69
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ ngân hàng thương mại Ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng.Ngân hàng là chủ thể cung cấp vốn cho nền kinh tế và là nơi thu hút ngồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế. Hệthống ngân hàng với hàng chi nhánh trên toàn thế giới có khả năng chi phối đến sự phát triển trên mọi lĩnh vực và trên phạm vi nền kinh tế toàn cầu. Hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hiện nay không ngừng phát triển trên mọi phương diện, từ sự ra đời các sản phẩm dịch vụ mới và làn sóng sát nhập hình thành tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu. Sự thànhg công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực của ngân hàng trong việc cung ứng dịch vụ. Trong chương này sẽ trình bày khái quát về dịch vụ ngân hàng và những khuynh hướng tác động tới hoạt động cung ứng dịch vụ của ngân hàng thương mại. 1.1Khái niệm, đặc điểm dịch vụ ngân hàng thương mại 1.1.1Khái niệm Có hai quan điểm khác nhau về sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Theo nghĩa rộng, sản phẩm dịch vụ ngân hàng bao gồm toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối của ngân hàng. Quan điểm này phù hợp với cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hoa kì cũng như cách 1

Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Chương 1: Tổng quan về dịch vụ ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng.Ngân hàng

là chủ thể cung cấp vốn cho nền kinh tế và là nơi thu hút ngồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh

tế. Hệthống ngân hàng với hàng chi nhánh trên toàn thế giới có khả năng chi phối đến sự

phát triển trên mọi lĩnh vực và trên phạm vi nền kinh tế toàn cầu. Hoạt động ngân hàng

trong bối cảnh hiện nay không ngừng phát triển trên mọi phương diện, từ sự ra đời các

sản phẩm dịch vụ mới và làn sóng sát nhập hình thành tập đoàn ngân hàng có quy mô

toàn cầu. Sự thànhg công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực của ngân hàng trong

việc cung ứng dịch vụ. Trong chương này sẽ trình bày khái quát về dịch vụ ngân hàng và

những khuynh hướng tác động tới hoạt động cung ứng dịch vụ của ngân hàng thương

mại.

1.1Khái niệm, đặc điểm dịch vụ ngân hàng thương mại

1.1.1Khái niệm

Có hai quan điểm khác nhau về sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Theo nghĩa rộng, sản phẩm dịch vụ ngân hàng bao gồm toàn bộ các hoạt động tiền

tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối của ngân hàng. Quan điểm này phù hợp với cách phân ngành dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hoa kì cũng như cách phân loại của nhiều nước phát triển trên thế giới.

Theo nghĩa hẹp, dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động không thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ và các nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng của một trung gian tài chính (huy động tiền gửi, cho vay). Như vậy, dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoại bảng, dịch vụ thu phí như chuyển tiền, bảo lãnh, thanh toán quốc tế...

Dịch vụ ngân hàng là dịch vụ tài chính do ngân hàng thương mại cung cấp

Theo WTO,Dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính được một nhà

cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm dịch vụ bảo hiểm và dịch

vụ có liên quan đến bảo hiểm , mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác

Dịch vụ tài chính có đặc trưng bởi hoạt động huy động và sử dụng các quỹ, thể hiện quá

trình huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính.

1

Page 2: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

1.1.2Đặc điểm

Tính chất: Là dịch vụ tài chính

Chủ thể cung cấp : Ngân hàng thương mại

Quy mô : Danh mục dịch vụ ngân hàng rất đa dạng, có thể tích hợp dịch vụ theo chiều

dọc và chiều ngang

1.1.3. Sự hình thành và phát triển dịch vụ ngân hàng

Sự hình thành và phất triển dịch vụ ngân hàng gắn liền với quá trình hình thành và phát

triển của ngân hàng thương mại. Dịch vụ ngân hàng được hình thành từ thời trung cổ.

Trong thời kỳ này mỗi quốc gia sử dụng một đồng tiền riêng và đông tiền đó chỉ được sử

dụng trong phạm vi địa phương và quốc gia của mình. Điều đó đã gây không ít trở ngại

trong hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá giữa các địa phương. Đáp ứng nhu cầu của

các nhà buôn, một bộ phận thương nhân chuyên cung ứng dịch vụ đổi tiền cho các nhà

buôn. Thuật ngữ Bank, Banque hàm ý chỉ chiéc ghế dài hay bàn của người đổi tiền. Điều

đó đã khắc hoạ rõ nét hình ảnh của ngân hàng đầu tiên với nghiệp vụ đổi tiền và chiết

khấu thương phiếu giúp cho các nhà buôn có vốn kinh doanh.

Công nghiệp ngân hàng đã dần lan rộng từ nền văn minh cỏ đại hy lạp và la mã snag văn

minh bắc Âu và Tây Âu. Dịch vụ cho vay và tiền gửi phát triển. Cùng với sự phát triển

những con đường thương mại xuyên lục địa và những chuyển biến trong nghành hàng hải

vào các thế kỷ 15.16.17 đã dần chuyển trung tâm thương mại của thế giới từ Địa Trung

Hải sang chân Âu vad quần đảo Anh, Nơi công nghiệp ngân hàng trở thành công nghiệp

hàng đầu. Việc ứng dụng phương thức sản xuất quy mô lớn đòi hỏi sự tài trợ thương mại

có tính toàn cầu do đó cần thiết phát triển các phương thức thanh toán mà ngân hàng là

chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán. Trải qua một thời kỳ dài từ dịch vụ đổi tiền, dịch vụ

ngân hàng phát triển đa dạng với ndịch vụ tiền gửi, cho vay,dịch vụ thanh toán và các

dịch vụ ngân hàng hiện đại khác

1.2 Phân loại dịch vụ ngân hàng

2

Page 3: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

1.2.1. Theo quy mô giao dịch dịch vụ ngân hàng bao gồm dịch vụ ngân hàng bán buôn

và dịch vụ ngân hàng bán lẻ

Dịch vụ ngân hàng bán buôn là dịch vụ cung ứng cho tập đoàn lớn và các NHTM khác

với quy mô và giá trị lớn. Với dịch vụ ngân hàng bán buôn, NHTM cung ứng dịch vu với

chi phí thấp nhất để các tập đoàn và các NHTM khác có thể tiếp cận và đầu tư với chi phí

thấp nhất thị trường .

Dịch vụ ngân hàng bán lẻ:

1.2.2. Theo thời hạn cung ứng dịch vụ: Dịch vụ ngân hàng bao gồm dịch vụ ngân

hàng ngắn hạn và dịch vụ ngân hàng trung dài hạn

Dịch vụ ngân hàng ngắn hạn là dịch vụ được ngân hàng cung cấp có thời hạn dưới 1

nămbao gồm dịch vụ tiền gửi ngắn hạn , cho vay ngắn hạn hoạt động tài trợ thương

mại…

Dịch vụ ngân hàng trung dài hạn là các dịnh vụ ngân hàng cung cấp có thời hạn từ 1 năm

trở lên.

1.2.3 Theo tính chất của nghiệp vụ NHTM dịch vụ ngân hàng bao gồm: dịch vụ huy

động vốn, dịch vụ tín dụng, dịch vụ thanh toán, dịch vụ uỷ thác và dịch vụ khác

Dịch vụ huy động vốn bao gồm: dịch vụ tiền gửi, tiền vay

1.2.4. Theo quá trình phát triển của NHTM dịch vụ ngân hàng bao gồm dịch vụ truyền

thống và dịch vụ ngân hàng hiện đại .

* Dịch vụ ngân hàng truyền thống bao gồm dịch vụ nhận tiền gửi, cho vay và dịch vụ

thanh toán

+Nhận tiền gửi: cho vay là hoạt động có tính sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã sử

dụng nhiều phương thức để huy động vốn trong đó nguồn vốn quan trọng đó là các khoản

tiền gửi của khách hàng.Dịch vụ tiền gửi đã đem lại sự sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở

lãi suất huy động.

3

Page 4: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

+Cho vay : trong thời kỳ đầu các ngân hàng thực hiện chiết khấu thương phiếu cho

thương nhân. Bản chất đây là hoạt động cho vay đối với doanh nhân trên cơ sở thế cấp

các khoản phải thu hoặc chuyển nhượng quyền đòi nợ cho ngân hàng lấy tiền mặt. Sau

một quá trình hoạt động ngân hàng tiến hành cho vay trực tiếp không thông qua thương

phiếu nhằm mở rộng hoạt động cho vay theo chủ thể và bao trùm nền kinh tế.Ngân hàng

tài trợ cho Chính phủ trong thực thi vai trò bằng các khoản vay hoặc mua trái phiếu chính

phủ nhằm tài trợ cho quân sự, đầu tư cơ sở hạ tầng…

+Dịch vụ thanh toán Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên

thực hiện là dịch vụ trao đổi ngoại tệ. Ngân hàng thực hiện hoạt động mua bán ngoại tệ

nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại hối phục vụ hoạt động chi trả và đầu tư giữa người cư trú và

người không cư trú.Cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự

ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ được đánh giá là phát

minh của nhân loại đó là tài khoản tiền gửi giao dịch. Tài khoản tiền gửi giao dịch cho

phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho hoạt động mua sẵm hàng hoá dịch vụ. Việc

cung cấp dịch vụ này được xem là một trong những bước đi quan trọng trong công

nghiệp ngân hàng vì nó đã cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho

hoạt động giao dịch trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn.

*Dịch vụ ngân hàng hiện đại

+ Cho vay tiêu dùng Trong lịch sử hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với

các nmhân và hộ gia đình vì họ cho rằng các khoản vay cho tiêu dùng có quy mô rất nhỏ

và rủi ro tín dụng tương đối cao và do đó chúng có tính sinh lời thấp. Sự cạnh tranh khốc

liệt giữa các ngân hàng, giữa các ngân hàng với các định chế trung gian khác đã buộc các

ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là nhóm khách hàng tiềm năng.Cho tới

những năm 1920,1930 nhiều ngânnhàng lớn đã thành lập phòng tín dụng tiêu dùng lớn

mạnh . Sau thế chiến thứ hai, tín dụng tiêu dùng là một trong những loại hình tín dụng có

mưc tăng trưởng mạnh nhất. Mặc dù nền kinh tế phát triển chậm lại nhưng tín dụng tiêu

4

Page 5: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

dùng vẫn khẳng định vị trí là dịch vụ quan trọng và đem lại nguồn thu cơ bản cho

NHTM.

+Tư vấn tài chính: Các ngân hàng đã từ lâu đã nhận được yêu cầu tư vấn tài chính từ phía

khách hàng nhất là hoạt động tư vấn tiết kiệm và đầu tư. Hiện nay, các ngân hàng cung

cấp dịch vụ tư vấn tài chính rất đa dạng :tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp, tư vấn niêm

yết, tư vấn phát hành, tư vấn kế hoạch tài chính và các hoạt động tư vấn tài chính khác

cho các chủ thể trong và ngoài nước.

+ Quản lý tiền mặt: Qua quá trình hoạt động, các ngânn hàng nhận thức rằng một số

nghiệp vụ ngân hàng thực hiện cho chính mình cũng có lợi ích đối với khách hàng, trong

đó dịch vụ quản lý tiền mặt là một dich vụ điển hình. Các ngân hàng quản lý hoạt động

thu chi cho một công ty kinh doanh và đầu tư nguồn tiền nhàn rỗi vào chứng khoán sinh

lợi và tín dụng ngắn hạn cho tới khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Đối với

người tiêu dùng, ngân hàng cung cấp dịch vụ tương tự cho phép khách hàng được mua và

bán chứng khoán di chuyển vốn trong nhiều quỹ tương hỗ, viết séc và sử dụng thẻ tín

dụng cho khoản vay tức thời.

+ Dịch vụ thuê mua: đây là hình thức tín dụng tài trợ bằng tài sản, máy móc thiết bị. Thoả

thuận thuê mua được thể hiện thông qua một hợp đồng giữa hai hay nhiều bên, liên quan

tới một hay nhiều tài sản. Người cho thuêchuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng

trong thời gian nhất định và người thuêu phải trả cho người cho thuê một khoản tiền trên

cơ sở giá trị và giá trị sử dụng tài sản theo định kỳ bao gồm tiền gốc và lãi. Trong thời

gian diễn ra hoạt dộng cho thuê tài sản quyền sở hữu đối với tài sản thuộc về người cho

thuê và quyền sử dụng thuộc về người thuê. Trong quá trình cho thuê nếu có sự có đe doạ

đến sự an toàn tài sản cho thuê người cho thuê sẽ thu hồi tài sản ngay lập tức do đó có thể

giảm thiểu rủi ro.

+ Cho vay tài trợ dự án . các ngân hàng rất năng động trong hoạt động tài trợ cho hoạt

động đầu tư xây dựng cơ bản đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao. Rủi ro đối với loại

hình tín dụng này rất cao nen thường được thực hiện thông qua công ty đầu tư là công ty 5

Page 6: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

con của tập đoàn ngân hàng và có sự tham gia của các nhà đầu tư khác nhằm chia sẻ rủi

ro. Ví dụ điển hình đó là Bankers Trust Veture Capital…

+Bán các dịch vụ bảo hiểm: Các ngân hàng thực hiện dịch vụ cung cấp dịch vụ baỏ hiểm

cho khách hàng vay vốn nhằm đẩm bảo hạn chế rủi ro tín dụng trong trường hợp khách

haqngf gặp rủi ro không có khả năng thanh toán nợ. Các ngân hàng thường bảo hiêm rcho

khách hàng thông qua liên doanh hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh . Ngân hàng sẽ

nhận được thu nhập từ dịch vụ đó.Ngân hàng thực hiện dịch vụ này nhằm thực hiện chính

sách đa dạng hoá dịch vụ cung ứng nhằm tăng khả năng cạnh tranh khi các định chế tài

chính phi ngân hàng cũng cung cấp dịch vụ ngân hàng.

+ Cung cấp kế hoạch hưu trí. Phòng uỷ thác của ngân hàng rất năng động trong việc quản

lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động. Ngân hàng thực

hiện hoạt động chi trả lương hưu và đầu tư khoản tiền tích luỹ. Ngân hàng cũng bán ké

hoạch hưu trí cho các cá nhân và giữ chúng cho tới khi người sở hữu cần đến.

+ Cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán:Trên thị trường tài chính hiện nay nhiều ngân

hàng đang cố gắng nỗ lực để trở thành bách hoá tài chính thực sự cung cấp đủ dich vụ tài

chính nhằm sản phẩm dịch vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mọi địa điểm. Do đó

các ngân hàng bắt đầu cung ứng dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng

cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu mà không tiếp cận dịch vụ môi giới của chủ thể kinh

doanh chứng khoán khác.

+ Cung cấp dịch vụ hỗ tương và trợ cấp: Ngân hàng cung cấp dịch vụ tiền gửi với lãi suất

thâp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng sản phẩm đầu tư “invesment produts”

đặc biệt là các tài khoản của quỹ hỗ tương và hợp đồng trợ cấp. Đây là loại hình dịch vụ

cung cấp có tính sinh lời cao hơn tài khoản tiền gửi truyền thống nhưng cũng có nhiều rủi

ro hơn. Hợp dồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một

khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương

lai(ngày nghỉ hưu). Đối với quỹ hỗ tương bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý

6

Page 7: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

một cách chuyên nghiệp nhằm đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác

phù hợp với mục tiêu của quỹ.

+ Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng cạnh tranh với

các tổ chức tài chính khác trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đàu tư và dịch vụ ngân

hàng bán buôn. Khách hàng của dịch vụ này là các tập đoàn lớn. Dịch vụ này bao gồm

dịch vụ tư vấn mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, bảo lãnh phát hành chứng

khoán, cung cấp công cụ marketing chiến lược, các dịch vụ phòng ngùa rủi ro. các ngân

hàng cũng đi sâu vào thị trường cho vay bảo đảm đối với khách hàng là chính phủ và

doanh nghiệp nhằm tài trợ cho các khoản nợ và cung ứng vốn với chi phí thấp nhất.

1.3 Vai trò của dịch vụ ngân hàng

Một số ngườ cho rằng ngân hàng không có vai trò gì đặc biệt, chỉ nhận tièn gửi rồi cho

vay lại hưởng chênh lệch lãi suất. Trên thực tế, để tồn tại và phát triển trong bối cảnh

cạnh tranh gay gắt trên thị trường cung ứng dịch vụ tài chính, ngân hàng thương mại phải

cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã hội

Dịch vụ ngân hàng có vai trò chu chuyển dòng vốn tiết kiệm nhàn rỗi thành các khoản tín

dụng tài trợ cho hoạt động đầu tư của nền kinh tế

Dịch vụ ngân hàng với vai trò trung gian trong hoạt động thanh toán của nền kinh tế. Với

dịch vụ thanh toán, ngân hàng thương mại thay mặt khách hành thực hiện hoạt động

thanh toán trên cơ sở cung cấp phương tiện thanh toán như séc, thẻ thanh toán…và mạng

lưới thanh toán thanh toán điện tử, kết nối với các quỹ…

Dịch vụ ngân hàng với vai trò là chủ thể bảo lãnh Ngân hàng cam kết trả nợ cho khách

hàng trong trong hợp khách hàng mất khả năng thanh toán.

Dịch vụ ngân hàng với vai trò đại lý: ngân hàng thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ

tài sản trên cơ sở hợp đồng uỷ thác.

7

Page 8: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng với vai trò thực hiện chính sách: Thông qua thcung ứng dịch vụ

NHTM thực hiện các chính sách vĩ mô của chính phủ, góp phần điều tiết nền sự tăng

trưởng kinh tế và theo đuổi mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô

1.4 Một số khuynh hướng ảnh hưởng đến hoạt động cung ứng dịch vụ của ngân

hàng

* Danh mục dịch vụ được điều chỉnh nhanh chóng thể hiện sự tăng trưởng loại hình dịch

vụ theo hướng thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng

Quá trình mở rộng danh mục dịch vụ được diễn ra rất nhanh chóng dưới áp lực cạnh

tranh gia tăng giữa NHTM với các định chế tài chính phi ngân hàng, từ sự hiểu biết và

đòi hỏi cao hơn của khách hàng và sự đổi mới của công nghệ. Đièu này gây áp lực tăng

chi phí và đặt ngân hàng vào tình trạng rủi ro tiềm tàng cao hơn tuy nhiên những dịch vụ

mới cũng tác động tích cực tới hoạt động ngân hàng vì nó tạo ra nguồn thu mới cho ngân

hàng từ phí dịch vụ. Đây là nguồn thu có xu hướng tăng nhanh hơn so với nguuồn thu từ

dịch vụ truyền thống.

* Sự gia tăng cạnh tranh

Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng

và đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. các ngân hàng trong nước cung cấp

dịch vụ tín dụng, tiền gưỉ hay cung cấp dkế hoạch hưu trí hoặc dịch vụ tư vấn đều đối mắt

với sự cạnh tranh trực tiếp từ ngân hàng khác hoặc các tập đoàn tài chính ngân hàng lớn.

Aps lực cạnh tranh đóng vai trò nư động lực thúc đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ trong

tương lai.

* Phi quản lý hoá

Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng được thúc đẩy bởi sự nới lỏng các

quy định, giảm sự kiểm soát của chính phủ. Xu hướng này lan rộng toàn cầu. Các quốc

gia như Australia, Canada, Anh, Nhật đã nới rộng phạm vi pháp lý của ngân hàng, cho

8

Page 9: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

chủ thể kinh doanh chứng khoán, và cho công ty dịch vụ tài chính khác. Do đó, chi phí và

rủi ro tiềm tàng cũng tăng lên.

* Sự gia tăng chi phí vốn

Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí huy động vốn .

Các ngân hàng cạnh tranh lẫn nhau trong hoạt động huy dộng vốn dẫn đến cạnh tranh lãi

suất, để thu hút tiền gửi các ngân hàng buộc tăng lãi suất nhằm tài trợ cho tài sản có. Các

ngân hàng nỗ lực tìm kiếm nguồn vốn mới dưới nhiều phương thức: hoạt động trênn thị

trường mở,chứng khoán hoá một số tài sản…

*Sự gia tăng nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất.

Sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng đã tạo thuận lợi cho công chúng bằng

thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của công chúng. Để thu hút công chúng gửi tiền, các sản

phẩm tiền gửi đã sử dụng cơ chế thả nổi lãi suất theo điều kiện thị trường. Các khoản tiền

gửi với lãi suất cố định không còn tính bền vững như trước nữa bởi công chúng lựa chọn

công cụ và ngân hàng nào đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thu nhập của họ. Do đó các ngân

hàng phải cố gắng giữ thị phần dịch vụ buộc phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu thu nhập

công chúng gửi tiền và nhạy cảm với điều chỉnh thói quen phân phối các khoản tiết kiệm

của công chúng.

*Sự củng cổ và mở rộng hoạt động về mặt địa lýSử dụng có hiệu quả quá trình tự động hoá và những đổi mới công nghệ đòi hỏi

các hoạt động ngân hàng phải có quy mô lớn. Vì vậy, ngân hàng cần phải mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới, xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Nhiều vụ hợp nhất đã diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và Chase Manhattan ở Newyork hay Bank of America và Nations Bank. Số lượng các ngân hàng sở hữu độc lập đang có xu hướng giảm và quy mô trung bình của các ngân hàng đang có xu hướng tăng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đang tìm mọi cách để đạt được sự đa dạng hoá, ngân hàng không còn muốn duy trì mô hình ngân hàng cổ điển và nhấn mạnh vai trò của nó như là các tổ chức tài chính năng động, đổi mới và hướng về khách hàng.

Với sự phát triển tự động hoá, ngày càng nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những 9

Page 10: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

vùng xa với các thiết bị viễn thông và máy rút tiền tự động, một phương pháp mở rộng quy mô thị trường hơn là xây dựng các cơ sở vật chất mới. Trong nhiều trường hợp, hệ thống thiết bị vệ tinh cung cấp dịch vụ hữu hạn sẽ thay thế các văn phòng chi nhánh đa năng của ngân hàng.

*Quá trình toàn cầu hoá ngân hàngSự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới một

lãnh thổ quốc gia và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn trên thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Quá trình tự do hoá các dịch vụ tài chính cho phép các ngân hàng thuộc các quốc gia khác nhau đều có quyền cung cấp các dịch vụ tài chính trên thị trường quốc tế và cùng cạnh tranh trong một môi trường bình đẳng.

*Rủi ro vỡ nợ gia tăng Trong khi xu hướng hợp nhất và bành trướng về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân

hàng ít tổn thương hơn trước điều kiện kinh tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có vấn đề của một nền kinh tế luôn biến động cũng dẫn tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng phi quản lý trong lĩnh vực tài chính cũng làm cho các thủ đoạn kinh doanh có thể xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và thanh lý ngân hàng dễ xảy ra hơn.

Chương 2: Tổ chức hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng10

Page 11: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Một trong những yêu cầu cơ bản của dịch vụ ngân hàng là sự tiện lợi. Khách hàng mong

muốn sử dụng tài khoản giao dịch tài khoản tiết kiệm, và các khoản vay tại thời điểm và

địa diểm thích hợp nhất. Trong lịch sử phát triển của ngân hàng, sự tiện lợiđồng nghĩa với

vị trí của ngân hàng.Mọi doanh nghiệp và công chúng muốn sử dụng dịch vụ ngânhàng

tại nơi họ sống chứ không phải ở một nơi nào đó. Cùng với sự phát triển của công nghệ

thông tin và công nghệ ngân hàng vị trí địa lý không còn là vấn đề quan trọng quyết định

như trước mà công nghệ chính là yếu tố quyết định tới chất lượng dịch vụ. Trong chương

này trình bày về chiến lược sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, tổ chức hoạt động cung ứng

sản phẩm dịch vụ.

2.1 Chiến lược sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thương mại

2.1.1Khái niệm

Chiến lược sản phẩm ngân hàng là bộ phận của chiến lược marketing ngân hàng bao gồm

việc xác định hệ thống sản phẩm dịch vụ mục tiêu và hệ thống chính sách nhằm đảm bảo

thoả mãn nhu càu của khách hàng vkhi sử dụng dịch vụ đó.

2.1.2 Vai trò của chiến lược sản phẩm

Ngày nay trong điều kiện tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tốc độ phát triển dịch vụ và sản

phẩm ngân hàng nhanh chóng vàkhông ngừng.Sự phát triên dịch vụ nhằm đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao của khách hàng. Chiến lược sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là công

cụ cạnh tranh hữu hiệu và là phương thức tạo ra nhu cầu mới từ đó tạo ra sản phẩm dịch

vụ mới.Sản phẩm dịch vụ ngân hàng bao gồm dịch vụ cơ bản và dịch vụ ngoại vi. Một

vấn đề quan trọng mà nhà quản trị cần chú ý đó là khách hàng không phân biệt dịch vụ

nào là dịch vụ cơ bản và dịch vụ ngoại vi. Ấn tượng và phản ứng của khách hàng tới tổng

thể dịch vụ của ngân hàng. Do đó, ngân hàng cần quan tâm đến chất lượng tổng thẻ của

dịch vụ ngân hàng.

2.1.3.Nguyên tắc xây dựng chiến lược sản phẩm

11

Page 12: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

* Ngân hàng phải tự đánh giá về toàn bộ sản phẩm dịch vụ hiện có. Sản phẩm , dịch vụ

được chấp nhận ở mức độ nào? sự thay đổi sản phẩm dịch vụ theo hướng nào?

*Phát triên sản phẩm dịch vụ mới đảm bảo được tính độc đáo của sản phẩm. Tăng trưởng

và phát triển căn cứ vào tính khác biệt chứ không căn cứ vào đặc tính tốt của sản phẩm

*Chiến lược sản phẩm đáp ứng chính sách đa dạng hoá nhằm khai thác và đáp ứng tốt

nhất nhu cầu thị trường và phân tán rủi ro.

2.1.4. Nội dung chính sách sản phẩm

* Thực hiện phân đoạn thị trườngđể nắm bắt được nhu cầu và đặc điểm khách hàng để

xác định hệ thống sản phẩm dịch vụ phù hợp với từng giai đoạn cụ thể của thị trường.

*Nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng với hệ thống sản phẩm dịch vụ đang

cung ứng.

* Nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ

*Nghiên cứu chu kỳ khách hàng

2.2 Thiết lập mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng

Mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng bao gồm toàn bộ hệ thống phương tiện vật chất và

nhân sự nhằm đưa sản phẩm dịch vụ tới khách hàng. Để tăng trưởng thị phần trên thị

trường cung ứng dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng thiết lập mạng lưới chi nhánh nhằm

đưa sản phẩm dịch vụ đến với khách hàng.

2.2.1. Tổ chức mạng lưới chi nhánh

Khi ngân hàng muốn thâm ngập vào thị trường mới hoặc cung cấp hệ thống dịch vụ mới

thì điều kiện đầu tiên thực thi kế hoạch đó là mở rộng mạng lưới cung cấp bằng việc xây

dựng chi nhánh mới với mục tiêu và vai trò đã xác định. Địa điểm, hình thức và dịch vụ

nào phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng phải xác định rõ vai trò và chức

năng của các chi nhánh trong mạng lưới.

* Vai trò của chi nhánh12

Page 13: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

+Tập trung vào khách hàng, đặc biệt thu hút khách hàng mới.

+ Đáp ứng yêu cầu về dịch vụ của khách hàng trên cơ sở danh mục dịch vụ chi nhánh

được phép cung cấp. Cung cấp sản phẩm dịch vụ mang tính tích dịch vụ trọn gói, thoả

mãn tốt nhất yêu cầu của khách hàng.

+Xây dựng hình ảnh của ngân hàng với hệ thống dịch vụ nổi trội

+Xây dựng chi nhánh mới theo chiến lược mở rộng dịch vụ

+ Chi nhánh xây dựng sản phẩm dịch vụ cá biệt nhằm thu hút nguồn tiền gửi và tạo ra

nguồn thu từ phí một cách ổn định theo phướng hướng ngân hàng bán lẻ

* Điều kiện xây dựng chi nhánh mới

+Điều kiện vốn tài trợ cho chi nhánh mới

Việc hxây dựng chi nhánh mới là quyết định sử dụng vốn, do đó nó yêu cầu dòng tiền

đầu tư ban đầu phục vụ cho hoạt động thuê, mua tài sản. Các chi nhánh được thiết khi

dòng tiền dòng vào ở tương lai đảm bảo vốn đầu tư ban đầu và có được tỷ lệ thu nhập

hợp lý.

+ Điều kiện về vị trí địa lý

Ngày nay, một vị trí tốt cho chi nhánh thoả mán các điều kiện sau

1.Có nhiều xe cộ qua lại. Điều này có ý nghĩa thu hút khách hàng tiềm năng căn cứ vào

khả năng tự tiếp cận của khách hàng tới dịch vụ của ngân hàng trên cơ sở chính sách giao

tiếp của ngân hàng tại vị trí có nhiều dòng người và xe cộ qua lại

2.Có nhiều cửa hàng bán lẻ và của hàng bách hoá nằm xung quanh vị trí lựa chọn vì đây

là nơi mà chi nhánh có thể huiy động được một lượng tiền gửi và cung cấp các khoản tín

dụng tiêu dùng.

3.Số dân trên 45 tuối độc thân. Đây là tập khách hàng có các khoản tiết kiệm lớn vad mcó

nhu cầu dịch vụ uỷ thác lớn

13

Page 14: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

4.Thu nhập trung bình và trình độ dân trí cao

5. Số lượng chi nhánh và các phương tiện dịch vụ của đối thủ cạnh tranh không gia tăng

quá nhanh để chi nhánh có cơ hột khai thác và có được thị phần thích hợp

6. Tốc độ gia tăng dân số trung bình

7. Số lượng dân cư đông, mật độ dân cư trên trung bình

Đối với chi nhánh được thiết lập chủ yếu vào thu hút tiền gửi thì địa điểm hợp lý là tại

các khu vực có thu nhập hộ gia đình và cá nhân ở mức trung bình trở lên, nơi có cửa hàng

bán lẻ và bách hoá có mật độ tập trung cao. Ngân hàng muốn phát triển dịch vụ tài khoản

giao dịch thông qua chi nhánh thường phát triển chi nhánh ở các khu vực dân cư có mức

thu nhập cao hoặc có nhiều trung tâm thương mại và cửa hàng bán lẻ. Đối với các chi

nhánh thành lập nhằm cung cấp dịch vụ tín dụng tiêu dùng nên chọn khu vực có nhiều hộ

gia đình trẻ tại những chung cư bên cạnh trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ và nơi

có dòng phương tiện qua lại lớn. Đối với các dịch vụ tín dụng tài trợ thương mại thường

tập trung tại trung tâm thành phố nơi đặt trụ sở của NHTM.

+Điều kiện về tính hiệu quả của thiết lập chi nhánh

Việc thiết lập chi nhánh mới là quyết định sử dụng vốn, nó sẽ phát sinh dòng tiền ra phục

vụ cho hoạt động đầu tư vào chi nhánh mới. Các chi nhánh sẽ được thành lập nếu dòng

tiền vào trong tương lai NCF đủ lớn để bảo đảm cho ngân hàng có tỷ lệ thu nhập hợp lý

E(r).

Dòng tiền tài trợ choviệc = ∑ NCFi / ( 1+E(r))ⁿ

thành lập chi nhánh

Một chi nhánh mới được đánh giá là có hiệu quả kinh tế nếu tỷ lệ thu nhập dự tính lớn

hơn hay bằng tỷ lệ thu nhập tối thiểu phải trả cho các cổ đông. Thu nhập của chi nhánh

14

Page 15: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

phụ thuộc vào nhu cầu của công chúng đối với các dịch vụ mà chi nhánh cung cấp,phụ

thuộc vào nhà quản lý và chất lượng nguồn nhân lực, chi phí vốn và nguồn lực cần thiết

khác.

Thiết lập chi nhánh mới, nhà quản trị không nhất thiết tập trung vào E(r) m à c ần thi ết

ph ải quan tâm đ ến phương sai của E(r) v h ệ s ố t ư ơng quan giữa E(r) v ới c ác chi

nhánh đang hoạt động và các tài sản khác của ngân hàng.Tác động của thu nhập dự kiến

của chi nhánh mới lên toàn bộ thu nhậpR(t) của các chi nhánh đang hoạt động và những

tài sản khác ROA

E(Rt)= W x E(RB) + (1-W)E( ROA)

Trong đó W là tỷ trọng nguồn lực đầu tư vào chi nhánh mới B trong tổng nguồn lực của

ngân hàng

∂²(Rt)= W² ∂²RB + (1-W) ∂²( ROA) +2 W (1-W)COV(RB, ROA)

15

Page 16: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Chương4 ĐỊNH GIÁ CÁC DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính cho

nền kinh tế như huy động tiền gửi, cho vay, bảo lãnh, thanh toán…. Ngân hàng mua

nguyên liệu và bán sản phẩm thông qua giá: Giá đó chính là lãi suất và các khoản chi phí

khác

Định giá hay xác định giá là nội dung quan trọng trong quản lý hoạt động của ngân

hàng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và chi phí của ngân hàng, quyết định khả

năng chiếm lĩnh thị trường, khả năng phát triển của ngân hàng.

16

Page 17: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Chương định giá các dịch vụ của ngân hàng thương mại tập trung nghiên cứu các

loại giá, phương pháp định giá sản phẩm của ngân hàng thương mại.

1. Các loại giá sản phẩm của ngân hàng thương mại.

Ngân hàng cung cấp dịch vụ với giá cả nhất định. Với tư cách là trung gian tài

chính, ngân hàng phải trả giá cho khách hàng về phần lớn nguồn tiền mà ngân hàng huy

động được cấu thành chi phí của ngân hàng cung cấp - cấu thành thu nhập của ngân hàng.

Do tính chất và yêu cầu về các sản phẩm, giá các sản phẩm của ngân hàng rất đa dạng,

cho phép ngân hàng tiếp cận với hàng triệu khách hàng khác nhau, thuộc những vùng,

ngành nghề,….. khác nhau.

Giá các sản phẩm của ngân hàng có thể chia thành hai phần: Lãi suất và phí.

1.1. Lãi suất ( năm): Là tỷ lệ (%) của số lãi trên gốc trong thời gian nhất định (1

năm). Ví dụ, lãi suất tiền gửi là 12% / năm. Nếu khách hàng gửi vào ngân hàng 100 triệu,

với thời hạn 6 tháng, thì ngân hàng sẽ phải trả số tiền lãi cho khách khi đến hạn là:

100 triệu x 6 tháng x 12% /12 = 6 triệu

1.1.1. Lãi suất huy động và lãi suất tài trợ: Là các loại lãi suất ngân hàng trả cho

nguồn huy động bao gồm lãi suất tiền gửi giao dịch, lãi suất tiết kiệm và lãi suất tài trợ

như lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay.. Để đảm bảo thu nhập ròng, lãi suất huy động

bình quân phải nhỏ hơn lãi suất tài trợ bình quân.

1.1.2. Lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung, dài hạn: Lãi suất được phân biệt theo

thời hạn của sản phẩm. Thời hạn càng dài rủi ro càng lớn, do vậy, lãi suất dài hạn thường

cao hơn ngắn hạn.

1.1.3.Lãi suất cố định, thả nổi hoặc hỗn hợp.

Lãi suất thả nổi: Là lãi suất thay đổi theo cung cầu trên thị trường ( lãi suất thị

trường). Khi ngân hàng áp dụng lãi suất thả nổi, lãi sẽ tính theo lãi suất thị trường vào

thời điểm tính lãi. Lãi suất thả nổi có thể hạn chế rủi ro lãi suất cho ngân hàng, tuy nhiên,

17

Page 18: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

lại gây khó khăn cho khách hàng trong việc lập kế hoạch đầu tư và vì vậy có thể gây rủi

ro cho khách hàng. Phần lớn doanh nghiệp vay và người gửi tiết kiệm đều muốn chọn lãi

suất cố định.

Lãi suất cố định: Là lãi suất được định trước trong hợp đồng và không thay đổi

trong suốt thời gian tồn tại của hợp đồng. Lãi suất cố định giúp cho ngân hàng và khách

hàng biết trước số lãi ( thu được hoặc phải trả), tuy nhiên, có thể tạo ra rủi ro lãi suất khi

lãi suất thị trường thay đổi lớn. Lãi suất thả nổi thường được áp dụng trong quan hệ giữa

các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Trong những năm gần đây,

trước bất ổn của thị trường tài chính quốc tế và tính liên kết ràng buộc ngày càng tăng

giữa các trung gian tài chính, ngân hàng có xu hướng mở rộng phạm vi áp dụng lãi suất

thả nổi trong quan hệ tài trợ cho khách hàng.

Lãi suất hỗn hợp: Là sự kết hợp giữa lãi suất thả nổi và cố định: cố định trong một

số lần trả lãi và thay đổi sau một số lần trả lãi. Ví dụ, Ngân hàng ĐT và PTVN cho vay 5

năm, thu lãi 3 tháng một lần. Ngân hàng áp dụng lãi suất hiện hành cho năm thứ nhất ( cố

định trong 1 năm) và sẽ thay đổi lãi suất trong từng năm tiếp theo. Lãi suất hỗn hợp

thường được áp dụng cho các khoản huy động và tài trợ trung và dài hạn.

1.1.4. Lãi suất trần và sàn.

Lãi suất trần là mức lãi suất cao nhất. Lãi suất sàn là mức lãi suất thấp nhất. Thứ

nhất, lãi suất trần và sàn có thể do ngân hàng nhà nước đặt ra và bắt buộc ngân hàng

thương mại phải tuân thủ. Để hạn chế các ngân hàng cạnh tranh đẩy giá tiền gửi lên quá

cao có thể gây ra khủng hoảng thanh khoản ( hoặc độc quyền hạ giá tiền gửi gây tổn hại

cho người tiết kiệm), Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất trần và sàn. Tương tự như

vậy đối với lãi suất tài trợ. Lãi suất trần và sàn phản ánh sự can thiệp trực tiếp của ngân

hàng Nhà nước vào chính sách lãi suất của ngân hàng thương mại. Thứ hai, lãi suất trần

và sàn do Ngân hàng thương mại đặt ra ( hợp đồng tài chính). Nếu Ngân hàng đang áp

dụng lãi suất thả nổi mà nhà quản lý cho rằng lãi suất có xu hướng tăng ngân hàng có thể

bán hợp đồng trần lãi suất tiền gửi, tức là lãi suất tiền gửi cao nhất mà ngân hàng có thể 18

Page 19: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

trả; nếu lãi suất có xu hướng giảm, ngân hàng bán hợp đồng sàn lãi suất cho vay tức là lãi

suất cho vay thấp nhất mà khách hàng có thể trả. Hợp đồng lãi suất này nhằm hạn chế rủi

ro lãi suất đối với ngân hàng thương mại.

1.1.5. Lãi suất thông thường và lãi suất ưu đãi: Lãi suất thông thường được áp dụng

cho đa số khách hàng của ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng trang trải ch phí và có thu

nhập ròng cần thiết. Lãi suất ưu đãi có thể do Nhà nước quy định đối với khách hàng,

ngành, vùng đặc biệt như ngành cần khuyến khích, các vùng có nhiều khó khăn… Khi có

chính sách ưu đãi lãi suất, Nhà nước có thể có chính sách cấp bù lãi suất cho tổ chức tín

dụng. Lãi suất ưu đãi cho ngân hàng thương mại quy đinh, áp dụng cho những khách

hàng lớn, có uy tín. Lãi suất này thấp hơn lãi suất thông thường song vẫn đảm bảo thu

nhập ròng cho ngân hàng do khách hàng không có rủi ro hoặc mức vay rất lớn…

1.1.6.Lãi suất nội tệ, ngoại tệ: Lãi suất áp dụng cho nội tệ và ngoại tệ do các loại

tiền khác nhau thường có cung cầu và mức độ rủi ro khác nhau. Tại nhiều nước, trong đó

có Việt nam, ngoại tệ mạnh (đô la Mỹ) được sử dụng trong thanh toán trong nước và

quốc tế. Do tâm lý của người tiết kiệm và do tính ổn định của ngoại tệ so với nội tệ, số

tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ có xu hướng gia tăng trong khi người vay lại e ngại vay

ngoại tệ. Vì vậy, nhiều ngân hàng áp dụng phân biệt lãi suất cho nội và ngoại tệ theo

hướng lãi suất của ngoại tệ thấp hơn nội tệ.

1.1.7. Lãi suất cơ sở ( Lãi suất cơ bản)

Lãi suất của ngân hàng thương mại bao gồm hai phần: Phần cứng và phần mềm,

hoặc phần cố định và biến đổi, hoặc phần chung và phần riêng. Khi Ngân hàng cho vay

với lãi suất bằng (=) LIBORE + 2% thì LIBORE là phần biến đổi, 2% là phần cố định.

Nếu ngân hàng áp dụng cho vay bằng ngoại tệ với lãi suất băng (=) LIBORE + phần bù

rủi ro thì LIBORE là phần chung (áp dụng cho mọi khách hàng vay ngoại tệ), còn phần

bù rủi ro là phần riêng ( khác nhau đối với các khách hàng khác nhau). Nếu ngân hàng

cho vay với lãi suất bằng (=) Lãi suất hoà vốn 6% + phần bù rủi ro + thu nhập dự tính thì

lãi suất hoà vốn là phần cứng….19

Page 20: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Trong chính sách đặt giá hiện nay các ngân hàng hay sử dụng lãi suất cơ bản làm

phần chung, phần cứng trong công thức lãi suất.

Lãi suất cơ sở ( lãi suất cơ bản) là lãi suất tài trợ áp dụng cho khách hàng tốt nhất

( rủi ro bằng không). Ngân hàng có thể sử dụng nhiều loại lãi suất tham chiếu ( ví dụ lãi

xuất của ngân hàng lớn, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất tái chiết khấu của

ngân hàng Trung ương…) làm lãi suất cơ sở, hoặc xây dựng lãi xuất cho vay với khách

hàng tốt nhất theo phương pháp tổng hợp chi phí rủi ro bằng không. Lựa chọn lãi suất nào

làm lãi suất cơ sở là tuỳ thuộc vào mối liên hệ của ngân hàng với thị trường tài chính

trong khu vực và sự phát triển của thị trường tài chính khu vực đó. Trước những năm 70s,

các ngân hàng lớn sử dụng lãi suất gốc ( lãi suất huy động đối với các nguồn tiền chính

của ngân hàng) làm lãi suất cơ sở. Sau những năm 70s với sự phát triển cao của thị

trường tài chính, độ nhạy cảm lãi suất lớn, các ngân hàng ở trung tâm tiền tệ thường có

xu hướng rời bỏ lãi suất gốc và sử dụng lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng

làm lãi suất cơ sở. Sự vận dụng này bắt đầu bởi cạnh tranh về giá từ phía mở rộng thị

trường giấy nợ và từ các ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, lãi suất gốc vẫn là cơ sở của

việc đặt giá cho phần lớn các khoản cho vay nhỏ.

1.2. Phí

Bên cạnh lãi suất, phí ( hay còn gọi là lệ phí) thường được tính theo tỷ lệ phần trăm

trên quy mô sản phẩm. Ví dụ, phí bảo lãnh là 0,3% trên số tiền bảo lãnh. Nếu ngân hàng

cam kết bảo lãnh số tiền 100 triệu, thì phí ngân hàng thu là:

100 triệu x 0,3% = 0,3 triệu

Phí cũng có thể được tính bằng số tuyệt đối trong những trường hợp như số phí tối

đa, đô phí tối thiểu, phí thuê két, phí tư vấn…. Phí thường được áp dụng cho một số loại

hình dịch vụ của ngân hàng như thanh toán, mua bán hộ, bảo lãnh…

Trong hoạt động tài trợ ( cho vay, bảo lãnh…) ngân hàng thường sử dụng phí để bù

đắp một phần chi phí của ngân hàng.

20

Page 21: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

2. Định giá các sản phẩm của ngân hàng

2.1. Tầm quan trọng của việc định giá các sản phẩm

- Khuyến khích tiết kiệm

Khi gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng được hưởng một lãi suất tỷ lệ thuận với thời

gian và quy mô của tiền gửi. Bên cạnh mục tiêu an toàn, khách hàng ngày càng quan tâm

đến lãi suất: Họ so sánh lợi ích của tiêu dùng và tiết kiệm. Nếu lãi suất của ngân hàng hấp

dẫn hơn, khách hàng có xu hướng gia tăng tiết kiệm.

- Khuyến khích đầu tư

Nhiều doanh nghiệp và cá nhân mở rộng quá trình kinh doanh bằng cách vay ngân

hàng. Lãi trả ngân hàng là một phần chi phí của doanh. Vì vậy, nếu lãi suất tài trợ của

ngân hàng thấp hơn tỷ lệ sinh lời dự kiến, các khoản đầu tư có xu hướng được mở rộng.

- Tăng sức cạnh tranh

Giá sản phẩm của ngân hàng là một bộ phận cấu thành chất lượng sản phẩm. Do

hàm lượng bí quyết công nghệ trong sản phẩm của ngân hàng không cao, độ thoả mãn

của sản phẩm của ngân hàng đối với khách hàng được quyết định chủ yếu bởi chất lượng

phục vụ và giá. Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, cũng như quá trình tự do hoá thị

trường tài chính của nhiều quốc gia, độ nhạy cảm đối với các sản phẩm của ngân hàng

ngày càng gia tăng. Đó là điều kiện để các ngân hàng đẩy mạnh cạnh tranh thông qua giá

( và phi giá). Định giá sản phẩm đúng, kịp thời và đa dạng sẽ thúc đẩy tính cạnh tranh của

ngân hàng trên thị trường, cho phép ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng, tăng

doanh lợi.

- Tăng thu nhập cho ngân hàng

Thu nhập của ngân hàng phụ thuộc vào quy mô hoạt động, lãi suất và phí. Định giá

thấp có thể tăng tính cạnh tranh, mở rộng quy mô. Tuy nhiên, giá thấp có thể sẽ hạn chế

21

Page 22: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

thu nhập của ngân hàng nếu việc gia tăng quy mô không bù đắp được việc giảm giá. Do

vậy, ngân hàng cần tính toán giá các sản phẩm để đạt được mục tiêu tối đa hoá thu nhập.

- Bù đắp tổn thất

Tổn thất là không tránh khỏi trong hoạt động mang đầy tính rủi ro của ngân hàng.

Những tổn thất đến mức độ nào đó có thể dẫn đến sự phá sản. Để hạn chế ảnh hưởng xấu

của tổn thất đến hoạt động của ngân hàng, quỹ dự phòng ( cho rủi ro) được thiết lập và

tính vào chi phí của ngân hàng. Bên cạnh đó, thu nhập giữ lại ( sau khi nộp các khoản

thuê và chia các cổ tức) làm tăng vốn của chủ, tức là tăng sức mạnh của ngân hàng, tạo

khả năng chống đỡ rủi ro ngoài dự tính. Do vậy, việc định giá nhằm bù đắp chi phí có ý

nghĩa quan trọng đối với bù đắp rủi ro.

2.2. Phương pháp định giá.

2.2.1. Phương pháp tổng hợp chi phí và thu nhập

Phương pháp tổng hợp chi phí và thu nhập còn được gọi là mô hình đặt giá rộng.

Nội dung chính của phương pháp này là định giá cho các sản phẩm trên cơ sở tổng hợp

chi phí và mức thu nhập sau thuế cần thiết. Phương pháp này có thể áp dụng đối với cả

sản phẩm tiền gửi, tài trợ và thanh toán và có thể được tính cho từng loại sản phẩm….

Chi phí và thu nhập được tính toán dựa trên các yếu tố thị trường và khả năng chấp nhận

của thị trường. Trong tình trạng cạnh tranh kém, giá sản phẩm sẽ mang tính áp đặt.

Phương pháp định giá rộng áp dụng cho những khách hàng không muốn ràng buộc

chặt chẽ toàn bộ nhu cầu của họ về dịch vụ của ngân hàng vào một ngân hàng, tức là

không cần thiết phải tạo ra mối quan hệ phân biệt đặc biệt. Đặt giá rộng là phù hợp với họ

trong môi trường cạnh tranh với những người cho vay khác. Đặt giá rộng cũng thích hợp

với những khách hàng ít sử dụng hoặc sử dụng không đa dạng cá dịch vụ ngân hàng.

2.2.2. Phương pháp định giá cá biệt.

Phương pháp định giá cá biệt hay còn gọi là mô hình đặt giá hẹp. Nội dung chính

của phương pháp này là định giá trên cơ sở tính toán thu nhập và chi phí riêng đối với 22

Page 23: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

loại khách hàng, hoặc từng mục tiêu cần phân biệt, trên cơ sở mối quan hệ tổng thể của

khách hàng đó với ngân hàng, nhằm tạo ra các mức giá (lãi suất và phí) riêng cho những

khách hàng cụ thể hoặc trong những giai đoạn, những thị trường cụ thể.

Phương pháp này khác phục nhược điểm của phương pháp chi phí và thu nhập.

Phương pháp định giá chi phí và thu nhập đã không tính đến riêng biệt của mỗi khách

hàng khi sử dụng sản phẩm của khách hàng, tính riêng biệt của thị trường hoặc mục tiêu

chiến lược của từng giai đoạn.

Tuy nhiên, việc mở rộng thành phần sử dụng giá cá biệt sẽ tạo cho ngân hàng những

khó khăn nhất định. Thứ nhất, công tác thống kê phải rất chi tiết và chính xác, phải có hệ

thống biểu mẫu, sổ sách, tài khoản để theo dõi, làm tăng chi phí của ngân hàng. Thứ hai,

định giá cá biệt một mặt sẽ có tác dụng cuốn hút các khách hàng lớn, an toàn ( hướng giá

tốt) song mặt khác lại hạn chế lôi cuốn các loại khách hàng khác ( phải chấp nhận giá

không tốt so với giá của các ngân hàng khác). Do vậy, chính sách phân biệt giá của ngân

hàng phải tính đến mục tiêu tăng trưởng khách hàng và tăng thu nhập.

2.2.2.1. Định giá sản phẩm trên mối quan hệ tổng thế với khách hàng

Ngân hàng thường định giá cá biệt – lãi suất và phí sử dụng vốn thấp hơn hoặc lãi

suất tiền gửi cao hơn cho các khách hàng lớn, các khách hàng an toàn hoặc truyền thống.

Những khách hàng này có thể có quy mô tiền gửi hoặc quy mô vay lớn vì vậy có chi phí

trên một đơn vị tiền gửi ( vay) thấp. Những khách hàng truyền thống sẽ giảm chi phí

phân tích tín dụng hoặc giảm rủi ro.

Ví dụ; Nếu người vay có quy mô vay lớn thì tỷ lệ chi phí phân tích tín dụng tính

trên quy mô sẽ giảm hơn người vay nhỏ, nếu cho vay tiêu dùng thế chấp bằng trái phiếu

Chính phủ hoặc sổ tiết kiệm thị độ an toàn sẽ cao hơn thế chấp bằng bất động sản…. Việc

định giá cá biệt là cách thức buộc người sử dụng sản phẩm của ngân hàng phải trả giá

đúng với chất lượng của sản phẩm đó. Với các khách hàng này, định giá cá biệt sẽ ưu

23

Page 24: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

tiên, từ đó sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều dịch vụ, gắn bó với ngân hàng hơn

và trong dài hạn họ sẽ tạo ra thu nhập lớn hơn cho ngân hàng.

2.2.2.2. Định giá sản phẩm nhằm mục tiêu trọng điểm

Mỗi ngân hàng đều xây dựng mục tiêu trọng điểm trong chiến lược hoạt động. Mục

tiêu t rọng điểm có thể gắn với lợi thế và duy trì lợi thế so sánh của ngân hàng, hoặc tạo

ra lợi thế so sánh. Định giá nhằm mục tiêu trọng điểm là xác định giá mang lại lợi thế so

sánh cho khách hàng qua đó ngân hàng mong muốn thu hút các cá nhân và doanh nghiệp

gửi tiền hoặc vay tiền và sử dụng các dịch vụ khác.

Ví dụ: Để tạo thị trường cho vay mới ( mà hiện đang có ít ngân hàng tham dự), ngân

hàng Á châu mở rộng hoạt động môi giới mua bán địa ốc. Ngân hàng cung cấp các thông

tin miễn phí về các căn nhà đang cần mua, bán. Sau đó nhu cầu vay để mua nhà sẽ được

ngân hàng đáp ứng. Mục tiêu trọng điểm của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam là phục

vụ xuất, nhập khẩu, do đó phí dịch vụ hoặc giá mua bán ngoại tệ thường ở mức thấp so

với nhiều ngân hàng khác.

2.2.2.3. Định giá sản phẩm nhằm mục tiêu xâm nhập thị trường

Mở rộng thị trường là mục tiêu phát triển của ngân hàng. Khi xâm nhập thị trường

mới, ngân hàng thường phải đối đầu với nhiều khó khăn, đặc biệt là sự quen thuộc của

khách hàng với các tổ chức tài chính sẵn có. Một trong các biện pháp là đặt giá huy động

cao hơn, hoặc đặt giá tín dụng và các dịch vụ khác thấp hơn các ngân hàng khác. Ngân

hàng hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng tiền gửi và những khoản tín dụng sẽ bù đắp

một phần sự giảm sút trong lợi nhuận cận b iên. Với chiến lược này, ngân hàng muốn tối

đa hoá thị phần trong một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng.

Định giá thâm nhập thị trường phải xác định được độ nhạy cảm của quy mô các sản

phẩm đối với giá. Nếu thị trường đó có nhiều hình thức cạnh tranh phi giá, đặt giá hấp

dẫn hơn cho khách có thể sẽ không mang lại hiệu quả mong muốn cho ngân hàng.

24

Page 25: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Trong giai đoạn xâm nhập thị trường, ngân hàng phải chấp nhận lỗ hoặc lợi nhuận

thấp. Việc cắt đứt quan hệ với ngân hàng sẵn có có thể gây ra những thiệt hại cho khách

nên khách hàng có xu hướng duy trì quan hệ với ngân hàng họ đã lựa chọn. Khách hàng

gửi tiền, đặc biệt là tiền tiết kiệm thường ít nhạy cảm với lãi suất. Nếu ngân hàng có thể

đưa ra lãi suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian đủ dài để tạo ra mối

quan hệ của khách hàng vẫn gửi tiền tiết kiệm. Ngược lại, các doanh nghiệp lại ưu tiên

chọn các ngân hàng có khả năng cho vay tốt. họ cũng quan tam đến chất lượng cán bộ

ngân hàng và chất lượng dịch vụ tư vấn mà ngân hàng cung cấp. Do vậy, đặt giá cho vay

thấp phải kèm theo các điều kiện cho vay mềm hơn, hoặc chi phí dịch vụ hỗ trợ thấp hơn.

3. Định giá tài sản sinh lời.

Tài sản sinh lời mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, có một số tài

sản như tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoản Chính phủ hoặc trái phiếu công

ty…. Lãi suất được quyết định từ phía đối tác. Các tài sản sinh lời chủ yếu khác đều do

ngân hàng định giá.

Khả năng thu nhập của ngân hàng phụ thuộc vào việc đặt giá như thế nào cho các

khoản tài trợ và dịch vụ có liên quan so với chi phí trả lãi cho các nguồn và các chi phí

khác. Thu lãi từ hoạt động tín dụng là một nguồn thu nhập quan trọng nhất đóng vai trò

quan trọng trong việc duy trì khả năng sinh lời của ngân hàng. Hơn nữa tín dụng còn là

hoạt động cơ bản của ngân hàng, là mối liên hệ lớn nhất của ngân hàng và khách hàng

nên đặt giá cho các khoản tín dụng trở thành điểm trong tâm của quản lý doanh thu và chi

phí.

Những ngân hàng lớn có khả năng định giá sản phẩm hơn các ngân hàng nhỏ. Trong

môi trường cạnh tranh cao, ngân hàng nhỏ thường phải theo giá của ngân hàng lớn, buộc

phải tiết kiệm chi phí để có lợi nhuận mong muốn.

3.1. Định giá theo phương pháp tổng hợp chi phí và thu nhập

25

Page 26: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Ngân hàng xác định lãi suất tín dụng sao cho thu đủ bù đắp chi phí và có lợi nhuận dự kiến.

Thu lãi tín dụng ( tài sản sinh lời =

Chi phí trả lãi cho nguồn huy động

+

Chi phí quản lý

+

Chi phí dự phòng tổn thất

-

Thu lãi ( ngoài tín dụng ) và thu khác

+

Các khoản thuế phải nộp

+

Lợi nhuận dự định

Lãi suất tín dụng

( Tài sản sinh lãi)=

Thu lãi tín dụng ( tài sản sinh lãi

Dư nợ bình quân

Trước hết, ngân hàng tổng hợp chi phí liên quan đến sản phẩm bao gồm các chi phí

như lãi, phí, lương phải trả, chi phí quản lý như tiền nhà, điện, nước, khấu hao, các chi

phí về giấy tờ…. Các chi phí này được tính theo tỷ lệ phần trăm trên quy mô sản phẩm

hoặc trên thu nhập mà sản phẩm mang lại.

Thứ hai, ngân hàng tổng hợp tổn thát ròng có thể xảy ra đối với các sản phẩm như

mất trộm, tiền giả, khách hàng không trả được nợ…. Các tổn thất này thường dựa trên

thống kê kinh nghiệm ( kỳ trước) và phán đoán xu hướng sắp tới. Các tổn thất dự đoán

này cũng được tính theo tỷ lệ % trên quy mô của sản phẩm.

Thứ ba, ngân hàng tính toán các loại thuế phải nộp dựa trên các loại thuế suất quy

định.

Thứ tư, ngân hàng phân loại các sản phẩm có thể mang lại thu nhập cho ngân hàng

như các sản phẩm mang lại thu nhập lãi, phí, chênh lệch giá… Các chi phí trên sẽ được

phân bổ trực tiếp và gián tiếp cho các sản phẩm sinh lời.

Thứ năm, ngân hàng dự tính thu nhập sau thuế đảm bảo lợi ích kỳ vọng của chủ sở

hữu.

Trên cơ sở chi phí tổng hợp, ngân hàng sẽ cân nhắc định giá phù hợp với yêu cầu

của thị trường (đảm bảo tính cạnh tranh của ngân hàng) và có thu nhập dự tính. Thu lãi

26

Page 27: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

tín dụng được chia cho dư nợ để tính lãi suất tín dụng. Nếu giá bán của sản phẩm không

được thị trường chấp nhận, ngân hàng buộc phải giảm chi phí hoặc thu nhập dự tính.

3.1.1. Sử dụng chi phí bình quân.

Ngân hàng sử dụng lãi suất bình quân kỳ trước của các yếu tố trong công thức ở

mục 3.1. để định giá sản phẩm. Như vậy, lãi suất cho vay được xác định dựa trên lãi suất

bình quân nguồn huy động, rủi ro, chi phí quản lý….. trong kỳ trước có tính đến sự thay

đổi trong kỳ này.

Lãi suất bình quân có thể tính cho một nguồn trong khoảng thời gian, hoặc tính

chung cho một nhóm nguồn cung tài trợ cho một loại cho vay ( có cùng lãi suất cho vay).

Ví dụ, ngân hàng sử dụng nguồn huy động 3,6,12 tháng với các lãi suất khác nhau để cho

vay ngắn hạn ( một mức lãi suất). Ngân hàng có thể sử dụng lãi suất bình quân của các

nguồn để tính chi phí trả lãi chung khi đặt giá cho khoản cho vay.

Ví dụ: Một ngân hàng có về quy mô và lãi suất huy động sau:

Tỷ đồng, %

Nguồn vốn Dư

bình

quân

Lãi

suất

bình

quân

Tài sản Dư

Bình

quân

Lãi

suất

bình

quân

1. Tiền gửi thanh toán

2. Tiền gửi tiết kiệm

3. Tiền gửi tiết kiệm

trung

4. Tiền gửi tiết kiệm

dài

100

400

200

100

1

1,5

2

2,5

1. Tiền mặt và tiền

gửi

2. Chứng khoán

3. Cho vay ngắn

4. Cho vay trung và

dài đối với doanh

50

150

250

300

1

27

Page 28: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

5.Vay ngắn

6. Nguồn khác

7. Vốn và quỹ

100

0

100

1,5 nghiệp

5. Liên doanh

6. Cho vay tiêu

dùng

7. Tài sản cố định

và tài sản khác

100

100

50

Lãi từ hoạt động liên doanh: 1; thu khác: 1,5

Chi phí quản lý: 2; chi quỹ dự phòng tổn thất: 1

Thuế suất thu nhập 25%

Lãi suất huy động là lãi suất bình quân của kỳ trước được sử dụng để tính lãi suất

đầu vào của các khoản cho vay kỳ này.

3.1.1.1. Định giá chung cho các tài sản sinh lời theo lãi suất bình quân ( tổng hợp

chi phí thu nhập)

Giả sử lãi suất bình quân nguồn được xác định dựa trên lãi suất thị trường, phản ánh

chi phí cho từng nhóm nguồn. Ngân hàng có thể xác định chi phí trả lãi bình quân chung

cho tổng nguồn hoặc cho từng nhóm nguồn có chung tiêu thức sử dụng. Theo công thức

tại 3.1. các bộ phận hợp thành thu lãi từ hoạt động tín dụng được tính dựa trên số liệu kỳ

quá khứ.

Tổng chi phí trả lãi.

100 x1% + 400 x 1,5% + 200 x 2% + 100 x 2,5% + 100 x 1,5% = 15

Vậy lãi suất bình quân của tổng nguồn

Nhóm tài sản không sinh lãi: Tiền mặt, tiền gửi và tài sản cố định.

28

Page 29: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Tổng giá trị tài sản không sinh lãi = 100

Tài sản có lãi suất xác định trước: Chứng khoán, lãi chứng khoán

150 x 1% = 1,5

Nhóm tài sản ngân hàng phải đặt giá: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn

đối với doanh nghiệp, cho vay tiêu cùng. Tổng dư nợ = 650.

Lãi suất bình quân của các khoản cho vay để thu lãi bù đắp chi phí trả lãi.

Lãi suất cho vay để bù đắp toàn bộ chi phí ( hoà vốn)

Nếu ngân hàng muốn có tỷ lệ sinh lời trên vốn sở hữu đạt 3%, lãi suất cho vay bình

quân phải là:

15+3-1,5-1-1,5 + (Vốn sở hữu x3%)

( 1 - Thuế suất)

650

3.1.1.2. Định giá cho một tài sản sinh lời theo lãi suất bình quân

Tính lãi suất cho một hoặc nhóm tài sản sinh lời, ngân hàng có thể tính lãi suất chi

trả của từng nhóm nguồn dùng để tài trợ cho tài sản đó, chi phí dự phòng tổn thất, phân

bổ các khoản chi phí và thu khác cho tài sản đó

Lãi suất

tài sản A=

Chi phí trả lãi

của nhóm

nguồn tài trợ

cho tài sản A

Chi phí

khác phân

bổ cho tài

sản A

+ Thuế

Thu nhập dự

tính đối với

tài sản A

29

= 2,77%

x 100

Page 30: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Theo ví dụ 3.1.1. Ngân hàng có thể định giá cho các khoản cho vay ngắn hạn, trung

và dài hạn cho các doanh nghiệp và cho vay tiêu dùng. Nếu ngân hàng cho rằng, các

nguồn ngắn hạn, trước hết dùng để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn, thì chi phí nguồn bình

quân cho các tái sản ngắn hạn chính là chi phí trả lãi ngắn hạn. Tuy nhiên, phần lớn

nguồn ngắn hạn phải chịu dự trữ bắt buộc, nên ngân hàng có thể phân bổ dự trữ bắt buộc

cho các khoản cho vay khác nhau.

Theo ví dụ đã cho ở mục 3.1.1. các nguồn ngắn hạn gồm tiền gửi thanh toán, tiết

kiệm và vay ngắn hạn = 600

Lãi phải trả cho nguồn ngắn hạn:

100 x 1% + 400 x 1,5% + 100 x 1,5% = 8,5

Lãi suất bình quân nguồn ngắn hạn:

Do ngân hàng duy trì dự trữ (50) không sinh lời nên lãi suất nguồn ngắn hạn cần bù

đắp là:

Lãi phải trả cho các nguồn ngắn hạn x100=

8,5 x 100= 1,54545%

Nguồn ngắn hạn - Dự trữ 550

Đây chính là lãi suất sinh lời đảm bảo bù đắp chi phí trả lãi trong trường hợp có dự

trữ ( giả sử dự trữ không sinh lời).

Trong những trường hợp ngân hàng nắm giữ chứng khoán thanh khoản ( sinh lời

thấp), lãi suất của các khoản cho vay ngắn hạn phải tính phần bù cho chứng khoán ngắn

hạn (để hạn chế rủi ro thanh khoản)

Do đó lãi suất cho vay ngắn hạn bù đắp chi phí đầu vào là

30

Page 31: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Lãi phải trả

nguồn ngắn

hạn

Lãi thu được

từ chứng

khoán ngắn

hạn

x 100(8,5 –

1,5)x1007x100

=

1,75%Nguồn ngắn hạn - Dự trữ - Chứng khoán ngắn

hạn

600-50-150 400

Theo ví dụ 3.1.1.

Chi phí quản lý: 2 ; thu nhập khác ( ngoài lãi) : 2,5

Vậy chênh lệch thu chi khác là 2 -2 ,5 = 0,5

Tỷ lệ phân bổ chênh lệch thu chi khác cho các khoản cho vay

Phần bù rủi ro tính trực tiếp cho các khoản vay, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro lãi

suất, rủi ro khác. Dự tính trong 1 đơn vị chi cho quỹ dự phòng tổn thất tín dụng, tín dụng

ngắn hạn chiếm 0,4. Vậy, phần bù rủi ro đối với khoản cho vay ngắn hạn:

Thuế và thu nhập sau thuế của ngân hàng

Phân bổ thuế và thu nhập sau thuế cho khoản sau ngắn hạn

Lãi suất cho vay ngắn hạn:

1,75% - 0,77% + 0,16% + 0,61% = 2,443%

31

Page 32: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Với phương pháp tính bình quân như trên, ngân hàng xác định lãi suất cho vay ngắn

hạn đảm bảo bù đắp chi phí có lợi nhuận.

Đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, lãi suất nguồn vốn tài trợ chính là suất

hỗn hợp giữa lãi suất trung, dài hạn với lãi suất ngắn hạn. Ngân hàng có thể không phân

bổ chi phí nguồn ( dành cho các khoản mục dự trữ) cho các khoản tín dụng trung và dài

hạn, song chi phí quản lý trực tiếp gắn với việc thẩm định dự án, theo dõi dự án, chi quỹ

dự phòng rủi ro gắn liền với tín dụng trung và dài hạn đều cao hơn ngắn hạn. Đó là các

yếu tố làm lãi suất tín dụng trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn.

3.1.2. Sử dụng lãi suất biên để xác định lãi suất nguồn huy động

Sử dụng lãi suất trung bình trong định giá có thể dẫn đến sai sót trong điều kiện lãi

suất có xu hướng tăng ( hoặc giảm) nhanh. Nếu lãi suất huy động đang có xu hướng tăng

mà lãi suất cho vay dự tính lại dựa trên lãi suất bình quân thì có thể lãi suất cho vay

không đủ bù đắp lãi suất huy động. Sự gia tăng liên tục của lãi suất huy động sẽ làm cho

chi phí trung bình kỳ trước không phản ánh trung thực chi phí thực tế sắp tới. Nếu đem so

sánh lãi suất một khoản tín dụng và đầu tư dự tính với lãi suất huy động trung bình kỳ

trước có thể được coi là sinh lợi, song nếu so với lãi suất biên thì lại không sinh lợi. Do

vậy, định giá cho vay và đầu tư trong trường hợp cụ thể cần dựa trên lãi suất biên

Chi phí cận biên – chi phí tăng thêm cho một đồng vốn mới - được sử dụng trong

việc định giá các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác của ngân hàng sẽ huy động thêm.

Lãi suất biên phản ánh sự thay đổi và xu hướng thay đổi trong lãi suất huy động. Lãi suất

huy đọng biên là cơ sở tính lãi suất cho vay biên cũng như ra các quyết định về quy mô,

cấu trúc nguồn huy độg.

Tỷ lệ chi phí cận biên=

Mức thay đổi chi phí dự tính

Quy mô nguồn huy động tăng

32

Page 33: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Giả sử lãi suất tiết kiệm bình quân kỳ trước là 1,5% với quy mô là 400. Ngân hàng

dự tính kỳ tới lãi suất tăng lên 1,7% và quy mô huy động tăng lên 420, trong đó 350 vẫn

đang duy trì với lãi suất cũ và 70 đã chuyển sang lãi suất mới. Vậy, chi phí dự tính tăng

thêm.

( 70 x1,7% + 350 x1.5% - 400 x 1,5%) = 0,44

Lãi suất biên:

Nếu 20 tăng thêm cho vay với lãi suát 1,7% ( giả sử bỏ qua các yếu tố khác) thì ngân

hàng hoà vốn trên quan điểm lãi suất trung bình đối với phần huy động gia tăng. Tuy

nhiên, ngân hàng sẽ bị lỗ nếu đặt giá như vậy do một phần huy động cũ (50) vói lãi suất

cho vay cũ đã chuyển sang lãi suất mới (1,7%). Lỗ ( chi phí huy động lớn hơn cho vay)

là:

(70 – 20 ) x 1,7% = 0,85

Như vậy, nếu kỳ hạn định giá huy động và cho vay không bằng nhau ( thường kỳ

hạn định lại giá của huy động ngắn hơn cho vay) thì việc cho vay dựa trên lãi suất huy

động bình quân sẽ không đảm bảo yêu cầu sinh lời.

Đặt giá trên cơ sở lãi suất biên yêu cầu ngân hàng tính lãi suất tài trợ trên cơ sở lãi

suất biên của nguồn tài trợ. Theo ví dụ đã cho ( mục 3.1) lãi suất cho vay ngắn hạn

2,3155% đối với số dư bình quân 250 để đạt thu nhập ròng mong muốn. Khi ngân hàng

huy động thêm 20 tiết kiệm ngắn với lãi suất 1,7%, lãi suất biên là 2,2% (

Từ đó, lãi suất đầu vào của khoản cho vay ngắn hạn:

( Giả sử dự trữ tăng thêm 1,46 khi huy động thêm 20, tức là chỉ

có thể cho vay thêm 20 – 1,46 = 18,54)

33

Page 34: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Nếu cộng thêm các phần khác ( chi phí ròng, rủi ro…) như tính ở phần trên, lãi suất

cho vay ngắn hạn tăng thêm

2,373% + 0,16% - 0,077% + 0,61% = 2,466%

Lãi suất cho vay rất cao so với cách tính chi phí trung bình ( 2,466%). Để thích ứng

với lãi suất biên khi huy động, ngân hàng thường tăng lãi suất huy động để cho vay với

kỳ hạn dài hơn ( huy động ngắn để cho vay trung và dài hạn), hoặc cho vay với lãi suất

thả nổi.

3.2. Định giá tài sản sinh lời theo lãi suất cơ bản.

Theo phương pháp này, lãi suất sinh lời bao gồm 2 phần chính: Lãi suất cơ bản và

phần bù rủi ro. Trong đó, lãi suất cơ bản là phần chung cho mọi khách hàng, mọi loại

hình tín dụng, phần bù rủi ro áp dụng riêng cho từng loại khách hàng hoặc từng loại hình

tín dụng.

Lãi suất cho vay = Lãi suất cơ bản + Phần bù rủi ro

Ví dụ: Lãi suất cơ bản là 6 %, nếu khách hàng A vay ngắn hạn, phần bù rủi ro là 1%

nếu vay trung hạn, phần bù rủi ro là 1,5%

Lãi suất cho vay ngắn hạn: 6% + 1% = 7%

Lãi suất cho vay trung hạn: 6% + 1,5% = 7,5%

Lãi suất cơ bản thường nhạy cảm với các nhân tố trên thị trường tiền tệ - là phần

thường thay đổi. Giả sử trong 6% lãi suất cơ bản thì lãi suất huy động là 4%. Nếu lãi suất

hụy động tăng lên 5% thì lãi suất cơ bản là 7%

Có nhiều phương pháp xác định lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được xác định dựa

trên tổng chi phí và thu nhập, áp dụng cho khách hàng vay tốt nhất ( rủi ro bằng không)

Lãi suất

cơ bản

Lãi suất

huy động+

Chi phi

Ròng khác+ Thuế +

Thu nhập

dự tính

34

Page 35: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Lãi suất cơ bản dựa trên lãi suất thị trường liên ngân hàng, là lãi suất các ngân hàng

cho nhau vay. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng nổi tiếng như LIBORE, SIBORE

thường trở thành lãi suất cơ bản của nhiều ngân hàng thương mại. Lãi suất này thường

xuyên thay đổi. Do đó, nếu ngân hàng áp dụng cho vay với lãi suất thả nổi thường chọn

lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hình thành lãi suất cơ bản.

Lãi suất

Cơ bản=

Lãi suất trên thị trường

liên ngân hàng+ Thuế Thu nhập dự tính

Những ngân hàng nhỏ chọn lãi suất cho vay của các ngân hàng lớn làm lãi suất cơ

bản. Từ đó, một tỷ lệ phần trăm được cộng thêm để bù đắp chi phí của ngân hàng nhỏ.

4. Định giá nguồn huy động

Định giá nguồn huy động là một mắt xích trong quy trình định giá của ngân hàng,

bao gồm xác định lãi suất huy động và các chi phí khác có liên quan tới huy động, trong

đó lãi suất là phần quan trọng ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả huy động. Một số chi

phí khác có liên quan trực tiếp tới huy động như chi phí thuê quầy tiết kiệm, lương của

cán bộ phòng nguồn vốn, sổ sách… Một số chi phí khác được tính chung vào chi phí

quản lý và rất khó phân bổ cho hoạt động huy động vốn.

Xác định lãi suất huy động là công việc phức tạp, quyết định tới chất lượng của

nguồn huy động, từ đó tới chất lượng của tài sản, đòi hỏi tính nhạy bén của nhà quản lý

ngân hàng. Ngân hàng cần phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô nguồn huy

động để xác định lãi suất và các chi phí huy động khác.

4.1. Theo nguyên lý chung, các ngân hàng huy động với lãi suất thị trường, phản

ánh quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ.

Với mỗi mức giá cụ thể, ngân hàng có phương pháp riêng để tính toán

Lãi suất = Tỷ lệ lạm phát bình quân + Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng

35

Page 36: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Huy động của người gửi tiền

Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng của ngưởi gửi tiền phụ thuộc vào rủi ro của mỗi ngân hàng,

tỷ lệ sinh lợi của các họat động đầu tư khác và những tiện ích mà người gửi hy vọng nhận

được từ ngân hàng. Những loại tiền gửi mà tiện ích thu được từ ngân hàng càng cao thì

lãi suất ngân hàng trả cho nguồn tiền càng thấp

4.2. Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, nguồn cung ứng tiền từ

ngân hàng Trung ương, từ các tổ chức tài chính khác ngày càng có ý nghĩa hơn đối

với các ngân hàng thương mại.

Với môi trường này, ngân hàng thương mại xác định lãi suất huy động dựa trên lãi

suất gốc. Những lãi suất gốc quan trọng là lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng Trung

ương ( Ngân hàng Nhà nước), lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hoặc lãi suất trái

phiếu ngắn hạn của Chính phủ. Những ngân hàng lớn, ở các trung tâm tài chính, thường

lấy các lãi suất này làm điểm xuất phát khi xác định lãi suất huy động.

Lãi suất

nguồn (nhóm

nguồn)=

Lãi suất gốc (lãi suất tái

chiết khấu hoặc lãi suất

liên ngân hàng, lãi suất

trái phiếu Chính phủ)

+Tỷ lệ thu nhập kỳ vọng

của người gửi tiền

Ngân hàng sử dụng lãi suất gốc để xác địn lãi suất trả cho các nguồn tiền gửi ngắn

hạn. Từ lãi suất gốc, ngân hàng đa dạng các tỷ lệ lãi suất khác nhau theo nguyên tắc.

- Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn và sinh lợi với các hoạt động

đầu tư khác như mua vàng, bất động sản, chứng khoán.

- Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay với cùng kỳ hạn

- Lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn

- Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô

36

Page 37: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

- Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản

- Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng của tiền gửi

- Lãi suất tỷ lệ nghịch với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng

cung cấp.

4.3. Trong điều kiện cạnh tranh để tìm kiếm nguồn tiền, nhiều ngân hàng nỗ lực

tiết kiệm chi phí khác ( như chi phí quản lý) và chấp nhận tỷ lệ thu nhập ròng thấp để

gia tăng lãi suất huy động.

Ngân hàng có thể xác định lãi suất huy động tối đa trong mối tương quan với lãi suất

sinh lời của các tài sản.

Lãi suất

nguồn

( nhóm

nguồn)

Tỷ lệ sinh lời dự tính

từ tài sản được tài trợ

bằng nguồn

( nhóm nguồn)

Tỷ lệ chi phí

khác ròng phân

bổ cho nguồn

( nhóm nguồn)

Tỷ lệ thuế thu nhập

và thu nhập ròng

tính trên nguồn

(nhóm nguồn)

Ví dụ: Một ngân hàng có các số liệu sau: ( số dư - tỷ đồng) lãi suất - %)

Nguồn vốn Dư

bình

quân

Lãi

suất

bình

quân

Tài sản Dư

Bình

quân

Lãi

suất

bình quân

1. Tiền gửi thanh toán

2. Tiền gửi tiết kiệm

ngắn hạn

100

400

1. Tiền mặt và

tiền gửi

2. Chứng khoán

50

150

250

0

1

2

37

Page 38: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

3. Tiền gửi tiết kiệm

trung

4. Tiền gửi tiết kiệm

dài hạn

5.Vay ngắn hạn

6. Nguồn khác

7. Vốn và quỹ

200

100

100

0

100

3. Cho vay ngắn

4. Cho vay trung

và dài đối với

doanh nghiệp

5. Liên doanh

6. Cho vay tiêu

dùng

7. Tài sản khác

300

50

150

50

2,5

3

0

Lãi liên doanh ước tính đạt: 1

Nguồn ( nhóm nguồn) ngân hàng phải đặt giá: Tiền gửi thanh toán, tiết kiệm ngắn,

vay ngắn, tiết kiệm trung và tiết kiệm dài hạn

Nếu chi phí quản lý: 2, chi quỹ dự phòng rủi ro: 1

Thu khác: 1,5

Thuế suất thu nhập: 25%

Yêu cầu: Đặt giá cho các khoản tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn

Tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn 400 có thể được dùng tài trợ cho các tài sản sau:

Chứng khoán: 100

Cho vay ngắn: 250

Cho vay trung: 50

(Giả sử tiền gửi thanh toán tài trợ cho ngân quỹ và chứng khoán ngắn hạn)

Lãi suất sinh lời bình quân tính cho nguồn tiền gửi ngắn hạn là:

38

Page 39: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Chi phí ròng phân bổ cho các khoản cho vay liên doanh là:

Thu nhập ròng và thuế

thu nhập phân bổ cho

các khoản cho vay và

liên doanh

=Thu nhập trước thuế

=

4x100

= 0,53333%

Dư nợ và liên doanh750

( Giả sử rằng chứng khoán không phải chịu phân bổ chi phí, thuế và thu nhập ròng

dự tính)

Lãi suất có thể áp dụng cho tiết kiệm ngắn hạn là:

2,1875% - 0,2% - 0,53333% = 1,4542%

Từ lãi suất bình quân, ngân hàng có thể phân biệt thành các lãi suất ngắn hạn khác

nhau như lãi suất tiết kiệm 12 tháng, 6 tháng, 3 tháng….

Ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với môi trường cạnh tranh và

chiến lược huy động vốn, trong mối tương quan với các lãi suất khác trong ngân hàng

4.4. Một số ngân hàng nhỏ đặt giá trên cơ sở lãi suất của ngân hàng lớn ( Ngân

hàng trung gian)

Tuỳ trường hợp cụ thể mà lãi suất này sẽ cộng thêm phần bù rủi ro của ngân hàng

nhỏ. Trong điềukiện thị trường xa cách, người gửi khó tiếp cận với các ngân hàng lớn,

ngân hàng nhỏ đặt lãi suất huy động tương quan với lãi suất sinh lời.

5. Định giá cá biệt

Nguyên tắc định giá:

- Xác định các đối tượng cần định cá biệt, xác định mục tiêu định giá cá biệt

39

Page 40: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

+ Giá cá biệt phải phản ánh chất lượng sản phẩm cá biệt của ngân hàng

+ Giá thâm nhập thị trường cần phải nghiên cứu và định giá thấp hơn giá của các đối

thủ cạnh tranh

+Giá cá biệt phải đảm bảo tăng thu nhập cho ngân hàng

Nội dung:

Ngân hàng sử dụng phương pháp chi phí và thu nhập áp dụng cho một khách hàng

cần định giá cá biệt

Ví dụ: Một khách hàng có số dư tiền gửi thanh toán trung bình năm là 100.000 có

nhu cầu vay 480.000 trong 12 tháng. Đây là khách hàng có tiền gửi thanh toán lớn. Ngân

hàng có thể sử dụng một phần tiền gửi này để thiết lập dự trữ bắt buộc hoặc nắm giữ

chứng khoán thanh khoản. Vì vậy, ngân hàng có thể cung cấp một số dịch vụ ưu đãi, như

giảm chi phí thanh toán, giảm mức ký quỹ hoặc giảm lãi suất cho vay.

Giả sử lãi suất trả tiền gửi thanh toán trung bình là 1%/ năm, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là

5%, tỷ lệ dự trữ thanh toán là 15%

Vậy số tiền lãi một năm ngân hàng phải trả cho khách.

100.000 x 1% = 1.000

Dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán

100.000 x 20% = 20.000

Số tiền gửi thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có thể sử dụng bình quân:

100.000 – 20.000 = 80.000

Số tiền mà ngân hàng cần huy động thêm để cho khách hàng này vay: 480.000 -

80.000 = 400.000

40

Page 41: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Nếu lãi suất cho vay chung đối với mọi khách hàng là 6%/năm, lãi suất huy động

tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn là 4,4%, lãi suất bình quân nguồn huy động là 4%, thì lãi suất

mà ngân hàng sẽ thu được nếu như không có phân biệt giá: 480.000 x 6% = 28.800

Chênh lệch lãi suất: 6% - 4% = 2%

Do khách hàng này có tiền gửi thanh toán lớn nên lãi suất bình quân nguồn có thể

tính lại như sau: ( bỏ qua một số yếu tố khác)

Lãi suất cho vay có thể áp dụng đối với khách hàng này là:

3,38% + 2% = 5,38%

6. Định giá các dịch vụ khác của ngân hàng

Ngoài huy động, cho vay, đầu tư và cho thuê, ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ

khác như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, chứng khoán, bảo lãnh, uỷ thác….

Các dịch vụ này tạo thu nhập đáng kể cho ngân hàng, đồng thời cũng làm gia tăng chi

phí. Xác định giá dịch vụ khác hợp lý sẽ có tác dụng mở rộng thị trường cho ngân hàng

Nguyên tắc định giá:

- Xác định các loại dịch vụ miễn phí và chịu phí, các đối tượng miễn phí.

- Phân bổ các chi phí liên quan tới dịch vụ chịu phí bao gồm chi phí trực tiếp và chi

phí gián tiếp.

- Các dịch vụ có liên quan chặt chẽ với nhau có thể san sẻ chi phí cho nhau, các -

dịch vụ mới có thể san bớt chi phí sang các dịch vụ đã được sử dụng rộng rãi, thu nhập

cao.

- Định giá dịch vụ theo quy mô: Quy mô sử dụng càng cao, phí suất có thể càng thấp

- Định giá dịch vụ có so sánh với giá tương quan của các tổ chức khác có cung cấp

dịch vụ cùng loại.41

Page 42: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

- Giá dịch vụ phải bù đắp được chi phí cho các dịch vụ và đạt thu nhập ròng dự tính (

có so sánh với thu nhập từ các hoạt động khác)

Giá dịch vụ = chi phí cho dịch vụ + Thuế và thu nhập ròng dự tính

Một số ngân hàng chuyển trọng tâm từ cạnh tranh về lãi suất danh nghĩa sang cạnh

tranh phi lãi, như cung cấp dịch vụ miễn giảm phí ( miễn phí cam kết, phí mở tài khoản

và duy trì tài khoản, phí tư vấn, giảm phí uỷ thác…) hoặc giảm chi phí của khách hàng

khi tiếp cận với các dịch vụ của ngân hàng như thiết lập các hệ thống chi nhánh, ứng

dụng công nghệ mới. Tuy nhiên, khi cạnh tranh lãi suất diễn ra gay gắt, các ngân hàng

phải thu hẹp phạm vi miễn giảm phí. Đồng thời,mỗi dịch vụ phi lãi thường được định giá

sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phí cho việc cung cấp dịch vụ đó

đồng thời tạo thêm thu nhập cho ngân hàng.

Ví dụ: Phí thanh toán bao gồm phí chuyển tiền, đếm tiền, mở tài khoản, mua và

thanh toán bằng thẻ, phí sử dụng máy rút tiền tự động…. Các khoản phí này gắn liền với

tiền gửi thanh toán. Định giá cho các dịch vụ này có thể được tính tổng thể cho toàn bộ

tiền gửi thanh toán.

Thứ nhất: Ngân hàng tính các chi phí trực tiếp phát sinh từ việc cung cấp các dịch vụ

thanh toán. Nếu chuyển tiền thì đó là tiền điện, bưu điện, mạng thanh toán điện tử, nếu

thanh toán bằng thẻ thì đó là ch phí phát hành thẻ, tiền điện, tiền công của nhân viên

ngân hàng làm công tác thanh toán, khấu hao máy móc, tổn thất trong quá trình thanh

toán…

Thứ hai, Ngân hàng phân bổ các chi phí khác có liên quan cho dịch vụ thanh toán,

như chi phí quản lý ngân hàng, khấu hao nhà cửa, chi phí đào tạo, chi phí quảng cáo….

Tỷ lệ phân bổ tuỳ thuộc vào chính sách phí của ngân hàng. Nếu tỷ trọng cho vay và đầu

tư lớn, lãi suất sinh lời cao, có thể ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ hoặc phần lớn chi

phíchung cho các khoản cho vay và đầu tư. Hoặc nếu ngân hàng đang có chính sách phát

42

Page 43: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

triển loại dịch vụ mới, ngân hàng cũng có thể đặt giá thấp bằng cách chuyển một phần chi

phí sang các dich vụ khác.

Thứ ba, ngân hàng có thể ước tính thu nhập ròng cho các dịch vụ. Một số trường

hợp, ngân hàng đặt mục tiêu phí dịch vụ chỉ cần bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí có

liên quan.

Đối với thuê – mua, ngân hàng xác định tiền thuê thu hàng kỳ dựa trên hao mòn của

tài sản cho thuê ( hao mòn vô hình và hữu hình), lãi suất dự tính và khả năng bán ( giá

bán) của tài sản đó khi hết hạn…. Lãi suất để cấu thành tiền thuê cũng được xác định như

trong cho vay.

7. Xác định nhân tố phi lãi suất

Người vay quan tâm không chỉ lãi suất của các khoản vay, phí dịch vụ, mà còn quan

tâm tới nhiều yếu tố khác có thể tạo thành chi phí của khoản vay. Chi phí này có thể được

tạo thành từ yêu cầu của ngân hàng như lãi suất, phí, chi phí công chứng, chi phí bảo

quản và giám sát tài sản, chi phí đi lại…. Nhưng chi phí này hình thành phí suất tín dụng

đối với khách hàng. Vì vậy, ngân hàng phải quan tâm tới tất cả các khoản phí tạo thành

phí suất tín dụng.

7.1. Các nhân tố trực tiếp

Hai nhân tố tác động trực tiếp tới lãi suất cho vay là số dư bù và phí cam kết.

7.1.1. Số dư bù

Ngân hàng yêu cầu người vay duy trì số tiền gửi tối thiểu trên tài khoản tiền gửi

thanh toán trong quá trình vay. Số dư bù được xác định trung bình trên các khoản cho

vay, nhằm giảm rủi ro ngân hàng từ phía khách hàng. Hơn nữa, nó cho phép ngân hàng

thanh toán các chi phí ngầm ( khi khoản vay của khách là đáng chú ý đối với ngân hàng,

ngân hàng có thể gia tăng chi phí ngầm đối với khoản vay này). Chi phí của số dư bù đối

với người vay có thể phản ánh trực tiếp trong chi phí của khoản vay. Nếu người vay cần

80 triệu song phải duy trì số dư bù 20%, tức 16 triệu, thì số tiền người vay thực sự sử 43

Page 44: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

dụng được của ngân hàng là 64 triệu. Nếu lãi suất của ngân hàng là 10%, thì lãi suất thực

( lãi suất hiệu dụng) mà người vay phải trả là:

Số dư bù bị phê phán là kém hiệu quả dù chúng làm gia tăng lãi suất hiệu dụng. Số

dư bù phải đối lại các khoản dự trữ, vì vậy, ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số dư

bù để cho vay.

7.1.2. Phí cam kết

Đáp ứng yêu cầu vay ( thường là trung và dài hạn) của khách hàng trong tương lai,

ngân hàng thường ký hợp đồng tín dụng, cam kết cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng

trong khoảng thời gian xác định. Để có được cam kết đó của ngân hàng, trong nhiều

trường hợp, khách hàng phải trả phí cam kết.. Phí cam kết, được tính bằng tỷ lệ phần trăm

trên hạn mức cam kết còn lại mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Về thực chất, phí

này là giá để gọi ( tìm) nguồn trong tương lai, liên quan tới chi phí của ngân hàng để duy

trì tính thanh khoản nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay ( ví dụ nắm chứng khoán của Chính

phủ, duy trì tiền gửi…..). Nếu khách hàng sử dụng vốn vay, khách hàng phải trả lãi. Nếu

khách hàng chưa sử dụng hết cam kết, khách hàng phải trả phí cam kết. Do vậy, phí cam

kết làm gia tăng ch phí vay vốn của khách hàng.

7.2. Các nhân tố gián tiếp

Quan trọng nhất là quy định về kỳ hạn trả nợ, phương pháp tính lãi, các yêu cầu về

tài sản đảm bảo ( chi phí thuê kho bãi, nhân viên để quản lý tài sản đảm bảo, chi phí đánh

giá tài sản đảm bảo…) chi phí để xây dựng dự án, thẩm định dự án. Việc xác định kỳ hạn

trả có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng, gây khó khăn về ngân quỹ

cho khách hàng. Thời gian và chi phí bằng tiền để công chứng tài sản thế chấp và các

giấy tờ có liên quan có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh của khách hàng và làm tăng phí

tổn tín dụng. Chi phí để thẩm định, tái thẩm định dự án theo yêu cầu của ngân hàng cũng

44

Page 45: Bài giảng sản phẩm dịch vụ ngân hàng

làm tăng chi phí của khách hàng… Các yếu tố này được đặt ra làm giảm rủi ro của ngân

hàng và tăng chi phí hiệu dụng của khách hàng trong đó xác định cấu trúc của lãi, phí và

các chi phí khác mà khách hàng phải trả cho ngân hàng và cho các chủ thể khác.

Định giá là hoạt động phức tạp, liên quan đến hầu hết các dịch vụ của ngân hàng

thương mại. Định giá cần phản ánh lợi ích tương quan giữa ngân hàng và khách hàng

nhằm góp phần tạo tăng trưởng bền vững cho cả hai bên. Định giá cần mang tính đa

dạng, thể hiện sự khác biệt trong tiện ích mà ngân hàng cung cấp cho các khách hàng

khác nhau. Trong môi trường cạnh tranh và hợp tác, định giá của các ngân hàng thương

mại ngày càng linh hoạt, trở thành nội dung quan trọng trong chiến lược hoạt động của

ngân hàng.

45