4
Lễ vật trầu cau là một lễ vật không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi của người Việt. Hãy cùng xem boi tu vi cùng tìm hiểu ý nghĩa của tục này nhé. Các cụ đã có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, “Miếng trầu nên dâu nhà người”. Miếng trầu là khởi nguồn của mọi câu chuyện, nhờ miếng trầu mà thành dâu nhà người. Nên tự ngàn xưa, trong mâm lễ vật cưới, hỏi của người Việt, dù ở các vùng miền, phong tục khác nhau, dù có thể thiếu bánh nhưng không thể thiếu trầu cau. Trầu Cau - Lễ vật không thể thiếu trong cưới hỏi của người Việt

Le vat trau cau - le vat trong cuoi hoi nguoi viet

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Le vat trau cau - le vat trong cuoi hoi nguoi viet

Lễ vật trầu cau là một lễ vật không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi của người Việt. Hãy cùng xem boi tu vi cùng tìm hiểu ý nghĩa của

tục này nhé.

Các cụ đã có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, “Miếng trầu nên dâu nhà người”.

Miếng trầu là khởi nguồn của mọi câu chuyện, nhờ miếng trầu mà thành dâu nhà người.

Nên tự ngàn xưa, trong mâm lễ vật cưới, hỏi của người Việt, dù ở các vùng miền, phong

tục khác nhau, dù có thể thiếu bánh nhưng không thể thiếu trầu cau.

Trầu Cau - Lễ vật không thể thiếu trong cưới hỏi của người Việt

Tích Truyện Ngày Xưa

Theo tu vi trong sách Lĩnh Nam Chích Quái (sách chép những chuyện huyền hoặc, quái

dị trong nước từ xưa đến nay, căn cứ vào lời kể của dân gian và chỉ được phổ biến trong

từng địa phương) có ghi lại sự tích Trầu Cau như sau:

Page 2: Le vat trau cau - le vat trong cuoi hoi nguoi viet

Các chuyên gia xem tu vi 2015 nói vào thời xa xưa, có hai anh em nhà họ Cao, một người

tên Tân, một người tên Lang (tân lang có nghĩa là cây cau) rất mực thương yêu nhau. Khi

cha mẹ qua đời, hai anh em đến trọ học nhà ông thầy họ Lưu. Thấy Tân và Lang vừa học

giỏi, vừa đẹp người đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gái của thầy cũng đem

lòng quyến luyến, muốn chọn người anh làm chồng. Hai anh em Tân và Lang sát tuổi

nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn đúc, cô gái không sao đoán được ai là anh, ai

là em. Nhân dịp biếu cháo, cô cố ý chỉ đưa tới một bát cháo với một đôi đũa rồi để ý, thấy

Lang cung kính mời Tân ăn trước cô mới biết Tân là anh, và xin cha được gá nghĩa cùng

chàng.

Vợ chồng Tân và Xuân Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa xuân) sống

rất hạnh phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ ngày

anh có vợ, tình anh đối với mình không còn quyến luyến như xưa, trong khi ấy người anh

vô tình không hề hay biết. Ðã thế lại xảy ra chuyện hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm

đồng về muộn, Lang về trước, nàng Lưu tưởng chồng, chạy ra vồn vã âu yếm. Lang vội

lên tiếng, cả hai đều biết là nhầm nên rất ngượng. Tân về, biết chuyện để dạ nghi ngờ, từ

đó tỏ ra lạnh nhạt với em hơn.

Lang buồn tủi âm thầm bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong rừng cho tới khi kiệt sức,

chết đi hóa thân thành cây cau bên bờ suối vắng.

Thấy em không về, Tân ân hận, xót xa, lặng lẽ lên đường tìm em. Tân cũng đã tới bờ suối

nọ, ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ liệt, chàng chết hóa thân thành tảng đá

vôi, nằm sát bên gốc cau. Người vợ chờ chồng mãi chẳng thấy trở về, quá nhớ thương

nên đi tìm. Nàng cũng tới bờ suối. Nàng ngồi trên tảng đá khóc miết… đến khi hồn lìa

khỏi xác thì hóa thân thành cây trầu không, leo bám trên thân đá. Gia đình họ Lưu đi tìm

con, được biết chuyện bèn lập miếu thờ. Người đương thời rất cảm kích trước tình anh

em khăng khít, tình vợ chồng thắm thiết, thủy chung của anh em vợ chồng họ Cao nên

thường đến đốt nhang, chiêm bái, cầu cúng.

Một hôm vua Hùng thứ tư nhân dịp tuần du qua đấy, thấy có miếu thờ, lại được dân sở tại

kể cho nghe câu chuyện thương tâm kia thì vô cùng cảm động. Ngài bảo lấy trầu cau ăn

thử mới khám phá ra một mùi vị thơm cay, nồng ấm, và khi nhổ nước cốt trầu xuống tảng

đá vôi lại thấy hiện ra sắc đỏ tươi như máu, nhà vua cho là quý bèn truyền lấy giống về

trồng, xa gần bắt chước làm theo. Ngài còn xuống lệnh cho thần dân từ nay sẽ nhất thiết

Page 3: Le vat trau cau - le vat trong cuoi hoi nguoi viet

dùng trầu cau trong các dịp cưới hỏi, và trong các buổi hội họp lớn, nhỏ. Tục ăn trầu ở

nước ta có từ đó.

Trong dân gian vẫn truyền khẩu với nhau: “Miếng trầu ăn kết làm đôi/Lá trầu là vợ, cau

tươi là chồng/Trầu xanh, cau trắng, chay hồng/Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với

duyên…”. Với người con gái, cau trầu còn được coi là biểu tượng của sự tiếp đón danh

giá. Vì vậy, trong đám hỏi, trong mâm lễ vật nhà trai mang sang cho nhà gái không thể

thiếu cau, trầu. Sau lễ ăn hỏi, nhà gái thường dùng cau trầu, trà bánh nhà trai đã mang

sang, chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng… như một lời

loan báo rằng con gái trong nhà đã có nơi có chỗ.

Câu Chuyện Ngày Nay

Hiện nay, cuộc sống hiện đại, phong tục cưới xin cũng có nhiều thay đổi nhưng cau trầu

vẫn không thể thiếu.

Thông thường quả lễ gồm buồng cau và trầu đầy ắp, có thể từ vài chục đến vài trăm quả,

nhưng phải là số chẵn, vì quan niệm có đôi có cặp. Cách tính số lượng cau trầu: 1 quả cau

= 2 lá trầu. Quả lễ có thể là 100 cau, 80 cau. Ngoài ra, hiện nay mọi người đang chuộng

buồng cau 105 quả theo cách nói “trăm năm hạnh phúc” hoặc chọn buồng cau 60 quả

theo cách ví von “60 năm cuộc đời”.

Do hiện nay ít người còn ăn, và có khi không chia quà nhà trai cho họ hàng, bạn bè nên

khay cau trầu mặc dù vẫn phải có nhưng mang tính ước lệ, chỉ cần 6 miếng trầu têm và

quả cau bổ làm 6.

Theo tục lệ miền Bắc, trầu phải têm cánh phượng, lá trầu phải là loại trầu cay màu xanh

dày lá, vôi dùng loại vôi Bắc màu trắng và thuốc thường dùng kèm là thuốc lào, và loại

vỏ đỏ. Theo tục lệ miền Nam trầu têm kiểu bánh ú, lá trầu là loại trầu ngọt đi với vôi đỏ,

thuốc lá và vỏ giấy.

Muốn tự tay chuẩn bị cau, trầu cho đám hỏi, cưới bạn có thể ra chợ để mua. Có một số

quầy sạp chuyên cung cấp cau xanh cả buồng được trang trí đẹp mắt với giấy hồng song

hỷ, trầu xanh non quết sẵn vôi đỏ xếp thành xấp, rượu cưới, trà cưới đựng trong giấy

kiếng hồng. Còn nếu không có thời gian, muốn tiện lợi bạn có thể chọn dịch vụ trọn gói

của các đơn vị tổ chức chuyên nghiệp.