28
Khảo sát và nghiên cứu truyn thuyết dân gian xNghNguyn ThThanh Lưu Trường Đại hc Khoa học Xã hội và Nhân văn Luận án TS. ngành: Văn học dân gian; Mã số: 62 22 36 01 Người hướng dn: GS.TS. Lê Chí Quế Năm bảo v: 2012 Abstract. Tng quan vtruyn thuyết dân gian xứ Nghệ. Nghiên cứu truyn thuyết dân gian xứ Nghnhìn từ đặc trưng thể loại: không gian trong truyền thuyết dân gian xNgh; thi gian trong truyn thuyết dân gian xứ Ngh; cấu trúc truyền thuyết với các dạng môtit tiêu biểu; nhân vật truyn thuyết. Tìm hiểu truyn thuyết dân gian xứ Nghtrong không gian văn hóa xứ Ngh: truyn thuyết dân gian xứ Nghtrong tương tác văn hóa vùng; truyn thuyết dân gian xứ Nghvi thần tích và lhi; truyn thuyết dân gian xứ Nghvới các di tích văn hóa vật th. Keywords. Văn học dân gian; Truyền thuyết dân gian; Xứ NghContent MĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1.Truyn thuyết dân gian là một thloi quan trọng trong kho tàng văn học dân gian Vit Nam. Scông nhận mun mn ca hc gii so với các thể loại khác là một trong nhng lí do khiến truyn thuyết trthành thể loại đáng được lưu tâm đặc bit. Vấn đề đặt ra cho khoa nghiên cứu văn học dân gian không chỉ là xác định một cách tổng quát về bn cht thloại, cơ chế hình thành và lưu truyền truyn thuyết mà còn là mô tả, phân tích tỉ mnhng truyn thuyết cthtrong sgắn bó với môi trường hoạt động của nó bởi truyn thuyết là thể loại đậm đặc tính vùng. Chính đặc trưng gắn cht với vùng văn hóa, với địa phương cụ thca truyn thuyết đã tự chia nhđối tượng này thành nhiều mng miếng khác nhau, khiến cho các nhà nghiên cứu khó lòng giải quyết thấu đáo và toàn diện. Nghiên cứu vtruyn thuyết dân gian trong thời điểm hin nay vẫn là một việc làm cần thiết. 1.2. Nghiên cứu văn học dân gian theo vùng đang là một hướng nghiên cứu có khả năng đem lại nhiều đóng góp mới mkhông trùng lặp với các công trình đi trước. Hướng nghiên cứu này một mt đáp ứng được yêu cầu cthhóa tối đa các mục tiêu nghiên cứu, mặt khác lại rất phù hợp với đối tượng nghiên cứu là truyền thuyết dân gian - một đối tượng đáng được lưu ý hiện nay. Chọn đề tài Khảo sát và nghiên cứu truyn thuyết dân gian xứ Nghchúng tôi hy vng scó được cái nhìn hệ thng vtruyn thuyết dân gian xứ Nghtrong tương quan với kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung và góp thêm phần nào đó trong việc làm đầy đặn hơn, sáng rõ hơn diện mo ca truyn thuyết xNghthông qua vic bsung thêm một struyn thuyết dân gian mà chúng tôi sưu tầm được trong quá trình thực hin luận án của mình.

Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ Nghệvannghiep.vn/wp-content/uploads/2016/02/truyen-thuyet-dan-gian-xu-nghe.pdfdân gian xứ Nghệ trong không gian

  • Upload
    others

  • View
    16

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian

xứ Nghệ

Nguyễn Thị Thanh Lưu

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Luận án TS. ngành: Văn học dân gian; Mã số: 62 22 36 01

Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Chí Quế

Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Tổng quan về truyền thuyết dân gian xứ Nghệ. Nghiên cứu truyền thuyết

dân gian xứ Nghệ nhìn từ đặc trưng thể loại: không gian trong truyền thuyết dân

gian xứ Nghệ; thời gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ; cấu trúc truyền

thuyết với các dạng môtit tiêu biểu; nhân vật truyền thuyết. Tìm hiểu truyền thuyết

dân gian xứ Nghệ trong không gian văn hóa xứ Nghệ: truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ trong tương tác văn hóa vùng; truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với thần tích và

lễ hội; truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với các di tích văn hóa vật thể.

Keywords. Văn học dân gian; Truyền thuyết dân gian; Xứ Nghệ

Content

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1.Truyền thuyết dân gian là một thể loại quan trọng trong kho tàng văn học dân gian

Việt Nam. Sự công nhận muộn mằn của học giới so với các thể loại khác là một trong những

lí do khiến truyền thuyết trở thành thể loại đáng được lưu tâm đặc biệt. Vấn đề đặt ra cho

khoa nghiên cứu văn học dân gian không chỉ là xác định một cách tổng quát về bản chất thể

loại, cơ chế hình thành và lưu truyền truyền thuyết mà còn là mô tả, phân tích tỉ mỉ những

truyền thuyết cụ thể trong sự gắn bó với môi trường hoạt động của nó bởi truyền thuyết là thể

loại đậm đặc tính vùng. Chính đặc trưng gắn chặt với vùng văn hóa, với địa phương cụ thể

của truyền thuyết đã tự chia nhỏ đối tượng này thành nhiều mảng miếng khác nhau, khiến cho

các nhà nghiên cứu khó lòng giải quyết thấu đáo và toàn diện. Nghiên cứu về truyền thuyết

dân gian trong thời điểm hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết.

1.2. Nghiên cứu văn học dân gian theo vùng đang là một hướng nghiên cứu có khả

năng đem lại nhiều đóng góp mới mẻ không trùng lặp với các công trình đi trước. Hướng

nghiên cứu này một mặt đáp ứng được yêu cầu cụ thể hóa tối đa các mục tiêu nghiên cứu,

mặt khác lại rất phù hợp với đối tượng nghiên cứu là truyền thuyết dân gian - một đối tượng

đáng được lưu ý hiện nay. Chọn đề tài Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ chúng tôi hy vọng sẽ có được cái nhìn hệ thống về truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

trong tương quan với kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung và góp thêm phần

nào đó trong việc làm đầy đặn hơn, sáng rõ hơn diện mạo của truyền thuyết xứ Nghệ thông

qua việc bổ sung thêm một số truyền thuyết dân gian mà chúng tôi sưu tầm được trong quá

trình thực hiện luận án của mình.

1.3. Xứ Nghệ là một tiểu vùng văn hóa đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa

Việt Nam với những cá tính văn hóa độc đáo hình thành nên từ khí chất đặc trưng của sông

núi, con người xứ sở này. Tuy đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau song xứ Nghệ

với sự dày dặn của văn hóa dân gian vẫn tiếp tục tạo ra hấp lực đối với các nhà nghiên cứu

bằng những nét khuyết hao, mờ nhạt chưa được tô vẽ lại của bức tranh văn hóa vùng đặc sắc.

Đó chính là lý do khiến chúng tôi chọn xứ Nghệ để nghiên cứu trong khuôn khổ thể loại

truyền thuyết.

2. Đối tƣợng và phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:

2.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu cơ bản của chúng tôi trong luận án này là truyền thuyết dân

gian Nghệ An và Hà Tĩnh dưới các dạng: bản kể đã được sưu tầm và xuất bản nằm trong các

thư tịch (văn học trung đại và thần tích, thần phả) cũng như trong các sách sưu tầm thời hiện

đại, bản kể mới được sưu tầm qua quá trình điền dã do chúng tôi tự thực hiện.

2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyền thuyết trong giới hạn

không gian văn hóa vùng Nghệ Tĩnh cho nên có thể coi giới hạn không gian văn hóa ấy là

đường biên xác định phạm vi nghiên cứu.

2.3. Phạm vi tư liệu khảo sát

Với mong muốn nhìn đối tượng ở trạng thái phức tạp, bộn bề như nó vốn có, chúng

tôi mở rộng tối đa phạm vi tư liệu khảo sát. Trước hết, chúng tôi tìm kiếm truyền thuyết dân

gian xứ Nghệ trong các công trình tư liệu đã xuất bản. Bộ phận tư liệu này, ngoài các bộ sách

biên soạn sưu tầm chung tầm cỡ như bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do Nguyễn Đổng

Chi biên soạn, Tổng tập văn học dân gian người Việt do Kiều Thu Hoạch chủ biên còn có các

sách vở do địa phương xuất bản như: Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ (tập 1) do PGS.

Ninh Viết Giao sưu tầm; Văn học dân tộc thiểu số Nghệ An (Phan Đăng Nhật chủ biên), Từ

Cổ Loa đến Đền Cuông (Nguyễn Nghĩa Nguyên),… Thứ hai, để tiếp tục cập nhật và bổ sung

đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các tư liệu tự sưu tầm được tại các địa phương khác

nhau trên đất Nghệ An qua các chuyến điều tra điền dã thực hiện vào năm 2006, 2008, 2009.

Bộ phận tư liệu thứ ba mà chúng tôi khảo sát để tìm kiếm truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là

các truyện ký thuộc thể loại văn xuôi trung đại như: Lan Trì kiến văn lục; Vũ trung tùy bút …

Ngoài ra, các thần tích của xứ Nghệ đã được sưu tầm và xuất bản cũng là nguồn tài liệu

nghiên cứu của chúng tôi. Về bộ phận này, chúng tôi chủ yếu khảo sát qua cuốn Tục thờ thần

và thần tích Nghệ An (Ninh Viết Giao). Ngoài ra, để thực hiện các so sánh cần thiết trong

luận án, chúng tôi cũng sử dụng thêm một số công trình tư liệu về truyền thuyết dân gian các

vùng miền khác như: Truyền thuyết Lam Sơn (Nguyễn Sơn Anh); Văn học dân gian xứ Huế

(Vũ Nhị Xuyên)…

3. Lịch sử vấn đề

3.1. Vấn đề nghiên cứu bản chất thể loại của truyền thuyết

Truyền thuyết là thể loại có số phận khá đặc biệt trong đời sống văn học dân gian Việt

Nam bởi sự công nhận tương đối muộn của học giới và những luồng ý kiến trái chiều về sự

tồn tại của nó. Thuật ngữ truyền thuyết được Đào Duy Anh nêu ra lần đầu tiên trong bài viết

“Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta” (Tri Tân số 30 năm 1942), rồi được thực sự

công nhận vào những năm 50 của thế kỷ XX với một số công trình nghiên nhưng nó vẫn

chưa thể nào xác lập được một vị trí trong nền văn học dân gian Việt Nam bởi sự bất đồng

giữa các nhà nghiên cứu về mặt bản chất thể loại. Sự bất đồng ý kiến trong cách nhìn nhận

truyền thuyết của các học giả thể hiện rõ vào những năm 60 của thế kỷ XX, khi hai cuốn giáo

trình về Văn học dân gian của Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp công bố hai quan điểm

hoàn toàn trái ngược về thể loại truyền thuyết. Việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là

một thể loại được đặc biệt chú trọng và đã tạo ra những bước tiến mới trong những năm 70,

80, 90 của thế kỷ XX, với công trình Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến (Kiều

Thu Hoạch), Nghiên cứu tiến trình của văn học dân gian Việt Nam (Đỗ Bình Trị), giáo trình

Văn học dân gian Việt Nam (Lê Chí Quế chủ biên), cuốn sách Mối quan hệ giữa truyền

thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng (Lê Văn Kỳ). Lịch sử nghiên cứu bản chất thể

loại truyền thuyết tiếp tục thu được thành tựu vào năm 2000, khi tác giả Trần Thị An bảo vệ

xuất sắc luận án tiến sĩ mang tên Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết. Trong

thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, các nghiên cứu về truyền thuyết xuất hiện rải rác dưới

dạng các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành hoặc các luận văn, luận án với

cách tiếp cận từ một cốt truyện, một chủ đề cụ thể hay một vùng truyền thuyết cụ thể. Có thể

kể đến luận án tiến sĩ Khảo sát truyện kể dân gian Khơme Nam Bộ (qua thần thoại, truyền

thuyết, truyện cổ tích) (Phạm Tiết Khánh) bảo vệ năm 2007; bài viết của tác giả Trần Thị An

“Sự hình thành truyền thuyết dân gian - Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị thánh

nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)” (Kỷ yếu Hội thảo

quốc tế Việt Nam học lần thứ ba năm 2008); luận án tiến sĩ Truyền thuyết dân gian về những

cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918) (Võ Phúc Châu) bảo vệ năm 2010.

Ngoài ra, việc sưu tầm truyền thuyết dân gian cũng dần dần thu được nhiều thành tựu.

Trong các tuyển tập truyện dân gian ở các địa phương, một phần không thể thiếu là bộ phận

truyền thuyết dân gian. Gần đây nhất, hai tậpTruyền thuyết dân gian người Việt (Kiều Thu

Hoạch chủ biên) đã sưu tập được một khối lượng lớn các truyền thuyết dân gian ở địa phương

cũng như các truyền thuyết dân gian được ghi chép vào kho tàng văn xuôi trung đại và kho

thần tích.

3.2. Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian vùng Nghệ Tĩnh

Hướng nghiên cứu văn học dân gian theo vùng văn hóa đang trở thành một hướng

nghiên cứu mang lại nhiều kết quả, có ý nghĩa thực tiễn cao và đã được không ít nhà nghiên

cứu theo đuổi. Năm 1978, tác giả Hoàng Tiến Tựu trong bài viết “Về phân vùng văn học dân

gian và ý nghĩa phương pháp luận của nó” (Dân tộc học số 2) đã đề cập trực tiếp đến vấn đề

này. Trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hướng nghiên cứu này tiếp tục được học giới quan tâm,

thể hiện qua các cuộc hội nghị, hội thảo khoa học như: Hội nghị văn học dân gian miền

Trung lần thứ nhất được tổ chức tại Đà Nẵng (1981); Hội thảo khoa học về phân vùng văn

hóa do Viện Văn hóa tổ chức. Trong các hội nghị khoa học đó, có không ít bài viết về vùng

văn hóa dân gian xứ Nghệ. Thập kỷ 80 cũng đánh dấu sự hoàn thành bản thảo cuốn Địa chí

văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh (1984) do Nguyễn Đổng Chi cùng với các nhà nghiên cứu khác

(Ninh Viết Giao, Vũ Ngọc Khánh) biên soạn. Trong cuốn sách này, ở phần Truyện kể dân

gian do nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao viết, lần đầu tiên, truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

được sơ lược tìm hiểu. Tuy nhiên, ngay cả khi đã có ý thức phân loại các thể loại văn học dân

gian của xứ Nghệ (với các tiểu mục riêng cho từng thể loại), Ninh Viết Giao vẫn chỉ dành

một tiểu mục chung cho hai thể loại cổ tích và truyền thuyết. Thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đáng

lưu ý nhất là sự ra đời bộ sách Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ (1993) gồm bốn tập - là

bộ sách sưu tầm có quy mô và hệ thống đầu tiên về truyện kể dân gian xứ Nghệ. Đây là cơ sở

tư liệu quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu luận án này. Ngoài ra, hội thảo Văn hóa

truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất

nước do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam1 và

Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An phối hợp tổ chức năm 1994 cũng đã quy tụ được khá nhiều

bài viết về văn hóa dân gian xứ Nghệ. Ở thế kỷ XXI, truyền thuyết xứ Nghệ lần đầu tiên được

đứng riêng một tiểu mục trong cuốn Về văn học dân gian xứ Nghệ (2004) của Ninh Viết

Giao. Bàn về truyền thuyết xứ Nghệ trong phần này, tác giả chủ yếu liệt kê những truyền

thuyết trên đất Nghệ qua quá trình lịch sử chứ chưa đi đến những nhận định chung hơn về

tính chất, đặc điểm… của thể loại này trong không gian văn hóa xứ Nghệ. Dù vậy, đây vẫn là

một trong những tiền đề quan trọng để chúng tôi nghiên cứu đề tài này.

1 Nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa

Trong lĩnh vực văn học dân gian, xu hướng nghiên cứu theo vùng đã cho ra đời nhiều

công trình có giá trị phục hồi vốn cổ ở các địa phương cụ thể. Riêng văn hóa dân gian xứ

Nghệ - một miền đất hứa từng được đề cập một cách khái lược trong các cuốn sách địa chí

xưa (như: Nghệ An ký, An Tĩnh cổ lục,…) thì mới chỉ có những bài viết lẻ tẻ khai thác. Mảng

thể loại truyền thuyết trong giới hạn văn hóa vùng xứ Nghệ thể hiện sự trống vắng trên cả hai

phương diện: phương diện tư liệu lẫn phương diện nghiên cứu. Đây là một khó khăn đối với

chúng tôi. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước về truyền

thuyết dân gian nói chung và về vùng văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh đã được chúng tôi liệt kê

trên đây sẽ là những gợi ý bổ ích và quý báu cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng 5 phương pháp sau đây: phương

pháp hệ thống, thống kê, phân loại; phương pháp điều tra thực địa; phương pháp liên ngành;

phương pháp phân tích; phương pháp so sánh.

5. Đóng góp của luận án:

5.1. Lần đầu tiên trình bày một cái nhìn hệ thống về truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

với các số liệu thống kê tương đối đầy đủ và sự phân loại rõ ràng về đối tượng này. Qua đó,

luận án của chúng tôi góp phần bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu và giảng dạy truyền

thuyết dân gian Việt Nam nói chung.

5.2. Luận án góp phần tái khẳng định, củng cố hệ thống thi pháp thể loại của truyền

thuyết dân gian bằng các phân tích và dẫn chứng cụ thể từ kho tàng truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ.

5.3. Luận án của chúng tôi sẽ tái dựng diễn biến lưu truyền của truyền thuyết dân gian

xứ Nghệ thông qua việc tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa truyền thuyết dân gian và lễ hội

dân gian, truyền thuyết dân gian và các di tích vật thể, truyền thuyết đã được sưu tầm, văn

bản hóa và truyền thuyết đang sống bằng hơi thở của dân gian.

5.4. Luận án sẽ bước đầu phác thảo những nét đặc trưng của truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ thông qua việc chỉ ra những tương đồng và dị biệt của chúng với truyền thuyết dân gian

Việt Nam nói chung.

6. Cấu trúc của luận án: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án sẽ gồm 3 chương sau:

- Chương I: Tổng quan về truyền thuyết dân gian xứ Nghệ.

- Chương II: Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ nhìn từ đặc trưng thể loại

- Chương III: Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trong không gian văn hóa xứ Nghệ

NỘI DUNG

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ

1.1. Diện mạo chung của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

1.1.1 Số lượng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

Tiêu chí được chúng tôi lưu ý hàng đầu khi thống kê là lựa chọn những truyện kể

thích hợp và đáp ứng đủ các yếu tố cần thiết để làm nên một truyền thuyết. Tuy nhiên, để

nhìn thấy được các xu hướng vận động và phát triển của thể loại này, chúng tôi không chỉ

chọn những truyền thuyết thuần chất không lẫn vào đâu được mà còn chủ ý lựa những truyền

thuyết mờ nhòe, đứng mấp mé, chênh vênh ở ranh giới của cổ tích hay thần thoại. Tiêu chí

thứ hai là song hành thống kê các bản kể đã được cố định ở dạng văn bản và các bản kể

truyền miệng chưa được ghi chép còn vương sót lại đâu đó trong dân gian. Tiêu chí thứ ba là

quy các dị bản về một mối - coi như đó chỉ là một đơn vị thống kê chứ không để mỗi dị bản

là một đơn vị riêng lẻ.

Với các tiêu chí được định rõ như trên, chúng tôi thống kê được 138 truyền thuyết dân

gian xứ Nghệ qua các sách vở, thư tịch và sưu tầm được 9 truyền thuyết vẫn đang lưu truyền

trong dân gian mà chưa từng được cố định hóa bằng văn bản.

1.1.2 Tương quan với số lượng các thể loại truyện kể dân gian khác

Cuốn KTTKDGX.Nghệ (tập 1) có 98 truyện kể thì có 6 thần thoại (6.2%), 36 truyền

thuyết (36.7 %) và 56 truyện cổ tích (57.1%). Những con số mang tính chất tượng trưng trên

đây phần nào cho thấy trong khi thần thoại đã trở nên hiếm hoi còn cổ tích chiếm ưu thế về

mặt số lượng thì truyền thuyết vẫn giữ được một vị thế đáng kể trong đời sống dân gian. Con

số lưng chừng và vị thế ở giữa của truyền thuyết trong kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ

một lần nữa minh chứng cho chức năng gạch nối của thể loại này trong tâm thức dân gian.

Những con số thống kê ban đầu trên đây đã phần nào phác họa một cách tổng quan diện mạo

của thể loại truyền thuyết trong đời sống sinh hoạt văn hóa dân gian xứ Nghệ.

1.2. Các dạng truyền thuyết tiêu biểu

1.2.1. Lý thuyết phân loại

Thực tế phức tạp của vấn đề phân loại truyền thuyết đã từng được nhà nghiên cứu

Kiều Thu Hoạch mô tả khá tỉ mỉ trong bài viết Xác định thể loại truyền thuyết. Theo nhận

định của chúng tôi, mỗi cách phân loại truyền thuyết của các nhà folklore trong và ngoài

nước nêu trên đều có lý lẽ riêng do căn cứ vào các hệ tiêu chí khá cụ thể. Tuy nhiên, chưa có

một phương án phân loại nào có thể gọi là phương án vạn năng để có thể sử dụng trong mọi

tình huống nghiên cứu. Với mục đích nghiên cứu thể loại truyền thuyết gắn với một địa

phương cụ thể, trong một môi trường diễn xướng cụ thể, chúng tôi nhận thấy về cơ bản, cách

phân loại của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch phù hợp nhất cho tình huống nghiên cứu mà

luận án này đặt ra. Song, với thực tế tư liệu truyền thuyết đặc thù của địa phương đã được

thống kê ở mục 1.1.1, chúng tôi có một chút thay đổi nhỏ trong cách phân chia các tiểu loại

cho loại truyền thuyết nhân vật.

Trong loại truyền thuyết nhân vật, chúng tôi chia làm 2 bộ phận căn cứ vào đối tượng

được kể, gồm: truyền thuyết về nhiên thần và truyền thuyết về nhân thần. Trong bộ phận

truyền thuyết nhân thần, chúng tôi gộp mục truyền thuyết về người anh hùng chống xâm lược

và truyền thuyết về các anh hùng nông dân thành một tiểu loại chung. Bên cạnh tiểu loại

truyền thuyết về người anh hùng chống xâm lược và anh hùng nông dân và tiểu loại truyền

thuyết về người anh hùng văn hóa còn có thêm tiểu loại truyền thuyết về các linh nhân hóa

thần. Đây là bộ phận truyền thuyết kể về những con người hết sức bình thường nhưng vì

những duyên do tình cờ đột nhiên thành thần thánh.

Ngoài ra, theo tiêu chí hình thức tồn tại và lưu truyền của truyền thuyết, chúng tôi sẽ

chia truyền thuyết làm hai dạng: truyền thuyết định hình trên văn bản và truyền thuyết lưu

truyền trong dân gian.

1.2.2. Phân loại theo hình thức tồn tại và lưu truyền

- Truyền thuyết định hình trên văn bản: Đặc trưng thể loại gắn liền với lịch sử đã trở

thành một phép lợi thế để truyền thuyết đường hoàng bước chân vào lãnh địa của các văn bản

thành văn. Nhờ vào phép lợi thế ấy, truyền thuyết được lưu giữ ở vô số văn bản thời trung đại

với sự đa dạng về thể loại: sách địa chí, sách sử, truyện chí quái, thần tích, thần phả… Các

truyền thuyết đã được định hình qua thời gian và lưu lại trong các thư tịch, sách vở ấy được

chúng tôi liệt vào dạng truyền thuyết định hình trên văn bản. Những truyền thuyết được lấy

làm đối tượng nghiên cứu trong luận án này chủ yếu ở dạng đã cố định trên văn bản. Những

truyền thuyết bất động trong văn bản cũng tựa như những hóa thạch văn hóa - phác nên chân

dung một xứ Nghệ đậm màu huyền thoại và dày dạn vết tích văn hóa.

- Truyền thuyết lưu truyền trong dân gian: Dạng truyền thuyết lưu truyền thể hiện sức

sống và khả năng bám rễ vào mạch chảy xã hội của thể loại này trong quá trình tái tạo không

ngơi nghỉ của nó. Độ phong phú của dạng truyền thuyết này vừa phụ thuộc vào khả năng tạo

sinh khách quan của thể loại, vừa phụ thuộc vào quá trình tự khảo sát mang tính chủ quan của

chúng tôi. Những truyền thuyết còn tồn tại ở dạng này có thể là những truyện đã từng được

văn bản hóa song quay trở về dân gian bằng quá trình tái truyền miệng; cũng có thể đó là

những truyện chưa từng được cố định bằng văn bản, song nhờ sức mạnh dai dẳng của trí nhớ

dân gian mà tồn tại đến ngày nay - dạng này chúng tôi tạm gọi là truyện truyền khẩu nguyên

thủy. Chúng tôi chỉ lưu tâm thống kê các truyền thuyết truyền khẩu nguyên thủy trong số các

truyền thuyết tồn tại ở dạng lưu truyền trong dân gian. Trong thời gian nghiên cứu có hạn,

chúng tôi đã thực hiện được 4 chuyến điền dã về các địa phương như: huyện Nam Đàn, Hưng

Nguyên, Đô Lương, Quỳ Hợp, Con Cuông (tỉnh Nghệ An) và đã sưu tầm được 9 truyền

thuyết ở dạng còn lưu truyền trong dân gian. Con số ít ỏi ấy là kết quả chủ quan của những

chuyến điền dã ngắn ngủi của chúng tôi, đồng thời cũng phản ánh khách quan tồn tại của

dạng truyền thuyết lưu truyền trong dân gian. Tuy rằng con số ít ỏi của dạng truyền thuyết

truyền khẩu nguyên thủy được chúng tôi tìm thấy chưa đủ sức khôi phục lại một mảng truyền

thuyết địa phương đã thất truyền song tự thân sự hiếm hoi ấy cũng đã phác nên thực trạng tồn

tại riêng của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ.

1.2.3. Phân loại theo nội dung

Qua thống kê, phân loại, chúng tôi thu được kết quả định lượng như sau: truyền

thuyết nhân vật có 122 truyện, truyền thuyết địa danh có 22 truyện và truyền thuyết phong -

vật có 3 truyện. Mức tập trung đậm đặc với tỷ lệ 83 % ở loại truyền thuyết nhân vật phản ánh

rõ nét thói quen sáng tạo, thị hiếu lưu truyền của nhân dân vùng văn hóa Nghệ Tĩnh với thể

loại truyền thuyết.

- Truyền thuyết nhân vật: gồm truyền thuyết nhiên thần và nhân thần.

Truyền thuyết nhiên thần trong kho truyền thuyết dân gian xứ Nghệ được định lượng

bằng con số 23/147 (chiếm 15.6%). Con số khiêm tốn ấy phản ánh sự tồn tại ít ỏi của mảng

truyền thuyết nhiên thần nhưng chưa hẳn đã phản ánh đúng mực về mức độ phát triển của tín

ngưỡng dân gian trên mảnh đất xứ Nghệ. Đó chỉ là con số bề mặt gồm những truyền thuyết

nhiên thần còn ở dạng nguyên bản. Trong chế độ phong kiến, dưới áp lực thu phục thần

quyền về dưới trướng vương quyền, các vị thần của dân gian đã buộc phải phủ lên mình

những phục sức sao cho phù hợp với tình trạng mới. Cải biến các vị nhiên thần bằng cách

đem đến hình hài, gốc gác nhân thần cho họ là cách làm phổ biến trong văn học dân gian lúc

bấy giờ. Do đó, nếu tìm hiểu thật kỹ càng bộ phận truyền thuyết nhân thần, chúng ta sẽ tri

nhận thêm nhiều câu chuyện vốn là về các thần tự nhiên đã được biến cải thành truyện về

nhân thần.

Truyền thuyết nhiên thần thường chỉ xoay quanh hai kiểu mô típ chính: mô típ hiện

thân và mô típ hiển linh phù trợ. Trong khi mô típ hiển linh phù trợ có định dạng đơn nhất thì

mô típ hiện thân của nhiên thần lại biểu hiện khá đa dạng trong truyền thuyết dân gian. Bên

cạnh các mô típ hiện thân quen thuộc, chúng tôi còn gặp một số mô típ hiện thân khá đặc biệt

của các nhiên thần. Ví dụ như mô típ sinh ra từ con người hay giáng sinh thành người. Sự ra

đời dưới hình thức đứa con của loài người hay mô típ giáng sinh dưới hình dạng con người

trên đây của nhiên thần có thể coi là mô típ lạ bởi bản nguyên của nhiên thần là sự vật tự

nhiên nên các mô típ hiện thân thông thường luôn gắn với tự nhiên. Đây chắc hẳn là một

bước quá độ của tư duy dân gian trong quá trình phát triển từ tư duy huyền thoại đến tư duy

tôn giáo; là sự chuyển mình từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên sang tín ngưỡng sùng bái con

người. Các mô típ hiện thân của nhiên thần đã phác thảo ra một con đường phát triển của tư

duy dân gian. Chúng tôi nhìn thấy sự biến chuyển rõ rệt từ mô típ hiện thân kỳ lạ từ hiện

tượng đột biến của tự nhiên cho đến mô típ ứng đồng tự xưng của nhiên thần. Đặc biệt hơn,

đến mô típ sinh ra do con người và giáng sinh thành người thì mối liên kết thần - người đã trở

nên sâu sắc hơn một bậc. Trong mối liên kết ấy, chúng tôi nhận thấy đã bắt đầu có sự nhập

nhằng, hoán đổi chức năng giữa thần và người - biểu hiện của một bước đi dài trong tư duy

dân gian.

Là bộ phận truyền thuyết có số lượng lớn (99/147 truyện, chiếm 67.3%) và được phân

chia thành ba mảng khác nhau dựa vào tính chất của các nhân vật được kể (anh hùng chống

giặc ngoại xâm, anh hùng văn hóa, linh nhân hóa thần), truyền thuyết nhân thần hội đủ các

nhân tố để trở thành bộ phận tiêu biểu của thể loại. Chúng tôi đã thống kê định lượng được

kết quả sau đây: Truyền thuyết về người anh hùng chống giặc ngoại xâm và anh hùng nông

dân có 45 truyện; Truyền thuyết về người anh hùng văn hóa có 26 truyện; Truyền thuyết về

linh nhân hóa thần có 28 truyện. Tuy chỉ được thống kê trong giới hạn không gian văn hóa

xứ Nghệ, các con số trên đây vẫn thể hiện một kết quả đồng nhất với truyền thuyết dân gian

nói chung khi đa số truyền thuyết thuộc về tiểu loại truyền thuyết về người anh hùng chống

giặc ngoại xâm và anh hùng nông dân. Qua khảo sát sâu bộ phận truyền thuyết nhân thần,

chúng tôi lọc ra được 16 truyện nguyên là truyền thuyết nhiên thần, trong đó, vị nhân thần

thực chất là từ một nhiên thần được lịch sử hóa, nhân thế hóa mà thành. Số lượng truyền

thuyết đã biến dạng này góp phần làm phong phú thêm cho bộ phận truyền thuyết nhiên thần

(23+16 truyện), đồng thời giảm thiểu bộ phận truyền thuyết nhân thần về mặt định lượng (99-

16 truyện). Mặt khác, nó cũng thu hẹp khoảng cách định lượng giữa truyền thuyết nhiên thần

và truyền thuyết nhân thần (theo đó, truyền thuyết nhân thần từ chỗ có số lượng gấp 4.3 lần

truyền thuyết nhiên thần đã giảm xuống chỉ còn gấp đôi). Sự thay đổi của các con số, sự giảm

thiểu tỷ lệ chênh lệch của hai bộ phận truyền thuyết cũng biểu thị mức độ biến đổi hay chính

xác hơn là mức độ lịch sử hóa, nhân thế hóa truyền thuyết nhiên thần.

- Truyền thuyết địa danh

Chỉ chiếm 14.9% tổng số các truyền thuyết dân gian xứ Nghệ, truyền thuyết địa danh

có chỗ đứng tương đối khiêm tốn song trên lãnh địa nhỏ nhoi ấy, loại truyền thuyết này vẫn là

những trình diễn đặc trưng của trí tuệ và tâm hồn dân gian xứ Nghệ. Nét đặc trưng dễ thấy

nhất trong các truyền thuyết địa danh xứ Nghệ là các tên đất, tên làng, tên đình, tên miếu

được kể đều tồn tại đâu đó trên mảnh đất này.

- Truyền thuyết phong tục - sản vật

Loại truyền thuyết phong tục - sản vật trong kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

vô cùng hiếm hoi với 3 truyện được tìm thấy trong Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ. Các

truyền thuyết này mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các phong tục, các trò diễn dân gian chứ chưa

tạo ra được một kết cấu cụ thể. Dù sao, sự hiện diện của chúng cũng cho thấy diện mạo khá

đủ đầy của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ về phương diện thể loại.

1.3. Các trung tâm truyền thuyết tiêu biểu

Chính cái lõi lịch sử đặc trưng của thể loại truyền thuyết cùng với năng lượng phi

thường của niềm tin dân gian đã tạo nên những cơn lốc xoáy sáng tạo. Những cơn lốc xoáy

sáng tạo xoay quanh điểm trung tâm là những chi tiết mang tính lịch sử đã hình thành nên

những “vùng trũng” độc đáo trên địa hạt thể loại truyền thuyết - quần tụ ở đó những mảnh

truyền thuyết có liên quan đến nhau. Chúng tôi gọi những “vùng trũng” ấy là các trung tâm

truyền thuyết. Trong điều kiện các cơn lốc sáng tạo đã thuộc về quá vãng, các “vùng trũng”

cũng đã trở nên nhạt nhòa bởi sự san lấp của thời gian, chúng tôi buộc phải men theo các

mảnh vỡ truyền thuyết và các mối cố kết của truyền thuyết với địa phương để phục dựng lại

các trung tâm truyền thuyết.

1.3.1. Truyền thuyết dạng chuỗi và các trung tâm truyền thuyết tiêu biểu

Các truyền thuyết dạng chuỗi chính là sản phẩm của cơn lốc xoáy sáng tạo mà tâm

điểm là các chi tiết lịch sử có thật. Lấy cảm hứng từ một chi tiết lịch sử (nhân vật hoặc sự

kiện lịch sử) nào đó, dân gian dốc sức sáng tạo nên vô số truyền thuyết có mối liên thông với

nhau qua cái gốc cội chung. Từ những chuỗi truyền thuyết mang tính hệ thống phi vật thể,

một hệ thống mang tính vật thể - các đền miếu được dựng nên góp phần củng cố không gian

truyền thuyết cá biệt, đậm đặc địa phương tính. Đó là con đường hình thành nên các trung

tâm truyền thuyết - một con đường độc đạo được khai mở bằng chính những đặc trưng thể

loại. Qua quá trình phân loại kho truyền thuyết dân gian xứ Nghệ, chúng tôi nhận thấy có ít

nhất ba chuỗi truyền thuyết, liên quan đến ba nhân vật lịch sử và ba sự kiện lịch sử gắn bó với

địa phương. Đó là Mai Hắc Đế với sự kiến lập và tan rã của nước Vạn An, An Dương Vương

với cái chết cùng đường ở biển Diễn Châu và Lê Lợi với công cuộc nếm mật nằm gai chống

quân Minh nơi miền núi xứ Nghệ. Với ba chuỗi truyền thuyết trên đây, chúng tôi cho rằng,

xứ Nghệ có ít nhất ba trung tâm truyền thuyết: Nghi Lộc - Diễn Châu, Nam Đàn, miền Tây

xứ Nghệ.

Để hình thành nên một trung tâm truyền thuyết, nếu chuỗi truyền thuyết là điều kiện

cần thì các di tích vật thể đi kèm lại là điều kiện đủ. Khảo xét các địa phương tồn tại các

chuỗi truyền thuyết, nếu đồng thời cũng có sự tồn tại dày đặc của các đền miếu, các địa danh

liên quan thì chúng tôi khẳng định, đó là một trung tâm truyền thuyết.

Các trung tâm truyền thuyết đã được xác định tuy hình thành từ những tâm điểm rất

đặc thù, cá biệt nhưng dường như không hoàn toàn phát triển độc lập, riêng rẽ mà ngược lại,

chúng có mối liên kết qua lại, góp phần mở rộng không gian sống của thể loại truyền thuyết.

Từ những mối liên kết ấy, các truyền thuyết lan tỏa rất nhanh để rồi hình thành nên những

vùng ngoại vi dày đặc truyền thuyết. Qua thời gian tích lũy, các vùng ngoại vi ấy rồi cũng

dần dà biến nhập vào lãnh địa các trung tâm truyền thuyết hoặc trở thành các trung tâm phát

triển độc lập (nếu sẵn có cơ sở nền tảng). Ngày nay, trên đất Nghệ, các nhà nghiên cứu tìm

thấy dấu tích của các đình, đền, miếu mạo thờ An Dương Vương, Mai Hắc Đế, Lê Lợi và các

tướng sĩ rải rác khắp nơi chứ không chỉ ở cái nôi địa phương tạo sinh ra chúng.

1.3.2. Nguyên tắc hình thành các trung tâm truyền thuyết

Qua nghiên cứu tư liệu thực tế của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ, chúng tôi rút ra

một số nguyên tắc kiến tạo các trung tâm truyền thuyết sau đây:

- Dưới những đặc trưng của thể loại truyền thuyết: tính gắn bó với địa phương và các

địa danh cụ thể; là sự liên thông, kết nối với tín ngưỡng dân gian; là sự hiển hiện mang tính

vật chất ở dạng đình đền miếu mạo.

- Hệ quả của tính lan tỏa của văn học dân gian: Dù sự kết nối với một địa phương

nào đó rất quan trọng đối với quá trình hình thành nên một trung tâm truyền thuyết song tính

lưu động của truyền thuyết cũng cực kỳ cần thiết trong việc thiết lập nên một bầu không khí

cho thể loại này tiếp tục sống và phát triển.

- Dựa trên cơ sở chủ quan của địa phương: Là những câu chuyện được sáng tạo nên

từ những sự kiện, nhân vật lịch sử có thật, truyền thuyết là thể loại đòi hỏi phải có chất liệu

phù hợp để sáng tạo. Bởi vậy, truyền thuyết có phong phú, đa dạng hay không phụ thuộc rất

nhiều ở độ phong phú của chất liệu thực tế. Các trung tâm truyền thuyết chỉ có thể hình thành

trên các vùng đất tồn tại các nhân vật, sự kiện lịch sử đáng kể để làm chất liệu cho dân gian

sáng tạo.

Tiểu kết chương Một

Qua khảo sát, hệ thống, phân loại các truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với những con

số cụ thể, một số vấn đề mang tính đặc trưng của vùng truyền thuyết xứ Nghệ đã được hé mở.

1. Tuy không phải là thể loại có số lượng truyện lớn nhất (so với cổ tích) song ở vị thế

cái gạch nối truyền thuyết đã gây dựng nên được một bầu khí quyển trên đất Nghệ.

2. Truyền thuyết xứ Nghệ ngày nay chủ yếu tồn tại dưới dạng văn bản bởi định thức

lưu truyền: văn bản hóa, cố định hóa - quay về dân gian - phá vỡ cấu trúc văn bản cố định -

tái sinh cấu trúc mới. Các truyền thuyết ở dạng truyền khẩu nguyên thủy vô cùng hiếm hoi.

3. Qua phân loại truyền thuyết về mặt nội dung, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết dân

gian xứ Nghệ tập trung chủ yếu vào loại truyền thuyết nhân vật với mức độ đậm đặc ở tỷ lệ

83 %. Một mặt, tỷ lệ ấy phản ánh thói quen sáng tạo, thị hiếu lưu truyền thể loại truyền thuyết

của nhân dân vùng Nghệ Tĩnh; mặt khác, nó thể hiện rõ trạng thái đời sống tinh thần của

nhân dân nơi đây với cơn khát niềm tin cần được bù đắp bằng thế giới thần linh trong tâm

thức.

4. Những nghiên cứu sơ bộ ban đầu hai bộ phận truyền thuyết nhiên thần và truyền

thuyết nhân thần về độ chênh tỷ lệ, khả năng chuyển hóa lẫn nhau… cho thấy xu hướng phát

triển của tư duy dân gian đi từ tư duy huyền thoại đến tư duy tôn giáo, từ tín ngưỡng sùng bái

tự nhiên đến tín ngưỡng sùng bái con người. Ngoài ra, sự vượt trội về mặt số lượng của

truyền thuyết ở tiểu loại truyền thuyết về các anh hùng chống ngoại xâm và anh hùng nông

dân (so với tiểu loại truyền thuyết về anh hùng văn hóa và truyền thuyết về các linh nhân hóa

thần) đã thể hiện phần nào tính cách và tâm hồn người xứ Nghệ.

5. Qua khảo sát các truyền thuyết dạng chuỗi và các di tích vật chất liên quan, chúng

tôi xác định được ít nhất 3 trung tâm truyền thuyết tiêu biểu của vùng văn hóa Nghệ Tĩnh,

gồm có: Nam Đàn, Diễn Châu - Nghi Lộc và miền núi Tây Nghệ.

CHƢƠNG II

TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI

2.1. Không gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

2.1.1. Không gian cố định và di động Vấn đề không gian trong truyền thuyết đã được các nhà folklore học quan tâm đến

như một yếu tố thi pháp của thể loại ở mức độ khái quát và bước đầu có những khám phá tỉ

mỉ về ý nghĩa biểu đạt ở phương diện nội dung. Trong phần này, chúng tôi phân tích 2 thuộc

tính của không gian truyền thuyết: tính cố định và tính di động bằng dẫn chứng cụ thể từ

truyền thuyết Lý Nhật Quang còn lưu hành trên đất Nghệ.

- Tính cố định - một thuộc tính đặc trưng của không gian truyền thuyết

Truyền thuyết gắn với những địa danh xác thực: Thực chất, tính cố định của không

gian truyền thuyết là tính xác định về địa điểm, địa danh trong cái nhìn tương quan so sánh

với tính phiếm chỉ, không xác định của không gian trong truyện cổ tích. Với tính cách là

những mẩu chuyện nhỏ “xoay quanh các hiện tượng lịch sử”, được “hình thành khi biến cố

lịch sử đã xảy ra” [13, 38], truyền thuyết tồn tại và phát triển trên cơ sở gợi ý của lịch sử -

một lịch sử sơ khai nhất của những nhân vật xác định, những địa danh xác định. Những câu

chuyện trong chùm Truyền thuyết về Lý Nhật Quang được lưu hành chủ yếu ở bốn nơi:

Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định. Đặc biệt, ở trên đất Nghệ An - nơi Lý Nhật

Quang làm Tri châu trong 19 năm có vô số những tên đất, tên làng nhắc nhớ đến ông bằng

chính những công lao to lớn và cái chết bí ẩn đã được huyền thoại hóa trong ký ức dân gian.

Đó là vùng Bạch Ngọc (Đô Lương), Hoàng Mai (Quỳnh Lưu), Nam Kim (Nam Đàn), Công

Trung (Yên Thành), Khe Bố (thuộc huyện Tương Dương ngày nay), Cự Đồn (thuộc huyện

Con Cuông ngày nay)… Dấu tích của Lý Nhật Quang còn để lại trong tâm thức nhân dân xứ

Nghệ bằng những câu chuyện ở những địa danh khác nhau ( Khe Chè - Con Cuông; Ngọc

Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn - Đô Lương…).

Truyền thuyết “kiên cố hóa” môi trường diễn xướng bằng các hình thức văn hóa vật

thể: Truyền thuyết Lý Nhật Quang ở Nghệ An được lưu truyền cho đến tận ngày nay ở nhiều

địa phương một phần cũng là nhờ vào các hoạt động của đền, miếu thờ ông. Ninh Viết Giao

đã thống kê được rất nhiều đền thờ Lý Nhật Quang như: đền Vĩnh Yên (làng Vĩnh Yên,

phường Hưng Vĩnh, thành phố Vinh), đền kiêm đình Vạn Lộc (làng Vạn Lộc, Hưng

Nguyên), đền Nhạn Tháp (làng Nhạn Tháp, xã Hồng Long, Nam Đàn), đền làng Thượng

(làng Yên Lý Thượng, xã Diễn Yên, Diễn Châu),… Thần tích và các mẩu chuyện về Lý Nhật

Quang xung quanh các đền miếu còn lưu lại nhiều chuyện hiển linh thần kỳ của Ngài. Ngoài

ra, dân gian còn lưu lại một bài vè về Lý Nhật Quang, thể hiện sự cộng hưởng của các thể

loại văn học dân gian khác trong sự cố định hóa không gian diễn xướng của truyền thuyết.

Như vậy, có thể thấy rằng, thông qua cơ chế ràng buộc với một hình thức văn hóa vật

thể nào đó, truyền thuyết đã tự mở ra cho nó một môi trường sống bao la với sự liên thông,

kết nối cùng tín ngưỡng dân gian, lễ hội dân gian, trò diễn dân gian; đồng thời cũng tạo ra cơ

hội để đi từ việc định hình rõ nét cho đến cá biệt hóa, cô đặc hóa không gian diễn xướng của

nó.

- Tính di động của không gian truyền thuyết - một hệ quả của quá trình lưu truyền

Motif di động - không gian diễn xướng di động: Bên cạnh xu hướng cố định hóa,

truyền thuyết trong quá trình lưu truyền còn nảy sinh một xu hướng khác - xu hướng di động

không gian. Di động nhưng không phủ nhận bản chất cố định - đó là đặc tính bổ sung, tương

hỗ nhau của hai nét tính chất của không gian truyền thuyết. Tính di động của không gian

trong truyền thuyết được hiểu là sự chuyển di các yếu tố mang tính cố định của truyền thuyết

ấy trong một không gian văn hóa rộng lớn (ở những địa phương khác nhau, thậm chí, ở

những vùng văn hóa tộc người khác biệt). Các yếu tố cố định (thời đại, địa điểm, nhân vật, sự

kiện) trong truyền thuyết sẽ được di dời sang một không gian diễn xướng khác thông qua một

cơ chế đặc biệt nào đó. Nghĩa là, căn cốt của truyền thuyết ấy sẽ được chuyển di sang một

không gian văn hóa khác, như thể đó mới là cái nôi phát sinh và phát triển của nó vậy.

Tính di động chỉ thực sự xuất hiện khi tất cả các yếu tố cơ bản nhất của truyền thuyết

đều được di chuyển, trong đó, quan trọng nhất là motif truyện. Chúng ta có thể tìm thấy vô

vàn những mẩu nhỏ của truyền thuyết về một nhân vật, một sự kiện được kể theo những cách

khác nhau, với những motif khác nhau ở nhiều địa phương khác nhau bằng cách men theo

tính lan tỏa đặc thù của quá trình lưu truyền văn học dân gian, nhưng thật không dễ gì có thể

tìm thấy những câu chuyện với motif hoàn toàn như nhau, kể về cùng một nhân vật, một sự

kiện mà được gắn với hai địa phương khác nhau, thậm chí ở hai dân tộc khác nhau. Truyền

thuyết Lý Nhật Quang ở Nghệ An là một truyền thuyết xuất hiện tình trạng như vậy trong quá

trình lưu truyền. Có thể coi nó là một trường hợp đặc trưng thể hiện tính di động của không

gian truyền thuyết. Bằng các tư liệu thu thập được từ hai chuyến điền dã tại hai huyện Đô

Lương và Con Cuông, chúng tôi nhận thấy sự trùng lặp motif trong câu chuyện về cái chết

của Lý Nhật Quang ở Đô Lương với câu chuyện về cái chết của vị tướng ở Con Cuông. Theo

nguyên tắc phát sinh và lan truyền của văn học dân gian, sự trùng lặp motif là điều hoàn toàn

bình thường, song sự trùng lặp motif diễn ra trong sự trùng khít về mặt sự kiện và nhân vật ở

thể loại truyền thuyết thì lại là điều kỳ lạ đáng bàn. Rõ ràng, với sự trùng lặp motif giọt máu,

motif mả thiên táng trong câu chuyện về cái chết của Lý Nhật Quang được kể ở hai địa

phương khác nhau, ở hai dân tộc khác nhau, chúng ta nhìn thấy một không gian di động của

truyền thuyết này. Sự dịch chuyển motif kéo theo sự dịch chuyển của không gian diễn xướng

truyền thuyết.

Cơ chế di động của không gian truyền thuyết: Tính di động của không gian truyền

thuyết có một cơ chế hoạt động riêng, chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài (liên quan

đến quá trình lưu truyền) chứ không phải là các yếu tố nội sinh của thể loại. Thế nên, không

phải truyền thuyết nào cũng có tính di động không gian. Dù rất khó để nắm bắt được cơ chế

hoạt động của tính di động không gian trong truyền thuyết nhưng có một điều chúng ta có thể

tin chắc (thông qua trường hợp cụ thể: truyền thuyết Lý Nhật Quang) là tính di động không

gian của truyền thuyết bất chấp khác biệt văn hóa tộc người và có khả năng vượt qua ranh

giới khác biệt văn hóa. Điều đó cho thấy một khía cạnh khác của thể loại truyền thuyết (mà

nói rộng ra là văn hóa dân gian), bên cạnh xu hướng địa phương hóa mạnh mẽ thì cũng có xu

hướng giao lưu hết sức cởi mở.

2.1.2 Không gian khởi nguyên và không gian thứ phát

- Không gian khởi nguyên và cội nguồn truyền thuyết: Với hầu hết các thể loại truyện

dân gian, các nhà folklore học ít đặt ra vấn đề gốc tích phát sinh cụ thể, bởi điều đó thuộc vào

phạm vi điểm mù của văn học dân gian nói chung - thứ văn học được coi là sản phẩm của số

đông, của tập thể và có đời sống bất tận tự do. Tuy nhiên, đặc trưng gắn bó sinh mệnh chặt

chẽ với các yếu tố mang tính lịch sử, cụ thể của truyền thuyết lại tạo cho nó khả năng liên kết

với điểm khởi đầu của quá trình tạo tác, lưu truyền. Bởi vậy, nghiên cứu truyền thuyết, chúng

ta có thể tìm thấy địa phương gốc lưu truyền truyền thuyết đó đồng thời xác định được không

gian khởi nguyên của nó. Địa phương gốc - điểm trung tâm của không gian khởi nguyên của

truyền thuyết bao giờ cũng tồn tại một di tích vật thể (đình, đền, miếu mạo) để tạo ra mối liên

kết vững bền giữa truyền thuyết và địa phương, đồng thời để nối dài bất tận đời sống của

truyền thuyết. Vậy, di tích vật thể cũng là một dấu mốc để chúng ta lần tìm về không gian

khởi nguyên và nguồn cội của truyền thuyết.

- Không gian thứ phát và khả năng phát tán của truyền thuyết: Không gian thứ phát

nương theo con đường lưu truyền tự do của truyền thuyết để xác lập. Truyền thuyết lưu hành

trong không gian thứ phát thường tồn tại ở dạng những mẩu nhỏ, chưa hoàn thiện, dễ dàng

chắp nối vào truyền thuyết chính phát sinh ở không gian khởi phát. Không gian thứ phát của

truyền thuyết được mở ra theo vết loang của cuộc đời nhân vật hoặc của sự kiện lịch sử. Một

lối nẻo khác lại được mở ra từ phía tâm linh nhân dân cho không gian thứ phát của truyền

thuyết phát triển. Khi truyền thuyết gốc nảy nở rực rỡ trên địa phương gốc, trong không gian

khởi nguyên thì cũng là lúc ảnh hưởng của nhân vật truyền thuyết đã trổ bóng rộng trong tâm

thức dân gian. Uy linh mạnh mẽ của nhân vật truyền thuyết - vị thần thánh nào đó trong con

mắt dân gian tạo ra một hấp lực lớn cho người dân ở các địa phương lân cận. Nhân dân rước

các vị thần linh thiêng - vốn thuộc vào địa phương khác về mảnh đất quê hương mình, lập

đền thờ phụng với niềm ước mong được chở che, phù hộ. Các truyền thuyết phái sinh nảy nở

theo chân các vị thần thánh ấy mở ra không gian thứ phát. Ngoài ra, các cuộc di dân do điều

kiện làm ăn kiếm sống cũng là một nguyên nhân tạo nên không gian thứ phát cho truyền

thuyết.

2.2. Thời gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

2.2.1. Thời gian cố định và thời gian diễn biến truyện đặc trưng

Căn cứ vào tính xác định của thời gian, chúng tôi tiến hành khảo sát khung thời gian

chủ yếu của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ qua các truyền thuyết đã thống kê. Kết quả cho

thấy, truyền thuyết xứ Nghệ chủ yếu tập trung ở khung thời gian thời phong kiến. Có thể nói

thời phong kiến cũng là thời của truyền thuyết.

Có thể truyền thuyết đã ra đời như một thể loại chuyển tiếp giữa thần thoại (huyền

thoại) và cổ tích, có thể truyền thuyết được sáng tạo tập trung ở thời phong kiến song như thế

không có nghĩa rằng truyền thuyết chỉ dừng lại ở thân phận dấu gạch nối giữa hai thể loại

thần thoại và cổ tích; cũng không có nghĩa rằng toàn bộ đời sống của truyền thuyết chỉ bó hẹp

trong thời phong kiến. Dù thời gian trong truyền thuyết là thời gian cố định nhưng nó lại

không phải là thời gian bị giới hạn. Truyền thuyết xác định thời gian cụ thể song đó là cái cụ

thể của bất kỳ thời điểm nào, thời đoạn nào trong trục thời gian bất tận. Chính nhờ vậy mà

truyền thuyết may mắn hơn hai thể loại thần thoại và cổ tích ở chỗ, ngày nay, nó vẫn còn tiếp

tục được sáng tạo và sẽ còn không ngừng được sáng tạo trong vô hạn thời gian.

2.2.2. Thời gian chồng xếp qua quá trình truyền lưu

Thời gian trong truyền thuyết luôn xuất hiện trong trạng thái chồng xếp nhiều lớp

khác nhau do được tích tụ, bồi đắp qua quá trình lưu truyền trong dân gian. Có vẻ như, riêng

đối với thể loại truyền thuyết, hành trình trôi nổi trong dân gian gây ra những hiệu ứng đặc

biệt hơn cả lên cấu trúc thể loại. Thời gian trong truyền thuyết với đặc trưng cố định và xác

định đã tạo nên một nền tảng cho việc xếp chồng các lớp thời gian khác nhau lên cùng một

cốt truyện qua quá trình truyền lưu. Đến lượt nó, các lớp thời gian ấy lại trở thành cái khung

vững chãi cho sự phát triển các lớp truyện khác nhau chồng xếp lên cốt truyện cũ. Các nhà

folklore học gọi hiện tượng này là kết cấu tầng lớp của truyền thuyết. Sự chồng xếp các lớp

thời gian trong truyền thuyết không chỉ cho chúng ta thấy hành trình thời gian dài bất tận và

luôn mở ra tít tắp của thể loại này mà còn thể hiện khả năng dồn nén của thời gian trong một

cốt truyện cụ thể.

2.2.3. Tính linh hoạt của thời gian trong truyền thuyết

Thời gian trong văn học dân gian nói chung là thời gian trực tuyến mà chúng ta có thể

hình dung như con đường một chiều, trên đó các sự kiện cốt truyện diễn biến nối tiếp nhau

theo trình tự trước - sau. Thời gian trong truyền thuyết cũng không nằm ngoài quy trình phổ

biến đó. Nương theo cấu trúc lỏng lẻo vốn dĩ của truyền thuyết, thời gian truyền thuyết trong

một số trường hợp cá biệt đã phá vỡ tính trực tuyến một chiều, đảo lộn quy trình quen thuộc

vốn có để tạo nên một câu chuyện hấp dẫn, kịch tính ngay từ đầu. Ví dụ như truyền thuyết về

Tứ vị thánh nương trong một số bản kể, mô thức kết cấu bị đảo lộn hoàn toàn khi phần mở

đầu lại là sự hiển linh của nhân vật chứ không phải câu chuyện về sự tích kỳ lạ nào đó về họ.

Thời gian trong câu chuyện ấy đã không còn là thời gian đơn tuyến đơn thuần mà là thời gian

đa tuyến với sự hiện hiện song hành của cả hiện tại và quá khứ trong trạng thái bất quy tắc.

Chúng tôi gọi đó là tính linh hoạt của thời gian trong truyền thuyết.

Cũng là truyền thuyết về Tứ vị thánh nương nhưng một số bản kể lại không có sự đảo

lộn trật tự thời gian. Dường như, bước rẽ ngang bất ngờ của thời gian trong truyền thuyết trên

đây chỉ mang tính ngẫu hứng chứ chưa phải là quy luật. Suy cho cùng, nguyên nhân gây nên

tình trạng đảo lộn quy trình thời gian trong truyền thuyết chính là tính cách tự thân của nó.

Thời gian trong truyền thuyết vốn có tính chồng xếp qua thời gian như chúng tôi đã phân tích

ở phần 2.2.2 trên đây. Những chồng xếp ấy dẫn đến tình trạng thời gian trong truyền thuyết

(hay cũng chính là cấu trúc của truyền thuyết) có nhiều khúc đoạn, được nối kết khá lỏng lẻo.

Quá trình lưu truyền mạnh mẽ trong dân gian dễ dàng bứt rời những phần ráp nối lỏng lẻo ấy

của truyền thuyết, để rồi xê dịch chúng qua những quãng khác nhau của câu chuyện, tạo nên

một cấu trúc truyện mới, một trình tự thời gian vô trật tự. Ngoài ra, chúng tôi cho rằng quá

trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian của giới trí thức đương thời cũng là một yếu tố góp

phần gây nên tình trạng dịch chuyển bất quy tắc của thời gian trong truyền thuyết.

2.2.4. Thời gian chu kỳ qua mối liên kết với lễ hội Lễ hội với những nghi lễ tái tạo lại các sự kiện, các hành động của nhân vật truyền

thuyết đã mở ra một không gian đa chiều, đậm đặc sinh khí truyền thuyết. Trong không gian

ấy, quá khứ và hiện tại tương thông mạnh mẽ để rồi dẫn đến điều tưởng chừng không thể là

cùng song song tồn tại. Mở ra một bầu khí quyển truyền thuyết ngay trong thời hiện tại, lễ hội

biến không gian của nó thành một không gian đầy quyền năng, trong đó, thời gian quá khứ

hồi sinh và tiếm lạm tạm thời thời gian hiện tại. Thời gian trong truyền thuyết trở thành thứ

thời gian được hồi sinh theo chu kỳ thông qua mối liên kết chặt chẽ với lễ hội và những tái

tạo văn hóa đặc thù của nó.

Các truyền thuyết căn bản của xứ Nghệ đều gắn bó với lễ hội. Một thời gian dài do

nguyên nhân lịch sử khách quan, các hoạt động hội lễ bị gián đoạn, theo đó, thời gian truyền

thuyết cũng bị gián đoạn chu kỳ. Sự kéo dãn chu kỳ thời gian của truyền thuyết lại mở ra một

cánh cửa rộng cho các cốt truyện, các chi tiết của các truyền thuyết cụ thể tự do biến di, tạo

nên các dị bản mới. Chúng tôi đồ rằng, vì quãng đứt khá dài của lễ hội trong đời sống dân

gian xứ Nghệ mà đa số các truyền thuyết dân gian xứ Nghệ đã biến đổi rất nhiều. Điều này

cũng giải thích cho sự tồn tại bề bộn của nhiều dị bản truyền thuyết cũng như vô số mảnh vỡ

nhỏ lẻ của truyền thuyết vẫn đang ở dạng dở dang trên mảnh đất xứ Nghệ. Đó là vết dấu của

những sáng tạo bồng bột của dân gian chưa được củng cố, định hình bằng các chu kỳ sống -

chu kỳ thời gian được tính theo vòng đời lễ hội.

2.3. Cấu trúc truyền thuyết với các dạng motif tiêu biểu

2.3.1. Cấu trúc mở và kết cấu lỏng lẻo của truyền thuyết

Truyền thuyết vừa có “kết cấu theo khuynh hướng chung của các thể loại tự sự dân

gian, đó là không tìm một con đường hoàn toàn độc đáo mà thường theo hướng cấu tạo chung

cho nhiều tác phẩm, tạo thành một kiểu truyện hay mô típ” [183, 61] lại vừa có những

khoảng mở với những mắt xích kết nối linh động trong kết cấu, tạo nên một kiểu cấu trúc mở

đặc biệt so với các thể loại khác. Chính kiểu cấu trúc mở đặc thù đó giúp truyền thuyết dễ

dàng tiếp nhận và bồi đắp thêm các trường đoạn mới qua thời gian. Thực tế khảo sát tư liệu

truyền thuyết dân gian cho thấy, đa phần các truyền thuyết còn tồn tại trong dân gian không

có kết cấu đóng hoàn chỉnh trên đây mà thường ở dạng kết cấu mở, khuyết thiếu một hoặc hai

trong ba phần Sinh nở thần kỳ/ Sự xuất hiện kỳ lạ; Tạo lập chiến công/ Hành động khác

thường; Hóa thân/ Hiển linh, âm phù. Qua Bảng khảo sát kết cấu truyền thuyết (xem phần

Phụ lục), chúng tôi thống kê được trong số 145 truyền thuyết chỉ có 11 truyện có cấu trúc ba

phần hoàn chỉnh, số còn lại là các truyền thuyết khuyết thiếu. Sự phổ biến của dạng cấu trúc

mở là minh chứng hiển nhiên cho tính linh động ở hệ thống cấu trúc của thể loại truyền

thuyết.

Truyền thuyết về Tứ vị thánh nương là một trường hợp khá tiêu biểu minh chứng cho

cấu trúc mở và khả năng kết nối thêm chi tiết vào phần khuyết thiếu của truyền thuyết. Khảo

sát qua các dị bản của truyền thuyết Tứ vị thánh nương, chúng tôi có thể nhận thấy rõ ràng

các chi tiết được thêm thắt luôn nằm ở phần khuyết thiếu của cấu trúc truyền thuyết này. Như

vậy, cấu trúc mở và kiểu kết cấu khuyết thiếu là cơ sở để truyền thuyết được tái tạo nhiều lần

và mỗi lần lại xuất hiện trong một dáng dấp mới. Dân gian biết lẩy đúng phần khuyết thiếu

của từng truyền thuyết để thêm thắt và tái tạo sao cho ăn nhập và hợp lý. Nghiên cứu kỹ hơn

11 truyền thuyết có kết cấu ba phần hoàn chỉnh, chúng tôi nhận thấy, đa số các truyền thuyết

này đều thuộc vào tiểu loại truyền thuyết về anh hùng chống giặc ngoại xâm và anh hùng

nông dân. Đó là điều dễ hiểu bởi bộ phận truyền thuyết về anh hùng chống giặc ngoại xâm và

anh hùng nông dân là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại truyền thuyết, thể hiện ở sự chiếm

lĩnh về số lượng cũng như sự hoàn chỉnh về chất lượng nghệ thuật.

2.3.2. Cấu trúc đơn nhất và tính dở dang của kết cấu

Qua bảng khảo sát kết cấu truyền thuyết, chúng tôi thống kê được 50/145 truyện kể

được kết cấu theo dạng khuyết một bộ phận. Thế nhưng, tiêu biểu và chiếm số lượng đông

đảo hơn cả lại là các truyền thuyết khuyết thiếu hai trong ba bộ phận của cấu trúc hoàn thiện

với 84/145 truyện. Nhìn một cách tổng quan, số truyền thuyết có dạng kết cấu khuyết thiếu

chiếm tới 92 % tổng các truyện được nghiên cứu.

Chúng tôi nhận thấy rằng, nhóm truyền thuyết có cấu trúc đơn thường thuộc vào loại

truyền thuyết địa danh và truyền thuyết phong vật. Ngoài ra, bộ phận truyền thuyết nhiên thần

dưới lốt nhân thần cũng thường trình diện bằng kiểu cấu trúc đơn nhất. Về bộ phận này,

chúng tôi cho rằng, cũng do đặc thù của đối tượng là các nhiên thần vừa mới được dân gian

tô vẽ thêm hình hài của con người cho nên kiểu kết cấu đơn nhất trở thành lựa chọn phù hợp

hơn cả. Đáng chú ý hơn cả là sự hiện diện của những truyền thuyết thuộc tiểu loại truyền

thuyết về anh hùng chống giặc ngoại xâm và anh hùng nông dân ở kiểu cấu trúc đơn nhất

trong khi chúng vẫn luôn được coi là những truyền thuyết có kết cấu ba phần mẫu mực nhất.

Sự tồn tại đồng loạt của dạng truyền thuyết có cấu trúc đơn nhất với mô típ tạo lập chiến

công/ hành động khác thường đã phần nào phác nên con đường tạo tác từ khởi nguyên đến

hoàn thiện của truyền thuyết nói chung và truyền thuyết về anh hùng chống giặc ngoại xâm

và anh hùng nông dân nói riêng.

Cấu trúc đơn nhất của truyền thuyết được kiến tạo bởi các mô típ đơn. Vị trí của các

mô típ này chỉ có thể ở hai phần: hoặc phần trung tâm hoặc phần kết. Chúng tôi thống kê

được 42/84 truyền thuyết mà mô típ duy nhất là mô típ trung tâm (Tạo lập chiến công/ Hành

động khác thường) và 42/84 truyền thuyết có mô típ duy nhất là mô típ thuộc phần kết (Hóa

thân, hiển linh). Như đã nhận định trên đây, các truyền thuyết có kết cấu đơn nhất rơi vào

phần trung tâm đa phần là truyền thuyết về anh hùng chống giặc ngoại xâm và anh hùng nông

dân. Các truyền thuyết có kết cấu đơn nhất rơi vào phần kết với mô típ Hóa thân, hiển linh lại

là truyền thuyết địa danh, truyền thuyết về linh nhân hóa thần. Điều này cũng là điều dễ hiểu,

bởi lẽ các truyền thuyết về linh nhân hóa thần thường kể về những nhân vật vốn dĩ chỉ là

người bình thường bỗng gặp sự bất ngờ (chết vào giờ thiêng,…) rồi được dân gian thần thánh

hóa. Vì họ chỉ là những người bình thường, không có năng lực nổi trội cho nên câu chuyện về

họ chỉ xoay quanh những hiển linh kỳ lạ diễn ra sau cái chết của họ.

2.3.3. Các dạng thức motif tiêu biểu của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ

Bảng khảo sát kết cấu truyền thuyết đã thể hiện dạng motif sinh nở thần kỳ có số lần

xuất hiện ít nhất trong ba motif cơ bản: 35/144. Motif sinh nở thần kỳ luôn được sử dụng làm

motif mở màn, gây kinh ngạc cho độc giả ngay ở khúc đoạn đầu tiên của câu chuyện và cũng

là quãng sống đầu tiên của nhân vật. Vì vị trí và mục đích cố định ấy mà nhiều khi, truyền

thuyết rơi vào lối mòn nhàm chán. Dân gian không có cách nào khác là phải tăng cường biến

hóa ở các chi tiết cụ thể bằng trí tưởng tượng phong phú của mình để câu chuyện diễn ra sinh

động và thu hút nhất có thể. Trong rất nhiều kiểu trình diện của motif sinh nở thần kỳ/ Sự

xuất hiện kỳ lạ mà dân gian xứ Nghệ đã sáng tạo nên, có lẽ kịch bản tiêu biểu và đặc trưng

hơn cả là: gia đình nhân vật ăn ở phúc đức nên gặp được thầy địa lý giỏi chỉ cho một mạch

đất tốt. Các truyền thuyết như Trung Hưng công thần Đinh Bạt Tụy, Sự tích thần đền Bạch

Mã,… đều được cấu trúc theo kịch bản motif này tuy có sai khác một đôi tiểu tiết.

Motif Tạo lập chiến công/ Hành động khác thường là motif trung tâm của các truyền

thuyết nên có mật độ xuất hiện tương đối dày đặc (92/144). Trong kho tàng truyền thuyết dân

gian xứ Nghệ, kịch bản đáng lưu ý nhất của motif này là người phụ nữ tình nguyện hiến thân.

Kịch bản này được tái lặp ở ba truyền thuyết: Sự tích miếu Thanh Am, Phạm Thị Ngọc Trần,

Nguyễn Thị Bích Châu/ Thần tích làng Văn Viên với phần cốt truyện hầu như trùng khít. Một

điều đặc biệt trong motif này là tình thế người phụ nữ hiến mình cho thần Biển/ thần Nước.

Nước trong văn hóa Việt Nam mang tính âm, vậy, sự hiến thân của người phụ nữ trong các

truyền thuyết trên đây phải chăng thực chất là một sự trả mình về nguồn và thành quả của sự

trở về ấy - trở thành thần linh trong tâm thức dân gian?

Motif hóa thân/ hiển linh, âm phù thường xuất hiện ở khúc đoạn cuối của truyền

thuyết cũng được dàn dựng theo nhiều kịch bản khác nhau ở những câu chuyện khác nhau,

thậm chí ở những dị bản khác nhau của cùng một câu chuyện. Trong kiểu motif hóa thân,

chúng tôi nhận thấy kịch bản thiên táng mối đùn trùng lặp ở khá nhiều truyền thuyết, chủ yếu

là những truyền thuyết về các vị anh hùng như: Sát Hải đại vương, Đại thần Lê Lộ, Đền Học

Quý, Ông tổ nghề đóng thuyền ở Trường Xuân. Nhưng đây cũng là kịch bản phổ biến trong

kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam nên chúng tôi không thể kết luận nó là mottif tiêu

biểu của truyền thuyết xứ Nghệ.

2.4. Nhân vật truyền thuyết

2.4.1. Gốc tích nhân vật

Cực kỳ chú trọng vào gốc tích nhân vật, truyền thuyết đã sản sinh ra vô số hình tượng

nhân vật đặc trưng của địa phương mà chỉ cần nói đến họ, người ta nghĩ ngay đến mảnh đất

nơi họ sinh ra. Bởi thế, có thể coi kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là nơi hội ngộ của

nhiều thế hệ người xứ Nghệ. Hầu hết các nhân vật trong kho tàng truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ là những con người có xuất thân, gốc gác trên quê hương Nghệ Tĩnh. Ngoài ra, nhân

vật trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ còn bao gồm những nhân vật không phải người xứ

Nghệ song cuộc đời và tên tuổi họ lại gắn chặt với mảnh đất này. Sự góp mặt của các nhân

vật này khiến cho kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ phong phú hơn, đồng thời, đó

cũng là dấu hiệu của một cảm quan sáng tạo rộng mở và một thái độ tiếp nhận văn hóa cởi

mở của dân gian xứ Nghệ. Hơn nữa, đó cũng là một cách để dân gian xứ Nghệ tỏ bày sự quan

tâm sâu sắc đến cộng đồng chung, niềm đồng cảm lớn lao với dân tộc.

2.4.2. Hiện tượng nhân vật song hành

Dường như, các tác giả dân gian nhận thức được rằng, tính đơn lẻ của câu chuyện gây

cản trở đáng kể đến mục tiêu gây dựng niềm tin của truyền thuyết đối với một cộng đồng

rộng lớn. Bởi vậy, với một số truyền thuyết lớn, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm

thức của cộng đồng, dân gian đã sáng tạo nên không chỉ một truyền thuyết đơn nhất mà là

một chuỗi truyền thuyết. Theo đó, các nhân vật xuất hiện cùng nhau, bổ trợ cho nhau, tô đậm

thêm tính cách của nhau trong từng chi tiết, từng hành động truyện. Đó chính là hiện tượng

nhân vật song hành. Hiện tượng nhân vật song hành là hiện tượng nhiều nhân vật được kể và

được thờ phụng trong một chuỗi liên hoàn các truyền thuyết có liên quan mật thiết với nhau.

Hiện tượng này có thể coi là một nét đặc trưng của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyền

thuyết. Không chỉ xuất hiện song hành trong truyện kể, các nhân vật này còn được thờ phụng

song hành bằng các cụm di tích vật thể liền kề nhau, có quan hệ gần gũi với nhau. Truyền

thuyết Sự tích thần đền Quả, Sự tích đền Công, Sự tích đền Trúc… là những ví dụ tiêu biểu

cho hiện tượng này. Chúng tôi tin rằng, lối xây dựng nhân vật song hành là một thủ pháp

nghệ thuật nhằm nâng cao hệ số niềm tin trong dân gian đối với những câu chuyện nửa hư

nửa thực của kho tàng truyền thuyết.

2.4.3 Xu hướng biến đổi của nhân vật

Hai loại nhân vật nhiên thần và nhân thần của truyền thuyết bị chi phối bởi hai xu

hướng biến đổi trái ngược nhau song lại cùng một xu thế là để có thể trở nên gần gũi nhau.

Nếu các nhiên thần - các thế lực thiên nhiên với đặc trưng thuộc về tự nhiên bị chi phối bởi

khuynh hướng phàm tục hóa, nhân thế hóa để trở nên “đời” hơn qua truyền thuyết thì các

nhân thần - vốn là những con người bình thường lại được truyền thuyết xây dựng dưới ánh

sáng khuynh hướng thiêng hóa, siêu nhiên hóa để họ mang tầm vóc tương xứng, hài hòa với

vũ trụ.

Dưới xu hướng biến đổi chung phàm tục hóa, nhân thế hóa, lịch sử hóa nhân vật, dân

gian đã sáng tạo nên vô số con đường để đưa các vị nhiên thần trong truyền thuyết hòa nhịp

vào đời sống loài người. Trong kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ có một motif khá

quen thuộc là motif người đẻ ra vật. Đó chính là một cách để dân gian nhân thế hóa lý lịch

của nhiên thần. Ở một cấp độ tinh tế hơn, các nhiên thần được khoác lên mình tấm áo nhân

thế với đầy đủ lai lịch và hình hài con người để hiện thân trong truyền thuyết như một nhân

thần thực thụ. Xu hướng thiêng hóa, thần thánh hóa nhân vật truyền thuyết, cụ thể là nhân

thần cũng bộc lộ rất rõ trong thể loại này. Nếu xu hướng phàm tục hóa, nhân thế hóa nhân vật

hầu như chỉ có thể sử dụng motif mở đầu - motif sinh nở thần kỳ làm cơ sở để thực hiện biến

đổi nhân vật thì xu hướng thiêng hóa lại cớ một căn cứ rộng mở hơn với cả ba motif mở đầu

(sinh nở thần kỳ), trung tâm (tạo lập chiến công), kết thúc (hiển linh, âm phù). Chính vì có

phạm vi rộng khắp biên giới thể loại ấy mà hiện tượng thiêng hóa trở thành hiện tượng gắn

chặt với mọi truyền thuyết và được xem là hiện tượng mang tính bản chất thể loại.

Vậy, tại sao ở thể loại truyền thuyết lại tồn tại hiện tượng song hành hai xu hướng

biến đổi nhân vật như vậy? Trước hết, hai xu hướng biến đổi nhân vật trên đây có thể coi là

hai thủ pháp nghệ thuật của tác giả dân gian nhằm đẩy câu chuyện đạt đến mức độ tin cậy cao

nhất có thể để chiếm được niềm tin của cộng đồng, đồng thời đưa niềm tin ấy thăng hoa bằng

những giấc mơ huyền hoặc. Dân gian rất tinh ý khi sử dụng hai xu hướng biến đổi đối nghịch

nhau nhằm bổ sung, gia cố những mảng khuyết thiếu trong từng loại nhân vật để đi tới mục

tiêu cuối cùng là dựng nên những hình tượng vừa sinh động, đáng tin, vừa huyền hoặc, lạ kỳ

trong tâm thức cộng đồng.

Tiểu kết chương Hai

1. Không gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là một không gian kép cả ở

phương diện tính năng lẫn phương diện chức năng. Về đặc tính, không gian trong truyền

thuyết dân gian xứ Nghệ vừa là một không gian cố định, vừa là một không gian di động. Về

mặt chức năng, tính chất kép của không gian truyền thuyết thể hiện ở sự tồn tại song song và

có sự tác động qua lại lẫn nhau của hai dạng không gian: không gian khởi nguyên và không

gian thứ phát.

2. Thời gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ biểu hiện một cách khá đủ đầy mọi

nét tính chất đặc thù của thời gian truyền thuyết nói chung dưới góc độ đặc trưng loại thể.

Tính lịch sử - cụ thể và cố định; tính chồng xếp qua quá trình truyền lưu; tính linh hoạt và

tính chu kỳ thể hiện thông qua mối quan hệ với lễ hội là những đặc điểm thuộc về bản chất

thể loại của thời gian trong truyền thuyết đã được truyền thuyết xứ Nghệ minh bạch hóa bằng

các câu chuyện cụ thể trong kho tàng tương đối phong phú của mình.

3. Về phương diện cấu trúc thể loại, truyền thuyết dân gian xứ Nghệ lại thêm một lần

minh chứng cho sự tồn tại ở nhiều cấp độ cấu trúc (cốt truyện hoàn chỉnh hoặc tình tiết) của

thể loại truyền thuyết nói chung.

4. Thế giới nhân vật trong kho truyền thuyết xứ Nghệ vô cùng phong phú, thể hiện sự

mở rộng phạm vi quan sát và sáng tạo của dân gian xứ Nghệ ở thể loại này. Ba hiện tượng cơ

bản và đáng lưu tâm nhất diễn ra ở phương diện nhân vật trong truyền thuyết xứ Nghệ là hiện

tượng địa phương hóa nhân vật; hiện tượng nhân vật song hành và hiện tượng biến đổi nhân

vật theo hai xu hướng: phàm tục hóa và thiêng hóa.

CHƢƠNG III: TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ

TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA XỨ NGHỆ

3.1. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trong tƣơng tác văn hóa vùng

3.1.1. Giới thuyết về vùng văn hóa xứ Nghệ

Danh xưng xứ Nghệ từ lâu đã ăn sâu trong tiềm thức dân gian với hình dung về một

vùng đất, một không gian văn hóa đặc trưng trong không gian văn hóa chung Việt Nam. Xứ

Nghệ bao gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi,

song các tên gọi khác nhau của nó qua quá trình lịch sử hầu như không kéo theo sự biến di

của cương vực, lãnh thổ. Sự thống nhất của vùng đất này ít khi bị các cách phân chia hành

chính gây đoản mạch có lẽ chính là nhờ thứ văn hóa độc đáo đặc trưng hình thành qua một

quá trình lịch sử lâu dài của nó. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm xứ

Nghệ với ý nghĩa là một không gian văn hóa đặc thù, nơi sản sinh ra những sản phẩm văn hóa

dân gian đậm màu sắc địa phương.

3.1.2. Văn hóa vùng quy định nét riêng của truyền thuyết

Truyền thuyết dân gian với những câu chuyện được sáng tạo trên nền cảm hứng về

lịch sử quê hương, xứ sở và đời sống tinh thần thực tế của nhân dân địa phương cũng không

thể nào nằm ngoài bầu khí quyển văn hóa vùng đặc trưng. Màu sắc địa phương dễ nhận thấy

nhất trong truyền thuyết là ở nguồn gốc của các nhân vật truyền thuyết. Truyền thuyết xứ

Nghệ kể những câu chuyện về các nhân vật lịch sử, các vị thần linh của địa phương. Kho tàng

truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là cả một thế giới nhân vật được dân gian coi là đại diện cho

tinh thần xứ Nghệ, là biểu trưng cho khí chất Nghệ. Cũng chính khuynh hướng tự tôn, tự hào

trong cảm hứng sáng tạo đã dẫn đến hiện tượng “địa phương hóa” các nhân vật truyền thuyết

trên nhiều cấp độ, trong đó cấp độ mạnh nhất biểu hiện rõ ở những nhân vật truyền thuyết

vốn không có nguồn gốc xuất thân từ xứ Nghệ xuất hiện lác đác trong kho tàng truyền thuyết

dân gian xứ Nghệ (như: An Dương Vương, công chúa Liễu Hạnh, Lý Nhật Quang,…). Ở một

cấp độ tinh vi hơn trong phương thức địa phương hóa nhân vật, tác giả dân gian không chỉ

kết nối họ với các địa danh của xứ Nghệ, nắm bắt mọi hoạt động, hành trạng của họ trong

không gian văn hóa Nghệ Tĩnh, mà còn tìm cách Nghệ hóa họ bằng việc di dời “hộ khẩu” của

họ về đất Nghệ. Cao Lỗ và Lê Lai là hai nhân vật được dân gian Nghệ Tĩnh “thay quê đổi

quán” như vậy. Hiện tượng “địa phương hóa” nhân vật của truyền thuyết có thể coi là một

cấp độ đặc biệt trong quá trình bảo toàn không gian văn hóa vùng riêng biệt của dân gian xứ

Nghệ.

Về cơ bản, nhân vật trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là những sản phẩm của văn

hóa xứ Nghệ, ít khi lẫn lộn với các vùng truyền thuyết khác. Ngay trong điều sơ giản nhất -

cách gọi tên nhân vật của truyền thuyết xứ Nghệ cũng đã thể hiện nét thô mộc đặc trưng của

ngôn từ xứ Nghệ. Đó là các cố - từ dân dã để gọi những người đàn ông đã có tuổi: cố Bu, cố

Ghép, là các mụ - từ để gọi những người phụ nữ luống tuổi: mụ Ngọ…Có thể thấy sự hiện

diện đông đảo của các tầng lớp bình dân trong truyền thuyết xứ Nghệ. Dù đặc trưng cảm

hứng “thiêng hóa thực tại và tôn vinh những giá trị của dân tộc - lịch sử” [3, 62] dễ dẫn

truyền thuyết đến những lựa chọn khác song truyền thuyết dân gian xứ Nghệ đã dành nhiều

cơ hội cho các nhân vật bình dân bước vào lãnh địa của nó. Đặc biệt, không phải chỉ những

người bình dân hóa thần, hóa thánh trong truyền thuyết xứ Nghệ mà ngay đến cả các dâm

thần (như Ngô Bát Ngạo, Tuyên Phúc…) cũng được người Nghệ “chứa chấp” bằng những

mẩu chuyện truyền đời. Đối với dân gian xứ Nghệ, truyền thuyết không phải là lãnh địa riêng

của các đấng anh hùng, không chỉ thiên lệch tỏ bày một thứ đơn cảm: sự ngưỡng mộ, tôn

vinh. Rộng rãi hơn, truyền thuyết là một xã hội thu nhỏ với đủ loại người, từ bình dân đến

thượng lưu, từ xấu đến tốt. Qua truyền thuyết, dân gian thể hiện đủ các cung bậc cảm xúc: từ

tôn sùng đến bài bác, từ kính sợ đến khinh nhờn.

Bằng sức mạnh bao trùm lên toàn bộ các hoạt động văn hóa trên lãnh địa, văn hóa

vùng tác động sâu sắc đến không chỉ nội dung mà cả cơ cấu của thể loại truyền thuyết. Bộ

phận truyền thuyết về nhiên thần tuy có số lượng truyện kể thấp nhất (23 truyện) song vẫn là

một bộ phận đáng kể trong cơ cấu truyền thuyết dân gian xứ Nghệ (gần như xấp xỉ với 2 bộ

phận truyền thuyết linh nhân hóa thần và anh hùng văn hóa). Bộ phận truyền thuyết về nhiên

thần là kết quả pha trộn giữa niềm kính sợ thiên nhiên bí ẩn và cảm hứng thiêng hóa thực tại

của dân gian. Xứ Nghệ đã từng được coi là “đất tứ tắc” và cái hình thế hiểm trở thiên nhiên

đặt bày sẵn ấy cũng đã trở thành khí chất riêng của sông núi nơi đây. Có thể khẳng định rằng,

nếu tạo hóa không bày biện một hình thế núi sông hiểm trở như thế cho mảnh đất Nghệ Tĩnh

thì chắc hẳn truyền thuyết dân gian xứ Nghệ không có một thế giới nhiên thần phong phú đến

vậy. Xu hướng “thánh thần hóa” mạnh mẽ và rộng rãi ấy của dân gian xứ Nghệ đã tạo ra một

bộ phận truyền thuyết tương đối đặc biệt mà chúng tôi tạm gọi là truyền thuyết về linh nhân

hóa thần. Bộ phận này có số lượng truyền thuyết lớn thứ hai trong kho tàng truyền thuyết dân

gian xứ Nghệ (chỉ đứng sau bộ phận truyền thuyết về anh hùng chống giặc ngoại xâm và anh

hùng nông dân) và điều đó có nghĩa là khoảng không gian văn hóa mà nó bao chiếm cũng

tương đối rộng.

Ngoài ra, văn hóa vùng đất Nghệ Tĩnh còn quy định cả những nét đặc trưng hiếm hoi

về mặt cốt truyện của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ. Trong kho tàng truyền thuyết dân gian

xứ Nghệ, chúng tôi tìm thấy những cốt truyện đặc biệt được tạo nên bởi lối tư duy và thái độ

ứng xử đầy chất Nghệ. Nếu truyền thuyết dân gian nói chung thường lấy cảm hứng tôn vinh,

thiêng hóa làm cảm hứng chủ đạo thì truyền thuyết dân gian xứ Nghệ lại có thêm một bộ

phận những cốt truyện mang tính giải thiêng với cảm hứng chính là giễu nhại, bỡn cợt thần

thánh. Cách kiến tạo câu chuyện bằng thứ cảm hứng gần như xa lạ với thể loại truyền thuyết

đã làm nên vẻ độc đáo cho những mẩu truyện truyền lưu trong dân gian Nghệ Tĩnh như:

Truyện Nguyễn Công Hân chửi thần Tuyên Nghĩa, Đền Trầm Một, Ngô Bát Ngạo…).

3.1.3. Văn hóa vùng với quá trình phát sinh, lưu truyền truyền thuyết

Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ chủ yếu được phát sinh và nở rộ trong thời kỳ phong

kiến nếu dựa vào phương án phân loại truyền thuyết theo cách phân kỳ lịch sử của Giáo trình

văn học dân gian đại học Sư phạm gồm 4 loại: truyền thuyết thời Hùng Vương, truyền thuyết

thời Bắc thuộc, truyền thuyết thời kỳ phong kiến tự chủ và truyền thuyết thời kỳ phong kiến

suy thoái. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ “phổ” rộng trên cả 4 tiểu loại đã đề cập trên đây,

tuy nhiên, mật độ ở từng thời kỳ lịch sử lại cực kỳ chênh lệch. Cả thời kỳ Hùng Vương, xứ

Nghệ chỉ có duy nhất một chuỗi truyền thuyết lấy thời kỳ lịch sử này làm xuất phát điểm - đó

là chuỗi truyền thuyết về An Dương Vương. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ phát sinh từ

thời Bắc thuộc còn lưu truyền lại đến ngày nay cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay (Mai

Hắc Đế,…). Sự phân bố không đồng đều trên chiều lịch đại của truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ (tính từ điểm phát sinh) là một kiểu phân bố đặc thù, chịu ảnh hưởng và được cố định

bởi văn hóa vùng. Lý giải cách phân bố riêng của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trên trục

thời gian, chúng tôi chưa tìm thấy lý do nào khác ngoài vấn đề lịch sử phát triển của vùng đất

này.

Ngay cả diễn biến lưu truyền truyền thuyết trên đất Nghệ cũng chịu sự ảnh hưởng

không nhỏ của văn hóa vùng. Tuy là một tiểu vùng văn hóa có bản sắc riêng với thành lũy

văn hóa tương đối kiên cố, khó lẫn vào các vùng văn hóa khác nhưng xứ Nghệ lại cũng là

một vùng đất rất cởi mở trong tiếp xúc và giao lưu văn hóa. Chính vì đặc trưng ấy trong văn

hóa giao tiếp mà truyền thuyết dân gian xứ Nghệ có khả năng thẩm thấu rất cao các type

truyện, các motif của kho tàng truyền thuyết Việt Nam nói chung. Chúng tôi nhìn thấy trong

hiện tượng ấy mức độ tương tác sâu rộng của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với thế giới thể

loại chung trên mọi vùng văn hóa.

Kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ ngày nay tuy không phải là quá ít ỏi song rõ

ràng đã bị rơi rớt nhiều phần qua thời gian. Đó là hậu quả của sự tàn phá đình đền miếu mạo

trong những năm 50 của thế kỷ XX của dân Nghệ Tĩnh trong men say cách mạng. Đường lối

chính sách nóng vội của Đảng lúc bấy giờ chỉ là một phần nguyên nhân dẫn đến tình trạng

hủy hoại đền chùa ở Nghệ Tĩnh, bởi cũng chịu ảnh hưởng của các chính sách ấy song các địa

phương khác không làm quyết liệt, triệt để như dân xứ Nghệ. Có lẽ bản tính “trong gan góc

có bướng bỉnh, trong trung thực có thô bạo, trong mưu trí có liều lĩnh” [151, 187] của con

người xứ Nghệ là yếu tố quyết định của hiện trạng văn hóa ấy. Như vậy, rõ ràng, khí chất

người Nghệ - một phần cực kỳ quan trọng của văn hóa vùng đã ảnh hưởng sâu sắc đến diễn

biến lưu truyền của thể loại truyền thuyết trên mảnh đất luôn được coi là “quê hương cách

mạng” này.

3.2. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với thần tích và lễ hội

3.2.1. Truyền thuyết dân gian: bản sưu tầm, bản kể truyền miệng và thần tích

Định lượng lại truyền thuyết dân gian xứ Nghệ theo từng định dạng văn bản, chúng

tôi thu được kết quả như sau: trong số 147 truyền thuyết dân gian được sử dụng nghiên cứu

có 62 bản sưu tầm, 9 bản kể truyền miệng và 76 truyền thuyết rút trong thần tích. Nghiên cứu

cụ thể một truyền thuyết tồn tại ở cả ba định dạng trên đây (truyền thuyết Lý Nhật Quang)

dưới cái nhìn đối sánh các bản kể ở các định dạng khác nhau, được thu thập và tạo nên trong

những thời điểm khác nhau, chúng ta có thể kết luận sơ bộ mấy điểm như sau: thứ nhất, yếu

tố trình tự thời gian xuất hiện của truyền thuyết trong các định dạng văn bản hầu như không

đóng vai trò quyết định tới diễn biến lưu truyền và sự vận động của truyền thuyết về Lý Nhật

Quang. Thứ hai, truyền thuyết dân gian có một diễn biến lưu truyền vô cùng phức tạp với vô

số khả năng kiến thiết sơ đồ đường đi khác nhau dựa trên trục cơ bản: lưu truyền trong đời

sống dân gian - trải qua quá trình văn bản hóa, đi vào môi trường tĩnh của các loại văn bản -

quay về với bầu khí quyển dân gian, hít thở luồng sinh khí mới từ dân gian để tái tạo và bắt

đầu những hành trình kéo dài bất tận trong tâm thức dân gian. Thứ ba, trong cách nhìn kiếm

tìm ranh giới phân biệt cho truyền thuyết ở các định dạng khác nhau, chúng tôi nhận thấy

truyền thuyết khi đi vào môi trường thành văn dù dưới dạng văn bản nào thì cũng được chuẩn

hóa trong chừng mực nào đó, dựa vào mục đích sử dụng của loại văn bản. Trong khi đó, mẩu

chuyện truyền miệng lại bộc lộ tính chất ngẫu hứng của một định dạng truyện kể đầy chất

sống và đang lưu chuyển không ngừng.

3.2.2. Truyền thuyết dân gian và lễ hội

Khám phá truyền thuyết trong sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội của địa phương mở ra một

chiều hướng vận động khác của thể loại năng động này. Đó là xu hướng biến hình từ tích

truyện thành trò diễn dân gian, thành “trò diễn nghi lễ” hay “diễn xướng tín ngưỡng phong

tục”, từ hình thức sử dụng lời kể thành hình thức sử dụng các hành động, động tác hàm chứa

ý nghĩa tượng trưng cao. Xem xét truyền thuyết trong mối quan hệ với lễ hội hay thực chất là

xem xét sự biến hình của truyền thuyết trong các diễn xướng dân gian là việc làm cần thiết để

thiết lập lại một cách đủ đầy những hành trình xuyên không gian và vượt thời gian của truyền

thuyết, đồng thời cũng là để có được cái nhìn toàn diện về diễn biến lưu truyền của thể loại

này.

Thực tế phân tích tư liệu cho thấy trò diễn/ lễ hội dân gian vẫn giữ những khoảng

không gian “bất khả xâm phạm” trước hành trình xâm lấn táo bạo của truyền thuyết. Ngược

lại, không phải mọi truyền thuyết đều có đủ nội lực và sức mạnh để dấn thân, biến hình trong

lãnh địa của trò diễn/ lễ hội. Trong kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ, chỉ có một bộ

phận nhỏ truyền thuyết gắn bó với lễ hội, tuy nhiên, đánh giá số lượng ấy chỉ mang tính chất

tương đối bởi có những mối quan hệ truyền thuyết - trò diễn/ lễ hội dân gian đã bị phá vỡ do

sự tản mát của truyền thuyết và sự mai một thậm chí biến mất của lễ hội. Dù còn lại không

nhiều song các lễ hội dân gian trên mảnh đất Nghệ Tĩnh vẫn giữ được những nét đặc sắc đáng

kể, đặc biệt vẫn lưu lại sợi dây kết nối khăng khít với truyền thuyết dân gian. Chúng tôi tin

rằng, sự tồn tại cá biệt của các hội lễ dân gian xứ Nghệ với những trò diễn độc đáo được tổ

chức định kỳ hàng năm là cánh cửa dẫn đến đời sống kỳ thú của truyền thuyết trong dáng dấp

sinh động của những sinh hoạt thể chất hiện hữu trong các hình thức diễn xướng.

Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai lễ hội lớn

gắn liền với hai truyền thuyết lưu truyền phổ biến trong dân gian, đó là: hội đền Cờn (truyền

thuyết về Tứ vị thánh nương), hội đền Quả (truyền thuyết về Lý Nhật Quang). Qua phân tích

tục chạy Ói ở hội đền Cờn, chúng tôi đã nắm bắt thêm được một nhánh tỏa lan mới của

truyền thuyết trong diễn biến lưu truyền, cụ thể là trong con đường tiệm tiến và biến hình vào

đời sống lễ hội. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội không chỉ đơn thuần là mối quan hệ

một chiều của tích và trò. Đó còn là mối quan hệ có khả năng tái tạo nên những sự sống mới.

Do sự khác biệt về loại hình, truyền thuyết và lễ hội dẫu gắn kết với nhau như hình với bóng

trong những trường hợp cụ thể thì vẫn giữ được một chừng mực độc lập nào đó. Đây là cơ sở

và cũng là nguyên do để các diễn xướng dân gian có thể phát triển theo xu hướng tách rời

khỏi truyền thuyết, tự thân vận động và lôi kéo sự thu hút của nhân dân vào chính bản thân nó

chứ không phải là câu chuyện nó đang minh họa. Điều đáng lưu ý ở mối quan hệ truyền

thuyết - lễ hội trong lễ hội đền Quả Sơn là sự gắn kết giữa lễ tục và truyền thuyết chịu sự trói

buộc của tính địa phương. Trong số rất nhiều lễ cúng tế ở khắp các ngôi đền, miếu thờ Lý

Nhật Quang, nghi lễ rước ngược và lễ trả ơn Bà Bụt chỉ xuất hiện duy nhất trong lễ cúng tế

của đền Quả Sơn. Như vậy, các nghi lễ, diễn xướng mang hồn phách truyền thuyết trong lễ

hội mang đặc tính cố định và duy nhất về không gian, địa điểm. Với đặc tính cố định và duy

nhất về không gian, các lễ tục, diễn xướng dân gian nhằm tái hiện truyền thuyết đã kiêm thêm

vai trò “địa phương hóa” truyền thuyết trong hành trình lưu truyền vượt ra khỏi mọi biên giới

của thể loại này.

3.3. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với các di tích văn hóa vật thể

Truyền thuyết có một mối dây liên hệ khá đặc biệt với di tích văn hóa vật thể trong

hành trình lưu truyền của nó. Cơ sở tồn tại của mối liên hệ ấy là tính địa phương đậm đặc

trong truyền thuyết và xu hướng gắn kết với các địa danh cụ thể của truyền thuyết trong quá

trình truyền lưu. Di tích văn hóa vật thể đóng vai trò kiềm giữ tính động của truyền thuyết

bằng tính tĩnh đặc trưng của nó, tạo điều kiện cho truyền thuyết hội tụ về một trung tâm và

bám rễ ở địa phương.

3.3.1. Thống kê các di tích văn hóa vật thể của xứ Nghệ gắn liền với truyền thuyết

Qua quá trình khảo sát, chúng tôi thống kê được con số 438 đình, đền, miếu, nghè trên

đất Nghệ có quan hệ tương tác với truyền thuyết cụ thể. Trong thống kê chưa đầy đủ của

chúng tôi, con số 438 quả là một số lượng lớn, thể hiện mối quan hệ tích cực của các di tích

văn hóa vật thể với loại hình văn hóa tinh thần - truyền thuyết, hứa hẹn ẩn chứa nhiều ý nghĩa

quan trọng đằng sau nó.

3.3.2. Lịch sử và thực trạng tồn tại của các di tích văn hóa vật thể

Qua đối chiếu với thống kê các di tích văn hóa vật thể có mối quan hệ với truyền

thuyết đã thực hiện ở phần 3.3.1, chúng tôi lọc ra được 123 di tích hiện tồn trong số 438 di

tích đã thống kê. Sự suy giảm đáng kinh ngạc của số liệu thống kê trên đây cho thấy, lịch sử

tồn tại của các di tích văn hóa vật thể trong quan hệ với truyền thuyết dân gian đã trải qua

những biến cố lớn. Số di tích bị mất mát quá lớn đã hoàn toàn đảo chiều quan hệ di tích vật

thể và truyền thuyết. Trong một mối quan hệ mà truyền thuyết đóng vai trò dẫn dắt, là nguyên

cớ cho sự tồn tại của đối tượng còn lại thì rõ ràng, sự thua kém về mặt số lượng của các di

tích văn hóa vật thể đã phản ánh sự suy giảm chất lượng của quá trình lưu truyền và khả năng

nhân rộng sự sống của truyền thuyết. Thực trạng tồn tại của các di tích văn hóa vật thể ở xứ

Nghệ một mặt hạn chế khả năng lưu truyền của truyền thuyết, mặt khác lại tạo ra một động

lực thúc đẩy mạnh mẽ sự tái sinh của truyền thuyết trong dân gian và sự phục hồi chức năng

gieo vãi niềm tin cho nhân dân của thể loại giàu năng lượng sống này.

Tiểu kết chương Ba

1. Ngoài đặc trưng thể loại, truyền thuyết dân gian xứ Nghệ còn chịu sự tác động đáng

kể từ đặc trưng văn hóa vùng. Tầm ảnh hưởng của đặc trưng văn hóa vùng lên thể loại truyền

thuyết ở Nghệ Tĩnh là tương đối lớn, thể hiện ở sự quy định về cơ cấu tiểu loại, cơ cấu nhân

vật, những dị biệt về cốt truyện, quá trình phát sinh và lưu truyền truyền thuyết…

2. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, thực trạng của các hình thức tồn tại của

truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là hiện tượng mất cân đối khá nghiêm trọng, biểu hiện từ sự

chênh lệch số liệu khá lớn giữa bản kể truyền miệng, bản sưu tầm và thần tích.

3. Tương tự tình trạng của các hình thức tồn tại của truyền thuyết dân gian, các lễ hội

dân gian xứ Nghệ cũng đang đứng trong dòng chảy xói mòn của thời gian và sự lấn lướt của

thời đại. Không rõ từ xưa xa các lễ hội dân gian trên đất Nghệ có liên quan đến truyền thuyết

phát triển rực rỡ đến thế nào nhưng ngày nay, các lễ hội ấy chỉ còn lại vô cùng ít ỏi (trên dưới

con số 20). Điều đáng lưu ý hơn là trong số ít ỏi ấy lại chỉ có một số lượng hãn hữu các lễ hội

có bản sắc đặc trưng, thể hiện thông qua các lễ tục/ diễn xướng dân gian đặc thù, cá biệt.

4. Hiện trạng tồn tại ủ dột của các di tích văn hóa vật thể thuộc tiểu vùng văn hóa xứ

Nghệ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới diễn biến lưu truyền truyền thuyết trong không gian văn

hóa vùng đặc trưng. Các di tích văn hóa vật thể trên đất Nghệ có liên quan đến truyền thuyết

đang đi vào xu hướng mai một dần.

KẾT LUẬN

1. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là một bộ phận của kho tàng truyền thuyết dân

gian Việt Nam nói chung, góp phần định hình và định tính thể loại truyền thuyết trong dòng

chảy văn hóa dân gian Việt Nam. Ngày nay, truyền thuyết xứ Nghệ hầu như chỉ tồn tại trong

các văn bản thành văn, rất hiếm truyền thuyết tồn tại ở dạng truyền khẩu nguyên thủy. Một

trong những lý do dẫn đến quá trình “hóa thạch” truyền thuyết trong đời sống dân gian Nghệ

Tĩnh là sự đứt gãy của vòng tròn lưu truyền và tái tạo đặc trưng của truyền thuyết thông qua

hội lễ và di tích văn hóa vật thể.

2. Thể loại truyền thuyết trong không gian văn hóa xứ Nghệ đã thể hiện đặc sắc những đặc

trưng thể loại. Không gian trong truyền thuyết xứ Nghệ là không gian kép về cả tính năng lẫn chức

năng: không gian cố định - không gian di động; không gian khởi nguyên và không gian thứ phát.

Thời gian trong truyền thuyết xứ Nghệ là thời gian ở trạng thái tính chất đa dạng với tính lịch sử -

cụ thể và cố định; tính chồng xếp qua quá trình lưu truyền; tính linh hoạt và tính chu kỳ. Cấu trúc

truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là cấu trúc mở, cấu trúc đa tầng gồm nhiều cấp độ tồn tại khác nhau

(từ tình tiết, đến motif cho đến câu chuyện hoàn chỉnh). Nhân vật trong truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ đã phát huy tối đa vai trò của nó trong việc hỗ trợ truyền thuyết phát triển trong không gian

văn hóa vùng bằng cách xuất hiện dưới sự chi phối của quá trình địa phương hóa và hiện tượng

nhân vật song hành. Bên cạnh đó, hai xu hướng biến đổi: thiêng hóa và phàm tục hóa cũng là một

nét đặc trưng của nhân vật truyền thuyết mà chúng tôi đã khám phá được qua kho tàng truyền

thuyết dân gian xứ Nghệ.

3. Tất cả những biểu hiện đặc sắc về đặc trưng thể loại của truyền thuyết dân gian xứ

Nghệ trên đây đều phát sinh và phát triển dưới ảnh hưởng của đặc trưng văn hóa vùng Nghệ

Tĩnh. Văn hóa vùng thẩm thấu vào từng chi tiết, từng motif, từng biểu hiện của truyền thuyết

dân gian xứ Nghệ.

4. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ cũng sống một đời sống đủ đầy trong tất cả các

dạng tồn tại mà ngày nay chúng tôi còn nhận biết được. Ngoài môi trường sống là đời sống dân

gian với phương thức truyền miệng đặc trưng, truyền thuyết xứ Nghệ còn sở hữu nhiều sinh

mạng khác ở những dạng tồn lưu khác. Ngay trong môi trường văn bản, truyền thuyết xứ Nghệ

đã có ba con đường sống với ba phong cách hoàn toàn khác nhau, phụ thuộc vào phong cách của

văn bản bao chứa nó, gồm: sách sưu tầm, sách văn học, thần tích. Môi trường lễ hội là một môi

trường diễn xướng đặc biệt dành riêng thể loại truyền thuyết trong số các thể loại truyện kể dân

gian. Dù trên thực tế, ngày nay chỉ còn một bộ phận nhỏ truyền thuyết xứ Nghệ gắn với lễ hội

dân gian song những nét cá biệt và các trò diễn độc đáo có liên quan với các truyền thuyết cụ thể

được tìm thấy trong các lễ hội ấy đã chứng minh sự phát triển đến một mức độ khá sâu sắc của

mối quan hệ truyền thuyết - lễ hội trong không gian văn hóa xứ Nghệ. Trong mối quan hệ giữa

truyền thuyết và lễ hội, chúng tôi nhận thấy rằng lễ hội dân gian có xu hướng độc lập hóa với

truyền thuyết. Chính xu hướng này đã tạo tiền đề cho sự tái sinh của truyền thuyết trên cơ sở lễ

hội và các trò diễn/ nghi lễ dân gian. Một bộ phận truyền thuyết mới ra đời chỉ để giải thích, mô

tả các diễn xướng dân gian, các hội lễ dân gian. Tình trạng suy giảm nhanh chóng của các số liệu

thống kê về di tích văn hóa vật thể liên quan đến truyền thuyết xứ Nghệ đã phản ánh sự suy giảm

chất lượng lưu truyền truyền thuyết bởi mỗi di tích là một điểm lưu trú của truyền thuyết trên

hành trình lưu truyền của nó.

5. Luận án của chúng tôi dù đã cố gắng dung hòa nghiên cứu hai yếu tố riêng và

chung của hai vấn đề: bản chất thể loại và đặc trưng văn hóa vùng song vẫn chỉ là những

khám phá trong giới hạn kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ. Để nghiên cứu cụ thể

mang tính bộ phận của chúng tôi không chỉ có ý nghĩa gián tiếp gợi lên vấn đề toàn diện và

không bị rơi vào không gian cách bức và nhỏ hẹp của địa phương cục bộ, chúng tôi cho rằng

rất cần thiết bổ sung các công trình nghiên cứu thể loại theo vùng để hoàn thiện dần bức tranh

nghiên cứu toàn cảnh. Chúng tôi rất hy vọng hướng nghiên cứu này sẽ còn được các nhà

nghiên cứu quan tâm và hiện thực hóa bằng các công trình cụ thể.

References

Tài liệu tiếng Việt

1. Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Nghệ An, Lễ hội đền Quả Sơn, Nguồn

http://www.thanglongtours.com/dia-danh-du-lich/Le-hoi-den-Qua-Son-479.aspx

2. Trần Thị An (1992), “Sự vận động của truyền thuyết về Mẫu qua những truyện kể về

Liễu Hạnh và truyền thuyết về nữ thần Chăm”, Tạp chí Văn học (5), tr.44 - 49.

3. Trần Thị An (2000), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân gian

Việt Nam, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Hà Nội.

4. Trần Thị An (2000), “Yếu tố thời gian trong truyền thuyết dân gian”, Tạp chí Văn học

(5), tr.65 - 73.

5. Trần Thị An (2001), “Văn bản hóa truyện dân gian Việt Nam - nhìn từ cuối thế kỷ XX”,

Tạp chí Văn học (5), tr.56 - 64.

6. Trần Thị An (2001), “Truyền thuyết vùng Luy Lâu với tiến trình lịch sử dân tộc”, Văn

hóa dân gian (6), tr.24 - 30.

7. Trần Thị An (2001), “Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian

người Việt”, Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Trần Thị An (2003), “Quan niệm về Thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong

truyện văn xuôi trung đại”, Tạp chí Văn học (3), tr.35 - 44.

9. Trần Thị An (2003), “Ca trù qua một số truyền thuyết”, Ca trù nhìn từ nhiều phía (Nguyễn

Đức Mậu giới thiệu và biên soạn), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

10. Trần Thị An (2005), “Tái định hướng thể loại folklore”, Nghiên cứu văn học (1), tr.113 -

122.

11. Trần Thị An (2008), “Sự hình thành truyền thuyết dân gian - Tìm hiểu sự hình thành truyền

thuyết Tứ vị thánh nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)”,

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.

12. Vi Văn An (1996), “Hôn nhân và tục lệ cưới xin của người Thái ở miền núi Nghệ An”,

Văn hóa dân gian (2), tr.61 - 68.

13. Chiêng Xom An (1992), “Bàn thêm về thể loại truyền thuyết”, Văn hóa dân gian (2),

tr.32 - 40.

14. Đào Duy Anh (1942), “Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta”, Tạp chí Tri Tân

(30), tr.2 - 4.

15. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

16. Phan Điệp Anh (1986), “Truyền thuyết Hùng Vương”, Văn hóa dân gian (1), tr. 73.

17. Sỹ Tiến, Hoài Anh (1961), “Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, bài thơ trữ tình ca ngợi tình yêu và

lòng nhân đạo”, Tập san Nghiên cứu văn học (2), tr 78 - 81.

18. Ngọc Anh , Đao Lâm Tung (1961), “Nên khai thác đánh giá truyện Mỵ Châu - Trọng

Thuỷ như thế nào”, Tập san Nghiên cứu văn học (2), tr.82 - 87.

19. Lê Phương Anh (1961), “Góp ý kiến nhận định về truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng

Thủy”, Nghiên cứu văn học (4), tr.74 - 83.

20. Phương Anh (1974), “Truyền thuyết cổ tích Lam Sơn”, Tạp chí Văn học (1), tr.144- 145.

21. Nguyễn Sơn Anh (2005), Truyền thuyết Lam Sơn, Nxb Thanh Hóa.

22. Nguyễn Nhã Bản (1996), “Đặc trưng văn hóa người Nghệ Tĩnh (trên dẫn liệu ngôn

ngữ)”, Văn hóa dân gian (1), tr.63 - 65.

23. M.M.Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung

cổ và Phục Hưng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Roland Barthes (2008), Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb Tri thức, Hà

Nội.

25. Song Bân (1961), “Nên hiểu truyện Mỵ Châu thế nào cho đúng?”, Nghiên cứu văn học

(1), tr.79 - 85.

26. Hyppolyte Le Breton (2005), An Tĩnh cổ lục, Nxb Nghệ An, Trung tâm văn hóa ngôn

ngữ Đông Tây.

27. Nguyễn Huy Bỉnh (2011), Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa xứ Bắc, Luận

án tiến sĩ văn học, Hà Nội.

28. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

29. Nguyễn Đình Bưu (1975), “Các mảng chuyện kể dân gian về cuộc khởi nghĩa Hoàng

Hoa Thám trên đất Yên Thế”, Tạp chí Văn học (1), tr.71 - 84.

30. Trần Đức Các (1974), “Tục ngữ với truyền thuyết anh hùng”, Tạp chí Văn học (1), tr.59

- 69.

31. Trần Đức Các (1981), “Truyền thuyết về một dân ca”, Tạp chí Văn học (1), tr.65 -71.

32. Nguyễn Cảnh Thị (2004), Hoan Châu ký, Nxb Thế Giới, Hà Nội.

33. Nguyễn Phương Châm (1997), “Sự khác nhau giữa ca dao xứ Nghệ và xứ Bắc”, Văn

hóa dân gian (3), tr.9 - 21.

34. Phong Châu (1972), “Bàn về vấn đề văn bản truyện cổ dân gian Việt Nam”, Tạp chí

Văn học (6), tr.24 - 34.

35. Võ Phúc Châu (2010), Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở

Nam Bộ (1858 - 1918), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Thành phố Hồ Chí Minh.

36. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới (Phạm Vĩnh

Cư chủ biên), Nxb Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

37. Nguyễn Đổng Chi (1956), Lược khảo về thần thoại Việt Nam, Nxb Văn sử địa, Hà Nội.

38. Nguyễn Đổng Chi (chủ biên) (1995), Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ

An.

39. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa dân

tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Chiến (1996), “Cổ Loa thành, lịch sử và huyền thoại”, Văn hóa dân gian

(2), tr.45.

42. Nguyễn Đình Chú (1997), “Văn hóa dòng họ: từ những nét chung đến một trường hợp

cụ thể, họ Cương quốc công Nguyễn Xí tại Nghi Lộc, Nghệ An”, Văn hóa truyền thống

các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.131 - 144.

43. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

44. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế, Nxb Trẻ.

45. Chu Xuân Diên (2000), “Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện Tấm Cám”,

Tạp chí Văn học (3), tr. 13 - 20.

46. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn

nghệ thành phố HCM.

47. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu

thể loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi.

48. Trần Trí Dõi (2000), “Về địa danh Cửa Lò”, Văn hóa dân gian (3), tr.43 - 46.

49. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán soạn giả, Đặng Chu Kình dịch giả (1965),

Đại Nam nhất thống chí, quyển thứ 13, tỉnh Hà Tĩnh, Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa giáo

dục.

50. Cao Xuân Dục, Lưu Đức Xứng, Trần Xán soạn giả, Đặng Chu Kình dịch giả (1965),

Đại Nam nhất thống chí, quyển thứ 14 - 15, tỉnh Nghệ An, Nha Văn hóa, Bộ Văn hóa

giáo dục.

51. Hoàng Minh Đạo (1985), “Bước đầu tìm hiểu truyền thống chống giặc phương Bắc

trong truyện dân gian vùng Nghệ Tĩnh”, Về văn học dân gian miền Trung (kỷ yếu Hội

nghị văn học dân gian miền Trung lần thứ nhất), Trường Đại học Sư phạm Vinh, tr.41 -

48.

52. Phạm Viết Đào, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang: Chết cho lý tưởng vương đạo, thân

dân được sống còn?! Dẫn theo:

http://hoinhavanvietnam.vn/News.asp?cat=&scat=16&id=814

53. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc băng type và motif , Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

54. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa hoc

xã hội, Hà Nội.

55. Cao Huy Đỉnh (1969), Người anh hùng làng Dóng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Cao Huy Đỉnh (1965), “Học giả phương Tây đi tìm nguồn gốc truyện dân gian”, Tạp

chí Văn học (6), tr.72 - 81.

57. Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Nghiêm Vạn (1969), Phương pháp sưu tầm

văn học dân gian ở nông thôn, Vụ văn hóa quần chúng xuất bản.

58. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1962), Việt Nam ca trù biên khảo, Sài Gòn.

59. Nguyễn Xuân Đức (2002), “Vai người kể chuyện trong thần thoại, truyền thuyết và cổ

tích”, Tạp chí Văn học (9), tr.77 - 80.

60. James George Frazer (2007), Cành vàng (Bách khoa thư về văn hóa nguyên thủy) (Ngô

Bình Lâm dịch), Nxb Văn hóa thông tin, Tạp chí Văn hóa - nghệ thuật, Hà Nội.

61. Ninh Viết Giao (1975), Nghệ Tĩnh trong tổ quốc Việt Nam, Sở GD và ĐT Nghệ An xuất

bản.

62. Ninh Viết Giao (chủ biên) (1993), Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ Tập 1, Nxb

Nghệ An.

63. Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Sở Văn hóa thông tin Nghệ

An.

64. Ninh Viết Giao (2003), Địa chí huyện Quỳ Hợp, Nxb Nghệ An.

65. Ninh Viết Giao, Nhất lãm Con Cuông, dẫn

theo: http://btxvnt.org.vn/cms/?m=14&act=view&id=115

66. Ninh Viết Giao (2004), Về văn học dân gian xứ Nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

67. V.E. Guxep (1999), Mỹ học folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng.

68. Nguyễn Bích Hà (1986), “Bước đầu tìm hiểu truyện kể địa danh Việt Nam”, Tạp chí

Văn học (2), tr.59 - 63.

69. Nguyễn Thị Bích Hà (2002), “Qua truyện Tấm Cám ở vùng Kinh Bắc, tìm hiểu con

đường truyền thuyết hóa truyện cổ tích”, Văn hóa dân gian (6), tr.3- 8.

70. Mai Thanh Hải (2008), Địa chí tôn giáo lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

71. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

72. Vũ Tố Hảo (1990), “Vài ghi nhận về con người và bản sắc văn hóa Nghệ Tĩnh”, Văn

hóa dân gian (3), tr.69 - 72.

73. Đỗ Thị Hảo (1984), “Một số truyền thuyết xung quanh nhân vật Nùng Trí Cao”, Văn

hóa dân gian (2), tr.31 - 32.

74. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1993), Các nữ thần Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

75. Đỗ Thị Hảo (1997), “Vài suy nghĩ về các thần tích ở Nghệ An trong kho tư liệu Hán

Nôm”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.320 - 325.

76. Lê Văn Hảo (1985), “Bước đầu so sánh những sắc thái miền Trung qua bốn vùng dân

ca: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ”, Về văn học dân gian

miền Trung (kỷ yếu Hội nghị văn học dân gian miền Trung lần thứ nhất), Trường Đại

học Sư phạm Vinh, tr.16 - 27.

77. Đinh Văn Hiến, Đinh Lê Yên (2003), Mai Hắc Đế - truyền thuyết và lịch sử, Nxb Nghệ

An.

78. Nguyễn Quang Hồng - Trần Nghị, “Lễ hội các ngư dân miền biển Nghệ An”, Tạp chí

Văn hóa Nghệ An, dẫn theo: http://vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe/dat-

nuoc-xu-nghe/31-cac-l-hi-ca-c-dan-min-bin-ngh-an.html

79. Diệp Đình Hoa (1996), “Tính duy lý của truyền thuyết, huyền thoại: Người Việt cổ

chiếm lĩnh vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Văn hóa dân gian (4), tr.3 - 10.

80. Viện nghiên cứu văn hóa (2005), Thông báo văn hóa dân gian 2004, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

81. Kiều Thu Hoạch (1983), “Những đặc điểm tư tưởng của truyền thuyết chống ngoại

xâm”, Văn hóa dân gian (3,4), tr.6 - 18.

82. Kiều Thu Hoạch (2000), “Thể loại truyền thuyết dưới mắt các nhà nghiên cứu folklore

Nhật Bản và Trung Quốc”, Tạp chí Văn học (2), tr.39 - 50.

83. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt Tập 4

(Truyền thuyết), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

84. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt Tập 5

(Truyền thuyết), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

85. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể loại, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

86. Phan Kế Hoành (1978), “Góp phần tìm hiểu nguồn gốc truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long

Quân”, Tạp chí Văn học (4), tr. 88 - 95.

87. Nguyễn Thị Huế (1981), “Nhìn lại truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ và ngọn

nguồn dân tộc”, Tạp chí Văn học (6), tr.30 - 38.

88. Nguyễn Thị Huế (1983), “Tìm hiểu về motip cây trong Họ Hồng Bàng”, Tạp chí Văn

học (6), tr.69 - 74.

89. Nguyễn Thị Huế (1991), “Mô típ tiếng hát trong truyện kể dân gian Việt Nam”, Tạp chí

Văn học (5), tr. 32 - 35.

90. Nguyễn Thị Huế (1999), Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

91. Hồ Quốc Hùng (1998), “Về nhóm truyền thuyết khẩn hoang ở một vùng đất mới”, Tạp

chí Văn học (4), tr.71 - 78.

92. Hồ Quốc Hùng (2000), “Về sự tái sinh của nhóm truyền thuyết anh hùng bộ lạc ở một

vùng đất mới”, Tạp chí Văn học (10), tr.38 - 47.

93. Hồ Quốc Hùng (2002), “Góp thêm một cách nhìn về truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng

Thủy”, Tạp chí Văn học (5), tr.78 - 84.

94. Hồ Quốc Hùng (biên soạn) (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, Nxb Trẻ,

Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TPHCM.

95. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam

Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

96. Đinh Gia Khánh (1997), “Thử tìm hiểu cơ sở lịch sử xã hội của vùng văn hóa dân gian

Nghệ Tĩnh”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, tr.99 - 111.

97. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2001), Văn học dân gian Việt Nam, tái bản, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

98. Vũ Ngọc Khánh (1985), “Tiêu chí phân vùng văn nghệ dân gian (qua thực tế sưu tầm ở

Thanh Hóa)”, Về văn học dân gian miền Trung (kỷ yếu Hội nghị văn học dân gian miền

Trung lần thứ nhất), Trường Đại học Sư phạm Vinh, tr.28 -34.

99. Vũ Ngọc Khánh (1997), “Văn hóa truyền thống xứ Nghệ và hướng phát triển trong thời

đại mới”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.112 - 119.

100. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

101. Vũ Ngọc Khánh (2006), Tám vị vua triều Lý, Nxb Văn hoa thông tin, Hà Nội.

102. Phạm Tiết Khánh (luận án tiến sĩ) (2007), Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ

(qua thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà

Nội.

103. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, dẫn theo:

http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93n_Man

104. Nguyễn Xuân Kính (tổ chức bản thảo) (2004), Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hóa văn

nghệ dân gian Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

105. Lê Văn Kỳ (1990), “Tìm hiểu truyền thuyết qua hội lễ”, Văn hóa dân gian (4), tr.66- 68.

106. Lê Văn Kỳ (1997), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh

hùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

107. Vũ Tự Lập (chủ biên) (1991), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

108. Bùi Dương Lịch (1993), Nghệ An ký, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

109. Vũ Đình Liên, Đỗ Đức Hiểu, Lê Trí Viễn… (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt

Nam Tập 1, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

110. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

111. Trần Gia Linh (1980), “Vai trò của người phụ nữ khai sáng đất nước và dân tộc trong

truyền thuyết dân gian”, Tạp chí văn học (2), tr.34 - 40.

112. Nguyễn Thị Thu Linh (1986), “Thử minh giải truyền thuyết về nguồn gốc hội Liễu

Đôi”, Tạp chí Văn học (3), tr.125 - 136.

113. Cung Văn Lược (1981), “Từ truyền thuyết ven sông Nhuệ vẽ hình ảnh người phụ nữ

anh hùng thuở đánh Tống”, Tạp chí văn học (2), tr.10 - 17.

114. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

115. Lê Hồng Lý (1997), “Lễ hội dân gian ở Nghệ An: truyền thống và hiện đại”, Văn hóa truyền

thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.342- 350.

116. E.M.Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn và Song Mộc dịch),

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

117. Long Điền Nguyễn Văn Minh (1999), Từ điển văn liệu, Nxb Hà Nội.

118. Dưa Môn (2008), Lễ hội đền Cờn ở Quỳnh Phương, Nguồn:

http://quynhluu.net/archive/index.php/t-56.html

119. Đậu Tuấn Nam (2003), “Vũ trụ trong tâm thức dân gian Thái (qua nghiên cứu ở vùng

Quỳ Châu, Nghệ An)”, Văn hóa dân gian (1), tr.27 - 33.

120. Trần Nghĩa (1962), “Truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy phát triển qua các thời đại”,

Nghiên cứu văn học (4), tr.31 - 39.

121. Nguyễn Nghĩa Nguyên (2006), Từ Cổ Loa đến Đền Cuông, Nxb Nghệ An.

122. Bùi Văn Nguyên (1973), “Vài nét về văn hóa thời Hùng Vương qua một số truyền

thuyết cổ”, Tạp chí Văn học (5), tr.1 - 7.

123. Bùi Văn Nguyên (1993), Việt Nam thần thoại và truyền thuyết, Nxb Khoa học xã hội,

Nxb Mũi Cà Mau.

124. Phan Nhân (1961), “Mấy ý kiến về vấn đề khai thác truyện dân gian và cải biên truyền

thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy”, Nghiên cứu Văn học (9), tr.69 - 81.

125. Phan Đăng Nhật (1974), “So sánh một số truyền thuyết trong Đẻ đất đẻ nước của người

Mường với các truyền thuyết về thời dựng nước của người Việt”, Tạp chí Văn học (1),

tr.19 - 33.

126. Võ Quang Nhơn (1977), “Thần thoại và truyền thuyết các dân tộc ít người, một bộ phận

của nền văn học dân gian Việt Nam thống nhất và đa dạng”, Tạp chí Văn học (6), tr. 49

- 57.

127. N.I. Niculin (2006), Dòng chảy văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

128. Trịnh Đình Niên - Vi An (1994), “Góp phần tìm hiểu về những tín ngưỡng và lễ tục dân gian

của đồng bào Thái ở miền núi Nghệ An”, Văn hóa dân gian (2), tr.27 - 30.

129. Nguyễn Hồng Phú (1997), “Vài nét về truyện kể của dân tộc Thái ở miền núi Nghệ

An”, Văn hóa dân gian (3), 28 - 32.

130. Hồ Hữu Phước (1997), “Mấy suy nghĩ về văn hóa truyền thống trong làng xã ở Hà

Tĩnh”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.120 - 128.

131. Hồ Hữu Phước (1998), “Về một loại văn học dân gian lưu truyền ở xứ Nghệ - sấm

ngữ”, Văn hóa dân gian (4), tr.71 - 75.

132. G.N.Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

133. V.IA.Propp (2003), Tuyển tập V.IA.Propp Tập 1, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa

nghệ thuật, Hà Nội.

134. V.IA.Propp (2005), Tuyển tập V.IA.Propp Tập 2, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa

nghệ thuật, Hà Nội.

135. Vũ Quỳnh (1993), Tân đính Lĩnh Nam chích quái, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

136. Lê Chí Quế (chủ biên) (1990), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại học và Giáo dục

chuyên nghiệp, Hà Nội.

137. Trần Lê Sáng (1983), “Truyền thuyết về một bài thơ”, Tạp chí Văn học (5), tr.84 - 93.

138. Trần Minh Siêu (1997), “Sinh hoạt văn hóa trong lễ hội truyền thống tại đền thờ Tấn

quốc công Nguyễn Cảnh Hoan”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.366 - 373.

139. Thanh Sơn (1995), “Hội lễ đền chín gian của người Thái ở miền Tây Nghệ An”, Văn

hóa dân gian (4), tr.65 - 68.

140. Thanh Sơn (1992), “Đôi nét về tục uống rượu cần của người Thái ở miền Tây Nghệ

An”, Văn hóa dân gian (3), tr.24 - 26.

141. Claude Lévi - Strauss (2009), Nhiệt đới buồn, Ngô Bình Lâm dịch, Nguyên Ngọc hiệu

đính, Nxb Tri thức, Hà Nội.

142. Hoàng Anh Tài (1997), “Văn học dan gian trong các nghề thủ công truyền thống ở xứ

Nghệ”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.239 - 247.

143. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan (1957), Sơ thảo lịch

sử văn học Việt Nam, quyển 1: Phần ngữ ngôn văn tự và văn học truyền miệng, Nxb

Văn Sử Địa, Hà Nội.

144. Bùi Quang Thanh (1979), “Về một thể loại văn học dân gian”, Tạp chí Văn học (4), tr

125 - 134.

145. Bùi Quang Thanh (1981), “Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng”, Tạp chí

Văn học (3), tr.58 - 65.

146. Bùi Quang Thanh (1982), “Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người Việt”,

Tạp chí Văn học (2), tr.68 - 75.

147. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

148. Bùi Thiết (1992), “Có một hướng giải mã truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh”, Tạp chí

Văn học (2), tr.22 - 27.

149. Ngô Đức Thịnh (1990), “Nghiên cứu vùng văn hóa - khuynh hướng và các vấn đề”,

Văn hóa dân gian (3), tr.46 - 52.

150. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

151. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,

Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

152. Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

153. Hoàng Thọ (1987), “Về vốn múa nhảy trong các dân tộc ít người thuộc vùng miền núi

Nghệ Tĩnh”, Văn hóa dân gian (3), tr.63 - 65.

154. Hoàng Thọ (1997), “Sưu tầm, khai thác, sử dụng, phát huy vốn nghệ thuật dân gian của các

dân tộc ít người ở miền núi Nghệ An”, Văn hóa dân gian (3), tr.44-48.

155. Khoa ngữ văn Đại học Cần Thơ (1997), Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long,

Nxb Giáo dục.

156. Hữu Thoan, Hoàng Việt, Hữu Chính (2007), Sự tích chùa Hương Tích Hà Tĩnh, Nxb

Nghệ An.

157. Phan Trần (1967), “Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử”, Tạp chí Văn học

(3), tr.50 - 59.

158. Nguyễn Thanh Tùng (1997), “Đôi điều suy nghĩ về sự kết hợp văn hóa truyền thống với

thực tiễn trong việc thờ cúng tổ tiên”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.164 - 171.

159. Trịnh Cao Tưởng (2005), Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto ở Nhật Bản, một nghiên

cứu so sánh, Nxb Văn hóa thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội.

160. Đỗ Bình Trị - Trần Đình Sử (1998), Văn học Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

161. Võ Văn Trực (1976), Người anh hùng đất Hoan Châu: tráng ca, Nxb Thanh Niên, Hà

Nội.

162. Võ Văn Trực (1990), Truyền thuyết núi Hai Vai, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

163. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, Người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

164. Tạ Chí Đại Trường (2009), Những bài dã sử Việt, Nxb Tri Thức, Hà Nội.

165. Dương Tất Từ (1969), “Qua lời kể dân gian tìm hiểu thêm ý nghĩa một số tên làng, tên

đất và phong tục xung quanh truyền thuyết An Dương Vương”, Tạp chí Văn học (8),

tr.50 - 55.

166. Hoàng Tiến Tựu (1978), “Vấn đề phân vùng văn học dân gian và ý nghĩa phương pháp

luận của nó”, Tạp chí Dân tộc học (2), tr.1 - 13.

167. Hoàng Tiến Tựu (1979), “Sự phát triển của truyền thuyết chống ngoại xâm từ “Thánh

Gióng” đến “An Dương Vương”, Tạp chí Văn học (4), tr.50 - 58.

168. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

169. Hoàng Tiến Tựu (1997), “Lễ hội với đời sống tinh thần của nhân dân trong xã hội hiện

nay”, Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.326 - 332.

170. Thanh Việt (1960), “Nên khai thác và đánh giá truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy như thế

nào?”, Nghiên cứu văn học (12), tr.90 - 92.

171. Nguyễn Quang Vinh (1974), “Hình bóng người anh hùng sáng tạo văn hóa trong truyền

thuyết dân gian Không Lộ”, Tạp chí Văn học (6), tr.61 - 73.

172. Tầm Vu (1967), “Tư tưởng chủ yếu của người Việt thời cổ qua những truyện đứng đầu

trong thần thoại và truyền thuyết”, Tạp chí Văn học (3), tr.60 - 71.

173. Lê Trung Vũ (1980), “Truyền thuyết Chi Lăng, bài ca chiến công lẫy lừng của đồng bào

miền núi chống bọn bành trướng đại Hán tộc”, Tạp chí Văn học (5), tr.81 - 85 .

174. Trần Quốc Vượng (1965), “Bàn thêm về truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy”, Tạp

chí Văn học (1), tr.99 - 101.

175. Trần Quốc Vượng (1969), “Từ việc nghiên cứu một số tên riêng trong các truyền thuyết

nói về thời kỳ dựng nước”, Tạp chí Văn học (2), tr.63 - 77.

176. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp

chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

177. Vũ Nhị Xuyên (1995), Văn học dân gian xứ Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.

178. Lý Tế Xuyên (1960), Việt điện u linh tập, bản dịch của Lê Hữu Mục, Nxb Văn hóa, Hà

Nội.

179. Nguyễn Khắc Xương (biên soạn và giới thiệu) (1971), Truyền thuyết Hùng Vương, Chi

hội Văn nghệ dân gian Vĩnh Phú.

180. Nguyễn Khắc Xương (1973), “Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn

xướng tín ngưỡng phong tục”, Tạp chí Văn học (6), tr.98 - 107.

181. Nguyễn Khắc Xương (1976), “Tìm hiểu những truyền thuyết về văn hóa thời Hùng

Vương dựng nước trên vùng đất tổ”, Tạp chí Văn học (2), tr.21 - 28.

182. Hùng Nam Yến (1974), “Về truyền thuyết thời Hùng Vương”, Tạp chí Văn học (1),

tr.140 - 143.

183. Phạm Thu Yến (chủ biên) (2008), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

184. Cl. Chivas Baron (1920), Stories and legends of Annam (Translate from the French

Contes et Lesgendes de l’Annam by E.M.Smith Dampier), Andrew Melrose, Ltd.,

London and New York.

185. Le Huy Hap (1963), Vietnamese legends, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

186. L.T. Bạch Lan (1957), Vietnamese legends, Kim Lai An Quan, C/O 6, Lê Văn Hưu, Sài

Gòn.

187. George F. Schultz (1965), Vietnamese legends, Charles E. Tuttle Company, Rutland,

Vermont & Tokyo, Japan.

Tài liệu tiếng Trung

188. 丁 乃 通(1986), 中 国 民 间 故 事 类 型 索 引,中 国 民 间 文 艺 出

版社,北京。