Upload
le-thanh-khoi
View
230
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Giáo trình PP nghiên cứu khoa học
Citation preview
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. Khoa học
1. Khái niệm khoa học
Thuật ngữ khoa học xuất hiện sớm và được hiểu theo nghĩa là một hình thức hoạt động sáng tạo đặc biệt, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Ở mỗi góc độ tiếp cận, khoa học hàm nghĩa khác nhau.
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội. Sự hình thành, phát triển của khoa học không tách rời sự hình thành và phát triển của tồn tại xã hội. Khoa học vừa phản ánh đời sống xã hội, trước hết là đời sống vât chất của xã hội ấy, vừa có tính vượt trước so với tồn tại xã hội sinh ra nó. Đồng thời khoa học có tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác trong quá trình phát triển của chúng.
Khoa học là một hoạt động nghề nghiệp xã hội. Sản phẩm của hoạt động khoa học là những tri thức về thế giới, về sự cải tiến kỹ thuật công nghệ, cách thức tổ chức sản xuất. Hoạt động khoa học đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ làm khoa học có trình độ chuyên môn cao, có phương pháp làm việc thực sự chuyên nghiệp.
Khoa học là hệ thống tri thức phản ánh cái bản chất, tính quy luật của
sự vật hiện tượng hay quá trình, hình thành trong lịch sử và không ngừng
phát triển trên cơ sở thực tiễn. Khoa học là quá trình nhận thức, chiếm lĩnh
chân lý và chỉ tìm thấy ý nghĩa khi chúng được áp dụng vào thực tiễn.
Không có giới hạn trong sự phát triển khoa học.
2. Sự phát triển của khoa học
Quá trình phát triển của khoa học có hai xu hướng ngược chiều nhưng
thống nhất với nhau.
Xu hướng phân lập khoa học dẫn đến sự tách một hay một số bộ môn
khoa học ra khỏi một bộ môn khoa học đang tồn tại. Bản chất quá trình này
là sự phân lập đối tượng nghiên cứu từ bộ môn khoa học ban đầu để hình
thành một bộ môn khoa học có đối tượng nghiên cứu hẹp hơn.
Trong thời kỳ cổ đại, triết học là khoa học duy nhất chứa đựng mọi tri
thức về tự nhiên và xã hội. Thời kỳ phục hưng trở đi, các khoa học tự nhiên
dần tách khỏi triết học. Sau này, các khoa học xã hội như kinh tế học, chính
trị học... cũng tiếp tục trở nên (thành) những bộ môn độc lập theo xu hướng
phân lập khoa học.
Xu hướng phân lập không loại trừ quá trình tích hợp các khoa học.
Bản chất của quá trình tích hợp các khoa học là sự tích hợp phương pháp
luận của hai hay nhiều bộ môn khoa học riêng lẻ để hình thành một bộ môn
khoa học mới. Trong thực tiễn phát triển khoa học, khi nảy sinh các vấn đề
mà phương pháp luận của từng bộ môn không thể giải quyết thi chúng liên
minh với nhau, thâm nhập nhau dẫn đến sự hình thành của bộ môn khoa học
mới.
Trong từng giai đoạn lịch sử, theo yêu cầu của sự phát triển sản xuất
và đời sống, yêu cầu phát triển của chính các bộ môn khoa học mà xu hướng
phân lập hay tích hợp các khoa học nổi lên chiếm ưu thế.
Việc thừa nhận một bộ môn khoa học dựa trên các tiêu chí:
Một là, có đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là sự vật, hiện
tượng được đặt trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học. Một sự vật
hiện tượng có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác
nhau. Song mỗi bộ môn khoa học nghiên cứu sự vật hiện tượng ấy trên
những khía cạnh khác nhau.
Hai là, có một hệ thống lý thuyết. Hệ thống lý thuyết bao gồm những
khái niệm, phạm trù, quy luật…là tiêu chí nhận diện một bộ môn khoa học.
Lý thuyết mỗi bộ môn khoa học vừa mang tính kế thừa của các bộ môn khoa
học khác, vừa có những tri thức riêng có, đặc trưng của mình.
Ba là, có hệ thống phương pháp luận. Mỗi bộ môn khoa học dù có
phương pháp luận chung nhất, phương pháp luận ngành thì vẫn có phương
pháp luận của riêng nó.
Bốn là, có mục đích sử dụng. Mục đích thực sự của khoa học là nhận
thức và cải tạo thế giới. Khoảng cách giữa nhận thức và thay đổi hiện thực
ngày càng được rút ngắn. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng đặt rõ ràng và
cụ thể mục đích sử dụng khi thừa nhận một bộ môn khoa học.
3. Phân loại khoa học
Phân loại khoa học là sắp xếp các bộ môn khoa học thành một hệ
thống thứ bậc trên cơ sở những dấu hiệu đặc trưng bản chất của chúng. Việc
phân loại khoa học nhằm nhận dạng cấu trúc của toàn bộ hệ thống tri thức,
xác định vị trí của mỗi bộ môn khoa học và con đường phát triển cho khoa
học.
Lịch sử phát triển khoa học ghi nhận những bảng phân loại khoa học
khác nhau. Thời cổ đại, Arixtốt đã chia khoa học thành ba loại: khoa học lý
thuyết, khoa học sáng tạo và khoa học thực hành. Thời trung cổ, khoa học
được phân thành thần học, logic học và ngữ pháp. Thời cận đại, Bêcơn lại
chia khoa học thành lịch sử, thơ ca và triết học, Xanhximông chia khoa học
tự nhiên thành vật lý vô cơ và vật lý hữu cơ. Khoa học xã hội là bộ phận của
khoa học tự nhiên gọi là vật lý xã hội. Hêghen chia khoa học tự nhiên thành
ngành cơ học, ngành hóa học và ngành cơ thể học.
Căn cứ vào các hình thức vận động của vật chất, mối liên hệ, sự
chuyển hóa giữa chúng, Mác - Ăngghen cho rằng sự phân loại khoa học phải
dựa trên nguyên tắc khách quan, dựa vào đối tượng mà nó nghiên cứu và
nguyên tắc phối thuộc, tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước và bao
hàm tri thức có trước ấy.
Hiện nay, nhiều quan điểm phân loại khoa học dựa trên cách tiếp cận
khác nhau cùng tồn tại. Chẳng hạn, theo mục đích ứng dụng của khoa học,
người ta phân thành khoa học mô tả, khoa học phân tích, khoa học ứng
dụng, khoa học sáng tạo...Theo mức độ khái quát hóa của khoa học có khoa
học cụ thể, khoa học trừu tượng, khoa học khái quát, khoa học đặc
thù...Theo cơ cấu của hệ thống tri thức hoặc chương trình đào tạo có khoa
học cơ bản, khoa học cơ sở, khoa học chuyên môn. Theo đối tượng nghiên
cứu của khoa học có khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật,
khoa học nông nghiệp, khoa học sức khỏe...
Phân loại khoa học là yêu cầu khách quan cho sự phát triển của
chúng. Vùng giáp ranh giữa các bộ môn khoa học đòi hỏi cần được giới
khoa học quan tâm bởi đây chính là nơi thường diễn ra quá trình tích hợp
phương pháp luận để hình thành một môn khoa học mới.
Sự phát triển khoa học luôn dẫn đến sự phá vỡ những ranh giới cứng
nhắc trong phân loại khoa học. Vì vậy, mọi bảng phân loại khoa học cần
được xem là hệ thống mở, luôn được hoàn thiện và phát triển.
II. Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học
nhằm tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, ứng
dụng vào các quá trình xã hội để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần
mãn nhu cầu của con người.
1. Chức năng của nghiên cứu khoa học
a. Mô tả
Nhận thức một sự vật hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ mô tả sự vật
hiện tượng ấy. Mô tả sự vật là trình bày bằng ngôn ngữ, hình ảnh về cấu
trúc, trạng thái, sự vận động của sự vật. Trong nghiên cứu khoa học, sự vật
được mô tả một cách chân thực như sự tồn tại, vận động vốn có của nó. Mô
tả giúp con người nhận dạng, phân biệt sự vật hiện tượng ấy với các sự vật
hiện tượng khác thong qua những dấu hiệu của nó. Mô tả định lượng nhằm
chỉ rõ những đặc trưng về lượng của sự vật. Mô tả định tính cho phép nhận
thức đặc trưng về chất của sự vật ấy.
b. Giải thích
Giải thích trong nghiên cứu khoa học là làm rõ căn nguyên dẫn đến sự
hình thành, phát triển và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật hiện
tượng. Trong nghiên cứu khoa học, giải thích bao gồm làm rõ nguồn gốc,
mối quan hệ, sự tương tác giữa các yếu tố cấu thành sự vật và giữa sự vật
hiện tượng ấy với các sự vật hiện tượng khác. Mục đích của giải thích là đưa
ra thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật nhằm nhận thức cả những
thuộc tính bên trong của sự vật.
c. Tiên đoán
Tiên đoán là nhìn trước quá trình hình thành, sự vận động và biến đổi
của sự vật hiện tượng trong tương lai. Tiên đoán được thực hiện trên cơ sở
mô tả và giải thích. Với phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, con
người có thể tiên đoán với độ chuẩn xác cao về nhiều hiện tượng, quá trình
diễn ra trong tự nhiên và xã hội. Những dự báo của khoa học thiên văn, về
những biến cố chính trị - xã hội hay các hiện tượng kinh tế... đã chứng minh
khả năng tiên đoán trong nghiên cứu khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, mặc dù thừa nhận khả năng tiên đoán của
con người về sự vật, hiện tượng song chúng ta cần chấp nhận sự sai lệch
nhất định trong chính khả năng ấy. Sự sai lệch này có nhiều nguyên nhân: do
nhận thức ban đầu về sự vật chưa chuẩn xác, môi trường vận động của sự
vật biến động... Phương pháp luận biện chứng duy vật không cho phép
người nghiên cứu tự thỏa mãn với những tiên đoán hoặc lạm dụng tiên đoán.
Mọi tiên đoán phải được kiểm chứng trong đời sống hiện thực.
d. Sáng tạo
Sáng tạo là làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Sứ mệnh lớn lao
của khoa học là sáng tạo ra các giải pháp nhằm cải tạo thế giới. Giải pháp ấy
có thể là những phương pháp, phương tiện, cách thức tổ chức nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của con người; có thể là những giải pháp kỹ thuật
trong sản xuất, nguyên lý công nghệ mới, vật liệu hay sản phẩm mới.
2. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
a. Tính mới
Tính mới là biểu hiện quan trọng nhất, là thuộc tính số một của lao
động khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới
hoặc sáng tạo những sự vật, những giải pháp quản lý và công nghệ mới.
Biểu hiện tính mới trong nghiên cứu khoa học là sự không chấp nhận lặp lại
về phương pháp, cách tiếp cận hay sản phẩm tạo ra. Con người dù đã đạt
được những thành tựu khoa học vĩ đại thì vẫn không ngừng tìm kiếm và
sáng tạo, liên tục chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trong nhận thức và hiệu
quả cải tạo thế giới.
Tính mới không mâu thuẫn mà bao hàm trong nó sự kế thừa những
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước. Thành quả nghiên cứu
khoa học phụ thuộc vào thái độ của nhà khoa học trước những giá trị khoa
học mà nhân loại đã sáng tạo ra.
b. Tính thông tin
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là những tri thức thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như bài báo khoa học, mẫu sản phẩm, mô hình
sản xuất thí điểm… song đều đem đến cho người tiếp nhận những tin tức,
thông báo và hiểu biết mới. Sự gắn bó giữa thông tin - tri thức, tri thức -
thông tin ở hoạt động nghiên cứu khoa học làm nên đặc trưng của hoạt động
này. Thông tin là nguyên liệu của hoạt động nghiên cứu. Thông qua quá
trình xử lý thông tin của tư duy(phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trừu
tượng hóa…) để hình thành tri thức mới. Khi đưa vào hệ thống lưu chuyển
xã hội, tri thức ấy lại đóng vai trò là thông tin trong một quá trình nghiên
cứu tiếp theo. Do vậy, thông tin cũng là sản phẩm của nghiên cứu khoa học.
c. Tính mạnh dạn, mạo hiểm
Đặc trưng tính mới của hoạt động này đặt ra yêu cầu người nghiên
cứu dám đảm nhận việc những vấn đề nghiên cứu hết sức mới mẻ. Do vậy,
dù cân nhắc đến tính hiệu quả, sự thành công thì người nghiên cứu phải luôn
chấp nhận những rủi ro, khả năng thất bại trong nghiên cứu.Thất bại trong
nghiên cứu có thể do nhiều nguyên nhân với những mức độ khác nhau.
Chẳng hạn như thiếu thông tin và thông tin thiếu tin cậy làm cơ sở cho công
trình nghiên cứu; năng lực thực hiện của nhà khoa học; mức độ đầy đủ và
trình độ kỹ thuật của phương tiện nghiên cứu; các tác nhân bất khả kháng
trong quá trình nghiên cứu… Ngay cả những công trình đã tạo ra sản phẩm
thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi khi áp dụng trong thực tiễn. Thất
bại trong nghiên cứu cũng được xem là kết quả có ý nghĩa. Sự thất bại ấy
cần được tổng kết, lưu giữ như một tài liệu khoa học, trở thành bài học kinh
nghiệm quý giá cho đồng nghiệp đi sau, tránh lãng phí các nguồn lực nghiên
cứu.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, sự mạnh dạn mạo hiểm còn thể hiện
ở sự vượt lên trên lối mòn và rào cản tâm lý, đề xuất những ý tưởng nghiên
cứu, phương pháp tiệm cận mới. Đôi khi một số ý tưởng nghiên cứu được đề
xuất không phải bao giờ cũng dễ dàng được ủng hộ, chấp nhận ngay. C. Mác
từng nhận định: đối với khoa học không có con đường nào bằng phẳng thênh
thang cả, chỉ có những con người không sợ mỏi gối chồn chân để trèo lên
những con đường nhỏ bé gập ghềnh của khoa học thì mới có hy vọng đạt tới
đỉnh cao sán lạnh của khoa học mà thôi. Lịch sử khoa học thế giới ghi nhận
những tấm gương như Galilê, Côpecnic… Hơn bất kỳ một lĩnh vực nào,
hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động mang tính mạnh dạn, mạo
hiểm. Song hoạt động này cũng đòi hỏi nhà khoa học phải biết cân nhắc, tìm
ra những vấn đề mang tính bản chất, phương pháp hiệu quả và hướng triển
khai khả thi.
d. Tính phi kinh tế
Mục đích của nghiên cứu khoa học là giải phóng sức lao động, nâng
cao hiệu quả chinh phục tự nhiên và tổ chức quản lý, phát triển kinh tế xã
hội. Song trong nghiên cứu khoa học, lợi ích kinh tế trước mắt không được
xem là mục đích trực tiếp, động lực duy nhất.
Tính phi kinh tế trong nghiên cứu khoa học thể hiện:
- Lao động nghiên cứu khoa học khó định mức một cách chính xác
như trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Trong một số trường hợp, lao động
khoa học không thể định mức.
- Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như
không thể khấu hao bởi tần suất sử dụng không ổn định. Tốc độ hao mòn vô
hình luôn vượt trước xa so với hao mòn hữu hình. Chẳng hạn một thiết bị thí
nghiệm có thể chưa hao mòn hữu hình thì đã trở nên lỗi thời về kỹ thuật.
- Hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác
định. Ngay cả những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật có giá trị mua bán cao
trên thị trường song vẫn có thể không được áp dụng bởi lý do thuần thúy xã
hội. Do vậy, hiệu quả kinh tế không trở thành hiện thực.
e.Tính cá nhân và vai trò của tập thể khoa học
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một dạng lao động xã hội. Vai trò
của tập thể khoa học được khẳng định. Song, trong nghiên cứu, những sáng
tạo mới, những phát minh, sáng chế luôn gắn với vai trò đột phá của cá
nhân, của các nhà khoa học đầu đàn. Tính cá nhân thể hiện trong tư duy và
chủ kiến độc đáo của nhà nghiên cứu.
Song trong hoạt động nghiên cứu, cá nhân không tách rời tập thể khoa
học. Tập thể khoa học là môi trường nâng đỡ cho sự ra đời ý tưởng mới của
cá nhân, phản biện, hoàn thiện ý tưởng ấy, tập trung trí tuệ thực hiện quá
trình nghiên cứu. Không phải ngẫu nhiên trên thế giới, hình thành trung tâm
nghiên cứu lớn, từng bước chuyên môn hóa quá trình nghiên cứu trở thành
khuynh hướng cho sự phát triển khoa học.
III. Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
1. Quan niệm về khoa học xã hội và nhân văn
Khoa học xã hội và nhân văn, nghĩa rộng, là một nhóm các ngành
khoa học bao gồm cả khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Khoa học xã
hội nghiên cứu các quan hệ giữa con người với con người, đối tượng nghiên
cứu của khoa học xã hội là những quan hệ con người trong xã hội, điều kiện
sinh hoạt, quá trình vận động của xã hội con người. Khoa học nhân văn được
coi là hệ thống các môn khoa học về con người và những hoạt động tinh
thần của con người, gắn liền với những phương thức đặc thù sang tạo ra các
giá trị văn hóa tinh thần. Đối tượng của khoa học nhân văn chú trọng nhiều
hơn tới những giá trị tinh thần và những hoạt động tinh thần của con người.
Ở Việt Nam hiện nay, dù thừa nhận khoa học xã hội và khoa học nhân
văn vẫn có sự phân biệt nhất định song vẫn được xếp chung vào một nhóm
ngành gọi là khoa học xã hội và nhân văn. Xuất phát điểm của quan niệm
này là bất kỳ một nghiên cứu nào về xã hội (quy luật vận động của xã hội,
của lịch sử…) cuối cùng đều hướng tới con người. Không một nghiên cứu
nào về con người (về những giá trị tinh thần của con người) được coi là khoa
học nếu thoát ly xã hội với những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị. Con
người và hoạt động tinh thần của con người không thể tồn tại ở đâu khác bên
ngoài xã hội. Phát triển xã hội không có gì khác là hướng tới một xã hội
nhân văn, giải phóng con người và đem lại cho con người cuộc sống hạnh
phúc.
Khoa học xã hội và nhân văn là các khoa học về các quy luật hình
thành và phát triển của xã hội và con người, mối quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
2. Đặc điểm của khoa học xã hội và nhân văn
Thứ nhất, khoa học xã hội và nhân văn mang tính trừu tượng. Tính
trừu tượng của khoa học xã hội và nhân văn được biểu hiện ở nhiều khía
cạnh. Nhìn tổng thể từ đối tượng, phương pháp cho đến sản phẩm nghiên
cứu đều mang tính đặc thù này.
Đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn là đời sống
tinh thần và những quan hệ xã hội của con người. Vấn đề nghiên cứu thường
trừu tượng, chịu ảnh hưởng của những quan hệ phức tạp và khó xác định.
Tính trừu tượng của khoa học xã hội và nhân văn còn thể hiện trong
tính đặc thù của sản phẩm khoa học mà nó tạo ra. Khoa học xã hội và nhân
văn không trực tiếp tạo ra vật phẩm - sản phẩm vật chất cho xã hội. Sản
phẩm của khoa học xã hội và nhân văn chủ yếu là tri thức tồn tại dưới dạng
tinh thần, tư tưởng mặc dù trong điều kiện hiện nay, những nghiên cứu thuộc
ngành khoa học đã chú ý nhiều hơn đến việc sáng tạo những công cụ,
phương tiện quản lý và mô hình thực nghiệm. Sản phẩm khoa học xã hội và
nhân văn khi được áp dụng có thể tạo nên sự thay đổi sâu rộng cho một
ngành, một phương diện của đời sống xã hội. Thậm chí có thể tạo nên sự
thay đổi của một dân tộc, một thời đại.
Tính trừu tượng còn thể hiện trong việc đánh giá giá trị của sản phẩm
khoa học xã hội và nhân văn.Khác với cách thức đánh giá trong khoa học kỹ
thuật và công nghệ, sản phẩm của nghiên cứu trong khoa học xã hội không
thể “cân, đong, đo, đếm” hay định giá theo kiểu thông thường. Tính chính
xác của khoa học xã hội là tính chính xác của quan điểm và phương pháp.
Thứ hai, khoa học xã hội và nhân văn là khoa học có tính giai cấp.
Khoa học xã hội và nhân văn là cơ sở trí tuệ - tinh thần của chế độ và
biểu đạt tư tưởng của chế độ đó. Khoa học xã hội và nhân văn gắn liền với
việc củng cố và phát triển hệ ý thức của xã hội thông qua hệ thống quan
điểm về chính trị, về đạo đức, lối sống… vũ trang nhận thức cho xã hội theo
định hướng và mục đích chính trị mà giai cấp cầm quyền cùng thể chế của
nó đòi hỏi.
Nhà nghiên cứu hoặc đứng trên lập trường tư tưởng của giai cấp này
hoặc giai cấp khác khi nghiên cứu, lý giải sự vận động của xã hội, vận dụng
quy luật xã hội sao cho đảm bảo cao nhất lợi ích của giai cấp mình.
Tiêu chí kiểm chứng tính chính xác của khoa học xã hội phụ thuộc rất
nhiều vào thái độ của giai cấp cầm quyền đối với sản phẩm của khoa học
này.
Thừa nhận tính giai cấp của khoa học xã hội và nhân văn không có
nghĩa là phủ nhận tính dân tộc và nhân loại của nó.
Khoa học xã hội và nhân văn là bộ phận của văn hóa, xây dựng trên
nền tảng văn hóa của mỗi dân tộc và chỉ có thể phát triển khi thể hiện sâu
sắc tinh thần của dân tộc ấy. Đồng thời, với tư cách là văn hóa, ý nghĩa nhân
bản, nhân văn của khoa học xã hội có thể vượt ra ngoài biên giới quốc gia,
dân tộc, là thành quả nghiên cứu của nhân loại, vì sự phát triển của nhân loại
tiến bộ.
Thứ ba, khoa học xã hội và nhân văn vận động và phát triển trong sự
vận động của các khoa học như một hệ thống chỉnh thể.
Sự giao thoa giữa đối tượng nghiên cứu của các khoa học tạo ra mối
liên kết tất nhiên giữa khoa học xã hội và nhân văn với các khoa học khác
trong quá trình nghiên cứu. Điều này thể hiện rõ trong mối quan hệ nội bộ
của các khoa học thuộc lĩnh vực xã hội và nhân văn. Đồng thời sự tương tác,
hợp tác này cũng thể hiện trong mối quan hệ của khoa học xã hội và nhân
văn với các lĩnh vực khoa học khác. Giải quyết nhiệm vụ của mỗi ngành
khoa học đòi hỏi sự hợp tác thường xuyên, liên tục của các khoa học khác
nhau. Do vậy, sự thâm nhập, hỗ trợ, vận dụng phương pháp, kết quả nghiên
cứu của các khoa học là đòi hỏi tất yếu khách quan trong khoa học. Nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn đặt ra yêu cầu sử dụng kiến thức, phương
pháp của khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ. Ngược lại, thành tựu khoa
học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ đạt được lại đặt ra những vấn đề mới
cho khoa học xã hội và nhân văn. Chẳng hạn, thành tựu chinh phục tự nhiên
đang đặt ra các vấn đề như môi trường, bệnh tật, dân số…đòi hỏi khoa học
xã hội và nhân văn giải quyết.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Khoa học và phân loại khoa học
2. Các chức năng của nghiên cứu khoa học.
3. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học và ý nghĩa rút ra đối với nhà khoa học.
4. Đặc thù trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.
CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Loại hình nghiên cứu khoa học là khái niệm dùng để chỉ tập hợp của
những công trình nghiên cứu được phân loại theo một cách thức nhất định.
Xuất phát từ sự phân chia các ngành khoa học, người ta phân chia công trình
khoa học thuộc các ngành khoa học khác nhau. Chẳng hạn, công trình
nghiên cứu thuộc ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội hay khoa học kỹ
thuật - công nghệ. Dựa vào nhóm giải pháp mà nhà khoa học đề xuất
nghiêng về lý thuyết hay thực nghiệm, người ta chia các công trình nghiên
cứu thành hai loại: công trình nghiên cứu lý thuyết và công trình nghiên cứu
thực nghiệm. Căn cứ vào mục tiêu mà công trình nghiên cứu đề ra và thực
hiện, có ba loại hình nghiên cứu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng
và nghiên cứu triển khai - thực nghiệm.
I. Nghiên cứu cơ bản (fundamental research)
Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu nhằm phát hiện bản chất và
quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình.
Kết quả của nghiên cứu cơ bản là những phân tích lý luận, phát kiến,
kết luận về tính quy luật, những định lý, định luật…. Trên cơ sở nghiên cứu
cơ bản, ngưởi nghiên cứu trình bày những phát hiện, phát kiến, phát minh.
Chẳng hạn, định luật về sức nâng của nước do Acsimet khám phá, phát hiện
châu Mỹ của Critxtôp Côlômbô và nhiều quy luật do nhiều nhà khoa học xã
hội công bố.
Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản thường dẫn đến một hệ thống lý
thuyết có ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Tác
động của những phát kiến ấy thường vượt qua giới hạn nhận thức về một
lĩnh vực, phạm vi mà nó nghiên cứu. Chẳng hạn, những tác động của định
luật vạn vật hấp dẫn do Niutơn phát minh, “bàn tay vô hình” của kinh tế thị
trường (Ađam Smith) hay quy luật giá trị thặng dư của C. Mac ở những
mức độ khác nhau trong nhiều lĩnh vực hoạt động của con người.
Nghiên cứu cơ bản gồm hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần túy và
nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản thuần túy là những nghiên cứu đơn thuần là nhằm
mục đích phát hiện ra bản chất, quy luật tồn tại, phát triển của sự vật hiện
tượng mà chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng của nghiên cứu ấy. Những nghiên
cứu cơ bản thuần túy nhằm mở rộng và nâng cao nhận thức của con người.
Nghiên cứu cơ bản định hướng là những nghiên cứu hướng tới mục
đích ứng dụng nhất định, dự kiến phạm vi và mức độ ứng dụng khi nghiên
cứu ấy thành công. Nghiên cứu cơ bản định hướng không chỉ dẫn đến những
cơ sở lý thuyết quan trọng mà còn có thể dẫn đến những ứng dụng có ý
nghĩa lớn lao trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội.
II. Nghiên cứu ứng dụng (applied research)
Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng kết quả của nghiên cứu cơ bản
(những định luật, định lý, quy luật…), thường là nghiên cứu cơ bản định
hướng để tìm ra nguyên lý về các giải pháp ứng dụng trong môi trường tồn
tại của sự vật, hiện tượng hay quá trình.
Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là giải pháp về vật liệu,
công nghệ trong khoa học kỹ thuật hay giải pháp về tổ chức, quản lý trong
khoa học xã hội.
Dù là kết quả của loại hình nghiên cứu có tên là nghiên cứu ứng dụng
nhưng kết quả của nó lại chưa ứng dụng được ngay. Để đưa kết quả nghiên
cứu ứng dụng vào sử dụng trong thực tế cần tiến hành loại hình nghiên cứu
triển khai - thực nghiệm.
III. Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm (development reseach)
Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm là loại hình nghiên cứu vận dụng
các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý giải pháp (từ
nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kỹ
thuật mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới với tính khả thi cao nhất cho hoạt
động thực tiễn của con người.
Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm bao gồm cả quá trình thiết kế thử
nghiệm và mô hình thử nghiệm và được chia thành hai loại, hai giai đoạn:
triển khai trong phòng và triển khai bán đại trà.
Triển khai trong phòng hướng vào việc áp dụng nguyên lý giải pháp
để tạo ra cho được sản phẩm trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Triển khai bán đại trà là dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết
về một hình mẫu trên một quy mô nhất định, xác định điều kiện cần và đủ để
mở rộng phạm vi áp dụng, triển khai đại trà.
Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm trong khoa học xã hội đem lại ý
nghĩa lớn lao trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng mô hình quản lý các
phương diện xã hội một cách hiệu quả.
IV. Mối quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu và thực tiễn
Các loại hình nghiên cứu khoa học có mối quan hệ biện chứng, thống
nhất trong chỉnh thể hoạt động khoa học của mỗi ngành, mỗi quốc gia. Việc
phân chia các loại hình nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cho định hướng và
xây dựng chính sách phát triển khoa học của mỗi ngành, mỗi quốc gia ấy.
Các loại hình nghiên cứu khoa học liên hệ với nhau theo trình tự:
nghiên cứu cơ bản - nghiên cứu ứng dụng - nghiên cứu triển khai, thực
nghiệm. Trong đó, kết quả nghiên cứu của loại hình trước là cơ sở, tiền đề,
điều kiện cho sự bắt đầu của loại hình nghiên cứu sau đó. Đồng thời, nghiên
cứu khoa học có mối quan hệ không thể tách rời với hoạt động thực tiễn bởi
suy đến cùng, mọi nghiên cứu đều hướng tới phát triển các phương diện hoạt
động thực tiễn của con người.
Mỗi đề tài khoa học, xét mục tiêu chính của nó đều thuộc một loại
hình nghiên cứu khoa học xác định. Song trong chính mỗi đề tài nghiên cứu,
sự xuất hiện của trật tự logic nội dung bao giờ cũng thể hiện đầy đủ các loại
hình nghiên cứu nêu trên ở các mức độ khác nhau. Chính đặc điểm này cho
phép chúng ta hiểu sự phân chia loại hình nghiên cứu khoa học chỉ là tương
đối.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Phân loại tri thức khoa học.
2. Đặc điểm, vị trí và vai trò của nghiên cứu cơ bản trong sự phát triển
khoa học và đời sống xã hội.
3. Đặc điểm, vị trí và vai trò của nghiên cứu ứng dụng trong sự phát
triển khoa học và đời sống xã hội.
4. Đặc điểm, vị trí và vai trò của nghiên cứu triển khai - thực nghiệm
trong sự phát triển khoa học và xã hội.
5. Mối quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu khoa học và thực tiễn.
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨUXÂY DỰNG VÀ KIỂM CHỨNG GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
I. Vấn đề nghiên cứu
1. Khái niệm vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu là những điều chưa biết hoặc biết chưa thấu đáo về
sự vật, hiện tượng hay quá trình, cần được làm rõ trong quá trình nghiên
cứu.
Vấn đề nghiên cứu chỉ có thể được phát hiện trong quá trình quan sát
sự kiện. Sự kiện tồn tại trong tự nhiên và đời sống xã hội. Người nghiên cứu
có thể thiết lập sự kiện để tiến hành quan sát bằng cách chọn những sự kiện
vốn tồn tại trong tự nhiên hoặc xã hội hoặc chủ động tạo ra sự kiện nhờ thực
nghiệm.
Trong nghiên cứu khoa học, quan sát có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Quan sát không chỉ nhằm phát hiện vấn đề nghiên cứu mà còn giúp nhà khoa
học xây dựng giả thuyết, kiểm chứng giả thuyết trong suốt quá trình triển
khai hoạt động nghiên cứu sau này.
2. Con đường phát hiện vấn đề nghiên cứu, hình thành ý tưởng
nghiên cứu
- Phát hiện những kẽ hở trong khoa học
Vấn đề nghiên cứu xuất hiện ở chỗ những nội dung chưa được nhận
thức và giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học, khi
phản biện các công trình nghiên cứu của đồng nghiệp.
- Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học
Khi tham dự các cuộc tranh luận khoa học, trong hội nghị, hội thảo
hay các buổi tọa đàm khoa học, trước những ý kiến trái chiều cùng bàn về
một vấn đề khoa học, người nghiên cứu có thể nhận dạng vấn đề khoa học
cần được giải quyết thấu đáo và sâu sắc hơn.
- Nghĩ ngược lại những quan niệm thông thường
- Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn
Những khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, tổ chức và quản
lý xã hội không thể sử dụng biện pháp thông thường, hay biện pháp thông
thường không thể đưa lại kết quả mong muốn. Thực tế ấy đặt ra yêu cầu phải
thay đổi nhận thức và hành động.
- Sự phàn nàn của những người xung quanh
Đôi khi vấn đề nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên cứu lắng nghe ý
kiến phàn nàn của những người liên quan đến sự vật, sự việc trong khi họ
thậm chí không am hiểu nhiều về lĩnh vực nhà nghiên cứu quan tâm cũng
giúp cho nhà nghiên cứu nhận dạng vấn đề cần làm rõ trên phương diện
khoa học.
Vấn đề nghiên cứu thường tồn tại dưới dạng các câu hỏi nghiên cứu.
Trong nghiên cứu khoa học thường xuất hiện hai lớp vấn đề. Một là, vấn đề
về bản thân sự vật và quy luật vận động của nó. Hai là, vấn đề về phương
pháp tác động vào sự vật hiện tượng. Giải quyết vấn đề sẽ mở ra những khả
năng mới cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Trong khi nhận dạng vấn đề nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu xuất
hiện.
3. Ý tưởng nghiên cứu
Ý tưởng nghiên cứu là những phán đoán trực cảm về bản chất hay
phương pháp tác động vào sự vật, hiện tượng hay quá trình. Ý tưởng nghiên
cứu xuất hiện theo cảm nhận, chưa được tổng kết và có căn cứ đầy đủ để
nhận thức. Có thể phân biệt một số loại ý tưởng nghiên cứu:
- Ý tưởng về quy luật là những phán đoán trực cảm mô tả, giải thích
về sự vật hiện tượng, về quy luật vận động của sự vật hiện tượng. Trong lịch
sử khoa học, loại ý tưởng này thường dẫn đến việc phát hiện, phát minh
những hệ tiên đề, nền tảng lý thuyết cho một phương hướng khoa học mới.
- Ý tưởng về giải pháp
Đây là những ý tưởng về biện pháp tác động vào sự vật hiện tượng.
Chẳng hạn, Acsimet phát hiện ra nguyên tắc đòn bẩy, ông nảy ra ý tưởng
“nếu cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy được cả trái đất”.
- Ý tưởng về hình mẫu
Sự hình dung một mô hình cụ thể với các tham số xác định. Ý tưởng
này xuất hiện khi người nghiên cứu gặp một tình huống có tính mô phỏng
quá trình mà người nghiên cứu đang quan tâm.
Ý tưởng nghiên cứu thường xuất hiện rất nhanh, đôi khi chỉ là một ý
nghĩ thoáng qua trong tư duy và rất có thể bộ nhớ sinh học của con người sẽ
xóa rất nhanh nếu nó không được ghi nhớ và giao nhiệm vụ tiếp tục xử lý. Ý
tưởng nghiên cứu có vai trò quan trọng trong khoa học. Sự xuất hiện ý tưởng
còn được coi là giai đoạn tiền giả thuyết trong nghiên cứu. Song bản than ý
tưởng chưa mang ý nghĩa thực tế cho sự phát triển của khoa học. Nó cần
được người nghiên cứu phát triển tư duy để nâng lên một trình độ cao hơn.
Đó là giai đoạn xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
4. Thẩm định vấn đề nghiên cứu
Thẩm định vấn đề nghiên cứu là quá trình xem xét nhằm củng cố ý
tưởng nghiên cứu, loại bỏ hướng nghiên cứu không phù hợp để chuẩn bị xây
dựng giả thuyết nghiên cứu.
Các phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu:
- Thay đổi phương thức quan sát
- Mở rộng phạm vi quan sát
- Thu thập tài liệu
- Trao đổi với đồng nghiệp.
Sau khi tiến hành thẩm định vấn đề nghiên cứu, có ba khả năng được
ghi nhận. Một là, vấn đề nghiên cứu được khẳng định, ý tưởng nghiên cứu
được củng cố. Hai là, vấn đề nghiên cứu có thể không tồn tại hoặc đã được
giải quyết. Ba là, vấn đề nghiên cứu được xác định là “giả - vấn đề” (pseudo
– problem). Vấn đề nghiên cứu tồn tại nhưng nguyên nhân của nó nằm ngoài
hướng tiếp cận ban đầu. Xét về nguồn gốc, giả - vấn đề xuất hiện có thể do
thế giới quan sai lầm hoặc vấn đề nảy sinh từ tư duy tư biện, phiến diện của
một số học giả. Trong một số trường hợp, giả - vấn đề còn xuât hiện khi ý
tưởng nghiên cứu xuất hiện quá sớm so với điều kiện cho phép để giải quyết
chúng. Chẳng hạn những tiên đoán về vấn đề nghiên cứu có thể xuất hiện
trong tương lai, xa vời so với thời điểm hiện thực đặt vấn đề.
II. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
1. Giả thuyết và phân loại giả thuyết khoa học
a. Giả thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp
tác động của một sự vật hiện tượng đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu.
Giả thuyết là hình thức độc đáo của tư duy, do người nghiên cứu đặt
ra, theo đó mà xem xét, phân tích kiểm chứng trong suốt quá trình nghiên
cứu. Giả thuyết khoa học trước hết phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của
người nghiên cứu. Thực chất đó là sự phỏng đoán tạm thời, một nhận định
sơ bộ chưa được xác nhận bằng các luận cứ và luận chứng. Nhận định sơ bộ
ấy có thể được khẳng định, điều chỉnh hoặc bác bỏ trong quá trình nghiên
cứu.
Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát. Người
nghiên cứu dựa trên kết quả quan sát từ các sự vật hiện tượng để hình thành
giả thuyết. Khả năng quan sát hữu hạn các sự kiện cho phép khẳng định bản
chất thống kê của giả thuyết. Mọi ý đồ tuyệt đối hóa giả thuyết đều là sự sai
phạm logic về bản chất quan sát khoa học.
Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác
nhận tính đúng đắn về mặt khoa học. Khi xem xét tiêu chí này, người nghiên
cứu và cơ quan khoa học cần lưu ý ba trường hợp.
- Cần phân biệt lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về mặt
khoa học với những lập luận bị ngộ nhận là lý thuyết đã được xác nhận.
Trường hợp này, giả thuyết khoa học khi được chứng minh và khẳng định
sau quá trình nghiên cứu sẽ thay thế lý thuyết đang tồn tại.
- Có những lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về mặt khoa học
nhưng với sự phát triển của nhận thức khoa học, những giả thuyết này thể
hiện tính chưa hoàn thiện. Trường hợp này giả thuyết mới sẽ bổ sung, phát
triển lý thuyết đang tồn tại.
- Giả thuyết mới mang một ý nghĩa khái quát, lý thuyết đang tồn tại là
một trường hợp riêng của lý thuyết tổng quát được xây dựng từ giả thuyết
mới.
Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
Giới nghiên cứu thừa nhận giả thuyết khoa học có thể kiểm chứng bằng lý
thuyết. Song giả thuyết cần và có thể chứng minh bằng thực nghiệm khoa
học. Tuy nhiên, lịch sử phát triển khoa học cho thấy không phải giả thuyết
nào cũng có thể được chứng minh hoặc bị bác bỏ ngay trong thời đại của nó.
Nhà bác học thời cổ đại Acsimet dung gương tập trung ánh sang đốt cháy
các chiến thuyền La mã song đến năm 1939 mới được các nhà khoa học xây
dựng thành lý thuyết khuyếch đại lượng tử. Việc phát minh ra tia la de mới
được mở đường bằng lý thuyết khoa học. Trong khoa học xã hội, việc kiểm
chứng giả thuyết còn khó khăn hơn nhiều.
b. Phân loại giả thuyết
- Theo chức năng của nghiên cứu khoa học, người ta chia thành giả
thuyết mô tả, giả thuyết giải thích, giả thuyết dự báo, giả thuyết giải pháp
Giả thuyết mô tả là giả thuyết về trạng thái tồn tại của một sự vật, hiện
tượng hay quá trình.
Giả thuyết giải thích là kết luận giả định về nguyên nhân dẫn đến
trạng thái của sự vật, hiện tượng.
Giả thuyết dự báo là phỏng đoán về trạng thái của sự vật hiện tượng
tạo một thời điểm hoặc một quãng thời gian nào đó trong tương lai.
Giả thuyết giải pháp là những giả thuyết biện pháp, hình mẫu được
nhà nghiên cứu trình bày.
- Theo loại hình nghiên cứu khoa học có giả thuyết về quy luật, giả
thuyết giải pháp hay giả thuyết hình mẫu. Các loại giả thuyết này ứng với
loại hình nghiên cứu cơ bản, loại hình nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu
triển khai thực nghiệm.
2. Vai trò của giả thuyết khoa học
- Đặt giả thuyết là công việc quan trọng nhất của nghiên cứu khoa
học. Không có giả thuyết thì không có nghiên cứu khoa học.
- Giả thuyết khoa học định hướng, đặt ra yêu cầu cho quá trình tổ
chức và triển khai hoạt động nghiên cứu. Giả thuyết dẫn đường, giúp nhà
khoa học rút ngắn đoạn đường vòng vô ích. Đồng thời đối với mỗi ngành
khoa học, giả thuyết vạch đường đi cho quá trình nghiên cứu của tập thể
khoa học.
- Giả thuyết có thể không phù hợp và bị bác bỏ sau quá trình kiểm
chứng. Song thực tế phát triển khoa học đã chứng minh khi từ bỏ một giả
thuyết cũng có nghĩa là đã tiến một bước thực sự sâu thêm vào con đường
tìm kiếm chân lý.
3. Các phương pháp xây dựng giả thuyết khoa học
Giả thuyết là một kết luận giả định, một nhận định sơ bộ do nhà
nghiên cứu đưa ra về vấn đề nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu là kết quả tư
duy của nhà khoa học. Trên cơ sở phân tích những thông tin thu nhận được
từ quá trình quan sát và dựa trên nền tảng tri thức đã tích lũy, nhà nghiên
cứu rút ra kết luận (phỏng đoán) về bản chất của sự vật, biện pháp tác động
hay hình mẫu về một sự vật hiện tượng hay cách thức tổ chức quản lý mới.
Về mặt logic học, quá trình hình thành giả thuyết thực chất là quá trình suy
luận của nhà khoa học.
Suy luận là một hình thức tư duy, từ một hay một số phán đoán mà
tính chân xác đã được công nhận (tiền đề), đưa ra phán đoán mới (kết đề).
Phán đoán mới chính là giả thuyết.
Ba hình thức suy luận đề hình thành giả thuyết là suy luận quy nạp,
suy luận diễn dịch và loại suy.
- Suy luận quy nạp là hình thức suy luận trong đó kết luận là tri thức
chung được khai quát từ những tri thức ít chung hơn.
Nhà bác học Nga Lômônôxốp viết: ta biết rất rõ rằng nhiệt là do
chuyển động gây nên. Hai tay xát vào nhau thì nóng lên, có tia lửa bật ra khi
ta đánh đá vào thép, sắt nóng lên khi ta rèn nó bằng những nhát búa giáng
mạnh... những điều trên đây cho thấy chuyển động là cơ sở tất yếu của nhiệt.
Như vậy, bản chất của nhiệt là ở trong sự chuyển động của các phân tử tạo
thành.
Phương pháp xét tất cả các lớp đối tượng nghiên cứu rồi rút ra kết
luận về thuộc tính, tính chất chung của chúng là quy nạp hoàn toàn. Ngược
lại, kết luận thu được bằng cách chỉ xét một số bộ phận của lớp đối tượng
gọi là quy nạp không hoàn toàn. Trong khoa học không phải lúc nào cũng
cho phép chúng ta xem xét tất cả các thành phần của lớp đối tượng nên
phương pháp suy luận quy nạp không hoàn toàn rất cần thiết và có ý nghĩa
khoa học, là điều kiện tất yếu của quá trình nhận thức các quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, tri thức kết luận thu được nhờ suy luận
không hoàn toàn chỉ được tin cậy khi tri thức đó lý giải được các dấu hiệu
bản chất, tất yếu quy định sự tồn tại của sự vật hiện tượng ấy.
- Suy luận diễn dịch
Khi đã có những khái quát về thuộc tính chung của một loại đối
tượng, người ta xây dựng những kết luận (giả định) về các sự vật, hiện tượng
mới trong cùng tập hợp. Đó là diễn dịch.
Diễn dịch trực tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ
một tiền đề. Có thể thực hiện diễn dịch trực tiếp bằng phép chuyển hóa, phép
đảo ngược hay phép đối lập vị từ. Chẳng hạn, từ luận đề: chúng ta không thể
nâng cao chất lượng giáo dục nếu không xây dựng được đội ngũ giảng viên
đủ tiêu chuẩn, có thể xây dựng thành giả thuyết:
(1)Nếu không có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì không thể nâng
cao chất lượng giáo dục.
(2) Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì phải xây dựng đội ngũ
giảng viên đủ tiêu chuẩn.
(3)Nếu có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì (mới có thể) nâng cao
chất lượng giáo dục.
Diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ
nhiều tiền đề. Trong đó, tam đoạn luận là trường hợp được sử dụng khá phổ
biến trong suy luận.
Chẳng hạn: Toàn cầu hóa là xu thế chung của sự phát triển, tác động
một cách mạnh mẽ, sâu rộng tới các lĩnh vực đời sống xã hội của mọi quốc
gia trên thế giới. Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế trong bối cảnh
toàn cầu hóa. (Do vậy) Việt Nam không thể tránh khỏi những tác động của
toàn cầu hóa.
III. Kiểm chứng giả thuyết
1. Kiểm chứng giả thuyết và các thành tố của một quá trình kiểm
chứng
Một giả thuyết đưa ra cần phải được kiểm chứng dựa trên những căn
cứ khoa học. Kết quả kiểm chứng là sự khẳng định hay phủ định giả thuyết.
Quá trình này gồm ba bộ phận hợp thành.
Luận đề là những phán đoán do nhà nghiên cứu đưa ra và tính chân
xác của nó cần được chứng minh hoặc bác bỏ.
Trong nghiên cứu khoa học, luận đề phải được trình bày rõ ràng, xác
định và đơn nghĩa.
Luận cứ là những căn cứ, những bằng chứng được đưa ra để chứng
minh (hoặc bác bỏ) luận đề. Tính chân xác của luận cứ đã được công nhận
và được sử dụng làm tiền đề để chứng minh giả thuyết (luận đề) do người
nghiên cứu đặt ra. Có hai loại luận cứ: luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn.
Luận cứ lý thuyết là cơ sở lý thuyết khoa học, các luận điểm khoa
học, các định luật, định lý, quy luật mà tính đúng đắn của nó đã được khoa
học xác nhận.
Luận cứ thực tiễn là những căn cứ thu được từ quan sát hoặc thực
nghiệm khoa học, bao gồm các số liệu, dữ kiện…
Luận cứ sử dụng để kiểm chứng giả thuyết phải chính xác, có liên hệ
với luận đề và đảm bảo đủ cơ sở để rút ra kết luận cho luận đề.
Luận chứng là cách thức tổ chức, nối kết các luận cư và liên hệ giữa
các luận cứ với luận đề nhằm khẳng định hoặc phủ định luận đề ấy
Luận chứng bao gồm một chuối các phép suy luận khác nhau được
liên kết lại với nhau theo một trật tự xác định. Luận chứng phải thực hiện
theo đúng các quy tắc suy luận.
2. Các phương pháp kiểm chứng giả thuyết
a. Chứng minh giả thuyết
Chứng minh là hình thức suy luận trong đó người nghiên cứu dựa vào
những luận cứ để khẳng định tính chân xác của luận đề.
Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai cách: chứng minh
trực tiếp và chứng minh gián tiếp.
Chứng minh trực tiếp là phép chứng minh đựa vào những luận cứ
chân thực và bằng các quy tắc quy luận để khẳng định tính chân xác của một
giả thuyết.
Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh trong đó tính chân xác của
luận đề được khẳng định khi nhà nghiên cứu đã chứng minh tính phi chân
xác của phản luận đề. Nghĩa là từ việc khẳng định phản luận đề là giả dối,
nhà nghiên cứu rút ra luận đề là chân thực.
Chứng minh gián tiếp được chia thành hai loại: chứng minh phản
chứng và chứng minh phân liệt.
Chứng minh phản chứng là phép chứng minh trong đó tính chân xác
của giả thuyết được chứng minh bằng tính phi chân xác của phản luận đề,
tức là một giả thuyết đặt ngược lại với giả thuyết ban đầu.
Chứng minh phân liệt là phép chứng minh gián tiếp dựa trên cơ sở
loại bỏ một số luận cứ này để khẳng định những luận cứ khác. Do vậy,
chứng minh phân liệt còn được gọi là chứng minh bằng phương pháp loại
trừ. Phương pháp này rất có ý nghĩa và nhiều sức thuyết phục trong khoa
học xã hội.
b. Bác bỏ giả thuyết
Bác bỏ là một hình thức chứng minh nhằm chỉ rõ tính phi chân xác,
sai lầm của một giả thuyết. Bác bỏ giả thuyết được thực hiện khi phủ định cả
ba hoặc một trong ba thành tố cấu thành của quá trình kiểm chứng.
Một là, bác bỏ luận đề. Một luận đề (tức một giả thuyết) bị bác bỏ khi
người nghiên cứu chứng minh được rằng luận đề không hội đủ các điều kiện
của một giả thuyết, không thỏa mãn các tiêu chí của một giả thuyết.
Hai là, bác bỏ luận cứ. Nhà nghiên cứu chứng minh rằng luận cứ được
sử dụng để chứng minh luận đề là sai, thiếu luận cứ để rút ra kết luận.
Ba là, bác bỏ luận chứng, vạch rõ tính phi logic, sự vi phạm nguyên
tắc trong chứng minh.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Vấn đề nghiên cứu và các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên
cứu.
2. Các phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu và xử lý kết quả
thẩm định vấn đề nghiên cứu.
3. Giả thuyết nghiên cứu và phân loại giả thuyết nghiên cứu.
4. Các phương pháp suy luận xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
5. Yêu cầu đối với các thành tố của quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên
cứu.
6. Các phương thức chứng minh giả thuyết nghiên cứu.
7. Thực hành: Thực hiện suy luận quy nạp để xây dựng một giả thuyết
nghiên cứu.
8. Thực hành: Thực hiện suy luận diễn dịch để xây dựng một giả
thuyết nghiên cứu.
9. Thực hành: Thực hiện suy luận loại suy để xây dựng một giả thuyết
nghiên cứu.
10. Nghiên cứu một bài báo khoa học và cho biết luận đề, luận cứ và
phương pháp luận chứng của bài báo khoa học ấy.
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. Phương pháp và phương pháp luận nghiên cứu khoa học
1. Phương pháp nghiên cứu khoa học
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy lạp Methodos với
nghĩa là con đường và công cụ nhận thức và cải biến hiện thực của chủ thể.
Ở mỗi lĩnh vực hoạt động và cách tiếp cận, cách hiểu và sử dụng thuật ngữ
phương pháp cũng khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là toàn
bộ những cách thức mà con người lựa chọn và sử dụng để tác động vào đối
tượng nhằm đạt được mục đích của chủ thể hoạt động.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là tập hợp những cách thức, biện
pháp thu thập thông tin về đối tượng, xử lý các thông tin đó để đạt được các
mục tiêu nghiên cứu đã xác định và làm sáng tỏ giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu khoa học hình thành và chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố.
Một là, sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nghiên cứu. Chủ thể
nghiên cứu với mức độ tri thức, kinh nghiệm, khả năng hoạt động…làm nên
tính chủ quan của việc xác định, lựa chọn và sử dụng phương pháp nghiên
cứu khoa học. Khách thể nghiên cứu với đặc điểm, trình độ kết cấu, quy luật
khách quan chi phối đối tượng quy định tính khách quan của những phương
pháp nghiên cứu. Nói khác đi, việc phát hiện ra phương pháp, lựa chọn
phương pháp và sử dụng phương pháp cũng như việc bổ sung, hoàn thiện
phương pháp thuộc về những nỗ lực chủ quan, sự sáng tạo của chủ thể. Song
nguồn gốc, nội dung, tính chất của phương pháp nghiên cứu lại chịu nhiều
chi phối của những yếu tố mang tính khách quan và thuộc về khách thể
nghiên cứu. Để có phương pháp nghiên cứu hiệu quả, nhà khoa học Bêcơn
cho rằng “con người muốn cải tạo thế giới nhưng trước hết phải hiểu những
quy luật của nó”.
Hai là, phương pháp nghiên cứu khoa học chịu sự chi phối của mục
đích và nội dung nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu sẽ quy định những
phương pháp nghiên cứu tương ứng. Muốn có được sự thành công trong
nghiên cứu, phương pháp phải phù hợp với mục đích nghiên cứu đã được
xác định. Thực tiễn và lịch sử phát triển khoa học đã chứng tỏ rằng, sau khi
xác định mục tiêu, vấn đề không kém phần quan trọng và khó khăn là tìm ra
phương pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu ấy nhanh và hiệu quả nhất.
Mặt khác, không có phương pháp nghiên cứu vạn năng ứng với mọi
nội dung nghiên cứu. Sự thống nhất giữa nội dung và phương pháp thể hiện
ở logic phát triển của bản thân đối tượng nghiên cứu. Nội dung là tổng hợp
những mặt, yếu tố hợp thành đối tượng nghiên cứu. Hình thức đối tượng
nghiên cứu biểu thị qua cách thức liên kết của những mặt, những yếu tố,
những quá trình ấy. “Phương pháp là ý thức về hình thức của sự vận động
bên trong của nội dung” (Hêghen)
Ba là, hiệu quả của phương pháp nghiên cứu khoa học chịu sự chi
phối của cách thức tổ chức, phối hợp có kế hoạch các hoạt động nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hoạt động có kế hoạch được tổ
chức một cách hợp lý để đạt được các mục bộ phận, hướng tới đạt mục đích
chung của hoạt động nghiên cứu.
Bốn là, hiệu quả của phương pháp nghiên cứu khoa học luôn gắn với
mức độ hỗ trợ của các công cụ và phương tiện kỹ thuật. Phương tiện kỹ
thuật phù hợp, hiện đại sẽ tạo thuận lợi cho một phương pháp triển khai hiệu
quả và ngược lại. Do vậy, lựa chọn phương tiện phụ trợ phương pháp ngày
càng có vai trò quan trọng khi bàn đến tính hiệu quả của phương pháp
nghiên cứu.
2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
a. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý luận về phương pháp
nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp luận nghiên cứu là hệ thống quan
điểm có tính nguyên tắc mà nhà nghiên cứu coi là cơ sở, điểm xuất phát cho
việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cũng như dự kiến phạm
vi, mức độ sử dụng phương pháp ấy để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu.
Bất kỳ một nghiên cứu nào cũng thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận nghiên cứu nhất định.
Phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn nhà nghiên cứu trên con
đường tìm tòi nghiên cứu. Nắm vững phương pháp luận là điều kiện thiết
yếu để thành công trong nghiên cứu khoa học.
b. Các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học
- Phương pháp luận chung nhất là phương pháp biện chứng mác xít.
Triết học Mác Lê nin bao gồm những quan điểm có tính nguyên tắc về thế
giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người.
- Phương pháp luận chung hay phương pháp luận bộ môn là những
luận điểm, lý thuyết cơ bản và góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa học
cụ thể. Chẳng hạn, phương pháp luận sử học, phương pháp luận sinh học…
Phương pháp luận chung đóng vai trò là nguyên tắc, căn cứ để người nghiên
cứu lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể nhằm giải quyết
những vấn đề cụ thể của ngành khoa học đó.
- Phương pháp luận riêng là phương pháp luận mà mỗi đề tài cụ thể
luôn có. Nó là những nguyên tắc tương ứng, phù hợp với đối tượng mà
người nghiên cứu xác định.
II. Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học
Các phương pháp nghiên cứu khoa học rất phong phú và đa dạng. Sự
phân loại hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học là cơ sở cho việc lựa
chọn, vận dụng và sáng tạo phương pháp trong thực hiện công trình nghiên
cứu của nhà khoa học.
Dựa trên phạm vi áp dụng phương pháp được chia thành: Phương
pháp riêng - phương pháp áp dụng cho từng ngành khoa học; Phương pháp
chung - phương pháp áp dụng cho nhiều ngành khoa học; Phương pháp phổ
biến - phương pháp áp dụng cho mọi ngành khoa học, cho toàn bộ hoạt động
nhận thức và thực tiễn của con người. Các phương pháp phổ biến chính là
các quan điểm, nguyên tắc của triết học, mà trước hết là của phép biện
chứng - phương pháp biện chứng. Các phương pháp biện chứng được xây
dựng từ nội dung tri thức chứa trong các nguyên lý, quy luật, phạm trù của
phép biện chứng duy vật, và chúng tác động trong sự hỗ trợ lẫn nhau.
Dựa trên lĩnh vực áp dụng, phương pháp được chia thành: Phương
pháp hoạt động thực tiễn - phương pháp áp dụng trong lĩnh vực hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới của con người; Phương pháp nhận thức khoa học -
phương pháp áp dụng trong quá trình nghiên cứu khoa học. Có nhiều
phương pháp nhận thức khoa học khác nhau có quan hệ biện chứng với
nhau. Trong hệ thống các phương pháp nhận thức khoa học, mỗi phương
pháp đều có vị trí nhất định, áp dụng hiệu quả cho mỗi loại đối tượng nghiên
cứu nhất định; vì vậy không được coi các phương pháp có vai trò như nhau
hay cường điệu phương pháp này hạ thấp phương pháp kia, mà phải biết sử
dụng tổng hợp các phương pháp.
1. Một số phương pháp nghiên cứu khoa học phân loại theo logic
biện chứng:
a. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để
đi sâu nhận thức các bộ phận đó. Còn tổng hợp là phương pháp thống nhất
các bộ phận đã được phân tích nhằm nhận thức cái toàn bộ.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống
nhất với nhau giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn. Không có
phân tích thì không hiểu được những cái bộ phận cấu thành cái toàn bộ và
ngược lại, không có tổng hợp thì không hiểu cái toàn bộ như một chỉnh thể
được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào. Vì vậy, muốn hiểu
thực chất của đối tượng mà chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp không thôi
thì chưa đủ mà phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng
của mình.
b. Phương pháp quy nạp và diễn dịch
Quy nạp là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức riêng
đến kết luận chứa đựng tri thức chung. Còn diễn dịch là phương pháp suy
luận đi từ tiền đề chứa đựng tri thức chung đến kết luận chứa đựng tri thức
riêng.
Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống
nhất với nhau giúp phát hiện ra những tri thức mới về đối tượng.
Sự đối lập của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp được dùng
để khái quát các tài liệu quan sát, thí nghiệm nhằm xây dựng các giả thuyết,
nguyên lý, định luật tổng quát của khoa học, vì vậy quy nạp, đặc biệt là quy
nạp khoa học, có giá trị lớn trong khoa học thực nghiệm. Diễn dịch được
dùng để cụ thể hóa các giả thuyết, nguyên lý, định luật tổng quát của khoa
học trong các điều kiện tình hình cụ thể, vì vậy diễn dịch, đặc biệt là phương
pháp giả thuyết - diễn dịch, phương pháp tiên đề, có giá trị lớn trong khoa
học lý thuyết.
Sự thống nhất của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp xây
dựng tiền đề cho diễn dịch, còn diễn dịch bổ sung thêm tiền đề cho quy nạp
để thêm chắc chắn. Không có quy nạp thì không hiểu được cái chung tồn tại
trong cái riêng như thế nào, và ngược lại, không có diễn dịch thì không hiểu
cái riêng có liên hệ với cái chung ra sao. Vì vậy, muốn hiểu thực chất của
đối tượng mà chỉ có quy nạp hoặc chỉ có diễn dịch không thôi thì chưa đủ
mà phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên
cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế của riêng mình.
c. Phương pháp lịch sử - logic
Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát sinh, phát triển và tiêu
vong của sự vật trong tính đa dạng, sinh động của nó. Còn lôgích là phạm
trù dùng để chỉ tính tất yếu - quy luật của sự vật (lôgích khách quan) hay
mối liên hệ tất yếu giữa các tư tưởng (lôgích chủ quan). Phương pháp lịch sử
là phương pháp đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư duy quá trình lịch sử - cụ
thể với những chi tiết của nó, nghĩa là phải nắm lấy sự vận động, phát triển
lịch sử của sự vật trong toàn bộ tính phong phú của nó. Phương pháp lôgích
là phương pháp đòi hỏi phải vạch ra bản chất, tính tất nhiên - quy luật của
quá trình vận động, phát triển của sự vật dưới hình thức trừu tượng và khái
quát của nó, nghĩa là phải loại bỏ cái ngẫu nhiên, vụn vặt ra khỏi tiến trình
nhận thức sự vận động, phát triển của sự vật.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là hai phương pháp
nghiên cứu đối lập nhau nhưng thống nhất biện chứng với nhau giúp xây
dựng hình ảnh cụ thể và sâu sắc về sự vật. Bởi vì, muốn hiểu bản chất và
quy luật của sự vật thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của nó, đồng
thời có nắm được bản chất và quy luật của sự vật thì mới nhận thức được
lịch sử của nó một cách đúng đắn và sâu sắc. Khi nghiên cứu cái lịch sử,
phương pháp lịch sử cũng phải nắm lấy “sợi dây” lôgích của nó để thông
qua đó mà phân tích các sự kiện, biến cố lịch sử. Còn khi tìm hiểu bản chất,
quy luật, phương pháp lôgích cũng không thể không dựa vào các tài liệu lịch
sử để uốn nắn, chỉnh lý chúng. Tuy nhiên, tuỳ theo đối tượng và nhiệm vụ
nghiên cứu mà nhà khoa học có thể sử dụng phương pháp nào là chủ yếu.
d. Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể
Cái cụ thể là phạm trù dùng để chỉ sự tồn tại trong tính đa dạng. Cái trừu
tượng là phạm trù dùng để chỉ kết quả của sự trừu tượng hóa tách một mặt,
một mối liên hệ nào đó ra khỏi cái tổng thể phong phú đa dạng của sự vật.
Vì vậy, cái trừu tượng là một bộ phận, một mặt của cái cụ thể, là một bậc
thang trong quá trình xem xét cái cụ thể (khách quan). Từ những cái trừu
tượng tư duy tổng hợp lại thành cái cụ thể (trong tư duy).
Nhận thức khoa học là sự thống nhất của hai quá trình nhận thức đối lập:
Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng và Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư
duy). Từ cụ thể (cảm tính) đến trừu tượng là phương pháp đòi hỏi phải xuất
phát từ những tài liệu cảm tính thông qua phân tích xây dựng các khái niệm
đơn giản, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính
của sự vật. Từ trừu tượng đến cụ thể (trong tư duy) là phương pháp đòi hỏi
phải xuất phát từ những khái niệm đơn giản, những định nghĩa trừu tượng
thông qua tổng hợp biện chứng đi đến cái cụ thể (trong tư duy.
Mỗi phương pháp nêu trên có vị trí khác nhau trong quá trình nhận
thức chân lý khách quan. Mỗi phương pháp có tính độc lập nhưng chúng
thống nhất trong quá trình nhận thức sự vật. Chúng hỗ trợ, bổ sung và cung
cấp những tri thức thu được để quá trình nhận thức đạt đến chân lý.
2. Phân loại theo phương thức quan sát
Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch một sự
kiện, một hiện tượng, quá trình nhằm thu thập thông tin về sự kiện, hiện
tượng hay quá trình ấy.
Quan sát là phương thức cơ bản để nhận thức sự vật. Quan sát được sử
dụng trong phát hiện vấn đề nghiên cứu, xây dựng giả thuyết và kiểm chứng
giả thuyết nghiên cứu. Quan sát đem lại cho người nghiên cứu những tài liệu
cụ thể, cảm tính, trực quan song có ý nghĩa khoa học rất lớn.
Để hỗ trợ cho các giác quan, nâng cao độ chính xác và tính khách
quan của kết quả quan sát, các nhà khoa học thường sử dụng các phương
tiện, công cụ hỗ trợ.
Trong nghiên cứu khoa học, cần đảm bảo xác định rõ đối tượng quan
sát. Đồng thời, chủ thể xác định rõ ràng mục đích, nhiệm vụ của việc quan
sát.
Quan sát có nhiều loại. Theo mức độ chuẩn bị, quan sát được phân
chia thành quan sát có chuẩn bị trước và quan sát bất chợt. Theo quan hệ của
người quan sát và đối tượng có quan sát không tham dự và quan sát có tham
dự. Theo mục đích nắm bắt đối tượng có quan sát hình thái, quan sát chức
năng. Theo mục đích xử lý thông tin có quan sát mô tả và quan sát phân tích.
Theo tính liên tục của quan sát, có thể phân chia thành quan sát định kỳ,
quan sát chu kỳ, quan sát liên tục. Theo phương thức quan sát có quan sát
trực tiếp và quan sát gián tiếp…
Căn cứ vào phương thức quan sát, có thể phân loại phương pháp
nghiên cứu thành các nhóm: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp
thực nghiệm và phương pháp phi thực nghiệm.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Phương pháp nghiên cứu và vai trò của phương pháp trong nghiên
cứu khoa học.
2. Phương pháp luận và các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu
khoa học
3. Đặc điểm của các phương pháp nghiên cứu khoa học phân loại theo
logic biện chứng.
3. Các phương pháp nghiên cứu được phân loại theo phương thức
quan sát.
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU
I. Tài liệu khoa học và phương pháp nghiên cứu tài liệu khoa học
1. Tài liệu khoa học
Tài liệu là vật thể cung cấp những chỉ dẫn thông tin. Tài liệu gồm hai
đặc trưng cơ bản.
Đặc trưng về mặt vật chất thể hiện ở chất liệu và tín hiệu sử dụng.
Đặc trưng tri thức thể hiện ở nội dung của tài liệu, mức độ xử lý và
phổ biến của tài liệu. Tùy theo mức độ xử lý nội dung, người ta phân biệt
các loại tài liệu như tài liệu sơ cấp, tài liệu thứ cấp…
Tài liệu khoa học là những văn bản hoặc vật thể chứa đựng những
thông tin khoa học giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học nào
đó. Tài liệu khoa học không chỉ là phương tiện công bố kết quả nghiên cứu
mà còn là cơ sở khẳng định quyền tác giả của nhà nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin
khoa học trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác tư
duy để rút ra kết luận khoa học.
Mục đích của nghiên cứu tài liệu là nhằm nhận dạng sơ bộ quy luật
chung của đối tượng nghiên cứu. Những quy luật này đã được trình bày
trong tài liệu của những nhà nghiên cứu trước. Nhà nghiên cứu thu thập,
tổng hợp chúng theo một trình tự logic nhất định để làm tái hiện những quy
luật đó.
Bản chất của phương pháp nghiên cứu tài liệu là nghiên cứu các tài
liệu đã tích lũy trong quá khứ, đúc kết, tìm kiếm thông tin về quy luật diễn ra
trong quá khứ có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Đối với đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, phương pháp
nghiên cứu tài liệu được sử dụng phổ biến và có vị trí vai trò quan trọng
trong việc tạo dựng cơ sở lý luận cho một đề tài nghiên cứu.
Đặc trưng của nhóm phương pháp này là người nghiên cứu không có
bất kỳ một sự quan sát trực tiếp nào lên đối tượng nghiên cứu. Song phương
pháp này lại đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có lý thuyết “nền” làm căn cứ xuất
phát như thế giới quan, quan điểm, lập trường tư tưởng để có thái độ tiếp
nhận và cách thức xử lý thông tin phù hợp.
II. Các phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tài liệu bao gồm tập hợp các phương pháp: phân loại tài
liệu, phân tích tài liệu, đọc, ghi chép và tóm tắt tài liệu khoa học.
1. Phương pháp thu thập và phân loại tài liệu
a. Thu thập tài liệu là bước đầu tiên nhà nghiên cứu phải thực hiện khi
bắt tay nghiên cứu một đề tài khoa học. Căn cứ vào vấn đề nghiên cứu và
xuất phát từ giả thuyết khoa học, nhà nghiên cứu tiến hành xác định nguồn
tài liệu, tìm kiếm và lựa chọn những tài liệu cần thiết nhằm làm sang rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh cho giả thuyết khoa học
của mình.
Về nguyên tắc, tất cả những tài liệu chứa đựng các thông tin liên quan
đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đều phải được thu thập. Song hiện nay,
sự phát triển khoa học cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cách
mạng thông tin diễn ra trên toàn cầu tác động mạnh mẽ tới quy luật tồn tại
và phát triển tài liệu khoa học. Người ta dự đoán cứ sau 10 năm số tài liệu
khoa học lại tăng gấp đôi và tiếp tục gia tăng theo hàm số mũ.
Bên cạnh đó, quy luật về sự tập trung và tản mạnh thông tin cũng tác
động đến sự tồn tại của tài liệu khoa học. Quy luật này hình thành do quá
trình phân lập và tích hợp khoa học. Quá trình phân lập các khoa học dẫn
đến việc hình thành các tài liệu chuyên môn hẹp. Quá trình tích hợp khoa
học lại dẫn đến việc hình thành các tài liệu khoa học liên ngành.
Tính hữu ích của một tài liệu khoa học được xác định bằng giá trị nội
dung, tính thời sự cũng như khả năng tương thích của nó đối với vấn đề
nghiên cứu mà nhà khoa học quan tâm. Đối với một vấn đề nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn, tính hữu ích của thông tin và giá trị của tài liệu trùng
khớp khi nó tương đồng với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Điều
này phân biệt với việc xem xét gia trị và tính hữu ích của thông tin khoa học
công nghệ và kỹ thuật. Thông thường, tài liệu khoa học xã hội có tuổi thọ
giá trị dài hơn. Chẳng hạn, tài liệu có tuổi thọ hang thế kỷ hoặc xa hơn như
tài liệu lịch sử, tài liệu triết học… Thậm chí, giá trị của tài liệu đó còn được
đo bằng tuổi thọ của nó.
b. Phân loại tài liệu
Phân loại tài liệu được tiến hành sau khi thu thập tài liệu để chuẩn bị
cho quá trình đọc, khai thác nội dung.
Phân loại tài liệu là phương pháp sắp xếp tài liệu khoa học thành hệ
thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa
học có cùng dấu hiệu theo mục đích sử dụng của nhà nghiên cứu.
Các hình thức phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo tên tác
giả, phân loại theo thời gian công bố, hình thức công bố. Ngoài ra còn nhiều
cách phân loại khác, tùy theo mục đích nghiên cứu của đề tài mà nhà nghiên
cứu phân loại cho phù hợp.
2. Phân tích và tổng hợp tài liệu
a. Phân tích tài liệu
Phân tích tài liệu là phương pháp nghiên cứu tài liệu về một chủ đề
bằng cách tách chúng thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu
chúng một cách sâu sắc, tìm thông tin phục vụ vấn đề nghiên cứu.
Phân tích tài liệu nhằm xác định độ tin cậy, tính khách quan, tính cập
nhật của tài liệu, giới hạn và phạm vi của vấn đề mà tài liệu đề cập đến. Mục
đích của việc phân tích tài liệu là thông qua phân tích hình thức và nội dung
tài liệu, nhà nghiên cứu xác định tính hữu ích của tài liệu và phạm vi có thể
kế thừa nội dung tài liệu đó đối với đề tài họ triển khai. Thông qua việc phân
tích hình thức tài liệu, xác định nguồn tài liệu, tác giả, nơi công bố, hình
thức công bố tài liệu. Trên cơ sở phân tích tài liệu, nhà nghiên cứu xác định
mức độ phải xử lý tài liệu theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Sau khi phân tích các dấu hiệu hình thức, người nghiên cứu tiến hành
phân tích một số tiêu chí cơ bản về nội dung tài liệu. Theo cách này, người
nghiên cứu lập một phiếu phân tích tài liệu đối với mỗi tài liệu hay nhóm tài
liệu cụ thể. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu và khung lý thuyết
của đề tài để thiết kế nội dung của mỗi phiếu phân tích tài liệu. Phiếu phân
tích tài liệu xây dựng theo các tiêu chí: chủ đề chính của tài liệu, nội dung cơ
bản, mục đích, phạm vi nghiên cứu cũng như mức độ sử dụng của thông tin
trong tài liệu.
b. Tổng hợp tài liệu
Tổng hợp tài liệu là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận
thông tin từ tài liệu từ các tài liệu thu thập được nhằm tạo ra một cách hiểu
đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp tài liệu được thực hiện
trên nhiều tài liệu phong phú về đối tượng. Tổng hợp tài liệu được thực hiện
trên cơ sở kết quả phân tích tài liệu, cho phép nhà nghiên cứu có những
thông tin toàn diện và khái quát về vấn đề nghiên cứu dựa trên những tài liệu
đã có.
Tổng hợp tài liệu nhằm mục đích xác định tính tương thích của tài liệu
so với mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, lựa chọn tư liệu cần và đủ, sắp
xếp chúng theo tiến trình thời gian hay quan hệ nhân quả.
Phân tích và tổng hợp tài liệu là hai phương pháp có chiều hướng đối
lập nhau song thống nhất biện chứng và bổ trợ cho nhau, giúp nhà nghiên
cứu nắm bắt được thông tin xung quanh vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc
và khái quát.
3. Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu
Đọc và ghi chép tài liệu là một công đoạn trong phương pháp nghiên
cứu tài liệu khoa học. Cách thức đọc và ghi chép tài liệu nói lên nhà nghiên
cứu sẽ sử dụng, tiếp thu, ghi nhớ thông tin tài liệu đó như thế nào.
a. Đọc tài liệu
Phương pháp đọc tài liệu gắn liền với hành vi tư duy. Yêu cầu đạt
được khi đọc tài liệu là ghi nhớ được tên tài liệu, nguồn, tác giả tài liệu, nội
dung cơ bản, những dữ kiện được đề cập đến trong tài liệu, khả năng sử
dụng chúng trong giải quyết vấn đề khoa học của nhà nghiên cứu. Đối với
từng tài liệu, căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu của từng đề tài cụ thể có thể có
nhiều cách đọc khác nhau.
Đọc thông thường đối với tài liệu không cần thiết phải quá ghi nhớ và
chú ý nhiều.
Đọc nhanh: đọc tài liệu phổ biến thông tin khoa học với tốc độ nhanh,
đồng thời đặt ra yêu cầu ghi nhớ những thông tin căn bản trong tài liệu.
Đọc trượt là kiểu đọc chọn lọc, khi đọc mắt lướt theo toàn bộ nội dung
tài liệu nhưng chỉ chú ý đến những đoạn cần thiết.
Đọc quét cũng là một kiểu đọc chọn lọc. Khi đọc mắt không lướt trên
toàn bộ nội dung tài liệu mà chỉ lướt theo những phần có thể có thông tin ẩn.
Chẳng hạn khi nhà nghiên cứu tìm những số liệu, dữ kiện cần thiết trong các
sách tra cứu.
Đọc sâu đối với những tài liệu chuyên môn phức tạp, yêu cầu nhà
nghiên cứu phải suy nghĩ và phân tích ngay trong quá trình đọc.
Để có thể thu được những thông tin hiệu quả, nhà nghiên cứu còn cần
biết điều chỉnh tốc độ đọc, phương pháp đọc một cách phù hợp. Thông
thường, trình tự đọc một tài liệu là: đọc tổng quát tài liệu nhằm xác định
những phần, những trang phải đọc kỹ; Đọc kỹ những phần đã đánh dấu và
tiến hành ghi chép.
b. Ghi chép tài liệu
Sau khi đọc lướt toàn bộ tài liệu, nhà khoa học tiến hành đọc kỹ và ghi
chép những nội dung tài liệu có ý nghĩa với nhà khoa học và liên qua đến
vấn đề nghiên cứu của mình. Đối với các tài liệu khoa học, có thể tiến hành
ghi chép nội dung tài liệu theo những quy tắc ghi nhớ. Những ghi chép ban
đầu này chính là vật liệu thông tin đầu tiên làm tiền đề cho các nhà khoa học
tiến hành xử lý thông tin trong quá trình nghiên cứu tài liệu. Đó là thực hiện
tóm tắt tài liệu khoa học.
4. Phương pháp thực hiện tóm tắt khoa học
Tóm tắc khoa học thường được thực hiện sau khi nhà nghiên cứu tiến
hành đọc và ghi chép tài liệu.Bản tóm tắt thực hiện trên cơ sở các kết quả
thu được của việc đọc và ghi chép tài liệu.
Mục đích của việc thực hiện tóm tắt khoa học đối với tài liệu là nhằm
loại bỏ những thông tin không cần thiết trong những tài liệu đã thu thập
được, cô đọng và làm bật lên nội dung của tài liệu mà thích ứng và cần thiết
với vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là công việc xử lý thông tin cần thiết, tích
lũy tri thức cho nhà nghiên cứu.
Tùy theo nội dung vấn đề nghiên cứu, tùy theo nội dung thông tin
trong từng tài liệu khoa học mà nhà nghiên cứu có thể tiến hành tóm tắt tài
liệu theo từng mức độ khác nhau về độ dài, mức độ chi tiết, có đánh giá, phê
phán hay không, tóm tắt toàn bộ tài liệu hay từng phần tài liệu.
Tóm tắt lược thuật là văn bản do nhà nghiên cứu thực hiện nhằm ghi
chép lại một cách cô đọng, trung thực thông tin về kết quả nghiên cứu của
một hay một nhóm tài liệu đã được phân loại có lien quan trực tiếp đến mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện của một đề tài khoa học.
Bản lược thuật là văn bản đúc kết một cách cô đọng nội dung của tài
liệu. Trong đó phải nêu bật được nội dung chủ đề của tài liệu, thời gian, bối
cảnh, địa điểm của sự việc, sự kiện, các phương pháp được tác giả tài liệu sử
dụng, những kết luận và triển vọng của vấn đề tác giả tài liệu nêu lên.
Bản lược thuật đạt trình độ khách quan, khoa học, làm căn cứ tin cậy
của đề tài khi được thực hiện theo những tiêu chuẩn sau: vấn đề mà tài liệu
nêu lên phải được lược thuật đầy đủ theo trình tự thời gian, đảm bảo tính lịch
sử, tính logic, tránh lược thuật các vấn đề bằng cách tách rời, cô lập vấn đề
đó khỏi bối cảnh tồn tại của nó. Bản lược thuật tài liệu cần ngắn gọn, súc
tích về nội dung, đảm bảo tính chính xác của các thuật ngữ mà tài liệu trình
bày.
Tóm tắt tổng thuật là bản trình bày tổng hợp về một hay một số vấn đề
lien quan đến mục tiêu, nhiệm vụ của một đề tài nghiên cứu dựa trên nhiều
tài liệu cùng đề cập đến các vấn đề đó.
Bản tóm tắt tổng thuật cũng cần đạt được những yêu cầu của bản tóm
tắt lược thuật. Đồng thời có sự liên hệ, so sánh, bình luận, phê phán một
cách sơ bộ các thông tin đó. Nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự kiến về mục
đích, mức độ và phạm vi tham khảo. Bản tổng thuật tài liệu cần đảm bảo
tính khách quan khoa học của các tài liệu khảo cứu.
Bản tóm tắt lược thuật và tổng thuật tài liệu là căn cứ, dữ liệu khoa
học quan trọng để nhà nghiên cứu thông qua hoạt động tư duy sang tạo của
mình hình thành các ý tưởng nghiên cứu, tìm kiếm luận cứ chứng minh giả
thuyết. Bản tóm tắt lược thuật hay tổng luận tài liệu do người nghiên cứu
thực hiện khác với bản tổng thuật tài liệu do các cơ bản thông tin thực hiện
nhằm mục đích phổ biến thông tin.
Bản tổng thuật tài liệu này cũng khác với tổng luận kết quả nghiên
cứu thực hiện sau khi hoàn thành đề tài, là sản phẩm chính của một đề tài.
Bản tổng hợp vấn đề nghiên cứu đề cập đề cập đến trong phần này chỉ dừng
ở các sản phẩm trung gian trong nghiên cứu một đề tài.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Tài liệu khoa học và vai trò của tài liệu trong nghiên cứu khoa học
2. Yêu cầu của phương pháp thu thập và phân loại tài liệu khoa học.
3. Yêu cầu của phương pháp đọc và ghi chép tài liệu khoa học.
4. Yêu cầu của phương pháp phân tích tài liệu khoa học.
5. Yêu cầu của phương pháp tóm tắt tài liệu khoa học.
6. Thực hành: Thực hiện phân tích một tài liệu khoa học được giao.
7. Thực hành: Thực hiện tóm tắt một công trình khoa học theo yêu
cầu được giao.
8. Thực hành: Thực hiện tóm tắt lược thuật tài liệu khoa học theo chủ
đề được giao.
CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM KHOA HỌC
I. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm
1. Khái niệm
Thực nghiệm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng được
thực hiện bởi những quan sát trực tiếp trong điều kiện gây biến đổi cho đối
tượng khảo sát một cách có chủ đích.
Thực chất của phương pháp thực nghiệm là nghiên cứu dựa trên sự
mô phỏng các quá trình hiện thực. Thực nghiệm giúp nhà khoa học chủ động
tạo ra các hoạt động, các biến chuyển giúp nhà nghiên cứu quan sát mô hình
hay môi trường giả định thông qua sự mô phỏng các quá trình diễn ra trong
thực tế.
Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện chủ yếu dựa vào nguyên tắc
xem xét mối quan hệ nhân quả. Yêu cầu chủ yếu của phương pháp này là
nhà nghiên cứu cần nắm chắc và thao túng được nguyên nhân trong một môi
trường có sự kiểm soát.
2. Các điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm
Một là, nhà nghiên cứu biết được những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự
nảy sinh và diễn biến của đối tượng nghiên cứu.
Hai là, người nghiên cứu xác định được những nguyên nhân của các
hiện tượng do vạch ra được các điều kiện ảnh hưởng.
Ba là, người nghiên cứu cần và có thể lặp lại nhiều lần thực nghiệm.
3. Các bước tiến hành thực nghiệm
Nhà nghiên cứu cần nắm được tiến trình triển khai phương pháp thực
nghiệm gồm ba giai đoạn cơ bản.
Một là, chuẩn bị thực nghiệm, người nghiên cứu cần xác định mục
đích thực nghiệm, đối tượng thực nghiệm, thời gian, địa điểm thực nghiệm.
Đồng thời, nhà nghiên cứu chuẩn bị các tiêu chí đo đạc kết quả thực nghiệm.
Hai là, tiến hành thực nghiệm
Ba là, xử lý kết quả thực nghiệm.
II. Phân loại thực nghiệm
1. Phân loại theo diễn trình thời gian tiến hành thực nghiệm
Theo quá trình tiến hành thực nghiệm có thực nghiệm cấp diễn, thực
nghiệm bán cấp diễn và thực nghiệm trường diễn.
a. Thực nghiệm cấp diễn là thực nghiệm để xác định sự tác dụng của
các giải pháp tác động hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng
nghiên cứu trong một thời gian ngắn.
b. Thực nghiệm trường diễn là thực nghiệm nhằm xác định sự tác
động của các giải pháp hoặc ảnh hưởng của tác nhân lên đối tượng nghiên
cứu lâu dài, liên tục.
c. Thực nghiệm bán cấp diễn diễn ra ở mức độ trung gian giữa hai quá
trình thực nghiệm nêu trên.
2. Phân loại theo nơi tiến hành thực nghiệm
Quá trình thực nghiệm có thể được tiến hành ở nhiều môi trường khác
nhau tùy theo yêu cầu của nghiên cứu.
a. Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
Trong phòng thí nghiệm, người nghiên cứu hoàn toàn chủ động tạo
dựng mô hình nghiên cứu và khống chế các thông số. Người nghiên cứu có
thể kiểm soát toàn bộ điều kiện thực nghiệm, tạo ra tình huống như mong
muốn, chủ động kiểm soát hay vận dụng các biến số. Nhà nghiên cứu có thể
quan sát và đánh giá được kết quả của việc vận dụng các biến số ấy. Chính
vì vậy, thực nghiệm trong phòng có thể trở thành một phương thức nghiên
cứu mang tính kỹ thuật. Phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu tạo ra
được những tình huống cần thiết, quan sát chính xác các diễn biến của đối
tượng trong quá trình thực nghiệm. Đồng thời, nhà nghiên cứu có thể dự
kiến và đo lường kết quả chính xác hơn. Do vậy, thực nghiệm trong phòng
đặc biệt phù hợp với các ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm có những giới hạn nhất định khi
đơn giản hóa các quá trình hiện thực, nhất là các quá trình xã hội. Điều kiện
thực nghiệm trong phòng luôn có khoảng cách khá xa đối tượng thực.
b. Thực nghiệm tại hiện trường
Nếu thực nghiệm trong phòng là sự mô phỏng hiện thực thì thực
nghiệm tại hiện trường được tiến hành trong môi trường hiện thực. Tại đây,
người nghiên cứu được tiếp cận mọi tham số và những điều kiện hoàn toàn
thực nhưng lại bị hạn chế về khả năng khống chế các tham số và các điều
kiện tham dự vào quá trình nghiên cứu.
c. Thực nghiệm trong quần thể xã hội
Đây là dạng thực nghiệm được tiến hành trên một cộng đồng người
trong những điều kiện sống của họ. Trong thực nghiệm này, người nghiên
cứu thay đổi các điều kiện sinh hoạt, cách thức tổ chức, quản lý… của đối
tượng. Trong các nghiên cứu khoa học xã hội, trong y học… thực nghiệm
trong quần thể xã hội ngày càng có vị trí quan trọng trong xây dựng và kiểm
chứng giả thuyết nghiên cứu.
3. Phân loại theo mục đích thực nghiệm
a. Thực nghiệm thăm dò được tiến hành để phát hiện bản chất của đối
tượng nghiên cứu. Đây là phương pháp được sử dụng trong xây dựng giả
thuyết khoa học.
b. Thực nghiệm kiểm chứng là những thực nghiệm nhằm tìm kiếm các
luận cứ để chứng minh cho các giả thuyết nghiên cứu.
c. Thực nghiệm song hành là những thực nghiệm được tiến hành đối
với hai hay nhiều đối tượng khác nhau trong những điều kiện thực nghiệm
như nhau nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của cùng một điều kiện thực
nghiệm lên những đối tượng khác nhau.
d. Thực nghiệm đối nghịch là những thực nghiệm được tiến hành trên
hai hay nhiều đối tượng như nhau trong các điều kiện thực nghiệm ngược
chiều nhau nhằm xác định mức độ chịu ảnh hưởng của cùng một loại đối
tượng dưới tác động của những điều kiện thực nghiệm khác nhau, thậm chí
đối nghịch nhau.
e. Thực nghiệm đối chứng là những thực nghiệm được tiến hành đối
với một trong hay (hay trong nhóm) đối tượng như nhau. Trong trường hợp
này, người nghiên cứu muốn xác định mức độ tác động của các điều kiện
thực nghiệm so với các đối tượng không chịu các tác động đó. Các đối tượng
còn lại được coi là đối chứng của đối tượng thực nghiệm. Trong quá trình
nghiên cứu, nhà khoa học có thể thay đổi vị trí của hai nhóm này để thực
hiện phương pháp.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Đặc điểm của phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học
2. Các phương pháp thực nghiệm phân loại theo diễn trình thời gian
tiến hành thực nghiệm.
3. Các phương pháp thực nghiệm phân loại theo nơi tiến hành thực
nghiệm.
4. Các phương pháp thực nghiệm theo mục đích và phương thức tiến
hành thực nghiệm.
5. Thực hành: trình bày giả thuyết nghiên cứu và mô tả cách thức tiến
hành giả định phương pháp thực nghiệm song hành.
6. Thực hành: trình bày giả thuyết nghiên cứu và mô tả cách thức tiến
hành giả định phương pháp thực nghiệm đối nghịch.
7. Thực hành: trình bày giả thuyết nghiên cứu và mô tả cách thức tiến
hành giả định phương pháp thực nghiệm đối chứng.
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU PHI THỰC NGHIỆM
Phương pháp phi thực nghiệm được thực hiện dựa trên sự quan sát
những sự kiện đã hoặc đang tồn tại, thu thập số liệu thống kê về đối tượng
nhằm phát hiện bản chất hay quy luật tồn tại, vận động của đối tượng ấy, từ
đó xây dựng và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu. Trong phương pháp phi
thực nghiệm, người nghiên cứu chỉ quan sát trực tiếp mà không có bất kỳ sự
can thiệp nào gây biến đổi trạng thái của đối tượng nghiên cứu. Một số
phương pháp phi thực nghiệm được sử dụng trong nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn là: điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn, tổng kết thực tiễn…
I. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
1. Đặc điểm của phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp người nghiên cứu thiết kế sẵn
một phiếu hỏi với những câu hỏi được sắp xếp theo trật tự logic nhất định để
có được thông tin về đối tượng.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ưu điểm là cho phép tiến hành
nghiên cứu trên một địa bàn rộng, nhiều người tham gia, có thể thu thập
được ý kiến của một số lượng lớn nghiệm viên. Song mức độ thành công của
phương pháp này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố thuộc về
năng lực, kỹ năng của nhà nghiên cứu, trạng thái tâm lý, nhận thức và mức
độ hợp tác của người được hỏi cũng như môi trường, tình huống triển khai
phương pháp. Trong phương pháp này người được hỏi tiến hành trả lời các
câu hỏi bằng cách tự ghi ý kiến của mình vào phương án trả lời tương ứng
trong bảng hỏi.
Trong phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, cần chú ý đến việc chọn
mẫu và thiết kế bảng hỏi.
2. Chọn mẫu và thiết kế bảng hỏi
a. Chọn mẫu
Mẫu điều tra là tập hợp được lựa chọn, có đủ các yếu tố có tính chất
tiêu biểu và được rút ra từ một tập hợp lớn thuộc nhóm đối tượng nhà nghiên
cứu quan tâm. Điều tra chọn mẫu là điều tra không toàn bộ, trong đó người
ta chọn ngẫu nhiên một số đơn vị trong tổng thể nghiên cứu để điều tra, rồi
dùng kết quả thu thập được tính toán suy rộng cho toàn bộ tổng thể.
Chọn mẫu trong phương pháp này giúp quá trình nghiên cứu giảm chi
phí, thời gian,đảm bảo số liệu, dữ liệu thu được phản ánh chính xác nhóm
đối tượng.
Mẫu điều tra là số lượng cá thể hay đơn vị được chọn để trả lời câu
hỏi của nhà nghiên cứu. Việc chọn mẫu phải đảm bảo tính ngẫu nhiên và
tính đại diện.
Tính đại diện của mẫu phụ thuộc chủ yếu và các nhân tố sau:
- Mẫu sẽ có tính đại diện (cho tổng thể từ đó nó được chọn lựa) nếu
tất cả các thành viên của tổng thể đều có cơ hội ngang bằng để được lựa
chọn vào mẫu.
- Mẫu sẽ đại diện cho tổng thể nếu bản chất, cấu trúc của nó phản ánh
bản chất, cấu trúc của tổng thể (tức là phải gồm đủ những đặc tính chứa
trong tổng thể).
- Tính đại diện của mẫu không cần đại diện cho mọi khía cạnh của
tổng thể mà chỉ giới hạn đến những đặc tính phù hợp cho những nhu cầu cơ
bản của mục tiêu nghiên cứu.
- Tính đại diện của mẫu phụ thuộc chủ yếu vào kích cỡ mẫu và tính
đồng nhất của mẫu. Mẫu càng lớn, càng đồng nhất thì tính đại diện càng cao.
Có một số cách chọn mẫu sau:
Thứ nhất, lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản.
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giảng là phương pháp rút ra một phần của
tập hợp sao cho mỗi phần tử trong tập hợp ấy đều có cơ may đồng đều được
lựa chọn. Phương pháp này có ưu điểm cho phép thu được mẫu có tính đại
diện cao, có thể suy rộng các kết quả của mẫu cho tổng thể với một sai số
xác định, song để vận dụng phải có toàn bộ danh sách của tổng thể nghiên
cứu. Người nghiên cứu có thể rút thăm hoặc sử dụng bảng ngẫu nhiên để lấy
mẫu. Ngày nay, máy tính cho phép chúng ta dễ dàng chọn mẫu ngẫu nhiên
một cách dễ dàng và hiệu quả.
Thứ hai, lấy mẫu ngẫu nhiên hệ thống
Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống là chọn mẫu ngẫu nhiên phần tử trong
tổng thể theo một trật tự nhất định. Người nghiên cứu cần lập danh sách các
phần tử hiện có rồi tùy kích thước mẫu mà chọn bước nhảy. Chẳng hạn,
chọn một đơn vị ngẫu nhiên, giả định có thứ tự là i. lấy một số k bất kỳ làm
khoảng cách mẫu. Theo cách này, cuối cùng số mẫu được sử dụng sẽ gồm
một loạt phần tử có khoảng cách bằng k:
Mẫu (i), mẫu (i+k), mẫu (i + 2k), mẫu (i + 3k) …
Cách thức chọn mẫu này dù đảm bảo được tính đại diện, khách quan.
Song nhược điểm của phương pháp này là dễ mắc sai số hệ thống nếu như
tổng thể không được sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên mà theo một thứ tự chủ
quan nào đó. Tuy vậy do cách thức đơn giản, nên chọn mẫu ngẫu nhiên hệ
thống hay được dùng ở cấp chọn mẫu cuối cùng khi tổng thể tương đối
thuần nhất.
Thứ ba, chọn mẫu hệ thống phân tầng
Trong một số trường hợp, đối tượng nghiên cứu được cấu tạo bởi
nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến những đặc điểm muốn nghiên
cứu. Lấy mẫu hệ thống phân tầng dựa trên cơ sở phân chia đối tượng thành
nhiều lớp, mỗi lớp có đặc trưng đồng nhất. Đối với mỗi lớp, người nghiên
cứu thực hiện kỹ thuật lấy mẫu có hệ thống.
Thứ tư, chọn mẫu phân nhóm
Chọn mẫu phân nhóm là phương pháp chọn mẫu trong đó người ta
chia tổng thể ra thành các nhóm có độ thuần nhất cao để chọn ra các phần tử
đại diện cho từng nhóm. Việc phân nhóm có hiệu quả khi tổng thể nghiên
cứu không thuần nhất theo dấu hiệu nghiên cứu. Sau đó trong mỗi nhóm,
người ta chỉ chọn một hay một số phần tử để điều tra.
b. Thiết kế bảng hỏi
- Bảng câu hỏi gồm các câu hỏi đưa ra để các cá nhân, đơn vị trở lời.
Kết quả tổng hợp ý kiến trả lời sẽ được xử lí, sử dụng nhằm giải quyết mục
tiêu nghiên cứu đã được đề ra. Do vậy, cần căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu và những nội dung cần điều tra để xây dựng bảng hỏi. Bên cạnh
đó, thiết kế bảng hỏi cần dựa trên việc xác định đối tượng nghiên cứu cũng
như các nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng ấy; trình độ học vấn, điều kiện
kinh tế xã hội của người được hỏi; tập quán văn hóa, lối sống … của đối
tượng điều tra.
- Cấu trúc của bảng hỏi
+ Phần mở đầu của bảng hỏi: được bắt đầu bằng việc đặt tên cho bảng
hỏi Tên gọi của bảng hỏi phải phản ánh được nội dung của đề tài nghiên
cứu.Việc chọn những thuật ngữ dùng trong phần mở đầu phụ thuộc vào loại
điều tra, đối tượng của nó, vào các đặc điểm văn hóa của mẫu nghiên cứu...
+ Lời giới thiệu của bảng hỏi: bao gồm: những chỉ dẫn về chủ đề được
khảo sát; Những chỉ dẫn kỹ thuật (chẳng hạn: Bạn hãy đánh dấu gạch chéo
(x) trong ô tương ứng với sự lựa chọn của bạn hoặc ý kiến của bạn…). Lời
giới thiệu không được quá dài và phải dễ hiểu.
+ Các câu hỏi của bảng hỏi: nhằm thu thập thông tin của đề tài nghiên
cứu. Việc sắp đặt những câu hỏi chuẩn bị cho người được hỏi cần có thái độ
cởi mở, tích cực đối với việc nghiên cứu. Việc sắp xếp câu hỏi từ đơn giản
đến phức tạp, từ chung đến riêng. Những câu hỏi sau làm rơ những câu hỏi
trước. Các câu hỏi lọc, câu hỏi chức năng, câu hỏi đơn giản và phức tạp cần
được đặt xen kẽ trong bảng hỏi. Các câu hỏi liên quan đến đặc điểm cá nhân:
giới tính, tuổi, tình trạng gia đình... được đặt ở cuối bảng hỏi để làm cho
người trả lời có cảm giác không bị động chạm đến các vấn đề riêng tư cá
nhân và không làm giảm đi tính khuyết danh của việc trả lời.
+ Phần cuối bảng hỏi : bày tỏ lời cảm ơn người trả lời về sự hợp tác,
tham gia nghiên cứu.
- Các loại câu hỏi
Theo phương án trả lời có câu hỏi đóng, câu hỏi mở và câu hỏi hỗn
hợp
+ Câu hỏi đóng: là dạng câu hỏi đã có những phương án trả lời, Bảng
hỏi đã đưa ra một vài câu trả lời khác nhau. Người được hỏi lựa chọn câu trả
lời phù hợp với ý kiến của họ. Câu hỏi đóng có các loại: câu hỏi đối cực, câu
hỏi cường độ, câu hỏi tuyển…Câu hỏi đối cực (hay câu hỏi loại trừ), các
phương án trả lời có giá trị đối nghịch như có/ không; tán thánh/ không tán
thành... Đây là loại câu hỏi khá phổ biến trong bảng hỏi.
Câu hỏi cường độ nhằm mục đích xác định ở mức độ phản ứng của
cá nhân, tính chất của các thái độ với vấn đề cần nghiên cứu. Câu trả lời của
loại câu hỏi này được phân chia theo cách mức độ khác nhau tương ứng với
ý kiến của người được hỏi. Chẳng hạn: rất tốt/ khá tốt/ bình thường/ yếu/
kém.
Câu hỏi tùy chọn (còn gọi là câu hỏi tuyển). Người trả lời có thể lựa
chọn một số phương án đã được đưa ra, khả năng trả lời không loại trừ lẫn
nhau. Ví dụ: Trong số các môn học sau đây, bạn thích học môn học nào?
Phương án trả lời: tâm lý học/ xã hội học/ triết học/ ngoại ngữ/ tin học…
Câu hỏi tùy chọn có ý nghĩa quan trọng trong điều tra nhằm nắm tình hình tư
tưởng, nguyện vọng của đối tượng.
Câu hỏi đóng giúp cho người được hỏi thuận tiện, nhanh chóng trong
lựa chọn phương án trả lời. Loại câu hỏi này cũng dễ tổng hợp, xử lý và sử
dụng kết quả. Song để có câu hỏi đóng đảm bảo chất lượng đỏi hỏi người
soạn bảng hỏi hiểu biết về đối tượng, bao quát một cách đầy đủ nhất các
phương án trả lời.
+ Câu hỏi mở là câu hỏi không có phương án trả lời, do người được
hỏi tự trả lời. Chúng cho phép người được hỏi thông tin một cách tốt nhất
suy nghĩ của họ về một vấn đề. Số lượng thời gian, chỗ trống hoặc số dòng
dành cho câu trả lời về mỗi câu hỏi giúp cho người được hỏi xác định rằng,
người ta muốn nhận được từ bản thân mình câu trả lời dài và cặn kẽ tới mức
nào. Ví dụ: Bạn có đề nghị gì cho việc nâng cao chất lượng học tập của sinh
viên hiện nay?
Ưu điểm của câu hỏi mở là thu được lượng thông tin phong phú,
không bị ảnh hưởng bởi sự áp đặt của người nghiên cứu về các câu trả lời,
người nghiên cứu không bị động, có thể thu được những câu trả lời không
dự đoán từ trước, thường dùng cho các nghiên cứu dự đoán, phát hiện và
những vấn đề mà người nghiên cứu chưa biết đầy đủ.
+ Câu hỏi hỗn hợp là loại câu hỏi bao gồm cả thành phần của câu hỏi
mở và câu hỏi đóng, có đưa ra một số lượng nhất định các phương án trả lời.
Chẳng hạn: Vì sao anh (chị) chọn nghề giáo? Các phương án trả lời: vì yêu
trẻ/ vì nghề được xã hội tôn vinh/ vì truyền thống gia đình/ lý do khác.
Câu hỏi hỗn hợp có ưu điểm là người trả lời không bị áp đặt ý kiến,
ngoài các phướng án trả lời do người nghiên cứu đưa ra, người được hỏi có
cơ hội trả lời, bổ sung đầy đủ hơn về vấn đề nghiên cứu.
Theo cách hỏi, các câu hỏi được biểu hiện dưới dạng trực tiếp và gián
tiếp. Câu hỏi trực tiếp là cách hỏi thẳng ngay vào vấn đề. Câu hỏi gián tiếp
là những câu hỏi không trực tiếp thu thập những thông tin cần thiết do đụng
chạm đến mối quan hệ nào đó của cá nhân hoặc liên quan với những vấn đề
tế nhị. Chẳng hạn, để biết ý kiến về năng lực của giám đốc công ty nơi người
được hỏi làm việc có thể đặt câu hỏi: dư luận công ty đánh giá thế nào về
năng lực lãnh đạo của giám đốc công ty của họ?
3. Quy trình điều tra bảng hỏi
Điều tra bằng bảng hỏi cần được tiến hành theo quy trình: chuẩn bị
điều tra, điều tra và xử lý số liệu điều tra.
Bước 1: Chuẩn bị điều tra
Trong giai đoạn chuẩn bị điều tra, nhà nghiên cứu cần xác định mục
tiêu điều tra, phạm vi và mức độ thu thập thông tin. Bên cạnh đó, cần lập kế
hoạch điều tra, tổ chức nguồn nhân lực, chuẩn bị điều kiện vật chất, phương
tiện, chọn mẫu điều tra và hoàn thành bảng hỏi.
Bước 2: Tiến hành điều tra
Một cuộc điều tra được thực hiện theo các ba bước.
Một là, điều tra thử trên một phạm vi nhỏ nhằm kiểm tra tính hợp lý
và khả năng thu thập thông tin từ bảng hỏi, tính toán chi phí, điều chỉnh
nhân lực…
Hai là, trưng tập, tập huấn cho cán bộ điều tra.
Ba là, triển khai điều tra theo kế hoạch. Khi tiến hành điều tra là, cần
tổ chức giám sát người đi điều tra sao cho đảm bảo yêu cầu điều tra đúng đối
tượng, đúng số người định hỏi theo kế hoạch, nắm bắt những khó khăn gặp
phải trong quá trình điều tra.
Bước 3: Xử lý số liệu
Kết thúc công việc điều tra, nhà nghiên cứu tiến hành tập hợp bảng
hỏi. Bảng hỏi thu được cần được sắp xếp cẩn thận và tiến hành phân loại
(theo khu vực điều tra, theo đối tượng điều tra…)
kiểm tra, đánh giá độ tin cậy của số liệu điều tra thu được.
Kiểm tra bảng hỏi là công việc cần thiết trước khi xử lý số liệu. Công
đoạn này giúp nhà nghiên cứu xác định lại độ tin cậy của quá trình điều tra,
mức độ sử dụng thông tin trong các phiếu hỏi và đánh giá khả năng của điều
tra viên.
Thông thường, điều tra bằng bảng hỏi thực hiện với nhiều người, số
lượng câu hỏi lớn. Do đó cần mã hóa các câu trả lời, chuyển các câu trả lời
đó ra một ngôn ngữ xác định gọi là mã để có thể thích hợp với việc xử lý
bằng máy tính.
Cuối cùng, nhà nghiên cứu lựa chọn các phương pháp mô tả số liệu
phù hợp với ý đồ nghiên cứu. Nhà khoa học viết và hoàn thành bản báo cáo
tổng hợp kết quả điều tra theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Bản
báo cáo này có thể được công bố dưới dạng sản phẩm trung gian của đề tài
nghiên cứu.
II. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp thu nhận thông tin của các
chuyên gia về vấn đề khoa học nhà nghiên cứu quan tâm.
Thực chất của phương pháp này là khai thác ý kiến đánh giá của các
chuyên gia - người có trình độ và mức am hiểu cao về một vấn đề khoa học
để tìm giải pháp tối đa cho việc giải quyết vấn đề ấy. Phương pháp chuyên
gia không chỉ cần thiết trong thực hiện công trình nghiên cứu mà còn có vai
trò quan trọng trong nghiệm thu, đánh giá kết quả nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp chuyên gia có ý nghĩa kinh tế, tiết kiệm thời gian, tài
chính. Song do kết quả thu được của phương pháp này là những ý kiến có
phần chủ quan của người được khai thác trí tuệ nên nhà nghiên cứu nên phối
hợp phương pháp này với các phương pháp khác trong nghiên cứu.
Để sử dụng có hiệu quả phương pháp chuyên gia, nhà nghiên cứu cần
lựa chọn đúng chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm về lĩnh vực nghiên cứu.
Đồng thời lựa chọn những vấn đề cần tham vấn với những mục đích cụ thể
để sử dụng chuyên gia phù hợp.
Phương pháp chuyên gia có nhiều hình thức, trong đó có phương pháp
phỏng vấn và phương pháp hội đồng.
1. Phương pháp phỏng vấn
a. Khái niệm và đặc điểm
Phỏng vấn là một phương pháp đối thoại để thu thập thông tin trực
tiếp từ người trả lời về những vấn đề lien quan đến đề tài nghiên cứu.
Phỏng vấn có khả năng đem lại thông tin sâu, thông tin phản ánh quan
điểm của người được hỏi. Người nghiên cứu có thể nắm bắt, gợi mở, thăm
dò, khai thác thêm những thông tin cần thiết trong quá trình tiếp xúc trực
tiếp với đối tượng. Đồng thời, thông qua quá trình phỏng vấn, nhà nghiên
cứu có thể kiểm tra độ trung thực, tính tin cậy trong thông tin mà người
được phỏng vấn trình bày.
Song chất lượng và hiệu quả một bài phỏng vấn nghiên cứu phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như năng lực của người phỏng vấn, bối cảnh
diễn ra cuộc phỏng vấn và những yếu tố thuộc về đối tượng phỏng vấn.
b. Các loại phỏng vấn
Có nhiều loại phỏng vấn, có thể phân ra ba loại cơ bản
- Phỏng vấn với câu hỏi in sẵn
Đây là loại phỏng vấn có cấu trúc chặt chẽ với một bảng câu hỏi in
sẵn và với sự hiện diện của người phỏng vấn. Người này có nhiệm vụ hướng
dẫn trả lời các câu hỏi. Người được phỏng vấn đọc các câu hỏi và viết câu
trả lời.
- Phỏng vấn điều tra
Các câu hỏi trong loại này là những câu hỏi trực tiếp và những câu trả
lời thường là "có", "không" hay những câu phát biểu ngắn về tuổi, nghề
nghiệp, số người trong gia đình và các câu hỏi khác đòi hỏi những câu trả lời
giới hạn. Các phỏng vấn loại này thường rất đáng tin cậy, nhưng phạm vi
thông tin thu thập được tương đối chật hẹp.
- Phỏng vấn tự do
Phỏng vấn tự do là loại phỏng vấn không theo một cấu trúc chặt chẽ
về cách đặt câu hỏi cũng như trả lời. Người phỏng vấn khéo léo dẫn dắt dần
dần người được phỏng vấn đền vấn đề mình đang muốn tìm hiểu. Có một số
khía cạnh của vấn đề được khai thác đầy đủ hơn khía cạnh khác; một số khía
cạnh khác được thêm vào hay có thể làm thay đổi phạm vi của cuộc nghiên
cứu. Loại phỏng vấn tự do thường được dùng để tìm hiểu thái độ, ý kiến của
người được hỏi. Vì không có cấu trúc sẵn, nên hiệu năng của phương pháp
này tùy thuộc vào tài năng và kinh nghiệm của người phỏng vấn.
c. Phương pháp thực hiện
Phỏng vấn cần thực hiện theo quy trình: từ lựa chọn đối tượng, chuẩn
bị, tiến hành phỏng vấn và xử lý kết quả phỏng vấn.
Lựa chọn và tập huấn người phỏng vấn. Phỏng vấn là phương pháp
đối thoại, dưới sự dẫn dắt của người phỏng vấn để thu nhận thông tin. Do
vậy khi lựa chọn người thực hiện phỏng vấn cần chú ý về năng lực và kỹ
năng. Trong đó, người phỏng vấn cần hiểu rõ mục đích của cuộc phỏng vấn
mà họ thực hiện, có khả năng quan sát, hiểu biết tâm lý và kỹ năng giao tiếp
cần thiết để cuộc phỏng vấn có được kết quả mong đợi. Bảng câu hỏi phỏng
vấn cần được thảo luận kỹ trong nhóm nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung sao cho
nội dung các câu hỏi đạt được mục đích cao nhất trong thu nhận thong tin.
Người phỏng vấn cần hiểu rõ mục đích của từng câu hỏi. Trong trường hợp
cần thiết, cần tổ chức phỏng vấn thử để hiệu chỉnh câu hỏi, phương pháp
hỏi.
Người phỏng vấn không chỉ hiểu mục đích của mình trong cuộc
phỏng vấn mà cần hiểu về đối tượng phỏng vấn, biết lựa chọn địa điểm, thời
gian phỏng vấn một cách phù hợp. Người phỏng vấn cần chủ động trong
suốt quá trình phỏng vấn, làm chủ tình huống và giải quyết chúng một cách
hiệu quả.
Trong suốt quá trình thực hiện người phỏng vấn cần lưu ý đến việc
xây dựng và duy trì bầu không khí tôn trọng, thoải mái. Đồng thời cần linh
hoạt và chủ động hướng trả lời của người được phỏng vấn vào nội dung
trọng tâm của cuộc phỏng vấn.
Đặt câu hỏi là một kỹ thuật của phỏng vấn để thu thập thong tin. Bên
cạnh các câu hỏi trực tiếp nhằm thu nhận thông tin ngắn gọn, câu hỏi gián
tiếp cũng giúp cho người phỏng vấn duy trì cuộc đối thoại, đồng thời qua đó
có thể kiểm tra được mức độ chân thực của thông tin.
Ghi chép trong phỏng vấn là yêu cầu mang tính kỹ thuật. Việc ghi
chép cần thực hiện sao cho lưu giữ thong tin của người trả lời nhanh nhất,
đầy đủ nhất mà không ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý người được phỏng
vấn, nhịp độ phỏng vấn, không làm gián đoạn quá trình phỏng vấn. Trong
điều kiện hiện nay, có thể sử dụng thiết bị ghi âm để hỗ trợ. Tuy nhiên, ghi
chép vẫn có tính hiệu quả nhất định.
2. Phương pháp hội đồng
Trong phương pháp hội đồng, nhà nghiên cứu đưa ý kiến trước các
chuyên gia để họ thảo luận, tranh luận, phân tích. Người nghiên cứu ghi
nhận lại những ý kiến ấy để nghiên cứu, phân tích. Trong phương pháp hội
đồng, người ta dung phương pháp công não. Phương pháp này gồm hai giai
đoạn tách biệt nhau: giai đoạn phát ý tưởng và giai đoạn phân tích ý tưởng.
Để phương pháp này được thực hiện hiệu quả, người tổ chức thực hiện cần
tạo nên bầu không khí tự do tư tưởng, giúp các chuyên gia thoải mái tinh
thần, không có bất kỳ một sự hạn chế nào về ý tưởng được phát ra. Đồng
thời, nhà nghiên cứu cần lắng nghe mọi ý kiến của chuyên gia.
Phương pháp này có ưu điểm là tạo ra bầu không khí tranh luận, thu
nhận nhiều ý kiến chuyên sâu về một vấn đề, bao gồm cả các ý kiến trái
chiều. Song phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định. Những lý
do dẫn đến hạn chế của kết quả thu được từ phương pháp này là những tác
động tâm lý của các chuyên gia hay sự ảnh hưởng của một hoặc một số
chuyên gia có uy tín lớn, những người có tài hung biện đến ý kiến chung của
hội đồng.
Tổ chức lấy ý kiến trong các hội nghị bàn tròn, tọa đàm hay hội thảo
khoa học… là những dạng khác nhau của phương pháp này.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Đặc điểm của các phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm .
2. Yêu cầu của phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
3. Yêu cầu của phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
4. Yêu cầu của phương pháp hội đồng.
5. Thực hành: Lựa chọn một vấn đề khoa học và tiến hành phỏng vấn
giả định nhằm thu thập thông tin về vấn đề khoa học ấy.
6. Thực hành: Lựa chọn một vấn đề khoa học và xây dựng bảng hỏi
nhằm thu thập thông tin về vấn đề khoa học ấy.
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. Đề tài và căn cứ lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học
1. Khái niệm đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài nghiên cứu là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học do
một hoặc một nhóm nhà nghiên cứu thực hiện. Trên phương diện quản lý
hoạt động khoa học, đề tài nghiên cứu có thể được xem là một phạm trù tổ
chức nghiên cứu.
Ở phương diện hoạt động nghiên cứu khoa học, đề tài nghiên cứu là
một mặt, một khía cạnh của hiện thực khách quan, ở đó vấn đề nghiên cứu
được phát hiện song nguyên nhân của nó chưa được nhận thức hoặc nhận
thức chưa đầy đủ, đòi hỏi phải giải đáp vấn đề ấy đáp ứng yêu cầu phát triển
khoa học và thực tiễn.
Có nhiều loại đề tài tùy thuộc vào tiêu chí phân loại khác nhau.
Căn cứ vào loại hình nghiên cứu của đề tài, người ta phân thành đề tài
nghiên cứu cơ bản, đề tài nghiên cứu ứng dụng, đề tài nghiên cứu phát triển;
Căn cứ vào tính chất của đề tài có đề tài nghiên cứu lý thuyết, đề tài nghiên
cứu thực nghiệm; Căn cứ vào trình độ đào tạo người thực hiện đề tài có khóa
luận (cử nhân), luận văn (thạc sĩ), luận án (tiến sĩ); Phân bậc theo cấp quản
lý có đề tài cấp cơ sở, đề tài cấp bộ, đề tài cấp nhà nước.
Cần phân biệt đề tài nghiên cứu với hệ thống đề tài, chương trình
nghiên cứu.
Hệ thống đề tài là tập hợp của hai hay nhiều đề tài nghiên cứu mà giữa
chúng có mối lien hệ gắn bó, là điều kiện, tiền đề cho nhau. Việc thực hiện
đề tài này sẽ là điểm xuất phát, tiền đề cho nghiên cứu đề tài tiếp theo. Mục
tiêu của hệ thống đề tài được thực hiện khi các mục tiêu từng đề tài bộ phận
lần lượt được giải quyết.
Chương trình nghiên cứu khoa học là tập hợp của nhiều đề tài hay hệ
thống đề tài độc lập có mối lien hệ với nhau để cùng giải quyết một số mục
tiêu, nhiệm vụ khoa học có tính chiến lược. Thông thường, việc giải quyết
nhiệm vụ khoa học của chương trình nghiên cứu đòi hỏi có sự tham gia của
nhiều nhà khoa học thuộc nhiều bộ môn, ngành khoa học khác nhau và tính
độc lập của quá trình thực hiện các đề tài thuộc chương trình nghiên cứu rất
cao.
Một số hình thức tổ chức nghiên cứu khác có sự phân biệt với đề tài
nghiên cứu là dự án và đề án nghiên cứu.
Nếu đề tài nghiên cứu thực hiện trước hết để trả lời cho những câu hỏi
mang tính học thuật, có thể chưa xác định những ứng dụng cụ thể trong hoạt
động thực tiễn thì dự án được thực hiện trước hết nhằm mục đích ứng dụng,
có sự xác định rõ ràng hiệu quả kinh tế - xã hội của nó. Đề án là loại văn bản
xây dựng để trình các cấp quản lý hoặc cơ quan tài trợ xin thực hiện một
công việc nào đó như tổ chức một hoạt động xã hội, thành lập một tổ chức…
2. Căn cứ lựa chọn đề tài nghiên cứu
Việc lựa chọn đề tài khoa học có ý nghĩa quan trọng. Đề tài được lựa
chọn sẽ là kéo theo sự đầu tư trí tuệ, thời gian, kinh phí… của người làm
khoa học. Đối với nhà nghiên cứu trẻ, lựa chọn đề tài đôi khi còn là điểm
khởi đầu cho một phương hướng nghiên cứu chuyên môn của họ.
Thông thường, để đi đến quyết định chọn một đề tài nghiên cứu cần
thỏa mãn cả điều kiện khách quan và chủ quan.
Về điều kiện khách quan, đề tài được nhà nghiên cứu lựa chọn phải
chưa có ai nghiên cứu hoặc đã có người nghiên cứu nhưng kết quả không
thoả đáng so với nhu cầu nhận thức của nhà nghiên cứu hoặc đòi hỏi của
thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu đã được nhiều nhà khoa học luận giải nhưng kết
quả khác nhau, trái ngược nhau.
Kết quả nghiên cứu đề tài ấy đã có nhưng không áp dụng được vào
tình huống, lĩnh vực hay địa phương cụ thể do những khác biệt về yếu tố
kinh tế, văn hóa, chính trị…
Vấn đề nghiên cứu được lựa chọn phải được giới chuyên môn quan
tâm. Việc thực hiện đề tài góp phần phát triển hệ thống lý thuyết của một
khoa học. Đồng thời, nhà nghiên cứu có điều kiện nghiên cứu về thông tin,
địa bàn khảo sát…
Về điều kiện chủ quan, người nghiên cứu phải thực sự quan tâm đến
vấn đề nghiên cứu dù đề tài có thể được áp đặt từ cơ quan quản lý, từ đơn vị
đặt hang nghiên cứu…
Người nghiên cứu có tri thức, vốn sống, kinh nghiệm ở mức độ nhất
định liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
Bên cạnh đó, người nghiên cứu phải có đủ khả năng, thời gian, tài
chính để triển khai thực hiện đề tài.
3. Xác định tên đề tài nghiên cứu
Vấn đề khoa học sau khi được chủ thể thẩm định và lựa chọn được
phát biểu thành tên gọi của đề tài nghiên cứu.
Tên đề tài nghiên cứu diễn đạt một hình thức tư duy, nói lên ý thức
sâu sắc của nhà nghiên cứu về vấn đề khoa học mà họ lựa chọn. Tên đề tài
cần đảm bảo yêu cầu:
Về hình thức, tên đề tài phải được diễn đạt bằng một hình thức ngôn
ngữ trọn vẹn, rõ ràng, súc tích, dễ hiểu và đơn trị về ngữ nghĩa.
Về nội dung, tên đề tài phản ánh vấn đề nghiên cứu, giới hạn phạm vi
chứa đựng vấn đề nghiên cứu được phát hiện và giải quyết.
II. Xây dựng cơ sở lý thuyết cho đề tài nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, nhà nghiên cứu cần xây dựng cơ sở lý
thuyết cho đề tài ấy.
1. Khách thể nghiên cứu của đề tài
Khách thể nghiên cứu là hệ thống sự vật hiện tượng tồn tại khách quan
trong các mối liên hệ mà người nghiên cứu cần tìm hiểu, khám phá. Khách
thể nghiên cứu là vật mang đối tượng nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu là
nơi chứa đựng những câu hỏi, những mâu thuẫn mà người nghiên cứu cần
tìm câu trả lời và cách thức giải quyết phù hợp.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những mặt, những thuộc tính,
những mối lien hệ tồn tại trong sự vật, hiện tượng hay quá trình mà nhà
nghiên cứu cần làm rõ. Với một môn khoa học, đối tượng nghiên cứu cũng
được hiểu tương tự như vậy.
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài khoa học được giới hạn trong một
phạm vi nghiên cứu nhất định: quy mô xem xét đối tượng, phạm vi không
gian tồn tại và phát triển, phạm vi thời gian của tiến trình vận động của đối
tượng.
3. Đối tượng khảo sát, giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Trong thực tế nghiên cứu khoa học, hầu như người nghiên cứu có đủ
Đối tượng khảo sát là bộ phận đủ đại diện của khách thể nghiên cứu
được người nghiên cứu lựa chọn để xem xét.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu là một phần giới hạn của nghiên cứu
liên quan đến đối tượng khảo sát và nội dung nghiên cứu. Giới hạn nghiên
cứu được xác định bởi góc tiếp cận nội dung, thể hiện quy mô nội dung được
giải quyết trong khuôn khổ đề tài. Phạm vi nghiên cứu bao gồm những giới
hạn về không gian của đối tượng khảo sát, giới hạn quỹ thời gian trong tiến
trình khảo sát của đề tài.
Cơ sở xác định phạm vi và giới hạn nghiên cứu thường là:
- Một bộ phận mang tính đại diện của khách thể, bao chứa đối tượng
nghiên cứu.
- Quỹ thời gian để có thể hoàn tất công trình nghiên cứu.
- Khả năng được hỗ trợ về kinh phí, phương tiện, thiết bị thực nghiệm
đảm bảo thực hiện nội dung nghiên cứu.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu là kết quả dự kiến về mặt nội dung mà nhà
nghiên cứu vạch ra và thực hiện. Đề tài nghiên cứu thường xác định mục
tiêu dưới dạng sơ đồ cây mục tiêu. Cây mục tiêu bao gồm một mục tiêu gốc
và các mục tiêu nhánh, mỗi mục tiêu nhánh lại có thể chia thành các mục
tiêu phân nhánh. Quan hệ giữa được các mục tiêu là quan hệ hệ thống. Các
mục tiêu bộ phận có quan hệ tương tác trong việc thực hiện mục tiêu chính
cúa đề tài. Cây mục tiêu cũng là cơ sở để triển khai nội dung và tổ chức
nghiên cứu.
Sơ đồ cây mục tiêu:
Nhiệm vụ nghiên cứu được xác định căn cứ vào cây mục tiêu. Đó là
những nội dung cụ thể cần triển khai để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đã
xác định. Các loại hình nghiên cứu, quy mô nghiên cứu có thể là cơ sở để
nhà nghiên cứu xác định các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. Chẳng hạn,
một đề tài khóa luận tốt nghiệp, luân văn cao học thuộc loại hình nghiên cứu
ứng dụng thường có các nhiệm vụ:
- Xây dựng cơ sở lý thuyết cho đề tài
- Khảo sát và phân tích thực trạng của đối tượng nghiên cứu.
- Đề xuất những giải pháp nhằm cải tạo hiện thực.
5. Xác định khái niệm công cụ của đề tài
Khái niệm là phạm trù của khoa học logic - một hình thức tư duy phản
ánh những thuộc tính chung, chủ yếu, bản chất của sự vật, hiện tượng hay
quá trình mà dựa vào đó có thể nhận dạng, phân biệt, so sánh sự vật hiện
tượng này với sự vật hiện tượng khác.
Xác định khái niệm trung tâm hay khái niệm công cụ của đề tài là
nguyên tắc cơ bản trong nghiên cứu khoa học. Khái niệm trung tâm là khái
niệm bao chứa đối tượng nghiên cứu được nhà nghiên cứu sử dụng như một
công cụ nhận thức trong quá trình triển khai thực hiện đề tài. Xác định khái
niệm trung tâm của đề tài nghiên cứu tức là xác định bản chất của sự vật,
hiện tượng hay quá trình. Lớp sự vật hiện tượng hay quá trình nổi lên khác
biệt với các lớp sự vật, hiện tượng hay quá trình khác.
Việc xác định khái niệm trung tâm của đề tài được xem là bộ phận
quan trọng bậc nhất trong xây dựng cơ sở lý thuyết. Khái niệm là tên gọi
một sự kiện, hiện tượng, là công cụ để tư duy và trao đổi thông tin. Khái
niệm là ngôn ngữ đối thoại trong khoa học. Kết quả nghiên cứu hoàn toàn có
thể sai lệch nếu không được tiến hành dựa trên những khái niệm chính xác.
Người nghiên cứu có thể dựa vào những nghiên cứu đã có, tra cứu khái
niệm trong các tài liệu khoa học, mượn khái niệm của các khoa học khác...
Tuy nhiên, nhà khoa học cần luôn xác định những khái niệm đã được xác
định không phải lúc nào cũng thỏa mãn nhu cầu nghiên cứu. Trong phần lớn
trường hợp, người nghiên cứu cần tự mình lựa chọn khái niệm và làm rõ
chúng.
Khái niệm biểu đạt trong nghiên cứu bằng định nghĩa. Thường có các
kiểu định nghĩa được sử dụng phổ biến: định nghĩa xác định nguồn gốc, định
nghĩa chỉ rõ đặc trưng, định nghĩa xác định mối quan hệ của đối tượng với
mặt đối lập của đối tượng ấy… Cách thức định nghĩa nào cũng phải đảm bảo
tính khoa học, rõ ràng trong quá trình thể hiện nội dung khái niệm.
Quá trình khái niệm hóa và thao tác hóa khái niệm là hai hoạt động
ngược chiều nhưng liên quan mật thiết trong một quá trình nghiên cứu. Bên
cạnh việc xác định khái niệm hay khái niệm hóa đối tượng, nhà nghiên cứu
cần thực hiện các thao tác logic đối với khái niệm để có thể chuyển từ khái
niệm này sang khái niệm khác, từ khái niệm rộng sang khái niệm hẹp và
ngược lại. Trong đó, hai thao tác thường sử dụng là:
- Mở rộng khái niệm được sử dụng trong trường hợp người nghiên cứu
muốn tìm mối liên hệ giữa một khái niệm được xem xét với các khái niệm
liên quan. Mở rộng khái niệm là chuyển từ một khái niệm có ngoại diên hẹp
sang một khái niệm rộng bằng cách loại bỏ bớt những thuộc tính trong nội
hàm của khái niệm xuất phát.
- Thu hẹp khái niệm là thao tác chuyển khái niệm ban đầu sang một
khái niệm hẹp hơn khi xác định những thuộc tính mới bổ sung vào khái niệm
đã có.
Bên cạnh đó, để hiểu và sử dụng khái niệm trong nghiên cứu người ta
còn chú ý đến thao tác phân chia khái niệm - thao tác logic dựa vào nội hàm
của khái niệm để vạch rõ các khái niệm hẹp hơn hàm chứa trong khái niệm
đó. Hai hình thức phân chia khái niệm thường sử dụng:
- Phân loại khái niệm là thao tác logic nhằm vào nội hàm của khái niệm
để vạch rõ các khái niệm hẹp hơn hàm chứa trong khái niệm ấy. Kết quả
phân loại khái niệm cho biết những nhóm sự vật được đặc trưng bởi một,
một số thuộc tính nào đó, từ đó cho biết cấu trúc, mối quan hệ và quy luật
của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn: từ khái niệm nhận thức có hai khái niệm
được phân chia: khái niệm nhận thức cảm tính và khái niệm nhận thức lý
tính. Từ khái niệm khoa học được phân loại thành khoa học tự nhiên, khoa
học kỹ thuật - công nghệ và khoa học xã hội…
- Phân đôi khái niệm là thao tác phân chia khái niệm ban đầu thành
những khái niệm đối lập về nội hàm. Muốn phân đôi khái niệm, nhà nghiên
cứu cần tìm một dấu hiệu bản chất của khái niệm ban đầu rồi tìm bản chất
ngược lại với nó sẽ cho khái niệm đối lập. Ví dụ để hiểu khái niệm “học tập
của sinh viên” cần phân định khái niệm “học” và “tự học”; khái niệm “khoa
học” được phân đôi thành “nghiên cứu lý thuyết” và “nghiên cứu thực
nghiệm”; khái niệm “lao động” gồm “lao động chân tay” và “lao động trí
óc”…
6. Xác định các nhân tố, điều kiện ảnh hưởng và quy định đối
tượng nghiên cứu
Tính khách quan, phổ biến và đa dạng của các mối liên hệ giữa các
mặt, thuộc tính, bộ phận của một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật hiện
tượng và quá trình cho thấy trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển
của đối tượng nghiên cứu chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhiều nhân tố
theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực.
Điều kiện khách quan được xem xét bao gồm các quy luật khách
quan; những mặt, những hiện tượng vốn có, hiện có đang tồn tại hiện thực
như những điều kiện, tiền đề chi phối đối tượng.
Nhân tố chủ quan bao gồm trình độ nhận thức, thái độ, nguyện vọng,
ý chí… của chủ thể của hoạt động trong đối tượng nghiên cứu được xem xét.
Xác định điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan tác động đến đối
tượng nghiên cứu là cơ sở để nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá và trình
bày những phương hướng và giải pháp tác động đến đối tượng khảo sát một
cách khoa học.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Đề tài khoa học và căn cứ lựa chọn một đề tài khoa học
2. Phân biệt đề tài, hệ thống đề tài và chương trình nghiên cứu khoa
học
3. Cơ sở lý thuyết cho một đề tài khoa học.
4. Thực hành: Xây dựng cơ sở lý thuyết cho một đề tài khoa học phù
hợp với chuyên ngành đào tạo của sinh viên
XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
MỘT ĐỀ TÀI KHOA HỌC
I. Lựa chọn đề tài
Lựa chọn đề tài nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng đối với nhà khoa
học, có thể quyết định khuynh hướng chuyên môn của nhà nghiên cứu ấy
mặc dù trong một số trường hợp, nhà khoa học có thể nhận đề tài nghiên cứu
do cơ quan quản lý chỉ định theo yêu cầu của đơn vị. Khi tự lựa chọn đề tài
cần dựa trên một số căn cứ:
Một là, đề tài có ý nghĩa khoa học. Đề tài khi được thực hiện có thể
làm rõ những trường hợp đặc thù, bổ sung nội dung một lý thuyết khoa học
đã có hay xây dựng một lý thuyết khoa học mới.
Hai là, đề tài có ý nghĩa thực tiễn, Việc thực hiện đề tài góp phần xây
dựng luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; giải đáp những
đòi hỏi về tổ chức, quản lý xã hội hoặc giải quyết nhu cầu phát triển nội tại
của một lĩnh vực, chuyên ngành nghiên cứu.
Đề tài khoa học đáp ứng yêu cầu cấp thiết phát triển khoa học và thực
tiễn khi luận giải được một cách thuyết phục hai mặt nêu trên.
Ba là, đề tài có đủ điều kiện, phương tiện nghiên cứu. Điều kiện đảm
bảo cho việc nghiên cứu thành công bao gồm: cơ sở thông tin tư liệu, thiết bị
thí nghiệm, đo lường, quỹ thời gian cần thiết, lượng kinh phí đảm bảo…
Những yếu tố thuộc về chủ thể của quá trình nghiên cứu như lĩnh vực
chuyên môn của các nhà khoa học, đội ngũ cộng tác viên có thể huy động…
Bên cạnh đó, nhu cầu và nguyện vọng nghiên cứu của nhà khoa học cũng là
yếu tố cần lưu tâm khi lựa chọn đề tài nghiên cứu.
II. Xây dựng đề cương nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu là văn bản dự kiến kế hoạch và nội dung nghiên
cứu một đề tài khoa học để trình cơ quan quản lý phê duyệt.
1. Tên đề tài nghiên cứu
Vấn đề khoa học sau khi được lựa chọn cần được phát biểu thành tên
gọi. Tên của đề tài là hình thức diễn đạt của tư duy về vấn đề nghiên cứu.
Về hình thức, tên đề tài nghiên cứu cần được thể hiện dưới dạng ngôn
ngữ một cách trọn vẹn, xác định, chặt chẽ, súc tích. Các thuật ngữ đảm bảo
tính khoa học, biểu đạt rõ ràng, chính xác tư tưởng của nhà nghiên cứu.
Về nội dung, tên đề tài nghiên cứu là tên gọi của vấn đề nghiên cứu đã
được xác định rõ ràng về đối tượng, mục tiêu và giới hạn nghiên cứu. Về
mặt cấu trúc, tên đề tài bao gồm vấn đề nghiên cứu, không gian nghiên cứu
và thời gian khảo sát.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Việc lựa chọn đề tài thường xuất phát từ mâu thuẫn đặt ra trong quá
trình phát triển lý luận hay vận dụng lý luận đã có để giải quyết một vấn đề
thực tiễn nảy sinh. Đồng thời, những phát hiện về vướng mắc trong hoạt
động thực tiễn lien quan đến chuyên môn hoặc lĩnh vực nghiên cứu của nhà
khoa học cũng có thể là căn cứ lựa chọn đề tài. Thuyết minh lý do lựa chọn
đề tài nghiên cứu thực chất là trả lời câu hỏi tại sao cần nghiên cứu đề này
ấy, làm rõ tính cấp thiết của việc nghiên cứu trên các phương diện lý thuyết,
thực tiễn và nhu cầu của nhà nghiên cứu.
3. Tình hình nghiên cứu
Phân tích lịch sử nghiên cứu vấn đề khoa học. Trong đó, nhà khoa học
cần làm rõ mức độ nghiên cứu của các công trình khoa học đã hoàn thành,
chỉ ra những thành tựu nghiên cứu trong các tài liệu đã có mà đề tài có thể
kế thừa, bổ sung, phát triển. Đồng thời nhà khoa học xác định được “khoảng
trống” khoa học mà mình lựa chọn triển khai nghiên cứu.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu cần xác định rõ ràng. Các mục tiêu được cụ thể hóa dưới
dạng cây mục tiêu. Căn cứ vào cây mục tiêu để xác định nhiệm nghiên cứu
cụ thể.
5. Xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mặt, khía cạnh, mối liên hệ mà đề tài cần làm
rõ.
Phạm vi nghiên cứu là phần giới hạn về quy mô nghiên cứu, về không
gian, thời gian nghiên cứu.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trình bày quan điểm, nguyên tắc xuất phát điểm của quá trình nghiên
cứu. Việc xác định phương pháp luận của đề tài có thể bao gồm các cấp độ
phương pháp luận hoặc cấp độ phương pháp luận chung nhất.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học, nhà khoa học thường phải sử
dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể. Bao gồm cả các phương
pháp tư duy, phương pháp thu thập và xử lý thong tin về đối tượng nghiên
cứu; phương pháp lý thuyết và phương pháp thực tiễn.
7. Đóng góp mới của đề tài
Cái mới của công trình khoa học là những thành tựu khoa học mà tác
giả là người đầu tiên tìm ra. Cái mới của một đề tài thể hiện trên phương
diện lý thuyết hoặc (và) thực tiễn. Cái mới của đề tài làm nên giá trị thật sự
của công trình khoa học, là tiêu chuẩn để công trình khoa học được bảo vệ
thành công.
8. Kết cấu nội dung của đề tài
Kết cấu nội dung đề tài thường thể hiện 3 phần: mở đầu, nội dung và
kết luận. Trong đó, nội dung là phần cơ bản, chủ yếu được chia thành các
chương, mục, tiểu mục.
III. Xây dựng kế hoạch nghiên cứu
Kế hoạch nghiên cứu của đề tài khoa học là sự thể hiện những ý đồ,
cách thực và các bước thực hiện cụ thể của người nghiên cứu, định hướng
cho toàn bộ việc nghiên cứu, từ thu thập thong tin đến quá trình viết và bảo
vệ công trình nghiên cứu.
Kế hoạch nghiên cứu là văn bản trình bày kế hoạch dự kiến triển khai
đề tài về các phương diện như thời gian thực hiện từng công việc, sản phẩm
phải có, kinh phí chuẩn bị và phân công trách nhiệm cho từng thành viên
tương ứng với nội dung nghiên cứu cần triển khai của đề tài.
1. Kế hoạch nhân lực
Nhân lực sử dụng trong nghiên cứu gồm:
- Nhân lực chính nhiệm.
- Nhân lực kiêm nhiêm
- Cộng tác viên
2. Lập dự toán tài chính
Bản dự toán tài chính bao gồm chi phí: lương, chi phí mua thông tin
và tài liệu, chi phí điều tra và xử lý số liệu điều tra, chi trả cho các hạng mục
khác phục vụ cho công tác nghiên cứu.
3. Tiến độ thực hiện
Kế hoạch tiến độ được xây dựng căn cứ yêu cầu của cơ quan giao
nhiệm vụ và ứng với mỗi nội dung nhà nghiên cứu phác thảo theo trình tự
triển khai.
BÀI TẬP THỰC HÀNH
Xây dựng bản thuyết minh đề cương nghiên cứu một đề tài khoa học
phù hợp với chuyên ngành đào tạo của anh (chị)
ĐỌC THÊM
A. TỔ CHỨC THỰC HIỆN MỘT ĐỀ TÀI KHOA HỌC
Tổ chức thực hiện một đề tài khoa học dựa trên trình tự logic nghiên
cứu. Tuy nhiên, trình tự nghiên cứu có thể rất linh hoạt. Chẳng hạn, người
nghiên cứu có thể nảy sinh ý tưởng nghiên cứu sau khi tích lũy một số lượng
tài liệu nhất định. Trong trường hợp này, thông tin về vấn đề nghiên cứu có
trước ý tưởng. Ngược lại, trong nhiều trường hợp, người nghiên cứu có thể
xác định một cách sơ bộ vấn đề nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu và giả
thuyết khoa học , sau đó mới tiến hành công việc thu thập tài liệu nghiên
cứu. Do vậy, các bước thực hiện đề tài không quá chặt chẽ như một quy tình
công nghệ sản xuất thông thường. Mỗi nhà nghiên cứu tùy tình hình cụ thể
về điều kiện nghiên cứu, đặc điểm của lĩnh vực nghiên cứu… để điều chỉnh
các bước thực hiện nghiên cứu cho phù hợp.
Tổ chức thực hiện một đề tài khoa học gồm các bước căn bản:
1. Lựa chọn đề tài
Đề tài nghiên cứu có thể do nhà nghiên cứu tự lựa chọn, có thể là
nhiệm vụ được giao từ cấp trên, thầy giáo hướng dẫn, đối tác đặt hang…
Song khi xác định đề tài, nhà nghiên cứu cần xem xét, xác định trên một số
tiêu chí:
- Đề tài có ý nghĩa khoa học không?
- Đề tài có ý nghĩa thực tiễn không?
- Có đủ điều kiện đảm bảo cho đề tài được hoàn thành không?
- Đề tài có phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng mong muốn nghiên cứu
của nhà khoa học không?
2. Xây dựng đề cương và lập kế hoạch nghiên cứu
Bản đề cương và kế hoạch nghiên cứu gồm các nội dung đã trình bày
ở phần trên.
Trên thực tế, nhà nghiên cứu thường soạn thảo thành hai văn bản, một
văn bản nộp cơ quan quản lý theo mẫu quy định, mang ý nghĩa pháp lý.
Sau khi được phê duyệt, Bản thuyết minh đề cương và kế hoạch
nghiên cứu là cơ sở để xây dựng bản kế hoạch chi tiết, sử dụng nội bộ trong
nhóm nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu được hình thành dựa trên kế hoạch về nhân lực của
đề tài. Về mặt chuyên môn, nhóm nghiên cứu sẽ chịu trách nhiệm trong các
nhiệm vụ khoa học đã đề ra trong bản đề cương nghiên cứu.
3. Chuẩn bị các điều kiện, phương tiện nghiên cứu
Điều kiện, phương tiện nghiên cứu bao gồm các thiết bị thí nghiệm,
thực nghiệm cần thiết, liên hệ với các đơn vị quản lý đối tượng và phương
tiện liên quan đến công việc nghiên cứu của đề tài.
4. Tiến hành nghiên cứu
Công việc nghiên cứu bắt đầu từ thu thập, xử lý thông tin, xây dựng
khái niệm, đặt giả thuyết, kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu và thể hiện kết
quả nghiên cứu.
Thu thập tài liệu được tiến hành ngay khi đề tài được phê duyệt và cấp
kinh phí (nếu có). Nhóm nghiên cứu lập danh mục tài liệu, làm việc với các
trung tâm thông tin, tư liệu và tiếp xúc với các cơ quan, cá nhân sở hữu, lưu
giữ thông tin để khai thác tài liệu cho đề tài.
Viết tổng quan về những thành tựu lien quan đến đề tài nghiên cứu.
Tổng quan là một loại sản phẩm nghiên cứu, trong đó người nghiên cứu
phân tích lịch sử của việc nghiên cứu vấn đề khoa học của đề tài; chỉ ra
những thành tựu về nội dung, những vấn đề khoa học chưa được giải
quyết…
Đặt giả thuyết nghiên cứu là công việc thiết yếu và quan trọng bậc
nhất của nghiên cứu khoa học. Sau khi xác định giả thuyết, công việc kiểm
chứng được triển khai. Trong đó, người nghiên cứu cần xây dựng được chỉ
tiêu phân tích, thực hiện các phương pháp nghiên cứu, so sánh, đối chiếu
thông tin thu được về đối tượng khảo sát với các chỉ tiêu đã trình bày trên cơ
sở các quy tắc suy luận logic để trình bày luận điểm khoa học của mình.
5. Viết và bảo vệ kết quả nghiên cứu
Báo cáo kết quả nghiên cứu là văn bản thể hiện sự hoàn tất công việc
nghiên cứu đề tài. Báo cáo kết quả là cơ sở để hội đồng đánh giá, nghiệm thu
đề tài, đồng thời là tài liệu lưu giữ thông tin khoa học lưu hành trong xã hội.
Báo cáo kết quả nghiên cứu có thể do chủ nhiệm đề tài thực hiện, có thể do
nhóm nghiên cứu viết từng phần và được chủ nhiệm đề tài tổng hợp, hiệu
chỉnh theo bản đề cương đã thống nhất.
Nhóm nghiên cứu bảo vệ kết quả nghiên cứu trước hội đồng nghiệm
thu, đánh giá theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
6. Công bố kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu sau khi được thẩm định, đánh giá cần được công
bố. Về mức độ, tùy thuộc vào cơ quan chủ trì, cơ quan tài trợ nghiên cứu,
vấn đề khoa học… kết quả nghiên cứu có thể công bố ở mức độ và phạm vi
khác nhau. Chẳng hạn một số công trình được xuất bản, xã hội hóa; một số
kết quả nghiên cứu khác chỉ được sử dụng trong một không gian hoạt động
hạn hẹp hoặc chỉ lưu hành trong nội bộ cơ quan khoa học. Về hình thức, kết
quả nghiên cứu có thể được công bố dưới các dạng sản phẩm khoa học như:
thông báo khoa học, bài báo khoa học, sách chuyên khảo…
B. CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Công trình nghiên cứu là kết quả của sự nỗ lực trong quá trình nghiên
cứu, là sự thể hiện năng lực của nhà khoa học. Theo yêu cầu của tác giả hoặc
cơ quan chủ trì đề tài, công trình nghiên cứu có thể công bố ở những mức độ
và hình thức khác nhau.
- Công bố một phần kết quả nghiên cứu
- Công bố toàn bộ kết quả nghiên cứu
Trong phạm vi tài liệu này, chúng tôi chủ yếu đề cập đến hình thức
công bố các công trình nghiên cứu do sinh viên thực hiện.
1. Bài báo khoa học
Bài báo khoa học được sử dụng trong một số mục đích
- Công bố một ý tưởng khoa học khi người nghiên cứu thấy cần thiết
giữ bản quyền. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người nghiên cứu có thể
giữ bí mật về ý tưởng nghiên cứu cho đến khi hoàn tất công việc nghiên cứu.
- Công bố kết quả nghiên cứu từng chuyên đề trong quá trình thực
hiện một công trình nghiên cứu.
- Công bố kết quả nghiên cứu sau khi kết thúc quá trình nghiên cứu.
- Tham dự các cuộc tranh luận công khai trên báo, tạp chí chuyên
ngành.
Đặc trưng của bài báo
- Bài báo phải chứa đựng thông tin mới về vấn đề nghiên cứu, phương
pháp tiếp cận hay những luận cứ hoặc cách thức luận chứng …
- Cơ cấu nội dung của bài báo gồm:
+ Lý do dẫn đến việc tác giả lựa chọn vấn đề khoa học, ý nghĩa khoa
học và (hoặc) thực tiễn của bài báo.
+ Nội dung ý tưởng khoa học, các luận cứ và cách thức luận chứng
cho giả thuyết được nêu.
+ Phương pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề khoa học.
+ Kết luận và khuyến nghị, trong đó, tác giả đánh giá tổng hợp kết quả
thu được, khẳng định (hoặc phủ định) tính đúng đắn của luận điểm và dự
kiến các khả năng áp dụng kết quả. Đồng thời, tác giả trình bày khuyến nghị:
bổ sung về lý thuyết, áp dụng kết quả hay hướng nghiên cứu cần tiếp tục
triển khai.
2. Tiểu luận khoa học
Tiểu luận khoa học do sinh viên thực hiện trong quá trình học tập. Nội
dung tiểu luận khoa học thường gắn với các môn học chuyên ngành. Tiểu
luận không nhất thiết bao quát toàn bộ hệ thống vấn đề của lĩnh vực chuyên
môn mà sinh viên được đào tạo.
Về kết cấu, ngoài phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận bao
gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.
- Phần mở đầu: sinh viên trình bày lý do lựa chọn vấn đề nghiên cứu,
khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề, mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, cơ sở lý
luận và phương pháp nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát,
giới hạn và phạm vi nghiên cứu, giới thiệu kết cấu tổng thể nội dung.
- Phần nội dung: Tác giả trình bày luận điểm khoa học trên cơ sở các
luận cứ và cách thức luận chứng.
- Phần kết luận: tác giả khái quát và nhấn mạnh các kết quả nghiên
cứu chính.
Tiểu luận cần được triển khai và đảm bảo yêu cầu về quy cách trình
bày và chất lượng nội dung khoa học. Tuy nhiên, việc đánh giá tiểu luận
khoa học có sự khác biệt so với các hình thức công bố kết quả nghiên cứu
khác. Chẳng hạn, mức độ thành công của tiểu luận thể hiện tập trung ở
phương pháp nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu và luận điểm khoa học, luận cứ
khoa học. Trong đó, phương pháp nghiên cứu được coi là trọng số ưu tiên
trong đánh giá tiểu luận. Việc xây dựng luận điểm khoa học cần một quá
trình tích lũy lâu dài trên nhiều phương diện, không thể đặt ra yêu cầu quá
cao đối với sinh viên. Trong khi trình bày luận cứ, sinh viên cần chú ý đến
tính rõ ràng, tin cậy của luận cứ lý thuyết, song có thể chấp nhận một số luận
cứ thực tiễn thể hiện ở những số liệu chưa thật cập nhật, chưa được thẩm tra,
xác minh.
4. Luận văn khoa học
Luận văn khoa học là chuyên khảo về một vấn đề khoa học do một
người viết nhằm mục đích:
- Rèn luyện phương pháp và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
- Thể nghiệm kết quả của một giai đoạn học tập.
- Bảo vệ công khai trước hội đồng chấm tốt nghiệp đại học.
Luận văn vừa mang tính chất của một công trình nghiên cứu khoa học
vừa thể hiện một hình thức học tập đặc thù ở bậc đại học. Người viết luận
văn không chỉ có vốn tri thức trong nội dung nghiên cứu còn hình thành và
phát triển tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa học.
Yêu cầu về trong viết báo cáo và luận văn khoa học:
- Luận văn có thể sử dụng nhiều loại ngôn ngữ: văn viết bằng lời, biểu
thức, bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị, hình vẽ, ảnh, clip…Cần kết hợp sử dụng
các hình thức ngôn ngữ một cách hợp lý để biểu đạt kết quả nghiên cứu một
cách hiệu quả.
Văn phong trong công trình nghiên cứu thể hiện tính khoa học và thái
độ văn hóa của người nghiên cứu. Các luận điểm cần trình bày một cách
khách quan, tránh mang sắc thải biểu đạt tình cảm với đối tượng nghiên cứu
(phân biệt với cách viết một tác phẩm bút chiến).
- Trong khi viết báo cáo khoa học và luận văn, người nghiên cứu cần
tôn trọng nguyên tắc bảo mật của nguồn tư liệu được cung cấp. Người
nghiên cứu chỉ công bố trong công trình nghiên cứu nếu những tư liệu ấy đã
được cơ quan (cá nhân) sở hữu cho phép.
Bên cạnh đó, người nghiên cứu tôn trọng quyền tác giả khi trích dẫn
các luận điểm, quan điểm, tư tưởng, số liệu, dữ liệu. Việc trích dẫn khoa học
có ý nghĩa khoa học, thể hiện ý thức trách nhiệm và pháp lý.
Về ý nghĩa khoa học, các trích dẫn đầy đủ, rõ ràng về xuất xứ giúp
người đọc dễ tra cứu lại các tư tưởng, quan điểm của tác giả được trích dẫn,
đồng thời thể hiện tính trách nhiệm trong hoạt động khoa học của người
nghiên cứu.
Về mặt đạo đức người làm khoa học, việc viết đầy đủ, chuẩn xác các
trích dẫn khoa học thể hiện sự tôn trọng những cam kết về chuẩn mực đạo
đức trong khoa học.
Về mặt pháp lý, quyền tác giả chỉ được tôn trọng khi nhà khoa học
trích dẫn đầy đủ nguồn gốc, xuất xứ của các nhà nghiên cứu đi trước. Các
luận điểm, số liệu, dữ liệu… không ghi trích dẫn rõ ràng có thể khiến nhà
khoa học phạm luật quyền tác giả và vi phạm đạo đức khoa học.
Trích dẫn được sử dụng trong các trường hợp:
+ Trích dẫn dùng làm luận cứ chứng minh một luận điểm.
+Trích dẫn để bác bỏ khi phát hiện chỗ sai trong nghiên cứu của đồng
nghiệp.
+Trích dẫn để phân tích khi nhận dạng được chỗ yếu của đồng nghiệp
để đề xuất giả thuyết mới.
2. Kết cấu của luận văn
a. Bìa
Luận văn gồm bìa chính và bìa phụ, hoàn toàn giống nhau và được
trình bày như sau:
TÊN TRƯỜNG
KHOA
TÊN ĐỀ TÀI
TÊN TÁC GIẢ
ĐỊA DANH VÀ THÁNG, NĂM BẢO VỆ CÔNG TRÌNH
b. Trang ghi ơn (nếu có)
Tác giả có thể ghi lời cảm ơn đối với một cơ quan đỡ đầu luận văn
(nếu có) hoặc cá nhân – người có đóng góp công lao với tác giả luận văn.
a. Mục lục
b. Ký hiệu và viết tắt
Tác giả liệt kê theo thứ tự vần chữ cái những ký hiệu và chữ viết tắt
trong luận văn để người đọc tiện tra cứu. Việc viết tắt chỉ thực hiện với các
cụm từ gồm 3 từ trở lên.
d. Nội dung
- Phần mở đầu: Tác giả trình bày ngắn gọn
+ Lý do lựa chọn đề tài hay tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
+ Tổng quan tình hình nghiên cứu
+ Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
+ Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
+ Đóng góp mới của luận văn
+ Kết cấu nội dung
- Kết quả nghiên cứu:
Kết quả nghiên cứu thể hiện trong nội dung của đề tài qua các
chương, tiết, mục.
Cách đánh số chương mục như sau:
TÊN CHƯƠNG (viết in hoa) CHƯƠNG 1
Tên mục (chữ thường đậm) 1.1. Tên mục
Tiểu mục (chữ thường đậm nghiêng) 1.1.1.Tiểu mục
Tên ý (gạch đầu dòng) ( - )
Tên ý nhỏ (dấu cộng) ( + )
- Kết luận và kiến nghị
Tác giả luận văn trình bày khái quát những kết luận quan trọng của
toàn bộ công trình nghiên cứu. Đồng thời đề xuất các khuyến nghị (nếu có)
rút ra từ kết quả nghiên cứu.
e. Tài liệu tham khảo
g. Phụ lục
h. Công trình đã công bố của tác giả (liên quan đến luận văn)
Khi trình bày các công trình nghiên cứu đã công bố cần lưu ý liệt kê
từ những sản phẩm công bố sớm nhất cho đến những sản phẩm muộn nhất
(trước thời điểm bảo vệ luận văn). Các công trình công bố liệt kê theo cách
thức ghi tài liệu tham khảo.
A. THAM DỰ HỘI NGHỊ KHOA HỌC
Tham dự hội nghị khoa học là nhiệm vụ cần thiết của nhà khoa học.
Hội nghị khoa học và nơi trao đổi, thảo luận, tranh luận các vấn đề khoa học.
Tùy theo quy mô, cách thức làm việc, nội dung khoa học, có nhiều hình thức
tổ chức khác nhau.
a. Hội nghị khoa học
Hội nghị khoa học (conference) thường có quy mô lớn, có thể thu hút
hàng trăm, hàng ngàn người gồm nhiều thành phần khác nhau, bao gồm nhà
nghiên cứu, quản lý, các nhà hoạt động xã hội, đại diện các cơ quan Đảng,
đoàn thể xã hội, các nhà lãnh đạo hoặc các chính khách...
Tại hội nghị có một số báo cáo được chỉ định trước, có thể có những
phiên họp toàn thể, có thể chia thành các phân ban để thảo luận theo một số
chuyên đề. Hội nghị khoa học thường có những mục tiêu ở tầm chiến lược
như: tổng kết một giai đoạn nghiên cứu của ngành, địa phương, quốc gia; Ra
tuyên bố về một hướng nghiên cứu hay tập hợp lực lượng cho một nghiên
cứu mới và quan trọng; trình bày các khuyến nghị về chính sách liên quan
đến khoa học...
b. Hội thảo
Hội thảo (seminar) là hình thức sinh hoạt khoa học có chiều sâu.
Người tham dự hội thảo thảo luận, tranh luận về một vấn đề khoa học xác
định. Thông thường, hội thảo khoa học có sự tham gia của vài chục nhà
khoa học.
c. Bàn tròn khoa học
Bàn tròn (rountable) là sinh hoạt thường xuyên của một dự án nghiên
cứu, một đề tài khoa học. Người tham dự thường là nhóm tác giả, cộng tác
viên tham gia đề tài. Do vậy, các ý kiến tham gia thường thẳng thắn, chuyên
sâu về một vấn đề khoa học.
B. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Kết quả nghiên cứu là những thông tin về bản chất, tính quy luật của
sự vật hiện tượng hay quá trình xã hội; là những giải pháp công nghệ, giải
pháp về tổ chức, quản lý xã hội hay những hình mẫu quản lý… Dù ở cấp độ
nào, kết quả nghiên cứu cũng được thể hiện dưới hình thức báo cáo khoa
học.
1. Mục đích đánh giá
Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học là công việc thường xuyên của
cơ quan quản lý khoa học, là hoạt động tất yếu mà kết quả đánh giá cho phép
một đề cương nghiên cứu được tiếp tục triển khai, cơ sở để quyết định tài trợ
cho hoạt động nghiên cứu, kết quả nghiên cứu đề tài sau khi hoàn tất, mức
độ xã hội hóa sản phẩm nghiên cứu, hiệu quả của nghiên cứu sau khi đưa kết
quả nghiên cứu vào áp dụng…
Mục đích đánh giá kết quả nghiên cứu nhằm xem xét giá trị của kết
quả nghiên cứu hoặc hiệu qủa nghiên cứu; đánh giá cá nhân, nhóm nghiên
cứu hoặc đơn vị nghiên cứu…
2. Đối tượng đánh giá
- Đánh giá một đề cương nghiên cứu.
- Đánh giá một đề tài sau khi hoàn thành.
- Đánh giá hiệu quả một công trình sau khi áp dụng.
2. Chỉ tiêu đánh giá
Việc đưa ra chỉ tiêu đánh giá công trình nghiên cứu một cách thống
nhất là không đơn giản. Ở các công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa
học kỹ thuật công nghệ, người ta đưa chỉ tiêu kỹ thuật hoặc hiệu quả kinh tế
làm thước đo đánh giá kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, tiêu chí này tỏ ra
không phù hợp với việc đánh giá một công trình khoa học thuộc lĩnh vực xã
hội và nhân văn. Với những đặc điểm đặc thù, thang đo các công trình khoa
học xã hội mang nhiều tính định tính. Hiện nay có nhiều cách tiếp cận đánh
giá kết quả nghiên cứu khác nhau.
Tiếp cận phân tích dựa trên một số chỉ báo:
- Sự kiện khoa học dựa trên quan sát khách quan.
- Vấn đề khoa học bức thiết đặt ra đòi hỏi phải giải quyết về phương
diện lý luận và thực tiễn.
- Mức độ đảm bảo tính mới trong luận điểm khoa học của tác giả.
- Mức độ chân thực, cập nhật, đầy đủ và hợp lý của luận cứ được trình
bày trong công trình nghiên cứu.
- Sự phù hợp của phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong công
trình khoa học.
Tiếp cận tổng hợp dựa trên một số chỉ báo:
- Tính mới, một kết quả nghiên cứu phải đảm bảo tính mới trong cả ba
mặt xem xét như sự kiện khoa học, vấn đề khoa học và luận điểm khoa học.
- Tính tin cậy được kiểm tra trên hai mặt: luận cứ và phương pháp.
Tính tin cậy của kết quả nghiên cứu đảm bảo rằng kết quả nghiên cứu thu
được là tất nhiên, lặp lại trong một điều kiện nghiên cứu tương tự.
- Tính khách quan, trung thực được kiểm tra bởi những luận cứ là
khách quan và các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn dựa trên hiểu biết
về đối tượng; luận cứ lý thuyết được trích dẫn trung thực, không bóp méo,
cắt xén; luận cứ thực tiễn dựa trên cơ sở quan sá và thực nghiệm, tổng kết
quá trình hoạt động hiện thực; Tính đúng đắn trong các phương pháp suy
luận mà tác giả sử dụng.
Ngoài ra có thể đánh giá công trình khoa học dựa trên các tiêu chí
như:
- Mức độ phù hợp của tiến độ nghiên cứu đề tài so với mốc thời gian
đã trình bày trong bản thuyết minh hoặc kế hoạch nghiên cứu đã đăng ký với
cơ quan quản lý.
- Sự phù hợp và hiệu quả của phương pháp nghiên cứu so với vấn đề
khoa học.
- Kết quả nghiên cứu được trình bày so với mục tiêu nghiên cứu vạch
ra.
- Mức độ tin cậy của luận cứ và tính thuyết phục của cách thức luận
chứng.
- Tính hợp lý, khả thi của các giải pháp tác động.
- Khả năng áp dụng vào thực tế và hiệu quả xã hội của công trình
nghiên cứu.
Ngoài những tiêu chí nêu trên, một tiêu chí đánh giá công trình nghiên
cứu được sử dụng trên thế giới hiện nay là đánh giá dựa trên thống kê số lần
trích dẫn công trình nghiên cứu, bao gồm cả trích dẫn để vận dụng và trích
dẫn để phê phán. Song đánh giá dựa trên tiêu chí này ở nước ta hiện nay c̣n
nhiều vấn đề bất cập. Chẳng hạn, việc xuất bản các công trình nghiên cứu
sau khi hoàn thành ở nước ta còn hạn chế, nhiều nhà khoa học không tiếp
cận được đủ các kết quả nghiên cứu để kế thừa, vận dụng. Hơn nữa, thái độ
đánh giá đối với trích dẫn để phê phán và vận dụng ở nước ta còn nhiều vấn
đề chưa thống nhất.
3. Phương pháp đánh giá
Cơ quan quản lý có thể sử dụng một trong hai hoặc kết hợp cả hai
phương pháp đánh giá kết quả nghiên cứu.
a. Phương pháp chuyên gia
Cơ quan quản lý mời những người am hiểu chuyên sâu về lĩnh vực,
chuyên ngành nghiên cứu hoặc hướng tiếp cận của nhà khoa học phản biện,
đánh giá kết quả nghiên cứu.
b. Phương pháp hội đồng
Cơ quan quản lý có thể thành lập hội đồng nghiệm thu bao gồm
những nhà khoa học cùng chuyên ngành hoặc các chuyên ngành khoa học
gần, am hiểu vấn đề nghiên cứu. Hội đồng có số lượng lẻ các thành viên,
bao gồm chủ tịch, thư ký, phản biện và các ủy viên. Hội đồng đánh giá sản
phẩm nghiên cứu trình bày ý kiến bằng văn bản, chất vấn tác giả, tiến hành
thảo luận và bỏ phiếu đánh giá công trình nghiên cứu. Kết luận đối với công
trình nghiên cứu được trình bày công khai tại hội đồng.
Trong phương pháp hội đồng, các thành viên có thể hoàn toàn nhất trí
hoặc có ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Những ý kiến đó đều
được ghi nhận trong biên bản đánh giá.
4. Nhận xét và đánh giá một công trình khoa học
Nhận xét, đánh giá một công trình khoa học thường được trình bày
thành văn bản với những nội dung:
- Tính cấp thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Khẳng định đề tài trùng lặp hay không trùng lặp với các công trình
đã công bố trong và ngoài nước.
- Mức độ hợp lý của các mục tiêu nghiên cứu đề ra.
- Mức độ phù hợp của cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Mô tả nội dung tổng thể và chi tiết của công trình khoa học.
- Nêu những kết quả đạt được, đóng góp mới trong công trình nghiên
cứu.
- Phân tích những thiếu sót về nội dung, hình thức trình bày của công
trình nghiên cứu.
- Khẳng định công trình nghiên cứu có đáp ứng được yêu cầu đặt ra
về nội dung và hình thức trình bày hay không.
- Nêu những khuyến nghị của người phản biện về chỉnh lý, bổ sung,
sửa chữa… công trình nghiên cứu.
- Đánh giá và xếp loại công trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hoài An, Bài tập thực hành môn phương pháp nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn, tài liệu lưu hành nội bộ, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, ….
2. Hoàng Anh, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, giáo trình dành
cho học viên cao học, lưu hành nội bộ, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2013.
3. Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản
khoa học và kỹ thuật, 1996
4. Phan Dũng, Phương pháp luận sáng tạo khoa học kỹ thuật (giáo trình
sơ cấp), Ủy ban Khoa học kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
5. Vương Tất Đạt (chủ biên), Phương pháp giải các bải tập của logic
học, Nhà xuất bản Bách khoa Hà Nội, 2010.
6. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Phương pháp luận khoa học giáo dục,
Viện Khoa học giáo dục, 1981.
7. Lưu Xuân Mới, Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nhà xuất
bản Đại học sư phạm, 2003.
8. Bùi Thanh Quất, Logic học hình thức, Viện Nghiên cứu phát triển
giáo dục, 1995.
9. Lê Tử Thành, Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học, Nhà
xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
10. Đỗ Công Tuấn, Nghiên cứu khoa học - Lý luận và phương pháp, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, …….
11.Đỗ Công Tuấn, Nghiên cứu khoa học lý luận và truyền thông, giáo
trình dành cho học viên cao học, lưu hành nội bộ, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, …