41
TƯ - TƯỞNG VIT - NAM TRÀO LƯU TRIT - HC HIN - ĐẠI DÀN BÀI A./ Sự Phức Tp Trong Trào Lưu Triết Hc Hiện Đại Thế Kỷ XX . Bergsonisme -- Phénomenologie -- Existentialisme Personnalisme . a/_ Trc giac siêu lên trên năng tri va stri, phản đối triêt hc tri thc. luânlý bế quan và luân lý khai phóng . b/_ Phản đối siêu hình hc trừu tượng, phản đối hthng hóa sinh tn. “ J’ existe donc je suis ” ( Tôi sinh tồn, tôi sống còn vy là tôi có tht ) . c/_ Phân tích ni tâm, phân bit Je và Moi. Thc thca ý thc là là có ý thc vcái gì -- son intentionalité : ý hướng tính . d/_ Nhân vị tự do trong điều kiện he thống khai thông va hệ thng bế tc . B./_ - Tưởng Việt – Nam Tư-tưởng Tam-Giáo Lý, Trn thuc vhthng nhân bn khai phóng. Tư tưởng Nho-giáo chính thng Lê, Nguyn có hai khuynh hướng, mt là tâm linh thì khai phóng như Phan-Thanh-Gin chng hn, hai là khuynh hướng tchương giáo điu thì bế tc . C./ Kết - Lun . Vấn đề thc tế trước mt la thái độ ca cgúng ta đối vi mt mt trào lưu tư tưởng Mác-xít vi các trào lưu triết hc hin đại. Đấy là đề tài hi thảo để tìm ra kết lun chính xác .

TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

TƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM

VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN - ĐẠI

DÀN BÀI

A./ Sự Phức Tạp Trong Trào Lưu Triết Học Hiện Đại Thế Kỷ XX .

Bergsonisme -- Phénomenologie -- Existentialisme – Personnalisme .

a/_ Trực giac siêu lên trên năng tri va sở tri, phản đối triêt học tri

thức. luânlý bế quan và luân lý khai phóng .

b/_ Phản đối siêu hình học trừu tượng, phản đối hệ thống hóa sinh

tồn. “ J’ existe donc je suis ” ( Tôi sinh tồn, tôi sống còn vậy là tôi có

thật ) .

c/_ Phân tích nội tâm, phân biệt Je và Moi. Thực thể của ý thức là là

có ý thức về cái gì -- son intentionalité : ý hướng tính .

d/_ Nhân vị tự do trong điều kiện he thống khai thông va hệ thống

bế tắc .

B./_ Tư - Tưởng Việt – Nam

Tư-tưởng Tam-Giáo Lý, Trần thuộc về hệ thống nhân bản khai

phóng. Tư tưởng Nho-giáo chính thống Lê, Nguyễn có hai khuynh hướng,

một là tâm linh thì khai phóng như Phan-Thanh-Giản chẳng hạn, hai là

khuynh hướng từ chương giáo điều thì bế tắc .

C./ Kết - Luận .

Vấn đề thực tế trước mắt la thái độ của cgúng ta đối với một mặt trào

lưu tư tưởng Mác-xít với các trào lưu triết học hiện đại. Đấy là đề tài hội

thảo để tìm ra kết luận chính xác .

Page 2: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

DANH TỪ TRIẾT HỌC VÀ TƯ TƯỞNG

Trước khi thảo-luận về cái đề-tài : " Triết-học Hiện-đại và Tư-tưởng

Việt-Nam ", thiết tưởng để khỏi đi ra ngoài đề, chúng ta nên phân-biệt ý-

nghĩa và liên-hệ danh-từ Triết-học và Tư-tưởng. Cả hai danh-từ đều chỉ-

định vào sự hoạt-động của tinh-thần nhân-loại, nhưng một hoạt-động có

lý-trí phê-phán cho nên Triết-học hay dùng đến chữ " duy " ( isme ) để

phân-biệt giữa Triết-học này với Triết-học kia. Như thế Triết-học bắt buộc

là Tư-tưởng có xếp đặt theo một khuôn phép nào, có hệ-thống chặt-chẽ và

bỏ lại ra ngoài cái gì không có thể xếp vào khuôn-khổ của lý-trí. Danh-từ

Tư-tưởng thì rộng-rãi hơn, bao-hàm tất cả hoạt-động tinh-thần, phần có hệ-

thống cũng như phần không có hệ-thống, Tư-tưởng hợp-lý cũng như Tư-

tưởng không hợp-lý theo lý-trí của nhân-loại. Bởi thế nên mới nói :

" Triết-học Hiện-đại và Tư-tưởng Việt-Nam " .

Trong câu nói ấy ắt có ngụ một cái cộng tưởng, một cái " Đại phân

số chung " để chúng ta thấy ngay cái điểm khác nhau là một đàng nói về

cái Tư-tưởng có hệ-thống và một đàng không có hệ-thống. Vả lại người ta

thường nói Triết-học Pháp, Anh, Đức, Mỹ chứ có ai dám nói Triết-học

Việt-Nam, Nhật-Bản, Mã-Lai, Nam-Dương. Người ta cũng lại chỉ hay nói

Triết-học Tây-phương chứ ít khi nói Triết-học Đông-phương. Nhưng

người ta có thể nói được Tư-tưởng Đông-phương, Tư-tưởng Tây-phương,

Tư-tưởng Việt-Nam, Tư-tưởng Mã-Lai v.v... Vậy chúng ta có thể tạm

nhận thấy Triết-học và Tư-tưởng thuộc về phạm-vi khác nhau, tính-chất

cũng khác nhau, một đàng giới-hạn hẹp, một đàng rộng, cho nên có thể nói

được ' Tư-tưởng Triết-học ' chứ không có thể nói ' Triết-học Tư-tưởng ' .

Nay xin vào đề về Triết-học Hiện-đại, tức là nói về cái loại Tư-tưởng

có hệ-thống ở thời-đại hiện nay đại khái kể từ đầu thế-kỷ XX này .

Có hai khu-vực trên thế-giới mà chúng ta thấy xuất-hiện các trào-lưu

Triết-học lớn, có ảnh-hưởng nhất đối với Việt-Nam chúng ta là Âu-Tây và

Ấn-Độ .

Nói đến Triết-học Âu-Tây Hiện-đại thì người ta nghĩ ngay đến

Bergsonisme hay Triết-học của Bergson ; Existentialisme hay Triết-học

Page 3: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

3

của Karl Jaspers, Martin Heidegger, Jean Paul Sartre ; Personnalisme hay

là Triết-học của Kierkeguard, Emmanuel Mounier, Gabriel Marcel. Người

ta cũng có thể xếp Triết-học Existentialisme và Personnalisme vào cùng

một trào-lưu lớn là trào-lưu Triết-học về Sinh-tồn " Philosophies de

l'Existence " vì cái điểm chung của các Triết-gia trên gồm cả Bergson

nữa, đều chú-trọng về đề-tài vĩ-đại là sống còn, hay sự sống của con người

hiện đại nói riêng, sự sống của con người nói chung .

Trong khoảng thời-gian ngắn ngủi, làm sao có thể trình-bày đứng đắn

cả một Triết-học Hiện-đại mà không rơi vào cái bệnh " đại khái " thô sơ

mất cả ý-nghĩa của Triết-học, đấy là cả một sự thử thách đối với tầm

hướng của người trình bày. Làm sao không đi vào chi-tiết chuyên-môn mà

không làm cho mất cái độc-đáo của mỗi môn-phái Triết-học, ấy lại là một

sự khó khăn nữa. Để cố tránh hai điều khó khăn trên đây, chúng tôi xin lấy

làm kim chỉ nam lời nói, mà tôi thấy rất chính xác, của giáo-sư Murti ở

Ấn-Độ, nói về cái hệ-thống Triết-học rằng :

" Các hệ-thống Triết-học đều là sự xây-dựng qua khái-niệm và

phù-hiệu của một số trực-giác nguyên-thủy. Nếu chúng ta, tất cả ai

cũng có những trực-giác cơ-bản ấy thì các hệ-thống sẽ coi như thừa

vậy " .

( System of Philosophy are the elaboration through concepts

and symbols, of certain original intuitions. If all of us had those basic

intuitions, systems should be superfluous ) .

_ ( in the central Philosophy of Bouddhism. _ ed. Ruskin House. _

London 1955) .

Bởi vì chính ở những trực-giác nguyên-thủy, ví như những cảm-hứng

của thi-nhân, mà người ta thấy sự sáng-tạo, sự tiếp-xúc với thực-tại chất-

phác trong sáng, thanh-tân, chưa bị công-phu uốn nắn của lý-luận, của

danh-từ. Cùng một trực-giác nguyên-thủy người ta thấy đẻ ra rất nhiều hệ-

thống Triết-học, ví như cùng một trực-giác của Đức Phật Thích-Ca dưới

gốc Bồ-Đề đã đẻ ra nhiều môn-phái Phật-giáo chẳng hạn .

Như vậy thì chúng chỉ cần làm sao trong các hệ-thống Triết-học

Hiện-đại, tìm ra cái trực-giác nguyên-thủy của các vị Triết-gia sáng-tạo

đứng đầu môn-phái, ấy là công việc đã có phần giản tiện rồi vậy .

Page 4: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

Bước vào thế-kỷ XX này chúng ta thấy xuất-hiện ở nước Pháp một

ngôi sao sáng lạn trên trời Triết-học Âu-Tây, ấy là Bergson với tác-phẩm

danh tiếng " L'Evolution Créatrice " ( Tiến-hóa Sáng-tạo ) mà gần đây

Đạo-sĩ Ấn Sadheswarananda xưng tụng là : " Một quyển sách như " Tiến-

hóa Sáng-tạo " chỉ thấy xuất-hiện một lần trong thế-kỷ " ( Un livre comme

" L' Evolution Créatrice " ne se présente qu'une fois par siècle ) _ ( tựa

sách La Doctrine Suprême -- La Colombe của tác-giả Hubert Benoit ) .

Ở đây Bergson đứng ra bắt đầu phản-đối cái trào-lưu tin-tưởng của

thế-kỷ XIX về định-luật Tiến-hóa mà Herbert Spencer ở bên nước Anh đã

hệ-thống-hóa thành Triết-học về sự sống gọi là :

" Evolutionisme : ' Tiến-hóa-luận ' hay ' Duy-tiến-hóa '

Spencer quan-niệm có ba bình-diện Tiến-hóa về trí-thức, một là phổ-

thông trí-thức, hai là khoa-học, ba là Triết-học. Tiến-hóa theo ông là

một hợp-hóa của vật-chất và vận-động phân-hóa, đồng-thời trong đó

vật-chất đi từ trình-độ đồng-chất tương-đối bất-định, hỗn-độn đến

trình-độ cá-biệt tương-đối nhất-định, thích-hợp và trong khi ấy, vận-

động bảo-hợp trải qua một sự biến-hóa tịnh-hành " .

Đấy là cái ý-niệm cơ-bản của hệ-thống Spencer, ý-niệm tổ-chức,

sống có tổ-chức ấy là chiều-hướng Tiến-hóa, tổ-chức ở đây là theo

nguyên-lý cơ-giới xã-hội, nhân-loại lý-tưởng và tiến-hành thành một bộ

máy vĩ-đại, bộ-phận nào ở vị-trí nấy, theo đúng tinh-thần khoa-học, chỉ

nhằm chứng-minh những quan-hệ giữa sự-vật khác nhau trong thế-giới

bằng những khái-niệm ( concepts ) và những định-luật mô tả thành công-

thức toán-học. Cái tinh-thần thượng khoa-học ấy đã chi-phối thế-kỷ XIX,

đi đôi với chủ-nghĩa công-lợi của nước Anh, nhất là sau cuộc cách-mệnh

kỹ-nghệ từng đem lại hiệu-quả cụ-thể cho sự hùng-cường của các nước

Âu-Tây .

Chính đúng vào thời-đại ấy, mà một Sứ-giả Việt-Nam, Lão-thần

danh-sĩ, Cụ Phan-Thanh-Giản, đứng trước cảnh-tượng cơ-khí đang phát-

triển mở-mang, đã thốt ra hai câu phán-đoán thâm-trầm về ý-nghĩa Triết-

học :

" Bách ban xảo diệu tề thiên địa,

Duy hữu tử sinh Tạo-hóa quyền."

Page 5: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

5

( Trăm khôn nghìn khéo khoa-học cơ-khí có thể so tài với trời

đất,

Nhưng chỉ còn có việc sống chết là chưa thắng được quyền-lực

của Tạo-hóa . )

Bergson ở nước Pháp với cái trực-giác nguyên-thủy là " Elan Vital "

( Đà Sống ) đã phê-phán cái quan-niệm Tiến-hóa của H. Spencer. Theo

Bergson thì Spencer đã bỏ mất cái ruột để giữ lấy cái vỏ ngoài của Tiến-

hóa. Spencer nhận thực-tại ở hình-thức hiện-tại của nó, ông cắt nát thành

mảnh vụn, tán vụn thành bụi cát rồi ném tung vào các chiều gió. Sau rồi

ông họp các phần-tử ấy lại để phóng vào vận-động của chúng sau khi mô-

phỏng toàn-thể bằng công việc vá víu xếp đặt, ông tưởng-tượng đã vạch ra

được trung-thực cái nguyên-bản của Tiến-hóa và tạo nên khởi-nguyên của

sinh-thành. Nhưng đấy có thể là Khoa-học về Tiến-hóa, chứ không phải là

một Triết-học về Tiến-hóa. Vì Triết-gia muốn giải-thích sự sống-động là

Tiến-hóa thì phải đi vào nội tâm của sự sống, tự mình phải tự đặt vào

chính nội tâm của dòng sống, tự đồng-nhất với nó để mà sống, chứ không

phải đứng ngoài khách-quan để quan-sát sự sống như đứng trên bờ sông

mà nhìn giòng nước chảy để mô tả sự trôi chảy của nước vậy .

Theo Bergson muốn mô tả vận-động Tiến-hóa của sự sống thì không

thể dùng thái-độ khách-quan lạnh lùng của lý-trí khoa-học, đứng ở bên

ngoài nhìn đối-tượng, mà phải đặt mình vào lòng đối-tượng là giòng sông

" Trôi chảy ngày đêm không thôi " như Khổng-Tử đã thấy hơn hai ngàn

năm trước. Bởi thế mà Bergson cực lực phản-đối quan-niệm Tiến-hóa của

Spencer đã đồng-nhất vận-động của sự sống như là vận-động máy móc

khoa-học. Bergson cảm thấy có một cái gì tự-động trong vận-động Tiến-

hóa của sự sống. Cái tự-động ấy mà ông đã cảm thấy, đã trực-giác được,

ông gọi là " Elan Vital " mà ông đã giả-thiết là con đường duy-nhất để có

thể tìm-hiểu tất cả khiá-cạnh về sự-kiện Tiến-hóa. Đấy là cống-hiến lớn

nhất của ông vào Triết-học Tiến-hóa-luận. Ông đã phá vỡ cái vỏ ngoài của

vận-động vật-thể hữu-cơ sinh sống, ông thâm-nhập vào nội tâm quá-trình

Tiến-hóa và khám-phá ra ở đấy cái khích-động linh-động siêu-vật-lý nó

quyết-định trào-lưu uyển-chuyển của Tiến-hóa tự-động, là sự sống trong

vũ-trụ .

Cứu-cánh mục-đích-luận xưa nay vẫn giải-thích sự vận-động trong

thế-giới là vận-động Tiến-hóa có kế-hoạch sẵn, có hòa-điệu tiền-định

Page 6: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

( harmonie pré-établie ). Nếu thực có hòa-điệu tiền-định, Bergson vặn lại,

thì tại sao thế-giới lại bày ra cảnh-tượng hỗn-độn, phi lý, một cuộc động-

đất chôn vùi một lúc cả một đô-thị trong đó già, trẻ, người thiện, người ác

đều chết vùi. Nếu thực trong trời đất có hòa-điệu tiền-định thì hòa-điệu ấy

chỉ là cái chúng ta khám-phá ra sau khi sự việc đã qua. Nó là hòa-điệu hay

là đồng-nhất-tính của sự khích-động chứ không phải đồng-nhất về nguyện-

vọng ( Identité d'impulsion et non d'aspiration ). Cùng một khích-động

của sinh sống mà chiều Tiến-hóa khác nhau như một trái phá nổ tung, các

mảnh vỡ bắn ra các chiều hướng xa gần. Như thế thì chỉ có một kết-luận

chính đáng hơn hết là Tiến-hóa của vũ-trụ không do một kế-hoạch nào sẵn,

không có cứu-cánh nhất-định từ trước, mà là kết-quả của sức nổ tung của

" Elan Vital " ( Đà Sống ) nó tạo ra các đường lối khác nhau không cùng

chiều hướng để cho cơ-thể sinh sống phát-triển. Đấy là một vận-động

Tiến-hóa khai-phóng không phải bế-quan như vận-động của guồng máy .

Tiến-hóa của Bergson là Tiến-hóa sáng-tạo như sự sáng-tạo của một

đại-nghệ-sĩ. Có một khích-động để hành-động, nhưng cho đến khi cái

khích-động, cái nhu-cầu ấy được thỏa-mãn. Cho đến khi cái " Elan Vital "

cái ( Đà Sống ) đem một cơ-thể vào cuộc sinh-tồn, hay chủng-loại vào sự

sống, thì dù Thánh trí cũng không có thể đoán trước hình-dạng của vật sắp

ra đời, cũng chính như người ta không có thể biết trước một tác-phẩm thế

nào sắp xuất-hiện ở tay nhà nghệ-sĩ có cảm-hứng trước khi ông ta hoàn-

thành tác-phẩm của ông. Hình-ảnh nghệ-sĩ với tất cả cái tâm-lý nghệ-thuật

đã chi-phối Triết-học của Bergson về mọi phương-diện, tri-thức cũng như

hành-động, vũ-trụ-quan cũng như nhân-sinh-quan, khiến cho ông gần với

hiền-triết Đông-phương hơn là khoa-học Tây-phương vậy .

Về thực-tại siêu-hình, ông đã thừa-nhận có cái sinh-động tự-động là

cái " Elan Vital " ông trực-giác được ở bên trong nội tâm vũ-trụ, liên tục

khai-triển, mở rộng ra đến vô cùng tận, mỗi bước là một mới lạ ngạc-

nhiên, không cho phép người ta đứng ngoài suy-luận biện-chứng một cách

khách-quan lạnh-lùng. Muốn đạt tới cái thực-tại nội tâm ấy, người ta phải

nhập vào đấy để thông-cảm với nó, khác nào như một nghệ-sĩ đứng trước

một cảnh nên thơ, thì việc trước nhất không phải là đặt nó làm đối-tượng

để quan-sát, rồi mô-phỏng vụng-về hay khéo-léo, mà việc trước nhất là

thích-thú, thích đến mê say, rồi quên mình vào trong cảnh không còn biết,

như tâm-trạng Nguyễn-Công-Trứ :

Page 7: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

7

" Ai hay hát mà ai hay nghe hát ? "

Hay là như

" Trang-Chu mộng hóa ra bướm, tự thấy mình là bướm vù vù

bay, bướm thích thú không còn biết đến Trang-Chu nữa. Đến khi tỉnh

dậy thì lại thù lù là Chu, bấy giờ mới nhận ra bướm với Chu là hai

vật " .

Đấy là quan-điểm tri-thức trực-giác của Bergson, theo đấy thì

" Năng-tri " ( Sujet connaissant ) với " Sở-tri " ( Objet de connaissance )

hợp vào làm một, không còn cách-biệt bởi bức tường của Trí-thức

( Intellect ) khách-quan và chủ-quan nữa, cho nên Bergson bảo " on y

entre " nghĩa là người cần biết phải nhập vào trong vật đối-tượng để biết.

Theo ông đại-khái thì có hai cách, hai đường lối của nhân-loại để biết một

vật đối-tượng. Lối thứ nhất là phương-pháp của Triết-học xưa nay để cho

người ta tới được đối-tượng của sự biết bằng suy-luận Tam-đoạn-luận

hình-thức ( Syllogisme ) điển-hình và qui-nạp, phân-tích và tổng-hợp.

Lối thứ hai là phương-pháp của Triết-học mới, tức Triết-học kể từ Bergson

khai-sáng, dẫn ta đi thẳng đến tri-thức về vật đối-tượng bằng trực-giác

giác-ngộ. Theo lối cũ thì tri-thức không bao giờ đạt tới chỗ thân-mật,

nghĩa là vào được trong bản-thể của vật đối-tượng của nó, bởi vì tri-thức

lệ-thuộc vào giác-quan luôn luôn bị chặn lại bởi những hiện-tượng bên

ngoài đã khích-động vào sự tò-mò của nó khiến nó làm cái công việc tri-

thức ấy .

Nó chạy chung quanh đối-tượng vướng vít với những hiện-tượng ấy

nên tiêu ma hết sức chú ý vào đấy, mà không tiến lên được qua bức tường

giác-quan để vào đến trung-tâm đáy lòng của đối-tượng. Chính bởi thế mà

tùy theo cách-thức đường lối hay quan-điểm khác nhau đối với cùng một

đối-tượng, cho nên có sự phán-đoán khác nhau của tri-thức. Do đấy mới có

bao nhiêu môn-phái Triết-học khác nhau, nhiều khi mâu-thuẫn với nhau .

Theo phương-pháp mới, là phương-pháp trực-giác thì trái lại sự hiểu-

biết là do trực-tiếp mà thấy. Phương-pháp này mới soi sáng được đến đáy

lòng nội tâm của đối-tượng, tức là bản-thể của bản-thể, của đối-tượng mà

tinh-thần cầu-tri đã tiếp-xúc thẳng, không đứng ở cửa ngoài để phỏng-đoán

nữa. Cái trực-giác ấy do bản-năng (intuition) hợp với trí-thức (intelligence)

tạo nên, hiệu-năng chưa được biểu-hiện ở số đông nhân-loại. Nhưng dần

Page 8: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

dần nó sẽ phát-triển nhờ vào cái " Elan Vital " ( Đà Sống ) và một ngày

kia sẽ trở nên nguồn gốc tri-thức độc-nhất và đại-đồng. Đến bấy giờ thì tất

cả môn-phái Triết-học sẽ biến thành một Triết-học chân-chính, xứng danh

là Triết-học. Cái học-phái này sẽ không còn đối-phương, trở nên cũng đại-

đồng như chân-lý nó đã biết được bằng trực-giác, và nó sẽ thỏa-mãn tất cả

mọi người, cũng như được sự đồng-tình của tất cả triết-gia. Như vậy, theo

Bergson thì Triết-học trực-giác chắc chắn sẽ là Triết-học của tương lai thế-

giới .

Thực là đẹp đẽ, đọc Bergson, người ta ít ra cũng không đến nỗi tuyệt-

vọng về Triết-học như Karl-Marx đã đưa đến :

" Les philosophes n'ont fait qu'interprèter le monde de

différentes manières, mais il s'agit de la transformer "

_ ( Thèses sur Fauerbach XI )

( Các triết-gia chỉ tìm giải-thích thế-giới theo cách khác nhau,

nhưng việc chính-yếu là biến-đổi thế-giới ) .

Với Bergson thì chưa phải đến nỗi tuyệt-vọng như thế về Triết-học.

Ông viết :

" Bởi vì bất cứ khái-luận Triết-học thuần khái-niệm nào, đều

nên thử-thách đối-chiếu và ở trên lập-trường thuần-túy biện-luận, thì

không làm gì có được hệ-thống nào mà người ta không có thể đem

một hệ-thống khác ra để chống đối ....

" Nhưng giả thử đáng lẽ muốn vượt lên trên tri-giác về sự-vật,

chúng ta đi vào tri-giác để đào sâu và mở rộng. Giả thử chúng ta xen

ý chí của chúng ta vào đấy, và cái ý chí ấy cứ tự mở ra, giới-quan về

sự-vật cũng mở ra. Bấy giờ chúng ta sẽ có được một Triết-học, trong

đó tất cả dự-kiện của giác-quan và của ý-thức không có chút gì phải

hy-sinh đi mất cả ; không một phẩm-tính, một phương-diện nào của

thực-tại sẽ phải thay-thế mà giải-thích cả. Mà nhất là chúng ta có

được một Triết-học mà người ta không có thể đem các Triết-học

khác ra để chống-đối, bởi vì nó sẽ không bỏ sót ra ngoài cái gì để cho

các học-thuyết khác có thể thâu lượm ; nó sẽ thâu lấy tất cả. Nó sẽ

thâu lấy tất cả cái gì là dự-kiện, và còn hơn cả dự-kiện nữa, vì giác-

Page 9: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

9

quan và ý-thức được nó họp lại vào một cố gắng đặc-biệt sẽ đem lại

cho nó hơn là bình-thường chúng cống-hiến một cách tự-nhiên. Thay

thế cho vô số các hệ-thống tương-tranh với nhau, trang-bị với những

khái-niệm khác nhau, sẽ có sự hợp-nhất của một học-thuyết có khả-

năng điều-hòa tất cả các tư-tưởng-gia trọng cùng một tri-giác, tri-giác

ấy vẫn mở rộng nhờ có sự cố-gắng hợp lực của các triết-gia theo một

chiều-hướng chung vậy " .

Thực là một hy-vọng đầy triển-vọng cho siêu-hình-học, một thứ siêu-

hình-học không trừu-tượng lạnh lùng mà là một siêu-hình-học gần với

người, giàu nhân-bản-tính, một lần nữa đem Triết-học từ trên trời mù mịt

xuống dưới đất nhân-gian mà không mất ý-nghĩa nghiêm-túc của hai chữ

Triết-học .

Nhưng trực-giác nguyên-thủy của Bergson về cái " Elan Vital " (Đà

Sống) thực vô cùng phong-phú. Không những nó đã đem lại sinh-khí mới

mẻ sáng-tạo cho tri-thức-luận siêu-hình, nó còn mở rộng cả một quan-

điểm về nhân-sinh hành-vi cho thế-giới mật-thiết tương-quan ngày nay

" năm châu một chợ, bốn bể một nhà " đấy là vấn-đề luân-lý bế-quan và

luân-lý khai-phóng, vấn-đề người với người và người với trời hay là vấn-

đề cá-nhân với xã-hội và cá-nhân với chính mình .

Theo Bergson, " Elan Vital " ( Đà Sống ) là thực-tại tối cao của siêu-

nhiên và nội-tại, tự-động sáng-tạo ra chủng-loại chúng-sinh khác nhau, mà

còn theo đà phân-hóa vô hạn ra những cá-tính đặc-thù khác nhau. Nhưng

trong sự phân-tán vẫn đồng thời có sự tụ-hợp, khác nào như định-luật hấp-

dẫn-lực của Newton đã khám-phá trong vũ-trụ vật-lý, một ly-tâm-lực với

nội-qui-tâm đồng thời hành-động. Đối với sinh-lực tự-động " Elan Vital "

chi-phối cuộc tiến-hóa của chúng-sinh hữu-cơ-thể thì chiều tiến-hóa, tán

tụ, ly hợp đưa đến hiện-tượng xã-hội là mục-đích bí-huyền của sự sống, kể

từ xã-hội cầm-thú cho đến xã-hội nhân-loại .

Ông viết :

" Chính vào đời sống xã-hội mà sự tiến-hóa kết-thúc ..... hình

như có một sự khát-vọng nguyên-thủy và cốt-yếu gì của sự sống chỉ

thấy được thỏa-mãn trong xã-hội. Xã-hội nó là sự đóng góp chung

Page 10: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

các năng-lực cá-nhân, lợi-dụng những sự cố-gắng của tất cả và làm

cho tất cả cố-gắng dễ dàng hơn ".

_ ( Energie Spirituelle . 26 )

Đã nói đến xã-hội là nói đến trật-tự, muốn có trật-tự thì phải có cái gì

để hạn-chế tự-do cá-nhân. Sự hạn-chế là luân-thường đạo-lý hay là luân-lý

mà nguyên-lai không phải do một cái khế-ước hay xã-ước của một số

người họp nhau lại thình lình tạo lập ra theo kiểu J.J. Rousseau đã tưởng-

tượng. Nguyên lai của luân-lý hay là tiêu-chuẩn lý-tưởng của hành-vi

nhân-sinh, hay là giá-trị đạo-đức, còn thâm sâu hơn là xã-hội, phát-xuất tự

trong cái đà sống biểu-diễn trên các bình-diện vũ-trụ vận-hành có điều-lý.

Bởi thế mà Bergson có viễn-tượng về luân-lý bế-quan và luân-lý khai-

phóng, phù-hợp với hai loại xã-hội là xã-hội đóng và xã-hội mở. Mỗi xã-

hội phô-diễn trong một hệ-thống mệnh-lệnh luân-lý cái ý-chí sống còn của

nó. Nhưng cái ý-chí sống còn của xã-hội này chống đối hay cạnh-tranh với

các nhóm khác, khiến cho lòng tự-ái của mỗi nhóm bắt đầu từ sự bảo-tồn

tự-vệ đi đến tự kiêu quá-khích, nhất là trong khi có chiến-tranh giữa các

nhóm, thì tinh-thần dân-tộc, chủng-tộc lại càng thiên-lệch cực độ. Do đấy

mà phát-triển một thứ luân-lý đóng cửa, bế-quan để biểu-thị cho ý-chí

sống còn của một xã-hội đóng cửa bế-quan, trong đó tất cả hoạt-động tinh-

thần cũng như thực-tế đều khuôn theo một mệnh-lệnh độc-tôn .

Xã-hội đóng cửa bế-quan là xã-hội mà những phần-tử đoàn-kết với

nhau chặt-chẽ, lãnh-đạm đối với các người khác, luôn luôn sẵn sàng tấn-

công hay tự vệ, rút cục là bắt buộc giữ một thế chiến đấu. Đấy là trạng-thái

xã-hội nhân-loại khi mới thoát-ly khỏi " Thiên-nhiên mộng muội " ( Durée

et Simultanéité ) .

Nhưng cũng có thể có một nền luân-lý khác khó-khăn hơn, rộng rãi

nhân-loại hơn, đấy là luân-lý biểu-lộ ra bài học gương-mẫu của các vĩ-

nhân hoặc anh-hùng hoặc thánh-nhân. Các vị ấy đã đem cả đời sống cá-

nhân, phá vỡ những khuôn-khổ chật hẹp mà nhân-loại tự giam vào trong,

để truyền-bá một nền luân-lý từ-bi bác-ái, tứ hải gia huynh đệ, bốn bể một

nhà. Đấy là luân-lý khai-phóng biểu-thị cho ý-chí sống còn tiến-hóa của

xã-hội khai-phóng, tự-do .

Từ xưa tới nay, trong lịch-sử Triết-học, nhân-sinh thế-giới vẫn có hai

khuynh-hướng chính, hai chủ-trương về tiêu-chuẩn giá-trị lý-tưởng cho

Page 11: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

11

hành-vi nhân-sinh, ấy là chủ-nghĩa công-lợi, lấy tiêu-chuẩn giá-trị ở hạnh-

phúc của đa số, " tối đại hạnh-phúc, tối đại đa số " và chủ-nghĩa động-cơ

lấy tiêu-chuẩn ở chỗ dụng tâm, tâm thành vô-tư vô-cầu ( déintéressement ;

unselfishness ) như Nguyễn-Công-Trứ từng ca ngợi :

" Chữ vô cầu là chữ thiên-nhiên ."

Lấy công lợi làm tiêu-chuẩn thì mệnh-lệnh của đoàn-thể, của xã-hội

là tối cao bất khả xâm phạm, giá-trị của đa số là thiêng-liêng, không còn gì

ở trên nữa. Nhưng đoàn-thể xã-hội là hợp nhiều phần-tử cá-nhân mà thành.

Nếu ở mỗi cá-nhân, phần-tử tự nó không có giá-trị, chỉ là con số không (0)

như thế tự hỏi góp hàng triệu triệu đa số " không " lại có thể trở nên một

giá-trị được chăng hay cũng chỉ là triệu triệu lần không ? Bởi thế mà nếu

mệnh-lệnh đoàn-thể xã-hội có được giá-trị tối cao là do cá-nhân đã tự-do

ưng-thuận cho mới được. Ở đâu không có sự lựa chọn, hoặc thế này cũng

được, hoặc thế khác cũng được, thì ở đấy chỉ có hành-động một chiều, cá-

nhân con người nhắm mắt tuân theo mệnh-lệnh, phục tòng đa số, như thế

thì hành-động của nó còn đâu là giá-trị luân-lý, đạo-đức thiêng-liêng,

trang-nghiêm nữa. Một người bị dí súng sau gáy bắt phải nhảy vào lửa để

trở nên anh-hùng, không còn được lựa chọn nữa thì cái giá-trị anh-hùng ấy

có chân thật không hay chỉ là anh-hùng bất đắc dĩ ?

Nay, nếu cá-nhân còn được có quyền lựa chọn, hoặc nhảy vào lửa để

lấy tiếng anh-hùng, hoặc không nhảy vào lửa cũng được sống, thì bấy giờ

cái tiếng anh-hùng mới có giá-trị, và giá-trị ấy không phải do mệnh-lệnh

đa số bắt buộc mà còn ở tại nơi tự-do ý-chí của cá-nhân, cái tự-do ý-chí

đồng điệu với đoàn-thể xã-hội vậy. Ở cá-nhân con người có sự sáng-tạo

giá-trị, bởi vì con người có cái linh hơn muôn vật. Cái linh ấy là tâm-linh

vượt quá giới-hạn của xã-hội, của điều-kiện địa-lý, lịch-sử, thời-gian

không-gian, cùng với sông núi trường-tồn. Cho nên Bergson đã thống-thiết

kêu gọi đến giá-trị của các bậc Thánh trong Thiên-chúa-giáo, bậc Hiền của

Hy-Lạp, bậc Tiên-tri của Do-Thái, bậc La-Hán của Phật-giáo v.v...

" C'est à eux que l'on s'est toujours reporté pour avoir cette

morale complète qu'on ferait mieux d'appeler absolue " .

_ ( Durée et Simultanéité . 29 - 30 )

Page 12: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

( Người ta luôn luôn thường gọi đến các vị ấy để có được cái

luân-lý hoàn-bị mà có lẽ gọi là luân-lý tuyệt-đối thì đúng hơn ) .

Cái giá-trị tuyệt-đối ấy ở tại lòng thành hay tâm thành như Nguyễn-

Du ở Việt-Nam đã trực-giác :

" Tâm thành đã thấu đến trời ".

Và Phan-Thanh-Giản đã nhịn ăn, chay lòng, trả lại tất cả nhân-tước,

nghĩa là giá-trị của người, của xã-hội ban cho để vươn lên " Thiên tước "

nghĩa là giá-trị tuyệt-đối của luân-lý khai-phóng hoàn-bị vậy .

Để kết-luận, Bergson đã cảnh-cáo nhân-loại trên thế-giới hiện nay,

hãy phản-tỉnh, tự mình ý-thức lấy mình để khỏi sa vào vực thẳm :

" L'humanité gémit, à demi écrasée sous le poid des progrès

qu'elle a fait. Elle ne sait pas assez que son avenir dépend d'elle. A

elle de voir d'abord si elle veut continuer à vivre. A elle de se

demander en suite si elle veut vivre seulement, ou fournir en outre

l'effort nécessaire pour que s'accomplis ce, jusque sur notre planète

refractaire, la fonction essentielle de l'univers qui est une machine à

faire des Dieux " . _ ( D.S.Fin )

( Nhân-loại rên siết, hầu như bị gánh nặng những tiến-bộ của nó

làm ra, đè bẹp nó xuống vậy, nó không biết rằng tương-lai của nó là

ở tại nơi nó. Tùy nó, trước hết hãy xem nó có muốn tiếp-tục sống

còn. Tùy nó, thứ nữa, tự hỏi xem nó chỉ muốn sống thôi, hay là nó

còn tăng thêm nghị-lực cần-thiết, ngõ hầu được thành-tựu ngay tại

trên mặt hành-tinh ương-ngạnh này của chúng ta, cái tác-dụng căn-

bản của vũ-trụ là bộ máy để tạo ra Thần-linh ) .

Đấy là kết-luận của Bergson về giá-trị của con người. Trên đây

chúng tôi đã trình-bày khá dài Triết-học của Bergson, người sáng-lập ra

một trào-lưu mới mẻ bao-trùm cả mấy thế-hệ ngay tại đầu thế-kỷ XX.

Bergson với Triết-học trực-giác đã kết-thúc thế-kỷ XIX, thiên về trí-thức

khoa-học cơ-giới, thiên về chủ-nghĩa duy-vật, thiên về Triết-học hệ-thống,

và ông cũng mở đường tiên-phong cho thời-đại mới của Triết-học, là

Page 13: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

13

Triết-học về sự sống của con người nhân-bản toàn-diện đầy đủ cả tình-

cảm, lý-trí và ý-chí.

Kể từ Bergson trở đi, hầu hết các trào-lưu Triết-học đều hướng vào

sự sống, đều là Triết-học về sinh-tồn, nhưng không làm gì có cái con mắt

bình-tĩnh, vừa nồng-nàn vừa quân-bình của Bergson để nhìn sự sống. Trái

lại các triết-gia về sinh-tồn ở Âu-Tây hiện-đại nhìn cuộc đời với tâm-hồn

bi đát, lo sợ, tuyệt-vọng ( buồn nôn ) " nausée " . Bởi vì Triết-học của họ,

sau Bergson, đã phát-xuất từ trong một không-khí tinh-thần khủng-hoảng

của hai đại-thế-chiến, bầy ra cảnh-tượng thú-tính hãi-hùng, ( người đối với

người như lang sói ) " homo lupus homini " .

Người ta hoang-mang, đứng trước một thế-giới khoa-học phi-nhân

với nỗi lòng của con người thắc-mắc về giá-trị nhân-bản chính-xác. Pierre

Ducassé viết về " Valeurs de notre temps " ( Những giá-trị của thời-đại

chúng ta ) :

" Cuối thế-kỷ XIX, văn-minh trí-thức hình như đối-lập khắp nơi

với cái gì đối với người là giá-trị của sự sống chân-thực và cụ-thể.

Ly-khai với cứu-cánh xã-hội và sự bổ-túc tình-cảm của sự sống ấy,

hoạt-động phê-phán của trí-thức đi đến tự mình phủ-nhận mình, khi

nó phủ-nhận tự-do nhân-loại, giá-trị của sự sống. Thế-kỷ XX tìm

khám-phá lại ý-nghĩa của những giá-trị nhân-loại, giải-quyết sự

xung-đột giữa trí-thức và đời sống .

" Công-trình của Bergson đưa ra một giải-pháp làm biến đổi

những điều-kiện của tư-tưởng Triết-học. Dĩ nhiên Triết-học là một

cách giải-đáp nhiều hơn là một hệ-thống những hiểu-biết : ngưỡng-

vọng về cái vĩnh-cửu, đấy là giải-đáp của một người cho những sự lo

âu, của một xã-hội cho nhu-cầu của nó. Nhưng khoa-học hay là

Triết-học thời-đại chúng ta không thể giải-đáp nổi cho nỗi lo sợ của

con người hay là cho những nhu-cầu của tinh-thần " .

_ ( Les Grandes Philosophies. Presses Universitaires de France,

1948 - " Que sais-je " )

Giải-đáp vấn-đề giá-trị của con người và của xã-hội, hiện nay chúng

ta đứng trước một mặt : chủ-nghĩa Mác-xít và một mặt các Triết-học hiện-

sinh ở Âu-Tây. Chủ-nghĩa Mác-xít từ hạ-bán thế-kỷ XIX đến nay đã tạo

Page 14: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

nên các trào-lưu chính-trị xã-hội lan-tràn khắp thế-giới, từ Tây sang Đông.

Một mặt khác, khoa-học kỹ-thuật Tây-phương cũng đã biến thế-giới thành

một cái lưới chằng-chịt, trong đó tất cả các dân-tộc, các nhóm người cũng

như các khí-hậu địa-phương mật-thiết quan-hệ với nhau. Để khoa-học và

những hiệu-quả của nó ra một bên, chúng ta thử xét xem đại khái Triết-học

Mác-xít với Triết-học hiện-sinh ở Âu-Tây đã giải đáp vấn-đề nhân-sinh

như thế nào và đã đi đến đâu ?

Cốt-Yếu Của Chủ-nghĩa Mác-Xít._

Triết-học Mác-xít là " Dialectique matérialisme historique " mà dịch

sang Hán-Việt là ( Biện-chứng duy-vật sử-quan ). Biện-chứng là chống

với luận-lý, duy-vật là khách-quan, sử-quan là biến-đổi. Tìm cái trực-giác

nguyên-thủy đã tác-động ra cái Triết-học ấy chúng ta phải trở về câu phán-

đoán lịch-sử trọng-yếu của Marx ở " Luận án về Feuerbach " cái ấy là

" Tri Hành " ( Praxis ). " Các triết-gia chỉ tìm giải-thích thế-giới theo cách

khác nhau nhưng việc chính-yếu là biến-đổi thế-giới " .

Như vậy thì Marx bất-mãn với thế-giới Âu-Tây đương thời của ông,

và đòi triết-gia thực xứng danh triết-gia là phải tìm biến-đổi thế-giới ấy đi.

Nhưng nói thế không phải ông không tin vào lý-thuyết bởi vì chính ông đã

sáng-tạo ra lý-thuyết Cộng-sản khoa-học, và như ở " Capital " tác-phẩm

khổng lồ của ông, ông bảo người ta sở dĩ hơn con nhện về kỹ-thuật là vì

biết quan-niệm rồi mới hành-động. Và để làm cái công việc biến đổi thế-

giới như ông nói, ông đã quan-niệm ra cái " Biện-chứng duy-vật sử-quan ",

làm phương-pháp-luận cho chương-trình xã-hội khoa-học. Có thể tạm toát-

yếu cái Triết-học này như sau :

" Trong thế-giới, sự vật tất cả đều biến-đổi không ngừng, không có gì

đứng yên là nó trong một khoảnh-khắc. A phải tự phủ-nhận thành B, B lại

tự phủ-nhận thành C. C đối với A có hai lần phủ-nhận. Cho nên bảo C là

phủ-nhận cái phủ-nhận " négation de la négation ". Thế-giới là một tràng

mâu-thuẫn, trái-nghịch, xung đột, chống đối. Có trái nghịch, chống đối

mới có biến-đổi, vận-động. Sự vận-động của sự-vật thiên-nhiên cũng như

nhân-sinh là do ở bản-tính ngấm-ngầm sẵn chứa mâu-thuẫn, trái nghịch.

Vận-động ấy không phải vận-động máy móc hợp lý, mà là vận-động biện-

chứng ( sinh-thành ) " dialectique " nghĩa là khi Ta tự ý-thức là Ta ( moi

Page 15: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

15

: A ) thì đồng thời cũng ý-thức có cái không phải là Ta chung-quanh đối-

lập với Ta ( non-moi : B ). Rồi giữa cái ý-thức Ta với cái ý-thức về

" Không Ta ", cả hai mâu-thuẫn biến vào cái ý-thức tổng-hợp là cái ý-

thức, vừa " Ta " vừa " Không Ta " tức là C ( moi et non moi : C ). Do

đấy mà có vận-động biến-đổi, gọi là Quá-trình biện-chứng " Processus

dialectique " theo công-thức Khẳng-định " Affirmation " hay là Chính-đề

" Thèse ", Phủ-định hay là Phản-đề " Anti-thèse ". Phủ-định cái phủ-định

" Négation de la négation " hay là Tổng-hợp-đề " Synthèse ". Đấy là vận-

động tiến-hóa của thực-tại thế-giới. Vận-động ấy là vận-động biện-chứng,

bắt đầu ở thực-tại khách-quan rồi mới đến chủ-quan, như Marx giới

thuyết :

" La dialectique est le mouvement de l'être, de l'être d'abord, de

la pensée après " .

( Biện-chứng là vận-động của thực-tại, trước hết ở thực-tại rồi

sau mới đến tư-tưởng ) .

Thực-tại là thực-tại khách-quan, không phải do ý muốn của người, nó

bao-trùm cả tinh-thần lẫn vật-chất, có trước khi tinh-thần nhân-loại nhận-

thức. Đấy là ý-nghĩa duy-vật. Cho nên Marx lại viết ở Luận về Feuerbach :

" Vấn-đề hỏi xem tư-tưởng nhân-loại có thể đi đến một chân-lý

khách-quan thì không phải một vấn-đề thuyết-lý mà là một vấn-đề

thực-hành. Chính trong thực-hành mà người ta chứng-thực chân-lý,

nghĩa là sự thật và thế năng, hiện-tại của tư-tưởng. Sự tranh-biện về

Thị hay Phi, Phải hay Trái của tư-tưởng biệt-lập với thực-hành chỉ là

Triết-học kinh-viện " .

_ ( Thèses sur Feuerbach II )

Đấy là ý-nghĩa " Duy-vật " của Marx, chủ-trương chân-lý phải cầu

tìm bằng cả Tri lẫn Hành, hành-động không tri-thức là hành-động mù-

quáng, tri-thức xa hành-động là tri-thức vu vơ, vô căn-cứ, không tưởng .

Như thế người ta không thể tìm chân-lý ở chỗ tĩnh-quan trừu-tượng.

Chân-lý không thể ly-khai với thật-tại, triết-gia phải tìm cái chân-thật, tức

là phải Tri Hành. Vì thực-tại luôn luôn biến-đổi, cho nên chân-thật là

chân-thật có lịch-sử, lệ-thuộc vào điều-kiện của lịch-sử, nghĩa là của thời-

gian và không-gian .

Page 16: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

Với cái phương-pháp-luận ấy Marx đưa ra một chương-trình hành-

động, gọi là chủ-nghĩa xã-hội khoa-học để giải-đáp cho vấn-đề nhân-sinh

hiện ra trước mắt triết-gia cuối thế-kỷ XIX ở Âu-Tây. Xã-hội Âu-Tây cuối

thế-kỷ trước là một xã-hội kỹ-nghệ, kết-quả của cuộc cách-mạng kỹ-thuật

khoa-học. Xã-hội này bày ra một cảnh-tượng mâu-thuẫn giữa giai-cấp tư-

bản, nắm trong tay quyền sở-hữu phương-tiện sản-xuất hùng-mạnh do

khoa-học cơ-khí đem lại, và giai-cấp lao-động mất hết quyền sở-hữu tài-

sản, phương-tiện sản-xuất nên chỉ bảo-vệ sự sống còn bằng cách bán nhân-

công, sức làm lao-động cho giai-cấp tư-bản. Lúc đầu dĩ nhiên là thuận

mua, vừa bán, theo luật cung cầu còn hiệu-lực trong một xã-hội tư-do

cạnh-tranh. Nhưng rồi phương-tiện sản-xuất tập-trung vào các công-xưởng

lớn, phương-tiện cá-nhân sản-xuất đổi sang phương-tiện xã-hội-hóa, bấy

giờ xuất-hiện nhà tư-bản, nghĩa là cái thế-lực sở-hữu phương-tiện sản-

xuất, chiếm hữu-sản-phẩm đổi làm hàng-hóa. Sự sản-xuất đã trở nên một

động-tác xã-hội, sự buôn-bán trao đổi hàng-hóa, và đi đôi với nó, sự

chiếm-hữu tài-sản vẫn còn là động-tác cá-nhân. Tư-bản cá-nhân tư-hữu

tài-sản xã-hội, đấy là một sự mâu-thuẫn trái ngược căn-bản, nguồn gốc

sinh ra tất cả xung-đột, chống-đối, mâu-thuẫn của vận-động xã-hội hiện

tại : mâu-thuẫn giữa lao-động, suốt đời bán nhân-công để sống và trưởng-

giả tư-bản, vì sự ly-khai người sản-xuất với phương-tiện để sản-xuất. Mâu-

thuẫn giữa tổ-chức xã-hội-hóa về sự sản-xuất trong một nhà máy và sự vô

tổ-chức xã-hội trong toàn-bộ của sự sản-xuất, mâu-thuẫn do tự-do cạnh-

tranh trên thị-trường mà sinh ra liên-minh thành khối tư-bản. Dần dần

cách-thức sản-xuất chống với cách-thức trao-đổi sản-xuất càng ngày càng

công-cộng, trao-đổi vẫn giữ tính-cách cá-nhân, đẻ ra cảnh-tượng chỗ thừa

chỗ thiếu, kẻ giầu kẻ nghèo, tranh-đấu giai-cấp, chiến-tranh dân-tộc ......

Để giải-quyết trạng-thái mâu-thuẫn ấy, Marx đua ra giải-pháp cách-

mệnh vô-sản. Lịch-sử theo Marx là lịch-sử đấu-tranh giai-cấp. Giai-cấp

vô-sản một khi nắm được chính-quyền, sẽ biến-đổi phương-tiện sản-xuất

xã-hội thành sở-hữu của xã-hội, như thế nó lột bỏ tính-cách tư-bản của

phương-tiện sản-xuất và tổ-chức sự sản-xuất theo một kế-hoạch xã-hội,

đồng thời xây-dựng một xã-hội không còn mâu-thuẫn giai-cấp, không còn

hỗn-độn trong sự sản-xuất, không còn cả nhà nước điều-khiển kế-hoạch

sản-xuất và phân-phối nữa .

Loài người, với tiến-bộ khoa-học kỹ-thuật không ngừng sẽ làm chủ

phương-pháp sản-xuất, làm chủ thiên-nhiên, tự mình làm chủ mình, nghĩa

Page 17: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

17

là tự-do. Thực-hành cuộc cách-mệnh vô-sản ấy là sứ-mệnh của lịch-sử của

chủ-nghĩa xã-hội khoa-học, nhiệm-vụ của giai-cấp lao-động phải ý-thức

lấy .

Đấy là giai-cấp của Marx và các tín-đồ Mac-Xít cho những nỗi lo sợ

của con người và cho những nhu-cầu của xã-hội hiện nay. Giải-đáp ấy như

ta thấy là một trong những chương-trình xã-hội-hóa con người, nếu có

thành-công thì mới chỉ thỏa-mãn được cho mặt nhu-cầu của xã-hội do

trình-độ kỹ-nghệ-hóa tạo ra. Còn về mặt lo âu của cá-nhân, nội tâm thầm-

kín của mỗi người thì Marx coi như không có, cho nên không bận tâm đến.

Nhưng một sự ngẫu-nhiên đã thấy ở thế-kỷ này là sau khi có trào-lưu Mác-

Xít thì đồng thời cũng xuất-hiện ở Âu-Tây trào-lưu phân-tâm-học với

Freud và các trào-lưu Triết-học hiện-sinh hay sinh-tồn và nhân-vị. Các

trào-lư này đều quay vào nội tâm cá-nhân, tìm vào các tầng lớp sâu-thẳm

của tâm hồn và chống đối các quan-niệm điển-hình của Triết-học, đi tìm

cái bất-biến, vĩnh-cửu, đại-đồng, chống với hệ-thống trí-thức đòi giải-thích

vũ-trụ vạn-vật, vì hệ-thống với sinh-tồn trái-nghịch nhau, chống với khoa-

học, vì khoa-học dựa vào giả-định, không chứng-minh, lập-cước trên sự

đối-lập giữa chủ-quan và khách-vật, năng-tri và sở-tri. Các trào-lưu hiện-

sinh cũng như phân-tâm-học chú ý vào cái đặc-thù, cái cá-tính, và cái đặc-

thù trước nhất là cái Ta riêng-biệt, độc-đáo, chủ-quan, lấy làm trọng-tâm

cho Triết-học .

Nếu Descartes lấy trọng-tâm Triết-học duy-lý của ông ở điểm

" Cogito ergo sum " ( Tôi tư duy thì tôi có thật ) các triết-gia hiện-sinh, có

thể nói như Dilthey ở Đức, lấy trọng-tâm Triết-học là : " Je vis donc je

suis " ( Tôi sống thì tôi có thật ) .

Và sự sống cá-nhân ấy cốt-yếu, trước hết là nội hướng, quay vào

mình để tìm một cái gì bám-víu, làm trụ cột cho cái thực-tại sống, khỏi

chơi vơi như người đang bị đắm tầu ở giữa bể. Tâm-trạng của người đắm

tầu giữa bể trong đêm tối mịt mùng, chân không tới đất, cật không tới trời,

chới với giữa cái sống và cái chết, chết nhiều hơn sống thì hẳn hải-hùng,

hẳn là ghê sợ, hẳn là kinh-khủng, rụng rời .

Phải chăng đấy là trực-giác nguyên-thủy, khởi điểm của Kierkegaard

là cái " Angoisse " ( Kinh hoảng ) mà về sau J.P. Sartre lấy làm định-

nghĩa cho con người " L'homme est angoisse " ( Người là kinh-hoảng )

Page 18: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

và thêm rằng : " Dĩ nhiên có nhiều người không cảm thấy kinh hoảng lo

sợ, nhưng tôi tuyên-bố rằng họ giấu nỗi lo sợ của họ, rằng họ trốn tránh lo

sợ. Nhưng ở Kierkegaard, sự lo sợ kinh hoảng xuất-phát tự trong sự trầm-

tư mặc-tưởng có tính-chất tôn-giáo, cá-nhân cảm thấy đời sống ở thế-gian

cô-liêu, nhiễm ố đối với trước Thượng-Đế, đối với trước siêu-nhiên,

Tuyệt-đối. Chỉ có Tuyệt-đối mới là thật, mà Tuyệt-đối là không liên-hệ.

Tôi là một cái gì có thật, hiện-sinh chừng nào tôi sống nhiệt-thành, nồng-

nàn cái liên-hệ của tôi với Tuyệt-đối, với Thượng-Đế. Thực là một sự phi-

lý ! sống là sống có liên-hệ, là sống với cái gì, cái ấy lại là Tuyệt-đối,

không có liên-hệ, đấy là lý-thuyết cho sinh-tồn ( existence ) vì nguyên-tự

nghĩa của " existence " là ex : phát-xuất, ra ngoài, và istence : thiết-lập.

Cái kinh-nghiệm của Kierkegaard là kinh-nghiệm quay vào trong tâm hồn,

nội hướng để tìm thiết-lập vào cái gì thật vững chắc, hết sức thật thì chỉ có

Tuyệt-đối mới hết sức thật, mà Tuyệt-đối thì không liên-hệ, làm sao ông

dám tin rằng mình thiết-lập vào Tuyệt-đối, như thế chẳng phạm thượng

lắm sao ? Vốn sống và sinh-trưởng trong truyền-thống văn-hóa lưỡng-

nguyên tín-ngưỡng con người, nhân-loại chúng-sinh là phàm-tục, tương-

đối, tội-lỗi, làm sao chẳng hãi-hùng, kinh hoảng, thấy phải đi đến sự lặn

chìm, biến hóa mình, cái Ta vào trong Tuyệt-đối, đem cái " Hữu danh vạn

vật chi mẫu " nhập vào cái " Vô danh thiên địa chi thủy " như Lão-Tư

mở đầu sách Đạo-đức-kinh ở Đông-phương ? Điều trọng đại cho sự sống,

nhất là sống cá-nhân nội hướng là đức-tin, vì có tin thì mới đúng được như

Khổng-Tử đã nói : " Vô tín bất lập " . Nhưng Kierkegaard hiểu đức-tin

khác với quần-chúng. Theo ông thì đối-tượng có thật ở cái cách-thức mình

tin, đức-tin càng nhiệt-thành bao nhiêu thì đối-tượng càng thật bấy nhiêu.

Thượng-Đế không cốt ở quan-niệm mà cốt ở sự sống nhiệt-thành vươn lên,

tức là đức-tin, hay là thực-hiện " réalisation ". Ông thường nói :

" Rất có thể rằng tôi tưởng tin vào Thượng-Đế, và không phải

vào Thượng-Đế mà tôi tin, nếu tư-tưởng tôi không đủ nhiệt-thành.

Và tôi tưởng rằng, người nào khác tin vào một ngẫu-tượng, nhưng

nhờ sức tin nhiệt-thành của y, cái ngẫu-tượng ấy trở nên Thượng-Đế

thật, bởi vì Thượng-Đế thật được giới-thuyết bằng lòng nhiệt-thành

tuyệt-đối của tôi, sức căng thẳng tuyệt-đối nhiệt-thành của lòng tôi

vươn lên đấy. Vậy thì cái phương-diện ( như thế nào ) giới-thuyết

cho đối-tượng ? " .

_ ( Jean Wahl. dẫn trong " Philosophies de L'Existence ", col.

Armand Colin ) .

Page 19: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

19

Đấy là chủ-quan cùng cực của Kierkegaard, không thể truyền-thụ

thẳng cho người khác. Đấy là lý-tưởng chủ-quan, là chân-lý tuyệt-đối chủ-

quan, siêu-việt lên cả lý-tính và người. Ở đấy không thể không nghĩ đến

câu thơ của Nguyễn-Công-Trứ đã khéo mô tả cái kinh-nghiệm bản-thân

phẩm-tính nội-hướng, sau một đời không phải trầm-tư mặc-tưởng mà là

hành-động phụng-sự :

" Tri ngã giả, bất tri ngã giả

( )

Người có biết ta chăng chẳng biết ?

Chẳng biết ta ta vẫn là ta.

Linh khâm bảo hợp Thái hòa ".

Cái trực-giác về sự tương-quan giữa cá-nhân và Tuyệt-đối, giữa con

người và Thượng-Đế của Kierkegaard là một thực-nghiệm độc đáo, nội

tâm, riêng mình mình biết, riêng mình mình hay, không thể đem danh-từ

ngôn-ngữ, trí-thức suy giải để hệ-thống-hóa được, chính ông đã kịch-liệt

phản-đối sự hệ-thống-hóa cực-đoan của Triết-học Hegel, chê là Triết-học

của giáo-sư. Nhưng rồi về sau có hai triết-gia người Đức là Jaspers và

Heidegger đã cố dựa vào cái trực-giác của Kierkegaard để xây-dựng nên

cái Triết-học sinh-tồn hay hiện-sinh. Trước hết Jaspers giải-thích ý-nghĩa

của chữ " existence " theo như Kierkegaard đã định là sinh-tồn, hiện-sinh,

đứng lên trên hoàn-cảnh, đối-lập với chữ " Etre Etant " là thực-hữu thực-

tồn. Thực-tồn lặn chìm tham-nhập vào một cảnh-ngộ đặc-thù, nhất-định,

lệ-thuộc vào thời-gian và không-gian, cho nên sinh-tồn chân-thật vượt lên

trên cảnh-ngộ. Nó là một sự sống động, một nguồn sống như làn sóng luôn

luôn dồn tới, vọt lên, lớp trên đè lớp dưới, lúc xuống lúc lên mà người ta

cảm thấy cái cảm-giác hãi-hùng. Ở căn-bản sinh-tồn có sự mâu-thuẫn, trái

nghịch, chống đối như tự-do và lệ-thuộc, cảm-thông và cô-liêu. Đấy là

bản-chất của sinh-tồn, mất trái nghịch thì hết sinh-tồn. Cái cảm-giác bao-

trùm bên trong sự xung-đột căng-thẳng ấy là kinh hoảng lo sợ " angoisse,

anxiété ". Cái cảm-giác lo sợ ấy là điều tiên-quyết cốt-yếu để khám-phá ra

thực-tồn, nó là một sự huyền-bí cùng cực mà người ta chỉ phải thực-

nghiệm như là cái gì lạ kỳ, kinh ngạc. Người không biết kinh-ngạc là

người không biết sinh-tồn. Sự kinh-ngạc ấy là cảm thấy trong thời-gian có

cái gì vượt quá thời-gian, trong trói buộc của sự nhu-yếu có cái gì tự-do

như là một khích-động thúc đẩy, một cái đà tiến vượt lên trên thực-tế. Đấy

Page 20: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

là một sự huyền-bí của sinh-tồn. Cái vĩnh-cửu nằm trong quá-trình của

thời-gian. Đấy là lịch-sử-tính của ý-thức hay là bản-ngã. Cái bản-ngã ấy

không nên hiểu như là vật cô-lập, đóng cửa bế-quan. Nó vốn tràn ra ngoài,

cảm-thông với các bản-ngã khác. Sự liên-hệ biến-đổi của các bản-ngã tạo

nên lịch-sử, lịch-sử là lịch-sử của sự biến-hóa giữa thực-tồn với sinh-tồn

chân-thật. Đấy là lịch-sử có người, có tâm tình, không phải lịch-sử hãi-

hùng của những thực-kiện và suy-diễn .

Phản-ứng đối với sự trống rỗng của thế-giới hiện-đại, Jaspers tìm sự

tự tin trong một tín ngưỡng Triết-học độc-lập với khải-ngộ hay thiên-khải.

Ông vẫn giữ lưỡng-tính của sự sống, không mộng tưởng hạnh-phúc hoàn-

toàn trừu-tượng. Ông ví lưỡng-tính của sự sống như ngày với đêm. Ban

ngày sáng sủa, là lúc cuộc đời xây-dựng có trật-tự, hợp lý, thủy chung, có

hy-vọng thực-tồn không trống-rỗng. Nhưng đêm đến tất cả công-trình xây-

dựng ấy chìm cả vào tối đen, vực thẳm mù mịt. Đấy là hình-ảnh ngày đêm

của lịch-sử nhân-loại, tức là hình-ảnh tồn vong, dâu biển của một luật vô-

thường của nhà Phật, hình-ảnh sống chết của con người. Cái chết ám-ảnh

Jaspers, sự không hoàn-toàn là mực-thước của con người và sự đắm

thuyền là cứu-cánh cùng tột. Ông viết :

" Thực là ghê tởm cho phẩm-giá con người, phẩm-giá ở trên tất

cả chứng-minh, để nghĩ rằng tự-do, tín-ngưỡng và chân-thật, một

ngày kia sẽ biến đổi đi để cho kỹ-thuật thay thế. Cũng chẳng kém

ghê tởm để nghĩ rằng sự chết là hoàn-toàn phủ-định sự sinh-tồn. Con

người còn hơn là cái gì mà những viễn-tượng trên cho thấy " .

Nhưng viễn-tượng chết vẫn lù lù ám-ảnh triết-gia sinh-tồn, như

Martin Heidegger phát-triển cái ý-nghĩa cực-đoan của " chết " làm mục-

đích của sinh-tồn .

Theo ông thì con người không phải giới-hạn vào cái hiện-tại trước

mắt mà còn cảm thấy tiếng gọi của tương-lai dự-định một cách khẩn-cấp

vì là tiếng gọi của cái chết. Cái chết là khả-năng nhân-vị nhất của con

người. Tự-do của con người chỉ có thể đạt được trước mặt cái chết mà

thôi. Ông viết :

" Không phải chỉ đến hết cuộc đời tôi, cái chết mới hiện ra, nó

hiện-diện ở mỗi hành-động trong đời tôi, ở chính tại mỗi động-tác tôi

Page 21: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

21

đang sống. Sống chân-thật là sống luôn luôn có hiện-diện của cái

chết, bởi vì chỉ đến bấy giờ chúng ta mới có thể đạt được " tư-do

trước mặt cái chết " và chúng ta mới biết rằng cái chết chỉ đe dọa

sinh-tồn phát nghiệm mà thôi chứ không có uy-thế gì với sinh-tồn

siêu-nhiên cả " .

_ ( K. Guru Dutt. dẫn trong " Existentialism and Indian Thought " ,

Philosophical Library , New-York ) .

Đấy là luôn luôn đối-diện với cái chết để khám-phá cái bộ mặt thật,

cái " bản lai diện mục " của mình, ở trên cái thân-thể vật-chất này là cái

thân giả-hợp, cái thân " ngũ uẩn " như luận-điệu của nhà Phật, còn cái cõi

không sống chết ?

Trên đây là Triết-học hiện-sinh ở nước Đức. Trào-lưu tư-tưởng ấy

truyền sang Pháp, có hai đại-biểu trứ danh hiện nay là Jean Paul Sartre với

Gabriel Marcel .

Sartre lấy câu nói của Dostoisky làm hiến-chương cho chủ-nghĩa

sinh-tồn của ông. Câu nói ấy là : ( Nếu không có Thượng-Đế thì mọi sự-

vật sẽ có thể được ) " Si Dieu n'existe pas toute chose serait possible " .

Chúng ta đều biết rằng cái điểm xuất-phát chung của chủ-nghĩa sinh-

tồn là cái công-thức ( Sinh-tồn có trước bản-thể ) " Existence précide

existence ".

Do đấy mà có thể nói rằng tất cả khuynh-hướng Triết-học sinh-tồn

đều là quan-điểm chủ-quan. Sartre nói : " Trước hết con người có thật,

quay lộn, xuất-hiện trên sân-khấu và chỉ về sau mới tự giới-thuyết ". Cố tự

giới-thuyết và thấy rằng không thể giới-thuyết được con người, bởi vì theo

Sartre, nó không là cái chi hết. Nhắc lại quan-niệm của Heidegger :

( Người là tương-lai của người ) " L'homme est le future de l'homme ",

Sartre nối-tiếp mà nói rằng : ( Đấy là cái người ta gọi là Chủ-quan-tính )

" C'est ce qu'on appelle par Subjectivité " và sự cống-hiến đáng kể của

Sartre vào tư-tưởng Triết-học là ở điểm ông đã mở rộng quan-niệm chủ-

quan của Descartes, ông tổ Triết-học Âu-Tây cận-đại, ông viết :

" Cái chủ-quan mà chúng tôi đi tới như thế, và chúng tôi tuyên

bố là chân-lý thì không phải cái chủ-quan giới-hạn vào cá-nhân, bởi

Page 22: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

vì chúng tôi đã chứng-minh rằng người ta khám-phá thấy trong cái

( tư-duy " cogito " không những cái mình ) mà còn ( người ) nữa....

Triết-học của Descartes và của Kant trái lại, trong cái tôi tư-duy

chúng ta đạt đến cái mình tự-ngã trước mặt các tha-nhân, và các

người tha-nhân cũng thật đối với ta như tự-ngã của chúng ta vậy...,

như cảnh-ngộ của chính sinh-tồn của mình. Để có thể đạt được sự

thật về mình, ta phải tiếp-tục với cái ngã khác. Cái tha-nhân thiết-yếu

cho chính sinh-tồn của mình cũng như cho sự hiểu-biết về mình. Cái

thực-tồn như thế, trong sự khám-phá cái nội-tại của mình, ta đồng

thời khám-phá cái tha-nhân nhân-tính, cũng ví như tự-do ở trước mặt

ta, nó chỉ muốn hay chỉ tưởng vì ta hay chống với ta. Do đấy chúng

ta hãy báo trước sự khám-phá ra một thế-giới mà chúng ta sẽ gọi là

hỗ-tương chủ-quan " intersubjectivité ". Đấy là thế-giới trong đó con

người quyết-định nó là cái gì và người là cái gì " .

_ ( Theo K.Guru Dutt. Trích-dân trong sách Existentialism and

Indian Thought ) .

Đấy là một quan-điểm mới về Triết-học " cogito " từ chỗ tôi tư-duy

là tôi có thật, đến chỗ ( tôi tư-duy là tôi sinh-tồn ) " Je pense donc

j'existe ". Và theo Sartre thì cái đặc-cách ( tôi tư-duy ) " Je pense, cogito "

có giá-trị một lý-thuyết duy-nhất để đem lại nhân-phẩm cho con người,

không coi con người như một đối-tượng khách-quan, và có thể làm cho nó

thiết-lập trong thế-giới nhân-bản là một toàn-bộ những giá-trị phân-biệt

với thế-giới vật-chất. Nhưng Sartre vẫn lưỡng-lự giữa khuynh-hướng duy-

tâm và duy-vật, chủ-quan và khách-quan, vì ở chỗ khác ông viết :

" Vật-chất chỉ là cái thực-tại tôi có thể nắm được " và " chỉ có

thực-tại trong hành-động mà thôi. Con người chẳng là cái chi khác

hơn là chương-trình dự-tính của nó, nó chỉ sinh-tồn chừng nào nó

thực-hành ".

Sự lưỡng-lự ấy chưa có lối thoát, cho nên từ khởi điểm chung là

( Thực-tồn cho mình ) " Etre pour soi ". Heidegger bên nước Đức đi đến

( Thực-tồn cho cái chết ) " Etre pour mourir " để rồi theo bọn Nazi hiếu-

sát, còn Sartre đi đến ( Tư-do là hư vô ) " Liberté néant " sau khi tham-gia

phe kháng-chiến để giải-phóng dân-tộc Pháp. Sự mâu-thuẫn trong Triết-

học sinh-tồn ấy, đã được Gabriel Marcel ở Pháp tìm lối thoát vào thực-

nghiệm tâm-linh sáng-tạo. Phương-pháp Triết-học của Marcel là " Ôn cố

Page 23: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

23

tri tân ", ứng-dụng vào nội-quan tâm-lý để khám-phá xem làm sao, một

chủ-thể " sujet " ở khả-năng thực-tế là chủ-thể, đã liên-quan với một

thực-tại, trong cái nội-dung không thể bị coi như khách-quan, vậy mà nó

vẫn cố đòi và được công-nhận là thực. Nghĩa là thực-tại vừa chủ-quan vừa

khách-quan, vừa ở trong tâm lại vừa ở ngoài tâm như thế nào ? Công việc

khám-phá ấy không thể thực-hành trong giới-hạn của tâm-lý-học của

những thái-độ nhất-định không để ý đến chí-hướng. Đấy là theo ông nhận-

thức về chỗ gặp gỡ qui-tụ của siêu-hình và tín-ngưỡng, khám-phá cái thân-

mật tại trung-tâm cái xa cách, đem cái siêu-nhiên xuống thiên-nhiên, gọi là

siêu-hình của cái tại-gia. Bình-diện Triết-học là ở cái tri-thức có khả-năng

siêu lên trên cái khách-quan. " Hiện-sinh hay sinh-tồn là một thực-tồn luôn

luôn xung đột với vô ngã tính của vật ". Cho nên ông không tin vào trí-

thức, và nói : " Tư duy, công-thức-hóa, và phán-đoán luôn luôn đánh lừa,

phản-bội. Triết-gia thực, là người chứng-kiến chứ không phải một nhà

suy-luận " . Vậy phương-pháp Triết-học " ôn cố hồi niệm " của ông là

một sự từ bỏ hướng vào trong, một sự cởi mở thong-thả trước hiện-diện

của một thực-tại nhận ra như vẫn đã có ở đấy, đang chờ đợi khán-giả cầu

tìm. Luôn luôn bắt đầu mới, luôn luôn hiện-sinh lại, tới đến hết đời. Tư

duy, suy-nghĩ theo ông không phải là phân-tích, biện-biệt, mà là một sự

tiếp-cận " approache " ( cận đạo ) hơn là một sự hệ-thống-hóa, vấn-đề

đào sâu xuống hay là vào trong hơn là xây lên .

Trong tác-phẩm căn-bản của Marcel " Etre et Avoir " ( Thực-tồn và

Tư-hữu ) hay là ( Sống và Có ), ông trình-bày sự khác nhau căn-bản của

sự sống tham-gia và sống tư-hữu " Participation contre Possession " . Sự

tư-hữu hay chiếm-hữu không thể diễn-tả được sự liên-quan giữa người cầu

tìm với nhận-thức về thực-tồn. Nhà hiền-giả không chiếm-hữu tri-thức về

thực-tồn, y đồng-nhất với thực-tồn. Cái bệnh của tồn-tại tập-quán là dục-

vọng chiếm-hữu, do đấy mà " thất vọng, lo sợ đều là bệnh hoạn do lòng

chiếm-hữu sinh ra ) " Desespoir et anxiété sont des malaises causées par la

possessivité ". Ông gọi tính chiếm-hữu là " non détachement " ( chấp hữu

tính ) .

Chống cái bệnh chấp-hữu ấy là thái-độ vô-chấp, vô-tư, hỷ-sả. Vô-

chấp là bỏ bớt cái Ta đi. Đời sống tâm-linh là toàn-bộ hành-động có tính-

cách phá bỏ cái chấp-hữu, đúng như luận-điệu của Lão-Tử : " Thiếu tư

quả dục, kiến tố bảo phác " ( bớt cái riêng, ít cái muốn, thấy cái trong

trắng, giữ lấy cái chất-phác ). Cái quan-niệm (phá chấp-tính) " détacha-

Page 24: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

bilité " chi-phối tất cả tư-tưởng của Marcel, về tư-tưởng siêu-hình cũng

như về nhân-sinh, về vấn-đề " Tri " cũng như " Hành ". Tri Hành ở đây

của Gabriel Marcel không phải cái Tri Hành " Praxis " của Karl Marx

giới hạn trong điều-kiện lịch-sử kinh-tế. Tri Hành của Marcel xuất-phát từ

trong cái hiện-diện mà ông bảo đã gặp thấy trong hồi niệm ôn cố, ở trên tất

cả phán-đoán, ngoài tất cả sự biểu-thị. Nhưng cái thực-nghiệm nội-tâm ấy

ở Gabriel Marcel vẫn chưa đi đến điểm đồng-nhất cái tự-tính " moi "

" myself " với tha-tính " autre " " other " nghĩa là thực-nghiệm của ông

vẫn có hình-thức lưỡng-tính, lưỡng-nguyên .

Kết-Luận Về Triết-học Hiện-đại._

Kết-luận về đại-quan Triết-học Hiện-đại, Ferdinand Alquié trong "Clartés"

viết :

" Chúng ta không thể đoán trước mỗi Triết-học thế-kỷ XX này

sẽ đi về đâu, số-phận các trào-lưu cơ-cấu chi-phối bao nhiêu tinh-

thần hiện nay, trong đó có Phân-tâm-học-gia, Xã-hội-học-gia và

Triết-gia Marxisme đứng sát cánh nhau. Chúng liệu có thể rút ra một

vài yếu-tố chung đem lại cho Triết-học Hiện-đại cái nhân-quán mà

chúng ta nhận thấy ở Triết-học thế-kỷ XVII hay XVIII chẳng hạn ?

Triết-học Hiện-đại, đáng lẽ là kết-quả của suy-nghiệm về thế-giới

chung-quanh, lại có khuynh-hướng chỉ chuyên suy-nghiệm về chính

mình. Tuy nhiên nó không thiếu ý hướng chính-trị và nhập-thế.

Nhưng chính vì thế-giới hiện-đại biến-chuyển quá mau lẹ mà người

ta không thể triết-lý bằng cách đem tưởng-tượng mình luôn luôn

khuôn theo sự-vật. Hãy tưởng-tượng cái thời người ta còn phải chờ

đợi để mà thấy xuất-hiện một sự tổng-hợp chặt-chẽ như Triết-học

Aristote và khải-thị của Saint Thomas đã đem lại cho chúng ta, hay là

sự quân-bình mà Descartes đã thực-hiện giữa siêu-hình thần-học với

cơ-giới khoa-học. Thực vậy, ngày nay người ta khó mà thấy được cái

gì tương-đương với những học-thuyết cao quí ấy trong mớ hỗn-độn

chân-lý chống đối, ví như ở Cha Teilhard de Chardin trong những

tác-phẩm mà nhiều người tìm hoài lấy một Triết-học có hệ-thống .

Page 25: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

25

" Khoa-học biến-đổi, thế-giới biến-đổi, và người ta chưa kịp

hiểu thấu một chân-lý khoa-học này thì nó đã trở nên một sai lầm.

Người ta chưa kịp chứng-minh một sự-kiện lịch-sử này thì nó đã sớm

bị một sự-kiện kế tiếp kia phủ-định. Bởi thế nên chắc chắn có nhiều

triết-gia từ bỏ hoài-bão một sự thống-quan toàn-thể và một tổng-hợp

vĩ-đại, họ bèn quay về con người, và tuy giới-thuyết con người bằng

thời-gian-tính mà họ đều nói về con người như con người của bất cứ

thời nào vậy. Như thế ít ra, dù là thường phiến-diện và thiên-lệch,

Triết-học Hiện-đại vẫn trung-thành với tiếng gọi của tất cả Triết-học.

_ ( Les Grands Courant du XX.èm siècle. P. 16270 )

Đứng ở quan-điểm Đông-phương và Việt-Nam mà nhận-định, chúng

ta thấy Triết-học Hiện-đại từ cuối thế-kỷ XIX cho đến nay như trình-bày ở

trên, những trào-lưu chính, kể từ Karl Marx đến Gabriel Marcel, đều tỏ ra

cái khuynh-hướng lấy " Người " làm đề-tài, đều quay về nhân-văn, tìm

giá-trị nhân-sinh hơn là trí-thức siêu-hình trừu-tượng. Nó đi về nhập-thế

hơn là xuất-thế, thiên về " hành " hơn là " tàng " " xuất " hơn là " xử "

theo luận-điệu Việt-Nam và Đông-phương .

Còn một đặc-tính chung nữa trong Triết-học Hiện-đại là chống với

tri-thức hệ-thống bế-quan, đòi một loại hệ-thống mở cửa, khai-triển .

Nhưng hoặc muốn vào đời mà không tự mãn hoàn-toàn với đời, còn

muốn hướng lên đạo, hoặc đòi khai-triển mở cửa mà còn muốn hệ-thống.

Triết-học đều đứng trước một vấn-đề mâu-thuẫn, lưỡng-tính, nhị-nguyên,

phải giải-quyết bằng sự hợp-nhất, dung-hòa. Nhưng truyền-thống văn-hóa

Tây-phương vốn thuộc về lưỡng-tính, không thể giải-quyết nổi những

mâu-thuẫn trên đây nếu không trở về tín-ngưỡng tâm-linh huyền-bí của

Triết-học truyền-thống " Philosophia Perenis " như ở Ấn-Độ hiện-đại,

Ramakrishna, Aurobindo, Maharshi, đã thực-hiện lại cái Triết-học

" Advaita " ( Bất-nhị-pháp ) cố-hữu Á-Đông .

" Sao bằng vui thú liên trì

Dứt không Tứ-Tướng, xá gì Nhị-Biên " .

_ ( Quan-Âm Thị-Kính )

Page 26: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

Triết - Học Hiện - Đại Và Tư - Tưởng Việt - Nam ._

Chúng ta đã thấy đại-khái có hai yếu-tố chính trong các trào-lưu

Triết-học Hiện-đại ở Tây-Âu .

1/_ Nội-quan về con người, nhận-định thân-phận con người lệ-thuộc vào

những điều-kiện sinh-tồn, đời sống thực-tế và bất-mãn với hiện-tại để tìm

vượt lên .

2/_ Phản-đối Triết-học hệ-thống, đòi hỏi ý-thức, khai-triển, sống động,

không bế-quan cố-định .

Nay thử xem Tư-tưởng Việt-Nam có những yếu-tố gì, và đối với hai

yếu-tố trên đây, đã và sẽ giải đáp thế nào ?

Nói đến Tư-tưởng Việt-Nam là nói đến Tư-tưởng của các danh-nhân

đã có sự-nghiệp được dân-tộc thờ-phụng nhớ ơn. Cái Tư-tưởng ấy không

có hệ-thống theo trí-thức suy-luận, nhưng được hệ-thống-hóa bằng việc

làm, bằng đời sống thực-hiện, ngôn hành nhất-trí. Dĩ nhiên Tư-tưởng Việt-

Nam cũng như Tư-tưởng của bất cứ dân-tộc nào khác, lệ-thuộc vào điều-

kiện địa-lý kinh-tế và lịch-sử, trong đó nhóm người Việt đã giải-quyết sự

sinh-tồn của nó. Điều-kiện ấy vốn từ thủa lập quốc, có tên trong lịch-sử đã

là cái khu-vực gọi là Giao-Chỉ ( ) nơi ngừng đọng, đứng lại, chỗ

gặp gỡ của các trào-lưu nhân-chủng và văn-minh qua lại. Trước đây, ở

quá-khứ, hai trào-lưu chính là trào-lưu từ Ấn-Độ sang và từ Trung-Hoa

xuống, cho nên hiện nay nó mang cái tên điạ-lý là Ấn-Độ China

( Indochina ). Vậy thì ngay tại bản-thân của dân-tộc Việt-Nam đã hiện ra

về vấn-đề giải-quyết mâu-thuẫn Tư-tưởng xung-đột, mà hai trào-lưu nhập-

thế, nhân-sinh của Trung-Hoa và trào-lưu xuất-thế vũ-trụ của Ấn-Độ. Nói

cách khác thì đấy là Tư-tưởng xã-hội và Tư-tưởng cá-nhân, một đàng khác

là bổn-phận, một đàng khác là tự-do .

Ngay từ buổi đầu kỷ-nguyên Thiên-Chúa, người được giới trí-thức

Việt-Nam xưng là " Nam Giao Học Tổ " mà nông-dân

Việt-Nam thờ là Sĩ Vương-Tiên ( ). Nghĩa chữ " Nam giao Học

Tổ " là ông tổ học-thuật trước tiên của đất Giao-Chỉ ở phương Nam. Ông

Tổ học-thuật ấy chính lại là một nhà chính-trị-gia mà Tư-tưởng và hành-

Page 27: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

27

động đi đôi với nhau. Cái Tư-tưởng chính-trị ấy tuy lấy ở sách Xuân-Thu

của Khổng-Phu-Tử, nhưng đã được Việt-hóa một cách để thích-ứng với

hoàn-cảnh Lĩnh-Nam thời bấy giờ, khả dĩ giữ được hòa-bình thịnh-vượng

trong khi ở phương Bắc thì loạn-ly chiến-tranh ba nước : Ngụy, Thục,

Ngô, ấy là nhờ cái " chính-trị giáo-hóa " của Sĩ-Nhiếp.

" Sĩ-Vương học-tập theo văn-hóa nước Lỗ, học-vấn rộng hòa,

bác hiệp, nhún-nhường dưới bậc kẻ-sĩ " khiêm hư hạ sĩ ", lấy Kinh-

Thi, Kinh-Thư để giáo-hóa phong-tục trong nước, lấy Lễ, Nhạc để

thuần-thục lòng người, cai-trị nước hơn bốn mươi năm, trong nước

không biến loạn " ;

_ ( Việt-giám thông-khảo Tổng-luận )

Hay là :

" Vua Sĩ-Nhiếp đất Giao-Chỉ học-vấn đã rộng hơn người lại đạt

ở thực-hành chính-trị, giữa hoàn-cảnh loạn lớn mà giữ được vẹn-toàn

một Quận hơn hai mươi năm, biên-giới không xẩy ra việc gì, nhân-

dân không thất-nghiệp, kẻ đường xa đến đều được ân-huệ " .

_ Tam-Quốc-Chí -- truyện Sĩ-Nhiếp )

Cái Tư-tưởng rộng hợp " bác hiệp " ấy tỏ bày ra ở thái-độ chiêu-mộ

các bậc học-thức danh-tiếng đương thời, vốn không giới-hạn vào giới

Nho-sĩ như đối với Mâu-Bác chẳng hạn, tác-giả sách " Lý Hoặc Luận ",

trong đó khuynh-hướng khai-phóng Tư-tưởng, lấy tâm-linh Phật để điều-

dụng, tổng-hợp cái học Nho-gia với Đạo-gia nhập-thế nhân-sinh với xuất-

thế thiên-nhiên. Ông viết :

" Lão-Tử tuyệt thánh khí trí, tu thân bảo chân, vạn vật bất can

kỳ chí, thiên hạ bất dịch kỳ lạc, thiên tử bất đắc thần, chư hầu bất

đắc hữu. Cố khả quí dã. Ư thị duệ chí ư Phật đạo, kiêm nghiên Lão-

Tử ngũ thiên văn, hàm huyền diệu vi tửu tương, ngoạn Ngũ-Kinh vi

cầm hoàng " .

( Lão-Tử chủ-trương từ bỏ những giá-trị xã-hội như thánh và

trí, tu sửa thân mình để giữ lấy chân-tính, sự-vật bên ngoài không

can-thiệp vào ý-chí mình, người đời không làm cho mình thay-đổi

cái vui riêng, nhà vua không thể bắt mình làm tôi tớ, chúa không làm

bạn được với mình, như thế có thể gọi được là cao-quý vậy. Thế rồi

Page 28: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

ông đem hết tinh-thần chuyên vào Phật-học, lại gồm nghiên-cứu năm

ngàn chữ của sách Lão-Tử, ôm nuôi trong lòng cái lý huyền-diệu,

cùng học-tập sách Nho là Ngũ-Kinh như vui với đàn sáo vậy ) .

Đấy là khởi-điểm của sự gặp gỡ giữa tinh-thần văn-hóa Trung-Hoa

với văn-hóa Ấn-Độ trên đất Giao-Chỉ Việt-Nam cổ xưa, tại chính Kinh-đô

Luy-Lâu ( Bắc-Ninh ) vốn là Kinh-đô của Sĩ-Nhiếp cũng là trung-tâm

Phật-học đầu tiên. Sự gặp gỡ ấy đã nẩy nở ra cái tinh-thần dung hợp của

văn-hóa Việt-Nam sau này, cho nên trong quan-điểm tín-ngưỡng của

nông-dân Việt, Sĩ-Nhiếp được tôn thờ như " Sĩ-Vương Tiên " ( )

ngụ ý vừa nhập vừa xuất, vừa là Vua vừa là Tiên, hay là Chúa Tiên .

Cái tinh-thần văn-hóa ấy là tinh-thần khai-phóng thích-ứng cho cõi

Lĩnh-Nam thuộc khu-vực Đông-Nam-Á mà Bắc-Việt đã là chỗ giao-điểm,

ngã ba đường giao-lưu giữa hai truyền-thống lớn Ấn-Độ và China vậy .

Cái tinh-thần ấy ngấm-ngầm được hàm-dưỡng trong tiềm-thức dân-

tộc, để rồi sau một ngàn năm Bắc-thuộc lại bộc lộ ra sáng lạn rực rỡ thời

khôi-phục độc-lập của dân-tộc với triều Đinh, Lý vậy .

Người ta thường nói Tư-tưởng chính-thống triều Lý là Tư-tưởng

Phật-giáo. Nhưng người ta không phân định cái Phật-giáo ấy như thế nào,

nó đã bị biến hóa với hoàn-cảnh thực-tế của Việt-tộc đang phấn-đấu giải-

phóng khỏi bị thôn-tính vào Hán-tộc theo vết các ngành Việt-tộc khác và

xây-dựng một quốc-gia độc-lập ở cõi Đông-Nam-Á, với quốc-hiệu Đại-

Cồ-Việt và Đại-Việt, một đế-quốc " tam phân đỉnh túc " với nhà Tống và

Đại-Lịch .

Cái Tư-tưởng Phật-giáo ấy đã lãnh-đạo dân-tộc triều Đinh, triều Lý

là Phật-giáo Thiền-tông, trọng về thực-nghiệm và hành-động, lại rất khai-

phóng như Thiền-sư Vạn-Hạnh làm tiêu-biểu. Tinh-thần của Thiền-sư đã

được Vua Lý-Nhân-Tông toát-yếu khúc-triết trong bốn câu thơ bao-hàm cả

trào-lưu Tư-tưởng của thời-đại :

" Vạn Hạnh dung tam tế

Chân phù cổ sấm thi

Hương quan danh Cổ-Pháp

Trụ tích trấn vương kỳ " .

Page 29: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

29

Nghĩa tạm dịch :

( Vạn-Hạnh dung hợp ba cõi quá-khứ, hiện-tại, vị-lại vào làm

một.

Lời tiên-tri chân thật là thơ sấm cổ xưa

Quê hương của ông vốn là quê hương Phật-giáo Giao-châu tức

Cổ-Pháp.

Chống gậy nhà Phật để bảo-vệ kinh-đô đất nước cho nhà Vua ).

Rõ ràng đấy là cái Tư-tưởng đem cái siêu-nhiên vĩnh-cửu không có

thời-gian không-gian để phụng-sự cho quốc-gia dân-tộc lệ-thuộc vào điều-

kiện thời-gian không-gian, tức là thực-hiện Đạo ( Essence ) trong đời

( Existence ) ở Thiền-học Việt-Nam vậy. Tư-tưởng ấy lại ở địa-vị lãnh-

đạo quốc-gia dân-tộc, phát-biểu đối với một Thiền-sư, từng là cố-vấn

chính-trị như là một vị quốc-sư cho hai triều-đại khai-quốc của Việt-Nam.

Sau một đời hành-động tích-cực phò Vua giúp nước, xây-dựng nền độc-

lập dân-tộc vững vàng, trước khi viên-tịch, có đọc cho đệ-tử bài kệ toát-

yếu ý-nghĩa của sinh-tồn rằng :

" Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân sinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô " .

Nghĩa là :

( Cái thân-thể vật-chất này chỉ là bóng chớp hiện ra lại biến đi

mất.

Nhưng tạo-vật như cỏ cây mùa xuân sinh nở, mùa thu lại khô

héo, mãi không hết.

Y theo vòng vận-chuyển của thời-tiết thiên-nhiên lúc thịnh lúc

suy không có chi phải sợ hãi.

Thịnh suy mệnh vận chẳng qua ví như hạt sương đọng trên

ngọn cỏ buổi sớm mai ) .

Rồi Thiền-sư lại bảo thêm rằng :

" Các đệ-tử đòi đi nơi nào ? Ta không lấy có ở để ở, không

nương vào không ở để ở ".

Page 30: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

Thế đủ thấy khuynh-hướng Tư-tưởng Thiền-học của Vạn-Hạnh

hành-động không chấp vào Có và Không tương-đối, đồng thời tín-ngưỡng

vào vận-mệnh sinh-tồn vĩnh-cửu. Ở ông đạo và đời đã hợp-nhất vào trong

ý-thức vũ-trụ hoàn-toàn không chấp, vô tư vậy .

Cái Tư-tưởng hiện-sinh thực-hiện đầy lạc-quan, không chút sợ hãi lo

âu như ở Âu-Tây hiện-đại, đã được Thiền-sư Cửu-Chi ( 1059 ), Ngộ-Ấn

( 1088 ), Thông-Biện ( 1134 ), trình-bày có hệ-thống sáng sủa khái-phóng

như sau :

Cửu-Chi viết :

" Khổng Mạc chấp hữu, Trang Lão nhược vô. Thế tục chi điển

phi giải thoát pháp, duy hữu, Phật-giáo bất hủ hữu vô, khả liễu sinh

tử. Nhiên tu trì giới tinh tiến, cầu thiện tri thức ân chứng thủy đắc " .

_ ( Thiền-uyển Truyền-đăng Tập-lục )

Nghĩa là :

( Tư-tưởng họ Khổng, họ Mạc thiên hẳn về " Có " tức nhân-

sinh ở đời sống thế-gian, Tư-tưởng họ Trang, họ Lão lại thiên về

"Không" tức là thiên-nhiên ở ngoài đời sống nhân-quần xã-hội. Kinh

sách thế-tục chuyên về xã-hội và thiên-nhiên không phải phương-

pháp để giải-thoát con người, chỉ có giáo-lý nhà Phật không thừa-

nhận Có và Không mới có thể giải đáp được trọn vẹn vấn-đề sống

chết. Nhưng phải giữ giới-luật và cố gắng tiến lên, tìm các bậc hiểu-

biết chứng-nghiệm cho mới được ) .

Rồi Thiền-sư giải-thích thêm :

" Hết thảy các giáo-lý đều theo nguồn-gốc bản-tính xuất ra, hết

thảy bản-tính của sự-vật theo nguồn-gốc tâm mình ra. Tâm (ý-thức )

với pháp ( hiện-tượng ) đồng-nhất, không có hai pháp tâm và vật.

Các sự phiền-não, trói buộc, đều là không thật có, các tội phúc, phải

trái, thảy là tương-đối huyền-ảo. Không có chi chẳng là nguyên-

nhân, chẳng là kết-quả. Ở trong cõi thế-gian nghiệp-chướng, không

nên phân-biệt nghiệp này, nghiệp kia, nếu còn phân-biệt thì không

được tự-tại, xác thật, độc-lập. Tuy thấy hết thảy hiện-tượng mà coi

như không thấy, tuy biết hết thảy sự-vật mà như không biết, nghĩa là

Page 31: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

31

tương-đối. Biết hết thảy hiện-tượng đều lấy nhân-duyên làm gốc,

thấy hết thảy hiện-tượng, lấy chân-thật làm đầu mối. Như thế thì tuy

có tội-lỗi, nhiễm-ố mà thực-tế là giải-thoát rồi. Thế-gian này như

tuồng ảo-hóa, biến-đổi. Thấu hiểu sáng-tỏ chúng-sinh thì chỉ có một

chân-lý, không có hai, không bỏ cảnh-giới nghiệp-báo (đời ) để

khôn khéo nơi phương-tiện. Ở trong thế-gian hữu-vi thì nhìn với

phép hữu-vi thế-gian, mà không phân-biệt ra hình-tướng vô-vi xuất-

thế. Là vì muốn dứt hẳn cái ngã vọng-niệm tính-toán suy-bì đấy

thôi " .

Rồi Thiền-sư kết-luận vào một bài thơ kệ :

" Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch

Thần thông biến hóa hiện chư tướng

Hữu vi vô vi tòng thủ xuất

Hà sa thế giới bất khả lượng

Tuy nhiên biến mãn hư không giới

Nhất nhất quan lai một hình trạng

Thiên cổ vạn cổ nan thử huống

Giới giới, xứ xứ thường lãng lãng " .

_ ( Thiền-uyển Truyền-đăng tập )

Nghĩa là :

( Hiểu thấu thân và tâm là tương-đối

Biến-hóa thần-thông các biểu-hiện

Từ đấy mới hiện ra có quan-niệm hữu-vi và vô-vi

Thế-giới này như cát sông Hằng vô kể

Tuy rằng phổ-biến đầy cả cõi không-gian

Nhưng nhìn lại thì không có chi là trạng-thái nhất-định riêng-

biệt

Cảnh-ngộ ấy từ ngàn xưa, muôn xưa rất khó khăn

Đến cái luôn luôn sáng-tỏ khắp nơi khắp chốn ) .

Và Thiền-sư Ngộ-Ấn đã đem cái triết-lý khai-phóng ấy để ứng-dụng

vào hoàn-cảnh Việt-Nam trong Đông-Nam-Á lúc bấy giờ, là lấy cái

" thường lãng lãng " ( cái ý-thức luôn luôn sáng lạn ) làm bản-thể

( essence) để dung-hợp thâu-hóa sáng-tạo các tác-dụng ( existence ) của

Page 32: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

Tư-tưởng sinh-tồn dân-tộc, như Thiền-sư đã giải-thích quan-niệm Phật-

giáo Thiền-tông như sau :

" Vô thượng Pháp vương tại thân vi Phật, tại khẩu vi Pháp, tại

tâm vi Thiền. Tuy thị tam ban, kỳ qui tắc nhất.

" Dụ như tam giang chi thủy, tùy xứ lập danh, danh tuy bất

đồng, thủy tính vô dị " .

_ ( Thiền-uyển Truyền-đăng Tập-lục )

( Vua Pháp tối-cao hiện-thân ở thân mình là Phật, ở miệng nói

các lý-thuyết là Pháp, ở nơi tâm thực-nghiệm là Thiền.

( Tuy phân ra ba việc mà chung qui về một, ví như nước ba

giòng sông, tùy nơi mang tên khác nhau. Tên tuy có khác mà bản-

tính của nước thì không khác ) .

Đấy thật là biểu-lộ rõ ràng Tư-tưởng " Đồng qui nhi thù đồ "

( ) " Unité dans la diversité " là đặc-tính văn-hóa Đông-

Nam-Á vậy .

Và kết-quả cụ-thể mà dân-tộc Việt-Nam thời Lý đã thực-hiện là chùa

Một-Cột với Thiền-học Thảo-Đường, phối-hợp văn-hóa Chiêm-Thành với

văn-hóa Đông-Sơn, tín-ngưỡng tình-yêu sùng-bái Phật-Bà Quan-Âm của

nông-dân với tín-ngưỡng tâm-linh thực-nghiệm của trí-thức lãnh-đạo, mà

Vua Lý-Thánh-Tông đã lấy làm ý-thức-hệ cho cái mộng Đại-Việt ( 1054 ).

Sự phối-hợp ấy là phối-hợp giữa tình yêu sáng-tạo với lý-trí khách-

quan vào ý-chí sinh-tồn của đoàn-thể, như lời bia của Lý-Thường-Kiệt đã

chứng-minh :

" Kẻ nhân và trí vui là vui với núi sông. Đời thế truyền lại là

công-danh và đạo-lý vậy. Nếu không dựng Chùa ở Núi ( Ngưỡng

Sơn ) này để biểu-dương đạo-lý thì danh-tiếng không đủ làm quý

vậy " .

_ ( Bia Chùa Linh-Xứng )

Cái Tư-tưởng thâu-hóa sáng-tạo điều-hòa, dung-hợp các trào-lưu Tư-

tưởng mâu-thuẫn, vốn là đặc-trưng của tinh-thần văn-hóa khai-phóng,

Page 33: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

33

biểu-dương ở học-thuyết Tam-giáo Đồng-nguyên. Từ thời Lý sang thời

Trần đã tiếp-tục phát-triển để trở nên khóa-trình Quốc-học với Trần-Thái-

Tông :

" Quí-Sửu tam niên, lục nguyệt lập Quốc-học-viện "

( Năm Quí-Sửu ( 1253 ) thứ ba, tháng sáu dựng Viện Quốc-

học ).

_ (Đại-Việt Sử-ký Toàn-thư )

" Đinh vi thập lục niên, thu bát nguyệt thi thông tam giáo chú

khoa "

( Năm Đinh-Mùi ( 1247 ) thứ sáu mùa thu tháng tám thi thông

cả ba giáo Khổng, Lão, Phật ) .

Vua Trần-Thái-Tông đã biểu-dương cái Tư-tưởng phối-hợp vừa

nhập-thế vào đời lẫn xuất-thế siêu-nhiên, hai khuynh-hướng bổ-túc cho

nhau trong cái ý-thức khai-phóng ( Lấy tâm thiên hạ làm tâm mình, lấy ý-

nguyện của nhân-dân làm ý-nguyện của mình ) " Dĩ thiên hạ tâm vi tâm, dĩ

thiên hạ dục vi dục ". Và Thái-Tông không những đã trình-bày cái triết-lý

phối-hợp Tam-giáo ở sách Khoá-Hư, mà còn đem cả một đời sống để

thực-hiện cái Tư-tưởng vừa nhập-thế vừa xuất-thế của mình nữa .

Trẫm nghĩ :

" Đạo Phật không chia ra làm Nam Bắc, ở đâu cũng lấy sự tu-

hành để tìm. Tính người, tuy có kẻ ngu người khôn, ai cũng nhờ vào

sự giác-ngộ mới hiểu. Cho nên những việc dẫn dạy bọn hôn-mê chỉ

rõ đường sống chết, ấy là giáo-lý chính của Phật. Đến những việc

cầm cân nẩy mực cho đời sau, làm khuôn phép kiểu-mẫu cho tương-

lai, ấy là trọng-trách của Thánh Nho đi trước. Bởi vậy, Lục-Tổ có

nói : Tiên Thánh Nho với Đại-sư Phật không khác nhau. Coi đấy biết

rằng, giáo-lý của Phật phải mượn tay Thánh Nho mới truyền-bá được

cho đời " .

Cái triết-lý phối-hợp Tam-giáo của Trần-Thái-Tông đã được Ngài

kết-thúc vào câu nói khúc-triết :

Page 34: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

" Vi minh nhân vọng phân tam giáo, liễu đắc đề đồng ngộ nhất

tâm ".

_ ( Khoá-Hư-Lục )

nghĩa là :

( Người chưa sáng-tỏ chân-lý mới chia ra ba giáo-lý khác nhau,

thấu hiểu đến cùng thì đều đạt tới cái tâm duy-nhất, tuyệt-đối là ý-

thức vũ-trụ ) ( Conscience cosmique ) .

Cái Tư-tưởng nhân-bản khai-phóng ấy đã chi-phối suốt thời Trần tới

mãi buổi đầu nhà Lê, để rồi bị thời-kỳ Lê Nguyễn đề-cao một mình Nho-

học lên địa-vị chính-thống. Từ đấy trong nước hiện ra hai trào-lưu Tư-

tưởng, Tư-tưởng khai-phóng và Tư-tưởng bế-quan. Trào-lưu khai-phóng

dựa vào truyền-thống Tam-giáo, trào-lưu bế-quan chịu ảnh-hưởng Tống

Nho, độc-tôn Nho-giáo, theo về tục học mà bài-bác Tư-tưởng khác như

Phật, Lão, gọi là dị-đoan. Tình-trạng ấy đi đôi với cuộc Nam Bắc phân-

tranh trong lịch-sử Việt-Nam thế-kỷ XVII, đã được danh-sĩ Lê-Quý-Đôn

phân-tích như sau :

" Hồi quốc-sơ ( tức Lê-Thái-Tổ ) sau thời nhiễu-nhương,

những người làm đến chức Thị, Tụng như các ông Thiên-Tích, ông

Bùi-Cầm-Hổ, đã rực rỡ khí-phách anh-hào, lại sẵn lề can-đảm dám

nói. Những người mến thú lâm-tuyền như ông Lý-Tử-Cấu, Nguyễn-

Thì-Trung đều một niềm giữ tiết-tháo trong sạch không chút lòng

mơ-tưởng giầu sang. Đó là một thời-kỳ. Trong khoảng đời Hồng-

Đức ( 1470 - 97 ) mở rộng đường khoa-mục thành long-trọng để kén

nhân-tài. Học trò bèn đua nhau thiên về mặt văn hay, chỉ cốt thêu

chạm lời phú câu thơ cho đẹp, hầu mong lấy bằng cao chức trọng cho

sang, còn phần khí-tiết khẳng-khái thì đã cảm thấy tan-tác hủ-suy.

Nhưng về đường sủng vinh rộng mở thì cách khóa lệ cũng nghiêm, ai

điềm-tĩnh thì tự nhiên được cất nhắc, kẻ chạy chọt cầu cạnh thì bị

cách phạt. Bởi vậy người làm quan ít thói bon chen, mà thiên-hạ còn

biết quí danh-nghĩa. Đấy lại là một thời-kỳ nữa .

" Từ đời Đoan-Khánh ( 1505 ) trở về sau, lối thanh nghị suy

kém quá, thói luồn cúi ngày thịnh dần. Kẻ quyền vị ít có người giữ

được lễ liêm-khiết nhún-nhường, nơi triều-đình ít thấy lời dám can-

ngăn kịch-liệt, gặp việc khó thì chịu hèn để khỏi bận bịu, thấy cơ

Page 35: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

35

nguy thì bán nước để cầu an, cả đến bậc gọi là danh Nho cũng yên

lòng nhận lấy cái vinh sủng bất-nghĩa, mà vẫn còn thi ca đi lại khoe

hay, khoe đẹp với nhau. Phong-thái sĩ-phu thật hỏng nát không bao

giờ bằng thời này. Sự tệ-hại của cuộc biến-chuyển này không thể nói

xiết được. Tìm trong khoảng trên dưới một trăm năm quốc-sử này lấy

những bậc đáng gọi là cao-sĩ thì chỉ được có vài người như bọn ông

Lý-Tử-Cấu, thật đáng ngán cho những bậc phong-tiết này ít thấy quá

vậy " .

_ ( Lê-Quí-Đôn " Kiến-Văn Tiểu-lục ) .

Sau khi đã nhận thấy cái khuynh-hướng Nho-học độc-tôn ấy thiên

trọng về đường đời, bỏ mất cái gốc đạo-đức tâm-linh thực-hiện của Thiền-

học Tam-giáo thời Trần, thời Lý, cho nên Lê-Quí-Đôn vội tỉnh-ngộ mà

viết rằng :

" Phép dạy đời của Thánh-hiền lấy đạo " Trung dung " làm

gốc. Những điều cương-thường, luân-lý, Lễ Nhạc, hình-chính là tự

trời đất lập nên, và do Vua thánh, Chúa hiền làm sáng-tỏ. Theo tính-

tình tự-nhiên để sửa sang những đạo-lý dạy đời, ấy là mục-đích cùng

tột xưa nay vậy. Các bậc Thánh-nhân giảng học để làm sáng-tỏ đạo

trời, để làm ngay-thẳng lòng người. Còn như tìm việc lạ lùng, bàn về

quỷ quái, không phải là công việc thông-thường của các Ngài, nên

các Ngài chỉ bàn đến những lẽ phổ-thông là không cho người đời

thêm mê-hoặc .

" Giáo-lý của Phật, Lão chuộng sự thanh-đạm, thoáng không

mọi sự, siêu-việt ra ngoài thế-tục, tịch-diệt hết mọi trần-duyên, không

để sự-vật bên ngoài làm bận thân tâm. Đó cũng là cách độc thiện kỳ

thân của các bậc cao-minh, và những lời cao-siêu về đạo-đức, những

lời sâu rộng về hình, thần, đều có ý-nghĩa sâu xa, huyền-diệu. Bọn

nhà Nho ta, nếu cứ giữ định-kiến phân ra đạo nọ đạo kia, mà điều gì

cũng biện-bác chê-bai, thì sao nên ? Chỉ mới ở trong cõi chín châu

này mà thổ-nghi cùng dân-tính mỗi nơi một khác. Huống hồ, trên thì

trời cao vòi-vọi, giữa thì đất rộng bao-la, những sự biến-hóa ở đấy

lớn-lao, mới-lạ, huyền-ảo, kỳ-quái, còn có giới-hạn nào ? Lấy tấm

thân nhỏ bé của người ta, thì dẫu có tài-hoa ăn nói dọc ngang suốt

tám cực, hút thở được cửu hoàn, nhưng dù thế nào đi nữa, kiến-thức

cũng vẫn chưa đủ rộng. Đã thế mà đối với những sự biến-hóa dị kỳ

Page 36: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

của quỉ-thần và của các loài động-vật, thực-vật chép trong sách xưa

cùng những hình-trạng ở các nước xa xôi, những vật-tượng ở cõi

thiêng-liêng, đều nhất thiết không tin ! Quá lắm lại có kẻ dám bỉ-

báng cả Tiên với Phật, sao mà ngu-tối, tự-đắc thế nhỉ ! "

_ ( Lê-Quý-Đôn, trong sách dẫn trên )

Nhận-xét trên đây cho chúng ta thấy sự khủng-hoảng Tư-tưởng thời

Hậu-Lê, cùng sự tự cảnh-tỉnh của một nhà Nho lão-thành muốn trở về cái

hệ-thống Tư-tưởng khai-phóng Tam-giáo thời Lý - Trần vậy .

Đồng thời với Lê-Quý-Đôn ( 1726 - 1783 ) ngoài Bắc, có Nguyễn-

Cư-Trinh ( 1716 - 1783 ) trong Nam, đất Thuận-Hóa, một danh Nho,

Công-thần khai-phóng Lục-tỉnh, cùng lên tiếng phát-biểu trong tác-phẩm

trứ-danh " Sãi-Vãi " trong đó tác-giả khéo làm linh-động hệ-thống Triết-

học khai-phóng " Trung Dung " bằng cuộc vấn-đáp giữa trí-thức hành-

động của ông Sãi, một Nho-sĩ trá-hình, với tín-ngưỡng Sùng-bái của bà

Vãi, tín-đồ Phật-giáo. Tư-tưởng của Nguyễn-Cư-Trinh, có nhiều điểm y

hệt với Lê-Quý-Đôn, có thể toát-yếu vào hai câu này của chính tác-giả

" Sãi Vãi ":

" Thành ư trung vị đắc hòa bình

Hình tại ngoại bất năng trung tiết " .

_ ( Sãi-Vãi )

Nghĩa là:

( Sự thành-thật trong lòng chưa đạt tới chỗ quân-bình của tinh-

thần. Thì sự biểu-hiện hành-vi bên ngoài không có thể trúng với

đạo-lý ) .

Cái Tư-tưởng này là triết-lý " Nội thánh ngoại vương chi đạo "

nghĩa là cái triết-lý hành-động sáng-suốt trong tinh-thần, chủ-động đối với

thân-thế, vật ngoài, tức là Tri Hành hợp-nhất, bản-thể ( essence ) và sinh-

tồn ( existence ) không rời nhau vậy ) .

Đấy là Tư-tưởng khai-phóng, hệ-thống cởi mở triển-khai, thích-hợp

cho sự thâu-hóa sáng-tạo trên con đường Nam-Tiến của dân-tộc .

Page 37: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

37

Cái dòng Tư-tưởng ấy đã được một nhà giáo điển-hình hiền-triết

miền Nam là Võ-Trường-Toản, cuối thế-kỷ XVIII lấy làm quốc-học, cho

nên mới dạy rằng :

" Sách Đại-Học một ngàn bẩy trăm chữ, tan ra gồm vô hạn sự-

vật, tóm lại còn hai trăm chữ, tóm nữa chỉ còn một chữ, lại tóm nữa

thì một chữ cũng không " .

Lời ấy chẳng phải chủ-trương cái học " Tri ngôn dưỡng khí " là cái

học thực-hiện, không phải trí-thức kiến-văn, không phải giáo-điều " Tử

viết " mà là luôn luôn khai-phóng tâm-hồn của hệ-thống cởi-mở, không

chút bế-quan .

Bởi thế mới có bậc Hiền-triết như Phan-Thanh-Giản ( 4 - 8 - 1867 )

đánh dấu một giai-đoạn lịch-sử Tư-tưởng Việt-Nam, mở đầu một cuộc

tiếp-xúc giữa Tư-tưởng Đông-phương và Tây-phương, Đạo-học và Khoa-

học .

Chúng ta cho tới nay vẫn còn ở trong vấn-đề thâu-hóa sáng-tạo, chưa

có một giải-đáp nào về Tư-tưởng đáng được chú-ý, tuy trong khoảng thời-

gian ngót một thế-kỷ cũng đã có nhiều khuynh-hướng mà chưa được kết-

tinh. Muốn thâu-hóa để sáng-tạo theo thiển ý, trước hết một dân-tộc phải

tự mình ý-thức lấy mình, vì muốn thẩm-định giá-trị của người, tất nhiên

phải qua tấm kính của mình. Nếu chính mình chưa tự biết mình, thì sự lựa

chọn giá-trị của người để thâu-hóa sẽ mù-quáng, nô-lệ, hỗn-độn, a-dua,

không có khả-năng sáng-tạo như tiền-nhân với Thiền-học Thảo-Đường

Trúc-Lâm Yên-Tử hay là Nho-học Chu-Văn-An, Võ-Trường-Toản,

Nguyễn-Đình-Chiểu v.v....

Thực ra trong lịch-sử Tư-tưởng Việt-Nam, ngoài Tư-tưởng Tam-giáo

lấy Thiền-học làm căn-bản, còn Tư-tưởng Nho-giáo mà Chu-Văn-An đã

kết-tinh vào hệ-thống độc-đáo Việt-Nam là hệ-thống " Cùng lý chính tâm "

khác hẳn với hệ-thống " Trí tri cách vật " của Tống Nho, một đàng thực-

hiện cái nguyên-lý cùng tột, tối cao ở tại nhân-tâm chân-chính, một đàng

tìm chân-lý ở chỗ hướng ra ngoại-vật, một đàng thỏa-mãn cho cả Tri lẫn

Hành, cả lý lẫn tình, một đàng thiên về trí-thức, mà trí-thức ấy lại là trí-

thức từ-chương. bởi thế cho nên như Lê-Quý-Đôn trên kia đã nhận-xét

chính-xác là càng ngày Nho-học càng độc-tôn, trở nên thiển-cận, bế-quan,

Page 38: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

thiên về hình-thức mà sao-lãng nội-dung, đến nỗi không còn khả-năng

thâu-hóa sáng-tạo nữa, như lời Phan-Tây-Hồ, đầu thế-kỷ XX phải than :

" Vạn dân nô lệ cường quyền hạ

Bát cổ văn chương túy mộng trung ".

Nghĩa là :

( Trong khi nhân-dân nô-lệ dưới cường quyền thống-trị, mà

giới sĩ-phu lãnh-đạo cứ mải miết mê say văn thơ sáo cổ ) .

Và thống-thiết hơn nữa là bài phú " Lương ngọc tất danh sơn "

( Ngọc quí ắt núi danh tiếng ) :

" Đời chuộng văn-chương,

Người tham khoa-mục

Đại cổ, tiểu cổ, suốt ngày tháng dùi mài

Ngũ ngôn, thất ngôn, quanh năm lăn lóc

Ngóng hơi thở của Quan-trường để làm văn sách : Chính có thể

phải, mà Thuấn có thể sai,

Nhặt dãi thừa của người Tầu để làm từ-phú : Biền thì phải Tứ

mà Ngẫu thì phải Lục.

Tíu tít những phường danh lợi, chợ Tề chực đánh cắp vàng,

Lơ thơ bao kẻ hiền tài, sấn sở luống buồn dâng ngọc,

Ấy chẳng riêng gì kẻ vị thân gia, tham lợi lộc,

Mà là đến cả mấy ngàn kẻ quần chùng áo rộng trong một nước,

Lùa vào mấy ngàn vạn nơi hắc-ám địa-ngục " .

_ ( Phan-Chu-Trinh )

Đấy là tiếng gọi cảnh-tỉnh của họ Phan sau trận Nhật - Nga, đem

vinh-quang lại cho Nhật-Bản canh-tân .

Sau ngót hai mươi năm ở Pháp trở về, năm 1925 Phan-Chu-Trinh lại

kêu gọi đồng-bào mau mau thẩm-định lại hệ-thống giá-trị Đông - Tây ngõ

hầu tìm lấy một ý-thức-hệ mới cho dân-tộc. Cụ nói :

" Đem văn-minh đây là đem cái chân văn-minh của Âu-Tây

hòa-hợp với chân Nho-giáo ở Á-Đông, chớ không phải là tự-do độc-

Page 39: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

39

lập ở đầu lưỡi của mấy anh Tây-học lem-nhem, mà cũng không phải

là quốc-hồn, quốc-túy ngoài môi của các bác Hán-học dở mùa đâu " .

_ (Đạo-Đức và Luân-Lý Đông - Tây . Saigon đêm 19 - 11 - 1925 )

Rồi cụ vạch ra cái phương-pháp, hay là một hướng đi để phối-hợp

giá-trị Đông - Tây như sau :

" Có người hỏi Luân-lý ta mất thì ta đem Luân-lý của Âu-châu

về ta dùng hẳn có được không ?

" Tôi xin trả lời rằng : không. Một nước Luân-lý cũ đã mất là

nước không có cơ-sở, nay lại đem Luân-lý mới về thì biết đặt vào

đâu ?

" Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài-tình thật, nhưng

nay đem một cây rất tươi tốt như cây Luân-lý ở các nước bên Âu-Tây

kia mà chắp với một cây đã cằn cội như cây Luân-lý ở nước Việt-

Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt được.

Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây

cũng nên bồi-bổ cho hai bên có sức-lực bằng nhau đã. Tôi diễn-

thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chữa lấy cây Luân-lý

cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây Luân-lý của Âu-Châu vậy " .

_ ( sách dẫn trên )

Vậy " chân Nho-giáo " ở Á-Đông là gì ?

" Cây Luân-lý cũ của ta " như thế nào ?

Đấy là vấn-đề cấp-thiết chúng ta phải nhận-thức tìm-hiểu cho tới nơi

trước đã, để rồi mới mong thâu-hóa sáng-tạo .

Hệ-thống chân Nho ở Á-Đông, nhất-định theo họ Phan vốn xuất-thân

Nho-sĩ thì chắc hẳn là Luân-lý Khổng Mạnh. Đem Khổng-Tử với Mạnh-

Tử nối liền với nhau mà nói là cái Luân-lý đạo " Nhân nhất quán " của

Khổng-Tử, chuyển biến một lần đến Luân-lý " Nhân Nghĩa " của Mạnh-

Tử. Trong hệ-thống đạo Nhân của Khổng-Tử thì chữ Nhân là yêu Người,

tức là tình thương yêu của loài người, bao-hàm cả cá-nhân lẫn đoàn-thể và

vạn-vật. Cho nên Khổng-Tử bảo " Cái đạo của ta lấy tình thương yêu bao-

Page 40: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

1

hàm tất cả ". Có thể nói đấy là hệ-thống Luân-lý " Duy nhân "

( Humanitarisme ) .

Khổng-Tử ở vào thời Xuân-Thu bên Tầu, là thời văn-hóa cùng xã-hội

nhà Chu bắt đầu suy-nhược vì cạnh-tranh và xung-đột nội-bộ, cho nên

Khổng-Tử lần đầu tiên đứng lên chấn-hưng bằng phép " Ôn cố tri tân "

xét lại những giá-trị cũ để tìm xây-dựng một nền hệ-thống mới .

Đến thời Chiến-Quốc thì các trào-lưu Tư-tưởng cản-trở nên xung-đột

và phức-tạp, trong đó đáng kể nhất là cuộc tranh-biện giữa hai trào-lưu lớn

là học-phái Dương, Chu, bênh-vực cho tự-do cá-nhân với học-phái Mạc-

Địch bênh-vực quyền-lợi đoàn-thể hay là chủ-nghĩa công-lợi. Bởi thế nên

Mạnh-Tử phải chấn-hưng đạo Nhân của Khổng-Tử bằng một hệ-thống

dung-hợp cả tự-do cá-nhân lẫn quyền-lợi đoàn-thể, là hệ-thống Luân-lý

Nhân-Nghĩa, trong đó chữ Nhân là đại-diện cho đoàn-thể xã-hội và chữ

Nghĩa cho tự-do cá-nhân. Sự dung-hợp ấy phải có một cơ-sở nguyên-lý tối

cao tức là chữ Thành, đại-diện cho cả cá-nhân lẫn đoàn-thể, cho nên mới

bảo :

" Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành lạc mạc đại yên "

Nghĩa là :

( Tất cả trong trời đất có đủ ở ta, quay về bản-thân đến chỗ thành-thật

là nguồn lạc-thú vô-biên ) .

Chữ Thành ( ) gồm chữ Ngôn ( ) là trí-thức lý-thuyết với

chữ Thành ( ) là cầm cung bắn tên thuộc về hành-động, hội ý là Tri

và Hành làm một, hợp-nhất .

Đấy là cái ý-thức Thành làm nguồn gốc của tất cả giá-trị, tức là hợp-

nhất giá-trị hiện-sinh với giá-trị siêu-nhiên, tức là căn-bản Luân-lý khai-

phóng, như Bergson đã đòi-hỏi cho xã-hội mở cửa ngày nay vậy .

Còn như Luân-lý cũ của ta thì nhất-định theo Nho-học Việt-Nam là

cái hệ-thống của Chu-Văn-An lấy " Cùng lý chính tâm " làm cơ sở như

nói trên. Cái Luân-lý này cũng thuộc về Luân-lý tâm-linh khai-phóng, đi

Page 41: TƯ - TƯỞNG VÀ TRÀO - LƯU - freephung.free.frfreephung.free.fr/artviet/vanhoa/2017AVH23TuTuongTraoLuu.pdfTƯ - TƯỞNG VIỆT - NAM VÀ TRÀO – LƯU TRIẾT - HỌC HIỆN

41

đôi với hệ-thống Triết-học Tam-giáo của Thiền-học thời Trần. Cả hai hệ-

thống Luân-lý trên của Việt-Nam xưa đều là nhân-bản tâm-linh thực-hiện,

mà cụ Phan-Chu-Trinh đã đòi chúng ta phải phục-hưng thì mới mong chắp

với cây Luân-lý ở các nước Âu-Tây để sinh nở sáng-tạo ra hoa tươi trái tốt

cho dân-tộc hiện nay vậy .

NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC

( Triết-Học Hiện-Đại & Tư-Tưởng VN )