100
Mọi chi tiết xin liên hệ: Địa chỉ: Số 404 đường Bưởi, Q. Ba Đình, Hà Nội * Tel: 04 37717665 * Fax: 04 37718875 Mobile: 0989.186.661 (Mr. Trung) * Email: [email protected] Website: http://www.camnangdoanhnghiep.com.vn; http://www.tinnhanh24.vn Dự kiến Lễ vinh danh và trao tặng diễn ra vào tháng 12 năm 2014 tại Thủ đô Hà Nội được truyền hình trực tiếp trên hoặc

Van hien so6 14

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Van hien so6 14

Mọi chi tiết xin liên hệ:Địa chỉ: Số 404 đường Bưởi, Q. Ba Đình, Hà Nội * Tel: 04 37717665 * Fax: 04 37718875

Mobile: 0989.186.661 (Mr. Trung) * Email: [email protected]: http://www.camnangdoanhnghiep.com.vn; http://www.tinnhanh24.vn

Dự kiến Lễ vinh danh và trao tặng diễn ra vào tháng 12 năm 2014 tại Thủ đô Hà Nộiđược truyền hình trực tiếp trên hoặc

Page 2: Van hien so6 14

Taïp chí xuaát baûn 02 kyø/thaùngGiaáy pheùp hoaït ñoäng baùo chí soá 397/GP- BVHTTVaø soá 41/GP - SÑBSGiaáy pheùp Quaûng caùo soá 1187/BC

TOØA SOAÏN TRÒ SÖÏ27 Höông Vieân, Q. Hai Baø Tröng, Haø NoäiÑT & Fax: (84.4)39.764.693

CHUÛ NHIEÄMGS. Hoaøng Chöông

TOÅNG BIEÂN TAÄPNhaø baùo Nguyeãn Theá Khoa

PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄP THÖÔØNG TRÖÏCNhaø baùo Traàn Ñöùc Trung

PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄPTs. Nguyeãn Minh San

TRÖÔÛNG BAN TRÒ SÖÏNhaø baùo Nguyeãn Hoaøng Mai

THÖ KYÙ TOØA SOAÏNNhaø baùo Traàn Thu HieànNhaø baùo Töø My Sôn

GIAÙM ÑOÁC ÑIEÀU HAØNHNhaø baùo Voõ Thaønh Taân

HOÄI ÑOÀNG BIEÂN TAÄPGS. Vuõ Khieâu - GS. Traàn Baûng - GSTS. Traàn Vaên Kheâ - Nhaø thô Nguyeãn Khoa Ñieàm - NS. Vuõ Maõo - GSVS. Hoà Só Vònh - GS. Tröôøng Löu - GSTS. Thaùi Kim Lan - TS.NSND Phaïm Thò Thaønh - NSND Ñaëng Nhaät Minh - TS. Ñoaøn Thò Tình - GSTS. Nguyeãn Thuyeát Phong - NB. Phaïm Ñöùc Löôïng - NB. Trung Ñoâng

BAN CHUYEÂN ÑEÀVAÊN PHOØNG BAN BIEÂN TAÄPSoá 64 Trung Hoøa (Soá 06 - Loâ 12B cuõ) Khu ÑTM Trung Yeân - Trung Hoøa - Caàu Giaáy - Haø NoäiÑT: (84.4)37.83.1961 - 37.83.1962Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn

VAÊN PHOØNG QUAÛNG CAÙO VAØ PHAÙT HAØNHSoá 404 Ñöôøng Böôûi, Q. Ba Ñình - TP. Haø NoäiÑT: 04. 3 7717665 * Fax: 04. 3 7718875; Mobile: (+84)989.186661Email: [email protected]: www.vanhien.net; www.tinnhanh24.vn

VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI TP. HCM288B An Döông Vöông - Q. 5 - TP. HCMÑT: (84.8)38.353.878

VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI ÑAØ NAÜNGTaàng 5 Khaùch saïn Eiffel -117 Leâ Ñoä - TP. Ñaø NaüngÑT: (84.511)647.529 - Fax: (84.511)811.972Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn

Trình baøy - De. Quang Anh

TAØI TRÔÏ PHAÙT HAØNHDoanh nghieäp saùch Thaønh nghóa - TP. HCM

In Taïi - Coâng ty TNHH MTV in Quaân ñoäi I

GIAÙ: 50.000VNÑ

nội dungSỐ 5+6 (256)-2014

CULTURE OF VIETNAM

SỰ KIỆN - BÌNH LUẬN4. Tuyên bố của Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hành động gây hấn, rút giàn khoan ra khỏi vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam5. Có phải “Người Trung Quốc không có gen xâm lược”?

Mạc Công Lý12. Lý Sơn - điểm tựa Hoàng Sa, Trường Sa

TS. Nguyễn Minh San21. Hùng binh Hoàng Sa - Huyền thoại về những người giữ đảo

San San26.Thơ: Lẫn lộn đến bao giờ

Nguyễn Thế Kỷ27. Mộ gió - Tượng đài bất tử về những người sống chết với Hoàng Sa

Ny San31. Hội thảo khoa học “Phạm Văn Đồng với văn hóa dân tộc”

NMS34. Hội thảo khoa học “Âm nhạc và Thơ với Điện Biên Phủ”

Châu Giang37. Mừng thọ nhà nghiên cứu - soạn giả Mịch Quang

NMSHIỀN TÀI ĐẤT VIỆT38. Phạm Văn Đồng - những câu chuyện nhỏ về một nhân cách lớn

TS. Vũ Ngọc Hoàng 41. Tấm gương tự học và sở học Phạm Văn Đồng

ThS. Phạm Ngọc Quang46. Cần xây dựng Khu tưởng niệm Phạm Văn Đồng thành một Địa chỉ văn hóa Phạm Văn Đồng

Hồ Nghĩa Dũng48. Anh Mịch Quang - Một nhà khoa học uyên bác - một người thầy trong ngành sân khấu Việt Nam

GS.AHLĐ Vũ Khiêu50. Sự nghiệp báo chí và quan niệm báo chí của Nhà thơ Chế Lan Viên

Phan Quang

Ảnh bìa 1: Tượng đài Đội Hoàng Sa Kiêm quản Bắc Hải, đảo Lý Sơn.Tác giả: Nguyễn Minh San

53. Nhạc sĩ Thuận Yến - một tài năng âm nhạc nổi trội, một người lính bình dị, một người bạn chân thành của mọi người

GS Hoàng Chương56. Nhớ Nhạc sĩ Hồ Quang Bình

Ts Phạm Việt LongTỪ TRONG DI SẢN58. Chữ hiếu và Đạo hiếu - Xưa & Nay

Phạm Đình Khanh63. Bắc Giang với việc bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ - Di sản văn hóa thế giới

Nguyễn Thuỳ Linh68. Miếu Bà Chúa Xứ - điểm du lịch tâm linh thu hút nhất ở Nam Bộ

Nguyễn Minh Hoàng DIỄN ĐÀN73. Phải làm gì để văn học nghệ thuật có những tác phẩm đỉnh cao trong giai đoạn hiện nay

Nhà văn Chu Lai 77. Uống rượu Mao Đào nhớ tới rượu Bàu Đá

Gs. Hoàng ChươngVÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG79. Tổng Công ty khí VN - Không ngừng lớn mạnh cùng đất nước

Mộng HuệDOANH NHÂN TÂM - TÀI81. Công ty TNHH MTV phân đạm và hóa chất Hà Bắc: Một doanh nhân hết lòng vì người lao động

Quang Hòa83.Trường Cao Đẳng Công Nghiệp Tuy Hòa: Tâm huyết của một người thầy

Trúc Lam85. Công ty CP Bourbon Tây Ninh: Nữ doanh nhân trẻ tuổi tài cao

Đại Miêu86. Công ty CP Tập Đoàn Hà Đô: Nỗ lực của một nhà quản lý xuất sắc

Trúc LamTHƯƠNG HIỆU - NHÃN HIỆU - TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA 89. Tổng Công ty Cp Dịch Vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam: Chinh phục công nghệ cao

Mộng Huệ

Page 3: Van hien so6 14

EVENTS & COMMENTS4. Declaration by Vietnam Union for Scientific & Technology Associations to China to put an end its provocation and aggressive actions, move the oil rig out of the EEZ of Vietnam.5. Is “The Chinese do not have the invading gene” truth?

Mac Cong Ly12. Ly Son: Fulcrum for Spratly, Paracel islands

Dr. Nguyen Minh San21. Hoang Sa brave soldiers - Legend on those who defend the Island

San San26. Verse by Nguyen The Ky27. Tomb of the wind - Immortal monument to those who live and die with Paracel

Ny San31. Scientific Conference on “Pham Van Dong with national culture”

NMS 34. Scientific Conference on “Music and Poems with Dien Bien Phu”

Chau Giang37. 98th Longevity Congratulation on author - researcher Mich Quang

Contentsnumber 5+6 (256) - 2014

85. Bourbon Tay Ninh Joint Stock Company: A talented, young businesswoman

Dai Mieu86. Ha Do Group JS Corporation: An effort by an excellent manager

Truc LamTRADEMARK - BRAND NAMEBY CULTURAL VIEW89. Vietnam petroleum engineering services JS Cor.: Conquering high-tech

Hue MongLIFE AROUND US91. Portrait of an art-loving business-woman

Hoang Bich Ngoc93. Mac Tuyen with “Europe under Sunset”

Prof. Hoang Chuong95. Tran Duc Trung who organize vari-ous programs for the development of communication and business commu-nity99. On a Pagoda’s special incense stick carer

Tu Dan

NMSTALENTS OF VIETNAMESE LAND38. Pham Van Dong - Small stories about a big personality

Dr. Vu Ngoc Hoang 42. The self-studying example of Pham Van Dong

Mas. Pham Ngoc Quang 47. Need to build Pham Van Dong Memorial Place into Pham Van Dong cultural center

Ho Nghia Dung 49. Big brother Mich Quang - An erudite scientist, a teacher of Vietnam’s theater

Prof. Labour Hero Vu Khieu50. The newspaper career and own conceptions of the poet Che Lan Vien

Phan Quang 53. Musician Thuan Yen - An outstanding musical talent, a simple soldier, an honest friend of us

Prof. Hoang Chuong 56. Memories on musician Ho Quang Binh

Dr. Pham Viet LongINSIDE HERITAGE58. Filial piety and filial Tao - Now & Then

Pham Dinh Khanh 63. Bac Giang with preservation and promotion of Quan Ho Folk-song - World Cultural Heritage

NMS 68. Ms. Chua Xu Temple - The most attractive spiritual tourist spot in Southern

Nguyen Minh HoangFORUM73. What to do to create peak literary - artistic works in the current period

Writer Chu Lai 77. Drink Mao Dai liquor, remember Bau Da one

Prof. Hoang ChuongFOR THE COMMUNITY DEVELOPMENT79. Vietnam Gas Corporation - Growing constantly along with country

Hue MongBUSINESSMAN HEART - TALENT81. Ha Bac Chemicals & Fertilizer One Member Company Limited: A devoted businessman to employees

Quang Hoa 83. College Tuy Hoa of Industry: A kind-hearted teacher

Truc Lam

ĐỜI SỐNG QUANH TA91. Phác họa chân dung một nữ doanh nhân yêu văn nghệ

Hoàng Bích Ngọc93. Mác Tuyên với “Châu Âu dưới ánh hoàng hôn”

GS. Hoàng Chương95. Trần Đức Trung - người tổ chức thực hiện nhiều chương trình truyền thông lớn vì sự nghiệp phát triển doanh nghiệp và cộng đồng

Bình Nguyên99. Về một nữ thủ nhang đặc biệt

Tử Đan

Page 4: Van hien so6 14

Từ ngày 01 tháng 05 năm 2014, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan Hai Yang Shi You 981 đến đặt tại tọa độ 15029’58’’ vĩ độ Bắc -

111012’06’’ kinh độ Đông để tiến hành khoan thăm dò trong thềm lục địa của Việt Nam; đồng thời huy động một số lượng lớn tàu thuyền hộ tống đi cùng trong đó có cả các tàu quân sự. Vị trí đặt giàn khoan nằm sâu vào trong thềm lục địa của Việt Nam 80 hải lý theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), cách đường cơ sở của Việt Nam 119 hải lý. Nguy hiểm hơn, các tàu hải cảnh, hải giám của Trung Quốc đã liên tục dùng vòi rồng tấn công và đâm vào các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư của Việt Nam. Trong những ngày qua, Trung Quốc tiếp tục gia tăng các tàu và máy bay đến hoạt động tại khu vực này, làm cho tình hình diễn biến ngày càng căng thẳng.

Các hành động nêu trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, vi phạm luật pháp và thông lệ quốc tế, đi ngược lại tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN, vi phạm thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, tác động tiêu cực tới quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác Việt Nam - Trung Quốc đang tiến triển tốt đẹp trong thời gian qua, làm phức tạp tình hình, ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định và tự do hàng hải trên Biển Đông.

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, các tổ chức thành viên và đội ngũ trí thức Việt Nam hết sức quan ngại trước tình hình trên, cực lực phản đối các hành động sai trái của Trung Quốc và yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam, không tái diễn các hành động tương tự trong tương lai, nghiêm chỉnh tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho rằng hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển là lợi ích chung của tất cả các dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi hành xử văn minh, có trách nhiệm của các quốc gia trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền lãnh thổ và lợi ích hợp pháp của các nước khác. Mọi yêu sách không có cơ sở pháp lý và nhất là hành động đơn phương sử dụng sức mạnh xâm hại chủ quyền của các nước khác là không thể chấp nhận.

Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam khẳng định mong muốn giữ gìn, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống giữa hai quốc gia, giữa trí thức của hai nước; kêu gọi Hiệp hội Khoa học kỹ thuật Trung Quốc, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN, trí thức Trung Quốc và các nước lên tiếng bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật quốc tế, góp phần giữ gìn hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới./.n

TUYÊN BỐCỦA LIÊN HIỆP CÁC HỘI

KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT VIỆT NAM

VỀ VIỆC TRUNG QUỐC ĐẶT GIÀN KHOANTRÁI PHÉP TRONG VÙNG BIỂN VIỆT NAM

4

Page 5: Van hien so6 14

?

Đúng ngày 01/5/2014, giữa lúc giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đang tận hưởng ngày Quốc tế Lao động,

giữa lúc dư luận cả thế giới đang hướng sự chú ý vào tình hình Ucraina và việc Nga sát nhập bán đảo Crưm vào Liên bang Nga bị Mỹ và các nước phương Tây lên án, cô lập và thực thi nhiều biện pháp trừng phạt; giữa lúc cán bộ, công chức và người lao động Việt Nam đang trong những ngày nghỉ lễ 5 ngày liền, thì Trung Quốc đã cắm giàn khoan HD 981 có giá tỷ đô tiến hành khoan thăm dò dầu khí trong thềm lục

địa của Việt Nam. Nguy hiểm hơn, Trung Quốc đã làm một việc chưa có tiền lệ trên thế giới là huy động một số lượng lớn, có lúc tới trên 120 tàu thuyền hộ tống, trong đó có nhiều tầu quân sự tên lửa hành trình, và cả máy bay quân sự. Các tầu hải cảnh, hải giám và cả tầu quân sự vỏ sắt giả làm tầu cá của Trung Quốc liên tục dùng vòi rồng tấn công và chủ động đâm vào các tàu chấp pháp nhỏ bé của Việt Nam, làm nhiều tầu của Việt Nam bị hư hỏng, cán bộ, chiến sĩ bị thương. Hành động trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và

l MẠC CÔNG LÝ

“NGƯỜI TRUNG QUỐCKHÔNG CÓ GEN XÂM LƯỢC”

CÓ PHẢI

Tàu cá ĐNa-90152 của ngư dân TP Đà Nẵng bị tàu Trung Quốc đâm chìm khi đang đánh bắt tại ngư trường Hoàng Sa ngày 26/5

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

5

Page 6: Van hien so6 14

quyền tài phán đối với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, vi phạm luật pháp và thông lệ quốc tế, đi ngược lại tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN, vi phạm thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, tác động tiêu cực tới quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác Việt Nam - Trung Quốc, làm phức tạp tình hình, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định và tự do hàng hải trên Biển Đông. Không nước nào trên thế giới ủng hộ hành động trên của Trung Quốc, trái lại, đều cho rằng chính Trung Quốc là thủ phạm gây hấn, thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, và yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan HD 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Vậy mà, trên một diễn đàn quốc tế mà Trung Quốc là chủ nhà, một vị ở Trung Nam Hải lại cho rằng: “Người Trung Quốc không có gen xâm lược”.

Có đúng “ Người Trung Quốc không có gen xâm lược”, như lời vị này nói không? Không kể các nước có chung đường biên giới với Trung Quốc mà Trung Quốc đã thực thi chính sách “Viễn giao, cận công”, chỉ bằng thực tiễn quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong suốt lịch sử hàng ngàn năm qua, cùng với những kết quả nghiên cứu về nhân cách / nhân tính người Trung Quốc của chính các học giả Trung Quốc, có thể khẳng định rằng, lời của ông Tập trên đây chỉ là sự bao biện, cố tình lòe bịp những người thiếu thông tin và nhẹ dạ, để khi họ tỉnh ngộ ra thì hỡi ôi, người Trung Quốc đã chiếm xong nhà mình, đuổi mình ra khỏi nhà rồi.

Người Trung Quốc có gen xâm lược! Người Trung Quốc có tư tưởng bá quyền nước lớn! Xa xưa đã thế và, hiện nay không hề thay đổi, nếu không muốn nói

là còn hung hăng hơn, ngông cuồng hơn. Một thực tế lịch sử mà Trung Quốc không thể che

đậy được là một nghìn năm Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam, âm mưu đồng hóa dân tộc Việt Nam, biến Việt Nam thành quận, huyện của Trung Quốc. Vào thế kỷ thứ X, Việt Nam đã xây dựng quốc gia độc lập với Trung Quốc, với “Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác”. “Đất đai nước Nam vua Nam ở”, nhưng Trung Quốc lúc nào cũng lăm le xâm lược Đại Việt. Trước một lân bang khổng lồ luôn uy hiếp nền độc lập quốc gia của mình, nhân dân Việt Nam quyết không chịu lệ thuộc, không chịu bị đô hộ. Nhân dân Việt Nam đã đứng lên kháng chiến, đánh bại mọi cuộc xâm lược của Trung Quốc, bảo vệ lãnh thổ và nền độc lập của mình. Vì thế, lịch sử của đất nước Việt Nam là lịch sử của rất nhiều cuộc kháng chiến chống xâm lược Trung Quốc, khẳng định độc lập đối với Trung Hoa. Độc lập đối với Trung Quốc, không lệ thuộc vào Trung Quốc - đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc.

Mở đầu cho lịch sử Trung Quốc xâm lược Việt Nam sau khi Việt Nam giành độc lập, là vào năm 938, vua Nam Hán là Lưu Cung sai con là Lưu Hoằng Thao đem một đạo binh thuyền, qua vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng xâm lược Việt Nam. Đích thân vua Nam Hán cầm đầu một đạo quân đóng ở trấn Hải Môn (huyện Bình Lạc, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) để phô trương thanh thế và tiếp ứng khi cần thiết. Để phá quân giặc “có lợi ở thuyền” này, Ngô Quyền đã tổ chức một cách đánh mà trong lịch sử chiến tranh hải quân thế giới, và ngay cả Binh pháp Tôn Tử của Trung Quốc cũng không hề dạy, là sử dụng cọc nhọn cắm dưới lòng sông, lợi dụng thủy triều lên,

Tàu Kiểm ngư Việt Nam bị tàu của Trung Quốc đâm ngày 7-6. Nguồn: Cục Kiểm ngư Việt Nam

Tàu Kiểm ngư Việt Nam đang làm nhiệm vụ chấp pháp tại khu vực gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị tàu của Trung Quốc phun vòi rồng

6

Page 7: Van hien so6 14

xuống để đâm thủng thuyền địch. Hàng vạn cây gỗ lớn vót nhọn, đầu bịt sắt đó được bí mật đóng ngầm ở cửa sông Bạch Đằng. Khi nước thủy triều dâng cao, những chiếc cọc gỗ bị chìm dưới nước, khi nước thủy triều xuống, những chiếc cọc gỗ nhọn hoắt này sẽ nhô tua tủa trên mặt sông. Ỷ thế binh hùng tướng mạnh, vào lúc thủy triều dâng cao, lại được gió mùa Đông Bắc thổi mạnh, Hoằng Thao chỉ huy đội chiến thuyền hiện đại, hùng hổ tiến vào vùng biển ngoài cửa sông Bạch Đằng. Quân giặc vô cùng chủ quan, thúc quân thẳng tiến. Về phía Ngô Quyền, ông chỉ sai tướng cho một số thuyền nhỏ, nhẹ, có sức cơ động nhanh, ra ngoài cửa biển giả vờ đón đánh, làm nhiệm vụ nhử địch. Những chiến thuyền của ta vừa đánh, vừa vờ thua chạy, cho đến lúc thủy triều lên thì rút vào cửa sông Bạch Đằng. Đang hăng máu và tưởng quân ta thuyền bé không địch nổi phải thua chạy, quân Nam Hán hò reo, căng hết buồm đuổi theo thuyền quân ta mà không hề phòng bị gì. Cứ thế, quân ta đã dụ cả đoàn chiến thuyền to lớn, chở hàng vạn quân của giặc trùng trùng vượt qua trận địa cọc cắm dưới cửa sông. Vờn nhau cho đến khi nước thủy triều xuống mạnh, các thuyền nhỏ liền quay mũi đánh lại chiến thuyền giặc, cùng lúc các cánh quân thủy với những thuyền lớn hiện đại, phối hợp cùng các trận địa mai phục hai bên bờ theo lệnh Ngô Quyền nhất loạt vào trận với khí thế xung thiên. Đoàn chiến thuyền giặc trên sông Bạch Đằng bị những chiến thuyền lớn của thủy quân Đại Việt đánh vỗ mặt, hai bên sườn bị hàng vạn cung nỏ trên các vách núi ven bờ bắn vào, khiến đội hình rối loạn, quân Nam Hán không chống cự nổi, quay thuyền bỏ chạy. Khi ấy, nước triều xuống đang chảy xiết, trận địa cọc nhô lên tua tủa trên mặt nước, thuyền lớn lại chở nặng của quân Hán đâm vào cọc nhọn, bị vỡ, bị đắm nhiều không kể xiết. Nhiều tên giặc liều chết nhảy xuống sông bơi vào bờ, đều bị quân và dân ta đón lõng tóm gọn. Chủ tướng Hoằng Thao và hàng vạn quân giặc bỏ mạng trên sông. Nghe tin đại quân bị đánh tả tơi, con trai bị giết, vua Nam Hán hoảng sợ, bỏ mặc binh lính, lui về kinh đô.

Sau thất bại năm 938, Trung Quốc vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam. Vào mùa xuân năm 981, nghĩa là chỉ hơn 40 năm sau thất bại nhục nhã của nhà Hán, nhà Tống lại sai đại quân sang xâm lược nước ta. Đội quân Tống chia hai đường, một cánh vượt biên giới vào Lạng Sơn theo đường bộ đánh xuống, một cánh theo đường thủy qua vịnh Hạ

Long vào cửa Bạch Đằng, rồi hợp nhau tiến đánh Thăng Long. Thủy quân giặc do Lưu Trừng và Giả Thực chỉ huy. Trước tình thế đất nước nguy cấp, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Hoàn đã tự mình thống lĩnh ba quân tiến hành kháng chiến chống Tống. Vận dụng kinh nghiệm thắng giặc Nam Hán năm xưa, sông Bạch Đằng lại được Lê Hoàn chọn làm điểm đánh đòn phủ đầu quân giặc. Ông cho đóng cọc nhọn, bài binh bố trận chống giặc. Và, một lần nữa thủy quân nhà Tống đã bị chặn đánh quyết liệt, bị tiêu diệt gần hết, buộc phải tháo chạy về nước. Trong khi đó, cánh quân bộ của địch ở Lạng Sơn cũng bị đánh tan tành, tướng giặc là Hầu Nhân Bảo bị giết, nhiều tướng khác bị giết hoặc bị bắt sống. Trận Bạch Đằng khiến cho nhà Tống khiếp sợ, gần 100 năm sau không dám phát động cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt.

Những tưởng với hai bài học thất bại nhục nhã ấy, Trung Quốc sẽ không bao giờ dám xâm lược nước ta, dám chọn sông Bạch Đằng để làm đường tiến quân vào nước ta nữa. Nhưng do âm mưu bành trướng đã ăn trong máu, lại cậy nước lớn, binh hùng tướng mạnh, chúng đã phớt lờ những bài học thất bại của tổ tiên chúng. Tháng 12 năm 1287, quân Nguyên Mông vốn đã bị Hán hoá, sẵn mộng viễn chinh, lại được khích lệ của tư tưởng Đại Hán chia thành 3 đạo tiến đánh nước ta. Ngoài 2 đạo theo đường bộ, lần này chúng cho một đạo thủy binh tinh nhuệ từ biển cũng theo đường sông Bạch Đằng tiến vào. Đạo quân này do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thống lĩnh. Sông Bạch Đằng lại được Trần Hưng Đạo chọn làm trận địa mai phục đại qui mô để chôn vùi đạo quân thủy của giặc cũng chính bằng nghệ thuật sử dụng cọc nhọn, lợi dụng thủy triều lên xuống để đâm thủng thuyền giặc. Có tới hàng ngàn cọc được đóng xuống lòng sông, mà ngày nay, dấu tích còn lại cũng đến trên 500 chiếc. Ngày 30/3/1288, 500 chiến thuyền của Ô Mã Nhi từ Vạn Kiếp bắt đầu tháo chạy ra biển. Ngày 9/4/1288, đoàn chiến thuyền giặc theo sông Đá Bạch tiến vào sông Bạch Đằng. Bấy giờ nước triều còn cao, che lấp những bãi cọc đóng ngang sông Tranh, sông Kênh, sông Rút. Một bộ phận thủy quân của ta tiến ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp hạ lệnh cho thuyền đuổi theo. Đợi khi đoàn thuyền địch lọt vào trận địa phục kích, thủy quân nhà Trần từ chân núi Tràng Kênh đánh tạt sườn thủy quân địch. Từ các ngả sông khác thủy quân Trần đánh vỗ mặt thủy quân địch. Bị đánh dữ

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

7

Page 8: Van hien so6 14

dội tứ phía, Ô Mã Nhi vội vã cho thuyền lao về phía tả ngạn sông Bạch Đằng để vượt qua sông Tranh, sông Kênh, sông Rút hòng thoát thân. Chúng có ngờ đâu rằng chính những nơi ấy quân dân nhà Trần đã giăng bẫy, hàng hàng cọc nhọn dưới lòng sông đang chờ sẵn. Lúc ấy, nước triều sông Bạch Đằng đang xuống nhanh, nước chảy xiết. Hàng vạn cọc nhọn cắm chắc dưới lòng sông nhô lên trên mặt nước tua tủa. Đoàn thuyền địch một mặt bị quân Trần đánh quyết liệt đang hoảng loạn tìm cách chạy tháo thật nhanh, một mặt theo đà dòng nước chảy xiết, đã đâm sầm vào các bãi cọc nhọn. Hàng trăm thuyền giặc bị vỡ tan, bị đắm tại chỗ. Hàng trăm chiếc khác bị ùn lại, xô đẩy vào nhau, nghiêng ngả, hoảng loạn. Đó là thời khắc bộ binh Trần mai phục trong những cánh rừng phía tả ngạn sông Bạch Đằng bắt đầu xông trận. Một trời gươm giáo sáng loáng. Một trời tên bay vun vút, đạn đá ào ào. Hàng trăm thuyền nhẹ chất đầy cỏ khô, dầu thông châm lửa lao vào thuyền giặc. Thuyền địch bốc cháy ngùn ngụt, cùng tiếng trống trận dục giã, tiếng hô “sát thát” của đại quân Trần vang trời, dậy đất. Hàng vạn quân địch chết trước lưỡi kiếm, mũi tên, hòn đạn của quân ta

hoặc bị chìm dưới làn nước đỏ ngầu máu. Chủ tướng giặc là Ô Mã Nhi bị dũng tướng Yết Kiêu từ dưới nước đến đục thuyền bắt sống. Tướng giặc Phàn Tiếp bị trúng tên, nhảy xuống nước, cũng bị quân ta dùng câu liêm móc lên. Vô số quân giặc bị vùi xác dưới đáy sông Bạch Đằng. Quân ta thu được hơn 400 chiến thuyền. Trận đánh rung trời, chuyển đất của quân dân nhà Trần ngày 9/4/1288 trên sông Bạch Đằng đã đập tan dã tâm xâm lược của đế quốc Nguyên - Mông, một tên đế quốc hung hãn nhất thế giới vào thế kỷ XIII, đang thống trị Trung Quốc. Nền độc lập, thái bình của quốc gia Đại Việt từ đây thêm vững chắc, “Non sông ngàn thủa vững âu vàng” (thơ Trần Nhân Tông).

Bạch Đằng với 3 lần dậy sóng nhấn chìm hàng vạn quân xâm lược, làm cho kẻ thù mỗi khi nghe đến Đại Việt phải khiếp sợ:

“Đến nay nước sông tuy chảy hoàiMà nhục quân thù không rửa nổi!” (Bạch Đằng giang phú - Trương Hán Siêu) Bởi trong máu có “gen xâm lược”, nên mặc dù

bị thất bại ê chề và nhục nhã, song những thế hệ bạo chúa Trung Quốc tiếp theo vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lăng Việt Nam. Năm 1407, nhà Minh xâm chiếm nước ta, đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, áp đặt bộ máy cai trị của Bắc triều. Song, một lần nữa, nhân dân Việt Nam không cam chịu làm nô lệ cho Trung Quốc. Tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi từ đất Lam Sơn (Thanh Hóa) phất cờ khởi nghĩa tiêu diệt quân Minh. Sau 10 năm kháng chiến, Lê Lợi đã vây chặt quan quân nhà minh ở Đông Quan - sào huyệt quan trọng cuối cùng của giặc. Bị dồn vào thế bị tiêu diệt, không đường thoát, tham sống, sợ chết, Vương Thông đã xin hàng. Mặc dù đã cầm chắc chiến thắng, nhưng với lòng từ tâm muốn “mở đường hiếu sinh” và giữ thể diện cho nước lân bang khổng lồ bị bại trận, và đã chấp nhận lui binh, Lê Lợi đã chấp thuận cho chúng đầu hàng. Song, biết rõ bản chất lật lọng “đánh chết cái nết không chừa” của giặc phương Bắc, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã bắt bại tướng Vương Thông phải làm lễ ăn thề. Vương Thông đã chấp nhận cùng Lê Lợi làm lễ ăn thề chấm dứt chiến tranh, mang lại hòa bình cho hai dân tộc. Đúng ngày 22/11 năm Đinh Mùi (ngày 10/12/1427), bại tướng Vương Thông cùng một số tướng tá ra một địa điểm do Lê Lợi bố trí ở phía Nam thành Đông Quan cùng Lê Lợi làm lễ ăn thề. Tại lễ này, Vương Thông đã thề “Về phía bọn Tổng binh Thành Sơn hầu Vương

Bà Triệu cưỡi voi đánh đuổi giặc Ngô (năm 248). Ảnh: Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Tuấn Long sách lịch sử của NXB Văn hóa - Thông tin

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

8

Page 9: Van hien so6 14

Thông nếu không có lòng thực, tự làm trái lời thề, nhất là khi người phục dịch và thuyền bè đã sắp rồi, cầu đường cũng đã sửa xong rồi mà không làm theo lời bàn, nghĩa là không lập tức đem quân về nước, cứ kéo dài năm tháng để đợi viện binh hoặc giả là khi về đến triều đình mà tâu sai sự lý, không sợ thần linh sông núi nước An Nam, hoặc bàn khác đi, hoặc cho quân cướp phá dọc đường thì Trời, Đất cùng Danh Sơn, Đại Xuyên và Thần Kỳ các xứ, tất đem bọn quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà cùng thân thích, đều làm cho chết hết và cả đến lũ quan quân cũng không một ai được sống trở về”. Lịch sử ghi đó là Lễ ăn thề Đông Quan ngày 10/12/1427. Sau Lễ ăn thề Đông Quan, trong vòng 362 năm dưới triều nhà Minh và tiếp đó là nhà Thanh (lên thay nhà Minh năm 1616), tuy thỉnh thoảng vẫn cho quân sang lấn chiếm đất đai biên giới nước ta, song về cơ bản Trung Quốc đã “giữ lời hứa” không xua quân sang xâm lược nước ta. Đó cũng là khoảng thời gian nhân dân ta được hưởng hòa bình, nền độc lập dân tộc không bị Trung Quốc xâm lược lâu dài nhất trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.

Là đất nước của Nho giáo, của Đạo giáo, những tưởng người Trung Quốc biết sợ, biết xấu hổ, biết giữ thể diện, biết giữ lời thề Đông Quan, qua đó tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, chung sống hòa bình, vun đắp tình hàng xóm láng giềng song, thực tế lại không như vậy. Sau 362 năm ngày Vương Thông đại diện cho những kẻ bại trận nhà Minh đọc tuyên thệ không xâm lược Việt Nam, đầu năm 1789, nhà Thanh (lật đổ nhà Minh lên trị vì Trung Quốc năm 1616), đã xua 20 vạn quân viễn chinh sang xâm lược Việt Nam. Tiếp nối truyền thống chống giặc Trung Quốc xâm lược, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Quang Trung - Nguyễn Huệ đã thống lĩnh các đạo quân thủy bộ tiến hành cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc Thanh, với lời hiệu triệu: “Đánh cho để dài tócĐánh cho để răng đenĐánh cho nó chích luân bất phảnĐánh cho nó phiến giáp bất hoànĐánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”

Quang Trung đã tự mình thống lĩnh đại binh, theo các đường thủy, bộ thần tốc, táo bạo, đánh như vũ bão vào các cứ điểm của địch trên đường vào Thăng Long. Sau 5 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, tượng binh và “rồng lửa” của Quang

Trung đã san phẳng lá chắn cứ điểm Ngọc Hồi, để thẳng tới kinh thành Thăng Long. Đúng ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu (1789), Hoàng đế Quang Trung khoác chiến bào nhuốm đỏ máu giặc, cưỡi voi chiến vào thành Thăng Long. Những tàn binh quân Thanh sống sót về nước mà vẫn tim đập, chân run, gây cho dân chúng Trung Quốc ở các tỉnh biên giới với Việt Nam vô cùng hoảng loạn, sợ Quang Trung thừa thế chẻ tre đánh thốc sang, dẫm đạp lên nhau chạy trốn. Sau chiến thắng Kỷ Dậu năm 1789 cho đến khi triều đình Mãn Thanh bị đánh đổ năm 1911, bởi cuộc Cách mạng Tân Hợi, tức 122 năm sau, nhà Thanh không dám cho quân sang xâm lược nước ta. Nghĩa là, trong 295 năm tại vị, nhà Thanh chỉ một lần mang đại quân sang xâm lược nước ta, và chúng đã bị đánh tan tành.

Sau sai lầm vì bội ước lời thề Đông Quan của phong kiến nhà Thanh, bị đánh tơi bời phải thua chạy về nước, những tưởng nước Trung Hoa mới thành lập năm 1949, cùng trong khối XHCN với nước ta, Đảng CS Trung Quốc cùng trong Quốc tế Cộng sản, cùng theo Chủ nghĩa Mác - Lênin với Đảng ta, “vừa là đồng chí, vừa là anh em”, Việt Nam và Trung Quốc “như môi với răng”, là “anh em một nhà”, và Trung Quốc sẽ tôn trọng lời thề tổ tiên ở Đông Quan năm nào, không xâm lược một nước Việt Nam có chủ quyền được thế giới công nhận nữa. Song, trên thực tế, những thế lực “diều hâu” trong Trung Nam Hải chẳng những không thức tỉnh từ lịch sử thất bại, đã bội ước, tiếp tục thực hiện bằng được giấc mơ bành trướng đô hộ Việt Nam của những bạo chúa tiền bối, khi liên tiếp tiến hành nhiều cuộc đánh phá nước ta.

Từ năm 1949 đến nay, trong 65 năm nước Trung Hoa mới tại vị dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Trung Quốc, nước Việt Nam chỉ có 25 năm không bị Trung Quốc gây chiến tranh xâm lược, còn lại 40 năm, từ năm 1974 đến 2014, số lượng những cuộc chiến tranh xâm lược, xâm phạm độc lập, chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc nhiều hơn bất cứ triều đại thời quân chủ bạo chúa nào của nước này. Đáng nói hơn, những cuộc chiến tranh đó là vô cùng ngỗ ngược, trắng trợn thể hiện rõ tư tưởng bá quyền Đại Hán. Năm 1974, cay cú vì những thắng lợi không thể đảo ngược của ta ở miền Nam, lợi dụng lúc chúng ta đang dồn sức cho giải phóng miền Nam, Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, lúc này đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền (hiện nay, nhiều tài liệu của

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

9

Page 10: Van hien so6 14

chính Trung Quốc phát hành đã chỉ đích danh Mao Trạch Đông là người trực tiếp chỉ đạo thực hiện cuộc xâm lược này). Trong trận hải chiến không cân sức giữ đảo đó, 74 chiến sĩ của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh. Bà Nguyễn Thị Lựa hiện nay 60 tuổi, hiện ở ấp Thới Khanh, xã Tân Thanh, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ, có chồng là Nguyễn Thành Trọng, một trong 74 chiến sĩ đó. Khi chồng hy sinh, bà mới 20 tuổi, mang thai đứa con đầu của ông. Khắc ghi mối thù quân Trung Quốc đã giết hại chồng, xâm chiếm biển đảo của Tổ quốc, bà đã đặt tên con trai là Nguyễn Hoàng Sa. Chỉ tính từ năm 1975 đến năm 1988, trong vòng 13 năm, không kể những cuộc gây nhũng nhiễu cho nhân dân ta ở biên giới Việt - Trung, chưa kể Trung Quốc hậu thuẫn, xúi giục quân Khơme Đỏ ở Campuchia đem quân xâm lược Việt Nam giết hại hàng ngàn đồng bào ta, Trung Quốc đã 2 lần đưa quân đội sang đánh chiếm lãnh thổ, giết hại nhân dân ta.

Những cuộc xâm lược Việt Nam của phong kiến Trung Quốc được sử sách Việt Nam và Trung Quốc ghi chép rất rõ và rất kỹ. Cứ cho là vị lãnh đạo Trung Nam Hải kia không thuộc lịch sử nước mình đi, song ông không thể không biết những gì mà nước Trung Hoa mới do Đảng CS Trung Quốc lãnh đạo đã làm đối với Việt Nam. Sự kiện ngày 17/2/1979 mà các ông nói là “dạy cho Việt Nam một bài học” chỉ có thể gọi đúng tên sự việc - Trung Quốc là kẻ xâm lược Việt Nam. Đó không phải là “gen xâm lược” đã chảy trong máu thế hệ các ông hay sao?!

Năm 1988, Hải quân Trung Quốc đã trắng trợn xâm lược quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, phá hủy 4 tầu chiến, giết hại gần 100 chiến sĩ hải quân Việt Nam ở đảo Gạc Ma và chiếm đóng

một số đảo thuộc chủ quyền Việt Nam ở quần đảo này. Trung Quốc sao có thể bao biện cho hành động xâm lược này. Vậy đó không phải là “gen xâm lược” đã chảy trong máu thế hệ các ông hay sao?!

Chính bởi có “gen xâm lược” trong huyết quản mà từ năm 2011 đến nay, bề ngoài, mồm cứ rêu rao, ru ngủ Việt Nam bằng “16 chữ vàng”, bằng “4 tốt”, song thực tế, Trung Quốc đã liên tục có hành động ngang ngược xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, như: ngang ngược tuyên bố chủ quyền Trung Quốc với “đường lưỡi bò” chiếm vào phần lớn chủ quyền biển, đảo của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á; xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, phá hoại các tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam; thành lập cái gọi là “Thành phố Tam Sa” với phạm vi quản lý bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam mà Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý để chứng minh hai quần đảo này thuộc chủ quyền Trung Quốc; chào thầu 9 lô dầu khí phi pháp hoàn toàn nằm trung vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Và, như phần trên tôi đã trình bày, từ ngày mồng 1/5/2014 đến nay, Trung Quốc đã cắm dàn khoan HD 981 trong vùng chủ quyền kinh tế của Việt Nam, thường xuyên có máy bay quân sự, trên dưới 100 tàu chiến, tàu hải giám, hải cảnh, tầu cá trá hình ngăn cản, đâm, phụt nước vào các tàu chấp pháp của Cảnh sát biển, Kiểm ngư Việt Nam, gây cho Việt Nam nhiều thiệt hại về người và kinh tế. Với những hành động ngang ngược, trắng trợn trên đây, Trung Quốc đã tự mình xé toạc bức mặt nạ được che đậy bởi những lời lẽ “trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc”, là “ngoại giao hòa thuận với các nước láng giềng” mà Trung Quốc vẫn ra rả nhằm đánh lừa dư luận thế giới, lừa dối nhân dân Trung Quốc. Những hành động ngang ngược, trắng trợn trên chính là bằng chứng nữa cho “gen xâm lược”, là tư tưởng bành trướng, giấc mộng bá quyền Đại Hán của các triều đại phong kiến Trung Quốc xưa được thế lực “diều hâu” ở Trung Nam Hải thực hiện. Trung Quốc không thể che đậy, bao biện, đổi trắng thay đen vu cáo Việt Nam, che đậy hành động xâm lược của Trung Quốc trong lịch sử và trong những ngày qua, mà thế giới khẳng định là theo lệnh của Trung Nam Hải, nhằm thực hiện cái gọi là “Giấc mơ Trung Hoa” của mình. Chính thế lực “diều hâu” ở Trung Nam Hải phải chịu trách nhiệm về “chủ nghĩa dân tộc hung hãn” mà Trung Quốc đã và đang thể hiện

Quân Tây Sơn đánh đuổi quân nhà Thanh (Trung Quốc) năm 1789. Ảnh: Tranh minh hoạ của hoạ sĩ Tạ Huy Long sách lịch sử của NXB Kim Đồng

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

10

Page 11: Van hien so6 14

trong thế kỷ XXI này. Những con số và những sự kiện lịch sử chưa xa

trên do Trung Quốc gây ra với Việt Nam, tự Trung Quốc đã cho Việt Nam, các nước Đông Nam Á, và cả Mỹ, Nhật Bản, Philippin, … thấy “mối đe dọa từ Trung Quốc” là thực tế xuyên suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc và ngày càng tăng.

Những bằng chứng trên không gì khác hơn là phải gọi bằng đúng khái niệm: “Gen xâm lược” luôn truyền trong máu của người Trung Quốc; nói đúng hơn là trong các bạo chúa phong kiến Trung Quốc xưa, trong những thế lực “diều hâu” trong Trung Nam Hải ngày nay.

Nếu các ông cho rằng vì tôi là người Việt Nam nên mới cho “Người Trung Quốc có gen xâm lược”, thì xin các ông nên một lần nghe các học giả có nhân cách nước ông nói về dân tộc mình, cũng đã tự nhận “Người Trung Quốc có gen xâm lược”. Trong cuốn sách “Người Trung Quốc và những căn bệnh trong nhân cách” của tác giả Hà Tông Tư, Nxb Công an nhân dân, dịch và xuất bản năm 2007, đã đăng bài viết của đại văn hào Lỗ Tấn, có đoạn, Lỗ Tấn viết: “Người Trung Quốc chúng ta bao giờ cũng nói rằng mình yêu hòa bình, nhưng thực ra lại thích đấu tranh, thích xem những thứ khác đấu tranh, cũng thích xem mình đấu mình” (tr 167). Ở một bài khác của Lỗ Tấn cũng đăng trong cuốn sách này, Lỗ Tấn cho biết, ông “vinh hạnh được đọc tác phẩm lớn của Trung lý giới sơn thị “Thư gửi China và quốc dân China”, trong đó nói, “Chu, Hán đều có tư chất kẻ xâm lược” (tr 620). Chỉ có những ai phớt lờ lịch sử, có “gen xâm lược” và nuôi dã tâm xâm lược, bá quyền trong máu thì mới phủ nhận ý kiến của những trí thức lỗi lạc Trung Quốc kia.

Thiết nghĩ, các thế lực “diều hâu” ở Trung Quốc nên lưu tâm đến tâm trạng bi đát của người lính già của đất nước ông từng nếm mùi thất bại khi xâm lược Việt Nam: “Lính già từng trải mùi chinh chiến / Nghe nói Nam chinh ủ mặt mày”. Các vị cũng nên nghe tâm sự của Trần Phu, vị sứ thần nhà Nguyên hàng chục năm sau trận thua trên sông Bạch Đằng, vừa đặt chân vào Việt Nam, chợt nghe tiếng trống đồng cứ ngỡ là tiếng trống trận Bạch Đằng năm xưa, vẫn còn giật mình:

“Kim qua ảnh lý tâm đan khổ / Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh”

Dịch là: “Bóng lòe gươm sắc lòng thêm đắng / Tiếng rộn

trống đồng tóc đốm hoa.”Phớt lờ một sự thực hiển nhiên rằng không chỉ

trong quá khứ, mà trong kỷ nguyên hiện đại này, Trung Quốc là kẻ xâm lược, là kẻ có tội với dân tộc Việt Nam, là một sự đáng xấu hổ, mất nhân tính. Những người dân chân chính của Trung Quốc không chấp nhận thủ đoạn hèn hạ không xứng với vị thế của một nước lớn đó. Xin các vị hãy đối mặt và suy ngẫm sâu sắc về quá khứ Trung Quốc xâm lược Việt Nam - một quá khứ ô nhục bởi tất cả những cuộc xâm lăng đó đều bị dân tộc Việt Nam nhỏ bé đánh cho thất bại thảm hại, qua đó thực hiện các bước đi thực chất để sửa chữa các lỗi lầm nhằm tạo niềm tin cho Việt Nam và các nước.

Chắc các vị chưa thể quên nỗi nhục khi Trung Quốc từng bị nước khác xâm lược, hàng vạn phụ nữ bị bắt làm nô lệ tình dục. Chắc các vị cũng không thể nuốt nổi nỗi đau khi một phần lãnh thổ thiêng liêng của nước mình bị chia cắt hơn nửa thế kỷ, song không biết đến bao giờ mới thu về được. Xua quân xâm lược Việt Nam, chắc chắn Trung Quốc sẽ đi theo vết xe đổ của những tên bạo chúa xưa. Càng hung hăng ngông cuồng, ngang ngược và bất chấp đạo lý, luật pháp quốc tế, hình ảnh Trung Quốc càng xấu xí, càng bị cô lập trước nhân dân thế giới. Nếu những thế lực “diều hâu” ở Trung Quốc biết thức tỉnh từ bài học thất bại trong lịch sử, thì hãy từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, từ bỏ âm mưu phá hoại hòa bình, ổn định khu vực, phá hoại tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam - Trung Hoa.

Nhân dân Việt Nam quyết không sợ, bởi chính nghĩa thuộc về Việt Nam. Những chiến công rực rỡ của Việt Nam đánh bại những kẻ thù hung bạo nhất của mọi thời đại, từ quân Nguyên - Mông trước đây, đến thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và gần đây là cuộc chiến tranh biên giới phía Nam năm 1978 của quân Khơmer Đỏ mà Trung Quốc xúi giục và hậu thuẫn, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 17/2 /1979 do Trung Quốc phát động, là niềm tin, lòng tự hào để Việt Nam đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược dù cho chúng đến từ đâu.

Sự kiện giàn khoan HD 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam, đã khiến cho “16 chữ vàng”, “4 tốt” mà Trung Quốc thề thốt thực hiện chỉ còn là trò hề, lừa lọc. Một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc không thể đánh đổi lấy chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của một dân tộc. Không bao giờ dân tộc Việt Nam chấp nhận điều đó!./.n

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

11

Page 12: Van hien so6 14

Quá 7 giờ 30 phút một chút sáng ngày 24 tháng 5 năm 2014, sau hồi còi dài âm vang cả một vùng cửa biển, con tầu cánh ngầm

mang theo hơn 200 hành khách từ từ dời cảng Sa Kỳ bắt đầu cuộc hành trình ra đảo Lý Sơn. Dự kiến, nếu trời yên, biển lặng, chỉ sau hơn một tiếng đồng hồ là tầu sẽ đến nơi. Thời tiết hôm nay rất đẹp. Trời trong xanh, gió nhẹ, sóng êm.

Chuyến đi này tôi đã ấp ủ từ lâu. Bởi là người nghiên cứu văn hóa dân tộc, không thể không nghiên cứu văn hóa biển, đảo; nhất là những hòn đảo lớn của nước ta nằm trên tuyến hàng hải quốc tế, giao lưu văn hóa Đông - Tây. Vì thế, khi nhận được giấy mời tham gia Hội thảo “Phạm Văn Đồng với văn hóa dân tộc” của UBND tỉnh Quảng Ngãi và Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam tổ chức ngày 23/5/2014 tại TP Quảng Ngãi, tôi rất mừng. Trong Hội thảo này tôi có tham luận “Nhân cách lớn Phạm Văn Đồng - nhìn từ lối sống và những việc làm nhỏ hàng ngày”. Sau khi Hội thảo xong, theo kế hoạch, sáng 24, tôi sẽ đi Lý Sơn. Tưởng chỉ có một mình, nhưng đêm hôm

trước ngày ra đảo, lại biết các anh: NSND Lê Tiến Thọ nguyên Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Kịch tác gia - Nhà báo Lê Quý Hiền (Báo Sức khỏe & Đời sống), Trưởng ban Trị sự Tc Văn hiến VN Hoàng Mai, nữ nhà báo Ngọc Anh (Tạp chí Văn hiến Việt Nam), nữ biên tập viên Trương Bích Diệp của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (Sự thật); Nguyễn Hồ Phong và Nguyễn Thị Việt Nga hai giảng viên trẻ của Trường ĐH Văn hóa TP Hồ Chí Minh. Vậy là chúng tôi thành một đoàn, lên đường.

Trong cuộc đời cầm bút, đây không phải là chuyến ra đảo đầu tiên của tôi. Bởi trước đó, vào những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, tôi đã từng đặt chân tới những hòn đảo xa xôi, giầu có và có nhiều di sản văn hóa và di tích lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là các đảo Phú Quý, Côn Đảo và Phú Quốc. Năm 1989, được GS Hoàng Chương - Viện trưởng Viện Sân khấu - Bộ Văn hóa, quê ở Bình Định giới thiệu, anh Trần Xuân Nhơn - đồng hương của GS Hoàng Chương - Tổng cục trưởng Tổng cục Đường biển đã mời tôi viết lịch

Điểm tựaHoàng Sa, Trường Sa

l TS. NGUYỄN MINH SAN

Lý Sơn

Một góc núi lửa Thới Lới đang ngủ. Ảnh: Nguyễn Minh San

12

Page 13: Van hien so6 14

sử cho ngành nhân kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Ngành Đường biển Việt Nam. Sau khi hoàn thành cuốn “Lịch sử ngành đường biển Việt Nam” (xuất bản năm 1990), tôi được ngành cho đi thực tế trên tầu viễn dương. Những năm ấy, đất nước sống trong nền kinh tế bao cấp, mọi hàng hóa đều phân phối, phải mua bằng tem phiếu, đời sống của cán bộ, công chức và nhân dân cả nước vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Ngay ở ngành Đường biển, những cán bộ, công chức làm ở cảng, đặc biệt là ở bộ phận không liên quan trực tiếp đến sản xuất của ngành (như đào tạo,…) cũng gặp vô vàn khó khăn. Trong xã hội lúc đó đã truyền nhau những tiêu chí đánh giá, xếp hạng địa vị con người và những nghề kiếm nhiều tiền, giầu có, là: “Nhất biển, nhì xe, tam phe, tứ hói”. “Nhất biển” - nghề / người đi tầu biển, đặc biệt là đi tầu viễn dương (Công ty VOSCO - công ty vận tải biển lớn của ngành Đường biển thường chạy tuyến viễn dương) là những nghề/người kiếm nhiều tiền nhất, bởi họ hay được đi nước ngoài, mua đồ “sê cân hen”/đồ cũ, thượng vàng, hạ cám: ô tô, xe máy, tủ lạnh, máy giặt, quạt, bàn ghế, cửa cuốn, yên xe đạp, ống bô xe máy,…về bán (lúc đó đi Nhật Bản là nhất, bởi sẽ mua được nhiều đồ cũ giá rẻ như cho không, chỉ việc quăng lên tầu - mà tầu thì chứa thoải mái, không giới hạn cân như đi máy bay), về Việt Nam bán được giá gấp 5 gấp 10 lần, mỗi chuyến kiếm cả chục cây vàng là thường. Sau nghề/người đi tầu viễn dương là đến (“Nhì xe”) những người làm nghề lái xe, nhất là xe khách và lái xe quá cảnh Lào - Đoàn 12, thường mang mì chính / “quí như mì chính cánh”, đều kiếm bộn tiền. Loại người/nghề thứ ba kiếm nhiều tiền (“Tam phe”) là những người làm nghề buôn bán tem phiếu (vải vóc, muối, mắm, thịt, cá, rau muống, bí đao,…) gọi là “con phe”. Loại nghề/người bị coi là kém cỏi trong việc kiếm tiền nhất, xếp thứ tư trong việc kiếm tiền là những người làm nghề dạy học, nghề viết lách, nghiên cứu, tuy có bằng cấp cao, trình độ (“Tứ hói”), nhưng sống chỉ trông chờ vào đồng lương hạn hẹp với chế độ tem phiếu nên không giầu có. Để giúp những cán bộ ở các đơn vị phi sản xuất hoặc làm việc trên bờ, không đi tầu trong ngành đường biển, lãnh đạo Tổng cục đã có “nhã ý” giúp, bằng cách cho số cán bộ đó (tất nhiên không phải là tất cả) xuống tầu đi nước ngoài, trong biên chế của tầu, với việc những người này tạm quên đi chức vụ mình đang đảm nhiệm hoặc chức danh mình đang mang, để đồng ý làm các công việc phụ

trên tầu (thường là phụ bếp, rửa bát), hoặc là cán bộ được quyết định “đi thực tế” tầu biển (thực chất là đi cải thiện, bởi mỗi ngày số cán bộ này được hưởng 06 USD công tác phí). Số cán bộ này thường là ăn chơi, nghỉ dưỡng trên suốt quá trình tầu chạy và mỗi khi đến cảng nào đó, thì thoải mái lên bờ tầm hàng. Mỗi chuyến đi “cải thiện” Nhật về, ngoài các đồ dùng vốn là mơ ước của bao gia đình cán bộ, như xe máy, máy giặt, tủ lạnh, xe đạp, quạt điện 110V để lại gia đình dùng, họ cũng kiếm được 3-4 cây vàng.

Như thế, việc tôi được đi tầu viễn dương là đặc ân, giá trị cao gấp nhiều lần nhuận bút cuốn sách. Ông bạn nhà văn Ngô Vĩnh Bình ở Tạp chí Văn nghệ quân đội (nay anh là Tổng biên tập) tính toán thế nào đó, đã đánh giá cuốn sách của tôi nhuận bút cao nhất nước, và giữ kỷ lục không bao giờ có cuốn nào vượt được. Tôi đi trên con tầu Hoa Lư 02 Liên Xô sản xuất, trọng tải 12.000 tấn, do anh Ngọ làm Thuyền trưởng. Thời gian đó, trên tầu viễn dương còn có chế độ Chính ủy, do một cán bộ bên Công an cử sang đảm trách, cỡ thiếu tá, trung tá. Chế độ này đã có từ nhiều năm trước, khi có nạn vượt biên xảy ra. Hải trình của tầu là chở than, xuất phát từ cảng Hòn Gai (Quảng Ninh) chạy sang Nhật bản, trả hàng tại một số cảng của Nhật xong, chạy qua biển Nhật Bản sang Hàn Quốc “ăn hàng”, rồi về trả hàng tại cảng Sài Gòn. Trên đường từ Hàn Quốc về cảng Sài Gòn, tầu chúng tôi đã dừng lại 03 ngày tại đảo Phú Quý. Đảo này có chu vi chừng hơn 10km. Từ đảo Phú Quý, tầu khách kiêm chở hàng chạy từ 5 giờ chiều đến khoảng 5-6 giờ sáng hôm sau thì vào đến Ninh Thuận. Đảo là đơn vị hành chính cấp huyện, với trên 1500 hộ dân. Trên đảo có đơn vị quân đội, và một đồn biên phòng. Đây chính là hòn đảo xa ngoài biển đầu tiên của Việt Nam tôi đặt chân đến.

Sau chuyến đi này 5 năm, nhân kỷ niệm 40 năm thành lập ngành Hàng không dân dụng Việt Nam, cũng qua giới thiệu của GS Hoàng Chương, tôi được Thiếu tướng - Anh hùng phi công tiêm kích MIC 21 Nguyễn Hồng Nhị - người Bình Định - Cục trưởng Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam mời viết cuốn “Hàng không Dân dụng Việt Nam những chặng đường lịch sử”. Cuốn sách được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết Lời Tựa, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1995. Trong quá trình sưu tầm tư liệu, tôi biết có 2 sân bay ngoài đảo là sân bay Cỏ Ống ở Côn Đảo và sân bay Phú Quốc trên đảo Phú Quốc

Điểm tựaHoàng Sa, Trường Sa

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

13

Page 14: Van hien so6 14

do chính quyền Sài Gòn xây dựng trước năm 1975. Thú thật, tư liệu về 2 sân bay này, ngồi trong bờ tôi cũng có thể có được, nhưng do ước mơ được đến 2 hòn đảo này trong tôi đã có từ lâu, nhất là Côn Đảo, vì thế, tôi xin tướng Nguyễn Hồng Nhị cho ra hai sân bay này. Và tôi đã được toại nguyện. Lúc đó, hai sân bay này còn nhỏ, máy bay 8 chỗ mới xuống được. Nay thì hai sân bay đó khác lắm rồi, nhất là sân bay Phú Quốc đã được xây dựng thành sân bay quốc tế để chuẩn bị cho kế hoạch đưa Phú Quốc thành đặc khu kinh tế.

Vậy là trong số những hòn đảo xa nhất, và cũng thuộc loại lớn nhất, trù phú nhất của nước ta, tôi đã đặt chân tới 3 đảo. Có nghĩa là, biển đảo đối với tôi không còn xa lạ. Nhưng không hiểu sao, đảo Lý Sơn vẫn gây cho tôi sự háo hức, hồi hộp. Một phần vì sức hấp dẫn của kho tàng di sản văn hóa đặc sắc của hòn đảo này, nhất là di sản về Hải đội Hoàng Sa, về một sản phẩm được tạo nên bởi nham thạch núi lửa là tỏi - đặc sản Lý Sơn, thì là sự kiện Trung Quốc hạ giàn khoan HD 981 tiến hành khoan thăm dò ở vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền lãnh thổ của ta, cùng với việc đưa nhiều tầu, báy bay quân sự hộ tống, cho các tầu hải giám, hải cảnh, tầu quân sự vỏ sắt giả làm tầu cá ngăn cản công việc chấp pháp, phun vòi rồng cực mạnh, dùng tầu to chủ động đâm hỏng nhiều tầu của cảnh sát biển

và tầu kiểm ngư của ta, làm hỏng nhiều tầu cá của ngư dân, làm chết một ngư dân đảo Lý Sơn, gây nên sự phẫn nộ của nhân dân cả nước ta và hầu hết các nước trên thế giới. Cuộc đấu tranh phản đối và yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan HD 981 ra khỏi vùng biển nước ta đã bùng lên mạnh mẽ, nhất là sau lời tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Việt Nam không thể đổi chủ quyền để lấy hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc”.

Lý Sơn thôi thúc tôi phải đi!Khi xe dùng lại trước cổng cảng Sa Kỳ, trước mắt

tôi là cảnh tượng hàng trăm thanh niên với màu áo xanh tình nguyện, đầu đội mũ tai bèo tràn ngập bến cảng. Còn có rất đông cựu chiến binh mặc quần áo bộ đội vẫn còn khá mới, nhiều người ngực gắn đầy huân, huy chương. Đó là những người sẽ đồng hành cùng chúng tôi trên chuyến tầu hôm nay. Khi lên tầu, mới thấy, số thanh niên tình nguyện chiếm hơn 2/3 số khách trên tầu. Nhìn sự háo hức trên từng gương mặt trẻ, nhất là qua những câu chuyện của họ, tôi hiểu họ ra với Lý Sơn để cảm nhận công cuộc bám biển, vươn khơi của người dân nơi đây trước sự đe dọa của Trung Quốc; đồng thời biểu lộ tinh thần sẵn sàng cùng quân và dân Lý Sơn bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Trong số thanh niên tình nguyện kia, chỉ trừ số nữ thanh niên ngồi khoang dưới, có lẽ sợ say sóng, còn sau khi tầu chạy độ 6-7 phút phần lớn

Hoàng hôn trên núi Thới Lới, đảo Lý Sơn. Ảnh: Nguyễn Minh San

14

Page 15: Van hien so6 14

họ leo lên khoang trên, hoặc ra đứng trước mũi tầu. Tôi rủ Lê Quí Hiền lên khoang trên ngắm biển. Đám thanh niên lên đứng kín mũi tầu khoang trên, ngay trước buồng lái, che mất tầm nhìn, khiến viên thuyền trưởng phải liên tục kéo còi và làm tín hiệu hãy dạt sang hai bên để ông còn nhìn rõ mặt biển. Nhìn mũi tầu gối sóng băng băng tiến ra biển, tôi chợt nghĩ đến câu chuyện mẹ Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, chia 50 con lên rừng, 50 người con xuống biển, cùng nhau khai thác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, dân tộc ta đã có ý thức về biển, gắn bó với biển ngay từ khi hình thành dân tộc, quốc gia.

Đám thanh niên nô đùa thoải mái. Bỗng phía mũi tầu, từ một chiếc loa cầm tay một giọng hát cất lên: “Từ Bắc vô Nam…”. Thế là, không ai bảo ai, cả tầu vang lên bài hát “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn. Hết ca khúc này, tiếng loa hô lớn “Một”, thế là tất cả đám thanh niên hát vang: “Một con vịt xòe ra hai đôi cánh,…” vang khắp con tầu. Một sự hồn nhiên, trong trẻo chỉ có ở thanh niên một lần nữa tôi cảm nhận được trên con tầu giữa biển mênh mông này. Khi bài hát kết thức, tất cả đám thanh niên hô vang “Hai Ba”, rồi cả tầu vang lên tiếng hát : “Ba thương con vì con giống mẹ. Mẹ thương con vì con giống Ba. Cả nhà ta cùng thương yêu nhau…”. Khi câu cuối bài này hết, tất cả đám thanh niên lại hô “Năm”, và cùng hát: “Năm anh em trên một chiếc xe tăng, Như năm bông hoa trên cùng một cội, Như năm ngón tay trên một bàn tay, Lúc xung trận cả năm người như một….”. Họ say sưa hát, hát vô tư,

tiếng hát át cả tiếng sóng biển tung tóe hất ướt cả những người đứng trước mũi tầu. Sau hát đồng ca, một giọng đơn ca vang lên, chắc chắn là một chàng thanh niên người Lý Sơn, hoặc người Quảng Ngãi, hát một bài hát về đảo Lý Sơn. Lần đầu tiên nghe, tôi không kịp nhớ lời. Tiếp sau, tiếng loa vang lên câu hát: “Tổ quốc đang bão dông từ biển,…”, lời ca mở đầu của ca khúc “Tổ quốc nhìn từ biển”, âm nhạc Quỳnh Hợp, thơ Nguyễn Việt Chiến. Tất cả thanh niên trên tầu đều căng lồng ngực hát theo. Vẫn biết, “chương trình văn nghệ” trên tầu này, chỉ là phút ngẫu hứng trước biển, nhưng qua các ca khúc đám thanh niên trong đó có nhiều người lần đầu gặp nhau trên chuyến tầu ra đảo này, các anh đã thể hiện rất rõ chủ đề, có mục đích rất rõ là hướng về biển đảo, nơi chủ quyền Tổ quốc đang bị Trung Quốc xâm phạm. Và “Tổ quốc nhìn từ biển” chính là bài hát thể hiện mục đích của “chương trình” văn nghệ, cũng là mục đích của những người trẻ, các cựu chiến binh trên tầu ra Lý Sơn hôm nay.

Nghe đám thanh niên tình nguyện hát và nhìn hầu hết số khách trên tầu hào hứng hát theo, Lê Quí Hiền bảo tôi: “Sướng quá! Đã quá! Khí thế này thì bọn “Khựa” làm gì được mình. Ông biết không, hôm ở đảo Trường Sa, trong buổi sáng chào cờ, trước những hàng quân thẳng tắp, trang nghiêm, NSND Lê Tiến Thọ đã đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt:

“ Nam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thư

Nông dân đảo Lý Sơn thu hoạch hành. Ảnh: Nguyễn Minh San

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

15

Page 16: Van hien so6 14

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư”Lời dịch:“Núi sông nước Nam vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc bao ngược kia sang xâm phạmChúng bay sẽ bị đánh tan tành”.Rất bất ngờ, không hề có đạo diễn trước, cả

đảo đồng thanh hô lớn: “Chúng bay sẽ bị đánh tan tành!”. Sau lễ chào cờ, anh em quây quần bên anh Thọ và chúng tôi, ai nấy đều hừng hực khí thế. Một chiến sĩ trẻ nói với anh Thọ: “Thưa bố, nghe giọng đọc của bố, trong chúng con cứ bừng bừng khí thế”. Lê Quí Hiền nói, lúc đó anh có cảm giác sóng biển Trường Sa cũng ào ào dâng lên như hưởng ứng lời hịch đánh quân xâm lược. Anh Hiền cho biết, anh và anh Thọ mới đi Hải đoàn 4 Hải quân, đến Trường Sa, tận mắt nhìn những vũ khí đánh biển, đánh không, phòng chống đổ bộ rất hiện đại mà quân đội ta có, nhất là chứng kiến sự phẫn nộ trước hành động xâm lược của Trung Quốc và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hừng hực khí thế, quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của biển đảo Tổ quốc của các chiến sĩ, anh thấy yên tâm lắm. Anh bảo, nếu có lệnh, hoặc chỉ cần Trung Quốc đưa chiến tranh đến, với vũ khí đó, ta lấy lại Hoàng Sa, Gạc Ma là điều không khó. Anh Hiền kể, NSND Lê Tiến Thọ tâm sự: “Trong cuộc đời diễn viên, ông đã nhiều lần đọc bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, song chưa lần nào thiêng liêng, xúc động và hào sảng như lần này. Và, ý thức về Tổ quốc, sẵn sàng xả thân khi Tổ quốc lâm nguy trào dâng thật mãnh liệt. Đọc hịch đánh giặc giữa biển Đông, trong lúc Trung Quốc đang xâm phạm

chủ quyền quốc gia, thật kiêu hãnh, thật đúng lúc. Văn nghệ sĩ cần phải đến những nơi đầu sóng ngọn gió, truyền nhiệt huyết cho toàn quân, toàn dân. Không thể nào quên được kỷ niệm này”.

Tôi đang hình dung cái cảnh lính Trường Sa bừng bừng khí thế khi nghe đọc “Nam quốc sơn hà”, giật mình nghe Lê Quí Hiền nói với tôi: “Bao nhiêu năm nay, cánh báo chí các ông nói về tội ác Trung Quốc xâm lược Việt Nam dè dặt quá. Chúng đã chiếm đảo Gạc Ma, đánh chìm 4 tầu và giết hại gần 80 chiến sĩ từ năm 1988, vậy mà tin tức chính thống mãi gần đây nhiều người mới biết. Ngay cả cuộc xâm lược nước ta ngày 17/2/1979 của Trung Quốc, chúng đã san bằng cả 6 thị xã xinh đẹp của ta ở biên giới, giết hại không biết bao nhiêu dân thường mình, nhưng cũng ít được tuyên truyền. Hình như có vấn đề gì đó…. Chỉ có lần này, khi Trung Quốc đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế của ta, dân mới được đi biểu tình, báo chí các ông mới được nói mạnh như vậy”. Tôi bảo, “Thưa ông, chúng tôi phải theo định hướng của trên chứ, tuần nào TBT các báo chả nhận được định hướng tập trung tuyên truyền trong tuần của cấp trên. Ông cũng biết đấy, Trung Quốc có truyền thống xâm lược Việt Nam từ xưa đến nay. Vậy mà không ít người vẫn cho rằng nếu bêu những tội ác ấy của Trung Quốc, sợ tổn thương đến tình hữu nghị giữa hai nước, sợ Trung Quốc phản ứng, sợ Trung Quốc mếch lòng. Không ít người còn cả tin đến mức hồ đồ và đinh ninh rằng Trung Quốc thực lòng hành xử đúng với thỏa thuận “16 chữ vàng”, “4 tốt”, không xâm lược Việt Nam. Vì vậy, các báo dè chừng nếu không muốn nói là sợ đăng những bài nói về quá khứ Trung Quốc xâm lược Việt Nam, về tội ác mà

Một góc chợ quê đảo Lý SơnẢnh: Nguyễn Minh San

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

16

Page 17: Van hien so6 14

Trung Quốc gây ra cho dân tộc ta, trước thời điểm mùng 1 tháng 5 năm 2014 là một thực tế. Ông biết không, tháng 12 năm 2012, nhân kỷ niệm 585 năm Lễ ăn thề Đông Quan (10/12/1427 - 10/12/2012), tôi có đăng bài “Lễ ăn thề Đông Quan - Lời cảnh tỉnh cho những kẻ bội ước” (bút danh Mạc Công Lý) trên tạp chí Khoa học & Tổ quốc. Có một vị GS, quan khá to của ngành TG, hưu đã lâu, nhưng vẫn hăng hoạt động, còn xin làm TBT nữa, gặp tôi nói: “Cậu cho đăng bài “Lễ ăn thề Đông Quan…” của ai viết hay lắm. Nhưng hơi nặng, nhất là phần vạch trần tội Trung Quốc xâm lược Việt Nam nhiều lần từ năm 1949 đến nay. Tớ sợ Đại sứ quán Trung Quốc có ý kiến, ảnh hưởng đến báo”. Tôi bảo: “Thưa anh, em có nói gì khác sự thật đâu. Chỉ thống kê những con số biết nói về sự thật lịch sử Trung Quốc “chơi” mình thôi mà. Sợ gì anh”. Rồi tôi cự lại Lê Quý Hiền: “Mà bên văn nghệ sĩ các ông cũng có tác phẩm lớn nào xứng tầm những võ công hiển hách của cha ông ta đâu. Riêng nói về phụ nữ ta, đánh giặc giỏi, dựng xây đất nước cũng giỏi với bao tấm gương ngoại hạng, như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, ….nếu viết tiểu thuyết, dựng phim có khi còn hay hơn phim dã sử Trung Quốc, Hàn Quốc ấy chứ. Ngay như Quang Trung - Nguyễn Huệ với chiến công đại phá quân Thanh tầm vóc vĩ đại như vậy, mới chỉ có “binh chủng” kịch các ông vào cuộc, với vở “Quang Trung đại phá Quân Thanh” của Trúc Đường do Hoàng Chương đạo điễn là được. Các “binh chủng” khác, có gì đâu. Nếu mà làm phim, cảnh Đô đốc Bùi Thị Xuân chỉ huy đội Tượng Binh thì oai hùng biết bao, thế giới hiếm có đấy. Để anh Thọ đọc lời hiệu triệu của Hoàng đế Quang Trung trong lễ duyệt binh ở Tam Điệp trước khi tiến về Thăng Long:

“Đánh cho để dài tócĐánh cho để răng đenĐánh cho nó chích luân bất phảnĐánh cho nó phiến giáp bất hoànĐánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”Thì hay biết mấy”. Đang mải chuyện, bỗng một hồi còi tầu hú dài,

cắt ngang cuộc tranh luận nhỏ của chúng tôi. Nhìn theo mũi con tầu, tôi đã thấy mấy ngọn núi cao trên đảo, trong đó tôi nhận ra ngọn Thới Lới hình cái oản, cho ta biết đó là ngọn núi lửa đã ngừng phun nham thạch hàng triệu năm trước. Và rồi, con tầu cánh ngầm đã áp sát cầu tầu đảo Lý Sơn.

Theo bố trí trước của TS Nguyễn Đăng Vũ - Giám

đốc Sở VH-TT&DL Quảng Ngãi, một thanh niên da đen sạm nắng gió biển khơi đã tươi cười đón chúng tôi đưa lên chiếc xe máy ba gác, đã biến thành xe chở khách đưa chúng tôi về nhà. Anh là Nguyễn Lợi (sau khi vào nhà, tôi biết anh là giáo dân đạo Tin lành), vợ là Nguyễn Thị Tâm ở khu 4, thôn Đông, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Anh Lợi cho biết: “Các bác báo muộn quá, khách sạn hết chỗ rồi, mời các bác về nhà em “Home Stay” thôi. Em kiêm luôn lái xe và hướng dẫn viên cho các bác trong thời gian trên đảo. Chúng em không lấy tiền nhà, tiền điện, nước, chỉ xin tiền ăn và tiền xăng xe đưa các bác đi thăm đảo thôi”.

Ngôi nhà của anh Lợi mới xây dựng chừng 1-2 năm, mầu sơn hãy còn tươi. Nhà một tầng, kiểu dáng hiện đại không khác gì nhà ở thành phố, khá rộng rãi thoáng mát. Sân rộng, có nhiều cây cảnh, xung quanh cây doi, cây nhãn đã đơm hoa, khóm chuối lùn đã buông nải. Anh Lợi bảo, cuối năm đảo mới có điện lưới quốc gia. Hiện đang dùng điện điêzen, chỉ có 6 tiếng buổi tối, đến đúng 11 giờ đêm là tắt. Các bác phải chủ động xạc pin các thiết bị điện tử đấy”. Do ý đồ kinh doanh du lịch, ngôi nhà anh Lợi đã thiết kế có thể cắm được cùng lúc 7-8 thiết bị điện. Bữa cơm đầu tiên của chúng tôi trên đảo do vợ anh Lợi chuẩn bị, có 5 món toàn đặc sản biển, chỉ thiếu món rau. Trong bữa ăn, anh Lợi bảo chúng tôi: “Các bác ra tháng này là muộn quá. Dân văn hóa các bác cứ phải ra vào tháng 2-3 âm lịch còn được dự lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Lễ này là đặc sản của Lý Sơn, các bác không gặp ở đâu đâu”. Như thể chứng minh cho cái lễ “đặc sản” của quê mình, anh Lợi giải thích: “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là lễ tế sống người lính Hoàng Sa trước khi xuống thuyền đi làm nhiệm vụ, bằng hình nhân thế mạng. Nghĩa là cho hình nhân mang linh vị người lính cúng cho thần biển, thần mây, thần gió, tà ma quỷ quái dưới biển, để các vị thần linh này không “bắt” người lính này nữa. Nghĩa là anh ta có người (hình nhân) chết thay rồi, vì thế anh ta không chết nữa khi đi biển. Chỉ là liệu pháp tâm lý thôi, nhưng ai cũng tin. Hầu hết các tộc họ trên đảo Lý Sơn có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa đều làm lễ thức này. Lễ này còn đồng thời là lễ do người thân tổ chức để khao, để liên hoan tiễn người thân lên đường đi vào chỗ hy vọng sống rất mỏng manh”. Không biết các anh chị khác nghĩ gì, chứ tôi đinh ninh, tôi sẽ trở lại Lý Sơn đúng dịp lễ này.

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

17

Page 18: Van hien so6 14

Ngay chiều hôm đến Lý Sơn, chúng tôi đã được anh Lợi đưa đi quanh hòn đảo rộng gần 10km2. Huyện Lý Sơn có trên 22 nghìn dân; có 3 đơn vị hành chính: hai xã An Vĩnh và An Hải nằm trên đảo lớn Lý Sơn, còn xã An Bình nằm trên đảo Bé, cách đảo Lý Sơn hơn một hải lý. Thiên nhiên quả là ưu ái, khi ban tặng cho Lý Sơn nhiều thắng cảnh đẹp, như: núi Giếng Tiền, Thới Lới là hai ngọn núi lửa đã tắt từ hàng triệu năm trước; các hang như: Hang Câu; cổng Tò Vò, Hòn Mù Ca,…Bãi biển dưới chân núi Thới Lới nước trong veo có thể nhìn được những vỏ ốc dưới đáy, là bãi tắm được dân đảo và du khách ưa thích.

Trước khi đến Lý Sơn, qua đọc tài liệu tôi được biết, cách nay trên 30 vạn năm, trên đảo Lý Sơn đã có người tiền sử sinh sống, dấu tích hiện vẫn còn trên các núi Giếng Tiền, Thới Lới. Lý Sơn cũng là nơi từng cư trú của chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh (cách nay khoảng 2.000 đến 2.500 năm), văn hóa Chăm... Song, dấu ấn văn hóa Việt sâu đậm và nổi trội trên khắp hòn đảo này, với hàng trăm di tích cổ xưa, tiêu biểu là các ngôi chùa (như: chùa Đục, chùa Hang), đình An Hải, đình An Vĩnh, các dinh thờ ThiênYana, các lăng, miếu thờ thần Nam Hải, thần Bạch Mã, thần Ngũ Hành, thờ Tứ vị Thánh Nương, thờ U Linh Xà Nữ, thờ Phạm Tiên Điều,…Chùa Hang thuộc thôn Đông Hộ, xã An Hải có tên chữ là Thiên Khổng thạch tự, nằm bên dưới vách núi Thới Lới, cách mép biển không xa, là một thắng cảnh, được ghi trong sách Đại Nam Nhất thống chí, đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình An Hải là kiến trúc cổ nhất trên đảo, có đôi câu đối đắp nổi chữ Quốc ngữ trên hai cột mặt tiền đình có nội dung (nhìn từ ngoài vào từ trái qua phải):

“Non cao cây tú mấy nghìn thu gió Bắc khẽ rung cành”

“Biển thẳm vực thâm nguyện muôn thủa trời Nam đưa vượng thánh”

Sau một hồi đi loanh quanh trên đảo, tôi nhận ra cấu trúc làng trên đảo Lý Sơn theo kiểu làng nông - ngư kết hợp. Dân Lý Sơn, dù đã ra sống giữa biển, nhưng cho đến nay, sau 4 - 5 thế kỷ, kể từ khi 13 vị tiền hiền khai khẩn là người Việt có gốc gác từ ngoài Bắc (cụ thể là dân cư các tỉnh vùng Thanh - Nghệ Tĩnh) di cư vào, vốn là dân giỏi trồng lúa nước và cũng thông thạo nghề đi biển. Đại bộ phận dân trên đảo chủ yếu vẫn sống bằng nghề nông (trồng hành, tỏi, bắp (ngô), đậu,… trên những bãi đất hẹp

dưới chân 5 ngọn núi : Giếng Tiền, Thới Lới, Hòn Sỏi, Hòn Tai, Hòn Vung. Phần đông số còn lại, sống bằng nghề đánh bắt cá ngoài ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa. Hiện nay, huyện Lý Sơn có trên dưới 400 thuyền đánh cá thường xuyên đánh bắt trên ngư trường truyền thống Hoàng Sa, Trường Sa.

Mặc dù đi cả ngày, chân mỏi dã dời, nhưng ngay tối đầu tiên trên đảo, chúng tôi vẫn cùng hơn 1.000 chư tăng, Phật tử trong đất liền ra và những gia đình ở Lý Sơn có người thân là lính Hải đội Hoàng Sa hy sinh xưa, thân nhân của các gia đình liệt sĩ, của những ngư phủ tử nạn khi làm ăn trên biển Hoàng Sa thắp hương cầu nguyện cho đất nước hòa bình, ấm no, hạnh phúc; cầu nguyện siêu độ các anh hùng, liệt sĩ và nhân dân đã hy sinh trên biển đảo Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước dành độc lập giang sơn, chủ quyền dân tộc tại đình An Vĩnh, trong Đại lễ Trai đàn chẩn tế cầu nguyện siêu độ các anh hùng, liệt sĩ và nhân dân đã hy sinh trên biển đảo Việt Nam trong công cuộc dựng nước và giữ nước dành độc lập giang sơn, chủ quyền dân tộc. Đại lễ do chùa Vĩnh Ân tổ chức. Những Hùng binh Hoàng Sa năm xưa, các Liệt sĩ, những ngư phủ Lý Sơn tử nạn trên vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa đều có hương linh cầu siêu giải oan bạt độ.

Sau bữa hải sản túy lúy, nhất là sau một đêm ngủ đẫy giấc, sáng hôm sau, cả đoàn ai cũng khỏe ra. Ngoài đảo hình như nắng trút xuống sớm hơn trong đất liền, và cũng nóng hơn. Chiếc xe lam của anh Lợi chở chúng tôi đến viếng tượng đài Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải và thăm Nhà Trưng bày Hải đội Hoàng Sa Bắc Hải. Anh Lợi cho biết, khách du lịch ra đảo Lý Sơn, cả khách Tây nữa, đều tới đây để nghiêng mình trước những Hùng binh Hoàng Sa và thăm Nhà trưng bày để tìm hiểu về công cuộc khai thác và cắm mốc giới chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của cha ông ta, cụ thể là của người Lý Sơn trong lịch sử. Tại đây, chúng tôi gặp lại những thanh niên tình nguyện và các cựu chiến binh trên chuyến tầu ra đảo hôm qua. Họ chụp ảnh dưới chân tượng đài và thăm Nhà trưng bày, chăm chú xem, ghi chép tư liệu. Tượng đài thể hiện ba người lính (to như người thật) Hải đội Hoàng Sa năm xưa bằng đá xanh.

Trong nhà trưng bày các tư liệu, hiện vật chứng minh chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; trong đó có bức bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do nhà Thanh vẽ năm 1904.

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

18

Page 19: Van hien so6 14

Trên bản đồ thể hiện rõ lãnh thổ Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam, không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bằng chứng nữa là vào cuối thế kỷ XVI, hoặc đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tiếp đến là triều Tây Sơn, rồi triều Nguyễn đã thành lập đơn vị khai thác kinh tế biển, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc dựng bia chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lấy tên là Hải đội Hoàng Sa (sau đổi là Thủy quân Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa và Bắc Hải). Người xem tận mắt nhìn thấy những kỷ vật về những người lính trong Hải đội Hoàng Sa năm xưa. Ngay gian chính diện, là bàn bày linh vị cai đội, chánh thủy quân, suất đội và thủy thủ Đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa. Phía trên bàn linh vị, trên tường nhà trưng bày đôi chiếu cói, 7 thanh nẹp tre dài, 7 sợi dây mây, thẻ bài ghi rõ tên tuổi, quê quán, số hiệu, là những vật dụng mà mỗi người lính Hoàng Sa chuẩn bị để mang theo khi xuống thuyền. Những vật này chính là đồ hậu sự người lính chuẩn bị sẵn cho mình, để chẳng may nếu chết trên biển, đồng đội sẽ dùng những vật dụng này buộc xác mình, thả trôi trên biển, những mong gió biển sẽ đưa xác về đất mẹ. Đã từng đi tầu viễn dương, giờ đây đứng trước mô hình chiếc ghe câu chạy buồm nhỏ bé - phương tiện để Đội Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tôi hiểu, ngay cả lúc trời yên biển lặng, con thuyền cũng vô cùng nhỏ bé trước sóng gió ở Hoàng Sa. Nếu gặp bão tố, con thuyền không thể nào trụ nổi. Chính vì vậy, mỗi người lính Hoàng Sa đều biết rõ, bước chân xuống thuyền là cầm chắc cái chết, hy vọng sống sót trở về chỉ như mây trời, bọt biển. Có nhiều năm, cả đội 70 người lính Hoàng Sa có đi mà không có về. Hình ảnh đôi chiếu cói, 7 thanh nẹp tre và 7 sợi dây mây dùng cứ ảm ảnh tôi khi dời Nhà trưng bày. Tôi bỗng nhớ tới câu ca buồn lưu truyền trên đảo, không biết có từ bao giờ: “Hoàng Sa trời nước mênh mông / Người đi thì có mà không thấy về”. Nhìn những đồ dùng nấu ăn trên thuyền, như cái chum đựng nước ngọt, nồi đồng nấu cơm, niêu đất, gáo dừa múc nước, không nói, ai cũng hiểu nếu có may mắn sống sót, thì cuộc sống của người lính lênh đênh 5-6 tháng ở Hoàng Sa, vô cùng khổ cực.

Để giúp chúng tôi hiểu thêm về người lính Hải đội Hoàng Sa, anh Lợi đưa chúng tôi đi thăm những ngôi mộ gió. Vừa đánh vật với con “chiến mã” cứ nhảy chồm chồm trên những đoạn đường gập gềnh và uốn lượn tránh những đống cát biển, dân đổ cạnh

đường chuẩn bị cho một vụ hành mới, anh Lợi vừa giải thích với chúng tôi: “Những người lính Hoàng Sa và ngư phủ chết ngoài biển mà không tìm thấy xác, thì linh hồn họ cứ mãi mãi luẩn quẩn ngoài biển, không siêu thoát để trở về đoàn tụ với gia đình, tổ tiên. Để linh hồn của những người xấu số ấy không bơ vơ, vật vờ trên những con sóng, về với người thân, phải lập đàn cúng bái rước hồn về ngự trong một hình nhân nặn bằng đất sét, sau đó chôn hình nhân đó như chôn một người chết bình thường. Ngôi mộ táng hình nhân đó gọi là mộ gió. Lễ đó gọi là lễ chiêu hồn nhập xác. Vì thế, những ngôi mộ gió còn được gọi là những ngôi mộ chiêu hồn”. Qua lời tả của anh Lợi, không khó để chúng tôi nhận ra những nấm mồ đắp bằng đất pha cát nằm rải rác, ẩn mình trong những luống hành, luống tỏi hay những thửa ngô xanh bạt ngàn. Mộ gió còn nằm xen kẽ giữa những ngôi nhà dân. Còn có cả một nghĩa địa toàn “mộ gió” lính Hải đội Hoàng Sa có tường bao quanh, nằm trước Âm linh tự ở xã An Vĩnh. Một tấm biển ghi rõ khu này đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trên đảo Lý Sơn có hàng trăm những khu mộ chiêu hồn không xác người của các tộc họ Phạm Quang, Phạm Văn, Võ Văn,… hàng trăm năm nay đã phơi trong nắng cháy, gió táp, mưa xối của biển Đông. Đó chính là những tượng đài bất tử về những người đã sống chết với Hoàng Sa, Trường Sa năm xưa.

Chiếc xe ba gác của anh Lợi không đủ sức kéo cả đoàn 7 người lên đỉnh núi Thới Lới, nơi có cột cờ Tổ quốc, nên tôi và Lê Quí Hiền, mỗi người thuê một xe ôm, chạy lên đỉnh. Đường đi khá tốt, chỉ tội hơi dốc. Lên đến đỉnh núi, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một hồ nước to hình cái phễu, nước trong ngăn ngắt. Tôi hiểu, ngọn núi lửa tắt đã tạo nên cái hồ này. Đứng dưới chân cột cờ Tổ quốc mà Đoàn TNCS Hồ Chí Minh mới xây trên đỉnh núi cao nhất Lý Sơn, có thể nhìn toàn cảnh đảo Lý Sơn và phóng tầm mắt ra tận nơi trời và biển gặp nhau. Lê Quí Hiền chỉ ra hướng Hoàng Sa, bảo tôi: “Lý Sơn đúng là một tầu sân bay không bao giờ bị đánh chìm ông ạ. Tôi mà là chỉ huy quân đội, tôi sẽ bố trí trên đỉnh núi này ra đa biển, bố phòng tên lửa đất đối biển là yên tâm khống chế cả vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa rồi. Cần gì phải tầu sân bay nữa, phải không ông?”. Tôi nói: “Ông là dân văn nghệ sĩ mà còn biết lợi thế Lý Sơn trong phòng thủ biển như thế, chả nhẽ những nhà quân sự của ta lại không biết

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

19

Page 20: Van hien so6 14

chắc. Yên tâm đi. Các tọa độ trên biển đều được kẻ ô trên máy tính rồi, bọn “khựa” có đánh, ta chỉ ấn nút là Rồng lửa tầm xa, tầm trung, tầm gần trong bờ, trên các đỉnh núi ven biển, trên các đảo to, đảo nhỏ trải suốt chiều dài trên ba nghìn ki lô mét sẽ cho chúng đi chầu Diêm vương hết”. Bất giác, không ai bảo ai, cả hai chúng tôi đều hướng lên lá cờ Tổ quốc phần phật hiên ngang bay trên đỉnh Thới Lới.

Đêm thứ hai trên đảo hình như quá ngắn. Bình minh Lý Sơn hình như cũng đến sớm. Chúng tôi phải tạm biệt quê hương Hải đội Hoàng Sa để trở về đất liền. Chiếc xa ba gác của anh Lợi lại đưa chúng tôi ra cảng. Chỉ khác là, lúc này trong ba lô của ai cũng căng hơn, nặng hơn. NSND Lê Tiến Thọ bảo: “Ra Lý Sơn về mà không cân hành, cân tỏi làm quà, bà xã không cho ngủ đâu!”. Nghe anh Thọ nói thế, tôi, anh Hiền, anh Mai và cả anh giáo trẻ Hồ Phong đều vỗ vỗ vào chiếc ba lô căng phồng của mình, cười ý nhị.

Đứng trước mũi con tầu cánh ngầm mỗi lúc một xa hòn đảo, tôi cứ nghĩ về cái sứ mệnh to lớn và hết sức nặng nề đối với Hoàng Sa, Trường Sa mà người Lý Sơn đã được Tổ quốc tin tưởng giao phó. Trong quá khứ, không biết bao nhiêu người con ưu tú của Lý Sơn đã hy sinh để cắm mốc chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nay Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm mất. Máu người Lý Sơn vẫn đổ, thuyền và ngư cụ của ngư dân Lý Sơn vẫn bị Trung Quốc đánh chìm. Nhưng người dân Lý Sơn - con cháu của những Hùng binh Hoàng Sa năm xưa quyết không run sợ, vẫn kiên cường, dũng cảm bám biển để làm tròn sứ mệnh của mình. Chung tay góp sức để xây dựng Lý Sơn trở thành hòn đảo tiền

tiêu bất khả xâm phạm, là điểm tựa vững chắc của Hoàng Sa, Trường Sa là trách nhiệm của mỗi con dân đất Việt. Dòng suy tưởng trong tôi cứ trôi miên man theo lớp lớp những con sóng. Bỗng tiếng còi tầu hú dài. Nhìn sang mạn, một con tầu cánh ngầm đang rẽ sóng ngược chiều ra Lý Sơn. Trên boong tôi nhìn thấy áo xanh thanh niên tình nguyện, rất đông và vang lên những giai điệu biển đảo quen thuộc. Con tầu như một minh chứng cho phát hiện của nhà thơ Thanh Thảo: “Từ vài năm nay, số khách du lịch tự phát tới đảo Lý Sơn, trong đó đa số là những người trẻ - tăng lên đột biến. Họ không tới đảo Lý Sơn để an hưởng cảnh thần tiên trong những khách sạn 4, 5 sao (vì làm gì có những tiện nghi ấy ở Lý Sơn bây giờ). Họ tới thăm Lý Sơn vì tình yêu Tổ quốc. Họ “du lịch yêu nước” , bởi họ muốn một lần được tận mắt chiêm ngưỡng hòn đảo là nơi phát xuất những đội Hùng binh Hoàng Sa, là nơi còn hàng trăm mộ gió ghi nhớ những người anh hùng thầm lặng ra Hoàng Sa mãi mãi không về và chứng kiến những đoàn thuyền đánh cá của ngư dân Lý Sơn hôm nay trực chỉ Hoàng Sa, Trường Sa bất chấp mọi hiểm nguy đe dọa”.

Lê Quí Hiền đã lên boong đứng bên tôi từ lúc nào. “Ông ạ, tôi nhận thấy một điều kỳ lạ là những người từ đất liền ra Lý Sơn về, ai cũng tự hào mình - đã - ra - Lý Sơn!”. Nghe ông Hiền nói, tôi đáp: “Ông chỉ toàn nói… đúng!”

Vâng! Lý Sơn - tôi đã đến trong những ngày Biển Đông dậy sóng!

Lòng đã hẹn lòng, đây không phải là lần cuối đâu, Lý Sơn ơi! n

Bình yên Lý SơnẢnh: Nguyễn Minh San

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

20

Page 21: Van hien so6 14

Hải đội Hoàng Sa có chức năng chính là tìm kiếm các sản vật, hải vật ở vùng biển Đông, mà chủ yếu ở vùng quần đảo Hoàng Sa,

Trường Sa về giao nộp lại cho kinh thành Huế; đồng thời cắm mốc xác định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này. Và, sứ mệnh cao cả, thiêng liêng này được giao cho những người dân làng An Vĩnh và An Hải ở vùng cửa biển Sa Kỳ, tỉnh Quảng Ngãi.

Sau này, khi dân làng An Vĩnh và An Hải ở Sa Kỳ ra định cư ở đảo Lý Sơn, đã lấy nguyên tên làng trong đất liền làm tên làng trên quê hương mới, thì những người lính Hải đội Hoàng Sa chủ yếu là tuyển trong dân hai làng An Vĩnh và An Hải (trong đó, nhiều nhất là người làng An Vĩnh) trên đảo Lý Sơn (hiện nay thuộc huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Dưới thời Minh Mạng, Hải đội Hoàng Sa đã được chuyển

l SAN SAN (Bài và ảnh)

HÙNG BINH HOÀNG SAHuyền thoạivề những ngườigiữ đảo

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta ở thời kỳ nào cũng xuất hiện những tấm gương sẵn sàng hy sinh vì độc lập, chủ quyền của đất nước. Cách đây 3-4 thế kỷ, dưới thời chúa Nguyễn, triều Tây Sơn, rồi triều Nguyễn, lịch sử đã ghi nhận công lao to lớn và những hy sinh quả cảm của một lực lượng chuyên khai thác kinh tế và cắm mốc chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Hải đội Hoàng Sa. Những người lính trong Hải đội Hoàng Sa biết rất rõ mỗi lần ra đi làm nhiệm vụ là rất ít có hy vọng trở về, nhưng họ vẫn không hề nao núng, làm lễ tế sống mình, rồi lên đường. Họ là những Hùng binh đã dệt nên huyền thoại về những người giữ đảo còn truyền đến hôm nay và mai sau.

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

21

Page 22: Van hien so6 14

đổi thành Thủy quân Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa và Bắc Hải. Cùng với đó, đăng lính vào đội này, ngoài người Lý Sơn là chủ yếu, đã mộ thêm ngư dân ở các tỉnh Quảng Bình, Bình Thuận, thuộc các làng Tứ Chính, Bình Cố, Cảnh Dương,…Đội trưởng Hải đội Hoàng Sa, cũng được tuyển chọn các ngư dân can trường, giỏi nghề đi biển của Lý Sơn. Có thể kể đến đội trưởng Hải đội Hoàng Sa thời Tây Sơn gắn với tên tuổi của Cai đội Võ Văn Khiết (1786); dưới thời Gia Long là tên tuổi Võ Văn Phú (1803), là con ông Võ Văn Khiết; Phạm Quang Ảnh (1815); dưới thời Minh Mạng là tên tuổi Chánh đội trưởng Thủy quân suất đội Phạm Văn Nguyên (1835), Chánh đội trưởng Thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật (1836),… Những cái tên Quang Ảnh, Hữu Nhật đã trở thành tên hai hòn đảo trên quần đảo Hoàng Sa và đều là người của làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn.

Theo các nhà nghiên cứu, sở dĩ đảo Lý Sơn được chọn làm đảo tiền tiêu bảo vệ Hoàng Sa, và người dân Lý Sơn được chọn làm lính của Hải đội Hoàng Sa, là bởi: thứ nhất, để ra Hoàng Sa, Lý Sơn là nơi gần nhất; thứ hai, trong một năm, vào tháng 2 - 3 âm lịch, có đợt gió thổi mạnh từ Lý Sơn ra Hoàng Sa và vào tháng 8 âm lịch, có đợt gió thổi ngược lại từ Hoàng Sa vào đất liền, rất thuận lợi cho thuyền buồm đi lại; thứ ba, lý do quan trọng nhất là bởi người các làng ven cửa biển Sa Kỳ, sau này là trên đảo Lý Sơn rất giỏi nghề đi biển (người Lý

Sơn là những người đã vươn ra xa bờ hơn những cư dân ven biển khác, với ngư trường quen thuộc là Hoàng Sa, Trường Sa, và có khá nhiều kinh nghiệm trong các nghề lưới kéo, lưới vây, lưới rê, lưới chuồn, mành đèn, mành chà, câu cá khơi, câu mực khơi, pha xúc, nghề lặn,...). Biên chế của Hải đội Hoàng Sa, thường có 70 thanh niên trai tráng khỏe mạnh, giỏi đi biển, cứng sóng, nhất là có lòng qủa cảm. Định chế đăng lính Hải đội Hoàng Sa (và sau này cả Trường Sa) được phân đều cho các họ trên đảo (thường là con thứ, vì người con trưởng phải ở nhà lo việc tế tự), không phân biệt thuộc dòng họ tiền hiền hay hậu hiền thuộc hai làng An Vĩnh và An Hải, theo nguyên tắc luân phiên nhau.

Phương tiện đi biển của Hải đội Hoàng Sa là những chiếc ghe câu. Ghe Câu là phương tiện của ngư dân Lý Sơn dùng để đánh bắt hải sản xa bờ, dài ngày trên biển. Ghe Câu có chiều dài từ 10-12m, rộng từ 2,5 - 3m, chiều cao từ 0,8-1m, trọng tải từ 5-6 tấn, di chuyển bằng buồm, nhờ sức gió. Ngư dân Lý Sơn rất giỏi điều khiển thuyền buồm. Những lúc thiếu gió hay ngược gió, họ có kỹ thuật chạy “vát” hay chạy “ganh” rất độc đáo, bằng cách kéo xiên cánh buồm, làm cho ghe tiến về phía trước theo ý người điều khiển. Từ đầu thế kỷ XVII đến những năm 50 của thế kỷ XIX, nhà nước phong kiến Việt Nam đã dùng ghe câu để đưa binh phu đi tuần thú và tìm kiếm hải vật trên các quần đảo Hoàng Sa và

Cánh đồng hành trên đảo Lý Sơn

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

22

Page 23: Van hien so6 14

Trường Sa. Mỗi khi đi làm nhiệm vụ, Hải đội Hoàng Sa thường sử dụng 7 - 8 thuyền. Mỗi thuyền câu chở 9 - 10 người, cùng ngư cụ, lương thực đủ ăn trong 6 tháng, lu đựng nước ngọt, cụng cụ nấu ăn (như: nồi đồng, niêu đất,…). Mỗi người có một thẻ bài ghi rõ danh tính, bản quán, phiên hiệu. Trước khi ra đi, mỗi người lính Hoàng Sa phải tự chuẩn bị cho riêng mình một đôi chiếu cói, 7 đòn tre, 7 sợi dây mây, để phòng trước, nếu không may ngã xuống, thì đôi chiếu, những chiếc đòn tre và các dây mây kia là vật dụng để đồng đội bó xác người chết trên thuyền sau

đó thả trôi trên biển, thông qua lời cầu nguyện hy vọng sóng sẽ đưa xác người xấu số trôi dạt về đất mẹ Lý Sơn để người thân chôn cất và thờ cúng họ.

Hàng năm, cứ đến tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, tùy thời điểm gió thổi từ đất liền ra biển, Hải đội Hoàng Sa sẽ lên đường cưỡi sóng ra quần đảo Hoàng Sa. Nếu chuyến đi suôn sẻ, tháng 8 âm lịch đoàn thuyền sẽ trở về cửa Eo (Thuận An - Huế) để nộp cho kinh thành Huế các loại hải sản quý giá và những thứ nhặt được trên vùng biển đảo này, như đồ đồng, đồ thiếc,…Thủa đó, những người lính Hài đội Hoàng Sa phải lênh đênh cùng sóng gió trong 6 tháng ròng ở một vùng biển sóng giữ như vùng biển thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ với những chiếc thuyền câu, chạy bằng buồm, hơn ai hết, những người dân Lý Sơn nói chung, những người đăng lính Hải đội Hoàng Sa nói riêng (tất nhiên là những người quản lý chính quyền thời đó cũng hiểu, cũng biết) ai cũng biết rằng số phận người đi lính Hoàng Sa quá mỏng manh, xem như đành gửi theo trời mây và bọt biển. Trước khi đi mà cái chết xem như đã cầm chắc, sống sót trở về, chỉ là điều may mắn. Bởi thế, mỗi lính Hoàng Sa đã chuẩn bị sẵn đồ hậu sự cho mình. Trong hành trang mang theo, mỗi người lính Hoàng Sa đã mang sẵn đồ khâm liệm cho mình là đôi chiếu cói, 7 thanh nẹp bằng tre và 7 sợi dây mây, với một tâm niệm, nếu nằm xuống giữa biển khơi, thân xác được đồng đội bó chiếu sẽ được trời biển thương xót mà đưa về đất mẹ. Còn sống để trở về, đối với họ, chỉ là hy vọng mỏng manh như mây trời và bọt biển. Hy vọng, nói đúng hơn, sự đấu tranh với cái chết đó, được người thân cùng với người ra đi, thông qua những thầy cúng / thầy phù thủy, cùng thực hành trước khi mỗi người lính xuống thuyền một nghi thức, đó là lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Đây là lễ/lệ nhằm khao quân, và thực hiện nghi lễ tế sống (thông qua nghi lễ hình nhân thế mạng) cho những người sắp xuống thuyền đi thực thi nhiệm vụ triều đình giao phó, và mặt khác, còn để tế lễ và tưởng nhớ linh hồn những người lính Hoàng Sa, Trường Sa đã khuất. Nghi lễ thế/tế lính là nghi lễ tế sống, mang đậm yếu tố phù phép của đạo giáo nhằm thế mạng cho người đi lính. Nghi lễ được

Bài vị lính Hải đội Hoàng Sa

Ghe câu - phương tiện của lính Hải đội Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ

Thẻ bài của lính Hải đội Hoàng Sa

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

23

Page 24: Van hien so6 14

thực hiện như sau: trước khi ra đi, cùng với việc tộc họ bàn soạn lễ vật xanh tươi, hương đăng tỏa rạng, thầy phù thủy sẽ nặn hình nhân thế mạng bằng bột gạo, bằng giấy, hoặc bằng đất sét. Hình nhân thế mạng sẽ được đặt cạnh linh vị đã ghi tên tuổi người đi lính Hoàng Sa. Trong khói hương nghi ngút, lời phù chú lầm rầm trên nền nhạc bát âm, ngũ âm xen lẫn tiếng mõ thị uy của thầy phù thủy với áo thụng, mũ tam sơn sẽ diễn ra dềnh dàng suốt cả 2 ngày. Có bao nhiêu người đi lính trong dòng họ sẽ có bấy nhiêu hình nhân và linh vị. Trong lúc làm lễ, người

lính Hoàng Sa phải đứng cạnh hình nhân và linh vị của mình. Người lính ấy phải đứng hầu thần suốt buổi tế lễ bằng chính niềm tin là lời nguyện cầu của chính mình, của tộc họ sẽ thấu suốt đấng linh thiêng và ngón nghề ấn quyết của thầy phù thủy sẽ xua được tà ma quỷ ám trên dặm dài sóng nước. Sau lễ thức ở nhà thờ tộc họ, người Lý Sơn sẽ đặt các hình nhân và linh vị, cùng những thứ tượng trưng mà người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa thường mang theo như: gạo, muối, củi, nước ngọt, lưới,… vào những chiếc thuyền bằng giấy, tượng trưng cho thuyền đi Hoàng Sa, Trường Sa thủa trước, rồi đem thả ra biển. Lời nguyện cầu về sự bình yên lẫn lời xua đuổi rủi ro sẽ được bỏ chung cùng thuyền lễ. Giữa bập bềnh sóng gió, hình nhân là kẻ thế mạng cho người đăng lính kia. Khi buổi tế lễ thế lính Hoàng Sa kết thúc, người lính coi như “đã có một lần chết”, và “hùng binh” ấy có quyền tin tưởng rằng mình sẽ không còn phải chết nữa, cho dù sẽ trải qua muôn vàn bất trắc trên biển khơi ròng rã 6 tháng liền. Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa đã đi vào câu ca:

“Hoàng Sa trời nước mênh môngNgười đi thì có mà không thấy vềHoàng Sa mây nước bốn bềTháng ba khao lề thế lính Hoàng Sa”Câu ca quá não nùng, nhưng đấy lại là sự thật,

là lời tóm tắt số phận của những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa từ thủa xa xưa ấy.

Mỗi năm, người Lý Sơn đi lính, đi đánh cá ở Hoàng Sa nhiều, nhưng số người trở về không bao nhiêu. Có năm, cả 70 người trong Hải đội Hoàng Sa đi nhưng không có ai trở về. Hải đội Hoàng Sa tồn tại và hoạt động liên tục suốt 3-4 thế kỷ. Đã có hàng vạn trai tráng đã phải vượt qua không biết bao nhiêu sóng gầm, bão tố để đo đạc thủy trình, cắm cột mốc dựng bia chủ quyền lãnh thổ và khai thác tài nguyên biển đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong số hàng vạn người ra đi ấy, người có may mắn trở về không nhiều. Và, phần lớn trong số họ đã một đi, không trở về. Những tên tuổi được ghi trong sử sách và những tài liệu Hán Nôm còn lưu trữ, như: Cai đội Võ Văn Khiết (1786), Cai đội Võ Văn Phú (1803), Cai đội Phạm Quang Ảnh (Ất Hợi 1815),

Du khách tham quan nhà trưng bày

Đôi chiếu và 7 thanh nẹp tre - đồ hậu sự lính Hải đội Hoàng Sa chuẩn bị sẵn cho mình

Đồ dùng trên thuyền của lính Hải đội Hoàng Sa

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

24

Page 25: Van hien so6 14

Chánh Thủy quân suất đội Phạm Văn Nguyên (Ất Mùi, 1835), Chánh Thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật (Bính Thân, 1836),…Bên cạnh đó là những đà công, thủy thủ được ghi chép trong văn bản cổ của dòng họ Đặng tại thôn Đồng Hộ, làng An Vĩnh, là những người đã từng được nhà Tây Sơn, vua Gia Long, vua Minh Mạng cử đi Hoàng Sa, kiêm quản Trường Sa, hầu hết đều là những người đã không có cơ may trở về. Hình ảnh những khu mộ gió (còn gọi là mộ chiêu hồn) không hài cốt người của các tộc họ Phạm Quang, Phạm Văn, Vĩ Văn,…phơi trong nắng gắt và bão biển Lý Sơn hàng trăm năm qua đã là một minh chứng đầy bi hùng trong quá khứ.

Từ bao năm nay, cứ đến tháng 2, 3 âm lịch, người Lý Sơn tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (hay khao lề tế lính Hoàng Sa). Hầu hết các tộc họ trên đảo Lý Sơn có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa đều thực thi lễ thức này. Tại các nhà thờ các tộc họ Phạm Quang, Phạm Văn, Võ Văn,… và tại các Âm linh tự (hay còn gọi là Nghĩa tự), vào dịp lễ khao lề này vẫn xuất hiện những thầy pháp ra tay ấn quyết và lầm rầm phù chú; vẫn còn hình nhân bằng đất sét hoặc bằng bột gạo, bằng giấy; vẫn còn hàng trăm linh vị người lính Hoàng Sa, Trường Sa cắm trên nải chuối, để nhằm tri ân những người đã vì Tổ quốc hy sinh trên vùng biển đảo Tổ quốc.

Những người Lý Sơn khi được tuyển chọn làm

lính Hải đội Hoàng Sa, đều biết là đi không hẹn ngày về; là chỉ có một phần sống, tới 9 phần chết, và biết, dù có “hình nhân thế mạng rồi”, thì phần sống để trở về với người thân cũng… chỉ là mây trời, bọt biển, khó lường. Vậy mà những người lính Hoàng Sa vẫn ra đi. Họ xứng đáng với lời khen tặng của vua Tự Đức, những “Hùng binh Hoàng Sa”. Để tri ân công trạng của những người dân binh này, triều đình nhà Nguyễn sẽ miễn thuế hàng năm, trợ cấp lương thực, kèm theo đó còn được làng cấp cho quĩ đất để gia đình người thân của dân binh Hoàng Sa tử nạn trồng tỏi mưu sinh làm ăn sinh sống.

“Hùng binh Hoàng Sa” chính là những cảm tử quân, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Bởi, Hoàng Sa, Trường Sa là một phần không thể tách rời của Tổ quốc, họ hy sinh không tiếc thân mình. Kế tục và phát huy truyền thống kiên cường và quả cảm của những Hùng binh Hoàng Sa xưa, là mệnh lệnh của trái tim, trách nhiệm của các thế hệ người Lý Sơn nói riêng, người Việt Nam nói chung để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền biển đảo nước ta./.

Lý Sơn - 25/5/2014

Lu đựng nước ngọt trên thuyền đi Hoàng Sa

7 sợi dây mây bó xác của lính Hải đội Hoàng Sa

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

25

Page 26: Van hien so6 14

Từ lâu thù bạn cứ gần xaChợt đến hôm nay mới vỡ òaKhi thấy dàn khoan chín tám một (981)Trên vùng kinh tế đặc quyền ta !

Bạn nào bạn cứ như thù vậyNòng thép, vòi rồng lẫn máy bayThù đã trồi lên trên sóng dậyBạn sao không lệnh rút về ngay.

Ta nói bằng lời bạn chẳng ngheMỗi ngày cường bạo mỗi ngày khoeBạn thù - thù bạn càng thêm tỏĐừng có hòng che mắt bạn bè.

Vẫn biết bạn trăm, còn quá ítThù nhau một kẻ, đã nghe nhiềuNhưng thù không thể như là bạnNhiều ít bây giờ chỉ bấy nhiêu.

Đừng nhắc chuyện xưa ở Rạch GầmHay là Hàm Tử, Bạch Đằng Giang…Nhắc chi, bạn những không trằn trọcCòn tỏ ra thù đến dã man !

Nguyễn Thế Kỷ

Lẫn lộn đến bao giờ?

Trời Tây mây bạc cuộn về ĐôngBiển bỗng bùng lên ngọn gió lồngThù bạn - bạn thù từng lớp sóngNổi chìm càng lúc càng mênh môngNgư dân Quảng Ngãi không lùi bướcDẫu trước kẻ thù thật biển ĐôngCảnh sát biển từng giây bất khuấtKiểm ngư như mạn sắt neo đồng“Mộ gió” Lý Sơn vàng chứng tích“Khao lề thế lính” đỏ hương rằmBản đồ truyền thống là lai lịch:“Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam!”.Tận Tây tìm bạn đến từ ĐôngBiển bỗng dồn lên ngọn gió lồngThù bạn - Bạn thù từng lớp sóngNổi chìm càng lúc, càng mênh mông …Bạn đến nhà ta lại đuổi taKhác chi miệng lưỡi kẻ gian tàVàng thau lẫn lộn đâu còn nữa?Già trẻ mau mau giữ nước nhà!

Ảnh: Những người lính Hải quân Việt Nam đang chế ngự những con sóng lớn để cập đảo chìm Đá Lớn C, Trường Sa chiều ngày 06.05.2014. Tác giả: Nguyễn Văn Trung

26

Page 27: Van hien so6 14

Chiều Lý Sơn, trời lặng gió, nắng rát mặt. Chưa đến giờ thuyền đi làm ăn ngoài khu vực biển Hoàng Sa trở về, đảo vắng bóng

những ngư ông, nhưng lại tràn ngập bóng áo xanh thanh niên tình nguyện, bóng những cựu chiến binh nhiều người ngực đầy huân, huy chương từ đất liền ra đảo để biểu thị tinh thần sẵn sàng bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo nước ta. Đi đâu trên đảo, tôi

cũng gặp những ngôi “mộ gió”. “Mộ gió” nằm trong những dẻo đất trồng hành, trồng mè, trồng lạc trên con đường dẫn lên chùa Đục. Cả một nghĩa địa toàn “mộ gió” lính Hải đội Hoàng Sa nằm cạnh Âm linh tự (khu này đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia) nằm cạnh con đường làng xã An Vĩnh… Nhìn những ngôi “mộ gió”, trong đầu tôi cứ ẩn hiện câu hỏi, tại sao lại gọi là “mộ gió”, “mộ gió” chôn ai? Tại sao người ta không xây “mộ gió” to,

l NY SAN (Bài và ảnh)

Tượng đài bất tửvề những người sống chết với Hoàng Sa

Những ai, dù chỉ một lần đặt chân lên đảo Lý Sơn, hòn đảo chỉ cách cảng Sa Kỳ của tỉnh Quảng Ngãi trên 16 hải lý, đi lang thang quanh đảo hay len lỏi trong các ngõ xóm của hai xã An Vĩnh và An Hải, cũng không khó để bắt gặp những nấm mồ đắp bằng đất pha cát nằm rải rác, ẩn mình trong những luống hành, luống tỏi hay những thửa ngô xanh bạt ngàn; hay lẩn khuất, xen kẽ với những nhà dân hay bên cạnh những Âm linh tự. Có vô khối những nấm mộ chỉ cao hơn ngọn cỏ, gợi ta nhớ tới câu thơ gợi cảm về một số phận cô đơn, lẻ loi ngay cả khi đã nằm xuống 3 tấc đất của Nguyễn Du: “Sè sè nấm đất bên đường”. Người ta chỉ có thể hình dung đó là ngôi mộ bởi xung quanh được đánh dấu địa giới bằng một vài hòn đá đen. Người Lý Sơn gọi đó là những ngôi “mộ gió”.

Mộ gió

27

Page 28: Van hien so6 14

cầu kỳ, chiếm nhiều đất như những phần mộ trên đất liền?... Đang mung lung như vậy, bất giác, nghe được lời ru cháu của bà vọng ra từ một ngôi nhà nhỏ ẩn dưới tán cây doi, cây nhãn đang độ hoa rộ:

- “Đến mùa tu hú kêu thanhCá chuồn đã mãn mà anh chưa về”- “Hoàng Sa trời nước mênh môngNgười đi thì có mà không thấy về” Lời ru mang cho tôi một cảm giác buồn đến não

nề, nhưng đã gợi mở cho tôi hiểu phần nào về những ngôi “mộ gió” - đặc sản của Lý Sơn này. Lý Sơn là quê hương của Hải đội Hoàng Sa, quê hương của những ngư phủ Lý Sơn từ thế hệ này tới thế hệ khác đã làm ăn trên ngư trường Hoàng Sa. Những từ “mà anh chưa về”, “mà không thấy về” chính là để nói về những binh lính trong Hải đội Hoàng Sa, và những ngư phủ Lý Sơn đi đánh cá ngoài vùng biển Hoàng Sa, đã không bao giờ trở về. Họ đã vĩnh viễn nằm lại với biển trời Hoàng Sa thân yêu. Và, những nấm mộ kia là mộ của họ, song không có hài cốt. Qua đi sâu tìm hiểu, tôi biết, thực ra, dưới những nấm “mộ gió” ấy cũng chôn “người chết”, nhưng đó chỉ là hình nhân mà thôi.

Cũng như ở nhiều nơi khác trên đất nước ta, người Lý Sơn cũng quan niệm, những người lính Hoàng Sa và ngư dân Lý Sơn chết ngoài biển mà không tìm thấy xác, thì linh hồn họ cứ mãi mãi luẩn quẩn ngoài biển, không được trở về đoàn tụ với gia đình, tổ tiên. Để linh hồn của những người xấu số ấy không bơ cơ, vật vờ trên những con sóng, được siêu thoát, được lên bờ, phải lập đàn cúng bái rước hồn về ngự trong một hình nhân, sau đó chôn hình nhân đó như chôn một người chết bình thường, để người thân quanh năm hương khói, tưởng nhớ. Ngôi mộ táng hình nhân đó gọi là mộ gió. Lễ đó gọi là lễ chiêu hồn nhập xác. Vì thế, những ngôi mộ gió còn được gọi là những ngôi mộ chiêu hồn.

Trải qua thời gian, đến nay, không dòng tộc nào trên đảo Lý Sơn là không có người thân có đi Hoàng Sa mà không có về, thân xác gửi nơi đáy biển sâu hoặc làm mồi cho cá dữ. Có không ít năm, dả 70 người của Hải đội Hoàng Sa, không ai sống sót trở về. Nếu cả Hải đội Hoàng Sa bị rơi vào hoàn cảnh ấy thì, các họ tộc có người đi lính Hoàng Sa tiến hành lập danh sách, rồi mời nghệ nhân nặn / làm hình nhân (bằng đất sét) thế mạng, mời thầy phù thủy về cúng bái và làm lễ chiêu hồn dưới biển lên

nhập vào xác/hình nhân, sau đó làm lễ an táng như người chết bình thường. Việc này mang ý nghĩa tâm linh để an ủi những người thân của kẻ xấu số rằng linh hồn người chết không còn bơ vơ, vất vưởng, đói khát nữa mà đã có “nhà” để trú ngụ gần những người thân trên dương thế. Đồng thời, để người thân thanh thản vì mình đã làm tròn phận sự của người sống với người đã chết.

Để làm một ngôi “mộ gió”, phải trải qua nhiều công đoạn và mất nhiều thời gian. Vật liệu nặn hình nhân thế mạng nhất thiết phải là đất sét đặc biệt lấy tại vùng núi Giếng Tiền, một trong 5 ngọn núi trên đảo Lý Sơn - vốn là miệng núi lửa đã tắt hàng triệu năm trước để lấy đất sét (Vì thế mà người Lý Sơn không bao giờ dùng đất sét để làm nhà ở). Đất sét đem về trộn với bông gòn rồi giã thật nhuyễn, để làm phần “thịt” của hình nhân. Xương cốt hình nhân được làm bằng những cành cây dâu tằm, theo tỷ lệ ứng với các con số trong số lượng hành trang mà người lính Hoàng Sa mang theo khi xuất binh. Bởi họ quan niệm tằm nhờ ăn lá dâu nhả tơ mà hồi sinh, đổi kiếp theo thuật luân hồi. Vì vậy, xương cốt hình nhân làm bằng cây dâu cũng mang khát vọng về sự chuyển kiếp của con người. Nội tạng được làm bằng lòng đỏ trứng gà so. Ông Võ Văn Toại, là một nghệ nhân nặn hình nhân bằng đất sét để đặt vào mộ gió, kể: Ông phải lên tận đỉnh núi Giếng Tiền để lấy đất sét. Số lượng đất phải đủ để đắp hình một người có kích thước như người thật. Tượng nặn xong, được mặc quần áo. Một cỗ thuyền (mô hình) với những mâm lễ vật được thả xuống biển để cúng chiêu hồn người chết cùng các vị thần ngự ngoài biển khơi. Cúng chiêu hồn xong, họ tin là linh hồn người chết đã nhập vào hình nhân để an nghỉ, phù hộ người thân trên dương thế. Làm lễ triệu vớt linh hồn từ dưới biển xong, mới tổ chức lễ nhập cốt. Sau đó, khiêng hình nhân đặt vào quan tài, cùng những đồ liệm / tùy táng giống y như thật, linh vị đặt trên mặt tượng. Quan tài được đặt xuống huyệt, lấp đất, đắp nấm. Phần nấm chủ yếu là đất pha cát, bởi trên mặt đất đảo Lý Sơn cát chồng cát khá dầy. Khí hậu trên đảo khắc ngiệt, những ngôi mộ gió thường xuyên bị những trận bão biển san bằng vùi lấp. Ngày giỗ, người thân ra “mộ gió” thắp hương. Vào lễ Thanh minh hàng năm, ngững ngôi “mộ gió” cũng được người thân tảo mộ y những ngôi mộ bình thường khác.

Theo người dân Lý Sơn kể lại, tục đắp mộ gió có

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

28

Page 29: Van hien so6 14

cách đây hơn 200 năm. Những ngôi mộ gió đầu tiên trên đảo là mộ của Cai đội Phạm Quang Ảnh cùng với 24 lính của Hải đội Hoàng Sa. Lần ấy, Cai Ảnh chỉ huy 70 lính thuộc Hải đội Hoàng Sa, đi trên 5 thuyền ra Hoàng Sa thực thi nhiệm vụ chủ quyền. Chẳng may, đoàn thuyền của ông gặp bão lớn nhấn chìm, không một ai sống sót trở về. Được tin, vua Gia Long đã thân chinh ra tận Lý Sơn làm lễ chiêu hồn cho 25 liệt sĩ. Trong đoàn có thầy phù thủy. Thầy phù thủy sai người đi lấy đất sét trên núi Giếng Tiền về nặn hình nhân của 25 người đã chết, làm lễ chiêu hồn về rồi đem chôn. Cai Ảnh chôn đầu tiên, tiếp đến 24 chiến sĩ của ông, mỗi người một nấm mộ. Thời gian và gió mưa đã làm cho 25 ngôi mộ bị bào mòn, không còn phân biệt mộ này với mộ khác, nên dân Lý Sơn đã vun đắp cả 25 nấm mộ gió thành một ngôi mộ chung lớn, dài hơn 10 mét như hiện nay ở thôn Đông, xã An Vĩnh, huyện Lý Sơn.

Thủy tổ họ Phạm là một trong 6 họ tiền hiền lập làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. Trong họ Phạm có Phạm Hữu Nhật từng được triều đình phong làm Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Hải đội Hoàng Sa. Mỗi lần ra Hoàng Sa, ông Nhật thường dẫn đầu 5 - 6 thuyền, mỗi thuyền 10 người. Năm Minh Mạng thứ 17, Bính Thân (1836), ông được lệnh vua đưa binh thuyền ra Hoàng Sa. Lần này, ông “đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 6 tấc, dày 1 tấc, khắc “Năm Minh Mạng thứ 17, Bính Thân, 1836, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. Trong lần đưa Hải đội Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa năm 1854, Phạm Hữu Nhật và cả Hải đội đã mất tích trên biển. Người thân của ông

đã an táng ông bằng một nấm mồ chiêu hồn không có hài cốt (mộ gió) ở thôn Đông. Gần đây, ngôi mộ gió Chánh đội trưởng Thủy quân Phạm Hữu Nhật đã được Sở VH-TT&DL Quảng Ngãi, UBND huyện Lý Sơn và gia tộc họ Phạm Văn ở thôn Đông, xã An Vĩnh, xây dựng khang trang.

Trên đảo Lý Sơn hiện nay có hàng trăm ngôi mộ gió. Hàng trăm năm nay, mặc bao bão biển, gió cát khơi xa vùi lấp, song những ngôi mộ gió vẫn được người dân đảo Lý Sơn chăm nom, ấm hương khói. Bởi, đó là hiện thân, là hình bóng của những Hùng binh Hoàng Sa, của những ngư dân dũng cảm, kiên cường bám biểm sinh sống và giữ chủ quyền biển đảo Tổ quốc năm xưa, tuy thân xác đã tan vào biển cả Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng linh hồn họ đã về trong tấm lòng bao la của Đất Mẹ Lý Sơn.

Tha thẩn bên những ngôi “mộ gió”, bất giác, trong tôi hiện lên hình ảnh những nấm mộ, có bia khắc tên tuổi liệt sĩ hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhưng không có hài cốt mà tôi đã bắt gặp ở hầu hết các nghĩa trang liệt sĩ, từ nghĩa trang liệt sĩ quốc gia đến nghĩa trang liệt sĩ ở tất cả các xã trên cả nước. Hài cốt của các liệt sĩ ấy đã tan thành cát bụi hoặc còn nằm ở một nơi nào đó trên khắp các chiến trường B, C, K xưa. Nhiều lắm những nấm mộ như thế. Như trong nghĩa trang Liệt sĩ xã Công Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam - quê tôi, có mộ và tên của hai Liệt sĩ là bố tôi và anh tôi, song đều không có hài cốt. Hài cốt bố tôi vẫn ở ngôi mộ mẹ tôi chôn ông ở nghĩa trang đồng Bãi Vạn cùng xã, sau khi ông hy sinh ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 1952, khi tôi mới 6 tháng trong bụng mẹ. Anh trai tôi đi bộ đội năm 1968, khi mới 18 tuổi, đã hy sinh năm 1970, theo giấy báo tử là ở mặt trận

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

29

Page 30: Van hien so6 14

Nam Sài Gòn, nhưng đến nay gia đình tôi vẫn chưa tìm được hài cốt, mặc dù tôi đã nhiều lần đi gọi hồn, tìm mộ. Việc không có hài cốt dưới những nấm mộ liệt sĩ ấy, chỉ những thân nhân của liệt sĩ và một số cán bộ chính quyền và người quản trang biết, còn viễn khách ghé qua một lần không thể biết được điều đau thương ấy. Bởi nấm mộ nào cũng được xây vuông vức, giống nhau như đúc về kiểu dáng, kích thước, bên trên cũng có bia mộ ghi tên tuổi người hy sinh. Những liệt sĩ này hơn hai lần chịu nỗi đau, đã hy sinh cuộc sống cho chiến thắng, tự do độc lập của đất nước, sau khi chết, họ lại chịu nỗi đau là hồn xác chia lìa, hài cốt hòa vào cát bụi, không biết nơi nao. Đó là nỗi đau của những gia đình có người thân hy sinh mà chưa tìm được hài cốt, trong đó có gia đình tôi.

Thời gian cứ vô tình trôi. Những trận bão biển hãi hùng năm nào cũng thản nhiên trút xuống. Những hạt cát Lý Sơn bé nhỏ không đủ sức giữ cho nấm “mộ gió” đứng cao trên mặt đất. Song, mỗi khi cơn bão đi qua, những ngôi “mộ gió” lại được vun cao, để giữ cho tên tuổi của những Hùng binh Hoàng Sa mãi

mãi khắc ghi trong tâm trí các thế hệ người Lý Sơn và trong tâm khảm du khách bốn phương khi đến hòn đảo này. Bởi những ngôi “mộ gió” đó là chứng tích về các thế hệ người Lý Sơn khí phách kiên cường, quả cảm, đã hy sinh giữ vững chủ quyền biển đảo Tổ quốc. “Mộ gió” chính là những tượng đài bất tử về những người sống chết với Hoàng Sa.

Hoàng hôn đã dát bạc trên mặt biển. Loáng thoáng những con tầu đánh cá trở về. Trên ca bin con tầu, lá cờ Tổ quốc phần phật bay, tuy đã ngả màu và sờn mép. Những người thân của ngư phủ trên những con tầu đó, phần lớn là phụ nữ và trẻ con, ngóng trông trên bến. Ai cũng mong nhìn thấy người thân còn sống, không trông thuyền khẳm, cá đầy như những ngày nào. Bởi, quân Trung Quốc đã ngang nhiên tấn công đâm húc các con tầu hiền lành, bé nhỏ của ta.

Người còn, là còn những mẻ cá đầy!Những ngôi “mộ gió” nằm đó, từng nằm đó mấy

trăm năm, nhưng không lúc nào cô đơn, lẻ loi. Lý Sơn - cho tôi tình yêu, niềm tự hào về hòn đảo thiêng liêng thấm biết bao máu xương của lớp lớp tiền nhân quyết tử để giữ gìn và bảo vệ chủ quyền biển đảo thân yêu của Tổ quốc. /.

Lý Sơn - chiều 24/5/2014

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

30

Page 31: Van hien so6 14

Hội thảo do UBND tỉnh Quảng Ngãi và Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp tổ chức

ngày 23 tháng 5 năm 2014, tại Khách Sạn My Trà - TP Quảng Ngãi - quê hương của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Tham dự Hội thảo, có: NSƯT - Nhà điêu khắc

Vương Duy Biên - Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL; PGS Lê Hữu Nghĩa - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; NSND Lê Tiến Thọ - Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam; GS Hoàng Chương - Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc; Ông Hà Đăng - nguyên Ủy viên TƯ Đảng - nguyên Trưởng ban Tuyên giáo TƯ; GS.TS Lê Hồng Lý - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; Ông Nguyễn Đức Tuấn - Đại diện Bộ VH-TT&DL tại Đà Nẵng và miền Trung - Tây Nguyên.

Hội thảo rất được lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi quan tâm, với sự hiện diện của các đồng chí: Nguyễn Minh - Quyền Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi; Trần Văn Minh - Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi; Lê Quang Thích - Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; Lê Viết Chữ - Chủ tịch UBMT Tổ quốc tỉnh Quảng Ngãi; TS Nguyễn Đăng Vũ - Giám đốc Sở VH-TT&DL Quảng

l NMS (Bài và ảnh)

HỘI THẢO KHOA HỌCPHẠM VĂN ĐỒNG VỚI VĂN HÓA DÂN TỘC

Ông Lê Quang Thích - Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi khai mạc hội thảo

31

Page 32: Van hien so6 14

Ngãi; Phạm Thanh Biền - nguyên Khu ủy viên Khu V, nguyên Bí thư Tỉnh ủy QUảng Ngãi; Vũ Tùng Vi - nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi qua các thời kỳ; lãnh đạo huyện Mộ Đức quê hương Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Thiếu tướng Phạm Sơn Dương - con trai Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng phu nhân và gia đình đã tham dự Hội thảo.

Tham dự Hội thảo có ông Nguyễn Tiến Năng - nguyên Thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng; ông Trần Quân Ngọc, nguyên Trợ lý Tổng Bí thư Đỗ Mười. Gần một trăm Giáo sư, Tiến sĩ, nhà khoa học, nhà nghiên cứu hàng đầu, nhà văn nổi tiếng trong cả nước, đặc biệt là ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Quảng Ngãi tham dự Hội thảo.

Hội thảo đã nhận được trên 70 bản tham luận, trong đó có tham luận của nhiều lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của các cơ quan lý luận trung ương, các giáo sư, nhà nghiên cứu hàng đầu như: GS.TS Lê Hữu Nghĩa - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TƯ; Hà Đăng - nguyên Ủy viên TƯ Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa TƯ; Hữu Thọ - nguyên Tổng biên tập báo Nhân dân; Hồ Nghĩa Dũng - nguyên Ủy viên TƯ Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi, nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT- Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam; Trần Việt Phương - nguyên Thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng; Trần Quân Ngọc, nguyên Trợ lý Tổng Bí thư Đỗ Mười; Đức Lượng - nguyên Phó TBT báo Nhân dân; Phạm Thanh Biền - nguyên Khu ủy viên Khu V, nguyên Bí thư Tỉnh ủy QUảng Ngãi; Vũ Tùng Vi - nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; Trần Khánh Chương - Chủ tịch Hội Mỹ

thuật Việt Nam; NSND Lê Tiến Thọ - nguyên Thứ trưởng Bộ VHTT - Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam; GS Hà Minh Đức; GS.TSKH Phan Đăng Nhật; GS Phan Huy Lê; GS Mạc Đường; GS Trường Lưu; PGS Hà Sâm, PGS.TS Trần Luân Kim, nhà thơ Thanh Thảo, nhà văn Vũ Hạnh, Đoàn Minh Tuấn, nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ,…

Buổi chiều hôm trước ngày khai mạc Hội thảo, các đại biểu tham dự Hội thảo đã đến thăm Khu Lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng, niệm hương tại nhà thờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, niệm hương tại ngôi nhà di tích nơi sinh Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Hội thảo diễn ra trọn ngày 23 tháng 5 năm 2014. Buổi sáng, sau những tiết mục văn nghệ chào mừng của các diễn viên Đoàn Nghệ thuật Quảng Ngãi, ông Lê Quang Thích - Quyền Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi đọc lời Chào mừng và Khai mạc Hội thảo. Tiếp theo, GS Hoàng Chương - Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam đọc bài Đề dẫn Hội thảo. Hội thảo đã diễn ra trang nghiêm, sôi nổi, với 23 bản tham luận trình bày tại Hội thảo. Cuối buổi chiều, GS.TS Lê Hồng Lý - Viện trưởng Viện Văn hóa - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam tổng kết Hội thảo và khẳng định Hội thảo “Phạm Văn Đồng với văn hóa dân tộc” đã thành công tốt đẹp. TS Nguyễn Đăng Vũ - Giám đốc Sở VH-TT&DL - thành viên Ban tổ chức đã thông báo, các tham luận Hội thảo sẽ được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản thành sách, phát hành rộng rãi, là ấn phẩm Chào mừng Kỷ niệm 110 ngày sinh của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào năm 2016.n

GS. Hoàng Chương đọc tham luận tại hội thảo Ông Vương Duy Biên - Thứ trưởng Bộ VHTT&DL đọc tham luận tại hội thảo

32

Page 33: Van hien so6 14

“Anh quan tâm và thương nhớ quê hương lắm; Anh là một trong các vị trụ cột quốc gia sau khi Bác Hồ ra đi xa. Anh rất công bình, công minh chính đại, không nặng nhẹ đối với chiến trường nào. Bản tính Anh là thế, cả nước là một nhà, không cục bộ, địa phương nhất là vấn đề cán bộ và tài chính. Phạm Văn Đồng, trọn đời làm việc cho Đảng, cho dân, cho đất nước và quên mình. Hết lòng với con cháu Việt Nam đời sau. Suốt đời tham gia viết sử, viết sách, tập trung nhất viết sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, về người thầy anh minh của Anh. Phạm Văn Đồng rất quan tâm đến nền văn hóa đa dạng, phong phú của các dân tộc trong cùng một Tổ quốc Việt Nam, anh đã làm nhiều cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Anh là con người học trò đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là hiện thân của Hồ Chí Minh, của các bậc Hiền nhân và các nhà Văn hóa lớn của đất nước; thuộc thời đại Hồ Chí Minh” Phạm Thanh Biền(Nguyên Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi)

“Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ một cách tuyệt vời. Khi cùng ở với Bác Hồ và cả sau khi Bác mất, ông luôn giữ nếp sống rất đơn giản với một chút cơm, một chút cá hoặc thịt và mấy cọng rau, có ngày chỉ ăn một hai bát cháo hoặc bát súp, nhưng luôn có sẵn một củ khoai. Những tác phong công việc, cách quan hệ, tiếp xúc với mọi người đều ảnh hưởng từ Bác Hồ. Lúc Bác mất, ông đã khóc rất nhiều. Ông không ở căn nhà cũ nữa vì ông bảo “từ tiếng nói, bước đi đến tiếng guốc của Bác vẫn văng vẳng trong tâm trí” khiến ông không thể cầm lòng được. Quan trọng hơn, ông cho rằng nơi ở của Bác Hồ ghi đậm dấu ấn những hoạt động sống và làm việc của Bác nên phải xây dựng thành khu lưu niệm Bác Hồ để nhân dân, chiến sĩ, bạn bè trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng và học tập. Ông dặn dò anh em phải chăm sóc, bảo vệ, tôn tạo và phát triển để khu vực này càng ngày càng thu hút được mọi người. Có thể nói không nước nào mà nguyên Thủ quốc gia (Chủ tịch nước) và Thủ tướng lại có sự gắn bó gần gũi với nhau như thế. Đây thực sự là mối quan hệ đặc biệt. Trong cuộc sống, Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng coi nhau như anh em, Bác gọi ông là chú Tô.”Nguyễn Tiến Năng - nguyên Thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng

“Theo đồng chí Phạm Văn Đồng, văn nghệ sĩ phải biết tự tạo cho mình “một phong cách độc đáo” - phong cách riêng, phải có hoài bão, ước mơ. Đồng chí nói: “Phải lắng nghe cái gì sâu xa nhất trong con người của mình, bồi dưỡng cho mình một bản lĩnh vững vàng, một phong cách độc đáo, vì nghệ thuật không phải là sản phẩm được sản xuất hàng loạt như sản xuất công nghiệp. Hãy suy nghĩ lời khuyên của Gorki: Bạn hãy giữ lấy cái gì là của riêng mình, hãy săn sóc làm cho nó phát triển tự do. Lúc một người không có cái gì là của riêng mình, thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”.

Chính vì vậy đồng chí cho rằng làm văn nghệ “phải có khiếu, có tài”; tài năng không phải tự nhiên có mà phải trải qua quá trình rèn luyện công phu. Đồng chí chân thành khuyên mọi người: “nếu không có tài năng gì đặc biệt thì anh nên đi làm việc khác chứ vào văn nghệ khổ lắm” GSTS. Lê Hữu Nghĩa

33

Page 34: Van hien so6 14

l CHÂU GIANG (Bài và ảnh)

“ÂM NHẠC VÀ THƠ VỚI ĐIỆN BIÊN PHỦ”HỘI THẢO KHOA HỌC

Trong tham luận tại Hội thảo, GS Vũ Khiêu cho biết, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trợ lý công tác tuyên truyền bên cạnh Đại tướng - Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, là Ủy viên Ủy ban Tuyên huấn Mặt trận, trực tiếp phụ trách công tác tuyên truyền phục vụ Chiến dịch ở 18 tỉnh vùng Bắc Bộ và các tỉnh xung quanh Điện Biên Phủ. Tuyên truyền là một mặt trận có vái trò rất quan trọng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, đã vận động nhân dân cả nước chi viện cho tiền tuyến lớn, cho con em mình đi bộ đội, đi dân công hỏa tuyến, đóng góp lương thực, thực phẩm, thuốc men,…cho bộ đội và dân công tuyến lửa. Trong tuyên truyền, có cả công tác dân vận và địch vận.

PGS.TS. NSND - Biên đạo múa Lê Ngọc Canh cho biết, ông không được trực tiếp phục vụ Chiến dịch

GS.AHLĐ Vũ Khiêu, GS Hoàng Chương tại hội thảo

Toàn cảnh hội thảo

Hội thảo diễn ra ngày 07/5/2014, tại Hội trường Bộ VH-TT&DL, do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc tổ chức. Tập đoàn Truyền thông Quốc gia Việt Nam đã tài trợ kinh phí cho Hội thảo này. Hội thảo được sự giúp đỡ

về địa điểm tổ chức của Văn phòng Bộ VH-TT&DL.Tham dự Hội thảo có: NSƯT, Nhà điêu khắc Vương Duy Biên - Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL, PGS.TS Hồng

Vinh - Chủ tịch Hội đồng Lý luận và Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, GS Hoàng Chương - Tổng Giám đốc Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa ở Trung ương và Hà Nội. Hội thảo có vinh dự đón một số đại biểu là nhân chứng sống của chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây 60 năm, là: GS.AHLĐ Vũ Khiêu, Đại tá - Anh hùng Quân đội Đinh Thế Văn.

Hội thảo đã nhận được 19 bản tham luận của những nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa, nhạc sĩ, biên đạo múa, nhà báo.

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

34

Page 35: Van hien so6 14

Điện Biên Phủ, nhưng ông có vinh dự biên đạo múa cho nhiều tác phẩm âm nhạc của một số nhạc sĩ trực tiếp sáng tác ngay trên chiến hào của Điện Biên Phủ (như nhạc sĩ: Hoàng Vân với “Hò kéo pháo”), của một số nhạc sĩ có sáng tác về đề tài Điện Biên Phủ, như: Vở kịch múa “Phan Đình Giót lấy thân mình làm giá súng” của nhạc sĩ Văn Ký; Kịch múa : “Hoa nở trên đường kéo pháo” viết về Anh hùng Tô Vĩnh Diện của người nhạc sĩ-chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Ngọc Trác;

các tác phẩm múa trên nền âm nhạc “Đường ra chiến dịch” của nhạc sĩ Đặng Văn Hùng, “Trở lại Điện Biên “ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn,…

TS Nguyễn Minh San trong tham luận đã nhấn mạnh, chiến thắng Điện Biên Phủ là một mốc son chói lọi, tạo bước ngoạt mới về tầm vóc của cả dân tộc Việt Nam, về thân phận của mọi thế hệ người Việt Nam. Nó có tầm vóc nhân loại, mang tính toàn cầu. Song, có rất ít tác phẩm VHNT có tầm cỡ tương xứng. Điều này có nguyên nhân ở cả chủ quan của người nghệ sĩ (ở chỗ cảm xúc chưa tới và cũng chưa đủ tài); có nguyên nhân khách quan là ở sự quan tâm định hướng, đầu tư cho văn nghệ sĩ sáng tác về đề tài này chưa tới, chưa trúng, chưa đúng. Vì vậy, ông khẳng định, các văn nghệ sĩ nước ta mắc nợ các chiến sĩ Điện Biên nhiều lắm. Món nợ này, mọi cá nhân văn nghệ sĩ phải trả. Hôm nay chưa trả được, phải di chúc lại cho mai sau phải trả, trả cho kỳ được. Muốn vậy, mỗi văn nghệ sĩ phải là một tài năng, phải có tâm. Món nợ này, Nhà nước không thể đứng ngoài, mà cũng phải ghi nhớ, phải trả.

Trong tham luận, Thứ trưởng Vương Duy Biên khẳng định VHNT về đề tài Điện Biên Phủ đã có nhiều thành tựu, về cả văn học, mỹ thuật, âm nhạc, đặc biệt là âm nhạc với những tác phẩm lớn, sống cùng năm tháng, như “Giải phóng Điện Biên”, “Hò kéo pháo”, “Chiến thắng Him Lam”, “Hành quân xa”,… của những tác giả còn rất trẻ, không được đào tạo bài bản về âm nhạc, nhưng nhờ cảm xúc thực sự, nhờ dấn thân thực sự vào cuộc kháng chiến nên đã làm nên giá trị để đời của các tác phẩm. Ông khẳng định, đề tài lớn này chắc chắn sẽ vẫn là một đề tài lớn cho những người làm VHNT nước nhà trong tương lai. Bởi tầm vóc vô cùng lớn lao của nó. Quan trọng nhất, sáng tác về Điện Biên Phủ phải được nhà nước định

Nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa đọc tham luận tại hội thảo NSND Lê Ngọc Canh phát biểu tại hội thảo

Đại tá Anh hùng Đinh Thế Văn đọc tham luận tại hội thảo

Thứ trưởng Bộ VHTT&DL - Vương Duy Biên đọc tham luận tại hội thảo

SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN

35

Page 36: Van hien so6 14

hướng, đầu tư; phải là trách nhiệm công dân của các văn nghệ sĩ. Ông cũng khẳng định, thế hệ trẻ không quay lưng lại lịch sử của cha ông, vẫn khát khao về với Điện Biên, tìm hiểu Điện Biên (qua “phượt”). Vấn đề là ở công tác giáo dục lịch sử của ngành GD&ĐT, ở những người làm công tác VHNT, công tác tuyên truyền. Bởi, nếu các chiến công của chiến sĩ trên mặt trận dù lowbns đến đâu, các anh hùng xả thân vì chiến thắng Điện Biên như Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện,… là những tấm gương ngời sáng bao nhiêu, nếu không được tuyên truyền rộng rãi, thường xuyên, liên tục và sáng tạo, thì công tác giáo dục lịch sử không có tác dụng, lớp trẻ không hiểu hết, thậm chí hiểu sai lệch lịch sử cha ông. Nếu vậy, làm sao hâm nóng, nhân lên tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong lớp trẻ được. Ông Vương Duy Biên nhấn mạnh, tuyên truyền mạnh ngang với quân sự. Vì vậy, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các sự kiện lịch sử vĩ đại, về những người con ưu tú của dân tộc để giáo dục thế hệ trẻ. Ông nhận xét, công nghiệp giải trí của chúng ta hiện nay đang thiên về dịch vụ giải trí, trong đó có không ít show tầm thường, thiếu hàm lượng, thậm chí xem nhẹ tính giáo dục văn hóa tư tưởng.

Phát biểu tổng kết Hội thảo, PGS Hồng Vinh khẳng định: Việc Trung tâm NCBT&PHVHDT - Trung tâm Mẹ và Trung tâm BT&PHÂNDT - Trung tâm Con tổ chức Hội thảo tại Thủ đô Hà Nội cùng thời khắc

Đảng, Nhà nước ta đang tổ chức mit tinh trọng thể kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ tại TP Điện Biên Phủ, thật ý nghĩa. Ý nghĩa ở chỗ, các đồng chí là đơn vị hoạt động bằng kinh phí xã hội hóa mà lại tổ chức được, trong khi có rất nhiều cơ quan, đơn vị có chức năng, sử dụng kinh phí nhà nước song trước một sự kiện trọng đại kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu này lại hoạt động chưa tới tầm. Giỏi! Giỏi quá! Cần biểu dương. Hội thảo rất xúc động và đánh giá cao những đồng chí là nhân chứng sống về Điện Biện Phủ, đó là GS.AHLĐ Vũ Khiêu, là Đại tá AHLLVTND Đinh Thế Văn, những chiến sĩ Điện Biên Phủ. Tuy không trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhưng phải là người để tâm, để trí với Điện Biên, NSND Lê Ngọc Canh mới có thể cảm nhận được giá trị những tác phẩm âm nhạc sáng tác về đề tài Điện Biên Phủ để hình thành nên những tác phẩm múa của mình. PGS Hồng Vinh cũng đồng ý với ý kiến của TS Nguyễn Minh San, rằng VHNT nước ta chưa có nhiều tác phẩm tương xứng với tầm vóc của chiến thắng Điện Biên Phủ. Ông cho rằng, VHNT hiện nay đang chững lại, nếu không nói là đi xuống, không phản ánh được những vấn đề của thời đại của đất nước hiện nay; đặc biệt là VHNT thực hiện chức năng giáo dục, xây dựng đạo đức, vấn đề dự báo,…Muốn có tác phẩm lớn, cần phải có tài và có tâm. Các văn nghệ sĩ hôm nay còn mắc nợ lịch sử dân tộc nhiều lắm. Đất nước ta có lịch sử chống ngoại xâm rất hào hùng, có nhiều trận chiến thắng trước những đội quân thiện chiến trên thế giới, trong đó có chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng tác phẩm lớn về những chiến thắng đó còn vắng bóng. Muốn có tác phẩm lớn, suy cho cùng là ở vấn đề tài năng và tấm lòng của văn nghệ sĩ. Nhưng Nhà nước phải có sự quan tâm để phát triển tài năng văn nghệ sĩ, phải có định hướng và đầu tư đúng tầm, đúng lúc, đúng đối tượng thì mới có hiệu quả. Điện Biên Phủ sẽ còn là đề tài trăn trở của những văn nghệ sĩ sống hết mình vì dân tộc, vì Tổ quốc. Chắc chắn chúng ta sẽ có tác phẩm VHNT lớn về đề tài này. Hôm nay chưa có, ngày mai chắc chắn sẽ có. Phải có niềm tin và quan tâm đến vấn đề này ngay từ hôm nay. PGS Hồng Vinh cũng nhắc nhở, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá những tham luận trong Hội thảo để bạn đọc rộng rãi biết, nếu không sẽ quá uổng phí. PGS Hồng Vinh cam kết, Hội đồng Lý luận và Phê bình VHNT Trung ương sẽ phối hợp với Bộ VH-TT&DL giải bài toán này trong nay mai./.n

PGS Hồng Vinh phát biểu tại hội thảo

36

Page 37: Van hien so6 14

Nhà nghiên cứu, soạn giả Mịch Quang, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001, Nhà nghệ thuật học dân tộc rất được giới nghệ thuật học trong và ngoài nước trọng thị, mến mộ. Cụ là Cố vấn của Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hiến Việt Nam.

Ngày 30 tháng 5 năm 2014, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hiến Việt Nam đã phối hợp cùng gia đình tổ chức Lễ mừng thượng thọ Cụ Mịch Quang bước sang tuổi 98. Đến dự Lễ mừng thọ Cụ và chia vui với gia đình, có: GS.AHLĐ Vũ Khiêu; NSND Lê Tiến Thọ - nguyên Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam; Đỗ Kim Cuông - Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam; GS Hoàng Chương - TGĐ Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc; cùng nhiều Giáo sư, Tiến sĩ, nhà nghiên cứu, nhà báo, các nghệ sĩ của Nhà hát Tuồng Việt Nam. Cụ Mịch Quang và gia đình vô cùng xúc động nhận được lẵng hoa mừng thọ Cụ Mịch Quang của đồng chí Phạm Quang Nghị - Ủy viên Bộ chính trị - Bí thư Thành ủy Hà Nội.

Sau khi các nghệ sĩ của Nhà hát Tuồng Việt Nam ngâm một số bài thơ Cụ Mịch Quang sáng tác từ những ngày còn đầu xanh tuổi trẻ mới bước vào con đường cách mạng, trình bày một trích đoạn trong vở tuồng Má Tám của Cụ Mịch Quang, các Giáo sư Hoàng Chương, Vũ Khiêu đã phát biểu, đánh giá cao tài năng và sức làm việc không biết mệt mỏi của Cụ Mịch Quang trên cả hai phương diện sáng tác và nghiên cứu; chúc Cụ mạnh khỏe và tiếp tục có thêm những đóng góp quí báu cho văn học nghệ thuật nước nhà. /.n

l NMS (Bài và ảnh)

Mừng thọ Nhà NC Soạn giả

MỊCH QUANGGS.AHLĐ Vũ Khiêu mừng thượng thọ Cụ Mịch Quang

GS Hoàng Chương, NSND Tiến thọ tặng hoa mừng thượng thọ Cụ Mịch Quang

37

Page 38: Van hien so6 14

Ngày còn tuổi thiếu niên, theo bộ đội thoát ly lên vùng giải phóng, sống gần các cô chú, các anh chị ở chiến khu của tỉnh Quảng

Nam, tôi đã nghe nhiều người nhắc đến Bác Phạm Văn Đồng với sự kính trọng và yêu mến. Lãnh đạo của Việt Nam ngày ấy, sau Bác Hồ có rất nhiều đồng chí được cán bộ, đảng viên, chiến sỹ và nhân dân kính yêu, tôn trọng. Bác Phạm Văn Đồng là một trong số các đồng chí đứng cạnh sau Bác Hồ, là người học trò xuất sắc được Bác Hồ tin yêu. Lớn lên, đi học rồi công tác ở nhiều nơi với vị trí khác nhau ở Miền Trung, ở Miền Nam và ở Miền Bắc, được tiếp xúc nhiều người, nghe kể và nghe những nhận xét về Bác Phạm Văn Đồng, được đọc sách các bài nói, bài viết của Bác Đồng, trong ký ức và đầu óc của tôi in đậm dần một hình ảnh Phạm Văn Đồng mà tôi rất kính trọng, yêu quý về một nhân cách lớn, một nhà văn hóa lớn, có kiến thức sâu rộng, trí tuệ minh mẫn, sáng suốt.

Tôi được nghe mấy đồng chí lớn tuổi kể lại, thời

chiến tranh chống xâm lược Mỹ, một lần, khi máy bay Mỹ đang ném bom dữ dội ở khu 4, thì tại Hà Nội, Bác Phạm Văn Đồng vẫn triệu tập và chủ trì một hội nghị bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trong lời khai mạc Hội nghị, ông đã nói đại ý là: Máy bay Mỹ đang ném bom dữ dội ở khu 4, ném vào các làng mạc, khu dân cư. Họ muốn tiêu diệt chúng ta. Còn chúng ta hôm nay, với sự điềm tĩnh của những con người đầy tự tin vào chính mình, vào sự tất thắng của chính nghĩa, họp mặt tại đây để bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tiếng Việt còn thì dân tộc còn. Dân tộc còn thì dân tộc này sẽ thắng... Nghe ông nói, nhiều người xúc động về tầm nhìn chiến lược và bản lĩnh của một người lãnh đạo, của một Ban lãnh đạo đáng kính trọng. Cũng ngày còn làm Thủ tướng, Bác đồng có lần nhắc các nghệ sỹ, ca sĩ, khi hát phải nhớ hát cho rõ lời, để người nghe hiểu được ca từ. Nhân câu chuyện này tôi muốn nói thêm một ý: Với một nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn trường tồn, không bị đồng hóa, là nhờ văn

PHẠM VĂN ĐỒNGNhững câu chuyện nhỏVề một nhân cách lớn

l TS. VŨ NGỌC HOÀNG

Đồng chí Phạm Văn Đồng không chỉ là một người đã làm Thủ tướng rất nhiều năm, được nhân dân kính yêu, tôn trọng, mà hơn hết, ông là một nhà văn hóa lớn, một nhân cách lớn. Theo suy nghĩ của tôi, chính cái chất văn hóa trong ông, ở ông đã làm cho ông lớn hơn nhiều so với chức vụ hành chánh quan trọng mà ông đã đảm nhiệm.

38

Page 39: Van hien so6 14

hóa, trong đó có vai trò rất quan trọng của tiếng Việt. Vậy mà hiện nay đi ngoài phố, ngay cả ở Thủ đô Hà Nội ngàn năm vật của chúng ta, ngay cả ở thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu nữa, rất nhiều bảng hiệu người ta viết toàn tiếng Tây, tiếng Tàu, tiếng Hàn, tiếng Nhật, không thèm viết tiếng Việt, không biết để cho sang, cho oai, để làm ra vẻ “Tây” hay sao? Thấy mà buổn rằng trong nhân dân vẫn còn những người không biết quý trọng cái ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc mình. Tất nhiên, trong đó có phần trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Việc hát trên sân khấu, trên truyền hình cũng vậy nhiều khi không hiểu các ca sĩ trẻ đang hát gì, cứ như là không phải hát bằng tiếng Việt.

Một lần, khi ấy Bác Phạm Văn Đồng đã nghỉ chức Thủ tướng, làm cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vào thăm Quảng Nam - Đà Nẵng. Hôm gặp mặt tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và một số cán bộ, tướng lĩnh đã nghỉ hưu ở Quảng Nam - Đà Nẵng, một đồng chí cán bộ cao cấp nghỉ hưu phát biểu: Đồng chí Phạm Văn Đồng là một Thủ tướng lâu nhất... Nghe câu đầu tiên như vậy, Bác Đồng nói ngay: Làm chức gì đó, lâu hay không lâu có ý nghĩa gì đâu, cái quan trọng nhất là có làm được gì cho dân, cho nước, cho Đảng hay không, chứ lâu mà để làm gì. Tôi tự thấy tôi cũng có không ít khuyết điểm, thiếu sót. Đồng chí hưu chí nói tiếp, chuyển sang ý khác: Lâu nay lãnh đạo Trung ương ít quan tâm đến miền Trung, các đồng chí từ Hà Nội bay thẳng vào TP Hồ Chí Minh, bỏ qua miền Trung nằm dưới cánh máy bay, hiện tại miền Trung rất khó khăn, không phát triển được, đề nghị đồng chí Phạm Văn Đồng phản ảnh giúp với Trung ương ý kiến của chúng tôi, đề nghị Trung ương quan tâm nhiều hơn đối với miền Trung. Nghe xong ý kiến đó, Bác Phạm Văn Đồng đáp lời: Tôi có tránh nhiệm sẽ phán ánh ý kiến của các đồng chí với Trung ương, đồng thời tôi cũng muốn nói với các đồng chí một câu chuyện. Đây là câu chuyện văn học của thế giới. Một lần, đứa con trai từ mặt trận chạy về nói với mẹ rằng, mẹ ơi, mẹ trao cho con thanh gươm ngắn quá, con không thể lập công được, mẹ hãy trao cho con một thanh gươm dài hơn. Bà mẹ lắng nghe con và nói lại: Khi thanh gươm ngắn, muốn lập công thì phải bước tới chứ sao lại chạy về hỏi mẹ? chạy lui về thì làm sao mà lập được chiến công?

Một lần khác Bác Phạm Văn Đồng vào thăm Quảng Nam, Quảng Ngãi, khi ấy tỉnh Quảng Nam

và thành phố Đà Nẵng vừa mới tách ra từ một tỉnh chung Quảng Nam - Đã Nẵng. Tỉnh Quảng Nam chuyển tỉnh lỵ từ thành phố Đà Nẵng về thị xã Tam Kỳ. Những ngày đầu tiên vừa mới tách ra, các cơ quan của tỉnh chưa có trụ sở, phải mượn tạm địa điểm để làm việc từ các nhà dân và các cơ quan thị xã, của doanh nghiệp. Lúc ấy Tỉnh ủy mượn một cơ sở của xí nghiệp chế biến rau quả để làm việc, nằm trên một quả đồi còn hoang vắng. Một số đồng chí trong Thường vụ Tỉnh ủy hay nói đùa với nhau là nơi làm việc của Tỉnh ủy mà nhốt thêm vài con vượn, con khỉ thì chẳng khác gì ở miền núi xa của Quảng Nam, nơi tiếp giáp với Lào. Hôm về thăm, Bác Phạm Văn Đồng sức khỏe đã yếu nhiều, đi phải có người dìu, Bác không chịu ngủ ở Đà Nẵng, ở Quảng Ngãi nơi có nhiều nhà nghỉ khang trang. Bác Đồng bảo để Bác ngủ ở Quảng Nam, tỉnh mới tách ra khó khăn lắm, Bác muốn biết anh em khó khăn đến mức nào, cán bộ của tỉnh ở công vụ như thế nào thì để Bác ở như thế, bình thường như thế. Trong buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh, khi nghe báo cáo tỉnh mới chia ra rất khó khăn và không có ngân sách, nghe xong Bác Phạm Văn Đồng nói, Quảng Nam thời chiến tranh nhiều lúc khó khăn lắm, khó khăn hơn bây giờ rất nhiều, nhưng mỗi lần khó khăn như vậy thì Quảng Nam đã bật dậy, đã vượt qua, đã tiến lên, đã lập những chiến công vang lừng. Truyền thống của vùng đất này là vậy, văn hóa của con người đất Quảng là vậy. Khó khăn cũng là “cơ hội”. Khó khăn làm cho những con người có bản lĩnh bật dậy mạnh hơn. Khó khăn của các đồng chí là có thật, hãy báo cáo kỹ cho các cơ quan Trung ương biết rõ, khi biết rõ tình hình chắc không ai mà không giúp Quảng Nam, một tỉnh đi đầu trong chiến tranh chống xâm lược Mỹ.

Hai câu chuyện kể trên, ngày ấy, và sau này, cán bộ ở Quảng Nam, Đà Nẵng, nhiều người vẫn hay nhắc lại để nói về sự uyên thâm, thông minh, sắc sảo của Bác Đồng (lúc ấy đã ngoài 90 tuổi).

Bác Phạm Văn Đồng có nhiều bài viết, bài nói về văn hóa, có những bài rất sâu sắc, ít có người vượt qua. Ngày còn đang làm Thủ tướng, làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, và kể cả khi đã nghỉ hưu ông đã giành nhiều công sức cho văn hóa. Gần đây, tôi có đọc lại quyển sách có tên gọi “Văn hóa và đổi mới” của Bác Phạm Văn Đồng, trong đó có nhiều ý càng suy ngẫm càng thấy hay và sâu sắc, với tầm nhìn rộng, xa và sâu. Trong sách, Bác Đồng viết “văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa”. Ý kiến đó

39

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 40: Van hien so6 14

đã gợi cho chúng tôi; kích thích suy nghĩ nhiều điều về văn hóa, và đổi mới.

Đúng như vậy, đổi mới phải bắt nguồn, bắt rễ từ mảnh đất văn hóa: truyền thống văn hóa của dân tộc, tinh hoa văn hóa của thời đại... Đổi mới phải trên một nền tảng văn hóa bền vững và tiến bộ; phải thấm nhuần tư tưởng nhân văn thì mới thành công, vững chắc. Đổi mới mà tách rời nền tảng văn hóa thì sẽ chông chênh, dễ đổ ngã. Bản thân công việc đổi mới là văn hóa, cần được ứng xử như văn hóa, và bản thân văn hóa cũng luôn có nhu cầu phải liên tục hoàn thiện, để có ngày càng nhiều cái tốt hơn, cái đẹp hơn, mà muốn vậy thì phải không ngừng đổi mới. Văn hóa vừa có đặc điểm về tính kế thừa rất cao, là sự tích góp liên tục của tầng tầng lớp lớp các trầm tích; đồng thời lại vừa có nhu cầu không ngừng đổi mới để sáng tạo, vì văn hóa là tất cả những lý do con người sáng tạo , vì vậy, kế thừa và đổi mới là hai mặt biện chứng của một quá trình thống nhất trong sự vận động và phát triển của văn hóa, , không thể chú ý mặt này mà không chú ý mặt kia. Văn hóa phân biệt con người với tự nhiên, văn hóa tạo ra con người, làm cho con người trở lên Người hơn; văn hóa là chất người, là tính người, văn hóa nâng con người lên một trình độ mới. Còn đổi mới cũng là sự nghiệp của con người, do con người; muốn đổi mới thành công và bền vững thì phải bắt đầu từ con người, cũng tức là văn hóa. Mục tiêu của nền văn hóa Việt Nam phải nhằm hướng đến một dân tộc Việt Nam phát triển và hạnh phúc. Trường tồn là yêu cầu chính đáng, là bản sắc văn hóa của một dân tộc, để Việt Nam vẫn còn mãi là Việt Nam, không biến thành một dân tộc khác (bị đồng hóa) trong quá trình tiếp biến, nhưng trường tồn là để phát triển, để tiến lên, không phải để đứng yên, tụt hậu. Và ngày nay, trong thế giới hội nhập, đang có cuộc tiếp biến văn hóa ở quy mô toàn cầu, muốn tồn tại thì phải phát triển. Muốn phát triển thì phải đổi mới. Đất nước ta qua 28 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhưng hiện tại nhiều cơ chế, chính sách xử dụng trong những năm trước đây đã giảm dần tác dụng và hiệu quả, không còn tác dụng như lúc đầu, tình hình đất nước và xã hội đang có nhiều khó khăn, bức xúc đòi hỏi phải giải quyết, nếu không tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và toàn diện như tinh thần của Đại hội XI thì khó mà tiếp tục tiến lên, thậm chí cũng khó mà tránh khỏi những khủng hoảng về kinh tế và xã hội.

Văn hóa là cái đẹp, có thiên chức tạo ra, nuôi

dưỡng và nhân lên cái đẹp. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải là một xã hội tốt đẹp, mang lại sự phát triển và hạnh phúc cho con người. Tốt đẹp mới là xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội nhất định phải là một sản phẩm rất văn hóa, rất trí tuệ của nhân dân ta, chứ không phải là những suy nghĩ xơ cứng, dập khuôn, máy móc. Phải tạo ra cho được cái tốt đẹp, nhiều cái tốt đẹp thì mới có chủ nghĩa xã hội. Cho nên, văn hóa và đổi mới là hai trong số những vấn đề chính yếu, cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, để có chủ nghĩa xã hội. Nói văn hóa và đổi mới là hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau cũng là đúng, cũng không sai, nhưng có lẽ biện chứng hơn, như ý kiến của Phạm Văn Đồng, văn hóa và đổi mới là hai mặt của một vấn đề. (Ông đã viết: văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa).

Từ ý kiến của Bác Phạm Văn Đồng gợi lên chúng ta có thể tiếp tục suy nghĩ và phát triển nhiều vấn đề về văn hóa và đổi mới, nhằm góp phần phát triển lý luận về văn hóa của Việt Nam.

Một câu chuyện nữa tôi được nghe một đồng chí đã từng công tác nhiều năm gần gũi với Bác Phạm Văn Đồng kể lại. Khi còn đang làm Thủ tướng, một hôm, Bác Phạm Văn Đồng tâm sự với người thư ký rằng sắp tổ chức đám cưới cho con trai mà không có gì để tặng con dâu, ông đã hỏi vay người thư ký một chỉ vàng. Những ngày cuối đời, ông đã di chúc lại cho con trai rằng ba không có bất kỳ một thứ của cải gì để lại cho con, chỉ để lại một sự nghiệp suốt đời phục vụ nhân dân mà con phải tiếp tục. Nghe câu chuyện này, kể cả lần đầu và các lần sau nghe lại, tôi rất xúc động.

Sau Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đồng chí lãnh đạo có uy tín, tài năng và công lao lớn, trong đó có đồng chí có mặt còn hơn Bác Phạm Văn Đồng. Nhưng riêng đối với lĩnh vực văn hóa, thì trong suy nghĩ của tôi, sau Hồ Chí Minh là Phạm Văn Đồng, ông là một nhà nghiên cứu và thực hành văn hóa, có nhiều kiến thức và tư duy rất sâu sắc về văn hóa, luôn tâm huyết với văn hóa, sống văn hóa, trong sáng, giản dị, thanh bạch, không ham giàu sang phú quý, giàu tính nhân văn, luôn yêu thương con người, hết lòng với dân, với nước, với Đảng, với lý tưởng của mình, cuộc đời ông là một tấm gương sáng về nhân cách. Phạm Văn Đồng là một nhà văn hóa lớn, một nhân cách lớn, thật đáng kính trọng và noi theo.

Hà Nội, ngày 20/3/2014

40

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 41: Van hien so6 14

Có một thực tế đã diễn ra từ lâu trong lịch sử hiện đại Việt Nam và hiện vẫn đang tồn tại là có nhiều người không có bằng cấp gì, hoặc

bằng cấp thấp, nhưng lại giữ chức vụ cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Lý do chính là phần lớn những đồng chí này đã phải bỏ học giữa chừng để đi làm cách mạng, hoặc do tham gia hoạt động yêu nước, cách mạng, bị chính quyền thực dân - phong kiến đuổi học. Họ tham gia giành chính quyền cách mạng, xây dựng nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, rồi tiếp theo là “hai mùa kháng chiến” chống Pháp, chống Mỹ. Khi đất nước thống nhất, cả dân tộc chuyển sang thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những đồng chí này lại tiếp tục được Đảng cử giữ những trọng trách cao trong bộ máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ. Trọng trách lớn lao, trách nhiệm nặng nề và cả núi công việc phải giải quyết liên quan đến vận mệnh dân tộc, đến bát cơm, manh áo người dân khiến họ không

có thời gian bứt hẳn ra để thực hiện ước mơ về một tấm bằng đại học. Song, nhờ trí thông minh, tinh thần hiếu học, ham học, và không ngừng tự học trong một Trường Đại học lớn là Thực tiễn, đã giúp các đồng chí hoàn thành tốt trọng trách của mình.

Một trong những tấm gương tiêu biểu nhất của đội ngũ những người con ưu tú của Đảng, của dân tộc đó là Thủ tướng Phạm Văn Đồng - Bác Tô kính mến của chúng ta.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng sinh ra trong gia đình Nho học, có bố đỗ Cử nhân, làm việc trong triều vua Duy Tân. Với thành phần xuất thân ấy, Phạm Văn Đồng được gia đình cho học ở Trường Quốc học Huế, sau đó học Trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 1925, khi đang theo học năm thứ hai Ban Tú tài, vì tham gia bãi khóa, đấu tranh đòi thực dân Pháp thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh, Phạm Văn Đồng bị nhà cầm quyền thực dân đuổi học. Vào tuổi mười chín, đôi mươi, Phạm Văn Đồng đã phải rời xa ghế nhà trường

TỰ HỌC & SỞ HỌCPHẠM VĂN ĐỒNG

Tấm gương

l Ths.PHẠM NGỌC QUANG(Đại học Kinh tế - ĐHQG Hà Nội)

41

Page 42: Van hien so6 14

để dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng, trở thành người học trò của một trường đại học lớn - Trường Đời và cuộc sống của nhà cách mạng chuyên nghiệp, một chính khách tầm cỡ thế giới. Trong ngôi trường đó, nhờ tính ham học/hỏi, nhờ sự không ngừng tự học một cách khoa học, Phạm Văn Đồng đã vươn tới đỉnh cao trí tuệ, trở thành một trí thức toàn diện về kiến thức Đông, Tây, Kim, Cổ, hiểu biết rộng lớn và sâu sắc về mọi vấn đề đang được đặt ra của thời đại mình ở cả trong nước và trên thế giới, từ đó đã sáng suốt và nhạy bén khi giải quyết mọi công việc mà Ông đảm nhiệm trước Đảng và nhân dân.

Ngay từ khi còn nhỏ, Phạm Văn Đồng đã luôn khao khát được học. Vì thế, sau khi dấn thân vào con đường cách mạng, không được đi học dưới những mái trường chính qui, để có tri thức làm cách mạng, lãnh đạo đất nước, Ông đã luôn tranh thủ mọi lúc rảnh rỗi, mọi nơi ông đến để học/hỏi, để bồi bổ kiến thức. Phạm Văn Đồng lấy tự học, tự bồi bổ kiến thức là đòi hỏi tự thân, là sự khao khát, niềm thích thú của cuộc đời. Chính sự khao khát, niềm thích thú đó đã khiến cho gông xiềng và chế độ hà khắc của nhà tù thực dân cũng không ngăn cản được Ông học tập. Trong gần 10 năm bị giam cầm ở nhà tù Côn Đảo, nơi “địa ngục trần gian”, không chỉ các bạn tù chính trị, mà ngay cả những viên cai ngục còn chút lương tri cũng đều vô cùng khâm phục tính ham học của Phạm Văn Đồng. Suốt ngày, Ông ngồi trong góc nhà “banh” thiếu ánh sáng để đọc. Ông rất giỏi tiếng Pháp, nhưng biết chữ Nho không nhiều. Vì vậy, Ông đã dạy tiếng Pháp cho bạn tù yếu tiếng Pháp nhưng giỏi chữ Nho, đổi lại ông yêu cầu người bạn tù giỏi chữ Nho dạy Ông học chữ Nho. Không chỉ chăm chỉ học tập, Phạm Văn Đồng còn luôn khuyên bảo và nhắc nhở các bạn tù nên tranh thủ thời gian ở tù để học tập thêm. GS. Phan Trọng Luận kể lại câu chuyện của cha mình, một bạn tù của Phạm Văn Đồng: “Bác Tô biết chữ Nho không nhiều, còn ba tôi có được chút vốn liếng ít ỏi. Ba tôi kể là chỉ dạy hai ba tháng là hết chữ, mà dạy rất khó vì “ông học trò giỏi” Phạm Văn Đồng hay hỏi mà hỏi những cái “ông thầy” lại không giảng được. Một vỏ bao thuốc lá sử dụng làm giấy học viết ba thứ mực: bút chì rồi thuốc đỏ, rồi màu xanh thuốc Bleu de Methylen... Nhờ vậy, từ chỗ không biết tiếng Pháp, nhưng nhờ những năm ở tù, được Bác Tô dìu dắt dạy dỗ nên ba tôi đã nắm được ít nhiều tiếng Pháp”.(1) Ngoài dạy tiếng Pháp, Phạm Văn Đồng còn giảng dạy lý luận cách mạng, sớm trở thành vị “Giáo sư Đỏ” nổi tiếng uyên

bác của các chiến sĩ cộng sản trong nhà tù Côn Đảo những năm từ 1926 đến 1936.

Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, năm 1946, trên cương vị là Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ, trong bài phát biểu tại Trường Trung học Bình dân Nam Trung Bộ, Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh: “Muốn làm người, muốn làm cách mạng cần phải học. Có trình độ văn hóa mới làm cán bộ cách mạng tốt được”.(2) Bản thân Phạm Văn Đồng luôn quán triệt tư tưởng này, luôn nêu cao tấm gương không ngừng học tập, rèn luyện để hoàn thiện mình. Đặc biệt là từ khi Ông được giao trọng trách là Thủ tướng Chính phủ (năm 1955).

Khi làm Thủ tướng, cũng là lúc đất nước vừa trải qua thời kỳ thực dân phong kiến, nền kinh tế còn lạc hậu, lại bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh chống Pháp 9 năm, giữa trăm ngàn công việc bề bộn về đối nội, đối ngoại, xây dựng và khôi phục kinh tế, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, để cập nhật và nâng cao kiến thức, Bác Tô luôn giữ nếp đọc sách báo đều đặn. Các đồng chí phục vụ kể lại, buổi tối, Bác Tô dành riêng để đọc sách báo, tài liệu. Ông đọc rất nhiều, từ các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các loại sách nghiên cứu tới sách khoa học- kỹ thuật, văn học trong nước và nước ngoài. Ông rất giỏi tiếng Pháp. Bạn bè, các nhà khoa học, xã hội học, nhà văn, nhà nghiên cứu nước ngoài thường tặng Ông sách viết bằng tiếng Pháp. Ông đọc rất nhiều các tác phẩm, công trình nghiên cứu bằng nguyên bản tiếng Pháp đó. Le Monde (Thế giới) là tờ báo tiếng Pháp được Ông rất ưa thích. Ông nói, từ tờ báo này Ông tổng hợp được nhiều tin tức, sự kiện thế giới thú vị… Sau này, do tuổi cao, sức yếu, mắt lại kém không tự đọc được nữa, anh em phục vụ thường tự nguyện đọc cho Ông nghe. Trong cuộc đời, Bác Tô đọc rất nhiều và là người có một trí nhớ tuyệt vời. Các đồng chí thư ký giúp Ông viết bài, đọc cho Ông nghe. Ông bảo trích các câu nói của Mác, Lê nin. Ông nói câu đó ở trang nào, tập nào, các thư ký chỉ việc giở sách ra và chép vào.

Để có kiến thức về mọi mặt, nhất là về kinh tế, Bác Tô đã chỉ thị cho những người trực tiếp giúp việc, tổ chức các buổi học của Ông về các ngành kinh tế, kỹ thuật một cách đều đặn. Công việc của Ủy viên Bộ Chính trị, của Thủ tướng Chính phủ đã choán hết thời gian ban ngày của Ông, nên các lớp học của Ông được tổ chức vào buổi tối. Mỗi tuần lễ, vào một buổi

42

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 43: Van hien so6 14

tối, một nhà khoa học nổi tiếng trong nước được mời đến giảng hoặc thuyết trình về một vấn đề cho Bác Tô. Sau đó, Ông dành một buổi đi quan sát, học tập thực tiễn tại nhà máy, công trường hay đồng ruộng... Ông bảo những người giúp việc cùng học với Ông và căn dặn nếu không gắng sức học tập thì không thể có hiểu biết để làm việc cho đất nước. Những lớp học như vậy đã được tổ chức liên tục suốt 2 năm liền. Trong 2 năm đó, các nhà khoa học Việt Nam như ông Tạ Quang Bửu giảng viên về điện và các nguyên lý của việc sử dụng nguyên tử lực; ông Võ Quý Huân giảng về cơ khí; ông Nguyễn Hoán giảng về hóa học; ông Đỗ Xuân Dung giảng về thủy lợi, đê điều,...là giảng viên của lớp học đặc biệt mà học trò là Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Học trò đặc biệt này yêu cầu các giảng viên trình bày cho nghe những điều cơ bản về khoa học - kỹ thuật, kinh tế của môn học mà các giảng viên cho rằng người lãnh đạo đất nước phải hiểu, phải biết để suy nghĩ và quyết định các công việc. Nhờ phương pháp dạy mới mẻ và những giảng viên giỏi như vậy, nhất là nhờ trí thông minh thiên bẩm, Ông đã có được kiến thức bách khoa, nắm được những vấn đề cơ bản của mọi mặt của đời sống, từ chính trị, ngoại giao, lịch sử, kinh tế, văn hóa,…; đặc biệt là những vấn đề về kinh tế, như nông nghiệp, công nghiệp, điện khí hóa, cơ khí hóa, thủy lợi,... để từ đó đưa ra những chủ trương xây dựng CNXH còn rất lạ lẫm ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Sinh thời, được giáo dục và tiếp xúc với cả hai nền văn hóa/văn minh Đông - Tây, Phạm Văn Đồng rất tôn trọng và biết khai thác giá trị của các công trình khoa học, một kho báu kiến thức của những người đi trước, đặc biệt là của những nhà khoa học Pháp để vận dụng vào công tác thực tiễn. Những tư liệu lưu trữ trong Cục Lưu trữ, các thư viện ở Hà Nội được Ông khai thác rất hiệu quả. Ông giao cho các đồng chí giúp việc vào thư viện và Cục lưu trữ tìm các sách, báo, các bản báo cáo của các nhà khoa học, nhà kinh tế Pháp đã nghiên cứu và tổng kết về việc khai thác tài nguyên của Việt Nam, như: Tổng kết về một cây trồng ở Bắc Kỳ, sinh thái học, khí hậu, thủy văn, khí hậu nông nghiệp ở Việt Nam,...Tự Ông đọc, nghiên cứu rất kỹ các cuốn sách, tài liệu này. Có những tài liệu Ông yêu cầu dịch ra tiếng Việt và gửi cho các Bộ có liên quan tham khảo. Các đồng chí giúp việc kể lại: Bác Tô bảo: Thực dân Pháp làm những việc này là nhằm khai thác, bóc lột tài nguyên của ta một cách có lợi nhất cho chúng. Có những cái chúng phải làm

hàng chục năm, như tập hợp các số liệu về tình hình khí hậu, thủy văn mà bây giờ chúng ta muốn làm cũng không có các điều kiện tự nhiên, xã hội như lúc trước, hoặc phải mất mấy chục năm mới biết được về việc trồng một cây dài ngày có lợi hay không và có lợi thế nào. Phải biết nghiên cứu, khai thác các tài liệu này và dùng cái có lợi, tránh cái có hại cho ta. Nhờ nghiên cứu trước các tài liệu của người Pháp để lại nên khi nghe cán bộ trình bày về việc ta đã hoàn triệt đập Đáy, Ông hiểu ngay là như thế thì ta đã bít mất chi lưu lớn nhất của hữu ngạn sông Hồng, đưa nước lũ lớn chảy trong sông qua Thủ đô và vựa lúa lớn nhất của miền Bắc. Ông hiểu và nhớ ra ngay là Pháp xây dựng đập Đáy với cửa đập ở mức dương 8m so với mặt nước biển là để khi ở Hà Nội nước sông Hồng ở mức 9,5m vào mùa lũ thì ta đã có thể cho tiêu nước qua sông Đáy. Do đó Ông đã bàn với các đồng chí lãnh đạo khác trình ra Bộ Chính trị quyết định sửa chữa và mở lại đập Đáy.

Giống như nhiều nhà văn hóa lớn khác, Phạm Văn Đồng cho rằng, thực tế là người thầy tốt nhất của mỗi con người. Vì vậy, Ông rất chịu khó đi thực tế, xuống nhà máy, công trường, đồng ruộng. Học tập tác phong và cách đi thực tế của Bác Hồ, Phạm Văn Đồng không nề hà đi vào những chỗ không thuận tiện như các hầm lò. Khi tham quan hoạt động sản xuất, Ông quan sát kỹ việc áp dụng các quy trình về thao tác của đại công nghiệp phải nghiêm túc, cẩn thận như thế nào. Ông đến các khu lao động gặp gỡ, thăm hỏi, tìm hiểu đời sống vật chất và tình thần của người lao động. “Anh gặp gỡ, chuyện trò, học hỏi đồng bào và đồng chí, đi tìm cả câu hỏi và lời giải đáp trong cuộc sống. Anh Tô là một người vô cùng ham tìm hiểu, nghe nhiều hơn nói, nghe trước nói sau, khi nói thì cũng rất tiết kiệm lời. Trong mỗi chuyến đi công tác, ở trong nước cũng như ra nước ngoài, suốt cả hành trình, từ lúc đi đường đến lúc trở về, thấy một cảnh tượng , gặp một con người, Anh Tô đều có câu hỏi để học tập, đều tạo ra ngay sự đối thoại chân tình. Anh tắm mình vào cuộc sống, mở rộng mình trao đi những đồng cảm và thương yêu chân thành, tiếp nhận từng giọt trí tuệ và tình cảm từ mỗi đồng bào, đồng chí, mỗi con người mà Anh gặp. Không bao giờ thấy Anh đến với nhân dân chỉ với ý thức mình là người lãnh đạo và nhà cầm quyền, mà luôn luôn còn là một người thân gần gũi, một người học trò khiêm tốn học hỏi”.(3)

Nhờ sự nỗ lực nghiên cứu, học tập như vậy, Bác Tô có các kiến thức rộng và uyên thâm về nhiều ngành

43

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 44: Van hien so6 14

và nhiều vấn đề cơ bản, từ đó Ông đưa ra những quyết định đúng đắn, hoặc đề ra nhiều kiến nghị quan trọng về các vấn đề lớn của đất nước. Là người gần gũi và làm việc dưới quyền Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhiều năm, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận xét: “Những lần tiếp xúc và làm việc với đồng chí Phạm Văn Đồng, tôi đều kính phục đồng chí về trình độ uyên bác trong hiểu biết, về sự nhạy bén của đồng chí trước những vấn đề mấu chốt ở các địa phương và về cách giải quyết nhanh gọn của đồng chí trước mọi vấn đề được nêu ra”.(4)

Không chỉ kiên trì tự học, Phạm Văn Đồng còn xây dựng và kiên trì rèn luyện cho mình một phương pháp tư duy và công tác khoa học, là: điều tra, nghiên cứu kỹ, cân nhắc lật đi lật lại nhiều lần, hình thành chủ kiến rõ, thầm thể hiện bằng câu, chữ trong tâm trí, hình dung trước những hành động và kết quả sẽ diễn ra.... Vì thế, đến khi ngồi vào bàn viết, thì hầu như Ông chỉ làm cái phần việc là chép lại những điều đã viết trong đầu. Chính điều này khiến cho ngay cả thư ký của Ông lần đầu tiên tiếp xúc với văn bản do Ông đưa để đánh máy đã nghĩ là văn bản đó được Ông viết nháp rồi chép lại cho sạch sẽ. Theo lời kể của ông Trần Việt Phương, nguyên Thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khoảng năm 1948, khi vừa mới nhận làm thư ký, ông nhận được 2 trang giấy đầy chữ viết tay của Đặc phái viên Trung ương ở Nam Trung Bộ Phạm Văn Đồng để chuyển cho bộ phận đánh máy, ông đã vô cùng ngỡ ngàng chữ viết đẹp, rất đều đặn, và nhất là không có một chỗ nào gạch, xóa, thêm bớt nào hết. Ông đã nghĩ “Hay là Anh Tô đã viết nháp, rồi chép lại sạch, đẹp như thế này”. Nhưng sau đó, ông biết là không phải thế. Hai trang viết ấy chính là bản nháp đầu của Anh Tô. Sau này, một số đồng chí lãnh đạo cùng ở trong Bộ Chính trị nhận xét: “Anh Tô viết rất nhanh” và một số người đứng đầu chính phủ nước ngoài ca ngợi: “Thủ tướng Phạm Văn Đồng cất tiếng nói là thành văn”, cũng chính bắt nguồn từ phương pháp tư duy và công tác đặc biệt mà Phạm Văn Đồng đã kiên trì rèn luyện này.

Xưa nay, không ít người đã cho rằng những bài viết, bài nói của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều do các thư ký, với đội ngũ chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực chuẩn bị sẵn, các vị chỉ “phết, phẩy” vào là biến thành của mình. Thực tế, có thể đúng với người này, người khác, nhưng đối với Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tuyệt nhiên không có chuyện đó. Đã thành nếp, Ông luôn tự mình viết tay những bài viết, bài

nói chuyện của mình, mặc dù có thư ký và một số người giúp việc rất có năng lực. Là người trên 40 năm làm Thư ký riêng của Bác Tô, ông Trần Việt Phương khẳng định: “Nửa thế kỷ qua, bao nhiêu lần anh Tô đã đưa cho chúng tôi, mấy anh em giúp việc anh, những trang bản thảo của anh, những đề cương phát biểu trước Đại hội Đảng hoặc hội nghị Trung ương, hội nghị Bộ Chính trị, những báo cáo trước Quốc hội và Chính phủ, những bài nói chuyện với nhân dân và cán bộ, những tham luận và tranh luận ở các cuộc đàm phán quốc tế, những bài báo viết cho báo hằng ngày hoặc tạp chí lý luận của Đảng... tất cả đều mang đậm dấu ấn của phương pháp và phong cách làm việc ấy...Đến đây, một lần nữa, chúng tôi muốn nêu rõ: Những lời anh Tô nói, những bài anh Tô viết là của anh Tô, và chỉ của anh Tô. Những ai đã đọc kỹ và nhận ra văn phong của anh Tô thì chắc biết không ai có thể viết cho anh Tô ngoài chính anh Tô được. Cần nói rằng anh Tô rất ít dùng những dự thảo của cơ quan này, cơ quan khác đề nghị với anh, khi dùng thì viết lại hầu hết. Công việc của chúng tôi giúp anh Tô chỉ là: Tìm các loại tài liệu cần thiết, giới thiệu (khi chúng tôi biết) những người đáng tin cậy và có kiến thức, có kinh nghiệm để bàn về từng chuyên đề với anh Tô, sau này khi trình độ của anh em chúng tôi khá lên, thì tham gia bàn bạc về nội dung và được giao “dự thảo thử” một vài đoạn thứ yếu, theo những ý anh Tô đã nêu ra, để giúp anh Tô thì ít mà để học tập thì nhiều. Những đoạn quan trọng trong mỗi bài đều do chính tay anh Tô viết, và toàn bài là do anh Tô sửa, hoặc viết đi viết lại mấy lần. Thường thường bao giờ anh Tô cũng vạch đề cương và dự thảo bài viết trước, rồi đưa cho mấy anh em giúp việc đọc, và bảo cứ mạnh dạn bổ sung, tu chỉnh, với lời dặn rằng bớt đi, làm gọn lại, thì hơn là thêm vào. Điều có vẻ lạ lùng, ngược đời là Thủ trưởng tự mình dự thảo, và đưa cho mấy người giúp việc sửa chữa, nhưng đó là sự thật suốt hơn nửa thế kỷ nay”. (5)

Cả cuộc đời Phạm Văn Đồng không có động cơ học nào thôi thúc ngoài sự khao khát tri thức để làm người, để lao động, để phục vụ, để làm cách mạng tốt, làm người lãnh đạo tốt. Chính vì vậy, Ông đặc biệt quan tâm đến các vấn đề giáo dục. Trong thời gian làm Thủ tướng, Ông dành nhiều thời gian đi thăm các trường phổ thông ở nội, ngoại thành Hà Nội. Thấy nhiều trường sở dột nát, bàn ghế siêu vẹo, có lớp học sinh phải đứng học, Ông rất xót xa, nhắc nhở các cấp lãnh đạo địa phương phải chăm lo thay đổi tình hình

44

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 45: Van hien so6 14

này, “phải phấn đấu sao cho con em chúng ta được học trong những ngôi trường xứng đáng với tên gọi là những ngôi trường”. Ông đã vào dự một số giờ dạy của giáo viên các bộ môn Văn, Sử. Đã từng là nhà giáo giàu kinh nghiệm, ở tầm nhìn của người đứng đầu nhà nước, đồng chí sớm phát hiện ra những lệch lạc về nội dung và phương pháp giảng dạy trong nhà trường phổ thông, là dạy theo điệu “sáo”, học theo điệu “sáo”, nghĩa là cho học sinh học nhiều, yêu cầu học sinh nhớ nhiều để bắt chước, rồi “làm văn”. Theo Ông, “dạy như thế khác nào dạy học sinh “múa chữ”, vì học sinh không phải suy nghĩ nhiều, chỉ cần nhớ nhiều, rồi lặp lại. GS Song Thành kể lại: “Ông (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) ngạc nhiên khi chỉ thấy thầy nói, trò chép trong gần 1 tiếng đồng hồ, , mà không nghe thầy giảng, không nghe đối thoại giữa thầy và trò. Ông đặt vấn đề: “Vậy chúng ta luyện bộ óc hay luyện trí nhớ? Và ông trả lời: “Chúng ta phải nhắc đi nhắc lại một trăm lần rằng: “cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung và trong giảng dạy văn học nói riêng là rèn luyện bộ óc, là rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương pháp vận dụng kiến thức”.(6)

GS Hoàng Tụy kể lại thật cảm động: “Phải nghe những lời tâm sự thiết tha của Anh mấy năm trước lúc mất: “Cuối đời, tôi chỉ tập trung lo nghĩ hai chuyện: Tư tưởng Hồ Chí Minh và giáo dục” mới thấu được nỗi lòng tha thiết của Anh. Vào thời gian này, Anh đã tăng cường gặp gỡ, trò chuyện với nhiều người về giáo dục trong nước và xu thế chung trên thế giới. Tuy tuổi đã cao, Anh vẫn bỏ nhiều thì giờ và công sức đi đến các trường, dự các buổi giảng của giáo viên để hiểu rõ thực trạng trước khi viết loạt bài về giáo dục là những lời nhắn gửi thân yêu cuối cùng của Anh với nhà trường chúng ta…tôi nhận thấy ở Anh một tấm lòng ưu ái hiếm thấy đối với thầy giáo và học sinh và một nỗi day dứt thật cảm động ở một người tự biết không còn ở lại với đời bao lâu nữa mà vẫn dồn sức suy nghĩ đóng góp vào sự nghiệp có tầm quan trọng then chốt đối với tương lai đất nước”.(7) Không thể không khẳng định, những điều Bác Tô nói cách đây gần 40 năm, vẫn giữ nguyên giá trị trong bối cảnh nền giáo dục và đào tạo nước ta hiện nay. Và, không thể không khẳng định, tư tưởng về giáo dục, đào tạo của Bác Tô đã góp phần vào chủ trương cải cách toàn diện nền giáo dục nước ta đã được Đảng, Chính phủ ban hành vừa qua.

Mấy năm về cuối đời, Bác Tô bị kém mắt, không tự đọc được sách, tài liệu và không tự viết được. Nhưng

không vì thế mà ông đầu hàng, mà sao lãng chuyện học tập. Ông tìm ra cách học tập, nghiên cứu mới, bằng cách nhờ người giúp việc đọc cho nghe, hoặc đọc rồi tóm tắt, thuyết trình lại để Ông biết, cập nhật được các tình hình mới của đất nước và trên thế giới, từ đó suy nghĩ đưa ra ý kiến riêng của mình. Không viết ra được, Ông suy nghĩ từ nội dung đến cách trình bày rồi đọc cho các cán bộ giúp việc chép lại và sửa chữa những chữ mang tính chất “khẩu ngữ”. Trong hoàn cảnh làm việc như vậy, thật đáng kính phục khi Ông cho ra đời nhiều tác phẩm vô cùng giá trị. Trong năm 1999, trước lúc bị ốm nặng, Ông đã hoàn thành cuốn sách “Về giáo dục và đào tạo” và bài báo “Nêu cao danh hiệu Đảng Cộng sản Việt Nam” (báo Nhân dân, ngày 14/5/1999). Đây là hai tác phẩm cuối cùng của Bác Tô và cả hai đều có giá trị tổng kết thực tiễn và thời sự rất cao.

Cuộc đời Bác Tô, từ một học sinh Trường Bưởi, nhờ miệt mài học tập, không ngừng tự học theo tinh thần của Lê Nin, của Hồ Chí Minh là “Học! Học nữa! Học mãi!”, Bác đã hoàn thiện mình, mở rộng và nâng cao trí tuệ, tầm hiểu biết của mình lên tầm chiến lược quốc gia và quốc tế. Tư duy của Ông không xa rời, lạc hậu với cuộc sống mà vẫn luôn luôn tươi xanh với cây đời. Tất cả những người từng gần Ông, từng làm việc với Ông, đều có chung một nhận xét: Tuổi đời ngày càng cao, nhưng trí tuệ của Ông không mòn đi, cứng lại, mà như đạt tới sự bừng nở một mùa Xuân thứ hai của trí tuệ: mới mẻ, uyển chuyển, giàu có, lịch lãm. Thật là một tấm gương sáng cho muôn đời!

Viết về Phạm Văn Đồng, trong cái “thầm nghĩ” của GS. Hoàng Tụy ẩn chứa một ước ao, là: “Nếu ở đâu và lúc nào cũng có nhà lãnh đạo lo nghĩ tới việc học một cách thiết thực và tâm huyết như Phạm Văn Đồng thì may mắn biết bao cho tiền đồ của đất nước, nhất là trong kỷ nguyên kinh tế tri thức này”.

Ước ao của GS. Hoàng Tụy cũng là niềm ao ước của người viết bài này. Và, chắc cũng là ước ao của tất cả những ai luôn mong muốn giáo dục nước nhà sánh ngang với cường quốc năm châu! n

Chú thích: Các chú thích (1), (2) trong sách: Phạm Văn Đồng - Người con ưu tú của quê hương Quảng Ngãi - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr 32, tr 241; các chú thích (3), (4), (5), (7) trong sách Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 236, trang 44, trang 237, tr 684 - 685; chú thích 6 trong tr 44 Văn hiến Quảng Ngãi - truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2006, tr 353-354.

45

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 46: Van hien so6 14

Năm 2000, Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ trần, đồng chí đồng bào cả nước và khách quốc tế đến viếng nhà lưu niệm của ông tại

Quảng Ngại, thắp hương nhớ ông ngày càng đông. Ngôi nhà nhỏ Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng sống tại quê hương Quảng Ngãi được dựng từ năm 1978 trở nên quá chật chội. Vì vậy, thể theo nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Ngãi, năm 2006, Trung ương và tỉnh Quảng Ngãi đã đầu tư, tôn tạo Khu lưu niệm cố Thủ tướng ở khu vực phía đông ngôi nhà cũ tọa lạc tại làng Thi Phổ Nhất, nay thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, cách thành phố Quảng Ngãi 20 km, về phía nam.

Tôi còn nhớ, khi còn làm Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi, tôi đã đôn đốc, chỉ đạo việc xây dựng khu tưởng niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Năm 2006, đồng chí Nguyễn Phú Trọng - khi đó là Chủ tịch Quốc hội đã vào dự lễ khánh thành khu tưởng niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đã có bài phát biểu rất xúc động về tài năng cùng những đóng góp quan trọng của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng rộng

hơn 2 ha hoàn thành và đưa vào sử dụng, gồm nhà đón khách, phòng chiếu phim, nhà trưng bày tranh ảnh - hiện vật lưu niệm, tủ sách giới thiệu trước tác của ông. Ngoại thất là hệ thống sân vườn cây cảnh, đường nội bộ. Ngoài những hình ảnh, hiện vật đã được tỉnh Quảng Ngãi sưu tầm từ trước, khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn được Văn phòng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bảo tàng cách mạng Việt Nam, Thư viện Quốc gia, Trung tâm Lưu trữ quốc gia trao tặng gần 500 hình ảnh, tư liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng đa dạng, phong phú của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong nhiều giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đến đây, những người yêu quý cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng những hình ảnh, hiện vật từng gắn bó với một con người mẫn tuệ về tư tưởng, cao cả về nhân cách nhưng bình dị, gần gũi trong lối sống và ứng xử thường ngày. Một trong những khu vực trưng bày thu hút sự chú ý của khách tham quan nơi đây là phòng giới thiệu hình ảnh thể hiện tình cảm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với quê hương và quê hương với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

CẦN XÂY DỰNG KHU TƯỞNG NIỆMPHẠM VĂN ĐỒNGTHÀNH MỘT ĐỊA CHỈ VĂN HÓAPHẠM VĂN ĐỒNG

l HỒ NGHĨA DŨNGNguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi,

Nguyên Bộ trưởng Bộ GTVT, Chủ tịch Hiệp hội Thép VN

Suốt hơn 70 năm hoạt động cách mạng bền bỉ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng là nhà lý luận chính trị, nhà ngoại giao và nhà văn hóa kiệt xuất, giàu kinh nghiệm thực tiễn, có tầm nhìn chiến lược, tư duy năng động, tình cảm luôn chan hòa với nhân dân, nhạy cảm, thấu hiểu nguyện vọng của đồng bào, đồng chí. Là người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã để lại trong lòng đồng bào, đồng chí những tình cảm quý trọng, thương yêu và ngưỡng mộ tâm hồn, một nhân cách lớn đã dành trọn cuộc đời mình vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.

46

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 47: Van hien so6 14

Có thể thấy, cách xây dựng khu tưởng niệm đã toát lên tầm vóc lớn của Phạm Văn Đồng là một nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà văn hóa lớn. Nhưng trên tất cả, Thủ tướng Phạm Văn Đồng là nhà văn hóa của nhân dân nên khu tưởng niệm về ông rất bình dị, gắn miền quê nghèo nhưng giàu tính văn hóa truyền thống. Nơi đây cũng chính là quê hương chôn rau cắt rốn, với làng mạc ruộng đồng, thửa lúa nương rau từng gắn bó với ông suốt quãng đời thơ ấu, Một không gian thiên nhiên, cảnh quan miền quê yên ả, bình dị, gắn với mồ mả gia tộc và cả căn nhà đơn sơ gợi những kỉ niệm ông từng sống, từng gắn bó in đậm một tâm hồn nặng lòng với dân tộc.

Khu lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử - Văn hóa Quốc gia. Tuy nhiên, so với một số khu tưởng niệm về các lãnh tụ khác thì khu tưởng niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn khá khiêm tốn, chưa xứng đáng với một bậc vĩ nhân mà không chỉ có nhân dân Việt Nam tôn kính mà cả nhân dân thế giới cũng ca ngợi.

Lâu nay, nơi đây vẫn chỉ là khu tưởng niệm mang tính chất tâm linh và lưu giữ những kỷ vật chưa phải là một địa chỉ văn hóa của một danh nhân, một nhà văn hóa kiệt xuất, chính vì thế sức hút của người xem chưa đông, sức lan tỏa chưa rộng. Mong ước của những người ngưỡng mộ tài đức của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là khu tưởng niệm về ông sẽ được mở rộng và quy hoạch một cách có hiệu quả hơn để xứng tầm của một con người lỗi lạc đã cống hiến cả cuộc đời mình cho dân, cho nước.

Theo tôi, Khu tưởng niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chỉ là nơi lưu giữ kỷ vật về một danh nhân mà phải trở thành nơi sinh hoạt văn hóa

cộng đồng cho mọi người dân có thể đến tưởng nhớ về ông, có thể tổ chức hội thảo, trao đổi, tọa đàm về con người Phạm Văn Đồng, thậm chí cả biểu diễn nghệ thuật dân gian truyền thống như hát bội, hát chòi và dân ca địa phương. Đây phải là nơi sinh hoạt về văn hóa, văn nghệ cho người dân Quảng Ngãi và thu hút đông đảo các cháu học sinh đến đây để tham gia, học tập về lịch sử, về tình yêu quê hương đất nước, về nghệ thuật dân tộc một cách sinh động và thiết thực nhất. Theo sự biến thiên của thời gian, cần có sự nâng cấp và hiện đại hóa về nội thất và dịch vụ của khu tưởng niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng sao cho phù hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. Hiện giờ các hiện vật trưng bày, các công trình nghiên cứu sách báo của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng còn bị phân tán, còn nằm trong nhân dân, trong các bảo tàng lớn nhỏ, trong các phòng tư liệu khắp đất nước. Vậy làm thế nào tập hợp lại một cách đầy đủ và có hệ thống khoa học để thể hiện rõ tầm văn hóa lớn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Theo GS Hoàng Chương cho biết, ông đang giữ nhiều hình ảnh và phim video về Thủ tướng Phạm Văn Đồng với văn nghệ sĩ nhưng những người làm văn hóa ở Quảng Ngãi chưa biết. Mong ước của tôi cũng như nhiều người ngưỡng mộ Thủ tướng Phạm Văn Đồng là khu tưởng niệm này có thể trở thành một bảo tàng văn hóa Phạm Văn Đồng để nơi đây không chỉ là nơi bảo tồn, lưu giữ những kỷ vật quý báu liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của ông, mà còn là nơi giáo dục, bồi dưỡng truyền thống cách mạng của dân tộc, của quê hương đối với các thế hệ mai sau, nhắc nhở mọi người giữ vững niềm tin vào sự nghiệp cách mạng, về một ngày mai tươi sáng của đất nước, quê hương.n

Khu lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn ĐồngẢnh: baoquangngai.vn

47

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 48: Van hien so6 14

Hôm nay là ngày mừng thọ 98 tuổi của một người mà bao năm tôi rất kính trọng và yêu quý.

Người ấy là một nhà khoa học uyên bác, một người thầy trong ngành sân khấu Việt Nam.

Người ấy đã cho ra đời hàng chục tác phẩm vừa nghiên cứu khoa học, vừa sáng tác nghệ thuật, vừa nêu lên những kinh nghiệm quý báu của mình từ bao năm gắn bó với sân khấu.

Người ấy đã đem lại cho tôi những kiến thức tối thiểu về sân khấu truyền thống của Việt Nam và đưa tôi tới một lĩnh vực có thể nói là phong phú nhất, sâu sắc nhất và tinh vi nhất trong truyền thống sân khấu Việt Nam. Đó là nghệ thuật Tuồng.

Người ấy chính là anh Mịch Quang, bạn thân thiết của tôi suốt bao nhiêu năm gần gũi.

Một tình cờ lịch sử đã đem lại sự gặp gỡ giữa anh Mịch Quang và tôi. Tôi vốn là nhà nghiên cứu, giảng dạy triết học và mỹ học. Nhưng trong thời gian những năm 60 của thế kỷ XX, do bận nhiều công việc xây dựng và tổ chức ngành Khoa học xã hội và

Nhân văn, tôi không nhận đi giảng triết học và mỹ học ở bất cứ nơi nào. Nhưng đến khi Bộ Văn hóa có công văn chính thức mời tôi giảng dạy cho tất cả các đoàn văn công: tuồng, chèo, kịch nói, cải lương, múa rối… trong đó có các đoàn của các tỉnh miền Bắc và các đoàn tập kết từ miền Nam ra. Tôi đã vui vẻ nhận lời của Bộ Văn hóa vì sân khấu là lĩnh vực mà tôi rất say mê ngay từ thời thơ ấu. Thế là mấy năm ở Lạc Đạo, tôi đã được tiếp xúc với hầu hết các nhà nghiên cứu, sáng tác, đạo diễn và diễn viên nổi tiếng.

Về tuồng: có bác Nho Túy, Ngô Thị Liễu, ông Tốn, ông Tảo, ông Sáu Lai. Về chèo: có ông Năm Ngũ, các bà Dịu Hương, Diễm Lộc, Thúy Ngần. Về cải lương: có các ông Ba Du, Tám Danh, Tám Củi, cô Thanh Vi… Về bài chòi, dân ca khu 5 có bà Lệ Thi, ông Tường Nhẫn. Về kịch nói: có các ông Ngọc Bạch, Huỳnh Nga, bà Bạch Lan… Tất cả những người ấy đã trở thành bạn thân thiết suốt đời của tôi và đã để lại trong tôi những cảm xúc sâu sắc về các bộ môn nghệ thuật sân khấu. Nhưng vì đâu mà những bộ môn sân khấu ấy đã tác động mạnh mẽ tới tôi

MỘT NHÀ KHOA HỌC UYÊN BÁCMỘT NGƯỜI THẦY TRONG NGÀNH SÂN KHẤU VIỆT NAM

ANH MỊCH QUANG

l GS. AHLĐ VŨ KHIÊU

48

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 49: Van hien so6 14

thì các bạn nêu ở trên không giải thích được. Lúc đó nhiều người lãnh đạo xuất sắc như anh Hoàng Trung Ký về tuồng, anh Trần Bảng về chèo, anh Chi Lăng về cải lương đã giúp tôi phần nào hiểu biết về một số đặc trưng của những thể loại sân khấu áy. Nhưng người đem lại cho tôi những hiểu biết cặn kẽ về nguồn gốc, về đặc trưng, về những nét tinh vi của từng bộ môn thì lại chính là anh Mịch Quang.

Sau đây nếu tôi được hiểu biết sâu sắc hơn, tinh vi hơn những nét đặc trưng của sân khấu thì lại là những sách nghiên cứu lý luận và những kịch bản sân khấu của anh Mịch Quang. Đặc biệt là hai quyển sách mà anh gửi tặng cho tôi: Âm nhạc và sân khấu dân tộc, Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống.

Tôi đánh giá rất cao cuốn Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống của anh. Trong cuốn sách này, anh đã vận dụng triết học để nghiên cứu sân khấu. Việc anh làm cũng là điều vốn tâm đắc của tôi khi tôi và anh Hồng Phong giảng dạy tại các lớp tập huấn của văn công ở Lạc Đạo, chúng tôi đã gắn chặt hai môn triết học và mỹ học. Mịch Quang nêu trong tác phẩm của mình câu nói của Ăngghen: “Các nhà bác học muốn làm gì thì làm họ vẫn bị triết học thống trị”. Từ câu nói đó của Ăngghen, Mịch Quang đã vận dụng triết học trong nghiên cứu của mình. Trên cơ sở tiếp thu những triết học của cả Đông và Tây, Mịch Quang đã chọn triết học phương Đông mà đỉnh cao là Kinh dịch. Nhưng vận dụng kinh dịch như thế nào trong sân khấu ở Việt Nam?.

Kinh dịch đã từng được vận dụng sâu sắc ở Nguyễn Trãi, nổi lên ở Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhuần nhuyễn ở Hồ Chí Minh. Tất cả đều mang dấu ấn sáng tạo của Việt Nam. Từ xưa đến nay, dân tộc ta đã tiếp thu nhiều trào lưu văn hóa từ ngoài vào nhưng sự tiếp thu đó không phải là sự sao chép từng

câu từng chữ mà là sự vận dụng sáng tạo nghĩa là Việt Nam hóa, để những trào lưu ấy trở thành những nhân tố hữu cơ trong triết học Việt Nam. Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta đã nêu lên khẩu hiệu là “điếu phạt” với nhà Hồ và “nhân nghĩa” với nước ta thì Nguyễn Trãi đã bác bỏ điều đó và nói lại rằng: Việt Nam hiểu điếu phạt và nhân nghĩa hoàn toàn khác nhà Minh:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoTrong lịch sử dân tộc ta, Nho - Phật - Lão là một

bộ phận trong thượng tầng kiến trúc của Việt Nam nhưng không phải Nho - Phật - Lão nguyên bản mà là Nho - Phật - Lão đã biến đổi để trở thành Việt Nam. Chỉ có nắm vững điều đó, Mịch Quang mới có thể hiểu sâu sắc kinh dịch để chọn lọc và nâng cao, thành một phương pháp luận tìm hiểu và giải quyết các vấn đề cụ thể của nghệ thuật truyền thống từ những đặc trưng trong phương thức diễn đạt nghệ thuật cho đến mọi lĩnh vực của âm nhạc, sân khấu…

Qua cuộc đời lao động không mệt mỏi từ nghiên cứu sáng tác đến hoạt động thực tiễn, Mịch Quang đã nối liền những điểm sâu sắc nhất của triết học với những điểm cụ thể của đời sống. Ở anh, lý luận và thực tiễn là một sự giao thoa rất hài hòa và sâu sắc khiến anh trở thành một nhà nghiên cứu uyên bác không chỉ của riêng ngành sân khấu mà còn là một nhà triết học của Việt Nam. Anh rất xứng đáng được mọi người tôn vinh và được nhận những phần thưởng cao quý nhất của nhà nước.

Mặc dù hôm nay anh đã 98 tuổi, tôi vẫn xin chúc anh tiếp tục suy tư và biên soạn, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển không chỉ của nghệ thuật sân khấu mà còn của nền văn hóa chung của dân tộc./.

Hà Nội,ngày 28 tháng 05 năm 2014

Nhà nghiên cứu Mịch Quang chụp ảnh lưu niệm cùng GS. AHLĐ Vũ Khiêu trong lễ mừng thọ của mình.Ảnh: TS. Nguyễn Minh San

49

Page 50: Van hien so6 14

l PHAN QUANG

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Chế Lan Viên. Không ít luận văn tốt ngiệp đại học lấy chủ đề sự ngiệp của nhà thơ. Sau khi anh mất, nhiều bạn bè kể cả người quen thân và những người chỉ biết tiếng anh thôi, đã cho đăng nhiều kỷ niệm về anh. Nhưng hình như chưa có mấy người quan tâm đến phần sự nghiệp báo chí, mà tôi cho thật sự có thể tìm thấy một tài năng báo chí ở nhà thơ.

SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ & QUAN NIỆM BÁO CHÍ

của Nhà thơ CHẾ LAN VIÊN

Có lẽ do tư chất thông minh tuyệt vời và sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, anh

nhận xét sắc sảo. Nhiều khi anh cảm nhận hoặc dự báo sự vật qua cảm tính. Anh không phải là người nghiên cứu sâu về Logic học, nhưng sự thông minh về trí tuệ và tính duy lý trong suy nghĩ đã giúp anh viết những bài tiểu phẩm cay độc đối với kẻ thù và sắc sảo khi cần luận chiến, mặc dù anh cũng như tất cả những nhà báo cự phách trước Cách mạng Tháng Tám chưa ai từng học qua một trường lớp báo chí nào.

Tôi khâm phục những nhận xét của anh. Như đã nói, hồi ấy tôi ngây ngô lắm. Vốn sống ít ỏi. Hiểu biết nông cạn. Cái gì đối với tôi cũng đáng ngạc nhiên. Và có lẽ vì vậy có những điều tôi không rõ đầu đuôi,

song nghe qua một lần nó cứ lưu lại trong trí nhớ mặc dù chưa hiểu lắm về bản chất sự kiện.

Một lần tôi nghe anh em cho biết Hoan (tên thật của Chế Lan Viên) vừa được Thường vụ khu ủy gửi giấy khen. Trong một chuyến đi công tác lên miền tây tỉnh Nghệ An, anh đã viết một bức thư rất dài gửi anh Nguyễn Chí Thanh mô tả đời sống đồng bào các dân tộc, thái độ của cán bộ lãnh đạo địa phương và cán bộ cơ sở ở miền núi. Anh nêu lên một số vấn đề: sự bất mãn đang tràn lan trong một số tầng lớp đồng bào dân tộc, nếu không kịp thời khắc phục e rồi có thể dẫn tới những rối loạn phức tạp.

Tôi nghe nói Khu ủy đánh giá rất cao bức thư của anh. Anh Nguyễn Chí Thanh cho là một phát hiện có giá trị. Bức thư của anh đã cung

cấp cho lãnh đạo những thông tin mà Khu ủy cũng như Ủy ban kháng chiến khu (do cụ Hồ Tùng Mậu làm chủ tịch) chưa bao giờ nhận được từ báo cáo của bất kỳ Đảng bộ cơ sở nào.

Cuối những năm 40 (của thế kỷ trước) quả đã xảy ra một vài biến động ở miền tây Thanh Hóa. Một vài nhà lang kích động nhân dân chống chính quyền. Phải tốn nhiều công sức mới giải quyết được. Những sự kiện này chủ yếu do mưu đồ của các thế lực chống chế độ xã hội muốn liên kết với thực dân Pháp đang tạm thời làm chủ Thủ đô Hà Nội. Nhưng cũng không phải không có phần do sai lầm của ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc.

Ở tòa báo, không có chính thức về sự kiện ấy nhưng anh em vẫn xì xào. Chế Lan Viên nói với tôi: Trong

50

Page 51: Van hien so6 14

chuyến đi miền núi Thanh Hóa lần trước, mình đã dự cảm: thế nào cũng có chuyện đấy.

Tôi không hỏi gì thêm.Những bài báo của anh thường

phong phú về ý và sắc sảo trong hành văn. Bài luận chiến của anh đăng trên tạp chí Thép Mới phê phán luật sư Nguyễn Mạnh Tường về quan điểm văn hóa, văn nghệ kháng chiến một thời được nhiều anh em lấy làm thú vị. Bài ấy vẫn ký là Mũi nhọn nhưng ai cũng biết tác giả không ai khác là nhà thơ họ Chế. Bài đăng đã lâu, song mãi sau chuyến đi công tác địch hậu Bình Trị Thiên về, tôi mới được đọc. Và dĩ nhiên khoái.

Dường như bài của anh không được lãnh đạo tán đồng. Không nhớ ai, anh Hải Triều hay anh Lưu Trọng Lư, phân tích cho tôi: “Bài của Hoan thật sắc sảo, và cũng đúng thôi, nhưng cách đập một cú chết tươi như vậy chỉ nên dùng với kẻ thù, không nên dùng cho bạn. Ông Nguyễn Mạnh Tường dù quan điểm văn nghệ có sai thì cũng vẫn là người đi kháng chiến”.

Tôi sớm nhận thấy trong tư duy anh, kể cả trong nhiều trường hợp sáng tạo thơ, mang dấu ấn của tư duy báo chí. Nhạy cảm với thời cuộc, phân tích và tổng hợp nhanh. Cộng với kiến thức uyên bác, trí tuệ sắc bén, bao giờ anh cũng rút ra những nhận xét ngẫu hứng khá đắt, có thể đúng và cũng có thể không, nhưng thường là độc đáo và mang tính khái quát.

Chế Lan Viên có nhận thức rạch ròi về hai nghề viết, hai nghiệp thì đúng hơn, cũng sử dụng cây bút và trang giấy. Trả lời một câu hỏi bạn đọc báo Văn nghệ, Chàng Văn nói gãy gọn:

“Bài báo khác bài văn. Cách làm việc của nhà báo cũng khác nhà

văn. Nhưng nhà báo đồng thời có thể là nhà văn, hơn thế, nhà văn nên làm cả một nhà báo”

Để viết được câu ngắn trên đây, Chế Lan Viên đã qua một cuộc thử nghiệm nhiều năm.

Anh chỉ làm báo hàng ngày trong kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại, về Hà Nội, anh vẫn viết báo đều đều, nhưng phần lớn là báo Văn nghệ ra hàng tuần hoặc các báo và tạp chí khác xuất bản thưa kỳ. Anh có nhiều bài ký xuất sắc, đã được in thành tập, nhiều bài được chọn vào tuyển tập, song đều là bút ký văn học. Những bài báo hàng ngày của anh, chủ yếu đăng trên tờ Cứu quốc Liên khu 4 từ 1947 đến 1954, tiếc thay chưa có điều kiện sưu tầm.

Chế Lan Viên viết đủ mọi thể loại. Cần thì viết. Đặc biệt, những hôm báo “thủng”, thiếu bài, thì phải xoay trần ra mà viết, nhất là những lần đi chuyển cơ quan, cũng quẩn quanh trong vùng tự do Liên khu 4 thôi, song hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An rộng mênh mông, lại phải thay đổi địa điểm luôn do nhu cầu chỉ đạo của khu ủy hoặc để tránh máy bay Pháp oanh tạc. Dù bận, dù ốm đau, dù phải di chuyển, nhưng đã là báo hàng ngày thì trừ chủ nhật, ngày nào cũng phải xuất hiện. Bây giờ nhìn lại, thấy sự cố gắng của anh chị em hồi kháng chiến thật là ghê gớm.

Chế Lan Viên ký nhiều bút danh. Cũng tùy hứng thôi. Cơ quan đóng ở thôn Lai Triều thì anh ký Lai Triều. Chuyển đến thôn Sơn Trung thì báo số Tết 1948 thấy xuất hiện một bài dài ký Sơn Trung. Về sau hình như do yêu cầu bảo vệ bí mật địa điểm cơ quan đóng, anh bịa ra nhiều bút danh khác. Tên ký Thạch Hãn, tên con sông quê hương chảy dưới chân Thành cổ Quảng Trị, xuất hiện khá

nhiều khi anh viết về chủ đề văn hóa, văn nghệ trên tờ Cứu Quốc và một số báo và tạp chí khác.

Về cuối đời, Chế Lan Viên nhìn lại và anh muốn có “Sự trả ơn đối với nghề cũ và lại là nghề chính của tôi trong thời kỳ chống Pháp: nghề báo, báo hàng ngày! Hồi ấy đã làm thơ lại được đâu, nguồn thơ tôi đã lụi từ lâu, trước khi Cách mạng đến, có thể nói tôi đã bỏ nghề thơ rồi. Tôi nhấn mạnh ba chữ báo hàng ngày…Ôi! Còn gì mà ta không động tới, hỡi chúng ta, những người làm báo hàng ngày - hàng ngày hay hàng đêm cũng được, đêm nào dưới ánh đèn lù mù hay le lói, ta không trõm mắt ra mà viết bài, hay đọc bản tin…. Cho tôi tỏ lòng biết ơn cái nghề bạc bẽo mà chúng tôi rất trung thành, cái nghề hèn mọn mà lại cao cả đó. Xưa làm thơ, tôi bứt hương trên ngọn cây, giờ làm báo, tôi phải nếm cả rễ cây dưới đất. Và chính nhờ cái nghề báo khô khan thời chống Pháp mà sang thời chống Mỹ tôi làm thơ lại được, hơn thế, còn làm thơ khá dạt dào. Cụ Victor Hugo là Hy-mã-lạp-sơn, Maiakovski là một đỉnh Ê-vơ-rét. Tôi chỉ là một bụi cây con, một hòn đá nhỏ, nhưng để đề cao cái nghề báo cũ của tôi, cho tôi động đến trên các cụ, được chứ: Maia có thi pháp mới khác các thi pháp trước ông, là nhờ điện ảnh. Victor Hugo theo lời của thi hào Aragon, nhà hài kịch đã cứu nhà thơ trữ tình. Còn các bạn tôi và tôi - những nhà thơ lãng mạn tiền chiến - thì chúng tôi lại nhờ nghề báo cách mạng đấy.

Năm miền Bắc ăn ngô, đẻ ra nhà máy thép…

Hoặc:Kinh Đại Tạng xé theo súng 12

ly 7…Bạn không thấy ở đấy chất báo

chí, bút pháp báo chí (và sau nó

51

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 52: Van hien so6 14

là cuộc sống) đó sao? (Tựa Người và Đất, tuyển tập Ký của Phang Quang, 1988)

Tôi biết đoạn trích dẫn trên đây hơi dài dòng, song tôi muốn độc giả hiểu quan điểm của Chế Lan Viên về báo chí và mối quan hệ giữa báo chí với thơ ca, ít nhất là thơ trong anh.

Sở trường về báo chí của Chế Lan Viên không chỉ tỏ rõ trong những bài viết sắc sảo của anh, cho dù đấy là một mẩu tin, một tiểu phẩm, một xã thuyết hay một bút ký, mà trước hết ở phong cách sống và làm việc của anh.

Xin đừng nghĩ nhà thơ chỉ biết mơ màng. Đúng là thơ anh thường đề cập hoặc hàm chứa những triết lý cao siêu, có trình độ khái quát cao, nhưng anh lại là một người sát thực tế. Anh đặc biệt quan tâm đến thời cuộc, đến tất cả những gì xảy ra xung quanh anh thuộc giới “thạo tin”. Anh chăm đọc báo, nghe đài. Lúc mới quen anh, tôi ngạc nhiên thấy anh chăm đi nghe những buổi nói chuyện thời sự. Đối với anh thông tin thật sự là một nhu cầu về tinh thần.

Anh sưu tầm tài liệu, chuẩn bị rất kỹ trước khi bắt đầu một bài viết, một buổi thuyết trình, một chuyến đi công tác. Đó là gì nếu không phải là phong cách báo chí? Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, anh chuyển gia đình vào sống ở thành phố Hồ Chí Minh. Mỗi lần có bạn thân ở Bắc vào, anh thường rủ về nhà chơi, trước hết do nhu cầu tình cảm đã đành nhưng cũng còn vì mục đích “khai thác thông tin” ở bạn bè, như chính lời anh nói.

Tôi nghĩ sự sắc bén trong văn thơ Chế Lan Viên một phần có lẽ do anh thường nắm cập nhật thông tin. Anh chuẩn bị công phu mọi bài viết. Một thoáng điển tích, một câu

thơ trích dẫn, một chi tiết chọn lọc, anh không chỉ dùng trí nhớ tuyệt vời (nhất là đối với thơ ca) mà còn là kết quả kiểm tra cụ thể tư liệu, rồi những điều viết lên giấy sau đó chỉ là “tập đại thành” qua một quá trình suy nghĩ, lao động.

Có một tờ báo nào đó xin anh một bài viết về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Về quan hệ giữa anh Thanh với Chế hồi kháng chiến chống Pháp ở khu 4 cũ, anh có thể kể cả buổi, thỉnh thoảng lại kèm một nhận xét khái quát hoặc chen câu hóm hỉnh. Thế mà trước khi bắt tay viết, anh gửi thư cho tôi từ “Sài Goòng” ra Hà Nội (anh thích dùng từ Sài Gòn ghi theo lối cũ ở Hà Nội, trước năm 1945): “Xin nhờ anh một việc. Tôi rất cần tài liệu về anh Nguyễn Chí Thanh. Nếu quyển sách anh viết về Thanh còn, anh cho tôi một quyển. Hoặc nếu có tài liệu gì anh cho tôi mượn, tôi xin hứa giữ cẩn thận rồi cuối tháng 9 đầu tháng 10 tôi ra Hà Nội sẽ trả lại anh. Rất cẩn thận.

T.B. Có tài liệu gì về anh Thanh đều tốt. Tôi đang viết một bài về anh Thanh. (Thư đề ngày 9-8-1984).

Giáo sư Nguyễn Xuân Nam, trong bài Nửa thế kỷ văn xuôi của Chế Lan Viên, lời đề tựa tập II Tuyển tập Chế Lan Viên (1990) hạ một câu chí lý: “Anh có giọng văn của một biện sĩ dọc ngang với những lý lẽ của mình…. Hơi văn nhanh, cuồn cuộn, biến hóa bất thường, có khi kỳ ảo” (nói về phê bình - tiểu phẩm)

Lần nào đọc văn xuôi Chế Lan Viên tôi cũng thú, từ những bài bút ký viết vội trên đường tham quan cho đến những bài tiểu luận công phu, một phần có lẽ do tình cảm của tôi đối với anh, song một phần nữa - và đây là chủ yếu - là anh luôn luôn tìm được những nét rất đắt. Sự sắc sảo của anh bắt nguồn ở

chỗ anh bám sát những vấn đề thời cuộc. Chế Lan Viên là một chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh tư tưởng bằng sáng tạo thơ và bằng những bài nghiên cứu và luận chiến văn học. Lao động sáng tạo của anh gắn liền với thời cuộc. Và anh ý thức rõ điều này.

Tác phẩm báo chí của Chế có chất văn đậm đà, tinh tế. Ký của anh lấy đề tài từ thời sự. Anh viết để đăng báo, về một đề tài cụ thể, nhân một sự kiện đáng ghi nhận và do một yêu cầu có khi nội tại, nhiều khi do người khác đặt hàng. Nhưng dù trường hợp nào, bài của anh, khó phân biệt được đấy là báo chí hay văn học. Ở anh, nhà báo và nhà thơ hòa chung trong một nhân cách.

Thơ anh điêu luyện, văn anh súc tích và sắc sảo đã đành. Về báo chí, anh cũng là một tay nghề có hạng. Không dễ dàng với trên dưới 1.000 từ, có thể giải đáp ngắn gọn, rõ ràng, hóm hỉnh và đầy đủ nữa như Chàng Văn đã làm khi trả lời bạn đọc trên báo Văn nghệ, phân tích rạch ròi, thế nào là phóng, ký sự thế nào là bút ký, hồi ký và nhật ký …Trong một bức thư viết cho tôi tối 1-5-1957, nhà thơ Chế Lan Viên đã một lần nữa nói lên quan điểm của anh về báo chí, ít nhất là đối với nghề văn của anh, mà anh đã rút ra từ thực tiễn anh hoạt động trên cả hai lĩnh vực này: “Hoan sợ nghề báo như nước lụt ngập hết cả công việc sáng tác, nhưng nếu nó là mức nước ngâm chân cây lúa, giữ ta trong những nhiệm vụ lớn, giúp ta gần với phong trào, vui buồn, đau khổ chung, thì nó chẳng hại mà có ích cho nghề văn”./.

(Trích trong bài “Chế Lan Viên - tản mạn nhớ một nhà thơ lớn” in trong sách “Thương nhớ vẫn còn” của Phan Quang - Nxb Văn học, H, 2006. Đầu đề là của Văn hiến VN)

52

Page 53: Van hien so6 14

l GS. HOÀNG CHƯƠNG

1. Một tài năng âm nhạcTrong cuộc đời làm văn hóa nghệ thuật của tôi kéo

dài từ Thiếu sinh quân văn nghệ (1950) đến nay (2014) có rất nhiều bạn đồng nghiệp, nhiều lứa tuổi khác nhau nhưng chưa có ai đối với tôi như nhạc sĩ Thuận Yến gần gũi thân tình và tâm đắc...

Tôi biết Thuận Yến - tên thật là Đoàn Hữu Công - quê ở Duy Xuyên - Quảng Nam, nhưng mãi đến đầu năm 1990 mới được thân quen nhau, từ khi thành lập Hội đồng hương Bình Định trên miền Bắc (1990) do Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh - UVTƯ Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chủ tịch, Thiếu tướng - Anh hùng phi công Nguyễn Hồng Nhị -Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không Dân dụng VN làm Phó Chủ tịch và tôi - Viện trưởng Viện nghiên cứu sân khấu VN làm Phó Chủ tịch thường trực. Đại tá, nhạc sĩ Thuận Yến là Trưởng ban văn nghệ của Hội. Với tổ chức ấy đã là cơ sở để chúng tôi gần nhau và thân nhau. Ban văn nghệ của Hội đồng hương Bình Định hoạt động rất mạnh nhờ cả nhà nhạc sĩ Thuận Yến đều tham gia, đặc biệt là NSƯT Thanh Hương vợ anh Thuận Yến không những có tài biểu diễn đàn tranh mà còn độc tấu hài rất giỏi. Nhạc sĩ Thuận Yến còn gọi thêm nghệ sĩ Tố Hoa, nguyên là diễn viên ở Đoàn

văn công QK2, đơn vị ông đã từng phụ trách, về tham gia Ban văn nghệ Hội đồng hương Bình Định. Chúng tôi đi giao lưu biểu diễn liên tục khi thì ở các đơn vị thuộc Tổng cục Hàng không dân dụng VN, lúc thì lên tận Sư đoàn 3 Sao vàng (Bình Định) đóng tại Bắc Gi-ang, rồi đến phục vụ Cty giấy Bãi Bằng-Phú Thọ, nơi Anh hùng lao động Trần Ngọc Quế (người Bình Định) làm Tổng Giám đốc. Có đi vào thực tế mới biết âm nhạc của Thuận Yến đã đi sâu vào đời sống nhân dân như thế nào. Có điều “nhân kỳ thanh bất kiến kỳ hình”. Thuận Yến và tên những bản nhạc quen thuộc như Vầng trăng Ba Đình, Miền Trung nhớ Bác, Mỗi bước ta đi, Chia tay Hoàng Hôn... đã quá quen thuộc với khán thính giả Việt Nam. Không gặp không nhìn thấy được tác giả, vì vậy mà bất kỳ ở đâu khi Thuận Yến bước ra sân khấu tay cầm cây đàn ghi ta với nụ cười hiền thì khán giả đã nồng nhiệt vỗ tay, đặc biệt là những chiến sĩ ở các đơn vị bộ đội không những vỗ tay mà còn hoan hô nhạc sĩ Thuận Yến.

Tôi nhớ hôm 31 tháng 3 năm 1995 sau khi dự lễ kỷ niệm 20 năm giải phóng Bình Định tại Quy Nhơn tôi và nhạc sĩ Thuận Yến về thăm huyện Hoài Ân, lãnh đạo huyện tổ chức đón tiếp rất long trọng, có khẩu hiệu: Nhiệt liệt chào mừng Giáo sư Hoàng Chương và nhạc

THUẬN YẾN

MỘT TÀI NĂNG ÂM NHẠC NỔI TRỘIMỘT NGƯỜI LÍNH BÌNH DỊMỘT NGƯỜI BẠN CHÂN THÀNHCỦA MỌI NGƯỜI

53

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 54: Van hien so6 14

sĩ Thuận Yến. Hôm đó nhạc sĩ Thuận Yến xúc động kể lại những kỷ niệm sống ở Hoài Ân rồi hát nhiều bài tặng bà con Hoài Ân, những người đã cưu mang anh trong những năm kháng chiến chống Pháp và cũng là nơi anh đã sống đã công tác, học hát dân ca Bài chòi để làm cái vốn nghề ban đầu cho sự nghiệp sáng tác sau này.

Điều đó giải thích vì sao Thuận Yến là người Quảng Nam mà lại tham gia Hội đồng hương Bình Định rất nhiệt tình. Với Hội đồng hương Bình Định trên miền Bắc, nhạc sĩ Thuận Yến không những biểu diễn phục vụ bà con trong các kỳ hội họp mà còn sáng tác ra những ca khúc khá hay như “Vọng lời mẹ ru”, “Hát trước tượng đài Quang Trung”, “Nhớ về Hoài Nhơn” ... Xin kể ra một câu chuyện sáng tác kịp thời của Thuận Yến mới thấy rõ hơn tâm hồn, tài năng và trách nhiệm của người nghệ sĩ chiến sĩ Thuận Yến. Năm ấy (1997) trước ngày họp hội đồng hương Bình Định, tôi đề nghị nhạc sĩ Thuận Yến viết cho một ca khúc về Bình Định để bà con hát cho vui, cho đỡ nhớ quê nhà, Thuận Yến tỏ ra băn khoăn và nói: Khó quá! Không biết bắt đầu từ cái gì? Hoàng Chương tìm cho tôi một bài thơ nào đó nói về Bình Định để tôi phổ, may ra kịp thời gian phục vụ.

Tôi bỗng nhớ tới hình ảnh ngày xưa con trai Bình Định thường mắc võng dưới gốc cây dừa đong đưa nhìn lên ngọn dừa nghe tiếng mẹ ru mà ước mơ bay lên trời cao. Tôi trao đổi với nhà thơ Thế Kỷ “tứ” thơ này và đọc cho ông nghe mấy câu ca dao: “Công đâu công uổng công thừa/ Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan”. Rất nhanh, nhà thơ Thế Kỷ đã làm một bài thơ lục bát ngắn. Tôi đọc qua điện thoại cho nhạc sĩ Thuận Yến nghe bài thơ của Thế Kỷ. Đêm ấy, ông sáng tác

bài hát “Vọng lời mẹ ru”. Hôm sau, đến cuộc họp đồng hương, ông đệm ghi ta cho NS Thu Hiền hát. Không ngờ bài hát đã được đông đảo người nghe nhiệt liệt vỗ tay và yêu cầu hát lại và hôm giao lưu với cơ quan Tổng cục Hàng không có cả nhà thơ Phạm Tiến Duật dự. Sau khi nghe Thuận Yến hát, ông khen bài hát rất hay, thể hiện rất rõ chất khu V của Thuận Yến. Từ đó bài Vọng lời mẹ ru trở thành bài “Bình Định ca” và sau đó được ngành âm nhạc chọn một trong những bài hát hay xuyên đất nước từ Hà Nội tới Tp Hồ Chí Minh mỗi tỉnh một bài.

2. Một con người bình dị, chân thành.Lần đầu tôi đến thăm gia đình nhạc sĩ Thuận Yến

ở khu tập thể Quân đội Nam Đồng-Đống Đa-Hà Nội, một căn hộ chỉ hơn 20m vuông cho cả một gia đình 4 người của Đại tá nhạc sĩ. Chật quá, Thanh Lam phải bắc giường xếp nằm ngoài hành lang. Chật chội, thiếu thốn mọi thứ, nhưng gia đình nhạc sĩ Thuận Yến không bao giờ vắng tiếng đàn, tiếng hát và tiếng cười. Nhạc sĩ Thuận Yến sống vô tư hồn nhiên một thì NS Thanh Hương vợ ông còn vui nhộn gấp đôi... Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ”, gian nhà cứ hẹp lại khi hai đứa con ông ngày một lớn. Làm thế nào để có được một căn hộ rộng hơn. Đó là một câu hỏi, một ước mơ thường trực đối với vợ chồng nhạc sĩ Thuận Yến. Khi phát hiện có một căn hộ của một vị thiếu tướng vừa giao lại cho Tổng cục chính trị, Đại tá Thuận Yến đệ đơn xin cấp cho mình, nhưng bị từ chối vì theo chế độ chính sách đại tá không có tiêu chuẩn ở nhà cấp tướng.

Nhân sự kiện đêm nhạc đặc biệt chào mừng ngày giải phóng miền Nam do Bộ Văn hóa và Tổng cục chính trị phối hợp tổ chức tại Nhà hát lớn Hà Nội, tham

Nhạc sĩ Thuận Yến và vợ tham gia chương trình của báo Tuổi Trẻ tại Nghệ An vào năm 2009 - Ảnh: Lê Đức Dục

54

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 55: Van hien so6 14

gia biểu diễn là các nhạc sĩ, ca sĩ tên tuổi với những ca khúc nổi tiếng, khi đến bài đồng ca “Mỗi bước ta đi” của Thuận Yến được các diễn viên diễn tả rất hào hùng, rất xúc động, tôi cảm giác như bùng nổ cả Nhà hát lớn. Lúc đó tôi ngồi cùng hai Thượng tướng Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị là Nguyễn Nam Khánh và Đặng Vũ Hiệp, tôi thấy hai vị Thượng tướng đều thể hiện cảm xúc tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng qua bài hành khúc của Thuận yến. Với những ca từ thật cuốn hút “Đồng chí ơi! Người chiến sĩ giải phóng quân miền Nam anh hùng thành đồng Tổ quốc! Anh đi về đâu. Từ Quy Nhơn cho đến Biên hòa vượt qua Sông Bé oai hùng về Phước Long chiến thắng”…

Tôi dò hỏi hai vị Thượng tướng:- Thưa hai anh bài hát có thể cổ vũ, cuốn hút hàng

triệu con người ra trận, chiến đấu và giành chiến thắng, như vậy hiệu ứng tinh thần của nó rất lớn, mà có lẽ không vị tướng nào có thể làm thay được, cho nên tôi đề nghị hai anh nên đặc cách cho Đại tá nhạc sĩ Thuận Yến được hưởng chính sách nhà ở của một Thiếu tướng...

Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh hỏi Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp:

- Anh Hiệp thấy ý kiến GS Hoàng Chương thế nào?

- Ông Hiệp cười, nói:- Ý kiến lạ, nhưng cũng có lý...Tôi không ngờ lời nói của người không có quyền lực

quân đội như tôi lại có hiệu lực đối với một Đại tá nhạc sĩ tên tuổi lẫy lừng. Sau cái đêm âm nhạc đặc biệt ấy không lâu thì nhạc sĩ Thuận Yến nhận được quyết định sở hữu ngôi nhà cấp tướng số 47 khu tập thể Học viện chính trị cao cấp, phường Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội.

Có an cư mới lạc nghiệp, từ đó nhạc sĩ Thuận Yến tiếp tục sáng tác hàng loạt ca khúc hay với nhiều đề tài từ truyền thống đánh giặc cứu nước đến cuộc sống xây dựng CNXH đặc biệt là đề tài Bác Hồ, Thuận Yến là nhạc sĩ sáng tác nhiều nhất và cũng có nhiều bài hay nhất về Chủ tịch Hồ Chí Minh được đông đảo khán thính giả yêu thích nhất. Nếu làm một cuộc điều tra xã hội học về âm nhạc của Thuận Yến thì có lẽ nhận định trên không phải là cảm tính, hoặc cảm tình...

Thuận Yến, một tài năng vừa sáng tác ra ca khúc rồi vừa đàn vừa hát có thể phục vụ bất cứ đối tượng nào khi có yêu cầu và cũng mong có thu nhập để cải thiện đời sống còn khó khăn. Vì vậy mà khi nào rủ ông đi hát ở đâu tôi cũng đề nghị nơi đó chuẩn bị “phong bì” bồi dưỡng cho ông. Duy có một lần ở Bắc Giang, mà sau

đó hễ nhắc lại là chúng tôi không sao nhịn cười được. Hôm đó Sở Văn hóa Bắc Giang tổ chức mời chúng tôi lên phối hợp với nghệ sĩ Văn Tân thể hiện hình tượng Bác Hồ có cả Bí thư tỉnh ủy Đỗ Nguyễn Bình Dương dự từ buổi cơm chiều đến đêm giao lưu nghệ thuật. Đêm đó nhạc sĩ Thuận Yến hát liền tới 4 bài (đến bài thứ 4 thì giọng gần tắc) ông hát nhiều vì khán giả yêu cầu, vì quý nể Bí thư tỉnh ủy ham mê văn nghệ và cũng để “tăng thêm thu nhập về nộp cho bà Hương vì chuyến đi nào cũng vậy” (nguyên văn lời nhạc sĩ Thuận Yến). Đã khuya tôi và vài người cùng đi đã bước lên xe nhưng nhạc sĩ Thuận Yến thì cứ đứng nguyên chỗ cũ lom khom bỏ đàn vào bọc kéo khóa lại, rồi lại kéo khóa ra làm như khóa hỏng, cứ động tác ấy ông lặp đi lặp lại khoảng 10 phút rồi mới chịu xách đàn lên xe...

Tôi hỏi khuya rồi mà vì sao anh lại chậm thế? Thuận Yến cười thật thà:

- Thì cứ tìm cách kéo dài thời gian chờ đợi vì biết đâu họ còn bàn...

Tôi cũng cười cảm thông với ông:- Họ về hết rồi còn ai mà bàn. Thuận Yến cười rất

to: Đêm nay sẽ bị bà Hương tra hỏi:- Thóc đâu? (NSƯT Thanh Hương thường gọi chữ

‘thóc” thay chữ tiền bồi dưỡng, ở đâu chỉ tặng quà thì bà bảo tôi nói với họ hãy “quy ra thóc”... thì tiện hơn.

Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi giao lưu, biểu diễn mà phải về tay trắng và cũng lần đầu tiên tôi thấy nhạc sĩ Thuận Yến phải làm động tác giả với cây đàn yêu quý của mình. Câu chuyện bỏ đàn vào lấy đàn ra được nhạc sĩ Thuận Yến kể không biết bao nhiêu lần cho bạn bè nghe để chia sẻ nỗi vất vả của một nhạc sĩ nghèo. Có lần Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nghe Thuận Yến kể đã bật cười to như đang xem tấu hài của thi sĩ Thanh Tịnh.

Còn tôi là người cùng cảnh ngộ với nhạc sĩ Thuận Yến trong đêm Bắc Giang nên thỉnh thoảng nhớ lại câu chuyện trên là tự cười, cười ra nước mắt, càng cười càng thấy thương một con người tài hoa, thật thà và đức độ, con người ấy giá mà cứ sống mãi đến 100 tuổi hoặc nhiều hơn thì có lợi biết mấy cho đời. Nhưng quy luật của tạo hóa sinh lão, bệnh tử thì có ai cưỡng lại được đâu! Nhân đây xin được bổ khuyết rằng: Nhạc sĩ Thuận Yến là một trong những nhạc sĩ đầu tiên cùng GS. Trần Văn Khê, Nguyễn Thuyết Phong, Soạn giả Mịch Quang được trao Giải thưởng Đào Tấn năm 1997.

Hà Nội 7/5/2014

55

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 56: Van hien so6 14

Những tác phẩm âm nhạc có giá trị của thế giới khi qua sự giới thiệu, phân

tích của Hồ Quang Bình trở nên dễ hiểu, gần gũi với khán giả Việt Nam

Từ khi còn là học sinh phổ thông, tôi đã thích nghe chương trình giới thiệu âm nhạc quốc tế trên làn sóng đài Tiếng nói Việt Nam, đặc biệt là thích nghe những bài phân tích tác phẩm của các nhạc sĩ nổi tiếng thế giới do nhạc sĩ - nhà nghiên cứu, phê bình âm nhạc Hồ Quang Bình viết và đọc. Với sự hiểu biết sâu, rộng về âm nhạc, một tâm hồn tinh tế, thể hiện qua giọng nam trung ấm áp, dày dặn và mềm mại, giàu sức truyền cảm, Hồ Quang Bình đã giúp khán giả Việt Nam tiếp cận những tác phẩm âm nhạc có giá trị của thế giới. Những tác phẩm lớn, cao xa ấy khi qua sự phân tích của Hồ Quang Bình lại trở

nên dễ hiểu, gần gũi với khán giả Việt Nam, trong đó có tôi. Cứ thế, dần dần qua làn sóng phát thanh, Hồ Quang Bình đã giúp tôi định hướng đúng cách thức cảm thụ âm nhạc, thêm hiểu âm nhạc và càng yêu âm nhạc hơn.

Cuộc sống đưa đẩy, bất ngờ dẫn tôi vào con đường sáng tác âm nhạc. Khi xuất bản đĩa nhạc thứ ba của mình với tựa đề Giàn thiên lý, tôi nghĩ đến việc nhờ người nhạc sĩ mà tôi hằng kính trọng, khâm phục ấy giới thiệu trong buổi trình diễn ra mắt đứa con tinh thần của mình. Đắn đo mãi, vì tôi chỉ là một người viết ca khúc không chuyên, mà ông thì rất bận, sợ ông không thể giúp được, cuối cùng tôi đã mạnh dạn đến nhờ ông. Thật không ngờ, Hồ Quang Bình vui vẻ nhận lời ngay và bảo: “Tôi phải nghe kỹ rồi mới giới thiệu được”. Sau đó ít ngày, ông đưa cho tôi bài viết của ông

chuẩn bị cho buổi ra mắt Giàn thiên lý. Tôi sững sờ, cảm động vì thấy ông đã hết sức trân trọng và cẩn trọng nghe, tìm hiểu để viết nên một bài phân tích, giới thiệu sâu sắc về học thuật, chan chứa tình người. Qua bài viết của ông, tôi học thêm được nhiều điều về sáng tác âm nhạc, về quan hệ giữa tác giả thơ và tác giả nhạc. Khi nghe ông nói: “Và thật hạnh phúc cho những dòng nhạc ấy bởi đã có sự gặp gỡ thủy chung một giọng hát chứa chan tình người - Nghệ sĩ Đức Long đã thổi vào dòng nhạc này - không, đã nhập hòa trong thế giới âm thanh của tác giả nhạc những đồng cảm ấm áp không cùng.”, tôi càng thấm thía ý nghĩa quan trọng của sự đồng cảm giữa nhạc sĩ và ca sĩ và mừng vì mình đã chọn đúng ca sĩ tâm giao! Chỉ qua bài viết có tính chất giới thiệu một số ca khúc thôi, Hồ Quang Bình đã thể

l TS. PHẠM VIỆT LONG

Nhạc sĩ Hồ Quang Bình

Nhớ

56

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 57: Van hien so6 14

hiện rõ quan điểm thẩm mỹ của mình, giúp định hướng thẩm mỹ cho công chúng. Tôi hiểu rằng ông rất coi trọng sự thăng hoa của cảm xúc - và muốn có cảm xúc thì phải trung thực, chân thành. Ông cũng coi trọng loại âm nhạc giàu tính trí tuệ, chuẩn mực, tôn vinh cái đẹp, tình yêu và nỗi khát khao vươn tới cái cao cả, trong sáng. Ông khiến cho mọi người tự tin khi đến với âm nhạc qua ý kiến phân tích rằng âm nhạc có thể đến với tất cả mọi người, đến với người biết nhạc thì nó thành tác phẩm, với người biết nhạc một cách bình thường thì là sự thưởng thức, đó là những yếu tố không thể thiếu được trong đời sống của một con người.

Cũng vì có một tình yêu lớn, một sự tôn trọng chân thành đối với âm nhạc, mà Hồ Quang Bình luôn luôn lo lắng về tình trạng lệch lạc hiện nay trong âm nhạc nước nhà. Ông từng phẫn nộ lên án những sáng tác rẻ tiền là nguyên nhân tạo ra hiện tượng “mại dâm mồm bằng âm nhạc”. Nhưng, điều đáng học tập ở Hồ Quang Bình, là ông luôn luôn hành động để thực hiện phương châm “lấy xây để chống’’. Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực lý luận, giới thiệu âm nhạc trên sân khấu và làn sóng Đài Phát thanh và Truyền hình, ông đã chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều chương trình ca nhạc truyền hình đạt giải cao trong các liên hoan truyền hình toàn quốc. Ông là chủ nhiệm đề tài nghiên cứu lịch sử “Nền Tân nhạc ở Hà Nội đầu thế kỷ XX” của Hội Âm nhạc Hà Nội, là chủ biên cuốn Lịch sử Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam. Ngày 28/12/2010, Hội Âm nhạc Hà Nội tổ chức Đại hội lần thứ X nhiệm kỳ 2010-2015 với sự có mặt của gần

300 hội viên, ông được bầu làm Chủ tịch Hội. Trên cương vị này, trong quản lý, ông là người đức độ, hết lòng vì công việc và yêu thương mọi người. Theo quan sát của tôi, có lẽ Hội Âm nhạc Hà Nội do ông làm Chủ tịch là Hội nghề nghiệp có sinh hoạt sôi nổi, thiết thực vào loại nhất ở nước ta. Hội viên thường xuyên tham gia hoạt động giới thiệu tác phẩm mới từ nhiều năm nay, có cơ hội trao đổi nghề nghiệp dưới dạng hát cho nhau nghe trong câu lạc bộ “Đến với âm nhạc”. Các tác giả thu bài hát vào CD hoặc tác giả trình bày trực tiếp cho mọi người trong câu lạc bộ nghe. Lý giải về điều này, nhạc sĩ Hồ Quang Bình nói: “Bởi như các bạn thấy, đời sống âm nhạc khá sôi động trong thời gian qua, các sáng tác của các nhạc sĩ ra đời ngày càng nhiều nhưng không biết gửi đi đâu. Còn nếu cứ để vào ngăn kéo chỉ vài người quen biết ngồi hát thì hiệu quả không cao. Hội tổ chức câu lạc bộ này nhằm phát huy với số lượng đông tới vài trăm hội viên thành định kỳ để hội viên có dịp trình bày sáng tác của mình, cùng nhau bàn luận, trao đổi, chia sẻ những điều được và chưa được để tiến tới một tác phẩm hoàn chỉnh, trình diễn trước công chúng”.

Tôi viết bài này dưới tiêu đề “Nhớ nhạc sĩ Hồ Quang Bình” mà từ “Nhớ” bao hàm hai nghĩa: Nhớ thương, và Nhớ ơn. Vô cùng thương nhớ ông, một con người đức độ, nhân từ và giàu nhiệt huyết. Vô cùng nhớ ơn ông, người đã góp phần khai sáng con đường âm nhạc mà tôi đang đi./.

Nhạc sỹ Hồ Quang Bình - nhà lý luận, phê bình âm nhạc, Chủ tịch Hội âm nhạc HN, Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp văn

học nghệ thuật HN, từ trần sáng 25/5 sau thời gian lâm bệnh hiểm nghèo.

Ông sinh ngày 18 tháng 1 năm 1935, quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.

Con đường hoạt động âm nhạc của ông bắt đầu sau khi tốt nghiệp Nhạc viện Kiev (Ukraina), là Thư ký Hội đồng Nghệ thuật Nhà hát Giao hưởng - Nhạc Vũ Kịch Việt Nam.

Sau ngày thống nhất đất nước, ông về công tác tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, rồi chuyển sang công tác tại Phòng Phát thanh FM Đài Truyền hình Thành phố. Năm 1983, ông về làm biên tập âm nhạc Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội (là Phó Trưởng ban Âm nhạc).

Hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực lý luận, giới thiệu âm nhạc trên sân khấu và làn sóng Đài Phát thanh và Truyền hình, ông đã chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều chương trình ca nhạc truyền hình đạt giải cao trong các liên hoan truyền hình toàn quốc, nhiều lần tham gia Ban Giám khảo các hội diễn của Hà Nội. Ông là chủ nhiệm đề tài nghiên cứu lịch sử Nền Tân nhạc ở Hà Nội đầu thế kỷ XX của Hội Âm nhạc Hà Nội, là chủ biên cuốn Lịch sử Nhà hát Nhạc Vũ Kịch.

Nhiều năm nay, ông là một MC có uy tín trong các chương trình nghệ thuật bác học trên các sân khấu âm nhạc và Đài Truyền hình.

Đã được tặng các giải thưởng về lý luận của Hội Nhạc sĩ Việt Nam năm 1997, 1998 và đặc biệt là giải nhất công trình (cùng nhóm tác giả) Ca khúc Hà Nội thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI.. n

57

HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT

Page 58: Van hien so6 14

Gương chí hiếu xưa nay.Trong “Lục độ tập kinh” của Phật giáo có câu

chuyện thứ 43 kể về một vị Bồ Tát chí hiếu tên là Thiểm, có lòng thương rộng khắp, xót vì người đời không trọng Tam bảo nên quyết tâm vào chốn núi rừng tu tập, đem theo cha mẹ già, đôi mắt đã hết sáng, để phụng dưỡng. Đêm đêm Thiểm thường ba, bảy lần dậy thăm hỏi hàn huyên với cha mẹ và thông thường mỗi khi nói đến cha mẹ là trào dâng lòng thương rơi lệ. Hạnh chí hiếu của Thiểm như tiếng thơm bay khắp xa gần, đức Nhân của Thiểm chiếu xa đến nỗi cầm thú cũng được nương nhờ. Một lần, cha mẹ khát nước, Thiểm phải đi ra suối lấy nước thì bị vua Ca Di bắn nhầm. Trong cơn sinh tử, chàng thốt lên: “Ai đã lấy một mũi tên mà giết 3 đạo sĩ? Cha mẹ tôi tuổi đã già lại bị mù lòa, một buổi không có tôi thì phải chết!”, mà lòng không hề oán hận người đã bắn mình. Khi biết Thiểm đem cha mẹ vào núi này mà tu học lên chí Đạo, vua Ca Di nghẹn ngào rơi lệ:

“ Ta vì bất nhân giết oan mạng vật, lại giết người chí hiếu!”. Lòng từ hiếu của Thiểm làm lay động đến cả Trời, Thần. Trời Đế Thích bèn hóa thân xuống trần gian, dùng thuốc Trời cứu Thiểm. Cha mẹ Thiểm và vua Ca Di rất vui. Nhà vua nói: “ Do thờ Đức Phật và chí Hiếu mới được như vậy!”, rồi ra lệnh cho quần thần rằng từ nay về sau nhân dân cả nước đều phải thờ Phật và 10 đức lành, tu theo hạnh chí hiếu của Thiểm.

Trong cuốn sách “Nhị thập tứ hiếu” của Lý Văn Phức kể về 24 gương chí hiếu ở nước Trung Hoa thời xưa, cũng có nhiều câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Đó là Lão Lai Tử, đã 80 tuổi mà vẫn nhảy múa hát ca rồi làm trò vờ ngã như trẻ con để làm vui lòng cha mẹ già đã trên trăm tuổi. Đó là Mẫn Tử, trước sự đối xử tệ bạc của người mẹ kế (chỉ chăm sóc hai con riêng, bỏ mặc Mẫn Tử mùa đông chỉ có hoa lau đắp lên người rét quá nên ngã bệnh), nhưng vẫn không hề

CHỮ HIẾU & ĐẠO HIẾU

Xưa và NayTrong kho tàng tục ngữ ca dao của dân tộc ta có bốn

câu nổi tiếng khái quát về công ơn to lớn của cha mẹ và bổn phận hiếu thuận của đạo làm người: “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Thành ngữ Tiếng Việt còn có câu “Chín chữ cù lao” nói về công lao khó nhọc của cha mẹ đối với con, đó là Sinh (Cha sinh); Cúc (Mẹ đẻ); Phủ (Vỗ về); Dục (Nuôi cho khôn lớn); Cố (Trông nom); Phục (Quấn quýt); Phủ (Nâng nhấc); Súc (Nuôi cho lớn); Phúc (Bồng bế). Ngày nay dường như ai cũng nhận thức được rằng phải trọn đời thờ kính cha mẹ vì cha mẹ đã sinh ra ta, nuôi dưỡng ta nên người nhưng công sinh thành nuôi dưỡng ấy gian khổ, lớn lao ra sao và con người phải báo hiếu cha mẹ như thế nào thì không phải ai cũng đã thấu hiểu. Ảnh minh hoạ: Đinh Nho Lý

l Đại tá - Nhà báo PHẠM ĐÌNH KHANH

58

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 59: Van hien so6 14

giận mẹ kế. Bố Mẫn Tử nổi giận định đuổi bà vợ kế đi, nhưng Mẫn Tử đã ngăn cha lại, xin tha cho mẹ: “ Mẹ còn, chịu một thân đơn/ Mẹ đi, luống để cơ hàn cả ba”. Hành động cao thượng và lòng khoan dung, chí hiếu của Mẫn Tử khiến người cha xúc động và đã cảm hóa được người mẹ kế, khiến từ đó bà trở nên từ mẫu với cả 3 con: “ Cha nghe nói cũng sa giọt tủi/ Mẹ nghe rồi cũng đổi lòng xưa/ Cho hay hiếu cảm nên từ/ Thấm lâu như đá cũng từ lọ ai”.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng có nhiều câu chuyện cảm động về hạnh Hiếu của các vị danh tăng được người đời ca ngợi. Mỗi người báo hiếu theo cách khác nhau nhưng phần lớn là nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ vô điều kiện: Thiền sư Thông Biện sau khi tu thành đắc đạo liền tìm về với mẹ để báo hiếu; Thiền sư Nhất Định kiếm củi đổi lấy gạo nuôi mẹ già suốt đời; Thiền sư Hư Vân báo hiếu bằng cách cầu nguyện phước lành cho cha mẹ, mỗi bước đi là một lạy nguyện cầu; Thiền sư Tông Diễn báo hiếu bằng cách hướng mẹ theo duyên nghiệp và Phật pháp như mình, tu học như mình, không sát sinh, không hại vật nữa…

Ở nước ta thời nay cũng có nhiều câu chuyện cảm động về những tấm gương hiếu thảo. Ông Nguyễn Ngọc Long, 56 tuổi, ở Trà Vinh tận tình chăm sóc một người mẹ bị mất trí nhớ và không đi lại được. Cụ già thường làm nũng nên ông Long phải vừa kể chuyện vui vừa bón đồ ăn thì mẹ mới há miệng ăn. Chiều mẹ, ông Long còn sưu tập được một kho chuyện để kể cho mẹ cười; ông tự tay tắm rửa, giặt quần áo cho mẹ; đến bữa ăn, mẹ như con nít, ông phải bày đủ trò cho mẹ nuốt. Những ngày mưa, mẹ vô tư tiểu tiện ra quần thường xuyên, nhưng ông Long không hề kêu ca oán thán mà chỉ lặng lẽ lau rửa, giặt giũ cho mẹ. Ngày nào ông cũng dùng xe đẩy, đưa mẹ đến những nơi có nhiều kỉ niệm gắn bó với đời mẹ, hy vọng mẹ nhớ lại và ông thường xuyên kể chuyện cười khiến bà cụ luôn nở nụ cười hớn hở, hạnh phúc.

Nguyễn Thị Ánh Tuyết (ở Bình Dương), năm lên 2 tuổi đang bị bệnh ngặt nghèo tưởng chết thì mẹ bỏ đi nên em phải sống với cha và mẹ kế. Lớn lên, Tuyết chỉ biết mang máng về mẹ mình nhưng lòng cứ day dứt khôn nguôi nghĩ về mẹ. Năm Tuyết 18 tuổi, bỗng nhiên mẹ về muốn đem cô đi gả bán, cô đã từ chối, nhưng khi biết mẹ bị tai nạn gãy chân nằm viện, cô hàng ngày đến bệnh viện chăm mẹ đồng thời nhận việc làm thêm để có tiền thuốc thang cho mẹ. Khi mẹ trốn viện rồi bặt tin, cô đã cất công

đi tìm mẹ. Đến năm 2004, biết mẹ mình đã mất, cô khóc lóc thảm thiết rồi thực hiện nguyện ước xây mộ cho mẹ, thường xuyên chăm sóc mộ phần và cúng viếng suốt 7 năm ròng cho đến khi người tốt đưa mẹ cô vào chùa. Trong cảnh ngộ như vậy, cô tuyệt nhiên không hề oán hận mẹ mình mà ngược lại, vẫn cảm thấy hạnh phúc vì có hai người mẹ, một người sinh thành, một người nuôi dưỡng cô với tình yêu thương vô bờ bến.

Nguyễn Kim Viên, 53 tuổi, ở thành phố Bắc Ninh cũng là tấm gương chí hiếu. Năm 19 tuổi, sau một cơn bạo bệnh, Viên bị tàn phế đôi chân, lưng mọc một khối u lớn không thể đi lại và không thể đứng thẳng được. Hơn 30 năm nay Viên đã dùng chiếc xe lăn cũ nát, lê lết đi nhặt phế liệu để bán kiếm chút tiền ít ỏi hàng ngày nuôi bố mẹ già đều hơn 70 tuổi ( bố 2 lần mổ mắt, mổ viêm đường ruột; mẹ ốm quặt quẹo gần 20 năm nay). Cứ 6 giờ sáng hàng ngày là Viên lại ra bãi Sông Hồng nơi có bãi rác của Khu công nghiệp, nhặt nhạnh các phế phẩm như túi ni lon, bao bì, lon bia, sắt vụn, rồi phân lọai bán cho hàng đồng nát; ngày nhiều được 30 ngàn đồng, ngày ít chỉ được hơn 10 ngàn, ngày mưa không có gì thì 3 người phải nhịn đói, nhưng Viên không hề oán thán.

Mẹ Cha ta là PhậtĐó là lời của Phật. Trong cuốn sách “Cổ học

tinh hoa”, Ôn như Nguyễn Văn Ngọc có ghi lại câu chuyện giản dị và vô cùng cảm động minh họa cho điều ấy. Chuyện rằng Dương Phủ, người Trung Quốc, lúc nhỏ nhà nghèo nhưng ra sức cày cấy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm, nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ, Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân ít lâu đến hầu bậc Vô Tế. Đi được nửa đường, Phủ gặp một vị lão tăng, vị này bảo ông rằng được gặp Vô Tế tăng chẳng bằng được gặp Phật; Dương Phủ hỏi Phật ở đâu, lão Tăng bảo nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo màu sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy. Dương Phủ nghe nói quay về, trên đường chẳng thấy ai như thế cả. Về tới nhà thì đêm đã khuya, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, vội vã khoác chăn, đi dép ngược chạy ra mở cửa đón. Bấy giờ, Dương Phủ trông ra thì thấy hình dáng Phật mà lão tăng đã nói cho nghe. Từ đấy ông biết cha mẹ trong nhà tức là Phật.

Hòa thượng Thích Thanh Từ, trong cuốn sách “Tu là chuyển nghiệp”, kể rằng có lần Phật đi khất thực ở một vùng mất mùa, dân trong làng ai cũng nghèo

59

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 60: Van hien so6 14

đói. Phật đi từ sáng đến trưa không có ai cúng dường nên trong bát của Phật không có thức ăn. Khi đó có một thầy Tỳ kheo đem lá y mới của mình đổi được một bát cơm, vội vàng đem dâng Phật. Phật hỏi “ Ông còn cha mẹ không?”, đáp “ Bạch Thế tôn, con còn mẹ”; Phật lại hỏi “ Mẹ ông sáng nay có cơm ăn chưa?”, đáp “ Bạch Thế tôn, con đổi một lá y chỉ được một bát cơm, con xin dâng Thế tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn”; Phật dạy “Người đáng thọ nhận bát cơm này là mẹ của ông!”.

Trong triết học Phật Giáo, không có tình thương nào lớn hơn tình thương của cha mẹ dành cho con và cũng không có sự hy sinh nào cao cả hơn sự hy sinh của cha mẹ đối với con. Ở nhiều bản kinh khác nhau, Đức Phật đều đề cập đến tình mẫu tử, tình phụ tử rất sâu đậm: “ Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ/ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha/ Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ/ Mây trời lồng lộng không phủ kín công Cha/ Tần tảo sớm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn/ Mang cả tấm thân gầy Mẹ che chở đời con”;… “Cha mẹ đối với con, ân đức cao nặng sâu dày; ân đức sản sinh bú mớm, ân đức tắm giặt nuôi nấng trưởng thành, ân đức cung cấp các thức ăn cần dùng, ân đức chỉ dạy cách sống ở đời. Cha mẹ luôn luôn muốn con rời khổ, được vui, không bao giờ xao nhãng nhớ thương con như bóng với hình” ;… “ Có hai hạng người, này các Tỳ kheo, ta không thể trả hết ơn được, đó là Cha và Mẹ. Nếu một bên vai cõng Mẹ, một bên vai cõng Cha, làm như vậy suốt năm cho đến trăm tuổi cũng chưa trả hết ơn đủ cho cha mẹ. Nếu có phụng dưỡng cha mẹ với mọi báu vật trên trái đất này cũng chưa trả ơn đủ. Vì sao thế? Vì rằng cha mẹ đã bỏ nhiều công sức cho con cái, nuôi dưỡng chúng cho đến lúc lớn khôn, và dẫn dắt chúng vào cuộc đời này”. Phật Thích Ca cũng nói về 10 công ơn của Cha Mẹ khó đền đáp được: “ Chín tháng cưu mang; chịu đau đớn khi sinh con; nuôi con cực khổ; chịu đắng cay cho con ngọt bùi; dành chỗ ướt nhường khô ráo cho con; nhai cơm cho con; giặt đồ dơ cho con; nhớ thương con khi con đi xa; vì con mà tạo tội nghiệp; chịu đói khát để con no ấm”.

Các học giả thời nay, khi tìm hiểu về chữ Hiếu của thánh nhân, đã minh họa sâu sắc thêm. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, trong tùy bút nổi tiếng “Bông hồng cài áo” đã viết hết sức sâu sắc, hết sức cảm động về tình mẫu tử : “Khi con cất tiếng khóc chào đời, Mẹ như là người nghe được âm nhạc. Mẹ dùng ngực làm

nơi ngủ, nghỉ cho con và trên hai đầu gối mẹ thường là nơi đùa dỡn của con. Ơn nuôi dưỡng ấy nhiều hơn trời đất và đức thương yêu ấy rộng lớn không gì sánh nổi. Trên thế gian này không có một thứ tình cảm nào sâu đậm, thiêng liêng vô điều kiện bằng tình thương của Mẹ Cha đối với con cái vì con cái là hình hài, cốt nhục của Cha Mẹ lưu truyền. Khi con nằm trong bào thai - cung điện của em bé - thì Mẹ con là một thể thống nhất, tuy hai mà một, tuy một mà hai, Mẹ con nối với nhau bằng một đường dây huyết mạch là sợi dây rốn. Khi hài nhi ra đời, sợi dây rốn được cắt đi, mẹ con là hai thực thể, hai sinh mệnh biệt lập nhưng quan hệ vô cùng mật thiết. Hình hài con đích thị là sự tổng hợp và nối tiếp sinh mệnh của Cha và Mẹ. Phật giáo gọi mối quan hệ hữu cơ đó là “phi nhất, phi di” không phải là một, không phải là khác”. Bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc cũng viết rất sinh động về tình mẫu tử:“Những lúc bú mớm, con đã từng cắn vào mẹ đau điếng. Những lúc bệnh nạn con làm mẹ thức thâu đêm. Con ho mà mẹ nóng ran lồng ngực; con ỉa chảy mà mẹ đau thắt ruột gan. Mẹ không ngần ngại hôi hám, vấy bẩn để chăm sóc con. Có lúc ngửi mùi phân, nước tiểu con để dõi theo bệnh trọng mà báo cho bác sĩ… Sữa mẹ là những tế bào thân xác mẹ vỡ ra từng mảnh mà thành. Mẹ xanh xao đi để cho con được hồng hào. Mẹ lùn thấp xuống để con cao lớn lên. Mẹ loãng xương để con được cứng cáp. Mẹ nhăn nheo để con được đầy đặn. Mẹ xấu xí đi từng ngày để con được rạng rỡ xinh tươi… Mẹ hãnh diện nhìn con như dòng sông hãnh diện nhìn dòng nước chảy”;… “Tuổi thơ cần sự che chở của mẹ nhưng khi khôn lớn sự che chở là những giọt nước mắt lăn dài trên má khi tiễn con đi, theo con nhưng để bảo vệ che chở, dõi theo những bước chân trên đường đời nhiều chông gai và là điểm tựa bình yên cho con khi vấp ngã”.

Về tình cha con, Đức Phật từng nói: “Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”;… “Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”;… “Mang tấm thân gầy cha che chở đời con”. Tục ngữ nước ta cũng có câu: “Con có cha như nhà có nóc/ Con không cha như nòng nọc đứt đuôi ”. Người cha thường chơi đùa với con khi con còn nhỏ, kiên nhẫn trả lời những câu hỏi tò mò khám phá thế giới xung quanh của con trẻ; nghiêm nghị chín chắn khi dạy bảo con lúc con lớn lên, định hướng cho con những vấn đề trong cuộc sống; đứng ra giải quyết những vấn đề liên quan trong cuộc sống, tương lai sự nghiệp của con;

60

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 61: Van hien so6 14

đem đến cho con cảm giác của sự khuôn phép, an toàn; vắt kiệt sức lực để lo miếng cơm manh áo; chạy ngược chạy xuôi lo lắng trăm bề chữa chạy khi con yếu đau mà không than thân trách phận, không tính toán thiệt hơn. Trong bộ phim của nhà văn Đức - Fatk Akin (gốc Thổ Nhĩ kì) - có một nhân vật chính là Nejat (là một giáo sư văn học), do ngộ nhận mà giận cha mình không muốn nhìn mặt. Cho đến ngày lễ Eid Aladha của người dân Thổ (Lễ tưởng nhớ sự tích Ibrahim tuân theo lệnh của Thượng đế đã hiến tế con trai mình là Ishmael cho Ngài), Nejat bỗng nhớ lại thuở ấu thơ, khi nghe xong câu chuyện đó, anh đã hỏi cha sẽ làm gì khi Thượng đế bắt ông phải làm như vậy, thì cha anh trả lời không do dự “Cha thà làm kẻ thù của Thượng đế chứ không bao giờ làm tổn thương đến con của cha!”. Câu trả lời ấy đã nói lên tấm lòng cao cả, tình yêu thương con vô hạn của mọi người cha trên khắp thế giới!.

Đạo làm conDường như khó có thể đưa ra một câu tổng quát

để nói như thế nào là người có Hiếu. Các thánh nhân và các nhà nghiên cứu đương đại đề cập đến vấn đề này dưới những góc độ khác nhau nhưng khá giống nhau, đó là nuôi dưỡng cha mẹ với lòng yêu thương kính trọng; làm cha mẹ vui, khuyên cha mẹ theo chánh pháp… Cả Phật giáo và Nho giáo đều cho rằng báo hiếu cha mẹ là bài học vỡ lòng cho mọi tri ân, rằng người con không chỉ thấu hiểu được công ơn trời biển của cha mẹ mà phải có trách nhiệm báo đáp thâm ân đó, hơn thế, cần phải trợ duyên cho cha mẹ trong việc tu tập.

Khi Phật còn tại thế đã có Tôn giả Mục Kiền Liên, sau khi chứng quả A-la-hán, có lục thông và là người ưu việt hơn cả trong những vị chứng A-la-hán như Ngài, được Phật gọi là người “thần thông đệ nhất” trong hàng đệ tử lớn của Phật, có thể dùng thần thông đi từ thế giới này đến thế giới nọ trong chớp mắt hoặc hóa hiện tùy ý. Vì lòng hiếu thảo, Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn thông tìm lục đạo xem mẹ mình sinh ở đâu và thấy mẹ Ngài đang mang thân ngọa quỷ, khổ vô cùng. Thương xót mẹ, Ngài đi khất thực được một bát cơm liền vận thần thông đem đến dâng cho mẹ. Mẹ Ngài tay trái cầm bát cơm tay phải bốc cơm đưa vào miệng, cơm vừa tới miệng thì bốc thành lửa khiến Ngài rơi nước mắt (Thần thông không cứu được nghiệp ác). Ngài trở về thuật lại cảnh khổ của mẹ Ngài cho Phật nghe và nhờ Phật dùng phương tiện giải cứu. Phật dạy “Mẹ ngươi nghiệp ác

quá nặng, sức ngươi không thể cứu được, ngươi phải về làm Lễ Vu Lan thết đãi chư tăng: Sơn lâm thiền định, Thọ hạ kinh hành, Lục thông La hán, và nhờ oai lực của các vị này cầu nguyện thì mẹ ngươi mới thoát được kiếp ngọa quỷ”.Tôn giả vâng lời, sắm sửa trai viên, thỉnh chư tăng đang thiền định ở núi rừng, đang kinh hành dưới cội cây, là những bậc đã chứng thực thông A-la-hán, cùng trợ lực cầu nguyện thì mẹ Ngài thoát kiếp ngọa quỷ. Từ sự kiện này mà về sau hàng Phật tử noi theo gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên, mỗi năm sau mùa an cư tự tứ của chúng tăng, đều làm lễ Vu Lan thỉnh chư tăng cúng dường và cầu siêu cho cha mẹ.

Đức Phật, trong các bản kinh đã chỉ rõ bổn phận của người con có Hiếu như sau: “ Cung kính và vâng lời cha mẹ; hết lòng chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ già yếu; gìn giữ truyền thống gia đình; bảo quản tài sản do cha mẹ để lại; khuyên nhủ cha mẹ kính theo Tam bảo, sống đời hướng Thiện, bỏ ác làm lành” ;… “Khi cha mẹ qua đời tổ chức tang lễ cho cha mẹ mãn phần”; …“Nếu một bên vai cõng mẹ, này các tỳ kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi, nếu đấm bóp, thoa xức tắm rửa và dầu tại đấy, Cha Mẹ có vãi tiểu tiện, như vậy, này các tỳ kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ Cha Mẹ”;…“ Nếu có người, vai trái cõng Cha, vai phải cõng Mẹ, xuyên đến xương, xuyên xương đến tủy, đi vòng quanh núi Tu Di, trải qua trăm ngàn kiếp, máu chảy ngập mắt cá chân, vẫn không đền đáp hết công ơn của Cha Mẹ”.

Theo Nho giáo, đạo Hiếu trước hết là sự tri ân các đấng sinh thành đã tạo nên hình hài thân thể, bảo toàn tính mạng mình, nuôi dưỡng cha mẹ với lòng kính trọng thương yêu, sau là phát huy làm rạng rỡ tông môn. Khổng Tử nói: “Thân thể, tóc da là cái Cha Mẹ cho mình, không dám làm thương tổn, ấy là ban đầu của Hiếu. Cha Mẹ sinh ra mình toàn vẹn, nên mình lúc chết cũng toàn vẹn,có thể gọi là Hiếu vậy. Không làm hại đến thân mình, không làm nhục đến thân mình, có thể gọi là Hiếu vậy. Cho nên bậc quân tử nửa bước không dám quên đạo Hiếu, nhất cử cũng không dám quên Cha Mẹ, ấy là đi đường mà không đi đường tắt, đi thuyền mà không bơi, không dám lấy di thể ông bà, tổ tiên mà làm hại. Một lời nói ra mà không dám quên Cha Mẹ, cho nên lời nói ác hiểm không nói ra cửa miệng, lời giận dỗi không đụng đến mình. Không làm nhục thân mình, không làm Cha Mẹ xấu hổ, có thể gọi là Hiếu vậy”.

61

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 62: Van hien so6 14

Một trong những vấn đề quan trọng nhất mà con người khó xử là khi cha mẹ có những lỡ lầm thì con cái phải ứng xử như thế nào để tròn đạo Hiếu. Đức Phật dạy: “ Ai đối với Cha Mẹ không có lòng tin, khuyến khích, an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với Cha Mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn các vị ấy vào Thiện giới; đối với Cha Mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với Cha Mẹ ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các tỳ kheo, là đủ để trả ơn Cha Mẹ ”. Khổng Tử nói: “Thờ cha mẹ nếu cha mẹ có điều không đúng phải nhẹ nhàng khéo léo can gián. Nếu thấy cha mẹ không nghe theo, thì vẫn phải cung kính, không trái nghịch, vất vả không oán than”.

Về tình huống này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết rất chí lý trong tác phẩm “Bông hồng cài áo”: “Nếu bạn lỡ có những khó khăn với cha mẹ thì đừng nghĩ cạn là cha mẹ không thương. Có thể có những vụng về trong quá khứ về phía cha mẹ đã tạo ra những lớp khổ đau đè nặng và làm khuất lấp tình thương ấy. Mình biết nếu có điều gì xảy ra cho mình thì cha mẹ sẽ khóc hết nước mắt. Và nếu có gì xảy ra cho cha, cho mẹ thì mình cũng khóc hết nước mắt. Phải thấy rằng các vị đã có nhiều khổ đau và khó khăn mà chưa đủ khả năng chuyển hóa nên tự làm khổ mình và làm khổ lây đến các con. Mình cũng vậy. Mình đã khổ đau vì hiểu lầm, vì bực tức và do đó đã lỡ lời nói những lời không dễ thương, có những phản ứng không đẹp đẽ đối với cha mẹ. Thấy được cái khổ của cha mẹ, mình tìm cách giúp đỡ. Phải biết nói lời hối lỗi đã không biết giúp mà còn làm khổ cha mẹ”. Và, Thiền sư cho ta một giải pháp: “Ngày hôm nay bạn có thể nói, có thể làm được những gì làm cha mẹ vui thì hãy nói đi, làm đi, đừng để ngày mai, sợ rằng muộn quá. Hãy tôn vinh cha mẹ trong trái tim. Vào thời không có Bụt thì thờ Mẹ, thờ Cha là thờ Bụt”. Ông còn cho rằng không chỉ thực hiện tưởng nhớ cha mẹ trong ngày lễ Bông hồng cài áo mà còn “Phải biết thực tập nhìn sâu, tức là thực tập thiền quán trong ngày ấy. Phải thấy được những tài năng, đức hạnh và nét đẹp nào mà mình đã tiếp nhận từ Cha, từ Mẹ. Rồi thấy được Cha Mẹ không phải là những thực tại ở ngoài mình mà đang có ngay trong mình. Mình là sự tiếp nối của Cha của Mẹ và mình mang Mẹ mang Cha đi về tương lai. Phải biết mỉm cười cho Mẹ, thở cho Cha và bước đi cho cả hai. Sự tiếp nối đẹp đẽ của Cha Mẹ nơi mình là biểu hiện

cụ thể nhất của lòng Hiếu”. Và ngay cả khi đứng trước tuyệt vọng, con người

có Hiếu vẫn không được phép hủy hoại thân thể mình vì “Thân thể này không phải chỉ của riêng ta nên ta không có quyền coi thường và hủy hoại nó. Nó được tạo ra từ Cha Mẹ, anh chị em, bạn bè, những bậc ân nhân khác trong đời, cả Tổ Tiên giống nòi ta nữa. Họ đang cùng ta đi về tương lai. Nếu ta ngã xuống, họ sẽ ngã theo. Tương lai ta sẽ ra sao khi một phần họ cũng như thế ấy. Ta không có quyền làm cho những người thân yêu của ta cũng phải khổ”. ( Minh Niệm - Hiểu về trái tim)

Vĩ thanhTrong sách “Mạnh Tử” có câu chuyện rằng một

người tên là Đào Ứng đã giả định một vấn đề nan giải và đề nghị Mạnh Tử đưa ra giải pháp: ông Cổ Tẩu là cha vua Thuấn (Một ông vua tài đức toàn vẹn nhất của Trung Hoa cổ đại) là người ác, đã phạm tội giết người, phải tội chết. Cao Dao là người chấp pháp, có trách nhiệm xử lý ông Cổ Tẩu nhưng không biết phải xử lý như thế nào vì Vua Thuấn là con, về tình không thể xử lý cha, đó là đạo trời, nhưng Thuấn lại là vua, theo luật phải xử lý cha để duy trì kỷ cương phép nước. Mạnh Tử đã đề xuất một giải pháp hết sức sâu xa, đầy ý nghĩa nhân văn: Thuấn sẽ xem việc bỏ thiên hạ như một cái dép rách, lén đưa cha đi trốn đến những vùng xa lạ, vui mà quên đi thiên hạ”.

Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Chiến, sau khi kể lại câu chuyện trên đã bình luận rất sắc sảo và thú vị . Ông cho rằng trong mọi nền triết học, văn học của nhân loại sẽ khó có một giải pháp nào hay hơn nữa, bởi vì nếu Thuấn cứ theo luật pháp cho phép Cao Dao xử cha mình cho đúng với nghĩa “luật pháp bất vị thân” thì trước mắt có thể duy trì được giềng mối xã hội, nhưng chắc chắn sẽ để lại một vết thương trầm trọng không gì cứu vãn được trong nền đạo lý làm người cho muôn vàn thế hệ mai sau. Được mang hình hài của con người giữa nhân gian là một điều vô cùng may mắn, vì thân người khó có được giữa dòng trầm luân sinh tử luân hồi. Cho nên những ai cư xử vô đạo với cha mẹ là đánh mất điều may mắn đó và họ tự đưa mình xuống thấp hơn cõi người. Đạo lý Phương Đông không cho phép người con trực tiếp lên án bố mẹ chứ đừng nói chi đến sự đối xử vô đạo hay nhẫn tâm tàn hại, dẫu người đó mang trọng tội. Đạo lý nếu cần phải duy trì để giữ giềng mối cho sự vận động của guồng máy xã hội sẽ được thực hiện bởi Trời, bởi phép nước hoặc bởi một người khác. n

62

Page 63: Van hien so6 14

Dân ca Quan họ - kiệt tác sáng tạo truyền khẩu của nhân dân qua nhiều thế hệ, chứa đựng những giá trị đặc sắc ở nhiều mặt:

lịch sử, phong tục, dân tộc học, xã hội học, văn học, âm nhạc,…Dân ca Quan họ là sinh hoạt văn hóa đặc sắc của nhân dân vùng Kinh Bắc xưa, bao gồm địa phận hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Tiếng hát Quan họ là tiếng hát của tình, của nghĩa, của lòng yêu thương con người, gắn bó với con người, tình người trong sáng. Trải qua tiến trình lịch sử, Dân ca Quan họ luôn được bảo lưu, giữ gìn và phát triển.

Năm 2009, Dân ca Quan họ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trải qua thời gian, với lòng yêu mến và ý thức giữ gìn vốn cổ của cha ông, Dân ca Quan họ vẫn được các thế hệ người Kinh Bắc bảo tồn và phát huy, đặc biệt là trong không gian của những ngôi làng. Đến nay, riêng ở tỉnh Bắc Giang - vùng Bắc sông Cầu, vẫn tồn tại 18 làng Quan họ cổ, trong đó có 5 làng được ghi danh từ năm 1971

và 13 làng được các nhà nghiên cứu ghi nhận vào năm 2006 (Danh sách 18 làng Quan họ này đã lưu trong Hồ sơ của UNESCO).

Đối với việc bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ, là đồng chủ sở hữu di sản văn hóa thế giới Dân ca Quan họ vô cùng quí giá này, trước, trong và sau khi được UNESCO công nhận, tỉnh Bắc Giang đã xây dựng Chương trình hành động để bảo tồn Dân ca Quan họ, xây dựng Đề án bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011-2020, trong đó có Dân ca Quan họ. Trên cơ sở những cam kết với UNESCO, tỉnh Bắc Giang đã triển khai nhiều hoạt động, trong đó đã tiến hành đồng thời nhiều hoạt động tiêu biểu, như: Triển khai việc tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu quảng bá những cái hay, cái đẹp của Dân ca Quan họ Bắc sông Cầu; tổ chức các cuộc hội thảo về bảo tồn và phát huy di sản Dân ca Quan họ tỉnh Bắc Giang; xuất bản các ấn phẩm, như: Các bài Hát đối Quan họ, 120 bài Hát đối Quan họ; Làng Quan họ Bắc sông Cầu (giới thiệu 18 làng quan họ Bắc sông

l NGUYỄN THÙY LINH(Bài và ảnh)

BẮC GIANG VỚI VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

DÂN CA QUAN HỌDI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI

63

Page 64: Van hien so6 14

Cầu trên quê hương Việt Yên); Các bài hát Quan họ phổ biến ở Bắc Giang (giới thiệu trên 100 bài hát Quan họ phục vụ các câu lạc bộ, đoàn nghệ thuật trong tỉnh). Đặc biệt, Bắc Giang còn chú trọng tập trung cho việc truyền dạy Dân ca Quan họ tại các làng xã. Thường xuyên tổ chức liên hoan tiếng hát Quan họ. Từ năm 2010 đến nay, cùng với các địa phương, các cơ sở thường xuyên tổ chức các hoạt động văn nghệ quần chúng, trong đó thi hát dân ca quan họ là một nội dung chủ yếu. Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Giang - đơn vị sự nghiệp của ngành VH-TT&DL tỉnh, đã tổ chức hơn 40 lớp truyền dạy Dân ca Quan họ cho hơn 3.000 học viên là các hạt nhân văn nghệ tiêu biểu ở các huyện Việt Yên, Lục Ngạn, TP Bắc Giang, Lục Nam, Lục Bắc,…Để động viên cổ vũ phong trào giữ gìn và phát huy di sản văn hóa Quan họ, phát hiện những liền anh, liền chị tài năng, các huyện đã thường xuyên tổ chức các cuộc liên hoan hát Quan họ. Tiêu biểu là huyện Việt Yên, đến nay, huyện đã tổ chức 14 cuộc Liên hoan tiếng hát Quan họ. Trên cơ sở các cuộc thi đó, năm 2010, tỉnh Bắc Giang đã tổ chức Liên hoan tiếng hát Quan họ toàn tỉnh, lần thứ nhất. Liên hoan thực sự là ngày hội thu hút hầu hết những liền anh, liền chị mê say loại hình nghệ thuật này tham dự. Đến nay, tỉnh đã tổ chức Liên hoan lần thứ III, thành công tốt đẹp.

Bên cạnh sự quan tâm tổ chức hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản Dân ca Quan họ của các cấp bộ Đảng, chính quyền và ngành văn hóa tỉnh, các liền anh, liền chị ở các

thôn làng đã tự nguyện tụ họp thành các đội, câu lạc bộ Dân ca Quan họ. Đến nay, toàn tỉnh đã có hàng trăm đội, CLB Quan họ. Tiêu biểu như Đội văn nghệ thôn Nam Ngạn, thành lập năm 2005. Hàng tháng, Đội đưa các hội viên về Bắc Ninh giao lưu học hỏi về lối chơi thanh lịch, nhã nhặn của người quan họ. Năm 2006, dưới sự chỉ đạo của Sở VH-TT&DL tỉnh Bắc Giang và Phòng Văn hóa huyện Việt Yên, Ban Văn hóa xã Quang Châu, Câu lạc bộ Quan họ xã Quang Châu đã thành lập, với

64

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 65: Van hien so6 14

60 hội viên ban đầu. Câu lạc bộ đã thường xuyên tổ chức giao lưu hát quan họ trong những ngày lễ lớn, như: ngày thánh lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam 30/4, Quốc khánh 2/9, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12,…. Với các trang phục truyền thống áo the, khăn xếp (với liền anh), nón quai thao, chít khăn mỏ quạ, yếm thắm, quần áo mớ ba mớ bảy (với liền chị), cùng những làn điệu quan họ cổ mượt mà đằm thắm của các liền anh, liền chị đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo quần chúng nhân dân , tô thêm vẻ đẹp của nền văn hóa vùng Kinh Bắc nói chung, vùng Bắc sông Cầu nói riêng. Năm 2007, cùng với nỗ lực của Đội, phong trào văn hóa, văn nghệ ngày càng phổ biến sâu rộng đến quần chúng nhân dân lao động. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, phong trào hát quan họ phát triển không ngừng, lan rộng đến từng thôn xóm, từng gia đình và ở mỗi con người. Trên cơ sở đó, tháng 7/2007, Câu lạc bộ Quan họ liên xã đã ra đời, gồm hơn 200 hội viên. Hàng năm, CLB tổ chức dựng trại giao lưu đón khách tại lễ hội chùa Bổ Đà, huyện Việt Yên. Với hình thức thi đối đáp và thi giọng hát hay dân ca quan họ, thi duyên dáng quan họ, mỗi năm CLB tổ chức các lớp học quan họ cổ cho lứa tuổi 60 trở lên. Ngoài ra còn tổ chức dạy hát cho các cháu thanh thiếu niên do Công ty CP Barico tài chợ và có khen thưởng. Đã có rất nhiều liền anh, liền chị trưởng thành từ phong trào này, đi thi giọng hát hay tại sân chơi truyền hình tỉnh Bắc Ninh và đã đạt giải thưởng cao nhất, nhì. Nhiều cháu thiếu nhi đã đi thi Dân ca Quan họ

toàn tỉnh và đã đạt giải cao. Đến cuối năm 2013, tỉnh Bắc Giang đã có 15 câu lạc bộ quan họ, trong đó có 5 câu lạc bộ cấp huyện (các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế, Lạng Giang, Tân Yên), với hơn 400 hội viên, hoạt động theo điều lệ và qui định của Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam.

Nhằm phát huy di sản văn hóa Quan họ vùng Bắc sông Cầu (tỉnh Bắc Giang), cũng là thể theo nguyện vọng của hơn 400 hội viên dân ca quan họ trong các câu lạc bộ trên, ngày 17/3/2014, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam đã ra quyết định thành lập Trung tâm Văn hóa Quan họ truyền thống khu vực Bắc Giang. Trung tâm là đơn vị trực thuộc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn avf phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam; là đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng và Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Trung tâm có các nhiệm vụ sau:

- Tập hợp lực lượng quần chúng nhằm phát huy tài năng và trí tuệ của nhân dân trong việc phục hồi nếp sinh hoạt văn hóa quan họ để đóng góp vào sự nghiệp xã hội hóa các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển cộng đồng, góp phần xây dựng và phát triển đất nước;

- Góp phần thực hiện vai trò nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào quần chúng hướng về cơ sở nhằm phát triển mạnh mẽ vào khao học kỹ thuật;

- Nghiên cứu, sưu tầm và thể hiện nghệ thuật quan họ truyền thống theo các phương pháp mới và biện pháp tổ chức mới trong lĩnh vực bảo tồn và

65

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 66: Van hien so6 14

phát triển văn hóa quan họ truyền thống;- Tổ chức thực hiện các dự án bảo tồn và phát

triển văn hóa quan họ truyền thống;- Thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng và nâng

cao nghiệp vụ về văn hóa quan trọi truyền thống;- Liên kết với các tổ chức trong lĩnh vực nghiên

cứu, sáng tác, biểu diễn, giáo dục đào tạo và phổ cập thông tin về nghệ thuật quan họ truyền thống.

Bà Nguyễn Thị Bích Độ được bổ nhiệm làm Giám đốc Trung tâm Văn hóa Quan họ truyền thống khu vực Bắc Giang.

Ngày…., tại Nhà văn hóa tỉnh Bắc Giang, Trung tâm Văn hóa quan họ truyền thống khu vực Bắc Giang đã làm lễ ra mắt và chính thức đi vào hoạt động.

Như vậy, đến nay, đã có hai đơn vị trực thuộc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam là: Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy dân ca Quan họ (hoạt động

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh - Nam sông Cầu) và Trung tâm Văn hóa quan họ truyền thống (hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Giang - Bắc sông Cầu) hoạt động theo phương thức xã hội hóa để giữ gìn, bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ - Di sản văn hóa Thế giới. Với hai tổ chức này, cùng với các đơn vị chức năng của ngành văn hóa hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, chắc chắn Di sản văn hóa thế giới Dân ca Quan họ sẽ được bảo tồn và phát huy giá trị trong đời sống người dân hai địa phương trên và người dân cả nước trong thời gian tới./.n

66

Page 67: Van hien so6 14

MỘT SỐ HÌNH ẢNH LỄ RA MẮT

TRUNG TÂM VĂN HOÁ QUAN HỌ TRUYỀN THỐNG TỈNH BẮC GIANG

GS. Hoàng Chương tặng hoa cho bà Nguyễn Thị Bích Độ - GĐ Trung tâm Văn hoá Quan họ Truyền thống khu vực Bắc Giang

GS. Hoàng Chương trao Quyết định bổ nhiệm cho Ban lãnh đạo Trung tâm VH Quan họ Truyền thống khu vực Bắc Giang

Đại biểu tham dự Lễ ra mắt Trung tâm VH Quan họ Truyền thống khu vực Bắc Giang

Các liền chị của Trung tâm VH Quan họ Truyền thống khu vực Bắc Giang biểu diễn trong lễ ra mắt TT

Một số liền anh của Trung tâm VH Quan họ Truyền thống khu vực Bắc Giang

Hai liền chị của Trung tâm VH Quan họ Truyền thống khu vực Bắc Giang

67

Page 68: Van hien so6 14

Theo các tài liệu lịch sử, miếu Bà Chúa Xứ có từ đầu thế kỷ XIX, khi những lưu dân người Việt đến khai phá vùng đất này. Nhưng lúc đó, miếu

còn khá đơn sơ, chỉ bằng tranh tre nứa lá. Miếu Bà có diện mạo khang trang như hiện nay được xây cất từ năm 1972, đến năm 1976 mới xong.

Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc - An Giang và các tỉnh Nam Bộ có nguồn gốc sâu xa từ tín ngưỡng thờ Mẹ (Mẫu) của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Tín ngưỡng ấy chính là hành trang tinh thần của lớp cư dân Việt mang theo vào đây từ cái thuở ban đầu “đi mở nước”. Nó còn giữ được nhiều nét uyên nguyên của nơi mà từ đó các tín đồ của nó đã ra đi. Nhưng do đứng chân và sinh sống trên một vùng đất mới có một trầm tích văn hoá khá phong phú, có những nét tương đồng về tâm linh, nên trong tín ngưỡng mang theo của lớp cư dân Việt Này đã xuất hiện nhiều yếu tố mang tính thích ứng mới, thể hiện sự sáng tạo. Đương nhiên, những sáng tạo này đã làm cho bản chất của tín ngưỡng gốc phần nào thay đổi, được bồi đắp thêm

l NGUYỄN MINH HOÀNG

ĐIỂM DU LỊCH TÂM LINHHẤP DẪN NHẤT Ở NAM BỘ

MIẾU BÀ CHÚA XỨ

Cách thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang khoảng 14 cây số, Miếu Bà Chúa Xứ nằm ngay cạnh đường

cái quan chạy từ thị xã Châu Đốc lên biên giới Căm-pu-chia, phía trước là cánh đồng bao la bát ngát, xa xa có dòng kênh Vĩnh Tế uốn lượn chứa

chất trong dòng chảy biết bao gian nan khó nhọc của dân phu Việt Nam, Khmer. Phía sau, sát

ngôi miếu là núi Sam, như một điểm tựa vững chắc, nơi tích tụ khí thiêng giữa mênh mông

đồng ruộng. Từ hơn thế kỷ nay, một ngôi miếu mang tên chính nhân vật được thờ làm thần chủ

- Bà Chúa Xứ đã in dấu trên sử sách, người người không hẹn mà nên, nối tiếp nhau hành hương

về nơi này, nhất là trong những ngày lễ vía Bà. Điều đó khiến cho miếu Bà và ngày hội miếu Bà không còn thu hẹp trong phạm vi địa phương với những buổi tế lễ đơn thuần mà trở thành những sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú, hấp dẫn không thể thiếu của nhân dân các tỉnh Nam Bộ,

đặc biệt là người dân TP Hồ Chí Minh.

68

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 69: Van hien so6 14

những công năng và ý nghĩa mới. Bà Chúa Xứ được thờ trong miếu Bà Chúa Xứ

là một pho tượng mà cốt tượng là một pho tượng đá người đàn ông dáng lùn, to phệ, được tạc ở tư thế ngồi chống nẹ, ngực nở to bè, bụng phệ, cổ to, tai to như tai Phật. Tượng cao 1,25m được đúc liền với một thớt đá cùng loại, hình tương đối tròn, có vành rộng hơn điểm tiếp giáp các phần của tượng với thớt này chừng 10cm. Tác giả bức tượng đã dùng thớt đá này làm bệ tượng, vì vậy, nếu đặt tượng riêng, không cần xây thêm bệ đỡ, tượng vẫn ngồi vững chãi. Chân

trái của tượng xếp bằng tròn, bàn chân trái để giáp bàn chân phải. Chân phải ở tư thế co, chống thẳng. Tay trái để ở tư thế chống nẹ (kiểu chống của người khi ăn quá no hoặc bụng phệ mà phải ngồi), bàn tay soãi chống xuống bệ đá, phía sau đùi trái. Bàn tay phải xoè, để vắt trên đầu gối phải. Tóc quấn thành những búp xoăn kiểu sumi hoặc rastar của thổ dân Jamaica xoã xuống chùm gáy, có những búp đến ngang bả vai. Có một vành như vành đai vương miện đội trên đầu, phía trên vành tai. Vành này có hoa văn hình móc câu, trên vành đó, phía trước trán, nổi lên hoa văn hình ngọn lửa toả xung quanh một hình tròn ở giữa (có lẽ là biểu tượng mặt trời). Cốt tượng đàn ông trên được tạc ở trạng thái ở trần, chỉ đóng khố. ở bắp cánh tay gần bả vai, sát nách có nổi cộm một hình vòng đai hình lá bồ đề. Hai cổ tay có nổi cộm một vành đai có lẽ là vòng đeo tay. Ở cổ nổi cộm một vành đai hình vòng kiềng, chỗ ngang ngực khá to bản, hình lưỡi liềm, có lẽ là một thứ vòng đeo cổ. Qua mô tả trên có thể thấy, phong cách, kiểu dáng tượng này

hoàn toàn không giống với phong cách, kiểu dáng tượng thờ truyền thống của người Việt. Cũng thuộc kiểu dáng tượng ngồi, na ná như cốt tượng Bà, trong tượng thờ Việt Nam, ta thấy có tượng ông Phỗng, ông Địa và tượng Di Lặc ở chùa Tây Phương. Nhưng tư thế ngồi, cách để tay, xếp chân, trang phục, ánh mắt, miệng... của các tượng này hoàn toàn khác với cốt tượng Bà Chúa Xứ, nó toát lên sự thoải mái, hả hê, thoát lãng. Trái với tính nghệ thuật cao của các bức tượng của người Việt vừa kể trên, cốt tượng Bà còn lộ rõ sự thô kệch, nguyên sơ của nền điêu khắc

cổ mà theo các nhà nghiên cứu tượng có lẽ được tạc vào thời tiền Ăngco, thường thấy ở các nước thuộc khu vực châu Á như Ấn Độ, Mã Lai, Miến Điện, Lào, Campuchia... Cốt tượng trên được lớp cư dân Việt đầu tiên đưa lên ngự nơi chính điện, sau khi được “Việt hóa” biến “ông” thành “bà” theo phong cách tượng Mẫu ở quê nhà. Những thao tác để “Việt hóa” ấy là cố gắng xoá đi trên gương mặt pho tượng người đàn ông kia những nét đàn ông cơ bắp bằng cách phủ lên một lớp sơn, kẻ mắt, kẻ lông mày cho giống “bà”, đội mũ, choàng những chiếc áo bào đỏ thêu rồng phượng sặc sỡ. Mặc dầu vậy, ngày nay khi nhìn vào pho tượng, qua nét mặt, ánh mắt và những nhung y khoác lên ấy, pho tượng Chúa Xứ Thánh Mẫu vẫn toát lên vẻ quyền uy sắc lạnh để dân chúng kính sợ chứ không như

các tượng nữ thần, các tượng Thánh Mẫu khác ở các tỉnh phía Bắc, mặc dù quyền năng vô biên nhưng vẫn toát lên vẻ thánh thiện, dễ gần.

Pho tượng vô chủ hương tàn khói lạnh kia được sống lại trong bản tính nhân hậu “thương người như thể thương thân” của người Việt, nên pho tượng đã được hương khói, để ấm lại trong tình cảm mới, niềm tin mới, ước nguyện mới: người an vật thịnh.

Về bài trí điện thờ ở Miếu Bà, nhìn theo một trục thẳng hướng chính điện, phía trong cùng, nơi đặt trọng tâm của điện thờ là tượng Bà Chúa Xứ uy nghi ngự trên bệ cao nhất của điện với những nhung y rồng phượng đỏ chói, với ánh mắt như xuyên thấu tâm can người hành hương. Hai bên, ở cạnh Bà, là tượng hai con hạc trắng lớn đứng chầu trên lưng con rùa. Hạc là hiện thân của tính Dương, rùa là hiện thân của tính Âm. Hạc đứng trên rùa là biểu hiện của Âm - Dương giao hoà, sinh lực vũ trụ luân chuyển với sinh lực mặt đất để sinh sôi nảy nở.

Ngang với bệ đặt tượng Bà, thấp hơn, về bên phải

Tượng bà Chúa Xứ núi Sam nơi chánh điện. Ảnh: Internet

69

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 70: Van hien so6 14

là bệ thờ trên đặt một chiếc Linga (dương vật) bằng đá xám cao trên 70cm, đường kính trên 40cm, phần thân Linga có 8 cạnh, đầu tròn, nhẵn. Chiếc Linga được chùm kín bởi một vuông vải đỏ. Bàn thờ Linga này được gọi là bàn thờ Cậu. Bên trái là bệ thờ trên đặt một tượng nữ nhỏ, cao chừng 40cm, được gọi là bàn thờ Cô. Phía ngoài, ngay trước tượng Bà là ban thờ Hội đồng, không có tượng, chỉ có một bát nhang to, hai bên có hai con chim phượng hoàng đứng chầu. Đây là nơi ngự của hàng thần thánh, các cấp binh gia của Bà. Ngang hàng với bàn thờ này, phía tường bên trái là ban thờ Tiền hiền, không có tượng, chỉ có bát nhang. Phía tường bên phải đối diện đặt ban thờ Hậu hiền cũng không có tượng, chỉ có bát nhang. Cả hai bàn thờ này đều quay về hướng ban thờ Hội đồng. Hai bàn thờ Hậu hiền và Tiền hiền cho thấy ý tưởng thần linh hoá các nhân vật lịch sử, hay nói cách khác, đã anh hùng văn hoá hoá các nhân vật lịch sử. Đây là một quy luật của văn hoá Việt Nam.

Nhìn vào điện thờ miếu Bà, điều ta dễ cảm nhận được là điện thờ này được tạo nên bởi sự hội nhập của nhiều loại tín ngưỡng. Sự hiện diện của pho tượng Bà Chúa Xứ là của tín ngưỡng thờ Mẹ (Mẫu). Sự hiện diện của chiếc Linga là dấu vết của tục thờ sinh thực khí của tín ngưỡng phồn thực cầu sinh sôi nảy nở xa xưa (nhiều khả năng là di vật của văn hóa óc Eo). Còn các ban thờ Tiền hiền, Hậu hiền, Hội đồng cho ta hình ảnh về tín ngưỡng thờ thần và có bóng dáng của tín ngưỡng thờ Thành hoàng, thờ Tổ nghề, thờ anh hùng văn hoá.

Qua sự bài trí điện thờ trên, cho thấy, Bà Chúa Xứ / Chúa Xứ Thánh Mẫu quyền uy quản lý, chi phối tất cả. Chiếc Linga mang tư cách là Cậu, là quân gia thị thần của Bà. Nếu ta biết được rằng với người Chăm hoặc người Campuchia, Vua chính là thần linh với yếu tính nhập vào cây trụ đá Linga, biểu tượng

của Thiên vương mà vị trí của Linga - Vua này cũng chịu sự quản lý, điều hành của Bà - Mẹ như sự sắp xếp trên, thì việc làm này càng chứa nhiều thâm ý. Mặt khác, cây Linga mang tư cách Cậu là Dương tính sánh cùng với Cô mang Âm tính đứng hai bên Bà làm nên thế Âm - Dương đối đãi, cân bằng, ngọn nguồn của sự sinh sôi nảy nở của tạo hoá. Có gì khác hơn nếu đó không phải là một quan niệm, một ước vọng cầu phồn thực của người dân Việt xưa?! Lại nữa, về pho tượng Bà với cốt tượng là người đàn ông hiện thân của tính Dương, được khoác y phục nữ hiện thân của tính Âm để thành Mẹ, phải chăng đây là một chủ ý của những người sáng tạo nhằm gửi gắm quan niệm lưỡng nguyên đối đãi, dấu vết của tư duy cổ xưa. Mẫu (Mẹ) là Một, nhưng lại là Hai. Là Âm nhưng trong Âm có Dương, vừa Nữ vừa Nam. Là Mẹ khởi nguyên sinh ra tất cả, bởi trong Mẹ, Âm - Dương dung hội vào nhau để chuyển hoá mà phát triển. Và như thế thì, trọng tâm của điện thờ miếu Bà chính là một điện thờ cầu phồn thực, cầu sinh sôi nảy nở mà thôi.

Thông lệ hàng năm, ngày hội vía Bà Chúa Xứ được tổ chức vào các ngày 23, 24, 25, 26 và 27 tháng Tư (âm lịch). Lễ vía chính là ngày 25. Đây là thời điểm mà người nông dân đã xạ lúa xong. Lúa này sẽ thu hoạch vào tháng 6, 7 trong năm. Thời gian này khí hậu trong vùng đang là mùa khô, cây lúa đang chờ nước, chờ mưa. Vì vậy xưa, lễ hội vía Bà là lễ cầu mưa của những cư dân nông nghiệp trong vùng. Nhưng cũng có thuyết cho rằng, sau khi xạ lúa thắng lợi, lễ này là hội hè ăn mừng và cúng tạ ơn thần thánh.

Trình tự và nghi thức tiến hành lễ vía Bà được tiến hành như sau:

- Lễ tắm Bà: được tổ chức vào lúc 24 giờ đêm 23 rạng ngày 24. Nói là tắm Bà, nhưng thực tế là lau sạch bụi bặm trên tượng thờ và thay áo mão mới cho

Cảnh đẹp Châu Đốc. Ảnh: Nguyễn Hồng Anh

70

Page 71: Van hien so6 14

Bà. Vào giờ đó, trong khuôn viên miếu, hàng ngàn người chen chúc nhau trên sân, mọi di chuyển tới lui chỉ có thể nhích từng bước một. Các du khách dâng cúng áo mão cho tượng Bà có vinh dự được đứng trong khu vực Chánh điện để chứng kiến hai vị bô lão niệm hương, dâng rượu, trà, kế đến là bức màn vải có viền ren thêu chữ, hoa nhiều màu sặc sỡ được kéo ngang bệ thờ, che khuất khu vực đặt tượng. Một nhóm 4-5 phụ nữ được chọn lựa, phân công từ trước vén màn bước vào trong chuẩn bị tắm Bà. Đầu tiên là cởi mão, khăn đội trên tượng, rồi lần lượt đến đai áo, áo ngoài, áo trong, để lộ toàn thân pho tượng bằng đá sa thạch ở tư thế ngồi. Dưới chân tượng Bà đặt một chậu nước nhỏ đựng nước hoa xông lên thơm ngát, hàng chục chiếc khăn được nhúng vào chậu, vắt khô rồi lau lên cốt tượng. Số lượng khăn bông du khách đem đến có hàng trăm, nên để làm vừa lòng mọi người, tổ phục vụ cứ chốc lát lại thay khăn mới, cố sử dụng lọ nước hoa loại đắt tiền được dâng lên, mỗi lọ đều được xịt một ít vào tượng cốt, xong trả lại cho chủ. Người dâng cũng kính cẩn mang về nhà xem như một vật gia bảo. Kế đến, một bộ áo đẹp nhất dâng cúng trong kỳ lễ hội được khoác lên tượng, thắt dây đai áo rộng và các bộ phận khác, cuối cùng đội mão lên tượng.

Lễ tắm Bà xong, bức màn được kéo qua một bên, mọi người chen nhau đến gần để chiêm ngưỡng, khấn vái, ai cũng cố đến sát bên bệ thờ để xin lộc Bà. Lộc Bà bây giờ chỉ là một vài cành hoa, một vài trái cây để trên bàn, chứ không như trước đây có người sử dụng nước tắm Bà xem như nước thánh, để chữa bệnh, hay uống vào để được mạnh giỏi, không bị tà ma quấy nhiễu. Hủ tục này ngày nay không còn nữa. Lễ tắm Bà thường kéo dài khoảng một giờ, sau đó mọi người được tự do lễ bái.

- Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà Chúa Xứ

Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 24. Tại miếu Bà, các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu mặc lễ phục chỉnh tề sang lăng Thoại Ngọc Hầu nằm đối diện với miếu Bà, qua một con đường để làm lễ thỉnh sắc. Đoàn thỉnh sắc có đội múa lân của Miếu Bà đi trước, kế đến là ông chánh bái, hai vị bô lão và những vị chức sắc khác. Theo sau là các học trò lễ xếp thành hai hàng dọc, tay cầm cờ phướn đi hầu trước và sau long đình do bốn người khiêng.

Đến trước điện thờ Thoại Ngọc Hầu, mọi người dâng hoa, niệm hương tế lễ. Sau phần nghi thức,

đoàn thỉnh bốn sắc (bài vị) lên long đình rước về miếu. Bốn bài vị đó là: Bài vị của Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, bên trái là bài vị bà chánh phẩm Châu Thị Tế, bên phải là bài vị bà nhị phẩm Trương Thị Miệt, cuối cùng là bài vị Hội đồng. Khi về đến miếu Bà, các bài vị trên được an vị ngôi chính điện. Ban quản trị dâng hương thỉnh an, lễ thỉnh sắc được kết thúc.

Tục lệ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu đã có từ lâu, để tỏ lòng biết ơn ông là người có công tổ chức lưu dân Việt khai phá vùng đất hoang vu này.

- Lễ Túc yết: Lễ được tổ chức vào 0 giờ ngày 25, rạng ngày 26. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên trước tượng Bà. Phía sau các vị là bốn học trò lễ và bốn đào thầy. Đứng chính điện trước tượng Bà là ông chánh bái. Vật cúng gồm có: một con heo trắng (đã được cạo lông mổ bụng sạch sẽ, chưa nấu chín) một đĩa đựng huyết có ít lông heo gọi chung là “mao huyết”, một mâm xôi, một mâm trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa gạo muối. Các lễ vật được bày trên bàn trước tượng Bà. Vào lễ cúng, ông chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ. Kế đến là phần “Khởi cổ”, với việc đánh ba hồi trống gỗ và ba hồi chiêng trống. Tiếp theo, nhạc lễ bắt đầu trỗi lên và lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà. Từng diễn biến của buổi lễ được hai người xướng lễ, một xướng nội, một xướng ngoại, xướng to lên. Ông chánh bái đi trước, bốn học trò lễ và bốn đào thầy đi theo, hướng về phía bàn thờ tổ. Tại đây, ông chánh bái tự rót rượu để học trò lễ đem lên dâng cúng. Sau khi dâng cúng hoa là dâng ba lần rượu gọi là chúc tửu, ba lần dâng trà gọi là hiến trà, theo lệnh của người xướng lễ, bản văn tế được mang đến trước bàn thờ. Ông chánh tế đọc bài văn tế. Sau khi đọc hết, ông chánh bái đốt văn bản này và một ít giấy vàng bạc, heo cúng trên bàn được lật ngửa ra trước khi khiêng đi, phần cúng túc yết đã xong.

Lễ xây chầu:Để chuẩn bị cho lễ này, người ta khiêng bàn thờ

ra ngoài và thay vào đó là một cái trống chầu. Vào lễ, người xướng nội hô to “ca công tựu vị”, ông chánh bái ca công liền bước tới bàn thờ đặt giữa võ ca, hai tay cầm dùi trống nâng ngang trán khấn vái. Phía bên trái bàn thờ có một tô nước và một nhành liễu. Sau khi khấn vái, tô nước - nơi tụ thuỷ đã được tích năng lượng thiêng của Chúa Xứ Thánh Mẫu và các vị thần thánh. Động tác của ông chánh bái ca công

71

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 72: Van hien so6 14

cầm cành dương nhúng vào tô nước rồi vảy ra xung quanh vừa tượng trưng cho mưa rơi, vừa là động tác có tính ma thuật, ban phát năng lượng thiêng xuống cõi trần cho cây cối tốt tươi đâm chồi nẩy lộc. Những lời cầu nguyện càng biểu hiện rõ nguyện ước ấy:

“Nhất sái thiên thanh” - một rảy cho trời trong xanh.“Nhị sái địa linh” - Hai rảy cho đất tốt lành.“Tam sái nhân trường” - Ba rảy cho người người

trường thọ.“Tứ sái quỉ diệt hình” - Bốn rảy cho ma quỉ tiêu tan.Đọc xong, ông chánh bái ca công đặt tô nước,

nhánh dương trở lại bàn thờ, và đánh ba hồi trống và xướng to “ca công tiếp giá”. Lập tức đoàn hát bội nổi chiêng trống rộ lên và chương trình hát bội bắt đầu. Các tuồng hát bội sau đây thường được diễn tại miếu Bà: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Lưu Kim Đính, Trưng Nữ Vương, v.v...

- Lễ Chánh tếĐến 4 giờ sáng ngày 26 cúng chánh tế (nghi thức

giống như cúng “túc yết”). Chiều ngày 27 đưa sắc Thoại Ngọc Hầu về Sơn Lăng. Chương trình hát bội chấm dứt. Kết thúc lễ cúng vía Bà. Song song với cuộc lễ chính ở Miếu Bà Chúa Xứ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật dân gian được biểu diễn như múa lân, múa mâm thao, mâm đĩa chén... thu hút nhiều du khách.

Xưa, bên cạnh các hoạt động chính, xung quanh Miếu Bà có biết bao tập tục như: xin xăm, bói toán, đồng bóng... được diễn ra rất nhiều, liên tục trong những ngày này. Sau ngày miền Nam giải phóng, được sự chỉ đạo của ngành văn hoá và Ban quản trị, nhân dân xã Vĩnh Tế đã biến ngày vía Bà thành ngày hội truyền thống. Nhiều tập tục xấu được ngăn chặn. Thay vào đó là các hoạt động văn hoá lành mạnh, truyền thống và sôi nổi hơn.

Vào thời điểm mà triều đại nhà Nguyễn mở rộng lãnh thổ lớn nhất, tập trung quyền lực nhất, trong tình hình quân Xiêm luôn luôn nhòm ngó, xâm phạm đất đai Tổ quốc, để khẳng định lãnh thổ, biên cương của mình, việc dựng lên một vị thần nữ, một bà Chúa của một vùng lãnh thổ Việt - Bà Chúa Xứ để tạo nên một Điện Ngọc sánh ngang cùng ngai vàng trấn ải nơi đây là một điều vô cùng cần thiết, được nhà nước phong kiến Nguyễn khuyến khích. Vì thế mà Bà được tôn phong là Thánh Mẫu - một tước hiệu đã xuất hiện từ rất sớm ở Đàng Ngoài, thậm chí lớp cư dân đầu tiên khi tới vùng này còn chưa ra đời. Bà Chúa Xứ đã có đời sống dân gian ở trong vùng với tất cả sự

ngưỡng mộ tôn kính. Bà đã trở thành một nhân vật anh hùng văn hoá Việt Nam - một biểu tượng về một vị thần Mẹ Xứ Sở - Mẹ Đất (Địa Mẫu). Trải qua thời gian hơn thế kỷ qua, Bà đã có ảnh hưởng rất tốt đến đời sống tinh thần của nhân dân lao động Việt cũng như Hoa, Khmer, Chăm.

Trong lịch sử mở mang bờ cõi về phương Nam, trước khi đám dân cư Việt ở vùng Châu Đốc Việt hoá pho tượng người đàn ông thành Bà Chúa Xứ trên thì, ở các vùng đất mà các thế hệ người Việt chiếm lĩnh trước cũng đã làm như vậy. Âu cũng là một qui luật của đời sống tâm linh. Ví như thần thoại Po Inư Nagar của người Chăm được tích hợp vào hệ thống thần linh, hệ thống các truyền thuyết của người Việt và biến thành nữ thần Thiên Yana ở Khánh Hoà, Bà chúa Ngọc (ở Huế), Bà Chúa Tiên (ở Khánh Hoà).

Và như vậy, từ mảnh đất chúa Nguyễn Hoàng khởi nghiệp và mở mang về Nam đã hình thành một hình thức tín ngưỡng mới mà bản chất không có gì xa lạ, chính là tín ngưỡng thờ Mẹ Đất, tín ngưỡng thờ Mẫu của tổ tiên những người đi mở cõi. Dần dần, đời sống dân gian hay, nói chính xác hơn, sự độ trì phù hộ của các đức Bà, đức Mẫu đã thiết lập trên mảnh đất phía Nam một tục lệ đẹp - tục thờ Bà. Sự tin tưởng của người dân Việt đối với các Bà đã khiến cho triều Nguyễn cuối cùng đã phong các Bà làm Thánh Mẫu và nâng lên hàng thượng đẳng thần. Vì thế mà, dịp vía Bà Chúa Xứ là lễ hội dân gian theo đúng nghĩa của các dân tộc chung sống trên mảnh đất này. Bà Chúa Xứ, ngoài thờ chính ở núi Sam (Châu Đốc, An Giang) còn được thờ trong nhiều đình làng ở Nam Bộ. Ở trong những ngôi đình này Bà “được thờ trong chánh điện hay trong miếu (miễu) ở sân đình. Miếu thờ thường có 4 chữ Nho “Chúa Xứ nương nương”. Có nơi có tranh vẽ trên kiếng hay cốt tượng bằng gỗ, bằng thạch cao hay xi măng. Bà có lệ vía hàng năm với các nghi thức giống lệ với các nữ thần khác”.

Nhân dân trong nước và người nước ngoài hành hương tới núi Sam chẳng những thoả mãn nhu cầu tâm linh ấy mà còn hài lòng chiêm ngưỡng kiến trúc đẹp và độc đáo của miếu Bà - một công trình đã được xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia; được ngắm sự kỳ vĩ của núi Sam với muôn mặt kiến trúc đình, chùa, am miếu, lăng tẩm. Viễn khách sẽ mãi mãi còn hành hương về đây để làm Đẹp Miếu Bà, bởi Bà đã trăm năm làm Đẹp Hồn Người, vững bền và linh thiêng Hồn Tổ quốc./.n

72

TÖØ TRONG DI SAÛN

Page 73: Van hien so6 14

?l Nhà văn CHU LAI

PHẢI LÀM GÌĐể Văn học Nghệ thuậtcó những tác phẩm đỉnh cao trong giai đoạn hiện nay

Trước hết, các nghệ sĩ sáng tạo thường rất lơ mơ về Nghị quyết, nếu hỏi 10 người thì 9 người chỉ nói được đại để, bởi xưa nay các

Nghị quyết đối với họ chỉ có một: Làm thế nào viết cho hay.

Với các ngành nghề khác, bối cảnh xã hội tác động rất rõ vào sự phát triển hay tụt hậu của nó, nhưng ở sáng tạo, ngược lại: Càng phức tạp, càng ngổn ngang nhiều gam màu lại càng có chất liệu.

Nhưng tại sao ở Việt Nam lúc này chất liệu, mùi tiểu thuyết, quặng nghệ thuật rất phong phú, thế mà vẫn chưa có tác phẩm xứng tầm?

Đó là câu hỏi một đời và muôn thời mà đời này chưa trả lời được thì ắt sẽ trả lời ở những đời sau. Vấn đề là ta đã trả lời được chưa? Hay là vẫn than thở thụ động: Bao giờ cho đến ngày xưa? Câu trả lời có thể là chưa.

Quý hồ tinh bất quý hồ đa. Những năm qua vẫn có rất nhiều sản phẩm ra đời, thậm chí có tiếng vang

nhưng thực chất nó mới dừng ở đầu sách, đầu việc chứ chưa phải là đầu thi phẩm.

Vậy so với tiền nhân ta là tài hèn chí mọn hay do một cái khác?

Thử cắt nghĩa:1.Tài năng là thời vụSức khỏe của một nền văn học nghệ thuật thực

chất không mấy phụ thuộc vào các cuộc hội thảo, hội nghị, tuyên truyền, kêu gọi mà nó nằm cô đơn ở từng góc phòng, nó vật vã ở từng cá thể vì nó là đơn nhất.

Có hiệu triệu, có kêu gọi thế nào mà tài năng không về thì vẫn không về. Khi về, tự nhiên là về. Nhưng sự kêu gọi cũng có tác dụng hun lửa, xiết chặt đội hình, cái đội hình rất dễ rã do tác động kinh khủng của sự cầu toàn, lười nhác và bươn chải mưu sinh.

Đưa lên núi 1000 em có hệ số thông minh đặc biệt 10 năm để luyện đan luyện khí nhưng xuống núi vẫn có thể không có một Trần Đăng Khoa. Cũng như

73

DIEÃN ÑAØN

Page 74: Van hien so6 14

Nguyễn Du do đất trời, sông núi và nỗi đau đáu cuộc đời tạo nên chứ làm sao có thể muốn, có thể định đoán được thời điểm nào ta sẽ có một tài năng trác việt như cụ nữa?

Văn chương khác một chút với Sân khấu, Điện ảnh, Hội họa, Nhiếp ảnh… Là không đào tạo được. Việt Nam có trường Đại học viết văn Nguyễn Du nhưng chỉ là nơi nối dài trí thức chứ không hề là điểm đào tạo từ không đến có bởi nếu không có năng khiếu, thiếu căn cốt bẩm sinh khi ra trường sẽ bị thui chột đi hoặc là đua nhau làm nghề khác.

Cái đau đáu, đau đời là rất quan trọng vì nó là sự trải nghiệm cho cảm hứng sáng tạo. Cười hơn hớn, viên mãn là thất bại và vô cảm với các cảnh đời trái ngang đang từng ngày diễn ra xung quanh là tự sát.

Sáng tạo là cái nghề khổ hơn tất cả mọi nghề. Cái nghề tự ăn óc của mình. Khi còn sống, ông Nguyễn Tuân nói, mỗi sáng nhìn vào trang bản thảo trắng phớ nhợn người như nhìn vào pháp trường trắng, còn ông Nguyễn Khải, một bút lực thâm hậu dồi dào lại chỉ muốn có khách gọi đi chơi để tránh ghì người vào bàn. Nên nhiều người vin vào quản lý, điều hành để trốn viết và đã trốn thật, trốn đến mất dạng, mất nghề luôn.

Quyền lực nhiều khi hấp dẫn hơn học lực. Có lẽ người có tài không nên điều sang làm quản lý bởi vì khi đó ta sẽ có một nhà quản lý trung bình, thậm chí dưới trung bình mà mất đi một tài năng thật sự không dễ tìm ra.

2. Xét đến cùng là cái nền còn mỏngNgoài những trái núi thi ca ít ỏi như Nguyễn Du,

Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Đình Chiểu… ra, ta chưa có sẵn một cái nền vạm vỡ để đứng lên như các nước khác: Nga, Pháp, Nhật, Trung Quốc, Mỹ, Nam Mỹ… Vốn đã có được những cái nền lồng lộng.

Cho nên tài năng Việt Nam không có nhiều đỉnh. Có người lên đỉnh từ rất trẻ như Trần Đăng Khoa, Đỗ Chu rồi từ từ đi ngang hoặc đi xuống, nhưng cũng có người chỉ lừng lững đi trên cao nguyên, cũng thật là đáng nể như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đặng Nhật Minh…

Có một thời ta quá lụy về các thứ học thuật như Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa hiện thực phê phán, Hiện thực huyền ảo rồi Hiện đại, Hậu hiện đại… Mà quên mất độ lay động mãnh liệt của nó. Khi nó đã có độ lay động thật sự rồi thì tự thân nó đã chứa tất cả các phương pháp. Ta thường nói vui: Một tác phẩm có thể có hết thảy các loại tính: Tính Đảng, tính dân tộc, tính chiến đấu, tính hội nhập, đổi mới nhưng cái quan trọng là Tính Hay lại chưa có.

Thử lấy phim Hàn Quốc để thử ngẫm về một thi pháp sáng tạo. Đó là họ dường như chỉ đi một đường, tức là phim nào cũng có một cái kết giống nhau, không ung thư thì máu trắng, nhưng họ lại đi bằng nhiều kiểu nên vẫn hấp dẫn.

Còn ta, tưởng như đi nhiều đường nhưng thực chất lại chỉ có một kiểu nên khô cứng, nhợt nhạt. Vấn đề vẫn là cách đi, cách sáng tạo như thế nào chứ không chỉ sáng tạo về cái gì.

3. Tâm thế sáng tạoDòng đời sôi sủi và sự tĩnh tại trong lòng luôn đá

Biên phòng Lào Cai, giờ giải lao với tác phẩm văn học. Ảnh: Chu Vĩnh Cát

74

DIEÃN ÑAØN

Page 75: Van hien so6 14

nhau, không tạo ra được một tâm thế cần thiết để ngồi vào bàn. Hết chiến tranh đến bao cấp ảm đạm, lại thị trường nghiêng ngửa, nghệ sĩ chưa lúc nào kịp lui về cõi tĩnh để chiêm nghiệm, dám bỏ hẳn ra năm năm để chỉ hoàn thành một tác phẩm như kiểu ông Lép TonStoi, ông Sô Lô khốp.

( Bản thân đã ôm mộng một trường thiên tiểu thuyết ôm gọn các mốc lịch sử 45 đến 75 nhưng rồi lòng dạ chộn rộn, cuộc sống cuốn đi, chỉ ra được có 500 trang khúc bi tráng…).

Tâm tĩnh nhìn ra nhiều chuyện, tâm động thì nhìn cái gì cũng không chuẩn.

Nếu tâm thế, khát vọng làm nghề, dám dũng cảm vượt lên cái bóng của mình thì có thể hy vọng rằng sẽ có được những trang viết, bộ phim, vở kịch mang giá trị thẩm mỹ và giàu sức truyền cảm.

Lại thêm, “ Cơm áo không đùa với khách thơ”. Có một thời chỉ cần có một chiếc xe của ban ngành, một quân binh chủng nào đó, kể cả Ban Vệ sinh dịch tễ đến là lại có một vệt Văn học Nghệ thuật của ban ngành, của cái anh Vệ sinh dịch tễ đó. ( Đi viết thuê ở Mộc Châu, Hiếu Liêm… ).

Các văn nghệ sĩ đang chìm nổi chết ngập trước các hình loại thác lũ thông tin truyền hình, báo mạng, FB... khiến cho văn hóa đọc bị chìm, đến ngay cả nhà văn sách ra cũng không đọc của mình, xem của mình nữa huống hồ còn tâm địa đâu mà đọc lại của ai.

Rồi báo hóa, truyền hình hóa, dự án hóa các tài năng khi nó vừa mau bát gạo vừa mau đồng tiền. Nhiều tài năng bị nuốt chửng trong cái miệng vừa nham nhở vừa ngọt ngào của con quái vật mưu sinh ấy để biến mình thành thứ sáng tạo thị trường, sáng tạo thực dụng. ( Bản thân đã tự tìm đường thâm canh tăng vụ để cố giữ được hồn văn học và con chữ ).

Nghèo thì hèn, giàu còn hèn hơn! Không có gì khốn khổ bằng sáng tạo vì tiền bạc, đồng tiền là hòn đá tảng hôi hám không bao giờ cho sáng tạo cất cánh lên được. Mặc dù, cụ Đôstoiepski viết chỉ để trả nợ nhưng là một thiên tài trả nợ. ( Một kỷ niệm về cú đặt hàng mất tăm khi đòi ba năm viết chỉ cần một đêm hát của cô Siublack... ).

Nhưng văn hóa đọc sẽ không bao giờ mất bởi nó có một sức quyến rũ riêng kỳ lạ. Không có gì thay thế được một cô nữ sinh nằm trong chăn ấm nồng nàn tới mùa đông sẽ vẫn lần giở từng trang sách thơm ngái mùi giấy mực để cùng thổn thức, mơ mộng, tưởng tượng, sáng tạo cùng với tác giả.

4. Nền tảng triết học và các giá trị tư tưởng

Có lẽ chưa ở đâu có một chất liệu cuộc sống phong phú để tạo nên những tác phẩm phong phú như ở ta. Phải chăng chính vì thế mà ta dễ tự tin, kiêu ngạo tự nhấn chìm mình ngợp ngụa trong bể sự kiện mênh mông mà quên mất sự dụng công chắt lọc, kết tủa, thăng hoa cho ra được những vỉa tầng trầm tích sâu xa thường được gọi là tính tư tưởng, nền tảng triết học. Một tác phẩm lớn là một tác phẩm không thể thiếu được cái nền tảng này, nó sẽ giúp ta bóc tách được cái vỏ sự kiện để đi sâu tới tận cùng cái bản chất người, bản chất sự việc bên trong khu vực thời sự nhất thời nay vì tính niên đại lâu bền. Thôi, nói thì dễ, làm thì khó, âu đó cũng là ước vọng, là tâm thế muôn đời của người cầm bút.

Ví như có người lập luận: Sở dĩ “Chiến tranh và hòa bình” sừng sững được như một tòa tháp văn chương muôn đời của nhân loại như thế là do cụ L.TonStoi đã có độ lùi đủ để chiêm nghiệm mang tính triết học về cuộc chiến tranh Nga - Pháp, về trận Borodino 50 năm. Nhưng tôi lại nghĩ, nếu cụ được sống ngay giữa thời kỳ đó và với tài năng trác việt cùng sự minh triết thăm thẳm của mình, biết đâu nhân loại đã chả có CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH lồng lộng hơn.

5. Đề tài không có tộiĐề tài về chiến tranh, hòa bình, nông thôn, kinh tế,

đô thị, về Đảng, về Thể chế... Không bao giờ có tội. Cái có tội là cách thức triển khai và sự trầm tĩnh cắt nghĩa. Đề tài hấp dẫn mà cảm xúc cạn cợt thì cũng thành cạn cợt, đề tài khó nhằn nhưng biết đẩy đến tận cùng các trạng thái hỷ, nộ, ái, ố của thân phận con người thì hoàn toàn có thể hấp dẫn, phì nhiêu.

Nhìn lại cuộc vận động sáng tác về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của Ban Tuyên giáo phát động là cần thiết nhất là vào giai đoạn nhạy cảm này nhưng những tác phẩm miêu tả trực diện hình tượng Bác thường là chưa tới, nghèo, nhạt, lập trình, khô cứng nhưng nếu thông qua con người Bác để nói về cái ác, cái tham, cái cá nhân vị kỷ cần chống thì lại thường hay, vì đó là chuyện của muôn đời. Cho nên cũng một hiện tượng, một đề tài nhưng cách cảm, cách nhìn là quan trọng lắm!

6. Về vấn đề xã hộiLà vô cùng cần thiết như cổ phần và tư nhân hóa

trong kinh tế để các đơn vị tự đứng trên đôi chân của mình. Ví như Điện ảnh, sân khấu phía Nam luôn tạo được nhịp điệu sôi động hoặc sáng đèn đêm đêm, nhưng nếu cần một đề tài, một chủ đề tạm gọi là chính thống mang tính luận đề thì lại rất thiếu vắng.

75

DIEÃN ÑAØN

Page 76: Van hien so6 14

Và có đơn vị nghệ thuật, hãng phim nào dám đăng cai, mà nếu có đăng cai thì cũng khó có đạo diễn dám nhận thì diễn viên lại lảng tránh. Thế là, nếu không có các đơn vị nghệ thuật, các hãng phim do nhà nước quản lý, nhà nước đặt hàng thì cái trận địa quan trọng đó sẽ bị bỏ trống, để mặc cho các sản phẩm kinh dị, chụp giật, câu khách tràn vào chiếm địa vị độc tôn.

Đặc biệt, với những khu vực sử thi như kỷ niệm các ngày trọng lễ của dân tộc, nếu không có tài trợ thì chịu. Vì rất kén khách, rất khó thu hồi vốn.

Về tác phẩm văn học, nếu các khu vực kinh tế lớn như dầu khí, viễn thông, may mặc, điện, nông thôn... chịu đầu tư, nuôi tác giả như trong nhà, nuôi nhiều năm thì chắc sẽ có cái hay như Đất Vỡ Hoang, Xa Mạc Tư Khoa, Vùng mỏ Đôn Bát... Của văn học Liên Xô một thời.

7. Lại nói về đãi ngộCó những nhà văn, đạo diễn, nhà biên kịch, nhạc

sĩ, họa sĩ... Ở ta không thua kém tài năng so với thiên hạ mà nếu như ở nước ngoài cuộc sống của họ sẽ rất ổn định nếu không muốn nói là vung vinh nhưng mức thù lao, nhuận bút lại quá sức khiêm nhường, có lúc gần như bằng không, phim đóng máy xong, mua sách tặng bạn bè xong là hết. Đấy là còn chưa nói sự cách biệt kinh khủng giữa các thể loại nghệ thuật, ví dụ như giữa nhạc sĩ, người mang nặng đẻ đau và một ca sĩ được tự phong là Diva, là ông hoàng bà chúa.

Vậy mà, đội ngũ văn nghệ sĩ vẫn cứ viết, vẫn cứ cho ra được những tác phẩm dù chưa thật đỉnh cao chói lòa thì nó cũng ít nhiều đạt được độ xứng tầm.

Nghĩ rằng, sau này lịch sử nhìn lại, họ sẽ được ghi nhận như một tượng đài về tấm gương tử vì đạo.

Tiền bạc không đùa với khách thơ nhưng tiền bạc cũng không làm nên tác phẩm. Có đặt trước mặt một cục tiền thơm tho mệnh giá lớn mà bảo viết đi, cho ra tác phẩm vĩ đại đi thì đảm bảo không ai dám nhận, nhưng khi họ đã có cái tác phẩm lớn rồi thì nên đặt trước mặt họ một cục tiền để... tái đầu tư.

8. Các điều kiện đảm bảo và cách thức ứng xử với nghệ sĩ

Phải khẳng định nhà nước rất chú trọng đến điều này qua các cuộc vận động, các cuộc thi, tài trợ hàng năm, gần đây có chính sách tài trợ cho các bô lão 70 tuổi trở lên... (Trong đó có bố tôi, một ông già 101 tuổi).

Thế giới chỉ có ba trường đại học viết văn và có lẽ chưa ở đâu có hệ thống trại viết văn như ở Việt Nam.

Tưởng như vô tích sự, đi du lịch thư giãn nhưng nếu biết sử dụng đắc địa thì cũng có thể xoay chuyển cục diện đáng kể như Hội sân khấu khi mà các tác phẩm ở trại thay vì trại đóng cửa, tác phẩm nhét ngăn bàn thì có khá nhiều kịch bản lại hành quân ra ánh đèn sân khấu và kiêu hãnh xâm nhập vào các giải thưởng hàng năm, giải thưởng hội diễn.

Vậy, trại là cần thiết, là tính ưu việt của một thể chế chỉ có điều quy chế và thái độ mở trại như thế nào để không uổng tiền thuế của dân.

Có một vấn đề nhạy cảm: Liệu văn học nghệ thuật có đang bị kiềm tỏa bởi các định hướng chính trị và các cơ quan kiểm duyệt? Có thiếu dân chủ không?

Có thể trước kia là có, thậm chí có trầm trọng, nhưng câu trả lời bây giờ là KHÔNG nếu tác phẩm đó không vi phạm pháp luật, không ngang nhiên cổ súy lối sống đồi trụy, không xúc phạm đến nền tảng đạo đức và các giá trị tinh thần cơ bản của dân tộc. Sau chủ trương Cởi trói của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, thử hỏi những người cảm thấy bị trói đã có tác phẩm nào đặc biệt suất sắc chưa? Hay là chính những con người ấy vẫn tự trói mình trong những ám ảnh không có thật khi thực lực tài năng hạn hẹp nhưng lại biện minh bằng những lý do nghe có vẻ sang trọng khác.

Liên hệ đến Nhật, Trung Quốc: Trào lưu tính dục và giải phóng tính dục của Kimurai, Vệ Tuệ và các tác giả trẻ đến sự táo bạo tới táo bạo của Mạc Ngôn, Trương Nghệ Mưu... vẫn tồn tại để thời gian và nhân dân xác định, chấp nhận hay đào thải. Có thể nói, trong trường hợp ấy, như Mạc Ngôn, giải Nobel, dũng cảm một thì nhà in sách dũng cảm mười và Tổng cục Chính trị Bát Lộ quân dũng cảm một trăm.

Tìm tòi là tối cần cho sáng tạo, tìm có thể đúng có thể chưa đúng, như mở cửa có thể có cả gió sông có cả gió mang theo bãi thải tràn vào nhưng chả lẽ lại không tìm không mở, nên với một tác phẩm phá cách, ngang tai trái mắt mà vội đánh phủ đầu hay lăng sê ầm ĩ là đều chưa ổn. Dễ làm thui chột hay làm hư tác giả.

Cuối cùng: Về xét tặng các giải thưởngĐòi hỏi phải hết sức chính xác và công tâm nếu

không nó sẽ là giọt A xít nhỏ xuống một cơ thể đang có chiều mang mầm bệnh sẽ khiến nó bị hoại thư, khi đó chỉ có nhân dân là mất thần tượng của mình. Làm thật chuẩn nếu không thì làm vì có ai khi mang cái nghiệp vào thân lại chỉ nhăm nhăm đi kiếm giải này, phần thưởng kia.n

76

DIEÃN ÑAØN

Page 77: Van hien so6 14

Cuối năm 1999, tôi được Bộ Văn hóa Thông tin cử tham gia vào đoàn

đại biểu văn hóa cao cấp do Thứ trưởng Phan Khắc Hải làm trưởng đoàn sang tham quan, nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc. Thời đó tình hữu nghị Việt - Trung còn mặn nồng nên các bạn Trung Quốc đón tiếp chúng tôi rất chân tình, nồng nhiệt. Từ Bắc Kinh cho tới Quảng Châu, ở đâu giới văn hóa Trung Quốc cũng thể hiện tình hữu nghị thắm thiết được xây đắp từ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông. Ở đâu họ cũng hát chào mừng chúng tôi bằng những câu: “Việt Nam - Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông”. Cũng có thể giới văn hóa Trung Quốc lúc bấy giờ quan tâm nhiều tới sự nghiệp phát triển văn hóa hơn là chính trị, nên ở đâu họ cũng thể hiện tình hữu nghị bằng những cuộc đón tiếp rất văn hóa và hết sức nồng nhiệt. Đặc biệt bữa tiệc nào họ cũng mời chúng tôi uống rượu Mao Đài, thứ rượu được coi là “Quốc tửu” của Trung Quốc được dùng tiếp khách quý.

Trước khi uống, họ còn giải thích nguồn gốc và đặc trưng

của rượu Mao Đài làm cho người nghe cảm thấy hấp dẫn, thú vị, như: Rượu Mao Đài có tuổi đời hàng ngàn năm, được nấu ở thị trấn Mao Đài nằm bên bờ sông Xích Thủy thuộc thành phố Hoài Nhân tỉnh Quảng Châu. Ở Mao Đài còn chưng cất được thứ thuốc quý trị được bệnh nan y và rượu Mao Đài được dân gian nấu từ gạo đặc biệt và nước đặc biệt ở miền núi Hoài Nhân tỉnh Quảng Châu. Qua hàng ngàn năm lưu truyền và quảng bá, rượu Mao Đài đã thành một thương hiệu lớn và đã giành được nhiều giải thưởng quốc tế và trong nước. Mao Đài được công nhận là “Quốc tửu” và giới văn học có giải thưởng Mao Đài… Ở đâu cũng vậy, những quan chức văn hóa Trung Quốc tiếp chúng tôi, kể cả quý bà, đều tôn vinh rượu Mao Đài và đều uống rất khỏe. Họ khéo mời, ép chúng tôi uống, đến nỗi sau này những cuộc tiệc, hầu hết đều xỉn, mặt đỏ phừng phừng, phải uống hàng lít nước khoáng mới giải được cơn say Mao Đài!

Nhân nói chuyện Mao Đài - Trung Quốc, tôi bỗng liên hệ tới rượu Bàu Đá ở Bình Định, mà

từ sau 1975 nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi ở Hà Nội vào Bình Định công tác khi trở về chỉ mang theo rượu Bàu Đá, chứng tỏ sức hấp dẫn của nó như thế nào. Rượu Bàu Đá cũng ra đời từ một miền quê ở huyện An Nhơn gần thành Hoàng Đế nổi tiếng, nơi có những bàu nước đặc biệt phun lên từ lòng đất sâu được lọc qua những tầng đá cuội. Vì vậy mà được gọi là Bàu Đá. Nước Bàu Đá được dùng chưng cất một loại gạo đặc biệt cũng ở vùng đất gò đồi thuộc huyện An Nhơn xa xưa là thánh địa Chămpa không biết loại rượu này ra đời từ bao giờ, chỉ biết đã lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm với cái tên rượu Bàu Đá. Rượu Bàu Đá (có người gọi là Bầu Đá) có vị thơm ngon, uống vào ngòn ngọt, không nóng cổ, không nhức đầu, không say như các loại rượu khác. Tôi nhớ tháng giêng năm 2004 trong dịp kỷ niệm 215 năm chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa, Quang Trung đại phá quân Thanh, tỉnh Bình Định mời nhiều quan chức ở Trung ương và các địa phương về dự. Trong các bữa tiệc chiêu đãi khách, lãnh đạo tỉnh Bình Định

l GS. HOÀNG CHƯƠNG

Uống rượu Mao ĐàiNhớ tới

Rượu Bàu Đá

77

DIEÃN ÑAØN

Page 78: Van hien so6 14

đưa ra hai loại rượu Tây và rượu Bàu Đá. Tôi được tham dự những bữa tiệc đó, nên thường để ý xem các vị quan khách uống loại rượu nào và rất lạ là ai cũng uống rượu Bàu Đá. Đặc biệt Thủ tướng Võ Văn Kiệt không những uống mà còn khen: “Theo tôi rượu Bàu Đá không kém gì rượu Mao Đài, nếu không nói là còn hơn cả Mao Đài vì thơm và ngọt…” Ông còn nói: “Vì sao ta không phát huy và quảng bá rượu Bàu Đá trong tinh thần người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. Đồng chí Lê Thanh Hải (lúc đó là Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh) cũng tỏ ra rất đồng tình ý kiến của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và mọi người đều vui vẻ uống rượu Bàu Đá suốt cả buổi tiệc.

Tôi không phải là người thích rượu và sành uống rượu, nhưng thật sự cảm kích những lời gợi mở của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một nhân vật nổi tiếng của Việt Nam thường có những quyết sách, những phát biểu vô cùng thông minh, quyết đoán, mạnh mẽ và chính xác. Từ đó tôi chờ đợi những ứng xử của lãnh đạo Bình Định đối với rượu Bàu Đá, xem nó có thể trở thành “Quốc Tửu” như rượu Mao Đài hay không?

Và qua thực tế cho thấy, lãnh đạo Bình Định cũng có đề cao rượu Bàu Đá thể hiện ở chỗ, tiệc chiêu đãi nào cũng có hai loại rượu Tây và ta (Bàu Đá). Trong túi quà tặng khách, bao giờ cũng có chai Bàu Đá với bao bì làm bằng sứ mang hình tượng con rồng khá đẹp. Tôi đã bắt gặp trên bàn trang trí của GS Vũ Khiêu có hai vỏ chai rượu Bàu Đá, chứng tỏ ông rất quý loại rượu này. Có điều, gần đây đa số khách, đặc biệt văn nghệ sĩ lại thích uống rượu Tây hơn là rượu Bàu Đá, bởi vì theo một số người sành rượu cho rằng, chất lượng rượu Bàu Đá hiện nay không còn như Bàu Đá cách đây ba, bốn chục năm trước. Thời đó mỗi lần họp đồng hương Bình Định tại Hà Nội, hai sản phẩm bán chạy nhất là rượu Bàu Đá và nước mắm Mười Thu. Bây giờ thì Mười Thu đã biến mất, còn Bàu Đá thì dọc đường quốc lộ I nhan nhản, ở đâu cũng thấy bày bán rượu Bàu Đá, dĩ nhiên “hàng chợ” bao giờ cũng kém chất lượng hơn “hàng hiệu” và trong cảnh thương mại hóa ấy thì làm sao biết được đâu là Bàu Đá thật vì rượu dởm mà uống vào thì ắt có hại cho sức khỏe. Vì vậy mà Bàu Đá cũng dần dần

bị mất thương hiệu, người mua cũng ít, người uống cũng cạn dần. Tôi chạnh lòng, nhớ tới cảnh Thủ tướng Võ Văn Kiệt tay nâng cốc rượu Bàu Đá chúc mừng mọi người, miệng nói: “Rượu Bàu Đá còn ngon hơn cả rượu Mao Đài”. Và tôi lại nghĩ, trong chương trình phát triển du lịch Bình Định từ nay (2014) đến năm 2020, có mục phát huy di sản văn hóa phục vụ du lịch. Trong di sản văn hóa vô cùng phong phú của Bình Định từ vật thể đến phi vật thể, như Hát bội, Bài chòi, Võ thuật dân tộc, múa hát dân gian Kinh, Chămpa, Tây Nguyên và các di tích văn hóa đặc sắc khác như Tháp Chăm, Bảo tàng Quang Trung, Đàn tế trời đất, Gành ráng, Đồi Thi Nhân và Bãi biển đẹp, còn có văn hóa ẩm thực vô cùng đặc sắc, trong đó có rượu Bàu Đá. Vậy làm thế nào để rượu Bàu Đá trở thành thương hiệu mạnh ở Việt Nam và tương lai có thể trở thành “Quốc tửu” như rượu Mao Đài của Trung Quốc, điều đó tuy khó, nhưng không phải không làm được, nếu Bình Định thật sự quan tâm và quyết tâm trong việc nhỏ nhưng hiệu ứng lớn này./.n

Cổng vào làng Bàu Đá,

Bình Định

78

DIEÃN ÑAØN

Page 79: Van hien so6 14

Bao nhiêu năm xây dựng và phát triển là bấy nhiêu năm PV Gas tích cực khẳng

định vị trí của mình trong công cuộc phục vụ dân sinh, phát triển đất nước. Mỗi dấu mốc phát triển đều thể hiện quyết tâm, nỗ lực của tập thể người lao động trên bước đường khẳng định thương hiệu của đơn vị. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, không chỉ hài lòng với việc khai thác nguồn dầu khí là các mỏ trong nước, Công ty còn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh bằng việc nhập khẩu khí và các sản phẩm khí từ nước ngoài để đáp ứng nhu cầu trong nước khi sắp tới, nguồn cung khí nội địa không còn đủ phục vụ thị trường. Năm 2008, dự án nhập khí đầu tiên của doanh nghiệp là thuê kho nổi - tàu chở LPG lạnh Chelsea Bridge có công suất 45.000 tấn, mở ra một hướng đi mới trong công tác kinh doanh LPG của PV Gas nói riêng và thị trường LPG Việt Nam nói chung. Với lợi thế của sức chứa kho nổi, Công ty và thị trường LPG

Việt Nam đã tìm kiếm được nguồn cung lớn và giá cả ổn định từ các nước thuộc khu vực Trung Đông - nơi có lượng LPG nhiều nhất thế giới. Và đến năm 2009, doanh nghiệp đã mạnh dạn khởi công một dự án quan trọng là kho chứa LPG lạnh tại Thị Vải, có sức chứa 60.000 tấn - lớn nhất và hiện đại nhất Việt Nam, hội đủ điều kiện cho phép PV Gas có những giải pháp tàng trữ LPG khối lượng lớn, tăng khả năng cung cấp về lâu dài, ổn định nguồn cung trong nước và góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Chủ động và linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã đem lại những thành công đáng nể cho PV Gas. Hiện tại, Công ty đảm bảo cung cấp sản lượng LPG chiếm trên 70% thị phần toàn quốc, trong đó, cung cấp trên 9 tỷ m3 khí khô cho các hộ tiêu thụ. Bên cạnh đó, còn là nhà cung cấp hàng đầu trong lĩnh vực công nghiệp khí, đặc biệt các dịch vụ vận chuyển khí và sản phẩm khí, sản xuất và bọc ống, cung cấp

khí thấp áp, cung cấp CNG, cung cấp CNG/LPG cho giao thông vận tải/khu đô thị và tàng trữ sản phẩm khí. Ông Đỗ Khang Ninh - Tổng Giám đốc Công ty cho biết, doanh thu toàn PV Gas đạt trên 55.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế gần 11.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng doanh thu giai đoạn 2011-2015 đạt 7,8%/năm. Trong thời gian tới, để phát huy những kết quả đạt được, Công ty sẽ tăng cường thu gom an toàn, hiệu quả tối đa các nguồn khí hiện có; đẩy mạnh chế biến, thu hồi sản phẩm khí nhằm gia tăng giá trị công trình khí; đầu tư phát triển mạng lưới đường ống trên bờ đồng bộ với hoạt động thu gom; đảm bảo nguồn cung khí ổn định, liên tục cho các hộ tiêu thụ; phấn đấu cung cấp từ 9,1-9,8 tỷ m3 khí/năm, sản xuất khoảng 190-265 nghìn tấn LPG/năm và 45-53 nghìn tấn Condensate/năm.

Đương nhiên, để có thể làm được và làm tốt các chỉ tiêu nói trên, không thể không kể tới những

TỔNG CÔNG TY KHÍ VIỆT NAM - CÔNG TY CỔ PHẦN

Không ngừnglớn mạnh cùng đất nướcThành lập năm 1990 và chính thức chuyển đổi hoạt động theo mô hình cổ phần từ năm 2011, Tổng Công ty Khí Việt Nam (tên giao dịch là PetroVietNam Gas - viết tắt là PV Gas ) đang phát triển không ngừng với chiến lược phát huy nội lực, đa dạng hóa sản phẩm, lấy trọng tâm là sản xuất - kinh doanh, vận chuyển sản phẩm khí, dịch vụ, đầu tư tài chính và thương mại. Mọi nỗ lực của doanh nghiệp đều hướng tới mục đích xây dựng, củng cố thương hiệu, tạo sự phát triển ổn định, vượt qua mọi biến động của thị trường.

‘l MỘNG HUỆ

79

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 80: Van hien so6 14

chính sách mà PV Gas đã và đang thực hiện. Đầu tiên là chính sách về con người. Ông Trần Hưng Hiển - Phó Tổng Giám đốc doanh nghiệp khẳng định: PV Gas luôn tin rằng con người là vốn quý giá nhất nên chúng tôi luôn chú trọng xây dựng một đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ tiên tiến, tác phong công nghiệp, kỷ luật nghiêm ngặt. Đồng thời, luôn đảm bảo đem đến cho người lao động những lợi ích thỏa đáng về vật chất và tinh thần, tạo môi trường làm việc công bằng về cơ hội đào tạo, thăng tiến nghề nghiệp. Tại Công ty, gần 1.100 người lao động được đảm bảo thu nhập 31 triệu đồng/người/tháng. Chế độ tiền thưởng và các chế độ đãi ngộ khác dựa trên năng lực thực sự và hiệu quả công việc của cá nhân. Các phúc lợi khác như: bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, khám bệnh định kỳ,… được thực hiện đầy đủ. Ngoài ra, doanh nghiệp còn trích quỹ phúc lợi, mua bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn, phẫu thuật nằm viện với mức cao cho toàn thể cán bộ công nhân viên. Do đặc thù của ngành nên công tác an toàn, vệ sinh lao động luôn được đưa lên hàng đầu bằng việc trang bị công cụ, dụng cụ, bảo hộ lao động và tổ chức đào tạo nghiệp vụ về an toàn, phòng cháy chữa cháy, vệ sinh lao động ít nhất 2 năm/lần cho người lao động.

Đáng nói hơn nữa là tại PV Gas, công tác từ thiện xã hội luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của tất cả cán bộ công nhân viên. Tinh thần đồng cảm, sẻ chia được thể hiện bằng những hành động cụ thể, thiết thực như xây nhà Đại

đoàn kết, xây dựng trạm y tế, tặng trang thiết bị y tế, tài trợ các chương trình khám bệnh cho người nghèo, mổ mắt cho bệnh nhân nghèo, xây dựng trường học, tặng học bổng,… với chi phí 106 tỷ đồng năm 2011 và 150 tỷ đồng năm 2012. Nếu không có cái tâm thật sự và sự cảm thông chân thành đối với những hoàn cảnh bất hạnh trong xã hội thì chắc chắn Công ty đã không dành tặng chi phí thực sự là rất lớn cho các hoạt động từ thiện trong cộng đồng. Bởi, nếu để tham gia cho có, thì con số chi phí cũng sẽ chỉ là gọi cho có mà thôi.

Về công tác đầu tư nghiên cứu khoa học, cải tiến công nghệ, năm 2012, Công ty đã có tới 81 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và giải pháp sáng tạo được ghi nhận. Trong đó, có 10 sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và giải pháp sáng tạo được Hội đồng Khoa học công nghệ Tổng Công ty xét duyệt, khen thưởng và được công nhận 01 sáng kiến mức A, 04 sáng kiến xuất sắc như: Nghiên cứu giải pháp nâng công suất nhà máy chế biến khí Nam Côn Sơn, lập chương trình tra Interlock Logic

cho các thiết bị tại Nhà máy xử lý khí Dinh Cố, Nghiên cứu và thiết kế, lắp đặt hệ thống giám sát rung của 03 máy nén K-01A/B, K-02/03 tại Nhà máy xử lý khí Dinh Cố. Theo ước lượng, tổng giá trị lợi ích của các sáng kiến trên đã giúp làm lợi hàng trăm tỷ đồng cho Công ty, chưa kể những sáng kiến, giải pháp không thể quy được thành tiền.

Vì lợi ích của người tiêu dùng và xã hội, PV Gas đã luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, Công ty vừa khẳng định được thương hiệu cho mình, vừa góp phần xây dựng thương hiệu chung với Tập đoàn. Và, trên thực tế, thương hiệu đã mang về cho doanh nghiệp doanh thu hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm cùng với các thành tích: Bằng khen, Cờ thi đua của Đảng và Chính phủ, các cơ quan chức năng cùng Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2012, Top 100 Sao Vàng Đất Việt 2011, Thương hiệu tin cậy 2012, Top 10 nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam, Thương hiệu nổi tiếng Asean 2013,…

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Phải) và Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế (Trái) trao Cúp vàng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Đại diện Tổng Công ty Khí ViệtNam - Công ty cổ phần tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

80

VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN COÄNG ÑOÀNG

Page 81: Van hien so6 14

Chân dung doanh nhân Đỗ Doãn Hùng

Năm 2012 là năm không chỉ Công ty nói riêng mà cả nền kinh tế Việt Nam nói chung tiếp tục chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ thắt chặt, chi phí vốn, giá cả vật tư, nguyên - nhiên - vật liệu - năng lượng biến động thất thường đã tạo nên những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính trong bối cảnh này, ông Đỗ Doãn Hùng được cấp trên tin tưởng, giao trọng trách là Tổng Giám đốc, kiêm Giám đốc Ban Quản lý dự án Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Niềm vui hòa lẫn với sự âu lo.Trọng trách luôn đi cùng với trách nhiệm. Ông tâm sự: Nhà máy Hoá chất Hà Bắc là một doanh nghiệp sản xuất đạm urê đầu tiên của cả nước với truyền thống phát triển

trên 50 năm. Mỗi năm doanh thu của Công ty đạt hàng nghìn tỷ đồng và nộp ngân sách Nhà nước trên 200 tỷ đồng. Là người lãnh đạo mới, tôi có nhiệm vụ vượt qua những khó khăn, thử thách của thị trường, phát huy truyền thống vẻ vang của đơn vị, dẫn dắt Nhà máy Hoá chất Hà Bắc phát triển ổn định, tiếp tục trở thành điểm sáng của ngành và của địa phương.

Vốn là bộ đội thông tin viễn thông thuộc Bộ tư lệnh thông tin những năm cuối thập niên bảy mươi, rời khỏi quân ngũ ông miệt mài học tập để trở thành sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Và tấm bằng kỹ sư đã đưa ông đến với Công ty để rồi gắn bó suốt từ năm 1986 đến nay. Tuy không còn trong quân đội nhưng tác phong và suy nghĩ của chiến sĩ quân đội vẫn luôn ở trong tiềm thức đã giúp ông hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Từ

một kỹ sư tập sự, ông lần lượt trải qua nhiều vị trí công tác khác nhau. Và trưởng thành hơn sau mỗi vị trí đảm nhiệm.

Vốn sống, sự trải nghiệm phong phú đã giúp ông nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của người lãnh đạo cao nhất đối với doanh nghiệp, địa phương. Chính vì vậy, ông đã cùng với Ban Giám đốc chỉ đạo thực hiện tốt các chiến lược phát triển kinh tế, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm đảm bảo thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định an sinh xã hội tại thành phố Bắc Giang.

Sức mạnh đoàn kết Như đã nói ở trên, doanh nhân

Đỗ Doãn Hùng trở thành Tổng Giám đốc trong điều kiện khách quan không được thuận lợi. Chính vì vậy, truyền thống đoàn kết và tinh thần lao động sáng tạo của người lao động trong Công ty đã

CÔNG TY TNHH MTV PHÂN ĐẠM VÀ HÓA CHẤT HÀ BẮC

MỘT DOANH NHÂNhết lòng vì người lao động

l QUANG HÒA

Chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc, ông Đỗ Doãn Hùng luôn hoàn thành tốt vai trò của một Tổng Giám đốc, một người “anh cả” đầy tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm của hơn 2.000 người lao động. Và bí quyết giúp ông thành công là đã dành sự quan tâm đúng mức đến người lao động - những người cùng ông chinh phục những đỉnh cao trên thương trường.

81

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 82: Van hien so6 14

trở thành chỗ dựa vững chắc cho ông trong quá trình điều hành. Ông hiểu rằng, để sức mạnh nội lực ấy tiếp tục được phát huy, tiếp tục đồng hành cùng ông trong quá trình phát triển chung thì chính ông phải chứng minh cho người lao động thấy quyền lợi của họ sẽ song hành cùng với sự lớn mạnh của doanh nghiệp.

Nghĩ là làm. Một mặt ông cùng với ban lãnh đạo Nhà máy chỉ đạo và duy trì tốt phong trào thi đua ca kíp, phong trào lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, đẩy mạnh chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên. Thời gian qua, hàng nghìn lao động của Công ty không chỉ được đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ, thu nhập ổn định, đời sống không ngừng cải thiện; mà còn được khám sức khỏe định kỳ, đi tham quan, nghỉ mát trong và ngoài nước. Ông chỉ đạo tổ chức Công đoàn hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện để các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao,… trở thành sân chơi thư giãn, bổ ích, lành mạnh để cán bộ, công nhân viên tái tạo lại sức lao động. Chưa kể đích thân Tổng Giám đốc thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến người lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, lương, thưởng,… Ông muốn người lao động hoàn toàn

yên tâm làm việc vì chất lượng, năng suất và an toàn.

Tương tự, với các hoạt động từ thiện xã hội, doanh nhân Đỗ Doãn Hùng cũng dành sự quan tâm đáng kể khi cùng với Công ty tham gia vào nhiều sự kiện hoặc các chương trình phát triển kinh tế của địa phương. Thời gian qua, doanh nghiệp đã chi phí tổng cộng 4,5 tỷ đồng để thăm và tặng quà cho các hộ nghèo, xây nhà Đại đoàn kết, cải tạo hệ thống vệ sinh cho trường Mầm non Bắc Giang, tặng quà tết cho các xã - huyện nghèo,…

Bằng những quan tâm thiết thực đến đội ngũ người lao động, chỉ riêng trong năm đầu tiên doanh nhân Đỗ Doãn Hùng đảm trách chức vụ Tổng Giám đốc Công ty, các chỉ tiêu sản xuất như: sản lượng, doanh thu, nộp ngân sách Nhà nước, tiền lương bình quân của người lao động đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức so với kế hoạch được giao. Cụ thể: giá trị sản xuất công nghiệp là gần 700 tỷ đồng, tăng 2% so với kế hoạch; tổng doanh thu đạt xấp

xỉ 2.200 tỷ đồng, tăng 3% so với kế hoạch; thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước là 228 tỷ đồng, tăng 25% so với kế hoạch; tiền lương bình quân đạt trên 10 triệu đồng/người/tháng, tăng 8% so với kế hoạch năm.

Khơi dậy sức mạnh nội lực để đảm bảo sản xuất kinh doanh và doanh thu là một trong những bí quyết quan trọng làm nên thành công của doanh nhân Đỗ Doãn Hùng. Khởi đầu tốt đẹp này đã chứng tỏ được bản lĩnh, sự tự tin của ông trong vị thế của một người “thuyền trưởng”. Với những thành tích từng đạt được trong nhiều năm công tác như: danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở liên tục từ 2006-2012, Chiến sỹ thi đua cấp Bộ 2007-2009, cùng nhiều Bằng khen, Cờ thi đua của các cơ quan ban ngành, giải thưởng Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới 2013, tin chắc rằng, doanh nhân Đỗ Doãn Hùng sẽ cùng Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc sẵn sàng tạo nên những dấu ấn mới trên chặng đường chinh phục thị trường.n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Phải) và Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế (Trái) trao Cúp vàng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Đại diện Công ty TNHH MTV Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

82

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 83: Van hien so6 14

Đứng chân tại phường 8, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Trường Cao

đẳng Công nghiệp Tuy Hòa có chức năng đào tạo nguồn nhân lực trình độ Cao đẳng kỹ thuật, Kinh tế kỹ thuật và các trình độ thấp hơn với các chuyên ngành: Công nghệ kỹ thuật cơ khí, Công nghệ kỹ thuật Điện - Điện tử, Công nghệ kỹ thuật Điện tử truyền thông, Công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật Hóa học, Công nghệ kỹ thuật Sinh học, Công nghệ kỹ thuật Môi trường, Địa chất, Trắc địa - Địa chính, Kinh tế cho khu vực miền Trung - Tây Nguyên; Tham gia nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đào tạo và đào tạo lại cán bộ cho các tổ chức và cá nhân. Trong bối cảnh đất nước phát triển theo định hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, những lĩnh vực đào tạo trên của Nhà trường đương nhiên trở thành lợi thế trong mỗi kỳ tuyển sinh. Song, không vì thế mà lãnh

đạo đơn vị thiếu quan tâm đến việc phát triển cơ sở vật chất cũng như môi trường dạy và học nhằm khẳng định sự chuyên nghiệp của một “cái nôi” đào tạo có thương hiệu.

Riêng thầy Trần Đắc Lạc - người gắn bó với Trường từ năm 1985 đến nay, đã đảm nhiệm nhiều vị trí công tác và chính thức trở

thành người chịu trách nhiệm cao nhất vào năm 2007 - vẫn luôn lao động sáng tạo không ngừng nhằm đóng góp nhiều nhất có thể vào sự nghiệp phát triển chung của đơn vị. Thiết nghĩ, một người trưởng thành ngay trong chính Nhà trường như ông hẳn rất có lợi thế. Sở dĩ nói như vậy là vì ông nắm rất rõ mặt mạnh,

TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP TUY HÒA

Tâm huyết của một người thầy

l TRÚC LAM

Không chỉ nắm giữ cương vị Hiệu trưởng, ông Trần Đắc Lạc còn có thâm niên gần 30 năm gắn bó với Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa. Chính vì vậy, ông luôn coi Trường là mái nhà thứ hai với rất nhiều tâm huyết phát triển sự nghiệp trồng người. Là một người thầy, ông quan niệm: một cái cây tốt sẽ góp phần làm nên một khu rừng tốt. Càng nhiều cây tốt thì khu rừng càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ.

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Trái) và Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (Phải) trao Giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” cho Đại diện Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

83

THÖÔNG HIEÄU & NHAÕN HIEÄU TÖØ GOÙC NHÌN VAÊN HOÙA

Page 84: Van hien so6 14

mặt yếu của đơn vị để từ đó cùng với Ban lãnh đạo dựa trên tình hình thực tế của xã hội, đưa ra những quyết sách phát triển phù hợp cho Trường. Là người tâm huyết với sự nghiệp đào tạo, ông luôn sâu sát với công việc của đơn vị. Ông không muốn bất kỳ công việc nào gây ảnh hưởng tới chất lượng dạy và học. Làm gì cũng phải chuyên tâm thì mới có hiệu quả cao. Đó là quan điểm làm việc của ông. Nên, dù bận rộn nhưng ông vẫn trực tiếp trả lời tất cả các thư điện tử do cán bộ viên chức và học sinh sinh viên gửi tới hộp thư cá nhân của mình.

Mới đó mà thầy Trần Đắc Lạc đã nắm giữ trọng trách Hiệu trưởng được bảy năm. Dưới sự lãnh đạo của ông, Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa đang vươn lên phát triển mạnh mẽ. Chỉ tiêu tuyển sinh liên tục tăng với 80% số học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường tìm được việc làm phù hợp. Để làm được điều này, ông đã công khai xây dựng quy chế tuyển dụng lao động nhằm tuyển dụng được đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của Nhà trường. Mặt khác, do hiểu rõ hiệu quả của việc đào tạo lại trong môi trường giáo dục, ông đã cùng với Nhà trường, mạnh dạn trích kinh phí, tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên được tham gia vào các khóa học tập nâng cao, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ như: nghiên cứu sinh, cao học, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý giáo dục, văn thư lưu trữ,… Đồng thời, tổ chức liên kết, hợp tác với các trường đại học trong nước, với các tổ chức giáo dục nước ngoài như Trường Đại học Bách khoa Côn Minh,… Hiện tại, Trường có 09 tiến sỹ, 16 nghiên cứu sinh,

134 thạc sỹ, chiếm gần 70% trong tổng số giáo viên cơ hữu của đơn vị. Hơn nữa, để hạn chế tình trạng lãng phí chất xám, thầy Hiệu trưởng đã thực hiện luân chuyển cán bộ, đem lại tác dụng tích cực trong giảng dạy và quản lý. Ngoài ra, tổ chức xây dựng mạng LAN nội bộ, mạng internet cho toàn trường, thực hiện hành chính điện tử trong nhà trường từ đó, tiết kiệm được nhiều kinh phí và xác lập được các kênh thông tin nhanh chóng. Trường có sáng kiến thu thập bộ mẫu đá Ốplat Việt Nam để phục vụ giảng dạy các môn học Địa chất khoáng sản và Địa chất Việt Nam.

Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo song Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hòa vẫn dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác nghiên cứu khoa học. Đều đặn mỗi năm Nhà trường triển khai ít nhất một đề tài cấp Bộ hoặc cấp tỉnh. Các đề tài đã được thực hiện trong những năm gần đây gồm: xây dựng Chương trình đào tạo ngành Trắc địa, Nghiên cứu đánh giá trượt lở Núi Nhạn thành phố Tuy Hòa, Nghiên cứu đánh giá tai biến địa chất môi trường xã An Lĩnh và giải pháp khắc phục đất nứt, trượt lở (vùng trọng điểm sụt nứt và trượt lở Phú Yên),…

Sự năng động, sáng tạo và dám nghĩ dám làm của lãnh đạo đơn vị trong thời gian qua đã đảm bảo việc làm ổn định cho trên 300 cán bộ viên chức lao động với mức thu nhập mỗi năm tăng 10%. Chưa kể một số định mức về khen thưởng, phụ cấp nặng nhọc, độc hại năm sau tăng gấp đôi so với năm trước. Được biết, Trường đã đề ra và thực hiện bốn giải pháp tiết kiệm. Nhờ đó, từ năm 2008-2012, đã tiết kiệm

được hơn 4 tỷ đồng. Số tiền này được bổ sung vào kinh phí và góp phần vào việc tăng thu nhập cho cán bộ viên chức. Với cách thức quản lý điều hành công khai, minh bạch, dân chủ và quan tâm tới đời sống của người lao động, thầy Trần Đắc Lạc đã tập hợp được cán bộ, giáo viên, nhân viên; mọi hoạt động của Nhà trường đều nhận được sự đồng thuận cao.

Đối với hoạt động từ thiện, thầy Trần Đắc Lạc đã chỉ đạo Nhà trường tham gia tích cực các hoạt động nhân đạo, từ thiện do ngành và tỉnh phát động như: nhận phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, cứu trợ đồng bào bị thiệt hại do bão lụt, tặng 06 nhà đại đoàn kết, ủng hộ 500 ngày công lao động khắc phục hậu quả bão lụt, lắp đặt lại đường dây điện chiếu sáng cho đồng bào vùng lũ, vận động hiến máu tình nguyện mỗi năm từ 150-250 đơn vị máu. Từ năm 2010, trường tổ chức ngân hàng máu sống gồm 34 đoàn viên thanh niên là giáo viên trẻ và học sinh sinh viên tham gia, thực hiện được nhiều ca truyền máu trực tiếp cấp cứu tại các bệnh viện trong tỉnh Phú Yên.

30 năm tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, hết lòng với sự phát triển của Nhà trường đã mang lại cho thầy Trần Đắc Lạc nhiều thành tích khen thưởng như: Huân chương Lao động hạng Ba, danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Chiến sỹ thi đua Bộ Công thương, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công thương, giải thưởng Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới 2013,… Nhưng có lẽ, với ông, sự tin yêu, quý mến của các đồng nghiệp và các thế hệ học trò chính là phần thưởng lớn nhất, quý giá nhất.n

84

THÖÔNG HIEÄU & NHAÕN HIEÄU TÖØ GOÙC NHÌN VAÊN HOÙA

Page 85: Van hien so6 14

Khi doanh nghiệp đồng hành với người nông dân

Tiền thân là Công ty TNHH mía đường Bourbon Tây Ninh do Tập đoàn Bourbon (Pháp) sở hữu 100% vốn, đến năm 2007, chuyển hoạt động theo mô hình cổ phần với vốn điều lệ gần 1.420 tỷ đồng. Doanh nghiệp có nhà máy rộng 32ha, tọa lạc tại xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, cách thị xã Tây Ninh 20km. Tại đây, chuyên sản xuất đường tinh luyện theo tiêu chuẩn Châu Âu, công suất thiết kế giai đoạn đầu 8.000 tấn mía/ngày, giai đoạn hai là 16.000 tấn mía/ngày. Ngoài sản phẩm chính là đường, Công ty còn có phụ phẩm là mật rỉ và điện được sản xuất bằng cách tận thu từ nhiệt đốt bã mía để sử dụng nội bộ và bán cho lưới điện quốc gia.

Với dây chuyền máy móc, thiết bị hiện đại, hoàn toàn tự động, được vận hành bởi đội ngũ lao động chất lượng cao, dày dạn

kinh nghiệm, Bourbon Tây Ninh đang khẳng định vị thế tiên phong trong lĩnh vực sản xuất đường tại Việt Nam. Trong thời gian qua, doanh nghiệp đã và đang trở thành bạn hàng tin cậy của nhiều thương hiệu sản xuất thực phẩm bánh kẹo, nước giải khát nổi tiếng như: Pepsi, Vinamilk, Kinh Đô, Trung Nguyên,… với những sản phẩm đường tinh luyện cao cấp Mimosa, đường tinh luyện Bonsu siêu sạch. Gần đây, để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn trong việc đảm bảo sức khỏe, đồng thời hòa chung xu hướng sử dụng các sản phẩm siêu sạch, có nguồn gốc tự nhiên, doanh nghiệp đã đẩy mạnh nghiên cứu, đầu tư, tuyển chọn khắt khe nguồn nguyên liệu nhằm đảm bảo chỉ tiêu: sạch, không hóa chất, không sâu rầy, giữ được lượng khoáng chất và vitamin tự nhiên của cây mía khi qua khâu chế biến. Đó là sản phẩm đường vàng tinh

thiên nhiên GoldSu, vị ngọt ngào, hương thơm tự nhiên.

Đương nhiên, để có thể thực hiện được điều này, Công ty đã chủ động xây dựng vùng nguyên liệu bền vững - yếu tố quan trọng với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất nào. Cùng với việc triển khai nhiều giải pháp khoa học, quản lý, bảo vệ môi trường đối với hoạt động trồng, khai thác cây mía, doanh nghiệp còn thực hiện nhiều chính sách đảm bảo lợi ích của người nông dân trồng mía với mục tiêu coi họ là những người đồng hành trong quá trình phát triển, giữ vững danh hiệu vốn có của Tây Ninh là “Thủ đô mía đường”.

Trong thời gian gần đây, Công ty có nhiều bước tiến mới, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Bourbon Tây Ninh nói riêng và ngành mía đường Việt Nam nói chung. Vụ mía đường 2010-2011 có thể nói là vụ ép thành công nhất của nhà máy kể từ khi thành

l ĐẠI MIÊU

CÔNG TY CỔ PHẦN BOURBON TÂY NINH

NỮ DOANH NHÂNTRẺ TUỔI TÀI CAO

Với những vị trí từng đảm nhận như: Phó Tổng Giám đốc thường trực (2007-2009), Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư Thành Thành Công (2009-2012) và Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Bourbon Tây Ninh (2012 - đến nay), chắc chắn nhiều người sẽ nghĩ rằng đây là một doanh nhân già dặn cả tuổi đời lẫn tuổi nghề. Tuy nhiên, hiện tại cô mới chỉ trên 30 tuổi và tên là Đặng Huỳnh Ức My.

‘ ‘

85

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 86: Van hien so6 14

lập đến nay với sản lượng mía ép đạt trên 933.000 tấn, đường RE trên 100.000 tấn, điện đạt 49.000 Mwh. Vụ ép 2011-2012, doanh nghiệp hoàn thành dự án nâng công suất từ 8.000TMN lên 9.000TMN. Được biết, đây là bước đi lớn, tạo ra hiệu quả thiết thực trong công tác sản xuất và thu hoạch mía. Hơn nữa, góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho Công ty trên thị trường trong nước và khu vực.

Kế tục truyền thống gia đìnhCó thể nói Đặng Huỳnh Ức

My là một kiều nữ con đại gia. Cô sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống kinh doanh với bố là Đặng Văn Thành - cựu Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank); mẹ là “Nữ hoàng mía đường” Huỳnh Bích Ngọc và anh trai là Đặng Hồng Anh - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Địa ốc Sài Gòn Thương Tín.

Điều đáng nói là, sinh ra trong nhung lụa nhưng không như nhiều con nhà đại gia khác chỉ lo ăn chơi đua đòi, Ức My đã từng sang New Zealand du học và lấy bằng cử nhân Quản trị kinh doanh - tài chính. Về nước, cô theo mẹ hoạt động trong ngành mía đường. Kiến thức cộng với khả năng trời phú về kinh doanh đã giúp cô nhanh chóng khẳng định năng lực trên thương trường. Và cô, đang được mệnh danh là “Công chúa mía đường”. Với nhiều người, sự trưởng thành của cô trong kinh doanh là một điều tất yếu khi cô có đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Song, tin chắc nếu không có nỗ lực của bản thân cô thì mọi yếu tố trên đều hoàn toàn trở thành vô giá trị.

Trẻ trung, tài giỏi và giàu có, Ức My không chỉ là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Bourbon Tây Ninh mà còn đảm nhiệm các trọng trách: Thành viên HĐQT Công ty cổ phần Đường Biên Hòa, Thành viên Ban kiểm soát Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín. Bên cạnh đó, cô còn tích cực tham gia đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp Nhà nước trong tiến trình cổ phần hóa nhằm tạo điều kiện thúc đẩy khả năng quản lý năng động, nhạy bén và tự chủ trong kinh doanh, vừa có khả năng đầu tư đổi mới máy móc, nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn cao hơn.

Không chỉ lập thành tích xuất sắc trong hoạt động điều hành sản xuất kinh doanh, với các hoạt động từ thiện, cộng đồng, Đặng Huỳnh Ức My cũng có những đóng góp đáng nể. Trong những năm qua, cô đã chỉ đạo doanh nghiệp tham gia các chương trình bình ổn thị trường suốt nhiều năm

liền, tham gia chương trình “Một triệu tấn đường”, xây tặng 07 nhà Đại đoàn kết cho người nghèo huyện Tân Biên trị giá 210 triệu đồng, đóng góp xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Tây Ninh,… Rõ ràng, những đóng góp thiết thực này vừa thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với cộng đồng, vừa thể hiện ý thức của người lãnh đạo trong sự nghiệp điều hành sản xuất của Công ty: trong xã hội - cộng đồng có doanh nghiệp, trong doanh nghiệp có xã hội - cồng đồng. Chính vì vậy, trong hành trang doanh nhân của Đặng Huỳnh Ức My không thể không kể đến những bằng khen, danh hiệu và giải thưởng mà cô và Công ty đã vinh dự được các cơ quan chức năng trao tặng. Với riêng nữ doanh nhân trẻ tuổi này, giải thưởng Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới 2013 còn mang một ý nghĩa khác, giải thưởng đầu tiên ghi nhận khả năng cũng như những cống hiến của cô đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh của địa phương và đất nước.n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Trái) và Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (Phải) trao Giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” cho đại diện Công ty cổ phần Bourbon Tây Ninh tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

86

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 87: Van hien so6 14

Hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, Công ty cổ phần Tập đoàn Hà Đô không chỉ là một thương hiệu mạnh, mà còn là đối thủ nặng ký đối với nhiều doanh nghiệp xây dựng trong cả nước. Trong những năm qua, dấu ấn của doanh nghiệp đã được thể hiện đậm nét qua rất nhiều công trình trải dài từ Bắc chí Nam như: đường tuần tra biên giới tỉnh Kon Tum, Thanh Hóa, Nghệ An; đường Đông Trường Sơn tỉnh Gia Lai; đường quanh đảo và bến cập tàu xã đảo Lại Sơn, xã đảo An Sơn, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang; đường bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng; đường quanh đảo cù lao xanh Bình Định, đường quanh đảo cù lao Chàm - Quảng Nam; Nhà máy thủy điện Buôn Tuasra - Đắk Lắk, thủy điện Huội Quảng - Hà Giang, thủy điện sông Ba Hạ - Phú Yên, thủy điện An

Khêknak - Gia Lai; hệ thống công trình huấn luyện toàn quân; cụm kho hóa chất phóng xạ và cụm kho đặc chủng khí tài K63; trụ sở Văn phòng Quốc hội phía Nam, trụ sở Thanh tra Chính phủ, các bệnh viện Điện Biên, Lai Châu, Thái Nguyên, Vĩnh Long, Nhà máy in tiền Quốc gia;… Các công trình do Công ty thi công đều được chủ đầu tư đánh giá cao, góp phần đáng kể vào sự nghiệp đảm bảo an ninh, chính trị, kinh tế của đất nước. Ghi nhận những cống hiến tích cực của Hà Đô, năm 2004, Nhà nước đã tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì; năm 2010 được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhất; bên cạnh đó là những danh hiệu: Thương hiệu mạnh Việt Nam 2009, Top 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Năm 2011-2012, Top 1.000 doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh

Là một trong những thành viên đầu tiên sáng lập Công ty, hơn 20 năm qua, ông luôn cùng với tập thể cán bộ, nhân viên nỗ lực đưa doanh nghiệp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều này giúp lý giải phần nào sự tín nhiệm của quần chúng đối với ông khi ông luôn được tin tưởng giao nhiều chức vụ chủ chốt trong đơn vị như: Phó Giám đốc Công ty, Giám đốc Xí nghiệp. Nhất là từ khi đơn vị tiến hành cổ phần hóa, ông được bầu vào HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Hà Đô 1 và từ tháng 7/2010 là Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Hà Đô. Ông chính là Đại tá Đào Hữu Khanh.

CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN HÀ ĐÔ

NỖ LỰC

CỦA MỘT NHÀ

QUẢNLÝ

XUẤTSẮC

l TRÚC LAM

87

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 88: Van hien so6 14

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Trái) và Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam (Phải) trao Giải thưởng “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” cho Đại diện Công ty cổ phần tập đoàn Hà Đô tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

nghiệp lớn nhất Việt Nam 2012, Top 50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam 2012,…

Quay trở lại với doanh nhân Đào Hữu Khanh. Vừa là thành viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc của Công ty cổ phần Tập đoàn Hà Đô, vừa là thường trực HĐQT Công ty cổ phần Hà Đô 1, có thể nói cùng lúc ông đảm nhiệm nhiều cương vị lãnh đạo tại cả công ty mẹ và công ty con, công việc vì thế luôn luôn bận rộn. Nhưng vượt qua tất cả, ông vui vì được mọi người tin yêu quí trọng. Vui vì năng lực bản thân được thừa nhận. Vui vì đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển toàn diện của doanh nghiệp. Được biết, tại Hà Đô, doanh nhân Đào Hữu Khanh trực tiếp quản lý, điều hành lĩnh vực kế hoạch, hành chính nhân sự. Từng trải qua nhiều lớp đào tạo ngắn và dài hạn về quản lý kinh tế, ông hiểu rất rõ vai trò của sự chủ động. Chủ động sẽ giúp mình tự chủ ứng phó với mọi tình huống, kể cả những tình huống xấu không mong muốn. Chủ động sẽ giúp mình đạt được những mục tiêu. Do đó, đối với vấn đề nhân sự, ông cùng với Ban lãnh đạo Tập đoàn chủ động thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực quản lý cho bản thân và cán bộ nhân viên nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, sẵn sàng thích ứng với tình hình mới. Ngoài ra, để tăng khả năng cạnh tranh, Hà Đô luôn chủ động đầu tư thiết bị mới, hiện đại, đồng bộ; từ đó tăng năng suất lao động, bảo đảm tối đa an toàn thi công, an toàn lao động trên các công trường. Nhờ đó, doanh nghiệp luôn đạt được nhiều thành

tích trong lĩnh vực xây dựng các công trình xây dựng quốc phòng, dân dụng, công nghiệp, hạ tầng. Thế mạnh của Công ty là thi công các đường biên giới, hải đảo phục vụ quốc phòng và dân sinh. Trên thực tế, thi công các công trình này gặp không ít khó khăn vì xa xôi, địa bàn phức tạp nhưng sự sâu sát, không quản ngại vất vả của các cá nhân trong Ban lãnh đạo đã thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, năm sau cao hơn năm trước - năm 2010 tăng 20% so với năm 2009, năm 2011 tăng 70% so với năm 2010.

Mặt khác, tại Hà Đô, các chính sách phúc lợi cho người lao động luôn được chú trọng. Công tác an toàn bảo hộ lao động, khám sức khỏe định kỳ được duy trì thường xuyên. Và với Đại tá Đào Hữu Khanh nói riêng và với Tập đoàn Hà Đô nói chung, trách nhiệm xã hội là một phần không thể thiếu của doanh nghiệp. Tại các địa bàn đơn vị thi công, nhiều nhà tình nghĩa đã được xây dựng để

giúp đỡ đồng bào nghèo. Các phong trào: Đền ơn đáp nghĩa, hậu phương quân đội, xây mộ cho đồng đội,… được Công ty thực hiện tốt.

Trở thành một phần của Tập đoàn Hà Đô và có ảnh hưởng nhất định đối với doanh nghiệp, Đại tá Đào Hữu Khanh chắc chắn đã đóng góp không ít công sức cho sự nghiệp phát triển chung. Và khi Công ty ngày càng phát triển với vị thế và thương hiệu đã được khẳng định, thì ông được vinh danh với các phần thưởng: Huân chương Chiến sỹ vẻ vang 1, 2, 3; Huân chương Chiến công hạng I; Huy chương Quân kỳ chiến thắng; danh hiệu Chiến sỹ thi đua cơ sở cấp Viện Khoa học và Công nghệ quân sự cùng nhiều Bằng khen, Giấy khen của các cơ quan ban ngành. Trong năm 2013, ông là một trong số các doanh nhân Việt Nam được trao tặng giải thưởng Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới 2013 tại Thủ đô Viêng-chăn (Lào). n

88

DOANH NHAÂN TAÂM - TAØI

Page 89: Van hien so6 14

l MỘNG HUỆ

TỔNG CTY CP DỊCH VỤ KỸ THUẬT DẦU KHÍ VIỆT NAM

Chinh phục công nghệ cao

Để có được cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại; hệ thống quản lý tiên tiến; đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật chuyên nghiệp như hiện nay, ngay từ những ngày đầu thành lập, Tổng Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam (viết tắt là PTSC) đã đầu tư mạnh mẽ cho các hạng mục nói trên. Nhờ đó, Công ty không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; mà còn đã và đang trở thành đơn vị đứng đầu cả nước trong lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật dầu khí.

Doanh nghiệp hàng đầuÔng Lê Cự Tân - Phó Tổng

Giám đốc Công ty cho biết: Suốt quá trình hình thành và phát triển, doanh nghiệp đã thiết lập được nhiều mối quan hệ, hợp tác lâu dài và tin cậy với các đối tác chiến lược nước ngoài có trình độ công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong khu vực và trên thế giới nhằm đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ. Chính vì vậy, PTSC luôn duy trì, phát triển đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao trong các lĩnh vực: tàu dịch vụ, cơ khí hàng hải, bốc xếp hàng hóa, vận chuyển, kho chứa FSC, FSRO, vận hành bảo dưỡng công trình dầu khí, chế tạo phương tiện nổi, dịch vụ ROV,… Qua đó, đã đáp ứng được phần lớn các dịch vụ kỹ thuật trong các giai đoạn tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở trong nước. Từ năm 2006 đến

nay, Công ty đã thực hiện thành công nhiều công trình, dự án cho các nhà thầu dầu khí trong nước và nước ngoài, từng bước khẳng định là đơn vị đứng đầu toàn quốc về khoa học công nghệ trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ kỹ thuật dầu khí.

Sản xuất kinh doanh thành công đã mang lại doanh thu lớn cho PTSC. Với vốn điều lệ gần 4.470.000 triệu đồng, doanh thu của Công ty năm 2011 đạt trên 24.310.000 triệu đồng và năm 2012 là 24.590.000 triệu đồng. Tổng số cán bộ công nhân viên gần 8.500 người được đảm bảo thu nhập bình quân ở mức 17 triệu đồng/người/tháng. Bên cạnh đó, mỗi năm doanh nghiệp còn tham gia các hoạt động từ thiện xã hội từ Trung ương đến địa phương với số tiền hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Được biết, năm 2011 là 45 tỷ đồng, năm 2012 là 47,5 tỷ đồng.

Bí quyết làm nên thương hiệu

Song song với biện pháp đã nêu ở trên, một trong những bí quyết góp phần làm nên sự lớn mạnh của PTSC ngày hôm nay chính là chú trọng xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao.

Thực tế, do yêu cầu về khoa học công nghệ trong ngành dầu khí đòi hỏi trình độ cao nên cùng với việc tuyển dụng người lao động được đào tạo các kiến thức chuyên môn cơ bản, trong quá trình làm việc, doanh nghiệp đã từng bước đào tạo, chọn lọc để có được lực lượng cán bộ công nhân viên vừa có trình độ, vừa thích nghi được với môi trường và tác phong làm việc của lĩnh vực dầu khí, đòi hỏi tính chính xác và sự khắt khe. Thông qua việc chuyển giao công nghệ từ các dự án hợp tác trong và ngoài nước dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia nước ngoài

‘ ‘

89

THÖÔNG HIEÄU & NHAÕN HIEÄU TÖØ GOÙC NHÌN VAÊN HOÙA

Page 90: Van hien so6 14

giàu kinh nghiệm, chất lượng lao động của PTSC được nâng cao rõ rệt. Thời gian qua, các kỹ sư, cán bộ, công nhân viên của Công ty đã tự tổ chức nghiên cứu, thiết kế công nghệ chế tạo, làm chủ được nhiều công trình, dự án, tạo nền tảng vững chắc cho định hướng phát triển bền vững, lâu dài. Tuy nhiên, với một số lĩnh vực khắc nghiệt, những hạn chế về kinh nghiệm quản lý, vận hành và trình độ ngoại ngữ vẫn là những rào cản đối với các cán bộ, kỹ sư, công nhân viên của Công ty. Do đó, tại PTSC, công tác đào tạo và đào tạo lại luôn được chú trọng nhằm giúp việc chuyển giao công nghệ hiệu quả hơn, đồng thời, tạo điều kiện để người lao động trong Công ty kịp thời bắt nhịp với sự phát triển trong khu vực và quốc tế.

Tại PTSC, nhân sự hàng hải, nhân sự địa chấn đã được tuyển và phối hợp với đối tác đào tạo, chuyển giao công nghệ. Sau đó đã nhận chuyển giao toàn bộ công nghệ quản lý, vận hành tàu khảo sát địa chấn cho Việt Nam, đã quản lý và vận hành tàu khảo sát địa chấn 2D, các công nghệ khảo sát công trình ngầm, thiết bị ROV, vận hành bảo dưỡng công trình dầu khí biển,… Đối với lĩnh vực cơ khí hàng hải, Công ty đã từng bước tiếp cận mục tiêu tăng tỷ trọng tham gia trong từng phần của góp thầu (thiết kế, mua sắm, thi công, lắp đặt, đấu nối, chạy thử,…), đã làm chủ việc chế tạo giàn khoan tự nâng

90m nước, đã dảm nhận hầu hết các công đoạn cho công tác thiết kế thi công, hoàn thiện năng lực mua sắm cho các vật tư chính, cụm thiết bị, dần tiếp cận khả năng đánh giá kỹ thuật mua sắm các cụm công nghệ và các thiết bị có cấu tạo phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao.

Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng, các chính sách quan tâm đến đời sống người lao động của lãnh đạo Công ty cũng góp phần không nhỏ vào việc hình thành nên tinh thần làm việc trách nhiệm, nhiệt huyết, yêu nghề của các kỹ sư, cán bộ và công nhân viên. Cùng với việc đảm bảo mức thu nhập cao, doanh nghiệp duy trì ổn định các hình thức thưởng tiền vào các ngày lễ tết, có chế độ trợ cấp ốm đau, khó khăn. Đặc biệt, một số chế độ chính sách ưu việt và đặc thù cho người lao động tại một số đơn vị hay vị trí công việc cũng trở thành sức hút nguồn nhân lực của PTSC. Hoặc do có sự chênh lệch về phát triển và lợi nhuận giữa các đơn vị trong Tổng Công ty, để đảm bảo cân đối, công bằng, hợp lý về các chế độ chính

sách cho người lao động, doanh nghiệp đã thực hiện trích Quỹ tiền lương, Quỹ khen thưởng phúc lợi để nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên cho các đơn vị còn gặp nhiều khó khăn. Và đây cũng chính là cơ sở để khẳng định năng lực sáng tạo, áp dụng và cải tiến công nghệ của Tổng Công ty trong hiện tại và tương lai.

Hơn 20 năm không ngừng hoàn thiện năng lực bản thân, PTSC đã khẳng định được thương hiệu của mình trong các lĩnh vực: dịch vụ kỹ thuật dầu khí, dịch vụ khảo sát và công nghệ hàng hải. Sự nỗ lực này, có thể coi là yếu tố mở đường để Tổng Công ty chinh phục thị trường khu vực và thế giới, chinh phục mục tiêu trở thành một trong ba đơn vị dịch vụ kỹ thuật dầu khí hàng đầu của khu vực Đông nam Á. Và, sự nỗ lực này, còn mang về cho Tổng Công ty nhiều hình thức khen thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức. Trong đó, không thể không nhắc tới giải thưởng Thương hiệu nổi tiếng Asean 2013.n

Ảnh: Đặng Thị Kim Phương

90

THÖÔNG HIEÄU & NHAÕN HIEÄU TÖØ GOÙC NHÌN VAÊN HOÙA

Page 91: Van hien so6 14

Đó là Phan Lữ Thùy Linh, một phụ nữ trẻ đẹp bộc lộ rất rõ nét người Xứ

Quảng, từ giọng nói đến cách ứng xử nhẹ nhàng, thân thiện và nhiệt tình, bất kỳ ai mới gặp đều có cảm tình. Phan Lữ Thùy Linh rất yêu thích văn nghệ và rất quý trọng những người hoạt động trong lĩnh vực này. Mặc dù chị là doanh nhân tự do, chủ khách sạn Ieffel ở 117 Lê Độ, Đà Nẵng nhưng vẫn giành thì giờ cho thơ ca và hội họa.

Chồng chị, kỹ sư Trần Quang Tuấn, cựu biệt động thành Đà Nẵng đã từng bị bắt bỏ tù Côn Đảo và đã từng là phó TGĐ Vinasin phụ trách miền Trung, tuy nghề nghiệp có khô khan nhưng vẫn mang tâm hồn văn nghệ. Hai tâm hồn Thùy Linh và Quang Tuấn đồng điệu nên luôn giành cho những cơ quan và cá nhân hoạt động văn hóa nghệ thuật một sự ưu ái và kính trọng. Ví dụ mùa hè năm 2007 lãnh đạo TP Đà Nẵng mời ba giáo sư ở ba miền (Bắc, Trung, Nam) là

GS Vũ Khiêu, GS Trần Văn Khê và GS Hoàng Chương đến nghỉ ngơi ở Đà Nẵng thì vợ chồng Phan Lữ Thùy Linh giành cả ba phòng Vip khách sạn của mình cho ba giáo sư nghỉ ngơi miễn phí. Hoặc cuối năm 2009 cũng Chủ tịch TP Đà Nẵng mời đoàn nghệ thuật dân tộc hơn mười người thuộc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam từ Hà Nội đến Đà Nẵng biểu diễn phục vụ cán bộ và nhân dân thì, vợ chồng Phan Lữ Thùy Linh lại mời đoàn đến ở miễn phí tại khách sạn của mình và hơn thế nữa, ông bà còn cho Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc Việt Nam sử dụng một diện tích khang trang ở tầng 5 khách sạn Eieffel làm trụ sở cơ quan đại diện tại Đà Nẵng và mặc dù cả hai vợ chồng đều bận việc kinh doanh, việc xã hội “vác tù và hàng tổng” nhưng vẫn nhận lời làm giám đốc và phó giám đốc cho cơ quan đại diện này. Họ đã giúp cho Trung tâm Nghiên cứu

bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam tổ chức hàng loạt sự kiện như: Mít tinh tưởng niệm các văn nghệ sĩ đã hi sinh trên mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng thời chống Mỹ; Hội thảo các danh nhân văn hóa như: Phan Khôi, Hằng Phương, GS Hoàng Châu Ký; Hội thảo văn hóa giao thong; và nhiều cuộc tọa đàm văn học nghệ thuật, góp phần bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc ở Xứ Quảng. Dù bận việc điều hành khách sạn, bận việc gia đình con cái, nhưng Phan Lữ Thùy Linh vẫn giành một phần thời gian cho tình yêu văn nghệ. Bài thơ Tình Em được Phan Lữ Thùy Linh sáng tác từ lúc mới bắt đầu yêu:

Bộn bề trong trái tim emNhớ thương hờn giận nửa

đêm lại vềCuộc đời còn lắm nhiêu khêMà em như mảnh thuyền tre

giữa dòngBiết lòng người có thật khôngTình em đổ xuống mấy sông cũng tràn.

l HOÀNG BÍCH NGỌC

Phác họa chân dungmột nữ doanh nhânyêu văn nghệ

Phan Lữ Thùy Linh

trên nền bức tranh sông

nước của chị

91

Page 92: Van hien so6 14

Cả trong giấc ngủ mơ màng…Bên em vẳng tiếng dịu dàng của anh.Dẫu yêu mà khổ cũng đànhKhi yêu nào biết riêng mình thiệt hơn.Mong anh đừng có dỗi hờnBên anh em thấy nỗi buồn nhẹ tênhHỡi người có hiểu lòng emTrái tim trong trắng em đem tặng ngườiDuyên mình trời đã xe rồi Thì ta giữ đến muôn đời nhé anh.

Tôi cho rằng đây là bài thơ đẹp về tình yêu, yêu chân thành, chung thủy theo truyền thống cha ông xưa, thông qua những hình ảnh quen thuộc ở miền quê và ngôn ngữ cũng đậm đặc chất dân gian như ca dao xưa:

Tình đời còn lắm nhiêu khêMà em như mảnh thuyền tre

giữa dòng…Câu kết bài thơ cũng rất chân

thành, đậm chất dân gian, ít thấy trong thơ tình hiện đại: Duyên mình trời đã xe rồi Thì ta giữ đến muôn đời nhé anh.

Phan Lữ Thùy Linh thường nói trong thơ có họa và trong họa có thơ, nên yêu thích cả hai loại hình, chị làm thơ để mình đọc,

để tặng người yêu và bạn bè là chính, thỉnh thoảng mới công bố một đôi bài trên mặt báo cho vui. Phan Lữ Thùy Linh yêu thơ gắn với lòng yêu quê hương, yêu đất nước , thể hiện trong việc đặt tên hai đứa con trai của mình là Trường Sa và Hoàng Sa qua bài thơ Ước Vọng:

Tên con mẹ đặt Trường SaGửi bao khát vọng ông cha

bao đờiSóng to gió bão ngoài khơiMà trong lòng mẹ rối bời ruột ganMong con khôn lớn hiên ngangĐạp cơn sóng dữ xua tan mây mờNăng khiếu nghệ thuật hội

họa của Phan Lữ Thùy Linh bộ lộ rõ nhất là chỉ sau mấy tháng học vẽ ở câu lạc bộ mỹ thuật thành phố, chị đã vẽ được nhiều bức tranh đẹp về phong cảnh ở miền đất Quảng Nam - Đà Nẵng, như Bà Nà, Cù Lao Chàm, Sông Hàn, Sông Thu Bồn và một số tranh vẽ miền quê sông nước gắn với sinh hoạt của người nông dân cần cù, trông thật bắt mắt, dễ thương. Gần giống như Trung

tướng, nhà văn, họa sĩ Hữu Ước nổi tiếng, sáng tác rất nhiều tranh đẹp nhưng không tổ chức triển lãm mà chỉ treo ở nơi làm việc của mình giữa Trung tâm Hà Nội cho bạn bè, đồng nghiệp và những người yêu nghệ thuật hội họa thưởng ngoạn.

Phan Lữ Thùy Linh cũng giành cả tầng trệt khách sạn Eieffel làm phòng trưng bày tranh của mình để khách đến có cơ hội ngắm tranh thư giãn và cũng để biết thêm về phong cảnh thiên nhiên của miền đất Quảng xinh đẹp và mến khách:Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấmRượu Hồng Đào chưa nhấm đã say…

Anh về đừng ngủ gác tayHỏi nơi mô ơn trọng nghĩa

dày bằng ni…Chúc cho nữ doanh nhân

mang tâm hồn nghệ sĩ Phan Lữ Thùy Linh giữ mãi lời nguyền: “Duyên mình trời đã xe rồi…” cái duyên với nghệ thuật thơ ca và hội họa sẽ mãi mãi tồn tại và sản sinh ra được nhiều tác phẩm thơ và họa hay hơn, đẹp hơn nữa./.n

Bình minh trên biển Đà Nẵng. Ảnh: Trịnh Thu Nguyệt

92

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 93: Van hien so6 14

Sách là nền tảng tri thức của văn hóa đọc, giúp con người nâng cao trí tuệ nhiều lĩnh vực, như Lênin nói: “Không có sách thì

không có trí thức… Quyển sách “Châu Âu dưới ánh hoàng hôn” của tác giả Mác Tuyên, do Nhà xuất bản Từ Điển Bách Khoa ấn hành năm 2013 - Biên mục trên xuất bản của Thư viện Quốc gia Việt Nam, đã gây nhiều cảm xúc trong tôi và coi đây là quyển sách cần đọc.

Tôi đã nhiều năm học tập, nghiên cứu ở một số nước Châu Âu, nhưng chưa bao giờ dám nghĩ sẽ viết một quyển sách về Châu Âu. Vì thế tôi thật sự cảm phục Nhà giáo, nhạc sĩ Mác Tuyên với quyển sách “Châu Âu dưới ánh hoàng hôn” dài 300 trang, cùng nhiều hình ảnh minh họa sinh động và hấp dẫn, trong đó chứa đựng nhiều thông tin, kiến thức.

Tôi biết nhạc sĩ Mác Tuyên viết quyển sách này, trong thời gian ông bị bệnh tim phải phẫu thuật ở cái tuổi “Xưa nay hiếm”. Đây là một tấm gương lao động trí tuệ đáng kính, bởi ngoài viết sách, ông còn sáng tác nhạc và sáng chế đàn Lạc Cầm. Có thể nói tên tuổi Nhà giáo - Nhạc sĩ Mác Tuyên gắn liền với công trình khoa học sáng chế Lạc cầm 16. Đây là công trình mất nửa thế kỷ mới hoàn thành, được các nhà khoa học và nhiều nghệ sĩ trong nước và quốc tế đánh giá cao, coi đây là công trình bác học. Hệ thống Lạc cầm 12 - 13 - 15 được đưa vào Bảo tàng cách mạng Việt Nam và Lạc cầm 16 được đặt vào vị trí di sản quốc gia.

Thành công của Lạc cầm 16 đã chứng minh sức lao động sáng tạo vô cùng bền bỉ của một nghệ sĩ cao nhiên, đầy tâm huyết với nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Sức lao động bền bỉ đó của một người trí thức vì sự nghiệp văn hóa dân tộc. Ông dàn trải tâm hồn thơ, nhạc và khoa học đầy nhiệt

tình trong nội dung quyển sách “Châu Âu dưới ánh hoàng hôn”. Đây là quyển sách viết theo thể loại tự do, của một phong cách phóng khoáng - Vừa bút ký, vừa hồi ức; kết hợp kiến thức văn học sử, cùng thơ và âm nhạc. Tác giả đã tạo được sự phong phú nhiều phương diện trong một tác phẩm văn học theo thể loại bút ký. Điều đó thể hiện rất rõ trong các buổi tiếp xúc, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật với cộng đồng người Việt tại thành phố Prankfurt - Cộng hòa liên bang Đức. Qua những buổi tiếp xúc đó, Mác Tuyên đã thể hiện tâm hồn nghệ sĩ Việt Nam bay bổng dưới trời Tây, theo cường độ, âm giai và tiết tấu của nhiều ca khúc cách mạng: “Hà Nội niềm tin và hy vọng”, “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”, “Mẹ đào hầm”, “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn” v.v… như chuyển thêm nguồn năng lượng Việt Nam cho những Việt kiều đã nhiều năm sống xa quê hương.

Trong sách Mác Tuyên miêu tả từng đôi nam nữ

l GS HOÀNG CHƯƠNG

MÁC TUYÊNvới CHÂU ÂU

DƯỚI ÁNH HOÀNG HÔN

Nhạc sĩ Mác Tuyên biểu diễn Lạc Cầm 16.

93

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 94: Van hien so6 14

Việt kiều giao duyên, cầm micrô vừa hát, vừa đưa mắt nhìn lên màn hình ti vi. Những hình ảnh Hà Nội hiện lên, một thoáng Thăng Long tráng lệ hồn nhân văn Đại Việt, lung linh mặt nước Tây Hồ xao xuyến, rực rỡ đào Nhật Tân hương sắc Thủ đô, Ba Đình vang vọng tiếng Bác Hồ, và kìa Hạ Long kỳ quan lộng lẫy. Nhiều trang sách Mác Tuyên đã làm người đọc xúc động khi tả những sinh hoạt của Việt kiều đang sống trên trời Tây mà lòng khôn nguôi hướng về quê hương đất tổ.

Chất liệu văn học Sử, Thơ ca, Âm nhạc hòa trộn với hư cấu, tạo nên sắc mầu gợi cảm trong những trang sách của Mác Tuyên có sức dẫn dắt người đọc một cách nhẹ nhàng thú vị.

Mác Tuyên có may mắn có hai con trai đang sống và làm ăn thành đạt ở Prankfurt, một thành phố lớn ở CHLB Đức đã tạo điều kiện cho ông “du khảo” một số nước ở châu Âu trong một thời gian dài tới 3 tháng. Ba tháng là 90 ngày, ngày nào Mác Tuyên cũng ngao du hết nước Đức, đến nước Pháp, rồi Thụy Sĩ, Ý, Ba Lan… Đến đâu ông cũng quan sát, ghi chép và chụp hình. Ông đặc biệt quan tâm tới những công trình kiến trúc từ cổ đại đến phục hưng và thời đương đại, đồng thời ông cũng để tâm quan sát đời sống văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi nước, đặc biệt ông quan tâm tìm hiểu sâu về cộng đồng người Việt đang sinh sống ở châu Âu, và cuối cùng có nhận xét: “Người Việt sống ở trời Tây” luôn hướng về quê hương đất nước, nặng lòng thương nhớ quê nhà:

Ly hương mấy thập niên rồiLòng người viễn xứ bồi hồi nhớ quêMác Tuyên cho biết, đa số người Việt ở châu Âu

đều treo ảnh Bác Hồ trong nhà, và đều thích nghe hát dân ca như Chèo, Quan họ, Ru con Nam bộ, hát Xẩm, Ca trù… Họ rất tâm đắc câu Hò mái nhì của Ưng Bình Thúc Giạ Thị gửi gắm tâm sự với cụ Phan Bội Châu:

Chiều chiều trước bến sông LâuAi ngồi ai câu, ai sầu ai thảmAi thương ai cảm, ai nhớ ai trôngThuyền ai thấp thoáng trên sôngNghe câu mái đẩy chạnh lòng nước nonKiến thức lịch sử của một nhà giáo lâu năm, kết

hợp với sự rung cảm của tâm hồn nghệ sĩ, Mác Tuyên đã thu thập khá nhiều tư liệu trong quyển sổ nhật ký của mình để khi trở về nước, ông nhào nặn thành câu chuyện dài kể về thiên nhiên, cảnh vật, con người… ở những nơi mà ông đã đi qua, đã quan

sát và giao tiếp. Với lối kể chuyện rất thật và hồn nhiên nên chuyện nào cũng lôi cuốn, được người đọc. Ví dụ chuyện tình cờ ông gặp TSKH Trần Hoài Bảo, người học trò cũ lớp 12 năm xưa ở miền Bắc, nay đang giảng dạy tại trường đại học Sorbonne (Paris). TS Trần Hoài Bảo giới thiệu cho nữ GS Saint Perreux làm quen với thầy mình là nhạc sĩ Mác Tuyên. Sau một hồi trò chuyện, nữ GS Pháp nhận xét: Lần đầu được nghe một nhà giáo, nhạc sĩ Việt Nam nói về nước Pháp thật ngắn gọn và sâu, nhạc sĩ đã có những nhận xét am tường về nước Pháp chúng tôi…

Những cuộc gặp gỡ bất ngờ, những lời nói chân thành của người trí thức Pháp làm cho Mác Tuyên cũng vững tin càng tự hào về nghề nghiệp nghiên cứu lịch sử của mình. Nhờ có kiến thức lịch sử mà ở mỗi chương, mục của cuốn sách “Châu Âu dưới ánh hoàng hôn”, Mác Tuyên đều có một trang tóm lược lịch sử của mỗi nước thật cụ thể, để từ đó dẫn dắt người đọc tìm hiểu sâu về đất nước và con người của một nước nào đó.

Với cách nhìn biện chứng của một nhà giáo sử học đồng thời là tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Mác Tuyên cho rằng: “Các nước châu Âu có được sự phát triển phồn thịnh như ngày nay là nhờ họ đã trải qua hàng ngàn năm xây dựng, có thể nói là trong hòa bình, họ lại sớm bước vào cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hóa nền kinh tế trong suốt nhiều thế kỷ (từ 17 đến 20), mặt khác, họ cũng được nền văn hóa phục hưng tác động mạnh mẽ vào đời sống xã hội vươn ra khỏi đêm trường trung cổ, mở đường cho con người thụ hưởng nền văn minh sáng lạn - tự do, dân chủ được hé mở. Có thể nói, trong cái nôi ấy, tầng lớp trí thức phần nào được tôn trọng thật sự, họ phấn khích dồn tâm lực, trí tuệ đóng góp cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển phồn vinh ở châu Âu.

Nhưng châu Âu hôm nay dưới con mắt của nhà giáo, nhạc sĩ Mác Tuyên thì, không phải là buổi bình minh mà là buổi hoàng hôn. Có lẽ vì vậy mà ông đặt tên quyển sách của mình là “Châu Âu dưới ánh hoàng hôn”.

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn nói một ý quan trọng, nhạc sĩ Mác Tuyên còn là tác giả của nhiều ca khúc về biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa mà Đài Tiếng nói VN đã nhiều lần phát sóng, chứng tỏ nhịp đập trái tim của nhạc sĩ Mác Tuyên luôn gắn liền với những biến cố lịch sử của dân tộc.n

94

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 95: Van hien so6 14

Nhà báo Trần Đức Trung (phải) trong một lần công tác tại chùa Nôm, Hưng Yên. Ảnh: Trần Trung

Từng là một sĩ quan Quân đội, sau khi giải ngũ Trần Đức Trung dấn thân vào con đường làm truyền thông, và nhanh chóng trở thành nhà

tổ chức thực hiện nhiều chương trình truyền thông lớn vì sự nghiệp phát triển doanh nghiệp và cộng đồng xã hội nước ta trong những năm qua. Trước khi thành lập Công ty Văn Hóa Hà Nội (năm 2001) để thỏa mãn ước mơ truyền thông tổ chức sự kiện của mình, Trần Đức Trung đã gặt hái được nhiều kinh nghiệm, khi được mời làm phụ trách phát hành quảng cáo cho Đặc san Văn hóa, với sự hậu thuẫn của tập đoàn Elle nổi tiếng nước Pháp. Sau đó, ông phụ trách báo Tuổi xanh đồng thời tổ chức cuộc thi “Người đẹp Việt Nam qua ảnh”.

Năm 2001, Trần Đức Trung thành lập Công ty Văn hóa Hà Nội, tạo nên một sân chơi lành mạnh giành cho các doanh nghiệp. Từ khi ra đời, Công ty Văn hóa Hà Nội đã thu hút sự tham gia của hàng ngàn doanh nhân. Đặc biệt, không chỉ ở trong nước mà các doanh nghiệp nước ngoài cũng tìm đến để có cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Bằng việc tham gia các sự kiện do Công ty Văn hóa Hà Nội tổ chức, bên cạnh việc gặp gỡ, tìm kiếm đối tác làm ăn, các doanh nghiệp trong nước và quốc tế còn được trải nghiệm nhiều điều thú vị về phong tục, tập quán, văn hóa của từng vùng miền. Từ đó, bổ sung kho tàng kiến thức kinh doanh và vốn

sống cũng có thêm những dữ liệu mới. Đối với một số doanh nghiệp, sự hiểu biết ấy cũng có thể nảy sinh ý tưởng kinh doanh sáng tạo và thêm một lần nữa, họ có cơ hội thứ hai để phát triển nghề nghiệp, xoay chuyển hướng làm ăn sang một lĩnh vực mà họ không hề nghĩ đến trước đó.

Năm 2004, Công ty Văn hóa Hà Nội đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng giới doanh nhân Việt Nam, đồng thời cũng là năm đánh dấu bước phát

TRẦN ĐỨC TRUNG

DOANH NGHIỆP & CỘNG ĐỒNG

NGƯỜI TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỀU CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN THÔNG LỚN VÌ SỰ PHÁT TRIỂN

l BÌNH NGUYÊN

95

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 96: Van hien so6 14

triển mới của Công ty trong tiến trình hội nhập. Sau 3 năm hoạt động, lần đầu tiên công ty tổ chức một đêm trao giải hoành tráng, quy mô giành cho các doanh nghiệp với trên vài trăm cá nhân, tổ chức có những cống hiến, đóng góp tích cực cho sự phát triển của xã hội. Từ đó, lễ tôn vinh và trao cúp cho các doanh nhân, doanh nghiệp do Công ty Văn hóa Hà Nội phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan truyền thông tổ chức hàng năm. Qua đó nhiều doanh nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội tiêu biểu, xuất sắc trong cả nước được tôn vinh.

Nói về lĩnh vực hoạt động hiện tại của mình, Trần Đức Trung cho rằng, bản thân ông là người rất mê kinh doanh, kính nể những người tài giỏi biết cống hiến và làm giàu cho đất nước. Bởi vậy, để động viên tinh thần cho cộng đồng doanh nghiệp - bộ phận chính mang lại nguồn thu cho xã hội thì Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách thỏa đáng để công nhận, tôn vinh, tạo ra động lực để họ tiếp tục đóng góp cho xã hội.

Bên cạnh đó, nhằm mục đích kết nối nền kinh tế Việt Nam với các nước, giúp mở ra cơ hội cho Doanh nghiệp Việt phát triển thương hiệu, nhãn hiệu. Trần Đức Trung đã mày mò, tìm cách lấn sân sang thị trường quốc tế trên cơ sở xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị, bắc cầu cho doanh nghiệp nước ta tham gia các cuộc giao lưu, trao đổi giữa các nước trong

khu vực. Cụ thể, ông đã phối hợp với một số đơn vị có uy tín phát động chương trình bình chọn, trao tặng cúp vàng “Vì sự phát triển cộng đồng”, “Doanh nhân tiêu biểu xuất sắc thời kỳ đổi mới” giữa Việt Nam - Lào - Campuchia và nhiều lần được tổ chức bên nước bạn Lào.

Để hỗ trợ cho các chương trình tổ chức sự kiện, Trần Đức Trung đã thành lập các trang thông tin điện tử như: Tinnhanh24.com.vn; Camnangdoanhnghiep.com.vn; Doanhnghiepthuonghieu.com.vn;Vanhien.net;Doanhnghiepthuonghieu.asea-n; Hiện tại, ông là Phó tổng biên tập của Tạp chí Văn hiến Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Thương hiệu.

Những chương trình bình chọn và trao giải thành công, do Công ty Văn hóa Hà Nội tổ chức thời gian qua:

Cho đến nay, Công ty Văn hóa Hà Nội đã phối hợp với các đơn vị uy tín tổ chức, chỉ đạo và chứng nhận giải thưởng như: Bộ Công thương Lào; Bộ Thông tin Văn hóa và Du lịch Lào; Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và Vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam; Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc Việt Nam.

Đơn vị Bảo trợ thông tin và thực hiện tài trợ: Đài truyền hình quốc gia Lào; Tạp chí Văn hiến Việt Nam; Tạp chí Doanh nghiệp và Thương hiệu; Công

Hình ảnh tại Lễ trao cúp vàng năm 2009 Hình ảnh tại Lễ trao giải thưởng tại Lào năm 2012 Đồng chí Bunpon Búttanạvông - Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào trao giải thưởng cho đại diện Doanh nghiệp đạt giải tại Thủ đô Viêng Chăn - Lào.

Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam trao giải thưởng cho Đại diện Doanh nghiệp tại thủ đô Viêng Chăn - Lào

96

Page 97: Van hien so6 14

ty Cổ phần Văn hóa Thông tin đã cùng phối hợp, tổ chức và bình chọn, trao tặng thành công cho trên 3.000 cá nhân, doanh nghiệp tham gia nhận cúp (Tính từ 2004 - 2013).

Một số các cá nhân và doanh nghiệp tiêu biểu đã tham gia nhận giải thưởng các cúp từ năm 2004 đến 2013.

Các cá nhân và đơn vị nhận giải cúp vàng “Vì sự phát triển cộng đồng” năm 2006.

Về cá nhân: Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, giải thưởng HCM - Anh hùng lao động; Ông Nguyễn Văn Đệ, chủ nhiệm HTX Hợp Lực; Ông Lê Văn Tam, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP mía đường Lam Sơn…

Về tổ chức: Công ty Liên doanh nhà máy bia Việt Nam; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội; Công ty TNHH Đầu tư Xây dựng Kinh doanh nhà Thảo Loan; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng Thương mại CP Sài Gòn Công thương; Công ty Bảo hiểm Dầu khí; Công ty Xi măng Hoàng Mai; Tổng Công ty Bến Thành; Ngân hàng Thương mại CP Phương Đông; Công ty thuốc lá Sài Gòn; Ngân hàng Công thương Việt Nam… Và nhiều công ty khác.

Các đơn vị được bình chọn trao tặng cúp vàng “Thương hiệu và nhãn hiệu” năm 2008.

Công ty CP địa ốc Hồng Phát; Công ty CP Đầu tư Xây lắp Thương mại; Tổng Công ty cao su Đồng Nai; Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam; Công ty Xổ số Kiến thiết và Dịch vụ Tổng hợp Đồng Nai’ Công ty Xi măng Tam Điệp; Công ty Xây dựng công trình Hàng không ACC - BQP; Công ty CP khoáng sản Bắc Cạn; Công ty lương thực thực phẩm SAFOCO; Công ty CP hóa chất sơn Hà Nội…

Các cá nhân được bình chọn trao tặng cúp vàng “Doanh nhân tâm tài” năm 2008.

Bà Trần Thị Việt Thanh, Tổng Giám đốc Công ty CP địa ốc Hồng Phát; Ông Đặng Ngọc Chuyển, CTHĐQT - GĐ Công ty CP Đầu tư và Xây lắp Thương mại; Ông Phạm Huy Hùng, CTHĐQT Ngân hàng Công thương Việt Nam; Ông Nguyễn Anh Tuấn, TGĐ Tổng Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam; Ông Nguyễn Thành Châu, TGĐ Tổng Công ty cao su Đồng Nai…

Các cá nhân được trao tặng cúp vàng “Lãnh đạo doanh nghiệp xuất sắc” năm 2008.

Bà Phạm Thị Diệu Hiền CTHĐQT TGĐ Công ty CP Thủy sản Bình An; Ông Nguyễn Quang Tiên, TGĐ Tổng Công ty Bến Thành; Ông Nguyễn Quốc Hùng, GĐ Ngân hàng Nông nghiệp và PT nông thôn Việt Nam, chi nhánh Hà Nội; Ông Phạm Anh Dũng. TGĐ Ngân hàng TMCP Sài Gòn; Bà BA DAH WEN, TGĐ Công ty Liên doanh Phú Mỹ Hưng…

Hình ảnh tại Lễ trao cúp vàng năm 2009 Hình ảnh tại Lễ trao giải thưởng tại Lào năm 2012 Đồng chí Bunpon Búttanạvông - Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào trao giải thưởng cho đại diện Doanh nghiệp đạt giải tại Thủ đô Viêng Chăn - Lào.

Ông Nguyễn Đức Kiên - Nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam trao giải thưởng cho Đại diện Doanh nghiệp tại thủ đô Viêng Chăn - Lào

97

Page 98: Van hien so6 14

Các cá nhân được trao tặng cúp vàng “Giám đốc tài năng” năm 2009.

Bà Trần Thị Việt Thanh - CTHĐQT - TGĐ Công ty CP địa ốc Hồng Phát;

Ông Trần Ích Sơn - CTHĐQT - GĐ Công ty CP Minh Sơn; Ông Nguyễn Văn Thành, GĐ Cty Thủy điện Hòa Bình; Ông Dương Quốc Thái - TGĐ công ty CP Bao bì nhựa Sài Gòn; Ông Đỗ Mạnh Tuấn - GĐ Công ty Hợp Thành; Ông Đỗ Minh Phú - CTHĐQT - TGĐ Cty CP vàng bạc đá quý DOJI; Ông Nguyễn Văn Khải - CTHĐQT - TGĐ Công ty CP tập đoàn Đại Việt…

Một số doanh nghiệp và cá nhân được trao tặng cúp vàng “Vì sự phát triển cộng đồng ASEAN” năm 2010.

Đại đức Thích Đồng Huệ, trụ trì chùa Nôm; TS. Hoàng Xuân Hải, Tổng biên tập tạp chí Mặt Trận; Ông Nguyễn Đức Chính, TGĐ Cty CP đầu tư Song Nguyên… Tổng Công ty điện lực miền Trung; Công ty CP ô tô Trường Hải; Cty CP cao su Sơn La; Cty CP Xây dựng và Thương mại Hoàng Hải; Cty Đầu tư và Phát triển Thái Dương; Cty CP cồn rượu Hà Nội…

Một số doanh nghiệp được trao tặng giải thưởng “Thương hiệu vàng Mê Kông” năm 2010.

Cty CP tập đoàn Mai Linh Đông Bắc Bộ; Cty CP Linh gas Việt Nam; Cty CP điện Việt Lào; Ngân hàng Liên doanh Lào - Việt; Chi nhánh tập đoàn quốc tế AMKEY Hoa kỳ - Việt Nam; Cty CP cồn

rượu Hà Nội…Một số đơn vị được trao tặng giải thưởng

“Doanh nghiệp tiêu biểu Việt Nam” năm 2010.Tổng Cty CP Xây lắp Dầu khí Việt Nam; Tổng

Cty Nông nghiệp Sài Gòn; Cty CP Thuận Thảo; Tổng Cty CP tập đoàn kinh tế Xuân Thành; Cty cao su Việt Trung…

Một số doanh nghiệp được tặng cúp “Nhà quản lý xuất sắc thời kỳ đổi mới” năm 2010.

Ông Nguyễn Văn Tuân - CTHĐQT Tổng Cty CP Xuất nhập khẩu và Xây dựng VN - Vinaconex; KS Ngô Xuân Bình, GĐ Cty xăng dầu Nghệ Tĩnh; Ông Lê Hoàng Phước, GĐ viễn thông Cà Mau; Đại tá Nguyễn Đức Thuận, GĐ Cty Vật tư Công nghiệp Quốc Phòng…

Một số doanh nghiệp được trao tặng giải “Thương hiệu nổi tiếng ASEAN” năm 2012.

Cty CP Hoàng Anh Gia Lai; Tổng Cty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn; Cty CP khoáng sản và công nghiệp Chiến Công; Tổng Cty CP may Việt Tiến; Ngân hàng TMCP Quân đội; Ngân hàng TMCP Phương Nam Tổng Cty 15 - BQP; Cty gạch ngói Đồng Nai… Và mới đây nhất, cuối năm 2013 đã có 104 đơn vị được trao tặng “Top 100 nhà quản lý tài đức”, 37 doanh nghiệp được nhận cúp “Top 100 doanh nghiệp tiêu biểu xuất sắc” và 19 DN nhận cúp “Top 100 thương hiệu, dịch vụ, sản phẩm hội nhập quốc tế” được trao tặng tại thủ đô Viêng Chăn - Nước CHDCND Lào.n

Hình ảnh tại Lễ trao giải thưởngtại Lào năm 2013

98

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 99: Van hien so6 14

Bà kể: Sau 4 năm phục vụ trong lực lượng quân đội, năm 1977 tôi trở

thành học viên trường Quản lý kinh tế. Ra trường, tôi được phân công về công tác tại Ban quản lý quảng trường Ba Đình cho đến lúc nghỉ hưu (2012). Tôi cứ nghĩ, niềm vui tuổi già của mình sẽ là chăm sóc, bón tỉa các loại cây cảnh và tham gia công tác tại Trung ương Hội Sinh vật cảnh Việt Nam, nơi tôi đang là ủy viên thường vụ của Hội. Tuy nhiên, về hưu chưa được bao lâu thì tôi lại có “duyên” với một công việc khác. Công việc mà tôi biết chắc chắn là sẽ gắn bó đến hết đời.

Sinh ra và lớn lên tại xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai (Hà Nội), ngay giáp với huyện Hoài Đức là vùng đất có nhiều truyền thuyết được truyền khẩu về những huyền thoại anh linh hiển thánh mà hầu như người dân Việt nào cũng từng nghe qua. Thủa nhỏ,

bà được nghe kể về một truyền thuyết rất lãng mạn của một mối tình thủy chung. Truyền thuyết ấy giải thích nguồn gốc của loài hoa Lưu ly. Đại ý: Thủa xa xưa, có một vị tướng trẻ và một cô gái yêu nhau. Một lần, hai người đang đi dạo bên dòng sông Đáy thì cô gái trông thấy một đám hoa màu xanh đang trôi theo dòng nước. Cô liền nói với người yêu: Em muốn có nhành hoa xinh đẹp ấy. Chiều lòng người yêu, vị tướng trẻ ngay lập tức phóng mình xuống dòng sông và vớt lấy đám hoa. Song, vì bộ giáp quá nặng, chàng đã không thể lên nổi bờ dù hết sức cố gắng. Lấy hết sức ném đám hoa lên bờ cho người yêu, chàng nói những lời cuối cùng: Xin đừng quên anh! Về sau, để tưởng nhớ mối tình bất hạnh của mình, cô gái đã gọi loài hoa mang màu xanh tím đó là Lưu ly. Lại có một câu chuyện khác, kể rằng:

Xa xưa, có hai người yêu nhau. Một sáng xuân, họ dắt nhau dạo chơi bên bờ sông Đáy với hoa Lưu ly mọc dày, vươn cách soi mình xuống dòng sông. Trong khi chàng trai mải mê ngắm nhìn dòng nước trong xanh thì cô gái say sưa hái hoa. Lúc vươn người hái mấy bông hoa đẹp thì chẳng may cô trượt chân ngã xuống sông. Nàng đã cố hết sức ném lại mấy bông hoa cho chàng trai và nói: Xin đừng quên em! Tiếp đến là truyền thuyết về mối tình của Tiên Dung và Chử Đồng Tử khi họ về đây khai hoang lập nghiệp và tạo nên một vùng dân cư đông đúc, sầm uất.

Những truyền thuyết này âm thầm theo bà trong suốt những năm tháng công chức mà bà đã hết lòng phục vụ tại Ban quản lý quản trường Ba Đình. Và đến những năm đầu thế kỷ 21, truyền thuyết của một vùng quê địa linh nhân kiệt và tục thờ Tứ bất tử

l TỬ ĐAN

Về một nữ thủ nhangđặc biệt

Không thể không dùng từ đặc biệt với bà. Nguyên là một chuyên viên cao cấp, Trưởng ban Quản lý quảng trường Ba Đình - Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi bà về hưu thì một căn duyên huyền bí đầy ngẫu nhiên đã thôi thúc bà phục dựng ngôi điện linh thiêng mang tên Lưu Ly Điện tạo thôn Quyết Tiến, xã Vân Côn, huyện Hoài Đức (Hà Nội). Bà bảo: Chính Vương Đắc Thị Ất này (tên bà) cũng không ngờ có ngày lại trở thành thủ nhang của Lưu Ly Điện.

99

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA

Page 100: Van hien so6 14

đã trở thành động lực, thôi thúc bà dồn tâm huyết cho việc xây dựng Lưu Ly Điện trên diện tích 500m2. Bà đã cùng anh em, bạn bè và muôn dân trăm họ không tiếc công sức, tiền của góp sức, góp công xây dựng trên nền ngôi miếu cổ thờ Quốc tổ và các Vua Hùng một ngôi điện mới thờ Công đồng Tổ tiên người Việt “Tứ bất Tử”, tín ngưỡng Tứ Phủ Việt Nam và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một công trình tuy mới mẻ nhưng đầy tính huyền thoại, kỹ mỹ nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa đền chùa của địa phương.

Điều đáng nói hơn nữa, Lưu Ly Điện không chỉ là điện thờ tư nhân đầu tiên thờ Tứ Bất tử của người Việt, mà thủ nhang chủ quản Lưu Ly Điện còn biến nơi đây trở thành nơi thu hút khách thập phương đến với các giá trị cao nhất của nghệ thuật Chầu văn.

Để Chầu văn trở về đúng với giá trị thực và được phục hưng trở lại, được nghiên cứu và vinh danh như hiện tại có phần đóng góp không nhỏ của bà Vương Đắc Thị Ất. Tại Lưu Ly Điện, hầu như ngày nào cũng có những buổi “hầu bóng” để phục vụ cho du khách và bà con phật tử. Các buổi hầu được diễn ra đúng tuần tự, lớp lang dưới hình thức nghi lễ,từ khâu chuẩn bị khăn áo, đón tiếp khách đến múa, diễn đều được thực hiện rất chu đáo, giúp

người xem hiểu và cảm được hết cái hay, cái đẹp của nghệ thuật này. Bên cạnh việc trực tiếp biểu diễn, bà còn thường xuyên tổ chức các đợt khảo thí tại nhiều địa phương trong cả nước để những người quan tâm được giao lưu, học hỏi, gìn giữ nét đẹp của nghi lễ này. Bà cũng là người tổ chức nhiều hoạt động xuất sắc trong lĩnh vực thực hành, truyền dạy, bảo tồn nghệ thuật diễn xướng sân khấu nhà đền theo nghi lễ chầu văn cho thế hệ trẻ. Bà có nhiều đóng góp hiệu quả trong việc sáng tác, xây dựng phong trào hoạt động, phát triển nghi lễ chầu văn. Chính bà còn là người đạt giải vàng cuộc thi khảo sát nghi lễ chầu văn của người Việt toàn quốc lần II do Liên hiệp các hiệp hội UNESCO Việt Nam tổ chức tại Đền thờ Đức Tổ họ Trần (Thái Bình).

Ghi nhận những nỗ lực của bà Vương Đắc Thị Ất trong việc gìn giữ, phát triển nghệ thuật diễn xướng Chầu văn tại Lưu Ly Điện, vào tháng 9/2013, UNESCO Việt

Nam đã trao bằng bảo trợ di sản văn hóa Lưu Ly Điện. Riêng bà được Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam, kết nạp, trao thẻ hội viên và công nhận danh hiệu Nghệ nhân văn hóa dân gian. Bận rộn, tâm huyết với việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy nghệ thuật dân tộc quên cả bản thân nhưng bà vẫn khiêm tốn, chỉ nhận là người “giữ lửa” cho thế hệ mai sau. Chỉ mong, có nhiều hơn nữa những người “giữ lửa” như bà để văn hóa nghệ thuật dân tộc luôn luôn tỏa sáng trong đời sống hôm nay. Và mong, có nhiều hơn nữa những nghệ nhân như bà được vinh danh trong lễ trao giải thưởng Vì sự phát triển cộng đồng 2013 và Thương hiệu nổi tiếng Asean 2013. Mới đây, Lưu Ly Điện một lần nữa được vinh danh và nhờ đó, động lực của nữ thủ từ này với nghệ thuật Chầu văn như được nhân lên gấp bội khi Lưu Ly Điện chính thức được Hà Nội trao bằng công nhận di tích cấp thành phố. n

Bà Nhótkéomani Xuphanuvông - Phó Chánh văn phòng Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Phải) và Ông Nguyễn Viết Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế (Trái) trao Cúp vàng “Thương hiệu nổi tiếng Asean” cho Đại diện Điện Lưu Ly tại Thủ đô Viêng Chăn, Lào

100

ÑÔØI SOÁNG QUANH TA