22
Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Nam Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, vấn đề quản trị doanh nghiệp (DN) đã được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị DN tốt đồng nghĩa với khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao giá trị tăng trưởng... Các ngân hàng thương mại (NHTM) với đặc thù là các tổ chức kinh doanh “tiền”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khi ngân hàng là nguồn tài chính bên ngoài cực kỳ quan trọng đối với DN. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây chuyền cho các đơn vị khác và ngược lại. Rõ ràng, khả năng chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ trợ cho khu vực DN sẽ càng lớn. Thời gian tới, khi hàng loạt các ngân hàng ngoại sẽ ồ ạt "đổ bộ" vào Việt Nam, chắc chắn những đòi hỏi về công tác quản trị ngân hàng (QTNH) sẽ càng gay gắt hơn đối với ngân hàng nội. Phần 1. Một số vấn đề cơ bản về quản trị ngân hàng I,Thứ nhất, tại sao cần quan tâm đến QTNH Các NHTM - bản thân chúng cũng là các DN, song là các DN đặc biệt, do vậy hoạt động QTNH không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà còn tác động đến giá vốn của các DN và hộ gia đình mà họ cho vay vốn. Công tác tổ chức và quản trị tại ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị của ngân hàng mà còn tới vị thế và uy tín của ngân hàng. Một cách tổng quát, công tác QTNH tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là thước đo cho khả năng chống đỡ của ngân hàng trước biến động của nền kinh tế. Không những thế, hoạt động của ngân hàng tác động đến sản lượng của nền kinh tế bởi lẽ các ngân 1

Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt NamTừ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, vấn đề quản trị doanh nghiệp (DN) đã được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị DN tốt đồng nghĩa với khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao giá trị tăng trưởng... Các ngân hàng thương mại (NHTM) với đặc thù là các tổ chức kinh doanh “tiền”, có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng lớn thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn, đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khi ngân hàng là nguồn tài chính bên ngoài cực kỳ quan trọng đối với DN. Một ngân hàng yếu kém trong quản trị sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây chuyền cho các đơn vị khác và ngược lại. Rõ ràng, khả năng chống đỡ của ngân hàng càng cao, khả năng hỗ trợ cho khu vực DN sẽ càng lớn. Thời gian tới, khi hàng loạt các ngân hàng ngoại sẽ ồ ạt "đổ bộ" vào Việt Nam, chắc chắn những đòi hỏi về công tác quản trị ngân hàng (QTNH) sẽ càng gay gắt hơn đối với ngân hàng nội.

Phần 1. Một số vấn đề cơ bản về quản trị ngân hàng

I,Thứ nhất, tại sao cần quan tâm đến QTNH

Các NHTM - bản thân chúng cũng là các DN, song là các DN đặc biệt, do vậy hoạt động QTNH không những tác động đến giá trị của ngân hàng và giá vốn của họ mà còn tác động đến giá vốn của các DN và hộ gia đình mà họ cho vay vốn. Công tác tổ chức và quản trị tại ngân hàng sẽ tác động trực tiếp không chỉ đến giá trị của ngân hàng mà còn tới vị thế và uy tín của ngân hàng. Một cách tổng quát, công tác QTNH tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là thước đo cho khả năng chống đỡ của ngân hàng trước biến động của nền kinh tế. Không những thế, hoạt động của ngân hàng tác động đến sản lượng của nền kinh tế bởi lẽ các ngân hàng huy động và phân bổ tiết kiệm của xã hội. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, khi các ngân hàng là nguồn tài chính bên ngoài rất lớn của DN, QTNH tốt sẽ góp phần thúc đẩy quản trị DN của các DN mà họ cho vay.

II,Thứ hai, đặc điểm của quản trị DN ở các ngân hàng

Các NHTM là các DN đặc biệt nên hoạt động của các ngân hàng cũng có những “đặc thù” khác với các công ty. đó là: sự không rõ ràng của một số nguồn thông tin tài chính khiến khó đánh giá chất lượng hoạt động và rủi ro; sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý; độ rủi ro lớn, nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản; chịu sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết do tầm quan trọng trong hệ thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Vì thế, bản thân các ngân hàng cũng phải đưa ra các quy định rất cụ thể, rõ ràng như các hạn chế về hoạt động (sản phẩm, chi nhánh), yêu cầu về đảm bảo an toàn (phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc…).

 

1

Page 2: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Tại cùng một thời điểm, các ngân hàng chịu nhiều rủi ro về quản trị DN hơn chính vì tính không rõ ràng có nghĩa là phạm vi cát cứ, chuyển giao rủi ro, lợi ích của cá nhân và sự chiếm dụng công khai (hoạt động ngầm, cho vay nội gián, chiếm đoạt…) lớn hơn so với các DN phi tài chính. Do đó, vai trò của QTNH lớn hơn vì với quản trị tốt, ngân hàng có thể minh bạch hơn, giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát hiệu quả hơn.

Phần 2. Thực tiễn QTNH ở Việt Nam hiện nay

Phải nói rằng, ở bất cứ nền kinh tế nào quản trị nói chung và QTNH nói riêng luôn có tầm quan trọng đặc biệt và là chìa khoá để giúp các DN thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược của mình, bảo đảm sự phát triển bền vững. Song, thực tiễn QTNH ở Việt Nam thời gian qua đã bộc lộ không ít những hạn chế mà nếu không khắc phục được thì các NHTM Việt Nam sẽ rất khó cạnh tranh trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay. Những hạn chế có thể kể đến là:

I,Thứ nhất, thiếu khuôn khổ cho hoạt động quản trị

Có một sự thật khá trớ trêu là từ trước tới nay, bộ luật liên quan trực tiếp tới các hoạt động tín dụng, hay tổ chức tín dụng lại không hề có mục nào đề cập cụ thể tới các vấn đề tổ chức và quản trị. Kể cả khi Luật DN mới được sửa đổi vào năm 2005, vấn đề về quản trị DN của NHTM dường như vẫn bỏ ngỏ. Thực tế, trong suốt thời gian qua, vẫn thiếu hẳn một hệ thống luật đầy đủ trong công tác quản lý tổ chức và quản trị. Không có luật, NHTM phải dựa vào các Nghị định để tự xây dựng cơ chế quản trị. Đánh giá của giới luật sư cho thấy, bất chấp việc Việt Nam đã cho ra đời hàng loạt những bộ luật mới để chuẩn bị cho giai đoạn chính thức hòa nhập kinh tế quốc tế, nhưng các văn bản pháp lý về tổ chức, QTNH vẫn “như cũ”, thậm chí có một số điểm không còn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trong hoạt động của NHTM. Trong khi đó, điểm yếu của hệ thống NHTM Việt Nam chính là nguồn vốn điều lệ còn quá thấp, nguồn nhân lực, cán bộ nhân viên được đào tạo nhiều nhưng chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

II,Thứ hai, mô hình tổ chức và quản lý hiện tại bộ lộ một số nhược điểm

Mô hình tổ chức và quản lý hiện tại được phân biệt chủ yếu theo chức năng với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý kinh doanh.

HĐQT can thiệp vào điều hành

Dù luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của HĐQT và ban điều hành (BĐH), nhưng trong thực tế việc chồng chéo, lấn sân, thậm chí lấn át vẫn xảy ra ở nhiều ngân hàng khiến cho hệ thống ra quyết định phức tạp thiếu minh bạch, chưa tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát điều hành NH, đặc biệt là ở các NHTM do Nhà nước là chủ sở hữu. Thành phần và cơ cấu HĐQT của nhiều NH còn bất cập, quan hệ giữa HĐQT và BĐH không mấy suôn sẻ, vai trò của các UB/hội

2

Page 3: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

đồng thuộc HĐQT mờ nhạt, trách nhiệm của các ủy viên HĐQT không rõ ràng. Nếu khảo sát về mức độ tham gia của HĐQT của các NH ở VN vào việc điều hành bắt đầu từ mức tham gia thụ động cho đến mức độ cuối cùng là điều hành thì nhiều NH tỏ ra ở mức độ can thiệp. HĐQT thường can thiệp vào việc điều hành qua sự yêu cầu trực tiếp hay gián tiếp BĐH. Biểu hiện rõ rệt là HĐQT họp thường xuyên, thường là đột xuất và căng thẳng. Ranh giới giữa chỉ đạo, xây dựng và ban hành chủ trương, đường lối và việc thực hiện không rõ ràng, dẫn đến tình trạng “vừa đánh trống, vừa thổi còi” .

Ban kiểm soát hoạt động “chênh vênh”

Theo quy định, Ban kiểm soát (BKS) là bộ phận độc lập có chức năng giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật và điều lệ của TCTD, chịu trách nhiệm trước ĐHCĐ, chủ sở hữu và thành viên góp vốn. Nhưng ĐHCĐ thì 1 năm mới họp 1 lần, nên hoạt động thường xuyên của BKS chênh vênh không có sự chỉ đạo. Tại nhiều NH, các giải pháp quản trị rủi ro đã được đưa ra, nhưng việc áp dụng còn chưa triệt để, nửa vời. Theo TS Nguyễn Trí Hiều thì sự phân chia giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát của một số NH cũng là một vấn đề.

Tại nhiều NH có những cổ đông sáng lập, cổ đông lớn thường cảm thấy có trách nhiệm với sự sống còn của NH mình nên thường dành cho mình quyền kiểm soát tuyệt đối, không những trong vấn đề liên quan đến chiến lược và định hướng mà ngay cả những quyết định quan trọng thuộc thẩm quyền BĐH. Trên thực tế ở một số NH, BKS thay vì đại diện cho ĐHCĐ lại thường trở thành đồng minh cho Tổng GĐ và Chủ tịch HĐQT. TS Nguyễn Thị Thanh Hương nói, phải phân biệt quyền kiểm soát và quyền sở hữu vì chỉ với 1 đồng chủ sở hữu, NH có thể huy động 20 đồng của xã hội, nên không thể để tình trạng các cổ đông lớn lạm quyền sở hữu để huy động vốn cho các mục đích của cá nhân mình, rất nguy hiểm.

III,Thứ ba, Tính công khai, minh bạch thấp

Một trong những nguyên tắc QTDN là DN phải được quản trị theo cách minh bạch. Tuy nhiên, tại nhiều NH, nhất là NHTM nhà nước chưa có cơ chế báo cáo và công bố thông tin nghiêm ngặt, minh bạch. Công chúng và NĐT chưa được tiếp cận thuận lợi qua kênh chính thức đối với các thông tin về NH như: Tình hình tài chính, hoạt động, chiến lược, mục tiêu kinh doanh, các cổ đông lớn, các yếu tố rủi ro chưa được công bố đầy đủ và kịp thời để giúp công chúng và các NĐT có thể đánh giá hợp lý về tình trạng và triển vọng phát triển của các NH. Hệ thống thông tin nội bộ NH còn nhiều bất cập làm cản trở quá trình chia sẻ và cập nhật thông tin giữa các bộ phận chức năng trong NH.

Một vấn đề nữa trong thông tin mà ban kế hoạch phát triển của BIDV chỉ ra là tại nhiều NHVN mô hình hệ thống thông tin quản lý phân tán, hình thành các cấp và phân quyền quá mức (giữa hội sở chính và chi nhánh) khiến các chi nhánh trở thành ngân hàng con, làm tăng thêm rủi ro cho các NH trong khi quy mô NH tiếp tục mở rộng với tốc độ nhanh, trong khi năng lực kiểm soát rủi ro của hội sở chính hạn chế do thiếu hệ thống quản trị rủi ro và hệ thống thông tin quản

3

Page 4: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

lý, thông tin báo cáo hữu hiệu. Có thể thấy rằng thể chế giám sát, sự minh bạch trong QTDN ở VN chưa theo kịp sự phát triển có phần quá nóng của hệ thống NH.

IV,Thứ tư,vấn đề quản trị nội bộ chưa được quan tâm đúng mực

Quản trị nội bộ ngân hàng là một vấn đề rất cấp thiết hiện nay, đó là tiền đề giúp các ngân hàng hoạt động tốt và chủ động nắm bắt những biến động trên thị trường. Quản trị nội bộ bao gồm nhiều mảng liên quan từ quản trị nguồn nhân lực, quản trị tài chính đến quản trị khách hàng, quản trị rủi ro, quản trị thương hiệu, quản trị thị trường... Nói chung là tất cả các hoạt động trong phạm vi nội bộ liên quan đến các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng.

Sau đây chúng tôi xin đc đề cập đến 3 vấn đề quan trọng trong quản trị nội bộ NHTM đó là: Qtri tài chính,qtri nhân lực,và quản trị rủi ro

1, Quản trị nhân lực

- Vấn đề nhận thức là cực kỳ quan trọng. Quản trị nguồn nhân lực là một quá trình lâu dài, ở đó, nhà quản trị phải thực hiện đồng thời các chức năng thu hút, duy trì và phát triển nguồn nhân lực. Tuy vậy, thực tế cho thấy, đa phần các nhà quản trị thường tập trung cho vấn đề thu hút nguồn nhân lực và xem việc thu hút được nhiều nhân sự có chất lượng cao là thành công nhưng lại quên mất rằng việc duy trì và phát triển nguồn nhân lực mới là vấn đề phức tạp cần phải tập trung giải quyết.

- Vấn đề thứ hai phát sinh từ quá trình hội nhập, từ sức ép cạnh tranh thu hút nhân sự có chất lượng cao từ các NH thương mại nước ngoài. Việc người lao động mong muốn được làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp, năng động, có thu nhập xứng đáng và có cơ hội thăng tiến là hoàn toàn chính đáng. Chính vì vậy, nhà quản trị phải luôn đối mặt với áp lực thay đổi nhân sự. Điều này chỉ có thể khắc phục được nếu các NH thương mại Việt Nam thực hiện tốt chức năng duy trì và phát triển nguồn nhân lực như đã đề cập ở trên.

Có thể thấy, ngoài 4 ngân hàng quốc doanh lớn, hầu hết các ngân hàng cổ phần đều đang chung mối lo giữ người và đào tạo bổ sung nâng cao năng lực cho nhân viên hiện có.

Qua kinh nghiệm cá nhân cũng như dựa trên các phân tích thị trường lao động hiện nay, bà Trần Thị Bảo Quế - Giám đốc nhân sự Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) cho rằng, có 5 yếu tố quan trọng tạo nên môi trường làm việc hấp dẫn.

- Trước hết, đó là chế độ, chính sách đãi ngộ hấp dẫn, khuyến khích được cán bộ nhân viên gắn bó với doanh nghiệp và công việc.

- Thứ hai, đó là hệ thống công cụ hỗ trợ tác nghiệp chuyên nghiệp, đầy đủ.

- Thứ ba là chính sách phát triển nguồn nhân lực rõ ràng, được triển khai nghiêm túc và có lộ trình cụ thể.

4

Page 5: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

- Tiếp theo đó là môi trường giao tiếp, văn hóa doanh nghiệp bền vững, tạo dựng được sự gắn kết.

- Và cuối cùng, là làm sao để cán bộ nhân viên có thể chia sẻ về định hướng, tầm nhìn và trách nhiệm với sự thành công chung.

Những yếu tố được đúc rút này có vẻ nặng tính “lý thuyết”, song trên thực tế đã có không ít ngân hàng trả giá đắt khi chỉ chú trọng việc câu người bằng lương cao, thưởng hậu mà bỏ qua các yếu tố tạo nên sự gắn kết và định hướng nghề nghiệp lâu dài cho nhân viên.

Tính dài hay chọn ngắn?

Mỗi ngân hàng có những chính sách phát triển riêng, cũng như việc đãi ngộ và các quy chế nội bộ khác nhau, đôi khi dẫn đến tâm lý so bì giữa những người muốn nhảy việc để tìm cơ hội tốt hơn. Đây là “áp lực” không nhỏ buộc các ngân hàng phải tìm ra muôn vàn “chiêu thức” khác nhau cho việc giữ người.

Đơn cử như trường hợp MB, một ngân hàng được đánh giá là ít có xáo trộn nhất về nhân sự, Tùy thuộc từng thời điểm phát triển, ngân hàng này lại có những điều chỉnh cho việc đãi ngộ và cam kết quyền lợi với nhân viên. “Sự phân cấp giữa nhân sự cao cấp và nhân viên là không đáng kể. Thậm chí, có những loại hình đãi ngộ, chúng tôi chỉ dành riêng cho nhân viên”, bà Bảo Quế “bật mí”.

Vậy, những người không ra đi khi “mồi” mức lương và vị trí tốt tại ngân hàng khác được đưa ra đầy hấp dẫn, liệu có phải là không biết thiệt hơn? Theo phân tích của các chuyên gia, đây chính là bài toán cơ hội mà mỗi cá nhân tự tính toán, cân nhắc cho mình. Đó có thể là cả một quá trình 5 năm - 10 năm, nhưng cũng có thể chỉ là tháng lương thưởng thêm cuối mỗi năm của từng doanh nghiệp… Tính dài hay chọn ngắn, là do cách nhìn nhận của mỗi cá nhân đó.

Trong các hội thảo nghề nghiệp, người ta nói nhiều đến cơ hội nâng cao nghiệp vụ, môi trường chuyên nghiệp, cơ hội thăng tiến… Đó sẽ chỉ là những cụm từ sáo rỗng nếu thực tế, trong quá trình làm việc mỗi nhân viên không được hoặc tự định hướng lộ trình phát triển nghề nghiệp. Thông thường, các ngân hàng lớn luôn hoạch định những chương trình bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nâng cao giúp nhân viên giành các chứng chỉ nghiệp vụ có giá trị hoặc được công nhận quốc tế.

Còn theo bà Bảo Quế, tại MB, ngay cả trong giai đoạn suy thoái kinh tế gần đây, khi các ngân hàng khác hạn chế chi cho đào tạo thì MB vẫn coi đây là một khoản đầu tư cần thiết. “Hiện tại,

5

Page 6: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

MB ưu tiên cho việc đào tạo chuyên sâu và đào tạo tại nước ngoài. Đồng thời, khuyến khích các cá nhân tăng cường tự học, tự chia sẻ kinh nghiệm nội bộ thông qua các kế hoạch đào tạo nội bộ”, bà nói.

“Muốn giữ cá to, phải be bờ kỹ”, phải chăng kinh nghiệm “giữ cá” bằng cách đầu tư bài bản này của MB là một trong những đáp án đáng để các ngân hàng khác quan tâm trong mối lo chung về nguồn nhân lực?

a, Quản trị tài chính

Quản trị tài chính đóng vai trò quan trọng và có phạm vi rộng lớn hiện hữu trong mọi hoạt động cuả doanh nghiệp nói chung và đối với ngân hàng nói riêng có tác động đến tất cả các hoạt động trong ngân hàng. Hầu hết các quyết định quan trọng của lãnh đạo ngân hàng dựa trên những thông tin từ sự phân tích tình hình tài chính như các hoạt động lựa chọn hình thức tổ chức doanh nghiệp, đến việc xây dựng chiến lược kinh doanh.

1. Quản trị tài chính là gì:

Quản trị tài chính là một môn khoa học quản trị nghiên cứu các mối quan hệ tài chính phát sinh trong quá trình sản xuất-kinh doanh của một doanh nghiệp hay một tổ chức.

2.Phân loại:

Quản trị doanh nghiệp liên quan đến ba loại quyết định:

- Quyết định đầu tư: quyết định quan trọng nhất vì nó tạo ra giá trị cho doanh nghiệp.Quyết định đầu tư là quyết định liên quan đến:tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản cần có và môi trường quan hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp.Cụ thể:

Quyết định đầu tư tài sản lưu động

Quyết định đầu tư tài sản cố định bao gồm mua sắm tài sản cố đinh mới,quyết định thay thế tài sản cố định cũ, đầu tư dự án và đầu tư tài chính dài hạn

Quyết định quan hệ cơ cấu giữa đầu tư tài sản lưu động và tài sản cố định bao gồm quyết định sử dụng đòn bẩy hoạt động và quyết định điểm hòa vốn.

- Quyết định tài trợ: nếu như quyết định đầu tư liên quan đến bên trái thì quyết định tài trợ lại liên quan đến bên phải của bảng cân đối tài sản,nên sử dụng vốn chủ sở hữu hay vốn vay, nên dùng vốn ngắn hạn hay vốn dài hạn.Ngoài ra, quyết định tài trợ còn xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận để lại tái đầu tư và lợi nhuận được phân chia dưới dạng cổ tức.Một khi lựa chọn tài trợ bằng vốn vay ngắn hạn hay vốn vay dài hạn hoặc lựa chọn giữa lợi nhuận để lại hay lợi nhuận phân chia phân chia đã được quyết định thì bước tiếp theo nhà quản trị còn phải quyết định làm thế nào để huy động được các nguồn tài trợ đó.Cụ thể:

6

Page 7: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

+ Quyết định huy động nguồn vốn ngắn hạn

+ Quyết định huy động nguồn vốn dài hạn

- Quyết định chia trả cổ tức: Chính sách cổ tức ấn định mức lợi nhuận của ngân hàng được đem ra phân phối như thế naò.Lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư hay được chia trả cho các cổ đông

- Quyết định khác: quyết định về phòng ngừa rủi ro,quyết định về giao dịch và dịch vụ ...

3.Mục tiêu của quản trị tài chính

3.1. Mục tiêu của ngân hàng

Để đánh giá quản trị tài chính có hiệu quả hay không chúng ta cần có chuẩn mực nhất định,chuẩn mực để đánh giá hiệu quả quản trị tài chính ở đây chính là mục tiêu của ngân hàng đề ra.

- Tạo giá trị:đứng trên giác độ taọ giá trị,tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu chính của công ty.Mục tiêu này nhằm không ngừng gia tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu doanh nghiệp.mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận được cụ thể và lược hóa bằng các chỉ tiêu sau:

+ Tối đa hóa lợi nhuận sau thuế.

+ Tối đa hóa lợi nhuận trên cổ phần

+ Tối đa hóa gía trị cổ phiếu

- Vấn đề đại diện.

- Trách nhiệm đối với xã hội: bảo vệ khách hàng,trả lương công bằng cho nhân viên chú ý đến bảo đảm an tòan lao động xã hội đào tạo và nâng cao trình độ của người lao động... và đặc biệt bảo vệ môi trường.bảo vệ lợi ích của cô đông và các ngừơi liên quan.

3.2 Mục tiêu của quản trị tài chính:mục tiêu tài chính của doanh nghiệp nói chung và đối với ngân hàng nói riêng là phải gia tăng được giá trị của ngân hàng trên thị trường.

4.Vai trò của quản trị tài chính.

Quản trị tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Bao gồm:

- Huy động và bảo đảm đầy đủ kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn.Nó đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của dự án từ đó góp phần chọn ra dự án đầu tư tối ưu.

-Giám sát, kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp.

7

Page 8: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

5.Nội dung quản trị tài chính:

- Tham gia đánh giá,lựa chọn, các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh.

- Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh.

- Tổ chức sử dụng tốt các vốn hiện có, quản trị chặt chẽ các khoản thu, chi để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.

- Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của ngân hàng

- Đảm bảo kiểm tra,kiểm soát thường xuyên đối với tình hình hoạt động của ngân hàng và thực hiện tốt việc phân tích tài chính.

- Thực hiện tốt kế hoạch hóa tài chính.

6.Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quản trị tài chính:

- Hình thức pháp lý của tổ chức ngân hàng

+ Ngân hàng nhà nước

+ Ngân hàng cổ phần

+ Ngân hàng liên doanh

+ Ngân hàng có vốn nước ngoài

Những đặc điểm riêng về tổ chức cũng ảnh hưởng đến quản trị tài chính như vịêc tổ chức,huy động, cho vay, sản xuất kinh doanh và phân phối lợi nhuận.

- Môi trường kinh doanh:

+ Sự ổn định của nền kinh tế.

+ ảnh hưởng về giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế.

+ Sự canh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật công nghệ.

+ Chính sách kinh tế và tài chính của nhà nước

+ Sự hoạt động của thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian

3 quản trị rủi ro

8

Page 9: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản

Do sự lệch pha giữa thời hạn vốn huy động với thời hạn cho vay: Với sự giảm sút niềm tin vào VND ( do nhiều nguyên nhân khác nhau từ lạm phát, phát giá VND) thì người dân phần lớn ưu chuộng gửi tiền với các kỳ hạn ngắn, chủ yếu dưới 12 tháng và tập trung phần lớn ở kỳ hạn từ 1 tháng tới 3 tháng. Trong khi đó, các khoản cho vay thì phần lớn lại có kỳ hạn trên 12 tháng. Với sự lệch pha nêu trên, chỉ cần NHTW có động thái hút tiền về từ lưu thông về thì các ngân hàng TM có tỷ lệ cho vay trên tổng huy động cao sẽ gặp khó khăn về thanh khoản và buộc phải nâng lãi suất huy động. Hiện tại, ở VN số lượng ngân hàng khá lớn, phần lớn các ngân hàng đều có chi nhánh rộng khắp các tỉnh thành quan trọng trong cả nước, chỉ cần một ngân hàng khó khăn về thanh khoản, nâng mạnh lãi suất huy động sẽ làm cho người dân rút tiền từ ngân hàng khác gửi sang ngân hàng này và bắt đầu xuất hiện một cuốc đua về lãi suất huy động.

Mối quan ngại về các khoản trống

Theo quy định, với tiền gửi VND dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 3%; nhưng từ 12 tháng trở lên chỉ là 1%. Để tránh mức 3%, ngân hàng có thể đàm phán với doanh nghiệp những khoản tiền gửi lớn trú ở kỳ hạn trên 12 tháng, nhưng ngầm định doanh nghiệp có thể rút vốn trước hạn mà vẫn bảo toàn lãi suất. Ở trường hợp này, ngân hàng đánh đổi lợi ích chi phí với khả năng rủi ro.

“Việc quản trị thanh khoản tập trung ở dữ liệu sổ sách, cơ cấu các kỳ hạn. Nhưng với thỏa thuận trên, khi nguồn tiền gửi rút ra trước hạn sẽ để lại những khoảng trống, rủi ro có từ những khoảng trống này”,

Đi cùng với những khoảng trống đó là sự thụ động trong quản trị. Hay nói một cách hình ảnh, ngân hàng xây tường bao thanh khoản nhưng lại tiềm ẩn những khoảng trống có thể xẩy ra bất cứ lúc nào ở móng.

Trước nguy cơ trên, ngày 10/3 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-NHNN quy định áp lãi suất thấp nhất (không kỳ hạn) đối với các khoản tiền gửi rút trước hạn. Quy định này sẽ hạn chế phần nào nguồn gốc tạo những khoảng trống đó.

Biện pháp

- Một trong những đề xuất quản trị rủi ro thanh khoản (vừa được đăng tải trên website của ngân hàng Nhà nước) là không cho phép rút trước hạn tiền gửi có kì hạn, trừ trường hợp đặc biệt khi khách hàng có thỏa thuận trước với ngân hàng.

9

Page 10: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

- đẩy mạnh cho vay ngắn hạn, cho vay bổ sung vốn lưu động đối với doanh nghiệp , do đó tỷ lệ nguồn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn chỉ là 17,62%, thấp hơn nhiều so với quy định của Ngân hàng Nhà nước (30%).

- phát triển hợp đồng huy động có lãi suất được điều chỉnh theo lạm phát.

* Rủi ro tín dụng:a. Khái quát về rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho NH, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho NH.

Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như:- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.- Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.- Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) - có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.- Nợ không có tài sản đảm bảo.

Hiện nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng

Do đặc thù mà hoạt động cho vay trong các ngân hàng vẫn là chủ yếu, chiếm từ 70% đến 90% tổng tài sản có và một tỷ lệ tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức cao và đang có xu hướng tăng lên. Theo Ngân hàng Nhà nước, tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam là 2,16% vào cuối 2010 và tăng lên 3,21% vào cuối tháng 8.2011. Những ngân hàng có truyền thống kiểm soát tốt nợ xấu “bật mí” cho đến tháng 8-2011 nợ xấu của họ đã tăng khoảng 0,5% so với mức cuối năm ngoái. Một số ngân hàng thừa nhận mức tăng là 1%, thậm chí 1,5 -2%.VD: tháng 8/2011: tỉ lệ nợ xấu của Agribank 6,67%, Vietcombank 3,92%. của Viettinbank đến hết 30/6/2011 là 1,71% nhưng con số này đã giảm xuống còn 1.2% tại thời điểm tháng 8/2011Trong tổng số nợ xấu trên 76 nghìn tỷ đồng tính đến hết tháng 8/2011, nợ nhóm 3 chiếm 30,18%, nhóm 4 chiếm 20,53% và nhóm 5 chiếm trên 49%. Điều đó đồng nghĩa, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất trắng khoảng 37,2 nghìn tỷ đồng.  

Ghi chú:Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.

Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao.

10

Page 11: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ được đánh giá không có khả năng thu hồi, mất vốn.

b. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:

- Nguyên nhân thuộc về khách hàng :

+ Nguyên nhân chủ quan: do trình độ quản lý của khách hàng yếu kém dẫn đến sử dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. cũngcó thể do khách hảng thiếu thiện chí trả nợ trong khi các biện pháp xử lý thu hồi nợ của NH tỏ ra kém hiệu quả ; Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồngchéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền. Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém,   thiếu minh bạch . Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra,thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang  tínhchất hình thức hơn là thực chất. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.

+N guyên nhâ n khách quan : có t hể do khách hà ng gặp phả i những t hay đổ i mô i trường kinh doanh không thể lường trước được như sự thay đổi về giá cả hay nhu cầu thị trường, do thiên tai, hạn hán, sự thay đổi về môi trường pháp lý hay chínhsách của Chính phủ khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ. Từ đó doanh nghiệp dù có thiện chí trả nợ nhưng vẫn không thể trả được nợ 

-Nguyên nhân thuộc về ngân hàng

Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do nguyên nhân chủ quan như quá trình phân tích và thẩm định tín dụng không kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết địnhcho vay. Mặt khác cũng có thể quyết định cho vay đúng đắn nhưng do thiếu kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn không phát hiện để ngăn chặn kịp thời. Ngân hàng quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo   hiểm, coi đó là vật đảm bảo   chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay ; chạy theo số lượng (hoặc theo kếhoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởngvào sự thành công của phương án kinh doanh của khách hàng. Ngân   hàng   không giải quyết hợp lý quan hệ giữa

11

Page 12: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định. Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay

b , T á c   đ ộ n g   c ủ a   r ủ i   r o   t í n   d ụ n g

-Đối với nền kinh tếHoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

-Đối với ngân hàngKhi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi   vào tình trạng mất khả năng   thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.

Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị NH phải hết sức thận trọng và có các biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay

=> Để giảm thiểu rủi ro tín dụng thì NHNN cũng ban hành qui định về việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đối với các NHTM. (Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng được sử dụng để bù đắp những rủi ro do nguyên nhân khách quan như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, chính sách Nhà nước thay đổi hoặc biến động giá cả thị trường... phát sinh thuộc diện đơn lẻ cục bộ sau khi sử dụng bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu có).)

Cụ thể:

12

Page 13: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Điều 9 của Quyết định 493 (về tỷ lệ dự phòng chung) có quy định:

“1. Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.

2. Trong thời hạn tối đa năm (05) năm kể từ ngày Quy định này có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng phải thực hiện trích lập đầy đủ số tiền dự phòng chung theo quy định tại Khoản 1, Điều này”.

Với những quy định trên, Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, trong điều kiện hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay, tỷ lệ trích lập dự phòng chung 0,75% trên là quá cao. Vì hiện nay, chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại rất thấp, khoảng 2%, thậm chí có ngân hàng thương mại mức chênh lệch này còn 1,5% - 1,8%.

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đồng ý về nguyên tắc, cho phép riêng Ngân hàng Phát triển Việt Nam sử dụng số tăng thu về lãi tiền gửi của năm 2011 so với số thu lãi tiền gửi của năm 2010 để trích lập bổ sung quỹ dự phòng rủi ro tín dụng

*Rủi ro ngoại hối

Rủi ro về ngoại hối phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, qua đó có thể làm cho ngân hàng phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động

Có hai bộ phận cấu thành rủi ro ngoại hối đó là mua bán ngoại hối và hoạt động trên tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ.

Hoạt động mua bán ngoại hối của ngân hàng

Bao gồm:

- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán hợp đồng ngoại thương;

- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm mục đích thực hiện đầu tư nước ngoài trực tiếp hay gián tiếp;

- Mua và bán ngoại tệ cho khách hàng (hoặc cho chính mình) nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối của đồng tiền có thể giảm rủi ro ngoại hối;

- Mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ trong việc dự tính sự biến động của tỷ giá.

13

Page 14: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Hai hoạt động đầu tiên, ngân hàng thường thực hiện cho khách hàng để thu phí, và do đó, rủi ro ngoại hối ngân hàng không phải gánh chịu. Hoạt động thứ ba, ngân hàng tiến hành nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, tức là nhằm giảm rủi ro ngoại hối. Như vậy, rủi ro ngoại hối thực chất chỉ liên quan đến trạng thái ngoại hối mở (open position) đối với những hoạt động mua bán mang tính đầu cơ (unhedged position) tức là hoạt động thứ tư.

Trạng thái ngoại hối mở thường được thực hiện trong các giao dịch giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường ngoại hối và đặc biệt là đối với những ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư lớn là những ngân hàng tạo thị trường bằng cách niêm yết tỷ giá mua bán hai chiều “Bid – Ask” đối với ngoại tệ giao dịch.

Khía cạnh thứ hai của rủi ro ngoại hối mà các ngân hàng phải chịu là sự không cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với từng loại ngoại tệ. Tài sản có bằng ngoại tệ là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như : các khoản cho vay bằng ngoại tệ; các chứng khoán bằng ngoại tệ; tiền gửi bằng ngoại tệ ở ngân hàng khác; tiền mặt bằng ngoại tệ,… Tài sản nợ bằng ngoại tệ là các khoản mục trên bảng tổng kết tài sản, như: phát hành các chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ; phát hành trái phiếu; và các hình thức huy động vốn khác bằng ngoại tệ. Do tính chất toàn cầu hóa, thị trường tài chính đã tạo ra những khả năng to lớn để tăng nguồn vốn của các ngân hàng bằng các ngoại tệ khác nhau. Đây là lợi thế to lớn không những đa dạng hóa nguồn vốn và sử dụng vốn bằng ngoại tệ, mà còn tạo ra những cơ hội để tăng được lợi túc đầu tư và giảm được chi phí vốn huy động.

Để hiểu thêm về hoạt động kinh doanh ngoại hối, sau đây là một số thông tin và số liệu chúng tôi thu thập được của NH Sacombank – chi nhánh Đà Nẵng

Bảng 1: Tình hình mua ngoại tệ theo loại tiền tệ của Chi nhánh Đà Nẵng - NH Sacombank

Đơn vị tính: Triệu đồng

Ngoại tệ Năm 2010 Quí 3 Năm 2011Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%)

USD 838.574 81,38 964.360 64,54 EUR 153.165 14,86 486.011 32,53 AUD 25.048 2,43 27.052 1,81

(3 ngoại tệ chiếm tỉ trọng cao nhất)

Bảng 2: Tình hình bán ngoại tệ theo loại tiền tệ của Chi nhánh Đà Nẵng - NH Sacombank

Đơn vị tính: Triệu đồng

Ngoại tệ Năm 2010 Quí 3 Năm 2011Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%)

USD 838.658 81,38 942.885 66,3

14

Page 15: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

EUR 153.499 14,9 439.796 30,92 AUD 25.059 2,43 23.766 1,67

Bảng 3: Tình hình bán ngoại tệ theo loại sản phẩm của Chi nhánh Đà Nẵng - NH Sacombank

Đơn vị tính: Triệu đồng

Nghiệp vụ Năm 2010 Quí 3 Năm 2011Mua Bán Mua Bán

Spot 1.030.468 1.018.322 1.494.179 1.392.260Forward 0 12.217 0 29.884Tổng 1.030.46 1.030.539 1.494.179 1.422.144

Hiện nay, tỉ giá vẫn luôn biến động, rủi ro tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh ngoại hối đối với các NH là rất lớn, vì vậy, bản thân mỗi NH phải tự mình đưa ra các biện pháp thích hợp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động ngoại hối của mình

Ở các nước, vai trò của quản trị nội bộ ngân hàng được đánh giá rất cao vì ngân hàng là một ngành kinh doanh nhạy cảm và thường xuyên đối mặt nhiều rủi ro, đặc biệt vấn đề đảm bảo khả năng thanh toán và chất lượng dịch vụ cung cấp. Ở Việt Nam, quản trị nội bộ đã được quan tâm nhiều hơn trong thời gian gần đây. Song những biến động bất thường thời gian qua đã khiến các nhà ngân hàng chú trọng hơn đến quản trị nội bộ.

Song cái khó trong quản trị nội bộ ngân hàng không chỉ nằm ở nguồn nhân lực mà còn ở yếu tố công nghệ. Bởi nếu không có công nghệ thông tin thì hầu như các thông tin mà DN quản trị là rời rạc và không kịp thời. Nhờ công nghệ thông tin, ngân hàng quản lí được các thông tin quan hệ trong nội bộ và hoạt động tác nghiệp đang xảy ra trong ngân hàng và có được các thông tin hỗ trợ cho quản lý và điều hành. Tuy nhiên, để có một hệ thống công nghệ thông tin như vậy không phải NHTM nào cũng có đủ tiềm lực tài chính để đầu tư.

3. Định hướng giải phápThứ nhất, QTNH - cần một bộ luật hoàn chỉnh.

Hội nhập quốc tế đã mở ra cơ hội để ngành ngân hàng trao đổi hợp tác, tiếp cận các luồng vốn và trợ giúp kỹ thuật quốc tế cho ngân hàng Việt Nam, góp phần làm cho quản trị của hệ thống ngân hàng Việt Nam phù hợp hơn với trình độ và chuẩn mực quốc tế. Song QTNH cần đứng trên giác độ tổng thể từ quản trị mục tiêu - chiến lược đến tổ chức - hoạt động và đặc biệt là quản trị rủi ro mới mang lại sự an toàn cho NHTM. Để tạo một sự thay đổi có tính chiến lược về QTNH, một bộ Luật rành rẽ thay cho Nghị định là cần thiết.

15

Page 16: Vấn đề quản trị ngân hàng thương mại ở Việt Namdulieu.tailieuhoctap.vn/books/luan-van-de-tai/luan-van... · Web viewVấn đề quản trị ngân hàng thương

Thứ hai, cơ cấu lại mô hình tổ chức của ngân hàng

Mô hình tổ chức của một số NHTM hiện nay thích hợp trong điều kiện hoạt động với qui mô nhỏ, mức độ tập trung quyền lực cao. Khi một NHTM có qui mô ngày càng lớn với số lượng chi nhánh ngày càng nhiều, khối lượng và tính chất công việc ngày một phức tạp hơn thì mô hình tổ chức như vậy sẽ bộc lộ những hạn chế, nhất là trong việc tổ chức và bố trí các phòng nghiệp vụ cả ở cấp trung ương và chi nhánh hiện đang phân cấp quản lý theo loại hình nghiệp vụ, chưa chú trọng quản lý theo thị trường và đối tượng phục vụ. Rõ ràng, với áp lực cạnh tranh, yêu cầu chuẩn hoá hoạt động tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả đang là đòi hỏi đối với cả các ngân hàng lớn cũng như các ngân hàng quy mô nhỏ.

Thứ ba, nâng cao năng lực quản trị nội bộ của các NHTM

Năng lực quản trị, đặc biệt là năng lực quản trị nội bộ của ngân hàng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, QTNH nói chung và quản trị rủi ro nói riêng, cần dựa trên một số nguyên tắc sau: nguyên tắc chấp nhận rủi ro; nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép; nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt; nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính; nguyên tắc hiệu quả kinh tế, nguyên tắc hợp lý về thời gian và phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng v.v… Để thực hiện tốt những nguyên tắc này, ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài sản có theo nguyên tắc của Uỷ ban Basel, xây dựng văn hoá quản trị lành mạnh, tạo môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc và thông lệ quản trị rủi ro, các NHTM cần chú trọng nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ trên cơ sở áp dụng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, để phát hiện những tiềm ẩn rủi ro, có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm tra, kiểm soát nội bộ dễ đánh mất tính sáng tạo trong công việc.

 

Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm, trong đó cần chú trọng áp dụng mô thức quản trị DN hiện đại theo thông lệ quốc tế, hướng tới sự phát triển bền vững của cả hệ thống./.

16