9
62 Y HỌC SINH SẢN 51 ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ TRONG PHÒNG LAB IVF: BÁO CÁO CỦA HỘI NGHỊ CHUYÊN GIA Võ anh Hảo, Nguyn Hoàng ảo, Tăng Quang ái Bệnh viện Phụ sản Nhi Bình Dương Một hội nghị chuyên gia quốc tế về các yêu cầu kỹ thuật và vận hành chất lượng không khí trong phòng lab Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, được tổ chức tại Hội nghị chuyên đề về Hỗ trợ sinh sản ở ượng Ai Cập (UEARS) 2017 (Cairo, Ai Cập) đã thiết lập 50 quan điểm đồng thuận để đánh giá tính phù hợp vị trí, tiêu chí thiết kế xây dựng mới, vận hành phòng thí nghiệm và kiểm soát các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi liên tục để cung cấp tiêu chuẩn cho các phòng lab kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại (ART). Các chủ đề được xem xét bao gồm thiết kế và xây dựng cơ sở vật chất, cũng như hệ thống làm ấm, thông gió và điều hòa không khí; kiểm soát các hạt bụi, vi sinh vật (vi khuẩn, nấm và vi rút); các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC) trong những khu vực nghiêm ngặt; thực hành vệ sinh an toàn; thực hiện tối ưu hóa chất lượng không khí trong khi tối thiểu nguy cơ hóa lý đối với giao tử và phôi (kiểm soát nhiệt độ so với lưu lượng không khí); và các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn thích hợp để giảm thiểu sự tiếp xúc với VOC. Quy định và cấp giấy phép cho các phòng lab IVF ngày càng tăng, đặc biệt là liên quan đến các phòng thủ thuật có liên kết. Kết quả là, chính quyền có xu hướng phát triển các yêu cầu chất lượng không khí như thể toàn bộ khu IVF là một cơ sở phẫu thuật và yêu cầu cùng mức độ về quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện nhưng yêu cầu này lại không xem xét các nhu cầu riêng của phòng lab kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Toàn bộ quá trình IVF bị chi phối bởi tính sinh học của các giao tử và phôi, phải tối ưu hóa sự tăng trưởng và phát triển của chúng. Đầu tiên, bản thân bệnh nhân đại diện cho một nguồn gốc của sự ảnh hưởng, vì cơ địa của họ sẽ ảnh hưởng đến tiềm năng của giao tử và kết quả phôi. Các yếu tố lâm sàng như sự kích thích, quy trình chọc hút trứng, chuyển phôi và sự hỗ trợ pha hoàng thể cũng sẽ ảnh hưởng đến kết cục. Nhân tố môi trường ở quy mô nhỏ như nhiệt độ tủ nuôi cấy, kiểm soát oxy hoặc CO 2 (ảnh hưởng đến độ pH của môi trường mà giao tử và phôi phơi nhiễm), quy mô lớn như thiết kế phòng thí nghiệm hoặc chất lượng không khí. Các yếu tố trang thiết bị và yếu tố phương pháp. Ngày càng có nhiều nghiên cứu với chất lượng khác nhau đã được công bố về ảnh hưởng của chất lượng không khí trong phòng lab trên các kết cục IVF. ật không may, nhiều nghiên cứu được thiết kế kém, do hoàn cảnh phức tạp, những mối quan tâm về đạo đức và chi phí. Nhìn chung, mặc dù có vẻ như một hệ thống lọc khí hiệu quả là điều cần thiết để đạt được tối ưu các chỉ số hoạt động chính của phòng thí nghiệm và khả thi có thể làm giảm VOC cũng như nồng độ aldehyde đáng kể. HỆ THỐNG HVAC VÀ TIÊU CHUẨN PHÒNG SẠCH Cho đến khoảng năm 2000, thiết kế của hầu hết các phòng lab ART trong một bệnh viện được thiết kế theo quy trình phòng thủ thuật hoặc phòng phẫu thuật. Vì thế, các phòng lab ART được thiết kế trước năm 2000 thường không thể xem xét đầy

ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

  • Upload
    others

  • View
    13

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

62 Y HỌC SINH SẢN 51

ĐỒNG THUẬN CAIROVỀ MÔI TRƯỜNG VÀCHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ TRONG PHÒNG LAB IVF:BÁO CÁO CỦAHỘI NGHỊ CHUYÊN GIA

Võ Thi Thanh Hảo, Nguyên Hoàng Thảo,Tăng Quang Thái

Bệnh viện Phụ sản Nhi Bình Dương

Một hội nghị chuyên gia quốc tế về các yêu cầu kỹ thuật và vận hành chất lượng không khí trong phòng lab Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, được tổ chức tại Hội nghị chuyên đề về Hỗ trợ sinh sản ở Thượng Ai Cập (UEARS) 2017 (Cairo, Ai Cập) đã thiết lập 50 quan điểm đồng thuận để đánh giá tính phù hợp vị trí, tiêu chí thiết kế xây dựng mới, vận hành phòng thí nghiệm và kiểm soát các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi liên tục để cung cấp tiêu chuẩn cho các phòng lab kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại (ART). Các chủ đề được xem xét bao gồm thiết kế và xây dựng cơ sở vật chất, cũng như hệ thống làm ấm, thông gió và điều hòa không khí; kiểm soát các hạt bụi, vi sinh vật (vi khuẩn, nấm và vi rút); các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOC) trong những khu vực nghiêm ngặt; thực hành vệ sinh an toàn; thực hiện tối ưu hóa chất lượng không khí trong khi tối thiểu nguy cơ hóa lý đối với giao tử và phôi (kiểm soát nhiệt độ so với lưu lượng không khí); và các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn thích hợp để giảm thiểu sự tiếp xúc với VOC. Quy định và cấp giấy phép cho các phòng lab IVF ngày càng tăng, đặc biệt là liên quan đến các phòng thủ thuật có liên kết. Kết quả là, chính quyền có xu hướng phát triển các yêu cầu chất lượng không khí như thể toàn bộ khu IVF là một cơ sở phẫu thuật và yêu cầu cùng mức độ về quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn trong bệnh viện nhưng yêu cầu này lại không xem xét các nhu cầu riêng của phòng lab kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Toàn bộ quá trình IVF bị chi phối bởi tính sinh học của các giao tử và phôi, phải tối

ưu hóa sự tăng trưởng và phát triển của chúng. Đầu tiên, bản thân bệnh nhân đại diện cho một nguồn gốc của sự ảnh hưởng, vì cơ địa của họ sẽ ảnh hưởng đến tiềm năng của giao tử và kết quả phôi. Các yếu tố lâm sàng như sự kích thích, quy trình chọc hút trứng, chuyển phôi và sự hỗ trợ pha hoàng thể cũng sẽ ảnh hưởng đến kết cục. Nhân tố môi trường ở quy mô nhỏ như nhiệt độ tủ nuôi cấy, kiểm soát oxy hoặc CO2 (ảnh hưởng đến độ pH của môi trường mà giao tử và phôi phơi nhiễm), quy mô lớn như thiết kế phòng thí nghiệm hoặc chất lượng không khí. Các yếu tố trang thiết bị và yếu tố phương pháp.

Ngày càng có nhiều nghiên cứu với chất lượng khác nhau đã được công bố về ảnh hưởng của chất lượng không khí trong phòng lab trên các kết cục IVF. Thật không may, nhiều nghiên cứu được thiết kế kém, do hoàn cảnh phức tạp, những mối quan tâm về đạo đức và chi phí. Nhìn chung, mặc dù có vẻ như một hệ thống lọc khí hiệu quả là điều cần thiết để đạt được tối ưu các chỉ số hoạt động chính của phòng thí nghiệm và khả thi có thể làm giảm VOC cũng như nồng độ aldehyde đáng kể.

HỆ THỐNG HVAC VÀ TIÊU CHUẨN PHÒNG SẠCHCho đến khoảng năm 2000, thiết kế của hầu

hết các phòng lab ART trong một bệnh viện được thiết kế theo quy trình phòng thủ thuật hoặc phòng phẫu thuật. Vì thế, các phòng lab ART được thiết kế trước năm 2000 thường không thể xem xét đầy

Page 2: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

63Y HỌC SINH SẢN 51

đủ một loạt các khía cạnh về thiết kế, xây dựng có thể ảnh hưởng xấu đến môi trường và kết quả phòng lab. Phạm vi của các khía cạnh này, một phần được đánh giá bởi Cohen, bao gồm sàn vinyl (hoặc gạch hoặc tấm phủ); trần nhà cứng “vững chắc” nhưng với ánh sáng trên trần nhà, không khí bẩn sẽ xâm nhập từ không gian hệ thống thông gió; sự lọc hạt phân tử, thường bao gồm các bộ lọc không khí có hiệu suất cao (HEPA). Bình thường trong phòng lab IVF, phòng trữ đông và kho lưu trữ không có bảo vệ sàn; không cung cấp khí và hệ thống xử lý không khí chuyên dụng, do đó không khí cung cấp vào phòng lab được chia sẻ từ nhiều nguồn không kiểm soát được; phòng lab cũ thường sử dụng thiết kế hệ thống thông gió mở để trả lại không khí cho hệ thống HVAC; vào cuối giai đoạn này, các biện pháp nghiêm ngặt hơn được đề xuất như buồng tắm vô trùng để loại bỏ các hạt bụi trên người nhân viên và bộ lọc không khí hạt nhỏ. Các thông số kỹ thuật nghiêm ngặt nhất dựa trên đặc điểm kỹ thuật ngụ ý cho các phòng lab IVF: không khí chuyển động ra khỏi phòng (áp lực dương); tối thiểu 15 thay đổi không khí mỗi giờ (ACH) hoặc ‘TACH’; tối thiểu ba thay đổi không khí sạch mỗi giờ hoặc ‘FACH’; không có các đơn vị điều hòa không khí gắn trên cửa sổ; nhiệt độ phòng 20°C – 23°C (68°F – 73°F); và độ ẩm tương đối từ 30% đến 60%.

Những thay đổi đồng thời xảy ra trong thông số kỹ thuật và thiết kế. Kết quả là, nhiều phòng lab ART đương thời có thiết kế phân đoạn phòng lab hiện nay, tách biệt phòng chẩn đoán nam khoa và các dịch vụ nội tiết học từ khu vực nuôi cấy, cũng như một phòng khí riêng biệt hoặc tủ quần áo và tiền sảnh. Các tính năng thiết kế này đều làm giảm nguy cơ đưa các tạp chất bên ngoài vào khu vực nuôi cấy. Kiểm soát sâu hơn các chất gây ô nhiễm không khí được thực hiện bằng cách sử dụng lọc HEPA.

Triết lý thiết kế cho bộ phòng lab ART mớiBước đầu tiên trong việc tạo ra một thiết kế

phòng lab hiện đại được tối ưu hóa là xác định các chức năng của bộ ART được đề xuất là phòng chọc hút, phòng chuyển phôi, phòng lab nuôi cấy và sinh thiết IVF. Với hệ thống HVAC, các phòng này liền kề nhau, nghĩa là, không gian để trữ đông trứng

hoặc phôi là thường được đính kèm. Việc sử dụng cửa đôi thông qua cửa sổ đệm có thể làm giảm luồng không khí từ phòng lab IVF vào các phòng thủ thuật lâm sàng để đạt được và duy trì áp lực dương của nó. Trong một xây dựng điển hình đảm bảo rằng các phòng phẫu thuật và lâm sàng đều có trần có nắp cứng. Tiếp theo là tách các phòng “bẩn” ra khỏi bộ ART. Phòng xi lanh khí (nên tách biệt, lý tưởng là liền kề bộ phòng lab ART), phòng lưu trữ vật tư số lượng lớn, phòng cố định và phòng nhuộm, phòng lab chẩn đoán nam khoa, phòng xét nghiệm nội tiết, không gian văn phòng cho nhân viên phòng lab, phòng thay đồ và tủ ngăn sắt. Ngân hàng trữ đông do yêu cầu khai thác liên tục thông khí cũng nên tách biệt với bộ ART. Việc duy trì môi trường trong sạch của bộ ART là tối quan trọng và yêu cầu các chiến lược để giảm thiểu xâm nhập từ bên ngoài và mất áp lực dương cao. Tất cả các đường ống dẫn khí vào bộ phòng lab IVF phải được hàn kín tại giao diện đường ống. Các quy định của địa phương nhằm mục đích phòng cháy chữa cháy thường áp dụng cho các phòng chứa khí và phòng ngân hàng trữ đông vì chúng chứa khối lượng đáng kể chất lỏng dễ bay hơi. Yêu cầu sự hiện diện của bộ giảm chấn trong ống thông gió để ngăn ngừa nguy cơ nhiễm độc khí hoặc ngộ độc CO2 trong trường hợp đóng cửa vô tình của van điều tiết thông gió mà không có nguồn cung cấp không khí sạch thay thế. Thiết lập và phạm vi nhiệt độ trong phòng lab ART cần được điều chỉnh theo yêu cầu của nhân viên.

Tiêu chí cách ly vật lýBộ phòng lab ART là một môi trường được

kiểm soát, nơi vi khuẩn, hạt bụi và hóa chất gây ô nhiễm được loại bỏ, kiểm soát để cải thiện năng suất. Việc sử dụng các rào cản vật lý kín an toàn (tường, cửa ra vào, trần nhà, sàn nhà) và mức độ áp lực dương đáng kể đều là chiến lược hiệu quả để đạt được mục tiêu này, mặc dù áp lực dương không phải là một rào cản tuyệt đối, và việc hàn kín không thể loại bỏ mọi điểm có khả năng xâm nhập. Hiệu quả của các biện pháp cách ly vật lý có thể được đo bằng nghiên cứu xâm nhập lưu huỳnh hexafluoride. Lắp đặt quạt tăng cường vào HVAC hiện có để tăng áp lực dương; cài đặt một cửa kép đi qua giữa phòng

Page 3: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

64 Y HỌC SINH SẢN 51

lab IVF và phòng thủ thuật (nếu phòng thủ thuật không sạch bằng phòng lab); giảm số lượng vật liệu mới được đưa trực tiếp vào phòng lab; và sử dụng hệ thống làm sạch không khí bổ sung để giảm mức độ các hạt chất.

Phòng lab ART là một không gian kín cho sự tương tác của hóa học với sinh học. Tất cả các hóa chất có tính chất phân tử và vật lý khác nhau. Trong một môi trường có nhiều vật liệu, một số sẽ hấp thụ chọn lọc. Bằng cách thay đổi nồng độ, nhiệt độ hoặc áp lực khí quyển, một hóa chất có thể được đẩy từ một môi trường thành một môi trường thứ hai, ví dụ: không khí thành nước. Độ hòa tan và độ phản ứng rất quan trọng trong việc đảo chiều việc vận chuyển, ví dụ, formaldehyde và các aldehyde cao hơn trở lại thành dầu khoáng hoặc không khí với bồn rửa như nước.

Không phải tất cả VOC đều độc hại với giao tử và phôi; ví dụ VOC không độc hại bao gồm silicon trong các miếng đệm tủ nuôi cấy, hệ thống ống dẫn và các trọng lượng phân tử cao như dầu paraffin ổn định và không phản ứng. Việc phơi nhiễm giao tử và phôi đến các tác nhân không rõ nên được giảm thiểu như một quy tắc. Độ hòa tan vi phân và khả năng phản ứng có thể đảo ngược vận chuyển các phân tử giữa nước và dầu hoặc không khí và nước; và công nghệ kiểm soát ô nhiễm giảm phơi nhiễm trong phòng lab, thông qua HVAC–AHU và bộ lọc cung cấp khí.

Các hợp chất hữu cơ d-limonene và α–pinene, các thành phần phổ biến trong colognes và sản phẩm làm sạch, có tính tan trong dầu cao, do đó không nên được sử dụng, nhưng vì chúng không phản ứng theo điều kiện nuôi cấy, chúng dường như không phải là chất gây ô nhiễm đáng kể về mặt sinh học. Tuy nhiên, ethanol, là một trong hai chất ô nhiễm phổ biến nhất trong các cơ sở ART, có thể được chuyển hóa thành acetaldehyde và cồn isopropyl (2–propanol) có thể được chuyển hóa thành formaldehyde, cả hai có hại về mặt sinh học.

Đo VOC và aldehydeKhông có phương pháp thực tế nào xác định và

định lượng các mức của mỗi VOC trong phòng lab. Phương pháp khứu giác không phải là phương pháp phân tích đáng tin cậy. Thiết bị phát hiện quang hóa

cho phép định lượng các mức VOC trong phạm vi ppm (mg/m3) đến phạm vi ppb (µg/m3), với kết quả được biểu thị bằng mức tín hiệu tương đương của isobutylene. Điều này có nghĩa là chúng không thể báo cáo danh tính của VOC trong môi trường. Sắc ký khí hoặc khối phổ sắc ký khí cho phép nhận dạng và định lượng 65 – 75 của VOC tham khảo được liệt kê cho phương pháp học TO15 bởi Cơ quan Bảo vệ Môi trường ở mức thấp (µg/m3 hoặc ppb). Nó có thể xác định và bán định lượng vật liệu không được hiệu chỉnh theo các tiêu chuẩn sắc ký khí.

Một số bằng chứng cho thấy khả năng nuôi cấy phôi người trong cơ sở ART đến giai đoạn phôi nang bị giảm bởi một nhóm chất gây ô nhiễm. Dữ liệu thu được từ một số phòng lab có độ tương quan của trọng lượng phân tử formaldehyde, acetaldehyde và aldehyde cao hơn thì làm thấp hơn, bị trì hoãn hoặc không phát triển phôi, và sau đó giảm nồng độ aldehyde thì sự phát triển phôi được cải thiện. Nhiều loại aldehyde phổ biến trong phòng lab ART, ví dụ: formaldehyde, acetaldehyde, propionaldehyde, butyraldehyde, benzaldehyde, n-hexanaldehyde và acrolein được biết là chất gây ung thư và các chất gây đột biến. Các hợp chất thông thường khác, acetonitrile, cũng đã được đề xuất như một nguồn có thể cho việc phóng thích chậm xianua. Những phòng lab hiện đại được xây dựng bằng các khái niệm phòng sạch, giá trị trung bình và giới hạn tin cậy trên 95% cho tổng mức VOC tương ứng là 339,5 µg/m3 và 1213,9 µg/m3, trong khi đó, với các phòng lab ART cũ hơn tương ứng là 1.323,2 µg/m3 và 3.236,5 µg/m3.

Formaldehyde phản ứng với albumin và sẽ biến tính nó, vì vậy nó là mối quan tâm trong tất cả các hệ thống sinh học. Bên trong các tòa nhà, MDF là một nguồn đáng kể của formaldehyde do thải khí và không nên được sử dụng trong tủ phòng lab ART.

Cidex là một nguồn đáng kể của các aldehyde trọng lượng phân tử khác, bao gồm glutaraldehyde. Dung dịch khử trùng là chất gây ung thư, gây đột biến và hòa tan trong nước; do đó, nó đặt ra một nguy cơ đáng kể cho các giao tử và phôi thai. Khí nén, đặc biệt là CO2, cũng có thể là một nguồn gốc của aldehyde.

Như một quy luật, môi trường nuôi cấy được tối

Page 4: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

65Y HỌC SINH SẢN 51

ưu hóa bằng cách giảm thiểu thời gian của các giao tử và phôi ở bên ngoài tủ cấy trong khi thực hiện các quy trình cần thiết và số lượng lỗ cửa tủ cấy, vì điều này có thể dẫn đến biến động môi trường. Vi khuẩn và mốc có thể tránh được bằng cách lọc môi trường nuôi cấy hoặc không khí bằng cách sử dụng kháng sinh trong môi trường nuôi cấy cũng như sự quang oxy hóa ánh sáng cực tím trong các hệ thống làm sạch không khí. Các loại sơn tiêu chuẩn được sử dụng để bịt kín các bề mặt tường và trần trong các phòng lab có thể là nguồn VOC lớn. Nếu tiến hành sơn trong phòng lab hoặc ở những nơi khác trong tòa nhà, phải là tại thời điểm phòng lab không tiến hành nuôi cấy phôi.

Mặt bàn và tủ trong bộ IVF được chế tạo từ các sản phẩm gỗ sản xuất, ví dụ: MDF. Những đồ vật này phải được làm sạch kỹ bằng cồn isopropyl để loại bỏ bất kỳ VOC bên ngoài trước khi đưa vào phòng lab. Vấn đề vẫn còn dầu nhờn được sử dụng để bôi trơn bản lề và các slide ngăn kéo, chúng nên được gắn silicon.

Tủ cấy nên được loại thải khí bất cứ khi nào có thể vì các con dấu nhựa (miếng đệm) xung quanh các cạnh của cánh cửa bên ngoài chịu trách nhiệm lớn cho việc giải phóng các chất gây độc phôi, ví dụ: chạy các đơn vị mới trong không gian hệ thống thông gió (không phải phòng lab phôi) ở nhiệt độ cao trong một thời gian. Người dùng nên cẩn thận khi xem xét những sửa chữa chính hoặc bảo dưỡng vì các phần thay thế có thể tái chứa các thành phần VOC.

Một trong những nguồn VOC phổ biến nhất trong phòng lab là phần nhựa mềm, thường đúc từ polystyrene. Tốt nhất thực hiện thải khí này bên ngoài phòng lab hoặc mở tất cả các đĩa nuôi cấy cần thiết cho tuần tới trong tủ thao tác vô trùng để styrene được phóng thích không gây ô nhiễm phòng lab, lưu ý duy trì vô khuẩn trong thời gian quá trình thoát khí này vì vật che làm lộ ra các đĩa nuôi cấy có thể bị ô nhiễm.

Một trong những mục tiêu chính của hệ thống HVAC chuyên dụng là giảm VOC trong phòng lab; tuy nhiên, đôi khi, không khí "sạch" từ bên ngoài tòa nhà đột xuất cao bất thường mức VOC, khi đó để giảm tải VOC trong phòng lab bằng cách chuyển hệ

thống HVAC tuần hoàn 100% thay vì trộn không khí sạch với không khí tuần hoàn. Cẩn thận, điều này có thể có những hậu quả không mong muốn khác, ví dụ: về nhiệt độ, độ ẩm và tổn thất quá áp trong bộ IVF.

Giữ người hút thuốc (và động cơ đốt trong, bao gồm cả máy phát điện dự phòng) cách xa không khí với hệ thống HVAC của phòng lab IVF. Nhân viên phòng lab hút thuốc có thể đưa vào phôi các chất độc từ quần áo, da của họ hoặc thậm chí từ phổi của họ, thông qua sự phơi nhiễm "khói thuốc phụ".

Ethanol chỉ nên được sử dụng làm sạch trong các trường hợp mà hơi của nó không thể hòa tan vào môi trường nuôi cấy. Ngoài ra, một số phòng lab sử dụng dung dịch sodium hypochloride (Chlorox) rất loãng, hoặc đơn giản là hydrogen peroxide. Nhiều phòng lab sử dụng nước để làm sạch, những người khác sử dụng hydro peroxide. Phải cẩn thận khi sử dụng các sản phẩm làm sạch để đảm bảo chúng không có độc tính cho noãn hoặc phôi. Chất tẩy rửa tế bào chết, dung môi trong bút nỉ để viết trên vật chứa trữ đông, xi đánh giày, keo xịt tóc, nước hoa hoặc chất khử mùi phải được xem xét đồng thời lợi ích được cân nhắc đối với độc tính và phơi nhiễm.

Hai loại hệ thống có thể giúp giảm VOC trong phòng lab: hệ thống HVAC và máy lọc trong phòng. Mặc dù hệ thống lọc VOC dựa trên HVAC là được thiết kế để loại bỏ hầu hết VOC trong không khí phòng lab, bộ lọc trong phòng bị giới hạn bởi khả năng của chúng, do đó không có khả năng cung cấp cùng mức độ loại bỏ VOC như HVAC được thiết kế tốt ở các đơn vị.

Hệ thống HVAC hoàn chỉnh có thể điều chỉnh nhiệt độ (sưởi ấm hoặc làm mát) và độ ẩm, cũng như làm sạch không khí. Để làm sạch không khí, hệ thống nên bao gồm các bộ lọc HEPA để loại bỏ các hạt (như vi khuẩn, bào tử mốc) và công nghệ giảm VOC đi qua chúng. Hai công nghệ phổ biến nhất để loại bỏ VOC hiệu quả là than hoạt tính với kali permanganate và quá trình oxy hóa xúc tác quang tử cực tím. Hai hệ thống khi được thiết kế đúng cách sẽ cung cấp đủ công suất để loại bỏ VOC trong hệ thống HVAC. Kích thước và loại bộ lọc nên được thiết kế cho khối lượng không khí của phòng lab cung cấp đủ tỷ lệ số lượng công việc và thời gian

Page 5: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

66 Y HỌC SINH SẢN 51

tiếp xúc với bộ lọc carbon, hệ thống HVAC phải được duy trì để đảm bảo tỷ lệ số lượng không khí đủ và khả năng lọc đủ (bằng cách thay đổi bộ lọc theo lịch). Tăng độ thẩm thấu để duy trì độ ẩm sao cho nó đủ cao để giảm độ khô của môi trường nuôi cấy và đủ thấp để ngăn chặn điều kiện thúc đẩy sự phát triển tràn lan của vi khuẩn cùng nấm mốc trong hệ thống HVAC. Đối với các hệ thống sử dụng than hoạt tính, kali permanganate làm giảm mức độ của các thuốc thử oxy hóa/giảm mà cũng có thể gây ra vấn đề cho nuôi cấy phôi.

Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng thiết bị lọc di động hoặc trong phòng lab sẽ thực hiện tương tự nhiệm vụ giảm VOC nhưng không thể điều chỉnh nhiệt độ không khí hoặc độ ẩm. Lưu ý rằng chỉ các đơn vị có lọc cacbon hoặc quá trình oxy hóa quang xúc tác tia cực tím sẽ giảm VOC; lọc HEPA không được thiết kế cho khả năng giảm VOC.

Giảm VOC trong tu nuôi cấyNguồn khí muaCác loại khí CO2, O2 và N2 được mua trong các

xi lanh có sẵn các mức độ tinh khiết khác nhau để cung cấp cho các tủ cấy có thể bị nhiễm VOC. Người dùng nên thảo luận về các nhu cầu cụ thể của phòng lab IVF với công ty cung ứng và nhấn mạnh cung cấp khí sử dụng độc quyền nên đảm bảo chúng phải tương đối sạch khi được đổ đầy khí và không được sử dụng cùng một bình trụ cho axetylene trước khi nó chứa đầy carbon dioxide. Phòng lab IVF muốn mua khí có tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt hơn nhiều để đảm bảo rằng mức độ chất độc ít hơn một số mức được chỉ định.

Bộ lọc nội dòngLưu lượng khí từ các bể chứa thông qua các bộ

lọc nội dòng có thể giảm thiểu mức VOC đến tủ nuôi cấy. Một số bộ lọc nội dòng chỉ chứa carbon làm vật liệu lọc hấp thụ VOC, các loại khác chứa cả carbon và kali permanganate để giảm VOC cũng như chất khử oxi hóa.

Kiểu tủ nuôi cấyLoại tủ nuôi cấy có thể ảnh hưởng đến tính

nhạy cảm của nó đối với các nguồn khác nhau của VOC. Tủ nuôi cấy 'bigbox' truyền thống chỉ là khí CO2 hay khí trơ để giảm O2. Ngược lại, tủ nuôi cấy

bench-top hiện đại hoạt động bằng cách xả buồng tủ cấy bằng khí được cung cấp trong xi lanh, hoặc được trộn sẵn trong bình khí hoặc trong tủ cấy.

Bộ lọc tuần hoàn trong tủ nuôi cấyTuần hoàn khí của buồng tủ nuôi cấy bigbox

truyền thống thông qua hệ thống lọc carbon sẽ giảm VOC bên trong tủ cấy. Tủ nuôi cấy time–lapse và bench–top trộn khí luân chuyển khí hỗn hợp liên tục thường bao gồm một bộ lọc carbon nội dòng khác.

Giảm VOC trong các môi trường nuôi cấyRất khó để loại bỏ VOC trong môi trường nuôi

cấy, nhưng có thể làm giảm sự tập trung của chúng. Độ hòa tan tương đối trong dầu của một hợp chất được mô tả bởi hệ số phân chia dầu – nước của nó. Các hợp chất với hệ số phân vùng cao là kỵ nước và nồng độ cao hơn nhiều trong pha dầu so với trong pha nước ở trạng thái cân bằng.

Sử dụng lớp phủ dầu như một rào cản tuyệt đối. Lớp phủ dầu giảm thiểu độc tính VOC trong môi trường nuôi cấy bằng một hiệu ứng phân vùng. Tỷ lệ VOC hòa tan vào pha dầu phụ thuộc vào diện tích bề mặt tiếp xúc.

Các điểm đồng thuậnNhiều khía cạnh của thiết kế phòng sạch trong

IVF nên được sử dụng trong xây dựng vì yêu cầu rất khác với các loại phòng sạch cao cấp khác. Ví dụ, trong khi mức hạt vật chất trong không khí tương đương với các mức độ trong ISO Phòng sạch loại 6 / GMP cấp độ B – C, số ACH cần thiết cho các phòng sạch cao cấp như vậy là quá nhiều cho những ứng dụng IVF vì nó có thể làm hạ nhiệt độ giao tử và phôi quá mức, do đó, ảnh hưởng bất lợi nghiêm trọng đến phát triển phôi cũng như kết quả lâm sàng. Cấp độ D theo EUTCD < 3.500.000 hạt/m³ “trạng thái tĩnh”, với mức < 200 cfu/m³ cho vi khuẩn được xem là không đủ khi đánh giá tất cả các rủi ro kèm theo khi tạo ra các thế hệ tương lai của con người. ISO Class 7/GMP độ B “trạng thái động”/cấp độ C “trạng thái tĩnh” được coi là mục tiêu, dễ dàng đạt được nếu bộ lọc HEPA được cài đặt với đủ ACH (10 – 15/h) hoặc sử dụng đơn vị lọc khí di động (mặc dù không thể tạo ra áp lực dương trong phòng lab).

Page 6: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

67Y HỌC SINH SẢN 51

Các thủ thuật như chọc hút trứng, chuyển phôi và chọc hút tinh trùng qua da thực hiện trong quy trình IVF cần được phân biệt với các phẫu thuật xâm lấn vì các thủ thuật này sẽ phải chịu sự điều chỉnh và cấp phép riêng. Còn ngược lại, nếu sử dụng cho phẫu thuật xâm lấn, hệ thống HVAC nên được tách ra để bộ ART không yêu cầu các tiêu chuẩn chất lượng không khí không cần thiết.

Đánh giá tính phù hợp vi tríChú ý vị trí tòa nhà mà phòng lab IVF được xây

dựng bên trong, xác định được nguồn ô nhiễm hạt chất và hóa chất có thể xảy ra để giảm thiểu các chất gây ô nhiễm môi trường phòng lab bằng cách xem xét cụ thể VOC thay vì đo tổng VOC. Thảo luận với cơ quan môi trường địa phương về dữ liệu PM5 và PM10 khi nồng độ các hạt vật chất lên đến đường kính tương ứng 5 µm và 10 µm.

Thiết kế cơ bản (xây dựng mới)Những điểm đồng thuận này nên coi là điểm

chuẩn nguyện vọng cho phòng lab ART hiện có và là định hướng xây dựng phòng lab ART mới như cung cấp không khí lọc HEPA có chất lượng ít nhất bằng với chất lượng hoạt động phòng.

Chất lượng không khí – Các hạt vật chất: Ít hơn 352.000 hạt lớn hơn 0,5

mm đến 10 µm trên mỗi m³. – Vi sinh vật: Ít hơn 10 cfu/m3 và ít hơn hai bào

tử/m³ “trạng thái tĩnh”. – VOC: Tổng VOC dưới 500 µg/m³ (~ 400 – 800

ppb tổng VOC, tùy thuộc loại phân tử); ít hơn 5 µg /m³ aldehyde.

– Thay đổi không khí: 15 thay đổi không khí/giờ, gồm 3 thay đổi không khí sạch/giờ, tức 20% không khí bên ngoài. Khi thiết lập tỷ lệ không khí sạch tuần hoàn nên xem xét hướng dẫn của nhà sản xuất về cách lọc và kiểu bộ lọc liên quan đến ACH.

– Áp suất quá cao: Mục tiêu lý tưởng là +38 đến +50 Pa trong phòng lab IVF (đề nghị tối thiểu +30 Pa). Điều này có thể đạt được thông qua một tầng cao áp đi qua một số phòng để tránh chênh lệch áp suất quá lớn giữa các phòng liền kề ngay lập tức.

– Nhiệt độ: Nhiệt độ của bộ ART nên chịu điều phối của hệ thống HVAC. Hiệu suất tổng nhiệt

lượng của thiết bị thí nghiệm và nhân viên cần được xem xét. Ổn định và duy trì nhiệt độ làm việc trong phạm vi thoải mái cho nhân viên, thường là khoảng 20 – 24°C (tùy vào khu vực). Giữ nhiệt độ trong phạm vi hẹp tạo điều kiện hiệu chuẩn thiết bị và vận hành.

– Độ ẩm: Độ ẩm tương đối nên từ 40% đến 45%. Mức cao hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng tế bào mốc. Chuẩn thấp hơn thì không thoải mái cũng như không lành mạnh cho con người, gây ra mức độ bay hơi cao trong quá trình chuẩn bị đĩa cấy, ảnh hưởng đến độ thẩm thấu của môi trường nuôi cấy và có hại cho phôi.

Chuẩn thiết kế và xây dựng chung – AHU phải được chuyên dụng việc cung cấp cho

bộ ART để tránh ô nhiễm tuần hoàn không khí phòng sạch với các không gian lân cận. Hệ thống HVAC phải chạy liên tục. Ở mức tối thiểu, các quạt HVAC nên đặt trên máy phát điện dự phòng và phải cân nhắc duy trì kiểm soát nhiệt độ thích hợp. Lượng không khí sạch phải được đặt xa những nguồn khói độc hại không rõ ràng, và khí vào được lọc thích hợp để tối ưu hóa tuổi thọ chức năng của các hệ thống lọc.

– Phòng lab ART có các yêu cầu khác nhau so với các cơ sở y tế và phòng lab khác, cụ thể là độ cực kỳ nhạy cảm của phôi đối với VOC, đặc biệt là aldehyde. AHU và ống dẫn phải được làm sạch kỹ lưỡng để loại bỏ bất kỳ sự xử lý phòng chống ăn mòn nào trước khi lắp ráp, sử dụng isopropanol hoặc ethanol (lớp USP hoặc tương đương). Hệ thống ống dẫn phải được làm sạch và đóng kín rồi lắp ráp tại chỗ theo từng bước. Tất cả mối nối ống dẫn phải được hàn kín.

– Nhà thầu nên được đào tạo về những yêu cầu bất thường của bộ IVF so với các cơ sở y tế và phòng lab khác như hệ thống cần thiết kế với không khí tuần hoàn cao được làm sạch để loại bỏ VOC khi giảm chi phí năng lượng về làm ấm và làm mát.

Hàn kínLàm kín phòng lab IVF nên được nhấn mạnh.

Vật liệu sử dụng trong xây dựng được chỉ định trong thiết kế, khách hàng nên kiểm tra thường xuyên công trường mỗi ngày.

Bộ lọc permanganate carbon/kali hoạt tínhChất hoạt hóa hay bộ lọc kali permanganate nên

Page 7: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

68 Y HỌC SINH SẢN 51

được bao gồm trong hệ thống HVAC, xuôi dòng chuyển động không khí nhưng trước bộ lọc HEPA. Thời gian đặt trong bộ lọc này phải là 0,2 – 0,35 giây.

Làm ấm và làm mát không khí sạchSự cung cấp đầy đủ phải được thực hiện để làm

ấm và làm mát không khí sạch theo yêu cầu khí hậu địa phương.

Cô lập không khí bên ngoàiHệ thống HVAC nên có khả năng cô lập hoàn

toàn không khí từ bên ngoài trong trường hợp khẩn cấp, ví dụ: đảo ngược nhiệt độ khắc nghiệt, cháy rừng, ngày ozone cao, công trình xây dựng địa phương tạo ra mức VOC cao. Áp lực quá mức sẽ bị mất do thiếu làm mới không khí sạch khi chạy trong chế độ ‘‘ngầm’’ còn hơn là làm hư hại hệ thống lọc hoặc cho phép không khí bên ngoài có độc tính cao vào phòng lab ART.

Lỗ thông hơi cung cấp không khí và ống dẫn trở lạiLỗ thông hơi nên được đặt trên trần nhà và

ống dẫn trở lại phải được đi từ mức gần sàn. Tính toán đến khả thi của những dự thảo về lỗ thông hơi không khí đi vào ảnh hưởng đến hoạt động của một số thiết bị.

Bộ lọc HEPAPhải được đặt ở giữa, để thuận tiện cho lối đi đến

nhiều khu vực trong bộ ART khi thay đổi chúng.Chất lượng không khíĐể đạt được chất lượng không khí tối ưu, hệ

thống nên được tái lưu thông với đặc thù chỉ có 20% không khí sạch để tạo ra sự điều áp quá mức một cách cần thiết.

Cảm biến áp suấtPhải có cảm biến áp suất và hiển thị áp suất

chênh lệch được cài đặt ở mỗi bên mỗi cửa ra vào và giữa các khu vực trong không gian phòng sạch của bộ ART.

Làm kín phòngĐạt được và duy trì hiệu quả quá áp trong phòng

lab phôi nghĩa là bộ phòng sạch phải được xây dựng với cơ hội tối thiểu để thoát không khí.

Sàn - sànCác bức tường bên ngoài của phòng sạch phải đi

từ sàn bê tông mặt dưới lên sàn bên tông của tầng trên (thường được mô tả là ‘‘sàn – sàn”) và tất cả các

lổ hở phải được bịt kín hoàn toàn.Trần nhàBao gồm vật liệu liền kề, chắc chắn, ví dụ: tấm

vữa, ván thạch cao, Gyprock, Sheetrock, không lát gạch, và nhu cầu cho ván bịt (có đệm silicon, kín khí) ở trên cửa ra vào được giảm thiểu.

Phụ kiện ánh sángPhải kín khí, được thiết kế cho các phòng sạch,

vì vậy không có rò rỉ không khí từ khoảng trống trên trần nhà. Các phụ kiện ánh sáng có thể được gắn trên bề mặt với điều kiện là dây cáp nối được bịt kín, không có vành ngang hoặc mép nơi bụi bẩn có thể tích tụ.

Cáp dẫn điện, khí và dữ liệuPhải được bịt kín khi chúng vào hoặc rời khỏi

phòng sạch để ngăn chặn tổn thất không khí qua chúng (bao gồm cả công tắc đèn); trong bộ, sử dụng vỏ bọc cáp thép “Dado” gắn vào tường để phân phối điện, dữ liệu và dòng khí.

CửaCửa ra vào phải được lắp chặt với đáy “quét” và

bịt kín chu vi cửa (trên và cạnh). Các ô kính nhìn thấu phải được gắn kết bằng miếng đệm để làm cho chúng kín khí.

Lối vận chuyểnPhải được kín khí để bảo tồn chênh lệch áp suất

không khí trong phòng.Vật liệu xây dựngCác khía cạnh sau đây phải được công nhận khi

lựa chọn vật liệu được sử dụng trong xây dựng một bộ ART, bao gồm các phòng lab trị liệu và có thể là phòng thủ thuật.

– Tường: Vật liệu thích hợp cho tường là các tấm mô-đun phòng sạch với những bề mặt đệm kim loại được sơn tĩnh điện, hoặc tấm thạch cao được phủ bằng sơn VOC zero.

– Sàn nhà: Tấm vinyl với các khớp kín không thấm nước được dùng cho sàn nhà. Nên sử dụng lớp phủ sàn không dễ vỡ (như tấm thép không gỉ) ở khu vực có khối lượng lớn nitơ lỏng được sử dụng.

– Mặt bàn: Vật liệu không xốp để không giải phóng VOC nên được sử dụng cho các mặt bàn. Vật liệu phù hợp bao gồm epoxy, Corian và Trespa.

– Trần: Các lối ra vào phải được giữ kín ở mức tối thiểu tuyệt đối và phải được đệm và bịt kín tại giao

Page 8: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

69Y HỌC SINH SẢN 51

diện của trần nhà và khung cửa ra vào. – Cửa sổ: Cửa sổ tốt hơn là thủy tinh, nhỏ và có

đệm, chủ yếu được gắn trong cửa ra vào. Cửa sổ ngoài trời nên có bộ lọc quang phổ để loại trừ bước sóng cực tím. Việc duy trì bịt kín hiệu quả cho các cửa sổ quan sát phòng lab nên được cân nhắc.

– Tủ: Tủ phải là kim loại được phủ sơn tĩnh điện kim loại hoặc thép không gỉ.

– Sản phẩm gỗ: Sản phẩm gỗ được sản xuất như MDF, Formica, linoleum hoặc sơn dầu không được khuyến nghị vì chúng đều được chứng minh là gây độc phôi.

– Hệ thống nước• Các phương tiện rửa tay: Bồn rửa tay thường

được đặt ở tiền sảnh thay vì trong phòng lab. Ống thải của chúng yêu cầu đặt ống chữ U.

• Hóa chất độc hại và ăn mòn: Hóa chất độc hại và ăn mòn không nên được sử dụng trong các phòng lab IVF, vì vậy không cần lắp đặt các vòi hoa sen. Trường hợp những nơi được yêu cầu các mã xây dựng địa phương, bạn nên cẩn thận tránh ống thải chữ U khỏi bị khô.

Hệ thống chữa cháyNếu hệ thống chữa cháy tức là vòi phun nước

được lắp đặt trong phòng lab cần được bảo vệ khỏi kích hoạt tình cờ từ bên ngoài phòng.

Bật lửaNếu một hệ thống phòng lab bao gồm bật lửa,

đánh giá rủi ro về khả năng hoặc nguy cơ cháy và tiếp xúc với các sản phẩm đốt phải được thực hiện.

Hệ thống nướcHệ thống ống nước không cần thiết trong không

gian khoảng trống trần nhà vì nó đại diện cho một nguồn lũ lụt và ô nhiễm tiềm ẩn. Hệ thống ống nước thường được phát hiện trong quá trình cải tiến một tòa nhà hiện có và phải chuyển hướng khoảng trống ra bên ngoài bộ ART.

VẬN HÀNH PHÒNG LAB VÀ QUẢN LÝ VOC LIÊN TỤC“Đốt trong”Một phòng lab mới được xây dựng hoặc cải tiến

nên được cung cấp đủ thời gian (tối thiểu 2 – 3 tuần trong tiến độ thi công phụ thuộc vào vị trí và vật liệu được sử dụng) để loại bỏ khí thải vật liệu xây dựng.

Xác minh bằng thử nghiệm VOC cụ thể để cung cấp so sánh với đường cơ sở trong khi đó xét nghiệm chức năng sống tinh trùng người không đủ cho mục đích này.

“Làm sạch sâu”Một phòng lab mới được xây dựng hoặc cải tiến

phải được làm sạch chuyên sâu trước khi xác nhận sử dụng trong lâm sàng. Làm sạch mọi bề mặt gồm các góc khó tiếp cận, bên trong tủ và ngăn kéo, tất cả thiết bị với sản phẩm có khả năng loại bỏ chất gây ô nhiễm dự kiến, sau đó làm sạch một lần nữa để đảm bảo không còn dấu vết của các tác nhân làm sạch.

Dich vụMột hệ thống phòng sạch HVAC phải được bảo

dưỡng hàng năm, hoặc thường xuyên hơn nếu hiệu suất không đáp ứng được kỳ vọng. Nguyên tắc đảm bảo hiệu suất được liên tục theo thông số kỹ thuật với mục đích thích hợp có thể dựa trên tiêu chuẩn ISO 14644. Bộ lọc hạt tấm xếp ly điển hình có thể được thay đổi trong 90 ngày. Bộ lọc HEPA thường kéo dài 2 – 4 năm và chênh lệch áp suất giữa các bộ lọc này nên theo dõi bằng đồng hồ đo áp suất (Magnahelix). Việc thiết lập thay các bộ lọc hóa học trong khoảng thời gian cố định là không tối ưu vì chúng có thể bị cạn kiệt nhanh chóng dưới điều kiện sử dụng quá nhiều dung môi, cháy nổ và các hoạt động xây dựng. Xây dựng lịch sử về mức tiêu thụ của cơ sở lọc hóa chất sẽ tạo ra một lịch trình hợp lý cho những thay đổi.

Kiểm soát nhiêm khuẩnBiện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn trong sử dụng

thường quy cho các ứng dụng khác trong bệnh viện có thể không phù hợp và thậm chí có thể gây bất lợi với phôi thai. Sản phẩm kiểm soát nhiễm khuẩn như chất khử trùng tay phải được đánh giá trước khi đưa vào bộ IVF.

Máy khử trùng lạnh dựa trên aldehydeKhông được sử dụng trong bộ IVF vì hơi nước

là chất độc phôi. Các chất tẩy rửa bằng chlorine dioxide không thích hợp để làm sạch phòng lab IVF trong suốt hoạt động làm sạch lâm sàng. Làm

Page 9: ĐỒNG THUẬN CAIRO VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ CHẤT LƯỢNG KHÔNG KHÍ …

70 Y HỌC SINH SẢN 51

sạch với 6% H2O2 được khuyến khích như một sự thay thế làm sạch với 70% ethanol hoặc isopropyl alcohol (methanol không được khuyến cáo do độc tính đối với con người). Rượu chỉ biến tính hoặc “sửa” protein tại chỗ. Một số chất làm sạch thay thế không chứa cồn cũng có sẵn trên thị trường như sản phẩm bao hàm hợp chất amoni bậc bốn được coi là an toàn và có khả năng thay thế tất cả những điều trên. Tuyệt đối không để phơi nhiễm phôi đến chất khử trùng hoặc dư lượng của nó.

Dụng cụ nhựaNhựa dẻo thoát khí VOC. Polystyrene phóng

thích styrene không polyme hóa, có khả năng gây độc phôi cao. Tất cả nhựa môi trường nên được thải khí độc bên ngoài phòng lab nếu có thể (để duy trì sự sạch sẽ và vô khuẩn của sản phẩm). Thời gian cần thiết của việc thoát khí vẫn chưa được biết, các nhà sản xuất nên sử dụng đóng gói thoáng khí để hỗ trợ thoát khí.

Vật liệu đóng góiVật liệu đóng gói đã tiếp xúc với môi trường

ngoài trời không được nhập bộ ART. Bao bì các tông là một nguồn của sợi, hạt, bụi bẩn, bào tử nấm… Bìa cứng trong, bao bì giấy và tất cả các giấy khác vào bộ ART cũng nên được giảm thiểu.

Sản phẩm làm sạch và mỹ phẩmTránh sử dụng các sản phẩm làm sạch, làm mát

không khí, mỹ phẩm, sản phẩm chải chuốt như nước hoa, thuốc cạo râu và sơn móng tay giải phóng VOC. Bao gồm các sản phẩm rửa tay, khử trùng tay và nước rửa tay.

Môi trường không có nước hoaNếu phòng thủ thuật lâm sàng là một phần của bộ

ART thì bệnh nhân không được sử dụng bất kỳ sản phẩm chăm sóc da, mỹ phẩm hoặc chải chuốt nào.

“Khói thuốc phụ”Khuyến cáo rằng các bước cần thiết được thực

hiện để ngăn chặn các chất gây ô nhiễm khói thuốc phụ vào phòng lab IVF hoặc bộ ART vì tác động có

hại của khói thuốc phụ đến từ tóc và quần áo của người đã hút hoặc tiếp xúc với người hút thuốc.

Kỹ sư máy móc là nguồn cua VOCChính kỹ sư máy móc cũng là nguồn tiềm tàng

quan trọng của VOC và các chất gây ô nhiễm khác. Điều này nên được lưu ý khi thực hiện đánh giá rủi ro.

Đồng phục lab và thiết biĐồng phục lab và các thiết bị bảo hộ cá nhân

như mũ chụp tóc và bọc giày được chọn như mỗi chính sách cơ sở nên là ngăn rụng, chống tĩnh điện và ổn định màu theo các điều kiện được sử dụng cho rửa, sấy và khử trùng.

Chất tẩy rửaChất tẩy rửa được sử dụng để làm sạch không

nên giải phóng VOC.

Máy photocopy và thiết bi in ấnKhông nên sử dụng máy photocopy, máy in laser

(hoặc máy in phun) trong bộ IVF khi chúng phát ra hóa chất không mong muốn như ozone, dung môi và các hạt có chứa bụi mực. Đặt chúng trong tủ kín dưới áp suất âm liên tục có thể là một giải pháp, mặc dù điều này sẽ khó quản lý mà không ảnh hưởng đến nguồn cung cấp không khí trong phòng sạch.

Máy tínhTối thiểu số máy tính được sử dụng trong bộ

ART và nên tắt khi không sử dụng vì chúng phát ra VOC và formaldehyde trong phạm vi microgram với mức tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng. Máy tính mới được loại bỏ chất gây độc bằng cách chạy chúng trong 10 ngày ngoài bộ ART. Máy tính nguồn cấp thấp hơn như máy tính xách tay, tạo ra ít VOC hơn, trong khi máy tính bảng và điện thoại thông minh giới hạn số lượng VOC và aldehyde. Mỗi phòng lab nên thực hiện đánh giá rủi ro liên quan đến việc sử dụng thiết bị máy tính trong phòng thí nghiệm phòng sạch.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Cairo consensus on the IVF laboratory environment and air quality: report of an

expert meeting - Reproductive BioMedicine Online