39
a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐIỂM BÁO Ngày 10 tháng 7 năm 2017

a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH …thutuchanhchinh.vn/noidung/tintuc/Lists/DiemBao/Attachments/1240/DB10.7.2017.pdfquốc gia và Cơ chế một cửa

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

a

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ

CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

ĐIỂM BÁO

Ngày 10 tháng 7 năm 2017

Bộ, ngành

1. Thông qua 23 phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Bộ Y tế

2. Cẩm nang Cơ chế một cửa quốc gia và Một cửa ASEAN

3. Cải cách hành chính, giảm chi phí để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

4. Nâng cao năng lực cạnh tranh thuế để thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam

5. Chậm giải ngân vốn và hệ lụy khó lường

6. Nên để doanh nghiệp tự do bán hàng

7. Có cần tem chống sách lậu?

8. Chặn "giấy phép con": Chỉ Chính phủ quyết liệt thôi thì chưa đủ

9. Giảm chi phí DN và những trở ngại: Kỳ I: con dấu và sự phức tạp mang tên... thủ tục

10. Giảm chi phí DN và những trở ngại (Kỳ II): Lời giải không thuộc về DN

Địa phương

11. Ngăn chặn tình trạng vượt biên đi lao động trái phép

12. Bình Phước xây dựng không gian đối thoại mở

13. Đồng Nai đưa ứng dụng Zalo vào thủ tục hành chính công như thế nào?

1. Thông qua 23 phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Bộ Y tế

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 60/NQ-CP thông qua Phương

án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến

quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Y tế.

Chính phủ vừa ban hành NQ thông qua phương án đơn giản hóa thủ

tục về cấp và cấp lại Giấy chứng nhận là lương y được quy định tại

Thông tư số 29/2015/TT-BYT ngày 12/10/2015

Theo Nghị quyết, có 23 nội dung phương án đơn giản hóa thủ tục hành

chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi

chức năng quản lý của Bộ Y tế đã được Chính phủ thông qua gồm:

Thủ tục về cấp và cấp lại Giấy chứng nhận là lương y được quy định tại

Thông tư số 29/2015/TT-BYT ngày 12/10/2015; các thủ tục về khám sức

khỏe được quy định tại Thông tư số 14/2013/TT-BYT ngày 6/5/2013; các

thủ tục về xuất khẩu, nhập khẩu thuốc theo đường phi mậu dịch được

quy định tại Thông tư số 39/2013/TT-BYT ngày 15/11/2013;

Thủ tục đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,

thủ tục đề nghị thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm được quy

định tại Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/1/2015; các thủ tục xét

tặng danh hiệu thầy thuốc được quy định tại Nghị định số 41/2015/NĐ-

CP ngày 5/5/2015...

Chính phủ giao Bộ Y tế căn cứ nội dung Phương án đơn giản hóa được

Chính phủ thông qua, trong phạm vi thẩm quyền chủ trì, phối hợp với bộ,

ngành, cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm sửa đổi, bổ sung, thay thế

hoặc hủy bỏ, bãi bỏ thủ tục hành chính quy định tại văn bản quy phạm

pháp luật để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền

ban hành phù hợp với thời điểm Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được

hoàn thành, vận hành và có thể khai thác được đầy đủ 15 trường thông

tin của công dân Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện, nếu có văn bản quy phạm pháp luật mới sửa

đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ, hủy bỏ các thủ tục hành chính có

phương án đã được phê duyệt tại Nghị quyết này thì Bộ Y tế chủ động

triển khai, thực thi phương án theo nội dung quy định tại văn bản quy

phạm pháp luật mới, đồng thời thông báo đến Ban Chỉ đạo Đề án 896.

Theo infonet.vn

2. Cẩm nang Cơ chế một cửa quốc gia và Một cửa ASEAN

Tổng cục Hải quan vừa ban hành “Cẩm nang về Cơ chế một cửa

quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN”, nhằm đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ về lợi ích, cách

thức tham gia cơ chế một cửa tới người dân và doanh nghiệp (DN).

Cơ chế một cửa sẽ loại bỏ được hoạt động giải quyết hành chính thủ

công, tiết giảm được thời gian, chi phí cho DN. Ảnh: Hải Anh

Theo Tổng cục Hải quan “Cẩm nang về Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ

chế một cửa ASEAN” không chỉ mang lại lợi ích cho DN mà còn là tài

liệu tham khảo, phục vụ đắc lực các bộ, ngành trong quá trình triển khai

Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN thời gian tới.

Về cơ bản, nội dung của cẩm nang chia làm 2 phần:

Phần 1 giới thiệu chung về lịch sử ra đời, khái niệm, mô hình; quy trình

thực hiện thủ tục hành chính thông qua Cơ chế một cửa quốc gia và

ASEAN; lợi ích khi triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một

cửa ASEAN.

Phần 2 giới thiệu về kết quả, mục tiêu triển khai Cơ chế một cửa quốc

gia và Cơ chế một cửa ASEAN của Việt Nam; Lộ trình thực hiện các thủ

tục hành chính đến năm 2020. Những việc DN và các bộ, ngành cần

thực hiện để triển khai Cơ chế một cửa quốc gia.

Cuốn cẩm nang này cũng đã dành hẳn một mục nói về sự hỗ trợ của

Tổng cục Hải quan với người dân và DN trong quá trình thực hiện các

thủ tục hành chính trên Cổng thông tin một cửa quốc

gia: https://vnsw.gov.vn./.

Theo thoibaotaichinhvietnam.vn

3. Cải cách hành chính, giảm chi phí để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

Cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí cho doanh nghiệp…

Đó là những vấn đề được Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh tại

nhiều phiên họp, hội nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh

nghiệp.

Tuy nhiên, để môi trường kinh doanh thuận lợi và năm 2017 trở thành

năm giảm chi phí cho doanh nghiệp thì còn rất nhiều việc phải làm. TS

Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt

Nam, nhìn nhận:

Những điểm còn hạn chế của môi trường kinh doanh Việt Nam có thể

nhìn nhận từ bản tổng hợp kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết số

35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm

2020. Việc hỗ trợ doanh nghiệp đã đạt nhiều kết quả tích cực về: cải

cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; tạo môi trường thuận

lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; bảo đảm quyền kinh doanh,

quyền bình đẳng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh

nghiệp… Tuy nhiên, công tác cải cách thủ tục hành chính mặc dù đã

được thực hiện tốt nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp,

nhà đầu tư. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức làm công tác giải

quyết thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, nhà đầu tư có trình độ, năng

lực còn hạn chế; tình hình gây phiền hà, nhũng nhiễu còn diễn ra, gây

bức xúc cho doanh nghiệp. Cùng với đó, doanh nghiệp đối mặt với hàng

loạt khó khăn trong hoạt động do liên quan đến chi phí như: chi phí

logistics, chi phí vốn vay, chi phí thuê mặt bằng kinh doanh, chi phí

không chính thức…

TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

Phóng viên: Vậy theo ông, để cải thiện tình hình nêu trên cần các giải

pháp gì?

TS VŨ TIẾN LỘC: Để hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, đầu tiên, tôi

cho rằng cần bổ sung nhóm giải pháp liên quan đến hoàn thiện thể chế

kinh tế vĩ mô. Trong đó, tập trung vào việc rà soát, loại bỏ các quy định

cho phép các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào các thị trường

như: thị trường đất đai, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường

công nghệ, thị trường công nghiệp. Cụ thể, đó là xem xét đề xuất với

Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai, theo hướng xác lập quyền tài sản của

người dân đối với đất đai; bảo đảm việc chuyển đổi công năng sử dụng

đất một cách nhanh chóng; hỗ trợ tích tụ đất đai với cơ chế giá do thị

trường quyết định; không hành chính hóa các tổ chức kinh doanh như

Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số nghị định quy định chi

tiết thi hành Luật Đất đai (hiện đang khoác cho các doanh nghiệp đầu tư

kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp trách nhiệm như một cấp

quản lý hành chính đất đai trung gian mà đáng lẽ đó là việc của cơ quan

quản lý nhà nước)...

Bên cạnh đó là thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như cải cách hành

chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước cần có giải

pháp mạnh mẽ hơn, mang tính chất đột phá để cải cách thủ tục hành

chính cũng như trong việc tổ chức, triển khai, giám sát thực hiện mô

hình một cửa, trung tâm hành chính công; cải tiến hình thức tổ chức đối

thoại giữa doanh nghiệp với chính quyền địa phương; nghiên cứu thấu

đáo và giải quyết triệt để các vướng mắc của doanh nghiệp một cách kịp

thời, thỏa đáng, tránh tình trạng bao biện “giải thích” nhiều mà “không

giải quyết”.

Tiếp đến là tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng

tạo. Đề nghị các địa phương phải thực sự coi trọng và tiến hành có hiệu

quả hoạt động khởi sự doanh nghiệp, đồng thời hạn chế những hoạt

động có tính chất “phong trào”. Cần đa dạng hóa và sáng tạo trong phát

triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển kinh doanh; nhanh

chóng quy hoạch và xây dựng các cụm công nghiệp quy mô nhỏ tại các

khu vực, địa phương…

Giải pháp tiếp theo là bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp

cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể, đề

nghị các bộ, ngành và cơ quan có liên quan cần tăng cường đối thoại

chính sách giữa doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước; tăng cường

chất lượng và sự tham gia của cán bộ pháp chế các bộ ngành trong xây

dựng pháp luật; hoàn thiện cơ chế quản lý để thúc đẩy nhanh tiến độ

giải ngân Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đảm bảo công

khai, minh bạch…

Song song với đó là giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Đề nghị

Quốc hội xem xét ra nghị quyết ban hành một số giải pháp về thuế

nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh sự phát triển của doanh

nghiệp. nâng cao tay nghề cho người lao động để tăng năng suất, giảm

chi phí lao động, nhất là đối với các ngành đang sử dụng nhiều lao động

hiện nay như dệt may, da giày… Cuối cùng là tiếp tục rút ngắn thời gian,

thủ tục phá sản doanh nghiệp; xây dựng các chế tài đủ mạnh để răn đe

các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm bản quyền sở hữu trí

tuệ…

Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2020 có 1 triệu doanh nghiệp hoạt

động hiệu quả, theo ông, giải pháp cụ thể nào để hiện thực hóa điều

này?

Nhằm hướng tới mục tiêu đất nước có 1,5 - 2 triệu doanh nghiệp hoạt

động có hiệu quả vào năm 2020, theo tôi, có hai việc cần làm ngay.

Thứ nhất là có những giải pháp chính sách và hành chính quyết liệt để

giảm mạnh rủi ro và chi phí, đặc biệt là chi phí không chính thức để bảo

đảm an toàn và “khoan sức” được cho doanh nghiệp. Hiện các doanh

nghiệp Việt Nam đang phải chịu nhiều rủi ro và gánh nặng chi phí cả

chính thức và không chính thức khá lớn. Trước tiên là các rủi ro và chi

phí về hành chính (giao dịch, gia nhập thị trường, tuân thủ luật pháp…)

đang ở mức cao so với các nước láng giềng. Bên cạnh đó là giảm chi

phí vốn cho doanh nghiệp.

Thứ hai là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường với những đổi mới, động

lực mới, vừa tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi,

thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Nước ta hiện có gần 5 triệu hộ kinh

doanh phi nông nghiệp, trong đó có gần 2 triệu hộ kinh doanh có đăng

ký. Đó là lực lượng tiềm năng của đội ngũ doanh nghiệp trong tương lai

gần. Nếu có chính sách khuyến khích họ chuyển sang mô hình tổ chức

doanh nghiệp thì mục tiêu có được 1,5 - 2 triệu doanh nghiệp trước năm

2020 là trong tầm tay. Hơn thế, con đường chính thức hóa hoạt động

kinh doanh lại là cứu cánh cho các hộ kinh doanh trước sức ép của hội

nhập. Bởi chúng ta đều biết, nhỏ lẻ, “tiểu nông”, “tiểu công”, không minh

bạch rất khó vươn tới chuẩn mực quốc tế, rất khó tạo ra năng suất và

hiệu suất cao và rất khó trụ vững trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh

gay gắt. Chính sách hỗ trợ chuyển dịch hộ kinh doanh thành doanh

nghiệp như một mũi tên có thể trúng cả hai đích.

Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nhân tố quan

trọng, đóng góp vào việc tạo thêm việc làm, tăng sản lượng công nghiệp

và đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, như ông đã nhiều lần

nhấn mạnh, sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong

nước còn rất hạn chế. Rõ ràng, để doanh nghiệp trong nước phát triển,

tăng năng lực cạnh tranh, mối liên kết này cần phải được tăng cường

hơn, thưa ông?

Đúng vậy. Khối FDI đang ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh

tế. Song dường như Việt Nam vẫn chưa tận dụng được hết những lợi

ích từ các dòng vốn FDI. Gần 30 năm sau khi Luật Đầu tư nước ngoài

có hiệu lực, một thực trạng phải thừa nhận là kết nối cộng sinh trong

kinh doanh giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn còn mờ nhạt,

hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ các đối tác

nước ngoài đến các doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Điều này

đặc biệt đúng trong lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực được chào đón,

được Chính phủ kỳ vọng. Theo kết quả điều tra Chỉ số năng lực cạnh

tranh cấp tỉnh 2016, chỉ có khoảng 14% doanh nghiệp tư nhân đang có

khách hàng là các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Con

số này có dấu hiệu cải thiện theo thời gian, nhưng rất chậm chạp. Từ

phía các doanh nghiệp FDI, liên kết hàng dọc với các công ty trong nước

rất yếu (chỉ 26,6% đầu vào của FDI được mua tại Việt Nam).

Để tăng mức độ kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp FDI và khu vực tư

nhân hơn nữa, chúng tôi kiến nghị các giải pháp chính gồm: cần cải

thiện hiệu quả các hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực; có giải pháp đột phá để cải thiện và thu hẹp khoảng cách về trình độ

công nghệ của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI

(thông qua việc cung ứng dịch vụ tư vấn công nghệ, vận hành quỹ phát

triển công nghệ, sử dụng các chính sách về thuế, tài chính để khuyến

khích đầu tư công nghệ cao...); tăng cường kết nối về mặt địa lý giữa

FDI với doanh nghiệp trong nước. Trong đó, việc nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực là chìa khóa quan trọng nhất thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa

của doanh nghiệp FDI.

Xin cảm ơn ông!

Theo sggp.org.vn

4. Nâng cao năng lực cạnh tranh thuế để thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam

Theo nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), chính sách thuế có

tác động đến tới nguồn vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu là vốn đầu

tư trực tiếp; đồng thời tác động không nhỏ tới việc phân bổ nguồn

lực tài chính. Để thu hút nguồn vốn đầu tư thì năng lực cạnh tranh

thuế, chính sách thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi

quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài bối cảnh đó.

Có thể hiểu, cạnh tranh thuế là việc một nước ban hành chính sách thuế

có lợi thế so sánh nhằm thu hút nguồn lực, lao động và các yếu tố kinh

tế khác từ bên ngoài vào nước mình hoặc (đồng thời) hạn chế di chuyển

các nguồn lực trong nước ra nước ngoài. Có rất nhiều hình thức cạnh

tranh về thuế như cắt giảm thuế suất, áp dụng ưu đãi thuế, cho phép

chuyển lỗ với thời gian dài, đơn giản và rút ngắn thu tục hành chính

thuế…

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh thuế quốc tế

Hiện nay, Ngân hàng Thế giới (WB) sử dụng các tiêu chí định lượng để

đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của các nước như sau:

- Tiêu chí 1: Thời gian doanh nghiệp (DN) làm các thủ tục về thuế với

nhà nước trung bình trong một năm. Đó là thời gian chuẩn bị, điền hồ sơ

và nộp thuế. Thời gian chuẩn bị bao gồm cả thời gian thu thập thông tin

cần thiết để tính toán thuế phải nộp. Thời gian điền hồ sơ gồm thời gian

hoàn thiện các mẫu biểu và tính toán. Thời gian nộp thuế gồm thời gian

thanh toán thuế qua mạng hoặc tại cơ quan thuế, thời gian chờ đợi. Thời

gian càng ít thì càng tốt cho DN và nó cũng chứng tỏ thủ tục hành chính

đơn giản, thuận tiện.

- Tiêu chí 2: Số lần trung bình DN phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế trong

một năm. Số lần thanh toán thuế phản ánh số lần thuế được trả, phương

pháp thanh toán, tần suất thanh toán. Số lần thanh toán ghi nhận cả

thanh toán điện tử. Chỉ tiêu này cành nhỏ thì càng tốt cho DN.

- Tiêu chí 3: Tổng mức thuế suất: Đây là tỷ lệ % giữa tổng thuế và các

nghĩa vụ khác DN phải thực hiện với nhà nước trên tổng lợi nhuận kinh

doanh.

Ba tiêu chí trên được xếp hạng riêng lẻ cho từng nước theo thứ tự từ

thấp đến cao, sau đó sẽ tổng hợp lại thành chỉ số xếp hạng năng lực

cạnh tranh về thuế giữa các nước bằng cách tính bình quân. Thứ tự

càng thấp thì năng lực cạnh tranh thuế càng cao và ngược lại. Ngân

hàng Thế giới thông qua công ty kiểm toán KPMG để điều tra, thu thập

số liệu từ các công ty có quy mô vừa ở 189 nền kinh tế trên thế giới.

Năng lực cạnh tranh thuế của Việt Nam

Ngân hàng Thế giới đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của các nước

trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng qua các báo cáo hàng năm

(PwC) của tổ chức này. Theo đó, Việt Nam được đánh giá là có sự thay

đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây về năng lực cạnh tranh thuế.

Đặc biệt, khi Việt Nam ngày càng tham gia hội nhập sâu rộng vào kinh tế

quốc tế, thực hiện các cam kết về thuế khi ký kết các hiệp định thương

mại tự do và đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh. Điều này đã

được nhiều tổ chức quốc tế và cộng đồng DN trong và ngoài nước ghi

nhận, đánh giá cao.

Tuy nhiên, so với một số nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương

thì các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh thuế của Việt Nam đều ở

mức cao hơn, đặc biệt là tiêu chí số giờ tuân thủ về thuế trung bình của

một DN còn cao so với yêu cầu của DN. Thủ tục hành chính liên quan

đến thuế, hải quan đã được Bộ Tài chính quyết liệt thực hiện cắt giảm

nhưng đòi hỏi của DN cần tiếp tục đơn giản hóa hơn nữa. Đáp ứng yêu

cầu này, thời gian qua, Chính phủ, Bộ Tài chính đã có nhiều động thái

tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực

thuế trong thời gian tới, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện

môi trường kinh doanh.

Đặc biệt, với quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh, liên tục từ năm

2014 đến nay, Chính phủ đã có ban hành các Nghị quyết 19 nhằm cải

thiện môi trường kinh doanh Việt Nam. Báo cáo thường niên về chỉ số

thuận lợi kinh doanh 2017 do Ngân hàng Thế giới công bố cho thấy, Việt

Nam xếp hạng 82 trên tổng số 190 nền kinh tế được đánh giá, tăng 9

bậc so với năm 2016. So với bảng xếp hạng năm trước, Việt Nam đã

thăng hạng 9 bậc (năm 2016, Việt Nam xếp thứ 91 với điểm số

61,11/100). Đóng góp quan trọng vào sự thăng hạng này là sự cải cách

mạnh mẽ về thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế cũng như những đổi

mới về chính sách thuế theo xu thế hội nhập.

Một số vấn đề cần tiếp tục quan tâm

Liên tục từ năm 2014 đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

các Nghị quyết số 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng

lực cạnh tranh quốc gia, trong đó chỉ rõ những định hướng cấp bách

nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về thuế. Thực hiện Nghị quyết 19

của Chính phủ, Bộ Tài chính đã vào cuộc với tinh thần quyết quyết tâm

cao và đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào cải

thiện môi trường kinh doanh Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội

nhập đặt ra việc hoàn thiện các công cụ chính sách và quản lý thuế phù

hợp cần tiếp tục thực hiện. Theo đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh

thuế của Việt Nam, cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút dòng vốn

đầu tư từ nước ngoài, cần tiếp tục quan tâm đến một số nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Rà

soát và rút gọn các thủ tục hành chính thuế; các biểu mẫu, thành phần

hồ sơ đơn giản; quy định rõ trách nhiệm của từng phòng ban, công chức

quản lý thuế trong việc tiếp nhận và giải quyết; bổ sung và sửa đổi các

quy định về thuế cho phù hợp với những nội dung thay đổi thủ tục hành

chính và giảm tần suất kê khai thuế để giảm gánh nặng tuân thủ cho

người nộp thuế.

Thứ hai, tăng cường hỗ trợ người nộp thuế, cần tăng cường hơn nữa

việc tổ chức tập huấn chính sách thuế mới cho người nộp thuế; tăng

cường tiếp xúc, đối thoại, tư vấn qua đường dây nóng hay hộp thư thoại;

khuyến khích phát triển các đại lý thuế.

Thứ ba, thay đổi chính sách thuế theo hướng phù hợp với thông lệ

chung của quốc tế như thống nhất một mức thuế suất thuế giá trị gia

tăng; bên cạnh thực hiện lộ trình giảm thuế suất thuế TNDN, cần xây

dựng chính sách thuế khuyến khích đặc biệt cho các dự án khởi nghiệp

như áp dụng thuế suất thấp, miễn thuế TNDN trong những năm đầu kể

từ năm kinh doanh có lãi; thống nhất một phương pháp tính thuế thu

nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập từ chuyển nhượng bất động

sản, chuyển nhượng chứng khoán…

Thứ tư, hoàn thiện hiện đại hóa quản lý thuế, tập trung xây dựng hạ tầng

truyền thông hiện đại, có tính bảo mật cao trong công tác thu thuế; sớm

hoàn thiện hệ thống dịch vụ thuế điện tử để triển khai trong các DN; hợp

tác và trao đổi thông tin với các tổ chức quốc tế.

Theo tapchitaichinh.vn

5. Chậm giải ngân vốn và hệ lụy khó lường

Vốn đầu tư công được giải ngân chậm kỷ lục, khiến lãnh đạo Chính

phủ tỏ ra sốt ruột. Giải ngân chậm đang ảnh hưởng trực tiếp tới

tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm. Ngoài tác động xấu khiến

GDP khó cán đích 6,7% như mục tiêu, giải ngân chậm còn khiến

Chính phủ phải gánh lãi vay của dân.

Giải ngân trong 6 tháng đầu năm mới đạt 25,6% kế hoạch Quốc hội

duyệt. Ảnh: Hồng Vĩnh.

Lỗi tại ai?

Cập nhật báo cáo bức tranh kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm cho thấy:

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện nửa đầu năm 2017 đạt hơn 674

nghìn tỷ đồng (bằng 32,8% GDP). Trong đó: Vốn khu vực Nhà nước đạt

242 nghìn tỷ đồng; Khu vực ngoài Nhà nước đạt hơn 260 nghìn tỷ đồng;

Khu vực FDI đạt 171 nghìn tỷ đồng. “Mặc dù đầu tư khu vực Nhà nước

vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội,

song xu hướng co hẹp của khu vực này là rõ ràng”, Cty Chứng khoán

MB nhận định.

Tại buổi họp Tổ giải ngân vốn đầu tư công do Phó Thủ tướng Vương

Đình Huệ chủ trì (4/7), đại diện Bộ KH&ĐT cho hay: Đối với vốn trái

phiếu Chính phủ (TPCP), qua 6 tháng mới giao được 5.197 tỷ đồng vốn

kế hoạch năm 2017, chiếm 10,4%. Còn vốn TPCP chuyển nguồn mới

giao được hơn 6.200 tỷ đồng (38,2%). Như vậy, vốn TPCP chưa giao

còn gần 55.000 tỷ đồng.

Trước tình hình này, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ yêu cầu Bộ

trưởng Bộ KH&ĐT tổ chức kiểm điểm trách nhiệm các cá nhân, tập thể

báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30/7/2017. “Cần thiết sẽ yêu

cầu Thanh tra Chính phủ làm rõ trách nhiệm của ai giao vốn chậm”, Phó

Thủ tướng Vương Đình Huệ nói.

Trao đổi với PV Tiền Phong về vấn đề liên quan, lãnh đạo Bộ KH&ĐT

khẳng định: Bộ đang nghiêm túc thực hiện yêu cầu của Phó Thủ tướng

Vương Đình Huệ trong việc rà soát trách nhiệm của cá nhân, cục vụ có

nhiệm vụ liên quan. “Chúng tôi đã giao vụ tổng hợp kinh tế quốc dân rà

soát trách nhiệm của cục, vụ theo chỉ đạo của phó thủ tướng. Khi có kết

quả, chúng tôi sẽ báo cáo”, lãnh đạo Bộ KH&ĐT nói.

Theo một chuyên viên Bộ KH&ĐT, việc giải ngân chậm có nhiều nguyên

nhân từ khâu chuẩn bị dự án (DA) đến triển khai thực hiện. Sau khi có

quyết định đầu tư, DA sẽ được bố trí kế hoạch vốn. Tuy nhiên, đa số

quyết định đầu tư DA hiện nay của nước ta chuẩn bị chưa tốt. Thậm chí

một số dự án phê duyệt quyết định đầu tư còn mang tính hình thức. DA

được bố trí vốn mới thực hiện các bước thiết kế cơ sở, xây dựng

phương án giải phóng mặt bằng, đánh giá tác động của DA liên quan

đến việc thu hồi đất… “Có chủ tịch tỉnh từng nói với tôi, thủ tục hành

chính rườm rà, tiền sẵn có nhưng phải soi rất kỹ mới dám trình ký. Thà

chậm còn hơn mắc sai sót dù vô tình hay cố ý”- một lãnh đạo Bộ

KH&ĐT tiết lộ.

Luẩn quẩn huy động vốn

Trước thực tế này, chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ đề xuất: Bộ KH&ĐT

cần tìm cách tháo gỡ thủ tục để thực hiện giải ngân vốn đầu tư cho các

DA nhanh hơn. Ngoài ra, chủ đầu tư DA là địa phương, bộ ngành cũng

cần cố gắng, tích cực hơn trong thực hiện. “Tôi cho rằng, tình trạng này

lỗi từ 2 phía. Ngoài lỗi do Bộ KH&ĐT, còn lỗi do năng lực kém của chủ

đầu tư DA. Từ đó mới xảy ra tình trạng tiền sẵn có nhưng không giải

ngân được”, ông Hồ nói.

Thông tin từ Bộ Tài chính cho biết, kết quả giải ngân trong 6 tháng đầu

năm rất thấp, đạt xấp xỉ 91.400 tỷ đồng, bằng 25,6% kế hoạch Quốc hội

quyết định (trong khi cùng kỳ năm 2016 đạt 26,8%). Số liệu của Kho bạc

Nhà nước cho thấy, sau nửa năm đã phát hành được 3/4 số lượng

TPCP để huy động vốn cho thực hiện các công trình, dự án nhưng việc

giải ngân lại đang chậm trễ như nêu trên.

Cập nhật bức tranh kinh tế, đến hết năm 2017, nợ công của Việt Nam sẽ

tăng lên mức 65% GDP chạm trần mức 65% mà Quốc hội đề ra. “Nợ

công chạm trần, Chính phủ sẽ phải tính đến vay nợ trong nước. Để vay

nợ, bù đắp bội chi, các công cụ điều hành vĩ mô như công cụ lãi suất, tỷ

giá... sẽ được sử dụng. Điều này sẽ gây áp lực lên lạm phát và toàn bộ

nền kinh tế”, một chuyên gia ngân hàng bày tỏ quan ngại. Ông cũng cho

rằng, huy động từ phát hành TPCP xong rồi không tiêu được lại quay

nằm ở ngân hàng, là luẩn quẩn.

Hiện nay, Bộ KH&ĐT chỉ bố trí tổng vốn đầu tư phát triển cho địa

phương, bộ ngành. Số vốn này được cấp cho các dự án bao nhiêu là do

lãnh đạo bộ ngành, địa phương quyết định. Bộ KH&ĐT là đơn vị tổng

hợp, rà soát quá trình thực hiện.

Đại diện Bộ KH&ĐT cho hay, tới đây các địa phương phải tăng cường

khâu chuẩn bị DA. Với các nước trên thế giới, thời gian chuẩn bị DA

trung bình 3 năm. Với một số DA vốn đầu tư lớn có thể kéo dài 7-10

năm. Khi có quyết định đầu tư, các DA thi công rất nhanh, chỉ 15-20

tháng là hoàn thành.

Tại hội nghị ngành Bộ Tài chính (5/7), Phó Thủ tướng Vương Đinh Huệ

nói: Việc giải ngân vốn đầu tư công quá chậm, chỉ đạt 25% dự toán, làm

ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế; vốn ngân sách từ năm trước chuyển

sang năm 2017, tính đến nay chưa giải ngân được là 300.000 tỷ đồng.

“Số vốn mang tính chất “mồi” này nếu giải ngân kịp thời, có thể thu hút

khoảng 700.000 tỷ đồng vốn đầu tư của xã hội cho phát triển kinh tế. Dù

trách nhiệm chính là của Bộ KH&ĐT nhưng cũng có phần trách nhiệm

của Bộ Tài chính trong phối hợp”, Phó Thủ tướng nói.

Theo tienphong.vn

6. Nên để doanh nghiệp tự do bán hàng

Quan điểm mới nhất của cơ quan quản lý với câu chuyện trần

khuyến mãi là tiếp tục giữ nguyên quy định có từ năm 2006 với việc

doanh nghiệp không được khuyến mãi giảm giá quá 50% giá trị

hàng hóa, dịch vụ (trừ những chương trình tập trung hoặc xúc tiến

thương mại do Thủ tướng Chính phủ quyết định). Với bối cảnh các

hình thức kinh doanh phát triển mạnh mẽ; hệ thống pháp luật ngày

càng hoàn thiện như hiện nay, có lẽ cơ quan quản lý cần... nghĩ lại

về quan điểm này của mình.

Liên quan đến trần khuyến mãi, từ mấy năm trước, doanh nghiệp lẫn cơ

quan quản lý hoạt động xúc tiến thương mại ở các tỉnh thành đã nhiều

lần kiến nghị Bộ Công Thương xem xét dỡ bỏ quy định. Lý lẽ của các

bên liên quan đưa ra là quy định có từ năm 2006 không còn phù hợp với

bối cảnh thị trường đã phát triển, số lượng doanh nghiệp trong mỗi

ngành nghề, lĩnh vực gia tăng và phải cạnh tranh gay gắt để giành và

giữ chân khách hàng. Quy định này là “vòng kim cô” bó buộc doanh

nghiệp không thể bán hàng để thu hồi vốn trong những thời điểm như

kinh tế khó khăn, sức mua của người tiêu dùng xuống thấp, hàng hóa

tồn kho cao, dòng tiền bị ngưng trệ. Trong khi đó, cơ quan quản lý thì

gặp khó trong việc thực thi. Nói như vị phó phòng xúc tiến thương mại

của một sở công thương ở phía Nam thì mỗi năm có hàng ngàn chương

trình khuyến mãi, chỉ riêng việc ngồi đọc đăng ký từ doanh nghiệp, so

sánh đối chiếu mặt hàng, chủng loại là đã hết thời gian; nhân lực lại

thiếu nên việc quản lý trên thực tế là không thể. Chưa hết, cũng vì thấy

quy định bất cập nên chính cơ quan thực thi chấp nhận “ngó lơ” để

doanh nghiệp tự do khuyến mãi, giảm giá tùy thích.

Ở thời điểm hiện tại, bối cảnh thị trường còn khác hơn rất nhiều. Thứ

nhất, số lượng doanh nghiệp ở mỗi lĩnh vực, ngành hàng ngày càng

đông đảo. Mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ngày càng khốc liệt.

Quan trọng hơn, với sự phát triển của công nghệ, đã có thêm nhiều hình

thức thương mại xuất hiện và phát triển mạnh mẽ, vượt ra ngoài những

phương thức quản lý truyền thống. Thương mại điện tử (mua bán trên

mạng Internet) là một ví dụ. Người tiêu dùng có thể mua bán xuyên biên

giới, có rất nhiều công cụ để so sánh, đối chiếu giá cả, chất lượng sản

phẩm, dịch vụ...

Và để thu hút người tiêu dùng trong một thị trường cạnh tranh, các

doanh nghiệp đã và đang phải dùng đến rất nhiều hình thức khuyến mãi.

Chẳng hạn tại các siêu thị, với hóa đơn mua hàng từ 500.000 đồng trở

lên, khách hàng sẽ được mua một sản phẩm nào đó với giá chỉ bằng

một phần năm, một phần bảy giá bình thường. Khách hàng có thẻ thành

viên còn được giảm giá thêm vài phần trăm, tích điểm để cuối năm nhận

khuyến mãi khác. Các trung tâm điện máy thì giảm giá thêm 10% cho

khách hàng thanh toán bằng thẻ ghi nợ của các ngân hàng có liên kết

đồng thời với việc đã giảm giá trên từng sản phẩm. Rất nhiều doanh

nghiệp cũng chọn cách trưng biển khuyến mãi với giá bán tuyệt đối, thay

vì tỷ lệ phần trăm và nếu tính cụ thể, mức giảm có khi lên 70-80%... Đó

là chưa kể những chương trình khuyến mãi kiểu như giá bán chỉ là

11.000 đồng/sản phẩm (trong khi giá bình thường là hàng triệu đồng)

nhân sinh nhật 11 năm thành lập công ty, bán cho 11 khách hàng nhận

được thông báo qua tin nhắn, điện thoại... Nếu đối chiếu với quy định

hiện hành, những khuyến mãi dạng này trong nhiều trường hợp đã vượt

ngoài khuôn khổ và các cơ quan quản lý hoàn toàn không thể kiểm tra,

kiểm soát, không chỉ vì thiếu nhân sự mà còn vì không đủ công cụ, khả

năng.

Dẫn chứng như vậy để thấy, đến lúc này, công cụ trần khuyến mãi vốn

được ra đời từ năm 2005-2006 đã không còn phù hợp với bối cảnh thị

trường mới cũng như không thể thực thi trong thực tế. Vì vậy, cơ quan

quản lý nên gỡ bỏ quy định đã lỗi thời này và để doanh nghiệp tự do bán

hàng, tận dụng mọi cơ hội kinh doanh có thể có trong cuộc cạnh tranh

ngày càng gay gắt mà họ đang phải đối mặt hàng ngày khi thị trường mở

cửa, công nghệ phát triển và có khả năng làm thay đổi mọi thứ liên tục.

Việc này cũng giúp gỡ bỏ trách nhiệm, gánh nặng quản lý cho chính cơ

quan thực thi, giảm tải thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.

Còn để bảo vệ doanh nghiệp khi bị đối thủ có tiềm lực kinh tế, dùng hình

thức giảm giá mạnh để thu hút người tiêu dùng nhằm mục tiêu giành giật

thị phần, thậm chí triệt hạ, loại bỏ thì cơ quan quản lý cần kích hoạt Luật

Cạnh tranh. Bởi lẽ, các hành vi kiểu này là cạnh tranh không lành mạnh

và đã có chế tài xử lý trong Luật Cạnh tranh 2004. Luật này cũng đang

được Bộ Công Thương chủ trì sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình

hình mới cũng như có thể áp dụng vào thực tế, điều còn rất hạn chế

trong 10 năm vừa qua.

Theo thesaigontimes.vn

7. Có cần tem chống sách lậu?

Thông tin về việc Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và

Truyền thông) đang tổng hợp ý kiến liên quan đến việc xây dựng

Thông tư quy định về "Dán tem phòng, chống in lậu, in giả, sao

chép trái phép xuất bản phẩm" đang được các đơn vị xuất bản -

chủ thể chịu sự điều chỉnh, đặc biệt quan tâm. Chia sẻ với Báo

Hànộimới, đại diện một số đơn vị liên kết xuất bản băn khoăn về

tính hiệu quả của việc dán tem chung để chống sách lậu...

Các đơn vị liên kết xuất bản đang đề nghị tăng hậu kiểm để quản lý

sách. Ảnh: Thái Hiền

Bà Trần Phương Thảo - Phó Tổng Giám đốc điều hành Công ty cổ phần

Sách Thái Hà (Thái Hà Books):

Đi ngược với xu thế

Tất cả đơn vị xuất bản, bao gồm các nhà xuất bản và đơn vị liên kết như

Thái Hà Books, đều chịu ảnh hưởng lớn bởi văn bản này. Việc Cục Xuất

bản, In và Phát hành không lấy ý kiến của các đơn vị liên kết là không

hợp lý vì hiện nay, cả nước có gần 200 đơn vị xuất bản, đa số là đơn vị

liên kết. Như vậy, nếu không lấy ý kiến của các đơn vị liên kết thì sẽ

không thể có được quan điểm tổng quát, nhiều chiều và thực tế.

Việc tìm cách ngăn chặn và phòng ngừa sách lậu, sách giả đòi hỏi

những biện pháp khả thi. Tôi cho rằng ý kiến in tem chống giả chung là

đi ngược với xu thế. Mỗi công ty sách, nhà xuất bản hầu như đều có tem

chống giả, đừng để họ phải gánh thêm một con tem, một giấy phép con

nữa!

Trong dự thảo, Cục Xuất bản yêu cầu thông tin trên tem cần có 4 thông

số: Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN); số xác nhận đăng ký xuất bản

của Cục; số quyết định xuất bản của giám đốc nhà xuất bản; số thứ tự

theo sốlượng xuất bản phẩm được in. Như vậy sẽ phải có tem riêng vì

mỗi một tựa sách có một số ISBN và số xác nhận đăng ký khác nhau.

Trong khi đó, số lượng in hiện tại của các đơn vị làm sách hầu như

không quá 5.000 cuốn một lần in, nếu đánh số thứ tự theo số lượng xuất

bản phẩm được in sẽ chẳng khác gì in tem đặc biệt, mỗi con tem là một

số!

Việc sử dụng tem chung không giúp chống được sách lậu mà chỉ gây

cản trở cho các đơn vị xuất bản. Luật Xuất bản đã có rồi, để chống in lậu

thực sự hiệu quả thì các đơn vị chức năng phải thực hiện luật nghiêm

túc trong tất cả các khâu của hoạt động xuất bản.

Ông Trịnh Tuấn - Giám đốc Công ty cổ phần Sách và Truyền thông

Quảng Văn (Quảng Văn Books):

Đừng loay hoay với việc dán tem!

Tôi thực sự rất buồn vì Cục Xuất bản, In và Phát hành không lấy ý kiến

của đối tác liên kết phát hành khi xây dựng dự thảo Thông tư dù theo

Điều 23 Luật Xuất bản thì nhà xuất bản được liên kết với tổ chức, cá

nhân (tức đối tác liên kết) để xuất bản đối với từng xuất bản phẩm.

Trong thực tế, trừ sách giáo khoa thì đa phần sách bày bán ngoài thị

trường là của các đối tác liên kết. Do vậy, về bản chất, dự thảo Thông tư

có tác động đến các công ty sách tư nhân không kém gì so với các nhà

xuất bản.

Theo tôi, Thông tư sẽ có những tác động không có lợi đối với các nhà

xuất bản và công ty sách. Thứ nhất, làm gia tăng chi phí cho sản phẩm,

dẫn đến việc tăng giá bìa, làm ảnh hưởng đến sức mua của độc giả.

Thứ hai, thêm thủ tục hành chính đối với các nhà xuất bản và công ty

sách, không loại trừ nguy cơ giấy phép con, nảy sinh tâm lý xin - cho.

Thứ ba, lãng phí nguồn lực, vì hiện tại hầu hết các nhà xuất bản và các

công ty sách đều có ISBN, có mã vạch tiêu chuẩn, có đăng ký sở hữu trí

tuệ thương hiệu, nhãn hiệu công ty, có tem chống làm giả...

Để phòng, chống có hiệu quả tình trạng xâm phạm bản quyền cả với

sách in và sách điện tử, trước hết cần thay đổi tư duy. Dự thảo Thông tư

dán tem phòng, chống in lậu, in giả và sao chép trái phép xuất bản phẩm

thể hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp theo tư duy “tiền kiểm”, sẽ đặt

gánh nặng lên vai doanh nghiệp. Cần quản lý theo tư duy “hậu kiểm”,

tức là Cục Xuất bản, In và Phát hành cùng với các nhà xuất bản, các

công ty sách đưa ra những tiêu chuẩn và quy chuẩn dựa trên thông lệ

quốc tế.

Hiện nay, trên các xuất bản phẩm đều có trang bản quyền, có ISBN, có

mã vạch, tem chống giả… Đó là những tiêu chuẩn và quy chuẩn giúp

phòng, chống in lậu, in giả và sao chép xuất bản phẩm trái phép. Mấy

năm trước, gần như toàn bộ các tựa sách của chúng tôi bị in lậu, in giả,

nhưng nay đã không còn tình trạng đó vì ngoài việc tuân thủ tiêu chuẩn

và quy chuẩn nêu trên, chúng tôi cùng các nhà phân phối/bán lẻ đưa

thêm các điều khoản, ví dụ nhà sản xuất cam kết không phát hành sách

không có bản quyền; nhà phân phối/bán lẻ cam kết không bán sách lậu.

Trong hợp đồng sử dụng tác phẩm với tác giả trong nước và các nhà

xuất bản nước ngoài cũng đều có điều khoản về việc hai bên cùng

chống hành vi in lậu. Rõ ràng đó là trách nhiệm và quyền lợi sát sườn

của các nhà xuất bản và công ty sách, chúng tôi không thể không làm.

Tôi nghĩ, với tinh thần của Chính phủ kiến tạo, Cục Xuất bản, In và Phát

hành cần đồng hành, hướng dẫn và giám sát các doanh nghiệp trong

lĩnh vực xuất bản tuân theo tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc tế, để cùng

kiến tạo ngành Xuất bản Việt Nam phát triển lành mạnh, xứng đáng với

tiềm năng hiện có, chứ không chỉ loay hoay với việc dán tem để phòng,

chống in lậu.

Theo hanoimoi.com.vn

8. Chặn "giấy phép con": Chỉ Chính phủ quyết liệt thôi thì chưa đủ

Luật sư Trương Thanh Đức: "Một khi không giải quyết được vấn đề

tổng thể, không thay đổi tư duy và có sự phối hợp thì điều kiện

kinh doanh vẫn khó khăn".

Nút thắt từ bộ, ngành

Kinh tế chỉ phát triển khi người dân được tự do kinh doanh, thuận tiện

trong thành lập và vận hành doanh nghiệp. Cởi trói về mặt chính sách,

để đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân là mục tiêu Chính phủ

đang hướng đến.

Báo cáo rà soát điều kiện kinh doanh và quyền tự do kinh doanh ở Việt

Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp

với Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ngành nghề kinh doanh có điều

kiện đã giảm từ 267 xuống còn 243.

Điều này thể hiện được tinh thần cải cách, thúc đẩy quyền tự do kinh

doanh của doanh nghiệp, nhất quán với các chính sách tạo thuận lợi cho

doanh nghiệp, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh của Chính

phủ.

Kinh tế chỉ phát triển khi người dân được tự do kinh doanh, thuận tiện

trong thành lập và vận hành doanh nghiệp và không bị phiền hà bởi

giấy phép con - ảnh minh họa/ nguồn Vietnamnet.

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến theo hướng tích cực, trong hệ

thống pháp luật vẫn còn chứa đựng nhiều rào cản khiến cho việc hiện

thực hóa quyền tự do kinh doanh của người dân và doanh nghiệp gặp

khó khăn.

Trao đổi với phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam về điều kiện

kinh doanh, Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên của Trung tâm

Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cho rằng, điều kiện kinh doanh không

phù hợp (thường được gọi là “giấy phép con”) là một trong những vấn

đề quan trọng nhất, nhưng cũng phức tạp và khó nhất khi xây dựng các

quy định cụ thể nhằm thực thi nguyên tắc “tự do kinh doanh” đã được

hiến định.

Theo ông Đức, con số ngành nghề kinh doanh có điều kiện giảm từ 267

xuống còn 243 (giảm 24 ngành, nghề) là quá ít. Trong khi đó vẫn có tới

5.719 điều kiện kinh doanh liên quan đến 243 ngành, nghề kinh doanh

hiện nay là con số tương đối lớn.

Mặt khác, nguyên nhân việc giảm danh mục ngành, nghề kinh doanh có

điều kiện đã giảm từ 267 xuống còn 243 là do sắp xếp lại, thay đổi từ

ngữ và sáp nhập một số ngành vào nhau chứ không hẳn đã giảm được

24 ngành, nghề có điều kiện kinh doanh.

“Trong nhiều lĩnh vực thực hiện cải cách đã giảm giấy phép con và mang

lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong một số lĩnh vực giấy

phép con 'giảm 10 tăng 7', giảm về mặt hình thức còn nội hàm vẫn gây

khó cho doanh nghiệp”, Luật sư Đức cho biết.

Luật sư Đức cho rằng, thời gian qua Chính phủ quyết liệt đưa ra nhiều

chỉ đạo, giải pháp để giảm giấy phép con nhưng lại bị hạn chế ở cấp bộ,

ngành do các quan điểm cải cách "nửa vời, thỏa hiệp".

“Giải quyết vấn đề này phải có tính hệ thống, đồng bộ, quyết tâm cao, có

sự giám sát kiểm tra chặt chẽ, xử lý kiên quyết, kịp thời”, ông Đức nhấn

mạnh.

Phải định nghĩa lại điều kiện kinh doanh

Để giải quyết vấn đề giấy phép con theo Luật sư Đức cần xây dựng luật

chi tiết, cụ thể giảm bớt nghị định, thông tư hướng dẫn bởi sau khi luật

ban hành là hàng loạt nghị định, thông tư.

Hiện nay việc hiểu nội dung nghị định, thông tư là cụ thể hóa điều kiện

kinh doanh đã được quy định trong luật, hay lại "đẻ" thêm điều kiện kinh

doanh ngoài luật vẫn còn những tranh cãi.

Luật sư Đức cho biết, điều kiện nhập khẩu ô tô dưới 9 chỗ ngồi quy định

tại Thông tư 20/2011/TT-BCT của Bộ Công Thương là ví dụ điển hình.

Thực tế quy định tại Thông tư 20 là điều kiện kinh doanh với doanh

nghiệp nhập khẩu ô tô.

Dù Bộ Công Thương đã sửa đổi và bãi bỏ quy định nộp bổ sung giấy

chứng nhận cơ sở bảo hành, bảo dưỡng ô tô đủ điều kiện do Bộ Giao

thông vận tải cấp như quy định cũ.

Tuy nhiên, các điều kiện khác của Thông tư 20 vẫn được áp dụng như

các doanh nghiệp muốn nhập ô tô vẫn phải có giấy chỉ định hoặc ủy

quyền là nhà nhập khẩu, phân phối chính hãng; hoặc hợp đồng đại lý

chính hãng theo quy định.

Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài

quốc tế Việt Nam (VIAC) - ảnh nhân vật cung cấp.

“Lý giải về vấn đề này Bộ Công Thương cho rằng, nhằm hạn chế nhập

khẩu vì đường xá, vì doanh nghiệp ô tô trong nước. Tuy nhiên nếu hạn

chế phải bằng bằng điều kiện kinh tế như tăng thuế chứ không phải điều

kiện mất công bằng.

Những điều kiện này chỉ gây khó cho doanh nghiệp nhập khẩu ô tô trong

nước còn doanh nghiệp ô tô nước ngoài nhập khẩu thỏa mái vì dễ dàng

đáp ứng điều kiện mình đặt ra”, ông Đức cho hay.

Giải thích về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, khoản 1, Điều

7 Luật Đầu tư nêu rõ: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là

ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong

ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh

quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.

Luật đầu tư cũng giải thích điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện mà

cá nhân, tổ chức phải đáp ứng theo quy định của luật, pháp lệnh, nghị

định và điều ước quốc tế về đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh

doanh trong các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.

“Những cách lý giải của luật về điều kiện kinh doanh, ngành nghề kinh

doanh có điều kiện còn mơ hồ và chưa phản ánh hết những khó khăn,

rào cản những thứ na ná như điều kiện kinh doanh, bản chất là điều kiện

kinh doanh mà doanh nghiệp phải vượt qua nếu muốn hoạt động sản

xuất kinh doanh”, ông Đức cho nói.

Dẫn chứng cụ thể ông Đức cho biết, khi thành lập doanh nghiệp phải

vượt qua nhiều rào cản:

Thứ nhất là quy hoạch, quy hoạch là biểu hiện rõ của điều kiện kinh

doanh.

Theo đó trước khi kinh doanh doanh nghiệp phải đáp ứng kế hoạch kinh

doanh đó có nằm trong quy hoạch hay không.

Nếu không doanh nghiệp phải tìm cách luồn lách để làm sao phù hợp và

nằm trong quy hoạch đó.

Thứ hai, thủ tục hành chính trước khi sản xuất kinh doanh. Nếu hiểu đơn

thuần khi hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được

hướng dẫn nộp ở đâu, giấy tờ gồm những gì… Tuy nhiên, trên thực tế

rất nhiều cái “đẻ” thêm ra đó chính là điều kiện kinh doanh.

Thứ ba, quy chuẩn, tiêu chuẩn với sản phẩm hàng hóa của doanh

nghiệp. Ví dụ nước mắm với những chỉ số tối đa như asen là bao nhiêu,

nó không nằm trong luật, nghị định mà nằm trong thông tư hướng dẫn ở

cấp bộ, thủ tục hành chính cũng vậy.

“Tư duy quản lý hiện nay dù tiền kiểm nhưng lại mang nặng hình thức

giấy tờ, trong khi đáng lẽ ra quản lý tiêu chuẩn, quy chuẩn phải là kiểm

soát chất lượng sản phẩm, tức là muốn làm thế nào thì làm, miễn là sản

phẩm phải đáp ứng được quy chuẩn”, ông Đức đánh giá.

Nêu ví dụ khác về điều kiện kinh doanh, ông Đức cho biết, quy định về

điều kiện sản xuất, kinh doanh mũ bảo hiểm cho người đưa ra quy định

như phải có nhà xưởng, có thiết bị ép, có khuôn mẫu phù hợp để sản

xuất vỏ mũ; thiết bị ép (đúc) và khuôn mẫu phù hợp để sản xuất lớp hấp

thụ xung động; thiết bị dập đinh tán…

“Tóm lại Chính phủ quyết tâm thôi thì chưa đủ nếu các bộ, ngành vẫn “tự

tung tự tác” dẫn đến một loạt quy định quá thừa thãi.

Một khi không giải quyết được vấn đề tổng thể không thay đổi tư duy

phương pháp và có sự phối hợp đồng bộ thì điều kiện kinh doanh sẽ khó

giảm”, Luật sư Đức nói.

Theo giaoduc.net.vn

9. Giảm chi phí DN và những trở ngại: Kỳ I: con dấu và sự phức tạp mang tên... thủ tục

Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định: 2017 là năm giảm chi phí cho

DN. Nhưng chỉ cần các công chức cấp dưới nhũng nhiễu thì mọi nỗ

lực giảm chi phí kinh doanh cho DN sẽ trở nên vô nghĩa.

Những khúc mắc trên đã trở thành câu cửa miệng của nhiều lãnh đạo

cấp cao và cũng được giới truyền thông nói ròng rã nhiều năm nay

nhưng không mấy chuyển biến. Vụ việc Cty TNHH Thương mại và dịch

vụ Đồng Phú (Cty Đồng Phú) bị các cán bộ Phòng Đăng ký kinh doanh

(Sở KH-ĐT Thái Nguyên) gây khó dễ khi xin bổ sung con dấu là minh

chứng về điều đó.

Lòng vòng... thông báo

Ông Đặng Đình Quý - GĐ cty cho biết, từ ngày 16/6/2016 đến nay, Cty

Đồng Phú được cấp Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh lần thứ 8 với

Hội đồng thành viên gồm 3 người: ông Đặng Đình Quý – Giám đốc,

người đại diện pháp luật Cty, sở hữu 71% vốn; ông Mai Tiến Minh – sở

hữu 19% vốn; bà Phan Thị Phương Hằng – sở hữu 10% vốn.

Tuy nhiên, hơn hai tháng qua, DN đã thực hiện rất nhiều thủ tục hành

chính, gặp gỡ cán bộ Phòng Đăng ký kinh doanh... cả chục lần chỉ để

tiếp nhận một tờ thông báo thay đổi đăng ký và bổ sung con dấu nhưng

đều không thành. Mặc dù, theo Luật DN và các văn bản hướng dẫn, thời

gian để Phòng Đăng ký kinh doanh thực hiện thủ tục hành chính này chỉ

tối đa là 3 ngày.

Luật DN 2014 đã có những quy định rất cởi mở với mục tiêu đơn giản thủ

tục hành chính và tiết giảm chi phí cho DN. Ảnh: S.T

Luật DN 2014 đã có những quy định rất cởi mở với mục tiêu đơn giản

thủ tục hành chính và tiết giảm chi phí cho DN. Theo Điều 44 Luật DN

2014 về con dấu của DN có quy định: DN có quyền quyết định về hình

thức, số lượng và nội dung con dấu của DN. Trước khi sử dụng, DN có

nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để

đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN”.

Nghe ra thì thủ tục thật đơn giản. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, Phòng

Đăng ký kinh doanh phải có công văn trả lời đã tiếp nhận thông báo của

DN, đồng thời đăng thông báo lên Cổng thông tin điện tử quốc gia về

đăng ký DN.

Sự nhũng nhiễu nằm ở thủ tục tưởng rất đơn giản. Theo phản ánh của

Cty Đồng Phú, lần đầu tiên đến Phòng Đăng ký kinh doanh thì cán bộ

hướng dẫn đóng dấu vào một bên tờ khai. Lần sau DN đến lại hướng

dẫn và ra công văn một kiểu... cứ hết hướng dẫn này lại viện lý do kia để

không làm thủ tục tiếp nhận thông báo của DN. Tại Công văn số 80 ngày

19/5/2017 của Phòng Đăng ký kinh doanh gửi DN, cơ quan này lại đề

nghị Cty Đồng Phú nộp bổ sung các tài liệu của Hội đồng thành viên về

việc quyết định số lượng, hình thức, nội dung và mẫu con dấu, việc quản

lý và sử dụng con dấu theo quy định.

Mặc dù, theo hướng dẫn Luật DN về thủ tục nộp hồ sơ thông báo không

có quy định này. Tuy vậy, để chiều lòng cơ quan quản lý, DN nộp hồ sơ

bổ sung đồng thời đóng mẫu con dấu vào các ô theo đúng hướng của

công văn. Vậy cũng không xong, Phòng Đăng ký kinh doanh lại tiếp tục

ra các công văn đề nghị bổ sung hồ sơ, trong đó có cả công văn... gửi

Công an tỉnh Thái Nguyên đề nghị phối hợp thay đổi số lượng con dấu.

Những đòi hỏi vô lý

Theo LS Đặng Thành Chung – GĐ Cty Luật An Ninh (Đoàn LS Hà Nội),

những yêu cầu của Phòng Đăng ký kinh doanh đều mang tính nhũng

nhiễu và không có căn cứ pháp luật. Sau khi Cty nộp các tài liệu của Hội

đồng thành viên gồm Biên bản họp HĐTV, Nghị quyết của HĐTV và

Điều lệ của Cty về quản lý và sử dụng con dấu, Phòng Đăng ký kinh

doanh lại gửi công văn sang công an là không cần thiết và không đúng

thẩm quyền. Vô lý hơn, cơ quan này lại căn cứ vào văn bản của bà Phan

Thị Phương Hằng – thành viên sở hữu 10% vốn góp của Cty để làm việc

đó.

Theo thông tin của DN cung cấp, bà Hằng đã từng được giao làm Giám

đốc Cty Đồng Phú, nhưng vì không được hội đồng thành viên tín nhiệm

nên đã thay đổi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh giao lại chức giám

đốc Cty và người đại diện pháp luật cho ông Đặng Đình Quý (người sở

hữu 71% vốn DN). Trong khi, Phòng Đăng ký kinh doanh lại căn cứ vào

văn bản của của bà Hằng với nội dung: “Từ khi thành lập Cty đến nay,

Cty chỉ sử dụng một con dấu. Việc quản lý con dấu cho đến nay vẫn do

bà Phan Thị Phương Hằng quản lý và sử dụng. Công ty khẳng định con

dấu của công ty chưa bao giờ giao cho ông Đặng Đình Quý”.

Theo LS Chung, việc Phòng Đăng ký kinh doanh căn cứ vào văn bản do

bà Phan Thị Phương Hằng để đề nghị công an giải quyết là gây khó dễ

cho DN. Cách làm như vậy là trái quy định tại Điều 4 Nghị định

78/2015/NĐ-CP hướng dẫn nguyên tắc áp dụng giải quyết thủ tục đăng

ký DN và trái với Luật DN. Bởi vì, cơ quan này căn cứ vào một thành

viên sở hữu 10% vốn để tước quyền quyết định của các thành viên sở

hữu 90% vốn.

Mặt khác, tại hướng dẫn số 179/PC64 Công an tỉnh Thái Nguyên ngày

15/01/2016 đã khẳng định: Cơ quan Công an và trực tiếp là PC64 không

có thẩm quyền giải quyết về việc quản lý và sử dụng con dấu. Kể từ khi

Luật DN và Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực, đây là vấn đề tự chủ của DN

và xác nhận của Phòng Đăng ký kinh doanh.

LS Chung cho rằng, việc đến thời điểm hiện tại Phòng Đăng ký Kinh

doanh thuộc Sở KH-ĐT tỉnh Thái Nguyên chưa thực hiện việc đăng tải

mẫu con dấu trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký DN là trái quy định

pháp luật về Đăng ký DN. Cty Đồng Phú có quyền khiếu nại theo Luật

Khiếu nại hoặc khởi kiện ra Tòa án theo quy định về tố tụng hành chính

và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Theo enternews.vn

10. Giảm chi phí DN và những trở ngại (Kỳ II): Lời giải không thuộc về DN

Đây là bài toán cho DN. Nhưng lời giải lại không chỉ nằm ở họ, mà

nó còn liên quan đến các chủ thể khác không thực hiện chức năng

đầu tư, kinh doanh.

Năm ngoái, trong “chiến dịch” cắt giảm các điều kiện kinh doanh, các DN

nhỏ kinh doanh gas ở nhiều địa phương đã phải “than trời” vì quy định

buộc mỗi DN phải có 50.000 vỏ bình và bồn chứa gas 300m3. Lý do

được đưa ra là để đảm bảo DN đủ điều kiện cung ứng cho thị trường,

tránh tình trạng sang chiết gas lậu, cưa tai vỏ bình.

Những chi phí... tuân thủ

Nhưng thực tế lại không hẳn là vậy. Bởi nhu cầu gas ở mỗi địa phương

là rất khác nhau. Có những DN miền núi phía Bắc than rằng: chỉ 20.000

vỏ bình đã thừa đáp ứng nhu cầu tại tỉnh. Hơn nữa, chỉ với 20.000 vỏ

bình này, thì DN lại phải thuê đất, dựng nhà xưởng chỉ để làm kho chứa.

Chi phí tăng lên rất nhiều. Với 50.000 vỏ bình gas, thì đương nhiên mỗi

DN, dù lớn hay nhỏ, đã phải bỏ ra tới 25 tỷ đồng chỉ để đáp ứng cái tiêu

chuẩn không phù hợp với quy luật thị trường này. Chi phí tuân thủ quy

định này của DN là rất lớn. Hay những quy định về nhà xưởng, kho bãi,

máy xay xát đối với các DN xuất khẩu gạo trước đây là một ví dụ kinh

điển khác. Bởi lẽ với các điều kiện này, cùng với quy hoạch 150 thương

nhân xuất khẩu gạo, đã bóp chết nhiều DN vì chi phí tuân thủ khá lớn.

Chi phí vận chuyển 1 container từ cảng Hải Phòng - Hà Nội gấp 3 lần so

với chi phí từ Hàn Quốc, Trung Quốc về Việt Nam

Mới đây nhất, cuộc chiến giữa taxi và Grab, Uber taxi đã lộ ra một vấn

đề. Các hãng taxi truyền thống cho rằng sở dĩ không thể cạnh tranh

được với loại hình kinh doanh mới là Grab và Uber không phải bởi nội

lực không có. Mà bởi vì nội lực ấy đã phải dùng để tuân thủ các điều

kiện kinh doanh của ngành này.

Kho bãi, máy móc, nhà xưởng, văn phòng… rõ ràng trong nền sản xuất

theo chuỗi giá trị không còn phải là điều kiện tiên quyết. Nhưng vẫn còn

hàng trăm văn bản yêu cầu DN sản xuất, kinh doanh phải hội tụ đủ những

điều kiện về kho bãi, máy móc, nhà xưởng, diện tích văn phòng. Trong khi

đó, trong xu thế phát triển, thì những vấn đề trên hoàn toàn có thể trở

thành dịch vụ chuyên nghiệp để liên kết sản xuất. Điều đáng bàn là, trong

khi các cơ quan hữu quan luôn nói DN phải giảm chi phí, hạ giá thành…

nhưng chính họ lại đang đặt ra nhiều điều kiện kinh doanh làm cho chi phí

tuân thủ tăng lên. Hạ giá thành vì vậy là bài toán không có lời giải.

DN phải đối phó, tuân thủ hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh hiện tại

đã là một gánh nặng. Trong số hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh ấy,

như nhiều chuyên gia đã bình luận, có những điều kiện hết sức vô lý, phi

thị trường và chỉ làm cho chi phí tuân thủ của DN ngày càng chồng chất.

Trong khi đó, nếu có thể bỏ được hàng nghìn điều kiện kinh doanh vô lý,

thì rõ ràng DN sẽ bớt đi được những khoản chi cho việc tuân thủ những

điều kiện không cần thiết. Bởi xét cho đến cùng, những điều kiện kinh

doanh sẽ luôn buộc các DN phải gồng mình đáp ứng những thứ không

phải là thị trường.

Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc lúc phát biểu trong cuộc gặp của Thủ tướng

với cộng đồng DN ngày 17/5 đã từng ví von rằng: với những điều kiện

kinh doanh ấy thì đến Boeing cũng bó tay không thể kinh doanh được ở

Việt Nam.

Và những trở ngại mang tên... không chính thức

Chia sẻ tại Diễn đàn Phát triển DN Việt Nam 2017, ông Đậu Anh Tuấn -

Trưởng Ban pháp chế Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam

(VCCI) cho biết,"50-60% DN chi trả chi phí không chính thức vì cho rằng

để giảm phiền hà, duy trì quan hệ, né tránh nghĩa vụ...".

Theo Trưởng Ban pháp chế của VCCI, chi phí không chính thức DN

không chỉ là nạn nhân còn là tác nhân, coi đây như lợi thế cạnh tranh

của mình, thể hiện môi trường kinh doanh không minh bạch.

Thừa nhận thực tế này, ông Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng

Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) đánh giá, ngoài chi phí chính

thức như phí logistic, hạ tầng, tuân thủ pháp lý, ngăn ngừa khủng hoảng

rủi ro,..., các DN Việt còn đang phải trả chi phí không chính thức.

Băn khoăn về những rào cản đổi với DN tư nhân, ông Hồ Sỹ Hùng - Cục

trưởng Cục phát triển DN (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, quy mô vốn

hạn chế là một trong các trở ngại lớn khiến các DN tư nhân không tận

dụng được hiệu quả kinh tế.

Việc không năng lực tài chính khiến DN khó khăn trong việc đầu tư vào

máy móc công nghệ để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, ông

Hùng nhận định.

Theo Báo cáo khảo sát của Jetro năm 2016, tốc độ tăng lương tối thiểu

thời gian qua từ 8-12%, đem lại lợi ích cho người lao động, nhưng tốc độ

tăng năng suất lao động lại chỉ đạt 4-5%; mức đóng bảo hiểm 22%

lương tháng là cao, so với Malaysia chỉ là 13%, Philippines là 10% .

Giảm chi phí, hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận

luôn là chiến lược của bất kể một DN nào. Nhưng chiến lược ấy, dù có

vẫy vùng thế nào, cũng khó có thể thành công nếu động lực bị triệt tiêu

bởi hàng chục nghìn điều kiện kinh doanh vô lý, phi thị trường.

Ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế

Trung ương đã từng nhận định: trong khi pháp luật thì đắt đỏ, chi phí

tuân thủ các điều kiện kinh doanh và chi phí không chính thức đã giết

chết những nỗ lực hạ giá thành, nâng cao tính cạnh tranh của DN. Bởi

vậy, vấn đề giảm chi phí cho DN, như đã nói ở trên, thường không phụ

thuộc vào bản thân chính sách của DN.

Theo enternews.vn

11. Ngăn chặn tình trạng vượt biên đi lao động trái phép

Tình trạng vượt biên trái phép sang Trung Quốc lao động tạo ra

nhiều hệ lụy ở các thôn, bản vùng sâu, vùng xa của tỉnh Cao Bằng.

Cuộc sống nơi đất khách quê người không như mong đợi, người

lao động bị lừa, bị cướp tiền; có trường hợp còn trả giá bằng cả

mạng sống. Thực tế này cho thấy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ

hơn từ cơ quan chức năng để tuyên truyền, hướng nghiệp giúp

người dân không chọn phương án tha hương đầy rủi ro.

Chúng tôi đến gặp gia đình ông Lý Văn Eng và bà Hoàng Thị Minh trú tại

xóm Sộc Sơn Ðinh (xã An Lạc, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng). Cách

đây ít lâu ông bà phải tổ chức tang lễ cho người con trai còn "xanh" tóc

là anh Lý Văn Cương. Anh Cương đã xuất cảnh trái phép sang Trung

Quốc làm thuê tại một nhà máy mía đường, không may bị tai nạn lao

động qua đời. Bà Hoàng Thị Minh rơm rớm nước mắt kể: Nó mới sang

làm được 10 ngày thì gia đình bất ngờ nghe tin đã chết vì bị thanh kim

loại lao vào người. Mãi mấy hôm sau mới đưa được thi thể từ bên kia

biên giới về. Là lao động chính trong gia đình, bất chấp nguy hiểm, anh

Cương vẫn chọn đi làm trái phép ở Trung Quốc với mong muốn đỡ đần

bố mẹ. Mẹ anh Cương không ngờ ngày anh đi cũng là lần cuối cùng

được nhìn thấy con trai mình...

Câu chuyện xảy ra với anh Cương là hệ quả đáng tiếc từ tình trạng lao

động vượt biên trái phép ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Chị Vương Thị Ðẹo,

trú tại xóm Lũng Tàn (xã Ða Thông, huyện Thông Nông) do gặp tai nạn

lao động, bị chấn thương nặng vùng xương chậu, hiện nay không ngồi

dậy được, mọi sinh hoạt đều phải nhờ người thân trong gia đình. Trong

khi đó, chấp nhận vượt biên trái phép vì khó khăn kinh tế, thế nhưng vợ

chồng anh Nông Văn Thích (xã Hồng Trị, huyện Bảo Lạc) lại bất hòa,

hạnh phúc gia đình tan vỡ vì chồng không tin tưởng vợ đi làm xa. Hay

như chị Thẩm Thị Nghinh, trú tại xóm Bản Chao (xã An Lạc, huyện Hạ

Lang), từ ngày bị bắt nhốt và đuổi về nước đến giờ vẫn còn hoảng loạn

tinh thần. Người phụ nữ này luôn trong tình trạng sợ hãi, mất trí nhớ,

không trò chuyện với ai, không tiếp xúc với người lạ. Một số người khác

lại bị cướp hết tiền khi trên đường về nhà qua các lối mòn đầy bất trắc...

Thực tế nêu trên cho thấy, người lao động vượt biên trái phép luôn trong

trạng thái "thân cô thế cô" nơi đất khách, chịu nhiều thiệt thòi. Không ít

trường hợp sang đến nơi thường xuyên bị chủ ép lao động với thù lao rẻ

mạt, bị "quỵt" tiền công và đối xử tệ bạc. Hơn nữa, vượt biên trái phép

khiến chính quyền không thể bảo vệ công dân khi xảy ra các vấn đề về

an toàn lao động. Theo thống kê của cơ quan chức năng, từ năm 2012

đến nay, trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có 10 công dân vượt biên trái phép

đi lao động bị chết do tai nạn.

Chủ tịch UBND huyện Bảo Lạc Nguyễn Ích Chánh cho rằng, vấn đề tạo

việc làm cho người dân vùng biên giới chưa hiệu quả là một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng vượt biên trái phép để lao động. Hầu

hết người lao động dạng này đều chọn lúc nông nhàn, thời điểm cuối

năm hoặc tìm một công việc với mức lương cao. Người dân sang đất

khách cũng chỉ lao động phổ thông như thu hoạch mía, thu hái nông

sản... nhưng có mức thu nhập tốt hơn so với làm trong nước, khoảng

300 nghìn đồng/ngày/người. Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác

như nhận thức về luật pháp của người dân còn hạn chế; lực lượng chức

năng thiếu nhân lực, khó kiểm soát đường biên giới dài, lại nhiều lối mòn

sang nước bạn. Thủ tục pháp lý để xuất cảnh lao động còn rườm rà dẫn

đến việc người dân tự ý vượt biên trái phép, không được bảo đảm

quyền lợi…

Theo thống kê của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Cao Bằng, từ năm

2016 đến nay, toàn tỉnh có 18.017 lượt công dân xuất cảnh trái phép

sang Trung Quốc làm thuê. Trong đó tập trung nhiều nhất tại các huyện:

Phục Hòa, Hạ Lang, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Bảo Lạc... Tình trạng vượt

biên trái phép để lao động ngày càng gia tăng và chưa có dấu hiệu dừng

lại.

Ðể hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nêu trên; các cấp ủy, chính

quyền địa phương cần phối hợp với lực lượng liên ngành như: Công an,

biên phòng, các đoàn thể... tăng cường công tác quản lý, ngăn chặn trên

nhiều lĩnh vực; thực hiện tốt công tác quản lý tạm trú, tạm vắng, tổ chức

nắm tình hình, phát hiện và xử lý những trường hợp cố tình vi phạm. Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội cần mở thêm các lớp dạy nghề, tư

vấn, giới thiệu tạo việc làm mới cho lao động; hỗ trợ các trường hợp

được trao trả về vay vốn ưu đãi lập các mô hình kinh tế, vươn lên thoát

nghèo, ổn định cuộc sống... Cơ quan chức năng cần xử lý nghiêm các

trường hợp cò mồi, môi giới người dân xuất cảnh trái phép sang Trung

Quốc làm thuê; cải cách thủ tục hành chính theo hướng tạo điều kiện

thuận lợi nhất trong việc cấp giấy thông hành, hộ chiếu nhằm hạn chế

tình trạng xuất, nhập cảnh trái phép…

Có thể nói, tìm việc làm tạo thu nhập là nhu cầu chính đáng, nhất là với

đồng bào vùng nông thôn, miền núi còn khó khăn. Nhưng, đi lao động

bằng cách vượt biên trái phép là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng lớn đến

an ninh trật tự và quy chế bảo vệ biên giới. Hằng ngày, vẫn còn nhiều

người dân bất chấp hệ lụy để tiếp tục đi lao động "chui" ở nước ngoài.

Ðiều này cho thấy các giải pháp của cơ quan chức năng đề ra chưa

thực hiện quyết liệt, thiếu đồng bộ dẫn đến kém hiệu quả. Nếu không

sớm cải thiện, bài toán lao động vượt biên trái phép tại Cao Bằng chưa

thể giải, dù đã tồn tại nhiều năm.

Theo nhandan.com.vn

12. Bình Phước xây dựng không gian đối thoại mở

Lãnh đạo tỉnh Bình Phước sẽ cùng “cà phê sáng” với doanh nghiệp

để tiếp nhận phản ánh và kịp thời tháo gỡ khó khăn.

Lãnh đạo UBND tỉnh Bình Phước cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành sẽ

tạo ra một không gian mở để thường xuyên lắng nghe các phản ánh,

hiến kế của người dân qua doanh nghiệp (DN). Trên cơ sở đó, lãnh đạo

sẽ kịp thời nắm bắt khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ tốt nhất cho DN đầu tư

vào tỉnh nhà.

Bà Phạm Thị Ánh Hoa, Chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình Phước, đã

thông tin như thế và khẳng định tỉnh Bình Phước đã và đang nỗ lực

mạnh mẽ để cải thiện môi trường, thu hút đầu tư tốt nhất cho tỉnh nhà.

Ăn sáng, cà phê với DN

Bà Phạm Thị Ánh Hoa cho biết mô hình “Cà phê sáng” được thực hiện

dưới hình thức xã hội hóa do Hội DN trẻ của tỉnh Bình Phước đầu tư xây

dựng trong khuôn viên của trung tâm hành chính công tỉnh với tinh thần

cùng nhau trao đổi, cùng hiến kế, tháo gỡ… Hiện không gian cà phê đặc

biệt này đang được hoàn thành.

“Đây là một không gian cởi mở, gần gũi, thân thiện để lãnh đạo tỉnh cũng

lãnh đạo các sở, ban ngành thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ DN, người

dân theo định kỳ. Qua đó kịp thời nắm bắt các khó khăn, vướng mắc

cũng như tiếp nhận những đề xuất, kiến nghị của các đơn vị DN để có

phương án giải quyết, xử lý kịp thời” - bà Hoa cho hay.

Cán bộ ở Trung tâm hành chính công tỉnh Bình Phước niềm nở hướng

dẫn doanh nghiệp, người dân việc giải quyết thủ tục tại đây.

Bên cạnh đó, không gian “Cà phê sáng” cũng là nơi trao đổi tình hình

sản xuất kinh doanh, tìm hiểu đời sống của người dân trong tỉnh, học tập

những cách làm hay, những tấm gương tốt.

Theo chánh Văn phòng UBND tỉnh Bình Phước, tỉnh cũng có chủ trương

thành lập hai tổ công tác tháo gỡ khó khăn cho DN và thu hút đầu tư do

lãnh đạo UBND tỉnh làm tổ trưởng. Hiện tỉnh giao Sở Nội vụ phối hợp

với Sở KH&ĐT tỉnh nghiên cứu, tham mưu cụ thể.

Thời gian giải quyết thủ tục bằng 1/3 so với quy định

Thời gian qua, ngoài việc thành lập đường dây nóng để tiếp nhận phản

ánh của DN, định kỳ hằng tháng lãnh đạo tỉnh Bình Phước cũng đều tổ

chức gặp gỡ DN để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng cũng như các

vướng mắc để kịp thời tháo gỡ. Cùng đó Bình Phước cũng ban hành

nhiều chính sách thu hút đầu tư.

Ông Nguyễn Đức Thành, Trưởng phòng Kinh tế đối ngoại (thuộc Sở

KH&ĐT tỉnh Bình Phước), cho biết từ đầu năm 2016, tỉnh đã ban hành

nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh để thay

thế chính sách cũ ban hành năm 2013.

Theo đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 10 huyện/ thị xã thuộc địa bàn ưu

đãi đầu tư với năm huyện thuộc địa bàn đặc biệt ưu đãi đầu tư. Trong

đó, danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư cũng chú trọng vào nông nghiệp,

nông thôn; lĩnh vực xã hội hóa; đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

còn được hưởng các ưu đãi trong thuê đất và các hạng mục về hạ tầng

kỹ thuật.

Ông Thành khẳng định ngoài các chính sách khuyến khích và ưu đãi do

trung ương quy định, tỉnh còn hỗ trợ về quảng cáo, cung cấp thông tin,

tư vấn pháp luật miễn phí; hỗ trợ xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch,

hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động. Tỉnh cam kết hằng năm sẽ bố trí

nguồn ngân sách địa phương để duy tu, sửa chữa, nâng cấp, xây dựng

mới các công trình hạ tầng thiết yếu ngoài hàng rào khu công nghiệp,

khu kinh tế.

“Đặc biệt, tỉnh cam kết rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính

xuống chỉ còn bằng 1/3 thời gian so với quy định của trung ương và áp

dụng nhận hồ sơ theo cơ chế một cửa” - ông Thành nhấn mạnh.

Theo vị đại diện Sở KH&ĐT tỉnh Bình Phước, tỉnh đã thực hiện được

cam kết đó bằng cách đưa vào hoạt động trung tâm hành chính công từ

tháng 5-2017 vừa qua. Đây là đầu mối duy nhất tiếp nhận việc giải quyết

thủ tục hành chính cho DN và các nhà đầu tư ở tất cả lĩnh vực có liên

quan như chủ trương đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường...

Sở KH&ĐT tỉnh Bình Phước cũng cho biết thêm tỉnh đang thành lập Hội

Phát triển DN tỉnh Bình Phước trên cơ sở hợp nhất ba hội: Hiệp hội DN

nhỏ và vừa tỉnh, Hội DN trẻ, Hội Nữ doanh nhân... Mục tiêu của việc hợp

nhất này là để thống nhất việc liên kết các DN trong tỉnh, hỗ trợ cho

nhau, đầu mối tổng hợp những kiến nghị của DN.

Tỉnh cũng đang xúc tiến thành lập Quỹ Khởi nghiệp nhằm hỗ trợ nguồn

vốn ban đầu cho các DN mới thành lập, thực hiện dự án đầu tư nhằm

góp phần thúc đẩy phát triển số lượng DN của tỉnh.

Thu hút vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ

Với những nỗ lực trên, tình hình thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh sáu

tháng đầu năm 2017 có chiều hướng khả quan; nhiều nhà đầu tư có tiềm

năng đến nghiên cứu và đề xuất các dự án như: Dự án điện năng lượng

mặt trời, dự án sản xuất giống của Tập đoàn Newhoep, các dự án chế

biến cao su…; số DN thành lập mới tăng cao so với cùng kỳ năm 2016.

Một số kết quả cụ thể như sau: Thu hút đầu tư trong nước được 77 dự

án với tổng vốn đăng ký là 5.000 tỉ đồng; so với cùng kỳ tăng 2,2 lần về

số dự án, tăng 4,5 lần về số vốn đăng ký. Thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) được tám dự án, tổng vốn đầu tư 31,8 triệu USD, so với cùng

kỳ, số dự án cấp mới bằng 100%, vốn đầu tư tăng 49%.

Sáu tháng đầu năm thành lập mới 420 DN, đạt 52,5% kế hoạch năm,

tổng số vốn đăng ký 3.477 tỉ đồng, tăng 15,07% về số DN, tăng 72,66%

về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016.

Theo plo.vn

13. Đồng Nai đưa ứng dụng Zalo vào thủ tục hành chính công như thế nào?

Khi nộp hồ sơ, người dân nhận lại một giấy hẹn, trên đó có mã QR. Khi

mở ứng dụng Zalo trên điện thoại lên, quét vào mã này, người dân sẽ

nhận được các thông tin về tiến độ xử lý hồ sơ.

UBND tỉnh Đồng Nai ngày 6.7 đã chính thức khai trương Trung tâm

hành chính công của tỉnh (đặt tại tầng 6, cao ốc Sonadez (thuộc P.An

Bình, TP.Biên Hòa, Đồng Nai) sau gần 2 tháng hoạt động thử nghiệm.

Tại lễ khai trương, UBND tỉnh Đồng Nai đã ký kết hợp tác ứng dụng

Zalo để triển khai thêm kênh giải quyết thủ tục hành chính.

Trao đổi thêm với PV Thanh Niên ngày 7.7, ông Tạ Quang Trường, Phó

giám đốc Sở Nội vụ Đồng Nai, kiêm Phó ban cải cách hành chính tỉnh

Đồng Nai, nhận định rằng việc áp dụng Zalo vào quản lý, giải quyết thủ

tục hành chính sẽ rất có ích cho người dân và mang lại hiệu quả cao.

Theo ông Trường, khi đến Trung tâm hành chính công nộp hồ sơ, người

dân được phát giấy hẹn, trên đó có một mã QR. Khi người dân mở ứng

dụng Zalo trên điện thoại, quét vào mã này, sẽ nhận được đầy đủ các

thông tin về tiến độ xử lý hồ sơ. Ngoài ra, nếu có thắc mắc gì, người dân

có thể trao đổi ngay với cán bộ trung tâm thông qua tính năng chat trên

ứng dụng Zalo.

Tại Trung tâm hành chính công Đồng Nai có hệ thống wifi miễn phí, khi

đăng nhập vào, người đến làm thủ tục sẽ nhận được lời mời “quan tâm”

Zalo và hướng dẫn cách sử dụng chức năng như nộp hồ sơ, tra cứu kết

quả…

Tìm hiểu cách ứng dụng Zalo hỗ trợ thủ tục hành chính

công tại Đồng Nai

1. Biên nhận điện tử: Sau khi nộp hồ sơ, người dân nhận biên

nhận điện tử trên Zalo

2. Tra cứu trạng thái xử lý hồ sơ: Quét mã QR hoặc nhập mã

biên nhận trên Zalo

3. Thay đổi trạng thái xử lý hồ sơ: Người dân sẽ nhận được tin

nhắn thông báo trên Zalo khi hồ sơ thay đổi trạng thái xử lý

4. Đánh giá dịch vụ: Người dân đánh giá thái độ và kết quả giải

quyết công việc của cán bộ, nhân viên trung tâm

5. Hệ thống chat: Trao đổi trực tiếp giữa người dân và Trung

tâm hành chính công trên Zalo

6. Wifi miễn phí: Người dân đăng nhập wifi của trung tâm sẽ

nhận được tin mời "quan tâm" Zalo và hướng dẫn sử dụng các

chức năng

Theo thanhnien.vn