47
BÀI THI Môn triết học Mác-Lê Nin Phần chủ nghĩa duy vật biện chứng; duy vật lịch sử Câu 1 : Đồng chí hãy phân tích các quan điểm khác nhau về Vật chất; và cho biết ý nghĩa, phương pháp luận rút ra từ nghiên cứu phạm trù vật chất của Lê Nin?. Từ xưa tới nay, việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, trước hết là thế giới những vật thể hữu hình luôn được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Các trưòng phái triết học đều bằng cách này hay cách khác giải quyết vấn đề này và phạm trù vật chất xuất hiện. Vật chất với tính cách là phạm trù triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, được Lênin định nghĩa hoàn chỉnh và có ý nghĩa vô cùng to lớn cho việc nghiên cứu những lĩnh vực khoa học chuyên ngành, chinh phục thế giới vật chất của con người. 1. Quan điểm khác nhau về vật chất thời kỳ trước Mác: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Đó có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối”, hay những quan hệ có tính chất siêu nhiên. Tính phong phú và đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối, “ý chí của Thượng đế”, “ý niệm tuyệt đối”.. theo nhận xét của Lênin, chỉ là một cách khác nói về Thượng đế mà thôi. Đối với quan điểm chủ nghĩa duy vật thực thể của thế giới là vật chất; cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với thuộc tính của chúng; giới tự nhiên tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào...

On Tap Mon Triet Hoc

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: On Tap Mon Triet Hoc

BÀI THI Môn triết học Mác-Lê Nin Phần chủ nghĩa duy vật biện chứng; duy vật lịch sử

Câu 1: Đồng chí hãy phân tích các quan điểm khác nhau về Vật chất; và cho biết ý nghĩa, phương pháp luận rút ra từ nghiên cứu phạm trù vật chất của Lê Nin?.

Từ xưa tới nay, việc khám phá bản chất và cấu trúc của sự tồn tại của thế giới xung quanh ta, trước hết là thế giới những vật thể hữu hình luôn được quan tâm hàng đầu trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Các trưòng phái triết học đều bằng cách này hay cách khác giải quyết vấn đề này và phạm trù vật chất xuất hiện. Vật chất với tính cách là phạm trù triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, được Lênin định nghĩa hoàn chỉnh và có ý nghĩa vô cùng to lớn cho việc nghiên cứu những lĩnh vực khoa học chuyên ngành, chinh phục thế giới vật chất của con người.

1. Quan điểm khác nhau về vật chất thời kỳ trước Mác:Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của

mọi tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Đó có thể là “ý chí của Thượng đế”, là “ý niệm tuyệt đối”, hay những quan hệ có tính chất siêu nhiên. Tính phong phú và đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối, “ý chí của Thượng đế”, “ý niệm tuyệt đối”.. theo nhận xét của Lênin, chỉ là một cách khác nói về Thượng đế mà thôi. Đối với quan điểm chủ nghĩa duy vật thực thể của thế giới là vật chất; cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với thuộc tính của chúng; giới tự nhiên tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào...

Đến thời cổ đại Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Talet coi thực thể thế giới là nước. Anaximen coi thực thể đó là không khí. Với Hêraclit thực thể đó là lửa. Còn Ămpêđôclơ thì thực thể đó bao gồm cả 4 yếu tố: Đất, nước, lửa và không khí. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất là Lơxip và Đêmôcrit, cho rằng thực thể của thế giới là nguyên tử. Đó là các thành phần cực kỳ nhỏ, cứng tuyệt đối không thâm nhập được, không quan sát được và nói chung không cảm giác được. Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết hoạ duy vật cận đại vẫn tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Becơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh được điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Việc phát hiện ra trường hợp điện từ và các điện tử bác bỏ một cách trực diện quan niệm siêu hình về vật chất...

Mặc dù quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật có những mặt tích cực, mặt tiêu cực, nhưng tất cả các nhà triết học trước Mác không đưa ra được khái niệm về vật chất.

2. Quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Page 2: On Tap Mon Triet Hoc

-Quan điểm của Mác: ông cho rằng mối liên hệ xã hội bao gồm đời sống vật chất và đơì sống tinh thần, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần và đời sống tinh thần có sự tác động trở lại đời sống vật chất.

-Quan điểm của Ănghen: vật chất là tổng số tất cả các sự vật hiện tượng đang tồn tại bằng một con đường nào đó người ta trừu tượng hóa, khái quát hoá để có phạm trù vật chất.

a. Định nghĩa vật chất của Lênin: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.

b. Nội dung định nghĩa :-“Vật chất là phạm trù triết học” do vậy, phạm trù vật chất của triết học là

phạm trù có tính khái quát nhất, không giống với các khái niệm về vật chất trong các ngành khoa học cụ thể, hay trong đời sống thường ngày. Vì vậy, không được đồng nhất vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các dạng tồn tại cụ thể của nó do khoa học chuyên ngành nghiên cứu. Các dạng vật chất cụ thể có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác, còn vật nói chung là vô hạn và vô tận.

-Vật chất có thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất là “thực tại khách quan” và “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực tại khách quan là tồn tại thực và không phụ thuộc vào ý thức của con người. Thuộc tính tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người là điều kiện cần và đủ để phân biệt cái gì thuộc về vật chất và cái gì không thuộc về vật chất.

-“Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”. Điều này nói lên rằng, thực tại khách quan (Vật chất) là có trước, cảm giác con người là có sau. Cảm giác con người có thể “chép lại, chụp lại, phản ánh” được thực tại khách quan (Vật chất). Như vậy, thực tại khách quan (Vật chất) không tồn tại trừu tượng mà tồn tại thông qua các dạng tồn tại cụ thể của mình và bằng cảm giác (ý thức) con người có thể nhận thức được. Điều này cũng có nghĩa là “thực tại khách quan” (Vật chất) là nội dung khách quan, nguồn gốc khách quan của những cảm giác (ý thức) của con người.

-Rõ ràng là định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học (Vật chất và ý thức: yếu tố nào có trước, yếu tố nào quyết định yếu tố nào; Con người có khả năng nhận được thế giới vật chất hay không) trên lập trường duy vật biện chứng.

3. í nghĩa, phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu:-Nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin giúp chúng ta đứng vững trên quan

điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhằm chống lại quan điểm chủ nghĩa duy tâm cả chủ nghĩa duy tâm chủ quan và khách quan (thuyết không thể biết) đồng thời khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

-Nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin là cơ sở, căn cứ giúp cho các lĩnh vực khoa học tiếp tục nghiên cứu thế giới cả về vĩ mô, vi mô.

Page 3: On Tap Mon Triet Hoc

-Nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin giải quyết về đấu tranh giai cấp về phạm trù triết học, giải quyết vấn đề khái niệm vật chất và giải quyết các vấn đề khác.

-Nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin liên quan đến công cuộc xây dựng CNXH ở nhiều nước (CNXH thắng CNTB khi LLSX phát triển, năng suất lao động cao gấp nhiều lần CNTB và có nền dân củ XHCN).

-Nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin giúp từng bước khắc phục được những tệ nạn xã hội, trước hết là nạn mê tín dị đoan.

Câu 2: Bằng cơ sở lý luận triết học Mác lênin và cách mạng nước ta, đồng chí hãy làm rõ quan điểm sau: Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng hành động theo quy luật khách quan, đồng thời nâng cao tính năng động chủ quan?.

1. Cơ sở lý luận của bài học: bắt nguồn từ việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

a. Định nghĩa vật chất của Lênin: -Định nghĩa: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan

đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.

-Nội dung cơ bản của định nghĩa:Vật chất – cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý

thức.Vật chất – cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp

hoặc gián tiếp) tác động lên giác quan của con người.Vật chất – cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua là sự phản ánh của nó.b. Bản chất của ý thức: -Định nghĩa: Là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người trên cơ

sở hoạt động thực tiễn. Cho nên, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. í thức là hình ảnh chứ không phải bản thân sự vật, ý thức là hình ảnh của sự vật được thực hiện ở trong bộ não con người.

-Nội dung cơ bản của định nghĩa:Về kết cấu của ý thức: có 3 loại, tri thức, vô thức và tự ý thức.Về bản chất: ý thức chính là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan con

người một cách tích cực, năng động và sáng tạo; ý thức là hình thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý

thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật chất cao có tổ chức của thế giới vật chất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. í thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

Page 4: On Tap Mon Triet Hoc

í thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức.

-ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, tác động trở lại vật chất:ý thức có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thực tiễn của

con người có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định các điều kiện vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan.

ý thức phản ánh đúng thực tại khách quan thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo thế giới. Ngược lại, ý thức sẽ kìm hãm hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người nếu không phản ánh đúng thế giới khách quan.

3. Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng hành động theo quy luật khách quan, đồng thời nâng cao tính năng động chủ quan, vì:

Thực tế (vật chất) là khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người (ý muốn chủ quan của con người).Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan. Nói cách khác việc đề ra đường lới, chủ trương chính sách phải được xuất phát từ thực tế, tôn trọng thực tế. Mọi chủ trương, chính sách, hoạt động phải tuân thủ quy luật khách quan (bao gồm quy luật tự nhiên; quy luật kinh tế, quy luật xã hội; quy luật của tư duy..), phù hợp với quy luật. Lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

Ngược lại, ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, phải thấy được vai trò tích cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong việc sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện có. Qua quá trình hoạt động, từ nhận thức thế giới khách quan con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình (qua việc nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao lòng yêu nước, lòng nhiệt tình cách mạng).

Tránh việc tuyệt đối hoá vai trò duy nhất của vật chất trong quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ nghĩa khách quan”, thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào điều kiện vật chất. Đồng thời chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, tinh thần, hạ thấp, đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật chất trong hoạt động thực tiễn.

Câu 3: Hãy phân tích cơ sở lý luận quan điển toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển; Liên hệ ở địa phương đơn vị đồng chí.

Tự nhiên, xã hội tồn tại khách quan vô cùng tận và giữa chngs có mối liên hệ qua lại lẫn nhau. Không chỉ tự nhiên, xã hội mà tư duy cũng có những mối liên hệ như suy nghĩ, yếu tố, quan điểm.. nhưng xét đến cùng chúng có mối liên hệ với tự

Page 5: On Tap Mon Triet Hoc

nhiên, xã hội. Tất chỉ có mối liên hệ với mà tự nhiên, xã hội và tư duy đều luôn vận động và phát triển không ngừng. Vì vậy, trong nhận thức cũng như trong chỉ đạo hoạt động, chúng ta phải xây dựng quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển.

1. Cơ sở lý luận quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển đó chính là mối liên hệ phổ biến trên quan điểm của triết học Mác – Lênin.

Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?. Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó?

a. Quan điểm khác nhau về mối liên hệ phổ biến:Để trả lời câu hổi thứ nhất. Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng

các sự vật, hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia: giữa chúng không sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là sự hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên. trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có người thừa nhận sự liên hệ và đặc tính đa dạng của nó, nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.

Để trả lời câu hổi thứ hai. Những người theo chủ nghĩa duy tâm tìm cơ sở của sự liên hệ, sự tác động qua lại giữa các sự vật và hiện tượng ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác của con người. Xuất phát từ quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng là cảm giác. Đứng trên quan điểm duy tâm khách quan, Hêghen tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng ở ý niệm tuyệt đối.

b. Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến:Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính

phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà còn nêu ró tính đa dạng của sự quan hệ qua lại đó. Có mối liên hệ bên ngoài, bên trong; có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực, hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó. Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, liên hệ tất yếu và liên hệ ngẫu nhiên.. Sự vật, hiện tượng nào cũng có sự vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa xá giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng..

Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vật hiện tượng quy định. Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của các sự vật và hiện tượng.

c. ý nghĩa của việc nghiên cứu mối liên hệ phổ biến:-Giúp chúng ta trong nhận thức cũng như trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn

cần phải xây dựng quan điểm toàn diện trên các khía cạnh: khi xem xét một sự vật, hiện tượng nào đó, sự nhất thiết phải đặt nó trong cả mối liên hệ vốn có của nó để

Page 6: On Tap Mon Triet Hoc

xem xét; khi đánh giá một phong trào cách mạng nào đó, một con người nào đó nhất thiết phải đặt nó trong cả quá trình (quá khứ – hiện tại – tương lai) để xem xét.

-Cùng với việc xây dựng quan điểm toàn diện, cần phải xây dựng quan điểm lịch sử cụ thể (sự vật bao giờ cũng tồn tại trong một điều kiện lịch sử nhất định).

-Nghiên cứu mối liên hệ phổ biến để chống khuynh hướng: đánh giá một cách tràn lan, không thấy được đâu là vấn đề cơ bản, đâu là vấn đề không cơ bản; hay đánh giá một cách phiến diện một chiều.

2. Cơ sở lý luận của sự phát triển:a. Quan điểm khác nhau về sự phát triển:Khi xem xét vấn đề phát triển cũng xuất hiện sự đối lập về thế giới quan và

phương pháp luận: có quan điểm duy tâm, có quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình về sự phát triển.

Quan điểm duy tâm: khi đề cập tới nguồn gốc của sự phát triển, những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc đó ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen lý giải sự phát triển của tự nhiên và xã hội do ý niệm tuyệt đối quy định. Những người theo quan điểm duy tâm và tôn giáo thì tìm nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, ở Thượng đế.. nói chung là ở các lực lượng siêu tự nhiên, phi vật chất.

Quan điểm siêu hình: xem phát triển chỉ là nguồn gốc của sự phát triển, hay sự tăng lên, giảm đi thuần tuý về lượng, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính muôn vẻ về chất của sự vật và hiện tượng trên thế giới là sự nhất thành bất biến trong toàn bộ quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển chỉ là sự thay đổi số lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy định mới về chất, có thay đổi vè chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín. Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.

b. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển:-Quan điểm của duy vật biện chứng: phát triển là một phạm trù triết học dùng

để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

Theo quan điểm này, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.

-Tính khách quan của sự phát triển ở chỗ nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định, là quá trình tự thân của mọi sự vật và hiện tượng.

-Tính phổ biến của sự phát triển với nghĩa là sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực- từ tự nhiên đến xã hội và tư duy, từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.

c. ý nghĩa của việc nghiên cứu:

Page 7: On Tap Mon Triet Hoc

Từ việc nghiên cứu nguyên lý mối liên hệ phổ biến; sự phát triển của các sự vật hiện tượng chúng ta rút ra quan điểm phát triển trong việc nhận thức, xem xét các sự vật, hiện tượng cũng như trong các hoạt động thực tiễn.

Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng với giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa tới sai lầm nghiêm trọng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá trình phát triển, sự vật thường đồng thời có những sự biến đổi tiến lên và có cả những bước biến đổi thụt lùi. Quan điểm đúng đắn về sự vật chỉ có được, khi bằng tư duy khoa học chủ thể khái quát để làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.

Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Khi vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa học như vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển từng lĩnh vực xã hội cũng như của từng cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở.

Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó, đòi hói chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.

3. Liên hệ với thực tiễn ở địa phương: Câu 4: Hãy phân tích để làm rõ các phạm trù: Cái riêng; cái chung; cái đơn

nhất; ý nghĩa và phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu các mối liên hệ các phạm trù kể trên?.

Phép biện chứng duy vật ra đời đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và phát triển chung nhất của thế giới. Cấu trúc của phép biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là: nguyên lý của sự phát triển và nguyên lý về các mối liên hệ phổ biến; ba quy luật cơ bản là: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt trong sự vật (hay quy luật mâu thuẫn), quy luật sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất (hay quy luật lượng – chất) và quy luật phủ định của phủ định; các cặp phạm trù cơ bản như: cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; cái chung, cái riêng, cái đơn nhất ...

Vậy, phạm trù là gì; phạm trù cái chung, cái riêng, cái đơn nhất là gì, được hiểu như thế nào:

Page 8: On Tap Mon Triet Hoc

1. Phạm trù: phạm trù là khaí niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định.

2.Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất:a. Khái niệm cái riêng: Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một

sự vật, một hiện tượng, một quá trình hay một hệ thống các sự vật tạo thành một chỉnh thể tồn tại tương đối độc lập với những cái riêng khác. Với tư cách là một sự vật, cái riêng là cái không lặp lại.

b. Khái niệm cái chung: Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính được lặp lại trong một số hay nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình.

c. Khái niệm cái đơn nhất: Cái đơn nhất là những đặc điểm, những thuộc tính vốn có chỉ của một sự vật, một hiện tượng.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cả “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất” đều tồn tại. Trong bút ký triết học, Lênin nhận xét rằng dù người ta bắt đầu bằng bất cứ một mệnh đề nào, chẳng hạn, bắt đầu từ những mệnh đề đơn giản nhất, quên thuộc nhất như “Ivan là một người”, “Giútơca là con chó”.. thì ngay ở đó người ta đã thấy có phép biện chứng rồi. Phép biện chứng đó thể hiện ở chỗ “cái riêng là chung”. Lênin nhận xét tiếp rằng “bất kỳ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình”.

Như vậy, theo Lênin, “cái riêng” là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lể nhất định. Còn “cái chung” là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. trong các ví dụ trên thì “Ivan”, “Giútơca” là những “cái riêng” còn “người” và “chó” là những “cái chung”.

Phạm trù “cái đơn nhất” được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính.. chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác. Thí dụ, trong thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bên cạnh những nét chung với giai cấp công nhân ở các nước, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như ra đời trước khi có giai cấp tư sản Việt Nam, trong nội bộ không có tầng lớp công nhân quý tộc.. những đặc điểm này chính là những cái đơn nhất.

d. ý nghĩa phương pháp luận:-Đối với nhận thức:Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên muốn phát

hiện ra cái chung, cần xuất phát từ những cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.

Mặt khác, nắm được cái chung là chìa khoá để phát hiện và giải quyết những vấn đề riêng.

-Đối với hoạt động thực tiễn:

Page 9: On Tap Mon Triet Hoc

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng, bộ phận đó nằm trong sự tác động qua lại với những mặt còn lại của cái riêng, những mặt không gia nhập vào cái chung, làm cho cái chung đó không tồn tại dưới dạng thuần khiết, mà tồn tại cái riêng dưới dạng cải biến. Vì vập bất cứ luận điểm chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá. Nếu không chú ý mặt cá biệt hoá đó, đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung sẽ rơi vào sai lầm giáo điều. Ngược lại sẽ xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất, tuyệt đối hoá cái đơn nhất sẽ dẫn đến vô nguyên tắc, xét lại.

Vì cái riêng không tồn tại ở bên ngoài mối liên hệ dẫn tới cái chung, cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả, không thể lãng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu không giải quyết những vấn đề lý luận chung thì sẽ không tránh khỏi sa vào tình trạng mò mẫm, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa và khi đó khó tránh khỏi thất bại.

Lênin viết “kẻ nào bắt tay vào những vấn đề riêng truớc khi giải quyết vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi những “vấp phải” những vấn đề chung một cách tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”.

Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể chuyển thành cái chung, ngược lại, cái chung có thể trở thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất tiêu biểu cho quy luật phát triển thành cái chung và ngược lại, chuyển cái chung thành cái đơn nhất, nếu sự tồn tại của cái chung không còn phù hợp với quy luật phát triển.

3. Liên hệ với thực tiễn ở địa phương: Câu 5: Đ.c hãy phân tích nội dung và cho biết ý nghĩa rút ra từ việc nghiên

cứu quy luật Phủ định của phủ định?Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện

chứng duy vật. Quy luật này chỉ ra khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng; tính tất yếu của sự ra đời cái mới và mối liên hệ giữa cái mới và cái cũ.

1. Quy luật là gì:a. Định nghĩa: Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại

giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các đối tượng, giữa các nhân tố tạo thành đối tượng, giữa các thuộc tính các sự vật cũng như giữa các thuộc tính của cùng một sự vật, hiện tượng.

b. Nội dung của quy luật:Căn cứ vào trình độ tính phổ biến, các quy luật chia thành: những quy luật

chung, quy luật riêng và những quy luật phổ biến. Các quy luật riêng là biểu hiện của những mối liên hệ đặc trưng cho một phạm vi nhất định những hiện tượng cùng loại, ví dụ những quy luật vận động hoá học; vận động sinh học. Những quy luật

Page 10: On Tap Mon Triet Hoc

chung có phạm vi tác động rộng hơn so với quy luật riêng, ví dụ quy luật bảo toàn khối lượng; bảo toàn năng lượng..những quy luật này tác động trong tất cả các quá trình cơ giới, hoá học, sinh học. Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy, ví dụ những quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt trong sự vật; quy luật sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất; quy luật phủ định của phủ định.

Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia ra quy luật tự nhiên; quy luật xã hội và quy luật của tư duy. Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh, tác động không cần sự tham gia của con người; Quy luật xã hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong các mối quan hệ xã hội. Quy luật của tư duy là quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những khái niệm, phạm trù, những phán đoán nhờ đó trong tư tưởng của con người hình thành tri thức nào đó về sự vật.

2. Nội dung của quy luật Phủ định của phủ định:a. Các quan điểm trước Mác:Triết học thời kỳ trước Mác tồn tại quan điểm vận động vòng tròn. Vận dụng

quan điểm đó vào đời sống xã hội, thì khi xã hội đạt đến một trình độ phát triển nào đó, xã hội lại trở lại điểm xuất phát, vòng tròn mới lại bắt đầu. Pitago cho rằng một chu kỳ phát triển như vậy của nhân loại hết 78 năm. Tương tự như vậy, trong đạo Phật có quan niệm về sự luân hồi của kiếp nguời.

Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình hiểu phủ định như là sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài làm phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó.

b. Phủ định của phủ định biện chứng: -Khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát

triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.

Thứ nhất, nó là điều kiện và nhân tố của sự phát triển.Thứ hai, nó là nhân tố giữa cái cũ và cái mới.Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản

thân sự vật tự quy định. Hơn nữa phương thức phủ định sự vật cũng tuỳ thuộc ý muốn của con người.

Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa và trong nghĩa như vậy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.

Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát triển. Với tư cách là kết quả “Phủ định lần thứ nhất”, cái mới cũng chứa trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo – “phủ định của phủ định”. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới ra đời một sự vật , trong đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu, nhưng trên cơ sở

Page 11: On Tap Mon Triet Hoc

cao hơn. Đến đây một chu kỳ phát triển được kết thúc, khái quát một chu kỳ phát triển đó tạo thành nội dung cơ bản của “quy luật phủ định của phủ định”.

Tóm lại: quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc.

c. ý nghĩa phương pháp luận:-Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới. Cái mới nhất định sẽ thay

thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.

-Trong công tác chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù lúc đầu nó còn yếu ớt, ít ỏi, phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ.

-Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những gì là tích cực, có giá trị của cái cũ, biết cải tạo cái cũ cho phù hợp với điều kiện mới.

-Vừa phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá quá khứ, vừa phải chống thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại cả những gì đã lỗi thời cản trở bước tiến của lịch sử.

3. Liên hệ với thực tiễn ở địa phương:

Câu 6: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là

một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mac Lê nin, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Bằng cơ sở lý luận của triết học MacLênin và thực tiễn địa phương của đồng chí, hãy phân tích để làm rõ quan điểm trên.

Xuất phát từ quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta qua các thời kỳ từ năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam mới ra đời, đến khi đất nước hoàn toàn thống nhất, tiến lên chủ chũa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, nhưng cũng có lúc cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế khó khăn, thoái trào, như đánh giá những thành tựu và hạn chế, rút ra các bài học của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (thời kỳ 1930 – 1950); Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành trung ương (khoá II); Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/ 1960); Hội nghị lần thứ 14, Ban chấp hành trung ương (khoá III) khẳng định: Những thắng lợi mà quân và dân ta giành được có ý nghĩa vô cùng to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của thực dân Pháp (1930 – 1954), đế quốc Mỹ

Page 12: On Tap Mon Triet Hoc

(1954 – 1975) và hoàn thành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc, có được điều đó là do sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, nắm bắt và vận dụng đúng quy luật khách quan, đồng thời năng động trong chỉ đạo tình huống để giành thắng lợi (Nhật, Pháp bắn nhau và Khởi nghĩa Tháng Tám thành công). Bên cạnh đó, từng thời kỳ chúng ta cũng gặp khó khăn, sai lầm như: phong trào hợp tác hoá năm 1959 – 1960; cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Đảng ta đánh giá, trong quá trình lãnh đạo chúng ta đã mắc khuyết điểm “chủ quan trong việc đánh gía tình hình, cho nên đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế”, “chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất”. Vì vậy, việc quán triệt câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mac- Lênin, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Điều này không những có ý nghĩa trong hai cuộc kháng chiến, mà đến nay, vẫn giữ nguyên giá trị, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta.

1. Cơ sở lý luận của quan điểm trên,bắt nguồn từ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lý mà chủ nghĩa duy vật biện chứng nêu lên.

a. Thực tiễn:-Định nghĩa: Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất –

cảm tính có tính chất lịch sử – xã hội của con người nhằm mục đích biến đổi tự nhiên và xã hội.

-Nội dung: Thực tiễn là hoạt động vật chất chứ không phải hoạt động tinh thần, nó mang

tính lịch sử – xã hội, có mục đích của con người.Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản: Sản xuất vật chất; hoạt động cải tạo (biến

đổi) chính trị – xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học – kỹ thuật. Trong đó, sản xuất vật chất là có sớm nhất, quan trọng nhất, quyết định các hình thức kia. Hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.

b. Lý luận:-Định nghĩa: Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh

nghiệm thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật..

-Nội dung:Cơ sở lý luận là thực tiễn, nhưng lý luận có tính tương đối của nó, lý luận có

thể đi trước thực tiễn. Nhưng điều đó không làn mất đi mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn.

Lý luận mang tính trừu tượng và tính khái quát cao, có thể phản ánh bản chất sự vật, hiện tượng khách quan.

Page 13: On Tap Mon Triet Hoc

Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính sác hơn, do đó phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng hơn. Lý luận là “kim chỉ nam” cho mọi hành động, soi đường dẫ dắt, chỉ đạo thực tiễn.

c. Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận:-Thực tiễn quy định lý luận:Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận, là tiêu

chuẩn kiểm tra chân lý.Thực tiễn quy định nội dung, nhiệm vụ, khuynh hướng phát triển của lý luận.Thực tiễn thay đổi thì lý luận cũng phải thay đổi cho phù hợp.-Lý luận tác động trở lại thực tiễn: Lý luận đóng vai trò chỉ đạo, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn.Lý luận góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên tập hợp quần chúng tạo

thành phong trào hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng, để cải tạo thế giới.Lý luận đúng đắn, khoa học, thâm nhập được vào quần chúng và được vận

dụng đúng đắn có thể thúc đẩy thực tiễn phát triển. Ngược lại sẽ kìm hãm thực tiễn.2. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta:-Trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữa nước, về cơ bản chúng ta

đã nhận thức và vận dụng đúng mối quan hệ này. Ví dụ, Nghị quyết 10/ NQ-TW của bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, ưu tiên, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển; công tác nghiên cứu khoa học cũng như áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất nông nghiệp.. tạo được sự chuyển biến về sản xuất lương thực cho nhân dân, mà lần đầu tiên chúng ta xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo.

-Chúng ta đã biết tổng kết thực tiễn để xây dựng nên lý luận, hình thành đường lối chủ trương của Đảng. Điều này được thể hiện rõ qua Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tổng kết được những kinh nghiệm từ thực tiễn tành công và thất bại;.. Đại hội đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta.

Nhưng bên cạnh đó, có lúc có nơi chúng ta không nhận thức đầy đủ về nguyên tắc này. Như, chỉ chú trọng hoạt động thực tiễn, xem nhẹ lý luận dẫn đến những sai lầm, ví dụ quá trình xây dựng hợp tác xã ở nước ta (chú trọng đến việc tập trung sở hữu tư liệu sản xuất “nói chung”; không tính đến hiệu quả của việc sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất; tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động..) hay ngược lại chỉ coi trọng lý luận, xem nhẹ hoạt động thực tiễn, điều này biểu hiện rõ nét khi chúng ta quan niệm đẩy quan hệ sản xuất (quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa) đi trước lực lượng sản xuất..( thời kỳ 1975 đến trước Đại hội VI) mà không tính đến tính chất và điều kiện của lực lượng sản xuất của nước ta còn lạc hậu, yêú kém,.. tất cả những biểu hiện trên là do việc nghiên cứu, học tập, áp dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của Việt Nam còn cứng nhắc, chủ quan duy ý chí, nóng vội.

Vì vậy, việc nâng cao trình độ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như việc áp dụng linh hoạt vào điều kiện đặc thù của

Page 14: On Tap Mon Triet Hoc

nước ta, đồng thời nghiên cứu, sáng tạo và phát triển cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với tình hình Việt Nam và Thế giới hôm nay. Là công tác có ý nghĩa quyết định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3. Liên hệ với thực tiễn ở địa phương:

Câu 7: Trình bày nội dung của quy luật về sự phù hợp QHSX với trình độ phát triển LLSX, sự nhận thức và vận dụng quy luật này trong CMXHCN Việt nam; (Liên hệ địa phương, đơn vị của đồng chí)?.

Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người. Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. Sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách biệt với nhau, trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội.

Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu con người. Muốn tiến hành sản xuất, cần có các điều kiện sau: môi trường tự nhiên, dân số, phương thức sản xuất, trong đó phương thức sản xuất là yếu tố quan trọng nhất và mang tính quyết định.

1. Nội dung của quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:a. Lực lượng sản xuất: -Định nghĩa: Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu

sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Như vậy, lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (tư liệu sản xuất và đối tượng lao động) và người lao động với kỹ năng, kinh nghiệm lao động của họ.

-Nội dung kết cấu của lực lượng sản xuất:Người lao động với tư cách là chủ thể của sản xuất vật chất, tác động vào đối

tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, sáng tạo ra công cụ lao động. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng sản xuất.

Công cụ lao động là nhân tố quan trọng của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạnh của con người trong quá trình lao động biến đổi thế giới tự nhiên. Nó là yếu tố đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất.

Trong thời đại ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất. Tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động.

Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu.

b. Quan hệ sản xuất:

Page 15: On Tap Mon Triet Hoc

-Định nghĩa: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), bao gồm:

Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.Các quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất.Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.Ba loại quan hệ trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối

với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm lao động.

Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội. Tính vật chất của quan hệ vật chất thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý muốn chủ quan của con người.

2. Mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:-Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện

mang tính biện chứng. Quan hệ này biểu hiện ở quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội, quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng nhất của quá trình sản xuất. Nó là nội dung của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định. Nó là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ này, lực lượng sản xuất (nội dung) quyết định quan hệ sản xuất (hình thức).

Lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có. Điều này đòi hỏi phảo xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với lực lượng sản xuất, thúc đẩy phương thức sản xuất mới ra đời.

-Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt trước quá xa) sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn thể hiện ở chỗ nó quy định mục đích sản xuất; ảnh hưởng tới thái độ của người lao động; kích thích hoặc kìm hãm việc cải tiến công cụ lao động cũng như việc áp dụng thành tựu khoa học vào sản xuất..

-Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn này. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình

Page 16: On Tap Mon Triet Hoc

độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.

3. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này trong CMXHCN Việt nam:Trước năm 1986 (Đại hội Đảng lần thứ VI) đã có những biểu hiện vận dụng

chưa đúng quy luật này. Điều này biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc đẩy nhanh việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không lường hết được sự tác động của quan hệ sản xuất (trình độ cao) tới trình độ của lực lượng sản xuất (còn thấp) của nước ta.

Sau Đại hội VI, chúng ta lựa chọn con đường phát triển kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một mặt, nước ta, từ một nước thuộc địa, phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên trình độ lực lượng sản xuất của ta vừa thấp, vừa không đồng đều. Mặt khác, bản thân nền kinh tế nhiều thành phần chứa đựng trong bản thân nó mâu thuẫn, đó là khuynh hướng tự phát lên tư bản chủ nghĩa và tự giác lên xã hội chủ nghĩa.

Do vậy, Đảng ta xác định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mới phát huy được mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, cuộc đấu tranh vì định hướng xã hội chủ nghĩa cũng diễn ra hết sức phức tạp, gay gắt, đòi hỏi tất yếu khách quan phải có sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong quán trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.

Câu 8: Vì sao nói đấu tranh giai cấp là nguồn gốc, động lực phát triển xã hội, trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp; thực chất đấu tranh giai cấp trong nước ta giai đoạn hiện nay?.

Từ thời cổ đại đến nay, xã hội bị phân chia thành các giai cấp đối lập nhau: Chủ nô và nô lệ; phong kiến và nông nô; tư sản và vô sản, cùng các tầng lớp, nhóm xã hội gắn với giai cấp này hay giai cấp khác. Trước Mác đã có nhiều tác phẩm của các sử gia tư sản viết về giai cấp, đấu tranh giai cấp như Chie, Ghidô, Minhê. Phần lớn các “lý thuyết phân tầng” của xã hội học tư sản hiện đại cũng thừa nhận sự tồn tại thực tế của giai cấp. Song đối với câu hỏi “giai cấp là gì” thì các lý thuyết xã hội phi mácxít chỉ đưa ra những định nghĩa mơ hồ, không đi vào các đặc trưng cơ bản nhất. Chẳng hạn, giai cấp là tập hợp những người có cùng một chức năng xã hội, cùng một lối sống hoặc mức sống, cùng một địa vị và uy tính xã hội..các lý thuyết này tránh đụng đến các vấn đề cơ bản, đặc biệt là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất.

1. Định nghĩa đấu tranh giai cấp của Lênin;a. Định nghĩa: Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của bộ phận nhân dân này

chống lại bộ phận nhân dân khác, đấu tranh quần chúng cùng khổ bị tước hết quyền, bị áp bức, lao động chống bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám. Đấu tranh của những người công nhân làm thuê, hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.

Page 17: On Tap Mon Triet Hoc

b. Quá trình đấu tranh giai cấp là nguồn gốc, động lực phát triển xã hội, trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp:

Trong lịch sử có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị, không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn như giai cấp các nhà tư bản và giai cấp công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền đặc lợi giai cấp, thông qua quyền lực nhà nước.

Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa giai cấp áp bức bóc lột nà những giai cấp, tầng lớp bị áp bức bóc lột, đối kháng đó là nguyên nhân đấu tranh giai cấp, có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức.

C. Mác và Ănghen chứng minh rằng, sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con nguời và xã hội loài người là hành động lịch sử đầu tiên của con người. Tác động biện chứng giữa cải tiến sản xuất với nhu cầu không ngừng tăng lên là động lực phát triển cơ bản, thường xuyên của tất cả xã hội. Sản xuất vật chất bao giờ cũng phát triển trong một quan hệ sản xuất nhất định. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là điều kiện cơ bản để sản xuất phát triển thuận lợi, tạo cơ sở cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.

Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển thì nó trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, dẫn đến những cuộc khủng hoảng phá hoại lực lượng sản xuất. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những quan hệ sản xuất lỗi thời không tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mơí. Chúng được giai cấp thống trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế và tư tưởng, đặc biệt là bằng bạo lực có tổ chức. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để giải phóng sức sản xuất phải gạt bỏ lực cản lớn lao ấy. Điều đó chỉ có thể thực hiện được quan đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức bóc lột. Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến các phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức.. do giai cấp tư sản lẫnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại tư bản...

Xuất phát từ quan điểm xem sự vận động nội tại của phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội, C. Mác và Ănghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là thời kỳ cách mạng, như đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế – xã hội, do đó “đấu tranh giai cấp” là động lực trực tiếp của lịch sử có giai cấp.

2. Đấu tranh giai cấp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:

Page 18: On Tap Mon Triet Hoc

-Tính tất yếu đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ: Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, nhất là cái gốc, cơ sở phân chia giai cấp và xuất hiện giai cấp bóc lột vẫn còn. Các thế lực phản động nước ngoài và bọn phản động trong nước chống phá cách mạng, chống phá xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tiếp tục đấu tranh giai cấp để bảo vệ thành quả của cách mạng.

-Nội dung, điều kiện, phương thức đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ: Nội dung đấu tranh giai cấp bao gồm đấu tranh chống lại những thế lực cản

trở quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.Điều kiện đấu tranh giai cấp: lúc này giai cấp vô sản đã trở thành giai cấp lãnh

đạo xã hội. So sánh lực lượng cơ bản đã có lợi cho cách mạng và trong tình hình quốc tế hoá.

Hình thức: sử dụng tổng hợp các hình thức, đổ máu và không đổ máu, hành chính và bạo lực, thuyết phục và đấu tranh, trong đó hình thức kinh tế đặc biệt quan trọng.

-Đối với Việt Nam, ngoài vấn đề chung của đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, còn có những đặc thù riêng và những thuận lợi và nguy cơ, như:

Quá trình phát triển xã hội chưa trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chủ yếu từ công xã nguyên thuỷ, phong kiến do vậy tính dân tộc nổi trội hơn tính giai cấp.

Trong thời đại hiện đại Việt nam chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, mặt khác giai cấp công nhân nó chung ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, và sớm có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam.

-Thuận lợi: Có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam và nhất là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Lực lượng vũ trang trung thành với Đảng, với nhân dân, có quan hệ máu thịt với nhân dân. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo được thế và lực mới cho đất nước.

-Nguy cơ: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt nam xác định 4 nguy cơ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cuả nước ta là: nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ về tệ quan liêu tham nhũng và nguy cơ diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.

Tóm lại: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta xác định nội dung chủ yểu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng đất nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

3. Liên hệ địa phương:

Page 19: On Tap Mon Triet Hoc

Câu 9: Bằng lý luận triết học MacLênin và thực tiễn cách mạng Việt nam, đồng chí hãy phân tích quan điểm của Đảng ta: Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước do dân, vì dân, của dân?.

Trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, đấu tranh giai cấp vẫn đang là cuộc đấu tranh đầy cam go, gian khổ. Do tính chất đặc thù của đất nước, giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, nhất là cái gốc, cơ sở phân chia giai cấp và xuất hiện giai cấp bóc lột vẫn tồn tại. Các thế lực phản động nước ngoài và bọn phản động trong nước chống phá cách mạng, chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn phải tiếp tục đấu tranh để bảo vệ thành quả của cách mạng mà nhân dân ta đã đạt được.

Bên cạnh những thành tựư cơ bản mà chúng ta đã đạt được trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền do dân, vì dân và của dân. Thì thời gian qua, cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như tệ nạn tham nhũng, quan liêu, lạm quyền, buông lỏng trong quản lý kinh tế; một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất.. dẫn đến làm giảm uy tín của đảng trong nhân dân, cùng với những nguy cơ mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của đảng ta xác định trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặt ra nhiệm vụ cho chúng ta phải tiếp tục nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn về việc xây dựng nhà nước pháp quyền do dân, vì dân và của dân. Một trong những công cụ quan trọng, cơ bản để đập tan mọi âm mưu của kẻ thù, bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng, giúp cho giai cấp công nhân tiến lên xây dựng một xã hội không nhà nước.

1. Nguồn gốc, bản chất của nhà nước:a. Đặc trưng cơ bản của nhà nước: Ăngghen nhận định, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:-Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định: đây là đặc trưng

làm rõ sự khác biệt của nhà nước với các hình thức tổ chức thị tộc, bộ lạc. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, còn nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo theo địa bàn lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực nhà nước, về nguyên tắc có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống trên địa bàn ấy, đó là biên giới quốc gia. Trong quốc gia có thể đồng thời tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội.

-Nhà nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội: Đây là đặc trưng có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Các cơ quan quyền lực bao gồm quân đội, cảnh sát, nhà tù và những cơ quan cưỡng bức, cơ quan hành chính thực hiện chức năng cai trị, buộc người khác phải phục tùng ý chí của giai cấp cầm quyền.

-Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để nuôi bộ máy nhà nước: Bộ máy cai trị của giai cấp thống trị sở dĩ tồn tại được là do sống bám vào những thần dân mà nó thống trị. Nhà nước không thể tồn tại, nếu không dựa vào hệ thống thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Ăngghen “nắm được quyền lực công cộng và quyền thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ quan xã hội, được đặt lên

Page 20: On Tap Mon Triet Hoc

trên xã hội”. Nói cách khác, về cơ bản mọi nhà nước đều sống được nhờ sự chu cấp của nhân dân.

b. Chức năng cơ bản của Nhà nước:Khi xem xét nhà nước từ giác độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước

có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội:-Chức năng thống trị chính trị của giai cấp đó là bất kỳ nhà nước nào cũng là

công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể có (kể cả tổ chức, xây dựng lẫn trấn áp) để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó.

-Chức năng xã hội của nhà nước do bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại xã hội, phải lo tới một số công việc chung của toàn xã hội; trong giới hạn có thể có được, nó phải thoả mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước trong tay của giai cấp mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những công việc chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, điều kiện để nhà nước đó thực hiện được vai trò giai cấp thống trị của mình. Điều đó được Ăngghen giải thích “nhà nước là đại biểu chính thức của toàn xã hội chỉ trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã hội trong thời đại tương ứng.

Như vậy, cả hai chức năng này của nhà nước đều bắt nguồn từ lý do ra đời của nó. Hai chức năng đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó chức năng giai cấp là cơ bản, giữ vị trí chi phối phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Chức năng xã hội phụ thuộc vào chức năng giai cấp, nhưng chức năng xã hội có vai trò lịch sử, nó là cơ sở để thực hiện chức năng giai cấp

2. Các loại hình nhà nước trong lịch sử:a. Nhà nước chiếm hữu nô lệ:Nhà nước xúât hiện đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, đó là

nhà nước cuả giai cấp chủ nô. Mặc dù được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, như “chính thể quân chủ”; ‘chính thể cộng hoà”; “chính thể quý tộc”; “chính thể dân chủ”.. nhưng tất cả các quyền đều thuộc về giai cấp chủ nô, pháp luật nhà nước không coi nô lệ là con người.

b. Nhà nước phong kiến:Bản chất của nhà nước phong kiến là sự thống trị của giai cấp phong kiến đối

với nông dân, thay thế cho sự thống trị của giai cấp chủ nô đối với nô lệ. Nhà nước được xây dựng trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc. Lúc này, chỉ các chúa phong kiến mới có đủ mọi quyền, còn nông nô hầu như không có quyền, trên thực tế địa vị của họ cũng không khác gì địa vị nô lệ. Do vậy, nhà nước phong kiến là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc; đó là cơ quan bảo vệ quyền lợi những đặc quyền phong kiến

Page 21: On Tap Mon Triet Hoc

c. Nhà nước tư bản chủ nghĩa:Ngày nay, nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác

nhau, nhưng sự khác nhau về hình thức đó không làm thay đổi bản chất của nhà nước tư sản - đó là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Thực quyền trong nhà nước tư sản hiện đại là các tập đoàn tư bản lớn liên minh với nhà nước tư sản.

d. Nhà nước vô sản:Nhà nước vô sản là nhà nước do chính nhân dân tự tổ chức, nòng cốt là liên

minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước. Nó là công cụ để nhân dân thể hiện quyền làm chủ đối với quyền lực của chính mình, vì vậy, nó là nhà nước dân chủ nhất, nhà nước đó có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu.

3. Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Đảng ta xem nhà nước xã hội chủ nghĩa “là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân”; nó được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam. Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trong hoạt động, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ khi đó mới đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đảm bảo tính thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nước và của từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó.

Nhà nước của chúng ta do nhân dân lập ra thông qua tổng tuyển cử toàn dân, đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền. Mọi chủ trương, chính sách của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi ngược lại ý chí của nhân dân.

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam có sự thống nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức, trong hoạt động của mình. Càng đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, càng có khả năng phát hiện, nhận thức và giai quyết có hiệu quả những vấn đề có liên quan tới chức năng xã hội. Ngược lại, việc thực hiện tốt chức năng xã hội sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng giai cấp. Chính bằng cách đó, và cũng chỉ bằng cách đó, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam mới thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân và có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.

Trong giai đoạn trước mắt, để nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, chúng ta phải thực hiện đồng bộ một loạt nhiệm vụ “ đổi mới, nâng cao chất lượng công

Page 22: On Tap Mon Triet Hoc

tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, cải cách nền hành chính nhà nước, bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp”.

3. Liên hệ địa phương:

Câu 10: Bằng lý luận triết học MacLênin và thực tiễn cách mạng Việt nam, đồng chí hãy phân tích quan điểm của Đảng ta: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên mọi thắng lợi lịch sử?.

Quần chúng nhân dân chẳng những đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất, trong cách mạng xã hội, mà còn đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, khoa học.. và quyết định sự phát triển lịch sử xã hội. Trong cách mạng Việt Nam, vai trò của quần chúng nhân dân được thể hiện trong suốt quá trình đấu tranh chống xâm lược, như: Phong trào yêu nước của nông dân và sĩ phu yêu nước (1858 – 1900) của Nguyễn Trung Trực; Tôn Thất Thuyết; nhất là cuộc khởi nghĩa lớn nhất tiêu biểu cho ý chí bất khuất, kiên cường của nông dân Việt Nam do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo..; Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản của Phan Châu Trinh; Phan bội Châu.. Nhưng, cuối cùng tất cả các cuộc khởi nghĩa đều thất bại do không thấy hết được vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân yêu nước. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh trách nhiệm lãnh đạo nhân dân làm nên những thắng lợi to lớn, làm lung lay ý chí xâm lược của thực dân Pháp (1930 – 1954) và đế quốc Mỹ (1954 – 1975), hoàn thành thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc. Có được điều đó, là do sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, nắm bắt và vận dụng đúng quy luật khách quan, đồng thời phát huy được cao độ sức mạnh của quần chúng nhân dân.

Bên cạnh thành tựu đó, trong từng thời kỳ chúng ta cũng gặp khó khăn, sai lầm như: phong trào hợp tác hoá (1959 – 1960); khuyết điểm chủ quan, nóng vội trong xây dựng quan hệ sản xuất trong điều kiện lực lượng sản xuất còn thấp kém..thời lỳ tiến hành xã hội chủ nghĩa trong cả nước (1975 – 1986). Vì vậy, việc quán triệt những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mac- Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng, có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay.

1. Quần chúng nhân dân:a. Một số quan niệm về quần chúng trước Mac:Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và duy vật đều không hiểu

đúng đắn vai trò của quần chúng trong lịch sử. Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối cao, là do “mệnh trời”. Triết học duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt..còn quần chúng nhân dân chỉ là “lực lượng tiêu cực”, là “phương tiện” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình. Những nhà duy vật trước Mác, tuy không tin vào thượng đế, thần linh, nhưng cũng không hiểu được vai trò của quần chúng

Page 23: On Tap Mon Triet Hoc

nhân dân trong lịch sử hay cũng có những nhà tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, nhưng lại không nhận thức được một cách khoa học vai trò đó.

b. Quan niệm Mac Lênin về quần chúng nhân dân:-Định nghĩa: Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội có lợi

ích cơ bản thống nhất nhau trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, họ là những người bị áp bức bóc lột; dưới chủ nghĩa xã hội và chỉ nghĩa cộng sản họ là chủ thể của xã hội mới.

-Vai trò của quần chúng nhân dân:Quần chúng nhân dân là người làm ra của cải vật chất, cơ sở của sự tồn tại và

phát triển của xã hội. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội.Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của các cuộc cách mạng xã hội.Vai trò ngày càng tăng của quần chúng nhân dân trong tiến trình lịch sử, Quần

chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, nhưng mức độ của sự sáng tạo lịch sử đó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời đại.

2. Vai trò của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng ta:Ngay từ khi mới ra đời, ngày 3/ 2/ 1930, Đảng cộng sản Việt nam lãnh đạo

quần chúng đấu tranh, đi theo Đảng làm cách mạng chống đế quốc và tay sai, giành chính quyền. Đồng chí Nguyễn ái Quốc ra lời kêu gọi khẳng định: “sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết”. Phong trào cách mạng mở đầu bằng cuộc bãi công của 5000 công nhân đồn điền Phú Riềng (3/ 2/ 1930) đến 1/ 5/ 1930 bãi công của công nhân kết hợp với biểu tình của nông dân và nhân dân lao động nổ ra ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh cách mạng của công, nông dân và quần chúng lao động trong cả nước.

Cao trào cách mạng công nông nổ ra sôi nổi và quyết liệt, nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh, quần chúng đã giành được chính quyền ở một số nơi, sau đó gọi là Xôviết Nghệ Tĩnh. Đánh giá Xôviết Nghệ Tĩnh, sau này Đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: “Xôviết Nghệ – Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”.

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (tháng 3/ 1935) đã nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt, trong đó nhiệm vụ đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng, chú ý phụ nữ dân tộc ít người, binh lính; dìu dắt quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.

Đến 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công – là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, là một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do do nhân dân làm chủ đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình. Đánh giá thành công của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta nhận định “thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là nhờ cuộc đấu

Page 24: On Tap Mon Triet Hoc

tranh yêu hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam.. khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng..”..

Do đó, tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi Đảng ra đời đến Đại hội VIII (6/ 1996) một trong những bài học tổng quát là: “..kế thừa truyền thống của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài; là nguồn sức mạnh và động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay”.

3. Những giải pháp phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng CNXH ở Việt nam:

-Tạo môi trường kinh tế – xã hội phù hợp để quần chúng nhân dân phát huy.-Kết hợp khuyến khích, chăm lo đời sống vật chất với nâng cao trình độ dân

trí, nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng của quần chúng để phát huy tính tích cực của quần chúng.

-Nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp, nhất là cấp cơ sở trong việc phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân.

-Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng hướng đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội đề ra.

4. Liên hệ địa phương:

Câu 11: Đ.c hãy phân tích mối liên hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. í nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ trên trong quá trình xây dựng ý thức XH XHCN ở nước ta?.

Vấn đề cơ bản của triết học đó là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ đó được biểu hiện dưới hai mặt: thứ nhất vật chất có trước ý thức; thứ hai, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại thế giới vật chất. Sự biểu hiện trong lĩnh vực xã hội của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đó là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

1. Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:a. Khái niệm và nội dung của tồn tại xã hội và ý thức xã hội:-Tồn tại xã hội: Tồn tại xã hội là phạm trù chỉ toàn bộ đời sống vật chất và

những điều kiện sinh hoạt vật chất của toàn xã hội.-Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố:Phương thức sản xuất vật chất.Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh địa lý.Dân số và mật độ dân cư.Trong đó, Phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định, hai yếu tố còn

lại có vai trò quan trọng. Ngoài các yếu tố cơ bản trên, khi nói tới tồn tại xã hội cần phải lưu ý tới các quan hệ vật chất khác như quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc tế..

-ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng.. nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

Page 25: On Tap Mon Triet Hoc

í thức xã hội là một hiện tượng phức tạp, tuỳ theo góc độ xem xét, người ta có thể phân ý thức xã hội thành: í thức thông thường và ý thức lý luận (theo trình độ); Tâm lý xã hội và hệ tưởng xã hội (theo cấp độ).

-Tính giai cấp của ý thức xã hội: Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư

tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện hay ác cảm đối với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có quan điểm tư tưởng hoặc những hệ tư tưởng đối lập nhau; tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.

Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó, thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức bóc lột.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:-Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:Nhìn chung, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy.Khi tồn tại xã hội thay đổi nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư

tưởng, tình cảm, tâm trạng.. ý thức xã hội sớm muộn cũng thay đổi theo.Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng phát triển

của các hình thái ý thức xã hội.Nếu tồn tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai

cấp.-Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do nó không phản ánh kịp

tồn tại xã hội; do sự lạc hậu của một số ý thức xã hội như ý thức tôn giáo; do sức ỳ tâm lý, của thói quen; do một số lực lượng bảo thủ trong xã hội muốn duy trì những ý thức xã hội lạc hậu.

ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội do tính năng động của nó.Tính kế thừa của ý thức xã hội trong sự phát triển của mình.Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội.Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể tác động tích

cực, tiêu cực. Mức độ và hiệu quả tác độngcủa ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc váo các yếu tố:

Tính đúng đắn , khách quan, khoa học mà ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội.

Mức độ thâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng nhân dân.Mức độ vận dụng đúng đắn, sáng tạo ý thức xã hội của chủ thể lãnh đạo quản

lý.2. ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu:

Page 26: On Tap Mon Triet Hoc

-Nghiên cứu ý thức xã hội không dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà phải đi sâu nghiên cứu tồn tại xã hội.

-Muốn phát triển ý thức xã hội xã hội chủ nghĩa về lâu dài phải phát triển cơ sở vật chất xã hội của nó.

-Phải thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý thức xã hội đối với quá trình hình thành nền văn hoá mới và con người mới.

3. Xây dựng ý thức xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai

cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết phản tiến bộ của những thời kỳ lịch sử trước. Ví dụ nửa sau thế kỷ XIX đầu thé kỷ XX các thế lực phản động đã phục hồi và phát triển những những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômat mưói.. để chống lại phong trào của giai cấp công nhân và hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh rằng: văn hoá xã hội chủ nghiã cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất nền văn hoá nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan macxit.

Đối với công cuộc xây dựng ý thức xã hội- xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Một nước, điểm xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu đạt được về quá trình phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thì cũng xuất hiện nhiều hiện tượng phản văn hoá, nhất là từ khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, cùng với những trào lưu văn hoá tiến bộ góp phần tô đẹp cho nền văn hoá dân tộc, tạo lập những tư tưởng, ý thức xã hội tiến bộ, văn minh và nhân bản; thì văn hoá đua đòi, lai căng, hưởng thụ, đồ truỵ cũng ồ ạt tràn vào. ý thức về truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, truyền thống quật cường trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở một bộ phận nhân dân bị phai nhạt, nhất là trong tầng lớp thanh thiếu niên.. Điều đó đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ nặng nề trong việc xây dựng ý thức xã hội- xã hội chủ nghĩa, bao gồm:

-Xây dựng ý thức chính trị trong quần chúng nhân dân, thông qua công tác giáo dục hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, hệ tư tưởng triệt để cách mạng và khoa học.

-Xây dựng ý thức pháp luật- pháp luật xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ bảo vệ chế độ mới và trở thànháy thức chung của mọi người, được mọi người chấp hành một cách tự giác.

-Xây dựng ý thức về văn hoá nghệ thuật, về ý thức tôn giáo..4. Các giải pháp xây dựng ý thức xã hội: -Trước hết phải xây dựng được phương thức sản xuất XHCN.

Page 27: On Tap Mon Triet Hoc

-Muốn xây dựng ý thức XHCN phải kết hợp giữa xây dựng, nâng cao tư tưởng Mac Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với vấn đề đấu tranh, khắc phục những tư tưởng thói quen lạc hậu.

-Phải kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị nhân văn của thời đại hiện nay để làm giàu đời sống tinh thần con người trong xã hội ngày nay, chống lại sự bảo thủ hay phủ nhận sạch trơn.

-Sử dụng tổng hợp các loại hình của ý thức xã hội trong xây dựng ý thức XHCN.

5. Liên hệ địa phương:

Câu 12: Đ.c hãy phân tích vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng ý thức XH XHCN ở nước ta?.

Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đưa nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, không ngừng nâng cao mức sống cho nhân dân thì việc xây dựng một ý thức mới, ý thức xã hội chủ nghĩa có một vai trò cực kỳ to lớn trong việc hoàn thiện nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển đi lên.

Việc nghiên cứu ý thức xã hội - xã hội chủ nghĩa cũng như sự tác động của nó lên tồn tại xã hội không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.

1. Vai trò ý thức xã hội tác động đến tồn tại xã hội:a. Tồn tại xã hội:-Định nghĩa: tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt

vật chất của xã hội. Trong những quan hệ xã hội vật chất, thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người và người là hai quan hệ cơ bản.

-Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

b. Ý thức xã hội:-Định nghĩa: ý thức xã hội là toàn bộ quan điểm, quan niệm cùng với tình

cảm, tâm trạng của con người, phản ánh và chỉ sự quy định của sự tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

-Kết cấu của ý thức xã hội bao gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. Tuỳ theo góc độ xem xét, ý thức xã hội được phân thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận; Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.

-Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:Nhìn chung, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy, khi tồn tại xã hội thay đổi

nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng, tình cảm, tâm trạng.. ý thức xã hội sớm muộn cũng thay đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Nếu tồn tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

Page 28: On Tap Mon Triet Hoc

- Ý thức xã hội tác động tồn tại xã hội:Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do nó không phản ánh kịp

tồn tại xã hội; do sự lạc hậu của một số ý thức xã hội như ý thức tôn giáo; do sức ỳ tâm lý, của thói quen; do một số lực lượng bảo thủ trong xã hội muốn duy trì những ý thức xã hội lạc hậu.

Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội do tính năng động của nó và tính kế thừa của ý thức xã hội trong sự phát triển của mình.

Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể tác động tích cực, tiêu cực. Khi ý thức xã hội tích cực sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội (như trong điều kiện nước ta hiện nay, nhiêù hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng..).

Mức độ và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào các yếu tố: Tính đúng đắn, khách quan, khoa học mà ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Mức độ thâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng nhân dân và mức độ vận dụng đúng đắn, sáng tạo ý thức xã hội của chủ thể lãnh đạo quản lý.

2. Việc xây dựng ý thức xã hội- xã hội chủ nghĩa ở nước ta:-Trước hết phải xây dựng được phương thức sản xuất XHCN.-Muốn xây dựng ý thức XHCN phải kết hợp giữa xây dựng, nâng cao tư

tưởng Mac Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với vấn đề đấu tranh, khắc phục những tư tưởng thói quen lạc hậu.

-Phải kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị nhân văn của thời đại hiện nay để làm giàu đời sống tinh thần con người trong xã hội ngày nay, chống lại sự bảo thủ hay phủ nhận sạch trơn.

-Sử dụng tổng hợp các loại hình của ý thức xã hội trong xây dựng ý thức XHCN.

3. Một số giai pháp:-Nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tưởng Hồ Chí Minh cho

giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức cũng như quần chúng nhân dân nói chung.

-Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng.

-Giáo dục đạo đức mới cho mọi người có lối sống lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của chính mình, có ý thức bảo vệ thành quả lao động, chăm lo lợi ích của cộng đồng, làm lành mạnh đời sống tinh thần xã hội.

-Khuyến khích tự do sáng tác văn học, nghệ thuật vì sự hoàn thiện con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp, đề cao tinh thần dân tộc, ý chí tự lực tự cường, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh; phê phán những thói hư tật xấu, cái độc ác, thấp hèn.

4. Liên hệ địa phương:---------------------&-&-&-------------------------------

Page 29: On Tap Mon Triet Hoc