22
CỘNG ĐỒNG CHÍNH SÁCH Trình bày: Đoàn Tuấn Nghĩa Lớp: Cao học Quản lý Môi trường

Cong dong chinh sach

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cong dong chinh sach

CỘNG ĐỒNG CHÍNH SÁCH

Trình bày: Đoàn Tuấn Nghĩa

Lớp: Cao học Quản lý Môi trường

Page 2: Cong dong chinh sach

1. ĐỊNH NGHĨA

Thuật ngữ “cộng đồng chính sách” thường xuyên được

sử dụng để miêu tả mối quan hệ phức tạp trong quá trình

làm luật, tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh luận và nhập nhằng

trong việc định nghĩa khái niệm “cộng đồng chính sách”.

Có 2 nỗ lực được công nhận:

Thứ nhất là việc sử dựng những khái niệm liên quan

(e.g. issue networks) làm nền móng để giải thích ý nghĩa

cũa thuật ngữ “cộng đồng chính sách”.

Thứ hai là làm sáng tỏ những đặc điểm của thuật ngữ

“cộng đồng chính sách” như là thành viên, mức độ thống

nhất, các mối quan hệ đối lập và hợp tác, etc. (ví dụ như

Rhodes, 1997; Klijn, 1996).

Page 3: Cong dong chinh sach

Wilks và Wright (1987) đề ra một mô hình gồm 3 thành

phần:

Policy universe

Policy community

Policy network

Page 4: Cong dong chinh sach

Policy communityPolicy universe Policy network

Là một tập hợp

lớn các “actors”

và “potential

actors” có cùng

một mục đích

chung trong chính

sách công nghiệp,

và có thể góp

phần vào quá

trình thành lập

chính sách

Biểu thị một hệ

thống không

thống nhất bao

gồm “actors” và

“potential actors”

chia sẻ lợi ích

trong một ngành

cụ thể và tương

tác với nhau trên

cơ sở cùng có lợi.

Trở thành đầu nối

giữa các “policy

communities”.

Page 5: Cong dong chinh sach

Rhode (1997) đối chiếu “policy communities” với

“issue networks” theo bốn đặc điểm: thành phần tham dự,

sự thống nhất, tiềm lực và quyền hạn.

So với “issue networks”, số lượng người tham dự của

“policy communities” rất hạn chế và một số nhóm bị loại ra

một cách cố ý. Do đó, Atkinson và Coleman (1992) hướng

sự chú ý đến sự đối xử phân biệt trong “policy

communities”, trái ngược với “issue networks” nơi ai cũng

có thể là thành viên

Page 6: Cong dong chinh sach

Thuật ngữ cũng chỉ ra 1 số đặc điểm khác. Từ “community” ẩn dụ

con người, sự tương tác chặt chẽ và sự ràng buộc khăng khít (Atkinson

và Coleman, 1992). Stone et al. (2001) định nghĩa “policy

communities” như là những hệ thống vững chắc với những người hoạt

đông chính trị thuộc chính phủ và phi chính phủ. “Policy communities”

được dựa trên sự hiểu biết chung về vấn đề của một lĩnh vực chính

sách cụ thể. “Community” phản ánh sự quan trọng của mối quan hệ

gần gũi và mạnh mẽ giữa các thành viên. Mối quan hệ khăng khít này

được xậy dựng trên những nguyên tắc thống nhất bởi tất cả các thành

viên nhằm ngăn ngừa mâu thuẫn từ việc làm sai chức năng hoặc thiếu

quản lý. Theo nguyên lý trao đổi, bao gồm phân tích “transaction-cost”

(e.g. Hindmoor, 1998) cho rằng tất cả các thành viên đều có

“resources” và mối quan hệ cơ bản dựa trên việc trao đổi “resources”.

Mỗi thành viên đều có “resources” riêng mà các thành viên khác phụ

thuộc vào đó. Mặc dù có sự cân bằng giữa các thành viên, luôn có một

nhóm nổi trội hơn.

Page 7: Cong dong chinh sach

Một cộng đồng chính sách có thể bao gồm nhà báo,

và nhà phân tích chính sách, cũng như các nhà hoạt động

chính sách có tầm ảnh hưởng lớn và các quan chức.

Niềm tin và tôn trọng lẫn nhau là đặc điểm mối quan

hệ trong “policy communities” và những mâu thuẫn

được giải quyết với sự đồng lòng (Jordan và Maloney,

1997). “Điểm quan trọng là policy communities cung

cấp cơ chế có tổ chức để giải quyết những mâu thuẫn về

lợi ích giữa những thành viên” (574). Do đó, policy

communities gắn liền với tính ổn định và chính trị thông

thường. Do tính thực tiễn cao và tính bền vững của

những quy tắc, policy community là nhắc đến nhiều nhất

trong số những khái niệm của policy network (Klijn,

1997).

Page 8: Cong dong chinh sach

“Policy community” khởi đầu bằng những cam kết

cho việc thay đổi trong tương lai, và nhiều ý tưởng mới

được phát triển, tuy nhiên các vấn đề và cách giải quyết

của “policy community” trở nên kém hấp dẫn. Đặc biệt

khi bị đe dọa từ bên ngoài, các thành viên càng tập trung

vào việc bảo vệ những gì họ đã đạt được và “policy

community” cuối cùng trở thành “cozy triangle”. Thắc

mắc quanh những ảnh hưởng đến tổ chức và cấu tạo của

policy communities được giải đáp bằng thuyết trao đổi.

Page 9: Cong dong chinh sach

2. LÝ THUYẾT NHẬP MÔNKhi đưa ra các thông báo, gia tăng vai trò của vận động hành lang

và các nhóm lợi ích đặc biệt trong các quá trình của chính phủ, sự

nghi ngờ đã chuyển sang quan hệ đôi khi không chính thức giữa việc

thuê những người vận động hành lang đại diện cho các nhóm lợi ích

đặc biệt tìm kiếm lợi nhuận, các quan chức dân cử và nhân viên của

họ tìm kiếm tái bầu cử, và các quan chức chính phủ từ các cơ quan

đặc biệt là tìm kiếm ngân sách lớn hơn.

Trong mô hình dân chủ đại diện chính thức các cử tri-những

người được cho là đã có sự lựa chọn chính sách rõ ràng và sẵn sàng

để thực hiện quyền lực của họ thông qua sự tham gia trong cuộc bầu

cử lựa chọn trong số các ứng cử viên chính trị đang chạy đua cho các

vị trí lập pháp

Cộng đồng chính sách có thể chia nhỏ thông qua các giả định

hoành tráng với giả định chủ quyền

Page 10: Cong dong chinh sach

Cộng đồng chính sách này có thể là một diễn đàn cho tập hợp

những người thạo việc của các vấn đề chính sách đổi mới trong

một lĩnh vực tương đối không có cạnh tranh.

Vấn đề của cộng đồng chính sách chính là sự chiếm hữu về

chình trị - lấy đi chủ quyền của người dân. Lowi (1969) đã phát

triển một cơ sở lý thuyết cho những lời chỉ trích như vậy trong

The End of Liberalism. Ông phê bình nhóm lợi ích chủ nghĩa tự

do, mà ông xem như là một sản phẩm của hệ tư tưởng đa nguyên.

Theo Lowi, ý tưởng nhóm lợi ích đa nguyên và thực tiễn của

chính phủ thì gây ra nhiều hậu quả ảnh hưởng sâu rộng đối với lý

thuyết dân chủ.

Khái niệm tam giác sắt là việc i của

Lowi. Nó làm giảm hoạch định chính sách của quá trình thương

lượng giữa các thành viên quốc hội, quan liêu công, và các nhóm

lợi ích hoạt động một cách khép kín và tự trị. Tuy nhiên, quá

trình hoạch định chính sách thực tế phức tạp hơn.

Page 11: Cong dong chinh sach

Tiêu chuẩn về quyền lực và sự kiểm soát không phù

hợp với vai trò bao quát đang nổi lên trong quản lý chính

trị ...

Việc tham gia không nhất thiết phải dựa trên lợi ích

kinh tế nhỏ hẹp, và ranh giới của các mạng này không

phải là khép kín hoặc được xác định rõ mục đó là không

thể tiếp cận. Các sự mập mờ của những ranh giới này

ngoài việc gây ra sự khó khăn cho một bộ phận được

phân tích bởi các nhà nghiên cứu chính sách, mà nó còn

mở ra các ảnh hưởng dân chủ.

Page 12: Cong dong chinh sach

3. PHÊ PHÁNNghiên cứu về “policy communities” đưa ra những đánh giá

lại cách phân tích truyền thống vì những nghiên cứu trên vấp

phải nhiều sai phạm.

Khái niệm về network và community bị áp dụng sai khi bỏ

qua các tổ chức lớn của chính phủ trong việc phân tích quá trình

chính sách

Nếu cho rằng có những khu vực (lĩnh vực) được lấp đầy bởi

policy communities, câu hỏi đặt ra là phương thức nên đưa ra sử

dụng? Đâu là đơn vị phân tích phù hợp?

Phân tích vi mô của các actors và các mối quan hệ (như

Dowding (2001) khuyến cáo) nguy cơ bỏ qua nội dung thực chất

của tác động chính trị lên cộng đồng chính sách. Sự tập trung

vào chế độ hoạt động và định mức trong cộng đồng chính sách

mang một nguy cơ tương tự.

Page 13: Cong dong chinh sach

Policy communities diễn ra trong khu vực chính trị đánh

dấu bởi các loại hình khác nhau và nhiều mâu thuẫn. Những

khu vực chính trị này thường không nhất thiết biểu thị lợi ích

kinh tế. Hầu như đó là những lĩnh vực mà những xung đột

chính trị tự bộc lộ hoặc bị lấp đi. Điều này có nghĩa những

thành viên của network cho là việc làm trước các hoạt động và

các tương tác giữa các thành viên là không cần thiết; các mối

tương tác sẽ nảy ra từ các tình huống. Quyết định, hành động,

mâu thuẫn nhóm, và thay đổi chính sách xảy ra như là hệ quả

của sự tương tác. Trong quá trình tương tác, các thành viên

trong policy community tham gia vào quá trình xây dựng ý

nghĩa, và từ đó củng cố tầm quan trọng của vấn đề trên nhận

thức của các thành viên khác.

Cũng có trường hợp thành viên rời bỏ “game” khi các sự

kiện và vấn đề mất đi sự nổi bật và tầm quan trọng.

Page 14: Cong dong chinh sach

4. CÁC DẠNG CỦA XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ

Page 15: Cong dong chinh sach

DISTRIBUTIVE FIELD“Tất cả thành viên cùng chia sẻ những giá trị cơ bản và chấp nhận

tính chính đáng của hệ quả” (Whodes, 1997, 44).

Cộng đồng chính sách thường xuất hiện ở những ngành chính của

chính phủ như nông nghiệp, năng lượng hay giao thông.

Trong phạm vi này, các “actor” (nhân vật) tìm kiếm đặc ân và tài

trợ của chính phủ. Cá nhân và các nhà hoạt động hành lang thuyết

phục chính phủ thông qua các đặc ân như tài trợ chi phí, hợp đồng thu

mua, hợp đồng xây dựng, chi trả cho dịch vụ và những dịch vụ khác

(Ripley và Frankin, 1982:90).

Ngay cả khi bị hạn chế bởi cộng đồng chính sách, lý do căn bản

để đặt distributive policy (chính sách phân phối) vào mục đích chung

thường được tìm thấy trong quá hình thành chính sách.

Chính sách phân phối bao gồm chi phí của chính phủ và trợ cấp

cho các tổ chức gắn liền với cộng đồng chính sách. Và cũng lưu ý

rằng, nếu một cộng đồng chính sách có quyền lực không ủng hộ về

mặt chính trị cho chương trình thì chương trình sẽ không tồn tại.

Page 16: Cong dong chinh sach

REGULATORY FIELD

Những vấn đề được cho là thuộc về chính sách quản lý

như thuế quan, sát lập chỉ số, cấp giấy phép đem đến lợi

ích cho cộng đồng chính sách nhất định.

Tuy nhiên, diễn giải của Lowi (1964) cho thấy chính

sách về thuế quan không còn là phạm vi riêng của cộng

đồng chính sách bởi vì các nhóm khác nhau (nạn nhân của

việc áp dụng thuế quan bởi các nước khác lên những sản

phẩm không kiên quan) sẽ tái thiết lại cộng đồng chính

sách để phản đối các chính sách.

Page 17: Cong dong chinh sach

TRAGEDY OF THE COMMONS

Trong môi trường này, không cần thiết phải

có một cộng đồng chính sách cạnh tranh. Tuy

nhiên, nếu có cộng đồng chính sách tại chỗ, xoay

quanh lợi ích của ngành công nghiệp, có được

theo cách của họ (ví dụ, không kiểm soát lượng

khí thải CO2 và các chất gây ô nhiễm khác)

chính sách phổ biến trong trường hợp này là đưa

ra một tài liệu tham khảo để hướng dẫn làm sạch

chất lượng không khí bị suy giảm gây thiệt hại

cho tất cả các mặt.

Page 18: Cong dong chinh sach

WELFARE OF THE COMMONS

Phạm vi chính trị thứ 4 vượt quá đặc thù của policy

communities. Quốc phòng, an ninh xã hội và y tế là ví dụ. Lợi

ích của các chính sách là cho lợi ích của cộng đồng. Điều này

không có nghĩa rằng một số động lực của chính sách quốc

phòng (như các hợp đồng vũ khí) không hoạt động theo quan

điểm chính trị của distributive field, trong đó những thành viên

chủ chốt là nhà thầu trong lĩnh vực quân sự.

Mục đích của việc nhắc đến bốn phạm vi chính sách đối lập

là để giải thích những hạn chế policy community. Policy

community có ảnh hưởng lớn, bên ngoài việc hình thành chính

sách, sự tranh cãi của các nhóm này có thể có ảnh hưởng rộng

lớn trong một vài trường hợp.

Page 19: Cong dong chinh sach

5. QUẢN LÝ CÔNG

Quan niệm về nhân viên quản lý công như là người có quyền hạntrung lập

Các nhà quản lý công thường tham gia vào policy commutiesdạng network tùy theo kiến thức và kinh nghiệm trong một số vấn đềvề chính trị mà không liên quan đến địa vị chính trị.

Thành viên của cộng đồng chính trị, quản lý công là những ngườiquản lý chính trị. Nhân viên quản lý công duy trì vai trò chính trịtrong quá trình hình thành chính sách mà họ có thể thoải mái sử dụngkiến thức và kỹ năng để hoàn thành mục tiêu chính trị.

Sự cam kết chủ động trong quá trình hoạch định chínhsách là phù hợp với những lý tưởng của các học giả quản lý công(Harmon, 1981).

Với chương trình nghị sự khác nhau, các học giả hànhchính khác lên tiếng thay mặt cho một lậptrường tích cực hơn trên một phần của quản trị viên.

Page 20: Cong dong chinh sach

Denhardt (2000) đề xuất việc thảo luận công cộng như là công

cụ quan trọng trong việc đưa các quản trị viên và công

dân với nhau để đưa ra giải pháp cho các vấn đề chính sách. Thường

thấy trong các mô hình này các nhà quản lý công thường được

khuyên nên đưa ra các câu hỏi “nên làm gì” hơn là “làm như thế

nào”. Họ huy động các thành viên chính và giúp làm cho chính

sách trở thành thực tế.

Các mô hình cộng đồng chính sách, và các mô hình liên

quan, làm rõ ràng rằng sự tương tác chính trị là phổ biến trong thực tế

quản lý công.

Những xung đột phát sinh trong quá trình này cung cấp một

phương tiện để mở rộng công luận và thành hình hành động công.

Một số nhà khoa học chính trị tập trung sự chú ý về chức

năng tích hợp các tương tác ngoài chính thức, một tính năng mà

dường như làm cho các mối quan hệ lây lan bất chấp phản

đối mạnh mẽ chính thức của chính phủ.

Page 21: Cong dong chinh sach

Trong suốt bộ máy hoạch định chính sách của chính

phủ, các nhóm vấn đề ý thức ảnh hưởng

đến các sự kiện trong một hệ thống phức tạp của các mối

tương quan. Những người tham gia trong quá trình

này thường đại diện cho lợi ích kinh tế, nhưng họ

thường đóng góp chuyên môn và kiến thức chuyên

ngành cho các câu hỏi quan trọng của chính sách công.

Cộng đồng chính sách (và mạng lưới chính

sách) đóng vai trò quan trọng trong các quá trình

chính sách công.

Cộng đồng chính sách là hành chính vì chức năng

quản lý quan trọng như phối hợp, thông tin liên lạc, hội

nhập và được tạo điều kiện thông qua họ.

Page 22: Cong dong chinh sach

XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN

THẦY VÀ CÁC BẠN!!!