185
MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên) LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ? So với đạo đức học và lô-gích học, mỹ học hình thành như một khoa học muộn hơn rất nhiều. Trong Khi các ngành khoa học trên đã được định danh và xây dựng ngay từ những thế kỷ trước Công nguyên, thì mãi đến đầu thế kỷ XVIII mỹ học vẫn chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi triết học để khẳng định vị trí độc lập của nó. Mặc dù vậy, ý niệm về thẩm mỹ và các tư tưởng mỹ học đã xuất hiện ngay từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại. Bởi vì từ khi đứng được trên đôi chân của mình, con người đã cảm thấy đòi hỏi về cái đẹp như một nhu cầu không thể thiếu được, đồng thời với đòi hỏi về sự thật và đạo đức. Để đáp ứng cho khát vọng về chân lý ở con người, lô- gích học đã hình thành như một khoa học có mục đích xác định tính đúng đắn hay tính sai lầm trong những thao tác của trí tuệ. Để đáp ứng cho khát vọng về cái thiện, nhân loại đã xây dựng đạo đức học như một lý thuyết giúp con người nhận chân thiện và ác, như một "khoa học về bổn phận" (Kant) của con người ở đời.

MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

  • Upload
    lehanh

  • View
    268

  • Download
    12

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG

MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG

LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên)

LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ?

So với đạo đức học và lô-gích học, mỹ học hình thành như một khoa

học muộn hơn rất nhiều. Trong Khi các ngành khoa học trên đã được định

danh và xây dựng ngay từ những thế kỷ trước Công nguyên, thì mãi đến đầu

thế kỷ XVIII mỹ học vẫn chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi triết học để khẳng

định vị trí độc lập của nó.

Mặc dù vậy, ý niệm về thẩm mỹ và các tư tưởng mỹ học đã xuất hiện

ngay từ buổi bình minh của nền văn minh nhân loại. Bởi vì từ khi đứng được

trên đôi chân của mình, con người đã cảm thấy đòi hỏi về cái đẹp như một

nhu cầu không thể thiếu được, đồng thời với đòi hỏi về sự thật và đạo đức.

Để đáp ứng cho khát vọng về chân lý ở con người, lô-gích học đã hình

thành như một khoa học có mục đích xác định tính đúng đắn hay tính sai lầm

trong những thao tác của trí tuệ. Để đáp ứng cho khát vọng về cái thiện, nhân

loại đã xây dựng đạo đức học như một lý thuyết giúp con người nhận chân

thiện và ác, như một "khoa học về bổn phận" (Kant) của con người ở đời.

Nhữnc câu hỏi đặt ra trước con người về các hiện tượng thẩm mỹ hình

như phức tạp và tế nhị hơn. Vấn đề ở đây đã đụng chạm đến không chỉ trí tuệ

hay lương tâm mà còn có liên quan đến phần tinh tế nhất trong tình cảm, trực

giác, sự rung động, cả bề sâu tiềm thức và vô thức của con người. Nghịch lý

của vấn đề nằm ở chỗ là con người lại muốn trình bày, diễn đạt những hiện

tượng: có tính chất cảm tính, nhiều khi mơ hồ như sương khói, bằng ngôn

ngữ của lý tính, thậm chí bằng những khái niệm mạch lạc gần như sự diễn

đạt trong lô-gích học và đạo đức học. Do vậy mà trong hơn 20 thế kỷ, nhân

Page 2: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

loại đá loay hoay đi tìm bản chất và đặc trưng của đời sống thẩm mỹ và các

hiện tượng có liên quan đến đời sống đó.

I. NHỮNG NỀN MÓNG ĐẦU TIÊN

Chúng ta có thể tìm thấy những dẫn chứng về tình hình trên đây ngay

từ sự quan tâm rất nhiều mặt của các triết gia Hy Lạp thời cổ đại mà những

luận điểm nhằm giải thích điều bí ẩn về cái đẹp của họ nhiều khi mang một

dáng dấp nguyên sơ và chất phác đến độ hồn nhiên.

Xuất hiện ở thế kỷ VI trước Công nguyên, trường phái Pythagore là

trường phái cổ xưa nhất của triết học Hy Lạp đã quan tâm nghiên cứu những

khái niệm cơ bản của mỹ học. Theo Pythagore (571 - 497 trước Công

nguyên), chính con số tạo thành bản chất các sự vật; vì thế việc nhận thức

thế giới có thể giản lược vào việc nhận thức các con số điều hành thế giới.

Tư tưởng mỹ học của Pythagore đặt cơ sở trên luận điểm triết học cho rằng

mọi sự tồn tại đều là tập hợp của hàng loạt những mặt đối lập tạo nên sự hài

hòa của nó! Sự hài hòa của các con số là qui luật khách quan tác động đến

tất cả các hiện tượng của đời sống, bao gồm cả nghệ thuật. Mở rộng ra,

Pythagore lưu ý đến sự hài hòa và thống nhất trong trật tự của toàn thể vũ trụ.

Có thể nói lý thuyết về con số và vũ trụ của Pythagore mang rõ tính chất mỹ

học và việc ông nghiên cứu khái niệm hài hòa trên thực tiễn âm nhạc có một ý

nghĩa to lớn.

Các triết gia thuộc trường phái Pythaffore đã xem xét sự hài hòa, sự

hoàn thiện trong mối thống nhất biện chứng với cái đẹp. Họ đã đề xuất việc

vận dụng âm nhạc để chữa bệnh. Đó chẳng qua chính là cách diễn dạt chất

phác ý tưởng về sức tác động của nghệ thuật đối với con người. Điều này

cho thấy trường phái Pythagore đã sớm ý thức về vấn đề giáo dục thẩm mỹ

thông qua con đường của âm nhạc.

Những quan niệm mỹ học biện chứng còn có tính chất ước đoán của

Pythagore đã được Héraclite (khoảng 530 - 470 trước Công nguyên) triển

khai. Héraclite xem "ngọn lửa sống động vĩnh cữu" là nhân tố nguyên thủy

Page 3: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

của mọi tồn tại: "Vũ trụ này, đối với ai cũng chỉ là một, không một vị thần nào

cũng không phải một con người nào đã tạo dựng nên nó, nhưng nó đã tồn tại

từ muôn đời, đang tồn tại và sẽ tồn tại mãi mãi nhờ một ngọn lửa sinh động

vĩnh cửu, cháy sáng cũng có điều độ mà dập tắt đi cũng "có điều độ". Theo

Héraclite, trong thế giới ngự trị một qui luật khắc nghiệt là không có cái gì là

trường tồn — tất cả đều vận hành, thay đổi và biến dịch như những dòng

sông. Với cách diễn đạt hàm súc như những lời cách ngôn hay sấm ngữ,

Héraclite đã tuyên ngôn cái nguyên tắc khắc nghiệt của vũ trụ: Pantarei (Tất

cả đều biến dịch, tất cả đều luôn luôn thay đối). Ông nói: "Không ai tắm hai

lần trong cùng một dòng sông" và "Cùng một sự vật vừa có vừa không có

cùng một lúc".

Cũng như Pythagore, Héraclite cho rằng cái đẹp có cơ sở khách quan;

nhưng cơ sở này không phải nằm ở quan hệ của các con số mà ở phẩm chất

của các sự vật được biểu hiện thành biến thể của lửa. "Bất cứ sự vật gì cũng

có thể biến đổi thành lửa và lửa cũng có thể biến đổi thành bất cứ sự vật gì;

cũng như hàng hóa đổi lấy vàng và vàng đổi lấy hàng hóa vậy". Bàn về cái

đẹp, Héraclite nói đến sự hài hòa như là sự thống nhất của các mặt đối lập.

Theo ông, sự hài hòa và cái đẹp lại xuất hiện thông qua sự đấu tranh: "Cái gì

biến dịch lại đồng thời hòa hợp với chính mình. Giữa những tranh chấp đối

lập, phải có một hòa hợp giống như giữa cây cung và dây đàn". Sự tranh

chấp giữa những đối nghịch sẽ tạo ra sự hài hòa. Với tư cách là cơ sở của

cái đẹp, sự hài hòa mang tính chất phổ quát: nó hiển hiện trong vũ trụ, trong

quan hệ giữa người với người và cả trong tác phẩm nghệ thuật.

Héraclite cũng quan tâm nghiên cứu khái niệm mức độ như là một

phạm trù của mỹ học cổ đại. Theo Héraclite, mức độ cũng có tính chất phổ

quát như sự hài hòa. Nó là cơ sở của vũ trụ, nghĩa là quy luật khách quan,

không phụ thuộc vào con người.

Tóm lại, những phạm trù quan trong nhất của mỹ học là cái đẹp, sự hài

hòa và mức độ đã được Héraclite xem xét như là sự phản ánh các bản chất

và các mối quan hệ của thế giới khách quan.

Page 4: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Quan điểm mỹ học của Socrate (469 - 399 trước CN.) đã tạo nên một

bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng mỹ học thời cổ đại. Trong những bài giảng

về triết học mà học trò ông đã ghi lại được, Socrate tỏ ra ít quan tâm đến

những vấn đề của tự nhiên. Theo ông, triết học về cự nhiên là một khoa học

không có mấy lợi ích. Ông coi nhẹ việc nghiên cứu thực nghiệm về tự nhiên,

bởi vì sự nghiên cứu đó dựa trên những chứng liệu của cảm giác vốn không

có mấy giá trị nhận thức.

Trung tâm chú ý của Socrate là con người. Và ông quan tâm đến con

người từ phương diện hoạt động thưc tiễn, hành vi và đạo đức của nó.

Những vấn đề mỹ học cũng được Socrate tiếp cận từ quan điểm có tính chất

nhân loại học đó. Socrate chính là triết gia đầu tiên đã đề cao con người như

là đối tượng chính yếu của nghệ thuật.

Theo Socrate bất cứ một hoạt động nào của con người, cũng đều nhằm

vào một mục đích nhất định. Hoạt động thẩm mỹ cũng là một hoạt động mang

tính mục đích. Vì thế cho nên những sản phẩm của nó phải được đánh giá

trên quan điểm thực tiễn. Từ đó Socrate công khai nói lên quan niệm rằng đời

sống thẩm mỹ gắn chặt chẽ với tính chất công ích. Ông cho rằng không hề có

cái đẹp nào với tư cách là bản thể tuyệt đối của các sự vật và hiện tượng. Cái

đẹp chỉ bộc lộ ra trong mối quan hệ với cái có ích và đồng nhất với cái có ích.

Một sự vật đẹp là sự vật có ích cho một cái gì đó. Để biện giải cho lập luận

của mình, nhà triết học đã dưa ra một ví dụ rất hình ảnh: cái khiên là vật dụng

được trang trí thẩm mỹ, nhưng nó sẽ trở nên xấu nếu nó không che chở được

cho người kỵ sĩ, còn chiếc giỏ đựng phân sẽ là đẹp nếu nó làm tròn chức

năng của nó.

Ý nghĩa của quan niệm trên đây là ở chỗ Socrate đã phát biểu một cách

thô sơ mối quan hệ giữa đời sống thẩm mỹ và thực tiễn. Ông cũng đã nhấn

mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa đạo đức và thẩm mỹ, giữa cái Thiện và cái

Đẹp: cái Đẹp thuộc về cái Thiện và cái xấu nằm trong cái Ác. Nhưng Socrate

đã tuyệt đối hóa các mối quan hệ đó đến mức đồng nhất các cặp phạm trù với

nhau và xóa nhòa đặc trưng của chính cái đẹp.

Page 5: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Quan niệm thực dụng của Socrate về cái đẹp đã không được Platon

(427 - 347 trước CN.) chia sẻ. Với tư cách là người sáng tạo hệ thống triết

học duy tâm đầu tiên của nhân loại, Platon đã đưa ra cái nhìn nhị nguyên về

thế giới, Theo ông, có hai thế giới song song tồn tại: thế giới của các ý tưởng

hay thế giới khả niệm và thế giới của các vật thể hay thế giới khả giác. Một

thế giới vĩnh hằng, tiên thiên, bất biến, cao siêu, tinh khiết và một thế giới có

tính chất tạm thời, biến dịch vì chỉ là hình bóng của thế giới kia.

Trong tư tưởng mỹ học của Platon, cái đẹp là vấn đề quan trọng nhất.

Nhưng cái đẹp, theo Platon, lại không nên tìm kiếm ở những phẩm chất khả

giác của các sự vật riêng lẻ hay trong mối quan hệ với hoạt động của con

người. Bởi vì trong thế giới hiện thực mà con người có thể cảm nhận bằng

giác quan, thì tất cả đều thay đổi và biến dịch, không có gì là bền vững và

đích thực cả. Platon muốn tìm kiếm một cái đẹp vĩnh cửu và phổ quát cho tất

cả mọi người. Đó là cái đẹp tuyệt đối. Cái đẹp đích thực này chỉ tồn tại trong

thế giới ý niệm, còn những cái đẹp thường ngày mà chúng ta cảm giác được

chỉ là ánh hào quang, là bản sao, là những mảnh vụn của cái đẹp ý niệm mà

thôi. Nói cách khác, ý niệm Đẹp đối lập với thế giới khả giác, nó ở ngoài

không gian và thời gian, nó thường hằng và bất biến.

Cái đẹp mang tính chất siêu nhiên như vậy nên chỉ có thể nhận thức nó

bằng lý trí chứ không phải bằng cảm giác. Phương thức nhận thức cái đẹp

không phải là bằng con đường sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, mà là bằng

con đường suy luận trừu tượng. Platon đã miêu tả rất độc đáo trạng thái của

con người, khi mà lý trí từng bước tách ra khỏi những sự vật đẹp riêng lẻ,

vươn tới một vật thể đẹp phổ quát, tới những chuẩn mực đẹp phổ quát và

cuối cùng tới nhận thức cao nhất về ý niệm Đẹp.

Cũng như các triết gia tiền bối, Platon đã xem nghệ thuật như là sự tái

hiện thực tế thông qua con đường mô phỏng những sự vật cảm tính. Tuy

nhiên, những sự vật cảm tính này lại chính là những hình tượng phản ánh tư

tưởng. Trong khi tái hiện các sự vật, người nghệ sĩ không thể nào vươn đến

sự nhận thức, cái đẹp đích thực. Thông qua việc xây dựng tác phẩm nghệ

Page 6: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

thuật, người nghệ sĩ chỉ sao chép lại những sự vật khả giác, mà bản thân

những sự vật này thì vốn là bản sao của các ý niệm. Do vậy sư miêu tả nghệ

thuật, xét cho cùng, chẳng qua là bản sao của bản sao, sự mô phỏng của sự

mô phỏng, cái bóng của cái bóng. Với tư cách là sự phản ánh hạng hai, sự

phản ánh cái phản ánh, nghệ thuật không có giá trị nhận thức; hơn nữa nó

đánh lừa con người và ngăn cản người ta vươn tới nhận thức về bản chất

đích thực của thế giới. Nghệ thuật, như vậy, chỉ là một cố gắng của con người

nhằm biểu thị cái đẹp trên thế giới siêu nhiên; nhưng tiếc thay, theo Platon, lại

là một cố gắng không hoàn hảo, một cố gắng tuyệt vọng. Hiệu quả khách

quan của nghệ thuật là đẩy con người xa khỏi sự minh triết, và do vậy mà

Plỉaton kết luận rằng không có chỗ cho các loại hình nghệ thuật trong nước

Cộng hòa lý tưởng của ông.

Tư tưởng mỹ học của Platon đã từng chịu sự phản bác ngay từ thời cổ

đại, đặc biệt với Aristote (384 - 322 trước C.N.), người am hiểu sâu sắc các

loại hình nghệ thuật Hy Lạp. Khác với Platon, Aristote luôn luôn xuất phát từ

những sự kiện cụ thể, từ thực tế phát triển của nghệ thuật, chứ không khảo

sát các vấn đề thẩm mỹ một cách cư biện. Bên cạnh những công trình về siêu

hình học, đạo đức học và lô-gích học, những tư tưởng mỹ học mà Aristote để

lại cho hậu thế được trình bày trong hai tác phẩm quan trọng có thể được

xem là bộ "Khai luận về cái đẹp" - đó là Thi pháp học và Tu từ học, và một

phần nào trong tác phẩm Chính trị. Thi pháp học của Aristoce không chỉ là

một công trình lý thuyết quan trọng mà còn là một chứng liệu đáng tin cậy về

sự phát triển của nghệ thuật Hy Lạp.

Cái đẹp cũng là vấn đề trung tâm trong các công trình nghiên cứu của

Aristote. Bằng con đường ngược lại với Platon, Aristote đã kéo cái đẹp trở về

với mảnh đất trần thế, xem nó như là thuộc tính và phẩm chất có thực của

các sự vật. Theo Aristnte, cái đẹp được thể hiện cao nhất nơi các hữu thể

sống, đặc biệt là nơi con người. Con người, với sự hài hòa trong các bộ phận

của cơ thể mình, là hiện thân của cái đẹp và là đối tượng chính của nghệ

thuật. Dấu hiệu quan trọng nhất của cái đẹp là sự toàn vẹn, được Aristote

Page 7: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

quan niệm như là cái gì có đầu, giữa và cuối - những thành phần này liên hệ

với nhau và dựa vào nhau mà tồn tại.

Như vậy, đối với Aristote, cái đẹp có tính chất khách quan. Nó không

hiện hữu trong ý niệm - như quan niệm của Platon - hay trong các quan hệ số

lượng trừu tượng - như quan niệm của Pychagore - mà trong những sự vật

thực tế, trong những mối quan hệ và thuộc tính có thực. Do quan niệm rằng

cái đẹp được thể hiện không chỉ trong hành động, mà còn hiện hữu trong

những sự vật không vận động, Aristote đã xem xét sự biểu hiện của cái đẹp

cả trong những đối tượng đứng yên lẫn trong những đối tượng biến dịch.

Những dấu hiệu trên đây của cái đẹp có tính chất phổ quát, nghĩa là

chúng biểu hiện cả trong thiên nhiên, xã hội và con người. Theo Aristote, cái

đẹp hiện thực của thế giới là cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và nghệ thuật.

Tuv nhiên, trong khi khẳng định những dấu hiệu khách quan của cái đẹp.

Aristote cũng đồng thời chú ý đến những điều kiện chủ quan của sự tiếp nhận

cái đẹp.

Bàn về nghệ thuật, Aristote xem đó là sự "bắt chước”; nghĩa là sự mô

phỏng, phản ánh hiện thực. Sự mô phỏng này được thực hiện nhờ nhịp điệu,

ngôn từ và hòa âm. Nguvên tắc mô phỏng được vận dụng không chỉ trong

nghệ thuật tạo hình mà cả trong thơ ca và âm nhạc.

Thuyết "bắt chước" đã tạo ra một khoảng cách rất lớn giữa tư tưởng

Platon và tư tưởng Aristote. Như trên đã nói, với Platon, nghệ thuật chẳng

qua là sự tái hiện những sự vật khả giác vốn là ánh xạ của các ý niệm.

Aristote, trái lại nhận thức đầy đủ sự phong phú của thế giới khả giác, của các

sự vật và hiện tượng thực tồn. Theo ông, nghệ thuật dựa trên một thiên

hướng của con người là thiên hướng về sự phản ánh. Trong Thi pháp học,

Aristote viết: "Con người có khả năng phản ánh ngay từ thuở ấu thơ, và nó

càng phân biệt với các động vật khác thì khả năng này càng phát triển, nhờ

đó mà nó sở đắc được những kiến thức đầu tiên". Do vậy, nghệ thuật có

thuộc tính nhận thức, hay nói đúng hơn, đó là một trong những hình thức hoạt

động nhận thức của con người. Việc nghiên cứu năng lực phản ánh của con

Page 8: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

người đã tạo điều kiện cho Aristote đặt ra một cách sâu sắc vấn đề chân lý

nghệ thuật, không phải bằng những suy luận trừu tượng mà dựa trên những

thành tựu của nghệ thuật Hy Lạp.

Aristote cũng dành một vị trí thích đáng trong các công trình của mình

để bàn về vai trò giáo dục của nghệ thuật. Theo ông, nghệ thuật không phải là

lĩnh vực tự trị với những giá - trị - tự nó. Nghệ thuật liên quan mật thiết với đời

sống của con người, nó đem lại cho con người "niềm vui của sự nhận thức"

và góp phần hoàn thiện con người về mặt đạo đức. Tác phẩm nghệ thuật

nâng cao phẩm giá con người, vì thông qua sự "thanh lọc" về tâm hồn, nó đã

giải phóng con người khỏi những dục vọng xấu xa.

Những tư tưởng có tính chất đặt nền tảng cho mỹ học duy vật của

Aristote sau này sẽ được phát triển một cách hệ thống bởi các nhà mỹ học

duy vật thời khai sáng như Voltaire, Diderot; những nhà mỹ học dân chủ cách

mạng Nga như Biélinski, Tchernvchevski, Herzen. Dobrolioubov; và những

nhà lý luận của mỹ học mác-xít.

II. MỸ HỌC - KHOA HỌC VỀ CÁI ĐẸP HAY TRIẾT HỌC VỀ NGHỆ THUẬT?

Trong suốt hơn hai mươi thế kỷ, mỹ học đã nép mình trong triết học.

Cuộc tranh luận giữa thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật đã chi

phối các quan niệm thẩm mỹ. Mặc dù vậy, càng về sau giữa các triết gia

thuộc các trường phái khác nhau vẫn có những chỗ gặp nhau trong việc xác

định vị trí của đời sống thẩm mỹ trong xã hội. Sự phát triển của chính tư

tưởng triết học đã từng bước thúc đẩy sự hình thành của mỹ học như một bộ

môn độc lập. Ở đây cần ghi nhận công lao của A. Baumgarterv (1714 - 1762),

nhà mỹ học người Đức. Trong tuyển tập các bài báo xuất bản năm 1735 nhan

đề Những suy niệm triết học về các vấn đề có liên quan đến sáng tác thơ ca,

Baumgarten vẫn chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa triết học và mỹ học.

Nhưng 15 năm sau, khi bộ công trình Mỹ học của ông lần lượt ra đời (tập I

Page 9: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

năm 1750, tập II năm 1758) thì lần đầu tiên ngành khoa học này mới được

định danh và định nghĩa rành mạch.

Mặc dù bộ Mỹ học được biên soạn dở dang khiến cho nhiều luận điểm

của Baumgarten chưa được luận chứng thấu đáo, nhưng những đóng góp có

ý nghĩa nền tảng của ông cho sự phát triển của mỹ học là không thể chối cãi

dược. Baumgarten đã định nghĩa một cách súc tích: "Mỹ học là khoa học về

cái đẹp".

Thuật ngữ "Mỹ học" (eschétique, aesthetics) có nguồn gốc từ tiếng Hy

Lạp aischetikos - có nghĩa là cảm giác, thuộc về sự tiếp nhận của cảm giác.

Baumgarten đã kế thừa ý nghĩa đó khi ông cho rằng mỹ học là khoa học về

nhận thức cảm tính nhằm vươn tới và sáng tạo ra cái đẹp được diễn đạt trong

những hình tượng nghệ thuật, (Ở một chỗ khác, Baumgurten khẳng định cái

đẹp là sự hoàn thiện của nhận thức cảm tính. Ông hiểu cảm tính không chỉ là

cảm giác mà còn cả cảm xúc, ký ức, trực giác, tưởng tượng. Các công trình lý

luận của Baumgarten có ý nghĩa ở chỗ không chỉ ông đã chính thức khai sinh

ra tên gọi "mỹ học" mà còn tách mỹ học thành một bộ môn độc lập với triết

học và nâng nó lên thành một khoa học.

Baumgarten cũng là người đầu tiên trong lịch sử mỹ học cổ điển Đức

đặt vấn đề nghiên cứu cái cao cả và xác định mối quan hệ giữa thẩm mỹ và

đạo đức. Mặt khác, ông cho rằng mỹ học phải làm rõ những quy luật chung

của sáng tạo nghệ thuật, thể hiện trong những ngành nghệ thuật riêng biệt.

Bên cạnh sự trau chuốt về nghệ thuật, tác phẩm cần phải có sự phong phú về

nội dung, tính chân thực và sinh động về nhận thức, vẻ đẹp, sự hoàn thiện về

thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật bao hàm trong sự hòa hợp giữa nội dung,

kết cấu và sự biểu hiện. Trong các công trình của mình, Baumgarten cố gắng

vươn tới nhận thức về đặc trưng của nghệ thuật, phân biệt chân lý lô-gích và

chân lý thẩm mỹ, nhấn mạnh tính chất cảm tính của hình tượng, khẳng định

vai trò quan trọng của cá nhân đối với sự phát triển của ý thức nghệ thuật.

Trên thực tế Baumgarten có mở rộng sự quan tâm đến các lĩnh vực

khác của mỹ học như cái cao cả, ý thức nghệ thuật...; nhưng khi định nghĩa

Page 10: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

”mỹ học là khoa học về cái đẹp", ông đã tự giới hạn đối tượng nghiên cứu của

mỹ học, ít nhất là trên bình diện lý thuyết. Định nghĩa đó thật ra cũng phản

ánh và thâu tóm được những tìm tòi của nhiều triết gia trước ông. Nhưng sự

phát triển của mỹ học trong thời Baumgarten và sau đó đã chứng minh rằng,

dù cái đẹp là phạm trù trung tâm của mỹ học và thẩm mỹ là bản chất của

nghệ thuật, đối tượng của mỹ học không hề bị thu hẹp như quan niệm của

Baumgarten. Đời sống thẩm mỹ đòi hỏi mỹ học nghiên cứu không chỉ cái đẹp

mà cả cái bi, cái hài...

Hai triết gia cổ điển người Đức là E.Kanc và Hegel đã đẩy mỹ học tiến

thêm một bước khá dài và góp phần quan trọng vào việc nhận chân đối tượng

của mỹ học.

Trong bộ ba công trình của mình, bên cạnh Phê phán lý trí thuần túy và

Phê phản lý trí thực tiễn, Kant (1724 - 1804) đã dành một phần quan trọng

của Phê phán khả năng phán đoán để phác thảo ra một nền mỹ học của

tương lai. Kant là người đầu tiên chú ý một cách thích đáng nhất khía cạnh

tinh tế của các hiện tượng thẩm mỹ để phân biệt với các lĩnh vực khác của

đời sống vật chất. Nhà tư tưởng này đã lưu tâm xem xét hai phạm trù cơ bản

của mỹ học là cái đẹp và cái cao cả. Cái đẹp, trong quan niệm của Kant,

không gắn liền với tính chất thực tiễn, nó đem lại khoái cảm và thỏa mãn

những đòi hòi tinh thần có tính chất chủ quan của cá nhân. Cái đẹp là hình

thức hợp lý của sự vật mà trong khi cảm nhận không cần phải hình dung ra

mục đích của nó. Cái đẹp là cái làm vui thích tất cả mọi người mà không

thông qua một khái niệm nào cả. Một cái đẹp thuần túy như vậy sẽ là biểu

tượng củùa cái Thiện, nó thể hiện những sức mạnh thẩm mỹ sẽ đem lại động

lực cho nhận thức mà không đồng nhất với nhận thức.

Hướng tới cái đẹp trong ta, do ta và chờ ta, mỹ học Kant, một mặt,

không chú ý đầy đủ đến ý nghĩa thực tiễn - xã hội của các hiện tượng thẩm

mỹ: mặt khác rất đề cao vai trò của chủ thể trong sáng tạo nghệ thuật và cảm

thụ thẩm mỹ. Ảnh hưởng của Kant trong sự phát triển tư tưởng mỹ học to lớn

đến mức nhiều nhà nghiên cứu xem trước tác của ông đánh dấu mốc cho cả

Page 11: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

một thời kỳ được gọi là thời kỳ phê phán trong mỹ học. B.Croce, chẳng hạn,

chia lịch sử mỹ học thành ba giai đoạn: giai đoạn trước Kant, giai đoạn phê

phán gắn với tên tuổi Kant và giai đoạn sau Kant còn gọi là giai đoạn thực

nghiệm. D. Huisman thì nói đến giai đoạn giao lưu nay trường phái Platon,

giai đoạn phê phán bay trường phái Kant và giai đoạn hiện đại hay trường

phái thực nghiệm.

Từ khi xuất hiện Hegel (1770 - 1831), triết gia duy tâm cổ điển người

Đức, một đỉnh cao của tư tưởng mỹ học nhân loại, quan niệm "mỹ học là khoa

học về cái đẹp" đã phần nào mất ưu thế. Với Hiện tượng học về tinh thần và

Khoa lô-gích học, triết học Hegel dã có đầy đủ cơ sở để trở thành một hệ

thống chặt chẽ mang tính chất lý tính khi nó nhìn lịch sử như là sự vận động

của Tinh thần tuyệt đối, trừu tượng và nhất quán. Các bài giảng về mỹ học

của Hegel đã dành sự quan tâm cho hoạt động thẩm mỹ như một hoạt động

cao nhất, của trí tuệ, bởi vì theo ông, sự thật và điều kiện đã được liên kết

một cách chặt chẽ trong cái đẹp và chỉ trong cái đẹp. Nhưng Hegel lại hạn

chế cái đẹp trong phạm vi nghệ thuật và định nghĩa mỹ học là triết học về

nghệ thuật. Dưới nhãn quan triết học của Hegel, cái đẹp được xem như hình

thức cảm tính của tư tưởng và nghệ thuật là nơi kết tinh của cái dẹp. Với tư

cách là sự miêu tả cảm tính các tư tưởng, nghệ thuật là một bậc thang của

Tinh thần tuyệt đối; là một hình thức đặc biệt giúp con người đạt đến chân lý

tuyệt đối. Tách khỏi cái đẹp sẽ không có và không thể có nghệ thuật, nhưng

điều đó không có nghĩa là người nghệ sĩ giới hạn đối tượng của mình trong

vẻ đẹp của thế giới khách quan.

Khi định nghĩa "mỹ học là triết học về nghệ thuật"; Hegel đã đặt mỹ học

trên cơ sở của ý thức sáng tạo. Lịch sử đã chứng minh rằng tư tưởng mỹ học

đã phát triển song hành dưới sự tác động hỗ tương của các trào lưu và

trường phái nghệ thuật: hiện thực, lãng mạn, tượng trưng, ấn tượng, siêu

thực, lập thể... Quan niệm của Hegel vì vậy, đã được nhiều nhà mỹ học hiện

đại chia sẻ. Hướng về cái đẹp trong nghệ thuật hơn là cái đẹp của thiên

nhiên, nhiều nhà mỹ học thế kỷ XX đã cố gắng tổng hợp những đặc điểm

Page 12: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

chung của các khuynh hướng nghệ thuật để rút ra những tinh hoa của các

khuynh hướng ấy. Hơn nữa mỹ học không chỉ đi tìm nghĩa cho cái đẹp, mà từ

mảnh đất phong phú của các loại hình nghệ thuật (văn học, hội họa, điện ảnh,

sân khấu, âm nhạc...), trong đó có sự hiện thân của cả cái đẹp lẫn cái cao cả,

cái bi, cái hài, mỹ học vươn tới những suy tưởng khái quát về nghệ thuật. Ch.

Lalo, trong một công trình mỹ học có tính chất nhập môn, đã viết: "Cũng như

lô-gích học là sự suy tưởng triết học về những qui luật đạt tới chân lý mà

trước hết là về những ngành khoa học đã sáng tạo ra các qui luật đó; cũng

như đạo đức học là suy tưởng triết học về tâm lý của hành vi cá nhân và xã

hội và về khoa học các phong hóa; tương tự như thế, mỹ học được hiểu thấu

đáo trước hết phải là sự suy tưởng triết học về nghệ thuật, về phê bình và lịch

sử nghệ thuật, những ngành đã dọn đường cho mỹ học".

III. ĐI TỚI XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CỦA MỸ HỌC

Định nghĩa "mỹ học là triết học về nghệ thuật" tuy đã nêu bật được đối

tượng then chốt nhất của mỹ học là sự sáng tạo nghệ thuật, nhưng vẫn chưa

làm bằng lòng tất cả các nhà nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên cứu

mác-xít. Ở đây, bên cạnh sự khác nhau về cách nhìn, về quan niệm, nguyên

do còn ở chỗ nền văn minh nhân loại phát triển mạnh mẽ đã mở rộng phạm vi

nghiên cứu của mỹ học, khiến cho đối tượng của nó là một vấn đề vẫn còn bỏ

ngõ.

Các nhà mỹ học mác-xít cho rằng quan niệm "mỹ học là triết học về

nghệ thuật" vô hình trung đã gạt bỏ một bộ phận hết sức quan trọng làm

nguồn gốc, cội rễ của nghệ thuật, đó là đời sống thẩm mỹ. Mỹ học mác-xít

khước từ cách nhìn nghệ thuật trước hết như sự tự biểu hiện, sự hóa thân

của thế giới tâm linh người nghệ sĩ để kiên trì luận điểm cho rằng nghệ thuật

xét cho cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan - một sự phản ánh năng

động và đặc thù. Do vậy, mỹ học, cùng với sự nghiên cứu về nghệ thuật, phải

đặt nhiệm vụ hàng đầu là nghiên cứu đời sống thẩm mỹ với những khách thể

thẩm mỹ tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác, tình cảm, tư tưởng của con

người. Cái đẹp trước hết là cuộc sống, nghĩa là một thực thể khách quan. Ở

Page 13: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

đây chúng ta thấy ranh giới giữa các nhà mỹ học mác-xít với những nhà mỹ

học chủ trương cái đẹp trước hết là ở con người; còn thiên nhiên tự nó là phi

thẩm mỹ (anesthétique), nó chỉ có giá trị thẩm mỹ khi được nhìn qua lăng kính

của nghệ thuật, cũng như núi chỉ trở thành đẹp từ khi con người trở thành

lãng mạn.

Nhấn mạnh thuộc tính thẩm mỹ khách quan của thế giới hiện thực, các

nhà mỹ học mác-xít đã cung cấp cho chúng ta những định nghĩa, đôi khi khá

dài dòng, về mỹ học. Trong cơ sở mỹ học Mác-Lênin, J.Lukin và V.

Skatershikov viết: "Mỹ học là khoa học về cái thẩm mỹ” trong hiện thực, về

bản chất và các qui luật của nhận thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ của

con người, là khoa học về các qui luật chung của sự phát triển nghệ thuật với

tư cách là một hình thức đặc thù của sự phán ánh và cải tạo thế giới". Còn

đây là định nghĩa của bộ giáo trình Mỹ học Mác - Lênin do giáo sư

M.Ovsannikov chủ biên: "Mỹ học là khoa học về cái thẩm mỹ trong thiên nhiên

và xã hội, trong nền sản xuất vật chất và tinh thần, về những nguyên tắc

chung trong sự sáng tạo theo qui luật của cái đẹp về nguồn gốc, những qui

luật phát triển và vận động của ý thức thẩm mỹ, trong đó có nghệ thuật với tư

cách là một hình thức đặc thù của sự phản ánh thực tại".

Cơ sở của hai định nghĩa trên chính là lý luận phản ánh của chủ nghĩa

duy vật biện chứng, theo đó ý thức của con người - trong đó có ý thức thẩm

mỹ - là tính thứ hai so với hiện thực - bao gồm hiện thực tự nhiên và xã hội -

là tính thứ nhất. Dưới ảnh hưởng của phản ánh luận nghệ thuật, trong bình

diện ý thức thẩm mỹ của con người, đã được nhìn nhận ở chức năng phản

ánh, khám phá hơn là chức năng sáng tạo, phát minh.

Phương diện sáng tạo, phát minh ra những giá trị mới, đặc biệt là

những giá trị nhân văn có ý nghĩa toàn thế giới, được J. Borev chú ý khi ông

đưa ra một định nghĩa trong công trình Mỹ học: "Mỹ học là khoa học về bản

chất của những giá trị toàn nhân loại hình thành về mặt lịch sử, về sự khai

sinh, tiếp nhận, đánh giá và khai thác các giá trị đó. Mỹ học là một khoa học

có tính chất triết lý về những nguyên tắc chung nhất của sự khám phá thẩm

Page 14: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

mỹ đối với thế giới trong tiến trình hoạt động của con người, trước hết là trong

nghệ thuật, nơi mà qui luật của cái đẹp đã hình thành, kết tinh và đạt đến độ

hoàn thiện”.

Sự khám phá thẩm mỹ trong tiến trình hoạt động của con người có một

phạm vi rộng rãi hơn nghệ thuật rất nhiều. Trong thời đại khoa học kỹ thuật

hiện nay, đời sống thẩm mỹ phát triển hết sức năng động. Những nhân tố

thẩm mỹ đã thấm sâu vào các lĩnh vực hoạt động và ý thức con người đến độ

có thể nói đến "sự thay đổi về vị thế của một nền văn hóa mà trong thời hiện

đại về căn bản, đã mang hình thái của mỹ học”.

Nói cách khác, nền văn hóa và văn minh nhân loại đang được mỹ học

hóa. Điều đó thể hiện qua sự xuất hiện và phát triển của các loại hình hoạt

động thẩm mỹ nằm ngoài phạm vi của sáng tạo nghệ thuật, chẳng hạn design

hay mỹ học ứng dụng, mỹ học kỹ thuật, giáo dục thẩm mỹ, tổ chức thẩm mỹ

môi trường, việc thẩm mỹ hóa các ngành hoạt động có tính xã hội như du lịch,

thể thao...

Trong các loại hình hoạt động đó, sự phát triển của design đã đặt ra

cho các nhà mỹ học nhiệm vụ nghiên cứu mối tương quan giữa cái thẩm mỹ

và cái thực dụng trong sáng tạo khoa học và công nghệ, hiệu quả xã hội của

hình thức thẩm mỹ trong các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng. Design có liên

quan đến các phẩm chất hình thức của đồ vật, chẳng hạn như các máy móc

và công cụ lao động, các phương tiện chuyên chở hàng hóa, các sản phẩm

lao động làm ra..., và đây không chỉ là những đặc điểm bên ngoài mà còn là

mối liên hệ cấu trúc tạo nên sự thống nhất về chức năng của các đồ vật đó.

Mục đích của mỹ thuật công nghiệp là đưa cái đẹp vào sản xuất và đời

sống, tạo ra sự hài hòa trong môi trường, phương tiện, điều kiện lao động,

sản phẩm lao động, góp phần tiến tới thẩm mỹ hóa chính bản thân người lao

động. Sự hài hòa của toàn bộ không gian, ánh sáng, màu sắc, âm thanh bao

bọc chung quanh con người là điều kiện cần thiết để hình thành nên một thế

giới được nhân hóa, trong đó con người trở nên đẹp hơn, cũng đồng thời trở

nên nhân đạo hơn.

Page 15: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà những bước tiến của nền

văn minh cũng song hành với sự hình dung của con người về cái đẹp thông

qua những vật dụng hằng ngày, từ bộ ly uống nước, chiếc máy điện thoại, cái

nôi của em bé cho đến một chiếc ô-tô theo kiểu mới nhất. Con người đã tạo

ra nền văn minh bằng cách cải tiến các vật dụng đó không chỉ theo hướng

hiện đại hơn để thuận tiện cho cuộc sống của mình, mà còn theo hướng thẩm

mỹ hơn, đẹp hơn, tinh tế hơn. Sự vận động về phương diện thẩm mỹ trong

nền sản xuất ở các xã hội công nghiệp cũng là một đối tượng nghiên cứu của

mỹ học. Nếu nghệ thuật là những ngày hội thẩm mỹ của nhân loại thì hoạt

động, mỹ thuật công nghiệp là những ngày thường của cuộc sống và mỹ học

lấy nó làm đối tượng nghiên cứu chính là mỹ học của cái thường ngày.

Như vậy là cùng với quá trình mở rộng phạm vi đối tượng nghiên cứu

của mình, mỹ học đã từng bước trở thành một lĩnh vực độc lập với triết học và

nghệ thuật học là hai ngành mà nó phụ thuộc xưa nay.

Với tư cách là một khoa học nhân văn, mỹ học mang tính chất triết lý,

nhưng đồng thời nó cũng có đặc trưng riêng, đối tượng riêng với những quy

luật tồn tại của nó. Nếu triết học nghiên cứu những qui luật chung nhất của

toàn bộ hệ thống các hình thái ý thức và tư tưởng, thì mỹ học tập trung

nghiên cứu ý thức thẩm mỹ chi phối sự khám phá và phát minh của con

người theo qui luật của cái đẹp.

Như một cầu nối giữa triết học và nghệ thuật học, mỹ học đã trở thành

lý thuyết chung nghiên cứu những vấn đề phổ quát của nghệ thuật. Còn nghệ

thuật học lại nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm, chức năng và qui luật phát

triển của các loại hình nghệ thuật cụ thể trong đời sống tinh thần của xã hội.

Mỹ học không thể cung cấp cho chúng ta kiến thức về tất cả các ngành nghệ

thuật như văn học, sân khấu, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, kiến trúc...; nhưng

lại là cơ sở lý luận và định hướng triết lý cho các ngành nghệ thuật chuyên

biệt – những bộ phận hợp thành hệ thống tri thức chung về sáng tạo nghệ

thuật. Mỹ học củng cố mối quan hệ mật thiết với tâm lý học sáng tạo và cảm

thụ nghệ thuật, với xã hội học nghệ thuật.

Page 16: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Nghệ thuật học - và tương ứng với nó là những ngành nghệ thuật,

chuyên biệt - bao gồm ba bộ môn: lý luận nghệ thuật, lịch sử nghệ thuật và

phê bình nghệ thuật. Không thể hình dung những nhà nghiên cứu hoạt động

trong các bộ môn này lại thiếu tri thức về mỹ học. Mặt khác, cần phải nhấn

mạnh rằng: những tư tưởng mỹ học sâu sắc nhất bao giờ cũng được gieo

trồng và thu hoạch trên mảnh đất màu mỡ của các thành tựu nghệ thuật. Qui

luật của sự khai thác và phát minh thẩm mỹ biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ

nhất và trực tiếp nhất trong nghệ thuật. Vì vậy, nghệ thuật là lĩnh vực sáng tạo

những giá trị thẩm mỹ có ảnh hưởng quyết định đối với sự phát triển của mỹ

học. Nếu việc giới hạn đối tượng của mỹ học trong phạm vi nghệ thuật là một

phiến diện, thì việc đặt nghệ thuật ngang hàng với những lĩnh vực khác của

đời sống thẩm mỹ cũng là một điều phiến diện không kém. Trong đời sống

tinh thần của xã hội ta hiện nay, các tư tưởng mỹ học còn nghèo nàn. Một

trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do chưa có những

đỉnh cao về sáng tạo nghệ thuật có tầm cỡ thế giới và chưa có một công

chúng nghệ thuật đạt trình độ cao.

Ngày nay mỹ học bao gồm các lĩnh vực lý luận về bản chất và qui luật

của sáng tạo nghệ thuật, lý luận về design và sự khám phá môi trường đồ vật,

lý luận về giáo dục thẩm mỹ. Sự khám phá thẩm mỹ của con người không chỉ

hướng tới thế giới mà còn hướng vào chính mình, bởi vì cái đẹp không chỉ là

"quà tặng của hiện thực” mà còn là hoa trái từ cõi tâm linh sâu thẳm của con

người. Cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật, theo F. Nietzsche, là biểu hiện

hoàn tất nhất của nhân cách tác giả một tấm danh thiếp đặc biệt tinh vi. Với tư

cách là chủ thể thẩm mỹ, con người không dừng lại ở sự khám phá thẩm mỹ

mà còn tiến đến sự phát minh, sáng tạo ra những giá trị mới theo qui luật của

cái đẹp. Sự phát minh đó sẽ để lại dấu ấn trên đời sống tinh thần và làm cho

thế giới trở thành thế giới của con người, do con người.

Từ những nhận xét trên, chúng ta có thể đi tới kết luận: Mỹ học là khoa

học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ nơi con người

Page 17: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

nhằm khám phá và phát minh ra những giá trị trên cơ sở qui luật của cái đẹp,

trong đó nghệ thuật là giá trị cao nhất.

Một quan niệm như vậy về mỹ học bao gồm các tiền đề lý luận sau đây:

1. Mỹ học là một khoa học, nghĩa là nó được xây dựng trên cơ sở của

các khái niệm và mệnh đề suy lý của tư duy trừu tượng, hướng đến việc tìm

hiểu những vấn đề có tính bản chất và qui luật của ý thức thẩm mỹ và hoạt

động thẩm mỹ.

2. Đó là khoa học về hoạt động của tinh thần, ý thức con người trong

khi hướng tới thế giới; và chính mình. Như vậy mỹ học không nhằm nghiên

cứu vẻ dẹp của một dòng sông hay một bản nhạc mà nhằm nghiên cứu ý

thức của con người, trong khi phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông và sáng tạo

ra cái đẹp của nhạc phẩm, tới đó mà rút ra đặc điểm chung của phạm trù "cái

đẹp”...

3. Mỹ học gắn liền không chỉ với sự khám phá ra những giá trị đã có

trong thế giới hiện thực hay trong thế giới tâm linh của con người, mà còn với

sự phát minh, sáng tạo ra những giá trị mới. Như vậy mỹ học không thể bằng

lòng với lý luận phản ánh mà phải vươn tới lý luận về sự sáng tạo của con

người theo qui luật của cái đẹp.

4. Những giá trị nói ở đây là những giá trị được hình thành và phát

minh trên cơ sở qui luật của cái đẹp, tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá

trị là nói đến cái nhìn, cách đánh giá, nghĩa là nói đến mối quan hệ. Chỉ có thể

khám phá, phát minh ra những giá trị thẩm mỹ nếu xác lập được cái nhìn

thẩm mỹ và mối quan hệ thẩm mỹ. Tư cách chủ thể của con người đối với thế

giới hiện ra trên nhiều mối quan hệ khác nhau: kinh tế, chính trị, đạo đức...

Quan hệ thẩm mỹ không nhất thiết đối lập với các quan hệ đó, nhưng nhất

thiết phải khác về bản chất với các quan hệ đó. Quan hệ thẩm mỹ không đặt

nền tảng trên sự thỏa mãn những động cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi

ích về chính trị hay sự chiều theo những qui luật đạo đức hiện hành. Quan hệ

thẩm mỹ là quan hệ làm thanh lọc con người, tách con người khỏi những mối

Page 18: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

ràng buộc có tính cách vật chất nhằm thiết lập một sợi dây tinh thần giữa con

người đối với thế giới và đối với chính mình trên cơ sở của cái đẹp.

5. Thừa nhận thiết kế mỹ thuật và những phương diện khác của đời

sống thẩm mỹ cũng là hoạt động khám phá và phát minh ra cái giá trị thẩm

mỹ, điều đó không có nghĩa là đánh đồng vai trò của chúng với vai trò của

nghệ thuật trong tư cách đối tượng nghiên cứu của mỹ học. Cần phải xem

nghệ thuật, là giá trị thẩm mỹ cao nhất bửoi vì ở đó qui luật về sự hài hòa -

tức là qui luật của cái đẹp - được thực hiện hoàn hảo hơn đâu hết. Không

phải ai khác mà chính những nghệ sĩ tài năng là thầy dạy cho công chúng biết

thế nào là giá trị thẩm mỹ. Mặt khác, với tư cách là đối tượng ưu tiên nhất của

nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật không những tạo tiền đề cho sự thai nghén và

ra đời những tư tưởng mỹ học sâu sắc mà còn góp phần điều chỉnh, uốn nắn

những tư tưởng mỹ học đã lỗi thời và lạc hậu.

Với một quan niệm như vậy về đối tượng của mỹ học, cơ cấu của công

trình Mỹ học đại cương bao gồm các chương sau đây:

- Mỹ học là gì?: giải quvết vấn đề đối tượng và xác lập một định nghĩa

cho mỹ học.

- Ý thức thẩm mỹ: nghiên cứu những cấp độ hoạt động ý thức của con

người với tư cách là chủ thể thẩm mỹ.

- Các phạm trù thẩm mỹ: nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ như cái

đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài như là những công cụ của tư duy nhằm nhận

thức và đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống và trong nghệ thuật.

- Nghệ thuật như một lĩnh vực thẩm mỹ nghiên cứu bản chất và đặc

trưng của ngnệ thuật, lãnh vực hoạt động trung tâm của sự sáng tạo ra những

giá trị theo qui luật của cái đẹp.

- Các Loại hình nghệ thuật: nghiên cứu đặc điểm của các loại hình

nghệ thuật (văn học, hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, điêu khắc...)

nhằm làm rõ bản chất và qui luật của sự khám phá và phát minh thẩm mỹ.

Page 19: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

- Vấn đề giáo dục thẩm mỹ: trả lời câu hỏi có thể giáo dục thẩm mỹ cho

con người hay không và giáo dục bằng cách nào.

Chương 2. Ý THỨC THẨM MĨ

I. BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC THẨM MỸ

"Con người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ" (L.

Pascal): năng lực ý thức chính là dấu hiệu phân biệt con người với các động

vật khác. Ý thức con người là một hợp thể bao gồm nhiều phương diện đa

dạng như chính sự đa dang của hoạt động con người. Với tư cách một bộ

phận của ý thức nói chung, ý thức thẩm mỹ cũng là nền tảng tinh thần bảo

đảm cho sự thống nhất hài hòa và mối quan hệ nội tại giữa các phương diện

khác nhau đó trong đời sống tinh thần của con người và của cả xã hội. Mặc

dù có thể được trừu tượng hóa như một bộ phận độc lập, ý thức thẩm mỹ vẫn

có chức năng tổng hợp, điều phối các phương diện khác của ý thức nói

chung. Khái niệm chân lý và điều thiện không thể được quan niệm đầy đủ nếu

thiếu khái niệm về cái đẹp, và đến lượt nó, cái đẹp bộc lộ ra khi ý thức con

người tiếp cận với chân lý và ý chí con người vươn đến điều thiện.

Ý thức thẩm mỹ không chỉ ở dạng tiềm thể nơi những con người có văn

hóa thẩm mỹ mà còn được hiện thực hóa thông qua hoạt động thẩm mỹ.

Tuy nhiên, không nên quan niệm hoạt động thẩm mỹ như một lãnh vực

tách biệt một cách tuyệt đối khỏi các hình thức hoạt động khác của đời sống

con người. Thật ra trong bất kỳ hoạt động nào của con người và xã hội cũng

đều có những nhân tố tác động đến sự nảy sinh và phát triển của ý thức thẩm

mỹ. Những nhân tố thẩm mỹ đó với những mức độ quan trọng khác nhau, giữ

vai trò trong tất cả các lãnh vực của hoạt động sản xuất, hoạt động tinh thần,

hoạt động giao tiếp hằng ngày và đặc biệt là hoạt động sáng tạo và tiếp nhận

nghệ thuật.

Page 20: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Trong hoạt động sản xuất, con người tạo ra những sản phẩm không chỉ

mang giá trị sử dụng mà còn mang tính thẩm mỹ. Nhu cầu về cái đẹp của đồ

vật vừa biểu hiện lại vừa tác động đến ý thức của cả người sản xuất, chế tạo

ra đồ vật lẫn của người tiêu dùng. Sở dĩ như vậy là vì con người, ngay trong

quá trình sản xuất, có khả năng tách ra khỏi những nhu cầu thực dụng trực

tiếp của bản thân để vươn tới sự sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Điều này

đã được chính K. Marx nhấn mạnh trong Bản thảo kinh tế - triết học năm

1844: “Súc vật cố nhiên cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ, chỗ ở cho nó như

con ong, con hải ly, con kiến v.v... Nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản

thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, sản xuất một chiều; còn con người thì

sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống trị của nhu

cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó thì con người sản xuất ngay khi thoát khỏi

nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất theo ý

nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn

con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp

gắn liền với cơ thể vật chất của nó, còn con người thì đối lập một cách tự do

với sản phẩm của mình. Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu

cầu của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo

của bất kỳ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho

đối tượng; do đó con người nào cũng nhào nặn vật chất theo qui luật của cái

đẹp".

Ý thức thẩm mỹ không bao giờ cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ với ý

thức thường ngày. Một con người bình thường vẫn có thể có ý thức thẩm mỹ

tốt dựa trên kinh nghiệm sống của người ấy. Tuy nhiên, nếu ý thức thường

ngày bị giới hạn bởi lợi ích thực tiễn, thì ý thức thẩm mỹ lại thể hiện tính vô tư

và tầm bao quát hiện thực một cách rộng rãi, hướng tới những hiện tượng

không đụng chạm trực tiếp tới thực tiễn xã hội thông qua phương thức khai

thác và khám phá một cách toàn vẹn thế giới bên ngoài và bên trong con

người.

Page 21: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Ý thức, thẩm mỹ có thể xuất hiện trong từng hành vi tích cực của con

người, dù đó là nghiên cứu khoa học hay nhận thức xã hội, hoạt động sản

xuất hay sinh hoạt hằng ngày. Với cái nhìn thẩm mỹ, con người đánh giá bất

cứ hiện tượng khách quan nào được họ chứng kiến và đưa vào kho tàng kinh

nghiệm sống của họ.

Nghệ thuật, với tư cách lãnh vực hoạt động thẩm mỹ chuyên biệt, đã

biến ý thức thẩm mỹ từ một bộ phận hợp thành của ý thức con người nói

chung trở thành nhân tố chủ đạo và do đó cái đẹp trở thành cứu cánh của

nghệ thuật. Nghệ thuật là lãnh vực mà trong đó ý thức thẩm mỹ thực hiện trọn

vẹn nhất, là hình thái cao nhất của sự biểu hiện ý thức thẩm mỹ. Nói cách

khác, nghệ thuật là hình thức hoạt động triển khai đầy đủ nhất những đặc

trưng của ý thức thẩm mỹ xét trên bình diện xã hội lẫn trên bình diện cá nhân.

Trong lịch sử tư tưởng mỹ học đã hình thành hai quan niệm đối lập

nhau về bản chất của ý thức thẩm mỹ.

1. Quan niệm có tính chất bản thể luận, xem xét ý thức thẩm mỹ như là

sự phản ánh bản thân tồn tại bằng những nguyên tắc đặc biệt.

2. Quan niệrn có tính chất nhận thức luận, trái lại cắt nghĩa ý thức thẩm

mỹ như là một phẩm chất, thuộc tính của ý thức con người (chủ yếu biểu hiện

trong nghệ thuật - hình thức, đặc biệt của hoạt động con người) và bất cứ

những dự tính nào đưa cái đẹp trở về với thế giới khách quan cũng bị quan

niệm này xem là sự dung tục hóa cái đẹp, sự phủ nhận tính chất độc lập và tự

trị của nghệ thuật.

Thật ra cả hai quan niệm trên đều có tính chất cực đoan. Một mặt

những phẩm chất thẩm mỹ bao giờ cũng mang "tính người", nghĩa là có tính

chất nhận thức luận; do vậy mà không thể xem xét chúng như những yếu tố

nguyên ủy của thế giới hiện hữu không phụ thuộc vào con người. Vấn đề của

mỹ học là tìm hiểu các hiện tượng thẩm mỹ tồn tại như thế nào, đồng thời

được con người tiếp nhận ra sao. Sự hiện hữu của con người là điều kiện tất

yếu để biến những giá trị thẩm mỹ từ khả năng thành hiện thực. Chính trong ý

Page 22: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

nghĩa đó mà Hegel đã nhấn mạnh rằng thiên - nhiên - tự - nó không bao giờ

tồn tại trong phạm trù của cái đẹp.

Nhưng mặt khác, sự phụ thuộc của các phẩm chất thẩm mỹ đối với con

người hoàn toàn không có nghĩa là những phẩm chất đó chỉ có thể bộc lộ

trong nghệ thuật, hoạt động thẩm mỹ đặc biệt của con người, mà thôi. Bởi vì

đối với chủ thể, thiên nhiên, tha nhân và tất cả những sản phẩm của hoạt

động con người đều có ý nghĩa biểu cảm về mặt thẩm mỹ. Các phẩm chất

thẩm mỹ, do vậy nói lên bản chất khách quan của mối quan hệ hỗ tương và

đa dạng giữa con người và thế giới. Theo ý nghĩa đó, các phạm trù thẩm mỹ

vừa mang tính chất khách quan, vừa là những phạm trù nhận thức luận.

Như vậy, bản chất của ý thức thẩm mỹ là một cái gì lưỡng tính, có mối

quan hệ biện chứng, phụ thuộc đồng thời vào cả chủ thể lẫn khách thể thẩm

mỹ. Chẳng hạn, sự phụ thuộc của cảm xúc thẩm mỹ với khách thể thẩrn mỹ

thể hiện ở chỗ cảm xúc đó chỉ xuất hiện với điều kiện có một nguồn kích thích

từ bên ngoài: một phong cảnh thiên nhiên, một khuôn mặt thiếu nữ hay một

tác phẩm nghệ thuật với một hình thức và chất liệu nhất định. Tính truyền

cảm của hình thức bên ngoài này là khởi nguyên của cảm xúc thẩm mỹ.

Ngược lại, cảm xúc thẩm mỹ cũng phụ thuộc vào chủ thể thưởng

ngoạn và điều này thể hiện ở chỗ trong khi đánh giá tính chất biểu cảm của

hình thức bên ngoài nơi đối tượng, chủ thể nhất thiết phải tăng cường sức

mạnh tinh thần để khám phá ý nghĩa bề sâu của nó. Đối tượng chỉ đạt đến

chất lượng biểu cảm khi nào nó không những được cảm nhận mà còn được

thức nhận với đầy đủ ý nghĩa của một hành vi thẩm mỹ. Bản thân đối tượng

phải được "nhân hóa", nghĩa là phải đi qua "lò luyện phản ứng" của tinh thần

con người để đạc đến một sự thức nhận thích hợp. Và chỉ trong trường hợp

hội đủ hai điều kiện là hình thức bên ngoài của đối tượng và ý nghĩa tinh thần

đã được nhân hóa của nó thì mới có thể nói đến một hiện tượng thẩm mỹ.

Cần phải nói thêm rằng trong hành vi nhận thức thẩm mỹ, không chỉ đối

tượng được nhân hóa mà cả chủ thể cũng được đối tượng hóa, hay nói đúng

hơn, hóa thân vào đối tượng. Trong khi khám phá ra ý nghĩa bên trong của

Page 23: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

đối tượng, con người cũng dồng thời ban tặng cho thiên nhiên những mảnh

tinh thần của mình. Trong quan hệ thẩm mỹ, con người tự chiêm nghiệm

mình trong một thế giới do mình sáng tạo nên. Dưới hình thức, cụ thể và cảm

tính, bản chất con người được khách thể hóa trong tiến trình lao động nghệ

thuật và trong quá trình thưởng ngoạn thẩm mỹ những thành quả do lao dộng

nghệ thuật tạo ra. Trong khi tập trung sáng tạo và tái tạo thế giới các đối

tượng, con người đã truyền bản chất của mình cho các đối tượng ấy. Và đến

lượt chúng, những đối tượng ấy lại truyền cải bản chất người cho công chúng

quan tâm thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng.

Ý thức thẩm mỹ có mối quan hệ phát sinh với sự phát triển của các

hình thức hoạt động và các mối giao tiếp của con người. Tuy nhiên, sẽ là sai

lầm nếu tuyệt đối hóa mối quan hệ đó, nếu xem mối quan hệ phát sinh này là

phổ quát trong toàn bộ đời sống thẩm mỹ. Tuy xuất hiện trong quá trình lao

động, nhưng càng về sau ý thức thẩm mỹ càng được giải phóng khỏi cội

nguồn sản sinh ra nó và trở nên độc lập đối với những hoạt động có mục đích

thực tiễn. Giá trị của xúc cảm thẩm mỹ không phải do nó đạt đến một mục

đích thực dụng trực tiếp nào đó. mà chính là một giá trị tự than. Điều đó, tất

nhiên, không có nghĩa là cái thẩm mỹ và cái công ích về nguyên tắc không thể

cùng dung hợp trong một đối tượng. Điều đó chỉ nhằm nói lên rằng không có

một mệnh lệnh nào có thể bắt buộc chúng ta phải xem cái đẹp chỉ như là cái

có ích hiển nhiên.

Ý thức thẩm mỹ chỉ có thể thực hiện thông qua hoạt động thẩm mỹ.

Đồng thời, ý thức thẩm mỹ cũng có tính độc lập tương đối so với hoạt động

thẩm mỹ và nghệ thuật, cũng như có đặc điểm riêng so với các hình thái ý

thức khác.

Với một trình độ tổng hợp cao. Ý thức thẩm mỹ luồn luôn hiện ra trong

hình thức cảm tính, trực tiếp, nối kết hình ảnh về thế giới được biến cải bởi trí

tưởng tượng với sự đánh giá từ một lý tưởng thẩm mỹ nhất định. Tuy mang

hình thức cảm tính, nhưng ý thức thẩm mỹ lại là một hiện tượng tinh thần nảy

sinh qua sự thống nhất và hòa hợp giữa chủ quan và khách quan, cảm xúc và

Page 24: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

trí tuệ, tình cảm và ý chí, vô thức và ý thức, nghĩa là tất cả những lực lượng

tinh thần của con người trong thể toàn vẹn của chúng.

Qua khái niệm ý thức thẩm mỹ, chúng ta muốn nói đến thực thể tinh

thần đa dạng bao gồm nhiều thành tố có tác động và thẩm thấu với nhau tạo

thành một hệ thống nhất định. Những thành tố cơ bản hợp thành ý thức thẩm

mỹ là cảm xúc thẩm mỹ; thị hiếu thẩm mỹ, tư tưởng thẩm mỹ. Bên cạnh đó,

có những thành tố không cơ bản nhưng cũng góp phần tạo nên hệ thống ý

thức thẩm mỹ; như khát vọng về chân lý, ý thức trách nhiệm, lương tâm....

Ý thức thẩm mỹ bị qui định bởi nhu cầu và trình độ thẩm mỹ một thời

đại. Nhưng thông qua những cá nhân kiệt xuất - như những nhà tư tưởng;

những nghệ sĩ có tầm cỡ - nó có thể vượt qua giới hạn của một thời đại.

Ngược lại, ý thức thẩm mỹ của một thời đạị chỉ được thể hiện thông qua ý

thức của những cá nhân tiếp nhận và làm phong phú ý thức đó bằng những

kinh nghiệm sống của riêng mình. Ý thức thẩm mỹ của thời đại sẽ mất hết ý

nghĩa nếu không được thể nghiệm thông qua những cảm xúc thẩm mỹ cá

nhân.

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức thẩm mỹ không chỉ

phản ánh tồn tại xã hội mà còn sáng tạo ra những giá trị mới và tác động tích

cực đối với sự phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức thẩm mỹ không chỉ cung

cấp cho chúng ta một hình ảnh đúng đắn và gợi cảm về thế giới mà còn phác

họa và dự báo cho con người con đường vươn tới một thế giới mới đẹp hơn,

nhân đạo hơn. Như vậy, ý thức thẩm mỹ không chỉ là một hình thái nhận thức

thế giới mà là hình thái tự nhận thức và tự hoàn thiện của con người. Có thể

nói ý thức thẩm mỹ đã nối dài ý nghĩa sự hiện hữu của con người trên mặt đất

này.

II. CẢM XÚC THẨM MỸ

Đó là trạng thái xúc động trực tiếp nảy sinh khi con người tri giác các

khách thể thẩm mỹ: thiên nhiên, con người, các sản phẩm lao động, các công

trình nghệ thuật.

Page 25: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Cảm xúc thẩm mỹ có thể là niềm hân hoan, vui sướng, thích thú trước

cái đẹp; là nỗi đau xót, mến phục, thương tiếc trước cái bi; là niềm cảm phục,

tôn kính trước cái cao cả... Đó là dấu hiệu thường trực xác nhận sự có mặt

của quan hệ thẩm mỹ, là biểu thị đầu tiên của ý thức thẩm mỹ trước thế giới.

Đồng thời, cảm xúc thẩm mỹ cũng là bằng chứng nói lên khả năng cảm thụ

thẩm mỹ của con người trước các hiện tượng thẩm mỹ trong thiên nhiên, xã

hội và đời sống tâm linh, là bằng chứng xác nhận rằng con người không "tật

nguyền về cảm quan" trước cái đẹp! Qua cảm xúc thẩm mỹ con người khám

phá ra vẻ đẹp của thế giới và của chính mình, đồng thời bước đầu "nhân hóa"

thế giới và nhân hóa chính mình.

Khởi nguyên của cảm xúc thẩm mỹ là một nguồn kích thích mà đối

tượng gây ra cho chủ thể. Đối tượng thẩm mỹ tác động đến chủ thể sẽ tạo ra

sự tiếp nhận phản ứng về mặt tình cảm với hai khả năng tích cực hoặc tiêu

cực. Lúc cảm xúc thẩm mỹ xuất hiện cũng là lúc đối tượng không còn là sự -

vật - tự - nó mà trở thành sự - vật - cho - ta và ý thức trở thành ý - thức – về!

Không có nguồn kích thích của đối tượng thì tất nhiên không có cảm xúc thẩm

mỹ; nhưng nếu không có ý hướng của tinh thần về phía đối tượng thì cũng

không thể có cảm xúc thẩm mỹ.

Như vậy cảm xúc thẩm mỹ không chỉ đơn giản do các khách thể tương

ứng sinh ra, mà là kết quả sự nhập cảm của ý thức chủ thể vào đối tượng. Ý

thức thẩm mỹ dường như thâm nhập vào các đối tượng này, bộc lộ và phân

phát "bản chất người" của nó vào toàn bộ cấu trúc của đối tượng bằng một

sự thấm đẫm sâu sắc. Nói cảm xúc thẩm mỹ biến thế - giới - tự - nó thành thế

- giới - cho - ta là vì vậv.

Vấn đê khả năng nhập cảm của con người là nội dung của lý thuyết mỹ

học - tâm lý học với các nhà tư tưởng có tên tuổi như Fisher, Lipps... Các nhà

mỹ học này cho rằng sự nhập cảm là cơ sở của cảm xúc thẩm mỹ. Theo

Fisher, nhà mỹ học người Đức, sự nhập cảm chính là mối quan hệ giữa cảm

xúc nội tại với sự tri giác hình thức bên ngoài, là sự phản chiếu của tình cảm

trên những hình tượng được chủ thể tiếp nhận. Fisher còn đẩy ý tưởng đó đi

Page 26: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

xa hơn đến chỗ cho rằng bản chất của đối tượng được tiếp nhận chính là kết

quả của sự di chuyển trạng thái tình cảm của chủ thể đến đối tượng. Như

vậy, thiên nhiên tự nó không vui không buồn, chỉ có con người đem cái buồn

của mình mà trải lên cảnh vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

(NGUYỄN DU)

hay:

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong

(THÂM TÂM)

Về phương diện tâm lý học, Lipps, nhà tư tưởng người Đức, xác định

mối quan hệ giữa cảm xúc thẩm mỹ với cơ chế cảm xúc của tâm lý con người

và khẳng định rằng con người chỉ nhận ra được các giá trị thẩm mỹ trong

những hình tượng cảm tính phản ánh chính bản thân mình, một sự phản ánh

trực tiếp và năng động của chủ thể. Theo Lipps, sự nhập cảm chính là một

tình cảm tự thân được đối tượng hóa. Trong sách Tâm lý văn nghệ, Chu

Quang Tiềm gọi đây là thuyết Di tình tác dụng hay là Vật ngã đồng nhất.

Sư kích thích của đối tượng làm nảy sinh ra cảm xúc thẩm mỹ hoàn

toàn khác với sự kích thích có tính chất sinh lý. Cảm xúc thẩm mỹ là nỗi xúc

động và niềm vui tinh thần, hoàn toàn khác với sự thỏa mãn của con người

khi đang lạnh mà được sưởi ấm, đang đói mà được cho ăn no. Bản chất của

cảm xúc thẩm mỹ là sự tổng hòa những yếu tố tinh thần bao gồm tình cảm,

nhận thức, cả truyền thống văn hóa mà một con người tiếp thu được.

Sự rung cảm của con người trước những ấn tượng thẩm mỹ nhận

được là một điều kiện không thể thiếu trong sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ

thuật. Nếu không có cảm xúc, người sáng tác sẽ sản sinh ra những tác phẩm

nghèo nàn, mất máu, thiếu sức sống Nguyên lý này phù hợp không chỉ với

Page 27: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

các thể loại trữ tình vốn bộc lộ tâm trạng con người, mà còn với tất cả các loại

hình nghệ thuật và thể loại văn học.

Về phía người thưởng thức và phê bình nghệ thuật, cảm xúc thẩm mỹ

cũng là một yếu tố tiên quyết để nắm bắt giá trị đích thực của tác phẩm. Ở

đây, các khái niệm lý luận, kiến thức khoa học... rất cần thiết để cảm thụ nghệ

thuật, nhưng nhiều khi không đủ để tiếp cận cái hay, cái độc đáo của tác

phẩm. Năng khiếu của nhà phê bình gắn liền với sự trực cảm, với những ấn

tượng tươi mới, những rung động xuất phát từ đáy sâu tâm hồn. Chúng ta

hiểu vì sao cho đến nay Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh vẫn được xem là

công trình phê bình xuất sắc nhất về phong trào Thơ Mới 1932 - 1945.

Tuy nhiên theo A. Buliough, nhà Mỹ học người Anh, cảm xúc thẩm mỹ

còn phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng mà ông gọi là khoảng cách tâm lý

(distance psychologique). Một mặt, nếu giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng

thẩm mỹ có một khoảng cách quá xa, thì chủ thể không thể lĩnh hội được giá

trị thẩm mỹ của đối tượng và không thể nào có thái độ cộng hưởng với cái

đẹp. Đó chính là trường hợp chủ thể đứng ngoài đời sống thẩm mỹ của đối

tượng, trở thành người bàng quan, dửng dưng không cảm xúc.

Mặt khác, nếu giữa chủ thể và đối tượng có một khoảng cách quá gần

thì dễ nảy sinh ra một động cơ thưởng ngoạn có tính chất thực dụng. Hậu

quả của tình trạng này là sự đồng nhất đối tượng thẩm mỹ với hiện thực, dẫn

đến lời phê bình chiếu nội dung nghệ thuật với thế giới thực tại, đồng nhất

nguyên mẫu với nhân vật, ngôn ngữ văn chương với ngôn ngữ toàn dân, thời

gian nghệ thuật với thời gian vật lý.

Trong nghệ thuật, khoảng cách tâm lý gắn liền với việc tổ chức tác

phẩm sao cho chủ thể tiếp nhận không có ảo tướng về tính hiện thực của nó

mà luôn luôn ý thức về tính ước lệ của sự sáng tạo. Chẳng hạn trong hội họa,

luật phối cảnh cho phép thể hiện không gian ba chiều của đối tượng lên mặt

tranh, đồng thời giới hạn bức tranh trong cái khung để tách nó ra khỏi không

gian hiện thực. Trong sân khấu, nhà đạo diễn, tác giả kịch bản, các diễn viên,

người hóa trang một mặt tạo cho khán giả ấn tượng về một thế - giới – giống

Page 28: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

– như - thật đang diễn ra trước mắt mình; mặt khác lại phá hủy thế giới đó

thông qua những phương tiện như mặt nạ, cảnh trí, ánh sáng v.v... Với kịch

tự sự biện chứng của B. Brecht, nhà viết kịch người Đức, thì vai trò của

khoảng cách tâm lý này càng được nhấn mạnh bằng thủ pháp "lạ hóa" nhằm

"đánh thức" khán giả để họ tỉnh táo suy xét các hiện tượng đang xảy ra trước

mắt và giữ một khoảng cách cần thiết mà nhận định và phê phán các diễn

biến của vở kịch thay vì rơi vào ảo tưởng đồng nhất giữa sân khấu và cuộc

đời.

Nói theo L. Feuerbach, triết gia người Đức, nghệ thuật không bao giờ

đòi hỏi phải thừa nhận nó như là hiện thực. Vì vậy, khoảng cách tâm lý là một

điều kiện cần thiết để làm cho tác phẩm trở thành đối tượng của sự suy

ngảm, chiêm nghiệm, và cho phép chúng ta đánh giá sự tái hiện nghệ thuật

đối với thế giới cũng như tính cách của các nhân vật và quan niệm nghệ thuật

của tác giả. Đồng thời một khoảng cách tâm lý thích ứng cũng sẽ tạo nên hiệu

quả của việc "đồng sáng tạo" của công chúng đối với tác phẩm nghệ thuật,

làm cho họ có khả năng tiếp nhận tác phẩm từ cấu trúc bên trong và đưa tác

phẩm vận hành vào trong đời sống. Theo ý nghĩa đó, việc xem nhẹ vấn đề

khoảng cách tâm lý trong bất kỳ trường hợp nào cũng đều có hại cho nghệ

thuật.

Với tư cách là thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ, cảm xúc thẩm mỹ

có quan hệ mật thiết với năng lực trực quan của con người. Nếu cảm xúc

thẩm mỹ là dấu hiệu về -sự giao tiếp của chủ thể với đối tượng, thì điểm xuất

phát của sự giao tiếp đó chính là cái nhìn có tính chất trực quan của chủ thể.

Điều này vô cùng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, bởi vì nếu cái nhìn

trực quan này mà chính xác thì người nghệ sĩ mới có cơ may đạt đến sự

phong phú và chân thực của hình tượng nghệ thuật. Nhà danh họa Matisse

từng nói: "Đối với người nghệ sĩ thì sự sáng tạo bắt đầu từ cái nhìn. Nhìn

chính là một hành động sáng tạo đòi hỏi sự căng - thẳng - của tư duy".

Trực quan thẩm mỹ còn có ý nghĩa như một hình thức độc lập của hoạt

động thẩm mỹ tinh thần. Hình thức này đặc biệt phát triển trong nền văn hóa

Page 29: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

và nghệ thuật các nước phương Đông, nơi mà những yếu tố duy lý có vai trò

rất mờ nhạt trong sáng tạo nghệ thuật. Chúng ta không mấy khó khăn để

nhận ra điều đó qua tranh thủy mạc của Trung Quốc, thơ Thiền thời Lý - Trần,

thơ Tagore, tiểu thuyết Kawabata...

Nảy sinh trong quá trình khám phá thẩm mỹ đối với thế giới và con

người, cảm xúc thẩm mỹ đá tác động tích cực đến sự hình thành những đặc

điểm của con người phát triển toàn diện và hài hòa. Cảm xúc thẩm mỹ góp

phần quan trọng vào việc điều tiết các chức năng tâm lý và sinh lý của con

người, giúp con người được thanh lọc về mặt tình cảm, đạo đức và tâm linh

để vươn tới đỉnh cao về nhân cách. Vì vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự

hình thành cảm xúc thẩm mỹ tích cực và năng lực trực quan thẩm mỹ nhạy

bén ở con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của văn hóa

thẩm mỹ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt thời sự trong hoàn cảnh nhân loại

đang đứng trước nguy cơ của sự tàn phá môi trường sinh thái như hiện nay.

III. THỊ HIẾU THẨM MỸ

Là một bộ phận hợp thành của ý thức thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹv thể

hiện sự bằng lòng và hứng thú của chủ thể khi tiếp nhận và đánh giá các đối

tượng thẩm mỹ nhất định. Trong thị hiếu thẩm mỹ, những cảm xúc thường có

ở một con người đã đi vào thể ổn định và hợp thành một thực thể tương đối

bền vững để biến thành sở thích thẩm mỹ của người đó.

Thị hiếu thẩm mỹ là một hiện tượng xã hội - lịch sử, trong đó kết hợp

những yếu tố có tính nhân loại, những yếu tố thuộc về tầng lớp, giai cấp, giới

tính và những yếu tố cá nhân. Nhấn mạnh một yếu tố này mà xem nhẹ các

yếu tố kia đều rơi vào quan điểm phi lịch sử và phiến diện. Thị hiếu thẩm mỹ

của một thời đại, một cộng đồng người luôn luôn biểu hiện thông qua những

thị hiếu cá nhân đa dạng, riêng biệt, độc đáo. Về phần nó, thị hiếu thẩm mỹ cá

nhân hình thành trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ của nhân loại, thời đại và

cộng đồng; đồng thời bao hàm những kinh nghiệm mới mà chính cá nhân đó

Page 30: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

nếm trải khi tiếp xúc với đời sống thẩm mỹ không ngừng biến đổi và phát

triển.

Nếu cảm xúc thẩm mỹ thiên về khía cạnh trực giác, cảm quan và tình

cảm; thì trong thị hiếu thẩm mỹ đã có sự hòa hợp và cân bằng giữa cảm tính

và lý tính, giữa trực giác tức thời và sự nghiền ngẫm lâu dài. Vì vậy, chỉ

những người có trình độ văn hóa sâu, có sự từng trải và kinh nghiệm phong

phú, có đời sống đạo đức - tinh thần lành mạnh mới có thể có thị hiếu thẩm

mỹ cao quí. Ngược lại, những kẻ què quặt về kiến thức và tâm hồn, nghèo

nàn về kinh nghiệm sống, buông thả về mặt đạo đức thì nhất định sẽ có thị

hiếu thẩm mỹ thấp kém.

Thị hiếu thẩm mỹ là một hình thái biểu hiện năng lực và nhu cầu tinh

thần của cá nhân. Và sở dĩ một cá nhân ưa thích những hiện tượng thẩm mỹ

nào đó là do người ấy đã tiếp nhận một nền giáo dục có những thói quen, tính

cách, kinh nghiệm sống và giao tiếp nhất định nào đó. Chính là dưới ảnh

hưởng từng bước, diễn ra hằng ngày của môi trường chung quanh, của lối

sống của những nhân tố thẩm mỹ trong lao động và sinh hoạt, và nhất là của

nghệ thuật, mà thị hiếu thẩm mỹ của một cá nhân được hình thành. Không

phải ai khác hơn là chính các nghệ sĩ, bằng hoạt động sáng tạo và những tác

phẩm nghệ thuật đích thực của mình, góp phần quyết định vào việc nâng cao

thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Theo ý nghĩa đó, thị hiếu nghệ thuật là biểu

hiện tập trung nhất, là hạt nhân của thị hiếu thẩm mỹ.

Những xã hội văn minh và dân chủ luôn luôn coi trọnc việc nâng cao thị

hiếu thẩm mỹ của con người, đồng thời với việc bảo vệ sự phát triển đa dạng

của thị hiếu đó. Một mặt cần phải đấu tranh chống lại sự thỏa hiệp với những

thị hiếu thấp kém, tầm thường làm mục ruỗng đời sống tinh thần của con

người. Không nên xem việc cho ra đời những cuốn sách nhạt nhẽo, những bộ

phim vô vị là chuyện bình thường. Tình trạng đó kéo dài và trở nên phổ hiến

như trong đời sống văn hóa nghệ thuật ở nước ta hiện nay cần phải xem như

một căn bệnh trầm kha sẽ kéo cả xã hội đi xuống vực thẳm của sự suy sụp về

tinh thần và đạo đức.

Page 31: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Mặt khác, phải kiên quyết bảo vệ sự tồn tại và phát triển hợp pháp của

các thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh đa dạng. Xã hội cũng sẽ rơi vào sự tàn tạ về

văn hóa nếu nó chứa đựng nguy cơ bào mòn tất cả mọi khía cạnh độc đáo

muôn màu muôn vẻ của thị hiếu, để chỉ còn một loại sở thích độc tôn. Đối với

một nền nghệ thuật, không có gì đáng sợ cho bằng khi nó bị đầu độc bởi sự

giáo điều và đơn điệu. Lúc đó, con người bị tước mất khả năng chọn lựa,

những khát vọng của nó về cái đẹp bị vo tròn cho vừa với những cái khôn

đóng sẵn giống như những cái giường của Procuste.

Trên lĩnh vực nghệ thuật, quan điểm "văn nghệ phục vụ công nông

binh" ngày nay đã không còn có sức thuyết phục nữa. Nói theo một nhà

nghiên cứu, văn hóa là "hóa thành văn", nghĩa là phải làm cho cuộc sống vật

chất và tinh thần của con người mang cái vẻ đẹp vẻ sáng của văn minh, chứ

không phải chỉ tạo ra những món ăn vừa khẩu vị của tầng lớp "công nông

binh". Mỗi nền văn hóa phong phú đa dạng mới dẫn đến sự phong phú, đa

dạng về thị hiếu, thẩm mỹ. Và ngược lại, có chấp nhận sự đa dạng, phong

phú của thị hiếu mới tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng, phong phú của

văn hóa... Một nền văn hóa khô cứng và công thức tất sẽ đẻ ra những thị hiếu

nghèo nàn, què quặt và ngược lại.

Vấn đề sự đa dạng của thị hiếu thẩm mỹ có liên quan tới một hiện

tượng tâm lý xã hội rất phức tạp và tế nhị là "mốt" (mode).

"Mốt" là hiện tượng thay đổi từng phần các hình thức biểu hiện của đời

sống văn hóa dưới ảnh hưởng của các nguyên nhân kinh tế, xã hội, tâm lý,

đạo đức, thẩm mỹ. Hiện tượng xã hội này diễn ra có tính chất định kỳ và

nhiều khi lặp đi lặp lại.

Phạm vi ảnh hưởng của "mốt" không chỉ hạn chế trong lĩnh vực y phục,

nơi "mốt" có một sức mạnh đăc biệt mà ai cũng thừa nhận. Nó xâm chiếm

ngay cả trong lĩnh vực sản xuất và chính trị, khoa học và nghệ thuật, tư tưởng

và tâm lý xã hội.

Trong khi thực hiện chức năng xã hội của mình, "mốt" đã góp phần làm

phong phú những hình thức truyền thống của đời sống văn hóa. Bằng cách

Page 32: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

này hay cách khác, những tập quán tồn tại trong một xã hội nhất định vẫn

thường khúc xạ thông qua "mốt", đồng thời ngay trong những tập quán đó

vẫn lưu giữ những "mốt" bền vững nhất của quá khứ. Với tư cách là một hình

thức nhất thời trong ứng xử và hành vi của một cộng đồng người, "mốt" biểu

hiện phương thức, hành vi, chuẩn mực mà cộng đồng đó thực hiện trong một

khoảng thời gian nhất định.

Trong hệ thống các chuẩn mực xã hội - thẩm mỹ, vị trí của "mốt" chủ

yếu do tính chất của môi trường - xã hội qui định. "Mốt" luôn luôn được biểu

hiện, thông qua những hình thức đánh giá mang tính cụ thể - cảm tính, nhờ

vậy mà nó gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của con người thông qua một kiểu y

phục, một kiểu tóc, một cách ứng xử... "Mốt", do đó, phản ánh trình độ và đặc

điểm về thị hiếu thẩm mỹ của công chúng trong một giai đoạn lịch sử nhất

định.

Giữa "mốt” và lối sống của con người có mối quan hệ rất chặt chẽ. Điều

này thể hiện ở chỗ "mốt" là dấu hiệu bên ngoài của một nội dung cuộc sống

đang vận động. Thông qua các sở thích về y phục, âm nhạc, các điệu vũ...

người ta có thể thấy được sự thay đổi về quan niệm sống, về mức sống và về

lối sống.

Sự xuất hiện của "mốt" trong đời sống xã hội nhiều khi là một phép thử

cần thiết về tính bảo thủ cứng rắn của xã hội đó hay về khả năng thích nghi

của nó. Những công dân, trong đó có cả những trí thức, đại diện cho sự trì trệ

của xã hội thường là dị ứng với những "mốt" mà lớp trẻ lại nhiều khi vồ vập.

Nhà văn Nga J. Bondarev, chẳng hạn, có những phản ứng rất tiêu cực với sự

xuất hiện của cái quần jeans: ông cho đó là biểu hiện của văn hóa tiêu dùng,

làm thui chột nền văn hóa Nga. Tương tự như vậy, đã từng có những phản

ứng rất quyết liệt và thiếu công bình đối với các loại nhạc pop, nhạc rock, xem

chúng như là sản phẩm của văn minh suy đồi phương Tây. Nhưng ngày nay

nhiều người đều thấy rằng cái quần jeans cũng như nhạc pop, nhạc rock,

không có tội lỗi gì. Thậm chí cần phải thấy may mắn khi những sản phẩm đó

Page 33: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

đáp ứng được đòi hỏi của công chúng trẻ, dù chỉ là một bộ phận hạn chế đi

nữa.

Tóm lại, không nên xem "mốt" như một hiện tượng thẩm mỹ thuần túy

mà còn là một hiện tượng xã hội. Theo Kant, khi con người chạy theo "mốt" là

nhằm chứng tó rằng mình cũng đáng chú ý không kém gì kẻ khác, nhằm ganh

đua để vượt lên kẻ khác. Giản lược bản chất của "mốt" chỉ như hiện tượng

thẩm mỹ thuần túy cũng sẽ không cho phép chúng ta giải thích một cách

thuyết phục nguyên nhân và ý nghĩa xã hội của nhiều hiện tượng văn hóa.

Chẳng hạn sự phổ biến những hình thức văn hóa phản thẩm mỹ bằng

phương tiện nghệ thuật hay thái độ hư vô chủ nghĩa khi phủ nhận những giá

trị văn hóa đích thực.

Trong xã hội ngày nay, sự phát triển về "mốt" cần phải được căn cứ

trên hành vi có ý thức của những cá nhân có khả năng chọn lựa và quyết định

một cách tự do, để "mốt" có thể tác động tích cực vào sự hình thành thị hiếu

thẩm mỹ cao đẹp thể hiện trong hành vi và lối sống của con người.

IV. LÝ TƯỞNG THẨM MỸ

Con người là một sinh vật không bao giờ bằng lòng với những điều

đang có trước mắt. Nó luôn luôn có khát vọng vươn tới sự hoàn thiện hoàn

mỹ trong viễn cảnh tương lai. Sự hoàn thiện hoàn mỹ đó có thể con người sẽ

không bao giờ đạt tới nhưng bao lâu con người còn đứng trên đôi chân của

mình thì bấy lâu vẻ đẹp lý tưởng còn có sức vẫy gọi nó đi về phía trước,

Lý tưởng - đó là ý niệm về sự hoàn thiện, là ước mơ về tương lai. Lý

tưởng phát huy sức mạnh của trí tuệ và ý chí con người, làm cho hành động

của con người vươn tới một mục tiêu rõ rệt. Sự thể hiện và thực hiện lý tưởng

đòi hỏi một tiền đề tất yếu là con người phải có tự do trong tất cả những hoạt

động thực tế của mình. Trong những lĩnh vực hoạt động đa dạng của con

người có thể nói đến lý tưởng xã hội - chính trị, lý tưởng đạo đức, lý tưởng

thẩm mỹ, Lý tưởng xã hội - chính trị là quan niệm về một cơ cấu xã hội hoàn

chỉnh và một chế độ chính trị tiến bộ nhất. Lý tưởng đạo đức là quan niệm về

Page 34: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

những chuẩn mực của hành vi con người. Còn lý tưởng thẩm mỹ là quan

niệm mang tính cụ thể - cảm tính về sự phát triển tự do và đầy đủ nhất những

khả năng thể chất và tinh thần của con người, về vẻ đẹp hài hòa của đời sống

thiên nhiên và xã hội, về chuẩn mực cao nhất của sự hoàn thiện hoàn mỹ và

con đường để vươn tới đó.

Nếu cảm xúc thẩm mỹ nảy sinh từ sự tiếp xúc với những cái đẹp thực

tế, thì lý tưởng thẩm mỹ lại hướng tới cái đẹp trong ước mơ và khát vọng của

con người. Nó nêu bật hình ảnh về những giá trị thẩm mỹ mà con người cho

rằng cần phải có, cần nên có. Nếu thị hiếu thẩm mỹ là kết quả sự tổng hợp

những kinh nghiệm thẩm mỹ còn mang nhiều tính chủ quan, thì lý tưởng thẩm

mỹ là sự đúc kết mang tính khách quan và sâu sắc những kinh nghiệm không

chỉ của một con người, một tầng lớp xã hội mà còn của cả một thời đại nhất

định.

Lý tưởng thẩm mỹ có hình thức biểu hiện rất đặc biệt. Các lý tưởng xã

hội - chính trị, đạo đức thường được diễn tả bằng những khái niệm, phạm trù

trừu tượng; chẳng hạn: "Lý tưởng của tôi là nước cộng hòa", "Lý tưởng đạo

đức của xã hội phong kiến là trung, hiếu, tiết, nghĩa"... Còn lý tưởng thẩm mỹ

thì có liên quan mật thiết đến quan hệ cảm tính của con người với môi trường

chung quanh, nên có hình thức biểu hiện mang tính cụ thể cảm tính, mà nếu

thiếu nó, sẽ không thể tạo ra ấn tượng về hình ảnh cái đẹp cần phải có, cái

đẹp trong ước mơ.

Trong lý tưởng thẩm mỹ, chiều sâu của sự nhận thức về qui luật phát

triển của cuộc sống, về viễn cảnh tương lai được kết hợp một cách hài hòa

với tính trực quan của hình tượng và sự cá thể hóa. Chẳng hạn lý tướng thẩm

mỹ của xã hội nguyên thủy được biểu hiện thông qua hình tượng con người

chinh phục các bộ lạc và giành được ngọn lửa thiêng trong tay thần linh. Lý

tưởng thẩm mỹ trong xã hội Hy Lạp thời cổ đại được nêu bật qua hình ảnh

nhà hiền triết thông thái hay người công dân anh hùng, gan dạ như Achille

trong Iliade. Đối với xã hội phong kiến thời Trung cổ, hiện thân của lý tưởng

thẩm mỹ là người hiệp sĩ và nhà tu hành. Thời Phục hưng để lại dấu ấn về lý

Page 35: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tưởng thẩm mỹ qua những cá tính phát triển hài hòa mà L. de Vinci, Rafael,

Michel Ange... đã xây dựng nên. Trong thời đại của chủ nghĩa cổ điển, lý

tưởng thẩm mỹ được phản ánh trong những hình tượng thể hiện quan niệm

cao cả về nghĩa vụ như những nhân vật trong kịch của Corneille, Racine...

Trong văn học thời đại Ánh sáng, lý tưởng thẩm mỹ gắn liền với những hình

tượng nhân vật đại diện cho lý trí như Faust của Goethe, Robinson của

Defoe...

Lịch sử tư tưởng mỹ học đã ghi nhận Vinckelmann và sau đó Lessing là

những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "lý tưởng thẩm mỹ". Nhưng bản

thân vấn đề lý tưởng thẩm mỹ thì Platon đã từng đặt ra khi ông nêu lên tiêu

chí của sự đánh giá thẩm mỹ gắn liền với những lý tưởng vĩnh cữu và bất

biến về cái đẹp. Những tiêu chí này thoát khỏi tính chất cảm tính và chủ quan

của cá nhân. Sau Platon, Aristote cho rằng người nghệ sĩ cần phải xây dựng

lý tưởng thẩm mỹ cho mình bằng cách bắt chước ở những mẫu người khác

nhau một số đặc điểm hoàn thiện nào đó. Trong xã hội Hy Lạp cổ, lý tưởng

thẩm mỹ có liên quan đến ý niệm về sự hài hòa giữa tâm hồn và "thể xác bên

trong" và bên ngoài. Nhưng đến mỹ học thời Trung cổ thì khái niệm lý tưởng

thẩm mỹ lại gắn liền với khái niệm tinh thần như là tiêu chí cao nhất để đánh

giá hoạt động nghệ thuật và được thể hiện thông qua nội dung mang tính chất

tôn giáo, đặc biệt là trong hội họạ và kiến trúc.

Sang thời đại Phục hưng, lý tưởng thẩm mỹ mang một nội dung mới khi

mà con người, với sự phong phú về tình cảm và khả năng nhận thức của nó

được xem là tiêu chuẩn lý tưởng của cái đẹp. Như Shakespeare đã khẳng

định, "Con người là vẻ đẹp của thế gian, là kiểu mẫu của muôn loài". Thời

Phục hưng đã chứng kiến sự ra đời một trào lưu triết học, văn hóa, nghệ

thuật tiến bộ hướng đến việc giải phóng cá tính con người khỏi những ràng

buộc và sự trì trệ về tư tưởng của chủ nghĩa phong kiến và thần học Ki- tô

giáo. Thời kỳ này việc nghiên cứu vấn đề lý tưởng thẩm mỹ đã tiến xa hơn

một bước trong sáng tác của các nghệ sĩ cũng như trong công trình của các

nhà lý luận nghệ thuật. Họ đã khẳng định mối quan hệ giữa hiện thực và lý

Page 36: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tưởng trong nghệ thuật; đã hoàn thiện cái – đang - có bằng cách sáng tạo cái

– phải – có, cái – cần - có.

Mỹ học thời khai sáng đã mở rộng khái niệm "bắt chước tự nhiên" mà

Aristote đề xướng, bao hàm trong đó cả môi trường xã hội. Diderot,

Winckelmann, Lessing... tiếp tục phát triển theo cách của mình tư tưởng về

mối quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực, lý tưởng và chân lý. Diderot là người

đầu tiên nhấn mạnh chức năng nhận thức của lý tưởng. Winckelmann cũng

như Lessing đã chỉ ra vai trò và ý nghĩa của lý tưởng thẩm mỹ trong việc nhân

thức bản chất của nghệ thuật cổ đại, đồng thời vạch ra sự khác biệt giữa vẻ

đẹp hình thức bên ngoài với lý tưởng tâm hồn bên trong. Winckelmann xem lý

tưởng thẩm mỹ như là mục đích của sáng tạo nghệ thuật, ông đặt lý tưởng

cao hơn cả chân lý. Còn Lessing thì khẳng định quan niệm hiện thực về cái

đẹp, ông cho rằng lý tưởng thẩm mỹ phản ánh chân lý đời sống.

Triết học duy tâm cổ điển Đức gắn liền việc nghiên cứu lý tưởng thẩm

mỹ với những vấn đề nhận thức luận cơ bản. Baumgarten đã xem lý tưởng

như một cái gì hoàn thiện, ông yêu cầu người nghệ sĩ phải mô phỏng tự nhiên

để có thể tiếp cận được lý tưởng. Sau Baumgarten, mỹ học ngày càng phân

biệt rõ ràng hơn khái niệm lý tưởng thẩm mỹ với sự hoàn thiện nghệ thuật

cũng như chất lượng nghệ thuật của tác phẩm.

Khái niệm lý tưởng thẩm mỹ được nghiên cứu một cách sâu sắc trong

mỹ học Hegel nơi mà phạm trù lý tưởng trở thành vấn đề trung tâm và có

quan hệ với sự thay đổi của Ý thức thẩm mỹ được nhà triết học xem như một

tiến trình lịch sử có tính chất tất yếu. Hegel là người đầu tiên đã xem xét lý

tưởng thẩm mỹ như một thái độ sống được nhận thức và diễn tả thông qua

nghệ thuật. Và nghệ thuật được ông xác định là sự biểu hiện lý tưởng về cái

đẹp trong hình thức cụ thể - cảm tính của hình tượng. Hegel cho rằng Hy Lạp

cổ là nơi mà tình trạng thế giới phù hợp với lý tưởng và nghệ thuật Hy Lạp là

nền nghệ thuật thực sự mang tính cổ điển. Trong thời đại mới, theo tư tưởng

của nhà triết học, nội dung xã hội phải được chuyển sang phạm vi cá nhân,

cái tinh thần sẽ thống trị cái cảm tính, tư tưởng nghệ thuật sẽ có tính chất trừu

Page 37: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tượng. Điều này sẽ dẫn đến sự thống trị của cái duy lý so với cái thẩm mỹ và

hậu quả sẽ là sự hủy hoại của bản thân lý tưởng thẩm mỹ.

Quan niệm duy tâm trên đây về lý tưởng thẩm mỹ đối lập với lý luận

của các nhà dân chủ — cách mạng Nga vốn khẳng định sự gắn bó giữa nghệ

thuật và đời sống và xem lý tưởng thẩm mỹ như là phương thức cải tạo hiện

thực. Theo V. Bielinski, không nên xem lý tưởng như một cái gì đưa vào từ

bên ngoài mà cần phải rút nó ra từ chính hiện thực. Ông cho rằng "lý tưởng

không phải là trò chơi ngẫu hứng của trí tưởng tượng, không phải là điều bịa

đặt, là những giấc mơ; đồng thời lý tưởng cũng không phải là bản sao chép

của hiện thực mà là khả năng của một hiện tượng nào đó được trí tuệ phỏng

đoán và trí tưởng tượng cảm nhận ra".

Herzen và Tchernychevski cũng có những đóng góp đáng kể vào việc

nghiên cứu lý tưởng thẩm mỹ. Đối với hai ông, lý tưởng là sự phản ánh trong

ý thức con người những xu hướng nổi bật của cuộc sống và những khả năng

căn bản của sự phát triển. Tehernychevski xem xét vấn đề ý tưởng thẩm mỹ

trong mối quan hệ mật thiết với vấn đề nhân vật lý tưởng: Mâu thuẫn giữa

hiện thực và lý tưởng, giữa cuộc sống như nó đang tồn tại với cuộc sống như

nó phải phù hợp với quan niệm của con người cần được nhà văn giải quyết

không phải bằng cách biến lý tưởng phải phục tùng hiện thực mà bằng cách

miêu tả hiện thực với tinh thần phê phán, từ lập trường của lý tưởng dân chủ

- cách mạng.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx đã xem xét vấn đề lý tưởng

thẩm mỹ như là vấn đề mối quan hệ giữa lý tưởng và hiện thực trong điều

kiện xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Các mục tiêu lý tưởng và khát

vọng của con người lần đầu tiên đã được đặt ra trong mối quan hệ với những

nhiệm vụ thực tiễn nhằm cải tạo thế giới. Marx và Engels đã phê phán tính

chất ảo tưởng của các lý tưởng mà đằng sau nó không có sự hỗ trợ của

những lực lượng xã hội hiện thực đặt cơ sở trên sự nhận thức những quy luật

lịch sử khách quan. Hai ông chỉ ra rằng tất cả những lĩnh vực của ý thức xã

hội và hoạt động thực tiễn đều có liên quan với phạm trù lý tưởng. Marx viết:

Page 38: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

"Không phải con người chỉ thực hiện sự thay đổi hình thức trong những vật

liệu do tự nhiên cung cấp mà thôi; đồng thời con người còn thực hiện mục

đích có ý thức của chính mình, mục đích này chính là quy luật quyết định

phương thức và tính chất hành động của con người, nó bắt ý chí của con

người phải phục tùng vào nó".

Theo quan điểm mác-xít, giá trị của lý tưởng phụ thuộc trực tiếp vào

khả năng thực hiện nó trong lịch sử. Và lý tưởng thẩm mỹ chỉ được thực hiện

trọn vẹn không phải trong quá khứ mà trong tương lai. khi mà "sự phát triển

tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"

(K. Marx).

Trong khi giữ nội dung độc lập và đặc trưng riêng của nó, lý tưởng

thẩm mỹ vẫn có liên quan mật thiết với lý tưởng xã hội. M. Gorki từng khẳng

định một ý kiến cho rằng "mỹ học là đạo đức học của tương lai". Bằng

phương thức nghệ thuật, người nghệ sĩ khám phá ra những khuynh hướng

phát triển của đời sống, đặt vấn đề về cái cần phải có. Và cũng như lý tưởng

xã hội hay lý tưởng đạo đức, lý tưởng thẩm mỹ được hình thành trong một

thời đại nhất định và mang một nội dung xác định về mặt lịch sử. Lý tưởng

thẩm mỹ tiên tiến của mỗi thời đại luôn luôn dựa trên những khả năng và tiềm

lực khách quan của thực tế.

Nhưng nếu lý tưởng xã hội trước hết là mục đích cơ bản của vận động

xã hội, nếu lý tưởng đạo đức là phạm trù về chuẩn mực; thì lý tưởng thẩm mỹ

đại diện cho tính tất yếu, phổ quát của cái đẹp, đồng thời vẫn bao hàm những

nội dung chủ yếu của lý tưởng xã hội và lý tưởng đạo đức.

Lý tưởng thẩm mỹ nói lên phẩm chất trung thực của cái đẹp khi nó thể

hiện vẻ đẹp của tâm hồn con người và tầm cao của nhân dân. Những người

sáng tạo ra lý tưởng và đấu tranh để khẳng định nó trong cuộc sống. Và giá trị

cao nhất, của lý tưởng thẩm mỹ được tim thấy thông qua ý nghĩa toàn nhân

loại của nó.

Để phán xét một con người về mặt lý tưởng thẩm mỹ, có thể căn cứ

trên thái độ đối với thế giới, căn cứ trên hoạt động và hành vi của người đó.

Page 39: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Còn để diễn đạt lý tưởng thẩm mỹ ở một mức độ đầy đủ nhất và làm cho

người khác có thể tiếp nhận được, thì phải bằng con đường của nghệ thuật

nơi mà mọi hiện tượng của đời sống đều được nhìn thông qua lăng kính của

lý tưởng thẩm mỹ.

Như trên đã nói, lý tưởng thẩm mỹ là quan niệm nghệ thuật về sự hoàn

thiện hoàn mỹ, là việc miêu tả cái đẹp như nó cần phải có. Trong tác phẩm lý

tưởng thẩm mỹ bộc lộ trong thế giới nghệ thuật được xây dựng từ mối quan

hệ với đời sống như nó đang tồn tại và như nó phải tồn tại theo quan niệm

của nhà văn. Điều đó có nghĩa là hiện thực được miêu tả không chỉ theo quy

luật của tính tất yếu lịch sử mà còn theo quy luật của cái đẹp. Lý tưởng thẩm

mỹ diễn ra toàn vẹn đầy đủ nhất tất cả khát vọng của con người trong những

điều kiện lịch sử nhất định chính là phương thức khám phá ra sự đa dạng của

cuộc sống. Trong khi xây dựng hình tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ luôn

luôn đánh giá cái được miêu tả, khẳng định hoặc phủ định nó. Lý tưởng thẩm

mỹ đòi hỏi gắn liền chân lý đời sống với quan niệm về mục đích của nghệ

thuật.

Lý tưởng thẩm mỹ không thể tách rời với sự bộc lộ tình cảm và ước mơ

của con người về một tương lai tươi đẹp. Được thể hiện trong nghệ thuật, lý

tưởng thẩm mỹ trở thành phương thức dự báo sự vận động tiến hóa của xã

hội, phương thức bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cho con người. Hơn nữa,

lý tưởng thẩm mỹ còn có sức mạnh nêu gương, nó phác vẽ ra hoạt động cụ

thể của con người nhằm đạt đến những mục tiêu cao quý.

Vì vậy, trong nghệ thuật, lý tưởng thẩm mỹ của người nghệ sĩ thường

được hóa thân trong hình tượng những nhân vật tích cực (Prométhée trong bi

kịch của Eschille, Jean Valjean trong Những người khốn khổ của V. Hugo,

Dũng trong Đôi bạn của Nhất Linh...). Tuy nhiên, lý tưởng thẩm mỹ không

phải chỉ được khắc họa qua một hình tượng riêng biệt nào, mà bộc lộ trong cả

hệ thống tổ chức hình tượng - ngôn từ, trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật của

tác phẩm. Có những tác phẩm mà lý tưởng thẩm mỹ không phải là đối tượng

miêu tả trực tiếp, nhưng lại là mục đích của sự miêu tả. Dưới ánh sáng của lý

Page 40: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tưởng thẩm mỹ, những nhân vật và hình tượng tiêu cực đã bộc lộ ra sự tầm

thường, giả dối, ích kỷ, đê tiện của chúng. Như vậy, rõ ràng không phải tác

phẩm nào thiếu vắng những nhân vật mang lý tưởng thì tác phẩm đó cũng

thiếu vắng những nhân tố lý tưởng thẩm mỹ. Miêu tả những con người xa rời

khỏi lý tưởng, bóc trần sự suy đồi về nhân cách của họ, của nhà văn đã gợi

lên sự căm ghét và phản kháng đối với sự tàn phá cái đẹp, gợi lên nỗi buồn

về lý tưởng. Đó là công lao của Molierè, Gogol, Santykov – Sedrin, Nguyễn

Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Thiệp...

Đặc trưng của lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật là sự thuyết phục của

nó không chỉ tác động tới lý trí mà còn tạo ra những âm hưởng về cảm xúc,

làm rung động trái tim con người. Vì thế, trong khi miêu tả những hiện tượng

và tính cách, dù là tích cực hay tiêu cực, người nghệ sĩ chân chính luôn luôn

gợi lên sự đồng cảm với lý tưởng thẩm mỹ của mình, làm cho công chúng trở

thành người đồng hành và người kế tục lý tưởng mà mình đề cao. Đó cũng là

đóng góp của nghệ thuật trong việc giáo dục thẩm mỹ cho con người.

Lý tưởng thẩm mỹ là một phạm trù xã hội - lịch sử, quan niệm về cái

đẹp thay đổi tùy theo chỗ đứng của người bảo vệ quan niệm đó. Bản thân

cuộc đấu tranh vì lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến cũng là cuộc đấu tranh vì tương

lai của nhân loại, vì con đường mà nhân loại phải dấn bước để thực hiện

những ước mơ và hoài bão của mình.

Chương 3. CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ

Phạm trù thẩm mỹ là khái niệm thể hiện nhận thức khái quát của con

người về những hiện tượng thẩm mỹ trong tự nhiên và trong xã hội, ở con

người và trong nghệ thuật. Phạm trù rộng nhất là phạm trù cái thẩm mỹ được

xác định trong sự tồn tại cụ thể của các phạm trù hẹp hơn như: cái đẹp, cái bi,

cái hài, cái cao cả v.v... Theo ý nghĩa đó, cái thẩm mỹ là phạm trù chung nhất,

khái quát nhất bao gồm cả các phạm trù thẩm mỹ phổ biến (cái đẹp, cái cao

cà) tồn tại trong thiên nhiên, trong sản phẩm lao động, ở con người và trong

Page 41: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

nghệ thuật; cũng như các phạm trù thẩm mỹ chỉ đặc trưng cho nghệ thuật (cái

bi, cái hài...). Hệ thống và số lượng các phạm trù thẩm mỹ cho đến nay vẫn là

vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ và còn đang tranh cãi. Bên cạnh một số

phạm trù đã được thừa nhận rộng rãi từ lâu như cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái

hài, các phạm trù khác như: cái thẩm mỹ, cái anh hùng, cái toàn vẹn, cái hài

hòa v.v... cũng đang được khảo sát và đi dần vào các sách giáo khoa mỹ học.

Dưới đây, chúng ta chỉ dừng lại ở một số phạm trù chính.

I. CÁI ĐẸP

Cái đẹp là phạm trù trung tâm của mỹ học. Vị trí đó không phải do các

nhà lý luận xác lập mà do chính vai trò của cái đẹp trong đời sống quy định.

Điều đó cũng có nghĩa rằng cái đẹp trước hết chính là những đặc tính của thế

giới tồn tại trong thiên nhiên, trong xã hội, trong sản xuất vật chất và tinh thần,

trong nghệ thuật... Phạm trù cái đẹp bắt nguồn từ hiện thực, có cơ sở khách

quan trong đời sống, nhưng đồng thời nó cũng là một hình thức khái quát của

tư duy, thể hiện nhận thức của con người về loại đặc tính thẩm mỹ này của

các sự vật hiện tượng. Nhận thức này bao gồm nhiều mặt. Nhưng thông

thường nó bắt đầu bằng việc trả lời câu hỏi: cái đẹp là gì. Từ những quan sát

bình thường chỉ ra xem cái gì đẹp, cái gì xấu, đến chỗ rút ra xem cái đẹp là gì,

nhận thức con người phải trải qua một chặng đường dài từ trực quan sinh

động đến tư duy trừu tượng, từ cụ thể đến khái quát. Quá trình này vốn đã

hết sức phức tạp, lại trở nên phức tạp và khó khăn hơn đối với lĩnh vực cái

đẹp ít nhất cũng do hai nhân tố sau đây. Trước hết, cái đẹp bao gồm rất nhiều

hiện tượng thuộc các loại khác nhau. Có cái đẹp của ánh trăng, ngọn núi, có

cái đẹp của ánh mắt, tà áo, có cái đẹp của ngôi nhà, cái đẹp của lời nói, cử

chỉ, cái đẹp của tâm hồn, tư tưởng v.v... Có cái đẹp ở trong tự nhiên, có cái

đẹp trong xã hội, có cái đẹp do con người làm ra, có cái đẹp nằm ngay trong

chính bản thân con người. Đâu là mẫu số chung cho tất cả các hiện tượng ấy,

đâu là công thức đúng cho mọi cái đẹp? Mặt khác, cái đẹp thuộc loại hiện

tượng rất tinh tế, đến với con người trước hết qua cảm giác, trực giác. Có

người ví cái đẹp với tình yêu, cảm nhận thì được nhưng rất khó lý giải, cắt

Page 42: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

nghĩa. Vậy có cần và có thể có được một khái niệm, một định nghĩa về cái

đẹp không, hay ở đây chỉ nên để mặc nó trong "vương quốc" của cảm giác,

dành hoàn toàn cho sự thưởng thức trực tiếp để khỏi phải phá vỡ tính toàn

vẹn, đánh mất vẻ tươi nguyên của nó, như một số người quan niệm?

Lịch sử tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại chứng tỏ rằng con người luôn

luôn tìm cách khắc phục những khó khăn trên đây để nắm bắt bản chất cái

đẹp. Goethe đã từng khẳng định: "Có thể có được khái niệm về cái đẹp và có

thể diễn tả được "khái niệm ấy". Nhưng trong quá trình đi tìm lời giải cho bài

toán trên đây, do sự đa dạng của đối tượng cũng như do những quan niệm,

những cách tiếp cận khác nhau, đã có nhiều đáp số, nhiều định nghĩa khác

nhau về cái đẹp.

Chẳng hạn, nhà triết học cổ Hy Lạp Aristote viết: "Cái đẹp nằm trong

kích thước và trong trật tự. Bởi vậy không có vật nào quá nhỏ cũng như quá

lớn mà lại có thể được coi là đẹp".

Nhà lý luận Đức thế kỷ XVIII là Herder thì nói: "Cốt lõi của toàn bộ cái

đẹp là chân lý, bất kỳ cái đẹp nào cũng cần dẫn tới chân lý và điều thiện".

Còn Gorki thì xác định: "Cái đẹp là sự phối hợp các chất liệu khác nhau

cũng như các âm, màu, từ ngữ - sao cho tác phẩm tạo ra được một hình thức

có thể tác động lên tình cảm và lý trí như một sức mạnh khơi dậy ở con người

sự ngạc nhiên, lòng kiêu hãnh và niềm sung sướng trước khả năng sáng tạo

của mình”.

Còn có thể dẫn ra đây rất nhiều định nghĩa nữa về cái đẹp. Có trường

hợp nó được giải thích như cái có ích, có trường hợp nó được đồng nhất với

cái chân hay cái thiện, có trường hợp lại hiểu như sự cân đối, hài hòa... Vậy

bản chất của cái đẹp nằm ở đâu? Để lĩnh hội được bản chất này, tốt nhất là

xem xét đối tượng dưới góc độ triết học. Bởi vì chỉ trong bình diện này chúng

ta mới thoát khỏi ấn tượng về vô số biểu hiện cụ thể của cái đẹp để đạt tới sự

khái quát về nó. Nếu làm như vậy, ở đây thay vào câu hỏi: cái đẹp là gì? sẽ

xuất hiện câu hỏi khác: cái đẹp do đâu mà có? Một vật đẹp là do nó có những

phẩm chất gì đó hay do thiện cảm của con người.

Page 43: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Các nhà duy vật cho rằng cái đẹp bắt nguồn từ đời sống, toát ra từ

những phẩm chất vật lý, hóa học của sự vật, hiện tượng. Từ đây họ thường

nhấn mạnh đến các khái niệm và kích thước, mức độ, tỉ lệ... Chẳng hạn nhà

mỹ học thời Phục hưng ở Italia là Alberti viết: "Cái đẹp là sự phù hợp, sự hòa

nhịp như thế nào đó giữa các phần trong cái tổng thể mà chúng tạo thành, sự

hòa hợp và hòa nhịp này phải đáp ứng những số liệu chặt chẽ, đáp ứng sự tổ

chức và bài trí mà sự hài hòa - tức cái nguyên lý tuyệt đối và khởi nguyên của

tự nhiên - đòi hỏi".

Ngược lại, các nhà duy tâm thì xem cái đẹp chỉ như cái được mang từ

bên ngoài vào sự vật, chứ không có cơ sở khách quan. Người theo quan

điểm duy tâm chủ quan thì khẳng định: "Cái đẹp không phải là phẩm chất tồn

tại trong bản thân sự vật; nó tồn tại chủ yếu trong tâm linh người quan sát nó".

Còn đối với các nhà triết học duy tâm khách quan thì hoặc đó là hình

ảnh, hồi quang của một cái gì siêu nhiên, thần thánh (Platon) hoặc là phẩm

chất đặc biệt của ý niệm tuvệt đối khi nó đã tìm được hình thức thể hiện phù

hợp nhất. (Hegel).

Khi nghiên cứu bản chất của cái đẹp, rõ ràng chúng ta không thể bỏ

qua những tiền đề duy vật, khẳng định những cơ sở khách quan của các cảm

giác thẩm mỹ. Đồng thời cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của những

nhân tố khách quan tạo nên phẩm chất thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, xem

đó là nguồn gốc duy nhất quyết định vẻ đẹp của chúng. Cần chú ý rằng cái

đẹp là một phạm trù giá trị. Một vật được coi là đẹp hay xấu phụ thuộc không

chỉ vào những phẩm chất nó vốn có mà còn vào quan hệ của chúng với con

người, với sự đánh giá căn cứ vào những thước đo do thực tiễn xã hội trong

từng thời kỳ lịch sử đặt ra. Sự đánh giá này rõ ràng mang tính chủ quan - một

thứ chủ quan tất yếu mà nếu thiếu nó sẽ không có ngay cả thực tiễn xã hội

của con người - song đồng thời không phải là thứ chủ quan tùy tiện, bởi vì nó

gắn liền không phai với ý muốn của mọi cá nhân riêng lẻ mà với tiêu chuẩn xã

hội - thực tiễn có tính khách quan rõ rệt.

Page 44: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Thừa nhận cơ sở tự nhiên của cái đẹp tức là trước hết thừa nhận vẻ

dẹp khách quan của màu sắc, âm thanh, đường nét, mảng khối, nhịp điệu

v.v... Từ đây sẽ xuất hiện những khái niệm về tiêu chuẩn thẩm mỹ như: sự

cân đối, tỉ lệ phù hợp, tính chất có mức độ, sự hài hòa.... Các tiêu chuẩn này

về cái đẹp trong nhiều trường hợp thường có cả cơ sở sinh lý của nó. Chẳng

hạn, một bản nhạc êm dịu làm thần kinh bớt căng thẳng, một bức tranh có

màu sắc hài hòa, tươi mới làm cho con người thấy phấn khởi, dễ chịu. Điều

này giải thích vì sao có hiện tượng cây thích "nghe" nhạc, rắn nghe nhạc, cá

nhảy múa theo nhạc... Nếu căn cứ vào đây để nói rằng sinh vật cũng có cảm

giác thẩm mỹ thì điều đó mới chỉ đúng một phần nhỏ. Quả thật sinh vật cũng

"thích" cái đẹp, nhưng chúng chỉ thích những yếu tố tự nhiên nào phù hợp với

sinh lý, bản năng của chúng mà thôi.

Đối với con người không phải chỉ như vậy. Bằng cớ là có những cái rất

cân đối, hài hòa nhưng không gây nên cảm xúc thẩm mỹ; trong khi nhiều sự

vật, hiện tượng không mang đặc tính gì đặc biệt có thể gây nên cảm giác dễ

chịu về sinh lý thì vẫn được xem là đẹp. Plekhanov dẫn ra tài liệu của các nhà

dân tộc học kể lại rằng. Ở nhiều bộ lạc Châu Phi, phụ nữ thường đeo vòng

sắt ở tay và chân. Đôi khi các thiếu phụ nhà giàu còn đeo ở mình hơn 16kg

đồ trang sức loại đó. Khi có người hỏi vì sao đeo nhiều đồ như thế, họ trả lời:

để cho đẹp. Lại có trường hợp khác, ở miền thượng lưu sông Dămberơ,

người dân nào không bẻ gãy các răng cửa ở hàm trên thì bị coi là xấu xí.

Điều đó chứng tỏ rằng cái đẹp không phải chỉ có cơ sở tự nhiên mà còn có cơ

sở xã hội. Bản chất của cơ sở xã hội này nằm ở chỗ con người đánh giá sự

vật, hiện tượng theo quan niệm của mình. Nhà mỹ học dân chủ cách mạng

Nga nổi tiếng Tchernychevski đã phát biểu một tư tưởng rất sâu sắc: "Một tồn

tại được gọi là đẹp - Ông viết - là tồn tại trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc

sống đúng như quan niệm của mình,...

Có thể xuất hiện câu hỏi: nếu cái đẹp là cái phù hợp với quan niệm con

người thì quan niệm đó là quan niệm nào? Bởi vì quan niệm của con người

rất nhiều mặt: cái đẹp có thể gắn với quan niệm về chân lý, về đạo đức, về sự

Page 45: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

duyên dáng v.v... Thực tế cho thấy, quan niệm về cái đẹp là một quan niệm

có tínn tổng quát rất cao. Cái đẹp gắn liền với ý niệm về những điều mong

ước, về cái có tính lý tưởng. Những gì là hình ảnh, dấu hiệu biểu hiện của cái

mà con người thiết tha mong muốn, khao khát đạt tới thường gợi ra cảm xúc

về cái đẹp. Cánh đồng lúa chín vàng đẹp vì nó nằm trong liên tưởng về một

mùa bội thu hứa hẹn, về sự no đủ mà người làm ruộng hằng mong mỏi, chờ

đợi. Cái cây tươi tốt, cành lá xum xuê đẹp vì nó là hình ảnh của sự sống sung

mãn mà con người bao giờ cũng mơ ước đạt tới. Nhà văn pháp Stendhal nói:

"Cái đẹp là sự mời gọi hạnh phúc" có lẽ cũng chính trong nghĩa như vậy. Cái

đẹp là một hình thức của ước mơ, của lý tưởng, nó thường mang trong mình

những yếu tố của cái được đánh giá ở mức cao nhất, tức là những cái ít

nhiều mang tính chất lý tưởng.

Chính vì vậy cái đẹp gắn rất chặt với khái niệm về sự hoàn thiện. Hoàn

thiện là tiêu chuẩn cao nhất của cái đẹp. Những gì đạt tới sự phát triển cao

nhất, trình độ cao nhất so với sự vật, hiện tượng cùng loại với chúng, thường

gợi ra cái đẹp. Trong một hàng cây, cái cây đẹp là cây phát triển đầy đủ, dồi

dào sức sống. Trong nhiều người, người đẹp là người mà sự sống đạt tới

mức phát triển cao, khỏe mạnh, cân đối, hoàn thiện cả về hình thể và đời

sống tinh thần. Điều này cũng giải thích vì sao sự hài hòa thường được xem

là đẹp. Cấu trúc về sự hài hòa, chính là cấu trúc lý tưởng của tự nhiên và đời

sống xã hội. Không hài hòa là trạng thái tạm thời, còn hài hòa là nguyên lý

phổ biến của sự sống, là cái đích lý tưởng mà mọi cấu trúc, từ thế giới vô cơ

đến hữu cơ đều vươn tới. Một sự vật có hình dáng hoặc tổ chức bên trong

hài hòa thường khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ có lẽ vì trong cơ sở sâu xa của

mình nó gợi ra ý niệm về sự hoàn thiện, về cái mang tính chất lý tưởng. Tính

lý tưởng là một trong những đặc điểm vô cùng quan trọng của cái đẹp.

Dostoievski có một câu nói nổi tiếng: "Cái đẹp cứu thế giới". Nó không cứu

thế giới bằng sức mạnh vật chất, nhưng nó cứu bằng cách làm cho nhân loại

không bao giờ mất lòng tin vào những điều tốt đẹp, vào tương lai. Còn mơ

ước, còn hy vọng, còn tin có tương lai, con người sẽ vượt qua khó khăn, cải

tạo hoàn cảnh, biến đổi thế giới. Ở đây, khi xác định cái đẹp như trên, chúng

Page 46: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

ta sẽ giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa cái đẹp, cái chân và cái thiện.

Rõ ràng không thể đồng nhất cái đẹp với cái chân hoặc chỉ với cái thiện. Cái

đẹp gắn liền với cả hai. So với sự giả dối, chân lý là cái đẹp, cũng như so với

điều ác, cái thiện là đẹp. Còn trong nội bộ cái chân hoặc cái thiện thì cái đẹp

lại tùy thuộc vào mức độ tính hoàn thiện, sự hài hòa, tính lý tưởng của chúng.

Đồng thời, khi xem xét cái đẹp như một phạm trù giá trị gắn nó không

chỉ với những thuộc tính vật chất khách quan mà còn với quan niệm của con

người về cái mong ước. Chúng ta phải tính đến vai trò của các yếu tố xã hội -

lịch sử mà quan niệm này tất yếu phải có. Nói cách khác, nếu cái đẹp là ý

niệm thì nó nhất định có quan hệ thế này hoặc thế kia với các quan điểm

chính trị - xã hội, với đặc điểm tâm lý dân tộc, với sở thích cá nhân của mỗi

người cũng như với sự thay đổi của lịch sử. Trước hết, phải thừa nhận rằng ý

niệm về cái đẹp trong những mức độ khác nhau, thường mang dấu ấn quan

điểm chính trị - giai cấp của con người. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì

một khi cái đẹp là sự đánh giá sự vật, hiện tượng theo tiêu chuẩn về mức độ

hoàn thiện và tính lý tưởng, thì trong một chừng mực nào đó quan niệm về sự

hoàn thiện và lý tưởng cũng có những nội dung rất khác nhau ở những người

có địa vị và quyền lợi xã hội khác nhau. Nói như vậy không có nghĩa là chúng

ta phủ nhận tất cả các yếu tố thẩm mỹ chung đối với mọi người và bao giờ

cũng phân định thật rạch ròi mọi hiện tượng theo ranh giới giai cấp để rồi từ

đó đi đến kết luận rằng cái đẹp đối với một giai cấp này không thể có bất cứ

khía cạnh nào đẹp với giai cấp khác.

Quan niệm về cái đẹp cũng mang sắc thái dân tộc rất rõ nét, nhất là ý

niệm về sự hài hòa cụ thể, về các phẩm chất tự nhiên của cái đẹp. Chẳng hạn

với dân tộc này màu vàng được ưa chuộng nhưng ở dân tộc khác, màu vàng

lại gắn liền với một định kiến nào đó không hay. Người nước này ưa cái đẹp

nhuần nhị kín đáo, người nước kia lại thích cái đẹp ồn ả, sôi động. Những

điều kiện tự nhiên - xã hội, tâm lý và tính cách dân tộc để lại dấu vết rất sâu

trong quan niệm về cái đẹp.

Page 47: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Riêng trong lĩnh vực thẩm mỹ, bên cạnh các yếu tố trên đây, cần phải

chú ý cả đến vai trò của sở thích cá nhân khi đánh giá cái đẹp. Người ta có

thể không thích cái mà mọi người thích, hoặc ngược lại, thích cái mà nhiều

người không ưa chuộng. Điều đó nên được tôn trọng. Song ở đây tuyệt nhiên

không được đồng nhất sở thích cá nhân với giá trị thẩm mỹ khách quan của

sự vật hiện tượng. Thích hay không thích tùy anh, nhưng không nên xem điều

đó đã là chân lý. Trong một bức thư gửi bạn. L. Tolstoi có lần viết: "Mấy hôm

rồi, để kiểm tra nhận xét của mình về Shakespeare tôi đọc "Vua Lia" và

"Hămlét" và nếu tôi đã từng có đôi chút hoài nghi rằng mình đã ghét

Shakespeare một cách không đúng, thì bây giờ sự nghi ngờ ấy đã hoàn toàn

biến mất. Hămlét quả thực là một tác phẩm thô bạo, phi đạo đức, bỉ ổi và vô

nghĩa". Chúng ta thấy rõ ràng ở đây nhà văn vĩ đại đã không đúng.

Cuối cùng là sự biến đổi lịch sử của quan niệm về cái đẹp. Một thể thơ

trước đây được xem là hay bây giờ không được ưa thích nữa. cách hát ấy

trước đây được ưa chuộng, ngày nay ít người còn thích. v.v... Điều đó hoàn

toàn hợp quy luật. Nó chỉ chứng tỏ sự phong phú và đa dạng của trí tuệ và

tâm hồn con người mà thôi. Có điều, ở đây cần lưu ý rằng, sự biến đổi của

quan niệm về cái đẹp không có nghĩa là cái đẹp sau cao hơn cái đẹp trước,

cái đẹp hôm nay cao hơn cái đẹp hôm qua. Vấn đề tiến bộ của các giá trị

thẩm mỹ hết sức phức tạp. Khi xem xét vấn đề này phải có quan điểm lịch sử

- cụ thể và phải nhìn con người như một chủ thể năng động, phong phú, luôn

luôn phát triển thông qua sự tác động qua lại với hoàn cảnh, qua thực tiễn.

Trong quá trình đó, những năng lực bản chất, những mặt khác nhau của con

người sẽ bộc lộ dần dần với tính chất độc đáo, không lặp lại nhưng đồng thời

cũng mỗi ngày một đa dạng hơn, sâu sắc hơn.

Cái đẹp là một trong những hiện tượng thẩm mỹ vô cùng phong phú và

có phạm vi bộc lộ rất rộng rãi. Nó bao gồm các lĩnh vực sau đây.

Thièn nhiên là nơi bắt đầu của mọi cái đẹp. Vẻ đẹp của mây, gió, trăng,

hoa, núi, sông là nguồn cảm hứng và đồng thời là đối tượng mô tả của nghệ

thuật. Vẻ đẹp của thiên nhiên ngày một phong phú là nhờ hoạt động thực tiễn

Page 48: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

của con người. Chính trong mối quan hệ với thực tiễn đó, thiên nhiên mỗi

ngày lại có thêm nét đẹp mới. Nhiều hiện tượng thiên nhiên trở thành đối

tượng trực tiếp của cảm thụ thẩm mỹ, đi vào nghệ thuật là nhờ quan hệ của

chúng với thực tiễn. Chinh phục tự nhiên và bảo vệ thiên nhiên đang là một

trong những vấn đề sống còn của thời đại chúng ta và mai sau. Giữ gìn cái

đẹp của phong cảnh, môi trường là nghĩa vụ xã hội của mỗi công dân trong

thời đại hiện nay. Ở đây, thẩm mỹ đang trở thành đạo đức của ngay ngày

hôm nay.

Những sản phẩm do con người làm ra là "thiên nhiên thứ hai" (Gorki)

được sang tạo bằng bàn tay lao động của con người. Khác với cái đẹp của

thiên nhiên, cái đẹp của các sản phẩm, công trình có được không phải chỉ do

chúng gắn liền với những ý niệm nào đó về lý tưởng, về sự hoàn thiện mà vì

chính chúng được tạo ra theo những thước đo của sự hoàn thiện, theo những

khuôn mẫu lý tưởng. Cái đẹp này hết sức phổ biến, ở đâu có lao động là ở đó

cái đẹp có khả năng xuất hiện, bởi vì đây là quy luật chung của hoạt động

sáng tạo. Marx viết: "Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu

của giống loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của

bất cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối

tượng: do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”.

Nói như thế không có nghĩa là bất cứ sự lao động nào cũng tất yếu sinh

ra cái đẹp. Từ cái đẹp nảy sinh một cách tự phát bên cạnh cái có ích, người

ta dần dần có ý thức tạo ra những ngành sản xuất chuyên biệt về cái đẹp.

Hiện nay trên thế giới các ngành mỹ học kỹ thuật hay mỹ thuật công

nghiệp (design) đang phát triển rất mạnh. Việc sản xuất hàng loạt theo một

dây chuyền công nghệ đang tạo ra nguy cơ hạ thấp chất lượng thẩm mỹ của

các sản phẩm, làm cho cảm thụ thẩm mỹ của con người trở nên đơn điệu,

nghèo nàn. Bởi vậy việc nâng cao chất lượng thẩm mỹ của các sản phẩm

công nghiệp không phải chỉ có ý nghĩa kinh tế - thương mại mà còn có ý

nghĩa nhân văn sâu sắc. Tạo ra một môi trường thẩm mỹ không phải chỉ bằng

cây cối, chim muông mà còn bằng những sản phẩm đẹp do con người làm ra,

Page 49: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

từ lọ hoa đến ngôi nhà hoặc cả thành phố, là nhiệm vụ rất quan trọng. Đó

cũng là một hình thức giáo dục thẩm mỹ, cải tạo thị hiếu và bồi dưỡng sự

phong phú thẩm mỹ cho con người.

Cái đẹp trong hoạt động của con người thể hiện ở tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội, từ vui chơi, giải trí đến cưới xin, ma chay, từ thể thao, hội

hè đến lao động sản xuất, thậm chí ở cả hoạt động quân sự. Ngày nay người

ta đã bắt đầu nói đến mỹ học trong thương nghiệp, mỹ học y tế, mỹ học thể

thao, mỹ học quân sự, v.v... Cái đẹp trong lĩnh vực này rất phong phú, nhiều

màu nhiều vẻ, nó phối hợp được cả vẻ đẹp của màu sắc, âm thanh, hình

dáng, cả vẻ đẹp bên ngoài với vẻ đẹp bên trong bắt nguồn từ những quan

niệm chính trị - đạo đức, những truyền thống, phong tục v.v... Mỗi trường hợp

như vậy đều đòi hỏi phải xem xét cụ thể riêng.

Cái đẹp của con người cũng là một đối tượng khảo sát của mỹ học.

Con người là sản phẩm của tự nhiên nên cũng có những vẻ đẹp mang tính

vật chất. Có thể gọi đó là vẻ đẹp bên ngoài, thể hiện trên khuôn mặt, ở hình

thể (chân tay, mắt, mũi, vóc dáng v.v...) và trang phục (quần áo, mũ nón, đồ

trang sức v.v...). Coi nhẹ vẻ đẹp này là không đúng. Song ngoài cái đẹp trên

đây, con người này có một vẻ đẹp khác – vẻ đẹp bên trong - toát ra từ hành

vi, hoạt động và toàn bộ thế giới tinh thần của nó. Văn hóa thẩm mỹ của lời

nói, cách cư xử, hành động là một trong những biểu hiện cao của trình độ văn

hóa của con người. Vẻ đẹp tinh thần là vẻ đẹp không nhìn thấy nhưng có thể

cảm thấy và nhận thức được. Nó bộc lộ trong sự hoàn thiện của các phẩm

chất đạo đức, trong tính nhân đạo và tiên tiến của các quan điểm chính trị - xã

hộ, trong sự phát triển cao của các năng lực tinh thần, của trình độ văn hóa,

trong sự hài hòa giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài. Phấn đấu làm cho

con người ngày mỗi ngày thêm đẹp đẽ, có điều kiện phát triển đầy đủ và hài

hòa - đó là mục tiêu cao cả và nhân đạo của xã hội văn minh.

Cái đẹp trong nghệ thuật thể hiện tập trung nhất quan hệ thẩm mỹ của

con người với hiện thực. Nói cách khác, trong bất kỳ hoạt động nào con

người cũng đều sáng tạo theo quy luật của cái đẹp nhưng không ở đâu quy

Page 50: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc sáng tạo ra cái đẹp lại chiếm một vị

trí quan trọng như trong nghệ thuật. Ở đây tạo ra cái đẹp là một trong những

mục tiêu chủ yếu mà nghệ sĩ đặt ra từ đầu. Nghệ thuật không phải là nơi độc

quyền sản xuất ra cái đẹp, nhưng nó là hình thức chuyên nghiệp, chuyên môn

hóa cao nhất, tập trung nhất, lãnh trách nhiệm nặng nề nhất trong việc thỏa

mãn nhu cầu thẩm mỹ của xã hội.

Chính từ đây xuất hiện đặc điểm đầu tiên của cái đẹp trong lĩnh vực

này - đó là sự hoàn chỉnh; tính gợi cảm, trau chuốt của các yếu tố hình thức

trong tác phẩm nghệ thuật. Xét về sự phong phú, tươi mới, nguồn gốc và tính

có trước mà rõ ràng cái đẹp của tự nhiên cao hơn cái đẹp của nghệ thuật.

Nhưng đứng về phương diện khác, thì lại không thế. Nhờ quá trình sáng tạo

theo nguyên tắc điển hình hóa mà nhiều sự vật hiện tượng của đời sống khi

bước vào nghệ thuật như trải qua một khoảng cách thần diệu, cái bình

thường cũng thành đẹp đẽ, cái vốn đã đẹp thì lại càng đẹp hẳn lên. Nghệ sĩ

thường góp nhặt, thâu tóm cái đẹp khắp nơi để tạo ra cái đẹp cho tác phẩm

của mình, bởi vậy tác phẩm thường có được vẻ hoàn thiện và sự hấp dẫn.

Hoàng Đức Lương nói: "Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp,

vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm

thường mà nếm được".

Đặc điểm thứ hai là so với cái đẹp trong thiên nhiên, thậm chí cả trong

lĩnh vực công nghiệp nữa. Các nhân tố vật chất tạo thành cái đẹp trong nghệ

thuật mang sắc thái biểu cảm rất rõ. Một màu hoa tự nhiên đẹp là do thuộc

tính vật lý của nó hoặc do những liên tưởng chủ quan mà người ngắm gán

cho nó. Còn trong bức tranh, một màu đẹp bên cạnh sắc độ dễ coi, thường

chứa đựng một điều gì đó mà nghệ sĩ chủ động, cố tình thể hiện trong nó. Bởi

vậy âm thanh tự nhiên và âm thanh âm nhạc, màu tự nhiên và màu hội họa

rất khác nhau.

Từ đây xuất hiện một đặc điểm quan trọng nữa của cái dẹp nghệ thuật

là sự thống nhất giữa nội dung được thể hiện và hình thức thể hiện nó. So với

cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp nghệ thuật là cái đẹp có tính nội dung. Tính nội

Page 51: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

dung này thể hiện không phải chỉ ở chỗ cái đẹp trong nghệ thuật nằm cả trong

hình thức và nội dung được thể hiện, (cái đẹp thiên nhiên không có nội dung

này), mà còn ở chỗ, bản thân hình thức nghệ thuật cũng mang tính nội dung.

Đồng thời sự gắn bó giữa nội dung với hình thức ở đây chặt chẽ hơn so với

các sản phẩm khác do con người làm ra và cũng có cái đẹp. Nếu màu sắc

của chiếc máy cày chủ yếu mang tính trang trí, không phụ thuộc hoàn toàn

vào ý nghĩa, chức năng của nó và nếu thay đổi vẫn không ảnh hưởng đến

chức năng đó, thì ngược lại, trong tác phẩm nghệ thuật, thay màu này bằng

màu kia, thay âm này bằng âm khác, chữ này bằng chữ khác, đều làm biến

đổi tính chất và ý nghĩa của hình tượng. Ngược lại trong trường hợp nội dung

các phẩm sai lầm (chẳng hạn, tư tưởng được thể hiện là vô nhân đạo) chắc

lượng thẩm mỹ của nó cũng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng.

Cái đẹp trong nghệ thuật bộc lộ trước hết ở cái đẹp của hiện thực được

phản ánh. Đó có thể là vẻ đẹp của phong cảnh thiên nhiên, vẻ đẹp của con

người, của những hoạt động, của những tư tưởng, những tình cảm. Không

phải nghệ thuật chỉ truyền đạt cái đẹp. Nó viết, vẽ cả cái xấu. Song nói chung

cái đẹp vẫn là đối tượng chính của nghệ thuật. Nghệ sĩ nào cũng khao khát

ghi lại càng nhiều càng tốt, diễn tả càng đạt càng hay những cảnh đẹp, nét

đẹp trong cuộc sống, và thường thì những người sáng tác bao giờ cũng tìm

cách khuếch đại, phóng to lên để cái đẹp rực rỡ, lộng lẫy hơn.

Trong trường hợp phải mô tả cái xấu, cái ác, tác phẩm nghệ thuật vẫn

có thể trở thành đối tượng của sự cảm thụ thẩm mỹ nhờ hai cách. Thứ nhất là

nhờ vẻ đẹp của tư tưởng - tình cảm tác giả, vẻ đẹp của lý tưởng mà nhà văn

đã xuất phát khi mô tả, đánh giá cái xấu. Gogol, văn hào Nga thế kỷ XIX, tác

giả của vở kịch "Quan thanh tra", đã từng nói rằng trong tác phẩm này tất cả

các nhân vật đều là phản diện, chỉ có một nhân vật tích cực duy nhất - đó là

tiếng cười. Tiếng cười của nhà văn gắn liền với những lý tưởng xã hội tiến bộ,

xuất phát từ những tiêu chuẩn rất cao về con người, vì vậy nó cũng gắn liền

với sự hoàn thiện, với cái đẹp. Đồng thời, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, cũng

như trong bất kỳ trường hợp nào khác, không phụ thuộc toàn bộ vào đối

Page 52: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tượng mà nó miêu tả, đánh giá. Cái đẹp có thể toát ra từ bản thân hình thức

nghệ thuật của tác phẩm, trong kết cấu, bố cục, trong trình độ làm chủ chất

liệu, trong cách xây dựng nhân vật; tổ chức tác phẩm v.v... Tiêu chuẩn cơ bản

để xác định cái đẹp này là sự hoàn thiện về hình thức, kỹ thuật và sự hài hòa

của các phương tiện hình thức với nội dung cần thể hiện. Trong rất nhiều

trường hợp, đặc biệt là đối với những kiệt tác, sự hoàn thiện trình độ nghệ

thuật điêu luyện đem lại cho tác phẩm hiệu quả thẩm mỹ vô cùng to lớn.

Tuy nhiên không nên đồng nhất cái đẹp và nghệ thuật, không nên xem

xét cái đẹp chỉ trong nghệ thuật cũng như trong nghệ thuật chỉ thấy có vấn đề

cái đẹp. Đừng quên rằng nghệ thuật chỉ là một trong những lĩnh vực có cái

đẹp và ngbệ thuật không phải chỉ có nhiệm vụ tạo ra cái đẹp. Nghệ thuật là

một hoạt động tinh thần thực tiễn của con người, có nhiệm vụ góp phần thỏa

mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người, nhưng đồng thời cũng là một phương

tiện để giao tiếp, một hành động nhận thức, có khả năng tác động rất lớn đối

với con người và xã hội.

II. CÁI CAO CẢ, CÁI BI, CÁI HÀI.

1. Cái cao cả với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ bước vào lịch sử mỹ

học khá muộn. Chỉ trong thời đại Khai sáng nó mới có được ý nghĩa độc lập,

mặc dù những hiện tượng cao cả đã được phản ánh trong nghệ thuật rất sớm

và ngay trong thời cổ La Mã đã có công trình Bàn về cái cao cả của Longinus

(213 - 273). Cái cao cả là đặc tính của các hiện tượng, sự vật khách quan hay

là sản phẩm thuần túy của đầu óc con người? Tùy theo quan điểm triết học

khác nhau, các nhà mỹ học đã trả lời theo cách khác nhau.

Cái cao cả tồn tại khách quan, vốn là đặc tính của các sự vật, hiện

tượng trong mối quan hệ của nó đối với con người. Cái cao cả là cái có tầm

vóc lớn lao, phi thường, có thể gây ra ở con người cảm giác choáng ngợp,

chiêm ngưỡng, kính phục, đôi khi pha lẫn chút bối rối, sợ hãi. Cái cao cả có

trong tự nhiên dông bão, thác đổ, núi cao, sông rộng, trời xanh, biển động

v.v...). Trong xã hội (các biến động lịch sử, chiến công các vĩ nhân, anh hung

Page 53: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

và trong nghệ thuật (hình tượng Prométhée trong tác phẩm Eschille hay hình

tượng Thánh Gióng trong truyện cổ Việt Nam v.v...). Phạm trù cái cao cả

không chỉ liên quan đến đặc tính của các sự vật, hiện tượng khách quan mà

còn có quan hệ với tình cảm chủ quan của con người. Có cái cao cả của núi

ngất trời, nhưng đồng thời cũng có cái cao cả của tình cảm, khát vọng. Trong

nghệ thuật, cái cao cả được tạo thành bằng cả hai nguồn đó.

Cái cao cả có những điểm gần gũi với cái đẹp. (Hellgel cho rằng cái

đẹp ở mức tuyệt đỉnh - đó là cái cao cả). Nét tương đồng chủ yếu giữa hai

loại hiện tượng này là cả hai đều gợi ra những cảm giác tích cực. Cái đẹp là

ước mơ, lý tưởng gần gũi, dịu dàng. Cái cao cả là lý tưởng cao siêu, con

người chủ yếu chỉ chiêm ngưỡng, hướng tới nhưng dường như không dám

mơ ước đạt tới. Đồng nhất cái cao cả với cái đẹp là tước mất tầm vóc, sự kỹ

vĩ của nó. Ngược lại, đối lập hai cái với nhau sẽ lam cho cái cao cả chỉ còn là

cái gì ghê gớm, đáng sợ mất đi chất lãng mạn, vẻ huyền bí rất hấp dẫn.

Cái cao cả rất cần cho đời sống. Nó làm cho cuộc sống không bị tầm

thường và nhỏ bé đi, làm cho thế giới hiện ra lúc nào cũng to lớn, hùng vĩ,

khó khăn nhưng cũng đầy cảm hứng về những thử thách, chiến công, sự

phiêu lưu và những hành động phi thường. Cảm giác về cái cao cả biến đổi

lịch sử, trong quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội của con người; dòng

sông hôm qua chảy xiết hung dữ nay đã trở nên hiền hòa, núi ngày xưa cao

hiểm trở, không có dấu chân người, nay đã có đường xe lửa chạy qua, nhà

mọc ngay trên đỉnh. Nhưng cái cao cả không bao giờ mất, lại sẽ xuất hiện,

những hiện tượng mới chưa bị chinh phục, chưa được nhận thức. Sự sùng

bái, khuất phục hoàn toàn cái cao cả dễ dẫn đến thủ tiêu óc sáng tạo, tính tích

cực chủ quan, đến sự phục tùng mù quáng. Đồng thời coi thường cái cao cả,

không xem có cái gì thiêng liêng nữa cũng sẽ làm cho cuộc sống trở nên

buông thả, tầm thường.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật, nhất là nghệ

thuật trong những bước ngoặt trọng đại của lịch sử, là dấy lên ở con người

tình cảm cao cả, lớn lao: David của Michel Ange, Tự do trên chiến lũy của

Page 54: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Delacroix, Giao hưởng anh hùng của Beethoven, Hămlét của Shakespeare

v.v...

Nghệ thuật thấm nhuần chất lý tưởng nhưng không chấp nhận sự lý

tưởng hóa đơn điệu. Bằng cảm hứng anh hùng và lãng mạn chân chính, nó

chắp cánh cho con người bay tới những chiến công trong sự nghiệp cải tạo

hoàn cảnh và biến đổi thế giới.

2. Cái bi là một phạm trù thẩm mỹ, khác với bi kịch là một thể loại của

văn học kịch và sân khấu. Cái bi được đề cặp một cách sâu sắc và hệ thống

lần đầu tiên trong tác phẩm "Thi pháp học" của nhà lý luận cổ Hy Lạp Aristote.

Khi nói cái bi là một phạm trù thẩm mỹ, rõ ràng chúng ta thấy khái niệm

thẩm mỹ ở đây có nội dung rất khác với cái đẹp. Cái đẹp có cả trong tự nhiên

và xã hội, cái bi như một phạm trù thẩm mỹ chủ yếu chỉ có trong nghệ thuật.

Cái đẹp có cả trong nội dung và hình thức của nghệ thuật, còn cái bi chủ yếu

chỉ có trong nội dung tác phẩm. Cái đẹp thì vui, hào hứng, còn cái bi thì buồn,

đau thương, mất mát. Cái đẹp gắn với sự hài hòa, còn cái bi thì với sự xung

đột.

Bản chất của cái bi là sự xung đột. Nội dung cụ thể của xung đột này

thay đổi qua các thời kỳ lịch sử và có những biểu hiện độc đáo trong từng lĩnh

vực khác nhau. Chẳng hạn, trong nghệ thuật cổ Hy Lạp nó thường hiện ra

như mâu thuẫn giữa con người và định mệnh; trong chủ nghĩa cổ điển thì đó

là giữa dục vọng và nghĩa vụ; còn trong nghệ thuật phương Tây hiện đại thì

đó là xung đột giữa cá nhân và xã hội, con người và hoàn cảnh. Hoàn cảnh

này có thể được mô tả dưới dạng những lực lượng xã hội đen tối và độc ác

(như trong Chí Phèo của Nam Cao) hoặc những chuẩn mực đạo đức quan

phương trống rỗng, tàn nhẫn (như trong Anna Carenina của L.Tolstoi).

Do chỗ cái bi là sự xung đột giữa "tự do và tất yếu" nên nó không bị

hạn chế chỉ trong phạm vi cá nhân. Có những cái bi cá nhân (trong tình yêu,

gia đình) và có cả những cái bi lịch sử (như thất bại của phong trào yêu

nước). Trong lịch sử nghệ thuật thế giới, có những tác phẩm chủ yếu mô tả

số phận bi kịch của cá nhân, có những tác phẩm khác dành cho những xung

Page 55: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

đột xã hội - lịch sử. Đồng thời cũng có những tác phẩm mà trong đó, đằng

sau cái bi cá nhân hiện ra cả những xung đột xã hội to lớn, mang tầm vóc lịch

sử. Hămlét của Shakespeare, chẳng hạn, là một trong các tác phẩm như vậy.

Cái bi thường gắn với sự mất mát, đau thương. Song không phải xung

đột nào dẫn đến mất mát đau khổ cũng đều mang tính bi. Nhà văn Anh thế kỷ

XIX. J.Ruskin có nói rằng thơ ca chỉ có thể lên tiếng về nỗi buồn của cô gái

khóc thương tình yêu trong trắng bị tan vỡ, chứ không thể viết về giọt nước

mắt của kẻ hà tiện đánh mất tiền. Cũng tương tự như vậy, nhân vật và lực

lượng bi kịch phải có sức mạnh lớn lao, phẩm chất cao cả, đại diện cho sự

phát triển tiến bộ của lịch sử, mang trong mình những lý tưởng đẹp đẽ, khát

vọng chân chính. Tính cách nhân vật bi kịch không thể yếu đuối, càng không

thể tiêu cực hoặc phản động. Sự kháng cự của những lực lượng đã mất hết ý

nghĩa tiến bộ, bị lịch sử bỏ rơi không còn chất bi, mà ngược lại chỉ mang tính

hài sâu sắc. Cái bi là sự mất mát, nhưng là sự mất mát của lý tưởng, của cái

cao cả, cái đẹp). Bởi vậy cái bi rất gần gũi với cái cao cả.

Việc thể hiện trong nghệ thuật những xung đột mang tính bi có ý nghĩa

nhận thức và giáo dục rất sâu sắc. Nó giúp chúng ta lĩnh hội cuộc sống trong

sự phong phú, phức tạp có thật của nó. Đồng thời khơi những tinh cảm cao

cả lành mạnh, kích thích những hành động mãnh liệt và sự tham gia tích cực

hoạt động thực tiễn.

3. Cái hài được nghiên cứu rất sớm. Các nhà tư tưởng thời cổ Hy Lạp

như Platon. Aristote đã xem xét và nêu lên những tư tưởng sâu sắc về đặc

điểm của cái hài. Quan niệm của Kant, Diderot, Schiller, Hegel,

Tchenychevski về cái hài, tuy ở mức độ khác nhau, nhưng đều chứa đựng

những kiến giải độc đáo. Nhiều điều cho tới ngày nay vẫn còn có giá trị. Việc

tìm hiểu cái hài thể hiện nguyện vọng muốn khám phá bản chất, của một kiểu

quan hệ đặc thù của con người đối với thế giới, một hình thức độc đáo của

nhận thức và đánh dấu hiện thực trong nghệ thuật, bởi vì khác với cái đẹp,

cái hài không phải là một phạm trù thẩm mỹ phổ biến mà trước hết là một

phạm trù thẩm mỹ của nghệ thuật.

Page 56: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Cái hài thường gắn bó với cái cười. Không thể hình dung cái hài thiếu

cái cười. Song cũng không phải cái cười nào cũng mang tính hài. Khi bị cù,

khi trong lòng cảm thấy sung sướng, thỏa mãn, người ta có thể cười. Đó là

cái cười thiên về bản năng sinh lý. Cái cười mang tính hài đòi hỏi trước hết

phải có một đối tượng cười, tức là cái có thể gây cười và bị cười. Vậy những

gì có thể gây cười? Trong cuộc sống rất nhiều hiện tượng có thể gây cười,

mỗi thứ một vẻ, hết sức đa dạng. Song nói chung những cái gây cười, xét về

bản chất là cái có mâu thuẫn hiểu như là sự đối lập, không cân xứng, không

hài hòa. Khái quát lại, đó có thể là mâu thuẫn giứa hình thức và nội dung,

giữa bộ phận với toàn thể, giữa ý nghĩa và phương tiện, giữa ước muốn và

khả năng thực tế, giữa cái được phép và cái không được phép, quen và

không quen, bình thường và không bình thường.

Có cái có thể gây cười rồi (đối tượng) lại còn phải có chủ thể cười. Đây

là mặt thứ hai - mặt chủ quan - của cái hài, không có nó, không có cái hài.

Bản thân đối tượng cười không thể gây nên tiếng cười nếu chủ thể không

nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Điều này giải thích vì

sao có người xem tranh vui, đọc truyện cười mà vẫn không cười, đến lúc hiểu

ra thì mới cười. Cái hài, do vậy là một kiểu nhận thức. Đặc điểm của loại nhận

thức gắn với tiếng cười là sự phát hiện ra một số loại mâu thuẫn nào đó trong

sự vật, hiện tượng và quan sát chúng ở một bình diện khác, từ một phía khác,

từ góc độ của cái buồn cười. Xét theo phép biện chứng, điều này có ý nghĩa

rất quan trọng. Platon đã từng viết: "Trong thực tế không thể nhận thức được

cái nghiêm chỉnh nếu thiếu cái buồn cười, và nói chung, cái đối lập được

nhận thức nhờ cái đối lập với nó!

Đồng thời, tiếng cười trong cái hài cũng mang khuynh hướng xã hội,

thể hiện không chỉ nhận thức mà còn cả thái độ. Cười là một hình thức chế

ngự cái xấu. Dám cười cái xấu tức là dám tin, tự khẳng định sự tốt đẹp của

mình hoặc ít ra thì cũng là tự thừa nhận ngẫm rằng cái xấu là xấu, là đáng

ghét, đáng cười. Cái hài là một hình thức đánh giá, thể hiện trình độ con

người làm chủ đối tượng, làm chủ bản thân mình - "Khi cười cái xấu, chúng ta

Page 57: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

trở nên cao hơn nó”. Cái cười chân chính, bởi vậy không thể là vũ khí của kẻ

yếu, của những lực lượng đã mất hết vai trò lịch sử. Nó thuộc về chính nghĩa,

về tương lai.

Cái hài có nhiều loai. Sự đa dạng này phụ thuộc cả vào tính chất nhiều

màu nhiều vẻ của đối tượng có thể gây cười lẫn chủ thể cười. Nhìn chung có

mấy loại sau đây:

Hài hước: Ở đây cái cười xuất phát từ những mâu thuẫn bề ngoài và

mang tính chất nhẹ nhàng, thoải mái.

Dí dỏm: Cái hài ở đây có tính chất trí tuệ hơn, những sự đối lập gây

cười nằm sâu trong bản chất sự vật, hiện tượng hơn. Tiếng cười trong trường

hợp này có ý nghĩa nhận thức.

Châm biếm, mỉa mai: Tiếng cười ở đây bắt đầu mang màu sắc phê

phán nhưng mức độ còn nhẹ nhàng, không mang tính chất thù địch, nó dành

cho những hiện tượng buồn cười, thậm chí mù quáng nhưng có thể sửa chữa

được.

Đả kích: Loai hài này thể hiện khuynh hướng xã hội mạnh mẽ nhất. Sư

phê phán ở đây mang tính chất phủ định. Trong trường hợp này có thể không

có tiếng cười hoặc chỉ cười một cách nghiêm chỉnh.

Các loại cái hài trên đây đều có ý nghĩa xã hội riêng của mình. Không

nên coi thường tiếng cười hài hước, vui tươi nhẹ nhàng, xem nó như thứ gì

vô bổ. Mặt khác cũng phải chú ý sao cho tiếng cười không chỉ đa dạng phong

phú mà còn có ý nghĩa nhờ được có chất trí tuệ và khuynh hướng xã hội sâu

sắc.

Cái hài vượt ra ngoài khuôn khổ của nghê thuật. Nó thuộc lĩnh vực văn

hóa tinh thần chung của con người. Nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất của

cái hài. Nhưng cũng có khi "văn hóa cười” (chữ dùng của các nhà bác học Xô

Viết M.Bakhtin) của xã hội không bộc lộ trong nghệ thuật chính thống mà thể

hiện rất phong phú trong các sinh hoạt văn hóa khác và một phần trong văn

học dân gian, như thời kỳ trong thế ky ở châu Âu. Vấn đề vị trí của văn hóa

Page 58: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

cười dân gian trong đời sống tinh thần của xã hội, cũng như ảnh hưởng, mối

quan hệ của nó với văn học viết, với các nhà văn, nhà thơ trào phúng là một

vấn đề rất hấp dẫn. Trải qua nhiều thế kỷ phát triển, nghệ thuật đã làm cho cái

hài phong phú hơn rất nhiều. Loại hình nghệ thuật nào cũng có các thể loại

hài. Chẳng hạn thơ trào phúng, truyện tiếu lâm trong văn học, hài kịch trong

sân khấu, tranh châm biếm" đả kích trong hội họa, phim hài trong điện ảnh

v.v... Các thủ pháp tạo cái hài cũng đa dạng và mỗi ngày càng được hoàn

thiện dần (nói thêm, nói bớt, tạo kết cấu bất ngờ, chơi chủ sử dụng động tác

ngoại hình, cử chỉ, nét mặt v.v,...).

Cái hài có ý nghĩa xã hội rất quan trọng, bởi vì tiếng cười gắn với nó,

xuất phát từ nhận thức và đánh giá đối tượng; sẽ đem lại niềm vui, sự sảng

khoái và do đó cũng là sức khỏe cho con người. Tiếng cười thể hiện sự thông

minh, sức mạnh và phẩm chất của con người. Hơn nữa tiếng cười còn là một

vũ khí phê phán các thói hư tật xấu và đấu tranh chống các lực lượng kìm

hãm tự do và sự phát triển của con người. Mức độ phổ biến của cái hài là một

trong những biểu hiện nói lên nhu cầu và trình độ dân chủ hóa của xã hội.

Chương 4. NGHỆ THUẬT NHƯ MỘT LĨNH VỰC THẨM MỸ

I. NGHỆ THUẬT – ĐỈNH CAO CỦA QUAN HỆ THẨM MỸ CỦA CON NGƯỜI VỚI THẾ GIỚI

Như đã nói ở trên, cái đẹp có mặt trong nhiều lĩnh vực. Nhưng có lẽ

không ở đâu cái đẹp "hiện ra" đậm nét như là ở trong nghệ thuật. Nếu khi làm

một bộ bàn ghế, người ta quan tâm trước hết đến giá trị thực dụng của nó,

nghĩa là đến chỗ làm sao nó chắc chắn, ngồi không bị gãy, thuận tiện khi đọc

sách hay tiếp khách, rồi sau đó mới tính đến vẻ đẹp của nó, thì khi tạo ra một

tác phẩm nghệ thuật, sự việc diễn ra có hơi khác. Nghệ sĩ vẽ một bức tranh,

sáng tác một khúc nhạc hoặc viết một bài thơ, cuốn truyện, không phải chỉ

nhằm bộc lộ tình cảm, ý nghĩ của mình và ghi lại những sự kiện, những cảnh

đời mà còn muốn đồng thời, tạo ra một cái gì đẹp đẽ, gây được đến mức cao

Page 59: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

nhất hứng thú thẩm mỹ, có sức hấp dẫn và lôi cuốn người xem, người nghe,

người đọc. Nói cách khác, việc đem lại một tác phẩm có tính thẩm mỹ cao đã

nằm ngay trong mục đích của sáng tạo nghệ thuật, trong ý định ban đầu của

nghệ sĩ. Người thợ thủ công khi đóng cái bàn, cái ghế cũng muốn làm cho nó

đẹp. Nhưng ở dây, cái ý muốn làm đẹp chỉ là một nhu cầu phụ, có tính chất

kèm theo. Công việc của thợ thủ công về cơ bản, bị chi phối không phải bởi

giá trị thẩm mỹ của đồ vật mà bởi giá trị sử dụng của nó. Còn đối với nghệ sĩ,

ý nghĩa thẩm mỹ nằm ngay trong giá trị chung của nó, là một thành phần tạo

nên giá trị chung đó.

Điều đó nói lên rằng sáng tạo nghệ thuật, dù cũng là một hoạt động

thẩm mỹ như nhiều hoạt động khác, nhưng ở nó "tỉ lệ" thẩm mỹ cao hơn, vị trí

của cái đẹp quan trọng hơn, quan hệ của cái đẹp với các chức năng khác

cũng bình đẳng hơn.

Cái đẹp là một trong những điều kiện đầu tiên của nghệ thuật. Dù đó là

bài thơ hay bức tranh, pho tượng hay vở kịch, điệu múa hay bài ca, dù đó là

câu chuyện về một cô công chúa tuyệt mỹ hay là về một mụ phù thủy ghê

tởm, dù đó là âm điệu du dương hát lên nỗi đắm say của tình yêu hạnh phúc,

hay khúc tưởng niệm bi thương trong tang lễ. Dù đó là bức tranh vẽ bông hoa

hồng đang chớm nở hay miêu tả một con cóc xấu xí, dù đó là vở kịch tràn đầy

niềm vui và chiến thắng của chính nghĩa hay dựng lên cảnh chết chóc hy sinh

v.v... tất cả đều phải đẹp. Một cái ghế, cái bàn đóng xấu xí có thể dùng được.

Một ngôi nhà xây không đẹp nhưng chắc chắn, rộng rãi thì vẫn là nơi ở tốt.

Còn những câu chữ xếp đặt vụng về thì không thể gọi là thơ. Bức vẽ không

đẹp thì sẽ không xứng là bức tranh. Những dòng nhạc viết ra không theo quy

luật của tiết tấu và hòa thanh sẽ chẳng thành nhạc. Chính trong ý nghĩa này,

V.G.Bielinski đã viết: "Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ

thuật. Nếu thiếu cái đẹp thì không có và khống thể có nghệ thuật, đó là một

định lý".

Nghệ sĩ chính là những người cảm thấy điều đó sâu sắc hơn ai hết. Vì

vậy, đối với nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, việc trau dồi kỹ thuật để có thể đem lại

Page 60: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

cho tư tưởng tình cảm của mình một hình thức hoàn chỉnh, có ý nghĩa thẩm

mỹ cao, bao giờ cũng là vấn đề đặt ra rất gay gắt. Nhà điêu khắc danh tiếng

Pháp Rodin đã nói: "Nghệ thuật không phải cái gì khác hơn là tình cảm.

Nhưng nếu không có các hiểu biết về khối hình, về sự cân xứng, màu sắc và

thiếu đi một cây bút điêu luyện, thì bất kỳ tình cảm sinh động nào cũng bị tê

liệt".

Danh họa Ý thời Phục hưng là Leonard de Vinci bao giờ cũng bộc lộ sự

khao khát không cùng đối với sự hoàn thiện, vẻ đẹp của tác phẩm. Riêng bức

Monna Lida (La Joconde) ông vẽ gần bốn năm trời. Có lẽ vì vậy mà hàng bao

thế kỷ về sau tranh của ông vẫn là những kiệt tác đạt đến sự hài hòà cao

không bị vượt qua.

Nghệ thuật là nơi hội tụ của cái đẹp. Điều đó biểu hiện không phải chỉ ở

chỗ, trong hoạt động này sự sáng tạo theo những quy luật của cái đẹp diễn ra

tập trung hơn cả, hoàn thiện hơn cả, mang tính chất có ý và chuyên nghiệp

hơn cả, mà còn thể hiện ở ngay bản thân nội dung của nghệ thuật.

Tác phẩm nghệ thuật, ngoài việc thể hiện vô vàn hiện tượng khác nhau

trong đời sống, bao giờ cũng quan tâm ghi lại những gì hài hòa, đẹp đẽ trong

cuộc đời. Và thường thì những cái trong hiện thực: vốn đã đẹp khi bước vào

tác phẩm lại trở nên đẹp đẽ hơn: Thậm chí từ những sự vật, hiện tượng mà

trong đời chỉ là bình thường, hay đẹp vừa vừa nhưng qua bàn tay của nghệ sĩ

lại hiện ra hết sức đáng yêu, kiều diễm. Tại sao vậy? Đây là một vấn đề thú vị

nhưng lý giải không dễ dàng.

Đúng là trong đời sống có biết bao nhiêu là cái đẹp và cái đẹp thực sự

nằm chính trong thiên nhiên, trong cuộc đời đang diễn ra hàng ngày trước

mắt chúng ta. Song không phải lúc nào chúng ta cũng có thể thưởng thức

được hiện thực đẹp đẽ đó. Ngoài những phút hiếm hoi khi vui sướng đến bất

chợt, như ánh sáng đột ngột bừng sang lên khiến ta thấy "thế giới xung quanh

bỗng hiện ra trong ánh hào quang rực rỡ, cái gì cũng trở nên đáng yêu, xinh

đẹp hay khiến chúng ta phát hiện ra vẻ lộng lẫy trong cái bình thường, cái

duyên dáng trong sự giản dị, cái sôi nổi, thiết tha trong sự âm thầm, ngoài

Page 61: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

những giờ phút ấy ra, chúng ta ít có điều kiện để nhìn cho ra cái đẹp. Chúng

ta bị hạn chế ở góc độ nhìn hoặc chìm ngập trong các chi tiết, trong cái vụn

vặt, trong những ấn tượng bề bộn hàng ngày. Muốn phát hiện ra vẻ đẹp của

sự vật phải có một khoảng cách, một góc độ nhất định. Phải biết lùi ra xa một

chút giống như khi ngắm một bức tranh. Lúc đó, tất cả những gì gồ ghề,

những vết dơ, những cái tủn mủn, vặt vãnh mà khi ta ở trong cuộc, khi đứng

gần đập vào mắt sẽ bắt đầu nhòa đi, bị quên lãng, thậm chí hiện ra trong một

màu sắc khác. Lúc đó cái vốn dẹp đẽ thì trở nên đẹp đẽ hơn. Điều đó giải

thích vì sao kỷ niệm bao giờ cũng đẹp. Trong ánh hào quang của hồi ức đôi

khi cả nỗi khổ cũng trở nên đáng yêu, cả nỗi bất hạnh cũng có một phần thú

vị. Chúng ta nhớ về quá khứ như người lính nhớ lại những cuộc chinh chiến

của mình. Thời gian dường như đã xóa đi tất cả, chỉ để lại những kỷ niệm

ngọt ngào. Nơi đắng cay dẫu còn lại thì cũng đã có thể trở thành đối tượng

của thi ca. Kinh nghiệm sáng tác của nhiều nhà văn đã khẳng định điều này:

khó mà nói về nỗi đau hay diễn tả nó khi nó vừa mới xảy ra, khi nghệ sĩ còn

phải chịu đựng gánh nặng trực tiếp của nó. Muốn viết về nó phải có một

khoảng cách.

Có một khoảng cách về không gian và thời gian nhất định, đó chính là

một trong những điều kiện làm cho con người có khả năng nhìn ra vẻ đẹp của

sự vật hoặc khiến cho sự vật có được ý nghĩa thẩm mỹ trở nên đẹp đẽ và dễ

thương hơn trong cảm thụ của chúng ta. Từ đời sống bước vào nghệ thuật,

tất cả những gì được phản ánh trong tác phẩm đều đi qua khoảng cách ấy.

Trong ý nghĩa này có thể nói nghệ thuật đẹp hơn hiện thực.

Ai đã từng xem bức "Mùa thu vàng" của họa sĩ Nga Levitan đều kinh

ngạc về vẻ quyến rũ của nó và đều có cảm giác rằng hình như nó đẹp hơn cả

mùa thu thực. Vì tài nghệ của họa sĩ, vì cái khoảng cách thần diệu của nghệ

thuật, vì vẻ đẹp của mùa thu được trinh bày trong cái dạng tiêu biểu nhất, tập

trung nhất. Ở đây đã diễn ra một quá trình chung vốn là đặc tính của mọi hoạt

động sáng tạo nghệ thuật: nghệ sĩ lựa chọn trong muôn ngàn hiện tượng

giống nhau một cái tiêu biểu nhất để giới thiệu với công chúng, đồng thời

Page 62: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

cũng cố gắng miêu tả cái tiêu biểu nhất đó sao cho thu hút mạnh mẽ. Đó

chính là quá trình kết tinh trong nghệ thuật. Nhờ đó, cái đẹp trong cuộc đời đi

vào nghệ thuật trở nên rực rỡ hơn và hấp dẫn hơn. Bức vẽ bông hoa hồng lôi

cuốn được là vì nó mang trong"mình vẻ đẹp của một trăm hay một ngàn bông

hồng khác mà họa sĩ đã quan sát, nghiên cứu tìm tòi và chọn lựa.

Hiện thực cuộc sống bao giờ cũng là nguồn nội dung vô tận của nghệ

thuật. Và xét trong toàn bộ, vẻ đẹp hiện thực bao giờ cũng là vẻ đẹp cao nhất,

bởi vì nó vô cùng phong phú, sinh động và trần thế. Nhưng trong nghệ thuật,

cái đẹp của đời sống được thể hiện tập trung hơn. Tác phẩm nghệ thuật

chính là nơi hội tụ cái đẹp của cuộc đời. Nếu cái đẹp của cuộc đời là quặng

vàng chì trong nghệ thuật nó đã biến thành vàng được luyện, thành vàng trên

huân chương, vàng trên đôi nhẫn cưới...

II. TÍNH CHẤT CỦA CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT

Con người bao giờ cũng sáng tạo theo "quy luật của cái đẹp". Nghĩa là

khi làm ra bất kỳ sản phẩm nào, trong đó có tác phẩm nghệ thuật, ngoài

những mục đích thiết thực khác, người ta luôn luôn nghĩ cách làm sao cho nó

vừa mắt, dễ coi. Cái đẹp mắt, dễ coi đó cũng là một phần của một cái đẹp. Ở

đây có thể nảy ra câu hỏi: nếu cái đẹp phổ biến như vậy, không chỉ có trong

nghệ thuật mà còn có cả trong rất nhiều hoạt động khác nữa của con người,

thì đặc điểm của cái đẹp trong nghệ thuật nằm ở đâu? Phải chăng cái đẹp

của bức tranh cũng giống như vẻ đẹp của phong cảnh được vẽ? Phải chăng

cái đẹp của bài thơ cũng giống như vẻ đẹp của ngôi nhà hay của bộ ghế mây

xuất khẩu?

Không hẳn như vậy. Cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật có nhiều điểm

khác với cái đẹp của thiên nhiên cũng như cái đẹp của các sản phẩm khác do

bàn tay con người tạo ra.

Trước hết, nếu chỉ xét về phương diện thẩm mỹ thì các phẩm nghệ

thuật là những công trình phức tạp, tinh vi nhất. Hãy thử so sánh màu sắc

chiếc lọ hoa bằng gốm Đồng Nai với màu sắc trên bức tranh "Thiếu nữ bèn

Page 63: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

hoa huệ" của Tô Ngọc Vân mà xem. Trong trường hợp này, chúng ta gặp sự

phối trí hài hòa giữa các màu tự nhiên, để cạo ra cảm giác ưa nhìn và dễ

chịu. Trong trường hợp kia, chúng ta đứng trước sự tìm tòi thực sự về màu

sắc, về những khả năng kết hợp của nó, về hiệu quả sáng hoặc tối, dày hoặc

mỏng, ấm hay lạnh, cứng hay mềm của màu. Ở đây, toàn bộ bức tranh toát ra

một sắc độ nhẹ nhàng, mềm mại. Cả một mảng màu đơn giản của chiếc áo

dài buông xuống duyên dáng như tương phản, làm tôn lên những chi tiết

phong phú và màu sắc tươi tắn của lọ hoa huệ gây nèn ấn tượng sâu sắc về

một phong cách nghệ thuật đậm đà truyền thống dân tộc nhưng đồng thời

cũng rất mới mẻ, hiện đại.

Trong âm nhạc cũng vậy. So với vẻ đẹp của âm thanh tự nhiên, vẻ đẹp

của tác phẩm nhạc phức tạp hơn nhiều. Từ nhịp đi của bước chân con người,

từ nhịp đập của trái tim, nhịp thời gian thay đổi bốn mùa, những tiết tấu tự

nhiên đã đi vào âm nhạc, trở thành đủ loại nhịp khác nhau (nhịp 2/4, 3/4, 4/4,

6/8, 12/8 v.v...) thành các kiểu tiết tấu biến hóa vô cùng đa dạng (hành khúc,

van-xơ, tang-gô bô-lê-rô v.v...). Tác phẩm âm nhạc đặc biệt là tác phẩm giao

hưởng, nhạc có chương trình, là một bằng chứng thuyết phục nói lên tính

chất phức tạp, tinh vi của cái đẹp trong nghệ thuật, nói lên khả năng sáng tạo

vô biên của con người.

Thơ ca cũng là một lĩnh vực của lời nói. Nhà thơ không sử dụng những

từ ngữ nào khác hơn là những từ ngữ trong vốn từ vựng chung, trong ngôn

ngữ dân tộc, trong tiếng nói hàng ngày. Nhưng từ lời nói hàng ngày đến lời

thơ thì đó là cả một khoảng cách lớn. Câu thơ cũng là lời nói, nhưng là một

kiểu lời nói đặc biệt được tổ chức theo những quy luật của nghệ thuật và của

thẩm mỹ. Bởi vậy, vẻ đẹp của lời thơ là vẻ đẹp của vàng đã tinh luyện, của

ngọc đã mài, của nước nho đã chưng cất thành rượu. Điều đó giải thích vì

sao tuy cũng là những lời nhắn gửi bộc bạch tâm tình, mà những câu ca dao

như:

Núi cao chi lắm núi ơi,

Núi che mũi trời không thấy người thương.

Page 64: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Hay:

Chàng ơi cho thiếp đi cùng,

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

bất chấp thời gian vẫn sống trong ký ức nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ

khác.

Song dù cả khi trau chuốt óng ả, cân đối, nhịp nhàng hay khi trần trụi,

đa dạng như chính bản thân cuộc sống, câu thơ lúc nào cũng giữ một khoảng

cách nhất định với lời nói bình thường. Lời nói hàng ngày cũng có vẻ đẹp

riêng của nó. Nhưng câu thơ hay hơn, đẹp hơn cái đẹp của nó và của ngôn

ngữ trong nghệ thuật nói chung tinh vi, phức tạp hơn vẻ đẹp của mọi lời nói

khác, dù đó là lời nói thường hay lời nói khoa học, báo chí, chính luận v.v...

Một đặc điểm quan trọng khác của cái đẹp trong nghệ thuật là tính biểu

cảm, sức truvền cảm của nó. Nói một cách đơn giản, cái đẹp của tác phẩm

nghệ thuật bao giờ cũng có hồn, chứa đựng một tư tưởng, tình cảm nào đó.

Ngắm một bông hoa rực rỡ sắc hương hay đứng trước dòng sông xanh

in bóng những hàng dừa, chúng ta đều thấy có một cảm giác dễ chịu, vui

tươi. Cái đẹp của sự hài hòa, của sự sống tiềm ẩn trong cảnh vật đã mang lại

cho con người khoái cảm thẩm mỹ. Nhưng bản thân cái đẹp của màu sắc và

âm thanh tự nhiên, của phong cảnh vẫn là cái đẹp của thế giới vô cơ, tự

chúng không chứa đựng một nội dung nào cả, cái đẹp loại này mang tính chất

trung tính. Bởi vậy nó phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người

thưởng thức.

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

(NGUYỄN DU - TRUYỆN KIỀU)

Những nội dung tình cảm khác nhau, cái hồn của các hiện tượng thẩm

mỹ trong tự nhiên là do người ta gán vào, thổi vào sự vật.

Trong nghệ thuật không phải như vậy. Chúng ta hãy quan sát bức tranh

lụa "Chơi ô ăn quan" của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh. Sắc độ màu nâu trong

Page 65: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tác phẩm thật mềm mại, có sức hấp dẫn thẩm mỹ độc đáo. Nhưng rõ ràng ở

đây màu sắc không nhằm mục đích tự thân.

Nó truyền đạt một cảm giác dịu dàng, đằm thắm về làng quê. Vẻ đẹp

mượt mà của màu nâu và hòa sắc chung của bức tranh làm cho toàn bộ

khung canh được miêu tả bỗng như chìm trong kỷ niệm, như lùi ra xa, hiện

lên như một mảng của hồi ức, của tuổi thơ, của tình yêu quê hương, dân tộc

sâu kín, đậm đà.

Cái đẹp trong nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với tình cảm hay một tư

tưởng nào đó, bởi vì đây là cái đẹp nhân đạo, cái đẹp do nghệ sĩ tạo nên để

ghi lại cái đẹp trong đời, để diễn đạc cảm xúc thẩm mỹ đang dâng lên trong

lòng mình hoặc để mượn nó, thông qua nó mà gửi đến người khác những

điều mình đang nung nấu, yêu thương, căm thù hay đau khổ. Cũng chính ở

đây cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật phân biệt với cái đẹp của những sản

phẩm khác do con người làm ra. Như ta biết, các sản phẩm này cũng được

sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Nhưng vẻ đẹp của một bộ ấm chén chẳng

hạn, không thẻ gợi ra những rung động sâu xa, những tình cảm mãnh liệt như

bức họa "Guernica" của Picasso được.

Khi làm bộ ấm chén, bộ bàn ghế đẹp, khi cắt những bộ quần áo hợp

thời trang, dĩ nhiên người thợ cũng để lại trên các "tác phấm" ấy dấu ấn của

tài năng, thị hiếu thẩm mỹ của mình. Song khó mà có thể nói rằng họ đã gửi

gắm vào đấy niềm vui hay nỗi buồn gì, khó có thể biết họ làm các “tác phẩm”

ấy để nói lên cái gì, bênh vực ai, chống lại ai. Cả nghệ sĩ và người thợ thủ

công đều mang lại cái đẹp cho cuộc đời. Nhưng ngoài cái chung đó ra, mỗi

người phải theo đuổi mục đích riêng của mình. Và sự khác nhau đó đã tác

động trở lại sự giống nhau, làm cho cái đẹp giữa bức tranh và chiếc lọ gốm,

vốn cùng tuân theo quy luật chung của sự hài hòa, lại có thêm những nét

riêng biệt.

Vấn đề tính truyền cảm của cái đẹp liên quan trực tiếp tới đặc điểm của

các phương tiện hình thức trong tác phẩm nghệ thuật. Khi nghệ sĩ diễn tả trên

trang giấy, trên khung vải, trên tường, trên sân khấu hay trên màn ảnh những

Page 66: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

điều mình muốn nói ra, thì khi đó các yếu tố hình thức phải đóng vai trò là

những phương tiện truyền đạt nội dung tình cảm ấy. Các phương tiện này

không chứa đựng nội dung theo kiểu vỏ chai dùng để đựng nước, mà chính là

những hình thức, những con đường mà qua đó nghệ sĩ vật chất hóa được

những điều mình rung động, suy nghĩ và cũng nhờ đó mà người đọc, người

xem, người nghe biết được, hiểu được những gì nghệ sĩ nung nấu, muốn thổ

lộ. Bởi vậy, phẩm chất cơ bản của các yếu tố hình thức là ở chỗ chúng diễn

đạt thành công đến mức nào điều mà nghệ sĩ cần nói với công chúng, với

người đọc, người xem.

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức hiểu theo nghĩa đó làm cho cái

đẹp của các phương tiện có thêm đặc điểm mới. Ở đây, cái đẹp không phải

chỉ là sự hài hòa bình thường mà là hài hòa mang đầy sắc thái biểu cảm. Cái

đẹp gắn bó chặt chẽ với sức truyền cảm của nghệ thuật. Từ đây, chúng ta

hiểu vì sao tiếng đàn bầu chẳng hạn lại có thể gây ra những ấn tượng thẩm

mỹ mạnh mẽ đối với cả thính giả phương Đông và phương Tây. Cái hay của

đàn bầu không phái chỉ ở sự hài hòa âm thanh độc đáo mà là còn ở chỗ vẽ

đẹp của âm thanh quyện chặt với chất tình cảm thiết tha của tiếng đàn. Có lẽ

đàn bầu cũng là một tronc những nhac cụ mà khi chơi, người ta có khả năng

chuyển trực tiếp những rung động của mình lên tiếng đàn nhiều nhất. Cấu tạo

và cách chơi đàn bầu cho phép sử dụng và phát huy đến mức tối đa hiệu quả

của lối nhấn, láy, vuốt và sự tiếp xúc trực tiếp của ngón tay, bàn tay lên các

bộ phận rung của dây đàn, làm cho sắc thái tình cảm của tiếng đàn trở nên

hết sức tinh tế.

Tóm lại, cái đẹp trong nghệ thuật cũng như mọi cái đẹp khác trong đời,

nhưng lại không hoàn toàn giống với chúng. Bông hoa trong tranh không phải

là bông hoa ngoài vườn. Vẻ đẹp của bông hoa trong vườn cũng không giống

bức tranh đẹp vẽ bông hoa. Cái đẹp của tác phẩm ngnệ thuật lại cũng khác

với cái đẹp của các sản phẩm, các công trình do bàn tay con người tạo nên.

Có giống chăng thì nhiều nhất có lẽ vẫn là cái đẹp của nghệ thuật với cái đẹp

của chính con người, bởi vì tác phẩm nghệ thuật cũng là một cơ thể sống;

Page 67: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

mang hơi thở linh hồn của con người và bản thân nó cũng sinh động, toàn

vẹn như con người vậy...

III. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI ĐẸP TRONG TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT

Tìm cái đẹp trong nghệ thuật có nghĩa là xét xem trong nghệ thuật, cái

đẹp bộc lộ như thế nào, hiện ra ở đâu. Trước hết, chúng ta bắt đầu từ nội

dung của tác phẩm.

Nội dung nghệ thuật rất phong phú, bởi vì hiện thực mà nghệ thuật

nghiền ngẫm, tư tưởng mà nó thể hiện hết sức rộng lớn, đa dạng. Song có

thể nói rằng một trong những đối tượng bao trùm, đối tượng cơ bản được yêu

thích nhất của nghệ thuật chính là cái đẹp. Đó là cái đẹp tinh khiết của bông

hoa mùa xuân:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

(Nguyễn Du -Truyện Kiều)

Hay một buổi hoàng hôn bảng lảng, yên tĩnh:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Co em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Hồ Chí Minh – Chiều tối)

Có thể nói tất cả những gì đẹp trong thế giới chúng ta, từ một chiếc lá,

một giọt sương đến một quảng trường, một phong cảnh, một ngày hội quần

chúng đều đi vào âm nhạc, thơ ca và hội họa, điêu khắc, sân khấu và điện

ảnh. Không có cái đẹp nào xa lạ với nghệ thuật.

Điều đó không có nghĩa là tác phẩm nghệ thuật không miêu tả cái xấu.

Trái lại, đưa cái xấu vào tác phẩm để phê phán, để phủ định nó - cũng là một

Page 68: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

trong những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật, đặc biệt là đối với những

giai đoạn lịch sử nhất định, khi trong xã hội cái xấu đang hoành hành, điều ác

đang tạm thời thắng thế. Song phải thừa nhận một thực tế là trong lịch sử mỹ

thuật, cái xấu bước vào khá muộn. Suốt mười mấy thế kỷ liên tục, nghệ thuật

thế giới chủ yếu hướng vào mô tả cái đẹp, cái cao thượng. Truyền thống đó

bắt nguồn từ nghệ thuật Hy Lạp, được tái sinh trong thời kỳ Phục hưng,

xuyên suốt chủ nghĩa cổ điển và tiếp tục phát huy với chủ nghĩa lãng mạn.

Trong giai đoạn này đôi khi việc miêu tả cái xấu lại trở thành điều cấm kỵ đối

với nghệ thuật. Điều đó giải thích vì sao hài kịch đã không được công nhận

trong chủ nghĩa cổ điển, vì sao các họa sĩ của châu Âu thế kỷ XVII - XVIII chỉ

chú ý tới cái đẹp, cái thanh cao. Khi vẽ cây chẳng hạn thì không bao giờ họ

vẽ cái gốc lởm chởm, xù xì hoặc nếu có thì cũng tìm cách làm cho nó khuất đi

sau những vật trang nhã khác.

Trong lịch sử văn chương, tấn bi kịch của lý tưởng nhân văn. sự khủng

hoảng của cái đẹp và hài hòa chỉ mới bắt đầu diễn ra chủ yếu từ hậu kỳ Phục

hưng với những tác phẩm của Shakespeare. Còn âm nhạc thì biết đến quá

trình này muộn hơn, vào những giai đoạn cuối của chủ nghĩa lãng mạn với

các tác phẩm của Beethoven. Trong lịch sử hội họa, những bức tranh trình

bày cái xấu trước đây rất ít ỏi.

Điều đó chứng tỏ rằng dẫu buộc phải nói đến cái xấu, nghệ thuật vẫn

dành ưu tiên cho cái đẹp. Cái đẹp vẫn là đối tượng cơ bản, lâu dài, xuyên

suốt của nghệ thuật. Trở về với sự hài hòa của thế giới và của con người, đó

chính là ước mơ, là sự phấn đấu, là cái đích cuối cùng của nhân loại. Và đó

cũng chính là tương lai của nghệ thuật, thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao cả

của nó.

Thể hiện những rung động đẹp đẽ về hiện thực sẽ góp phần làm phong

phú thêm nội dung thẩm mỹ của nghệ thuật. Đứng trước một tác phẩm nghệ

thuật, nhiều khi chúng ta cảm thấy phấn chấn, thỏa mãn về mặt thẩm mỹ

không phải chỉ do cái đẹp của bản thân sự vật được mô tả, mà còn do tình

cảm của nghệ sĩ. Xúc cảm thẩm mỹ của nghệ sĩ truyền sang chúng ta, làm

Page 69: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

cho chúng ta cũng có những rung động tương tự. Điều này bộc lộ rõ rệt trong

những trường hợp mà chúng ta gọi là "sự thi vị hóa cuộc sống".

Hãy lấy bức tranh "Tát nước đồng chiêm" của họa sĩ Trần Văn Cẩn làm

ví dụ. Trước mắt chúng ta là cảnh người nông dân đang tát nước. Đây là một

cảnh hết sức bình thường, bề ngoài không có gì là nên thơ cả. Song với con

mắt nghề nghiệp, họa sĩ đã phát hiện ra một số nét thi vị của đối tượng. Các

nét này lại được tô điểm, nhân lên nhờ xúc cảm thẩm mỹ tràn ngập trong lòng

người vẽ. Điều này làm cho cảnh vật được miêu tả trở nên sinh động và đẹp

đẽ hẳn lên: những tà áo và giải thắt lưng bay lên theo chiều gió như ca hát,

như hòa nhịp với những cánh tay đang kéo gầu nước bạc. Hình ảnh các bà,

các chị nghiêng ngả, tát nước mê say, toàn bộ khủng cảnh lao động toát lên

không khí, vui tươi, nhịp nhàng giống như một điệu múa vui sản xuất, nổi lên

giữa thiên nhiên bao đời nay gắn bó với con người.

Rõ ràng là cảm xúc của tác giả cũng là một trong những đối tượng của

thưởng thức nghệ thuật. Cùng với vẻ đẹp của bản thân cái được phản ánh

(cảnh vật, con người) cảm xúc này tạo thành mặt thẩm mỹ quan trọng của nội

dung tác phẩm.

Nhưng chẳng lẽ tác phẩm chỉ đẹp khi nó mô tả cái đẹp của cuộc sống

hay diễn đạt cảm xúc thẩm mỹ của nghệ sĩ? Nếu vậy thì ý nghĩa thẩm mỹ của

tác phẩm bộc lộ như thế nào, chẳng hạn như trong bức họa "Khúc khải hoàn

ca của chiến tranh" của họa sĩ V.Veresaghin. Trền khung vải chỉ có những

chiếc sọ người chất thành một đống cao với dàn quạ đen, con thì đậu, con

đang bay đến từ xa, nổi lên giữa cánh đồng hoang vắng trơ trọi. Tìm cái đẹp

ở đâu đây?

Nhà triết học Pháp Pascal nói: "Không một con rắn hay con quái vật

nào được nghệ thuật sửa sang mà không trở nên đẹp". Nhưng xin bạn chớ

vội nghĩ rằng như vậy là cái xấu khi bước vào nghệ thuật sẽ bớt xấu hơn, cái

ác sẽ trở nên bớt ghê tởm hơn, còn sự giả dối thì đáng khoan dung hơn.

Page 70: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Câu nói của Pascal liên quan đến một vấn đề quan trọng của mỹ học:

nghệ thuật không từ chối cái xấu, cái thô thiển, nhưng dù mô tả cái đẹp, cái

xấu hay cái thô thiển thì tác phẩm bao giờ cũng phải đẹp.

Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Thực tế cho thấy vẽ cái xấu và vẽ xấu

không phải là một, cũng như vẽ cái đẹp và vẽ đẹp không phải bao giờ cũng

đồng nhất với nhau. Có khi người cầm bút vẽ một sự vật rất đẹp mà bức

tranh lại chẳng đẹp-chút-nào. Một nhân vật trong truvện "Kiệt tác chưa biết

đến" của Balzac có lần đã thay mặt nhà văn thốt lên rằng: "Nào bạn hãy dùng

thạch cao nặn y nguyên cánh tay người yêu của mình và đặt nó lên bàn mà

xem. Bạn sẽ chẳng thấy một chút giống nhau nào cả, đó sẽ là cánh tay của

một xác chết và lúc ấy bạn phải nhờ đến nhà điêu khắc là người không phải

mang lại một bản sao chính xác mà truyền đạt sự vận động vào cuộc sống".

Trong ý nghĩa này, lối phản ánh hiện thực theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa

rõ ràng không phải chỉ làm cho giá trị tư tưởng của tác phẩm bị hạ thấp mà

còn tỏ ra kém cỏi về mặt thẩm mỹ. Bê nguyên xi tất cả những cái trong đời

vào nghệ thuật, dù là những cái hấp dẫn và xinh đẹp, đều không phù hợp với

quy luật sáng tạo nghệ thuật. Một cô gái hàng ngày trông rất đẹp nhưng nếu

bước lên sân khấu mà không trang điểm, sẽ trở nên vụng về và nhợt nhạt

giữa cảnh phông màu rực rỡ và dưới ánh sáng của hàng chục ngọn đèn.

Xét về phương diện hình thức, nghệ thuật bao giờ cũng phải đẹp.

Chính nhờ tài năng của nghệ sĩ mà ngay cả trong những trường hợp tác

phẩm trực tiếp mô tả cái xấu, cái ác. Chúng ta vẫn vui lòng thưởng thức, tác

phẩm và có được những rung cảm thẩm mỹ nhất định. Chằng hạn trong

Truvện Kiều, khi tả Tú Bà đánh đận Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:

Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,

Đang tay vùi Liễu dập hoa tơi bời.

Thịt da ai cũng là người,

Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau!

Hết lời thú phục khẩn cầu,

Page 71: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Uốn lưng thịt đỗ, dập đầu máu sa.

Đây là cảnh hành hạ con người bằng roi vọt, chửi mắng, chẳng đẹp đẽ

gì. Nhưng những câu thơ diễn tả cảnh khảo tra ấy lại rất hay và đẹp.

Cũng tương tự như vậy, có thể nói về giao hưởng số 5 cung Đô thứ

của Beethoven. Tiếng gõ cửa của thần chết, sự khủng khiếp của Định mệnh

đã được nhà soạn nhạc hình tượng hóa trong những âm thanh bất hủ. Còn

trong tác phẩm "Guernica", Picasso thể hiện sự hủy diệt tàn khốc mà bọn

phát xít đã gây ra trong một cuộc ném bom vào làng Guernica ở Tây Ban

Nha. Cao hơn nữa, họa sĩ muốn phác họa tội ác của chủ nghĩa phát xít và

tính chất khủng khiếp của chiến tranh. Tất cả những cảnh tượng và nội dung

đó rõ ràng không có cái gì chung với cái đẹp. Nhưng Picasso đã diễn tả nỗi

kinh hoàng ấy bằng một ngòi bút tuyệt vời, khiến cho "Guernica" cùng với bức

"Chim bồ câu" mãi mãi tượng trưng cho tiếng nói nhân đạo, tiếng nói chống

chiến tranh và nguyện vọng hòa bình của các dân tộc. Với "Guernica" và

"Chim bồ câu", Picasso đã đi bằng hai con đường khác nhau để đến cùng

một đích: ông vẽ cả cái xấu và cái đẹp, nhưng cả hai cùng chung một chủ đề

hòa bình, nhân đạo và cả hai đều là những kiệt tác về mặt thẩm mỹ.

Nói tóm lại, trong những trường hợp trên đây, ngoài cái đẹp của lý

tưởng xã hội, của tình cảm của nghệ sĩ (trong chừng mực lý tưởng và tình

cảm này gợi chúng ta quan niệm về cuộc sống, về sự hài hòa), phẩm chất

thẩm mỹ của các tác phẩm còn bộc lộ ở cái đẹp của hình thức nghệ thuật.

Tiêu chuẩn của cái đẹp này chính là sự hoàn thiện của các phương tiện

hình thức và sự phù hợp của chúng với nội dung cần diễn đạt.

Trước hết, hình chức tác phẩm muốn đẹp phải thật sự hoàn thiện,

nghĩa là phải hoàn hảo về mặt kỹ thuật, kỹ xảo. Yêu cầu này bắt buộc đối với

tất cả các yếu tố hình thức, kể từ việc lựa chọn một chữ hoặc một âm đến

việc tổ chức toàn bộ tác phẩm thành một chỉnh thể thống nhất. Ở đây quy luật

của sáng tạo thẩm mỹ đề ra những tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt. Tác

phẩm không được thiếu mà cũng không được thừa. Mọi chi tiết đều phải

được cân nhắc, tính toán chặt chẽ. Các bản viết tay của La Fontaine đầy

Page 72: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

ngập những chỗ gạch xóa. Có bài ngụ ngôn ông phải làm đi làm lại 12 lần.

J.J.Rousseau cũng thổ lộ: "Các bản viết tay của tôi có biết bao nhiêu chỗ

gạch xóa, bẩn, lộn xộn, khó đọc, nói lên công sức mà tôi phải bỏ ra. Không có

một tác phẩm nào mà tôi không phải chép lại tới bốn năm lần trước khi đưa

in". Flaubert viết lại tác phẩm "Bà Bovarv" mười lần. Pascal viết đi viết lại đến

mười lăm lần một số chỗ trong "Tập thư gửi người nhà quê" v.v... Tất cả

những cái đó nói lên nguyện vọng của nhà văn muốn đạt tới sự hoàn thiện,

tới cái đẹp.

Mặt khác, bản thân sự hoàn thiện của kỹ thuật, kỹ xảo sẽ giảm đi rất

nhiều ý nghĩa nếu nó không gắn với một nội dung cụ thể nào đó, không nhằm

diễn đạc một tư tưởng, một tâm trạng nào đó. Sức mạnh của hình thức không

phải chỉ phụ thuộc vào sự hoàn hảo của bản thân nó, mà còn toát ra từ quan

hệ của nó với nội dung. Quan hệ này có hai mặt. Thứ nhất đó là vấn đề: các

phương tiện hình thức có khả năng truyền đạt đầy đủ và chính xác đến đâu

cái mà nghệ sĩ cần diễn tả, biểu hiện. Ở đây phẩm chất thẩm mỹ của một hình

ảnh hay một tính từ chẳng hạn là ở chỗ chúng nói lên được hết những gì nhà

văn định gửi gắm. Mở đầu Truyện Kiều, khi tả mùa xuân, Nguyễn Du viết:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Câu thơ không chỉ phác ra cảnh tuyệt đẹp của trời đất ngày xuân mà

còn diễn tả cả vẻ tinh khiết của tiết thanh xuân. Lúc mà Thúy Kiều lần đầu tiên

bước ra với cuộc đời mang theo đôi mắt ngỡ ngàng, bỡ ngỡ và bao nhiêu

ước mơ cua người con gái ngây thơ, trong trắng. Đó là vẻ đẹp của thiên

nhiên, vẻ đẹp và tâm trạng của con người, mà cũng là cái yên lặng của đất

trời trước cơn dông, của một số phận tài hoa trước khi trở thành "bạc mệnh".

Câu tả cảnh vừa như là chuẩn bị như khúc dạo đầu của một bi kịch, vừa như

một vế của sự tương phản, làm nổi bật lên sự đối lập giửa hai không gian,

giữa hai nửa cuộc đời Kiều.

Ở chỗ khác, tả Sở Khanh lén lút chui vào lầu xanh để tính kế lừa dối

Kiều. Nguyễn Du viết:

Page 73: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Tường đông lay động bóng cành,

Rẽ song đã thấy sở Khanh lẻn vào.

Nhiều người cho rằng với từ "lẻn", nhà thơ đã giết chết nhân vật. Từ

này vừa diễn tả đúng hành động mờ ám của Sở Khanh, lại vừa nói lên đầy đủ

thái độ của tác giả đối với loại người như vậy.

Rõ ràng trong cả hai trường hợp trên đây, hình ảnh và từ ngữ đã làm

tròn chức năng của chúng.

Mặt thứ hai của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, bộc lộ ở chỗ:

vẻ đẹp của hình thức phụ thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn hay lệch lạc của

nội dung được nó diễn tả. Nếu nội dung thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn sâu

sắc hay gắn liền với tư tưởng tiến bộ thì vẻ đẹp của hình thức tác phẩm sẽ

được nhân lên gấp nhiều lần. Ngược lại dù câu thơ có lộng lẫy đến mức nào

màu sắc và bố cục của bức tranh có đẹp đến đâu, nhưng nếu chúng nhằm

thể hiện một tư tưởng giả dối, ca ngợi tội ác, độc tài thì sức mạnh thẩm mỹ,

của chúng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng, hoặc có khi bị phá hủy hoàn toàn.

IV. PHÂN BIỆT HAI KHÁI NIỆM: CÁI ĐẸP VÀ NGHỆ THUẬT

Chủng ta nói nghệ thuật là nơi tập trung cao nhất quan hệ thẩm mỹ của

con người với hiện thực, và nói đã là nghệ thuật thì phải đẹp, không đẹp

không thành nghệ thuật. Nhưng tại sao lại không thể nói: cái đẹp là nghệ

thuật?

Đó là vì cái mệnh đề khá quen tai và tưởng như hoàn toàn tự nhiên,

hoàn toàn hợp lý kia có thể gây ra những hiểu lầm liên quan trực tiếp đến

cách nhìn nhận bản chất của cái đẹp và nghệ thuật, đến các hành động cụ

thể trong sáng tác và cảm thụ nghệ thuật, có thể dẫn đến sự lẫn lộn nghệ

thuật, với cái đẹp.

Nguyên nhân sự lẫn lộn này một phần là do từ ngữ tạo nên.

Trong tiếng Việt hiện đại, từ "nghệ thuật" được dùng ít nhất với ba

nghĩa sau đây:

Page 74: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

a) Chỉ những hoạt động gì thật khéo léo, đạt đến trình độ điêu luyện,

tay nghề cao. Chúng ta vẫn thường nghe nói: "nghệ thuật mổ xẻ", "nghệ thuật

bắt rắn", "nghệ thuật lái xe", hay "một đường chuyền bóng nghệ thuật", "một

cú sút nghệ thuật" v.v... Có thể nói đây chính là nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của

từ "nghệ thuật", bởi vì theo từ nguyên "thuật" là hoạt động, là kỹ thuật, còn

"nghệ" là tài năng, kỹ năng. Trong tiếng Pháp và tiếng Anh "art" đầu tiên cũng

có nghĩa là khéo léo, kỹ xảo, tài nghệ, sau mới có thêm nghĩa "mỹ thuật",

"nghệ thuật". Trong tiếng Nga cũng vậy.

b) Chỉ những hoạt động và sản phẩm, hài hòa, đẹp mắt, có thể mang,

lại cho người ta khoái cảm thẩm mỹ. Trong nghĩa này, chúng ta gọi một bộ

bàn ghế mây tre xuất khẩu, một chiếc thuyền bằng sừng để bàn, một cái gạt

tàn thuốc lá bằng gỗ sơn mài khảm xà cừ, một bộ quần áo thêu nhiều màu

của phụ nữ dân tộc ít người, một buổi đồng diễn thể dục v.v... là tác phẩm

nghệ thuật, là công trình nghệ thuật. Gần đây lại xuất hiện thêm các khái

niệm: "thể dục nghệ thuật, trượt băng nghệ thuật, bơi nghệ thuật"... "Nghệ

thuật" ở đây chính là đẹp.

c) Chỉ một loại hoạt động đặc thù của con người nhằm tạo ra một loại

sản phẩm đặc biệt, không phải chỉ đẹp mắt, êm tai, hài hòa mà còn có ý nghĩa

tư tưởng xã hội sâu sắc. Trong nghĩa này chỉ có hội họa, điêu khắc, múa, âm

nhạc, văn chương, sân khấu, điện ảnh, ảnh nghệ thuật và kiến trúc mới được

gọi là nghệ thuật.

Như vậy, trong thực tế từ "nghệ thuật" được dùng theo những nghĩa

khác nhau. Tình trạng những sự vật khác nhau được gọi chung bằng một tên

để tạo ra cảm giác rằng chúng là một, đặc biệt là đối với các hiện tượng thuộc

nghĩa thứ hai và thứ ba.

Song sự lẫn lộn giữa khái niệm nghệ thuật và cái đẹp còn có nguyên

nhân khác nữa, bắt nguồn sâu xa trong mỹ học. Trước Tchernychevski, mỹ

học chủ yếu là khoa học về cái đẹp của nghệ thuật. Mở đầu những bài giảng

về mỹ học nổi tiếng của mình. Hegel viết: "Những bài giảng này dành nói về

mỹ học, đối tượng của mỹ học và vương quốc bao la của cái đẹp, nói đúng

Page 75: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

hơn là lĩnh vực của nghệ thuật, hay đúng hơn nữa, là lĩnh vực của sáng tạo

nghệ thuật". Quan niệm trên đây có truyền thống lâu đời, đạt đến sự phát triển

cao nhất trong hệ thống của Hegel và tồn tại mãi cho tới hiện nay.

Sau Hegel, mỹ học dần dần mở rộng phạm vi nghiên cứu của mình,

không còn hoàn toàn bị giới hạn trong lĩnh vực nghệ thuật. Tuy nhiên quan

niệm cũ vẫn chưa phải đã mất hẳn và thói quen hễ nói đến cái đẹp là nói đến

nghệ thuật vẫn làm cho người ta nghĩ rằng hai khái niệm này là tương trợ như

nhau, đồng nghĩa với nhau.

Thật ra, cái đẹp và nghệ thuật là hai khái niệm tuy có gần gũi nhau,

nhưng rất khác nhau.

Cái đẹp là phạm trù chỉ những giá trị thẩm mỹ tồn tại khắp nơi trong

thiên nhiên, trong xã hội, ở con người, trong sản phẩm vật chất và tinh thần,

trong nghệ thuật. Hoạt động thẩm mỹ là hoạt động nhằm tạo ra các giá trị

thẩm mỹ, đáp ứng nhu cầu của con người về cái đẹp. Hoạt động này rất đa

dạng, có mặt trong hầu hết các lĩnh vực thực tiễn của con người. Nó quy tụ

thành ba nhóm cơ bản:

a) Các hoạt động nhằm cải tạo thế giới vật chất, đem lại những sản

phẩm vật chất có giá trị sử dụng và giá trị thẩm mỹ. Việc tạo ra giá trị thẩm mỹ

(cái đẹp) tuy không phải là nhu cầu số một, nhưng cũng là nhu cầu nội tại của

các hoạt động này, nằm ngay trong khuynh hướng và mục đích của chúng.

Tiêu biểu cho các hoạt động này là: nghề thủ công, thiết kế mỹ thuật và kiến

trúc.

b) Các hoạt động hướng vào việc thay đổi, tô điểm, làm đẹp cho chính

bản thân con người, từ quần áo, giày dép và da dẻ, cơ thể đến cử chỉ, cách

ăn nói, đối xử và thế giới bên trong của con người. Nhóm này gồm các ngành

may mặc, trang phục, trang điểm, thể dục, thể thao, hùng biện, thẩm mỹ hành

vi, giáo dục nghệ thuật và giáo dục thẩm mỹ.

c) Sáng tạo nghệ thuật như một hoạt động đặc thù, tập trung cao nhất

quan hệ thẩm mỹ của con người với cuộc sống và thực hiện những chức

Page 76: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

năng xã hội to lớn khác. Hoai động này bao gồm sáng tác hội họa, điêu khắc,

âm nhạc, múa, văn học, sân khấu, điện ảnh, ảnh nghệ thuật và kiến trúc nghệ

thuật.

Nghệ thuật là một phương cách tồn tại của ý thức con người, một hoạt

động sáng tạo độc đáo, một hình thức giao tiếp xã hội đặc biệt, một lĩnh vực

của cái đẹp.

Cũng như nhiều hình thái ý thức khác, nghệ thuật gắn chặt với hiện

thực khách quan tồn tại ngoài ý thức con người. Hiện thực đó trước hết là đời

sống xã hội với những cơ sở kinh tế, chính trị, pháp lý, đạo đức v.v... của nó

là sinh hoạt tinh thần của cộng đồng. Nghệ thuật của một xã hội bao giờ cũng

gắn liền với xã hội ấy. Bởi vậy, một khi đời sống xã hội thay đổi, nghệ thuật

cũng biến đổi theo, dù có thể là không cùng ngay một lúc.

Nghệ thuật, xét ở một phương diện khác, là một hoạt động sáng tạo

độc đáo của con người. Giống như các loại lao động khác, nghệ thuật cũng

đòi hỏi phải đổ mồ hôi, công sức và cũng đem lại những sản phẩm nhất định.

Có điều sáng tạo nghệ thuật không chỉ nhằm biến đổi trực tiếp thế giới khách

quan hay nhận thức các quy luật phát triển của nó mà còn có những mục đích

riêng khác.

Nhà thơ, nhà soạn nhạc v.v... sáng tác trước hết là để nói lên những

cảm xúc, tình cảm, tư tưởng, quan niệm của mình. Nguyễn Trãi đã từng viết:

Liêu bả tân thi tả ngả sầu.

(Hãy làm bài thơ mới nói lên nỗi buồn của ta)

Ông cũng lại viết:

Hảo bả tân thi chí hướng luân.

(Muốn làm bài thơ mới nói lên cái chí của mình).

Tác phẩm nghệ thuật có khi chỉ là một cảm xúc, một tâm trạng, có khi là

những quan niệm về vũ trụ, về cuộc đời, về chính trị, về nhân sinh v.v... Nó có

Page 77: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

thể là tiếng nói tâm tình, là lời chia sẻ, giải bày, có thể là tiếng chim gọi đàn,

tiếng kèn tập hợp.

Đồng thời, bên cạnh việc thể hiện cảm xúc và quan niệm, nghệ sĩ còn

nói lên nhận thức, sự nghiền ngẫm của mình về cuộc đời, về hiện thực. Mở

đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Viết Truyện Kiều, nhà thơ không chỉ bày tỏ tấm lòng của mình mà còn

muốn nói về "những điều trông thấy", về hiện thực xã hội đương thời. Tự bản

thân bức tranh Nguyễn Du vẽ ra cũng đã có ý nghĩa nhận thức và giá trị nhân

văn sâu sắc.

Khác với các hoạt động khác, sức hấp dẫn của nghệ thuật thể hiện

không chỉ ở chiều sâu tư tưởng và ý nghĩa nhận thức của nó, mà nó còn có

sức mạnh tình cảm và tính hình tượng của tác phẩm.

Nghệ thuật là quy luật của tình cảm. Tình cảm là đối tượng miêu tả, là

nội dung biểu hiện của nghệ thuật. "Hơn thế nữa nó là chất men, là động lực

làm cho một cảm xúc bình thường, một ý nghĩ, một tư tưởng, một điều quan

sát được có thể chuyển thành bức tranh, lời thơ, nốt nhạc. Trong nghĩa đó, rõ

ràng không có tình cảm cũng sẽ không có nghệ thuật. Tình cảm vừa là chất

men sáng tạo, vừa là con đường nối liền tác giả với công chúng, đưa tác

phẩm đến với người đọc, người xem. Khả năng tác động vô cùng to lớn của

nghệ thuật sở dĩ có được một phần cũng là do nó gắn liền với tình cảm thông

qua tình cảm.

Đồng thời, sức lôi cuốn của nghệ thuật bắt nguồn cũng từ bản chất

hình tượng của nó. Tính hình tượng này một phần nằm ngay trong bản thân

cách cảm nghĩ của những người sáng tác, một phần là phương tiện mà nhà

Page 78: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

văn, nhà thơ, họa sĩ v.v... dùng để diễn đạt tư tưởng, tình cảm của mình và

ghi lại bức tranh về cuộc sống. Khác với các loại hình tượng khác, hình tượng

nghệ thuật không dừng lại ở sự minh họa và cũng không đòi hòi phải giống y

như thật. Hình tượng nghệ thuật là kết quả sáng tạo của trí tưởng tượng của

nghệ sĩ. Chính bằng cách vẽ ra một bức tranh nào đó hoặc xây dựng những

nhân vật nào đó mà người sáng tác có thể diễn tả những cảm xúc và suy nghĩ

của mình được cụ thể hơn và dễ tác động đến người đọc, người xem hơn,

làm cho chúng trở nên dễ hình dung hơn, dễ nhớ và có sức khêu gợi tình

cảm hơn.

Tác phẩm nghệ thuật là phương tiện mang tiếng nói của nghệ sĩ đến

với cuộc đời. Mối quan tâm lớn nhất của mỗi người cầm bút là làm sao diễn tả

được hết ý mình cho người khác hiểu và thông cảm. Bởi vậy, có thể nói ngoài

quy luật của cái đẹp, tác phẩm nghệ thuật được tổ chức chủ yếu theo những

quy luật của sự tiếp nhận. Tất cả các biện pháp nghệ thuật, các hình thức thi

pháp và các yếu tố khác của tác phẩm đều được hướng vào thực hiện nhiệm

vụ ấy. Điều này đúng với từng câu thơ, từng bài hát cũng như với cả những

bộ tiểu thuyết dày hoặc những vở kịch diễn suốt nhiều đêm.

Nghệ thuật tự nó là một hoạt động đa chức năng. Ngoài chức năng

thẩm mỹ đã nói ở trên ra, nghệ thuật còn có nhiều chức năng khác như: giao

tiếp, nhận thức, giáo điều, giải trí, v.v...

Tác phẩm nghệ thuật là một trong những "kênh" giao tiếp của xã hội,

một trong những con đường dẫn con người đến với con người. Chừng nào

một tâm hồn này còn cần đến một tâm hồn khác, thì khi đó nghệ thuật còn

cần đến cho con người. Bằng những bài thơ, bản nhạc, bức tranh, pho tượng

hay vở kịch, người này sẽ thông báo với người kia, thời đại này sẽ lưu lại cho

thời đại khác tất cả những gì liên quan đến sự sinh tồn, đến hạnh phúc mà

mỗi người, mỗi thời đại xem là sâu xa, xúc động nhất, đến mức biến thành

cảm hứng, thành khát vọng tràn ngập trong lòng, đòi hỏi phải nói lên, phải

chia xẻ. Tác phẩm nghệ thuật, bởi vậy, trở thành một thứ thông điệp độc đáo,

mãnh liệt.

Page 79: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Nghệ thuật cũng chính là phương tiện nhận thức, giúp con người hiểu

được mình và thế giới đầy đủ hơn. Trong những thế kỷ gần đây chức năng

nhận thức của nghệ thuật càng ngày càng được đề cao. Điều đó dễ hiểu, bởi

vì thời đại chúng ta là thời đại của sự phân tích, thời đại trưởng thành của tư

duy, của trí tuệ. Trong bối cảnh đó, nghệ thuật hiện ra như sự khám phá,

nghệ sĩ hiện ra như nhà tư tưởng. Nghệ thuật của thế kỷ chúng ta đang đẩy

mạnh sự tim tòi cùng một lúc trên cả hai hướng: khám phá những quy luật

của hiện thực khách quan và đi sâu vào những bí ẩn của thế giới bên trong

của con người. Trên hướng thứ nhất, nó cố gắng khắc phục mọi biểu hiện

của chủ nghĩa tự nhiên hoặc minh họa để nhận thức đời sống cho sâu sắc,

chân thực. Trên hướng thứ hai, nghệ thuật thâm nhập vào các quá trình tư

tưởng - tình cảm vào đời sống bên trong của con người. Ở đây, nó biến thành

"biện chứng của tâm hồn", thành cuộc viễn du của tâm thức và nghệ sĩ thì

đóng vai trò của nhà thám hiểm, người phiêu diêu trong cõi tâm linh kỳ diệu

ấy.

Nghệ thuật không chỉ có giá trị thông báo, nhận thức mà còn có tác

dụng giáo dục hết sức sâu sắc. Bản thân hoạt động sáng tạo nghệ thuật như

là tiếng nói, sự chia sẻ tự nó đã bao hàm tính chất thuyết phục, kêu gọi sự

đồng tình, tập hợp đã chứa đựng ý nghĩa cải tạo. Nghệ thuật cải tạo con

người không phải bằng cách cưỡng bức mà bằng cách đưa ra những tấm

gương lớn. Tấm gương nghệ thuật phản chiếu cả những hình ảnh đẹp đẽ lẫn

những bóng dáng xấu xa của cuộc đời. Trong tấm gương ấy cả cái đẹp và cái

xấu đều được khuếch đại lên sao cho cái đẹp thì trở nên đẹp hơn, rực rỡ

hơn, biến thành lý tưởng còn cái xấu thì cũng hiện ra bần tiện và độc ác hơn

để con người thấy ghê tởm nó, từ bỏ nó và đấu tranh chống lại nó. Đồng thời

khi mang lại cho cuộc đời tấm gương của chính nó, nghệ thuật muốn mọi

người tự soi mình vào trong đó, đối chiếu mình với cái hay và cái dở của

người khác, kiểm tra lại mình. Cuộc đối thoại, bên trong con người chính là

quá trình tự giáo dục, tự cải tạo vô cùng sâu sắc. Nghệ thuật không trực tiếp

thay đổi thế giới, nhưng nó thay đổi tư tưởng, tình cảm của con người. Nghệ

thuật không trực tiếp tiêu diệt bọn xâm lược, chặn tay chủ nghĩa phát - xít hay

Page 80: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

chấm dứt nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân, nhưng nó gieo vào

lòng nhân loại tình yêu tha thiết cuộc sống, lòng căm thù tội ác và chiến tranh.

Từ đấy lại sinh ra sức mạnh khổng lồ khác.

Có thể kể thêm những chức năng khác nữa của nghệ thuật, chẳng hạn

chức năng giải trí. Trong đời sống hàng ngày con người vẫn sử dụng nghệ

thuật như phương tiện để nghỉ ngơi. Sau giờ làm việc, người ta hát, múa, đi

xem kịch, đọc báo, xem phim, v.v... Nhưng bên cạnh những cách giải trí khác,

nghệ thuật là hình thức nghỉ ngơi đặc biệt của con người. Đặc biệt ở chỗ khi

tìm sự thoải mái, giải trí bằng cách ca hát, đọc sách, xem phim, vô tình con

người lại buộc phải tư duy, rung cảm. Vậy mà người ta vẫn bằng lòng, sẵn

sàng tìm đến với tác phẩm nghệ thuật bất kỳ lúc nào sau giờ làm việc. Giải

thích điều đó như thế nào đây? Dĩ nhiên, nghệ thuật là lĩnh vực của cái đẹp

và trong nghệ thuật có rất nhiều yếu tố giải trí thuần túy. Điều đó bao giờ cũng

hấp dẫn và làm vui con người. Song đó mới chỉ là một phần. Quan trọng hơn

là ở chỗ, nghệ thuật chính là một trong những hình thức nghỉ ngơi độc đáo

nhất, theo nguyên tắc: nghỉ ngơi là thay đổi hoạt động. Nói cách khác, con

người nhìn thấy ở nghệ thuật một trò chơi có ích. Giải trí bằng xem kịch cũng

tương tự như đánh cờ vậy. Đây không phải là những hình thức nghỉ ngơi

chân tay, mà còn là những cách giải trí trí tuệ. Trong ý nghĩa này, nội dung tác

phẩm càng sâu sắc và phong phú bao nhiêu thì nhu cầu giải trí của con người

càng được thỏa mãn đầy đủ bấy nhiêu. Đồng thời việc gia tăng yếu tố giải trí

của tác phẩm cũng không phải chỉ đáp ứng nhu cầu vui chơi của con người,

mà còn làm cho tư tưởng, nội dung của tác phẩm dễ đi vào lòng người, đọc,

người xem, thấm sâu vào họ. Coi thường chức năng giải trí của nghệ thuật là

coi thường ngay chính bản thân nhu cầu sinh tồn bình thường của con người,

là bỏ mất một khả năng tác động của nghệ thuật.

Như vậy, rõ ràng về một phương diện nào đó, cái đẹp rộng hơn nghệ

thuật. Cái đẹp không phải chỉ có trong nghệ thuật mà cả trong thiên nhiên,

trong đời sống, trong sản xuất. Sáng tạo nghệ thuật chỉ là một bộ phận trong

hoạt động thẩm mỹ của con người. Song đến lượt mình, nghệ thuật cũng

Page 81: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực cái đẹp, không phải chỉ là một hiện tượng

thẩm mỹ. Nó là một hoạt động đặc biệt của con người: Nó thấm nhuần cái

đẹp, đồng thời cũng chứa đựng nhữg ý nghĩa và chức năng xã hội khác như

vừa nói ở trên.

Đồng nhất cái đẹp với nghệ thuật sẽ dẫn đến những sai lầm cả trong

sáng tác và cảm thụ nghệ thuật.

Trước hết nó có thể tạo ra cơ sở lý luận cho quan niệm duy mỹ, coi

nghệ thuật chỉ có nhiệm vụ tạo ra cái đẹp, chủ yếu là cái đẹp của hình thức

mà thôi. Trong một mức độ nhẹ hơn nhưng lại phổ biến hơn, nó có thể dẫn

đến cách cảm thụ nghệ thuật một cách hời hợt, nông cạn. Đây chính là một

trong những nguyên nhân đã dẫn tới quan niệm xem nghệ thuật chủ yếu như

là thứ để thưởng thức, mua vui. Chúng ta vẫn thường nghe nói mấy tiếng

"thưởng thức nghệ thuật". Nhưng nghệ thuật phải chăng chỉ để thưởng thức?

Khi ngắm một bông hoa, một phong cảnh, một tòa nhà hay một chiếc bình

hoa sơn mài, đúng là chúng ta thưởng thức vẻ đẹp của chúng. Tác phẩm

nghệ thuật cũng mang lại cho ta những khoái cảm như vậy, song đó chưa

phải là tất cả. Bởi vậy, có lẽ cũng không nên ví nghệ thuật với một bông hoa,

cho dù bông hoa đẹp đến đâu. Nếu là hoa thì nghệ thuật cũng là loài hoa đặc

biệt, không phải chỉ có sắc thắm, hương thơm mà còn có sức cảm hóa được

con người.

Chỉ nghiên cứu cái đẹp của nghệ thuật, tất yếu sẽ dẫn đến coi thường

những vấn đề thẩm mỹ hết sức gần gũi và thiết thực đối với con người như

vẻ đẹp của sản phẩm lao động, của sinh hoạt, của cử chỉ, hành vi. Mỹ học vô

tình bỏ rơi mất khả năng tốt, để tìm hiểu cái đẹp của thế giới ngoài nghệ

thuật. Ngày nay vấn đề này đang được nhìn nhận lại một cách đầy đủ hơn.

Việc đồng nhất cái đẹp với nghệ thuật còn có thể đưa đến việc đồng

nhất giáo dục thẩm mỹ với giáo dục nghệ thuật. Giáo dục nghệ thuật như học

nhạc, học vẽ đọc sách, xem tranh, là một trong những con đường cơ bản và

có hiệu qủa nhất để nâng cao trình độ thẩm mỹ của con người. Song nhiệm

vụ và lĩnh vực của giáo dục thẩm mỹ rộng hơn, không chỉ bó hẹp trong giáo

Page 82: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

dục nghệ thuật. Thực tế cho thấy là, để giúp trẻ em biết sống đẹp, bên cạnh

việc dạy cho các em biết ca hát, nhảy múa, biết vẽ, đọc thơ, cần phải hướng

dẫn cho các em biết mặc bộ quần áo cho ngay thẳng, biết thắt một cái nơ trên

tóc, biết nói năng nhã nhặn, lịch sự, biết trang trí góc học tập của mình. v.v...

Đây là những cái nhỏ, bình thường, gặp hàng ngày nhưng lại có ảnh hưởng

trực tiếp và không kém quan trọng đến sự hình thành nhân cách thẩm mỹ của

trẻ em. Bỏ qua những việc đó, chỉ tập trung vào việc dạy vẽ; dạy nhạc là bỏ

qua mất một cơ hội thuận tiện để đào tạo trẻ em thành những con người phát

triển toàn diện.

Tóm lại, nói đến nghệ thuật thì không thể không nói đến cái đẹp vì đã là

nghệ thuật thì phải đẹp. Song nghệ thuật cũng không phải chỉ có vấn đề cái

đẹp: nó phải vừa đẹp lại vừa hay, vừa sâu sắc. Đó chính là những điều rất

quan trọng nhưng cũng rất thường bị lẫn lộn.

Chương 5. CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

I. NGHỆ THUẬT VÀ BẢNG PHÂN LOẠI NGHỆ THUẬT

Hệ thống hóa, phân loại các loại hình nghệ thuật và phân tích mối quan

hệ giữa các nghệ thuật, là một trong những đối tượng nghiên cứu quan trọng

của mỹ học. Nhưng muốn lập được bảng phân loại nghệ thuật trước tiên phải

xác định nghệ thuật là gì, đó là một tiên đề lý thuyết chưa bao giờ đạt được

sự nhất trí trong ngành mỹ học. Tuy nhiên, qua tất cả các định nghĩa về nghệ

thuật; vẫn có thể tìm thấy được tiếng nói chung: một sản phẩm, một vật

phẩm, được lọt vào vòng xem xét là nghệ thuật, hay không phải, chưa phải là

nghệ thuật, vẫn thuộc phạm trù cái đẹp, thuộc loại hoạt động sáng tạo thẩm

mỹ của con người. Một tòa nhà đẹp (kiến trúc), một cái gạt tàn thuốc đẹp (mỹ

thuật ứng dụng), một bức hình chụp đẹp (nhiếp ảnh nghệ thuật), một vũ điệu

trên băng (thể thao nghệ thuật)... là những sản phẩm, những hoạt động có khi

chưa được một trường phái mỹ học xem là nghệ thuật, vì các nhà mỹ học

thuộc trường phái này muốn hạn định, phạm trù nghệ thuật trong khuôn khổ

Page 83: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

của những sáng tạo thuần túy tinh thần - thuần khiết, không liên quan với việc

sử dụng, với những mục đích, thực tế - vật chất. Nhưng trong đời sống,

những hoạt động nghê thuật thuần túy đó luôn luôn gắn với những hoạt động

thẩm mỹ khác, có khi kết hợp, hòa lẫn với nhau để cùng phục vụ nhu cầu

thẩm mỹ đa dạng của con người, ranh giới có khi khó phân biệt. Một kiệt tác

hội họa có khi xuất xứ từ một bức tranh vẽ đền thờ, theo yêu cầu của tôn

giáo, một giai điệu âm nhạc cổ điển có khi trở thành nhân tố tạo nên một

chương trình quảng cáo... Do đó, để tiến tới việc xây dựng một bảng danh

mục nghệ thuật, cần phải thừa nhận một phạm trù nghệ thuật theo nghĩa rộng

(bao gồm tất cả các loại hình sáng tạo thẩm mỹ ở trình độ cao), sau đó sẽ

phân biệt hai hệ thống, hai cấp độ khác nhau của các hoạt động đó, tạm gọi là

hai hình thái, hai quá trình thẩm mỹ hóa bậc 1 và bậc 2, đó là hai hệ thống

nghệ thuật: nghệ thuật thuần nhất và nghệ thuật ứng dụng

Trước khi lập bảng danh mục và phân loại nghệ thuật, nên xác định

những đặc trưng bản chất của nghệ thuật, nói cách khác, cần tìm một câu

định nghĩa về nghệ thuật. Như trên đã nói, có thể hình dung thực tiễn đời

sống thẩm mỹ như một sơ đồ có ba vòng tròn đồng tâm: vòng rộng nhất là

bao gồm mọi hoạt động lao động của con người, ở đâu dù ít nhiều, cũng đi

theo "quy luật của cái đẹp" (Marx). Từ vòng tròn thứ hai, hoạt động theo quy

luật của cái đẹp đạt đến một trình độ tập trung hơn, cao hơn, đó là bắt đầu

của thế giới nghệ thuật theo nghĩa rộng nhất của nghệ thuật. Vòng tròn thứ ba

trong cùng, là hoạt động nghệ thuật thuần nhất. Vậy cần có hai định nghĩa,

theo hai vòng tròn bên trong, một định nghĩa chung, và một định nghĩa chỉ

dành cho hoạt động nghệ thuật thuần nhất. Cũng nên nói trước, định nghĩa là

một thao tác khoa học rất khó, nhất là những phạm trù thuộc khoa học xã hội,

vì định nghĩa là đem nhốt cả sự sống phong phú vào một công thức dễ chủ

quan phiến diện. Nhưng làm lý luận không thế trốn tránh việc định nghĩa. Với

nghệ thuật, ngay trong vấn đề đang trình bày, định nghĩa nhằm định hướng

cho phân loại, và phân loại chứng minh cho định nghĩa. Chẳng hạn, có thể

dịnh nghĩa để xếp chung xiếc và nghệ thuật sân khấu kịch vào một loại,

nhưng cũng có thể định nghĩa để xếp chúng ở hai loại hoàn toàn khác nhau.

Page 84: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Trong lúc đó, có thể định nghĩa để xếp hai nghệ thuật tưởng chừng rất khác

nhau vào cùng một loại đó là mỹ nghệ và xiếc, kiến trúc và thể thao nghệ

thuật.

Vậy, theo ý nghĩa rộng rãi nhất, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã

hội, là một loại hoạt động tinh thần - thực tiễn của con người, đi theo quy luật

của cái đẹp ở trình độ phát triển cao nhằm phục vụ cho con người một đời

sống tinh thần phong phú, đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của con

người vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ.

Cùng mang tất cả những đặc điểm chung đó, loại nghệ thuật, thuần

nhất là hình thức sáng tạo đặc biệt, được tạo nên bởi người nghệ sĩ có cá

tính độc đáo, có tâm hồn giàu cảm xúc, có tài năng sáng tạo. Nghệ thuật ở

đây là tiếng nói tình cảm - tư tưởng của con người gửi đến con người, nhằm

biểu đồng tình, kêu gọi, tác động, định hướng cho con người đi vào chiêm

ngưỡng, chọn lựa những kinh nghiệm sống và kinh nghiệm tình cảm, thông

qua cái cấu trúc cảm tính sinh động đơn nghĩa và đa nghĩa, tả thực và ước lệ,

miêu tả và biểu hiện, tạo nên bởi tưởng tượng và hư cấu, đó là hình tượng.

Để tiến tới một bảng danh mục nghệ thuật với sự phân loại cụ thể, xuất

phát từ định nghĩa trên, tìm các tiêu chí, các bình diện để phân loại, xếp loại,

đó là công việc của khoa hình thái học nghệ thuật (morpholosrie de l’art). Tư

tưởng hình thái học có rất sớm từ trong mỹ học cổ đại và trước đó nữa là

trong tư duy thần thoại. Người Hy Lạp xưa có cả một gia hệ các nữ thần

(muses) tập hợp dưới trướng của Apollon, thần mặt trời, thần trí tuệ và thần

nghệ thuật. Tất cả có 9 nữ thần nghệ thuật tượng trưng cho 9 loại hình như

hoạt động, như sau: Clio (lịch sửj, Euterpe (âm nhạc), Thalie (hài kịch và thơ

điền viên) Melpomene (bi kịch), Terpsichorc (múa), Erato (oán thi), Polymnie

(thơ trữ tình), Uranie (thiên văn và hình học). Calliope (hùng biện và anh hùng

ca). Trong gia hệ các nữ thần này, con người cổ đại đã có Ý thức, kén chọn

những tinh hoa thuộc về đời sống trí tuệ và tâm hồn và coi trọng sự nhận thức

của con người cả về khoa học và nghệ thuật, chưa tách biệt nghệ thuật ra

khỏi khoa học, vẫn là mội khối nguyên hợp những sáng tạo tinh thần. Tuy

Page 85: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

không có mặt trong gia hệ này nhưng kiến trúc và thủ công mỹ nghệ vẫn có

những vị thần bão trợ khác, đó là vị thần lửa, cũng là thần luyện kim

Ecphaislos, chuyên lo xây dựng cung điện và rèn vũ khí cho các thần, dạy

cho thế gian làm các lò rèn. Nữ thần Athéno con gái của Zeus cũng là một nữ

thần khoa học và nghệ thuật, chăm lo nghề kim chỉ thêu thùa và cả âm nhạc

dụng cụ. Căn cứ trên tư duy thần thoại đó, các nhà mỹ học về sau đã dựng

nên hai hệ thống nghệ thuật dưới sự chỉ đạo của hai vị thần: hệ thống Apollon

(các nghệ thuật tinh thần) và hệ thốnq Hephaistos (các nghệ thuật vật chất).

Thâu tóm những quan niệm phân loại - những tư tưởng hình thái học

qua các thời đại, có thể rút ra các cặp tiêu chí phân loại sau đây:

a. Tiêu chí bản thể (onthologie): NT không, gian NT thời gian hoặc: tĩnh/

động.

Xác định điều kiện tồn tại của tác phẩm nghệ thuật từ đó nảy sinh

những đặc trưng về phương thức sáng tác thể hiện.

b. Tiêu chí tâm lý: NT thính giác, NT thị giác.

Thính giác gắn liền với tiêu chí NT thời gian; tri giác gắn liền với NT

không gian. Cặp tiêu chí này phân chia nghệ thuật thành hai loại bị chi phối

bởi đặc trưng tâm - sinh lý sáng tác và cảm thụ là nghe và nhìn.

c. Tiêu chí ký hiệu (sémíologie): miêu tả/ không miêu tả.

Còn gọi miêu tả (description) hay tạo hình (figuratif) / biểu hiện

(expressif).

Do đặc điểm trực tiếp bộc lộ thái độ của chủ thể hay gián tiếp bộc lộ

chủ thể thông qua những hình ảnh tái tạo hiện thực nghệ thuật sẽ có hai loại

tác phẩm khác nhau, là thiên về chủ quan hay thiên về khách quan.

d. Tiêu chí tính năng: NT đơn tính (một tính năng) / NT lưỡng tính (hai

tính năng).

- Hoặc: NT thuần nhất / NT ứng dụng.

Page 86: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Đây là tiêu chí quan trọng nhất nhằm phân biệt hai hệ thống nghệ thuật

khác biệt nhau: hệ thống NT chuần nhất chỉ mang một tính năng - tính năng

thẩm mỹ; hệ thống nghệ thuật ứng dụng mang hai tính năng - tính năng ích

dụng và tính năng thẩm mỹ, trong đó tính năng ích dụng là cơ bản, tính năng

thẩm mỹ là thứ yếu.

Mỗi một loại hình nghệ thuật thường mang mấy đặc điểm phù hợp với

mấy tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, âm nhạc: NT thời gian, thính giác, không

miêu tả, một tính năng (hoặc hai tính năng, nếu là nhạc ứng dụng); hội họa:

NT không gian, thị giác, miêu tả (trừ thể loại trừu tượng), một tính năng (hoặc

hai tính năng, nếu là hội họa ứng dụng).

Cuối cùng, có những loại hình mang đặc trưng của nhiều nghệ thuật vì

sử dụng phương tiện của tất cả các nghệ thuật đó, gọi là nghệ thuật tổng hợp

(như sân khấu, điện ảnh, kiến trúc...) do đó có thể thêm một cặp tiêu chí thứ

5:

e. NT độc lập / NT tổng hợp, hoặc: NT độc lập/ NT liên kết: chỉ có hai

yếu tố như văn học với âm nhạc (ca khúc) múa và nhạc (múa).

Ngoài ra, người ta có thể kể các cặp tiêu chí khác, như trình diễn /

không trình diễn, ngôn ngữ / phi ngôn ngữ...

Sau đây, xin giới thiệu ba bảng danh mục:

- Bảng danh mục tổng quát bao gồm tất cả các loại hình.

- Bảng danh mục nghệ thuật đơn tính - NT thuần nhất.

- Bảng danh mục nghệ thuật lưỡng tính - NT ứng dụng.

Bảng I. DANH MỤC TỔNG QUÁT VỀ CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

Hệ thống 1: NT đơn tính Hệ thống 2: NT lưỡng tính

1. Điêu khắc.

2. Hội họa – đồ họa

3. Văn chương

1. Kiến trúc

2. Đồ dùng - công cụ

3. Trang trí

Page 87: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

4. Âm nhạc

5. Múa

6. Sân khấu

7. Phim (trong điện ảnh và truyền

hình)

4. Hoa văn

5. Điêu khắc ứng dụng

6. Hội họa – đồ họa ứng dụng

7. Nhiếp ảnh

8. Văn chương ứng dụng

9. Âm nhạc ứng dụng

10. Múa ứng dụng

11. Sân khấu ứng dụng

12. Màn ảnh ứng dụng

13. Xiếc

14. Thể thao nghệ thuật.

CT: Trình tự sắp xếp các nghệ thuật là theo quan điểm lịch sử lôgich,

các nghệ thuật có tính vật chất gắn với lao động sản xuất và xuất hiện sớm

hơn trong lịch sử thu xếp trước (nghệ thuật ứng dụng, kiến trúc, điêu khắc) và

theo các nghệ thuật độc lập (hội họa, âm nhạc) trước cá nghệ thuật tổng hợp

(sân khấu, màn ảnh).

Bảng II. NGHỆ THUẬT MỘT TÍNH NĂNG (Nhóm loại hình - Loại hình -

Loại thể)

Sáng tạo nghệ thuật - thuần nhất (Hệ thống NT I) NGHỆ THUẬT

MỘT TÍNH NĂNG

Nhóm miêu tả Nhóm không miêu tả

Nhóm

không gian

1. ĐIÊU KHẮC

- Điêu khắc tròn) – đắp nổi

- Tượng nhỏ.

- Tượng đài

- Điêu khắc không biểu hình

Page 88: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

- Tượng hoành tráng

2. HỘI HỌA - ĐỒ HỌA

Tranh trên giá

- Tranh hoành tráng

- Tranh chân dung, phong

cảnh, "bố cục", tĩnh vật.

- Hội họa không biểu hình

Nhóm thời

gian

3. VĂN CHƯƠNG

- Tự sự: truyện ngắn, truyện

vừa, tiểu thuyết.

- Trữ tình: thơ trữ tình, tùy bút.

- Kịch: kịch bản.

4. ÂM NHẠC

- Thanh nhạc: ca khúc, tổ khúc,

Opéra.

- Khí nhạc: hòa tấu, étude,

sonata, concerto, symphonie

(giao hưởng)

Nhóm

không gian

- thời gian

(NT tổng

hợp và liên

kết

6. SÂN KHẤU KỊCH

- Kịch nói, kịch hát, kịch rối.

7. PHIM NGHỆ THUẬT (trong

điện ảnh và truyền hình)

- Phim truyện

- Phim tài liệu nghệ thuât

5. MÚA

- Múa biểu hiện

- Múa giao tế

- Kịch múa

Bảng III. NGHỆ THUẬT HAI TÍNH NĂNG (Nhóm loại hình - Loại hình -

Loại thể)

Sáng tạo thẩm mỹ - ứng dụng: (hệ thống NT II) NGHỆ THUẬT

HAI TÍNH NĂNG

Nhóm miêu tả Nhóm không miêu tả

Nhóm

không gian

5. ĐIÊU KHẮC ỨNG DỤNG 1. KIẾN TRÚC (KT)

Page 89: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

- Tượng thờ

- Tượng giáo khoa

- Tượng đồ chơi (búp bê)...;

6. HỘI HỌA ỨNG DỤNG. ĐỒ

HỌA ỨNG DỤNG

- Tranh thờ - tranh thánh

- Tranh tuyên truyền - áp phích

- Quảng cáo

- Đồ họa thương nghiệp, tiền

tem.

- Minh họa sách báo...

7. NHIẾP ẢNH

Ảnh căn cước, ảnh kỷ niệm.

- KT dân dụng - KT công cộng.

- KT tôn giáo

- Công viên.

2. ĐỒ DÙNG – CÔNG CỤ

- Thủ Công

- Mỹ nghệ

- Mỹ thuật công nghiệp.

3. TRANG TRÍ

Trang trí kiến trúc – đồ dùng,

trang trí lễ...

4. HOA VĂN

Kỹ hà - hoa chim...

Nhóm thời

gian

8. VĂN CHƯƠNG ỨNG

DỤNG

- Văn tuyên truyền - chính luận

- thông tấn báo chí

- Văn chương minh họa (chính

trị, tôn giáo, đạo đức, khoa

học).

9. ÂM NHẠC ỨNG DỤNG

- Nhạc môi trường,

- Nhạc tôn giáo,

- Nhạc lễ binh, nhạc trị liệu.

Nhóm

không gian

- thời gian

11. SÂN KHẤU ỨNG DỤNG

Hoạt cảnh – diễu hành có hóa

trang

12. MÀN ẢNH ỨNG DỤNG

(Trong điện ảnh và truyền

hình)

10. MÚA ỨNG DỤNG

Múa tôn giáo - múa thể thao

(ba lê trên băng, thể dục nhịp

điệu) - múa kiếm - múa lân

13. XIẾC

14. THỂ THAO NGHỆ THUẬT.

Page 90: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

- Phim thời sự

- Phim tài liệu (giáo khoa,

khoa học)

II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

1) Nhóm nghệ thuật thời gian không miêu tả: âm nhạc và múa. (Xem xét dạng, nghệ thuật thuần nhất - một tính năng)

* Đặc điểm chung: Là nghệ thuật thời gian, âm nhạc và múa có chung

sở trường là diễn đạt được sự biến đổi và phát triển, diễn đạt được tính quá

trình của tâm trạng và hành động. Từ phương thức xây dựng hình tượng đến

cấu trúc của thể loại và tác phẩm, kể cả ngôn ngữ đều tuân thủ và khai thác

tối đa quy luật thời gian, đều mang tính chất quá trình, tính phát triển.

Nhưng cũng vì mang tính thời gian, sở trường lại đi liền với sở đoản,

thiếu sự đứng yên, sự tĩnh tại trong không gian, phải khắc phục bằng cách tạo

ra các yếu tố kỹ thuật, tạo ảo giác về không gian, về sự tĩnh tại. Đó là lối xây

dựng hình tượng kiểu nhắc lại, trùng lặp theo hình trôn ốc, và dùng ngôn ngữ

đa thanh.

* Đặc điểm ngôn ngữ: Âm nhạc và múa có chung yếu tố ngôn ngữ là

nhịp điệu. Để đắp vào bộ khung nhịp điệu đó, âm nhạc có yếu tố giai điệu,

múa có yếu tố động tác. Do đặc trưng là nghệ thuật biểu hiện, không miêu tả,

nên ngôn ngữ của nhạc và múa đều mang tính ước lệ, không mô phỏng theo

âm thanh hay động tác có thật trong đời sống. Người cảm thụ cần phải hiểu

biết về ngôn ngữ, như trình thức của múa, giai điệu của âm nhạc trong đó bao

gồm cấu tạo âm nhạc, điệu thức, hòa thanh, phức điệu), đồng thời cần hiểu

các thể loại và phương tiện nhạc khí có tính năng gì.

* Thể loại âm nhạc: có hai nhóm thể loại: nhạc hát (thanh nhạc) nhạc

đàn (khí nhạc). Trong mỗi nhóm, kể từ thể loại nhỏ đến lớn có:

Thanh nhạc: làn điệu, ca khúc, nhạc kịch (ôpêra).

Page 91: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Khí nhạc: khúc luyện, sonat tổ khúc, concerto, symphonie.

Ngoài cách phân biệt trên đây còn có cách phân biệt theo quy mô dàn

nhạc như độc tấu, hòa tấu, giao hướng. Tính thời gian phản ánh trong cấu tạo

thể loại ở độ dài ngắn và sự biến đổi, sự luân chuyển các chương, đoạn có

tính chất khác nhau.

* Nhận xét chung về lịch sử: Âm nhạc và múa là hai loại nghệ thuật có

rất sớm trong lịch sử loài người, là những nghệ thuật mang tính dân tộc rõ rệt

nhất. Về lý luận, có thể tìm thấy trong nhạc và múa khá nhiều các đặc trưng

tiêu biểu của nghệ thuật. Sự phát triển của âm nhạc và múa lệ thuộc vào điều

kiện vật chất, mức sống, nhu cầu giao lưu về tinh thần... Ở các xã hội tiền

công nghiệp có hai hinh thức phổ biến là sinh hoạt vũ nhạc dân gian và quý

phái, cung đình. Trong các xã hội công nghiệp cận hiện đại, vũ, nhạc phát

triển mạnh mẽ cả về các thể loại, hình thức và phương tiện biểu diễn. Về cơ

bản Ở Việt Nam phổ biến nhất vẫn là các hình thức âm nhạc tiền công nghiệp

(dân ca, ca khúc, kịch hát). Các hình thức của âm nhạc thời đại công nghiệp

(như giao hưởng, nhạc kịch...) chỉ mới xuất hiện gần đây. Vẽ múa, tùy thuộc

vào hoàn cảnh sinh hoạt tinh thần, phong tục, địa lý mỗi dân tộc có những

hình thức múa khác nhau. Những hình thức, thể loại múa cũng gắn liền với

nhạc: múa dân gian, múa cung đình (thời tiền công nghiệp) múa giao tế, múa

biểu hiện, vũ kịch (như bale).

2) Nhóm nghệ thuật không gian - miêu tả và không miêu tả: Hội họa, đồ họa, điêu khắc (xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tinh năng).

* Đặc điểm chung: Là nghệ thuật không gian, nghệ thuật tĩnh, hay nghệ

thuật tạo hình, hội họa, điêu khắc có sở trường diễn đạt sự vật một cách cụ

thể - theo nghĩa nhìn thấy được trước mắt - và đứng yên. Khả năng này giúp

con người tạo nên môi trường không gian đẹp quanh mình, giúp cho người

thưởng ngoạn có điều kiện chiêm ngưỡng tác phẩm và hình tượng trong sự

tĩnh tại giúp cho sự lắng đọng cảm xúc. Ở đây, hình tượng được xây dựng

theo ấn tượng thị giác, phù hợp với cảm thụ thị giác, hấp dẫn về mặt thị giác.

Page 92: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Các hình thức thể loại cũng căn cứ vào những điều kiện không gian (về quy

mô, tầm cỡ) hay các loại đối tượng không gian (nhân vật, phong cảnh).

Nhưng tính không gian tĩnh lại hạn chế sự thể hiện tính phát triển, tính

quá trình, sự hoạt động, nên để khắc phục điều đó các nghệ thuật này phải

tìm mọi cách tạo nên ảo giác chuyển động trong hình thái đứng yên. Hội họa

là hình thức không gian phẳng, phải tìm cách tạo ảo giác về chiều sâu, về

không gian ba chiều, dựa vào thấu thị học và sắc độ...

* Đặc điểm ngôn ngữ: Ngoài các sự phân biệt cơ bản như không có

phiên bản hay có phiên bản, hội họa và đồ họa phần lớn còn khác nhau do

cách sử dụng ngôn ngữ nói riêng, cũng như sự sử dụng chất liệu nói chung.

Hội họa thường kén chọn chất liệu hơn vì phải tạo ra một bản duy nhất giữ

lâu, trong khi đó chất liệu của đồ họa giản dị hơn vì có thể được nhân bản với

số lượng lớn. Một số tác phẩm đồ họa nhằm chuẩn bị cho việc dựng tác

phẩm hội họa (ký họa, vẽ nghiên cứu). Đồ họa thường sử dụng ngôn ngữ,

màu sắc có tính chất đại chúng vì phải đáp ứng nhu cầu phổ biến rộng rãi. Ở

đây màu sắc mang nhiều tính ước lệ, tính trang trí. Màu sắc trong hội họa

mang đậm cá tính và gợi cảm xúc. Hội họa thiên về màu sắc, còn đồ họa

thiên về đường nét.

* Các yếu tố ngôn ngữ của hội họa và đồ họa:

- Dựng hình:

Hình ảnh sự vật được tái tạo trong tranh dựa trên cơ sở cơ thể học,

thấu thị học. Nhưng hội họa khác chụp hình, ở chỗ nó không chỉ đòi hỏi giống

như thực, mà phải diễn tả được cảm xúc của họa sĩ. Từ việc nắm vững yêu

cầu và nguyên tắc dựng hình cơ bản, họa sĩ đi vào sáng tạo lối ngôn ngữ

dựng hình của mình. Nhưng từ đầu thế kỷ XX trong hội họa xuất hiện các

trường phái không theo lối dựng hình cổ điển, gọi là hội họa phi biểu hình

(trước đây hội họa biểu hình). Từ đó HHBH và HHPBH phát triển song song,

HHBH xem như hội họa miêu tả. HHPBH xem như hội họa không miêu tả.

- Đường nét:

Page 93: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Là phương tiện cơ bản đầu tiên để tạo hình và biểu cảm. Chưa có màu,

đường nét vẫn có đủ khả năng miêu tả và biểu hiện, và ngay khi hội họa dùng

màu sắc làm phương tiện cơ bản, thì ở đó yếu tố đường nét vẫn quan trọng vì

nó vừa là đường viền, vừa là yếu tố tạo hình, dựng hình đi với màu sắc.

Đường nét được dùng thường xuyên hơn trong đồ họa. Có những thể loại đồ

họa chỉ sử dụng đường nét là chính như một số minh họa sách báo, tranh bút

sắt...).

- Màu sắc:

Còn gọi là hòa sắc (sự kết hợp các màu). Màu sắc là yếu tố ngôn ngữ

cực kỳ phong phú của hội họa. Sự biến hóa của màu trong họa không có đủ

từ ngữ để miêu tả, vì vốn từ của con người để gọi tên màu sắc là có hạn, có

sự phong phú của màu là vô hạn. Đầu tiên, màu lệ thuộc vào chất liệu để chế

màu và chất liệu mặt bằng của tranh: sơn dầu, bột màu, thuốc nước, phấn

màu, sơn mài, mực tàu... được vẽ trên vải, trên lụa, mặt giấy, mặt gỗ, mặt

tường... Trên cơ sở những chất liệu đó, tùy theo sở trường, sở thích và đề tài,

họa sĩ sẽ khai thác tính độc đáo và sức mạnh của màu thuộc về một chất liệu

nhất định.

Màu sắc là đặc trưng ngôn ngữ của một trường phái, một cá tính, và có

khi một dân tộc. Từ sự lựa chọn một màu thích hợp, đến chỗ kết hợp các

màu thành hòa sắc cho bức tranh (cũng như thao tác lựa chọn và kết hợp từ

ngữ âm thanh trong thơ ca, âm nhạc) là cả một sự sáng tạo. Trên bảng màu

(palette) của mình, họa sĩ sẽ chọn pha màu theo những hòa sắc, sắc độ khác

nhau, nhằm thể hiện cảm xúc của mình. Cũng như trong nhạc giọng trưởng,

giọng thứ, có âm chủ, âm át; ở đây cũng có các gam màu nóng, màu lạnh, có

màu sắc chủ đạo của tác phẩm. Trong hội họa biểu hình, màu sắc vừa để

miêu tả đối tượng vừa để thể hiện chủ đề; nhưng trong hội họa phi biểu hình,

màu sắc chủ yếu nhằm biểu hiện cảm xúc của họa sĩ. Ở đây màu giữ một vai

trò quan trọng như một yếu tố nội dung.

- Bố cục:

Page 94: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Bố cục trong hội họa bị chi phối bởi đặc điểm về thị giác, về điểm nhìn

khi xem tranh, tức là lệ thuộc vào các yêu cầu có tính chất tâm - sinh lý.

Những sự sắp xếp hình và màu sắc đó trên mặt khung tranh nhằm làm rõ

nhân vật và sự kiện chính phụ, nhấn mạnh trọng điểm và làm lu mờ điểm phụ.

Đó là các quy tắc thông thường trong bố cục của hội họa. Tuy nhiên từng thời

kỳ lịch sử, từng trường phái và từng nghệ sĩ lại vẫn có lỗi bố cục riêng như

một thứ ngôn ngữ riêng, chẳng hạn phép bố cục cân xứng hài hòa là của hội

họa Phục Hưng, lối tả thực chính xác theo thấu thị học là của hội họa hiện

thực, chủ nghĩa cổ điển. Sự đảo lộn những trật tự bố cục truyền thống, đi vào

biểu hiện chủ quan là của trào lưu hội họa hiện đại. Khác với phương Tây,

giữa các nước phương Đông (Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam...) có lối bố

cục khác hẳn.

- Thể loại và ngôn ngữ của điêu khắc:

Tượng là không gian khối, được chia thành hai loại chính: tượng toàn

khối là tượng tròn, tượng nửa khối gắn nổi lên mặt phẳng gọi là tượng đắp

nổi (phù điêu). Loại tượng tròn có nhiều nhân vật gọi là nhóm tượng. Ngoài ra

còn có cách gọi theo chức năng và quy mô như tượng đài, tượng trang trí (do

đặt nơi rộng rãi; ngoài trời, hay đặt trong nội thất). Chất liệu có ý nghĩa rất

quan trọng trong ngôn ngữ của điêu khắc. Câu "Tượng đồng bia đá" nói lên

tính chất vững bền của các chất liệu được dùng trong điêu khắc. Do đó, khi

không có đủ chất liệu chính thức, người ta dùng màu sơn để giả màu đồng,

đất hay cẩm thạch. Các trường phái dân gian và cổ đại từ Tây sang Đông đều

ưa tô màu giống thật, nhất là tượng tôn giáo. Nhưng theo thị hiếu hiện dại,

tượng chỉ một màu, đó là màu chất liệu. Mặt da tượng trơn mịn hay gân guốc,

sần sùi cũng là một hình thức biểu cảm. Khác hội họa, đề tài của điêu khắc

hẹp hơn, thường tập trung vào việc xây dựng hình tượng về các nhân vật,

nhất là nhân vật tích cực, lý tưởng hóa vẻ đẹp cơ thể và ngoại hình của con

người. Độc đáo của hình tượng điêu khắc thường thể hiện ở việc xây dựng tư

thế động tác điển hình có liên quan tới đặc trưng tính cách nhân vật.

- Hội họa và điêu khắc phi biểu hình:

Page 95: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Do những biến đổi và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội nói chung,

do những quan niệm về triết học và nhất là do nhu cầu đi tìm những kiến thức

mới thúc đẩy sự chuyển biến trong sáng tạo nghệ thuật, các trường phái hội

họa và điêu khắc phi biểu hình đã ra đời và cho đến nay, vẫn phát triển song

song với nền hội họa biểu hình truyền thống. Khởi đầu từ trong trường phái

ấn tượng, dã thú, khuynh hướng xóa bỏ hình tả thực cổ điển phát triển trong

chủ nghĩa lập thể và tiếp tục mở rộng với các trường phái vị lai, biểu tượng,

đa đa, siêu thực, trừu tượng. Nói chung, hội họa phi biểu hình bác bỏ lối vẽ

mô phỏng hình ảnh của hiện thực, mà chủ yếu vẽ những hình tưởng tượng

chủ quan của họa sĩ. Điêu khắc phi biểu hình cũng không đi vào nhân vật như

trước, mà dùng những khối bất kỳ nào có thể xem là hình tượng, để thể hiện

tư tưởng của nhà điêu khắc.

Trên đây là nói về hội họa và điêu khắc nghệ thuật - một tính năng, còn

đối với hội họa và điêu khắc ứng dụng - hai tính năng chúng tôi sẽ trình bày

khi đề cập đến phần nghệ thuật ứng dụng ở mục sau.

3) Nhóm nghệ thuật tổng hợp: sân khấu, điện ảnh (xem xét dạng nghệ thuật thuần nhất - một tính năng).

Nghệ thuật tổng hợp vận dụng tất cả các phương thức và phương tiện

thể hiện của các nghệ thuật độc lập: văn học, âm nhạc, múa, hội họa, trang

trí, kiến trúc... Trong điện ảnh còn có quay phim, nhiếp ảnh.

Sân khấu kịch và phim truyện đều phải có cơ sở kịch bản văn học.

Nhân tố kịch hay kịch tính là nội dung thẩm mỹ quan trọng nhất của nghệ

thuật tổng hợp (NTTH). Đó cũng là chỗ phân biệt giữa nghệ thuật 1 tính năng

và 2 tính năng trong sân khấu và điện ảnh. Kịch tính là những mâu thuẫn,

xung đột giữa các tính cách, được kết thúc bằng sự thắng bại của bên này

hoặc bên kia, nhưng điều quan trọng là những va chạm xung đột ấy, dù bi

thảm hay trào lộng, cũng đều phải mang lại bài học tình cảm, nhân sinh đối

với con người (catharsis). Tính kịch là hạt nhân phân biệt nghệ thuật sân

khấu và phim truyện với các loại sân khấu và điện ảnh ứng dụng - hai tính

Page 96: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

năng (như sân khấu hoạt cảnh, hóa trang, xiếc, phim tài liệu nhân vât, phim

phóng sự...).

Phương tiện ngôn ngữ của sân khấu là hành động (hành động hình thể,

hành động tâm lý, hành động ngôn ngữ), thông qua diễn xuất của diễn viên.

Hành động sân khấu là hành động kịch, hành động xung đột nhằm biểu hiện

tư tưởng của kịch chứ không phải bất kỳ hành dộng ngẫu nhiên nào. Do các

hành động trong kịch phải nhất quán nhằm biểu hiện một tư tưởng nhất định,

nên lý luận kịch gọi hành động này là "hành động thống nhất", "hành động

xuyên"... Ngoài nhân tố cơ bản là hành động kịch, nghệ thuật sân khấu còn có

những phương tiện âm nhạc, múa, trang trí, đạo cụ... hỗ trợ cho diễn xuất, ở

đây vai trò của diễn viên vô cùng quan trọng.

Phương tiện ngôn ngữ của điện ảnh có khác sân khấu, ở đây hành

động nhân vật vẫn là yếu tố hạt nhân, nhưng đồng thời nghệ thuật quay phim,

dựng hình cũng có một ý nghĩa quyết định: hình ảnh phim là hình ảnh được

đạo diễn và nghệ sĩ quay phim biến đổi liên tục theo những góc độ, tầm cỡ,

cự ly khác nhau để biểu đạt tư tưởng, tính cách, nhân vật. Cấu trúc của tác

phẩm lệ thuộc vào nghệ thuật dựng phim. Từ kịch bản văn học chuyển thành

kịch bản điện ảnh, kịch bản phân cảnh dến dựng phim đó là cả một quá trình

sáng tạo thể hiện ý đồ của đạo diễn trong việc tạo ra tác phẩm điện ảnh. Các

yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật khác có vai trò hỗ trợ quan trọng: âm nhạc và

âm thanh nói chung, ánh sáng, hội họa, trang trí thiết kế nhân vật và bối

cảnh...

Thể loại sân khấu: kịch nói, kịch hát (hay ca kịch, tuồng, chèo, cải

lương, kịch dân ca) nhạc kịch, kịch rối, kịch truyền thanh, kịch câm...

Thể loại điện ảnh nghệ thuật: phim truyện, phim tài liệu, nghệ thuật.

4) Nhóm các nghệ thuật ứng dụng: Kiến trúc, mỹ thuật ứng dụng, trang trí, hoa văn, ảnh nghệ thuật

Khái niệm "ứng dụng" (còn được gọi là thực hành; từ chữ appliqué,

tiếng Pháp, có nghĩa là thực hành, ứng dụng). Đây có nghĩa là đưa những

Page 97: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

phương thức và phương tiện thẩm mỹ vào thực tế đời sống. Khái niệm thực

hành, ứng dụng; ở đây liên quan với vấn đề tính lợi ích như một khái niệm mỹ

học. Cái đẹp và cái ích dụng, là hai khái niệm vừa đối lập vừa thống nhất, tùy

cách hiểu khái niệm ích dụng theo nghĩa hẹp (có ích về nhu cầu vật chất, nhu

cầu lý tính) hoặc theo nghĩa rộng (ngoài các nhu cầu trên, còn có nhu cầu về

đời sống tâm hồn, tình cảm). Cái đẹp về hình thức kết hợp với cái ích dụng

vật chất - lý tính, sản sinh ra các nghệ thuật, ứng dụng, trong đó có cả văn

học ứng dụng.

* Đặc điểm chung: Trong hai tính năng phục vụ lợi ích và thẩm mỹ, thì

tính năng phục vụ có ý nghĩa nội dung, mang tính mục đích, tính năng thẩm

mỹ mang ý nghĩa hình thức, mang tính phương tiện, do đó cái thứ nhất là

quyết định, chi phối cái thứ hai. Một thí dụ đơn giản, cái nhà trước hết để ở,

cái chén trước hết để ăn cơm còn đẹp như thế nào là nhu cầu đi sau. Con

người sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, mỗi con người "là một nghệ sĩ".

Con người tạo nên thế giới đẹp nhân tạo hay gọi là "thiên nhiên thứ hai".

Nhưng để cho phạm trù nghệ thuật có một ý nghĩa hạn định, không mở rộng

đến vô tận, xem nghệ thuật, và mọi công việc, mọi sản phẩm lao động thô sơ

đồng nghĩa với nhau, cần quan niệm rằng sản phẩm lao động đạt đến trình độ

thẩm mỹ cao mới được coi là nghệ thuật ứng dụng: một cái nhà đẹp mới là

sản phẩm của nghệ thuật kiến trúc, một cái chén đẹp mới là sản phẩm của

mỹ thuật ứng dụng. Nghệ thuật ứng dụng lệ thuộc rất nhiều vào sự phát triển

kinh tế, vào mức sống, và trực tiếp là trình độ kỹ thuật.

* Đặc điểm ngôn ngữ: cũng tương tự như mỹ thuật - nghệ thuật, kiến

trúc và mỹ thuật - ứng dụng tác động, gợi ý nghĩa bằng đặc tính chất liệu của

nó: từ đất, đá, gỗ, tranh, tre, nứa lá, đất nung, gốm, gốm men, sứ, đến pha lê,

vàng, bạc, ngọc, ngà, sừng, xà cừ... Mỗi chất liệu đều có nội dung ý nghĩa

hay tính chất riêng: giản dị mộc mạc hay sang trọng cao nhã, sự vững chãi

lâu bền hay vẻ mềm mại yếu ớt, sự rắn rỏi cương nghị hay tính chất lãng

mạn, hồn nhiên... Giữa kiến trúc và mỹ thuật thực dụng có các yếu tố ngôn

ngữ chung. Vì vậy, người ta gọi các nghệ thuật này có kiến trúc tĩnh: đó là

Page 98: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

tính tạo hình kiểu kiến trúc, bao gồm các yếu tố tỷ lệ, nhịp điệu và kiểu dáng,

tỷ lệ giữa chiều cao và chiều ngang, bộ phận và toàn thể, nhịp mau hay thưa,

khoan thai hay gấp gáp... Ngôn ngữ kiến trúc và mỹ thuật ứng dụng chịu ảnh

hưởng sâu sắc của các nhân tố đời sống vật chất, thiên nhiên, đời sống tinh

thần của mỗi dân tộc, nó thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc và sắc thái địa

phương. Trên thế giới có nhiều trường phái khác nhau, bổ sung, kế thừa,

cạnh tranh, thay thế nhau trong lịch sử (như kiến trúc rômăng, gôtích, kiến

trúc Phật giáo và Bàlamôn giáo ở phương Tây và phương Đông).

* Thể loại: Kiến trúc thường được phân loại theo chức năng của công

trình: dân dụng, tôn giáo hoặc theo phương thức chế tác (đối với mỹ thuật

ứng dụng: thủ công, mỹ nghệ, mỹ thuật công nghiệp theo chất liệu (gỗ, sơn

mài, nhôm, sắt tráng men, nhựa, mây tre...).

Trang trí kiến trúc, trang trí nội thất và tạo dáng, tạo mẫu mã hàng hóa

nói chung, thuộc về mỹ thuật công nghiệp, có tên gọi quốc tế hiện nay là

ngành DESIGN. Trong xã hội hiện đại, Design ngày càng có vai trò quan

trọng trong việc làm đẹp thế giới đồ vật, làm đẹp môi trường sống của con

người.

Nói chung, nội dung của các loại nghệ thuật một tính năng thiên về

phản ánh mối quan hệ giữa người và người, đặc biệt là quan hệ tình cảm, nó

phân biệt với các loại nghệ thuật hai tính năng thiên về việc chứng minh, biểu

dương khả năng chinh phục, chế ngự của con người đối với những lực lượng

thiên nhiên, những quy luật của thiên nhiên. Với nội dung thứ hai này, kiến

trúc và xiếc là tiêu biểu nhất.

Chương 6. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ

I. MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ

Từ khi người ta ý thức được vai trò và tác dụng của nghệ thuật đối với

đời sống con người, thì cũng đồng thời hình thành khái niệm giáo dục thẩm

Page 99: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

mỹ. Cũng như mọi hoạt động thông tin, truyền bá và giáo dục khác, giáo dục

thẩm mỹ cũng được tiến hành bằng nhiều hình thức, vừa tự phát vừa có tổ

chức, ở mọi địa bàn và đối tượng khác nhau, vừa có thể do Nhà nước hay

các tổ chức xã hội đảm trách vừa do mỗi gia đình tự làm lấy. Con người được

hưởng thụ cái đẹp ngay từ khi còn nằm trong lòng mẹ, khi chào đời đã được

vỗ về bằng tiếng hát ru của mẹ và đến khi vĩnh biệt cuộc đời con người được

đưa tiễn bằng những khúc nhạc tang. Trong suốt cả cuộc đời, mỗi người ít

nhiều đều được hưởng thụ một nền văn hóa thẩm mỹ bên cạnh hai nền văn

hóa trí tuệ và văn hóa đạo đức. Ba nền văn hóa ấy được vun đắp từ ba nguồn

chất liệu mà các thế hệ tích lũy qua hàng ngàn năm, đó là những giá trị

CHÂN, THIỆN, MỸ. Nhân cách con người được hình thành và phát triển bằng

cả ba loại giá trị văn hóa đó. Như một thứ quy luật: nơi nào giáo dục bị mất

cân đối, nhân cách con người bị méo mó thì khi đó phải truy về sự thiếu hụt

của một trong ba nguồn giá trị kia. Vậy giáo dục thẩm mỹ không phải là một

việc làm thêm, một ngành "ăn theo", mà là một tất yếu của sự phát triển xã

hội là một trong ba chân kiềng của hệ thống giáo dục xã hội. Bao giờ người ta

cũng phải trả giá đắt khi không ý thức được tính quy luật đó.

Nhưng việc con người sống, ăn mặc, ở, đi lại, lao động và giải trí trong

môi trường thẩm mỹ, được hưởng thụ một nền văn hóa thẩm mỹ về vật chất

cũng như tinh thần, từ nhà cửa, đồ dung, y phục, xe cộ đến bài ca, điệu múa

bộ phim v.v... một cách ngẫu nhiên và thụ động khác với vấn đề đang được

đề cập ở đây, tức là giáo dục thẩm mỹ với tư cách là một hệ thống lý thuyết

về giáo dục cái đẹp và nghệ thuật, một loại hình hoạt động có tổ chức, có quy

trình nhất định. Hình thức giáo dục ngẫu nhiên, tự phát đã có từ xưa, nhưng

hình thức giáo dục đạt đến trình độ lý luận và tổ chức có hệ thống thi xuất

hiện trễ hơn.

Để xây dựng hệ thống lý thuvết về giáo dục thẩm mỹ cần giải quyết

trước hết những vấn đề về quan niệm, sau đó là những vấn đề nội dung và

phương pháp. Quan niệm về vai trò, vị trí, về tinh tất yếu của giáo dục thẩm

mỹ và đặc biệt quan trọng là vấn đề mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ. Nội

Page 100: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

dung, bao gồm những vấn đề kiến thức cơ bản về cái đẹp trong thiên nhiên,

trong xã hội, trong con người, trong nghệ thuật – những kiến thức mỹ học

nhằm hình thành phương diện lý tính trong phẩm chất, thẩm mỹ của con

người, về phương pháp, đó là những con đường để đưa toàn bộ những gì

thuộc về cái đẹp và nghệ thuật đến với từng loại đối tượng khác nhau, để

đồng hóa kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt được mục tiêu của

giáo dục thẩm mỹ.

Trước hết cần xác định giáo dục thẩm mỹ là một trong ba loại hình giáo

dục cơ bản; của bất kỳ thời đại nào và xã hội nào, đó là giáo dục trí tuệ, giáo

dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ. Đó là ba phương thức truyền thụ, bồi

dưỡng ba loại giá trị cơ bản. Vậy giáo dục thẩm mỹ không phải là một ngành

trong cơ chế nhà nước, như ngành văn hóa, ngành griáo dục, ngành du lịch...

Cũng không phải là một bộ môn giảng dạy tri thức và kỹ thuật như âm nhạc,

hội họa... (Nếu là lý thuyết đơn thuần, nó là một môn, hay phân môn của giáo

dục học, hay một phần trong lý thuyết mỹ học). Vì vậy mục tiêu của giáo dục

thẩm mỹ được đặt ra ở bất cứ nơi nào có tiến hành loại hình hoạt động giáo

dục này: nhà trường, gia đình, các tổ chức và đoàn thể xã hội. Ngay cả các

ngành văn hóa, văn nghệ, các trường nghệ thuật, như âm nhạc, mỹ thuật,

sân khấu... cũng phải đặt ra mục tiêu này, vì có kiến thức và kỹ năng về hoạt

động nghệ thuật chưa phải là mục tiêu cuối cùng của giáo dục thẩm mỹ. Cũng

như trường hợp một người có học thức chưa hẳn là một người có văn hóa.

Tất nhiên những kiến thức và kỹ năng là những điều kiện không thể thiếu đối

với một người có trình độ văn hóa, trình độ thẩm mỹ.

Những nhận xét và so sánh trên đây đã xuất phát từ quan điểm mỹ học

- lý luận về cái thẩm mỹ và cái đẹp. Trong bộ ba phạm trù CHÂN, THIỆN, MỸ,

thì cái MỸ hàm chứa cả nội dung hai cái kia. Một thí dụ đơn giản: một tác

phẩm nghệ thuật được gọi là kiệt tác, tất yếu phải có trình độ nghệ thuật cao,

nhưng đồng thời phải có giá trị nhân văn (cái thiện) và phải là một biểu hiện

chân thực về chủ thể và về xã hội (cái chân). Cũng với lôgic đó, người ta có

thể xem xét về một con người, một cuộc đời, một sản phẩm, một hoạt động.

Page 101: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Vậy mục tiêu của giáo dục thẩm mỹ là đem lại cho con người những giá

tri thẩm mỹ chân chính trên nền tảng của sự phát triển về mặt trí tuệ và đạo

đức, làm cho con người đồng hóa được những giá trị đó để có được một tình

độ văn hóa cao, một nhân cách hài hòa.

Khi đạt được mục tiêu đó theo một quan niệm tương đối, và trong một

hoàn cảnh lịch sử nhất định, một con người có thể biết ứng xử đẹp trong mọi

tình huống, biết giữ gìn và sáng tạo nên cái đẹp trong đời sống của bản thân

và của cộng đồng, của thiên nhiên, của môi trường xã hội và đặc biệt là của

nghệ thuật.

Với một mục tiêu như vậy, bất cứ người nào có nhu cầu cũng có khả

năng vươn tới được.

II. GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ - MỤC TIÊU TRỰC TIẾP VÀ NĂNG ĐỘNG NHẤT

1) Tình cảm và lý trí.

Người ta sinh ra không ai giống ai. Mỗi người có một nhu cầu, một sở

thích riêng. Trong một bữa cơm gia đình, có bao nhiêu người là bấy nhiêu

khẩu vị. Nhìn vào một phiên chợ, một cửa hàng bách hóa, có bao nhiêu

người là bấy nhiêu nhu cầu, bấy nhiêu sự ham thích lựa chọn. Trong hoạt

động tinh thần cũng vậy. Có người thích làm khoa học, có người thích làm

nghệ thuật. Riêng trong lĩnh vực thẩm mỹ và nghệ thuật, cứ đặt ra câu hỏi sẽ

tìm thấy trăm nghìn câu trả lời không giống nhau. Bạn thích loại hoa nào? Bạn

thích màu vải nào? Bạn thích kiểu áo nào? Bạn thích bộ ấm chén nào? Bạn

thích để tóc như thế nào? Và trong các nhà thơ bạn thích ai nhất? Bạn thích

loại sân khấu nào hơn cả? Bạn thích loại nhạc nào? Loại tranh nào? v.v... Tất

cả, ta sẽ nghe câu trả lời bắt đầu bằng hai tiếng "tôi thích", hoặc "tôi không

thích". Những sở thích riêng đó, trong lĩnh vực thẩm mỹ, gọi là thị hiếu thẩm

mỹ.

Page 102: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Hai tiếng "tôi thích" hàm hai ý nghĩa: đây là chuyện riêng và đây là vấn

đề tình cảm. Từ đó mà có người cho rằng lĩnh vực thị hiếu là không nên bàn

cãi.

Trước hết, cần phân biệt những sự ham thích đối với các món ăn (tức

khẩu vị) và những sự ham thích đối với cái đẹp trong sinh hoạt, trong nghệ

thuật. Những món ăn chủ yếu đáp ứng nhu cầu của cơ thể, nhu cầu sinh học.

Còn cái đẹp nghệ thuật đáp ứng nhu cầu về tâm lý, tình cảm của con người,

nó là một vấn đề xã hội. Vì vậy khi bạn thích ăn ớt, ăn tỏi hay không thích,

điều này chẳng ai quan tâm. Nhưng khi bạn say sưa suốt ngày với những sản

phẩm văn hóa đồi trụy thì người khác sẽ có quyền bàn với bạn.

Thị hiếu rất không giống nhau, mỗi người biểu lộ một vẻ, cũng như

khuôn mặt tính tình của một con người, chẳng có ai hoàn toàn giống ai. Đó có

phải là thiên tính, bẩm sinh hay nó là sự xuất hiện ngẫu nhiên, vào một thời

điểm nào đó trong mỗi con người? Không, thị hiếu thẩm mỹ, cũng như mọi

biểu hiện khác của những nhu cầu của con người, cũng như tính tình của con

người, đều có nguồn gốc sinh thành và quá trình phát triển của nó. Bác Hồ đã

viết trong Nhật ký trong tù:

... Hiên dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên.

Thị hiếu cũng vậy, nó được sinh ra trong điều kiện giáo dục nào đó,

được nuôi dưỡng trong một hoàn cảnh thích hợp nào đó, vừa do tác động

khách quan của hoàn cảnh, của giáo dục, vừa do điều kiện chủ quan của mỗi

người.

Trong tâm lý con người, mối quan hệ tình cảm và lý trí là mối quan hệ

phức tạp. Có những lúc lý trí và tình cảm gắn bó phù hợp với nhau, nhưng

cũng có lúc không ăn khớp. Có lúc lý trí làm sáng lên tình cảm đẹp, nhưng

cũng có lúc tình cảm không đẹp kéo theo cả lý trí. Trong sinh hoạt thẩm mỹ

cũng thường có hiện tượng phức tạp đó.

Page 103: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Tình cảm bao giờ cũng gắn với hành động là khâu tâm lý cuối cùng

được chuyển thành hành động. Tình cảm thường bộc lộ thành hành động,

ngược lại hành động bao giờ cũng do một động cơ tình cảm thúc đẩy. Vì vậy,

khi nói đến thị hiếu là nói đến hành động lựa chọn: lựa chọn một kiểu áo, một

cuốn sách, một tác phẩm âm nhạc... và mọi tình cảm, mọi hành động của con

người đều dựa trên cơ sở của lý trí nhất định. Sự yêu thích, sự lựa chọn cái

đẹp của một người bao giờ cũng xuất phát từ những tiêu chuẩn do người đó

đặt ra, xuất phát từ lý lẽ của người đó. Đó chính là lý trí. Vậy khi nói thị hiếu là

vấn đề tình cảm ta không quên cái lõi lý trí ở bên trong.

Trong sinh hoạt thẩm mỹ, nhiều trường hợp lý trí và tình cảm phù hợp

với nhau. Nhưng trong thực tiễn đời sống, trong sinh hoạt thẩm mỹ cũng có

khi ta thấy hiện tượng lý trí và tình cảm hoàn toàn không phù hợp. Có khi con

người có ít nhiều tình cảm tốt nhưng chưa có ánh sáng của tri thức, của tư

tưởng lý luận đúng đắn, nên tình cảm cũng trở thành bế tắc. Nhiều anh chị

em thanh niên tốt, nhưng ít được học hỏi, có khi không phân biệt được cái

đẹp cái xấu. Họ chạy theo những "mốt" sinh hoạt, những kiểu ăn mặc kệch

cỡm mà cứ tưởng là đẹp. Có khi đọc sách, nghe nhạc loại tầm thường thấp

kém một cách tự nhiên mà không biết. Đối với những anh chị em này nếu tập

thể kịp thời uốn nắn, bồi dưỡng cho họ tri thức thẩm mỹ mới thì họ sẽ thay đổi

thị hiếu không khó khăn lắm. Một bản chất tình cảm tốt, một bản chất tâm hồn

đẹp là yếu tố quan trọng, quyết định việc tiếp nhận những quan điểm thẩm mỹ

tiên tiến. Nó như mảnh đất tốt, khi những hạt chân lý gieo vào thì sẽ mọc

mầm xanh tươi nhanh chóng.

Trên đây là những biểu hiện khác nhau của mối quan hệ lý trí và tình

cảm trong thị hiếu thẩm mỹ. Những nhận xét đó đưa đến kết luận thực tiễn

trong công cuộc giáo dục thẩm mỹ của chúng ta, cần phải quan tâm nhiều

đến việc giáo dục tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh đi đôi với việc phổ

biến nâng cao tri thức về thẩm mỹ và nghệ thuật. Cần xây dựng cái nền tảng

lý trí cho thật vững để làm chỗ dựa chắc cho tình cảm thẩm mỹ. Ngược lại,

cần phát huy những nhân tố tích cực lành mạnh của tâm hồn, tình cảm để

Page 104: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

làm mảnh đất tốt cho việc gieo những hạt giống tri thức thẩm mỹ mới. Nghĩa

là làm sao để có lý trí cao phù hợp với tình cảm đẹp, như có nhà thơ đã nói:

"sáng mắt, sáng lòng".

2) Cá nhân và xã hội.

Khi bàn đến những đặc điểm xã hội của thị hiếu, ta có thể nói về tính

giai cấp, tính dân tộc. Đó là những đặc điểm chung có tính chất phổ biến: Bất

kỳ một sự ưa thích, một sự lựa chọn nào trong lĩnh vực thẩm mỹ cũng mang

dấu vết xã hội.

Tuy nhiên, khi nói đến yếu tố xã hội, không thể không nói đến yếu tố cá

nhân. Nhất là trong lĩnh vực thẩm mỹ và nghệ thuật, vai trò của cá tính cũng

rất quan trọng. Ở đây, cần làm rõ hơn nội dung xã hội và nội dung; cá nhân

mà ta đang đề cập đến. Thực ra trong mọi hiện tượng tình cảm hay thị hiếu

thẩm mỹ, tính chất cá nhân và tính chất xã hội không thể tách rời được. Một

người thích hay không thích để tóc dài, tóc ngắn, vừa là hiện tượng có tính xã

hội vừa là hiện tượng có tính cá nhân. Trong một hoàn cảnh xã hội nào đó, từ

một lối sống xã hội như thế nào đó, mới xuất hiện những "mốt" đó. Đồng thời

cũng do điều kiện giáo dục, điều kiện nghề nghiệp, tâm lý riêng nên người

này mới thích cái mốt này mà người khác cũng vì điều kiện riêng nên không

thích, không theo. Vì vậy, mỗi một biểu hiện của thị hiếu vừa có tính chất cá

nhân, vừa có tính chất xã hội.

Nhưng nội dung xã hội và cá nhân ta muốn đề cập ở đây chủ yếu là:

xét xem trong hiện tượng thị hiếu, yếu tố nào có quan hệ đến những vấn đề

xã hội, có ảnh hưởng đến xã hội, còn yếu tố nào không quan hệ, không có

ảnh hưởng đến xã hội (xét về mặt chính trị, về đạo đức xã hội). Hay nói cách

khác, yếu tố nào thuộc phạm vi xã hội, và yếu tố nào thuộc phạm vi cá nhân.

Đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong việc giáo dục thị hiếu của xã hội và

sự tu dưỡng rèn luyện thị hiếu của bản thân mỗi người.

Khi nhận xét về thị hiếu thẩm mỹ ở một người, ta nên phát hiện yếu tố

xã hội chủ yếu ở mặt nội dung và yếu tố cá nhân chủ yếu ở mặt hình thức.

Page 105: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Thực chất là nội dung không tách rời hình thức, nhưng trong vận dụng thực

tiễn cũng có khi cần phân biệt.

Trong một hiện tượng thị hiếu, yếu tố nội dung thường thể hiện ở quan

điểm, lập trường tư tưởng trong khi lựa chọn cái đẹp và nghệ thuật, thể hiện

ở ý nghĩa, tác dụng của đối tượng ta yêu thích đối với đời sống xã hội, đối với

đạo đức, chính trị, thuần phong mỹ tục.

Biểu hiện về phương diện hình thức của thị hiếu thường là sự ham

thích loại hình, loại thể, nghệ thuật và phong cách, bút pháp, ngôn ngữ, chất

liệu. Thơ hay truyện, âm nhạc hay hội họa, nhạc hát hay nhạc đàn, tranh

phong cảnh hay tranh sinh hoạt, phong cách, bút pháp của nhà thơ, nhà văn

nào, màu sắc nào, v.v... Những biểu hiện hình thức này của thị hiếu thường ít

liên quan với những vấn đề xã hội, cho nên có thể xem là thuộc phạm vi tự do

sáng tạo, lựa chọn của cá nhân.

Những vấn đề nội dung ý nghĩa thường xuất phát từ nhân sinh quan,

đạo đức, lối sống của con người. Những vấn đề hình thức bút pháp thường

do đặc điểm riêng về năng lực, điều kiện giáo dục riêng, kinh nghiệm và cá

tính. Ý thích của mỗi người thường được hình thành trên những cơ sở kinh

nghiệm, những kỷ niệm riêng. Ngay cả mặt sinh lý, mặt di truyền cũng tạo ra

cái độc đáo cá nhân của thị hiếu. Do sức khỏe vốn ốm yếu, có thể có bạn ưa

những màu sắc nhẹ nhàng, không chói mắt hay những loại nhạc êm nhẹ,

những nhạc cụ ít tiếng vang, điều đó chẳng ai trách. Nhưng nếu chỉ chọn

những sản phẩm có nội dung tiêu cực, bệnh hoạn để phù hợp với cái tạng

gầy yếu của bạn thì lại là vấn đề khác. Những ý thích riêng do tâm sinh lý, do

điều kiện sống riêng tạo nên, cũng rất tương đối, vẫn có thể thay đổi trong

những hoàn cảnh và với biện pháp giáo dục nào đó. Nhu cầu và ý thích riêng

cũng có thể đi từ tiêu cực đến tích cực hay ngược lại, từ tích cực trở thành

tiêu cực. Có người từ chỗ thích phim truyện khiêu dâm, bạo lực đến chỗ ghét

các loại đó. Nhưng cũng có người trước chưa đọc, chưa xem khi tình cờ tiếp

xúc với nó đâm ra ham, tập thêm cho mình một thói quen xấu. Trong giáo dục

thẩm mỹ, cần chú ý khuyến khích sự phát triển nhu cầu, ý thích của cá nhân

Page 106: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

đi theo hướng ngày càng tích cực và luôn đề phòng uốn nắn sự đi ngược

chiều. Mặt khác, luôn tìm cách bồi bổ, nâng cao trình độ hiểu biết của mọi

người để những sự ham thích không bị thành kiến, thiên lệch, phiến diện.

Thích nghệ thuật này, không thích nghệ thuật khác, nhiều khi chỉ vì sự hiểu

biết ít ỏi, phiến diện do thói quen và do thành kiến, chưa hẳn đã là một bản

lĩnh độc đáo, sâu sắc.

Tóm lại trong việc giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, ngoài việc bồi dưỡng lý

tưỡng thẩm mỹ cho xã hội, cần chú ý cả sự ổn định và phát triển của cá nhân.

Cần hướng dẫn thị hiếu cho mọi người mang nội dung xã hội tích cực, tiến bộ

theo một lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nhưng mặt khác cũng cần chú ý đến đặc

điểm riêng của từng người, làm cho mỗi người có một cá tính đặc sắc trong

sự am hiểu, trong sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp. Đó là công việc khó

khăn của giáo dục và rèn luyện thị hiếu, nhằm xây dựng một vườn hoa rộng

lớn trăm bóng ngàn tía, trong đó mỗi một bông hoa đều có vẻ đẹp và hương

thơm riêng.

3) Hai khuyết tật cần ngăn ngừa.

Thị hiếu thẩm mỹ là sự ưa chuộng, sự ham thích đối tượng có mang

tính thẩm mỹ. Nó là vấn đề ý thức được cụ thể hóa bằng hành động, bằng vật

phẩm. Nó in dấu vết trên hầu khắp những gì do con người tạo ra trong môi

trường sống.

Những biểu hiện tiêu cực về mặt thị hiếu rất nhức tạp và đa dạng, như

trạng thái bệnh tật của cơ thể con người, không thể bắt mạch kê đơn chính

xác ngay từ đầu, mà cần phải qua một quá trình nghiên cứu phân tích dựa

vào lý luận khoa học và kinh nghiệm. Nhưng bước đầu ta có thể lần ra được

từ trong cái phức tạp đa dạng kia những quy luật chung, những bệnh trạng có

tính chất phổ biến. Trong việc sáng tạo thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật,

trong nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ những biểu hiện xấu thường qui vào hai

hiện tượng sau đây: chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên.

Hai khái niệm chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên ở đây hiểu

theo nghĩa rộng, nó chỉ là hai loại bệnh trong sinh hoạt thẩm mỹ, chứ không

Page 107: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

phải tên gọi của một trường phái hay một xu hướng nghệ thuật. Đó là hai

chứng bệnh chung thể hiện cả trong sáng tác nghệ thuật và trong sinh hoạt

thẩm mỹ trong đời sống hàng ngày. Nó có thể có những mức độ biểu hiện

khác nhau hoặc xuất phát từ những cơ sở triết học sâu xa, nhưng nó cũng có

thể là sự biểu hiện hoàn toàn của cảm tính, tự phát theo thói quen của những

người bình thường, không làm văn học nghệ thuật và không am hiểu mấy về

văn hóa, văn nghệ. Tóm lại, mỗi một biểu hiện xấu nào đó về mặt thị hiếu

thẩm mỹ, dù có ý thức hay không có ý thức rõ ràng đều có thể rơi vào một

trong hai cái bệnh chung đó.

Trong đời sống hàng ngày, những biểu hiện hình thức và tự nhiên trong

nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ thường phát sinh từ lối sống. Nhưng cũng có khi

vì ít học hỏi, ít hiểu biết, ham chạy theo cái mới, cái lạ mà bắt chước các xu

hướng tiêu cực một cách mù quáng. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể mắc phải

những thứ bệnh hình thức hay tự nhiên nếu không có sự tu dưỡng rèn luyện

một thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến. Hàng ngày đi trên đường phố hay về các làng

mạc, vào một cơ quan hay một phòng ở của tư nhân, ta đều có thể nhận thấy

những biểu hiện khác nhau của thị hiếu thẩm mỹ: từ kiến trúc của những khu

phố, những cửa hàng, trang trí trong hội trường hay bày biện trong nhà ở,

những biển quảng cáo, những khẩu hiệu, đến những mẫu hàng hóa, những

bìa sách, từ lối ăn mặc, đi đứng đến lời ăn tiếng nói, đến câu văn chữ viết

v.v... đều thể hiện rõ đặc tính về thị hiếu thẩm mỹ của con người, ở tất cả các

hiện tượng đó, chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên đều có thể len lỏi

vào, nó không từ một khu vực nào, công cộng hay tư nhân, không từ một qui

mô nào, một tòa nhà hay một nét chữ trên vở học trò. Vì vậy, khi nói đến việc

tu dưỡng rèn luyện thị hiếu thẩm mỹ tiên tiến, cũng có nghĩa là luôn luôn đi

đôi với việc phê phán và tránh chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên, hai

thái cực của loại thị hiếu xấu.

Trước hết chúng ta hãy bàn về loại thị hiếu hình thức chủ nghĩa:

Quan điểm đúng đắn bao giờ cũng xem nội dung là yếu tố quan trọng

nhất, là mặt bản chất nhất. Hình thức tuy gắn bó với nội dung, không có hình

Page 108: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

thức thì không có nội dung, nhưng hình thức vẫn là mặt thứ hai, phục tùng sự

chỉ đạo của nội dung.

Thí dụ: Tổ chức một buổi dạ hội mừng công cuối năm, trong đó nội

dung mừng công là có ý nghĩa quyết định, nhưng phải có treo đèn kết hoa, có

ca nhạc, nghĩa là có cả hình thức thì mới thành buổi dạ hội. Tuy nhiên nếu tổ

chức hình thức quá linh đình, tiệc tùng phung phí, trống dong cờ mở... sẽ trở

thành phản tác dụng mất ý nghĩa đúng đắn của nội dung. Qua đó ta thấy vấn

đề hình thức là vấn đề mức độ. Tính mực thước là một yêu cầu hết sức quan

trọng trong việc xử lý hình thức, ở đó sẽ có sự coi nhẹ hoặc phủ định nội

dung. Mực thước ở đây là đảm bào tính cân đối, hài hòa trong mối quan hệ

giữa hình thức và nội dung.

Đứng về bản chất xã bội mà nói., chủ nghĩa hình thức cực đoan bộc lộ

khi giai cấp thống trị cố tình lấy cái vỏ bên ngoài, lấy việc tô son trát phấn cho

bộ mặt để che đậy sự mục nát ở bên trong. Ngoài ra, ở những xã hội mà kinh

tế thương mại hoành hành, việc rao hang, quảng cáo trở thành cứu cánh, thì

những hình thức phô trương cũng được phát triển cao độ. Người ta luôn luôn

phải căng óc để phân biệt cái thật, cái giả, phải vận dụng bao nhiêu năng lực

của trí tuệ mới nhìn thấy giá trị thật của hàng hóa, của cái đẹp, của con

người.

Trong sáng tạo nghệ thuật, tuy ở mức độ và qui mô khác nhau, nhưng

chủ nghĩa hình thức có khi là quan niệm nghệ thuật nhưng cũng có khi là sự

khủng hoảng về tư tưởng. Nó thể hiện lẻ tẻ ở một vài người, nhưng cũng có

khi ở cả một trường phái. Trong xã hội ta xu hướng vọng ngoại lai căng hình

thức vẫn còn thấy đó đây.

Trong sinh hoạt thẩm mỹ của con người, những biểu hiện không lành

mạnh thường hay xuất hiện đồng thời, hiện tượng nọ liên quan với hiện

tượng kia. Khi chủ nghĩa hình thức xuất hiện, thì chủ nghĩa tự nhiên cũng có

mặt. Chủ nghĩa hình thức biểu hiện ở mặt xử lý, vận dụng hình thức một cách

quá mức, phô trương giả tạo, biểu hiện sự cực đoan của hình thức đi đến che

lấp nội dung và phủ định, xóa bỏ nội dung. Còn chủ nghĩa tự nhiên đi về một

Page 109: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

hướng khác, biểu hiện sự cực đoan trong việc đề cao yếu tố tự nhiên, từ sao

chép máy móc thô thiển đến chỗ lặp lại và tô đậm những yếu tố bản năng của

con người.

Chủ nghĩa tự nhiên là một thứ bệnh khá phổ biến trong sinh hoạt văn

hóa thẩm mỹ, nhất là trong hoàn cảnh suy đồi về đạo đức và hoàn cảnh đời

sống vật chất và văn hóa còn thấp kém. Nó không chỉ thể hiện trong văn

chương nghệ thuật, từ người sáng tác đến người thưởng thức, mà còn thể

hiện trong các lĩnh vực khác của đời sống, từ việc sản xuất hàng hóa, từ

phong tục, nếp sống đến sinh hoạt giao tế và thời trang.

Tính chất tự nhiên sao chép ấu trĩ vẫn thường gặp trong những trường

hợp thị hiếu thẩm mỹ của con người chưa phát triển. Người ta ưa sáng tác và

thường thức lặp lại những chi tiết y hệt, tự nhiên, và người ta cho sự giống y

hệt đó là cái đẹp. (Ở đây cũng cần phân biệt thứ thị hiếu tầm thường đó với

yêu cầu nghiêm túc của sự tu dưỡng nghệ thuật là phải biết quan sát tỉ mỉ và

thể hiện chính xác các hiện tượng của đời sống một cách chọn lọc). Những

đồ sừng, đồ sơn mài, những tranh vẽ trên bìa, trên kính, những tranh khắc,

những đồ có chạm trổ, những bưu ảnh bưu phiếu với những phong cảnh

chim hoa tùng hạc tỉa tót từng cái lông cái vây, từng gân lá nụ hoa, những

tranh đàn bà Nhật, đàn bà Tàu tô vẽ từng sợi tóc, lông mi, nước da hồng, môi

son má phấn cố sao cho giống như thật tràn ra khắp thành thị và nông thôn,

gieo rắc thị hiếu tầm thường trong quần chúng. Nhưng hiện tượng trên đây

chỉ là việc của những người làm thủ công mỹ nghệ và mang tính chất thương

mại. Đáng buồn hơn nữa là những người tự xưng là nghệ sĩ, làm công việc

của nhà văn hóa, vì mục đích gọi là "sáng tạo nghệ thuật" hiện nay thịnh hành

ở Âu Mỹ. Nhân danh nghệ thuật "mô-đéc-nít", họ mang cả giẻ rách, ống bơ rỉ,

mang cả cuốc xẻng và cả những đống đất, hay dắt cả một đàn ngựa bày vào

phòng triển lãm. Thậm chí có những người như họa sĩ Ben người Pháp, trình

bày cả bản thân con người ông ta, bằng cách ngồi chễm chệ trên chiếc ghế

và mang trước ngực tấm biển đề: "Hãy nhìn tôi thế là đủ". Trong âm nhạc và

múa, những người theo xu hướng tự nhiên chủ nghĩa cũng khai thác triệt để

Page 110: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

những tiết tấu, màu sắc, động tác kích thích bản năng, hoặc dùng những

tiếng động tự nhiên thay cho giai điệu âm nhạc. Đó là chưa kể những dàn

nhạc của trường phái "âm nhạc cụ thể", đã lấy những đồ vật tự nhiên như nồi

niêu soong chảo đem hòa tấu thành những "nhạc khúc" kỳ dị.

Những biểu hiện của chủ nghĩa tự nhiên ở hình thái trên đây cũng mới

chỉ làm méo mó thị hiếu, thẩm mỹ của quần chúng, kỳ thực nó chưa có tác hại

bằng thứ chủ nghĩa tự nhiên bản năng và đồi trụy.

Sau nhiều thế kỷ bị đè nén dưới ách phong kiến và thần quyền, con

người bị bưng bít và bị nô dịch bởi những thứ triết lý phản tự nhiên, bị kềm

hãm trong vòng u tối, không biết nhìn và không dám nhìn vào tự nhiên đầy

sức sống đang phát triển. Nhưng khi được giải phóng ra khỏi sự kềm kẹp

phong kiến u tối đó; thì một xu hướng khác trong xã hội tư bản lại đẩy con

người vào vòng u tối khác, chỉ nhìn thấy cái bàn năng tự nhiên mà không thấy

những giá trị xã hội, giá trị tinh thần cao quí khác.

Xuất phát từ quan điểm gọi là "khách quan", "phi chính trị”, một số nhà

văn tự trao cho mình nhiệm vụ nhà khoa học trong phòng thí nghiệm, viết văn

như làm thực nghiệm khoa học, chủ trương miêu tả không cần chọn lọc,

không cần hư cấu, như làm công việc chụp ảnh. Trong thời kỳ đầu, trường

phái tự nhiên có ít nhiều tác dụng trong việc chống lại những quan điểm duy

tâm tôn giáo. Nhưng thái độ làm thực nghiệm khoa học của những nhà văn

này chỉ chú trọng khai thác những biểu hiện tiêu cực bệnh hoạn về thể chất

và tinh thần của con người đã mở đầu cho xu hướng nghệ thuật đồi trụy. Từ

những trang sách, băng nhạc, từ những bộ phim độc hại này, con người hiện

ra với bộ mặt xấu xa thảm hại, mang rõ hai đặc tính dâm dật và tàn bạo.

Chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa tự nhiên là hai thái cực của những

loại thị hiếu xấu. Hai thứ bệnh này có khả năng xâm nhập và lan tràn ở mọi

nơi mọi lúc, xoắn vào nhau trong một sản phẩm, một hiện tượng, cho đến

phong cách thị hiếu của một con người và rộng ra là của xã hội.

Page 111: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Để bồi dưỡng thị hiếu tốt, không thể không chú ý gạn lọc ra khỏi đời

sống thẩm mỹ những nhân tố hình thức và tự nhiên chủ nghĩa và phải luôn

chú ý ngăn ngừa sự thâm nhập của hai khuyết tật đó.

4) Vài quy luật của thị hiếu.

Thị hiếu thẩm mỹ cũng như mọi hiện tượng khác đều mang tính chất

quy luật. Có nhiêều loại quy luật chi phối, nhưng có ba loại thường xuyên tác

động đến sự hình thành và phát triển của thị hiếu. Đó là quy luật xã hội học,

quy luật tâm lý học và quy luật thẩm mỹ học.

Quy luật xã hội học và quy luật tâm lí học có liên quan chặt chẽ với

nhau, nhiều khi cũng khó phân biệt. Còn quy luật thẩm mỹ học gần như là sự

tổng hòa các quy luật kia về nội dung.

Việc phân tích quy luật của thị hiếu là nhằm đi sâu thêm một bước, tìm

hiểu các yếu tố đã tạo nên sự đa dạng phong phú của thị hiếu, và từ đó tìm

cách giáo dục, tổ chức cho mọi người có thể phát triển những biểu hiện của

thị hiếu tốt và hạn chế, xóa bỏ các biểu hiện của thị hiếu xấu.

Đối với các mốt thời trang, có một quy luật xã hội là quy luật đổi mới

không ngừng. Hiểu được điều đó ta không xóa bỏ, tiêu diệt sự đổi mới, mà

tìm cách khống chế sự phát triển của các mốt xấu và lợi dụng quy luật đổi

mới để khuyến khích sáng tạo và hưởng ứng các "mốt" tốt, lành mạnh. Hoặc,

như sự ưa thích những tình huống hồi hộp trong thưởng thức nghệ thuật, là

một quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ. Hiểu được điều đó, ta không xóa bỏ,

không tiêu diệt những tình huống hồi hộp, vì làm như thế nghệ thuật sẽ không

còn hấp dẫn nữa. Ta tìm cách hạn chế tình trạng gây hồi hộp một cách vô

nghĩa, rẻ tiền, thậm chí có hại, trong các tác phẩm nghệ thuật. Nhất là loại

truyện, phim khuếch trương bạo lực. Trái lại, ta khuyến khích việc sáng tạo

những tình huống hồi hộp để thu hút người xem vào những sự tích giáo dục

lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm.

Quy luật xã hội học của thị hiếu là quy luật của sự phát sinh, phát triển

và tiêu vong của các loại thị hiếu, của các loại "mốt".

Page 112: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Thị hiếu là sản phẩm tinh thần của một xã hội nhất định, xã hội thay đổi

thì thị hiếu cũng thay đổi. Mảnh đất sinh trưởng trực tiếp của thị hiếu là lẽ

sống, lối sống của con người. Đồng thời khi lối sống thay đổi thì thị hiếu cũng

sẽ bị tiêu vong. Người say mê lẽ sống, lối sống lành mạnh, tích cực thì cũng

có nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ trong sáng cao đẹp. Người ham lối sống lười

biếng, lười học hỏi và lao động thì sẽ nảy sinh những nhu cầu thẩm mỹ thấp

kém. Do đó, khi hiểu quy luật xã hội; trước hết là quy luật hình thành và tiêu

vong của thị hiếu, ta có thể biết được rằng muốn làm nảy nở hay tiêu diệt một

loại thị hiếu, một loại mốt nào đó; ta phải theo đúng quy luật, là đi từ gốc rễ.,

phải cải tạo xã hội và lối sống, hay ít ra cũng phải lấy việc giáo dục, cải tạo thị

hiếu. Không thể chỉ làm công việc phê phán thị hiếu đơn thuần, tách rời sự cải

tạo xã hội và lối sống, càng không thể chỉ làm biện pháp hành chính để tiêu

diệt thị hiếu xấu, làm như thế chẳng khác gì làm cỏ mà chỉ ngắt lá và ngọn cỏ.

Tóm lại, có thể thấy rằng, sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của thị hiếu

nói cho cùng có quan hệ với lẽ sống và lối sống của con người.

Bên cạnh quy luật cơ bản đó, ta cần quan tâm đến những quy luật đặc

biệt như quy luật đổi mới không ngừng và quy luật lây lan của thị hiếu.

Xung quanh ta, thiên nhiên biến đổi không ngừng, màu sắc và ánh

sáng đổi thay theo mặt trời, theo mùa. Sự đổi thay của thời tiết khí hậu, của

đời sống động vật và thực vật, của sự sinh nở và héo tàn. Con người sống và

hoạt động trong bối cảnh thiên nhiên và xã hội đó, tất nhiên cũng có nhu cầu

đổi mới không ngừng đời sống của mình, trong đó có nhu cầu về thưởng thức

cái đẹp, nhu cầu tô điểm làm đẹp cuộc sống. Sự đổi mới thường xuyên của

các "mốt" trong sinh hoạt thẩm mỹ là biểu hiện của tình hình đó. Nó là một

quy luật khách quan, con người chỉ có thể lợi dụng nó để hướng dẫn, uốn nắn

sự đổi mới chứ không thể ngăn chặn sự đổi mới. Một bài hát dù hay đến đâu

cũng không thể hát mãi ngày nọ sang ngày kia. Từ chiếc áo, đôi dép, đôi giày,

đến hình dáng chiếc ô tô... đều luôn luôn phải được cải tiến, đổi mới.

Một quy luật xã hội có tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ nữa là quy

luật về sự lây lan. Các mốt mới được sinh ra nhanh chóng là nhờ quy luật của

Page 113: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

sự đổi mới, nhưng được truyền đi nhanh chóng là nhờ quy luật của sự lây

lan. Trên dãy Trường Sơn có thứ cây được đặt tên "cây cải bay", loại rau

rừng có thể ăn được, có mùi thơm như mùi cải cúc. Gọi là "cải bay" vì hoa và

hạt của nó bay đi rất nhanh. Nơi nào có một vài cây, lập tức mấy hôm sau cả

vùng đất trở thành một bãi mọc đầy "cải bay". Ta có thể hình dung sự lan

truyền của các "mốt" cũng như vậy. Đàn ông để tóc dài, quần ống loe, những

bản nhạc pha tiết tấu và âm sắc của người da đen, da đỏ vừa mới thịnh hành

ở một vài trung tâm Âu Mỹ, một vài năm sau đã lây lan khắp thế giới. Các

"mốt" cũng đi tìm bạn, tìm sự đồng điệu. "Mốt" Âu Mỹ lan rộng khắp mảnh đất

Âu Mỹ và đến các nước phụ thuộc một cách dễ dàng như đi vào nhà mình,

không cần hộ chiếu, thông hành gì hết.

Trong quy luật lây lan của "mốt", một hiện tượng dễ thấy là những "mốt"

không lành mạnh, không đẹp thường lan nhanh ở nơi nào con người thiếu đời

sống phong phú bên trong, thiếu óc thẩm mỹ đúng đắn. Khi đời sống bên

trong nghèo nàn, trống rỗng thì người ta tự làm phong phú mình bằng cái bên

ngoài.

Trong những điều kiện tạo nên sự lây lan của "mốt" có điều kiện lứa

tuổi, nghề nghiệp. Tuổi trẻ là lứa tuổi nhạy bén và vồ vập với cái mới nhiều

hơn lứa tuổi già. Những nghề nghiệp ít lam lũ có điều kiện tiếp thu "mốt"

chóng hơn.

Một biểu hiện có vẻ mâu thuẫn nhưng rất biện chứng của quy luật lây

lan là các "mốt" xấu thường xuất hiện ở những trung tâm "văn minh". Hiện

tượng đó nói lên rằng, các trung tâm gọi là văn minh, thường là nơi tập trung

nhiều mâu thuẫn đối lập của nền văn hóa, nơi tập trung của các đầu mối

thông tin liên lạc và giao tiếp, nơi trung tâm lan tỏa những gì tốt nhất và cả

những gì xấu nhất.

Sự lây lan không phải chỉ biểu hiện ở những loại thị hiếu xấu, các "mốt"

xấu. Sự ảnh hường lây lan của các "mốt" mới với vẻ đẹp trong sáng giản dị,

hài hòa, lành mạnh vẫn được phát triển trong lớp người mới, trong những con

người có cuộc sống lao động chân chính và lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.

Page 114: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Những năm gần đây, tâm lý học đã đi sâu nghiên cứu những hiện

tượng tâm lý biểu hiện trong những loại hoạt động khác nhau của con người,

trong đó có tâm lý thẩm mỹ, tâm lý nghệ thuật. Thị hiếu thẩm mỹ là một mục

tiêu nghiên cứu của tâm lý học thẩm mỹ và tâm lý học nghệ thuật. Những

thành tựu mới nhất của các khoa học này về mặt thực nghiệm là những thành

tựu nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ. Ở đây, ta thử đi vào những khía cạnh

tâm lý: biểu hiện thành những quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ.

Tâm lý con người cũng như bộ máy ra-đa phức tạp và bao giờ cũng

hoạt động định hướng. Sự định hướng về tâm lý là do nhu cầu bên trong của

con người muốn phản ánh hay tác động đến đối tượng bên ngoài. Nếu bắt

gặp đối tượng phù hợp với nhu cầu đó, lập tức "bộ máy ra-đa” đó hoạt động

mạnh mẽ để thu hút hình ảnh đối tượng vào mình. Quy luật tâm lý chính là

quy luật thích ứng giữa nhu cầu, tình cảm của con người và đối tượng bên

ngoài. Nói cụ thể hơn, về phương diện thẩm mỹ, đó là sở thích của con người

về cái đẹp, về tác phẩm nghệ thuật và những cái đẹp, những tác phẩm nghệ

thuật đó đã đáp ứng đúng theo sở thích của con người. Sở thích và đối tượng

hoàn toàn phù hợp, nhu cầu tình cảm được thỏa mãn. Đó là quy luật tâm lý

đang hoạt động thuận chiều. Nắm bắt và khai thác các quy luật tâm lý của con

người trong thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật là việc làm của con người

sáng tác, người tổ chức chỉ đạo công tác văn hóa nghệ thuật. Ngay cả những

người làm công việc kinh doanh những hàng hóa có liên quan đến thẩm mỹ

cũng khai thác những quy luật tâm lý này. Một cuốn sách in hàng vạn bản,

mới ra đã bán hết, nhưng cũng có cuốn sách in rất ít nhưng bày trong tủ kính

hàng năm trời vẫn không ai hỏi đến. Có bộ phim người chen đầy cửa rạp để

mua vé, nhưng cũng có bộ phim khán giả chỉ ngồi xem trên năm ba hàng ghế.

Ta thấy quy luật tâm lý của thị hiếu thẩm mỹ cũng gần giống như thứ quy luật

cung cầu trên thị trường: cũng có sự hâm mộ, đắt hàng, hay sự lạnh nhạt, ế

ẩm. Và đã nói là quy luật thì ta không thể xử lý một cách chủ quan, bằng biện

pháp áp đặt.

Page 115: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Trong khi chọn món ăn hoặc tiêu dùng hàng hóa, con người ta có

những ý thích, những nhu cầu khác nhau. Trong thưởng thức cái đẹp và nghệ

thuật cũng có nhu cầu như vậy. Trong con người, các nhu cầu về tình cảm rất

phức tạp, nó là hiện tượng xã hội, gắn bó với đạo đức, với quan điểm chính

trị xã hội, và nó chia ra hai chiều hướng rõ rệt: nhu cầu - tình cảm cao thượng

và nhu cầu - tình cảm thấp kém. Do đó, khi nói đến sự vận dụng quy luật tâm

lý của thị hiếu thẩm mỹ, cần luôn luôn chú ý đến hai chiều hướng khác nhau

đó.

Một quy luật tâm lý phổ biến khác là sự say mê cái đẹp và nghệ thuật.

Những trang tiểu thuyết, những vở tuồng, những bộ phim, bài ca, bản nhạc,

cho đến những vẻ đẹp hình thức của con người và của mọi vật xung quanh

bao giờ cũng thu hút niềm say mê của con người. Niềm say mê đó là một quy

luật tâm lý. Quy luật say mê nghệ thuật trong tâm lý con người cũng là một

thực tế cần phải biết lợi dụng sức mạnh của nó theo chiều hướng có lợi. Từ

việc chăm lo đến vẻ đẹp hình thức của trang phục, nơi ăn chốn ở đến việc

sáng tác những tác phẩm nghệ thuật, đều thể hiện năng lực sáng tạo và nhu

cầu đó của con người. Vận dụng quy luật này, ta cần phải biết coi trọng hình

thức. Trong khi chủ trương nội dung là yếu tố cơ bản, ta vẫn không quên

chăm lo yếu tố hình thức. Không nên phân liều lượng dành công sức nặng

hay nhẹ cho nội dung hay hình thức, mà phải xem trọng việc chăm lo cả hai

mặt đó mới mong đạt tới sự hấp dẫn của nghệ thuật, mới thực hiện được

chức năng xã hội của nghệ thuật. Đó là nói về sự đáp ứng quy luật tâm lý ưa

chuộng hình thức đẹp, không phải chỉ trong nghệ thuật mà trong tất cả lĩnh

vực sinh hoạt thẩm mỹ, trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, chiều hướng

thứ hai, chiều hướng tiêu cực của loại quy luật tâm lý này, cũng cần phải thấy

rõ để tìm cách hạn chế. Đó là xu hướng sinh hình thức, cầu kỳ hoặc rối rắm,

phô trương, rơi vào chủ nghĩa hình thức.

Một loại quy luật tâm lý khác trong thị hiếu thẩm mỹ của con người là

sự ham thích những tình huống xung đột gay cấn trong nghệ thuật. Khi xem

truyện, xem kịch, xem phim hay cả trong khi xem xiếc, xem thể thao, người ta

Page 116: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

thường muốn chứng kiến những phút giây hồi hộp căng thẳng của trạng thái

xung đột. Từ xưa tới nay, các loại nghệ thuật đã thường xuyên thay đổi các

yếu tố xung đột này để đáp ứng yêu cầu tâm lý đó. Tuy nhiên, quy luật này

cũng có hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Khi muốn vận dụng theo chiều

hướng tích cực, ta khai thác những xung đột kịch tính trong đời sống để đưa

vào tác phẩm nghệ thuật, nhưng cần lựa chọn những xung đột có ý nghĩa, có

tác dụng giáo dục tốt, như xung đột giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện

và ác... nhằm khẳng định ca ngợi cái chính nghĩa, cái thiện. Trong điện ảnh

thương mại người ta thường lạm dụng, khai thác những "pha” gây hồi hộp

căng thẳng bằng những vụ tống tiền, cướp của, giết người.., Những phim,

truyện lạm dụng yếu tố bạo lực thường thu hút rất đông người xem. Chính vì

nó đã khai thác tối đa quy luật tâm lý trên. Bằng mọi giá, mọi thủ đoạn rẻ tiền,

những kẻ viết sách dựng phim và cho lưu hành loại này chỉ vì mục đích

thương mại đơn thuần nhờ lợi dụng yếu tố trong tâm lý cảm thụ thẩm mỹ của

công chúng. Trong ngành xiếc và võ thuật cũng vậy. Nếu chỉ vì mục đích hấp

dẫn để thu hút nhiều tiền, người ta tìm cách khai thác những thao tác đầy tính

chất mạo hiểm, lại không có bảo hiểm tương xứng, coi nhẹ tính mạng người

diễn viên, tạo ra sự hồi hộp kèm theo nỗi khiếp sợ có hại cho tâm lý người

xem. Nếu khai thác quy luật này theo chiều hướng tích cực, lành mạnh, người

ta sẽ biết tạo ra những thao tác gợi hứng thú về những hành động dũng cảm

gan dạ, gợi tình cảm khâm phục và quý trọng đối với diễn viên.

Ta có thể dẫn chứng thêm một loại quy luật tâm lý nữa là sự rung động

trước những câu chuyện tình yêu. Thật khó tưởng tượng một tác phẩm nghệ

thuật không có tình người: đó là tình yêu cha mẹ, anh em, tinh yêu bè bạn,

tình yêu nam nữ. Trong đó tình yêu nam nữ là một loại đề tài muôn thuở. Tình

yêu nói chung, tình yêu nam nữ nói riêng là nhu cầu, là quy luật tất yếu trong

thẩm mỹ và nghệ thuật. Hình ảnh người phụ nữ và những câu chuyện yêu

đương đã được các nghệ sĩ tìm cách miêu tả với nhiều xúc động say mê.

Người đọc, người xem cũng hưởng ứng với những xúc động, say mê như

vậy. Và ở đây cũng diễn ra hai chiều hướng khác nhau. Có loại nghệ thuật

phản ánh những tình yêu đẹp, giàu chất nhân bản. Có loại nghệ thuật miêu tả

Page 117: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

những thư tình ái vô luân sa đọa, không nhằm phê phán. Loại văn hóa phẩm

thương mại thường khai thác những chuyện tình rẻ tiền và những hình ảnh

khiêu sợi nhục cảm, hủy diệt mỹ cảm của con người.

Ngoài những quy luật xã hội học và tâm lý học, còn cần chú ý đến

những quy luật thẩm mỹ học. Như trên đã nói, quy luật thẩm mỹ vận động

trên cơ sở xã hội và tâm lý có thể xem đây là sự tổng hòa những quy luật xã

hội học và tâm lý học. Việc phát triển hình thức ca khúc tuổi trẻ ở nhiều nước

trong những năm gần đây vừa là do tính năng động của hình thức sinh hoạt

văn hóa trong xã hội hiện đại. Trong những thành phố công nghiệp, vừa là

đáp ứng một nhu cầu tâm lý của công chúng, nhất là tuổi trẻ mong có một loại

thể nghệ thuật phản ánh nhanh và nhạy nhất tình cảm của con người. Tuy

nhiên, khi nói đến những quy luật thẩm mỹ; cần nhấn mạnh tính đặc thù của

nó so với những quy luật tâm lý và xã hội.

Một quy luật thẩm mỹ đáng lưu ý đầu tiên là quy luật của cái "hài hòa".

Trong lịch sử của cái đẹp và lịch sử nghệ thuật, sự phát triển của cái hài hòa

thường đi từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ

thể đến trừu tượng. Mặt khác, cái hài hòa luôn được điều chỉnh theo chiều

hướng tiến bộ, xét về mặt khoa học và lịch sử. Ở đây cũng có quy luật của sự

đào thải, như quy luật đào thải trong tự nhiên: cái gì không hài hòa trước sau

cũng bị hủy diệt. Nhìn vào lịch sử nghệ thuật tạo hình và lịch sử âm nhạc, ta

thấy rất rõ sự phát triển và biến đổi không ngừng của thị hiếu nghệ thuật -

cũng là sự biến đổi của cái hài hòa. Không thể lấy thị hiếu khi xem những pho

tượng Hy Lạp, xem tranh thời Phục hưng, nghe nhạc của trường phái cổ điển

thế kỷ XVIII để làm mẫu mực cho thị hiếu của con người hiện đại. Biết khai

thác quy luật phát triển hài hòa từ cụ thể đến trừu tượng, người sáng tác sẽ

biết nâng trình độ của tác phẩm nghệ thuật lên ngày càng cao đáp ứng được

nhu cầu của thị hiếu ngày một phát triển của con người. Nhưng cái hài hòa,

cái đẹp chỉ còn hài hòa nếu không xa rời cuộc sống. Nếu phát triển bằng con

đường xa rời cuộc sống, nghệ thuật sẽ khô cứng và trừu tượng. Cũng như

vậy, cần giải thích cho được cái hài hòa của những "mốt", những tiện nghi mà

Page 118: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

thoạt nhìn chỉ thấy vẻ kỳ cục của nó. Ở đây cần có sự nhạy cảm và minh mẫn

về cái hài hòa để khỏi lẫn lộn vàng thau.

Về mặt thẩm mỹ, cũng cần chú ý đến quy luật chi phối, tác động lẫn

nhau giữa nội dung và hình thức. Vai trò chủ đạo của nội dung là điều tất yếu,

nhưng hình thức cũng có sức mạnh tự thân của nó, nếu không thì cần gì đến

hoạt động của mốt, cần gì những đội quân nhạc, cần gì những tấm huân

chương, hay những quân phục chính quy... Không thể hiểu máy móc thô thiển

theo lối: tóc tai quần áo là hình thức, đạo đức tư cách là nội dung, từ đó lấy

tóc tai để quy ra tư tưởng, đạo đức. Kinh nghiệm công tác văn hóa giáo dục ở

nước ta và nước ngoài cho thấy lối suy luận này đã đưa đến nhiều sự lầm lẫn

đáng tiếc. Nhiều trường hợp, sự suy đồi về đạo đức lại không bắt đầu từ tóc

dài tóc rối mà lại bắt đầu từ bộ tóc ngắn gọn gàng nghiêm chỉnh. Khi ta nhấn

mạnh vai trò quyết định của nội dung, thì lại quên mất vai trò độc lập tương

đối của hình thức, nghĩa là không phải lúc nào hình thức cũng chịu thuần

phục nội dung: có nhiều khi nó có ngôn ngữ riêng, không dễ dàng nhận ngay

ra được. Khi ta sử dụng bộ lông con hổ, đâu phải ta có tính ác.

Qua một số điều phân tích trên, ta thấy thứ quy luật nào của thị hiếu

thẩm mỹ cũng có hai mặt, hai chiều hướng tích cực và tiêu cực và sức mạnh

của hai chiều hướng đó đều rất lớn. Mỗi một cộng đồng, một nhóm, do mục

đích riêng của mình, đều khai thác một trong hai chiều hướng đó. Trong việc

xây dựng tư tưởng của tình cảm mới cho con người, chúng ta cần nghiên cứu

những quy luật trên trong sinh hoạt thẩm mỹ khai thác sức mạnh của nó theo

chiều hướng tích cực.

5) Để có một thị hiếu tốt.

Tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ là nét biểu hiện độc đáo của bản

chất con người. Ngoài khả năng lao động sáng tạo, ngoài những năng lực,

những phẩm chất về đạo đức thì tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ đã làm cho bản

chất con người phong phú thêm rất nhiều. Nhưng tình cảm và thị hiếu thẩm

mỹ không phải là cái bẩm sinh, cũng như mọi điều hiền dữ, xấu đẹp ở con

người đều phải kinh qua giáo dục và rèn luyện. Người ta vẫn thường nêu ba

Page 119: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

yếu tố hình thành các phẩm chất của con người, đó là di truyền, giáo dục và

tự rèn luyện. Có người nhấn mạnh mặt này, coi nhẹ mặt khác. Thực ra, cả ba

yếu tố này đều quan trọng, trong đó yếu tố tự rèn luyện có tầm quan trọng đặc

biệt.

Yếu tố di truyền có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát triển

thị hiếu thẩm mỹ. Nền tảng văn hóa chung, sự nhạy cảm trong thưởng thức

cái đẹp và nghệ thuật năng khiếu âm nhạc, hội họa của cha mẹ, của nhiều

đời kế tiếp trong gia đình, có ảnh hưởng rõ rệt đến thế hệ sau. Tuy vậv, yếu

tố di truyền chỉ là một tiền đề, một điều kiện đầu tiên, chưa đưa dến sự quyết

định tạo ra một năng lực thẩm mỹ. Cần phải có yếu tố giáo dục của xã hội,

của nhà trường và gia đình, thì những yếu tố di truyền, như những cái mầm

non đó mới lớn lên được. Giáo dục có vai trò rất lớn. Có khi cái mầm ấy về

năng lực đã có rồi nhưng không gặp được hoàn cảnh giáo dục tốt, cái mầm

đó bị thui chột, tàn lụi hoặc lớn lên theo chiều hướng xấu. Có những trẻ em từ

nhỏ khả năng nghệ thuật đã chớm nở nhưng do thiếu điều kiện để phát triển

nên cuối cùng lớn lên không còn khả năng đó nữa, hoặc bị ảnh hưởng của

hoàn cảnh xấu, phát triển những thị hiếu xấu, méo mó lệch lạc. Yếu tố giáo

dục vì thế đã trở thành yếu tố chủ đạo đối với sự phát triển của con người.

Nhưng dù có di truyền hay giáo dục mà bản thân con người không nỗ lực,

không tự tu dưỡng thì cũng không thể phát triển năng lực thẩm mỹ. Những

bậc thiên tài về khoa học hay nghệ thuật đã trải qua biết bao sự nỗ lực rèn

luyện gian khổ và đã từng khẳng định: thiên tài chỉ là kết quả của lao động.

Vậy đối với thị hiếu thẩm mỹ, nên chú ý giáo dục và rèn luvện như thế

nào?

Trước hết, nên hình dung cụ thể cấu tạo của thị hiếu thẩm mỹ có ba

chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Chiều cao của tư tưởng, chiều

rộng của sự hiểu biết nhiều mặt và chiều sâu của nhận thức, cảm xúc. Một thị

hiếu được phát triển đầy đủ bao giờ cũng phát triển cân đối cả ba phương

diện đó. Ngược lại một thị hiếu hình thành không cân đối sẽ là thị hiếu nghèo

nàn lệch lạc, méo mó.

Page 120: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Trong lúc giáo dục và rèn luvện thị hiếu thẩm mỹ, cũng như trong giáo

dục con người nói chung, yêu cầu đầu tiên là giáo dục lý tưởng thẩm mỹ tiến

bộ, đó là chiều cao của thị hiếu. Việc rèn luyện lý tưởng thẩm mỹ tất nhiên lệ

thuộc vào sự rèn luyện con người. Tất cả những nghệ sĩ sáng tác hay những

công chúng thưởng thức nghệ thuật với lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp, đã tạo ra

một lối sống đẹp, một nền nghệ thuật tiên tiến. Sự trùng hợp về lý tưởng xã

hội, đưa đến sự tri âm, tri kỷ trong lý tưởng thẩm mỹ. Tầm cao của lý tưởng

thẩm mỹ sẽ giúp người ta sáng mắt sáng lòng, biết lựa chọn, biết hướng cảm

tình về phía những cái đẹp chân chính, những tác phẩm có giá trị nhân đạo

của quá khứ cũng như hiện tại, những tinh hoa văn hóa văn nghệ của dân tộc

và của nhân loại.

Nói đến một thị hiếu thẩm mỹ có chiều rộng, là nói đến sự hiểu biết

nhiều mặt phong phú về đời sống, về văn hóa khoa học, về nghệ thuật, để

làm nền tảng cho nhận thức thẩm mỹ.

Chỉ xem việc tổ chức nơi ăn chốn ở cũng đủ đánh giá được trình độ

văn hóa thẩm mỹ và hiểu được tính cách của một con người. Đọc sách của

Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, như trong Tắt đèn và Bước đường cùng,

ta thấy các nhà văn này đã miêu tả căn nhà của hai địa chủ Nghị Quế và Nghị

Lại. Những sự bày biện, những đồ dùng và tranh ảnh trong nhà bộc lộ rõ tính

cách "trưởng giả học làm sang", ngu dốt nhưng lại rất hợm hĩnh của những

tay trọc phú này.

Trong vốn tri thức cần thiết giúp cho sự hiểu biết rộng, thì tri thức về

nghê thuật có ý nghĩa trực tiếp nhất trong việc hình thành thị hiếu thẩm mỹ.

Trước hết là học tập các môn nghệ thuật, kiên trì rèn luyện các giác quan và

trau dồi năng khiếu, rèn luyện sự nhạy cảm trong khi tiếp xúc với cái đẹp và

nghệ thuật. K. Marx đã từng nói: "Muốn thưởng thức nghệ thuật thì phải được

giáo dục về mặt nghệ thuật”, "khiếu âm nhạc của con người chỉ do âm nhạc

thức tỉnh, bản nhạc hay nhất cũng không có ý nghĩa đối với cái tai không hiểu

âm nhạc". Có nghĩa là khả năng thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật không

phải chỉ do trời phú cho, mà còn phải kinh qua học hỏi rèn luyện.

Page 121: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Sự hiểu biết hạn chế về nghệ thuật cản trở rất nhiều trong việc tiếp thu

toàn bộ những biểu hiện khác nhau của cái đẹp cũng như kho tàng phong

phú của văn hóa nghệ thuật trong và ngoài nước. Nhất là đối với những thể

loại nghệ thuật như tiểu thuyết, nhạc không lời, kịch hiện đại v.v... cần có trình

độ văn hóa và nghệ thuật ở mức độ nhất định mới hiểu hết nội dung của nó.

Cần phải biết đặc điểm của từng loại hình nghệ thuật, ngôn ngữ riêng của

từng loại nghệ thuật và nhất là lịch sử của các trào lưu, trường phái nghệ

thuật khác nhau, của các tác giả khác nhau. Muốn có được những hiểu biết

đó về nghệ thuật, điều trước tiên phải học văn hóa, phải xóa nạn mù chữ,

phải nâng cao trình độ văn hóa phổ thông.

Tất nhiên, trình độ học thức chỉ là cư xử đầu tiên, chưa phải quyết định

trình độ của thị hiếu thẩm mỹ, vì trong thực tế một số những người có học

thức cao nhưng thị hiếu thẩm mỹ vẫn nghèo nàn hay méo mó, lệch lạc. Vậy ta

có thể nói chiều rộng của thị hiếu thẩm mỹ chính là sự hiểu biết phong phú

của con người về cuộc sống, về văn hóa, khoa học và nhất là về nghệ thuật.

Ngoài chiều cao của lý tưởng, chiều rộng của hiểu biết, thị hiếu thẩm

mỹ còn thể hiện ở chiều sâu của nó. Trong thưởng thức cái đẹp và nghệ thuật

tư tưởng tình cảm đúng dắn và sự hiểu biết nhiều mặt vẫn chưa đủ. Cái clẹp

và nghệ thuật còn đòi hỏi sự sâu sắc. Trong sáng tạo cũng như thưởng thức

cái dẹp và nghệ thuật, người ta thường nói đến tính chất độc đáo, tính chất

gạn lọc và hàm súc, tính chất tinh tế và sâu sắc. Sự tinh tế và sâu sắc chính

là kết quả của sự học hỏi rèn luyện lâu dài. Mặt khác, nó cũng là bản lĩnh của

mỗi người về mặt tinh thần, tạo nên nét riêng biệt trong tính cách của người

đó.

Trong bối cảnh thế giới hiện đại, trong quá trình đổi mới xã hội, giáo

dục thẩm mỹ là một sự nghiệp lâu dài nhưng cấp bách, đầy khó khăn phức

tạp nhưng thật sự cao đẹp. vì đây là sự nghiệp gìn giữ và phát huy những giá

trị quý giá nhất của con người, của dân tộc và của nhân loại.

Page 122: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chu Quang Tiềm. Tâm lý văn nghệ. NXB. Thành phố Hồ Chí Minh,

1991.

2. Đỗ Huy, Cái đẹp – một giá trị. NXB Thông tin lý luận, H. 1984.

3. Đỗ Văn Khang, Lịch sử Mỹ học, NXB Văn Hóa, H. 1983.

4. Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy, Mỹ học Mác-Lênin. NXB ĐH và THCN, H.

1985.

5. Hoài Lam. Về biện chứng của đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật. NXH

Thông tin - NXH Trẻ, 1991.

6. Lê Hữu Khải, Thẩm Mỹ học. NXB. Khai trí. S. 1973.

7. Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Lâm Vinh, Huỳnh Như Phương. MỸ học đại

cương. NXB Văn hóa Thông tin. H. 1994.

8. Lukin lu., Xcacherơsicốp V. Nguyên lý Mỹ học Mác -Lênin. NXB Sách

giáo khoa Mác - Lênin. H. 1984.

9. Nguyễn Văn Xung. Thẩm mỹ học thông khảo. NXB Lửa thiêng, S.

1974.

10. M. Ovsannikov (chủ biên). Mỹ học Marx - Lênin. NXB Văn hóa. H.

1987.

11. Tạ Văn Thành, Nhập môn Mỹ học, Đại Học Mở - Bán Công, Tp

HCM 1995.

12. Vưgốtxki L., Tâm lý học nghệ thuật. NXB KHXH, H. 1995.

Người soạn: TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG.

MỤC LỤC

Chương 1. MỸ HỌC LÀ GÌ?

Chương 2. Ý THỨC THẨM MỸ

Page 123: MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG - saomaidata.orgsaomaidata.org/.../151.MyHocDaiCuong-LeNgocTra.docx  · Web viewmỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. mỸ hỌc ĐẠi cƯƠng. lÊ ngỌc trÀ (chủ

Chương 3. CÁC PHẠM TRÙ THẨM MỸ

Chương 4. NGHỆ THUẬT NHƯ MỘT LĨNH VỰC THẨM MỸ

Chương 5. CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT

Chương 6. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ

---//---

MỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG

LÊ NGỌC TRÀ (Chủ biên)

LÂM VINH - HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

CHỊU TRÁCH NHIỆM BIÊN SOẠN

Chương một, chương hai: HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Chương ba, chương bốn: LÊ NGỌC TRÀ

Chương năm, chương sáu: LÂM VINH

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN – NĂM 1994

Chịu trách nhiệm xuất bản: QUANG HUY

Biên tập: PHAN THUẬN THẢO

Bìa và trình bày sách: TRẦN NHẬT THU

Sửa bản in: CHÂU KHOA

In 1.000 cuốn khổ 13 x 19cm tại Xưởng in Tuần báo Văn nghệ - TP. Hồ Chí

Minh. Giấy xác nhận đăng ký đề tài xuất bản số: 41CT/VHTT. CXB cấp ngày

17/5/94. In xong và nộp lưu chiểu tháng 5-1994.