Upload
trinhthien
View
214
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
DẠY HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG
DẠY HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG
Tác giả: Phan Trọng Ngọ
MỞ ĐẦU
Từ trước tới nay, trong lí luận dạy học thường có hai xu hướng: Một số
nhà nghiên cứu cố gắng xây dựng hệ thống lí luận khái quát và trừu tượng về
dạy học. Điều này dễ làm nản lòng những người có thói quen ngại thao tác
hoá. Một số khác thiên về việc cung cấp cho giáo viên các chỉ dẫn cụ thể theo
phương châm “hãy làm đi, tại đây và bây giờ”. Điều này cũng dễ gây ra trạng
thái khó chịu đối với những ai có thói quen muốn biết “ngọn nguồn lạch sông”.
Tài liệu này được biên soạn nhằm mục tiêu hướng đến thoả mãn các nhu cầu
nêu trên của giáo viên. Vì vậy nội dung của tài liệu được cấu trúc thành hai
vấn đề lớn: Phần đầu gồm 4 chương, giới thiệu khái quát về dạy học, các lí
thuyết tâm lí học về dạy học và các mô hình dạy học hiện nay; những vấn đề
chủ yếu về quá trình dạy học và phương pháp dạy học. Những ai quan tâm
nhiều đến lí luận dạy học có thể tham khảo phần này. Phần hai gồm 10
chương, 8 chương đầu giới thiệu các phương pháp dạy học hiện đang được
dùng trong nhà trường hiện nay. Những ai quan tâm tới kĩ thuật tiến hành các
phương pháp dạy học có thể coi đây là những gợi ý hữu ích. Chương 13 giới
thiệu phương pháp tổ chức một khoá học ngắn ngày, với dụng ý giúp bạn đọc
có hiểu biết tối thiểu về cách tổ chức một khoá học theo dự án. Chương 14
bàn riêng về cách thức sử dụng phong cách và quyền lực của người giáo viên
trong dạy học, với dụng ý là sự vận dụng các thành tựu của khoa học tổ chức
vào lĩnh vực dạy học – Một lĩnh vực hiện còn ít được giới nghiên cứu và các
giáo viên quan tâm.
Mặc dù cuốn sách được viết ra với sự trăn trở, tìm tòi nhiều năm của
tác giả, nhưng chắc chắn còn nhiều điểm chưa làm hài lòng người đọc. Tác
giả xin được lượng thứ trước và mong nhận được sự góp ý.
Tác giả
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ DẠY HỌC
1.1. KHÁI NIỆM HỌC TẬP1.1.1. Học là gì?
Để tồn tại và phát triển, cá nhân cần có khả năng thích ứng với sự thay
đổi của môi trường sống. Muốn vậy, cá nhân đó phải chuyển hoá được
những kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm của riêng mình, tức là phải học.
Vậy học là gì?
Thuật ngữ kinh nghiệm ở đây, nói chung trong cả tài liệu này thường
được hiểu theo nghĩa chung nhất, đó là năng lực người (bao gồm cả hiểu
biết, thái độ, giá trị, và kĩ năng ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội).
Một cháu bé, lần đầu tiên thấy cốc nước nóng đang bốc hơi, không biết
đó là nước nóng, nó sờ tay vào cốc nước và bị nóng. Sau vài lần như vậy, khi
thấy cốc nước bốc hơi, cháu chỉ sờ một ngón thôi, có tính chất thăm dò. Ở
đây cháu bé đã thu được một kinh nghiệm, dẫn đến thay đổi hành vi của mình
(1). Trong đợt tham gia phong trào “đi tìm địa chỉ đỏ”, do đoàn TNCS Hồ Chí
Minh phát động, em thiếu niên đã hiểu thêm nhiều về truyền thống cách mạng
của quê hương mình. Niềm tự hào và tình yêu quê hương của em được nhân
lên (2). Em học sinh chưa biết cách tính diện tích hình vuông, hình chủ nhật,
hình bình hành v.v… Sau thời gian tìm hiểu lí thuyết trên lớp và làm bài tập,
dưới sự hướng dẫn của giáo viên, em đã biết cách tính diện tích các hình trên
(3). Một cặp vợ chồng trẻ chưa có kĩ năng chăm sóc và nuôi dạy con. Cả hai
vợ chồng quyết định tham gia một khoá bồi dưỡng kiến thức về dân số, gia
đình và trẻ em. Kết quả, họ không những biết cách nuôi dạy con mà còn hiểu
thêm nhiều điều (4) về cuộc sống vợ chồng. Một chàng trai thấy mình không
hiểu lắm về sức khoẻ sinh sản, liền tích cực tìm đọc tài liệu và nhờ chuyên gia
giải đáp. Kết quả, anh ta đã hiểu rõ nhiều vấn đề (5) trong quan hệ nam nữ,
tình yêu, hôn nhân và gia đình – những điều mà trước đó anh còn rất mơ hồ.
Các trường hợp trên chỉ là số ít trong vô vàn sự kiện của cuộc sống.
Tuy khác nhau về nội dung, nhưng giữa chúng có điểm chung là tạo ra sự
thay đổi về hành vi, về nhận thức và thái độ của cá thể, do sự tương tác giữa
cá thể đó với các yếu tố khách quan. Những thay đổi như vậy là kết quả của
việc học.
Học là quá trình tương tác giữa cá thể với môi trường, kết quả là dẫn
đến sự biến đổi bền vững về nhận thức, thái độ hay hành vi của cá thể đó.
Học có cả ở người và động vật. Nó là phương thức để sinh vật có khả năng
thích ứng với môi trường sống, qua đó tồn tại và phát triển.
Học của cả người và động vật được đặc trưng bởi hai dấu hiệu cơ bản:
Thứ nhất: Học là quá trình tương tác giữa cá thể với môi trường, tức là
có sự tác động qua lại, tương ứng giữa các kích thích từ bên ngoài với các
phản ứng đáp lại của cá thể. Đây chính là điều kiện cần của việc học. Vì nếu
chỉ có sự tác động của các yếu tố bên ngoài mà không có sự phản ứng của
cá thể thì việc học không diễn ra.
Thứ hai: Hệ quả của tương tác dẫn đến sự biến đổi bền vững về nhận
thức, thái độ hay hành vi của cá thể. Nói cụ thể, tương tác phải tạo ra ở cá
thể một kinh nghiệm mới (hoặc củng cố nó), mà trước đó không có trong kinh
nghiệm của loài. Điều này giúp phân biệt tương tác làm thay đổi có tính sinh
học (trời nắng thì cơ thể ra mồ hôi, trời rét nổi da gà, hay tương tác làm bộc lộ
sự trưởng thành của cơ thể v.v. Con chim biết bay, trẻ em biết đứng, biết đi.
Nói tóm lại là những tương tác gây ra phản ứng tất yếu mang tính loài) với
những thay đổi tâm lí, tự tạo của cá thể. Những tương tác dẫn đến sự thay
đổi có tính sinh học, bẩm sinh, mang tính loài không được coi là sự học.
1.1.2. Các phương thức học của con người
Các ví dụ về sự học nêu trên đã cho thấy con người có thể học bằng
nhiều phương thức khác nhau: học ngẫu nhiên; học kết hợp và học tập.
* Học ngẫu nhiên
Học ngẫu nhiên là sự thay đổi nhận thức, hành vi hay thái độ nhờ lặp
lại các hành vi mang tính ngẫu nhiên, không chủ định. Cháu bé thu nhận
được kinh nghiệm không nhúng tay vào nước nóng (1), không phải trước đó
cháu có ý thức tìm hiểu cách ứng xử với nước có nhiệt độ cao, mà là kết quả
của hành vi ngẫu nhiên.
Về cơ chế sinh lí thần kinh, học ngẫu nhiên là sự hình thành các phản
xạ có điều kiện bậc thấp. Vì vậy, còn gọi đó là học phản xạ. Đây là mức học
thấp, phổ biến, có cả ở con người và con vật.
Các hành vi tìm thức ăn, tìm đường đi của con vật (con chim bồ câu,
con chuột) cũng được thực hiện theo cơ chế phản xạ. Trong dân gian, chuyện
Trạng Quỳnh trộm mèo của Chúa Nguyễn và chuyển hành vi của nó từ ăn thịt
sang ăn rau. Trong trò xiếc thú, các con vật làm xiếc v.v… đều là các biểu
hiện của việc học phản xạ.
* Học kết hợp
Trong trường hợp (2), em thiếu niên thu nhận được thái độ tự hào về
quê hương là do em đã tiến hành một hoạt động có chủ ý khác: Hoạt động xã
hội do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động: “Đi tìm địa chỉ đỏ”. Vì vậy học ở
đây là học kết hợp.
Học kết hợp là cá nhân thu được kiến thức, kĩ năng hoặc thái độ nhờ
vào việc triển khai một hoạt động nhất định. Nói cách khác, học kết hợp là
việc học gắn liền và nhờ vào việc triển khai một hoạt động khác.
Học kết hợp là phương thức học phổ biến của con người. Nó là
phương tiện chủ yếu để duy trì sự tồn tại của cá nhân và xã hội, nhất là trong
các xã hội có trình độ sản xuất và khoa học thấp kém. Cá nhân có thể thu
được nhiều kinh nghiệm qua trực tiếp sản xuất, qua giao tiếp và ứng xử hàng
ngày, qua hoạt động xã hội và vui chơi v.v…
Điểm nổi bật của học kết hợp là không có hoạt động riêng với mục đích,
nội dung và phương pháp đặc thù. Các kết quả thu được từ học kết hợp là
các trải nghiệm riêng của cá nhân, nên mặc dù đó là những kinh nghiệm rất
sâu sắc với cá nhân đó, nhưng chúng không có tính phổ biến.
* Học tập
Trong các trường hợp (3), (4), (5) việc học của em học sinh, của đôi vợ
chồng trẻ và của chàng thanh niên được xuất phát từ nhu cầu của cá nhân;
được thực hiện một cách có chủ ý với mục đích định trước và được triển khai
bởi một hoạt động đặc thù – Hoạt động học. Trong những trường hợp như
vậy, ta gọi đó là học tập.
Học tập là việc học có chủ ý, có mục đích định trước, được tiến hành
bởi một hoạt động đặc thù – hoạt động học, nhằm toả mãn nhu cầu học của
cá nhân.
Đặc trưng của học tập và cũng là sự khác biệt lớn giữa nó với học kết
hợp hay học ngẫu nhiên là học tập bao giờ cũng nhằm thoả mãn một nhu cầu
học nhất định, được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi một
hoạt động chuyên biệt. Hoạt động học với nội dung, phương pháp, phương
tiện riêng. Một điểm khác biệt nữa là học tập không chỉ đem lại cho người học
kinh nghiệm cá nhân như trong học kết hợp, mà giúp người học lĩnh hội được
các tri thức khoa học, đã được loài người thực nghiệm và khái quát hoá thành
những chân lí phổ biến. Vì vậy, xã hội càng hiện đại, khoa học càng phát triển
thì học tập càng đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của cá nhân và xã
hội.
Trong thực tiễn, học tập có thể được thực hiện theo nhiều hình thức
phong phú. Trường hợp (3) và (4), học tập của em học sinh và của đôi vợ
chồng trẻ diễn ra theo một quy trình chặt chẽ về không gian, thời gian; có tổ
chức; có kế hoạch và được điều khiển trực tiếp bởi người dạy. Đó là học tập
chính thức. Còn trong trường hợp (5), học tập của chàng thanh niên được
triển khai một cách linh hoạt, ít chịu ràng buộc bởi yếu tố kế hoạch và sự điều
khiển trực tiếp của người dạy. Đó là học tập không chính thức. Học tập chính
thức có phổ rất rộng: từ học tập trên lớp của các cháu mẫu giáo, của học sinh
phổ thông, học viên các trường nghề, đến các khoá bồi dưỡng ngắn ngày về
một chủ đề nhất định: giáo dục gia đình, kĩ năng sống, quản lí doanh nghiệp
v.v… Học tập không chính thức cũng có nhiều hình thức và mức độ: tự
nghiên cứu không có hướng dẫn, học thông qua trao đổi, hội thảo khoa học
v.v… Trong cuộc sống của cá nhân, học tập chính thức và không chính thức
cùng tồn tại đan xen và hỗ trợ nhau.
Có thể tóm tắt những điều trình bày trên bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1. Sơ đồ về học và học tập
Tài liệu này chỉ đề cập đến học tập, chủ yếu là học tập chính thức, tức
là hoạt động học của người học được diễn ra theo phương thức nhà trường.
1.1.3. Các cơ chế học của con người
Phuong thuc hoc
Co muc đich truocCo hoat đong đac thuSP: Tri thuc khoa hocKhong
chinh thuc
Khong co muc đich truocKhong co hoat đong đac thuSP: Kinh nghiem ca nhan
– Nhan thuc– Thai đo– Hanh vi
La qua trinh bien đoi ben vung
Chinh thuc
Ngau nhien; Ket hop
Phuong thuc hoc
Đinh nghia
Hoc
Mặc dù được tiến hành theo nhiều phương thức: khác nhau, nhưng về
cơ bản việc học của con người diễn ra theo 3 cơ chế chủ yếu: tập nhiễm; bắt
chước và nhận thức.
* Học theo cơ chế tập nhiễm
Cơ chế giản đơn, tự nhiên và phổ biến nhất của việc học là sự tập
nhiễm.
Tập nhiễm là sự ảnh hưởng tự phát trong quá trình tương tác lẫn nhau
giữa các cá thể trong nhóm xã hội, dẫn đến hình thành hoặc thay đổi nhận
thức, thái độ và hành vi của các cá thể đó.
Có hai loại tập nhiễm: tập nhiễm loài, mang tính di truyền, sinh học và
tập nhiễm cá thể, được hình thành trong quá trình sống của cá thể đó.
Đặc trưng nổi bật của tập nhiễm là sự tác động và tiếp nhận một cách
vô thức nhằm hình thành những hành vi. Sự tương tác giữa các cá thể không
có chủ ý trước, không có nội dung và phương pháp xác định. Mặc dù vậy, sự
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các các thể theo cơ chế tập nhiễm rất lớn, đặc biệt
là đối với động vật còn non và trẻ em nhỏ. Điều này giải thích vì sao, trong gia
đình và trên lớp học, tính cách và hành vi ứng xử của con trẻ, thành viên các
lớp tuổi nhỏ thường rất giống cha mẹ, cô giáo, cho dù người lớn không chủ ý
dạy bảo chúng như vậy. Nhiều bậc cha mẹ hay phàn nàn về thói quen không
tốt của con mình (nói dối, thiếu nghị lực trong cuộc sống, không ngăn nắp
trong sinh hoạt v.v…) và quả quyết rằng mình không hề dạy những cái đó cho
con cháu. Nhưng họ không để ý, những thói quen đó có ở chính họ và đứa trẻ
đã bị nhiễm phải chúng, ngay từ khi còn nhỏ.
Mức độ ảnh hưởng của cá thể này đến cá thể khác theo cơ chế tập
nhiễm phụ thuộc vào ấn tượng ban đầu, cường độ và độ ổn định của các kích
thích. Ấn tượng ban đầu càng mạnh, sức hấp dẫn càng lớn thì sự tập nhiễm
càng lớn.
Thực nghiệm kinh điển của K. Lorenzơ. Ông cho những con ngỗng con
mới nở tiếp xúc với khuôn mặt người (tạo ra ấn tượng ban đầu), kết quả là
đàn ngỗng con đi theo nhà thực nghiệm mà không theo ngỗng mẹ.
Tập nhiễm có cả ở con vật và con người. Đó là phương thức sơ đẳng
nhất để mỗi cá thể tồn tại và phát triển.
Cơ chế tập nhiễm có vai trò rất lớn trong việc hình thành, duy trì và điều
chỉnh hành vi, thói quen của trẻ nhỏ. Hiệu quả của sự tập nhiễm đối với trẻ
em tuỳ thuộc vào sự gương mẫu của người lớn. Cần nhớ rằng, nguyên tắc
vàng trong dạy học và giáo dục là sự nêu gương của người lớn.
* Học theo cơ chế bắt chước
Bắt chước là cơ chế học, trong đó cá thể lặp lại những ứng xử (hành vi
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ) của cá thể khác, dựa vào hình ảnh tri giác được
về những ứng xử đó hay biểu tượng đã có về chúng.
Cơ chế học bắt chước sẽ được mô tả kĩ hơn trong Chương 2. Ở đây
chỉ nhấn mạnh một số điểm:
Thứ nhất: Cơ chế bắt chước rất phổ biến ở người và động vật đảm bảo
cho cá thể tiếp thu nhiều kinh nghiệm ứng xử trong cuộc sống.
Thứ hai: Mô hình chung của cơ chế bắt chước (cả ở người và động
vật) là: quan sát vật mẫu à ghi nhớ à tạo dựng lại vật mẫu trong đầu à
hành vi lặp lại à củng cố. Trong sơ đồ trên, khâu đầu tiên của bắt chước là
cá nhân quan sát vật mẫu (hành vi, lời nói của người đối diện hay các vật
mẫu khác như tranh ảnh, mô hình v.v…). Những hình ảnh quan sát được lưu
giữ trong trí nhớ và được tạo dựng lại ở trong đầu theo hình ảnh đã tri giác
được, sau đó được chuyển ra ngoài thành hành vi. Hành vi này được đối
chiếu với vật mẫu và được luyện tập nếu nó phù hợp với vật mẫu và được
củng cố. Kết quả là cá nhân có hành vi tương ứng với hành vi mẫu.
Ở trẻ ấu nhi (khi trí nhớ chưa phát triển) thì mô hình bắt chước rất sơ
giản: quan sát vật mẫu à phản ứng lặp lại à củng cố. Sự phản ứng lặp lại
này xảy ra gần như đồng thời với hành vi mẫu (trẻ ấu nhi khóc, cười, mếu
theo người lớn).
Thứ ba: Cơ chế bắt chước có nhiều mức độ: bắt chước dựa trên hình
ảnh quan sát tức thời của trẻ ấu nhi; bắt chước dựa trên hình ảnh tri giác của
trẻ em nhỏ (trẻ em 2 tuổi bắt chước tiếng kêu của con vật hay âm thanh phát
ra từ đồ chơi); bắt chước dựa trên hình ảnh tinh thần (trẻ em 3 tuổi bắt chước
động tác của con vật hay của người lớn khi nó không còn xuất hiện trước
mặt); bắt chước dựa trên biểu tượng đã có và bắt chước dựa trên các khái
niệm (bắt chước của học viên và của người trưởng thành). Bắt chước dựa
trên biểu tượng và các khái niệm đã có về vật mẫu là mức độ bắt chước rất
cao, chúng là cơ sở tâm lí của phương pháp nhận thức sáng tạo: Phương
pháp mô phỏng (phương pháp phỏng sinh học, phương pháp tương tự,
phương pháp trí tuệ nhân tạo v.v…).
Thứ tư: Bắt chước có thể diễn ra một cách không chủ định hay có chủ
định. Bắt chước không chủ định là những bắt chước ngẫu nhiên, vô thức,
không có mục đích định trước, còn bắt chước có chủ định là những bắt
chước có mục đích, có sự chuẩn bị trước về nội dung, phương pháp, phương
tiện. Bắt chước dựa trên quan sát tức thời của trẻ ấu nhi hay sự tập nhiễm là
bắt chước không chủ định, còn bắt chước dựa trên hình ảnh tinh thần, trên
biểu tượng và trên khái niệm thường là bắt chước có chủ định. Trong dạy học
diễn ra cả bắt chước không chủ định và có chủ định của người học. Có rất
nhiều hành vi cũng như tri thức của con người được hình thành theo cơ chế
bắt chước. Tất nhiên, đây không phải là cơ chế học cao nhất và cơ bản của
con người.
* Học theo cơ chế nhận thức
Con vật, đặc biệt là động vật bậc cao, ngoài kinh nghiệm có tính loài
được mã hoá trong các gen sinh học, còn có kinh nghiệm cá thể, tự tạo ra
trong quá trình tương tác với môi trường. Để có những kinh nghiệm này, con
vật có thể học bằng tập nhiễm và bắt chước vô thức.
Con người khác con vật ở chỗ, ngoài hai loại kinh nghiệm trên, còn có
kinh nghiệm xã hội – lịch sử, do chính con người sáng tạo ra và được tích luỹ
trong thế giới đồ vật và thế giới quan hệ xã hội. Để khám phá và chuyển hoá
những kinh nghiệm này của xã hội thành kinh nghiệm riêng, cá nhân không
thể chỉ thực hiện bằng cơ chế tập nhiễm hay bắt chước, mà phải bằng một
hoạt động đặc thù: Hoạt động nhận thức.
Hoạt động nhận thức là quá trình cá nhân thâm nhập, khám phá, tái tạo
lại, cấu trúc lại thế giới xung quanh, qua đó hình thành và phát triển chính bản
thân mình, mà trước hết là các kiến thức về thế giới, các kĩ năng và phương
pháp hành động cũng như những giá trị sống khác.
Nhận thức là hoạt động đặc thù của con người với những đặc trưng cơ
bản sau:
Thứ nhất: Hoạt động nhận thức có mục đích khám phá và tái tạo lại thế
giới, qua đó hình thành và phát triển hiểu biết của con người về thế giới và
phương pháp vận động của nó nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con
người. Thực chất của hoạt động nhận thức là quá trình cá nhân tích cực hoạt
động trong thế giới các sự vật, hiện tượng, thâm nhập vào chúng, khám phá,
phân tích, tái tạo lại, cấu trúc lại chúng bằng các hành động vật chất và tinh
thần, trí óc. Đó là quá trình chuyển hoá từ hành động vật chất, bên ngoài
thành các hành động trí óc bên trong.
Thứ hai: Trong hoạt động nhận thức, con người không trực tiếp tác
động vào đối tượng, mà phải gián tiếp thông qua công cụ (phương tiện).
Những phương tiện này có thể là các vật trong tự nhiên được con người khai
thác và lợi dụng, cũng có thể là các vật phẩm do con người sáng tạo ra, trong
đó, thế giới đồ vật nhân tạo ngày càng chiếm ưu thế và trở thành phương tiện
quyết định trình độ và hiệu quả nhận thức của con người. Vì vậy trong hoạt
động nhận thức bao giờ cũng diễn ra một quá trình kép: Quá trình tìm hiểu và
nắm vững (học cách sử dụng công cụ) và quá trình tìm hiểu, tái tạo lại đối
tượng nhận thức. Hai quá trình này không tách rời nhau mà thường chuyển
hoá lẫn nhau, tạo thành bản chất của quá trình nhận thức. Nhận thức về đối
tượng và cách tiếp cận đối tượng.
Thứ ba: Hoạt động nhận thức diễn ra trong mối tương tác trực tiếp hoặc
gián tiếp giữa các cá nhân. Trong lĩnh vực dạy học đó là mối tương tác giữa
người dạy với người học, giữa người học với người học và giữa người học
với các lực lượng khác.
Thứ tư: Hoạt động nhận thức có nhiều cấp độ, tuỳ thuộc vào sự tham
gia của các chức năng nhận thức: cảm tính và lí tính. Trong nhận thức cảm
tính, vai trò chủ đạo thuộc về cảm giác, tri giác dựa trên nền tảng của các quá
trình trí nhớ, kết hợp với sự tham gia của tư duy tái tạo. Trong nhận thức lí
tính, vai trò chủ đạo thuộc về tư duy logic, tư duy và tưởng tượng sáng tạo.
Việc huy động các mức độ nhận thức của người học có ý nghĩa quyết định tới
chất lượng và hiệu quả của quá trình học tập. Trong thực tiễn, việc dạy học
hiện nay còn thiên về sử dụng cơ chế nhận thức cảm tính, kết hợp với quá
trình trí nhớ và tư duy tái tạo. Vì vậy, chưa thực sự phát huy khả năng tư duy
và tưởng tượng sáng tạo của học viên, thậm chí làm thui chột chúng.
Trên đây là các cơ chế học chủ yếu của con người. Các cơ chế này
không tồn tại riêng rẽ hoặc xếp chồng lên nhau. Chúng đan xen và kế thừa,
giao thoa và hỗ trợ nhau. Vì vậy, trong từng hoàn cảnh dạy và học cụ thể,
người dạy và người học cần khai thác và sử dụng phối hợp chúng cho phù
hợp.
1.2. DẠY VÀ DẠY HỌC1.2.1. Khái niệm dạy
Mỗi cá nhân, muốn tồn tại và phát triển thì phải học. Mặt khác, để tồn
tại và phát triển, xã hội cũng phải truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm
đã được các thế hệ trước sáng tạo và tích luỹ, tức là phải dạy. Cùng với sản
xuất, việc dạy thế hệ sau là hai phương thức cơ bản để xã hội tồn tại và phát
triển.
Dạy là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những kinh
nghiệm mà xã hội đã sáng tạo và tích luỹ được qua các thế hệ.
Dạy và học là hai mặt không thể tách rời của phương thức tồn tại và
phát triển của xã hội và cá nhân. Một mặt là sự tiếp nhận và chuyển hoá
những kinh nghiệm đã có của xã hội thành kinh nghiệm của cá nhân, còn mặt
kia là sự chuyển giao những kinh nghiệm đó từ thế hệ trước đến thế hệ sau.
1.2.2. Các phương thức dạy
Việc dạy cũng có nhiều mức độ và phương thức khác nhau. Tuỳ theo
nội dung kinh nghiệm được truyền thụ và cách thức truyền thụ những kinh
nghiệm đó, ta có hai phương thức dạy phổ biến: dạy kết hợp (dạy trao tay) và
dạy theo phương thức nhà trường (dạy học)
* Dạy kết hợp
Dạy kết hợp là phương thức đơn giản nhất để thế hệ trước truyền lại
cho thế hệ sau những kinh nghiệm của mình.
Người nông dân truyền lại cho con những kinh nghiệm sản xuất đã tích
luỹ được thông qua việc hướng dẫn trực tiếp các hoạt động thực tiễn ngay
trên cánh đồng: cày, cấy, chăm bón, thu hoạch và chế biến nông sản. Bác thợ
cả truyền lại cho người học việc kinh nghiệm và kĩ năng lao động nghề nghiệp
của mình ngay trên công trường, trong xưởng thủ công, ngay trong quá trình
trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm v.v… Người mẹ truyền lại cho con gái kinh
nghiệm của mình về may vá, nội trợ và cách ứng xử với các thành viên trong
gia đình và ngoài xã hội, thông qua hướng dẫn trực tiếp con gái làm những
việc tương ứng. Phương thức truyền thụ như vậy được gọi là phương thức
dạy kết hợp.
Dạy kết hợp là sự truyền thụ những kinh nghiệm cá nhân, thông qua
việc hướng dẫn trực tiếp người học thực hiện các hoạt động thực tiễn. Về
phía người học, đó là phương thức học kết hợp.
Đặc trưng của dạy kết hợp là người dạy truyền lại kinh nghiệm cho
người học một cách trực tiếp theo kiểu cầm tay chỉ việc thông qua hướng dẫn
thực hiện một hoạt động cụ thể. Vì vậy dạy kết hợp còn được gọi là dạy trao
tay.
Ưu điểm của phương thức dạy kết hợp là bằng cách này thế hệ trước
có thể truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm của chính mình. Trong
các trường hợp trên, kinh nghiệm của người nông dân, của bà mẹ là những
trải nghiệm cá nhân mà họ thu được qua thực tiễn lao động sản xuất và ứng
xử xã hội. Vì vậy, những kinh nghiệm này thường rất sâu sắc. Tuy nhiên, do
chưa được thực nghiệm và khái quát khoa học nên chúng chưa trở thành tri
thức có tính phổ biến.
Các thuật ngữ kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm cá nhân cần được
hiểu theo các góc độ khác nhau. Theo tính chất và mức độ khoa học, thì kinh
nghiệm cá nhân cũng là kinh nghiệm xã hội (với tư cách là kinh nghiệm của
các thành viên trong xã hội). Tuy nhiên, đây là kinh nghiệm của từng cá nhân.
Chúng được hình thành qua thực tiễn hoạt động và ứng xử của cá nhân đó.
Những kinh nghiệm này chưa được khái quát trở thành chân lí khoa học. Còn
kinh nghiệm xã hội, là kinh nghiệm của toàn xã hội, được hình thành bằng
con đường nghiên cứu khoa học. Chúng có tính chân thực, ổn định, phổ biến
và khái quát hơn nhiều so với kinh nghệm cá nhân. Theo phương diện quá
trình xã hội hoá thì kinh nghiệm cá nhân là những kinh nghiệm chung của xã
hội (ở bên ngoài cá nhân) được cá nhân tiếp nhận và chuyển hoá thành kinh
nghiệm của riêng mình.
Một lợi thế khác của dạy kết hợp là tính linh hoạt của phương thức dạy.
Nó có thể được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi: trên cánh đồng, trong xưởng thủ
công, trong bếp, ngoài chợ, trong bữa ăn, lúc trò chuyện hay trong lễ hội v.v…
mà không đòi hỏi phải có phương pháp và phương tiện chuyên biệt. Vì vậy,
dạy trao tay là phương thức tất yếu để xã hội duy trì sự tồn tại của mình qua
các thế hệ.
* Dạy theo phương thức nhà trường
Thông qua dạy trao tay, các thế hệ trước có thể truyền lại cho thế hệ
sau những kinh nghiệm của mình để tồn tại. Tuy nhiên, xã hội không chỉ tồn
tại mà còn phải phát triển. Muốn vậy, phải chinh phục tự nhiên và chinh phục
chính bản thân mình. Từ đó xuất hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, mà
sản phẩm là các tri thức khoa học, được hình thành bởi hoạt động nghiên
cứu, thực nghiệm và khái quát khoa học. Đây là những tri thức có bản chất
khác với kinh nghiệm thu được qua trải nghiệm cá nhân. Đồng thời chúng có
tính phổ biến và khái quát cao. Việc truyền thụ những tri thức này không thể
bằng phương thức trao tay mà phải được thực hiện theo quy định có tổ chức
khoa học, được tiến hành bởi một hoạt động chuyên biệt: Hoạt động dạy. Đó
là hoạt động có mục đích, nội dung, phương pháp và phương tiện xác
định.Về phía người học, cũng phải tiến hành hoạt động chuyên biệt: Hoạt
động học. Hai hoạt động này đan xen và gắn bó hữu cơ với nhau, tạo thành
hoạt động dạy học. Việc truyền thụ theo phương thức này được gọi là
phương thức nhà trường.
Để giúp con phân biệt giữa nước và rượu, người cha có thể dạy con
bằng cách ngửi hoặc uống thử, điều này đã có trong kinh nghiệm của ông.
Tuy nhiên, ông không thể dạy con các thành phần và công thức hoá học của
chúng. Vì vậy đối với các loại hoá chất (Axit chẳng hạn), cách dạy của người
cha không đáp ứng được. Ở đây phải có phương thức dạy đặc thù của nhà
trường.
Dạy theo phương thức nhà trường là sự truyền thụ những tri thức khoa
học, những kĩ năng và phương pháp hành động, thông qua hoạt động chuyên
biệt của xã hội: hoạt động dạy. Có thể gọi vắn tắt, dạy và học theo phương
thức nhà trường là hoạt động dạy học. Đây là phương thức chủ yếu để cá
nhân và xã hội phát triển, đặc biệt là các xã hội hiện đại.
Theo cách phân loại trên, việc dạy ở mức độ thấp có thể diễn ra ở cả
người và động vật, còn hoạt động dạy học là mức độ cao và chỉ có ở xã hội
người.
Trong điều kiện tự nhiên, nhiều loài động vật cũng dạy con các hành vi
bắt mồi hay tự vệ. Chẳng hạn, con mèo mẹ dạy con cách bắt chuột. Tuy
nhiên ở động vật không có hoạt động dạy có tính chuyên biệt.
Sự khác biệt giữa dạy trao tay và dạy theo phương thức nhà trường
chủ yếu diễn ra ở nội dung kinh nghiệm được truyền thụ và phương thức
truyền thụ. Một bên (dạy trao tay) là những kinh nghiệm cá nhân riêng lẻ,
những trải nghiệm thực tiễn, một bên (dạy theo phương thức nhà trường) là
tri thức khoa học (cần nhấn mạnh phương thức nhà trường chỉ dạy tri thức
khoa học – không dạy tri thức kinh nghiệm). Trong dạy trao tay, việc dạy và
học được thực hiện kết hợp với hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động
thực tiễn, còn dạy theo phương thức nhà trường được thực hiện bởi các hoạt
động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này tương tác hữu cơ với nhau,
góp phần tạo nên bản chất của quá trình dạy học.
Vai trò và quan hệ giữa hoạt động thực tiễn với dạy trao tay và dạy học
theo phương thức nhà trường rất khác nhau. Cả dạy trao tay và dạy học theo
phương thức nhà trường đều cần có hoạt động thực tiễn, nhưng trong dạy
trao tay hoạt động thực tiễn là bản thể, việc dạy chỉ là phương tiện. Còn trong
dạy học theo phương thức nhà trường, hoạt động dạy và hoạt động học là
bản thể, còn hoạt động thực tiễn là phương tiện để đạt đến mục đích dạy học.
1.2.3. Phân biệt dạy học và giáo dục
Các thầy cô giáo, nhà sư phạm, cán bộ quản lí giáo dục và cả những ai
quan tâm đến dạy học thường gặp những thuật ngữ: dạy học, giáo dục, quá
trình dạy học và quá trình giáo dục. Trong một số văn cảnh nhất định, có thể
sử dụng các thuật ngữ trên một cách linh hoạt, thậm chí đôi khi còn đồng nhất
dạy học với giáo dục, quá trình dạy học với quá trình giáo dục. Tuy nhiên,
trong đa số trường hợp, đặc biệt khi tiến hành thao tác hoá các khái niệm
trên, thì nhất thiết phải phân biệt triệt để các khái niệm tương ứng. Để làm
được việc này nên tuân theo nguyên tắc lịch sử – phát sinh.
Về cội nguồn, trong buổi bình minh của mình, để duy trì sự tồn tại, xã
hội, cũng như đứa trẻ phải sử dụng cơ chế bắt chước để tạo cho mình những
kinh nghiệm ít ỏi nhưng thiết thực đối với cuộc sống. Đó chính là dạy và học.
Sự dạy và học này không khác là bao so với động vật. Khi xã hội phát triển
vốn kinh nghiệm mà loài người sáng tạo và tích luỹ được trở nên phong phú,
sâu sắc và phức tạp, đồng thời xuất hiện sự phân công lao động xã hội, từ đó
xuất hiện hoạt động dạy học, với chức năng cơ bản vẫn là truyền thụ kinh
nghiệm lao động sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, sự phát triển tiếp theo của
xã hội đã dẫn đến phân hoá và cải tổ lại dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu của
xã hội. Dạy học không còn đơn thuần là sự truyền lại những kinh nghiệm lao
động sản xuất và ứng xử xã hội, mà còn phải giúp đỡ toàn diện cho thế hệ
sau hình thành nhân cách của mình. Từ đây xuất hiện sự phân hoá chức
năng của dạy học, nhiều chức năng mới ra đời, trong đó có chức năng giáo
dục. Hoạt động dạy học được chuyên môn hoá, một bộ phận vẫn đảm nhận
chức năng dạy học, bộ phận mới thực hiện chức năng giáo dục. Xã hội càng
phát triển hiện đại, giáo dục càng chiếm tỉ trọng cao trong dạy học nói chung
và càng trở thành chức năng chủ yếu, còn dạy học chỉ là bộ phận, là phương
tiện của giáo dục. Xu thế này càng được bộc lộ rõ ràng trong xã hội hiện đại,
khi mà sự phát triển của khoa học công nghệ, trong đó có công nghệ thông
tin, đã làm cho dạy học nhanh chóng được kĩ thuật hoá, máy móc hoá và đại
chúng hoá; ngược lại, chức năng giáo dục càng trở lên bức xúc và trở thành
vấn đề hệ trọng của xã hội, tới mức giáo dục bao hàm cả dạy học trong đó.
Ngày nay, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng nhất, trong đó có chức năng
dạy học và giáo dục. Như vậy, thuật ngữ dạy học và giáo dục có thể được
hiểu theo cả hai nghĩa rộng và hẹp. Các hoạt động dạy học và giáo dục theo
nghĩa hẹp bao giờ cũng diễn ra theo một quá trình: quá trình dạy học và quá
trình giáo dục.
Nội dung của tài liệu này nói về quá trình dạy học. Cụ thể hơn, chủ yếu
đề cập đến phương pháp dạy học được sử dụng trong nhà trường.
Chương 2. CÁC LÍ THUYẾT TÂM LÍ HỌC VỀ HỌC TẬP VÀ MÔ HÌNH DẠY HỌC
Chương 1 đã đề cập khái quát về dạy và học, trong đó nhấn mạnh tới
các cơ chế học và phương thức dạy học. Chương này sẽ đề cập tới một số lí
thuyết tâm lí học về học tập và mô hình dạy học tương ứng, với tư cách là cơ
sở tâm lí học của việc tổ chức hoạt động dạy học. Nội dung của chương này
tập trung vào một số lí thuyết tâm lí học lớn về học tập hiện nay:
Lí thuyết liên tưởng và mô hình dạy học thông báo.
Tâm lí học hành vi và các mô hình dạy học điều khiển hành vi.
Tâm lí học phát sinh nhận thức và mô hình dạy học hành động khám
phá của học viên.
Các mô hình dạy học dựa trên cơ sở lí thuyết hoạt động tâm lí.
2.1. THUYẾT LIÊN TƯỞNG VÀ MÔ HÌNH DẠY HỌC THÔNG BÁO 2.1.1. Nội dung chính của thuyết liên tưởng
Những ai nhiệt tình cổ vũ cho phương pháp thuyết trình, giảng giải
trong dạy học đều nhận được cơ sở tâm lí từ thuyết liên tưởng.
Thuyết liên tưởng là trường phái triết học – tâm lí học lớn, được bắt
nguồn từ triết học của Aristotle, đặc biệt là từ triết học duy cảm Anh. Các đại
biểu hàng đầu là Thomas Hobbes (1588 – 1679), J.Locke (1632 – 1704),
G.Berkeley (1685 – 1753), D.Hume (1711 – 1776), D.Hartley (1705 – 1757),
J.Mill (1737 – 1836), J.S. Mill (1806 – 1873,) Đ.Ghatti (1705 – 1836),
H.Spenxơ (1820 – 1903).
Có thể nêu tóm lược các luận điểm chính của thuyết liên tưởng:
1. Tâm lí (hiểu theo nghĩa là yếu tố ý thức) được cấu thành từ các cảm
giác. Các cấu thành cao hơn như biểu tượng, ý nghĩ, tình cảm…là cái thứ hai,
xuất hiện nhờ liên tưởng các cảm giác. Nói cách khác, con đường hình thành
tâm lí người là liên kết các cảm giác và các ý tưởng.
2. Điều kiện để hình thành các liên tưởng là sự gần gũi của các quá
trình tâm lí.
3. Sự liên kết các cảm giác và ý tưởng để hình thành ý tưởng mới
không phải là sự kết hợp giản đơn các cảm giác hoặc các ý tưởng đã có, mà
giống như sự kết hợp của các nguyên tố hoá học để tạo thành hợp chất mới,
như Oxy và Hidro kết hợp với nhau tạo thành nước.
4. Các mối liên tưởng bị quy định bởi sự linh hoạt của các cảm giác và
các ý tưởng thành phần được liên tưởng và tần số nhắc lại của chúng trong
kinh nghiệm. Nghĩa là các cảm giác hay ý tưởng sống động hơn, thường
xuyên hơn thì tạo ra các cảm giác và các ý tưởng mạnh hơn các cảm giác và
các ý tưởng yếu hơn, ít thường xuyên hơn.
5. Các liên tưởng được hình thành theo một số quy luật: quy luật tương
tự. Ý thức của chúng ta dễ dàng đi từ một ý tưởng này sang một ý tưởng
khác tương tự với nó; quy luật tương cận: Khi ta nghĩ đến một vật, ta có
khuynh hướng nhớ lại những vật khác đã trải qua ở cùng một nơi và cùng
một thời gian: Nghĩ đến món quà, nhớ đến người tặng quà. Có thể diễn ra
tương cận theo không gian, thời gian và theo tương phản giữa các cảm giác
và ý tưởng; quy luật nhân quả: Khi có một ý tưởng về kết quả thường xuất
hiện các ý tưởng là nguyên nhân dẫn đến kết quả đó. Trong các quy luật trên,
quy luật nhân quả có vai trò đặc biệt quan trọng trong các quá trình nhận thức
và phát triển trí tuệ.
Sự phát triển nhận thức là quá trình tích luỹ các mối liên tưởng. Sự
khác biệt về trình độ nhận thức được quy về số lượng các mối liên tưởng, về
tốc độ hoạt hoá các liên tưởng đó.
6. Sau này, thuyết liên tưởng dựa vào cơ chế phản xạ có điều kiện do
P.I. Pavlov phát hiện, các liên tưởng được giải thích về phương diện sinh lí
thần kinh là sự hình thành và khôi phục các đường mòn thần kinh nhờ các
kích thích.
2.1.2. Mô hình dạy học thông báo
Dạy học thông báo có thể là mô hình dạy học cổ điển nhất. Trong đó
nội dung học tập là những tri thức có sẵn, được cấu trúc theo các mối liên hệ
nhất định. Người dạy sử dụng các phương pháp khác nhau để thông báo cho
người học các mối liên hệ có trong nội dung học tập và giúp người học hình
thành, củng cố, lưu giữ và khôi phục các kinh nghiệm đã có.
Dạy học theo mô hình thông báo có những đặc trưng dễ nhận thấy:
Thứ nhất: Mục tiêu và nội dung dạy học là cung cấp cho người học
những tri thức cho sẵn, được cấu trúc theo luật liên kết nhất định.
Thứ hai: Cơ chế học là sự hình thành, củng cố, lưu giữ và khôi phục
các mối liên tưởng. Người học sử dụng các giác quan để thu nhận các hình
ảnh cảm tính; sàng lọc và liên kết các hình ảnh mới và cũ để tạo ra ý tưởng;
sử dụng các cơ chế của trí nhớ để lưu giữ hình ảnh được tri giác và các kinh
nghiệm đã có nhờ liên tưởng, khôi phục các kinh nghiệm đó trong tình huống
cần thiết.
Thứ ba: Dạy học là sự tác động vào các giác quan và trí nhớ của người
học; cung cấp các sự kiện, các hình ảnh, các tri thức để người học có các
cảm giác, hình thành các hình ảnh; tạo ra các kích thích để học viên xác lập
các mối liên tưởng; giúp người học ôn luyện, củng cố và khôi phục các mối
liên tưởng. Phương châm dạy học ở đây là cung cấp càng nhiều hình ảnh, sự
kiện cho người học càng tốt, giúp người học có nhiều cơ hội để tạo ra nhiều
mối liên tưởng.
Thứ tư: Quan hệ người dạy – người học trong dạy học là quan hệ chủ
thể – đối tượng. Trong đó, người dạy chủ động sử dụng các phương pháp
dạy tác động trực tiếp vào các giác quan và trí nhớ của người học; chủ động
cung cấp cho người học các sự kiện có sẵn, được liên kết với nhau theo luật
cho trước. Người học thụ động tiếp nhận các thông tin từ người dạy và thiết
lập các mối liên tưởng theo yêu cầu của người dạy. Qua đó hình thành các
kinh nghiệm, phát triển các giác quan, trí nhớ và tư duy tái tạo.
Ngày nay, do sự phát triển của công nghệ thông tin, dạy học thông báo
được phát triển theo hướng mô hình của lí thuyết thông tin. Trong đó mối
quan tâm của nhà sư phạm là chất lượng của các thông tin đầu vào (các tri
thức cần dạy cho người học); quá trình xử lí, liên kết các thông tin, lưu giữ và
khôi phục thông tin; các phản ứng của người học ở đầu ra. Quá trình xử lí,
liên kết, lưu trữ và khôi phục thông tin liên quan trực tiếp tới cơ chế làm việc
của trí nhớ và tư duy của người học. Vì vậy, mối quan tâm hàng đầu của các
nhà sư phạm theo hướng thông tin là các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động trí nhớ và tư duy của người học trong dạy học.
2.2. THUYẾT HÀNH VI VÀ CÁC MÔ HÌNH DẠY HỌC ĐIỀU KHIỂN HÀNH VI
Không một giáo viên nào không ít nhiều sử dụng cơ chế điều khiển
hành vi vào dạy học và giáo dục học sinh. Một lời khen câu trả đúng của học
trò; sự trừng phạt hành vi nghịch trong giờ học; các biện pháp khắc phục tính
nhút nhát hoặc đi học muộn của học sinh v.v… Những việc làm trên và vô số
hành động dạy học khác của giáo viên đều được đề cập trong các mô hình
dạy học điều khiển hành vi.
2.2.1. Luận điểm cơ bản của Thuyết hành vi
Thuyết hành vi là một trường phái tâm lí học xuất hiện ở Mĩ từ đầu thế
kỉ XX và phổ biến trong suốt thế kỉ cho đến nay. Đây là trường phái tâm lí học
có nhiều cành, nhánh rất khác nhau và được liên kết bởi một số sợi dây:
Thứ nhất: Đối tượng nghiên cứu, hình thành, kiểm soát và điều chỉnh là
các hành vi của cá thể. Đó là các phản ứng có thể quan sát và lượng hoá
được từ bên ngoài, chứ không phải là các hiện tượng ý thức bên trong.
Thứ hai: Có mối quan hệ nhân quả giữa kích tích (S– Stimulus) của môi
trường với sự hình thành các phản ứng (R– Response) của cá thể. Nguyên lí
chung là các kích thích nhất định sẽ tạo ra ở cá thể các phản ứng tương ứng.
Công thức tổng quát ở đây là: Kích thích à Phản ứng (Sà R). Vì vậy,
nguyên tắc nghiên cứu và hình thành các hành vi của cá thể được bắt đầu từ
nghiên cứu và hình thành các kích thích từ môi trường bên ngoài.
Thứ ba: Sự hình thành, điều chỉnh và làm mất các hành vi của cá nhân
thường bị chi phối bởi một số yếu tố, một số quy luật. Nội dung các yếu tố,
các quy luật này được phát biểu và khai thác theo nhiều góc độ, bởi các lí
thuyết khác nhau.
Chuyển vào trong lĩnh vực dạy học, định nghĩa khái quát nhất về học
tập, đó là biểu hiện của phương pháp hành vi (ứng xử) nhất định trong điều
kiện tác động của các kích thích cụ thể. Có 4 kiểu học tập dựa trên cơ sở các
kiểu điều khiển hành vi:
- Dạy học điều kiện hoá cổ điển (Kiểu S).
– Dạy học hành vi nhận thức.
- Dạy học hành vi tạo tác (Kiểu R).
- Dạy học hành vi quan sát xã hội.
- Dạy học nhận thức hành vi.
Dưới đây là tóm tắt các mô hình dạy học trên.
2.2.2. Mô hình dạy học điều kiện hoá cổ điển
Dạy học theo điều kiện hóa cổ điển có cơ sở lí luận là thuyết hành vi cổ
điển của J. Watson (1878 – 1958).
* Cơ sở sinh lí của việc hình thành hành vi là các phản ứng trong phản
xạ có điều kiện cổ điển do I.P. Pavlov phát hiện. Có thể mô tả ngắn gọn cơ
chế hình thành phản xạ có điều kiện: Từ một kích thích không điều kiện dẫn
đến một phản ứng không điều kiện của cơ thể. Khi có một kích thích khác đi
cùng với kích thích không điều kiện và được củng cố nhiều lần, thì đến một
lúc nào đó, sự xuất hiện riêng của kích thích đi kèm cũng dẫn đến phản ứng
vô điều kiện. Khi đó, kích thích đi cùng được gọi là kích thích có điều kiện,
còn phản ứng được nảy sinh do kích thích có điều kiện được gọi là phản ứng
có điều kiện. Chẳng hạn (theo I.P. Pavlov), đưa thức ăn (kích thích không
điều kiện) vào miệng con chó đang đói, sẽ làm con chó chảy nước bọt (phản
ứng không điều kiện). Cùng với việc đưa thức ăn cho con chó, người ta rung
chuông (kích thích có điều kiện), sau một số lần, thì chỉ cần nghe tiếng
chuông, con chó cũng chảy nước bọt. Thuật ngữ cổ điển dùng để phân biệt
với phản xạ có điều kiện do B. Skinner phát hiện, được gọi là phản xạ tạo tác.
Nguyên lí chung của dạy học theo điều kiện hóa cổ điển là phản ứng R
chỉ xuất hiện khi có tác động của một kích thích S nhằm đáp lại kích thích đó.
Nói cách khác, một kích thích bất kì sẽ mang lại một hành vi tương ứng. Công
thức của nó là: Sà R, trong đó có thể phân giải kích thích S thành các thành
phần S1à Sn và sẽ có R1à Rn tương ứng. Logic quá trình này như sau:
S1à Rl
……….
Sn à Rn
S à R
Từ đây, dạy học được quy về việc phân tích và hình thành các kích
thích theo lôgic: S1à Sn, qua đó, sẽ kì vọng có các phản ứng Rl à Rn mong
muốn.
Một ví dụ đơn giản: Để khắc phục tính nhút nhát, không dám trình bày
vấn đề trước đám đông của một học viên, giáo viên tạo ra một chuỗi các kích
thích, chẳng hạn: a) Đề nghị học viên đó ngồi tại chỗ đọc một vấn đề được
chuẩn bị trước; b) Ngồi tại chỗ nói vấn đề được chuẩn bị trước; c) Đứng tại
chỗ đọc vấn đề đã được chuẩn bị; d) Đứng tại chỗ nói về vấn đề đã được
chuẩn bị; e) Đứng trước lớp đọc vấn đề đã được chuẩn bị; g) Đứng trước lớp
trình bày về vấn đề đã được chuẩn bị; h) Đứng trước lớp trình bày vế vấn đề
nào đó chưa được chuẩn bị.
* Việc hình thành và củng cố các hành vi được điều khiển trực tiếp bởi
các kích thích. Việc duy trì hoặc làm mất các hành vi đã có bằng cách củng cố
hoặc làm mất các điều kiện tạo ra kích thích: Nói cách khác việc củng cố các
hành vi được thực hiện qua việc ôn tập thường xuyên các hành vi đó. Trong
mô hình dạy học này không tính đến yếu tố chủ thể của người học như các
kinh nghiệm đã có, yếu tố bẩm sinh, tư chất ở người học v.v…
* Các loại điều kiện hóa cổ điển thường được vận dụng trong dạy học:
Khái quát hoá: Hành vi được hình thành bởi kích thích tương tự với kích thích
có điều kiện ban đầu (Nếu đã học được phản ứng đèn đỏ – dừng lại, thì sẽ có
xu hướng đi chậm lại với các kích thích có màu đỏ); phân biệt: hình thành các
phản ứng khác nhau với những kích thích gần nhau (phân biệt 21 với 12, b
với d v.v…); sự dập tắt phản xạ: làm mất phản ứng đã được hình thành bằng
cách giảm hoặc làm mất kích thích không điều kiện (kích thích có điều kiện
không được củng cố).
Mô hình dạy học theo điều kiện hoá cổ điển rất hữu hiệu để giúp người
học học được các phản xạ đơn giản nhằm tạo ra sự thích ứng trong cuộc
sống. Tuy nhiên, hạn chế của mô hình là quá nhấn mạnh tác động trực tiếp từ
phía người điều khiển nên yếu tố chủ thể của người học đã bị bỏ qua, người
học không phải là một chủ thể chủ động hoạt động trong môi trường dạy học,
mà là các cá thể thụ động đối với các áp lực của môi trường.
2.2.3. Mô hình dạy học tạo tác của B. F. Skinner
Trong sự nỗ lực khắc phục tính máy móc cực đoan của mô hình dạy
học theo lí thuyết hành vi cổ điển Watson, đã xuất hiện nhiều mô hình điều
khiển hành vi có tính mềm dẻo hơn, trong số đó đáng chú ý là mô hình của
B.F.Skinner (1904 – 1990).
B.F.Skinner và lí thuyết hành vi tạo tác của ông từ lâu đã nổi tiếng khắp
thế giới. Nhiều nghiên cứu và đề xuất của ông đến nay vẫn có giá trị kĩ thuật
rất lớn trong dạy học.
2.2.3.1. Hành vi tạo tác
B.Skinner không đồng ý về mô hình dạy học cổ điển. Ông cho rằng, cả
động vật và người có ba dạng hành vi: hành vi không điều kiện (có cơ sở là
phản xạ bẩm sinh), hành vi có điều kiện cổ điển và hành vi tạo tác. Trong đó
hành vi tạo tác là chủ yếu.
Hành vi tạo tác là hành vi được hình thành từ một hành vi trước đó của
chủ thể, do tác động vào môi trường và được củng cố, đóng vai trò là tác
nhân kích thích.
Cơ sở sinh học của hành vi tạo tác là phản xạ tạo tác.
Một thực nghiệm đơn giản: Cho con vật đang đói (chẳng hạn chim bồ
câu), vào trong cái lồng không hoàn toàn tách biệt với môi trường bên ngoài,
trong đó có những hạt màu sắc khác nhau: màu đỏ là những viên sỏi, còn
màu xanh là hạt đỗ. Con chim được tạo mọi điều kiện tìm hiểu hộp và thực
hiện các phản xạ mổ. Lúc đầu, do ngẫu nhiên, chim mổ hạt đỏ – viên sỏi,
không ăn được, nó nhả ra; mổ hạt màu xanh – hạt đỗ – ăn được. Cứ như
vậy, các phản ứng mổ hạt màu xanh (phản ứng đúng) được củng cố (ăn
được), còn phản ứng mổ hạt màu đỏ (phản ứng sai), bị loại trừ. Xu hướng
củng cố phản ứng đúng được tăng cường đến lúc nào đó, chim đạt được
phản ứng đúng: Chỉ mổ hạt màu xanh. Trong loại phản xạ này, yếu tố củng cố
(các phản ứng đúng) là tác nhân quan trọng, giúp con vật chủ động tạo ra các
phản ứng tiếp theo. Điều B.F.Skinner lưu ý mọi người là trong các hành vi của
động vật thực nghiệm (mổ hạt của chim bồ câu) có tác động đến môi trường
xung quanh và là công cụ lấy thức ăn.
Tuy cũng là phản xạ có điều kiện, nhưng phản xạ tạo tác khác phản xạ
có điều kiện cổ điển ở chỗ: Phản xạ tạo tác đáp ứng nhu cầu của chủ thể và
thể hiện tính tích cực, chủ động của hành vi cơ thể đối với kích thích của môi
trường.
Trong sơ đồ cổ điển S à R, các kích thích (S) đóng vai trò tín hiệu, còn
trong sơ đồ tạo tác, vai trò này được chuyển vào trong hành vi củng cố. Nói
cách khác, trong sơ đồ hành vi tạo tác, hành vi củng cố (do cá thể tự tạo ra)
đóng vai trò kích thích (S) trong sơ đồ S à R. Vì vậy, có thể diễn đạt mối
quan hệ này bằng công thức S à r à s à R.
Một khác biệt nữa giữa hành vi có điều kiện cổ điển với hành vi tạo tác
là hành vi tạo tác tác động đến môi trường bao quanh cơ thể, trong khi hành
vi có điều kiện cổ điển không có điều đó.
Cũng cần nhấn mạnh thêm là trong phản xạ có điều kiện cổ điển, yếu tố
nhu cầu của cá thể không được tính đến. Ngược lại, trong phản xạ tạo tác,
yếu tố nhu cầu quyết định việc nảy sinh phản ứng. Nói cách khác, trong mô
hình dạy học tạo tác, yếu tố nhu cầu của chủ thể được tôn trọng.
Như vậy, mặc dù cùng là công thức Kích thích – Phản ứng, nhưng
trong sơ đồ hành vi tạo tác, tính chất chủ động và tự do tác động của cá thể
đối với môi trường lớn hơn rất nhiều so với sơ đồ cổ điển. Điều này đã dẫn
B.F.Skinner đến kết luận, hành vi tạo tác đặc trưng cho việc học tập hàng
ngày. Điều này cũng giải thích lí do vì sao nhiều nhà nghiên cứu lí luận dạy
học coi sơ đồ hành vi có điều kiện cổ điển là cơ sở của đường lối dạy học
truyền thống, hướng vào người dạy, còn sơ đồ hành vi tạo tác là cơ sở của
đường lối dạy học tích cực, hướng vào người học.
2.2.3.2. Một số đặc trưng của dạy học hành vi tạo tác
* Hành vi tạo tác. Đặc trưng nổi bật trong dạy học hành vi tạo tác là việc
cá thể tự tạo ra hành vi cho mình. Nói theo ngôn ngữ dạy học là học viên tự
mình tạo ra hành động học, nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Học tập nhằm
đáp ứng nhu cầu của người học. Đặc trưng này thể hiện tính chủ động của
việc học. Người học học vì lợi ích của mình và tự mình.
* Phương pháp thử - sai
Dạy học bằng phương pháp thử và sai là dạy học dựa vào sự lặp lại
những phản ứng dẫn đến kết quả đúng.
Trong các phản xạ tạo tác, những phản ứng nào không dẫn đến kết
quả đúng dường như bị xoá khỏi trí nhớ qua một số lần lặp lại. Những phản
ứng thành công, sau một loạt cố gắng sẽ được tăng cường. Ở đây xuất hiện
cơ chế thử và sai của các phản ứng. Việc học tập được thiết kế bởi nội dung
trong đó chứa đựng các yếu tố lựa chọn theo hướng củng cố phản ứng thành
công và loại trừ các phản ứng không phù hợp được gọi là dạy học bằng
phương pháp thử và sai.
* Sự củng cố và trách phạt trong dạy học
+ Sự củng cố là những kết quả làm cho hành vi được xuất hiện với tần
số cao hơn, cường độ mạnh hơn. Trong mô hình dạy học tạo tác, yếu tố
quyết định sự thành công thuộc về sự củng cố và trách phạt.
Theo B.Skinner không có củng cố trực tiếp thì không thể có hành vi tạo
tác. Vì vậy, ông cho rằng kiểm soát được củng cố thì kiểm soát được hành vi.
Từ đó công thức S à r à s àR chuyển thành công thức Kích thích à Củng
cố à Hành vi lặp lại theo cơ chế thử - sai.
Từ công thức này, kết hợp với phương pháp thử – sai, B.F.Skinner đã
phát triển nó trở thành công nghệ hành vi. Biểu hiện của ý tưởng này là công
nghệ dạy học theo chương trình hoá.
Nội dung học tập theo chương trình hoá được cấu trúc theo một
chương trình có tính chất cơ học và có thể do máy móc (máy dạy học) đảm
nhận. Trong đó nội dung dạy học (S) được chia thành từng đơn vị nhỏ và
củng cố các hành vi thành công (r). Việc chia nhỏ này tuân theo lôgic sao cho
tập hợp các hành vi đúng được củng cố sẽ hình thành hành vi mong muốn
(R). Mỗi đơn vị thành phần cung cấp sự củng cố tích cực và giảm thiểu các
kích thích khó chịu đối với người học (S). Dạy học chương trình hoá có khá
nhiều ưu điểm: thứ nhất: câu trả lời đúng được củng cố ngay lập tức. Thứ hai:
logic tài liệu (đã được chương trình hoá) cho phép kiểm soát cẩn thận,
nghiêm ngặt. Trong đó một vấn đề sẽ phụ thuộc vào kết quả trả lời về vấn đề
trước (ở đây diễn ra sự kiểm soát bên trong và bên ngoài người học). Thứ ba:
tiến độ thực hiện hành vi bộ phận nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào khả năng
mỗi người, nhưng kết quả cuối cùng, mọi người đều đạt được như nhau. Điều
này cho phép các nhà lập chương trình kiểm soát được hành vi học tập của
người học, trên cơ sở kiểm soát được đầu vào và đầu ra của nó, còn khâu
trung gian tuỳ thuộc vào chủ thể và được thúc đẩy bởi các củng cố tích cực.
Ngày nay, do sự phát triển của các phương tiện kĩ thuật, đặc biệt là
máy tính, đã mở ra nhiều tiềm năng cho phương hướng dạy học chương trình
hoá theo lí thuyết hành vi tạo tác.
2.2.4. Mô hình học tập nhận thức của E. C. Tolman
Nếu mô hình dạy học hành vi tạo tác của B. S. Skinner chủ yếu quan
tâm đến tính chủ động của chủ thể, thì mô hình học tập do E.C.Tolman
(1886–1959) đề xuất chú ý nhiều đến yếu tố nhận thức của người học. Có thể
rút ra những đặc điểm của mô hình học tập này:
Thứ nhất: Tính mục đích của hành vi. Hành vi không phải là tổng số các
phản ứng riêng lẻ (như J.Watson quan niệm) mà là một phản ứng tổng thể
không thể chia cắt và luôn hướng tới mục đích nhất định. Bất kì hành vi nào
cũng hướng vào đạt mục đích nào đó, vì một lợi ích nào đó của cá nhân, dựa
trên cơ sở một số phương tiện. Tính mục đích có ý nghĩa quyết định.
Thứ hai: Biến trung gian. Các hành vi được hình thành không phải hoàn
toàn do kích thích bên ngoài quy định trực tiếp (như J.Watson quan niệm) mà
còn chịu sự chi phối bởi các yếu tố chủ quan của cá thể - các yếu tố trung
gian. Yếu tố trung gian là những nhân tô không quan sát được, nhưng trên
thực tế chúng là yếu tố quy định hành vi.
Theo E.C.Tolman, có 5 yếu tố là nguyên nhân tạo ra hành vi: các kích
thích của môi trường, các động cơ tâm lý, di truyền, sự dạy học từ trước và
tuổi tác. Hành vi là hàm số của tất cả những biến số như vậy và được biểu thị
bằng phương trình toán học. Công thức của hành vi là: S – O – R. Các biến
trung gian là tất cả những gì gắn với O, tức là gắn với cơ thể và hình thành
phản ứng đối với kích thích đã cho.
Thứ ba: Các quy luật học tập. Theo E.C.Tolman, vai trò thực sự của
việc luyện tập, củng cố không phải thể hiện ở việc làm vững chắc các mối liên
hệ giữa kích thích và đáp ứng vận động (tức là không phải ở chỗ luyện tập
hành vi), mà là ở việc hình thành và củng cố những cấu trúc nhận thức nhất
định ở trong óc chứ không phải nhờ tổng đơn giản các kĩ xảo.
Thứ tư: Sự hình thành bản đồ (cấu trúc) nhận thức.
Trong thực nghiệm, để đi qua mê lộ và đạt được đích, chuột phải phân
biệt hai loạt kích thích (chẳng hạn hai vật màu xanh – màu vàng; rẽ phải – rẽ
trái v.v…). Trong quá trình này, chuột phải “sờ mó” và nắm lấy các thuộc tính
của vật, tạo ra “điểm tựa vật thể”. Chính trong quá trình này, chuột đã hình
thành “bản đồ trường của môi trường,” tựa như bản đồ địa hình, cho phép
vận động từ điểm này sang điểm khác mà không bị giới hạn bởi tập hợp các
vận động cơ thể đã học thuộc lòng. E.C.Tolman gọi đó là bản đồ nhận thức.
Bản đồ nhận thức là một cấu trúc tâm lí được hình thành bởi các “điểm
tọa độ” có thể định hướng hành vi của chủ thể đến kết quả cuối cùng.
Chức năng của “bản đồ nhận thức” là giúp cá thể thực hiện mục đích (ý
định) bằng con đường ngắn nhất. Theo Tolman, thực chất của mọi sự dạy
học là hình thành được bản đồ ấy.
Thứ năm: Sự học ngầm - là quá trình học diễn ra nhưng không thể
quan sát được.
2.2.5. Mô hình học tập nhận thức xã hội của A. Bandura
2.2.5.1. Cơ sở của mô hình học tập nhận thức xã hội
Học tập nhận thức xã hội được xuất phát từ một luận điểm chủ yếu:
Không phải bao giờ một hành vi cũng được hình thành bằng con đường huấn
luyện trực tiếp từ bên ngoài (như J. Watson hay B.Skinner quan niệm), mà có
thể được hình thành từ quan sát và bắt chước hành vi của người khác.
Hướng này gắn với tên tuổi nhà tâm lí học đương đại Mĩ A.Bandura (1925 -).
Theo A. Bandura, trẻ em không làm cái mà người lớn nói, nhưng lại
làm cái mà chúng thấy người lớn làm. Điều này có nghĩa là việc hình thành
hành vi không chỉ nhờ củng cố trực tiếp các phản ứng có kết quả, mà có thể
học qua kinh nghiệm của người khác, thông qua củng cố gián tiếp khi quan
sát hành vi của người khác và hậu quả của những hành vi đó.
2.2.5.2. Một số đặc điểm của học tập nhận thức xã hội
* Mô hình học tập nhận thức xã hội có hai điểm chú ý: Thứ nhất: Trong
việc hình thành hành vi của cá nhân, con người không bị thúc đẩy bởi những
lực bên trong cũng như không bị định hướng và điều khiển một cách tự động
bởi những kích thích bên ngoài, mà do sự tương tác giữa ba bộ phận. Hành
vi, các đặc điểm nhận thức, nhân cách và những sự kiện môi trường. Thứ hai:
Có hai quá trình trong nhận thức xã hội: tiếp thu kiến thức (học tập qua hành
động của bản thân) và sự thực hiện quan sát. Từ đây hình thành hai loại học
tập: Học tập qua hành động, qua trải nghiệm của bản thân và học tập bằng
quan sát hành động của người khác.
* Vai trò của nhận thức trong học tập quan sát. Các quá trình nhận thức
đóng vai trò quan trọng nhất trong học tập quan sát xã hội. Theo A.Bandura,
không phải tự thân sơ đồ củng cố mà chính là điều con người nghĩ về sự
củng cố đó mới là nhân tố có hiệu quả làm thay đổi hành vi. Thay vì học qua
kinh nghiệm bản thân thu nhận được, chúng ta học tập nhờ mô hình hoá khi
quan sát những người khác và so sánh mô hình hành vi của họ đối với mình.
Trong mô hình dạy hành vi tạo tác ai kiểm soát được củng cố, người đó kiểm
soát được hành vi, còn theo quan điểm của B. Bandura, ai kiểm soát được
“Mô hình” trong nhận thức, người đó kiểm soát được hành vi. Học tập nhận
thức xã hội cũng diễn ra theo sơ đồ S à r à s à R, nhưng trong dạy học tạo
tác, kết quả (phản ứng r) đóng vai trò là kích thích củng cố, làm tăng cường
độ và tần số xuất hiện của hành vi lặp lại. Còn trong học tập nhận thức xã hội,
kết quả của hành vi có vai trò cung cấp thông tin về những hành động phù
hợp hay không, tạo ra kì vọng và động cơ ở chủ thể hướng tới hành động
mới. Vì vậy trong học tập nhận thức xã hội sơ đồ S à r à s àR được diễn ra
theo lôgic: Kích thích – Nhận thức – Phản ứng – Củng cố.
* Trong học tập nhận thức xã hội, người học có xu hướng mô hình hóa
các hành vi của người được quan sát thành các “Mô hình” hành vi. Những mô
hình này giúp người quan sát có thể thu được những phản ứng mới; có thể
làm mạnh lên hoặc yếu đi những phản ứng đang có và có thể làm tái xuất
hiện những phản ứng đã bị lãng quên. Những hành vi được mô hình hoá
nhiều là hành vi của người cùng giới và cùng độ tuổi với mình, nhưng đã giải
quyết thành công những vấn đề giống với vấn đề của chúng ta. Hành vi của
những “Mô hình” có vị thế cao trong xã hội gây ấn tượng mạnh mẽ đến chúng
ta. Các kiểu hành vi khác nhau được dùng làm mẫu để bắt chước với mức độ
khác nhau. Những kiểu hành vi đơn giản hơn thường được bắt chước thường
xuyên hơn so với những kiểu hành vi phức tạp. Hành vi bạo lực và thù địch
rất dễ được bắt chước với mức độ cao, nhất là đối với trẻ em. Như vậy những
gì mà chúng ta nhìn thấy trong cuộc sống thực và qua phương tiện thông tin
đại chúng sẽ quy định hành vi của chúng ta.
Trong nghiên cứu kinh điển của mình. A.Bandura đã phát hiện tác động
của các mô hình sống, bạo lực của con người trên phim ảnh, trong phim hoạt
hình đến hành vi bạo lực của trẻ em trước tuổi học. Phim ảnh phơi bày các
mô hình của người lớn thể hiện bạo lực đối với búp bê được thổi phồng: phim
hoạt hình mô tả hành vi bạo lực tương tự như hành vi con người; những mô
hình sống mô tả hành vi bạo lực đối với người khác v.v… Sau này các em
được quan sát hành vi bạo lực trên phim ảnh và trong đời thường đã thể hiện
tính bạo lực nhiều hơn so với trẻ em ở nhóm đối chứng.
* Có hai hình thức học tập quan sát: Học tập qua quan sát để tạo ra
củng cố thay thế. Điều này xảy ra khi ta thấy một người nào đó được thưởng
hay bị phạt vì một hành động nào đó, họ điều chỉnh hành vi của mình theo sự
thưởng hay phạt, vì họ đã nhận ra (tiên lượng) hậu quả của hành vi của mình.
Nếu học viên quan sát thấy cô giáo cho điểm cao một bạn vì trong bài kiểm
tra có vẽ tranh minh họa, thì trong bài kiểm tra sau sẽ có nhiều em cũng vẽ
tranh như vậy. Sự trừng phạt cũng có thể dẫn đến thay thế. Học viên sẽ đi
học đúng giờ, nếu thấy bạn đi muộn bị cô giáo phạt. Tương tự như vậy,
người đi đường sẽ giảm tốc độ, nếu thấy người cho xe chạy tốc độ cao bị
phạt. Hình thức thứ hai là bắt chước hành vi của người làm mẫu, mặc dù chủ
thể không nhận được sự củng cố hay trừng phạt trao. Học tập bắt chước có
thể do người làm mẫu muốn chứng minh điều gì đó và người quan sát muốn
được biết chúng (quan sát và bắt chước giáo viên làm thí nghiệm, nghệ sĩ
chơi đàn Piano v.v…). Bắt chước cũng có thể xảy ra khi người quan sát muốn
trở thành giống với người mẫu mà mình ngưỡng mộ. Mô hình mẫu có thể
không phải là con người thực mà là những mô hình tượng trưng.
* Các nhân tố tham gia vào quá trình học tập quan sát. Có bốn nhân tố
quan trọng nhất tham gia vào quá trình học tập quan sát:
1. Chú ý. Nếu mô hình nghèo nàn sẽ không bảo đảm thu được hành vi.
Người quan sát cần tham dự và nhận ra các đặc điểm bản chất của mô hình
phản ứng. Những điều kiện mô hình hoá cũng cần gắn với đặc điểm đã được
nêu trên. Chẳng hạn như tính hấp dẫn trong mô hình và sự củng cố hành vi
mẫu. Có thể nhận ra những học viên bị hấp dẫn bởi các đặc điểm hoàn thiện
của mô hình mong muốn, qua sự bắt chước của họ về cách ăn mặc, kiểu tóc,
phong cách của các ngôi sao âm nhạc, nghệ sĩ và thể thao.
2. Ghi nhớ: Việc tái tạo hành vi mong muốn hàm ý rằng học viên duy trì
hành vi quan sát được bằng biểu tượng. Việc “Mã hoá bằng biểu tượng” giúp
cho việc giải thích sự ghi nhớ lâu dài về hành vi đã quan sát được. Chẳng
hạn học viên mã hoá, phân loại, tái tổ chức các phản ứng mẫu vào những
đơn vị có ý nghĩa đối với cá nhân, sẽ làm cho việc ghi nhớ tốt hơn. Điều đó có
nghĩa là khi học viên quan sát giáo viên, chúng cũng cần tạo ra một kiểu sơ
đồ trong tưởng tượng và tư duy, phản ánh cái mà giáo viên thực tế đang làm.
Nhiệm vụ của giáo viên là đòi hỏi học viên hình thành những hình ảnh đó khi
giáo viên giảng bài.
3. Các quá trình tái tạo vận động: Mã hoá bằng biểu tượng tạo ra các
mô hình bên trong về môi trường hướng dẫn hành vi trong tương lai của
người quan sát. Sự hướng dẫn mang tính nhận thức về hành vi là quan trọng,
vì nó giải thích các hoạt động được mô hình hoá đã thu được. Điều đó có
nghĩa là sau khi quan sát và sau khi học viên tạo ra hình ảnh về việc giải
quyết nhiệm vụ, giáo viên yêu cầu các em trình diễn lại càng nhanh càng tốt.
Khi đó giáo viên có thể củng cố hành vi đúng đắn và thay đổi bất kỳ phản ứng
sai lệch nào. Đừng thoả mãn với “trình bày và nói”; hãy buộc học viên tái tạo
hành vi cần thiết sao cho tất cả các cơ chế học tập sau đây được tận dụng:
Kích thích –Nhận thức – Phản ứng – Củng cố.
4. Các quá trình động cơ: Mặc dù người quan sát đã thu được và duy
trì khả năng thực hiện hành vi được mô hình hoá, nhưng sẽ không có sự trình
diễn công khai trừ phi có các điều kiện thích hợp, thuận lợi. Chẳng hạn nếu
củng cố trước đó đã kèm theo hành vi tương tự thì cá nhân có xu hướng lặp
lại hành vi đó. Tuy nhiên, sự củng cố mang tính chất thay thế (quan sát mô
hình được củng cố) và tự củng cố (hài lòng với hành vi của mình) là củng cố
mạnh mẽ ở con người.
* Các hình thức củng cố học tập quan sát. Có ba hình thức củng cố học
tập quan sát. Hình thức thứ nhất: người quan sát tái tạo lại những hành vi của
người làm mẫu và nhận được sự củng cố trực tiếp. Chẳng hạn, người vận
động viên quan sát và nhảy theo huấn luyện viên và được huấn luyện viên
củng cố bằng từ “tốt”. Hình thức thứ hai: sự củng cố không phải là trực tiếp
mà có thể thay thế được (trong trường hợp học tập quan sát để tạo ra củng
cố như đã nêu ở trên). Trong dạy học, hình thức dạy học làm gương có sức
lôi cuốn học viên. Hình thức thứ ba: tự củng cố hay sự điều khiển tác nhân
củng cố của bản thân. Dạng củng cố này rất quan trọng trong dạy học. Chúng
ta muốn học viên phát triển không phải vì các em muốn nhận được phần
thưởng, mà vì các em muốn và đánh giá cao những năng lực đang phát triển
của chính mình. Sự tự củng cố là phương tiện để học viên liên tục phát triển.
* Có khá nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới học tập quan sát: Mức
độ phát triển của người quan sát tạo nên sự khác nhau trong học tập. Địa vị
của người làm mẫu. Trẻ bắt chước nhiều hơn những hành động của người có
năng lực, người nổi tiếng, uy tín và sức mạnh. Vì vậy, cha mẹ, giáo viên,
những ngôi sao thể thao, âm nhạc v.v… thường là các mô hình kiểu mẫu của
đa số trong lớp trẻ. Ảnh hưởng thứ ba tới học tập quan sát là những hành vi
của người làm mẫu tương tự với hành vi quan sát của người quan sát thì sẽ
được bắt chước nhiều hơn các hành vi khác. Ngoài ra kết quả bắt chước còn
phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan của người quan sát đối với hành vi của
người làm mẫu: mức độ kì vọng vào kết quả của hành vi làm mẫu; mục tiêu
của người quan sát v.v…
Trong thực tiễn việc thực hiện mô hình học tập quan sát cần lưu ý một
số khía cạnh sau:
Giáo viên phải làm mẫu hành vi và thái độ mà họ muốn có ở học viên
học (Chẳng hạn, thể hiện sự nhiệt tình, say sưa với môn dạy và với học trò).
Sử dụng bạn bè, đặc biệt là cán bộ lớp làm người làm mẫu. Đối với
những học viên còn nghi ngờ khả năng học tập của mình thì người làm mẫu
tốt nhất đối với các em là những học viên lúc đầu có sức học yếu nhưng luôn
luôn cố gắng và cuối cùng đã thông hiểu tài liệu (trong thực tiễn học theo
nhóm hai bạn học khá kèm một bạn yếu là hình thức học tốt).
Đảm bảo cho học viên nhận thấy những hành vi tích cực của mình dẫn
đến củng cố cho người khác (Có phần thưởng thích đáng cho học viên có vấn
đề khi trở thành học viên tốt).
Tranh thủ sự giúp đỡ của người có uy tín trong lớp bằng những hành vi
khuôn mẫu cho cả lớp (Yêu cầu những học viên ngoan, gương mẫu chơi với
những học viên có vấn đề về hành vi).
2.2.6. Mô hình học tập tự điều chỉnh và biến đổi hành vi nhận thức
Mô hình học tập tự điều chỉnh và biến đổi hành vi nhận thức là mô hình
phát triển gần đây nhất theo quan điểm hành vi.
Có hai lí do để các nhà tâm lý học hành vi ngày nay nhấn mạnh vào
yếu tố tự quản lý của người học: Thứ nhất: càng ngày các nhà hành vi học
càng quy vào một luận điểm quan trọng: năng lực và trách nhiệm học tập là
do chính người học quyết định. Không một ai có thể học giúp họ. Thứ hai: qua
thực tiễn nhiều năm, học viên được tiếp nhận phương pháp hành vi cổ điển
hiếm khi có thể khái quát hoá học tập của họ trong những tình huống mới.
Nhiều nhà tâm lí học hành vi đã thực nghiệm và khẳng định, sự khái quát hoá
của học viên sẽ tốt hơn nếu được tham gia vào các chương trình học tập thay
đổi hành vi.
Nội dung chủ yếu của mô hình học tập tự điều chỉnh và biến đổi hành vi
nhận thức được tập trung vào việc học cách tự quản lí cuộc sống của bản
thân. Các thành phần của hoạt động tự quản lí được xem xét là: xây dựng
mục tiêu; ghi chép và đánh giá sự tiến triển của công việc; sự tự củng cố.
+ Xây dựng mục tiêu là yếu tố quan trọng nhất cho việc tự quản lý. Các
kết quả nghiên cứu cho thấy những học viên biết xác định mục tiêu học tập
của mình thường đạt kết quả cao so với các học viên đặt mục tiêu cá nhân
hoặc chưa bao giờ bộc lộ điều đó với ai. Một hiện tượng phổ biến khác trong
học viên là xu hướng mục tiêu ngày càng thấp. Điều này cũng ảnh hưởng tới
kết quả học tập. Giáo viên có thể giúp đỡ họ bằng cách giám sát việc xây
dựng mục tiêu và củng cố chúng ở mức cao.
+ Ghi chép và đánh giá sự tiến triển hành vi sẽ cho phép học viên kiểm
soát và điều chỉnh được các hành vi của mình. Việc tự ghi chép số lượng
những bài tập đã và cần thực hiện, thời gian sử dụng cho việc thực hành một
kĩ năng mới, số lượng những quyển sách đã đọc và khoảng thời gian nghỉ
không được phép v.v… là những điều rất cần trong việc tự quản lý của cá
nhân.
+ Sự tự củng cố là bước cuối cùng của công việc tự quản lí. Mặc dù
một số nhà hành vi học đặt trọng tâm của việc củng cố vào sự giám sát và
củng cố từ bên ngoài. Nhưng nhiều người cho rằng việc tự củng cố (tự khen
thưởng) cho tới khi thực hiện được mục tiêu cuối cùng sẽ dẫn đến hiệu quả
cao hơn so với việc chỉ đặt mục tiêu và theo sau sự tiến triển đó.
Trong quá trình trẻ em học cách tự quản lý, gia đình có vai trò khá lớn.
Giáo viên và cha mẹ có thể phối hợp với nhau và cùng hướng tới việc ủng hộ
tính độc lập của học viên. Về phương diện này có thể theo một số gợi ý sau:
* Giới thiệu một cách hệ thống cho cha mẹ và học viên bằng một cách
tích cực.
* Giúp cho gia đình cách thức ghi giúp gia đình và học viên xây dựng
những mục tiêu có thể đạt được.
* Và đánh giá sự tiến triển của con họ và của chính họ.
* Khuyến khích gia đình liên tục kiểm tra độ chính xác của hồ sơ học
viên và giúp cho con cái họ phát triển những hình thức tự củng cố.
2.2.7. Các quy luật học tập
Trong quá trình xây dựng các mô hình dạy học, các nhà tâm lí học
hành vi đã xác định được khá nhiều quy luật học tập. Trong đó có bốn quy
luật quan trọng: quy luật tâm thế, quy luật luyện tập, quy luật di chuyển và quy
luật hiệu quả.
+ Quy luật tâm thế.
Tâm thế là khi cá thể người và động vật sẵn sàng hình thành các mối
liên hệ làm điều gì đó một cách dễ chịu hay không làm điều gì đó khó chịu. Sự
sẵn sàng tâm lí (tâm thế) là điều kiện quan trọng của việc học, vì sự hài lòng
hay hẫng hụt phụ thuộc vào trạng thái sẵn sàng của cá nhân. Nhà trường
không thể buộc học viên học, nếu chúng không được chuẩn bị về mặt sinh lý
hay tâm lí.
+ Quy luật luyện tập.
Bất kì một phản ứng nào được hình thành cũng cần có luyện tập. Tuy
nhiên, trong các nhà hành vi có nhiều cách hiểu về quy luật này.
E.L.Thorndike và các nhà hành vi cổ điển coi trọng việc luyện tập các phản
ứng bằng cách củng cố các mối liên hệ giữa S với R: mối liên hệ nào cũng
được tăng cường tỉ lệ thuận với số lượng thời gian nó xuất hiện và tỉ lệ thuận
với sức mạnh trung bình và khoảng thời gian liên hệ. Ngược lại, khi mối liên
hệ không được thực hiện giữa kích thích và phản ứng (giữa S và R) trong một
khoảng thời gian thì sức mạnh của mối liên hệ giảm sút. E.C.Tolman quan
tâm tới việc luyện tập các mốc, các sơ đồ nhận thức; A.Bandura quan tâm
củng cố nhận thức các mô hình biểu tượng về hành vi mẫu. Còn B. Skinner
hướng việc luyện tập các phản ứng thông qua hệ thống củng cố tinh vi: khen
thưởng và trách phạt.
+ Quy luật di chuyển liên tưởng
Nếu trong điều kiện hành động đồng thời của các tác nhân kích thích,
một trong số đó gây ra phản ứng thì những kích thích khác cũng có khả năng
gây ra chính phản ứng đó.
+ Quy luật hiệu quả
E.L.Thorndike đã phát biểu quy luật hiệu quả như sau: “Bất kì hành
động nào trong tình huống đã cho gây ra sự thỏa mãn gắn liền với tình huống
đó, nếu tình huống lại xuất hiện, thì sự xuất hiện hành động đó có xác suất
lớn hơn so với trước đây. Ngược lại, bất kì hành động nào trong trường hợp
đã cho gây ra sự khó chịu, khi tình huống đó lại xuất hiện thì hành động đó có
xác suất xuất hiện ít hơn”. Từ “quy luật hiệu quả” suy ra, không phải tự thân
những “phép thử và sai” mà là những trạng thái phân cực bên trong cơ thể
(thoả mãn – không thoả mãn) được coi là các yếu tố quyết định việc học tập.
Sau này, Thorndike và các nhà hành vi khác đã xem xét lại quy luật
hiệu quả và nhấn mạnh rằng, phần thưởng có hiệu quả củng cố lớn hơn so
với trừng phạt. Trẻ em có xu hướng học tập có hiệu quả hơn hay dễ dàng
hơn và duy trì sự học tập nếu nó có kết quả dễ chịu.
Trên đây đã cung cấp cái nhìn tổng quát về các mô hình dạy học hành
vi. Rõ ràng là không thể nghi ngờ hiệu quả điều khiển hành vi của các mô
hình này. Vì vậy, mọi giáo viên không thể không chú ý khai thác các kĩ thuật
điều khiển đó trong dạy học. Tuy nhiên, hầu hết các nhà sư phạm đều băn
khoăn về lí thuyết học tập của tâm lí học hành vi trên các phương diện: Thứ
nhất: Nhà hành vi quá chú ý đến các chi tiết kĩ thuật học tập của học viên
trong các hoàn cảnh cụ thể, trực tiếp và trước mắt, mà coi nhẹ việc định
hướng đến những mục tiêu có tính chiến lược trong dạy học và giáo dục học
viên. Thứ hai: Các lí thuyết học tập, ngay cả lí thuyết của A. Bandura sau này
cũng chủ yếu mô tả sự học diễn ra như thế nào, trên cơ sở nhu cầu của cá
nhân, mà ít chú ý đến phương diện dạy học như thế nào để làm xuất hiện và
hấp dẫn sự học tập của cá nhân đó. Thậm chí, chiến lược dạy học của nhà
hành vi chủ yếu dựa trên sự củng cố bằng phần thưởng hay trách phạt: Làm
cái này bạn sẽ nhận được cái kia. Điều này dễ dẫn đến thui chột, làm mất
động cơ và giá trị đích thực của học tập, biến học tập trở thành phương tiện
đạt được mục đích phần thưởng. Ngoài ra, tính chủ thể của người học trong
các mô hình điều khiển hành vi (nhất là mô hình điều kiện hoá cổ điển) bị vi
phạm. Người học học hoặc vì sự thoả mãn các nhu cầu bậc thấp của mình,
hoặc vì bị kiểm soát chặt chẽ bởi hệ thống tác động của người dạy. Những
điều trên dễ làm học tập mất tính hệ thống, sứ mạng cao cả, vẻ đẹp và sự
sáng tạo của nó.
2.3. LÍ THUYẾT KIẾN TẠO NHẬN THỨC CỦA J. PIAGET VÀ MÔ HÌNH DẠY HỌC HÀNH ĐỘNG HỌC TẬP KHÁM PHÁ CỦA J. BRUNER2.3.1. Lí thuyết kiến tạo nhận thức của J. Piaget
Lí thuyết kiến tạo nhận thức của J. Piaget (1896 - 1980) là cơ sở tâm lý
học của nhiều hệ thống dạy học, đặc biệt là dạy học phổ thông.
Có thể nêu vắn tắt các luận điểm chính của Thuyết kiến tạo nhận thức
như sau:
Thứ nhất: Học tập là quá trình cá nhân hình thành các tri thức cho
mình. Có hai loại tri thức: tri thức về thuộc tính vật lí, thu được bằng cách
hành động trực tiếp với các sự vật và tri thức về tư duy, quan hệ toán, lôgic
thu được qua sự tương tác với người khác trong các quan hệ xã hội. Đó là
quá trình cá nhân tổ chức các hành động tìm tòi, khám phá thế giới bên ngoài
và cấu tạo lại chúng dưới dạng các sơ đồ (cấu trúc – Shemma) nhận thức. Sơ
đồ là một cấu trúc nhận thức bao gồm một lớp các thao tác giống nhau theo
một trật tự nhất định. Sơ đồ nhận thức được hình thành từ các hành động
bên ngoài và được nhập tâm. Vì vậy, sơ đồ có bản chất thao tác (Operations)
và được trẻ em xây dựng lên bằng chính hành động (Action) của mình. Sự
phát triển nhận thức là sự phát triển hệ thống các sơ đồ, bắt đầu từ các giản
đồ cảm giác và vận động (cấu trúc giác – động, tương ứng với trẻ em từ 0 – 2
tuổi) à cấu trúc tiền thao tác (các hình ảnh tinh thần, hình ảnh biểu trưng, kí
hiệu và biểu tượng – ứng với thời kì từ 2 đến 7 tuổi) à cấu trúc thao tác cụ
thể (ứng với thời kì 7 đến 11, 12 tuổi) à Cấu trúc thao tác hình thức (ứng với
thời kì từ 12 tuổi trở lên). Thao tác – đó là hành động bên trong, được nảy
sinh từ hành động có đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên, khác với hành động,
thao tác là hành động có tính rút gọn và đối tượng của nó không phải là
những sự vật có thực, mà là những hình ảnh, biểu tượng, kí hiệu. Thao tác có
tính chất thuận nghịch (révrsible); bảo tồn (conservation) và tính liên kết
(associative). Thao tác cụ thể là các thao tác nhận thức với vật liệu là các
dạng vật chất cụ thể, các hành động thực tiễn. Thao tác hình thức là thao tác
trên vật liệu là các kí hiệu, khái niệm, mệnh đề… Đây là mức trưởng thành
của thao tác nhận thức). Các thao tác được cấu trúc thành hệ thống nhất định
(cấu trúc thao tác). Cấu trúc thao tác nhận thức không có sẵn trong đầu đứa
trẻ, cũng không nằm trong đối tượng khách quan, mà nằm ngay trong mối tác
động qua lại giữa chủ thể với đối tượng, thông qua hành động. Nghĩa là đứa
trẻ tự xây dựng cấu trúc nhận thức cho mình bằng hành động thực tiễn bên
ngoài.
Thứ hai: Dưới dạng chung nhất, cấu trúc nhận thức có chức năng tạo
ra sự thích ứng của cá thể với các kích thích của môi trường. Các cấu trúc
nhận thức được hình thành theo cơ chế đồng hoá (Assimilation) và điều ứng
(Accommodation). Đồng hoá là chủ thể tái lập lại một số đặc điểm của khách
thể được nhận thức, đưa chúng vào trong các sơ đồ đã có. Điều ứng là quá
trình tái lập những đặc điểm của khách thể vào cái đã có, qua đó biến đổi cấu
trúc đã có, tạo ra cấu trúc mới. Trong đồng hoá, các kích thích được chế biến
cho phù hợp với sự áp đặt của cấu trúc đã có, còn trong điều ứng, chủ thể
buộc phải thay đổi cấu trúc cho phù hợp với kích thích mới. Đồng hóa dẫn
đến tăng trưởng các cấu trúc đã có, còn điều ứng tạo ra cấu trúc mới. Đồng
hoá làm tăng trưởng, điều ứng làm phát triển.
Một đứa trẻ đã thấy con chó, có sơ đồ về con chó, nếu gặp con chó
thực khác, nó sẽ đưa hình ảnh con chó đó vào trong sơ đồ đã có (đồng hoá).
Nhưng khi lần đầu nhìn thấy con bò (chưa có sơ đồ về con bò), nó đưa hình
ảnh con bò vào sơ đồ con chó và nói ngay đó là con chó, dẫn đến sự không
thích ứng (sai), nó phải cải tổ lại sơ đồ con chó (nhờ sự tham gia của hình
ảnh con bò) để tạo ra sơ đồ mới – sơ đồ con bò. Đó là kết quả của sự điều
ứng.
Thứ ba: Quá trình phát triển nhận thức phụ thuộc trước hết vào sự
trưởng thành và chín muồi các chức năng sinh lí thần kinh của trẻ em; vào sự
luyện tập và kinh nghiệm thu được thông qua hành động với đối tượng; vào
tương tác của các yếu tố xã hội và vào tính chủ thể và sự phối hợp chung của
hành động. Chính yếu tố chủ thể làm cho các yếu tố trên không tác động
riêng rẽ, rời rạc, mà chúng được kết hợp với nhau trong một thể thống nhất
trong quá trình phát triển của trẻ.
Lí thuyết phát sinh nhận thức là một trong những lí thuyết có uy tín nhất
của tâm lí học thế kỉ XX và có ứng dụng rộng rãi nhất trong dạy học. Đồng
thời nó là nguồn mạch dồi dào cho nhiều nghiên cứu tiếp theo về tâm lí học
dạy học, trong đó có các công trình học tập khám phá của nhà tâm lí học
người Mĩ Jerome Bruner.
2.3.2. Mô hình dạy học hành động học tập khám phá của Jerome Bruner
J. Bruner dành nhiều công sức nghiên cứu và vận dụng lý thuyết của J.
Piaget để xây dựng mô hình dạy học dựa vào sự học tập khám phá của học
sinh
J. Bruner đề xuất mô hình dạy học được đặc trưng bởi bốn yếu tố chủ
yếu: hành động tìm tòi, khám phá của học viên; cấu trúc tối ưu của nhận thức;
cấu trúc của chương trình dạy học và bản chất của sự thưởng – phạt. Trong
đó cấu trúc tối ưu của nhận thức là yếu tố then chốt.
* Trước hết là yếu tố cấu trúc nhận thức. Theo J. Bruner một cấu trúc
nhận thức tối ưu cần có ba đặc tính quan trọng: tính tiết kiệm, khả năng sản
sinh ra cái mới và sức mạnh của cấu trúc.
+ Tính tiết kiệm, là khả năng đơn giản hoá các thông tin khác nhau
trong một lĩnh vực, giúp cho người học nhận ra được cái chung trong cái
riêng; nhận ra sự vật này chỉ là phụ của một sự vật khác; nhận ra sự kiện này
không giống tất cả các sự kiện khác. Khả năng đơn giản hóa thông tin được
hiện thực hoá bằng cách phân tích triệt để một sự vật phức tạp thành các
phần tử nhỏ và đơn giản nhất, sau đó phối hợp các phần tử theo những cách
khác nhau để được các mô hình khác nhau, theo phương pháp Descartes.
Điều này cũng liên quan tới định lí toán học của Turing, làm cơ sở cho
kĩ thuật máy tính: Bất kì bài toán nào, dù khó và phức tạp đến mấy đều có thể
giải được bằng đường lối đơn giản hóa nó.
Bruner cho rằng, bất kì chủ đề nào cũng có thể dạy cho bất kì người
nào, ở bất kì tuổi nào bằng một hình thức thích hợp. Theo ông có ba hình
thức biểu hiện của một chủ đề: Qua hành động (hiểu việc đi xe đạp thông qua
hành động đi xe); qua hình ảnh (các mô hình, sơ đồ v.v…) và qua các kí hiệu
ngôn ngữ, mệnh đề, định lí toán v.v… Từ đây có ba hành động học tập tương
ứng của người học: hành động phân tích (bằng tay) sự vật; hành động mô
hình hoá và hành động biểu tượng (kí hiệu hoá). Việc dạy học, đặc biệt là dạy
cho trẻ em nhỏ tuổi cần phải được bắt đầu từ các hành động phân tích thực
tiễn.
Các hành động học trên và thứ tự của chúng cũng được xuất hiện trong
lí thuyết học tập của nhà tâm lí học người Nga V.V Davưdov.
+ Khả năng sản sinh ra cái mới và sức mạnh của cấu trúc chính là khả
năng tìm ra được sự kiện mới, hiểu biết sâu và rộng hơn những thông tin đã
cho; khả năng vận dụng kiến thức đã học được vào việc giải quyết các tình
huống riêng. Theo Bruner, có hai loại ứng dụng cấu trúc: chuyển di các mối
liên tưởng, các kĩ năng hay kĩ xảo mẫu đã tiếp thu được sang các liên tưởng,
kĩ năng gần giống với nó (trẻ em học được kĩ năng dùng búa đóng đinh bằng
sắt, có thể đóng được các chốt bằng gỗ v.v…). Đây chính là quá trình học tập
chuyên biệt. Loại thứ hai là chuyển di các nguyên tắc, các thái độ đã có vào
các tình huống khác nhau. Về cơ bản, đó không phải là học các kĩ năng cụ
thể mà là học một ý tưởng (nguyên tắc) tổng quát để dùng làm cơ sở cho việc
triển khai các vấn đề cụ thể sau đó. Coi những vấn đề cụ thể này chỉ là những
trường hợp đặc thù của nguyên tắc tổng quát đã học được. J.Bruner cho
rằng, loại chuyển di này chính là trọng tâm của quá trình dạy học. Đó là sự
mở rộng và đào sâu không ngừng kiến thức theo những ý tưởng, nguyên tắc
tổng quát và cơ bản. Điều này tuỳ thuộc vào việc cấu trúc môn học và khả
năng nắm vững môn học của người học.
* Cấu trúc chương trình môn học là bộ khung cơ bản của môn học. Để
đảm bảo cho cấu trúc có khả năng sản sinh ra cái mới và sức mạnh thì cấu
trúc chương trình môn học phải thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất: là bộ khung
của một lĩnh vực khoa học, sao cho các nguyên tắc, các ý tưởng cơ bản và
khái quát nhất chiếm vị trí trung tâm; thứ hai: phải vừa sức đối với trình độ
của học viên có những khả năng khác nhau, ở các lớp khác nhau và phải tạo
ra được hứng thú học tập của người học. Đó là một chương trình được xây
dựng trên cơ sở những nguyên tắc, những ý tưởng cơ bản làm nòng cốt cho
một lĩnh vực khoa học và được cấu trúc theo nguyên tắc từ chung đến riêng,
sao cho các nguyên tắc, các ý tưởng căn bản này phải được liên tục đào sâu,
mở rộng và được vận dụng dưới những dạng ngày càng phức tạp hơn. Cấu
trúc cơ bản của chương trình như vậy không phải là những dữ kiện hay chi
tiết cụ thể về môn học, mà là một “mạng”, một “cây” các ý tưởng và có thể
được mô tả đơn giản bằng một sơ đồ (chẳng hạn sơ đồ về hình tam giác
trong hình học được mô tả trong giản đồ dưới).
………
Hinh khacTu giac
ĐeuVuong
Lech
Can
Tam giac
Mat phang (hinh khep kin)
Giản đồ hệ thống mã hoá khái niệm hình tam giác
Để cấu trúc được logic các khái niệm như vậy đòi hỏi phải có sự tham
gia tích cực của các nhà khoa học trong từng lĩnh vực cụ thể, còn khía cạnh
thứ hai cần có tham gia của các nhà sư phạm. Cấu trúc chương trình môn
học như trên được gọi là “Chương trình xoáy chôn ốc”.
* Học tập tìm tòi khám phá. Ứng với một cấu trúc nhận thức và khung
chương trình như trên, J. Bruner đề xuất một mô hình học tập tìm tòi, khám
phá. Theo Bruner, học viên phải là người tự lực, tích cực hành động tìm tòi,
khám phá đối tượng học tập để hình thành cho mình các nguyên tắc, các ý
tưởng cơ bản từ các tình huống học tập cụ thể. Trong học môn vật lí, học
toán hay các khoa học xã hội, học viên phải có thái độ khám phá các định
luật, các định lí, các quy luật v.v… giống như nhà vật lí học, toán học hay xã
hội học thực thụ. Trong học tập khám phá cho phép học viên đi qua ba giai
đoạn, ba hình thức hành động học tập: Đầu tiên cần phải thao tác và hành
động trên các tài liệu đã có (hành động phân tích), sau đó hành động trên các
hình ảnh về chúng (hành động mô hình hoá) và cuối cùng rút ra được các
khái niệm, các quy tắc chung từ những mô hình đó (hành động kí hiệu hoá).
Vì vậy, trong học tập khám phá, giáo viên cần cung cấp nhiều tình huống để
học viên có thể đặt câu hỏi, khám phá và thực nghiệm cho đến tìm ra được
các nguyên tắc, các ý tưởng, mối liên hệ cơ bản trong cấu trúc môn học. Cần
tổ chức cho học viên tiến hành các hành động học tập tương ứng với các
hình thức biểu hiện của cấu trúc (hành động thực tiễn, hành động mô hình
hoá, hành động kí hiệu hoá), theo phương pháp chung là suy luận quy nạp,
nghĩa là từ các hành động trên các vật liệu cụ thể để rút ra các nguyên tắc
chung.
* Vấn đề cuối cùng: Bản chất của sự thưởng – phạt và của sự thành
công hay thất bại trong dạy học. J. Bruner đề nghị cần phân biệt trạng thái
thành công hay thất bại với sự thưởng hay phạt. Thành công hay thất bại là
kết quả cuối cùng của một nhiệm vụ, còn thưởng hay phạt là những hệ quả
tiếp theo của những kết quả đó. Thông thường các bậc cha mẹ hay giáo viên
quá chú ý đến phần thưởng hay trách phạt được kiểm soát từ bên ngoài,
khiến học viên không còn chú ý đến sụ thành công hay thất bại trong nhiệm
vụ học tập. Trẻ em không được hưởng niềm vui hay nỗi buồn từ sự thành
công hay thất bại trong việc học của mình. Những trải nghiệm đó thuộc về
người ban phát phần thưởng hay trách phạt. Điều này càng dễ xảy ra nếu
đứa trẻ không xác định được bản chất của sự thành công hay thất bại. Như
vậy đã tước mất của trẻ em niềm vui đích thực của việc học. Do đó, một trong
những vấn đề quan trọng của dạy học là phải trả lại chức năng ban thưởng
của sự thành công hay thất bại cho chính người học. Ta có thể làm như vậy
bằng cách khen thưởng cả những “sai lầm tốt” để người học thấy quá trình
giải quyết công việc cũng có tầm quan trọng như chính kết quả của nó.
J.Bruner cho rằng chính người học tự thưởng hay phạt bằng cách đánh giá
những cố gắng của mình khi độc lập giải quyết vấn đề. Quan niệm của Bruner
về thưởng và phạt đã đảo lộn lí luận của B.Skinner về củng cố bằng phần
thưởng.
Trên đây là những điểm cơ bản của mô hình học tập khám phá của J.
Bruner. Ngày nay nhiều nhà sư phạm ủng hộ mô hình dạy học này, vì nó phù
hợp với cách con người học và phát triển, được trình bày trong lí thuyết của J.
Piaget và các lí thuyết phát sinh nhận thức khác. Khi học viên được tạo dựng
động cơ và được tham gia vào các hình thức hành động khám phá phù hợp
với trình độ nhận thức của mình thì việc học tập khám phá sẽ đem lại kết quả
tốt hơn so với nhiều hình thức học tập khác.
2.4. CÁC MÔ HÌNH DẠY HỌC DỰA TRÊN LÍ THUYẾT HOẠT ĐỘNG TÂM LÍ
Tâm lí học hoạt động là hệ thống tâm lí học lấy chủ nghĩa Mác – Lênin
làm cơ sở lí luận và phương pháp luận nghiên cứu. Đó là nền tâm lí học vĩ
đại, với nhiều học thuyết có giá trị lớn lao, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lí học
phát triển và sư phạm. Trong khuôn khổ của tài liệu này chỉ tập trung giới
thiệu một số nội dung có liên quan trực tiếp tới lĩnh vực dạy học của ba lý
thuyết lớn trong tâm lí học hoạt động và tâm lí học thế giới.
* Thuyết lịch sử - văn hóa về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp
cao của L. X. Vưgotxky.
* Lí thuyết hoạt động tâm lí của A. N. Leonchev.
* Lí thuyết của P. Ia. Galperin về các bước hình thành hành động trí óc
và khái niệm.
* Dưới đây là vắn tắt một số luận điểm dạy học chủ yếu theo các lí
thuyết trên.
2.4.1. Một số luận điểm dạy học theo thuyết lịch sử – văn hoá về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của L. X. Vưgotxky
2.4.1.1. Những luận điểm cơ bản của thuyết lịch sử - văn hóa về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của L. X. Vưgotxky
Các nghiên cứu khoa học của L.X.Vưgotxky được xuất phát từ hai giả
thuyết: về tính chất gián tiếp của các chức năng tâm lí người thông qua công
cụ kí hiệu và về nguồn gốc của các chức năng tâm lí cấp cao bên trong là từ
hoạt động vốn lúc đầu ở bên ngoài, trong hoạt động thực tiễn và giao tiếp xã
hội. Từ đó xác định các nguyên tắc có tính chất phương pháp luận và các
phương pháp cụ thể trong nghiên cứu tâm lí trẻ em: nguyên tắc lịch sử – phát
sinh; nguyên tắc gián tiếp thông qua công cụ; phương pháp phân tích theo
đơn vị, phương pháp mang tính chất công cụ và phương pháp kích thích kép.
Kết quả là ông đã xây dựng được lí thuyết tâm lí học mang tên thuyết lịch sử
– văn hoá về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của người. Đồng
thời mở ra một trang mới cho tâm lí học Nga xô Viết – Nền tâm lí học lấy hoạt
động của con người làm đối tượng nghiên cứu.
Có thể tóm tắt lí thuyết của L.X.Vưgotxky (1896–1934) vào mấy điểm
chính:
* Chức năng tâm lí cấp cao và vai trò của công cụ tâm lí đối với việc
hình thành các chức năng tâm lí cấp cao ở trẻ em.
L.X.Vưgốtxki phân chia các chức năng tâm lí trẻ em thành hai trình độ:
Chức năng tâm lí cấp thấp (CNTLCT) và cấp cao (CNTLCC). CNTLCT (trình
độ tự nhiên) được đặc trưng bởi quan hệ trực tiếp giữa kích thích của đối
tượng (A) với phản ứng của cá thể (B), tạo nên cấu trúc 2 thành phần: kích
thích 1 phản ứng (sơ đồ S 1 R trong tâm lí học hành vi). CNTLCC (trình độ văn
hoá), được đặc trưng bởi quan hệ gián tiếp giữa kích thích (A) với phản ứng
(B) thông qua kích thích phương tiện (X), đóng vai trò công cụ tâm lí, tạo nên
cấu trúc ba thành phần: A 1 X và X 1 B. CNTLCC chỉ có ở người, nó là trình độ
tự nhiên nhưng có sự tham gia của công cụ tâm lí. Công cụ tâm lí là các kí
hiệu đa dạng: ngôn ngữ, các thủ thuật ghi nhớ, kí hiệu đại số, sơ đồ, bản vẽ,
các quy ước v.v… Chúng có điểm chung là đều do con người sáng tạo ra, là
cái chứa nghĩa xã hội và có chức năng công cụ trong các quá trình hành vi
của con người. L.X.Vưgotxki gọi đó là công cụ kí hiệu (CCKH). Giống công cụ
kĩ thuật tham gia vào hoạt động thực tiễn, quy định hình thức và cấu trúc lại
toàn bộ các thao tác của lao động, CCKH tham gia vào quá trình hành vi, làm
thay đổi toàn bộ diễn biến của hành vi; tái tạo, sắp xếp lại toàn bộ cấu trúc
của nó bằng tính chất của mình, tạo ra một thể trọn vẹn mới – hành động
mang tính chất công cụ. Do kí hiệu công cụ có nội dung xã hội và là đại diện
của mỗi nền văn hoá nhất định, nên các CNTLCC mang nội dung văn hóa –
xã hội, có tính lịch sử - cụ thể. Khái niệm CCKH là chìa khoá để L.X.Vưgốtxki
giải quyết hàng loạt vấn đề về sự phát triển tâm lí trẻ em.
* Các quy luật phát triển của trẻ em.
Sự phát triển của trẻ em tuân theo một số quy luật. Có ít nhất ba quy
luật chi phối quá trình này:
Thứ nhất, sự hình thành các CNTLCC thực chất là quá trình cải tổ các
CNTLCT, nhờ các CCKH.
Sự hình thành các CNTLCT theo con đường tiến hoá, từ dưới lên, còn
CNTLCC theo con đường lĩnh hội, từ trên xuống, từ ngoài vào, trên cơ sở cải
tổ các CNTLCT, nhờ sử dụng các CCKH. Quá trình hình thành các CNTLCC
ở trẻ em thực chất là quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử
được kết tinh trong các CCKH do loài người sáng tạo ra, là quá trình trẻ học
cách sử dụng các CCKH đó, biến chúng từ chỗ là phương tiện của giao tiếp
xã hội ở bên ngoài thành phương tiện tâm lí của cá nhân ở bên trong.
Thứ hai: Quy luật về sự tương tác giữa các cá nhân trong quá trình
hình thành các CNTLCC.
Quy luật này phản ánh quan hệ đặc trưng của cá nhân với xã hội. Quan
hệ giữa các CNTLCC không bao giờ là quan hệ trực tiếp vật chất (vật lí) giữa
cá thể người với người, chúng là các hình thức hợp tác xã hội mang tính chất
tập thể, trong quá trình phát triển đã trở thành phương tiện thích ứng của cá
nhân, các dạng hành vi và tư duy cá nhân. Nói cách khác, các CNTLCC xuất
hiện từ các hình thức hành vi xã hội mang tính tập thể (sự suy nghĩ không
phải được nảy sinh trước cuộc tranh luận mà được nảy sinh trong tranh luận.
Ngôn ngữ bên trong được nảy sinh từ ngôn ngữ bên ngoài qua giao tiếp xã
hội).
Thứ ba: Quy luật về sự phát sinh xã hội của các dạng hành vi cấp cao.
Quy luật cơ bản của quá trình này là: “Bất kì CNTLCC của trẻ em trong
quá trình phát triển đều được thể hiện hai lần: lần đầu là hoạt động tập thể,
hoạt động xã hội, tức là chức năng tâm lý bên ngoài; lần thứ hai là hoạt động
cá nhân, là chức năng tâm lí bên trong.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển các CNTLCC là các quan hệ của
trật tự xã hội được đưa vào nhân cách, tạo ra cơ sở cấu trúc xã hội của nhân
cách con người. Chúng là các quy luật chuyển chức năng tâm lí bên ngoài
vào bên trong trong sự phát triển trẻ em (PTTE). Trong các quy luật này,
L.X.Vưgotxki đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của kí hiệu với tư cách là công
cụ tâm lí quy định tính chất xã hội – lịch sử của các chức năng tâm lí và nhấn
mạnh vai trò quyết định của hoạt động hợp tác giữa trẻ em với người lớn
thông qua CCKH.
* Trình độ hiện tại và vùng phát triển gần nhất trong quát trình phát triển
của trẻ em. Quan hệ của chúng với dạy học.
L.X.Vưgotxki cho rằng trong suốt quá trình PTTE thường xuyên diễn ra
hai mức độ: trình độ hiện tại (TĐHT) và vùng phát triển gần nhất (VPTGN).
TĐHT là trình độ, mà ở đó các chức năng tâm lí đã đạt tới độ chín muồi, còn
VPTGN là trong đó các chức năng tâm lí đang trưởng thành nhưng chưa chín
muồi. Trong thực tiễn, TĐHT biểu hiện qua việc trẻ em độc lập giải quyết
nhiệm vụ, không cần bất kì sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, còn VPTGN được
thể hiện trong tình huống trẻ hoàn thành nhiệm vụ khi có sự hợp tác, giúp đỡ
của người khác, mà nếu tự mình, nó không thể thực hiện được. Như vậy, hai
mức độ PTTE thể hiện hai mức độ chín muồi của mỗi chức năng tâm lí ở các
thời điểm khác nhau. Đồng thời chúng luôn vận động: VPTGN hôm nay thì
ngày mai sẽ trở thành TĐHT và xuất hiện VPTGN mới.
Theo L.X.Vưgotxki, mọi ý đồ dạy học tách rời sự phát triển, coi hai yếu
tố này độc lập với nhau, hoặc chúng trùng khít nhau, đều dẫn đến sai lầm,
làm hạn chế vai trò của dạy học. Dạy học và phát triển phải thường xuyên có
quan hệ hữu cơ với nhau, nhưng dạy học không đi sau sự phát triển, là điều
kiện bộc lộ sự phát triển. Nó đi trước quá trình phát triển, tạo ra VPTGN. Chỉ
có như vậy, dạy học mới thực sự kéo theo sự phát triển, định hướng và thúc
đẩy nó. Dĩ nhiên, trong thực tiễn phải lưu ý dạy học không được đi trước quá
xa so với sự phát triển, càng không được đi sau nó. Dạy học và phát triển
phải cận kề bên nhau. Đồng thời phải quán triệt tư tưởng dạy học là sự hợp
tác giữa người dạy và người học. Hoạt động dạy và hoạt động học là hoạt
động hợp tác giữa giáo viên và học viên. Chỉ có như vậy, dạy học mới đạt
hiệu quả tối ưu đối với sự phát triển của trẻ em.
2.4.1.2. Một số luận điểm dạy học chủ yếu theo học thuyết lịch sử – văn hoá về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của L. X. Vưgotxky
Có thể chuyển các luận điểm chủ yếu của học thuyết lịch sử - văn hoá
về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao vào lĩnh vực dạy học.
* Thứ nhất: Học tập thực chất là quá trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm
xã hội - lịch sử.
Quá trình học tập của trẻ em thực chất là quá trình trẻ em lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội – lịch sử được kết tinh trong các công cụ kí hiệu do loài người
sáng tạo ra, là quá trình trẻ học cách sử dụng các công cụ kí hiệu đó.
L.X.Vygotxki cho rằng có năm loại kinh nghiệm: kinh nghiệm loài, kinh
nghiệm cá thể, kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm đã
được tăng cường do tính chủ thể. Hai kinh nghiệm đầu mang tính loài được
hình thành do sự tương tác giữa cá nhân với môi trường còn ba loại kinh
nghiệm sau mang tính xã hội và được hình thành do trẻ em học, biến chúng
từ chỗ là phương tiện của giao tiếp xã hội ở bên ngoài, thành phương tiện
tâm lí của cá nhân ở bên trong. Theo L.X.Vưgotxky, học cách sử dụng công
cụ tâm lí hay công cụ kí hiệu là chìa khoá để phát triển tâm lí cá nhân.
Thứ hai: Cơ chế học và nội dung dạy học.
Theo L.X.Vưgotxki có hai loại trình độ tri thức: tiền khoa học (khái niệm
sinh hoạt) và khoa học. Khái niệm tiền khoa học hình thành theo con đường
tự nhiên, còn khái niệm khoa học là chức năng tâm lí cấp cao, được hình
thành theo con đường lĩnh hội. Nó chính là nội dung dạy học trong nhà
trường. Nhà trường chỉ giúp cho học viên hình thành khái niệm khoa học, còn
khái niệm tiền khoa học, trẻ em có thể tự hình thành thông qua sự tương tác
hàng ngày với người lớn. Các khái niệm khoa học có nguồn gốc trong thực
tiễn đời sống văn hoá – xã hội, có nội dung xã hội – lịch sử và được hình
thành theo cơ chế lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội – lịch sử, trên cơ sở cải tổ
các kinh nghiệm đã có, nhờ sử dụng các công cụ kí hiệu. Quá trình hình
thành các khái niệm khoa học ở trẻ em thực chất là quá trình trẻ em lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội – lịch sử được kết tinh trong các công cụ kí hiệu do loài
người sáng tạo ra, là quá trình trẻ học cách sử dụng các công cụ kí hiệu đó.
Chúng ta sẽ quay trở lại luận điểm này khi bàn đến nội dung dạy học hiện
nay.
Thứ ba: Dạy học là hoạt động hợp tác giữa người dạy với người học.
Dạy học hợp tác là một trong những đóng góp lớn của L.X. Vưgotxki
vào lí luận dạy học hiện đại. Cơ sở tâm lí học của phương thức dạy học hợp
tác là các quy luật hình thành CNTLCC nói chung và quy luật phát triển trẻ em
nói riêng, đã được L.X. Vưgotxki phát hiện. Dạy học hợp tác giữa người dạy
với người học bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn so với việc các em tự
mò mẫm đi đến kiến thức (L.X. Vưgotxki, 1997). Bản chất của phương thức
dạy học này là sự tác động của người lớn nhằm giúp đỡ trẻ em tổ chức các
hoạt động thực tiễn, ở bên ngoài, sau đó chuyển hoạt động này vào trong tâm
lí, ý thức của mình. Quan điểm của L.X. Vưgotxki về tương tác trong dạy học
là cơ sở của phương pháp dạy học tương tác phát triển sẽ được phân tích
trong chương Hai của tài liệu này.
Thứ tư: Dạy học phát triển
Nguyên lí dạy học phát triển đã được L.X. Vưgotxki phân tích rất kĩ và
được đề cập nhiều lần trong các tác phẩm khoa học của mình. Trong đó, ông
không chỉ phân tích về quan hệ giữa dạy học với sự phát triển của trẻ em, về
vai trò chủ đạo của dạy học đối với sự phát triển, mà còn chỉ ra những vấn đề
có tính chất thực tiễn về phương pháp chẩn đoán sự phát triển của trẻ em; về
tổ chức việc dạy học để qua đó định hướng và thúc đẩy sự phát triển. Nói
chính xác, luận điểm của L.X. Vưgotxki về dạy học và phát triển không chỉ có
tính nguyên lí, mà còn chứa đựng nhiều yếu tố thực tiễn. Vì vậy, có thể
chuyển trực tiếp luận điểm này vào trong dạy học, nhất là dạy học hiện đại,
khi mà sự phát triển của trẻ em theo nhịp độ gia tốc.
2.4.2. Một số luận điểm dạy học chủ yếu theo lí thuyết hoạt động tâm lí của A. N. Leonchev
2.4.2.1. Một số thành tựu lí luận về hoạt động tâm lí của A. N. Leonchev
A. N. Leonchev là nhà tâm lí học macxit kiệt xuất, có nhiều đóng góp
cho tâm lí học Liên Xô (cũ) và thế giới. Ngày nay các luận điểm của ông được
ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong
dạy học.
Tư tưởng chủ đạo của A. N. Leonchev là mọi dạng hoạt động (HĐ) của
con người đều là tâm lí, chúng chính là đối tượng (ĐT) của tâm lí học. Nhiệm
vụ của nhà nghiên cứu là xác lập về mặt tâm lí học phạm trù hoạt động có đối
tượng (HĐCĐT), tức là phân tích cơ cấu của HĐ, phát hiện chức năng phản
ánh tâm lí của nó, nguồn gốc, quá trình phát sinh, phát triển các chức năng đó
và vai trò trung gian của HĐ trong quan hệ giữa con người với thế giới xung
quanh.. Về phương diện này, A. N. Leonchev và các cộng sự đã đóng góp
cho tâm lí học thế giới phương pháp tiếp cận hoạt động và các thành tựu lí
luận về hoạt động, đặc biệt là cấu trúc của hoạt động.
Về phương diện dạy học, có thể rút ra một số điểm quan trọng từ học
thuyết hoạt động tâm lí của A. N. Leonchev (1903 – 1979).
* Thứ nhất: Theo A. N. Leonchev, về hình thức, có hai loại HĐ: HĐ bên
trong (hoạt động tinh thần) và HĐ bên ngoài (HĐ vật chất, thực tiễn). Về bản
chất, hai loại HĐ này có cấu tạo chung giống nhau. HĐ bên trong có nguồn
gốc từ HĐ bên ngoài, là quá trình chuyển ĐT từ bên ngoài vào bên trong cá
nhân. Quá trình này không phải là sự di chuyển HĐ bên ngoài vào trong ý
thức đã có từ trước, mà là quá trình hình thành bình diện bên trong do sự di
chuyển và các tổ HĐ bên ngoài. Quá trình di chuyển và cải tổ này được diễn
ra qua một số bước nhất định. Mỗi bước là một sự cải biến hình thức thể hiện
của ĐT trên cơ sở bảo toàn nội dung xã hội của nó.
Cơ chế tâm lí của các bước chuyển hoá từ hành động vật chất, bên
ngoài thành hành động trí óc bên trong của mỗi cá nhân đã được P.Ia
Galperin – Nhà tâm lí học nổi tiếng Liên Xô (trước đây) phát hiện và xác lập.
Lí thuyết về các bước hình thành hành động trí óc của ông là cơ sở tâm lí của
hành động học tập của học sinh trong dạy học.
* Thứ hai: Cấu trúc của hoạt động: HĐ (cả HĐ bên trong và HĐ bên
ngoài) là đơn vị phân tử, chứ không phải là đơn vị hợp thành. Vì vậy, cấu trúc
của HĐ không phải là sự kết hợp của các bộ phận tạo thành một khối chỉnh
thể, mà là cấu trúc chức năng của các đơn vị của HĐ. Trong mỗi HĐ có các
đơn vị phân tử với các chức năng sau đây: HĐ trong mối quan hệ chuyển hoá
với đối tượng (ĐT). ĐT (vật chất hay tinh thần) với tư cách là động cơ (ĐC)
của HĐ, có chức năng kích thích HĐ, hướng HĐ về phía bản thân nó. Đằng
sau ĐC là nhu cầu. HĐ đáp ứng trực tiếp nhu cầu của chủ thể. Về phương
diện phát sinh (cả góc độ xã hội và cá nhân), thời kì đầu HĐ trực tiếp thoả
mãn nhu cầu của chủ thể. Về sau, do sự phát triển của chủ thể, dẫn đến tách
ra các ĐT bộ phận đóng vai trò trung gian, là phương tiện để dẫn chủ thể đến
thoả mãn nhu cầu. ĐT bộ phận được tách ra đó chính là mục đích (MĐ),
tương ứng với nó là hành động. Mục đích là đối tượng mà cá nhân ý thức
được cần phải chiếm lĩnh để làm phương tiện thoả mãn nhu cầu. MĐ có chức
năng hướng dẫn chủ thể tới đối tượng. Điều quan trọng ở đây là xác định
quan hệ giữa ĐC và MĐ, từ đó dẫn đến phân biệt HĐ và hành động. ĐC và
MĐ đều là ĐT khách quan chủ thể cần chiếm lĩnh. Nhưng nếu việc chiếm lĩnh
nó thoả mãn nhu cầu của chủ thể thì nó là ĐC, còn nếu nó chỉ là phương tiện
để thoả mãn nhu cầu khác thì đó là MĐ. MĐ vừa có tính độc lập vừa phụ
thuộc. Vì vậy hành động cũng vừa độc lập vừa phụ thuộc vào HĐ. HĐ tồn tại
dưới dạng chuỗi hành động. Để thực hiện MĐ, chủ thể không chỉ ý thức được
ĐT mà còn phải có các thao tác (TT) chiếm lĩnh nó, TT của chủ thể phụ thuộc
vào phương tiện (PT) khách quan và là PT để chủ thể vận dụng vào trong
hành động. TT không có MĐ tâm lí, mà chỉ là cơ cấu kĩ thuật của hành động,
TT có chức năng kĩ thuật. TT được sinh ra từ hành động trước đó, nó là kết
quả quá trình luyện tập và kĩ thuật hoá hành động, đưa nó vào trong hành
động khác, sau khi trừu xuất mục đích tâm lí của nó.
Như vậy, A.N.Leonchev đã xác định một cấu trúc chức năng của hoạt
động, bao gồm sự chuyển hoá giữa các yếu tố chủ thể: HĐ, hành động, TT
tương ứng với sự chuyển hóa chức năng của các đối tượng cần chiếm lĩnh:
ĐC, MĐ, PT.
* Thứ ba: Quá trình phát triển của trẻ em là quá trình lĩnh hội các kinh
nghiệm xã hội – lịch sử do loài người tích luỹ được qua các thế hệ. Thực chất
của quá trình này là tiến hành các HĐ. Mỗi giai đạn phát triển của trẻ em có
nhiều hoạt động, trong đó có hoạt động chủ đạo (CĐ). A. N. Leonchev cho
rằng: HĐCĐ là hoạt động mà sự phát triển của nó quy định những biến đổi
chủ yếu nhất trong các quá trình tâm lí và trong các đặc điểm tâm lí của nhân
cách trẻ em ở giai đoạn phát triển nhất định của nó, tạo nên cấu trúc đặc
trưng của nhân cách và định hướng sự phát triển của nhân cách đó. Sự thay
thế nhau giữ các giai đoạn phát triển của trẻ em được đặc trưng bởi sự thay
thế của các hoạt động chủ đạo. Vì vậy, có thể căn cứ vào hoạt động chủ đạo
để xác định các giai đoạn lứa tuổi trong quá trình phát triển của trẻ em.
2.4.2.2. Vận dụng thành tựu lí luận của A. N. Leonchev về hoạt động tâm lí vào lĩnh vực dạy học
Có thể vận dụng lí luận của A.N.Leonchev về hoạt động tâm lí để giải
quyết hàng loạt vấn đề lí luận và thực tiễn dạy học. Trong đó chủ yếu là việc
hình thành hoạt động học tập cho người học, đặc biệt là học viên nhỏ tuổi.
Xung quanh vấn đề này trước hết cần hình thành cho người học các đơn vị
chức năng của hoạt động học tập: động cơ, mục đích học tập, để qua đó hình
thành thao tác, hành động và hoạt động học. Trong đó hình thành hành động
học là khâu trung tâm. Sau khi đã có hoạt động học cần chuyển từ hoạt động
thứ yếu lên mức hoạt động chủ đạo trong quá trình phát triển của trẻ em.
Phương pháp hình thành động cơ học tập theo quan điểm của A.N.Leonchiev
sẽ được giới thiệu trong Chương XI, dưới đây là tóm tắt sự hình thành hành
động học.
* Hình thành hành động và thao tác học cho học viên.
Việc hình thành hành động học tập là chìa khoá dẫn đến thành công
trong dạy học. Bởi lẽ nếu hình thành được hành động học tập sẽ có nhiều cơ
hội để hình thành hoạt động học. Mặt khác, từ hành động học có thể luyện tập
để trở thành thao tác cho hành động khác.
Việc hình thành hành động học cho học viên đòi hỏi trước hết phải xác
định được mục đích học tập và giúp trẻ em ý thức được mục đích đó. Bước
tiếp theo là huy động các thao tác (các phương tiện tâm lí) và các phương
tiện kĩ thuật để thực hiện mục đích đã được ý thức. Có hai con đường để làm
các việc trên.
Con đường thứ nhất: hình thành hành động học cho học viên các lớp
dưới, thường được bắt đầu từ mẫu giáo và thông qua hoạt động chơi. Lúc
đầu bản thân các thao tác chơi là đối tượng chú ý của trẻ em, sau đó nội
dung và các quy tắc chơi được trẻ em ý thức và chuyển thành mục đích của
việc chơi. Hành động chơi được hình thành. Từ đó xuất hiện hàng loạt tiền đề
tâm lí của hành động học.
Con đường thứ hai: chuyển hoá hoạt động học thành hành động học,
trên cơ sở chuyển hoá động cơ thành mục đích học cho học viên các lớp trên.
Cơ sở tâm lí của việc làm này là sự phát triển không ngừng của nhu cầu học
tập của người học. Trong quá trình phát triển của nhu cầu học, có sự phân
hoá, một số chuyển chức năng và trở thành phương tiện thực hiện nhu cầu
học tập cao hơn, tức là phục vụ cho động cơ mới, từ đó xuất hiện hành động
học tập mới.
* Hình thành thao tác học. Việc hình thành thao tác học được thực hiện
theo cơ chế chuyển hoá hành động học thành thao tác học. Quá trình này
phải được tiến hành trên cả hai phương diện: luyện tập và rút gọn hành động
học tập tới mức thành thạo, mức kĩ xảo. Sau đó phải đưa (sử dụng) thao tác
đó vào trong hành động học khác. Quy luật chung của việc chuyển hoá hoạt
động học thành hành động và thao tác học là bất kỳ khái niệm khoa học nào
cũng phải được hình thành như là một hành động học tập và cũng đều có thể
và phải trở thành phương tiện để hình thành khái niệm tiếp theo. Quy luật này
chính là cơ sở tâm lí của nguyên lí học là hành, học lí thuyết phải đi liền với
thực hành để củng cố và phát triển tri thức đã học, biến chúng trở thành
phương tiện để tiếp thu tri thức mới.
Như vậy, trung tâm của vấn đề hình thành hoạt động học cho người
học là kĩ thuật và nghệ thuật hình thành và chuyển hoá các đơn vị chức năng
của hoạt động này: Hình thành động cơ học 1 mục đích học 1 phương tiện học
tập, từ đó hình thành hoạt động học 1 hành động học 1 thao tác học. Dĩ nhiên,
để giải quyết vấn đề trên không chỉ dựa vào lí thuyết của A.N. Leonchev về
hoạt động mà cần phải khai thác nhiều thành tựu tâm lí học khác, trong đó
học thuyết của P.Ia.Galperin về các bước hình thành hành động trí óc cho trẻ
em.
2.4.3. Lí thuyết về các bước hình thành hành động trí óc và khái niệm của P. Ia. Galperin và mô hình dạy học của V. V. Davưdov
Trong dòng lí thuyết hoạt động, L.X.Vưgotxki đã đặt vấn đề hoạt động
là đối tượng nghiên cứu và đã chú ý tới sự hình thành các công cụ tâm lí bên
trong từ bên ngoài. A. N. Leonchev tiến thêm một bước, bằng cách vạch ra
sự tương đồng về bản chất và cấu trúc giữa hoạt động bên ngoài và hoạt
động bên trong. Đồng thời xác định được cấu trúc chức năng của các đơn vị
trong hoạt động và cơ chế hình thành động cơ, mục đích và phương tiện hoạt
động. Tuy vậy, vấn đề còn tồn tại là quá trình chuyển hoá từ bên ngoài vào
bên trong diễn ra như thế nào? Công trình nghiên cứu của nhà tâm lí học P.
Ia. Galperin (1902 – 1988) đã giải quyết khá triệt để vấn đề này. Giả thuyết
khoa học ở đây là: Hoạt động tâm lí là kết quả của quá trình chuyển các hành
động vật chất bên ngoài vào lĩnh vực phản ánh. Quá trình di chuyển ấy tiến
hành theo một số bước; ở mỗi bước có sự phản ánh mới, một lần tái hiện
hành động và sự cải tổ một cách có hệ thống hành động đó. Từ giả thuyết
này, P. Ia. Galperin đã nghiên cứu và đề xuất lí thuyết về các bước hình
thành hành động trí tuệ. Dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà lí thuyết
hoạt động, trực tiếp là của P. Ia. Galperin, V. V. Davưdov đã hình thành mô
hình dạy học theo chiến lược phát triển trí tuệ học viên.
2.4.3.1. Một số điểm trong lí thuyết của P. Ia. Galperin về các bước hình thành hành động trí óc và khái niệm
* Các hình thức hay các mức của hành động
Theo P. Ia. Galperin, có ba hình thức biểu hiện của đối tượng: Hình
thức tồn tại dưới dạng vật thật; hình thức kí hiệu và hình thức trí tuệ bên
trong. Tương ứng với các hình thức biểu hiện trên là ba hình thức hay ba
mức của hành động: hành động với các đồ vật vật chất hay các dạng vật chất
hoá của chúng; hành động kí hiệu ngôn ngữ và hành động ý nghĩ bên trong.
Quá trình chuyển từ hành động bên ngoài vào bên trong trải qua ba hình thức
(ba mức) hành động trên.
* Các bước hình thành hành động trí tuệ
+ Bước 1. Lập cơ sở định hướng của hành động
Theo P.Ia.Galperin, lĩnh hội được hành động là phải biết làm lại hành
động đó với vật liệu mới và từ vật liệu mới đó làm lại được sản phẩm theo dự
kiến. Muốn vậy, phải phân tích vật mẫu. Ở đây, chủ thể trước hết phải tính
đến các yếu tố khách quan của hành động mẫu, thành phần các thao tác của
nó. Phân chia hành động thành những thao tác vừa sức. Sau đó đem sự
phân chia này chuyển sang vật liệu mới. Nhờ đó, giúp chủ thể cứ thực hiện
hết phần này đến phần khác của hành động trên vật liệu mới phù hợp với các
thao tác của mình. Sự phân bố ấy chính là cơ sở định hướng của hành động.
Lập cơ sở định hướng là nhiệm vụ chủ yếu và là nội dung chính của cả quá
trình hành động, nó là phần quan trọng nhất trong cơ chế của hành động.
+ Bước 2. Hành động với vật thật hay vật chất hoá
Lập cơ sở định hướng hành động thực chất mới chỉ là hệ thống các chỉ
dẫn cách thức hành động, chưa phải là hành động. Hành động chỉ được thực
hiện khi chủ thể tiến hành nó ở dạng nguyên thuỷ: hành động với vật thật hay
vật chất hoá, tức là hành động với các đồ vật hay các biến thể của nó như
hình vẽ, sơ đồ, mô hình, hình mẫu của vật thật đó. Hành động với vật thật hay
với dạng vật chất hoá là nguồn gốc của mọi hành động trí tuệ trọn vẹn. Mục
đích của nó là phân tích, tách nội dung đích thực của hành động tâm lí nằm
trong đối tượng vật chất hay vật chất hoá. Nội dung của bước này là chủ thể
dùng tay để triển khai hành động, luyện tập, khái quát và rút gọn nó.
Triển khai hành động là vạch ra tất cả thao tác của nó trong mối quan
hệ qua lại với nhau. Việc triển khai này phải được thực hiện hết cỡ, tới mức
không thể phân chia sự vật được nữa mới thôi. Sự triển khai triệt để hành
động bằng thao tác vật chất (bằng tay) là điều kiện số một để chỉ ra lôgic
khách quan của hành động, cũng tức là nội dung đích thực của khái niệm cần
phải lĩnh hội.
Khái quát hành động là từ nhiều thuộc tính đa dạng của đối tượng, rút
ra những thuộc tính cần cho việc thực hiện hành động. Việc khái quát được
thực hiện ngay trong quá trình triển khai hành động sẽ thuận lợi hơn và hiệu
quả hơn khi hành động đã được ổn định.
Chỉ sau khi hành động đã được triển khai và được khái quát, chủ thể
mới hiểu rõ nội dung thực sự của hành động.
+ Bước 3. Hành động nói to không dùng đồ vật
Nội dung cơ bản của hành động với lời nói to là trẻ em nói to toàn bộ
hành động vật chất của mình một cách trôi chảy, theo đúng lôgic của hành
động và lôgic của ngữ pháp, để người khác và bản thân nghe thấy, giám sát
và điều chỉnh. Nhờ đó, trẻ em có đối tượng phản ánh mới, đó là lời nói to có
quy tắc ngữ pháp, chứa đựng nội dung hành động.
Như vậy, chuyển hành động vào dạng ngôn ngữ là cách triển khai hành
động với đồ vật bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một dạng (hình thức) của hành
động vật chất. Lôgic của hành động với lời nói to hoàn toàn giống với hành
động trên vật thật. Nó chỉ khác về hình thức thể hiện. Ở đây, đối tượng của
hành động được tách khỏi điểm tựa vật chất và nhập vào lời nói to có quy tắc
ngữ pháp.
+ Bước 4. Hành động với lời nói thầm
Bước này được xác định từ lúc hành động nói to chuyển vào bên trong
đến khi hành động nói thầm thành thạo. Bản chất của bước này là cấu tạo lại
ngôn ngữ, biến các “hình ảnh âm thanh của từ” thành biểu tượng. Nó là quá
trình tạo ra biểu tượng của các hình ảnh âm thanh.
Đối tượng của hành động lực này là lời nói to. Vì vậy, trọng tâm của
hành động nói thầm là sự cấu âm. Tuy nhiên, khác với sự cấu âm trong hành
động với lời nói to, mà ở đó việc cấu âm được hướng ra bên ngoài với đầy đủ
quy tắc ngữ pháp của nó, trong hành động với lời nói thầm, việc cấu âm được
hướng vào bên trong, không tạo ra âm thanh. Vì vậy, nó không nhất thiết phải
tuân theo lôgic ngữ pháp một cách chặt chẽ, nên nó cơ động hơn, khả năng
rút gọn nhanh hơn.
Để thực hiện hành động nói thầm, trước hết phải triển khai hành động
xuất phát, tức là hành động nói to. Sau đó, hành động này từng bước được
tái diễn ở trong đầu. Vì vậy, dạng đầu tiên của hành động trí tuệ thực sự là
ngôn ngữ nói thầm được triển khai mạch lạc ra ngoài. Đặc điểm của ngôn
ngữ thầm là về cấu trúc ngữ âm nó là ngôn ngữ ngoài. Do đó, khi cần chủ thể
có thể nhanh chóng chuyển chúng sang dạng nói to, mạch lạc. Mặt khác, về
phương diện nghĩa, nó bảo tồn toàn bộ lôgic của hành động vật chất ban đầu,
dưới hình thức âm không thành tiếng. Vì vậy, nó là điểm tựa vật chất cuối
cùng của lôgic hành động ban đầu. Thành ra, hành động với lời nói thầm vừa
có tính vật chất, bên ngoài, vừa là hành động tinh thần, bên trong, hành động
trên biểu tượng tâm lí, được hình thành từ các hình ảnh âm thanh.
+ Bước 5. Hành động rút gọn với lời nói bên trong
Đặc trưng của bước này là ngôn ngữ không còn hướng ra ngoài. Vì vậy
nó không còn giữ nguyên các quy tắc ngữ âm và ngữ pháp, mà hoàn toàn có
tính cơ động cao và được rút gọn. Trong hình thái này, nội dung vật chất của
hành động được biểu thị trong nghĩa của từ, còn âm thanh được rút gọn tới
mức chỉ là những mảnh nhỏ và không ổn định, giống như các kí hiệu điện tín,
vừa đủ để chủ thể nhận ra toàn bộ lôgic của hành động vật chất ban đầu khi
cần thiết. Đến đây, hành động bên ngoài đã chuyển thành hành động bên
trong, cái vật chất đã chuyển thành cái tinh thần.
* Hình thành nghĩa khách quan và ý chủ quan
Tiến trình các bước hình thành hành động trí tuệ được mô tả ở trên
như một dòng chảy các thao tác lôgic từ bên ngoài chuyển vào. Qua mỗi
bước, dòng chảy đó vừa được cấu trúc lại, chuyển hoá về hình thức, vừa
được khái quát, rút gọn và cô đặc để cuối cùng được một hành động trí óc
thuần tuý mà vẫn giữ được nội dung vật chất ban đầu, tức là nghĩa khách
quan của sự vật. Trong các bước của dòng chảy, có sự phân luồng, phân
cực: một bên là nội dung vật chất được lồng vào hình thức biểu hiện của ngữ
nghĩa, bên kia, là các động tác thuần túy chú ý, không có nội dung, như một
người kiểm soát dòng chảy đó, tức là ý chủ quan của chủ thể về nghĩa khách
quan. Ở bước cuối cùng, khi ngôn ngữ đã được rút gọn, vượt ra ngoài ý thức,
hai luồng đó mới sát nhập, chuyển thành hai mặt của một hiện tượng: nội
dung vật chất của hành động và ý nghĩa về nội dung đó. Như vậy, nghĩa và ý
của hành động trí tuệ đã được hình thành.
2.4.3.3. Các phương pháp định hướng việc hình thành hành động trí tuệ cho trẻ em
P. Ia. Galperin cho rằng có ba phương pháp cơ bản định hướng quá
trình hình thành hành động trí tuệ của trẻ em, tạm gọi như sau:
+ Phương pháp định hướng cụ thể, bộ phận, học sinh tự thực hiện.
Trong tình huống của phương pháp này, trước khi hành động, chủ thể
chỉ có các mẫu hành động và sản phẩm của nó, mà không có lời chỉ dẫn để
thực hiện đúng hành động đó. Chủ thể phải tự mò mẫm tìm lấy, xác lập lấy
lôgic hành động, nên rất chậm. Trên cơ sở phương pháp định hướng này,
quá trình hình thành hành động trí tuệ diễn ra theo cơ chế “thử và sai” vô số
lần. Kết quả, chủ thể có thể thực hiện được hành động nhưng rất chậm và
không ổn định. Nên khi điều kiện thay đổi, hành động đã đạt được không phù
hợp, chủ thể lại phải làm lại từ đầu.
Đặc điểm của loại định hướng này là chủ thể hành động không xác định
được trước các điều kiện cần thiết đảm bảo cho hành động thực hiện đúng.
Nói cách khác, trong cơ cấu của hành động, mới nổi rõ yếu tố mục đích mà
hành động hướng tới còn cách thức, thao tác và các điều kiện để triển khai
mục đích còn chưa có.
Phương pháp “thử và sai” vẫn được dùng phổ biến trong đời sống hàng
ngày, trong nghiên cứu khoa học và trong dạy học. Điển hình là trong dạy học
điều khiển hành vi.
+ Phương pháp định hướng cụ thể, bộ phận, giáo viên hướng dẫn
Khác với loại thứ nhất, trong loại định hướng thứ hai vừa có cả mẫu
hành động và sản phẩm của nó, vừa có cả các chỉ dẫn để làm đúng hành
động đó với vật liệu mới. Vì vậy, nếu chủ thể hành động (học viên) tuân theo
các chỉ dẫn đó thì hành động không mắc sai lầm và thực hiện nhanh chóng.
Nội dung của phương pháp này là giáo viên chỉ ra các điểm tựa (mốc
triển khai), các điều kiện để thực hiện đúng hành động, học viên luyện tập và
tự mình tái hiện lại chúng trên vật liệu đã có. Nhờ đó, các em biết cách phân
tích ở mức nhất định tài liệu theo góc độ hành động sắp triển khai.
So với phương pháp thứ nhất, phương pháp này có nhiều ưu điểm
hơn, học viên không chỉ biết rõ mục đích hành động mà còn biết cả cách để
đạt đến mục đích đó. Vì vậy, hành động không phải tiến hành theo cơ chế thử
và sai, mà ngay từ đầu đã thực hiện đúng. Tuy nhiên, nó có hạn chế là các
cách thức và điều kiện hành động đều do giáo viên đưa ra, nó có sẵn đối với
học viên. Các em chỉ cần học thuộc và thực hiện theo đúng các chỉ dẫn đó.
Hơn nữa, các chỉ dẫn này chỉ ứng với một hành động cụ thể, khi chuyển sang
hành động với vật liệu mới, giáo viên lại phải chỉ dẫn từ đầu cho học viên các
mốc và điều kiện mới.
+ Phương pháp định hướng khái quát, đầy đủ, học viên tự thực hiện
Phương pháp này có đặc điểm là việc huấn luyện có kế hoạch cách
phân tích hành động được xếp lên hàng đầu. Sự phân tích này cho phép học
viên tự rút ra các điểm tựa, các điều kiện hành động. Sau đó, căn cứ vào các
chỉ dẫn đã có mà tiến hành hành động mới. So với hai phương pháp đầu,
phương pháp này phức tạp và lúc đầu cần nhiều thời gian hơn. Ưu điểm của
nó là sau khi học viên nắm được cách thức phân tích hành động (các điểm
tựa và các điều kiện thực hiện), sẽ dễ dàng tự phân tích lấy và tự thực hiện
các hành động cụ thể. Kết quả cuối cùng, loại định hướng này cho chất lượng
hành động cao hơn.
Trong dạy học, phương pháp này được thể hiện ở chỗ, trước khi triển
khai học tập các tài liệu cụ thể, học viên được học các phương pháp chung
và cách cụ thể hoá chúng vào trong từng tình huống cụ thể. Vì vậy, nó còn
được gọi là phương pháp dạy cách học.
Có thể minh họa các phương pháp định hướng trên qua các tình hướng
dạy trẻ em tập viết.
Nhiệm vụ dạy học: Hình thành hành động viết cho học viên
Tình huống 1. Sử dụng phương pháp thứ nhất
Giáo viên chỉ viết lên bảng chữ cái mà học viên cần viết (ví dụ, cho a).
Ngoài ra, không có bất kì cách hướng dẫn nào về cách cầm bút, cách viết
v.v… Trong trường hợp này, học viên phải tự “xoay xở”, “mầy mò” tập viết
chữ a cho tới khi đáp ứng được yêu cầu của cô giáo (đúng với mẫu giáo viên
đã cho trên bảng).
Tình huống 2. Sử dụng phương pháp định hướng thứ hai
Giáo viên vừa viết lên bảng mẫu chữ học viên cần viết (chữ a), vừa
hướng dẫn cụ thể cách cầm bút, thứ tự tiến hành các thao tác, kích thước
của chữ a. Lúc đầu hướng dẫn các em viết lên bảng con, sau đó chuyển sang
viết vào vở.
Tình huống 3. Sử dụng phương pháp định hướng thứ ba
Trước khi yêu cầu học viên viết các chữ cụ thể, giáo viên hướng dẫn
các thao tác cơ bản, chung để viết tất cả chữ cái (chẳng hạn: cách cử động
cổ tay, cách cầm bút, các hướng cử động, cách xác định vị trí chữ cái sẽ đi
qua, cách viết các chữ có kích cỡ khác nhau v.v…). Trên cơ sở nắm được
các thao tác, nguyên tắc chung như trên để viết các chữ cái, học viên sẽ tự
mình triển khai vào việc viết các chữ cái cụ thể theo đặc điểm riêng của mỗi
chữ.
2.4.4. Mô hình dạy học của V. V. Davưdov dựa trên cơ sở lí thuyết hoạt động tâm lí
Có thể gọi một cách quy ước phương hướng dạy học của nhà tâm lí
học sư phạm Liên Xô V.V. Davưdov là mô hình dạy học hình thành khái niệm
khoa học cho học viên theo chiến lược từ trừu tượng đến cụ thể. Nếu không
quá bận tâm đến tên gọi và đi sâu tìm hiểu nội dung chủ yếu của nó, ta sẽ
thấy nhiều điều thú vị về mô hình dạy học này. Những phương pháp cụ thể
được sử dụng trong mô hình dạy học của V.V. Davưdov sẽ được giới thiệu kĩ
hơn trong phương pháp dạy học thầy thiết kế – trò thi công của Hồ Ngọc Đại
– một học trò của ông.
2.4.4.1. Cơ sở triết học và tâm lí học
* Về triết học, V.V. Davưdov chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng triết học
biện chứng về nhận thức, đặc biệt là tư tưởng của G.Heghen và C. Mác.
Trong đó có một số điểm đáng chú ý:
Thứ nhất: Về phương diện phản ánh: nhận thức của con người trải qua
ba giai đoạn: cảm tính – lí trí (tư duy giác tính) – lí tính (tư duy trừu tượng).
Trong đó tư duy giác tính là cái hữu hạn, bị chế định, siêu hình. Sản phẩm
của nó là các biểu tượng (tức là các khái niệm được hình thành bởi sự khái
quát hoá những dấu hiệu bên ngoài, giống nhau của các sự vật khác nhau.
V.V. Davưdov gọi đó là sự khái quát hoá kinh nghiệm). Tư duy biện chứng (lí
tính) có khả năng đi sâu, khám phá các quan hệ bản chất của các sự vật,
phát hiện ra các quy luật vận động và chuyển hoá của chúng). Sản phẩm của
nó là khái niệm khoa học (V.V. Davưdov gọi đó là khái niệm lí luận). Như vậy
khái niệm kinh nghiệm là mức độ thấp, còn khái niệm khoa học là mức độ
cao, vận động và phát triển.
Thứ hai: Về phương diện vận động và phát triển. Mọi sự vật trong đó có
cả tư duy của con người, cả hệ thống khái niệm của một lĩnh vực khoa học
đều vận động và phát triển theo quy luật từ trừu tượng đến cụ thể. Các khái
niệm khoa học cũng phát triển theo quy luật từ trừu tượng đến cụ thể. Đây là
cơ sở khoa học để V.V. Davưdov thiết kế chương trình dạy học từ trừu tượng
đến cụ thể.
Quá trình phát triển của sự vật khởi đầu là ở mức trừu tượng, nghèo
nàn, trống rỗng. Sự phát triển tiếp theo là cụ thể dần của những yếu tố còn ở
mức trừu tượng ban đầu. Chẳng hạn, sự phát triển của cây lúa: Từ hạt thóc 1
cây mạ 1 cây lúa con gái 1 cây lúa trổ bông 1 bông lúa 1 hạt thóc mới của chu
trình phát triển mới. Sự phát triển của con gà cũng bắt đầu từ quả trứng (sự
trừu tượng của con gà 1 con gà con 1 con gà trưởng thành 1 đẻ trứng – sự
trừu tượng của con gà khác, chu kì phát triển mới). Sự phát triển ý nghĩ của
một người về một đối tượng nào đó cũng từ trừu tượng (hiểu mơ hồ, lơ mơ)
đến cụ thể (hiểu rõ ràng, sâu sắc, đầy đủ). Sự phát triển của khái niệm
nguyên tử từ trong triết học cổ đại đến vật lí học hiện đại v.v…
* Về tâm lí học. Mô hình dạy học của V.V. Davưdov khai thác thành tựu
của nhiều lý thuyết tâm lí học, đặc biệt là các lý thuyết tâm lí học hoạt động,
mà trực tiếp là của L.X.Vưgotxky, A.N. Leonchev và P.Ia.Galperin và của J.
Bruner.
2.4.4.2. Những điểm chủ yếu trong mô hình dạy học của V. V. Davưdov
Thứ nhất: Dạy khái niệm khoa học (khái niệm lí luận) cho học sinh,
không dạy khái niệm sinh hoạt, khái niệm kinh nghiệm.
Thứ hai: Chương trình dạy học được thiết kế theo hướng phát triển của
hệ thống khái niệm khoa học, tức là từ trừu tượng đến cụ thể. Trẻ em ngay từ
lớp dưới phải được học các khái niệm khoa học đích thực (khái niệm lí luận),
dưới hình thức biểu hiện phù hợp với đặc điểm và trình độ của học viên.
Thứ ba: Có ba hình thức biểu hiện của khái niệm khoa học: biểu hiện
qua vật thật, qua mô hình và qua kí hiệu ngôn ngữ. Vì vậy, có bốn hành động
học của học viên:
– Hành động phân tích các vật thật và các biến dạng của nó.
- Hành động mô hình hoá các mối quan hệ, liên hệ của đối tượng vào
trong các vật liệu mới.
– Hành động triển khai mô hình vào các dạng khác nhau.
- Hành động kiểm tra.
Thứ tư: Quy trình kĩ thuật tâm lí để hình thành hành động học của học
viên là cơ chế hình thành hành động trí óc mà P.Ia. Galperin, J. Piaget và các
nhà tâm lí học khác phát hiện.
Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUÁ TRÌNH DẠY HỌCMọi sự vật đều vận động theo quá trình. Vì vậy, bất kì sự học và dạy
nào cũng diễn ra theo một quá trình – quá trình dạy và quá trình học. Hai quá
trình này có thể độc lập hoặc kết hợp hữu cơ với nhau. Trong phương thức
học kết hợp, dạy theo phương thức trao tay thì quá trình dạy và quá trình học
không tồn tại độc lập, mà luôn gắn và phụ thuộc vào quá trình triển khai của
hoạt động chính. Trong hoạt động dạy học, hai hoạt động dạy và học quan hệ
hữu cơ với nhau, tạo thành hoạt động kép và diễn ra theo một quá trình độc
lập với các hoạt động khác – quá trình dạy học. Chương này sẽ đề cập đến
một số vấn đề chủ yếu của quá trình dạy học.
3.1. KHÁI NIỆM QUÁ TRÌNH DẠY HỌC3.1.1. Định nghĩa
Quá trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hành động dạy và hành động
của người dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong khoảng
không gian và thời gian nhất định, nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
Quá trình dạy học (QTDH) được xác định bởi các dấu hiệu: Thứ nhất:
dạy học là một dạng hoạt động đặc thù của xã hội, nhằm truyền thụ và lĩnh
hội kinh nghiệm xã hội, trên cơ sở đó hình thành và phát triển nhân cách của
người học. Đó là sự vận động của một hoạt động kép, trong đó diễn ra hai
hoạt động có chức năng khác nhau, đan xen và tương tác lẫn nhau trong
khoảng không gian và thời gian nhất định: hoạt động dạy và hoạt động học.
Hoạt động học, chủ thể là người học, hướng vào đối tượng học, tiếp nhận và
chuyển hoá nó, biến thành của riêng, qua đó phát triển chính bản thân mình.
Hoạt động dạy, chủ thể là người dạy, hướng vào đối tượng dạy, làm cho nó
trở thành đối tượng của sự điều khiển của mình. Vai trò và tính chất của hoạt
động dạy cũng như vị thế của người dạy tuỳ thuộc vào việc hoạt động dạy có
đối tượng là gì. Thứ hai: Hoạt động dạy và hoạt động học đều phải được tiến
hành trên bản thể của QTDH là nội dung dạy học (NDDH). NDDH là yếu tố
khách quan, quyết định tiến trình và phương pháp của hoạt động dạy và hoạt
động học. Thứ ba: Kết quả của quá trình dạy học là làm biến đổi ở người học
những đặc tính nào đó đã được xác định từ trước và tương ứng với nội dung
dạy học. Nói cách khác, phải thực hiện được mục đích của chính QTDH đó.
Thứ tư: Một QTDH bất kì bao giờ cũng phải được tiến hành trong khoảng
không gian, thời gian nhất định (một tiết dạy, một bài, một khoá đào tạo, bồi
dưỡng v.v…) và chịu sự chế ước bởi các điều kiện kinh tế – xã hội – văn hoá
nhất định. Nói cách khác, quá trình dạy học phải là một quá trình học tập có
kiểm soát và điều khiển được.
3.1.2. Cấu trúc của quá trình dạy học
Nếu trừu xuất đặc tính riêng của các QTDH cụ thể, chỉ xét cấu trúc của
chúng ở dạng giản đơn nhất, thì một QTDH bao gồm các yếu tố, mục đích,
nội dung dạy học, các hoạt động dạy – học và kết quả học tập. Trong hoạt
động dạy và học phải có phương pháp phù hợp. Các yếu tố trên có quan hệ
hữu cơ với nhau, chế ước và chịu sự chế ước lẫn nhau.
Mặt khác, mục đích dạy học nói riêng và các yếu tố khác của QTDH nói
chung được xuất phát từ nhu cầu của xã hội và chịu sự tác động của điều
kiện kinh tế – xã hội - văn hoá – khoa học v.v… Nói cách khác, các yếu tố xã
hội này tạo nên một “trường xã hội”, trong đó diễn ra hoạt động dạy học.
Phần dưới của chương sẽ đề cập tới các yếu tố mục đích, nội dung dạy
học và hoạt động dạy – học, còn phương pháp dạy học và đánh giá kết quả
học tập là chủ đề chính của tài liệu này nên sẽ được đề cập trong các chương
riêng.
3.2. MỤC ĐÍCH DẠY HỌC3.2.1. Định nghĩa
Mục đích dạy học là mô hình kết quả trong tương lai của hoạt động dạy
học. Câu hỏi cho vấn đề này là người học và người dạy sẽ đạt được cái gì
sau khi kết thúc quá trình dạy học?
Mục đích dạy học xuất hiện trước và chi phối toàn bộ hoạt động dạy
học, trước hết là việc xác định nội dung và phương pháp dạy học.
Trong dạy học truyền thống, mục tiêu tri thức được đề cao, còn trong
dạy học hiện đại, mục tiêu phát triển ngày càng chiếm ưu thế và dù được hiểu
theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, suy cho cùng dạy học là phương tiện để thoả
mãn nhu cầu phát triển của xã hội. Dạy học không có mục đích tự thân, mà vì
sự phát triển của cá nhân và xã hội. Vì vậy, mục đích dạy học trước hết phải
được xuất phát từ yêu cầu của xã hội. Hướng đến thoả mãn các nhu cầu của
xã hội có liên quan tới lĩnh vực dạy học. Đồng thời phải dựa trên những điều
kiện và trình độ hiện có về kinh tế – văn hoá, xã hội, khoa học của cộng đồng.
Đây là điều kiện tiên quyết để xác định mục đích dạy học.
Việc xác định mục đích dạy học cần đáp ứng những yêu cầu sau: a)
Phải đáp ứng được yêu cầu phát triển của cá nhân và xã hội trong từng giai
đoạn lịch sử; b) Phải có tính khả thi; c) Có tính phân hoá. Nói cách khác, mục
đích dạy học phải tách ra được nhiều cấp độ.
3.2.2. Các cấp độ mục đích dạy học
Mục đích dạy học thường được xác định theo bốn cấp độ: Mục tiêu
chung, mục tiêu trung gian, mục tiêu cụ thể và mục tiêu cá nhân.
Mục tiêu chung (còn gọi là mục tiêu tổng quát), được xuất phát từ nhu
cầu và điều kiện phát triển của xã hội, do xã hội đề ra, giữ vai trò định hướng
về yêu cầu đối với dạy học trong việc phát triển nhân cách cá nhân và xã hội.
Mục tiêu tổng quát bao giờ cũng mang tính lịch sử – xã hội. Mỗi giai đoạn xã
hội, mỗi cộng đồng dân tộc – quốc gia đều có mục đích dạy học phù hợp. Ở
cấp độ khái quát nhất, dạy học hướng đến giúp thế hệ trẻ hình thành khả
năng thích ứng và năng lực phát triển của mình. Nói ngắn gọn là hình thành
và phát triển năng lực người ở thế hệ trẻ. Ngày nay, mục tiêu dạy học là tạo
cơ hội và giúp đỡ người học thực hiện được mục đích là: học để biết, học để
làm, học để chung sống với người khác và học để làm người.
Học để biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm
người là bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI do Hội đồng quốc tế về giáo dục
thế kỷ XXI đề xuất với UNESCO.[Jacques Delors– Học tập một kho báu tiềm
ẩn. NXB Giáo dục. 2003. Tr 81–82]:
Học để biết là có vốn văn hoá chung đủ rộng kết hợp với hiểu biết sâu
về một số lĩnh vực để có cơ hội làm việc chủ động trong các lĩnh vực đó. Học
để biết còn bao hàm cả học cách học để có thể triển khai việc học tập suốt
đời.
Học để làm là có được những kĩ năng lao động trong nghề nghiệp nhất
định và khả năng giải quyết các tình huống phát sinh trong cuộc sống; có thái
độ và kĩ năng làm việc trong điều kiện hợp tác với những người khác. Đồng
thời học để làm còn có nghĩa là tạo ra khả năng làm việc trong điều kiện xã
hội thay đổi nhanh chóng trong đó luôn luôn có sự đan xen giữa xu thế hợp
tác quốc tế và tính cục bộ địa phương.
Học để cùng sống với nhau là học cách hiểu người khác và tạo ra sự
nhận cảm và đồng cảm về sự phụ thuộc lẫn nhau; học cách giải quyết những
xung đột dựa trên tinh thần tôn trọng các giá trị đa phương, sự hiểu biết lẫn
nhau và hoà bình.
Học để làm người là để phát huy tốt hơn nhân cách của mình: phát
triển khả năng hành động tự chủ và tinh thần trách nhiệm; hiện thực hoá và
phát triển các khả năng tiềm tàng của cá nhân trên mọi lĩnh vực: trí nhớ, tư
duy, khả năng thẩm mĩ, giao tiếp và thể lực v.v…
Các mục đích này được thực hiện trong cả hoạt động học tập chính
thức, không chính thức và học suốt đời.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, tuỳ từng điều kiện cụ thể, khi xác định mục
tiêu dạy học, người ta có thể nhấn mạnh và khai thác sâu một trong các
phương diện sau đây:
a) Hướng tới việc trang bị cho người học tri thức về nội dung sự vật và
kiến thức về phương pháp tiếp cận sự vật. Nói ngắn gọn, đây là mục tiêu tri
thức.
b) Hướng tới việc hình thành và phát triển các kĩ năng hành động thực
tiễn, ứng xử xã hội và hành động trí óc – Mục tiêu hành vi.
c) Phát triển toàn diện nhân cách – Mục tiêu phát triển trở thành trung
tâm của quá trình dạy học.
Mục tiêu trung gian của dạy học là sự cụ thể hoá mục tiêu chung vào
các lĩnh vực khác nhau của dạy học: mục tiêu đào tạo của ngành, của bậc
học, khóa học, năm học v..v…
Mục tiêu cụ thể là đích mà người dạy và người học cần đạt được trong
quá trình dạy học cụ thể: Mục tiêu của từng giờ lên lớp, từng bài học, môn
học, từng chủ đề, vấn đề v.v….
Mục tiêu cá nhân là đích mà người dạy và người học cần hướng tới đối
với từng học viên trong lớp học. Câu hỏi ở đây là với học viên A hoặc B, C
cần phải đạt được cái gì trong từng giờ lên lớp, từng bài học, môn học v. v…?
Mục tiêu cá nhân là xu thế tất yếu trong dạy học hiện đại. Ở đó, mỗi cá nhân
học viên được tạo điều kiện thuận lợi nhất để thoả mãn nhu cầu học tập và
phát triển các tiềm năng của mình.
Một mục tiêu, nhất là mục tiêu cụ thể và mục tiêu cá nhân, được coi là
mục tiêu tốt nếu đảm bảo được hai chức năng: chỉ đạo việc tổ chức hoạt
động dạy học và là chuẩn để đánh giá khách quan kết quả dạy học. Vì vậy,
yêu cầu khi xác định mục tiêu chung là phải vạch ra được định hướng chiến
lược của dạy học đối với yêu cầu của xã hội; những điều kiện để thực hiện,
còn khi xác định mục tiêu cụ thể hay mục tiêu cá nhân phải chỉ ra được rõ
ràng, chi tiết các chỉ báo đo lường hiệu quả của dạy học và điều kiện để thực
hiện nó.
3.3. NỘI DUNG DẠY HỌCNội dung dạy học (NDDH) là môi trường bên trong, là bản thể của quá
trình dạy học. Toàn bộ hoạt động dạy và học diễn ra trên nền tảng của NDDH.
NDDH được xuất phát từ mục đích dạy học và là sự khách quan hoá mục
đích dạy học. NDDH được cấu thành bởi nội dung học và nội dung dạy. Câu
hỏi của vấn đề này là: học cái gì và dạy cái gì? Trong đó, nội dung học tập
(NDHT) là phần quan trọng nhất của NDDH, chi phôi hình thức và phương
pháp hoạt động của người học và người dạy. Đây cũng là vấn đề cần quan
tâm nhất trong việc soạn thảo NDDH hiện đại.
3.3.1. Nội dung học tập
3.3.1.1. Quan niệm
Nội dung học tập là cái mà người học tác động vào nó, phải tiếp nhận
và làm việc với nó trong quá trình dạy học.
Ở mức độ chung nhất, nội dung của sự học là toàn bộ kinh nghiệm của
xã hội đã được sáng tạo và tích luỹ từ trước tới thời điểm hiện tại. Tuy nhiên
không thể chuyển toàn bộ và nguyên xi khối kinh nghiệm xã hội đã có vào
trong dạy học, mà phải chọn lọc trong đó những yếu tố cốt lõi và xác lập logic
sư phạm, chuyển hoá chúng thành NDHT trong mỗi QTDH cụ thể. Logic
NDHT là hợp kim giữa logic của chính lĩnh vực khoa học cần truyền thụ cho
người học với logic sư phạm. Sự kết hợp này đảm bảo cho NDHT một mặt
phản ánh trung thực lĩnh vực khoa học, mặt khác phù hợp với khả năng thực
tế của người học khi tiếp nhận và chuyển hoá chúng.
Tiến trình hình thành nội dung dạy học từ tri thức của nhân loại có thể
theo logic sau: kiến thức khoa học (kiến thức bác học) 1 kiến thức giáo khoa 1
kiến thức được dạy 1 kiến thức được học 1 kiến thức học được.
Như vậy, để soạn thảo NDHT, ngoài việc xác định rõ MĐDH ở cả cấp
độ vĩ mô (mục tiêu chung của dạy học) và vi mô (mục tiêu dạy học một đơn vị
tri thức cụ thể), cần giải quyết ít nhất hai vấn đề: Thứ nhất: Xác định và
chuyển hoá hệ thống kinh nghiệm xã hội thành NDHT; Thứ hai: Hiện thực hoá
NDHT vào trong các phương tiện dạy học: chương trình, môn học, bài học,
sách giáo khoa, tài liệu học tập v.v. Chúng ta sẽ dừng lại ở vấn đề thứ nhất,
còn vấn đề thứ hai sẽ được trình bày trong phần sau.
3.3.1.2. Các loại học vấn trong nội dung học tập
Về phương diện khoa học, nhiều nhà sư phạm đã xác định các thành
phần ổn định trong hệ thống kinh nghiệm xã hội và nhóm thành bốn nhóm:
1. Hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, con người, kĩ thuật, nghệ thuật
và về các phương thức hoạt động.
2. Hệ thống các phương thức hoạt động (kĩ năng, kĩ xảo) cho phép
người nắm vững chúng có thể bảo toàn và tái tạo các giá trị văn hoá xã hội và
cá nhân.
3. Hệ thống các kinh nghiệm hoạt động sáng tạo.
4. Hệ thống kinh nghiệm về đời sống và thái độ đối với tự nhiên, xã hội
và bản thân.
Trong thực tế, có thể dựa vào sự phân định trên để cấu trúc NDHT cho
từng loại học sinh, tuỳ theo mục đích, tính chất dạy học và chủ thể học.
Chẳng hạn, có thể cấu trúc thành các loại học vấn để trang bị cho thế hệ trẻ
trong NDHT:
* Học vấn phổ thông là những tri thức khoa học phổ biến về tự nhiên,
xã hội và tư duy; tri thức về phương pháp tiếp cận chúng. Những tri thức thức
này tạo cơ sở khoa học hình thành thế giới quan và những phẩm chất nhân
cách của người học; giúp người học cơ sở cần thiết để tham gia hoạt động
lao động xã hội hoặc tiếp thu học vấn nghề nghiệp.
* Học vấn kĩ thuật tổng hợp là những tri thức cơ bản về nguyên tắc của
mọi quá trình sản xuất và kĩ năng sử dụng các công cụ sản xuất phổ thông.
* Học vấn nghề bao gồm hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo hoạt động
trong một lĩnh vực lao động chuyên nghiệp.
3.3.1.3. Vấn đề tri thức khoa học trong nội dung học tập của nhà trường hiện nay
Tuỳ theo mục đích dạy học để cấu trúc nội dung học vấn. Tuy nhiên, dù
có ưu tiên theo hướng nào đi nữa, thì việc cung cấp một hệ thống tri thức
khoa học cho người học vẫn là chức năng cơ sở của dạy học, đặc biệt là dạy
học phổ thông. Vì vậy, tri thức khoa học và tri thức về phương pháp tiếp cận
chúng luôn luôn là nội dung học vấn chủ yếu của dạy học trong nhà trường.
Do đó, xác định nội dung tri thức khoa học trong dạy học là việc làm hệ trọng,
đặc biệt đối với nhà trường phổ thông. Xung quanh vấn đề này cần lưu ý một
số điểm: Thứ nhất: Cần phải xác định được thế nào là tri thức khoa học và tri
thức khoa học hiện đại. Sau đó phải trả lời câu hỏi: nhưng tri thức khoa học
hiện đại nào cần được lựa chọn để tạo thành NDHT hiện nay? Thứ hai: Cần
xác định như thế nào cho hợp lí giữa các loại kiến thức khoa học trong từng
nội dung học tập?
* Trước hết, cần xác định và phân biệt tri thức khoa học và tri thức kinh
nghiệm.
Trí thức khoa học là hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên, xã hội
và tư duy, được hình thành qua thực nghiệm và khái quát khoa học.
Trí thức kinh nghiệm là hiểu biết của cá nhân được hình thành qua trải
nghiệm của chính cá nhân đó, trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình.
Tri thức kinh nghiệm được hình thành trong hoạt động thực tiễn và qua
trải nghiệm của cá nhân. Chẳng hạn, những kinh nghiệm của người nông
dân, của người thợ cả trong sản xuất và ứng xử với tự nhiên, xã hội v.v. Các
tri thức kinh nghiệm thường đúng và sâu sắc trong những trường hợp cụ thể,
tương ứng với hoàn cảnh nảy sinh ra nó. Tri thức khoa học được hình thành
qua thực nghiệm và được khái quát hoá, trở thành các nguyên lí, có tính phổ
biến.Vì vậy tri thức kinh nghiệm được truyền thụ theo phương thức kết hợp
với hoạt động khác (học kết hợp), theo phương thức trao tay trực tiếp (dạy
trao tay), còn tri thức khoa học được chuyển giao bằng phương thức nhà
trường, tức là thông qua hoạt động dạy học. Vì vậy, một trong những nguyên
tắc quan trọng nhất của hoạt động dạy học là: Nhà trường chỉ dạy tri thức
(khái niệm) khoa học cho học sinh, không dạy tri thức kinh nghiệm. Những tri
thức loại này cần phải đưa vào trong các phương thức dạy và học khác. Nói
cách khác, trong NDHT chỉ có tri thức khoa học, chứ không bao hàm cả tri
thức kinh nghiệm.
Với tri thức kinh nghiệm của người nông dân thì nước là một chất lỏng
dùng để uống, tắm giặt, nuôi sống con người và mọi vật v.v. Còn với tư cách
là tri thức khoa học, nước là một hợp chất được hình thành bởi các nguyên tử
Ôxy và Hidro, có thể tồn tại ở dạng lỏng, rắn và hơi v.v.
Mặt khác một tri thức khoa học (trong mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư
duy) bao giờ cũng có hai thành phần: tri thức về bản thân đối tượng (đặc
điểm, tính chất, cấu trúc v.v… của đối tượng) và tri thức về phương pháp tạo
ra đối tượng đó cũng như phương pháp vận hành, sử dụng nó. Do đó, khi
đưa tri thức khoa học vào trong NDHT cần đảm bảo sự cân đối cả hai thành
phần tri thức về đối tượng và tri thức về nguyên tắc, phương pháp hình thành
chúng.
Vấn đề đặt ra là trong NDHT của nhà trường ngày nay, tri thức nào là
tri thức khoa học và hiện đại.
Quá trình phát triển của khoa học mang tính lịch sử. Do đó mỗi giai
đoạn xã hội có các tri thức khoa học tương ứng. Khi hệ thống khoa học nói
riêng và cả xã hội nói chung phát triển, thì những tri thức khoa học của giai
đoạn trước sẽ trở thành tri thức sinh hoạt trong giai đoạn sau. Đồng thời xuất
hiện những tri thức khoa học mới. Vì vậy, NDHT phải phản ánh được tri thức
khoa học của thời đại và phải thường xuyên được thay đổi theo sự phát triển
của khoa học.
Vậy tri thức khoa học của nhân loại đã trải qua những giai đoạn lịch sử
nào và hiện nay nó là gì? Nói cách khác, cần phải đưa tri thức khoa học nào
vào nội dung học tập trong nhà trường hiện đại?
Nếu không phân tích chi tiết, thì có thể tóm tắt lịch sử tri thức của nhân
loại phát triển qua các giai đoạn (các mức) sau:
+ Biểu tượng có tính thần thoại. Đây là mức thấp trong tri thức của con
người về thế giới tự nhiên, xã hội và con người. Các biểu tượng thần thoại
được hình thành bởi tư duy nguyên thuỷ, tư duy huyền thoại (tư duy huyễn
tưởng).
+ Các phán đoán biện chứng trực quan về thế giới. Đây là những hiểu
biết sơ khai về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người được thể
hiện qua các mệnh đề phán đoán của các nhà triết học cổ đại Phương Đông
(Ấn Độ, Trung Quốc…) và Phương Tây (Hi Lạp, La Mã…), được hình thành
bởi các phán đoán biện chứng dựa trên quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Theo đánh giá của Ph. Ăngghen,
các phán đoán biện chứng về thế giới của các nhà triết học cổ đại về đại thể
là đúng đắn, nhưng đó chỉ là các phán đoán dựa trên các quan sát chủ quan,
nên chúng không đủ để giải thích sự tồn tại và vận động của thế giới.
Ph. Ăngghen viết trong “Phép biện chứng của tự nhiên”: Những nhà
triết học Hi Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng bẩm sinh, tự phát đã
nghiên cứu những hình thức căn bản của tư duy biện chứng. Cách nhận xét
thế giới (của họ) nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng. Nhưng dù có
nắm tính chất chung của toàn bộ bức tranh các hiện tượng đến thế nào đi
nữa, cách nhìn ấy vẫn không đủ để giải thích các chi tiết kết thành bức tranh
ấy và chừng nào chúng ta chưa giải thích nổi các chi tiết thì chúng ta cũng
chưa thể có một quan niệm rõ rệt về bức tranh chung được.
+ Trí thức phân loại siêu hình sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Thực ra đây là những biểu tượng chung về các dấu hiệu giống nhau
của các sự vật khác nhau. Những tri thức này được hình thành bằng phương
pháp quy nạp hoặc suy luận của tư duy siêu hình, theo công thức chung:
quan sát các sự vật để tạo ra hình ảnh cảm tính về chúng 1 khái quát hoá siêu
hình bước một để tạo ra biểu tượng riêng 1 khái quát hoá (trừu tượng hoá)
các biểu tượng riêng thành biểu tượng chung (tức là khái niệm về một lớp
biểu tượng cùng loại được xét theo những tiêu chí do nhà nghiên cứu đặt ra
trước). Toàn bộ sự trừu tượng hoá và khái quát hoá hình thức đó đều dựa
vào tư duy giác tính (tư duy siêu hình). Phương pháp nhận thức siêu hình, dù
được coi là chính đáng và thậm chí là cần thiết trong những lĩnh vực nhất
định, tuỳ theo đối tượng nghiên cứu, nhưng chóng hay chầy, nó cũng gặp
phải ranh giới mà nếu vượt quá nó sẽ trở thành phiến diện, hạn chế, trừu
tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể giải quyết được, vì nó chỉ nhìn
thấy những sự vật riêng mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật
ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự tiêu vong của nó.
– Có thể dẫn ra hệ thống tri thức phân loại của nhà phân loại học C.
Linne. C.Linne đã xuất phát từ quan niệm thượng đế đã sáng tạo ra muôn loài
và sinh vật bất biến theo thời gian và dựa trên sự phân biệt các dấu hiệu bề
ngoài, dễ nhận thấy, dễ nhận dạng nhất của các sinh vật để phân chia sinh
giới thành 5 nhóm từ lớn đến nhỏ: giới– lớp– bộ– chi– loài. Hệ thống phân
loại này hiện vẫn được dùng trong sinh vật học và được bổ sung thêm các
nhóm phụ. Chẳng hạn: giữa giới và lớp có thêm ngành.
+ Tri thức biện chứng về nội dung và sự vận động của các sự vật.
Những tri thức này không chỉ phản ảnh bản chất và cấu trúc của sự vật mà
còn phản ánh các mối liên hệ; quan hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng,
phản ánh quy luật vận động và phát triển của chúng. Loại tri thức này được
hình thành bởi thực nghiệm khoa học và trừu tượng hoá, khái quát hoá bởi tư
duy biện chứng.
Theo Ăngghen có ba phát hiện vĩ đại, có ý nghĩa quyết định đối với việc
hình thành tri biện chứng về thế giới. Phát hiện được sự chuyển hoá của
năng lượng: sự phát triển của tế bào hữu cơ và phát hiện về sự tiến hoá của
sinh giới.
+ Tri thức sản xuất ra sự vật và các tri thức nguyên lí sản xuất ra sự
vật.
Ngày nay, tri thức của loài người không dừng ở mức các tri thức lí luận
về sự tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng theo cơ chế mô phỏng, mà
đã tiến thêm bước dài trên con đường chinh phục thế giới, bằng cách sản
xuất ra sự vật (thành tựu về kĩ thuật nhân bản động vật hay công nghệ gen,
công nghệ vật liệu là các ví dụ). Việc hình thành tri thức sản xuất ra sự vật và
các tri thức nguyên lí sản xuất ra sự vật là điểm đặc trưng của tri thức khoa
học hiện đại. Từ đó, đưa tri thức lí luận lên mức tri thức công nghệ – Khoa
học công nghệ. Tri thức khoa học công nghệ là sản phẩm của thời đại công
nghiệp.
Theo C. Mác: Nguyên lí của đại công nghiệp là phân giải quá trình sản
xuất, xét ngay trong bản thân nó và không liên quan gì tới bàn tay con người,
thành những yếu tố cấu thành nó, nguyên lí đó đã tạo ra một khoa học hoàn
toàn hiện đại là công nghệ hoá.
Đây là loại tri thức cao hơn hẳn những loại tri thức đã có của nhân loại.
Chúng không chỉ phản ánh bản chất của các sự vật, hiện tượng, các mối liên
hệ phổ biến và các quy luật vận động, phát triển của chúng mà còn xác lập
được các nguyên lí, nguyên tắc và quy trình sản xuất chúng. Nhờ tri thức này,
con người ngày càng chủ động hơn trong quan hệ với tự nhiên và dần thay
thế tự nhiên để giải quyết các vấn đề của con người và của giới tự nhiên.
– Về phương diện này chỉ cần dẫn ra ba sự kiện lớn. Thứ nhất: Tháng
2 - 1997, nhà khoa học Ian Wilmut và các đồng nghiệp tại Viện Roslin
(Scotland) đã nhân bản thành công con cừu Dolly. Sau đó, công nghệ nhân
bản được triển khai ra các loài động vật khác: chuột, lợn, thỏ, bò v.v… Từ đây
đã xác lập được về nguyên lí khoa học của việc nhân bản con người.
Thứ hai: năm 2005, các nhà khoa học đã tạo ra được tế bào gốc của
con người, mà không cần có sự hỗ trợ của tế bào trứng như trong công nghệ
nhân bản. Điều này dẫn tới khả năng thay thế các bộ phận của cơ thể người,
khi bị tổn thương.
Thứ ba: Ngày 12/2/2001 các nhà khoa học đã lập được bản đồ gen của
con người, từ đó mở ra triển vọng lớn lao về công nghệ sản xuất ra thực thể
người theo ý muốn, dựa trên nguyên lí của công nghệ gen.
Như vậy, ngày nay trong kho tàng tri thức của nhân loại tồn tại đan xen
nhiều mức độ tri thức khoa học: Các tri thức có tính hình thức về thế giới tự
nhiên và xã hội, như là một dấu tích lịch sử (các biểu tượng thần thoại, các
khái niệm phân loại siêu hình các sự vật), các tri thức phản ánh sự phát triển
của sự vật và tri thức về nguyên lí sản xuất ra chúng. Từ đây đặt ra vấn đề có
tính chất sống còn đối với nội dung học tập trong nhà trường hiện đại, mà
trực tiếp là đổi mới nội dung dạy học của nhà trường hiện nay. Bản chất của
vấn đề ở đây là gì? Ai cũng biết rằng nội dung học tập trong nhà trường trước
kia và hiện nay được xây dựng dựa trên giả định thế giới là cái ngoài ta, cái ta
cần biết và đã biết. Vì vậy trong nội dung dạy học có quá nhiều tri thức về sự
vật, sự kiện, tức là tri thức về cái đã có, đã biết trong thế giới. Trong khi đó,
hiện tại và tương lai, thế giới là do con người làm chủ và sáng tạo ra. Điều
này dẫn đến nội dung dạy học trong nhà trường phải hàm chứa cái đang có
và sẽ có. Khi xã hội phát triển, các nội dung học tập không phù hợp, buộc
phải thay đổi. Đó là tất yếu. Tuy nhiên, từ trước tới nay sự thay đổi chủ yếu
chỉ diễn ra trên bình diện thay tri thức sự vật, sự kiện này bằng tri thức sự vật,
sự kiện khác, còn tri thức về nguyên tắc tạo ra sự vật vẫn chưa được coi
trọng. Đây chính là sự yếu kém của dạy học hiện nay. Xã hội cũng như cá
nhân đang phát triển theo hướng chuyển từ mức tìm và hiểu thế giới lên mức
sáng tạo ra thế giới. Trí tuệ của con người không phải tập trung vào việc giải
thích sự vật A, sự kiện B là gì và nhớ được bao nhiêu sự kiện như vậy.
Những tri thức đó đang nhanh chóng được đưa ra khỏi tầm hoạt động của bộ
óc người và được chuyển vào các thiết bị máy móc ở bên ngoài. Ai cũng biết
rằng, ngày nay muốn cung cấp những tri thức đó cho học sinh, nhà trường chỉ
cần trao cho chúng một ổ CD– ROM. Nhưng vấn đề là ở chỗ học sinh cần
biết tri thức đó dùng để làm gì và hơn nữa tạo ra chúng như thế nào. Như
vậy, tri thức sự kiện, sự vật đang chiếm ưu thế trong nhà trường hiện nay, đã
tạo ra một nội dung dạy học khép kín và chủ yếu quay về quá khứ của nhân
loại, không mở ra và hướng tới tương lai. Với nội dung dạy học như vậy tất
yếu dẫn đến nguyên tắc và phương pháp dạy học là giáo viên cung cấp
những điều đã biết cho học sinh, còn học sinh phải có trách nhiệm tiếp nhận
nó từ phía người thầy (trong khi đó có thể tiếp nhận từ nhiều nguồn khác) và
trả bài đầy đủ, đúng như khi tiếp nhận. Nội dung và phương pháp dạy học
như thế đã và đang làm sói mòn sự sáng tạo trí tuệ hơn là kích thích và phát
triển chúng ở học viên. Rõ ràng là, vấn đề đặt ra trước nhà trường là phải lựa
chọn và đưa tri thức nào vào trong NDHT? Quan điểm đúng đắn là không đưa
những tri thức có tính chất biểu tượng hay các tri thức phân loại siêu hình về
các sự vật, hiện tượng, tri thức kinh nghiệm vào NDHT trong nhà trường,
Những tri thức này cần được chuyển sang các hình thức dạy học không chính
thức và phổ biến trong xã hội. NDHT trong nhà trường hiện nay cần tăng
cường tối đa tri thức nguyên tắc, tri thức nguyên lí sản xuất ra sự vật. Đồng
thời hạn chế tối đa các tri thức kinh nghiệm, hình thức. Chỉ khi nào triệt để đổi
mới NDHT theo hướng trên mới căn bản giải quyết được sự quá tải trong dạy
học như hiện nay.
* Thứ hai: Cần xác định tỉ lệ hợp lí giữa các loại kiến thức khoa học
trong nội dung học tập. Chẳng hạn:
+ Tỉ lệ thích hợp giữa tri thức về bản thân khái niệm và tri thức về
phương pháp phát hiện và vận hành của khái niệm đó. Nói ngắn gọn, cần
đảm bảo sự cân đối giữa tri thức về cái (tri thức về bản thân đối tượng) và tri
thức về cách (tri thức về phương pháp vận hành, phương pháp làm ra đối
tượng) trong nội dung học tập, ưu tiên tri thức về cách, đặc biệt là đối với học
sinh các lớp dưới.
+ Tỉ lệ thích hợp giữa tri thức lí luận với việc ứng dụng chúng trong nội
dung học tập. Nói cách khác, cần đảm bảo nguyên lí: Học đi đôi với hành.
+ Tỉ lệ giữa tri thức về khoa học tự nhiên – kĩ thuật và khoa học xã hội –
giá trị – nhân văn trong nội dung học tập.
+ Tỉ lệ giữa tri thức cơ sở với tri thức phát triển trong nội dung học tập.
Điều này liên quan tới điểm chú ý dưới đây.
* Thứ ba: Ngày nay, hệ thống tri thức khoa học phát triển cực nhanh cả
về quy mô, tính chất, tốc độ và nhịp độ. Vòng đời của mỗi phát minh khoa học
ngày càng được rút ngắn (trước đây hàng trăm năm, hiện tại 4 – 5 năm và
ngắn hơn nữa). Điều này đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt đối với việc xây dựng
NDHT trong dạy học. Ở đây, một mặt phải chuyển tải có hiệu quả và trên quy
mô lớn một khối lượng kiến thức khoa học đồ sộ và thay đổi liên tục, ngày
càng tăng và những kĩ năng hành động phù hợp với nền văn minh theo
hướng tri thức, trí tuệ. Mặt khác, giúp người học không bị choáng ngợp, bị
cuốn hút và bị chìm vào các luồng thông tin, tri thức hiện tại mà trong đó phần
lớn có giá trị nhất thời, chóng bị lạc hậu và lãng quên. Nói cách khác, NDHT
ngày nay phải giúp người học học để phát triển, “học để trở thành chính
mình”, chứ không phải để thành nô lệ của cái khác. Điều này liên quan tới nội
dung đã bàn ở trên.
3.3.2. Nội dung dạy
Dạy trong dạy học là hoạt động truyền thụ của người dạy đến người
học. Tuy nhiên, ngày nay truyền thụ không được hiểu giản đơn chỉ là tổ chức
cho một nhóm học sinh làm việc với nội dung học tập, càng không phải chỉ là
trình bày, giảng giải các kiến thức khoa học hay kĩ năng hành động cho người
học. Những hoạt động trên chỉ là số ít trong hệ thống việc làm của người dạy.
Thậm chí, trong dạy học hiện đại, việc làm đó ngày càng trở thành thứ yếu
trong hoạt động dạy của giáo viên. Vì vậy, vấn đề nội dung dạy, tức là câu hỏi
dạy cái gì? phải được chuyển thành câu hỏi: giáo viên phải làm gì trong quá
trình dạy học? Nói cách khác, nội dung dạy phải được quy về hệ thống việc
làm của người dạy trong quá trình dạy học, bao gồm từ xác định mục đích
dạy học; soạn thảo chương trình dạy học vĩ mô và vi mô; xây dựng nội dung
học tập cho học viên; soạn thảo tài liệu học tập; tổ chức hoạt động học tập và
đánh giá kết quả học tập của học viên… Hệ thống việc làm của giáo viên sẽ
được mô tả trong các phần còn lại của tài liệu này.
3.4. CHƯƠNG TRÌNH, MÔN HỌC, BÀI HỌC VÀ TÀI LIỆU HỌC TẬP Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nhà sư phạm là xác định
NDHT cho người học. Nhưng công việc không dừng lại ở đó. Bước tiếp theo
là phải định vị NDHT đã được xác định vào trong các phương tiện dạy học:
chương trình, môn học, bài học, sách giáo khoa v.v. Đây là việc làm có ý
nghĩa quyết định trong hệ thống các hoạt động dạy của người dạy. Trong dạy
học hiện đại, nó là một hình thức uỷ thác của nhà sư phạm.
3.4.1. Chương trình dạy học
3.4.1.1. Định nghĩa
Để định vị được NDHT, trước hết phải khuôn vào trong một hệ thống
nhất định, mà việc vận hành của hệ thống này cho phép một mặt, người học
có thể đạt tới mục đích của việc học tập. Mặt khác, người dạy (và cả người
học) có thể định hướng, điều khiển, kiểm soát và điều chỉnh được việc làm
của người học. Hệ thống đó chính là chương trình dạy học (CTDH).
Vậy chương trình dạy học là gì? Hiện tại có rất nhiều cách hiểu về
chương trình dạy học. Tuy nhiên, có thể nhận thấy những điểm cốt lõi của nó:
Xin dẫn ra ba cách hiểu phổ biến:CTDH (curriculum) là bản kế hoạch
tổng thể chung nhất về nội dung hay những nguyên liệu giảng dạy cụ thể mà
nhà trường cần phải cung cấp cho học sinh [Smith.1957]. CTDH là một bản
kế hoạch dạy học phản ánh các mục tiêu dạy học mà nhà trường theo đuổi.
Nó cho ta biết nội dung và phương pháp dạy và học cần thiết để đạt được
mục tiêu đề ra (White.1995]. CTDH là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt
động dạy học. Hoạt động đó có thể chỉ kéo dài một vài giờ, một ngày, một
tuần hoặc vài năm. Bản thiết kế tổng thể đó cho ta biết toàn bộ nội dung cần
dạy học, chỉ ra những gì người ta có thể trông đợi ở người học sau khoá học;
phác họa ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung dạy học. Nó cũng cho ta
biết các phương pháp dạy học và các cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một trình tự thời gian biểu
chặt chẽ [Wentling. 1993].
1. CTDH là bản thiết kế về hoạt động dạy học trong đó phản ánh các
yếu tố mục đích dạy học, nội dung và phương pháp dạy học; các kết quả dạy
học. Những yếu tố này được cấu trúc theo quy trình chặt chẽ về thời gian
biểu. Nói cách khác, CTDH là hệ thống việc làm của người học và người dạy,
được thiết kế theo cấu trúc tường minh, có thể kiểm soát được, sao cho sau
khi hoàn tất hệ thống việc làm đó, người học và người dạy đạt được mục đích
việc học và dạy của mình.
2. CTDH là một hệ thống nhiều cấp độ. Bao gồm CTDH của một quốc
gia, của một ngành học, bậc học, cấp học, lớp học, môn học, bài học, đơn vị
tri thức học tập v.v. Các chương trình của một ngành học, bậc học v.v. tức là
những chương trình trong đó có nhiều chương trình môn học thì luôn bao
gồm chương trình khung và chương trình của từng môn học.
3. Dù CTDH ở cấp độ vĩ mô (ngành học, bậc học v.v) hoặc vi mô (môn
học, bài học) đều bao gồm 5 yếu tố cơ bản của hoạt động dạy học: a) Mục
tiêu dạy học của chương trình; b) Nội dung dạy học; c) Phương pháp dạy
học; d) Quy trình triển khai; e) Đánh giá kết quả. Ngoài những yếu tố trên,
chương trình cũng cần phải tính đến các yếu tố khác tác động không nhỏ đến
việc thực thi dạy học như các giá trị văn hoá – xã hội, giới tính, tính chất, hình
thức học tập, đạo đức nghề nghiệp v.v.
4. Một chương trình dạy học, dù ở cấp độ chương trình ngành học hay
môn học, chương trình khung hay chương trình chi tiết, chỉ có giá trị pháp lí
khi được các cấp quản lý nhà nước về giáo dục có thẩm quyền phê duyệt.
3.4.1.2. Các hướng tiếp cận trong việc xây dựng chương trình dạy học
Trong thực tiễn, CTDH là nơi phản ánh rõ quan điểm dạy học của tác
giả. Vì vậy, khi xây dựng cũng như phân tích, phê phán và kế thừa một CTDH
nào đó, yếu tố tiên quyết là phải xác định hướng tiếp cận trong việc xây dựng
chương trình. Hướng tiếp cận quy định cấu trúc của toàn bộ hệ thống từ
CTDH đến các hoạt động dạy và học.
Có rất nhiều hướng tiếp cận nội dung học vấn trong việc thiết kế
chương trình dạy học. Trong đó có ba hướng tương đối phổ biến:
1. Cách tiếp cận nội dung kiến thức. Câu hỏi đặt ra cho cách tiếp cận
này là người học phải học cái gì? Người dạy dạy cái gì? Mục tiêu dạy học của
chương trình là nội dung kiến thức mà người học phải lĩnh hội. Vì vậy, điều
quan tâm trước tiên và quan trọng nhất khi xác định NDDH theo hướng này là
khối lượng và chất lượng kiến thức cần truyền thụ cho người học. Do đó tiêu
chuẩn lựa chọn các phương pháp dạy và học là tối ưu hoá việc truyền thụ tri
thức. Việc đánh giá kết quả học tập được hướng vào mức độ lĩnh hội tri thức
của người học. Cách tiếp cận này đã bộc lộ khá nhiều hạn chế và lạc hậu
trong dạy học hiện đại.
2. Cách tiếp cận mục tiêu. Thực chất của cách tiếp cận này là dựa trên
mục tiêu đào tạo để xây dựng chương trình dạy học. Theo cách tiếp cận này,
người ta quan tâm tới những thay đổi được mong đợi về năng lực hành động
thực tiễn, nhận thức và thái độ ở người học do quá trình dạy học mang lại,
sau khi kết thúc chương học. Câu hỏi ở đây là đầu vào và đầu ra của QTDH
là gì? Vì vậy, CTDH phải thể hiện rõ mục tiêu dạy học dưới dạng đầu ra đã
xác định trước của quá trình dạy học. Xuất phát điểm để xây dựng chương
trình, theo cách tiếp cận này là mục tiêu dạy học. Dựa vào mục tiêu dạy học,
người lập chương trình mới quyết định nội dung, phương pháp dạy học phù
hợp. Mục tiêu dạy học cũng là chuẩn để đánh giá kết quả học tập. Với cách
tiếp cận mục tiêu, người ta dễ dàng chuẩn hoá quy trình xây dựng chương
trình và quy trình đào tạo theo một công nghệ. Do đó chương trình xây dựng
theo cách này còn được gọi là “CTDH theo kiểu công nghệ”.
3. Cách cận theo sự phát triển (tiếp cận quá trình). Theo cách tiếp cận
này thì CTDH là quá trình trong đó dạy học thúc đẩy sự phát triển. Sự phát
triển ở đây được hiểu là phát triển con người, phát triển một cách tối đa mọi
tiềm năng của mỗi cá nhân, giúp họ có khả năng làm chủ được bản thân
trong các tình huống của cuộc đời. Theo cách tiếp cận này, mối quan tâm
hàng đầu là phát triển sự hiểu biết ở người học, chứ không phải là sự truyền
thụ những kiến thức đã được xác định trước hay đến việc thay đổi hành vi
của người học sau khi học. Cách tiếp cận phát triển chú trọng vào việc dạy
người học cách học hơn là vào việc truyền thụ kiến thức đơn thuần; chú trọng
đến từng cá nhân người học hơn vào tập thể nói chung. Coi cá nhân người
học là một thực thể độc lập suy nghĩ và phải giúp họ phát triển được tính tự
chủ trong việc quyết định mọi hành động và số phận của mình. Chú trọng đến
người học thực chất là chú trọng đến nhu cầu và hứng thú của người học. Vì
vậy, CTDH phải đáp ứng được tối đa nhu cầu và hứng thú học tập của người
học. Do cách tiếp cận này chú trọng nhiều đến khía cạnh nhân văn của
chương trình đào tạo, nên còn gọi là tiếp cận nhân văn.
Cách tiếp cận phát triển khác hoàn toàn cách tiếp cận nội dung hay tiếp
cận mục tiêu ở chỗ, nó chú ý đến tính chủ động, đến sự phát triển nhân cách
của người học. Điều này dẫn đến thay đổi căn bản quan hệ giữa người dạy
và người học; thay đổi vị thế của người học trong quá trình dạy học. Ở đây,
người thầy không còn quyết định một cách độc đoán mọi vấn đề trong dạy
học mà đóng vai trò cố vấn, cung cấp thông tin, hướng dẫn người học tìm
kiếm và xử lí thông tin, giải quyết vấn đề. Người học luôn luôn được khuyến
khích tìm kiếm các giải pháp cho một vấn đề và được tạo cơ hội tự điều chỉnh
việc rèn luyện nhận thức, tình cảm và hành vi. Nhìn chung, cách tiếp cận này
đề cao vấn đề nhân cách, giá trị của người học – vấn đề cốt lõi của dạy học
hiện đại – học để làm người.
Trên đây là ba hướng tiếp cận CTDH phổ biến hiện nay. Mỗi cách tiếp
cận có ưu điểm và hạn chế riêng. Vì vậy, tuỳ thuộc vào quan điểm của người
dạy về mục đích dạy học để có cách tiếp cận phù hợp. Tuy nhiên, trong dạy
học hiện đại, cách tiếp cận phát triển có nhiều ưu điểm và ngày càng được
chú ý hơn.
3.4.1.3. Thiết kế và phát triển chương trình dạy học
Trên cơ sở quan điểm tiếp cận nội dung học vấn, các nhà sư phạm tiến
hành thiết kế và phát triển chương trình dạy học. Về đại thể công việc này
được triển khai theo 5 bước:
1. Phân tích tình hình (điều kiện kinh tế – xã hội, nhu cầu xã hội về giáo
dục, nhu cầu dạy học v.v…).
2. Xác định mục tiêu của chương trình.
3. Thiết kế chương trình dạy học.
4. Thực hiện chương trình.
5. Đánh giá chương trình và điều chỉnh chương trình.
Trong quy trình trên cần phân biệt rõ hai cấp độ: thiết kế và phát triển
chương trình. Việc thiết kế chương trình thường dừng ở các công đoạn: phân
tích tình hình, xác định mục tiêu và thiết kế chương trình, còn phát triển
chương trình bao hàm cả thực hiện, đánh giá và điều chỉnh chương trình.
Trong thực tiễn ít khi dừng lại ở mức thiết kế mà chủ yếu là phát triển chương
trình, nhất là trong điều kiện dạy học hiện đại với đặc trưng là gia tốc phát
triển nhanh, đòi hỏi phải thường xuyên có sự điều chỉnh chương trình cho phù
hợp.
3.4.1.4. Một số cách thiết kế chương trình dạy học.
Cách thiết kế chương trình dạy học phản ánh xu thế phát triển của dạy
học. Xu hướng chung là các chương trình dạy học ngày càng được cấu trúc
theo hướng mở và gắn với các hoạt động của người học. Hiện tại, trong dạy
học có nhiều cách thiết kế một chương trình dạy học. Dưới đây là ba cách
phổ biến hiện nay.
* Thiết kế chương trình theo bài học truyền thống
Thiết kế chương trình theo bài học truyền thống là cách thiết kế cổ điển
nhất. Trong đó nội dung khoa học của một môn học được tích phân thành các
phần tử theo quan hệ lôgic tuyến tính chặt chẽ, mà việc thực hiện phần tử
trước là điều kiện để triển khai phần tử tiếp sau. Mỗi phần tử như vậy có thể
được quy ước thực hiện trong một tiết học, một bài học. Hướng triển khai nội
dung bài học có thể theo lôgic từ khái quát, chung 1 cụ thể, riêng; cũng có thể
từ trường hợp riêng, cụ thể 1 khái quát, chung.
Đặc trưng của chương trình theo bài học truyền thống là tính khuôn
mẫu chặt chẽ về logic tuyến tính của nội dung các bài học: Bài 1 1 bài 2 1 bài 3
1 v.v. Mỗi bài là một hệ thống các tiết học: Tiết 1 1 tiết 2 1 v.v. Tương ứng với
chương trình, nội dung tài liệu học tập và giảng dạy cũng được cấu trúc theo
logic chương hồi, liên kết với nhau.
Thiết kế chương trình theo bài học truyền thống phù hợp với các nội
dung học tập trong đó hệ thống tri thức khoa học có lôgic chặt chẽ, tường
minh và là hệ thống phát triển. Loại chương trình theo cách này đang rất
thông dụng trong dạy học hiện nay. Tuy nhiên, điểm yếu của chương trình
theo cách này là do tính khuôn mẫu chặt chẽ của nó đã làm giảm rất nhiều
tính sáng tạo của người học; hạn chế khả năng hành động với đối tượng của
người học.
* Thiết kế chương trình theo mô đun
Thiết kế chương trình theo mô đun (Module) là cách thiết kế hiện đại và
phổ biến trong dạy học hiện nay, nhất là trong lĩnh vực đào tạo mang tính
nghề nghiệp (các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học).
+ Trong dạy học, thuật ngữ mô đun được dùng để chỉ một đơn vị kiến
thức hoặc một hệ thống kĩ năng (thực tiễn hay trí óc) vừa tương đối trọn vẹn
và độc lập, vừa có thể kết hợp với kiến thức hoặc kĩ năng khác, tạo thành hệ
thống trọn vẹn có quy mô lớn hơn. Những kiến thức hoặc kĩ năng này thường
được thể hiện dưới dạng các việc làm của học sinh.
+ Chương trình dạy học theo mô đun là hệ thống các mô đun được kết
nối với nhau theo các hình thức nhất định, sao cho, khi hoàn thành các mô
đun đó, người học đạt được mục tiêu học tập của mình.
+ Đặc điểm của chương trình dạy học theo mô đun:
Thứ nhất: Các mô đun vừa có tính độc lập vừa có tính liên kết. Đây là
đặc điểm nổi bật của mô đun, giúp cho chương trình dạy học có tính cơ động
và khả năng ứng dụng rất cao, đặc biệt là các chương trình ngành học hay
bậc học. Do đặc điểm này của mô đun nên chương trình dạy học theo mô đun
bao giờ cũng là chương trình mở.
Thứ hai: Kích cỡ của mô đun. Kích cỡ (độ lớn) của mô đun tuỳ thuộc
vào dung lượng kiến thức hoặc kĩ năng thành phần trong mô đun đó. Vì vậy,
không có quy định cứng nhắc về kích cỡ cho mọi mô đun.
Độ lớn của mỗi mô đun được thể hiện bởi thời lượng học tập của học
viên: trong một tuần, một học kỳ, một năm v.v… Cần lưu ý khi xác độ lớn của
mô đun không phải là số buổi lên lớp của giáo viên hay số lần tiếp xúc giữa
giáo viên với học viên mà là số lượng công việc học viên phải thực hiện trong
một đơn vị kiến thức hay kỹ năng của môđun đó, tương ứng với đơn vị thời
gian học tập được quy định.
Thứ ba: Cách kết nối các mô đun trong chương trình. Trong chương
trình, các mô đun có thể được kết nối theo mạng không gian hoặc theo tuyến
tính.
Kết nối theo mạng không gian là trong khoảng thời gian cho phép, các
học viên có thể thực hiện đồng thời một số mô đun, tuỳ theo khả năng và điều
kiện của mình. Kết nối theo tuyến tính là học viên thực hiện từng mô đun
trong khoảng thời gian cho phép.
Thứ tư. Việc đánh giá kết quả học tập. Mỗi mô đun phải được đánh giá
riêng và phải được hoàn thành trước khi sang mô đun mới. Đây là điểm khác
so với chương trình truyền thống, ở đó việc đánh giá có thể được thực hiện
khi học viên học xong toàn bộ chương trình.
Thứ năm: Tính lựa chọn. Trong một chương trình có nhiều dạng liên kết
các mô đun; vì vậy, học viên có thể lựa chọn các mô đun để hoàn thành
chương trình học tập theo quy định. Đây chính là ưu điểm lớn của chương
trình theo mô đun. Nó cho phép học viên phát huy khả năng, tính độc lập và
sự linh hoạt của mình theo các hoàn cảnh để đi đến mục tiêu học tập.
Điều cần lưu ý, tuy việc lựa chọn các mô đun là quyền của học viên,
nhưng phải tuân theo các nguyên tắc, được quy định trong chương trình.
Thứ sáu: Khả năng kết hợp, liên thông giữa các chương trình. Nếu
trong các chương trình có một số mô đun giống nhau thì có thể sử dụng
chung. Vì vậy, tạo ra khả năng liên kết, liên thông giữa các chương trình, cho
phép học viên cùng một lúc theo đuổi một số chương trình, trên cơ sở khai
thác và sử dụng nguồn lực của mình. Đây cũng là một thế mạnh của chương
trình theo mô đun.
+ Điểm mạnh và hạn chế của chương trình theo mô đun.
– Điểm mạnh. Cấu trúc chương trình theo mô đun là một trong những
cách tốt nhất để thể hiện quan điểm phát triển, quan điểm nhân văn trong dạy
học. Vì nó đáp ứng được các yêu cầu về dạy học phát triển (nhu cầu và sở
thích cá nhân được tôn trọng, các năng lực, tính độc lập và tự chủ, tự do của
học viên được phát huy). Một điểm mạnh khác của chương trình theo mô đun
là tạo cơ hội cho người học học thường xuyên, học suốt đời, theo nhu cầu và
điều kiện của mình, trên cơ sở tích lũy được các mô đun trong những điều
kiện thuận lợi (tích lũy tín chỉ).
- Hạn chế. Hạn chế lớn nhất của chương trình theo mô đun là việc tổ
chức học tập. Việc bố trí thời gian học tập và thời khóa biểu là công việc
không đơn giản. Mặt khác, nếu việc học chủ yếu theo hình thức tích luỹ tín chỉ
(cấu trúc mô đun theo mạng) dễ dẫn đến thời gian học tập kéo dài, thiếu tính
hệ thống, đôi khi dẫn đến lãng phí. Một khó khăn nữa của học tập theo mô
đun, đòi hỏi cơ sở vật chất, thiết bị và tài liệu phục vụ cho học tập của học
viên phải đầy đủ, điều này dẫn đến chi phí học tập tốn kém.
* Thiết kế chương trình theo dự án
+ Thuật ngữ Project theo tiếng La tinh có nghĩa là dự kiến, phác thảo,
thiết kế. Chuyển vào trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn và giáo dục, dự
án được hiểu là bản thiết kế hệ thống việc làm (Project work) hướng đến mục
tiêu xác định.
Tính đặc thù của chương trình dạy học theo dự án là toàn bộ nội dung
học tập được thiết kế theo hệ thống việc làm của học viên, sao cho khi các
việc làm đó được thực hiện, người học sẽ thu kết quả mong đợi được xác
định trong mục tiêu dạy học. Muốn vậy, chương trình dạy học theo dự án phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
- Các việc làm (các hành động) phải hướng đến những nhiệm vụ xác
định trong mục tiêu chung.
- Phải đảm bảo người học tham gia đầy đủ vào các giai đoạn của dự
án: từ việc xác định nhiệm vụ, nội dung công việc đến lựa chọn phương tiện,
phương pháp làm việc v.v…
– Tính tích hợp: các nhiệm vụ và việc làm của người học thường gắn
với các yêu cầu của thực tiễn.
– Hiệu quả: kết quả của dự án phải là sản phẩm hay hành động cụ thể.
Có thể lượng giá và kiểm soát được.
So với chương trình được thiết kế theo bài học truyền thống và theo mô
đun, trong chương trình dạy học theo dự án tính chủ động của người học
được mở rộng hơn nhiều. Người học được coi là yếu tố quyết định, là một đối
tác của người dạy, là người chủ động thiết kế các công việc và thực hiện
chúng trên cơ sở cam kết với giáo viên. Vai trò của giáo viên là tư vấn, cố
vấn, góp ý, thẩm định, phê duyệt, cung cấp các điều kiện (tài liệu, SGK và các
phương tiện học tập khác) và đánh giá hiệu quả việc thực hiện dự án của học
viên. Với ưu thế như vậy, chương trình dạy học theo dự án hiện được coi là
một trong những hướng đổi mới chủ yếu trong việc phát triển chương trình
dạy học hướng đến mục tiêu: học để phát triển cá nhân, học để làm – một
đặc trưng của dạy học hiện đại.
3.4.2. Môn học và bài học
Chương trình dạy học, dù được thiết kế ở mức chi tiết thì cũng chỉ là bộ
khung, bộ xương cốt của nội dung học vấn trong dạy học. Để hoàn thiện việc
xây dựng nội dung học tập, phải hình thành các môn học, bài học, trên cơ sở
chương trình đã được phê duyệt về mặt khoa học và pháp lí.
Các thuật ngữ môn học, bài học, giờ học, tiết học cần được hiểu theo
hai góc độ: Thứ nhất: là sự phân định các đơn vị của nội dung dạy học, chúng
là các yếu tố của nội dung dạy học; thứ hai: là các đơn vị của hình thức tổ
chức quá trình dạy học, tương ứng với các đơn vị nội dung. Tuy nhiên, cần
lưu ý, các hình thức thường phong phú hơn nội dung. Một bài học (đơn vị
kiến thức) có thể được thực hiện theo hình thức bài học truyền thống, cũng có
thể theo hình thức mô đun v.v…
3.4.2.1. Môn học
* Khái niệm
Môn học là đối tượng làm việc và cần chiếm lĩnh của người học. Nó
chính là sự cụ thể hoá mục đích học tập của người học trong QTDH.
Môn học là một hệ thống tri thức phản ánh một đối tượng khoa học mà
học viên cần nắm vững trong quá trình học tập và được cấu trúc sao cho
người học có thể lĩnh hội tốt nhất đối tượng khoa học trong hệ thống, trên cơ
sở đó phát triển năng lực hoạt động (thực tiễn và trí tuệ) của mình.
* Cấu trúc của môn học.
Bất kì môn học nào cũng có hai phần gắn kết hữu cơ với nhau: Nội
dung khoa học và hình thức thể hiện của nội dung đó. Ngoài ra, môn học phải
có tính phân giải cao.
+ Nội dung khoa học của môn học chính là những sự kiện có thực của
một đối tượng mà người học phải làm việc và chiếm lĩnh. Đối tượng đó có thể
là một lĩnh vực khoa học (toán, vật lí, sinh học, văn học, ngôn ngữ, triết học,
tâm lí học v.v) hoặc lĩnh vực kĩ năng nghề. Dù cho thuộc lĩnh vực nào đi nữa
thì nội dung khoa học của môn học cũng phải đảm bảo những yêu cầu nhất
định:
Thứ nhất: Phản ánh được bản chất và logic phát triển của lĩnh vực khoa
học. Vì vậy, các tri thức khoa học trong nội dung môn học phải được lựa chọn
sao cho phản ánh chân thực nội dung của lĩnh vực khoa học tương ứng. Để
làm được việc này phải xác lập được hệ thống thứ bậc các sự kiện, các tri
thức của khoa học đó: các sự kiện cốt lõi, cơ sở, cơ bản, chủ yếu và các sự
kiện thứ yếu, phát triển; các tri thức nguyên tắc, nguyên lí, phương pháp và
các tri thức sự vật, sự kiện cụ thể v.v… Nói ngắn gọn, cấu trúc của môn học
phải bao hàm cấu trúc của lĩnh vực khoa học. Trong đó xu hướng hiện đại
cần vươn tới là tri thức công nghệ.
Không nên hiểu một cách siêu hình hai phạm trù khoa học và công
nghệ. Để từ đó dẫn đến khu biệt hai lĩnh vực: khoa học và công nghệ. Ở đây
cần hiểu khoa học và công nghệ là hai mức độ phát triển của khoa học hiện
đại. Trước đây, khoa học chủ yếu được hiểu là tri thức lí luận về bản chất và
sự vận động của sự vật. Ngày nay khoa học phải được hiểu ở mức cao hơn–
công nghệ làm ra sự vật. Điều này đã được C. Mác cảnh báo từ lâu. Sự phát
triển của khoa học lên mức công nghệ dẫn đến cải tổ sâu sắc NDDH trong
nhà trường hiện đại. Nhà trường không dạy tri thức kinh nghiệm và tri thức
hình thức mà phải hướng tới tri thức về công nghệ và nguyên tắc làm ra sự
vật.
Thứ hai: Xác lập được logic của các sự kiện, các tri thức khoa học sao
cho phản ánh được logic phát triển của lĩnh vực khoa học. Sự vận động và
phát triển của bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng đều tuân theo lôgic từ trừu
tượng đến cụ thể (xem chương 2, mục 2.4.4). Vì vậy cấu trúc khoa học của
môn học cũng phải tuân theo nguyên lí từ trừu tượng đến cụ thể. Nói cách
khác, cấu trúc khoa học của môn học là cấu trúc mở, được bắt đầu từ hạt
nhân trừu tượng nhất cho đến những sự kiện cụ thể, rõ ràng, cập nhật. Vì
vậy, việc phân tích cây phát triển của một lĩnh vực khoa học, xác định được
hạt nhân trừu tượng ban đầu để làm điểm xuất phát cho môn học là việc làm
có ý nghĩa quyết định đối với cấu trúc khoa học của toàn bộ môn học, từ trừu
tượng đến cụ thể. Để giải quyết được nhiệm vụ khó khăn này, nhất thiết phải
có sự tham gia tích cực của các nhà khoa học chuyên nghiên cứu lĩnh vực
đó, chứ không phải là công việc của nhà sư phạm.
Cần phân biệt khái niệm trừu tượng và cụ thể khoa học. Trừu tượng
trong nhận thức thông thường là những sự kiện không rõ ràng về mặt cảm
tính, còn cái cụ thể là cái được nhìn thấy, nghe thấy và sờ mó một cách cảm
tính. Vì vậy cái cụ thể cảm tính không hẳn là cái cụ thể trong khoa học. Chẳng
hạn, đứng trước một người mới gặp, ta có hình ảnh cụ thể, chi tiết về nhân
trắc học của người đó (tức là rất cụ thể về cảm tính), nhưng vẫn còn trừu
tượng về nhiều cái khác như tính cách, xu hướng, năng lực của anh ta. Quá
trình nhận thức tiếp theo về người đó sẽ giúp ta hiểu rõ hơn, tức là hiểu cụ
thể hơn. Cái trừu tượng và cái cụ thể khoa học cũng không đồng nhất với cái
chung và cái riêng hình thức như một số quan niệm vẫn thường thấy trong lí
luận dạy học. Cái trừu tượng không phải là cái chung, cái cụ thể không phải là
cái riêng. Cái chung và cái riêng là sản phẩm của sự trừu tượng hoá và khái
quát hoá hình thức, còn cái trừu tượng và cái cụ thể là sự phát triển của mọi
sự vật trong đó có cả tư duy của cá nhân, xã hội.
+ Hình thức thể hiện nội dung khoa học của môn học.
Cấu trúc của môn học không chỉ đơn thuần là cấu trúc đối tượng học
tập, mà còn có cấu trúc lôgic sư phạm. Đây là điểm mấu chốt để phân biệt
môn học với lĩnh vực khoa học hoặc công nghệ mà môn học đó chuyển tải; là
vấn đề trọng yếu nhất của cấu trúc môn học và thể hiện bản lĩnh, trình độ
nghề của nhà sư phạm. Thực chất lôgic sư phạm trong môn học là logic nhận
thức của người học. Ở đây hình thức thể hiện và kết cấu các sự kiện của đối
tượng học tập phải đáp ứng hai yêu cầu: Một mặt, phù hợp với trình độ, tính
chất và khả năng nhận thức của người học. Mặt khác: Phát triển được tiềm
năng hoạt động trí óc của người học. Nói cách khác, cấu trúc của môn học
không chỉ đảm bảo cho người học nắm bắt được đối tượng của nó, mà còn
nắm bắt được cách nắm bắt và sử dụng nó.
Các công trình nghiên cứu tâm lí học sư phạm (xem chương 2) đã chỉ
ra: một nội dung của đối tượng (tri thức khoa học của môn học) có thể được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: bằng hành động thực, bằng hình
ảnh, mô hình, sơ đồ hoặc bằng các mệnh đề ngôn ngữ, khái niệm, định lí
v.v… Những hình thức biểu hiện này có thể phù hợp với trình độ và tính chất
tiếp nhận của các lớp học viên khác nhau. Chẳng hạn, học viên nhỏ tuổi có
thể tiếp nhận được nội dung của một định luật vật lí, một định lí toán trừu
tượng, nếu nó được biểu hiện dưới hình thức hành động. Ngược lại, sẽ là rất
khó đối với các em, nếu nó được thể hiện dưới các mệnh đề ngôn ngữ. Trong
khi đó, cách thể hiện này lại phù hợp hơn với học viên lớn. Vì vậy, sự phù
hợp với trình độ, tính chất và khả năng nhận thức của người học không phải
là ở khía cạnh nội dung mà là do hình thức thể hiện của nội dung đó trong tài
liệu giảng dạy và trong cách dạy của giáo viên. Ở đây cần lưu ý đến nhận
định của nhà tâm lí học người Mĩ J.Bruner: Bất cứ môn học nào cũng có thể
dạy cho bất cứ người nào, ở bất cứ tuổi nào dưới một hình thức chính đáng
nào đó. Tạo ra hình thức thể hiện của nội dung khoa học của môn học theo
lôgic sư phạm, cho phù hợp với từng loại đối tượng người học, để đảm bảo ai
cũng có thể tiếp nhận được nội dung đó, là trọng trách của nhà sư phạm.
Như vậy logic cấu trúc môn học là hợp kim giữa logic khoa học (lôgic
nội dung đối tượng) với lôgic sư phạm. Nó là sản phẩm của sự hợp tác lao
động giữa nhà khoa học và nhà sư phạm.
+ Môn học là một cấu trúc có thể phân giải được thành các đơn vị có
tính độc lập tương đối.
Học tập là quyền của mọi người, ai cũng có thể được học và học được.
Vì vậy, nội dung môn học (và hình thức biểu hiện của nó) không dành riêng
cho một loại đối tượng mà cho mọi đối tượng. Nói cách khác, nội dung và
hình thức thể hiện của môn học phải có tính phân hoá. Tính phân hoá là đặc
trưng của môn học và được thể hiện ở hai khía cạnh: a) Cho nhiều đối tượng;
b) Phân giải thành nhiều đơn vị. Nhờ đó cho phép nhà sư phạm có thể phân
giải môn học thành các bài học. Nói cách khác, môn học không phải là một
khối đúc liền các sự kiện khoa học, mà là hệ thống phát triển của các sự kiện,
của các bài học.
3.4.2.2. Bài học
Bài học được hiểu là đơn vị cơ bản tạo thành hệ thống môn học. Nội
dung của bài học là một khái niệm trong hệ thống khái niệm khoa học (hoặc
một chủ đề, một hành động) của môn học.
Bài học khác môn học ở chỗ, môn học là một cấu trúc mở, phát triển,
còn bài học có cấu trúc tương đối kín và thực hiện một chức năng nhất định
trong hệ thống chung của môn học. Quan hệ giữa các bài học là quan hệ
chức năng. Mỗi bài học có vị trí xác định so với các bài trước và sau nó. Là
mục đích cần đạt của bài trước và là phương tiện để học tiếp bài sau. Sự
phát triển của cả hệ thống bài học tạo nên sự phát triển của môn học.
Nội dung của bài học cũng như nội dung môn học phải được cấu trúc
theo hệ thống thứ bậc. Trong đó có ít nhất ba mức: mức nội dung tri thức
dành cho tất cả người học; mức dành cho đa số người học (khoảng 65% –
70% số người học) và mức cao (đáp ứng nhu cầu phát triển của khoảng 30%
– 35% số người học). Nói cách khác, nội dung môn học nói chung, bài học nói
riêng phải có đặc tính đồng loạt, phân hoá và phát triển.
Bài học có thể được cấu trúc theo hình thức bài học trên lớp theo
truyền thống, hoặc theo chủ đề, dự án, mô đun. Cấu trúc bài học theo truyền
thống có lôgic tuyến tính chặt chẽ. So với bài học trên lớp có tính truyền
thống, các bài học theo chủ đề, dự án hay mô đun có tính độc lập, linh hoạt
hơn, mang tính mở nhiều hơn và đa dạng hơn. Cấu trúc môn học theo chủ
đề, dự án hay mô đun (đặc biệt là theo mô đun) không hoàn toàn theo logíc
tuyến tính chặt chẽ như trong cấu trúc hệ thống bài học truyền thống, mà có
thể cấu trúc theo mạng không gian, theo tổ hợp, tích hợp. Hơn nữa, các chủ
đề, dự án hay mô đun có thể được tháo ra khỏi môn học để tham gia vào môn
học khác. Điều này rất khó thực hiện đối với bài học truyền thống. Nhờ tính
độc lập và linh hoạt nên các hình thức bài học này ngày càng được sử dụng
phổ biến và dần chiếm ưu thế trong cấu trúc CTDH hiện đại.
Cũng như môn học, bài học (cả bài học truyền thống, chủ đề, dự án,
hay mô đun) được cấu trúc bởi logic của khái niệm khoa học kết hợp với lôgic
sư phạm. Đồng thời, bài học cũng được phân giải thành nhiều yếu tố có quan
hệ hữu cơ với nhau. Mỗi yếu tố được thực hiện bởi một việc làm của người
học. Việc làm là bộ phận nhỏ nhất cấu thành nên bài học. Hệ thống việc làm
có cấu trúc tường minh và tuyến tính theo thời gian, có thể điều khiển và kiểm
soát được. Trong thực tiễn, các việc làm được khuôn vào những đơn vị thời
gian được gọi là tiết học. Một tiết học có thể là một hoặc một số việc làm của
người học. Thiết kế bài học thực chất là thiết kế hệ thống việc làm của người
học và phân chia chúng vào các tiết học tương ứng.
Có thể tóm tắt lôgic phân giải chương trình, NDHT theo lược đồ tuyến
tính như sau: Chương trình, nội dung hệ thống dạy học quốc gia 1 Ngành học
1 Bậc học 1 Cấp học 1 Lớp học 1 Môn học 1 Bài học 1 Việc làm của người học.
Lớp học ở đây được hiểu là sự phân giải của hệ thống nội dung một
cấp học thành thứ bậc các tiểu hệ thống, không hiểu theo nghĩa là một hình
thức tổ chức trong dạy học.
3.4.2.3. Tài liệu học tập
Tài liệu học tập (học liệu) là nơi hiện thực hoá, vật chất hoá và là nơi
tồn tại của nội dung dạy học. Đó chính là phương tiện học tập của người học
để qua đó tiếp cận đối tượng học tập ở dạng bao quát nhất, tài liệu học tập có
nhiều loại (nhiều mức): tài liệu khoa học, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy và
các tài liệu tương đương. Trong đó sách giáo khoa là quan trọng nhất.
* Tài liệu khoa học là sản phẩm khoa học của nhà nghiên cứu, là sự
hiện thực hoá sản phẩm nghiên cứu của nhà khoa học. Trong đó nhà khoa
học xác lập lại logic của một thành tựu khoa học nào đó và phương pháp,
phương tiện, quy trình, hoàn cảnh thực tế của sự phát hiện, phát minh, sáng
chế ra thành tựu đó. Nó phản ánh đầy đủ và trung thành tri thức khoa học của
một lĩnh vực khoa học nhất định. Vì vậy, tiếp cận nội dung môn học thông qua
tài liệu khoa học sẽ có khả năng cho nhiều tri thức khoa học chân thực và cập
nhật về lĩnh vực khoa học đó. Tuy nhiên, vì là tư liệu mô tả và giải thích khoa
học, do nhà khoa học tạo ra, chưa được hiệu chỉnh về logic sư phạm nên rất
khó đối với người học. Để khắc phục cản trở này, các tri thức khoa học trong
tài liệu khoa học cần được chuyển thành tri thức giáo khoa, được thể hiện
trong sách giáo khoa.
* Sách giáo khoa (SGK) có vị trí đặc biệt đối với người học và người
dạy. Trong quá trình dạy học, nội dung môn học không tồn tại tự thân. Người
học không trực tiếp tiếp nhận NDHT từ nội dung môn học, mà phải thông qua
các phương tiện trung gian, đó là từ hoạt động dạy của người dạy và các học
liệu, trong đó SGK là chủ yếu. SGK là nơi hiện thực hoá, vật chất hoá và là
nơi tồn tại của nội dung dạy học. Nội dung của SGK phản ánh nội dung môn
học và hình thức, phương pháp, phương tiện cũng như các điều kiện sư
phạm khác để người học nắm bắt nội dung đó. Vì vậy, SGK là một trong
những kênh chính để chuyển tải nội dung môn học, nhất là trong dạy học hiện
đại. Cùng với hoạt động dạy của người dạy, SGK là đối tượng làm việc trực
tiếp của người học. Tuy nhiên, nội dung của SGK không phải là mục đích lĩnh
hội cuối cùng của người học. SGK không phải là nội dung học vấn mà người
học cần lĩnh hội trong dạy học. Nó chỉ là vật chứa đựng nội dung môn học.
Giữa nội dung học vấn với nội dung SGK là quan hệ mục đích –phương tiện.
Nói cách khác, nội dung của SGK là phương tiện để người học đạt tới mục
đích học vấn. Vì vậy nếu việc học chỉ dừng lại ở mức SGK thì chưa đủ, mà
phải qua tri thức có trong SGK để đạt tới tri thức học vấn. Để có được nội
dung học vấn đích thực, người học phải vượt qua sách giáo khoa.
Trong quan hệ với người dạy, SGK vừa là mục đích vừa là phương tiện
dạy.
Với tư cách là mục đích của hoạt động dạy, SGK chính là sản phẩm, là
sự kết tinh lao động sư phạm của người dạy. Nói khác đi, một trong những
nhiệm vụ sư phạm của người dạy là biên soạn SGK. Thực chất của công việc
này là sự uỷ thác nội dung môn học vào trong tài liệu học tập. Trong dạy học
hiện đại sự uỷ thác này là nhiệm vụ chủ yếu, quyết định chất lượng dạy học
và hiệu quả tác động của người dạy. Ở đó, nhà sư phạm phân tích, chọn lọc
và xác lập logic của thành tựu khoa học thuộc lĩnh vực mà môn học sẽ
chuyển tải. Đồng thời xác lập hình thức, phương pháp, phương tiện hình
thành nó ở một loại đối tượng người học nhất định. Trong SGK, lôgic khoa
học với lôgic sư phạm gắn kết với nhau, tạo nên cốt lõi của nó và làm cho nó
khác tài liệu khoa học đơn thuần. Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa lao
động khoa học với lao động sư phạm. Viết SGK là sự kết hợp công việc của
nhà khoa học và người dạy. Trong quá trình biên soạn SGK, nhà khoa học và
nhà sư phạm tái lập lại logic phát triển của đối tượng khoa học (từ trừu tượng
đến cụ thể) theo một hình thức mới, phù hợp với tính chất và trình độ của
người học. Qua đó, một mặt, giúp mọi đối tượng học có thể tiếp nhận được
bản chất và logic phát triển của đối tượng khoa học; mặt khác, hình thành và
phát triển những năng lực riêng ở họ. Nói cách khác, SGK vừa có tính đồng
loạt, phổ biến, vừa có tính đặc thù (cá thể hoá). Như vậy, trong SGK luôn luôn
tồn tại ba mối quan hệ cơ bản: giữa mục đích và phương tiện (mục đích là nội
dung học vấn còn tri thức giáo khoa là phương tiện); giữa tính đồng loạt và cá
thể; giữa tính ổn định, cơ sở và tính phân hoá, phát triển. Để thiết lập được
những mối liên hệ này, nhà khoa học và nhà sư phạm, khi biên soạn SGK,
cần tính đến những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Tri thức khoa học tối thiểu. Nội dung khoa học của SGK phải
thoả mãn yêu cầu: Một mặt không phải là bản sao, cũng không phải là bản
thu nhỏ của tài liệu khoa học cần truyền thụ cho người học; mặt khác, nó phải
phản ánh được logic phát triển của khoa học đó. Để đáp ứng được yêu cầu
này, nhà khoa học cần phân tích hệ thống sự kiện của đối tượng khoa học (sẽ
được chuyển tải vào trong nội dung học tập), chọn và đưa vào trong SGK một
số lượng tối thiểu sự kiện nhất thiết phải có (thông thường đó là những sự
kiện cốt lõi, những sự kiện có tính nguyên tắc, nguyên lí, phương pháp). Nói
cách khác, nhà khoa học phải sử dụng lượng tri thức tối thiểu để thoả mãn
đến mức tối đa tính khoa học của đối tượng.
Về nguyên tắc, tài liệu khoa học khác SGK (tài liệu học tập nói chung).
Tài liệu khoa học là sự hiện thực hoá sản phẩm nghiên cứu của nhà khoa
học. Trong đó nhà khoa học xác lập lại logic của một thành tựu khoa học nào
đó và phương pháp, phương tiện, quy trình và hoàn cảnh thực tế của sự phát
hiện, phát minh, sáng chế ra thành tựu đó ra. Cấu trúc nội dung tài liệu khoa
học không đòi hỏi có lôgic sư phạm. Trong khi đó tài liệu học tập là sản phẩm
lao động của nhà sư phạm. Ở đó logic khoa học với lôgic sư phạm gắn kết
với nhau.
Thứ hai: Tính đồng loạt, sự phân hoá và phát triển. SGK thực chất là
nơi vật chất hoá NDHT. Vì vậy giống NDHT, nội dung môn học, SGK cũng
phải có đặc tính đồng loạt, phân hoá và phát triển. Để giải quyết được vấn đề
này, nhà sư phạm cần thiết lập lôgic phát triển của các sự kiện khoa học theo
ba cấp độ: Cấp độ đầu có tính đồng loạt, thoả mãn cho tất cả người học thuộc
đối tượng của SGK. Cấp độ cao hơn, thoả mãn đa số người học và cấp độ
phát triển dành cho số ít (khoảng 30% – 35% người học). Nói cách khác, nội
dung của SGK phải có sự phân hoá về độ khó. Về phương diện kĩ thuật, nhà
sư phạm cần phân hoá nội dung của SGK thành hệ thống việc làm của người
học, tương ứng với các cấp độ nêu trên, với các hình thức biểu hiện của nội
dung khoa học.
Như vậy, một cuốn SGK theo đúng nghĩa của nó, phải đảm bảo ba
nguyên tắc: chuẩn mực, tối thiểu và phát triển. Quá trình biên soạn SGK có
thể theo lôgic sau: Phân tích tài liệu khoa học 1 Tách các sự kiện trong tài liệu
1 Lựa chọn số lượng tối thiểu các sự kiện cốt lõi 1 Cấu trúc lôgic các sự kiện
cốt lõi 1 Chuyển các sự kiện cốt lõi vào trong hình thức biểu hiện phù hợp với
trình độ và tính chất của người học 1 Xác định việc làm của người học tương
ứng với các sự kiện 1 SGK.
Không nên hiểu SGK đơn thuần chỉ là một cuốn sách có nội dung khoa
học được gia công về mặt sư phạm. Ở mức hoàn chỉnh, nó là một bộ bao
gồm 4 loại tài liệu liên quan trực tiếp với nhau: 1) SGK, 2) Sách hướng dẫn
cách học và dạy, 3) Sách bài tập, thực hành; 4) Bộ công cụ đánh giá kết quả
học tập. Trong đó SGK và sách hướng dẫn được dùng chung cho nhiều
người, còn sách bài tập, thực hành và bộ công cụ đánh giá thành tích học tập
cần riêng cho từng người học dùng một lần. Các loại tài liệu trên có thể được
trình bày bằng sách in thông thường, cũng có thể dưới dạng sách điện tử
hoặc các hình thức khác.
* Tài liệu truyền thụ là phương tiện dạy học trực tiếp của người giáo
viên trong từng bài dạy, được người giáo viên chắt lọc và tổ chức lại các tri
thức của môn khoa học có trong tài liệu khoa học, sách giáo khoa và các
nguồn tài liệu khác theo mục tiêu dạy học. So với SGK, tài liệu truyền thụ của
giáo viên thường linh hoạt hơn và có nhiều sự kiện, tri thức khoa học cập
nhật hơn (có tính thời sự hơn), do người giáo viên thường xuyên tiếp cận tài
liệu mới. Mặt khác, các hình thức thể hiện của tri thức khoa học cũng cụ thể,
sinh động và mang tính cá thể hoá hơn so với SGK. Tuy nhiên, tài liệu truyền
thụ của giáo viên phụ thuộc nhiều vào năng lực, thái độ và xu hướng khoa
học của người giáo viên. Vì vậy, nó không phải là tài liệu phổ biến cho mọi
học viên.
Ngoài ba loại trên, trong dạy học hiện đại, còn có các phương tiện dạy
học khác, chẳng hạn, băng hình, v.v…
3.5. HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HOẠT ĐỘNG HỌCHoạt động dạy và hoạt động học là sự tương tác lẫn nhau giữa hai mặt
của một hoạt động: hoạt động dạy học. Sự tồn tại và phát triển của mặt này
quy định sự tồn tại và phát triển của mặt kia. Yếu tố tạo nên sự quy định lẫn
nhau là do chức năng, vị thế, đối tượng tác động và phương pháp tác động
của chúng. Trong thực tiễn những yếu tố này bị chi phối bởi mục đích dạy học
và có lịch sử phát triển khá lâu dài.
3.5.1. Sự tương tác giữa người dạy, người học và đối tượng dạy học
Trong bất kì quá trình dạy học nào cũng tồn tại sự tương tác giữa ba
yếu tố: người dạy, người học và đối tượng dạy học.
Trong các tài liệu giáo khoa về lí luận dạy học vẫn dùng các thuật ngữ
người thầy giáo hoặc giáo viên và học sinh. Cách gọi này có tính truyền thống
và thường dẫn đến sự định kiến về vị thế của người thầy và học sinh trong
quá trình dạy học. Ngày nay, xu hướng chung (trong lí luận dạy học thế giới),
thuật ngữ được dùng là người dạy và người học với dụng ý đề cao vị thế của
người học. Trong tài liệu này chúng tôi dùng thuật ngữ giáo viên và học viên
chung cho mọi trường hợp (kể cả đối với học sinh nhỏ tuổi).
Đối tượng của hoạt động dạy là gì? Ngày nay ai cũng biết, đối tượng
của hoạt động dạy là hoạt động học của người học hoặc chính bản thân
người học, là các chủ thể có ý thức, năng động, sáng tạo, có tâm hồn nhạy
cảm và đang trong quá trình phát triển. Đối tượng và nội dung hoạt động dạy
học có nhiều điểm khác với các loại lao động khác. Vì thế, tác động của
người dạy đến người học hoàn toàn khác với các loại lao động khác. Đây
không phải là quan hệ Chủ thể - Khách thể (người lao động – đối tượng lao
động) như vẫn thấy trong các loại hình lao động sản xuất, mà là quan hệ Chủ
thể – Chủ thể (người dạy - người học). Thực ra việc nhận thức đúng mối
quan hệ này và ứng xử theo hiểu biết về nó là cả một quá trình lịch sử lâu dài
và phức tạp. Trong hệ thống giáo dục trước đây, với mục tiêu là nhào nặn trẻ
em trở thành những sản phẩm theo khuôn mẫu định trước của xã hội (những
chiến binh, người sản xuất, người thừa hành v.v…), còn bản thân đứa trẻ
được coi là đối tượng của sự nhào nặn đó. Điều này giống như trong bất kì
quá trình sản xuất vật chất nào, với mối quan hệ đặc trưng là chủ thể – đối
tượng. Trong đó người thợ (chủ thể) cố gắng bằng mọi cách tác động nhằm
đưa hết hiểu biết, kĩ năng và năng lực của mình vào trong vật liệu (đối tượng)
để biến nó thành sản phẩm mong muốn. Hiệu quả lao động và chất lượng sản
phẩm được quyết định bởi sức lực và tài năng của người thợ, còn vật liệu chỉ
đơn thuần là cái cho trước, thụ động. Dạy học theo mô hình này cũng diễn ra
tương tự như vậy. Ở đó, mối quan hệ giữa người dạy và người học được
hiểu là chủ thể – đối tượng, trong đó giáo viên là chủ nhân toàn quyền quyết
định mục tiêu, nội dung và phương thức tác động đến người học, còn người
học là vật thụ động trước uy lực của người thầy. Vì vậy, hướng tác động
chính là từ giáo viên đến học viên, thông qua kênh chủ yếu là truyền giảng và
các phương pháp giáo dục độc đoán khác của thầy. Ngày nay, những người
có hiểu biết về dạy học không còn quan niệm như vậy. Trẻ em ngay từ nhỏ
cho đến khi trưởng thành luôn luôn là chủ thể của chính nó, quyết định số
phận hiện tại và tương lai của nó. Sự phát triển, trưởng thành, hạnh phúc hay
bất hạnh của mỗi đứa trẻ phụ thuộc vào việc nó chiếm lĩnh và sử dụng đối
tượng như thế nào. Tuy nhiên, do đặc thù là trẻ thơ trước thế giới tự nhiên và
xã hội đầy phức tạp và bí hiểm, nên trẻ em thường xuyên đứng trước mâu
thuẫn giữa một bên là phải tự mình trực tiếp tiếp xúc và chiếm lĩnh những yếu
tố cần thiết cho cuộc sống và phát triển của mình, mà những yếu tố đó vốn đã
có trong thế giới đối tượng phong phú, với một bên là hạn chế trong việc định
hướng sự lựa chọn và khả năng tác động vào đối tượng học tập để tách ra
được những điều có ích cho sự phát triển của riêng mình. Muốn giải quyết
được mâu thuẫn này, trẻ em nhất thiết cần sự trợ giúp của người lớn. Đây
chính là bản chất của dạy học hiện đại. Hoạt động dạy được quy về các hoạt
động định hướng, giúp đỡ, tổ chức, điều chỉnh và động viên các hoạt động
học tập của học viên. Các cung bậc hoạt động của người dạy tuỳ thuộc vào
khả năng người học. Trường hợp lí tưởng nhất, người dạy chỉ đóng vai trò
hướng đạo, chủ yếu là định hướng cho người học hoạt động trong môi trường
đối tượng, còn người học tự mình giải quyết nội dung công việc. Sự định
hướng của người dạy được thực hiện thông qua việc tạo ra môi trường sư
phạm, trong đó bao hàm các yếu tố cần có đối với sự phát triển của người
học mà xã hội đặt ra và các cách để giải quyết chúng. Ở mức thấp hơn,
người học vừa cần có sự định hướng vừa cần có sự trợ giúp của người dạy
trong quá trình thực hiện. Trong trường hợp này, người học không thể tự
mình hoạt động có hiệu quả trong môi trường sư phạm. Vì vậy, để giảm bớt
sai lầm cho họ, một mặt giáo viên tạo ra môi trường sư phạm, định hướng
cho người học hoạt động trong đó, mặt khác thường xuyên ở bên cạnh họ để
trợ giúp khi cần thiết. Ở mức thứ ba, người học chưa thể tự mình tổ chức việc
học tập và tu dưỡng. Trong trường hợp này cần có sự can thiệp trực tiếp của
người dạy, với tư cách là người tổ chức cho người học hoạt động trong môi
trường sư phạm. Quá trình này bao hàm cả chỉ dẫn, tổ chức và điều khiển
hoạt động của người học bằng nhiều phương pháp khác nhau. Trong cả ba
mức độ, người học đều cần có sự điều chỉnh và động viên kịp thời của người
dạy, thông qua các tác động ngược. Điều cần nhấn mạnh là, theo quan niệm
hiện đại, trong mọi trường hợp, người dạy đều không phải là người đại diện
chủ yếu (càng không phải là duy nhất) của nền văn hoá mà người học phải
tiếp nhận. Ngược lại người học phải trực tiếp đối mặt với đối tượng học tập
(nền văn hoá xã hội), còn người dạy chỉ là tác nhân, giúp người học khắc
phục những trở ngại chủ quan và khách quan nảy sinh trên con đường chinh
phục đối tượng. Nói cụ thể, đối tượng tác động của hoạt động học chính là
nội dung học vấn được hoạch định trong chương trình, nội dung môn học và
được hiện thực hoá trong các SGK, sách bài tập và các tài liệu học tập khác.
Như vậy, hiện đang có sự chuyển biến trong nhận thức và thực tiễn từ
Giáo viên: Người truyền đạo sang Người dạy: Người tham vấn, người trợ
giúp.
Có thể mô hình hoá hai sơ đồ quan hệ người dạy – người học và đối
tượng dạy học trong quá trình dạy học như sau:
Vai trò của người giáo viên truyền
thống: Đối tượng học của người học
được khúc xạ qua thầy và tác động
một chiều lên người học. Còn sự tác
động của người học lên đối tượng và
lên thầy là thứ yếu, phụ. Đây là tác
động một chiều.
Vai trò của người giáo viên hiện đại:
Đối tượng học của người học là đối
tượng làm việc của cả người dạy và
người học. Sự tác động của người
dạy đến người học thông qua sự tác
động của người học đến người dạy.
Sự tác động giữa đối tượng học với
người học là trực tiếp, hai chiều. Đây
là quá trình tương tác đa phương.
3.5.2. Chức năng của hoạt động dạy và hoạt động học trong dạy học hiện đại
* Chức năng của hoạt động dạy
Giao vien Hoc sinh
Đoi tuong hoc
Giao vien Hoc sinh
Đoi tuong hoc
Chức năng xã hội bao trùm của hoạt động dạy là truyền thụ hệ thống
kinh nghiệm của xã hội cho thế hệ trẻ. Ngày nay, sự phát triển của dạy học
hiện đại dẫn đến sự phân hoá chức năng tổng thể thành các chức năng thành
phần:
1. Chức năng định hướng, bao gồm cả việc xác định mục đích, mục tiêu
dạy học được thể hiện trong chương trình, môn học, bài học… và định hướng
hành động học của người học trong một quá trình dạy học cụ thể.
2. Chức năng uỷ thác. Đây là chức năng cơ sở của hoạt động dạy trong
dạy học hiện đại. Chức năng này thể hiện ở việc người dạy phân tích đối
tượng học vấn (cái mà người học phải chiếm lĩnh, xã hội phải truyền thụ) và
định vị, hiện thực hoá chúng vào trong tài liệu học tập, trước hết là SGK, sau
đó là vào các tình huống dạy học. Nói rộng ra, người dạy tạo ra môi trường
học tập, mà ở đó người học có thể tiếp nhận được đối tượng học.
3. Chức năng kích thích, động viên, làm nảy sinh nhu cầu, tạo động cơ,
phát triển hứng thú học tập của người học.
4. Chức năng trợ giúp và tham vấn, giúp đỡ người học. Giáo viên giống
như bà đỡ cho sản phụ. Trong điều kiện tự nhiên, việc sinh con là của bà mẹ,
còn bà đỡ có vai trò trợ giúp, chứ không thể thay thế. Trong dạy học cũng
vậy, việc học là hoàn toàn của người học, anh ta phải tự sản sinh ra kết quả
học tập của mình, dưới sự trợ giúp của người dạy.
5. Chức năng tổ chức hành động học của người học. Đây là chức năng
trung tâm, đặc biệt đối với người học còn nhỏ tuổi hoặc gặp nhiều khó khăn
trong việc tự tổ chức hoạt động học. Trong học tập, điều có ý nghĩa quyết
định là người học phải biết tổ chức hoạt động học của mình. Nói cách khác,
trong dạy học ngày nay, câu hỏi học như thế nào quan trọng hơn học cái gì?
Trong khi đó, hoạt động này không tự nhiên có ở người học. Nó được hình
thành và được tổ chức một cách có khoa học trong quá trình học tập. Điều
này người học không thể tự mình giải quyết mà phải có sự hướng dẫn của
người dạy.
Vì vậy việc hướng dẫn người học hình thành cho mình hoạt động học
và tổ chức được việc học của mình một cách khoa học là sứ mệnh quan trọng
nhất của người dạy trong dạy học hiện đại.
6. Chức năng kiểm soát. Bất kì một hoạt động nào cũng cần phải có sự
kiểm soát. Hoạt động dạy học cũng đòi hỏi phải có sự kiểm soát, để củng cố
những việc làm phù hợp và khắc phục việc chưa phù hợp. Việc kiểm soát
được thực hiện nhờ sự trao đổi thông tin hai chiều người dạy – người học,
thông qua sự đánh giá và tự đánh giá của người dạy và người học cũng như
các thông tin đánh giá khác.
7. Chức năng đánh giá. Trong các hệ thống dạy học đơn giản, ở trình
độ thấp, nội dung dạy học chưa phong phú thì việc đánh giá chưa được coi
trọng và thường được gắn vào các hoạt động khác trong dạy học. Tuy nhiên,
trong dạy học hiện đại. Việc đánh giá được tách khỏi các hoạt động khác và
trở thành một hoạt động độc lập, có chức năng riêng.
8. Chức năng điều chỉnh, bao hàm điều chỉnh cả hoạt động dạy và hoạt
động học.
Trong thực tiễn dạy học các chức năng trên thường được thực hiện bởi
hệ thống việc làm trong dạy học của người dạy.
Hệ thống việc làm của người dạy rất phong phú, linh hoạt và tuỳ thuộc
vào các yếu tố: a) Quan hệ, chức năng và vị thế của người dạy trong sự
tương tác với người học; b) Lĩnh vực khoa học cần dạy cho học sinh; c) Môi
trường kinh tế – xã hội – văn hoá – khoa học trong đó diễn ra quá trình dạy
học và các điều kiện phục vụ cho hoạt động dạy và học. Tuy nhiên, xét đại
thể, hệ thống việc làm của người dạy tập trung vào các nội dung sau:
1. Xác định mục đích dạy học. Xác định mục tiêu chung, mục tiêu dạy
học cụ thể
2. Thiết kế nội dung học tập, soạn thảo chương trình môn học, bài học,
SGK, tài liệu dạy và học, các tình huống học tập cho người học v.v… Tức là
tạo ra môi trường học tập cho học sinh.
3. Tổ chức các hành động học của người học trong các hình thức và
tình huống học tập khác nhau, với các phương pháp và phương tiện phù hợp.
4. Các hành động tham dự, tham vấn, trao đổi, lắng nghe, chia sẻ với
người học.
5. Các hành động lôi cuốn, hấp dẫn, kích thích, củng cố, động viên,
trách phạt v.v… của người dạy đối với người học.
6. Các hành động kiểm soát: thu thập và xử tí thông tin phản hồi, soạn
thảo và quản lí tài liệu, hồ sơ v.v.
7. Đánh giá, kiểm tra, thanh tra dạy học.
8. Các hành động điều chỉnh vi mô và vĩ mô: chỉnh lí, cải tiến, cải cách
(mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy học) v.v.
Ngày nay, sự phân hoá các chức năng dẫn đến sự phân hoá và chuyên
môn hoá các hoạt động trong dạy học: Một số người chuyên soạn thảo nội
dung, chương trình và sách giáo khoa, một số đông khác chuyên thực hiện
việc dạy học trên lớp; chuyên đánh giá v.v. Sự chuyên môn hoá này về cơ
bản là tất yếu và có tác dụng lớn. Tuy nhiên, trong thực tế cần tránh xu
hướng quan liêu hoá trong tổ chức dạy học, dẫn đến nhiều bất cập. Do người
soạn thảo chương trình, viết SGK không phải là người trực tiếp dạy, nên
nhiều nội dung khoa học chưa phù hợp với xu thế hiện đại và đặc điểm tâm –
sinh lí người học. Các sách giáo khoa được biên soạn với lôgic sư phạm
thiếu chặt chẽ v.v, còn người dạy thì không có tầm nhìn vĩ mô, chỉ biết dạy
một môn học, cho một lớp người học nhất định – thợ dạy. Vì vậy, các chương
trình, SGK cần được biên soạn và thực nghiệm công phu trước khi được triển
khai trong thực tiễn.
Trong khoa học giáo dục có hai hướng thực nghiệm chương trình, SGK
và các nội dung khác: Thực nghiệm lựa chọn và thực nghiệm xác nhận. Thực
nghiệm lựa chọn là cùng một thời điểm thử nghiệm nhiều chương trình hay
nhiều bộ SGK để xác nhận tính khả thi của chúng và lựa chọn trong số đó
chương trình hay SGK đáp ứng tốt nhất các mục tiêu đề ra ban đầu. Thực
nghiệm xác nhận là thông thường chỉ thực nghiệm 1 hoặc 2 chương trình hay
SGK để xác nhận điều kiện khả thi của chương trình (SGK) đó trong thực
tiễn. Vì vậy thực nghiệm xác nhận chủ yếu chứng minh: cái đó là gì? còn thực
nghiệm lựa chọn bao hàm cả cái đó là gì và vai trò, giá trị của nó? Đương
nhiên, thực nghiệm lựa chọn thường công phu hơn, có tính khoa học cao hơn
so với thực nghiệm xác nhận.
* Chức năng của hoạt động học
Khác với hoạt động dạy, hoạt động học của người học có đối tượng là
kinh nghiệm xã hội hiện còn ở bên ngoài. Chức năng chủ yếu của hoạt động
học là tiếp nhận và chuyển hoá những kinh nghiệm đó thành của bản thân.
Nói cách khác, người học có chức năng cấu trúc lại, tái tạo lại các kinh
nghiệm xã hội trong hoạt động của bản thân, nhằm phát triển bản thân– chức
năng phát triển.
Để thực hiện chức năng trên, người học phải thực hiện nhiều hành
động học với các mục đích khác nhau. Nếu bỏ qua tính đặc thù của các quá
trình học tập riêng, về đại thể, trong hoạt động học tập của người học có các
hành động học phổ biến:
1. Hành động học định hướng cho việc học. Đây là hành động đầu tiên
và quan trọng trong hệ thống hành động học của người học. Nó giúp người
học có biểu tượng ban đầu về đối tượng cần chiếm lĩnh và cách thức, con
đường chiếm lĩnh đối tượng đó.
2. Hành động tiếp nhận và phân tích đối tượng học. Đây chính là hành
động khởi đầu của chuỗi hành động thực hiện nhiệm vụ học tập. Trong hành
động này, có hai bước: tiếp nhận đối tượng và phân tích đối tượng. Sự tiếp
nhận có thể được thực hiện bằng nhiều con đường: Qua việc trực tiếp hành
động vật chất, thực tiễn trên đối tượng hoặc thông qua các kênh tri giác khác
(nghe, nhìn, ngửi, nếm v.v…). Trong đó con đường hành động vật chất, cảm
tính với đồ vật là nguồn gốc của mọi nhận thức. Trên cơ sở tiếp nhận đối
tượng, bước tiếp theo là phân tích đối tượng, nhằm làm bộc lộ và phát hiện ra
các mối quan hệ bản chất của các phần tử, các đơn vị cấu thành nên đối
tượng đó, phát hiện ra quy luật hình thành và vận động của đối tượng. Trong
học tập, đây là hành động có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, trong dạy học hiện
đại, hành động học đầu tiên mà người học (đặc biệt là học viên nhỏ tuổi) cần
phải được học là học cách hành động thực tiễn trên đối tượng học, tiếp nhận
và phân tích nó.
3. Các hành động mô hình hoá đối tượng học với các vật liệu mới. Thực
chất là hành động cấu tạo lại đối tượng học bằng một vật liệu khác, mà vẫn
đảm bảo bản chất của đối tượng đó. Trong thực tiễn, việc phát biểu lại một
định nghĩa bằng ngôn ngữ của người học, việc tóm tắt vấn đề, mô hình hoá
nội dung tri thức được học bằng sơ đồ, biểu đồ v.v. là những biểu hiện của
hành động mô hình hoá đối tượng học dưới dạng các vật liệu riêng.
4. Hành động phát triển mô hình sang các dạng mới, với các vật liệu
mới. So với hành động mô hình hóa thì hành động phát triển mô hình ở mức
cao hơn, người học không chỉ tái tạo lại đối tượng học dưới dạng vật liệu mới
khác với vật liệu ban đầu của đối tượng học, mà còn phải thay đổi cả hình
thức biểu hiện của đối tượng học. Tức là vừa phải thay đổi vật liệu mới, vừa
phải thay đổi cả hình thức thể hiện của đối tượng học. Trong thực tiễn dạy
học, vận dụng các định lí, các công thức toán học, hình tượng văn học vào
hoàn cảnh cụ thể là các dạng của việc phát triển mô hình (Tất nhiên, việc phát
triển mô hình mang ý nghĩa tổng quát và phong phú hơn).
5. Hành động đối chiếu với vật mẫu của đối tượng học. Thực chất là
hành động kiểm tra mô hình đã có về đối tượng học với vật chuẩn. Bất kì hoạt
động học nào cũng phải được kết thúc bởi một kết quả nhất định. Tuy nhiên,
kết quả đó có phù hợp với mục đích dạy học hay không? Điều này cần phải
có hành động đối chiếu giữa kết quả với vật chuẩn. Vật chuẩn chính là sự cụ
thể hóa mục đích dạy học. Việc xác định vật chuẩn đánh giá là rất quan trọng
và khó khăn. Trước đây, công việc này thường được thực hiện từ phía người
dạy, dẫn đến chuẩn đó là sự áp đặt, chủ quan. Ngày nay, trong nhiều trường
hợp, vật chuẩn được xác định trên cơ sở thỏa thuận và cam kết giữa người
dạy và người học.
Chương 4. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
4.1. KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC4.1.1. Hai hướng tiếp cận vấn đề phương pháp trong triết học
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp: “Metodos”, có
nghĩa là con đường, cách thức vận động của một sự vật, hiện tượng. Vấn đề
phương pháp được đề cập sớm và khá nhiều trong triết học. Trong đó có
hướng tiếp cận của G. Heghen và C. Mác. Cả hai hướng đều rất cần cho việc
lựa chọn và sử dụng phương pháp, phương tiện trong dạy học.
4.1.1.1. Tiếp cận của G. Heghen (1770 – 1831)
Theo G. Heghen, Phương pháp là hình thức vận động của nội dung sự
vật. Mỗi sự vật đều có bản chất của nó và được thể hiện qua hình thức nhất
định. Hình thức không bao giờ tồn tại riêng, tách rời nội dung. Đồng thời nội
dung cũng không tồn tại tách rời hình thức vận động của nó. Mỗi sự vật đều
có phương pháp vận động riêng của mình. Cái búa dùng để đóng đinh và nó
chỉ trở thành dụng cụ đóng đinh khi người ta tiến hành các thao tác vốn có
của nó: Cầm đằng cán và đóng vào đinh đằng búa. Cái thìa chỉ đúng nghĩa là
cái thìa khi nó được cầm đằng chuôi, xúc và đưa thức ăn vào miệng. Khi
dùng để gõ vào nhau, tạo thành âm thanh trong dàn nhạc thì đó không còn là
cái thìa, mà là một nhạc cụ. Trong đời sống của con người cũng vậy, tình yêu
của người mẹ đối với con được biểu hiện qua các cử chỉ yêu thương như
vuốt ve, ôm ấp. Ngược lại, sự không hài lòng phải được thể hiện qua các
phản ứng tức giận. Tương tự, ta đi bộ bằng chân, đi xe đạp bằng cách đạp
xe, đi ôtô bằng cách khởi động và điều khiển xe, còn khi dắt xe, hoặc đẩy ôtô
thì không còn là sự vận động của cái xe đạp hay ô tô nữa.
Vận dụng cách tiếp cận về phương pháp của Heghen vào dạy học, cho
ta phương pháp luận cực kì quý báu. Mỗi nội dung dạy học có một phương
pháp đặc thù, mang lại hiệu quả nhất mà không thể thay thế bằng phương
pháp khác. Vì vậy, không thể nói một cách trừu tượng phương pháp này tốt,
phương pháp kia không tốt, mà cần phải xác định, với nội dung này thì
phương pháp phù hợp với nó là gì. Để hình thành cho người học biểu tượng
chung về các điểm giống nhau của nhiều sự vật khác nhau như các vật hình
tròn, hình tam giác v.v… thì phương pháp tốt hơn cả là cho người học quan
sát nhiều sự vật kết hợp với giảng giải của người dạy. Còn khi hình thành kĩ
năng sử dụng một đồ vật, thì việc cho người học quan sát đồ vật đó là chưa
đủ, mà chủ yếu phải hướng dẫn hành động và luyện tập hành động sử dụng
nó.
Hệ quả từ cách tiếp cận của Heghen: Muốn xác định và sử dụng được
phương pháp dạy học tối ưu, trước hết phải trả lời câu hỏi dạy cái gì? Sau đó
mới đến câu hỏi dạy như thế nào? Cách dạy phải luôn luôn phù hợp với nội
dung dạy học. Sự thay đổi nội dung dẫn đến thay đổi phương pháp dạy học,
hình thành phương thức dạy học mới. Sự khác nhau giữa phương thức dạy
học này với phương thức khác ở cả mục đích, nội dung và phương pháp dạy
học, chứ không đơn giản chỉ là ở chỗ chúng được dạy bằng các phương
pháp khác nhau.
4.1.1.2. Hướng tiếp cận của C. Mác (1818 – 1883)
Cũng vấn đề phương pháp, chúng ta tiếp thu được từ C. Mác theo
hướng khác, khi ông nhận xét: Các thời đại kinh tế khác nhau không phải ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với tư
liệu lao động nào. Theo C. Mác, mọi hoạt động đều có cấu trúc ba thành
phần: chủ thể hoạt động; đối tượng và tư liệu (phương tiện) lao động. Trong
đó phương pháp và phương tiện là thước đo trình độ lao động. Dưới cách
nhìn của C. Mác, phương pháp có tính độc lập tương đối với nội dung sự vật.
Điều này là sự thật hiển nhiên. Cùng là việc sản xuất ra hạt lúa, nhưng nếu
bằng phương pháp tra lỗ hoặc cày đất bằng cày tay với sức kéo của con trâu,
khác với việc sản xuất bằng máy cày với sức kéo của máy. Cũng đi đến điểm
nào đó xa 100km bằng đôi chân sẽ khác với đi bằng xe đạp, xe máy hoặc ôtô.
Cái tạo ra sự khác biệt về trình độ và hiệu quả của việc làm ra hạt thóc hay đi
đến mục tiêu là phương pháp và phương tiện thực hiện.
Cách tiếp cận của C. Mác về phương pháp và phương tiện gợi cho ta
hai bài học cực kì quý báu về phương pháp luận trong dạy học: Thứ nhất: Có
thể tách một cách tương đối giữa nội dung dạy học và phương pháp dạy học,
tức là giữa cái (đối tượng dạy học) và cách (phương pháp triển khai đến đối
tượng – phương pháp dạy học). Thứ hai: Trình độ và hiệu quả của hoạt động
dạy học được quyết định bởi phương pháp và phương tiện dạy học. Rõ ràng
là, cùng mục tiêu hình thành thao tác kĩ thuật cho người học, nếu chỉ bằng
cách truyền kinh nghiệm của người thợ lành nghề cho người học việc theo
phương thức cầm tay chỉ việc thì hiệu quả thấp hơn nhiều so với việc đào tạo
theo phương pháp khoa học có các phương tiện máy móc hiện đại.
Hệ quả từ cách tiếp cận của C. Mác: Có nhiều phương pháp triển khai
một nội dung dạy học, trong đó có một phương pháp tốt nhất. Vì vậy, muốn
đạt hiệu quả cao trong dạy học phải trả lời được câu hỏi: Phương pháp nào là
tối ưu nhất để chuyển tải nội dung dạy học đến người học? Phương tiện nào
là tốt nhất?
4.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học
4.1.2.1. Định nghĩa
Phương pháp dạy học không phải là một thực thể độc lập vì mục đích
tự thân, mà chỉ là hình thức vận động của một hoạt động đặc thù: hoạt động
dạy học. Vì vậy, định nghĩa chung nhất về phương pháp dạy học là những
con đường, cách thức tiến hành hoạt động dạy học.
Trong thực tiễn, dạy học thường được hiểu theo nhiều cấp độ. Cấp độ
rộng nhất, dạy học là hoạt động của một hệ thống nhiều tầng bậc, từ quy mô
quốc gia đến một cấp học, bậc học, ngành học v.v… Cấp độ thứ hai: dạy học
được hiểu là một hoạt động cụ thể, diễn ra theo một quá trình, trong một
không gian, thời gian nhất định và được cấu trúc bởi các yếu tố, mục đích, nội
dung dạy học, các hoạt động dạy – học và kết quả dạy học. Cấp độ thứ ba,
cấp độ nhỏ nhất (đơn vị cơ sở), dạy học được hiểu là hoạt động của người
dạy và người học trong sự tương tác lẫn nhau, nhằm thực hiện nội dung dạy
học đã được xác định. Tương ứng với các cấp độ trên của dạy học, phương
pháp dạy học cũng được hiểu theo ba cấp độ. Cấp độ rộng nhất, phương
pháp dạy học là cách thức triển khai của một hệ thống dạy học đa tầng, đa
diện: cho một bậc học, cấp học, ngành học; phương thức học v.v. Cấp độ thứ
hai, phương pháp dạy học được hiểu là phương pháp triển khai một quá trình
dạy học cụ thể. Tức là cách thức hình thành mục đích dạy học, cách thức
soạn thảo và triển khai nội dung dạy học, cách thức tổ chức hoạt động dạy và
hoạt động học nhằm hiện thực hoá mục đích, nội dung dạy học và cách thức
kiểm tra, đánh giá kết quả của quá trình dạy học. Trong thực tiễn, có thể gọi
phương pháp dạy học ở cấp độ này bằng các thuật ngữ: lí thuyết, mô hình,
phương hướng, chiến lược v.v… lí thuyết dạy học chương trình hoá, lí thuyết
dạy học theo tình huống, chiến lược dạy học từ trừu tượng đến cụ thể, chiến
lược dạy học nêu vấn đề, mô hình dạy học thông báo, mô hình dạy học điều
kiện hoá cổ điển v.v. Cấp độ thứ ba: Phương pháp dạy học được hiểu là cách
thức tiến hành các hoạt động của người dạy và người học nhằm thực hiện
một nội dung dạy học đã được xác định. Ở cấp độ thứ nhất, phương pháp
dạy học mang đậm tính chiến lược, có nhiều yếu tố lí luận, phương pháp
luận. Ở cấp độ thứ ba, phương pháp dạy học mang tính chiến thuật, kĩ thuật.
Trong tài liệu này chủ yếu đề cập đến phương pháp dạy học ở cấp độ
thứ hai và ba, phương pháp dạy học được hiểu là tổng hợp các cách thức
hoạt động của người dạy và người học trong quá trình dạy học, nhằm thực
hiện được nội dung dạy học.
4.1.2 2. Phân biệt phương pháp dạy học với kinh nghiệm dạy học
Trong thực tiễn, yếu tố kinh nghiệm dạy học có ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả dạy và học. Người có kinh nghiệm tốt sẽ có nhiều cơ hội thành
công hơn người ít kinh nghiệm. Vì vậy, nhiều người đồng nhất kinh nghiệm
với phương pháp dạy học. Thậm chí có quan niệm cho rằng, phương pháp
dạy học là thành quả sáng tạo của mỗi giáo viên. Cách hiểu như vậy là không
đúng. Về lí luận, phương pháp dạy học và kinh nghiệm dạy học là hai vấn đề
khác nhau, ở chỗ, kinh nghiệm của người dạy và người học là những tri thức
về cách tiến hành hoạt động dạy hoặc học, được hình thành qua trải nghiệm
của chính cá nhân đó. Vì vậy, tuy những kinh nghiệm này rất sâu sắc và
mang lại hiệu quả cao trong tình huống dạy và học cụ thể của từng cá nhân,
nhưng chúng chỉ là những trải nghiệm cá nhân (ngay cả khi người dạy hoặc
người học thu được kinh nghiệm vận dụng một phương pháp dạy học nào đó
vào trong tình huống cụ thể của mình, thì đó cũng chỉ là những trải nghiệm
của riêng cá nhân). Những trải nghiệm này chưa được thực nghiệm và khái
quát khoa học để trở thành lí luận phổ biến. Vì vậy, kinh nghiệm dạy và học
chỉ có thể trao đổi trao tay giữa người này với người khác gắn liền với những
tình huống dạy học cụ thể. Ngược lại phương pháp dạy học, với tư cách là
phạm trù lí luận, là những tri thức về cách thức dạy học đã được thực nghiệm
và khái quát khoa học, trở thành những nguyên lí phổ biến và có thể chuyển
giao theo một quy trình độc lập, cho nhiều người.
4.1.3. Cấu trúc phương pháp dạy học
Mỗi phương pháp dạy học cụ thể là một cơ cấu nhiều tầng bao gồm
bốn yếu tố có quan hệ nhân quả với nhau: Hướng tiếp cận đối tượng hay
quan điểm về học tập; nội dung lí luận của phương pháp; hệ thống biện pháp
kĩ thuật và các thủ thuật có tính sáng tạo.
4.1.3.1. Hướng tiếp cận đối tượng dạy học
Quan điểm hay hướng tiếp cận đối tượng dạy học là tầng phương pháp
luận của phương pháp dạy học.
Trước khi triển khai một hoạt động dạy học nào đó, cả người dạy và
người học đều phải xác định được hướng tiếp cận trên đối tượng của mình.
Câu hỏi trung tâm ở đây là mục đích của hoạt động dạy học là gì? Dạy học
hướng đến hình thành kĩ năng hành động (hành vi) hay cung cấp tri thức cho
người học, hoặc hướng đến phát triển nhân cách của họ? Rõ ràng là nếu mục
tiêu hướng đến hình thành hành vi của người học thì dạy học phải tuân theo
các nguyên tắc huấn luyện và kiểm soát hành vi của họ. Nếu hướng đến việc
cung cấp tri thức cho người học thì phải tuân theo các nguyên tắc của dạy
học thông báo, liên tưởng. Ngược lại, mục tiêu hướng đến phát triển nhân
cách của người học, thì phải tuân theo các nguyên tắc có tính nhân văn, tôn
trọng, thoả mãn và thúc đẩy nhu cầu phát triển của họ. Quan điểm hay hướng
tiếp cận đối tượng quyết định việc lựa chọn phương pháp dạy học cụ thể và
các phương tiện dạy học phù hợp.
4.1.3.2. Nội dung lí luận của phương pháp
Nội dung lí luận của phương pháp dạy học là yếu tố tạo ra sự khác biệt
về bản chất và mức độ khoa học giữa phương pháp dạy học với kinh nghiệm
cá nhân trong dạy học.
Nội dung lí luận của phương pháp dạy học bao gồm sự mô tả toàn bộ
nội dung của phương pháp dạy học, từ cơ sở lí luận của phương pháp đến hệ
thống các biện pháp tiến hành; từ mục đích, chức năng, tính chất, nguyên tắc,
cách thức triển khai các biện pháp đến những gợi ý có tính linh hoạt khi sử
dụng các biện pháp dạy học, trong những tình huống phổ biến. Nội dung lí
luận của phương pháp cũng đề cập tới những ưu thế và hạn chế của phương
pháp, phạm vi sử dụng có hiệu quả của nó; những yêu cầu về phía người dạy
và người học khi tiến hành phương pháp này; sứ mạng hiện tại và những
triển vọng của phương pháp trong tương lai v.v. Đối với người dạy và người
học, việc hiểu sâu sắc và thấu đáo nội dung lí luận của phương pháp sẽ giúp
họ có cơ sở lí luận vững chắc để triển khai các biện pháp dạy và học trong
thực tiễn.
4.1.3.3. Hệ thống biện pháp kĩ thuật dạy học của phương pháp
Nội dung lí luận của phương pháp dù đầy đủ, sâu sắc và hiện đại đến
đâu cũng mới chỉ là hình thái lí luận của phương pháp, chưa phải là phương
pháp dạy học trong thực tiễn. Điều quyết định sự tồn tại trong hiện thực và
hiệu quả của phương pháp dạy học là hệ thống biện pháp dạy học.
Hiện nay các thuật ngữ giải pháp, phương pháp, biện pháp nhiều khi
không được tường minh và tuỳ thuộc vào quan niệm của người sử dụng.
Trong tài liệu này, chúng tôi quan niệm, trong ba thuật ngữ trên, giải pháp có
nội hàm rộng nhất bao hàm cả nội dung và phương pháp tiến hành. Phương
pháp có nghĩa hẹp hơn giải pháp, nó phản ánh mặt cách thức tiến hành nội
dung. Phương pháp bao gồm cả mục đích triển khai, nội dung lí luận và cơ
cấu kĩ thuật để thực hiện nội dung. Thuật ngữ biện pháp có nội hàm hẹp nhất,
chỉ bao hàm cơ cấu kĩ thuật và quy trình tuyến tính của cơ cấu đó. Biện pháp
không có tính mục đích, chỉ đơn thuần tính kĩ thuật. Biện pháp, một mặt là
đơn vị kĩ thuật của phương pháp, mặt khác, có tính độc lập tương đối so với
các yếu tố khác của phương pháp. Biện pháp được sinh ra và được quyết
định bởi các phương tiện kĩ thuật.
Biện pháp dạy học là hệ thống các cách thức tác động cụ thể của
người dạy và người học vào đối tượng dạy học, qua đó thực hiện được nhiệm
vụ dạy học. Xung quanh vấn đề biện pháp dạy học có mấy điểm cần lưu ý:
Thứ nhất: Biện pháp dạy học là những cách thức tác động thực tiễn của
người dạy và người học lên đối tượng dạy và học. Vì vậy, biện pháp là sự
hiện thực hóa sức mạnh của phương pháp, là cơ cấu kĩ thuật của phương
pháp để thực hiện mục đích dạy học. Nếu không có biện pháp thì phương
pháp trở nên trống rỗng, không có nội dung. Nếu biện pháp tốt, hiệu quả của
phương pháp sẽ cao và ngược lại. Tính chất và cường độ của các biện pháp
dạy học thể hiện tính tích cực của quá trình dạy học.
Thứ hai: Có hệ thống biện pháp của người dạy và biện pháp của người
học. Đối tượng tác động, tính chất và cường độ các biện pháp của người dạy
và ngườì học bị quy định bởi mục đích dạy học, nội dung dạy học, vị thế
người dạy và người học trong mối quan hệ giữa người dạy và người học.
Chẳng hạn, nếu mục đích hướng đến nội dung tri thức khoa học thì các biện
pháp của người dạy chủ yếu tác động vào nội dung tri thức và cách truyền thụ
chúng; nếu mục đích là hình thành các kĩ năng hành động cho người học, thì
biện pháp dạy học phải là giới thiệu và hướng dẫn người học thực hành các
kĩ năng đó.
Thứ ba: Cơ chế triển khai và trình độ các biện pháp quy định trình độ
phương pháp dạy học và hiệu quả dạy học. Đến lượt nó, cơ chế và trình độ
các biện pháp bị quy định bởi công cụ dạy học. Nói cách khác, công cụ dạy
học quy định trình độ dạy học. Các công cụ dạy học rất đa dạng, bạo gồm các
công cụ tâm lí tâm lí và các công cụ kĩ thuật. Công cụ tâm lí là các tri thức,
các khái niệm khoa học, các công cụ nhận thức như trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ
v.v… Trong đó các khái niệm khoa học là công cụ quan trọng nhất. Khái niệm
khoa học trong môn học là thước đo trình độ dạy học. Các công cụ kĩ thuật có
một phổ rất rộng, bao gồm các biểu đồ, các bảng tư liệu, tranh ảnh, bản đồ,
mô hình, máy tính, máy dạy học và các phương tiện kĩ thuật khác.
Không nên hiểu một cách siêu hình các khái niệm khoa học đơn thuần
chỉ là đối tượng, là nội dung dạy học. Ở đây cần luôn luôn ý thức tới sự
chuyển hoá giữa mục đích và phương tiện. Những khái niệm lĩnh hội được
ngày hôm nay sẽ trở thành phương tiện để tiếp thu khái niệm sau. Vì vậy,
trong dạy học, đặc biệt là trong cấu trúc nội dung môn học, phải thường
xuyên quán triệt nguyên lí phổ biến: Nhà trường không dạy những khái niệm
sinh hoạt (tri thức tiền khoa học), chỉ cung cấp cho người học các khái niệm
khoa học hiện đại, cập nhật.
Thứ tư: Các biện pháp dạy (và học) tồn tại vừa theo cấu trúc không
gian vừa theo quy trình tuyến tính. Nói cách khác, hệ thống biện pháp dạy là
cấu trúc đa diện, đa tầng. Trong đó có các tiểu hệ thống biện pháp đảm nhận
chức năng riêng (chẳng hạn các biện pháp tìm hiểu tâm lí người học, các biện
pháp thiết kế tài liệu dạy học v.v) và kết hợp với nhau thành một hệ thống hữu
cơ. Trong mỗi tiểu hệ thống, các biện pháp cụ thể kết hợp với nhau theo lôgic
tuyến tính, tạo thành quy trình chặt chẽ (các bước tìm hiểu học viên; các
bước thiết kế bài dạy v.v). Vì vậy trong thực tiễn dạy học, một mặt phải xác
định được đầy đủ các bình diện thao tác, đồng thời phải thiết lập được quy
trình các thao tác trong từng bình diện đó.
4.1.3.4. Các thủ pháp nghệ thuật dạy học
Hệ thống biện pháp dạy học là cơ cấu kĩ thuật của phương pháp dạy
học. Đó là điều kiện cần để tiến hành hoạt động dạy học có kết quả. Tuy
nhiên, biện pháp kĩ thuật sớm hay muộn cũng dẫn đến máy móc. Vì vậy có
thể chuyển chúng vào trong các phương thức dạy học bằng máy dạy học.
Trong khi đó, hoạt động dạy học khác với phương thức dạy học bằng máy ở
chỗ hoạt động dạy học mang tính người, mà một trong những đặc trưng của
nó là tính sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, một giáo viên giỏi là người không chỉ tổ
chức tốt các biện pháp dạy học mà phải nâng các biện pháp đó lên mức nghệ
thuật dạy học. Ta quy ước gọi đó là các thủ pháp nghệ thuật dạy học.
Sự khác nhau giữa biện pháp kĩ thuật với thủ pháp nghệ thuật là tính
lôgic. Biện pháp kĩ thuật luôn luôn gắn với tiến bộ khoa học và được thực hiện
với quy trình lôgic chặt chẽ. Tính logic tuyến tính nghiêm ngặt là bản chất của
quy trình công nghệ. Trong khi đó thủ pháp nghệ thuật luôn luôn có xu hướng
sáng tạo và vượt ra khỏi khuôn khổ lôgic. Vì vậy các thủ pháp nghệ thuật
thường được triển khai theo quy trình bán lôgic. Nghĩa là các thủ pháp được
dựa trên một lõi kĩ thuật ít ỏi, cần thiết, đủ đảm bảo cho các thủ pháp được
đúng hướng, còn chủ yếu là sự sáng tạo, tự do.
Hoạt động dạy học không phải hoàn toàn là hoạt động khoa học hoặc
hoạt động nghệ thuật. Dạy học mang bản chất khoa học công nghệ và có tính
nghệ thuật. Vì vậy phương pháp dạy học cũng vừa có biện pháp mang bản
chất kĩ thuật và lôgic công nghệ vừa có tính nghệ thuật.
Đây là điều cơ bản làm cho dạy học có bản chất công nghệ – công
nghệ dạy học và luôn luôn tồn tại với tư cách là quy trình công nghệ, nhưng
không bao giờ là quy trình công nghệ hoàn toàn như trong khoa học kĩ thuật
thuần tuý. Mọi ý đồ thiết lập một công nghệ dạy học hoàn toàn như công nghệ
kĩ thuật là một ảo tưởng, sai lầm.
Sự tăng dần mức độ nghệ thuật trong dạy học trên cơ sở chuyển hoá
các biện pháp kĩ thuật thành thủ pháp nghệ thuật dạy học là cơ sở để nâng
dạy học lên trình độ mới với hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu cá biệt hoá trong
dạy học hiện đại. Rất tiếc trong thực tiễn dạy học hiện nay, yếu tố nghệ thuật
của phương pháp dạy học chưa được quan tâm đúng mức so với yếu tố kĩ
thuật. Yếu tố kĩ thuật của phương pháp dạy học, một mặt tạo ra mô hình
chung về công nghệ dạy học (công nghệ hành động học, công nghệ hành vi
v.v…). Những công nghệ này có thể quảng bá, chuyển giao theo công nghệ
trong dạy học. Đây chính là thế mạnh của yếu tố kĩ thuật trong phương pháp
dạy học. Tuy nhiên, mặt trái của nó là làm người dạy và người học bị lệ thuộc
vào một số phương pháp và một số mô hình nhất định. Trong các mô hình đó,
mọi học viên với những cá tính, khả năng và hứng thú học tập riêng đều bị gò
vào một quy trình lôgic chung, phương thức hoạt động chung, tương ứng với
các công nghệ dạy học (các bước, các khâu của các biện pháp kĩ thuật). Tính
khuôn mẫu này có thể làm giảm đặc trưng sáng tạo của các chủ thể dạy học.
Trong dạy học hiện đại, vấn đề tự do cá nhân được đề cao. Do đó nếu một
lớp học có 30 học viên thì giáo viên cần phải có 30 phương pháp làm việc
riêng với từng học viên. Để đáp ứng yêu cầu này, phương pháp dạy học phải
có tính nghệ thuật cao. Ở đây, các nguyên lí khoa học chế định tính kĩ thuật
của phương pháp được ghi trong nội dung môn học và các phương tiện dạy
học, còn trong hoạt động dạy và học chủ yếu diễn ra các thủ pháp có tính
nghệ thuật của người học và người dạy. Nói cách khác, trong dạy học hiện
đại, người ta phải xây dựng các mô hình và công nghệ dạy học cho từng cá
nhân người học. Tức là đề cao tính sáng tạo nghệ thuật trong phương pháp
dạy học.
Có thể tóm tắt cấu trúc của phương pháp dạy học trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 4.1: Cấu trúc của phương pháp dạy học
4.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Để xây dựng và sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học, cần
phải tính đến nhiều yếu tố có quan hệ hữu cơ với nó. Trong đó, cần đặc biệt
lưu ý đến các yếu tố sau:
4.2.1. Quan hệ giữa mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học
Vấn đề đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng và sử
dụng phương pháp dạy học là xác định được mối quan hệ bộ ba: Mục tiêu
Tang Li luan
Tang PPL
PP luan
+ Quan điem tiep can đoi tuong
+ Co so tam li hoc
+ Su phat trien cua tri thuc khoa hoc
Noi dung cu the cua PP
+ Ten PP + Noi dung PP
+ Uu the cua PP + Han che cua PP
+ Pham vi su dung + Yeu cau su dung
Tang bien phap ky thuat
Bien phap ki thuat * Cac bien phap * Quy trinh su dung
Tang nghe thuatThu phap nghe thuat * Thu phap ngon ngu* Thu phap hanh vi
(M) – Nội dung (N) – Phương pháp dạy học (P). Trong quan hệ này, bắt đầu
từ mục tiêu M để xét các yếu tố N và P, sau đó điều chỉnh các yếu tố trong bộ
ba nêu trên.
4.2.1.1. Yếu tố mục tiêu dạy học
Ngày nay mục tiêu của các quá trình dạy học cụ thể thường rất đa
dạng, phong phú. Tuy nhiên, người ta thường chú ý nhiều hơn đến một trong
ba lĩnh vực: Thứ nhất, cung cấp cho người học các tri thức khoa học và
phương pháp nhận thức chúng. Thứ hai: Hình thành và phát triển các kĩ năng
hành động trí óc và thực tiễn. Thứ ba: Khơi dậy, phát triển các nhu cầu tiềm
năng của người học để giúp họ làm chủ đời sống của mình trong hiện tại và
tương lai. Trên cơ sở các mục tiêu được xác định, sẽ hình thành nội dung dạy
học và phương pháp dạy học phù hợp.
Trước đây, quan niệm phổ biến cho rằng quan hệ giữa ba yếu tố M, N,
P là quan hệ tuyến tính. Công thức chung ở đây là M 1 N 1P. Trong quan hệ
tuyến tính, người dạy dựa vào mục tiêu (mục tiêu chung, mục tiêu chuyên
biệt) để cấu trúc nội dung dạy học. Sau đó căn cứ vào nội dung dạy học để
soạn thảo và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp. Trong các trường hợp
nội dung môn học tường minh và ổn định, sơ đồ trên tạo thuận lợi nhất định
cho người dạy và người học trong việc lựa chọn phương pháp dạy học.
Ngày nay, do mục tiêu và nội dung môn học thường xuyên thay đổi, cơ
động và có tính độc lập nhất định. Nhất là yếu tố mục tiêu dạy học. Vì vậy,
việc lựa chọn phương pháp dạy học không chỉ căn cứ trực tiếp vào nội dung
môn học mà còn trực tiếp từ mục tiêu dạy học. Trong trường hợp này ta có
sự tương tác chặt chẽ giữa ba yếu tố.
So với sơ đồ tuyến tính, sơ đồ tương tác nêu trên linh hoạt hơn và ngày
càng có khả năng đáp ứng được nhu cầu dạy học hiện đại theo quan điểm
tích cực.
4.2.1.2. Yếu tố nội dung dạy học
Nội dung dạy học là yếu tố trực tiếp quy định phương pháp dạy học.
Như đã phân tích ở Chương II, nội dung dạy học là bản thể của hoạt
động dạy và học. Nói cách khác, hoạt động dạy và học chỉ diễn ra trên nền
tảng của nội dung dạy học. Mọi phương pháp dạy và học đều phụ thuộc vào
nó. Nguyên lí phổ biến ở đây là: Phương pháp dạy học phải phù hợp với nội
dung dạy học. Điều này được thể hiện ít nhất ở bốn điểm: tính đặc thù của tri
thức khoa học bộ môn; trình độ của các khái niệm khoa học trong các hệ
thống khoa học, cấu trúc môn học và tính chất của bài học.
* Tính đặc thù của tri thức khoa học bộ môn.
Mỗi môn học trong nhà trường phản ánh một lĩnh vực khoa học. Mỗi
lĩnh vực khoa học (toán, vật lí, địa lí, triết học, văn học, đạo đức học v.v…) có
phương pháp nhận thức đặc trưng để hình thành hệ thống tri thức của mình
và cũng có phương pháp đặc trưng để truyền thụ chúng. Chuyển vào trong
dạy học, mỗi môn học có tính đặc thù trong việc lựa chọn và sử dụng các
phương pháp dạy học. Tính đặc thù này được thể hiện trên hai phương diện:
Các phương pháp đặc trưng để truyền thụ tri thức khoa học bộ môn và những
điểm riêng khi vận dụng các phương pháp dạy học dùng cho một nhóm hoặc
cho nhiều môn khoa học. Trong dạy học, việc chỉ ra tính đặc thù của các
phương pháp dạy học từng môn khoa học có ý nghĩa quan trọng, tới mức
hình thành hệ thống phương pháp dạy học bộ môn và được đề cập rất nhiều
trong lí luận dạy học bộ môn. Vì vậy, trong thực tiễn dạy học, bất kì giáo viên
bộ môn nào muốn sử dụng có hiệu quả phương pháp dạy học đều phải giải
quyết được ba vấn đề: Các phương pháp dạy học phổ biến hiện nay? Điểm
đặc thù khi vận dụng các phương pháp đó vào dạy học bộ môn? và phương
pháp dạy học đặc trưng của môn dạy?
* Trình độ của các khái niệm khoa học trong hệ thống khoa học.
Chương 3 đã phân tích, tri thức khoa học của nhân loại có lịch sử hình
thành lâu dài và trải qua các giai đoạn, với các trình độ khác nhau: Từ các
biểu tượng có tính thần thoại 1các phán đoán biện chứng dựa trên quan sát
trực quan các sự vật 1 các khái niệm phân loại siêu hình được hình thành nhờ
phương pháp suy luận hoặc quy nạp của tư duy siêu hình 1 các khái niệm
biện chứng về nội dung và sự vận động của các sự vật 1 tri thức sản xuất ra
sự vật và các tri thức nguyên lí sản xuất ra sự vật (tri thức khoa học công
nghệ). Ngày nay trong kho tàng khoa học của nhân loại tồn tại đan xen nhiều
mức độ tri thức như trên, mỗi trình độ tri thức có phương pháp truyền thụ
riêng. Điều này quy định nội dung và phương pháp dạy học trong nhà trường.
Trước kia, khi các biểu tượng thần thoại chiếm ưu thế thì việc truyền lại cho
thế hệ sau chủ yếu diễn ra bằng con đường kể chuyện. Ở các xã hội cổ xưa
thường có lớp người chuyên làm nghề kể chuyện (hiện ở một số bộ lạc Tây
Nguyên vẫn còn lưu giữ hình thức kể Trường ca). Đó cũng là tiền nhân của
những nhà hùng biện sau này, chuyên diễn thuyết và giảng giải các khái niệm
được hình thành do sự phán đoán hoặc suy luận biện chứng chủ quan, nhờ
dựa trên các quan sát sự vật. Việc truyền thụ loại khái niệm này tất yếu làm
nảy sinh phương pháp diễn thuyết và giảng giải, mà biểu hiện sinh động là
các phép hùng biện. Cũng do cách thức hình thành các khái niệm bằng con
đường suy luận hoặc phán đoán chủ quan, nên phương pháp tốt nhất để làm
nảy sinh chúng là tranh luận. Đây chính là cơ sở và là linh hồn của phương
pháp vấn đáp được dùng phổ biến trong dạy học sau này. Tất nhiên, phương
pháp hùng biện hoặc tranh luận, vấn đáp v.v kích thích người học hơn so với
việc lắng nghe kể chuyện một cách thụ động, người học có nhiều cơ hội hơn
để thể hiện tính chủ động của mình. Tuy nhiên, suy cho cùng các phương
pháp này vẫn có chung một bản chất là hướng đến các tri thức tiên nghiệm từ
phía người thầy, thông qua người thầy và chịu sự chế ước của người thầy.
Cần phải phân biệt thấu đáo các khái niệm: tri thức tư biện, tri thức
khoa học và nguồn gốc của chúng, để từ đó xác định các con đường phù hợp
khi hình thành chúng ở học viên.
Các tri thức tư biện có nguồn gốc từ trong ý thức, trong tư duy của mỗi
cá nhân. Nó được hình thành do hoạt động của các thao tác tinh thần thuần
tuý có tính chất tiên nghiệm. Ngược lại, tri thức khoa học (với tư cách là tri
thức thực nghiệm, khách quan) có nguồn gốc từ đối tượng bên ngoài và được
hình thành do sự tác động của chủ thể tới đối tượng, cấu tạo lại đối tượng,
hoặc cao hơn nữa là sản xuất ra đối tượng. Vì vậy nguyên tắc truyền thụ hai
loại khái niệm này hoàn toàn khác nhau: loại thứ nhất thông qua thuyết trình,
diễn giảng, tranh luận để người học dần hiểu được quan niệm (ý) của người
khác (trong dạy học là ý của giáo viên), còn để nắm được khái niệm khoa học
đích thực thì không có con đường nào khác là phải hành động trực tiếp với
đối tượng. Dạy học hiện đại khác với dạy học truyền thống là ở chỗ, dạy hiện
đại không cung cấp cho người học khái niệm tư biện mà là khái niệm khoa
học. Vì vậy, đối tượng học trong dạy học truyền thống là người thầy còn trong
dạy học hiện đại là sự vật và hiện tượng trong thế giới tự nhiên xã hội mà
người học cần phải chiếm lĩnh và làm ra nó. Phương pháp dạy học truyền
thống là truyền giảng, còn trong dạy học hiện đại là giúp đỡ và tổ chức cho
người học trực tiếp làm việc với đối tượng.
Chuyển từ tri thức suy luận tư biện sang tri thức phân loại siêu hình về
sự vật là một bước tiến trong nhận thức thế giới của nhân loại. Mặc dù, loại
khái niệm này thực chất là các biểu tượng chung của các hình ảnh về các sự
vật cụ thể. Chúng được hình thành bằng cách khái quát những dấu hiệu
chung, giống nhau của các vật khác nhau, tạo thành biểu tượng về một loại
sự vật (khái niệm cái bàn là biểu tượng của các hình ảnh về các cái bàn thực,
tuy trong thực tế không có cái bàn trừu tượng mà chỉ có cái bàn thực với các
đặc tính riêng của chính nó). Với loại khái niệm này, sự hình thành chúng ở
học viên tất yếu phải được bắt đầu từ việc cung cấp cho người học càng
nhiều và càng đa dạng các sự vật hoặc mô hình của chúng càng tốt, với
nguyên lí chung là làm cho vốn hình ảnh cảm tính của người học phong phú
và nhiều vẻ, để từ đó việc khái quát hoá (quy nạp) trở lên thuận lợi và bao
quát được nhiều sự vật riêng. Từ đây xuất hiện các phương pháp và nguyên
tắc dạy học “trực quan”. Nguyên lí chung của việc dạy học này là giáo viên
giới thiệu càng nhiều, càng đa dạng, càng chi tiết các sự vật thì hiệu quả dạy
học càng cao, với mục tiêu sư phạm là giúp người học có nhiều và đa dạng
các hình ảnh về các sự vật cụ thể, để từ đó khái quát chúng được tốt hơn và
bao quát hơn vào trong biểu tượng chung, được gọi là khái niệm khoa học.
Nguyên lí này một thời được coi là vàng ngọc trong lí luận dạy học. Vì đây là
vấn đề rất quan trọng trong dạy học hiện nay, nên sẽ được đề cập kĩ hơn ở
chương 10.
Nguyên tắc trực quan của A.Cômenxki (1592 – 1670) – Nhà sư phạm vĩ
đại người Séc, người đã cực lực phản đối phương pháp dạy học giáo điều chỉ
đơn thuần dùng ngôn ngữ với những lời lẽ khoa trương, sáo rỗng thời đó.
Theo Cômenxki: Giáo dục thanh niên không phải là đem một mớ những từ,
những câu, những ý kiến của các tác giả mà nhồi nhét vào đầu óc họ. mà là
dùng sự vật để giúp họ mở đường hiểu biết; cơ sở của mọi tri thức là ở chỗ
lấy những vật thể mà các giác quan của ta có thể tiếp thu được mà đưa cho
học viên(…). Việc dạy học phải bắt đầu bằng sự vật, hiện tượng. Vì sự vật là
thân thể, lời nói là cái áo… lời nói mà không có sự vật là vỏ không có nhân,
bao không có kiếm, bóng không có hình, thân không có hồn..” (Phép giảng
dạy vĩ đại trích theo Phạm Khắc Chương: Cômenxki ông tổ của nền sư phạm
cận đại. NXB Giáo dục 1997)
Theo dòng phát triển của khoa học, hiểu biết của con người chuyển từ
tri thức phân loại siêu hình về sự vật lên mức tri thức biện chứng về sự vận
động và phát triển của chúng (khái niệm khoa học có nội dung đối tượng). Để
hình thành được loại khái niệm khoa học này, người học phải tiến hành hàng
loạt thao tác phân tích trên đối tượng và cấu trúc lại chúng theo các mô hình
khác nhau, từ đó xác lập các dấu hiệu bản chất và sự vận động của chúng,
tức là phải tiến hành thực nghiệm khoa học. Nói khác đi, người học phải trực
tiếp tiếp xúc và làm ra đối tượng học, còn người dạy chỉ có chức năng như bà
đỡ, hướng đạo và tạo thuận lợi cho người học trong quá trình tác động đến
đối tượng học. Như vậy, trong dạy học hiện đại thường xuyên diễn ra các mối
tương tác đan xen vào nhau: tương tác giữa người học với đối tượng đích
thực của việc học, tương tác giữa người dạy với người học và tương tác giữa
người dạy với đối tượng học của người học. Mối tương tác này không phải
làm biến dạng bản chất của đối tượng học, mà làm xuất hiện hoặc tăng
cường logic sư phạm trong đối tượng đó. Có thể tóm tắt tri thức khoa học và
phương pháp truyền thụ chúng trong sơ đồ sau (Sơ đồ 4).
Toàn bộ phân tích trên cho thấy, ứng với mỗi loại tri thức có phương
pháp dạy học đặc trưng, phù hợp với chúng: Biểu tượng thần thoại: phương
pháp kể chuyện; phán đoán biện chứng trực quan: Phương pháp thuyết trình,
trao đổi; tri thức phân loại siêu hình về sự vật: Trình bày, giới thiệu – trực
quan; khái niệm biện chứng về sự vật: Thực nghiệm, tương tác với sự vật; Tri
thức làm ra sự vật: Chế tác ra đối tượng học. Trong thực tiễn dạy học hiện
nay NDDH thường đan xen nhiều loại tri thức, vì vậy cần sử dụng nhiều loại
phương pháp dạy học tương ứng với từng loại tri thức đó. Tuy nhiên, xu thế
các tri thức hình thành sự vật và nguyên tắc sản xuất ra sự vật ngày càng
chiếm ưu thế. Vì vậy, phương pháp tổ chức cho học viên hành động trên đối
tượng học, chế tác ra nó phải trở thành phương pháp chủ yếu trong nhà
trường hiện đại.
PP nhận thức Tri thức PP truyền thụ
Suy diễn trực quan Biểu tượng thần
thoại
Giảng giải (kể
chuyện)
Suy luận và phán
đoán biện chứng trực
quan
Phán đoán biện
chứng trực quan
Giảng giải - tranh
luận - trao đổi
Quy nạp hoặc suy
diễn siêu hình
Trí thức phân loại
siêu hình về sự vật
Giới thiệu - trao đổi
- thực hành
Tổng hợp biện chứng Tri thức biện chứng
về sự vậtThực nghiệm - trao
đổi - vấn đáp - thực
hành
Thực nghiệm hình
thành sự vật và
nguyên tắc tạo ra SV
Tri thức công nghệ
tạo ra sự vật,
nguyên tắc, nguyên
lí
Hành động làm ra
sự vật
Sơ đồ 4. Tóm tắt các loại tri thức khoa học và phương pháp nhận thức
* Cấu trúc môn học.
Các tri thức khoa học khác nhau về tính chất (tri thức toán học, vật lí
học, văn học, triết học v.v…). Trong mỗi loại tri thức khoa học đó có các mức
độ khác nhau, các hệ thống khái niệm cốt lõi khác nhau v.v… Tuy nhiên, tất
cả các tri thức khoa học có điểm chung: đều có thể được biểu hiện bằng bốn
hình thức: qua hành động thực; qua các mô hình, các sơ đồ, qua các hệ
thống ký hiệu, ngôn ngữ (các mệnh đề, định lí, công thức v.v.) và qua ý nghĩ
của con người. Trong dạy học, tương ứng với các hình thức biểu hiện trên
của tri thức khoa học, người học phải tiến hành bốn loại hành động học: hành
động phân tích trên vật thật hoặc trên hành động thực; hành động mô hình
hoá; hành động kí hiệu và hành động ý nghĩ. Vì vậy, người học sử dụng nhiều
hay ít một loại hành động học tập nào đó, tuỳ thuộc vào hình thức biểu hiện
của tri thức cần tiếp nhận.
Cấu trúc môn học (Chương 3) thực chất là việc lựa chọn hệ thống tri
thức của một lĩnh vực khoa học và cấu trúc lại chúng theo các hình thức biểu
hiện khác nhau, sao cho phù hợp trình độ, tính chất và hoàn cảnh của người
tiếp nhận chúng (người học). Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào nhà sư phạm
trong quá trình cấu trúc môn học.
* Tính chất của bài học.
Mỗi bài học cụ thể là một đơn vị xác định, thực hiện một chức năng của
hệ thống nội dung học tập. Trong thực tiễn, nội dung của từng bài học thường
nhấn mạnh một hoặc một vài trong các hướng sau: a) Chủ yếu cung cấp cho
người học hệ thống kiến thức khoa học và kiến thức về phương pháp tiếp cận
các kiến thức đó; b) Chủ yếu hình thành và phát triển các kĩ năng hành động
thực tiễn, các ứng xử xã hội và hành động trí óc cho người học; c). Chủ yếu
phát triển toàn diện nhân cách của người học. Tương ứng với các nội dung
học tập trên sẽ có các phương pháp dạy học phù hợp. Đơn giản là nếu nội
dung bài dạy chủ yếu cung cấp tri thức khoa học thì các phương pháp dạy
học chủ yếu thuộc nhóm phương pháp nhận thức; nếu chủ yếu hình thành kĩ
năng hành động (thực tiễn và trí óc) thì các phương pháp chủ yếu phải là
thực hành, luyện tập, còn nếu bài học chủ yếu nhằm phát triển toàn diện nhân
cách người học thì các phương pháp đặc thù là động viên kích thích và
hướng dẫn người học tích cực làm việc với đối tượng học của mình.
4.2.2. Quan hệ giữa đối tượng học tập, người dạy và người học trong học tập
Việc soạn thảo và sử dụng phương pháp dạy học không chỉ phụ thuộc
vào cấu trúc của mục đích và nội dung dạy học, mà còn phụ thuộc nhiều vào
mối quan hệ giữa bộ ba: người dạy, người học và đối tượng dạy học. Việc
xác định được mối quan hệ này rất có ý nghĩa đối với dạy học tích cực. Trong
dạy học sự phát triển của ba yếu tố này theo một trục với các mức độ khác
nhau:
* Trục người dạy (kí hiệu T) có bốn mức:
– T1: Giáo viên là trung tâm, có quyền lực tuyệt đối, có chức năng thông
báo, áp đặt kiến thức đến người học, chi phối tuyệt đối toàn bộ các quan hệ
dạy học. Ở mức này, T1 là quyền lực – tri thức.
– T2: Giáo viên vẫn giữ vị trí trung tâm, truyền đạt kiến thức như ở T1,
nhưng có chú ý đến việc phát huy vai trò và tính tích cực của người học. T2:
Giáo viên là người truyền đạt kiến thức.
– T3: Giáo viên là người đạo diễn, trọng tài – cố vấn, tổ chức cho chủ
thể học viên hành động tự tìm ra kiến thức, chân lí. T3: Thầy cố vấn– trọng tài.
– T4: Giáo viên là tác nhân cho cộng đồng các chủ thể (người học) tiến
hành tự học và chịu trách nhiệm về toàn bộ các quan hệ trong dạy học. T4:
Thầy tác nhân.
* Trục khách thể (nội dung học tập – kí hiệu K), có bốn mức:
– K1: Được làm sẵn, người học chỉ cần lặp lại hoặc nhắc lại y hệt. K1:
khách thể lặp lại.
– K2: Học viên sưu tầm lại, diễn đạt lại ý nghĩ sẵn có sau một thời gian
lao động có tính chất cá nhân, để phát hiện lại và tái hiện lại. K2: Khách thể tái
hiện.
- K3: Lao động cá nhân tăng dần theo hướng người học tự tìm ra kiến
thức, chân lí với sự hợp tác của các bạn và giáo viên. K3: Khách thể tự tạo.
- K4: Học viên có thể sáng tạo tuyệt đối ra đối tượng mong muốn hoặc
tạo ra phương pháp thích hợp để đi đến đối tượng. K4: Khách thể sáng tạo.
* Trục chủ thể (người học – kí hiệu C), có bốn mức:
– C1: Người học là đối tượng thụ động, công nhận, học thuộc và đọc lại
cho thầy nghe những gì đã được thầy thông báo. C1: Chủ thể lu mờ.
- C2: chủ thể thụ động tiếp thu tri thức do thầy truyền đạt. Tuy có được
rèn luyện phát triển trí nhớ, óc quan sát và tư duy, song chủ yếu là tư duy tái
tạo – hình thức. C2: Chủ thể thụ động.
– C3: Người học là trung tâm, chủ thể, được định hướng để tự mình tìm
ra kiến thức, chân lí bằng hành động của chính mình. C3: Chủ thể chủ động.
- C4: Người học thực sự là trung tâm, chủ thể hầu như hoàn toàn tự do
lựa chọn mục tiêu, phương pháp học tập, tự học, tự giáo dục.
Sự kết hợp của ba yếu tố theo các mức độ tương tác giữa chúng cho ta
bốn kiểu phương pháp dạy học:
P1 (T1, C1, K1): Phương pháp giáo điều.
P2 (T2, C2, K2): Phương pháp cổ truyền.
P3 (T3, C3, K3): Phương pháp tích cực.
P4 (T4, C4, K4): Phương pháp tự học.
Có thể mô tả tương tác các yếu tố nêu trên trong sơ đồ sau:
Trên đây là một số yếu tố bên trong của hoạt động dạy học chi phối
việc soạn thảo và sử dụng phương pháp dạy học. Tất nhiên việc soạn thảo,
đặc biệt là sử dụng phương pháp dạy học không chỉ phụ thuộc vào những
yếu tố đó, mà còn nhiều yếu tố khác như năng lực và phong cách dạy học
của giáo viên v.v… Ngoài ra chúng còn bị chi phối nhiều bởi các yếu tố bên
ngoài, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động dạy học như môi trường kinh
tế – văn hoá – xã hội và khoa học; các điều kiện vật chất, thiết bị phục vụ cho
việc dạy và học v. v… Những yếu tố này nhất thiết phải được tính đến trong
quá trình soạn thảo và sử dụng phương pháp dạy học của giáo viên.
4.3. PHÂN LOẠI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC4.3.1. Vấn đề phân loại phương pháp dạy học
4.3.1.1. Ví dụ về các phương pháp dạy học
Trước khi phân tích những vấn đề lí luận về phân loại phương pháp
dạy học, thử quan sát các ví dụ sau đây:
Bài toán: Cách tìm chiều dài của một hình chữ nhật khi đã biết diện
tích của hình chữ nhật đó và số đo của một cạnh?
Phương pháp 1: Giáo viên nói với cả lớp: Chúng ta đã biết rằng để tính
diện tích hình chữ nhật (viết chữ S lên bảng) khi ta biết chiều dài của hai cạnh
a và b với cùng đơn vị đo lường (viết bên cạnh chữ S hai chữ a,b), ta chỉ việc
nhân a với b (viết dấu = giữa S với a và dấu x giữa a với b. S = a x b). Nếu
bây giờ chúng ta biết được diện tích S và một cạnh a, được đo với cùng số đo
(gạch chân S và a), thì để tìm b, ta chỉ việc chia S cho a.
Ví dụ như S = 36 cm2 và a = 4 cm
ta sẽ có b = 36/4 = 9cm.
Ta hãy viết công thức: tính cạnh b của hình chữ nhật, khi biết diện tích
S của nó và một cạnh a. b = S/a, thế là xong có phải không? Ta hãy chuyển
sang làm bài tập (hoặc vấn đề khác).
Phương pháp 2: Giáo viên vẽ lên bảng một hình chữ nhật chính xác và
chỉ cho học viên biết diện tích và chiều dài của một cạnh:
Diện tích của hình chữ nhật S = 36 cm2
số đo của a = 4cm.
sau đó, GV đặt một dãy câu hỏi gợi mở cho học sinh trả lời. Chẳng
hạn:
GV: Diện tích của hình chữ nhật đã vẽ là bao nhiêu?
HS: 36cm2
GV: Số đo của cạnh a là bao nhiêu?
HS: 4 cm.
GV: dọc theo cạnh a của hình chữ nhật, người ta có thể đặt cạnh nhau
bao nhiêu hình vuông nhỏ có diện tích 1cm2?
HS: 4 hình vuông (GV đặt, dán, dọc theo cạnh a một băng giấy đã làm
sẵn có cạnh 1cm).
GV: Những hình vuông được xếp dọc theo cạnh a của hình chữ nhật
đã tạo thành cái gì?
HS: Thành một hình chữ nhật (một dải, một cột v.v.).
GV: Diện tích của hình chữ nhật đó là bao nhiêu?
HS: 4cm2
GV: Nếu tôi đặt một hình chữ nhật khác cạnh hình chữ nhật đã có thì
diện tích của hình chữ nhật mới thêm đó là bao nhiêu?
HS: 4cm2
GV: Chiều rộng của mỗi hình chữ nhật đó là bao nhiêu
HS: 1cm.
GV: Nếu tôi muốn phủ hết cả hình chữ nhật đã có bằng các hình chữ
nhật nhỏ có diện tích 4cm2, giống hệt với hình chữ nhật đã có mà không phủ
lên nhau thì phải cần bao nhiêu hình?
HS: Phải có 9 hình
GV: Vậy ai có thể cho biết chiều dài của hình chữ nhật lớn sẽ là bao
nhiêu?
HS: 9cm.
GV: Bạn có thể cho biết cách tìm ra số ấy?
HS: Bằng cách chia diện tích của hình chữ nhật lớn cho 40 (36: 4 = 9).
GV: Ai có thể nêu công thức chung của việc tìm một cạnh của hình chữ
nhật (cạnh b) khi biết diện tích của nó và một cạnh bên (a)
HS: b = S/a.
Phương pháp 3: Giáo viên cho mỗi học sinh (tất cả học sinh đều chưa
có dụng cụ học tập nào) một hộp có 36 hình vuông bằng các tông có cạnh
1cm và nói trước lớp:
Các bạn đều có các hình vuông, mỗi cạnh 1 cm. Các bạn cần tạo thành
hình chữ nhật trên bàn bằng cách đặt các hình đã có cạnh nhau, sao cho một
cạnh của hình chữ nhật ấy đo được 4 cm. Khi đã làm xong, từng bạn hãy cho
biết chiều dài của hình chữ nhật là bao nhiêu?
… Học viên bắt tay vào làm theo yêu cầu của GV, sau một lúc mò mẫm
đã có kết quả.
Khi mọi học sinh đã làm xong, GV hỏi HS đã làm thế nào và biết được
cách làm của các em. GV nói tiếp:
“Bây giờ các bạn thử xếp tất cả các hình chữ nhật có thể xếp được
bằng cách đặt những hình vuông cạnh nhau và cứ mỗi lần xếp xong một chữ
nhật thì bạn lại tính chiều dài của từng cạnh của nó”
Học viên xếp các hình và ghi lại kết quả các hình chữ nhật có thể có (1
x 36; 2 x 18; 3 x 12; 4 x 9; 9 x 4; 12 x 3; 18 x 2; 36 x 1). Từ các hình đã xếp
được ở trên, GV hỏi HS có thể rút ra được quy luật hay công thức tính số đo
một cạnh của hình chữ nhật khi ta biết diện tích và số đo của một cạnh khác.
Nếu cần, GV lại giúp các em làm sáng tỏ bước thứ hai này.
Trên đây, ta thấy cùng một bài toán: Giúp người học cách tìm chiều dài
của một hình chữ nhật khi đã biết diện tích của nó và số đo của một cạnh,
nhưng giáo viên có thể sử dụng ít nhất ba phương pháp: phương pháp giảng
giải; Phương pháp vấn đáp và Phương pháp tổ chức cho học viên hoạt động.
Các phương pháp trên rõ ràng là đã mang lại kết quả dạy học khác nhau, cả
về phía người dạy và người học. Vì vậy, muốn sử dụng phương pháp nào đó
trong dạy học cần hiểu việc phân loại chúng trong lí luận dạy học.
4.3.1.2. Phân loại phương pháp dạy học
Phân loại phương pháp dạy học là dựa trên cơ sở xác định mục đích,
chức năng, nội dung thực hiện các biện pháp tác động đến đối tượng dạy và
học để định danh cho nó. Sau đó, quy các phương pháp gần nhau vào một
nhóm phương pháp, dựa trên các tiêu chí nhất định. Nói cách khác, phân loại
phương pháp dạy học là việc định danh một phương pháp và phân nhóm các
phương pháp hiện có. Giá trị của việc phân loại phương pháp dạy học ở chỗ:
một mặt giúp người dạy và người học hiểu biết về phương pháp dạy học, mặt
khác định danh và lựa chọn được nó trong hệ thống phương pháp hiện có.
Ngoài ra, việc phân loại phương pháp dạy học còn phản ánh yêu cầu của xã
hội và xu thế phát triển của dạy học. Trong thực tế, việc sử dụng các thuật
ngữ dạy học thụ động, dạy học tích cực, dạy học hướng vào người học v.v…
để phân loại các nhóm phương pháp dạy học đã phản ánh xu thế phát triển
của dạy học. Ở đây có một điều lí thú, mặc dù việc phân loại các phương
pháp dạy học còn nhiều tranh luận, nhưng những vấn đề lớn – quyết định
chiều hướng phát triển của dạy học như bản chất của dạy học hiện đại, dạy
học phải hướng đến sự phát triển cá nhân người học v.v… lại thường nhận
được sự đồng thuận cao của các nhà hoạch định chiến lược phát triển dạy
học và giáo dục cũng như của các giáo viên trực tiếp giảng dạy. Việc phân
loại phương pháp dạy học cho thấy yêu cầu tất yếu của việc phát hiện và tìm
tòi những phương pháp, phương tiện dạy học mới nhằm đáp ứng xu thế phát
triển của dạy học hiện đại.
Như vậy, việc phân loại phương pháp dạy học có giá trị lí luận rất lớn.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các ít phương pháp trong
thực tiễn, cần lưu ý những điểm sau đây:
Thứ nhất: Điều kiện tiên quyết để phân loại phương pháp dạy học là
xác định tiêu chí phân loại. Vì vậy, khi phân tích và vận dụng hệ thống
phương pháp dạy học của mỗi tác giả cần phải bắt đầu từ các tiêu chí đó. Tuy
nhiên, đây là vấn đề phức tạp, vì các nhà nghiên cứu thường có góc nhìn
khác nhau về cơ sở xuất phát. Do đó hiện tại có nhiều hệ thống phân loại
phương pháp khác nhau. Việc phân loại, đặc biệt là việc phân nhóm các
phương pháp dạy học là câu chuyện không có hồi kết và khó có thể đạt đến
sự thống nhất giữa các nhà lí luận dạy học. Đơn giản vì đó là vấn đề có tính
quy ước. Vì vậy không nên tuyệt đối hoá cách phân loại nào.
Xin dẫn ra một số quan điểm tiếp cận khi phân loại phương pháp: theo
nguồn kiến thức và đặc điểm tri giác thông tin (S.I.Petrovski. E.Ia.Golan); theo
nhiệm vụ cơ bản của lí luận dạy học (M.A.Danilov, B.P.Esipov); theo đặc điểm
nhận thức của học viên (I.Ia.Lecne) v.v
Thứ hai: Việc phân loại các nhóm phương pháp là con dao hai lưỡi.
Một mặt giúp cho người dạy và người học định danh và dễ dàng hơn khi đi
tìm địa chỉ một phương pháp dạy học cụ thể. Nhưng mặt khác (mặt trái của
việc phân loại), do việc quy gán theo quan điểm của người phân loại, nên
người dùng rất dễ bị hiểu lầm về chức năng và giá trị sử dụng của các
phương pháp dạy học cụ thể. Ở đây cần lưu ý: tự bản thân phương pháp
không phải là tích cực hay thụ động; không phải phương pháp này hướng vào
người học còn phương pháp khác hướng vào người dạy v.v, mà tích cực hay
thụ động, hướng vào người dạy hay vào người học hoàn toàn tùy thuộc vào
mục đích và cách sử dụng nó.
Chẳng hạn, trong các phương pháp được đưa ra làm ví dụ nêu trên, do
ta quy phương pháp giảng giải vào nhóm phương pháp dạy học dùng lời nên
nhiều người vẫn cho rằng phương pháp giảng giải là phương pháp thụ động.
Đó là một nhận định trừu tượng, thậm chí cực đoan. Muốn biết phương pháp
này là thụ động hay tích cực, trước hết phải biết chức năng gốc của nó là gì
và người dùng có sử dụng đúng chức năng của nó phục vụ mục đích của
mình hay không? Nếu dùng đúng chức năng của nó thì phương pháp đó sẽ
trở thành phương pháp tích cực (trong tình huống dạy học cụ thể đó), còn
nếu không đúng chức năng nó sẽ là thụ động. Nếu mục đích của người dạy
là, trong khoảng thời gian tối thiểu, cung cấp lượng thông tin tối đa cho người
học thì phương pháp giảng giải là tích cực. Nhưng với mục đích hình thành
các kĩ năng tư duy độc lập, sáng tạo cho người học thì hiển nhiên phương
pháp này là thụ động. Ngược lại, nếu hướng đến việc cung cấp thông tin tối
đa cho người học để tăng cường kiến thức cho họ thì phương pháp dạy học
giải quyết vấn đề sẽ trở thành thụ động, trong khi nó là một trong những
phương pháp tích cực để phát triển kĩ năng tư duy độc lập của người học.
Thứ ba: Vì phương pháp dạy học không phải là phạm trù mục đích, mà
là phạm trù phương tiện. Do vậy, yêu cầu của việc phân loại phương pháp
dạy học cũng giống việc phân loại các phương tiện của người thợ mộc. Ở đây
không thể dừng lại ở mức hiểu một cách trừu tượng cưa tốt hơn đục hay
ngược lại. Mà phải hiểu ở mức rất cụ thể: nếu để cưa gỗ thì dùng cưa tốt hơn
dùng đục, còn để đục một lỗ mộng thì chắc hẳn dùng đục tốt hơn dùng cưa.
Trong lí luận dạy học cũng vậy, nhà nghiên cứu và giáo viên không thể đưa ra
nhận định tiên quyết, cứng nhắc: phương pháp này tốt hơn phương pháp kia,
mà phải chỉ rõ phương pháp đó là gì? chức năng gốc (cơ bản) của nó? cách
dùng nó? Phạm vi và giới hạn tối ưu của nó v.v. Còn việc sử dụng chúng như
thế nào cho có lợi nhất trong thực tiễn hoàn toàn là do mục đích và khả năng
sử dụng của người dạy và người học. Điều này cũng giống người thợ mộc
dùng các phương tiện vào công việc của mình.
Thứ tư: Trong thực tiễn, không có phương pháp nào tồn tại độc lập.
Trong một quá trình dạy học cụ thể, tuỳ theo mục đích và nội dung dạy học,
các phương pháp dạy học được sử dụng phối hợp với nhau thành hệ thống
theo chức năng của mỗi phương pháp, nhằm tăng cường mặt mạnh và giảm
thiểu hạn chế của nó. Đây là hệ thống cơ động, trong đó tại một thời điểm,
ứng với một nội dung dạy học xác định, có một phương pháp giữ vai trò chủ
yếu, còn các phương pháp khác hỗ trợ. Khi chuyển nội dung dạy học sẽ dẫn
đến chuyển vai trò của các phương pháp trong hệ thống đó. Vì vậy, việc sử
dụng đơn điệu một phương pháp dạy học, dù đó là phương pháp tốt nhất,
cũng mang lại hiệu quả không cao. Điều này giống người thợ mộc, để tạo ra
một sản phẩm (cái tủ, cái giường), không chỉ dùng một mà phải phối hợp
nhiều công cụ.
Thứ năm: Trong thực tiễn dạy học, không chỉ đảm bảo tính hệ thống
của phương pháp dạy học, mà còn phải nâng lên mức hệ thống phương pháp
dạy học hiện đại. Tức là phải đáp ứng được yêu cầu và xu thế phát triển của
mục đích và nội dung dạy học; phải khai thác được tối đa sự phát triển của
các phương tiện khoa học kĩ thuật vào trong dạy học, đặc biệt là công nghệ
điện tử và thông tin. Mặt khác, cũng không chỉ dừng lại ở mức các biện pháp
kĩ thuật, mà phải nâng lên mức thủ pháp nghệ thuật dạy học của phương
pháp.
4.3.2. Các hệ thống phương pháp dạy học
Hiện nay có rất nhiều cách phân loại phương pháp dạy học. Dưới đây
là một số trong rất nhiều hệ thống phân loại hiện có trong lí luận dạy học.
4.3.2.1. Hệ thống phương pháp dạy học của Iu. K. Babanxki
Iu. K. Babanxki là nhà lí luận dạy học Liên Xô (trước đây). Ông xuất
phát từ quan điểm dạy học là sự điều khiển hoạt động nhận thức của người
học. Theo đó học tập gồm ba mặt: động cơ học tập; tổ chức nhận thức và
kiểm tra nhận thức. Vì vậy, có thể chia phương pháp dạy học thành ba nhóm:
+ Nhóm các phương pháp kích thích và xây dưng động cơ học tập, bao
gồm các phương pháp kích thích hứng thú học tập của người học; phương
pháp kích thích nhiệm vụ và tinh thần trách nhiệm của người học.
+ Nhóm phương pháp tổ chức và thực hiện hoạt động học tập. Trong
nhóm này có các nhóm nhỏ hơn: Các phương pháp theo nguồn kiến thức và
tri giác thông tin: Các phương pháp dùng lời (kể chuyện, diễn giảng, thuyết
trình), trực quan (minh họa, biểu diễn), thực hành (thí nghiệm, luyện tập v.v).
Nhóm phương pháp theo lôgic truyền thụ và tri giác thông tin: phương pháp
quy nạp và phương pháp suy diễn. Nhóm phương pháp theo mức độ tư duy
độc lập và tích cực của học viên: các phương pháp tái hiện (Dạy bắt chước
theo mẫu, phương pháp algorit, phương pháp chương trình hóa) và các
phương pháp sáng tạo (dạy học nêu vấn đề, phương pháp tìm tòi ơrixtic v.v).
Các phương pháp theo mức độ điều khiển hoạt động học tập (Điều khiển của
thầy, học tập độc lập, làm việc với sách v.v).
+ Nhóm phương pháp kiểm tra, bao gồm các phương pháp kiểm tra
miệng và tự kiểm tra; các phương pháp kiểm tra viết; các phương pháp kiểm
tra thực hành.
4.3.2.2. Hệ thống phương pháp dạy học của I. Ia. Lecne
I. Ia. Lecne là nhà lí luận dạy học Liên Xô (trước đây). Ông cho rằng có
thể chia các phương pháp dạy học thành năm nhóm:
+ Nhóm phương pháp thông báo – thu nhận (phương pháp giải thích–
minh hoạ).
+ Nhóm phương pháp tái tạo (hay tái hiện).
+ Phương pháp trình bày có tính vấn đề (phương pháp trình bày nêu
vấn đề).
+ Phương pháp tìm tòi từng phần (phương pháp tìm tòi ơrixtic)
+ Phương pháp nghiên cứu (phương pháp tìm tòi toàn phần).
4.3.2.3. Các phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực
Trong chiều hướng phát triển của lí luận dạy học, mấy thập niên gần
đây nổi lên xu hướng phân loại phương pháp dạy học dựa trên mức độ tác
động của phương pháp tới sự phát triển của người học. Nói khái quát là xu
hướng tích cực hóa trong dạy học. Theo hướng này, các phương pháp dạy
học thường được chia thành ba nhóm: các phương pháp hướng vào người
dạy; Các phương pháp tích cực và các phương pháp hướng vào người học.
Nhiều nhà sư phạm, nhất là các học giả phương Tây thường cho rằng:
dạy học được tiến triển qua ba thời kì: dạy học hướng vào người người dạy 1
dạy học tích cực 1 dạy học hướng vào người học. Dạy học hướng vào người
dạy, hay còn gọi với các tên khác: dạy học thụ động, dạy học truyền thống, là
dạy học xuất phát từ lợi ích của người lớn (của người dạy), dựa trên hiểu biết
của người dạy về nội dung dạy học. Người dạy quyết định sự tồn tại của quá
trình dạy học. Các hoạt động dạy của người dạy chủ yếu tập trung vào việc
truyền thụ nội dung dạy học theo kênh truyền giảng của người dạy. Còn các
yếu tố thuộc về người học (động cơ, nhu cầu của người học, đặc điểm tâm lí,
trình độ hiểu biết của người học, tính tích cực tương tác của người học vào
quá trình dạy học, sự phát triển của người học v.v) thường ít được tôn trọng
trong dạy học. Vì vậy các phương pháp dạy học thường có tính thông báo
một chiều, áp đặt từ phía người dạy đến người học. Dạy học tích cực được
coi là bước chuyển tiếp giữa dạy học hướng vào người dạy lên dạy học
hướng vào người học. Trong đó, dạy học vẫn chủ yếu phục vụ lợi ích của
người lớn và người dạy vẫn giữ vai trò chủ động, điều khiển trực tiếp người
học. Tuy nhiên, về phương pháp dạy học, các yếu tố kĩ thuật đã được thiết kế
dựa trên đặc điểm tâm lí của người học và đã chú trọng khai thác và phát huy
vai trò chủ thể, tính tích cực tham gia của người học vào quá trình tương tác
giữa người dạy và người học. Đồng thời làm tăng tính cá thể hoá quá trình
dạy học. Dạy học hướng vào người học là bước tiến trong dạy học của xã
hội. Điểm nổi bật của mức dạy học này trước hết là dạy học vì sự phát triển
của người học, tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu của người học, hướng đến sự
phát triển mọi tiềm năng và sự sáng tạo của người học. Đồng thời khai thác
và phát huy vai trò chủ thể và tính tích cực, chủ động của người học trong
quan hệ tương tác với người dạy. Trong dạy học hướng vào người học,
người học giữ vai trò chủ động việc học của mình, còn người dạy có chức
năng trợ giúp, với các mức độ khác nhau trong những tình huống cụ thể.
Tính tích cực (và dạy học hướng vào người học) có hai cấp độ: cấp độ
xã hội và cấp độ cá nhân. Ở cấp độ xã hội, tính tích cực trong dạy học được
thể hiện qua mức độ đáp ứng các yêu cầu về sự phát triển của xã hội và sự
phát triển nhân cách người học, phù hợp với các chuẩn mực, quy định chung.
Mức độ đáp ứng càng cao, dạy học càng tích cực và ngược lại. Cấp độ tích
cực cá nhân thể hiện qua mức độ đáp ứng nhu cầu cá nhân của người học,
qua đó phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Trong
dạy học cần kết hợp cả hai cấp độ tích cực nêu trên. Nếu chỉ tính đến cấp độ
cá nhân sẽ dẫn đến xu hướng học tập tự do, thoả mãn và thúc đẩy những
nhu cầu trước mắt, thiển cận của người học. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm tới
cấp độ tích cực xã hội (bỏ qua cấp độ cá nhân) sẽ dẫn đến xu thế dạy học áp
đặt, cưỡng bức, nhồi nhét, xuất hiện nguy cơ làm thui chột, tàn lụi nhu cầu,
tính tích cực và cá tính người học. Nếu quan niệm như vậy thì dạy học tích
cực và hướng vào người học không phải là phương pháp dạy học cụ thể, mà
nó chỉ là quan điểm chỉ đạo việc lựa chọn và thiết kế nội dung, sử dụng các
phương pháp dạy học cụ thể. Trong thực tế, không có phương pháp dạy học
nào có tên là phương pháp tích cực hay không tích cực. Dạy học tích cực,
bao hàm các hoạt động của người học, qua đó người học đạt được mục tiêu
dạy học bằng cách khám phá ra nó. Tuỳ theo đặc trưng chủ thể (người học)
mà phương pháp này yêu cầu các mức độ tham gia của chủ thể vào việc xây
dựng kiến thức, phát huy sáng kiến, sáng tạo của người học, thay vì phải thụ
động tiếp thu chúng từ người dạy hay sách giáo khoa. Bản chất của các
phương pháp tích cực là phát huy tính tích cực, sức sáng tạo, khám phá của
bản thân người học.
Với quan niệm như trên về xu thế phát triển của dạy học hiện đại, từ
trước tới nay, trong lí luận dạy học xuất hiện nhiều phương pháp dạy học
theo hướng dạy học tích cực. Dưới đây là một số phương pháp dạy học điển
hình theo hướng này.
* Phương pháp dạy học của Giôn Điuây (John Dewey, 1856– 1952)
Theo G. Điuây một phương pháp dạy học phải đáp ứng những yêu cầu
sau: a) Trước hết học viên phải được đưa vào trong tình huống thể nghiệm
xác thực, một hoạt động mà trẻ em thấy hứng thú; b) Xuất hiện vấn đề từ tình
huống thực nghiệm, có tác dụng kích thích tư duy của người học; c) Học viên
cần phải được cung cấp đầy đủ thông tin và được quan sát cần thiết để giải
quyết vấn đề; d) Khi đã có giải pháp tạm thời, học viên có trách nhiệm xây
dựng nó một cách đầy đủ theo quy trình chặt chẽ; e) Phải cho học viên khả
năng và cơ hội thử ứng dụng những ý tưởng đó nhằm xác định và khám phá
ra giá trị của chúng.
* Quy trình dạy học của E. Claparet (1873–1940).
Quan điểm về quy trình dạy học của E.Claparet được tóm tắt vào ba
điểm lớn: a) Khơi dậy một nhu cầu (hứng thú, mong muốn) bằng cách đặt
đứa trẻ vào tình huống có thể khơi dậy nhu cầu hay mong muốn đó; b) Khơi
dậy phản ứng thích hợp của người học nhằm thỏa mãn nhu cầu, sở thích đó;
c) Tiếp nhận những hiểu biết phù hợp để kiểm tra phản ứng ấy, điều khiển và
hướng chúng đến mục đích đề ra.
* Các phương pháp dạy học tích cực theo cách phân loại của G. Petty
G. Petty là nhà sư phạm người Anh, việc phân loại các phương pháp
dạy của ông khá phù hợp với nhiều nhà sư phạm sư phạm phương Tây hiện
nay. Theo đó, ông chia các phương pháp dạy học thành ba nhóm: các
phương pháp lấy giáo viên làm trung tâm; các phương pháp tích cực; các
phương pháp lấy người học làm trung tâm.
+ Các phương pháp lấy người dạy làm trung tâm, bao gồm: Giáo viên
thuyết trình; nghệ thuật giải thích, nghệ thuật trình diễn, phương pháp đặt câu
hỏi và các phương pháp hỗ trợ trí nhớ người học.
+ Các phương pháp tích cực, bao gồm: hướng dẫn học viên thực hành;
thảo luận; học nhóm và người học trình bày; trò chơi; đóng vai, diễn kịch và
mô phỏng; xe mina; học cách nhớ v.v…
+ Phương pháp lấy người học làm trung tâm; học qua đọc; tự học và
làm bài tập ở nhà; bài tập nghiên cứu; tiểu luận; khám phá có hướng dẫn;
sáng tạo, thiết kế và phát minh; học từ kinh nghiệm của mình.
G. Petty đã dẫn ra hai công trình nghiên cứu để chứng minh hiệu quả
của các phương pháp tích cực. Thứ nhất: điều tra của M. Hebditch (1990) về
mức độ hứng thú với các phương pháp dạy học của học viên từ 11 đến 18
tuổi. Kết quả cho thấy học sinh hứng thú nhất là các phương pháp hoạt động:
thảo luận theo nhóm (80%), trò chơi (80%), đóng kịch (70%). Trong khi đó các
phương pháp giảng giải được ít người hứng thú nhất (11%). Nghiên cứu mối
tương quan giữa phương pháp dạy học với độ lưu giữ thông tin của người
học. Kết quả như sau:
Bảng 5.1. Độ lưu giữ thông tin của người học với các phương pháp dạy học
STT Phương pháp Độ lưu giữ thông tin
1 Nghe thuyết trình 5%
2 Đọc tài liệu 10%
3 Nghe giảng kết hợp với quan sát 20%
4 Trình diễn của giáo viên 30%
5 Thảo luận nhóm 50%
6 Thực hành bằng cách làm thực tế 75%
7 Học bằng cách dạy người khác 90%
(Nguồn trích dẫn: G. Petty: Giảng dạy ngày nay. NXB Stantey Thomes.
1998).
Ở đây dường như có quan hệ: những phương pháp được học viên
hứng thú thường là những phương pháp mang lại hiệu quả cao.
Các kết quả nghiên cứu trên giúp các giáo viên có thêm thông tin hữu
ích khi lựa chọn phương pháp dạy học.
Phần còn lại của tài liệu này sẽ tập trung giới thiệu các phương pháp
dạy học phổ biến trong nhà trường hiện nay.
Phần 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
Để đưa ra một lựa chọn có cân nhắc về phương pháp hay kĩ thuật dạy
học phù hợp và có thể huy động nhiều biện pháp vào hoạt động dạy học của
mình, người giáo viên cần biết:
- Hiện tại có những phương pháp dạy học nào?
- Nội dung của mỗi phương pháp là gì?
- Những mặt mạnh và hạn chế của từng phương pháp.
- Mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi phương pháp.
- Yêu cầu của việc áp dụng phương pháp vào trong thực tiễn dạy học
như thế nào?
Phần này của tài liệu sẽ cố gắng phác họa các điểm trên của một số
phương pháp phổ biến hiện nay. Nhân đây cần nhấn mạnh lại hai điểm:
Thứ nhất: Phương pháp dạy học nào là tốt nhất? Câu hỏi này cũng
giống như hỏi người thợ mộc: Đồ nghề nào là tốt nhất của ông ta? Ở đây
không có câu khẳng định chung cho mọi trường hợp. Người thợ mộc chọn đồ
nghề tùy thuộc vào việc ông ta khoét lỗ mộng, đẽo khúc gỗ hay cắt đôi nó ra
v.v. Mỗi đồ nghề đều có tác dụng riêng của nó. Người thợ mộc giỏi là người
không chỉ biết cách dùng từng đồ nghề của mình mà còn biết đánh giá dụng
cụ nào thích hợp nhất cho từng hoàn cảnh cụ thể. Phương pháp dạy học,
giống đồ nghề của người thợ mộc, chúng đều bình đẳng với nhau. Việc sử
dụng chúng tuỳ thuộc vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và
học, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh dạy học cụ thể: đối tượng học viên; môi trường
dạy học (lớp học, thiết bị dạy học và không khí học tập v.v.); buổi học trước
diễn ra như thế nào? Các phương pháp đã dùng ngay trước đó có mang lại
hiệu quả dạy học không? v.v… Các yếu tố trên đều phải được tính đến trong
việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp trong dạy học của người giáo
viên.
Thứ hai: Trong thực tiễn, không một giáo viên có kinh nghiệm nào lại
chỉ sử dụng đơn điệu một phương pháp trong hoạt động dạy học của mình.
Dạy học cũng giống người thợ mộc. Để thực hiện một thao tác nhằm tạo ra
một chi tiết thì chỉ cần một dụng cụ, nhưng muốn có một sản phẩm trọn vẹn
(ngôi nhà, bàn ghế, giường tủ v.v.) thì phải phối hợp nhiều thao tác, sử dụng
nhiều dụng cụ khác nhau. Nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối hợp các
phương pháp dạy học trong một tiết, một bài dạy của người giáo viên.
Vậy các phương pháp dạy học trong tài liệu này được giới thiệu theo
lôgic nào? Theo chủ ý của chúng tôi, các phương pháp dạy học được sắp xếp
theo logic giảm dần sự tác động, chi phối và tính quy định trực tiếp của giáo
viên lên hoạt động học của học viên, giảm dần tính khuôn mẫu và sự áp đặt
trước của các nội dung bài dạy. Đồng thời tăng dần tính độc lập; chủ động,
chủ thể hoạt động của người học; tăng dần hành động trực tiếp của người
học lên nội dung học tập; tăng dần các điều kiện và cơ hội giải phóng tư duy
sáng tạo của người học; tăng dần sự quan tâm đến nhu cầu và sự phát triển
của người học, tức là tăng dần tính nhân văn của các phương pháp. Việc sắp
xếp theo lôgic này không nhằm khẳng định cứng nhắc rằng các phương pháp
sau tốt hơn phương pháp trước, mà chỉ có dụng ý giúp người giáo viên dễ lựa
chọn phương pháp phù hợp với mục đích, nội dung và điều kiện dạy học cụ
thể của mình. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng việc sắp xếp các phương pháp
dạy học theo lôgíc trên chỉ có tính tương đối, vì không có phương pháp nào
tồn tại một mình mà không có sự hỗ trợ, can thiệp và giao thoa của các
phương pháp khác. Với cách đặt vấn đề như vậy, các phương pháp dạy học
được trình bày theo các nhóm sau:
- Nhóm phương pháp chủ yếu dùng lời của giáo viên.
- Nhóm phương pháp trao đổi.
- Nhóm phương pháp tổ chức hành động học của học viên.
- Nhóm phương pháp tổ chức tương tác hành động.
- Nhóm phương pháp làm việc độc lập của học viên có sự trợ giúp của
giáo viên.
- Nhóm phương pháp kích thích động cơ học tập của người học.
Chương 5. NHÓM PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU DÙNG LỜI CỦA GIÁO VIÊN
5.1. PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH5.1.1. Định nghĩa
Phương pháp thuyết trình là phương pháp giáo viên sử dụng ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ để cung cấp cho người học hệ thống thông tin về nội dung
học tập. Người học tiếp nhận hệ thống thông tin đó từ người dạy và xử lí
chúng tùy theo tính chủ thể người học và yêu cầu của dạy học.
Phương pháp thuyết trình có thể được gọi dưới nhiều tên khác nhau:
phương pháp diễn giảng, phương pháp dùng lời, phương pháp truyền thống.
Đôi khi người ta còn gán cho phương pháp này tên gọi: phương pháp giáo
điều v.v.
Thuyết trình có lẽ là phương pháp dạy học lâu đời nhất và hiện nay vẫn
là một trong những phương pháp được sử dụng khá phổ biến. Mặc dù có
không ít người phê phán, thậm chí chê bai, nhưng phương pháp thuyết trình
vẫn còn tồn tại và phát triển trong dạy học hiện nay và mai sau. Đơn giản
không phải vì bản thân nó mà là do nội dung dạy học qui định sự tồn tại của
nó. Nói cách khác, trong dạy học hiện nay còn có những nội dung, mà để
chuyển tải đến người học, thì phương pháp phù hợp hơn cả là thuyết trình. Vì
vậy, vấn đề không phải là xem phương pháp này là tốt hay không, mà là xác
định những điều kiện để sử dụng nó có hiệu quả.
Một thuyết trình viên giỏi là người kết hợp được tài ba của nhà khoa
học, nhà văn, nhà sản xuất, diễn viên hài kịch, nhà tổ chức học sinh học tập
và khi đó bài thuyết trình sẽ trở thành phương pháp dạy học tích cực và hiệu
quả. Tất nhiên,. trong thực tiễn không phải ai cũng đạt được trình độ như vậy.
Thuyết trình là một phương pháp khó, đòi hỏi người sử dụng phải hiểu rõ về
nó và luyện tập nhiều.
5.1.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp thuyết trình
5.1.2.1. Điểm mạnh
Phương pháp thuyết trình có nhiều điểm mạnh:
+ Thứ nhất: Với cách diễn đạt lưu loát, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với
lôgic nhận thức và trình độ người nghe, phương pháp thuyết trình đã chuyển
tải đến người học một khối lượng lớn thông tin cần thiết, cô đọng mà giảng
viên đã chắt lọc được từ kho tàng tri thức của xã hội.
Đây là điểm mạnh của phương pháp thuyết trình mà không dễ gì các
phương pháp khác có được. Trong khoảng thời gian ngắn (chẳng hạn 1 tiết
học), giảng viên có thể cung cấp cho người học một khối lượng thông tin rất
phong.phú, được cấu trúc theo một lôgic chặt chẽ, phản ánh nội dung môn
học.
+ Thứ hai: Cung cấp cho người học những thông tin cập nhật, chưa kịp
trình bày trong các tài liệu giáo khoa. Thông thường, các tri thức được mô tả
trong tài liệu giáo khoa mà nhà trường yêu cầu người học phải đọc thường
lạc hậu hơn sự phát triển hiện tại của lĩnh vực khoa học đó. Bài thuyết trình
của giảng viên tốt là nguồn cung cấp những thông tin cập nhật lí thuyết và
thành tựu về những chủ đề đang nghiên cứu. Hơn nữa những thông tin này
được tập hợp từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, mà hầu hết người học phải
mất nhiều thời gian để tìm hiểu và tổng hợp chúng. Vì vậy bài thuyết trình tốt
mang lại ý nghĩa tích cực đối với người học.
+ Thứ ba: Bài thuyết trình khác với đọc hiểu. Thuyết trình là giao tiếp
trực tiếp giữa người giảng và người nghe. Vì vậy, khi thuyết trình, giảng viên
có thể thường xuyên thay đổi các biện pháp, các thủ thuật thuyết trình và hiệu
chỉnh lại nội dung tài liệu cho phù hợp với trình độ hiện tại của người nghe.
Thái độ và sự nhiệt tình của giảng viên khi thuyết trình có vai trò quan trọng
trong việc tích cực hoá hoạt động học tập và nghiên cứu của người học,
truyền cảm hứng và sáng tạo cho họ. Điều này cắt nghĩa vì sao không ít học
viên sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học có nguyện vọng, hứng thú với
nghề dạy học và không ít sinh viên đại học trở nên say mê nghiên cứu lĩnh
vực khoa học mà các giảng viên – nhà khoa học đang theo đuổi.
+ Thứ tư: Các bài thuyết trình không chỉ cung cấp thông tin về đối
tượng học tập cho người học mà còn cung cấp cho họ khuôn mẫu và phương
pháp nhận thức, phương pháp tổng hợp, cấu trúc tài liệu học tập; giúp người
học phương pháp tự học. Thông thường người học rất khó định hướng khi
bắt đầu tìm hiểu một cuốn tài liệu. Vì vậy, những bài thuyết trình hay có thể
giúp nhiều cho người học định hướng và cấu trúc khi đọc tài liệu.
5.1.2.2. Hạn chế
Thuyết trình cũng có nhiều hạn chế. Có thể kể ra khá nhiều hạn chế
của phương pháp này trong dạy học hiện đại:
* Thu được rất ít thông tin phản hồi từ phía người học, do dạy học chủ
yếu là truyền thụ một chiều.
Chủ yếu sử dụng cơ chế ghi nhớ và tư duy tái tạo của người học.
* Mức độ lưu giữ thông tin của người học rất ít. Do trí nhớ ngắn hạn và
trí nhớ làm việc của người nghe thường xuyên bị quá tải. Vì vậy cần thiết phải
có các phương tiện hỗ trợ ghi nhớ.
* Tính cá thể hóa trong dạy học thấp, do giảng viên phải dùng một số
biện pháp chung cho cả nhóm học viên.
* Ít có sự tham gia tích cực của người học. Mức độ khai thác và liên kết
giữa kinh nghiệm đã có của người học với nội dung mới rất thấp. Người học
gần như thụ động tiếp nhận thông tin từ phía người thuyết trình, ít có cơ hội
thể hiện và áp dụng các ý tưởng của mình đối với tài liệu học tập. Do đó, bài
học dễ dẫn đến đơn điệu, nhàm chán.
* Thời gian thu hút và duy trì sự chú ý của người học vào nội dung bài
học thấp hơn các phương pháp khác.
5.1.3. Nội dung và cấu trúc bài thuyết trình
5.1.3.1. Về nội dung
Yếu tố quyết định phương pháp thuyết trình, với tư cách là phương
pháp dạy học, là nội dung của nó. Nói cách khác, người ta dùng thuyết trình
để dạy cái gì? Chắc chắn không thể dùng nó để dạy hình thành cho người
học kĩ năng sử dụng các thiết bị kĩ thuật hay hình thành quy trình sản xuất ra
chúng. Nhưng để cung cấp cho người học các biểu lượng nghệ thuật, các tri
thức lí luận về khoa học tự nhiên, xã hội hay nhân văn v.v thì thuyết trình có
thể được coi là phương pháp phù hợp. Trong những lĩnh vực này, nội dung
bài thuyết trình thường bao gồm: a) Các kiến thức về chính bộ môn khoa học
đó (các biểu tượng nghệ thuật, các khái niệm, các quan hệ v.v); b) Kiến thức
về phương pháp luận, phương pháp nhận thức sự vật; c) Kiến thức về thái
độ, về giá trị (đánh giá, nhận thức về giá trị, xác lập giá trị v.v); d) Kiến thức về
hành vi ứng xử (các quy tắc ứng xử, nhận thức về trách nhiệm, vai trò v.v).
5.1.3.2. Cấu trúc bài thuyết trình
Một bài thuyết trình dù ngắn hay dài đều có một cấu trúc chung gồm ba
phần:
+ Phần mở đầu. Phần mở đầu thường có tính chất định hướng cho
người nghe chuẩn bị những yếu tố cần thiết về kinh nghiệm và phương pháp
cho bài học; gợi mở, dẫn dắt người nghe vào nội dung của bài thuyết trình.
Trong phần mở đầu, giảng viên cần tạo ra sự liên kết giữa những kiến thức,
kinh nghiệm đã có của người học với những thông tin mới cần cung cấp cho
người nghe.
+ Phần nội dung. Đây là phần chính của bài thuyết trình. Trong phần
này, giảng viên cần cấu trúc nội dung thuyết trình thành những đơn vị kiến
thức truyền thụ và sắp xếp chúng theo một logic hợp lí. Trong mỗi phần cần
dự kiến kĩ thuật thuyết trình và các kĩ thuật hỗ trợ khác (câu hỏi, các phương
tiện, mô hình v.v). Sau mỗi phần hoặc sau nội dung quan trọng cần có tóm tắt
để nhấn mạnh cho người học dễ hiểu, dễ ghi chép và nhớ.
+ Phần kết. Giảng viên khẳng định những nội dung đã được trình bày;
điều chỉnh những lỗi người học mắc phải trong khi nghe giảng; chính xác hóa
kiến thức; chỉ ra phương hướng vận dụng chúng trong tương lai; đưa ra các
phương pháp, phương tiện đánh giá kết quả học tập và yêu cầu người học
nêu các câu hỏi, các vấn đề cần tiếp tục suy nghĩ và giải quyết v.v…
5.1.4. Những yếu tố chi phối bài thuyết trình
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả của bài thuyết trình. Dưới đây
là một số yếu tố phổ biến:
Thứ nhất: Khả năng tập trung chú ý của người học vào bài thuyết trình.
Chú ý là điều kiện tiên quyết của việc học tập. Vậy chú ý của người học diễn
ra như thế nào? Việc tạo ra và duy trì thời gian tập trung chú ý của người học
vào bài dạy tuỳ thuộc rất nhiều vào các thủ thuật của giáo viên. Tuy nhiên,
thông thường trong một tiết học, khoảng từ 3 đến 5 phút đầu người học chưa
tập trung chú ý vào bài giảng của giáo viên. Từ 5 đến 15 phút tiếp theo sự chú
ý của người học đạt đến cao độ. Sau đó giảm dần đến phút thứ 30. 15 phút
còn lại của tiết học người nghe thường khó tập trung chú ý, nếu không có sự
thay đổi các biện pháp làm “thức tỉnh họ”. Trong khoảng thời gian này, nhiều
học viên thường ngủ gật, nói chuyện, làm việc riêng hoặc giết thời gian bằng
các hành động khác (quan sát cảnh vật xung quanh, ngắm và bình luận các
hành vi, trang phục của giảng viên v.v). Vì vậy, trong một buổi thuyết trình,
khoảng thời gian 5 phút đầu (vào bài) và 15 phút cuối thường là những thử
thách khó khăn của giảng viên. Đòi hỏi giảng viên phải có nhiều thủ thuật dạy
học viên động.
Thứ hai: Ngôn ngữ và phong cách của giảng viên trong thuyết trình.
Hầu hết mọi người nói với tốc độ khoảng 100– 200 từ/phút. Với tốc độ như
vậy, một giờ thuyết trình có thể lên tới 12.000 từ. Trong khi đó trí nhớ ngắn
hạn của người học chỉ có thể tiếp nhận khoảng 800 – 1000 từ. Điều này vượt
quá xa khả năng tiếp nhận và ghi nhớ của người nghe. Vì vậy, nếu giảng viên
nói quá nhanh sẽ dẫn đến hiện tượng người nghe tai này sang tai khác mà
không hề đọng lại điều gì trong đầu của họ. Không nên nói quá nhanh, hãy
nói chậm vừa phải. Hãy dành một thời gian im lặng vừa đủ sau một câu quan
trọng, sao cho nó kịp “ngấm vào” người nghe. Nếu quan sát người giảng bài
giỏi ta sẽ thấy hiệu quả của bài giảng không phải ở chỗ họ giảng cái gì mà là
do cách họ nói về cái đó, do họ thường xuyên thay đổi âm lượng và cường
độ, nhịp độ giọng nói. Một giọng nói đều đều kéo dài sẽ là liều thuốc ngủ tốt
cho học viên trong buổi thuyết trình.
Phong cách giảng bài của giảng viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả bài thuyết trình. Nhiều giảng viên có thói quen ngồi yên một chỗ sau
bàn hoặc ghế, đọc và giải thích tài liệu. Không có gì tẻ nhạt hơn thế. Giảng
viên có kinh nghiệm không làm như vậy. Họ đi vòng quanh lớp, qua từng bàn,
không nhìn lên trần nhà, cũng không dán mắt vào mũi giày, mắt không ngừng
quan sát người học (nếu không có sự tiếp xúc bằng ánh mắt giữa giảng viên
với học viên thì lớp học bị rơi vào khoảng trống không). Cường độ và âm
lượng ngôn ngữ luôn thay đổi theo từng nội dung (nhấn mạnh, thể hiện cảm
xúc vui nói nhanh, giọng cao và hùng hồn hơn; buồn – giọng trầm và chậm
hơn v.v), kết hợp với nét mặt, điệu bộ, cử chỉ và sự hài hước. Nếu có học
viên muốn phát biểu, họ lại gần người đó và lắng nghe v.v. Họ trình bày như
đang nói chuyện, không đọc, mắt không dán vào giáo án. Chính phong cách
giảng của họ đã hấp dẫn, thu hút sự chú ý của học viên trong suốt giờ học.
Thứ ba: Phương pháp nghe giảng của người học và sự chuẩn bị bài
thuyết trình của giảng viên.
Nhiều học viên có thói quen nghe giảng mà không cần chuẩn bị trước
và không ghi chép lời giảng của giảng viên. Đó là thói quen không tốt. Nó tạo
ra sự thụ động ở người học. Cần lưu ý rằng: Việc kết hợp nghe giảng với ghi
chép mang lại hiệu quả cao hơn nhiều trong việc hiểu bài và ghi nhớ tài liệu
so với nghe đơn thuần. Tuy nhiên, việc ghi chép cũng có những khó khăn
nhất định. Nhiều người quá chú ý vào việc ghi chép ảnh hưởng đến việc nghe
bài giảng. Thậm chí có người ghi toàn bộ lời giảng của giảng viên, biến nó
thành bản coppy bài giảng v.v. Cách tốt nhất là giảng viên thống nhất với học
viên cách ghi bài giảng của mình và khi giảng những vấn đề mới, khó, cần
động viên người học tập trung chú ý nghe sau đó về khôi phục lại.
Việc chuẩn bị kế hoạch và tài liệu thuyết trình của giảng viên cũng ảnh
hưởng tới hiệu quả bài thuyết trình. Một bài thuyết trình có chất lượng phải
đảm bảo tính nhất quán về tư tưởng và nội dung học thuật. Trong khi đó, điều
này rất khó thực hiện, vì trong khi thuyết trình thường có nhiều sự kiện ngẫu
nhiên. Để kiểm soát và làm chủ được bài thuyết trình, giảng viên và học viên
cần chuẩn bị trước đề cương cho mình. Tuy nhiên, đề cương cũng không nên
quá sơ sài hoặc quá chi tiết. Hơn nữa không nhất thiết tất cả những điều học
viên phải học đều được thuyết trình, chỉ có những gì chủ yếu, những điều
người học gặp khó khăn thì việc thuyết trình mới có giá trị, còn những thứ
khác, giảng viên cần hướng dẫn cho người học tự học. Điều này cũng phải
được thể hiện qua đề cương và người học cần được biết trước.
Thứ tư: Sự hỗ trợ của các kĩ thuật dạy học khác. Trong dạy học hiện
đại, phương pháp thuyết trình sẽ khắc phục được những hạn chế, nếu được
kết hợp với những kĩ thuật dạy học khác. Trước hết là sự kết hợp thuyết trình
với các kĩ thuật giải thích, kĩ thuật đặt câu hỏi gợi mở, phiếu ghi nhớ, sử dụng
các phương pháp minh họa: biểu bảng, máy chiếu qua đầu, mô hình và các
phương tiện kĩ thuật khác v.v
5.1.5. Gợi ý chuẩn bị và thực hiện bài thuyết trình
Có rất nhiều cách và công việc chuẩn bị một bài thuyết trình. Dưới đây
là một số gợi ý:
1) Xác định rõ mục tiêu, nội dung và cấu trúc bài giảng.
2) Đọc và hiểu rõ văn bản cần truyền đạt (đọc nhiều lần – phân tích tài
liệu – đặt câu hỏi – cấu trúc lại tài liệu – diễn đạt lại tài liệu theo ý của mình).
3) Lập đề cương cho bài giảng. Xác định các bước truyền đạt tài liệu
cho phù hợp với người nghe (kế hoạch, thời gian, phương tiện truyền đạt và
phương tiện hỗ trợ).
4) Không nên chỉ sử dụng một phương pháp tư duy trong diễn giảng.
Ưu tiên phương pháp quy nạp. Không nên sử dụng thuyết trình là phương
pháp duy nhất trong một bài giảng.
5) Không nên ngồi hay đứng nguyên một chỗ trong suốt buổi thuyết
trình. Luôn luôn quan sát đối tượng và phân phối chú ý đến các đối tượng.
6) Chuẩn bị nhiều và diễn đạt dễ hiểu các câu hỏi gợi mở để kích thích
tư duy người nghe.
7) Nhấn mạnh các điểm quan trọng và lưu ý những điểm cần ghi. Sau
khoảng thời gian 15 – 20 phút thuyết trình, cần có phần củng cố, để tạo ra sự
chú ý mới.
8) Tốc độ và cường độ ngôn ngữ thuyết trình hợp lí, diễn cảm, giàu
hình ảnh v.v… Hạn chế dùng từ đệm, từ cửa miệng, từ sinh hoạt. Chú ý tính
hài hước, để lớp học không bị căng thẳng.
9) Chú ý đến kinh nghiệm và đặc điểm của người nghe.
10) Giải thích rõ các từ chuyên môn trừu tượng, từ chốt. Tóm tắt ý
chính của bài giảng và các cách hiểu, cách ghi nhớ khác.
5.2. GIẢI THÍCH VÀ TRÌNH DIỄN5.2.1. Kĩ thuật giải thích
5.2.1.1. Khái niệm
Trong thực tế, không ít học viên phàn nàn về giáo viên dạy khó hiểu, dù
chuyên môn rất giỏi. Ở những giáo viên này dường như trình độ chuyên môn
không tương ứng với phương pháp giảng dạy, mà trước hết là khả năng giải
thích vấn đề. Trong lời giải thích của họ có nhiều thông tin thừa, dài dòng, từ
ngữ trừu tượng, không lôgic và khó theo dõi.
Vậy giải thích là gì và yêu cầu của việc giải thích trong dạy học như thế
nào?
Giải thích là giáo viên dùng lời và các phương tiện phi ngôn ngữ khác
để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó, tạo ra sự liên kết giữa vấn đề đó với kinh
nghiệm hiện có của người học. Qua đó giúp người học lĩnh hội được nó.
Giải thích là một kĩ thuật dạy học vi mô, được sử dụng nhiều trong các
hoạt động của giáo viên, đặc biệt trong các phương pháp dùng lời và các
phương pháp hướng dẫn học viên tiếp thu tri thức, hình thành các kĩ năng.
Đối với những nội dung môn học có nhiều khái niệm trừu tượng, buộc giáo
viên phải giải thích cho học viên thì kĩ thuật giải thích càng trở nên cần thiết
đối với họ.
Thông thường, một lời giải thích được coi là thoả đáng cần đáp ứng
những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Chỉ chứa những thông tin đủ để mô tả điều đang giải thích
một cách xác đáng và lôgic. Giảm thiểu tối đa những thông tin thừa, không cơ
bản.
Thứ hai: Được xây dựng trên cơ sở kiến thức và kinh nghiệm hiện có
của người nghe.
Thứ ba: Phù hợp với khả năng nhận thức và tâm lí của nhóm đối tượng
nghe.
Thứ tư: Việc giải thích không chỉ làm sáng tỏ nội dung điều cần giải
thích mà còn cần phải làm rõ nguyên nhân của nó. Tức là cần trả lời thỏa
đáng các câu hỏi: 1). Ai (cái gì?); 2). Tại sao?; 3). Khi nào?; 4) Như thế nào?;
5) Ở đâu?
5.2.1.2. Một số yêu cầu trong kĩ thuật giải thích
Để việc giải thích một vấn đề nào đó có hiệu quả, người giáo viên cần
đáp ứng những yêu cầu sau đây:
* Việc giải thích cần được bắt đầu từ tri thức và kinh nghiệm của học
viên.
Giải thích một vấn đề nào đó chỉ có ý nghĩa khi người học không hiểu
vấn đề đó (quá khó hoặc quá mới). Nói cách khác, học viên cần giải thích khi
không có khả năng tiếp nhận và đồng hoá kiến thức mới vào hệ thống tri thức
đã có; giữa chúng có một khoảng cách mà tự người học không lấp đầy được,
người giáo viên cần giúp họ kết nối chúng với nhau. Vì vậy, việc giải thích cần
bắt đầu từ kiến thức và kinh nghiệm của người học. Trong thực tế, điều này
không đơn giản. Nó đòi hỏi giáo viên không những phải hiểu sâu sắc về nội
dung cần giải thích, mà còn phải xác định được kiến thức hiện có của người
học, dự đoán được khó khăn của họ khi tiếp nhận những điều mình truyền
thụ.
* Việc giải thích cần làm nổi bật những nội dung trọng tâm, những ý
chính của vấn đề. Người nghe thường gặp khó khăn khi phân biệt giữa các
luận điểm mà giáo viên đưa ra với những lời giải thích thêm của họ. Vì vậy,
ngay cả các học viên thông minh và chú ý học cũng dễ bỏ qua nhiều điểm
quan trọng, chỉ nhớ những chi tiết, phụ. Do đó, khi giải thích, giáo viên cần
làm nổi bật điểm trọng tâm, những nội dung chủ yếu của vấn đề để người học
dễ tiếp nhận, sau đó mới phát triển sang các ý khác. Phương châm ở đây là
không phải nói cái mình biết mà nói cái học viên cần biết. Lời khuyên thiết
thực là không nên đưa ran gay tất cả mọi chi tiết về những gì đang dạy. Hãy
tập trung vào các nội dung cơ bản, sau đó mới từng bước bổ sung thêm các
chi tiết khác.
* Việc giải thích phải hướng đến làm cho vấn đề trở nên đơn giản hoá.
Một khó khăn của người học là trong khoảng thời gian ngắn phải tiếp nhận
lượng thông tin lớn và mới. Trí nhớ ngắn hạn của họ thường bị quá tải. Do đó
khi giải thích một vấn đề nào đó, giáo viên không nên làm cho vấn đề trở nên
phức tạp hơn, trừu tượng hơn, mà cần cố gắng chọn lọc những thông tin thiết
yếu, theo hướng đơn giản hoá tới mức cho phép được người học hiểu vấn
đề. Cần lưu ý: việc đơn giản hoá vấn đề là một kĩ thuật rất khó, nó đòi hỏi
phải chuẩn bị chu đáo và có những thủ thuật nhất định.
* Việc giải thích phải phù hợp với đối tượng người học.
Trong thực tiễn, nhiều giáo viên, đặc biệt những giáo viên thiếu kinh
nghiệm, khi giải thích vấn đề thường có xu hướng cố gắng trình bày theo hiểu
biết của mình và dùng nhiều từ chuyên môn, làm cho vấn đề trở lên trừu
tượng, không phù hợp với đặc điểm, trình độ của người nghe. Vì vậy, để học
viên hiểu vấn đề cần giải thích; nên đưa ra các sự kiện phù hợp với đặc điểm
của họ và dùng nhiều từ quen thuộc với học. Chẳng hạn, giải thích thế nào
cho học viên nhỏ tuổi hiểu từ “mê tín”? Ta không thể nói với các cháu bé rằng
mê tín là niềm tin không đúng. Vì mê tín là từ trừu tượng nên không thể được
giải thích bằng từ trừu tượng khác: niềm tin. Trong trường hợp này tốt hơn cả
là dùng các sự kiện cụ thể. Chẳng hạn tin rằng trước khi đi thi mà ăn chuối,
ăn trứng thì bị trượt là mê tín v.v.
5.2.1.3. Một số gợi ý về thủ thuật trong giải thích
Có nhiều cách giải thích mang lại hiệu quả trong dạy học. Dưới đây là
một số thủ thuật phổ biến, có thể có ích cho các giáo viên mới vào nghề.
* Việc giải thích nên dựa vào một hệ thống cụm từ có ý nghĩa chìa
khóa. Để đơn giản hoá việc giải thích nhưng vẫn đủ giúp người học hiểu vấn
đề, thì cần phải có các cụm từ có tính chất chìa khoá. Những từ này càng gần
với cuộc sống càng tốt. Trong quá trình giải thích, chúng cần được nhấn
mạnh và nhắc lại nhiều lần.
* Nên tạo ra các lập luận chặt chẽ theo logic nhất định. Để có các lập
luận tốt nên nắm vững các quy luật của lôgic học hình thức. Việc lập luận có
thể theo quan hệ nhân quả (tiền đề – hệ quả); quan hệ điều kiện (nếu thế
này.. sẽ thế này) v.v.
* Nên cấu trúc các ý được diễn đạt dưới dạng các sơ đồ, đồ thị để
người học dễ theo dõi, dễ hiểu, dễ nhớ. Cần nhớ rằng, giáo viên có thể đưa
ra một cấu trúc cho người học nhưng cũng có thể gợi ý để người học tự đưa
ra cấu trúc. Khi đó hiệu quả dạy học sẽ cao hơn. Có thể đưa ra một cấu trúc
cho sẵn và được trình chiếu trên bảng hoặc máy chiếu, nhưng cũng có thể
vừa giải thích vừa hình thành chúng.
* Trong quá trình giải thích có thể sử dụng các thủ thuật, phương tiện
hỗ trợ.
+ Đặt câu hỏi gợi mở hay nhấn mạnh: Nó là cái gì? Tại sao? Điều gì sẽ
xảy ra nếu…?.
+ Ví von và so sánh. Đây là cách sử dụng khá phổ biến và chứa đựng
nhiều yếu tố bất ngờ đối với người học. Nhưng yêu cầu cần được chuẩn bị kĩ.
+ Loại bỏ các lỗi sai của người học. Đây là phương pháp “không dạy”
điều sai bằng cách chỉ ra điều bất hợp lí. Kĩ thuật này rất thuận tiện và mang
lại hiệu quả trong giảng dạy và học tập. Chẳng hạn: Giả sử học viên nhỏ
thường không hiểu 4 x 0 = 0 (các em không hình dung tại sao lại mất 4). Giáo
viên có thể giải thích: Tôi có 1 đoàn xe, mỗi chiếc chở được 4 người. Hỏi hai
xe sẽ chở được bao nhiêu người? (h/s: 4 x 2 = 8). Một xe chở được bao
nhiêu người? (h/s: 4 x 1 = 4). Vậy không xe chở được bao nhiêu người? (4 x
O= O).
+ Trình bày bằng hình ảnh, mô hình, sơ đồ, đồ thị v.v.
Có thể tóm tắt các yêu cầu và gợi ý về kĩ thuật giải thích của giáo viên
bằng sơ đồ sau:
5.2.2. Kĩ thuật trình diễn
Người học có thể học thông qua sự hướng dẫn của giáo viên, nhưng
cũng có thể học qua việc quan sát và bắt chước hành vi của người khác. Điều
này dẫn đến kĩ thuật trình diễn trong dạy học.
5.2.2.1. Khái niệm
Trong hệ thống phương pháp dạy học, phương pháp trình diễn còn
được gọi là phương pháp trình bày trực quan (phương pháp trực quan), trình
bày thực nghiệm, phương pháp minh họa v.v…
Phương pháp trình diễn là cách người dạy tiến hành các thao tác mẫu
(thực tiễn và trí óc) để người học quan sát, nhận thức, ghi nhớ và làm theo
các thao tác mẫu đó.
Mục đích của trình diễn là cung cấp các mẫu thao tác để người học lặp
lại hay vận dụng. Trình diễn rất đa dạng, bao gồm từ việc nêu ví dụ minh họa,
dẫn chứng cho bài thuyết trình, hay cho việc giải thích một vấn đề nhất định,
đến diễn tả một thực nghiệm, một quy trình kĩ thuật như thao tác trên các thiết
bị máy móc v.v. Nội dung trình diễn có thể là các hành động thực tiễn hay
hành động trí óc.
Kĩ thuật trình diễn trong dạy học dựa trên hai cơ sở tâm lí học. Thứ
nhất: vai trò của các giác quan và sự kết hợp giữa chúng trong nhận thức.
Cau truc hoa
Đon gian hoa
Trong tam
Minh hoa
Lap luan
Đat cau hoi
Dua vao kien thuc đa co
Đe de nho
Giai thich
Đe de hieu
Các công trình nghiên cứu tâm lí học đã chứng minh 80% lượng thông tin cá
nhân thu nhận được bằng kênh thị giác. Mặt khác, việc tiếp nhận thông tin sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn nếu cá nhân huy động nhiều giác quan cùng tham
gia vào quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa là người học sẽ tiếp thu tốt
hơn nếu vừa được nghe thuyết trình, giải thích, vừa được quan sát trình diễn
các hành động của người dạy. Thứ hai: các hành động thực tiễn hay hành
động trí óc của con người không chỉ được hình thành bằng cách huấn luyện
trực tiếp chúng mà còn bằng cách người học quan sát và bắt chước hành
động của người dạy. Nhà tâm lí học người Mĩ A. Banđura đã nghiên cứu rất
kĩ cơ chế học này và ông coi đó là một phương thức học hiệu quả của con
người (xem Chương 2).
5.2.2.2. Các yêu cầu của việc trình diễn
* Chuẩn bị việc trình diễn.
Việc trình diễn của giáo viên chỉ có hiệu quả khi tất cả học viên trong
lớp đều quan sát được đầy đủ các động tác của giáo viên, phải mô tả được,
thậm chí phải diễn tả lại được các động tác đó. Để đạt được điều này, trước
khi trình diễn, giáo viên cần chuẩn bị tốt những việc sau đây:
Thứ nhất: Bố trí chỗ ngồi cho học viên trong lớp. Thông thường các bàn
trong phòng học được bố trí theo dãy. Điều này gây khó khăn cho việc quan
sát của người học, nhất là những học viên ngồi cuối lớp. Vì vậy, cần bố trí lại
chỗ ngồi cho họ. Có thể theo hình chữ U, chữ V để ai cũng quan sát được.
Trong điều kiện cho phép nên chia lớp học thành từng nhóm nhỏ. Việc bố trí
chỗ ngồi cho học viên cũng cần chú ý đến đặc điểm tâm – sinh lí của từng
người: chiều cao, đặc điểm về giác quan, thói quen, tính cách v.v. Trong mọi
trường hợp, vị trí giáo viên đứng trình diễn không nên quá xa học viên, mà
càng gần càng tốt.
Thứ hai: Trước khi trình diễn, giáo viên cần biết người học đã sẵn sàng
tập trung quan sát chưa. Đây là vấn đề quan trọng vì trong phương pháp
dùng lời, nếu học viên sao nhãng việc nghe trong vài phút, họ có thể xem vở
ghi của người khác, còn trong trình diễn, điều này khó thực hiện được, do các
động tác của giáo viên sẽ trôi qua. Cách làm thông thường của các giáo viên
trước khi trình diễn là đưa người học vào trong tình huống có tính khởi động
(tình huống có vấn đề về tư duy, trò chơi v.v). Mặt khác, trước khi quan sát,
học viên cần được phổ biến rõ ràng về mục đích và nội dung trình diễn; được
lưu ý những điểm trọng tâm để định hướng trước cho họ tập trung chú ý vào
những thao tác chính của giáo viên. Trong suốt buổi trình diễn cần có sự
tham gia tích cực của người quan sát. Để làm được việc này, giáo viên nên
chuẩn bị trước các câu hỏi gợi mở, chất vấn và động viên sẽ dùng đối với học
viên; những yêu cầu mô tả, bắt chước hay lặp lại hành động quan sát được.
Đối với những kĩ thuật trình diễn phức tạp hay các thí nghiệm, cần yêu cầu
người học chuẩn bị ghi chép và mô tả chi tiết bằng lời trước khi để họ tự thực
hành.
Thứ ba: Mục tiêu của trình diễn là cung cấp cho người học các thao tác
mẫu để họ bắt chước, áp dụng hay lĩnh hội tri thức. Vì vậy, giáo viên cần lựa
chọn và chuẩn bị những bài trình diễn mẫu điển hình (những ví dụ, các bài
toán, bài văn mẫu, các mô hình, các thao tác chuẩn v.v. Chẳng hạn thao tác
khám bệnh của bác sĩ làm mẫu cho các học viên trong bệnh viện). Nguồn bài
mẫu có thể do giáo viên và học viên sưu tập, cũng có thể do chính học viên
trong lớp làm ra. Những bài trình diễn của chính người học thường có giá trị
khuyến khích học viên tích cực tham gia. Vì vậy, đây là nguồn cần được khai
thác. Mặt khác, việc học tập của người học có thể được thực hiện thông qua
quan sát những bài trình diễn đúng (những bài mẫu tốt), nhưng cũng có thể
thông qua các bài sai. Vì vậy, không nhất thiết chỉ dùng những bài mẫu đúng
mà nên có cả những bài sai (trong trường hợp những bài sai là của học viên
trong lớp, giáo viên cần lưu ý khi sử dụng tránh làm cho người học cảm thấy
bị xúc phạm hay xấu hổ).
Thứ tư. Các thao tác được trình diễn của giáo viên phải được thể hiện
theo trình tự lôgic nhất định một cách thuần thục. Trong đó, có những thao tác
chủ yếu và thao tác phụ. Nếu các thao tác được diễn ra rời rạc, thiếu lôgic
(thậm chí sai), thì hiệu quả trình diễn rất thấp. Vì vậy, để trình diễn thành
công, giáo viên cần luyện tập kĩ các động tác; ghi chép và chuẩn bị đầy đủ
các thiết bị cần dùng cho buổi trình diễn (kể cả những thiết bị dự phòng); cần
lưu ý và nhấn mạnh các thao tác chủ yếu, quan trọng để người học ghi nhớ.
Phải tính đến các yếu tố an toàn cho cả người trình diễn và người quan sát,
nhất là đối với những trình diễn trên thiết bị kĩ thuật, máy móc, trình diễn múa,
thể dục hay thí nghiệm.
* Tiến hành trình diễn.
Việc chuẩn bị rất quan trọng, nhưng quyết định thành công buổi trình
diễn là quá trình thể hiện của giáo viên trước người học. Xoay quanh vấn đề
này cần chú ý một số yêu cầu sau:
Thứ nhất: Chỉ bắt đầu trình diễn khi người học đã được bố trí chỗ ngồi
hợp lí và đã sẵn sàng quan sát.
Thứ hai: Sắp xếp các thiết bị theo đúng trình tự của chúng trong hành
động trình diễn. Nên giới thiệu sơ qua các thiết bị đó cho người học biết,
trước khi sử dụng chúng.
Thứ ba: yêu cầu đối với người học là không chỉ hiểu cách làm (bắt
chước, lặp lại hoặc vận dụng được) mà còn phải hiểu tại sao lại làm như vậy.
Thứ tư: Thể hiện chậm từng động tác, cần lặp lại những động tác phức
tạp, khó. Những lần lặp lại sau có thể tiến hành nhanh dần.
Thứ năm: Vừa trình diễn vừa giải thích, vừa quan sát người học, vừa
sử dụng các câu hỏi gợi mở, chất vấn người học. Việc giải thích có thể dưới
dạng câu hỏi: Tại sao tôi làm thế này? Tôi sẽ làm gì tiếp theo? Điều gì sẽ xảy
ra nếu tôi sẽ làm thế này? v.v. Kĩ thuật phối hợp trên đây rất khó, nhưng nếu
thực hiện được sẽ mang lại hiệu quả cao.
Thứ sáu: Thường xuyên thu nhận thông tin phản hồi từ phía người học.
Để phát hiện những thông tin này, ngoài việc đặt các câu hỏi và câu trả lời
của người học, giáo viên có thể lặp lại các thao tác dưới hình thức “người
thực hiện” theo “sự hướng dẫn” của người học. Nếu được, “người học” có thể
thực hiện một vài động tác sai để kiểm tra mức độ hiểu của người học.
Thứ bảy: Các yêu cầu của giảng viên với học viên sau khi trình diễn.
Bất kì hành động học nào cũng phải có nhiệm vụ và yêu cầu về kết quả. Vì
vậy, người dạy cần khẳng định lại những nhiệm vụ, yêu cầu cho học viên sau
khi kết thúc trình diễn.
Thứ tám: Cần lưu ý đến khía cạnh của trình diễn là người học học qua
bắt chước, học theo mẫu hành vi. Người học chú ý nhiều hơn đến hành vi
của người dạy so với lời giảng. Vì vậy không chỉ những hành động có ý thức
mà cả những hành động không chủ ý, theo thói quen của người dạy cũng có
giá trị dạy học. Do đó, muốn đảm bảo thuyết trình thành công thì người dạy
cần chú ý cả những hành động tưởng như nhỏ nhặt: sắp đặt thiết bị, tắt công
tắc sau khi trình diễn v.v.
5.2.2.3. Một số kĩ thuật trình diễn
Giáo viên có thể sử dụng nhiều cách trình diễn. Dưới đây là một số
cách thông dụng:
* Trình diễn không cần giải thích. Theo cách này, trước khi trình diễn,
giáo viên cần nêu rõ trong phần trình diễn tiếp theo sẽ không có giải thích và
yêu cầu người học quan sát cẩn thận để sau đó trả lời các câu hỏi của người
dạy. Yêu cầu này thường có giá trị kích thích sự chú ý của người học, đặc
biệt là những chi tiết phức tạp hoặc khó hiểu.
* Trình bày có giải thích. Đây là cách trình bày phổ biến nhất và thường
đem lại kết quả cao, vì có sự kết hợp giữa hành động với lời mô tả, giải thích
của người dạy. Theo cách này, người dạy vừa trình diễn từng động tác vừa
mô tả bằng lời cách tiến hành hành động đó, kết hợp với câu hỏi gợi mở, dẫn
dắt người học tham gia vào việc trình diễn của giáo viên.
* Trình bày theo kiểu Xocrat. Theo cách này, giáo viên yêu cầu người
học đóng vai là “người hướng dẫn” còn mình là người thực hiện. Trong quá
trình thực hiện, sẽ xuất hiện các chỉ dẫn chưa đầy đủ, thậm chí sai, dẫn đến
trình diễn hỏng hoặc không hiệu quả. Khi đó, người dạy sẽ tỏ thái độ đồng
cảm với “người hướng dẫn” và đưa ra các câu hỏi “xin gợi ý” để cùng với họ
điều chỉnh những thao tác sai.
* Người học tự trình diễn. Theo cách này người học có thể tự trình diễn
dưới sự hướng dẫn của người dạy. Đây là cách khá phổ biến trong việc củng
cố các ví dụ hoặc các thí nghiệm được lặp lại. Chẳng hạn như học viên làm
bài tập, giải quyết các tình huống theo mô hình mẫu v.v
Chương 6. NHÓM PHƯƠNG PHÁP TRAO ĐỔITrao đổi, thảo luận là hiện tượng phổ biến của xã hội. Nó có mặt trong
mọi lĩnh vực của cuộc sống: trên diễn đàn chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá,
khoa học, giáo dục; trong gia đình và trong các tổ chức quốc tế. Trong dạy
học, thảo luận thường xuyên diễn ra giữa giáo viên và các học viên, trong giờ
học và ngoài giảng đường v.v. Như vậy trên thực tế, trao đổi, thảo luận được
sử dụng rộng rãi trong cuộc sống và trong dạy học. Với tư cách là kĩ thuật dạy
học, chúng thường được sử dụng trong các tình huống: thảo luận trên lớp;
thảo luận nhóm nhỏ; Xemina. Một hình thức khác của thảo luận đang được
vận dụng nhiều là động não. Dưới đây là những vấn đề cơ bản của các kĩ
thuật trên. Tuy nhiên, trước hết cần đề cập tới phương pháp cơ bản đó là
phương pháp vấn đáp và kĩ thuật đặt câu hỏi.
6.1. PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP VÀ KĨ THUẬT ĐẶT CÂU HỎI Đặt câu hỏi gợi mở được coi là một trong những công cụ kĩ thuật thông
dụng và đắc lực trong dạy học. Hầu hết giáo viên có kinh nghiệm đều sử dụng
kĩ thuật đặt câu hỏi trong bài dạy trên lớp hay trong nhóm học viên. Kĩ thuật
đặt câu hỏi được sử dụng trong các phương pháp dạy học, đặc biệt trong
phương pháp vấn đáp – một phương pháp dạy học được coi là tích cực. Vậy
phương pháp vấn đáp là gì? Vai trò của kĩ thuật đặt câu hỏi như thế nào trong
các phương pháp dạy học nói chung và trong phương pháp vấn đáp nói
riêng?
6.1.1. Định nghĩa
Phương pháp vấn đáp được khởi thuỷ từ nhà hiền triết – nhà sư phạm
Hi Lạp cổ đại: Xocrat (469 – 399 Trcn). Từ đó đến nay phương pháp này vẫn
được sử dụng trong dạy học với các mức độ khác nhau. Vì vậy, nhiều người
còn gọi là phương pháp Xocrat.
Phương pháp vấn đáp là quá trình tương tác giữa người dạy với người
học, được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về
một chủ đề nhất định được người dạy và người học đặt ra. Kết quả là dưới sự
dẫn dắt của người dạy, người học thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình;
khám phá và lĩnh hội được đối tượng học tập.
Khác với phương pháp thuyết trình ở chỗ, trong phương pháp vấn đáp,
nội dung cần truyền thụ không được thể hiện qua hệ thống lời giảng của
người dạy, mà được thực hiện bởi hệ thống câu trả lời của người học, dưới
sự gợi mở bởi các câu hỏi do người dạy khởi xướng. Nói cách khác, dạy học
theo phương pháp vấn đáp là người dạy sử dụng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt
người học giải quyết nhiệm vụ học tập.
Trong phương pháp vấn đáp, người dạy là người khởi xướng và điều
khiển quá trình trao đổi giữa người dạy với người học, còn người học dựa
trên những câu hỏi, những gợi mở để phát hiện vấn đề và tìm lời đáp cho các
câu hỏi của giáo viên. Yếu tố quyết định sự thành công của phương pháp này
là hệ thống câu hỏi, cách hỏi và thời điểm hỏi của giáo viên. Nếu xây dựng và
sử dụng hợp lí các câu hỏi, người giáo viên sẽ nhanh chóng định hướng
người học vào nội dung bài học, tạo ra sự chú ý của học viên và không khí
học tập của lớp học, kích thích tư duy, kiểm tra được mức độ tri thức và kĩ
năng của người học, dẫn dắt người học tìm kiếm kết quả học tập. Nói tóm lại,
đặt câu hỏi và giúp người học trả lời tốt các câu hỏi là trọng tâm của phương
pháp vấn đáp.
6.1.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp vấn đáp
* Điểm mạnh
Dễ dàng nhận thấy phương pháp vấn đáp có khá nhiều điểm mạnh
Thứ nhất: Vấn đáp là cách học để kích thích tư duy độc lập của người
học, dạy người học cách tự suy nghĩ đúng đắn.
Thứ hai: Giúp cho người học hiểu nội dung học tập hơn là học vẹt,
thuộc lòng.
Thứ ba: Khuyến khích, lôi cuốn người học vào môi trường học tập, tạo
không khí sôi nổi trong lớp. Kích thích và tạo động cơ học tập mạnh mẽ cho
người học, đặc biệt trong những trường hợp người học có câu trả lời đúng và
được giáo viên, bạn bè thừa nhận, khen ngợi (ngay tức thì).
Thứ tư: Cho phép giáo viên và học viên thu nhận được nhiều thông tin
phản hồi từ phía người học. Qua đó có thể đánh giá được mức độ hiểu bài,
mức độ tiến bộ của người học, chẩn đoán những khó khăn, vướng mắc của
họ. Phát hiện những ý tưởng sai của học viên và kịp thời uốn nắn.
Thứ năm: Tạo điều kiện cho người học hình thành và phát triển kĩ năng
nói, diễn đạt ý tưởng của mình. Tạo cơ hội để các học viên tự học hỏi lẫn
nhau.
* Hạn chế
+ Hạn chế lớn nhất của phương pháp vấn đáp là rất khó soạn thảo và
sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở và dẫn dắt người học để đi đến kết quả cuối
cùng theo một chủ đề nhất quán. Vì vậy đòi hỏi phải có sự chuẩn bị rất công
phu của người dạy, nếu không, kiến thức mà người học thu nhận được qua
trao đổi sẽ thiếu tính hệ thống, tản mạn, thậm chí vụn vặt.
+ Quá trình giải quyết vấn đề tốn nhiều lời gian. Cùng một vấn đề cần
truyền thụ thì việc sử dụng phương pháp vấn đáp thường kéo dài hơn, cồng
kềnh hơn nhiều so với thuyết trình.
+ Trong quá trình trao đổi thông qua vấn đáp, giáo viên rất khó kiểm
soát, vì có nhiều tình huống ngẫu nhiên xảy ra trong suốt quá trình trao đổi.
Do đó, dễ lệch hướng so với chủ đề ban đầu.
+ Không phải bao giờ cũng thu hút toàn bộ học viên tham gia vào cuộc
trao đổi. Vì vậy, nếu giáo viên ít kinh nghiệm, khi sử dụng phương pháp này
sẽ dễ biến thành cuộc tranh luận tay đôi giữa giáo viên với một vài học viên,
còn đa số học viên là người đứng ngoài cuộc và làm việc riêng.
6.1.3. Các loại câu hỏi
Có rất nhiều loại câu hỏi được sử dụng trong dạy học và cũng có nhiều
cách phân loại chúng. Dưới đây là một số cách phân loại và một số câu hỏi
phổ biến:
* Phân loại theo chức năng của câu hỏi trong hoạt động dạy học, ta có
thể chia thành ba nhóm câu hỏi: nhóm câu hỏi gợi mở, định hướng và hướng
dẫn người học; nhóm câu hỏi chẩn đoán, thăm dò và đánh giá; nhóm câu hỏi
kích thích, động viên người trả lời.
* Phân loại theo chức năng nhận thức tài liệu, ta có các loại câu hỏi
nhớ lại (tái hiện) và câu hỏi phát hiện. Loại câu hỏi thứ nhất hướng vào trí
nhớ, còn loại thứ hai hướng tới sự phát triển kĩ năng tư duy của người học.
* Phân loại theo mục tiêu nhận thức (dựa vào tiêu chí phân loại mục
tiêu của Bloom) có các loại câu hỏi: nhận biết; hiểu; vận dụng, phân tích, tổng
hợp; đánh giá.
* Phân loại theo nội dung vấn đề được hỏi, có các loại: câu hỏi thông tin
(nêu sự kiện) và câu hỏi giải thích, chứng minh v. v.
* Phân loại theo mức độ xác định của các phương án trả lời, có các
loại: câu hỏi đơn trị (chỉ có một phương án trả lời) và câu hỏi đa trị (nhiều
hướng, nhiều khả năng).
* Phân loại theo hình thức thể hiện của câu hỏi, có các loại: Câu hỏi
đóng (có – không hoặc đúng – sai; lựa chọn phương án đúng, điền thế, ghép
đôi v.v) và câu hỏi mở.
Trên đây là một số cách phân loại câu hỏi. Thực ra, việc phân loại chỉ là
tương đối. Vấn đề quan trọng là ở chỗ mục đích sử dụng cũng như trình độ
soạn thảo và sử dụng chúng vào trong các tình huống dạy học của giáo viên.
6.1.4. Kĩ thuật soạn thảo và sử dụng câu hỏi
Không có một quy trình chuẩn tắc và nghiêm ngặt cho việc soạn thảo
cũng như sử dụng hệ thống câu hỏi cho mọi giáo viên và trong mọi tình huống
dạy học. Hiệu quả của phương pháp này tuỳ thuộc khá nhiều vào tài nghệ và
sự linh hoạt của giáo viên. Tuy nhiên có thể đưa ra một số gợi ý cho việc
chuẩn bị câu hỏi và sử dụng chúng.
* Các gợi ý khi đặt câu hỏi:
1) Xác định rõ mục đích dạy học và tính chất của nội dung tài liệu dạy
học. Trên cơ sở đó xác định phạm vi sử dụng các phương pháp dạy học nói
chung, các câu hỏi nói riêng.
2) Phân tích tài liệu học tập thành các đơn vị tri thức nhỏ nhất, có thể
kiểm soát được, để từ đó tiên lượng mức độ sử dụng các câu hỏi và loại câu
hỏi tương ứng với từng đơn vị tri thức. Mỗi đơn vị tri thức nên được biểu đạt
bằng một mệnh đề để sau này dễ chuyển thành câu hỏi.
3) Xác định mục đích của các câu hỏi và các loại câu hỏi sẽ được sử
dụng (Câu hỏi dùng để kiểm tra bài đã học, câu hỏi gợi mở, câu hỏi dùng để
dẫn dắt người học giải quyết vấn đề v.v).
4). Đặt các câu hỏi theo mục đích và tính chất của chúng. Đây là khâu
cuối cùng của việc đặt câu hỏi nhưng là khâu khó khăn, nhất là đối với những
người chưa có kinh nghiệm. Để khắc phục, người ta hay bắt đầu bằng các từ
nghi vấn: Tại sao? Như thế nào? Điều gì sẽ xảy ra nếu…? v.v. Thông thường
từ một mệnh đề có thể đặt ra nhiều câu hỏi với các tính chất và mức độ khác
nhau.
Điều lưu ý khi đặt câu hỏi là cần tính đến các loại câu hỏi để đảm bảo
tính phù hợp của chúng đối với mục đích và nội dung dạy học, vừa đảm bảo
sự phong phú của các hình thức hỏi.
* Những điều cần chú ý khi đặt câu hỏi trên lớp:
Dưới đây là 10 điều gợi ý cho giáo viên khi đặt câu hỏi trong quá trình
dạy trên lớp:
1) Câu hỏi được đặt ra với mục đích gì? (gợi mở vấn đề; định hướng
người học; hướng dẫn hành vi người học; kiểm tra kiến thức đã có của người
học; phát hiện vấn đề mới; động viên, khích lệ, châm chọc người học v.v)
2) Người học có thể trả lời được câu hỏi đặt ra không (độ khó của câu
hỏi).
3) Người học có đủ thời gian để suy nghĩ và trả lời câu hỏi đặt ra
không? (Không nên yêu cầu người học trả lời ngay sau khi đặt câu hỏi. Càng
không nên gọi người học đứng lên rồi mới đặt câu hỏi).
4) Học viên có được khuyến khích bằng ngôn ngữ, điệu bộ, cử chỉ của
giáo viên khi trả lời không?
5). Câu trả lời đúng của học viên có được khẳng định, khen ngợi? Có
tránh cho học viên bị mắc cỡ khi họ trả lời sai?
6). Giáo viên có biết đặt lại câu hỏi khác đơn giản hơn, khi câu hỏi
trước đó không có người trả lời?
7) Câu hỏi có được sử dụng bằng ngôn ngữ ngắn gọn, rõ ràng, đơn
giản?
8). Câu hỏi có được phân phối đều cho mọi thành viên trong lớp hay chỉ
tập trung vào một số ít học viên?
9) Các loại câu hỏi được dùng như thế nào? Có tránh được việc dùng
một loại câu hỏi, nhất là dùng quá nhiều câu hỏi gợi nhớ lại không?
10) Khi giảng bài có thường xuyên đặt ra câu hỏi hay không? (Nên nhớ:
một lớp học không có đối thoại là một lớp học chết). Có dùng các từ để hỏi
làm từ cửa miệng không (Phải không ạ? Như thế nào ạ? v.v)? Những câu
cửa miệng như vậy rất có hại đối với người dạy và người học, nhất là trong
dạy học vấn đáp, vì người học sẽ không phân biệt đâu là câu hỏi, đâu là câu
cửa miệng của giáo viên.
6.2. PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN TRÊN LỚP6.2.1. Khái niệm
Thảo luận trên lớp là phương pháp dạy học trong đó người dạy (người
điều khiển) tổ chức và điều khiển các thành viên trong lớp học trao đổi ý kiến
và tư tưởng của mình về nội dung học tập, qua đó đạt được mục đích dạy
học.
6.2.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp thảo luận
* Điểm mạnh
Thảo luận trên lớp đòi hỏi người học tích cực động não, tạo cơ hội để
mọi học viên được tham gia trực tiếp vào quá trình dạy học và được thể hiện
quan điểm của mình. Kĩ thuật thảo luận trên lớp đặc biệt thích hợp khi giảng
viên muốn làm những việc sau:
+ Hình thành các tri thức lí luận, tri thức về giá trị, cảm xúc và hiểu biết
ở học viên. Trong trường hợp các nội dung học tập là thực hành kĩ thuật, kĩ
năng thực tiễn và trí óc thì phương pháp thảo luận ít phù hợp hơn.
+ Giúp người học cách suy nghĩ về những vấn đề có trong nội dung
môn học, bằng cách tạo điều kiện cho họ học cách suy nghĩ.
+ Giúp giáo viên có nhiều cơ hội hiểu biết và đánh giá kiến thức, kinh
nghiệm và tư duy của học viên. Đồng thời giúp học viên hiểu và đánh giá bản
thân và các học viên khác trong lớp.
+ Tạo cơ hội cho người học áp dụng các biện pháp mới và kiểm tra,
đánh giá tính đúng đắn của các biện pháp đó.
+ Giúp người học cơ hội nâng cao nhận thức và kĩ năng phát biểu vấn
đề, kĩ năng sử dụng các kiến thức đã có của mình và từ các nguồn khác (Từ
các loại tài liệu, từ bài giảng của giáo viên).
+ Tạo động cơ và kích thích thái độ tích cực tham gia học tập của
người học.
+ Tạo thái độ bình đẳng, hiểu biết và thân thiện giữa các học viên và
giữa học viên với giảng viên.
* Hạn chế
Thảo luận tuy có nhiều điểm mạnh, nhưng cũng có hạn chế nếu sử
dụng chúng không phù hợp. Chẳng hạn, trong những trường hợp sau:
+ Mục tiêu dạy học là trong khoảng thời gian ngắn, cung cấp cho người
học một lượng thông tin lớn, có hệ thống về một chủ đề nhất định.
+ Các nội dung dạy học có logic tường minh, các chủ đề đã rõ ràng và
đơn giản.
+ Giáo viên thiếu hiểu biết và kĩ năng lắng nghe, kĩ năng điều khiển và
kiểm soát lớp học kém.
+ Lớp học có nhiều người có thói quen tiếp thu thụ động, ngại tham gia
phát biểu, hoặc trong lớp có một số ít người hăng hái phát biểu quá mức.
Trong cả hai trường hợp đều ảnh hưởng không tốt đến sự tham gia của các
thành viên trong lớp.
6.2.3. Các bước tiến hành thảo luận
* Lập kế hoạch tổ chức thảo luận. Ngoại trừ những trường hợp thảo
luận ngắn diễn ra xen kẽ khi tiến hành dạy học bằng các phương pháp khác,
các hoạt động dạy học dựa chủ yếu vào phương pháp thảo luận cần tiến
hành một cách có kế hoạch. Để làm được điều này cần chú ý những điểm
sau:
Thứ nhất: Xác định rõ mục tiêu của cuộc thảo luận. Cần phải trả lời câu
hỏi: Mục tiêu cuộc thảo luận này là gì? Mở rộng và phân tích sâu một chủ đề?
Củng cố và phát triển kiến thức đã học? Phát triển kĩ năng tư duy sáng tạo và
khả năng phê phán, phát triển kĩ năng diễn đạt của học viên? Tìm hiểu quan
điểm, thái độ và kinh nghiệm sống của học viên? v.v. Căn cứ vào mục tiêu
chủ yếu của cuộc thảo luận để thiết kế nội dung và lập kế hoạch thảo luận.
Thứ hai: Xác định nội dung thảo luận. Đây là khâu quan trọng của quá
trình chuẩn bị thảo luận. Công việc này được tiến hành theo hai giai đoạn: lựa
chọn chủ đề thảo luận và phân tích nội dung của chủ để thành những đơn vị
nhỏ. Việc làm này giúp giáo viên và cả lớp học dễ dàng định hướng và kiểm
soát được tiến trình thảo luận mà không bị rối.
Thứ ba: Xây dựng cấu trúc tiến trình thảo luận từng vấn đề. Một cuộc
thảo luận, dù vấn đề đơn giản hay phức tạp cũng đều có cấu trúc gồm 5
phần:
1. Xác đinh vấn đề thảo luận.
2. Đưa giả thuyết về vấn đề.
3. Tìm chứng cứ chứng minh và kiểm tra chứng cứ.
4. Đánh giá các giả thuyết và các chứng cứ.
5. Nhận xét, kết luận.
Thứ tư: Dự kiến hệ thống câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi gợi mở sẽ
được sử dụng trong quá trình thảo luận. Cần lưu ý trình tự các câu hỏi phải
thống nhất với mục đích thảo luận ban đầu, tránh hiện tượng các câu hỏi đi
quá xa trọng tâm.
Thứ năm: Kế hoạch thảo luận cần thông báo cho học viên biết trước.
* Tổ chức và dẫn dắt thảo luận. Có nhiều biện pháp, nhiều việc phải
làm khi tổ chức thảo luận. Dưới đây là một số công việc chính:
Thứ nhất: Bố trí chỗ ngồi cho lớp. Một yếu tố quan trọng là các học viên
phải được nhìn thấy nhau trong quá trình thảo luận. Vì thế nên bố trí theo
hình chữ U hoặc vòng tròn là tốt.
Thứ hai: Khởi động thảo luận. Bắt đầu cuộc thảo luận thường rất khó,
nhất là đối với những người có cá tính rụt rè, ít nói hay mới gặp. Để khởi động
và dẫn dắt cuộc thảo luận, có thể theo những gợi ý dưới đây:
+ Người dẫn chương trình (có thể là giáo viên, cũng có thể là học viên)
nêu các sự kiện có liên quan tới chủ đề thảo luận. Những sự kiện này có thể
được trình bày bằng tài liệu trực quan (biểu đồ, phim v.v), hoặc tình huống.
Nếu có sự đối ngược ý kiến giữa các thành viên về chủ đề thảo luận thì người
dẫn chương trình cần giới thiệu các sự kiện của các bên và luôn đứng ở vị trí
trung lập, không thiên vị. Sau khi nêu sự kiện, người dẫn chương trình đưa ra
câu hỏi dẫn dắt vào cuộc thảo luận.
+ Tạo ra sự bất đồng ý kiến giữa các thành viên trong lớp. Thảo luận
chỉ được diễn ra khi có sự khác biệt ý kiến giữa các thành viên. Vì vậy, để
hấp dẫn học viên tham gia thảo luận cần tạo ra sự khác biệt ý kiến giữa họ.
+ Tạo ra tình huống có vấn đề.
Thứ ba: Dẫn dắt học viên tham gia thảo luận.
Thứ tư: Đánh giá sự tiến bộ của học viên trong quá trình phát biểu.
Nhận xét, tóm tắt những nội dung chính và nêu vấn đề cho các cuộc thảo luận
tiếp theo.
6.2.4. Vai trò của người điều khiển và cách dẫn dắt buổi thảo luận
Một cuộc thảo luận thành công là cuộc thảo luận phát sinh và giải quyết
được nhiều mâu thuẫn nhận thức giữa các học viên. Vì vậy, hiệu quả cuộc
thảo luận phụ thuộc rất nhiều vào vai trò người điều khiển. Thông thường,
trong các cuộc thảo luận, vai trò này do giáo viên đảm nhận, trong nhiều
trường hợp có thể giao cho học viên trong lớp. Người điều khiển có thể là
người trọng tài phân xử ý kiến của các học viên, cũng có thể là người hướng
đạo, dẫn dắt học viên khám phá và phát hiện những điều mới trong các ý kiến
khác với mình. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào thái độ và nghệ thuật dẫn
dắt thảo luận của giáo viên hay người điều khiển.
* Nghệ thuật dẫn dắt thảo luận. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng chất lượng
cuộc thảo luận. Trong đó có hai yếu tố quan trọng: nghệ thuật sử dụng câu
hỏi, kĩ thuật sử dụng phương pháp hai cột của người điều khiển.
+ Câu hỏi được coi là phương tiện của người giáo viên trong việc điều
khiển thảo luận. Chúng được dùng vào hai trường hợp chính: Định hướng và
dẫn dắt học viên trong quá trình thảo luận. Để khởi động và định hướng học
viên nhập cuộc thảo luận, nên dùng các câu hỏi gợi mở. Chẳng hạn: Bạn có
thể cho biết vì sao bạn đã…? Bạn sẽ xử lí như thế nào với tình huống này?…
Trong quá trình dẫn dắt học viên thảo luận, không nên đặt các câu hỏi mơ hồ,
xa với chủ đề thảo luận. Khuyến khích học viên trả lời sâu vấn đề bằng cách
đặt các câu hỏi phụ (ý kiến này hay đấy, vậy tại sao bạn lại nghĩ như vậy? Sự
phát triển tiếp theo sẽ là gì?). Các câu hỏi nên dựa vào thực tế, vào vốn kinh
nghiệm đã có của học viên. Tránh sử dụng các câu hỏi hàm ý mỉa mai, xúc
phạm người trả lời khi họ có câu trả lời chưa đúng (Nói như thế mà nghe
được à? Sao mà ngốc thế?)
Trong nhiều trường hợp, các cuộc thảo luận giống như một trận bóng
bàn, các ý kiến và câu hỏi thường được chuyền từ giáo viên sang học viên:
Giáo viên – học viên – giáo viên - học viên…Vì vậy, dễ dẫn đến sự thiếu nhiệt
tình tham gia của nhiều học viên. Cách tốt nhất để nâng cao chất lượng buổi
thảo luận là chuyển quan hệ giáo viên – học viên sang học viên– học viên.
Trong đó học viên tự nêu câu hỏi và trả lời, biến thảo luận thành những cuộc
tranh luận nhỏ. Nếu trong thảo luận mà không có tranh luận sẽ kém sôi nổi và
hiệu quả thấp.
Cần phân biệt giữa thảo luận với tranh luận. Trong tranh luận, các bên
thường thiên về bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình. Vì vậy, các chứng cứ
đưa ra chủ yếu phục vụ cho việc khẳng định các luận điểm được bảo vệ.
Trong khi đó thảo luận, mang tính khám phá, trong đó mọi người đưa ra các ý
kiến, quan điểm riêng nhằm hướng đến mục đích chung, các thành viên trong
lớp không tìm cách phản bác ý kiến của người khác, mà tìm chứng cứ khẳng
định hoặc phủ định nó để cuối cùng tạo ra sự thống nhất chung. Trong thảo
luận, mọi người tự suy đoán và tự thay đổi quan niệm.
+ Trong những cuộc tranh luận của học viên, thường xuất hiện các ý
kiến khác nhau, thậm chí có tính đối kháng giữa hai hay nhiều nhóm. Với
những trường hợp như vậy, cách tốt nhất là giáo viên (hoặc người điều khiển)
sử dụng phương pháp bảng hai cột. Trong đó người điều khiển kẻ trên bảng
hai cột: Các ý kiến tán thành (nhóm A) và các ý kiến không tán thành (nhóm
B).
Ý kiến nhóm A Ý kiến nhóm B
Nhiệm vụ của người điều khiển là hiểu và ghi tóm tắt tất cả lập luận và
chứng cứ do các thành viên của từng nhóm đưa ra (không được bỏ sót bất kì
ý kiến nào). Khi không còn ý kiến, cuộc thảo luận sẽ chuyển sang mục đánh
giá. Trong nhiều trường hợp, tại thời điểm ghi xong bảng thì các học viên đã
tự rút ra kết luận tán thành hay phản đối. Vấn đề tiếp theo của người điều
khiển là cần có biện pháp phòng ngừa hoặc xoá bỏ những mâu thuẫn cá
nhân nảy sinh trong và sau quá trình tranh luận. Những mâu thuẫn này rất dễ
xảy ra và ảnh hưởng không tốt đến thái độ và tình đoàn kết giữa các thành
viên trong lớp.
* Thái độ và nghệ thuật biểu hiện thái độ của người điều khiển . Thái độ
và nghệ thuật biểu hiện thái độ của người điều khiển có ảnh hưởng không
nhỏ tới hiệu quả cuộc thảo luận.
+ Thái độ trân trọng các thành viên và ý kiến của họ. Đây là bản chất
của dạy học bằng phương pháp trao đổi. Trong dạy học theo các phương
pháp thuyết trình, thường ngầm chứa một thông điệp: học viên là người
không hiểu gì về vấn đề giáo viên sắp trình bày, còn trong thảo luận thì ngược
lại, người giáo viên cần xuất phát từ một giả thuyết: vấn đề được thảo luận
mọi người đã biết (mặc dù trên thực tế không hoàn toàn như thế). Vì vậy,
người điều khiển cần luôn luôn thể hiện sự trân trọng và quan tâm đến kinh
nghiệm và ý kiến của các thành viên. Điều này được thể hiện qua thái độ lắng
nghe và chia sẻ của người điều khiển khi học viên đặt câu hỏi hoặc trả lời.
+ Nghệ thuật biểu hiện thái độ của người điều khiển. Đối với nhiều học
viên, trong quá trình thảo luận gặp không ít cản trở: thói quen bị động, ngại
diễn đạt bằng lời ý của mình trước tập thể; không hiểu được giá trị của thảo
luận; tâm lí sợ bị phê phán và sợ người khác coi thường, hạ thấp mình (cho là
mình dốt) v.v. Mặt khác, cũng có không ít học viên có thói quen nói nhiều, nói
dài, chiếm nhiều thời gian cuộc thảo luận. Trong những trường hợp như vậy,
người điều khiển cần biết thể hiện thái độ của mình. Lời khuyên thiết thực ở
đây là hãy sử dụng ánh mắt thân thiện và sự gật đầu tán thưởng; thường
xuyên đến gần người trả lời và sử dụng nhiều câu khích lệ; nhắc tên với thái
độ tôn trọng người phát biểu (theo bạn Lê Hoàng thì như vậy, còn ý kiến của
bạn Nguyễn An thì sao?) v.v. Với những câu trả lời sai hoặc chưa đầy đủ,
không nên sử dụng các từ phủ định một cách cứng nhắc (sai rồi, không đúng
v.v.). Những cử chỉ thân thiện như vậy sẽ góp phần tháo gỡ các cản trở của
học viên. Với những học viên nói quá nhiều, người điều khiển nên lịch sự lái
vấn đề sang người khác (Bạn A vừa nêu một số ý rất hay, nhưng chúng ta
cũng cần biết ý kiến của bạn B).
Việc sử dụng ngôn ngữ cũng là vấn đề cần quan tâm khi tổ chức thảo
luận. Một cách tốt để tạo không khí sôi nổi trong lúc thảo luận là giáo viên
không nên nói nhỏ nhẹ, mà cần nói mạnh mẽ, hùng hồn, để thể hiện sự quan
tâm nhiệt tình trao đổi.
Tóm lại, thảo luận là một trong những phương pháp dạy học lí thú. Nếu
giáo viên tích cực sử dụng phương pháp này là thể hiện sự tôn trọng tính chủ
thể của người học. Nó rất thích hợp với dạy học hiện đại. Để phương pháp
thảo luận có hiệu quả cao, người giáo viên cần tuân thủ các yêu cầu sau:
1) Trong thảo luận, các thành viên phải được đối xử bình đẳng với
nhau. Các ý kiến đều được tôn trọng và được đánh giá công bằng.
2) Trong thảo luận cần có tranh luận, nhưng tranh luận không phải để
đối đầu mà là đối thoại.
3) Trong quá trình thảo luận nên sử dụng nhiều kĩ thuật thể hiện, với
phương châm động não và sáng tạo.
4) Vai trò người điều khiển là rất quan trọng. Hiệu quả thảo luận tuỳ
thuộc nhiều vào thái độ tôn trọng người học và kĩ thuật, nghệ thuật tổ chức,
điều khiển của giáo viên.
6.3. PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN THEO NHÓM NHỎThảo luận theo nhóm nhỏ là sự phát triển của phương pháp thảo luận
trên lớp và ngày càng được sử dụng phổ biến trong dạy học hiện đại.
6.3.1. Định nghĩa
Thảo luận theo nhóm nhỏ là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học)
được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều
được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của
nhóm mình về vấn đề đó.
Mục đích của làm việc và thảo luận theo nhóm nhỏ là nhằm tăng tối đa
cơ hội để các thành viên được làm việc và thể hiện khả năng của mình; phát
huy tinh thần hiểu biết, hợp tác, thi đua và đoàn kết giữa các thành viên trong
lớp.
Làm việc và thảo luận theo nhóm nhỏ là hình thức học tập hợp quy luật
tâm lí của con người. Mọi cá nhân, từ nhỏ đến lớn đều có xu hướng thích
sinh hoạt, quan hệ và làm việc trong các nhóm nhỏ. Ở đó cá nhân không
những được thoả mãn nhu cầu giao tiếp, có cảm giác an toàn, mà còn xuất
hiện nhiều hứng khởi, làm tăng hiệu suất hoạt động.
Về phương diện tâm lí học, trong thảo luận theo nhóm giữa các thành
viên thường diễn ra các hiện tượng: Có sự tương tác mặt đối mặt giữa các
thành viên (do cự li của các thành viên trong nhóm gần nhau); có sự phụ
thuộc lẫn nhau một cách tích cực; trách nhiệm phải giải thích vấn đề thuộc về
từng cá nhân trong nhóm. Và hình thành các kĩ năng hợp tác nhóm và kĩ
năng xử lí tình huống trong nhóm.
6.3.2. Điểm mạnh và hạn chế của thảo luận theo nhóm nhỏ
* Điểm mạnh. So với thảo luận theo lớp, làm việc và thảo luận theo
nhóm nhỏ có nhiều điểm mạnh hơn:
Thứ nhất: Học theo nhóm nhỏ bao giờ cũng sôi nổi. Nó tạo cơ hội tối đa
cho mọi thành viên trong nhóm được bộc lộ hiểu biết và quan điểm của mình
về nội dung và phương pháp học tập, cũng như các lĩnh vực khác; giúp họ có
nhiều cơ hội rèn luyện các khả năng diễn đạt cách thức tư duy và ý tưởng
của mình. Điều này đặc biệt có ích đối với những học viên nhút nhát, ngại, ít
phát biểu trong lớp.
Thứ hai: Tạo cơ hội thuận lợi để các thành viên học hỏi lẫn nhau. Đây
chính là hình thức dạy học đa dạng và hiệu quả, nhất là đối với các lĩnh vực
tri thức, phương pháp tư duy và kĩ năng diễn đạt. Trong việc học và thảo luận
theo nhóm, trách nhiệm truyền đạt, học và hiểu bài đã được chuyển cho
người học. Do vậy các thành viên trong nhóm đều phải nâng cao trách nhiệm
và sự nỗ lực của mình trước nhóm. Dân gian có câu: Học thầy không tầy học
bạn.
Thứ ba: Tạo cơ hội để các thành viên trong lớp học làm quen, trao đổi
và hợp tác với nhau. Góp phần làm tăng bầu không khí hiểu biết, tin cậy thân
thiện và đoàn kết giữa các học viên. Điều này rất bổ ích cho lớp học dành cho
người lớn và các dự án.
Thứ tư. Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm và
giữa các nhóm, đặc biệt là trong việc học tập các chủ đề có tính sáng tạo cao.
Thứ năm: Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên có thông tin phản hồi về
người học. Đây là một trong những ưu điểm nổi trội của thảo luận nhóm so
với thảo luận trên lớp. Trong thảo luận trên lớp, giáo viên thường chỉ thu nhận
được phát biểu của số ít học viên (thậm chí những phát biểu này chưa bộc lộ
hết ý nghĩ của họ – vì ngại phát biểu trước giáo viên và trước lớp) còn trong
thảo luận nhóm nhỏ, mọi thành viên đều được phát biểu với thái độ tự tin và
có ghi chép lại. Do đó, số lượng ý kiến và sự thấu đáo của chúng trong các
cuộc thảo luận nhóm chắc chắn nhiều hơn so với thảo luận theo lớp. Mặt
khác, giáo viên còn có thể thu được tri thức và kinh nghiệm từ phía người
học, qua các phát biểu có suy nghĩ và sáng tạo của học viên. Điều này rất có
giá trị đối với giáo viên dạy các lớp học của người lớn hay dự án. Ở đó có
nhiều học viên là những người có trình độ chuyên môn, hiểu biết và có hệ
thống thái độ, có định hướng giá trị phong phú, cấp tiến.
Như vậy, nếu làm việc và thảo luận theo nhóm được tổ chức tốt sẽ tăng
cường tính tích cực chủ động của người học, giúp người học tập trung vào
bài học, phát triển được các kĩ năng tư duy và óc phê phán, các kĩ năng giao
tiếp và xã hội quan trọng khác.
* Hạn chế. Mặc dù có nhiều điểm mạnh, nhưng làm việc và thảo luận
theo nhóm cũng có hạn chế.
Thứ nhất: Các nhóm và cá nhân trong nhóm dễ bị chệch hướng với chủ
đề ban đầu. Các phát biểu thiếu tập trung, tản mạn. Điều này dễ xảy ra đối
với những chủ đề có nội dung phong phú, hấp dẫn. Các thành viên trong
nhóm mải theo đuổi ý tưởng riêng và người chủ trì không thường xuyên ý
thức hoặc không kiểm soát được tiến trình thảo luận.
Thứ hai: Tốn nhiều thời gian. Nếu với mục tiêu hình thành ở người học
các tri thức khoa học có logic tường minh hoặc những kĩ năng có tính xác
định cao thì việc thảo luận nhóm sẽ không hiệu quả bằng các phương pháp
dùng lời của giáo viên. Vì vậy, làm việc và thảo luận theo nhóm sẽ rất thích
hợp với các mục tiêu và nội dung dạy học mang tính phát triển và sáng tạo cá
nhân, tập thể, còn các nội dung học tập có tính khuôn mẫu thì hiệu quả của
phương pháp này bị suy giảm.
Thứ ba: Hiệu quả học tập của nhóm phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần
tham gia của các thành viên trong nhóm. Nếu trong nhóm thảo luận chỉ có
một vài người tham gia tích cực sẽ dẫn đến tình trạng sẽ có một vài người là
chủ nhân còn các thành viên khác là khách ngồi nghe, để mặc cho người
khác dẫn dắt và quyết định. Khi đó học theo nhóm trở thành sự độc diễn cá
nhân, hệt như phương pháp thuyết trình của giáo viên. Còn các thành viên
khác trở thành “người ngoài cuộc” – một hiện tượng khá phổ biến trong thảo
luận hiện nay.
Thứ tư: Làm việc theo nhóm gây hưng phấn hoạt động rất cao cho các
thành viên và cho nhóm. Mặt khác nó cũng dễ tạo ra trạng thái mệt mỏi, trì
trệ. Vì vậy, làm việc theo nhóm không thích hợp với những buổi thảo luận dài,
thường xuyên và nhiều nội dung. Mặt khác, các tác động từ bên ngoài như sự
giám sát thường xuyên của giáo viên, yếu tố thi đua giữa các nhóm cũng ảnh
hưởng nhiều tới hoạt động của nhóm. Thiếu những yếu tố này, nhóm trở nên
kém hiệu quả.
6.3.3. Các hình thức thảo luận nhóm
Có rất nhiều hình thức thảo luận theo nhóm. Hiệu quả của chúng tuỳ
thuộc vào ý đồ và tính chất sử dụng của người dạy. Dưới đây là một số hình
thức phổ biến.
* Nhóm nhỏ thông thường. Giáo viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ
(3 – 5 người) để thảo luận một vấn đề cụ thể nào đó và nhanh chóng đưa ra
kết luận tập thể về vấn đề đó. Hình thức này thường được sử dụng kết hợp
với các kĩ thuật dạy học khác trong một bài học, tiết học. Nội dung thảo luận
của nhóm nhỏ thông thường là các vấn đề ngắn, thời lượng ít (5– 10 phút).
* Nhóm rì rầm. Giáo viên chia lớp học thành những nhóm “cực nhỏ”,
khoảng 2 – 3 người (thường là cùng bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất
trả lời một câu hỏi, giải quyết một vấn đề, nêu một ý tưởng, một thái độ, v. v.
Để nhóm rì rầm có hiệu quả, giáo viên cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ
kiện, các gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với các câu trả lời để các thành viên tập
trung vào giải quyết. Việc chia lớp thành những nhóm nhỏ hoặc nhóm “rì rầm”
là biện pháp khắc phục hiện tượng “người ngoài cuộc”, làm tăng hiệu quả của
thảo luận nhóm.
* Nhóm kim tự tháp. Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm. Sau
khi thảo luận theo cặp (nhóm rì rầm), các cặp (2 – 3 nhóm rì rầm) kết hợp
thành nhóm 4 – 6 người để hoàn thiện một vấn đề chung. Nếu cần thiết có
thể kết hợp các nhóm này thành nhóm lớn hơn (8 – 16 người).
* Nhóm đồng tâm (nhóm bể cá), giáo viên chia lớp thành hai nhóm:
nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó hoán vị cho nhau). Nhóm thảo luận
thường là nhóm nhỏ 6 – 10 người, có nhiệm vụ thảo luận và trình bày vấn đề
được giao, còn các thành viên khác trong lớp đóng vai người quan sát và
phản biện. Hình thức nhóm này rất có hiệu quả đối với việc làm tăng ý thức
trách nhiệm cá nhân trước tập thể và tạo động cơ cho những người ngại trình
bày ý tưởng của mình trước tập thể.
* Nhóm khép kín và nhóm mở. Nhóm khép kín là các thành viên trong
nhóm nhỏ làm việc trong khoảng thời gian dài, thực hiện trọn vẹn một hoạt
động học tập, từ giai đoạn đầu tới cuối cùng. Điểm mạnh của hình thức nhóm
này là các thành viên trong nhóm được tạo điều kiện tham gia thực hiện trọn
vẹn một hoạt động sáng tạo, qua đó phát triển và hoàn thiện khá toàn diện hệ
thống kĩ năng của mình. Điều bất lợi của nhóm khép kín là các thành viên ít
có khả năng lựa chọn các giai đoạn phù hợp với mình. Hơn nữa, việc thực
hiện tất cả các giai đoạn tốn nhiều công sức, thời gian. Nhóm mở là các thành
viên có thể tham gia một hoặc vài giai đoạn phù hợp với khả năng và sở thích
của mình. Hình thức này mang lại cho người học nhiều khả năng lựa chọn
vấn đề và chủ động về thời gian, sức lực.
6.3.4. Một số gợi ý về tổ chức làm việc và thảo luận theo nhóm nhỏ
Để hoạt động và thảo luận theo nhóm nhỏ có hiệu quả, ngoài nắm vững
kĩ thuật chung của việc tổ chức và điều khiển học viên thảo luận theo lớp,
giáo viên cần lưu ý những điểm sau:
1) Chia nội dung bài dạy thành những vấn đề nhỏ có liên kết với nhau.
Mỗi vấn đề nhỏ được coi là một liều hay một chủ đề thảo luận.
2) Chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ. Các hình thức chia nhóm tùy
thuộc vào từng nội dung và tính chất của vấn đề thảo luận, cũng như các điều
kiện dạy học khác (bàn ghế, phòng học, tài liệu – phương tiện học tập, các
giáo viên trợ giảng v.v). Phương châm là sử dụng linh hoạt nhiều hình thức
nhóm phù hợp với các tình huống dạy học, đồng thời tích cực phối hợp các
hình thức với nhau. Đảm bảo cho các nhóm biết trước mục đích, nội dung
của thảo luận và được chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết (tài liệu, giấy
các cỡ, bút các loại và các phương tiện học tập khác).
3) Mỗi nhóm phải có 1 nhóm trưởng điều khiển và duy trì hoạt động của
nhóm và 1 thư kí ghi chép đầy đủ các phát biểu trong thảo luận.
4) Có thể giao nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc độc lập trong nhóm,
sau đó cả nhóm đánh giá và bổ sung. Cũng có thể giao nhiệm vụ chung cho
cả nhóm. Tuy nhiên cần nhớ: tại một thời điểm, mỗi nhóm (cá nhân) chỉ được
giao thảo luận một chủ đề (một nhiệm vụ), không giao cùng một lúc nhiều chủ
đề.
5) Tại một thời điểm có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một
chủ đề. Kết thúc chủ đề này lại thảo luận tiếp chủ đề khác (phát triển bài học
theo chiều dọc). Cũng có thể giao mỗi nhóm thảo luận 1 chủ đề. Sự liên kết
các nhóm này sẽ tạo ra sự thống nhất về kết quả chung của bài dạy (phát
triển bài học theo chiều ngang). Cả hai hướng đều có điểm mạnh và hạn chế
nhất định. Vì vậy, tuỳ theo mục tiêu và nội dung bài dạy, giáo viên có thể kết
hợp cả hai cách trên với các liều lượng nhất định.
6) Trong mỗi chủ đề làm việc hay thảo luận, nên thực hiện theo quy
trình chung của thảo luận (xác định vấn đề cần thảo luận; xây dựng giả
thuyết; tìm kiếm các luận cứ, luận chứng để chứng minh (bác bỏ) giả thuyết;
đánh giá và thống nhất các giải pháp).
7) Các sản phẩm hoạt động của cá nhân hay của cả nhóm có thể được
thể hiện trên các văn bản, bảng tư liệu, biểu đồ, bản thiết kế hoặc các loại mô
hình. Các sản phẩm đó phải được giới thiệu và trình bày trước nhóm hoặc
trước các nhóm khác trong lớp, phải được bình xét và đánh giá ý kiến của
người khác, tức là phải đảm bảo sự tôn trọng và bình đẳng giữa các thành
viên trong nhóm hoặc giữa các nhóm khi thảo luận.
8) Đảm bảo yếu tố cạnh tranh và thi đua giữa các nhóm. Các hình thức
củng cố động viên, tạo không khí thi đua và cạnh tranh có thể là phần thưởng,
lời khen, các danh hiệu v.v. Giáo viên không nên tiết kiệm lời khen đối với các
thành công và tiến bộ của học viên và các nhóm.
9) Đảm bảo yếu tố thông tin phản hồi từ các nhóm. Biện pháp thông
thường là kiểm tra xem thư kí nhóm ghi chép được những gì? Hỏi các thành
viên có hiểu vấn đề cần thảo luận không? Có bỏ sót điểm gì quan trọng
không? Có thắc mắc gì không? Điều cần lưu ý là thái độ thân thiện, gần gũi
và cởi mở của giáo viên khi đi kiểm tra các nhóm có ảnh hưởng rất lớn tới
hoạt động của các nhóm và lượng thông tin phản hồi.
10) Bất kì cuộc thảo luận nào cũng phải có kết luận. Giáo viên cần dành
thời gian ghi chép, đánh giá sự tiến bộ của các nhóm, tóm tắt ý tưởng của các
nhóm, thực hiện vai trò trọng tài hoặc người hướng đạo cho các nhóm tiếp
tục hoàn thiện hoặc phát triển ý tưởng của mình.
6.4. PHƯƠNG PHÁP ĐỘNG NÃO6.4.1. Khái niệm
Một biến dạng lí thú của thảo luận là phương pháp động não (còn được
gọi bằng các tên: phương pháp công não, phương pháp tập kích não,
phương pháp tấn công não). Điều kì lạ là động não là hoạt động học tập rất
sôi nổi và các ý tưởng được sản sinh ra gấp nhiều lần so với làm việc cá
nhân, nhưng cho đến nay, phương pháp này vẫn còn ít được sử dụng trong
dạy học. Vậy động não là gì?
Động não là một kĩ thuật dạy học, trong đó nội dung dạy học không
được cấu trúc thành bài dạy chặt chẽ, cho trước, tất cả học viên đều được
đưa ra ý kiến, ý tưởng của mình về một vấn đề nào đó. Kết quả là người học
thu nhận được các ý tưởng, các giải pháp chung, sau khi đã sàng lọc các ý
tưởng được đưa ra.
Động não, như tên gọi của nó, đặc biệt thích hợp với các hoạt động dạy
học hướng đến mục đích phát triển ở người học những phẩm chất của người
hoạt động độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo và óc phê phán – những
phẩm chất trí tuệ quan trọng của con người hiện đại. Mặt khác, kết quả của
các cuộc động não là những ý tưởng, các giải pháp có tính chất phát kiến
“mới mẻ” của người học, vì vậy, giáo viên cũng có thể thu nhận được nhiều
điều bổ ích từ các kết quả đó.
Động não không thích hợp với các bài dạy có nội dung tường minh,
khuôn mẫu, ít cần sự sáng tạo của người học. Tiến hành một cuộc động não
mất khá nhiều thời gian. Đôi khi các kết quả thu được sau cuộc động não là
các ý tưởng nghèo nàn, xa rời chủ đề cần nghiên cứu, học tập. Những hạn
chế này làm cho động não khó trở thành phương pháp dạy học độc lập chủ
đạo trong nhà trường, nhưng nó có thể là kĩ thuật dạy học tốt khi được kết
hợp với các phương pháp khác.
6.4.2. Kĩ thuật tiến hành cuộc động não
Mục tiêu tối thượng của động não là kích thích tư duy và phát triển các
ý tưởng sáng tạo của học viên. Ngày nay, có khá nhiều biện pháp kĩ thuật để
thực hiện mục đích này. Dưới đây là những nguyên tắc, biện pháp và yêu cầu
đối với một cuộc động não:
6.4.2.1. Nguyên tắc của cuộc động não
Thứ nhất: Tất cả các ý kiến, các ý tưởng được đưa ra đều được hoan
nghênh như nhau, kể cả ý tưởng ngông cuồng, viển công.
Thứ hai: Mọi ý tưởng khi đã được đưa ra đều là tài sản chung của cả
nhóm; việc ghép nối các ý tưởng hay phát triển tiếp theo đều được hoan
nghênh.
Thứ ba: Mục tiêu là số lượng các ý tưởng chứ không phải là chất lượng
các ý tưởng khi được đưa ra.
Thứ tư: Không ai được phán xét hay phê phán các ý tưởng nêu ra. Mọi
ý kiến, ý tưởng đều được bình đẳng.
6.4.2.2. Gợi ý kĩ thuật tiến hành động não
1) Giải thích cho học viên mục đích, nội dung, các nguyên tắc và cách
tiến hành cuộc động não. Nếu cần có thể nêu một ví dụ cho dễ hiểu. Chỉ nên
tiến hành cuộc động não khi các thành viên trong nhóm đã hiểu rõ cách làm.
2) Mở đầu cuộc động não, người điều khiển (giáo viên) nêu rõ chủ đề
cần tìm kiếm. Nêu các tiêu chí xác định một ý tưởng hoặc một giải pháp hay
để mọi người suy nghĩ tìm kiếm.
3) Tất cả thành viên trong nhóm đều suy nghĩ về vấn đề cần tìm kiếm.
Cố gắng tìm tòi trong trí óc và trong kinh nghiệm các ý tưởng, các giải pháp
giải quyết vấn đề. Viết các ý tưởng mới nảy sinh ra giấy hoặc ra bảng. Có thể
nói to ý tưởng được nêu ra để cho người khác viết. Các ý tưởng được viết ở
vị trí thuận lợi để mọi người đều nhìn thấy.
4) Nếu thấy mọi người đang phân vân, hãy dừng lại một chút để các
thành viên “thai nghén” ý tưởng, sau đó lại tiếp tục.
5) Khi không còn ai phát biểu (các ý tưởng đã cạn), chuyển sang vòng
hai: Chọn các ý tưởng hay theo tiêu chí để xét tiếp. Cũng có thể chọn ý tưởng
bằng cách yêu cầu mỗi thành viên chọn 3 hoặc 5 ý tưởng mình thích nhất
(nếu không có các tiêu chí cho trước).
6) Mọi thành viên cùng suy nghĩ về các ý tưởng được chọn để xác định
các giá trị của chúng.
7) Biểu quyết của các thành viên trong nhóm để chọn ý tưởng hay nhất.
Ý tưởng này là tài sản chung của nhóm và cần được công bố trước lớp.
6.5. XEMINA 6.5.1. Khái niệm
Thực ra xemina không hoàn toàn là hình thức thảo luận, nó giống hoạt
động chuẩn bị của một giảng viên trước khi giảng bài hơn. Tuy nhiên, kết cục
của buổi xemina là sự tranh luận (hoặc thảo luận) những vấn đề được học
viên đưa ra, vì vậy các kĩ thuật thảo luận đóng vai trò không nhỏ trong
phương pháp dạy học bằng xemina.
Xemina là hình thức học tập, trong đó một nhóm học viên được giao
chuẩn bị trước vấn đề nhất định. Sau đó trình bày trước lớp (nhóm) và thảo
luận vấn đề đã được chuẩn bị.
Mục đích của xemina là tạo cơ hội để học viên trực tiếp làm việc với đối
tượng học tập; tạo cơ hội để người học diễn đạt sự hiểu biết và ý tưởng của
mình về chủ đề được giao. Kết quả của xemina là kết quả của sự học thực
thụ đối với học viên.
Điểm mạnh của xemina là ở chỗ nó hội tụ và tổng hợp khá nhiều kĩ
thuật dạy học: Các phương pháp dùng lời (người học phải học cách thuyết
trình vấn đề được chuẩn bị), các kĩ thuật trao đổi– vấn đáp (người học phải
trả lời và bảo vệ ý kiến của mình trước các câu hỏi, chất vấn của lớp); các kĩ
thuật làm việc trực tiếp với đối tượng (tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, ghi chép,
thực hành, thực nghiệm v.v); các kĩ thuật thảo luận (thảo luận trong nhóm
chuẩn bị bài thuyết trình, thảo luận trong hội trường) v.v… Vì vậy xemina
được coi là một trong những phương pháp dạy học chủ yếu ở các lớp dành
cho người lớn.
6.5.2. Các hình thức xemina
6.5.2.1. Trình bày của học viên hoặc của nhóm học viên.
Đây là hình thức phổ biến nhất của xemina. Theo cách này, một cuộc
xemina có hai phần: phần thuyết trình của người được giao chuẩn bị trước và
Phần thảo luận. Trong phần thuyết trình, một cá nhân hoặc một nhóm học
viên được yêu cầu thực hiện một phần trình bày trước lớp. Để làm được việc
này, cá nhân hoặc nhóm đó phải có sự chuẩn bị trước về chủ đề được giao;
về tài liệu và các phương tiện dạy học khác. Quá trình chuẩn bị này thường
được sự trợ giúp của giáo viên.
Trong phần thảo luận, các thành viên của lớp phân tích bài thuyết trình
ngắn được đưa ra thảo luận, nêu câu hỏi. Nếu người trình bày có đủ tự tin và
đã chuẩn bị tốt về nội dung tri thức thì có thể trao đổi những câu hỏi của
người khác. Trong trường hợp học viên không đủ khả năng trao đổi thì giáo
viên có thể trợ giúp, bằng cách điều khiển và dẫn dắt phần thảo luận của lớp.
6.5.2.2. Học viên đưa ra nhận xét
Trong hình thức xemina này, người được giao chuẩn bị và trình bày
trước lớp phải đưa ra những nhận định của mình. Phần thảo luận là những
trao đổi tự do, thân mật giữa các thành viên. Sau đó lần lượt các thành viên
phát biểu nhận xét của mình tán thành hoặc không tán thành các nhận định
(hoặc một số) của người báo cáo; đưa ra các gợi ý sửa đổi; bổ sung các nhận
định đó. Trong trường hợp bất đồng ý kiến, những học viên không tán thành
phải đưa ra các lập luận. Những lập luận này cần được ghi lại thành văn bản
và được thảo luận để rút ra những nội dung được thống nhất.
Một biến thể rất hiệu quả của hình thức đưa ra nhận xét là sự “phản
bác” của giáo viên, “chống lại” các ý kiến đồng ý của cả nhóm. Trong tình
huống này, phần xemina do học viên đảm nhận. Khi một học viên trình bày,
trong nhóm cử ra một chủ toạ và một thư kí ghi chép. Giáo viên chỉ là người
gợi ý những tiêu chí để xác định mức độ tán thành hoặc không tán thành
nhận định của người báo cáo. Khi hầu hết các ý kiến của nhóm đã đạt đến sự
thống nhất tán thành, giáo viên tỏ thái độ ngược lại, “phản bác” những ý kiến
trước đó và đưa ra một số giả thuyết tranh luận để “hâm nóng” không khí.
Nếu học viên tâm đắc với những ý kiến của mình, cuộc thảo luận thực sự sôi
nổi giữa các bên sẽ diễn ra. Họ thấy mình phải phát biểu. Trong trường hợp
xuất hiện xu thế một số học viên né tránh phát biểu, giáo viên có thể đi ra khỏi
lớp và với sức ép của những học viên tích cực, xu thế này sẽ được hạn chế.
Biện pháp này sẽ kích thích không khí muốn “vặn lại giáo viên” trong học viên.
Các học viên nhiệt tình bảo vệ quan điểm của mình sẽ tích cực tìm kiếm lập
luận để “chống lại” giáo viên.
Nói chung, kĩ thuật tổ chức xemina theo hình thức nhận xét, nhất là kĩ
năng phản bác lại của giáo viên thường có hiệu quả cao trong các buổi
xemina. Tuy nhiên, khi thực hiện các hình thức này, giáo viên nên chú ý tới
các vấn đề cơ bản: Các nguyên tắc chung của thảo luận nhóm có được đảm
bảo? Chọn người (nhóm) chuẩn bị và báo cáo như thế nào? Ai sẽ là người
trong vai trò điều khiển? Làm thế nào để các ý kiến phản bác là vô tư, không
ác cảm hay thiên vị cá nhân v.v?
Chương 7. NHÓM PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HÀNH ĐỘNG HỌC CỦA HỌC VIÊN
Một trong những thành tựu Tâm lí học lớn nhất của thế kỉ XX là phát
hiện ra bản chất hoạt động của các hiện tượng tâm lí người; phát hiện ra
nguồn gốc hành động của sự hình thành và phát triển các chức năng tâm lí
người. Nguyên lí phổ quát ở đây là: mọi chức năng tâm lí cấp cao của con
người đều được hình thành và phát triển bắt đầu từ hành động của chủ thể
lên đối tượng. Chuyển vào trong dạy học, nguyên lí này sẽ là: tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo của học viên chỉ được hình thành bằng con đường người học
hành động trực tiếp với đối tượng học tập. Công thức của dạy học có dạng:
Dạy học = tổ chức hành động của học viên lên đối tượng học. Vì vậy, các
phương pháp dạy học tổ chức cho học viên hành động với nội dung học tập
được coi là các phương pháp dạy học hiện đại. Chúng ta sẽ đề cập tới một số
trong nhóm các phương pháp này.
7.1. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH HÓAPhương pháp dạy học chương trình hoá có thời kì vàng son. Vào thập
niên 60 của thế kỉ XX hầu như cả nước Mĩ bị cuốn vào vòng xoáy của nó.
Những năm sau đó, vai trò của phương pháp này giảm dần. Tuy nhiên, cho
đến nay, dạy học chương trình hoá vẫn được coi là phương pháp dạy học có
hiệu quả, nhất là trong điều kiện các phương tiện kĩ thuật và thông tin phát
triển.
7.1.1. Khái niệm
Dạy học chương trình hoá là phương pháp giáo viên điều khiển hành
động học tập của từng học viên, thông qua việc cung cấp cho họ chương
trình học tập đã được cấu trúc từ trước. Kết quả là sau khi thực hiện xong
chương trình, người học đạt được tri thức, phát triển kĩ năng và các mục đích
dạy học khác.
Phương pháp dạy học chương trình hoá được dựa trên hai cơ sở sau:
Thứ nhất: Về phương diện tâm lí học. Dạy học chương trình hoá dựa
trên nền tảng thuyết hành vi tạo tác của B.Skinner. Trong điều kiện tự nhiên,
các hành vi của con vật (trong chừng mực nào đó cả của con người, nhất là
trong nghiên cứu khoa học) thường được thực hiện theo cơ chế thử -sai. Tức
là tồn tại một chuỗi hành vi, trong đó hành vi đúng được củng cố và hành vi
sai được loại trừ. Kết quả là cá thể có được những hành vi đúng sau nhiều
lần thử - sai. Chuyển vào trong dạy học có thể xây dựng được một chương
trình (một môi trường hành động) trong đó hàm chứa các kích thích dẫn đến
hành vi đúng và các kích thích dẫn đến hành vi sai. Người học sẽ hành động
tương ứng với các kích thích đó theo cơ chế thử – sai. Sau khi thực hiện
được một chuỗi hành động đúng, người học sẽ thu được kết quả mà người
dạy mong muốn. Đây chính là ý tưởng và là thành tựu nghiên cứu của nhà
tâm lí học hàng đầu của Mĩ thế kỉ XX: B.F. Skinner (xem Chương 2).
Thứ hai: Về phương diện điều khiển học. Theo quan điểm điều khiển
học, một hệ điều khiển bao gồm điều khiển ngoài và điều khiển trong (tự điều
khiển) với hai mối liên hệ: liên hệ ngoài và liên hệ trong. Chuyển vào lĩnh vực
dạy học, quá trình dạy học là hệ điều khiển được. Trong đó tồn tại mối liên hệ
ngoài giữa người dạy – người học và mối liên hệ trong của người học. Vì vậy,
có thể cấu trúc một chương trình dạy học, trong đó đảm bảo các mối liên hệ
bên trong – tự điều khiển của bản thân người học và mối liên hệ giữa người
dạy và người học – cơ chế điều khiển của người dạy với người học.
7.1.2. Các đặc trưng của phương pháp dạy học chương trình hoá
Phương pháp dạy học chương trình hoá có một số đặc trưng:
* Thứ nhất: Nội dung học tập được chia thành những đơn vị kiến thức
(kĩ năng) nhỏ, theo logic đơn vị kiến thức trước là điều kiện, phương tiện để
tiếp tục đơn vị kiến thức tiếp theo. Mỗi đơn vị kiến thức như vậy được gọi là
một liều kiến thức. Các liều kiến thức được cấu trúc theo logic tạo thành một
hệ thống tri thức trọn vẹn.
* Thứ hai: Ứng với mỗi liều kiến thức có một số kích thích hành động
(hoặc câu trả lời) của người học, trong đó có kích thích dẫn đến hành động
(hoặc câu trả lời) đúng, có kích thích dẫn đến hành động (câu trả lời) sai,
những kích thích dẫn đến hành động sai được gọi là nhiễu.
* Thứ ba: Ứng với mỗi kích thích sẽ có một phản ứng (một hành động,
hoặc một câu trả lời) của người học. Kết quả của phản ứng phải được hiện ra
ngay sau đó và chủ thể xác định được ngay kết quả đó đúng hay sai, nhờ vào
một nguyên tắc quan trọng nhất của dạy học chương trình hoá: những hành
động (hoặc lời nói) cho kết quả đúng thì được củng cố ngay (một phần
thưởng, một lời khen, một tín hiệu v.v); các hành động cho kết quả sai thì
không được củng cố.
* Thứ tư: Việc tiến hành các hành động (hoặc trả lời) của người học tuỳ
thuộc vào năng lực của từng người, mà không ảnh hưởng tới tiến trình hành
động của người khác. Nói cách khác, dạy học chương trình hoá là phương
pháp dạy học cá biệt hoá đến từng người học.
7.1.3. Cấu trúc của một chương trình dạy học theo chương trình hoá
Cấu trúc của một chương trình bao gồm các bước liên tiếp. Mỗi bước
gồm có các phần:
Phần 1: Thông báo kiến thức (hoặc kĩ năng hành động). Thường kí
hiệu là: []
Phần 2: Các câu hỏi kiểm tra kiến thức (hoặc kĩ năng), để người học trả
lời. Kí hiệu: O.
Phần 3: Người dạy nghiên cứu câu trả lời của học viên và quyết định
quá trình học tiếp theo. Kí hiệu: T
Phần 4: Kết quả kiểm tra và phân tích kết quả đó. Kí hiệu: D
7.1.4. Các loại chương trình
Có hai loại chương trình: Chương trình đường thẳng và chương trình
phân nhánh.
7.1.4.1. Chương trình đường thẳng
Chương trình đường thẳng là chương trình, trong đó bắt đầu từ phần 2
của liều thứ nhất đến các liều tiếp sau đó được cấu trúc theo lôgic đường
thẳng. Trong mỗi bước chỉ có một nội dung (tri thức hoặc kĩ năng). Việc xác
định nội dung của mỗi bước được căn cứ vào khả năng tiếp thu của học viên
ở mức trung bình. Khi thực hiện chương trình, học viên phải tự xây dựng câu
trả lời cho các câu hỏi kiểm tra. Nếu câu trả lời đúng thì được củng cố (bởi tín
hiệu hoặc một phần thưởng nhất định) và người học thực hiện tiếp liều sau.
Nếu câu trả lời sai, người học cũng nhận được tín hiệu phản hồi và buộc phải
tìm câu trả lời khác (thử – sai). Các câu trả lời cũng có thể được soạn trước,
trong đó có một câu đúng còn các câu khác sai. Người học nếu chọn câu
đúng thì được củng cố, nếu chọn sai sẽ chọn lại trong số những câu chưa
chọn. Sơ đồ biểu diễn chương trình đường thẳng như sau:
Chương trình đường thẳng có một số hạn chế. Rất khó xác định mức
độ nội dung tri thức cho một liều lượng phù hợp với mọi người, không phát
huy tinh thần sáng tạo của học viên, đặc biệt là những người học khá và giỏi.
7.1.4.2. Chương trình phân nhánh.
Chương trình phân nhánh được xây dựng dựa vào nội dung tài liệu và
kinh nghiệm của người học để dự liệu các con đường điển hình nhằm đi đến
tri thức. Ở mỗi lần kiểm tra, người học phải lựa chọn một trong số các câu trả
Buoc n+1
An+1
Buoc n
An
Buoc n-1
An-1
lời cho sẵn. Kết quả của câu trả lời được chọn sẽ quyết định việc thực hiện đi
tiếp liều sau. Từ đây bắt đầu phân nhánh: Nếu câu trả lời đúng thì chuyển
sang liều chính tiếp theo, được đối chiếu với đáp án đúng và nhận được
thông báo về kiến thức mới. Nếu câu trả lời sai, sẽ dẫn người học đến liều
phụ, ở đó người học được giải thích nguyên nhân sai lầm và cách khắc phục,
sau đó người học hoặc phải quay trở lại liều đầu hoặc sang liều phụ thứ hai
để được giúp đỡ thêm cách khắc phục sai lầm.
+ Một ví dụ về chương trình phân nhánh (dẫn theo Nguyễn Bá Kim.
1992):
* Liều 1: Nếu số 3 được dùng làm thừa số 2 lần thì ta được tích 3 x 3 =
9. Vậy tích bằng bao nhiêu nếu số 2 được dùng làm thừa số 3 lần?
Nếu bạn trả lời: 6, xin xem liều 2.
8, xin xem liều 4.
9, xin xem liều 3.
* Liều 2: Đáp số của bạn là 6. Bạn đã lấy 2 và 3 làm thừa số 2 x 3 = 6.
Như vậy là sai. Vấn đề là: tích bằng bao nhiêu nếu có 3 thừa số cùng bằng 2.
Bạn hãy đọc lại liều 1 và chọn đáp án đúng.
* Liều 3: Đáp số của bạn là 9. Bạn đã lấy 3 và 3 làm thừa số 3 x 3 = 9;
tức là bạn đã dùng số 3 làm thừa số 2 lần. Như vậy là sai. Vấn đề là phải
dùng số 2 làm thừa số 3 lần. Bạn hãy đọc lại liều 1 và chọn đáp án đúng.
* Liều 4: 2 x 2 x 2 = 8. Bạn đã chọn đáp án đúng. Xin mời tiếp tục liều 5.
7.1.5. Gợi ý thiết kế chương trình dạy học
Thực ra thiết kế một chương trình dạy học theo mô hình dạy học
chương trình hoá không quá phức tạp. Các giáo viên có thể tự làm được nếu
nắm chắc các yêu cầu kĩ thuật của nó. Ở đây có một số điểm cần lưu ý:
Thứ nhất: Xác định rõ mục tiêu của bài học.
Thứ hai: Phân tích nội dung tài liệu học tập thành những đơn vị kiến
thức (các liều kiến thức) và xác lập logíc của các liều kiến thức đó. Sao cho
khi học viên thực hiện xong các liều kiến thức đó thì họ sẽ đạt được nhu cầu
học.
Thứ ba: Lựa chọn các hình thức cấu trúc chương trình: Chương trình
đường thẳng hay phân nhánh (thông thường là chương trình phân nhánh) và
chọn hành vi phản ứng của học viên: thử – sai ngẫu nhiên hay thử – sai loại
trừ.
Thứ tư: Thiết kế thử, trước khi phổ biến.
7.1.6. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp dạy học chương trình hoá
7.1.6.1. Điểm mạnh.
Phương pháp dạy học chương trình hoá có nhiều điểm mạnh:
Thứ nhất: Tăng cường tính độc lập, tích cực hành động của người học
đối với nội dung học tập.
Thứ hai: Tăng cường các hoạt động của người dạy hướng đến người
học.
Thứ ba: Tăng cường cá thể hoá trong hoạt động dạy học.
Thứ tư: Có điều kiện khai thác và sử dụng các phương tiện kĩ thuật.
Ngày nay do sự trợ giúp của các phương tiện máy tính và phương tiện truyền
thông, phương pháp dạy học chương trình hoá càng có điều kiện phát huy
thế mạnh của mình và ngày càng được áp dụng rộng rãi trong dạy kiến thức
mới và trong đánh giá kết quả dạy học.
7.1.5.2. Hạn chế
Thứ nhất: Hạn chế lớn nhất của phương pháp dạy học chương trình
hoá là điều kiện để giao tiếp trực tiếp giữa người dạy và người học thấp. Vì
vậy, vai trò điều khiển, điều chỉnh trực tiếp của giáo viên đến hành động học
của học viên bị hạn chế, lu mờ. Dạy học dễ dẫn đến xu hướng máy móc, rập
khuôn. Vì vậy nếu lạm dụng phương pháp này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
sự phát triển nhân cách người học.
Thứ hai: Tính hợp tác, tương tác giữa các học viên trong dạy học
chương trình hoá thấp. Do đó học viên ít có điều kiện trao đổi, hiểu biết và
hợp tác với nhau.
Thứ ba: Khó đảm bảo tính hệ thống của nội dung tri thức và kĩ năng
của môn học. Người học có thể thu được các tri thức, kĩ năng rời rạc.
Thứ tư: Điều kiện, phương tiện kĩ thuật để phục vụ cho cách dạy
chương trình hoá cồng kềnh, tốn phí.
Do những điểm mạnh và hạn chế nêu trên, nên trong thực tế, các giáo
viên thường kết hợp phương pháp dạy học này với các kĩ thuật dạy học khác.
7.2. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO MÔ HÌNH THẦY THIẾT KẾ - TRÒ THI CÔNG
* Theo các tác giả của mô hình dạy học theo thầy thiết kế – trò thi công
không đơn thuần là phương pháp, mà là một giải pháp dạy học, nói rộng ra là
giải pháp giáo dục (gọi tắt là CGD) bao gồm cả mục tiêu, nội dung dạy học,
các phương tiện, phương pháp dạy học. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới cấu
trúc nội dung dạy học, các hoạt động dạy và học. CGD gắn liền với tên tuổi
của Hồ Ngọc Đại và các cộng sự của ông. Trong khuôn khổ của tài liệu này,
chúng ta nhìn nhận mô hình dạy học thầy thiết kế – trò thi công chủ yếu dưới
góc độ phương pháp dạy học.
7.2.1. Quan niệm
Ngay tên gọi đã thể hiện rõ khuynh hướng và bản chất công nghệ trong
dạy học của mô hình này. Vậy dưới góc độ phương pháp, phương pháp dạy
học theo mô hình thầy thiết kế – trò thi công là gì? Những yêu cầu cơ bản của
việc dạy học theo mô hình này như thế nào?
Dạy học theo mô hình thầy thiết kế – trò thi công là phương pháp dạy
học trong đó giáo viên tổ chức cho học viên tiến hành các hành độ bằng cách
thiết kế hệ thống việc làm theo qui trình hành động trí óc; tổ chức cho học
viên triển khai việc làm đó theo bản thiết kế đã có. Kết quả sau khi thực hiện
đầy đủ các việc làm, người học đạt được mục tiêu học tập của mình.
* Có thể hình dung giản đơn dạy học giống như một công trường xây
dựng. Ở đó, người giáo viên là các kĩ sư thiết kế và tổ chức thi công, còn học
viên là các công nhân cần mẫn thực hiện mọi phần việc, dưới sự chỉ dẫn của
người kĩ sư – giáo viên. Kết quả là họ đã tạo ra được ngôi nhà theo bản thiết
kế ban đầu của người kĩ sư. Tất nhiên, ở đây có sự khác nhau cơ bản giữa
người công nhân với học viên. Người công nhân xây được ngôi nhà thực ở
bên ngoài, còn học viên xây được ngôi nhà kiến thức ở trong đầu của mình,
mà trước đó chưa hề có.
Trong mô hình dạy học thầy thiết kế – trò thi công có một số yếu tố
đóng vai trò quyết định: nội dung dạy học (được quy ước là A), quy trình
(cách thức) chuyển nội dung A từ bên ngoài thành sản phẩm bên trong của
học viên, được kí hiệu là 1. Nội dung A khi được chuyển thành sản phẩm
riêng của học viên được quy ước là a. Từ đây, quy trình dạy học có dạng: A 1
a. Trong công thức A 1 a, học viên và giáo viên có chức năng và nhiệm vụ
khác nhau.
Giáo viên thiết kế A, 1 a và tổ chức cho học viên thực hiện quy trình A 1
a. Thực chất ở đây là giáo viên lựa chọn nội dung tri thức khoa học, cấu trúc
lại chúng theo lôgic nhất định, tạo thành nội dung môn học (A), đồng thời lựa
chọn hệ thống việc làm và cấu trúc theo logic tuyến tính, sao cho khi học viên
thực hiện xong quy trình 1, sẽ chuyển A ở bên ngoài thành a bên trong.
Khi A và A 1 a đã được thiết kế, giáo viên tổ chức cho học viên thực
hiện các việc làm theo đúng quy trình A 1 a. Về phía học viên, các em thực
hiện hệ thống việc làm dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Kết quả cuối cùng,
chuyển A từ bên ngoài thành a của riêng mình. Như vậy kí hiệu A 1 a bao
hàm cả hệ thống việc làm của giáo viên (thiết kế và tổ chức thi công) và của
học viên (thực hiện việc thi công), còn a là sản phẩm tất yếu của quá trình học
viên thực hiện A 1 a
7.2.2. Cơ sở triết học và tâm lí học của mô hình dạy học thầy thiết kế – trò thi công
Phương pháp dạy học theo mô hình thầy thiết kế – trò thi công là sự
vận dụng các thành tựu tâm lí học hoạt động vào là dạy học. Bản thân tác giả
của mô hình này là học trò và cộng sự của V. V. Davưdov, một trong những
đại biểu của dòng phái tâm lí học hoạt động. Vì vậy, cũng như mô hình dạy
học của V.V. Davưdov, mô hình dạy học thầy thiết kế – trò thi công của Hồ
Ngọc Đại được dựa trên cơ sở triết học biện chứng về nhận thức và các lí
thuyết hoạt động tâm lí, mà trực tiếp là các công trình nghiên cứu của A. N.
Leonchev, P.ra.Galperin và V. V. Davưdov. Ngoài ra cũng cần phải nhắc tới
ảnh hưởng rất lớn của J. Piaget và của các nhà tâm lí học theo khuynh
hướng khác (xem Chương 2). Điều này thể hiện ở quan điểm xác định nội
dung dạy học (A) và quy trình A 1 a trong dạy học của các tác giả mô hình.
7.2.3. Một số điểm chủ yếu của phương pháp dạy học thầy thiết kế - trò thi công
* Nội dung môn học A (là đối tượng học viên cần chiếm lĩnh)
A là yếu tố đầu tiên trong công thức A 1 a. Yếu tố A có những đặc trưng
sau:
Thứ nhất: Là hệ thống khái niệm khoa học hiện đại. Khái niệm khoa học
ở đây được hiểu là khái niệm lí luận theo quan điểm của V. V. Davưdov, tức
là khái niệm có nội dung đối tượng, được hình thành do trừu tượng hoá biện
chứng, phản ánh các quan hệ bản chất của sự vật, chứ không phải là các
biểu tượng chung về dấu hiệu giống nhau được rút ra từ các hình ảnh của
các sự vật khác nhau. Các khái niệm không tồn tại riêng mà thành một hệ
thống khái niệm. Sự phát triển của hệ thống khái niệm tạo thành nội dung bài
học, môn học. Vì vậy cần lựa chọn các khái niệm A1, A2, A3,… An để tạo
thành hệ thống A sao cho nội dung của nó phản ánh đúng bản chất và logic
phát triển của lĩnh vực khoa học mà A đại diện.
Thứ hai: Trong cấu trúc môn học hay bài học (A), có hai thành tố: Nội
dung tri thức khoa học (nội dung khái niệm), được gọi là chất liệu của A và
các hình thức biểu hiện của nó, được gọi là vật liệu của A. Trong đó, chất liệu
chỉ có 1, còn vật liệu thì có nhiều. Có ba loại hình thức (ba loại vật liệu) thể
hiện chủ yếu: vật thật, các mô hình, sơ đồ và các mệnh đề, định lí, kí hiệu v.v.
Tương ứng với ba hình thức vật liệu biểu hiện của chất liệu, sẽ có ba hành
động nhận thức: hành động phân tích trên vật thật, hành động trên mô hình
và hành động trên kí hiệu. Nguyên lí ở đây là để hình thành khái niệm mới
(chất liệu mới), trẻ em phải trải qua cả ba hình thức hành động trên và phải
được bắt đầu từ hành động trên vật thật (xem P.Ia.Galperin – xem Chương
2).
* Quy trình từ A à a. Thực chất là hệ thống, quy trình hình thành khái
niệm khoa học (A) ở người học. Đó là quá trình chuyển A (nội dung môn học,
bài học) từ bên ngoài thành a (khái niệm khoa học của học viên). Quy trình 1
trong dạy học thầy thiết kế - trò thi công có ba đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất: Là hệ thống việc làm của học viên tương ứng với các hình
thức tồn tại của vật liệu. Việc làm là các thao tác (có thể bằng tay, bằng nói to
hoặc nói thầm trong đầu) nhằm thực hiện một nhiệm vụ cụ thể, ứng với đối
tượng nhất định (vật thật, sơ đồ hay kí hiệu v.v). Mục đích của các việc làm
này là tách chất liệu (nội dung khái niệm khoa học) ra khỏi các hình thức thể
hiện của nó, cấu trúc lại và chuyển vào trong hình thức thể hiện mới (chuyển
từ vật thật sang sơ đồ và cuối cùng sang kí hiệu).
Thứ hai: Hệ thống việc làm được cấu trúc theo lôgic tuyến tính thời gian
nghiêm ngặt: Việc làm 11 Việc làm 21 Việc làm 3… 1 Việc làm n. Đây là yêu
cầu kĩ thuật quan trọng nhất của sơ đồ A 1 a. Lưu ý: Đây là hệ thống tuyến
tính việc làm của học viên, chứ không phải là của giáo viên, càng không phải
là bài giảng của giáo viên.
Như vậy, thông thường, để chuyển một đối tượng A (khái niệm khoa
học) thành sản phẩm a của học viên, ở dạng đầy đủ nhất các em phải tiến
hành ba hệ thống việc làm.
Thứ ba: Hệ thống việc làm là phương pháp của học viên chiếm lĩnh đối
tượng, là cách (quy trình 1) đạt tới cái (A). Trình độ của phương pháp quy
định trình độ lĩnh hội khái niệm. Mức độ hiện đại của phương pháp do mức độ
hiện đại của phương tiện quy định. Trong mô hình dạy học thầy thiết kế – trò
thi công, các tác giả đặc biệt nhấn mạnh và đề cao yếu tố phương pháp,
phương tiện, tức là đề cao cách triển khai hệ thống việc làm của học viên.
* Chức năng của giáo viên và học viên trong dạy học thầy thiết kế – trò
thi công.
- Chức năng của thầy:
+ Thiết kế A, tức là xác định hệ thống khái niệm khoa học của môn học:
các khái niệm cốt lõi, gốc, cơ bản, cơ sở, phát triển v.v., tức là xác định được
các A thành phần: Al, A2, A3,… An. Xác lập logic phát triển của hệ thống khái
niệm đó theo lôgic phát triển của môn khoa học. Công việc này thuộc về chức
năng khoa học, với tư cách là trách nhiệm của nhà khoa học. Ở đây có hai
cách làm: Nhà khoa học trực tiếp tham gia xác định hệ thống A hoặc thẩm
định tính chân thực, hợp lí của hệ thống A do nhà sư phạm xác định.
+ Thiết kế quy trình việc làm A 1 a. Thực chất đây là việc tổ chức lại,
cấu trúc lại hệ thống khái niệm A vào trong các hình thức biểu hiện của nó
(vật thật, mô hình kí hiệu).Yêu cầu ở đây là nhà sư phạm phải chuyển được
đầy đủ các A thành phần Al, A2, A3,… An vào trong các hình thức vật liệu
khác nhau (vật thật, mô hình, kí hiệu). Sau đó, dựa theo các bước hình thành
hành động trí óc đã được P.Ia.Galperin xác lập để thiết kế hệ thống việc làm
V của học viên với các loại đối tượng vật liệu đó, theo logic tuyến tính thời
gian Vl 1 V2 1 V3… 1Vn sao cho hệ thống V phù hợp với A1, A2, A3,…An
không thiếu, không thừa, không lặp lại, phải được bắt đầu từ Vl và kết thúc ở
Vn. Việc lựa chọn hình thức thể hiện của khái niệm A và các thao tác của học
viên được căn cứ vào sự phát triển cho thao tác của trẻ em do J. Piaget phát
hiện. Sản phẩm thiết kế của giáo viên được thể hiện qua nội dung môn học,
bài học, tiết học và được vật hoá trong sách giáo khoa, sách bài tập của học
viên. Thiết kế hệ thống A1 1A21 A31….An và tương ứng với chúng là hệ thống
Vl 1 V2 1 V3 1…Vn là công việc hệ trọng và khó khăn nhất của nhà sư phạm –
người thiết kế.
+ Tổ chức cho học viên triển khai việc làm theo thiết kế đã có, từ việc
làm đầu tiên đến cuối cùng. Ở đây cần lưu ý, trong mô hình thầy thiết kế trò
thi công, người giáo viên không giảng bài, không thuyết trình mà là người tổ
chức các việc làm của học viên.
- Chức năng của trò. Chức năng quan trọng nhất của trò là thực hiện
các việc làm theo chỉ dẫn (trong sách giáo khoa, sách bài tập và qua hướng
dẫn trực tiếp của người giáo viên trên lớp). Nguyên tắc chung ở đây là hành
động học của học viên là hệ thống việc làm có chỉ dẫn của giáo viên để
chuyển và biến A thành sản phẩm a của mình. Trong dạy học thầy thiết kế –
trò thi công A 1 a xuất hiện hai lần, lần đầu như là hệ thống việc làm của giáo
viên và lần sau là hệ thống việc làm của học viên.
7.2.4. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp thầy thiết kế – trò thi công
7.2.4.1. Điểm mạnh
Không thể phủ nhận phương pháp thầy thiết kế – trò thi công là điển
hình của xu thế kĩ thuật hoá hoạt động dạy học đã được khởi xướng từ tâm lí
học hành vi. Tuy nhiên, so với các mô hình dạy học điều khiển hành vi(xem
Chương 2), phương pháp thầy thiết kế trò thi công có nhiều điểm mạnh hơn:
Thứ nhất: Hướng tới hoạt động dạy học dựa trên hành động khám phá
có tổ chức của học viên. Đây là xu hướng dạy học hiện đại mà bất kì giáo
viên có hiểu biết và có trách nhiệm nào cũng mơ ước. Đảm bảo cho học viên
những điều kiện thuận lợi nhất để phát huy tính tích cực chủ động trong học
tập của mình.
Thứ hai: Thông qua sự tiến triển hệ thống việc làm của học viên trên
các loại vật liệu từ vật thật đến các kí hiệu, cho phép học viên và giáo viên
triển khai đầy đủ quá trình chuyển và cấu trúc lại các nội dung học tập (tri
thức khoa học, kĩ năng hành động v.v) từ bên ngoài vào bên trong theo đúng
cơ chế tâm lí hình thành hành động (thao tác) trí tuệ – một trong những thành
tựu lớn nhất của tâm lí học thế kỉ XX. Việc thực hiện nghiêm túc cơ chế này là
giải pháp tối ưu nhất trong việc hình thành khái niệm khoa học cho học viên
trong dạy học hiện đại, đồng thời là biện pháp hữu hiệu để khắc phục triệt để
bệnh hổng kiến thức của người học. Ưu thế này không phải phương pháp
nào cũng có.
Thứ ba: Cho phép giáo viên thực hiện cá thể hoá việc dạy học và có thể
trực tiếp kiểm soát, điều chỉnh hành động học của học viên.
7.2.4.2. Hạn chế
Mặc dù là một trong những phương pháp hiện đại, nhưng mô hình dạy
học thầy thiết kế – trò thi công cũng có nhiều điểm bất cập:
Thứ nhất: Điều đáng lo ngại nhất của phương pháp thầy thiết kế – trò
thi công là tính khuôn mẫu của kĩ thuật dạy học. Toàn bộ hoạt động của thầy
được khuôn vào việc thiết kế A và quy trình A 1 a theo cơ chế chung: Các
hành động trên vật thật, trên mô hình, trên kí hiệu và hành động kiểm tra.
Toàn bộ hành động học của học viên chủ yếu được quy về thực hiện các việc
làm do giáo viên chỉ dẫn. Hệ thống việc làm là một số hữu hạn, chung cho
mọi hành động học, cho mọi đối tượng học viên. Tính khuôn mẫu chung của
các biện pháp kĩ thuật được áp từ ngoài vào đã làm giảm tính đặc thù của
quá trình dạy học. Cũng giống như các mô hình điều khiển hành vi, ở đây,
dường như các yếu tố cá nhân và kinh nghiệm quá khứ của học viên ít được
coi trọng. Vì vậy nếu chỉ coi đây là một phương pháp trong các phương pháp
dạy học hiệu quả thì rất tốt còn nếu sử dụng nó như là một giải pháp duy
nhất, một phương thức có tính phổ biến cho cả các môn học trong một lớp
(triển khai mô hình theo chiều ngang) và cho cả chiều dọc (tất cả các lớp từ
thấp đến cao) thì nguy cơ sẽ tạo ra các thế hệ học viên được đúc theo một
khuôn mẫu chung về các thao tác tư duy, trí tuệ là điều khó tránh.
Thứ hai: Trong hệ thống tri thức khoa học có nhiều loại. Có tri thức về
nguyên tắc, phương pháp, có tri thức về sự vật, có tri thức được hình thành
do hình thức hóa của tư duy (tri thức tiên nghiệm) v.v. Các loại tri thức khác
nhau, có cơ chế hình thành và cơ chế nhận thức khác nhau. Vì vậy, không
phải bao giờ và trong hoàn cảnh nào cũng tuân theo cơ chế chung. Hơn nữa,
J. Piaget đã chỉ rõ, các lứa tuổi trẻ em khác nhau, có các trình độ thao tác trí
tuệ khác nhau, cần phải được đối xử khác nhau, không thể theo khuôn mẫu
cố định. Tất cả điều đó cho thấy việc thiết kế hệ thống việc làm cho học viên
không thể rập khuôn theo một mẫu chung cho mọi môn học, mọi loại học viên,
giống như bản thiết kế quy trình xây dựng một kiểu khu nhà tập thể, mà là
công việc linh hoạt, tinh tế, đầy sáng tạo. Vì vậy, một khuôn mẫu việc làm sẽ
dễ trở thành máy móc, cồng kềnh và kém hiệu quả trong thực tiễn dạy học.
Phương châm ở đây là người thợ mộc khôn ngoan cần biết sử dụng công cụ
nào cho việc làm ra một chi tiết và không nên sử dụng một công cụ để tạo ra
cả một sản phẩm nhiều chi tiết. Với tư cách đó, phương pháp thầy thiết kế –
trò thi công là một trong những phương pháp tốt trong tay giáo viên, nhưng
không nên lạm dụng nó.
7.3. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH HƯỚNG KHÁI QUÁT HÀNH ĐỘNG HỌC CỦA HỌC VIÊN
Phương pháp định hướng khái quát hành động học của học viên do
một nhóm cán bộ thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tiến hành nghiên
cứu và thực nghiệm từ những năm 1990. Tư tưởng chủ đạo của nhóm nghiên
cứu này là ứng dụng các thành tựu của lí thuyết tâm lí học phát sinh nhận
thức và tâm lí học hoạt động vào việc tổ chức hành động học của học viên,
đặc biệt là học sinh các lớp nhỏ. Những nội dung cơ bản của phương pháp
này được tập hợp vào một số điểm sau:
Nhóm tác giả gồm: PGS. TS. Phan Trọng Ngọ. TS Dương Diệu Hoa,
TS. Nguyễn Thị Mùi và các cộng tác viên là cán bộ giảng dạy Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội. Đề tài được triển khai thực nghiệm từ năm 1990 đến 1997
tại 15 trường Tiểu học thuộc ba tỉnh: Hà Nội, Hà Tây và Hà Bắc (cũ), với tổng
số 93 lớp, 3294 học viên (chủ yếu là lớp 1). Kết quả thực nghiệm đã được
công bố trên các tạp chí NCGD số 6/1995. Giáo viên và nhà trường số 5/1997
và một số kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia.
7.3.1 Cơ sở lí luận của phương pháp định hướng khái quát hành động học của học viên
7.3.1.1. Lí thuyết hoạt động tâm lí của A. N. Leonchev
Khi phân tích cấu trúc chức năng và chuyển hoá chức năng của các
đơn vị trong hoạt động, A. N. Leonchev đặc biệt nhấn mạnh vai trò của hành
động tâm lí và các yếu tố cấu thành nó. Hành động làm nên hoạt động. Do đó,
nếu hình thành được hành động học sẽ có cơ hội hình thành hoạt động học.
Hoạt động học có thể được phân li thành nhiều hành động, nhưng tại một thời
điểm nhất định chỉ diễn ra một hành động học. Không có và không bao giờ
diễn ra hai hành động cùng một lúc. Để hình thành hành động học, ít nhất
phải có hai điều kiện: xác định được mục đích học và hình thành được thao
tác học. Muốn có thao tác học, cần quan tâm tới nghiên cứu của J. Piaget
7.3.1.2. Lí thuyết phát sinh nhận thức của J. Piaget
Có ba điểm lớn trong nghiên cứu của J. Piaget được khai thác làm cơ
sở lí luận cho phương pháp dạy khái quát: a) Trẻ em tự hình thành các cấu
trúc nhận thức (cấu trúc thao tác) cho mình bằng hành động của chính mình.
Trong học tập, trẻ em như là một nhà thám hiểm tích cực, chủ động và hiếu
kì. b) Thao tác là hành động được nội hiện và được rút gọn ở trong đầu. c)
Thao tác có tính đảo ngược. Từ b) và c) có hai điểm chú ý: Thứ nhất, thao tác
thực chất là hành động vật chất ở bên ngoài được chuyển vào trong và cải
biến ở trong đó. Thứ hai: Tính đảo ngược của thao tác là do hai hành động
thực tiễn ngược nhau tạo thành (khi đã nhập và nội hiện ở trong đầu). Từ
đây, rút ra hệ quả: để có thao tác ở trong đầu, trẻ em phải bắt đầu từ hành
động ở bên ngoài. Khi tiến hành hành động ở bên ngoài cần triển khai hành
động ngược ngay sau khi có hành động xuôi (chẳng hạn hành động ghép vần
xuôi đi liền với hành động ghép ngược; đếm xuôi đi liền đếm ngược). Đây
chính là bí quyết trong việc hình thành thao tác học cho học viên. Vấn đề còn
lại là quá trình chuyển từ hành động thành thao tác diễn ra như thế nào? Điều
này phải dựa trên các kết quả nghiên cứu của P.Ia. Galperin.
7.3.1.3. Lí thuyết của P. Ia. Galperin về các bước hình thành hành động trí tuệ và khái niệm của trẻ em
Chương 2 đã giới thiệu khá kĩ lí thuyết về các bước hình thành hành
động trí tuệ và khái niệm của trẻ em. Ở đây có hai ứng dụng rất lớn trong dạy
học: a) Hình thành hành động học theo quy trình các bước của hành động trí
tuệ. b) Định hướng việc hình thành hành động học theo phương pháp khái
quát.
7.3.2. Các nguyên tắc của việc dạy học theo phương pháp định hướng khái quát hành động học của học viên
Có thể tóm tắt nguyên tắc của việc dạy học theo phương pháp định
hướng khái quát hành động học của học viên vào một số điểm:
Thứ nhất: Học tập là quá trình học viên tự triển khai các hành động
khám phá của mình. Vì vậy, toàn bộ hoạt động dạy học được quy về việc tổ
chức hành động học của học viên. Nhiệm vụ trung tâm của dạy học là hình
thành hành động học cho học viên.
Thứ hai: Bất kì ở đâu, ai, khi nào cũng phải tuân theo quy luật: Tại một
thời điểm chỉ diễn ra một hành động. Vì vậy, trong dạy học, tại một thời điểm
nhất định chỉ hình thành cho học viên một hành động học, huấn luyện hành
động đó, chuyển nó thành thao tác, sau đó mới hình thành hành động khác.
Không cùng một lúc tiến hành hai hay nhiều hành động.
Thứ ba: Để hình thành thao tác học, phải tổ chức hành động thực tiễn
của học viên theo các nguyên tắc: a) Chuyển từ ngoài vào trong theo các
bước của hành động trí óc: Hành động trên vật thật; hành động với lời nói to;
hành động với lời nói thầm và hành động với lời nói bên trong. b) Triển khai
hành động ngược ngay sau khi có hành động xuôi (hành động xuôi và ngược
được tiến hành ở tất cả các bước chuyển từ ngoài vào trong).
Thứ tư: Định hướng việc hình thành các hành động học (xuôi và
ngược) cho học viên bằng phương pháp khái quát. Tức là định hướng đầy
đủ, khái quát và theo nguyên tắc tự học viên thực hiện (xem Chương 2).
7.3.3. Một số biện pháp kĩ thuật dạy học đọc, viết và học toán cho học viên theo phương pháp định hướng khái quát hành động học
7.3.3.1. Biện pháp dạy học đọc, học viết
Việc vận dụng phương pháp định hướng khái quát hành động học của
học sinh vào dạy học đọc, viết cho học sinh lớp 1 được thực hiện theo các
biện pháp sau:
Thứ nhất: Ngay từ đầu không cùng một lúc vừa dạy học viên học đọc
và học viết. Vì đối với học sinh lớp 1, đọc và viết là hai hành động khác nhau.
Giả thuyết khoa học ở đây là học sinh không cùng một lúc tiến hành hai hành
động. Vì vậy, nếu cùng một lúc dạy cho học sinh cả hành động đọc và hành
động viết sẽ tạo ra sự giao thoa và ảnh hưởng tiêu cực đến nhau. Trong mối
tương quan giữa hai hành động này, hành động đọc cần phải được hình
thành trước và trở thành thao tác cho hành động viết. Do đó, trong thực tiễn,
phải dạy cho học sinh biết đọc trước. Hành động viết chỉ được thực hiện sau
khi học sinh đã biết đọc (đã chuyển hành động đọc thành thao tác đọc làm
phương tiện phục vụ cho hành động viết).
Thứ hai: Không dạy học sinh đọc từng âm và ghép từng vần trong một
tiết. Ngay từ bài đầu đã dạy theo phương pháp khái quát: dạy các nguyên âm,
các phụ âm; cùng một lúc dạy cách ghép xuôi và ngược các vần, âm tiết.
Thứ ba: Trong giai đoạn dạy cách ghép vần và âm tiết không sử dụng
tranh minh hoạ. Như vậy sẽ tránh được hiện tượng trẻ em đọc chữ theo
tranh, đọc vẹt, không bị phân tán chú ý vào nội dung tranh vẽ. Các tranh ảnh
minh hoạ có nội dung đồ vật (em bé, cái xẻng, ôtô, con cá, quả bóng v.v) chỉ
được dùng sau khi học sinh đã biết đọc, với mục đích giúp các em hiểu từ
(lồng nghĩa cho âm tiết) và phát triển vốn từ. Ở giai đoạn này cần nhiều tranh
ảnh.
Thứ tư: Việc học đọc được tiến hành theo quy trình: Bước một: đọc
bằng mắt, bằng tay; bước hai: đọc to hết cỡ; bước ba: đọc thầm mấp máy
môi; bước bốn: đọc thầm trong óc.
Thứ năm: Sau khi học viên biết đọc, mới dạy tập viết. Quy trình tập viết
theo ba bước: bước một: Luyện các nét (luyện cử động của tay); bước hai:
học cách lấy tọa độ con chữ có các cỡ khác nhau, bước ba: cách nối các
điểm toạ độ, bước bốn: ghép các vần, các âm tiết, từ, câu; bước năm: chép
chính tả.
Kết quả thực nghiệm dạy theo phương pháp trên như sau:
Năm họcSố
lớp
Số
trường
Số
h/sinh
Thời gian thực học để 95% học
viên trong lớp biết đọc, biết viết
1992–1993 01 01 30 8 tuần
1993–1994 01 01 33 8 tuần
1994–1995 12 03 406 12 tuần ± 1
1995–1996 35 13 1187 12 tuần ± 1
1996–1997 44 14 1638 12 tuần ± 1
Nội dung bài kiểm tra, cách thức, thời gian và người kiểm tra, đánh giá
chất lượng các lớp thực nghiệm đều do Phòng Giáo dục và Đào tạo ở các địa
phương thực hiện độc lập với nhóm thực nghiệm.
7.3.3.2. Biện pháp dạy học toán cho học viên lớp 1
Việc dạy và học môn toán ở lớp 1 theo phương pháp định hướng khái
quát hành động học của học viên khác với các lớp thông thường. Nguyên tắc
ở đây là chỉ dạy học viên học toán sau khi các em đã biết đọc, biết viết. Giả
thuyết khoa học ở đây là hành động học toán có quan hệ với các hành động
đọc và viết. Trong đó, hành động đọc và viết là phương tiện và điều kiện để
tiến hành hành động học toán.Vì vậy việc dạy học toán được tiến hành sau
khi học viên đã biết đọc, biết viết sẽ tránh sự giao thoa tiêu cực giữa các hành
động này. Trong phương pháp định hướng khái quát hành động học của học
sinh. Việc dạy môn toán cho học sinh lớp 1 được bắt đầu từ tuần thứ 12, khi >
95% số học sinh trong lớp đã làm chủ hai hành động đọc và viết của mình.
Logíc nội dung dạy, bắt đầu từ việc hình thành thao tác đếm (đếm xuôi và
đếm ngược); cấu trúc số, thao tác cộng, trừ (thao tác gộp và tách) v.v. Các
thao tác toán được thực hiện với 50 số đầu của dãy số tự nhiên. Vật liệu để
tiến hành các thao tác toán là que tính, các khối gỗ và bộ số rời. Hình thành
các thao tác toán cũng tuân theo các bước hình thành hành động trí tuệ trong
lí thuyết của P.Ia.Galperin.
7.4. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ7.4.1. Khái niệm
Trong lí luận dạy học, phương pháp dạy học giải quyết tình huống có
vấn đề còn được gọi là phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp gợi
mở vấn đề, phương pháp đặt và giải quyết vấn đề v.v. Tuỳ theo tên gọi mà có
sự thể hiện mức độ can thiệp của giáo viên vào hoạt động học của học viên.
Những mô tả dưới đây nói về phương pháp dạy học giải quyết tình huống có
vấn đề, trong đó có sự giảm thiểu tới mức cho phép tác động trực tiếp của
giáo viên lên hoạt động học của học viên.
Dạy học giải quyết tình huống có vấn đề là phương pháp dạy học, trong
đó giáo viên tạo ra tình huống có vấn đề, điều khiển người học phát hiện vấn
đề, tự giác, tích cực hoạt động giải quyết tình huống, thông qua đó lĩnh hội tri
thức, phát triển kĩ năng và đạt được các mục đích dạy học khác.
Xoay quanh vấn đề khái niệm dạy học giải quyết tình huống có vấn đề,
cần làm sáng tỏ một số thuật ngữ liên quan.
* Trước hết: thế nào là tình huống? Về nguồn gốc, tình huống là một sự
kiện có thực trong đời sống xã hội với những đặc trưng vật lí, sinh lí, tâm lí
hay xã hội. Theo nghĩa đó, mọi cá nhân và xã hội luôn luôn sống trong các
tình huống nhất định, thường xuyên phải đối mặt và chịu sự tác động của nó.
Sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, xã hội gắn liền với việc giải quyết
các tình huống. Đó có thể là những tình huống đơn giản xảy ra trong bữa ăn,
trong sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày, đến những tình huống phức tạp trong
hoạt động nghề nghiệp, trong nghiên cứu khoa học v.v. Đó có thể là tình
huống ở các cấp độ vật lí, sinh lí, tâm lí hay xã hội. Chuyển vào trong các lĩnh
vực nghiên cứu khoa học, giáo dục nói chung và dạy học nói riêng (kể cả
trong các lĩnh vực huấn luyện chuyên biệt như huấn luyện binh lính, cảnh sát
v.v) người ta mô phỏng và phát triển các tình huống thực thành tình huống giả
định. Trong dạy học, tồn tại cả tình huống thực và giả định. Vì thế, tình huống
trong dạy học có phổ rất rộng: có thể là một bài tập toán học, bài tập làm văn,
bài học đạo đức, một thí nghiệm, thực hành, một ví dụ trong bài giảng của
giảng viên v.v. Trong phổ rộng lớn các tình huống như vậy, có tình huống sẽ
trở thành có vấn đề hoặc không có vấn đề khi nó được thiết lập trong mối
quan hệ với chủ thể hành động.
* Thứ hai: Tình huống có vấn đề. Tình huống có tính khách quan, tức là
khi tồn tại với tư cách “tự nó” thì tình huống là một sự kiện trung tính. Nhưng
khi thiết lập mối quan hệ giữa nó với một chủ thể (cá nhân hoặc nhóm) nhất
định thì khi đó nó có thể là một tình huống có vấn đề hoặc tình huống không
có vấn đề. Tính có vấn đề hay không, không phải do tự bản thân tình huống,
mà được nảy sinh trong quan hệ giữa nó với chủ thể hành động trong tình
huống đó. Một tình huống X có thể là có vấn đề trong quan hệ với cá nhân A
nhưng không có vấn đề trong quan hệ với cá nhân B. Hơn nữa trong quan hệ
với cá nhân A tại thời điểm T1 thì có vấn đề, nhưng sang thời điểm T2 chưa
hẳn còn có vấn đề. Vậy thế nào là tình huống có vấn đề?
Tình huống có vấn đề là tình huống mà trong quan hệ với chủ thể hành
động, nảy sinh mâu thuẫn giữa một bên chủ thể có nhu cầu giải quyết tình
huống đó với một bên những tri thức, kĩ năng và phương pháp hiện có của
chủ thể chưa đủ để giải quyết. Từ đó, buộc chủ thể muốn giải quyết, phải
khám phá để tạo ra cho mình có hiểu biết về nó và hiểu cách giải quyết tình
huống đó.
Một tình huống trở thành tình huống có vấn đề với chủ thể nào đó khi
thoả mãn những điều kiện sau:
1) Các sự kiện trong tình huống phải tồn tại với tư cách là một bài toán
(Problem), tức là một hệ thống thông tin gồm hai bộ phận: Thứ nhất, các dữ
kiện, bao gồm mọi thông tin đã cho một cách tường minh hoặc sẽ tường minh
nếu có sự biến đổi nhất định các điều kiện có liên quan tới bài toán (nói nôm
na là những điều đã biết). Bộ phận thứ hai là yêu cầu, bao gồm những thông
tin cần phải tìm ra cho tình huống đó (yếu tố phải tìm).
2) Tình huống phải có quan hệ với chủ thể hành động. Mối quan hệ này
được xác lập trên hai phương diện: Thứ nhất: Về phía chủ thể xuất hiện nhu
cầu giải quyết tình huống; Thứ hai: Các yếu tố dữ kiện và yêu cầu của tình
huống phải là dữ kiện và yêu cầu đối với chủ thể. Yếu tố nhu cầu tạo ra động
lực để chủ thể nhập vào và giải quyết tình huống, còn yếu tố thứ hai phản ánh
tính hiện thực trong quan hệ giữa tình huống với chủ thể. Nếu thiếu một trong
hai yếu tố trên thì không thể trở thành tình huống có vấn đề. Chủ thể không
có nhu cầu sẽ không thiết lập được quan hệ giữa tình huống với chủ thể, sẽ
không có hành động tìm hiểu và giải quyết tình huống của chủ thể. Khi đó,
chủ thể đứng ngoài tình huống, còn tình huống không phải là tình huống của
chủ thể. Không có điều kiện thứ hai thì tình huống hoặc trở thành quá dễ đối
với chủ thể, khi đó tình huống sẽ trở thành không có vấn đề, hoặc trở thành
quá khó đối với chủ thể, khi đó nó sẽ không còn là tình huống có vấn đề đối
với chủ thể.
3) Tình huống phải tạo niềm tin và kích thích tính tích cực hứng thú giải
quyết của chủ thể. Một tình huống tuy có vấn đề đối với chủ thể (chủ thể có
nhu cầu giải quyết và xác định được yếu tố dữ kiện và yếu tố yêu cầu của tình
huống), nhưng yêu cầu vượt quá xa khả năng hiện có của chủ thể, sẽ tạo ra
ở chủ thể thái độ thiếu tự tin, thiếu hứng khởi để hành động giải quyết tình
huống. Khi đó, việc giải quyết sẽ trở nên miễn cưỡng. Vì vậy, trong tình
huống phải bao hàm dữ kiện gây niềm tin cho chủ thể có thể giải quyết được
nếu họ tích cực hành động (trí óc và thực tiễn) để giải quyết tình huống đó.
* Thứ ba: Thuật ngữ vấn đề cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác
nhau: danh từ và tính từ quan hệ. Với tư cách là danh từ, thuật ngữ vấn đề
được hiểu như là một tình huống, một bài toán (theo nghĩa chung của thuật
ngữ này), tức là các sự kiện (có thực hoặc giả định), bao hàm các dữ kiện và
các yêu cầu. Trong trường hợp này đôi khi người ta dùng các cụm từ: một
vấn đề, một tình huống hay một bài toán, với cùng một nghĩa. Theo nghĩa
này, khi nói dạy học nêu vấn đề, dạy học gợi vấn đề hay giải quyết vấn đề thì
thực chất là dạy học dựa trên một tình huống, gợi ra tình huống và giải quyết
tình huống. Với tư cách là tính từ quan hệ, vấn đề không phải là một thực thể
(một tình huống hay một bài toán) mà là một tính chất, một trạng thái quan hệ
của một thực thể (một tình huống, một bài toán) với chủ thể hành động. Trong
đó, khi giải quyết tình huống, chủ thể gặp phải những khó khăn hay trở ngại
nhất định. Theo nghĩa này, khi nói dạy học nêu vấn đề, dạy học gợi vấn đề
hay giải quyết vấn đề, thì thực chất là dạy học gợi ra tình huống có vấn đề,
dạy học giải quyết tình huống có vấn đề.
* Thứ tư: Tình huống không có vấn đề là tình huống được thiết lập
quan hệ với chủ thể, trong đó chủ thể xuất hiện nhu cầu giải quyết và có thể
giải quyết các sự kiện trong tình huống nhờ việc huy động những kiến thức, kĩ
năng và phương pháp đã có của chủ thể.
Để trở thành tình huống không có vấn đề, thì quan hệ giữa chủ thể với
tình huống đó phải trải qua giai đoạn có vấn đề. Quá trình chuyển hoá từ có
vấn đề sang không có vấn đề là quá trình học viên học cách giải quyết vấn
đề. Đó là quá trình phát triển của chủ thể.
Như vậy, để tạo ra tình huống có vấn đề cho học viên, người giáo viên
cần thực hiện các bước sau:
Bước 1: Tạo ra tình huống (tạo ra bài toán, vấn đề).
Bước 2: Xây dựng giả thuyết về tính có vấn đề của tình huống đối với
học viên (giả định các yếu tố dữ kiện và yêu cầu của tình huống đối với trình
độ của học viên).
Bước ba: Tạo quan hệ giữa tình huống với học viên. Bằng cách đưa
học viên vào trong tình huống, gợi mở và làm xuất hiện nhu cầu giải quyết
tình huống ở học viên.
Bước bốn: Khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết về tính có vấn đề của
tình huống.
7.4.2. Các mức độ của phương pháp dạy học giải quyết tình huống có vấn đề
Mức độ dạy học giải quyết tình huống có vấn đề được quy định bởi
mức độ giáo viên điều khiển quá trình học viên tiếp xúc và giải quyết vấn đề
của học viên. Theo đó có các mức sau đây:
* Dạy học gợi mở vấn đề. Dạy học gợi mở vấn đề là giáo viên tạo ra
tình huống có vấn đề, gợi mở và dẫn dắt học viên vào trong tình huống đó,
làm xuất hiện nhu cầu giải quyết tình huống ở học viên, còn toàn bộ quá trình
giải quyết tình huống là do giáo viên chủ động sử dụng các kĩ thuật dạy học
khác nhau để giải quyết vấn đề cho học viên (thuyết trình, giải thích, trình diễn
v.v). Dạy học gợi mở vấn đề là mức thấp nhất của dạy học theo phương pháp
dạy học giải quyết tình huống có vấn đề. Vì bản chất của nó vẫn là phương
pháp chủ yếu dùng lời của giáo viên.
* Dạy học dẫn dắt học viên giải quyết vấn đề. Trong đó giáo viên tạo ra
tình huống có vấn đề, gợi mở và dẫn dắt học viên vào trong tình huống đó,
làm xuất hiện nhu cầu giải quyết tình huống ở học viên, đồng thời định hướng
và tổ chức cho học viên hành động giải quyết tình huống. Quá trình giải quyết
tình huống của học viên được thực hiện theo hai cấp độ:
+ Dạy học tương tác giải quyết vấn đề. Giáo viên cùng với học viên trao
đổi, tạo ra tình huống có vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề. Học viên
hành động giải quyết tình huống dưới sự dẫn dắt của giáo viên. Phương pháp
chủ yếu để giáo viên điều khiển quá trình học viên giải quyết tình huống
thường là vấn đáp. Vì vậy, cấp độ này còn được gọi là đàm thoại giải quyết
tình huống có vấn đề.
+ Học viên tự giải quyết tình huống có vấn đề. Trong cấp độ này, giáo
viên chủ yếu chỉ tạo ra tình huống có vấn đề, còn học viên tự nghiên cứu và
tìm tòi tri thức và cách thức giải quyết. Việc đánh giá kết quả và rút ra kết luận
của học viên có sự trợ giúp của giáo viên.
* Dạy học tạo ra tình huống có vấn đề. Có thể coi đây là mức độ cao
của dạy học giải quyết tình huống có vấn đề. Ở mức độ này, học viên chủ
động tạo ra tình huống có vấn đề, lập kế hoạch triển khai và tự nghiên cứu,
tìm tòi tri thức và cách thức giải quyết. Việc đánh giá kết quả và rút ra kết luận
của học viên có sự trợ giúp của giáo viên.
Có thể tóm tắt các mức độ dạy học giải quyết tình huống như trong
bảng dưới đây.
Mức dạy
học giải
quyết vấn đề
Người thực hiện các nội dung công việc
Tạo tình
huống
Nêu giả
thuyết
Lập kế
hoạch thực
hiện
Giải quyết
vấn đềKết luận
1 GV GV GV GV GV
2 GV GV GV GV& HV GV&HV
3 GV&HV GV&HV HV HV GV&HV
4 HV HV HV HV GV&HV
7.4.3. Gợi ý kĩ thuật thực hiện dạy học giải quyết tình huống có vấn đề
Trong dạy học giải quyết vấn đề, có thể sử dụng nhiều kĩ thuật dạy học
khác nhau, tuỳ theo mức độ tham gia của giáo viên vào quá trình giải quyết
tình huống của học viên. Tuy nhiên, một khuôn mẫu chung của phương pháp
dạy học này bao gồm các giai đoạn với các công việc sau:
* Tạo ra tình huống có vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức:
a) Tạo ra tình huống có vấn đề đối với học viên. Thực chất của việc tạo
ra tình huống có vấn đề trong dạy học là cung cấp cho người học các sự kiện
trong đó hàm chứa mâu thuẫn giữa kinh nghiệm, hiểu biết của học viên về
các sự kiện đó với khả năng hiện tại để giải quyết chúng (giải thích, chứng
minh, phản bác v.v). Vì vậy, một mặt, các sự kiện được nêu trong tình huống
thường phải gần gũi, quen thuộc với người học, mặt khác, cách đặt vấn đề
phải mới. Phương châm hữu ích ở đây là: Vấn đề mới của những sự kiện
không mới; suy nghĩ mới về những điều không mới.
b) Giúp học viên phân tích và biến đổi tình huống, làm bộc lộ và nhận
dạng vấn đề.
c) Phát biểu vấn đề cần giải quyết và các điều kiện kèm theo.
* Giải quyết vấn đề:
a) Phân tích tình huống, làm rõ các mối liên hệ giữa dữ kiện với yêu
cầu của tình huống (ở đây có thể sử dụng phương pháp phân tích của
Descartes – phân tích cái phức tạp, cái tổng thể thành những đơn vị nhỏ
nhất).
b) Đề xuất các giả thuyết giải quyết vấn đề (trong khâu này có thể sử
dụng các thủ thuật tư duy: quy cái mới lạ về những điều đã biết; phương pháp
tương tự; khái quát hoá; suy luận ngược và xuôi v.v). Lập kế hoạch giải quyết
vấn đề.
c) Thực hiện kế hoạch.
* Kết luận
a) Thảo luận kết quả và đánh giá mức độ đúng đắn của lời giải.
b) Khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết đã nêu.
c) Phát biểu kết luận.
d) Đề xuất tình huống mới.
Vai trò của giáo viên và của học viên trong việc thực hiện các công việc
trên tuỳ thuộc vào mức độ của dạy học giải quyết tình huống có vấn đề.
7.5. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNGKhi lí luận dạy học được “thanh xuân hoá” thì một trong những hướng
nghiên cứu được ưu tiên hàng đầu là xây dựng các tình huống chuẩn để tạo
ra các mô hình đa dạng, phản ánh được hơi thở của sự phát triển khoa học
và đời sống xã hội. Với những tình huống đó, cho phép người học khám phá
và hình thành cho mình những nhận thức, giá trị, kĩ năng và cách ứng xử phù
hợp nhất với môi trường tự nhiên và xã hội. Nói cách khác, thông qua việc
giải quyết những tình huống, người học có được khả năng thích ứng tốt nhất
với môi trường xã hội đầy biến động. Đó chính là bản chất của phương pháp
dạy học bằng tình huống – một trong những phương pháp chủ đạo trong dạy
học hiện đại, hướng đến sự phát triển toàn diện của người học.
Phương pháp dạy học bằng tình huống rất gần với phương pháp dạy
học giải quyết tình huống có vấn đề, nhưng thực ra hai phương pháp này có
nhiều điểm khác nhau. Phương pháp dạy học bằng tình huống có cơ sở lí
luận và phạm vi ứng dụng rộng hơn; nếu biết cách thực hiện thì hiệu quả dạy
học cao hơn nhiều phương pháp dạy học khác. Tuy nhiên, kĩ thuật tiến hành
phức tạp hơn. Vì vậy, để triển khai được phương pháp này, giáo viên cần
hiểu cơ sở lí luận và một số khái niệm có liên quan.
7.5.1. Cơ sở tâm lí học và các khái niệm cơ bản
7.5.1.1. Cơ sở tâm lí học
Phương pháp dạy học bằng tình huống được dựa trên một số luận
điểm quan trọng trong lí thuyết phát sinh nhận thức của J. Piaget (xem
Chương 2).
Thứ nhất: Sự phát triển của con người là quá trình thích ứng tích cực
với những yêu cầu thường xuyên đổi mới của môi trường. Quá trình thích
ứng là quá trình tạo ra sự cân bằng giữa chủ thể với môi trường, được thiết
lập nhờ hai quá trình: đồng hoá và điều ứng. Đồng hoá diễn ra khi những tri
thức, kĩ năng và phương pháp hành động (gọi tắt là những tri thức học tập)
mà cá nhân thu được, chỉ có tác dụng củng cố và mở rộng những tri thức học
tập đã có, không tạo ra các cấu trúc mới. Điều ứng là những tri thức học tập
thu nhận được dẫn đến sự cải tổ lại các tri thức đã có, tạo ra tri thức, kĩ năng
và phương pháp mới. Đồng hoá là tăng trưởng còn điều ứng là phát triển.
Học tập được coi là quá trình tạo ra các năng lực thích ứng tích cực của cá
nhân với môi trường. Dạy học bằng tình huống là dạy học viên cách hành
động để tạo ra năng lực thích ứng.
Thứ hai: Học tập là hành động tìm tòi, khám phá, phát minh của học
viên. Đó là quá trình người học tự xây dựng cho mình các tri thức khoa học
(tri thức vật lí và tri thức quan hệ toán) và kĩ năng hành động trong những tình
huống nhất định. Nói tóm lại, học là công việc tự lực của người học.
Thứ ba: Hành động học tập của người học có thể được tiến hành trong
môi trường bị khúc xạ qua bài giảng của giảng viên, nhưng tốt nhất là trong
môi trường hàm chứa nội dung dạy học. Đó chính là những tri thức, kĩ năng
và phương pháp giải quyết một tình huống cụ thể. Vì vậy, các tình huống học
tập chính là môi trường học tập. Quá trình học tập là quá trình giải quyết các
tình huống. Có hai khả năng xảy ra khi người học giải quyết thành công một
tình huống: a) Do việc vận dụng những tri thức, kĩ năng và phương pháp đã
có. Trong trường hợp này, những tri thức thu được qua việc giải quyết tình
huống giúp cho việc củng cố và mở rộng hơn tri thức đã có. Khi đó, việc giải
quyết tình huống mang lại cho cá nhân khả năng đồng hoá; b) Do việc sử
dụng những tri thức, kĩ năng và phương pháp mới. Trong trường hợp này,
những tri thức thu được từ việc giải quyết thành công tình huống dẫn đến sự
cải tổ những tri thức đã có, tạo thành tri thức mới. Khi đó việc giải quyết tình
huống mang lại cho cá nhân khả năng điều ứng. Từ đây vấn đề đặt ra là mọi
tình huống có phải là tình huống dạy học không? Thế nào là tình huống dạy
học? Nó có gì khác với tình huống thông thường? Làm thế nào để một tình
huống thông thường trở thành một tình huống dạy học?
7.5.1.2. Các khái niệm
* Tình huống dạy học. Ở cấp độ phổ quát nhất, mọi tình huống đều có
giá trị dạy học. Đơn giản là vì trong bất kì tình huống nào cũng hàm chứa
những tri thức về các sự kiện, tri thức về kĩ năng và phương pháp giải quyết
chúng. Vì vậy, khi hành động và mang lại kết quả, chủ thể đã thu nhận được
những tri thức nhất định. Tuy nhiên, dạy học không phải là quá trình tự phát
mà là một hoạt động có chủ đích. Vì vậy, các tình huống được đưa vào trong
hoạt động dạy học phải được lựa chọn và được xây dựng theo dụng ý của
người dạy, khi đó mới trở thành tình huống dạy học.
Tình huống dạy học là tình huống trong đó có sự uỷ thác của người
giáo viên. Sự uỷ thác này chính là quá trình người giáo viên đưa những nội
dung cần truyền thụ vào trong các sự kiện của tình huống và cấu trúc các sự
kiện sao cho phù hợp với lôgic sư phạm, để khi người học giải quyết nó sẽ đạt
được mục tiêu dạy học.
Như vậy, một tình huống thông thường chưa phải là tình huống dạy
học. Nó chỉ trở thành tình huống dạy học khi có sự uỷ thác của giáo viên và
được giáo viên sử dụng với dụng ý tạo ra môi trường làm việc của người học.
Đây chính là điểm khác biệt giữa một tình huống thông thường với một tình
huống dạy học.
* Yêu cầu của một tình huống dạy học. Một tình huống dạy học cần đáp
ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Tình huống dạy học phải là mô hình đặc trưng cho một họ
tình huống cùng loại mà việc giải quyết được mô hình đặc trưng đó cho phép
người học có được tri thức khái quát, hàm chứa tri thức của các tình huống
trong cùng họ. Mô hình đặc trưng này tiêu biểu cho càng nhiều tình huống
trong cùng họ càng tốt.
Thứ hai: Các sự kiện trong mỗi tình huống được cấu trúc sao cho
người học có câu trả lời ngay từ đầu, nhưng câu trả lời đó phải mau chóng trở
thành không đầy đủ hoặc không hiệu quả (thậm chí sai), khiến người học phải
điều chỉnh hệ thống kiến thức của mình để giải đáp vấn đề đặt ra (đồng hóa
hoặc điều ứng).
Thứ ba: Các vấn đề phải do chính bản thân tình huống gợi ra chứ
không phải do giáo viên gợi ý từ bên ngoài.
Thứ tư: Trong các tình huống phải hàm chứa những khó khăn hoặc trở
ngại, mà để giải quyết thành công tình huống, người học phải vượt qua khó
khăn hoặc trở ngại đó. Một tình huống hàm chứa khó khăn là tình huống trong
đó nếu vấn đề được giải quyết mà không đòi hỏi phải cấu trúc lại những tri
thức đã có (mức đồng hoá), còn một tình huống có trở ngại là tình huống mà
khi giải quyết vấn đề người học buộc phải cấu trúc lại những quan điểm, tri
thức, phương pháp đã có (mức điều ứng).
* Cấu trúc một tình huống. Thông thường, một tình huống có 3 phần: a)
Phần mở đầu: Nêu vắn tắt bối cảnh của các sự kiện trong tình huống; b).
Phần nội dung tình huống: mô tả diễn biến của các sự kiện trong tình huống
(các dữ kiện); c) Các vấn đề, các yêu cầu, đề nghị cần giải quyết.
* Các cấp độ của tình huống dạy học
Có hai cấp độ tình huống dạy học: cấp độ củng cố và cấp độ phát triển
ứng với các chức năng đồng hoá hoặc điều ứng tri thức của chúng.
+ Tình huống củng cố là những tình huống dạy học được giáo viên
chọn lọc hoặc xây dựng với dụng ý củng cố và mở rộng tri thức mà học viên
đã được học. Tình huống củng cố là tình huống hàm chứa các khó khăn mà
người học cần vượt qua. Tình huống củng cố được sử dụng nhiều trong
luyện tập, củng cố.
+ Tình huống phát triển là tình huống dạy học được giáo viên chọn lọc
hoặc xây dựng với dụng ý hình thành và phát triển tri thức mới cho học viên.
Tình huống phát triển là tình huống hàm chứa các trở ngại mà người học cần
vượt qua. Tình huống phát triển được sử dụng nhiều trong dạy tri thức, kĩ
năng và phương pháp mới.
* Các loại tình huống dạy học. Trong thực tiễn, một tình huống dạy học
có thể được người dạy chọn lọc từ những tình huống thực trong cuộc sống
(những ca bệnh điển hình trong y học, trong sản xuất, trong kĩ thuật, trong văn
học v.v). cũng có thể được nhà sư phạm tạo dựng lên, tức là tình huống giả
định.
Trong trường hợp tình huống giả định thì người giáo viên cần dựa vào
lịch sử phát triển của lĩnh vực khoa học để “phục chế lại” con đường và các
điều kiện, các sự kiện hình thành tri thức khoa học cần truyền đạt. Quá trình
này được gọi là hoàn cảnh hoá, thời gian hoá và cá nhân hoá lại những tri
thức khoa học.
* Tình huống tiền sư phạm và tình huống sư phạm. Có thể quan niệm
có tính quy ước về tình huống tiền sư phạm và tình huống sư phạm như sau:
+ Tình huống tiền sư phạm là tình huống học tập do giáo viên đề xuất
cho học viên, sao cho khi người học hành động trong tình huống đó, có sự
hình thành hoặc điều chỉnh tri thức của họ để đáp ứng yêu cầu của tình
huống mà không có tác động của người dạy. Tình huống tiền sư phạm là tình
huống không có tính giảng dạy công khai, khiên cưỡng. Sự uỷ thác của người
dạy vào trong tình huống để người học tự giải quyết là một tình huống tiền sư
phạm. Trong dạy học hiện đại, dạy là người dạy uỷ thác cho người học một
tình huống tiền sư phạm đúng đắn và học là sự thích nghi của người học với
tình huống đó.
+ Tình huống sư phạm là tình huống tiền sư phạm trong đó xảy ra
trường hợp học viên không thể tự mình giải quyết, buộc phải có sự can thiệp
của giáo viên. Mức độ can thiệp của giáo viên tuỳ thuộc mức độ giải quyết
tình huống tiền sư phạm của học viên. Trong tình huống sư phạm diễn ra sự
tương tác của bộ ba: Người dạy – Người học – Môi trường (tình huống).
* Dạy học bằng tình huống. Toàn bộ sự phân tích ở trên cho thấy, dạy
học bằng tình huống thực chất là giáo viên chủ yếu tạo ra và uỷ thác cho học
viên một tình huống tiền sư phạm.
Nói đơn giản, phương pháp dạy học bằng tình huống là giáo viên cung
cấp cho học viên tình huống dạy học. Học viên tìm hiểu, phân tích và hành
động trong tình huống đó. Kết quả là học viên thu nhận được các tri thức
khoa học, thái độ và các kĩ năng hành động (trí óc và thực tiễn) sau khi giải
quyết tình huống đã cho.
7.5.2. Chức năng của giáo viên trong dạy học bằng tình huống
Trong phương pháp dạy học bằng tình huống, người giáo viên có ba
chức năng chính và được thể hiện ở ba pha (hoặc ba hệ thống việc làm của
giáo viên):
Thứ nhất: Ủy thác. Tức là tạo ra một tình huống tiền sư phạm cho học
viên giải quyết (tạo ra môi trường cho học viên làm việc). Trong pha uỷ thác,
giáo viên cần phân định rõ tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học, tri thức giáo
khoa, tri thức giảng dạy và tri thức học tập (xem Chương 3).
Thứ hai: Thể thức hoá. Trong thực tế, sau khi đã giải quyết xong tình
huống, thu nhận được tri thức, kĩ năng hay phương pháp hành động, nhưng
học viên vẫn không thể khẳng định chúng là những kiến thức như thế nào, có
thể dùng chúng trong trường hợp nào? v.v. Vì vậy, người dạy phải giúp học
viên xác nhận kiến thức đó, chỉ ra vị trí của nó trong hệ thống kiến thức của
bản thân và cách ứng dụng chúng, tức là người dạy thực hiện chức năng thể
thức hóa kiến thức.
Thứ ba: Chức năng tham vấn. Trong trường hợp học viên không thể tự
mình giải quyết tình huống tiền sư phạm thì người giáo viên cần có biện pháp
trợ giúp cho họ, tuỳ theo các mức độ khác nhau. Khi đó, người giáo viên thực
hiện chức năng tham vấn.
7.5.3. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
* Điểm mạnh:
1) Cung cấp một môi trường sư phạm lí tưởng cho học viên tổ chức
các hoạt động học tập của mình. Trong môi trường đó, học viên được trực
tiếp làm việc với đối tượng học tập, tự mình “bóc tách” nội dung học tập được
ngầm ẩn trong tình huống.
2) Học viên không tiếp nhận nội dung học tập một cách lí thuyết mà
được gắn liền với một tình huống cụ thể, điển hình. Nguyên tắc vàng trong
dạy học: tôi nghe thì tôi quên, tôi nhìn thì tôi nhớ, tôi làm thì tôi hiểu rất phù
hợp với trường hợp này.
3) Tăng cường khả năng độc lập suy nghĩ, phát triển tư duy sáng tạo và
các hướng tiếp cận tới đối tượng.
4) Phát triển các kĩ năng vận dụng kinh nghiệm của mình và của người
khác vào việc giải quyết các vấn đề trong học tập và trong các lĩnh vực khác.
5) Phát triển khả năng thích ứng trong các tình huống khác nhau. Đây
chính là mục tiêu chủ yếu của dạy học hiện đại.
6) Nâng cao lòng tin vào khả năng của bản thân trong việc giải quyết
các tình huống học tập cũng như trong cuộc sống.
7) Tăng cường hiểu biết và sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm
thông qua việc hợp tác giải quyết tình huống.
* Hạn chế
1) Xây dựng được một tình huống tiền sư phạm là việc không đơn giản.
Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kinh nghiệm chuyên môn, vốn văn hoá
sâu rộng và am hiểu những vấn đề thực tế liên quan tới lĩnh vực môn học.
2) Học viên tốn khá nhiều thời gian để giải quyết tình huống và rút ra
các tri thức cần thiết. Vì vậy các tình huống được khai thác phải điển hình để
tránh lãng phí nhiều thời gian của học viên.
3) Học viên dễ bị lạc hướng trong quá trình giải quyết tình huống; dễ
nản chí khi gặp tình huống khó hoặc không nhiệt tình tham gia khi tình huống
thiếu sự hấp dẫn.
4) Nhiều tình huống tốn kém tài chính, khó thực hiện.
7.5.4. Một số gợi ý thực hiện phương pháp dạy học bằng tình huống
Trong thực tiễn giáo viên có thể sử dụng nhiều kĩ thuật để triển khai
phương pháp dạy học bằng tình huống. Dưới đây là một số gợi ý tiến hành
phương pháp này:
* Giai đoạn chuẩn bị của giáo viên. Đây là giai đoạn quan trọng nhất
của dạy học bằng tình huống. Vì ở đó diễn ra sự uỷ thác của giáo viên. Trong
bước này, giáo viên cần phải thực hiện các công việc sau:
Thứ nhất: Xác định mục tiêu và nội dung giảng dạy cụ thể, mà thông
qua tình huống học viên phải đạt được. Câu hỏi ở đây là: sau khi giải quyết
xong tình huống, người học sẽ đạt được cái gì? Cái đó có phù hợp với mục
tiêu và nội dung cần dạy không?
Thứ hai: Xây dựng tình huống dạy học. Công việc này giống nhà biên
kịch viết kịch bản. Giáo viên cần phải thu thập tình huống, phân tích và lựa
chọn thông tin, xác lập logic các sự kiện; tiên lượng trình độ nhận thức, kĩ
năng hành động và thái độ của học sinh khi hành động trong môi trường các
sự kiện đó v.v. Nếu việc xây dựng tình huống dạy học bằng cách lựa chọn
tình huống trong thực tế, thì tình huống đó phải điển hình (đại diện cho các
tình huống cùng loại) và có tính thời sự. Đồng thời phải có sự gia công thêm
về phương diện sư phạm. Nếu là tình huống do giáo viên xây dựng thì cần
phải đảm bảo nguyên tắc “y như thật”, tức là những sự kiện trong tình huống
phải gắn với thời gian, không gian, địa điểm và con người cụ thể sản sinh ra
tri thức, kĩ năng và phương pháp mà người giáo viên đưa vào trong tình
huống (sự cá nhân hoá, hoàn cảnh hoá, thời gian hoá v.v).
Thứ ba: Cần phân tích trình độ nhận thức, kinh nghiệm và các đặc điểm
tâm lí – xã hội của học viên để xác định mức độ có vấn đề của tình huống
(xác định mức độ khó khăn hoặc trở ngại của tình huống mà học viên phải
vượt qua).
Thứ tư: Chuẩn bị các câu hỏi, các phương tiện kĩ thuật cần thiết cho
việc giải quyết tình huống của học viên.
Thứ năm: Lập kế hoạch thực hiện và dự kiến những tình huống phát
sinh.
* Giai đoạn thực hiện. Trong giai đoạn này có các việc chủ yếu sau:
Giới thiệu tình huống cho học viên. Cung cấp thông tin về tình huống
(phát tài liệu, băng video, v.v). Nêu rõ công việc học viên phải thực hiện, mục
đích cần đạt v.v.
Tổ chức cho học viên hành động với tình huống: Trong khâu này giáo
viên có thể hướng dẫn học viên hành động với tình huống theo nhiều hình
thức: a) Làm việc độc lập của từng học viên. Trong hình thức này, giáo viên
cần đảm bảo đủ thời gian để học viên phân tích và hiểu rõ tình huống. Sau khi
học viên đưa ra được giải pháp giải quyết tình huống, giáo viên cần xác nhận
những tri thức, kĩ năng, phương pháp hành động mà học viên thu nhận được
từ việc giải quyết tình huống. Trong trường hợp những tri thức thu nhận được
không phù hợp, cần giúp họ khắc phục, bằng cách tìm kiếm giải pháp mới; b)
Làm việc theo nhóm. Trong hình thức này, lớp được chia thành nhiều nhóm.
Khi các nhóm làm việc, giáo viên cần đi vòng quanh, quan sát và trợ giúp các
nhóm, nếu thấy cần thiết; c) Thảo luận cả lớp. Trong dạy học tình huống, hình
thức làm việc cả lớp chỉ diễn ra ở công đoạn cuối, khi các cá nhân hoặc các
nhóm đã tìm ra được giải pháp và cần công bố, thảo luận, trao đổi rộng rãi
trong cả lớp.
Tổng kết: Giáo viên thực hiện chức năng xác nhận kiến thức, kĩ năng,
phương pháp mà học viên thu nhận được thông qua việc giải quyết tình
huống. Bước này có thể được thực hiện bằng kĩ thuật trao đổi (cho học viên
tóm tắt và phát biểu, trao đổi sau đó giáo viên kết luận trước lớp học).
Chương 8. NHÓM PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC TƯƠNG TÁC HÀNH ĐỘNG HỌC
Các phương pháp tổ chức tương tác hành động học có cơ sở lí luận
tâm lí học, xã hội học sâu sắc và vững chắc, mà trực tiếp là lí thuyết tương
tác phát triển, lí thuyết tương tác biểu trưng, lí thuyết vai trò, lí thuyết kịch v.v.
Luận điểm bao trùm là các cá nhân trong xã hội không tồn tại như một ốc đảo,
mà luôn luôn có quan hệ hữu cơ và tương tác với người khác. Nói đúng hơn,
con người chỉ tồn tại và phát triển thông qua sự tương tác với người khác.
Trong quá trình tương tác, cá nhân học được các ứng xử từ hành vi của
người khác và nhận ra hành vi của mình thông qua phản ứng của người đối
diện, từ đó điều chỉnh hành vi của mình.
Ngày nay, với mục tiêu học tập để cùng chung sống với nhau (thực
chất là học thích ứng với người khác và với xã hội nói chung) và học để làm
người (xem bốn trụ cột của dạy học thế kỉ XXI do UNESCO xác định) thì các
phương pháp dạy học tổ chức tương tác hành động ngày càng trở thành
phương pháp dạy học trụ cột trong nhà trường hiện đại.
Tuy nhiên, suy cho cùng, dạy học là tương tác giữa các yếu tố của quá
trình dạy học, nhất là dạy học hiện đại. Điều này đã được phân tích trong
Chương 1. Với lẽ đó, các phương pháp dạy học, ngay cả phương pháp thuyết
trình, đều ít nhiều có sự tương tác giữa giáo viên và học viên. Vậy trong
trường hợp nào được gọi là phương pháp dạy học tổ chức tương tác hành
động? Một phương pháp dạy học tương tác phải đáp ứng được những yêu
cầu sau:
1) Trong quá trình dạy học, người học phải được trực tiếp đối mặt và
hành động với nội dung học tập. Nói cách khác những tri thức, kĩ năng,
phương pháp hành động và thái độ mà người học thu nhận được trong quá
trình dạy học là hệ quả trực tiếp từ hành động học của chính họ.
2) Học viên được hành động trong các tình huống dạy học. Trong môi
trường đó phải tồn tại ba mối tương tác: a) Trực tiếp giữa người học với nội
dung học tập; b) Trực tiếp và gián tiếp giữa hành động của người học với
hành động của người dạy; c) Trực tiếp giữa hành động của người học với
hành động của người học.
3) Nhiệm vụ của giáo viên không phải là thuyết trình, thuyết phục, giảng
giải cho học viên mà là uỷ thác tri thức, kĩ năng, phương pháp hành động vào
trong tình huống; giúp đỡ người học trong quá trình hành động và xác nhận
những tri thức, kĩ năng người học thu nhận được qua hành động.
Các phương pháp dạy học tổ chức tương tác hành động có nhiều điểm
tương đồng với phương pháp dạy học bằng tình huống. Vì cùng hướng đến
việc tổ chức cho học viên hành động giải quyết các tình huống, thông qua đó
người học đạt được mục tiêu của dạy học. Điểm khác nhau giữa hai phương
pháp này là ở chỗ, các phương pháp tổ chức tương tác hành động nhấn
mạnh khía cạnh tổ chức hành động học của học viên và sự tương tác giữa
các hành động của người dạy với người học, giữa người học với người học
trong quá trình học viên tiến hành các hành động học. Trong đó yếu tố tương
tác được đặt lên hàng đầu.
Dựa vào mục đích và tính chất của các mối tương tác trong dạy học, có
thể quy thành ba nhóm phương pháp dạy học tổ chức tương tác hành động:
- Các phương pháp kịch.
- Các phương pháp dạy học bằng trò chơi.
- Dạy học tương tác theo lí thuyết lịch sử văn hoá về sự phát triển các
chức năng tâm lí cấp cao của L.X.Vưgotxki.
8.1. CÁC PHƯƠNG PHÁP KỊCH8.1.1. Khái niệm
Cơ sở của phương pháp kịch trong dạy học là lí thuyết vai trò và lí
thuyết kịch trong xã hội học. Trong đó, mỗi cá nhân hay nhóm xã hội thường
xuyên đảm nhận những vai trò nhất định. Điều này giống như vai diễn trên
sân khấu. Cùng một lúc, mỗi cá nhân có thể đảm nhận nhiều vai trò khác
nhau và các vai trò này thường xuyên thay đổi. Có thể minh họa luận điểm
này bằng câu nói của W. Shakespeare: Toàn thế giới là nhà hát. Trong nhà
hát có đàn bà, đàn ông. Tất cả đều là diễn viên. Ở họ đều có lối ra sân khấu
và lối rời sân khấu của mình và mỗi người không chỉ đóng một vai.
Quá trình sắm vai có tính hai mặt: một mặt, cá nhân nhập vào vai được
đóng, khuôn ý nghĩ, thái độ và hành vi theo vai diễn đó; mặt khác, thông qua
vai diễn, cá nhân thể hiện được khả năng và tính cách của mình. Sự nhập vai
và thể hiện cá tính cá nhân qua vai diễn là cơ sở cho phương pháp dạy học
theo lí thuyết đóng vai, theo lí thuyết kịch. Phương pháp dạy học này được
dùng phổ biến trong dạy học các môn khoa học xã hội, đặc biệt là trong việc
hình thành các kĩ năng thâm nhập vào đời sống nội tâm của người khác, thấu
cảm, lắng nghe tâm sự của người khác cũng như kĩ năng giao tiếp, ứng xử
của học viên.
Phương pháp kịch trong dạy học là giáo viên cung cấp kịch bản và đạo
diễn học viên hành động theo các vai diễn. Qua đó họ học được cách suy
nghĩ, thể hiện thái độ và hành động cũng như các kĩ năng ứng xử khác của
các nhân vật trong kịch bản.
8.1.2. Điểm mạnh và hạn chế của các phương pháp kịch.
8.1.8.1. Điểm mạnh
Thứ nhất: Đây là cách tốt nhất để học viên thâm nhập vào thế giới nội
tâm con người cũng như vào thế giới các quan hệ xã hội. Là cách tốt nhất để
học viên thu nhận những kinh nghiệm, kiến thức, thái độ và kĩ năng ứng xử
trong thế giới quan hệ đó.
Thứ hai: Là phương pháp sinh động để gắn kết giữa lí luận với thực
tiễn. Đặc biệt là trong việc giải quyết các tình huống có nhiều phát sinh. Qua
đó, học viên học được nhiều cách giải quyết những tình huống đa dạng, phức
tạp hàng ngày trong cuộc sống và trong công việc.
Thứ ba: Tạo cơ hội thuận lợi để học viên thể hiện hiểu biết, kĩ năng và
phương pháp ứng xử của mình; cơ hội thể hiện thái độ và cá tính của mình
trước người khác.
* Hạn chế:
Thứ nhất: Cũng giống như trò chơi, các tình huống của vai diễn thường
có tính phi cấu trúc về khuôn mẫu nội dung học tập. Do vậy, việc truyền thụ
hệ thống tri thức được đúc khuôn từ trước sẽ gặp nhiều khó khăn nếu chỉ sử
dụng phương pháp này.
Thứ hai: Một hạn chế khác của đóng vai là tâm lí e ngại, thụ động và
ngượng ngùng của nhiều học viên có thể làm giảm hiệu quả của phương
pháp. Mặt khác, nhiều tình huống, vai diễn đòi hỏi phải có diễn xuất tinh tế.
Điều này đôi khi vượt quá khả năng của học viên.
Thứ ba: Để thực hiện một vai diễn thường mất nhiều thời gian chuẩn bị
và diễn. Điều này dễ ảnh hưởng tới kế hoạch chung của quá trình dạy học.
8.1.3. Các phương pháp kịch
Tuỳ theo các mức độ tham gia của học viên vào quá trình xây dựng
kịch bản và đóng vai, có thể chia phương pháp kịch thành ba loại:
8.1.3.1. Đóng vai
Thực chất đây là trò chơi đóng vai, trong đó giáo viên hình thành kịch
bản có nội dung dạy học, yêu cầu học viên đóng các vai diễn đã có. Chẳng
hạn, hai học viên đóng vai hai bà mẹ trẻ trò chuyện với nhau về nỗi lo lắng
của họ khi đứa con trai sáu tuổi chuẩn bị đến trường tiểu học; vai nhà tham
vấn với thân chủ là trẻ em vị thành niên v.v.
Đóng vai có tác dụng rất lớn trong việc phát triển kĩ năng giao tiếp và kĩ
năng thâm nhập tìm hiểu đặc điểm tâm tư và thái độ của người khác.
Để đảm bảo cho trò chơi đóng vai có kết quả, người giáo viên cần chú
ý những điểm sau:
+ Thứ nhất: Lên kế hoạch cho bài tập đóng vai. Trước hết cần xác định
mục đích và nội dung của các vai diễn và lên chương trình để thực hiện được
các mục tiêu này.
+ Yếu tố quyết định thành công của phương pháp đóng vai là kịch bản.
Kịch bản, một mặt phải được soạn thảo chi tiết các đối thoại và hành động
của các nhân vật; mặt khác không nên ép buộc học viên nhất thiết phải khuôn
theo các chi tiết đó. Nói cách khác, các vai diễn phải có tính mở, để tạo điều
kiện cho người diễn sáng tạo. Nên tránh đưa vào trong kịch bản những nhân
vật đơn điệu.
Khi kịch bản đã được soạn thảo xong, cần phân công rõ ràng cho từng
học viên: ai đóng vai? ai quan sát? quan sát cái gì? Cách thức quan sát và ghi
chép. Cố gắng giao việc đến mọi thành viên trong nhóm. Các nhiệm vụ này
cần được thông tin đầy đủ đến người được giao việc. Nếu có điều kiện, nên
hình thành các nhóm phụ trách các nhân vật và yêu cầu có sự thảo luận
nhóm về kịch bản để khái quát đặc điểm các nhân vật.
Trong trường hợp các vai diễn có nhiều hành động phức tạp, giáo viên
có thể làm mẫu cho học viên trước khi đảm nhận vai diễn để họ hiểu và tự tin
hơn khi nhập vai.
+ Thứ hai: Điều khiển thực hiện bài tập đóng vai.
Vai diễn chỉ nên được bắt đầu khi học viên đã được tìm hiểu kĩ vai diễn
của mình và đã có tâm thế sẵn sàng nhập vai. Nếu được chuẩn bị chu đáo
các học viên có thể tự đảm nhận vai diễn của mình mà không cần sự trợ giúp
của giáo viên. Nguyên tắc chung là giáo viên càng ít can thiệp vào vai diễn
càng tốt. Khi cần thiết, có thể cung cấp thêm thông tin mới về vai diễn cho học
viên; có thể gợi ý những chi tiết học viên còn lúng túng, thụ động hoặc có thể
sáng tạo được.
Khi người đóng vai đã tự tin và có kĩ năng diễn, có thể cho tiến hành
thảo luận hoặc quay video cảnh diễn đó để người đóng vai có điều kiện tự
nhận xét, tự đánh giá, bổ sung chi tiết cho buổi tập.
+ Thứ ba: Tổng kết.
Nên tiến hành tổng kết ngay sau cảnh diễn. Đây là bước quan trọng và
tốn nhiều thời gian. Mục đích là để nhận xét về vai diễn và rút ra những kết
luận tổng quát. Giáo viên nên chuẩn bị trước các câu hỏi cho từng cá nhân
hoặc nhóm để họ có điều kiện suy nghĩ cách trả lời. Nên đưa ra nhiều câu hỏi
có tính gợi mở. Ví dụ: Điều gì đã diễn ra? Tại sao lại tiến hành như vậy nhỉ?
Có thể làm khác được không? v.v
Nên để học viên tự nhận xét vai diễn của mình trước khi có ý kiến của
người khác và của giáo viên. Trong nhận xét nên có tinh thần xây dựng, tránh
chỉ trích. Phương châm ở đây là: Hai điểm đã tốt còn một điểm có thể làm tốt
hơn. Đối với những học viên hay nhóm đã có kĩ năng và kinh nghiệm đóng
vai, cần trao đổi ý nghĩ, cảm tưởng của họ. Giáo viên cần rút ra kinh nghiệm
từ thành công hoặc chưa thành công để từ đó khái quát theo mục tiêu đã xác
định và chuẩn bị cho các kịch bản tiếp theo.
8.1.3.2. Diễn kịch
So với phương pháp đóng vai, diễn kịch đòi hỏi học viên phải làm việc
nhiều hơn. Do vậy, họ cũng thu hoạch được nhiều hơn về mọi phương diện.
Nếu trong đóng vai, kịch bản thường có sẵn đối với học viên, còn trong
diễn kịch họ phải tự soạn thảo kịch bản theo chủ đề cho trước. Nói cách khác,
trong đóng vai, giáo viên cung cấp cho học viên kịch bản, còn trong diễn kịch
chỉ đưa ra chủ đề để học viên viết tiểu phẩm và thể hiện nó.
Về quy mô, đóng vai có thể được tiến hành ở mức vi mô trong những
tình huống cụ thể, ngắn, có tính chất minh hoạ, còn diễn kịch thường có quy
mô lớn hơn, hoành tráng hơn, đòi hỏi nhiều người tham gia hơn.
Hiệu quả của phương pháp diễn kịch rất cao, đặc biệt đối với những
chủ đề có tính xã hội. Chẳng hạn, giáo viên muốn đề cập chủ đề về sự nguy
hiểm của việc có thai sớm ở trẻ em vị thành niên, học viên sẽ tiếp thu miễn
cưỡng nếu chủ đề này được thực hiện thông qua bài giảng của giảng viên,
nhưng nó sẽ trở nên sâu sắc và đầy ấn tượng nếu được thể hiện qua vở diễn.
Để phương pháp diễn kịch thu được kết quả dạy học cao, các chủ đề
do giáo viên đưa ra cho học viên cần rõ ràng, nên kết hợp giữa nội dung học
tập với những yếu tố cảm xúc. Khi học viên đã hình thành kịch bản, giáo viên
cần đọc và góp ý. Giai đoạn viết kịch bản thường mất nhiều thời gian. Thậm
chí chỉ có một số tham gia viết, còn nhiều người đứng ngoài cuộc. Vì vậy một
mặt giáo viên nên chia nhóm và theo hình thức thảo luận, mặt khác, nên có
kế hoạch tiến độ cụ thể: xây dựng cốt truyện; xây dựng nhân vật; dàn cảnh
v.v. Nên để học viên diễn tập thử vài lần trước khi diễn thật. Các thiết bị và
hoá trang nên đơn giản, không cầu kì theo hướng chuyên nghiệp.
Trong trường hợp học viên chưa quen với phương pháp học tập này,
nên bắt đầu từ phương pháp đóng vai, sau đó chuyển sang kịch ngắn (5
phút). Khi các học viên đã tự tin, có khả năng thâm nhập nhân vật và diễn
xuất mới diễn kịch dài.
* Phương pháp mô phỏng. Mô phỏng là biến thể của đóng vai. Đó là
hình thức “nhại lại” một vai trò nào đó. Chẳng hạn: vai ông bố trong gia đình,
nhà doanh nghiệp, người làm công tác tuyên truyền, ông bộ trưởng v.v khi
giải quyết một tình huống có liên quan.
Trong dạy học mô phỏng, các học viên được giao tìm hiểu về đối tượng
sẽ mô phỏng, tình huống điển hình để thể hiện đối tượng, viết kịch bản cho
tình huống và diễn kịch theo tình huống đó.
Trong quá trình học viên làm động tác “nhại lại”, các học viên khác
đóng vai trò người phán xét và phản biện. Điều này làm cho mô phỏng trở
thành phương pháp học tập sôi nổi và hấp dẫn.
Một lợi thế khác của mô phỏng là làm cho các tình huống học tập gắn
liền với thực tế cuộc sống, mang lại cho học viên nhiều kinh nghiệm mà trước
đó chưa có. Phương pháp này cũng giúp học viên kĩ năng giải quyết các tình
huống thường gặp trong cuộc sống và trong nghề nghiệp. Vì vậy, phương
pháp này rất tốt cho các môn học đào tạo cán bộ tuyên truyền, quản trị, kinh
tế, y học và giáo dục v.v.
8.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TRÒ CHƠI8.2.1. Khái niệm
Một cháu bé 6 tuổi háo hức đón chờ ngày khai trường đến mức đêm
hôm trước không ngủ, nhưng một tuần sau ngày đó, cháu nằng nặc đòi mẹ
cho nghỉ học. Niềm vui đến trường của cháu bị xói mòn dần. Trong giờ học,
cả lớp phải “ngồi đẹp”, với vẻ mặt trang nghiêm để nghe cô giảng bài. Nếu bất
chợt có tiếng cười đùa thì ngay lập tức bị hình phạt thích đáng. Cảnh tượng
đó diễn ra trong nhà trường ở khắp nơi trên thế giới. Đâu đâu cũng nhận thấy
một kỷ cương cứng rắn của lớp học: Học tập chứ không phải là chuyện đùa.
Trong khi đó tồn tại một sự thật bao đời nay: Biết mà học không bằng vui mà
học (Khổng Tử). Các phương pháp dạy học bằng trò chơi có tác dụng hấp
dẫn, cuốn hút sự tập trung cao độ của người học mà ít phương pháp nào có
được. Hơn nữa, trong trò chơi, tình cảm của người học đối với môn học, đối
với bạn và đối với giáo viên được nảy nở và duy trì.
Phương pháp dạy học bằng trò chơi là giáo viên cung cấp và tổ chức
cho học viên tiến hành các trò chơi. Hệ quả là học viên thu nhận được các tri
thức khoa học, thái độ và kĩ năng hành động (trí óc và chân tay) sau khi kết
thúc trò chơi.
Cũng giống như phương pháp dạy học bằng tình huống, các trò chơi
trong dạy học có nguồn gốc từ các trò chơi trong thực tế. Đối với loại trò chơi
này, giáo viên chỉ cần uỷ thác nội dung dạy học vào trong nội dung trò chơi.
Chẳng hạn, trò chơi xếp hình trong dạy và học ngôn ngữ, toán, trong các lớp
tập huấn chuyên đề phòng chống AIDS v.v. Mặt khác, do yêu cầu đa dạng
của các trò chơi học tập, giáo viên có thể tạo ra những trò chơi mới. Một trò
chơi học tập (cả trò chơi có sẵn và được uỷ thác nội dung dạy học lẫn trò chơi
mới do giáo viên tạo ra) cần có những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Là một tình huống học tập của học viên, một trò chơi học tập,
về hình thức là một trò chơi, còn về nội dung chơi là nội dung học tập. Nói
cách khác, trò chơi là tình huống dạy học được uỷ thác.
Thứ hai: Trò chơi nào cũng phải có luật chơi. Luật chơi trong trò chơi
học tập chính là những điều kiện, phương tiện để học viên triển khai việc học
tập thông qua hoạt động chơi. Luật chơi phải được mọi người biết và chấp
nhận.
Thứ ba: Trò chơi khác với các phương pháp dạy học khác ở chỗ sự tự
giác, tích cực tham gia chơi của học viên. Vì vậy, trò chơi học tập theo đúng
nghĩa của nó phải là một tình huống học tập có tính tự giác cao. Nếu trong khi
chơi, người chơi bị cưỡng bức, sẽ không còn là trò chơi theo đúng nghĩa của
nó.
Thứ tư: Bất kì trò chơi nào cũng cần phải có động lực kích thích, thúc
đẩy người chơi. Động lực của trò chơi có thể nằm trong chính nội dung chơi,
cũng có thể ở bên ngoài trò chơi (các trò chơi có thưởng). Yếu tố củng cố
(phần thưởng) trong các trò chơi học tập phải được coi là quan trọng, kích
thích và thúc đẩy người chơi.
Thứ năm: Một trò chơi học tập phải có sự xác nhận của giáo viên. Kết
thúc một trò chơi, người chơi thu nhận được kiến thức, kĩ năng và phương
pháp hành động v.v. Nhưng những tri thức đó chưa thể trở thành của chính
người chơi, họ chưa thể đưa vào trong hệ thống kinh nghiệm của họ? nếu
chưa được sự xác nhận của giáo viên.
8.2.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp dạy học bằng trò chơi
Lợi thế của phương pháp trò chơi là người học tham gia tích cực vào
quá trình học. Họ được quyền ra quyết định, tự giải quyết các vấn đề và phản
ứng với kết quả của các quyết định do mình đưa ra. Mặt khác, trong trò chơi,
nhất là những trò chơi trí tuệ thường hàm chứa yếu tố kích thích, thi đua, sự
thử thách và khả năng nâng cao hiểu biết, sự sáng tạo và tính kiềm chế của
người chơi. Ngày nay, nhờ có các phương tiện truyền thông đa dạng và hiện
đại như ti vi và các chương trình phần mềm máy tính với hàng ngàn trò chơi
đa dạng đã cuốn hút đông đảo người chơi.
Tuy nhiên, trò chơi cũng có một số hạn chế đối với việc học. Trước hết
là tính phi cấu trúc về khuôn mẫu nội dung học tập. Đa số các trò chơi không
có khuôn mẫu chặt chẽ về nội dung học tập. Vì vậy, nếu lạm dụng quá nhiều
trò chơi trong việc truyền thụ tri thức, kĩ năng mới thì sẽ dễ làm phương hại
tới tính hệ thống của các nội dung dạy học mang tính truyền thống. Mặt khác,
một trò chơi có thể đem lại hiệu quả dạy học khác nhau cho từng loại đối
tượng. Nhìn chung, những trò chơi có tính khuôn mẫu cao thường ít hiệu quả
đối với học viên có trí thông minh và học khá, nhưng lại rất có ích cho những
học viên trung bình. Ngược lại, những trò chơi đòi hỏi phải có sự tham gia
tích cực của thành phần siêu nhận thức trong hoạt động trí tuệ, thì thậm chí
còn ảnh hưởng tiêu cực đối với những học viên không thông minh. Một hạn
chế khác của trò chơi trong học tập là dễ bị nhàm chán về chủ đề chơi, điều
này không chỉ dễ xảy ra đối với các lớp học viên nhỏ mà ngay cả các lớp dự
án dành cho người lớn. Vì vậy, trong một trò chơi dễ có hiện tượng nhiều
người đứng ngoài cuộc, trở thành người quan sát, khi đó hiệu quả không cao.
Để khắc phục hạn chế này, người giáo viên nên thường xuyên đổi mới nội
dung và hình thức của trò chơi, trên cơ sở đảm bảo mục đích dạy học của nó.
8.2.3. Các loại trò chơi học tập
Trong dạy học, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều trò chơi để dạy tri
thức, kĩ năng, phương pháp mới hoặc nhằm củng cố ở học viên những điều
đã được học. Hơn nữa, các trò chơi này cần được thường xuyên đổi mới. Vì
vậy khó có thể đưa ra khuôn mẫu chung cho các loại trò chơi. Dưới đây chỉ
nêu một số dạng trò chơi phổ biến.
* Các loại trò chơi tranh tài theo nhóm nhỏ. Đây là loại trò chơi phổ
biến, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, các vật liệu đơn giản, rẻ tiền,
cách tổ chức trò chơi đơn giản và rất dễ thực hiện, nhưng mang lại hiệu quả
cao. Chẳng hạn sử dụng bộ chữ cái (trò chơi ghép chữ cái, tìm chủ đề trong
phát triển ngôn ngữ), ghép hình (trong trò chơi ghép hình), bộ quân bài (trong
các trò chơi tìm hiểu về ma tuý hay quan hệ tình dục, AIDS v.v).
Trong các trò chơi tranh tài, giáo viên thường bố trí các nhóm nhỏ 2– 3
người tranh tài thực hiện chủ đề nhất định (xếp hình nhanh nhất, nhiều nhất
v.v). Với hình thức này trong một lớp có thể có rất nhiều nhóm nhỏ. Vì vậy,
giáo viên có thể tạo ra không khí thi đua giữa các cá nhân hoặc giữa các
nhóm.
Trò chơi tranh tài có rất nhiều và được ứng dụng rộng rãi trong dạy
học, với nhiều hình thức phong phú và cơ động, linh hoạt.
* Các trò chơi đố vui. Một biến thể của trò chơi tranh tài là đố vui. Hình
thức đố vui phổ biến là sự tranh tài giữa các nhóm trong lớp. Với hình thức
này, giáo viên thường thống nhất với các nhóm về chủ đề và luật chơi, sau đó
các nhóm có thể đặt ra câu hỏi và đố nhóm khác trả lời. Các câu hỏi có thể
được đặt trước cũng có thể được giữ bí mật đến phút cuối cùng. Đối với các
câu đố do các nhóm học viên tự ra cho nhau, giáo viên cần phải kiểm tra
trước và giúp đỡ họ xây dựng đáp án trả lời.
* Các trò chơi tung hứng. Loại trò chơi này có thể dùng để củng cố các
kiến thức và kĩ năng đã được học. Sau khi đã thống nhất được các nội dung
công việc (xác định được các kiến thức và kĩ năng cần ôn luyện), từng đôi
học viên có thể đặt câu hỏi cho nhau và tính điểm. Kết quả cuối cùng ai có
nhiều điểm sẽ thắng. Trò chơi này có thể diễn ra ngay trong giờ trên lớp,
nhưng nếu ở ngoài lớp học sẽ phù hợp hơn.
* Các trò chơi thách đố. Thách đố là những thử thách có phần vượt quá
khả năng thông thường của người học. Vì vậy trò chơi thách đố thường đòi
hỏi sự căng thẳng trí tuệ. Đây cũng chính là yếu tố kích thích học viên tham
gia. Giáo viên hoặc học viên có thể đưa ra các câu đố, các tình huống kèm
theo các luật chơi và phần thưởng để mọi người tham gia giải quyết.
* Các trò chơi truyền hình và máy tính. Các trò chơi trên đài truyền hình
ngày càng phổ biến và chiếm vị trí không nhỏ trong việc cung cấp và quảng
bá kiến thức, kĩ năng và phương pháp giải quyết các tình huống học tập và
các kĩ năng sống khác. Với mạng lưới truyền hình rộng khắp và có tính liên
kết quốc gia, quốc tế, các trò chơi truyền hình, vi tính đang ngày càng trở
thành công cụ đắc lực của dạy học. Mặt khác, các trò chơi truyền hình không
chỉ cung cấp kiến thức, kĩ năng và phương pháp giải quyết các tình huống
cho người trực tiếp chơi và khán giả mà còn là những gợi ý bổ ích cho giáo
viên về cách thức tổ chức các trò chơi cho học viên trong lớp, dựa trên sự mô
phỏng chúng.
Trên đây chỉ là số ít trong rất nhiều trò chơi học tập. Các trò chơi này có
thể được sử dụng với các mục đích khác nhau: dùng để khởi động một buổi
học, dùng để làm quen giữa các học viên, dùng trong việc truyền thụ kiến
thức, kĩ năng mới hoặc để củng cố những kiến thức đã có. Điều cần lưu ý khi
sử dụng phương pháp trò chơi là do tính chất phi khuôn mẫu về nội dung dạy
học, vì vậy, không nên sử dụng một mình phương pháp này hoặc không nên
lạm dụng chúng trong việc truyền thụ tri thức có tính hệ thống.
8.3. DẠY HỌC TƯƠNG TÁC THEO LÍ THUYẾT LỊCH SỬ VĂN HÓA VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC CHỨC NĂNG TÂM LÍ CẤP CAO CỦA L. X. VƯGOTXKI
Trong chương 2 chúng ta đã đề cập đến những vấn đề cơ bản trong lí
thuyết lịch sử văn hoá về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của L.X
Vưgotxky. Bây giờ cần phải nhấn mạnh lại ý nghĩa của lí thuyết này trong dạy
học. Nó là cơ sở tâm lí học vững chắc của phương pháp dạy học tương tác
phát triển.
8.3.1 Dạy học tương tác phát triển là gì?
Để trả lời câu hỏi dạy học tương tác phát triển là gì hãy quan sát 2 ví dụ
sau:
Ví dụ 1: Một cháu bé 6 tuổi mất đồ chơi và đề nghị bố giúp đỡ tìm lại đồ
chơi đó.
Bố: Lần cuối con nhìn thấy đồ chơi đó ở đâu?
Con: Con không nhớ.
Bố: Con có thấy nó ở trong phòng không?
Con: Con không thấy?
Bố: Con có thấy nó ở ngoài sân không?
Con: Con không thấy?
Bố: …?
Con:…
Bố: Có thể đồ chơi của con ở trong ô tô chăng?
Con: Con cũng nghĩ thế và đi đến đó lấy đồ chơi.
Trong tình huống này ai là người nhớ đồ chơi: ông bố hay cậu bé? Cả
hai đều không, nó được nảy sinh từ sự tác động giữa người bố với cậu bé.
Điều này cũng giống như lửa không được phát sinh từ cái bùi nhùi hay từ các
viên đá mà được nảy sinh khi các viên đá được cọ sát vào nhau. Điều quan
trọng hơn, qua tình huống này đứa trẻ đã có thêm một kinh nghiệm mới mà
trước đó chưa có: Học được cách (chiến lược) tìm lại cái đã bị mất trong trí
nhớ. Khi gặp tình huống tương tự, đứa trẻ có thể độc lập sử dụng chiến lược
này để giải quyết. Tình huống cha và con nêu trên là một minh hoạ cho luận
điểm cơ bản của L.X. Vưgotxky: Trẻ em chỉ được phát triển khi diễn ra sự
tương tác với người khác. Dạy học là hoạt động hợp tác giữa người dạy với
người học.
Có thể nhận ra điều này khi những năm sau, cậu bé đi học và khi bỏ
quên quyển vở, cậu tự nói với mình: quyển vở của mình đâu nhỉ? Trong lúc
học mình có cho bạn nào mượn không? Lúc tan học mình có xem lại trong
ngăn bàn không? v.v Cách “lục soát” trong trí nhớ của cậu bé y hệt tình huống
đã diễn ra giữa bố và cậu lúc cậu bé bỏ quên đồ chơi khi 6 tuổi.
Ví dụ 2: Tình huống: Dạy học sinh cách lập bảng hai lối vào.
Giáo viên: Em đã biết lập bảng cửu chương chưa?
Học viên: Em không chắc chắn lắm.
Giáo viên: Bây giờ em hãy thử lập xem?
Học viên: Lập bảng cửu chương từ 1 đến 10 như đã được học.
Giáo viên: Bây giờ em có nhận xét gì về thứ tự các số ở các cột bên trái
của mỗi bảng?
Học viên: Quan sát, so sánh và phát biểu: đều cùng một số và tăng dần
từ số 1, 2, 3, 4, 5 v.v qua các bảng số.
Giáo viên: Em thử nhìn sang các cột bên phải của mỗi bảng số và nhận
xét xem các số của cột có điểm gì đặc biệt?
Học viên: Chúng đều có thứ tự từ 1 đến 10.
Giáo viên: Em có nhận thấy điều gì bất tiện trong các bảng phép nhân
từ 1 đến 10 trong bảng cửu chương?
Học viên: lặp lại các số…?
Giáo viên: Bây giờ em có thể cấu trúc lại bảng phép nhân từ 1 đến 10
cho gọn được không?
Học viên: làm theo gợi ý của giáo viên
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
2 2 4 6 8 10 12 14 16 18 20
3 3 6
4 4 8
5 5 10
6 6 12
7 7 14
8 8 16
9 9 18
10 10 20
Giáo viên: Nếu bây giờ ta thay các số 1,2,3,4,5… ở cả hàng dọc và
hàng ngang bằng các số bất kì thì ta sẽ có kết quả như thế nào nhỉ? Em thử
làm xem?
Học viên: Lập bảng hai cửa vào theo sự giúp đỡ của giáo viên
a b c d e
a
b
c
d
e
f
Trong tình huống trên, nhờ có sự giúp đỡ của giáo viên, học viên đã lập
được bảng hai lối vào, mà nếu bình thường tự mình không thể lập được.
Trong tình huống này, giáo viên đã khai thác khía cạnh quan trọng trong lí
thuyết của L.X.Vưgotxky: Sự tương tác của giáo viên với học viên đã hướng
tới vùng phát triển gần của các em.
Cả hai trường hợp trên đều là các dẫn chứng dạy học tương tác phát
triển theo lí thuyết của L.X.Vưgotxky. Vậy dạy học tương tác phát triển là gì?
Phương pháp dạy học tương tác phát triển là dạy học được thực hiện
qua sự tác động hai chiều giữa giáo viên với học viên, trong đó mọi chỉ dẫn
của giáo viên hướng đến sự phát triển của học viên, nhờ tác động phù hợp
với trình độ phát triển gần của các em.
8.3.2. Một số điểm lưu ý trong phương pháp dạy học tương tác phát triển
Thứ nhất: Dạy học tương tác phát triển là dạy học trong đó diễn ra quá
trình trao đổi, hợp tác giữa người dạy và người học. Trong quá trình này,
người dạy và người học sử dụng các công cụ kí hiệu để giao tiếp, trao đổi với
nhau. Sau đó, những công cụ này dần được chuyển vào bên trong trẻ em.
Thứ hai: Trong phương pháp dạy học tương tác phát triển theo lí thuyết
của L.X.Vưgotxky, giáo viên quan tâm nhiều hơn đến sự tham gia, tương tác
và giúp đỡ hành động học của học viên. Đây là điều khác nhau khá rõ giữa
phương pháp tương tác phát triển với phương pháp điều khiển hành vi hay
giải quyết tình huống, trong đó, có sự quan tâm nhiều đến việc tạo ra môi
trường học tập cho học viên. Trong dạy học tương tác phát triển, giáo viên
thường đưa ra các thông tin, các chỉ dẫn, lời gợi nhắc, sự khuyến khích phù
hợp với trình độ phát triển của học viên. Các chỉ dẫn này được coi là các
khung, các mẫu, các chiến lược làm điểm tựa cho học viên. Sau đó tăng dần
mức độ tự hành động của họ.
Thứ ba: Mọi sự trợ giúp của giáo viên phải tác động vào vùng phát triển
gần trong lộ trình phát triển của học viên. Đây là đặc trưng cơ bản của tương
tác phát triển, giúp cho phương pháp này có tính xác định rất cao và khác
hoàn toàn với các phương pháp tương tác khác.
Như đã phân tích ở Chương 2, L.X.Vưgotxki cho rằng, trong mỗi thời
điểm phát triển của trẻ em có những cấu trúc tâm lí mà nhờ nó, trẻ có thể tự
mình giải quyết được các vấn đề của cuộc sống. Những cấu trúc như vậy
được coi là thành tựu đã chín muồi tại thời điểm đó. Tuy nhiên khi gặp những
vấn đề phức tạp hơn, mà với những cấu trúc đã có, trẻ không thể tự giải
quyết được, nhưng nó sẽ thành công, nếu được sự trợ giúp của giáo viên hay
được trao đổi với bạn bè giỏi hơn. Những cấu trúc được hình thành nhờ sự
trợ giúp hay tương tác đó chính là cấu trúc phát triển và vùng mà các tác
động của bạn bè hay của giáo viên hướng vào, được L.X.Vưgotxki gọi là
vùng phát triển gần nhất. Hai mức độ phát triển thể hiện hai mức độ chín muồi
của mỗi chức năng tâm lí ỏ các thời điểm khác nhau. Đồng thời chúng luôn
vận động: vùng phát triển gần nhất hôm nay thì ngày mai sẽ trở thành trình độ
hiện tại và xuất hiện vùng phát triển gần nhất mới. Dạy học phải đi trước quá
trình phát triển, tác động vào vùng phát triển gần nhất để hình thành các cấu
trúc phát triển. Chỉ có như vậy, dạy học mới thực sự kéo theo sự phát triển,
định hướng và thúc đẩy nó. Dĩ nhiên, trong thực tiễn phải lưu ý dạy học không
được đi trước quá xa so với sự phát triển, càng không được đi sau nó. Như
vậy sự trợ giúp của giáo viên, sự tương tác giữa giáo viên và học viên và
giữa học viên với nhau, hướng vào vùng phát triển gần trong quá trình phát
triển của các em là bản chất của dạy học tương tác phát triển.
8.3.3. Một số gợi ý các biện pháp nâng cao hiệu quả trong dạy học tương tác phát triển
8.3.3.1. Yếu tố tiên quyết trong dạy học tương tác là khả năng chẩn đoán trình độ phát triển của trẻ em
Chương 12 sẽ bàn riêng về vấn đề này, nhưng ở đây cần nhấn mạnh ý
nghĩa của việc đánh giá đúng trình độ phát triển của học viên, những kinh
nghiệm mà các em đã có; các điều kiện văn hóa – xã hội mà các em đang
“tắm mình” trong đó; những thuận lợi và khó khăn mà các em sẽ gặp khi tiếp
nhận tri thức mới v.v. Trong lĩnh vực đánh giá, L.X.Vưgotxky đề nghị phân
biệt hai mức độ đánh giá với hai phương pháp đánh giá khác nhau: đo lường
và chẩn đoán phát triển. Đo lường là nghiên cứu triệu chứng, giống như
người bác sĩ, thông qua triệu chứng phát hiện ra bệnh lí, nhà sư phạm thông
qua đo lường phát hiện ra một trình độ phát triển nào đó của trẻ em tại một
thời điểm nào đó. Chẩn đoán phát triển mang ý nghĩa khác, nó bao gồm việc
nghiên cứu sâu sắc và rộng rãi toàn bộ quá trình (con đường) phát triển của
trẻ em qua các thời kì, giai đoạn, pha với đầy đủ các đặc điểm, động thái và
tính đa dạng của nó, kể cả kiểu phát triển bình thường và bất bình thường.
Như vậy, đo lường triệu chứng chỉ là trường hợp riêng, cụ thể của chẩn đoán
phát triển.
Việc đo lường phát triển chủ yếu dùng các phương pháp trắc nghiệm,
chủ yếu tập trung vào tìm hiểu khả năng độc lập giải quyết bài tập của trẻ em,
tức là mới chỉ nhằm vào nhiệm vụ phát hiện trình độ hiện thời. Vì thế nó mới
chỉ cho ta biết sự phát triển trong quá khứ và kết quả của sự phát triển trong
hiện tại. Việc đo lường này là cần nhưng chưa đủ. Giống như người làm
vườn không chỉ căn cứ số quả chín trên cây để xác định sản lượng mà còn
phải dựa vào tình trạng quả chưa và sắp chín. Nhà nghiên cứu, nếu chỉ giới
hạn ở việc xác định cái đã chín muồi mà không tính đến cái đang hình thành
và phát triển thì sẽ không xác định được đầy đủ sự phát triển của trẻ. Vì vậy,
phải hướng tới vùng phát triển gần nhất. Để làm được việc này không thể
dùng trắc nghiệm, mà phải thông qua sự hợp tác giữa trẻ em với nhà nghiên
cứu trong quá trình các em giải quyết nhiệm vụ. Nghĩa là, khi làm rõ khả năng
của trẻ trong tình huống có sự hợp tác, chúng ta sẽ xác định được các chức
năng tâm lí đang chín muồi mà trong thời gian gần nhất sẽ phải đạt tới trình
độ hiện tại. Theo L.X.Vưgotxky, nguyên tắc hợp tác nhằm phát hiện vùng phát
triển gần nhất cho phép trực tiếp nghiên cứu cái đã quy định sự chín muồi về
tâm lí, trí tuệ và điều kiện để chúng được hoàn thiện trong tương lai. Điều này
có giá trị thực tiễn to lớn trong dạy học phát triển.
Ở đây, L.X.Vưgotxky có ý phê phán các phương pháp đo lường trí tuệ
của trẻ em hiện đang hình thành và phát triển trong nghiên cứu tâm lí, trí tuệ
trẻ em. Những trắc nghiệm này phần lớn sử dụng phương pháp cho trẻ em
độc lập giải quyết bài tập và qua việc tăng dần độ khó của các bài tập để xác
định mức độ trí tuệ của trẻ. Nguyên tắc của trắc nghiệm là trắc nghiệm không
được có sự hợp tác giữa nghiệm thể và nghiệm viên trong khi các em giải bài
tập. Cơ sở của nguyên tắc này là các bài tập trẻ không tự giải quyết được một
cách độc lập mà phải có sự hợp tác của người lớn thì sẽ không có ý nghĩa
phản ánh trí tuệ của chúng. Theo L.X.Vưgotxky, đây là quan điểm rất sai lầm,
lạc hậu.
Một giải pháp phổ biến để chẩn đoán phát triển là đề nghị học viên giải
quyết một vấn đề khó hơn khả năng hiện có của các em, sau đó đưa ra
những lời chỉ dẫn, gợi ý để phát hiện trẻ sử dụng những lời chỉ dẫn đó như
thế nào. Việc đưa ra các chỉ dẫn có tính hệ thống và phân tích cách trẻ em sử
dụng các chỉ dẫn đó sẽ cho phép giáo viên dự đoán được trình độ phát triển
của em đó và lập được kế hoạch tác động phù hợp cho từng em và cho cả
nhóm học viên.
8.3.3. Các biện pháp tác động của giáo viên và bạn bè.
Sự chẩn đoán phát triển và tác động luôn liên quan gắn bó với nhau.
Để chẩn đoán phải tác động và tác động của chẩn đoán đã hàm ý dạy học.
Tuy nhiên để làm cho sự tương tác (chẩn đoán và dạy học) giữa giáo viên với
học viên và giữa học viên với nhau thực sự có ý nghĩa dạy học, giáo viên cần
lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Đưa học viên vào tình huống sư phạm mà ở đó hàm chứa
mục đích và nội dung dạy học. Tức là học sinh phải được làm việc trong môi
trường tri thức, mà ở đó các em đạt được sự hiểu biết cần thiết theo mục tiêu
dạy học. Đồng thời trong môi trường đó, có sự trợ giúp của thầy giáo và bạn
bè. Cần đặc biệt quan tâm tới sự trợ giúp thường xuyên của giáo viên và sự
hợp tác với bạn bè. Trong dạy học tương tác phát triển, việc tổ chức sự trợ
giúp của giáo viên và hợp tác với bạn bè quan trọng hơn, cần được ưu tiên
hơn so với việc tạo ra môi trường sư phạm. Việc trợ giúp không nhất thiết lúc
nào cũng từ phía người giáo viên, nhiều khi người thầy giáo giỏi lại chính là
người bạn cùng lớp, người vừa tìm ra cách giải quyết vấn đề và giúp bạn có
cách giải quyết đó. Mặt khác, cần lưu ý đến một khía cạnh rất quan trọng
trong các công trình nghiên cứu của L.X.Vưgotxky: ông rất đề cao vai trò của
công cụ ngôn ngữ, kí hiệu và việc sử dụng các công cụ đó trong giao tiếp. Vì
vậy, việc giáo viên thường xuyên trợ giúp học viên sử dụng công cụ ngôn ngữ
để phát triển tư duy thông qua trao đổi, hội thoại là hướng cần được ưu tiên.
Thứ hai: Trong dạy học trợ giúp, cần lưu ý đến việc tạo dựng khung
kiến thức cơ bản đối với nhu cầu của học viên (tạo ra cách thức, phương
pháp sử dụng công cụ). Chẳng hạn: cung cấp cho học viên các mô hình, các
gợi nhắc có tính nguyên tắc để tạo ra nhiều cơ hội cho học viên làm việc
trong tình huống đó, chứ không phải là giúp cho họ lời giải đáp vấn đề.
Khuyến khích học viên độc lập tìm kiếm các giải pháp, độc lập thử thách với
chính mình, tự mình vượt qua khó khăn, nhưng sẵn sàng đón nhận sự trợ
giúp khi bế tắc.
Thứ ba: Đảm bảo cho học viên có khả năng tiếp cận những công cụ có
khả năng phát triển mạnh mẽ tư duy. Chẳng hạn, trợ giúp học sinh cách học,
chiến lược phân tích và giải quyết vấn đề; cách sử dụng các công cụ ngôn
ngữ, máy tính v.v.
Thứ tư: Phát triển các kĩ năng trao đổi và làm việc theo nhóm học viên
(xem Chương 6).
Chương 9. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM VIỆC ĐỘC LẬP CỦA HỌC VIÊN CÓ SỰ GIÚP ĐỠ CỦA GIÁO VIÊN
Chúng ta đã mô tả khá nhiều phương pháp dạy học theo logic giảm dần
sự tác động, chi phối và tính quy định trực tiếp của giáo viên lên hoạt động
học của học viên, giảm dần tính khuôn mẫu và sự áp đặt trước của các nội
dung bài dạy. Đồng thời tăng dần tính độc lập, chủ động, chủ thể hoạt động
của người học; tăng dần hành động trực tiếp của người học lên nội dung học
tập; tăng dần các điều kiện và cơ hội giải phóng tư duy sáng tạo của người
học; tăng dần sự quan tâm đến nhu cầu và sự phát triển của người học, tức
là tăng dần tính nhân văn của các phương pháp. Theo lôgic đó, các phương
pháp làm việc độc lập của học viên có sự trợ giúp của giáo viên được xếp vào
nhóm phương pháp dạy học nhấn mạnh vai trò độc lập, tích cực, chủ động
học tập của học viên; quan tâm tối đa nhu cầu học tập của họ. Cũng như các
nhóm phương pháp khác, các phương pháp làm việc độc lập của học viên rất
đa dạng, phong phú. Dưới đây chỉ đề cập tới một số ít trong đó.
9.1. HỌC QUA ĐỌC SÁCHKhông ai phủ nhận chân lí: Sách là người thầy vĩ đại. Bằng chứng là từ
cổ chí kim không ai trở thành tài giỏi mà không qua đọc sách. Không một môn
học nào, một khoá học nào lại chỉ có lời giảng của giáo viên mà không có tài
liệu, sách giáo khoa. Đọc sách cũng là niềm đam mê của nhiều bậc vĩ nhân.
Tuy nhiên, trong thực tiễn không phải học viên nào cũng tích cực đọc sách
(bằng chứng là nhiều người trong cả khoá học rất ít khi bước chân vào thư
viện); không phải ai cũng thu được khối lượng và chất lượng thông tin quý
báu từ sách, do không biết cách đọc. Về phía giáo viên, không ít người coi
đọc sách của học viên chỉ là kĩ thuật hỗ trợ cho bài giảng của mình và không
hướng dẫn chu đáo họ cách đọc sách, với tư cách là một phương pháp học
tập hữu ích. Như vậy, vấn đề đặt ra là đọc sách như thế nào để trở thành
phương pháp dạy học.
9.9.1. Điểm mạnh và hạn chế của học qua đọc sách
* Điểm mạnh
Đọc để học có nhiều điểm mạnh. Có thể nêu một vài ví dụ:
Phát triển kĩ năng đọc sách – một kĩ năng quan trọng bậc nhất và
thường xuyên được sử dụng trong cả đời người.
Góp phần phát triển kĩ năng tìm kiếm thông tin, kĩ năng tra cứu tài liệu
trong thư viện – điều mà rất nhiều học viên lúng túng.
Cho phép học viên học theo tốc độ riêng, tuỳ thuộc vào khả năng của
mỗi người. Người thông minh có thể đọc nhanh hơn và thu hoạch được nhiều
hơn, sâu hơn, còn người kém có thể học chậm hơn, kéo dài thời gian hơn,
mà không sợ ảnh hưởng tới người khác.
* Hạn chế
Đọc để học khác với đọc thông thường ở chỗ các tài liệu được sưu tầm
và đọc theo hệ thống, chủ đề. Điều này không dễ dàng, nhất là đối với những
người ít có điều kiện về thời gian, sự kiên trì và kĩ năng sưu tầm tài liệu.
Đọc là hoạt động độc lập, nó đòi hỏi người đọc cần được tập trung, yên
tĩnh. Điều này là khó khăn đối với đọc trên lớp.
Rất khó xác định độ khó của tài liệu đối với từng loại đối tượng học
viên.
9.1.2. Các mức độ đọc sách của học viên
Có thể khái quát thành ba mức độ đọc sách của học viên trong học tập:
Mức 1: Đọc bài giảng của giáo viên. Ở mức này, hầu hết học viên chủ
đọc duy nhất bài giảng của giáo viên do mình hoặc bạn chép trong các giờ lên
lớp. Mặc dù việc đọc lại bài giảng cũng có tác dụng nhất định, tuy nhiên về cơ
bản không giúp học viên có thêm nhiều thông tin mới. Vì vậy, với tư cách là
phương pháp học tập, mức độ này ít có hiệu quả.
Mức 2: Xử lí bề mặt các tài liệu do giáo viên yêu cầu đọc. Đây là mức
độ đọc thụ động của học viên. Trong đó, người đọc chủ yếu quan tâm tới:
- Nội dung cần đọc.
- Số lượng tài liệu cần đọc.
- Tìm ra các câu trả lời đúng cho vấn đề được yêu cầu.
- Học thuộc lòng những ý cần thiết.
- Gắn kết những kiến thức ổn định.
Mức 3: Xử lí chiều sâu các tài liệu. Học viên đọc một cách chủ động và
quan tâm tới:
- Vấn đề trung tâm của tài liệu.
- Những điều ẩn đằng sau nội dung lí luận.
- Bức tranh toàn cảnh của tài liệu.
- Điều cốt lõi của tài liệu.
- Mối quan hệ giữa các nội dung của tài liệu và với tài liệu khác.
- Logic lập luận của tài liệu.
- Những điểm chưa rõ ràng trong tài liệu.
- Đặt lại vần đề.
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định những người đọc và xử lí
thông tin theo chiều sâu thường có thành tích cao hơn trong học tập và năng
động, sắc sảo hơn trong hoạt động so với những người xử lí bề mặt.
9.1.3. Các gợi ý học viên thực hiện yêu cầu khi đọc sách
Đọc sách là quá trình tích cực, trong đó người học phân tích kĩ tài liệu
để hình thành cách hiểu riêng của mình về tài liệu đó. Điều này có thể được
thực hiện bằng các cách sau:
Tìm kiếm những điều thú vị trong tài liệu. Khuyến khích học viên phát
hiện ra điều gì đó hấp dẫn hoặc lí thú từ một cuốn sách hay sẽ có giá trị động
viên hơn rất nhiều so với cách nói đơn giản: hãy đọc Chương X, Chương Y
của cuốn Z.
Sắp xếp lại tài liệu để tạo ra hình thức mới. Tuy không đòi hỏi cao như
việc tìm kiếm điều mới trong tài liệu, nhưng việc cấu trúc lại hình thức của tài
liệu cũng là yêu cầu khá cao đối với học viên.
Đọc lấy thông tin. Yêu cầu học viên đọc và xác định thông tin cụ thể
nào đó trong tài liệu. Yêu cầu này thường được thể hiện dưới dạng những
câu hỏi và trả lời của học viên khi đọc tài liệu.
Đọc để nhận xét. Yêu cầu học viên đọc theo con mắt của người phán
xét, đánh giá: Quan điểm của tác giả là gì? Bằng chứng nào chống lại quan
điểm đó? Những biện luận còn thiếu sự kiện nào? Những tác giả hoặc các
nhà nghiên cứu khác sẽ có nhận định gì về quan điểm của tác giả này?
Trình bày lại. Yêu cầu học viên làm việc theo nhóm và đọc các tài liệu
khác nhau. Sau đó trình bày cho cả lớp nghe. Đây chính là hình thức xemina,
trong đó học viên được giao đọc và chuẩn bị trước tài liệu (đọc tài liệu); phải
đọc và bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình trước lớp và giáo viên.
Thảo luận. Yêu cầu học viên đọc và chuẩn bị tài liệu để thảo luận tại
lớp. Giáo viên có thể đưa ra trước một vài câu hỏi khó để học viên thảo luận;
yêu cầu mọi học viên phải đọc trước khi thảo luận. Trong thảo luận cần tập
trung vào những ý chính.
9.1.4. Gợi ý kĩ thuật đọc sách
Mỗi người thường có cách đọc của riêng mình. Vì vậy không có cách
đọc tốt nhất cho tất cả. Tuy nhiên, có một số thao tác kĩ thuật có thể áp dụng
rộng rãi cho nhiều người:
Bước 1: Khảo sát. Đọc lướt qua các chương của tài liệu. Lưu ý đến nội
dung và bố cục của tài liệu.
Bước 2: Đặt câu hỏi. Trước khi đọc kĩ từng phần, hãy dừng lại và đặt
câu hỏi: Cái gì đang được đề cập đến trong tài liệu này? Ta cần thông tin gì
trong tài liệu này?
Bước 3: Đọc kĩ. Trong khi đọc hãy tập trung suy nghĩ vào tài liệu và các
câu hỏi đã nêu. Cố gắng trả lời các câu hỏi đó.
Bước 4: Chốt lại. Cuối mỗi chương, mỗi phần hãy dừng lại và chốt các
điểm chính.
Bước 5. Kiểm tra. Sau khi đọc xong mỗi chương, mỗi phần, có thể kiểm
tra lại toàn bộ, đặc biệt chú ý đến cách bố cục nội dung của tác giả.
Ngày nay, sự phát triển của mạng lưới thông tin toàn cầu cho phép học
viên có thể thu nhận được rất nhiều điều bổ ích thông qua việc đọc sách
thông thường và sách điện tử hay qua mạng.Tuy nhiên, cũng do sự phát triển
ngày càng nhiều với khối lượng ngày càng lớn các nguồn tài liệu, buộc nhà
trường phải quan tâm tới vấn đề đọc như thế nào hơn là đọc cái gì. Vì vậy, để
đọc trở thành phương pháp học chủ yếu trong dạy học, thì vấn đề dạy
phương pháp đọc cho học viên phải được đặt lên hàng đầu.
9.2. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI TẬP, BÀI TẬP LỚN VÀ TIỂU LUẬNChấm bài tập về nhà của học viên thường là mối lo ngại của nhiều giáo
viên, nhất là giáo viên phổ thông các môn có nhiều tiết dạy. Về phía học viên,
sau giờ học trên lớp, có xu hướng muốn được nghỉ ngơi. Đây có thể là những
lí do khiến việc hướng dẫn làm bài tập, bài tập lớn hay tiểu luận thường
không được quan tâm khai thác theo đúng tiềm năng của chúng trong hoạt
động dạy học. Không một học viên nào đạt kết quả học tập xuất sắc mà
không phải thường xuyên “vật lộn” với những bài tập và những tiểu luận do
giáo viên giao hoặc do chính mình sưu tầm. Làm bài tập ở nhà, bài tập lớn,
tiểu luận là hình thức tốt của học tập độc lập có hướng dẫn của giáo viên.
9.2.1. Bài tập
* Quan niệm:
Bài tập, hiểu đơn giản và thông dụng, là các hoạt động của học viên
được thực hiện theo yêu cầu của giáo viên, hướng đến việc củng cố những tri
thức, kĩ năng, phương pháp hành động đã học.
Một bài tập được coi là “lí tưởng” khi nó đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Khuyến khích học viên tham gia vào các hoạt động bổ ích.
Trong đó tốt nhất là những hoạt động một mình và càng ít cần đến sự hỗ trợ
của giáo viên càng tốt.
Thứ hai: Bài tập có thể kiểm soát được về cả quá trình làm bài lẫn hiệu
quả của nó.
Thứ ba: Đòi hỏi ít nhất sự nỗ lực tham gia của giáo viên.
Thứ tư: Không quá nặng đối với người học.
* Các hình thức bài tập thông dụng của học viên
Đọc bài giảng hoặc tài liệu khác. Đây là hình thức phổ biến nhất của bài
tập được giao. Nó giúp học viên làm quen với sách giáo khoa và phát triển kĩ
năng tự học. Điều cần lưu ý khi giao bài đọc là cần có sự kiểm tra của giáo
viên, để biết học viên đã đọc và hiểu tài liệu không. Hình thức kiểm tra có thể
là những câu hỏi ngắn, có thể là các học viên tự chấm bài của nhau, hoặc để
học viên trình bày tóm tắt trước lớp.
Chuẩn bị bài. Có thể tiến hành dưới hình thức đọc, ôn lại bài hôm trước
có liên quan, hoặc trả lời những câu hỏi của giáo viên trước khi vào bài mới.
Chuẩn bị đề cương ôn tập. Việc chuẩn bị đề cương ôn tập có thể được
tiến hành theo nhiều hình thức: sơ đồ, biểu đồ, tóm tắt v.v. Việc chấm đề
cương ôn tập cho học viên rất quan trọng và không mất nhiều thời gian. Đây
là việc giáo viên nên làm.
Học theo đề cương ôn tập.
Ôn tập thường xuyên. Việc làm rất quan trọng của học viên là thường
xuyên ôn lại bài học. Phương châm phổ biến ở đây là: Văn ôn, võ luyện. Giáo
viên có thể củng cố hình thức ôn tập thường xuyên của học viên dưới hình
thức các bài kiểm tra ngắn: kiểm tra miệng đầu giờ, kiểm tra 15 phút v.v…
* Một vài điểm lưu ý giáo viên khi yêu cầu học viên làm bài tập.
Thứ nhất: Các bài tập yêu cầu học viên làm ở nhà, cần phải được giáo
viên kiểm tra đánh giá. Nếu việc làm này không được thực hiện thì các yêu
cầu của giáo viên sẽ không thể được duy trì.
Thứ hai: Không nên yêu cầu bài tập ở nhà khó hơn ở lớp. Vì sẽ có một
số học viên không thực hiện được, còn số khác thì lấy cớ bài khó để không
làm, ngay cả đối với những học viên có thể làm được.
Thứ ba: Cần thống nhất nguyên tắc có tính nhất quán trong việc giao,
thu và chấm bài. Giáo viên cũng cần phải có suy nghĩ và ứng xử với các lí do
của học viên không nộp bài đúng hạn, đại loại như: “Em quên, em không biết
là có bài tập về nhà; em để quên vở bài tập ở nhà” v.v.
9.2.2. Bài tập lớn và tiểu luận
Bài tập lớn hoặc tiểu luận là mức độ cao hơn bài tập thông thường. Về
cơ bản việc hướng dẫn học viên làm bài tập lớn cũng giống hướng dẫn viết
tiểu luận. Vì vậy những mô tả dưới đây về hướng dẫn làm bài tập lớn có thể
áp dụng cho cả việc viết tiểu luận.
* Quan niệm về bài tập lớn
Bài tập lớn được hiểu là một bài tập hoặc một loạt bài tập mà học viên
phải hoàn thành một mình hoặc theo nhóm. Bài tập lớn khác với bài tập thông
thường cả về mục đích, tính chất và quy mô.
Mục đích của bài tập lớn không chỉ là giúp học viên củng cố những cái
đã được học, mà chủ yếu là tạo điều kiện giúp học viên tập dượt và hình
thành các kĩ năng độc lập nghiên cứu.
Một trong những khác biệt nổi bật giữa bài tập lớn với bài tập thông
thường là tính tự quyết định của học viên. Khi giải quyết bài tập thông
thường, học viên luôn làm theo yêu cầu, quy định và chỉ dẫn của giáo viên:
làm gì? ở đâu? Khi nào và theo trình tự nào? Ngược lại, đối với bài tập lớn,
học viên được tự do quyết định những vấn đề trên, mà không quá lệ thuộc
vào những quy định và chỉ dẫn của giáo viên.
Bài tập lớn có quy mô lớn hơn so với bài tập thông thường. Có thể phân
định một cách tương đối thời lượng thực hiện các loại bài tập như sau:
Bài tập nhỏ (ngắn): Thời lượng thực hiện < 2 giờ.
Bài tập lớn: Thời lượng thực hiện: từ 2 – 12 giờ.
Đề án hoặc tiểu luận: Thời lượng thực hiện từ 12 – 60 giờ.
Khóa luận (đồ án): Thời lượng thực hiện: > 60 giờ.
Với mục đích, tính chất và quy mô như vậy, bài tập lớn là con dao hai
lưỡi. Một mặt, nếu được thực hiện theo đúng quy định và có chất lượng, bài
tập lớn sẽ có tác dụng rất lớn trong đào tạo và được ví như vũ khí hạng nặng
trong dạy học. Bởi lẽ nó tạo cơ hội thuận lợi nhất để học viên vận dụng những
kiến thức và kĩ năng đã học vào giải quyết một vấn đề của thực tiễn và của
khoa học; tạo điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các tri thức, kĩ
năng và phương pháp tư duy, phương pháp hành động trí tuệ bậc cao và
phương pháp nghiên cứu khoa học; tạo cơ hội để học viên phát triển các kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng tự quản lí, tìm kiếm thông tin v.v; tạo cơ sở thực tiễn
để hình thành và phát triển nhu cầu, hứng thú tìm tòi sáng tạo khoa học cũng
như các phẩm chất nhân cách khác của học viên. Mặt khác, nếu việc làm bài
tập lớn của học viên không được kiểm soát và không có kết quả tốt thì đó là
sự lãng phí rất lớn về thời gian của giáo viên và học viên, mà chẳng thu được
lợi ích gì.
* Một số gợi ý về việc giao bài tập lớn và kiểm soát học viên làm bài tập
lớn
Để việc thực hiện bài tập lớn của học viên có kết quả, người giáo viên
cần lưu ý những điểm sau:
Thứ nhất: Giao bài tập lớn cho học viên. Khi giao bài tập lớn cho học
viên, giáo viên cần tính đến các yếu tố: a) Mục tiêu cần đạt của việc thực hiện
bài tập lớn là gì? Tức là người giáo viên muốn học viên đạt được cái gì sau
khi bài tập lớn được hoàn thành?; b) Xem xét các yếu tố nguồn lực: Có đủ
thời gian để học viên hoàn thành không? Các tài liệu, thiết bị có được đầy đủ
và được giới hạn, giới thiệu rõ ràng, có địa chỉ hay không? Các kĩ năng hiện
có của học viên có đáp ứng được yêu cầu của bài tập lớn không? Họ phải tự
bồi dưỡng kĩ năng nào? (từ những kĩ năng cơ sở như tìm tài liệu, tra thư mục,
sách trên thư viện, đến những kĩ năng trí tuệ phức tạp như khả năng suy
luận, khả năng xử lí thông tin v.v.); c) Giúp học viên đề ra các hoạt động và
lên kế hoạch cụ thể với một bảng liệt kê các hạng mục cho từng phần việc:
Làm gì? Ai thực hiện? Mục tiêu cần đạt được là gì? Phương pháp và phương
tiện cần thiết? Địa điểm? Thời gian bắt đầu và kết thúc? Dự kiến phát sinh?
Trong thực tế, hầu hết các bài tập lớn đều do giáo viên giao cho học
viên. Tuy nhiên, nếu điều kiện cho phép, có thể để học viên tự xác định đề tài
của mình, trên cơ sở thoả thuận với giáo viên. Cách làm này thường có hiệu
quả hơn, cho phép học viên theo đuổi sở thích riêng của mình.
– Thứ hai: Xây dựng tiêu chí đánh giá. Bản tiêu chí đánh giá được xây
dựng chi tiết và được công bố cho học viên trước khi họ tiến hành làm bài tập
tập lớn sẽ trở thành bản cam kết giữa học viên và giáo viên. Khi đó sẽ tránh
được rất nhiều hạn chế, chủ quan trong đánh giá cũng như kích thích học
viên học tập. Nếu không có tiêu chí đánh giá ngay từ đầu sẽ: a) Tạo ra sự
không thống nhất giữa mục tiêu của học viên với mục tiêu của giáo viên. Từ
đây sẽ dẫn đến hàng loạt hành động “lệch pha” khác; b) Tạo ra sự tuỳ hứng,
thiếu nhất quán của giáo viên từ khi giao bài đến việc đánh giá kết quả làm
bài của học viên; c) Không thúc đẩy, kích thích học viên nỗ lực làm việc, vì họ
không lượng giá được sản phẩm và hiệu quả của mình.
Bản tiêu chí đánh giá cần phản ánh được cả hai mặt: Đánh giá cái gì?
Đánh giá như thế nào và bằng phương tiện gì? Các hạng mục được đánh giá
nên chi tiết. Đồng thời cũng cần quy định rõ việc phân chia kết quả khi bài tập
lớn không do một cá nhân mà là sản phẩm chung của cả nhóm.
– Thứ ba: Kiểm soát học viên trong quá trình làm bài tập lớn.
Sau khi giao bài cho học viên, nếu giáo viên hoàn toàn tin cậy vào sự
tự giác, khả năng của học viên và để họ độc lập làm mà không cần có kiểm
soát, thì đó là một sai lầm. Việc giám sát, kiểm soát quá trình làm việc của
học viên giúp họ tiến hành theo đúng quy trình, tiêu chuẩn và có thể chỉnh
sửa ngay những điểm không phù hợp.
Trừ bài tập thông thường, còn các loại bài tập lớn, tiểu luận hay đồ án,
giáo viên nên có những buổi làm việc với học viên (cá nhân hoặc nhóm).
Trong dịp đó, giáo viên cần đề nghị học viên báo cáo bằng văn bản kết quả
đã đạt được, những khó khăn, trở ngại cần khắc phục và hướng phát triển
tiếp theo. Các nhận xét và gợi ý của giáo viên cũng cần được ghi rõ vào bên
lề của bản báo cáo. Các nhận xét và gợi ý nên có tính động viên để tránh học
viên cảm giác thất vọng, bi quan về kết quả của mình và hoang mang lo lắng
hoặc thiếu tự tin trong việc làm tiếp theo.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh, bài tập lớn là một phương pháp tốt để hình
thành và phát triển nhiều kĩ năng đa dạng của học viên, vì vậy, nên khuyến
khích học viên học theo phương pháp này. Tuy nhiên, trong cả khoá học, nếu
chỉ dựa vào mỗi việc làm đồ án thì sẽ sai lầm. Dạy học cần sự đa dạng về
phương pháp.
9.3. PHƯƠNG PHÁP HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO CỦA HỌC VIÊN CÓ HƯỚNG DẪN 9.3.1. Khái niệm
Phương pháp hoạt động sáng tạo của học viên có hướng dẫn là
phương pháp độc lập nghiên cứu tìm tòi, phát hiện, phát minh, sáng chế của
học viên dưới sự định hướng, và trợ giúp của giáo viên. Do định kiến kéo dài
hàng nghìn năm, rằng học tập là sự tiếp nhận các ý tưởng, kiến thức, kĩ năng
từ người khác, nên học tập được coi chủ yếu thuộc lĩnh vực tái tạo các khuôn
mẫu đã có. Chính vì thế, trước kia và hiện nay, các phương pháp dạy học
mang tính sáng tạo được coi là ngoại lệ, có ý nghĩa trang sức. Đó là một sai
lầm tệ hại, nhất là trong nhà trường hiện đại.
Có thể khẳng định rằng, học tập là hoạt động có tính sáng tạo. Do đó,
các phương pháp học tập đang phổ biến hiện nay đều có tính sáng tạo. Tuy
nhiên, so với phương pháp nhận thức mà loài người đã trải qua để phát minh
ra tri thức khoa học thì những phương pháp đó chủ yếu là sự tái tạo. Vì vậy,
khi nói tới các hoạt động sáng tạo trong dạy học là muốn nói tới các hoạt
động mang đậm bản chất của phương pháp sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học.
Trong số các phương pháp dạy học, phương pháp hoạt động sáng tạo
của học viên có hướng dẫn, tính khuôn mẫu cho trước của nội dung tri thức
cần truyền thụ thấp nhất. Bù lại, phương pháp này là lí tưởng để phát triển
khả năng tư duy sáng tạo và nhu cầu sáng tạo của học viên. Vì vậy, trong
tương lai không xa, các hoạt động sáng tạo sẽ trở thành phương pháp chủ
đạo trong dạy học.
9.3.2. Ưu thế của phương pháp hoạt động sáng tạo
Hoạt động sáng tạo của học viên có ý nghĩa thiết yếu trong dạy học
hiện đại, ít nhất vì những lí do sau:
Thứ nhất: Phát triển khả năng tư duy sáng tạo của học viên. Không cần
phải lí giải nhiều về vai trò của tư duy sáng tạo trong cuộc sống hiện đại, về
vai trò của phương pháp hoạt động sáng tạo trong dạy học đối với việc hình
thành và phát triển tư duy sáng tạo của học viên. Đó là điều hiển nhiên. Ở đây
chúng ta cần quan tâm đến phát ngôn của A.Enstein: Trí tưởng tượng còn
quan trọng hơn cả kiến thức.
Thứ hai: Tăng cường động cơ học tập. Tính sáng tạo thỏa mãn nhu cầu
sâu kín của con người là mong muốn tạo nên điều gì đó và được thừa nhận
về điều đó. Cả hai nhu cầu này đều có thể được thoả mãn bởi hoạt động
sáng tạo. Nếu giáo viên yêu cầu học viên liệt kê những hiểm hoạ của việc lạm
dụng ma tuý, họ sẽ chấp hành những yêu cầu về phòng chống ma tuý. Nhưng
nếu yêu cầu họ thiết kế một tờ rơi về tác hại của việc lạm dụng ma tuý để
phân phát rộng rãi trong cộng đồng, họ sẽ bừng lên sự hứng khởi. Các hoạt
động sáng tạo thường là hấp dẫn và làm tăng lên ý thức về giá trị của mình
trong học viên.
Thứ ba: Tạo cơ hội để học viên thể hiện cảm xúc và phát triển các kĩ
năng tự biểu hiện. Học viên cũng cần phải thể hiện trí tưởng tượng sáng tạo
và thăm dò những cảm xúc, nhận thức của mình. Họ cũng cần phải được tự lí
giải những kinh nghiệm của bản thân và bày tỏ được điều đó với người khác.
9.3.3. Gợi ý về phương pháp hoạt động sáng tạo của học viên
Hoạt động sáng tạo luôn có con đường riêng, đầy bí ẩn và không bao
giờ đi theo một khuôn mẫu quen thuộc, cứng nhắc. Vì vậy, không dễ hoạch
định nó. Tuy nhiên, nếu quan tâm sâu sắc đến hoạt động này thì cũng có thể
phác họa những nét chung nhất về quy trình, mà nhờ đó có thể cải thiện
được hiệu quả của hoạt động sáng tạo. Dưới đây là gợi ý về một vài quy trình
như vậy.
* Quy trình khuyến khích tính sáng tạo theo mô hình 6 bước: cảm hứng
– làm rõ – chắt lọc - ấp ủ - đổ mồ hôi và đánh giá.
+ Cảm hứng. Đây là giai đoạn nghiên cứu, tìm kiếm các ý tưởng. Quá
trình này mang tính trực giác. Trí tưởng tượng được tự do và ngẫu hứng, bột
phát, không e ngại, dám liều, tự tin. Trong cảm hứng không có sự phê phán.
Giai đoạn này giống như cuộc công não, với mục tiêu sản sinh ra càng nhiều
ý tưởng càng tốt. Để tạo nguồn cảm hứng và sản sinh ý tưởng, có thể sử
dụng rất nhiều thủ pháp: lục tìm trong quá khứ (hồi tưởng về kinh nghiệm);
liên kết (phối hợp, chắp ghép) các sự kiện quan sát được; phát triển một cách
ngẫu hứng từ một sự kiện ban đầu (phát triển theo lôgic thuận hoặc ngược);
rà soát mọi khả năng v.v. Cảm hứng không có tính chỉ trích.
+ Làm rõ. Làm rõ mục đích của hoạt động đang được tiến hành. Đây là
nếp tư duy có tính chiến lược, không vội vàng và thường xuyên đặt ra các
câu hỏi: Ta đang định làm gì? Ta muốn công việc này tiếp tục như thế nào?
v.v.
+ Chắt lọc. Những ý tưởng đã có cần được phân tích, đánh giá và sàng
lọc để có những ý tưởng tốt. Những ý tưởng này sẽ được tiếp tục phát triển
và chọn lọc. Quá trình chắt lọc là sự biên tập mang tính tự phê phán. Nó đòi
hỏi phải có sự phân tích, đánh giá một cách sâu sắc, lạnh lùng. Tuy nhiên
cũng không nên quá khắt khe với bản thân, tới mức cản trở khả năng sản
sinh ý tưởng của mình.
+ Ấp ủ. Đây chính là thời kì tĩnh lặng quý báu trong hoạt động sáng tạo.
Trong học tập bình thường, điều này khó diễn ra do hoạt động là một chuỗi
liên tục. Tuy nhiên, trong sáng tạo, việc ngưng nghỉ tạm thời giữa các giai
đoạn là rất bổ ích. Nó giúp cho tiềm thức có điều kiện quay trở về với các vấn
đề đang vướng mắc trong tư duy. Giúp cho học viên tách ý thức ra xa các ý
tưởng, để đánh giá chúng tốt hơn. Những người có khả năng sáng tạo cao ít
khi bị thu hút ngay lập tức vào những ý tưởng mới nảy sinh, họ thường để
cho các ý tưởng đó tiếp tục được nung nấu trong tiềm thức, cho đến khi nào
“nảy ra được điều gì đó”.
+ Đổ mồ hôi. Khi các ý tưởng đã được sản sinh không có nghĩa là đã
sáng tạo. Ngay cả trước và sau khi chúng được chắt lọc và trong lúc suy tư,
tĩnh lặng vẫn diễn ra sự làm việc vất vả và căng thẳng với những ý tưởng đó,
cho đến bao giờ chúng hiện hữu đầy đủ trước cá nhân và người khác. Cần
lưu ý đến câu nói nổi tiếng của Th. Edison mà mọi người đều biết: Thiên tài
gồm 1% cảm hứng và 99% là mồ hôi.
Trong giai đoạn này cần xem xét lại bản thảo, để tìm ra điểm mạnh,
điểm yếu và cân nhắc cách thức hoàn thiện nó. Sau đó tiếp tục đổ công sức
để thực hiện những chỉnh sửa. Để có sản phẩm cuối cùng, có thể phải qua
nhiều lần chắt lọc, ấp ủ, lao động và đánh giá. Đó là quá trình đầy tính kiên trì,
không phê phán và sẵn sàng đáp ứng mọi phê phán.
Trên đây là các giai đoạn của một quy trình sáng tạo. Trong thực tiễn
các giai đoạn này không hoàn toàn theo logic trên, mà có đảo lộn giữa các
công đoạn, thậm chí phải lặp lại nhiều lần một số công đoạn nhất định. Điều
quan trọng là mỗi công đoạn có chức năng và tính chất riêng. Vì vậy, một mặt
cần triệt để thực hiện đúng tính chất của từng công đoạn và không được thâm
nhập vào nhau, mặt khác phải linh hoạt chuyển từ công đoạn này sang công
đoạn khác. Khi đang tìm kiếm những ý tưởng thì thái độ phê phán hay cầu
toàn là điều không tốt. Ngược lại, việc lựa chọn các ý tưởng lại đầy chất ngẫu
hứng và thiếu sự phê phán, sẽ dẫn đến hỏng việc v.v. Triệt để thực hiện đúng
tính chất của các công đoạn là việc rất khó trong tư duy sáng tạo, nhất là đối
với những học viên (và cả giáo viên) đã quá quen với nếp tư duy hỗn hợp,
đan xen.
* Phương pháp phân tích hình thái. Đây là một kĩ thuật sáng tạo rất đơn
giản nhưng có hiệu quả. Hơn nữa, nó không chỉ có tác dụng trong hoạt động
sáng tạo, mà còn ứng dụng rộng rãi trong dạy học nói chung. Về đại thể, quy
trình tiến hành kĩ thuật này như sau:
+ Bước 1: Phát biểu chính xác, đầy đủ bài toán.
+ Bước 2: Xác định các bộ phận – chức năng chủ yếu của đối tượng. Ví
dụ: Đối tượng O có các bộ phận chính A, B, C.
+ Bước 3: Liệt kê tất cả các hình thái có thể có của các bộ phận chính.
Đây là khâu cực kì quan trọng. Chẳng hạn: A: A1, A2, A3; B: B1, B2, B3, B4, B5;
C: Cl, C2, C3, C4.
+ Bước 4: Lập bảng ma trận các hình thái.
Các bộ phận chính Các bộ phận chi tiết
A A1 A2 A3
B B1 B2 B3 B4 B5
C C1 C2 C3 C4
+ Bước 5: Lập công thức của hình thái đối tượng cần xem xét. Chúng
chính là các dạng tổ hợp các bộ phận chi tiết của các bộ phận chính và có
dạng: Ai – Bj – Ck… Chẳng hạn: đối tượng M: A1 – B1 – C1, hoặc N: A2 – B1
– C3 v.v…
+ Bước 6: Phân tích các phương án thu được từ bước 5.
Trong trường hợp bảng ma trận có nhiều cột ta sẽ có rất nhiều tổ hợp
(chẳng hạn 10 cột dọc và 10 cột ngang sẽ có tới hàng tỉ tổ hợp), khi đó cần có
công cụ máy tính trợ giúp.
Ngoài các phương pháp nêu trên, ngày nay có khá nhiều phương pháp
khác hướng đến sự phát triển tư duy sáng tạo trong dạy học. Giáo viên có thể
khai thác các phương pháp này tại các Trung tâm sáng tạo đang rất phát triển
ở nước ta.
9.4. PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌCNgày nay có quá nhiều tài liệu nói về tự học của học viên. Điều đó là tất
yếu. Phương pháp tự học có thể giúp người học thích ứng được đòi hỏi khắt
khe của cuộc sống hiện đại. Nó phải là phương pháp học tập cơ bản và suốt
đời của mỗi người. Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây không phải là ở chỗ tự học là
gì và vai trò của nó trong học tập của học viên, mà là người giáo viên làm thế
nào để giúp học viên thực hành được phương pháp này?
9.4.1. Những khó khăn của học viên khi tiến hành tự học
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế hiệu quả của tự học là
học viên gặp nhiều khó khăn khi sử dụng phương pháp này. Đó có thể là
những khó khăn khách quan như xa giáo viên, xa bạn, phải tự mình giải quyết
việc học v.v. và những khó khăn chủ quan như tâm lí thiếu tự tin, dễ nản chí
khi gặp bế tắc v.v. Trong số các khó khăn đó, nổi bật là những hạn chế về kĩ
năng tự học. Có thể kể ra một số khó khăn thường thấy do thiếu các kĩ năng
tự học:
- Sưu tầm và phân loại tài liệu học tập.
– Nghiên cứu tài liệu.
- Khắc phục khó khăn phát sinh trong trường hợp không có giáo viên
trợ giúp.
– Tự kiểm soát và quản lí quá trình tự học.
– Đánh giá kết quả và hiệu quả tự học.
9.4.2. Một số biện pháp hướng dẫn và quản lí việc tự học của học viên
Có rất nhiều việc phải làm để hướng dẫn và quản lí, đánh giá việc tự
học của học viên, nhất là trong điều kiện “học từ xa”. Dưới đây là gợi ý một số
biện pháp cần thiết của giáo viên:
* Thiết kế các bài tập tự học cho học viên.
Các bài tập tự học hàm chứa nội dung học tập mà học viên phải tự
hoàn thành. Đồng thời nó là bản chỉ dẫn cách học cho học viên, là bản cam
kết và là hồ sơ để giáo viên đánh giá kết quả tự học. Vì vậy, việc soạn thảo
bài tập tự học có ý nghĩa quan trọng trong việc hướng dẫn tự học.
– Trước khi soạn thảo bài tập tự học, giáo viên cần lựa chọn và quyết
định nội dung tự học. Thông thường, các nội dung được chọn là những vấn
đề cơ bản, đơn giản, mang tính thực tiễn cao, có nhiều nguồn tài liệu (sách
giáo khoa, tạp chí, băng hình v.v). Phân tích nội dung đã được chọn thành
những đơn vị kiến thức nhỏ và theo các đề mục rõ ràng, để dễ thiết lập các
bài tập và học viên dễ soạn đề cương.
– Các bài tập tự học có thể được soạn theo hai hình thức: Bài tập theo
bài học và bài tập theo chủ đề.
Bài tập theo bài học là các bài tập được soạn thảo rất cụ thể, chi tiết và
thường bám sát với từng trang nội dung của sách giáo khoa. Các bài tập loại
này được cấu trúc theo hệ thống phù hợp với hệ thống tri thức đã được chọn
lọc để người học tự nghiên cứu. Khi người học hoàn thành hệ thống bài tập
này sẽ nắm được nội dung của tài liệu học tập.
Bài tập theo chủ đề thường dùng để ôn tập. Trong đó các bài tập được
soạn theo chủ đề và thường có đề cương ôn tập kèm theo.
– Độ khó của các bài tập cũng là vấn đề cần quan tâm. Khó khăn chủ
yếu của người tự học là không có người trợ giúp khi bị bế tắc. Vì vậy, các bài
tập không nên quá khó, mà ở mức trung bình. Nhìn chung, nên cấu trúc bài
tập dưới dạng tìm hiểu nội dung tài liệu, ghi nhớ và tìm cách giải thích các sự
kiện thực tế, tránh ra các bài tập phức tạp. Việc sắp xếp các bài tập cũng cần
theo lôgic chặt chẽ từ dễ đến khó và đánh số thứ tự rõ ràng, để người làm
không bỏ qua những bài dễ khi gặp bài khó.
- Để tránh sự sao chép, các bài làm (các phiếu trả lời) nên yêu cầu viết
tay (không đánh máy vi tính).
* Giám sát quá trình tự học
Đặc điểm của phương pháp tự học là không đánh giá quá trình học tập.
Điều này gây khó khăn không nhỏ cho cả người học và người dạy trong việc
kiểm soát quá trình học tập và đánh giá mức độ tiến bộ của việc học. Để khắc
phục khó khăn này có thể theo các gợi ý sau:
Cho các câu hỏi tự kiểm tra để học viên đánh giá tiến bộ và mức độ
hiểu của mình. Yêu cầu học viên nộp bài để biết chắc có làm bài.
Cho đáp án các câu hỏi ghi trên phiếu học tập để học viên có thể tự
đánh giá mình và người khác.
Cung cấp các bài làm mẫu hoặc cách giải tối ưu, sau khi học viên đã
hoàn thành phiếu học tập. Học viên có thể dùng đáp án để tự đánh giá.
Khuyến khích học viên tìm câu hỏi tự kiểm tra có trong các tài liệu giáo
khoa. Yêu cầu học viên nộp các câu trả lời để biết chắc là có làm.
Yêu cầu học viên phát biểu tự đánh giá về quá trình và hiệu quả tự học.
Cho học viên đóng vai người giáo viên để nâng cao trách nhiệm đối với
bạn cùng học (học bằng cách dạy người khác là cách học hiệu quả nhất).
* Hướng dẫn nguồn tài liệu.
Nguồn tài liệu quyết định một phần rất lớn chất lượng tự học. Vì vậy,
người giáo viên nên lập danh mục các loại tài liệu cho học viên. Trong đó, nếu
có thể được, chỉ rõ tài liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo. Đối với tài liệu bắt
buộc cần chỉ rõ số trang phải đọc kèm theo câu hỏi.
Sưu tầm và phân loại các nguồn tài liệu là một trong những kĩ năng cần
được hình thành trong hoạt động tự học. Vì vậy, bên cạnh việc chỉ dẫn cho
học viên cách sưu tầm tài liệu, cũng cần có sự giám sát và đánh giá của giáo
viên, coi đó là một nội dung tự học.
* Đánh giá việc tự học
Hình thức đánh giá phổ biến là bài thi ngay sau khi kết thúc việc thực
hiện các bài tập tự học. Việc đánh giá cần phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học. Bài thi dành cho học viên tự học có thể chia thành hai mức: thấp và cao.
Bài thi thấp là bài thi học viên tự cho điểm, còn bài thi mức cao là bài thi
giống như các bài thi thông thường.
Thông thường, sẽ có nhiều học viên chưa đạt yêu cầu trong đợt đánh
giá đầu, giáo viên cần dành thời gian và bài tập tự học để họ củng cố. Thời
gian ít nhất là nửa tháng và các bài tập không nên lặp lại những bài đã giao.
Chương 10. KỸ THUẬT SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG
10.1. KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC10.1.1. Khái niệm
Trong lí luận dạy học, vấn đề phương tiện dạy học hiện còn nhiều tranh
luận và đầy biến động. Phần vì mỗi nhà lí luận có quan niệm riêng về vấn đề
này, phần vì sự tác động ngày càng mạnh và thay đổi nhanh chóng của các
phương tiện kĩ thuật hiện đại vào trong dạy học, dẫn đến làm đảo lộn những
quan niệm đã có. Tuy vậy, do yêu cầu của công việc, buộc chúng ta phải giới
hạn phạm vi quan niệm về phương tiện dạy học.
Để trả lời câu hỏi một vật A có phải là phương tiện dạy học hay không,
không đơn thuần là xác định xem vật đó là gì? Nó có cấu tạo như thế nào?
v.v…, mà phải xét nó trong mối quan hệ với hoạt động dạy học. Nói cụ thể,
phải đặt nó trong mối quan hệ chức năng phương tiện – mục đích giữa nó với
hoạt động dạy học. Nếu nó (vật A) được dùng làm công cụ hoặc là điều kiện
để người giáo viên tổ chức các hoạt động dạy, là công cụ để học viên thực
hiện hoạt động học, khi đó nó là phương tiện của hoạt động dạy (hay hoạt
động học). Vậy phương tiện dạy học là gì?
Phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật, hiện tượng trong thế giới, tham
gia vào quá trình dạy học, đóng vai trò là công cụ hay điều kiện để giáo viên
và học viên sử dụng làm khâu trung gian tác động vào đối tượng dạy học.
Phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn chuyền và làm tăng sức
mạnh tác động của người dạy và người học đến đối tượng dạy học.
Nói tới phương tiện dạy học, ít nhất cần lưu ý bốn điểm.
Thứ nhất: Một vật (hoặc một hiện tượng) nào đó được coi là phương
tiện dạy học khi và chỉ khi nó được đặt trong mối quan hệ giữa nó với đối
tượng dạy. Đó là mối quan hệ phương tiện – mục đích. Nói cụ thể, nó chỉ trở
thành phương tiện dạy học khi được giáo viên hay học viên dùng làm công cụ
hay làm điều kiện, tức là khâu trung gian để tác động đến đối tượng dạy học.
Chẳng hạn, ngôn ngữ của giáo viên là phương tiện dạy học khi nào? Khi
người giáo viên dùng nó để kích thích, tổ chức học viên học tập (giảng bài,
đặt câu hỏi, động viên v.v), còn khi nó được dùng để trao đổi với học viên về
trận đấu bóng đá hay vở kịch, v.v, thì khi đó không phải là phương tiện dạy
học của người giáo viên đó. Tương tự, học viên sử dụng tư duy của mình để
giải quyết một tình huống dạy học, khi đó tư duy được coi là phương tiện học
tập, còn khi được sử dụng để chơi cờ với bạn, thì khi đó không phải là
phương tiện học tập.
Thứ hai: Một vật nào đó có thể trở thành phương tiện dạy học nếu nó
đảm nhận vai trò là công cụ hay là điều kiện để giáo viên hay học viên tác
động vào đối tượng dạy học. Chẳng hạn, các bảng biểu, sơ đồ, bản đồ được
coi là công cụ để giáo viên giới thiệu về địa lí, khí hậu trong dạy địa lí v.v; một
phòng học, một ngọn đèn chiếu sáng, bảng đen để viết v.v. là điều kiện để
hoạt động dạy và học được tiến hành. Nói khái quát, phương tiện dạy học có
vai trò là công cụ hay là điều kiện để hoạt động dạy học được tiến hành.
Cần phân biệt thuật ngữ công cụ với phương tiện. Trong nhiều trường
hợp thuật ngữ công cụ và phương tiện được dùng với nghĩa tương đương và
đều được hiểu là khâu trung gian giữa hai chủ thể hay giữa chủ thể với đối
tượng. Tuy nhiên, nếu hiểu triệt để, thì thuật ngữ phương tiện thiên về mặt
chức năng còn công cụ thiên về mặt tác động thực tế. Khi phân tích cấu trúc
của lao động sản xuất, C. Mác dùng từ công cụ lao động, còn khi nói tới hoạt
động trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, C. Mác dùng từ phương
tiện, là khâu trung gian giữa con người với tự nhiên.
Thứ ba: Phương tiện dạy học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và
làm tăng sức mạnh tác động của giáo viên hoặc học viên tới đối tượng dạy
học. Trở lại ví dụ trên, người giáo viên sử dụng ngôn ngữ để giảng bài, nhưng
nếu lời nói đó không có tác dụng đối với học viên, qua nó người học không
tiếp nhận được những nội dung cần học. Khi đó, ngôn ngữ của người giáo
viên cũng không thực sự là phương tiện dạy học. Điều này giống như chiếc
xe đạp là phương tiện để di chuyển, nhưng một ai đó chỉ dắt nó, vì không biết
đi, hoặc do nó bị hỏng. Ở đây đặt ra vấn đề có tính chất phương pháp luận:
Một phương tiện trở thành phương tiện dạy học theo đúng nghĩa của nó, khi
và chỉ khi người giáo viên và học viên biết cách sử dụng nó.
Thứ tư: Trong quá trình dạy học tồn tại hai hoạt động vừa độc lập vừa
phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ biện chứng với nhau là hoạt động dạy và hoạt
động học. Vì vậy, trên thực tế có các phương tiện dạy của giáo viên và
phương tiện học của học viên. Hai loại phương tiện này vừa độc lập, vừa phụ
thuộc lẫn nhau và quan hệ chuyển hóa cho nhau. Vì vậy, trong từng trường
hợp cụ thể, cần thiết phải xác định rõ ràng các loại phương tiện đó. Câu hỏi ở
đây là trong tình huống dạy học này giáo viên dùng công cụ nào để tác động
tới đối tượng nào? Người học sử dụng công cụ nào để tác động và tiếp nhận
đối tượng đó? Việc trả lời đúng hai câu hỏi trên có ý nghĩa rất lớn trong thực
tiễn dạy học.
Thứ năm: Theo C. Mác, yếu tố quyết định trình độ hoạt động không
phải là tạo ra cái gì, mà là tạo ra cái đó bằng cách nào và bằng phương tiện
nào? Chuyển luận điểm này vào trong dạy học sẽ là: Yếu tố quyết định trình
độ hoạt động dạy học không phải là ở chỗ dạy và học cái gì, mà là dạy và học
cái đó bằng phương pháp và phương tiện nào? Mức độ hiện đại của phương
tiện dạy học quy định trình độ của hoạt động dạy học (với điều kiện người dạy
và người học phải biết cách sử dụng phương tiện đó). Để hình thành cho học
viên biểu tượng về hiểm họa của lạm dụng ma tuý, nếu chỉ dùng lời mô tả của
giáo viên sẽ hoàn toàn khác với cho học viên xem băng hình quay cảnh thực
về nó. Hệ quả ở đây là: Để nâng cao hiệu quả dạy học, tất yếu phải nâng cao
tính hiện đại của các phương tiện dạy học và nâng cao trình độ sử dụng
chúng của giáo viên và học viên.
10.1.2. Phân loại các phương tiện dạy học
Các phương tiện dạy học có phổ rất rộng và đa dạng. Bất kì cái gì, hiện
tượng nào cũng có thể trở thành phương tiện dạy học: một khái niệm khoa
học, một kinh nghiệm đã có của học viên khi được dùng để tiếp thu kiến thức
mới. Một cành cây, con vật, đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày; từ thước kẻ,
viên phấn, bảng đen, đến các thiết bị kĩ thuật hiện đại như camera, các máy
chiếu, băng hình v.v. Vì vậy, việc phân loại các phương tiện dạy học rất phức
tạp và tuỳ thuộc vào các tiêu chí dùng để phân loại chúng.
Trong số rất nhiều tiêu chí phân loại phương tiện dạy học, có thể dựa
vào 3 tiêu chí sau:
Nguồn gốc, xuất xứ của sự vật, hiện tượng khi trở thành phương tiện
dạy học.
Chức năng của các phương tiện trong quá trình dạy học.
Đối tượng mà phương tiện dạy học tác động đến.
10.1.2.1. Phân loại theo nguồn gốc, xuất xứ của sự vật, hiện tượng khi trở thành phương tiện dạy học
Nếu dựa vào nguồn gốc, xuất xứ của các sự vật, hiện tượng khi trở
thành phương tiện dạy học, có thể có các nhóm phương tiện dạy học sau:
* Các phương tiện dạy học có nguồn gốc từ chính nội dung hoạt động
dạy học.
Các khái niệm khoa học, kinh nghiệm xã hội v.v được hiện thực hoá
trong các sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy. Ngay chính bản thân phương
pháp dạy của giáo viên và phương pháp nhận thức của người học khi tiếp
hận kiến thức mới v.v. cũng là các phương tiện dạy học. Đây là các phương
tiện dạy học quan trọng nhất, là một trong những nhân tố quyết định trình độ
và hiệu quả dạy học.
* Các phương tiện dạy học có nguồn gốc từ chính người dạy và người
học.
Ngôn ngữ, tư duy, kinh nghiệm, các thao tác, các kĩ năng dạy học, các
hành vi, cử chỉ phi ngôn ngữ, tác phong v.v của giáo viên và học viên được
huy động và sử dụng vào hoạt động dạy và học. Những phương tiện này
được hình thành trước khi người dạy và người học tham gia vào hoạt động
dạy học và được mài sắc trong quá trình dạy và học. Điều này liên quan rất
nhiều tới việc đào tạo và tự đào tạo của người giáo viên trước và trong hoạt
động dạy học.
* Các phương tiện dạy học có nguồn gốc từ sự chế tác của con người,
được đưa vào sử dụng trong quá trình dạy học.
Đây là loại phương tiện dễ nhận ra và rất phong phú, đa dạng. Hơn
nữa loại phương tiện này ngày càng phát triển, ngày càng chiếm ưu thế trong
dạy học. Hiện tại, chúng có phổ rất rộng: Từ các phương tiện quen thuộc, gần
gũi với mọi người như phòng học, bàn ghế, phấn viết, bảng đen, quyển vở,
thước kẻ, các bản vẽ, mô hình, sơ đồ, biểu đồ v.v, đến các thiết bị kĩ thuật
hiện đại: các động cơ kĩ thuật, máy tính, máy quay hình v.v.
* Các phương tiện dạy học có xuất xứ từ tự nhiên, được con người khai
thác và sử dụng vào trong quá trình dạy học. Chẳng hạn: các mẫu khoáng
vật, đất đá, sông ngòi, ao hồ, núi non, cây cỏ v.v. Những phương tiện này dễ
tìm kiếm và rất sinh động, đặc biệt đối với các nội dung học gắn với các hiện
tượng tự nhiên.
10.1.2.2. Phân 1oại theo chức năng của các phương tiện trong quá trình dạy học
Nếu dựa vào chức năng của các phương tiện trong quá trình dạy học
có thể chia thành hai nhóm: các phương tiện thay thế và các phương tiện hỗ
trợ.
* Các phương tiện thay thế là các phương tiện có chức năng đại diện,
thay thế cho đối tượng mà người dạy và người học phải tác động. Loại
phương tiện này có vai trò to lớn trong dạy học. Bởi lẽ, nguyên tắc quan trọng
nhất trong việc tối ưu hoá quá trình dạy học hiện đại là người học phải được
làm việc trực tiếp với đối tượng học tập. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
người học không thể tiếp cận trực tiếp tới đối tượng, mà phải thông qua vật
trung gian, thay thế cho đối tượng thực. Chẳng hạn, mô hình cấu tạo nguyên
tử, nguyên tố trong dạy vật lí, hoá học; sa bàn trận đánh trong dạy học lịch
sử; hình vẽ tranh ảnh trong dạy học giáo dục giới tính v.v. Lợi thế của loại
phương tiện này ở chỗ, vừa là đại diện trực quan cho đối tượng học tập, vừa
có tính khái quát. Vì vậy, được dùng rất phổ biến. Yêu cầu của loại phương
tiện này là vừa phải phản ánh được những thuộc tính, những mối liên hệ bản
chất, quy luật của đối tượng mà nó thay thế, vừa phải trực quan đối với người
dạy và người học.
* Các phương tiện hỗ trợ trong quá trình dạy học. Đó là các phương
tiện có chức năng làm giá đỡ, dẫn truyền và làm tăng cường sức mạnh tác
động của hoạt động dạy và học lên đối tượng; giúp người học và người dạy
thuận lợi hơn, tiện lợi hơn khi tác động đến đối tượng dạy học, từ đó làm tăng
hiệu quả của các hoạt động đó. Trong thực tiễn dạy học, rất nhiều người hiểu
và sử dụng các phương tiện dạy học theo chức năng này. Chẳng hạn: dùng
kính hiển vi trong quan sát tế bào, vi khuẩn; kính viễn vọng trong quan sát
thiên văn; các loại bảng viết các biểu đồ, máy chiếu hắt (Overhead), video,
máy tính v. v, để hỗ trợ việc giảng dạy và học tập được thuận lợi và hiệu quả.
Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, nhiều phương tiện kĩ
thuật hiện đại ra đời và được sử dụng ngày càng phổ biến trong dạy học, nhờ
đó mở ra tiềm năng dạy học to lớn. Tuy nhiên, mặt trái của nó là nếu lạm
dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, chức năng của các phương tiện
này sẽ làm thụ động hoá, đơn điệu hoá các hoạt động dạy và học, dẫn đến
“lợi bất cập hại”. Một ví dụ nhỏ, nên thay thế đơn thuần việc viết bảng truyền
thống bằng các bản giấy trong (Phôli) hoặc Powerpoint, sẽ dễ làm mất thói
quen nghe – nhìn – ghi chép của học viên (vốn là sự kết hợp hữu ích trong
học tập) biến họ thành khán giả thụ động trong dạy học, chuyển dạy học trực
quan nghe – nhìn ghi sang trực quan nhìn. Vì vậy nguyên tắc chung ở đây là
việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ phải làm tăng sức mạnh, dẫn đến nâng
cao hiệu quả của hoạt động dạy và học, tạo ra sự tích cực hoá trong dạy học
chứ không phải ngược lại.
Cần lưu ý, việc phân biệt để sử dụng đúng phương tiện thay thế và
phương tiện hỗ trợ không căn cứ vào bản thân sự vật, mà vào chức năng của
nó khi tham gia vào hoạt động dạy học. Một cái bảng đen là phương tiện thay
thế hay hỗ trợ? Điều này không phải do bản thân cái bảng quy định, mà là do
cách giáo viên sử dụng nó. Nếu giáo viên dùng bảng để minh hoạ và triển
khai công thức tính diện tích hình chữ nhật hoặc hình vuông, thì nó là phương
tiện thay thế (cho hình vuông hay hình chữ nhật trừu tượng), còn khi dùng nó
để viết bài giảng của giáo viên hay bài làm của học viên, thì khi đó nó là
phương tiện hỗ trợ. Tương tự như vậy, một cái máy tính có thể là phương
tiện thay thế để giáo viên giảng dạy các nguyên lí lập trình, nhưng khi dùng để
xử lí các tư liệu của bài giảng thì nó là phương tiện hỗ trợ của người giáo
viên.
10.1.2.3. Phân loại theo đối tượng tác động của phương tiện dạy học
Thực ra, cách phân loại theo đối tượng tác động của phương tiện dạy
học nói lên cách sử dụng các phương tiện hơn là phân loại chúng. Tuy nhiên,
do lợi ích của việc phân loại này nên cũng cần được đề cập đến.
Theo cách phân loại dựa vào sự tác động của phương tiện dạy học đến
đối tượng dạy học, có thể có các nhóm phương tiện sau:
* Nhóm phương tiện dạy học theo lứa tuổi học viên. Cùng là một
phương tiện thay thế hoặc hỗ trợ, nhưng khi sử dụng cho trẻ em phải khác
với cho người lớn. Điều này phổ quát cho mọi phương tiện dạy học. Chẳng
hạn, tranh minh hoạ dùng cho học viên nhỏ, ngôn ngữ của giáo viên trong dạy
học sinh tiểu học phải khác với tranh minh họa, ngôn ngữ trong dạy học cho
người lớn.
* Nhóm các phương tiện theo nội dung môn học. Do đặc thù của các bộ
môn khoa học khác nhau, đòi hỏi phải có những phương tiện thay thế hoặc
hỗ trợ đặc thù. Cùng là phương tiện trực quan nhưng trong dạy toán, các mô
hình, sơ đồ, đồ thị được dùng nhiều, còn trong các môn khoa học địa lí hay
lịch sử việc dùng các sa bàn có tác dụng lớn v.v. Ngay cả ngôn ngữ của giáo
viên cũng có tính đặc thù của môn khoa học. Chẳng hạn: ngôn ngữ dạy toán
phải khác ngôn ngữ dạy văn học, giáo dục công dân hay chính trị.
* Nhóm các phương tiện dạy học theo chiều hướng tác động chủ đạo.
Phương tiện dạy học là phạm trù phương tiện trong quan hệ với phạm trù
mục đích dạy học. Vì vậy hướng tác động của các phương tiện tuỳ thuộc vào
mục đích dạy học. Theo đó, có các nhóm phương tiện dạy học hướng vào nội
dung kiến thức khoa học; nhóm phương tiện hướng vào các kĩ năng hành
động trí óc và thực tiễn của học viên; nhóm phương tiện hướng vào sự phát
triển toàn diện nhân cách người học; nhóm phương tiện hướng vào nội dung
học tập của học viên hoặc nhóm phương tiện hướng vào hành động học của
họ; nhóm phương tiện tác động một chiều: người dạy 1 người học và nhóm
phương tiện tương tác người dạy 1 người học.
10.2. SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌCTrước khi giải quyết các vấn đề cụ thể về việc sử dụng phương tiện
trực quan (PTTQ) trong dạy, cần thống nhất về thuật ngữ: Phương tiện dạy
học và PTTQ.
Như đã nêu ở trên, phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật hay hiện
tượng tham gia vào hoạt động dạy học và đóng vai trò là công cụ hay điều
kiện để giáo viên và học viên sử dụng làm khâu trung gian tác động vào đối
tượng dạy học. Vì vậy, bất kì sự vật hay hiện tượng nào được giáo viên và
học viên sử dụng vào trong hoạt động học của mình đều được coi là phương
tiện dạy học.
PTTQ được hiểu hẹp hơn, theo nghĩa công cụ dạy học. Nói cách khác,
PTTQ là phương tiện dạy học đóng vai trò công cụ được giáo viên hay học
viên sử dụng làm khâu trung gian tác động tới đối tượng dạy học.
10.2.1. Hai quan niệm về trực quan trong dạy học
Nếu không đi sâu phân tích lịch sử phát triển của vấn đề trực quan (TQ)
trong dạy học, mà chỉ khái quát các quan điểm hiện nay, ta thấy có hai quan
niệm khác nhau về vấn đề này. Tạm quy ước là quan niệm truyền thống và
quan niệm hiện đại.
10.2.1.1. Quan niệm truyền thống
Quan niệm truyền thống về trực quan trong dạy học có từ ngàn xưa và
đạt đến đỉnh điểm trong lí luận dạy học của các nhà sư phạm J.A. Cômenxki
(1592 – 1670), J.J. Rútxô (1712 –1778), Pétxtalôzi (1746–1827), K.Đ. Usinxki
(1824– 1870), v.v…
Theo quan niệm này, TQ là chủ thể sử dụng một hay nhiều giác quan
để quan sát, từ đó tạo ra các hình ảnh bên ngoài của đối tượng nhận thức.
Công thức chung ở đây là: Quan sát trực tiếp đối tượng để tạo ra hình ảnh
cảm tính về chúng 1 khái quát hoá (trừu tượng hoá) các hình ảnh đã có thành
biểu tượng chung (tức là khái niệm về một lớp các biểu tượng cùng loại được
xét theo những tiêu chí xác định). Những khái niệm loại này được gọi là khái
niệm hình thức – sản phẩm của tư duy lí trí (tư duy siêu hình).
Quan niệm này được hình thành dựa trên hai cơ sở chủ yếu là xã hội
và triết học. Về mặt xã hội, nhằm khắc phục lối dạy học nhồi sọ, giáo điều
đang ngự trị trong nhà trường thời đó. Về triết học, PPTQ được dựa trên
thuyết “Duy cảm” – học thuyết đề cao vai trò của cảm giác trong quá trình
nhận thức của con người. Nội dung của PPTQ, theo các nhà duy cảm gồm
những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: thay lối dạy học cũ, kinh viện, nhồi nhét tri thức bằng lối dạy
học mới có căn cứ khoa học, thông qua các sự vật hoặc hình ảnh của chúng
và được học viên chứng thực trên cơ sở cảm nhận của các giác quan.
Thứ hai: Để dạy học có hiệu quả thì cần có nhiều giác quan tham gia
vào nhận thức.
Với quan niệm về trực quan như trên, từ lâu trong dạy học đã xuất hiện
PPTQ với tư cách là phương pháp trình bày các PTTQ của giáo viên và
phương pháp của HV quan sát các PTTQ đó. Khi giáo viên trình bày các
PTTQ để minh họa tri thức, thì học viên theo dõi, quan sát việc trình diễn các
PTTQ của giáo viên một cách tích cực, nhằm thu được nhiều hình ảnh vì
chúng. Ngày nay đã có nhiều đổi mới về kĩ thuật giới thiệu, trình bày PTTQ
của giáo viên và các yêu cầu đối với học viên khi quan sát nhưng về cơ bản,
sự phối hợp giữa quan sát của học viên với trình bày trực quan có kết hợp với
ngôn ngữ của giáo viên vẫn là đặc trưng cơ bản của PPTQ truyền thống.
Theo Đặng Thành Hưng, phương pháp này hiện vẫn đang ngự trị trong nhà
trường phổ thông.
Mặc dù mang tính duy cảm, nhưng cách hiểu TQ và PPTQ theo quan
niệm truyền thống là một tiến bộ so với dạy học kinh viện trước đây. Theo đó,
học tập được bắt đầu từ quan sát thế giới bên ngoài. Thông qua quan sát,
học viên thu được những bằng chứng về sự vật, hiện tượng, tạo ra niềm tin
đối với tri thức được truyền thụ, chống lại lối dạy học giáo điều theo kiểu nhồi
nhét tri thức cho học viên. Vì vậy, về cơ bản PPTQ là một tiến bộ trong dạy
học thời kì đó. Tuy nhiên, về cơ bản, các quan niệm trên là sự ấu trĩ, thậm chí
cực đoan, sai lầm, đặc biệt là đối với dạy học ngày nay. J.Piagiê đã rất đúng
khi đánh giá sự tiến bộ của phương pháp này so với phương thức giảng dạy
hoàn toàn bằng lời và đóng góp của nó cho phát triển giáo dục, đồng thời
cũng cảnh báo nguy cơ lạm dụng nó, chuyển từ bệnh nói xuông bằng lời sang
bệnh nói xuông bằng hình ảnh mà quên rằng vị trí hàng đầu trong nhận thức
là cá nhân phải hành động, phải tự tìm kiếm tri thức.
10.2.1.2. Quan niệm hiện đại
Quan niệm hiện đại về TQ và PPTQ gắn liền với triết học biện chứng và
tâm lí học hiện đại về nhận thức.
Về triết học. Nhận thức cảm tính không chỉ giới hạn ở trực quan, theo
nghĩa ngắm nhìn thế giới từ bên ngoài, mà là hoạt động thực tiễn của con
người.
Theo tư duy thông thường, trực quan được hiểu là nhận thức trực tiếp
bởi các giác quan. Hình ảnh cảm tính là kết quả các vật thể tác động vào giác
quan. Quan hệ giữa chủ thể và khách thể là quan hệ trực tiếp và để có hình
ảnh tâm lí thì chỉ cần có giác quan nguyên vẹn của chủ thể và có đối tượng
(vật thể) ở trước “mắt”. C. Mác đã chỉ rõ hạn chế cố hữu của cách hiểu này là
ở chỗ nó không thể giải thích được điều chủ yếu trong nhận thức là tính phù
hợp của hình ảnh chủ quan với thực tại khách quan, tức là “tính chân thực
của hình ảnh cảm tính”– điều làm đau đầu các nhà triết học từ trước đến nay.
Vậy bản chất của vấn đề là ở đâu? Chính là ở chỗ, trực quan chân chính,
theo đúng nghĩa của nó, không phải là sự chia cắt cái đơn nhất (một sự vật)
ra thành những mặt đa dạng, mà là tạo ra một cái toàn bộ, được kết cấu lại
bằng mối liên hệ đầy đủ tức là phải bao quát được thực thể của đối tượng
trong cái toàn bộ, đầy đủ, với những mối liên kết nội tại của nó. Trong khi đó,
cái nội tại, cái bản chất khác với cái bề ngoài là chỉ tồn tại trong quan hệ. Sự
tồn tại của nó không trực tiếp mà là gián tiếp thông qua vẻ bề ngoài. Điểm
mấu chốt trong nhận thức là phải làm cho cái gián tiếp đó trở thành trực tiếp,
trở thành trực quan. Rõ ràng là, để giải quyết vấn đề, chỉ ngắm nhìn sự vật thì
chưa đủ (sự ngắm nhìn, quá lắm cũng chỉ tạo ra cái hình ảnh bề ngoài) mà
phải làm cho sự vật biến đổi hình thức và các thuộc tính của chúng, hơn nữa,
còn phải tạo ra chúng, tức là phải tiến hành hoạt động vật chất, thực tiễn.
Trong hoạt động, thông qua công cụ con người không những đứng
trước khách thể, vật thể, mà còn đứng trước sự tác động lẫn nhau giữa
chúng, sự tác động do chính con người tạo ra và kiểm soát. Chính trong quá
trình này, nhận thức của con người vượt qua các hình ảnh trực tiếp bề ngoài
của vật thể và “nhìn” thấy cái gián tiếp thông qua sự biến đổi của chúng. Nếu
trong quan hệ trực tiếp chủ thể – khách thể, khách thể chỉ bộc lộ những dấu
hiệu của nó trong phạm vi giới hạn thành phần và mức độ tinh tế của các giác
quan của chủ thể, thì trong quá trình tác động giữa chủ thể với khách thể,
thông qua công cụ, nhận thức của chủ thể đã vượt ra khỏi giới hạn bề ngoài
đó. Ở đây, sự biến đổi các sự vật trong hoạt động thực tiễn đã làm “mất đi”
tính trực tiếp, vẻ bề ngoài của chúng, làm bộc' lộ “trực tiếp” những mối liên hệ
nội tại của nó. V.I. Lênin cho rằng: “Hoạt động của con người tự tạo ra cho
mình một hình ảnh khách quan về thế giới, biến đổi hiện thực bên ngoài, thủ
tiêu tính quy định của hiện thực này (bằng biến đổi mặt này hay mặt khác,
tính chất này hay tính chất khác của hiện thực) và do đó, lấy mất của nó
những đặc trưng bề ngoài, bên ngoài và hư không, làm cho nó trở thành cái
tồn tại tự nó – và – vì nó (bằng chân lí khách quan).
Sự phân tích trên đã cho thấy vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn
với tư cách là hành động nhận thức cảm tính của con người. Tuy nhiên,
không nên hiểu máy móc là trong nhận thức, chủ thể trực tiếp từ hoạt động
thực tiễn đến tư duy, còn các hình ảnh trực quan là hời hợt và thứ yếu.
Giữa hoạt động vật chất, thực tiễn với trực quan (theo nghĩa là quan sát
trực tiếp) không thay thế lẫn nhau. Thực chất của vấn đề là, hoạt động thực
tiễn làm tăng sức mạnh của các giác quan và tạo ra “thị trường” cho chúng.
Nhờ đó, mang lại sự khác biệt về chất của các hình ảnh cảm tính. Trong điều
kiện hoạt động thực tiễn, các hình ảnh đó không phải là bản sao các bộ phận
của vật ở dạng tĩnh, mà chủ yếu là bản sao của nó trong tổng thể cấu trúc
trọn vẹn với các quan hệ nội tại, ở dạng động, với các quy luật và chức năng
của nó. Theo Pa.Ăngghen, sự quan sát dựa vào kinh nghiệm, tự nó không
bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Post hoc (sau cái đó)
chứ không phải Propter học (do cái đó)… Nhưng bằng chứng của tính tất yếu
là ở trong hoạt động của con người, trong kinh nghiệm, trong lao động: Nếu
tôi có thể tạo ra được Post hoc thì nó sẽ trở thành đồng nhất với Propter hoc”.
Về tâm lí học. Tất cả các học thuyết tâm lí học lớn, đáng tin cậy, bằng
các công trình nghiên cứu của mình, đều đi đến kết luận có giá trị khoa học
cực kì quý báu: nguồn gốc của mọi tri thức cá nhân đều bắt đầu từ hành động
bên ngoài (hành động vật lí với đồ vật và hành động quan hệ với người khác).
Cơ chế hình thành các cấu trúc tâm lí nói chung, tri thức nói riêng là quá trình
tiếp nhận đối tượng, phân tích, cấu trúc lại đối tượng đó (bằng hành động
thực tiễn) và chuyển hoá các hình thức biểu hiện của chúng từ dạng vật chất
thành dạng tinh thần– tức là cơ chế chuyển vào trong – cơ chế nhập tâm
(xem chương II).
Như vậy, nhờ triết học duy vật biện chứng và các thành tựu tâm lí học,
chúng ta có sự nhìn nhận đúng hơn vấn đề trực quan trong dạy học.
Trực quan, theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là quan sát sự
vật bằng các giác quan, mà là hành động, tác động lên sự vật, làm biến đổi
các dấu hiệu bề ngoài của chúng, làm cho cái bản chất, các mối liên hệ, quan
hệ có tính quy luật của chúng được bộc lộ, được phơi bày một cách cảm tính,
mà nếu không có sự tác động đó thì chúng mãi còn là bí ẩn đối với nhận thức
của con người.
Quan điểm về TQ như vậy có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động dạy học.
Nó là cơ sở để xác định rõ hơn về bản chất và vai trò TQ trong dạy học. Từ
đó, phương pháp dạy học trực quan cần phải được hiểu lại:
Phương pháp dạy học trực quan, theo đúng nghĩa của nó không phải là
giáo viên giới thiệu, trình bày các PTTQ, nhằm cung cấp cho người học nhiều
hình ảnh cảm tính về sự vật, mà phải giúp người học hành động tốt nhất với
sự vật. Dạy học trực quan – tức là dạy học phải được bắt đầu từ việc hướng
dẫn người học hành động cảm tính với đối tượng học.
10.2.2. Phương tiện trực quan trong dạy học
10.2.2.1. Phương tiện trực quan
Để có hình ảnh TQ về sự vật, một mặt, cần có sự hoạt động của con
người; mặt khác, sự vật ấy phải tác động phù hợp với cơ quan cảm giác và
nằm trong vùng ngưỡng của nó. Trong trường hợp các sự vật quá nhỏ
(nguyên tử, điện tử, vi sinh vật), hoặc các chuyển động có bước sóng quá
ngắn (sóng ánh sáng, siêu âm) hay các vật ở quá xa so với tri giác mắt của
con người (cấu trúc của các thiên thể) v.v thì con người không thể trực tiếp
cảm nhận được chúng. Khi đó, chủ thể nhận thức phải dựa vào các phương
tiện trung gian, thông qua các phương tiện này mà chủ thể có được hình ảnh
TQ về đối tượng. Các phương tiện trung gian đó có chức năng làm cho đối
tượng với chủ thể gặp gỡ nhau, tức là làm cho các giác quan của chủ thể
được “mở rộng” và “nối dài hơn. Các công cụ như kính hiển vi, kính viễn vọng
hay các mô hình nguyên tử, điện tử… là những ví dụ cụ thể của việc mở rộng
và nối dài các giác quan của con người, tạo điều kiện cho con người nhận
thức được sâu sắc và đầy đủ về thế giới khách quan.
Như vậy, trong trường hợp con người không thể “đến tận nơi” để “sờ
mó” được đối tượng ta có thể dùng vật thay thế cho đối tượng như tranh ảnh,
mô hình, sơ đồ…để diễn tả chúng. Những phương tiện như vậy gọi chung là
PTTQ trong nhận thức.
PTTQ là những phương tiện được sử dụng trong hoạt động dạy học, có
vai trò là công cụ để giáo viên và học viên tác động vào đối tượng, có chức
năng khơi dậy, dẫn truyền, tăng cường khả năng hoạt động của các giác
quan, góp phần tạo nên chất liệu cảm tính của đối tượng nhận thức nhằm đạt
được các mục đích dạy học cụ thể.
10.2.2.2. Phân loại phương tiện trực quan
Cũng giống việc phân loại phương tiện dạy học, hiện nay có nhiều cách
phân loại PTTQ và chủ yếu thông qua tên gọi các đồ dùng dạy học, hoặc dựa
vào đặc tính vật lí của chúng. Chẳng hạn, theo T.A. Ilina, PTTQ gồm: TQ tự
nhiên, TQ thí nghiệm, TQ hình khối, TQ âm thanh, TQ tượng trưng và TQ đồ
thị, TQ bên trong hay TQ gián tiếp.
Việc phân loại các PTTQ như vậy, có thuận lợi là dễ gọi, dễ nhớ. Tuy
nhiên, cách phân loại này gây khó khăn, lúng túng cho người sử dụng, vì ít
chú ý đến chức năng của PTTQ đối với mục đích và nội dung dạy học. Chẳng
hạn, bức tranh chùa một cột được xếp vào loại TQ hình ảnh và được dùng
phổ biến trong dạy học. Nhưng nó có giá trị dạy học rất khác nhau khi được
sử dụng trong các tình huống dạy học khác nhau. Nếu giáo viên dùng nó để
giúp học viên có hình ảnh TQ về ngôi Chùa một cột thật, hiện hữu ở Hà Nội,
với tư cách là một biểu tượng văn hoá của Thủ đô, thì bức tranh chùa một cột
có ý nghĩa khác với việc giáo viên dùng nó để dạy học sinh lớp 1 học vần ôt
trong tiếng Việt. Trong trường hợp thứ nhất, bức tranh là vật thay thế cho ngôi
chùa thật, còn trong trường hợp thứ hai, nó chỉ có tác dụng giúp học sinh gợi
ra (hoặc dẫn đến) vần ôt mà các em đã được học hoặc sẽ học.
Như vậy, ngoài cách phân loại có tính truyền thống, cần phải phân loại
các phương tiện trực quan theo chức năng của nó trong mối quan hệ với mục
đích và nội dung dạy học. Với cách phân loại này, ta có hai loại: PTTQ thay
thế và PTTQ dẫn.
* PTTQ thay thế
PTTQ thay thế là các vật (vật thật, tranh ảnh, mô hình, đóng vai trò là
vật đại diện, thay thế cho đối tượng hoạt động nhận thức, mà HV không thể
tiếp xúc trực tiếp với chúng được. Giáo viên có thể sử dụng sa bàn để dạy bài
chiến thắng Điện Biên Phủ, dùng bản đồ, hoặc quả địa cầu khi dạy địa lí các
châu lục. Tương tự, khi dạy các khái niệm về cấu trúc của nguyên tử trong vật
lí, cấu tạo của tế bào trong sinh học, cấu tạo nguyên tố trong hoá học v.v.
Trong những trường hợp trên, các sơ đồ, mô hình, tranh, ảnh giữ vai trò thay
thế cho đối tượng nhận thức. Ở đây, để tìm hiểu một sự vật, ta nhận thức qua
vật thay thế nó, qua vật thay thế này ta nắm được chính đối tượng cần phải
lĩnh hội.
* PTTQ dẫn
Trực quan dẫn là các vật (vật thật, tranh ảnh, mô hình…) đóng vai trò
khơi gợi, chỉ dẫn chủ thể đến đối tượng nhận thức.
Trong trường hợp vật được sử dụng làm PTTQ không thay thế cho đối
tượng nhận thức, nhưng nếu không có nó thì đối tượng nhận thức khó được
bộc lộ ra trực tiếp trước chủ thể. Chẳng hạn, khi dạy chữ O cho trẻ em, GV
sử dụng bức tranh con gà trống để làm xuất hiện chữ O. Ở đây, nhờ có hình
ảnh con gà trống đang gáy (Ò, Ó, O), trẻ em có thể liên hệ đến chữ O. Hình
ảnh con gà trống chỉ là phương tiện dẫn đến học chữ O. Trong những trường
hợp này, vật được sử dụng làm phương tiện TQ có chức năng dẫn đến đối
tượng nhận thức, làm chất xúc tác cho mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng nhận thức. Trong học tập, việc tìm hiểu bản thân PTTQ không hình
thành ở chủ thể hình ảnh TQ về đối tượng; không hướng đến việc giải quyết
các nhiệm vụ nhận thức, mà chỉ có tác dụng gợi ra đối tượng nhận thức. Vì
vậy, việc sử dụng PTTQ dẫn dễ bị tráo đối tượng nhận thức (học viên chỉ chú
ý vào vật làm PTTQ mà không chú ý đến mối liên hệ giữa nó với đối tượng
cần học).
Như vậy, việc phân loại PTTQ không phải dựa vào đặc tính vật lí của
nó, mà cần được xem xét trong mối quan hệ với hoạt động học tập của học
viên. Căn cứ vào mục đích và chức năng của PTTQ trong dạy học ta có các
loại PTTQ khác nhau, sử dụng chúng khác nhau, dù cho trong cuộc sống, nó
chỉ là một.
Trong thực tiễn dạy học, việc phân loại theo chức năng của PTTQ có
nhiều lợi thế. Nó giúp GV sử dụng PTTQ đúng chức năng và nội dung của nó
trong từng bài dạy cụ thể, nhờ đó làm cho hiệu quả của hoạt động dạy học
được nâng cao. Trở lại bức tranh con gà trống, nếu nội dung (đối tượng) dạy
học mà học viên cần chiếm lĩnh là con gà trống thực, thì bức tranh đó là
PTTQ thay thế (thay cho con gà trống). Qua các chi tiết của con gà trong
tranh: màu sắc của lông, mào, cánh v.v sẽ giúp cho HS có được hình ảnh
cảm tính về con gà trống. Còn trong việc ôn tập, củng cố cho HV lớp một khi
các em đã học chữ O, bức tranh con gà trống lại được sử dụng với chức
năng TQ dẫn đến các chữ Ò Ó O. Lúc này, nhiệm vụ chủ yếu của học viên
không phải là quan sát và mô tả con gà, mà phải thực hiện nhiệm vụ điền
những từ phù hợp dưới bức tranh con gà trống. Ở đây, nhiệm vụ quan trọng
của giáo viên là phải xác định được mục đích và chức năng của PTTQ trong
các tình huống dạy học cụ thể, để trên cơ sở đó, hướng dẫn, tổ chức cho HV
sử dụng PTTQ phù hợp.
10.2.2.3. Mô hình – loại PTTQ phổ biến trong dạy học
Bất kì giáo viên nào thành đạt trong sự nghiệp dạy học của mình đều
hiểu giá trị của mô hình và sử dụng thành thạo nó. Đơn giản vì mô hình không
chỉ là PTTQ hữu hiệu, mà còn là công cụ nhận thức sắc bén và là phương
tiện hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy của trẻ em.
a) Khái niệm chung về mô hình
Một giáo viên dạy địa lí đang hướng dẫn học viên cách đọc bản đồ; một
giáo viên lịch sử đang cùng học viên chăm chú quan sát sa bàn về cuộc tổng
tiến công của quân đội ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; các học viên
đang mải miết tạo ra một đoạn của phân tử ADN bằng sáp; các sinh viên kiến
trúc đang đọc bản thiết kế ngôi nhà; các cầu thủ bóng đá đang cùng với huấn
luyện viên hình dung trong đầu sơ đồ chiến thuật của trận cầu sắp tới v.v. Tất
cả những cái đó: bản đồ, sa bàn, đoạn phân tử ADN bằng sáp, bản thiết kế
ngôi nhà, sơ đồ chiến thuật của trận bóng đá trong đầu các cầu thủ v.v, tuy rất
khác nhau nhưng có điểm chung, chúng đều là mô hình của một vật khác.
Vậy mô hình là gì?
Mô hình là một hệ thống được hình dung trong óc hoặc được thực hiện
bằng vật chất, phản ánh hay tái tạo lại đối tượng nghiên cứu nên có khả năng
thay thế đối tượng đó, khiến cho việc tìm hiểu nó sẽ cung cấp cho người học
những thông tin mới về đối tượng mà nó thay thế.
Nói cách khác, một vật A là mô hình của vật B, khi vật A thay thế cho
vật B, mà khi tìm hiểu A ta có thể thu được từ nó những thông tin chân thực
về B.
* Đặc trưng của mô hình.
Mỗi mô hình có nét đặc thù riêng, phản ánh đối tượng mà nó thay thế.
Tuy nhiên, xét khái quát, mọi mô hình đều có một số đặc trưng chung:
Thứ nhất: Bất kì một sự vật hay một hiện tượng nào đó tồn tại với tư
cách là mô hình, thì bao giờ cũng phải là vật thay thế, vật đại diện của cái gì?
hiện tượng nào? Nói tới mô hình trước hết phải trả lời câu hỏi mô hình của cái
gì? Một sự vật có thể thay thế, đại diện cho một hoặc nhiều vật, vì vậy, nó có
thể là mô hình của một hay nhiều sự vật, tuỳ thuộc vào chức năng của vật
thay thế.
Thứ hai: Mô hình bao giờ cũng phản ánh các dấu hiệu bản chất, các
quan hệ có tính phổ biến, quy luật của sự vật mà nó thay thế. Bất kì mô hình
nào cũng bao hàm nó là nó và nó là cái khác: A là A và A là B, là C v.v, một
cái sa bàn, bản thân nó là sa bàn, được làm bằng vật liệu nào đó, có kích
thước nhất định v.v nhưng nó có thể đại diện cho các hướng tấn công của
một trận chiến đấu (sa bàn một trận đánh trong lịch sử) hay đại diện cho một
vùng địa lí với các địa hình núi sông, đồng bằng v.v (sa bàn địa lí).
Thứ ba: Mô hình vật chất (sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ, tranh ảnh, bản thiết
kế v.v) bao giờ cũng có tính trực quan về đối tượng mà nó thay thế, đại diện.
Nói cách khác, mô hình bao giờ cũng phản ánh một cách trực quan các dấu
hiệu bản chất của đối tượng mà nó thay thế. Đây là đặc trưng điển hình của
mô hình trong dạy học và là ưu thế nổi trội của nó trong nhận thức. Nếu
không có đặc trưng này thì một vật nào đó không còn được coi là mô hình
cho cái khác theo đúng nghĩa là mô hình dạy học. Do đó, mô hình không phải
là vật thay thế, đại diện hoàn toàn cho một đối tượng nào đó, mà chỉ là phản
ánh những dấu hiệu nhất định của nó, làm cho những dấu hiệu đó trở nên
trực quan trước người học. Vì vậy, khi bản chất của đối tượng học tập còn ở
dạng trừu tượng, người học khó nắm bắt, thì giáo viên thường biểu diễn
chúng dưới dạng mô hình trực quan.
Thứ tư: Mô hình bao giờ cũng là sản phẩm của một sự trừu tượng hoá
khoa học. Mô hình được tạo ra không phải bằng cách chắp ghép các dấu hiệu
quan sát được từ một vật mẫu, mà là kết quả của sự phân tích vật mẫu, nhận
dạng các dấu hiệu bản chất của vật mẫu, xác lập mối quan hệ phổ biến giữa
chúng, trừu tượng hoá các dấu hiệu phụ, liên kết các dấu hiệu bản chất và
các mối quan hệ phổ biến, cấu trúc lại thành một vật khác, đó chính là mô
hình. Vì vậy, quá trình mô hình hoá một đối tượng nào đó bao giờ cũng là quá
trình nhận thức khoa học tích cực và sâu sắc.
Liên kết các đặc trưng của mô hình ta thấy mô hình là một phương tiện
nhận thức trực quan độc đáo. Đó là phương tiện nhận thức mà về hành động
nhận thức là trực quan, còn về tính chất và mức độ nhận thức là trừu tượng,
lí luận. Điều này giải thích vì sao mô hình là công cụ nhận thức đặc biệt hữu
hiệu cho mọi lĩnh vực khoa học, bậc học.
b) Các loại mô hình
Giống mọi lĩnh vực khác trong lí luận dạy học, việc phân loại mô hình
rất khó khăn và chưa thống nhất. Có hai cách phân loại phổ biến và có nhiều
ứng dụng vào trong dạy học: phân loại theo hình thức biểu hiện và phân loại
theo chức năng nhận thức của mô hình.
* Phân loại theo hình thức biểu hiện
Theo cách này có thể chia mô hình thành hai nhóm: các mô hình vật
chất và mô hình tinh thần (mô hình ý nghĩa).
– Các mô hình vật chất là những mô thay thế có tính trực quan, được
hình thành bởi các hành động thực tiễn và tinh thần, được thể hiện qua các
hình thức trực quan khác nhau. Mô hình vật chất có phổ rất rộng: các mô hình
vật thật, mô hình vật chất hoá và mô hình võ đoán.
Mô hình vật thật là một vật thật này được dùng làm vật thay thế, đại
điện cho vật khác: các sa bàn, ma két, mô hình không gian ba chiều, như mô
hình kiến trúc v.v. Nét đặc trưng của các mô hình loại này là sự tương tự
nhau về vật liệu thể hiện giữa vật thật và vật thay thế.
Mô hình vật chất hoá gần với mô hình vật thật. Điểm khác nhau giữa
hai loại mô hình này là ở chỗ vật liệu thể hiện của mô hình vật chất hoá không
tương ứng và gần gũi với vật thật như mô hình vật thật. Tranh minh hoạ, ảnh
bản đồ, biểu đồ là những mô hình vật chất hoá phổ biến trong dạy học.
Mô hình võ đoán có hình thức biểu hiện khác hoàn toàn với hình thức
biểu hiện của đối tượng và của mô hình vật thật, mô hình vật chất hoá. Nếu
vật liệu và hình thức biểu hiện của mô hình vật thật và mô hình vật chất hoá
còn liên hệ trực tiếp và gắn bó ít nhiều với hình thức thể hiện của đối tượng,
chịu sự chi phối bởi các vật liệu đó, thì hình thức thể hiện trong mô hình võ
đoán hoàn toàn có tính quy ước, chủ quan và không liên hệ gì với vật liệu và
hình thức thể hiện của đối tượng. Ta có thể biểu thị một người ưa nịnh bằng
một hình ảnh khuôn mặt có cái mũi to quá cỡ (sướng phổng mũi)– mô hình
vật chất hoá, nhưng cũng có thể quy ước là một kí hiệu bất kì (r, …) hay
bằng chữ cái: (a, b, c…) – mô hình võ đoán. So với mô hình vật chất hay vật
chất hoá, mô hình võ đoán có sức mạnh hơn nhiều. Nó cho phép có thể biểu
diễn bất kì cái gì đó bằng bất kì vật liệu nào, mà không phụ thuộc vào đối
tượng mà nó thay thế, miễn là có sự thống nhất về hệ quy chiếu giữa nó với
vật mẫu. Trong nhận thức, các mô hình võ đoán nhiều vô kể: các kí hiệu ngôn
ngữ, các định lí, công thức toán học, định luật vật lí, công thức hoá học v.v
Trong dạy học, việc sử dụng mô hình võ đoán có tính hai mặt: một mặt
cho phép người học thể hiện được sức mạnh của trừu tượng hoá khoa học
và tư duy lí luận; mặt khác, người học thường gặp khó khăn không nhỏ về
tính trực quan của chúng. So với các mô hình vật thật và mô hình vật chất
hoá, tính trực quan của mô hình võ đoán thấp hơn nhiều (vì các vật liệu và
hình thức biểu hiện không có chút gì giống với vật mẫu). Điều này lại càng
khó đối với học sinh các lớp nhỏ, chưa phát triển các thao tác hình thức hay
tư duy lí luận. Để khắc phục khó khăn này, giúp học sinh làm quen và sử
dụng có hiệu quả các mô hình võ đoán, giáo viên cần cho các em sử dụng
thành thạo các mô hình vật thật, mô hình vật chất hoá, sau đó mới chuyển
dần sang mô hình võ đoán.
- Mô hình ý nghĩ
Nếu ai lần đầu tiên đến Hà Nội, hẳn sẽ rất khó xác định phương hướng
và các đường đi ngang dọc qua các phố, và nếu trong tay không có tấm bản
đồ thì việc đi lại quả thực rất khó khăn. Tuy nhiên, chỉ sau một số lần “khảo
sát thực tế theo các chỉ dẫn trên bản đồ, người đó cảm thấy mình “thuộc long”
các đường ngang ngõ tắt của Hà Nội mà trước đó vẫn còn là “mê cung”. Ở
đây, cá nhân đó đã có “cấu trúc về đường phố Hà Nội” ở trong đầu. Nói cách
khác, anh ta đã có mô hình về đường phố Hà Nội ở dạng ý nghĩ.
Mô hình ý nghĩ là một cấu trúc (sơ đồ) tinh thần của chủ thể phản ánh
bản chất, các thành phần và quan hệ giữa chúng của đối tượng dưới hình
thức ý nghĩ về chúng. Nói cách khác đó là sự liên kết ở trong đầu các hình
ảnh về các thành phần của đối tượng và mối liên lệ giữa các thành phần đó.
Mô hình ý nghĩ linh hoạt hơn gấp nhiều lần so với các loại mô hình
khác, nhờ thể hiện dưới hình thức rút gọn tới mức tối đa vỏ vật chất (chỉ tồn
tại dưới dạng ý nghĩ, dưới dạng tín hiệu điện tín). Ngược lại, tính trực quan
của loại mô hình này rất thấp. Nói khác đi hầu như không có mối liên hệ về
hình thức biểu hiện giữa vật mẫu với mô hình ý nghĩ về vật mẫu đó (mặc dù
về bản chất chúng vẫn là vật thay thế của vật mẫu). Ở đây dường như có hố
ngăn cách quá lớn đối với việc sử dụng các mô hình ý nghĩ của người này
làm phương tiện nhận thức cho người khác. Mặc dù, về nguyên tắc, việc
truyền các “mô hình ý nghĩ” cho nhau là con đường ngắn nhất để nhận thức
về một đối tượng nào đó. Tuy nhiên, việc dạy học theo con đường này hiện
vẫn là phương thức đặc biệt và hiện còn là của tương lai.
Như vậy, nếu phân loại mô hình theo hình thức biểu hiện đối tượng của
nó ta thấy có sự giảm dần mức độ trực quan và tăng dần mức trừu tượng
giữa các loại mô hình từ mô hình vật thật đến mô hình ý nghĩ. Việc hiểu các
mức độ biểu hiện trực quan của các loại mô hình có ý nghĩa quan trọng trong
dạy học. Nó là cơ sở khoa học để giáo viên tổ chức cho học viên sử dụng các
loại mô hình cho phù hợp với lứa tuổi và với các giai đoạn của quá trình hình
thành một tri thức khoa học nhất định. Nguyên lí chung ở đây là đối với học
viên nhỏ cần tăng cường sử dụng các mô hình vật thật và vật chất hoá, còn
đối với học viên lớn, các mô hình võ đoán sẽ phù hợp hơn. Mặt khác, khi hình
thành tri thức khoa học cho học viên cần tuân theo lôgic: mô hình vật thật 1
mô hình vật chất hoá 1 mô hình võ đoán 1 mô hình ý nghĩ.
* Phân loại theo chức năng của mô hình
Mặc dù các mô hình đều là vật thay thế, vật đại diện cho đối tượng
nhận thức. Song, trong thực tiễn, việc nhận thức một đối tượng thường được
quy về hai vấn đề lớn: cấu trúc của đối tượng và sự chuyển hoá, sự vận động
của đối tượng. Từ đây có thể chia thành hai loại mô hình: mô hình cấu trúc
đối tượng (mô hình tĩnh) và mô hình vận động (mô hình động).
Mô hình cấu trúc đối tượng khá phổ biến trong hoạt động nhận thức và
trong dạy học. Trong loại mô hình này các dấu hiệu bản chất, các bộ phận và
mối quan hệ phổ biến giữa chúng của đối tượng phải được phản ánh một
cách trực quan. Vì vậy, mô hình cấu trúc đối tượng là phương tiện hữu hiệu,
giúp học viên tìm hiểu bản chất và cấu trúc của đối tượng học tập. Loại mô
hình này hiện đang được dùng rất phổ biến trong dạy học từ mầm non đến
đại học: các sa bàn, sơ đồ, biểu đồ, tranh ảnh, công thức toán học, hoá học,
vật lí, các hình tượng văn học, nghệ thuật, các bản tóm tắt, câu khoá, từ
khoá, kí hiệu ghi nhớ v.v. Các hình thức thể hiện của loại mô hình này có thể
là vật thật, vật chất hoá hoặc các kí hiệu võ đoán hay ý nghĩ.
Mô hình vận động. Khác với mô hình cấu trúc chủ yếu phản ánh bản
chất và cấu trúc của đối tượng tại một thời điểm nhất định nên có tính chất
tĩnh tại, mô hình vận động phản ánh trực quan tính chất, quá trình và chiều
hướng vận động của đối tượng. Trong loại mô hình này, các đường biểu diễn
không chỉ phản ánh số lượng các thành phần, mối quan hệ giữa chúng mà
còn phản ánh lôgic vận động và phát triển của các phân tử của đối tượng.
Các hình thức thể hiện loại mô hình này thường là vật chất hoá và võ đoán,
đặc biệt là dạng sơ đồ võ đoán: sơ đồ đoạn thẳng, sơ đồ cây, đồ thị v.v. Dưới
đây là một hình thức thể hiện của mô hình võ đoán hay được dùng trong dạy
học: các sơ đồ – gráp, biểu diễn theo hệ thống PERT.
Trong sơ đồ a) hành động A được tiến hành trong thời gian 4 tiếng
đồng hồ. Sau khi thực hiện xong A mới được tiến hành B và được thực hiện
trong 2 tiếng. Trong sơ đồ b) hành động A và hành động B được tiến hành
đồng thời; hành động A hết 4 tiếng, còn B hết 3 tiếng. Còn trong sơ đồ c)
hành động C chỉ được tiến hành khi đã hoàn thành hành động A và B. Hành
động A hết 5 tiếng, hành động B hết 1 tiếng và hành động C hết 3 tiếng.
10.2.3. Sử dụng PTTQ trong dạy học
10.2.3.1. Một số yêu cầu của việc sử dụng PTTQ trong dạy học
Xoay quanh việc sử dụng PTTQ trong dạy học cần quán triệt một số
yêu cầu sau:
* Thứ nhất: Việc tổ chức cho học viên sử dụng PTTQ phải phù hợp với
từng loại tri thức khoa học cần hình thành cho các em.
Nội dung dạy học hiện nay thường có hai loại tri thức khoa học: tri thức
hình thức về sự vật và tri thức về nội dung, về sự phát triển của vật.
+ Các tri thức khoa học hình thức với tư cách là biểu tượng chung về
một lớp sự vật nhất định. Chẳng hạn, khái niệm “cây,” “con cá”, “ô tô” v.v…
Mặc dù loại tri thức này là sự khái quát siêu hình về các sự vật và có từ thế kỉ
XV, nhưng đến nay, chúng vẫn có vai trò quan trọng trong hệ thống tri thức
khoa học nhân loại và vẫn tồn tại phổ biến trong nhà trường. Cơ chế hình
thành loại tri thức này của học viên chủ yếu qua các bước sau:
Bước 1: Quan sát các sự vật khác nhau nhằm tạo ra hình ảnh trực
quan về chúng.
Bước 2: So sánh các hình ảnh, khái quát hoá những dấu hiệu giống
nhau của các sự vật khác nhau dựa trên cơ sở trừu xuất những điểm khác
nhau, riêng của các sự vật thu được qua các hình ảnh cảm tính.
Bước 3: Đưa các dấu hiệu chung, giống nhau của các sự vật, hiện
tượng vào trong một thuật ngữ, mệnh đề trên cơ sở những quy ước ban đầu
về các tiêu chí xếp loại.
Bước 4: Đưa biểu tượng (khái niệm) mới được hình thành vào trong hệ
thống biểu tượng đã có bằng cách quan sát các sự vật mới, tìm và phát hiện
trong đó những dấu hiệu chung đã được khái quát trong biểu tượng.
Với loại tri thức này thì các PTTQ được dùng trong dạy học chủ yếu là
trực quan thay thế và phương pháp sử dụng chủ yếu là giáo viên trình bày,
giới thiệu chúng còn học viên quan sát các vật mẫu do giáo viên đưa ra, phân
tích, khái quát các vật mẫu đó để hình thành biểu tượng chung về chúng. Sử
dụng PTTQ theo phương pháp này phù hợp với quan niệm truyền thống như
đã nêu ở trên.
+ Ngày nay, trong nhà trường, các tri thức khoa học dần dần không
phải là các tri thức về sự phân loại siêu hình các sự vật mà là tri thức giải
thích nguồn gốc, cấu trúc, bản chất và sự vận động của sự vật; là sự giải
thích các nguyên tắc, nguyên lí sản xuất ra sự vật đó. Nói ngắn gọn là tri thức
về sự phát triển nội dung đối tượng. Đây là loại tri thức hiện đại. Loại tri thức
này đang dần chiếm ưu thế trong nội dung dạy học. Cơ chế tâm lí hình thành
các khái niệm loại này khác với loại trên. Cụ thể, học viên phải thực hiện theo
các bước sau:
Bước 1: Phân tích vật mẫu (vật thật hoặc vật thay thế) để tách các bộ
phận của nó, phát hiện mối quan hệ giữa các bộ phận và sự biến đổi của các
bộ phận, các quan hệ đó - tức là phát hiện ra bản chất và chiều hướng phát
triển của sự vật.
Bước 2: Tái tạo lại sự vật theo đúng cấu trúc của nó với vật liệu mới,
dưới hình thức mới. Thực chất đây là quá trình mô hình hoá đối tượng học
tập. Trong quá trình này học viên không chỉ hiểu các bộ phận và quan hệ giữa
chúng của sự vật mà còn hiện thực hoá nó bằng sản phẩm cụ thể.
Bước 3: Triển khai mô hình ra các dạng khác nhau. Thực chất đây là
quá trình đưa tri thức đã hình thành vào trong hệ thống tri thức đã có và phát
triển nó trong các tình huống cụ thể.
Bước 4: Kiểm tra mô hình. Đây là quá trình so sánh, đối chiếu giữa mô
hình đã được hình thành và phát triển với vật mẫu ban đầu. Từ đó xác định
mức độ đúng đắn của các tri thức về đối tượng đã được hình thành.
Với loại tri thức này thì các PTTQ được dùng trong dạy học phải là trực
quan thay thế và phương pháp sử dụng là giáo viên không trình bày, giới
thiệu chúng, mà tổ chức cho học viên trực tiếp tiếp xúc và làm việc với
phương tiện thay thế đó để phân tích và xác lập các bộ phận, các quan hệ
giữa các bộ phận của đối tượng. Đồng thời hướng dẫn học viên tái tạo lại đối
tượng bằng một vật liệu mới – tức là tạo ra một PTTQ mới. Ở đây có một
nguyên tắc vàng trong dạy học hiện đại: Cách tốt nhất để học một đối tượng
là làm ra đối tượng đó. Một ví dụ đơn giản về hai cách sử dụng PTTQ cho hai
tình huống tri thức:
Bài toán: Dạy học viên khái niệm tam giác.
Tình huống 1: Định nghĩa: Tam giác là một phần mặt phẳng được giới
hạn bởi ba đoạn thẳng gấp khúc khép kín.
Cách sử dụng PTTQ: Giáo viên kẻ lên bảng các hình tam giác khác
nhau, dùng các vật dụng có hình tam giác cho học viên quan sát. Đề nghị học
viên quan sát và hướng dẫn cách rút ra nhận xét phục vụ cho việc khái quát
dấu hiệu chung: một phần mặt phẳng (điều này rất khó với học viên); có ba
đoạn thẳng được khép kín. Hướng dẫn học viên phát biểu định nghĩa.
Tình huống 2: Định nghĩa: Tam giác là một hình học phẳng được tạo
bởi ba đoạn thẳng gấp khúc khép kín.
Cách sử dụng PTTQ: Giáo viên giới thiệu cho học viên cách tạo ra một
hình tam giác bằng ba đoạn thẳng. Sau đó đề nghị các em tự tạo ra các hình
tam giác bằng vật liệu mình có (que tính, thước kẻ v.v). tháo ra, lắp lại, kéo
dài (thu nhỏ) hình tam giác đã có. Đề nghị học viên phát biểu hình đã làm và
cách tạo ra nó; nhận xét về dấu hiệu bản chất (được tạo thành bởi 3 đoạn
thẳng) và dấu hiệu không bản chất: vật liệu, màu sắc, kích thước v.v). Cuối
cùng, yêu cầu học viên dùng các vật liệu khác nhau để tạo ra hình tam giác từ
các hình tứ giác, ngũ giác v.v cho trước. Trong thực tiễn, với cách dạy theo
tình huống thứ nhất, nhiều học viên phát biểu được định nghĩa nhưng nếu
giáo viên chỉ cho các em quan sát một số hình tam giác có đường cao nằm
trong tam giác và hạ từ đỉnh ở phần trên thì khi gặp tình huống đường cao
nằm ngoài tam giác, thì các em sẽ gặp khó khăn. Hiện tượng này ít gặp trong
tình huống dạy học.
* Thứ hai: Cần phân biệt đối tượng học tập với đối tượng chú ý của học
viên khi sử dụng PTTQ. Trong thực tiễn thường xuất hiện hai tình huống
a) Đối tượng học tập của HV trùng với đối tượng chú ý của các em.
Tức là đối tượng cần hình thành ở học viên cũng là cái mà các em chú ý.
Trong trường hợp này đối tượng học tập được HV ý thức rõ hơn, nhờ đó,
chất lượng lĩnh hội tài liệu học tập của các em được cao hơn.
b) Đối tượng học tập không trùng với đối tượng chú ý của HV. Trong
trường hợp này học viên không hướng ý thức vào đối tượng học tập mà vào
đối tượng khác. Hậu quả là đối tượng học tập không những không được ý
thức mà còn bị lu mờ, bị lạc hướng. Trong những trường hợp như vậy, PTTQ
đã làm giảm hiệu quả dạy học. Hiện tượng tương tự như trên ta vẫn thường
gặp khá nhiều trong dạy học. Đặc biệt là đối với học viên nhỏ hoặc khi PTTQ
quá hấp dẫn về hình thức.
Khi dạy biểu tượng số 5, một GV đã công phu vẽ bức tranh có 5 chiếc
xe tăng rất đẹp cùng với các chú bộ đội. Khi đưa ra cho học viên xem, cả lớp
reo lên thích thú, nhiều em hét lên: cái này đẹp, cái kia xấu, cái này của tớ, bố
tớ là bộ đội lái xe tăng v.v. Trong trường hợp này đối tượng gây chú ý của các
em không phải là số lượng xe tăng, mà là chính bản thân những chiếc xe tăng
và các bộ phận của chúng. Ở đây, xe tăng và hình ảnh các chú bộ đội, đã
kích thích sự chú ý và trí tưởng tượng của HV, còn đối tượng học tập đích
thực (biểu tượng về số lượng) đã bị bỏ qua. Rõ ràng trong trường hợp này,
đối tượng học tập không những không được ý thức mà còn bị lu mờ, bị lạc
hướng và làm ảnh hưởng đến hiệu quả học tập.
– Các công trình nghiên cứu của Dương Diệu Hoa, Lê Tràng Định và
các cộng tác viên đã phát hiện ra ảnh hưởng không tốt của việc dùng quá
nhiều tranh minh hoạ (kênh hình) trong việc dạy trẻ em lớp 1 học đọc vần, âm
tiết mới.
10.2.4.2 Gợi ý một số biện pháp tổ chức cho học viên sử dụng PTTQ trong dạy học
Xu hướng chung của dạy học hiện đại là phương pháp dạy học tốt nhất
là phương pháp tổ chức cho học viên làm ra đối tượng học tập, qua đó hình
thành tri thức nguyên lí, nguyên tắc sản xuất ra đối tượng đó. Điều này liên
quan trực tiếp tới việc tổ chức cho học viên sử dụng PTTQ trong học tập.
Dưới đây xin gợi ý vắn tắt một số biện pháp của giáo viên khi thực hiện công
việc này. Ở mức khái quát nhất, quy trình tổ chức cho HV sử dụng PTTQ
trong giờ lên lớp bao gồm ba giai đoạn: chuẩn bị PTTQ và các điều kiện để
sử dụng chúng; tổ chức cho HV sử dụng các PTTQ trong giờ học; tổng kết
việc sử dụng PTTQ của học viên.
* Chuẩn bị PTTQ.
Một sự chuẩn bị tốt về PTTQ trong dạy học cần phải thực hiện ít nhất
bốn phần việc sau:
– Xác định mục tiêu, nội dung, tính chất của tài liệu giảng dạy. Câu hỏi
ở đây là: Mục tiêu và nội dung của bài dạy là gì? Dạy tri thức mới hay củng
cố, phát triển tri thức đã học. Nếu dạy tri thức mới, thì đó là loại tri thức gì:
khái niệm hình thức hay khái niệm nội dung đối tượng? Kĩ năng, kĩ xảo hành
động nào?
- Sử dụng PTTQ nào cho phù hợp với mục tiêu, nội dung và tính chất
của bài học? Để có quyết định này, GV cần tính đến mức độ hiện có của các
PTTQ trong điều kiện của nhà trường và chất lượng của chúng. Các PTTQ
được chọn ngoài việc đảm bảo các yêu cầu học tập cần phải thoả mãn yêu
cầu học viên dễ tìm kiếm, dễ làm, đảm bảo khi cần là sử dụng được ngay
(không hỏng hóc, trục trặc về thiết bị, phương tiện).
- Chuẩn bị về điều kiện để tổ chức tốt việc sử dụng PTTQ. Mỗi phương
tiện DH khi sử dụng cần có một môi trường và điều kiện nhất định. Không chỉ
là sự chuẩn bị về nguồn điện, ánh sáng, bàn ghế, địa điểm, thời gian mà còn
chuẩn bị về cả những hiểu biết và kĩ năng sử dụng các PTTQ trong dạy học
(nếu thấy cần thiết).
- Chuẩn bị về những tri thức, kĩ năng hướng dẫn của GV khi tổ chức
cho HV sử dụng các PTTQ. Đây là yếu tố quan trọng nhất và khó khăn nhất
khi tiến hành chuẩn bị PTTQ. Đặc biệt trong trường hợp hướng đến việc tổ
chức cho học viên làm ra đối tượng trực quan. Để sử dụng thành công PPTQ,
không những chỉ cần có PTTQ và những điều kiện sử dụng chúng, mà điều
quan trọng hơn, người GV cần phải hình dung được những thuận lợi và khó
khăn của HV khi các em sử dụng các PTTQ: hoạt động của HV với PTTQ
như thế nào và sản phẩm của hoạt động đó; những điểm chính (mốc quan
trọng) của việc sử dụng PTTQ mà HV cần phải thực hiện… Có hình dung ra
những hành động, khó khăn, sai sót mà HV có thể gặp phải trong sử dụng
PTTQ, người GV mới có thể hình thành và uốn nắn những hành động sử
dụng PTTQ, qua đó uốn nắn những hiểu biết và kĩ năng học tập của HV.
* Tổ chức cho học viên sử dụng các loại PTTQ
+ Đối với PTTQ thay thế
PTTQ thay thế thường được dùng trong việc dạy tri thức, kĩ năng mới.
Vì vậy, ít nhất học viên cần thực hiện các thao tác sau đây:
- Các thao tác phân tích PTTQ. Đây là các thao tác quan trọng nhất, có
tính chất cơ sở. Mục đích của phân tích là làm cho các bộ phận và quan hệ
giữa các bộ phận của đối tượng nhận thức được, bộc lộ một cách cảm tính
trước HV. Nhờ đó, các hình ảnh của đối tượng nhận thức không chỉ cho HV
biết được các dấu hiệu bề ngoài, tĩnh của đối tượng, mà còn cả những dấu
hiệu bên trong và các mối quan hệ giữa các bộ phận của nó. Vì vậy, yêu cầu
của các thao tác này là HV tiến hành phân tích triệt để đối tượng được ẩn
chứa trong PTTQ, xem xét nhiều mặt, luyện tập thành thạo để tạo ra hình ảnh
đầy đủ và ổn định về đối tượng.
– Các thao tác khái quát hoá sự phân tích để tạo ra mô hình chung về
đối tượng. Yêu cầu của các thao tác này là HV phải vượt ra khỏi các dấu hiệu
phụ, không bản chất của các PTTQ, khái quát được các dấu hiệu bản chất
của nó để tạo ra mô hình chung về đối tượng học tập với một vật liệu khác
(tạo ra mô hình mới). Hiệu quả của các thao tác mô hình hoá này, một mặt
tuỳ thuộc vào khả năng khái quát hoá, xác lập các dấu hiệu và mối quan hệ
bản chất của đối tượng, mặt khác, phụ thuộc nhiều vào các thao tác phân tích
trước đó của học viên.
- Các thao tác chuyển dịch mô hình đã được khái quát hoá vào trong
các dạng khác nhau, với các PTTQ khác. Thực chất của nhóm thao tác này là
phát triển mô hình chung về đối tượng đã được nhận thức, làm cho nó được
cụ thể trong các tình huống sinh động.
+ Đối với PTTQ dẫn
Ưu thế nổi trội của các PTTQ dẫn là có thể khôi phục các kinh nghiệm
đã có về đối tượng nhận thức, thông qua cơ chế liên tưởng giữa hình ảnh của
PTTQ dẫn với kinh nghiệm đó. Mặt khác, cũng bằng cơ chế liên tưởng, có thể
tạo ra mối liên hệ giữa hình ảnh của PTTQ với đối tượng cần chiếm lĩnh.
Trong cả hai trường hợp PTTQ dẫn đều đóng vai trò vật trung gian dẫn học
viên đến đối tượng nhận thức. Vì vậy để phát huy hiệu quả của loại phương
tiện này, HV cần thực hiện các thao tác sau:
– Các thao tác phân tích PTTQ
Mục tiêu và nội dung của thao tác này hoàn toàn giống thao tác phân
tích đối với PTTQ thay thế.
– Các thao tác liên kết
Mục tiêu của thao tác này là hình thành được các mối liên hệ giữa hình
ảnh cảm tính về PTTQ với các hình ảnh đã có trong kinh nghiệm về đối tượng
nhận thức, hoặc gợi ra đối tượng đó theo cơ chế liên tưởng (Xem Chương 2).
Để làm được việc này cần có sự giúp đỡ, gợi mở đắc lực của GV. Mặt khác,
yêu cầu HV phải có vốn kinh nghiệm khá phong phú về các sự vật và hiện
tượng của thế giới xung quanh.
Nội dung chủ yếu của việc làm này là HV tiến hành các thao tác liên kết
(lựa chọn, nối v.v) các hình ảnh của PTTQ với các hình ảnh của đối tượng đã
có, hoặc hình thành (khôi phục) hình ảnh về đối tượng nhận thức trên cơ sở
hình ảnh về PTTQ.
Trong suốt quá trình hướng dẫn HV thao tác trên PTTQ thay thế hay
PTTQ dẫn, GV đều phải tuân theo logic:
– GV làm mẫu việc sử dụng PTTQ.
- Hướng dẫn HV làm theo mẫu của GV.
- Kiểm tra, đánh giá việc sử dụng PTTQ của HV.
* Điều chỉnh (can thiệp) kịp thời ở các mức độ khác nhau vào việc sử dụng PTTQ của HV.
Khi phát hiện ra khó khăn và sai sót của HV trong quá trình sử dụng
PTTQ. Mức độ điều chỉnh (can thiệp) của GV phụ thuộc vào khả năng tiến
hành sử dụng PTTQ của các em quyết định. Sự can thiệp của GV có thể ở
các mức độ khác nhau như: tạo điều kiện, nhắc nhở, giúp đỡ, hướng dẫn,
làm mẫu…
* Tổng kết việc sử dụng PTTQ
Khi HV thực hiện xong các yêu cầu của GV về sử dụng PTTQ, GV cần
tổng kết việc học tập cho các em. Ở bước này, giáo viên cần khẳng định các
kết quả mà các em đã đạt được; đưa ra những ý kiến phản hồi về các kết quả
học tập của các em; gắn kết quả học tập với tương lai, rút kinh nghiệm để tổ
chức sử dụng PTTQ lần sau được tốt hơn. Khi tổng kết, giáo viên cần:
- Tóm tắt việc sử dụng các PTTQ của HV bằng cách nêu bật các điểm
chính của việc sử dụng.
– Cô đặc nội dung tri thức và kĩ năng giúp HV dễ nhớ.
– Cho HV biết những kết quả mà các em đã thành công và đưa ra các
hoạt động học tập nối tiếp. Hoạt động học tập nối tiếp này sẽ đưa người học
tiến bộ không ngừng trên con đường học tập mới. Đây cũng là thời điểm kết
thúc một quy trình dạy học có sử dụng PTTQ.
- Rút kinh nghiệm về sử dụng phương tiện TQ, định hướng cho hoạt
động tiếp nối.
10.3. GỢI Ý KỸ THUẬT SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN HỖ TRỢ TRONG DẠY HỌC
Các phương tiện hỗ trợ rất đa dạng. Tuy nhiên, trong đó có một số khá
thông dụng với nhiều loại hình dạy học. Dưới đây là gợi ý kĩ thuật sử dụng
chúng.
10.3.1. Kĩ thuật sử dụng các loại bảng viết
Bảng viết là một trong những phương tiện truyền thống, lâu đời nhất
trong dạy học. Hiện nay trong các trường đang sử dụng phổ biến loại bảng
viết treo tường (bảng đen, bảng phoocmica v.v.), bảng giấy lật, bảng ghim,
trong đó bảng treo tường phổ biến hơn. Hai loại bảng sau là sự cải tiến của
bảng treo tường, cách sử dụng chúng đơn giản, cơ động và hiệu quả hơn. Vì
vậy, nếu biết cách sử dụng bảng treo tường sẽ sử dụng được hai loại bảng
kia.
Một số gợi ý về kĩ thuật viết và trình bày bảng.
Cỡ chữ đủ lớn và đủ đậm để mọi học viên đều thấy rõ.
Viết thẳng hàng. Đây là điều tưởng chừng đơn giản nhưng rất khó, nhất
là đối với bảng phoocmica. Nếu không thẳng hàng dễ làm mất thiện cảm ở
học viên.
Nên chia bảng thành các phần: Phần đầu viết các đề mục, phần giữa
trình bày các nội dung chính, phần còn lại viết các ví dụ, các ý phân tích hoặc
dành cho học viên. Độ lớn từng phần tuỳ thuộc vào dung lượng bài dạy và độ
lớn của bảng.
Tối kị vừa viết vừa nói trong tư thế úp mặt vào bảng.
Viết từ trái qua phải và nên đứng nghiêng người về phía tay phải khi
viết, để không che lấp chữ đã viết.
Dùng phấn màu hoặc các hình thức kí hiệu khác để nhấn mạnh ý trọng
tâm cần ghi nhớ. Nhưng không quá nhiều màu hoặc quá nhiều kí hiệu làm
bảng bị rối.
Những ý không cơ bản hoặc những phần đã được giải thích xong nên
xoá ngay, chỉ giữ lại dàn bài và ý chính, nếu độ lớn của bảng cho phép. Khi
bài giảng kết thúc, xoá ngay cả bài.
Không dành quá nhiều thời gian cho việc viết, vẽ hình trên bảng. Nên
dành một lượng thời gian thích đáng để học viên có cơ hội trình bày trên
bảng.
Không nên có phản ứng tiêu cực khi học viên phát hiện mình viết, vẽ
sai. Hãy cảm ơn, xin lỗi và chữa ngay.
Bảng đen, phấn trắng là biểu tượng nghề dạy học. Vì vậy, kĩ năng trình
bày bảng là một trong những kĩ năng nghiệp vụ cơ bản của nghề dạy học.
Thông qua cách trình bày bảng có thể đánh giá được trình độ kĩ thuật và nghệ
thuật dạy học của giáo viên.
10.3.2. Cách sử dụng các bảng (biểu) treo tường
Bảng treo tường là các bảng, biểu đồ đơn giản có thể được trưng bày
trên các bức tường của lớp học. Mục đích là để thông báo hoặc chỉ dẫn một
vấn đề nhất định. Ưu điểm của bảng treo tường là có thể chuẩn bị trước;
không đòi hỏi các thiết bị phức tạp; dễ làm, dễ bảo quản và dùng được nhiều
lần. Ngoài ra có thể làm cho phòng học trở nên sinh động.
1. Một số điểm lưu ý khi dùng bảng treo tường.
2. Dùng bảng, biểu đơn giản. Để lại nhiều khoảng trống trong bảng.
3. Không trình bày nhiều nội dung vào một bảng.
4. Làm nổi bật các điểm quan trọng.
5. Đặt tiêu đề của bảng tư liệu ở phía trên, tiêu đề của biểu đồ, đồ thị ở
phía dưới bảng.
6. Dùng chữ in và chữ thường để mọi người dễ đọc.
7. Để học viên chủ động sản xuất ra các bảng và chọn vị trí treo.
8. Kiểm tra kĩ trước khi mang bảng ra sử dụng.
9. Cất giữ bảng bằng cách thích hợp.
10. Không dùng quá nhiều bảng trong phòng học.
Một biểu, bảng treo tường được chuẩn bị cẩn thận là một chỉ dẫn thuận
tiện. Nó sử dụng nhiều lần, yêu cầu các vật liệu đơn giản và sử dụng dễ
dàng.
10.3.3. Kĩ thuật sử dụng máy chiếu Overhead
Có thời kì máy chiếu Overhead rất được ưa chuộng và thịnh hành, vì
nó khắc phục được những hạn chế của việc dùng bảng viết. Ngày nay, máy
chiếu Overhead vẫn được sử dụng phổ biến cho các lớp học có quy mô vừa
và trong các khoá bồi dưỡng, tập huấn, hội thảo, hội nghị khoa học v.v. Khi
sử dụng máy chiếu Overhead hỗ trợ cho hoạt động dạy học, giáo viên cần lưu
ý một số điểm sau:
1. Chọn vị trí đặt máy chiếu cho phù hợp với phòng học và nguồn điện.
2. Chuẩn bị các tờ giấy trong và xếp theo thứ tự sẽ sử dụng. Nên kẹp
giữa hai tờ giấy trong một tờ giấy trắng để không bị dính, làm nhoè chữ hay
hình vẽ.
3. Chuẩn bị các loại bút dạ. Bút không xoá để vẽ, viết các chữ, hình cố
định. Bút xoá để vẽ, viết những chữ, hình bình thường.
4. Rà soát toàn bộ trình tự giấy trong và kịch bản chiếu.
5. Điều chỉnh tầm chiếu thích hợp với chiều cao chỗ ngồi của học viên
để đảm bảo ai cũng có thể nhìn rõ.
6. Đánh dấu vào những tờ giấy trong phải dùng nhiều lần cho dễ tìm.
7. Trong khi chiếu cần bao quát lớp để đảm bảo không bỏ sót học viên
nào chưa nhìn rõ tài liệu.
8. Không nên chuyển toàn bộ bài giảng vào giấy trong, chỉ nên vẽ, viết
những điểm thiết yếu. Có nhiều thông tin gợi mở để thu hút học viên vào bài
học.
9. Kết hợp giải thích và thảo luận theo từng nội dung được chiếu. Khi
thảo luận nên tắt máy.
10. Cần đảm bảo máy chiếu, bản trong không làm học viên trở nên thụ
động hơn, ít hào hứng hơn trong học tập.
10.3.4. Các phương tiện hỗ trợ bảng máy tính, băng hình v.v…
Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đã làm xuất hiện
trong dạy học nhiều khái niệm mới: giảng dạy có sự trợ giúp của máy tính,
giáo án điện tử; giảng dạy đa phương tiện (Multimedia Projector); trình bày
bài giảng với sự trợ giúp của máy tính bằng powerpoint v.v. Nhờ sự trợ giúp
của công nghệ thông tin và máy tính, chúng ta có thể học ở mọi nơi, mọi lúc.
* Một số quy tắc sử dụng băng hình, TV
1. Lựa chọn chương trình, giờ phát sóng, băng đĩa có nội dung thích
hợp.
2. Bố trí địa điểm xem băng hợp lí, máy hình không để quá gần hoặc
quá xa học viên, sao cho mọi học viên đều có thể xem chi tiết và nghe rõ âm
thanh.
3. Thử máy và xem lại tài liệu trước khi sử dụng. Tập dượt và thao tác
thử với các hệ thống điều khiển cho thành thạo.
4. Giới thiệu tóm tắt chủ đề tài liệu; nên nêu các yêu cầu, câu hỏi;
hướng dẫn học viên theo dõi chương trình. Có thể trình bày trước những vấn
đề này ra tờ giấy nhỏ và phát cho học viên.
5. Tránh dùng các chương trình “nhại lại” nội dung giờ học.
6. Tránh dừng lại để giải thích các chủ đề trước, trong khi máy vẫn
đang chạy chương trình.
7. Thời lượng chương trình không quá dài, dành nhiều thời gian cho
thảo luận.
Ngày nay các phương tiện hiện đại đã hỗ trợ rất đắc lực cho dạy học.
Vì vậy, giáo viên và học viên cần khai thác tốt các phương tiện này. Tuy
nhiên, nên lưu ý, tự các phương tiện đó không phải là nội dung dạy học. Đồng
thời cũng cần phải nhấn mạnh lại: Các phương tiện kĩ thuật hiện đại phải đảm
bảo không làm học viên trở nên thụ động hơn, ít hào hứng hơn trong học tập.
Chương 11. CÁC PHƯƠNG PHÁP KÍCH THÍCH ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN
Bất kì giáo viên nào cũng phải thường xuyên đối mặt với thực tế: trong
một lớp học, nhiều học viên tự giác, say mê học tập, nhưng cũng không ít
người coi việc học là bắt buộc, miễn cưỡng và tìm cách thoái thác, nếu có
điều kiện. Tất cả những điều đó liên quan trực tiếp tới lĩnh vực quan trọng
nhất trong dạy học: động cơ học tập của học viên. Chương này không tìm
cách chứng minh tầm quan trọng của động cơ học tập bởi lẽ đây là sự thật
hiển nhiên, mà cố gắng đưa ra câu trả lời động cơ học tập là gì? Các nguồn
tạo ra nó? Giáo viên có thể làm gì để kích thích động cơ học tập của học
viên?
11.1. ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN11.1.1. Khái niệm
Chuyện kể rằng: Cuối thế kỉ XIX, ông bà Pie Quyri và Mari Quyri phỏng
đoán: Trong quặng Pêchblen có một nguyên tố có tính phóng xạ rất cao mà
chưa ai biết. Hai người đặt tên cho nó là Rađi và bắt đầu công cuộc tìm kiếm
nó. Sau bốn năm liền ròng rã, trong một nhà xe tồi tàn, Pie làm các thí nghiệm
tinh vi, còn Mari thì khoác tấm tạp dề cũ kĩ, đứng hàng giờ quấy các hoá chất
đang sôi trong chảo gang, rồi đổ vào các lọ to tướng. Hàng núi quặng được
nấu chảy như vậy và từ đó hai ông bà chiết ra được 0.1g Rađi. Cái gì đã
khiến hai nhà Bác học vĩ đại lao động cực nhọc với sự say mê không giới
hạn? Chính là nguyên tố Rađi có trong thực tế, mà lúc đó mới xuất hiện trong
biểu tượng của hai người.
Rõ ràng là chất Rađi phải có sức mạnh lạ kì, hấp dẫn những con người
ưu tú đến với nó. Nguyên tố Rađi chính là hiện thân của động cơ hấp dẫn cá
nhân hoạt động. Vậy động cơ là gì?
Có không ít người giải thích động cơ có thể là xung năng, nhu cầu, sự
sợ hãi, mục tiêu, sức ép, sự tự tin, quan tâm, ham hiểu biết, niềm tin, giá trị, kì
vọng, sự khích lệ v.v…, tức là những dấu hiệu nhân cách và đặc điểm cá
nhân. Một số khác xem động cơ như một trạng thái, một tình huống hiện thời.
Chẳng hạn, học viên đang đọc một đoạn văn để làm bài kiểm tra vào ngày
mai, do bị thúc đẩy bởi tình huống đó (ít nhất là hiện tại). Các cách giải thích
như vậy đều đúng nhưng chưa triệt để. Câu chuyện trên và mọi trường hợp
khác trong cuộc sống cho thấy không đơn thuần như thế. Những cái có khả
năng khuyến khích, kích thích và duy trì hoạt động của cá nhân đều ở bên
ngoài và hấp dẫn cá nhân đến với nó. Vì vậy, nguồn gốc thực sự của động cơ
không phải ở bên trong mà ở bên ngoài cá nhân, hoá thân vào sự vật là đối
tượng mà cá nhân đó phải chiếm lĩnh. Nói đầy đủ, động cơ chính là sức hấp
dẫn, lôi cuốn của đối tượng mà cá nhân nhận thấy cần chiếm lĩnh để thoả
mãn nhu cầu hay mong muốn của mình. Sức hấp dẫn, lôi cuốn của đối tượng
càng lớn thì động cơ thúc đẩy hành động càng lớn. Khác với động cơ trong kĩ
thuật hay năng lượng sinh học đơn thuần, động cơ tâm lí luôn luôn là véc tơ,
được xuất phát từ đối tượng và hướng về phía cá nhân. Cá nhân cảm nhận
và vươn tới nó.
Vậy động cơ học tập là gì? động cơ học tập của học viên là cái mà việc
học của họ phải đạt được để thoả mãn nhu cầu của mình. Nói ngắn gọn, học
viên học vì cái gì, thì cái đó chính là động cơ học tập của họ? Nếu một cháu
bé đi học đơn thuần chỉ vì được mẹ thưởng cái áo mới, thì cái áo mới là động
cơ học tập của cháu bé. Một học viên say mê giải toán, thì không cái gì khác
ngoài chính thử thách của bài toán và cảm xúc của sự vượt qua thử thách
(thành công trong lời giải) là động cơ hấp dẫn em. Còn khi một học viên phải
miễn cưỡng đi học do bị đe doạ bởi sự trừng phạt của bố, mẹ, thì chính sự
trừng phạt đó đã tạo ra sức mạnh, buộc em phải đến trường. Cũng giống như
mọi động cơ tâm lí khác, sức mạnh của động cơ học tập tuỳ thuộc vào giá trị
và sức mạnh của đối tượng đối với học viên. Với cháu bé đi học vì phần
thưởng, nếu phần thưởng kém giá trị (cái áo mới không hấp dẫn chẳng hạn),
thì việc học diễn ra không tích cực; nếu em học viên học vì thử thách của các
bài toán thì với những bài toán dễ, ít cần sự thử thách trí tuệ sẽ không lôi
cuốn em; còn nếu một cháu bé đi học dưới áp lực của sự trừng phạt, thì sẽ
nghỉ học, nếu người cha chỉ doạ nhiều lần, mà không có trừng phạt thực.
Như vậy, để có động cơ nói chung, động cơ học tập nói riêng, trước hết
phải có đối tượng ở bên ngoài chủ thể, có giá trị đối với chủ thể và làm nảy
sinh ở chủ thể nhu cầu cần chiếm lĩnh nó. Khi nhu cầu sự chiếm lĩnh đối
tượng đó được cá nhân ý thức sẽ trở thành động cơ thúc đẩy, định hướng và
duy trì hành động. Động cơ luôn gắn với nhu cầu, mong muốn của cá nhân.
Nói khác đi, nhu cầu, mong muốn là những yếu tố bên trong quan trọng nhất
để hình thành động cơ.
11.1.2. Các loại động cơ học tập
Có nhiều cách phân loại động cơ học tập. Dưới đây là hai cách phân
loại có ứng dụng phổ biến trong dạy học.
* Động cơ bên trong và động cơ bên ngoài.
Việc phân chia động cơ trong và động cơ ngoài được căn cứ vào
nguồn gốc tạo nên sức mạnh của động cơ. Những động cơ bắt nguồn từ nhu
cầu, ham hiểu biết, niềm tin hay sự quan tâm v.v của cá nhân đến đối tượng
đích thực của học tập, được gọi là động cơ trong. Khi được thúc đẩy từ bên
trong, học viên ít cần đến sự khuyến khích hay trừng phạt, bởi vì chính hoạt
động là một phần thưởng cao quý. Trái lại, khi học viên làm một cái gì đó để
có thể được thưởng hay để tránh sự trừng phạt, làm hài lòng giáo viên hay vì
lí do khác, thì động cơ đó là động cơ ngoài. Khi hoạt động được thúc đẩy bởi
động cơ ngoài, thì học viên không quan tâm đến bản thân hoạt động đó, mà
chỉ quan tâm qua hoạt động đó ta sẽ được cái gì? được bằng cấp phần
thưởng hay tránh được sự trừng phạt nào đó v.v…
Việc phân biệt động cơ trong và động cơ ngoài cho thấy, nếu chỉ đánh
giá hành động của một người qua các hành vi bên ngoài thì chưa đủ, mà cần
phải đi tìm nguyên nhân tâm lí bên trong: được thúc đẩy bởi động cơ bên
trong hay động cơ bên ngoài để có cách ứng xử phù hợp.
Trong nhà trường, cả động cơ bên trong và động cơ bên ngoài đều rất
quan trọng. Dạy học có thể tạo ra những động cơ bên trong bằng cách kích
thích tính ham hiểu biết của học viên và giúp cho học viên cảm thấy đó là do
tự mình tạo nên. Nhưng điều này không phải lúc nào cũng xảy ra. Nếu giáo
viên luôn luôn trông đợi ở động cơ bên trong để hi vọng làm cho học viên
thường xuyên hăng hái, họ sẽ bị thất vọng. Có những tình huống cần sự động
viên, khích lệ từ bên ngoài. Giáo viên cần khuyến khích và nuôi dưỡng những
động cơ bên trong, đồng thời đảm bảo những động cơ bên ngoài củng cố
được việc học tập. Để làm được điều này giáo viên cần biết những yếu tố tạo
thành động cơ hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ.
* Động cơ tạo ý và động cơ không tạo ý (động cơ kích thích). Nếu căn
cứ vào sức mạnh tiềm năng và hiện thực của động cơ, thì có thể chia động
cơ học tập của người học thành hai mức độ: động cơ chỉ được ý thức và
động cơ có tác dụng thực tế. Trong động cơ chỉ được ý thức, sức mạnh kích
thích của nó còn ở dạng tiềm tàng (tiềm năng). Muốn hiện thực hoá sức mạnh
đó, phải chuyển thành động cơ có tác dụng thực tế. Nếu dựa vào ý nghĩa các
chức năng kích thích của động cơ, ta có hai loại động cơ học tập: động cơ tạo
ý và động cơ không tạo ý. Động cơ tạo ý chính là đối tượng đích thực của
hoạt động học tập, vì sau khi hoạt động học kết thúc, chủ thể thoả mãn được
nhu cầu về đối tượng học (chẳng hạn, chiếm lĩnh được tri thức khoa học, kĩ
năng, kĩ xảo tương ứng). Động cơ không tạo ý là động cơ thoả mãn các nhu
cầu không nằm trong đối tượng học, mà bám theo đối tượng đó và khi kết
thúc việc học, nhu cầu đi theo đó được thoả mãn (chẳng hạn học để được
khen, hoặc để không bị trách phạt hay vì động cơ khác). Trong trường hợp
này, việc học không phải là hoạt động, mà là hành động học, nó có mục đích
phục vụ cho hoạt động khác, thoả mãn nhu cầu khác (Xem Chương II). Trong
dạy học, nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo viên là hình thành động cơ tạo ý
cho người học và chuyển nó lên mức động cơ có tác dụng thực tế. A. N.
Leonchev cho rằng nghệ thuật giáo dục nói chung là sự kết hợp đúng đắn
động cơ được ý thức với động cơ tác động thực tế, đồng thời biết gán ý nghĩa
cao hơn cho kết quả hành động thành công, để từ đó đảm bảo chuyển sang
kiểu động cơ thực sự cao hơn – động cơ tạo ý có tác dụng thực tế. Để làm
được việc này giáo viên phải đưa người học vào trong các tình huống học tập
xác định. Có hai loại tình huống học tập: tình huống học tập tự giác có mục
đích, được kích thích bởi động cơ tạo ý; tình huống học tập cưỡng bức có
mục đích, được kích thích bởi động cơ không tạo ý. Trong tình huống thứ
nhất người học không có sự đấu tranh giữa các động cơ, chỉ phải khắc phục
khó khăn do việc học gây ra (nội dung học khó, phương pháp dạy của giáo
viên không hấp dẫn), còn trong tình huống thứ hai thường có sự đấu tranh
giữa các động cơ (giữa việc học với phần thưởng, làm bài tập hay đá bóng
v.v). Nhiều khi việc đấu tranh các động cơ này phức tạp đến mức người học
có các hành vi tiêu cực như lười học, bỏ học, nói dối v. v. Tuy nhiên, do động
cơ không tạo ý thoả mãn được các nhu cầu có tính cá thể nên tình huống học
tập cưỡng bức có mục đích rất hấp dẫn trẻ em các lớp dưới (bậc tiểu học). Vì
vậy, trong dạy học (nhất là dạy các lớp học sinh nhỏ), nên quan tâm đúng
mức đến loại động cơ này, thậm chí nên bắt đầu từ hoàn cảnh cưỡng bức có
mục đích. Vấn đề quan trọng là ở chỗ, sau đó cần chuyển từ hoàn cảnh học
tập này sang hoàn cảnh tự giác có mục đích. Lôgic ở đây là: Đầu tiên đưa
người học vào tình huống học tập cưỡng bức có mục đích 1 củng cố và mở
rộng ý nghĩa của kết quả học tập đạt được 1 hình thành ý thức của học viên
về nhu cầu tạo ý trong học tập 1 chuyển sang tình huống học tập tự giác có
mục đích 1 hình thành động cơ tạo ý ở mức được chủ thể ý thức 1 chuyển lên
mức động cơ tác động thực tế. Khi đã có loại động cơ này, người học đã hình
thành hoạt động học tập.
Tình huống thường gặp:
Một học sinh ham chơi đá bóng và lười học bài ở nhà. Người mẹ có
hiểu biết thường không ngăn cản con chơi bóng, nhưng “ra điều kiện” với
con: mẹ thấy đá bóng là tốt và việc học cũng quan trọng. Vì vậy, mẹ sẽ đồng
ý cho con đi đá bóng nếu con làm hết số bài tập cô giáo giao về nhà. Tất
nhiên, vì để được chơi bóng (hoạt động – thoả mãn nhu cầu đá bóng), em
học sinh chấp nhận đề nghị của mẹ và làm bài tập (hành động học – mục đích
là phương tiện để thực hiện động cơ đá bóng). Khi con làm xong bài tập, bà
mẹ cho đi đá bóng và không quên khen ngợi việc làm bài của em. Những
ngày sau đó, người mẹ kết hợp với cô giáo tăng cường khen ngợi thành tích
làm bài của con, gieo vào tâm hồn em niềm vui của thành tích học tập. Bằng
cách đó, người mẹ và cô giáo đã dần dần hình thành và phát triển hoạt động
học của em. Kết quả em trở lên chăm chỉ và ham mê học bài.
11.2. CÁC YẾU TỐ TÂM LÍ BÊN TRONG ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP TỚI ĐỘNG CƠ HỌC TẬP
Có rất nhiều yếu tố tâm lí bên trong ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình
thành và phát triển động cơ học tập của học viên. Dưới đây ta sẽ khảo sát
một số trong đó và các biện pháp tương ứng.
11..2.1. Nhu cầu và nhu cầu học tập của con người
Mọi việc làm dù tốt đẹp hay xấu xa đều nhằm thoả mãn nhu cầu nào
đó. Trong học tập cũng vậy, trẻ em hay người lớn không đi học chỉ vì học mà
bao giờ cũng vì nhu cầu nào đó. Vậy nhu cầu là gì? Cá nhân đi học vì nhu
cầu nào? Đây thực sự là những vấn đề phức tạp và có nhiều quan niệm khác
nhau.
A. Maslow (1908– 1970) một nhà tâm lí học lớn người Mĩ đã phát hiện
ra các nhu cầu có tính phổ quát của con người trong hoạt động cũng như
trong cả cuộc đời. Theo ông, mỗi cá nhân có năm loại nhu cầu chủ yếu: nhu
cầu vật chất, gắn với các yếu tố sinh lí như đói, khát, rét, v,v; nhu cầu được
an toàn: không muốn bị đau đớn, tổn thương, được bảo vệ và ổn định v.v;
nhu cầu quan hệ, giao tiếp: được cho và nhận những tình cảm yêu thương
v.v; nhu cầu được tôn trọng: sự tự trọng và được tôn trọng: khao khát thành
công, có sức mạnh và niềm tin; có khả năng tự giải quyết các công việc của
mình, khao khát được nhìn nhận, được đánh giá, có danh tiếng, vị thế và
phẩm giá; nhu cầu tự khẳng định, tự thoả mãn: muốn hiện thực hoá các tiềm
năng của mình, phát triển bản thân bằng cách theo đuổi những lí tưởng của
mình, khả năng tự bộc lộ, sáng tạo; tìm kiếm bản sắc và ý nghĩa trong cuộc
sống v.v. Những nhu cầu này được cấu trúc theo hình bậc thang, các nhu cầu
ở phía dưới là phổ biến và quan trọng nhất. Các nhu cầu càng ở phía trên
cao chỉ bộc lộ khi những nhu cầu ở phía dưới được thoả mãn tương đối. Vai
trò của các nhu cầu này đối với sự phát triển đời sống tâm hồn con người
giống như Vitamin đối với cơ thể. Nếu không có chúng, cơ thể sẽ trở nên ốm
yếu, bệnh tật.Theo Maslow, nếu chúng ta cảm thấy thiếu nhu cầu nào trong
số này, thì hậu quả thường dẫn đến các hành vi “có vấn đề”. Ngược lại nếu
được thoả mãn sẽ có những hành vi thể hiện sự lành mạnh của tâm hồn.
Nguyên lí chung ở đây là nhu cầu ở phía dưới được thoả mãn sẽ là cơ sở để
tạo ra nhu cầu ở bậc cao hơn.
Lí thuyết của Maslow bị phê phán bởi lí do cho rằng, con người không
phải lúc nào cũng thể hiện cách cư xử như lí thuyết dự đoán. Hầu hết chúng
ta có thể thay đổi giữa các loại nhu cầu và có thể được thúc đẩy bởi nhiều
nhu cầu khác nhau cùng một lúc. Một số người đã phủ nhận sự an toàn của
chính mình để có thể tiếp thu được kiến thức, sự hiểu biết và lòng tự trọng
cao hơn. Thực ra không hẳn như vậy, A. Maslow coi những nhu cầu thể chất,
cảm xúc và trí tuệ của họ đều có tác động qua lại lẫn nhau và điều này có một
ý nghĩa to lớn cho giáo dục. Một học sinh đến trường với cái đói, ốm đau sẽ
khó có động lực tìm kiếm kiến thức. Khi cảm giác an toàn và tình cảm của
một đứa trẻ đang bị đe doạ bởi sự ly hôn của cha mẹ thì thật khó quan tâm
đến học tập và bị phân tán tư tưởng rất lớn. Nếu lớp học ở một nơi đầy đe
doạ và học viên ít biết được mình đang ở đâu, thì họ sẽ quan tâm đến an toàn
của mình hơn là đến học tập. Hệ thống thứ bậc của A. Maslow có thể cung
cấp nhiều hiểu biết sâu sắc khác về hành vi của học viên. Nhu cầu bậc thấp
của học viên đôi khi xung đột với mong muốn của giáo viên là phải đạt được
những mục tiêu cao hơn. Sự tôn trọng, yêu mến bạn và mong muốn được
đánh giá cao trong nhóm là điều rất quan trọng đối với học viên. Nếu những
yêu cầu của giáo viên xung đột với các quy tắc này, học viên có thể lờ đi thậm
chí không nghe lời của giáo viên đó. Khi người học thành công trong học tập
và thường nhận được phần thưởng tương xứng sẽ nảy sinh nhu cầu cao hơn
như muốn được tôn trọng, được đánh giá, thông qua việc sẵn sàng nhận giúp
đỡ người khác học tập. Nói cách khác, nếu hai nhu cầu ở phía dưới được
thoả mãn thì có thể tạo ra động cơ cho người học thông qua các kích thích để
thúc đẩy nhu cầu được các bạn trong lớp hay giáo viên tôn trọng, hoặc được
bày tỏ chính kiến, cá tính và sáng tạo của mình. Theo Maslow, chỉ có một
cách duy nhất để động viên người học là duy trì các nhu cầu được tôn trọng
và nhu cầu tự thoả mãn trong suốt thời gian học.
Như vậy hệ thống thứ bậc nhu cầu của A.Maslow, tuy còn có vấn đề
cần bàn luận, nhưng nó cung cấp cho giáo viên nhiều gợi ý có giá trị để hiểu
học viên trong học tập:
Thứ nhất: Có một hệ thống thứ bậc nhu cầu thúc đẩy việc học của học
viên.
Thứ hai: tại những thời điểm nhất định trong quá trình học tập của mỗi
cá nhân xuất hiện một nhu cầu nổi trội, quy định và thúc đẩy việc học của cá
nhân đó. Việc xuất hiện, chiếm ưu thế và trở thành động cơ thúc đẩy việc học
của nhu cầu nổi trội thường là do các nhu cầu trước nó được thoả mãn một
cách tương đối. Nói cách khác, có sự chuyển hoá các nhu cầu học tập của
người học, theo hướng những nhu cầu phía dưới được thoả mãn sẽ là điều
kiện để nhu cầu học tập cao hơn xuất hiện và thúc đẩy việc học. Thứ ba:
Trong thực tiễn, việc phát hiện nhu cầu học tập nổi trội và chiếm ưu thế tại
một thời điểm nhất định của học viên và có biện pháp đáp ứng nhu cầu đó là
điều kiện quan trọng của dạy học. Nói cách khác, nghệ thuật dạy học là nghệ
thuật phát hiện và kích thích nhu cầu học tập của học viên tại những thời
điểm khác nhau.
Từ hệ thống thứ bậc nhu cầu của A. Maslow có thể gợi ra vấn đề: Học
viên đi học vì nhu cầu nào?
+ Thứ nhất: Học viên đi học vì thấy có lợi cho mình.
Việc đi học, dù là của người lớn hay của trẻ em, trước hết nhằm đáp
ứng một lợi ích nào đó. Người lớn đi học vì một lợi ích trong hệ thống giá trị
của mình: cần thêm kiến thức và kĩ năng chuyên môn, để đảm bảo an toàn về
nghề nghiệp, vì quan hệ xã hội v.v. Trẻ em đi học cũng vì mong muốn được
cha mẹ thưởng, được gặp thầy cô giáo, bạn bè; được thoả mãn nhu cầu hiểu
biết v.v…
+ Thứ hai: Nếu đạt tới trình độ học vấn nhất định trong lĩnh vực mình
đang học sẽ có lợi cho mình. Đây là mục tiêu dài hạn đối với người học. Đối
với các em học sinh nhỏ: mục tiêu này thường gắn liền với những lời khuyên
hàng ngày của cha mẹ, thầy cô giáo và người thân. Những tấm gương người
thành đạt gắn với học vấn cao thường xuyên được nhắc tới. Người lớn cũng
vậy, nhiều người đi học không phải để thoả mãn lợi ích trước mắt mà để
mong đạt được trình độ cao hơn trong một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó; để
tiếp tục được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình.
+ Thứ ba. Đi học vì nhận thấy sự thành đạt trong sự nghiệp và ngay
trong học tập, sự thành đạt làm tăng sự tự trọng của họ. Đây là động cơ
tương đối mạnh và có ở hầu hết học viên (kể cả những học viên mà động cơ
của họ không rõ ràng).
“Bản chất con người” là làm một cách thích thú những gì người ta giỏi
và không thích làm những gì người ta kém. Một người nấu ăn ngon được mọi
người tán thưởng thì thường xuyên có xu hướng thích thú và hay nấu các
món ăn cao cấp hơn. Ngược lại, nếu ai đó lần đầu nấu ăn đã làm cháy chảo,
rồi liên tục nấu ra các món ăn không thể nuốt nổi thì thường tìm cách tránh
nấu ăn nếu có điều kiện. Trong học tập cũng vậy, một học viên hoàn thành tốt
công việc do giáo viên giao thường có xu hướng tích cực thực hiện những
việc được giao tiếp. Ngược lại, nếu thường xuyên không đạt kết quả như
mong muốn trong học tập môn nào đó thì có xu hướng sợ môn học đó.
Nhiều người trong chúng ta khi việc học thành công và có hiệu quả rõ
ràng thì lòng tự trọng của chúng ta sẽ tăng lên. Nó đem lại cho ta cảm giác về
sự thành đạt. Vì vậy, người học sẽ trở lên chăm chỉ hơn nếu thường xuyên
được củng cố những kết quả bởi các phần thưởng (tinh thần và vật chất),
hướng đến duy trì những cảm giác thành đạt đó. Phương châm ở đây là
không có gì thành công bằng chính thành công. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để duy trì sự củng cố đó? Ở đây người dạy cần lưu ý đến chu kì:
Mục tiêu học tập à Thành công à Củng cố à Mục tiêu mới à Thành
đạt à …..
Trong dạy học, việc củng cố có thể được thực hiện sau khi kết thúc quá
trình học tập (củng cố sau), cũng có thể được thực hiện ngay sau khi một
thành công nhất định (thưởng ngay sau khi có kết quả học tập). Tuy nhiên,
việc củng cố kịp thời thường đem lại hiệu quả cao hơn so với củng cố không
kịp thời.
+ Thứ tư: Ý thức về sự được khẳng định, được chấp nhận của bạn bè
nếu mình học tốt.
Điều này gắn với lòng tự trọng. Ngay cả đối với học viên không thích
thú với việc học hành, thì họ vẫn cố gắng để bằng các học viên khác, nhằm
tránh bị đánh giá về thái độ học tập của mình.
+ Thứ năm: Ý thức về hậu quả của việc không học sẽ bị thiệt thòi hoặc
bị gây khó chịu.
Nhiều người đi học không phải vì nhu cầu kiến thức, kĩ năng hoặc vì sự
thiếu hụt chúng trong kinh nghiệm, mà đơn giản là vì tránh bị gây khó chịu.
+ Thứ sáu: Ý thức về sự hấp dẫn, lí thú và lôi cuốn của việc học.
Học tập có thể đem lại cho người ta nhiều niềm vui về sự hiểu biết thế
giới tự nhiên, xã hội v.v. Kích thích tính tò mò của người học có thể là động
cơ mạnh thúc đẩy việc học của người lớn. Ở đây phương châm: “Biết mà học
không bằng vui mà học” của Khổng Tử rất có ý nghĩa. Điều này phụ thuộc
nhiều vào việc tổ chức dạy học của giáo viên nhằm kích thích và tạo niềm vui
cho người học.
11.2.2. Mục tiêu học tập
11.2.2.1. Vai trò của mục tiêu đối với động cơ học tập
Việc xác định mục tiêu học tập cũng được coi là một nguồn quan trọng
kích thích động cơ học tập.
Mục tiêu là một cái gì đó mà cá nhân ý thức được nó và đang cố gắng
vươn tới, hoàn thành. Khi đặt mục tiêu: phải đọc xong một chương của cuốn
sách, thì học viên sẽ cố gắng hoàn thành nó. Mục tiêu thúc đẩy con người
hoạt động để làm giảm bớt đi sự khác biệt giữa “họ ở đâu?” và “họ muốn ở
đâu?”. Đặt mục tiêu thường là rất có hiệu quả trong cuộc sống và học tập.
Cùng với thói quen hàng ngày, mỗi cá nhân thường đặt mục tiêu. Chẳng hạn,
hôm nay, tôi dự định sẽ làm xong các bài tập toán, viết một bài văn, đi tập thể
dục, gửi một món quà sinh nhật cho bạn v.v. Khi đặt mục tiêu làm những điều
đó, nếu không hoàn thành cá nhân sẽ cảm thấy không thoải mái.
Có bốn lí do chính để giải thích tại sao khi đặt mục tiêu lại góp phần tạo
động cơ học tập: Thứ nhất, mục tiêu hướng chú ý của học viên vào nhiệm vụ
trực tiếp (bất cứ lúc nào trong đầu tôi cũng hiện nên chương sách mà tôi cần
phải đọc, mục tiêu của tôi là phải đọc xong chương này vì thế đã hướng chú ý
của tôi đến nhiệm vụ đó). Thứ hai, mục tiêu huy động những cố gắng nỗ lực
(mục tiêu càng khó thì càng phải cố gắng). Thứ ba, mục tiêu làm tăng sự kiên
trì (khi chúng ta có một mục tiêu rõ ràng thì chúng ta ít bị sao nhãng hay
không từ bỏ cho đến khi đạt đến mục tiêu). Cuối cùng, mục tiêu thúc đẩy phát
triển những cách thức, biện pháp mới khi cách thức cũ không còn giá trị. Khi
học viên đặt mục tiêu giải bài toán A, nhưng không thể đạt được, vì cách giải
cũ không đúng, học viên sẽ cố gắng tìm những giải pháp mới có ích cho việc
đạt đến mục tiêu đó.
11.2.2.2. Các loại mục tiêu
Có thể phân loại mục tiêu theo mức độ, ta có: mục tiêu học tập xa, trừu
tượng và mục tiêu gần, cụ thể. Mục tiêu xa thường có tạo ra tiềm năng thúc
đẩy mạnh mẽ. Tuy nhiên rất khó kiểm soát và việc tác động đến hoạt động
hàng ngày của học viên thường không rõ ràng. Mục tiêu cụ thể có xu hướng
làm tăng cường động cơ, tính kiên trì và khả năng hiệu chỉnh hành động.
Chẳng hạn, giáo viên có thể yêu cầu học viên đọc một chương, sau đó tiếp
đến chương khác, thay vì yêu cầu đọc toàn bộ quyển sách. Bởi lẽ mục tiêu
này rõ ràng và học viên có khả năng hoàn thành được. Một khó khăn vừa
phải tạo nên một sự thử thách, chứ không phải là một cái gì đó không thể
thực hiện được. Tôi có thể hoàn thành chương này nếu tôi cố gắng hết mình.
Hơn nữa, một mục tiêu cụ thể, tạo ra sự quan tâm thường xuyên hơn so với
mục tiêu trừu tượng.
Có thể phân loại mục tiêu theo tính chất của động cơ thực hiện nó.
Theo cách này, trong lớp học thường có hai loại mục tiêu chính – học tập và
thực hiện. Mục tiêu học tập là mục tiêu cá nhân chủ yếu hướng vào hoạt động
học tập của mình. Những học sinh đặt mục tiêu học tập có xu hướng tìm kiếm
những thử thách và kiên trì theo đuổi khi họ gặp khó khăn. Nhiều nhà nghiên
cứu gọi loại học viên này là Người học để hết tâm trí vào nhiệm vụ, bởi vì họ
quan tâm đến việc nắm vững tài liệu và không lo lắng về sự thực hiện của họ
khi so sánh với bạn cùng lớp. Chúng ta thường gọi họ là “những người đam
mê trong công việc”.
Loại thứ hai là Mục tiêu thực hiện. Những học viên có mục tiêu này
thường tập trung vào việc xem được người khác đánh giá như thế nào. Họ
muốn lúc nào cũng được đề cao như được coi là thông minh, có năng lực và
không muốn nghe những lời không hay như thiếu năng lực v.v. Nếu điều này
không thực hiện được, họ có thể chọn những chiến lược phòng vệ, tránh sự
thất bại: giả vờ không quan tâm, chưa cố gắng hết khả năng thực sự, thậm
chí có thể từ bỏ công việc. Họ quan tâm đến việc đánh giá sự thực hiện của
họ, còn việc học cái gì, học như thế nào và phải cố gắng đến đâu là điều
không quan trọng. Nhiều nhà nghiên cứu gọi loại học viên này là “Người học
tập trung vào cái tôi”, bởi vì họ thường chỉ lo lắng đến chính bản thân. Những
hành vi của họ chỉ tập trung vào bản thân mình trong công việc của lớp.
Chẳng hạn:
- Sử dụng những cách đỡ tốn công sức để hoàn thành bài tập (cố gắng
hoàn thành công việc mà không làm nó thì không thể được).
- Gian lận/ coppy bài của bạn cùng lớp.
- Tìm kiếm sự chú ý của giáo viên đến với việc thực hiện tốt.
- Chỉ làm việc chăm chỉ đối với những bài tập được đánh giá.
- Bối rối và dấu bài kiểm tra có kết quả thấp.
- So sánh kết quả với các bạn cùng lớp.
– Lựa chọn những bài tập có thể đưa đến kết quả được đánh giá tích
cực nhất.
- Không thoải mái với những bài tập có những tiêu chí đánh giá rõ ràng.
11.2.2.3. Thông tin ngược và chấp nhận mục tiêu
Để có được những mục tiêu học tập cụ thể, việc xác định mục tiêu còn
phụ thuộc vào hai yếu tố: những thông tin ngược và mức độ chấp nhận mục
tiêu của học viên.
Nhân tố thứ nhất là thông tin ngược. Để có thể hiểu được sự khác nhau
giữa “tôi đang ở đâu” và “tôi muốn ở đâu”, học viên cần có hiểu biết chính xác
hiện tại đang ở đâu và sau này sẽ phải đi đâu. Điều này không chỉ liên quan
tới tự nhận thức của học viên mà còn do các thông tin ngược từ phía giáo
viên, bạn bè và người khác. Khi học viên được thông báo những cố gắng hiện
tại đã không thể đạt đến mục tiêu, học viên cần phải cố gắng hơn nữa hay
thậm chí là sử dụng những giải pháp khác. Khi được thông báo là đã đạt hay
vượt mục tiêu, học viên sẽ thoả mãn và thấy mình có đủ khả năng để đặt mục
tiêu cao hơn trong tương lai. Những thông tin ngược nhấn mạnh vào quá
trình tiến triển thường có hiệu quả hơn là những thông báo về kết quả. Khi
thông tin ngược làm sáng tỏ khả năng thực hiện, thì sự tự tin của chủ thể, tư
duy phân tích, và sự thực hiện sẽ được nâng cao.
Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến động cơ thực hiện đến cùng mục tiêu
là sự chấp nhận mục tiêu. Khi học viên chấp nhận mục tiêu do giáo viên đặt
ra hay xây dựng mục tiêu cho chính mình thì khi đó sức mạnh để thực hiện
mục tiêu là rất lớn. Ngược lại, nếu học viên phản đối mục tiêu do người khác
thậm chí do chính mình đặt ra thì động cơ thực hiện sẽ kém. Nhìn chung, học
viên sẽ sẵn sàng lựa chọn mục tiêu của người khác nếu những mục tiêu đó
có tính hiện thực, có ý nghĩa và sự khó khăn là có thể chấp nhận được, hoặc
có những lí do thích hợp được đưa ra để đánh giá mục tiêu. Khả năng chấp
nhận mục tiêu sẽ lớn hơn (mục tiêu trở lên phù hợp hơn) nếu giáo viên làm
việc cùng với gia đình học viên để nhận biết và giám sát mục tiêu.
11.2.2.4. Một số gợi ý đối với giáo viên
Có thể đưa ra vài gợi ý có ích cho giáo viên khi xác định mục tiêu của
học viên.
Học viên có thể làm việc tích cực hơn, hướng tới những mục tiêu rõ
ràng, cụ thể, có lí, khó khăn vừa phải và có thể đạt được trong một thời gian
ngắn.
Nếu giáo viên tập trung nhiều vào sự thực hiện của học viên, mức độ
cao, cạnh tranh, và phần thưởng thì dễ khuyến khích học viên đặt ra những
mục tiêu thực hiện, điều này sẽ làm hại năng lực học tập của các em và tập
trung quá nhiều vào nhiệm vụ, làm giảm yếu tố say mê, hứng thú học tập của
học viên.
Học viên có thể chưa thành thạo khi xây dựng mục tiêu cho chính mình
hay luôn giữ mục tiêu trong đầu, vì thế sự khích lệ và thông tin ngược là rất
cần thiết.
Nếu giáo viên sử dụng phần thưởng hay hệ thống kích thích nào đó,
phải chắc chắn mục tiêu đặt ra cho học viên là để học tập và nâng cao ở một
số lĩnh vực chứ không nên chỉ để thực hiện tốt hay để trông có vẻ thông minh.
Mục tiêu đặt ra không được quá khó.
11.2.3. Sự nhận thức và niềm tin học tập
11.2.3.1 Ảnh hưởng cửa sự nhận thức về nguyên nhân chủ yếu của thành công hay thất bại trong học tập đến động cơ
Nhiều giáo viên bỏ qua chi tiết quan trọng, đó là động cơ học tập chịu
ảnh hưởng rất mạnh của việc nhận thức về nguyên nhân dẫn đến thành công
hay thất bại trong học tập.
Có sự liên quan khá chặt chẽ giữa việc đánh giá nguyên nhân thành
công hay thất bại trong học tập của học viên đến động cơ học tập của các
em. Ở đây có hai tình huống điển hình:
Thứ nhất: Có học viên quy sự thành công hay thất bại, đặc biệt là trong
các tình huống thất bại, chủ yếu là do các yếu tố bên trong, nhưng không ổn
định và có thể điều khiển được. Chẳng hạn: các em cho rằng mình hoàn toàn
có khả năng học tốt, còn kết quả thấp hiện tại chủ yếu là do các lỗi chủ quan
tạm thời: hiểu sai vấn đề, thiếu kiến thức, hay thiếu cố gắng v. v. Vì vậy,
những học viên này thường có sự tự khẳng định mình và cố gắng tìm các giải
pháp khắc phục.
Thứ hai: Có học viên quy sự thất bại trong học tập chủ yếu là do các
yếu tố chủ quan, ổn định và không thể điều khiển được như bản thân thiếu
năng lực. Những học viên này thường có thái độ tiêu cực đối với việc học tập
của mình. Các em cho rằng mình không có khả năng học và không ai có thể
giúp đỡ được mình. Dẫn đến thái độ ngại học, ngại sự trợ giúp của giáo viên
và người khác.
Như vậy, khi học viên quy kết quả vào những nguyên nhân chủ quan
nhưng không ổn định và có thể thay đổi và điều khiển được thì động cơ học
tập được tăng cường, còn khi quy vào những nguyên nhân chủ quan, ổn định
và không thể điều khiển được thì động cơ học tập bị suy giảm.
11.2.3.2. Niềm tin vào năng lực học tập của bản thân
Một số yếu tố ảnh hưởng lớn đến động cơ học tập là niềm tin về năng
lực. Các nghiên cứu tâm lí học đã cho thấy có hai quan niệm phổ biến trong
học viên về năng lực.
* Quan niệm thực thể về năng lực. Những học viên có quan niệm này
cho rằng năng lực là một phẩm chất ổn định, một đặc điểm của cá nhân
không thể thay đổi được. Theo quan điểm này, một số người có năng lực hơn
người khác, nhưng năng lực của mỗi người là cố định.
Những học viên có quan điểm thực thể về năng lực học tập có xu
hướng đạt mục tiêu thực hiện. Các em tìm kiếm những tình huống, mà ở đó
được đánh giá là người thông minh và bảo vệ sự tự trọng của họ. Các em
thường làm những gì cảm thấy có thể làm tốt mà không cần quá nhiều cố
gắng nỗ lực. Một cách khác để thể hiện mình là giả vờ như không hề cố gắng
một chút nào. Trước khi kiểm tra, một học viên nói “Tôi đã không học một
chút nào” hoặc “Tất cả những gì tôi muốn là chỉ cần qua được bài thi” do đó
đạt điểm ở mức trung bình là thành công. Những học viên này thường lập
luận: điểm số thấp không có nghĩa là năng lực thấp, khi tuyên bố “Tôi không
chuẩn bị cho bài thi, chỉ tới tối hôm qua mới học”. Việc đổ lỗi do lo lắng nên
bài thi kém cũng là một giải pháp bảo vệ cái tôi. Dĩ nhiên, cơ chế an ủi này
cũng có thể giúp học viên né tránh trạng thái tiêu cực do thất bại trong học
tập.
* Quan điểm tăng tiến về năng lực. Những học viên có quan niệm này
thường cho rằng năng lực là không ổn định và có thể điều khiển được – kĩ
năng và kiến thức luôn được mở rộng và phát triển. Bằng việc lao động,
nghiên cứu, thực hành chăm chỉ, kiến thức có thể được tăng dần lên, do đó,
năng lực cũng được nâng lên.
Quan điểm tăng tiến về năng lực rất phổ biến ở trẻ nhỏ. Những năm
đầu tiểu học, hầu hết học sinh tin rằng những nỗ lực cố gắng tương ứng với
trí thông minh. Những người nhanh nhẹn thông minh thường cố gắng nhiều
hơn và sự cố gắng nhiều hơn làm cho bạn thông minh hơn. Nếu bạn thất bại,
bạn không thông minh và bạn không cố gắng; nếu bạn thành công, bạn có thể
là một người làm việc chăm chỉ và thông minh. Khi trẻ em ở độ tuổi 11 hay 12
đã có sự phân hóa trong niềm tin về năng lực. Một số em tin có người thành
công mà không cần làm việc thì chắc hẳn người đó thực sự thông minh.
Những học viên quan niệm tăng tiến về năng lực có xu hướng đặt mục
tiêu học tập và tìm kiếm những tình huống theo đó họ có thể nâng cao được
kĩ năng của họ. Sự thất bại không phải là mất tất cả, mà chẳng qua chỉ cho
thấy rằng, cần phải làm việc nhiều hơn. Những người tăng tiến có xu hướng
đặt mục tiêu có độ khó vừa phải làm sao thúc đẩy được động cơ tốt nhất.
Có thể tóm tắt các nguồn bên trong kích thích động cơ học tập của học
viên trong bảng 11.2 dưới đây.
Bảng 11.2 Những yếu tố bên trong kích thích động cơ học tập của học viên
Những đặc điểm tốt của động cơ học tập
Những đặc điểm làm mất dần động cơ học tập
Nguồn động cơ
Bên trong: những nhân tố cá
nhân như nhu cầu, hứng thú,
tính ham hiểu biết, sự vui vẻ
Bên ngoài: những nhân tố môi
trường: phần thưởng, sức ép
xã hội sự trừng phạt.
Các loại đặt mục
tiêu
Mục tiêu học tập: sự thoả
mãn của cá nhân khi đáp ứng
được các thử thách và nâng
cao bản thân. Xu hướng lựa
chọn những mục tiêu có thử
thách và độ khó vừa phải.
Mục tiêu thực hiện. Mong
muốn chứng tỏ khả năng thực
hiện của mình trong mắt người
khác. Xu hướng lựa chọn
những bài tập rất dễ hoặc rất
khó.
Nhu cầu thành tích
Động cơ đạt thành tích: có sự
định hướng rõ ràng
Động cơ né tránh sự thất bại:
có hướng thiên về lo lắng
Loại quan tâm
Quan tâm vào nhiệm vụ: luôn
quan tâm đến việc nắm vững
tài liệu.
Quan tâm đến cái tôi: quan tâm
đến bản thân mình trong mắt
người khác như thế nào.
Sự quy kết nguyên
nhân
Sự thành công hay thất bại
được quy cho nỗ lực có thể
điều khiển được và năng lực.
Sự thành công hay thất bại quy
cho những nhân tố cá nhân
không thể điều chỉnh được.
Niềm tin về năng lực
Quan điểm tăng tiến: Tin rằng
năng lực có thể được nâng
cao qua làm việc chăm chỉ,
biết thêm kiến thức và kĩ
năng.
Quan điểm thực thể: cho rằng
năng lực ổn định, đặc điểm cá
nhân không thể điều khiển
được.
11.2.4. Một số gợi ý về biện pháp kích thích động cơ học tập
Để có thể duy trì và phát triển các nguồn bên trong của động cơ học
tập, giáo viên có thể tham khảo những gợi ý sau:
11.2.4.1. Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản
- Cung cấp một môi trường lớp học có tổ chức.
- Là một người giáo viên luôn quan tâm đến lớp học.
- Giao những bài tập có thử thách nhưng không quá khó.
- Làm cho bài tập trở nên có giá trị với học viên.
11.2.4.2. Xây dựng niềm tin và những kì vọng tích cực
- Bắt đầu công việc ở mức độ của học viên.
- Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.
- Nhấn mạnh vào sự tự so sánh hơn là cạnh tranh.
- Thông báo cho học viên thấy được rằng năng lực học thuật có thể
được nâng cao.
- Làm mẫu những mô hình giải quyết vấn đề tốt.
11.2.4.3. Chỉ cho thấy giá trị của học tập
- Liên kết giữa bài học với nhu cầu của học viên.
- Gắn các hoạt động của lớp học với những nhu cầu, hứng thú của học
viên.
- Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết.
– Làm cho bài học trở thành “niềm vui”.
- Sử dụng biện pháp mới lạ và khác thường.
- Giải thích mối liên quan giữa học tập hiện tại và học tập sau này.
- Cung cấp sự khích lệ, phần thưởng nếu cần thiết.
11.2.4.4. Giúp học viên tập trung vào bài tập
- Cho học viên cơ hội thường xuyên trả lời.
- Cung cấp cơ hội cho học viên để có thể tạo ra một sản phẩm cuối
cùng nào đó.
- Tránh việc nhấn mạnh quá mức vào việc tính điểm.
- Giảm bớt rủi ro khi thực hiện bài tập, không xem thường bài tập quá
mức.
- Xây dựng mô hình động cơ học tập.
- Dạy những chiến thuật, kĩ thuật học tập.
11.3. CÁC BIỆN PHÁP KÍCH THÍCH TỪ BÊN NGOÀI ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN
Để duy trì và củng cố động cơ học tập của học viên, giáo viên không
chỉ chú ý đến các nguồn kích thích bên trong mà còn phải quan tâm tới các
nguồn bên ngoài. Trong phần này chúng ta đề cập tới hai nội dung: củng cố
việc học của học viên theo lí thuyết của B.Skinner và những gợi ý đối với giáo
viên trong việc khen chê học sinh.
11.3.1. Một số gợi ý về biện pháp củng cố trong lí thuyết học tập của B.F. Skinner
Trong hệ thống lí luận của B.F.Skinner, thuật ngữ củng cố được dùng
với nghĩa điển hình như sau:
1. Cái củng cố là sự kiện kích thích mà nếu nó xuất hiện trong quan hệ
nhất định với phản ứng thì có xu hướng duy trì hay tăng cường phản ứng. Sự
khen ngợi có thể là sự củng cố tốt nếu giáo viên khen ngợi phản ứng đúng
đắn của học viên.
2. Nguyên tắc củng cố. Liên quan đến việc tăng dần tần số phản ứng
khi các kết quả nhất định tức thì theo sau nó. Kết quả theo sau hành vi phải
phụ thuộc vào hành vi. Sự phụ thuộc này là việc tăng tần số hành vi có liên
quan đến cái củng cố. Khi giáo viên củng cố hành vi đúng đắn của học viên,
họ đã làm tăng xác suất việc học viên sẽ nhớ phản ứng và sử dụng nó trong
tương lai, trong tình huống tương tự.
3. Bảo đảm nhận ra phần thưởng từ sự củng cố. Những người không
phải là nhà sư phạm cũng có thể sử dụng “phần thưởng”, cha - mẹ có thể
mua cho con một que kem khi con “cư xử” ngoan ngoãn. Tuy nhiên, đó chưa
hẳn là sự củng cố. Nhà sư phạm nhìn quá trình này theo cách khác. Họ cần
phải làm cho học viên nhận ra rằng, mình được cô giáo khen (thưởng) vì có
câu trả lời đúng hoặc cách giải quyết vấn đề hay. Nói cách khác, nhà sư
phạm, khi sử dụng củng cố phải tuỳ thuộc vào hành vi được củng cố, phải
làm sáng tỏ hành vi được củng cố và tin cậy vào củng cố.
4. Các loại lịch trình củng cố: Củng cố liên tục. Khi hành vi mới đã được
hình thành, nếu thỉnh thoảng nó được củng cố, hành vi đó sẽ được duy trì tốt
hơn. Củng cố theo khoảng thời gian là củng cố xuất hiện vào những khoảng
thời gian định trước. Trong đó có thể củng cố theo khoảng thời gian cố định,
là phản ứng gây ra củng cố sau một khoảng thời gian cố định; theo khoảng
thời gian thay đổi, trong đó củng cố phụ thuộc vào thời gian và phản ứng,
nhưng thời gian giữa các củng cố thay đổi. Củng cố theo tỉ lệ là củng cố xuất
hiện sau một số lần phản ứng nhất định. Có thể thực hiện các loại củng cố
theo tỉ lệ: a) Tỉ lệ cố định trong đó củng cố phụ thuộc vào một số lượng phản
ứng nhất định; b) Tỉ lệ thay đổi, trong đó số lượng phản ứng cần thiết để củng
cố sẽ thay đổi từ củng cố này sang củng cố khác.
+ Các hình thức củng cố và trách phạt
Có khá nhiều phương pháp để khuyến khích hành vi đúng thông qua
các hình thức củng cố: động viên (khen ngợi); sử dụng nguyên tắc Premack;
định hướng phân tích, thực hành những hành vi tích cực; sử dụng củng cố
tiêu cực và trừng phạt.
- Giải pháp khen ngợi hay lờ đi có thể rất có ích. Tuy nhiên, không phải
bao giờ việc khen ngợi cũng mang lại kết quả tích cực, nếu giáo viên chỉ sử
dụng mỗi giải pháp này trong mọi trường hợp. Có thể đưa ra một số gợi ý cho
việc khen thưởng:
* Làm cho dễ hiểu và có tính hệ thống khi đưa ra lời khen (Chẳng hạn:
chắc chắn lời khen gắn với hành vi phù hợp. Học viên phải hiểu rõ những
hành vi được khen).
* Khen thưởng đúng hành vi đáng được thưởng (Thưởng những thành
tích đạt được theo mục tiêu đã xác định. Không thưởng những học viên
không liên quan).
* Xác định những tiêu chuẩn khen thưởng dựa trên năng lực và giới
hạn cá nhân, (Khen ngợi những tiến bộ và việc làm có liên quan đến những
cố gắng trước đây của học viên. Hướng chú ý của học viên vào sự tiến bộ
của mình chứ không so sánh với người khác).
* Quy sự thành công của học viên vào sự cố gắng nỗ lực và khả năng
của học viên để tạo sự tin tưởng và lặp lại thành tích (Không nói tới thành
công do may mắn, do người ngoài hay do tài liệu dễ).
* Làm cho phần thưởng trở thành củng cố thực sự.
Sử dụng Nguyên tắc Premack. Nhà tâm lí học David Premack đã phát
hiện thấy tất cả các sinh vật đều gắn bó với một số hoạt động nhiều hơn các
hoạt động khác. Từ đây hình thành nguyên tắc mang tên ông: một hành vi có
cường độ cao (một hoạt động được ưa thích) có thể là tác nhân củng cố có
hiệu quả đối với một hành vi có cường độ thấp (hoạt động không được yêu
thích). Với một học viên ham thích đá bóng, người giáo viên thông minh,
không ngăn cản em, mà sử dụng nó như là tác nhân củng cố, bằng cách yêu
cầu em thực hiện xong các bài tập, trước khi được đá bóng.
Để cho nguyên tắc Premack có hiệu quả, hành vi có cường độ thấp
(không được ưa thích) cần phải xảy ra trước hành vi có cường độ cao (được
ưa thích).
– Định hướng phân tích, nhằm giúp học viên nhận được các củng cố
cho hành vi mong đợi.
Một trong những nguyên nhân học viên không đạt kết quả cao trong
việc học tập môn học nào đó và dẫn đến ngại, chán học môn đó, là do không
nhận được củng cố tích cực khi học chúng. Để khắc phục tình trạng này, giáo
viên thực hiện chiến lược định hướng hành vi. Thực chất là giáo viên chia
hành vi phức tạp (nội dung học) thành những bước nhỏ cụ thể, gắn liền với
củng cố mà học viên có thể làm được. Có ba điểm cần lưu ý trong chiến lược
định hướng: 1) Củng cố những hành vi bộ phận; 2) Củng cố những tiến bộ
một cách cụ thể; 3) Củng cố những giai đoạn thực hiện hay tham dự lâu dài
hơn.
– Rèn luyện tích cực là giúp đỡ học viên thay thế một hành vi này bằng
một hành vi khác. Giải pháp này rất có hiệu quả khi học viên mắc lỗi sai về lí
thuyết hoặc vi phạm quy tắc. Các gợi ý thực hiện việc rèn luyện tích cực có
thể là:
Nhận ra được những hành vi tích cực theo đánh giá của học viên (chấp
nhận những lỗi sai của học viên và cho các em cơ hội để sửa lỗi. Có phần
thưởng đối với những nỗ lực tự học tập của các em v.v).
Khi học viên đang tìm cách giải quyết những tài liệu mới hay thử những
kĩ năng mới, hãy củng cố nhiều (tìm hiểu, bình luận và khen ngợi thường
xuyên kết quả của học viên).
Sau khi những hành vi mới được thiết lập, đưa ra củng cố không dự
định trước để khuyến khích sự kiên trì thực hiện hành vi (có những phần
thưởng gây ngạc nhiên đối với cả lớp. Đặt câu hỏi và không yêu cầu học viên
trả lời, nhưng những học viên có câu trả lời tốt sẽ được thưởng).
Sử dụng những câu gợi nhắc để giúp học viên xây dựng những hành vi
mới.
Đảm bảo mọi học viên (kể cả học viên gây ra lỗi) sẽ nhận được phần
thưởng khi họ làm tốt công việc.
Xây dựng nhiều tác nhân củng cố.
Sử dụng có hiệu quả nguyên tắc Premack.
- Các giải pháp sử dụng củng cố tiêu cực và trừng phạt, được thực hiện
khi giáo viên đối mặt với những hành vi không mong đợi ở học viên.
Sự củng cố tiêu cực được đưa ra đối với những hành vi không mong
đợi mà kết quả là làm cho hành vi mong đợi được củng cố (chưa đồng ý cho
đi chơi bóng khi chưa hoàn thành xong bài tập). Việc lựa chọn củng cố tiêu
cực làm tăng cường tính tự điều khiển của học viên, buộc các em phải củng
cố những hành vi mà trước đó không muốn.
Sự trừng phạt là cần thiết để chấm dứt một hành vi không mong đợi
của học viên. Một hình thức trừng phạt là sự chán ngấy. Tức là để cho học
viên tiếp tục hành vi đó cho tới khi họ chán ngấy (thỏa mãn quá mức). Sự
chán ngấy cũng có thể được bộc lộ từ phía giáo viên. Họ cần thể hiện sự
chán ngấy của mình đối với hành vi nào đó của học viên. Trong cả hai trường
hợp, giáo viên cần kiên quyết, không khoan nhượng khi học viên thực hiện
hành vi (Chẳng hạn, một học viên hay nói bậy, giáo viên có thể yêu cầu em
đó viết tới 50 hoặc 100 lần câu nói đó, cho tới khi chán ngấy mới thôi). Sự
khiển trách, cảnh cáo, sự cô lập xã hội v.v. cũng là các hình thức trừng phạt
để ngăn chặn và làm mất hành vi không mong đợi. Nói chung, sự trừng phạt
mang lại hiệu quả thấp hơn so với củng cố. Khi sử dụng trừng phạt hoặc củng
cố tiêu cực, giáo viên cần lưu ý đến một số chỉ dẫn sau:
1. Cố gắng sử dụng củng cố tiêu cực hơn là trừng phạt.
2. Kiên quyết trong hành vi trừng phạt đã được đưa ra.
3. Chỉ trừng phạt hành vi của học viên, không trừng phạt phẩm chất
nhân cách các em.
4. Điều chỉnh sự trừng phạt so với mức độ vi phạm của học viên.
11.3.2. Một số gợi ý giáo viên trong việc khen ngợi và phê bình học viên
Giả sử bạn vừa lên lớp xong một bài, trong đó có giảng viên trường sư
phạm dự và bạn đang thu xếp “đồ lề” khi học viên cuối cùng rời khỏi lớp. Liệu
những cách cư xử dưới đây của người giảng viên sẽ tác động như thế nào
đến niềm tin, động cơ và năng suất làm việc của bạn?
* Bước thẳng ra khỏi lớp, chẳng nói năng gì.
* Khen bạn một cách “dạt dào”, thậm chí khen cả những khía cạnh mà
bạn biết chắc là chưa tốt.
* Phân tích chi ly từng khuyết điểm bạn mắc phải, bảo bạn phải sửa sai
và hàm ý rằng bạn phải cố gắng nâng cao trình độ hơn.
* Khen một số khía cạnh trong giờ dạy, phê bình một số khía cạnh khác
và kết thúc bằng cách nhận xét: nói chung bạn đã có cố gắng nhiều và các
bài dạy của bạn đã có tiến bộ.
* Bạn nhận được nhiều lời khen, chê nhưng nhìn chung người giảng
viên có hàm ý rằng giờ dạy của bạn còn kém.
Chắc hẳn bạn không muốn đón nhận các tình huống 1 hoặc 2 và nếu
sau 30 buổi dạy đều gặp được phản ứng như tình huống 4 thì bạn sẽ thực sự
cảm thấy tự tin, thành đạt và hạnh phúc trong sự nghiệp của mình.
Học viên, cho dù là trẻ em hay người lớn, ai cũng rất nhạy cảm với việc
khen chê của giáo viên. Không ai muốn bị làm ngơ, làm người thừa trong tập
thể. Nhu cầu được tôn trọng, được thừa nhận là nhu cầu cơ bản của con
người. Lời khen có giá trị động viên rất lớn. Tất nhiên, điều đó còn phụ thuộc
vào nghệ thuật khen chê và thái độ của giáo viên đối với hành vi và đối với
người được khen, chê. Vậy việc khen, chê của giáo viên đối với học viên như
thế nào để kích thích động cơ người học?
Trước hết cần nhớ rằng khen chê là cả một nghệ thuật hấp dẫn. Dưới
đây chỉ là một vài gợi ý nhỏ:
* Cần tạo ra cơ hội để học viên được khen:
- Đề ra những mục tiêu có thể đạt được đối với mọi học viên. Điều này
đòi hỏi nhiệm vụ học tập phải được xác định rõ, cụ thể, kèm theo các điều
kiện để thực thi chúng.
- Chia nhỏ nhiệm vụ. Những nhiệm vụ khó hoặc kéo dài nên chia thành
nhiều bước đi cụ thể, kiểm soát được để thực hiện và đánh giá riêng. Chỉ sau
khi hoàn thành tốt bước trước mới tiến hành bước tiếp theo.
- Dành thời gian để học. Cần dành thời gian để học viên học bài.
- Biểu dương thành công từng phần. Trong mỗi việc nên tìm ra một cái
gì đó đáng mừng để động viên. Nếu xét kĩ lưỡng việc làm của học viên, chắc
chắn ta sẽ tìm ra điểm tốt của họ.
- Biểu dương cố gắng, tiến bộ và thành tích trong những việc làm đơn
giản, cũng như những thành tích hiển hiện. Quan tâm động viên thích đáng
đến các học viên có hoàn cảnh khó khăn, vẫn khắc phục vượt qua.
* Thái độ và hành vi của giáo viên khi khen:
- Chú ý, tôn trọng và quan tâm, lắng nghe học viên với tư cách một
người bạn.
- Chấp nhận trình độ, suy nghĩ, thái độ và hành vi của học viên.
- Quan tâm tới công việc và khen, chê công việc của học viên.
- Khi khen, chê phải có nhận xét cụ thể và chỉ rõ lí do cho học viên biết.
- Thể hiện thái độ đánh giá cao đối với học viên.
- Không chê con người, chỉ chê công việc khi cần thiết.
- Nhận xét cụ thể, rõ ràng điểm sai và hướng khắc phục.
- Luôn tỏ ra thân thiện (nụ cười, ánh mắt, bắt tay v.v).
- Có phần thưởng đặc biệt cho thành tích đặc biệt.
* Những câu hỏi cần lưu ý khi khen học viên.
1. Giáo viên có đề ra mục tiêu khả dĩ đạt được cho từng học viên?
2. Có chia các nhiệm vụ thành những bước đi có thể kiểm soát được và
khen khi học viên hoàn thành các bước đi đó?
3. Có thường xuyên ghi nhận một cách tích cực những việc làm tốt của
học viên?
4. Có tích cực tìm và nói ra trước lớp điểm tốt của học viên?
5. Có thường xuyên khen ngợi những cố gắng, tiến bộ của học viên
hay chỉ khen thành tích?
6. Mọi học viên đều được tạo cơ hội học tập và được khen hay chỉ một
số ít?
7. Có chấp nhận trình độ của học viên và có việc làm cụ thể để từng
bước nâng cao trình độ của họ?
8. Việc phê bình của giáo viên có xây dựng không? Có kết hợp khen
với chê?
9. Có tạo cơ hội để học viên khắc phục điểm hạn chế?
10. Có nêu chỉ tiêu học tập cho học viên và yêu cầu học viên tự đánh
giá công việc của mình? Có thường xuyên được thông báo nhịp độ, tốc độ
tiến bộ của mình?
* Những điểm cần lưu ý khi chê học viên:
11. Tìm hiểu kĩ, chỉ trách phạt học viên khi nào thật đáng trách (khi
khen nên hào phóng còn khi chê nên chặt chẽ).
12. Về nguyên tắc hạn chế việc chê, trách học viên trước tập thể và
trước người khác, nhất là đối với học viên lớn tuổi.
13. Không đột ngột quát tháo. Cần chỉnh lại chỗ sai của học viên rồi
giảng giải cho họ biết để sửa.
14. Không để tình cảm riêng xen vào. Nên tỏ thái độ hi vọng vào sự tiến
bộ khi trách phạt.
15. Không trách phạt với thái độ mỉa mai, miệt thị.
16. Nói thẳng điểm sai sót và khuyết điểm.
17. Không nên chỉ căn cứ và hậu quả để phạt mà cần chỉ rõ nguyên
nhân.
18. Trách người có lỗi. Hạn chế trách tập thể.
19. Chỉ phạt vì công việc, không xúc phạm nhân cách hoặc đưa việc
khác vào.
20. Sau khi trách, nên có lời động viên, khích lệ để học viên có niềm tin
và cố gắng sửa.
Chương 12. CÁP PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
12.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁBất kì giáo viên nào cũng thường xuyên thực hiện công việc khó khăn:
kiểm tra, chấm bài và đánh giá học viên. Tuy nhiên không ít người còn nhầm
lẫn và dùng không đúng các khái niệm cơ bản trong lĩnh vực này. Vì vậy
trước khi đề cập đến kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học viên, cần
thống nhất một số khái niệm.
12.1.1. Các khái niệm cơ bản
12.1.1.1. Đánh giá
* Khái niệm
Đánh giá trong dạy học bao gồm việc thu thập thông tin về một lĩnh vực
nào đó trong dạy học; nhận xét và phán xét đối tượng đó, trên cơ sở đối chiếu
các thông tin thu nhận được với mục tiêu được xác định ban đầu.
* Yêu cầu của việc đánh giá.
Việc đánh giá trong dạy học cần đáp ứng các yêu cầu:
+ Thứ nhất: Tính quy chuẩn
Đánh giá, dù theo bất kì hình thức nào, cũng đều nhằm mục tiêu phát
triển hoạt động dạy và học, đồng thời phải đảm bảo lợi ích cho người được
đánh giá và phát triển được. Vì vậy đánh giá cần tuân theo những chuẩn mực
nhất định. Những chuẩn này được ghi rõ trong văn bản quy định hoạt động
đánh giá phải được công khai đối với người được đánh giá. Những quy định
này cần chi tiết, đầy đủ, rõ ràng về mọi lĩnh vực, từ việc xác định mục tiêu, nội
dung và phương thức đánh giá đến thời điểm đánh giá. Tức là phải trả lời
những câu hỏi liên quan tới việc đánh giá:
– Mục tiêu đánh giá?
– Nội dung đánh giá?
– Tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá?
- Đánh giá bằng phương pháp nào? Phương tiện nào?
- Ai đánh giá?
– Thời điểm đánh giá?
- Địa điểm đánh giá?
– Quyền lợi và trách nhiệm của người được đánh giá?
- Tính pháp lí của việc đánh giá?
+ Thứ hai: Tính khách quan.
Khách quan là yêu cầu đương nhiên của mọi cuộc đánh giá. Nếu việc
đánh giá khách quan sẽ có tác dụng kích thích động cơ và tính tích cực học
tập của người học. Đồng thời duy trì và phát triển mối quan hệ thân thiện,
đoàn kết giữa các học viên. Ngược lại, nếu đánh giá thiếu tính khách quan sẽ
dễ nảy sinh các tác động xấu, tiêu cực đến hoạt động của người học, làm
giảm hiệu quả đích thực của học tập. Tính khách quan của việc đánh giá phụ
thuộc vào phẩm chất, năng lực, nghiệp vụ của người đánh giá; phụ thuộc vào
tính quy chuẩn của việc đánh giá và phụ thuộc vào quan điểm, phương pháp
và phương tiện đánh giá.
+ Thứ ba: Tính xác nhận và tính phát triển
Tính xác nhận là việc đánh giá phải khẳng định được hiện trạng của nội
dung được đánh giá so với mục tiêu đánh giá (về mặt định tính và định lượng)
và nguyên nhân của hiện trạng đó, dựa trên những tư liệu khoa học chính xác
và các lập luận xác đáng. Tuy nhiên, giáo dục có bản chất nhân đạo và phát
triển nên việc đánh giá cũng phải mang tính nhân đạo và phát triển. Tức là
phải đảm bảo chức năng phát triển của đánh giá. Giúp cho người được đánh
giá không chỉ nhận ra hiện trạng cái mình đạt được (chức năng xác nhận), mà
còn có niềm tin vào khả năng của mình trong việc tiếp tục phát triển hoặc
khắc phục những điểm không phù hợp. Nói cách khác, đánh giá trong dạy
học không đơn thuần là phán xét kết quả của học viên mà thực sự là một nội
dung của hoạt động dạy học.
* Phân loại
+ Nếu căn cứ vào mục tiêu, đánh giá có hai loại: đánh giá chương trình
dạy học và đánh giá học viên. Đánh giá chương trình là hướng vào việc xác
định mức độ thành công hay giá trị của chương trình dạy học; những yếu tố
khả thi của chương trình. Đánh giá học viên chủ yếu hướng đến xác định các
yếu tố thuộc về người học (đánh giá thành tích học tập, đánh giá năng khiếu
v.v). Đánh giá học viên bao gồm đánh giá đối chiếu và đánh giá theo tiêu chí
(theo mục tiêu). Đánh giá đối chiếu nhằm giúp giáo viên xác định và giải thích
việc học tập của học viên này so với học viên khác trong lớp. Đánh giá theo
tiêu chí nhằm giúp giáo viên xác định việc học tập của học viên so với mục
tiêu đã được xác định từ trước. Nói cách khác, bài kiểm tra đối chiếu cung
cấp sự so sánh giữa các cá nhân, còn kiểm tra tiêu chí so sánh cá nhân đó
với một số mục tiêu hay nhiều mục tiêu đã có.
+ Nếu căn cứ vào nguồn thông tin, đánh giá có hai loại: đánh giá khách
quan và đánh giá chủ quan. Đánh giá khách quan (Objective assessment) là
loại đánh giá chủ yếu dựa trên cơ sở các quan sát khách quan, theo những
quy tắc nhất định và được lượng hoá bằng điểm số hoặc các tham số thống
kê khác. Đánh giá chủ quan (Subjective assessment) là các đánh giá chủ yếu
dựa vào ý kiến và các cảm nhận của người đánh giá.
Trên thực tế, ít khi có cuộc đánh giá thuần tuý khách quan hoặc chủ
quan. Tuy nhiên, chiều hướng chung là tăng cường tính khách quan của việc
đánh giá.
Các loại đánh giá học viên có thể được thực hiện theo hình thức đánh
giá thường xuyên hay đánh giá cuối khoá. Ngoài ra, có thể thực hiện theo
hình thức tự đánh giá của học viên. Các hình thức trên có thể được thực hiện
nhằm đo lường hoặc chẩn đoán.
12.1.1.2. Đo lường (Measurement):là một cách đánh giá căn cứ vào sự
ghi chép và lượng hoá các thông tin thành điểm số hoặc mức độ, dựa trên
một hệ quy tắc.
Đo lường có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: bài kiểm tra, thang
đánh giá và bảng điểm v.v.
12.1.1.3. Chẩn đoán (Diagnostic) là ngoài việc đánh giá, còn có chức
năng phát hiện những nguyên nhân của hiện trạng, lỗi, khiếm khuyết và xây
dựng căn cứ để khắc phục. Trong thực tiễn, đo lường thường được coi là một
chức năng của chẩn đoán: chức năng phát hiện và xác nhận. Ngoài các chức
năng trên, chẩn đoán còn cần đảm bảo chức năng phát triển.
Một đánh giá có tính chẩn đoán không chỉ hướng đến đo lường mà phải
có chức năng dự đoán và vạch hướng khắc phục.
12.1.2. Mục tiêu và mục tiêu học tập
12.1.2.1. Vấn đề mục tiêu
Vấn đề đầu tiên trong việc đánh giá kết quả học tập của học viên là câu
hỏi: đánh giá cái gì? Điều này liên quan tới hai khái niệm: mục đích và mục
tiêu.
Mục đích (mục đích dạy học) là những khẳng định chính xác, rõ ràng về
những gì mà hoạt động của cá nhân (nhóm) muốn đạt được.
Mục đích giống việc xác định hướng trên sa bàn. Nó cho ta biết hướng
đi. Vì thế mục đích có tính tất yếu. Nhưng mục đích không cụ thể tới mức chỉ
rõ việc lựa chọn những hành động và cách tiến hành như thế nào, tiến độ và
thời hạn hoàn thành v.v. Thông thường, để chỉ cấp độ cụ kể này của mục
đích, người ta dùng khái niệm mục tiêu.
Mục tiêu (Mục tiêu dạy học) là sự lượng giá của mục đích tại những thời
điểm nhất định, cho phép có thể kiểm soát được các bước đi và kết quả thực
tế của nó trong lộ trình đi đến mục đích.
Giữa mục đích và mục tiêu có một số khác biệt về mức độ lượng giá.
Mục tiêu có tính lượng giá cao. Nói tới mục đích dạy học là chủ yếu đề cập tới
đường hướng mà hoạt động dạy và học phải đạt tới. Chẳng hạn, ta thường
nói: Mục đích dạy học là hình thành kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo cho học viên.
Còn khi nói tới mục tiêu dạy học, cần cụ thể hơn, phải chỉ rõ cái mà học viên
phải đạt được. Chẳng hạn, mô hình biểu đạt chung của một mục tiêu cụ thể
là:
Sau khi học viên học xong……(tiết học, bài học, môn học) sẽ đạt được:
a) Về kiến thức…. (các ứng xử đo lường được).
b) Về kĩ năng…… (các ứng xử đo lường được).
c) Về thái độ…… (các ứng xử đo lường được).
Tuỳ theo mức độ lượng giá của mục tiêu mà trong thực tiễn người ta
dùng các thuật ngữ: mục tiêu tổng quát (theo nghĩa mục đích), mục tiêu trung
gian và mục tiêu cụ thể (theo đúng nghĩa đen của thuật ngữ mục tiêu). Để
mục tiêu có tính lượng giá, cần phải đảm bảo những yêu cầu sau:
Mô tả được đầy đủ nội dung bài dạy (tiết dạy, môn dạy) v v.
Mô tả được chính xác và cụ thể những gì người học viên phải đạt
được, thông qua các thao tác quan sát được.
Mô tả được những điều kiện cụ thể, mà ở đó các ứng xử của học viên
phải được thể hiện ra.
Chỉ rõ mức độ mà hoạt động của người học phải đạt đến và những tiêu
chí dùng để đánh giá kết quả (chẳng hạn: trong 2 phút phải kể được tên 5 loại
chất gây nghiện v.v).
12.1.2.2. Mục tiêu đánh giá kết quả học tập
Có nhiều cách xác định mục tiêu đánh giá kết quả học tập của học viên
(đầu ra của quá trình dạy học). Tuy nhiên, hiện nay phổ biến hơn cả là cách
phân loại của B.S.Bloom, mặc dù cách phân loại này ra đời từ năm 1956 ở
Mĩ. Theo cách phân loại của Bloom, mục tiêu dạy học được phân thành ba
loại (hoặc ba lĩnh vực): nhận thức, cảm xúc và vận động – tâm lí.
* Mục tiêu nhận thức
Khả năng nhận thức của học viên được B. Bloom quy thành sáu mức:
Mức 1. Biết. Đúng hơn là khả năng ghi nhớ và nhắc lại những gì đã ghi
nhớ được. Ở mức này bao gồm:
+ Biết những dữ kiện: hệ thống thuật ngữ, sự kiện.
+ Biết phương tiện sử dụng các dữ liệu, quy ước, chiều hướng, chuỗi
các thao tác, xếp loại, nhận dạng, lựa chọn…
Chẳng hạn: Nhớ lại (nhận dạng lại) các định lí, công thức toán, lí, hoá,
các vật dụng v.v.
Mức 2: Thông hiểu.
Ở mức này có chú trọng hơn tới các hoạt động trí tuệ. Cụ thể:
+ Giải thích, chuyển đổi vấn đề bằng cách khác, ngôn ngữ khác (nói,
viết, biểu tượng).
+ Diễn đạt: Cấu trúc lại tài liệu bằng vật liệu khác, theo một quan điểm
mới, cách hiểu mới (Cấu trúc lại tài liệu theo ý của mình v.v); xác định được
nguyên nhân, lấy ví dụ minh họa.
+ Ngoại suy: Suy luận từ dạng này sang dạng khác.
Mức 3. Áp dụng. Là sử dụng các phương tiện đã có để giải quyết tình
huống khác (dùng định lí, công thức để giải bài toán cụ thể).
Mức 4: Phân tích. Có khả năng phân chia, xác lập lôgic các phần tử bộ
phận; so sánh, tìm sự giống và khác nhau.
+ Tìm các bộ phận.
+ Tìm các mối quan hệ.
+ Tìm các nguyên tắc tổ chức.
Mức 5: Tổng hợp. Tập hợp, lựa chọn, sử dụng, phối hợp những kiến
thức và kĩ năng đa dạng, khác biệt lại với nhau để hoàn thành một nhiệm vụ
mới. Ở mức này có khả năng tóm tắt khái quát hoá, lập luận, sắp xếp, thiết
kế, giải thích lí do, với các mức:
+ Hoàn thành một công việc mới.
+ Xây dựng một kế hoạch hành động.
+ Rút ra các mối tương quan trừu tượng.
Mức 6: Đánh giá. Khả năng phê phán, đánh giá, lập luận thuận và
nghịch, khả năng phê bình trên cơ sở dựa vào những tiêu chí bên trong và
bên ngoài.
Thực ra, các mức về mục tiêu nhận thức do B. Bloom đưa ra thường
không có ranh giới rõ ràng và không hoàn toàn theo trật tự như trên. Vì vậy
gây khó khăn trong việc đánh giá trên thực tế. Để giản tiện hơn, ngày nay
thường quy về ba mức:
Ghi nhớ: Tương đương với biết.
Ứng dụng: Tương ứng với hiểu và áp dụng.
Giải quyết tình huống: Tương ứng với phân tích, tổng hợp, đánh giá.
* Mục tiêu cảm xúc
Theo B. Bloom, lĩnh vực cảm xúc bao gồm các mục tiêu mô tả những
biến đổi về hứng thú, thái độ, giá trị cũng như các thái độ khác và khả năng
thích nghi. Một ví dụ về mục tiêu cảm xúc: Lắng nghe bài giảng với thái
độ…..,. Đánh giá hết tầm quan trọng của……ý thức được về…….đáp lại
những tình cảm cá nhân. Đánh giá thẩm mĩ về…… Cam kết với…. Nhận ra
được tình trạng khó xử về đạo đức có dính đến…..
* Mục tiêu tâm vận
Lĩnh vực này bao gồm những kĩ năng trí tuệ và vận động trong đó có cả
những kĩ năng cảm nhận và phối hợp các giác quan. Lĩnh vực này cũng có
sáu mức:
+ Mức 1: Các hoạt động phản xạ.
+ Mức 2: Các hành động tự nhiên.
+ Mức 3: Các khả năng về thị lực.
+ Mức 4: Các khả năng về thể lực.
+ Mức 5: Sự khéo léo về vận động.
+ Mức 6: Khả năng diễn đạt phi ngôn ngữ.
Mặc dù việc đánh giá mục tiêu kết quả giảng dạy và học tập của giáo
viên, học viên là rất cần thiết và đã xác định được tiêu chí đánh giá khá chi
tiết, đầy đủ. Tuy nhiên, ngoài mục tiêu cuối cùng là kết quả dạy học, còn phải
quan tâm đến nhiều vấn đề khác khi xác định mục tiêu đánh giá. Chẳng hạn:
cách học, cách dạy, khả năng tư duy sáng tạo của học viên v.v…
12.1.3. Các bước đánh giá
Một cuộc đánh giá thường có 5 bước (5 giai đoạn):
* Bước 1: Xác định quyết định đánh giá. Những câu hỏi cần phải trả lời:
Có cần phải đánh giá vấn đề X, Y không? Khi ra quyết định triển khai đánh giá
cần đảm bảo tính quy chuẩn của việc đánh giá.
* Bước 2: Xây dựng các tiêu chí đánh giá. Trong giai đoạn này cần chỉ
rõ mục tiêu đánh giá; các tình huống được đánh giá và các biến số, các mức
độ đạt được mục tiêu và mức độ dao động của các biến số.
Đánh giá sẽ càng có giá trị khi các tiêu chuẩn đều rõ ràng, thích đáng
(đánh giá cái muốn đánh giá).
Việc thông báo cho tất cả học viên được đánh giá để tạo ra sự thống
nhất giữa người được đánh giá và người đánh giá.
* Bước 3: Thu thập các thông tin thích đáng. Tuỳ theo quyết định đưa ra
và những tiêu chí đã được công nhận để xác định những thông tin cần thu
thập, những tình huống để đánh giá và những công cụ cần thiết.
* Bước 4: Đối chiếu các tiêu chí đã được thống nhất với các thông tin
đã thu thập. Nếu các giai đoạn trước đã được thực hiện tốt thì giai đoạn này
sẽ có ít khó khăn. Việc đối chiếu tiêu chuẩn với thông tin thu được cần lưu ý
đến tỉ trọng giữa các tiêu chí. Cần thận trọng đối với những nhận định có tính
khái quát để tránh sự lạm dụng trong khái quát hoá các thông tin (khái quát
hoá cảm tính).
* Bước 5: Hình thành những kết luận cuối cùng một cách thật chính xác
trước khi quyết định công bố kết luận đánh giá.
12.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN
Có thể đánh giá kết quả học tập của học viên thông qua bài kiểm tra,
thông qua quan sát hành động của họ, cũng có thể bằng con đường phỏng
vấn trao đổi. Trong đó, phương pháp phổ biến hiện nay là thông qua các bài
kiểm tra, bài thi. Có các hình thức làm bài kiểm tra: kiểm tra vấn đáp, tự luận,
bài trắc nghiệm và bài hỗn hợp. Chúng ta sẽ dừng lại ở ba loại bài kiểm tra
trên.
12.2.1. Bài kiểm tra vấn đáp (kiểm tra miệng)
12.2.1.1. Khái niệm
Kiểm tra miệng là phương pháp đánh giá rất phổ biến trong dạy học.
Trong đó, giáo viên đưa ra các câu hỏi ngắn để học viên trả lời. Học viên có
thể được chuẩn bị, hoặc không được chuẩn bị trước câu hỏi. Căn cứ vào các
câu trả lời, giáo viên có thể đo lường và chẩn đoán các mức độ kết quả đạt
được ở học viên.
* Điểm mạnh. Điểm mạnh của bài kiểm tra miệng:
- Tính linh hoạt, cơ động. Vì vậy, có thể dùng để đánh giá kiến thức đã
được học hoặc những kiến thức mới của học viên;
- Có thể kiểm tra trí nhớ, tư duy hoặc các phẩm chất tâm lí khác;
- Có thể tiến hành trong và ngoài lớp học; dùng để đánh giá học viên
trước, trong và kết thúc khoá học v.v.
- Giá trị chẩn đoán của các câu hỏi miệng rất cao, vì giáo viên có điều
kiện trao đổi trực tiếp tới từng học viên và kích thích tư duy của họ.
* Hạn chế. Kiểm tra miệng có nhiều hạn chế.
- Trước hết, đây là phương pháp đánh giá mang đậm tính chủ quan
của giáo viên (cách đặt câu hỏi, nhận xét và đánh giá tức thời).
- Khó so sánh giữa các học viên.
- Tốn nhiều thời gian trong quá trình kiểm tra.
- Nhiều học viên ngại tiếp xúc, ngại nói trước mặt giáo viên; ảnh hưởng
đến kết quả bài thi.
12.2.1.2. Một số gợi ý khi sử dụng phương pháp đánh giá bằng vấn đáp
Do tính linh hoạt của phương pháp đánh giá bằng vấn đáp, nên không
có quy định rõ ràng chặt chẽ cho loại phương pháp này. Tuy nhiên, để nâng
cao tính khách quan và hiệu quả của phương pháp vấn đáp, giáo viên cần lưu
ý một số điểm:
Thứ nhất: Xác định rõ ràng mục đích của bài kiểm tra vấn đáp. Câu hỏi
ở đây là: Bài kiểm tra này nhằm mục đích gì? Đánh giá nhanh kiến thức của
học viên trong giờ học hay bài thi hết môn, cuối khoá? v.v. Việc xác định rõ
mục đích sẽ quy định nội dung và cách thức tiến hành.
Thứ hai: Các câu hỏi nên được soạn trước để học viên có thời gian
chuẩn bị, nhất là đối với bài thi cuối khóa. Tránh gọi học viên lên trả lời trước
khi đặt câu hỏi.
Thứ ba: Dung lượng các câu hỏi không quá dài. Nội dung câu hỏi phù
hợp với mục tiêu đánh giá. Không đề cập nhiều nội dung trong một câu hỏi.
Hạn chế các câu hỏi có tính chất học thuộc. Khuyến khích các câu hỏi suy
luận và kích thích tư duy của học viên.
Thứ tư: Câu hỏi rõ ràng, nhất quán, ngôn ngữ chính xác. Không có câu
hỏi “đánh lừa” học viên. Không đặt các câu hỏi dạng có – không.
Thứ năm: Thái độ hỏi thi của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến câu
trả lời của học viên. Không nên có thái độ “quan toà” trong lúc hỏi thi. Có thể
hỏi những câu hỏi phụ để gợi mở cho họ khi cần thiết. Tối kị “nhìn người cho
điểm” theo định kiến, cảm tính của giáo viên.
12.2.2. Bài kiểm tra tự luận
12.2.2.1. Khái niệm
Nói đơn giản, bài kiểm tra (bài thi) dạng tự luận truyền thống là bài thi
trong đó, học viên được tự do viết câu trả lời ra giấy về một chủ đề cho trước.
Dựa vào những câu trả lời được viết ra, giáo viên cho điểm hoặc xác định các
mức độ kết quả bài thi.
Cần phân biệt bài tự luận với câu hỏi tự luận ngắn trong bài trắc
nghiệm. Trong bài thi tự luận, số lượng câu hỏi ít và có tính mở. Còn trong bài
trắc nghiệm tự luận ngắn, số lượng câu hỏi nhiều và có tính xác định cao.
* Điểm mạnh của bài kiểm tra tự luận
- Một bài tự luận được viết nghiêm túc sẽ có khả năng đo lường được
các mục tiêu đã xác định trước.
- Tạo cơ hội để thể hiện khả năng tự do, độc lập suy nghĩ, phát huy tính
sáng tạo trí tuệ và cảm xúc của học viên.
- Đánh giá được kiến thức và thái độ của người học.
* Hạn chế của bài tự luận
- Nội dung bài thi khó bao quát được toàn bộ chương trình học, thường
chỉ tập trung vào một số ít phần chính.
- Khó xác định các tiêu chí đánh giá. Bài thi khó chấm và chấm lâu.
- Khó đảm bảo tính khách quan trong khâu chấm bài, do bị chi phối
nhiều bởi tính chủ quan của người chấm.
13.2.2.2. Một số gợi ý đối với giáo viên khi sử dụng phương pháp bài thi tự luận
- Xác định rõ ràng mục tiêu đánh giá và tiên lượng khả năng (đặc biệt là
khả năng viết) của học viên để xác định loại câu hỏi tự luận cho phù hợp.
- Cần đảm bảo câu hỏi tự luận phải phù hợp với mục tiêu học tập và nội
dung đã dạy.
- Sử dụng nhiều câu khuyến khích tư duy độc lập sáng tạo và cảm xúc,
thái độ của học viên.
- Sắp xếp các câu hỏi trong bài tự luận theo thứ tự từ dễ đến khó, để
tạo cơ hội cho mọi học viên đều làm được những câu dễ.
- Quy định rõ thời gian và điểm số trong mỗi câu hỏi của bài tự luận.
- Khi chấm bài phải có đáp án cụ thể, chi tiết và cố gắng bám sát đáp
án.
12.2.3. Bài trắc nghiệm
Xu hướng phổ biến hiện nay trong đánh giá kết quả học tập của học
viên là sử dụng phương pháp bài thi trắc nghiệm.
13.2.3.1. Khái niệm
* Phương pháp đánh giá bằng bài thi trắc nghiệm là phương pháp sử
dụng bài trắc nghiệm làm công cụ để đánh giá kết quả học tập của học viên,
theo mục tiêu đã được định trước.
Trong lĩnh vực giáo dục, người ta thường chia trắc nghiệm thành hai
loại: trắc nghiệm năng lực và trắc nghiệm kết quả học tập. Trắc nghiệm năng
lực là các trắc nghiệm đo năng lực của cá nhân như trắc nghiệm trí tuệ, trắc
nghiệm năng khiếu v.v. Trắc nghiệm kết quả học tập là trắc nghiệm đánh giá
tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ của học viên trong học tập.
Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng kết quả trắc nghiệm, có thể chia trắc
nghiệm học tập thành hai loại: trắc nghiệm đối chiếu và trắc nghiệm theo tiêu
chí. Trắc nghiệm đối chiếu dùng để so sánh kết quả học tập giữa các học viên
trong cùng nhóm học tập, còn trắc nghiệm theo tiêu chí dùng để xác định khả
năng hay kết quả học tập của học viên so với mục tiêu đề ra ban đầu. Nó
được coi là công cụ để đo mức độ đạt tới mục tiêu dạy học về phía học viên.
Các câu hỏi trong trắc nghiệm đối chiếu phải có khả năng phân biệt về kết
quả học tập giữa các học viên. Vì vậy thang điểm đánh giá thường phải rộng
(điểm 100 chẳng hạn).
Dựa vào tính chất của nội dung môn học có thể có trắc nghiệm viết
(trắc nghiệm ngôn ngữ), trắc nghiệm phi ngôn ngữ (trắc nghiệm hành động)
và trắc nghiệm dùng lời (trắc nghiệm nói).
12.2.3.2. Điểm mạnh và hạn chế của trắc nghiệm
* Điểm mạnh
Bài trắc nghiệm có thể đo được dải khá rộng các mức độ kết quả học
tập của học viên theo mục tiêu: biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp và
đánh giá. Nó cũng có thể đo được các mục tiêu cảm xúc và tâm vận của học
viên.
Tính khách quan cao, ít phụ thuộc vào trạng thái chủ quan của người
đánh giá do tính quy chuẩn của nó.
Có khả năng bao quát cả chương trình nội dung môn học.
Rất tiện lợi cho việc đánh giá trên diện rộng học viên do dễ chấm bài,
nhất là trong điều kiện có sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại.
* Hạn chế
Hạn chế lớn nhất của trắc nghiệm là khó đánh giá chiều sâu trong nhận
thức của học viên, nhất là đối với những tri thức đòi hỏi phải có sáng tạo của
học viên (về phương diện này, bài trắc nghiệm hạn chế hơn bài tự luận).
Việc soạn thảo các câu hỏi và hình thành bài trắc nghiệm khó, đòi hỏi
giáo viên phải có kĩ thuật, có kinh nghiệm. Do tính quy chuẩn chặt chẽ, nên
quá trình hình thành bài trắc nghiệm tốn nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn
phức tạp; tốn kinh phí hơn so với việc đánh giá bằng tự luận.
12.2.3.3. Các loại câu hỏi trắc nghiệm
Yếu tố quyết định bài trắc nghiệm là các câu hỏi. Có nhiều loại câu hỏi
trong một bài trắc nghiệm. Tuy nhiên, phổ biến hơn cả là những loại câu hỏi
sau:
Câu hỏi lựa chọn
Câu lựa chọn là loại câu hỏi, trong đó có phần gốc và phần trả lời. Phần
gốc là một câu dẫn, tạo cơ sở cho sự lựa chọn. Phần trả lời là các phương án
cho sẵn, trong đó có một phương án đúng nhất theo nội dung của phần dẫn,
còn các phương án khác có tác dụng gây nhiễu. Trong một câu hỏi lựa chọn,
tốt nhất là nên có từ 4 – 5 phương án lựa chọn.
Ví dụ: Nhóm đối tượng được ưu tiên trong công tác truyền thông dân số
là:
a. Nam giới lứa tuổi trung niên trở tên.
b. Các cặp vợ chồng, phụ nữ ở tuổi sinh đẻ. (x)
c. Nữ giới ở tuổi sinh đẻ.
d. Các nhà cung ứng dịch vụ SKSS/ KHHGĐ.
Một số yêu cầu khi soạn câu hỏi lựa chọn:
Thứ nhất: Phần gốc và phần lựa chọn phải trên cùng một nội dung
đánh giá. Chủ ngữ phải phù hợp với động từ.
Thứ hai: Các phương án lựa chọn phải tương tự nhau về độ khó, độ dài
của câu.
Thứ ba: Hạn chế đến mức thấp nhất phương án được chọn có dạng:
tất cả những cái đó, hoặc không cái nào cả. Đơn giản vì những phương án
như vậy dễ làm học viên hiểu lầm, coi đó như là gợi ý.
Thứ tư: Chỉ nên có một lựa chọn đúng. Điều này tạo thuận lợi cho việc
chấm điểm.
Thứ năm: Vị trí của phương án trả lời đúng cần được đặt ngẫu nhiên
trong các phương án khác. Tránh cố định một vị trí (a, hoặc c, hoặc d chẳng
hạn) trong các câu hỏi lựa chọn.
Trong một bài trắc nghiệm nên có nhiều câu hỏi lựa chọn.
Câu hỏi đúng – sai
Câu hỏi đúng - sai là loại câu khẳng định hoặc phủ định về một vấn đề
nào đó. Học viên phải đọc, suy nghĩ và nhận định lời khẳng định hoặc phủ
định đó là đúng hay sai.
Ví dụ: Vi rút HIV không lây qua đường truyền máu: Đúng
Sai (x)
Câu hỏi đúng – sai rất phù hợp để hỏi những sự kiện, thuật ngữ và các
kiến thức có quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, chúng không phù hợp khi dùng để
đo các kiến thức có tính suy luận cao. Mặt khác, câu đúng– sai dễ khuyến
khích người trả lời phỏng đoán. Vì vậy, trong bài trắc nghiệm không nên dùng
nhiều các câu hỏi này.
* Một số yêu cầu khi soạn thảo câu đúng – sai.
Thứ nhất: Ngôn ngữ rõ ràng, ngắn gọn, súc tích.
Thứ hai: Câu trả lời (đúng – sai) phải là các sự kiện, chứ không phải là
ý kiến. Nếu câu hỏi là quan hệ nhân quả thì nên chọn quan hệ có một nguyên
nhân rõ ràng.
Thứ ba: Tránh dùng các câu phủ định như “không”, “không phải” hoặc
các từ “đôi khi”, “luôn luôn”, có thể, vài ba, thường thường. Vì chúng dễ gây
hiểu lầm cho học viên.
Thứ tư: Bố trí các câu đúng và câu sai có dụng ý, nhằm tránh sự trùng
lặp các câu đúng hoặc sai theo quy luật.
Câu ghép đôi
Câu ghép đôi là câu hỏi có hai phần: phần dẫn và phần trả lời. Phần
dẫn thường ở bên trái, là các câu, các mệnh đề nêu thuật ngữ, nội dung, định
nghĩa v.v. Phần trả lời ở bên phải, cũng bao gồm các câu, mệnh đề v. v… mà
nếu được ghép đúng vào mệnh đề dẫn ở bên trái sẽ trở thành một phương án
đúng, một ý hoàn chỉnh. Nhiệm vụ của học viên là ghép mệnh đề có trong
phần trả lời vào mệnh đề tương ứng ở phần dẫn. Để tăng độ khó của câu trắc
nghiệm, số câu phần trả lời thường nhiều hơn số câu phần dẫn.
Ví dụ: Hãy ghép tên Thủ đô với tên Nước tương ứng:
Nước Thủ đô
1) Việt Nam
2) Ấn Độ
3) Mexico
4) Trung Quốc
a) Xeun
b) Hà Nội
c) Bắc Kinh
d) Niu Đêli
e) Mexico
f) Băng Cốc
g) Bom Bay
h) Thượng Hải
Các câu ghép đôi có thể đánh giá được mức độ hiểu các dữ kiện, nhất
là các môn thuộc khoa học xã hội. Tuy nhiên, giống câu hỏi lựa chọn, các câu
trắc nghiệm ghép đôi khó phản ánh tư duy cao cấp của học viên. Mặt khác,
loại câu hỏi này khó soạn thảo.
+ Một số gợi ý khi soạn câu hỏi ghép đôi:
Thứ nhất: Đưa ra các chỉ dẫn rõ ràng về cách ghép hai mệnh đề. Cần
nhớ, phần dẫn thường ở bên trái còn phần trả lời ở bên phải; ghép phải sang
trái.
Thứ hai: Giới hạn chặt chẽ về nội dung trong câu hỏi.
Thứ ba: Nên hạn chế các câu trong phần dẫn. Chỉ nên 4 – 5 câu dẫn là
vừa.
Câu hỏi điền thế (điền khuyết, điền chỗ trống).
Câu hỏi điền thế là loại câu hỏi trong đó, có một câu hoặc một đoạn
văn có nhiều chỗ trống, nhiệm vụ của học viên là phải bổ sung một từ, một
cụm từ, số liệu hay kí hiệu còn thiếu để hoàn thành câu hoặc đoạn văn đó.
Ví dụ: Trong dân số học, một gia đình có số lượng thành viên…… (1)
…. được gọi là gia đình có quy mô lớn. Còn gia đình có từ…… (2)… được gọi
là gia đình nhiều thế hệ.
Câu hỏi điền thế có nhiều ưu điểm: dễ soạn thảo và thích hợp để đo
lường các dữ kiện. Vì các câu trả lời không cho sẵn nên tránh được sự gợi ý,
đoán mò. Nhược điểm của loại câu này là các phần hoàn thành không thể
hiện hết tư duy sáng tạo và khó cho điểm khi chấm.
+ Một số gợi ý khi soạn câu hỏi điền thế.
Thứ nhất: Hạn chế số lượng chỗ trống trong câu (chỉ tối đa 3– 4 chỗ).
Vì nếu để nhiều chỗ trống dễ làm ảnh hưởng tới nội dung của câu gốc, làm
rối học viên và tạo điều kiện cho họ đoán mò.
Thứ hai: Đoạn dài của các phần trống nên bằng nhau, để tránh sự hiểu
lầm của học viên.
Thứ ba: Phần trống chỉ có một lời giải đúng. Đây là yêu cầu khó đối với
việc soạn thảo loại câu hỏi này. Thông thường các phần để trống có thể có
một số câu trả lời có giá trị gần đúng. Học viên có thể chọn một trong số đó,
nhưng không phù hợp với đáp án. Những trường hợp như vậy, người chấm
sẽ gặp khó khăn. Để khắc phục, nên chọn các câu có nội dung tri thức tương
đối xác định.
Câu trả lời ngắn
Câu trả lời ngắn là câu hỏi trong đó các câu trả lời có tính xác định cao.
Người trả lời có thể ghi kết quả rất nhanh ra giấy hoặc trên máy vi tính v.v.
Ví dụ: Hãy nêu ngắn gọn các biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV.
Câu trả lời ngắn khác câu tự luận ở chỗ, trong câu trả lời ngắn các
phương án trả lời rất ngắn gọn, cung cấp thông tin, sự kiện có trong bài học.
Câu hỏi trả lời ngắn có nhiều điểm mạnh của câu hỏi khách quan. Mặt
khác tạo cơ hội để học viên linh hoạt trong cách trả lời. Các câu hỏi loại này
cũng dễ soạn thảo. Độ tin cậy của người chấm bài cũng cao hơn so với bài tự
luận.
Trên đây là các loại câu hỏi thông dụng, trong đó câu lựa chọn được
dùng phổ biến hơn. Tuy nhiên, không nên sử dụng chỉ một loại câu hỏi mà
cần kết hợp nhiều loại câu trong một bài kiểm tra.
12.2.3.4. Gợi ý các bước soạn thảo bài trắc nghiệm
Việc xây dựng một bài trắc nghiệm hoàn chỉnh cần được tiến hành theo
các bước sau:
Bước 1: Nghiên cứu lí luận và kĩ thuật xây dựng trắc nghiệm.
Bước 2: Nghiên cứu mục tiêu, nội dung môn dạy. Phân tích nội dung
môn dạy thành những đơn vị tri thức cơ bản, nhỏ nhất.
Bước 3: Dự kiến câu hỏi các loại sẽ được soạn thảo. Lập ma trận hệ
thống câu hỏi các loại.
Bước 4: Soạn câu hỏi các loại dựa trên cơ sở nội dung đã được phân
tích và bảng phân phối các loại câu hỏi.
Bước 5: Thử nghiệm các câu hỏi để xác định các tham số kĩ thuật của
chúng.
Bước 6: Hình thành bài thi trắc nghiệm từ những câu hỏi đạt yêu cầu.
12.2.3.5. Yêu cầu của bài trắc nghiệm
Một bài trắc nghiệm đạt tiêu chuẩn (trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá) cần đạt
được các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Có độ giá trị. Tức là nội dung các câu hỏi phải phản ánh đúng
cái định đo lường, đánh giá. Độ giá trị bao gồm giá trị về đo lường (phản ánh
đúng thực trạng mức độ nội dung định đo) và giá trị chẩn đoán (xác định
được nguyên nhân và dự báo xu thế phát triển). Để đảm bảo độ giá trị cao
của câu hỏi và của bài trắc nghiệm, khi soạn thảo cần thực hiện triệt để các
bước đã nêu trên.
Thứ hai: Độ tin cậy về kết quả. Độ tin cậy phản ánh mức độ ổn định của
bài trắc nghiệm hay mức độ chính xác của các kết quả đo lường. Độ tin cậy
của bài trắc nghiệm được xác định bằng độ lệch giữa điểm kì vọng (điểm số
quan sát trên lí thuyết của bài trắc nghiệm) với điểm số thực tế của học viên
đạt được qua bài trắc nghiệm. Nếu điểm số thực thấp hoặc cao hơn điểm
quan sát ở mức có nghĩa về phương diện thống kê, thì độ tin cậy của bài trắc
nghiệm thấp. Để xác định độ tin cậy của bài trắc nghiệm, có thể tiến hành
theo nhiều cách: a) Chia đôi bài trắc nghiệm (các câu chẵn thành một bộ, các
câu lẻ thành một bộ) cho hai nhóm học viên có trình độ tương đương nhau
làm. Nếu kết quả của hai bài trắc nghiệm tương đương nhau là được. b) So
sánh kết quả bài trắc nghiệm với bài trắc nghiệm khác tương đương về nội
dung, độ khó và các tham số khác; c) Trắc nghiệm hai lần trên cùng nghiệm
thể học viên.
Thứ ba: Độ khó của câu trắc nghiệm và của bài trắc nghiệm.
Độ khó phản ánh số người thực hiện được bài trắc nghiệm trong cùng
thời điểm. Nếu ít người thực hiện được thì độ khó cao, ngược lại, mọi người
đều làm được thì độ khó thấp.
Cách đơn giản để tìm độ khó của câu trắc nghiệm là tính % số người
làm được câu đó so với tổng số nghiệm thể tham gia, kết hợp với độ may rủi
của câu hỏi.
Công thức đơn giản để xác định độ khó của câu trắc nghiệm:
ĐK = (T + 100)/2
Trong đó: T là tỉ lệ may rủi được tính bằng công thức:
T = 100/n (n = số lựa chọn của mỗi câu).
Công thức tính độ khó của cả bài trắc nghiệm: ĐK = điểm trung bình
của bài trắc nhiệm / tổng số điểm cả bài trắc nghiệm x 100%.
Thứ tư: Độ phân biệt. Độ phân cách (phân biệt) là khả năng phân loại
học viên của câu trắc nghiệm: học viên giỏi, khá, trung bình và yếu v.v. Một
bài trắc nghiệm tốt là bài trắc nghiệm có độ phân cách hợp lí, tức là phân phối
hợp lí các nghiệm thể ở các điểm số của thang đánh giá.
Trên đây là các loại bài kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học viên.
Mỗi loại bài đều có điểm mạnh và hạn chế nhất định. Vì vậy, ngày nay, trong
các kiểm tra đánh giá hết môn học, cuối khoá học, người ta thường dùng bài
đánh giá hỗn hợp: kết hợp giữa trắc nghiệm với tự luận. Có thể đây là cách
đánh giá hợp lí, phát huy được thế mạnh của cả hai loại bài này.
12.2.4. Các hình thức cho điểm bài kiểm tra đánh giá
Suy cho cùng mục đích tối cao của bài kiểm tra là giúp học viên xác lập
được thực trạng mức độ nắm vững kiến thức của mình theo các chuẩn đã
được qui định: nhận ra các khiếm khuyết trong kiến thức và khắc phục chúng.
Điều này không chỉ phụ thuộc vào nội dung và cách thức tiến hành bài kiểm
tra, mà còn phụ thuộc phần lớn vào cách nhận xét và cho điểm của giáo viên.
12.2.4.1. Nhận xét của giáo viên
Mặc dù, việc nhận xét của giáo viên về bài làm của học viên là công
việc nặng nhọc, nhưng đó là công việc thể hiện trách nhiệm cao và là hình
thức cho điểm hiệu quả nhất đối với bài kiểm tra của học viên. Bởi lẽ, trong lời
nhận xét của giáo viên hàm chứa sự xác nhận mức độ hiện có của học viên;
sự phê phán những khiếm khuyết và nguyên nhân của nó; các gợi ý về
hướng khắc phục.
Một lời phê phán tốt của giáo viên là:
Bao gồm cả nhận xét về những điểm đã đạt được và điểm chưa đạt
được trong bài làm của học viên so với mục tiêu và nội dung của bài kiểm tra.
Đưa ra được những gợi ý về nguyên nhân của những khiếm khuyết (về
kiến thức, phương pháp, thái độ v.v) và cách khắc phục trong bài làm lại.
Nhận xét có giá trị động viên. Chứ không phải là lời phán xét. Rất nhiều
giáo viên không ý thức hết ảnh hưởng của lời nhận xét đối với học viên (kể cả
học viên nhỏ và lớn tuổi). Hãy thử so sánh ba lời nhận xét sau về một bài làm
chưa đạt yêu cầu của học viên:
- Không đạt yêu cầu. Không hiểu gì cả. Do lười học.
- Không đạt yêu cầu.
– Các câu 1 và 2 đã làm tốt, còn các câu 3 và 4 hãy suy nghĩ và làm lại
để đạt điểm cao hơn.
12.2.4.2. Chấm điểm
Rất nhiều giáo viên hiểu và sử dụng đơn giản điểm số của bài kiểm tra
đánh giá như là công cụ để xác nhận kết quả học tập của học viên. Trong khi
đó, trên thực tế, điểm số không chỉ là sự xác nhận mà còn có giá trị động viên
rất lớn. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào ý đồ và cách chấm điểm của giáo
viên.
* Các loại điểm số. a) Điểm xác nhận và để thông báo về mức độ kết
quả của học viên so với người.khác (đánh giá đối chiếu) hay so với mục tiêu
(đánh giá tiêu chí); b)Điểm số điều chỉnh, nhằm điều chỉnh hành động học tập
của học viên (đánh giá chẩn đoán).
* Các hình thức chấm điểm. Cả điểm xác nhận và điểm điều chỉnh đều
có thể được thể hiện bằng các hình thức điểm số sau:
+ Điểm số thập phân, bách phân (điểm 10 hoặc điểm 100);
+ Điểm bằng chữ cái: A, B, C, D, E, F
+ Lời phê: – đạt– không đạt.
+ Phân loại: xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, yếu, kém.
+ Hỗn hợp: – Điểm số kết hợp với phân loại.
– Chữ cái với phân loại.
* Một số điểm lưu ý khi chấm điểm.
Điểm được chia thành các phần trên cơ sở thời lượng học viên cần để
hoàn thành phần đó.
Các học viên cần phải được biết rõ điểm số của từng phần trước khi
làm bài.
Nên chấm phần làm tốt trước, sau đó đến những phần khiếm khuyết.
Nếu điểm số nhằm mục đích phân hạng hay phân loại thì bài kiểm tra
nên cấu trúc theo độ khó tăng dần, thay vì có một số câu dễ và một số câu
khó.
Nếu điểm số nhằm điều chỉnh hành vi học tập của học viên, thì nên
dành nhiều điểm cho các câu hỏi khó.
Tóm lại, đánh giá và điểm số của đánh giá là cái gậy nhọn hai đầu. Giá
trị của nó tuỳ thuộc vào mục đích và cách sử dụng của người giáo viên. Nếu
người giáo viên sử dụng đúng mục đích và có phương pháp thì nó trở thành
công cụ rất đắc lực để đánh giá và động viên học viên. Ngược lại, nếu sử
dụng không đúng mục đích và phương pháp không tốt sẽ rất nguy hại, dẫn
đến xu hướng thực dụng trong dạy học: cái gì được đánh giá thì dạy và học,
cái gì không được đánh giá thi bỏ. Mặt khác, việc quy gán điểm số nếu không
được cân nhắc cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng dán mác không đúng, tạo ra
điểm số ảo. Hậu quả là nhiều học viên trở thành học dốt và bỏ học vì điểm
thấp “kinh niên”; ngược lại, sẽ tạo ra hội chứng khá và giỏi” trong dạy học. '
Cả hai xu hướng đều ảnh hưởng không tốt đến sự lành mạnh và trong sáng
của dạy học.
Chương 13. TỔ CHỨC MỘT KHÓA HỌCCác chương trước chúng ta đã đề cập nhiều đến lĩnh vực phương pháp
dạy học và phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên. Chương này
sẽ bàn riêng về kĩ thuật tổ chức một khoá học như thế nào.
Khoá học là thuật ngữ để chỉ khoảng thời gian hoàn thành một chương
trình học tập tại cơ sở. Tuỳ theo tính chất và nội dung học thuật mà các khoá
có tên gọi khác nhau: khoá đào tạo,khoá bồi dưỡng, khoá huấn luyện v.v, với
thời gian kéo dài từ vài ngày (khoá bồi dưỡng) đến 4 – 6 năm (khoá đào tạo
cử nhân của các trường đại học). Đào tạo là quá trình hình thành và phát triển
có hệ thống, có phương pháp các tri thức khoa học phổ thông và nghề nghiệp
cho học viên, bao gồm những kiến thức khoa học, các kĩ năng và phương
pháp hành động, các giá trị và thái độ đối với cuộc sống cá nhân và xã hội.
Bồi dưỡng (theo nghĩa hẹp) là trang bị thêm cho học viên kiến thức và kĩ
năng, phương pháp hành động, nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng
lực hoạt động của học viên trong lĩnh vực cụ thể: khoá bồi dưỡng học viên
giỏi văn, toán v.v; khoá bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền về dân số – gia
đình và trẻ em v.v. Khoá tập huấn là một hình thức của khoá bồi dưỡng,
nhưng trong chương trình học tập. học viên được chú ý hơn đến các kì năng
và phương pháp hành động: tập huấn kĩ năng giao tiếp của cán bộ truyền
thông dân số, tập huấn kĩ năng giải quyết tình huống của giám đốc doanh
nghiệp v.v. Do mục tiêu, nội dung, tính chất khác nhau, nên việc tổ chức các
khoá đào tạo, khoá bồi dưỡng hoặc tập huấn có nhiều điểm khác nhau. Tuy
nhiên ở mức khái quát, việc tổ chức các khoá học trên cũng có nhiều điểm
chung. Tài liệu này cố gắng đưa ra những điểm chung đó, đồng thời hướng
nhiều đến kĩ thuật tổ chức một khoá bồi dưỡng hoặc tập huấn và được quy
ước chung là khoá học.
13.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO MỘT KHÓA HỌC13.1.1. Những công việc cần chuẩn bị trước ít nhất ba tháng
Để chuẩn bị mở một khoá học, có quá nhiều việc phải làm. Những công
việc dưới đây chỉ là tối thiểu, cần thiết và phải được thực hiện ít nhất trong
thời gian từ 3 – 6 tháng trước ngày mở lớp, nếu không muốn khoá học kém
hiệu quả.
13.1.1.1. Khảo sát thực tiễn và hình thành dự án mở khoá học
Mọi khoá học, dù là bồi dưỡng ngắn (l tuần) hoặc đào tạo dài hạn (đào
tạo cử nhân, thạc sĩ v.v) đều phải được xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn. Vì
vậy để đi đến quyết định có mở khoá học hay không, việc làm đầu tiên của
nhà tổ chức là phải nghiên cứu thực tiễn. Những câu hỏi cần phải trả lời đối
với hoạt động này:
Lĩnh vực chuyên môn dự kiến đào tạo và bồi dưỡng, trong thực tiễn có
nhu cầu không? Nếu có thì ở mức nào (cấp bách, chưa cấp bách)?
Nếu khoá học được mở sẽ giải quyết được vấn đề gì trong thực tiễn và
trong khoa học?
Ai sẽ được hưởng quyền lợi khi khoá học được mở: Người dạy? Người
học? Cả hai hay một tổ chức hoặc. cá nhân nào khác?
Nếu khoá học được mở sẽ có bao nhiêu người tham gia? Trình độ
chuyên môn, đặc điểm tâm lí và hoàn cảnh xã hội của những đối tượng đó
như thế nào?
Quy mô của khoá học? Các yêu cầu về khoa học, nhân lực và nguồn
ngân sách đáp ứng việc mở khoá học theo quy định hiện hành? Các điều kiện
khách quan khác (địa điểm, thời gian, cơ sở vật chất, trang thiết bị v.v.) để mở
khoá học?
Nếu khoá học được mở thì sau khi kết thúc, người học sẽ được quyền
lợi gì về chuyên môn, về sự thăng tiến nghề nghiệp và các chính sách xã hội
khác?
Nếu khoá học được mở thì cơ quan nào quản lí về hành chính, nhà
nước? Tổ chức hoặc cá nhân nào thực hiện? Tiềm lực khoa học, nhân sự và
tài chính của cơ sở đào tạo có khả năng đảm nhận được công việc mở khoá
học? Những tổ chức và cá nhân nào tham gia tài trợ và các mức độ tài trợ?
v.v.
Đánh giá lần cuối hiệu quả giáo dục, khoa học, kinh tế, xã hội của việc
tổ chức khoá học?
Sau khi hình thành quyết định mở khoá học, nhất thiết phải xây dựng
kế hoạch mở khoá học và tiến độ thực hiện các công việc cần làm. Trong bản
kế hoạch, những công việc sau đây phải được đề ra và thực hiện một cách cụ
thể.
13.1.1.2. Xác định và công khai mục tiêu của khoá học
Khi xác định mục tiêu của khoá học cần nêu cụ thể các mức độ của
mục tiêu: a) Mục tiêu tổng quát của khoá học là gì? (nếu là đào tạo thì mô
hình kết quả đào tạo là gì? Nếu là khoá bồi dưỡng thì bổ sung, nâng cao và
hoàn thiện cái gì?); b) Mục tiêu cụ thể của khoá học? Các câu hỏi ở đây là:
Người học sẽ đạt được kiến thức gì? Mức độ (biết, hiểu và vận dụng như thế
nào); Hình thành và phát triển kĩ năng hành động thực tiễn và tư duy nào?
Hình thành, thay đổi giá trị và thái độ nào? Khi xác định các mục tiêu trên cần
lưu ý đến đặc điểm học viên: có đúng mục tiêu khoá học dành cho đối tượng
học viên này không? Họ cần những thứ đó để làm gì? v.v
Sau khi mục tiêu đã được xác định cần được công khai, để các đối
tượng được hưởng lợi đều biết và quyết định: mình có đi học hay không?
13.1.1.3. Thiết kế chương trình, nội dung khoá học, sách giáo khoa, tài liệu học tập và các học liệu khác
* Sau khi xác định mục tiêu, cần phải thiết kế chương trình của khoá
học và các phương tiện. Chương trình một mặt phải phù hợp và đáp ứng mục
tiêu của khoá học, mặt khác cần tuân thủ các yêu cầu có tính pháp lí của
chương trình đào tạo hay bồi dưỡng, Cụ thể:
Phải thể hiện được đầy đủ năm yếu tố: a) Mục tiêu dạy học của
chương trình; b) Nội dung dạy học; c) Phương pháp dạy học; d) Quy trình
triển khai: e) Đánh giá kết quả của khoá học.
Thể hiện rõ quan điểm tiếp cận của người tổ chức khoá học: chủ yếu
cung cấp nội dung kiến thức; hình thành và phát triển kĩ năng hay chủ yếu
phát triển toàn diện các khả năng của học viên.
Chương trình phải cụ thể đến từng môn học, bài học, buổi học. Trong
đó phải thể hiện rõ:
– Mục tiêu của bài học.
- Nội dung.
– Phương pháp dạy và học.
- Các phương tiện dạy học.
- Các tài liệu giáo khoa, tài liệu học tập và hướng dẫn học tập.
- Các câu hỏi, bài tập kiểm tra, đánh giá.
- Phải được Hội đồng khoa học của cơ sở đào tạo thông qua và được
cấp có thẩm quyền phê duyệt về mặt pháp lí.
* Trên cơ sở bản chương trình khoá học đã được phê duyệt, nhà tổ
chức cần có kế hoạch thiết kế nội dung khoá học, bao gồm:
- Biên soạn nội dung cho cả khoá học, cho từng chuyên đề và từng bài
học.
- Chuẩn bị tài liệu học tập: sách giáo khoa (nếu có), tài liệu giảng dạy,
tài liệu cầm tay, máy móc, thiết bị kĩ thuật và các dụng cụ học tập khác cần
phát cho học viên.
- Lựa chọn phương pháp dạy học và phương tiện dạy học phù hợp cho
cả khoá, từng bộ môn và từng bài.
- Xác định nội dung công việc học viên phải thực hiện trong cả khoá
học, trong từng chuyên đề và trong các bài học.
- Xây dựng các công cụ đánh giá cho cả khoá học, cho từng chuyên đề
và cho từng bài đối với cả người học và người dạy.
Quá trình thiết kế nội dung dạy học, biên soạn tài liệu, sách giáo khoa
và các học liệu cần thiết, phải thường xuyên trả lời câu hỏi: những nội dung,
phương pháp, phương tiện dạy học được thiết kế có đáp ứng được mục tiêu
của khoá học không? Có phù hợp với đặc điểm tâm lí– xã hội của người học
không?
13.1.1.4. Lựa chọn phương thức tổ chức khoá học
Một vấn đề rất quan trọng đối với các khoá bồi dưỡng ngắn ngày là xác
định phương thức triển khai. Câu hỏi cần phải trả lời là khoá học sẽ được
thực hiện theo phương thức nào? Học tập trung cả khoá hay phân tán thành
các nhóm nhỏ? Học lí thuyết trong cả đợt hay tham quan thực tế, thực hành ở
các cơ sở? v.v.Việc xác định rõ phương thức triển khai khoá học sẽ quyết
định hàng loạt việc làm tiếp theo.
13.1.1.5. Công tác tuyển sinh
Suy cho cùng, mục tiêu của việc mở các khoá học là nhằm nâng cao
năng lực hoạt động của các cá nhân. Các tổ chức trong một lĩnh vực nhất
định. Có liên quan trực tiếp tới lợi ích của họ. Hiệu quả của khoá học được
xác định ở chỗ, người học sau khi kết thức khoá học có áp dụng những kiến
thức kĩ năng và phương pháp mới học được vào hoạt động của mình không?
Điều này liên quan rất nhiều đến việc chọn học viên trong các khoá học.
Những câu hỏi được đặt ra trong công tác tuyển sinh cho một khoá học: Khoá
học này dành cho đối tượng nào? Những kiến thức, kĩ năng và phương pháp
hoạt động mà khoá học cung cấp có phù hợp với họ không? (họ có đủ khả
năng để tiếp thu nội dung học tập không? Họ cần phải có kinh nghiệm gì
trước khi đi học?); Họ có đủ điều kiện vật chất để theo học không (thời gian,
kinh phí. điều kiện địa lí v.v)? Họ có thực sự hào hứng với nội dung và
phương thức của khoá học không? Họ có được ủng hộ về mặt pháp lí khi đi
học không?
13.1.1.6. Chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất và nguồn tài chính
Đây thực sự là công việc bếp núc của việc mở một khoá học: với hàng
núi việc làm “không tên”. nhưng có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của
khoá học. Có thể khái quát thành các nhóm công việc sau:
* Nhóm công việc chuẩn bị địa bàn khoá học: Học ở đâu? Các điều kiện
kinh tế, xã hội, dân cư của nơi sẽ mở lớp? Chính quyền và nhân dân sở tại có
chấp thuận hay không? Địa bàn tham quan thực tế, thực hành ở đâu? Cơ sở
vật chất phục vụ cho hoạt động này có đảm bảo không?
* Nhóm công việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy và học. Phòng
học và các trang thiết bị cho việc dạy và học (bàn ghế, bảng và các thiết bị kĩ
thuật cần thiết khác)? Điều kiện ăn ở và sinh hoạt của giáo viên và học viên:
Khách sạn hay nhà ở nội trú? Cơ sở vật chất và điều kiện phục vụ cho sinh
hoạt và giải trí sau thời gian học (bệnh viện: nhà văn hoá v v)? Điều kiện giao
thông trong quá trình học tập?
* Nhóm công việc chuẩn bị về tài chính: Xác định nguồn cấp kinh phí và
khả năng duyệt chi. Các thủ tục pháp lí về tài chính. Dự trù kinh phí, các
khoản thu và chi cho khoá học. bao gồm:
- Các khoản thu từ ngân sách nhà nước và từ các nguồn ngoài ngân
sách nhà nước (kể cả nguồn đóng góp từ học viên).
- Các khoản chi phí đi lại, ăn ở của cán bộ, giảng viên và học viên trong
cả khoá học.
- Tiền thuê chuyên gia giảng dạy và hướng dẫn học viên (nếu có).
- Tiền thuê cơ sở vật chất phục vụ khoá học: phòng học, trang thiết bị kĩ
thuật, các phương tiện đi lại, khách sạn
- Tiền biên soạn, in ấn các loại tài liệu.
- Tiền văn phòng phẩm, bưu phẩm, thông tin liên lạc v.v.
- Các khoản chi khác
13.1.1.7. Lên kế hoạch chọn người điều phối và giáo viên giảng dạy
* Chọn người tổ chức, điều phối.
Tổ chức, điều phối một khoá học là công việc bận rộn và phức tạp. Vì
vậy người tổ chức cần đáp ứng những yêu cầu sau:
- Hiểu biết rõ về nội dung của khoá học và đã hoạt động trong lĩnh vực
này.
- Có trình độ được đào tạo thuộc lĩnh vực chuyên môn mà khoá học
được mở.
- Có kinh nghiệm tổ chức về nhân sự, tốt nhất là chọn người đã có kinh
nghiệm tổ chức các khoá học tương tự.
- Có phẩm chất nhân cách tốt, đặc biệt là khả năng tổ chức, quản trị
nhân sự và khả năng giao tiếp.
- Sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm và hoàn thành trách nhiệm.
* Chọn thư kí và trợ lí điều hành
Tổ chức một khoá học có nhiều công việc mang tính thừa hành, nhà tổ
chức hay người điều phối không thể làm hết được. Vì vậy cần phải có đội ngũ
giúp việc là các trợ lí. Số lượng trợ lí tuỳ thuộc vào tính chất và thời gian của
khoa học. Một khoá bồi dưỡng ngắn ngày thường có hai trợ lí: thư kí nội
dung, chịu trách nhiệm các công việc chuẩn bị về nội dung khoá học và trợ lí
hành chính, tài vụ, giải quyết các công việc hành chính và tài chính của cá
khoá học.
* Tuyển chọn giáo viên
Khi mục tiêu, chương trình và nội dung khoá học được thiết kế và phê
duyệt thì vấn đề quan trọng là đội ngữ giảng viên. Trong thực tiễn, có nhiều
giáo viên thực hiện được yêu cầu công việc giảng dạy của khoá học với các
mức độ khác nhau. Vì vậy, tuỳ theo yêu cầu chuyên môn và khả năng tài
chính để chọn nguồn giảng viên. Tuy nhiên, thông thường, việc chọn giáo
viên cho một khoá học cần theo thứ tự ưu tiên:
Trình độ chuyên môn của giáo viên. Các giáo viên được chọn phải là
người:
+ Có khả năng giảng dạy năng động, hấp dẫn.
+ Có kinh nghiệm công tác và chuyên môn trong chuyên đề của khoá
học.
+ Có trình độ học vấn.:
+ Sẵn sàng làm việc trong khuôn khổ của chương trình chuyên môn đã
được xác định trong khoá học.
Các điều kiện ngoài chuyên môn của giáo viên:
+ Cán bộ của cơ sở đào tạo.
+ Chuyên gia các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu.
+ Các tổ chức chính phủ, phi chính phủ.
+ Các cá nhân.
Số lượng giáo viên cần chọn cho một khoá học.
Số giáo viên cho một khoá học, tuỳ thuộc vào nội dung của khoá học,
số lượng học viên trong khoá. Một chuyên đề không nên quá nhiều giáo viên,
thông thường có từ 2 – 3 giáo viên là phù hợp nhất. Trong đó có 1 giáo viên
chính và 1 đến 2 trợ giảng. Tỉ lệ giáo viên / học viên tốt nhất là tỉ lệ 1/7 – 8.
13.1.1.8. Lập kế hoạch chi tiết về tiến độ chuẩn bị khóa học
Chuẩn bị mở một khoá học là công việc phức tạp, liên quan tới nhiều
người, nhiều tổ chức. Vì vậy, mọi hoạt động phải được kế hoạch hoá và phải
thường xuyên được giám sát, điều chỉnh.cho phù hợp với thực tiễn. Một bản
kế hoạch tốt phải thoả mãn được các câu hỏi:
– Công việc gì?
- Ai làm?
- Làm bằng gì?
- Ở đâu?
- Khi nào bắt đầu, khi nào hoàn thành?
- Làm với ai?
– Sản phẩm?
- Ai giám sát và nghiệm thu sản phẩm?
13.1.1.9. Công bố việc tổ chức khoá học, đón và tuyển sinh
Sau khi việc chuẩn bị đã đảm bảo chắc chắn khoá học có thể được mở,
cần công bố thông báo mở khoá học đến các đối tượng. Trong bản thông báo
nên nêu rõ các thông tin về khoá học: mục tiêu, nội dung, thời gian, địa điểm
khoá học; những phần việc học viên phải làm trong thời gian học. quyền lợi
học viên được hưởng trong và sau thời gian học; các công việc cẩn chuẩn bị
khi đến học v.v.
Cần dự phòng tình huống chậm trễ hoặc thất lạc thông tin đến đối
tượng học viên, để có kế hoạch bổ sung khi cần thiết.
13.1.2. Những công việc cần chuẩn bị một tuần trước khi khai mạc khoá học
Tuần đầu trước khi khai mạc khoá học là thời kì bận rộn của nhà tổ
chức khoá học. Đây cũng là thời điểm dễ bỏ qua nhiều điểm làm ảnh hưởng
đến hiệu quả của khóa học. Vì vậy, nhà tổ chức có kinh nghiệm thường
không rời mắt khỏi các công việc cho đến giờ khai mạc.
13.1.2.1. Kiểm tra lại toàn bộ công việc chuẩn bị
Trước mặt nhà tổ chức khoá học là bản kế hoạch chi tiết công việc
chuẩn cho khoá học. Ông ta phải thật cẩn thận rà soát từng mục, nghe từng
người chịu trách nhiệm từng công việc báo cáo. Giám sát chặt chẽ những
việc làm chưa xong. Những phần việc đặc biệt quan trọng dưới đây cần được
hoàn tất trong tuần đầu trước khi khai mạc khoá học:
Số học viên đến nhập học (so với danh sách). Những thông tin cần thiết
về học viên vắng.
Cơ sở vật chất phục vụ cho khoá học:
– Nơi ăn, ngủ, nghỉ cho học viên.
- Các phòng học: bàn ghế, các phương tiện kĩ thuật v.v.
– Các phương tiện đưa đón học viên, giáo viên.
Giáo viên tham gia giảng bài. Các giáo viên cần dược biết thời gian và
thời lượng chuyên đề của mình; phương tiện đi lại thời hiểm địa điểm giảng
bài, tài liệu học tập v.v. Những thay đổi về giáo viên phải kịp thời được điều
chỉnh ngay trước khi khai mạc và cần được giải thích rõ với học viên.
Tài liệu học tập: phải đảm bảo toàn bộ tài liệu học tập theo kế hoạch
được phát cho học viên trước ngày khai mạc.
Nguồn tài chính. Nhà tổ chức phải đảm bảo chắc chắn nguồn tài chính
cho khoá học theo kế hoạch.
Các cơ sở thực tế, thực hành cần được khẳng định lại ngay nước ngày
khai mạc. Nếu có thay đổi, cần được giải thích rõ với học viên.
13.1.2.2. Hoàn thiện kế hoạch chi tiết của khoá học
Trước ngày khai mạc khoá học, các giáo viên và học viên đều biết công
việc của mình trong cả khoá cũng như trong từng ngày. Điều này đòi hỏi nhà
tổ chức phải có kế hoạch cụ thể cho cả khoá, cho từng chuyên đề và cho
từng buổi làm việc của học viên. Cũng như mọi bản kế hoạch khác, kế hoạch
học tập của khoá học phải trả lời dạy đủ các thông số đã dược nêu trong mục
1 3. 1. 1.8. Bản kế hoạch này cần được phát cho mọi thành viên có liên quan
tới khoá học.
13.1.2.3. Tổ chức lớp học của học viên.
Công việc tổ chức học viên thành các lớp, các nên được tiến hành
trước khi khai mạc. Những việc phải làm là:
Ổn định nơi ăn, ở của học viên.
Tìm hiểu lí lịch học viên.
Chia nhóm học viên. Việc chia nhóm học viên cần lưu ý đến các khía
cạnh: quy mô nhóm (6 – 8 người); giới tính, tuổi. địa bàn, cấp bậc. cá tính v.v.
13.1.2.4. Trước ngày khai mạc
Đối với mọi khoá học, ngày khai mạc thường để lại ấn tượng sâu sắc
đối với các học viên. Vì vậy, để đảm bảo ngày khai mạc thành công, trước đó
nên có buổi họp mặt các học viên. Những công việc của buổi gặp mặt đầu
tiên này bao gồm:
Tạo cơ hội để các học viên làm quen với nhau (giáo viên có thể sử
dụng cái trò chơi làm quen).
Biên chế các nhóm học viên.
Trao đổi, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của học viên trong khoá học
(có thể thực hiện thông qua các trò chơi).
Nếu có điều kiện, nên tổ chức buổi chiêu đãi nhẹ các học viên.
13.2. TRONG THỜI GIAN KHÓA HỌC13.2.1. Ngày khai mạc khoá học
Trong buổi khai mạc nên có dự của các đại diện các tổ chức liên quan
tới quá trình tổ chức khoá học (cơ quan chủ quản. cơ quan tài trợ v.v), các
giáo viên tham gia giảng dạy và các đại biểu khác có liên quan.
Buổi khai mạc nên có hai phần: Phần nghi lễ trọng thể.
với lời phát biểu khai mạc khoá học của người có trách nhiệm của cơ
sở đào tạo và có lời phát biểu cam kết của đại biểu học viên. Phần phổ biến
qui định của khoá học. Đây là hình thức cam kết công khai giữa cơ sở đào
tạo với học viên. Trong phần này cần đề cập đến các vấn đề sau:
- Nhắc lại mục đích, yêu cầu của khoá học.
- Điểm qua toàn bộ nội dung khoá học.
- Giải thích các phương pháp học tập.
- Giới thiệu lịch trình học tập và các tài liệu học tập.
- Giới thiệu các giảng viên với học viên.
- Phổ biến quy chế học tập.
- Trả lời các câu hỏi của học viên.
13.2.2. Bài giảng mở đầu của giáo viên
* Bắt dầu một khoá học hay một môn học mới là công việc khó khăn đối
với cả người học và người dạy. Trước đó, hàng loạt câu hỏi được đặt ra cho
cả hai phía về mục đích dạy và học: về đặc điểm tâm lí, tính cách, tác phong
của giáo viên và học viên, về cấu trúc nội dung môn học, về phương pháp
dạy và học v.v. Mở đầu bài dạy tốt là cơ hội thuận lợi để cả giáo viên và học
viên giải đáp các câu hỏi trên. Một mở đầu tết sẽ giúp xua tan e ngại ban đầu;
tạo môi trường học tập tin cậy cho học viên: thu hút sự tập trung của người
học: tạo ấn tượng tốt đẹp cả về phía giáo viên và học viên.
* Để có mở đầu bài giảng thuận lợi, giáo viên lần lưu ý những điểm sau:
- Giới thiệu và làm quen.
- Giảng viên và học viên có thể giới thiệu một cách trịnh trọng và vắn tắt
về mình. Tuy nhiên, cách làm này dễ tạo ra khoảng cách giữa giáo viên và
học viên. Có thể làm mềm mại hơn bằng cách giáo viên kể một câu chuyện
ngắn hoặc chơi các trò chơi tự giới thiệu về mình.
- Nêu mục đích của khoá học, bài giảng.
- Giới thiệu nội dung khoá học, bài giảng.
- Đưa ra các quy tắc làm việc trong khoá học, trong bài giảng.
- Thông báo về lịch trình làm việc, thời gian học, thời gian giải lao và
những thông tin khác.
Các nội dung trên có thể được thực hiện bằng cách giáo viên giới thiệu
trực tiếp với cả lớp, hoặc bằng cách thông qua các trò chơi hay đặt các câu
hỏi gợi mở và cùng trao đổi với học viên.
* Một vài điểm cần lưu ý khi tiến hành bài giảng đầu tiên.
Không nên chọn những từ phức Lạp, có tính chất khoa trương.
Không nên khoe khoang về bản thân và phê phán giáo viên khác hoặc
người điều phối, người trợ giảng trước mặt học viên.
Trang phục thỉnh tề, đúng tác phong chuyên môn. Không đến lớp
muộn.
Không nên mở đầu bằng việc thông báo các sự kiện kiểu như: xin lỗi vì
quá bận nên tôi chuẩn bị bài chưa được kĩ
Không nên mở dầu bằng các từ tạo ra sự căng thẳng tâm lí không cần
thiết. Chẳng hạn: Đây là chủ đề rất khó hiểu, anh (chị) phải…
Kiểm tra lại phòng học và thiết bị trước khi bắt đầu bài giảng.
13.2.3. Công việc của người điều phối và của trợ giảng trong khoá học
Trong thời gian khoá học tiến hành, người điều phối hay trợ giảng cần
thực hiện các công việc sau:
Duy trì các giờ học được bắt đầu và kết thúc đúng quy định.
Duy trì sĩ số học viên trên lớp.
Giới thiệu giáo viên và đề tài nghiên cứu.
Liên kết giữa bài học hiện tại và bài học trước đó.
Chuẩn bị tài liệu và các phương tiện dạy học cần thiết. Phân phát tài
liệu cho học viên.
Giúp giảng viên duy trì thời gian học tập của học viên. Giải quyết các
tình huống phát sinh.
Đảm bảo để hoạt động của khoá học diễn ra bình thường.
13.2.4. Đánh giá khoá học
Đánh giá khoá học là công việc quan trọng để thu thập thông tin phản
hồi về tiến trình và hiệu quả của khoá học. Nhờ đó giúp cơ sở đào tạo điều
chỉnh kịp thời nội dung và phương thức tổ chức khoá học hiện thời và các
khoá tập thể và đánh giá phải tiến hành hàng ngày và cuối khoá học..
Có nhiều cách đánh giá chất lượng và hiệu quả của khóa học. dưới dây
là mẫu đánh giá đơn giản. giáo viên và người điều phối có thể tham khảo và
vận dụng dược.
13.2.4.1. Mẫu đánh giá một buổi học
1. Nhìn chung, bài học hôm nay có bổ ích đối với anh (chị) không?
Rất bổ ích.
Bổ ích.
Có bổ ích, nhưng không nhiều
Ít bổ ích
Không bổ ích
2. Nội dung bài học hôm nay là tốt?
a. Hoàn toàn không đồng ý
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
Anh (chị) có đề xuất gì nhằm hoàn thiện nội dung?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
3. Phương pháp tổ chức dạy học của giáo viên là thích hợp?
a. Hoàn toàn không đồng ý
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý.
đ. Hoàn toàn đồng ý
4. Hoạt động nhóm của học viên trong buổi học rất bổ ích?
a. Hoàn toàn không đồng ý
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
5. Giảng viên chuẩn bị tốt bài giảng và bài giảng của họ là tốt?
a. Hoàn toàn không đồng ý
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
Anh (chị) có đề nghị gì về giảng viên?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Các tài liệu dùng trong buổi học là đầy đủ và phù hợp?
a. Hoàn toàn không đồng ý
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
Anh (chị) có đề nghị gì nhằm cải tiến việc cung cấp tài liệu và thiết học
tập?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
7. Việc tổ chức buổi học như thế nào?
a. Rất kém
b. Kém
c. Bình thường
d. Tốt
đ. Rất tốt
Anh (chị) có đề nghị gì nhằm cải tiến việc công tác tổ chức khoá học?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
8. Anh (chị) có đề nghị cụ thể nào giúp nâng cao chất lượng các buổi
học sau?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
9. Anh (chị) có đề nghị gì khác?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Xin cảm ơn ý kiến của anh (chị)
13.2.4.2. Mẫu đánh giá cuối khoá học
1. Nhìn chung, khoá học có bổ ích cho anh (chị) không?
Rất bổ ích
Bổ ích
Có bổ ích, nhưng không nhiều
Ít bổ ích
Không bổ ích
2. Kết quả khoá học:
2.1. Tôi hiểu mục đích chính của khoá học này là cung cấp thêm kiến
thức khoa học hoàn thiện kỹ năng, phương pháp hành động trí óc và nghề
nghiệp
a. Hoàn toàn không đồng ý.
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
2.2. Ý kiến của anh (chị) về mục đích chính của khoá học.
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
3. Anh (chị) dã học được điều gì qua khoá học này? (nếu viết dài. có
thể sử dụng thêm giấy ngoài)
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
4. Những khó khăn anh (chị) gặp phải trong khoá học?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
5. Nhìn chung, nội dung khoá học nào là tốt?
a. Hoàn toàn không đồng ý.
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
Anh (chị) có đề xuất gì nhằm hoàn thiện nội dung
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Nhìn chung, phương pháp tổ chức dạy học của giáo viên là thích
hợp?
a. Hoàn toàn không đồng ý.
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
7. Sinh hoạt nhóm học viên trong khoá học rất bổ ích?
a. Hoàn toàn không đồng ý.
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
8. các giảng viên chuẩn bị tốt bài giảng và bài giảng của họ là tốt?
a. Hoàn toàn không đồng ý.
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
Anh (chị) có đề nghị gì về giảng viên?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
9. Các tài liệu dùng trong khoá học là đầy đủ và phù hợp?
a. Hoàn toàn không đồng ý.
b. Không đồng ý
c. Phân vân
d. Đồng ý
đ. Hoàn toàn đồng ý
Anh (chị) có đề nghị gì nhằm cải tiến việc cung cấp tài liệu và thiết bị
học tập?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
10. Việc tổ chức khoá học như thế nào?
a. Rất kém
b. Kém.
c. Bình thường
d. Tốt
đ. Rất tốt
Anh (chị) có đề nghị gì nhằm cải tiến công tác tổ chức khoá học?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
11. Về thời gian của khoá học?
a. Vừa đủ
b. Dài
12. Những ý kiến bổ sung của anh (chị) cho khoá học
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Ban tổ chức khoá học xin chân thành cảm ơn các ý hiến của anh.(chị).
Chương 14. SỬ DỤNG PHONG CÁCH VÀ QUYỀN LỰC CỦA GIÁO VIÊN TRONG DẠY HỌC
Bất kì ai quan tâm đến dạy học đều hiểu rất rõ, trong nhà trường hiện
nay đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên với tư cách là nhà trợ giúp, nhà lãnh đạo
và nhà tổ chức các hoạt động của học viên, nhưng trên thực tế trong đội ngũ
giáo viên hiện không ít người chỉ là người truyền giảng. Đó là sự yếu kém so
với yêu cầu phát triển của giáo dục. Ở đây có nhiều lí do, một trong số đó là
hiện có rất ít các thành tựu của khoa học tổ chức, lãnh đạo và quản lí được
ứng dụng vào công tác đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm, cũng
như vào trong hoạt động của họ tại các trường học, sau khi tốt nghiệp. Nói
cách khác, việc đào tạo giáo viên cũng như tổ chức các hoạt động dạy học
của họ trong nhà trường vẫn theo mô hình truyền thống, chưa thực sự hướng
đến mô hình của khoa học tổ chức và lãnh đạo. Vì vậy vấn đề đặt ra là cần
phải nghiên cứu và ứng dụng triệt để thành tựu của các khoa học này vào
trong dạy học và giáo dục.
Có rất nhiều nội dung của lĩnh vực tổ chức, lãnh đạo và quản lí cần
được khai thác. Tuy nhiên, mối quan tâm chủ yếu của chúng ta là phương
pháp dạy học, nên chương này sẽ bàn riêng về cách người giáo viên sử dụng
phong cách và quyền lực của mình trong các tình huống tương ứng với các
mẫu học viên khác nhau.
14.1. PHONG CÁCH DẠY HỌC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN14.1.1. Dạy học là quá trình lãnh đạo, tổ chức và quản lí
Tư tưởng chủ đạo của tài liệu này là trong dạy học hiện đại người giáo
viên có chức năng định hướng, uỷ thác, kích thích, động viên, làm nảy sinh
nhu cầu, tạo động cơ, phát triển hứng thú học tập của người học; tham vấn,
trợ giúp và tổ chức hành động học của người học; kiểm soát, đánh giá và
điều chỉnh hành động của họ. Thực chất đó là các chức năng của nhà lãnh
đạm quản lí.Về bản chất, các hành động của giáo viên, từ xác định mục đích,
thiết kế nội dung học tập, soạn thảo chương trình môn học, bài học, SGK, tài
liệu dạy và học; tổ chức các hành động học của người học; tham dự, tham
vấn, trao đổi, lắng nghe, chia sẻ với người học, lôi cuốn, kích thích, củng cổ,
động viên, trách phạt, cho đến các hành động kiểm soát, đánh giá, kiểm tra,
thanh tra dạy học v.v, là các hành động của nhà lãnh đạo, nhà quản lí. Nói
cách khác, dưới góc độ khoa học tổ chức, trong dạy học hiện đại, hoạt động
của người giáo viên là hoạt động của nhà lãnh đạo,nhà tổ chức, nhà quản lí.
Vậy thế nào là lãnh đạo, tổ chức và quản lí? điểm khác biệt giữa chúng là gì?
Lãnh đạo (tiếng Anh Lead, có nghĩa đi trước, dẫn đầu, gương mẫu, dắt
đi, hướng dẫn…) là dùng sức mạnh của mình để gây ảnh hưởng tớ một số
hay trên mọi phương diện của đối tượng? Lãnh đạo xuất thiện ở bất kì đâu,
lúc nào, khi người này muốn gây ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ hay hành
vi của người khác. Kết quả, đối tượng tuân theo sự chỉ dẫn của chủ thể lãnh
đạo một cách tự nguyện.
Tổ chức, trong phạm vi rộng nhất, từ tổ chức có ba nghĩa: là một danh
từ, tính từ và động từ. Với tư cách là động từ, tổ chức là quá trình sắp xếp lại
trật tự quan hệ giữa các phần tử trong một thực thể để đảm bảo tính tối ưu
của mỗi phần tử và sự phối hợp giữa chúng trong sự vận động tới mục tiêu
chung (Trong tiếng Anh có sự liên kết giữa các từ Organ – Organize –
Organzation – Organic, bộ phận – sắp xếp – tổ chức – hữu cơ).
Quản lí (tiếng Anh: Management; To Manage (còn có nghĩa điều hành,
chế ngự, kiểm soát. Từ Manage có gốc:Man: đàn ông), là quá trình tác động
qua lại giữa nhà quản lí với đối tượng quản lí, nhằm tạo ra sự thống nhất giữa
các thành viên trong tổ chức. Hoạt động quản lí bao gồm cả việc tổ chức và
động viên (hoặc trách phạt) của nhà quản lí nhằm khơi dậy và dẫn truyền sức
mạnh của mọi thành viên. Nói cách khác, quản lí bao gồm cả chức năng lập
kế hoạch, tổ chức, chỉ dẫn, động viên (thúc đẩy) và kiểm tra hoạt động của
các thành viên trong một tổ chức.
Như vậy, các khái niệm lãnh đạo, tổ chức và quản lí có nội hàm riêng,
mặc dù giữa chúng có giao thoa, đan xen. Sự khác nhau giữa các khái niệm
này, đặc biệt là giữa lãnh đạo. và quản lí, là do chúng có chức năng riêng.
Lãnh đạo có thể xuất hiện trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, miễn
là ở đó có sự gây ảnh hưởng của cá nhân hay nhóm đến cá nhân hay nhóm
khác, bất kể lí do và mục đích gì, còn quản lí bao giờ cũng gắn liền với tổ
chức.
Quản lí được vận hành dựa trên thiết chế của tổ chức. Cái ràng buộc
giữa người quản lí và đối tượng là các thiết chế của tổ chức, được cả hai bên
chấp nhận, tôn trọng và tuân theo. Quan hệ nguyên thuỷ giữa quản lí và bị
quản lí là quan hệ mệnh lệnh, phục tùng. Nhà quản lí được quyền ra các
quyết định, mệnh lệnh, yêu cầu; được quyền điều động, giám sát kiểm tra,
đánh giá… nhân viên. Còn nhân viên dưới quyền phải thực hiện quyết định
đó trong phạm vi trách nhiệm của mình, ngay cả trong tình huống không
mong muốn, bắt buộc, miễn cưỡng. Ngược lại, lãnh đạo được vận hành trên
cơ sở cam kết giữa nhà lãnh đạo với các thành viên. Mối ràng buộc giữa nhà
lãnh đạo với các thành viên trong tổ chức không phải là các thiết chế mà là
định hướng, chỉ dẫn và ảnh hưởng của nhà lãnh đạo. Trong lãnh đạo, nhà
lãnh đạo không đưa ra các quyết định, các mệnh lệnh có tính cưỡng bức,
buộc nhân viên dưới quyền phải tuân theo mà là các định hướng, gợi ý, chỉ
dẫn. Đồng thời, các thành viên thực hiện không phải vì chấp nhận mà do thừa
nhận. Hành động mang tính tự nguyện cao.
Mặt khác, nguồn sức mạnh nguyên thuỷ của quản lí là quyền lực gán
do vị thế quản lí mang lại. Bất kì ai, khi ở vào vị thế quản lí sẽ có quyền lực đó
(một ông vua hai tuổi, một giáo viên năng lực chuyên môn bình thường nhưng
nếu được đề bạt hiệu trưởng v.v). đó là sức mạnh ở bên.ngoài nhân cách
người quản lí. Chỉ sau đó, quyền lực gán này mới có thể được tăng cường
hoặc giảm sút do quyền lực cá nhân nhà quản lí. Ngược lại, sức mạnh
nguyên.thuỷ và tồn tại trong suốt quá trình lãnh đạo là quyền lực cá nhân nhà
lãnh đạo, do chính nhà lãnh đạo tạo ra. Yếu tố tiên quyết của lãnh đạo là sức
mạnh tự thân của chủ thể lãnh đạo. Hiệu quả lãnh đạo tuỳ thuộc vào lực hấp
dẫn, lôi cuốn đối tượng do sự tỏa sáng của sức mạnh phát ra từ chủ thể lãnh
đạo. Để có sức mạnh này, chủ thể lãnh đạo phải có ít nhất hai điều kiện cần:
Thứ nhất: phải có sức mạnh tự thân. (khác với sức mạnh từ quyền lực gán
trong quản lí) đủ thu phục được đối tượng. Thứ hai: phải. đưa ra được các chỉ
dẫn, được đối tượng thừa nhận tính hợp lí của nó và sẵn sàng thực hiện theo
sự chỉ dẫn đó.
Trong tổ chức tất. cả các nhà quản lí đều được trao quyền lực để thi
hành chức năng quản lí, bất kể họ có thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình
hay không. Do đó để đảm bảo hiệu quả quản lí, nhà quản lí cần phải đồng
thời là nhà lãnh đạo. Đây là yêu cầu rất cao đối với nhà quản lí: Bởi lẽ nhà
quản lí tầm thường hay sử dụng quyền lực hành chính (quyền lực gán) để
điều khiển và kiểm soát đối tượng quản lí, còn nhà lãnh đạo hay người quản lí
giỏi thường sử dụng quyền lực cá nhân (uy tín cá nhân) để gây ảnh hưởng
tới đối tượng một cách tự nhiên. Điều này giống như Lão Tử nói: vi vô nhi trị
(cai trị mà như là không cai trị). Nói cách khác, nhà quản lí giỏi hay nhà lãnh
đạo luôn hướng tới sự chuyển hoá từ quản lí sang tự quản lí.
Vận dụng khoa học tổ chức vào trong dạy học ta thấy, hoạt động của
người giáo viên thực chất là hoạt động của nhà lãnh đạo, nhà tổ chức và nhà
quản lí. Trong đó, người giáo viên gần với nhà lãnh đạo và nhà tổ chức hơn
so với nhà quản lí.
14.1.2. Các phong cách dạy học của giáo viên
* Phong cách dạy học là gì
Trong thực tế, nhiều giáo viên có thói quen, khi lên lớp, chỉ chú ý đến
bài dạy, chú ý vào việc truyền thụ nội dung kiến thức hay giao nhiệm vụ học
tập cho học viên; theo dõi và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện của họ.
Những giáo viên này có xu hướng tập trung vào công việc của bản thân và
của học viên, ít quan tâm đến việc thiết lập các quan hệ với học viên trong
lớp. Có giáo viên trong lúc dạy học rất hay dùng mệnh lệnh: phải làm như thế
này, thế này v.v.Giữa họ với học viên dường như lúc nào cũng có khoảng
cách không san lấp được.. Ngược lại, có giáo viên luôn gần gũi, khuyến khích
động viên học viên v.v.
Những trường hợp trên cho thấy mỗi giáo viên có phong cách riêng
trong làm việc và quan hệ với học viên.
Có thể hiểu phong cách dạy học của giáo viên là hệ thống hành vi
tương đối ổn định, được giáo viên đó sử dụng nhằm gây ảnh hưởng đến hoạt
động của học viên và được học viên cảm nhận những hành vi ổn định đó.
* Các loại phong cách của giáo viên trong dạy học.
Có nhiều cách phân loại phong cách trong lãnh đạo, quản lí cũng như
trong dạy học, giáo dục. Dưới đây là hai cách được ứng dụng phổ biến trong
dạy học.
+ Cách phân loại truyền thống theo K. Lewin.
K. Lewin cùng các cộng sự của ông tại Trường đại học bang Iowa đã
tiến hành thực nghiệm so sánh ba loại phong cách: độc đoán, dân chủ, tự do.
Từ việc so sánh hiệu quả của ba phong cách, K. Lewin cho rằng phong cách
dân chủ mang lại hiệu quả cao nhất và đây là phong cách của người lãnh đạo
thành công. Dựa vào phân loại của K. Lewin có thể xác định đặc trưng của
các phong cách như sau:
Kurt Lewin (1890–1947) – Nhà tâm lí học Đức theo trường phái Gestalt.
Lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu của ông là trường tâm lí (không gian tâm lí).
Thực nghiệm của K.Lewin như sau: ông cho các trẻ em vào trong ba môi
trường khác nhau: 1) Vào trong một tập thể dân chủ, gồm các giáo viên
hướng dẫn cuộc thảo luận nhóm và cùng tham gia quyết định với các em: 2)
Một số em vào tập thể chuyên chế, trong đó người giáo viên làm mọi quyết
định rồi ra lệnh cho các em làm theo; 3) Một số em khác vào tập thể tuỳ ý,
trong đó không có quyết định tập thể nào và mỗi em được tuỳ ý, muốn làm gì
thì làm. Kết quả, các em ở tập thể dân chủ hoạt động rất hiệu quả và thân
thiện; các em ở tập thể chuyên chế rất hiếu chiến. còn các em ở tập thể tuỳ ý
làm việc rất kém hiệu quả. Theo K.Lewin, tập thể giáo viên đã tác động đến
tinh chất của các Gestalt của tập thể và các Gestalt ảnh hưởng tới hiệu quả
làm việc của các em.
* Phong cách độc đoán:
Người giáo viên quản lí tất cả các quan hệ và thông tin, tập trung quyền
lực trong tay. Học viên chỉ được cung cấp thông tin tối thiểu, cần thiết để thực
hiện nhiệm vụ: Các quyết định, mệnh lệnh được đề ra trên cơ sở kiến thức,
kinh nghiệm của người người giáo viên, không quan tâm tới ý kiến của học
viên. Các chỉ thị mệnh lệnh được đặt ra rất nghiêm ngặt và buộc người học
viên phải chấp hành một cách tập trung, chính xác Người giáo viên giám sát
chặt chẽ hành vi của học viên. Người giáo viên chỉ đạo công việc chủ yếu
bằng sử dụng quy chế, thông tin trong tổ chức chỉ có một chiều từ giáo viên
xuống.
Ưu điểm của phong cách độc đoán là nó cho phép giải quyết một cách
nhanh chóng các nhiệm vụ. Song do người giáo viên không quan tâm tới ý
kiến của người học và ra quyết định trên cơ sở những thông tin sẵn có, nên
phong cách độc đoán có nhược điểm là không phát huy được tính chủ thể và
sự sáng tạo, kinh nghiệm của người học.
* Phong cách dân chủ:
Người giáo viên thu hút học viên tham gia vào việc thảo luận, xây dựng
và lựa chọn các phương án quyết định cũng như giải quyết những nhiệm vụ
học tập. Công việc được phân công, giải quyết và đánh giá trên cơ sở có sự
tham gia của tập thể. Thông tin trong tổ chức được chuyển đi theo hai chiều:
từ giáo viên đến học viên và từ học viên đến giáo viên.
Ưu điểm của phong cách dân chủ là nó cho phép khai thác sự sáng
tạo, kiến thức, kinh nghiệm của học viên. Do đó, nó tạo ra một sự thoả mãn
lớn cho họ, vì họ cảm thấy được tôn trọng, thừa nhận và được tham gia.
Người học cảm thấy thoả mãn vì họ được thực hiện những công việc do
chính họ đề ra, thậm chí được tham gia đánh giá kết quả công việc.
Nhược điểm của phong cách dân chủ là quá trình dân chủ rất tốn kém
thời gian. Trong rất nhiều trường hợp, việc bàn bạc kéo dài mà không đi tới
được quyết định, trong khi thời gian giải quyết nhiệm vụ không cho phép kéo
dài.
* Phong cách tự do:
Người giáo viên tham gia ít nhất vào các công việc của nhóm, giao hết
quyền hạn và tránh nhiệm cho mọi người. Các thành viên trong nhóm được
cung cấp tối đa các thông tin được phép tự do hành động theo điều họ nghĩ,
theo cách thức mà họ cho là tốt nhất. Theo phong cách này các thông tin
được thực hiện chủ yếu theo chiều ngang. Nếu xét về lượng thông tin mà
người học được biết thì phong cách độc đoán là ít nhất, tiếp đến là phong
cách dân chủ và phong cách tự do là nhiều nhất.
Ưu điểm của phong cách này là nó cho phép phát huy tối đa năng lực
sáng tạo của người học. Tuy nhiên, phong cách này dễ dẫn đến tình trạng
hỗn loạn, vô chính phủ trong lớp học do thiếu vắng các chỉ dẫn của người
giáo viên.
+ Cách phân loại theo Paul Hersey và Kenneth H. Blanchard.
Cách phân loại này dựa theo hai xu hướng hành vi của nhà lãnh đạo:
hành vi bổn phận và hành vi quan hệ. Từ đó, các ông đưa ra bốn mô hình
phong cách lãnh đạo điển hình: bổn phận thấp và quan hệ thấp; bổn phận
thấp và quan hệ cao; bổn phận cao và quan hệ thấp; bổn phận và quan hệ
đều cao. Trong dạy học, cũng có thể ứng dụng cách phân loại của P. Hersey
và K.Blanchard vào việc tìm hiểu phong cách của giáo viên.
Theo cách này, có thể dựa vào hai xu hướng hành vi của giáo viên: các
hành vi chủ yếu hướng tôi công việc (gọi là hành vi công việc) và các hành vi
hướng tới quan hệ với học viên (hành vi quan hệ)…
Hành vi công việc là mức độ theo đó giáo viên có thể tổ chức và định
hướng các hoạt động học tập của học viên, bằng cách đề ra yêu cầu, nêu giải
thích chi tiết hành động của học viên: Làm gì? và tiến hành cái đó như thế
nào, ở đâu thời điểm nào? Nhiệm vụ phải thực hiện là gì? v.v Nói cụ thể,
hành vi được gọi là công việc khi người giáo viên chủ yếu hướng tới thiết lập
các hình mẫu chỉ dẫn và tổ chức công việc rõ ràng và phương pháp tiến hành
công việc.
Hành vi quan hệ là mức độ theo đó giáo viên hướng đến việc duy trì
những mối quan hệ cá nhân giữa mình với học viên và giữa các học viên với
nhau, bằng cách mở rộng các kênh giao tiếp, tạo ra sự hỗ trợ về mặt tâm lí xã
hội để học viên thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. Nói cách khác, hành vi
quan hệ hành vi mà là giáo viên chủ yếu hướng đến người học hơn là hướng
đến công việc.
Kết hợp hai tiêu chí trên, ta sẽ có bốn mô hình phong cách điển hình
của giáo viên:
Phong cách 1: Hành vi công việc và hành vi quan hệ đều thấp. Đây là
những giáo viên có phong cách tự do. Những giáo viên này luôn có xu hướng
giao quyền tối đa cho học viên tự mình quyết định việc học của mình. Họ chỉ
can thiệp vào quá trình học của học viền khi thấy thực sự cần thiết. Ta quy
ước gọi là mô hình T1
Phong cách 2: Hành vi công việc cao và hành vi quan hệ thấp. Đây là
những giáo viên có phong cách hướng đến công việc hơn hướng đến học
viên. Những giáo viên này luôn có mặt đúng giờ trên lớp; thực hiện đầy đủ
các công việc của giáo viên. Đối với việc học của học viên, các giáo viên theo
mô hình này thường hướng dẫn cụ thể, chi tiết các nhiệm vụ học tập và cách
tiến hành. Dưới con mắt của học viên, đây là những giáo viên vì công việc.
Thậm chí theo họ, đó là những thầy giáo nghiêm khắc và khó tính. Mô hình
phong cách này được kí hiệu là T2
Phong cách 3: Hành vi công việc thấp và hành vi quan hệ cao. Những
giáo viên có phong cách này thường có xu hướng thiết lập quan hệ thân
thiện, gần gũi với học viên; quan tâm tới việc động viên người học khi có điều
kiện. Mặt khác, những giáo viên này thường ít đưa ra các chỉ dẫn và tổ chức
việc học của học viên. Với họ, học như thế nào là công việc tự lực của học
viên, còn giáo viên chủ yếu là người giữ gìn ngọn lửa nhiệt tình, tạo năng
lượng cho học viên để duy trì: việc học. Mô hình phong cách này được kí hiệu
là T3
Phong cách 4: Hành vi công việc cao và hành vi quan hệ cao. Đây là
những giáo viên vừa có thói quen quan tâm với việc học của học viên, hướng
dẫn cụ thể nhiệm vụ học tập: học cái gì và học như thế nào, đồng thời cũng
rất để ý tới quan hệ với học viên; gần gũi, quan tâm, chăm sóc tới học viên khi
có điều kiện. Dưới con mắt của học viên, những giáo viên này là người cha,
người mẹ, người bảo mẫu cẩn thận và chu toàn, thậm chí thái quá. Mô hình
phong cách này được kí hiệu là T4
Trên đây là các mô hình phong cách điển hình của giáo viên trong dạy
học và trọng quan hệ với học viên. Ngoài các mô hình đã nêu, còn nhiều mô
hình trung gian khác. Vì vậy, các mô hình này có thể được coi là mô hình
mang tính xu hướng. Đồng thời cũng cần lưu ý, những mô hình này chỉ phản
ánh định hướng hành vi của giáo viên, không nhằm phản ánh nhân cách của
họ. Vì vậy không thể sử dụng các mô hình này trong việc đánh giá giáo viên.
Trong lĩnh vực phương pháp dạy học, vấn đề đặt ra là mô hình nào là
tối ưu và giáo viên nên sử dụng mô hình nào? Câu trả lời ở đây là không có
mô hình nào tuyệt đối tốt cho mọi trường hợp. Điều quan trọng là ở chỗ,
người giáo viên cần biết sử dụng linh hoạt các phong cách cho phù hợp với
từng loại học viên và trong từng tình huống dạy học cụ thể.
14.2. CÁC MẪU HỌC VIÊN ĐIỂN HÌNH VÀ CÁCH SỬ DỤNG PHONG CÁCH DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN14.2.1. Các mẫu học viên điển hình
Về lí thuyết, mỗi cá nhân là một chủ thể, không lặp lại. Điều này có
nghĩa là trong một lớp học, có bao nhiêu học viên sẽ có bấy nhiêu thế giới
riêng mà người giáo viên cần hiểu để có biện pháp tác động phù hợp. Tuy
nhiên, trên thực tế, khó có thể thực hiện được ở mức như vậy. Giải pháp khả
thi là nhóm các học viên thành từng nhóm cơ động, dựa vào những tiêu chí
nhất định. Trong dạy học, có thể phân loại học viên dựa trên mức độ sàn
sàng của họ đối với việc học.
Mức độ sẵn sàng và mức độ một cá nhân hay nhóm sẵn sàng thực
hiện một nhiệm vụ học tập nhất định.
Mức độ sẵn sàng thực hiện một nhiệm vụ học tập không phải là đặc
điểm tâm lí ổn định của cá nhân hay nhóm, cũng không phải là giá trị nhân
cách hay đặc trưng và lứa tuổi, mà chỉ là trạng thái tâm lí đáp ứng yêu cầu
nhất định, trong các tình huống học tập xác định. Mỗi nhiệm vụ học tập khác
nhau, mỗi tình huống dạy học khác nhau, ở học viên sẽ xuất hiện mức độ sẵn
sàng học tập khác nhau, dẫn đến hiệu quả học tập khác nhau.
Mức độ sẵn sàng học tập được. hình thành bởi hai yếu tố đặc trưng:
khả năng hiện tại và thiện ý đối với việc học.
Khả năng hiện tại đối với việc học được xác định bởi mức độ tri thức
kinh nghiệm, kĩ năng và phương pháp hành động mà học viên (hoặc nhóm
học viên) hiện có để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ học tập cụ thể.
Thiện ý đối với việc học là mức độ nhu cầu, động cơ, sự gắn bó và tâ
thế sẵn sàng của học viên đón nhận nhiệm vụ học tập.
Cần lưu ý, việc phân chia hai yếu tố khả năng và thiện ý chỉ có giá trị
cho việc phân loại mức độ sẵn sàng học tập của học viên, còn trên thực tế,
hai yếu tố này quan hệ hữu cơ và hỗ trợ nhau.
Nếu dựa vào mức độ sẵn sàng học tập, có thể nhóm học viên trong lớp
thành bốn mô hình điển hình:
Học viên có năng lực và thiện ý thấp hoặc bấp bênh, không ổn định.
Đây là mẫu học viên thiếu hiểu biết, kinh nghiệm và kĩ năng cần thiết để thực
hiện một nhiệm vụ học tập. Không những thế, động cơ học tập của họ thấp,
thái độ kém nhiệt tình, thiếu ý thức, tâm thế chuẩn bị cho việc học tập. Ta quy
ước gọi những học viên này thuộc nhóm H1
Học viên có năng lực thấp nhưng có thiện ý cao. Những học viên này
thường được mệnh danh là “thừa nhiệt tình nhưng thiếu phương pháp”. Họ
thường. gặp khó khăn trong học tập hoặc thực hiện nhiệm vụ nào đó. Có
nhiều nguyên nhân khiến họ lâm vào hoàn cảnh như vậy, ngoại trừ sự nhiệt
tình, tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực cao trong học tập. Họ luôn có nhu cầu
được sự trợ giúp và chỉ dẫn trong công việc. Những học viên này thuộc nhóm
H2.
Học viên có năng lực tốt nhưng thiện ý thấp hoặc bấp bênh. Những học
viên này thường có khả năng nhận thức tốt, có tri thức và kĩ năng cơ bản để
tiếp thu môn học. Đối với họ, việc học không phải là công việc khó. Tuy nhiên,
họ không hào hứng lắm với việc học hay công việc được giao. Động cơ học
tập thấp, không ổn định. Thậm chí họ không có sự chuẩn bị về tâm thế cũng
như các yếu tố tâm lí cần thiết. Nói tóm lại việc học của họ thiếu “lửa”, mặc dù
họ thừa khả năng. Những học viên này thuộc nhóm H3.
Học viên có năng lực và thiện ý cao. Đây là mẫu học viên lí tưởng trong
dạy học. Họ là những người vừa có năng lực, tri thức, kinh nghiệm và kĩ năng
thực hiện các hành động học tập do giáo viên gợi ý, vừa là người có động cơ
học mạnh mẽ, ổn định, có tinh thần trách nhiệm, nỗ lực cao trong học tập.
Những học viên này thuộc nhóm H4.
Có thể tóm tắt bốn mẫu học viên điển hình trong bảng 14.1.
Bảng 14.1. Mức độ sẵn sàng học tập của học viên
Thấp Trung bình Cao
H1 H2 H3 H4
Năng lực và thiện
ý học tập thấp,
không ổn định.
Năng lực học tập
thấp nhưng có
thiện ý cao, ổn
định.
Năng lực học tập
cao thiện ý thấp
hoặc không ổn
định.
Có năng lực và
thiện ý cao, ổn
định.
14.2.2. Sử dụng phong cách phù hợp trong dạy học
Việc lựa chọn phong cách phù hợp trong dạy học nhằm hai mục tiêu:
thứ nhất nâng cao hiệu quả dạy học, thứ hai làm thay đổi các mức độ sẵn
sang học tập của học viên, theo hướng củng cố mức sẵn sàng cao (H4) đồng
thời giúp học viên khắc phục mức sẵn sàng thấp (H1) và chuyển dần các mức
sẵn sàng trung bình (H2 và H3) lên mức cao hơn. Để thực hiện được các
mục tiêu trên, một mặt, giáo viên cần phân biệt rõ kết quả với hiệu quả dạy
học, mặt khác, cần xác định đúng trong trường hợp dạy hợp cụ thể, các học
viên trong lớp thuộc mẫu học viên điển hình nào. Cần phải sử dụng phong
cách dạy học tương ứng với nhóm học viên đó.
14.2.2.1. Phân biệt kết quả và hiệu quả dạy học
Theo nghĩa thông thường, kết quả là cái đạt được của một hành động,
việc làm, hoặc là cái do một hay nhiều hiện tượng khác gây ra (nguyên nhân
và kết quả). Hiệu quả là giá trị thặng dư giữa kết quả với yêu cầu. Một giáo
viên đề ra yêu cầu tổ chức buổi trao đổi nhóm của học viên, trong đó, mọi
người đều chuẩn bị và phát biểu. Thực tế diễn ra đúng nhừ vậy. Kết thúc buổi
trao đổi nhóm, giáo viên đó đã thu được. cái như mong muốn. Ta nói giáo
viên đó đã đạt kết quả. Trong trường hợp, cả nhóm học viên trao đổi rất nhiệt
tình, quên cả thời gian nghỉ và đưa ra nhiều ý tưởng mới, ngoài mong đợi của
giáo viên. Ta nói giáo viên đó đã đạt hiệu quả dạy học. Cách hiểu kết quả và
hiệu quả như trên rất phổ biến trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong dạy
học. Tuy nhiên, trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức và quản lí nói chung, trong
dạy học nói riêng, ngoài cách hiểu trên, cần chú ý đến khía cạnh khác.
Quan sát hai tình huống dạy học sau:
Tình huống 1: Giáo viên A tổ chức cho học viên trao đổi nhóm. Khi có
mặt của giáo viên, các học viên trong nhóm trao đổi nghiêm túc, nhưng khi
giáo viên không có mặt thì cả nhóm chuyển sang bàn luận chuyện khác. Họ
chỉ tập trung thảo luận khi giáo viên quay lại. Vì vậy, để buổi thảo luận đạt kết
quả, giáo viên cần phải luôn có mặt trong suốt tiến trình trao đổi của nhóm.
Tình huống 2: Giáo viên B tổ chức cho học viên trao đổi nhóm. Các học
viên trong nhóm trao đổi nghiêm túc chủ đề cần thảo luận, cả khi giáo viên có
mặt cũng như khi giáo viên ra ngoài. Mọi học viên đều tự giác, vì họ ý thức
rằng, đây là công việc mang lại lợi ích cho họ.
Cả hai trường hợp trên: giáo viên A và B đều mang lại kết quả dạy học
như mong muốn (tổ chức thành công buổi trao đổi nhóm của học viên),
nhưng trong trường hợp hai, về phương diện tác động đến hành vi học viên,
hiệu quả của giáo viên B cao hơn của giáo viên A.
Như vậy, khía cạnh thứ hai để phân biệt kết quả và hiệu quả là mức độ
tác động đến hành vi của học viên. Một tác động mang lại ảnh hưởng tạm
thời đến học viên, đó là kết quả, còn ảnh hưởng đó có khả năng mang lại hiệu
suất lâu dài đến học hiện, ta gọi đó là hiệu quả. Dạy học không chỉ hướng đến
kết quả mà phải vươn tới hiệu quả lâu dài. Điều này liên quan trực tiếp tới ba
yếu tố. Thứ nhất: tác động của giáo viên phải hướng đến lợi ích cơ bản của
học viên, phải đáp ứng nhu cầu phát triển của họ. Thứ hai: tác động của giáo
viên phải phù hợp với đặc, điểm cá nhân học viên, tức là phải phù hợp giữa
phong cách dạy học với các mẫu học viên. Thứ ba: cách sử dụng quyền lực
lãnh đạo của giáo viên để gây ảnh hưởng tới học viên. Điểm thứ nhất đã
được nêu trong chương XI. Dưới đây ta phân tích điểm thứ hai, còn điểm thứ
ba sẽ đề cập ở phần sau.
14.2.2.2. Sử dụng phong cách dạy học phù hợp với các mẫu học viên
Việc lựa chọn và sử dụng phong cách phù hợp với mẫu học viên điển
hình được thực hiện theo hai hướng: Lựa chọn phong cách phù hợp với các
mẫu học viên và sử dụng phong cách phù hợp với các tình huống dạy học.
* Lựa chọn phong cách phù hợp với các mẫu học viên.
+ Nhóm học viên có mức độ sẵn sàng thấp (H1). Đây là nhóm sinh viên
có khả năng học tập cũng như thái độ học tập đều thấp. Với nhóm học viên
này rất cần phải có chỉ dẫn rất cụ thể, các mệnh lệnh, yêu cầu rõ ràng, được
giám sát chặt chẽ. Đối với họ, khi giao việc, giáo viên cần chỉ rõ phải làm gì?
làm như thế nào? bằng phương tiện nào? Phải đạt được đến mức nào trong
trường hợp nào? v.v. Mặt khác, họ là những người chưa có tâm thế cho việc
học, động cơ học tập chưa cao, chưa ổn định v,v. Vì vậy, họ thường xuyên
cần trợ giúp về tâm lí để khơi nguồn ngọn lửa nhiệt tình học tập. Điều này gợi
ý giáo viên cần thiết lập các kênh giao tiếp đa dạng và thân tình với học viên.
Phong cách dạy học phù hợp với nhóm học viên này là TU (hành vi công việc
và hành vi quan hệ cao).
+ Nhóm học viên có mức độ sẵn sàng trung bình. Năng lực học tập
cao, thiện ý thấp, hoặc không ổn định. Đây là nhóm học viên có năng lực học
tập nhưng họ chưa có cơ hội để thể hiện năng lực của mình. Có hàng ngàn
nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự kém “lửa” của họ trong học
tập, vấn đề quan trọng đối với các học viên này là khơi nguồn nhiệt tình của
họ và hướng năng lượng dồi dào của họ vào học tập nếu hướng sang các
khác thì sức phá hoại sẽ rất lớn. Vì vậy trong dạy học với nhóm này, không
nhất thiết phải nhấn mạnh các yêu cầu và chỉ dẫn cụ thể: phải làm gì, làm như
thế nào v.v. Cái mà các học viên này cần là quan hệ và sự trợ giúp về mặt
tâm lí, kể cả sự tin tưởng, giao phó và tạo thuận lợi của giáo viên để họ được
đánh giá, được tôn trọng và phát huy năng lực của mình. Phong cách dạy học
phù hợp với nhóm học viên này là T3 (hành vi công việc thấp/ hành vi quan
hệ cao).
+ Nhóm học hiện có mức độ sẵn sàng trung bình. Năng lực học tập
thấp, thiện ý cao, ổn định. Những học viên nhóm này thường gặp nhiều khó
khăn trong việc triển khai các hành động học, mặc dù họ đã có nhiều cố gắng,
với quyết tâm và động cơ học tập cao. Nguyên nhân chủ yếu là họ bị hạn chế
về năng lực học tập. Vì vậy, đối với họ, không nên ra lệnh, hay yêu cầu như
đối với học viên nhóm H1 (vì họ là người có động cơ học mạnh và tính tự giác
cao). Họ mong muốn được giảng giải chi tiết, đầy đủ về cách thức và điều
kiện tiến hành việc học và tại sao lại phải như vậy. Tất nhiên, những học viên
“thừa trách nhiệm nhưng thiếu khả năng “ thường rất dễ bị tổn thương, bi
quan và tự ti, vì vậy, ngay cả việc giảng giải cũng cần sự tinh tế. Ngoài ra họ
cũng cần được trợ giúp thường xuyên về tâm lí và quan hệ. Phong cách dạy
học phù hợp với nhóm học viên này là T2 (hành vi công việc cao / quan hệ
thấp).
Có sự khác nhau giữa mệnh lệnh với giảng giải trong dạy học. Chẳng
hạn, nếu giáo viên nói với học viên: Hãy đứng bên cửa ra vào và ngăn không
cho mọi người đi qua, thì đó là giáo viên đang dùng phong cách mệnh lệnh.
Nhưng nếu giáo viên nói: Tôi muốn nhờ em đứng bên cửa ra vào để chỉ dẫn
cho mọi người đi vòng quanh lớp, vì nếu họ đi qua thì lớp sẽ rất ồn. Trong
trường hợp này, giáo viên đã sử dụng phong cách giảng giải.
+ Nhóm học viên có mức độ sẵn sàng học tập cao H4. Đây là những
học viên có năng lực và thiện ý cao, ổn định. Họ có đầy đủ khả năng, cơ hội
và các yếu tố tâm lí cần thiết để tiến hành hành động học tập một cách độc
lập. Họ có nhu cầu được thử thách và được khẳng định trong môi trường khó
khăn. Vì vậy, một sự giao phó, sự uỷ thác các tình huống học tập có độ khó
khăn cao, nhiều ý tưởng là giải pháp mới, là biện pháp dạy học có hiệu quả
đối với các học viên thuộc nhóm này. Bên cạnh đó, họ cũng chấp nhận sự
quan sát, giám sát và hỗ trợ của giáo viên khi cần thiết. Phong cách dạy học
phù hợp với nhóm học viên này là T1 (hành vi công việc và hành vi quan hệ
đều thấp)
Trên đây là các phong cách phù hợp với từng mẫu học viên điển hình.
Cần lưu ý rằng. không có phong cách nào là tốt tuyệt đối, mà chỉ là phù hợp
nhất trong trường hợp đó. Các phong cách khác cũng có thể mang lại hiệu
quả tác động, tức là có phù hợp ở mức nhất định. Vì vậy, trong thực tiễn, giáo
viên nên xác định một hệ thống thứ bậc phù hợp của các phong cách ứng với
từng mẫu học viên, thay vì chỉ đi tìm phong cách phù hợp duy nhất. Bảng
14.2 gợi ý hệ thống thứ bậc phù hợp của các phong cách dạy học.
* Sử dụng phong cách phù hợp với các tình huống dạy học khác nhau
Trong dạy học truyền thống,. hầu như chỉ diễn ra một tình huống dạy
học duy nhất: giáo viên chủ yếu hướng vào bài giảng của mình và cố gắng
truyền đạt những nội dung dã được chuẩn bị trước tới tập thể học viên. Vì
vậy, giáo viên chỉ cần có và sử dụng duy nhất một phong cách dạy học riêng
của mình, còn học viên phải có trách nhệm thích ứng với phong cách đó.
Quan niệm này đã lỗi thời, lạc hậu và kìm hãm hiệu quả dạy học hiện đại.
Ngày nay, dạy học không phải là truyền giảng, mà là tổ chức cho học viên
thực hiện các hoạt động học của mình. Trong quá trình này xuất hiện nhiều
tình huống khác nhau, buộc người giáo viên phải có các giải pháp phù hợp,
tức là phải có nhiều phong cách để ứng phó với mỗi tình huống cụ thể. Người
cần phải thay đổi hành vi để thích ứng với sự biến đổi của quá trình dạy hiện
đại không chỉ là học viên mà cả giáo viên. ở đây có mối quan hệ hữu cơ, hai
chiều giữa phong cách dạy của giáo viên với mức độ sẵn sàng học tập của
học viên.
Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, có sự biến đổi các mẫu học viên
từ H 1 đến H 4 nếu có sự thay đổi phù hợp các phong cách dạy học của giáo
viên. Nếu việc dạy học của giáo viên (chẳng hạn tổ chức học viên trao đổi và
làm việc theo nhóm) được bắt dầu từ phong cách T2 (hành vi công việc cao/
hành vi quan hệ thấp), giáo viên luôn luôn có mặt trên lớp và chỉ dẫn cụ thể
việc học viên chuẩn bị và tiến hành trao đổi nhóm. Khi học viên đã nắm được
yêu cầu, nội dung và cách thức tiến hành buổi trao đổi, giáo viên chuyển dần
sang sử dụng phong cách T1 (hành vi công việc và hành vi quan hệ đều cao).
Ở đây, giáo viên không chỉ giúp học viên hoàn chỉnh cách thức, quy trình tiến
hành thảo luận mà còn kịp thời động viên, củng cố để khơi dậy và duy trì
nhiệt tình học tập của học viên. Giai đoạn tiếp theo là sử dụng phong cách T3
(hành vi quan hệ cao/ hành vi công việc thấp), cuối cùng là T1 (cả hành vi
quan hệ và công việc đều thấp). Với ý nghĩa là tin tưởng và giao phó việc trao
đổi nhóm cho học viên tự tổ chức. Tương ứng với sự thay đổi phong cách
của giáo viên sẽ diễn ra sự thay đổi mức độ sẵn sàng học tập của học viên.
Lúc đầu, sự thay đổi diễn ra chậm. Cùng với sự giảm dần các hành vi ra lệnh,
yêu cầu, chỉ dẫn công việc và tăng dần các hành vi khuyến khích của giáo
viên, sự thay đổi diễn ra nhanh hơn. Khi học viên đã bộc lộ rõ khả năng tự
định hướng, tự đảm nhận công việc học tập và khả năng tự xác định cho
mình động cơ, trách nhiệm học tập đúng đắn, ổn định, giáo viên sẽ giảm dần
sự hỗ trợ cả về mặt chỉ dẫn công việc lẫn tâm lí xã hội.
Điều thú vị là sự thay đổi luân phiên một cách có hệ thống các phong
cách dạy học không chỉ mang lại hiệu quả cao trong việc tăng cường khả
năng và mức độ độc lập, tự chủ học tập của học viên mà còn mang lại hiệu
quả rõ rệt trong giáo dục gia đình. Các kết quả nghiêm cứu cho thấy, trẻ em
thuộc các gia đình có truyền thống giáo dục con cái theo phong cách độc
đoán mệnh lệnh, gia trưởng (hành vi công việc cao) và theo phong cách tự do
(hành vi công việc và hành vi quan hệ đều thấp), thường phát triển chậm hơn,
khó thích ứng xã hội hơn so với trẻ em thuộc các gia đình được giáo dục theo
phong cách dân chủ. Trên thực tế sự xuất hiện các “cậu ấm”, “cô chiêu”, “em
chữ” v.v trong nhiều gia đình, đều có sự góp phần quan trọng của phong cách
giáo dục.
Một số gợi ý khi xác định và sử dụng phong cách dạy học phù hợp.
Để xác định được phong cách dạy học phù hợp, giáo viên cần thực
hiện.một số việc sau:
Thứ nhất: cần xác định rõ ràng lĩnh vực hoạt động của học viên hoặc
của nhóm học viên mà mình định tác động, gây ảnh hưởng. Tức là phải trả lời
câu hỏi học viên đang làm gì? người giáo viên định tác động vào khía cạnh
nào trong công việc đó của học viên?
Thứ hai: cần xác định đúng mức độ sẵn sàng của học viên khi thực
hiện công việc được giao. Cụ thể, cần xác định được tri thức, kinh nghiệm, kĩ
năng, phương pháp hiện có của học viên so với yêu cầu của công việc; thái
độ, động cơ và mức độ tâm thế đón nhận công việc của học viên hoặc của
nhóm học viên.
Thứ ba: xác định phong cách nào sẽ phù hợp với mức độ sẵn sàng của
học viên tương ứng với lĩnh vực cần tác động. Dự kiến chiều hướng, tốc độ
chuyển biến của học viên và các phong cách tương ứng sẽ được sử dụng.
Thứ tư: Các phong cách thiên về công việc hướng đến bổn phận và
trách nhiệm của học viên, còn phong cách thiên về quan hệ hướng đến việc
động viên, củng cố các thành công của người học. Vì vậy, việc sử dụng các
phong cách của giáo viên thường theo các bước sau: 1) Sử dụng các phong
cách thiên về chỉ dẫn hoặc định hướng tới công việc; 2) Giảm dần các phong
cách hướng đến công việc và giám sát; 3) Tăng cường các phong cách thiên
về quan hệ với nghĩa là tăng cường các tác động củng cố tích cực việc học
của học viên.
14.3. QUYỀN LỰC DẠY HỌC VÀ CÁCH SỬ DỤNG QUYỀN LỰC DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN
Phần đầu của chương chúng tôi đã liên hệ công việc của người giáo
viên hiện đại với công việc của nhà lãnh đạo trong tổ chức và đã xác định
được hoạt động dạy học thực chất là hoạt động lãnh đạo, tổ chức và quản lí.
Cũng như nhà lãnh đạo một tổ chức, người giáo viên sử dụng các phong
cách dạy học để tác động tới học viên hoặc nhóm học viên nhằm thực hiện
được mục tiêu dạy học trong điều kiện xác định. Vấn đề đặt ra là hiệu quả tác
động của các phong cách đó như thế nào? Hiển nhiên là không phải đơn
thuần do sự xuất hiện của các phong cách đó, mà là do học viên ý thức được
sức mạnh tác động của chúng. Nói cách khác. họ ý thức được quyền lực mà
người giáo viên có và chuyển nó vào trong phong cách tác động. Vì vậy vấn
đề quyền lực của giáo viên và cách người giáo viên sử dụng nó phải được coi
là một trong những trọng tâm của lí luận dạy học hiện đại. Trong khuôn khổ
của tài liệu này chúng tôi chỉ đề cập tới quyền lực dạy học của giáo viên, còn
các quyền lực khác cần được bàn sâu trong các chuyên đề riêng.
14.3.1. Quyền lực dạy học của giáo viên trong dạy học hiện đại
14.3.1.1. Quyền lực dạy học của giáo viên là gì?
Có nhiều cách hiểu về quyền lực. Có người cho rằng quyền lực là năng
lực của chủ thể trong việc ảnh hưởng tới hành vi và thái độ của đối tượng.
Đôi khi nó cũng được xem xét một cách tương đối như sự ảnh hưởng của
chủ thể lên dối tượng mạnh hơn ảnh hưởng của đối tượng lên chủ thể. Một
cách hiểu đơn giản nhất: quyền lực là tiềm năng của sự tác động, gây ảnh
hưởng của nhà lãnh đạo đến người dưới quyền (Trong tiếng Anh: các thuật
ngữ power, might, có nghĩa là nguồn sức mạnh). Người có quyền lực là
người có ảnh hưởng, chi phối và kiểm soát được người khác trong một hoặc
nhiều lĩnh vực hoạt động.
Như vậy: theo cách hiểu đó quyền lực của giáo viên là sức mạnh (lực)
mà người giáo viên có (nguồn) đê gây ảnh hướng tới học viên. Nó là phương
tiện hữu hiệu giúp người giáo viên tập hợp, tổ chức và lôi cuốn các học viên
vào hoạt động học tập, nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Quyền lực của giáo viên có bốn đặc tính quan trọng cần lưu ý:
– Quyền lực là khả năng ảnh hưởng của giáo viên đến học viên. Nó
chính là sức mạnh tiềm tàng của người giáo viên đối với học viên trong dạy
học. Bất kì người giáo viên nào cũng có, khi tiến hành hoạt động dạy học.
– Quyền lực dạy học được bộc lộ (hiện thực hoá) trong mối quan hệ với
người học và được người học cảm nhận quyền lực đó. Nếu học viên không ý
thức được sẽ không có phản ứng với tác động của giáo viên. Khi đó, quyền
lực dạy học không có hiệu lực. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quyền lực
tâm lí – xã hội với sức mạnh (lực) cơ học.
– Quyền lực dạy học là một hằng số. Quyền lực nói chung, quyền lực
dạy học nói riêng luôn luôn là một hằng số. Nếu một người nào đó đã có
quyền lực với người khác, thì ngược lại, người khác đó sẽ không có quyền
lực đó nữa. Nếu quyền lực của người nào đó bị chia sẻ thì người khác sẽ
được hưởng phần đó. Quyền lực của người lãnh đạo là cái còn lại sau khi trừ
đi tất ca quyền lực của cấp dưới. Trong một lĩnh vực sự sói mòn quyền lực
của người này sẽ dẫn đến sự bồi đắp cho người khác trên cùng lĩnh vực đó.
Điều này cho thấy ngày nay, quyền lực dạy học của người giáo viên đối với
học viên đã suy giảm đi rất nhiều so với trước đây, họ chỉ còn một số lượng
rất hạn chế. Ngược lại, quyền lực học của học viên được tăng lên nhiều.
– Có quyền 1ực thực tế và quyền lực hình thức (quyền lực giả tạo).
Quyền lực thực tế khi tác động của người giáo viên có ảnh hưởng thực sự tới
người học, chi phối và kiểm soát được hoạt động học của người học. Còn
nếu các tác động của người giáo viên có ảnh hưởng bằng không hoặc quá
nhỏ. thì khi đó chỉ là quyền lực hình thức, hoặc quyền lực giả tạo.
14.3.1.2. Các yếu tố tạo nên quyền lực dạy học của người giáo viên
Quyền lực dạy học của giáo viên được hình thành chủ yếu từ hai
nguồn: quyền lực địa vị (quyền lực gán) và quyền lực cá nhân.
Quyền lực địa vị là quyền lực được hình thành từ địa vị của người giáo
viên do xã hội cung cấp và tạo điều kiện thực thi. Thực chất quyền lực địa vị
trong dạy học là quyền hạn của người giáo viên được tổ chức (Nhà nước)
quy định và được cả xã hội chấp nhận, tuân theo. Chẳng hạn: quyền được
giảng dạy, được khen thưởng và trách phạt học viên trong học tập v. v.
Những quyền hạn này có thể được quy định chặt chẽ và được ghi chép rõ
ràng trong các văn bản pháp quy, nhưng cũng có thể là những quy ước mang
tính truyền thống (truyền thống tôn sư trọng đạo của Việt Nam: Quân – Sư –
Phụ). Quyền lực địa vị là nguồn lực ban đầu và cần thiết để tạo ra quyền lực
của giáo viên.
Việc tạo ra, mở rộng, thu hẹp hoặc huỷ bỏ quyền lực địa vị của người
giáo viên chủ yếu là do tổ chức quy định. Ngày nay quyền lực địa vị trong dạy
học của người giáo viên bị thu hẹp hơn nhiều so với trước đây. Một phần do
sự phát triển của xã hội, của khoa học và của chính nền giáo dục, một phần
do các quy định của tổ chức.
Chẳng hạn, việc công nhận, chấp nhận các trình độ được đào tạo của
cá nhân khi tham gia hoạt động dạy học ở nước ta hiện nay: trình độ Đại học.
Cao đẳng, Trung học Sư phạm, thậm chí ở mức Chứng chỉ Sư phạm bậc 1
bậc 2 là có thể được chấp nhận tham gia dạy học.
Một ví dụ về thu hẹp quyền lực địa vị của giáo viên hiện nay do quy
định là không được cho học sinh tiểu học lưu ban.
Quyền lực cá nhân của giáo viên được thể hiện ở mức độ tôn trọng,
kính phục và tự nguyện tuân theo của học viên đối với các tác động của giáo
viên. Nói cách khác, quyền lực cá nhân của giáo viên là mức độ học viên sẵn
sàng tuân theo. Quyền lực cá nhân trong dạy học của giáo viên được hình
thành thông qua quan hệ của họ với học viên, bằng cách chiếm được mềm
tin, sự tín nhiệm của học viên.
Khác với quyền lực địa vị được hình thành từ bên ngoài và từ trên
xuống (bổ nhiệm của cấp trên), quyền lực cá nhân được hình thành từ dưới
lên (tín nhiệm của học viên) và từ bên trong của người giáo viên (trình độ
chuyên môn và phẩm chất nhân cách). So với quyền lực địa vị, quyền lực cá
nhân của giáo viên cơ động, linh hoạt hơn. Việc mở rộng, thu hẹp hoặc bị phá
huỷ có thể diễn ra hàng ngày và phụ thuộc nhiều vào cách ứng xử của giáo
viên với học viên.
Một giáo viên: hôm trước vẫn còn là thần tượng của học viên: nhưng
hôm sau có thể trở thành thấp kém, khi người giáo viên đó có hành vi tạo ra
sự thất vọng ở học viên.
Mặc dù, quyền lực địa vị và cá nhân độc lập và khác biệt nhau nhưng
chúng là một hệ thống tương tác lẫn nhau, tạo thành hai mặt của quyền lực
dạy học của giáo viên. Quyền lực địa vị mang lại quyền hạn cho người giáo
viên và sự sợ hãi, phục tùng của học viên. Quyền lực cá nhân được tạo ra từ
uy tín của người giáo viên và sự quý trọng, tin theo của học viên. Vì vậy mỗi
giáo viên chỉ có một trong hai quyền lực đó thì chưa đủ, mà phải có cả hai.
Trong đó, quyền lực cá nhân là yếu tố quyết định. Ngày nay, do quyền lực địa
vị ngày càng có xu hướng thu hẹp và xói mòn, nên để có hiệu quả cao trong
dạy học, đòi hỏi người giáo viên càng cần phải mở rộng và tăng cường quyền
lực cá nhân. Trong dạy học hiện đại “ nhất tự vi sư, bán tự vi sư “_ về phương
diện nào đó không còn phù hợp, mà phải thay bằng “biết mười dạy một”.
14.3.1.3. Các loại quyền lực dạy học của người giáo viên
Quyền lực dạy học của giáo viên được biểu hiện qua nhiều quyền lực
thành phần. Có thể kể đến những quyền lực cụ thể sau:
* Quyền lực pháp lí. Đây là quyền lực được tạo thành từ quyền lực địa
vị của người giáo viên. Thể hiện sự thừa nhận quyền lực của người giáo viên
được tổ chức các hoạt động học tập của học viên. Trong đó, giáo viên được
quyền đưa ra các thông tin, các mệnh lệnh, yêu cầu, chỉ dẫn, giảng giải v.v
đối với các hoạt động học tập của học viên; quyền được tham gia trực tiếp
vào các hoạt động đó; được điều chỉnh khi cần thiết v.v. Quyền pháp lí là loại
quyền lực cơ sở của mọi giáo viên. Quyền lực pháp lí có thể được tăng
cường nếu giáo viên đưa ra được các thông tin, các chỉ dân hay các quyết
định hợp lí. Nhưng nó cũng có thể bị xói mòn, suy yếu nếu giáo viên liên tục
đưa ra các thông tin, các quyết định không có hiệu quả (thường xuyên đưa ra
các hành động học quá dễ hoặc quá khó v.v…).
* Quyền lực khuyến khích (quyền được ban thưởng). Người giáo viên
có quyền được khuyến khích, kích thích, động viên và ban thưởng các hành
vi học tập của học viên. Quyền lực khuyến khích cũng được hình thành bởi
quyền địa vị của người giáo viên. Quyền lực này sẽ được tăng cường nếu
giáo viên có khả năng khen thưởng hợp lí, đúng người, đúng việc, đúng lúc,
đúng chỗ v.v. Đồng thời thời nó cũng có thể bị xói mòn, suy yếu nếu người
giáo viên không biết sử dụng (sự thất hứa, quá lạm dụng lời khen, phần
thưởng: thưởng không đúng người, đúng việc v.v).
* Quyền lực cưỡng bức. Cũng như khen thưởng, người giáo viên được
giao quyền cưỡng bức, trách phạt khi học viên mắc lỗi. đáng bị phạt. Quyền
lực cưỡng bức hay trách phạt là một phương tiện công cụ hữu hiệu để người
giáo viên gây ảnh hưởng đến học viên. Nó tạo ra sức mạnh cho các phong
cách dạy học yêu cầu, mệnh lệnh của giáo viên. Quyền lực cưỡng bức sẽ
được tăng cường nếu người giáo viên biết sử dụng nó Ngược lại nó sẽ bị xói
mòn nhanh chóng nếu không được thực hiện nghiêm túc (chỉ hù doạ nhiều
lần nhưng trên thực tế không phạt) hoặc sử dụng không đúng (phạt vô cớ,
không đúng mức v.v). Quyền lực cưỡng bức được tạo bởi quyền lực địa vị
của người giáo viên.
Một học sinh bị điểm kém, cô giáo tuyên bố trước lớp em sẽ phải ở lại
sau giờ học để học lại bài đó. Tan học cô giáo không yêu cầu em đó ở lại, lần
sau em lại bị điểm kém và cô giáo lại tuyên bố, em phải ở lại với vẻ kiên quyết
hơn. Nhưng rồi em đó vẫn không phải ở lại v.v.
Sau vài lần như vậy. những lỡi cảnh báo về hình phạt của cô giáo sẽ
kém hiệu lực đối với học sinh.
* Quyền lực chuyên môn là sự thừa nhận của học viên về trình độ học
vấn, tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của người giáo
viên. Quyền lực chuyên môn là cốt lõi của quyền lực cá nhân của giáo viên.
Nó là phương tiện đắc lực để người giáo viên gây ảnh hưởng tới học viên,
đặc biệt là các học viên có trình độ nhận thức tốt và có động cơ học tập
mạnh. Với những học viên này, các giáo viên giỏi chuyên môn thường được
coi là thần tượng đáng noi theo.
* Quyền lực tư vấn là sự thừa nhận của học viên về mối quan hệ tốt
đẹp, chân tình của giáo viên với họ. Sự tác động của giáo viên được học viên
đón nhận với niềm tin, sự tín nhiệm và được coi là lời khuyên có hiệu quả.
Hiển nhiên là nếu học viên coi người giáo viên là người động viên, chia sẻ tin
cậy của mình thì hiệu quả tác động của người giáo viên sẽ tăng lên đáng kể.
Quyền lực tư vấn được hình thành từ quyền lực cá nhân. Một người giáo viên
có quyền lực tư vấn cao là người được học viên mến mộ, tin theo.
* Quyền lực thông tin, là sự thừa nhận của học viên về những truy cập
và lưu trữ những thông tin hữu ích của giáo viên. Quyền lực thông tin gắn liền
với vốn văn hoá sâu, rộng, phong phú của giáo viên, kết hợp với khả năng
truy cập và kiểm soát thông tin đa dạng trong điều kiện bùng nổ của kĩ thuật
thông tin hiện đại. Quyền lực thông tin làm tăng cường quyền lực cá nhân của
người giáo viên.
Trên đây là các loại quyền lực dạy học của giáo viên. Trong đó các
quyền lực pháp lí, quyền khuyến khích và quyền trách phạt được hình thành
từ quyền lực địa vị và là biểu hiện của quyền lực này. Các quyền lực chuyên
môn, tư vấn và thông tin làm nên quyền lực cá nhân của giáo viên. Tất cả các
quyền lực trên liên kết và hỗ trợ nhau, tạo thành quyền lực dạy học của người
giáo viên. Trong đó, các quyền lực chuyên môn và quyền lực pháp lí được coi
là quan trọng nhất. Ngoài ra, đối với các loại học viên khác nhau thì vai trò
của các quyền lực cũng khác nhau. Chẳng hạn, đối với sinh viên đại học,
ngoài quyền lực chuyên môn, quyền lực pháp lí, thì tiếp đến là quyền lực
cưỡng bức, quyền lực tư vấn và quyền lực khuyến khích. Ngược lại, đối với
học sinh phổ thông, ngoài quyền lực pháp lí và chuyên môn, các em nhấn
mạnh tới quyền lực tư vấn và quyền lực khuyến khích.
14.3.2. Sử dụng quyền lực dạy học đối với các mẫu học viên.
Việc sử dụng các phong cách dạy học không thể đem lại hiệu quả nếu
chúng không được hậu thuẫn của loại quyền lực phù hợp. Trong thực tiễn có
mối quan hệ trực tiếp giữa loại quyền lực với phong cách dạy học tương ứng.
14.3.2.1. Sử dụng quyền lực cưỡng bức. Đối với các học viên có mức
độ sẵn sàng thấp (H1), giáo viên thường phải dùng phong cách mệnh lệnh
cao và quan hệ cao (T1). Trong đó nhấn mạnh sự chỉ dẫn công việc yêu cầu
và mệnh lệnh. Để hậu thuẫn cho phong cách này, cần phải có quyền lực
cưỡng bức. Con người nói chung, học viên nói riêng thường dễ nhận ra hậu
quả của việc mình không tuân theo yêu cầu, mệnh lệnh của người quản lí. Vì
vậy khi mức độ sẵn sàng cho việc học của họ chưa cao thì việc khai thác
quyền lực cưỡng bức sẽ có hiệu quả hơn các quyền khác. Trong thực tiễn,
sự chỉ dẫn chu đáo của giáo viên đối với công việc cần phải làm, kết hợp với
thái độ nghiêm khắc, một hình phạt đúng mức sẽ có hiệu quả tích cực đối với
nhiều học viên chưa thực sự chú tâm vào việc học.
14.3.2.2. Sử dụng quyền lực khuyến khích. Phong cách dạy học thuyết
phục, tham gia (T3) thường được giáo viên sử dụng đối với các học viên có
năng lực nhưng chưa nhiệt tình học (H3). Nhất là đối với học viên có xu
hướng chỉ thích làm những việc khó, nhưng được đánh giá và khẳng định.
Phong cách này sẽ có hiệu quả nếu giáo viên biết sử dụng quyền lực khuyến
khích. Sự khích lệ bằng động viên, cam kết hoặc phần thưởng hợp lí sẽ là
nguồn trợ giúp tốt để các học viên này tích cực học tập và sẵn sàng làm theo
mong muốn của giáo viên.
14.3.2.3. Sử dụng quyền lực pháp lí. Đối với những học viên có mức độ
sẵn sàng trung bình (H2 và H3) tức là những học viên hoặc có năng lực học
tập nhưng động cơ học chưa cao hoặc có động cơ học tập cao nhưng lại gặp
khó khăn về khả năng tiếp thu, thì các phong cách dạy học phù hợp là tham
gia, thuyết phục (T2) hoặc giảng giải (T3) Cả hai phong cách này đều cần có
sự hỗ trợ của quyền lực pháp lí. Vào thời điểm khi học viên có mức độ sẵn
sàng trung bình thì quyền lực của người giáo viên phải được hợp pháp hoá.
Tức là người giáo viên có khả năng tạo ra được sự phục tùng hoặc tác động
lên hành vi của học viên nhờ quyền lực địa vị của mình.
14.3.2.4. Sử dụng quyền lực tư vấn. Cá nhân cần sự hỗ trợ của nhà tư
vấn khi gặp một số khó khăn mà bản thân thấy không thể tự mình giải quyết
được. Những học viên đang trong giai đoạn chuyển từ mức sẵn sàng học tập
trung bình cao lên mức (H2 và H3) là người trong hoàn cảnh như vậy. Trên
thực tế, khi làm việc với học viên này, giáo viên thường sử dụng phong cách
tham gia (T2) Để mang lại hiệu.quả cao cho sự tác động bằng phong cách
này, giáo viên cần sử dụng quyền lực tư vấn. Nguồn lực này dựa trên cơ sở
những mối quan hệ thân tình, tin cậy và chia sẻ giữa học viên với giáo viên.
Với những người có khả năng nhưng động cơ chưa cao và chưa ổn định, thì
quyền lực tư vấn sẽ tạo ra niềm tin, đưa ra được sự động viên, sự công nhận
và các hành vi hỗ trợ khác. Khi điều đó sảy ra, học viên thường phản ứng một
cách tích cực, do có sự ngưỡng mộ, công nhận uy tín của người giáo viên.
14.3.2.5. Sử dụng quyền lực thông tin. Một trong những nhu cầu nổi trội
của các học viên có khả năng học tập nhưng chưa thực sự có động cơ học
ổn định (H3) là được cung cấp thông tin về hoạt động học tập. Hơn nữa, khi
các học viên chuyển từ mức sẵn sàng trung bình cao lên mức cao, cũng
thường xuất hiện các nhu cầu trên. Vì vậy học, đối với mẫu học viên này cùng
với việc sử dụng phong cách tham gia (T2) người giáo viên nên sử dụng
quyền thông tin. Thông qua quyền lực thông tin này, giáo viên có thể gây ảnh
hưởng tích cực đến học viên.
14.3.2.6. Sử dụng quyền lực chuyên môn. Những học viên có khả năng
học tập cao và có động cơ học mạnh mẽ, ổn định (H4) thường ít đòi hỏi sự
hướng dẫn, giảng giải hoặc trợ giúp. Đối với họ, người giáo viên có trình độ
chuyên môn cao là người đáng khâm phục, tin cậy. Vì vậy, cùng với việc sử
dụng phong cách giáo phó (T1), giáo viên cần khai thác quyền lực chuyên
môn để tạo ra sự tin cậy, khâm phục của học viên. Từ đó duy trì phong độ
học tập của họ.
Có thể tóm tắt các gợi ý cách sử dụng quyền lực dạy học của giáo viên
trong bảng 14.3.
Bảng 14.3. Mối liên hệ giữa các cơ sở quyền lực, phong cách dạy học với các mức độ sẵn sàng học tập của học viên.
Các mẫu học
viên
Sẵn sàng
thấp (H1)
Sẵn sàng TB
(H2)
Sẵn sàng TB
(H3)
Sẵn sàng cao
(H4)
Các phong
cách dạy học
phù hợp
Mệnh lệnh,
(T4)
Giảng giải
(T2)
Tham gia
(T3)
Giao phó
(T1)
Quyền lực
dạy học
Cưỡng bức Khuyến khích, Pháp lí, Thông
tin
Chuyên môn
Quyền lực địa vị Quyền lực cá nhân
Trên đây là một số gợi ý sử dụng các cơ sở quyền lực của giáo viên
phối hợp với phong cách dạy học, tương ứng với các trạng thái sẵn sàng học
tập của học viên. Những gợi ý này không phải là chỉ dẫn cứng nhắc, mà chủ
yếu nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng: trong dạy học, học viên thường có
các trạng thái sẵn sàng học tập khác nhau, để nâng cao hiệu quả dạy học và
phát triển học viên, giáo viên cần tính đến việc sử dụng phong cách và quyền
lực phù hợp với các trạng thái đó.
PHỤ LỤC. BẢNG TÓM TẮT CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHỔ BIẾN HIỆN NAY
PPDH Những mục tiêu chủ yếu
Những ưu điểm
Những nhược điểm
Bình luận
Thuyết trình Nhìn chung,
bài giảng là
một chuỗi lời
– Truyền đạt
thông tin.
– Cung cấp
tổng quan về
– Nhiều
người nghe.
– Nhiều thông
tin và nhanh
– Người nghe
thụ động.
– Thông tin
– Cần lên kế
hoạch cẩn
thận.
– Phần trình
nói không
ngừng
Thường là
một phần
hình thức về
chủ đề cụ
thể.
chủ đề.
– Khơi dậy
nhóm.
- Kích thích
suy nghĩ.
chóng.
- Dễ tổ chức.
một chiều.
– Dễ nhàm
chán.
– Người. học
không thể
hiện được
kiến thức và
kĩ năng.
- Chủ yếu
khai thác trí
nhớ.
bày phải duy
trì được sự
quan tâm của
người nghe.
- Cần đề nghị
học viên đặt
câu hỏi hoặc
làm rõ ý.
- Phần trình
bày nên có
phương tiện
hỗ trợ.
– Khuyến
khích người
học ghi chép
cần thận.
– Nên khái
quát các điểm
chính.
Thao diễn minh họa
TÀI LIỆU THAM KHẢOI. Tiếng Việt
1 Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quýnh, Vũ Văn Tảo (2001).
Từ điển giáo dục. NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Châu (2005). Những vấn đề cơ bản về chương trình và
quá trình dạy học. NXB Giáo dục Hà Nội.
3. Phạm Khắc Chương (1997). Cômenxki ông tổ của nền sư phạm cận
đại. NXB Giáo dục Hà Nội.
4. V.A. Cruchetxki (1982). Những cơ sở của tâm tí học sư phạm (2 tập).
NXB Giáo dục Hà Nội.
5. M. Donaldson (1996). Hoạt động tư duy của trẻ em. NXB Giáo dục
Hà Nội.
6. R. Gibson (2004). Tư duy lại tương lai. NXB Trẻ.
7. V.V. Đavưđov (2000). Các dạng khái quát hoá trong dạy học. NXB
ĐHQG. Hà Nội.
8. Hồ Ngọc Đại (2003) Cái và Cách. NXB Đại học Sư phạm.
9. Hồ Ngọc Đại (1994). CGD công nghệ giáo dục. Tâm NXB Giáo dục.
Hà Nội.
10. Đặng Văn Đức – Nguyễn Thu Hằng (2004). Phương pháp dạy học
địa lí theo hướng tích cực. NXB Đại học Sư phạm.
11. H.Gardner (1997). Cơ cấu trí khôn. NXB Giáo dục. Hà Nội. 1997.
12. Trần Bá Hoành, Phó Đức Hoà, Lê Tràng Định (2003) áp dụng dạy
và học tích cực trong môn tâm lí– Giáo dục học. NXB Đại học Sư phạm.
13. Đặng Vũ Hoạt – Hà Thế Ngữ (1988). Giáo dục học. NXB Giáo dục.
Hà Nội.
14. Đặng Vũ Hoạt – Hà Thị Đức (1996). Lí luận dạy học đại học. NXB
Đại học Sư phạm.
15. Đặng Thành Hưng (1994) Quan niệm và xu thế phát triển phương
pháp dạy học trên thế giới. Viện khoa học giáo dục Việt Nam – Trung tâm
thông tin Khoa học giáo dục.
16. Đặng Thành Hưng (2002). Dạy học hiện đại. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
17. Nguyễn Bá Kim – Vũ Dương Thuỵ (1992). Phương pháp dạy học
môn Toán. NXB Giáo dục. Hà Nội.
18. Nguyễn Kỳ (1995). Phương pháp giáo dục tích cực. NXB Giáo dục.
Hà Nội.
19. Nguyễn Dương Khư (1996). Chân dung các nhà Tâm lí – Giáo dục
thế giới thế kỷ NXB Giáo dục. Hà Nội.
20. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Jean Piaget – nhà tâm lý học vĩ đại thế
kỷ XX 1896–1996). Hội Tâm lý – Giáo dục học Việt Nam.
21. I.Lecne (1977). Dạy học nêu vấn đề. NXB Giáo dục. Hà Nội.
22. A.N.Lêônchiep (1989). Hoạt động – ý thức – Nhân cách. NXB Giáo
dục. Hà Nội.
23. V. I. Lenin (1980). Toàn tập. Tập 18. NXB M (Bản tiếng Việt).
24. V. I. Lenin (1963). Bút kí triết học. NXB Sự thật Hà Nội.
25. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (2003). Phương pháp dạy học lịch
sử. NXB Giáo dục. Hà Nội.
26. B.Ph.Lomov (2000). Những vấn đề lí luận và phương pháp luận tâm
lí học. NXB ĐHQG. Hà Nội.
27. Lê Nguyên Long (1999). Thử đi tìm những phương pháp dạy học
hiệu quả. NXB Giáo dục. Hà Nội.
28. C. Mác (1989). Bản thảo kinh tế triết học năm 1844. NXB Sự thật.
Hà Nội.
29. Các Mác và Ph. Ăngghen (1994). Toàn Tập. Các tập 20, 23,24,25,
NXB Chính trị Quốc gia Sự thật Hà Nội.
30. Các Mác và Ph. Ăngghen (1980). Tuyển tập. Tập 1. NXB Sự thật
Hà Nội.
31. A.M. Machiuxkin (1978). Các tình huống có vấn đề trong tư duy và
trong dạy học. Đại học Sư phạm Hà Nội.
32. G.Morgan (1994) Cách nhìn nhận tổ chức từ nhiều góc độ NXB
Khoa học kĩ thuật.
33. Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoạ, Nguyễn Thị Mùi (2000). Tâm lí
học hoạt động và khả năng ứng dụng vào lĩnh vực dạy học. NXB ĐHQG. Hà
Nội.
34. Phan Trọng Ngọ, Lê Tràng Định, Dương Diệu Hoa (2000). Vấn đề
trực quan trong dạy học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Hà Thế Ngữ (2001). Giáo dục học một sô vấn đề lí luận và thực
tiễn. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. V Okôn (1968). Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
37.G. Petty (1998): Giảng dạy ngày nay. NXB Stantey Thomes. (bản
tiếng Việt do dự án Việt– Bỉ dịch).
38.A.V.Petrovski.(1982). Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm (2
tập). NXB Giáo dục. Hà Nội.
39. G.Piagie (1986). Tâm lí và giáo dục học. NXB Giáo dục Hà Nội.
40. G.Piagie, B.Inhelder, Vĩnh Bang (2000). Tâm lí học trẻ em và ứng
dụng tâm lí học Piaget vào trường học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. G.Piagie (1986). Tâm lí học và giáo dục học. NXB Giáo dục. Hà
Nội.
42. G.Polya (1997). Sáng tạo toán học (3 tập). NXB Giáo đục Hà Nội.
43. Phút Hersey – Ken Blanchard (1995). Quản lí nguồn nhân lực. NXB
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
44. Tâm lí học Liên xô (1978). NXB Giáo dục. Hà Nội.
45. Tâm lí – giáo dục học. Một số khuynh hướng tâm lí – giáo dục học
phương Tây hiện đại. Đại học Sư phạm To Hồ Chí Minh. 1978.
46. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (1983). Lí luận
sư phạm đại học. 2 tập.
47. Nguyễn Cảnh Toàn – Nguyễn Kỳ (1997). Quá trình dạy– tự học.
NXB Giáo dục. Hà Nội.
48. Thái Duy Tuyên (2001). Giáo dục học hiện đại (những nội dung cơ
bản). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. F.Weinert (1998). Sự phát triển nhận thức học tập và giảng dạy.
NXB Giáo dục. Hà Nội.
50. L.X.Vưgotxki (1997). Tuyển tập Tâm lí học. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
51. Trần Tuyết Oanh (2004). Đánh giá trong giáo dục. NXB Đại học Sư
phạm. Hà Nội.
52. Nguyễn Ngọc Quang. (1989). Lí luận dạy học đại cương (2 tập).
Trường Đào tạo cán bộ quản lí Giáo dục TW.
53.Vũ Trọng Rỹ (1997) Một số vấn đề lí luận về phương tiện dạy học.
Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
II. Tiếng Anh - Pháp
54. A. Bandura (1977). Social 1earning theory. Prentice – Hall.
55. A.Bandura (1985). A Model of causality in social learning theory.
In.M. Mahoney and A. Freedman. N.Y
56. F.Raynal, A.Rieunier (1997). Dictionnaire des Concepts clés
apprentissage, formation et psychologie cognitive. Paris. ESF.
57. David.r. Shaffer (1992). Developmental Psychology Childhood and
Adolescence (Second Edition). N.Y
58. Gauđencio V. Aquimo, Perpetua U. Razon (1993). Educational
Psychology. Rex Book Store. Manila, Philippinec.
59. B.F. Skinner (1957). Verbal behavior. N.Y
60. B.F. Skinner (1953) Science And Human Behavior. The Pree Press
and colophon are trademarks of Simon & Shuster.
62. E.C.Tolman (1959) Priciples ofpurposive behavior. Mc Gaw – Hill.
N.Y.
63. J.F.Traver, S.N.Elliott, Th.R.Kratochwill (1993). Educatioanal
Psychology. WCB Brown &Benchmark, Inc.
64. T. Wentling (1993). Planning for effective training: Aguide to
curiculum develoment. Pubiished by Food and Agricultural Organnization of
the United Nations
MỤC LỤCPhần thứ nhất
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ DẠY HỌC
1.1. Khái niệm học tập
1.1.1. Học là gì?
1.1.2. Các phương thức học của con người
1.1.3. Các cơ chế học của con người
1.2. Dạy và dạy học
1.2.1. Khái niệm dạy
1.2.2. Các phương thức dạy
1.2.3. Phân biệt dạy học và giáo dục
Chương 2. CÁC LÍ THUYẾT TÂM LÍ HỌC VỀ HỌC TẬP VÀ MÔ HÌNH DẠY HỌC
2.1. Thuyết liên tưởng và mô hình dạy học thông báo
2.1.1. Nội dung chính của thuyết liên tưởng
2.1.2. Mô hình dạy học thông báo
2.2. Thuyết hành vi và các mô hình dạy học điều khiển hành vi..
2.2.1. Luận điểm cơ bản của Thuyết hành vi
2.2.2. Mô hình dạy học điều kiện hoá cổ điển
2.2.3. Mô hình dạy học tạo tác của B.F. Skinner
2.2.4. Mô hình học tập nhận thức của E.C. Tolman
2.2.5. Mô hình học tập nhận thức xã hội của A.Bandura
2.2.6. Mô hình học tập tự điều chỉnh và biến đổi hành vi nhận
thức.
2.2.7. Các quy luật học tập
2.3. Lí thuyết kiến tạo nhận thức của J. Piaget và mô hình dạy học hành
động học tập khám phá của J. Bruner
2.3.1. Lí thuyết kiến tạo nhận thức của J. Piaget
2.3.2. Mô hình dạy học hành động học tập khám phá của Jero
2.4. Các mô hình dạy học dựa trên lí thuyết hoạt động tâm tí…
2.4.1. Một số luận điểm dạy học theo thuyết lịch sử văn hoá về
sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của L.
X.Vưgotxky………
2.4.2. Một số luận điểm dạy học chủ yếu theo tí thuyết hoạt động
tâm lí của A. N. Leonchev
2.4.3. Lí thuyết về các nước hình thành hành động trí óc Và khái
niệm của P.la.Galperin và mô hình dạy học của V. V. Davưdov
2.4.4. Mô hình dạy học của V. V. Davưdov dựa trên cơ sở tí
thuyết hoạt động tâm lí
Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
3.1. Khái niệm quá trình dạy học
3.1.1. Định nghĩa
3.1.2. Cấu trúc của quá trình dạy học
3.2. Mục đích dạy học
3.2.1. Định nghĩa
3.2.2. Các cấp độ mục đích dạy học
3.3. Nội dung dạy học
3.3.1. Nội dung học tập
3.3.2. Nội dung dạy
3.4. Chương trình, Môn học, Bài học và Tài liệu học tập
3.4.1. Chương trình dạy học
3.4.2. Môn học và bài học
3.5. Hoạt động dạy và hoạt động học
3.5. 1. Sự tương tác giữa người dạy, người học và đối tượng dạy
học
3.5.2. Chức năng của hoạt động dạy và hoạt động học trong dạy
học hiện đại
Chương 4. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
4.1. Khái niệm phương pháp dạy học
4.1.1. Hai hướng tiếp cận vấn đề phương pháp trong triết học..
4.1.2. Khái niệm phương pháp dạy học
4.1.3. Cấu trúc phương pháp dạy học
4.2. Cơ sở của việc xây dựng và sử dụng phương pháp dạy học
4.2. 1. Quan hệ giữa mục tiêu. nội dung và phương pháp dạy
học..
4.2.2. Quan hệ giữa đối tượng học tập. người dạy và người học
trong học tập
4.3. Phân loại phương pháp dạy học
4.3.1. Vấn đề phân loại phương pháp dạy học
4.3.2. Các hệ thống phương pháp dạy học
Phần thứ haiCÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
Chương 5. NHÓM PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU DÙNG LỜI CỦA GIÁO VIÊN
5.1. Phương pháp thuyết trình
5.1.1. Định nghĩa
5. 1.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp thuyết trình..
5.1.3. Nội dung và cấu trúc bài thuyết trình
5.1.4. Những yếu tố chi phối bài thuyết trình
5.1.5. Gợi ý chuẩn bị và thực hiện bài thuyết trình
5.2. Giải thích và trình diễn
5.2.1. Kĩ thuật giải thích
5.2.2. Kĩ thuật trình diễn
Chương 6. NHÓM PHƯƠNG PHÁP TRAO ĐỔI
6.1. Phương pháp vấn đáp và kĩ thuật đặt câu hỏi
6.1.1. Định nghĩa
6.1.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp vấn đáp
6.1.3. Các loại câu hỏi
6.1.4 Kĩ thuật soạn thảo và sử dụng câu hỏi
6.2. Phương pháp thảo luận trên lớp
6.2.1. Khái niệm
6.2.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp thảo luận…
6.2.3. Các bước tiến hành thảo luận
6.2.4. Vai trò của người điều khiển và cách dẫn dắt buổi thảo
luận
6.3. Phương pháp thảo luận theo nhóm nhỏ
6.3.1. Định nghĩa
6.3.2. Điểm mạnh và hạn chế của thảo luận theo nhóm nhỏ.
6.3.3. Các hình thức thảo luận nhóm
6.3.4. Một số gợi ý về tổ chức làm việc và thảo luận theo nhóm
nhỏ
6.4. Phương pháp động não
6.4.1. Khái niệm
6.4.2. K thuật tiến hành cuộc động não
6.5. Xemina
6.5.1. Khái niệm
6.5.2. Các hình thức xemina
Chương 7. NHÓM PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HÀNH ĐỘNG HỌC CỦA HỌC VIÊN
7.1. Phương pháp dạy học chương trình hoá
7.1.1. Khái niệm
7. 1.2. Các đặc trưng của phương pháp dạy học chương trình
hoá
7.1.3. Cấu trúc của một chương trình dạy học theo chương trình
hoá
7.1.4. Các loại chương trình
7.1.5. Gợi ý thiết kế chương trình dạy học
7. 1.6. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp dạy học chương
trình hoá
7.2. Phương pháp dạy học theo mô hình Thầy thiết kế – Trò thi công
7.2.1. Quan niệm
7.2.2. Cơ sở triết học và tâm tí học của mô hình dạy học thầy
thiết kế – trò thi công
7.2.3. Một số điểm chủ yếu của phương tháp dạy học thầy thiết
kế trò thi công
7.2.4. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp thầy thiết kế –
trò thi công
7.3. Phương pháp định hướng khái quát hành động học của học viên
7.3.1 Cơ sở tí luận của phương pháp định hướng khái quát hành
động học của học viên
7.3.2. Các nguyên tắc của việc dạy học theo phương pháp định
hường khái quát hành động học của học viên
7.3.3. Một số biện pháp kĩ thuật dạy học đọc. viết và học toán cho
học viên theo phương pháp định hướng khái quát hành động học
7.4. Phương pháp dạy học giải quyết tình huống có vấn đề
7.4.1. Khái niệm
7.4.2. Các mức độ của phương pháp dạy học giải quyết tình
huống có vấn đề
7.4.3. Gợi ý kĩ thuật thực hiện dạy học giải quyết tình huống có
vấn đề
7.5. Phương pháp dạy học bằng tình huống
7.5.1. Cơ sở tâm lí học và các khái niệm cơ bản
7.5.2. Chức năng của giáo viên trong dạy học bằng tình huống
7.5.3. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp dạy học bằng
tình huống
7.5.4. Một số gợi ý thực hiện phương pháp dạy học bằng tình
huống
Chương 8. NHÓM PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC TƯƠNG TÁC HÀNH ĐỘNG HỌC
8. 1. Các phương pháp kịch
8.1.1. Khái niệm
8.1.2. Điểm mạnh và hạn chế của các phương pháp kịch
8.1.3. Các phương pháp kịch
8.2. Các phương pháp dạy học bằng trò chơi
8.2.1. Khái niệm
8.2.2. Điểm mạnh và hạn chế của phương pháp dạy học bằng
trò chơi
8.2.3. Các loại trò chơi học tập
8.3. Dạy học tương tác theo lí thuyết lịch sử văn hoá về sự phát triển
các chức năng tâm lí cấp cao của L.X. Vưgotxki
8.3.1. Dạy học tương tác phát triển là gì?
8.3.2. Một số điểm lưu ý trong phương pháp dạy học tương tác
phát triển
8.3.3. Một số gợi ý các biện pháp nâng cao hiệu quả trong dạy
học tương tác phát triển
Chương 9. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM VIỆC ĐỘC LẬP CỦA HỌC VIÊN CÓ SỰ TRỢ GIÚP CỦA GIÁO VIÊN
9.1. Học qua đọc sách
9.1.1. Điểm mạnh và hạn chế của học qua đọc sách
9.1.2. Các mức độ đọc sách của học viên
9.1.3. Các gợi ý học viên thực hiện yêu cầu khi đọc sách
9.1.4. Gợi ý kĩ thuật đọc sách
9.2. Hường dẫn làm bài tập, bài tập lớn và tiểu luận
9.2.1. Bài tập
9.2.2. Bài tập lớn và tiểu luận
9.3. Phương pháp hoạt động sáng tạo của học viên có hướng dẫn
9.3.1. Khái niệm
9.3.2. ưu thế của phương pháp hoạt động sáng tạo
9.3.3. Gợi ý về phương pháp hoạt động sáng tạo của học viên
9.4. Phương pháp tự học
9.4.1 Những khó khăn của học viên khi tiến hành tự học
9.4.2. Một số biện pháp hướng dẫn và quản tí việc tự học của
học viên
Chương 10. KỸ THUẬT SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG
10.1. Khái quát về phương tiện dạy học
10.1.1 Khái niệm.
10.1.2. Phân loại các phương tiện dạy học
10.2. Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học.
10.2.1. Hai quan niệm về trực quan trong dạy học
10.2.2. Phương tiện trực quan trong dạy học
10.2.3. Sử dụng PTTQ trong dạy học
10.3. Gợi ý kĩ thuật sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong dạy học
10.3.1. K thuật sử dụng các loại bảng viết
10.3.2. Cách sử dụng các bảng (biểu) treo tường
10.3.3. K thuật sử dụng máy chiếu Overhead
10.3.4. Các phương tiện hỗ trợ bảng máy tính, băng hình v.v.
Chương 11. CÁC PHƯƠNG PHÁP KÍCH THÍCH ĐỘNG CƠ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN
11.1. Động cơ học tập của học viên
11.1.1. Khái niệm
11.1.2. Các loại động cơ học tập
11.2. Các yếu tố tâm tí bên trong ảnh hưởng trực tiếp tới động cơ học
tập
11.2.1. Nhu cầu và nhu cầu học tập của con người
11.2.2. Mục tiêu học tập
11.2.3. Sự nhận thức và niềm tin học tập
1 1.2.4. Một số gợi ý về biện pháp kích thích động cơ học tập.
11.3. Các biện pháp kích thích từ bên ngoài ảnh hưởng tới động cơ học
tập của học viên
11.3. 1. Một số gợi ý về biện pháp củng cố trong tí thuyết học tập
của B.F.Skinner
11.3. 2. Một số gợi ý giáo viên trong việc khen ngợi và phê bình
học viên
Chương 12. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
12.1. Khái niệm chung về đánh giá
12.1.1. Các khái niệm cơ bản
12.1.2. Mục tiêu và mục tiêu học tập
12.1.3. Các nước đánh giá
12.2. Các phương pháp đánh giá kết quả học tập của học viên
12.2.1. Bài kiểm tra vấn đáp (kiểm tra miệng
12.2.2. Bài kiểm tra tự luận
12.2.3. Bài kiểm tra trắc nghiệm
12.2.4. Các hình thức cho điểm bài kiểm tra đánh giá
Chương 13. TỔ CHỨC MỘT KHÓA HỌC
13.1. Các hoạt động chuẩn bị cho một khoá học
13.1.1. Những công việc cần chuẩn bị trước ít nhất ba tháng..
13.1.2. Những công việc cần chuẩn bị một tuần trước khi khai
mạc khoá học
13.2. Trong thời gian khoá học
13.2.1. Ngày khai mạc khoá học
13.2.2. Bài giảng mở đầu của giáo viên
13.2.3. Công việc của người điều phối và của trợ giảng trong
khoá học…
13.2.4. Đánh giá khoá
Chương 14. SỬ DỤNG PHONG CÁCH VÀ QUYỀN LỰC CỦA GIÁO VIÊN TRONG DẠY HỌC
14.1. Phong cách dạy học của người giáo viên
14.1.1. Dạy học là quá trình lãnh đạo, tổ chức và quản lí
14.1.2. Các phong cách dạy học của giáo viên
14. 2. Các mẫu học viên điển hình và cách sử dụng phong cách dạy
học của giáo viên
14.2.1. Các mẫu học viên điển hình
14.2.2. Sử dụng phong cách phù hợp trong dạy học
14. 3. Quyền lực dạy học và cách sử dụng quyền lực dạy học của giáo
viên
14.3.1. Quyền lực dạy học của giáo viên trong dạy học hiện đạị
14.3.2. Sử dụng quyền lực dạy học đối với các mẫu học viên.
PHỤ LỤC
---//---
DẠY HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG
Tác giả: Phan Trọng Ngọ
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập LÊ A
Biên tập nội dung: ĐINH DIỆU LINH
Trình bày bìa: PHẠM VIẾT QUANG
In 1000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm, tại Công ti Cổ phần in Phúc Yên. Giấy phép
xuất bản số. 33 – 452/XB – QLXB, kí ngày 1/4/2005. In xong và nộp lưu chiểu
tháng 11 năm 2005.