50
Cái đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một lĩnh vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa xã hội về mức độ của sự hoàn thiện – hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong phú của các quan hệ thẩm mỹ. Thật khó khăn để định nghĩa cái đẹp, xây dựng những chuẩn mực của cái đẹp. Vì thế, mà L.Tônxtôi đã viết: “Sách viết về cái đẹp đã chất lên thành núi, nhưng cái đẹp vẫn là một câu đố giữa cuộc đời”. Hoặc như Hêghen thì hãy để mặc cái đẹp trong “vương quốc của cảm giác”. Còn Cantơ: thì hãy dành hoàn toàn cho sự thưởng ngoạn trực tiếp, để khỏi phá vỡ tính toàn vẹn, đánh mất vẻ tươi nguyên vốn có của nó. Vậy cái đẹp, nguốc gốc, bản chất và qui luật của cái đẹp là gì? Trong lịch sử mỹ học có những cách thức tiếp cận cơ bản nào nghiên cứu cái đẹp? Trước hết, cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống, nhưng đồng thời nó cũng dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tích cực có tính hoàn thiện, hoàn mỹ. Cái đẹp được hình thành khi con người biết đối chiếu, soi sánh với cái xấu. Từ những sự quan sát bình thường chỉ ra cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ có thể định nghĩa về cái đẹp quả là một quá trình lâu dài, khó khăn trong lịch sử mỹ học. Chính vì vậy, lúc đầu con người đã biết dùng khái niệm cái đẹp để chỉ tất cả những gì của đời sống thẩm mỹ có khả năng khơi dậy ở nới tâm hồn những cảm xúc thẩm mỹ trong quá trình con người đồng hoá, sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ. Người ta coi cái đẹp là sự hài hoà, sự đối xứng, sự tao nhã, sư linh hoạt, là cái có chất lượng, là cái trật tự. Tiến dần lên, người ta coi cái đẹp gắn liền với sự tiến bộ, cách mạng và mang tính nhân văn. Cái xấu cũng bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống, dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực, hạn chế, thái hoá bất cập. Chẳng hạn, trong tự nhiên: cái gớm ghiếc, cái khủng khiếp, cái quá cỡ, cái lộn xộn, không hình thù, cái kỳ quái, cái rườm rà, cái mất cân đối, cái kỳ dị, cái dị dạng. Hoặc trong xã hội: Tính xu nịnh, gia trưởng, trưởng giả, đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn lẹo, ích kỷ, vụ lợi, khoa trương, tầm thường, lố lăng, thô bỉ, thấp hèn. Cái đẹp là một phạm trù trung tâm của mỹ học. Bởi vì, một mặt mỹ học phải giải thích nguồn gốc, bản chất và qui luật chung của cái đẹp; mặt khác, trong thế giới hiện thực có rất nhiều những hiện tượng thẩm mỹ cũng nằm trong đối tượng nghiên cứu của mỹ học có quan hệ với cái đẹp như: cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn. Về cơ bản trong lịch sử mỹ học có các khuynh hướng cơ bản sau đây nghiên cứu về cái đẹp:

Mỹ học đại cương

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Mỹ học đại cương

Cái đẹp không chỉ là đối tượng nghiên cứu của mỹ học mà nó còn là một lĩnh vực rất đa dạng phong phú của nhiều ngành khoa học khác. Khái niệm cái đẹp được con người sử dụng một cách phổ biến dùng để chỉ ý nghĩa xã hội về mức độ của sự hoàn thiện – hoàn mỹ trong tính đa dạng, phong phú của các quan hệ thẩm mỹ.

Thật khó khăn để định nghĩa cái đẹp, xây dựng những chuẩn mực của cái đẹp. Vì thế, mà L.Tônxtôi đã viết: “Sách viết về cái đẹp đã chất lên thành núi, nhưng cái đẹp vẫn là một câu đố giữa cuộc đời”. Hoặc như Hêghen thì hãy để mặc cái đẹp trong “vương quốc của cảm giác”. Còn Cantơ: thì hãy dành hoàn toàn cho sự thưởng ngoạn trực tiếp, để khỏi phá vỡ tính toàn vẹn, đánh mất vẻ tươi nguyên vốn có của nó. Vậy cái đẹp, nguốc gốc, bản chất và qui luật của cái đẹp là gì? Trong lịch sử mỹ học có những cách thức tiếp cận cơ bản nào nghiên cứu cái đẹp?

Trước hết, cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống, nhưng đồng thời nó cũng dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tích cực có tính hoàn thiện, hoàn mỹ. Cái đẹp được hình thành khi con người biết đối chiếu, soi sánh với cái xấu. Từ những sự quan sát bình thường chỉ ra cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ có thể định nghĩa về cái đẹp quả là một quá trình lâu dài, khó khăn trong lịch sử mỹ học.

Chính vì vậy, lúc đầu con người đã biết dùng khái niệm cái đẹp để chỉ tất cả những gì của đời sống thẩm mỹ có khả năng khơi dậy ở nới tâm hồn những cảm xúc thẩm mỹ trong quá trình con người đồng hoá, sáng tạo và cảm thụ thẩm mỹ. Người ta coi cái đẹp là sự hài hoà, sự đối xứng, sự tao nhã, sư linh hoạt, là cái có chất lượng, là cái trật tự. Tiến dần lên, người ta coi cái đẹp gắn liền với sự tiến bộ, cách mạng và mang tính nhân văn.

Cái xấu cũng bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách quan trong đời sống, dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm mỹ tiêu cực, hạn chế, thái hoá bất cập. Chẳng hạn, trong tự nhiên: cái gớm ghiếc, cái khủng khiếp, cái quá cỡ, cái lộn xộn, không hình thù, cái kỳ quái, cái rườm rà, cái mất cân đối, cái kỳ dị, cái dị dạng. Hoặc trong xã hội: Tính xu nịnh, gia trưởng, trưởng giả, đua đòi, bon chen, tham ăn, tục uống, dối trá, lươn lẹo, ích kỷ, vụ lợi, khoa trương, tầm thường, lố lăng, thô bỉ, thấp hèn.

Cái đẹp là một phạm trù trung tâm của mỹ học. Bởi vì, một mặt mỹ học phải giải thích nguồn gốc, bản chất và qui luật chung của cái đẹp; mặt khác, trong thế giới hiện thực có rất nhiều những hiện tượng thẩm mỹ cũng nằm trong đối tượng nghiên cứu của mỹ học có quan hệ với cái đẹp như: cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả, cái thấp hèn.  Về cơ bản trong lịch sử mỹ học có các khuynh hướng cơ bản sau đây nghiên cứu về cái đẹp:

Thứ nhất, mỹ học duy tâm khách quan đều coi nguồn gốc của cái đẹp ở “thế giới ý niệm” (Platông) hay “ý niệm tuyệt đối” (Hêghen), - đó là cái từ thế giới thuần túy trừu tượng bên ngoài sự vật, truyền tính thẩm mỹ vào các sự vật chứ không có cơ sở khách quan. Nói một cách chính xác hơn, theo họ cái đẹp không phải là thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần có trước và quyết định tính thẩm mỹ của hiện thực.

Platông coi cái đẹp thuộc về thế giới tinh thần, nó tồn tại ở thế giới giới ý niệm và chi phối cái đẹp trong tất cả các sự vật cảm tính. Platông đã nêu hai vấn đề của cái đẹp: cái đẹp là gì và cái gì là đẹp? Platông nêu những quan niệm duy vật về cái đẹp, - như cái đẹp là một đồ vật, một sự vật, một động vật, một con người nào đó để thấy rằng cái đẹp nằm trong những thể thống nhất, đa dạng, cái đẹp mang tính tương đối trong sự so sánh, cái đẹp là cái có ích. Sau khi nêu ra những quan điểm đó, ông đã bác bỏ chúng và đề xuất, giải thích những quan điểm của mình về cái đẹp. Ông khẳng định nguồn gốc, bản chất và qui luật của cái đẹp là thế giới ý niệm.

Như vậy, theo quan điểm của Platông cái đẹp là một ý niệm có sẵn, nó sản sinh ra cái đẹp của mọi sự vật và soi sáng cái đẹp nơi tâm hồn con người. Cái đẹp tồn tại vĩnh cửu, nó không bị hủy diệt, không tăng không giảm, nó không đẹp ở chỗ này mà xấu ở chỗ khác. Đối với cái gọi là sáng tạo thẩm mỹ chẳng qua chỉ là sự “Thần nhập” hay “sự “mách bảo” của thần linh. Tư tưởng này được các nhà thần học thời trung cổ khẳng định lại. Đó là tư tưởng của Tômát Đacanh, khi ông cho rằng: cái đẹp là sự nhận thức mang lại sự thích thú. Cái đẹp chân chính là Chúa. Vì thế muốn nhận thức được cái đẹp phải hòa mình vào Chúa.

Page 2: Mỹ học đại cương

Ở một hình thức khác, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” vận động đến một trình độ nào đó thì nảy sinh cái đẹp (cái đẹp trong nghệ thuật). Cái đẹp chính là sự thể hiện đầy đủ của ý niệm trong một một sinh thể riêng lẻ, rằng cần phải loại bỏ cái đẹp trong tự nhiên và nếu có cái đẹp trong tự nhiên thì nó chỉ là sự phản ánh cái đẹp tinh thần.

Thứ hai, mỹ học duy tâm chủ quan cho rằng cái đẹp phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người mà cụ thể hơn là ý thức chủ quan của mỗi cá nhân sản sinh ra cái đẹp. Trong quá trình cảm thụ thẩm mỹ của các hiện tượng, sự vật cảm tính, con người mang tính thẩm mỹ truyền vào nó và làm cho nó trở nên đẹp.

Một trong những đại diện tiêu biểu của mỹ học duy tâm chủ quan là Cantơ. Theo Cantơ, vấn đề chủ yếu không phải cái gì là cái đẹp, mà phán đoán về cái đẹp là gì.  Phán đoán về cái đẹp là phán đoán về thị hiếu, không phải là sự phán đoán về nhận thức, phán đoán về lôgíc mà phán đoán là tình cảm chủ quan. Phán đoán thị hiếu thuần túy là sự thưởng ngoạn thẩm mỹ của cá nhân, là cái không vụ lợi và tự do. Cho nên, không có khái niệm về cái đẹp và cũng không có qui tắc phán đoán về cái đẹp. Vì vậy, mỹ học duy tâm chủ quan về cái đẹp coi tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp sẵn có trong mỗi cá nhân, là cái gì đó gợi lên khoái cảm thẩm mỹ thì đó là cái đẹp. Ông nói: “cái đẹp không tồn tại trên đôi má hồng của người thiếu nữ, nó chỉ tồn tại trong mắt của những kẻ si tình”.

Thứ ba, mỹ học duy vật trước thế kỷ XIX. Từ Arixtốt đến Điđơrô đến Tsécnưsépxki đều khẳng định cái đẹp không phải là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối hay ý muốn chủ quan của con người, nó không tồn tại thuần túy, mà chính là thộc tính khách quan vốn có của các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, do những nguyên nhân về mặt lịch sử thì mỹ học duy vật trước đây đã không giải thích đúng đắn bản chất của cái đẹp.

Trước hết, họ coi bản chất của cái đẹp thể hiện ở quan hệ hình thức giữa các yếu tố tự nhiên như vật lý, sinh học, hoá học tồn tại khách quan, có trước con người. Chính vì vậy cái đẹp thường được coi là cái “tính có tỷ lệ”, “sự cân xứng”, “sự hài hoà” hoặc là sự “thống nhất trong đa dạng”. Một số nhà mỹ học Anh thế kỷ XVIII cố gắng xác định những dấu hiệu chung của cái đẹp. Chẳng hạn, như Bớccơ coi cái đẹp có những dấu hiệu căn bản như: kích thước không lớn của đối tượng, sự nhịp nhàng của hình dáng, tính chất trình tự trong sự thay đổi hình thức và mầu sắc của sự vật, hiện tượng. Ngược lại W. Hôga lại cho rằng những đường lượn sóng là đẹp nhật vì nó uyển chuyển trong sự thay đổi ví như nhưng con sóng, mái tóc gợi sóng. Theo ông bố cục đẹp nhất là bố cục kim tự tháp, còn trong điêu khắc hình tượng con người đẹp nhất giống như chữ S, là hình tượng phổ biến của các vị thần Hy Lạp.

Đáng lưu ý nhất là quan điểm của nhà mỹ học cách mạng dân chủ Nga Tsécnưsépxki. Ông định nghĩa cái đẹp: “Cái đẹp là cuộc sống”. Khi định nghĩa cái đẹp là cuộc sống thì Tcsépnưsépxki ý nói đến không chỉ nguồn gốc của cái đẹp nằm trong bản thân hình thức thực tại, trong cuộc sống, mà ông còn lưu ý rằng, chúng ta chỉ có thể coi một sự vật, hiện tượng cụ thể là đẹp nếu ở nó, các đặc tính của cuộc sống được biểu lộ rực rỡ và đầy đủ nhất. Cho nên, theo ông cái đẹp không phải đơn thuần là một hiện tượng có tính chất sinh học mà trong cái đẹp có mối quan hệ biện chứng giữa cái có tính sinh vật và cái có tính xã hội, giữa cái khách quan và cái chủ quan, giữa cái thuộc hiện thực và cái thuộc lý tưởng. Song hạn chế của ông là ở chỗ, mặc dầu ông có cho rằng con người và cuộc sống của con người là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp, nhưng ông nhìn con người một cách chung chung, phi lịch sử, và không đánh giá đúng vai trò của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên – xã hội và chính bản thân con người.

Các nhà mỹ học duy vật trước XIX đã tách rời tính lịch sử cụ thể của các hiện tượng thẩm mỹ của cái đẹp khi họ đi tìm bản chất của cái đẹp ở mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tuợng trong khi lẽ ra phải tìm cái đẹp, cũng như mọi hiện tượng thẩm mỹ khác, ở mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng với xã hội.

Trước khi có loài người, thì đã có sự tồn tại khách quan của các sự vật, hiện tượng, hệ thống vật chất trong tính vô tận và vĩnh viễn của nó. Tất cả các hiện tượng tự nhiên ấy đều có những thuộc tính đa dạng, phong phú và chúng không phải vì có loài người hay không có loài người mà thay đổi cấu trúc tự nhiên của nó.

Page 3: Mỹ học đại cương

Trải qua một quá trình lâu dài, thông qua lao động con người phát hiện ra những thuộc tính thẩm mỹ của sự vật hiện tượng và đồng hoá các thuộc tính ấy trong đời sống thẩm mỹ. Sự đồng hoá này không chỉ giới hạn ở sự chiêm nguỡng mà còn bao hàm cả sự sáng tạo thẩm mỹ nói chung của con người. Chính vì vậy, trước mặt chúng ta giả sử có một bông hoa; nhưng nó được thể hiện dưới nhiều hình thức và giá trị khác nhau: có thể là bông hoa sinh học, bông hoa y học, bông hoa thương mại và bông hoa thẩm mỹ. Trong đó bông hoa thẩm mỹ là giá trị thẩm mỹ của nó có tính xã hội của con người. Không có con người thì không có cái đẹp của bông hoa và cái đẹp của bông hoa không phải do mầu đỏ, mầu trắng, mầu vàng, hay sự đắt giá của nó quyết định mà do ý nghĩa xã hội trong quá trình đồng hoá thẩm mỹ của con người.

Thứ tư, mỹ học hiện đại, nhất là quan điểm mácxít đã khắc phục được những thiếu sót trong những quan điểm siêu hình của tư tưởng mỹ học duy vật trước đó; đồng thời cũng phê phán những quan điểm không đúng của mỹ học duy tâm về cái đẹp. Ý nghĩa cách mạng trong quan niệm của mỹ học hiện đại là đã khẳng định bản chất của cái đẹp trong tính biện chứng và lịch sử – xã hội của nó.

Cái đẹp là một trong những thuộc tính thẩm mỹ của hiện thực. Nó chính là một giá trị xã hội mang tính khách quan, rộng rãi của các sự vật, hiện tượng toàn vẹn, cụ thể, cảm tính được con người xã hội cảm thụ – đánh giá và sáng tạo. Tiêu chuẩn khách quan của cái đẹp thể hiện ở chỗ những thuộc tính thẩm mỹ của nó trong các sự vật, hiện tượng đẹp phải phù hợp với tình cảm – thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ – xã hội của một thời đại nhất định.

Bản chất của cái đẹp sẽ được làm rõ hơn, khi chúng ta phân tích những dấu hiệu đặc trưng của cái đẹp ở ba phương diện sau:

- Cái đẹp là cái gây nên ở tâm hồn con người – khoái cảm tinh thần. Khoái cảm là sự thỏa mãn nhu cầu nói chung của con người về các phương diện khác nhau của đời sống. Từ đó có quan điểm mỹ học đã đồng nhất cái đẹp với cái gây khoái cảm và họ đi tìm qui luật của cái đẹp trên mặt tâm sinh lý. Thực ra cái đẹp là cái có khả năng gây khoái cảm nhưng không đồng nhất với khoái cảm nói chung của con người, mà là khoái cảm tinh thần – khoái cảm thẩm mỹ. Sự đồng nhất cái đẹp với cái gây khoái cảm dẫn đến chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên trong mỹ học.

Khoái cảm lành mạnh về mặt tinh thần chưa phải là khoái cảm thẩm mỹ. Nhiều hứng thú có thể nảy sinh trong quá trình say mê trong học tập, lao động, nghiên cứu khoa học; ở đây là niềm vui tinh thần, nhưng không phải là niềm vui do qui luật của cái đẹp chi phối, vì chúng mới chỉ là cơ sở đầu tiên của khoái cảm thẩm mỹ. Khoái cảm thẩm mỹ cũng là rung động cảm xúc biểu hiện ở tình cảm thẩm mỹ. Tình cảm thẩm mỹ hơn bất cứ tình cảm nào, nó có mối liên hệ sâu xa với lợi ích xã hội – con người với những giá trị đích thực cho cuộc sống tốt đẹp, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của những giai cấp, những dân tộc và các thời đại khác nhau.

Khi cảm thụ, chiêm ngưỡng những hiện tượng đẹp của tự nhiên – xã hội và nghệ thuật đều tác động nơi tâm hồn con người những phản ứng cảm xúc - cảm nghĩ tích cực. Trước hết làm cho con người hân hoan, vui sướng và đồng thời mang khơi dậy nguồn thích thú, đam mê, khát vọng, tìm tòi khám phá, phát huy năng lực sáng tạo của con người.

- Cái đẹp liên quan chặt chẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đến cái có ích nhưng nó không đồng nhất với cái có ích. Rõ ràng quan hệ thẩm mỹ đối với hiện thực không phải là quan hệ trực tiếp tiêu dùng. Môt bức tranh tĩnh vật vẫn đẹp mặc dầu trái cam, trái quít vẽ trong tranh không thể đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người. Tuy nhiên, cái đẹp và cái có ích không mâu thuẫn và không tách rời nhau; nhưng đồng nhất cái đẹp với cái có ích thì rơi vào chủ nghĩa vụ lợi, thực dụng. Cái có ích, lợi ích ẩn dấu trong cái đẹp và được cái đẹp biểu hiện không phải là lợi ích vật chất trực tiếp mà lợi ích tinh thần.

Cái đẹp là cái có ích là nhờ vào ý nghĩa giáo dục của nó xét về nhiều khiá cạnh khác nhau của đời sống tinh thần con người, như chính trị, đạo đức, pháp quyền, khoa học, tôn giáo. Cantơ đã tuyên truyền cho chủ nghĩa hình thức trong nghệ thuật và cho rằng quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” là sai lầm.

Page 4: Mỹ học đại cương

- Cái đẹp phải dựa trên cái thật và cái tốt. Từ lâu người ta đã có quan niệm cho rằngchân – thiện – mỹ là hệ giá trị cao nhất trong đời sống tinh thần của con người cái mà con người cần phải vươn đến, phải đạt được để khẳng định sự hoàn thiện và phát triển của con người. Quả thực cái giả không thể đep, cái xấu không thể đẹp. Một tác phẩm nghệ thuât chỉ đẹp và có giá trị đích thực khi nó phản ánh sự thật của cuộc sống, giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn xã hội. Cái đẹp dựa trên cái thật, cái tốt (khiá cạnh đạo đức); nhưng có những cái thật cái tốt chưa phải là cái đẹp, chúng chỉ trở thành đẹp khi hiện ra trong hình tượng cảm tính – cụ thể và là một giá trị thẩm mỹ được xã hội thừa nhận.

Cái đẹp giữ vị trí trung tâm của quan hệ thẩm mỹ, dùng để khái quát những giá trị xã hội tích cực, khách quan, rộng rãi của hiện thực thẩm mỹ, xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình tượng toàn vẹn, cụ thể – cảm tính phù hợp với tình cảm, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ của xã hội nhất định.Như vậy, ngọn nguồn của bản chất vươn tới cái đẹp, sáng tạo theo qui luật của cái đẹp, đầu tiên nằm trong bản chất tự nhiên, sinh học rồi phát triển rộng ra xã hội trong tiến trình lịch sử của con người. Có hiểu như vậy mới khắc phục được tính phiến diện trong sự cảm thụ, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.Trong mỹ học và lịch sử nghệ thuật, cái đẹp và sự tiếp nhận cái đẹp được nghiên cứu ở bình diện quan hệ giữa vật chất và tinh thần, khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, hình thức và nội dung. Đặc trưng của cái đẹp được xác định thông qua mối quan hệ của nó với các loại hình giá trị khác: giá trị thực dụng (lợi ích), giá trị nhận thức (chân lý), giá trị đạo đức (chân, thiện).Một hiện tượng có thể được xem là đẹp khi, với tính toàn vẹn cụ thể cảm tính của người tiếp nhận, chúng hiện diện như những giá trị xã hội-nhân bản, tức những giá trị thể hiện sự khẳng định con người trong thế giới, chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do của xã hội và con người, thúc đẩy sự phát triển hài hòa về nhân cách, sự nảy sinh và bộc lộ ngày càng đầy đủ những sức mạnh về năng lực của con người.Cái đẹp được xếp vô hai loại cái đẹp bên trong(nghĩa là tính tốt) với vẻ đẹp bên ngoài nhưng thường thì vẻ đẹp bên ngoài được coi trọng hơn và có sức hấp dẫn người khác. Sắc đẹp thường miêu tả về một phụ nữ, và làm ảnh hưởng tới các vấn đềtình dục. Hiện nay, đẹp còn được miêu tả như cả về tính nết và một số thứ khác. Cuộc thi hoa hậu là một trong những cuộc thi đánh giá sắc đẹp của toàn thế giới.

Muốn trả lời cho câu hỏi:cái Đẹp có giá trị gì đối với đời sốngcon ngườithì đầu tiên cần phải hiểucái Đẹp là gì?Thế nhưng, hình như Cái Đẹp là một bí mật thực sự của nhân loại đến nỗi L.Tônxtôi phải thốt lên rằng: “sách viết về cái đẹp đã chất lên thành núi, cái đẹp vẫn còn là một câu đố giữa cuộc đời”.Theothuyết văn giải tựcủa Hứa Thận thì chữMỹđược kết hợp từ chữdươngvà chữđại. Như vậy, cái Đẹp ở đây có quan hệ trực tiếp với thực tại cảm tính nhằm thỏa mãn nhu cầu củacon người. Mặt khác, chữ "Mỹ" là “dương nhân” (dươngghép vớinhânthành chữmỹ), theo nguyên thủy là người đội đầu dê nhảy múa trong các lễ hội tôn giáo. Vậy cái Đẹp ở đây lại bao hàm một ý nghĩaxã hộinào đó. Ta có thể hiểucái Đẹp là sự tồn tại cảm tính vật chất, có liên quan trực tiếp với nhu cầu hưởng thụ, đồng thời hưởng thụ cảm tính đólại mang vác thêm ý nghĩaxã hộivà nội dung rộng lớn.Bên phương Tây, từ nguyên thủy của nó làaisthésiscó nghĩa là tính nhạy cảm. Và được biểu hiện theo hai khía cạnh: nhận thức cảm tính và mặt cảm tính của sự xúc động. Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát triển của tư tưởng Mỹ học nói chung, phạm trù “Cái Đẹp” cũng không ngừng được mởi rộng. Ngược dòng thời gian, nếu không kể các nhà triết học sơ khai của Hy Lạp và tư tưởng Mỹ học Đông phương, chúng ta bắt gặp ba nhà tư tưởng

Page 5: Mỹ học đại cương

lớn hợp thành nền tảng đầu tiên của Mỹ học là Socrate, Platon và Aristote.Socrateđánh dấu sự khởi đầu một giai đoạn căn bản của Mỹ học trong“Những người đáng nhớ và bữa tiệc”của ông, qua đó khắc họa vẻ đẹp tinh thần dưới lớp vỏ thân thể. Không những thế, người ta còn nói Mỹ học sinh ra từ cái ngày Socrate trả lời cho Hippias rằng cái Đẹp không phải là thuộc tính riêng của một nghìn lẻ đối tượng… và trên tất cả thứ đó là vẻ đẹp tự nó. Cái đẹp này là nguyên lý về một tâm hồn tỏ chiếu phát ra hết sức mạnh mẽ vẻ đẹp siêu nhiên. Tất cả những luận điểm này đã được người học trò của ông, Platon suy nghĩ và vượt qua nhiều.Sang đến Platon, ông đòi hỏi phải bỏ qua tất cả những sai lầm có trước và cố tìm lại sự ngây thơ đầu tiên. TrongBữa tiệc,người ta tán dươngtình yêu. Nữ tiên tri Diotine dạy cho Platon hiểu rằng chỉ cótình yêumới làm cho chúng ta có được tất cả những gì vĩnh hằng và thần thánh.Tình yêulà một khát vọng vô tận hướng tới một cái gì ở bên kia khiến cho nó luôn luôn khát khao vượt lên chính mình.Tình yêulà phương tiện để nắm bắt được vẻ đẹp lý tưởng. Như vậy,Cái Đẹp, với Platon, là một cái gì thuần khiết tuyệt đối và siêu nhiên. Và trong sụ tìm kiếm này có thể hướng dẫn những bước đi bấp bênh củacon người.Mặt khác,“vì không có một cái đẹp nào nằm bên ngoài cái đẹp tự nó, nên nó đẹp không phải vì một lí do nào khác ngoài sự tham gia của nó vào cái đẹp tự nó”, nênCái Đẹp cao nhất trùng với cái Thiện cao nhất, không thể nhìn thấy Cái Đẹp mà người ta không hiểu cái gì là Thiện.Do đó, nhờ có vẻ đẹp tự nó nêncon ngườicó thể đạt tới cái tuyệt đối, hay nói cách khác, cùng với Thiện và Chân, Cái Đẹp như là yêu cầu cuối cùng để đạt tới một cuộc sống hoàn thiện.Đối với Aristote,Cái Đẹp được coi như là sự thanh lọc hóa tâm hồn vì Cái Đẹp là sự sắp xếp cấu trúc của một thế giới được hình dung dưới mặt tốt nhất của nó.Ở đây không phải là nhìn thấy con người như đang có mà như nhữngcon ngườilẽ ra phải có. Trong tác phẩmChính trị,Aristote viết: “người ta chỉ tìm kiếm cái có ích và cái cần thiết để có cái đẹp mà thôi”, do vậy,Cái Đẹp được xác định như một sự xuất phát từ nội tại tinh thần nhằm hướng đến cái lý tưởng nhất của đời sốngcon người.Những người theo thuyết Platon mới trong thời kỳ Trung cổ và cả thời Phục hưng đều nhấn mạnh tới tầm quan trọng của Cái Đẹp,

Page 6: Mỹ học đại cương

coi nó là“vẻ đẹp huy hoàng của cái chân và cái thiện…”còn những người theo thuyết duy cảm của Anh cho rằngCái Đẹp tạo cho người ta một cảm giác thích thú tích cực làm nảy sinhtình yêu,đi đôi với sự dãn nhẹ cơ bắp và thần kinh.Bước sang thời kỳ của Kant,có thể tóm gọn phân tích Cái Đẹp trongPhê phán năng lực phán đoánthành 4 yếu tố:-Theo phương diện chất, sở thích là quan năng phán đoán về một đối tượng hay về một phương cách biểu tượng bằng một sự hài long hay không hài long mà không có bất kỳ sự quan tâm nào. Đối tượng của một sự hài long như vậy gọi là Đẹp.-Theo phương diện lượng, đẹp là cái gì làm hài lòng một cách phổ biến, độc lập với khái niệm.-Theo phương diện tương quan, vẻ đẹp là hình thức của tính hợp mục đích của một đối tượng, trong chừng mực tính hợp mục đích ấy được tri giác mà không có hình dung nào về một mục đích khách quan nơi đối tượng.-Theo phương diện hình thái, Đẹp là cái gì được nhận thức như là đối tượng của một sự hài lòng tất yếu nhưng độc lập với khái niệm.Từ 4 yếu tố trên, chủ đề chính của Mỹ học Kant là:sự hài hòa-hài hòa giữa thiên nhiên và thế giới tinh thần, giữacảm xúcvới ý chí, giữa lý trí với tưởng tượng.Sự hài hòa này là độc lập,nên “cảm giác về cái đẹp do đó cũng tồn tại tiên nghiệm và, với tư cách đó, nó tạo ra giá trị phổ quát và tất yếu của những xét đoán mỹ học”.Sau Kant một thời gian,Mỹ học Heghen ra đời. Đây được coi là học thuyết Mỹ học nổi tiếng nhất và được khâm phục sâu sắc nhất ở Châu Âu. Heghen cho cái đẹp của tự nhiên là nghèo nàn và nó chỉ là phản ánh cái đẹp thuộc về tinh thần.Cái đẹp tồn tại trong nghệ thuật thể hiện lý trí bên trong của hiện thực và cái đẹp này phải mang tính lý tưởng, nghĩa là khao khát vươn đến cái tuyệt đối.Quan niệm của các nhà duy vật nhân bản thế kỉ XIXcoibản chất Cái Đẹp phải tạo chocon ngườicảm giác hoan hỷ, trong sáng giống như cảm giác ta gặp mặt người yêu.Vì Cái Đẹp thể hiện trong những đối tượng có thể rất khác nhau nên Cái Đẹp phải là cái chung nhất. Mà cái chung nhất trong số những cái thân thiết vớicon ngườichính là cuộc sống. “Cái đẹp là cuộc sống, một thực thể đẹp là một thực thể trong đó ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm của chúng ta. Một đối tượng đẹp là một đối

Page 7: Mỹ học đại cương

tượng trong đó cuộc sống được thể hiện hay là nó nhắc ta nghĩ đến cuộc sống”. Vậy mọi cuộc sống đều đẹp, đều tạo cho ta một cảm giác hoan hỷ, trong sáng.

Tình cảm hướng đến cái đẹp là tình cảm hân hoan vui sướng. Cái đẹp xuất hiện cùng với cuộc đấu tranh chống lại cái xấu và bảo vệ nhân phẩm củacon người. Cái Đẹp là một giá trịxã hộimàcon người, bằng cả một quá trình lao động đã khai thác nó kên chứ không có sẵn. Thông qua quá trình lao động đó,con ngườiđã tạo ra một thiên nhiên đầy nhân tính, không chỉ để thỏa mãn nhu cầu vật chất mà còn để thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đồng thời cũng để khẳng định bản chất năng lực Người của mình.Cái Đẹp trong thiên nhiên không phải là cái vốn có.Trước khicon ngườixuất hiện, vẫn núi đấy, sông đấy, vạn vật đấy với đầy đủ những tính chất vật lý, sinh học vốn có nhưng Cái Đẹp chưa xuát hiện.Cái Đẹp chỉ ra đời khicon ngườitác động vào thế giới thiên nhiên, làm bộc lộ trong nó tính “nhân loại” của mình.Như vậy Cái Đẹp trong tự nhiên không tồn tại độc lập, nó chỉ tồn tại trong quan hệ thực tiễn của con người và thông qua hoạt động thực tiễn này màcon ngườitạo ra kích thước của Cái Đẹp.Cái Đẹp trong tự nhiên còn được coi như là cái đẹp tiềm năng, và nếucon ngườibắt gặp ở nó những lợi ích khả dĩ có thể gợi lên nhữngcảm xúc, những rung động thẫm mĩ thì Cái Đẹp “tiềm năng” đó được khai phóng. Như vậy, thực chất Cái Đẹp trong tự nhiên là thông qua nó,con ngườiđã “nhân hóa tự nhiên” nhằm bộc lộ tình cảm và tạo ra dấu ấn cái tôi của mình. Nguyễn Du từng viết:vầng trăng ai sẻ làm đôi- nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. Vầng trăng của Nguyễn Du không còn là vầng trăng hàng ngày xoay quanh trái đất nữa mà giờ đây, vầng trăng đó đang ngậm ngùi trước nỗi đau ly biệt. Cũng vầng trăng đó, nhưng với Lý Bạch thì “cử bôi yêu minh nguyệt, đối ảnh thành tam nhân”, trăng đã trở thành người bạn tương giao cùng mình đối ẩm. Còn Cái Đẹp trong xã hội thì sao? Nó được coi như là sự thống nhất, giao thoa giữa Cái Chân và Cái Thiện. Xa rời Cái Chân, cái Thiện không thể có Cái Đẹp. Cái thật, cái tốt phải gắn bó hài hòa mới được coi là Cái Đẹp. Cái Đẹp là cái gây được khoái cảm thẩm mĩ mang tính tích cực chocon người. Nhờ có Cái Đẹp màcon

Page 8: Mỹ học đại cương

ngườikhao khát sống. Nhờ có cái đẹp màcon ngườicó ý chí vững bền trước những trăn trở, bất trắc của cuộc sống và cũng nhờ có Cái Đẹp màcon ngườigắn bó với nhau.Con ngườilà một thực thểxã hội.Không cócon ngườinào tồn tại mà không hề có bất cứ liên hệ gì vớixã hội. Tính cách, nhân phẩm, tình cảm, đạo đức củacon ngườicá nhân có được là nhờxã hội. Mà kích thước của Cái Đẹp được hình thành trên cơ sở chuẩn mực và lý tưởngxã hội. Do vậy,không vì sự khen chê của một cá nhân nào đó mà Cái Đẹp tồn tại hoặc mất đi. Mọi sự biến động của loài người đều bắt nguồn từ hiện thực khách quan nhưng hiện thực khách quan này đã được nhân tính hoá. Hay nói như Mác,con ngườisản xuất “ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc và đối diện một cách tự do với sản phẩm của mình, sản xuất theo kích thước của những loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng”. Do vậy,Cái Đẹp, thông qua lao động, đã làm cho những sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính khách quan màcon ngườicảm nhận được ý nghĩa của chúng. Và cũng thông qua đó,con ngườitự nhân đôi mình lên qua sự hình thành một năng lực cảm thụ, đánh giá, sáng tạo, thể hiện nhu cầu, khát vọng chân chính củacon người. 

Người ta đến với cái Cái Đẹp không phải với mục đích “ăn, uống…” mà người ta đến với cái đẹp nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần nào đó. Nhìn từ góc độ thẩm mỹ, nhu cầu tinh thần này được coi như là hệ quả của sự phản ánh cùng với ước mơ, khát vọng củacon người, đem lại chocon ngườikhả năng sáng tạo mới. Chẳng hạncái đẹp trong huyền thoạikhông phải ở chỗ văn phong bay bổng hay trí tưởng tượng phong phú mà nó đẹp ở chỗ nó

Page 9: Mỹ học đại cương

phản ánh những ước mơ, khát vọng củacon người. Qua đó, người ta cảm nhận được sức sống tiềm ẩn, khả năng sáng tạo trongcon ngườikhi đối diện với thực tiễn cuộc sống. Do vậy,giá trị thật sự của Cái Đẹp chỉ xuất hiện khicon ngườicảm nhận được ý nghĩa mà đối tượng đem lại. Cụ thể làcon ngườicảm nhận được hình ảnhcon ngườitrong đối tượng đó... Khi bắt đầu chế tác công cụ lao động thìcon ngườiđã sử dụng tính khuôn mẫu trong tự nhiên vào công cụ lao động, coi tự nhiên như là người thầy dạy chocon người. Nhưng trong quá trình lao động,con ngườikhông chỉ sản xuất theo kích thước của tính loài mà còn biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng, nghĩa làcon ngườiđã biết sáng tạo theo quy luật của Cái Đẹp, nghĩa làcon ngườiđã biết tự nhân đôi mình lên một cách tích cực và ngắm nhìn bản thân mình trong thế giới mà mình tạo ra.Anh họạ sĩ vẽ một bức tranh, người kĩ sư làm một toà nhà,… họ hân hoan nhìn nó với vẻ tự hào, sung sướng vì qua nó, anh ta thấy được tài năng của anh ta, hình ảnh của anh ta trong nó. Từ đó, hình thành trong mình một năng lực cảm thụ, đánh giá, sáng tạo về Cái Đẹp.Mặt khác,khi Cái Đẹp giúp khẳng định bản chất năng lực người của mình thì đồng thời Cái Đẹp cũng khơi dậy một tiềm năng sáng tạo mới.Cái Đẹp nếu dừng lại nghĩa là Cái Đẹp đã chết, Cái Đẹp cần phải và luôn phải vận động như chính sự vận động của cuộc sống. Cái Đẹp gợi mở sự hoàn thiện nhân cách vì bản thân Cái Đẹp là cuộc sống, mà cuộc sống thì luôn luôn hướng tới sự hoàn thiện.Giá trị của Cái Đẹp chính là giá trị của cuộc sống.Nhân cách củacon ngườiđược hình thành từ cuộc sống nên cái đẹp giúp hoàn thiện cuộc sống cũng có nghĩa là cái đẹp giúp hoàn thiện nhân cách củacon người.Mặc dù Cái Đẹp tồn tại khách quan, độc lập vối tư tưởng tình cảm chủ quan của từngcon ngườinhưng lại tồn tại chủ quan trong toàn thểxã hộiloài người trong từng giai đoạn lịch sử. Do đó,muốn đạt được Cái Đẹp chân thực thì trước hết phải giải quyết cơ sởxã hộicủa nó. Muốn cho Cái Đẹp được thăng hoa thì cẩn thiết phải giải phóng xã hộicon người.Mộtxã hộibị áp bức,con ngườibị bóc lột thì cái đẹp thật sự không xuất hiện. Vì thếcó thể coi Cái Đẹp như là một nội lực sống thôi thúccon ngườihướng đến thế giới chân- thiện- mỹ.

Page 10: Mỹ học đại cương

Nói tóm lại, dù là cái đẹp tự nhiên hay trong trongxã hộithì cái đẹp vẫn là một nhu cầu sống không thể thiếu.Cái Đẹp ra đời và phát triển cùng vớixã hộiloài người nên người ta yêu Cái Đẹp cũng chính là yêu cuộc sống mà ta đang sống.Không những thế,nhờ có Cái Đẹp mà con người có sức mạnh vượt ra khỏi những bất trắc trong cuộc sống, nhờ có Cái Đẹpcon ngườimới phát huy những tình cảm cao thượng, giúpcon ngườigắn bó với nhau.Từ giã Cái Đẹp, xa rời Cái Đẹp là xa rời cuộc sống mà xa rời cuộc sống nghĩa là tự huỷ diệt bản thân mình./.

(2003)

rình bày hiểu biết của em về cái đẹp trong xã hội Ngày nay khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu về thẩm mỹ của con người càng được nâng cao và hoàn thiện hơn. Mỹ học ra đời là để đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ của loài người. Điều này khẳng định rằng vai trò của Mỹ học trong đời sống là hết sức quan trọng. Khi nói về vấn đề này (vai trò của Mỹ học trong đời sống) Tiến sĩ Mỹ học Thế Hùng đã nói: “Nghiên cứu Mỹ học là một nhân văn cho con người và vì con người, góp phần làm cho con người trở nên người hơn”. Và khi nhắc đến Thế Hùng, công chúng nghe nhạc hẳn sẽ không quên nhắc đến tác phẩm “Mùa xuân Quan họ”. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, một thi sĩ, họa sĩ tài hoa. Vì vậy khi giảng dạy môn Mỹ học trong các trường Đại học và đặc biệt là khi nói về phạm trù cái đẹp là trung tâm nhất đại diện cho thẩm mỹ, ông như chìm đắm vào trong đó để rồi chỉ bằng những lời nói, những cử chỉ nhẹ nhàng tinh tế ông đã gieo vào lòng thế hệ trẻ những gì tốt đẹp nhất, nhân văn nhất của đời sống và giúp cho thế hệ trở nhìn nhận đúng nhất về Mỹ học, về cái đẹp trong xã hội. Một lần nữa khẳng định rằng trong đời sống Mỹ học rất quan trọng bởi con người rất cần đến nó, ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ đứa trẻ đã cần đẹp, rồi khi lớn lên điều đó lại càng quan trọng. Không chỉ về hình thức mà còn cần phải đẹp về tâm hồn. Mà ngay từ khi sinh ra đứa trẻđã được sống trong sự đùm bọc yêu thương chăm sóc của gia đình. Đó là cái nôi để hình thành nhân cách ở trẻ và được mười hai bà mụ “dạy ăn, dạy nói, dạy khóc, dạy cười” sao cho “ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi” rồi lại được nhân gian “dạy ăn, dạy nói, dạy gói, dạy mở” và lẽ đương nhiên muốn trở thành người tử tế có vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp về nhân cách thì phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Có thể nói cái đẹp theo con người đến tận cùng của cuộc sống - còn nhân loại là còn cái đẹp. Vì thế cái đẹp là một giá trị mà con người cần đạt đến. Cái đẹp là phạm trù cơ bản trung tâm của Mỹ học, là nền tảng cốt lõi của ba phạm trù: cái bi, cái hài, cái trác tuyệt… Cái đẹp vừa mang tính thời sự, muôn thuở, mãi mãi. Cũng có những cái đẹp chỉ tồn tại ở một thời điểm nhất định: mốt, xe - cộ, đầu tóc… Nhưng ngược lại những tác phẩm tuyệt vời đạt đến Chân - Thiện _ Mỹ, mang tính nhân dân, nhân loại, dân tộc thì không bao giờ cũ đó là những công trình, những tác phẩm nghệ thuật… và nó trường tồn mãi mãi với thời gian. Cái đẹp được tồn tại ở ba hình thức đó là: Cái đẹp tự nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong nghệ thuật. Khi xét về những cái đẹp trong tự nhiên là người ta nói đến những cái đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho con người: trời, mây, sông núi đó là những phong cảnh sơn thuỷ hữu tình. Chính từ đây mà những nghệ sĩ đã sáng tạo ra những kiệt tác: thi, ca, nhạc hoạ. Trong số đó có nhạc sĩ Thế Hùng, ông lấy cảm xúc dạt dào từ Hội Lim mà cho ra đời tác phẩm đầu tay mang âm hưởng trữ tình, nhẹ nhàng, sâu lắng về những liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc quyến luyến chia tay khi tan hội ra về để chờ hội sau: Đó là nhạc phẩm: “Mùa xuân quan họ”. Giai điệu của bài hát đã được công chúng

Page 11: Mỹ học đại cương

ghi nhận một cách nồng nhiệt và vẫn như còn nguyên nét tươi mới và in đậm trong lòng những ai yêu mến ông và đã một lần thưởng thức bài hát này. Không những thế, ông còn là một thi sĩ tài ba. Cũng lấy cảm xúc từ nét đẹp trong tự nhiên mà ông đã sáng tác nhiều bài thơ rất hay góp phần phong phú cho làng thơ mới Việt Nam. Trong cuộc sống con người cũng cần sáng tạo ra nhiều thứ để làm đẹp cho xã hội, cho chính bản thân họ và phục vụ nhu cầu của họ. Một trong số đó chính là vẻ đẹp tâm hồn - nét đẹp trong xã hội - đó là cách ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội. Cái đẹp trong xã hội ở đây chính là văn hoá ứng xử, vậy ta cần hiểu “Văn hoá ứng xử” như thế nào? Văn hoá là đem những cái đẹp đẽ để giáo hoá con người trở nên tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn. Người xưa có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” (1). Văn hoá ứng xử chính là lối sống, lối suy nghĩ, những hành động mang tính nhân văn của con người ứng xử với tự nhiên, đó là một triết lý sống của xã hội, của cộng đồng người với tự nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu: Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Hay như một lời ca dân gian: “Cái hoa xuân nở Cái lá xuân xanh Ai muốn chiết cành Hãy đợi mùa Xuân”. Ứng xử với thiên nhiên đã vậy thì đối với con người với xã hội thì lại càng phải nhân văn hơn, khéo léo hơn, như người xưa đã dạy tuỳ cơ mà ứng biến. Ngay từ khi sinh ra chúng ta đã được sống trong mái ấm gia đình, đây là cơ sở, là nền tảng của văn hoá ứng xử rồi đến trong xóm ngoài làng, đất nước, quốc tế. Trong gia đình luôn phải giữ cho Trên thuận, dưới hoà. Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra (2). Ứng xử với xóm làng: “Ở sao cho vừa lòng người Ở rộng người cười, ở hẹp người chê” (3). Văn hoá ứng xử là cái đẹp trong xã hội loài người nó biểu hiện rất rõ ở phong tục tập quán, lễ nghi, nếp sống, lối suy nghĩ,… Bản chất của văn hoá ứng xử là chữ Tâm và chữ Nhẫn. Chữ Tâm ở đây là tim - là đạo đức. Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (4) Trong luân thường đạo lý có 5 bậc trong ứng xử. Quan hệ vua tôi, quan hệ thầy - trò, quan hệ cha mẹ - con cái, Quan hệ vợ chồng, anh em, bạn bè. Mà nguyên tắc ứng xử là phải trung dung, trung đạo. Con người ta sống phải biết ứng xử sao cho đẹp, làm sao để trung hoà được cả bảy đức tính vừa tốt, vừa xấu trong bản thân mình: Ái - Ố - Hỉ - Nộ - Ai - Lạc - Dục thì người đó mới trở thành con người tốt đẹp. Trong quan hệ thầy trò : Thầy phải hết lòng vì trò, ngược lại trò phải hết mực kính trọng thầy. Cổ nhân đã có câu: “Không thầy đố mày làm nên” (5). hay : “Muốn sáng thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. (6) Đối với vợ chồng phải trọng nhau như khách, ca dao có câu. “Chồng ta áo rách ta thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người”. (7) “Đói no một vợ một chồng Ai ơi chớ nghĩ đến lời thiệt hơn”. (8) Với anh em bạn bè phải giữ được chữ tín “Một lần bất tín, vạn lần bất tin” là từ đó. Mỗi con người phải có tâm huyết, hết lòng hết sức với những gì mình đang và sẽ làm. Cổ nhân đã dạy: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Khổng Tử dạy muốn sống lâu, trường thọ, thì phải học những điều sau đây: “Làm người phải nhân nghĩa, bên trong không làm tổn đến tính, bên ngoài không làm tổn đến vật. Trên không phạm trời, dưới không hại người, sống đúng chừng mực, hoà khí, có tâm, có đức, làm điều thiện thì tai hoạ không đến, gặp nhiều điều tốt đẹp”. Chữ tâm theo Đạo Phật là: Phật là Tâm, Tâm là niết bàn, là Phật. Phật dạy rằng: Phải xót thương dân chúng như mẹ thương con, con phải tập tính nhân từ, hoà nhã, quên mình mà nghĩ đến người. Quốc sư Yên Tử đã nói với vua Trần Thái Tông như sau: “Núi vốn không có Phật, Phật ở nơi tâm, tâm lặng lẽ sáng suốt ấy là chân Phật”. Đối với người nghệ sĩ khi sáng tạo nghệ thuật của mình bằng cả tấm lòng hướng thiện, bằng tâm sáng, có thành tâm, hết lòng hết sức mới hi vọng đến bến bờ của thành công và mới có thể cho ra những tác phẩm đúng như những mong muốn của mình, những tác phẩm bất hủ đó sẽ được truyền mãi cho người đời sau này. Đại thi hào Nguyễn Du dạy rằng: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”, Người dạy rặng dù tài giỏi đến đâu mà không có cái Tâm trong sáng cũng không thể coi là người có tài. Nếu tâm là tim, là tấm

Page 12: Mỹ học đại cương

lòng, lòng nhân ái thì Nhẫn lại được biểu đạt là sự nhường nhịn, là nhận phần thiệt về mình “Nhẫn nhất thời, phong bình lãng tĩnh” nhịn một lúc là gió yên, sóng lặng. Trong ứng xử với nhau chữ Nhẫn phải được đặt lên hàng đầu “Một điều nhịn là chín điều lành”. Trong cuộc sống vợ chồng hàng ngày không tránh khỏi những xích mích, to tiếng nhưng nếu biết nhường nhịn bớt lời thì cuộc sống sẽ bớt căng thẳng hơn, tránh xảy ra “cơm không lành, canh không ngọt”. Vì vậy người vợ phải hết sức khéo léo, khôn ngoan, ngọt ngào: “Chồng giận thì vợ bớt lời. Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì”. (9) hoặc “Chồng giận thì vợ bớt lời Cơm sôi nhỏ lửa thì đời nào khê” (10) Cái đẹp trong văn hoá ứng xử được hiểu qua bản chất của Tâm và Nhẫn nhưng đi sâu vào cuộc sống hàng ngày, nó còn được biểu hiện bằng những hình thức văn hoá như: Văn hoá ăn, văn hoá nói, văn hoá đẹp, văn hoá giao tiếp và văn hoá giới tính. Mỗi con người phải trau dồi văn hoá ứng xử cho mình “Lời nói không mất tiền mua”. Vì vậy trước khí nói ra điều gì phải “uốn lưỡi bảy lần” để làm đẹp lòng những người xung quanh. Văn hoá ứng xử còn là thước đo bản chất tốt đẹp của con người. Một người có vẻ đẹp tâm hồn là phải ứng xử nhân văn với người khác, phải biết ban tặng sự tha thứ cho người khác đúng lúc đúng chỗ. “Đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh kẻ chạy lại”. (11). hay “Lòng vả cũng như lòng sung”. (12). “Chị ngã em nâng” (13) Làm được như vậy mới hợp với luân thường đạo lý, xã hội mới trở nên tốt đẹp hơn. Văn hoá nói, con người có thể cảm nhận được nét đẹp trong văn hoá nói thông qua bốn cử chỉ: Miệng, tay, mắt, chữ. Trong đó miệng quan trọng nhất, vì sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật đó là tiếng nói, đây chính là Mỹ học thành văn (xuất hiện tiếng nói và chữ viết). Khi con người có chuyện buồn trong cuộc sống hoặc trong công việc nếu chúng ta biết chia sẻ với họ bằng những lời khuyên sao cho hợp lý để giúp họ lấy lại tinh thần, tránh đưa ra những câu nói khiến họ trở nên căng thẳng và bi quan hơn. Tiếng nói chính là biểu hiện của tư tưởng, tình cảm, tri thức, vốn sống, nó mang đặc trưng người. “Vàng thì thử lửa thử than Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời”. (14). hay “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. (15). Cổ nhân có câu “Nói là reo, nghe là gặt”, lời nói là “gói vàng” không biết nói là “đọi máu”. “Ăn lắm thì hết miếng ngon Nói lắm thì hết lời khôn hoá rồ” (16) Tạo hoá đã khéo sinh ra con người có hai con mắt, hai tai, nhưng lại chỉ có một miệng tức là nghe nhiều, nhìn nhiều và nói ít. Điều này có nghĩa rằng chúng ta hãy lắng nghe và nhìn nhận rồi hãy nói, đó mới là người biết suy nghĩ. Thời gian qua đi, mũi tên bay đi và lời nói đó là những thứ đi mà không trở lại. Có câu “Mật ngọt chết ruồi”, ý nói những lời ngọt ngào nếu không suy nghĩ sẽ bị những lời nói đó làm hại đến bản thân mình và người khác. Trong kho tàng ca dao tục ngữ viết về cái đẹp của con người thông qua cử chỉ và văn hoá nói. như : “Trông mặt mà bắt hình dong Con lợn có béo thì lòng mới ngon” (17) Không chỉ có văn hoá nói mới thể hiện được cái đẹp trong xã hội mà trong văn hoá hành động như: đứng, đi, ăn uống cũng thể hiện được điều đó. Phải ăn sao cho có văn hoá “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” “Ăn một miếng, tiếng để đời” (18) Điều này thể hiện tư thế, phong cách, ý tứ của một cá nhân. Khi ăn không được phát ra tiếng động, độ mở của miệng vừa phải tránh ăn chóp chép, vừa ăn vừa nói sẽ trở thành kẻ phàm phu tục tử. Người sang trọng lịch thiệp khi uống thì chỉ nhâm nhi từng hớp một tránh uống một hơi hết và khi nuốt gây không tiếng động đó mới là người văn minh lịch sự. Qua cách đi đứng người ta cũng có thể nhận xét về người khác như đi mà nghênh ngang, hai tay khòng mà không để thẳng thì bị coi là không khiêm tốn. Những người vừa ngồi rung chân thì “cây rung lá rụng, người rung chóng chết”. Người có tư thế đi đẹp là người bước đi phải bằng vai, đi thẳng, bước nhẹ nhàng tránh lê giày, dép gây tiếng động, khi đứng phải nghiêm, thẳng, hai chân rộng bằng vai. Điều này thể hiện tính cách sống điềm đạm, đường hoàng, ngay thẳng. Trong ca dao tục ngữ có câu: “Qua sông thì phải luỵ đò” (19) Cái đẹp không chỉ thể hiện bằng văn hoá nói và hành động, nó còn được cảm nhận trongvăn hoá đẹp. Người con gái đẹp không chỉ về lời ăn, tiếng nói, cách đi đứng mà còn đẹp về hình thể, vóc dáng. Kinh

Page 13: Mỹ học đại cương

nghiệm của người xưa trong việc chọn vợ được truyền lại rằng: “Những người thắt đáy lưng ong Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”(20. Chỉ có những người như vậy mới biết vun vén cho gia đình, giữ cho gia đình trong ấm ngoài êm. Còn những người mà: “Những người béo trục, béo tròn Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày” (21) Có thể nói rằng cái đẹp trong xã hội vô cùng phong phú đa dạng, đa chiều. Đa diện với nhiều giai tầng khác nhau. Cái đẹp trong xã hội luôn lẩn khuất và hiển hiện quanh ta, văn hoá ứng xử luôn là một kho tàng cần phải tìm tòi, trau dồi có khi còn sáng tạo nữa. Thế mới có câu “tuỳ cơ ứng biến”, tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh, từng trường hợp để ứng xử cho tinh tế, cho phải đạo. Văn hoá ứng xử trong đời sống làm cho con người phát triển toàn diện hơn, hài hoà vẻ đẹp nội dung và hình thức, văn hoá ứng xử cũng làm cho con người trở nên thánh thiện hơn và người hơn. Một xã hội muốn tốt đẹp, văn minh thì phải là một xã hội có những văn hoá ứng xử đẹp giữa con người với tự nhiên, con người với con người và con người với xã hội.

Page 14: Mỹ học đại cương

Trong hệ thống các phạm trù mĩ học, cái đẹp vừa là phạm mĩ học cơ bản, vừa là phạm trù mĩ học trung tâm. Bởi vì, đối tượng của mỹ học là đời sống thẩm mĩ của con người. Ðời sống thẩm mĩ tuy rất phong phú đa dạng nhưng chủ yếu quay quanh cái đẹp. Cái đẹp là cái phổ biến. Nó có mặt ở khắp nơi: trong tự nhiên, trong xã hội và trong nghệ thuật. Ở đâu có hoạt động của con người ở đấy có cái đẹp: bầu trời đẹp, cành hoa đẹp, cuộc sống đẹp, cái nhà đẹp, chiếc áo đẹp, công việc đẹp, hành động đẹp, tư tưởng đẹp, khuôn mặt đẹp...  Mặt khác, cái đẹp là cái thường trực. Từng giờ, từng phút nó luôn có mặt trong ý thức con người. Con người không một phút nào sao nhãng, rời bỏ được cái đẹp. Dù là lúc lao động, lúc vui chơi giải trí, lúc nghiên cứu khoa học; trong sinh hoạt gia đình, ngoài đời sống cộng đồng... Cái đẹp như là thước đo, là chuẩn mực đi kèm liền bên cạnh cái chuẩn mực thước đo khác trong đời sống con người. Không phải ngẫu nhiên mà  CHÂN-THIỆN- MĨ ĐI LIỀN VỚI NHAU.

Các phạm trù thẩm mĩ khác: cái xấu, cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài tuy bản chất thẩm mĩ có khác cái đẹp, nhưng để hiểu được bản chất chúng thì không thể không lấy cái đẹp làm điểm tựa không thể không xem xét nó trong mối liên hệ với cái đẹp. Chẳng hạn, để đánh giá một hiện tượng xấu thì ta phải dựa vào cái đẹp. Cái đối lập với cái đẹp sẽ là cái xấu. Hoặc để xác định cái bi ta cũng dựa vào cái đẹp. Cái bi là sự thất bại, hay cái chết của  cái đẹp. Ta cũng dựa vào cái đẹp để xác định cái cao cả. Cái đẹp là lý tưởng gần, còn cái cao cả là lý tưởng cao siêu.

Vậy cái đẹp là gì? thế nào là cái đẹp ? Ðây quả là câu hỏi không dễ trả lời chút nào. Có người hỏi Saint Augustin:Thời gian là gì? Augustin trả lời: giá như ngươi đừng hỏi thì ta cơ hồ như hiểu rõ thời gian là gì! Thế nhưng khi người hỏi ta thời gian là gì thì ta lại đâm ra hoang mang. Hỏi cái đẹp là gì thì cũng như hỏi thời gian là gì vậy. Ðã 2500 năm nay, các triết gia, các mỹ học gia, không ngớt thay nhau tìm kiếm một sự lý giải thích hợp cho cái đẹp, nhưng cái đẹp là gì thì câu hỏi đến nay vẫn như còn để ngỏ, vẫn như còn vừa mới đặt ra. Ðiều oái oăm là: cái đẹp là cái phổ biến, là cái thường trực trong cuộc sống con người. Nhưng gương mặt của nó ta lại rất khó nắm bắt, khó xác định.          2. CÁC QUAN NIỆM KHÁC NHAU VỀ CÁI ÐẸP TOP

a. Phái cho rằng cái đẹp là thuộc tính khách quan của sự vật. Phái này  quan niệm: bản thân sư vật, tự nhiên đã chứa đựng cái đẹp. Cái đẹp không lệ thuộc vào ý muốn của con người. Màu sắc của sự vật tồn tại ngoài ý thức con người. Nó là thuộc tính tự nhiên của tạo vật. Ðẹp cũng thế. Ðẹp là phẩm chất của tự nhiên. Thuộc về phẩm chất đẹp của tự nhiên là thuộc tính cân xứng, hài hòa, nhịp điệu, cấu trúc không gian, thời gian... Platon cho rằng đường nét thẳng và đường tròn là đường đẹp. Họa sư Hogarth lại cho rằng đường cong và lượn sóng là đẹp. Vì nó đa dạng và có tính chuyển động. Chẳng hạn, lượn sóng trong nhảy múa, lượn sóng của bộ tóc, đám mây, đường eo của thân thể con người. Fechner (Ðức) lại cho cái đẹp là ở sự tỉ lệ. hình chữ nhật đẹp là loại hình có tỉ lệ 1/1,6 (tỉ lệ của 2 cạnh lá vàng). Leonardo De Vinci cho rằng người đẹp là người có tỉ lệ:

Page 15: Mỹ học đại cương

chiều dài thân mình cao gấp 7 lần đầu. Pythagoras cho rằng: đường nét và hình thể phải đối xứng mới đẹp. Vì sự phát sinh đối xứng có liên hệ đến số học. Cái đẹp có đặc tính của số học. Bớcnơ  và nhiều người khác coi cái đẹp là tổng số của những dấu hiệu sau đây: vật không lớn quá cũng không nhỏ quá ; sự hài hòa, sự thống nhất trong cái đa dạng.v.v... 

Vậy có đúng là cái đẹp nằm ở vật, là thuộc tính khách quan của sự vật không? Thực sự thì, những điều quan sát của các nhà mỹ học trên đây có ý nghĩa thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, những ý kiến vừa nêu trên không thể dùng để giải thích đầy đủ và đúng đắn bản chất của cái đẹp. Những dấu hiệu trên là những điều kiện có thể dẫn tới cái đẹp. Nó luôn luôn được bổ sung, và bổ sung một cách bất tận. Bởi, cái đẹp là vô cùng đa dạng và vô cùng tận. Sai lầm của các nhà mỹ học trên là, tách rời nội dung cụ thể của các hiện tượng khỏi ý nghĩa xã hội của nó. Không đặt chúng trong mối quan hệ với con người thì sẽ không phát hiện ra ý nghĩa thẩm mĩ của đối tượng. Ðường thẳng, tròn, cong, uốn lượn; sự tỉ lệ, cân đối, hài hòa, bố cục hình kim tự tháp... có cả trong đối tượng đẹp và  cả đối tượng xấu. Rõ ràng là màu hồng đẹp khi ở trên má, nhưng là xấu ở trên mũi của cô gái. Sự cân đối của cặp mắt, đôi vai thì đẹp, nhưng sự cân đối của răng khểnh, của nốt ruồi thì không đẹp. Con bướm, con cóc thân hình đều hài hòa nhưng chưa ai coi con cóc là đẹp. Sai lầm cơ bản của các quan niệm trên còn là: tìm bản chất cái đẹp ở mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật, hiện tượng trên cơ sở những thuộc tính vật lý, toán học của đối tượng; trong khi lẽ ra tìm bản chất cái đẹp, cũng như các hiện tượng thẩm mĩ khác ở mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng trong mối quan hệ với xã hội, với ý thức con người.

b. Phái cho rằng cái đẹp là sản phẩm của ý muốn chủ quan của con người. Kant, một triết gia duy tâm chủ quan, người Ðức, cho rằng: vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà nằm trong mắt của kẻ si tình. Như vậy, theo Kant, cái đẹp là sản phẩm của ý thức cá nhân. Luận chứng về cái đẹp, Kant phân biệt hai phương diện của phán đoán: phán đoán mĩ cảm và phán đoán danh lí. Phán đoán danh lí dùng khái niệm làm cơ sở. Phán đoán mĩ cảm thì lấy cảm giác cá nhân làm cơ sở. Mà cảm giác là chủ quan, có tính cách cá biệt, tùy người, tùy nơi, tùy lúc. Trong quá trình thụ cảm thế giới, các sự vật, hiện tượng cảm tính, con người truyền cảm giác, đem đến cho sự vật hồn con người. Như vậy cái đẹp chỉ nảy sinh trong quan hệ chiêm ngưỡng của chủ thể đối với khách thể. Ở ngoài quan hệ này thế giới không đẹp cũng  không xấu. Nó phi thẩm mĩ. Cũng theo Kant, phần đông cảm giác chủ quan có tính cách cá biệt, tùy nơi, tùy lúc. Nhưng nó vẫn có tính chất phổ biến. Bởi vì, tuy dựa vào cảm giác chủ quan chứ không nhờ vào sự trợ giúp của khái niệm, nhưng khi một vật khiến ta thấy đẹp thì cơ năng tâm lý (như tri giác, tưởng tượng) hoạt động có tính chất hài hòa nên phát sinh một thứ khoái cảm không thực dụng. Một người thấy đẹp thì mọi người thấy đẹp vì cơ năng tâm lí con người giống nhau.

Ðiều hơn hẳn của Kant, so với nhiều nhà mĩ học khác là ở chỗ: biết rằng mĩ cảm thuộc chủ quan, bằng vào cảm giác, chứ không bằng vào khái niệm. Nhưng đồng thời không hoàn toàn chủ quan mà có tính chất tất nhiên, phổ biến. Ðiều mơ hồ của Kant là cho rằng sự vật cần có những điều kiện hợp với cơ năng tâm lí thì ta mới thấy đẹp, giống như thị giác đối với màu sắc, vật là kích thích, tâm là sự cảm thụ.

Page 16: Mỹ học đại cương

c. Phái cho rằng cái đẹp là cái có ích, cái có lợi ích thực dụng. Socrate, một triết gia Hylạp cổ đại, lí giải cái đẹp luôn luôn gắn với cái có ích. Thậm chí, đánh đồng cái đẹp với cái có ích: cái đẹp là cái có ích và cái gì có ích là cái đẹp. Ông giải thích: Cái mộc đẹp là vì nó để tự vệ, còn cái giáo đẹp là vì người ta có thể dùng sức mạnh mà lao về phía quân thù. Một người (Apirtipơ) chất vấn Socrate: Vậy cái sọt đựng phân là một vật đẹp hay xấu?Socrate đã không ngần ngại trả lời: Ðúng thế, thề có thần Zeus chứng giám, ngay cái mộc bằng vàng cũng bị coi là một vật xấu, nếu như nó được làm ra một cách kém cỏi, còn cái sọt đựng phân là đẹp khi nó nhằm được mục đích của nó.

Mĩ học Socrate được gọi là mĩ học vụ lợi. Sai lầm cơ bản của Socrate là đánh đồng cái đẹp với cái có ích. Tuy nhiên, quan niệm của ông có ý nghĩa quan trọng ở chỗ đưa thực tiễn xã hội vào định nghĩa cái đẹp.          3. QUAN NIỆM HIỆN ÐẠI VỀ CÁI ÐẸP TOP

a. Cái đẹp là cái có hình thức cảm tính cụ thể, sinh động. Cái đẹp là cái có hình thức cảm tính cụ thể, sinh động. Con người chỉ có thể cảm thụ nó trực tiếp bằng giác quan. Cái đẹp là cái có năng lực biểu hiện, cái có khả năng gợi cho con người thấy được bản chất của chính mình nơi thiên nhiên và tạo vật. Nó là cái mà con người có thể tìm thấy sức mạnh sáng tạo và làm chủ của mình. Nó là cái có thể báo hiệu về con người, gợi nên ở con người những rung động, những say mê, những khát vọng.

b. Cái đẹp gắn với say mê và khát vọng của con người. Stendhal (1783- 1842) nói: Cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc. Cái đẹp gắn với say mê và khát vọng của con người. Nó là cái mà con người luôn ước ao vươn tới. Do đó, nó là cái mang trong mình sự phát triển cao nhất, tức là cái mang tính chất lí tưởng. Và cũng do đó, cái đẹp gắn chặt với ý niệm về sự hoàn thiện. Hoàn thiện là tiêu chuẩn cao nhất về cái đẹp. Những gì đạt tới trình độ phát triển cao nhất so với sự vật và hiện tuợng cùng loại thường gợi ra ý niệm đẹp. Hoàn thiện gắn liền với sự hài hòa. Cấu trúc hài hòa là cấu trúc lí tưởng. Hài hòa là nguyên lí phổ biến. 

c. Cái đẹp là một phạm trù giá trị. Cái đẹp là một phạm trù giá trị, đó là  luận điểm quan trọng của mĩ học Mácxít. Mĩ học Mácxít xuất phát từ quan điểm biện chứng, lịch sử xã hội để nghiên cứu cái đẹp. Mĩ học Mácxít thừa nhận cơ sở khách quan của cái đẹp, xuất phát từ phản ánh luận duy vật biện chứng. Theo đó, ý thức thẩm mĩ nói riêng và ý thức con người, nói chung, là tính thứ hai. Hiện thực, bao gồm cả tự nhiên và xã hội là tính thứ nhất.

Tuy nhiên, khi nói cái đẹp là một phạm trù giá trị thì các nhà mĩ học Mácxít không chỉ lưu ý điều kiện vật chất khách quan của cái đẹp, mà còn nhấn mạnh phương diện ý thức chủ quan, nhấn mạnh tính quan niệm của nó. Khi nói cái này đẹp, cái kia đẹp là bao hàm sự đánh giá, định giá của con người. Và như vậy, đẹp phụ thuộc vào quan niệm. Tchernychepski, nhà mĩ học duy vật Dân chủ Cách mạng Nga, người có những tư tưởng mĩ học tiếp cân với mĩ học Mácxít, ở thế kỉ trước, từng phát biểu: Một tồn tại được gọi là đẹp là một tồn tại trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm[1] Quả đây là một tư tưởng hết sức sâu sắc. Cái đẹp không phải chỉ có cơ sở tự

Page 17: Mỹ học đại cương

nhiên, khách quan, mà còn có cơ sở xã hội. Cơ sở xã hội đó được thể hiện ở chỗ quan niệm. Quan niệm của con người về cái đẹp phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

- Quan điểm chính trị, lập truờng giai cấp

- Bản sắc dân tộc

                    - Có tính chất lich sử     

            Những con người thuộc các giai cấp khác nhau bao giờ cũng xuất phát từ lọơi ích chính trị của giai cấp mình mà có quan niệm khác nhau về cái đẹp. Ðiều khác nhau này càng bộc lộ rõ ràng khi mâu thuẫn giữa các giai cấp trong lòng xã hội trở nên sâu sắc. Từ Hải là hình tượng đẹp đối với người bị áp bức, bóc lột, nô lệ. Nhưng với rất xấu với quan niệm của vua Tự Ðức.

          Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: nói cái đẹp phụ thuộc vào lập trường chính trị, quan điểm giai cấp, không có nghĩa là bao giờ cũng có sự minh định rạch ròi về ranh giới trong mọi trường hợp. Từ đó phủ nhận những chuẩn mực thẩm mĩ chung đối với mọi người. Con người, ngoài bản năng xã hội, còn có bản năng tự nhiên. Bản năng tự nhiên này, ở mọi người đều giống nhau. Về phương diện tự nhiên, gã tư sản và người nông dân đều đánh giá vẻ đẹp của vàng bạc là như nhau, đều thích vàng bạc làm nhẫn cưới, hội hè, đình đám, trang sức. Nhưng về phương diện giai cấp thì người buôn bán khoáng vật chỉnhìn thấy giá trị thương phẩm của khoáng vật chứ không nhìn thấy vẻ đẹp và bản tính độc đáo của khoáng vật. (C. Mác) [1]   

          Những điều kiện tự nhiên, xã hội, tâm lí, phong tục tập quán dân tộc để lại dấu ấn sâu sắc về quan niệm cái đẹp, chi phối quan niệm về cái đẹp. Có những hiện tượng, sự vật, dân tộc này cho là đẹp, nhưng dân tộc khác cho là xấu. Với người phương đông như Trung Quốc, Việt Nam, con rồng là một vật đẹp. Rồng là biểu tượng của sự cao đẹp. Những gì cao đẹp đều được gắn với rồng. Kiến trúc những nơi tôn nghiêm như chùa chiền, đình miếu, rồng luôn luôn được chạm khắc. Tổ quốc ta thủ đô là Thăng Long, biển đẹp của ta là Hạ Long, sông là Cửu Long, chúng ta là con rồng, cháu tiên. Những gì liên quan đến vua- thiên tử- con người đẹp nhất đều gắn với long: long nhan, long thể, long sàng, long bào,... Nhưng phương Tây, như Pháp chẳng hạn rồng lại được hiểu như là con vật dữ tợn (xấu).       

          Quan niệm về cái đẹp còn gắn liền với sự biến đổi lịch sử. Cái đẹp không phải là một cái gì đó nhất thành bất biến, thiên sinh tự tại. Tùy theo từng thời đại mà quan niệm về cái đẹp có sự thay đổi... Cái răng, cái tóc là vóc con người. Nhưng ngày xưa, tóc dài răng đen là đẹp; ngày nay thì ngược lại. Chỉ mới khoảng 50 năm về trước, Hoàng Cầm còn tấm tắc trước vẻ đẹp của hàm răng nhuộm đen của mấy cô hàng xén:

Mấy cô hàng xén răng đen cười như tỏa nắng.

Nhưng ngày nay, răng đen chỉ có thể là xấu.            4. KHÁI NIỆM TOP

Page 18: Mỹ học đại cương

Có thể định nghĩa cái đẹp như sau: Cái đẹp là một phạm trù mĩ học trung tâm, cơ bản dùng để khái quát những giá trị xã hội tích cực của những sự vật, hiện tượng trong hiện thực (tự nhiên và xã hội) có hình thức cụ thể cảm tính, được con người xã hội cảm thụ bằng giác quan, đánh giá tư tưởng tình cảm qua sự biểu hiện niềm vui sướng, thú vị.           5. BIỂU HIỆN CỦA CÁI ÐẸP TOP

a. Cái đẹp trong thiên nhiên

Như ta đã nói, đẹp không phải là một thuộc tính khách quan của sự vật. Do đó khi nói cái đẹp trong thiên nhiên chúng ta dễ ngộ nhận là trong tự nhiên có những sự vật đẹp hay thuộc tính đẹp. Cái đẹp tồn tại song song với tự nhiên. Còn con người có sau tự nhiên rất lâu. Và con người hưởng thụ một cách bị động cái đẹp có sẵn của tự nhiên, giống như tự nhiên là con ong làm ra đẹp là mật. Còn có con người hay không thì mật vẫn là mật.

Thực sự thì, thiên nhiên với những phẩm chất và thuộc tính của nó tồn tại một cách khách quan. Thiên nhiên tồn tại trong sự đa dạng nhưng thống nhất. Mọi sự vật hiện tượng trong thiên nhiên tồn tại trong sự nương tựa với nhau, liên kết lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Thiên nhiên có một cấu trúc hợp lý đến kỳ diệu như là có phép màu của tạo hóa. Nhưng khi có một cảnh thiên nhiên được gọi là đẹp thì không phải đơn thuần do thiên nhiên đẹp, mà còn do con người cảm thấy đẹp. Nguyễn Du từng nói:

Cảnh nào cảnh chẳng cũng đeo sầu

Người buồn cảnh cũng có vui đâu bao giờ.

          Do đó, khi xét cái đẹp trong thiên nhiên là xét nó trong quan hệ với con người. Cảnh đẹp trong thiên nhiên là cảnh- tình. Nói như C. Mác, đó là một tự nhiên được nhân hóa. Vì vậy, xét cái đẹp trong tự nhiên theo thể thức cấu trúc,  hình ảnh, màu sắc, phẩm chất khoa học là cần thiết nhưng dễ trở thành giản đơn. Vì, như đã nói, những thể thức đó là những điều kiện dẫn tới cái đẹp, chứ không phải bản thân cái đẹp. Cũng như mưa là do mây mang hơi nước, nhưng mây mang hơi nước đâu phải là mưa. Cũng như, cỏ xanh trên cánh rừng sẽ chẳng đẹp mà chẳng xấu. Với Nguyễn Du thì cỏ có thể thật đẹp, có thể xấu. Nhưng ngay cả với Nguyễn Du thì cỏ đẹp với nhiều vẻ đẹp khác nhau, tùy nơi, tùy lúc, tùy người.

          Có lúc cỏ đẹp- vui:        - Cỏ non xanh trên chân trời....

                    Có lúc cỏ đẹp- buồn:     - Một vùng cỏ mọc xanh rì.

                                            - Một vùng cỏ dưới bóng tà.

Như vậy,  cái đẹp của thiên nhiên là cái có năng lực biểu hiện; cái có khả năng gợi cho con người thấy được bản chất của chính mình nơi thiên nhiên, tạo vật; cái mà con người có thể tìm thấy sức mạnh sáng tạo và làm chủ của mình. Nó là cái có thể báo hiệu về con người, gợi cho con người những rung động, những say mê và những khát vọng.

Page 19: Mỹ học đại cương

Do đó, cái đẹp trong tự nhiên tuy tồn tại khách quan nhưng chỉ tồn tại như một tiềm năng, một dự phóng. Nó có tác dụng gợi mở sự liên tưởng, sức sáng tạo của con người.

b. Cái đẹp của những sản phẩm do con người làm ra.

Cái đẹp của những sản phẩm do con người làm ra là những sản phẩm do con người làm ra theo trước đó của sự hoàn thiện, theo những  khuôn mẫu lý tưởng:

- Tính hợp lý là một trong những yêu cầu quan trọng nhất được đặt ra cho các sản phẩm lao động. Nó phải có sự tương quan đúng đắn giữa hình thức và giải pháp kết cấu.

- Các sản phẩm lao động phải tạo thuận tiện tối đa cho người sử dụng,  giảm bớt lao động vất vả cho con người, làm vui mắt bằng vẻ đẹp của hình dáng bên ngoài và sự tính toán nghiêm nhặt của các yếu tố.

c. Cái đẹp của điều kiện lao động

          Ðiều kiện lao động đẹp góp phần nâng cao hiệu quả lao động và bảo vệ sức khỏe người lao động. Ðiều kiện lao động đẹp, bao gồm: Phương tiện laođộng: máy móc, thiết bị, dụng cụ lao động thuận tiện, đẹp đẽ; tổ chức lao động hợp lý. Nhân tố quyết định của mỹ học về điều kiện hoạt động là nội thất công nghiệp: ánh sáng hợp lý, màu tường thích hợp, thông gió tốt, độ ẩm vừa phải. Màu sắc nội thất công nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả lao động. Với những kiện hàng trọng lượng và khối lượng như nhau chỉ khác nhau màu đen, hoặc màu trắng, thì người công nhân khuân vác những kiện hàng màu trắng cảm thấy nhẹ nhàng hơn và do đó bốc vác có hiệu suất cao hơn là làm việc với những kiện hàng màu đen. Tuy  nhiên, tùy tính chất sản xuất mà sử dụng gam màu này hay gam màu khác. Ví dụ ở xưởng sản xuất lớn thì dùng gam màu lạnh xanh, xanh lá cây. Nơi sản xuất những chi tiết nhỏ như lắp ráp đồng hố thì cần dùng màu bình lặng, sáng sủa. Các bộ phận chuyển động của thiết bị sơn màu sáng để dễ nhận, do đó giảm tai nạn lao động.v.v...

d. Cái đẹp của hành vi

Hành vi con người có thể được đánh giá từ những phương diện khác nhau: chính trị, đạo đức, pháp luật... Nhưng cũng có thể được đánh giá ở góc độ thẩm mĩ. Ví dụ: Một hành vi cao quý, can đảm cũng được gọi là  hành vi đẹp. Hoặc ngược lại. Biêlinski cho rằng tình cảm thẩm mĩ là cơ sở của việc thiện, của đạo đức. Gorki cho rằng: mỹ học là luân lý của tương lai (càng ngày cái đẹp càng thâm nhập sâu và trở thành tiêu chuẩn cơ bản của tác phong ứng xử của con người).

đ. Cái đẹp của con người

          Con người là sản phẩm của tự nhiên, nó cũng có những vẻ đẹp có tính chất vật chất tự nhiên. Ðó là vẻ đẹp bên ngoài như khuôn mặt, hình thể và trang phục. Ngoài ra con người còn có vẻ đẹp tinh thần xã hội: hành vi, hoạt động của toàn bộ thế giới tinh thần của con người lời nói, cách cư xử, hành động là biểu hiện của trình độ văn hóa của con người.        

e.  Cái đẹp trong sinh hoạt

Page 20: Mỹ học đại cương

Cái đẹp trong sinh hoạt và đời sống rất đa dạng. Càng ngày chúng ta càng chú ý nhiều hơn về mĩ học sinh hoạt, tức là chú ý nhiều hơn đến những điều kiện về vật chất văn hóa, trong đó diễn ra cuộc sống của con người, ngoài khuôn khổ của hoạt động sản xuất trực tiếp và hoạt động xã hội. Sinh hoạt là khái niệm bao gồm: sắp xếp nhà ở, cái đẹp của quần áo, cách thức tổ chức nghỉ ngơi lành mạnh, văn hóa. Tất cả những gì bao quanh con người trong đời sống từ việc trang hoàng căn phòng, quần áo, vật dụng trang điểm,... đều phải đem đến cho con người cảm xúc thẩm mĩ. Cái thẩm mĩ không chỉ tồn tại ở bức tranh, pho tượng ở viện bảo tàng mà trải ra ở hàng ngàn hàng vạn đồ vật quanh con người. Ở đâu có sinh hoạt của con người thì ở đó cần có thị hiếu thẩm mĩ: từ cái thìa, cái li, đến căn nhà, sân bóng.v.v... Tất nhiên, không có những giải pháp thẩm mĩ cụ thể cho một lần và cho mãi mãi. Song những nguyên tắc chung là tính hợp lí, hài hòa, đồng bộ, tính thống nhất, đa dạng... luôn luôn được vận dụng.

g. Cái đẹp trong nghệ thuật

Nghệ thuật là nơi biểu hiện tập trung của cái đẹp; đẹp là điều kiện đặc biệt của nghệ thuật. C.Mác nói, trong toàn bộ hoạt động sáng tạo của con người, hoạt động nào con người cũng đều sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Nhưng không ở đâu quy luật  ấy lại bộc lộ rõ nét tập trung như ở nghệ thuật. Miêu tả, biểu hiện, sáng tao cái đẹp là mục tiêu chủ yếu, là chức năng đặc trưng của nghệ thuật. Cái đẹp trong nghệû thuật có các đặûc điểm căn bản sau:

- Tính hoàn chỉnh, hoàn thiện, gọt dũa, trau chuốt, điển hình của các yếu tố. Xét về sự phong phú, tươi mới, nguồn gốc và tính có trước thì cái đẹp của tự nhiên cao hơn cái đẹp của nghệ thuật. Nhưng nghệ thuật có nguyên tắc sáng tạo là điển hình hóa. Các hiện tượng đẹp của đời sống khi được đưa vào tác phẩm thì đã trải qua sự lựa chọn, qua bàn tay sáng tạo, gọt đẽo..., do đó mà đã  đẹp,  nó lại càng đẹp hơn. Với ý nghĩa ấy mà Hégel khẳng định: nghệ thuật đẹp hơn cuộc sống; Hoàng Ðức Lương viết: Ðến như thơ văn thì là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể dùng mắt thường mà xem, vị giác thường mà nếm

  - Cái đẹp trong nghệ thuật mang sắc thái biểu cảm. Một cảnh tượng đẹp trong thiên nhiên không chứa đựng trong mình nó tính tình cảm, cảm xúc. Nó chỉ có những thuộc tính vật lý, hoặc do liên tưởng chủ quan của con người gán cho nó. Còn vẻ đẹp trong nghệ thuật, nó là sự kết tinh, chứa đựng tình cảm của người sáng tạo. Tình cảm là quy luật của nghệû thuật. Bạch Cư Dị, nhà thơ và nhà lí luận về thơ Trung Quốc đời Ðường từng khẳng định gốc của thơ là tình cảm. Lê Quý Ðôn, nhà bác học Việt Nam, thế kỉ XVIII, xem tình là một trong 3 điều chính của thơ...

   Cái đẹp trong nghệ thuật mang tính tư tuởng. Nghệû thuật phản ánh hiện thực, nhưng cái đẹp của hiện thực không chứa đựng khuynh hướng tư tưởng. Trong khi đó, cái đẹp trong nghệû thuật luôn luôn có khuynh hướng tư tưởng. Cũng có thể nói, cái đẹp trong nghệû thuật chính là cái đẹp của tư tuởng. Khi phản ánh cái đẹp của cuộc sống vào tác phẩm thì không đơn giản là người nghệ sĩ sao chép lại, chụp ảnh lại. Mà trước hết, nghệ sĩ xuất phát từ một lập trường tư tưởng nhất định để lựûa chọn, miêu tả, đánh giá. Thứ đến, người nghệ sĩ

Page 21: Mỹ học đại cương

sáng tạo ra cái đẹp sao cho phù hợp với quan niệm thị hiếu, lí tưởng thẩm mĩ của mình. Những tư tưởng lập trường là xuất phát điểm để phản ánh; những thị hiếu, lí tưởng như là đích hướng tới để sáng tạo, nếu tiên tiến, thể hiện lợi ích của nhân dân lao động sẽ làm cho tư tưởng của nghệû thuật đẹp.     

III. PHẠM TRÙ MĨ HỌC CÁI CAO CẢ          1. KHÁI NIỆM TOP

   Cái cao cả là những hiện tượng, những tính cách, những hành vi, những tinh thần, những ý chí vượt ra khỏi cái giới hạn bình thường hàng ngày, cái có tầm cỡ lớn lao, phi thường của nội dung và hình thức biểu hiện; cái cao cả tạo ra ở con người cái cảm giác choáng ngợp, chiêm ngưỡng kính phục, đôi khi pha chút sợ hãi.          2. NHỮNG ÐẶC ÐIỂM TOP

a. Cái cao cả là những sự vật, hiện tượng, tính cách, tư tưởng vĩ đại; cái tầm cỡ cao lớn phi thường, to lớn về thể tích và khối lượng. Chẳng hạn: núi đá cheo leo sừng sững, biển rộng bao la; không gian mênh mông, ngọn tháp cao chót vót, tiếng gầm của loài hổ, cánh chim bằng che rợp khoảng trời, con cá tràng kình ở biển khơi, cây tùng dầm mưa dãi nắng, cây đa sừng sững giữa đất trời... Ðây là cái cao cả- sự hùng vĩ của của thác nước:

                          Phi lưu trực há tam thiên xích

                          Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên.

Ðây là cái hùng vĩ của vực sâu và núi cao:

                               Một lá về đâu xa thăm thẳm

            Nghìn làng trông xuống bé con con.

b. Cái cao cả là cái gây ra ở con người cái cảm giác choáng ngợp, chiêm ngưỡng, kính phục và đôi khi pha chút sợ hãi. Ðây là đặc điểm tâm lý của cái cao cả. Nếu như trạng thái tâm lý của chúng ta trước cái đẹp thanh tú như cây liễu, con chim hoàng anh... đơn thuần chỉ là sự khoan khoái, hoan hỉ, khẳng định, tích cực, không có chút băn khoăn, thắc mắc. Thì, trạng thái tâm lí trước cái hùng vĩ có khác. Cái hùng vĩ là cái khuynh sơn đảo hải khiến ta có cảm giác mình quá nhỏ bé, cảm thấy bất lực, không thể đề kháng, chẳng dám tiếp nhận nó, rồi muốn lùi bước trước nó.    

c. Cái cao cả tạo ra ở con người cảm giác thích thú, tự đề cao. Có thể chia quá trình tâm lí của sự tiếp nhận cái cao cả ra thành hai gia đoạn. Giai đoûn 1 là giai đoạn sợ hãi. Giai đoạn 2 là giai đoạn vui vui thích. Trong bước đầu vì tính chất to lớn của sự vật, ta thấy ta như bé lại. Sang bước 2 cũng do vô ý hay hữu ý ta thấy mình trở nên vĩ đại. Trạng thái tâm lý bước đầu được Kant gọi là sự đề kháng nhất thời. Trong trạng thái

Page 22: Mỹ học đại cương

ấy có chút ít bứt rứt khó chịu. Bước 2 thì tâm tư hân hoan, thoải mái, lại thêm cái ray rứt ban đầu nên gây những phản ánh vang dội, cho nên sự thoải mái hân hoan càng đậm đà. Tâm tình ở bước 2 là tâm tình của kinh nghiệm mĩ cảm. Còn tâm tình của bước 1 là những cảm giác đặc hữu khi đứng trước một vật hùng vĩ. Nếu không mang một ít cảm giác kinh khiếp, một ý thức mình quá nhỏ bé thì không thể nào cảm giác được sự hùng vĩ. Học giả Anh quốc Bruke từng khẳng định trong cái hùng vĩ bao hàm một ít của sự sợ hãi (Terrible). (Lưu ý: nói sự sợ hãi thì hơi quá vì sợ hãi tạo ra phản ứng trốn chạy, còn đối tượng hùng vĩ lại có sức hấp kì lạ). Sợ hãi là một thứ tình cảm thực dụng, còn cảm giác hùng vĩ cũng giống như mọi mĩ cảm khác: tách rời khỏi sự ràng buộc của thực dụng; tất cả tinh thần tập trung,  hội tụ say mê đối tượng trước mắt. Trong cảm giác hùng vĩ có ít nhiều tính chất sợ hãi nhưng chưa đạt đến trạng thái sợ hãi đích thực. Cảm giác hùng vĩ thường xuất hiện bất thình lình. Do bất thình lình mà ta hốt hoảng không biết đối phó ra sao. Nhưng trạng thái tâm lý ấy thoáng hiện, không biểu hiện rõ nơi ý thức. Cái tính chất bất thình lình ấy chính là vai trò chủ yếu của sự đề kháng nhất thời. Nhưng nếu mất tính chất bất thình lình thì cũng mất luôn vẻ hùng vĩ của sự vật.

Như vậy, cảm giác sợ hãi- cảm giác tiêu cực chỉ phát sinh trong chốt lát rồi tiêu biến, nhường chỗ cho cảm giác mới phát sinh: ngưỡng mộ, khâm phục, ngơ ngác, rồi ta tự quên mình đắm chìm vào cảnh vật. Ta đột nhiên hứng khởi, phấn chấn lạ lùng và ta như đứng dậy, vươn lên, cao đầu mà bước,ngẩng đầu mà đi, rồi bị ảnh hưởng của di tình tác dụng, một cách vô ý thức ta xóa bỏ sự cách biệt giữa ta và vật. Cái hùng vĩ như in sâu vào trong tiềm thức của ta, biến thành cái hùng vĩ của ta. Trong giây phút ấy ta không còn biết ta đang thưởng ngoạn cái hùng vĩ của vật hay ta đang tự cao với cái hùng vĩ của ta. Chỉ biết rằng lúc ấy ta vô cùng khoan khoái.

Tóm lại, trước sự vật hùng vĩ, bước đầu có cảm giác như kinh khiếp, nhưng bức tiếp theo là cảm giác tự tin, phấn chấn và tự đề cao.

d. Cái cao cả là phạm trù gần gũi với cái đẹp. Nghiên cứu cái cao cả, có xu hướng đối lập cái cao cả với cái đẹp. Do chỗ họ căn cứ vào tính chất đặc thù của cái cao cả là quy mô to lớn, kì vĩ, đồ sộ. Tính chất này tạo nên tạo nên cảm giác khó chịu, cảm giác sợ hãi. Tính chất bất thình lình của cái cao cả vượt ra ngoài ý liệu của chúng ta, tri giác bình thường không sao nắm bắt được, do đó cái hùng vĩ còn nhiều khuyết điểm, khiến người ta có cảm giác là nó còn cảm giác thô sượng. Cho nên, những nhà mỹ học thuộc phái Kant thường đối lập cái cao cả với cái đẹp.

Lại có xu hướng hòa tan cái cao cả vào cái đẹp. Họ cho rằng cái cao cả bản chất của nó là cái đẹp, vì cái cao cả chẳng qua là cái đẹp vô tận, vĩnh hằng, cái có mức độ to lớn khiến người ta không quan niệm nổi.

Thực ra, cái cao cả là một phạm trù gần gũi với cái đẹp. Nét tương đồng chủ yếu: đều gợi nên ở ta cảm giác tích cực. Các phạm trù thẩm mĩ,  một mặt có tính chất bản thể, mặt khác là một phạm trù giá trị. Cái cao cả phản ánh tính chất thanh cao, mạnh mẽ sâu lắng và vô cùng thanh khiết,   trong sáng, đồ sộ, hùng vĩ, vũ bão của sự vật khách quan. Mặt khác, phản ánh xu hướng khát vọng vươn cái vĩ đại của đời sống con người. Vì vậy, nếu cái đẹp thúc đẩy con

Page 23: Mỹ học đại cương

người vươn lên cái hoàn thiện, hoàn mỹ,  thì cái cao cả phản ảnh xu hướng hùng vĩ hóa bản thân mình một cách bất tận để đáp ứng những nhiệm vụ vô cùng to lớn và bất tận của con người. Cái đẹp là ước mơ,  lý tưởng gần gũi. Cái cao cả là lý tưởng cao siêu, con người chỉ chiêm ngưỡng hướng tới, nhưng dường như không dám mơ vươn tới.

IV. PHẠM TRÙ MĨ HỌC CÁI CÁI BI          1. KHÁI NIỆM TOP

Cái bi là phạm trù mỹ học cơ bản chỉ sự thất bại hay cái chết của cái đẹp trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với lực lượng đối lập; là thắng lợi của lực lượng phản động, lạc hậu trước các lực lượng cách mạng, tiến bộ; là những hy sinh, tổn thất mà phía cách mạng phải gánh chịu trong cuộc đấu tranh với giai cấp lạc hậu.          2. BẢN CHẤT THẨM MĨ CỦA CÁI BI TOP

a. Cái bi là sự xung đột giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử với việc không đủ khả năng thực hiện được yêu cầu đó trong thực tiễn. Bản chất thẩm mĩ của cái bi là sự xung đột dẫn đến mất mát đau thương. Song, không phải mọi sự xung đột dẫn đến mất mát đau thương đều là cái bi. Cơ sở để xem xét việc nảy sinh cái bi là sự xung đột giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử với việc không đủ khả năng thực hiện được yêu cầu đó trong thực tiễn (C. Mác). Như vậy, những xung đột thông thường của đời sống không phải cơ sở nảy sinh cái bi. Chẳng hạn, những xung đột giữa những anh chàng nghiện rượu, tranh giành đất đai để rồi chém giết nhau. Do đó, những chết chóc đau khổ thường tình không nằm trong phạm trù cái bi của mỹ học. Nghệ sĩ Anh thế kỷ XIX, John Ruskin phân biệt:Thơ chỉ có thể lên tiếng với nỗi buồn của cô gái khóc cho tình yêu trong trắng bị tan vỡ, chứ không thể viết về giọt nước mắt của kẻ hà tiện đánh mất tiền. Ở đây có hai loại nước mắt, nước mắt cúa cái bi (nước mắt của cô gái) và nước mắt của cái hài (nước mắt của anh chàng hà tiện). Chỉ thuộc về cái bi những hy sinh tổn thất có ý nghĩa xã hội mang tính quy luật trong sự phát triển lịch sử.

Bi kịch cá nhân xảy ra trong tình yêu, trong gia đình, ngoài xã hội cũng có thể là cái bi, nếu đằng sau nó cũng chứa những xung đột xã hội, mang tầm vóc lịch sử. Chẳng hạn bi kịch số phận Chí Phèo (trong Chí Phèo), Hămlét (trong Hămlét), Mácbet (trong Mácbét), Lỗ Thị Phượng (trong Lôi vũ)... Các bi kịch xã hội như thoái trào cách mạng, tổn thất lớn lao của cuộc chiến đấu của quần chúng cách mạng cũng thuộc về cái bi. Chẳng hạn, phong trào Công xã Pari, 1871 ở Pháp.

b. Bi kịch làm trong sạch hóa những cảm xúc... Bi kịch có tác dụng to  lớn trong việc thanh khiết hóa tâm hồn con người. Aristốt, nhà triết học, mĩ học thời Hylạp cổ đại cho rằng: Bi kịch là sự bắt chước các hành động nghiêm túc và cao thượng, hành động này có một quy mô nhất định, Bi kịch nhằm miêu tả những con người tốt nhất. Nhân vật và lực lượng bi kịch có sức mạnh lớn lao, có ý chí mạnh mẽ, có lý tưởng đẹp đẽ, có khát vọng chân chính. Nhân vật bi kịch thất bại thậm chí bị tiêu diệt. Nhưng đặc trưng thẩm mĩ của cái bi lại không bi. Aristốt cũng đã từng khẳng định: bi kịch làm trong sạch

Page 24: Mỹ học đại cương

hóa những cảm xúc thông qua sự khêu gợi sự xót thương và khủng khiếp. Cảm xúc thẩm mĩ đối với cái bi vẫn là tình cảm tích cực, vẫn là vui,  phấn chấn... Chứ không phải là cảm xúc bi quan, tiêu cực.

Mỹ học tôn giáo nhấn mạnh tính chất công bằng của việc trừng phạt con người và những tội lỗi muốn mưu toan chống lại thế giới. Cách giải thích này tạo ra ở con người trạng thái nhẫn nhục, chịu đựng, phục tùng số mệnh, định mệnh. Mỹ học tư sản quan niệm cái bi như là sự bi đát của con người trước cuộc đời; như là sự xung đột vĩnh hằng giữa thân phận nhỏ nhoi của con người và sự vĩnh hằng bất tận của tạo hóa. Mĩ học Phong kiến phương Ðông, cũng bị chi phối khá nặng nề của tư tưởng định mệnh. Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều từng giải thích về tiếng khóc chào đời của con người lúc sơ sinh:

Thảo nào khi mới chôn rau

Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra

Thực ra, xung đột bi kịch dấy lên  ở con người những rung động thẩm mĩ sâu sắc. Nó khơi dậy ở con người tình cảm cao cả, lành mạnh, kích thích những hành động mãnh liệt, thúc đẩy con người đấu tranh vì hạnh phúc, tôi luyện con người.

c. Cảm xúc thẩm mĩ của cái bi là cảm xúc vui: Tại sao cảm xúc thẩm mĩ trong bi kịch lại là cảm xúc vui? Khi nhìn những diễn viên trình diễn những bi kịch, ta nhỏ lệ biểu lộ sự đồng tình hay lòng trắc ẩn, mà mặt mày như tươi tỉnh sáng lạn, tâm tư dàn trải thoải mái. Máu và nước mắt thường đem lại cho ta những ý nghĩ ngọt ngào tươi mát hơn là những nụ cười hoan hỉ. Vậy cảm xúc vui tươi trong bi kịch do đâu mà có? Phương Tây có nhiều cách giải thích khác nhau.

Platon, với quan điểm của mình là xuất phát điểm cho thuyết Vui cười trước tai họa của thiên hạ, ông cho rằng nỗi sầu muộn là những đức tính yếu kém của con người, cần phải vứt bỏ. Âúy vậy mà bi kịch lại kích thích nó lên. Như thế là không đạo đức. J. J. Rousseau tiếp tục thuyết này, cho rằng bi kịch là biểu lộ niềm hân hoan khoái lạc trước tai họa. Cho nên, ông khuyến cáo người ta chớ nên mở kịch trường. Sau này E. Faguet khai triển tư tưởng của J. J. Rousseau, cho rằng: con người là một mãnh thú, tìm khóai lạc trước đau khổ của kẻ khác. Ông chứng minh điều đó ơ: những cuộc thi đấu giữa người và thú trong thời Lamã; những cuộc đấu bò rừng ở Tâyban nha, những vụ hành hình tàn khốc đối với kẻ khác tôn giáo thời Trung cổ; người ta thích đọc báo về những tin tức các vụ đâm chém nhau... Thực ra, nếu đúng như vậy thì việc gì phải bỏ tiền ra xem những cảnh tưởng tượng mà không tìm đến những cảnh thực.

E. Burker (Anh quốc thế kỉ XVIII) đưa ra thuyết ngược lại với thuyết tính ác, là thuyết tính thiện. Cảm giác vui trong bi kịch là do lòng trắc ẩn, hay đồng tình tâm. Chính những sự rủi ro bất hạnh ấy cũng khiến ta cảm thấy khoan khoái. Con người ta thích pháp trường hơn kịch trường. Nghĩa là, chúng ta thương xót cho Hămlét, nên rất vui khi thấy nhân vật này chết một cách bi thảm.

Page 25: Mỹ học đại cương

Dubos (Pháp quốc, thế kỉ XVII), Thomas (đại học Colombia) lại giải thích bằng nguyên nhân tâm lí. Theo họ, bản tính con người vốn hiếu động, thích những cảm giác mạnh. Sự kích thích càng mạnh thì cảm xúc vui càng đậm. Bi kịch là liều thuốc công hiệu giúp con người vui. Bi kịch lấy chết chóc làm đề tài. Mà, chết là tai họa khủng khiếp. Do đó, bi kịch là đá nam châm mạnh nhất gây kích động cho óc tưởng tượng. Nhưng thế thì, tại sao tai họa thực ngoài đời không làm cho con người thích. Nhưng tai họa tưởng tượng trong nghệû thuật lại làm người ta thích. Fontenelle cho rằng khoái lạc và đau khổ tuy khác nhau nhưng nguyên nhân chỉ là một. Giống như sự gãi cào ngoài da, gãi cào mạnh thì đau, nhẹ thì thích thú. Bi kịch là đem những sự đau khổ thực lên sân khấu. Tuy đó là thực tại, nhưng lại không phải là thực tại. Những cảm giác đau khổ khi đứng trước những nạn nhân vô cớ bị tai họa giảm bớt đi, thành ra những nỗi vui thích. 

Schiller  & Hegel (Ðức quốc thế kỉ XVIII) dùng quan điểm triết học để giải thích. Sự xung đột vũ trụ là điều tất yếu. Có xung đột thì có đấu tranh, đấu tranh mới có ý thức đạo đức, có ý thức đạo đức mới tìm thấy khoái lạc. Nguồn vui lớn nhất sẽ đạt được từ sự phấn đấu cam go với nghịch cảnh,  trong đó chứa đựng đau khổ. Vũ trụ là một khối lý tính vừa xung đột, vừa hài hòa. Ví dụ sự xung đột của con người vừa muốn làm trung thần, vừa muốn làm người con hiếu thảo. Mâu thuẫn này không thể dung hoà, trở thành bi kịch. Ðứng trên quan điểm vũ trụ thì bi kịch là luật của tạo hóa, là  công lý vĩnh cửu. Khi xem kịch ta thấy được tính chất công lý vĩnh cửu, do đó ta khoái. Những người này viện dẫn vở bi kịch Ăngtigôn của Sôphốcl: Polinice con của quốc vương xứ Thèbes sau khi cha chết, mượn lính nước địch để giành ngôi vua. Tân vương Créon giết kẻ phản bội, cho cho phơi thây, cấm mai táng. Antigon, em ruột của Polinice, cháu ruột Créon không nỡ nhìn thi hài anh ruột phơi, nên tìm cách che đậy. Nàng đính hôn với con trai Creon là Hemon. Antigon bi xử chém. Hemon tự treo cổ cho vẹn tình. Theo Hegel, Créon đại diện cho lý tưởng pháp luật, Antigon đại diện cho lí tưởng anh em. Hai lý tưởng đều chính đáng nhưng trên quan điểm vũ trụ thì mâu thuẫn. Schopenhauer lại cho rằng đời là bể khổ, con người ngụp lặn trong tai họa nghiệp chướng nhưng không chịu khước từ bởi doý dục sinh tồn kiềm chế. Bi kịch dạy cho con người biết ý thức tất cả đều hư không để thoạt nhiên đại ngộ. Nhân vật bi kịch khác người ta ở chỗ biết rõ tình thế mà buông tay đầu hàng, biết khước từ. (Còn ta bị dục vọng kìm hãm). Nhưng chính khước từ là thắng lợi. Quả là nhiều nhân vật bi kịch trước khi hấp hối đã khước từ. Nhưng không phải mọi nhân vật bi kịch đều khước từ. Macbeth chết than trời, Othello trong khi tự sát cũng hận người (không khước từ). Triết gia Ðức thế kỉ XIX, Nietzsche cho rằng thế giới đầy tai họa nghiệp chướng nhưng nếu ta vứt bỏ được những ràng buộc, bủa vây của thế giới thực tại đầy hẹp hòi để đứng trên cao nhìn lại, thì lại thấy nó là một bức tranh kỳ vĩ, đẹp lạ lùng. Cũng như Thượng đế sau khi sáng tạo ra vũ trụ, tự mình nhìn lại, nó như một tác phẩm nghệ thuật.

  Freud với lí luận về mặc cảm Oedipus, cho rằng văn minh là cái vỏ che đậy tâm địa dã man của con người. Tâm địa chứa chất dục vọng, mà mãnh liệt nhất là tính dục. Nhưng dục vọng và đạo đức, pháp luật mâu thuẫn dẫn đến dục vọng bị dồn ép thành mặc cảm. Mặc cảm không phát tiết được có thể phát sinh bệnh thần kinh hay thác loạn. Có lúc dục vọng có thể hóa trang để có thể vượt khỏi sự kiểm soát của ý thức. Bi kịch là một hiện tượng, một biểu hiện. Mặc cảm này được gọi mặc cảm Oedipus. Mỗi người đều có

Page 26: Mỹ học đại cương

mặc cảm Oedipus. Khi xem vở kịch này dục vọng ta được thỏa mãn một cách gián tiếp, cho nên ta phát sinh niềm vui trong khi xem kịch.

     Tất cả những kiến giải vừa nêu đều không giả thích được một cách đúng đắn nguyên nhân cái vui trong bi kịch. Vậy nguyên nhân đúng đắn là ở đâu? Bi kịch là một thứ tác phẩm nghệ thuật, xem bi kịch là một thứ kinh nghiệm mĩ cảm. Kinh nghiệm mĩ cảm xuất hiện khi ta trực giác hình tướng sự vật. Trong lúc thưởng ngoạn ta quên hẳn lợi hại của thực tế mà đứng ở địa vị khách quan để quan sát, coi vũ trụ và đời sống là một bức tranh. Tai họa thực trong đời sống khiến ta thương xót và lo sợ, nhưng tai họa trong kịch, sau giây phút lo sợ là nguồn vui. Sở dĩ như vậy là vì, khoảng cách tâm ly.ï Giữa người xem và những cảnh trên sân khấu có một khoảng cách không quá xa, không quá gần. Không quá xa, để thấy rằng sự kiện trên sân khấu là hợp lý, hợp tình. Không quá gần, để xem không ngộ nhận bi kịch trên sân khấu là cuộc sống thực tế. Phàm bi kịch chân chính thì không được tả thực. Phàm khán giả kịch chân chính thì không cho tình cảm thực dụng xen lấn vào mĩ cảm. Những tình cảm phát tán trong bi kịch khác tình cảm phát tiết trong thực tế. Trong tâm tư khán giả, thế giới kịch là biệt lập, không liên can đến lợi hại thực tế. Khi thưởng ngoạn kịch, khán giả hội tụ tinh thần, bị sức lôi cuốn của sân khấu, do đó cũng sống hăng say, cũng hoạt động phát tán tình cảm. Nhưng phát tán này kèm theo sự sảng khoái, khác kinh nghiệm thường nhật là đèo bòng phiền lụy, bực bội, lo âu.

Hơn nữa, cảm xúc vui trong bi kịch, xuất phát từ chỗ, không phải cái chất, hay sự thất bại của con người. Mà là, ở chỗ con người dám chấp nhận thất bại, dám hi sinh vì những lí tưởng cao cả.            3. CÁC DẠNG BI KHÁC NHAU TOP

a. Bi kịch cái mới trong thế yếu: Ðây là loại bi kịch có tính chất lịch sử.

Bản chất thẩm mĩ của cái bi trong loại bi kịch này là Sự xung đột giữa yêu cầu tất yếu về

mặt lịch sử và tình trạng không thể thực hiện được trong thực tế (C. Mác). Cái mới, cái

cách mạng đang trong thế yếu, chết, hoặc thấtbại. Nhân vật của cái bi này chết một cách

vĩ đại vì họ đang đại diện cho trào lưu lịch sử. Họ trở nên anh hùng vì động cơ, hành

động, do trách nhiệm trước lịch sử. Lịch sử mãi mãi ca ngợi sự thất bại của nghĩa quân

Yên Thế với cái chết của Hoàng Hoa Thám. Hoặc lịch sử sẽ ghi nhớ mãi mãi Phạm Hồng

Thái với tiếng bom Sa Ðiện.

b. Bi kịch của cái mới trong hoàn cảnh trớ trêu: Ðây cũng là cái bi lịch sử,  bi

kịch lịch sử. Cái mới cách mạng đã ở thế thắng trên toàn cục. Nhưng một bộ phận nào đó

lâm vào hoàn cảnh trớ trêu, khiến người anh hùng sa cơ. Chẳng hạn, Chiến bại, Ðội cận

vệ thanh niên của Phađêép; Hùng  & Rin trong Bài ca con chim Chơrao; Võ Thị Sáu

trong Mùa hoa lêkima... 

Page 27: Mỹ học đại cương

c. Bi kịch của sự lầm lạc của cái cũ: Cái cũ muốn trở thành cái bi, theo

Mác, phải xét theo 3 tiêu chí: 1, Cái cũ chưa mất hết vai trò lịch sử, chưa trở thành cái

xấu. 2, Bản thân cái cũ còn tin vào tính chất hợp lý của mình. 3, Những con người đứng

về phía chế độ cũ không phải là sự lầm lạc có tính chất cá nhân, mà là sự lầm lạc có tính

chất lịch sử toàn thế giới. Chính vì vậy, cái chết của nó là bi kịch (Mác). Bản chất cái bi

của sự lầm lạc củacái cũ là do chưa nhận ra được tính tất yếu về mặt lịch sử. Chẳng hạn,

Ðônkihôtê. Ông ta có lý tưởng nhưng lý tưởng lạc hậu, đấu tranh cho lí tưởng nhưng

không ý thức được rõ ràng nó mà chỉ hành động theo thói quen.  Nhưng người như

Ðônkihôtê thất bại là tất yếu. Vì, đơn thương độc mã. Sự thất bại của vua Duy Tân và

việc bị Pháp bắt đày đến trọn đời, cũng là một ví dụ.

d. Bi kịch của cái xấu: Ðây là bi kịch của chính tội ác, chứ không phải bi  kịch

của cái đẹp, cái tốt hay sự lầm lạc. Ở đây người ta không lấy nước mắt răn đời,  không

lấy xót thương làm luyến tiếc. Mà lấy sự khủng khiếp để nhắc nhở con người chớ làm

điều khủng khiếp. Aristốt nói về đặc trưng thẩm mĩ của loại bi kịch này: Bi kịch làm

trong sạch hóa những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi sự thương xót và khủng khiếp.

Chẳng hạn bi kịch của cái xấu qua vở kịch Macbét. Ở bi kịch này, lòng tham và tội ác bị

trừng trị. Ðây là một bi kịch chính trị- xã hội. Tác giả lên án chế độ tập quyền chuyên chế

triều Giêm I, tên vua bạo tàn Anh quốc đầu TK XVII.

đ. Bi kịch của sự  lầm lạc, kém hiểu biết, ngu dốt: Bi kịch này được nêu ra như là

bài học xương máu trên đường đời để nhắc nhở cảnh tỉnh. Bi kịch về sự kém hiểu biết

liên quan đến sự ngu dốt của con người. Sự ngu dốt là con quỷ mà chúng ta e rằng nó còn

gây ra nhiều bi kịch. Chẳng hạn, câuchuyện An Dương Vương;          bi kịch Othello; bi

kịch Êđíp làm vua; Truyện Người con gái Nam Xương.

Thuộc về cái bi này còn có bi kịch do tai nạn, sức mạnh mù quáng của tự

nhiên.  Ví dụ, cái chết của người đi thám hiểm.

e. Bi kịch của những khát vọng cá nhân chính đáng: Ðây là bi kịch những nỗi đau đời thường tình (lẽ sống, tình yêu, sứ mệnh con người, nói chung). Ở bi kịch này, xung đột gay gắt giữa khát vọng chính đáng của con người và khả năng của bản thân không thể thực hiện được. Ví dụ bi kịch của

Page 28: Mỹ học đại cương

Thị Kính trong chèo Quan âm Thị Kính; của Maxlôva trong tiểu thuyết Phục sinh của L.Tônxtôi, của Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du...V. PHẠM TRÙ MĨ HỌC CÁI CÁI HÀI          1.  KHÁI NIỆM TOP

          Ðiểm tựa của đời sống thẩm mĩ là cái đẹp. Người ta dựa vào tiêu chuẩn cái đẹp để định giá tất cả. Khi cái đẹp bị xâm phạm, bị tiêu diệt, bị thất bại thì sinh ra cái bi. Cái bi là nước mắt răn đời. Khi cái xấu bị đánh lộn sòng với cái đẹp thì sinh ra cái hài. Cái hài là tiếng cười phủ nhận cái xấu,  khẳng định cái đẹp.          2. ÐẶC ÐIỂM TOP

a. Cơ sở của cái hài là những mâu thuẫn vốn có trong đời sống, mâu thuẫn giữa cũ và mới, hình thức và nội dung; là sự vi phạm những chuẩn mực của đời sống, vi phạm quy luật của cái đẹp. Những cái đó gây ra tiếng cười.

Nguyên nhân phát sinh tiếng cười trong cái hài vô cùng phong phú và phức tạp. Giải thích vì sao cái hài đưa đến sự khoái thích? Cái gì trong cái hài làm bật ra tiếng cười? Các nhà mĩ học có nhiều kiến giải khác nhau. Platon, Aristote cho là do đố kị. Platon cho rằng: lòng đó kị ấy là tâm lý tìm cái vui trong tai họa của kẻ khác là. Ông nói: Khi chúng ta cười những ngu xuẩn dại dột của bạn, sự khoái thích đó liên tưởng đến trạng thái đố kị. Chúng ta chấp nhận rằng trong tâm lý sự đố kị là một thứ đau khổ; thế thì khi chúng ta lấy sự ngu xuẩn của bạn bè làm trò cười, một mặt có kèm theo sự đau khổ của đố kị, một mặt khác lại kèm theo sự khoái thích của nụ cười. Nghĩa là, một mặt, lòng đố kị lại là động cơ của tiếng cười; mặt khác, đề cập đến sự liên hệ giữa cái bi và cái hài, thuyết minh rằng trong cái hài vừa có đau khổ vừa có thích thú. Aristote luận về cái hài cũng có điểm tương tự Platon. Ông cho rằng: Những tính cách mà hài kịch mô phỏng, so ra nó thấp kém hơn chính bản thân chúng ta, nhưng nó thấp kém không phải toàn là hung ác. Tính chất của sự buồn cười chỉ là một thứ xú ác. Quan niệm của ông  có sự phân biệt giữa đối tượng vui cười và ghen ghét. Cái gì hung ác khiến người ta ghét. Cái gì vụng về, xấu xa khiến người ta cười. Những nhân vật khiến ta cười thường ta không thấy tính chất khả ố. Những nhân vật trong hài kịch lắm lúc thấy khả ái. (Ðiểm đáng lưu ý, Aristote nêu ra hài kịch thường sử dụng tài liệu xấu xí).

Hobbes, triết gia Anh quốc, đề xướng thuyết Bỉ di. Quan niệm của Hobbes là Mỗi khi chúng ta bắt gặp một người hay một sự vật gì với tình cảnh khập khểnh hay không vững vàng là có thể phát thành tiếng cười. Nguyên nhân tình cảm của tiếng cười là do kẻ phát ra tiếng cười đột nhiên thấy mình, hay nghĩ đến tài cán của mình. Khi người ta cười kẻ khác là lúc người ta tự thấy tài năng của mình. Nghe người khác nói mà mình cười cũng do mình tự nghĩ kẻ nói là điên khùng. Cho nên, tình cảm của nụ cười là thấy được nhược điểm kẻ bên cạnh, hay nhược điểm bản thân trong quá khứ. Khi thấy được nhược điểm của người bên cạnh hay của mình trong quá khứ, đột nhiên nghĩ đến ưu thắng của mình sẽ đưa đến cảm giác thắng lợi thình lình (Sudden glory). Thực ra, tiếng cười mà Hobbes phát hiện là loại tiếng cười: tiếng cười khinh khi, chứ không phải tất cả tiếng

Page 29: Mỹ học đại cương

cười. Tiếng cười bật ra khi đứng trước khung cảnh mát mẻ êm đềm của đất trời rõ ràng không phải là do Sudden glory.

Với H. Berson thời cận đại, thì tiếng cười xuất phát từ  hai sự kiện. Một là thấy sự khiếm khuyết của người bên cạnh. Hai là, tự hào về bản thân mình. (Khác Hobbes là bao hàm sự ác ý). Berson cho rằng có 3 đặc điểm của nụ cười. Một, đối tượng của tiếng cười là con người (vì chỉ có con người mới có tiếng cười; cảnh vật đẹp, xấu... không thể nào biết cười). Việc ta nhìn những đồ vật mà bật cười là do ta liên tưởng đến sự vụng về của con người. Hai, tiếng cười phát sinh do lý trí. Tiếng cười không dung hợp những tình cảm quá mãnh liệt. Ví dụ thấy sự vụng về của bạn mà mình dận, ghét thì không sao cười được. Ba, tiếng cười cần có sự hồi thanh, đáp ứng phụ họa. Một người đơn độc khó lòng phát ra tiếng cười. Tiếng cười phải có sự thông cảm của người xung quanh. Từ đó, Berson phát hiện tiếng cười trong hài kịch: đó là sự dung hợp giữa sự sống và tính chất cơ giới. Chẳng hạn, người đang đi thình lình trượt chân té (do người bị té không biết tùy cơ ứng biến lúc trượt chân, do sự vô tâm, vụng về, biểu lộ bộ máy không có sự sống). Hoặc giả, người A bắt chước động tác người B, sự bắt chước càng giống càng khiến người ta cười, vì chứng tỏ anh làm việc như cái máy. Tính chất máy móc của hành vi con người, của cuộc sống, làm bật ra tiếng cười. Vậy, vì sao tính chất máy móc của cuộc sống lại gây cười? Cuộc sống hoàn mỹ phải có: tâm linh luôn căng thẳng và có tính chất co giãn, biến chuyển để tùy cơ ứng biến. Nếu thiếu hẳn 2 yếu tố trên thì không sao tránh khỏi sự vụng về, thô lậu của hành động, của ngôn ngữ, do đó dẫn đến hài kịch. Vì vậy, tiếng cười phát ra để cảnh cáo. Tiếng cười còn là sự trừng phạt, làm người bị cười tỉnh ngộ, sửa mình. Như vậy, theo Berson, tiếng cười không có tính cách thuần mĩ cảm và các vở hài kịch cũng không tính chất thuần nghệ thuật. Học thuyết Berson có phần nào hợp lí. Nhưng sai lầm là ở chỗ, đem tất cả sự phức tạp gói ghém miễn cưỡng vào một công thức đơn giản. (Ví dụ, nụ cười của trẻ thơ thì sao? Hoặc, người giống máy móc thì cười, nhưng máy móc giống người (phim hoạt hình chẳng hạn) vẫn cười, thì sao? Sai lầm khác là giải thích công dụng và nguồn gốc tiếng cười nhưng không đề cập vì sao khi có tiếng cười lại phát sinh khoái cảm. Sai lầm thứ ba, cho rằng tiếng cười là sản phẩm của lí trí mà quên phương diện tình cảm.

Aristote và sau này người phụ họa quan trọng là Kant đã đưa ra Thuyết ngang  trái (Incongruity) hay thuyết thất vọng (Nullified Expectation).Thuyết này cho rằng, Sự việc khiến ta cười là do sự phối hợp bất bình thường, ta kì vọng vào sự bất bình thường đó, nhưng kết quả khác đi, tiếng cười biểu hiện kỳ vọng bị tiêu tan. Ví dụ, nghe tiếng động trong tủ, ta tưởng chuột, mở ra, nào ngờ một cậu bé nấp trong ấy, ta bật cười. (cười vì ngang trái, vìthất vọng.) Kant, trong Phê phán phán đoán mĩ cảm, giải thích: một kì vọng quá căng thẳng, thình lình bị tiêu tan thành thất vọng thì phát sinh ra tiếng cười. Có điều, chính sự tiêu tan kì vọng không trực tiếp đem đến sự khoái cảm, mà khóai cảm là kết quả của sự khôi phục lại thể trạng bình thường. Ví dụ, Một người Ấn Ðộ lang thang trên một thị trấn Anh quốc, thình lình thấy người người ta mở chai bia, rồi bọt trào lên. Anh ta reo lên kinh ngạc. Người ta hỏi: anh lạ lắm sao? Anh ta đáp: Chai bia trào bọt không lạ đối với tôi, lạ là tại sao các anh khui bia nơi này. (Chuyện gây cười ở chỗ kì vọng của chúng ta dâng lên cao, rồi đột nhiên bị tiêu tan). Sau này, Schopenhauer làm sáng tỏ, giảng giải thuyết của Kant, cho rằng cười phát sinh do kì vọng bị tiêu tan. Sựû tiêu tan kì vọng phát sinh cảm giác, cảm giác lại thuộc vào khái niệm ngang trái. Ví dụ, Ở

Page 30: Mỹ học đại cương

một rạp hát nọ tại Paris, trong một đêm trình diễn, khán giả nhao nhao yêu cầu trình diễn bản nhạc Marseillaise. Ban nhạc chưa chấp thuận, đám khán giả cứ nhao nhao. Một cảnh sát nhảy lên sân khấu duy trì trật tự, anh ta nói: theo thông lệ, cái gì không nêu thành tiết mục trong chương trình thì không diễn. Trong đám khán giả, có người đứng lên chất vấn: Thưa ông cảnh sát, thế, trong chương trình có tiết mục cảnh sát lên sân khấu không? Nghe câu chất vấn cả hí trường cười rộ lên.

Quả là, có tiếng cười phát sinh do sự ngang trái nhưng không phải mọi sự ngang trái đều sinh ra tiếng cười. Chẳng hạn những sự ngang trái sau đây không hề làm ta cười: người tàn phế khiêng vác nặng, thằn lằn rơi vào hũ sơn; phụ bất từ, con bất hiếu... Lại có những sự việc nằm trong dự liệu nhưng vẫn gây cười, chẳng hạn, trẻ con chơi nhẩy lò cò. Khuyết điểm lớn của Kant là tiếng cười thì thình lình nó đến, không kịp suy tư chứ không phải như ông ta cho rằng mỗi khi cười đều có sự chuẩn bị.

Spencer, nhà tâm lý Anh tin ở thuyết ngang trái nhưng không xuất phát từ  quan điểm lý trí. Ông lưu tâm đến việc tiếng cười có liên hệ đến sinh lý và tâm lý. Ông vân dụng thuyết thặng dư tinh lực. Tinh lực thừa cần phát tiết vào các động tác cơ thể, con đường phát tiết thường hướng về việc vận lực tối thiểu để dễ đề kháng. Trong cơ thể, bộ phận có sức đề kháng tối thiểu, dễ dàng cảm thụ sự biến hóa của tình cảm, trước hết là cơ quan phát âm (Những đường gân, những dây thần kinh trong miệng cực nhỏ. Do nhỏ nên dễ động, tình cảm hơi có một chút biến chuyển là những đường gân, thớ thịt trong miệng lập tức biểu hiện ra ngay). Kế đến là bộ phận hô hấp (Khi tình cảm hứng khởi thì máu chảy mạnh, máu chảy mạnh nên hô hấp mạnh hơn). Tinh lực thặng dư phát tiết trước hết ở 2 cơ quan này, từ đó mà có tiếng cười và âm thanh.

Nhưng tại sao chúng ta cười khi thặng dư tinh lực. Theo Spencer, đó là do ngang trái đi xuống (Descending incongruity). Chẳng hạn, hề xiếc nhảy ngựa. Ta cười là vì tập trung hết tinh thần để chờ đón một kết quả lớn lao, nhưng rồi thực tế là số không. Như thế, tinh lực mà chúng ta chuẩn bị đã không có chỗ dùng, nên thặng dư. Lipps, thời cận đại, triển khai thuyết ngang trái đi xuống của Spencer. Nếu Spencer đứng trên quan điểm sinh lý giải thích tiếng cười, thì Lípps lại đứng trên quan điểm tâm lý. Lipps đã tổng hợp hai học thuyết: thuyết tiêu tan kỳ vọng của Kant và tinh lực thặng dư của Spencer, làm thành học thuyết của mình. Theo ông, những cảnh phát sinh ra tiếng cười do sự khác biệt lớn, nhỏ. Khi đang chú ý cái lớn thì nhỏ xuất hiện. Âúy là hài kịch. Sự chuẩn bị tâm lực nhiều mà sử dụng ít thì sẽ có khoái cảm của sự dư thừa tinh lực. Tình cảnh hài kịch không thể không có cái lớn nhưng gây cười lại ở cái nhỏ. Ví dụ, người lớn đội mũ trẻ con. Tóm lại, với những học thuyết này, tiếng cười có giai đoạn sinh lí và giai đoạn tâm lí. Lí luận về tiếng cười thuộc sinh lý của Spencer có nhiều phần không đúng. Bởi nếu nói cười là do sự phát tiết của gân cốt gây ra, vậy khi gân cốt phát tiết hết thì hết cười. Thế mà nhiều người thích cười, khi gặp chuyện vui vẫn cười được. Lí luận tiếng cười thuộc tâm lý của Lipps cũng có chỗ không đứng vững. Cái ngang trái gây ra tiếng cười không nhất thiết là đi xuống. Ví dụ: hề xiếc nhảy ngựa: khi hề thình lình đứng lại (ngang trái đi xuống), gây cười, nhưng rồi anh ta thình lình nhảy được (không ngang trái đi xuống) vẫn gây cười. Sully  phê phán Spencer ở chỗ, ta cười là lưu ý đến toàn bộ, toàn diện của tình huống, chứ đâu kịp phân chia lớn nhỏ; cười đến một cách thình lình. Cái gây cười là do

Page 31: Mỹ học đại cương

ngang trái toàn thể. Tâm lý học cho ta rõ, tri giác trước hết là tri giác toàn bộ, rồi sau đó mới phân định chúng từng bộ phận. Như thế thuyết của Lípps khó đứng vững.

Pejon (Pháp quốc), A. Bain (Anh quốc), Dewey và Kline Bain (Mỹ quốc) là những đại biểu của thuyết tự do (liberty theory). Cười là đối ngược với sự nghiêm trang. Hằng ngày đứng trước thế giới tôn nghiêm. Chúng ta như bị ràng buộc căng thẳng, nếu thình lình thoát được, ta vui thích. Chẳng hạn, học sinh được giải lao thì vui cười. Hoặc giả, trong khi hành lễ trang nghiêm, nếu có ai sơ suất hớ hênh thì khiến ta bật cười. Suy rộng ra, thế giới là sự ràng buộc con người. Cười là sự giải thoát. Bersson nói: Cười là bột phát tự do, là vui mừng thoát bỏ được những ràng buộc của văn hóa. Người línhchiến bị bao vây, khi được giải thoát thì cười, là vì được tự do. Thực ra, từ căng thẳng sang hòa hoãn, thong thả, không nhất thiết lúc nào cũng bật ra tiếng cười. Nó chỉ có ý thức trợ giúp tiếng cười nhưng không chủ yếu.

Sully (Anh), Dugas (Pháp), Boris Sidis (My) cho rằng cười là do chơi đùa. Quan niệm này cũng có phần khả thủ. Tuy nhiên, cười là một thứ trò chơi, thứ vui đùa, nhưng không hoàn toàn vui đùa hẳn. Vì, tiếng cười không do ta ý thức trước, nó bất ngờ xẩy đến, có tính chất bị động. Còn vui đùa có tính chất chủ động từ trước.

Thuyết tiết giảm tinh lực của Freud lại chia khôi hài ra làm hai loại, loại khôi hài vô hại (vui đùa không có ác ý, đơn thuần do kỹ thuật ngôn từ đưa lại); loại, khuynh hướng khôi hài. Trong loại này lại phân ra làm hai loại nhỏ: khuynh hướng tính dục và khuynh hướng cừu địch. Cười do khuynh hướng tính dục là do dâm tính phát ra để đối phó với người khác phái. Tức bãi bỏ được ẩn ức, nên sinh ra khoái cảm. Cười do khuynh hướng cừu địch là do nhằm áp đảo được lạc thú của kẻ khác. Ví dụ: Một mục sư hỏi Phillips, người đang vận động cho phong trào giải phóng nô lệ da đen: Ông muốn cứu vớt nô lệ da đen, sao ông không đến Nam Mỹ?. Phillips đả lại: Mục sư há không phải là người chuyên làm việc cứu vớt linh hồn đó sao?! Tại sao mục sư không xuống địa ngục? Thực sự, thuyết tiết giảm tinh lực phạm nhiều sai lầm. Bởi, sự tiết giảm không hẳn đã đưa đến khoái cảm. Tiết giảm trong khoa học, trong kinh tế, rõ rằng không phải là một thứ khôi hài.

Tóm lại, tất cả những học thuyết trên về nguyên nhân tiếng cười, mỗi học thuyết đề có những chỗ có thể chấp nhận được. Nhưng cái sai của các thuyết ấy là ở chỗ dùng cái nhìn phiếm diện của mình mà bao quát toàn bộ chân lí, đem cái đa phồn, phức tạp của vấn đề mà quy vào một công thức đơn giản, ngắn gọn.

b. Tình cảm của tiếng cười trong cái hài là mĩ cảm. Một khiếm khuyết khác của các học thuyết trên là vấn đề tình cảm trong tiếng cười của cái hài có phải là mĩ cảm không, thì chưa được bàn đến. Những học thuyết trên nhập làm một cái hài và tiếng cười, tiếng cười trong cái hài và tiếng cười ngoài cái hài. Rõ ràng là, không phải mọi tiếng cười đều thuộc cái hài. Khi bị thọc lét, khi trong lòng cảm thấy thỏa mãn sung sướng về nhu cầu vật chất, ta cười. Cái cười này không thuộc cái hài. Cười bắt được vàng, trúng số không phải là cái hài. Bởi như đã nói, cảm xúc thẩm mĩ là cảm xúc vô tư, không vụ lợi, những khoái cảm vừa nêu xuất phát từ động cơ thực dụng. Tiếng cười trong

Page 32: Mỹ học đại cương

cái hài tuy rất đa dạng, nhưng có một điểm chung: cười do không chấp nhận cái xấu. Cái xung đột, xấu xí, mâu thuẫn với cái đẹp khiến cho người ta phải cười. 

c. Cái hài là một sự nhận thức. Ðiều kiện để có cái hài là phải có đối tượng gây cười và chủ thể cười. Ðối tượng gây cười là những sự vật hiện tượng chứa đựng mâu thuẫn, mà những mâu thuẫn này phát sinh ra tiếng cười: không cân xứng, không phù hợp giữa các mặt. Chủ thể cười phải nhận thức được mâu thuẫn đó, mới phát sinh ra tiếng cười. Như vậy, cái hài là một kiểu nhận thức. Nhưng sự nhận thức này là sự nhận thức khám phá ra những mâu thuẫn bất bình thường của sự sống. Nói như Platon: Không thể nhận thức được cái nghiêm chỉnh nếu thiếu cái buồn cười, và nói chung, cái đối lập được nhận thức nhờ cái đối lập với nó.

d. Cái hài cũng mang khuynh hướng xã hội. Cười cái xấu là dám tin, dám khẳng định cái đẹp. Cái hài là một sự đánh giá, thực hiện thái độ của người làm chủ đối tượng, làm chủ bản thân mình. Cái hài là vũ khí đấu tranh xã hội.

          3. CÁC LOẠI HÀI TOPa. Hài hước: Hài hước là cái cười do mâu thuẫn thuộc bề ngoài mang tính

chất nhẹ nhàng thoải mái. Truyện nói dóc kiểu chuyện bác Ba Phi là biểu hiện của hài hước.

            b. Dí dỏm: Cái cười ở dí dỏm có tính chất trí tuệ. Mâu thuẫn gây cười nằm sâu trong lòng bản chất sự vật. Tiếng cười ở đây thường có ý nghĩa nhận thức. Những tranh vui trên báo chí, chuyện thư dãn trên đài truyền hình phần lớn là cái dí dỏm.

             c. Châm biếm, mỉa mai: Tiếng cười bắt đầu mang màu sắc phê phán, nhưng mức độ nhẹ nhàng, không mang tính chất thù địch, nó dành cho những hiện tượng buồn cười, thậm chí mù quáng, nhưng có thể sửa chữa được. Ví dụ, hầu hết các truyện trong Truyện Trạng Quỳnh thuộc loại này. Truyện về sự đối đáp giữa Tú Cát và Trạng Quỳnh là một ví dụ.

             Tú Cát hóng hách ra vế đối: Trời sinh ông Tú Cát

             Trạng Quỳnh đối lại:             Ðất nứt con bọ hung

             d. Ðả kích: Tiếng cười thể hiện khuynh hướng xã hội mạnh mẽ nhất, phê  phán ở đây có tính chất phủ định. Trong đả kích có thể không có tiếng cười hoặc có tiếng cười thì cười một cách nghiêm chỉnh. Ví dụ, truyện Ðại hội giải phẫu của Azitnêxin là tiếng cười đánh mạnh mẽ vào đạo luật cấm tự do ngôn luận, báo chí của nhà cầm quyền độc tài.    

4.) b. Phái cho rằng cái đẹp là sản phẩm của ý muốn chủ quan của con người. Kant, một triết gia duy tâm chủ quan, người Ðức, cho rằng: vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà nằm trong mắt của kẻ si tình. Như vậy, theo

Page 33: Mỹ học đại cương

Kant, cái đẹp là sản phẩm của ý thức cá nhân. Luận chứng về cái đẹp, Kant phân biệt hai phương diện của phán đoán: phán đoán mĩ cảm và phán đoán danh lí. Phán đoán danh lí dùng khái niệm làm cơ sở. Phán đoán mĩ cảm thì lấy cảm giác cá nhân làm cơ sở. Mà cảm giác là chủ quan, có tính cách cá biệt, tùy người, tùy nơi, tùy lúc. Trong quá trình thụ cảm thế giới, các sự vật, hiện tượng cảm tính, con người truyền cảm giác, đem đến cho sự vật hồn con người. Như vậy cái đẹp chỉ nảy sinh trong quan hệ chiêm ngưỡng của chủ thể đối với khách thể. Ở ngoài quan hệ này thế giới không đẹp cũng  không xấu. Nó phi thẩm mĩ. Cũng theo Kant, phần đông cảm giác chủ quan có tính cách cá biệt, tùy nơi, tùy lúc. Nhưng nó vẫn có tính chất phổ biến. Bởi vì, tuy dựa vào cảm giác chủ quan chứ không nhờ vào sự trợ giúp của khái niệm, nhưng khi một vật khiến ta thấy đẹp thì cơ năng tâm lý (như tri giác, tưởng tượng) hoạt động có tính chất hài hòa nên phát sinh một thứ khoái cảm không thực dụng. Một người thấy đẹp thì mọi người thấy đẹp vì cơ năng tâm lí con người giống nhau.

5.Phái cho rằng cái đẹp là cái có ích, cái có lợi ích thực dụng. Socrate, một triết gia Hylạp cổ đại, lí giải cái đẹp luôn luôn gắn với cái có ích. Thậm chí, đánh đồng cái đẹp với cái có ích: cái đẹp là cái có ích và cái gì có ích là cái đẹp. Ông giải thích: Cái mộc đẹp là vì nó để tự vệ, còn cái giáo đẹp là vì người ta có thể dùng sức mạnh mà lao về phía quân thù. Một người (Apirtipơ) chất vấn Socrate: Vậy cái sọt đựng phân là một vật đẹp hay xấu?Socrate đã không ngần ngại trả lời: Ðúng thế, thề có thần Zeus chứng giám, ngay cái mộc bằng vàng cũng bị coi là một vật xấu, nếu như nó được làm ra một cách kém cỏi, còn cái sọt đựng phân là đẹp khi nó nhằm được mục đích của nó.

Mĩ học Socrate được gọi là mĩ học vụ lợi. Sai lầm cơ bản của Socrate là đánh đồng cái đẹp với cái có ích. Tuy nhiên, quan niệm của ông có ý nghĩa quan trọng ở chỗ đưa thực tiễn xã hội vào định nghĩa cái đẹp.

C, . Phái cho rằng cái đẹp là thuộc tính khách quan của sự vật. Phái này  quan niệm: bản thân sư vật, tự nhiên đã chứa đựng cái đẹp. Cái đẹp không lệ thuộc vào ý muốn của con người. Màu sắc của sự vật tồn tại ngoài ý thức con người. Nó là thuộc tính tự nhiên của tạo vật. Ðẹp cũng thế. Ðẹp là phẩm chất của tự nhiên. Thuộc về phẩm chất đẹp của tự nhiên là thuộc tính cân xứng, hài hòa, nhịp điệu, cấu trúc không gian, thời gian... Platon cho rằng đường nét thẳng và đường tròn là đường đẹp. Họa sư Hogarth lại cho rằng đường cong và lượn sóng là đẹp. Vì nó đa dạng và có tính chuyển động. Chẳng hạn, lượn sóng trong nhảy múa, lượn sóng của bộ tóc, đám mây, đường eo của thân thể con người. Fechner (Ðức) lại cho cái đẹp là ở sự tỉ lệ. hình chữ nhật đẹp là loại hình có tỉ lệ 1/1,6 (tỉ lệ của 2 cạnh lá vàng). Leonardo De Vinci cho rằng người đẹp là người có tỉ lệ:

Page 34: Mỹ học đại cương

chiều dài thân mình cao gấp 7 lần đầu. Pythagoras cho rằng: đường nét và hình thể phải đối xứng mới đẹp. Vì sự phát sinh đối xứng có liên hệ đến số học. Cái đẹp có đặc tính của số học. Bớcnơ  và nhiều người khác coi cái đẹp là tổng số của những dấu hiệu sau đây: vật không lớn quá cũng không nhỏ quá ; sự hài hòa, sự thống nhất trong cái đa dạng.v.v... 

Vậy có đúng là cái đẹp nằm ở vật, là thuộc tính khách quan của sự vật không? Thực sự thì, những điều quan sát của các nhà mỹ học trên đây có ý nghĩa thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, những ý kiến vừa nêu trên không thể dùng để giải thích đầy đủ và đúng đắn bản chất của cái đẹp. Những dấu hiệu trên là những điều kiện có thể dẫn tới cái đẹp. Nó luôn luôn được bổ sung, và bổ sung một cách bất tận. Bởi, cái đẹp là vô cùng đa dạng và vô cùng tận. Sai lầm của các nhà mỹ học trên là, tách rời nội dung cụ thể của các hiện tượng khỏi ý nghĩa xã hội của nó. Không đặt chúng trong mối quan hệ với con người thì sẽ không phát hiện ra ý nghĩa thẩm mĩ của đối tượng. Ðường thẳng, tròn, cong, uốn lượn; sự tỉ lệ, cân đối, hài hòa, bố cục hình kim tự tháp... có cả trong đối tượng đẹp và  cả đối tượng xấu. Rõ ràng là màu hồng đẹp khi ở trên má, nhưng là xấu ở trên mũi của cô gái. Sự cân đối của cặp mắt, đôi vai thì đẹp, nhưng sự cân đối của răng khểnh, của nốt ruồi thì không đẹp. Con bướm, con cóc thân hình đều hài hòa nhưng chưa ai coi con cóc là đẹp. Sai lầm cơ bản của các quan niệm trên còn là: tìm bản chất cái đẹp ở mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật, hiện tượng trên cơ sở những thuộc tính vật lý, toán học của đối tượng; trong khi lẽ ra tìm bản chất cái đẹp, cũng như các hiện tượng thẩm mĩ khác ở mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng trong mối quan hệ với xã hội, với ý thức con người.

6,