Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 06/12)
VN - Index 963,56 0,03%
HNX - Index 102,50 0,13%
D.JONES CK Mỹ 28.015,06 1,22%
STOXX CK C.Âu 3.692,34 1,21%
CSI 300 CK TQ 3.902,39 0,59%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 09/12)
SJC Ng.đ/L 41.460 0,30%
Quốc tế USD/Oz 1.459,10 1,21%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.167 0,01%
EUR/USD 1,1057 0,40%
Dầu
WTI USD/th 58,90 0,70%
Theo quan sát của một số chuyên gia, dù
các quyết định giảm LS của NHNN được ban
hành dồn dập nhưng trên thực tế, đến thời
điểm này chưa có nhiều tác động trên diện
rộng. Có 4 nguyên nhân khiến LS của Việt
Nam chưa thể giảm là lạm phát (trung bình
khoảng 3%, trong khi khu vực chỉ ở mức 2-
2,3%); mức độ rủi ro dưới góc nhìn NĐTNN
vẫn cao; chi phí giao dịch trong nền kinh tế
quá lớn và LS HĐ đầu vào khó hạ.
Tin nổi bật
Lãi suất giảm, nhưng người dân và doanh nghiệp
vẫn chưa được hưởng lợi
Tăng trưởng tín dụng 2019 ước khoảng 13%
Thị trường chứng khoán Việt Nam: Những nút thắt
cần sớm tháo gỡ
Thoái vốn Nhà nước 2019 trầm lắng, kỳ vọng vào
2020
OPEC+ tiếp tục giảm sản lượng dầu mỏ thêm
500.000 thùng mỗi ngày
Thứ Hai, ngày 09/12/2019
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
LS giảm, nhưng người dân và DN
vẫn chưa được hưởng lợi
Theo quan sát của một số chuyên gia, dù các quyết định giảm LS của
NHNN được ban hành dồn dập nhưng trên thực tế, đến thời điểm này
chưa có nhiều tác động trên diện rộng. TS Cấn Văn Lực đánh giá các
quyết định của NHNN có xu hướng “nới lỏng” tiền tệ, tuy nhiên tác động
không quá lớn. Đơn cử như việc giảm LS huy động chỉ áp dụng với kỳ
hạn ngắn dưới 6 tháng nên tác động rất hạn chế. Trong khi đó, LS cho
vay giảm chủ yếu chỉ áp dụng các lĩnh vực ưu tiên nên tác động đến kết
quả kinh doanh các NH cũng không nhiều.
Ngược lại, đi cùng với các biện pháp giảm chi phí vốn cho NH, hạ LS
cho DN thì NHNN lại có xu hướng siết chặt các khoản vay nhiều rủi ro
như tín dụng BĐS. Theo đó, từ 1-1-2020 đến 30-9-2020, tỷ lệ tối đa của
nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn là 40%.
Từ tháng 10-2022 sẽ giảm xuống còn 30%. Đặc biệt, bên cạnh việc giảm
tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, NHNN còn tăng hệ số rủi
ro khi kinh doanh BĐS từ 150% lên 200%.
Khảo sát của phóng viên cho thấy, nhiều khách hàng cho biết việc tiếp
cận nguồn vốn vay mua nhà đang trở nên khó khăn hơn. Chẳng hạn,
trước đây NH có thể cho vay tới 70% giá trị căn hộ, nhưng hiện tại chỉ
hỗ trợ tối đa 50%, thời gian vay cũng giảm so với trước kia. LS các khoản
vay mua nhà khoảng 12%/năm và sẽ điều chỉnh định kỳ căn cứ vào LS
huy động. Đặc biệt, với các chủ đầu tư, việc tiếp cận vốn NH còn khó
khăn hơn nhiều. Nguyên nhân, nếu theo quy định tăng hệ số rủi ro cho
một khoản vay lên 200%, đồng nghĩa NH phải tăng khoản vốn tự có cho
một khoản vay BĐS lên gấp đôi. Khi đó, NH sẽ buộc phải hạn chế cho
vay BĐS, đồng thời phải tăng LS…
Ngoài ra, việc tiếp cận vốn tín dụng của các DN nhỏ và vừa vẫn còn gặp
nhiều khó khăn. Nguyên nhân do họ thường không tích lũy được tài sản
nhiều, không có tài sản thế chấp; hệ thống kế toán, tài chính và minh
bạch thông tin chưa đạt chuẩn… Do vậy, nếu không có quan hệ lâu dài
với NH thì việc tiếp cận vốn vẫn vô cùng khó khăn.
Tại một Diễn đàn về công nghiệp hỗ trợ 2019 mới đây, nhiều DN cũng
bày tỏ khó khăn do thiếu vốn, phải vay NH với LS cao, khiến chi phí giá
Tài chính – Ngân hàng
3
thành sản phẩm không thể cạnh tranh. Trong khi đó, đại diện NHNN cho
rằng, vốn NH huy động ở dân cư nên việc đảm bảo an toàn vốn phải
được chú trọng. Do đó, dù hệ thống NH luôn sẵn sàng nguồn vốn cho
DN nhỏ và vừa, nhưng phải có điều kiện nhất định và các doangh nghiệp
phải tuân thủ quy định. Một điểm khó nữa đối với hoạt động cấp tín dụng
cho nền kinh tế, đó là hiện nay một số NH lại đang gặp khó trong việc
mở rộng tín dụng do vướng ở tỷ lệ an toàn vốn.
Tăng trưởng tín dụng 2019 ước
khoảng 13%
Tại Diễn đàn kinh tế 2020: “Tích luỹ động năng cho chu kỳ tăng trưởng
mới” do VCCI tổ chức ngày 5/12, Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng
BIDV nhận định trong các nguồn vốn có thể huy động cho DN (ngân
sách, vốn nước ngoài, TTCK, tín dụng, tự có), vốn tín dụng đang ở mức
khá cao, khoảng 134% GDP. Tốc độ tăng trưởng năm nay khoảng 13%.
Ông Lực nhận định, quy mô tín dụng của Việt Nam hiện tương đối lớn so
với thu nhập bình quân đầu người và mức độ phát triển của nền kinh tế.
“So với các nước trong khu vực, nếu tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt
Nam đạt 10% thì cũng đã cao hơn, vì họ kiểm soát con số này ở mức 4-
6%”, ông Lực nói.
Về xu hướng dòng vốn, thị trường đang ghi nhận sự dịch chuyển nhiều
hơn vào lĩnh vực dịch vụ (nhất là vốn FDI) và thu hẹp trong lĩnh vực sản
xuất. Chỉ số tiếp cận tín dụng của DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa hiện ở
mức 22%, thấp hơn so với Hàn Quốc, Trung Quốc… nhưng cao hơn mức
8-10% của Indonesia, Philippines, Ấn Độ… Theo đó, LS cho vay thực
trung bình 2014-2018 là 4,96%, sau khi đã khấu trừ lạm phát. Đây là
mức tín dụng theo nhận định của ông Lực là “hơi cao” so với khu vực.
Có 4 nguyên nhân khiến LS của Việt Nam chưa thể giảm là lạm phát
(trung bình khoảng 3%, trong khi khu vực chỉ ở mức 2-2,3%); mức độ rủi
ro dưới góc nhìn nhà đầu tư nước ngoài vẫn cao; chi phí giao dịch trong
nền kinh tế quá lớn và LS huy động đầu vào khó hạ.
TTCK Việt Nam: Những nút thắt
cần sớm tháo gỡ
TTCK Việt Nam là một trong những thị trường phát triển ổn định nhất
khu vực Ðông Nam Á. Có thể khẳng định như vậy là bởi Ðông Nam Á đã
từng chứng kiến sự sụp đổ khiến thị trường ngừng hoạt động trong gần
chục năm như tại Indonesia hay Thái Lan và cũng không ít lần mất ổn
định trầm trọng khiến các NH trung ương phải cấp cứu…Trong khi đó,
TTCK Việt Nam dù có những thời điểm giá xuống thấp, nhưng vẫn duy
trì hoạt động ổn định từ khi thành lập cho đến nay.
4
Bên cạnh những yếu tố tích cực, TTCK Việt Nam vẫn còn tồn tại khá
nhiều vấn đề, mà chúng ta đang kỳ vọng Luật Chứng khoán sửa đổi có
thể khắc phục được phần nào. Trước hết, Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước chưa phải là cơ quan độc lập, trực thuộc Chính phủ để có được
một công suất nghiên cứu và một tầm nhìn rộng lớn tới toàn bộ kinh tế
vĩ mô cho các loại thị trường, đặc biệt là thị trường trái phiếu chính phủ,
trái phiếu DN, thị trường BĐS và thị trường tiền tệ. Tiếp đó là câu chuyện
thiếu vắng những tên tuổi lớn, trong khi nhiều tổng công ty, tập đoàn quy
mô hiện đang là DN nhà nước đã và đang cổ phần hoá, nhưng chưa trở
thành trụ cột trên sàn chứng khoán.
Ðồng thời, sự phối hợp giữa các chính sách kinh tế vĩ mô cũng chưa thực
sự đồng bộ, hiệu quả, nhất là giữa ba thị trường NH, chứng khoán và
bảo hiểm. Nhiều thời điểm có những tác động chéo, chưa được kiểm
soát, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự tác động qua lại giữa các
thị trường này là rất lớn. Cuối cùng, cần phát triển các định chế hỗ trợ
cho TTCK, đó là các công ty xếp hạng tín nhiệm, kiểm toán lớn mạnh,
NH đầu tư, quỹ đầu tư rủi ro, các công ty tạo lập thị trường.
Đề phát triển TTCK cần một số giải pháp sau: Một là, hoàn thiện cơ sở
pháp lý. Theo đó, Luật Chứng khoán mới cần được xây dựng theo hướng
tiệm cận gần với thông lệ quốc tế ở cả cấp quản lý là Ủy ban Chứng
khoán, các cơ quan giám sát, đặc biệt là quy chế giao dịch. Hai là, tăng
cường tính công khai, minh bạch và sử dụng lực lượng thị trường để tạo
lập thị trường. Ba là, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá DN nhà nước và lựa
chọn những DN kinh doanh hiệu quả niêm yết trên sàn chứng khoán để
tăng cường lực lượng hàng hoá có chất lượng làm trụ cột cho thị trường
phát triển ổn định. Bốn là, đầu tư thoả đáng vào công tác nghiên cứu và
phát triển vào công nghệ, đặc biệt là công nghệ thanh toán và giao dịch
phù hợp với cách mạng 4.0.
Năm là, tăng cường công tác giám sát thị trường trái phiếu, đặc biệt là
thị trường phái sinh. Ðó là chưa kể rủi ro liên quan đến LS và tỷ giá hối
đoái đối với thị trường phái sinh cũng tăng tới 50 - 60%/năm.
Tóm lại, nếu chúng ta thực hiện được đồng bộ các giải pháp, cộng với
nền tảng kinh tế vĩ mô, chính trị ổn định, TTCK Việt Nam có một tiềm
năng phát triển vững chắc và trở thành một trong những kênh huy động
vốn dài hạn ngày càng có ý nghĩa đối với phát triển DN nói riêng, nền
kinh tế nói chung.
5
Thoái vốn Nhà nước 2019 trầm
lắng, kỳ vọng vào 2020
Sau khi có quyết định 1232 của Thủ tướng phê duyệt danh mục DN có
vốn Nhà nước thực hiện thoái vốn giai đoạn 2017-2020, hoạt động thoái
vốn và IPO đã trở nên sôi động hơn. Các chuyên gia và công ty chứng
khoán kỳ vọng hoạt động thoái vốn Nhà nước cũng trở thành động lực
tăng cho thị trường trong năm 2019. Tuy nhiên thực tế thoái vốn năm
nay trầm lắng, các thương vụ thoái vốn lớn được kỳ vọng diễn ra không
được triển khai. Năm 2019 cũng hoàn toàn vắng bóng có vụ IPO lớn.
Nhiều thương vụ bán vốn nghìn tỷ của SCIC không thể diễn ra do không
có nhà đầu tư đăng ký tham dự đấu giá.
Tính đến cuối tháng 9, mới cổ phần hóa được 36/127 DN nhà nước và
hoàn thành thoái vốn được 89/405 DN, lần lượt đạt 28,3% và 21,9% so
với kế hoạch đặt ra cho cả giai đoạn 2016-2020. Đồng thời, theo Quyết
định số 26/2019/QĐ-TTg phê duyệt Danh mục DN thực hiện cổ phần
hóa đến hết năm 2020, có 93 DN thực hiện cổ phần hóa đến hết năm
2020. Trong đó, Nhà nước sẽ nắm giữ từ 65% vốn điều lệ trở lên đối với
4 DN thực hiện cổ phần hóa, bao gồm NH Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (Agribank), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt
Nam - Công ty mẹ (Vinacomin-TKV), Tổng công ty Lương thực miền Bắc
(Vinafood I) và Công ty TNHH một thành viên Khoáng sản.
Theo báo cáo của Rồng Việt, việc tỷ lệ thực hiện kế hoạch thoái vốn và
IPO đang ở mức thấp kèm quyết định số 26 tạo áp lực hoàn thành kế
hoạch trong năm 2020. Đồng thời, tính đến cuối tháng 6, quá trình thoái
vốn Nhà nước mới mang về khoảng 220 ngàn tỷ đồng (chủ yếu từ thương
vụ Sabeco). Trong khi kế hoạch thu từ thoái vốn để phục vụ đầu tư giai
đoạn 2016-2020 của Chính phủ là 250 ngàn tỷ đồng, đầu tư công giai
đoạn này chậm lại do giải ngân thấp. Do vây, Rồng Việt cho rằng một
vài thương vụ có thể diễn ra trong năm 2020 như thoái vốn ACV, VEA,
PLX, HVN và IPO Agribank, Genco1, Vinachem…
Masan bắt tay Vingroup: Bán lẻ
nội địa lật ngược thế cờ
Theo Nikkei, các nhà bán lẻ từ khắp châu Á đang đổ bộ vào Việt Nam
khi các hạn chế đối với các công ty nước ngoài được nới lỏng. Các tập
đoàn lớn kinh doanh bán lẻ lớn của nước ngoài liên tục đẩy mạnh chiến
lược thâm nhập và mở rộng thị trường. Sự cạnh tranh dự kiến còn khốc
Kinh tế Việt Nam
6
liệt hơn, bởi sau một thời gian dài tìm hiểu và thử nghiệm tại thị trường
Việt Nam, các DN ngoại đã dần nắm bắt được thị hiếu và thói quen tiêu
dùng của người Việt, từ đó đưa ra những chiến lược kinh doanh và kỳ
vọng phù hợp, sẵn sàng cạnh tranh với các DN Việt. Nếu DN Việt không
chủ động có chiến lược đầu tư bài bản, lâu dài thì sẽ mất vị thế của mình
ngay trên sân nhà.
Quyết tâm giành lại lợi thế trên sân nhà, thương vụ sáp nhập lớn nhất
năm 2019 giữa 2 DN hàng đầu Việt Nam vừa bất ngờ diễn ra. Tập đoàn
Vingroup và Tập đoàn Masan đã thoả thuận nguyên tắc về việc hoán đổi
cổ phần Công ty VinCommerce và Công ty VinEco. Công ty mới sẽ sở
hữu mạng lưới hơn 2.600 siêu thị và cửa hàng VinMart & VinMart + tại
50 tỉnh thành, hệ thống 14 nông trường công nghệ cao và lĩnh vực sản
xuất tiêu dùng từ Masan. Theo đó, sự kết hợp giữa hai DN này có ý nghĩa
củng cố, tăng cường sức mạnh cho các DN bán lẻ Việt Nam.
Việc đổ bộ của các DN FDI vào hệ thống bán lẻ khiến nhiều ý kiến lo
ngại rằng hệ thống bán lẻ trong nước đang có nguy cơ bị các DN nước
ngoài thao túng và chiếm lĩnh thị trường. Đánh giá về các thương vụ M&A
vừa qua, ông Vũ Vinh Phú, nguyên Chủ tịch Hội Siêu thị Hà Nội cho biết,
rất vui vì đã có DN bán lẻ trong nước đã đủ sức thâu tóm bán lẻ nước
ngoài, mở rộng hệ thống phân phối, từ đó giải quyết bài toán đầu ra cho
hàng Việt. Không chỉ đủ năng lực cạnh tranh và khả năng đối trọng sòng
phẳng với các DN bán lẻ nước ngoài, giành và giữ được thị phần cho
người Việt – thông qua kênh phân phối của mình, VinCommerce còn tiên
phong hỗ trợ các nhà sản xuất nội địa cùng phát triển.
Dự kiến tới 2025, hệ thống sẽ sở hữu hơn 300 siêu thị VinMart, gần
10.000 cửa hàng VinMart+, tiên phong phủ sóng tại khắp 63 tỉnh, thành
trên cả nước. VinMart & VinMart+ đã liên tiếp 2 năm liền giữ vững vị trí
số 1 trong Top 10 Công ty uy tín ngành Bán lẻ do Vietnam Report bình
chọn. Có thể nói, sự kết hợp giữa VinGroup và Masan đang mở ra một
cơ hội lớn với kỳ vọng mang tới cho người tiêu dùng những phong cách
mua sắm mới hiện đại, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đúng với
sứ mệnh mà Masan vẫn theo đuổi là phụng sự người tiêu dùng. Người
Việt xây dựng và vận hành chắc chắn sẽ tạo ra những điều kỳ diệu.
7
DN Mỹ hoang mang với Trump
Lúc hăm dọa, lúc mềm mỏng - phong cách thất thường của ông Donald
Trump không chỉ khiến Trung Quốc bất ngờ mà DN Mỹ cũng hoang
mang. Khi các cuộc đàm phán thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc cứ
tiến rồi lùi liên tục như trận đấu bóng bàn, John Ling, một doanh nhân
tại Nam Carolina, ngày càng bi quan về bất kỳ thỏa thuận nào sẽ đạt
được dưới thời Tổng thống Donald Trump.
Mỹ và Trung Quốc vừa trải qua một tuần với không khí chiến tranh
thương mại nóng lạnh liên tục. Tổng thống Trump đã làm náo loạn
TTCK hôm thứ ba với tuyên bố có thể chờ để đạt một thỏa thuận sau
cuộc bầu cử năm 2020, tức tầm một năm nữa. Hai ngày sau đó, ông lại
nói các cuộc đàm phán "đang đi đúng hướng" và các nguồn tin thân cận
của Bloomberg cho biết hai nước đã tiến rất gần đến một thỏa thuận.
Đến hôm thứ sáu, cố vấn kinh tế của Nhà Trắng Larry Kudlow, cho biết
thỏa thuận đang đi đến giai đoạn cuối cùng nhưng các đề xuất về việc
Trung Quốc sẽ mua nông sản Mỹ ra sao vẫn đang được thảo luận.
Chính quyền Trump thì vẫn bỏ ngỏ khả năng tiếp tục áp thuế thêm 160
tỷ USD hàng hóa Trung Quốc vào 15/12 tới, nếu không có gì thay đổi.
Ông Trump từ lâu đã có phong cách thích tạo áp lực trong các cuộc
đàm phán thương mại với Trung Quốc, đặc biệt là khi vào giai đoạn
nước rút. Vào tháng 9, Trump nói rằng ông sẽ không hài lòng về một
thỏa thuận một phần với Trung Quốc, chỉ vài tuần trước khi ông và Chủ
tịch Tập Cận Bình công bố những phác thảo của thỏa thuận thương mại
giai đoạn một.
Ngay cả khi chiến lược của ông có thể giúp đạt được sự nhượng bộ, thì
theo Bloomberg, các DN nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vẫn không
thể nào lập kế hoạch cho tuần tới, tháng tới vì không biết chuyện gì sẽ
đột ngột xảy ra. Các công ty Mỹ cũng đưa ra bình luận tương tự, về việc
không thể thay đổi kế hoạch đầu tư hoặc nhà máy khi họ không biết
rằng cuộc chiến thương mại sẽ kéo dài bao lâu.
Foreman, ông chủ của hãng đồ chơi Basic Fun!, nổi tiếng khắp nước
Mỹ với các sản phẩm như Lincoln Logs hay xe tải Tonka. Ông thừa
Kinh tế Quốc tế
8
nhận 90% sản phẩm đang được gia công tại Trung Quốc và tất cả sản
phẩm mùa Giáng Sinh năm nay đều trong diện bị đánh thuế của Mỹ.
Điều ông hoang mang là rốt cuộc vẫn chưa biết 15% thuế áp thêm 160
tỷ hàng Trung Quốc vào ngày 15 tới có thực sự được triển khai hay
không, trong lúc hàng của ông đang lênh đênh trên biển, trong hành
trình đến Mỹ. Nếu có thì ông phải biết trước để tăng giá bán sản phẩm
ít nhất là 15%.
OPEC+ tiếp tục giảm sản lượng
dầu mỏ thêm 500.000 thùng mỗi
ngày
Ngày 6/12, OPEC cùng đồng minh, gọi là OPEC+, đã nhất trí cắt giảm
sản lượng dầu mỏ thêm 500.000 thùng/ngày. Với quyết định này, sản
lượng dầu mỏ mới sẽ ít hơn 1,7 triệu thùng/ngày so với sản lượng của
tháng 10/2018. OPEC cũng cho biết rằng nhiều nước khác, trong đó có
Arab Saudi, sẽ tiếp tục cắt giảm thêm sản lượng dầu. Điều này đồng
nghĩa tổng sản lượng dầu cắt giảm có thể lên tới 2,1 triệu thùng/ngày.
Tháng 12/2018, OPEC đã quyết định giảm sản lượng khai thác, cụ thể
là giảm 1,2 triệu thùng dầu/ngày so với mức của tháng 10 cùng năm.
Trong cuộc họp gần đây nhất của OPEC vào tháng 7, các nước thành
viên đã nhất trí gia hạn mức cắt giảm này.
OPEC hiện muốn cắt giảm sản lượng mạnh hơn, nhưng cần có sự nhất
trí của Nga và các nước sản xuất khác để tránh tình trạng dư cung trong
năm tới, sau khi tăng trưởng nhu cầu chậm lại trong năm nay.
9
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/lai-suat-giam-nhung-nguoi-dan-va-doanh-nghiep-van-chua-duoc-huong-loi-
20191208173237828.chn
https://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/thi-truong-chung-khoan-viet-nam-nhung-nut-that-
can-som-thao-go-306508.html
https://ndh.vn/tien-te/tien-si-can-van-luc-tang-truong-tin-dung-2019-uoc-khoang-13-1259726.html
Tin KT vĩ mô https://ndh.vn/doanh-nghiep/thoai-von-nha-nuoc-2019-tram-lang-ky-vong-vao-2020-
1259652.html
https://tinnhanhchungkhoan.vn/thuong-truong/masan-bat-tay-vingroup-ban-le-noi-dia-lat-nguoc-
the-co-306394.html
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2019/12/doanh-nghiep-my-hoang-mang-voi-trump-775-718619.htm
https://ndh.vn/quoc-te/opec-tiep-tuc-giam-san-luong-dau-mo-them-500-000-thung-moi-ngay-
1259748.html
10
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
Bảo hiểm BH Khách hàng cá nhân KHCN
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Kinh tế KT
Bảo hiểm y tế BHYT Kinh tế xã hội KTXH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Kinh tế vĩ mô KTVM
Bảo hiểm xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN Nhà đầu tư NĐT
D Nhà đầu tư nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT Nợ xấu NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
11
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
Sản xuất SX Xuất nhập khẩu XNK
Sản xuất kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH Việt Nam VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
Tăng trưởng tín dụng TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
Tổ chức tín dụng TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
Trái phiếu Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
Trái phiếu DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF