triển đến cấp độ ý thức nhóm, ý thức xã hội, lại
càng ít người hơn đạt đến trình độ ý thức tập thể chân chính. Những người này
chỉ sống cho mỗi cá nhân mình, sống chỉ vì lợi ích của mình mà không quan tâm
đến lợi ích chung của nhiều người. (theo Nguyễn Quang Uẩn)
2. VÔ THỨC2.1. Khái niệm
Trong hoạt động và cuộc sống nổi chung, ngoài những hiện tượng tâm lí
có ý thức, chúng ta còn gặp hàng loạt những hiện tượng tâm lí chưa ý thức
được hay là những hiện tượng tâm lí vô thức. Có thể nói, một phần lớn và quan
trọng của đời sống tâm linh vượt ra ngoài tầm hiểu biết của cái tôi (ý thức). Theo
S.Freud thì "Vô thức là một quá trình tâm lí mà sự hiện hữu được chứng minh
qua những biểu lộ của nó, nhưng chúng ta không biết gì về nó mặc dù nó đã xảy
ra trong ta".
Nhiều thực nghiệm đã chứng minh rằng những hiện tượng tâm lí vô thức
có vai trò nhất định trong đời sống của con người. Có thể nói cách khác, vô thức
là hiện tượng tâm lí ở tầng bậc chưa ý thức được, nơi mà ý thức không thực
hiện chức năng của mình. Những hiện tượng tâm lí vô thức là những hiện tượng
xảy ra trong điều kiện chủ thể của hành vi không thể xác định được về mặt
không gian cũng như thời gian. Những hiện tượng tâm lí vô thức thường có tính
chất mâu thuẫn nhau. Trong hệ thống của các quá trình vô thức không có logic,
không có phủ nhận, không hoài nghi về mức độ xác thực... Những xúc động,
ham muốn, thúc đẩy... hiện hữu cạnh nhau mà không ảnh hưởng lên nhau và
mâu thuẫn nhau. Những hiện tượng tâm lí vô thức cũng còn có tính chất phi
thực tại. Vô thức được ví như những tảng băng chìm đang trôi trên biển, nó
không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi nhưng vẫn hiện hữu và đợi chờ ngày
tan băng. Vô thức như những điều vừa bí ẩn, vừa bình thường, vừa sâu kín,
vừa mở ngỏ...
2.2. Những hiện tượng tâm lí vô thức thường gặp
Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau:
- Những hiện tượng có tính chất bản năng (bản năng dinh dưỡng, bản
năng tự vệ, bản năng sinh dục...) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức và mang
tính chất bẩm sinh, di truyền. Liên hệ với bản năng là những hành vi xung động
của con người khi không "chế ngự" được đòi hỏi của mình.
- Những hiện tượng tiềm ý thức xảy ra bất thường trong những điều kiện
cụ thể. Ví dụ con người có lúc thấy thích một cái gì đó, nhưng hiểu rõ vì sao và
lúc thấy thích, lúc không...
- Những hiện tượng tâm lí vốn là ý thúc nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần
chuyển thành dưới ý thức - vô thức. Đó là những tập quán, thói quen, những kỹ
xảo thành thục của con người. Những hiện tượng này được đặt tên là những
hiện tượng có tính chất tiềm thức.
- Những hiện tượng có tính chất trực giác, phát hiện những vấn đề bất
ngờ mà không hề được chuẩn bị, không có sự tham gia của ý thức lúc ấy, linh
cảm là một trong những hiện tượng như vậy.
Có những người thoát chết vì được linh tính mách bảo. Có những phát
minh khoa học nhờ vào linh tính. Những câu chuyện về linh cảm vẫn đang là sự
bí ẩn. Thậm chí các nhà khoa học cũng chưa khẳng định có hay không giác
quan thứ sáu của con người.
Nhiều phát minh ra đời không phải bằng các phương pháp logic mà bằng
chính linh cảm của các nhà nghiên cứu. Nhà hoá học người Nga Medeleev đã
phát minh ra Định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học sau một giấc mơ. Ông
đã dành gần trọn cuộc đời mình để tìm hiểu về các nguyên tố hoá học. Loay
hoay với rất nhiều công cụ khoa học, Medeleev vẫn không thể xây dựng được
bảng tuần hoàn các nguyên tố. Thế rồi trong một giấc mơ, ông thấy bảng tuần
hoàn hiện rõ ra trước mắt.
Khi tỉnh giấc, ông đã chép và công bố công trình khoa học nổi tiếng của
mình kèm theo phương pháp... nằm mơ. Điều này dấy lên một cuộc tranh luận
tốn nhiều giấy mực. Một phe cho rằng đó chính là linh cảm có liên quan đến các
thế lực siêu nhiên mà con người không thể biết và giải thích (bất khả tri). Phe
khác cho rằng Medeleev đã nghiên cứu hàng chục năm vấn đề này, công trình
khoa học đã "ngấm" vào người và khi chín muồi thì kết quả hiện ra trong giấc
mơ chỉ là một cách biểu hiện.
Còn nhiều ví dụ khác về linh cảm của các nhà khoa học. Đơn cử như việc
viện sĩ Xobolev của Nga tìm ra kim cương ở vùng Lakutsk, viện sĩ Muratov tìm
ra dầu mỏ ở vùng Tây Xiberi. Những phát hiện của họ đều bằng linh tính. Bản
thân các nhà khoa học cũng không thể hiểu nổi những thành công của họ phần
nhiều do kiến thức, kinh nghiệm hay do linh tính mách bảo.
Nhiều nhà quân sự, chính tri cũng có khả năng linh cảm trước một số vấn
đề. Một số người cũng nhờ "giác quan thứ sáu" mà thoát chết. Thủ tướng Anh
Churchill đã thoát chết trong gang tấc do linh tính mách bảo. Năm 1944, khi Thế
chiến thứ 2 đang diễn ra ác liệt, một lần Churchill đang chuẩn bị rời trận địa thì
máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người lái xe vội vàng nổ máy cho xe đi.
Không hiểu sao, Churchill không chịu vào xe mà vòng chạy ra phía sau. Đúng
lúc ấy, một quả bom nổ cạnh cửa xe tạo thành một hố bom lớn, ngay chỗ
Churchill vừa đứng. Ông đã viết trong hồi kí: "Dường như có một sức mạnh nội
tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng".
Sau này, các nhà khoa học đã lí giải rằng trong cơ thể con người có một
"hệ thống cảnh báo vô hình". Hệ thống linh cảm này đã tồn tại và tiến hoá trong
hàng triệu năm. Nó nhắc nhở con người những dấu hiệu của sự nguy hiểm để
phòng và tránh, giống như một thứ vũ khí vô hình trong cuộc đấu tranh sinh tồn
của tự nhiên. Ở một số ít người, hệ thống này hoạt động mạnh; còn ở đa số là
"yếu ớt" và chỉ bộc lộ trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Con người có thể linh cảm được cái chết
Không ai có thể biết trước thời điểm nào và nguyên nhân gì sẽ dẫn dắt
mình sang thế giới bên kia. Tuy nhiên, với một số người sắp đối mặt với cái
chết, tiềm thức lại mách bảo cho họ hoặc người thân. Người ta gọi đó là thần
giao cách cảm khi lưỡi hái tử thần đang cận kề.
Ông Grigoriy Doronin ở thị trấn Sergiev Posad, miền đông nam nước Nga
kể lại, tối đó vợ ông đi làm vẻ, căng thẳng, mệt mỏi. Bà đột nhiên bật ra câu nói:
"Em thấy chán nản quá. Chắc em chẳng còn ở thế giới này được bao lâu nữa".
Ngày hôm sau, hai vợ chồng họ gặp tai nạn ôtô, người vợ qua đời.
Nhà thơ Nga Lermontov đã kể lại câu chuyện khi ông còn là sĩ quan biên
phòng ở Kabkaz. Một hôm, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình và nhìn
thấy một người có vẻ khác lạ hiện rõ trên nét mặt so với ngày thường
Lermontov bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất
đắc kì tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về".
Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm
chết.
Nhóm bác sĩ người Mĩ là William Green, Stefan Goldstein và Alex Moss,
chuyên nghiên cứu hiện tượng chết, đã tìm hiểu hàng nghìn câu chuyện ẩn
đằng sau các bệnh nhân ra đi "bất đắc kì tử". Các kết quả cho thấy, đa số họ có
những hành động khác thường hay những lời nói gở trước cái chết của mình.
Có hay không khả năng linh cảm?
Nhiều nhà khoa học ở khắp nơi trên thế giới đã nghiên cứu về hiện tượng
nhìn thấy trước tương lai. Một phòng thí nghiệm được dựng lên ở Matxcơva
(Nga) vào cuối những năm 1970 để tìm hiểu về hiện tượng linh cảm. Các nghiên
cứu cho thấy, một số người dường như được trang bị khả năng nhìn thấy tương
lai và nói trước những sự kiện mà họ có thể không biết gì về nó.
Theo một số học giả, tất cả những em bé sơ sinh đều được trời phú cho ít
nhất là 7 năng lực, trong đó có khả năng nhìn trước tương lai và thần giao cách
cảm. Tuy nhiên, hai năng lực đặc biệt này biến mất mà không để lại dấu vết
trong vòng 6 - 7 năm sau đó.
Tại sao chúng lại biến mất? Bất chấp vô số bằng chứng được ghi nhận về
khả năng tiên tri, đến nay người ta vẫn chưa có được câu trả lời thoả đáng nào.
Nhà khoa học Ronald Rensink thuộc Đại học Biritish Columbia, Canada,
cho rằng có khả năng tồn tại một vài dạng giác quan bí ẩn của con người. Ông
gọi đó là "ishgt". Trong thí nghiệm của mình, ông cho 40 người xem một loạt ảnh
rung rinh trên một màn hình máy tính. Mỗi bức ảnh xuất hiện trong khoảng 1/4
giây và sau đó là màn hình nền màu xám trong thời gian ngắn. Đôi khi bức ảnh
giữ nguyên gốc, đôi khi có thay đổi nhỏ rất khó nhận ra.
Khoảng 1/3 số người tham gia cho biết họ cảm thấy bức ảnh đã biến đổi.
Rensink cho rằng hệ thống thi giác của chúng ta có thể đã tạo cảm giác mạnh
về điều gì đó thay đổi, ngay cả khi chúng ta không hình dung được sai khác đó
trong kí ức. Ông chưa lí giải được quá trình vật lí nào đã tạo ra: "ishgt", nhưng
cho biết có thể xác định sự tồn tại của hiện tượng này thông qua việc chụp ảnh
não. Ishgt cũng có thể tác động tới các giác quan khác, chẳng hạn gây ra linh
cảm rằng có ai đó đứng sau lưng, mặc dù mắt ta không nhìn thấy người đó.
(theo VietNam net)
- Những hiện tượng có tính chất bệnh lí như hành vi của người bị bệnh
tâm thần nặng.
- Những hiện tượng tâm lí biểu hiện ở các giấc mơ, trong tình trạng bị ám
thi, bị thôi miên
- Những hiện tượng tâm lí vô thức khi hệ thần kinh bị tấn công hoặc tê liệt
như lúc say rượu...
Vài trường hợp không thể giải thích bằng động cơ ý thức
* Một cậu bé 7 tuổi rất hiền lành, khoẻ mạnh và ngoan ngoãn với bố mẹ
và người xung quanh, ai cũng cho rằng đó là một cậu bé nhiều triển vọng. Tuy
nhiên từ khi mẹ sinh em bé thứ hai, cậu bé có những thay đổi bất thường. Từ
trước đến giờ cậu không đái dầm nhưng từ khi có em, cậu lại đái dầm hằng
đêm. Không ai hiểu điều gì xảy ra và người lớn bắt đầu la rầy, quở trách cậu bé,
nhiều khi cậu chỉ biết khóc. Bố mẹ tìm đến một bác sĩ để khám cho cậu bé
nhưng với nhiều chủng loại thuốc khác nhau, chứng đái dầm vẫn không hết. Một
chuyên gia tâm lí biết chuyện và nhận định đây là một phản ứng tự vệ, một hình
thức thoái bộ có tính chất vô thức. Chuyên gia tâm lí cho rằng do lo lắng, ghen tị
về sự chăm sóc chu đáo của cha mẹ và những người xung quanh với em bé sơ
sinh mà quên mất giá trị của cậu, con người ngây thơ của cậu hình thành một
khát vọng là hãy... nhỏ trở lại để lại được cưng chiều như em bé nên lúc ngủ em
bé phải... tè. Khi được khuyến nghị, bố mẹ và người thân trong nhà cậu bé để
tâm, chăm sóc cậu nhiều hơn, khát vọng đã thoả nguyện và sau đó cậu đã
không còn chứng đái dầm nữa.
* Một người con gái muốn gọi điện thoại đến người bạn khác giới để trả
lời về lời mời đi du lịch của anh ấy nhưng khi bấm số điện thoại lại nhầm sang
số của một người bạn gái thân thuộc của mình. Tại sao có sự nhầm lẫn này khi
hai người bạn với hai loại tình cảm rất khác nhau? Hoá ra khi được hỏi về quan
hệ giữa cô gái và anh bạn kia thì được cô ta trả lời là: mình chẳng thích anh ta,
người gì mà cứ hay xía vào chuyện người khác. Thực chất, trong thâm tâm lúc
gọi điện thoại cho anh chàng, cô ta đã muốn từ chối lời mời nên vô tình gọi
nhầm số bạn gái của mình, một sự vô tình nhưng có nguồn gốc vô thức. Khi đã
không muốn, mọi thứ đều có thể quên hoặc lơ đễnh, không chú ý.
Câu chuyện thứ nuời một: Về những giấc mơ
Người ta nằm mơ ở mọi lứa tuổi. Trong giấc ngủ dài 7 - 8 tiếng, một
người có thể trải qua 9 giấc mơ. Phụ nữ có nhiều giấc mơ đẹp hơn và trong
mộng, họ hay thấy mình và hay phát thành tiếng hơn.
Với người xưa, giấc mơ thường được hiểu là sự báo trước điềm lành dữ.
Cũng có quan điểm cho rằng giấc mơ là sự diễn đạt huyền bí, không đầy đủ
những cảm xúc, ý nghĩ, ước mơ của con người; hoặc quan hệ đến quá khứ,
nhất là thời thơ ấu... giấc mơ là một hình thức của tâm lí vô thức ở con người.
Hai nhà khoa học Aserinxkin và Kleitman cho rằng có mối liên hệ giữa giai đoạn
ngủ REM (Rapid eye movements) với việc ghi nhớ giấc mơ. Hiện khoa học đã
xác định được chính xác từng giai đoạn của giấc ngủ, biết rõ khi nào bắt đầu
giấc mơ. Mặc dù quá trình chuyển tiếp từ trạng thái thức sang ngủ chưa được
xác định, nhưng đa số nhà khoa học cho rằng nó diễn ra do tác động của các
chất được tích tụ ở cơ thể trong suốt thời gian thức.
Giấc ngủ gồm 2 giai đoạn: ngủ thật và ngủ mơ. Một đêm thường có 5 chu
kì như vậy. Mỗi chu kì kéo dài 60 - 90 phút. Giai đoạn ngủ thật chia làm 4 phần.
Phần đầu là ngủ thiếp, thời lượng khác nhau tuỳ từng người; giấc ngủ lúc này
rất chập chờn và chỉ cần một tiếng động nhỏ cũng có thể làm tỉnh giấc. Phần 2
là ngủ nhẹ, chúng ta không còn cảm giác mình đang thức nữa, nhịp sóng điện
não giảm, biên độ sóng hạ thấp, thân nhiệt hạ từ từ, trên điện não đồ ở phần 1
và 2 bắt đầu xuất hiện những "nút ngủ" tức là những chùm sóng có tần số 14 -
46 chu kì/giây. Ở phần 3, người ngủ có nhịp thở chậm hẳn lại để chuẩn bị bước
sang phần 4 là ngủ sâu. Ở phần 4, trên điện não đồ, hầu hết là các dao động rất
chậm ứng với sóng delta, thân nhiệt hạ xuống. Tiếng động mạnh đột ngột có thể
làm người ngủ thức dậy, nhưng tiếng động mạnh đều đều thì dường như không
ảnh hưởng đến giấc ngủ. Tuy nhiên, bộ não vẫn làm việc và ghi nhận tiếng động
ấy nên sự nghỉ ngơi không được hoàn chỉnh lắm.
Bốn phần nói trên của giai đoạn ngủ thật chiếm khoảng 80% thời gian ngủ
mỗi đêm. Thường sau 90 phút kể từ lúc bắt đầu ngủ, chúng ta chuyển sang giai
đoạn REM. Ở chu kì đầu, giai đoạn này kéo dài khoảng 4 - 5 phút, nhưng càng
về khuya sẽ càng dài. Giai đoạn REM thường nối tiếp với phần 4 của giai đoạn
ngủ thật. Sau khi kết thúc giai đoạn REM, nếu người ngủ không thức dậy thì
toàn bộ chu kì sẽ lặp lại.
Giai đoạn ngủ mơ thường đến tức khắc và kèm theo những dấu hiệu đặc
trưng. Rõ nhất là những chuyển động đảo nhanh của mắt, các nhịp độ hoạt
động của thần kinh đều thay đổi và trở nên không đều đặn, giống như ở trạng
thái thức. Giai đoạn REM chính là giai đoạn của những giấc mơ. Giấc mơ có
đến vào những giai đoạn khác, nhưng đó chỉ là những hình ảnh mơ hồ, rời rạc
và phần lớn là trừu tượng. Khi thức giấc, chúng ta thường không nhớ được các
giấc mơ diễn ra trong phần 3 và phần 4 của giai đoạn ngủ thật, ngược lại với
giai đoạn REM. Qua theo dõi người ngủ được đánh thức trong giai đoạn REM,
các nhà khoa học kết luận rằng, giấc mơ không phải yếu tố ngẫu nhiên mà là
những hiện tượng gắn liền với hoạt động của não. Tác động của một số chất
nhất định vào tế bào não có thể ảnh hưởng đến giấc mơ.
Một số nhà nghiên cứu chia giấc mơ theo tính chất của nó, như tính hiện
thực có sự tham gia của chính người nằm mơ: mơ lành, mơ dữ, mơ kèm theo
hành động, mơ có các yếu tố sinh lí, giấc mơ có nhiều cảm thụ của các giác
quan, khoảng cách thời gian câu chuyện trong giấc mơ. Việc phân chia này
chưa phải hoàn chỉnh, song nó giúp cho việc đánh giá và phân loại giấc mơ.
Giấc mơ của hai giới nam và nữ cũng có sự khác biệt, ít nhất là ở các điểm như:
phụ nữ thường thấy mình trong mơ nhiều hơn, có nhiều giấc mơ đẹp và mơ
phát thành tiếng nhiều hơn.
Nếu thức dậy vào giai đoạn REM, hầu như ta đều nhớ lại được giấc mơ.
Vai trỏ của ngủ và mơ
Giấc ngủ sâu rất cần thiết cho não nghỉ ngơi và hồi phục. Trong quá trình
hoạt động khi thức, các tế bào bị mất đi một chất nhất định, trước hết là chất
ATP (Adenosintriphosphat), diện tích các tế bào nhỏ đi. Khi nghỉ ngơi, các quá
trình sẽ diễn ra theo chiều ngược lại, năng lượng được tích tụ và tế bào được
hiệu chỉnh, giúp não được phục hồi và tỉnh táo.
Còn giai đoạn REM thì sao? Lúc này, bộ não lại bắt đầu tiêu hao năng
lượng, song để làm gì? Giai đoạn ngủ mơ không có ở loài bò sát, song đã bắt
đầu có ở chim. Theo giáo sư Michael jouvet thì ở giai đoạn ngủ mơ, người ngủ
hoàn toàn thoát khỏi tác động của thế giới bên ngoài, trừ các điểm đã nói ở trên.
Chính trong giai đoạn này, có những cơ chế được đưa vào hoạt động để đem lại
cho cơ thể một trạng thái cân bằng. Những sai lệch nảy sinh do hoạt động ban
ngày được bù lại bằng giấc mơ, cho dù giấc mơ đó có thể là rõ ràng hay rối ren.
Khoa học ngày nay vẫn chưa xác định được đầy đủ ý nghĩa của giấc mơ. Cũng
có nhà khoa học cho rằng giấc mơ là sự thể hiện những ước vọng bị kìm hãm
về mặt sinh lí; hoặc là một phương thức bảo tồn của con người giúp cơ thể lấy
lại những gì đã mất ban ngày.
Câu chuyện thứ mười hai: Trí nhớ giả và thôi miên
Từ lâu, thôi miên được xem là một liệu pháp kì diệu để chỉnh sửa những
trục trặc trong đời sống tinh thần của con người. Nhưng không phải lúc nào
cách này cũng được ủng hộ, vì nó từng tạo ra sự biến thái đa nhân cách gây
hậu quả thảm khốc. Tất cả chỉ do trí nhớ giả...
Tái tạo trí nhớ
Hãy thư giãn đi, nào, nào...", câu nói vang lên nhè nhẹ, ru ngủ người phụ
nữ. Chị mơ màng kể lại những gì mình thấy trong giấc ngủ chập chờn: một bãi
biển xanh ngắt, sóng vỗ nhẹ, một luồng sáng dịu". Khi tỉnh dậy chị hầu như thấy
lại trọn vẹn những gì mà mình quên mất sau khi bị tai nạn giao thông cách đây 2
tháng. Tại Trung tâm liệu pháp thôi miên thuộc Đại học Texas, Mĩ, bác sĩ William
Kerry đang chữa trị cho hơn 100 bệnh nhân bị chứng suy giảm trí nhớ sau
những chấn thương liên quan đến não…
Nhiều người may mắn sống sót nhưng hoàn toàn quên mọi kỉ niệm, không
nhớ gì quá khứ. Những chuyện như vậy rất nguy hiểm, vì ảnh hường nghiêm
trọng đến đời sống tinh thần bệnh nhân và cả những người xung quanh. Thôi
miên đang được Mĩ và vài nước châu âu xem là phương thuốc kì diệu giúp tái
tạo trí nhớ, gây dựng lại trí nhớ đã bị kí ức xoá sạch trong não. Nếu cần một lời
lí giải cặn kẽ cho cơ chế "quên và nhớ" của não thì khoa học bó tay, nhưng thôi
miên lại biết cách tái tạo kỉ niệm tại một vùng nào đó trên não.
Tại Đại học Concordia (Canada), thôi miên cũng đang được giáo sư jean
Roch Laurence áp dụng triệt để cho những người mất đi "trí nhớ tự thân", loại trí
nhớ có nhiệm vụ ghi chép và lưu trữ trong tiềm thức đủ loại kỉ niệm, từ mơ hồ
thuở bé đến những quá khứ in đậm do có ấn tượng mạnh. Bạn không thể quên -
trên nguyên tắc - một kỉ niệm vui hay buồn có ảnh hưởng đến đời bạn, nhưng tai
nạn lao động hoặc tai nạn giao thông làm nó bị xoá sổ thì quả là tai hoạ. Theo
thăm dò của Tạp chí La Recherche, khoảng 90% gia đình của những bệnh nhân
như thế vô cùng đau khổ khi một thành viên trong gia đình họ không còn nhớ
chút gì.
Tuy nhiên, không phải lúc nào thôi miên cũng thành công, vì khoảng 11 %
trường hợp bỗng bị gán ghép kí ức giả, nghĩa là nhớ lại những chuyện không
phải của mình! Chuyện khó tin này diễn ra ở mức độ trùng hợp, làm nhiều nhà
nghiên cứu phải băn khoăn. Jean Baptiste Verona là một chàng trai 26 tuổi ở
Québec. Anh bị tông xe khá nặng và mất trí nhớ. Sau khi được chữa trị bằng
thôi miên, anh chợt "nhớ" những hình ảnh lạ hoắc mà cả gia đình và bạn bè đều
không biết. Chẳng hạn, Verona kiên quyết cho rằng mình từng đi cắm trại trong
rừng với 4 người bạn thân cách đây 10 năm, trong khi những người này đều xác
nhận không có.
Những chuyện như vậy là cực kì khó hiểu, càng khó hiểu hơn khi nhiều
người có cùng "trí nhớ giả" như nhau. Dominique và Allien đều được giúp đỡ
bằng thôi miên. Cả hai không quen biết nhau, nhưng đều có trí nhớ giả là có một
buổi đi xem phim với một anh chàng xa lạ. Lời mô tả của hai phụ nữ này hoàn
toàn giống nhau. Thật khó nếu đòi hỏi lời giải thích về vùng não nào chịu tác
động của thôi miên và tại sao hai người xa lạ lại có thể có chung trí nhớ giả.
Thận trọng với trí nhớ giả
Về phương diện pháp lí, trí nhớ giả đôi lúc tỏ ra nguy hiểm, vì nó có thể
gây tai hoạ cho một người vô tội. Cuối thập niên 1980, trí nhớ giả từng tạo nên
mức độ phức tạp và nhầm lần cho nhiều dự án. Nếu một thủ phạm gây án và bỏ
trốn, sau đó, nạn nhân bỗng có trí nhớ giả và kể "vanh vách" chân dung hoặc
hành động của một ai đó thì quả là một bi kịch. Khi gặp mặt một người vô tội,
người bệnh bị rối loạn kí ức bỗng gào lên: "Chính hắn đã làm nhục tôi" hoặc
"Chính hắn đã đụng vào tôi và bỏ chạy thì cảnh sát có thể gieo nghi vấn ngay
lập tức. Từ lâu, khoa học đã gọi triệu chứng này là kỉ niệm giả hay sai lạc. Trước
đây, khái niệm này chỉ được dùng để chỉ những kỉ niệm khủng khiếp tưởng
chừng đã bị quên sau chấn thương, nhưng sau đó được phục hồi. Về sau, nó
còn được dùng để chỉ trí nhớ giả. Ở Mĩ - vào thập niên 1990 - đã phải thành lập
một Tổ chức bảo vệ nạn nhân của trí nhớ giả, nhằm giảm thiểu ngộ nhận trong
xét xử. Canada cũng từng trình lên Bộ Tư pháp - vào năm 1997 - dự án thành
lập Hội bảo vệ những người vô tội bị trí nhớ giả gieo vạ.
Hàng loạt câu hỏi được đặt ra, dù thôi miên liệu pháp đạt được những kết
quả rõ ràng. Liệu nó có làm xã hội thêm bất ổn một khi thủ phạm đích thực ung
dung trong khi kẻ vô tội bỗng mắc vào vòng lao lí? Trong tác phẩm "Động lực
của trí nhớ", tác giả Michelle Fugain của Pháp cũng nhấn mạnh rằng cơ chế
"thu nhận tất cả" của não cần được xem xét lại cẩn thận, vì không phải lúc nào
não cũng có quyền năng chính xác. Cơ chế vận hành đầy phức tạp và bí ẩn của
não đôi khi cho ra những tình huống sai lạc rất lớn mà các nhà Thần kinh học
chưa thể giải đáp.
Cũng theo Michelle, trong khi đọc một bài báo, người ta đã để não tập
trung vào việc "đọc hiểu và ghi nhớ", nhưng có những kí ức vẫn vô tình được
não ghi lại mà con người không hay biết, chẳng hạn, mùi nấu nướng đâu đó,
tiếng nhạc văng vẳng từ nhà bên cạnh hoặc một màu sắc thoảng qua. Kí ức-"vô
nghĩa" như vậy có thể được lập trình một cách hết sức tai hại trong não, sau đó
kết hợp với nội dung bài báo và cho ra một thứ "kí ức cocktail" chết người. Nếu
chúng ta khoẻ mạnh thì món cocktail ấy ngủ yên trong não và không có khuynh
hướng vùng dậy. Nếu trí nhớ bị lung lay, món cocktail hổ lốn ấy có thể được não
ghi nhận đậm hơn và cho ra phía trước, nghĩa là có thể xuất hiện bất cứ lúc nào
và đánh lừa ý thức của con người. Khi đó, một phụ nữ bị làm nhục - sau khi
được giúp đỡ bằng thôi miền - bỗng "nhớ" lại gương mặt và hình dạng của thủ
phạm tưởng tượng, chỉ vì tình cờ đọc lại bài báo kia (hoặc bài báo có nội dung
tương tự), đúng lúc mùi thức ăn hay màu sắc khi xưa cùng xuất hiện. Nói nôm
na là vậy, nhưng những gì xảy ra trong não thì không ai hiểu được. Bạn không
tài nào ghi nhớ được vài số điện thoại nào đó, nhưng não đã lưu trữ chúng mà
bạn không hay biết. Một lúc nào đó, não bỗng bật ra và ra lệnh (tai hại) cho bạn
rằng "đó là số điện thoại của thủ phạm". Khi đó, nạn nhân vô tội sẽ gặp vô số
rắc rối với cảnh sát.
Khoảng cuối thập niên 1990, Đại học Arizona của Mĩ cho ra thuyết "chi tiết
ngầm", nghĩa là nhấn mạnh và lí giải giá trị của những chi tiết vô nghĩa trong
não. Những gì mà con người ghi nhớ kĩ, nhớ dai đôi khi lại là hời hợt. Những gì
tưởng chừng vô hại, mau quên lại được não lưu lại rất kĩ và đợi lúc bùng nổ.
Theo thống kê của Hiệp hội Thôi miên liệu pháp của Bỉ, có gần 70% bệnh nhân
mất trí nhớ hoặc bị bệnh Alzheimer bỗng khôi phục trí nhớ theo kiểu chi tiết",
nghĩa là không nhớ lại được nội dung quan trọng, mà lại nhớ vanh vách các tiểu
tiết tầm phào dù chuyện đã xảy ra cách đó nửa thế kỉ! Theo giáo sư Alex
Rochefort của Pháp, thời gian có lúc đóng vai trò rất lớn với những tiểu tiết như
thế. Cụ thể, một chi tiết vô nghĩa được lưu lại, sau đó, qua thời gian, hàng loạt
chi tiết vô nghĩa khác được nạp tiếp và nằm đó. Một lúc nào đó, do não bị trục
trặc, chúng có thể kết hợp rất bền vững và nhanh chóng để cho ra một kỉ niệm
giả mà con người cứ tin chắc là thật. Ở Đại học Washington, những kiểu trí nhớ
như thế được gọi là "nhân tạo", không phải theo kiều robot hay máy tính mà là
một kiểu "sáng tác tai hại". Điều mà khoa học chắc chắn là nếu thôi miên liệu
pháp không chen vào thì trí nhớ giả rất hiếm khi xuất hiện.
Theo Hiệp hội Tâm lí học của Mĩ (APS), thôi miên liệu pháp là con dao hai
lưỡi Giáo sư Elizabeth Loftus của Hiệp hội này vô cùng kinh ngạc khi thấy thí
nghiệm của bà đã cho ra một kết quả kì lạ: hơn 70% số người được thí nghiệm
đã có trí nhớ giả trùng hợp 100%. Đó là lời kể về thuở nhỏ mình bị lạc trong một
trung tâm thương mại sầm uất, cha mẹ đi đâu không biết, chỉ còn một mình
đứng gào khóc giữa đám đông xa lạ. Lẽ nào thôi miên liệu pháp đã "lập trình"
hàng loạt cho những bộ não của những chủ thể khác nhau? Một số ít bệnh nhân
lại rơi vào tình trạng "lạm phát kỉ niệm", nghĩa là nhớ lung tung, nhớ đủ thứ trên
đời, cả những chuyện mà não sáng tác ra. Một số nhà Thần kinh học thì cho
rằng khi trẻ em chưa được 3 tuổi thì não chưa hoàn thiện. Một kỉ niệm mạnh có
thể làm não bị trục trặc và tạo ra những chương trình giả. Kết luận này ra đời vì
đa phần những người có trí nhớ giả đều có kỉ niệm mạnh trước 3 tuổi, chẳng
hạn bị tai nạn dẫn đến chấn thương ở đầu bị xâm hại cơ thể hoặc bị ám ảnh.
(theo Vietnam Net)
3. CHÚ Ý3.1. Khái niệm
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một sự vật hay một nhóm sự vật,
hiện tượng, để định hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh - tâm lí cần
thiết cho hoạt động tiến hành hiệu quả. Có thể nói rằng chú ý mang tính chất
chọn lựa, chúng ta chỉ chọn lựa từ một số lượng lớn các đối tượng và lấy ra một
số để tập trung vào đó tiến hành hoạt động tâm lí của mình.
Khi có chú ý thì hoạt động tâm lí sẽ trở nên có tổ chức hơn, không có chú
ý, thí dụ như ở trạng thái buồn ngủ thì các ý nghĩ sẽ diễn ra mang tính chất hỗn
loạn, chúng liên hệ với nhau một cách ngẫu nhiên, thay thế nhau do những mối
quan hệ liên tưởng máy móc đơn thuần, không có kế hoạch, không có trật tự.
Chú ý thường đi kèm với những biểu hiện bên ngoài như nhìn đăm đăm,
dỏng tai lên nghe, quay mặt về phía đối tượng gây ra chú ý... Nhưng những biểu
hiện này chỉ là bề ngoài vì người ta có thể "vờ chú ý" hoặc "vờ không chú ý". Sự
chú ý là một yếu tố quan trọng trong các hoạt động nghề nghiệp, chủ thể cần
biết phân phối chú ý như thế nào cho hợp lí và lúc nào thì tập trung chú ý...
3.2. Các loại chú ý
3.2.1. Chú ý không chủ định
Là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần đến sự nỗ lực bản
thân. Chú ý không chủ định thường do cường độ, tính chất bất ngờ, mới lạ,
tương phản... của các tác động và nhất là do tính hấp dẫn của đối tượng đối với
chủ thể gây ra. Chú ý không chủ định tuy không được chủ thể dự liệu nhưng có
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình định hướng hành vi của mỗi cá nhân, đặc
biệt đối với những tác động mới lạ ngoài dự liệu của chủ thể.
3.2.2. Chú ý có chủ định
Là loại chú ý có mục đích định trước và cần sự nỗ lực của bản thân. Loại
chú ý này thường có thể duy trì tương đối lâu dài nhưng thường gây căng
thẳng, mệt mỏi... Loại chú ý có chủ định thường hướng đến các sự kiện, hiện
tượng hay vấn đề có liên quan đến nhu cầu, hoạt động của chủ thể, đó là sự
chú ý mang tính định hướng của mỗi người.
3.2.3. Chú ý sau chủ định
Loại chú ý này vốn là chú ý có chủ định, nhưng không đòi hỏi sự căng
thẳng của ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung hoạt động tới mức khoái cảm,
đem lại hiệu quả cao của chú ý. Như vậy chú ý có chủ định đã biến thành chú ý
sau chủ định. Chú ý sau chủ định là sự lưu tâm về đối tượng sau khi chủ thể có
một liên hệ tích cực nào đó đối với đối tượng.
3.3. Các tính chất cơ bản của chú ý
3.3.1. Sức tập trung của chú ý
Sức tập trung của chú ý, có khi còn gọi là tập trung tư tưởng, là khả năng
chỉ chú ý đến một phạm vi đối tượng tương đối hẹp, cần thiết cho hành động lúc
đó và không lưu ý đến những sự vật, hiện tượng khác. Ở mỗi người nhất định,
sức tập trung chú ý càng cao thì cường độ chú ý càng lớn, càng giúp cho hành
động chính xác hơn, nhưng sức tập trung cao cũng biểu hiện ở sự thoát li các
đối tượng khác. Hiện tượng "đãng trí bác học" là vì quá say mê tập trung chú ý
vào một đối tượng nào đó mà quên mất mọi chuyện khác trên thế giới lúc ấy. Sự
tập trung chú ý cũng là một chỉ số để đánh giá hiệu quả thích ứng của từng chủ
thể đối với các biến đổi của môi trường.
3.3.2. Sự bền vững của chú ý
Đây là khả năng tập trung lâu dài hay nhanh chóng vào một phạm vi đối
tượng của hoạt động. Ngược với độ bền vững là sự phân tán chú ý. Phân tán
chú ý diễn ra theo chu kì gọi là sự dao động của chú ý. Sự dao động chú ý có
thể quan sát thấy ngay cả khi chú ý tập trung và vững chắc nhất. Sự dao động
đó biểu hiện ở chỗ mặc dù có tập trung vững chắc vào một hoạt động nhất định
nào đó thì sự chú ý vẫn chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác để rồi sau
một khoảng thời gian ngắn lại quay về đối tượng cũ.
3.3.3. Sự phân phối chú ý
Phân phối chú ý là khả năng cùng một lúc chú ý đến nhiều đối tượng hay
nhiều hoạt động khác nhau một cách có chủ định và đầy đủ.
3.3.4. Sự di chuyển chú ý
Di chuyển chú ý là khả năng lần lượt tập trung chú ý vào những phạm vi
đối tượng nhất định của một hoạt động hoặc nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Khả
năng di chuyển chú ý ở từng người như là một phẩm chất cá nhân riêng biệt.
Các tính chất hay thuộc tính của chú ý có quan hệ bổ sung cho nhau. Mỗi
tính chất có thể giữ vai trò tích cực hay không tuỳ thuộc vào chỗ chúng ta biết
sử dụng từng tính chất hay phối hợp các tính chất tuỳ theo yêu cầu của hoạt
động.
TÓM LƯỢC CHƯƠNG 3Có những hiện tượng tâm lí được chủ thể ý thức nhưng cũng có rất nhiều
hiện tượng tâm lí chưa được hay không được chủ thể ý thức.
Vô thức có vai trò quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người.
Chú ý là một trong những điều kiện giúp con người hoạt động có ý thức.
Chú ý có một số đặc điểm nói lên sự khác biệt chú ý ở cá nhân.
Chương 4: TÌNH CẢM
1. CẢM XÚC1.1. Khái niệm chung về cảm xúc
Cảm xúc là sự rung động của bản thân con người đối với hiện thực cũng
như sự rung động của trạng thái chủ quan nảy sinh trong quá trình tác động
tương hỗ với môi trường xung quanh và trong quá trình thoả mãn nhu cầu của
mình.
Cảm xúc cũng như các quá trình tâm lí khác, xuất hiện có tính chất phản
xạ, vì vậy nó là sự phản ánh của thế giới hiện thực tác động vào con người.
Cảm xúc là một hình thức đặc biệt của sự phản ánh quá trình thực tế tác động
lẫn nhau giữa con người với môi trường xung quanh nhưng khác với quá trình
trí tuệ như cảm giác, tri giác, tư duy cảm xúc chỉ phản ánh những mặt của hiện
thực được thể hiện nổi bật lên như một quá trình thực tế tác động lẫn nhau giữa
con người với môi trường khi các nhu cầu của họ được thoả mãn.
Có bốn loại cảm xúc điển hình là vui, buồn, sợ hãi và giận dữ, những cảm
xúc này thường gây nên những biến đổi nhất định. Cũng có thể cho rằng cảm
xúc là một tình trạng tâm lí mãnh liệt, nhất thời, chóng qua do một hình ảnh, một
kích thích gây ra kèm theo những biến đổi về tâm sinh lí.
Ngoài những nguyên nhân tạo cảm xúc, con người có sự khác nhau về
tính dễ xúc cảm để bộc lộ cảm xúc. Tính dễ xúc cảm của một cá nhân làm cá
nhân đó bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Sự tác động của những hiện tượng
nào đó có thể gây nên sự thoả mãn hay không thoả mãn, thích hay không thích,
một sự kiện nào đó có thể làm chủ thể vui hay buồn, có thể rung động một cách
dễ chịu hay khó chịu. Cùng một tin buồn, người ít cảm xúc có thể lạnh lùng, bình
tĩnh, còn người đa cảm có thể bị rối loạn toàn bộ sinh hoạt nội tâm cũng như thể
xác. Mức độ cảm xúc khác nhau vì có sự khác biệt về tính cảm xúc ở mỗi cá
nhân.
Cần phân biệt cảm xúc và xúc cảm, xúc cảm là sự trải nghiệm của chủ thể
khi có sự thoả mãn nhu cầu nhưng đó chỉ là sự trải nghiệm thụ động, không tạo
nên một khuynh hướng nào để chủ thể có thể tiếp tục bị kích thích, một xúc cảm
không tạo nên động lực của hành vi. Cảm xúc là khái niệm gắn liền với định
hướng hoạt động, là phản ứng mang tính kích thích để chủ thể lựa chọn
phương pháp thích ứng. Cảm xúc dùng để chỉ phản ứng của con người còn xúc
cảm còn dùng để mô tả phản ứng của con vật.
1.2. Những đặc điểm của cảm xúc
1.2.1. Cảm xúc có những biểu hiện bề ngoài rất rõ ràng
Đặc điểm tiêu biểu của cảm xúc con người và động vật là các trạng thái
tâm lí chủ quan bên trong luôn có những biểu hiện bên ngoài nhất định qua cử
chỉ, nét mặt, đặc điểm tư thế, động tác và cả những phản ứng có liên quan đến
những thay đổi trong hoạt động của hệ tim mạch, hô hấp, tuyến nội tiết... Khi sợ
hãi, mặt con người có thể tái mét, hành động trở nên gò bó. Khi bối rối, mặt con
người có thể đỏ bừng lên, toát mồ hôi. Khi sung sướng, người ta cười, hơi thở
trở nên sâu hơn, động tác trở nên thoải mái hơn. Cảm xúc cũng thể hiện ở
giọng nói của chủ thể. Những vận động diễn cảm của nét mặt xảy ra do hoạt
động của một nhóm cơ đặc biệt trên mặt là những cơ thực hiện các động tác rất
khác nhau và có sự phân biệt vô cùng tinh tế, do đó tạo nên những sắc thái vô
cùng phong phú của nét mặt khi có những rung động cảm xúc khác nhau. Có
thể nói rằng cảm xúc xuất hiện thường kèm theo những biến đổi về tâm - sinh lí.
Người ta có thể "biến sắc" khi gặp sự cố bất thường, nguy hiểm và người ta có
thể mất khôn ngoan khi đang trong cơn giận dữ. Hoạt động của các cơ thường
xảy ra một cách không ý thức, một cách tổng hợp rất phức tạp.
Dây thần kinh mặt với vô số các nhánh của nó sẽ phân bố thần kinh cho
tất cả các cơ trên điệu bộ, nét mặt. Con người có thể nhìn cười hay nén nỗi
buồn của mình không cho biểu hiện trên nét mặt, người ta có thể cười khi họ
hoàn toàn không vui chút nào hoặc có thể thể hiện sự không thoả mãn một cách
giả tạo.
Những động tác diễn cảm không ý thức khi rung động cảm xúc xảy ra
không chỉ do các cơ mặt mà còn do toàn bộ cơ bắp trong cơ thể. Con người
thường nắm chặt nắm tay một cách không ý thức khi tức giận, lùi lại và làm
động tác đẩy ra khi kinh tởm...
Khi sợ hãi đến một mức nhất định thì người ta biểu hiện hoạt tính vận
động khác thường như chạy nhanh hơn, nhảy cao hơn để tránh nguy hiểm
chẳng hạn. Khi giận dữ tột cùng, người ta cũng thấy sức mạnh cơ bắp và động
tác đột ngột khác thường.
Về mặt tâm lí, cảm xúc có thể làm tê liệt tạm thời các phán đoán, suy luận
và ý chí của cá nhân.
1.2.2. Các cảm xúc rất đa dạng và phong phú
Sự phong phú của các cảm xúc không chỉ về mặt nội dung của các hiện
tượng mà nó có liên quan tới, mà còn theo các đặc điểm về chất của mình và
theo vô số các sắc thái cảm xúc tương tự. Sự sợ hãi không chỉ xuất phát từ sự
khiếp đảm hay khi chủ thể đối diện với tình trạng bị kích động mà còn có thể bắt
đầu từ sự thiếu tự tin ở chính chủ thể. Người ta có thể vui vì nhiều lý do khác
nhau và niềm vui của mỗi lí do cũng hoàn toàn khác nhau.
1.2.3. Tùy theo loại cảm xúc mà những dấu hiệu bộc lộ sẽ khác nhau
Niềm vui làm khuôn mặt rạng rỡ, cười tươi thêm, tuần hoàn và hô hấp
thoải mái trong lúc nỗi buồn lại làm vẻ mặt sạm lại, mắt mất thần, nhăn nhó…
Cảm xúc xuất hiện và biểu hiện tuỳ thuộc vào trạng thái chủ quan của chủ thể và
tuỳ thuộc vào tính chất của các kích thích.
1.3. Vai trò của cảm xúc trong cuộc sống và trong hoạt động của con người
Khi con người thoả mãn được một nhu cầu nào đó hay không, một cảm
xúc tương ứng sẽ được hình thành, có thể là dương tính, có thể là âm tính. Các
cảm xúc có những vai trò nhất định trong quá trình sống và làm việc của con
người.
1.3.1. Cảm xúc như một hình thức thích ứng với hoàn cảnh xung quanh
Theo quan điểm tích cực, cảm xúc làm quân bình đời sống tâm lí trong
quá trình cá nhân tiếp nhận những kích thích bất thường. Người ta có thể khóc
để làm vơi bớt nỗi buồn đau hoặc có thể la hét để làm giảm bớt sự phấn kích.
Cảm xúc là một cơ chế giúp con người tự cân bằng đời sống tâm lí, giúp con
người biết cách xác định phương hướng hành động sau đó.
1.3.2. Cảm xúc có vai trò kích thích hành động
Cảm xúc gắn liền với những nhu cầu, động lực của sự phát triển và là
nguyên nhân của những xáo trộn tâm lí tạm thời. Do đó nó có tác dụng kích
thích hành động một cách mạnh mẽ. Cảm xúc là nguồn gốc của sáng tạo nghệ
thuật, là cơ sở để có những hành vi phi thường, là điều kiện để có những cách
thức thích nghi độc đáo của các chủ thể.
1.3.3. Cảm xúc đóng vai trò tích cực trong quá trình giao tiếp
Trong giao tiếp giữa người với người, cảm xúc đóng vai trò truyền đạt
quan trọng. Cảm xúc mang lại cho con người ngôn ngữ truyền cảm, con người
biểu lộ thái độ cảm xúc của mình đối với người khác, với các sự kiện, hiện
tượng khác nhau bằng ngữ điệu, cử chỉ, điệu bộ, do đó gây nên phản ứng đáp
lại của người khác.
Sự đa dạng, phong phú và trong sáng của cảm xúc sẽ làm cho kinh
nghiệm sống của con người trở nên phong phú hơn, làm cho quan hệ tương hỗ
giữa cá nhân con người có nội dung đầy đủ hơn.
1.4. Các loại cảm xúc
Các cảm xúc có thể được phân chia thành các dạng thành phần căn cứ
vào các dấu hiệu đặc trưng đối với chúng về cường độ, thời gian tồn tại... Sau
đây là những dạng cảm xúc tiêu biểu.
1.4.1. Tâm trạng
Tâm trạng là một trong những dạng phổ biến nhất của các trạng thái cảm
xúc của con người. Tâm trạng có những đặc điểm sau:
- Cường độ yếu, tâm trạng thể hiện với cường độ rung động cảm xúc yếu.
Tâm trạng là một trạng thái cảm xúc chung bao trùm lên toàn bộ các rung động
và làm nền cho hoạt động của con người, có ảnh hưởng rõ rệt đến hành vi của
con người. Nguồn gốc của tâm trạng rất khác nhau, có nguồn gốc gần và xa,
trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Thời gian tồn tại của một tâm trạng kéo dài đáng kể, tâm trạng bao giờ
cũng là một trạng thái có sự kéo dài, các cảm xúc tương ứng phát triển chậm và
duy trì. trong một khoảng thời gian nhất định. Một tâm trạng nhất định có thể làm
con người bị ảnh hưởng, bị Phân tâm có khi hằng tuần, hằng tháng hoặc lâu
hơn nữa...
- Không rõ ràng, "không ý thức". Khi đã ở trong một trạng thái nào đó, con
người vẫn không giải thích được nguyên nhân, không liên hệ được với các đối
tượng khác xác định nào đó. Khi con người giải thích được các nguyên nhân
gây ra tâm trạng thì tâm trạng đó đã biến mất. Điều này không có nghĩa là các
tâm trạng hình thành một cách vô cớ nhưng sự xuất hiện của nó có lúc khiến
con người không kiểm soát được.
- Tâm trạng mang tính chất phân tán đặc biệt. Tâm trạng để lại dấu ấn của
mình trên tất cả những ý nghĩ, thái độ, hành động của con người trong thời điểm
đang có tâm trạng đó. Sự hình thành và thay đổi tâm trạng có thể bị ảnh hưởng
bởi các nhân tố chủ quan và khách quan, những nhân tố bên ngoài và bên trong
chủ thể.
Sau đây có thể lưu ý đến một số nguyên nhân chủ yếu của các tâm trạng:
- Các quá trình và các trạng thái khác nhau của cơ thể. Trạng thái cơ thể
không tốt có thể gây nên tâm trạng không lành mạnh và ngược lại. Vì vậy muốn
duy trì tâm trạng lành mạnh, cằn chú ý đến việc chăm sóc sức khoẻ.
- Các đặc điểm của môi trường xung quanh con người, nơi con người
sống và làm việc. Những kích thích, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến việc
hình thành những tâm trạng nhất định. Màu sắc, âm thanh, khí hậu... có ảnh
hưởng nhất định đến việc hình thành hoặc thay đổi tâm trạng. Đặc điểm này có
thể được vận dụng để tạo nên những tâm trạng phù hợp với tính chất của tình
huống hoặc tính chất của hoạt động: các Y Bác sĩ thường mặc áo bảo hộ (blue)
màu trắng hoặc xanh da trời, các chức sắc tôn giáo mặc trang phục có màu
tương thích với nghi lễ...
- Các đặc điểm tác động lẫn nhau giữa người với người. Các tâm trạng có
thể truyền từ người này qua người kia trong quá trình tiếp xúc qua lại với nhau.
- Những ý nghĩ và biểu tượng của con người, biểu hiện sự thoả mãn hay
không thoả mãn với hành vi của con người, với kết quả hoạt động của họ... sẽ
ảnh hưởng đến việc hình thành những tâm trạng nhất định.
1.4.2. Xúc động
Khi các cảm xúc xảy ra với cường độ mạnh mẽ và biểu hiện đột ngột thì
gọi đó là xúc động. Những đặc điểm nổi bật của xúc động là:
- Rung động cảm xúc biểu hiện bên ngoài mãnh liệt, các quá trình hưng
phấn và ức chế trong não rất mạnh. Đồng thời hoạt động của các trung khu
dưới vỏ não cũng được tăng cường và xuất hiện những rung động cảm xúc bản
năng sâu sắc.
- Những rung động cảm xúc xảy ra trong thời gian ngắn, với những đặc
điểm riêng. Xúc động vừa là một quá trình tích cực, vừa không kéo dài lâu và
biến đi rất nhanh.
- Những rung động cảm xúc xảy ra có tính chất không có ý thức ở mức
đáng kể. Ở trạng thái xúc động, con người có lúc hoàn toàn không nhận thức
được rằng họ đang làm gì, không thể điều khiển được hành vi, hoạt động của
họ, họ hoàn toàn bị rung động cảm xúc chi phối.
- Rung động cảm xúc thể hiện sự lan toả rất rõ ràng.
2. TÌNH CẢM2.1. Khái niệm
Tình cảm là thái độ cảm xúc ổn định của con người đối với những sự vật,
hiện tượng của hiện thực khách quan có liên quan đến nhu cầu và động cơ của
họ.
Cũng như nhận thức, tình cảm cũng phản ánh hiện thực khách quan và
mang tính chất chủ thể sâu sắc nhưng có những đặc điểm riêng khác biệt so với
phản ánh trong nhận thức.
Tình cảm là những rung động cảm xúc mạnh hơn tâm trạng nhưng lại yếu
hơn xúc động nhiều, đó là những cảm xúc có cường độ trung bình, nhưng đồng
thời lại có những cấu trúc tâm lí rõ ràng. Tình cảm không kéo dài lâu như tâm
trạng mà mang tính chất tiềm tàng, sâu lắng.
2.2. Những đặc điểm của tình cảm
2.2.1. Tính nhận thức
Đặc điểm nổi bật của tình cảm là chủ thể luôn luôn nhận thức được các
nguyên nhân gây nên chúng. Ba yếu tố nhận thức, rung động và thể hiện cảm
xúc tạo nên tình cảm của con người.
2.2.2. Tínhh đối tượng
Tình cảm không lan toả như xúc động mà luôn hướng vào một đối tượng
nhất định. Tình cảm có liên hệ chặt chẽ với hoạt động, các tình huống cụ thể
gây nên những rung động nhất định.
2.2.3. Tính ổn định
Tình cảm là một thuộc tính tâm lí của con người, là những kết cấu tâm lí
ổn định, tiềm tàng của nhân cách, rất khó hình thành nhưng cũng rất khó mất đi.
2.2.4. Tính xã hộị
Tình cảm thực hiện chức năng tỏ thái độ của con người, tình cảm mang
tính chất xã hội, chứ không phải là những phản ứng tâm lí đơn thuần.
2.3. Các loại tình cảm
Tình cảm là những rung động cảm xúc rất phức tạp và đa dạng. Ví dụ:
căn cứ vào nội dung và nguyên nhân phát sinh, người ta phân chia thành tình
cảm cấp thấp và cấp cao.
2.3.1. Tình cảm cấp thấp
Loại tình cảm này liên quan chủ yếu đến các quá trình sinh học trong cơ
thể, liên quan đến sự thoả mãn những nhu cầu tự nhiên của con người.
2.3.2. Tình cảm cấp cao
Loại tình cảm này xuất hiện liên quan đến việc thoả mãn các nhu cầu xã
hội, nhu cầu tinh thần của con người. Các loại tình cảm này tham gia một cách
hữu cơ vào tất cả mọi hình thức hoạt động, ảnh hưởng mạnh mẽ, rõ ràng đến
tính tích cực của con người.
2.3.3. Tình cảm đạo đức
Tình cảm đạo đức biểu thị thái độ của con người đối với các yêu cầu đạo
đức trong xã hội, trong quan hệ giữa người với người. Các tình cảm đạo đức sẽ
tốt đẹp khi các hành động và hành vi của con người do các tình cảm ấy xác định
tương ứng với các yêu cầu của xã hội và được xã hội khuyến khích, đánh giá
cao.
Tình cảm đạo đức gắn chặt với thế giới quan của con người, với các ý
nghĩ, tư tưởng, nguyên tắc và truyền thống của họ. Các biểu tượng hay ý nghĩ
phát sinh trong ý thức con người vừa gắn với tình cảm đạo đức vừa trở thành
nguồn kích thích đối với hoạt động.
2.3.4. Tình cảm có trí tuệ
Tình cảm trí tuệ là tình cảm gắn với hoạt động nhận thức của con người,
chúng nảy sinh trong quá trình học tập và hoạt động khoa học cũng như trong
hoạt động sáng tạo ở các môn nghệ thuật, khoa học và kĩ thuật khác nhau. Tình
cảm trí tuệ rất đa dạng, được thể hiện bởi ý nghĩ rõ ràng hay mơ hồ, nghi ngờ
một vấn đề nào đó. Tình cảm trí tuệ thể hiện ở sự ngạc nhiên khi bắt gặp cái
mới, cái bất thường chưa từng được biết...
2.3.5. Tình cảm thẫm mĩ
Tình cảm thẩm mĩ được hình thành do vẻ đẹp hay sự xấu xí của các đối
tượng được tri giác tạo nên. Tình cảm thẩm mĩ có thể mang tính chất nhận thức
khi chúng xuất hiện gắn với sự tri giác hiện thực khách quan, chúng có thể trở
nên tích cực khi tham gia một cách hữu cơ vào hoạt động của con người.
2.3.6. Tình yêu (đôi lứa)
Tình yêu được hiểu như một phạm trù vĩnh hằng. Đề tài tình yêu vẫn là đề
tài hấp dẫn nhất từ trước đến nay, nhất là tình yêu đôi lứa. Tình yêu đẹp có vai
trò rất lớn trong đời sống con người nói chung và tuổi trẻ nói riêng.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người hoạt động rất mạnh mẽ nếu tình
yêu xuất phát từ những cảm xúc lành mạnh và được bồi đắp dưới một môi
trường trong sáng.
Những đặc điểm của tình yêu:
- Tình yêu không phải là trạng thái tình cảm bình thường, đơn thuần.
- Tình yêu là nguồn sức mạnh tác động đến toàn bộ cuộc sống, hoạt động
và sức sáng tạo của con người.
- Tình yêu dành cho một và chỉ cho một người khác giới nhất định.
- Tình yêu có tính chất bền vững.
- Tình yêu mang sắc thái dân tộc.
- Tình yêu mang tiếng nói địa phương.
2.4. Vai trò của tình cảm
Với nhận thức, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người
tìm tòi chân lí, ngược lại, nhận thức là cơ sở của tình cảm. tình cảm là chất liệu
của sáng tạo nghệ thuật.
Tình cảm có quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lí của con
người và nó đóng vai trò điều hoà, thiết lập trật tự cho cuộc sống. Giữa hai thái
cực trong sinh hoạt ở con người, sự xung động và tình trạng quán tính, tình cảm
giữ cho chúng thế quân bình. Thiếu tình cảm, con người sẽ rơi vào một trong
hai thái cực và mất hết khả năng thích nghi.
2.5. Các quy luật của đời sống tình cảm
2.5.1. Quy luật di chuyển
Quy luật này được thể hiện ở chỗ, tình cảm có thể chuyển từ đối tượng
này sang đối tượng khác hoặc từ nội dung này sang nội dung khác, tuỳ thuộc
vào đối tượng của tình cảm. Hiện tượng di chuyển tình cảm có thể xuất hiện
dưới nhiều hình thức, có thể là sự chuyển tình cảm từ người sang vật. Một cuốn
nhật kí của người bạn thân, một kỉ vật nào đó gắn liền với cuộc sống của một cá
nhân nhất định đã làm cho con người bồi hồi, cảm kích.
2.5.2 Quy luật lây lan tình cảm
Tình cảm của người này có thể truyền, lây sang người khác. Nền tảng
của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm của con người. Một hình thức lây
lan là sự đồng cảm. Đồng cảm là khuynh hướng đưa con người tới chỗ hiểu biết
nhau hơn. Tính chất nổi bật của sự đồng cảm là sự thu hút con người, sự đồng
cảm có đối tượng là con người chứ không phải con vật. Sự đồng cảm toàn diện
phải có sự lôi cuốn hai chiều giữa chủ thể và người kia.
2.5.3. Quy luật tương phản
Tình cảm có sự tác động qua lại với nhau, sự xuất hiện hoặc sự suy yếu
đi của một tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một tình cảm khác xảy ra
đồng thời hoặc nối tiếp nó.
2.5.4. Quy luật pha trộn
Pha trộn tình cảm là sự kết hợp màu sắc âm tính và màu sắc dương tính
của nó, màu sắc âm tính còn là nguồn gốc và điều kiện để nảy sinh màu sắc
dương tính. Tính pha trộn cho phép hai loại tình cảm đối nghịch nhau có thể
cùng tồn tại ở một con người, chúng không loại trừ nhau, mà quy định lẫn nhau.
2.5.5. Quy luật thích ứng tình cảm
Một tình cảm nào đó được lặp đi lặp lại nhiều lần một cách không thay đổi
thì cuối cùng sẽ bị suy yếu, chai sạn.
2.5.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm
Tình cảm được hình thành từ các cảm xúc, do các cảm xúc cùng loại
được động hình hoá. Nếu không có cảm xúc, vô cảm thì không có tình cảm gì
cả.
Tình cảm được hình thành từ các cảm xúc, nhưng khi đã hình thành thì
tình cảm lại được thể hiện qua các xúc cảm đa dạng và chi phối các cảm xúc.
Các quy luật của đời sống tình cảm được thể hiện vô cùng phong phú và
đa dạng trong cuộc sống của con người, các quy luật này ảnh hưởng đến đời
sống tình cảm của con người một cách tự nhiên, trong nhiều trường hợp, con
người không thể nhận biết được là họ đang bị các quy luật chi phối.
3. ĐAM MÊ3.1. Khái niệm
Đam mê là một khuynh hướng chiếm ưu thế, có thể trở thành thống trị và
độc tôn phá vỡ sự quân bình của đời sống tâm lí. Con người có nhiều nỗi đam
mê như đam mê tiền bạc, đam mê quyền lực, đam mê tình yêu, nghiện các chất
độc hại...
Trong cuộc sống, có người lúc đầu có khuynh hướng chuộng tiền tài, dần
dần khuynh hướng tiền bạc trở thành thống trị, con người sẽ trở nên bị lệ thuộc
vào tiền bạc và đến mức độ cuối cùng, con người chỉ còn biết có tiền, khuynh
hướng tiền bạc trở nên độc tôn, người ta coi tiền bạc như lí tưởng của cuộc
sống, trong tình trạng thức, ngủ, con người đều nhìn thấy tiền ở khắp mọi nơi,
con người đã đam mê tiền.
3.2. Một vài loại đam mê điển hình
3.2.1. Tình yêu
Giữa chủ thể và một đối tượng, nếu tình cảm nảy sinh, tình yêu nảy nở là
chuyện rất bình thường. Nhưng nếu một lúc nào đó, tình yêu của chủ thể dành
cho đối tượng mỗi ngày thêm mãnh liệt, nó lấn át dần các loại ảnh cảm khác và
có thể trở thành độc tôn hay chuyên nhất, lúc đó chủ thể đã rơi vào tình trạng
đam mê.
3.2.2. Lòng đam mê khoa học nghệ thuật
Có rất nhiều nhà khoa học, nhiều nghệ sĩ đã hi sinh cả cuộc đời để theo
đuổi các giá trị "Chân", "Thiện", "Mĩ". Họ đã dấn thân sáng tạo giá trị mới với sự
đam mê cuồng nhiệt. Trong họ, tất cả mọi khuynh hướng khác đều trở nên vô
nghĩa nếu không có sự liên quan gì đến những điều họ đang ấp ủ, kì vọng...
Nhờ đam mê những giá trị cao đẹp, con người đã sáng tạo nên những
thành quả rất đáng tự hào.
3.2.3. Nghiện chất độc hại
Ngoài trạng thái đam mê các giá trị "Chân", "Thiện", "Mĩ", cũng cần lưu ý
đến các dạng nghiện chất độc hại. Những đam mê này có những tác hại khôn
lường cho đời sống của con người. Khi con người rơi vào những đam mê như
vậy, họ sẽ hoàn toàn rơi vào tình trạng nô lệ chất độc hại, sự sụp đổ về mặt tâm
lí, sinh lý sẽ diễn ra rất nhanh chóng và khốc liệt.
Tuỳ theo tác dụng, người ta phân biệt chất độc hại gây cảm giác khoan
khoái như thuốc phiện, cocain, loại gây say sưa như rượu, loại gây kích thích
như thuốc lá và các loại thuốc gây ảo giác khác.
Nghiện ngập huỷ diệt nhân cách là gánh nặng cho xã hội và là mối đe doạ
cho nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Nhân loại văn minh, cuộc sống tiến bộ và vì hạnh
phúc của muôn người, chúng ta không thể để loại đam mê này tồn tại.
3.3. Những điều kiện nảy sinh đam mê
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đam mê do những nguyên nhân sâu xa
nơi vô thức mà có, nhưng điều đó không thể phủ nhận rằng có những điều kiện
tâm sinh lí hay môi trường nhất định làm xuất hiện và phát triển đam mê.
3.3.1. Điều kiện tâm lí
Một cá nhân có tâm hồn lành mạnh, ý chí vững bền và được giáo dục
những lí tưởng cao đẹp, không thể có những đam mê thấp hèn mà trái lại ở họ
sẽ có thể có những đam mê hướng về những giá trị tinh thần cao cả. Vì thế,
trong cuộc sống, sinh hoạt, việc bồi bổ sức mạnh tinh thần là điều cần thiết.
Những niềm đam mê khác nhau cũng sẽ tuỳ thuộc vào lứa tuổi nhất định,
thông thường tuổi trẻ với những đam mê tình yêu, người trưởng thành với đam
mê danh vọng, người già với đam mê tiền bạc...
3.3.2. Điều kiện sinh lí
Cơ thể khoẻ mạnh, tràn đầy sinh lực khó có thể trở thành mảnh đất xấu
cho những loại đam mê thấp hèn. Luyện tập thân thể là phương cách hữu hiệu
để loại trừ các đam mê xấu.
3.3.3. Môi trường xung quanh
Con người sống trong xã hội tốt, gia đình tốt là môi trường thuận tiện phát
sinh những đam mê cao thượng. Trong một môi trường lành mạnh, tích cực sẽ
có nhiều con người tậnn tụy với nghĩa vụ) hi sinh cho người khác và say mê
sáng tạo, tìm tòi các giá trị mới làm đẹp cuộc đời, hướng đến những đam mê
tinh thần cao quý. Nếu tình yêu chẳng có ai cạnh tranh, phú quý không có người
tranh giành thì khó có người đam mê tình yêu, danh vọng.
3.4. Ảnh hưởng của đam mê trong đời sống
3.4.1. Về trí tuệ
Đam mê làm cho cá nhân thường chỉ có vẻ sáng suốt với đối tượng này
mà mù quáng đối với đối tượng khác, sinh hoạt trí tuệ trở nên nghèo nàn, sai
sót. Khi đam mê, lí luận thường sai lệch, nhiều khi ngụy biện. Đam mê thường
tạo nên những mâu thuẫn giữa hai thái cực, giữa sáng suốt và mù quáng, giữa
mãnh liệt và yếu đuối, giữa phong phú và nghèo nàn
3.4.2. Về tình cảm
Khi đam mê, con người thường xúc động nhiều với đối tượng này, khô
khan, tàn nhẫn với người khác. Kẻ biển lận sáng mắt, ấm lòng với tiền bạc,
nhưng lại lạnh lùng, tàn nhẫn với vợ (chồng), con.
3.4.3. Về hoạt động
Khi đam mê, trong hoạt động của con người thường mất quân bình, thiếu
tự chủ trong hoạt động.
Trong cuộc sống, nếu đam mê chỉ ở mức độ một khuynh hướng ưu thế
hay nổi bật thì nó có tác dụng điều hoà hành động, nó trở thành khuynh hướng
chủ đạo cho việc hội nhập các khuynh hướng khác. Nếu đam mê chỉ là khuynh
hướng nổi bật thì sẽ có tác dụng tạo nên những kích thích yêu đời, sáng tạo.
Con người, ai cũng có một tình cảm chan hoà với những xúc làm cảm nổi
bật lên từng cá tính của con người. Khác biệt hoàn toàn với động vật, con người
có thêm một quyền lực nội tại để tự mình làm nổi bật tư cách của mình, vượt lên
cao hơn hẳn so với loài động vật, quyền lực nội tại đó là lí trí. Lí trí giúp con
người phân biệt được những điều tốt, xấu, hay, dở, làm cho con người ngày
càng tự tin hơn. Lí trí can thiệp vào đời sống tình cảm của con người. Sự kết
hợp hài hoà giữa tình và lí là một sự kết hợp cần thiết trong mọi hoạt động của
con người trên con đường tự khẳng định mình.
TÓM LƯỢC CHƯƠNG 4 Khi nhu cầu của con người được thoả mãn, những cảm xúc sẽ xuất hiện
và có những tính chất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ thoả mãn nhu cầu như
thế nào.
Tình cảm là một hệ thống thái độ của con người đối với những sự vật,
hiện tượng có liên quan đến việc thoả mãn nhu cầu của họ. Tình cảm bị ảnh
hưởng bởi những quy luật nhất định. Tình cảm có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống con người.
Đam mê là một biểu hiện trong đời sống tình cảm, nó có ảnh hưởng đến
đời sống của con người.
Chương 5: Ý CHÍ VÀ HÀNH VI Ý CHÍ
1. Ý CHÍ1.1. Khái niệm
Ý chí là khả năng giúp con người hoàn thành những hành vi đã định nhằm
đạt mục đích đã được đặt ra, là khả năng điều hoà và điều khiển có ý thức hành
vi của bản thân mình.
Ý chí là điểm hội tụ của nhận thức và tình cảm hướng vào hoạt động của
con người. Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện
những hành vi có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn. Con
người không chỉ phản ánh hiện thực trong cảm giác, tri giác, biểu tượng và khái
niệm của mình, mà còn tác động và làm thay đổi môi trường xung quanh theo
những nhu cầu, ý định và lợi ích của mình. Trong hoạt động sống, loài vật cũng
có tác động vào môi trường bên ngoài, nhưng trong sự thích nghi không có sự ý
thức với môi trường ấy. Ý chí có thể được xem là khả năng ức chế nhu cầu của
con người.
Ý chí là một phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí nhân
cách, vì không phải ai cũng có những nỗ lực giống nhau, không phải ai cũng có
sự điều hoà hành vi giống nhau.
Ý chí của con người được hình thành và biến đổi tuỳ theo những điều
kiện xã hội - lịch sử, tuỳ theo những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Tính
chất của những mục đích và của những gì thúc đẩy đối với hành động ở con
người được quyết định ở chỗ từng người tạo lập và biến đổi nhu cầu của bản
thân.
Giá trị chân chính của ý chí không chỉ căn cứ ý chí đó như thế nào (cao
hay thấp, mạnh hay yếu) mà còn là nó được định hướng vào cái gì, vì vậy cần
phân biệt mức độ ý chí và nội dung đạo đức của ý chí.
Mục đích hành động của con người được phản ánh trong ý chí là do
những điều kiện cụ thể của hoạt động khách quan quy định. Trong khi điều
khiển hành vi con người, với sự nỗ lực của bản thân chủ thể, ý chí đã thể hiện
tính tích cực, thể hiện sự tự do tương đối của chủ thể trong việc lựa chọn các
điều kiện, phương tiện, phương pháp để đạt được mục tiêu.
Sự điều chỉnh của ý chí đối với hành vi con người là do những điều kiện
mà con người sống và lao động quy định. Ý chí thể hiện tính tích cực có ý thức
của chủ thể, tính tích cực này có mục đích và tác động một cách có kế hoạch.
1.2. Vai trò của ý chí
Ý chí là quá trình chống lại đam mê, dục vọng bên trong và khó khăn của
thế giới bên ngoài, phát huy sự tự do của con người. Dục vọng của con người
nếu bị ức chế quá độ hay buông lỏng đều gây nên những hậu quả tai hại và làm
mất hiệu năng của ý chí.
Nhờ ý chí mà con người có sức mạnh phi thường, vượt qua muôn vàn
khó khăn, trở ngại tưởng như không vượt nổi. Nhờ ý chí mà con người tổ chức
được hoạt động của mình biến đổi được tự nhiên và xã hội, tạo ra được những
giá trị vật chất và tinh thần, thực hiện được những kế hoạch lớn trong đời, có
được những phát kiến khoa học phi thường...
1.3. Các phẩm chất ý chí
Trong quá trình hoạt động, con người sẽ hình thành cho mình những
phẩm chất ý chí cần thiết đặc trưng cho nhân cách của họ và có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc thực hiện lí tưởng sống. Sau đây là một số phẩm chất ý
chí cơ bản:
1.3.1. Tính mục đích
Đây là một sản phẩm rất quan trọng của ý chí là khả năng con người, với
tư cách là chủ thể của hoạt động, biết xác định những mục đích gần và mục
đích xa, có mục đích bộ phận và mục đích tổng thể của cuộc đời... Tính mục
đích của ý chí cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự
giác. Tính mục đích của con người bị ảnh hưởng bởi lí tưởng sống và các
nguyên tắc sống của cá nhân.
1.3.2. Tính quét đoán
Quyết đoán là khả năng đưa ra được những quyết định kịp thời và dứt
khoát mà không có những tình trạng dao động không cần thiết. Một con người
quyết đoán là con người làm chủ được hoạt động trí tuệ của mình, một con
người có sự tự tin mạnh mẽ. Tính quyết đoán xuất phát từ trình độ trí tuệ và
lòng dũng cảm.
1.3.3. Tính độc lập
Độc lập là năng lực quyết định và thực hiện hành động không chịu ảnh
hưởng của người khác. Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ chủ thể không dễ
bị ám thị, bị áp đặt một cách suy nghĩ, một hành động nào đó. Tính độc lập
không phải thể hiện ở sự bướng bỉnh, khăng khăng chống lại những điều gì
khác với mình. Tính độc lập giúp con người hình thành được niềm tin vào sức
mạnh của chính bản thân mình.
1.3.4. Tính kiên trì
Tính kiên trì thể hiện ở cường độ của ý chí, cho phép con người có những
quyết định kịp thời trong những hoàn cảnh khó khăn và kiên trì thực hiện mục
tiêu đã xác định. Kiên trì không phải là sự lì lợm cũng không phải là sự ương
bướng.
1.3.5. Tính tự chủ
Tự chủ là khả năng làm chủ được bản thân mình trong những trường hợp
có những xung đột tâm lí bên trong. Người tự chủ có khả năng duy trì được sự
kiểm soát đầy đủ đối với hành vi của mình, chiến thắng được những thúc đẩy
không mong muốn. Người tự chủ thường có khả năng kìm hãm những hành
động không cần thiết hoặc có hại trong những tình huống cụ thể.
Lịch sử có rất nhiều tấm gương nổi bật về tính kiên nhẫn. Trường hợp của
Jullo Iglesias là một điển hình. Năm 20 tuổi, cậu bé bị tai nạn giao thông và bị
tàn tật hai chân và cả đời phải đi lại trên xe lăn nhưng Julio không chấp nhận số
phận như vậy và cậu kiên quyết tập luyện 12 tiếng đồng hồ một ngày trong hai
tháng chỉ để cử động ngón chân. Và cứ như thế kiên trì trong hai năm, cậu bé
bắt đầu cử động và sử dụng được hai bàn chân. Cậu tự dùng tay đẩy xe lăn
chạy lên xuống lối đi đến nhà bố mẹ, hi vọng một ngày nào đó đôi chân sẽ bắt
đầu làm việc trở lại.
Cậu bé yêu cầu người ta lắp kính dọc theo lối đi đến nhà bố mẹ để cậu có
thể tự cố gắng hơn nữa khi tự đẩy xe đi. Cuối cùng sự kiên nhẫn và kiên quyết
hết mình của cậu đã giúp cậu bé lấy lại thân hình của mình như xưa. Và việc
này được công nhận là một hiện tượng siêu phàm của con người. (theo Đời
thay đổi khi chúng ta thay đổi)
Anh Nguyễn Ngọc Ký, đôi tay bị teo từ nhỏ, những tưởng anh không thể
làm được gì vì không sử dụng được tay nhưng anh lại trở thành một thầy giáo
nổi tiếng, hiện nay vẫn còn đang công tác ở TP. Hồ Chí Minh. Quyết không
khuất phục "số phận", Anh Ký đã miệt mài luyện tập để viết bằng chân và điều
đó đã trở thành điều bình thường với anh. Đôi chân thay thế đôi tay và còn viết
đẹp hơn nhiều người viết bằng tay, đó quả là một tấm gương về sự rèn luyện ý
chí ở con người.
2. HÀNH VI Ý CHÍ2.1. Khái niệm
Hành vi ý chí là những hành vi có ý thức, có suy nghĩ hướng về một mục
đích đã được xác định.
Hành vi ý chí có đặc điểm tiêu biểu là chúng có tính mục đích tự giác, do
đó phải tập trung chú ý đến một mức độ nhất định khi thực hiện. Các hành vi ý
chí có liên hệ mật thiết với các quá trình tư duy vì điều quan trọng trong các
hành vi đó là phải nhận thức được các điều kiện và hoàn cảnh nơi con người
tiến hành hoạt động. Hành vi ý chí cũng có thể được xác định như những hoạt
động được thực hiện tương ứng với tính chất và mức độ nhận thức của con
người. Tư duy chỉ có thể được thực hiện, phát triển đầy đủ và có kết quả trong
các hành vi ý chí.
Hành vi ý chí luôn liên hệ với hoạt động, những hoạt động nhất định là cơ
sở để đạt được mục đích đã được xác định. Các hành vi ý chí bao giờ cũng có
sự lựa chọn phương tiện và biện pháp tiến hành, hành vi ý chí luôn có sự điều
chỉnh, điều khiển ý thức. Tuy nhiên hành vi ý chí cũng có những mức độ nhất
định.
Hành vi ý chí đơn giản là những hành vi có mục đích rõ ràng, nhưng sự
lựa chọn phương tiện, biện pháp thực hiện cũng như sự nỗ lực khó khăn không
thể đầy đủ.
Hành vi ý chí cấp bách là những hành vi xảy ra trong một thời gian rất
ngắn ngủi, đòi hỏi phải có sự quyết định và sự thực hiện quyết định trong một
thời gian rất nhanh. Trong hành vi này, mục đích, phương tiện, cũng như sự nỗ
lực bản thân hầu như hoà quyện cùng nhau.
Hành vi ý chí phức tạp là loại hành vi điển hình, mục đích, phương tiện,
sự nỗ lực được thực hiện một cách rõ ràng.
2.2. Cơ cấu tâm lí của hành vi ý chí
2.2.1. Giải đoạn chuẩn bị
- Kích thích thực hiện hành vi ý chí
Những kích thích sẽ xảy ra khi chủ thể nhận thức vấn đề, có thể là những
nhận thức rất mơ hồ về những nhu cầu vừa nảy sinh, cũng có thể là sự nhận
thức về sự khó khăn mới xuất hiện. Trong hầu hết các trường hợp, sự nhận
thức đều có liên quan đến trạng thái cảm xúc tương ứng với nhu cầu ấy...
- Mục đích hành động được xác định
Những hành vi ý chí được thực hiện ở chỗ nó được kết thúc với một kết
quả đã được xác định trước trong biểu tượng của chủ đề ngay từ khi còn chưa
bắt đầu thực hiện hành động. Khi không có những biểu tượng về mục đích thì
hoạt động sẽ mất tính chất ý thức, sẽ không còn là hoạt động có tính chủ đích
nữa.
- Các phương tiện, phương pháp cần thiết được lựa chọn
Lựa chọn các phương tiện và phương pháp thích hợp là một giai đoạn rất
quan trọng để tiến hành các hành vi ý chí, nếu các biểu tượng này không có
hoặc có không rõ ràng thì các hành vi ý chí có thể không thực hiện được.
- Ý định thực hiện hoạt động nhất định
Khi không có ý định như thế thì hoạt động khó có thể hoạt động được cho
dù đã có những biểu tượng về mục đích và phương thức hoạt động rất rõ ràng.
- Quyết định thực hiện hoạt động
Kết quả của những đấu tranh bản thân là việc đưa đến những quyết định.
Quyết định là việc kết thúc giai đoạn chuẩn bị cho hành vi ý chí. Quyết định
nghĩa là dừng lại ở mục đích và những phương pháp, phương tiện tiến hành
hành vi ý chí. Người ta có thể phân biệt các loại quyết định sau đây:
- Quyết định thông thường
Là quyết định hầu như không tách rời khỏi các ý muốn cụ thể, thể hiện
tiêu biểu qua các hành vi ý chí đơn giản, dễ dàng xảy ra, không có sự dao động
gì và thường không có sự đấu tranh giữa các động cơ hoặc sự đấu tranh ấy bị
hạn chế đối đa. Quyết định thông thường là quyết định được vận dụng theo
truyền thống đã hình thành mà không cần có sự nỗ lực đặc biệt nào.
- Quyết định không có đủ cơ sở
Là quyết định được đưa ra trong những tình huống khó khăn mà chủ thể
chưa có sự chuẩn bị để vượt qua. Thông thường, những quyết định như vậy
xảy ra ở những người thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không
có lí tưởng sống rõ ràng.
- Quyết định có ý thức
Là quyết định tiêu biểu đối với hành vi ý chí được thực hiện một cách độc
lập sau khi đã phân tích kĩ các tình huống. Những quyết định loại này thường
gắn liền với sự nhận thức đầy đủ bản chất, tầm quan trọng và sự cần thiết của
hành động cần tiến hành.
- Nỗ lực ý chi
Sự nỗ lực ý chí thể hiện ở sự chú ý tập trung vào hoạt động cần thiết,
hoặc ở sự kích thích chủ thể hoạt động, mặc dù có những khó khăn trở ngại nảy
sinh trên con đường đạt tới mục đích.
Sự nỗ lực ý chí thường khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm
của những khó khăn phải nỗ lực để vượt qua. Có thể phân thành mấy nhóm khó
khăn sau đây:
Những khó khăn khách quan do những đặc điểm tiêu biểu của bản thân
các đối tượng và các hiện tượng khác nhau quy định.
Những khó khăn chủ quan do những đặc điểm riêng của bản thân chủ
thể, do những mối quan hệ đã hình thành giữa chủ thể với hiện thực xung
quanh quy định.
Các hành vi ý chí để khắc phục những khó khăn khách quan luôn gắn với
việc tiếp thu những thao tác làm việc cần thiết và phải có sự tập luyện.
Các hành vi ý chí để khắc phục những khó khăn chủ quan luôn gắn với
việc giáo dục nghĩa vụ và trách nhiệm đối với công việc chủ thể đang thực hiện,
giáo dục khả năng kiềm chế cảm xúc có ảnh hưởng đến những việc thực hiện
các hành vi cụ thể.
2.1.2. Giai đoạn thực hiện quyết định đã đề ra
Việc thực hiện được tiến hành bằng các thao tác hoạt động nhất định
nhằm đạt tới mục đích với những phương thức nhất định. Thiếu giai đoạn này
thì không thể có hành vi ý chí nữa.
2.2.3. Giai đoạn đánh giá kết quả của hành vi
Sau khi các hành vi ý chí được thực hiện, con người bao giờ cũng đánh
giá các kết quả đã đạt được. Việc đánh giá này rất cần thiết để rút kinh nghiệm
cho những hành vi sau đó. Việc đánh giá hành vi ý chí có một ý nghĩa thực tiễn
rất lớn trong hoạt động của con người, nó trở thành sự kích thích và động cơ đối
với hoạt động tiếp theo. Sự đánh giá xấu thường là động cơ dẫn đến việc đình
chỉ hoặc sửa chữa những hành động hiện tại. Sự đánh giá tốt sẽ kích thích việc
tiếp tục tăng cường và cải tiến hành động đang thực hiện.
2.3. Động cơ của hành vi ý chí
Các hành vi ý chí là những hành động có ý thức được con người tiến
hành trong những điều kiện cụ thể và theo những động cơ nhất định.
Động cơ là bất kì một sự rung động tâm lí nào làm chất liệu kích thích chủ
thể hoạt động hoặc kìm hãm hoạt động.
Các động cơ của hành vi ý chí rất đa dạng, tô điểm thêm cho ước mơ của
con người với những sắc thái cảm xúc nhất định. Thông thường các động cơ
của hành vi ý chí luôn mang tính chất có ý thức nhưng không phải tất cả các
động cơ được biểu hiện đầy đủ trong các hoạt động. Người ta phân biệt các giai
đoạn phát triển sau đây của các động cơ, từ những biểu hiện ban đầu đến
những biểu hiện có ý thức hoàn toàn ở người lớn.
2.3.1. Ý hướng
Ý hướng thể hiện rõ nhất ở trẻ em tuổi sơ sinh, ý hướng liên quan chặt
chẽ với những cảm giác thông thường về sự thoả mãn mà tử đó có được xu
hướng và hình thức riêng của mình. Tính chất tích cực là đặc điểm tiêu biểu của
ý hướng với tất cả tính không có ý thức của mình, nên ý hướng có thể được
xem như là yếu tố xuất phát trong việc hình thành động cơ ý chí.
2.3.2. Khát vọng
Tuỳ theo sự phát triển của ý thức. Ý hướng sẽ dần dần trở nên rõ ràng
hơn. Điều đó xảy ra khi ý hướng không có ý thức nhằm thoả mãn nhu cầu vừa
nảy sinh là gặp trở ngại và không thể thực hiện được. Trong trường hợp nhu
cầu không được thoả mãn sẽ bắt đầu được nhận thức dưới dạng khát vọng có
phần mơ hồ với một đối tượng tương đối xác định.
2.3.3. Nguyện vọng
Nguyện vọng thể hiện ở biểu tượng rõ ràng và xác định mục đích mà chủ
thể hướng đến. Nguyện vọng bao giờ cũng gắn với tương lai, với những điều
chưa có trong hiện tại và chưa xảy ra trong quá khứ, nhưng đó là điều chủ thể
muốn làm được hoặc muốn đạt được. Những biểu tượng về phương tiện thực
hiện chưa được xuất hiện rõ ràng.
2.3.4. Ý muốn
Đây là giai đoạn cao hơn trong sự phát triển của các động cơ, trong
trường hợp biểu tượng về mục đích và về phương tiện đã có sự kết hợp.
So với nguyện vọng đơn giản thì ý muốn có ánh chất thực tế và tích cực
hơn, trong ý muốn luôn thể hiện ý định thực hiện hoạt động, biểu hiện khát vọng
đạt mục đích nhờ phương tiện nhất định.
Thông thường, lúc xảy ra các hành vi ý chí phức tạp luôn có một số động
cơ khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau. Các động cơ đó tác động lẫn nhau, kiềm
chế hành vi ý chí đồng thời gây nên trạng thái dao động bên trong và trạng thái
đó được gọi là sự đấu tranh giữa các động cơ. Cuộc sống tinh thần của con
người càng phong phú thì các động cơ chi phối con người càng cao hơn và
phức tạp hơn. Bản thân quá trình đấu tranh giữa các động cơ luôn phản ánh các
mâu thuẫn giữa cảm giác sợ hãi và ý thức nghĩa vụ, giữa được phép và không
được phép, giữa những lý tưởng xã hội và những khát vọng, cảm xúc của cá
nhân.
Những hành vi, hành động không xác định được những phương tiện,
phương pháp thực hiện và mơ hồ về mục đích có thể xem như những hành vi,
hành động duy ý chí.
2.4. Rèn luyện ý chí
Ý chí có thể được rèn luyện bằng nhiều phương pháp khác nhau chủ yếu
dựa trên mức độ và tính chất của sự quyết tâm của con người.
- Cố gắng xây dựng những thói quen tốt, luôn chống lại những đam mê vô
thức
- Luôn ý thức chính mình, chống lại những cử chỉ máy móc.
- Luôn cố gắng làm chủ những rung động, cố gắng điều hoà cuộc sống,
mỗi ngày làm một việc gì đó chứng tỏ mình mạnh hơn sự thúc đẩy của bản
năng.
3. THÓI QUEN – TẬP QUÁN3.1. Khái niệm
Trong cuộc sống và hoạt động, không phải lúc nào con người cũng tiến
hành các hành vi ý chí, không phải hành vi nào của con người cũng là hành vi ý
chí. Bên cạnh những hành vi ý chí, con người còn có một loại hành vi, hành
động khác, phối hợp, hỗ trợ cho hành vi ý chí đó là hành vi, hành động tự động
hoá.
Hành động tự động hoá là hành động lúc đầu vốn là hành vi, hành động ý
chí nhưng do được lặp lại nhiều lần hay do tệp luyện mà trở thành tự động,
nghĩa là không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức. Trong một hành vi ý
chí, thường có một số thành phần đã được tự động hoá. Nhờ vậy, ý thức và
nghi lực được tập trung vào những thành phần chủ yếu, quan trọng của hoạt
động.
Tập quán là một khả năng được hình thành bởi sự tiếp tục của cùng một
trạng thái thường xuyên giúp cho cá nhân chịu đựng hay hoạt động dễ dàng ít
cần đến sự cố gắng. Có thể có những thói quen hoạt động, thói quen tinh thần,
thói quen chịu đựng một tình trạng nào đó...
Thói quen - tập quán là loại hoạt động tự động hoá đã trở thành nhu cầu
của con người.
3.2. Kĩ xảo và thói quen
Kĩ xảo và thói quen giống nhau ở chỗ đều là hành động tự động hoá,
nhưng giữa kĩ xảo và thói quen có những sự khác nhau rõ rệt.
Kĩ xảo là loại hành động tự động hoá một cách có ý thức, nghĩa là được
tự động hoá nhờ luyện tập. Những hành động kĩ xảo có những đặc điểm sau
đây: Kĩ xảo không có sự kiểm soát thường xuyên của ý chí, không cần có sự
kiểm tra bằng thi giác.
- Động tác mang tính chất khái quát, không có động tác thừa, kết quả cao
mà ít tốn năng lượng thần kinh và cơ bắp nhất.
- Kĩ xảo được hình thành trên cơ sở những kĩ năng sơ đẳng.
Cùng là hành động tự động hoá nhưng kĩ xảo mang tính chất kỹ thuật
thuần tuý còn thói quen mang tính chất nhu cầu, nếp sống của con người.
Con đường hình thành chủ yếu của kĩ xảo là sự luyện tập có mục đích và
có hệ thống còn thói quen được hình thành bằng nhau con đường khác nhau
trong đó có con đường tự phát.
Thói quen có tính bền vững cao hơn kĩ xảo, nó gắn chặt với hoạt động và
hành vi con người vững chắc hơn so với kĩ xảo, thói quen rất khó thay đổi, khó
sửa chữa hơn kĩ xảo.
Thói quen được đánh giá về mặt đạo đức, có những thói quen tốt, có
những thói quen xấu, những thói quen có lợi, những thói quen có hại.
3.3. Những quy luật hình thành kĩ xảo
Sự hình thành kĩ xảo không chỉ dẫn đến sự củng cố mà còn dẫn đến sự
hoàn thiện hành động bằng cách lĩnh hội các thủ thuật làm việc ngày có hiệu
quả hơn. Quá trình luyện tập để hình thành kĩ xảo diễn ra theo các quy luật sau:
3.3.1. Quyt luật sự tiên bộ không đồng đều về kĩ xảo
Trong quá trình hình thành kĩ xảo, kết quả luyện tập không đồng đều, lúc
tiến bộ nhanh, lúc tiến bộ chậm. Kết quả luyện tập kĩ xảo không chỉ phụ thuộc
vào số lần củng cố mà còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác.
3.3.2. Quy luật đỉnh của phương pháp luyện tập
Mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất đối
với nó và không thể nâng kết quả lên cao hơn nữa. Mức kết quả cao nhất mà
mỗi phương pháp luyện tập có thể đem lại được gọi là "đỉnh" của phương pháp
đó. Muốn đạt được kết quả cao hơn nữa, trong luyện tập cần biết thay đổi không
ngừng phương pháp luyện tập, sử dụng phương pháp có đỉnh cao hơn.
3.3.3. Quy luật tác động qua lại giữa kĩ xảo cũ và kĩ xảo mới
Trong quá trình hình thành kĩ xảo mới, những kĩ xảo cũ đã có ở người
luyện tập có ảnh hưởng nhất định đến việc hình thành kĩ xảo mới.
3.3.4. Quy luật dập tắt kĩ xảo
Một kĩ xảo đã được hình thành, nhưng nếu không được sử dụng thường
xuyên thì sẽ bị suy yếu và có thể mất hẳn, đó là sự dập tắt kĩ xảo. Trong quá
trình hoạt động cần có sự ôn luyện thường xuyên để củng cố và không làm mất
kĩ xảo đã có.
3.4. Giá trị của những thói quen
Những thói quen – tập quán có giá trị nhất định trong hoạt động và đời
sống con người. Thói quen có thể có lợi hoặc có hại cho hoạt động cụ thể của
con người.
3.4.1. Những lợi ích của chói quen
Thói quen - tập quán làm không gian của con người thêm lan rộng, giúp trí
tuệ có điều kiện hướng vào những điều có giá trị cao hơn.
- Thói quen - tập quán huấn luyện cho con người những tình cảm tốt: kiên
nhẫn, trầm tĩnh, bớt rối loạn tâm hồn.
- Thói quen - tập quán giúp con người mở rộng phạm vi ý thức và giảm
bớt cường độ chú ý, tăng cường sức mạnh tri thức.
3.4.2. Những điều không có lợi của thói quen
- Con người dễ trở thành máy móc, rập khuôn trong hoạt động thực tiễn.
- Trong đời sống tình cảm, làm cho con người dễ thụ động trong việc chịu
đựng kham khổ, sắt đá, làm tình cảm bớt phong phú, mất đi tính chất nghệ sĩ
trong hoạt động.
- Trong đời sống trí tuệ, dễ có những thành kiến trong tư tưởng, trong
phương pháp tư duy làm mất đi tính sáng tạo dẫn đến những lối mòn trong sự
tiếp thu tư tưởng, trong việc tìm tòi chân lí.
4. SỰ SAI LỆCH HÀNH VI XÃ HỘINhững hành vi sai lệch là những hành vi không hợp với chuẩn nhất định,
những chuẩn mực này do xã hội thừa nhận và ấn định.
Các nhà sinh học xem xét hành vi trong mối liên hệ với môi trường, hành
vi là những phản ứng của cơ thể nhằm thích nghi với môi trường. Theo hướng
này thì chuẩn mực để đánh giá hành vi là mức độ thích nghi của cơ thể đối với
môi trường, những hành vi được xem là làm cho cơ thể không thích nghi được
với môi trường là hành vi không hợp chuẩn, hay hành vi lệch chuẩn.
Tuy nhiên con người không chỉ thích nghi với môi trường tự nhiên mà còn
thích nghi với các môi trường xã hội nữa. Những người theo thuyết hành vi mới
cho rằng con người có sự lựa chọn các kích thích, con người chỉ trả lời các kích
thích có lợi cho chính mình. Quá trình sống là quá trình đáp ứng lại các kích
thích có lợi cho con người. Theo quan điểm này thì chuẩn mực để đánh giá
hành vi cũng vẫn là mức độ thích nghi của con người với môi trường.
Trong Tâm lí học hiện đại, con người là chủ thể tích cực của hoạt động,
họ làm chủ bản thân và làm chủ môi trường chứ không phải chỉ là một cá thể
thích nghi một cách thụ động với môi trường. Những hành vi của con người bao
giờ cũng hướng đến những mục tiêu nhất định, và hành vi con người luôn luôn
được thay đổi, phát triển chứ không phải bất biến. Hành vi của con người là
những hành vi tích cực để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và có tính chất xã
hội rõ ràng. Hành vi của con người bị chi phối, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, vì
vậy xem xét chuẩn mực hành vi phải xem xét hành vi của con người trong một
môi trường nào đó, trong một cộng đồng người nhất định.
Có thể có những căn cứ để xem xét chuẩn mực hành vi như sau:
- Chuẩn mực được xem xét trên cơ sở một mẫu số chung nhất định của
những người trong một cộng đống, những hành vi tương tự như nhau trong một
hoàn cảnh xác định nào đó được xem là chuẩn. Những hành vi của người nào
đó không giống như vậy có thể xem là hành vi lệch chuẩn.
- Chuẩn mực được hướng dẫn, được quy định, được thống nhất trên cơ
sở những giá trị của xã hội, của cộng đồng. Loại chuẩn mực này được hình
thành trên nền tảng những yêu cầu chung của cộng đồng đối với từng thành
viên. Vì vậy, những hành vi nào trái với hướng dẫn, trái với những nguyên tắc
đã có, trái với những yêu cầu chung thì được xem là những hành vi lệch chuẩn.
- Chuẩn mực được xác định trên cơ sở những quy ước của cá nhân,
những quy ước này không mâu thuẫn với giá trị xã hội nói chung nhưng quy
định mục tiêu riêng của cá nhân ấy. Những hành vi phù hợp với mục đích của
cá nhân được xem là hành vi hợp chuẩn, và ngược lại những hành vi không phù
hợp với mục đích cá nhân được xem là hành vi lệch chuẩn.
Có thể nhận thấy rằng những hành vi lệch chuẩn hay không là do sự đánh
giá khách quan của xã hội, của những người xung quanh. Những hành vi lệch
chuẩn như một hiện tượng xã hội, nó được đánh giá không phục thuộc vào sự
phán xét chủ quan của cá nhân. Sự bình thường hay bất bình thường của các
hành vi hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá bình thường của cộng đồng.
Có hai mức độ sai lệch hành vi con người dưới góc độ tâm lí. Những
hành vi sai lệch ở mức độ thấp và không thể hiện thường xuyên. Trong trường
hợp này, cá nhân có những biểu hiện không bình thường ở hành vi nhưng
không ảnh hưởng đến hoạt động chung của cộng đồng cũng như đến đời sống
của gia đình và của chính họ. Những hành vi ở mức độ này, cộng đồng có thể
chấp nhận được nhưng vẫn có những trở ngại trong tâm lí ở một mức độ nhất
định. Những hành vi sai lệch mức độ cao hơn và xảy ra có tính chất thường
xuyên, những hành vi này có ảnh hưởng đến đời sống riêng và chung của con
người và cộng động. Những hành vi sai lệch mức độ cao như thế thường là các
hành vi bệnh lí, cần được trị liệu với những phương pháp thích hợp.
Tâm thần là một trong những lĩnh vực "khó khăn" và ít được khai phá nhất
của y học. Một bác sĩ tâm thần có thể không bao giờ biết chắc những gì trong
đầu bệnh nhân. Có rất nhiều loại bệnh, chứng lệch lạc và rối loạn khác nhau
trong căn bệnh này. Dưới đây là những chứng đáng quan tâm nhất.
- Hội chứng cánh tay lạ
Đây là một rối loạn thần kinh khiến cho tay của người bệnh dường như
tồn tại một cách độc lập với cơ thể. Đôi khi người bệnh không ý thức được bàn
tay đang làm gì, cho đến khi nó thu hút sự chú ý của anh (hay chị) ta. Bàn tay lạ
có thể tạo ra những hành vi phức tạp như phá hỏng các nút bấm hoặc cởi quần
áo.
- Hội chứng giọng nói lạ
Hội chứng khiến cho người ta nói thứ ngôn ngữ bản địa theo cách như
thể người nước ngoài đang nói. Chẳng hạn, một người bản địa châu Mĩ có thể
nói bằng giọng mang ngữ âm kiểu Pháp. Hội chứng này thường xuất hiện sau
một chấn thương não nghiêm trọng, chẳng hạn cơn đột qụy.
- Hội chứng Capgras (ảo giác gấp đôi)
Đây là một rối loạn hiếm gặp, ở đó người bệnh có ảo tưởng rằng một
người có liên hệ mật thiết với mình, chẳng hạn một thành viên trong gia đình, bị
thay thế bởi một kẻ mạo danh giống hệt.
- Nỗi sợ con số 13 (Triskaidekaphobia)
Adolf Hitler là một người như vậy. Nỗi sợ hãi đặc biệt thứ sáu ngày 13
được gọi là paraskavedekatriaphobia hay friggatriskaidekaphobia. Nỗi sợ số 4 ở
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc được gọi là Tetraphobia.
- Làm việc quá nhiều (Bigorexia)
Bigorexia hay Muscle dysmorphia là dạng rối loạn mà ở đó một người bị
ám ảnh rằng anh ta không đủ vạm vỡ. Hội chứng này có thể khiến bệnh nhân:
- Liên tục soi lại mình trong gương
- Đau khổ vì bỏ qua một bài tập thể dục
- Sẵn sàng uống những loại thuốc nguy hiểm
- Bỏ bê công việc, bạn bè, gia đình chỉ để luyện tập
- Sưu tầm quá nhiều sách (Bibliomania)
Hội chứng này là một rối loạn ám ảnh ép buộc, liên quan đến việc thu thập
sách để chỉ ra nơi nào mà các mối quan hệ xã hội hoặc sức khoẻ đang xuống
cấp. Việc mua rất nhiều bản sao của cùng một cuốn sách, nhà xuất bản và tích
lũy chúng ngoài khả năng sử dụng hoặc đọc thường là triệu chứng của
Bibliomania.
- Hội chứng đầu nổ tung
Nó khiến cho bệnh nhân thường xuyên trải nghiệm những tiếng ồn kinh
khủng như thể nó phát ra ở trong đầu anh (chị) ta, thường được mô tả như một
vụ nổ hoặc tiếng gầm rú. Điều này thường xuyên xảy ra trong 1 - 2 giờ khi rơi
vào giấc ngủ, nhưng không phải là kết quả của một giấc mơ.
- Trichotillomania
Là một rối loạn kiểm soát bốc đồng, được đặc trưng bởi việc lặp lại những
thôi thúc nhổ tóc trên đầu, nhổ râu, lông mũi, lông mu, lông mày hoặc các loại
lông khác trên cơ thể. Hội chứng này có thể có họ hàng xa với chứng rối loạn
ám ảnh ép buộc.
- Sợ đàn ông (Androphobia)
Androphobia là nỗi sợ đần ông dai dẳng và bất thường. Người bệnh cảm
thấy lo lắng ngay cả khi họ biết rằng có thể họ chẳng phải đối mặt với nỗi sợ
thực sự nào. Nỗi sợ này có thể là vô hạn, và thường bắt nguồn từ một sự việc
cụ thể nào đó như một trải nghiệm đau đớn khi còn trẻ.
- Giả ốm để được quan tâm (Munchausen syndrome)
Ở hội chứng này, người bệnh giả đò, thổi phồng, hoặc tạo ra các triệu
chứng ốm để thu hút sự cảm thông, chú ý và an ủi của bác sĩ.
4.1. Chuẩn mực xã hội
Chuẩn mực xã hội là một giá trị rất cần thiết và không thể thiếu trong các
mối quan hệ khác nhau. Chuẩn mực xã hội là một trong những phương tiện định
hướng hành vi, kiểm tra hành vi của một cá nhân hay của một nhóm người.
Chuẩn mực xã hội quy định những giá trị cơ bản, những mục tiêu cơ bản,
những điều kiện, những giới hạn cho phép, các hình thức, cung cách ứng xử
mẫu mực trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống con người.
Chuẩn mực là những giá trị, những quy tắc, những yêu cầu của xã hội đối
với cá nhân cũng như đối với cộng đồng. Những quy tắc, giá trị này có thể được
thừa nhận một cách công khai thông qua những văn bản cụ thể, nhưng cũng có
thể được lưu giữ trong truyền thống có tính chất quy ước không bằng lời. Chuẩn
mực xã hội nào cũng có 3 thuộc tính là tính lợi ích, tính bắt buộc và tính khả thi
trong thực tế. Có thể có những loại chuẩn mực sau đây:
- Chuẩn mực đạo đức: Chuẩn mực này quy định và những giá trị đạo đức,
những nguyên tắc, ràng buộc đạo đức... được mọi người thừa nhận như một
truyền thống, vì vậy chuẩn mực này có tính linh động rất cao. Sự ảnh hưởng
của chuẩn mực đạo đức thường thông qua cơ chế tâm lí bên trong con người,
được vận dụng, xử lí rất linh hoạt và mềm dẻo.
- Chuẩn mực pháp luật: Là hệ thống các quy tắc định hướng hành vi cá
nhân có tính chất khách quan được ghi thành văn bản. Chuẩn mưc pháp luật rõ
ràng và có những hướng dẫn cụ thể là khuôn phép không có tính chất mềm
mỏng trong việc thi hành.
- Phong tục truyền thống: Là chuẩn mực nói lên tính chất văn hoá của
cộng đồng, là những nguyên tắc, quy ước sinh hoạt trong cộng đồng đã hình
thành trong lịch sử. Phong tục và tập quán có thể được lưu giữa trong gia đình
và có thể được ghi nhận công khai hoặc có tính chất truyền thống:
- Chuẩn mực chính trị: Là những tiêu chuẩn hướng dẫn hành vi con người
trong đời sống chính trị trong môi trường hoạt động chính trị.
- Chuẩn mục thẩm mĩ: Là những quy ước và các giá trị trong hoạt động
sáng tạo nghệ thuật, trong việc thưởng thức cái đẹp, trong các hành vi đạo đức,
trong việc cảm thụ thẩm mỹ nói chung.
4.2. Sư sai lệch hành vi xã hội
Hành vi của con người luôn được xã hội phán xét, đánh giá dưới nhiều
khía cạnh khác nhau. Những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội được xem
là hành vi hợp chuẩn và ngược lại những hành vi không hợp chuẩn được gọi là
hành vi sai lệch.
Sự sai lệch hành vi xã hội có thể có nhiều nguyên nhân, có những nguyên
nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có thể có những nguyên nhân như
sau:
- Trong hoạt động, trong lúc thể hiện các hành vi, cá nhân có sự hiểu biết
không thật đúng, không chính xác về các chuẩn mực xã hội, vì vậy, trong hành
động, họ có những hành vi lệch chuẩn vì những nhận thức không đúng đó.
Trong trường hợp này chủ thể của các hành vi lệch chuẩn không biết rằng mình
đang có những sai lệch nhất định.
- Trong quá trình tham gia vào các quan hệ xã hội, có thể cá nhân không
chấp nhận những chuẩn mực xã hội nào đó, nhận thức của cá nhân về chuẩn
mực không thống nhất với mô hình chung của xã hội, cá nhân hành động theo
quan niệm riêng, mục tiêu riêng của mình, khác với chuẩn mực chung. Trong
trường hợp này, cá nhân thực hiện những hành vi một cách có ý thức với sự tin
tưởng nhất định và vì vậy, cá nhân luôn cho rằng mình đúng, không chịu thừa
nhận mình sai.
- Trong quá trình hoạt động, cá nhân biết mình sai nhưng vẫn không từ bỏ
mục tiêu của mình, vẫn vi phạm chuẩn mực chung. Những hành vi lệch chuẩn
này xảy ra do chủ thể không tự kiềm chế được mình, xã hội cũng không có
những biện pháp tác động thích hợp để kiểm tra, tỏ thái độ một cách chính xác.
- Trong quá trình phát triển chung, xã hội có những biến đổi nhất định, các
chuẩn mực cũng thay đổi theo sự biến đổi ấy, chuẩn mực xã hội không còn phù
hợp với điều kiện xã hội lịch sử cụ thể, cá nhân không có những tiêu chuẩn mới
để làm chỗ dựa, họ cũng đã thực hiện những hành vi sai lệch.
Các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội rất đa dạng và có thể biểu hiện
dưới dạng hành vi cá nhân hay hành vi của một cộng đồng.
Các hành vi sai lệch chuẩn mực có những tác động không tích cực cho
các nhân cách, nó gây nên những hậu quả xấu cho cá nhân và cho xã hội, làm
suy thoái nhân cách, làm tổn thương con người về mặt thể xác và tinh thần.
TÓM LƯỰC CHƯƠNG 5- Ý chí là quá trình nỗ lực vượt qua khó khăn, trở ngại để hoàn thành
những hành vi, hoạt động có mục đích ý chí là khả năng điều hoà và điều khiển
có ý thức hành vi của cá nhân.
- Hành vi ý chí là hành vi có ý thức, có cân nhắc và luôn hướng về một
mục đích đã được đặt ra. Hành vi ý chí trải qua nhiều giai đoạn và có những
thang bậc động cơ nhất định.
- Thói quen, kĩ xảo là những hành vi, hành động tự động hoá và có những
đóng góp quan trọng trong quá trình hoàn thành những mục tiêu của con người.
Chương 6: NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH
Tâm lí người có bản chất xã hội, là kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài
người đã được biến thành của riêng từng người trong quá trình con người thâm
nhập vào các mối quan hệ xã hội. Việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lí người
phải hướng đến mức độ hoạt động - nhân cách. Trong điều kiện này, tâm lí
được xét trong quá trình hình thành và phát triển bằng hoạt động ở từng người
và hoạt động này diễn ra trong sự tự hoà nhập vào các mối quan hệ xã hội đa
dạng, trong mối liên hệ với hoạt động của người khác. Hình thành tâm lí con
người nghĩa là xây dựng một mô hình người phù hợp với các giá trị xã hội, tức
là xây dựng một nhân cách. Nhân cách là vấn đề trung tâm của khoa học tâm lí
và là một đầu mối quan trọng của nhiều khoa học khác, vì vậy việc hiểu rõ vấn
đề nhân cách cũng giúp con người hiểu rõ hơn các vấn đề xã hội - lịch sử.
1. KHÁI NIỆM VỀ NHÂN CÁCH1.1. Khái niệm
Đã có rất nhiễu ngành khoa học nghiên cứu về con người và xây dựng
nên những mô hình với những nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào cách tiếp cận
khác nhau.
Có người cho rằng trong con người bình thường đang hiện hữu, có một
con người nhỏ xíu bên trong điều khiển mọi phản ứng của thể xác để thích nghi
với sự biến đổi của thế giới xung quanh, con người nhỏ xíu này trở thành một
quyền năng đầy sức mạnh và có tính chất huyền bí.
Cũng có người cho rằng có một "con người bản năng", họ xem con người
là một sinh vật đơn thuần, mọi hoạt động của con người đều do bản năng quy
định. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng con người có bản năng sống nhưng là bản năng
được xã hội hoá khác hẳn với những bản năng thuần tuý của con vật.
Cũng có lúc người ta đưa ra khái niệm con người kĩ thuật, con người
chính trị, con người xã hội...
K.Marx đã đưa ra một quan điểm rất khoa học về con người." Bản chất
con người không phải là cái chung chung, trừu tượng vốn có của mỗi cá nhân
riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội" (K.Marx, Luận cương về Feuerbach). Chính ông cũng đã phát
biểu: "Bản chất của "con người đặc thù" không phải là bộ râu của nó, không phải
là máu của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó, mà là phẩm
chất xã hội của nó". (K.Marx, Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hegel, NXB Sự thật, Hà Nội. 1977, trang 86)
Con người là một sản phẩm của lịch sử xã hội, là một thực thể mang bản
chất xã hội bao gồm những phẩm chất, những thuộc tính có ý nghĩa xã hội được
hình thành trong quá trình sống và kết quả của sự tác động qua lại giữa người
và người.
Con người vẫn là một bộ phận, là khâu tiến hoá cao nhất của tự nhiên và
là một thực thể mang bản chất tự nhiên - sinh học, mang trong mình sức sống
của tự nhiên. Con người đóng vai trò quyết định trong tất cả các yếu tố kiến tạo
nên một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc trong bất kì tình huống nào, trong bất kì
điều kiện nào.
Trong mỗi người tồn tại rất nhiều mối quan hệ. Tuỳ thuộc vào các mối
quan hệ này mà con người trong những trường hợp cụ thể được nhìn nhận như
một chủ thể hoặc như một nhân cách. Khi con người được nhìn nhận như một
đại diện của loài, thì con người đó là một cá nhân (một cá thể người). Cá nhân
là một khái niệm chung cho những con người cụ thể sống trong một cộng đồng,
một xã hội nhất định, không phân biệt trên bất kì lĩnh vực nào. Khi cá nhân tiến
hành các hoạt động có mục đích, có ý thức với những hành vi ý chí nhất định,
cá nhân ấy được xem như một chủ thể.
Khi xem xét, nhìn nhận một con người với tư cách là một thành viên của
xã hội, một chủ thể của các mối quan hệ và các hoạt động thì con người ấy
được đánh giá như một nhân cách.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách.
Các học thuyết có tính chất sinh vật hoá nhân cách cho rằng bản chất của
nhân cách nằm trong mâu thuẫn giữa các bản năng sống và bản năng chết là ở
các đặc điểm hình thể, ở góc mặt hay ở thể tạng của con người.
Quan điểm xã hội hoá nhân cách một cách máy móc lấy sự xem xét các
quan hệ xã hội để thay thế một cách đơn giản các thuộc tính tâm lí của cá nhân.
Cũng có quan điểm quá rộng về nhân cách, chỉ chú ý đến những nét chung mà
bỏ qua cái riêng của con người, ngược lại cũng có quan điểm chỉ chú trọng đến
cái riêng mà xem nhẹ cái chung, cái khái quát của cá nhân.
Khái quát những nét đặc trưng từ những nhận định trên đây, một định
nghĩa về nhân cách được các nhà tâm lí chấp thuận đã được đưa ra:
Nhân cách là một hệ thống các đặc điểm tâm - sinh lí của một cá nhân
quy định giá trị xã hội và những hành vi xã hội của cá nhân ấy. Nhân cách thể
hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người, nhân cách là chất lượng tích hợp
của cá nhân.
Những thuộc tính tâm sinh lí hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ
với nhau, tác động lẫn nhau, làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định.
Những thuộc tính trong hệ thống ấy có cái chung từ xã hội, từ các mối quan hệ
trong xã hội nhưng đã trở thành cái riêng của từng người. Giá trị xã hội của con
người thể hiện ở những việc làm, trong cung cách ứng xử, hành vi, hành động,
hoạt động phổ biến và được xã hội đánh giá. Những thuộc tính tâm lí tạo nên
nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp độ sau đây:
- Cấp bộ bên trong cá nhân, bộc lộ trong không gian tồn tại của riêng cá
nhân. Cấp độ này thể hiện tính cá thể, tính khác biệt cá thể, tính độc đáo của
nhân cách trong phạm vi của tính phổ biến. Cấp độ này phản ánh mặt văn hoá -
lịch sử của cá nhân cụ thể, với tư cách là chủ thể của tính tích cực xã hội.
- Cấp độ liên cá nhân của nhân cách tồn tại trong sự giao tiếp giữa chủ
thể với cá nhân khác. Nhân cách chỉ có thể được nhìn nhận, phản ánh trong hệ
thống những mối quan hệ liên cá nhân, trong hoạt động cộng đồng và trong
quan hệ hợp tác lẫn nhau.
- Cấp độ siêu cá nhân của nhân cách được biểu hiện ra ngoài bằng hoạt
động và các sản phẩm của con người.
Nhân cách phản ánh ở mức độ siêu cá nhân tồn tại trên các cá nhân, trên
các mối liên hệ cá nhân, thoát ra ngoài các cá nhân cụ thể.
Sự toàn vẹn của nhân cách chỉ có thể được hình thành và phát triển thông
qua sự thống nhất của cả ba cấp độ nói trên. Nhân cách của một cá nhân không
phải được sinh ra đồng thời với việc một con người được sinh ra mà được sinh
thành, phát triển dần dần bằng hoạt động và giao tiếp của từng người trong suốt
cuộc đời
1.2. Những đặc điểm cơ bản của nhân cách
1.2.1. Tính thống nhất của nhân cách
Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa các phẩm chất và khả năng,
giữa đạo đức và năng lực của con người. Nhân cách bao giờ cũng tác động như
một con người cụ thể "hiện thực và sống động" kết hợp hài hoà trong bản thân
sự phong phú của cái phổ biến, cái riêng và cái đơn nhất.
1.2.2. Tính ổn định của nhân cách
Những đặc điểm tâm lí nói lên bộ mặt tâm lí - xã hội của cá nhân, quy định
giá trị làm người của cá nhân. Những thuộc tính của nhân cách được hình thành
trong hoạt động nhưng không phải dễ dàng, đơn giản mà hết sức khó khăn và
do đó những thuộc tính này mang tính chất bền vững, khó mất đi khi đã được
hình thành. Trong thực tế, từng nét nhân cách có thể bị thay đổi do hoàn cảnh,
cuộc sống nhưng một cách tổng quát, chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn
vẹn, tương đối ổn định.
1.2.3. Tính giao tiếp của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành và phát triển trong hoạt động và mối
quan hệ giao tiếp với những nhân cách khác. Nhu cầu giao tiếp được nhìn nhận
như một nhu cầu bẩm sinh của con người. Thông qua giao tiếp, con người gia
nhập vào các quan hệ xã hội, tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá
trị xã hội. Cũng qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận
theo các quan hệ xã hội.
1.2.4. Tính tích cự của nhân cách
Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội,
vì vậy nhân cách thể hiện tính tích cực rất rõ ràng. Một cá nhân được thừa nhận
là nhân cách khi cá nhân ấy tích cực hoạt động, nhờ vào việc nhận thức, cải tạo
thế giới xung quanh và cải tạo cả chính bản thân mình. Giá trị đích thực của
nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét
ở tính tích cực của nhân cách. Nhân cách luôn có khuynh hướng vươn tới
những giá trị cao đẹp hơn trong quá trình sống và làm việc trong xã hội.
1.3. Vấn đề bản ngã
Các nhà tâm lí cho rằng nhân cách gồm ba loại bản ngã. Mặc dù sự thể
hiện rất đa dạng và phong phú, mỗi người chỉ là một nhân cách thống nhất giữa
các bản ngã sau đây:
1.3.1. Cái tôi thể lí
- Cơ thể của tôi và tôi chỉ là một mà thôi: đẹp, xấu, cao, lùn, trắng, đen,
răng đẹp, mắt cật thị...
- Trang phục chỉ là sự nối dài của cơ thể: thời trang hay không, kiểu cách
tạo sự thoải mái, tự tin hay không.
1.3.2. Cái tôi xã hội
- Tên họ là gì, giá trị của cá nhân trong quan hệ gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, nghề nghiệp...
- Những giá trị con người được khoác lên hằng ngày ở nhà, trong cơ
quan, cái tôi trong cái nhìn của người khác.
1.3.3. Cái tôi tâm tí
- Những tư tưởng, tình cảm, sở thích, nguyện vọng, năng lực của cá nhân
trong quá khứ, trong hiện tai...
- Những điều thầm kín không thể thổ lộ cùng người khác.
- Cái tôi bí ẩn, con người là một ẩn số ngay cả với chính mình, có nhiều
điều mình không thể biết về mình.
2. CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA NHÂN CÁCHKhi nghiên cứu về cấu trúc của nhân cách, nhiều nhà tâm lí đã đưa ra
nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo A. G. Covaliov thì nhân cách bao gồm các quá trình tâm lí, các trạng
thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí của cá nhân.
Cũng có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản:
nhận thức, tình cảm và ý chí.
K.K. Platonov lại đưa ra 4 tiểu cấu trúc của nhân cách như sau:
- Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi
và có thể cả những thuộc tính có tính chất bệnh lí.
- Tiểu cấu trúc về đặc điểm của những quá trình tâm lí như nhận thức
cảm tính, lí tính...
- Tiểu cấu trúc về vốn sống, kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo...
- Tiểu cấu trúc về xu hướng của nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng...
- Có quan điểm xem xét nhân cách với cấu trúc gồm hai mặt thống nhất
với nhau là đức và tài.
Cấu trúc của nhân cách khá phức tạp, gồm nhiều thành phần có liên quan
mật thiết với nhau, tạo nên một cấu trúc tương đối ổn định nhưng không kém
phần linh hoạt trong mối quan hệ.
Sau đây là kiểu cấu trúc bốn thành phần tác động qua lại với nhau như
bốn thuộc tính của một thể thống nhất: xu hướng, năng lực, tính cách và tính khí
của con người.
2.1. Xu hướng của nhân cách
Hoạt động của con người bao giờ cũng được định hướng bởi những động
cơ chủ quan, những động cơ này sẽ làm tăng tính tích cực của chủ thể hoạt
động và được thể hiện trong các mục tiêu của chủ thể ấy.
Nói một cách tổng quát, con người sẽ làm việc và hoạt động một cách tích
cực vì những động lực chủ quan này tạo thành xu hướng của con người, thể
hiện xu hướng tâm lí bên trong của nhân cách.
Xu hướng của nhân cách là một hệ thống các động lực quy định tính tích
cực và sự lựa chọn các thái độ của con người trong quá trình hoạt động và tồn
tại của mình.
Xu hướng cá nhân là những nét riêng hay tính chất cá nhân, khi tổng hợp
lại sẽ xác định động cơ và các đặc điểm hành vi của con người trong những
điều kiện và môi trường nhất định. Sau đây là các động lực chủ quan trong xu
hướng của nhân cách:
2.1.1. Nhu cầu
Để tồn tại, mỗi cơ thể sống còn có những điều kiện và phương tiện nhất
định do môi trường bên ngoài mang lại. Trong hoạt động, con người cũng cần
những điều kiện và phương tiện như vậy, nghĩa là con người có những nhu cầu
nhất định.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người cần được thoả mãn để tồn tại
và phát triển trong những điều kiện cụ thể.
Khi có nhu cầu và muốn thoả mãn được những đòi hỏi ấy, con người chỉ
có thể tích cực tìm kiếm những phương cách phù hợp để đáp ứng, điều này cho
thấy rõ ràng rằng, nhu cầu là một động lực tâm lí thúc đẩy con người hoạt động
và hoạt động tích cực hơn. Quá trình thoả mãn nhu cầu là một quá trình năng
động hoá chủ thể, là quá trình chủ động thích nghi của chủ thể để có thể đạt đến
những mục tiêu xác định.
* Những đặc điểm của nhu cầu
Nhu cầu của con người bao giờ cũng có đối tượng, nghĩa là những đòi hỏi
của con người luôn hướng về những đối tượng cụ thể, có thể là đối tượng vật
chất hay đối tượng tinh thần. Khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng
sự thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động
nhằm tới đối tượng.
Nội dung của nhu cầu thường do những điều kiện và cách thức thoả mãn
nó quy định.
Nhu cầu có tính chu kì, nghĩa là sau khi được đáp ứng không phải nhu
cầu hoàn toàn mất đi mà lại tiếp tục xuất hiện ở một thời điểm khác, với mức độ
khác. Một yêu cầu về điều gì đó chỉ xảy ra một lần, mang tính chất đơn lẻ và
không lặp lại nữa thì nó sẽ không biến thành nhu cầu và không đặc trưng cho
đặc điểm tâm lí của cá nhân.
Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật là
mang tính chất khá ổn định và bị hạn chế về cơ bản ở những nhu cầu sinh vật,
nhu cầu của con người luôn thay đổi trong quá trình sinh sống. Nhu cầu của con
người xuất phát từ cơ sở xã hội vì nhu cầu con người có bản chất xã hội.
Sự thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu luôn kèm theo những cảm xúc
nhất định. Khi một nhu cầu được thoả mãn, nhận thức về sự thoả mãn nhu cầu
biến thành lợi ích của con người.
Nhu cầu của con người rất đa dạng. Nhu cầu của xã hội ngày một phong
phú hơn, mặt khác những định chế của xã hội cũng có tác dụng tạo ra những
biện pháp nhằm ràng buộc sự tăng trưởng quá mức của nhu cầu. Những biện
pháp này giúp con người có thể đình hoãn sự thoả mãn những nhu cầu của
mình và còn có thể giúp con người từ bỏ nhu cầu của mình vì người khác.
Ngoài việc kìm hãm đà phát triển quá độ của nhu cầu, xã hội còn là nơi bảo vệ
cho nhu cầu con người được phát triển đầy đủ. Vai trò của xã hội là điều hoà
những đòi hỏi giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân và tập thể để quân bình đời
sống tâm lí của con người.
Trong cuộc sống thực tế, người ta có thể chia nhu cầu làm nhiều loại khác
nhau, có những nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội, có những nhu cầu vật chất
và nhu cầu tinh thần. Việc phân chia như thế chỉ mang tính chất quy ước ở một
mức độ nhất định. Trên thực tế không có một nhu cầu nào của con người lại
không mang tính chất xã hội.
Cách thức thoả mãn nhu cầu của con người có thể được xem xét trên
những loại hình sau đây:
- Thoả mãn thuận lợi: đây là trường hợp khi con người có nhu cầu, họ gặp
ngay đối tượng để thoả mãn và có thể thoả mãn một cách thuận lợi.
- Không thể thoả mãn ngay được: khi nhu cầu xuất hiện, nhưng vì chịu sự
ảnh hưởng của một số nhân tố nào đó, con người không có điều kiện để thoả
mãn ngay được mà phải tạm thời đình hoãn một thời gian mới có cơ hội. Trong
trường hợp này con người thích nghi bằng cách thoả mãn nhu cầu bằng tư
tưởng và có thể cho tằng nhu cầu là một trong những nguồn gốc của ý thức.
- Ức chế nhu cầu: một trường hợp khác, khi nhu cầu không được thoả
mãn ngay vừa lúc xuất hiện, con người có thể đình hoãn việc thoả mãn hay có
thể tìm cách ức chế nhu cầu ấy. Việc ức chế đòi hỏi con người phải có ý chí
mạnh mẽ để có thể từ bỏ những đòi hỏi nhất định.
- Chôn sâu nhu cầu vào tiềm thức: đối với những nhu cầu không thể thoả
mãn được trong thực tế và ý thức con người đã ức chế nó, chủ thể ném sâu nhu
cầu vào cõi vô thức và chờ cơ hội để bộc lộ.
Khi nhu cầu không được thoả mãn, con người thường có những cách xứ
lí khác nhau, những cách xử lí này có thể tạo thành những phản ứng có tính
chất tự vệ của con người để thích nghi với thực tại, điều hoà đời sống tâm lí.
* Đánh giá nhu cầu
Khi xem xét về mặt nhu cầu cần chú ý rằng mỗi cá nhân có nhiều nhu cầu
với các loại hình khác nhau và luôn sắp xếp các nhu cầu ấy theo một thang bậc
nhất định theo một thứ tự ưu tiên. Chính sự sắp xếp thang bậc nhu cầu này sẽ
bộc lộ giá trị xã hội của con ngươi. Mặt khác có thể cùng một nhu cầu nhưng hai
chủ thể sẽ có những phương cách thoả mãn hoàn toàn khác nhau, phương
cách đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân sẽ bộc lộ giá trị của họ.
2.1.2. Hứng thú
Các nhu cầu của con người có hai mặt, một mặt như là những rung động
cảm xúc đặc biệt về các yêu cầu thực tế đòi hỏi phải được thoả mãn ngay, mặt
khác như là nhận thức về các nhu cầu dưới dạng các biểu tượng nào đó. Sự
nhận thức nhu cầu dưới dạng các biểu tượng như vậy là điều kiện để hình
thành hứng thú.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó,
vừa có ý nghĩa trong cuộc sống, vừa mang lại những rung cảm tích cực trong
quá trình hoạt động của cá nhân ấy.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt
động nhận thức, tăng năng suất lao động. Vì vậy, cũng như nhu cầu, hứng thú
là một trong các động lực trong hệ thống động lực của nhân cách.
* Những đặc điểm của hứng thú:
Hứng thú là sự chú ý không có ý thức xuất hiện nhanh chóng và biểu hiện
ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động.
- Hứng thú luôn luôn rất cụ thể, hứng thú đối với các vật thể, các hiện
tượng, các hoạt động nhất định...
- Hứng thú của con người mang bản chất xã hội và do đó tạo nên sự khác
biệt cá nhân thông qua những hứng thú cụ thể, những sở thích nhất định.
* Sự khác biệt cá nhân về hứng chú:
- Nội dung và tính chất của các hứng thú. Người ta phân biệt các hứng
thú sâu sắc và hứng thú hời hợt; hứng thú mạnh mẽ là hứng thú hoàn toàn bao
trùm con người và kích thích con người hoạt động nghiêm túc, khắc phục khó
khăn, hứng thú hoạt động là hứng thú mà người ta thích thoả mãn sự tò mò của
mình nhiều hơn, đồng thời thích sử dụng thành quả của người khác. Hứng thú
tích cực là hứng thú kích động người ta tham gia những hoạt động nhất định và
tự mình đạt lấy những mục đích mà mình quan tâm.
- Tính bền vững hay tính dễ chuyển của các hứng thú thể hiện trong sự
kéo dài hay không của nó.
- Tính bó hẹp hay tính đa dang của các hứng thú, khi ở một người các
hứng thú được tập trung vào một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó thì ở người
khác các hứng thú lại bao trùm các lĩnh vực kiến thức và các hình thức hoạt
động khác nhau.
Thông thường người ta hiểu một cách không đúng bản chất của hứng thú
và chỉ xem nó như là sự thích thú bề ngoài cũng như sự tò mò hiếu kì mà thôi.
Thực chất hứng thú chân chính chỉ xuất hiện khi có những kiến thức mà chủ thể
biết được trong lĩnh vực mà họ quan tâm, hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực đó,
sự thoả mãn cảm xúc mà người ta tiếp nhận được do có những kiến thức và có
hình thức hoạt động ở trên.
2.1.3. Thế giới quan
Thế giới quan là một hệ thống các quan điểm của cá nhân về tự nhiên, xã
hội và về chính bản thân mình, thế giới quan xác định phương châm hành động
của con người.
Thế giới quan của một người riêng lẻ luôn luôn được xác định bởi thời đại
lịch sử và ý thức xã hội, được hình thành trong cả cuộc sống dưới ảnh hưởng
của giáo dục và trong quá trình tham gia tích cực vào các quan hệ xã hội.
Niềm tin là một phẩm chất của thế giới quan, là cái kết tinh các quan
điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể hiện, trở thành chân lí vững
bền trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con ngươi nghị lực, ý chí để hành động
phù hợp với quan điểm đã được chấp nhận.
Niềm tin được hình thành từ đơn giản đến phức tạp và có tính chất không
đồng đều tuỳ thuộc vào diễn biến chung của xã hội.
Thế giới quan và niềm tin trở thành một động lực thúc đẩy những hành vi
xã hội của nhân cách và là những động cơ tâm lí có tính chất tiềm tàng.
2.1.4. Lí tưởng
Lí tưởng là một mục tiêu cao đẹp, một mô hình hoàn chỉnh, một hình ảnh
mẫu mực và trọn vẹn có sức lôi cuốn con người vươn tới một cách mạnh mẽ.
Khi con người xác định một lí tưởng sống, hoạt động của họ sẽ trở nên
năng động hơn, ý chí của họ sẽ được hình thành mãnh liệt hơn để có thể tiến tới
lí tưởng cao quý, lí tưởng trở thành một động lực trong hệ thống động lực của
xu hướng.
Lí tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức
năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân, là động lực thúc
đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình
thành và phát triển cá nhân. Con người sống không có lí tưởng như cây cối
thiếu ánh mặt trời như có người đã phát biểu như vậy.
Lí tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Lí tưởng bao giờ
cũng được xây dựng từ những hình ảnh có thật trong hiện thực và đã được khái
quát hoá trong nhận thức của con người. Nếu không có những chất liệu hiện
thực ấy, những hình ảnh được phản ánh chỉ là hình ảnh ảo tưởng mà thôi. Tuy
nhiên, lí tướng không phải là những gì đơn giản, mộc mạc mà là những hình
ảnh trong tương lai phản ánh xu thế phát triển của con người, lí tưởng mang
tính chất xã hội lịch sử, lí tưởng thoát ra ngoài cái giới hạn của những hình ảnh
cụ thể.
2.2. Tính cách của nhân cách
2.2.1. Khái niệm
Tính cách là một thuộc tính tâm lí của cá nhân bao gồm một hệ thống thái
độ của cá nhân với hiện thực xung quanh thể hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ
phong cách giao tiếp...
Khái niệm tính cách không bao gồm tất cả những gì tiêu biểu đối với con
người, như các đặc điểm tri giác, trí nhớ, chú ý... hoặc các tính chất khác như
năng lực hứng thú mặc dù những tính chất này có tham gia ở một mức độ nhất
định vào sự hình thành tính cách.
Có thể cho rằng tính cách biểu hiện qua những đặc điểm của cá tính để
lại dấu vết rõ ràng trong hành vi của con người, trong quan hệ giữa con người
với người khác và với thế giới bên ngoài. Người ta xem tính cách là một chế độ,
một cơ cấu bên trong thể hiện sự thống nhất của các tính chất đặc biệt của cá
nhân như một thực thể xã hội. Biết được tính cách một người nghĩa là biết được
những tính chất cơ bản biểu hiện với một logic nhất định và tuần tự bên trong
qua các hành vi của họ, qua thái độ của họ đối với chính họ, đối với mọi giá trị
khách quan.
2.2.2. Đặc điểm của tính cách
- Tính ổn định và tính bền vững
Tính cách là một thuộc tính của cá nhân, là những tính chất, những phản
ứng có tính chất ổn định và rất bền vững. Trong hoạt động, các hành vi của con
người luôn luôn phản ánh những nét tính cách tiêu biểu, những hoàn cảnh giống
nhau thường có những phản ứng giống nhau một cách ổn định. Điều này khẳng
định rằng con người có thể dự đoán về tính tình của người khác thông qua quan
sát phong thái, hành vi của họ một cách có hệ thống. Những nét tính cách đã
được hình thành từ trong quá trình sống trở nên rất ổn định, khó thay đổi và để
lại trong cuộc sống những dấu ấn mạnh mẽ.
- Tính độc đáo, riêng biệt
Các nét tính cách được hình thành theo những mối liên hệ bên trong nhất
định và chịu ảnh hưởng của những động cơ cá nhân, chịu ảnh hưởng bởi
những điều kiện xã hội, tự nhiên nhất định.
- Tính xã hội
Tính cách được hình thành và phát triển trong quá trình sống và hoạt
động, các yếu tố sinh học có ảnh hưởng rất ít đến quá trình hình thành tính
cách. Tính cách được hình thành, phụ thuộc phần lớn vào các quan hệ xã hội.
- Tính điển hình
Tính cách của con người vừa phản ánh tính chất riêng biệt của cá nhân
nhưng cũng phản ánh nguồn gốc các mối quan hệ nguồn gốc văn hoá của cá
nhân ấy, hay nói cách khác, tính cách cá nhân phản ánh tính chất của cộng
đồng mà cá nhân ấy là một thành viên.
2.2.3. Cơ cấu của tính cách
Tính cách được hình thành từ vô số các nét tính cách khác nhau nhưng
không phải là một sự cộng lại đơn giản mà là một sự kết hợp rất phức tạp. Các
nét tính cách hợp thành tính cách có sự liên hệ với nhau và tạo nên một cơ cấu
hoàn chỉnh của tính cách.
Tính cách bao gồm một hệ thống các thái độ và hệ thống hành vi, cử chỉ,
cách nói năng tương ứng.
- Hệ thống thái độ của cá nhân
- Thái độ đối với bản thân mình, thể hiện ở cách đánh giá chính bản thân,
trách nhiệm đối với bản thân được biểu hiện ở những nét tính cách như khiêm
tốn, lòng tự trọng, tinh thần phê bình...
- Thái độ đối với người khác, thể hiện ở mối quan hệ giữa cá nhân với mọi
người xung quanh, biểu hiện ở những nét tính cách như lòng nhân đạo, quý
trọng con người, tinh thần đồng đội, tình đồng nghiệp, tính cởi mở, chân tình,
công bằng...
- Thái độ đối với xã hội, thể hiện ở cung cách ứng xử trong xã hội; cách
thức đối phó với các nguyên tắc của xã hội và biểu hiện bằng các nét tính cách
như lòng yêu nước, tinh thần dân chủ, tính kỉ luật...
- Thái độ đối với công việc như lòng yêu nghề, yêu lao động, tinh thần
trách nhiệm...
- Hệ thống hành vi, cử chỉ, cung cách ứng xử của cá nhân
Hệ thống thái độ nói trên luôn luôn được thể hiện ra ngoài một cách cụ
thể. Hệ thống hành vi, cử chỉ... rất đa dạng và chịu sự chi phối của hệ thống thái
độ nói trên. Có thể xem hệ thống thái độ là nội dung của tính cách. Người có
tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi,
cử chỉ, cung cách ứng xử, trong đó nội dung là thành phần chủ đạo. Nội dung và
hình thức của tính cách không tách rời nhau mà luôn thống nhất hữu cơ với
nhau.
Không thể có một cá nhân nào chỉ có toàn những nét tính cách tốt và
cũng không thể có người nào chỉ toàn những nét tính cách xấu. Tính cách của
con người là một hệ thống gồm nhiều nét tính cách, cả những nét tính cách tốt
và những nét tính cách xấu. Tuy nhiên tỉ lệ giữa chúng sẽ cho thấy tính cách đặc
trưng của cá nhân đó như thế nào.
2.2.4. Giáo dục tính cách
Có thể nhận thấy có ba quan điểm về sự thay đổi tính cách sau đây:
- Thuyết định mệnh cho rằng: tính tình, tính cách con người bị lệ thuộc
vào số mệnh của từng cá nhân và vì vậy, không thể thay đổi tính cách hay
không thể giáo dục tính cách được.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: đến sau năm tuổi, tính cách con người
được hình thành một cách rõ ràng và sau đó được xã hội hoá.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: nhân cách con người thay đổi không ngừng
và vì vậy tính cách đó có thể được hình thành và thay đổi bằng các tác động
giáo dục.
Cơ sở hình thành nên những nét tính cách tốt là những nhu cầu cấp cao
của cá nhân. Vì vậy, điều kiện để giáo dục tính cách là củng cố trong con người
những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, những nhu cầu xã hội lành mạnh.
Cái mạnh và cái yếu của tính cách phụ thuộc vào nội dung của cá tính,
vào các đặc điểm của những nhu cầu và hướng tâm lí của cá nhân ấy. Nhờ có ý
chí dựa trên những ý hướng vững chắc nên con người mới có thể ức chế, kìm
hãm sự xung động đang cản trở mục đích có thể điều khiển một cách hợp lí
hành vi, các xung động, tính khí và có thể sử dụng toàn bộ nghị lực để đạt được
mục đích cơ bản.
Ở mỗi cá nhân, muốn thay đổi tính cách trước hết phải ý thức rõ về tính
cách của mình như thế nào, bổ sung những thiếu sót của nó theo hướng của cá
nhân ấy. Rèn luyện ý chí như là xương sống của tính cách: tính mục đích, tính
tích cực, tính kỉ luật, tính cương quyết... phẩm chất ý chí sẽ hình thành những
nét tính cách nếu nó bền vững và luôn xuất hiện trong hành vi ý chí. Việc giáo
dục tính cách được chú trọng ở việc đưa chủ thể tham gia vào các hoạt động đa
dạng có chủ đích để hình thành các nét tính cách cụ thể, chỉ có hoạt động mới
có thể tác động để thay đổi và ươm mầm một tính cách mới.
Giáo dục tính cách cũng được tiến hành thông qua sự giáo dục thế giới
quan và nhân sinh quan phát triển hứng thú, hình thành những nhu cầu và
hướng tâm lí có ý nghĩa đặc biệt cho hành vi đạo đức sau này.
Con đường tự giáo dục tính cách là con đường có nhiều ý nghĩa nhất để
hội nhập với hoạt động xã hội và cuộc sống chung của nhân loại.
2.3. Năng lực của nhân cách
2.3.1. Khái niệm
Ngoài những đặc điểm về động cơ, tính cách, con người cần có những
khả năng nhất định để thực hiện các hoạt động cần thiết bảo đảm cho sự tồn tại
tích cực của mình, con người cần có năng lực để giải quyết vấn đề.
Năng lực là một hệ thống các đặc điểm tâm sinh lí phù hợp với những yêu
cầu đặc trưng của mọi hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt động có kết quả.
Trong các hình thức hoạt động, thực tế bất kì người nào cũng có thể tiếp
thu một số kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo tối thiểu là cái làm cho con người có thể
hoạt động. Trong những điều kiện bên ngoài như nhau thì những người khác
nhau có thể tiếp thu với một chất lượng hoàn toàn khác nhau. Mỗi cá nhân có
một cấu trúc tâm sinh lí khác nhau để thích nghi với các dạng hoạt động, năng
lực của cá nhân sẽ hoàn toàn khác nhau.
Khi xem xét bản chất của năng lực, cần chú ý đến các yếu tố cơ bản nhất:
năng lực là những sự khác biệt về tâm lí cá nhân làm cho người này khác người
kia. Năng lực không phải là bất kì những sự khác nhau cá biệt chung chung mà
chỉ là những sự khác biệt có liên quan đến hiệu quả của việc thực hiện hoạt
động nào đó.
2.3.2. Cấu trúc của năng lực
Năng lực của con người được hình thành trong quá trình sống và thích
ứng của mỗi cá nhân, là quá trình tích lũy riêng biệt của chủ thể để có thể thực
hiện có kết quả một hoạt động nào đó. Năng lực được hình thành từ những
thành tố sau đây:
- Tri thức, là một hệ thống kiến thức được cá nhân biến thành của riêng
mình. Tri thức là thành tố rất quan trọng để đánh giá một người có năng lực hay
không. Sự thông hiểu vấn đề, việc biết rõ bản chất sự việc là điều kiện không
thể thiếu để chủ thể hoạt động có hiệu quả cao. Năng lực của con người được
yêu cầu với hai loại tri thức căn bản là tri thức phổ thông và tri thức chuyên môn.
- Kĩ năng, là một hệ thống các thao tác của chủ thể được phối hợp một
cách nhuần nhuyễn để thực hiện công việc có hiệu quả mà ít tiêu hao năng
lượng. Kĩ năng là cách thức vận dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn, là
phương pháp thực hành của chủ thể để hoạt động được hoàn tất nhanh chóng,
đúng yêu cầu và bảo đảm tiến độ. Một người có tri thức nhưng thiếu kĩ năng
thực hành cũng chỉ là một người lí thuyết suông.
- Kinh nghiệm, là những giá trị những tinh hoa được chủ thể tích lũy qua
hoạt động thực tiễn, qua quá trình lao động nhất định. Người có kinh nghiệm sẽ
dựa vào tri thức và kĩ năng của mình sẽ tiến hành hoạt động một cách có kết
quả.
Có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thích hợp là điều kiện rất cần thiết cho việc
thực hiện có kết quả một hoạt động. Có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh
vực nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực này. Tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo không đồng nhất với năng lực nhưng có quan hệ mật thiết với năng
lực. Năng lực giúp con người tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo dễ dàng và nhanh
chóng hơn.
Năng lực không phải là trình độ, không phải là kinh nghiệm dày dạn mà
con người có được, trình độ và kinh nghiệm chỉ tạo điều kiện cho năng lực phát
triển và được phát huy mà thôi.
Năng lực luôn gắn liền với một hoạt động nhất định, kết quả của hoạt
động sẽ là cơ sở đánh giá năng lực con người trên lĩnh vực hoạt động ấy. Năng
lực được hình thành trong hoạt động thực tiễn, được phát triển trong quá trình
lao động sáng tạo chứ không phải tăng trưởng tỉ lệ với tuổi tác hay những địa vị
của cá nhân.
2.3.3. Phân loại năng lực
Người ta có thể chia năng lực ra thành nhiều loại khác nhau tùy theo cách
thức họ xem xét, tuy nhiên có thể chia thành hai loại cơ bản sau:
- Năng lực chung
Năng lực chung là những năng lực cần thiết cho tất cả các loại hình hoạt
động khác nhau, từ những hoạt động có những tính chất khoa học kĩ thuật đến
những hoạt động lao động chân tay hoặc lao động nghệ thuật, ví dụ như những
đặc điểm về thể lực, trí tuệ... (quan sát, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, ngôn
ngữ)...). Năng lực chung như là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh
vực hoạt động có kết quả.
- Năng lực riêng hay năng lực chuyên môn
Năng lực chuyên môn là sự thể hiện độc đáo các đặc điểm riêng, có tính
đặc trưng và chỉ phù hợp với những yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên
biệt nhất định để có kết quả cao. Ví dụ như năng lực hội hoạ, năng lực sư phạm,
năng lực thể thao, năng lực quản lí...
Cả hai loại năng lực này luôn luôn bổ sung cho nhau và hỗ trợ nhau để
chủ thể hoạt động hoàn thành công việc.
2.3.4. Sự hình thành và phát triển năng lực
- Điều kiện thể lí
Tư chất là những đặc điểm giải phẫu sinh lí bẩm sinh của cơ thể, những
đặc điểm này làm cho sự phát triển năng lực diễn ra dễ dàng hơn. Đối với các
năng lực chủ yếu trong hoạt động vận động thì các tư chất có thể là các đặc
điểm về hệ thần kinh cơ, còn đối với các năng lực trong hoạt động lao động trí
óc thì tính linh hoạt của hệ thần kinh, là sự tuần hoàn tốt của não... Ngoài những
yếu tố bẩm sinh di truyền, trong tư chất còn có những yếu tố tự tạo trong cuộc
sống cá thể. Đặc điểm di truyền có được thể hiện và bảo tồn ở thế hệ sau hay
không là phụ thuộc vào hoàn cảnh sống. Như vậy tư chất là một trong những
điều kiện hình thành năng lực, nhưng tư chất không quy định trước sự phát triển
của các năng lực. Trên cơ sở của tư chất, các cá nhân có thể hình thành những
năng lực rất khác nhau trong hoạt động. Những tiền đề bẩm sinh được phát
triển nhanh chóng, những yếu tố chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục hoàn thiện trong
quá trình hoạt động và thích nghi với môi trường và cuộc sống.
- Điều kiện tâm lí
Những đặc điểm về xu hướng, hứng thú cá nhân có liên quan đến sự hình
thành và phát triển năng lực. Năng lực sẽ không thể phát triển nếu chủ thể
không yêu thích công việc của mình hoặc không có sự hứng thú rõ ràng đối với
một hoạt động nhất định. Hứng thú có thể trở thành chỉ số của năng lực đang
phát triển.
Việc phát triển các năng lực phải liên hệ cả với các động cơ hoạt động,
các niềm tin vững chắc. Nhịp độ phát triển của năng lực cũng không đồng đều
và phụ thuộc vào lứa tuổi con người. Có những thời hạn tối ưu để hình thành và
phát triển các năng lực chuyên biệt, những thời kì này các nhà nghiên cứu gọi là
thời kì nhạy cảm, đúng thì, đúng lứa.
- Điều kiện xã hội
Năng khiếu là mầm mống của năng lực, tuy nhiên có năng khiếu chưa có
nghĩa là sẽ có năng lực. Muốn phát triển năng khiếu thành năng lực phải có môi
trường xung quanh tương ứng và có sự giáo dục có chủ đích. Sự giáo dục có
chủ đích sẽ giúp năng khiếu phát triển đúng hướng tâm lí của cá nhân. Môi
trường sống, hoàn cảnh xã hội, quá trình hoạt động, lao động cần cù sẽ là điều
kiện thuận lợi để phát triển năng lực.
2.3.5. Các mức độ phát triển của năng lực
Năng lực có thể phát triển đạt đến những mức độ khác nhau, có thể có
hai mức sau:
- Tài năng
Tài năng là sự kết hợp nhiều năng lực, biểu hiện ở các phẩm chất phát
triển đến mức rất cao và có các năng lực cá nhân rất độc đáo, chủ thể hoàn
thành hoạt động một cách sáng tạo. Chỉ có thể có một tổ hợp nhiều năng lực đã
phát triển đạt đến trình độ cao mới có thể cho phép xem một người là có tài
trong một lĩnh vực hoạt động nào đó.
- Thiên tài
Thiên tài là một mức phát triển cao nhất của các năng lực. Thiên tài là
những sự sáng tạo thúc đẩy cả nhân loại tiến lên phía trước. Thiên tài biểu hiện
ở mức độ kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của con người.
2.4. Tính khí của nhân cách
2.4.1. Khái niệm
Tính khí là sự biểu lộ về mặt tốc độ, cường độ, nhịp độ của hành vi, cử
chỉ, cung cách ứng xử của con người trong hoạt động và trong cuộc sống. Tính
khí thể hiện rất rõ diễn biến của hoạt động tâm lí của con người.
Các đặc điểm của tính khí rất vững chắc và tương đối ổn định, chúng thể
hiện ở chủ thể trong những điều kiện hoạt động rất khác nhau và làm cho hành
vi của chủ thể mang màu sắc cảm xúc.
Đã từ rất lâu, các nhà tâm lí lưu ý đến những sự khác nhau có tính chất
rất cá biệt trong hành vi của con người. Từ thời xưa, nhiều người có kinh
nghiệm đã ghi nhận rằng có những "hình ảnh hành vi" tiêu biểu nhất nào đó:
trong một tình huống như nhau, một người có những đặc tính tâm lí nhất định sẽ
hành động chỉ như thế này thôi mà không thể như thế khác (theo PA Rudich).
Thực tế cho thấy, với cùng một kích thích từ môi trường bên ngoài, những cá
nhân khác nhau sẽ có những hành vi, cách đáp ứng hoàn toàn khác nhau. Sự
khác nhau ấy phần lớn là do tính khí quy định.
2.4.2. Cơ sở sinh lí của tính khí
I.P. Paplop đã đưa ra bốn kiểu hoạt động thần kinh cao cấp mà biểu hiện
của chúng là bốn kiểu tính khí khác nhau. Các kiểu hoạt động thần kinh này thể
hiện tiêu biểu bởi một tổng hợp nhất định các chỉ số về những tính chất cơ bản
của các quá trình hưng phấn, ức chế, sức mạnh, tính linh hoạt và tính cân bằng.
Những tính chất của hệ thần kinh trong sự phân loại của Paplop, khi được
phối hợp với nhau theo những cách thức nhất định sẽ tạo nên bốn kiểu hoạt
động thần kinh cao cấp ảnh hưởng đến bốn kiểu tính khí: hệ thần kinh yếu - kiểu
yếu; hệ thần kinh mạnh - cân bằng - linh hoạt - kiểu sinh động; hệ thần kinh
mạnh cân bằng - trơ lì - kiểu trơ lì; hệ thần kinh mạnh - không cân bằng - kiểu
không kìm chế được.
Cần chú ý rằng, kiểu thần kinh là khái niệm của sinh học, còn tính khí là
khái niệm của tâm lí học, do đó chúng không hoàn toàn giống nhau. Tính khí là
đặc tính diễn biến của hoạt động, nó không chỉ biểu hiện ở kết quả cuối cùng
của hoạt động mà còn biểu hiện ở sự diễn biến của hoạt động đó nữa.
2.4.3. Các kiểu tính khí
Khi đề cập đến các kiểu tính khí, người ta lưu ý đến các tính chất cơ bản
của chúng như sau đây:.
- Tính nhạy cảm cao
Tính nhạy cảm thể hiện ở cường độ tối thiểu cần thiết của kích thích từ
ngoài để gây nên một phản ứng tâm lí nào đó. Cùng một mức độ không thoả
mãn nhu cầu, nhưng một người thì hầu như chưa nhận thấy trong lúc người
khác thì đã thấy hết sức khó chịu, đó là sự khác nhau về tính nhạy cảm của tính
khí.
- Tính phản ứng, dễ xúc cảm
Chức năng của tính chất này được xác định bởi sức mạnh của phản ứng
cảm xúc của con người đối với các tác nhân kích thích từ bên ngoài vào bên
trong.
- Tính đề kháng
Tính đề kháng là sự chống lại các điều kiện không thuận lợi làm ức chế
hoạt động. Nếu không có tính đề kháng thì sẽ rất khó thích nghi với sự phát triển
các tố chất và tính chất khác nhau của cá nhân ở trình độ cao.
- Tính cứng rắn và tính dễ thay đổi
Tính cứng rắn thể hiện tiêu biểu ở sự không dễ thích nghi với các điều
kiện bên ngoài, tính dễ thay đổi thì thể hiện ở sự dễ dàng thích nghi. Con người
có tính dễ thay đổi sẽ có thể nhanh chóng hoà nhập được với môi trường mới lạ
và những hoàn cảnh đặc biệt.
- Tính kích thích sự chú ý
Khi mức độ mới mẻ càng ít mà vẫn thu hút sự chú ý thì sự chú ý của cá
nhân có tính kích thích cao.
Tính khí được xác định không phải bởi một tính chất riêng rẽ nào mà là sự
tương quan mang tính quy luật giữa tất cả mọi tính chất. Những tính chất nêu
trên biểu hiện khác nhau cả trong các kiểu tính khí riêng biệt.
Sau đây là những kiểu tính khí dưới dạng hoàn chỉnh theo tâm lí học hiện
đại:
2.4.3.1. Tính khí sôi nổi tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, không cân
bằng.
Người có tính khí sôi nổi có quá trình nhận thức nhanh và thường bị các
yếu tố cảm tính chi phối mạnh mẽ vì hành vi thường mang tính kích thích tăng
cao. Hoạt động của người sôi nổi rất mạnh mẽ, dứt khoát và thường mang tính
chất chu kì, tức là hay chuyển từ hoạt động tích cực sang giảm sút đột ngột do
hứng thú bị giảm sút hay sức mạnh tâm lí bị kiệt quệ.
Người có tính khí sôi nổi bộc lộ cảm xúc một cách chân thật qua nét mặt,
cử chỉ, khó kìm nén cảm xúc. Có thể nói người sôi nổi là người nhanh nhẹn, có
tính linh hoạt vận động cao nhưng nhiều lúc khó làm chủ được chính mình.
2.4.3.2. Tính khí linh hoạt tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, cân bằng
và có sự linh hoạt.
Người linh hoạt cũng có tính linh hoạt vận động cao nhưng dễ thích nghi
hơn trong những điều kiện sống luôn thay đổi. Người linh hoạt nhận thức nhanh
nhưng thường ít có tính tập trung chú ý và có biểu hiện chủ quan. Người linh
hoạt có tính nhạy cảm không đáng kể, vì vậy những yếu tố mạnh mẽ của hoạt
động không phải lúc nào cũng gây ảnh hưởng xấu đến hành vi của họ. Hoạt
động của người linh hoạt thường biểu hiện sự nhanh nhẹn và có sự mềm dẻo.
Trong hoạt động họ cũng có thể dễ dàng di chuyển sự chú ý.
Người linh hoạt thường dễ thiết lập mối quan hệ với người xung quanh,
giao tiếp rộng và thường không có phản ứng xấu đột ngột đối với hành vi của
người khác.
2.4.3.3. Tính khí điềm tĩnh tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, cân bằng
nhưng không có sự linh hoạt.
Người có tính khí điềm tĩnh thường có tính kích thích yếu, tính dễ xúc cảm
yếu. Các quá trình tâm lí của người điềm tĩnh diễn ra chậm, nhận thức thường
kĩ lưỡng và kiên trì. Người điềm tĩnh tiến hành hoạt động rất chắc chắn và
thường theo những dự định nhất định, họ thường tỏ ra cẩn thận, nguyên tắc
trong hoạt động.
Do có sự ức chế mạnh làm cân bằng quá trình hưng phấn nên người
điềm tĩnh có thể kiềm chế mọi xung đột của mình và có thể che giấu cảm xúc,
không dễ bị thu hút bởi sự tác động của các tác nhân kích thích bên ngoài lôi
cuốn.
2.4.3.4. Tính khí ưu tư thường ứng với kiểu thần kinh yếu.
Người ưu tư thường có tính nhạy cảm cao, họ nhận thức vấn đề một cách
tỉ mỉ và ít có khuynh hướng khái quát hoá vấn đề. Người ưu tư thường có tính
đối phó với những tình huống thay đổi đột ngột. Hoạt động của người ưu tư có
tính chất dè dặt và có khuynh hướng thăm dò rất lâu.
Người ưu tư có đời sống tình cảm sâu sắc, họ thường ít muốn bộc lộ cảm
xúc và không muốn làm phiền lòng người khác trong các mối quan hệ. Ở người
ưu tư, quá trình ức chế thường chiếm ưu thế, vì vậy những tác nhân kích thích
mạnh mẽ sẽ dễ dẫn đến sự ức chế quá mức kéo theo sự giảm sút hoạt động
một cách đột ngột.
Việc phân chia tính khí chỉ mang tính quy ước và có ý nghĩa tâm lí nhiều
hơn. Trong thực tế, không có cá nhân nào chỉ có duy nhất một kiểu tính khí nào
cũng như không có người nào mà lại hoàn toàn không có biểu hiện của một loại
tính khí nhất định.
Việc phân chia các loại tính khí như trên có nhiều ý nghĩa ứng dụng trong
các hoạt động thực tiễn như quản lí, tổ chức...
3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCHNhân cách không phải được sinh ra, không phải có sẵn và được bộc lộ
dần trong cuộc sống mà là một cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát triển
trong quá trình sống, hoạt động, giao tiếp... Chính bằng các hoạt động xã hội,
con người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung năng lực bản chất
người chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan đến hoạt động của
họ.
Sự phát triển nhân cách thường bao gồm một số lĩnh vực phát triển có
tính chất cụ thể như sau:
- Sự phát triển về mặt thể chất, biểu hiện ở sự tăng trưởng về cơ bắp,
chiều cao, trọng lượng... tiến đến sự hoàn thiện của các giác quan.
- Sự phát triển về mặt tâm lí thể hiện ở sự biến đổi về các quá trình tư
duy, tưởng tượng, tình cảm, ý chí, định hướng giá trị, nếp sống, thói quen, tính
tình...
- Sự phát triển về mặt xã hội, biểu hiện ở sự tham gia vào các mối quan
hệ xã hội, vào các mặt của đời sống xã hội, trong các mối quan hệ truyền thống
gia đình, làng xóm...
Sự phát triển nhân cách như là sự phát triển toàn bộ các sức mạnh của
con người. Quá trình phát triển nhân cách không chỉ là những biến đổi về lượng
mà là những biến đổi về chất trong mỗi con người.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người chịu sự tác động
của nhiều yếu tố, trong đó ngoài yếu tố bẩm sinh, di truyền thì giáo dục, hoạt
động, giao tiếp và cộng đồng có ý nghĩa quyết định.
3.1. Bẩm sinh, di truyền và nhân cách
Di truyền có một vai trò quan trọng đối với một số đặc điểm sinh học của
con người. Di truyền không quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách
nhưng là những tiền đề vật chất cần thiết cho sự định hướng phát triển của con
người trong một số lĩnh vực nhất định. Nếu biết phát huy những đặc điểm di
truyền một cách có căn cứ khoa học và đúng thời cơ, sự phát triển nhân cách
của con người sẽ có điều kiện thuận lợi hơn nữa trong sự kết hợp với các yếu tố
khác.
3.2. Giáo dục và nhân cách
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch ảnh hưởng đến con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách
con người theo những yêu cầu của xã hội.
Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm cả những tác động của việc dạy học
lẫn các tác động khác như tác động của gia đình và các tác động ngoài trường
học... Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu như là quá trình tác động tới thế hệ
trẻ về mặt đạo đức, tư tưởng, hành vi, động cơ và những thói quen cư xử thích
hợp...
Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách.
- Giáo dục xác định phương hướng cho việc hình thành và phát triển
những mô hình nhân cách trong tương lai, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Quá
trình này được thực hiện bằng các mục tiêu đào tạo của nhà trường các cấp và
các cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.
- Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước sự phát triển của
hiện thực và thúc đẩy sự phát triển với những dự báo khoa học.
- Giáo dục có thể tạo điều kiện để con người phát huy tối đa những thế
mạnh của con người, mang lại những tiến bộ mà các yếu tố khác như di truyền
và hoàn cảnh không thể có được.
- Thông qua các tác động giáo dục, người đi trước truyền lại cho thế hệ
sau những tri thức, kinh nghiệm quý báu dưới các nội dung giáo dục có chọn
lọc.
Giáo dục có vai trò chủ đạo quyết định sự hình thành và phát triển nhân
cách, nhưng cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của giáo dục, giáo dục không
phải là chìa khoá vạn năng vượt qua ý chí con người. Giáo dục không phải chỉ
là sự tác động một chiều của những người làm công tác giáo dục mà còn bao
gồm cả hoạt động tích cực của người được giáo dục, giáo dục không tách rời tự
giáo dục.
3.3. Hoạt động và nhân cách
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định sự
hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người mang tính xã hội,
mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định.
Thông qua hai quá trình chủ thể hoá và khách thể hoá, nhân cách con
người được bộc lộ và hình thành. Thông qua hoạt động, con người dần dần
hoàn chỉnh bản thân, hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu
của hoạt động và của xã hội.
Sự hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo
ở mỗi thời kì nhất định. Hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển nhân cách, sự thay đổi nội dung hoạt động, thay đổi phương
pháp có ý nghĩa rất tích cực trong việc lôi cuốn cá nhân tham gia vào các quá
trình hoàn thiện bản thân.
3.4. Giao tiếp và nhân cách
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Không có
giao tiếp con người không thể trao đổi cùng nhau, không thể bộc lộ những đặc
điểm tâm lí tiềm tàng của mình. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu
xã hội cơ bản và xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại.
Nhờ giao tiếp, con người hội nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các giá
trị xã hội, chuẩn mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp, con người đóng góp
tài năng của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội.
Trong giao tiếp, chủ thể còn nhận thức được chính mình, bằng giao tiếp,
con người có thể thay đổi chính mình để tự hoàn thiện bản thân. Giao tiếp là
hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người - người, là nhân tố cơ bản trong
việc hình thành và phát triển nhân cách, tuy nhiên hoạt động và giao tiếp của
con người chỉ có thể được tiến hành có kết quả trong cộng đồng, trong nhóm xã
hội.
3.5. Nhóm và nhân cách
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã
hội, nhưng con người lớn lên không thể tách rời các cộng đồng của mình. Con
người là thành viên của nhiều nhóm khác nhau, là thành viên của gia đình, của
nhóm bạn, của các đơn vi xã hội khác nhau...
Nhóm có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách,
trong cộng đồng luôn diễn ra các quá trình tâm lí như thích ứng lẫn nhau, quá
trình phân hoá, liên kết nhau trong hoạt động cùng nhau. Ảnh hưởng của xã hội,
của các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm và tác động đến từng người.
Ngược lại mỗi cá nhân tác động đến cộng đồng, tới xã hội và tới các cá nhân
khác cũng thông qua các nhóm.
Như vậy, các yếu tố bẩm sinh, di truyền, giáo dục, hoạt động, giao tiếp, và
cộng đồng có tác động đan xen nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách.
Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác
động chủ đạo của giáo dục sẽ dẫn đến sự hình thành một cấu trúc nhân cách
tương đối ổn định. Trong cuộc sống, cá nhân có thể bằng nhiều phương cách
khác nhau tự hoàn thiện mình và cũng có thể có những mâu thuẫn với các giá trị
nhất định của xã hội. Vì vậy, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện là hết sức quan
trọng trong việc hoàn thiện nhân cách.
TÓM LƯỢC CHƯƠNG 6- Nhân cách là một khái niệm trung tâm của Tâm lí học, nhân cách là một
hệ thống các đặc điểm tâm - sinh lí quy định giá trị và hành vi xã hội của cá
nhân.
- Nhân cách được hiểu theo nhiều cấu trúc khác nhau. Cấu trúc 4 thành
phần gồm xu hướng, năng lực, tính cách và tính khí là cấu trúc phổ biến nhất.
- Nhân cách không phải có sẵn mà được hình thành và phát triển trong
cuộc sống, trong hoạt động và giao tiếp, chịu sự ảnh hưởng của giáo dục và các
môi trường nhất định.
- Quá trình tự rèn luyện, tự giáo dục có một ý nghĩa rất quan trọng trong
vấn đề hoàn thiện nhân cách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Robert S. Feldman, Những điều trọng yếu trong Tâm lí học, NXB Thống
kê, 2003.
2. Robert S. Feldman, Tâm lí học căn bản, NXB VHTT, 2004.
3. Hoàng Minh Hùng, Tri tâm thuật, NXB Trẻ TP. HCM, 1994.
4. Đặng Phương Kiệt, Cơ sở Tâm lí học ứng dụng, NXB ĐHQG Hà Nội,
2001.
5. B.Ph. Lomov, Những vấn đề lí luận và phương pháp luận Tâm lí học,
NXB ĐHQG Hà Nội, 2000.
6. Hoàng Thanh Minh, Bạn biết gì về giác quan và cảm xúc, NXB Tổng hợp
Đồng Tháp, 1995.
7. Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Đức Hưởng, Các lí thuyết phát triển Tâm lí
người, NXB ĐHSP Hà Nội, 2003.
8. P.A.Rudich, Tâm lí học. NXB TDTT Hà Nội, 19S6.
9. Thanh Niên 0nline...
10. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lí học đại cương, NXB Giáo dục Hà Nội,
2001.
11. Vietnam Net...
MỤC LỤC Lời Nói Đầu
Chương 1: Những vấn đề chung
1. Khoa học tâm lí
2. Các quan điểm cơ bản trong Tâm lí học hiện đại
3. Những hiện tượng tâm lí người
4. Các phương pháp nghiên cứu Tâm lí học
Chương 2: Hoạt động nhận thức
1. Nhận thức cảm tính
2. Nhận thức lí tính
3. Ngôn ngữ và hoạt động nhận thức
4. Trí nhớ và hoạt động nhận thức
Chương 3: ý thức và vô thức
1. Ý thức
2. Vô thức
3. Chú ý
Chương 4: Tình cảm
1. Cảm xúc
2. Tình cảm
3. Đam mê
Chương 5: Ý chí và hành vi ý chí
1. Ý chí
2. Hành vi ý chí
3. Thói quen - tập quán
4. Sự sai lệch hành vi xã
Chương 6: Nhân cách và sự hình thành nhân cách
1. Khái niệm về nhân cách
2. Cấu trúc tâm lí của nhân cách
3. Sự hình thành và phát triển nhân cách
TÀI LIỆU THAM KHẢO
--//--
TÂM LÝ HỌC
Tác giả:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC – NĂM 2007
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO
Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dung:
Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam
XÀ THIỆN HOÀNG
Biên tập nội dung:
TRỊNH XUÂN VIÊN – NGUYỄN MINH HIẾU
Biên tập kỹ thuật:
BÙI XUÂN DƯƠNG
Trình bày bìa:
HÀ TUỆ HƯƠNG
Sửa bản in:
ĐỨC VIÊN – MINH HIẾU – HỒNG HOA
Chế bản:
PHÒNG THIẾT KẾ - CHẾ BẢN
Mã sách: 7G066m7 – ĐTN.
In 2.000 bản (QĐ 5), khổ 17 x 24cm tại Công ty In Nguyễn Văn Thảnh, số 48
Nguyễn Huệ, TXVL, tỉnh Vĩnh Long
Số ĐKKH xuất bản: 457-2007/CXB/1-1004/GD. Số in: 11GC.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 8 năm 2007.