Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ PHƢƠNG THẢO
CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ PHƢƠNG THẢO
CHẾ ĐỊNH THƢƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Phƣơng Thảo
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG NHÂN ........ 6
1.1 Khái niệm và đặc điểm về thương nhân ............................................. 6
1.1.1 Khái niệm về thương nhân ....................................................................... 6
1.1.2 Đặc điểm về thương nhân ........................................................................ 9
1.2 Điều kiện trở thành thương nhân .............................................................. 11
1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thương nhân ................................................. 13
1.3.1 Lược sử phát triển pháp luật về thương nhân ở Việt nam ..................... 13
1.3.2 Chức năng của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam .......................... 15
1.3.3 Nguồn của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam ................................. 18
1.4 Phân loại thương nhân ............................................................................... 22
1.4.1 Các cách phân loại thương nhân ............................................................ 22
1.4.2 Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân ................................ 23
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
THƢƠNG NHÂN ....................................................................... 31
2.1 Thương nhân thể nhân ............................................................................... 31
2.1.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân thể nhân theo pháp
luật Việt Nam. ...................................................................................... 31
2.1.2 Các loại thương nhân thể nhân ............................................................... 32
2.2 Thương nhân pháp nhân ............................................................................ 46
2.2.1 Khái niệm và Điều kiện của thương nhân pháp nhân theo pháp
luật Việt Nam. ...................................................................................... 46
2.2.2 Các loại thương nhân pháp nhân ............................................................ 47
CHƢƠNG 3 NHỮNG BẤT CẬP, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THƢƠNG NHÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................... 66
3.1. Một số bất cập và định hướng hoàn thiện pháp luật về thương nhân ở
Việt Nam. .............................................................................................. 66
3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về thương nhân
ở nước ta hiện nay ................................................................................. 68
3.2.1 Luật thương mại 2005 ............................................................................ 69
3.2.2 Luật Doanh nghiệp 2014 ........................................................................ 72
3.2.3 Bộ luật Dân sự 2015 ............................................................................... 75
KẾT LUẬN .......................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 80
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ Ký hiệu Cụm từ đầy đủ
BLDS Bộ luật Dân sự
DNXH Doanh nghiệp xã hội
LDN Luật doanh nghiệp
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sau khi giành được độc lập năm 1945, một thời gian dài, nhiều thập
niên sau đó nền kinh tế của Việt Nam bị lâm vào khủng hoảng và trì trệ. Với
nhiều lý do khác nhau, nước ta đã trở thành một trong những nước nghèo nhất
thế giới. Chỉ đến những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, đất nước mới
bắt đầu thời kỳ mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài. Đồng thời khi đó
nền kinh tế Việt Nam bước và thời kỳ “sửa sai” và “đổi mới”. Bước chuyển
mình này đã có một số kết quả ban đầu, kinh tế phát triển vượt bậc, đưa nước
ta từ nhóm nước có thu nhập thấp vào năm 1988 trở thành một nước có thu
nhập bình quân trung bình trên thế giới.
Trong sự thành công này, pháp luật về kinh tế đã góp một vai trò rất
quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền
vững của các quan hệ kinh tế. Nhiều văn bản pháp luật về kinh tế đã dần được
ban hành theo những quan điểm của Đảng và Nhà nước thành pháp luật để áp
dụng trong đời sống kinh tế.
Trong hệ thống pháp luật về kinh tế, Luật thương mại và Luật Doanh
nghiệp là những văn bản pháp luật quan trọng nhất. Luật Thương mại ra đời
từ năm 1997 và Luật Doanh nghiệp 1995 là những cơ sở pháp lý đầu tiên điều
chỉnh mọi quan hệ phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại của Việt
Nam. Chủ thể cơ bản chịu sự điều chỉnh của luật thương mại chính là các
thương nhân. Vì vậy, ở một chừng mực nào đó luật thương mại được coi là
luật của các thương nhân. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật các
văn bản này đã bộ lộ nhiều hạn chế và thiếu sót, chưa điều chỉnh được hết mọi
vấn đề phát sinh trong đời sống kinh tế. Sau những lần sửa đổi, Luật thương
mại 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014 mới ra đời đã phần nào loại bỏ được
những nhược điểm của những văn bản Luật đầu tiên, cơ chế thương nhân
2
được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn nhưng vẫn chưa hoàn toàn giải
quyết được những vấn đề còn tồn tại. Chính vì thế, việc nghiên cứu để từng
bước hoàn thiện các quy định của pháp luật về thương nhân là việc làm quan
trọng và cần thiết - nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các quan hệ mua
bán hàng hoá cũng như các quan hệ liên quan đến nó ngày càng phong phú và
đa dạng, đặt ra yêu cầu điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Chế định
Thương nhân ở Việt Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định thương nhân là nội dung quan trọng của pháp luật thương
mại, được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên
cứu. Ở những phạm vi và mức độ khác nhau đã có những công trình đề cập
đến quy chế pháp lý về thương nhân, về doanh nghiệp, cụ thể như sau:
- "Giáo trình luật thương mại - phần chung và thương nhân" của
PGS.TS Ngô Huy Cương được xuất bản tại Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2013. Giáo trình đã nêu lên được một cách hệ thống những vấn đề lý
luận về thương nhâ, phân loại thương nhân theo pháp luật của các quốc gia
trên thế giới và của Việt Nam.
- "Chuyên khảo luật kinh tế" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa được xuất
bản tại Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004. Cuốn chuyên khảo đã phân
tích, đánh giá về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
- "Giáo trình luật kinh tế Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Như Phát làm
chủ biên được xuất bản tại Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2013. Cuốn giáo trình
này đã nêu lên những vấn đề tổng quan về luật thương mại, những vấn đề lý
luận về luật thương mại và trình bày khái quát một số vấn đề về hành vi
thương mại và thương nhân.
- "Giáo trình luật thương mại" do TS. Bùi Ngọc Cường làm chủ biên
được xuất bản tại Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2008. Giáo trình đã phân tích,
3
bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định thương nhân, các loại
thương nhân theo pháp luật Việt Nam.
- "Thương gia theo thương luật Hoa Kỳ" của TS. Trần Đình Hảo đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật, số 2, năm
2002. Bài viết đã giới thiệu khái quát về các loại hình công ty đối nhân và đối
vốn theo pháp luật của Hoa Kỳ nhằm cung cấp thông tin so sánh để học hỏi
kinh nghiệm nước ngoài nhằm hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam.
- "Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề pháp
lý chủ yếu", của PGS.TS Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 13 (269), Kỳ 1 - Tháng 07/2014. Bài viết này đã lý luận sâu sắc về ý nghĩa
pháp lý của sự phân loại thương nhân thành thương nhân thể nhân và thương nhân
pháp nhân. Tuy nhiên không trình bày toàn bộ nội dung của sự phân loại này.
- Luận văn “Phân loại thương nhân theo pháp luật Việt Nam”, của
ThS. Nguyễn Thị Vân Anh. Luận văn đã nêu ra các cách thức phân loại
thương nhân và các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về phân loại
thương nhân từ đó đưa ra những kiến nghị sửa hoàn thiện pháp luật hiện hành.
Ngoài các công trình kể trên còn có những luận văn, luận án nghiên
cứu riêng về từng loại hình công ty.
Những công trình kể trên đã có những thành tựu quan trọng nhất liên
quan tới việc xây dựng pháp luật về thương mại ở Việt Nam. Tác giả luận văn
kế thừa những luận điểm khoa học của các công trình đó trong quá trình viết
luận văn. Tuy nhiên, đề tài mà tác giả nghiên cứu chuyên sâu về Chế định
thương nhân. Vì vậy, mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
luận văn không hoàn toàn trùng lặp với các công trình đã công bố nêu trên.
3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thương nhân,
cũng như việc phân tích các quy định pháp luật cụ thể về thương nhân ở Việt
4
Nam, luận văn rút ra một số kết luận và kiến nghị nhằm góp phần xây dựng
và hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về thương nhân.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về khái niệm thương
nhân, phân loại thương nhân, quyền và nghĩa vụ của thương nhân từ đó
đưa ra những nhận định về địa vị pháp lý của các loại thương nhân trong
nền kinh tế Việt Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp tới chế định
thương nhân và các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thương
nhân để kiến nghị sửa hoàn thiện pháp luật hiện hành. Luận văn không phân
tích sâu về lịch sử pháp luật liên quan và chế định thương nhân của các quốc
gia khác trên thế giới trừ khi đề cập tới các vấn đề đó với tính cách là một
phương pháp để hướng tới mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên các nguyên tắc, phương pháp luận
của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng
ta về Nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm: Phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra.
5. Tính mới của Luận văn
Luận văn đã phân tích được một cách logic pháp luật về thương nhân, cũng
như đưa ra được các chức năng cơ bản của nó. Đồng thời, phân tích các quy
định pháp luật về thương nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ
sở phân tích đó, khoá luận đã rút ra một số kết luận và định hướng hoàn thiện
các quy định pháp luật về thương nhân ở Việt Nam.
5
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận được cấu trúc bao gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về thương nhân.
Chương II: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thương nhân.
Chương III: Một số bất cập và định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về thương nhân ở Việt Nam hiện nay.
Do hạn chế về khuôn khổ luận văn, thời lượng, nguồn tài liệu cũng như
khả năng nhận thức của bản thân, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƢƠNG NHÂN
1.1 Khái niệm và đặc điểm về thƣơng nhân
1.1.1 Khái niệm về thƣơng nhân
Thương nhân là một khái niệm quen thuộc trong lĩnh vực thương mại
và đây cũng được coi là chủ thể chủ yếu của Luật thương mại. Khái niệm
thương nhân luôn được xác định trong pháp luật của các nước nói chung và
Việt Nam nói riêng. Trước hết chúng ta tìm hiểu về khái niệm thương nhân
được quy định trong hệ thống pháp luật thương mại của các quốc gia trên thế
giới. Theo thực tế pháp luật hiện nay, mỗi quốc gia đều có những phương
pháp định nghĩa khác nhau về khái niệm thương nhân.
Theo Điều 1 Luật thương mại Pháp 1807 - Bộ luật thương mại đầu tiên
được pháp điển hóa trên thế giới thì “Thương nhân là những người thực hiện
các hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của
mình.” Như vậy, luật thương mại Pháp định nghĩa thương nhân theo bản chất
của chủ thể. Luật Pháp không quy định về trách nhiệm đăng ký kinh doanh
mà chỉ quy định về loại hành vi thương mại mà chủ thể thực hiện để được coi
là thương nhân. Ngoài việc thực hiện nhiều hành vi thương mại, chủ thể cần
đáp ứng được điều kiện về những hành vi đó như “lấy chúng làm nghề nghiệp
thường xuyên của mình”. Chỉ khi thực hiện các hành vi thương mại một cách
thường xuyên, lâu dài mang tính chất nghề nghiệp (tức hoạt động kinh doanh
mang tính ổn định, lâu dài, có sinh lời mang lại nguồn thu nhập chính cho chủ
thể) thì chủ thể thực hiện hành vi đó mới được coi là thương nhân.
Luật thương mại Đức – một trong những bộ luật thương mại tiêu biểu
trên thế giới đại diện cho họ pháp luật La Mã - Đức quy định về thương nhân
có phần phức tạp hơn. Thương nhân theo định nghĩa của Bộ luật thương mại
7
CHLB Đức là những người hành nghề kinh doanh. Hành nghề kinh doanh là
bất kì cơ sở hành nghề nào mang lại lợi nhuận, ngoại trừ các doanh nghiệp mà
căn cứ theo tính chất, phạm vi của nó không đòi hỏi phải thiết lập cơ sở để
hoạt động kinh doanh (Khoản 2 Điều 1 Bộ luật thương mại Đức).[37]
Doanh nghiệp hành nghề mà cơ sở hoạt động của nó chưa phải là hành
nghề kinh doanh theo quy định trên vẫn được coi là hành nghề thương mại
theo định nghĩa của Bộ luật này nếu hãng của doanh nghiệp có đăng ký trong
danh bạ thương mại. Khi đã đăng ký thì việc xóa tên của hãng cũ có thể xảy
ra theo đơn đề nghị của doanh nghiệp, trong trường hợp không có cơ sở theo
quy định tại khoản 2 Điều 1 Bộ luật thương mại. Khi một hãng đã đăng ký
trong danh bạ thương mại thì không thể bị ai đó dựa vào việc đăng ký để cáo
buộc rằng cơ sở ngành nghề trực thuộc hãng không phải là cơ sở hành nghề
thương mại (Điều 5 Bộ luật thương mại Đức). Các quy định đối với thương
nhân cũng được áp dụng cho các công ty thương mại (Khoản 1 Điều 6 Bộ luật
thương mại Đức).[37]
Như vậy, theo Bộ luật thương mại Đức thì thương nhân là người thực
hiện một cách tự chủ hoạt động ngành nghề kinh doanh, mục đích nhằm thu
lợi nhuận. Tuy nhiên, công việc kinh doanh phải đạt phạm vi giao dịch và đòi
hỏi một mức độ tổ chức doanh nghiệp nhất định (như thiết lập cơ sở hoạt
động kinh doanh). Điều này không có ở những người kinh doanh nhỏ lẻ, với
họ luật thương mại không có hiệu lực áp dụng. Tuy nhiên, những người này
vẫn có thể tự nguyện nhận được tự cách thương nhân khi đăng ký trong danh
bạ thương mại. Đối với các công ty đối vốn và hợp tác xã thì bắt buộc phải
dựa vào hình thức pháp lý là các thương gia.
Tóm lại, luật thương mại của các nước theo họ Pháp luật La Mã - Đức
quan niệm công ty thương mại là các thương nhân bởi hình thức. Theo đó, bất
kỳ một thực thể có cơ sở để hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có tên hãng
được đăng kí trong danh bạ thương mại hoặc những người kinh doanh nhỏ lẻ
8
đăng ký tên trong danh bạ thương mại sẽ đều được coi là thương nhân và
được điều chỉnh bởi pháp luật thương mại.
Theo pháp luật Hoa Kỳ - Đại diện cho họ pháp luật Anh-Mỹ, khái
niệm “thương nhân (thương gia)” được định nghĩa trong Bộ luật Thương mại
Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code -1990). Theo bộ luật này, có 3 loại hình
thương nhân chủ yếu là cá nhân kinh doanh (sole propration), công ty đối
nhân (partnership) và công ty đối vốn (corporation)[38]. Nhìn chung, thương
nhân trong luật Hoa Kỳ bao gồm một nhóm người thực hiện các hoạt động
kinh doanh hàng hóa như những công việc thường xuyên lâu dài của họ. Luật
thương mại Hoa Kỳ không điều chỉnh với các loại hàng hóa là bất động sản
và dịch vụ mà chỉ điều chỉnh với các loại hàng hóa động sản.
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về thương nhân từ những
văn bản pháp luật về thương mại đầu tiên là Luật thương mại 1997 và sau đó
là Luật thương mại 2005.
Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 quy định tại Khoản 6 Điều 5 về
thương nhân như sau: “Thương nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp
tác, hộ gia đình có đăng ký hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên”.[26]
Sau quá trình sửa đổi, Luật thương mại 2005 định nghĩa lại về khái
niệm thương nhân tại Điều 6 như sau: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.[27]
Từ quy định trên, ta có thể thấy Luật thương mại Việt Nam đang định
nghĩa thương nhân theo kiểu hình thức. Theo đó, các chủ thể chỉ được công
nhận là thương nhân khi đáp ứng đủ yêu cầu về hình thức như “tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp, cá nhân có đăng ký kinh doanh ”. Tư cách
thương nhân được xác định dựa theo việc đăng ký với cơ quan nhà nước có
9
thẩm quyền mà không căn cứ vào hoạt động thương mại do chủ thể kinh
doanh thực hiện.
Tóm lại, các quốc gia trên thế giới hiện nay có những các thức định
nghĩa về thương nhân rất khác nhau. Mỗi cách thức định nghĩa sẽ đem đến
những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Với cách định nghĩa thương nhân
theo bản chất hành vi thương mại, các quốc gia này cần xác định rõ căn cứ để
nhận biết hành vi thương mại trong rất nhiều loại hành vi được các thương
nhân thực hiện trong đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, với các quốc gia
xác định tư cách thương nhân bằng hình thức đăng ký hoạt động với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì việc nhận biết tổ chức nào là thương nhân là một
vấn đề tương đối phức tạp và còn nhiều vấn đề cần tranh cãi. Ví dụ trong pháp
luật Việt Nam, thương nhân bao gồm “các tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp...” nhưng Luật Thương mại lại chưa đưa ra được định nghĩa về tổ chức
kinh tế. Và thực tế hiện nay có những loại tổ chức kinh tế được thành lập hợp
pháp theo đúng quy định của pháp luật như “Hợp tác xã” nhưng không được
coi là thương nhân. Vấn đề này sẽ được tác giả bàn luận sâu hơn ở những
chương sau của luận văn.
1.1.2 Đặc điểm về thƣơng nhân
Từ việc xem xét các khái niệm về thương nhân như trên, ta có thể đưa ra
một số đặc điểm chung nhất về thương nhân như sau
Trước hết, thương nhân là những người thực hiện các hành vi thương
mại và coi đó như nghề nghiệp của mình.
Mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội khi đủ tuổi vị thành niên hầu hết đều
có một nghề nghiệp riêng. Nghề nghiệp chính là những hoạt động thường
xuyên, lâu dài, mang lại những nguồn lợi nhất định là nguồn sinh sống cho
cá nhân và gia đình của chủ thể đó. Số lượng hành vi thương mại do một chủ
thể thực hiện không đem lại tư cách thương nhân cho chủ thể. Một chủ thể chỉ
10
được coi là thương nhân khi thực hiện một hoạt động thương mại lặp đi lặp lại
mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên và có sinh lời.
Thứ hai, thương nhân hoạt động thương mại một cách độc lập.
Trong quá trình hoạt động thương mại, thương nhân có thể trực tiếp thực
hiện các hành vi thương mại hoặc ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực
hiện hành vi thương mại đó. Tuy nhiên, mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hoạt
động mà người được ủy quyền thực hiện do ủy quyền thì đều thuộc về người ủy
quyền. Điều này được hiểu là người làm công, người quản lý được trả công đều
không phải là thương nhân. Ngược lại, người thuê và quản lý một cơ sở kinh
doanh để kinh doanh mới là thương nhân. Thương nhân là chủ thể chịu trách
nhiệm với toàn bộ quyền và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh do mình làm chủ.
Ngoài ra, đối với một số nước có quy định công ty hợp danh và công ty
hợp vốn đơn giản là pháp nhân – hoạt động của những công ty này được nhà
nước bảo hộ như những doanh nghiệp khác thì những thành viên của công ty
hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản dù những hoạt động của họ vì lợi ích
chung của cả công ty nhưng họ vẫn được coi là thương nhân vì họ phải chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty.
Thứ ba, thương nhân hoạt động phải có đăng ký kinh doanh.
Đặc điểm này được áp dụng với những quốc gia quy định về thương
nhân theo hình thức. Ở những quốc gia này, để trở thành thương nhân chủ thể
thực hiện hành vi thương mại cần đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Chỉ khi có đăng ký kinh doanh, chủ thể sẽ được công nhận tư
cách thương nhân và được nhà nước thừa nhận, bảo hộ quyền lợi hợp pháp
của mình trong đời sống kinh doanh.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, thương nhân là những người thực
hiện các hoạt động thương mại như một nghề nghiệp thường xuyên, lâu dài và
chịu mọi trách nhiệm với các hoạt động thương mại do mình thực hiện.
11
1.2 Điều kiện trở thành thƣơng nhân
Dựa theo quy định về thương nhân của mỗi quốc gia, các điều kiện về
thương nhân của các nước là khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung lại, các cá
nhân và tổ chức cần đáp ứng được những điều kiện cơ bản sau để được thừa
nhận tư cách thương nhân:
Điều kiện thứ nhất: Để trở thành thương nhân, trước hết các chủ thể
phải tồn tại dưới dạng: cá nhân hoặc tổ chức.
- Cá nhân: được hiểu là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự
và năng lực hành vi dân sự và không bị pháp luật cấm kinh doanh thương
mại. Theo Luật thương mại Việt Nam, cá nhân đủ 18 tuổi trở lên có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp tư nhân, giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân.[29]
- Tổ chức: Những tổ chức được công nhận tư cách thương nhân trước hết
phải là những tổ chức được thành lập hợp pháp, hoạt động độc lập và hoạt
động của tổ chức không phụ thuộc vào ý chí riêng của các thành viên tổ chức đó.
Theo thông lệ pháp luật quốc tế, thương nhân được phân loại thành hai
loại chính là thương nhân thể nhân là các cá nhân kinh doanh và thương nhân
pháp nhân là những tổ chức được hành lập hợp pháp chủ yếu tồn tại dưới
dạng các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.
Điều kiện thứ hai: Các chủ thể trên chỉ trở thành thương nhân nếu tiến
hành các hoạt động được coi là các hành vi thương mại.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm về phân loại hành vi thương mại
khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đưa ra một cách phân loại cơ
bản nhất gồm hai loại: hành vi thương mại thuần túy và hành vi thương mại
do phụ thuộc.
12
- Hành vi thương mại thuần túy: gồm những hành vi có tính chất thương mại:
Những hành vi do thương nhân thực hiện: hoạt động thương nhân cho
thuê động sản.
Những hành vi liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa: hoạt động
giao nhận hàng hóa.
Những hành vi mà hình thức của nó được pháp luật coi là hành vi
thương mại vì bản chất của nó thuộc về công việc buôn bán: hoạt động kí phát
hối phiếu, hành vi thành lập công ty thương mại.
- Hành vi thương mại phụ thuộc:
Những hành vi có bản chất dân sự nhưng do thương nhân thực hiện
theo yêu cầu nghề nghiệp: hoạt động kí hợp đồng mua bán hàng hóa của
thương nhân.
Những hành vi dân sự dân sự nhưng được thực hiện do phụ thuộc vào
một hành vi thương mại khác
Nhìn chung, mọi hành vi do thương nhân thực hiện trong hoạt động
kinh doanh đều là những hành vi thương mại trừ trường hợp thương nhân
chứng minh được rằng hành vi đó thực hiện không vì mục đích thương mại.
Ví dụ: Việc thương nhân quyên góp từ thiện cho tổ chức từ thiện.
Khái niệm thương nhân và hành vi thương mại là hai khái niệm có mối
quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Một hành vi chỉ được coi là hành vi thương mại
khi nó được thực hiện bởi các thương nhân hoặc thực hiện trong khuôn khổ
các hoạt động thương mại của thương nhân. Bên cạnh đó, một chủ thể chỉ
được coi là thương nhân khi thực hiện các hành vi thương mại.
Ở Việt Nam, khái niệm “hành vi thương mại” được ghi nhận trong
Luật thương mại 1997 đã được Luật thương mại 2005 thay thế bằng thuật ngữ
“hoạt động thương mại”. Điều 45 Luật thương mại 1997 quy định Hành vi
thương mại chỉ gồm đúng 14 loại hành vi cụ thể, Luật thương mại 2005 quy
13
định các loại hoạt động thương mại mang nghĩa rộng hơn và bao quát hơn bao
gồm các hoạt động nhằm mục đích sinh lời: “mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời
khác”. (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005).[27]
1.3 Điều chỉnh của pháp luật về thƣơng nhân
1.3.1 Lƣợc sử phát triển pháp luật về thƣơng nhân ở Việt nam
Trong lịch sử kinh tế của Việt Nam, thương mại hầu như chỉ được biết
đến bắt đầu từ thời kỳ phong kiến khi có những hoạt động mua bán hàng, sản
xuất hàng hóa ra đời. Vào thời kì này, xã hội bắt đầu có sự xuất hiện của một
tầng lớp mới thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa để kiếm lợi, được gọi
chung ở thời kì đấy là các thương gia. Tuy nhiên, hoạt động thương mại trong
thời kỳ phong kiến chưa được xã hội đề cao, tầng lớp thương gia luôn đứng ở
vị trí thấp nhất trong “sĩ nông công thương”. Bởi lẽ đó, các quy định pháp luật
điều chỉnh hoạt động thương mại cũng hầu như chưa được đề cập đến. Mãi
đến thời kỳ Pháp thuộc thì pháp luật Việt Nam mới có những chế định đầu
tiên về luật thương mại. Năm 1864 người Pháp đem Bộ luật thương mại của
mình áp dụng vào Nam kì và áp dụng ở Bắc kì năm 1988. Năm 1892, Pháp
ban hành Sắc lệnh quy định việc hành nghề thương mại của người á Đông
ngoại quốc và người Việt Nam sinh tại các vùng là thuộc địa của Pháp (Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật Pháp.
Ngoài những văn bản đó, về sau cũng có những văn bản khác quy định
về từng vấn đề cụ thể như sau: Đạo luật về bán và cầm cố cửa hàng thương
mại 1909; Đạo luật về bảo vệ quyền sở hữu cửa hàng thương mại 1926; Luật
về hối phiếu, thương phiếu năm 1894, 1922, 1935...
Mãi đến năm 1942, triều đình Huế mới ban hành bộ luật thương mại
Trung phần có nội dung cơ bản giống như Bộ luật thương mại của Pháp, có
hiệu lực thi hành tại Trung bộ từ ngày 25/1/1944.
14
Năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền với chế độ chính trị
khác nhau. Ở miền Nam, chính phủ Việt Nam cộng hòa đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật về thương mại quan trọng như : Luật số 13/57 về nhãn hiệu
thương mại; Luật số 12/5 về bằng sáng chế Nghị định số 92/BKT/CKN ngày
9/4/198 và Nghị định số 406/BKT/ND ngày 11/10/1968 về danh sách các
ngành nghề tiểu công nghệ...quan trọng nhất là Bộ luật thương mại ban hành
20/12/1972 với nội dung khá phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề của đời
sống thương mại lúc đó ở miền Nam Việt Nam như nhiệm vụ nghề nghiệp
của nhà buôn hay thương gia và sự hành nghề thương mại... Trái lại, ở miền
Bắc, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc kinh doanh chủ yếu được
các tổ chức thuộc thành phần kinh tế quốc doanh tiến hành. Do đó, luật kinh
tế điều chỉnh những quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình kinh doanh
XHCN tập trung ghi nhận các chế độ pháp lý liên quan đến việc tổ chức và
hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc doanh.
Đến khi chúng ta bắt đầu bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã làm thay
đổi cơ bản tính chất của các quan hệ trong kinh doanh. Về thực chất, luật kinh
tế trong giai đoạn này vẫn được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc giữa chúng
với cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế,
xã hội của đất nước. Để đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, Nhà
nước đã ban hành một loạt văn bản pháp luật kinh tế mới thay thế những văn
bản ban hành trước đây như Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp
Nhà nước 1995, Luật hợp tác xã 1996, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993,
Luật thương mại 1997...
Cho đến nay, cùng với sự phát triển và mở cửa hội nhập của nền kinh tế
Việt Nam chúng ta đang có gắng tạo một hành lang pháp lý thông thoáng,
15
hiệu quả nhằm tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường ổn định và hiệu quả cho
các nhà kinh doanh trong và ngoài nước đầu tư vào nền kinh tế. Do đó, chung
ta cũng đã sửa đổi, bổ sung vào những văn bản đang hiện hành sao cho phù
hợp với sự phát triển, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
về thương mại mới, nhằm giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển như: Luật
thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật cạnh tranh, Luật đầu tư,
Luật phá sản, Luật đấu thầu...
Nói tóm lại thương nhân và hoạt động thương mại xuất hiện ở nước ta
từ rất sớm, song sự phát triển của chúng lại là những thăng trầm. Tựu chung,
Việt Nam không có truyền thống trong lĩnh vực thương mại giống như các
quốc gia nông nghiệp khác. Cho mãi tới những năm gần đây, nhận thức về
hoạt động thương mại và vị trí của các thương nhân mới được đổi mới theo
đúng xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đã có những thay
đổi lớn về cả nội dung lẫn hình thức của các văn bản pháp luật nói chung và
các văn bản liên quan đến kinh tế, thương mại nói riêng, từ đó có thể thấy sự
phát triển của hệ thống pháp luật nước ta ngày càng tiến gần tới sự hoàn thiện.
1.3.2 Chức năng của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam
Pháp luật về thương nhân ra đời và phát triển là một hệ quả tất yếu của
quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Các giao dịch thương mại ngày
càng đa dạng và phức tạp thì yêu cầu điều chỉnh của pháp luật càng trở lên
cấp thiết hơn. Chính bởi vậy, mà các quy định của pháp luật về thương nhân
cơ bản phải chứa đựng những chức năng sau:
- Trước tiên, pháp luật về thương nhân đóng vai rò là khuôn khổ pháp
lý quan trọng nhất quy định về tư cách chủ thể của các loại hình thương nhân
– chủ thể chính của pháp luật thương mại. Việc xác định tư cách thương nhân
cho một chủ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng vì mỗi loại chủ thể lại chịu sự
điều chỉnh của các quy chế khác nhau vì chúng hàm chứa trong mình những
16
đặc đặc điểm tương đối khác nhau. Xác nhận địa vị pháp lý, tư cách của
thương nhân trên thương trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thương nhân cũng như những người có quan hệ kinh doanh đối với họ. Trên
cơ sở các quy định pháp luật, thương nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình để tiến hành các giao dịch thương mại với thương nhân cũng như với tổ
chức và cá nhân khác trong và ngoài nước.
- Các chủ thể tham gia vào các hoạt động thương mại dựa trên nguyên
tắc tự do, bình đẳng và độc lập nhưng luôn phải dưới dự chỉ đạo và quản lý
chung của Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc kiểm soát đối với hoạt động
của các thương nhân cũng như diễn biến của nền kinh tế nói chung thông qua
các quy định pháp luật về thương nhân. Trên cơ sở nắm bắt các thông tin về
nhu cầu và hoạt động thực trạng của thương nhân trong từng thời kỳ, Nhà
nước hoạch định, điều chỉnh hay thay đổi các chính sách thích ứng phù hợp
với chính sách phát triển kinh tế của mình.
- Các quy định pháp luật về thương nhân còn là cơ sở cho thương nhân
thực hiện các dự định hoặc kế hoạch. Pháp luật đưa ra những nguyên tắc hoạt
động nhất định như trung thực, thiện chí tạo niềm tin cho các chủ thể trong
quá trình hoạt động kinh doanh thương mại. Trong tình hình nền kinh tế hiện
nay, các hoạt động diễn ra sôi động, một thương nhân phải suy nghĩ và thay
đổi chiến lược kinh doanh không ngừng để bắt kịp được xu thế cũng như tận
dụng được thời gian, trí lực, thể lực. Việc tính toán trước những kế hoạch hoạt
động trong tương lai phải dựa trên sự tin tưởng vào pháp luật, tin tưởng vào
các quy định của pháp luật thương mại bảo đảm cho các dự định kinh doanh
trở thành hiện thực hay nói đúng hơn là tạo ra các khả năng để thương nhân
có thể hoạch định các công việc của mình. Vì thế, các nguyên tắc như trung
thực, thiện chí trong hoạt động kinh doanh được luật thương mại rất đề cao.
- Các quy định pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về thương
nhân nói riêng còn là tiền đề cho sự phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ
17
pháp luật về thương mại; mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài. Chính
các quy định pháp luật về thương nhân là điều kiện để thương nhân tiến hành
các hoạt động thương mại của mình phù hợp với sự phát triển chung của nền
kinh tế. Qua đó, tạo ra môi trường bình đẳng cho hoạt động của thương nhân,
thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động thương mại và
nghiêm cấm các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị trường, bán phá giá để cạnh
tranh, dèm pha thương nhân khác, đe doạ nhân viên hoặc khách hàng của
thương nhân khác, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Chính điều này đã có
tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bởi lẽ, các hoạt động
thương mại của thương nhân trên thị trường là nhằm mục đích phục vụ các
nhu cầu trực tiếp của xã hội.
- Như chúng ta đã biết khi xây dựng pháp luật thương mại người ta
thường dựa vào hai mảng vấn đề lớn: hoặc là chủ thể, coi luật thương mại là
luật riêng của thương nhân như cách làm của Bộ luật Thương mại Đức ban
hành năm 1897 tập trung các quy định vào thương nhân; hoặc là theo khách
thể, coi luật thương mại là luật điều chỉnh hành vi mang tính thương mại như
cách làm của Bộ luật Thương mại Pháp ban hành năm 1807 tập trung các quy
định vào hành vi thương mại. Song thực tiễn phát triển pháp luật thương mại
đã chứng minh rằng cả hai phương pháp trên đều hàm chứa cả vấn đề chủ thể
lẫn vấn đề khách thể. Bởi, thương nhân là chủ thể chính thực hiện các hành vi
thương mại. Do đó, khi xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về
thương nhân cũng là điều kiện tiền đề cho các hành vi thương mại được hiện
thực hoá trên thương trường.
Nói tóm lại, pháp luật về thương nhân đang ngày càng khẳng định được
vị trí quan trọng của mình đối với sự phát triển của thương mại nói riêng và
của đất nước nói chung. Bởi lẽ, với tư cách là một bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường, thương nhân là người trực tiếp tiến hành các
18
hoạt động thương mại với nhiều mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa
các mảng của quan hệ kinh doanh đa dạng, phức tạp, phần nào chịu sự điều
tiết của các ngành luật khác là một vấn đề rất phức tạp. Một hệ thống pháp
luật hoàn thiện về thương nhân sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thị trường thương mại.
1.3.3 Nguồn của pháp luật về thƣơng nhân ở Việt Nam
Nguồn của một ngành luật là tổng hợp những văn bản pháp luật do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội
nhất định. Nguồn pháp luật ghi nhận về thương nhân cũng chính là nguồn của
pháp luật thương mại vì thương nhân và quan hệ giữa các thương nhân là chủ
thể và đối tượng điều chỉnh chính của luật thương mại. Đặc thù trong việc
điều chỉnh các quan hệ thương mại nên nguồn của luật thương mại không chỉ
bao gồm các văn bản pháp luật mà còn có thể là các văn bản quy phạm khác.
Nguồn của luật thương mại bao gồm các nhóm văn bản cơ bản sau:
1.3.3.1 Các văn bản quy phạm pháp luật
a) Hiến pháp
Đây là đạo luật cơ bản của Nhà nước, xác định chế độ chính trị, kinh tế
– xã hội của đất nước nên Hiến pháp có giá trị cao nhất và là nguồn của nhiều
ngành luật, trong đó có luật thương mại. Trong hiến pháp có ghi nhận những
vấn đề quan trọng sau:
- Xác định rõ định hướng cũng như mục đích xây dựng nền kinh tế
của đất nước
- Xác định rõ chế độ sở hữu Nhà nước
- Ghi nhận các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư
- Ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân
Ngoài ra còn nhiều những quy định khác trong Hiến pháp quy định về hoạt
động thương mại. Hiến pháp là nguồn rất quan trọng của luật thương mại.
19
b) Bộ luật Dân sự
Sau Hiến pháp, Bộ luật dân sự là đạo luật có vị trí quan trọng trong hệ
thống pháp luật, liên quan mật thiết đến mọi mặt của đời sống thường ngày
của người dân, trong đó có lĩnh vực thương mại. Thông qua những quy định
về các vấn đề như tài sản, quyền sở hữu, bảo vệ quyền sở hữu, hợp đồng, sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ,...Bộ luật Dân sự quy định các chuẩn mực
pháp lý cho các quan hệ thương mại phát triển trong môi trường thuận lợi,
đưa lại cho các giao dịch độ tin cậy pháp lý cao. Cùng với các văn bản khác
trong hệ thống pháp luật kinh tế, Bộ luật dân sự góp phần xây dựng lên khung
pháp lý cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, tạo nên môi
trường pháp lý thuận lợi, thống nhất cho các thương nhân hoạt động và phát triển.
c) Các luật do Quốc hội thông qua
Ở Việt Nam hiện nay, các văn bản là nguồn luật thương mại do Quốc
hội thông qua có một số lượng khá lớn:
- Các luật quy định về địa vị pháp lý của các thương nhân: Luật Doanh
nghiệp 2014, Luật hợp tác xã 2012...
- Các luật quy định cụ thể về các loại hành vi thương mại như: Luật
thương mại 2005, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng 2010, Luật đầu tư
2014, Luật chứng khoán...
- Các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với thương nhân
lâm vào tình trạng phá sản được quy định tại Luật phá sản 2014.
d) Các văn bản dƣới luật
Các văn bản dưới luật cũng là nguồn quan trọng của Luật thương mại
bao gồm Pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính
Phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và các Thông tư của các Bộ, Cơ
quan ngang Bộ.
20
1.3.3.2 Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc
tế (chủ yếu là các quốc gia) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện nhằm thiết lập
nguyên tắc pháp lý bắt buộc, là cơ sở cho hoạt động thương mại.
Điều ước quốc tế có thể chi ra làm hai loại: Các điều ước có tính chất
chỉ đạo, quy định những nguyên tắc chung về hoạt động thương mại giữa các
quốc gia tham gia kí kết, ví dụ như Hiệp định thương mại hàng hải, Hiệp định
thương mại Việt Mỹ... Và các điều ước điều chỉnh trực tiếp các quan hệ
thương mại cụ thể như Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế,
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS, thỏa ước Madrid về đăng ký
quốc tế nhãn hiệu hàng hóa...
Ở Việt Nam, việc áp dụng Điều ước quốc tế được pháp luật quy định: đối
với Điều ước quốc tế về thương mại Nhà nước đã tham gia kí kết và phê chuẩn,
chúng ta sẽ tuân theo những quy định trong Điều ước quốc tế. Còn đối với Điều
ước quốc tế mà Nhà nước vẫn chưa tham gia và chưa công nhận, chúng ta có
quyền bảo lưu, không áp dụng những quy định trái với pháp luật Việt Nam.
1.3.3.3 Tập quán thương mại
Nói đến nguồn của Luật thương mại, không thể không nói đến tập quán
thương mại. Tập quán thương mại có thể hiểu là thói quen được thừa nhận
rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực
thương mại có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Tập quán thương mại có ý
nghĩa đặc biệt trong việc giải thích và bổ sung các nghĩa vụ hợp đồng. Trong
hoạt động, nếu các bên đương sự cùng làm một nghề và cùng là thương gia,
không viện dẫn rõ ràng một số điểm đã được thói quen chấp nhận thì các bên
đó mặc nhiên công nhận tập quán.
Mặc dù hệ thống pháp luật nước ta không phải là hệ thống luật tập
quán, các án lệ không được coi là nguồn của luật, nhưng trong hoạt động
21
thương mại tập quán thương mại thường được áp dụng, đặt biệt trong hoạt
động thương mại với thương nhân nước ngoài, ví dụ, trong thanh toán theo
thể thức L/C (thư tín dụng), quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ (UCP) cũng thường được các bên thanh toán áp dụng hoặc trong
giao nhận hàng hóa với thương nhân, INCOTERMS 2000 và INCOTERM
2010 (Các điều khoản thương mại quốc tế) thường được áp dụng.
Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định về việc áp dụng tập quán
trong những trường hợp nhất định. Theo Điều 5 Bộ luật dân sự Việt Nam
2015, hay điều 3 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, trong trường hợp pháp luật
không quy định về các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán,
nếu tập quán này không trái với các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Tại
khoản 1 Điều 5 Luật thương mại Việt Nam 2005 cũng cho phép các bên trong
quan hệ hợp đồng quốc tế được thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại quốc
tế nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam.
Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay, các quan hệ
song phương và đa phương giữa các quốc gia đang phát triển tích cực cả về
chiều sâu và chiều rộng thì tập quán thương mại quốc tế càng có ý nghĩa trong
việc điều chỉnh các quan hệ thương mại.
1.3.3.4 Điều lệ của thương nhân
Bên cạnh những nguồn quan trọng kể trên, điều lệ về tổ chức và hoạt
động của thương nhân (đặc biệt thương nhân là pháp nhân) cũng được coi là
nguồn của luật thương mại. Trên cơ sở quy định của pháp luật, điều lệ của
thương nhân là văn bản do chính thương nhân ban hành và được Nhà nước
thừa nhận thông qua một hình thức nhất định nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa các
quy định của pháp luật cho phù hợp với điều kiện về tổ chức và hoạt động của
mỗi thương nhân. Các quy định trong điều lệ của thương nhân được sử dụng
chủ yếu để điều chỉnh quan hệ trong nội bộ của thương nhân. Tuy nhiên trên
22
thực tế, trong nhiều trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
sử dụng điều lệ như là một căn cứ pháp lý để xử lý các vấn đề liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của thương nhân cũng như các bộ phận cấu thành của nó.
Điều đó thể hiện điều lệ của thương nhân cũng là nguồn của luật thương mại.
1.4 Phân loại thƣơng nhân
1.4.1 Các cách phân loại thƣơng nhân
Thương nhân là chủ thể cơ bản của luật thương mại và khái niệm
thương nhân là khái niệm quan trọng bậc nhất trong pháp luật thương mại của
các nước trên thế giới. Mặc dù các quốc gia đều đã đưa ra rất nhiều quy định
để điều chỉnh về chế định thương nhân nhưng đây vẫn là một vấn đề rất rộng
và cần được tìm hiểu sâu hơn nữa. Trước tiên để hiểu cơ bản về thương nhân,
ta có thể phân loại thương nhân thành những loại khác nhau để phân tích.
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều cách phân loại thương nhân: xét về
tư cách thương nhân gồm: thương nhân có tư cách đầy đủ và thương nhân
khuyết tư cách, xét về quốc tịch của thương nhân gồm: thương nhân trong
nước và thương nhân nước ngoài, xét về cơ sở hoạt động kinh doanh của
thương nhân gồm: thương nhân có cơ sở kinh doanh và thương nhân không
có cơ sở kinh doanh, xét về ngành nghề kinh doanh của thương nhân gồm:
thương nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thương nhân hoạt động trong
lĩnh vực đầu tư... Nói chung, xét theo mỗi khía cạnh ta đều có những cách
phân loại thương nhân khác nhau tùy theo cách tiếp cận về thương nhân của
mỗi quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, nhìn chung cách phân loại thương nhân phổ biến nhất được
các nhà học thuật tập trung nghiên cứu hiện nay là cách phân loại theo hình
thức tổ chức kinh doanh của thương nhân chia thương nhân thành hai loại:
Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân.
Pháp luật Việt Nam cũng đi theo quan điểm chung của thế giới, chia
thương nhân thành hai loại chính gồm thương nhân thể nhân (cá nhân kinh
23
doanh và doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (chủ yếu là các
loại hình doanh nghiệp)... Tuy nhiên, bên cạnh đó luật thương mại và các văn
bản pháp luật liên quan của Việt Nam còn đề cập đến một số đối tượng chủ
thể khác như: hộ gia đình, tổ hợp tác. Đây là những chủ thể còn gây nhiều
tranh cãi trong việc xác định tư cách thương nhân, tác giả sẽ bàn luận trong
những phần sau của luận văn.
1.4.2 Thƣơng nhân thể nhân và thƣơng nhân pháp nhân
1.4.2.1 Thương nhân thể nhân
Từ thời kì khai nguyên, các cá nhân đều thực hiện hoạt động kinh
doanh một cách đơn lẻ. Bởi vậy, thương gia thể nhân chính là hình thức chủ
thể đầu tiên thực hiện các hành vi thương mại cũng như tham gia vào các
quan hệ thương mại. Trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những cách gọi khác
nhau về thương nhân thể nhân. Theo Pháp luật Anh Quốc thương nhân thể
nhân được gọi là “Sole trader”, pháp luật Hoa Kỳ gọi là “Sole
propriertorship” [39]. Trong khi đó, thương nhân thể nhân trong pháp luật
Việt Nam có thể được hiểu là “cá nhân kinh doanh”.
Thương nhân thể nhân là hình thức kinh doanh đơn giản và sơ khai
nhất. Từ khi các quan hệ mua bán hàng hóa ra đời, những người trực tiếp thực
hiện hoạt động mua và bán hàng hóa để kiếm lời được gọi là các “nhà buôn”,
“thương gia”. Những chủ thể này ban đầu chỉ thực hiện các hoạt động kinh
doanh mua bán đơn thuần cho đến khi quan niệm về thương mại được mở
rộng, hoạt động của các thương nhân cũng đa dạng hơn như các hành vi cung
ứng dịch vụ, đầu tư, khuyến mại, quảng cáo... Tất cả các hành vi thương mại
phục vụ cho việc kinh doanh của thương nhân thể nhân đều do thương nhân
hoặc những người được thương nhân ủy quyền thực hiện, quyền và nghĩa vụ
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh do thương nhân chịu trách
nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của chính bản thân mình.
24
Trong thực tế đời sống kinh tế hiện nay, thương nhân thể nhân vẫn luôn
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tất cả các quan hệ thương mại, hoạt động
thương mại của cá nhân hay tổ chức đều có xuất phát điểm từ các mối quan
hệ giữa các cá thể riêng biệt. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy
định riêng về thương nhân thể nhân.
Do quan điểm về khái niệm để xác định thế nào là thương nhân khác
nhau nên các yêu cầu và điều kiện để được công nhận là thương nhân thể
nhân của các quốc gia cũng khác nhau.
Ở Pháp, quốc gia này có quan điểm xác định thương nhân theo bản chất
hành vi mà chủ thể thực hiện. Như vậy, theo luật thương mại Pháp, một chủ
thể để được xác định là thương nhân thể nhân ngoài việc đáp ứng đủ yêu cầu
về năng lực pháp luật và năng lực hành vi thì chủ thể cần đủ những điều kiện sau:
- Thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng
làm nghề nghiệp của mình;
- Tự thân mình thực hiện các hành vi thương mại, các hành vi thương
mại được thực hiện dưới danh nghĩa và tài khoản của chính bản thân họ (điều
này ngoại trừ người hoạt động thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của
người khác như người làm công, người quản lý cửa hàng, cơ sở thương mại,
người được ủy quyền...)
Ở Đức, Bộ luật Thương mại của Đức không định nghĩa cụ thể thế nào
là một thương nhân và những trường hợp nào được coi là có tư cách thương
nhân. Các thương nhân thể nhân nói chung được tự do hoạt động, ít bị ràng
buộc bởi các quy định của quy chế thương nhân. Bộ luật về thương nhân của
Cộng hoà Liên bang Đức cho rằng những thương nhân nhỏ là những
thương nhân khuyết tư cách nên không bắt buộc phải thực hiện hết mọi
nghĩa vụ của thương nhân như không phải đăng ký vào danh bạ thương
mại, không phải có cửa hiệu riêng… nhưng vẫn phải tuân thủ theo các quy
định của pháp luật thương mại.[15]
25
Ở Hoa Kỳ, Bộ luật Thương mại Hoa Kỳ (UCC-1990) điều chỉnh vấn đề
thương nhân theo bản chất hành vi thương mại do thương nhân thực hiện.
Theo đó, các cá nhân chỉ cần đáp ứng đủ điều kiện về năng lực hành vi dân sự
đều có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh tên họ hoặc tên gọi
thương mại mà không cần làm thủ tục xin phép. Tuy nhiên, ngoài những điều
kiện được quy định trong luật, cá nhân muốn tham gia vào nền kinh tế Hoa
Kỳ cần trang bị đầy đủ các điều kiện vật chất về vốn, tài sản... cũng như kiến
thức về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để có thể tồn tại trong
nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt đó.[16]
Ở Việt Nam, thương nhân thể nhân được xác định theo hình thức. Luật
thương mại 2005 quy định “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, quy định tiên quyết để được xác nhận tư
cách thương nhân là các chủ thể cá nhân phải có đủ năng lực dân sự, tổ chức
phải được tồn tại dưới dạng pháp nhân và tất cả các loại chủ thể đều phải có
đăng ký kinh doanh, đăng ký doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật.
1.4.2.2 Thương nhân pháp nhân
Pháp nhân
Trong hoạt động thương mại, ngoài các chủ thể là thương nhân thể
nhân, còn có các loại tổ chức và thực thể khác.
Để các tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật nói chung và các quan
hệ thương mại nói riêng với tư cách là một chủ thể riêng biệt, pháp luật cần có
những quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động thương mại của các loại chủ thể
này. Từ đó, khái niệm thương nhân pháp nhân ra đời nhằm phân biệt với các
thương nhân thể nhân là những cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Trước hết, thương nhân pháp nhân là một loại tổ chức có tư cách pháp
nhân. Do đó, để hiểu thế nào là thương nhân pháp nhân, ta cần tìm hiểu khái niệm
về pháp nhân và các vấn đề liên quan đến loại chủ thể được gọi là “pháp nhân”.
26
Pháp nhân là một tổ chức tồn tại độc lập với sự tồn tại của các thành
viên tham gia. Pháp nhân được coi như một thực thể riêng biệt, có lĩnh vực
hoạt động riêng, có ý chí riêng, không trùng hợp với ý chí và đời sống các
thành viên trong pháp nhân đó. Pháp nhân được hình thành dựa trên ý chí của
những người sáng lập. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, sự tồn tại và phát
triển của pháp nhân không phụ thuộc vào sự thay đổi của các thành viên pháp
nhân. Mỗi pháp nhân đều được coi như một chủ thể riêng biệt trong các quan
hệ thương mại, nó có ý chí riêng, lĩnh vực hoạt động riêng do những người
đứng đầu cùng thống nhất quyết định dựa trên ý chí chung của các thành viên
mà không bị lệ thuộc vào ý chí riêng của bất kì thành viên cụ thể nào.
Pháp nhân là khái niệm ra đời sau cùng khi nền kinh tế tư bản phát
triển. Mỗi quốc gia đều có rất nhiều quy định điều chỉnh về hoạt động của
pháp nhân nhưng dường như chưa có quốc gia nào đưa ra một định nghĩa
chính xác nhất thế nào là một pháp nhân. Nhìn chung, quan điểm cơ bản nhất
được đưa ra để xác định tư cách pháp nhân của một chủ thể là dựa vào năng
lực pháp luật và chế độ tài sản của chủ thể.
Việt Nam cũng theo xu thế chung của thế giới và đưa ra quy định về
điều kiện để trở thành pháp nhân tại Điều 74 Bộ luật Dân Sự 2015. Theo đó, để
được công nhận là pháp nhân, một tổ chức cần có đủ những điều kiện như sau:
- Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định của
pháp luật. Một tổchức được coi là hợp pháp nếu có mục đích, nhiệm vụ hợp
pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy
định. Mỗi loại pháp nhân đều có những quy định về điều kiện thành lập, hoạt
động riêng... và chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
toàn bộ hoạt động của tổ chức mình.
- Pháp nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và đầy đủ theo quy định của pháp
luật. Tổ chức là một tập thể người được liên kết với nhau theo một hình thái
nhất định phù hợp với chức năng, lĩnh vực hoạt động của loại hình tổ chức đó.
27
Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống
nhất có khả năng thực hiện hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi
thành lập. Việc chọn lựa hình thức tổ chức như thế nào căn cứ vào mục đích,
nhiệm vụ của tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ
chức. Pháp nhân là một tổ chức độc lập xong vẫn chịu sự chi phối bởi cá
nhân, tổ chức khách hoặc nhà nước. Sự độc lập của pháp nhân chỉ giới hạn
trọng quan hệ dân sự, kinh tế, lao động với các chủ thể khác.
- Tổ chức khi là pháp nhân thì phải có tài sản độc lập và tự chịu trách
nhiệm độc lập bằng tài sản của mình. Để tham gia vào quan hệ tài sản với tư
cách là một chủ thể độc lập thì pháp nhân phải có tài sản riêng của mình. Tài
sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân mà
còn có thể có tài sản của Nhà nước gia cho dưới hình thức Nhà nước đầu tư,
góp vốn. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân - thành viên
của tổ chức pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của tổ chức pháp nhân
đó. Ngoài ra tài sản của pháp nhân thuộc quyền sở hữu của pháp nhân, do
pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ, mục đích
của pháp nhân được thể hiện dưới dạng vốn đầu tư, tư liệu sản xuất và một số
loại tài sản khác. Pháp nhân có tài sản riêng thông qua việc góp vốn, việc hoạt
động, kinh doanh, sản xuất...của pháp nhân.
Pháp nhân tham gia vào quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân như một
chủ thể độc lập, khi xảy ra sự vi phạm thì pháp nhân phải chịu trách nhiệm
bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, trách nhiệm của pháp nhân thuộc
dạng trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân.
- Tổ chức muốn trở thành pháp nhân thì phải nhân danh mình tham gia vào
các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể trở thành bị đơn hoặc nguyên đơn
trước tòa. Với tư cách là chủ thể độc lập, pháp nhân có khả năng hưởng quyền
cũng như chịu trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định.
28
Các quốc gia trên thế giới nhìn chung có sự thống nhất tương đối trong
việc xác định các dấu hiệu cơ bản cần có của một pháp nhân. Tuy nhiên
những dấu hiệu trên là chưa hoàn toàn đầy đủ. Mỗi loại pháp nhân lại có
những đặc điểm riêng biệt khác nhau. Và với một tổ chức có đầy đủ những
điều kiện trên cũng chưa chắc chắn được coi là pháp nhân. Điều này được đặt
ra trong trường hợp những thương nhân đặc biệt như công ty hợp danh. Các
công ty này không được công nhận là pháp nhân ở Đức, Mỹ và Anh, nhưng
lại được công nhận là pháp nhân ở Pháp, Nhật Bản. Tóm lại, những quy định,
định nghĩa về pháp nhân trong các văn bản và tài liệu khoa học có lẽ vẫn chỉ
mang tính chất tương đối và trừu tượng.
Thƣơng nhân pháp nhân
Bên cạnh những quy định chưa thực sự rõ ràng và cụ thể về khái niệm
pháp nhân, pháp luật thế giới hiện cũng chưa có một khẳng định chính xác
nhất thế nào được coi là thương nhân pháp nhân. Hiện nay, mỗi quốc gia cũng
có một cách định nghĩa cũng như cách xác định thương nhân pháp nhân khác
nhau. Nhưng nhìn chung, tất cả các loại tổ chức tồn tại dưới dạng công ty -
doanh nghiệp đều được coi là thương nhân. Nền kinh tế của các quốc gia trên
thế giới hiện nay tồn có nhiều các loại hình công ty khác nhau như: công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty hợp vốn,
công ty nhà nước... Người ta có thể phân loại các loại hình công ty theo nhiều
cách khác nhau như theo tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên,
ý chí của cơ quan lập pháp. Nhưng dưới góc độ pháp lý, người ta chia công ty
thành hai loại cơ bản là các công ty đối nhân và công ty đối vốn.
a) Công ty đối nhân
Công ty đối nhân là những công ty được thành lập trên cơ sở tư cách cá
nhân và sự tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên. Loại hình công ty này có đặc
điểm chung là các thành viên đều có trách nhiệm vô hạn và có tính chất may
rủi rất lớn khiến cho các thành viên có thể mất hết sản nghiệp nếu kinh doanh
29
thua lỗ. Loại hình đặc trưng nhất cho công ty đối nhân là loại hình công ty
hợp danh. Công ty hợp danh là loại hình công ty có ít nhất hai thành viên hợp
danh (đều là cá nhân và thương nhân) cùng hoạt động thương mại dưới cùng
một pháp nhân chung và liên đới chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản
của mình về các khoản nợ của công ty. Ngoài các thành viên hợp danh, công
ty còn có thể có các thành viên góp vốn. Các thành viên góp vốn chỉ chịu
trách nhiệm với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào
công ty. Do chế độ trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh là vô hạn với các
thành viên hợp danh và hữu hạn với các thành viên hợp vốn nên việc xác định
tư cách pháp nhân của công ty hợp danh vẫn còn khá nhiều tranh cãi. Tùy
theo pháp luật mỗi quốc gia, tư cách pháp nhân của công ty pháp nhân được
xác định khác nhau. Như đã nói ở trên, các nước Đức, Mỹ và Anh thừa nhận
tư cách pháp nhân của công ty hợp danh còn các nước Pháp, Nhật Bản thì
không. Pháp luật Việt Nam xác định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân
theo quan điểm pháp luật của các nước Đức, Anh, Mỹ.
Do chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh, loại hình công
ty đối nhân có ưu thế nhất định trong lĩnh vực vay tín dụng. Mặt khác, các
công ty này thường ít đầu tư vào khu vực có nhiều rủi ro vì độ trách nhiệm vô
hạn. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty đối nhân dường như
không có một quy định cụ thể nào về cơ chế điều hành hoạt động, điều lệ hoạt
động, vốn pháp định cụ thể nên cũng gây không ít tâm lý e ngại cho các nhà
đầu tư khi muốn hợp tác với những công ty có loại hình kinh doanh này.
b) Công ty đối vốn
Ngược lại với công ty đối nhân, công ty đối vốn chỉ quan tâm đến phần
vốn góp vào công ty của các thành viên. Trong công ty đối vốn, tài sản của
công ty có sự tách biệt hoàn toàn với tài sản của các cá nhân thành viên. Mỗi
thành viên của công ty chỉ chịu trách nhiệm và nghĩa vụ với công ty trong
phần vốn góp của mình. Công ty đối vốn trên thế giới gồm hai loại hình chính
là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần:
30
Công ty cổ phần: là hình thức công ty mà trong đó vốn của nó được
chia thành các phần nhỏ nhất bằng nhau được gọi là cổ phần được tự do
chuyển nhượng trên thị trường và các cổ đông là những người nắm giữ các cổ
phần đó chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã đầu tư.
Thành viên công ty (cổ đông) có thể là người không có kiến thức về kinh
doanh, không cần quen biết nhau; công ty có thể có rất nhiều thành viên nên
việc quản lý của công ty này chịu rất nhiều sự ràng buộc của các văn bản
pháp luật. Đây cũng chính là điểm khiến cho các nhà đầu tư có phần e dè khi
tham gia vào hoạt động của công ty cổ phần – mô hình điều hành hoạt động
phức tạp do có quá nhiều thành viên là cổ đông của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: là hình thức công ty lai tạp giữa công ty
hợp danh và công ty cổ phần. Khác với tất cả các loại hình công ty khác do
các thương gia lập ra, pháp luật thừa nhận và góp phần hoàn thiện; công ty
trách nhiệm hữu hạn là sản phẩm của hoạt động lập pháp, do các chuyên gia
lập ra, pháp lý sáng tạo ra. Mô hình công ty TNHH được ra đời nhằm giải
quyết những nhược điểm của công ty cổ phần. Số lượng thành viên công ty
tối đa của công ty TNHH là một con số hạn chế tùy theo pháp luật mỗi nước.
Nhờ vậy, mô hình tổ chức và hoạt động của công ty TNHH đơn giản và ít rủi
ro hơn những loại hình công ty quá lớn như công ty cổ phần. Chính vì vậy mà
loại hình công ty này đã được các nhà đầu tư hào hứng hưởng ứng.
Trên đây là những khái quát chung về một số loại hình công ty đang
tồn tại trong nền kinh tế hiện nay. Bên cạnh đó còn có rất nhiều loại hình công
ty hỗn hợp khác, chúng có những đặc điểm mà pháp luật cần điều chỉnh riêng
biệt. Các công ty này tuỳ thuộc theo quy định của mỗi nước mà được coi là có
tư cách thương nhân hay không. Các công ty - thương nhân này đã và đang
góp phần rất lớn vào sự phát triển của thương mại nói riêng và các hoạt động
kinh tế nói chung trên thế giới.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2000), Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về
đăng ký kinh doanh, Hà Nội
2. Chính phủ (2004), Nghị định số 109/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về đăng ký
kinh doanh, Hà Nội
3. Chính phủ (2006), Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về đăng
ký kinh doanh, Hà Nội
4. Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về đăng
ký kinh doanh, Hà Nội
5. Chính phủ nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về Đăng ký doanh
nghiệp, Hà Nội
6. Chính phủ nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 Quy định chi tiết
một số điều của Luật Doanh nghiệp, Hà Nội
7. Ngô Huy Cương (2002), “Hành vi thương mại”, Nghiên cứu lập pháp,tr.
39-43.
8. Ngô Huy Cương (2012), Luật Thương mại, Bài giảng điện tử.
9. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật thương mại – phần chung và
thương nhân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
10. Ngô Huy Cương (2014), "Sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Phân tích,
bình luận và kiến nghị", Nghiên cứu lập pháp, 10(266), Kỳ 2, tr. 25-33.
11. Ngô Huy Cương (2014), "Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận
những vấn đề pháp lý chủ yếu", Nghiên cứu lập pháp, 13(269), Kỳ 1, tr. 21-29.
81
12. Ngô Huy Cương (2009), “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất
cập”, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25, 2634 – 245
13. Bùi Ngọc Cường (2008), Giáo trình Luật thương mại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. “Doanh nghiệp xã hội - Giải pháp bù đắp khiếm khuyết của thị trường”-
Báo Tia sáng - Ngày 26/3/2015
15. GS. TS. Friedrich Kòbur vµ GS.TS Jògen Simon - MÊy vÊn ®Ò ph¸p luËt
kinh tÕ CHLB §øc. Nxb Ph¸p lý 1992. tr. 25.
16. Trần Đình Hảo (2002), “Thương gia theo luật Hoa Kỳ”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật số 2/2002, tr. 18.
17. Lê Nguyên Hùng (2012), Bài viết “Doanh nghiệp xã hội là gì”, Báo Tuổi
trẻ 21/2/2012.
18. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật kinh tế Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
19. Phạm Duy Nghĩa (2002), Giáo trình luật thương mại Việt Nam, tr.54, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
21. Nguyễn Như Phát (Chủ biên) (2013), Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam,
Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
22. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
23. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
25. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
26. Quốc hội (1997), Luật Thương mại, Hà Nội
27. Quốc hội (2005) Luật Thương mại, Hà Nội.
28. Quốc hội (2005) Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
29. Quốc hội (2014) Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
82
30. Quốc hội (2014) Luật Đầu tư, Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Luật Hợp tác xã, Hà Nội.
32. Quốc hội (2012), Luật Hợp tác xã, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật Phá sản, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,
Tập 1, Nxb Công an Nhân dân 2000, Hà Nội.
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật thương mại, Tập 1,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Tổng cục thống kê
37. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Dân sự Pháp 1804, (Tài liệu dịch
tham khảo), Hà Nội.
38. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Thương mại Đức 1897, (Tài liệu
dịch tham khảo), Hà Nội
39. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Thương mại Nhất thể (UCC) của
Hoa Kỳ, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
40. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật Thương mại Nhật Bản 1899, (Tài
liệu dịch tham khảo), Hà Nội
41. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ Luật Thương mại Pháp 1807, (Tài liệu
dịch tham khảo), Hà Nội.
42. ThS. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Luận văn “Phân loại thương nhân
theo pháp luật Việt Nam”, Hà Nội.