Upload
trinhcong
View
215
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
100 ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ PHONG TỤC VIỆT NAM 100 ĐIỀU NÊN BIẾT
VỀ PHONG TỤC VIỆT NAM
Tác giả: MINH ĐƯỜNG
LỜI NÓI ĐẦU
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình
thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa
nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố
định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt
động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền
vững và tương đối thống nhất.
Phong tục có thể hình thành ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội
hay thậm chí một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và
có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời, đến
sinh hoạt của con người, như phong tục lễ tiết, dâng hương cúng giỗ, tang
ma, cưới hỏi, sinh nở. Có những phong tục đã trở thành luật tục, ăn sâu bén
rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật, trở
thành thói quen của con người. Hệ thống phong tục qua quá trình lao động
của con người được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác nhưng chúng
vẫn được áp dụng rộng rãi và rất chặt chẽ. Cùng với thời gian và những biến
cố lịch sử, có những phong tục đã không còn tồn tại nhưng vẫn hiện hữu
trong tâm thức của mỗi người.
Cuốn "100 điều nên biết về phong tục Việt Nam" là một tài liệu tham
khảo thiết thực giúp bạn đọc có thêm hiểu biết về những phong tục của người
Việt, để từ đó nêu cao ý thức bảo vệ và giữ gìn những giá trị truyền thống quý
giá đó.
Chương 1. PHONG TỤC CÁC NGÀY LỄ TẾT
Các ngày lễ tết được phân bố theo thời gian trong năm, xen vào các
khoảng trống trong lịch thời vụ. Trong năm, quan trọng nhất là tết Nguyên
đán. "Nguyên" là bắt đầu, "đán" là buổi sáng; nó còn được gọi là Tết ta để
phân biệt với Tết tây hoặc Tết cả (tức là tết lớn nhất) để phân biệt với các Tết
nhỏ còn lại.
Nếp sống cộng đồng là đặc trưng văn hoá điển hình nhất của tết
Nguyên đán: Từ 23 tháng chạp (ngày ông Táo lên Trời), người dân nô nức đi
chợ Tết, có người đi để sắm Tết, có người đi cốt để chơi chợ Tết. Nhất là ở
miền núi, dân tộc thiểu số, vợ chồng con cái đưa nhau đi chợ vui chơi suốt
ngày). Chợ Tết là thước đo sự ấm no của cộng đồng trong năm. Người ta
chung nhau giết lợn, chung nhau gói bánh chưng, cùng ngồi bên bếp lửa
canh nồi bánh. Tết còn là dịp duy nhất trong năm con cháu sum họp đầy đủ.
Dù đi làm ăn ở đâu cứ đến ngày Tết mọi người cũng cố gắng về ăn Tết với
gia đình; hương hồn ông bà tổ tiên các thế hệ cũng cùng về gặp mặt; các vị
thần phù hộ cho gia đình đều được chăm lo cúng bái. Với ý nghĩa như thế Tết
thật sự là một cuộc đại đoàn viên.
Đối với người Việt không chỉ ngày đầu năm, mà tháng đầu năm cũng
đặc biệt quan trọng. Hơn thế nữa vào tháng này việc nông lại ít thế nên dân
gian có câu "tháng giêng là tháng ăn chơi"; "tháng giêng ăn nghiêng bồ thóc".
Ngoài tết Nguyên đán là Tết rằm tháng giêng đó là ngày trăng tròn đầu tiên, là
Tết Thượng nguyên, hướng Thiên cầu phúc. Rằm tháng giêng còn là ngày
vía của đức Phật A di đà, người Việt thường nói: "Lễ cả năm không bằng rằm
tháng giêng". Trước đây, nhân dân ta còn kỷ niệm cả ngày 9 và 10 tháng
giêng nữa: Ngày 9 vía Trời, ngày 10 vía Đất (vía tương đương với ngày sinh).
Hai số 9 và 10 là hai số dương và âm tận cùng, được xem là số của Trời và
Đất; đó cũng là "số phương" của Trời Đất: Lạy 9 phương Trời, lạy 10 phương
Đất.
Ngoài tết Thượng nguyên trong cùng hệ thống tết Tam nguyên còn có
các tết Trung nguyên và Hạ nguyên (tết Trung nguyên là rằm tháng bảy, là
ngày Địa quan xá tội, dân cúng cô hồn bằng cháo hoa đổ vào những chiếc lá
đa đặt dọc đường đi; cũng là tết Vu Lan của nhà Phật. Còn Hạ nguyên (rằm
tháng mời, được gọi là ngày Thuỷ quan giải ách; cũng là ngày tết cơm mới).
Thuộc loại tết ngày rằm còn có Trung thu (rằm tháng Tám) vốn là tết chung
của mọi người, đánh dấu ngày có trăng tròn nhất trong năm, lúc thời tiết mát
mẻ, tổ chức thả diều, hát trống quân... sau này chuyển thành tết của thiếu nhi.
Ngoài ra, có tết Hàn thực (3 - 3) làm bánh trôi, bánh chay cúng gia tiên;
Tết Đoan ngọ (5 - 5). Đây là thời điểm nóng nhất, nhiều bệnh tật phát sinh
nên dân ta gọi ngày này là tết giết sâu bọ, với tục dùng lá móng nhuộm (để
bảo vệ) móng tay móng chân cho trẻ, ăn rượu nếp (miền Nam gọi là cơm
rượu) và hoa quả chua chát (để "sâu bọ" trong người say và chết), vào giờ
Ngọ đi hái lá (các loại lá ngải, ích mẫu, lá muỗm, lá vối...) phơi khô để dùng
uống cả năm. Các tết trùng ngày tháng gồm có 3 - 3; 5 - 5, trước đây còn có
tết Ngâu 7 - 7 theo lịch âm.
Vào dịp cuối năm, 23 tháng chạp là ngày tết ông Táo, các gia đình sắm
2 mũ ông 1 mũ bà để cúng bộ ba Thổ công, Thổ địa, Thổ kì cùng với cá chép
để ông lên chầu Trời. Người du mục thì đi ngựa, còn người vùng nông nghiệp
sông nước thì cưỡi cá. Mở đầu bằng tết Nguyên đán, kết thúc bằng tết ông
Táo, để rồi đêm 30, ông Táo lại trở về cùng gia đình bước vào năm tiếp theo,
hệ thống lễ Tết làm thành một chu trình khép kín, âm dương chuyển hoá cho
nhau. Nhìn chung trong các ngày lễ Tết có những phong tục sau:
TỤC DỰNG CÂY NÊU
Dựng cây nêu ngày Tết là một phong tục thường thấy ở một số vùng
quê Việt Nam. Cây nêu ở đây là cây tre dài khoảng 5 - 6 mét, được dựng
trước sân nhà vào buổi tối trước giao thừa. Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ
(tùy từng địa phương) như cái túi nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, những
miếng kim loại lớn nhỏ. Khi có gió thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng
leng keng như tiếng phong linh, rất vui tai. Người ta tin rằng những vật treo ở
cây nêu, cộng thêm những tiếng động này là để báo hiệu cho ma quỷ biết
rằng nơi đây là nhà đã có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối,
người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn
Tết với con cháu. Ngày xưa, khi nước ta chưa cấm đốt pháo vào đêm trừ tịch
người ta còn đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ
hoặc những điều không may. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng
chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm giao thừa
vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên
phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mồng bảy thì cây nêu được hạ
xuống. Ở một số thành phố, thị xã, người ta thay cây tre bằng cây mía để
tượng trưng thay cho cây nêu.
Về ý nghĩa của việc dựng cây nêu ngày Tết. Theo tích xưa, vùng đất tốt
đều do quỷ chiếm dữ, con người phải làm thuê cho quỷ để kiếm sống. Đến
một ngày nhờ có Đức phật hiến kế giúp con người thỏa thuận với quỷ xin một
miếng đất nhỏ rộng bằng một cái bóng manh áo che phủ. Khi quỷ đồng ý, đức
Phật tung áo cà sa lên trời, chiếc áo bay mãi lên cao đổ bóng xuống che kín
mặt đất đuổi quỷ ra biển đông. Từ đó hàng năm con người dựng cây nêu treo
vật lên cao để ngụ ý làm quỷ nhớ lại giao ước với con người đồng thời treo
thêm một vài vật phẩm nhằm ân huệ cho quỷ có vật phẩm mà sống và chứng
minh sự giao hảo của con người. Lễ thượng nêu muộn nhất phải được cử
hành vào ngày 30 tháng chạp âm lịch, cùng ngày với lễ cúng tất niên tiếp đón
những vong linh người quá cố trở về ăn Tết với gia đình. Cây nêu được trồng
ngay trước cửa nhà từ ngày đó cho đến ngày mồng 7 Tết là hạ nêu.
"TỐNG CỰU NGHÊNH TÂN" CHÀO ĐÓN NĂM MỚI
Tết là dịp mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc.
Nhất là về phần tình cảm và tinh thần của con người, để mối liên hệ với người
thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần mình thoải mái, tươi mát hơn.
Chuẩn bị đón Tết, mọi người đều muốn tất cả mọi thứ được sạch sẽ, tinh
tươm, chính vì thế sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh
bóng. Bàn ghế tủ giường được lau chùi, phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con
đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mới may bảnh bao. Bao nhiêu mối
nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để
tạo một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi
vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với
nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên hệ được tốt
đẹp. Người Việt tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm sẽ báo hiệu một năm
mới tốt đẹp sắp tới.
Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm mới đến mang theo đầy
niềm tin lạc quan. Nếu năm cũ khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài
qua năm sau. Tết cũng là lúc mọi người trong làng gọi nhau quét dọn đình,
chùa. Ai nấy lo đi cắt tóc, may sắm quần áo mới... Đó là những việc thường
được làm vào cuối năm, quen thuộc đến mức người ta không nghĩ đấy là tục
lệ "chia tay cái cũ để đón những điều mới mẻ". Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn
dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không được quấy khóc, nghịch ngợm,
cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy hay vứt rác, viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh
chị cũng không nên quở mắng, trách phạt con trẻ. Đối với bà con xóm giềng,
dù trong năm cũ có điều gì xích mích cũng xí xóa hết. Dẫu không thực lòng
cũng tỏ ra ôn tồn hòa nhã, không ai nói khích bác hoặc bóng gió ác ý trong
ngày đầu năm, dù là lỡ miệng; đối với ai cũng tay bắt mặt mừng.
Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu
nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục
mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và
ngoan ngoãn, học giỏi; còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu
được nhờ phúc.
TỤC BÀY MÂM NGŨ QUẢ
Người Việt Nam luôn luôn coi trọng lễ nghĩa. Bất kỳ ngày lễ nào đều có
những nghi thức đề cao tổ tông. Ngày Tết cũng vậy, nhà nào cũng có tục lệ
bày soạn mâm quả để dâng cúng tổ tiên ông bà.
Mâm ngũ quả thường gồm năm loại quả mà tên gọi có ý cầu mong đạt
được một điều gì đó.
Đi xa hơn về căn nguyên thì "ngũ", tức con số 5 là con số chỉ trung tâm.
Người ta tìm thấy nó tọa ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ "ngũ" nguyên thể
có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm trung tâm. Sau này, hai
vạch song song được chêm vào đấy, tức trời và đất mà giữa chúng, âm và
dương tạo nên năm nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ
hành của vũ trụ. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp
vào con số 5.
Trong Đại từ điển, "ngũ" có đến mười hai nghĩa và một ngàn một trăm
bốn mươi tám từ kép ghép với nó. Phổ quát vì chúng ta có ngũ phương
(Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), hay ngũ sắc, rồi ngũ vị, ngũ âm, ngũ
tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,... Như vậy, số 5 là biểu hiện
chung của sự sống và ở đây "ngũ quả" được coi là đầy đủ của loại lễ vật
dâng cúng là quả.
Vì vậy, mâm ngũ quả phần lớn được yêu cầu sao cho thật đẹp mắt là
được. Đối với người nông dân thì ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo,
thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ yếu và ngũ quả sẽ là thứ
yếu. Do đó, người ta thường quan sát sự tốt xấu của "ngũ quả" sau đây để
dự đoán việc được mùa của ngũ cốc:
1) Mận chủ vào đậu;
2) Hạnh chủ vào lúa mì;
3) Đào chủ vào tiểu mạch;
4) Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương;
5) Tảo (táo) chủ vào lúa.
Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ thông trong dân gian nên có
thể "ngũ quả" nêu trên là "chuẩn" của năm thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc
dâng lễ vật nào đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở
đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa
ngũ cốc.
Quả là biểu tượng cua sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều
hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi
sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự
phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử - hiểu theo nghĩa là sự nối truyền
dòng giống miên viễn.
Theo chiều hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên
trên nhịp điệu sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái
chết; giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế...
Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả vừa là
biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng - hoặc theo sự đồng âm
của nó hoặc nó được xác định bởi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên...
Ở miền nam, trong mâm ngũ quả thường thấy có mãng cầu, tức là cầu
chúc cho mọi điều đều như ý. Có dừa, vì lối phát âm "dừa" của người miền
nam đọc tương tự như chữ "vừa", có nghĩa là không thiếu. Có sung, vì gắn
với biểu tượng sung mãn về sức khỏe hay tiền bạc. Và đu đủ, vì đó có nghĩa
mang đến một năm mới được đầy đủ thịnh vượng. Ngoài ra còn có xoài, vì
âm "xoài" na ná đọc như là "xài", để cầu mong cho tiêu xài không thiếu thốn.
Do đó ngày Tết nhìn mâm ngũ quả còn được chen thêm nhiều loại quả khác
sẽ vô cùng đẹp mắt như: dưa hấu, táo, đào tiên,...
Khác với người miền nam, đặc trưng của mâm ngũ quả của ngươi miền
bắc là:
Đầu tiên là chuối xanh - ứng với mùa xuân (hành mộc). Nải chuối như
bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa xuân để đọng thành
quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bao bọc.
Thứ hai là quả phật thủ màu vàng - tượng trưng hành thổ nên được đặt
ở giữa, trong lòng nải chuối. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên
như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được chưng lên bàn
thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm
được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa
tương tự.
Tiếp theo, 3 loại quả khác có các màu đỏ (ứng với mùa hạ - hành hỏa)
như ớt sừng, cam - quýt chín, quả trứng gà, hồng...; màu trắng (ứng với mùa
thu - hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa đông - hành thủy) như
mận, hồng xiêm...
Nếu như ở miền bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên
bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là
được; thì người miền nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền
nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ "chúi", thể
hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả
ngày Tết, vì câu "quýt làm cam chịu"...
Bàn thờ là nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình, mỗi căn hộ, là nơi để
tâm linh mỗi người ước nguyện hướng tới những gì tốt đẹp hơn. Tết nếu
thiếu bàn thờ thì cái hoang tàn xô đến, niềm cô quạnh dâng đầy, và hình như
ta không còn là người dân Việt nghìn năm trọng tình, hiếu nghĩa, biết ơn tiên
tổ nữa. Bàn thờ có chân đèn, chân nến, lư đồng, đài nước, hộp sắc vua
phong, tam sự hay ngũ sự... Và ngày Tết, không thể thiếu hương sắc, hình
ảnh của mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian
thờ cúng trong mỗi gia đình Việt thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh
động ý nghĩa triết học - tín ngưỡng - thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước
vọng của con người.
Tục chưng mâm ngũ quả ngày Tết là một phong tục đẹp của người Việt
Nam. Nó nhắc nhở cháu con luôn biết ơn và tưởng nhớ ông bà tổ tiên, bộc lộ
lòng ước mong một năm mới an khang, may mắn, tốt đẹp.
TỤC TREO CÂU ĐỐI ĐỎ
Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua
sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua thêm vài quả cau,
bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ cử. Trước đây, để trang hoàng nhà cửa
và thưỏng xuân, từ các nhà nho cho tới những người bình dân vẫn còn trọng
tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ
nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào nên thường
được gọi chung là câu đối đỏ.
Câu đối cũng còn được gọi là liễn. Liễn thường là những dải giấy màu
đỏ hay hồng đào, hai đầu dải giấy có làm trục bằng gỗ hay bằng tre để khi
treo lên thì dải câu đối được ngay ngắn. Cũng có khi liễn không cần có trục và
chỉ là những dải giấy để tiện dán vào những nơi cần treo như ở hai bên bàn
thờ, các cột nhà cửa, cổng hay ngõ. Trước đây ở chốn thôn quê, mỗi khi Tết
đến, người ta còn cẩn thận dán liễn đỏ ở cửa chuồng lợn, trâu, bò hoặc ở
thân cây dừa, nhãn, ổi,... để ngụ ý cầu mong cho mọi sự được tốt đẹp như
lợn, trâu, bò hay ăn chóng lớn, sinh đẻ đầy đàn... các cây thì sai quả.
Những nhà không có đủ khả năng và phương tiện viết câu đối ngày Tết
thường phải nhờ những cụ đồ nho chuyên viết và bán những câu đối Tết.
Gọi là câu đối đỏ vì theo quan niệm dân gian, màu đỏ là biểu tượng của
sự sống mãnh liệt, của sự may mắn. Nó vừa nổi bật vừa hài hòa với màu
xanh của bánh chưng, màu vàng của hoa mai, làm tươi sáng không khí Tết,
tạo cảm giác ấm áp. Chữ nghĩa ở các câu đối này thường là những chúc tụng
nhân năm mới, chẳng hạn như: Phước thăm tự hải; Lộc cao như sơn (Hạnh
phúc nhiều sâu như biển; của cải nhiều cao như núi).
Người xưa đặt ra thể loại văn đối rất độc đáo, ít chữ nhưng hàm chứa
nhiều ý nghĩa. Như một công án chốn thiền môn, giúp cho người ta tỉnh thức,
cảm thấy yêu đời, yêu công việc hơn. Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ?
Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên
đán, nhà nhà thường treo bùa gỗ có hình hai vị thần (Thần Đồ và Uất Luỹ)
treo hai bên cửa ngõ. Đó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Độ
Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần
hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Đào phù" được thay bằng câu đối
hai bên cửa. Đời sống khấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gửi gắm vào
câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang
đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ
dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết. Lại có cả
câu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một
năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn Tết.
Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ
nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết.
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ;
Triều đình chu tử tổng ngõ gia.
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Đỏ tía triều đình tự cửa ta)
Các văn nhân nhân dịp Tết cũng thường làm câu đối để bày tỏ ý chí
của mình hoặc chỉ trích những thói hư tật xấu của người đời, chẳng hạn:
Thiên hạ xám rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi
(Trần Tế Xương)
Hay:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn
Ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới
Sáng mồng một, lỏng theo tạo hóa
Mở toang ra, cho thiếu nữ đón xuân vào
(Hồ Xuân Hương)
Ngày xưa ông cha ta dùng chữ Nho, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu
đối Tết bằng chữ Nôm. Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) đã sử
dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu
đối. Trong 67 câu đối hiện còn của Nguyễn Khuyến thì 47 câu đối Nôm. Đây
là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vẫn phơi phới sắc xuân khi giao thừa
sắp đến:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao:
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.
Nhiều năm trở lại đây, người Hà Nội đã quen thuộc với vẻ đẹp cổ kính
của chữ Nho, chữ Nôm qua bút pháp của các nhà nho: Bùi Hạnh Cẩn, Lê
Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn... Hàng ngày cùng với việc bốc
thuốc, dạy học, nghiên cứu các nhà nho còn say xưa, viết chữ chân, thảo,
lệ... tặng cho những người yêu Nôm thư pháp. Nét bút của các vị, ngày
thường đã cứng cỏi, khí phách nay giữa ánh xuân của đất trời càng thêm
mềm mại, tài hoa. Và hàng năm, như đã thành lệ đẹp vào dịp Tết, tại Văn
Miếu – Quốc Tử Giám lại tổ chức triển lãm thư pháp, thư hoạ. Dịp này một số
nhà nho lại được mời đến viết câu đối Tết. Vẻ xưa khơi dậy đã thu hút hàng
ngàn người trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng.
TỤC GÓI BÁNH CHƯNG BÁNH DẦY
Tết Nguyên đán (Tết cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống
Việt Nam từ hàng ngàn đời nay. Ngày Tết là dịp để mọi người thể hiện sự ấm
no hạnh phúc, là ngày gia đình sum vầy, quây quần bên nhau: gói chiếc bánh
chưng, trông nồi nước luộc... hay đơn giản chỉ là ngồi với nhau trong bữa
cơm gia đình ấm áp. Tết cũng là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân
tổ tiên, nguồn cội (Cúng lễ tổ tiên, Tết thanh minh...); và cũng là thời gian để
giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" và tình
nghĩa xóm làng... Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất,
âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý
Âm Dương, Dịch, Biện chứng Phương Đông nói chung và triết lý Vuông Tròn
của Việt Nam nói riêng.
Bánh dầy tượng trưng cho Trời, hình tròn, nhỏ, nằm gọn trong lòng bàn
tay. Màu trắng nõn. Có hai miếng lá xanh cắt tròn đậy trên dưới. Mặt trên hình
vòng cung giống như bầu trời. Trong xã hội Việt Nam thời xưa, bánh dầy
dùng làm lễ vật tinh khiết để tế Trời và tế Thần. Chấp nhận Trời là đấng khai
sáng vũ trụ, chủ tể trời đất. Thần là chủ trị địa phương.
Bánh dầy còn là lễ vật khao vọng cho những người được thăng quan
tiến chức, hay học hành đỗ đạt. Biếu cặp bánh dầy là có ý nói lên lòng mơ
ước tân - chức biết sống có đức - độ, lấy quyền hành mà làm ích quốc lợi
dân, thảo hoạch chương trình hành động theo ý trời, hợp với lòng dân. Một
thứ nhắc khéo là đừng vinh thân phì gia, đừng hãm hiếp dân lành, đừng vơ
vét tham nhũng của dân.
Còn bánh chưng thì hình vuông, tượng trưng cho đất, theo quan niệm
bình dân: Trời tròn đất vuông. Bánh dầy tượng trưng cho Trời, cho cha, cho
rồng, cho sức mạnh... thì bánh chưng tượng trưng cho đất, cho mẹ, cho Âu
Cơ, cho vẻ đẹp mỹ miều của Tiên. Việc gói bánh chưng phiền phức hơn làm
bánh dầy, cũng nói lên tính cách phiền toái, đa dạng của lối sống trên mặt đất.
Bánh chưng gói ghém hoa màu đồng nội, biến những thực phẩm thông
thường hàng ngày của người nội trợ như thịt, mỡ, đậu, hành, tiêu muối...
thành một hương vị đặc biệt của ngày Tết.
Bánh chưng được gói năm ba lớp lá như lòng người mẹ bao bọc lấy
người con. Con từ khi trong lòng mẹ, đến khi con chào đời, mẹ lo lắng cho
từng cái khăn tã, cái miếng cơm ăn, miếng nước uống. Lòng mẹ bao la không
hề quản khó nhọc nuôi con, dạy dỗ cho con thành người. Ngày Tết, ngày sum
họp gia đình, ăn một miếng bánh chưng là cảm nghĩ về mẹ, sống với mẹ. Anh
chị em đùm bọc lấy nhau, vì cùng một mẹ sinh ra như trăm con nở ra từ một
bọc trứng. Ngày Tết là ngày vui nhất của đại gia đình về sum họp.
Bánh chưng xanh, nhân nhụy vàng, thịt mỡ chín... là màu mỡ của lúa
chín đồng quê, của đời sống chăn nuôi an vui xóm làng... gợi cho ta nhớ đến
niềm mơ ước an cư lạc nghiệp của con người.
Buộc bánh chưng phân làm 9 khung đồng đều cùng có một ý nghĩa
nhất định. Vì thực ra, bánh chưng còn tiêu biểu cho công bằng pháp lý, cho
việc chia cắt ruộng đất hợp lý và tổ chức xã hội Việt Nam thuở xưa. Thôn xóm
thì có lũy tre xanh bao bọc. Ruộng đất thì có phần màu mỡ, phần kém tốt
tươi. Phần màu mỡ dùng làm công điền công thổ. Phần còn lại đem phân
chia đồng đều cho dân làng. Chia đều để tránh phân bì, ghen ghét và trọng tư
cách mỗi nhà. Cho nên lúc ăn bánh chưng, phải lấy lạt tre cắt sao cho các
phần đồng đều, vừa đẹp mắt, vừa không ai phân bì ít nhiều, để nhớ đến biểu
tượng công bằng xã hội của bánh chưng.
TỤC TẮM NƯỚC LÁ HOA MÙI
Chẳng biết từ bao giờ người Việt Nam đã coi việc tắm vào chiều cuối
năm như một thứ nghi lễ. Cùng với việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, ai
cũng muốn thân thể mình sạch sẽ. Và nước lá hoa mùi không chỉ cho người
ta được sạch sẽ gột rửa bụi trần, mà còn như được tắm rửa tinh thần.
Người với người gần nhau hơn, thân ái hơn, làm ngươi ta tĩnh tâm sau
bao mệt mỏi của cuộc mưu sinh. Gọi là hoa mùi, thì dĩ nhiên cái mùi đó ắt hẳn
phải dễ nhớ, dễ cảm nhận và lấn lướt lắm. Chẳng ai dám khẳng định hoa mùi
thơm quyến rũ như hoa nhài, hoa huệ, lãng mạn như hồng, như ly, khiến
người đời ngất ngây. Một chút thơm thơm mà hăng hắc, rồi một chút ngai
ngái mà đậm đà, lưu luyến... Thật chẳng dễ diễn tả chuẩn mực, chính xác,
ngắn gọn về một thứ mùi của rau cỏ. Nhưng dám chắc, đó là thứ hương đậm
đà, quyến luyến...
Đào biếc, mai thắm, quất vàng... luôn là những khúc dạo đầu ấm áp,
vui tươi, báo hiệu một cái Tết sắp đến. Nhưng thiếu đi những mớ mùi, với
nhiều người sẽ đón một cái Tết thiếu hẳn mùi vị, hương sắc.
Mùi là loại rau của mùa đông. Thường vào cữ cuối đông, người ta mới
đem hạt mùi ra gieo vài luống, rồi như một sự vô tình lãng ý của giá rét, chỉ
khoảng ngót nghét một hai tháng sau, đã thấy mùi lên tươi tốt, phất phơ hoa
trắng và quả nhỏ li ti, thân lá thì xanh sẫm lại. Ấy là lúc cắt mùi sát đến tận
gốc, dồn lại lấy mười bó mà đem vào chợ bán.
Ở quê, năm nào cũng vậy, trên nóc thùng luộc bánh chưng nhà nhà
đều không thể thiếu chậu nước lá mùi. Nhờ than, nhờ lửa của củi đang cháy
đượm, khiến nồi bánh sôi sùng sục, chậu nước mùi đặt ké chẳng mấy chốc
cũng bốc khói nghi ngút, chuyển sang sắc xanh đầm đậm rồi thơm ngan ngát.
Lũ trẻ chơi quanh quẩn mấy nhà hàng xóm được mẹ gọi về để tắm cho sạch
sẽ, tinh tươm chỉ từ vài chậu lá mùi đặc sánh. Sáng mồng một, cả nhà vẫn
luôn giữ lệ rửa mặt bằng nước rau mùi.
Người thành phố cũng không rời xa nổi cái vị rau mùi. Mọi cái tanh tao
trôi sạch đi, chỉ giữ lại một cảm giác thanh sạch, sảng khoái. Một thứ mùi vị
đặc trưng của đồng đất quê hương sẽ mãi lưu luyến, vương vấn trong cả năm
để nhắc nhở mỗi người về cội nguồn, về gốc rễ. Chẳng ai ngờ, những mớ
mùi già cuối đông se sắt lại đem về nhiều cảm xúc đến thế.
TỤC MẶC QUẦN ÁO MỚI
Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ phải thức
khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường
kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mồng một Tết, cả nhà dậy sớm, thay
quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái
cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi
vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó. Ngày nay, không còn việc quay
tơ, dệt vải, may quần áo mới nữa, nhưng nhà nhà dù nghèo đến mấy cũng
sắm cho được bộ quần áo mới cho con trẻ để mặc trong ngày đầu năm mới.
TỤC MỪNG TUỔI
Tặng tiền mừng tuổi vào dịp đầu năm, hay những dịp lễ, là một phong
tục phổ biến ở các nước Á đông. Phong tục này vốn phổ biến ở Việt Nam từ
rất lâu vào dịp Tết Nguyên Đán, gọi là lì xì. Vào những ngày Tết ngươi lớn
thường tặng cho trẻ con một khoản tiền nho nhỏ, bỏ trong phong bao màu đỏ
in hoa văn rất đẹp thường có ý nghĩa tượng trưng cho may mắn và tài lộc, gọi
là tiền mừng tuổi.
Tục này bắt nguồn từ Trung Quốc, tương truyền ngày xưa ở Đông Hải
có một cây đào to, có rất nhiều yêu quái sống trong bộng cây, nào là hồ ly
tinh, chuột tinh, sói già... Chúng luôn muốn ra ngoài để gây hại, nhưng bình
thường luôn có các thần tiên ở hạ giới canh giữ chúng nên không con nào
thoát ra ngoài được. Nhưng hễ tới đêm giao thừa, tất cả thần tiên đều phải về
trời để phân công lại nhiệm vụ, thế là lũ yêu tinh có cơ hội tự do nhân lúc
chuyển giao nhiệm vụ của các vị thần. Nhân cơ hội đó, có một loại yêu quái
thường xuất hiện vào đêm giao thừa để xoa đầu trẻ con đang ngủ khiến lũ trẻ
giật mình, khóc thét lên và sẽ bị bệnh sốt cao hoặc ngớ ngẩn. Vì thế những
gia đình có con nhỏ phải thức cả đêm để canh không cho con yêu quái hại
con mình. Một lần, có mấy vị tiên đi ngang nhà kia, hóa thành những đồng
tiền nằm bên chỗ đứa trẻ. Cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền ấy vào vải
đỏ. Khi yêu quái đến, những đồng tiền lóe sáng, nó sợ hãi bỏ chạy. Phép lạ
này lan truyền ra, rồi cứ Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những chiếc túi
màu đỏ tặng cho trẻ con. Tiền đó được gọi là tiền mừng tuổi.
Một truyền thuyết khác kể rằng, tục tặng tiền mừng tuổi bắt nguồn từ
hoàng cung nhà Đường (Trung Quốc). Năm đó, Dương Quý Phi sinh hạ
hoàng tử, được tin mừng vua Đường Huyền Tôn đích thân đến thăm và ban
cho Dương Quý Phi một số vàng bạc gói trong giấy đỏ. Dương Quý Phi coi đó
vừa là tiền mừng, vừa là chiếc bùa Hoàng đế ban tặng con trẻ để trừ tà. Việc
này được đồn đại ra ngoài, từ cung đình lan rộng ra dân gian, nhiều người bắt
chước tặng tiền mừng và cũng bắt đầu coi như tặng món lộc trừ tai họa,
mang lại nhiều điều may mắn cho trẻ con. Theo những nghiên cứu khác, tục
mừng tuổi ở Trung Quốc đã có từ đời Tần. Vào thời gian đó, người ta dùng
một sợi chỉ đỏ để xâu tiền thành một xâu theo hình con rồng hoặc thanh kiếm
để ở chân giường hoặc cạnh gối trẻ em. Xâu tiền đó gọi là tiền áp Tuế giống
như cách gọi của người Trung Quốc ngày nay, có nghĩa là món tiền mừng
cho đứa trẻ, với mong ước đứa trẻ được tiền, được lộc có thể vượt qua tuổi
đó với những điều tốt lành và may mắn. Xưa kia, ở Trung Quốc, tiền mừng
tuổi thường là một vòng đỏ xâu 100 cắc tiền đồng, biểu hiện cho lời chúc
sông lâu trăm tuổi. Ngày nay, tiền mừng tuổi đầu năm, còn có ý nghĩa tượng
trưng cho sức khỏe, may mắn, thành đạt được cho vào phong bao bằng giấy
đỏ hoặc vải nhung đỏ, có những trang trí mang nghĩa cát tường, hạnh phúc
và những câu chúc, an lành, phát đạt như "Hòa gia bình an", "Kim ngọc mãn
đường", "Vạn sự như ý"... Vì vậy, tặng tiền áp Tuế còn được gọi là tặng Hồng
Bao.
Từ "lì xì" trong tiếng Việt, sử dụng phổ biến ở miền nam, được cho là
có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc, là cách đọc của từ "lợi thị" hoặc "lợi sự"
(phát âm theo giọng Quan Thoại là li shi, theo giọng Quảng Đông là lì xì, lầy
xì), có nghĩa gốc là một món đồ hay món tiền mang đến lợi lộc, vận tốt, vận
may. Tặng lì xì là tặng món tiền thể hiện điều lành và may mắn cho đứa trẻ.
Ở Việt Nam, mừng tuổi vốn chỉ là những đồng tiền xu bỏ trong phong
bao giấy hồng điều, hoặc trang trí vàng son bắt mắt mà người lớn tặng cho
trẻ con trong những ngày Tết. Khi được tiền lì xì trẻ sẽ vui cười và tiếng cười
của trẻ có thể xua đuổi điều xấu. Vì vậy mừng tuổi cũng có ý nghĩa cầu may,
cầu phúc trong năm mới.
Theo tục lệ ở một số địa phương thì người nhỏ tuổi không mừng tuổi
người lớn hơn, vì vừa không đúng ý nghĩa, vừa bị cho là "hỗn". Tuy nhiên,
ngày nay, tục mừng tuổi đã cởi mỏ hơn, đặc biệt những người nhỏ tuổi nhưng
đã lập gia đình, đã có thu nhập thì có thể mừng tuổi cho những bậc cao niên
như cha mẹ, ông bà, để chúc tụng may mắn, sức khỏe, bình an. Sáng sớm
mồng một Tết hay ngày "Chính đán", mọi sinh hoạt ngừng lại, các con cháu tụ
họp ở nhà tộc trưởng để lễ tổ tiên chúc Tết ông bà, các bậc huynh trưởng và
mừng tuổi lẫn nhau. Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con,
mỗi ngưòi tự nhiên tăng lên một tuổi. Người lớn "mừng tuổi" trẻ em một cách
cụ thể bằng những đồng tiền mới bỏ trong những "phong bao". Tiền mừng
tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền
phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh
sôi nảy nở thêm nhiều.
TỤC GIỮ NĂM TRONG ĐÊM TRỪ TỊCH (ĐÊM CUỐI NĂM)
Đêm trừ tịch, cả nhà đoàn tụ ngồi quanh đống lửa, ăn bữa cơm đoàn
viên, uống rượu hoa tiên, làm lễ tiễn đưa năm cũ, phát tiền mừng tuổi. Mọi
ngưòi chúc rượu vui vẻ suốt đêm đến sáng, tục này gọi là tục giữ năm (thủ
tuế).
Tục truyền ngày xưa ông trời muốn cho dân chúng sống sung sướng,
nên đến 30 tháng chạp bèn mở toang cửa nhà trời, đem vàng bạc trong kho
rắc xuống trần gian, cho người nhặt. Nhưng có một quy định nhất nhất phải
tuân theo: là không ai được có lòng tham, vàng bạc nhặt được, trước tiên
phải đem vào nhà, chờ đến trời sáng mới được mở cửa nhà. Có 2 anh em
nhà họ Lý, người anh tham lam vô cùng, người mẹ trung hậu, thật thà. Người
anh khi cửa trời mở, nhặt được vàng quên hết tất cả, khi trời chưa sáng đã
mở cửa nhà thế là tất cả số vàng ấy đều biến thành đá. Người em thì giữ
vàng lại trong nhà, chờ đến khi trời sáng rõ mới mở cửa ra. Nhờ có được số
vàng mà từ đó người em sống rất sung sướng. Về sau, ông trời phát hiện ra
rằng những kẻ tham như ông anh nọ ngày càng nhiều, liền tức mình đóng
cửa trời lại, không bao giờ ném vàng xuống trần gian nữa. Nhưng mọi người
vẫn mong mỏi được sống sung sướng và hễ cứ đến tối 30 tháng chạp đều
nóng lòng chờ may mắn đến - cửa trời mở ra, cả nhà ngồi đoàn tụ nơi châm
lửa, thắp nến chờ đến khi trời sáng, cứ như vậy năm liền năm, dần dần hình
thành tục lệ giữ năm. Có người bảo rằng tục giữ năm là bắt nguồn từ tục lệ
đuổi quỷ xa xưa để cầu ăn Tết bình an.
Từ thời thượng cổ, con người kính sợ quỷ thần đặc biệt vào những
ngày lễ Tết, mọi người vui chơi quên hết tất cả, thường dễ xảy ra điều rủi ro
và cho rằng tà ma quỷ quái đã gây ra, cần phải cử hành các hoạt động trừ tà
đuổi ma trong những ngày đó để cầu cho may mắn. Vào thời nhà Đường, đến
đêm trừ tịch, nhiều nhà sai các con trai đeo mặt nạ (loại mặt nạ mà người ta
cho rằng có thể đuổi được quỷ thần), mặc áo màu đỏ và đen đánh trống khua
chiêng, để đuổi bách quỷ, bệnh tật. Cung đình cũng đã tổ chức nghi thức này
rất lớn có tới 500 người tham gia. Theo đà phát triển của xã hội tục lệ có thay
đổi. Nội dung tục lệ xua đuổi quỷ thần dần dần cũng mất đi, và được thay thế
dần dần bằng hoạt động làm giã từ năm cũ, phát tiền mừng tuổi, hiện nay
cũng có nhiều điểm khác đó là nghe nhạc, tham gia dạ hội suốt đêm.
TỤC CÚNG GIAO THỪA Ở NGOÀI TRỜI
Phút giao thừa là phút giây thiêng liêng nhất vì đây là thời khắc trời đất,
vũ trụ, không gian, thời gian giao hoà. Người xưa quan niệm: Mỗi năm Thiên
đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu
là một ngài có vị trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi
giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai,
không có chiến tranh, bệnh tật. Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi,
tham lam... thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa
là lúc bàn giao các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân
mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Vào giờ phút ấy
ngang trời quân đi, quân về tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn
thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Vì thế các gia
đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với
lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người
nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao,
tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà,
thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Vì vậy đồ lễ không cần bày
vẽ cầu kỳ, thậm chí chỉ cần chén rượu, nén hương mà thành tâm thành ý là
được.
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là
vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
TỤC ĐỐT PHÁO TRONG ĐÊM GIAO THỪA
Đã bao đời nay tại Việt Nam, người ta đốt pháo trong hội hè, cúng tế.
Mừng tân gia, mừng thăng quan tiến chức, mừng thọ, mừng sinh con trai.
Nhất là trong tết Nguyên đán, đốt pháo là một phong tục không thể thiếu. Bài
thơ Vịnh Tết của Nguyễn Công Trứ đã miêu tả đầy đủ cảnh Tết dù là Tết của
người nghèo:
"Bánh chưng chất chặt chừng hai chiếc,
Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu.
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo,
Nguyên tiêu cao ngất một cành tiêu!"
Câu đối năm xưa của Tú Xương cũng là một bức hí họa khá độc đáo:
“Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo,
Nhân tình bạc thế lại bôi vôi!”
Người Việt Nam ta quan niệm rằng đốt pháo là để cho vui nhà vui cửa,
và để hòa nhập vào niềm vui chung của mọi người. Trong ba ngày Tết, nhà
người ta đốt pháo ầm ĩ, nhà mình im lặng thì thật là buồn tẻ, lạnh vắng. Người
Việt Nam ta quan niệm rằng tiếng pháo gây những âm thanh ầm ĩ, nhộn phịp,
như tiếng trống thúc dục hòa cùng những khoảnh khắc thiêng liêng của đất
trời, màu khói xanh tỏa trong không gian, màu xác pháo hồng tung tóe dưới
đất đã gây nên những xúc động mạnh cho khứu giác, thị giác, thính giác...
Ngoài ra đốt pháo cũng là một cách dự đoán tương lai. Nhà ai đốt pháo
không nổ phải châm lại hai ba lần, hay pháo nổ rời rạc thì năm đó làm ăn
không thuận lợi. Đám cưới mà đốt pháo không nổ cũng là một điềm xui.
Trong đám cưới, người ta đốt pháo khi họ nhà trai đến họ nhà gái, và khi họ
nhà gái đưa dâu đến nhà trai. Trong lễ mừng thọ, mừng thăng quan, mừng
sinh con trai, mừng tân gia, người ta đốt pháo khi cử hành lễ gia tiên, và khi
có những quan khách sang trọng đến. Trong ngày Tết, người ta đốt pháo lúc
giao thừa và sau đó là suốt ba ngày Tết. Khi đến nhà ai chúc Tết, khi vào
cổng, khách cũng có thể đốt một phong pháo để chúc mừng.
Ngày xưa, phong pháo chỉ dài hơn một gang tay, treo lên thì dài gấp
đôi, đốt trong vài phút và cỡ pháo tiểu, nghĩa là viên pháo nhỏ hơn ngón tay
út và dài hơn một lóng tay. Còn pháo nhỏ hơn, bằng nửa pháo tiểu, cho trẻ
con chơi thì gọi là pháo chuột. Loại pháo to hơn, dài hơn, gấp đôi pháo tiểu là
pháo trung. Còn pháo đại là viên pháo to gần bằng viên pin đại, hay bằng lon
sữa bò tùy theo nhà chế tạo và người đặt. Ngày xưa đời sống bình dị, chỉ vài
phong pháo tiểu cũng đủ vui vẻ, dân chúng ít ai đốt pháo trung hay pháo đại.
Pháo thường làm thành tràng dài nên gọi là pháo tràng. Pháo từng viên là
pháo rời, dành cho trẻ con chơi. Pháo đại có thể bán rời để đốt từng viên hay
nối với pháo tiểu, pháo trung để tạo nên âm thanh tạch tạch, đùng đùng rất
nhộn nhịp.
Ở một vài nơi, dân chúng còn có tục đốt pháo tập thể. Người ta tổ chức
thi đốt pháo hoặc chơi đốt pháo tại đình làng. Pháo nhà nào nổ to, ít lép, xác
pháo văng xa thì thắng cuộc. Có nơi thi ném pháo, tức là treo một viên pháo
đại lên (viên này rất to), người dự thi dùng pháo tiểu ném trúng pháo đại để
cho pháo đại bắt lửa cháy và nổ. Cũng có làng trai gái ném pháo vào nhau
đùa giỡn.
Hiện nay, phong tục đốt pháo (pháo tiểu, pháo trung, pháo đại) đã bị
cấm, thay vào đó là pháo hoa, nhưng trong tâm thức của mỗi người vẫn văng
vẳng đâu đó tiếng pháo năm xưa mỗi độ tết đến xuân về.
NGHI THỨC CÚNG GIA TIÊN
Trong các lễ cúng ba ngày Tết, lễ nào cũng có một mâm cỗ cùng
hương hoa, trầm trà, rượu bánh, để cúng gia tiên.
Cúng gia tiên là cúng tổ tiên trong nhà, là nghĩa vụ thiêng liêng của con
cháu để tỏ lòng nhớ ơn nguồn cội của mình “Cây có cội nước có nguồn”.
Cúng gia tiên là một cái đạo "Đạo thờ cúng ông bà", gọi tắt là đạo ông
bà. Đạo ở đây không phải là một tôn giáo vì không có giáo chủ, môn đệ... mà
chỉ là "đạo làm người" trong gia đình, lấy tình cảm và sự liên hệ máu mủ ruột
thịt trong gia đình làm chủ yếu. Cúng gia tiên là thể hiện sự hiếu thảo và tình
thương yêu của con cháu đối với người quá cố. Cúng gia tiên trong ba ngày
Tết là bày tỏ lòng tri ân, thương nhớ của con cháu đối với tổ tiên nguồn cội.
Việc cúng kính không chú trọng ở hình thức, ở mâm cao cỗ đầy mà chú trọng
ở nội dung, đó là tấm lòng thành kính tri ân thương nhớ và noi gương. Vua
Hùng Vương thứ 6 không chọn cao lương mỹ vị để cúng gia tiên mà chọn
bánh chưng bánh dầy là món đơn sơ giản dị nhưng hàm chứa nội dung ý
nghĩa sâu sắc.
Khi cúng gia chủ phải ăn mặc chỉnh tề, lên đèn, đốt hương, đánh
chuông, hai tay chắp lại đưa lên ngang trán và khấn, khi khấn nêu ngày
tháng, làng xã, tên mình, tên vợ con, tên người quá cố, lễ vật cúng, lý do
cúng, cầu nguyện... rồi tùy theo địa vị lớn nhỏ của mình đối với người quá cố,
nếu nhỏ thì lạy 4 lạy hoặc vái 4 vái. Việc cúng kính tùy thuộc vào đức tin và
đời sống đạo đức của mình:
- Linh tại ngã bất linh tại ngã
- Đức trọng Quỷ Thần kinh
Cúng là bày lễ vật, lên đèn, thắp hương, khấn, vái, lạy. Khấn là lời cầu
khẩn lầm rầm trong miệng, khấn xong thì vái từ 2 vái đến 5 vái, tùy theo từng
trường hợp, mỗi lần vái đầu cúi xuống: Lầm rầm khấn vái nhỏ to (Kiều). Nếu
vái là cử chỉ chào hỏi kính cẩn, thì lạy là hành động bày tỏ sự tôn kính từ tâm
hồn đến thể xác đối với người trên hay người quá cố ở vào bậc trên của
mình. Đàn ông lạy đứng nghiêm, hai tay chắp lại để trước ngực giơ lên ngang
trán, mình cúi xuống, hai bàn tay xòe ra úp xuống chiếu, quỳ gối trái rồi gối
phải, rạp đầu xuống theo thế phủ phục, sau vài giây cất người lên hai bàn tay
để lên đầu gối trái vừa co lên đưa tới trước nửa bước để lấy đà đứng dậy,
chân phải đang quỳ cũng theo đà đứng lên, rút chân trái về ngang với chân
phải đứng nghiêm, là xong một lạy. Lạy xong vái 3 vái rồi lui ra. Các nhà sư
lạy hơi khác một chút, phất tay áo cà sa đưa hai tay xuống đất rồi quỳ hai đầu
gối xuống luôn, khi đứng lên đẩy hai bàn tay để lấy thế đứng thẳng lên khỏi
phải tì bàn tay lên đầu gối. Phụ nữ lạy ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân
vắt chéo về bên trái, bàn chân phải ngửa lên để dưới đùi chân trái, nếu mặc
áo dài thì kéo tà áo trước trải về phía trước và kéo tà áo sau trải về phía sau,
rồi chắp hai bàn tay để trước ngực đưa lên ngang trán cúi đầu xuống, hai bàn
tay úp xuống chiếu, đầu đặt lên hai bàn tay. Sau vài giây đẩy hai bàn tay để
lấy thế ngồi thẳng lên, chắp hai bàn tay đưa lên ngang trán, là xong 1 lạy. Lạy
xong đứng lên vái 3 vái rồi lui ra. Nhiều người theo cách lạy khác, hai đầu gối
quỳ xuống chiếu, mông để lên hai gót chân, hai bàn tay chắp lại đưa lên
ngang trán, hai bàn tay giữ ở thế chắp, mình cúi xuống khi gần tới chiếu thì
hai bàn tay xòe ra úp xuống chiếu đặt đầu lên hai bàn tay, cứ thế mà lạy.
TỤC XÔNG ĐẤT NGÀY TẾT
Theo quan niệm của ngươi Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam
nói riêng, buổi sáng mồng một đầu năm hêt sức quan trọng, ngưòi nào cũng
giữ gìn từ lời ăn tiếng nói cho đến việc đi đứng, thăm hỏi lẫn nhau. Họ mong
mỏi buổi sáng đầu năm có người ăn ở hiền lành, làm ăn phát đạt, tính tình vui
yẻ bước chân vào nhà trưốc nhất. Đó là tục xông nhà, xông đất, có nơi gọi là
đạp đất. Người ta tin rằng việc xông đất có ảnh hưởng sâu sắc đến vận mệnh
của gia chủ cả năm. Giờ xông đất bắt đầu từ sau giao thừa trở đi, khi tiếng
chuông báo hiệu năm cũ đã qua, năm mới đến. Cách xông đất sau giờ giao
thừa thường để người thân trong gia đình tự xông lấy. Người ta chọn một
người có vía tốt ra đi từ lúc chưa hết giờ trừ tịch và dự lễ tại đình chùa, sau
đó xin hương hái lộc. Lúc trở về nhà đã bước sang năm mới, người này tự
"xông nhà", mang sự tốt lành quanh năm về cho gia đình theo quan niệm của
ông bà xưa.
Thời gian xông đất tốt nhất là vào buổi sáng mồng một Tết. Người đi
xông đất, ngoài những lời cầu chúc tốt đẹp dành cho gia chủ còn phải ăn mặc
thật đẹp và mang theo một chút quà Tết. Quà ở đây không nhất thiết là quý
giá, nhiều hay ít, mà chỉ có tính chất tượng trưng và phụ thuộc vào mức độ
quen biết gia chủ thân hay sơ. Nó có thể là một chai rượu Tết, một gói trà
ngon, một chiếc bánh chưng hay một phong bánh ngọt. Xông đất xong còn
mừng tuổi, chủ yếu là cho trẻ con gia chủ. Sau đó chủ nhà cũng hoan hỉ chúc
tụng lại vị khách xông nhà và thết đãi một vài món ăn hay thức uống. Chuyện
ăn uống này cũng chỉ mang tính tượng trưng cho có lệ, như ăn vài miếng
bánh, miếng mứt, uống một ly rượu hay chén trà. Nhà nào đã có người đến
xông đất rồi thì việc tiếp khách trong ngày mồng một Tết không có ảnh hưởng
gì đến gia chủ kể cả người tốt vía lẫn xấu vía. Cho nên dù biết xông đất, xông
nhà người khác là một vinh dự nhưng ai cũng e ngại. Vì cái vía của mình có
may mắn, có đem lại tốt lành cho gia chủ hay không, việc đó phải chờ đến hết
năm mới biết được.
Ngay từ nửa đêm sau lễ giao thừa đánh dấu một năm đã qua, nhường
cho một năm mới tốt đẹp đến, nhà ở được coi như hoàn toàn đổi mới, người
bước chân tới xông đất sẽ là sứ giả do sự may mắn đưa đến. Do đó, mọi
người đã cân nhắc kỹ về nhân phẩm, chức phận, sự giàu sang, cũng như về
tính tình, hạn vận khi mong cầu người đến xông nhà ngày đầu năm là hệ
trọng hơn cả. Chính vì nghĩ đến ảnh hưởng của việc xông đất đến việc làm ăn
cho cả năm, nên các bậc cao niên rất thận trọng đối với người đến đầu tiên
trong ngày Tết để long trọng mang lại giúp họ sự tốt lành suốt năm mới. Mặc
dù đã tính toán như vậy, vẫn có người khách bất ngờ độc xuất đến xông đất
trước sự ngạc nhiên của cả gia đình và làm xáo trộn những toan tính không
thể thực hiện được một cách chính xác như ý mong muốn. Tuy nhiên đế đề
phòng những sự kiện này xảy đến, trong buổi sáng tinh mơ các cửa ngõ đều
đóng chặt và chỉ mở khi nào người được chọn tới xông đất mà thôi.
Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người
được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong
suốt năm tới. Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu
năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với
chủ nhà. Người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đôi với người
dân lao động thì đơn giản hơn nhiều. Người được chọn xông đất phải khoẻ
mạnh, tốt tính, và gia cảnh khấm khá, hoà thuận. Thông thường vị khách này
đã được chọn tuổi hợp với chủ nhà như:
- Chủ nhà tuổi Tý: Thì chọn người tuổi Thân, Thìn (Tam hợp), Tuổi Sửu
(Nhị hợp).
- Tuổi Sửu: Thì chọn tuổi Tỵ, Dậu, Tý.
- Tuổi Dần: Thì chọn tuổi Ngọ, Tuất, Hợi.
- Tuổi Mão: Thì chọn tuổi Mùi, Hợi, Tuất.
- Tuổi Thìn: Thì chọn tuổi Tý, Thân, Dậu.
- Tuổi Tỵ: Thì chọn tuổi Sửu, Dậu, Thân.
- Tuổi Ngọ: Thì chọn tuổi Dần, Tuất, Mùi.
- Tuổi Mùi: Thì chọn tuổi Mão, Hợi, Ngọ.
- Tuổi Thân: Thì chọn tuổi Tý, Thìn, Tỵ.
- Tuổi Dậu: Thì chọn tuổi Sửu, Tỵ, Thìn.
- Tuổi Tuất: Thì chọn tuổi Dần, Ngọ, Mão.
- Tuổi Hợi: Thì chọn tuổi Mão, Mùi, Dần.
Tuy nhiên không phải lúc nào gia chủ cũng nhờ được người hợp tuổi
với mình đến để xông đất, nên đa số gia chủ áp dụng kinh nghiệm dân gian là
chọn người tốt vía hay còn gọi là nhẹ vía, có nghĩa là người đó trong cuộc
sống có tính tình dễ chịu, vui vẻ, nhiệt tình may mắn... đến xông đất vào sáng
sớm mồng một Tết. Tất nhiên vị khách được "Đặt cọc" này phải chuẩn bị
phong bao màu đỏ để đến xông đất và "nhập tài" cho gia chủ, để gia chủ lấy
hên đầu năm mới. Và gia chủ sau đó phải đáp lễ với vị khách này cũng như
vậy và cùng chúc nhau những điều tốt đẹp.
TỤC CHÚC TẾT
Tết Nguyên đán là một dịp để cho mọi thành viên trong gia đình vui vầy
sum họp. Đó là thời gian bày tỏ sự thương yêu thắm thiết và mong muốn cho
mọi người được như ý. "Mồng một là Tết nhà cha": sáng mồng một sau khi lễ
gia tiên thì cha mẹ được mời ngồi vào ghế để cho con cháu lần lượt chúc Tết.
Ngày xưa họ còn được con cháu tế sống với hai lạy hai vái. Để "Mồng hai nhà
mẹ": cha mẹ và con cháu phải sang nhà ngoại để mừng tuổi chúc Tết. Cũng
tuần tự những nghi thức như bên nội vậy. Sau đó thì nán lại để ăn cỗ đầu
xuân nhằm thắt chặt tình cảm giữa hai gia đình. "Mồng ba Tết thầy": sau công
ơn đấng sinh thành dưỡng dục là ơn dạy dỗ của thầy cô. Đến chúc Tết thầy
cô là một phong tục nói lên tư cách đạo đức của một con người. Tóm lại, tục
chúc Tết là một nét văn hoá thể hiện tình cảm sâu sắc và sự quan tâm, lòng
hiếu thảo trong một thứ tự phải có của sự tồn tại và phát triển của một dân
tộc.
Về chúc Tết, trong ba ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc hoặc
những người phải chịu ơn người khác thường phải đi chúc Tết và mừng tuổi
gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ tiên của gia chủ. Tục này ngày nay ít còn,
vì thì giờ eo hẹp, đường sá xa xôi cho nên đã được thay thế bằng những tấm
thiệp "Chúc Mừng Năm Mới" hay "Cung Chúc Tân Xuân". Trước hết con cháu
mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cũng chuẩn bị một ít tiền để mừng
tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân
thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì
chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia
tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ
thân thuộc. Chúc Tết những người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động
viên nhau "Của đi thay ngươi", "Tai qua nạn khỏi", nghĩa là ngay trong cái hoạ
cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội
vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày
đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa. Quanh năm
làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc
mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đậm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu,
hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn
quá câu nệ, công thức rườm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng
nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món
thức ăn gì đó chủ mới vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm. Sau đây
là những câu chúc Tết thông dụng.
- Ngàn lần như ý, Vạn lần như mơ, Triệu sự bất ngờ, Tỷ lần hạnh phúc.
- Tống cựu nghênh tân - Vạn sự cát tường - Toàn gia an phúc.
- Năm hết Tết đến. Rước lộc vào nhà. Quà cáp bao la, mọi nhà no đủ.
Vàng bạc đầy tủ. Gia chủ phát tài. Già trẻ gái trai, sum vầy hạnh phúc, cầu tài
chúc phúc. An lành thịnh vượng.
- Tết tới tấn tài - Xuân sang đắc lộc, Gia đình hạnh phúc - Vạn sự cát
tường.
- Đong cho đầy Hạnh phúc. Gói cho tròn Lộc tài. Giữ cho mãi An
Khang. Thắt cho chặt Phú quý. Cùng chúc nhau Như ý, Hứng cho tròn An
Khang, Chúc năm mới Bình An, cả nhà đều Sung túc.
- Mùa xuân xin chúc: Khúc ca an bình Năm mới phát tài; Vạn sự như ý;
Già trẻ lớn bé; Đầy ắp tiếng cười; Trên mặt ngời ngời; Tràn đầy hạnh phúc;
Xuân đến hy vọng ấm no mọi nhà; Kính chúc ông bà sống lâu trăm tuổi; Kính
chúc cha mẹ sức khoẻ dồi dào; Đôi lứa yêu nhau càng thêm nồng ấm; Các
em bé nhỏ học giỏi chăm ngoan; Chúc Tết mọi người năm mới hoan hỉ gặp
nhiều niềm vui...
- Sang năm mới chúc mọi người có một bầu trời sức khoẻ, một biển cả
tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu
chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đinh thịnh vượng.
- Cung Chúc Tân Xuân Phước Vĩnh cửu; Chúc Trong Gia Quyến Được
An Khương; Tân Niên Lai Đáo Đa Phú Quí; Xuân Đến An Khương Vạn Thọ
Tường.
TỤC XUẤT HÀNH HÁI LỘC
Đầu năm mới, người Việt Nam thường có tục xuất hành. Xuất hành là
đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để tìm cái may mắn cho mình và gia đình.
Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt
để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần...
Thông thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền
hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với
nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết.
Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem
chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn:
- Gió Nam: chỉ đại hạn
- Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc
- Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả
- Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải
- Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu
- Gió Đông: chỉ có lụt lớn...
Có thể nói rằng việc xuất hành đầu năm mới đã trở thành phong tục cổ
truyền từ lâu đời với mong muốn một năm mới làm ăn phát đạt và gặp nhiều
may mắn.
Giờ xuất hành: thông thường ngày mồng một Tết người ta thường chọn
giờ và hướng xuất hành.
Giờ hoàng đạo: người ta thường chọn giờ hoàng đạo vào lúc sớm để
xuất hành. Để sau đó người ta còn phải đi nhiều việc khác như: lễ chùa, thắp
hương nhà thờ tộc...
Hướng xuất hành: có hai hướng là hướng Tài Thần và Hỉ Thần. Nhưng
thông thường mọi người vẫn thích xuất hành về hướng Hỉ Thần, là vị thần
mang lại nhiều may mắn và niềm vui. Còn hướng Tài Thần người ta ít thích
với lý do là chỉ có tài lộc mà thôi.
Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt Nam còn có
tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái
lộc".
Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng... là
những loại cây quanh năm tươi tốt và đâm chồi nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi
đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới.
Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ tổ tiên.
MỘT SỐ LỄ TRONG NHỮNG NGÀY ĐẦU NĂM
- Lễ động thổ
Lễ động thổ có nguồn gốc từ Trung Quốc sau du nhập vào Việt Nam.
Hàng năm, sau ngày mồng ba Tết, các làng thường làm lễ động thổ. Các bậc
kỳ lão và quan viên được cử làm chủ tế và bồi tế. Lễ vật gồm hương đăng,
trầu rượu, y phục và kim ngân đồ mã. Trong buổi lễ, ông chủ tế cuốc mấy
nhát xuống đất để lấy một cục đất đặt lên bàn thờ, "tường trình" với Thổ Thần
xin cho dân làng được động thổ. Sau lễ động thổ dân làng mới được động tới
đất. Ai cuốc xới trước lễ đông thổ bị dân làng bắt vạ.
- Lễ Khai hạ
Theo phong tục Việt Nam, ngày mồng bảy tháng giêng là ngày hạ cây
nêu. Cây nêu trồng trong năm, khi sửa soạn đón Tết cùng với cung tên bằng
vôi trắng vẽ trước cửa nhà để "trừ ma quỷ", nay được hạ xuống. Lễ hạ nêu
còn được gọi là lễ Khai hạ. Nhân dịp này, ngoài lễ cúng trời đất, người ta còn
sửa lễ cúng gia tiên, cúng thổ công và thần tài. Thường sau ngày lễ này, mọi
công việc thường xuyên mới được bắt đầu trở lại.
- Lễ Thần Nông
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong sự được mùa
và nghề nông phát đạt. Vì vậy trên các quyển lịch hàng năm thường có vẽ
một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con
trâu tượng trưng cho nghề nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi
hàng năm tuỳ theo sự ước đoán của cơ sở dự báo khí tượng về mùa màng
năm đó tốt hay xấu. Năm nào được mùa, Thần Nông giày dép chỉnh tề, còn
năm nào đói kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày có
một chân. Con trâu đổi màu tuỳ theo hành của mỗi năm, vàng, đen, trắng,
xanh, đỏ đúng với Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Hàng năm, vào ngày Lập xuân
tại triều đình xưa cũng như tại các tỉnh có tục tế và rước Thần Nông. Người ta
nặn trâu và tượng Thần Nông có dáng vẻ và màu sắc đúng với sự ước lượng
về mùa màng năm đó. Sau đó lập đài để rước trâu và tượng Thần Nông tới
làm lễ tế. Sau mỗi cuộc tế, trâu và tượng Thần Nông được khiêng cất vào kho
hoặc đem chôn.
TỤC CHƠI CỜ NGÀY TẾT
Ngày xưa các gia đình có nền nếp quanh năm cấm đoán con cháu
không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29; khi cả
gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả
trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui.
Tam cúc, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy.
Đến lễ Khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn
cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.
TỤC MÚA LÂN NGÀY TẾT
Vào ngày Tết ở một số địa phương thường có tục múa Lân. Người ta
tin rằng Lân đến nhà thì bao chuyện xui xẻo trong năm cũ vì cái uy vũ của Lân
mà tiêu tán hết và mọi điều phước lộc may mắn sẽ theo tiếng trống Lân và nụ
cười ông Địa mà tuôn vào nhà. Vì thế các nhà giàu có thường rước Lân về
nhà để múa vào sáng sớm mồng một Tết. Theo truyền thuyết xa xưa, Lân tức
là Ly hay Nghê, là biểu tượng của lòng nhân ái, hễ Lân hiện diện nơi đâu thì
nơi đó sẽ có thánh nhân xuất hiện. Đức Khổng Tử đang viết pho Kinh Xuân
Thu thì hay tin có người bắt con Lân bị què một chân, Ngài liền gác bút không
viết nữa, vì thế Kinh Xuân Thu còn gọi là Lân Kinh. Trong dân gian khi nghe
tin Kỳ Lân xuất hiện, người ta rất đỗi vui mừng và tin rằng thiên hạ sẽ được
thái bình. Tục múa Lân phát sinh từ đó.
Kỳ Lân là con vật tưởng tượng của người phương Đông thời cổ, có cái
sừng trước trán rất hiền lành không ăn thịt sống. Kỳ Lân được Trời sai xuống
dùng chiếc sừng để đâm chết kẻ gian tà. Đặc biệt không những người
phương Đông tôn thờ mà nhiều nước phương Tây cũng ca ngợi Kỳ Lân là
một con vật linh thiêng can đảm và có lòng bao dung.
Kinh Veda (viết bằng tiếng Phạn) có câu: "Lân là hóa thân của nhiều vị
thần linh trong đó có thần Civa và thần Vishnou".
Kinh Cựu Ước có nhắc đến Kỳ Lân với tên là Unicorne (độc sừng). Kỳ
là con đực, Lân là con cái, múa Lân còn có ý nghĩa là tôn vinh phái nữ và
chúc mừng sự sinh sôi nảy nở. Nếu Lân là một hình ảnh oai dũng mang lại sự
may mắn thịnh vượng thì ông Địa đi bên cạnh (đầu bịt khăn một tay cầm quạt
lông phe phẩy) với nụ cười bất hủ là một liều thuốc bổ làm tiêu tan mọi phiền
não, do đó người ta thờ ông Địa để cầu phúc cầu tài. Trống Lân gọi là Cổ Bề,
mặt trống vẽ hình âm dương tượng trưng cho Trời Đất, khi đánh, tiếng trống
hòa nhịp với tiếng "chập chỏa" bằng đồng và tiếng pháo tạo thành một âm
điệu dồn dập hùng tráng vui tươi ước mong một cuộc sống thái bình thịnh trị
ấm no hạnh phúc.
Ngày xưa các đội Lân đi trình diễn thường đến chào trước tại các công
môn. về sau có nhiều đội Lân chuyên nghiệp được thành lập từ các võ đường
có các màn biểu diễn võ thuật công phu hào hứng, có các tiết mục kinh hồn
như Lân leo cột (cao 15m), Lân giật cờ (tại các cao ốc). Từ đó có Lân râu
đen, Lân râu bạc (Lân râu đen gặp Lân râu bạc phải chào) đi lưu diễn trong
ba ngày Tết để mang niềm vui và hy vọng đến với muôn người.
LỄ HỘI ĐẦU XUÂN
"Tháng Giêng là tháng ăn chơi" nên ngày xưa các nơi thường tổ chức
hội hè đình đám gọi là Hội Tết, Hội Xuân, hay Lễ Hội Mùa Xuân. Các cô các
cậu tha hồ đi trẩy hội:
Qua Tết tôi mong rằm tháng giêng
Trên con đường nhỏ đến thôn trên
Tôi theo người chị lên chùa lễ
Tay xách vàng hương với giấy tiền
(Nguyễn Bính)
Ngoài Bắc có nhiều điệu hát như hát quan họ, trông quân, cò lả...
Hát Quan họ: Các trai gái trong làng họp nhau thành nhóm từ 5 đến 10
người trở lên để hát đối đáp với các nhóm ở làng khác, thường kéo dài nhiều
ngày. Các bài thường nghe như: cây trúc xinh, qua cầu gió bay, chẻ tre đan
nón, trèo lên quán dốc, ngồi tựa mạn thuyền, trống cơm.
Hát Trống Quân: Có từ đời Trần, hát và gõ để nung chí người trai,
thường mở đầu bằng câu thơ lục bát, khi tới chữ thứ tư của mỗi câu thì ngân
nga những tiếng í ư...
Ở miền Trung có hát đối, hát nam ai, hát bài chòi, hát bội...
Hát Bội: có nghiều đoàn hát bội đi lưu diễn ở các tỉnh Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa. Khi hát sử dụng nhiều tiếng "ứ ự" phối hợp với điệu bộ
giống như võ thuật...
Bài Chòi: do làng tổ chức, chơi bài chòi phối hợp với các màn hô bài
chòi. Chung quanh địa điểm người ta dựng chừng 8 cái chòi tre lợp tranh hay
rạ, chính giữa có 1 chòi trung ương lớn hơn. Giữa sân có trồng một trụ tre để
đặt ống thẻ. Thẻ là một mảnh tre dẹp, mỏng, có dán một con bài tứ sắc, khi
xốc ống thẻ, sẽ có 1 thẻ văng ra, người phụ trách hô tên thẻ: - xe xanh! (hay
ngựa đỏ...) chòi nào trúng thì la lên để người chạy thẻ mang thẻ tới. Chòi nào
tới trước sẽ thắng. Tiền thắng không nhiều lắm nhưng người thắng rất vui
mừng vì tin rằng mình sẽ gặp may mắn trong năm mới. Những tiết mục hô bài
chòi được bố trí xen kẽ trong cuộc chơi. Hô bài chòi là một điệu hát dân ca
nổi tiếng ở 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, được phụ họa bằng đàn cò
và song loan gõ nhịp, bài hô là những câu thơ lục bát. Người ta chơi bài chòi
để thử thời vận đầu năm.
Ở miền Nam có hát xuân tình, hát vọng cổ, hát lý con sáo... thịnh hành
nhất là các đoàn hát cải lương được thành lập và đi lưu diễn khắp 3 miền đất
nước đã từng làm say mê hàng triệu khán giả.
Đá gà: Cùng với đấu bò, chọi trâu, đua ngựa, đá dế, đá cá thia thia, thì
đá gà là một trong những trò chơi được ưa chuộng nhất.
Có câu "Chó giống cha gà giống mẹ" hay "Gà bền tại mái" nên việc
chọn giống chú trọng vào gà mái, chọn những con mái gà dòng khỏe mạnh
đúng sức đúng tuổi để cho những con trống đã ăn nhiều độ đúc mái (đạp
mái), nhưng một bầy gà con đẻ ra, nhiều khi chỉ chọn được có một con. Gà
quý tướng có nhiều loại như gà phụng vĩ tốt mã, gà mắt sao mỏ bén mắt lanh,
gà "chân xanh mắt ếch đá chết không chạy", gà "cổ công mình cốc cánh vỏ
trai, cựa thài lài chân ba hàng vảy, đấu bảy ngày chết không chịu chạy", gà
nhật nguyệt cựa một đen một trắng. Gà ẩn tướng là gà hay nhưng mặt hiền,
như gà song sanh, gà tử mị, gà voi, gà lưỡi rùa... Dù quý tướng hay ẩn tướng
cũng không qua câu: "hay không bằng hên" do đó khi xem gà thực tế nhất là
phải xem cựa (cựa đóng sát thới, cựa song đao, cựa giao chỉ, cựa chỉ địa),
xem vảy (vảy mỏng, đóng thành hàng đều đặn như: vảy án thiên, phủ địa, liên
giáp nội, huyền châm, khai vương...). Gà đá trên là gà đá vào phần trên của
địch thủ, gà đá dưới chun vào phần dưới của địch thủ, gà đá lông, gà xạ rơi,
gà hồi mã thương, gà đá sỏ, đá vai, đá hầu, đá yếm... Nuôi gà đá trong lồng
tre cho ăn lúa đãi sạch, uống nước trong vắt, có người còn cho ăn thêm thịt
bò, lòng đỏ trứng gà, thịt lươn, rau tươi, tôm, tép, cào cào... rồi xoa rượu
thuốc, tỉa lông, chuốc cựa cho gà.
Đua thuyền: Tục lệ này phổ biến ở những vùng sông nước. Hiện nay ở
các tỉnh miền Tây còn tục lệ này. Người Việt gốc Miên rất thích xem đua
thuyền trên các kinh lạch.
KIÊNG KỴ TRONG NGÀY TẾT
- Kiêng quét nhà: Người Việt cho rằng nếu quét nhà trong ba ngày đầu
năm mới thì Thần Tài sẽ đi mất, tiền bạc sẽ không đến được với gia đình, và
hiển nhiên nó mang lại điềm xấu, không may mắn.
Theo một điển tích của Trung Quốc, trong "Sưu thần ký" có chuyện
người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thuỷ thần cho một
con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì Âu Minh ăn nên
làm ra. Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, Âu Minh đánh Như Nguyệt, nó sợ
quá chui vào đống rác và biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó
mọi người kiêng không dám quét nhà đổ rác trong mấy ngày Tết. Vì có tục
kiêng quét nhà đổ rác ba ngày Tết, sợ rằng sẽ quét hết tiền bạc, vận đỏ ra
khỏi nhà, nên ngày 30 Tết, dù bận rộn đến đâu mọi người cũng phải dọn dẹp
nhà cửa, vườn tược, bàn thờ sạch sẽ trước lúc giao thừa và những ngày Tết
thì mọi người phải hết sức giữ gìn nhà cửa, không vứt rác bừa bãi.
Ở Nam bộ sau khi quét dọn người ta thường cất hết chổi, nếu trong
ngày Tết bị mất chổi có nghĩa là năm đó nhà sẽ bị trộm vào vét sạch của cải.
Ở nông thôn ngày Tết nhà nào cũng rắc vôi bột ở bốn góc vườn, rồi vẽ mũi
tên hướng ra cổng để xua đuổi ma quỷ.
- Kiêng mặc quần áo màu trắng, đen: Năm mới là thời điểm mà mọi
người mong muốn những điều tốt lành nhất đến với bản thân, gia đình. Theo
quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì
vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ
và thu hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới,
như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh...
- Kiêng khóc lóc, buồn tủi, nói những điều không vui: Điều này thật dễ
hiểu, vì đây là những hành động không hay mà bất cứ ai cũng không muốn
làm vào dịp Tết. Nhưng nếu bất đắc dĩ phải rơi vào hoàn cảnh không vui,
chúng ta nên cố gắng kiềm chế để hưởng thụ một năm mới trọn niềm vui bên
người thân, bạn bè. Kiêng nói những điều không vui vì khi nói sẽ khiến mọi
ngưòi lo lắng với mình, buồn theo mình, không tốt trong những ngày đầu
năm.
- Kiêng nói to, cãi nhau, nói xấu hay mắng người khác: Đây là những
việc tạo ra sự ồn ào hỗn loạn và đem lại nỗi buồn cho người khác. Một điều
nữa cần nói đến là trong ngày Tết mọi người đặc biệt quan tâm đến cách ứng
xử với hàng xóm láng giềng, bạn bè và những người trong gia đình. Ai cũng
tỏ ra vui vẻ, hồ hởi, thân tình trong không khí ấm áp của mùa xuân. Ai cũng
ngại và sợ to tiếng hoặc xô xát thì quanh năm sẽ bị xui xẻo. Do đó, khi Tết
đến, mọi người trò chuyện và chơi đùa với nhau trong không gian thân mật,
hoà nhã, cùng chia sẻ niềm vui và chúc nhau một năm mới an khang thịnh
vượng, may mắn.
- Kiêng làm vỡ các đồ vật: Ông bà ta quan niệm, từ vỡ, bể là những từ
tạo nên sự chia cắt, đứt lìa, đó có thể là vật dụng trong nhà hoặc thậm chí là
các mối quan hệ trong gia đình và xã hội. Đó thật sự là những điều không tốt
và không ai mong muốn xảy ra trong đầu năm mới. Do đó, người già thường
khuyên con cháu trong những ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm
chén.
- Kiêng vay mượn tiền bạc, đồ đạc: Chỉ trong hoàn cảnh túng thiếu
hoặc cấp bách, người ta mới nghĩ đến chuyện vay mượn tiền bạc hoặc đồ
dùng của người khác. Và đây là vấn đề khá tế nhị mà người Việt luôn quan
tâm, chú ý để tránh làm mất lòng nhau. Vì vậy mà người xưa quan niệm
không nên vay tiền hoặc đồ đạc vào những ngày đầu năm mới, điều đó có thể
làm chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không may mắn.
- Kiêng đi chúc Tết khi trong gia đình có tang: Tết Nguyên Đán là ngày
vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho những lễ hội sung túc của cả một
năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà
chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày
Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết đầu năm, mừng tuổi bà con, xóm
giềng, vì người xưa quan niệm nếu những người có tang đến chúc Tết gia
đình ai thì sẽ mang nỗi buồn chia sẻ cho gia đình đó. Ngược lại bà con xóm
giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.
- Kiêng cho nước, lửa: Thật không may cho nhà ai mồng một Tết có
người đến nhà xin lửa, xin nước. Ngày mồng một Tết người ta rất kỵ người
khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa có màu đỏ - là màu may mắn
đầu năm mới, cho người khác cái đỏ trong ngày mồng một Tết thì sẽ khiến
cho gia đình không giữ được tiền bạc, may mắn trong cả năm.
Nước - vốn được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc "Tiền vào như
nước". Thường thì trước khi bước sang năm mới ở nông thôn nhà nào cũng
lo đổ đầy nước vào bể, vào chum hoặc vại. Từ trong tâm thức người ta tin
rằng năm mới đến sẽ đem theo của cải nhiều như nước. Chẳng thế mà sáng
mồng một Tết rất nhiều nhà thời xưa hay thuê người gánh nước đến. Họ
được mừng tuổi đôi ba hào, thế là cả chủ nhà lẫn người quẩy thuê cả năm sẽ
đều may mắn.
- Kiêng đi chúc Tết vào sáng mồng một Tết nếu không được gia chủ
mời: Tục xông đất/xông nhà đầu năm mới diễn ra khá phổ biến ở nước ta. Do
đó, theo phong tục này, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày mồng một
Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình
ấy trong cả năm. Vì vậy hoàn cảnh gia đình, cuộc sống của người này đóng
vai trò rất quan trọng đối với gia đình gia chủ, có thể làm cho nhà họ may
mắn, thịnh vượng cả năm hoặc gặp xui xẻo, trắc trở trong năm.
Chính phong tục trên làm cho người ta kiêng kỵ đi chúc Tết vào sáng
mồng một Tết nếu không được gia chủ mời, vì sợ sẽ mang đến điều không tốt
đẹp cho chủ nhà trong năm mới.
LỄ TỔ TIÊN NGÀY TẾT
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về sum họp
dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước bàn thờ, thăm
lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã
từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất
thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giếng
nước, mảnh sân nhà. "Về quê ăn Tết" đã trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành
hương về nơi cội nguồn.
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay
còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác
nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất.
Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát
hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với
nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm "cành vàng lá ngọc"
(một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán
lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương
dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương.
Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả
lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi
loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong,
coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống
gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ
nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống
xứng đáng với "bề trên". Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân
văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng
tổ tiên mách bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nền nếp gia phong, sống tình nghĩa
thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng
cội nguồn...
Dọn cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng
gia truyền, dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp
gạo nấu tinh khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, lợn... Nấu nướng thơm ngon
đặt lên cúng trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ
gìn truyền thống "dĩ nông vi bản" và đem sức lao động cần cù làm ra thành
quả từ lòng đất quê hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn hóa
truyền thống góp phần bảo tồn di sản tinh thần và đạo đức trong đời sống con
người lưu truyền từ ngàn xưa.
Sáng mồng một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà
tộc trưởng để lễ tổ tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan
niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng một
Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các
cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1 tuổi).
QUÀ TẾT, LỄ TẾT
Theo phong tục của người Việt Nam, Tết Nguyên đán là ngày Tết lớn
nhất. Trong dịp này, mọi người luôn mong ước những điều tốt đẹp cho gia
đình, bạn bè và bản thân... Xuất phát từ điều đó, người ta thường dành tặng
nhau những món quà ý nghĩa. Đối tượng được tặng quà chính là cha mẹ, các
bậc trưởng thượng, những người có ân đức với mình như thầy cô, bác sỹ...
Những món quà ý nghĩa:
- Áo mới: Với người già, tấm khăn nhung, mảnh vải đẹp là món quà ý
nghĩa. Các cụ ngày xưa tiết kiệm cả năm, mỗi dịp Tết đến mới dám mang áo
mới ra mặc. Qua tấm áo mới, con cháu muốn cầu chúc ông bà luôn mạnh
khoẻ.
- Gà trống: Tượng trưng cho những đức tính cao đẹp như vũ (oai
phong, lẫm liệt), nhân (khi kiếm được thức ăn luôn gọi bầy), tín (ngày nào
cũng gáy đúng giờ). Khi tặng gà trống, người con muốn thể hiện sự kính trọng
và khẳng định cha mẹ luôn là chỗ dựa vững chắc cho mình. Nhiều anh con
rể, qua món quà này cũng muốn thể hiện mình là một người đứng đắn, là
người chồng tốt, xứng đáng để con gái các cụ trao thân, gửi phận.
- Cành đào: Mọi người thường tặng nhau cành đào để chưng ngày Tết
và trừ ma quỷ. Chuyện kể rằng, cây đào là nơi trú ngụ của hai vị thần cai
quản lũ quỷ. Khi ma quỷ đến phá phách nhà cửa, người dân chỉ cần chưng
cành đào, chúng sẽ sợ mất vía và dạt ra xa.
- Gạo mới: Tuỳ theo từng nơi, người dân quê thường đem dăm cân nếp
hoặc gạo tám thơm mới gặt để bố mẹ thổi xôi, nấu cơm cúng năm mới. Con
cái dâng những món quà này với mong muốn đền đáp công ơn của bậc sinh
thành, để bố mẹ no đủ cả năm.
- Bầu rượu: Người xưa hay đựng rượu trong quả bầu, sau này là bầu
rượu bằng gốm. Họ tặng nhau những bầu rượu ngon nhất, quý nhất bơi theo
họ, bầu rượu chính là nơi chứa đựng tinh tuý của trời đất. Bầu rượu sẽ đem
đến sự sung túc, phồn vinh cho cả nhà trong năm mới. Ngày nay, bầu rượu
đã được thay thế bằng chai rượu hiện đại, nhưng ý nghĩa vẫn không có gì
thay đổi.
- Bánh chưng: Hàng xóm láng giềng thân tình thường chọn vài cặp
bánh chưng đẹp mang biếu nhau trước Têt. Bánh chưng dùng để cúng tổ
tiên, trời đất với hy vọng một năm mới đủ đầy.
- Màu đỏ: Các món quà ngày xuân thường có màu sắc vui tươi. Không
phải ngẫu nhiên màu đỏ được ưa chuộng trong dịp này. Đó là màu của bao lì
xì, của mảnh hồng điều viết chữ phúc, chữ tâm... Đỏ còn là màu trang phục
của các cụ thượng thọ ngày xưa. sắc đỏ tượng trưng cho điều vui, may mắn,
sự hanh thông. Quả dưa hấu xanh vỏ đỏ lòng thể hiện sự chân thành của
người biếu, mong muốn gửi điều may mắn nhất cho nhau. Đó là lý do mọi
người sẵn sàng trả nhiều tiền để chọn cặp dưa đỏ nhất, ngọt nhất.
- Tranh: Trong dịp Tết, người ta cũng thường tặng nhau tranh dân gian.
Bức tranh Đông Hồ về đàn gà có cảnh đàn gà con quây quần quanh mẹ,
người tặng muốn chúc gia đình bạn bình an vô sự, con đàn cháu đông. Bức
tranh có đàn lợn béo thay lời chúc cuộc sống sung túc, đầy đủ cả năm. Bức
Vinh hoa rất hợp tặng cho vợ chồng mới cưới, chúc họ sớm có con.
- Dầu: ở Nam bộ, người dân quê có khi tặng nhau chai dầu ăn thay lời
chúc phát tài (dầu = giàu).
- Tặng chó: Có người còn tặng nhau những chú cún con xinh xắn, bởi
họ cho rằng chó thường mang đến điều may. Tiếng sủa "gâu gâu" của chó
nghe như chữ "giàu". Qua món quà này, người ta còn mong muốn sự hợp tác
lâu dài, làm ăn suôn sẻ.
Không nên tặng những món quà sau:
Theo tâm lý chung, người ta thường tặng nhau những món quà đẹp
nhất, ý nghĩa nhất. Tất cả những gì xuất phát từ thành ý đều có thể biến thành
quà tặng. Tuy nhiên, hãy cẩn thận với một số vật tượng trưng chỉ điều không
may. Nhiều người kiêng tặng những vật có màu đen hoặc màu trắng.
- Đồng hồ: Đồng hồ tượng trưng cho thời gian nên khi nhận được món
quà này, một số người sẽ nghĩ rằng thời gian của họ sắp hết.
- Mèo: Đừng nên tặng mèo, dù chú mèo đó xinh xắn, dễ thương đi
chăng nữa. Tếng kêu của mèo dễ làm người ta liên tưởng đến chữ "nghèo",
đến điều xui xẻo.
- Thuốc men: Nếu bạn tặng thuốc người mê tín sẽ nghĩ ngay đến đau
ốm, bệnh tật. Đầu năm bị ốm thì cả năm sẽ không suôn sẻ.
- Con mực: Đi chơi biển về, nhiều người hay gửi tặng bạn bè, người
thân vài con khô mực để làm quà. Tuy nhiên, đừng nên tặng món ăn này vào
dịp Tết vì nhiều người quan niêm nhận "mực" sẽ bị đen đủi cả năm. Tương tự
như vậy, nếu bạn tặng lọ mực, người ta sẽ nghĩ rằng bạn đang "trù ẻo" họ.
- Dao, kéo: Người ta có thể tặng nhau bộ dao, nĩa sang trọng, nhưng
vào ngày Tết, món quà này lại có thể mang đến điềm xui. Người xưa quan
niệm dao kéo sẽ đem đến sự xung khắc.
Cho và nhận cũng là một hành vi văn hoá, vậy nên cần "có văn hoá
tặng quà" và "văn hoá nhận quà". Người Việt Nam có tục cẩn thận trong mọi
hành động, ứng xử vào ngày Tết để mang lại sự tốt lành, tránh bị "giông" suốt
cả năm. Theo thời gian, mức sống ngày càng cao hơn, nhiều loại bánh trái,
quà cáp hiện đại đang dần thay thế những món quà truyền thống. Tuy nhiên,
dù chọn quà gì, bạn hãy luôn tặng bằng tấm chân tình, không vụ lợi.
TỤC "ĐẦU NĂM MUA MUỐI CUỐI NĂM MUA VÔI"
Câu tục ngữ này gắn với hai tập tục: Phiên chợ đầu năm người ta đi
chợ thể nào cũng mua một ít muối về nhà và phiên chợ cuối năm, người ta
mua vôi về để cho ông bình vôi ăn no nê, đầy đặn. Sâu xa hơn ở vế thứ nhất,
tập tục mong muốn vào đầu năm, mua muối là đưa về nhà sự mặn mà quanh
năm trong các quan hệ ứng xử, quan hệ làm ăn. Dẫu muối còn nhiều, nhưng
vẫn nhắc nhau mua một bát. Điều đặc biệt ở đây là: với những vùng có thói
quen đong các thứ bằng bát sát miệng (bằng miệng) như gạo, thóc, đậu, kê,
vừng thì muối bao giờ cũng đong có ngọn, chứ không gạt miệng sợ về sẽ mất
lộc, mất mặn mà.
Vậy tại sao cuối năm lại mua vôi hay tôi vôi?
Xưa các cụ làm nhà vật liệu phải tích cóp hàng năm trời thậm chí là
mấy năm trời trong đó có cả vôi làm vữa xây. Và việc tôi vôi chỉ dám thực
hiện vào cuối năm. Đầu năm phải kiêng vì tôi vôi rã ra hết thì không may mắn.
Hơn nữa "Bạc như vôi" là câu nói cửa miệng của các cụ ngày xưa.
Ở nông thôn, nhà nào cũng rắc vôi bột ở 4 góc vườn rồi vẽ hướng ra
phía cổng để xua đuổi ma quỷ. Vì thế, dân gian có câu: "Đầu năm mua muối,
cuối năm mua vôi". Tuy nhiên cũng có ý cho rằng, cuối năm mua vôi để tô
điểm thêm cho ngôi nhà thêm mới, thêm đẹp để đón xuân.
Ngày xưa, dân ta thường ăn trầu và có rất nhiều người nghiện trầu.
Miếng trầu là đầu câu chuyện, cũng là mở đầu cho những cuộc tình duyên,
kết bạn, làm quen, gắn bó... Miếng cau nhai với lá trầu cần phải có một chút,
vôi trắng muốt quệt vào mới đủ, mới đậm đà, ngon miệng và say. Và cũng
phải có chút vôi trắng ấy mới có được cái màu đỏ làm hồng môi nhau. Cái
màu đỏ này tượng trưng cho lòng chung thuỷ, lòng tin yêu nhau của đôi trai
gái. Vì thế mà vôi cũng là yếu tố vô cùng quan trọng của miếng trầu. Giá trị
của “vôi” ngày được khắng định với những ý nghĩa khác nhau cùng sự trường
tồn của thời gian.
Khi mua ông bình vôi, người ta mang theo một vuông vải đỏ hoặc nâu,
mua xong gói ghém cẩn thận, bỏ vào thúng mủng đội lên đầu chứ không
được cắp nách hoặc bỏ tay nải để xách. Lên xuống đò phải để chỗ cao ráo.
Khi đưa về nhà thường đặt chỗ kín đáo, gần đầu giường, gần cửa buồng vì
trong dân gian có câu chuyện kể: Kẻ trộm vào nhà thường hay nút miệng ông
bình vôi lại hoặc quay miệng vào vách thì cả nhà sẽ ngủ yên, không ai nói
mơ, nếu có biết trộm thì cũng ngọng nghịu, không la làng được.
Khi cho ông bình vôi ăn phải e dè, thận trọng. Khi dùng dao vôi để lấy
vôi, nhất thiết không được ngoáy chìa vôi vào lòng ông vì nếu thế sẽ bị bệnh
cồn cào ruột gan mà dùng chìa đưa thẳng rồi rút ra, Nên vì thế, miệng ông cứ
mỗi ngày một đầy, thành vành khuyên, hôm trở trời tự lóc ra, người ta dùng
dao khứa chân rồi đem xâu vào dây treo trước cửa mạch (cửa phụ nữ và ma
quỷ hay ra vào) để trừ tà.
Một khi ông bình vôi đã đặc ruột, người ta rước ông cùng xâu miệng lên
chùa để dưới chân cây hương, dưới gốc mít, gốc đa. Lâu ngày lăn lóc, sương
đọng vào bụng ông, gặp con sài đẹn, hay bị sơn ăn thì người ta lấy nước đó
mà uống, mà bôi. Ai bị sâu răng thì mua ngọc trai tán nhỏ hòa vào nước này
uống sẽ khỏi.
Ông bình vôi là một vật thiêng, ông luôn cần no đủ. Nhưng ông lại ăn ít
vì ruột càng ngày càng đặc lại. Xưa có những nhà chuyên bán vôi ăn trầu, họ
trải lá chuối vào rổ, bỏ vôi vào, hai đầu hai rổ đem bán. Khi bán, dùng chiếc
que to hơn cái đũa cả để lấy vôi phết vào lá cho khách hàng mang về. Bán thì
ít, cho thì nhiều, nhưng vẫn vui vẻ.
Gọi là cuối năm nhưng không ấn định ngày nào để mua vôi. Tùy thuộc
vào phiên chợ nào cho thuận tiện trong khoảng mươi ngày cuối tháng Chạp
theo chợ phiên (chợ phiên thường có nhiều loại: tháng 3 phiên, tháng 5 phiên,
tháng 6 phiên, tháng 9 phiên hay tháng 12 phiên). Không mua chợ này thì
mua chợ khác.
TỤC ĐI "SÊU" NGÀY TẾT
Từ bao đời nay, đi "sêu" ngày Tết (mang lễ Tết đến nhà bố mẹ vợ) là
một phong tục đẹp mang ý nghĩa nhân văn của người Việt Nam. Chưa có tài
liệu nào nói rõ tục đi "sêu" ngày Tết ở Việt Nam có tự bao giờ. Sơ khai của
tục lễ này chỉ là chuyện trước ngày mồng một Tết, chàng rể phải đến nhà bố
mẹ vợ làm giúp một vài việc lặt vặt và lắng nghe lời chỉ dạy căn dặn về đạo
nghĩa phu thê. Ban đầu tục đi "sêu" chỉ có ở trong các gia đình có chức tước,
con cái am tường và đặc biệt nhà gái cũng thuộc quyền thế, có uy đối với nhà
trai, chàng rể. Dần dần tục lệ này đã trở nên phổ biến thành một lễ nghi không
thể thiếu được đối với mọi gia đình mỗi dịp Tết về. Đi "sêu" không chỉ còn là
chuyện con rể đến nhà bố mẹ vợ làm giúp việc gần ngày Tết nữa mà còn có
những lễ vật kèm theo. Cũng bắt đầu từ đây, tục đi "sêu" được hiểu theo
nghĩa: Một cái lễ tạ ơn của các chàng rể, của nhà trai đối với bố mẹ vợ, với
nhà gái vì đã sinh thành, nuôi dưỡng vợ, nàng dâu hiếu thảo cho nhà chồng.
Lễ vật đi "sêu" của chàng rể thường là bánh chưng, rượu, gà cùng với hoa
quả. Đặc biệt không thể thiếu những gói hương vòng - loại hương thơm, thắp
cả ngày trên bàn thờ tổ tiên trong 3 ngày Tết. Khi mang lễ vật đên nhà bố mẹ
vợ, chàng rể sẽ thắp hương trên bàn thờ tổ tiên, thành kính vái lạy. Các gia
đình có con gái đã lấy chồng, thường coi lễ đi "sêu" của nhà trai như một cơ
hội để khẳng định giá trị của con gái cũng như vị thế của mình. Có nhiều
người sau khi nhận lễ của chàng rể xong thường gọi con gái đến để khen
ngợi hoặc góp ý những điều sơ suất của chàng rể.
Tục đi "sêu" của các chàng rể thời nay đã phần nào thể hiện sự tôn
trọng của xã hội đối với người phụ nữ ngay cả khi họ có tư tưởng trọng nam
khinh nữ. Và lễ đi "sêu" của các ông chồng giúp các bà vợ suốt ngày chỉ biết
quanh quẩn nơi xó bếp có được niềm hãnh diện về vị thế của mình.
Ngày nay, phú quý sinh lễ nghĩa, xã hội thay đổi nhiều tập tục bị mai
một nhưng tục đi "sêu" thì ngày một phát triển, vẫn là một tập tục, một thông
lệ trong đời sống sinh hoạt của người dân Việt. Các chàng rể thời nay coi
chuyện đi "sêu", mang lễ vật đến nhà bố mẹ vợ ngày Tết là một trong những
chuyện trọng đại của phận sự con rể của mình. Tuy nhiên, cách lựa chọn lễ
vật của các chàng rể ngày nay ít nặng về phần nghi lễ. Thường là sau ngày
23 tháng Chạp, các bà vợ lo chuyện mua sắm lễ vật. Việc sửa sang chọn lễ
vật của họ cũng đơn giản, gọn nhẹ. Ở nông thôn, lễ vật của các chàng rể vẫn
mang một vài sản vật Tết truyền thống như bánh chưng, gà... Ở thành phố,
các chàng rể thường chọn những hộp quà sang trọng và có thêm những
phong bao mừng tuổi. Mang lễ đi "sêu" đến nhà bố mẹ vợ thời nay, nhiều
chàng rể phó thác cho vợ bởi ngày cuối năm họ bận bịu với công việc, chuyện
làm ăn. Song người ta vẫn lấy làm vui mừng vì tục đi "sêu" - một nét sinh hoạt
văn hóa đẹp của người Việt vẫn được giữ gìn và lưu truyền một cách trang
trọng.
TỤC KHAI BÚT ĐẦU XUÂN
Trong văn hóa và thói quen của người Việt, mọi người quan niệm rằng,
ngày đầu tiên của năm là ngày quan trọng cho một khởi đầu mới. Những
ngày đầu tiên của năm, nếu mọi việc suôn sẻ, ai nấy vui vẻ thì cả năm sẽ luôn
được may mắn. Trong khoảng thời gian đó, mọi người thường tranh thủ làm
nhiều việc lấy may cho cả năm, trong đó, tục chắp bút (hay khai bút) đầu năm
luôn luôn được nhân dân ta để ý, nhắc nhở nhau thực hiện, mong cho một
năm mới phát tài.
Tục khai bút thường chỉ có giới học giả trong xã hội mới thực hiện. Tục
này xưa có ông đồ, thầy đồ, học sĩ... ngày nay có học sinh, giới văn sĩ, thi sĩ,
người làm nghề viết. Thường thì sau giao thừa, mọi người sẽ chọn một giờ
tốt để làm lễ khai bút. Đây cũng chỉ là một lễ tượng trưng, gọi là để bắt đầu sự
nghiệp, sự học, sự viết cho một năm mới. Có người chỉ viết lên ngày, tháng
đánh dấu việc khai bút, nhưng cũng có người sáng tác cả một tác phẩm đầu
năm cho lúc khởi đầu này. Cũng có người viết lên những mong muốn cho một
năm mới nhiều, thuận lợi, học hành được tiến bộ và tương lai nghề nghiệp
rộng mở. Những ông đồ hay Nho sĩ khai bút thường viết câu đối hoặc một
chữ đẹp để treo trong nhà.
Tục khai bút không phải là một nghi lễ bắt buộc trong ngày Tết, nhưng
từ bao lâu nay, nó vẫn được mọi người đề cập đến nhiều trong cuộc sống,
nhất là những ngày đầu năm. Và, không nhất thiết phải khai bút vào ngay sau
giao thừa, mà có thể chọn một ngày hay một giờ thích hợp nào đó để làm
việc này, từ ngày mồng một Tết cho đến những ngày sau đó.
Khai bút đại cát - người xưa thường viết như thế khi đưa những nét
chữ đầu tiên của năm, với ý nghĩa là khai bút để gặp những điều tốt lành,
đồng thời thể hiện sự tôn trọng chữ nghĩa, đề cao sự học. Đây là một tập tục
đẹp, một nét văn hóa Tết đáng được nhân dân ta gìn giữ, phát huy cho đến
tận mãi về sau.
Đa phần sau giao thừa xong, mọi người thường chọn giờ hoàng đạo
bất kể mồng một là ngày tốt hay xấu để khai bút. Các quan chức, nho sĩ, học
trò chuẩn bị án thư, nghiên mực, bút lông, và giấy hoặc lụa để làm lễ khai bút
đầu năm. Bên án thư, người ta đặt một đỉnh trầm ngát hương bay tỏa hòa lẫn
với hương xuân giao mùa ngoài cửa. Ngày xưa, nội dung bài khai bút thường
là một câu đối, một bài thơ đường luật ứng tác, hoặc một câu danh ngôn. Đôi
khi bài khai bút lại là một vài lời tâm nguyện dành cho năm mới. Sau này, nội
dung bài khai bút được biến hóa phong phú hơn tùy theo hoàn cảnh, sở thích,
và thông điệp mà mỗi cá nhân muốn truyền tải cho bạn bè, đồng nghiệp, hoặc
hội đoàn của mình. Bài khai bút sau đó được đặt ở một nơi trang trọng. Có khi
là mở đầu một cuốn sổ nhật ký hoặc một án thư. Khi bài khai bút là những
câu đối thì sẽ được treo trang trọng trong thư phòng hoặc phòng khách. Nói
chung, lễ khai bút là một phong tục đẹp của người Việt Nam với mong muốn
hướng tới tinh thần trọng ngôn quý ngữ.
TỤC XIN CHỮ ĐẦU XUÂN
Ngoài phong tục Khai bút vào dịp Tết, người Việt ta còn có một phong
tục khác cũng đề cao tinh thần quý chữ. Đó là phong tục Xin chữ đầu xuân.
Vào giờ khắc giao thừa, người Việt ta tin rằng cầu xin khấn nguyện điều lành
vào thời khắc này sẽ rất linh thiêng và ảnh hưởng suốt trong năm. Ngày xưa,
dân ta ở mọi tầng lớp có tục xin chữ đầu xuân và người cho chữ là các thầy
đồ. Các thầy đồ Nho học, Hán học, và Quốc Ngữ học thả hồn theo nét bút mà
tặng lại cho người xin chữ cái tâm tế của mình đã được gửi qua nét chữ và
nội dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Có người cho rằng việc
trao đổi này tựa bán chữ. Nhưng không phải thế! Không có ai bán chữ, mà chỉ
có người mua giấy để xin chữ. Đó là cách tặng lộc qua nét chữ một cách rất
tinh tế và khéo léo của người Việt trong những ngày đầu xuân.
Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điều lành, việc lành trong
ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất.
Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy. Việc mang ý nghĩa này có
ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên
ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn... ta thường bắt gặp những
gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người cho
chữ.
Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút mà
tặng lại cho người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội
dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Việc tưởng như không bình
thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy đồ
không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản
và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.
Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó đang
trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà
Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng
văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người
qua lại. Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Văn Miếu Quốc Tử Giám,
khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn giao cắt với đường Trần Hưng Đạo...
Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. Chỉ một chữ treo trước mặt mà
có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ giá trị
hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.
Tại Văn Miếu Quốc Tử Giám những ngày đầu xuân có đến nửa sân
chen chúc những cô tú, cậu tú đương đại hoặc tương lai quanh các thầy đồ
cho chữ. Bàn thầy đồ có ghi số, mỗi bàn một thầy, cạnh đấy là nơi bán giấy.
Cả hai nơi này đều bị quây chặt bởi người mộ chữ. Để ý kỹ sẽ thấy các thầy
đồ còn rất trẻ. Vui nhất là những cô cậu đang tuổi cắp sách. Có cô cậu còn
phải theo bố mẹ vì sợ lạc. Họ chen nhau mua giấy rồi lại chen nhau xin chữ.
Với khuôn mặt mướt mát mồ hôi, họ hả hê mang các tờ giấy có chữ ra sân.
Thật đẹp là cảnh các cô bé, cậu bé trải giấy xuống nền sân gạch bát để phơi
chữ cho khô. Có cô cậu vì sốt ruột quá đã phải lấy mũ và khăn ra quạt cho
chữ chóng khô. Quả là xúc động nếu nơi này và việc này thực sự là chỗ ban
tặng cho nhau tình nghĩa, hoài bão. Trong số chữ ấy có chữ Đạt, chữ Đăng
Khoa, chữ Tâm... Đây là những chữ để làm người như mẹ cha mong muốn.
Chữ Tâm là bậc nhất, gần gũi và thiết thực. Điều này lứa tuổi nào cũng cần,
cũng phải có. Nhẫn là chữ được nhiều người ở nhiều lứa tuổi khác nhau xin.
Xem ra không phải tất cả những người xin chữ này đều hợp, đều đúng. Có
người bảo người thành đạt cần có chữ Nhẫn treo trước mặt để luôn tỉnh táo
trong công việc. Có người lại bảo chữ Nhẫn là để dùng cho người mới bước
vào đời, mới có công ăn việc làm. Nhẫn đây là nhẫn nại, nhẫn chịu. Ngươi xin
chữ đều có cái lý, cái tình riêng của mình. Mấy năm nay khi phong trào xin
chữ đầu năm thịnh hành thì chữ Nhẫn được tuổi trẻ xin nhiều.
Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. Chỉ một chữ treo trước
mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ
giá trị hơn nhiều những lời rao giảng sáo rỗng.
TỤC DÂNG SAO GIẢI HẠN ĐẦU NĂM
Các nhà thuật số thời xưa cho rằng rằm tháng giêng là ngày vía của
Thiên quan, nên tại các đền, chùa thường làm lễ "dâng sao giải hạn" đầu
năm. Dân gian tin rằng hàng năm mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh, tất
cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Trong 9 ngôi sao thì có sao
tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện
không may, ốm đau, bệnh tật... (người ta gọi là vận hạn). Để giảm nhẹ vận
hạn, người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào ngày đầu năm
(rằm tháng giêng) là tốt nhất. Các sao chiếu mệnh gồm: Sao Thái Dương,
Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thuỷ Diệu, La Hầu và Kế
Đô.
Tuy nhiên, cùng độ tuổi mà nam và nữ lại có sao chiếu mệnh khác
nhau. Ví dụ ở tuổi 37 thì nam là sao La Hầu, nữ lại là sao Kế Đô. Tuổi 47 nam
là sao Thổ Tú, nữ là sao Vân Hán. Tuổi 57 thì nam là sao Thuỷ Diệu, nữ là
sao Mộc Đức. Tuổi 67 thì nam là sao Thái Bạch, nữ là sao Thái Âm... Và như
vậy cứ sau 9 năm, sao đó lại chiếu vào mệnh của mình. Nếu nam thì ở các độ
tuổi 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82 đều là sao La Hầu, còn nữ cũng ở các
độ tuổi ấy lại chịu sao Kế Đô.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào
những ngày nhất định trong tháng, từ đó dân gian cũng hình thành tục dâng
sao giải hạn vào các ngày (âm lịch) như sau:
Sao La Hầu: Ngày mồng 8 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 hàng tháng
Sao Thái Dương: Ngày 27 hàng tháng
Sao Vân Hán: Ngày 29 hàng tháng
Dân gian cũng tin rằng, làm lễ dâng sao giải hạn vào đầu năm và vào
ngày rằm tháng giêng là tốt nhất, vì mọi tai ách, mọi sự xui xẻo ta phải giải trừ
nó ngay từ đầu năm thì suốt cả năm con người đều yên tâm, vui vẻ và hạnh
phúc.
Vì các sao xấu xuất hiện trong tháng vào các ngày khác nhau lại có
hình khác nhau nên việc làm lễ phải chọn ngày, dùng số lượng nến, lập bài vị
và màu sắc phải phù hợp, lại phải thiết kế bàn thờ cho đúng hướng.
TỤC ĐƯA ÔNG TÁO VỀ TRỜI
Theo phong tục cổ truyền của người Việt thì Táo quân gồm hai ông và
một bà, tượng trưng là 3 cỗ, "đầu rau" hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp
của người Việt ngày xưa. Vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân sẽ lên thiên
đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng đế (hay
ông Trời).
Táo quân cũng còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ nơi gia đình mình
cư ngụ và thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp.
Vị Táo quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho
nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm
mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể.
Lễ vật cúng Táo quân gồm có: mũ ông công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ
đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn,
mũ dành cho Táo bà không có cánh chuồn. Những mũ này được trang trí với
các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những dây kim tuyến màu sắc sặc sỡ.
Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông công
(có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấy. Màu
sắc của mũ, áo hay hia ông Táo thay đổi hàng năm theo ngũ hành. Thí dụ:
+ Năm hành kim thì dùng màu vàng
+ Năm hành mộc thì dùng màu trắng
+ Năm hành thủy thì dùng màu xanh
+ Năm hành hỏa thì dùng màu đỏ
+ Năm hành thổ thì dùng màu đen
Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thỏi bằng giấy)
sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị
cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo quân.
Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng
Táo quân một con gà luộc. Gà luộc này phải thụộc loại gà cồ mới tập gáy (tức
gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa
trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang.
Ngoài ra, để các ông và bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền
Bắc người ta còn cúng một con cá chép hãy còn sống thả trong chậu nước,
ngụ ý cá sẽ biến thành Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ được
"phóng sinh" (thả ra ao hồ hay ra sông) sau khi cúng, ở miền Trung, người ta
cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì
đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy là đủ.
Theo truyền thuyết, xưa có hai vợ chồng nghèo phải bỏ nhau. Sau
người vợ lấy chồng mới, còn người chồng cũ vẫn nghèo khó. Trong một lần đi
xin ăn, tình cờ người chồng cũ ta gặp lại người vợ cũ và được hậu đãi. Đúng
lúc đó, người chồng mới về bắt gặp và sinh lòng nghi ngờ. Người vợ uất ức
đâm đầu vào đống lửa chết, người chồng cũ cảm thương chết theo. Người
chồng sau cũng nhảy vào lửa chết. Ngọc hoàng cảm kích phong cho ba
người làm Táo quân - Vua Bếp. Vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, các gia
đình thường mua hai mũ ông, một mũ bà và ba con cá chép để cúng với quan
niệm rằng, Táo quân cưỡi cá chép về chầu trời, tâu với Ngọc hoàng mọi việc
trong năm, cầu may mắn.
TỤC LÀM BÁNH TRÔI BÁNH CHAY TRONG TẾT HÀN THỰC
Tiết Thượng Tỵ mồng ba tháng ba (ngày Tỵ đầu xuân), người Việt Nam
ta có tục lệ ăn tết “Hàn thực” (theo tiếng Hán Việt có nghĩa là ăn nguội), dân
gian gọi nôm na là Tết mồng ba tháng ba hay Tết “bánh trôi bánh chay”, về
nguồn gốc, có thể coi đây là một lễ thức nông nghiệp truyền thống ở Trung
Hoa cổ đại, được đan xen vào văn hóa dân gian Việt Nam. Truyện xưa kể lại
rằng nhà Tấn có người tôi trung là Giới Tử Thôi, sau bị vua hắt hủi nên dắt
mẹ vào rừng ở, đến khi vua nhớ ra công trạng mời về thì Thôi nhất quyết
không chịu, vua không có cách nào liền cho phóng hỏa đốt rừng hòng buộc
Thôi phải đưa mẹ ra. Rốt cuộc cả hai mẹ con chịu chết cháy. Đó là ngày
mồng ba tháng ba. Vua thương xót cho lập miếu thờ, hàng năm đến ngày này
thì làm giỗ, có tục kiêng đốt lửa (thường làm trong 3 ngày = thời gian canh
người chết), đồ ăn trong nhà phải làm sẵn từ hôm trước để hôm sau ăn lạnh
(nguội). Vì vậy mà gọi là “Hàn Thực”. Đến thời Tống, sau 3 ngày còn thực
hiện lễ thức “nhóm lửa lại” rồi mới nấu nướng như ngày thường. Thực ra, “tắt
lửa” và “nhóm lửa lại” là những nghi lễ nông nghiệp có nguồn gốc xa xưa lắm
rồi. Người Việt ta ăn Tết Hàn Thực, có lễ thức làm bánh trôi bánh chay cúng
gia tiên nhưng không kiêng đốt lửa, cũng chắng mấy ai nhớ hay biết gì đến
Giới Tử Thôi. Theo tục lệ cổ truyền người Việt, mùa xuân lấy tiết mồng ba
tháng ba làm ngày tế tổ, đánh dấu sự chuyển thời tiết hàng năm từ mùa xuân
sang mùa hạ. Vì thế đây còn là một ngày hội mùa, một dịp giải trí vui chơi,
gặp gỡ giao duyên trước khi người Việt tiễn biệt những ngày ăn chơi của mùa
xuân.
Món ăn nguội mà người Việt thường dùng trong Tết mồng ba tháng ba
là “bánh trôi” và “bánh chay”. Bánh trôi là thứ bánh tròn, màu trắng, nhỏ như
viên bi đất. Bánh được làm bằng bột gạo nếp bọc nhân đường phèn hay mật
phên xắt vuông hạt lựu. Người ta nặn bánh rồi bỏ vào nồi nước đang sôi. Đun
một lúc cho tới khi bánh nổi lên thì vớt ra đĩa và rắc vừng lên trên. Khi ăn,
bánh có vị ngọt của đường/mật, vị thơm của vừng và cái dẻo ngon của bột
nếp hòa quyện vào nhau rất tinh tế. Dân gian coi hình tròn của bánh là tượng
trưng cho Trời (Dương), hình vuông của nhân là tượng trưng cho Đất (Âm).
Trời bao bọc đất, Âm Dương tan hòa vào nhau. Ông cha ta quan niệm đó là
sự giao hòa của vũ trụ, tạo vật và con người, đó cũng là lúc vạn vật sinh sôi
nảy nở, cây cối tốt tươi.... Một mô típ tín ngưỡng phồn thực phổ biến trong cư
dân nông nghiệp.
Còn có một chuyện kể khác về ý nghĩa của bánh trôi bánh chay. Đó là
sự mô phỏng tích trăm trứng trăm con của truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Lễ tục này được diễn lại vào lễ hội Đền Hùng (10/3 âm lịch) và ngày hội đền
Hát Môn (5/3 âm lịch) — Đền thờ Hai Bà Trưng. Trong lễ này, dân làng làm
một mâm gồm 100 cái bánh trôi để dâng cúng, sau khi thắp hương xong họ
chia số bánh làm 2 phần: 50 cái đặt trên bè sen thả xuống sông, 50 cái đem
rước đặt lên đỉnh núi. Đó cũng chính là biểu tượng của sự phân chia Cha
Rồng Mẹ Tiên với 50 người con theo mẹ lên non và 50 người con theo cha
xuống biển. Tập tục này không chỉ mang yếu tố tín ngưỡng đơn thuần mà còn
là ý thức nhắc nhở con cháu người Việt luôn nhớ tới cội nguồn, khẳng định
sự đoàn kết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Sau khi xong lễ đặt và thả
bánh, mọi người được phép ào vào tranh nhau lấy bánh để cầu phúc lộc...
Ngoài bánh trôi còn có bánh chay, hay “bánh dùng”, “bánh mật” như
thường gọi ở một số làng quê vùng Đất Tổ (Vĩnh Phúc, Phú Thọ). Bánh này
hình tròn bẹt, cũng được làm bằng bột gạo nếp, khác ở chỗ nhân bánh làm
bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ rồi đỗ chín được bóp nhuyễn. Khi ăn người ta
không bày ra đĩa mà xếp vào bát, mỗi bát 3 chiếc bánh rồi chế nước đường
hoặc bột sắn dây khuấy loãng, thả thêm trên mặt bát một ít đỗ xanh đồ chín
hoặc vừng. Người ta cho rằng 3 chiếc bánh tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt
Trăng, Trái Đất, đỗ và vừng là các vì sao lớn nhỏ... tất cả hợp thành vũ trụ
trong món ăn. Tuy nhiên đấy là cách diễn giải cầu kỳ và lý thuyết của người
phố thị, còn ở chốn thôn quê bình thường thì món bánh chay (bánh mật/bánh
dùng) được làm giản đơn hơn: Bột nếp hòa nước nguội nặn thành bánh tròn
dẹt vừa trong lòng bàn tay; không cần nhân bánh; hòa mật (mía) với nước
đun sôi cho vừa sánh thì thả bánh vào; bánh chín cho ra bát hoặc đĩa lõm,
chan nước mật cho ngập mặt bánh, có thể rắc thêm vừng hoặc ăn vậy cũng
rất ngon. Bánh này có vị ngọt đậm đà của mật kết hợp với sự dẻo quánh của
nếp thơm tạo nên một ấn tượng dân dã, khó quên. Đã từng là một món quà
mà lũ trẻ con rất ưa chuộng trong những năm tháng của ngày xưa, chỉ được
thấy vị ngọt của kẹo của đường trong một năm đôi ba lần Tết.
Bánh trôi và bánh chay là hai thứ bánh có hương vị đặc biệt riêng của
Việt Nam, lại có ưu điểm là dễ làm, chỉ xem hoặc đọc qua một lần là biết. Vì
thế cho nên bánh trôi và bánh chay vẫn được dân gian bảo lưu truyền từ đời
này sang đời khác, ở vùng này vùng khác. Đây là một trong những nét đẹp
văn hóa dân tộc của người Việt, không riêng về ẩm thực. Như thi sĩ Hồ Xuân
Hương đã từng viết những câu thơ mang hàm ý sâu sắc rất nổi tiếng - Bài thơ
Bánh trôi nước:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Có thể nói rằng tục làm bánh trôi, bánh chay trong Tết Hàn Thực là một
phong tục đẹp, cần được lưu giữ.
TỤC TẢO MỘ TRONG TIẾT THANH MINH
Hàng năm, mọi gia đình đều đi tảo mộ. Người ta vun những nấm mồ,
chặt cây cối quanh mả, nói chung là làm đẹp cho mộ phần ông bà tổ tiên. Mộ
có ngôi lớn, ngôi nhỏ, cao thấp khác nhau. Nhà giàu thì xây đắp công phu
hơn. Với tình cảm của mình, người sống biểu lộ bằng hình thức cúng giỗ hay
biểu lộ tình yêu thương bằng cách sửa sang thăm viếng mồ mả. Dù con cháu
có cuộc sống không mấy sung túc cũng không được bỏ quên nấm mồ nơi hiu
quạnh, nơi mà họ đã gửi thân xác ông bà cha mẹ họ. Vì vậy, sửa sang nấm
mồ cũng nằm trong tính hiếu đạo của con cái. Người Việt Nam có câu “Cao
nấm ấm mồ”. Việc sửa sang cho nấm mồ không những để ấm lòng người
chết mà còn ấm lòng người còn sống, cảm thấy ta làm một việc vô cùng ý
nghĩa. Người sống thấy nấm mồ được vun cao sạch sẽ thì biết người nằm
đấy vẫn còn được con cháu phụng thờ. Theo phong tục, tảo mộ diễn ra vào
tháng Giêng. Đó là thời gian rảnh rỗi, không bận việc đồng áng, là mùa trẩy
hội. Người ta quan niệm rằng “sống sao thì chết vậy”, khi người sống đón một
năm mới cũng trang hoàng nhà cửa cùng với con cháu tập trung về vui vẻ,
người ta muốn chia sẻ niềm vui ấy với người ở thế giới bên kia bằng lòng
thành kính của mình thông qua việc làm này.
Thanh minh là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người
phương Đông coi là một lễ tiết hàng năm. Tiết thanh minh đến sau ngày Lập
Xuân 45 ngày. Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa. Khi
tiết Xuân Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết, bầu trời trở nên
quang đãng, sáng sủa là sang tiết thanh minh (thường bắt đầu trong tháng ba
hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tùy từng năm).
Lễ tảo mộ chính là sửa sang ngôi mộ cho được sạch sẽ. Nhân ngày lễ
thanh minh người ta mang theo cuốc xẻng để đắp lại nấm mộ cho to, rẫy hết
cỏ dại và những cây hoang mọc lên mộ có thể phạm tới hài cốt của ngươi
thân đã khuất. Sau đó cắm mấy nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó
hoa dâng cho vong hồn người quá vãng. Bên cạnh những ngôi mộ được
trông nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng.
Những người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén
hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa
còn lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh
và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng. Trong ngày tảo
mộ, bãi tha ma vốn vắng lặng bỗng trở nên đông đúc. Mọi người đi tảo mộ
đều ăn vận rất chỉnh tề, lo khấn vái nơi phần mộ. Cả trẻ em cũng có thể theo
cha mẹ đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là bố
mẹ muốn tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người
quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này để tảo mộ gia tiên và
sum họp với đại gia đình. Thường người ta đi tảo mộ từ sáng sớm cho đến
gần trưa.
Thường người ta đi tảo mộ vào tiết thanh minh trời quang mây tĩnh, và
sau đó kính mời hương hồn tổ tiên về hưởng cỗ con cháu cúng trong dịp này.
Nhưng cũng có nhiều nơi người ta tảo mộ vào dịp trước và sau ngày Tết.
Nhiều làng ở vào vùng đất thấp, tới vụ nước, ruộng nương và cả bãi tha ma
đều ngập nước, thì người ta đi tảo mộ vào đầu tháng chín, sau khi nước đã
rút. Dù đi tảo mộ vào ngày nào thì việc thăm nom mồ mả tổ tiên cũng là việc
hay. Nghĩ đến gia tiên tức là nghĩ đến gốc, tưởng đến nguồn.
Tiết thanh minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ cúng gia tiên sau khi
viếng mộ về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ là cúng
riêng một ngôi mộ. Còn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và khấn
tất cả gia tiên nội ngoại về phối hưởng. Người ta thường cúng mặn trong
ngày thanh minh, nghĩa là có làm cỗ, hoặc không làm cỗ thì cũng có đĩa xôi,
con gà cùng với hương hoa, trà rượu, vàng mã. Và đồng thời với việc cúng tổ
tiên cũng có cúng thổ công như trong mọi dịp.
Mỗi người có một chốn quê để về, sửa sang mồ mả cốt chỉ mang một ý
nghĩa bày tỏ lòng kính trọng, cho lòng người cảm thấy thanh thản. Đó cũng là
hành động của tình cảm gia đình nằm trong “đạo thờ ông bà” của nhân dân ta
đã trở thành phong tục. Phong tục ấy in sâu trong mỗi con người. Dù tất bật
trong cuộc mưu sinh nhưng chốn quay về vẫn là gia đình, ở đó có sự cảm
thông tha thứ cho những lầm lỗi và tri ân nhưng người đã khuất, về quê tảo
mộ mỗi dịp xuân về đã trở thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, là
quay về với nguồn cội. Người ta ví: “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn,
nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” là vậy.
Hay như: “Con người có tổ có tông
Cái cây có cội, con sông có nguồn”.
Theo sách "đại Nam thống Chí" nhiều nơi ở miền Bắc nhất là quanh
vùng Hà Nội còn có tục cả họ (nghĩa là tất cả mọi người trong cùng một gia
tộc) tụ họp nhau lại để cùng đi tảo mộ tổ tiên và thân quyến quá cố, vào
những ngày trước Tết... Có nơi thì đi thăm mộ vào những ngày đầu năm. Tục
tảo mộ của ta khác với tảo mộ của Trung Hoa là vào tháng ba âm lịch, do đó
thơ Kiều mới có câu:
"Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh...".
Đối với cư dân thành thị, những người đã khuất được mai táng trong
các nghĩa trang ở thành phố, do vậy thường khó duy trì việc những người
trong gia đình, dòng họ khi khuất núi được chôn cất gần gũi, đầm ấm với
nhau như ở thôn quê. Nhưng cứ mỗi dịp cuối năm, khi sắp đến Tết Nguyên
đán, người thành thị cũng luôn sắp xếp thời gian để đi thăm viếng, chăm sóc
phần mộ ông bà, cha mẹ, người thân của mình để tỏ lòng hiếu thuận. Thăm
viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của văn hóa cổ truyền, một tục lệ
trong “đạo thờ ông bà” của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành truyền thống. Dù
tất bật thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ở
nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia đình. Nhiều gia đình cho rằng mỗi dịp
tảo mộ cũng là một dịp giãi bày với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy đến
trong năm với cả gia đình, dòng họ; cũng là để thành tâm mời ông bà tổ tiên
chuẩn bị cùng về ăn Tết với gia đình.
Do đó, theo sau phong tục này có tục rước ông bà vào trưa ngày 30 âm
lịch, và đưa ông bà, thường là vào trưa mồng ba hoặc mồng bốn, tùy theo tập
quán ở mỗi địa phương, và nếp sống của mỗi gia đình. Thường thì ngày tiễn
đưa ông bà cũng là ngày cuối cùng của những ngày nghỉ ngơi vui Tết, mọi
người trong gia đình lại quay trở về với cuộc sống thường nhật, với những
công việc phải làm, cùng với lòng tin là sẽ được tổ tiên phù hộ cho những
ngày tiếp sau đó.
TỤC ĂN RƯỢU NẾP GIẾT SÂU BỌ TRONG TẾT ĐOAN NGỌ
Theo quan niệm xưa thì trong cơ thể con người nhất là bộ phận tiêu
hoá, thường có sâu bọ, nếu không trừ khử thì sẽ ngày càng sinh sôi nảy nở,
gây nguy hại cho con người. Nhưng giết chúng không phải dễ, và trong chu
kỳ một năm thì ngày mồng năm tháng năm chúng mới lộ diện nên mới có thể
giết chết. Giết sâu bọ bằng thức ăn, có trái cây và rượu nếp, và sau khi ngủ
dậy, súc miệng và giết chúng ngay, trước hết ăn rượu nếp vào cho chúng
say, sau đó ăn trái cây vào làm cho chúng chết. Đối với con trẻ, có tục bôi vào
hai bên thái dương và rốn bụng một ít nước Thần sa và Chu sa để cho con
trẻ được an toàn hơn. Như vậy để chuẩn bị cho tục giết sâu bọ, mọi ngươi
mọi nhà đều mua sắm và hái sẵn trái cây bày cỗ cúng. Rượu nếp được ăn
ngay khi vừa ngủ dậy thì rất hiệu nghiệm. Rượu này chủ yếu là xôi còn
nguyên hạt lên men, còn gọi là "cái". Người dân thường dùng các loại gạo
nếp trắng và nếp cẩm đồ thành xôi, để nguội rồi rắc men, ủ trong ba ngày.
Thúng xôi ủ được đặt trên một chiếc chậu, hứng lấy nước rượu để khi ăn,
trộn với cái, tạo vị ngọt, cay rất dễ chịu. Người già, con trẻ đều có thể ăn loại
rượu này.
Xưa kia, mỗi dịp Tết Đoan Ngọ, từ ngày mồng 3, mồng 4, các cô hàng
rượu nếp, với đôi quang gánh treo một chùm ớt cùng một ít lá cây có tính khử
trùng cho rượu, len lỏi rao bán trong các xóm ngõ. Khách mua nhiều để dành
ăn vài bữa không sợ hỏng.
TỤC ĐI SÊU TRONG TẾT ĐOAN NGỌ
Ca dao có câu:
"Tháng Tư đong đậu nấu chè
An tết Đoan Ngọ trở về tháng Năm..."
Tết Đoan Ngọ là một tết cũng được sự chú ý của người Việt Nam ta
xưa, nay. Theo sách "Phong thổ ký" thì Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa
trưa. Đoan Ngọ là bắt đầu lúc giữa trưa, sở dĩ được gọi như thế vì tháng năm
là tháng có nắng to, khí dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa. Tết
Đoan Ngọ ăn vào ngày mồng năm tháng năm âm lịch. Cũng như các tết khác,
tết Đoan Ngọ cũng có cúng lễ (lễ đền, miếu, thần linh, tổ tiên và ông bà).
Ngoài tục giết sâu bọ như đã nói trên có lẽ tục người ta chú ý nhất là tục lễ
sêu - một tục lệ mang đầy tính nhân văn giữa người với người, con cháu với
ông bà, cha mẹ, người bệnh với thầy thuốíc, học trò với thầy giáo. Những
chàng trai đã dạm vợ hoặc hỏi vợ nhưng chưa cưới thường đi sêu bố mẹ vợ
nhân ngày Tết Đoan Ngọ.
Lễ sêu trong dịp này bao giờ cũng có đậu xanh mới hái vào tháng tư,
gạo nếp của vụ chiêm. Ngoài ra tháng năm cũng là mùa ngỗng và mùa chim
ngói, cùng với gạo nếp, đậu xanh, bao giờ cũng có một đôi ngỗng và một, hai
chục chim ngói. Kèm thêm là cân đường cát, quả dưa hấu, nghĩa là toàn
những sản phẩm trong mùa.
Chàng rể đi sêu, lẽ tất nhiên bố mẹ vợ nhận đồ lễ, nhưng bao giờ cũng
hoàn lại một phần, thường chỉ nhận một nửa. Bởi lễ trọng ở lòng thành, chứ
không trọng ở chỗ nhiều ít. Theo tập quán ít ai nhận đồ biếu Tết mà không lại
quả, nghĩa là để lại cho người biếu một nửa. Có những trường hợp các chàng
rể nài nỉ để bố, mẹ vợ nhận hết, bố mẹ vợ sẽ nói: "Thầy mẹ đã nhận cả,
nhưng đây là thầy mẹ gửi biếu ông, bà đằng nhà...".
Chỉ những chàng rể chưa cưới vợ mới đi lễ sêu, còn những chàng rể
đã cưới vợ rồi thì hết lễ sêu, nhưng trong dịp tết Đoan Ngọ (hoặc các dịp lễ,
tết khác) các chàng rể dù nghèo vẫn cố chạy món quà nhỏ để biếu bố, mẹ vợ.
Lễ biếu này nhiều, ít tuỳ tâm và không quan trọng bằng lễ sêu. Các ông đồ
xưa dạy học thường không lấy học phí. Hàng năm vào dịp mồng năm tháng
năm các học trò đều có đồ lễ tết thầy. Thúng gạo, đôi ngỗng, phong chè, gói
bánh hoặc túi hoa quả, tuỳ tâm bố mẹ học trò. Những gia đình giàu có thường
phong bao một số tiền. Học trò cũ đã làm nên danh vọng cũng không quên
thăm thầy vào dịp này. Các con bệnh được các ông lang chữa khỏi bệnh,
mặc dù đã trả tiền thuốc, nhưng cũng không quên ơn cứu mệnh cho mình,
nên trong dịp tết Đoan Ngọ (còn gọi là tết hái thuốc) cũng mang quà tết thầy
lang. Đồ lễ cũng gồm: đậu xanh, gạo nếp, ngỗng, chim ngói... như đồ lễ học
trò tết thầy học. Thế đấy, người Việt Nam ta ăn tết Đoan Ngọ để mừng mùa
lúa chiêm bội thu, rau, đậu sai quả, chim, thú nảy nở, ăn mừng kết quả của
những ngày lao động chống nắng, thắng mưa, đem về cái no, cái ấm của mọi
nhà. Cùng với nhiều tục lệ cổ truyền về tết, những tục lệ này đã bảo tồn được
tính chất đặc biệt của nền văn hoá Việt Nam, xây dựng trên căn bản nhân
nghĩa và đạo đức.
Những tục tết thầy học, tết thầy thuốc, tết nhạc phụ, nhạc mẫu, biếu
tặng những người đã tri ân cho mình, chứng tỏ rằng lễ giáo của ta đẹp, giàu
tính nhân văn, đáng được tôn trọng, giữ gìn và phát huy; những ân sâu, nghĩa
trọng không bao giờ chúng ta quên. Dẫu qua bao biến đổi về thời cuộc, song
tết Đoan Ngọ với tục lễ đi sêu vẫn tồn tại trong lòng nhân dân với ý nghĩa
thiêng liêng, riêng biệt và đặc biệt của người Việt xưa, nay.
TỤC "PHÁ CỖ" VÀ "NGẮM TRĂNG" TRONG TẾT TRUNG THU
Theo phong tục người Việt chúng ta, Tết Trung Thu được tổ chức vào
giữa mùa thu, tức là hôm rằm tháng tám. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng
gia tiên và bày bánh trái ra sân cúng mặt trăng. Nhân dịp tết này, người lớn
thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân; trẻ em thì rước đèn, đi xem
múa lân, ca hát các bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng các thứ
trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới hình thức một
mâm cỗ. Theo tục lệ, việc trẻ con thưởng thức bánh kẹo trái cây trong đêm
Trung Thu này được gọi là "phá cỗ." Người Việt ta ăn Tết Trung Thu vào ngày
rằm tháng tám âm lịch là do ta phỏng theo phong tục của người Trung Quốc.
Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713 - 741 Tây Lịch) dạo chơi
vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng
rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang
thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp
Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí
lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với
âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những
xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên
cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn
bàng hoàng luyến tiếc.
Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra
Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân
gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với
Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ
niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và
bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.
Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám
âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày
rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình
nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày
tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành
tục lệ. Người Trung Quốc và người Việt đều làm bánh trung thu để cúng, ăn,
biếu thân bằng quyến thuộc, và đãi khách. Điểm chung kế tiếp là ngươi Trung
Quốc và người Việt đều tổ chức rước đèn trong đêm trung thu.
Theo phong tục người Việt, bố mẹ bày cỗ cho các con để mừng trung
thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các
con rước đèn. Cỗ mừng trung thu gồm bánh trung thu, kẹo, mía, bưởi, và các
thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để con cái hiểu được sự săn sóc quí mến
của cha mẹ đốì với mình một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng
khắng khít thêm. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu
để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân
nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để
người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.
Người Trung Quốc hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán.
Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung
Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Quốc không có những
phong tục này.
Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung
Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình". Ngày xưa trai gái
dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm
tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn
trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát
biến thể để hát.
Tết Trung Thu mới đầu là tết của người lớn để thưởng thức cảnh đẹp
thiên nhiên, ăn bánh, và uống trà ngắm trăng rằm vào giữa tiết Thu. Dần dần
Tết Trung Thu trở thành Tết Trẻ Em hay Tết Nhi Đồng, nhưng người lớn cũng
dự phần trong đó. Các em có dịp vui chơi rước đèn, ca hát, phá cỗ do cha
mẹ, anh chị bày cho và nhất là có dịp ăn bánh kẹo thả cửa mà không sợ bị
quở mắng là "ăn kẹo hư răng".
Tết Trung Thu là một phong tục rất có ý nghĩa. Đó là ý nghĩa của chăm
sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ, và của thương
yêu. cần cố gắng duy trì và phát triển ý nghĩa cao đẹp này.
Chương 2. PHONG TỤC DÂNG HƯƠNG CÚNG GIỖ
Theo tập quán lâu đời, người dân Việt lấy ngày giỗ (ngày mất) làm
trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí
người đã khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia
đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người
sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên
mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt
đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm
ăn. Với ý nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" việc đó có thể xếp vào loại thuần
phong mỹ tục.
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày
mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. Nguyên
ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ có "lễ
tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên
mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con làng xóm
ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì
kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách
một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Tóm lại, nếu vận
dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ
tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng
buổi sáng. Trong dâng hương cúng giỗ, chúng ta có những phong tục sau:
BÀN THỜ TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
Người Việt từ xa xưa đã có phong tục thờ cúng tổ tiên - đó là lòng
thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, cụ kị đã khuất.
Người Việt có niềm tin rằng: chết chỉ là sự tiêu tan của thể xác, còn linh hồn
vẫn còn và luôn trở về với gia đình. Chết chẳng qua chỉ là một cuộc trở về
gặp ông bà, tổ tiên. Vong hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để
gần gũi con cháu, theo dõi họ trong công việc hàng ngày và giúp đỡ (phù hộ)
họ trong những trường hợp cần thiết. Và người Việt còn tâm niệm: "trần sao
âm vậy" - người sống cần gì, sống như thế nào thì người chết cũng như vậy.
Bởi tin thế, nên việc lập bàn thờ đế thờ cúng tổ tiên là điều không thể thiếu
trong đời sống con người.
Ngôi nhà truyền thống của người Việt thường có ba hoặc năm gian,
trong đó gian giữa được coi là chỗ trang trọng nhất, là trung tâm của ngôi
nhà. Những việc quan trọng như: thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt... đều diễn
ra ở gian này. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn thấy trời
đất lưu thông, âm dương hòa đồng để rồi cảm hoá lẽ đời. Bàn thờ là nơi thể
hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên nên bàn thờ thường được
lập ở chính giữa gian giữa ngôi nhà, gia chủ không được kê giường ngủ đối
diện với bàn thờ. Tuỳ quy mô ngôi nhà và cũng tuỳ mức sống từng gia chủ
mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau.
Những gia đình nghèo khó, với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ,
thì bàn thờ có khi chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa, bên
trong có bát hương nhỏ. Còn ở những gia đình thuộc loại "thường thường
bậc trung" trở lên, thì bàn thờ cầu kỳ hơn. Có người còn dùng mặt tủ làm bàn
thờ hoặc đóng cái giá gác làm lên tường. Cho dù bàn thờ có được thiết kế ra
sao thì điều quan trọng nó luôn phải ở vị trí trang trọng, có độ cao thích hợp
để khi cúng mọi người tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với tổ
tiên.
Bàn thờ thiêng liêng nhưng vẫn gần gũi với cuộc sống sinh hoạt gia
đình. Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ
và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị có một hương án rất cao. Trên hương án
này, tại chính giữa là một bát hương để cắm hương khi cúng lễ. Bát hương
được chăm nom rất cẩn thận, chu đáo, và không được xê dịch. Đằng sau bát
hương là một chiếc kỷ nhỏ, trên kỷ có ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm
cầm. Ba đài này đựng ba chén rượu nhỏ lúc cúng lễ. Hàng ngày, đài được
đậy nắp để tránh bụi bặm, chỉ mở ra trong những dịp lễ tết, ngày rằm, mồng
một. Hai bên bát hương là hai cây đèn (hai ngọn đèn dầu) hoặc hai cây nến
(ngày nay tại các đô thị, người ta thắp hai cây đèn điện). Gần hai bên bát
hương, ngoài hai cây đèn có khi còn có hai con hạc chầu hai bên. Ở mé ngoài
hai cây đèn, gần hai đầu hương án là hai ống hương dùng để đựng hương.
Ngoài các đồ thờ trên, còn có một lọ lộc bình hoặc đôi song bình bày
trên bàn thờ để cắm hoa trong những ngày giỗ chạp, ngày Tết. Tấm biển treo
cao nằm ngang trên mé trước bàn thờ, trên có những chữ Hán thật lớn, nhiều
nhà dùng chữ Nôm (thường là ba, bốn chữ) làm hoành phi. Hai bên cột hoặc
hai bên tường nhà có treo những câu đối như:
"Tổ công phụ đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiên vạn đại vinh"
Hoặc:
"Phúc sinh phú quý gia đường thịnh
Lộc tiến vinh hoa tử tôn hưng"
Những chữ viết trên hoành phi, câu đối là tỏ lòng tôn kính của con cháu
đối với tổ tiên hoặc để ghi tụng công đức của tổ tiên. Những nhà khá giả, giàu
có thì hoành phi, câu đối được làm bằng gỗ sơn son thếp vàng hay sơn đen
khảm xà cừ, còn nhà nghèo thì hoành phi thường là những tấm cót đóng nẹp,
dán lên những tờ giấy đỏ có viết chữ lớn, đôi liễn hay những tờ giấy hồng có
viết những câu đối.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, kiến trúc nhà ở nông thôn ít biến
đổi, nên kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng, song những ngôi nhà
có kiến trúc hiện đại, nội thất hiện đại ở thành phố thì cách bố trí và các đồ
thờ cũng có nhiều biến đổi sao cho phù hợp với toàn cảnh ngôi nhà (chiếc
hương án cầu kỳ, những bức hoành phi, câu đối không còn phù hợp với nội
thất nhiều gia đình).
Bàn thờ là nơi thiêng liêng nên người ta không để các thứ lặt vặt, các
vật dụng thường ngày trong sinh hoạt lên bàn thờ mà lúc nào cũng phải giữ
bàn thờ và đồ thờ được sạch sẽ, uy nghiêm. Và bất cứ trong hoàn cảnh nào,
dù túng thiếu đến mấy người ta cũng không đem cầm cố hay bán đồ thờ.
Trước mỗi biến cố xảy ra trong gia đình (chẳng hạn như: dựng vợ gả
chồng cho con cháu; con cháu chuẩn bị đi thi; làm nhà mới; làm ăn; vợ sinh
con; lập được công danh; trọng nhà có người đau ốm, có người chuẩn bị đi
xa, làm việc lớn...), gia chủ đều khấn vái gia tiên, trước hết là để trình bày sự
kiện, sau là để xin sự phù hộ.
Mỗi lần cúng tế, tùy theo các gia chủ nghèo, giàu và tùy những buổi lễ,
đồ lễ có thể gồm: rượu, hoa quả, vàng hương, xôi chè, oản, chuối, cỗ mặn, có
khi thêm đồ hàng mã... và nhất thiết không thể thiếu một chén nước tinh khiết
(nước mưa) bởi nước mưa biểu hiện cho sự trong sạch tâm linh trước tổ tiên,
thánh thần. Trong những trường hợp cần thiết, đồ lễ có thể chỉ cần một chén
nước mưa, một nén hương thắp lên bàn thờ là đủ. Bàn thờ khi làm lễ phải có
thắp đèn hay thắp nến. Hương trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ (một
hoặc ba nén...) và các nén hương phải được cắm ngay ngắn. Khi chân
hương trong bát hương đã đầy, gia chủ thắp hương xin phép tổ tiên nhổ chân
hương, đem hóa thành tro rồi đổ xuống ao hồ.
Bàn thờ tổ tiên là điểm hội tụ truyền thống tốt đẹp của gia đình, gợi lên
một chiều sâu tâm linh "cây có gốc, nước có nguồn", biểu hiện nếp sống văn
hóa biết vun trồng gốc để cây đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, và từ đó sẽ toả
sáng giá trị văn hóa soi cho con cháu bước vào tương lai.
TỤC LẬP BÀN THỜ VỌNG
Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp dụng cho con cháu sống xa
quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ tiên hương khói trong những
ngày giỗ, tết. Nhưng, ngày xưa với nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp,
người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên
cạnh cũng đã gọi là "biệt quán ly hương", vì vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện
tượng cậ biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến.
Xuất phát từ chữ "Vọng bái", nghĩa là vái lạy từ xa: Khi có những điển
lễ lớn của triều đình, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các
quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường,
thắp hương, nến, quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con
cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về
quê làm lễ tương tự. Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời.
Các thiện nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn
Kiếp, Đức Thánh Mẫu ở Đền Sòng... dần dần về sau đường sá xa xôi, cách
trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập
trung, dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau
cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến đền thờ chính xin
bát hương về thờ. Những đền thờ đó gọi là Vọng từ (thí dụ ở số nhà 35 Tôn
Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là đền thờ vọng của Núi
Sòng, tức là thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng thờ ông bà cha mẹ chỉ lập khi con cháu sống xa quê.
Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn, nếu sống gần quê, trên
đất tổ lưu lại thì đến ngày giỗ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến
nhà thờ, không có nhà thờ thì đến bàn thờ nhà con trưởng mà làm lễ, cho dù
cửa trưởng chỉ thuộc hàng cháu, các chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng
ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối với cửa
thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người thứ hai
thê trưởng được quyền lập bàn thờ chính, mà bàn thờ ở nhà người anh cả xa
quê lại là bàn thờ vọng.
Phong trào này rất hay và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ chữ "hiếu" đi đôi với
chữ "đễ". Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong
muốn anh chị em sống hoà thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu
cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một
nơi, thì đó là mầm mống của sự bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản
được.
Nhà nào nếu có nhà riêng tương đối rộng rãi khang trang, thì bàn thờ
đặt hẳn một phòng riêng chuyên để thờ cúng cho tôn nghiêm, hoặc kết hợp
đặt ở phòng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách, nếu đặt bàn thờ gia thần
riêng, thì bàn thờ vọng gia tiên phải thấp hơn bàn thờ gia thần một ít. Bàn thờ
vọng thường hướng lưng về quê chính, để khi người gia trưởng thắp hương
vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Thí dụ: Người quê miền Trung bộ, Nam
bộ sống ở Hà Nội thì đặt bàn thờ vọng phía nam căn phòng, hay ngoài sân,
ngoài hiên, hướng về nam. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ
trường hợp nhà chật hẹp quá thì phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp,
hoặc cạnh lối đi. Đối với những gia đình ở tầng khu tập thể nếu câu nệ quá thì
không còn chỗ nào đặt được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ đặt một
lọ cắm hướng đầu giường nằm của mình cũng đủ, miễn là có lòng thành kính,
chẳng cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp, rộng hẹp ra sao.
NGUỒN GỐC VÀ TỤC LỆ CÚNG GIỖ
Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho
nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã
khuất mà cúng giỗ. Đây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong
dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ
gìn gia phong.
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày
mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Trước đây, "Lễ Giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ": chiều hôm trước lễ chính kỵ có
"Lễ tiên thường" (Nghĩa là nêm trước), con cháu sắm một ít lễ vật, dâng lên
mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà giàu có mời thông gia, bà con
làng xóm đến ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần vì khách đông
phải chia ra hai lượt; lại có những nhà hàng xóm mời cả hai vợ chồng nên
luân phiên nhau, người đi lễ tiên thường, người đi lễ chính kỵ, ở nông thôn
tuỳ theo thời vụ, muốn "Vừa được buổi cày vừa hay bữa giỗ", buổi chiều đi
làm đồng về, sang hàng xóm ăn giỗ tiện hơn nên có nơi lễ tiên thường đông
hơn là lễ chính kỵ. Dần dần vì bận việc, vì kinh tế eo hẹp hoặc vì thiếu người
phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa,
trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Một vài nhà làm, những người khác thấy thuận
tiện bắt chước, dần dần trở thành tục của địa phương. Việc cúng ngày sống
(tức lễ tiên thường vào chiều hôm trước, nguyên xưa chỉ cúng vào buổi chiều
vì buổi sáng còn phải mua sắm nấu nướng và ra khấn ở mộ yết cáo với thổ
thần, long mạch xin phép cho gia tiên về nhà dự lễ giỗ). Cúng ngày sống hay
cúng ngày chết, hay nói cách khác lễ tiên thường hay lễ chính kỵ, lễ nào là lễ
quan trọng hơn, chẳng qua đó là cách biện hộ cho phong tục từng nơi. Nếu
vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày
chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải
cúng buổi sáng kể cả chiều hôm đó mới chết.
ĐỜI CÚNG GIỖ
Theo gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn
thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới
mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và
tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ
(cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ. Từ "Cao"
trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ
xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
NHỮNG MÓN ĂN ĐỂ CÚNG GIỖ
Trước đây, trong các lễ cúng đình, cúng miễu hàng năm, ngoài phần lễ
và hội vui, còn có tổ chức ăn uống. Tùy theo từng lễ cúng lớn hay nhỏ, làng
giàu hay nghèo, năm mất mùa hoặc được mùa, mà quy mô cuộc lễ cũng như
vật phẩm dâng cúng có thay đổi. Trong lễ cúng lớn, người ta giết trâu hay bò,
nhưng thường là mổ lợn. Cúng miễu, thì thường là cỗ xôi, với chiếc đầu lợn,
nhỏ hơn nữa thì cỗ xôi và con gà. Vịt, ngỗng, chim thường ít dùng để cúng lễ.
Gà cúng phải chọn gà trống non, béo, mổ khéo và luộc nguyên con để trên
đĩa, không chặt thành miếng. Trước khi luộc gà để cúng người ta uốn sửa
đầu cánh con gà sao cho ngay ngắn, cân phân, để sau khi luộc đặt gà lên
mâm trông như con gà đang nằm. Luộc gà phải biết đun vừa lửa, thịt chín, da
không bị nứt. Ngoài món thịt gà hay thịt lợn, lễ vật dâng cúng thường có các
loại bánh nếp gói lá chuối hay lá dong và các loại trái cây.
Cỗ ngày Tết: Ba ngày Tết là những ngày ăn uống, vui chơi, thăm hỏi và
chúc tụng nhau những điều tốt lành. Do vậy nhà nào dù giàu hay nghèo cũng
đều chuẩn bị mâm cơm ngày Tết sao cho đàng hoàng, có thịt, có bánh mứt,
có trái cây. Nhà khá hơn thì có nem, có chả và vài món đặc sản đắt tiền để
cúng ông bà, tổ tiên, sau đó đãi khách. Thịt thì chủ yếu là thịt lợn và thịt gia
cầm. Thịt bò, trâu, dê thường ít dùng để cúng trong ngày Tết. Ở một số tỉnh
miền nam, trong ngày Tết, hầu như nhà nào cũng có nồi thịt lợn kho chung
cùng cá lóc, cá bông lau và trứng vịt, dĩ nhiên không thể thiếu nước dừa, còn
có thêm một nồi canh mướp đắng để nguyên quả nhồi thịt. Nhà khá giả hơn
thì gói thêm vài chục gói nem, đôi cây giò lụa, bì bó. Đặc biệt là món dưa
chua, có thể là dưa giá, dưa cổ hũ dừa, củ kiệu dùng để ăn kèm với thịt mỡ
cho đỡ ngán. Trong ba ngày Tết, bà con ta thường giữ tâp quán mời khách
ăn uống dù ít hoặc nhiều khi khách đến nhà. Thường qua ngày mồng 4,
người ta tổ chức ăn nhẹ. Tô cháo gà nấu loãng, hoặc cháo cá lóc ăn nóng với
rau ghém có nõn chuối non xắt mỏng với các loại rau thơm, sau những bữa
ăn nhiều chất béo, có tác dụng gây cảm giác nhẹ nhàng, dễ chịu. Dưa hấu
cũng là món không thể thiếu được trong ngày Tết. Chất ngọt dịu và mát của
miếng dưa hấu sẽ góp phần đẩy lùi cảm giác ớn, ngấy vì những món ăn, thức
uống của ngày Tết gây ra.
Mâm cỗ trong đám tang, đám giỗ: Một tập tục lâu đời là gia đình có
tang bên cạnh khay trầu, cau, thuốc lá, nước trà để tiếp khách, thường cố
gắng chạy cho được con lợn, dù lớn hay nhỏ, để làm cỗ thết đãi bạn bè bà
con, láng giềng đến giúp đỡ, phúng điếu, lo toan mọi việc chôn cất, trong khi
gia chủ bối rối nhiều thứ. Khác với người phương Tây, người ta kỷ niệm ngày
sinh là chủ yếu còn người phương Đông thì coi ngày chết, lấy đó làm kỷ niệm
hằng năm, tổ chức cúng giỗ để tưởng nhớ ngưòi đã khuất. Tùy theo từng gia
đình, từng hoàn cảnh mà mâm cỗ có khác nhau. Giỗ nhà nghèo thì thường
đơn giản. Nhưng dù túng thiếu đến đâu, chủ nhà cũng mua sắm một ít thịt,
cá, rau, trứng để làm mâm cơm dâng cúng người thân quá cố. Những nhà
khá giả, hoặc giàu có, đông con cháu thì đám giỗ được chuẩn bị từ một vài
tháng trước đó. Một số gia đình theo nếp cũ, nhiều khi tổ chức đám giỗ kéo
dài hai ba ngày: tiên thường, chánh giỗ, hậu thường.
VĂN KHẤN KHI CÚNG GIỖ
Trong phong tục thờ cúng tổ tiên thì lễ cúng vong linh người đã khuất
vào các kỳ giỗ: ông, bà, bố, mẹ, chồng (vợ) là quan trọng nhất. Cúng giỗ gia
tiên thể hiện đạo hiếu, thể hiện tấm lòng thủy chung thương tiếc của người
đang sống với người đã khuất. Nên vào ngày giỗ của tổ tiên, nhà giàu thì có
tổ chức cúng lễ linh đình mời họ mạc gần xa, anh em bằng hữu về dự, còn
nhà nghèo túng thì bát cơm, quả trứng, đĩa muối, lưng canh với ba nén
hương, cây đèn dầu cúng người đã khuất. Và trong khi cúng giỗ, không thể
thiếu văn khấn.
Theo tục xưa:
Nếu bố đã chết thì phải khấn là: Hiển khảo
Nếu mẹ đã chết thì phải khấn là: Hiển tỷ
Nếu ông đã chết thì phải khấn là: Tổ khảo
Nếu bà đã chết thì phải khấn là: Tổ tỷ
Nếu cụ ông đã chết thì phải khấn là: Tằng tổ khảo
Nếu cụ bà đã chết thì phải khấn là: Tằng tổ tỷ
Nếu anh em đã chết thì phải khấn là: Thệ huynh, Thệ đệ
Nếu chị em đã chết thì phải khấn là: Thể tỵ, Thể muội
Nếu cô dì chú bác đã chết thì phải khấn là: Bá thúc; Cô dì, Tỷ muội.
Hoặc khấn chung là Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tổ tỷ nội ngoại gia tiên.
Vài điều cần lưu ý khi cúng giỗ tổ tiên:
Đối với ngày giỗ của ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng (còn gọi là giỗ trọng)
thì hôm trước ngày giỗ cần phải có cúng cáo giỗ. Ngày hôm cúng cáo giỗ còn
gọi là ngày tiên thường.
Cúng cáo giỗ là để báo cho người đã khuất biết ngày hôm sau về
hưởng giỗ, đồng thời là để báo với Thần linh, Thổ địa nơi để mộ người đã
khuất cũng như Công thần Thổ địa tại gia cho phép người đã khuất được về
hưởng giỗ. Cúng cáo giỗ bao gồm cúng tại gia và cúng ngoài mộ. Trong cúng
cáo giỗ phải cúng Công thần Thổ địa trước, cúng gia tiên sau. Ngoài việc
khấn mời vong linh người được giỗ ngày hôm sau, còn phải khấn mời vong
linh hương hồn gia tiên nội ngoại cùng về dự giỗ. Nhân dịp cúng giỗ ngoài mộ
cần đắp sửa lại mộ phần.
Trong cúng giỗ đúng vào ngày mất của người được hưởng giỗ cần phải
cúng mòi người được hưởng giỗ trước, sau đó mới đến vong linh hai họ nội,
ngoại từ bậc cao nhất trở xuống và cuối cùng là cáo thỉnh gia thần cùng dự
tiệc giỗ.
NGUYÊN TẮC CÚNG, KHẤN, VÁI VÀ LẠY TỔ TIÊN
Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và
hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của
người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.
- Nghi thức cúng gia tiên: Khi cúng thì chủ gia đình phải bày đồ lễ cùng
với hoa quả theo nguyên tắc "đông bình tây quả", rượu và nước. Sau đó, phải
đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp hương, đánh chuông, khấn, và
cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau.
Hương (nhang) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp
tay đưa lên ngang trán khấn.
Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên ngươi quá
cố, ngày tháng năm (dương lịch và âm lịch), tên địa phương mình ở, tên mình
và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyện,... Riêng tên
người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tùy theo địa vị của người
cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà
thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ
về ý nghĩa của cúng, khấn, vái, và lạy.
- Cúng: Khi có giỗ Tết, gia chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ
bàn, chén bát, đũa, thìa lên bàn thờ rồi thắp hương, thắp đèn, đốt nến (đèn
cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, và cầu phước lành. Đây
là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình thường, cúng là thắp hương, khấn,
lạy, và vái.
- Khấn: Khấn là lời cầu khẩn lầm rầm trong miệng khi cúng, tức là lời
nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi
cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa. Sau
khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính cẩn. Người ta
thường nói khấn vái là vậy.
- Vái: Vái thường được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài
trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại
để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau
đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng
lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái.
- Lạy: Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm
hồn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình.
Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp
lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý nghĩa khác nhau.
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay
trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang
chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp
xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu
xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách
đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về
phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân
phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế
nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy. Khi lạy xong
thì vái ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo
thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào
xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía
trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế
đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng, sở dĩ phải quì
chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế
thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy. Sở dĩ chân trái co
lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để
làm chuẩn.
Thế lạy phủ phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa,
đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thời quì hai đầu gối xuống luôn.
Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần
phải để tay tỳ lên đầu gối, sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập luyện
hàng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng mới đi lễ chùa, mọi người
phải cẩn thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất
có thể mất thăng bằng.
Thế lạy của các bà là cách ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt
chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu
mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau
về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở
trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi
đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm
úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng
hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa
lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết
(xem phần "ý nghĩa của Lạy" dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái
rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số ngươi lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối
xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi
giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì
xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy
theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối
mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy
của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy
của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ
có mấy vị cao niên còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc
Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của người
Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Muổn áp
dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập dượt lâu mới nhuần
nhuyễn được.
Số lần lạy và vái đều mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Sau đây chúng tôi
xin trình bày về ý nghĩa của vái và lạy. Đây là phong tục đặc biệt của Việt
Nam ta mà người Trung Quốc không có tục lệ này. Khi cúng, người Trung
Quốc chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.
- Ý nghĩa của 2 lạy và 2 vái:
Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu
chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như
em, con cháu, và những người vào hàng con em,... nên lạy 2 lạy:
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái, ý nghĩa của ba vái
này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác.
Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn,
những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc
cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v.v…,
của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ
huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như
còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa
hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải
lạy 4 lạy.
- Ý nghĩa của 3 lạy và 3 vái:
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng.
Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là
chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch,
thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên,
còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc âu phục, nếu cảm thấy khó khăn
trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
- Ý nghĩa của 4 lạy và 4 vái:
Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn
lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây:
thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ - tượng (Thái Dương,
Thiếu Dương, Thái Âm, Thiêu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn
cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để
làm chỗ trú ngụ. Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và
thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
- Ý nghĩa của 5 lạy và 5 vái:
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành
(kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ
màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn
phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay,
trong lễ giỗ tổ Hùng Vương, những người trong ban tế lễ thưòng lạy 5 lạy vì
Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông
người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy. Có được phong tục này
là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không giải thích được
lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi gia
đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy, chúng ta, con dân nước Việt, hãy
cố gắng thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội
học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ
cúng ra sao.
Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và
hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của
người Việt mà chúng ta cần phải duy trì. Lời khấn vái là lời nói chuyện với
người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của người còn sống có thể khấn sao
cũng được. Tuy nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn. Lễ khấn
gồm các thủ tục như sau:
- Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa
thì khăn đóng áo dài) đi ra mở cửa chính, ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa
chứ không được đóng cửa kín mít.
- Sau đó phải khấn xin Thành hoàng, Thổ địa để họ không làm khó dễ
linh hồn tổ tiên về hưởng lễ giỗ.
- Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa:
Duy … quốc … Tỉnh/Thị xã.... trang/gia tại... (số nhà). Việt lịch thứ
488..., thử nhật... (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ... là Hiển
khảo/Tỷ… (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội ngoại thì thêm chữ tổ -
hiển tổ khảo /tỷ), Hiếu tử/nữ/tôn v.v… là (Tên) tâm thành kính cáo thành
hoàng và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu/cô di... (Người được
giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên,
hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh
sàn chứng giám. Cẩn cáo.
TỤC DÂNG HƯƠNG TẠI CÁC KỲ GIỖ
Trong tục thờ cúng tổ tiên thì tục dâng hương vong linh người đã khuất
vào các kỳ giỗ là quan trọng nhất. Người ta có thể có những lý do nào đó để
bỏ lễ dâng hương vào một số kỳ lễ, tiết trong năm nhưng không một người
Việt Nam có hiếu nào với Tổ tiên mà lại bỏ qua tục cúng dâng hương người
đã khuất vào dịp giỗ ông, bà, bố mẹ, vợ, chồng...
Một trong những mối lo lớn của người Việt ngày xưa là sợ khi chết đi,
đến ngày cúng giỗ không có ai hương khói. Bởi vậy, cúng giỗ là thể hiện đạo
hiếu, thể hiện tấm lòng thuỷ chung thương tiếc của người đang sống với
người đã khuất. Ở đây, đạo lý có vẻ cao hơn tín ngưỡng. Thế cho nên, vào
ngày giỗ của tiên tổ, nhà giàu thì có thể tổ chức cúng giỗ linh đình, mời họ
mạc xa gần, anh em bằng hữu về dự, còn nhà nghèo túng thì cúng bát cơm,
quả trứng, đĩa muối, lưng canh với ba nén hương, cây đèn dầu, nến, thờ
cúng người đã khuất. Mấy nguyên tắc chung của cúng giỗ:
- Thứ nhất: Đối với ngày giỗ của ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng (còn gọi là
giỗ trọng) thì hôm trước ngày giỗ cần phải có cúng cáo giỗ. Ngày hôm cúng
cáo giỗ còn gọi là ngày tiên thường.
Cúng cáo giỗ là để báo cho người đã khuất biết ngày hôm sau về
hưởng giỗ, đồng thời là để báo với Thần linh, Thổ địa nơi để mộ người đã
khuất, cũng như Công thần, Thổ địa tại gia cho phép hương hồn người đã
khuất được về hưởng giỗ. Cúng cáo giỗ bao gồm cũng tại gia và cúng ngoài
mộ. Trong cúng cáo giỗ phải cúng
Công thần, Thổ địa trước, cúng Gia tiên sau. Ngoài việc khấn mời vong
linh người được giỗ còn phải khấn mời vong linh hương hồn Gia tiên nội,
ngoại cùng về dự giỗ. Nhân dịp cúng cáo giỗ, ngoài mộ cần đắp điếm sửa
sang lại mộ phần.
- Thứ hai: Làm giỗ và cúng giỗ đúng ngày mất của người được giỗ
thường là vào buổi chiều. (Có người bảo phải làm giỗ trước ngày mất một
ngày thì linh hồn ngươi mất mới hưởng được lễ). Có lẽ nói thế vì suy luận
phải cúng người mất vào hôm còn sống thì người đó mới có thể "ăn" được,
chứ cúng đúng ngày hôm mất thì "ăn" làm sao? Trong cúng giỗ đúng vào
ngày mất của người được hưởng giỗ cần phải cúng mòi người được hưởng
giỗ trước, sau đó mới đến vong linh hai họ nội, ngoại từ bậc cao nhất trở
xuống và cuối cùng là cáo thỉnh Gia Thần cùng dự tiệc giỗ.
- Ngày giỗ đầu: Ngày giỗ đầu, hay còn được gọi là "tiểu tường" là ngày
giỗ (kỵ giỗ) đầu tiên sau đúng một năm ngay mất của ai đó. Đây là một trong
hai giỗ thuộc kỳ tang. Bởi vậy, vào ngày giỗ đầu, người ta thường tổ chức
trang nghiêm, bi ai, sầu thảm, chẳng khác là mấy so với ngày để tang năm
trước. Nghĩa là con cháu đều vận tang phục, khi tế lễ đều khóc như ngày đưa
đám, một số nhà có điều kiện còn thuê cả đội kèn trống nữa. Vào ngày giỗ
đầu, người ta còn thường mua sắm rất nhiều đồ hàng mã, không chỉ là tiền
vàng mã mà còn cả những vật dụng như áo quần, nhà cửa, xe cộ và thậm chí
còn mua sắm cả hình nhân bằng giấy. "Hình nhân" ở đây không phải để thế
mạng cho ai mà là người ta tin rằng với phép thuật của thầy phù thuỷ thì hình
nhân bằng giấy khi đốt đi sẽ hoá thành người hầu hạ vong linh nơi âm giới.
Trong thế giới văn minh ngày nay, không phải ai cũng tin tưởng như thế. Mặc
dù không tin nhưng có người cũng vẫn làm với ý nghĩa làm vơi đi nỗi xót xa
nơi trần thế và để báo ân với vong linh người đã khuất. Những đồ hàng mã
đó, sau buổi giỗ, được đem ra tận ngoài mộ để hoá (đốt). Những đồ hàng mã
đốt trong ngày giỗ tiểu tường còn được gọi là "mã biếu". Gọi là "mã biếu" vì
người ta nghĩ rằng những đồ mã này cúng cho vong linh người mất nhưng
người đó không được dùng mà phải mang biếu các ác thần để tránh sự quấy
nhiễu.
- Ngày giỗ hết: Ngày giỗ hết hay còn gọi là "đại tường", tức là ngày giỗ
vào đúng ngày tròn 24 tháng của người quá cố, về cơ bản, giỗ hết không
khác giỗ đầu là mấy về các thủ tục. Nó vẫn là giỗ trong vòng tang. Chỉ có
khác là ngày giỗ hết thường làm linh đình hơn, và sau giỗ này người nhà bỏ
tang phục, hay còn gọi là hết tang. Sau ngày giỗ này, người ta sẽ chọn ngày
tháng tốt để làm lễ cải cát, sang mộ cho người quá cố. Và từ năm thứ ba trở
đi thì giỗ của người quá cố trở thành giỗ thường hay "cát kỵ". Bởi thế, nhiều
địa phương "ngày giỗ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày
giỗ đối với người qua đời". Quan trọng nhất vì nó đánh dấu một bước ngoặt
trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh ngươi đã
khuất. Với người đang sống, người ta trở lại đời sống thường nhật, có thể
tham gia các tổ chức hội hè, đình đám và theo quan niệm xưa thì chỉ sau giỗ
hết, người vợ có chồng qua đời mới có thể đi bước nữa.
- Ngày giỗ thường: Ngày giỗ thường hay còn được gọi là "cát kỵ", đó là
ngày giỗ của người quá cố kể từ năm thứ ba trở đi. Ngày giỗ này, người ta tin
vong linh người quá cố đã siêu thoát hay đầu thai trở lại nên không cần thiết
phải cúng giỗ nữa. Nếu như giỗ tiểu tường và giỗ đại tường là lễ giỗ trong
vòng tang, còn mang nặng những xót xa, tủi hận, bi ai thì ngày giỗ thường lại
là ngày vui của con cháu nội, ngoại: "Trâu bò được ngày phá đỗ, con cháu
được ngày giỗ ông" là vậy. Đây là dịp để cháu con hai họ nội, ngoại tề tựu,
họp mặt đông đủ. Những dịp như thế cũng là dịp để mọi người trong gia đình,
dòng họ gặp nhau thăm viếng sức khoẻ và cố kết cộng đồng gia đình, dòng
họ. Trong các giỗ thường, chỉ có giỗ trọng như ngày giỗ của ông, bà, bố, mẹ,
vợ, chồng mới có ngày tiên thường. Còn lại thì không cần thiết phải có ngày
tiên thường. Tuỳ theo phong tục của từng địa phương, từng vùng và từng gia
cảnh mà việc tổ chức ngày giỗ có khác nhau nhiều ít. Điều quan trọng nhất là
nhân ngày cát kỵ, cháu con tưởng nhớ đến người đã khuất, thể hiện lòng
thành với vong linh tổ tiên. Chén nước, nén hương, bát cơm, quả trứng, đĩa
muối, lưng canh mà tâm thành thì cũng giữ được đạo hiếu chứ chẳng cứ
mâm cao cỗ đầy mới ra người biết ơn tổ tiên. Văn lễ cũng vậy, cũng chẳng
nên quá cầu kỳ, câu nệ. Miệng khấn nôm na mà tâm tưởng nhớ đến vong linh
người đã khuất thì ắt là "linh"; còn như miệng đọc văn hoa chữ nghĩa nhưng
tâm không thành kính thì tổ tiên có linh cũng chẳng chứng cho. Cúng giỗ
người đã khuất cốt thể hiện lòng nhân, đạo hiếu, tấc dạ thuỷ chung... của
những người đang sống. Đó cũng là nét đạo lý làm người trong truyền thống
văn hoá Việt Nam.
TỤC THỜ CÚNG TRONG GIA ĐÌNH
Thờ cúng gia tiên
Người Việt Nam coi trọng việc thờ cũng tổ tiên. Đó là biểu hiện của lòng
biết ơn, uống nước nhớ nguồn. Tổ tiên bao gồm từ vị thủy tổ lập ra họ đến
ông bà cha mẹ. Ở đây có vấn đề họ, mỗi họ có một ông tổ, có họ ghi nhớ
được ông tổ từ trên chục đời, thậm chí vài chục đời, có họ lại chỉ biết ông tổ
từ bốn năm đời trước. Đó là do vấn đề lịch sử của từng họ.
Những ai là trưởng của một dòng họ, giữ nhà thờ họ, thì thờ cúng từ
ông thủy tổ. Còn các chi thứ chỉ thờ cúng ngược lên đến ông tổ bốn đời là
cùng (cao tổ = kị, tằng = cụ, tổ = ông, khảo = cha). Nay, trừ nhà trưởng họ
các hộ lớn phải cúng lễ nhiều tổ tông, còn thì mỗi gia đình chỉ cúng giỗ đến
cấp ông nội. Việc cúng giỗ là cụ thể hoá lòng tưởng nhớ ông bà cha mẹ nên
có ý nghĩa tâm linh, trở thành một lễ thức riêng. Ngày giỗ được tổ chức hằng
năm vào đúng ngày tháng người thân qua đời (gọi là kị nhật).
Theo lệ, trong một gia đình thường có những ngày giỗ gần (giỗ cha,
mẹ) và ngày giỗ xa (giỗ ông, bà). Mỗi nhà đều có một bàn thờ. Ban thờ đặt ở
nơi trang trọng nhất nhà. Ở nông thôn, nhà theo kiểu cổ ba gian, năm gian thì
ban thờ bao giờ cũng đặt ở giữa, ở thành phố, nhà như hình ống, có nhiều
nếp theo chiều dọc thì bao giờ bàn thờ cũng đặt ở nếp thứ hai (tính từ mặt
phố vào, nếp thứ nhất là cửa hàng). Ban thờ thường có hai lớp: lớp trong là
một cái sập thờ, ở sát vách đặt khám thờ (trong khám đặt thần chủ) ghi họ
tên, chức tước tổ tiên, rồi ngai thờ (để tổ tiên ngự toạ), người thường là một
tam sơn (hai bên thấp, giữa cao lên) để đặt đĩa trầu cau, chén rượu, đĩa hoa.
Lớp trong này được ngăn với lớp ngoài bằng một y môn tức màn thờ bằng
lụa hoặc vải thường là màu đỏ, xẻ dọc đôi thành hai vạt, lúc có cúng lễ thì
buộc hai vạt này lên. Bên ngoài là hương án cao hơn sập thờ sơn then hoặc
sơn son thếp vàng, trên đặt bát hương và một bộ tam sự (1 đỉnh, 2 cây nến)
hoặc ngũ sự (thêm 2 cây đèn) và ống đựng hương. Đó là bàn thờ nhà trung
lưu trở lên. Nhà bình dân thì chỉ có một bàn thờ, trên có bài vị, bát hương, vài
chén con để đựng rượu, trà.
Ngày trước chỉ có con trai trưởng mới được làm giỗ, còn những người
thuộc hàng con thứ thì phải đến nhà trưởng để góp giỗ. Nay đã thay đổi quan
niệm, nếu tiện thì làm giỗ chung ở nhà trưởng, nếu không thì nhà nào cúng
giỗ ở nhà ấy, vì ông bà cha mẹ là chung. Lễ vật dâng cúng là tuỳ tâm, tuỳ
hoàn cảnh. Sang thì cỗ bàn thịnh soạn, bình thường thì đĩa xôi, con gà; nghèo
khó thì cơm canh... nhưng, dù hoàn cảnh thế nào thì mâm cúng cũng phải có
bát cơm quả trứng, ở thôn quê, nếu nhà khá giả thì có mời khách trong họ
ngoài làng đến ăn giỗ.
Thờ cúng các thần linh khác
Ngoài việc thờ cúng gia tiên, nhiều gia đình còn có phong tục thờ các vị
thần linh khác như:
Thờ thổ công: "Đất có thổ công, sông có hà bá". Tương truyền, thổ
công là vị thần cai quản nơi cư trú, quyết định hoạ phúc cho những người
sinh sống làm ăn trên mảnh đất đai thần cai quản. Vì vậy, theo phong tục xưa,
nhà nào cũng thờ thổ công. Thờ thổ công phải lập bàn thờ riêng (nhưng gần
đây, bát hương thờ thần này cũng đặt chung với ban thờ tổ tiên). Có cách giải
thích dựa vào sách Hán rằng đó là ba vị: Thổ công (coi nơi bếp núc), Thổ địa
(coi nơi ăn ở), Thổ kỳ (coi việc làm ăn ruộng vườn). Nhưng lại có cách giải
thích theo truyền thuyết dân gian rằng đó là bộ ba vợ chồng ông Táo gồm hai
ông, một bà. Thực ra, như vậy là dân gian đã nhập Thổ công vào với Táo
quân của tín ngưỡng Trung Hoa (táo = bếp, quân = vua). Táo quân vốn được
thờ riêng với bài vị đề là: Đông trù tư mệnh táo phủ thần quân. Hai ông một
bà là sự tích vua bếp của dân gian Việt Nam. Và người dân Việt đã gộp Thổ
công và Táo quân vào làm một, vẫn nói là thờ Thổ công nhưng ngày 23 tháng
chạp lại gọi là Tết ông Táo, ngày ông lên Thiên đình tấu trình ngọc hoàng
công tội của gia chủ. Trong Tết này, ngoài hương hoa, cam rượu, còn có bày
ba cỗ mũ, áo, hia, vàng bằng giấy (hai nam, một nữ). Ngoài ra, có thể có các
món chay mặn như xôi, bánh, gà... và đặc biệt là có một con cá chép sống.
Cúng xong áo mão, hia vàng, thoi bạc giấy sẽ đem đốt. Cá chép thả ra sông
hồ, với niềm tin cá sẽ hoá rồng đưa Táo quân về chầu Trời để tâu bày những
việc xấu tốt trong năm của gia chủ, qua đó mà định hoạ phúc.
Thờ thần tài: Thần tài là vị thần đem của cải đến cho gia chủ, vì vậy
những nhà làm ăn buôn bán thường lập bàn thờ để cúng lễ. Trước đây, chỉ
người Trung Hoa mới thờ thần Tài. Người dân trong nam noi theo tục này. Ở
miền Bắc, gần đây, bắt chước người miền nam, nhiều gia đình cũng thờ thần
tài, nhất là các nhà buôn bán. Bàn thờ thần tài không đặt ở chỗ cao, thường
là trong góc nhà, ngoài hàng hiên và thường là sát mặt đất (có lẽ do gợi ý của
đôi câu đối thường dán ở khám thờ thần tài: Thổ năng sinh bạch ngọc, Địa
khoả xuất hoàng kim, có nghĩa là: Đất có thể sinh ra ngọc trắng, đất có thể
cho ra vàng). Bài vị là tấm giấy hồng điều, viết chữ Thần, hoặc Tài thật lớn;
phía trước bài vị có đặt bát hương kê trên chồng vàng thoi, hai bên là đèn
nến, bình hoa, đĩa đặt trái cây...
Thần tài được cúng hằng ngày, lễ vật có thể rất đơn sơ: nén hương,
chén nước... nhân dịp lễ tết, có thế có xôi chè hoặc các món mặn.
Thờ tiền chủ: Nhà ở, đất đai nơi cư trú đời này qua đời khác thông
thường có đổi chủ. Những chủ cũ của ngôi nhà đã qua đời được gọi là tiền
chủ. Nhiều nhà có lập bàn thờ riêng để cúng tiền chủ, vì người ta tin rằng
vong hồn chủ cũ vẫn quyến luyến nơi ở trước đây. Ban thờ tiền chủ thường
xây ngoài sân. Thông thường là một cột trụ phía trên là một mặt phẳng nhỏ,
có đắp thành cao phía sau và hai bên, trên đặt bát hương, ngọn đèn, ba chén
nhỏ, bình hoa... Ngày rằm, mồng một hàng tháng, các dịp lễ tết, gia chủ thắp
hương cúng lễ cầu xin vong hồn tiền chủ phù hộ cho toàn gia được may mắn
bình an. Nay, nhiều nhà đặt bát hương ông bà tiền chủ chung với ban thờ thổ
công, thậm chí cả nhà có một bàn thờ thì cả Phật, cả gia tiên, cả thổ công,
tiền chủ đều được đặt chung trên một bàn thờ.
TỤC ĐỐT VÀNG MÃ
Theo quan niệm của người đời xưa, người chết cũng cần ăn uống, nhà
cửa, quần áo, hút thuốc, ăn trầu, cũng cần tiền xe, cần tiền đi lại và mọi khoản
chi dùng như khi còn sống. Và người chết cũng được chia một phần gia tài. Ở
Sơn La, Lai Châu, và một số nơi khác còn dựng các nhà mồ, trong nhà mồ
cũng có đầy đủ các nồi đồng, mâm gỗ, ấm đất, bát đĩa, dao rựa, chăn chiếu
quần áo, mũ nón... đủ tiện nghi cho một cá nhân. Người chết cũng được chia
cả trâu, lợn, gà, thóc, gạo... Sau ba năm, tang chủ làm lễ khấn vái và ra mộ
xin lại những đồ vật còn dùng được, và súc vật còn sống, kể cả súc vật vừa
mới đẻ ra...
Từ việc cúng tế bằng đồ thật, dần dần mới sinh ra lễ đốt vàng mã, tức
là thay thế bằng các đồ vật làm bằng tre, gỗ, rơm, rạ, đất sét hoặc giấy tượng
trưng, nhưng kích thước thu nhỏ lại để người cõi âm mang đi, nhờ có "Phép
thiêng biến ít thành nhiều". Áo quần của người chết mặc khi còn sống, để lại
nhà mồ sau ba năm mục nát, không nỡ dùng vào việc khác, người ta đốt đi
dần dần sinh ra được thay thế bằng quần áo giấy. Vì vậy mới có câu tục ngữ
"Đi theo ma mặc áo giấy".
Chương 3. PHONG TỤC TANG MA
Có thể nói rằng phong tục tang lễ của người Việt mang đậm triết lý Âm
dương Ngũ hành. Thứ nhất là về màu sắc, hướng Tây được xem là hướng
xấu, do vậy tang lễ Việt Nam truyền thống dùng màu trắng là màu của hành
Kim (hướng Tây) theo Ngũ hành. Nơi để mồ mả của người Việt và người dân
tộc thường là hướng Tây của làng; người dân tộc xem rừng phía Tây là rừng
của ma quỷ. Sau màu trắng là màu đen, đây là màu của hành Thuỷ - phương
Bắc theo Ngũ hành. Chỉ khi chắt, chút để tang cụ, kị (là tốt, bởi đó là bằng
chứng cho thấy các cụ sống lâu) thì mới dùng các màu như màu đỏ (phương
Nam) và vàng (trung ương). Tất cả đều theo đúng trình tự ưu tiên trong Ngũ
hành.
Thứ hai là về loại số, theo triết lý Âm dương, âm ứng với số chẵn,
dương ứng với số lẻ. Vì vậy, mọi thứ liên quan đến người chết đều phải là số
chẵn: Lạy trước linh cữu thì phải lạy 2 hoặc 4 lạy; ở nhà mồ của các dân tộc
miền núi, cầu thang phải làm với số bậc chẵn; hoa cúng ngươi chết cũng phải
dùng số chẵn. Khác với người sống ở cõi dương, mọi thứ phải theo số lẻ: lạy
người sống phải là 1 hoặc 3 lạy; cầu thang, lối lên nhà phải có số bậc lẻ (tam
cấp); hoa cho người sống cũng phải có số bông lẻ. Trong một số trường hợp
đặc biệt như chết coi như sống: cúng Phật, cúng cha mẹ sau khi đoạn tang
thắp 3 nén nhang; hoặc sống coi như chết: con gái lạy cha mẹ trước khi xuất
giá đi lấy chồng 2 lạy với ý nghĩa từ nay trở thành con nhà người khác.
Thứ ba là, để tang cha với tang mẹ cũng được phân biệt rõ ràng theo
luật Âm dương. Khi con trai chống gậy để tang thì cha gậy tre, mẹ gậy vông.
Đó là vì thân tre tròn, biểu tượng dương; cành vông đẽo thành hình vuông,
biểu tượng âm. Khi đa tang ra nghĩa địa còn có tục cha đưa mẹ đón, tức là
tang cha thì phải đi sau quan tài, còn tang mẹ thì đi giật lùi phía đầu quan tài
và tục áo tang cha thì mặc trở đằng sống lưng ra, tang mẹ mặc trở đằng sống
lưng vào. Hai tục này cũng thể hiện triết lý Âm dương qua cặp nghĩa hướng
ngoại là dương, hướng nội là âm.
Phong tục tang lễ phổ biến và chính thống của ta còn kế thừa được cả
tinh thần dân chủ truyền thống. "Thọ mai gia lễ" của ta quy định cha mẹ phải
để tang con, và không chỉ cha mẹ để tang con mà cả ông bà và cụ kỵ cũng để
tang hàng cháu, hàng chắt.
Trong việc tang ma, người Việt Nam thể hiện hai quan niệm trái ngược
nhau. Thứ nhất là, quan niệm có tính triết lý cho rằng sau khi chết, linh hồn sẽ
về nơi "thế giới bên kia" nên việc tang ma được xem như việc đa tiễn; thứ hai
là, quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc tang ma là việc xót thương.
Theo triết lý âm dương thì xem tang ma như việc đưa tiễn, cho nên
người Việt Nam rất bình tĩnh, yên tâm đón chờ cái chết "cái chết nhẹ tựa lông
hồng". Chết già vì vậy được xem là một sự mừng, vì vậy có câu: "Trẻ làm ma,
già làm hội". Nhiều nơi có người già chết còn đốt pháo; chắt chút để tang cụ
kị thì đội khăn đỏ, khăn vàng (đây là màu sắc của sự hỉ).
Người Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo cho cái chết của mình. Các cụ
già thường tự mình lo sắm áo quan (quan tài, còn gọi là cỗ hậu, cỗ thọ) cho
mình. Quan tài của người Việt Nam làm hình vuông, tượng trưng cho cõi âm;
làm xong, kê ngay dưới bàn thờ như một việc hết sức bình thường. Có cỗ thọ
rồi, các cụ lo đến việc nhờ thầy địa lý đi tìm đất, rồi xây sinh phần (mộ). Các
vua chúa bao giờ cũng lo tất cả những việc này rất chu đáo thường là ngay từ
khi mới lên ngôi; các lăng mộ vua còn giữ được ở Huế đồng thời cũng là
những nơi thắng cảnh là vì thế.
Phong tục tang lễ còn thể hiện rõ tính cộng đồng của người Việt. Khi
nhà ai đó có tang, hàng xóm chạy đến đỡ đần mọi công việc. Dân gian có
câu: "Bán anh em xa mua láng giềng gần" nên khi nhà có người mất tình làng
nghĩa xóm càng được thể hiện sâu sắc hơn. Có nơi hàng xóm cũng để tang:
"Họ đương 3 tháng, láng giềng 3 ngày"; "Láng giềng còn để 3 ngày, chồng cô,
vợ cậu 1 ngày cũng không". Ngoài ra các dân nông nghiệp còn rất gắn bó với
thiên nhiên. Do vậy khi có người chết, họ còn đeo tang trắng cho cây với
quan niệm cây cỏ trong vườn cũng đau buồn. Nhìn chung trong lĩnh vực tang
ma thường có những phong tục đặc trưng sau:
NHỮNG VIỆC PHẢI LÀM KHI CÓ NGƯỜI HẤP HỐI
Lúc có người hấp hối, người thân trong gia đình phải làm những việc
sau:
Thuỵ hiệu: Trước hết phải đặt tên cúng cơm cho người chết, tức là tên
thuỵ, hay tên hiệu. Trường hợp người sắp chết còn tỉnh táo, họ có thể tự đặt
tên cho mình. Nếu đã hôn mê, thì người nhà căn cứ vào đức tính của người
sắp chết lúc sinh thời để đặt tên hiệu. Dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn,
việc đặt thuỵ hiệu cho các quan chức có phẩm hàm được quy định sẵn.
Chúc khoáng: Người nhà túc trực bên giường, bệnh cần theo dõi chặt
chẽ để biết lúc tắt thở bằng cách lấy một ít bông đặt ở lỗ mũi, khi thấy bông
không động đây nữa, đó chính là giây phút người đó đã tắt thở. Lúc này thân
nhân phải vuốt mắt cho người chết để cặp mắt nhắm hẳn lại, và xếp chân tay,
nằm ngửa ngay ngắn.
Khiết xỉ: Lấy một chiếc đũa đặt ngang miệng người chết để "cài hàm"
cho răng hé ra, không nghiến chặt lại để sau làm lễ phạn hàm.
Hạ tịch: Còn gọi hạ thổ, rải chiếu xuống đất, đưa người chết nằm xuống
chiếu một lát rồi lại đưa lên giường. Theo quan niệm xưa "chết trở về với cõi
âm", tức là lấy đủ khí âm dương cho người chết.
Phục hồn: Tục xưa lấy áo người chết treo lên nóc nhà phía trước
hướng về phía bắc, rồi gọi tên tục người chết ba lần. Sau đó trèo xuống theo
lối nóc nhà phía sau, đem tấm áo ấy đắp lên bụng người chết. Hy vọng hồn
người chết trở về sống lại.
Thiết hồn: Dùng bảy thước (thước ta) lụa trắng phủ lên ngực người
chết trước khi tắt thở (ý đón hơi thở người chết vào đấy). Khi người chết hẳn,
đem tấm lụa này kết thành hình dạng người thân có đầu, mình, chân tay. Kết
xong đặt trên mình người chết. Lúc nhập quan thì hồn bạch được đặt trong
linh sàng, linh toạ để tượng trưng cho người đã mất. Ngày nay để thay cho
hồn bạch, người ta dùng bức ảnh chân dung người quá cố.
CÁC LỄ PHẢI LÀM SAU KHI CÓ NGƯỜI MẤT
Những việc làm này chỉ áp dụng đối với những trường hợp người già
yếu, mất tại nhà, theo phong tục cổ truyền. Trường hợp mất tại bệnh viện
hoặc mất dọc đường, quán trọ, chết vì tai nạn, gươm súng, xe cộ, rắn độc,
thuỷ hoả tai, chưa đúng kỳ đáng chết... không đủ điều kiện để thực hiện toàn
bộ thao tác và nghi lễ này.
Lễ mộc dục (tắm gội): Lúc tắm gội cho người vừa chết thường vừa để
sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải (khăn), một cái lược, một cái thìa, một ít
đất ở ông đồ rau, một nồi nước ngũ vị hương và một nồi nước nóng khác. Lúc
tắm, vây màn cho kín, tang chủ quỳ xuống khóc, người hộ việc cũng quỳ rồi
cáo từ rằng "nay xin tắm gội để sạch bụi trần", xong phục xuống, đứng dậy.
Cha thì con trai vào tắm, mẹ thì con gái vào tắm. Lấy vuông vải dấp vào ngũ
vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy
khăn khác lau hai tay hai chân, lại lấy dao cắt móng tay móng chân, mặc quần
áo cho chỉnh. Móng tay móng chân gói lại trên để trên, dưới để dưới, để vào
trong quan tài; dao, lược thìa và nước đem đi chôn; rước thi thể đặt lên
giường.
Sau lễ mộc dục thời gian chưa nhập quan: Đắp chăn hoặc chiếu, buông
màn, đặt một chiếc ghế con phía trên đầu, trên đó đặt một bát cơm úp, một
quả trứng, dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương. Có địa phương còn
có tục để thêm một con dao trên bụng, (có lẽ để trừ tà ma hay quỷ nhập
tràng).
Lễ phạn hàm: Lễ này theo tục xưa, bỏ gạo và tiền vào miệng tránh tà
ma ác quỷ đến cướp đoạt, để tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát. Lễ
này ngày nay nhiều nơi đã bỏ, có nơi thay thế bằng may một cái túi, trong túi
đựng một ít tiền gạo và một vài đồ lặt vặt tnà khi sống, người đó hay dùng
đến. Theo "Thọ mai gia lễ", lễ này được tiến hành như sau:
Lấy ít gạo nếp xát cho sạch, ba đồng tiền mài cho sáng (nhà giàu thì
dùng vàng hoặc viên ngọc trai). Tang chủ vào khóc quỳ, người chấp sự cũng
quỳ, cáo từ rằng: "nay xin phạn hàm, phục duy hâm nộp". Người chấp sự lần
lượt xướng "Sơ phạn hàm, tái phạn hàm, tam phạn hàm". Tang chủ ba lần,
mỗi lần xúc một ít gạo và một đồng tiền tra vào miệng bên phải, rồi đến bên
trái, cuối cùng vào giữa. Xong, bóp miệng lại, phủ mặt như cũ.
Lễ khâm liệm nhập quan: Các con vào, con trai bên trái, con gái bên
phải. Người chấp sự xướng. Tự lập (đứng gần vào), cử ai (khóc cả lên), quỳ.
Chấp sự cũng quỳ mà cáo từ rằng "Nay được giờ lành, xin rước nhập quan".
"Cẩn cáo" xong lại xướng: phủ phục (lễ xuống), hưng (dậy), bình thân (đứng
thẳng).
Sau đó các con cháu tránh ra hai bên, người giúp việc quay và đều
cầm tạ quan nâng lên để đưa người vào cho êm ái, đặt cho chính giữa quan
tài, nếu có hở chỗ nào cần lấy áo cũ của người vừa mất bổ khuyết cho đầy
đủ, rồi gấp dưới lên đầu trước, bên trái gấp trước, bên phải gấp sau, trên đầu
gấp sau cùng, sơn nẹp đóng lại. Chú ý: Những quần áo của người đang
sống, hoặc quần áo mà người đang sống có mặc chung thì kiêng không được
bỏ vào áo quan.
Đồ khâm liệm: nhà giàu dùng vóc nhiễu, tơ, lụa; nhà thường dùng vải
trắng may làm đại liệm (1 mảnh dọc, 5 mảnh ngang) hoặc tiểu liệm (1 mảnh
dọc 3 mảnh ngang). Ngày trước, quy định đại liệm hay tiểu liệm vì khổ vải
nhỏ. Ngày nay, dùng vải khổ rộng, miễn kín chân, tay, đầu, gót là được. "Tục
ta nhiều người tin theo thầy phù thuỷ, trong quan tài thường có mảnh ván đục
sao Bắc Đẩu thất tinh. Trước khi nhập quan thường chọn giờ, tránh tuổi rồi
dùng bùa nọ bùa kia dán ở trong, ngoài quan tài. Có người cho là chết phải
giờ xấu thì bỏ cỗ bài tổ tôm hoặc quyển lịch hoặc tàu lá để trấn át ma quỷ".
Mọi việc xong thì sơn gắn quan tài cho kỹ càng, đặt ở chính gian giữa, hoặc
nhà còn người tôn hơn thì đặt sang gian cạnh.
Lễ thiết linh (Sau khi nhập quan): Là lễ thiết lập linh vị, đặt bàn thờ tang.
Khi chưa chôn cất thì lấy lễ thờ người sống mà lễ, nên mỗi lần lạy chỉ lạy hai
lạy, trong linh vị và khăn vấn dùng chữ "Cố phụ", "Cố mẫu" thay cho "Hiền
thảo", "Hiền tỷ".
Lễ thành phục: Tức là con cháu mặc đồ tang để cúng tế và đáp lễ khi
khách đến viếng. Trước khi làm lễ thành phục, nếu có khách đến thì người
chủ tang chưa ra tiếp mà người hộ tang thay mặt tiếp khách và thông cảm với
khách. Sau lễ thành phục mới chính thức phát tang. Sau đó thân bằng cố
hữu, làng xã mới đến phúng viếng.
ĐÁM TANG TRONG NGÀY TẾT TÍNH LIỆU RA SAO?
Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho
vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải
tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục
lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng không đi chúc Tết,
mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc
Tết và an ủi gia đình bất hạnh. Trường hợp gia đình có người chết vào ngày
30 hoặc mồng một Tết thì sao? Trường hợp này hiếm nhưng không phải
không có. Nếu ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên
chôn cất cho kịp trong ngày đó, nếu để sang năm mới thì có nhiều điều bất
tiện. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mồng một đầu năm. Trường hợp
chết đúng ngày mồng một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi
thứ để sáng mồng hai làm lễ phát tang.
TỤC MỜI NGƯỜI ĐIỀU HÀNH CÔNG VIỆC TANG LỄ
Trong lúc tang gia bối rối không có người chủ đạo điều hành, công việc
sẽ rất lúng túng và phạm nhiều sai sót. Khi thân nhân sắp từ trần, việc đầu
tiên tang gia phải mời được người hộ tang. Người hộ tang phải là người thân
thích gần gũi, có tuổi tác, kinh nghiệm, tháo vát, có uy tín trong họ. Người hộ
tang thay mặt tang chủ điều hành mọi công việc, đối nội đối ngoại. Nếu người
hộ tang biết cúng lễ thì kiêm luôn, nếu không thì mời người chấp sự, Người
chấp sự lo việc hướng dẫn về mặt nghi lễ từ mộc dục, khâm liệm, thiết linh,
thành phục đến an táng, thành phần và tế ngu (lễ 3 ngày sau khi chôn).
Người chấp sự thường là người có văn hoá (chữ Hán, chữ Quốc ngữ) nên có
thể kiêm luôn cả việc tư vấn (viết văn cúng tế, bài vị, long triệu, đối, trướng,
cáo phó...).
Người thu lễ: Sau khi hết lễ thành phục cho đến hết 3 ngày sau khi an
táng phải có người thu lễ. Người đó chuyên túc trực ở nhà ngoài, hễ có khách
đến phúng viếng thì tiếp khách nhận lễ đặt lên bàn thờ, báo cho thân chủ ra
bái tạ. Người thu lễ phải ghi đầy đủ danh sách người đến viếng và số lễ vật,
để sau này tang chủ biết mà tạ ơn. Người thu lễ kiểm tra lễ vật sau khi khách
đã cúng lễ xong ra về. Vì vậy phải chọn người thân tín của tang gia.
Người chấp hiệu: Thông thường các ban hành lễ đã có người chấp
hiệu chuyên trách. Người chấp hiệu là chỉ huy đám phu kiệu đưa quan tài từ
nhà ra xe tang hoặc đại dư (tuy không có xe nhưng khiêng kiệu hay xe gọi là
đại dư), điều khiển việc đi đứng, nâng lên hạ xuống, sang trái sang phải, bằng
hiệu lệnh hai thanh gỗ ngắn cầm tay, cho đến lúc hạ huyệt, tháo dây đòn mà
chén rượu, đĩa dầu lạc đặt trên nắp áo quan không sánh ra ngoài. Người
chấp hiệu ngồi trên đại dư ở phía sau, hoặc đi bộ giật lùi trước quan tài để
điều khiển. Nếu gia đình nào tự thu xếp để con cháu khiêng áo quan thì phải
chú ý chọn người chấp hiệu nhiều kinh nghiệm.
Chủ tang và chủ phụ: Là con trai trưởng và con dâu trưởng. Nếu tang
cha mà mẹ còn sống thì mẹ là chủ phụ. Nếu cháu đích tôn thừa trọng (thay
thế cha đã mất, khi làm lễ tang ông bà) thì cháu đích tôn là chủ tang, các ông
chú đứng hai bên chỉ là bồi tế vợ của người cháu là chủ phụ khi bà chồng và
mẹ chồng đã mất, còn các bà thím chỉ là phụ. Nếu cháu đích tôn còn bé quá,
chưa chống gậy lễ tạ được thì chú thứ hai thay thế, nhưng vẫn phải nhân
dạnh cháu mà bái lễ và bái tạ. Những tục nghi lễ ngày xưa khá phức tạp,
ngày nay đã được cải tiến, một số tục lệ lạc hậu, lỗi thời đã bị nhiều vùng bãi
bỏ, ví dụ tục lăn ra đường, đuổi tà ma ác quỷ. Lệ tục chung vận dụng vào
từng địa phương, từng hoàn cảnh cụ thể khác nhau, ngày xưa đã vậy, huống
hồ ngày nay. Có gia đình con đàn cháu lữ, của ăn của để, sung túc đề huề, có
gia đình đơn bạc nghèo nàn nên phải tuỳ nghi châm chước.
TỤC HÚ HỒN TRƯỚC KHI NHẬP QUAN
Có những trường hợp bị choáng, ngất, bất tỉnh, người ta dùng mọi thủ
thuật để kích thích thì hồi tỉnh, trong đó có thuật hú hồn hú vía. Cũng có
trường hợp đã tắt thở, tưởng là chết rồi, nhưng sau một thời gian bỗng nhiên
sống trở lại. Do đó với một hy vọng dù mỏng manh, người sống tiếc thương
muốn cứu vãn... nên cầm chiếc áo quần của người đã tắt thở, leo lên mái nhà
chỗ cao nhất hú "Ba hồn bảy vía ông" hoặc "Ba hồn chín vía bà" về nhập xác.
Hú ba lần không được thì cũng đành lòng chịu khâm liệm mà tin rằng như vậy
hồn đỡ vất vưởng, biết tìm đường về nhà (khâm liệm xong vẫn chưa nỡ đóng
chốt áo quan). Đây là một phong tục chủ yếu để thoả mãn tâm linh.
TỤC ĐẶT NGƯỜI CHẾT NẰM XUỐNG CHIẾU TRẢI DƯỚI ĐẤT
Theo Phan Kê Bính: "Lấy nghĩa, người ta bởi đất sinh thì chết lại về với
đất".
Tục đó phát sinh từ kinh nghiệm thực tế để dễ thao tác. Vả chăng, trong
cơ thể người chết còn có điện trường sinh học, làm như vậy khả năng tích
điện âm trong cơ thể người chết mới được giải thoát, đó là một phương thuật
phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng".
TỤC LÓT LÁ CHUỐI, GIẤY BẢN, CHÈ BÚP VÀO ÁO QUAN
Ngoài các đồ trang sức của người chết, ở nhiều nơi trong áo quan
thường có tục lót lá chuối, giấy bản, chè búp, bỏng nếp hoặc khăn vóc áo
nhiễu... Trong quan, ngoài quách, giữa quan và quách đổ cát vàng. Các thứ
đó đều là những chất hút ẩm và ngăn giữ khí hôi hám khỏi bốc ra ngoài, nhất
là thời xưa chết xong chưa mấy ai đã chôn ngay, còn phải sắm đủ lễ vật, tế
khí, còn phải xa gần phúng viếng linh đình, còn phải chọn ngày, chọn đất mới
làm lễ an táng.
TANG PHỤC TRONG ĐÁM TANG VÀ THỜI GIAN ĐỂ TANG
Theo "Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết
thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ:
Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.
- Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha.
- Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang
chồng khi cha chưa mất.
- Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại
tường 2 năm, thêm 3 tháng).
- Áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang). Nếu cha mẹ
đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài
ngắn lệch nhau.
- Con trai chống gậy: Tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm
quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.
Ngày nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. Ở thành phố nhiều
gia đình dùng băng đen theo tang chế châu Âu nên tiện hơn.
- Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế
mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
- Vợ để tang chồng.
- Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng
đại tang thay cha.
Cơ niên: Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải
trắng, không gậy.
- Cháu nội để tang ông bà nội.
- Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở
cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang
3 tháng.
- Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha
chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
- Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
- Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.
- Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một
năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
- Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con
nuôi nhà người.
- Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu (con anh em ruột).
- Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
- Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con
mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
- Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
- Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã lấy vợ khác cũng vậy).
- Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng
cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
Đại công: để tang 9 tháng.
- Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.
- Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
- Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh
em ruột).
- Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột
của chồng.
- Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
- Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.
Tiểu công: Để tang 5 tháng.
- Chắt để tang cụ. (Hoàng tang: Chít khăn vàng)
- Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà
thím, bà cô).
- Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha (nếu có công nuôi mình thì để
tang 3 năm như mẹ đẻ).
- Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con
chú bác ruột của cha).
- Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
- Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị
em ấy thì không tang).
- Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
- Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tứt là cháu nội
của anh em ruột).
- Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
- Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột
của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
- Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
- Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những
người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).
Ty ma Phục: Tang 3 tháng.
- Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại: Hồng tang chít khăn đỏ).
- Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ
cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
- Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
- Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
- Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
- Con để tang nàng hầu của cha.
- Con để tang bà vú (cho bú mớm).
- Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với
cha).
- Chồng để tang vợ lẽ nàng hầu.
- Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
- Bố mẹ vợ để tang con rể.
- Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
- Ông của chồng để tang cháu dâu.
- Cụ để tang cho chắt nội.
- Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì cùng ở một nhà.
- Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
- Cậu ruột để tang vợ của cháu trai
- Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
- Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
- Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
- Cụ để tang chắt nội trai gái.
- Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Tang bên cha mẹ nuôi:
- Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì
một năm.
- Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy.
- Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 5 năm.
- Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có.
Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của
mình):
- Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng.
- Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy.
- Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9
tháng. Cô đã giá thì 5 tháng.
- Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã
xuất giá thì 5 tháng.
- Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.
Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi
lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở
về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng.
Nếu đang để tang cha mẹ được 1 năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang
cha mẹ 3 năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng,
được để lại 3 năm, dù phải chồng rẫy bỏ trước, sau mới để tang cha mẹ chưa
đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm.
Trường phục: có ba loại:
- Trưởng trường: Từ 16 - 19 tuổi
- Trung trường: Từ 12-15 tuổi
- Hạ trường: Từ 8 - 11 tuổi
(Đều lấy thứ tự giáng một bậc).
Ví dụ: Trai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi
là trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống
9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5
tháng, hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế mà suy.
TỤC DỰ ĐÁM TANG
Dù thân hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lòng
thành kính đối với người đã khuất, tình ưu ái đối với tang quyến. Thật là bất
kính nếu bô bô cười nói, đùa giỡn trong lúc tang chủ đau buồn. Ở nông thôn,
nhiều nơi còn tục lệ cỗ bàn ăn uống linh đình trong đám tang, thực không hợp
tình, hợp cảnh chút nào. Đành rằng việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng
chỉ nên hạn chế trong số người đến giúp việc và thân nhân ở xa về. Đối với
bà con, làng xóm, khách, bạn thì tang lễ không phải là dịp để "Trả nợ miệng".
Có vui vẻ gì trong lúc tang gia bối rối. Nếu như chưa bỏ được thủ tục rượu
chè đình đám thì trong lễ tang, mọi người cũng nên tự kiềm chế mình, giúp
được việc gì thì tận tình giúp đỡ, không tiện về nhà ăn cơm thì cũng không
nên hạch sách, trách móc. Thói cũ "Ma chê, cưới trách" có hay ho gì.
TỤC KIÊNG KHÔNG ĐỂ CHA MẸ ĐƯA TANG CON
Tử biệt sinh ly, ai không thương xót, nhưng theo quy luật tự nhiên, cha
mẹ già yếu từ trần, con báo hiếu cha, mẹ, đưa tang cha mẹ là chuyện thường
tình.
Con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, nhiều trường hợp chết non, gây
nhiều nỗi đau thương cho cha mẹ. Giờ phút hạ huyệt là giờ phút xúc động
đến cực điểm, có nhiều ông bố bà mẹ đã bị ngất lịm đi. Đã có nhiều trường
hợp mẹ chết luôn bên huyệt chôn con. Hơn nữa, ngày xưa, phương tiện và
thuốc thang cấp cứu khó khăn, không cho cha mẹ đưa tang con để vơi bớt
nỗi đau buồn và để tránh nạn trùng tang là đúng. Chẳng những cha mẹ mà
các ông già bà cả trong nội thân, sức khoẻ đã tàn cũng không được dự đưa
tang, sợ vướng đến sức khoẻ.
TỤC TRỪ TÀ KHÍ, ĐIỀU HÒA ÂM DƯƠNG
Để điều hoà âm dương, loại trừ tà khí, người Việt Nam thường có
những tục sau:
- Tục đặt một bát cơm úp, một quả trứng, dựng đôi đũa trên bát cơm,
cài quả trứng vào giữa hai chiếc đũa rồi thắp hương đặt trên đầu người chết
suốt trong thời gian chưa nhập quan.
- Cắm một cái cọc bằng kim loại dưới chân giường người chết.
- Khi chưa nhập quan, đặt ngang một con dao trên bụng người mới
chết.
- Trên nắp áo quan, luôn luôn thắp hương nến (nếu không có nến thì
thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn.
- Hai bên hương án, phía gần kề áo quan, đặt hai cây chuối con.
- Dựng bó đuốc to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng, con cháu
và thân nhân túc trực quanh linh cữu tiến hành lễ "Chúc thực" ban đêm.
"Chúc" nghĩa là đuốc, đóm, "Thực" nghĩa là trồng; lễ "Chúc thực" nghĩa là "Lễ
trồng bó đuốc".
- Tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc,
tránh nhỏ nước mắt vào thi hài.
- Sau lễ nhập quan phải đốt lỗ hung (lỗ đào ở chính giữa giường người
mới chết nằm khi chưa nhập quan). Chất đốt có thể dùng trấu, than, củi hoặc
giẻ rách...
- Phải nhốt chó, mèo khi trong nhà có người mới chết.
- Khi người chết trong nhà, phải trèo lên mái nhà dỡ một vài viên ngói,
hoặc vài chót lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa).
Ngoài ý nghĩa tâm linh như đã nói ở phần trước, các biện pháp kể trên
còn được người xưa dùng như những "phép thuật" điều hoà khí âm dương,
thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập
tràng". Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần các địa phương bắt chước nhau trở
thành phong tục. Nói cụ thể hơn là dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt
hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà, mở rộng cửa, đào lỗ hung, đốt
pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả trứng, cây chuối... để thu hút
hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, thì có nhiều quả lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm
giống như những quả trứng để đánh gió). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy
qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt vào thi hài hoặc cắm cọc kim loại
dưới giường người chết, dỡ mái nhà... là những thuật triệt tiêu luồng điện âm
dương hút nhau. Ngoài ra, những người đến dự tang lễ, nhất là dự khâm liệm
còn có những thuật khác để phòng chống hơi lạnh như ngậm gừng sống,
uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ bưởi, bồ kết trước và sau khi đến
lễ tang.
TỤC ĐỘI MŨ GAI CHUỐI
Sở dĩ có tục đội mũ gai chuối là do ngày xưa, đường đi lại còn hẹp, có
khi còn phải leo núi cao, người mất được chôn cất ở nơi xa khu dân cư, trong
rừng núi, có nơi chôn ở triền núi đá có nhiều hang động. Đã có trường hợp,
người con vì quá thương xót cha mẹ, khóc lóc thảm thiết, đến nỗi không kể gì
đến sinh mạng của mình, đập đầu vào vách đá, khi leo núi đi về vì thương
cảm quá mất cả thăng bằng ngã lăn xuống vực. Để tránh tình trạng trùng tang
thảm hại đó, người ta mới đặt ra lệ phải quấn quanh đầu những vật liệu mềm,
xốp để nếu va vấp đỡ gây tổn thương và đặt ra lệ phải chống gậy để đi đứng
an toàn hơn. Vật liệu dễ kiếm nhất, giàu nghèo ai cũng có thể tự liệu được và
ở đâu cũng có thể kiếm được để làm chất đệm, đó là rơm, lá chuối, dây gai,
dây đay. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của một số người, dần dần trở
thành phong tục phổ biến.
Vì ngày thường đi lao động ở đồng ruộng, núi rừng hoặc đi đứng đều
mặc quần áo gọn bó vào người, đến khi có tang tế phải mặc áo dài rộng, dễ
vướng gai góc nên phải có dây đai, tục đó cũng xuất xứ từ việc tránh nạn
trùng tang.
TỤC CHỐNG GẬY ĐI GIẬT LÙI
Sở dĩ có tục chống gậy đi giật lùi, nhiều người giải thích rằng vì cha
nghiêm (nghiêm đương, nghiêm phụ) con chỉ biết lẽo đẽo theo khóc, không
dám lên phía trước đón ngăn lại trên đường vĩnh biệt như đối với mẹ hiền (gia
từ, từ mẫu).
Nhưng muốn hiểu được tục này chúng ta phải nhìn lại xã hội phong
kiến ngày xưa.
Ai cũng biết rằng Nho giáo rất trọng tôn ti trật tự quân, sư, phụ (vua,
thầy dạy học, cha). Trong gia đình người cha là trên hết. Cha chết, tất cả con
cái thuộc bậc dưới phải đi sau quan tài của cha.
Còn vai trò của người mẹ thì ra sao?
Nho giáo trọng đàn ông con trai, miệt thị đàn bà con gái. Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô (một con trai kể là có, mười con gái kể là không). Cha
chết thì quyền huynh thế phụ người anh được thay quyền cha. Chồng chết thì
vợ phải phu tử tòng tử, nghĩa là mẹ phải theo con trai. Tuy nhiên, chữ hiếu
của Nho giáo lại bắt con trai cũng như con gái phải thờ kính cả cha lẫn mẹ.
Tục lệ tang ma cho người con trai đi giật lùi đằng trước quan tài của mẹ, như
vậy là vừa giữ được lòng kính trọng của chữ hiếu vừa giữ được tinh thần
trọng nam khinh nữ của Nho giáo.
Hai chiếc gậy tre và gậy vông mang ý nghĩa gì?
Có sự giải thích rằng chiếc gậy tre tượng trưng cho ngay thẳng, cứng
rắn của cha, gậy vông tượng trưng cho cho thuần hậu, mềm dẻo của mẹ.
Nhưng tại sao lại phải đẽo vuông chiếc gậy vông?
Người xưa quan niệm rằng trời tròn đất vuông. Quan niệm này được
thể hiện rõ ràng qua sự tích bánh chưng, bánh dầy của người Việt.
Vua Hùng Vương thứ 18 muốn truyền ngôi, cho gọi các con vào chầu.
Vua nói: "Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang
trân cam mỹ vị đến đế tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ
được ta truyền ngôi".
Lang Liêu được thần báo mộng: "Các vật trên trời đất và mọi của quý
của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn
không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm
bánh, cái hình tròn, cái hình vuông để tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá
bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha
mẹ".
Lang Liêu làm theo lời thần. Bánh dâng lên vua, được vua khen vừa
ngon vừa có ý nghĩa. Lang Liêu được vua truyền ngôi.
Từ đó, đến ngày Tết thiên hạ thường làm bánh dầy bánh chưng dâng
cúng cha mẹ. Gậy tre tròn tượng trưng cho trời. Theo thuyết Âm Dương của
Nho giáo thì trời thuộc về dương, chỉ người cha. Gậy vông vuông tượng trưng
cho đất. Đất thuộc về âm, chỉ người mẹ. Vì vậy cho nên đưa đám cha phải
chống gậy tròn, đưa đám mẹ thì chống gậy vuông. Con gái, con dâu luôn luôn
đi đằng sau linh cữu cha mẹ, dưới tấm phương du bằng vải trắng dùng để
che nắng. Khi nào được hiệu lệnh thì con gái trưởng và con dâu trưởng phải
vừa khóc vừa lăn đường cho tăng thêm phần thảm thiết.
TỤC CHÔN CẤT (THỔ TÁNG)
Các dân tộc trên thế giới qua nhiều thời đại có nhiều táng thức khác
nhau: hoả táng, thuỷ táng, thổ táng, không táng, điểu táng...
Hoả táng là một táng thức tiến bộ trong thế giới hiện đại: Ngày xưa, ở
nước ta, chỉ có các nhà sư được hoả táng theo đạo Phật từ Ấn Độ truyền
sang. Thời nay, ở thủ đô và các thành phố lớn đã có đài "Hoá thân hoàn vũ".
Táng thức này đang được khuyến khích cổ vũ, nhưng chưa được phổ biến
rộng trong dân chúng, bởi lẽ ở nước ta miền xuôi cũng như miền ngược,
phong tục cổ truyền là thổ táng. Theo phong tục dân ta "Chết thì chôn", "Tử
đắc táng vi vinh" (nghĩa là chết được chôn là quý rồi). Thổ táng vừa bảo vệ
được môi trường sống lại vừa bảo vệ được hài cốt. Tất nhiên "Vạn vật hữu
hình tất hữu hoại" (nghĩa là: Tất cả mọi vật có hình cuối cùng cũng đều bị huỷ
hoại. Theo triết lý thời xưa không có gì là vĩnh cửu: Hài cốt rồi cũng hoại
thành đất đen, nhưng càng giữ được lâu dài càng biểu hiện được lòng tôn
kính, lưu luyến của ngưòi đang sống đối với người đã khuất.
Để có thể bảo vệ môi trường sống không bị ô nhiễm thì thi thể phải đào
sâu chôn chặt, áo quan phải bền, phải kín, nghĩa trang phải ở cách xa khu
dân cư, nhất là các ngôi mộ hung táng (ma mới) tốt nhất phải tránh được
luồng gió độc, thổi tạt từ nghĩa trang vào thôn xóm, tránh được nguồn nước
ngầm chảy qua đất nghĩa trang vào khu dân cư. Mồ mả không được chôn ở
ven sông, ven đường cái, hẻm núi, đất trũng, đất bãi bồi, dễ bị sụt lở. Không
trồng cây to gần mộ, đề phòng trường hợp rễ cây ăn lấn vào mộ, tạo khe hở
cho kiến, mối, chuột, rắn, lươn, chạch... chui vào mộ. Trên đây cũng là những
kiến thức sơ đẳng hợp khoa học của thuật phong thuỷ cổ đại.
Con người đang sống, đang hoạt động tự nhiên chết, thân nhân vô
cùng thương tiếc, cảm thấy hẫng hụt trống trải, họ không thể tin rằng chết là
hết, hết tất cả, hết mãi mãi. Tâm lý chung của con người vẫn lưu luyến, vẫn
mong muốn có cái gì còn lại không thể mất hết được. Vì vậy, hài cốt tiền nhân
trở thành vật linh thiêng quý trọng. Muốn bảo vệ được hài cốt lâu dài người
xưa theo thuật phong thuỷ (hay gọi là địa lý), tức là tìm đất có hướng gió
(phong) và mạch nước (thuỷ) hài hoà thích hợp, cốt ngưng tụ được phần sinh
khí còn lại mà khi sống đã kết tinh được ở trong xương. Giữa hài cốt của
người đã khuất và cơ thể tâm hồn người đang sống. Đôi câu đối đề ở nghĩa
trang: "Thế phách tồn thiên địa. Tinh thần tại tử tôn", (có nghĩa là: Sau khi
chết, phần xác (thể) phần hồn (phách) tồn tại mãi với đất trời. Tinh thần sống
mãi trong con cháu. Sự tử như sự sinh (thờ sau khi chết cũng như thờ khi
đang sống)). "Tế thần như thần tại" Tế thần - tức là tưởng tượng như (thần)
đang tồn tại trước mắt mình. Những ý niệm đó xuất phát từ tâm linh sâu kín,
chưa hẳn là mê tín dị đoan.
LỄ AN TÁNG TIẾN HÀNH NHƯ THẾ NÀO
Tuỳ từng địa phương, từng tôn giáo, mỗi nơi nghi lễ phong tục một
khác. Thời trước có thôn ấp cử những người trai tráng trong làng xóm ra
khiêng vác chôn cất. Nơi có hội tư văn, thì hội tư văn đứng ra lo liệu điều
hành công việc theo hương ước định sẵn. Hiện nay ở nông thôn có các hội
trợ tang, thành phố thị xã có ban quản lý nghĩa trang, một số chi hội trọng thọ
các phường xã hoạt động, đứng ra lo liệu chu đáo. Lễ an táng tiến hành tuỳ
theo hoàn cảnh từng nhà, "Giàu làm kép, hẹp làm đơn". Ở đây chỉ nói phần
tang gia cần làm gì:
Khi có người thân mất, tang chủ cần đến báo gấp, để cùng bàn bạc
theo quy ước đã định. Thời xưa, tang chủ có khoản tiền thưởng cho người
chấp hiệu và những phu kiệu. Nếu từ khi đưa áo quan lên kiệu, đi đến huyệt
mà chén rượu, đĩa dầu lạc để trên áo quan không sóng sánh ra ngoài thì tang
chủ đưa tiền thưởng rất hậu. Thân nhân, theo thứ tự nhân sơ quy định, tang
phục theo gia lễ, đều xếp hàng đi theo sau linh cữu. Thời xưa cớ cái bạt bằng
vải trắng che trên đầu gọi là bạch mạc. Người con trưởng đi trước hoặc kèm
sau xe quan tài theo tục "Cha đưa mẹ đón".
Hạ huyệt xong, tất cả người đi đưa đều đi vòng quanh mộ một vòng,
mỗi người ném xuống một hòn đất. Đắp mộ xong, mọi người đứng vòng
quanh mộ, người hộ tang, người chấp sự tiến hành lễ thành phần. Nghi thức
chung như trên, nhiều nơi còn có tục riêng như cầu kinh, yểm bùa, nhốt con
gà, dựng cây nêu, đóng cửa mả, đốt hình nhân... rắc vàng khẩu dọc đường,
cắm hương ở các mộ xung quanh, mời người qua đường ăn trầu hút thuốc,
đãi người đắp mộ...
CÁC NGHI LỄ SAU ĐÁM TANG
Lễ tế ngu: "Lễ tế ngu" gồm có: "Sơ ngu", "Tái ngu", "Tam ngu". "Ngu"
nghĩa là "Yên", tức là ba lần tế lễ cho yên hồn phách. Theo "Thọ mai gia lễ"
thì khi chôn xong, rước linh vị về đến nhà tế sơ ngu. Làm sơ ngu xong gặp
ngày nhu (tức là Ất, Đinh, Tân, Quý) làm lễ tái ngu, gặp ngày cương (tức ngày
Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) làm lễ tam ngu. Lễ này không thống nhất giữa
các địa phương, có nơi tính ba ngày sau khi mất, có nơi tính ba ngày sau khi
chôn. Dần dần về sau người ta giản lược, kiêm cả ba lễ luôn, chỉ làm lễ tam
ngu, vì thế nên gọi là lễ ba ngày. Như vậy phải tính ba ngày từ sau khi chôn
mới đúng, theo tục gọi lễ là lễ mở cửa mả. Ngày đó con cháu ra sửa lại mồ
mả, đắp cỏ, khơi rãnh thoát nước... "Ngu" là tế yên, còn "tế" chỉ tế người chết,
tế thần. Theo phong tục cũ thì ít khi chết xong chôn ngay, thường con để dăm
bảy ngày trong nhà. Khi chưa chôn làm lễ triêu tịch điện, tức cúng cơm hàng
ngày vẫn theo lễ thờ người sống. Theo một lập luận khác thì: có ba điều
không yên khiến phải làm lễ tế ngu.
- Chết là đang từ động chuyển sang tĩnh. Tức là mọi hoạt động bỗng
nhiên dừng lại.
- Đang nhìn thấy bóng dáng, khi đã nhập quan không nhìn thấy bóng
dáng nữa.
- Đang ở trên dương thế, nay xác về với đất, hồn vất vưởng lìa khỏi xác
về với cõi âm. Sơ ngu, tái ngu, tam ngu là tế để làm cho yên hồn phách, vậy
phải tế sau khi mất, sau khi lễ nhập quan và sau khi lễ thành phần xong. Ngày
nay cũng có trường hợp sau khi chết 4 – 5 ngày còn để trong nhà lạnh chưa
chôn nên không thể làm lễ tế ngu trước lễ an táng.
Lễ 49 ngày (chung thất): Ngày an táng và ngày trừ phục (hết tang) thì
cần phải chọn ngày lành, còn lễ 49 ngày thì theo "Thọ mai gia lễ", cứ đúng
ngày quy định trong gia lễ mà làm, không được chuyển dịch tuỳ tiện. Xưa nay
không ai có thể chọn ngày mất cho mình, vậy nên hàng năm cứ đến ngày mất
thì làm giỗ, dù cho có những năm, ngày đó rất xấu, có cả trùng phục, trùng
tang, sát chủ, quả tú, cô thần. Tất cả lễ chung thất, tốt khóc, tiểu tường, đại
tường cũng phải như vậy, sở dĩ có lễ này là vì theo quan niệm của Phật giáo:
qua 7 lần phán xét, mỗi lần 7 ngày đi qua một điện ở âm ty (tức 1 tuần, nhưng
không phải tuần lễ theo lịch dương).
Lễ cúng cơm trong 100 ngày (Lễ tốt khốc): Người Việt Nam rất trọng
tình trọng nghĩa. Điều này thể hiện ngay trong bữa cơm hàng ngày. Trong
nhà có người về muộn, mọi người cũng cố chờ về ăn cơm cho vui vẻ, đầm
ấm. Con cháu cầm bát cơm lên, trước hết mời ông bà. cha mẹ, chờ ông bà,
cha mẹ bắt đầu ăn rồi mới ăn. Có nơi xối bát cơm thứ hai còn mời lần nữa.
Nếu có khách, trước khi buông bát đũa đứng dậy còn phải xin phép và mời
khách tiếp tục xơi cơm. Cuộc sống gia đình đang vui vẻ, êm đẹp như vậy,
vắng mặt trong bữa cơm con nhắc huống chi vĩnh viễn đi xa. Do đó, trước
bữa ăn người thân dâng lên bàn thờ một bát cơm úp, một vài món ăn bình
thường, nhà ăn thứ gì thì cúng thứ ấy, không đòi hỏi cầu kỳ, nhà nghèo thì
lưng cơm, đĩa muối cũng được. Thắp hương xong, dựng đôi đũa vào giữa bát
cơm, có rượu thì rót chén rượu, khấn vái xong cũng rót chén nước. Tục cúng
vong trong 100 ngày, khiến cho người sống có cảm giác chưa mất đi người
thân, người thân vẫn sống cùng trong nhà. Từ đó mà vơi dần nhớ thương.
Một điều đáng chú ý nữa ở đây là tại sao phải cúng trong 100 ngày mà không
phải con số khác. Cũng tuỳ địa phương, có nơi chỉ cúng hết 49 ngày (tức là lễ
chung thất). Có nơi cúng hết 100 ngày (còn gọi là lễ tốt khốc nghĩa là thôi
khóc). Theo giải thích của người xưa thì thời gian này âm hồn vẫn còn phảng
phất luẩn quẩn trong nhà chưa đi xa.
Phong tục này có căn cứ khoa học: Theo thuyết Thần giao cách cảm,
ngoài điện trường vật lý đã được ứng dụng trong thực tiễn, còn có điện
trường sinh học. Những cá thể có cùng tần số cảm ứng trong điện trường
sinh học, mặc dù ở cách nhau rất xa vẫn nhận được những nguồn thông tin
của nhau. Các nhà khoa học đã vận dụng những phát kiến đó để giải thích về
điềm, về giấc mơ, về những biểu hiện tâm sinh lý bất thường khi thân nhân
(có thể cách nhau rất xa về không gian) có cùng tần số điện trường sinh học
có sự biến bất thường. Người ta bảo chết là hết, nhưng chết chưa phải là đã
hết khi người chết còn tồn tại trong tâm trí người sống. Sau khi chết, tim
ngừng đập, máu ngừng chảy, thần kinh cảm giác ngừng hoạt động, nhưng vỏ
não chưa bị huỷ, xung động điện trường phát từ não vẫn chưa ngừng phát
sóng. Lớp đất dày không ngăn được sóng điện vật lý hay sóng điện sinh học.
Cá thể sống có tần số điện trường sinh học tương ứng vẫn tiếp nhận được tín
hiệu, do đó hiện tượng báo mộng chưa hẳn là vu vơ, không đáng tin. Vì lẽ đó
mà dân gian cho rằng âm hồn còn phảng phất, chưa siêu thoát.
Lễ trừ phục (đàm tễ): Sau hai năm chọn một ngày tốt trong vòng ba
tháng để làm lễ trừ phục. Trừ phục gồm 3 lễ:
- Lễ sửa mộ: Đắp sửa mộ thành mộ tròn.
- Lễ đàm tế: Cất khăn tang, huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước
linh vị vào bàn thờ chính, bỏ bàn thờ tang, thu cất các bức trướng, câu đối
viếng.
- Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới,
phủ giấy hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với
băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và
chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà
con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ,
không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà
thờ tổ.
Cải táng: Theo "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính. "... Người mất,
sau ba năm đoạn tang rồi hoặc một vài năm nữa thì con cái lo việc cải táng.
Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đưòng. Đến hôm cải táng, lại làm lễ
khấn Thổ công chỗ để mả mới táng. Trước hết khai mả, nhặt lấy xương cho
vào một cái tiểu sành, vẩy nước vang vào rồi che đậy thật kín, không cho ánh
sáng mặt trời lọt vào được. Sau đó đem cải táng sang đất khác. Người xưa
hay tiết kiệm nếu quan tài còn tốt thì đem về làm cầu, hoặc làm chuồng trâu,
chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân. Có nơi còn mê tín đến
mức ai đau tức thì lấy mảnh ván thôi (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để dưới
gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức, cải táng có nhiều lý do. Một là, vì nhà
nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong
ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài. Hai là, vì chỗ đất mối
kiến, nước lụt thì phải cải táng. Ba là, vì các nhà địa lý thấy nấm mộ vô cớ mà
sụt đất hoặc cây cối ở trên mộ tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm
loạn điên cuồng, hay ốm đau, kiện tụng, thì cho là tại đất mà cải táng. Bốn là,
những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa
mà cải táng. Lại có ngưòi thấy nhà khác phát đạt, đem mộ nhà mình táng gần
vào chỗ mộ nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
Trong khi cải táng, tục lại có ba điều là tường thuỵ (tức là mộ phát tốt
đẹp) mà không cải táng. Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là
long xà khí vật. Hai là, khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì
cho là đất kết. Ba là, hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có
nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì
phải lập tức lấp lại ngay. Khi hung táng thì đắp hình vuông, đến lúc cải táng
thì đắp hình tròn.
Tục cải táng có người theo, nhưng cũng nhiều người khi hung táng,
sắm sửa quan quách kỹ càng thì không cần phải cải táng nữa. Tục này tin cái
lý tưởng tổ tiên với con cháu, huyết mạch tương quan với nhau. Hễ hài cốt tổ
tiên có ấm cúng thì con cháu mới mát mặt, hài cốt không yên thì con cháu
cũng không yên, cho nên mới có tục ấy. Nhiều người tin quá, mời thầy địa lý
phụng dưỡng hai ba tháng trong nhà để đi tìm đất. Có nhà động thấy trong
nhà không yên thì lại cải táng, có khi cải táng đến năm, sáu lần. Nếu có lòng
kính trọng thương xót thì không nên di chuyển nhiều, trừ những khi vạn bất
đắc dĩ thì phải cải đi mà thôi, không nên vì công danh phú quý là việc hy vọng
chưa trông thấy mà làm đến việc thương tâm động chạm đến mồ yên mả đẹp
của tổ tiên, cha, mẹ. Sự khai mả cũng có khi quan hệ đến việc vệ sinh thì lại
là việc không nên lắm. Hiện nay, nhiều người đã dùng hoả táng để bảo vệ
môi trường, xem ra cũng là cách hay. Còn như gia đình chẳng lành thì tại
người sống bất hoà, chứ không phải là tại đất.
Chương 4. PHONG TỤC DỰNG VỢ GẢ CHỒNG
Hôn nhân truyền thống của người Việt Nam không chỉ là việc hai người
lấy nhau mà còn là việc hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. Tục lệ này thể
hiện tính cộng đồng rõ nét trong văn hoá Việt Nam.
- Trước hết, hôn nhân truyền thống thể hiện quyền lợi của gia tộc: Việc
hôn nhân tuy là của hai người nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ giữa
hai gia tộc. Vì vậy, điều cần làm đầu tiên cha phải là lựa chọn một cá nhân cụ
thể, mà là lựa chọn một dòng họ, một gia đình xem có tương xứng không, có
môn đăng hộ đối không.
Đối với cộng đồng gia tộc, hôn nhân là một công cụ duy nhất và thiêng
liêng để duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực. Là những cư dân trồng
lúa nước thì khi xem xét con người trong hôn nhân, điều phải quan tâm trước
hết là năng lực sinh sản của đôi bên.
Người xưa kén dâu, phải chọn người thắt đáy lưng ong, vừa khéo
chiều chồng, vừa khéo nuôi con. Người phương Đông rất coi trọng việc duy
trì nói giống nên năng lực sinh đẻ của người phụ nữ được chọn làm vợ cũng
phải mạnh mẽ dồi dào. Dân gian có hàng loạt câu nói về tiêu chí này: "Mua
heo chọn nái, lấy gái chọn dòng; Ăn mày nơi cả thể, làm rể nơi nhiều con; Lấy
con xem nạ (nạ có nghĩa là mẹ)". Chẳng thế mà có tục "giã cối đón dâu" và
tục trải chiếu cho lễ hợp cẩn: gia đình nhờ một người phụ nữ đứng tuổi, đông
con có cả trai lẫn gái, phúc hậu, vợ chồng song toàn vào trải chiếu cho cô dâu
chú rể, chiếu trải phải một đôi, một ngửa một sấp (một âm một dương) úp vào
nhau. Các tục này thể hiện ước mơ con đàn cháu đống.
Hơn thế người phụ nữ phải đảm đang tháo vát, đem lại nguồn lợi vật
chất cho gia đình nhà chồng; còn chàng rể phải giỏi giang, đem lại vẻ vang
cho gia đình nhà vợ: Chồng sang vợ được đi giày, vợ ngoan chồng được tối
ngày cậy trông.
Ngoài quyền lợi của gia tộc, hôn nhân còn phải đáp ứng các quyền lợi
của làng xã. Một trong các đặc điểm lớn của người Việt là tính cô kết cộng
đồng rất mạnh. Do vậy bên cạnh ý thức đoàn kết còn nảy sinh tính cục bộ địa
phương, thế nên mới có truyền thống khinh rẻ dân ngụ cư. Trong hôn nhân
hình thành quan niệm chọn vợ chọn chồng cùng làng: Ruộng đầu chợ, vợ
giữa làng; Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng; Lấy chồng khó giữa làng, hơn
lấy chồng sang thiên hạ; Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn...
Đây là nét tâm lý bảo thủ trong hôn nhân truyền thống của người Việt.
Thậm chí họ còn đặt ra cái lệ hà khắc là người cùng làng lấy nhau thì nộp
cheo ít gọi là cheo nội; lấy vợ ngoài làng thì cheo rất nặng, gấp đôi gấp ba
cheo nội, gọi là cheo ngoại.
Có thể nói hôn nhân truyền thống Việt Nam luôn mang tính cộng đồng,
tập thể sâu sắc. Từ hôn nhân của thường dân đến hôn nhân của hoàng gia
đều là làm theo ý nguyện của các tập thể, cộng đồng, nhỏ là gia đình, gia tộc,
làng xã, lớn là quốc gia, dân tộc. Trong hôn nhân thường có những phong tục
sau:
TỤC "MỐI LÁI"
Trong việc dựng vợ, gả chồng, người Việt Nam thường có tục "mối lái".
Bà mối, hay ông mối là người trung gian đánh tiếng, bắc cầu cho hai gia đình
đôi nam - nữ thanh niên hiểu nhau, để đi đến hôn nhân. Bởi ngày xưa thanh
niên nam nữ muốn nên vợ nên chồng điều quan trọng là phải so tuổi. Đây là
một việc hệ trọng, vì người xưa quan niệm rằng nam nữ tuổi có hợp nhau mới
sống hạnh phúc, thuận hoà, ăn nên làm ra, nếu không hợp tuổi sẽ chuốc lấy
bao điều đau khổ, những tai ương đang chờ đón họ phía trước. Do vậy muốn
so tuổi nên cần đến sự mối lái.
Sau khi đôi trai gái đã có những thông tin về tuổi tác phù hợp, gia đình
nhà trai sau khi xem mọi việc, đồng thời hỏi thêm ý kiến của ông mối, bà mối,
rồi nhờ ông mối, bà mối sang nhà gái đánh tiếng trước. Nếu được nhà gái
chấp thuận về nguyên tắc, ông mối, bà mối sẽ giúp chàng trai sang nhà gái
"xem mặt", nếu ưng thuận về thưa với cha mẹ để tiến đến hôn lễ.
TỤC "LẤY VỢ KÉN TÔNG LẤY CHỐNG KÉN GIỐNG"
Lệ xưa việc lấy vợ, gả chồng là việc của cha mẹ, vì vậy con cái đến tuổi
trưởng thành thì cha mẹ tiến hành kén rể, kén dâu. Kén rể, kén dâu là một
công việc tiền hôn lễ nhưng rất quan trọng. Trước hết là việc xem xét gia đình
dự định trở thành thông gia xem thuộc loại gia đình như thế nào, có môn đăng
hộ đối không? Ca dao cổ có câu "Mua thịt thì chọn miếng mông, lấy chồng thì
chọn con tông nhà nòi" cho bên gái. Lại có câu "Lấy vợ kén tông lấy chồng
kén giống" cho cả hai bên. Sự kén chọn của nhà trai bao giờ cũng chủ động
nên kỹ càng hơn. Truyện Kiều có một câu:
"Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông".
Cô dâu tương lai phải "tam hợp" tránh "tứ xung" về tuổi. Không sành
việc xem tuổi thì cứ "Gái hơn hai, trai hơn một" là tốt. Đó là về tuổi còn ngoại
hình thì người phụ nữ cũng phải "Lưng chữ vụ, vú chữ tâm" phải "thắt đáy
lưng ong". Và nếu được cả con mắt lá dăm, lông mày lá liễu nữa thì thật
"đáng trăm quan tiền".
Người xưa có câu: "Nòi nào giống ấy", "Cây nào quả ấy", "Giỏ nhà ai
quai nhà ấy", Con nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh", "Tìm nơi có
đức gửi thân".
Ai chẳng muốn trai lành gái đảm, rể thảo dâu hiền. Tìm tông không phải
tìm chốn sang giàu, khinh người nghèo khó, chủ yếu tìm nơi có gia giáo, có
đức độ. Tông là họ hàng, tìm những tình cảm chân thành và những tri thức
đúng đắn.
TỤC CHỌN TUỔI TRONG HÔN NHÂN
Các dân tộc trên đất Việt Nam xưa, khi dựng vợ gả chồng thường xem
tuổi của đôi trai gái có hợp nhau hay không. Các dân tộc ít người như người
Tày, ngươi Nùng, người Sán Dìu, người Cao Lan, người Sán Chí, người
Ngái... khi chạm ngõ bao giờ cũng xin tuổi của cô gái để xem có hợp tuổi với
chàng trai hay không rồi mới làm lễ ăn hỏi. Người Việt có phong tục "nữ hơn
2, trai hơn 1", nghĩa là cô gái hơn chàng trai 2 tuổi, hoặc chàng trai hơn cô gái
một tuổi là hôn nhân tốt đẹp, con đàn cháu đống, có nếp có tẻ, sống trọn đời
bên nhau. Do vậy, xem tuổi để kết hôn đã trở thành một tập tục của các dân
tộc trên đất Việt. Tập tục này lại được củng cố thêm khi dân gian vận dụng
thuật Trạch cát của Trung Hoa cổ đại trong hôn nhân, làm nhà và các việc đại
sự khác. Tập tục này đã có cách nay hàng ngàn năm, ngày nay cũng được
các đôi trai gái xem xét trước khi cưới gả. Việc xem tuổi này nhằm mục đích,
nếu đôi trai gái không hợp tuổi, họ vẫn đi đến hôn nhân (vì quá hợp nhau tính
cách và rất yêu nhau), nhưng tìm cách để "giải" điều xấu và điều không hợp.
Như: bằng cách chọn thời gian tháng đại lợi cưới gả cho cô dâu; chọn năm,
tháng, ngày, giờ tốt cho đính hôn, ăn hỏi, cưới gả. Có những cặp vợ chồng
khi cưới gả xong, tức thời lên chùa làm sớ "đổi tên, đổi tuổi" cho đẹp duyên;
hoặc không thì họ bảo nhau hàng ngày dành chút thời giờ tụng (đọc thầm,
trang nghiêm, bí mật) chú Đại Bi (Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm
Đà la ni). Từ bao đời nay, trong dân gian Việt Nam, cặp vợ chồng nào không
hợp tuổi nhau, cưới nhau vào năm, tháng, ngày, giờ không đẹp, nếu cần mẫn
hàng ngày đọc chú Đại Bi này thì mọi việc rất tốt lành, biến hung thành cát.
Đương nhiên, người bình thường hàng ngày đọc chú này thì càng tốt. Việc
tụng niệm chú có hiệu quả kỳ diệu như vậy thật hay không đến nay chưa có
cách nào kiếm chứng được, song thiết nghĩ tụng niệm hàng ngày cũng có tác
dụng nhắc nhở người thực thi luôn tích đức hành thiện.
Kiêng kỵ tuổi xung trong hôn nhân: Trong lễ vấn danh, ngoài những
kiêng kỵ về tuổi kết hôn, còn có những kiêng kỵ về tướng tinh, tức xem thử
nam nữ sinh vào năm nào, cầm tinh con gì trong số 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần,
Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) tương ứng với 12 con vật:
Chuột, Trâu, Hổ, Mèo (với người Trung Quốc là con Thỏ), Rồng, Rắn, Ngựa,
Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn.
Cách quy ước này không biết khỏi nguyên tự bao giờ, cho đến nay vẫn
có nhiều cách giải thích khác nhau: Có người cho rằng đó là kết quả từ sự
tổng hợp cách ghi năm tính tuổi của người Hoa Hạ và các dân tộc thiểu số
thời cổ. Tương truyền thời xưa, các dân tộc miền tây và miền bắc Trung Quốc
từng sáng tạo ra cách ghi năm tính tuổi bằng tên của động vật, như sách
Đường thư viết: "Nước Hiệp Giáp Tư lấy mười hai con vật để ghi năm tính
tuổi, ví dụ năm Dần, tức là năm con Hổ". Trong sách Cai dư tòng khảo của
Triệu Dực (thời Thanh) chép: "Phong tục ở miền bắc ban đầu chưa có tên gọi
Tí-Sửu-Dần-Mão theo 12 địa chi, nhưng người ta gọi tên năm bằng các con
vật Chuột-Trâu-Hổ-Thỏ, và cách ghi năm tính tuổi ấy dần dần trở nên phổ
biến ở Trung Quốc".
Những thư tịch ghi chép sớm nhất về 12 địa chi (tức 12 con giáp) hiện
còn giữ được là Kinh Thi (trong bài Xa công, phần Tiêu nhã): "Cát nhật Canh
Ngọ, Ký tu ngã mã"; hay bài Quý đông, phần Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký
"Xuất thổ Sửu, tông hàn khí. Đến thời Đông Hán, cách ghi này đã được
Vương Sung ghi khá rõ trong trước tác Luận hành (phân Vật thế thiên): "Ngọ
là Ngựa, Tý là Chuột, dậu là Gà, Mão là Thỏ, Hợi là Lợn, Mùi là Dê, Sửu là
Trâu, Tỵ là Rắn, Thân là Khỉ...", tổng cộng đã nhắc đến 11 con giáp, cộng với
câu "Ngô tại Thìn, kỳ vị Long" (tức Thìn là Rồng) trong sách Ngô Việt xuân thu
do Triệu Diệp (thời Đông Hán) soạn nữa, thì đã đủ 12 con giáp. Như vậy, có
thể thấy rằng từ trước thời Đông Hán, cách ghi tuổi người bằng tên con vật
đã tương đối phổ biến.
Dù 12 loại động vật trong thập nhị địa chi được tuyển chọn và sắp xếp
như thế nào trong việc tính năm sinh của con người, thì sau khi ra đời, nó đã
tạo cho dân gian sự liên tưởng giữa nhân phẩm và tướng tinh. Nghĩa là họ
cho rằng người nào sinh nhằm năm con vật gì thì tính cách sẽ rất giống với
con vật ấy, hoặc chí ít cũng giống "hao hao". Đến thời Đường - Tống, quan
niệm này đã ảnh hưởng đến thượng tầng xã hội, phát triển thành quan niệm
xem tướng tinh con người chính là thần bản mệnh của người đó. Ví dụ Liễu
Tông Nguyên thời Đường từng miêu tả một người cầm tinh con chuột, xem
chuột là thần bản mệnh của ông ta. Tương truyền vua Tống Huy Tông cầm
tinh con chó, và tể tướng của ông ta tâu rằng: "Trong 12 cung thần, Chó ở
cung Tuất, đó là bản mệnh của bệ hạ, vậy từ nay phải cấm chỉ việc giết mổ
chó ở kinh sư". Cho đến tận bây giờ, không ít người vẫn có sự tưởng tượng,
niềm tin và quan niệm sai lầm vô thức về mối liên hệ giữa tính cách, số phận
con người và tướng tinh.
Nhưng trong xã hội cũ, nhất là thời phong kiến, tập tục này lại rất được
xem trọng, nhất là trong đại sự hôn nhân, đàng trai và đàng gái không thể
không tìm hiểu tướng tinh của nhau để xem tướng hợp hay xung khắc.
Lúc hợp hôn, có rất nhiều kiêng kỵ về tướng tinh, ví dụ tục kiêng kỵ phụ
nữ cầm tinh con Hổ phổ biến rất rộng. Điều kiêng kỵ này có lẽ trực tiếp xuất
phát từ tâm lý "sợ hổ" của con người, từ đó dân gian cho rằng con gái tuổi
Dần sẽ hung dữ như "mãnh hổ". Người ta còn cho rằng hổ thường bắt người
ăn thịt vào ban đêm, nên họ rất kỵ ban đêm ra đường gặp người nữ cầm tinh
ông Ba Mươi, mà đặc biệt kỵ là gặp lúc nửa đêm về sáng vì dân gian cho
rằng đó là lúc "hổ xuống núi" (hạ sơn hổ) còn hung dữ hơn cả "hổ lên núi"
(thướng sơn hổ, tức là nửa đêm về trước). Cũng vì thế mà người ta cho rằng
các cô gái sinh vào trước 12 giờ đêm năm Dần (hổ lên núi) thì may ra còn có
người dám lấy, chứ nếu sinh ra sau 12 giờ đêm về sáng năm Dần (hổ xuống
núi) thì không ai dám cưới!
Ngày xưa một số vùng còn có tục kỵ cô dâu tuổi Mùi, bởi cho rằng con
gái cầm tinh con Dê sẽ khắc phu, hại chết chồng sau khi cưới. Trong phần
Trực ngôn bổ chứng, ở sách Thông tục biên của Địch Hao thời Thanh có dẫn
câu ngạn ngữ: "Nữ tử thuộc dương thủ không phòng" nghĩa là con gái cầm
tinh con Dê sau khi cưới sẽ trở thành quả phụ. Vấn đề ở đây không phải là vì
con cái tuổi Mùi hung dữ như trường hợp tuổi Dần ở trên, mà vì dân gian
quan niệm rằng: "Nhãn lộ tứ bạch, ngư phu thủ trạch" (mắt lồi tròng trắng
nhiều hơn tròng đen, sẽ hại chết năm đời chồng), mà mắt con dê bị xem là
"nhãn lộ tứ bạch", vì vậy con gái tuổi Mùi cũng bị đưa vào trường hợp cần
kiêng kỵ trong kết hôn.
Như vậy, không lẽ tất cả những cô gái tuổi Dần và tuổi Mùi ngày xưa
đều không thể kết hôn sao? Hầu hết là như vậy, nhưng nhà gái cũng có nhiều
cách để "đánh lừa" nhà trai, thay đổi tướng tinh, vận mệnh của mình. Nếu cô
nào sinh nhằm năm Dần thì năm sinh của cô sẽ được cha mẹ tăng lên 1
thành tuổi Sửu, hoặc giảm đi 1 thành tuổi Mão; còn cô nào sinh nhằm tuổi Mùi
thì năm sinh của cô cũng sẽ được tăng lên 1 thành tuổi Ngọ, hoặc giảm đi 1
thành tuổi Thân. Do đó, Bát tự của các cô gái thường không chính xác, cho
nên dân gian mới có câu: "Nữ mệnh vô chân, nam mệnh vô giả". Điều đó
cũng phản ánh vị trí thấp kém của nữ giới trong xã hội nam quyền ngày xưa.
Trước đây, các phương gia thuật sĩ còn liên hệ giữa tướng tinh con
người với sự tương sinh tương khắc trong Ngũ Hành: Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả
- Thổ, biến nó thành hiện tượng tương sinh tương khắc trong tướng tinh của
con người. Thời xưa, có người cho rằng Ngũ Hành là năm thứ vật chất
thường thấy đã sinh ra và làm thay đổi mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.
Quan niệm này mang yếu tố của chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó nó đã bị
các đạo sĩ, thầy bói khoác lên chiếc áo thần bí, tạo thành sự mê tín, theo
hướng duy tâm; 12 địa chi được họ quy về ứng với Ngũ Hành: Dần - Mão
thuộc Mộc, Tỵ - Ngọ thuộc Hoả, Thìn - Mùi - Tuất - Sửu thuộc Thổ, Thân -
Dậu thuộc Kim, Hợi - Tý thuộc Thuỷ. Bởi giữa Ngũ Hành có quan hệ tương
sinh tương khắc, cho nên giữa tướng tinh của con người cũng có quan hệ
tương sinh tương khắc, và từ đó dần dần nó đã bị biến thành một trong
những tiêu chuẩn hết sức quan trọng trong việc phối hôn. Vương Sung là học
giả cực lực phản đối quan niệm tương sinh tương khắc trong tướng tinh ấy.
Trong bài Vật thế ở sách Luận hành ông đã nêu ra sự bất hợp lý: "Thuỷ thắng
Hoả, sao Chuột không đuổi Ngựa? Kim thắng Mộc, sao Gà không mổ Thỏ?
Thổ thắng Thuỷ, sao Bò và Dê không giết heo? Hoả thắng Kim, sao Rắn
không cắn Khỉ?"... Nhưng những người có tư tướng như Vương Sung rất
hiếm hoi, mà đa số cứ nhắm mắt tin bừa, không những vậy, nó còn nhanh
chóng trở thành tín tục dân gian, hình thành cái gọi là bảng "Nam nữ phối hôn
cát hung biểu" (Bảng lành, dữ trong phối hôn nam - nữ).
VÌ SAO CÓ TỤC BÀ CON CÙNG HỌ KHÔNG ĐƯỢC LẤY NHAU?
Theo thuyết di truyền học, kể cả người và súc vật nếu có chung huyết
thống mà giao hợp với nhau thì qua nhiều đời dòng giống bị thoái hoá, có
trường hợp bị quái thai, vì vậy anh em họ kể cả họ nội hay họ ngoại lấy nhau
đều không có lợi.
Theo luật pháp, cùng chung huyết thống ba đời, kể cả bên bố hay bên
mẹ đều không được lấy nhau. Còn theo phong tục thì tuỳ từng thời, từng dân
tộc, từng địa phương, từng họ có khác nhau.
Khác với người Việt, ở các nước Âu, Mỹ, anh chị em con chú bác ruột
vẫn có quyền lấy nhau. Qua tác phẩm Eugénie Grandet ta thấy mối tình giữa
hai anh em con chú bác ruột Charles Grandet và Eugénie Grandet sở dĩ trắc
trở là do thói keo kiệt biển lận của lão già Grandet chứ tác giả không hề đả
động gì đến vấn đề chung huyết thống. Trung Quốc là một nước chịu ảnh
hưởng của văn hoá phong kiến sâu nặng hơn ta nhiều, nhưng anh chị em con
cô cậu ruột, con dì ruột vẫn được lấy nhau. Bảo Thoa, Bảo Ngọc... trong
Hồng Lâu Mộng yêu nhau lấy nhau là chuyện bình thường.
Ở nước ta, dưới triều Trần, con cháu nhà vua chỉ được lấy người trong
Hoàng tộc (lấy sang họ khác sợ bị nạn ngoại thích cướp ngôi). Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn lấy Thiên Thành công chúa tức là cô ruột của mình.
Vua Trần Thánh Tông lấy Thiên cảm Hoàng hậu tức là chị con bác ruột. Vua
Trần Minh Tông lấy Lệ Thánh Hoàng hậu tức là con chú ruột đều là cháu nội
vua Trần Nhân Tông.
Còn trong dân gian từ triều Lê trở về sau, nêu trong họ nội thân đều
cùng ở quê mà lấy nhau bị gọi là hỗn thú, họ hàng không chấp nhận. Nếu
cùng họ nhưng đã xa đời, thuộc 2 chi khác nhau, hoặc đã xa quê (gọi là biệt
tổ ly tông) thì vẫn lấy nhau được. Thời xưa do trọng nam khinh nữ hoặc thiếu
hiểu biết về gen di truyền nên anh chị em con cô cậu ruột coi như khác họ vẫn
có quyền làm thông gia với nhau. Ca dao tục ngữ trong dân gian còn ca ngợi
trường hợp "cháu cậu mà lấy cháu cô", coi như "thóc lúa trong bồ: giống má
nhà ta".
VÌ SAO CÓ TỤC XEM NGÀY KÉN GIỜ
Đối với người Việt, việc cưới xin, việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai
hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ
cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an
táng đều rất coi trọng việc xem ngày kén giờ.
Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra.
Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng đế ngự điện khai trào, các
quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch
khắc nơi... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết
khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân hành được đều nhau.
Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên
ân, thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày
tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên
hình, nguyệt phá thì là ngày xấu. Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc
gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi
ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập
phòng. Trong một năm lại có mười ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật,
hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy. Đó là:
Ngày 13 tháng giêng
Ngày 11 tháng hai
Ngày 9 tháng ba
Ngày 7 tháng tư
Ngày 5 tháng năm
Ngày 3 tháng sáu
Ngày 8 tháng bảy
Ngày 29 tháng bảy
Ngày 27 tháng tám
Ngày 25 tháng chín
Ngày 23 tháng mười
Ngày 21 tháng mười một
Ngày 19 tháng chạp
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thành. Phàm
việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi. Ngoại giả lại còn những
ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ
tuyệt là xấu. Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá,
trực nguy.
Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:
Dần, thân gia tý mão dậu dần
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân
Tỵ, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Lại cần phải nhớ hai câu:
Đạo viễn kỷ thời thông đạt
Lộ dao hà nhật hoàn trình.
Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà
bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Nếu gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông,
đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo... Xét phép chọn ngày, từ đời
đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày:
Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. Nội sự là việc trong như việc tế tự
cưới xin... thì dùng những ngày âm can là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý.
Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp, giao thiệp... thì dùng ngày dương can là
các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như thế chỉ có ý làm các việc
êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày
dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi.
Đến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra
ngày tốt, ngày sao xấu, ngày này nên làm việc nọ, ngày kia nên làm việc kia.
Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì
cũng phải xem ngày, kén giờ.
TỤC CHỌN NĂM THÁNG ĐẠI LỢI CHO HÔN NHÂN
Nhìn chung người ta chỉ kiêng năm gả chồng đối với nữ giới, như tránh
vào những năm Kim lâu, nhưng theo phong tục Việt Nam năm kỵ cho cưới gả
cũng khuyên cho nam giới. Như những năm sau đây, nam giới không nên
cưới vợ:
Tuổi Tý (như: Mậu Tý 1948, Canh Tý 1960, Nhâm Tý 1972, Giáp Tý
1984, Bính Tý 1996,...) kỵ cưới vợ vào những năm Mùi (như: 1955, 1967,
1991, 2015...).
Tuổi Sửu (như: Kỷ Sửu 1949, Tân Sửu 1961, Quý Sửu 1973, Ất Sửu
1985, Đinh Sửu 1997...) kỵ cưới vợ vào những năm Thân (như: 1956, 1968,
1980, 1992, 2004, 2006...).
Tuổi Dần (như: Canh Dần 1950, Nhâm Dần 1962, Bính Dần 1976, Mậu
Dần 1998,...) kỵ cưới gả vào các năm Dậu (như: 1957, 1969, 1981, 1993,
2005...).
Tuổi Mão (như: Tân Mão 1951, Quý Mão 1963, Ất Mão 1975, Đinh Mão
1987, Kỷ Mão 1999...) kỵ cưới vợ vào các năm Tuất (như: 1958, 1970, 1982,
1994, 2006…)
Tuổi Thìn (như: Nhâm Thìn 1952, Giáp Thìn 1964, Bính Thìn 1976,
Canh Thìn 2000...) kỵ cưới vợ vào các năm Hợi (như: 1959, 1971, 1983,
1995, 2007...).
Tuổi Tỵ (như: Quý Tỵ 1953, Ất Tỵ 1965, Đinh Tỵ 1977, Kỷ Tỵ 1989, Tân
Tỵ 2001...) kỵ cưới vợ vào các năm Tý (như: 1960, 1972, 1984, 1996,
2008...).
Tuổi Ngọ (như Giáp Ngọ 1954, Bính Ngọ 1966, Mậu Ngọ 1978, Canh
Ngọ 1990, Nhâm Ngọ 2002...) kỵ cưới vợ vào các năm Sửu (như năm 1961,
1973, 1985, 1997, 2009...).
Tuổi Mùi (như Ất Mùi 1955, Đinh Mùi 1967, Kỷ Mùi 1979, Tân Mùi 1991,
Quý Mùi 2003...) kỵ cưới vợ vào các năm Dần (như các năm 1962, 1974,
1986, 1998, 2010...).
Tuổi Thân (như Bính Thân 1956, Mậu Thân 1968, Canh Thân 1980,
Nhâm Thân 1992,...) kỵ cưới vợ vào các năm Mão (như: 1963, 1975, 1987,
1999, 2001...).
Tuổi Dậu (như Đinh Dậu 1957, Kỷ Dậu 1969, Tân Dậu 1981, Quý Dậu
1993, Ất Dậu 2005...) kỵ cưới vợ vào các năm Thìn (như 1956, 1964, 1976,
1988, 2000, 2012...).
Tuổi Tuất (như Mậu Tuất 1958, Canh Tuất 1970, Nhâm Tuất 1982,
Giáp Tuất 1994...) kỵ cưới vợ vào các năm Tỵ (như 1965, 1977, 1989, 2001,
2013...).
Tuổi Hợi (như Kỷ Hợi 1959, Tân Hợi 1971, Quý Hợi 1983, Ất Hợi 1995,
Đinh Hợi 2007...) kỵ cưới vợ vào các năm Ngọ (như 1966, 1978, 1990, 2002,
2014...).
Các năm mà nữ giới nên kỵ cưới chồng
Thường thì dân gian tránh cưới gả đối với nữ giới vào những năm Kim
lâu, nhưng có sách xưa lại đưa ra những năm kỵ cưới gả cho họ là:
Tuổi Tý (như Canh Tý 1960, Nhâm Tý 1972, Giáp Tý 1984, Bính Tý
1996, Mậu Tý 2008...) kỵ cưới gả vào các năm Mão (như các năm 1975,
1987, 1999, 2011...).
Tuổi Sửu (như Tân Sửu 1961, Quý Sửu 1973, Ất Sửu 1985, Đinh Sửu
1997, Kỷ Sửu 2009...) kỵ cưới gả vào các năm Dần (như các năm: 1962,
1974, 1986, 1998, 2010, 2022...).
Tuổi Dần (như Nhâm Dần 1962, Giáp Dần 1974, Bính Dần 1986, Mậu
Dần 1998, Canh Dần 2010...) kỵ cưới gả vào các năm Sửu (như 1985, 1998,
2010, 2022...).
Tuổi Mão (như Quý Mão 1963, Ất Mão 1975, Đinh Mão 1987, Kỷ Mão
1999, Tân Mão 2011, Quý Mão 2023...) kỵ cưới gả vào các năm Tý (như năm
1984, 1996, 2008, 2020...).
Tuổi Thìn (như Giáp Thìn 1964, Bính Thìn 1976, Mậu Thìn 1988, Canh
Thìn 2000, Nhâm Thìn 2012...) kỵ cưới gả vào các năm Hợi (như 1983, 1995,
2007, 2019).
Tuổi Tỵ (như Ất Tỵ 1965, Đinh Tỵ 1977, Kỷ Tỵ 1989, Tân Tỵ 2001, Quý
Tỵ 2013...) kỵ cưới gả vào các năm Tuất (như 1982, 1995, 2006, 2018...).
Tuổi Ngọ (như Bính Ngọ 1966, Mậu Ngọ 1978, Canh Ngọ 1990, Nhâm
Ngọ 2002, Giáp Ngọ 2014) kỵ cưới gả vào các năm Thân (như 1980, 1992,
2004, 2016...)
Tuổi Thân (như Mậu Thân 1968, Canh Thân 1980, Nhâm Thân 1992,
Giáp Thân 2004, Bính Thân 2016...) kỵ cưới gả vào các năm Mùi (như năm
1979, 1991, 2003, 2015...).
Tuổi Dậu (như Kỷ Dậu 1969, Tân Dậu 1981, Quý Dậu 1993, Ất Dậu
2005...) kỵ cưới gả vào các năm Ngọ (như năm 1978, 1990, 2002, 2014...).
Tuổi Tuất (như Canh Tuất 1970, Nhâm Tuất 1982, Giáp Tuất 1994,
Bính Tuất 2006...) kỵ cưới gả vào các năm Tỵ (như năm 1977, 1989, 2001,
2013, 2015...).
Tuổi Hợi (như Tân Hợi 1971, Quý Hợi 1983, Ất Hợi 1995, Đinh Hợi
2007...) kỵ cưới gả vào các năm Thìn (như năm 1976, 1988, 2000, 2012...).
Nam giới Năm kỵ lấy vợ Nữ giới Năm kỵ lấy chồng
Tý Mùi Tý Mão
Sửu Thân Sửu Dần
Dần Dậu Dần Sửu
Mão Tuất Mão Tý
Thìn Hợi Thìn Hợi
Tỵ Tý Tỵ Tuất
Ngọ Sửu Ngọ Dậu
Mùi Dần Mùi Thân
Thân Mão Thân Mùi
Dậu Thìn Dậu Ngọ
Tuất Tỵ Tuất Tỵ
Hợi Ngọ Hợi Thìn
Những năm Kim lâu nữ giới không nên cưới gả
Thường dân gian từ xưa tới nay không tổ chức cưới gả cho con gái vào
những năm Kim lâu. Họ cho rằng, cưới gả vào những năm Kim lâu sẽ có
nhiều trục trặc cho đôi vợ chồng, như:
- Sinh con một bề, thường sinh con gái.
- Vợ chồng hay bất hoà một cách vu vơ, nhưng lại ảnh hưởng đến tình
cảm vợ chồng.
- Vợ chồng hay phải xa nhau, kẻ nam người bắc.
Để cho đôi vợ chồng sống vẹn toàn, người xưa tránh cưới gả cô gái
vào năm Kim lâu. Cách tính năm Kim lâu đối với nữ giới như sau:
Lấy số tuổi đến ngày dự định cưới gả theo âm lịch (dân gian thường gọi
là tuổi ta) chia cho 9, nếu chia hết hoặc dư 2, 4, 5, 7, 9 thì không phạm Kim
lâu. Còn nếu kết quả phép chia còn dư: 1, 3, 6, 8 là năm Kim lâu.
Ví dụ: Cô gái sinh năm 1981, đến năm 2002 dự định làm đám cưới, ta
tính như sau:
Từ 1981 đến 2002 là: 2002 - 1981 = 21 tuổi dương, vậy tuổi ta là: 21 +
1 = 22.
Lấy 22 : 9 = 2 dư 4. Vậy theo người xưa năm 2002 cưới gả được,
không Kim lâu. Nhưng nếu để năm 2003 mới cưới thì sao? Ta lấy 23 tuổi ta
cô gái năm này, chia cho 9 được 2 dư 5, vậy năm này cũng không Kim lâu,
cưới gả tốt.
Nếu đến năm 2004 mới cưới gả thì: 24 tuổi : 9 = 2 dư 6, vậy năm này
phạm Kim lâu, không nên tổ chức đám cưới.
Theo cách tính trên của người xưa, nhưng cô gái có tuổi âm (tuổi ta =
tuổi theo lịch dương + 1 tuổi) như sau sẽ không phạm năm Kim lâu nếu làm
đám cưới:
18 tuổi, 20 tuổi, 23 tuổi, 25 tuổi, 27 tuổi, 29 tuổi, 31 tuổi, 32 tuổi, 34 tuổi,
36 tuổi, 38 tuổi, 41 tuổi...
Để tiện theo dõi năm Kim lâu của từng tuổi, xin xem bảng sau (các tuổi
tính theo tuổi lịch âm).
Bảng tính năm Kim lâu cho tuổi sinh năm 1970 - 1995
Năm 2000 2001 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
sinh Thìn Ty Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Dần Mão
1970 31 32 33KL 35KL 36 37KL 38 39KL 40 41 42KL
1971 30KL 31 32 34 35KL 36 37KL 38 39KL 40 41
1972 29 30KL 31 33KL 34 35KL 36 37KL 38 39KL 40
1973 28KL 29 30KL 32 33KL 34 35KL 36 37KL 38 39KL
1974 27 28KL 29 31 32 33KL 34 35KL 36 37KL 38
1975 26KL 27 28KL 30KL 31 32 33KL 34 35KL 36 37KL
1976 25 26KL 27 29 30KL 31 32 33KL 34 35KL 36
1977 24KL 25 26KL 28KL 29 30KL 31 32 33KL 34 35KL
1978 23 24KL 25 27 28KL 29 30KL 31 32 33KL 34
1979 22 23 24KL 26KL 27 28KL 29 30KL 31 32 33KL
1980 21KL 22 23 25 26KL 27 28KL 29 30KL 31 32
1981 20 21KL 22 24KL 25 26KL 27 28KL 29 30KL 31
1982 19KL 20 21KL 23 24KL 25 26KL 27 28KL 29 30KL
1983 18 19 20 22 23 24 25 26 27 28 29
1984 17KL 18 19KL 21KL 22 23 24KL 25 26KL 27 28KL
1985 16 17KL 18 20 21KL 22 23 24KL 25 26KL 27
1986 15 16 17KL 19KL 20 21KL 22 23 24KL 25 26KL
1987 14 15 16 18 19KL 20 21KL 22 23 24KL 25
1988 13 14 15 17KL 18 19KL 20 21KL 22 23 24KL
1989 12 13 14 16 17KL 18 19KL 20 21KL 22 23
1990 11 12 13 15 16 17KL 18 19KL 20 21KL 22
1991 10 11 12 14 15 16 17KL 18 19KL 20 21KL
1992 9 10 11 13 14 15 16 17KL 18 19KL 20
1993 8 9 10 12 13 14 15 16 17KL 18 19KL
1994 7 8 9 11 12 13 14 15 16 17KL 18
1995 6 7 8 10 11 12 13 14 15 16 17KL
Nhìn vào bảng trên, cô gái sinh năm 1985 nếu tránh Kim lâu chỉ cưới
được vào năm 2007, 2009, 2011; cô gái sinh năm 1986 cưới được vào năm
2007, 2008, 2010. Lưu ý: Cách tính tuổi Kim lâu cho cưới gả đối với phụ nữ
không giống cách tính năm Kim lâu cho nam giới khi làm nhà, hai cách tính
này hoàn toàn khác nhau. Một điều mà các cô gái cần biết, khi tuổi đã cao
(như ngoài 30 tuổi), thì khi cưới gả không cần phải kỵ năm Kim lâu, chỉ cần
chọn tháng đại lợi cho cưới gả và ngày tốt giờ tốt để tổ chức đám cưới thì mọi
việc đều qua.
Những tháng âm lịch đại lợi cho cưới gả đối với nữ giới
Người xưa khi gả chồng cho con gái, đều đi xem tháng đại lợi (rất tốt)
cho cưới gả. Cho rằng làm như vậy đôi vợ chồng trẻ sau này hạnh phúc, làm
ăn tấn tới, sinh con khoẻ ngoan ngoãn, mọi bề tốt đẹp. Theo người xưa, cách
tính đó như sau:
Tuổi Tý và tuổi Ngọ: Nếu cô gái tuổi Tý (sinh năm 1960, 1972, 1984,
1996, 2008...) Ngọ (sinh năm 1966, 1978, 1990, 2002...) thì cưới vào tháng 6
và tháng chạp (12) âm lịch sẽ đại lợi. Còn nếu cưới vào tháng 2, tháng 8 sẽ
kỵ với cha mẹ chồng (không hoà thuận), tháng 3 và tháng 9 kỵ cha mẹ mình,
tháng 4 và tháng 10 kỵ cho chú rể, tháng 5 và tháng 11 kỵ cho cô dâu.
Tuổi Sửu và tuổi Mùi: Nếu cô gái tuổi Sửu (sinh năm 1960, 1973, 1985,
1997, 2009...) Mùi (sinh năm 1967, 1979, 1991, 2003) thì cưới vào tháng 5 và
tháng 11 âm lịch là đại lợi, nếu cưới vào tháng 3, tháng 9 thì kỵ vào cha mẹ
chồng, vào tháng 2 và tháng 8 kỵ cha mẹ mình, tháng giêng và tháng 7 kỵ chú
rể, tháng 6 và tháng chạp kỵ cô dâu.
Tuổi Dần và tuổi Thân: Nếu cô dâu tuổi Dần (sinh năm 1962, 1974,
1986, 1988, 2010...) Thân (sinh năm 1968, 1980, 1986, 1992...) thì cưới vào
tháng 2, tháng 8 rất đại lợi, nếu cưới vào tháng 4, tháng 10 kỵ cha mẹ chồng,
vào tháng 5, tháng 11 kỵ cha mẹ mình, tháng 6, tháng chạp kỵ chú rể, vào
tháng giêng, tháng 7 kỵ cô dâu.
Tuổi Mão và tuổi Dậu: Nếu cô gái tuổi Mão (sinh năm 1963, 1975,
1987, 1999, 2011...). Dậu (sinh năm 1969, 1981, 1993, 2005...) thì cưới vào
tháng giêng, tháng 7 rất đại lợi, nếu cưới vào tháng 5, tháng 11 kỵ cha mẹ
chồng, vào tháng 4, tháng 10 kỵ cha mẹ mình, vào tháng 3, tháng 9 kỵ chú rể,
vào tháng 2, tháng 8 kỵ cô dâu.
Tuổi Thìn và Tuất: Nếu cô gái tuổi Thìn (sinh năm 1964, 1976, 1988,
2000, 2012...). Tuất (sinh năm 1994, 1982, 1970, 1958) thì cưới vào tháng 4,
tháng 10 là đại lợi, vào tháng 6, tháng chạp kỵ cha mẹ chồng, vào tháng
giêng, tháng 7 kỵ cha mẹ mình, vào tháng 2, tháng 8 kỵ chú rể, tháng 3, tháng
9 kỵ cô dâu.
Tuổi Tỵ và Hợi: Nếu cô gái tuổi Tỵ (sinh năm 1965, 1977, 1989, 2001,
2013...). Hợi (sinh năm 1871, 1983, 2007, 2019...) thì cưới vào tháng 3, tháng
9 đại lợi, vào tháng giêng, tháng 7 kỵ cha mẹ chồng, vào tháng 6, tháng chạp
kỵ cha mẹ mình, vào tháng 5, tháng 11 kỵ chú rể, vào tháng 4, tháng 10 kỵ cô
dâu.
Như vậy, mỗi tuổi của mỗi cô gái có hai tháng trong năm là đại lợi cho
cưới gả. Biết được điều này, các bậc cha mẹ và cô dâu tương lai có thể lên
kế hoạch tổ chức đám cưới sao cho vẹn toàn.
Bảng tháng đại lợi cho cưới gả của các cô gái
NĂM SINH THEO 12 CON GIÁPTHÁNG ĐẠI LỢI CHO
CƯỚI GẢ
Tý (1972, 1984), Ngọ (1996, 1978, 1990) Tháng 6 và Chạp
Sửu (1973, 1985), Mùi (1979, 1991) Tháng 5 và Một
Dần (1974, 1986), Thân (1968, 1981, 1993) Tháng Giêng và 7
Thìn (1976, 1988), Tuất (1982, 1994) Tháng 4 và 10
Tỵ (1977, 1989), Hợi (1971, 1983, 1995) Tháng 3 và 9
TỤC CHỌN GIỜ TỐT CHO ĂN HỎI CƯỚI GẢ
Dân gian xưa đều chọn ngày, chọn giờ cho ăn hỏi, cưới gả, mặc dù
ngày cưới đã chọn là ngày tốt. Phương pháp chọn giờ của người xưa rất đa
dạng. Có người chọn giờ Hoàng đạo, có người chọn giờ theo 10 thời thần cố
gặp nhiều cát, ít hung. Sau đây xin giới thiệu hai cách chọn giờ cát.
- Chọn giờ theo giờ Hoàng đạo
Theo thuật trạch cát, mỗi ngày có 6 giờ Hoàng đạo và 6 giờ không
Hoàng đạo. Các giờ Hoàng đạo của các ngày như sau:
Giờ Hoàng đạo Ngày tính
Đạo TLViễn MĐ
Thông KQ
Đạt TĐ
Giao NĐ
Hoàn TM
Tý Ngọ Thân Dậu Tý Sửu Mão Ngọ
Sửu Mùi Tuất Hợi Dần Mão Tỵ Thân
Dần Thân Tý Sửu Thìn Tỵ Mùi Tuất
Mão Dậu Dần Mão Ngọ Mùi Dậu Tý
Thìn Tuất Thìn Tỵ Thân Dậu Hợi Dần
Tỵ Hợi Ngọ Mùi Tuất Hợi Sửu Thìn
Ý nghĩa của các giờ Hoàng đạo như sau:
Nhìn chung mọi việc tiến hành vào giờ Hoàng đạo đều tốt, nhưng mỗi
giờ có những điểm tốt riêng cho từng việc, như:
- Giờ Hoàng đạo Đạo (TL = Thanh long): tốt cho cầu tài, cưới gả.
- Giò Hoàng đạo Viễn (MĐ = Minh đường): tốt cho việc đất đai, nhà ở,
thăm cha mẹ.
- Giò Hoàng đạo Thông (KQ = Kim quỹ): tốt cho việc giao tiếp, quan hệ,
đối ngoại.
- Giờ Hoàng đạo Đạt (TĐ = Thiên đức): tốt cho việc quan lộc, phong
thưởng.
- Giờ Hoàng đạo Giao (NĐ = Ngọc đường): tốt cho việc công danh, tài
năng.
- Giờ Hoàng đạo Hoàn (TM = Tư mệnh): tốt cho việc phúc đức, con
cháu.
- Ý nghĩa và cách dùng giờ Hoàng đạo
- Giờ Thanh long Hoàng đạo: Là giờ có sao Thái ất và sao Thiên quý,
nên có lợi cho việc tiến tới làm một việc gì đó, làm việc gì cũng thành, nên rất
có lợi cho hôn nhân, cưới gả.
- Giờ Minh đường Hoàng đạo: Có sao quý nhân, sao Minh phụng, có lợi
cho việc gặp các đại nhân, cho việc tiến tới, làm việc gì cũng thành, nên đây
cũng là giờ tốt cho cưới gả.
- Giờ Kim quỹ Hoàng đạo: Có sao Phúc đức, sao Nguyệt tiên nên rất tốt
cho hôn nhân cưới gả. Không tốt cho việc quân.
- Giờ Thiên đức Hoàng đạo: Có sao Bảo quang, sao Thiên đức, nên rất
hanh thông, làm việc thành công, có lợi cho việc tiến tới, xuất hành tốt, nên
cũng lợi cho hôn nhân cưới gả.
- Giờ Ngọc đường Hoàng đạo: Có sao Thiếu vi, sao Thiên khai, trăm sự
tốt, cần gì được nấy, xuất hành được của, thích hợp cho việc học hành viết
lách, có lợi cho việc gặp đại nhân, lợi cho việc an táng, không lợi cho việc bùn
đất, bếp núc, cũng lợi cho việc cưới gả.
- Giờ Tư mệnh Hoàng đạo: Có sao Phượng liễu, Sao Nguyệt tiên,
nhưng chỉ có từ giờ Dần (3 - 5 giờ) đến giờ Thân (từ 13 - 15 giờ), dùng mới
tốt. Nếu dùng trong khoảng thời gian này thì mọi việc đại cát, dùng tốt cho
hôn nhân và cưới gả (nếu giờ Hoàng đạo Tư mệnh vào các giờ Tuất, Tý thì
không nên dùng, bất lợi).
- Những giờ xấu đặc biệt cần tránh
Giờ sát thủ cần tránh: Đây là một loại giờ mà dân gian rất kỵ cho đính
hôn, ăn hỏi, cưới gả và cho các việc trọng đại khác như khởi công, động thổ,
tu tạo, đổ mái, khai trương... Trong mỗi tháng có một số giờ sát chủ, cách tính
như sau:
Tháng giêng, tháng bảy: giờ Dần là giờ sát chủ
Tháng hai, tháng tám: giờ Tỵ là giờ sát chủ
Tháng ba, tháng chín: giờ Thân là giờ sát chủ
Tháng tư, tháng mười: giờ Thìn là giờ sát chủ
Tháng năm, tháng một (11): giờ Dậu là giờ sát chủ
Tháng sáu, tháng chạp (12): giờ Mão là giờ sát chủ.
Giờ Thọ tử cần tránh: Trong dân gian, khi cưới gả, làm nhà, xuấí
hành... đều hết sức tránh giờ Thọ tử. Giờ Thọ tử xuất hiện theo chi ngày,
cách tính như sau:
Ngày Tý: giờ Sửu là giờ Thọ tử
Ngày Sửu: giờ Ngọ là giờ Thọ tử
Ngày Dần, Thân, Mão, Dậu: giờ Mão là giờ Thọ tử
Ngày Tỵ, Hợi: giờ Mão, giờ Ngọ là giờ Thọ tử
Ngày Ngọ: giờ Mùi là giờ Thọ tử
Ngày Mùi: giờ Ngọ là giờ Thọ tử
Ngày Thìn, Tuất: giờ Tỵ là giờ Thọ tử.
- Những ngày xấu cần tránh
Dân gian còn tránh những ngày xấu cho cưới gả, đặc biệt có 3 ngày:
ngày Vãng vong, ngày Sát chủ và ngày Thọ tử. Trong một số cuốn lịch, như
âm dương đối lịch..., người ta ghi những sao xấu như Vãng vong, Sát chủ,
Thọ tử vào từng ngày. Song cũng có cách tính ngày Sát chủ, Thọ tử, Vãng
vong, như:
Ngày Vãng vong cần tránh, cách tính theo bảng sau:
Tháng Ngày Vãng vong Tháng Ngày Vãng vong
Tháng giêng Kỵ ngày dần Tháng bảy Kỵ ngày dậu
Tháng hai Kỵ ngày tỵ Tháng tám Kỵ ngày tý
Tháng ba Kỵ ngày thân Tháng chín Kỵ ngày thìn
Tháng tư Kỵ ngày hợi Tháng mười Kỵ ngày mùi
Tháng năm Kỵ ngày mão Tháng một Kỵ ngày tuất
Tháng sáu Kỵ ngày ngọ Tháng chạp Kỵ ngày sửu
Như vậy, mỗi tháng có một ngày Vãng vong không dùng cho cưới gả,
như tháng Giêng là ngày Dần, tháng hai là ngày Tỵ,... tháng một (11) ngày
Tuất.
Ngày Sát chủ cần tránh, cách tính qua bảng sau:
Tháng Ngày Sát chủ Tháng Ngày Sát chủ
Tháng giêng Tỵ Tháng bảy Sửu
Tháng hai Tý Tháng tám Hợi
Tháng ba Mùi Tháng chín Ngọ
Tháng tư Mão Tháng mười Dậu
Tháng năm Thân Tháng một Dần
Tháng sáu Tuất Tháng chạp Thìn
Như vậy, mỗi tháng âm lịch có một ngày Sát chủ, như tháng giêng có
ngày Tỵ là Sát chủ, tháng hai là ngày Tý..., tháng một (11) là ngày Dần...
Ngày Thọ tử cần tránh, cách tính qua bảng sau:
Tháng Ngày Thọ tử Tháng Ngày Thọ tử
Tháng giêng Bính tuất Tháng bảy Ất Sửu
Tháng hai Nhâm thìn Tháng tám Quý Mùi
Tháng ba Tân hợi Tháng chín Giáp Dần
Tháng tư Đinh tỵ Tháng mười Mậu Thân
Tháng năm Mậu tý Tháng một Tân Mão
Tháng sáu Bính ngọ Tháng chạp Tân Dậu
Qua bảng trên cho thấy, mỗi tháng có một ngày Thọ tử kỵ cho mọi việc,
đặc biệt cho cưới gả. Như tháng giêng ngày Bính Tuất là ngày Thọ tử, tháng
Hai ngày Nhâm Thìn..., tháng chạp ngày Tân Dậu.
TRANG HOÀNG CHO NGÀY CƯỚI
Tuỳ từng điều kiện mà người ta có cách trang hoàng nơi tiếp khách,
phòng cưới..., theo tục xưa, việc trang hoàng này như sau:
Trước hôn lễ một ngày, nhà trai (cũng như nhà gái) đã treo đèn kết
hoa, cổng và lối vào nhà dán các chữ "Hỷ", cửa cổng treo đèn lồng và kết
hoa.
Phòng tiếp khách:
- Trước cổng dán một câu đối đỏ, thêm cả hoành phi câu đối có nội
dung mừng đôi vợ chồng mới.
- Ở giữa nhà treo trên cao một chiếc đèn lồng, xung quanh đèn đều viết
chữ: "Loan phượng cùng hót", "Quan âm tặng con", "Trạng nguyên cập đệ",
"Hợp gia hoan".
- Trên hương án đặt một đôi chân đèn thắp nến.
- Trên hai tường đối diện nhau dán một bức tranh “Sánh đôi”.
- Trên mặt tường chính căng phông màu đỏ hoặc xanh, dán tên đôi
uyên ương chữ lồng và họ tên viết đầy đủ, ngày cưới...
Phòng cưới:
- Hai bên cửa phòng dán một đôi câu đối, thêm hoành phi thường viết
câu: "Loan phượng cùng hót".
- Trên cánh cửa dán chữ "song hỷ" và dán tranh đôi nam nữ "sánh đôi".
- Ở giữa phòng treo đèn lồng.
- Ở cửa sổ dán chữ song hỷ đỏ cắt giấy, bốn góc cắt dán bướm bay.
Hai bên cửa sổ dán câu đối "Loan phượng sánh đôi".
- Bốn bức tường đều dán tranh.
Phòng bếp: cửa nhà bếp dán đôi câu đối như nói trên, thêm bức hoành
phi, trên cửa dán chữ "Hỷ".
TỤC LAN NHAI
Ở Việt Nam cho tới đầu thế kỷ thứ 20, trong lễ rước dâu (còn gọi là lễ
nghinh hôn, thân nghinh), khi họ nhà trai đến nhà gái để đón cô dâu về nhà
chồng, dân làng họ nhà gái thường dùng dây lụa hay dây vải chăng giữa
đường đi khi đoàn nhà trai sắp đến để đòi "tiền lan nhai". Danh xưng này
thường bị hiểu lầm và dịch hay giải thích lầm là “tiền nộp cheo”, nhất là khi
viết bằng Hán tự cả hai danh xưng "tiền lan nhai" và "tiền nộp cheo" đều
được diễn tả chung bằng cụm từ "lan nhai tiền".
Tiền lan nhai: Đó là tiền chặn (lan) đường (nhai, giai), hay nói theo
người bình dân, "tiền chặn ngõ". Lắm khi trên đường đi rước dâu, đoàn người
họ nhà trai bị chặn lại nhiều lần và mỗi lần phải nộp một số tiền mới có thể đi
tiếp được. Nếu nhà trai không chịu nộp tiền, lẽ dĩ nhiên người dân làng nhà
gái không có quyền ngăn không cho đoàn rước dâu nhà trai đến nhà gái,
cũng như không có ai nói chửi bậy bạ, như có người diễn tả lầm, tuy rằng họ
có thể cắt dây chăng đường (theo ý họ), cuộc hôn nhân sẽ không được lâu
dài, sớm bị đứt đoạn, nghĩa là tan vỡ.
TỤC NỘP CHEO
Trái với tục nộp tiền lan nhai có tính cách cá nhân và nhà trai có thể tùy
ý nộp hay không nộp, không ai có thể ngăn cản cuộc hôn nhân, tục nộp cheo
có tính cách cộng đồng và cưỡng bách, nếu nhà trai không nộp thì giá thú
không có giá trị hợp pháp. “Tiền nộp cheo” (gọi tắt là “tiền cheo”) là từ Việt
ngữ thuần túy, nhưng khi viết bằng Hán tự thì người ta vẫn dùng từ “lan nhai
tiền” (tiền chặn ngõ). Tiền cheo là tiền mà nhà trai phải nộp cho làng nhà gái.
Tuy gọi là tiền cheo và thường được nộp bằng tiền, nhưng cũng có khi được
nộp bằng đồ vật, như một cặp chiếu, một đôi mâm đồng, bốn mâm gỗ sơn,
một con gà luộc, một mâm xôi, vài lá trầu và vài quả cau, một chai rượu...
Thường thì nếu người con trai và người con gái sống trong cùng một
làng thì số tiền cheo nộp ít hơn là khi hai người là dân hai làng khác nhau.
Nhiều làng đã chia tiền cheo ra làm 2 loại: (a) “tiền cheo nội” dành cho người
con trai trong cùng làng với người con gái và thường là nhẹ, nhiều khi chỉ
gom có trầu cau và 1 quan tiền, có khi còn ít hơn nữa; (b) “tiền cheo ngoại”
dành cho người con trai làng khác, và thường là nặng: 2, 3 quan tiền (có khi
hơn) hay 1 mâm đồng hoặc thứ khác. Mục đích của sự phân biệt này cốt là
để ngăn không cho gái làng lấy trai làng khác.
Ngoài ra, tùy vào hoàn cảnh gia đình, số lượng tiền cheo khác nhau.
Trai nhà giàu phải nộp tiền cheo nhiều hơn trai nhà nghèo. Trái lại, có làng
định một số tiền đồng nhất áp dụng cho mọi người con trai, không phân biệt
giàu nghèo, nhất là tiền cheo ngoại bao giờ cũng chỉ có một số lượng duy
nhất. Theo nguyên tắc, tiền cheo do người con trai hay cha mẹ người ấy nộp
cho quĩ làng ở công sở làng nguyên tịch của người con gái, nhưng cũng có
khi nộp cho các bô lão (gọi là “tiền cheo làng"), hay cho giáp thuộc làng của
nhà gái (gọi là “tiền cheo giáp”). Cũng có khi tiền cheo được nộp cho làng nơi
cư trú của người con gái. Tuyệt đối không bao giờ tiền cheo được nộp cho
làng nơi cư trú của người con trai, trừ phi người ấy sống chung một làng với
người con gái.
Tiền cheo được nộp vào ngày cưới, trước khi hay lúc đang cử hành
hôn lễ, nếu cuộc hôn nhân là giữa hai người cùng làng lấy nhau. Trái lại, nếu
người con trai là người làng khác, tiền cheo có thể nộp sau khi cử hành hôn
lễ. Có nơi cho nộp sau khi hai người đã sinh được vài đứa con. Nếu là đám
cưới chạy tang (được tổ chức khi cha haỵ mẹ người con trai hoặc người con
gái sắp chết hay vừa chết nhưng chưa phát tang) thì tiền được nộp trước khi
phát tang và gọi là “tiền cheo chạy tang”.
Vào ngày cưới, nhà trai trình trầu cau và rượu ở đình làng nhà gái để
cúng thành hoàng làng và để báo tin việc hôn nhân. Sau đó họ nộp tiền cheo.
Lý trưởng hay tiên chỉ làng cho ghi chép việc nộp tiền cheo vào trong sổ sách
của làng, rồi cấp một “tờ phái cheo” nhìn nhận việc nộp cheo. Tiền cheo
chẳng những là phải nộp trong những cuộc hôn nhân chính thức mà còn cả
trong vài trường hợp ngoại lệ nữa. Nếu người con gái chửa hoang trước khi
chính thức kết hôn, làng bắt nhà gái phải nộp một số tiền cheo, mục đích là
để chứng tỏ rằng người con gái ngay tình đã bị cưỡng hiếp. Trong trường
hợp này, tiền cheo, gọi là “tiền cheo ngọn cỏ", phải nộp khi người con gái có
thai nhằm tránh bị nhà chức trách trong làng đòi hỏi. Theo một chuyên gia,
“Có thuyết nói rằng sở dĩ gọi là "cheo ngọn cỏ" vì ngọn cỏ tượng trưng cho
mồ mả tang tóc”.
Tục cheo ngọn cỏ còn được thi hành tại một vài nơi cho đến tận tiền
bán thế kỷ thứ 20. Tại hai làng Phù Khê và Hoàng Nghĩa thuộc tỉnh Thanh
Hóa có tục "cheo ngọn cỏ" cho con gái làng vào tuổi 17, 18. Theo giáo sư:
“Hai làng nói trên là làng buôn bán, con gái làng thường phải đi xa dăm
ba ngày mới trở về làng. Để ngăn ngừa sự chửa hoang, lệ hai làng nói trên
đã ngả vạ rất nặng, nhưng trừ cho những cô gái đã nộp cheo ngọn. Cheo như
thế nghĩa là cheo trước khi người con gái trót lỡ dại dột. Từ khi đã nộp cheo
người con gái được dân làng coi như một người đàn bà đã có chồng, tuy rằng
thực tế chưa lấy ai. Cũng kể từ ngày đó, người con gái làng đi buôn bán xa
không ai dị nghị nữa, và có quyền lấy chồng ở một nơi xa thuận tiện cho sự
buôn bán của mình, không cần phải nộp cheo một lần nữa. Và có trót dại làng
nước cũng không ngả vạ gì cả”.
Tại làng Lai hạ trung, tục gọi là làng Bông, Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên,
cũng có tục "cheo ngọn cỏ", nhưng theo một ý nghĩa khác. Theo giáo sư Vũ
Văn Mẫu: “Cheo ngọn cỏ là cheo mà người con gái nộp cho làng để trong thời
kỳ có tang có thể đi lấy chồng đựợc mà không bị làng bắt vạ phải tội. Tục
“cheo ngọn cỏ tránh cho người con gái đến tuổi lấy chồng hay đã hơi muộn
tuổi khỏi phải quá lứa vì thời hạn quá dài của tang chế”.
Mặt khác, làng của nhà gái có thể từ chối không nhận tiền cheo (lẫn
trầu cau). Việc từ chối này gọi là “không hạ cheo” và làng thường áp dụng khi
nào làng cho rằng cuộc hôn nhân vô hiệu vì một yếu tố phạm luật nào đó,
chẳng hạn hôn lễ được cử hành trong khi có tang cha hay mẹ một bên, khi cô
dâu chú rể có họ với nhau ở hàng bị cấm, hay một bên đã có vợ hoặc có
chồng khác mà chưa có ly hôn (trường hợp này chỉ áp dụng khi người con gái
được cưới làm vợ cả thôi).
Cho tới những thập niên gần đây, trong hôn lễ của người Việt Nam việc
nộp tiền cheo hết sức quan trọng, chẳng kém gì những lễ khác để tạo nên
một cuộc hôn nhân có giá trị đối với xã hội cũng như đối với luật pháp. Tục
ngữ có rất nhiều câu để chỉ tính cách quan trọng của tiền nộp cheo. Thí dụ:
“Có cưới thì phải có cheo”.
“Cưới vợ không cheo như kèo nèo không mấu”.
“Tiền cheo heo khoán”.
Ca dao cũng có nhiều câu, như là:
Ào ào gió thổi về đông,
Có cheo có cưới vợ chồng mới nên.
Có cưới mà chẳng có cheo,
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Bao giờ tiền cưới trao tay,
Tiền cheo dấp nước mới hay vợ chồng.
Anh cho em quan mốt tiền cheo,
Quan hai tiền cưới mà đeo em về.
Ông xã đánh trống thình thình,
Quan viên làng nước ra đình phá cheo.
Giá thú chỉ được làng công nhận nếu nhà trai đã nộp cheo. Nói cách
khác, nếu nhà trai không nộp cheo thì giá thú không được nhìn nhận là hợp
thức và vì thế vô hiệu lực trước pháp luật. Nộp tiền cheo như vậy được coi là
một bổn phận tự nhiên và tự động nhà trai phải thi hành, đúng như diễn tả
trong câu ca dao sau:
Nuôi lợn thì phải vớt bèo,
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
Bổn phận nộp cheo này đồng thời cũng có giá trị pháp lý.
Trước khi chính phủ bảo hộ Pháp ban hành ba bộ Dân Luật Giản Yếu
(ngày 3.10.1883, áp dụng ở Nam kỳ), Dân Luật Bắc Kỳ (ngày 30.3.1931, áp
dụng ở Bắc Kỳ) và Dân Luật Trung Kỳ (từ ngày 13.6.1936 đến 28.9.1939, áp
dụng ở Trung Kỳ; còn gọi là Hoàng Việt Hộ Luật), triều đình Việt trải qua các
đời không hề lập các sổ sách hộ tịch nói chung và giá thú nói riêng. Vì thế, khi
nào một cuộc hôn nhân được cử hành đúng với các nghi thức truyền thống
theo tục lệ, nhất là khi nhà trai đã nộp tiền cheo cho làng họ nhà gái, thì được
coi là hợp pháp và có giá trị pháp lý. Khi cần phải chứng minh một hôn nhân
đã thành tựu thì tờ phái cheo mà lý trưởng hay tiên chỉ cấp cho được coi là
một bằng chứng cụ thể, mặc dù đôi khi tờ phái cheo không ghi đầy đủ các dữ
kiện về đôi bên trai gái, vì phái cheo thường chỉ ghi tên người con gái và ghi
rõ là con vợ cả hay vợ lẽ thôi, đôi khi phái cheo cũng không ghi cả tên chú rể.
Qua đó có thể thấy rằng tục đòi tiền lan nhai là (a) sự đòi hỏi của một
vài cá nhân một số tiền (chỉ nhận tiền thôi) không nhất định; (b) sự đòi hỏi
không nhất quán, có đám cưới bị đòi, có đám cưới không bị; (c) nếu nhà trai
không nộp thì giá thú vẫn thành, vẫn được xã hội (và cả triều đình nữa) công
nhận nếu hội đủ các điều kiện nội dung và hình thức mà vẫn có hiệu lực pháp
lý.
Trái lại tục nộp tiền cheo là (a) qui định của toàn thể cộng đồng áp dụng
chung cho tất cả mọi người không phân biệt bất cứ ai; (b) số tiền hoặc đồ vật
phải nộp được ấn định rõ ràng; (c) nếu không nộp thì giá thú không được
công nhận và không có hiệu lực pháp lý.
Tuy khác nhau, nhưng hai tục này lại được coi là giống nhau, đến độ
người xưa đã dùng chung một danh từ để diễn tả.
TỤC NẠP CÁT, THỈNH KỲ, NẠP TỆ
Ngày nay tại nước ta ba lễ nạp cát (bói quẻ tốt), thỉnh kỳ (định ngày
cưới) và nạp tệ (đưa lễ cưới) đã giảm dần, người ta gộp cả 3 lễ làm một. Cụ
thể sau ngày ăn hỏi, nhà trai đến bàn bạc với nhà gái về việc dẫn cưới, như
quần áo cô dâu, tiền nọng chi phí cho đám cưới và quyết định ngày lành
tháng tốt để làm đám cưới cho đôi uyên ương. Tục quy định muốn tổ chức
cưới, cả đôi bên nhà trai cũng như nhà gái gồm người chủ hôn, cô dâu chú rể
đều không có tang chế gì. Trường hợp chưa đến ngày cưới, nhưng một trong
hai gia đình, nhà trai hoặc nhà gái cảm thấy trong những ngày sắp tới rất có
thể xảy ra đám tang có người qua đời, chẳng hạn ông hoặc bà ốm nặng
không thể qua khỏi, được sự đồng ý của hai gia đình, có thể tổ chức đám
cưới, để chạy tang.
Nói chung đồ lễ cưới thường: lợn, gạo, hoặc trâu, bò, trầu cau, rượu
dùng vào đám cưới cùng vòng xuyến, nhẫn, hoa tai, quần áo, chăn màn cho
cô dâu, kèm thêm tiền mặt để chi phí. Xưa kia những đòi hỏi của nhà gái
nhiều khi vượt quá khả năng nhà trai, đã dẫn đến việc đổ bể hôn nhân. Ngày
nay điều đó hầu như ít xảy ra.
TỤC THÁCH CƯỚI
Đã "thách" là dở hoặc dở nhiều mà hay ít. Thời nay tôn trọng tự do
luyến ái hôn nhân, luật hôn nhân mới đã giải phóng cho nam nữ thanh niên,
nhưng luật tục còn gò bó, trói buộc. Thách cưới cũng là một lệ tục lạc hậu rơi
rớt lại, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc
mà nỗi thiệt thòi nhất lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang
tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng trai khác phải ngại,
xui nên phận hẩm duyên hiu. Ngay thời trước cũng đã có câu: "Giá thú bất
luận tài". Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai
gia đình, nhưng gặp phải một vài bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính, thách
cưới nào quần áo, nón dép, nào rượu bánh cau trầu, chè thuốc, nào nếp tẻ,
lợn gà, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, lại còn tính đủ cỗ cưới bao nhiêu
mâm, nên nhà trai phải bỏ cuộc. Cũng có đám nhà trai phải chạy ngược chạy
xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ; song, ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ
chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về
sau.
Cũng có trường hợp, nhà gái túng thiếu không đủ tự lực cung cấp cho
đủ cái lệ làng "Trả nợ miệng", vì thế đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Còn
trường hợp, bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm, gấp mười lần để còn
cho con gái, con rể nhiều thứ sau khi thành thân, tuy nhiên họ cũng thách
cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu, cho rằng con mình dở duyên rồi, nên
phải cho không. "Hay ít" là để dành cho những gia đình có học thức, không
thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương với ý đồ chọn rể con
nhà gia thế, với hy vọng tương lai con mình còn được "Lọng anh đi trước
võng nàng theo sau" chứ không đến nỗi phải rơi vào những anh chàng "Vai u
thịt bắp" nơi "Nước mặn đồng chua".
TỤC CƯỚP VỢ
Cướp vợ là một phong tục phổ biến của người dân Tây Bắc và Đông
Bắc đặc biệt là người Mông. Người Mông có tục kéo con gái về làm vợ (Cướp
vợ) Khi người con trai quen biết một người con gái và muốn cô gái đó làm vợ
họ sẽ đi "cướp" cô gái về nhà. Để kéo được cô gái về nhà, người con trai phải
chiêu đãi, mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi để họ đi cùng. Chàng trai
và bạn bè của anh có thể tìm cô gái ở chợ, ở đêm chơi trăng hay lúc đi làm
nương. Khi đã kéo được cô gái về nhà, chàng trai lại phải mời rượu bạn để
cảm ơn. Sau đó sẽ phải nhờ chị gái của mình (hoặc em gái) để trông không
cho cô gái trốn khỏi nhà mình. Chị gái của chàng trai sẽ có mặt bên cô gái
được kéo về suốt cả ba ngày đêm.
Tục cướp vợ được coi là chế độ lược hôn. Ở vùng Tây Bắc giáp biên
giới nước Lào, tục cướp vợ có sắc thái biểu cảm thật trữ tình. Vào một đêm
trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang tựa cửa nhà người yêu, rồi
thổi một điệu kèn môi tình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu du dương khiến lòng cô
gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì chàng lập tức ghé thang
lên, trèo vào và cõng nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau 3 ngày, rồi trở về
nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới.
Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ mang tính mạnh
mẽ, quyết liệt hơn. Chàng trai đi chợ, bắt gặp một cô gái xinh đẹp. Chàng liền
quay về, rủ một số bạn trai thân tình, mượn những con ngựa thật khoẻ. Họ
hùng dũng ra chợ, chàng đi sát bên cô gái, bất ngờ bế thốc cô gái lên ngựa
rồi phi nước kiệu. Nếu chàng và nàng đã có tình ý từ trước thì chàng đặt tay
trái về phía cô, cô đặt tay trái lên rồi đạp chân trái của mình lên mô bàn chân
cứng cáp của chàng, theo đà lên ngựa. Họ sống với nhau từ 2 đến 7 ngày.
Sau đó, chàng đưa nàng về nhà vợ hỏi cưới.
Trong khi đó, tục cướp vợ của người Kinh mang tính chất cộng đồng,
làng xóm. Cụ thể, một số làng thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội
thường tổ chức tục cướp vợ rất đặc biệt (ngày nay không còn). Vào dịp lễ
xướng, dân làng chọn một cô gái xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ và một chàng
trai khỏe mạnh, chịu khó. Cô gái ra làng ở, nằm mộng 7 ngày 7 đêm. Chàng
trai nấp dưới bụi khoai nước bờ ao. Khi lễ hội được diễn ra, cô gái cất tiếng
hát:
Tao có chiếc yếm lưỡi cày
Chẳng để cho mày thì để cho ai.
Tiếng hát vừa dứt chàng trai vọt lên bờ vác cô gái chạy đi, theo sau là
tiếng hò reo, đuổi, ném đất dẻo, bắn cung bằng thân dâu của dân làng. Nếu
chàng trai đưa cô gái sang bờ bên kia an toàn thì năm ấy dân làng làm ăn
thịnh vượng, được mùa, trẻ em mau lớn. Bằng không thì ngược lại. Nhìn
chung, tục lệ cướp vợ ở mỗi vùng khác nhau, song tựu chung lại vẫn là phản
ánh tâm tư, tình cảm của con người, đồng thời tạo nên nét độc đáo riêng cho
nền văn hóa nước nhà.
Phải nói thêm đôi chút về phong tục cưới của người Mông. Nếu sau 3
ngày kể từ ngày kéo cô gái về, cô gái không đồng ý làm vợ chàng trai thì xin
phép nhà trai cho hai bát rượu - cô gái sẽ bưng mời chàng trai một bát và
uống cạn một bát, cảm ơn chàng trai đã yêu thương đến mình đồng thời cô
gái cũng nói lên điều trân trọng của mình với chàng trai đó và xin chỉ làm bạn.
Trong trường hợp cô gái đồng ý làm vợ thì tâm sự với người chị gái của
chàng trai. Sau đó người chị gái sẽ nói với chàng trai và gia đình chuẩn bị
những thứ cần thiết cho những việc tiếp theo. Khi đã kéo cô gái về nhà mình
được một ngày, bố mẹ chàng trai sẽ nhờ một người đàn ông, gia đình phúc
lộc đi làm mối cho con mình. Người này còn được coi là bố mới “xí xi xu” của
chàng trai nếu như đôi bạn trẻ nên vợ nên chồng.
Người làm mối này sẽ để một lít rượu vào sừng trâu đi đến nhà gái với
mục đích hỏi xem gia đình bên nhà gái cần những gì cho việc cưới của con.
Khi ông mối đến nhà không được đi vào gian giữa mà phải vào cửa phụ và
ngồi ở bếp lò. Ông mối sẽ mời mọi người uống rượu đã mang sẵn từ nhà
đến. Chỉ cần những cử chỉ như vậy là bố mẹ nhà gái biết được họ hỏi lấy con
gái mình. Nhà gái đi mời một người đàn ông có phúc phận tốt để thay mặt
nhà gái thách cưới cho khách quan. Ông mối này có quyền thách những thứ
cần thiết, số lượng phù hợp như những đám cưới khác. Hai ông mối này còn
mang tính chất là hai người làm chứng của hai gia đình. Nếu chàng trai và cô
gái ưng thuận lấy nhau thì lễ vật nhà trai đem đến phải đầy đủ như ông mối
của nhà gái thách cưới, không được thiếu một thứ gì.
Từ lúc kéo đến lúc cưới trong vòng 3 tháng. Đây là thời gian cần thiết
để nhà trai chuẩn bị những thứ cần thiết cho lễ cưới. Sau 3 ngày, để chuẩn bị
đám cưới, nhà trai làm bánh dầy để cho em trai và em gái đưa vợ chưa cưới
của chàng trai về nhà mẹ đẻ. Cô gái về nhà để báo với bố mẹ mình là đồng ý
làm vợ chàng trai và xin phép bố mẹ để sang bên đó ở. Cô gái đem theo quần
áo, đồ thêu của mình sang nhà trai ở - Thời gian ở bên nhà trai trước khi cưới
3 tháng - cô gái đi lại cả hai bên và làm việc thêu thùa chuẩn bị cho ngày
cưới. Sau 3 tháng ở nhà trai để làm quen với sinh hoạt nhà chồng và chuẩn bị
xong trang phục cưới, nhà trai cũng chuẩn bị xong lễ cưới. Họ đưa cô gái về
nhà bố mẹ đẻ và xin phép ngày tổ chức cưới.
Lễ cưới được tổ chức tại nhà gái trong vòng 1 ngày 1 đêm. Trong đám
cưới diễn ra các cuộc mồi rượu, hát đối đáp giữa các thanh niên nam nữ của
hai họ. Trước khi về ở hẳn nhà chồng, cô gái sẽ phải thắp hương cúng tổ
tiên, ma nhà, ma cửa, ma cột cái... các ma tốt trong gia đình để bái về việc
con gái đi lấy chồng. Khi về nhà chồng, chỉ tổ chức mâm cơm trong nội tộc và
cúng tổ tiên gia đình nhà trai là xong lễ cưới. Cô dâu sẽ ở nhà chồng chính
thức từ đây. Người Mông quan niệm về hôn nhân không khắt khe như các
dân tộc khác. Anh em trong vòng ba đời nội tộc có thể lấy được nhau hoặc
con dì cũng có thể lấy được nhau. Đây là kiểu quan niệm về hôn nhân khép
kín từ xa xưa để lại nhằm bảo vệ một cách tuyệt đối về tài sản của họ cho con
cháu. Phong tục cướp vợ của người Mông thật ý nhị và độc đáo. Nhưng nó
sẽ càng đẹp hơn, thiêng liêng hơn đối với những cặp trai gái dân tộc Mông
thật sự yêu nhau, khao khát được làm chồng làm vợ của nhau.
LỄ VẬT PHẢI SẮM TRONG LỄ HỎI
Lễ ăn hỏi còn được gọi là lễ đính hôn là một nghi thức trong phong tục
hôn nhân truyền thống của người Việt. Đây là sự thông báo chính thức về
việc hứa gả giữa hai họ và là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân:
cô gái trở thành "vợ sắp cưới" của chàng trai, và chàng trai sau khi mang lễ
vật đến nhà gái là đã chính thức xin được nhận làm rể của nhà gái và tập gọi
bố mẹ xưng con.
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi
tức là chính danh công nhận sự gả con gái cho nhà trai, và kể từ ngày ăn hỏi,
đôi trai gái có thể coi là đôi vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới để
công bố với hai họ.
Thành phần tham gia:
Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình, bạn bè và một số thanh niên
chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ
nhưng do mâm quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số
người bê tráp là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11.
Nhà gái: Cô dâu, bố mẹ, ông bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để
đón lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.
Lễ vật gồm: trầu, cau; bánh cốm; mứt sen; rượu; chè; thuốc lá; bánh
phu thê (bánh xu xê), bánh đậu xanh, lợn sữa quay, tiền dẫn cưới v.v.
Những gia đình xưa thường dùng bánh cặp nghĩa là gồm hai thứ bánh
tượng trưng cho âm dương. Những cặp bánh thường dùng trong lễ ăn hỏi là
bánh phu thê và bánh cốm - bánh phu thê tượng trưng cho dương, bánh cốm
tượng trưng cho âm; hoặc bánh chưng và bánh dầy - bánh chưng vuông là
âm, bánh dầy tròn là dương. Kèm với bánh chưng và bánh dày thường có
quả nem. Bánh cốm, bánh phu thê, bánh chưng, bánh dầy và quả nem dùng
trong lễ ăn hỏi đều được đựng trong hộp giấy màu đỏ hoặc bọc trong giấy đỏ,
màu đỏ chỉ sự vui mừng. Cũng có gia đình thay vì các thứ bánh trên, dùng xôi
gấc và lợn quay.
Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất lượng
và số lượng thêm bớt thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình.
Theo phong tục của một số tỉnh miền Bắc thường có lợn sữa quay, còn theo
phong tục miền Nam có thể có một chiếc nhẫn, một dây chuyền hay bông hoa
tai đính hôn. Tuy nhiên, số lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn (bội số của
2, tượng trưng cho có đôi có lứa), nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số lẻ
của tráp (số lẻ tượng trưng cho sự phát triển).
Lễ vật dẫn cưới thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn
dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được
thêm người, còn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người ta". Mặt khác, lễ
vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu
tương lai. Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện thiện ý
của nhà trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí cho
hôn sự. Tuy nhiên, điều này ngày nay càng lúc càng trở nên mờ nhạt xét về
vai trò, vì dễ dẫn đến cảm giác về sự gả bán con, thách cưới. Tất cả các lễ
vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào
quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Có như thế
mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội lễ phải khăn
áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cô gái đội lễ đã có áo dài đỏ thay thế
nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng phương tiện đi lại là: ô
tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái
khoảng 100 m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là
một hình thái văn hóa dân tộc.
Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm
ngõ. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính
thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc
mặn mà chỉ bày tiệc trà. Ngày nay hầu hết các gia đình nhà gái đều chuẩn bị
tiệc mặn để thết đãi gia đình nhà trai mong tạo hòa khí gắn bó và hàn huyên.
Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc. Cô dâu
phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới
được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ. Sau đó cô dâu sẽ
cầm ấm trà đi từng bàn để rót nước mời khách. Nhà gái nhận lễ rồi đặt một
phần lên bàn thờ gia tiên. Khi lễ ăn hỏi xong, bánh trái, cau, chè được nhà gái
"lại quả" (chuyển lại) cho nhà trai một ít, còn nhà gái dùng để chia cho họ
hàng và người thân.
Lưu ý: đối với cau thì phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi
nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại. Đại
diện nhà gái chuẩn bị đón tiếp nhà trai trong lễ ăn hỏi, các cô gái nhận tráp lễ
vật mặc áo dài màu đỏ. Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã
đưa để chia ra từng gói nhỏ và làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm
giềng,... ý nghĩa của tục này là sự loan báo: Cô gái đã có nơi có chốn.
Trong việc chia bánh trái, cau, chè cau phải chia theo số chẵn, nhưng
kiêng chia hai quả, nghĩa là mỗi nơi từ bốn quả cau, bốn lá trầu trở lên. Con
số chẵn là số dương, số lẻ là số âm dùng trong việc cúng lễ.
Ngày nay cũng có tục chia bánh trái, thường có kèm theo những tấm
thiếp của đôi bên hai họ báo tin đính hôn của đôi trẻ. Nếu ngày nghênh hôn
không xa ngày hỏi, trong thiếp sẽ ghi rõ lễ cử hành vào ngày nào. Trong
trường hợp này có khi cùng với thiếp "báo hỷ" lại có thiếp mời tiệc cưới.
Nhà gái thường nhờ các cô gái trong họ hoặc bạn bè chia bánh trái
giúp. Khi nhà trai dẫn lễ ăn hỏi tới nhà gái, nhà gái thường làm cơm thết đãi.
Sau lễ ăn hỏi đôi bên kể là giao kết gắn bó với nhau rồi. Tuy vậy ngày xưa
các cặp vị hôn phu và hôn thê cũng không được phép gặp nhau, trừ trường
hợp đặc biệt lắm đôi bên cha mẹ mới cho phép. Phong tục ngày nay đổi khác,
sau lễ ăn hỏi đôi trai gái thường gặp nhau luôn. Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, xưa
kia có khi hàng hai ba năm, nhưng ngày nay thời gian đó thường được rút
ngắn, có khi chỉ vài ba ngày.
Chính ngày xưa, cắc cụ vẫn khuyên các chàng trai đã hỏi vợ thì cưới
ngay để tránh sự bất trắc của thời gian. Ca dao có câu:
Cưới vợ thì cưới liền tay,
Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha.
Lễ ăn hỏi xong đôi bên trai gái chờ lễ cưới là xong nhưng theo tục xưa,
có nhiều nhà gái đã nhận lễ ăn hỏi của nhà trai cũng không cho cử hành lễ
nghênh hôn sớm, có khi vì cô gái còn quá nhỏ tuổi, có khi vì cha mẹ thương
con vì không muốn con sớm phải về nhà chồng.
LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI VIỆT CÓ NHỮNG THỦ TỤC GÌ?
Lễ cưới hay đám cưới là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm
thông báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc
hôn nhân. Với ý nghĩa này, lễ cưới này còn gọi là lễ thành hôn. Đây là hình
thức liên hoan, mừng hạnh phục cô dâu, chú rể và hai gia đình. Đây là nghi lễ
được một số xã hội quan tâm và thường chỉ được tổ chức sau khi đã được
chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Trong tâm thức người
Việt thì lễ cưới có giá trị cao hơn cả giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Sự
quan tâm lớn của xã hội vào buổi lễ này đôi khi gây sức ép lên những người
tổ chức: họ phải đảm bảo để có thể làm hài lòng nhiều người tham dự. Lễ
cưới của người Việt có nhiều thủ tục gồm:
- Lễ xin dâu
- Lễ rước dâu
- Tiệc cưới
- Lễ lại mặt
Cũng đã có những nỗ lực nhằm sáng tạo một biểu trưng cưới hỏi ở Việt
Nam như đôi chim bồ câu, quả cau lá trầu, song biểu trưng thường gặp, cô
đúc nhất về ngữ nghĩa trong lễ cưới ở Việt Nam xưa nay vẫn là chữ song hỷ.
Đây là biểu trưng xuất xứ từ phong tục cưới hỏi Trung Quốc, với ý nghĩa
trước kia thể hiện hai niềm vui lớn: đại đăng khoa (thi đỗ làm quan) và tiểu
đăng khoa (cưới vợ), nay song hỉ biểu thị niềm vui chung của hai họ. Nhiều
người Việt không hiểu chữ Hán nhìn vào chữ này cũng biết những nơi dán
biểu trưng này đang có đám cưới.
Trong lễ cưới Việt Nam, những người tham dự thường đem tặng các
đồ mừng đám cưới. Quà cưới thường trang trọng, được bọc giấy điều. Trong
đám cưới, ban lễ tân (thường là người thân) đứng ra nhận quà mừng. Có
những đám cưới tổ chức tiệc trà, đơn giản hơn tiệc cưới thông thường, có ý
không yêu cầu người tham dự mang quà mừng.
Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến
xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.
Lễ rước dâu: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành từng đoàn, có cụ già
cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già
thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu đứng
sẵn để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người
cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái mình. Có
gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai
cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà
chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.
Rước râu vào nhà: Đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng
cầm bình vôi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này
được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý
nghĩa khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau
này.
Lễ tơ hồng: cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong, tất cả ra về, trừ người
thân tín thì ở lại. Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho
rằng vợ chồng lấy được nhau, là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho.
Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng tơ hồng đơn giản nhưng rất
thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả. Có thể cúng trong
nhà, mà cũng có thể cúng ngoài trời. Ông cụ già cầm hương lúc đón dâu,
hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi
hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Các đám cưới quý tộc thì việc
tổ chức có quy cách hơn.
Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng cô dâu.
Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau.
Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu,
hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay ngắn, xếp gối màn cẩn
thận.
Lễ hợp cẩn: Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường
có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh. Loại bánh này gọi là bánh phu thê (sau
này ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời
đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết cái bánh - chỉ có
hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa.
Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá
giả, thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với
chàng rể còn mang hoa, thắp đèn sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca
hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có
chữ động phòng hoa chúc.
TỤC KIÊNG KHÔNG CHO MẸ ĐẺ ĐI ĐƯA DÂU
Trong chế độ phong kiến cũ, người con gái phải gò mình theo cái đạo
tam tòng "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phụ tử tòng tử". Do vậy, hôn
nhân bị cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Trong gia đình,
người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết làm theo. Vì thế đã xảy ra
một số trường hợp oái ăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong
đời nhưng cô dâu lại khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, rồi thì lo sợ cảnh làm
dâu, làm vợ, từ tấm bé cha rời mẹ, nay không được mẹ bao bọc, che chở
nữa, còn mẹ thơng con còn thơ dại, cũng mủi lòng khóc. Thế là trong khi hai
họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về.
Tiệc tan, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám như vậy,
người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần trở
thành tục lệ.
Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với tâm lý
con gái mình đã gả bán cho người ta. Tuy rằng trong văn sách có ghi "Giá thú
bất luận tài" nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng trong
ngôn từ Việt Nam lại kết hợp "gả" và "bán" liền nhau.
PHÙ DÂU
Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn nhân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt,
nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì "Nữ thập tam nam thập lục" là
có thể kết hôn, nhưng con gái mười ba tuổi về nhà chồng thì còn quá nhỏ
chưa biết gì. Do đó cô dâu phải có người dẫn dắt, người dắt cô dâu gọi là phù
dâu. Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của
cô dâu, có khả năng hướng dẫn các công việc cho cô dâu khi về nhà chồng,
được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu tin tưởng uỷ thác. Người
phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con cái khoẻ
mạnh, ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề, có thể truyền kinh nghiệm làm
dâu, làm vợ, làm mẹ cho cô dâu. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại dăm bảy
ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường
phù dâu cũng trở về với dâu rể trong lễ lại mặt. Đám cưới thời xưa chỉ có phù
dâu, nhưng không có phù rể. Đám cưới thời nay, nhiều nơi có cả phù dâu,
phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù dâu, phù rể toàn là trai thanh, gái
lịch chưa vợ, chưa chồng. Mục đích chủ yếu để cô dâu thêm bạn, chú rể thêm
bầu mà thôi.
NGHI THỨC RƯỚC DÂU
Theo phong tục của người Việt việc rước dâu có những nghi thức sau:
Thắp hương trên bàn thờ: Họ nhà trai đến nhà gái, được nhà gái mời vào
nhà, các phù rể hay những người bưng phụ đồ lễ vật đứng dàn hàng ngang
trước mặt các phù dâu hay các thiếu nữ bên nhà gái, cũng đứng hàng ngang
đối diện để trao những mâm hay quả tráp lễ vật.
Lễ gia tiên và lễ mừng: Chú rể vào lễ bàn thờ gia tiên nhà vợ bốn lễ
rưỡi, sau đó cô dâu cũng lễ theo. Ngày nay, cô dâu và chú rể cùng làm lễ một
lượt, theo thể thức chú rể "bái gối" và cô dâu ngồi vẹt, tuy vậy mỗi lần chú rể
bái, cô dâu chờ động tác cho nhịp nhàng. Lễ gia tiên xong, cô dâu và chú rể
phải ra lễ mừng bố mẹ vợ. Ngày nay cô dâu và chú rể lạy bố mẹ ngay liền
trước bàn thờ gia tiên, thường được cha mẹ cho hỉ xả, nghĩa là cho miễn thủ
tục này để tỏ lòng yêu thương, rộng lượng. Chàng rể lễ mừng bố mẹ vợ để tạ
công ơn nuôi dưỡng vợ mình, còn cô dâu lễ mừng cũng có ý nghĩa tạ ơn cha
mẹ tác thành lương duyên giai ngẫu cho mình. Khi chàng rể mừng lễ, bố mẹ
vợ thường cho tiền hay vàng bạc. Các người phù rể sẽ nhận hộ chú rể. Có
nhiều gia đình nhân dịp này cho chú rể nhà cửa, ruộng nương bằng cách trao
cho văn tự hay địa đồ. Ngày nay, sự việc có thay đổi. Trong lễ này bố mẹ vợ
không cho tiền. Nếu cho tiền thì cho cô dâu ngay đêm trước ngày vu quy. Tại
buổi lễ có thể người cha vợ quyết định cho lại vợ chồng một số tiền đồng hay
là tiền chợ mà đàng trai trao cho nhà gái khi trình lễ vật. Bà mẹ cũng nhân dịp
này trao cho con gái mình một vài món nữ trang, ngoài tính cách khoe khoang
còn ngụ ý rằng "đây là của riêng con gái do cha mẹ tằn tiện để dành cho, chỉ
được sử dụng trong những trường hợp cần thiết. Sau khi chàng rể làm lễ đủ
mọi nghi thức xong rồi, nhà gái mới mời nhà trai uống nước ăn trầu và hai họ
chúc tụng cô dâu chú rể. Thường nhà gái làm cỗ mời nhà trai. Trong bữa cỗ
này, chú rể vì giữ lễ hoặc vì sung sướng quá nên ăn uống rất e dè từ tốn, có
khi không dám ăn vì sợ họ nhà vợ chê cười. Ngày nay, ở miền nam, theo
khuôn phép gia đình nề nếp, chú rể và cô dâu không ngồi vào bàn trong các
tiệc đãi mà phải đưa nhau đi từng bàn mời khách đôi bên đây cũng là dịp để
nhận biết rõ những người thân thuộc. Họ nhà trai ngồi lại họ nhà gái cho đến
lúc được giờ tốt, giờ hoàng đạo, cụ già chủ hôn xin với nhà gái cho rước dâu.
Cô dâu lúc này đã y phục chỉnh tề, trang điểm với mọi nữ trang của mình
cùng với những đồ dẫn cưới trước, đựng trong chiếc rương phủ nhiễu điều.
Họ nhà gái có một số người đi theo cô dâu, trong đó có các cô phù dâu. Các
cô phù dâu đã được tuyển lựa trong số các thiếu nữ chưa lập gia đình cũng
như các phù rể đều là các chàng trai chưa vợ. Đây cũng có ý nghĩa là dịp
người ta "giới thiệu" những trai gái có thể tiếp nối kết duyên, vì vậy cũng
thường có các cuộc hôn nhân tiếp sau đó của những trai gái này.
TỤC ĐỌC VĂN KHẤN TRONG NGÀY CƯỚI
Người Việt Nam thường rất coi trọng lễ nghĩa, vì vậy trong các lễ tục
đời người, đặc biệt là trong ngày cưới không thể thiếu việc đọc văn khấn yết
cáo tổ tiên.
VĂN KHẤN CÁO YẾT THẦN LINH VÀ TỔ TIÊN
(Cha, mẹ nhà gái dùng bài này lễ ở ban thờ chính)
Con Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính lạy Hoàng Thiên hậu Thổ, Địa Mẩu, cập Thổ Công, Thổ Địa chính
thần, Tiền Chủ Hậu Chủ.
- Bản gia Táo Phủ thần quân, Bản gia chú trạch, chú thần anh linh.
- Thành Hoàng Bản Thổ chứng minh
- Thần Tài, Thần Chủ uy linh hộ trì.
Con cung thỉnh: Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tô cô mãnh
tương, Bá thúc huynh đệ, cô di tỉ muội, phàm ngã tôn nhân, đăng chư chân
linh họ …
Hôm nay, ngày... tháng... năm... tức là năm thứ... nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại: …
Tín chủ con là …
Nhân ngày thành hôn và hợp cẩn của hai con chúng con là: …
Trước linh toạ Ngũ tự gia thần chư tôn linh.
Trước bàn thờ Gia tiên Chư Chân Linh xin theo lệ tục nghi lễ thành hôn
và hợp cẩn, bát nước nén hương, hoa quả lễ vật, chúng con kính cẩn dâng
lên Tôn thần Tiên tổ. Nhân ngày lành tháng tốt kính báo Tôn thần Tiên tổ
chứng lễ cho hai cháu duyên lành gặp gỡ, thuyền về một bến, nước chảy một
chiều, phúc tô di lai sinh trai có vợ, sinh gái có chồng, cúi xin phù hộ cho hai
cháu vợ chồng hoàn hảo, giai lão trăm năm, vận được hanh thông, âm phù
dương trợ, hai họ đoàn kết, có con nối dõi, gái trai hiếu thảo, thông minh,
thành đạt, lộc tài thăng tiến, cầm sắt giao hoà, trông nhờ phúc tổ. Muôn đội
tâm linh.
Cẩn cáo
VĂN KHẤN CÁO YẾT THẦN LINH VÀ TỔ TIÊN
(Chú rể, cô dâu dùng bài này lễ ở bàn thờ chính tại nhà cô dâu)
Con Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính lạy Hoàng Thiên hậu Thổ, Địa Mẩu, cập Thổ Công, Thổ Địa chính
thần, Tiền Chủ Hậu Chủ.
- Bản gia Táo Phủ thần quân, Bản gia chú trạch, chú thần anh linh.
- Thành Hoàng Bản Thô chứng minh
- Thần Tài, Thần Chủ uy linh hộ trì.
Con cung thỉnh: Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tô cô mãnh
tương, cập Bá thúc huynh đệ, cô di tỉ muội, phàm ngã tôn nhân, đẳng chư
chân linh họ …
Hôm nay, ngày... tháng... năm... tức là năm thứ... nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại: …
Nhân ngày thành hôn và hợp cẩn của chúng con là: …
Trước linh toạ Ngũ tự gia thần chư tôn linh.
Trước bàn thờ Gia tiên Chư Chân Linh xin theo lệ tục nghi lễ thành hôn
và hợp cẩn, bát nước nén hương, hoa quả lễ vật, chúng con kính cẩn dâng
lên Tôn thần Tiên tổ. Nhân ngày lành tháng tốt kính báo Tôn thần Tiên tổ
chứng lễ cho chúng con được làm vợ, làm rể họ … Nay hai con duyên lành
gặp gỡ, thuyền về một bến, nước chảy một chiều, cúi xin phù hộ cho hai cháu
vợ chồng chúng con hạnh phúc, vận được hanh thông, âm phù dương trợ, hai
họ đoàn kết, có con nối dõi, gái trai hiếu thảo, thông minh, thành đạt, lộc tài
thăng tiến, cầm sắt giao hoà, trông nhờ phúc tổ. Muôn đội tâm linh.
Cẩn cáo
VĂN KHẤN CÁO YẾT THẦN LINH VÀ TỔ TIÊN
(Cha, mẹ nhà trai dùng bài này lễ ở ban thờ chính)
Con Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính lạy Hoàng Thiên hậu Thổ, Địa Mẩu, cập Thổ Công, Thổ Địa chính
thần, Tiền Chủ Hậu Chủ.
- Bản gia Táo Phủ thần quân, Bản gia chú trạch, chú thần anh linh.
- Thành Hoàng Bản Thổ chứng minh
- Thần Tài, Thần Chủ uy linh hộ trì.
Con cung thỉnh: Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tổ cô mãnh
tương, Bá thúc huynh đệ, cô di tỉ muội, phàm ngã tôn nhân, đẳng chư chân
linh họ …
Hôm nay, ngày... tháng... năm... tức là năm thứ… nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại: …
Tín chủ con là …
Nhân ngày thành hôn và hợp cẩn của hai con chúng con là: …
Trước linh toạ Ngũ tự gia thần chư tôn linh.
Trước bàn thờ Gia tiên Chư Chân Linh xin theo lệ tục nghi lễ thành hôn
và hợp cẩn, bát nước nén hương, hoa quả lễ vật, chúng con kính cẩn dâng
lên Tôn thần Tiên tổ. Nhân ngày lành tháng tốt kính báo Tôn thần Tiên tổ
chứng lễ cho hai cháu duyên lành gặp gỡ, thuyền về một bến, nước chảy một
chiều, phúc tổ di lai sinh trai có vợ, sinh gái có chồng, cúi xin phù hộ cho hai
cháu vợ chồng hoàn hảo, giai lão trầm năm, vận được, hanh thông, âm phù
dương trợ, hai họ đoàn kết, có con nối dõi, gái trai hiếu thảo, thông minh,
thành đạt, lộc tài thăng tiến, cầm sắt giao hoà, trông nhờ phúc tổ. Muôn đội
tâm linh.
Cẩn cáo
VĂN KHẤN CÁO YẾT THẦN LINH VÀ TỔ TIÊN
(Chú rể, cô dâu dùng bài này lễ ở bàn thờ chính tại nhà chú rể)
Con Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính lạy Hoàng Thiên hậu Thổ, Địa Mẩu, cập Thổ Công, Thổ Địa chính
thần, Tiền Chủ Hậu Chủ.
- Bản gia Táo Phủ thần quân, Bản gia chú trạch, chú thần anh linh.
- Thành Hoàng Bản Thổ chứng minh
- Thần Tài, Thần Chủ uy linh hộ trì.
Con cung thỉnh: Cao Tằng Tô Khảo, Cao Tằng Tô Tỷ, Tổ cô mãnh
tương, Bá thúc huynh đệ, cô di tỉ muội, phàm ngã tôn nhân, đẳng chư chân
linh họ …
Hôm nay, ngày... tháng... năm... tức là năm thứ... nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
Tại: …
Nhân ngày thành hôn và hợp cẩn của hai chúng con là: …
Trước linh toạ Ngủ tự gia thần chư tôn linh.
Trước bàn thờ Gia tiên Chư Chân Linh xin theo lệ tục nghi lễ thành hôn
và hợp cẩn, bát nước nén hương, hoa quả lễ vật, chúng con kính cẩn dâng
lên Tôn thần Tiên tổ. Nhân ngày lành tháng tốt kính báo Tôn thần Tiên tổ
chứng lễ cho chúng con được làm chồng, làm dâu họ… Nay hai con duyên
lành gặp gỡ, thuyền về một bến, nước chảy một chiều, cúi xin phù hộ cho hai
cháu vợ chồng chúng con hạnh phúc, vận được hanh thông, âm phù dương
trợ, hai họ đoàn kết, có con nối dõi, gái trai hiếu thảo, thông minh, thành đạt,
lộc tài thăng tiến, cầm sắt giao hoà, trông nhờ phúc tổ. Muôn đội tâm linh.
Cẩn đáo
Sau khi cô dâu và chú rể khấn xong, cả hai vợ chồng quay ra chào hỏi
ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, bạn bè tới dự... sau đó ngồi yên vị trong nhà
không đi ra ngoài. Khi còn trong thời khắc giờ tốt, cô dâu vào phòng ngủ ngồi
một lúc trên giường, sau đó lại ra ngoài tiếp khách. Ngày hôm sau, hai vợ
chồng mới về thăm bố mẹ đẻ cô dâu, nếu hai nhà không quá xa nhau. Trong
ăn hỏi, cưới gả, ngày nay người ta cũng đặt ra những vấn đề kiêng kỵ như
phong tục cưới gả thời xưa.
TỤC TRAO KIM HOẶC TRÂM CHO CON GÁI
Tục này chỉ là một thứ bí truyền do người mẹ thủ thỉ "tâm sự" ngầm với
con gái vào buổi trước khi về nhà chồng. Xuất xứ của tục này là đề phòng tai
biến "Phạm phòng". "Phạm phòng" được hiểu là chết ngay trên bụng vợ ngay
khi quan hệ vợ chồng.
Chàng rể qua mấy ngày đêm lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, bận rộn,
vất vả, đêm tân hôn là đêm xao xuyến, rạo rực nhất, lại thêm mấy chén rượu
ngà ngà say, đến một thời điểm cảm xúc quá đà, nếu người có thể chất và
tâm thần suy tổn nhiều thì lúc xuất tinh, thần kinh từ trạng thái hưng phấn quá
độ chuyển thành ức chế quá độ, dễ bị phạm phòng, nếu người vợ không biết
xử lý kịp thời có thể người chồng chết trên bụng vợ. Hầu như không có
trường hợp người phụ nữ bị phạm phòng. Trong lúc giao hợp, cửa buồng
đóng kín, thân thể loã lồ, lại thêm tâm lý e thẹn xấu hổ, sợ hãi, nếu người vợ
thả người chồng ra, để dương vật thoát ra ngoài, mất sự điều hoà khí âm khí
dương thì khó lòng cứu chữa.
Lúc đó, sẵn có cái trâm cài trên đầu hoặc mấy chiếc kim đính ở vành
khăn, người phụ nữ một tay vẫn ôm riết lấy phía dưới lưng chồng một tay lấy
chiếc trâm hoặc kim chích vào phía dưới hố xương chậu, phía trên hậu môn,
kích thích đến lúc nào người chồng tỉnh lại. Người con trai nào có lông ở đít
thì giật lông. Nếu chưa tỉnh thì tiếp tục châm kim, lấy mùi xoa trắng hoặc lấy
giấy bản chấm thử, hễ thấy có máu chảy là chữa được. Trong phòng đôi tân
hôn nên để ngọn đèn con nhằm tạo thêm khoái cảm, mặt khác cũng vì mục
đích đó nữa, nhưng vẫn chú ý phải ôm riết chồng trên bụng.
Còn tại sao lại 7 chiếc kim: Theo quan niệm cổ truyền "Nam thất nữ
cửu" (đàn ông 7 vía, đàn bà 9 vía). Vì để phòng xa, dùng cho con rể nên bà
mẹ vợ chỉ đưa 7 chiếc kim - chứ không phải dùng cho con gái vì con gái
không bị phạm phòng. Trong hàng vạn trường hợp mới có một trường hợp là
phạm phòng, nhưng các bạn trẻ cũng nên biết trước để khi ngộ sự biết chủ
động xử lý. Điều cần thiết là phải cùng nhau hiểu biết, thông cảm mà phòng
ngừa, nhất là trong tuần trăng mật hoặc vợ chồng cách xa nhau lâu ngày về
gặp nhau. Các bạn gái vì e thẹn xấu hổ nhất thời mà mang lại mối ân hận
suốt đời.
TỤC GÕ SẠP ĐÓN KHÁCH
Gõ sạp đón khách là một nét sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo của
đồng bào Thái vùng phía tây tỉnh Yên Bái. Gõ sạp tạo bầu không khí sôi động,
náo nhiệt khi trong bản, trong mỗi nhà tổ chức các cuộc vui có đông khách
tham dự.
Số người tham gia gõ sạp từ 9 đến 12 người, là những cô gái trẻ, giỏi
văn nghệ. Trong số đó, có một người điều khiển trống cái và số còn lại mỗi
người cầm một đôi ống tre hoặc nứa cắt bỏ mấu ở hai đầu, đứng thành hàng
sát mép ngoằi lan can. Khi khách đã đến sân nhà, người điều khiển trống cái
nổi một hồi trống thật dài. Sau đó đánh trống dặp để những người cầm ống
làm động tác chuẩn bị. Đến khi tiếng trống dặp chuyển thành những tiếng
tùng... cắc... cắc. Rồi lại đảo lại cắc... cắc... tùng... tùng liên tiếp, biến hóa thì
những người cầm ống cũng trỗ ống xuống sàn nhà, đập hai ống vào nhau,
sao cho âm thanh của ống xen kẽ vào âm thanh của trống. Tiếng trống, tiếng
gõ sạp vừa nhanh vừa liên hoàn tạo cho khách đến chơi có một cảm giác rất
hưng phấn và hòa đồng trong cuộc vui.
Khi khách đã quây quần quanh những mâm cỗ, tiếng gõ sạp sẽ dừng
lại. Các cô gái chuyển sang việc tỏa đi các mâm rót rượu mời khách. Rồi sau
đó họ tập trung ở một góc nhà hát khắp, hát ví đối đáp với khách. Cho đến khi
cuộc rượu đã tàn và chuyển sang màn múa xòe thì những cô gái sẵn sàng
lẫn trong vòng xòe cùng với khách. Khi khách bắt đầu ra về, các cô gái nhanh
chóng cầm những chai rượu và những chiếc chén được chuẩn bị sẵn, tiếp tục
đứng ra lan can rót rượu mời khách uống chén rượu chúc mừng và chia tay
với khách. Du khách khi ra về sẽ cảm thấy mình đã có một cuộc vui thật thú vị
trong sự mãn nguyện về tấm lòng nhiệt tình và hiếu khách của người dân nơi
đây.
KHI CON DÂU VỀ ĐẾN NHÀ MẸ CHỒNG PHẢI LÀM GÌ?
Khi con dâu về đến nhà chồng ở mỗi địa phương, có những phong tục
khác nhau, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay:
Ngày xưa ở nhiều địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ
chồng ra cất nón cho con dâu. Nhiều nơi nhà trai đặt sẵn trước ngõ một cái
nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy
nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi, chân tay,
mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu. Con dâu, một tay cầm lấy quan tiền,
một tay vẫn cầm quạt che mặt. Mẹ chồng dắt con dâu vào nhà đặt quan tiền
và cái quạt lên bàn thờ, cúi đầu lễ gia tiên (bốn lạy ba vái theo tư thế của nữ).
Sau đó mẹ chồng dắt cô dâu cầm cả tiền và quạt vào buồng. Trong buồng đã
chuẩn bị sẵn trầu nước hoa quả, giường chiếu mới. Khi con dâu nghỉ ngơi
xong, khăn yếm chỉnh tề mới bưng hộp trầu ra chào họ. Trường hợp mẹ
chồng đã mất thì một bà cô hay bà dì thay thế. Phong tục này có nhiều ý
nghĩa:
- Thời xưa, con dâu trước khi về làm dâu, còn hoàn toàn xa lạ, bỡ ngỡ,
chưa biết đâu là buồng đâu là bếp, ai là bố mẹ chồng. Trừ trường hợp xóm
giềng quen biết nhau từ trước không tính, là thân phận con gái chưa cưới đã
về nhà trai thì bị dư luận gièm pha là con nhà hư đốn. Có người chồng lại rụt
rè e lệ, có trường hợp trước lễ cưới chưa hề tỏ mặt nhau, vậy nên mẹ chồng
niềm nở ra đón dâu, dắt dâu vào nhà là hay, là phải lẽ. Mới bước về nhà
chồng đã được tổ tiên, ông bà, cha mẹ chồng ban phước lộc, dồi dào như
nước quan tiền là biểu tượng vốn liếng của riêng mà mẹ chồng trao cho.
Nhiều địa phương lại có tục khác: Khi con dâu vừa vào đến nhà thì mẹ
chồng cầm chiếc bình vôi tạm lánh sang hàng xóm ít phút. Tục đó cũng có ý
nghĩa là mẹ chồng đã xác định vai trò, trách nhiệm con dâu sẽ vê làm chủ, mẹ
chồng sẵn sàng trao quyền công việc trong nhà trong cửa cho con dâu,
nhưng không phải trao toàn quyền đẩy hết trách nhiệm mà bà vẫn là ngưòi
nắm quyền điều hành, vì bình vôi là vật tượng trưng cho bà Chúa trong nhà.
TỤC TRẢI GIƯỜNG CƯỚI
Văn hoá truyền thống ở nhiều nước châu Á nói chung và Việt Nam nói
riêng có những điều kiêng kỵ trong phong tục cưới hỏi, nhằm tránh cho cặp
vợ chồng mới cưới những điều không may mắn sau này. Trong cuộc sống
hiện đại, mọi thủ tục và nghi lễ cưới hỏi phần nào trở nên giản tiện hơn, tuy
nhiên vẫn có những tập tục truyền thống vẫn được duy trì cho đến tận ngày
nay, chẳng hạn như tục trải giường cưới.
Việc trải giường cưới phải được tiến hành vào ngày, giờ đẹp đã được
lựa chọn trước và hợp với tuổi của cả cô dâu, chú rể. Không phải ai cũng
được nhờ để trải giường cưới, người đươc lựa chọn để làm việc này phải là
một phụ nữ đã lập gia đình và hiện đang có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc,
con cái đuề huề. Ở một số nước Á Đông, trong lúc người lớn tuổi trải giường
thì những người xung quanh cùng hát một bài hát cầu mong cho đôi vợ chồng
trẻ có một cuộc sống sung túc và sớm sinh quý tử. Người phụ nữ được chọn
để trải giường cưới cũng có thể chải tóc cho cô dâu, phong tục này có ý nghĩa
mang lại hạnh phúc cho cô dâu mới. Người được nhờ trải giường cưới chuẩn
bị 5 bao lì xì đỏ, nhét vào đó một số tiền may mắn rồi đặt 4 bao lì xì ở bốn góc
giường và một bao ở giữa giường dưới khăn trải giường. Hành động này có ý
nghĩa cầu mong phú quý và hạnh phúc sẽ đến với đôi bạn trẻ, tình yêu của họ
sẽ nhận được sự ủng hộ của mọi người.
Phong tục trải giường cưới của người Việt Nam không quá cầu kỳ như
của người Trung Quốc. Dù thế, ngày nay, tục trải giường cưới vẫn được
nhiều bạn trẻ tuân thủ. Họ thường nhờ một người phụ nữ đứng tuổi mát tay,
thường là bạn bè quen biết trong gia đình đến giúp nhà trai trải giường cưới
và trang trí phòng cô dâu với mong muốn sẽ có một cuộc sống hôn nhân
hạnh phúc và con cháu đề huề.
PHÒNG NGỦ CỦA ĐÔI VỢ CHỒNG PHẢI KIÊNG NHỮNG GÌ?
Để duy trì một gia đình ổn định, vợ chồng thuận hoà, theo phong tục
của người Việt phòng ngủ của đôi vợ chồng phải kiêng những điều sau:
- Phòng ở không vuông vắn, có góc nhọn, nếu làm buồng ngủ dễ dẫn
đến hậu quả vợ chồng lấy nhau lâu mà không con, tình cảm phai nhạt.
- Trong phòng ngủ không nên dùng ánh sáng trắng mà nên dùng ánh
sáng đèn sợi tóc tròn mới có lợi cho hôn nhân.
- Các đồ dùng trong phòng ở tránh góc nhọn, không những tránh va
chạm gây thương tích mà còn giảm ảnh hưởng xấu do luồng xung xạ của góc
nhọn gây ra dẫn đến tình cảm vợ chồng xấu đi.
- Phòng ngủ hết sức tránh góc nhà có cột chĩa ra, vì tạo ra xung xạ,
không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn bất lợi cho duyên phận và tình
cảm vợ chồng.
- Nhà ở là nơi an cư, trang nhã là tốt nhất, không nên: chạy theo mốt,
trang hoàng lộng lẫy; hoặc một phần hay toàn bộ như kiểu quán bar, nhà
hàng, khách sạn... nếu không sẽ có hại đến tình cảm vợ chồng và giáo dục
con cái.
- Phòng ngủ không được đối diện với cửa nhà tắm và cũng không nên
cắt ngang một bên. Vì làm như vậy tình cảm vợ chồng sẽ phai nhạt.
- Phòng ngủ không nên đặt quá nhiều chậu cảnh, nhiều bình hoa, vì sẽ
hại đến sức khoẻ của cả hai vợ chồng.
- Phòng ngủ màu sắc phải thanh nhã, ấm áp, không nên quá tươi sáng.
Không nên bày đặt nhiều thứ linh tinh trong đó, tránh đặt các vật trang trí phát
quang óng ánh.
- Không nên treo bức tranh lớn trên đầu giường, theo phong thuỷ làm
như vậy là rất độc, vì bức tranh như một chiếc máy chém.
Ngoài ra, phòng ngủ của vợ chồng còn kỵ: trong phòng có mùi ẩm mốc,
ảnh hưởng đến tình yêu; không ở nơi phần lồi ra của tầng gác hoặc nơi ngõ
cụt, nhất là lấy nơi đó làm phòng tân hôn; không để ánh sáng phản quang từ
kính, gương hoặc hồ nước vào cửa sổ, vào buồng ngủ của chủ nhà, vì rất bất
lợi cho tình cảm vợ chồng và đặc biệt phụ nữ có thai; mỏ cửa sổ hay cửa nhà
thấy mồ mả; cầu đường sát với mặt tường hoặc cửa sổ; phía dưới phòng ngủ
có bàn thờ, nếu không tất gặp tai ương; cửa sổ buồng ngủ hoặc cửa lớn chĩa
thẳng vào bệnh viện, nhà tang lễ, trại giam, đền miếu, tháp cao...
TỤC "LẠI MẶT"
Theo phong tục Việt Nam, sau ngày cưới, nhà trai sửa soạn một vài
mâm cơm mời đại diện nhà gái và họ hàng đến dự, gọi là lễ lại mặt, mục đích
là củng cố thêm tình thông gia. Ở một số địa phương, lễ lại mặt được tiến
hành tại nhà gái. Chú rể dẫn vợ về nhà vợ cùng lễ vật là đồ ăn dâng cha mẹ
vợ. Tại đây, bên nhà gái mời một số người thân thích đến dự tiệc. Sau đó đón
cha mẹ và vài người thân sang nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới
chính thức tới nhà rể và nhà thông gia. Vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả
bố) không đi đưa dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ
tư sau ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tùy theo khoảng cách xa gần và
hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói gọn
trong phạm vi hai gia đình.
Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn bị cắt
tai tức là nhà trai ngầm báo với nhà gái rằng: nhà trai trả lại con gái cho ông
bà bên này, vì con gái ông bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là
giấy thám trinh, để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh
thì trên giấy bản sẽ có mấy giọt máu).
Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, bố mẹ đôi bên già yêu thì nên
miễn cho nhau, cô dâu chú rể nếu bận công tác cũng nên được miễn. Nếu
điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp:
- Nhắc nhở con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như
bố mẹ mình.
- Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi
đầu, tình cảm được nhân đôi.
- Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và
bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc sống cho
đôi trẻ trong tương lai.
TỤC Ở RỂ
Tục ở rể là một phong tục của một số dân tộc ở Việt Nam. Các dân tộc
như Êđê, Ba Na, Gia Rai, Dao, Cơ Ho, Sán Chỉ. Các tộc người này quy định,
khi người con trai đến độ tuổi kết hôn. Người con gái đến gia đình chàng trai,
nhà trai thách nhà gái các lễ vật thách cưới. Khi cưới xong chàng trai sang
nhà gái ở rể, làm các công việc do nhà vợ cho đến cuối đời. Đa số các tộc
người có tục này đều theo chế độ mẫu hệ, con cái đẻ ra mang họ mẹ. Được
thực hiện trước từ một đến ba năm khi lễ cưới chính thức được tổ chức và
tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của nhà trai. Nhà trai đưa sang nhà gái
một mâm lễ vật gồm: Một đồng bạc trắng hoa xòe; một chiếc vòng tay “lá hẹ”
bằng bạc trắng; 6 đôi gà; một con lợn dò chừng 30 kg.
Bạc trắng và vòng tay được coi như vật tín trao cho người con gái, còn
gà, lợn sẽ được đem ra giết thịt để dâng cúng tổ tiên chính thức công nhận
người con trai trở thành con rể và được phép ăn ở, qua lại trong gia đình nhà
vợ một cách đàng hoàng. Đáp lễ và để cầu phúc cho đôi trẻ, người mẹ của cô
con gái sẽ tặng lại cho con gái và con rể một chiếc địu hoa do chính tay bà
mẹ cắt khâu, ngụ ý mong các con sớm có con bồng con bế theo quan niệm
“có nuôi có lãi” của đồng bào. Xã Vũ Linh huyện Yên Bình (Yên Bái) là nơi
quần tụ của 5 đồng bào dân tộc là Kinh, Tày, Nùng, Dao và Cao Lan, trong đó
đồng bao Dao quần trắng chiếm chủ yếu. Kinh tế phát triển, theo đó cuộc
sống của đồng bào đã có bước phát triển rõ nét so với trước. Tuy thế, những
giá trị văn hoá truyền thống và nét bản sắc riêng của các tộc người nói chung
và người Dao quần trắng nói riêng vẫn đang được bảo tồn và phát huy. Đặc
biệt tục ở rể — một nét đẹp trong đời sống sinh hoạt của đồng bào cho đến
giờ vẫn còn giữ nguyên được nét bản sắc.
Tục ở rể tuy không thành văn nhưng nó đã tồn tại từ rất nhiều đời nay
trong quan niệm và trong đời sống sinh hoạt của đồng bào. Trên cơ sở của
sự tự nguyện nhưng vẫn đặt trong một khuôn phép lễ giáo, tục ở rể như một
sợi dây vô hình gắn kết tình cảm và trách nhiệm của hai gia đình, giúp đôi bạn
trẻ ý thức hơn vẻ mình trước hạnh phúc gia đình và cuộc sống sau hôn nhân.
Cuộc sống hiện đại với sự giao thoa của các nền văn hoá nên tục ở rể của
đồng bào Dao quần trắng cũng có đôi nét thay đổi. Người con trai thay vì phải
đến nhà gái ở rể như trước đây, thì nay đã vẫn có thể ở nhà mình nhưng
phần lễ vật mang sang nhà gái vẫn phải sắm đủ và mỗi năm góp chung với
nhà gái một món tiền nhỏ từ 120 nghìn đến 150 nghìn đồng. Được biết,
những trường hợp ở rể như thế này không nhiều, phần lớn các gia đình
người Dao hiện nay vẫn khuyến khích con cháu mình giữ gìn nề nếp phong
tục của tổ tiên xưa. Việc bảo tồn các sinh hoạt văn hoá này sẽ góp phần làm
phong phú thêm bản sắc dân tộc và các giá trị văn hoá của đồng bào các dân
tộc ở Việt Nam.
Ở rể cũng là một luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số La Ha, Nậm
Păm, Mường La, Sơn La. Trước khi cưới, chàng trai phải sang ở rể cho bên
nhà gái đến hơn chục năm. Bố mẹ vợ căn cứ vào số năm cho cưới. Lúc đón
dâu về nhà, chàng rể cũng đón luôn cả đàn con. Sau thời gian ở rể dù đã có
con cái đề huề, nhưng trước khi rước vợ về chàng rể còn phải làm đám thu
mạ phu (đám cưới to), sang nhà gái ngủ nhờ để sáng hôm sau lôi trâu, bò,
lợn, gà, cá ống, cá kép, rượu mang theo ra đãi đằng họ hàng nhà gái, xin
phép tổ tiên cho đón dâu về nhà chồng.
TỤC NỐI DÂY
Tục nối dây là một tập tục đã có từ lâu đời ở nhiều dân tộc trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Theo tục nối dây, khi người vợ qua đời, người chồng
muốn tái hôn buộc phải lấy một người con gái trong gia đình vợ có thể là em
gái vợ còn rất nhỏ tuổi hay thậm chí là người chị vợ già hơn mình rất nhiều
miễn là người đó chưa có chồng. Những người đó gọi là người nối dây. Nếu
không còn người để nổi dây thì người chồng phải về lại nhà mẹ đẻ với hai
bàn tay trắng. Ngược lại, nếu người chồng mất mà gia đình chồng không
muốn mất của cũng phải đưa người (anh trai hay em trai chưa có vợ của
người chồng) sang nhà người vợ.
Ở Việt Nam tục nối dây trước đây rất phổ biến ở các dân tộc thiểu số ở
miền Trung, Tây Nguyên như người ÊĐê. Tục nối dây khiến của cải luôn tập
trung trong một gia đình, dòng họ, con cái luôn được quan tâm không có
chuyện mẹ ghẻ con chồng như ở người Kinh vì vẫn trong họ.
VỢ CHỒNG LY HÔN PHẢI CÓ NHỮNG TỤC GÌ?
Sau khi đã dạm hỏi rồi, trai gái không bằng lòng lấy nhau, trai chê vợ thì
thôi, không đi lại sêu Tết gì nữa, gái chê chồng thì phải đem trầu cau, nhà trai
nghiệt thì tính hết tiền phí tổn về việc dạm hỏi sêu Tết từ trước, mà bắt nhà
gái bồi trả lại.
Đến lúc cưới rồi, vợ chồng ăn ở với nhau đã được một vài năm hoặc đã
nhiều năm, mà điều gì vợ chồng không bằng lòng nhau. Hoặc chồng ăn ở phụ
tình thì vợ cũng có thể bỏ được chồng, hoặc vợ phạm phải tội xuất thất thì
chồng cũng có thể bỏ được vợ.
Muốn bỏ chồng phải kiếm trầu cau trình với lý trưởng với dân làng, dân
làng phân xử cho rồi mới được bỏ. Nếu dân làng xử mà đôi bên chưa phục
thì mới được đến cửa quan. Đàn ông muốn bỏ vợ phải viết thì ly dị gọi là giấy
rẫy đi. Vợ cầm giấy ấy đem trình làng trình quan, rồi mới được đi lấy chồng
khác. Vợ chồng chia của hoặc chia con, tuỳ quan trên xử định. Có khi đàn
ông hễ vợ có tội trạng gì thì gọt gáy bôi vôi. Hoặc là chồng bắt được vợ thông
dâm với trai, thì bắt cả gian phu dâm phụ hoặc bắt một dâm phụ mà đóng bè
chuối thả bôi vôi.
Vợ chồng ly dị tuy là một sự không được vui vẻ trong gia đình, nhưng
cũng là việc thường trong thiên hạ.
TỤC ĐA THÊ
Trước đây, những người giàu có hoặc người hiếm hoi thường có vợ lẽ.
Người chịu lấy lẽ là một người vì nghèo hèn, vì sa cơ thất thế, vì tham giàu,
tham danh giá, vì tuổi trẻ goá chồng, chưa có con, phải đi bước nữa thì mới
chịu lấy, chứ con nhà tử tế không mấy người chịu.
Lấy vợ lẽ không mấy người cưới xin như khi lấy vợ cả, chỉ dùng lễ cưới
sơ sài, đưa ít tiền bạc và nộp cheo cho làng mà thôi. Người phú quí có khi lấy
năm, lấy bảy vợ lẽ, mỗi người có riêng một dinh cơ, phận ai người nấy làm.
Người bình thường vì hiếm hoi mà lấy hoặc là vợ cả lấy cho, hoặc là tự mình
lấy, nhưng cũng phải nói cho vợ cả bằng lòng mới được. Có khi vợ cả ghen
tuông không cho lấy thì chồng lại lấy dấu mà để ở riêng một nơi. Vợ lẽ đối với
chồng thì trọng về sự nâng khăn sửa túi, hoặc người thì trọng về sự kế tự,
chứ không có trách nhiệm đảm đang công việc nhà chồng như người vợ cả.
Khi nào người vợ cả không cáng đáng nổi công kia việc nọ, thì cũng cậy vợ lẽ
nhiều.
Vợ lẽ ở với chồng, cũng nhiều người rất trọng hậu, hết lòng lo cho
chồng, biết chiều chuộng chồng, biết phân trách nhiệm cho vợ cả. Có người
chỉ cốt lấy chỗ nương nhờ, chẳng biết lo lắng cho nhà chồng một tí gì. Vợ lẽ
không có quyền bằng người vợ cả phải phục tùng vợ cả như là chồng. Được
người vợ cả có lòng khoan dung thì coi vợ lẽ như chị em một nhà. Nếu phải
người vợ cả cay nghiệt, thì sai bảo hành hạ như kẻ ăn người ở, vợ lẽ cũng
phải chịu. Nhiều khi vợ lẽ can cường: không chịu người vợ cả áp chế thì
thường sinh ra sự cãi nhau. Có khi vợ lẽ cậy được thế chồng yêu mà lăng
ngược người vợ cả. Có khi vợ cả cậy giàu có của, lo được cho chồng nên
danh phận thì lại khinh bỉ vợ lẽ mà tranh lấy quyền trên.
Con chồng gọi vợ lẽ của cha là dì ghẻ, nếu mẹ mất rồi, phải nương nhờ
dì ghẻ, thì người vợ lẽ ấy có quyền làm kế mẫu, coi được con chồng như con
mình, thì con chồng cũng phải coi mình như mẹ đẻ. Nhưng ít được người
hiền hậu, nhiều người không thương đến con chồng.
Thông thường vợ cả lấy trước, vợ lẽ lấy sau. Nhưng có trường hợp
người con trai làm ăn xa nhà, tự ý lấy vợ, chưa được cha mẹ và họ hàng
chấp nhận, ở quê nhà cha mẹ đã dạm hỏi sẵn cho một cô vợ khác bắt về
cưới. Người vợ do cha mẹ cưới hỏi, dẫu rằng lấy sau vẫn là vợ cả. Người vợ
tự ý chọn, nếu sau này được cha mẹ chấp thuận, mặc dù con gái con trai đều
đã lớn, vẫn phải chịu phận làm lẽ. Con vợ lẽ dẫu nhiều tuổi hơn vẫn phải
chào đứa con vợ cả đang ăm ngửa bằng anh bằng chị. Trường hợp vợ cả
chết sớm, không có con trai thì con trai vợ lẽ sinh sau vẫn là trưởng nam, là
đích tôn thừa trọng chứ con trai vợ lẽ vì phận thiếp không môn đăng hộ đối,
không phải do ông bà trực tiếp cưới hỏi nên - không đủ quyền kế vị. Muốn
cho gia đình êm thấm, người chồng phải khéo đối xử để vợ cả đi hỏi vợ lẽ
cho chồng, thì người vợ lẽ và bố mẹ cô ta mới yên tâm.
Tục đa thê cũng là một tục trái với văn minh đời nay. Vì là làm cho loài
người mất tự do, mất bình đẳng và trái với đạo công bằng của tạo hóa, tức là
không hợp cách văn minh, vả lại vợ cả vợ lẽ, ít người biết lấy cách hòa thuận
ở với nhau, còn phần nhiều thường hay ghen tuông nhau. Người chồng cũng
ít người khéo cư xử, mà cũng rất khó cư xử cho vừa lòng cả đôi bên. Có câu
rằng: "Cai trăm quân không khó bằng cai bốn vó đàn bà". Vì thế trong nhà hay
sinh ra lục đục, chồng ở giữa thật là khó nghĩ, bênh vợ cả thì vợ lẽ oán. Bênh
vực vợ lẽ thì vợ cả giận, thành ra gia đình giảm mất sự vui vẻ. Cho nên, "một
chồng một vợ" sẽ giúp gia đình ấm êm, hạnh phúc.
Chương 5. PHONG TỤC SINH NỞ VÀ NUÔI CON
Sinh nở và nuôi con là thiên chức đồng thời hạnh phúc của các bậc cha
mẹ. Phụ nữ Việt Nam ngày xưa hầu như ai cũng lo ngại chuyện mang nặng
đẻ đau. Tại thôn quê, người đàn bà mang thai phải tự chăm lo sức khỏe.
Ngoài mấy thang thuốc bắc, thuốc nam, chỉ còn biết trông cậy vào những lời
khuyên được truyền từ đời này sang đời khác. Trong suốt thời gian thai
nghén người đàn bà phải đứng ngồi ngay ngắn. Có như thế sau này con mới
trở thành người ngay thẳng. Bà mẹ tương lai tránh nhìn những cảnh không
hay, tránh nghe những chuyện không đứng đắn, không tốt, để cho con sau
này thành ngươi đàng hoàng, tử tế. Thời gian thai nghén trung bình là chín
tháng mười ngày. Quá thời hạn này mà chưa sinh thì gọi là chửa trâu. Gặp
trường hợp này người chồng phải dùng phương thuật, dùng mẹo để giúp vợ
chóng chuyển bụng.
Trong quá trình sinh nở và nuôi con cũng có rất nhiều phong tục. Dưới
đây là một số phong tục thường gặp:
TỤC "CON SO VỀ NHÀ MẠ CON RẠ VỀ NHÀ CHỒNG"
Ở một số tỉnh miền nam và miền trung, thường có tục "Con so về nhà
mạ (mẹ) con rạ về nhà chồng". Con so là con sinh đầu lòng, con rạ là những
đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là thứ. Ở
một số địa phương ở miền bắc khác với con gái không được sinh đẻ ở nhà
cha mẹ mình.
Theo tục này, con gái mới lớn lên, mới sinh lần đầu tiên, trẻ người non
dạ, chưa biết đi đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra sao, hơn nữa trong
người yếu khoẻ ra sao muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà chồng cũng
ngần ngại, khó nói hơn với mẹ đẻ và em út mình, nên khi sinh nở lần đầu tiên
tốt nhất là về nhà mẹ đẻ để tiện bề chăm sóc. Còn những lần sinh sau đã có
kinh nghiệm, có thể tự mình giải quyết được nhiều việc, thì có thể ở tại nhà
mẹ chồng.
Câu thành ngữ trên xét theo tập quán phong tục thì, "Con so về nhà
mạ" là một phong tục hay nhưng muốn giải quyết được êm đẹp cũng phải có
thu xếp: Gần ngày ở cữ, mẹ chồng hoặc chàng rể sang quê ngoại thưa
chuyện trước, nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường sá xa xôi cách trở
cũng cần thảo luận với nhau về trách nhiệm cho thoả đáng, sau khi mẹ tròn
con vuông, cháu cứng cáp, chàng rể cũng cần sắm một số lễ vật, nhằm ngày
tốt sang tạ ơn gia tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về.
VÌ SAO KHI VỪA SINH RA ĐÃ CẦM TINH CÁC CON VẬT?
Từ xưa đến nay, người ta vẫn thích bàn luận về việc cầm tinh các con
vật. Một người sinh vào năm đó, thì cầm tinh con vật nào? Tính tình người đó
ra sao? May mắn rủi ro họa phúc sẽ như thế nào... Việc cầm tinh con vật liên
quan gì đến số mệnh của người đó?
Tương truyền thời xa xưa người ta lấy Mặt trời làm chuẩn cho một ngày
lao động. "Mặt trời mọc thì làm, Mặt trời lặn thì nghỉ". Nhưng gặp hôm trời đầy
mưa, khuất Mặt trời thì con người không dám dựa vào đâu.
Có một người tên là Đại Nhiêu sáng tạo ra thập thiên can (10 can):
giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý và thập nhị địa chi (12 địa
chi) là: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, dùng để tính
thời gian, một ngày chia ra làm 12 giờ, dùng một địa chi để biểu thị một giờ,
lại dùng thiên can phối hợp với nó để tính năm, như năm: giáp tý, ất sửu, bính
dần... Tương truyền, thời đó đã có văn tự, thế là dùng biện pháp này soạn
thành bộ lịch đơn giản. Nhưng văn tự vừa mới xuất hiện trong bộ lạc rất
nhiều, người không hiểu. Hoàng đế anh minh biết việc này, liền dùng 12 con
vật để chỉ tên năm. Năm giáp tý dùng con chuột để biểu thị, năm ất sửu dùng
con trâu để biểu thị... Ngày này qua tháng khác, mọi người ghét năm giáp tý,
năm ất sửu, khó nhớ nên gọi luôn là "năm chuột", "năm trâu"... Thế là những
người sinh năm chuột gọi là thuộc chuột, những người sinh con trâu gọi là
cầm tinh con trâu. Vì vậy mỗi người đều cầm tinh một con vật.
Việc cầm tinh 12 con vật là sự hình thành kết hợp lẫn nhau của cách
tính năm của người xưa. Cách lấy động vật để nhớ năm lưu hành sớm nhất
trong các dân tộc du mục ở miền bắc Trung Quốc. Người xưa khi quan sát
sao đã biết được Tuế tinh (Mộc tinh - sao mộc) vận hành hết khoảng 12 năm,
thế là lấy phương vị của nó để tính năm, nhớ năm và dùng tên gọi những con
vật quen thuộc nhất cho dễ tính năm. Như vậy xuất hiện lịch 12 con giáp, về
sau kết hợp với phương pháp tính năm theo can chi của người xưa thế là có
cách nói "cầm tinh 12 con vật". Người sinh năm nào, thì sẽ có con vật tương
ứng. Cổ nhân căn cứ vào quy luật thời gian các con vật xuất hiện hoạt động
để chọn ra 12 con vật là chuột, trâu, hổ, thỏ (ở Việt Nam gọi là mèo), rồng,
rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn, để tính 12 giờ trong ngày. Cho rằng:
- "Giờ tý" (tức là từ 11 giờ đến 1 giờ sáng) chuột hoạt động mạnh nhất,
hoạt bát nhất.
- "Giờ sửu" là lúc trâu đã ăn no cỏ, vẫn còn nhai lại, chuẩn bị trời sáng
để đi cày ruộng;
- "Giờ dần" là lúc hổ sung mãnh nhất;
- Còn từ 5 giờ sáng trở đi, trăng vẫn còn chiếu sáng trên mặt đất, cho
nên "giờ mão" lấy con thỏ để đặt cho giờ này, dựa vào thỏ trên mặt trăng, (ở
Việt Nam mão là mèo);
- "Giờ thìn" chính là lúc đàn rồng quây mưa (quần long hành vũ);
- "Giờ tỵ" là lúc rắn không còn đi lại trên lối người đi, không làm hại ai
nữa;
- "Giờ ngọ" là lúc dương khí đạt mức cao nhất; mà ngựa thuộc loại tính
dương;
- "Giờ mùi" dê ăn cỏ vào giờ này không hề ảnh hưởng đến việc cây cỏ
mọc lại;
- "Giờ thân" là lúc khỉ thích hú kêu;
- "Giờ dậu" là lúc gà bắt đầu lên chuồng;
- "Giờ tuất" chính là lúc chó phải trông nhà;
- "Giờ hợi" lúc mọi thứ đều trở nên yên lặng, tĩnh mịch, lợn ngủ say
nhất.
Có thể thấy những loại động vật khác nhau, phối hợp với địa chi chẳng
qua là sự phối hợp của các nhà âm dương đời Hán, cả hai đều không tồn tại
bất cứ mối liên hệ mật thiết nào. Văn hoá Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn
hoá Trung Hoa, vì vậy chúng ta mới có tục cầm tinh các con vật.
TỤC CÚNG MỤ
Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Đứa trẻ được sinh ra là do các vị Đại
Tiên (Bà chúa Đầu thai), Tiên Mụ mà trực tiếp là 12 bộ Tiên Nương (12 bà
Mụ) nặn ra ban cho. Vì vậy; khi đứa trẻ đầy cữ (đứa trẻ chào đời được 3
ngày), đầy tháng (đứa trẻ chào đời được một tháng), đầy năm; bố mẹ, ông bà
đứa trẻ phải bày tiệc cúng Mụ để tạ ơn các bà Mụ và cầu xin các Mụ ban cho
đứa trẻ mọi điều may mắn tốt lành.
Sắm lễ: Lễ cúng Mụ phải được làm cẩn thận chu đáo, với các lễ vật bao
gồm:
1) 12 đôi hài xanh giống hệt nhau và một đôi hài cũng màu xanh nhưng
to hơn
2) 12 nén vàng xanh giống nhau và một nén vàng xanh to hơn.
3) 12 bộ váy áo đẹp màu xanh giống hệt nhau và một bộ váy áo xanh
cắt giống 12 bộ kia nhưng to hơn.
4) 12 miếng trầu cánh phượng giống hệt nhau và một miếng trầu têm
cánh phượng to hơn.
5) 12 bộ đồ chơi: Bát, đũa, thìa, cốc chén, con giống, xe cộ, nón, mũ...
giống hệt nhau và một bộ giống như vậy nhưng to hơn (những đồ lễ này có
thể bằng nhựa, bằng sành sứ).
6) 12 con cua, 12 con ốc, 12 con tôm to nhỏ bằng nhau để sống (có thể
đồ chín) là lễ vật dâng cúng 12 bà Mụ. Và mỗi loại một con to hơn hoặc nhiều
con (ít nhất ba con) cũng để sống là lễ vật dâng cúng bà Mụ Chúa. Các con
này để vào bát to bày cúng, sau khi cúng xong thì đem cua, ốc thả ra ao, hồ;
tôm có thể thụ lộc).
7) Phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả chia đều thành 12 phần giống nhau và
một phần có đủ phẩm oản, bánh teo, hoa quả nhưng lớn hơn (hoặc nhiều
hơn).
8) Lễ mặn: Xôi, gà, cơm, canh, các món lễ mặn, rượu...
9) Bát hương, lọ hoa tươi nhiều màu, tiền vàng, cốc nước thanh tịnh
(bày ở mâm trên cùng lễ mặn).
Bày lễ:
Bày lễ cúng Mụ mang tính chất thành kính, văn hoá và nghệ thuật,
thường bàn lễ cúng Mụ được bày (trình bày) một cách hài hoà, cân đối.
+ Tất cả lễ vật dâng bà Mụ chúa để ở chính giữa phía trên của hương
án
+ Lễ vật dâng 12 bà Mụ chia thành 12 phần giống nhau
+ Mâm lễ mặn cùng hương, hoa, nước để trên cùng
+ Mâm tôm, cua, ốc để phía dưới
Sau khi bày lễ xong, bố hoặc mẹ cháu bé thắp 3 nén hương, rồi bế
cháu bé ra trước án khấn:
Văn khấn cúng Mụ
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
- Con kính lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúa.
- Con kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúa.
- Con kính lạy Đệ tam Tiên Mụ đại tiên chúa.
- Con kính lạy Thập nhị bộ Tiên Nương
- Con kính lạ Tam thập lục cung chư vị Tiên Nương
Hôm nay là ngày.... tháng năm....
Vợ chồng con là … sinh được con (trai, gái) đặt tên là …
Chúng con ngụ tại: …
Nay nhân ngày đầy tháng (đầy cữ, đầy năm) chúng con thành tâm sửa
biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bày lên trước án, trước bàn tọa
chư vị Tôn thân kính cẩn tâu trình:
Nhờ ơn thập phương chư Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị Tiên Bà, các
đấng thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội ngoại, cho
con sinh ra cháu tên là … sinh ngày … được mẹ tròn con vuông.
Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án, chứng giám
lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu được ăn
ngon, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô tai, vô ương vô hạn, vô
ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh, sáng láng, thân mệnh
bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quí. Gia đình con
được phúc thọ, an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa
không hạn ách nghĩ lo.
Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Khi đã khấn xong thì bố hoặc mẹ chắp tay bé lại vái trước án 3 vái sau
3 tuần hương thì lễ tạ. Sau đó gia đình mang vàng mã, váy áo đi hoá, vẩy
rượu lúc đang hoá; đem tôm, cua, ốc đi phóng sinh tại các ao, hồ, sông để
cầu phúc; các đồ chơi bằng nhựa, sành sứ thì giữ lại cho cháu bé để lấy
phước. Cuối cùng cả gia đình và bạn bè cùng thụ lộc chúc cho bé mọi điều tốt
lành.
TỤC XIN QUẦN ÁO CŨ CHO TRẺ SƠ SINH
Người mẹ từ khi mới thụ thai đã chú ý xem trong bà con, họ hàng, làng
xóm nhà ai có con cái bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, ít khóc ít quấy, ao ước sắp
tới con mình sinh ra cũng được như thế thì xin một cái áo, hay cái quần, cái tã
cũ của đứa bé về sửa sang lại để dùng cho con mình. Xuất xứ là do một vài
người làm, rồi bắt chước nhau, dần dần là truyền ra thành phong tục. Nguyên
ngày xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi trong dân gian, thị
trường toàn những vải thô nhuộm nâu, thô cứng, trẻ sơ sinh da còn non mặc
dễ bị xây xát, càng mặc đồ mới càng đau yếu. Nhà nghèo không sẵn tiền mua
đã đành, nhà giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì lẽ ấy. Trẻ thì chóng lớn,
quần áo thì lâu mới rách, chỉ vài tháng sau đã quá cỡ, người ta không nỡ phá
đi dùng vào việc khác nên cất giữ lại, dành cho em út. Vì vậy, người cho áo
cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình và coi đứa bé
sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình.
TỤC XIN VÀO SỔ HỌ CHO TRẺ MỚI SINH
Vấn đề này đã có lệ từ xưa. Việc xin sổ họ cho con thường có những
tục sau.
- Yết cáo tổ tiên đặt tên trẻ sơ sinh: Theo lệ cũ chỉ sau khi đối chiếu gia
phả, kiêng cử các trường hợp phạm huý (đặt tên trùng với tên húy của tổ tiên
và thân nhân gần gũi nhất, kể cả nội ngoại) mới chính thức đặt tên huý cho
trẻ sơ sinh, yết cáo tổ tiên và xin vào sổ họ. Ngày nay phải làm thủ tục khai
sinh kịp thời, trường hợp ở xa quê, không kịp về đối chiếu gia phả, nhỡ trùng
tên huý tổ tiên trực hệ, thì tìm cách đổi, hoặc tránh gọi thông thường trong
nhà. Lễ yết cáo tổ tiên rất đơn giản, nén hương cơi trầu, chén rượu cũng
xong, thường kết hợp lễ tế tổ hàng năm mà yết cáo, chung tất cả con cháu
trong họ sinh trong năm cùng một lượt. Lễ vào sổ họ cũng không gặp phải
điều gì phiền phức.
- Vào sổ họ: Thứ tự sổ họ ghi theo năm sinh, ai sinh trước ghi trước,
sinh sau ghi sau. Trường hợp nhiều năm bị mất sổ nay mới lập lại sổ họ, thì
phải thống kê theo đơn vị hộ gia đình hoàn chỉnh cả họ, sau đó mới lập sổ
tiếp đối với những trẻ sơ sinh.
Mẫu sổ: Họ tên (tên huý, tên thường gọi)? Con ông bà? Thuộc đời thứ
mấy? Chi thứ mấy? Con trưởng hay con thứ mấy? Ngày tháng năm sinh,
ngày vào sổ họ?
- Con gái vào sổ họ: Bất cứ trai hay gái, sau khi sinh đều có yết cáo tổ
tiên, để được tổ tiên phù trì phù hộ, nhưng nhiều họ ngày xưa không vào sổ
họ đối với con gái, cho rằng "nữ nhân ngoại tộc", con gái là con người ta, lớn
lên đi làm dâu lo cơ nghiệp nhà chồng, vì thế không công nhận con gái vào
họ. Tuy vậy, ngay trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 một số họ đã xoá bỏ điều
bất công đó, coi con gái cũng có mọi quyền lợi, nghĩa vụ như con trai.
Ngày nay, trong phong trào khôi phục việc họ, các họ đặc biệt quan tâm
đến con gái và nàng dâu của họ, họ nào coi trọng vai trò phụ nữ, coi trọng vai
trò người mẹ, người vợ, người cô, người chị thì họ đó mới vững mạnh, cả
nước đang ra sức vận động kế hoạch hoá gia đình, con gái cũng như con trai,
vậy nên vận dụng phong tục cũng phải phù hợp với tư duy thời đại.
TỤC ĐẶT TÊN CÚNG CƠM CHO TRẺ
Ngươi xưa khi trẻ con ra đời thường được gọi bằng những tên xấu xí
bởi cho giản tiện và ưa chất phác những tên như tên gọi là trâu, bò, dê, chó,
lợn, gà... thường thấy có quan hệ mật thiết với cuộc sống thường ngày của
con người. Tuy là xấu xí nhưng dùng để đặt tên cho con trẻ là một biểu tượng
tôn sùng sự chất phác. Một nhà văn có nói: cổ nhân đặt tên xấu xí cho trẻ con
là để dễ nuôi dưỡng. Trong quan niệm phong tục tín ngưỡng ngày xưa cho
rằng tên người và tình trạng của bản thân có sự liên hệ thần bí nào đó. Theo
quan sát của người xưa thì ngựa, dê, trâu, bò, chó có khả năng sinh tồn, sức
sống cao, tính thích ứng với hoàn cảnh mạnh như con vật ấy. Phản ánh tấm
lòng mong mỏi nuôi nấng con cái khỏe mạnh của người xưa.
Đặt tên cụng cơm xấu xí cho trẻ còn có một nguyên nhân là muốn tránh
cho trẻ khỏi chết yểu. Trong quan niệm của người xưa cho rằng, người chết
là linh hồn bị quỷ bắt đem đi. Trong thời y học chưa phát triển, điều kiện vệ
sinh kém, tỷ lệ tử vong cao ở trẻ em, người xưa cho rằng những đứa trẻ chết
yểu là do quỷ thần lấy mất linh hồn của chúng. Theo quan niệm cũ thì quỷ
thần thích linh hồn của những trẻ em xuất chúng. Chính vì thế mà phải đặt
cho chúng những cái tên thật xấu xí, để tránh sự chú ý của quỷ thần, như thế
có thể có tác dụng nhất định đối với an toàn tính mạng của trẻ em.
Theo phong tục, một người từ sinh ra đến khi chết mang rất nhiều tên
gọi: Mới lọt lòng thì thằng Cu, thằng Cò, con Hĩm, thằng Mực, con Cún, thằng
Chắt em, con Chắt ả... thường là đặt tên xấu cho dễ nuôi, đến khi lớn lên thì
anh Hai, anh Ba, chị Bảy... lấy vợ lấy chồng thì anh Nhiêu, anh Đồ, chị
Xã...Có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn gọi theo tên cháu, đến khi chết
thì đặt tên hèm gọi là hiệu để cúng, người có học thì tự đặt tên tự, người có
chức tước thì đặt tên thuỵ, người có chức tước học vị cao sang thường được
xưng tôn theo họ, hay tên địa phương: Cụ án Mai, Cụ Tam Nguyên Yên Đổ,
ông Trạng Trình, ông Tú Vĩ Xuyên, Quan Thám Nam Sơn. Trong nhiều tên
gọi nhưng chỉ có tên huý là chính: Tên huý là tên đặt khi vào sổ họ, khi vào
làng ghi trong sổ họ, khi đi học đặt khi vào sổ họ, khi vào làng ghi trong sổ hộ.
Ngày nay sinh ra là khai sinh, có thủ tục quản lý hộ tịch chặt chẽ. Ngày
trước mỗi làng xã cũng có hương hộ lo sổ sách sinh tử, giá thú nhưng không
quản lý chặt chẽ, Nhà nước chỉ quan tâm đến sổ đinh (từ 18 tuổi), sổ điền để
thu thuế và bắt lính, bắt phu, vì vậy vào sổ làng càng muộn càng hay, lớn lên
đỡ được vài năm thuế thân, phu phen tạp dịch.
Trong xã hội cũ, tình trạng hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến, ít có gia
đình sinh năm đẻ bảy được vuông tròn, vì vậy qua các tuần cữ mới tạm yên
tâm, khi đó mới đặt tên huý.
Các họ mỗi năm tế tổ một lần. Trong dịp tế tổ, các gia đình có con cháu
mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết
cáo tiên tổ và vào sổ họ cho các con trai trước lễ yết cáo, ngày đó mới có tên
huý chính thức, được họ hàng công nhận. Trong khi vào sổ họ phải đối chiếu
gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong nội thân
hay không. Nếu có tức là phạm huý thì phải đổi tên. Không những phải tránh
phạm huý tổ tiên bên nội mà còn phải tránh phạm huý can cụ ông bà ngoại
mặc dù khác họ, tránh phạm huý hiệu của thành hoàng, thánh mẫu, linh thần
từng địa phương, ở nông thôn, các vị có uy vọng trong làng, trong họ thường
được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con. Người đặt tên được
gia đình đó nhớ ơn suốt đời.
TỤC CHO TRẺ UỐNG TÀN HƯƠNG VÀ NƯỚC CÚNG
Nhiều tục lệ xưa đến nay không còn phù hợp nữa có khi còn phản khoa
học, đặc biệt tục cho trẻ uống tàn hương hoà với nước cúng, là một tập tục
phản khoa học, chỉ có hại cho sức khoẻ con người.
Người xưa cho rằng, khi trẻ bị ốm là đứa trẻ đã bị Thánh Thần quở
phạt, hoặc ma quỷ ám ảnh. Do vậy cần phải cầu cúng, xem bói, để biết đứa
trẻ bị vị thần nào quở phạt, ma quỷ nào ám ảnh. Xem bói, thầy bói toán sẽ
cho biết nguyên nhân của trẻ đau ốm, bố mẹ phải đến các đền tạ tội cho trẻ,
hoặc xin bùa phép trừ tà ma. Cúng bái xong, người ta lấy tàn hương hoà với
nước để cúng cho đứa trẻ đau ốm uống và cũng xin bùa giấu tại các đền điện
mang về đeo cho đứa trẻ. Trẻ có đeo bùa, tà ma sợ phải xa lánh.
Ngày nay, tục này cần được loại bỏ, các gia đình cần sáng suốt và
khoa học trong việc nuôi dưỡng con cái. Khi trẻ bị ốm cần đưa trẻ đi khám
bác sỹ để có những chẩn đoán chính xác, khi cần phải dùng thuốc hoặc nằm
viện để điều trị, tuyệt đối không nghe theo lời thầy cúng, bói toán hay làm bùa
phép.
LÀM GÌ KHI TRẺ KHÓ NUÔI?
Trẻ khó nuôi là những trẻ hay đau ốm, bệnh tật, quặt quẹo, ăn hay trớ,
khóc liên miên cả ngày lẫn đêm. Dân gian cho rằng vì trẻ sinh vào những giờ
"không hợp", như là giờ quan sát hoặc giờ kim xà thất toả, do đó phải cúng
đổi giờ cho trẻ.
Ngoài cúng đổi giờ, còn làm một số việc như bôi nhọ nồi lên trán đứa
trẻ để tránh tà ma ám ảnh (đánh dấu). Những đứa trẻ đêm đến là khóc gọi là
khóc dạ đề, nên phải mượn hàng xóm chiếc cọc chuồng lợn ném xuống gậm
giường. Có khi đứa trẻ ngủ lì không dậy, xin vài sợi tóc mai của người khác
họ phẩy vào miệng đứa trẻ cho nó thức giấc. Trẻ hay trớ, lấy ngọn lá trầu
không hay cọng chiếu dán vào trán trẻ, sẽ khỏi trớ. Trẻ bị lồi rốn, mượn người
ăn mày cầm gậy chạm vào rốn. Trẻ mắc sài mòn, mang con ra kéo lê xung
quanh mồ mả mới; để bỏ bệnh sài lại nơi này. Đây là quan niệm của người
xưa, khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển, trình độ hiểu biết thấp. Ngoài
ra dân gian còn có những điều kiêng kỵ sau:
- Khách đến thăm trẻ, không được khen trẻ đẹp, mập, hay nặng cân.
Khen như vậy bị coi là quở, làm cho trẻ suy sút, đau ốm.
- Không đưa trẻ qua cửa sổ cho người khác bồng bế, sợ sau trẻ lớn lên
sẽ làm nghề trộm cắp.
- Khi người lạ vào nhà, trẻ khóc liên hồi, không nín, tức là gặp vía dữ
của người lạ. Người nhà trẻ phải đốt vía, bằng cách lén ném đốm cháy trước
mặt người lạ, hoặc khi người lạ đi rồi khoả đóm bên cạnh trẻ.
- Nếu trẻ khóc liên miên và dữ dội, người xưa cho là đau bão, phải
mượn người nhổ bão trên đầu người mẹ của trẻ, khi đang ôm con ép vào
bụng, tức là giật những sợi tóc quấn lại với nhau thành từng mớ trên đầu
người mẹ.
- Mỗi khi con hắt hơi thì chúc "sống lâu trăm tuổi" để cầu phúc cho con
sống khoẻ mạnh chóng lớn.
- Con lớn chậm yếu ớt, thì bế trẻ chui qua áo quan người già bậc
thượng thọ lúc đưa đám.
Tất cả những điều này không có căn cứ khoa học, vì vậy cần phải loại
bỏ.
TỤC CẠO TRỌC ĐẦU CHO TRẺ SƠ SINH
Trẻ sơ sinh đầy tháng thường được cạo trọc đầu, có nơi gọi là cạo
"lông thai". Tuy các bác sĩ sản khoa không chủ trương làm như vậy, nhưng
cho đến nay phong tục này ở một số nơi vẫn còn tồn tại. Đây là một tục lệ
phức tạp phiền toái. Thường là trẻ sơ sinh con gái thì đầy một tháng cạo đầu,
bé trai thì đầy 2 tháng cạo đầu, tức là "song mãn nguyệt" (đầy 2 tháng).
Nhưng không nhất thiết là cứ vào ngày vừa tròn 1 tháng hoặc tròn 2 tháng là
cạo trọc đầu. Những đứa trẻ đầy tháng vào đầu tháng 12 âm lịch thì phần lớn
là tiến hành nghi lễ cạo đầu vào mồng 2 tháng 2. Vì trong dân gian có ngày "2
tháng 2 ngẩng đầu". Đây chính là ngày mà người ta gọi là "đại cát, đại lợi".
Những đứa trẻ đầy tháng vào tháng 1 âm lịch, thì bố mẹ chúng đều không
muốn cạo đầu vào lúc này. Vì chữ "chính" trong từ "chính nguyệt" chỉ tháng
giêng đồng âm với từ "chưng" (nghĩa là bốc hơi), dân gian cho rằng: Nếu cạo
trọc đầu vào tháng giêng thì sau này, đứa trẻ chỉ cần lắc đầu là mồ hôi ra đầm
đìa, và như thế gọi là "mệnh khổ". Tháng 12 cũng không thể cạo trọc đầu vì
tháng 12 còn gọi là "lạp nguyệt", chữ "lạp" gần âm với từ "lại" nghĩa là "bệnh
chốc đầu", nếu như cạo trọc đầu vào tháng này, thì trẻ con sẽ trở thành bị
chốc đầu suốt! Thế là đứa trẻ sinh tháng mùa đông, tháng chạp và tháng
giêng, đều để đến ngày mồng 2 tháng 2 mới cạo trọc đầu.
Trước đây, đầy tháng cạo đầu được tiến hành cùng với lễ ăn đầy
tháng. Nhiều người thân, bạn bè nhận được tin đều đến và có quà mừng, đồ
lễ mừng là tiền, bạc, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, ngoài ra còn có áo quần.
Đợi đến ngày cạo trọc đầu, cúng thần thọ tinh, vương mẫu thắp nến đỏ và
hương chữ thọ. Vào buổi trưa sau khi người thợ cạo đầu đến, trẻ con phần
lớn do cậu (em trai mẹ) bế, ngồi ở giữa nhà. Đầy tháng cạo đầu đòi hỏi người
thợ cạo đầu có kỹ thuật rất cao, vừa phải cẩn thận mà phải thật mạnh dạn.
Trẻ sơ sinh da đầu rất non, rất dễ xây xát bắt buộc phải tuyệt đối cẩn thận,
cho nên việc trả công cho người thợ cạo đầu cũng rất hậu. Hơn nữa sau khi
cạo trọc đầu cho trẻ xong còn phải mời ăn một bát trứng ốp lếp (với số trứng
trong bát là số chẵn).
Cạo trọc đầu cho trẻ sơ sinh cũng phải giữ kiểu cách. Với bé trai thì
trên thóp phải để một chỏm tóc quả đào gọi là "đầu quả đào", bé gái thì để
chỏm tóc sau gáy gọi là "mễ đồn" (tích trữ gạo). Những đứa trẻ hy vọng dễ
nuôi thì cạo luôn bỏ chỏm tóc trên thóp và để tóc xung quanh đầu. Chứa
đựng ý nghĩa là trẻ con quy y Phật môn, được phật tổ phù hộ, nhờ đó mà
trưởng thành thuận lợi. Nếu tóc trẻ sơ sinh cạo không chỉnh tề cẩn thận thì
cũng không sao, nhưng mặt trẻ nhỏ thì không thể không sửa, lông mày bắt
buộc phải cạo, nếu không sau này sẽ có nhiều lông tơ, mà lông mày lại không
đen. Tóc trẻ sơ sinh cạo ra, người thợ cạo cẩn thận gom lại, vo lại thành nắm
rồi sau đó xuyên qua sợi chỉ đỏ, bên dưới buộc một nơ bằng lụa xanh, đỏ đen
treo ở trên đầu giường trẻ sơ sinh, tương truyền làm thế có thể ngăn chặn ác
tà.
Những ngưòi nhiều tuổi nói rằng, cạo trọc đầu khi vừa đầy tháng cho
trẻ thì sau này tóc chúng sẽ mọc vừa dày, vừa đen. Nếu những trẻ tóc không
tốt, thì sau khi cạo, còn phải bôi nước gừng lên đầu, sau đó còn cạo tiếp mấy
lần nữa, như vậy tóc mới sẽ mọc dài, tốt.
Đầy tháng cạo trọc đầu là bước chúc mừng đầu tiên khi đứa trẻ chào
đời. Đầy tháng cạo đầu cho trẻ sơ sinh không những cạo bỏ "tóc thai", mà
còn biểu thị sự chúc phúc tốt đẹp của bố mẹ, ông bà, cũng là lần đầu tiên
đem đứa trẻ ra khoe trước người thân, bạn bè và đón nhận lời chúc mừng
của họ. Khi đứa trẻ sơ sinh đầy tháng cạo đầu, và đội lên chiếc mũ nhỏ may
mắn, thì tiệc đầy tháng mời khách cũng được tiến hành.
TỤC VÀO GIÁP VÀO XÓM VÀO LÀNG CHO TRẺ
Xưa kia một đứa trẻ sinh ra sau khi vào họ, bố mẹ trẻ phải có cơi trầu
tới trưởng ngõ, trưởng giáp, trưởng xóm để xin cho con vào ngõ, vào giáp,
vào xóm (chủ yếu là con trai). Kể từ ngày đứa trẻ đã được vào ngõ, vào giáp,
vào xóm thì đứa trẻ đó có bổn phận đóng góp cũng như được hưởng mọi
quyền lợi của một người trong ngõ, trong giáp, trong xóm. Riêng vào làng là
một việc khá quan trọng ở vùng nông thôn. Đứa trẻ sau khi đã vào họ, vào
ngõ, vào xóm, vào giáp rồi, bố mẹ trẻ phải xin cho con vào làng. Đứa con vào
làng bố mẹ trẻ phải có trầu cau cáo lễ Đức Thành hoàng làng tại đình làng;
sau đó phải có trà thuốc riêng cho ông tiên chỉ hoặc lý trưởng để ghi vào sổ
làng.
TỤC CẦU TỰ
Cầu tự là một tập tục có từ lâu đời. Đây là một yếu tố tâm lý nhằm giữ
ổn định gia đình và hy vọng tương lai tốt đẹp cho con cái. Người xưa rất coi
trọng con trai. Có con trai không chỉ thêm sức lao động cho gia đình mà còn là
để nối dõi tông đường, dòng họ? Gia đình nào không có con trai coi như tuyệt
tự. Bởi vậy những cặp vợ chồng không sinh được con trai thường đi cầu tự.
Cầu tự tức là đi cầu Thần, Phật xin cho sinh được con trai để thừa tự, nối dõi
tông đường. Các đền, chùa ở nước ta, như chùa Hương, Yên Tử... vào các
dịp lễ hội các cặp vợ chồng muộn mằn về đường con cái, hoặc không sinh
được con trai... thường đến sính lễ cầu tự. Sau khi lễ bái thành kính, cầu trời,
khấn Phật cho sinh hạ quý tử. Những ai muộn sinh con trai thì xoa tay vào
"hòn núi cậu", muốn có con gái thì xoa tay vào hòn núi cô. Ngươi xưa tin rằng
Trời, Phật sẽ cho các cậu, đác cô ấy theo người cầu về. Cho nên khi ra về,
người cầu tự phải có phần lễ cho cậu (nếu muốn sinh con trai) và cho cô (nếu
muốn sinh con gái). Phần lễ gồm: quà bánh, bát đũa trên mâm cơm, thêm cả
suất tiền đi đường, vé tàu xe cho cậu, cô và một số đồ mã.
Vì vậy những đứa trẻ cầu tự, dù nghịch ngợm, làm điều sai trái cha mẹ
thường không đánh mắng như những đứa trẻ khác mà chỉ khuyên bảo nhẹ
nhàng, vì sợ cô, cậu giận sẽ không ở nữa.
TỤC ĐỐT VÍA
Có những đứa trẻ đột nhiên bị vấp ngã làm mất vía, khiến đứa trẻ trở
nên ngớ ngẩn, hoặc lúc ngủ hay giật mình. Vì vậy khi trẻ bị ngã, gia đình phải
hớt vía của đứa trẻ trả về cho nó. Cách làm: dùng một quả trứng luộc, cắt làm
7 hoặc 9 miếng, tùy theo con trai hay gái (gái 7, trai 9) nắm 7 hay 9 nắm cơm
nhỏ, mang tới chỗ đứa trẻ bị ngã, hú gọi vía nó, tráo cơm và trứng 7 hoặc 9
lượt. Sau đó mang cơm và trứng đó về cho đứa trẻ bị ngã ăn. Nếu trẻ còn bé
chưa nhai cơm được, bố mẹ trẻ nhai mớm cho trẻ. Người xưa tin rằng trẻ mất
vía sau khi ăn cơm và trứng này, đứa trẻ lấy lại được vía và trở lại bình
thường.
LỄ KHAI TÂM
Gia đình có con cho đi học ngày đầu tiên, phải chọn ngày tốt, sắm lễ,
tắm rửa, cắt tóc sạch sẽ cho trẻ, ăn mặc chỉnh tề, rồi làm lễ cáo gia tiên. Sau
khi người cha khấn lễ tại bàn thờ, thì đứa trẻ cũng phải lễ bốn lễ ba vái, để xin
tổ tiên phù hộ cho được thông minh, học hành tiến bộ.
Sau khi lễ ở nhà, người nhà ăn mặc chỉnh tề, dẫn đứa bé đến nhà thầy
đồ xin nhập học. Có gia đình khi mang trẻ tới đồng thời đội một mâm lễ gồm
trà, rượu, trầu cau, đĩa xôi, con gà đến lễ. Thầy đồ làm lễ Thánh (tức là Đức
Khổng Tử), tại bàn thờ riêng hoặc ở miếu thờ Đức Khổng Tử, rồi cúng cáo
với gia tiên, việc nhận thêm một môn sinh. Sau đó đứa trẻ mới được học bài
đầu tiên với thầy đồ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Cơ sở văn hoá Việt Nam" Trần Ngọc Thêm - NXB Giáo dục, 2000.
2. Gia lễ xưa và nay - NXB Thanh Niên, 1999.
3. "Nghi lễ thờ cúng truyền thống..." - NXB Văn hoá dân tộc, 2002.
4. "100 điều nên biết về phong tục Việt Nam" - NXB Văn hoá dân tộc,
2007.
5. "Dựng vợ gả chồng theo phong tục dân gian" - NXB Thanh hoá,
2007.
6. "Văn khấn truyền thống của người Việt" - NXB Văn hóa thông tin,
2007.
7. "Việc họ" - NXB Văn hóa dân tộc, 2006.
8. "Tập tục và nghi lễ dâng hương" - NXB Thanh hóa 2009.
MỤC LỤCChương 1. Phong tục các ngày lễ tết
Chương 2. Phong tục dâng hương cúng giỗ
Chương 3. Phong tục tang ma
Chương 4. Phong tục dựng vợ gả chồng
Chương 5. Phong tục sinh nở và nuôi con
---//---
100 ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ PHONG TỤC VIỆT NAM
Tác giả: MINH ĐƯỜNG
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
Chịu trách nhiệm xuất bản: BÙI VIỆT BẮC
Biên tập: HỒNG TÚ
Vẽ bìa: MINH LÂM
In 2.000 cuốn, khổ 13,5 x 20,5cm. In tại Công ty CP In và TM Á Phi. Giấy
phép xuất bản số: 667-2012/CXB/14/01-17/HĐ. In xong và nộp lưu chiểu năm
2013.