ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ MẠNH HÙNG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HUẾ, NĂM 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐỖ MẠNH HÙNG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trương Công Huỳnh Kỳ
2. TS. Nguyễn Văn Hoa
HUẾ, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án với đề tài: “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập, do tác giả thực hiện
dưới sự hướng dẫn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Công Huỳnh Kỳ và Tiến sĩ
Nguyễn Văn Hoa.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2016
Tác giả
Đỗ Mạnh Hùng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Công
Huỳnh Kỳ và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình
học tập và thực hiện đề tài luận án.
Xin được tỏ lòng biết ơn đối với Quý Thầy giáo, Cô giáo Khoa Lịch sử,
Lãnh đạo Phòng Tổ chức - Hành chính, Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Huế, Ban Tổ chức cán bộ và Ban Giám đốc Đại học Huế đã chỉ bảo, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập. Xin chân thành cảm ơn các
vị lão thành cách mạng, các trung tâm lưu trữ, thư viện, bảo tàng đã cung cấp cho
tôi nhiều tư liệu quý báu trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi c ng xin chân thành cảm ơn b ng hữu và gia đình đã động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Nghiên cứu sinh
Đỗ Mạnh Hùng
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐVBQ : Đơn vị bảo quản
NXB : Nhà xuất bản
UBDTGP : Ủy ban dân tộc giải phóng
UBKN : Ủy ban khởi nghĩa
UBNDCM : Ủy ban nhân dân cách mạng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 3
5. Đóng góp của luận án .................................................................................................... 5
6. Bố cục của luận án ......................................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................ 6
1.1. Vấn đề nghiên cứu ...................................................................................................... 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................. 9
1.2.1. Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam ............ 9
1.2.2. Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ ............................................................................................................ 22
1.2.3. Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được các công trình nghiên cứu
giải quyết .................................................................................................................... 28
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ..................................................... 29
Chương 2. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ (TỪ THÁNG 9-1939 ĐẾN THÁNG 3-1945) .... 30
2.1. Tình hình các tỉnh Bắc Trung Bộ trước Chiến tranh thế giới thứ hai ........... 30
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống yêu
nước, cách mạng của các tỉnh Bắc Trung Bộ trước năm 1930 ............................... 30
2.1.2. Sự ra đời của tổ chức Đảng và phong trào cách mạng của nhân dân các
tỉnh Bắc Trung Bộ những năm 1930 - 1939 ............................................................ 37
2.2. Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ............................................ 45
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam của
Đảng Cộng sản Đông Dương ................................................................................... 45
2.2.2. Kết hợp chuẩn bị với đấu tranh tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ ........................................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 72
Chương 3. GẤP RÚT CHUẨN BỊ VỀ MỌI MẶT VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH
CHÍNH QUYỀN Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ (TỪ THÁNG 3-1945
ĐẾN THÁNG 8-1945) ..................................................................................................... 73
3.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương sau khi Nhật đảo chính Pháp .. 73
3.1.1. Âm mưu và thủ đoạn của phát xít Nhật ......................................................... 73
3.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương ................................................... 78
3.2. Gấp rút xây dựng lực lượng về mọi mặt tiến tới khởi nghĩa giành
chính quyền ....................................................................................................................... 79
3.2.1. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng ..................................................... 79
3.2.2. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị ........................................................ 83
3.2.3. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng v trang và căn cứ địa ................................. 95
3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước ........................................................................... 100
3.3.1. Phong trào phá kho thóc, giải quyết nạn đói ............................................... 100
3.3.2. Đẩy mạnh tuyên truyền xung phong, khởi nghĩa từng phần, lập chính quyền
cách mạng ................................................................................................................. 102
3.4. Thời cơ và kế hoạch khởi nghĩa của Đảng bộ, Mặt trận Việt Minh các tỉnh
Bắc Trung Bộ .................................................................................................................. 105
3.4.1. Thời cơ của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ ................................................................................................................. 105
3.4.2. Kế hoạch khởi nghĩa của các tỉnh Bắc Trung Bộ ........................................ 108
3.5. Diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ .............. 113
3.5.1. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Tĩnh (từ ngày 15-8-1945 đến ngày
21-8-1945) ................................................................................................................ 114
3.5.2. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Nghệ An (từ ngày 17-8-1945 đến ngày
26-8-1945) ................................................................................................................ 116
3.5.3. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa (từ ngày 19-8-1945
đến ngày 26-8-1945) ............................................................................................... 119
3.5.4. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Thừa Thiên (từ ngày 19-8-1945
đến ngày 23-8-1945) ............................................................................................... 121
3.5.5. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Bình (ngày 23-8-1945) ....... 125
3.5.6. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Trị (từ ngày 23-8-1945
đến ngày 25-8-1945) ............................................................................................... 126
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 129
Chương 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ ................................................................................. 130
4.1. Đặc điểm ................................................................................................................... 130
4.1.1. Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng đã đạt được những kết quả
toàn diện, thể hiện tính chủ động, sáng tạo của các địa phương .......................... 130
4.1.2. Hình thái khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ linh hoạt
và đa dạng ................................................................................................................ 135
4.1.3. Phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
phong phú và độc đáo .............................................................................................. 137
4.2. Ưu điểm và hạn chế ................................................................................................ 140
4.2.1. Ưu điểm ......................................................................................................... 140
4.2.2. Hạn chế .......................................................................................................... 148
4.3. Vai trò ........................................................................................................................ 152
4.3.1. Trực tiếp chấm dứt chế độ phong kiến lạc hậu, làm tan rã Chính phủ
Trần Trọng Kim, thiết lập hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ ........................................................................................................... 152
4.3.2. Tác động đến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền một số tỉnh ở Nam Trung Bộ
và Nam Bộ ............................................................................................................... 153
4.3.3. Có ảnh hưởng nhất định đối với sự nghiệp cách mạng của nước bạn Lào .... 154
4.4. Bài học kinh nghiệm ............................................................................................... 155
4.4.1. Về phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết và xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất ................................................................................................................. 155
4.4.2. Về phương pháp xây dựng lực lượng cách mạng ...................................... 156
4.4.3. Về nắm bắt thời cơ và chớp đúng thời cơ ................................................... 157
4.4.4. Về công tác xây dựng Đảng ....................................................................... 158
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................... 160
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ... 165
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 166
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên ..................................................... 39
Bảng 4.1. Thời gian các tỉnh, thành, đặc khu khởi nghĩa thắng lợi ở tỉnh lị ................. 145
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam thời cận hiện đại, Cách mạng tháng Tám
năm 1945 là một trong những sự kiện lịch sử vĩ đại, đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong tiến trình lịch sử dân tộc. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đánh đổ chế độ
thực dân, phát xít và phong kiến tay sai, thiết lập nên chế độ xã hội tiến bộ với sự ra
đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng tháng Tám đã tạo ra những
tiền đề cho sự phát triển và thắng lợi của dân tộc Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một vấn đề khoa học được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Bên cạnh những vấn đề chung của Cách mạng tháng Tám, một số công trình mang
tính khu vực và địa phương đã được tiếp cận. Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám
ở các tỉnh đã được nghiên cứu nhưng chủ yếu còn dưới dạng mô tả, vấn đề nêu đặc
điểm gần như chưa được đề cập. Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ
là một vấn đề quan trọng nhưng chưa được các nhà sử học nghiên cứu toàn diện và
có hệ thống.
Đóng góp vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có các tỉnh
Bắc Trung Bộ. Đây là địa bàn chiến lược của xứ Trung Kì. Bộ máy cai trị c ng như
lực lượng quân sự của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở đây tương đối mạnh. Vì
vậy, Bắc Trung Bộ là một trong những địa bàn diễn ra cuộc đấu tranh cách mạng ác
liệt nhất, khó khăn nhất. Vượt qua các cuộc khủng bố của đế quốc, qua các phong
trào cách mạng, vùng đất Bắc Trung Bộ thực sự là một trong những trung tâm cách
mạng của cả nước. Bước vào giai đoạn 1939 - 1945, quán triệt và thực hiện đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Đông Dương, dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Xứ ủy Trung Kì, tổ chức Đảng địa phương, Việt Minh các tỉnh
Bắc Trung Bộ đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân kết hợp chuẩn bị và đấu tranh tiến
tới cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945, các tỉnh Bắc Trung
Bộ có một vị trí, vai trò quan trọng. Đây là một trong những khu vực diễn ra cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi sớm nhất ở tỉnh lị, trực tiếp chấm dứt chế độ
phong kiến lạc hậu và Chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc vận động Cách mạng
2
tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ có nét sáng tạo về tập hợp lực lượng,
phương thức khởi nghĩa và hình thái giành chính quyền. Vì vậy, nghiên cứu Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ là việc làm có ý nghĩa về mặt
khoa học và có giá trị thực tiễn sâu sắc.
- Về khoa học: Góp phần tái hiện đầy đủ bức tranh lịch sử Cách mạng tháng
Tám trong cả nước nói chung và ở khu vực nói riêng; làm nổi rõ vai trò, đặc điểm
của Cách mạng tháng Tám ở Bắc Trung Bộ, khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo
của đường lối cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương vạch ra.
- Về thực tiễn: Góp vào kho tàng kinh nghiệm của lịch sử cách mạng Việt
Nam một mẫu hình tiêu biểu về tổ chức lực lượng và phát động quần chúng tiến
hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi; đúc rút những bài học kinh
nghiệm để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chỉnh đốn Đảng, chiến lược đại đoàn
kết dân tộc trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay; góp phần giáo dục truyền
thống, củng cố tình đoàn kết giữa các dân tộc; bổ sung tư liệu về Cách mạng tháng
Tám ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và cả nước.
Vì những lí do trên, tôi chọn vấn đề “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ” làm đề tài Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khu vực Bắc Trung Bộ đặt dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy
Trung Kì, bao gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên.
- Về thời gian: Từ ngày 1-9-1939 đến ngày 26-8-1945, là thời gian trực tiếp
chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử này
có quá trình chuẩn bị trong 15 năm, trực tiếp từ năm 1939 đến năm 1945.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã dẫn đến sự chuyển hướng đấu tranh
của Đảng Cộng sản Đông Dương, biểu hiện qua các chủ trương lớn như chuyển
trọng tâm công tác về nông thôn, rút vào hoạt động bí mật, đặt vấn đề giải phóng
3
dân tộc lên hàng đầu, xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền… Vì
vậy, chúng tôi chọn sự kiện Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1-9-1939) làm
mốc mở đầu của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Ngày 26-8-1945, các châu, phủ miền núi tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An là
những địa phương cuối cùng giành được chính quyền, đánh dấu sự thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, để làm rõ
phương thức, vai trò của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ,
một số nội dụng của luận án chúng tôi phân tích đến sự kiện Bảo Đại thoái vị ngày
30-8-1945.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tái hiện có hệ thống và toàn diện về cuộc vận động Cách mạng tháng Tám
năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Trên cơ sở đó, khẳng định sự lãnh đạo đúng
đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Xứ ủy Trung Kì, tổ chức Đảng
địa phương, Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ và sự đóng góp to lớn của quần
chúng nhân dân ở khu vực này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về vấn đề nghiên cứu để xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Phân tích bối cảnh lịch sử của cuộc vận động Cách mạng tháng Tám ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Trình bày công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ từ tháng 9-1939 đến tháng 8-1945.
- Làm sáng tỏ cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ.
- Trên cơ sở đó, phân tích đặc điểm; ưu điểm, hạn chế; vai trò và bài học
kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
- Nguồn tài liệu thành văn
+ Tài liệu đã công bố
4
Bao gồm các văn kiện của Đảng, các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước; các sách lịch sử Đảng bộ tỉnh, thành phố, thị xã,
huyện ở Bắc Trung Bộ; các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã xuất bản;
các luận án, luận văn đã bảo vệ thành công; các bài viết đăng trên báo, tạp chí… về
đề tài Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên phạm vi cả nước nói chung và các tỉnh
Bắc Trung Bộ nói riêng.
+ Tài liệu lưu trữ
Các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, thông cáo liên quan đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945 của Đảng và Việt Minh các cấp ở một số tỉnh, một số hồi kí chưa
công bố, một số tài liệu của thực dân Pháp… liên quan đến phong trào cách mạng
các tỉnh Bắc Trung Bộ tại Phòng Lưu trữ thuộc Văn phòng Tỉnh ủy các tỉnh từ
Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế, Thư viện, Bảo tàng, Kho Lưu trữ Viện Lịch sử
Đảng, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I tại Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV tại
Đà Lạt, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. Tác giả xem đây là nguồn tài
liệu quan trọng để luận án đạt được nhiệm vụ đề ra.
- Nguồn tài liệu khảo sát điền dã
Tác giả luận án còn khảo sát điền dã, đi thực tế tại một số di tích lịch sử,
đồng thời phỏng vấn các nhân chứng lịch sử để tìm hiểu, xác minh các sự kiện liên
quan đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng, xây
dựng Đảng, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng v trang, đặc biệt là khởi
nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Trong luận án, chúng tôi kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic
và các phương pháp cụ thể của chuyên ngành như miêu tả, phân tích, tổng hợp để
tái hiện bức tranh lịch sử về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ.
Đồng thời, sử dụng phương pháp thống kê để thống kê định lượng các sự kiện lịch
sử tiêu biểu theo nội dung tổ chức Đảng, quần chúng, số lượng đảng viên, tù chính
trị ở các địa phương; trên cơ sở đó rút ra nhận xét, đánh giá những vấn đề lịch sử
liên quan. Ngoài ra, tác giả luận án sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu
phong trào giữa các tỉnh trong khu vực, giữa các tỉnh Bắc Trung Bộ với các tỉnh
5
đồng b ng Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ và các phương pháp liên ngành như
điền dã, phỏng vấn nhân chứng để tìm hiểu, xác minh các nhân vật, sự kiện lịch sử.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Thứ nhất, tái hiện toàn cảnh bức tranh lịch sử về Cách mạng tháng Tám năm
1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thứ hai, từ nội dung nghiên cứu rút ra đặc điểm đặt trong mối quan hệ đối
sánh Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ với các tỉnh đồng
b ng Bắc Bộ, các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ và các tỉnh Nam Bộ; nêu lên ưu
điểm, hạn chế; vai trò và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thứ ba, cung cấp hệ thống tư liệu tương đối hoàn chỉnh về Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thứ tư, luận án là tài liệu tham khảo để nghiên cứu và học tập Cách mạng
tháng Tám năm 1945 ở bậc đại học và cao đẳng; góp phần giáo dục truyền thống
yêu nước, cách mạng cho các tầng lớp nhân dân ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, là tài liệu
bổ ích giúp giáo viên ở các trường trung học phổ thông biên soạn và giảng dạy phần
lịch sử địa phương trong chương trình lịch sử.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (14 trang), phụ
lục, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án (24
trang).
Chương 2: Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ (từ tháng 9-1939 đến tháng 3-1945) (43 trang).
Chương 3: Gấp rút chuẩn bị về mọi mặt và khởi nghĩa giành chính quyền ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ (từ tháng 3-1945 đến tháng 8-1945) (57 trang).
Chương 4: Một số nhận xét về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ (31 trang).
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Các tỉnh Bắc Trung Bộ n m dọc theo ven biển, từ 160 đến 20
030
’ vĩ độ Bắc
và từ 106002
’ đến 108
002
’ kinh độ Đông bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Diện tích phần đất liền toàn khu vực
khoảng 49.600 km2. Các tỉnh Bắc Trung Bộ có đường bờ biển dài hơn 632 km và
27 hòn đảo lớn nhỏ, tiêu biểu là các đảo: Cồn Cỏ (Quảng Trị) diện tích 4 km2, Hòn
Ngư (Nghệ An) diện tích 2,5 km2, Sơn Dương (Hà Tĩnh) diện tích khoảng 1 km
2.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cách mạng tháng Tám thành công và
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 đã mở ra một thời kì mới
trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của cuộc vận động
trong suốt 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, là kết quả
tổng hợp của các nhân tố chủ quan và khách quan.
Chiến tranh thế giới thứ hai làm cho chủ nghĩa đế quốc càng thêm suy yếu.
Cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và lực lượng dân chủ đã từng bước làm thất
bại lực lượng phát xít Đức - Ý - Nhật, điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa v
trang giành chính quyền đã hết sức thuận lợi. Phát xít Nhật ở Đông Dương và Chính
phủ Trần Trọng Kim hoang mang, tê liệt. Đó là thời cơ “ngàn năm có một” được
Đảng Cộng sản Đông Dương kịp thời chớp lấy, phát động toàn dân nổi dậy khởi
nghĩa và giành được thắng lợi mau lẹ, ít đổ máu. Tuy nhiên, điều kiện khách quan
đó chỉ có thể được phát huy thông qua các yếu tố chủ quan.
Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, trên cơ sở
đường lối chiến lược đề ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930) đã tiến
hành chuyển hướng chỉ đạo cách mạng thể hiện trong các nghị quyết Hội nghị
Trung ương tháng 11-1939, tháng 11-1940 và Hội nghị Trung ương 8 (5-1941).
Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, đã thể hiện sự đúng đắn và sáng tạo, phản ánh đúng thực tế Việt Nam
7
trong xu thế phát triển của thế giới. Nhờ đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã khơi
dậy, phát huy được truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm của dân tộc, tinh thần
yêu nước của nhân dân và dấy lên được phong trào yêu nước, cách mạng của quần
chúng trong những năm 1930 - 1935 và phong trào dân chủ 1936 - 1939. Đến cuộc
vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945, công cuộc chuẩn bị diễn ra trực tiếp, khẩn
trương và toàn diện. Trong quá trình chuẩn bị, Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt
trận Việt Minh và lãnh tụ Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng,
trước hết là lực lượng chính trị của quần chúng. Trên cơ sở lực lượng chính trị của
quần chúng đã từng bước xây dựng lực lượng v trang. Đó là hai lực lượng cách
mạng được Đảng Cộng sản Đông Dương sử dụng hợp lí nh m phát huy sức mạnh to
lớn vào cuộc đấu tranh với những hình thức thích hợp: Chính trị kết hợp v trang và
khởi nghĩa v trang; từ khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng bộ phận, tiến
lên tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến, giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc
Việt Nam. Nó đã đập tan ách thống trị của phát xít Nhật, chấm dứt chế độ phong
kiến lạc hậu, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân ta từ thân
phận nô lệ trở thành chủ nhân thật sự của đất nước; đưa Việt Nam từ một nước
thuộc địa, nửa phong kiến thành một nước độc lập tự do; đưa Đảng Cộng sản Đông
Dương thành một Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước; đưa dân tộc Việt Nam
lên hàng các dân tộc tiên phong trên thế giới. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã
đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới: Kỉ nguyên độc lập tự do và tiến bộ
xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám chẳng những giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam có thể tự hào, mà giai cấp công nhân và những dân tộc bị áp
bức ở các nơi khác c ng có thể tự hào r ng: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử
cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới có 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền trong toàn quốc” [86, tr.159].
Đặc điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là vừa mang tính toàn quốc
nhưng đồng thời thể hiện những nét cụ thể của địa phương. Trong cuộc vận động
Cách mạng tháng Tám năm 1945, xuất phát từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và
dân cư, kinh tế - xã hội vùng miền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các địa phương diễn ra
khá phong phú về hình thức tổ chức hoạt động.
8
Theo phân chia khu vực hành chính, đối tượng nghiên cứu của lịch sử bao
gồm: Toàn quốc, khu vực (miền), tỉnh, huyện, xã… Trong luận án, tác giả nghiên
cứu về cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở khu vực Bắc Trung Bộ
được phân biệt với các khu vực khác bởi các dấu hiệu lịch sử, kinh tế, xã hội như
khu vực đồng b ng Bắc Bộ; khu vực trung du, miền núi Bắc Bộ; khu vực duyên hải
Nam Trung Bộ; khu vực Đông Nam Bộ; khu vực Tây Nam Bộ… Chính sự đa dạng,
phong phú này dẫn đến tính phong phú, đa dạng của Cách mạng tháng Tám về quá
trình chuẩn bị, thời gian giành chính quyền, phương thức tiến hành, hình thái vận
động và sự sáng tạo của các địa phương trong quá trình vận dụng đường lối của
Đảng. Chẳng hạn, hình thái khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, Huế là từ nông
thôn vào thành thị nhưng ở Sài Gòn là từ thành thị về nông thôn…
Về vấn đề địa giới Bắc Trung Bộ, theo Hiệp ước Patenôtre ngày 6-6-1884,
xứ Trung Kì (L’Annam) bao gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến tỉnh Bình Thuận. Theo
cách phân chia của người Pháp, Trung Kì gồm 3 khu vực: Bắc Trung Kì (Nord -
Annam) gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh; Trung Trung Kì (Central -
Annam) gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng
Ngãi; Nam Trung Kì (Sud - Annam) gồm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo phong trào cách
mạng các tỉnh miền Trung, Xứ ủy Trung Kì đặt 2 trụ sở: Trụ sở chính đặt tại thành
phố Vinh (Nghệ An) để lãnh đạo chung các tỉnh Trung Kì và trực tiếp chỉ đạo các
tỉnh Bắc Trung Kì từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên; trụ sở 2 đặt tại thành phố Đà
Nẵng (Quảng Nam) trực tiếp chỉ đạo các tỉnh Nam Trung Kì từ Quảng Nam đến
Bình Thuận [153], [155].
Cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Xứ ủy Trung Kì và sự
lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng địa phương. Do đó, để làm rõ vai trò lãnh đạo
của Xứ ủy đối với phong trào đấu tranh cách mạng ở các tỉnh, trong luận án chúng
tôi sử dụng cách phân chia Trung Kì gồm hai khu vực như đã trình bày ở trên.
Về tên gọi, từ tháng 6-1884 đến tháng 3-1945, chính quyền thực dân Pháp
gọi là Bắc Trung Kì; từ tháng 4-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim gọi là Bắc Trung
Bộ. Theo Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc
hội thông qua ngày 9-11-1946, nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có
9
3 bộ: Bắc, Trung, Nam. Để đảm bảo sự thống nhất và phù hợp với tên gọi hiện nay,
trong luận án, chúng tôi dùng tên gọi Bắc Trung Bộ.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một chủ đề khoa học lớn, hấp dẫn, thu
hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Liên quan đến Cách mạng tháng Tám
năm 1945 nói chung và ở các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng đã có nhiều công trình
được công bố, đề cập đến những khía cạnh khác nhau.
1.2.1. Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam
1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Kỉ niệm một năm Cách mạng tháng Tám 1945, tập hợp những bài đã đăng
trên báo “Sự thật”, năm 1946, Trường Chinh cho ra mắt tác phẩm “Cách mạng
tháng Tám”. Công trình đã tái hiện lịch sử cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc, phân
tích tính chất, ý nghĩa lịch sử, làm rõ những ưu điểm và hạn chế của Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Theo tác giả, ưu điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945
là “chuẩn bị chu đáo”, “mau lẹ và kịp thời”, “toàn dân nổi dậy” [38, tr.367-372].
Nhược điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là “tinh thần kiên quyết không
đều”, “không triệt để tước vũ khí quân đội Nhật”, “không kiên quyết trấn áp bọn
phản cách mạng”, “không chiếm được nhà ngân hàng” [38, tr.375-382].
Năm 1946, Nhà xuất bản Sự thật ấn hành công trình “Chặt xiềng”. Cuốn
sách gồm một số tư liệu lịch sử từ sự kiện Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) đến
ngày Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước. Những tài liệu được ghi lại
trong cuốn “Chặt xiềng” đã phản ánh những nhận định, phân tích rất chính xác,
khoa học của Đảng Cộng sản Đông Dương về tình thế cách mạng lúc bấy giờ và khi
thời cơ đến đã kiên quyết phát động, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi trong toàn quốc. Do đó, công trình có giá trị lớn về mặt tư liệu.
Năm 1957, Nhà xuất bản Văn Sử Địa ấn hành công trình “Cách mạng cận
đại Việt Nam: Tài liệu tham khảo lịch sử” do Trần Huy Liệu chủ biên. Đây là công
trình nghiên cứu công phu và đồ sộ nhất về lịch sử Việt Nam cận đại nói chung và
cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng. Trong các tập 10, 11, 12,
công trình đã tái hiện bức tranh toàn cảnh và sinh động về phong trào chống phát
xít, chống chiến tranh, về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì, binh biến Đô Lương;
về cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, trong
10
đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ. Đặc biệt, trong tập 12, sau khi trình bày về cuộc tổng
khởi nghĩa trong toàn quốc, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những phân tích, đánh giá
về đặc điểm, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Năm 1960, Nhà xuất bản Sử học ấn hành công trình “Lịch sử Cách mạng
tháng Tám” của các tác giả Văn Tạo, Thành Thế Vĩ, Nguyễn Công Bình. Trên cơ sở
kế thừa có chọn lọc thành tựu nghiên cứu của các công trình trước, các tác giả đã
tập trung làm rõ bối cảnh lịch sử, kết quả quá trình chuẩn bị về mọi mặt và diễn
biến của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Đặc biệt, các tác giả đã dành 20
trang sách để phân tích về những đặc điểm của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945, đó là: “Thống nhất hành động, mau lẹ kịp thời”, “là thắng lợi của cuộc đấu
tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, thắng lợi chính trị là chủ yếu”,
“lãnh đạo và quần chúng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã khăng khít với nhau
như keo sơn”, “từ nông thôn ra thành thị và từ thành thị về nông thôn” [117,
tr.154-168]. Những luận điểm này giúp tác giả luận án có một cái nhìn tổng quan khi
trình bày về đặc điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Để làm rõ hơn cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, năm
1960, Tổ Lịch sử Cách mạng tháng Tám của Viện Sử học đã xuất bản công trình
“Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương” (quyển 1,
2). Công trình là kết quả của sự phối hợp nghiên cứu giữa các nhà sử học với Ban
Tuyên giáo và Hội đồng hương các tỉnh, thành trong cả nước tại Hà Nội. Do đó,
công trình đã tập hợp được nguồn tư liệu phong phú, trong đó có nhiều tài liệu nhân
chứng, điền dã. Diễn biến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương
trong toàn quốc được trình bày cụ thể và sinh động hơn so với các công trình được
xuất bản trước đó. Tuy nhiên, do một số tư liệu chưa được kiểm chứng nên dẫn đến
những sai sót của các sự kiện lịch sử ở một vài địa phương. Chẳng hạn, cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) diễn ra ngày 23-8-1945
nhưng trong công trình ghi ngày 25-8-1945 [152, tr.37]. Mặc dù vậy, công trình là
tài liệu quý để tác giả luận án tham khảo khi trình bày về diễn biến cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền ở các tỉnh.
Năm 1967, Nhà xuất bản Sự thật ấn hành các công trình “Tìm hiểu Cách
mạng tháng Tám” và “Tìm hiểu tính chất và đặc điểm của Cách mạng tháng Tám”.
11
Hai công trình đã đi sâu nghiên cứu về quá trình chuẩn bị và diễn biến cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc, trong đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ; phân
tích tính chất, đặc điểm, nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh nghiệm của
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Các tác giả của công trình “Tìm hiểu Cách mạng
tháng Tám” đã hoàn toàn chính xác khi cho r ng, thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 “là kết quả tất yếu của sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài
người nói chung và của xã hội Việt Nam nói riêng… Nhờ đường lối chính trị đúng
đắn của Đảng và vai trò tiền phong, gương mẫu của đảng viên, cho nên Đảng ta đã
giữ được mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Đảng và quần chúng gắn bó mật
thiết với nhau tạo thành một sức mạnh vô địch vượt qua mọi khó khăn, trở ngại,
đưa Cách mạng tháng Tám đến thắng lợi” [25, tr.70-72]. Ngoài những nguyên nhân
cơ bản nói trên, các tác giả c ng khẳng định, Cách mạng tháng Tám năm 1945
thắng lợi còn nhờ điều kiện khách quan thuận lợi. Tuy nhiên, do các công trình
được biên soạn dưới góc độ lịch sử Đảng nên không có điều kiện đi sâu phân tích
quá trình vận động quần chúng nhân dân, đặc biệt là các tầng lớp trung gian tham
gia cách mạng c ng như chưa đề cập, đánh giá vai trò của thanh niên trí thức đối
với sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương.
Năm 1970, Nhà xuất bản Tiền phong ấn hành công trình “Dưới lá cờ vẻ vang
của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi
mới” của Lê Duẩn. Trong phần 1 của công trình, tác giả đã nêu lên những kinh
nghiệm cơ bản nhất của Đảng về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Công trình
đã phân tích rất khoa học, rất sâu sắc những vấn đề được đề cập đến và đã nêu lên
thành những tổng kết lí luận, những chân lí phổ biến của lí luận cách mạng Việt
Nam. Chẳng hạn, phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong
thời kì tiền khởi nghĩa, tác giả cho r ng: “Khi Nhật hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh
thủ thời cơ, chuyển hướng mau lẹ, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước. Đây
là thời kì động viên quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu
rộng ở nông thôn và thành thị, đồng bằng và rừng núi, kết hợp với phát triển lực
lượng vũ trang, chuẩn bị lực lượng mọi mặt, tiến tới tổng khởi nghĩa” [42, tr.49].
Đề cập toàn diện hơn về Cách mạng tháng Tám, năm 1971, Ban Nghiên cứu
Lịch sử Đảng ấn hành công trình “Cách mạng tháng Tám 1945”. Công trình là kết
quả nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học uy tín trong nước, trên cơ sở những tư
12
liệu mới, các tác giả đã làm rõ được vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng, sự sáng
tạo của Đảng bộ và nhân dân ở các địa phương; phân tích, đánh giá về tầm vóc và ý
nghĩa của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Năm 1975, Nhà xuất bản Sự thật ấn hành công trình “Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân Việt Nam”, tập 1 của Trường Chinh. Trong hơn 400 trang sách, tác
giả đã dành 150 trang để in các bài viết về cách mạng Việt Nam đăng trên báo “Cờ
giải phóng” từ tháng 9-1941 đến tháng 7-1945. Qua các bài viết, tác giả đã phân
tích và chứng minh sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam để vạch ra đường lối chính trị, chiến lược và sách lược đúng đắn
của Đảng Cộng sản Đông Dương trong các giai đoạn lịch sử từ năm 1930 đến năm
1941. Đường lối này chính là nền tảng để Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra những
chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời nh m đưa Cách mạng tháng Tám năm
1945 đến thắng lợi. Đây là công trình có giá trị lớn về lí luận và tư liệu.
Kỉ niệm lần thứ 40 Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, Viện Lịch sử
Đảng phối hợp với Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng các tỉnh, thành phố trong cả nước
xuất bản cuốn “Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945”. Với nguồn tư liệu tương đối
phong phú, công trình đã trình bày khái quát diễn biến Tổng khởi nghĩa tháng Tám
1945 ở các tỉnh trong cả nước, trong đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ. So với công trình
“Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương” của Viện
Sử học xuất bản năm 1960, ưu điểm nổi bật của công trình này là các tư liệu được
đối sánh, kiểm chứng kĩ lưỡng nên có độ tin cậy cao và diễn biến cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền trong toàn quốc được trình bày một cách có hệ thống.
Năm 1985, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành công trình “Đấu tranh v
trang trong Cách mạng tháng Tám” của Nguyễn Anh D ng. Trên cơ sở các tài liệu
hiện có viết về Cách mạng tháng Tám năm 1945, tác giả đã đi sâu nghiên cứu, hệ
thống hóa các sự kiện và tư liệu lịch sử nh m tái hiện một cách tổng quát bức tranh
về quá trình phát triển của đấu tranh v trang trong Cách mạng tháng Tám, làm nổi
bật những đặc điểm, quy luật của đấu tranh v trang. Về vấn đề này, công trình có
đoạn viết: “Theo quy luật phát triển của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai
cấp, khi phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta phát triển tới một mức độ nhất
định, thì chỉ riêng hình thức đấu tranh chính trị là không còn đủ để đáp ứng yêu cầu
tiến triển của cách mạng nữa. Một hình thức đấu tranh mới nhất định sẽ xuất hiện,
13
đó là hình thức đấu tranh vũ trang… Phải có cuộc đấu tranh vũ trang phối hợp với
đấu tranh chính trị, với sự nổi dậy của quần chúng thì mới có thắng lợi huy hoàng
và nhanh chóng của Cách mạng tháng Tám” [43, tr.212-214].
Nhân kỉ niệm 50 năm Cách mạng tháng Tám 1945, vào năm 1995, Viện Lịch
sử Đảng cho xuất bản công trình “Lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945”. Trong
công trình này, các tác giả đã tập trung làm rõ quá trình chuẩn bị lực lượng cách
mạng, diễn biến của cuộc tổng khởi nghĩa, rút ra nguyên nhân thắng lợi, tầm vóc và
bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đặc biệt, trên cơ sở các
tư liệu mới, công trình đã trình bày những nhận định mới về cuộc cách mạng này,
trong đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ. Quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong nghiên cứu lịch sử, ở công trình này, thắng lợi vĩ đại của Cách
mạng tháng Tám được nêu bật, song những hạn chế, khuyết điểm của một số địa
phương c ng được chỉ rõ: “Ở một số địa phương, do ta vận động chưa thật khéo léo
đối với quân Nhật nên đã đưa lại hậu quả đáng tiếc. Trong nội bộ hàng ngũ cách
mạng còn có nơi, do sự thống nhất trong cơ quan lãnh đạo chưa cao hoặc do hiểu
nhầm nhau mà dẫn đến sự xung đột như ở Tuy Hòa ngày 17-8-1945…, cuộc đụng
độ ở Tân Bình từ ngày 25-8…” [150, tr.235-236]. Đây là nội dung ít được đề cập
đến trong các công trình nghiên cứu trước.
Năm 1995, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành công trình “Cách mạng
tháng Tám - Một số vấn đề lịch sử” do Văn Tạo chủ biên. Đây là công trình nghiên
cứu chuyên sâu của tập thể các nhà khoa học uy tín trong cả nước, đề cập đến nhiều
vấn đề khác nhau của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 như chủ trương đại
đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Đông Dương, vai trò của giai cấp công nhân,
chính sách thống trị của Nhật Bản đối với Việt Nam trong những năm 1940 - 1945,
hình thái vận động trong tổng khởi nghĩa, tính chất, bối cảnh khu vực và quốc tế của
cuộc cách mạng này… Đặc biệt, một số chuyên đề đã đi sâu tìm hiểu những lĩnh
vực dường như còn là một khoảng trống trong nghiên cứu lúc bấy giờ. Chẳng hạn
chuyên đề: “Các tầng lớp thanh niên, trí thức, tiểu tư sản thành thị trong cuộc vận
động Cách mạng tháng Tám” của tác giả Phạm Như Thơm. Chuyên đề đã làm nổi
rõ đời sống kinh tế chính trị, tinh thần yêu nước và hành động cách mạng của bộ
phận nhân dân rất năng động cách mạng này. Không chỉ các hoạt động yêu nước mà
các tổ chức của họ như Hội truyền bá quốc ngữ, Hội hướng đạo sinh, Trường Thanh
14
niên Tiền tuyến ở Trung Bộ, Thanh niên Tiền phong ở Nam Bộ c ng được đề cập
tới, nh m làm rõ tính năng động và sáng tạo của phong trào quần chúng do Đảng
Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, đã nhanh chóng thu hút và hướng dẫn họ đi đúng
đường lối của cách mạng. Tác giả Ngô Phương Bá đã trình bày chuyên đề “Vài nét
về tôn giáo trong thời kì Cách mạng tháng Tám”. Tuy chỉ mới là “vài nét” thôi,
nhưng c ng đã gợi mở nhiều nội dung cần làm rõ về vấn đề tôn giáo trong Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Bởi vì không chỉ “Phật giáo, Công giáo mà tín đồ
chiếm đại đa số trong dân tộc, còn các tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam, tuy
phần đông có tinh thần yêu nước, nhưng trong bối cảnh lịch sử dân tộc và quốc tế
lúc đó, cũng có nhiều vấn đề phức tạp cần phải làm rõ” [115, tr.13].
C ng trong năm 1995, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia
công bố công trình “Cách mạng tháng Tám và sự nghiệp đổi mới hôm nay”. Các tác
giả trong công trình nghiên cứu này đã trình bày quan điểm của mình về những
thành tựu và ảnh hưởng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Công trình đã đề cập và phân tích sự lãnh đạo đúng đắn của
Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong những ngày vô cùng khó khăn của
đất nước, đã vượt qua muôn vàn thử thách để đưa Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến thành công. Từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, các tác giả đã
đúc rút những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay. Đúng như lời giới thiệu công trình của Nguyễn Duy Quý: “Cách mạng
tháng Tám không để lại cho chúng ta những công thức có sẵn, nhưng lại để cho
chúng ta những bài học vô cùng quý giá, những bí quyết để thành công trước mọi
diễn biến của lịch sử” [141, tr.9].
Khẳng định giá trị lịch sử của Cách mạng tháng Tám 1945, năm 2005, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia đã ấn hành công trình “Cách mạng tháng Tám - Một sự
kiện vĩ đại của thế kỉ XX”. Công trình gồm một số bài viết của các đồng chí lãnh
đạo Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học trong và ngoài nước, nh m giúp cho bạn
đọc có một cái nhìn toàn cảnh về cuộc cách mạng này. Những đánh giá đều khẳng
định Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những trang chói lọi nhất trong
lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc, là kết quả tất yếu của những nhân tố chủ quan
và khách quan, là kết quả hi sinh phấn đấu của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ,
15
trực tiếp là 15 năm đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương do
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản công trình “Khởi nghĩa
từng phần lên Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945” của Nguyễn
Thanh Tâm. Công trình đã đi sâu nghiên cứu nội dung của ba hình thức khởi nghĩa:
Khởi nghĩa địa phương, khởi nghĩa từng phần và tổng khởi nghĩa; tìm ra mối quan
hệ biện chứng giữa các hình thức và sự chỉ đạo thành công của cách mạng. Trên cơ
sở đó, tác giả khẳng định: “Với một quy trình kiên định phương hướng chiến lược
đúng, từng bước tìm ra các hình thức, bước đi thích hợp, chỉ đạo đường lối phải đi
đôi với chỉ đạo phương pháp cách mạng, khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa
đã rèn cho Đảng: Đường cách mạng đi tới thắng lợi không rộng lớn thênh thang
mà lắm khi phải đi len lỏi trên những con đường núi nhỏ hẹp, ngoắt ngoéo, khó đi
và đầy nguy hiểm” [118, tr.190].
Trên cơ sở Luận án Tiến sĩ lịch sử “Đảng bộ các tỉnh ven biển Nam Trung
Bộ lãnh đạo quá trình vận động cách mạng 1939 - 1945” được bảo vệ thành công tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005, Nhà xuất bản Đà Nẵng đã ấn
hành công trình “Cách mạng tháng Tám tại các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ” của
tác giả Ngô Văn Minh. Công trình đã trình bày một cách có hệ thống và toàn diện
về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình chuẩn bị, khởi nghĩa giành chính
quyền ở các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ. Về vấn đề này, tác giả khẳng định: “Tổ
chức cơ sở Đảng và số lượng đảng viên tại các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ tuy
không nhiều nhưng chất lượng đảng viên rất cao, biết chủ động, sáng tạo trong việc
vận dụng đường lối chung của Trung ương Đảng vào tình hình cụ thể của địa
phương, tuyên truyền tổ chức được mọi tầng lớp nhân dân, lôi cuốn cả tầng lớp
trung gian về phía cách mạng để tạo nên thế mạnh áp đảo kẻ thù, đặc biệt các đảng
bộ ở đây còn chủ động lên dự án kế hoạch khởi nghĩa cụ thể cho địa phương và khi
thời cơ đến, mặc dù chưa nhận được lệnh của Trung ương nhưng đảng bộ tất cả
các tỉnh đều chủ động phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi” [90, tr.265-266]. Công trình không chỉ gợi mở cho tác giả luận án
về phương pháp tiếp cận và hướng giải quyết vấn đề mà còn cung cấp những luận
điểm để tác giả đối sánh Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
với các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ.
16
Để ghi lại hoạt động của các học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế,
năm 2008, Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành công trình “Trường Thanh niên
Tiền tuyến Huế 1945 - Một hiện tượng lịch sử”. Công trình đã tập hợp 78 bài viết
của những người nguyên là học viên hoặc thân nhân của học viên và các giáo sư
đầu ngành trong cả nước nên có tính xác thực và hàm lượng khoa học cao. Trong
đó, nhiều bài viết đã tập trung làm rõ quá trình “Việt Minh hóa” Trường Thanh niên
Tiền tuyến và những đóng góp của học viên Nhà trường trong cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền ở thành phố Huế. Tác giả Đặng Văn Việt với bài “Việt Minh hóa
Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế 1945” đã phác họa những nét cơ bản về quá
trình vận động học viên của Trường tham gia Việt Minh. Tác giả viết: “Qua sự
tuyên truyền vận động của nhóm Việt Minh chúng tôi, anh em đều rất nhạy cảm với
tình hình, đều hưởng ứng, sẵn sàng làm mọi việc mà cách mạng cần đến, sẵn sàng
hi sinh cả tính mệnh trước yêu cầu của đất nước” [93, tr.136]. Trong bài “Những
ngày giành chính quyền ở Huế”, tác giả Phan Hàm đã tái hiện những công việc mà
học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến đã thực hiện trong nửa cuối tháng 8-1945.
Có thể nói, công trình đã cung cấp một lượng thông tin quan trọng giúp tác giả luận
án có một cái nhìn tổng quan về sự ra đời, hoạt động của Trường Thanh niên Tiền
tuyến Huế và đóng góp của học viên nhà trường trong cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở thành phố Huế.
Năm 2009, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành công trình “Nội các
Trần Trọng Kim - Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử” của Phạm Hồng Tung. Công
trình đã trình bày một cách toàn diện, sâu sắc và cụ thể về hoàn cảnh, nguyên nhân
ra đời, các chủ trương, chính sách, hoạt động của Nội các Trần Trọng Kim và đề
xuất cách tiếp cận, đánh giá mới về bản chất, vai trò, vị trí lịch sử của Nội các này.
Trên cơ sở khẳng định ý nghĩa của một số đóng góp của Nội các trong việc khuấy
động và cổ v mạnh mẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của nhân dân, đấu tranh
đòi lại chủ quyền, thống nhất đất nước, tác giả đã có cơ sở khi cho r ng: “Nội các
Trần Trọng Kim cũng có một vị trí nhất định trên hành trình chung của dân tộc đến
độc lập, tự do” [143, tr.366]. Tuy nhiên, khi đánh giá bản chất, vị trí lịch sử của Nội
các Trần Trọng Kim, dường như có một sự mâu thuẫn trong quan điểm của tác giả
công trình. Trong khi tác giả chứng minh Nội các Trần Trọng Kim và hệ thống chính
quyền bản xứ “phải được coi là một bộ phận của bộ máy thống trị, cầm quyền ở
17
Việt Nam trong thời gian từ ngày 11-3 đến ngày 23-8-1945…” [143, tr.362], thì ở
phần đánh giá về bản chất của Nội các, tác giả lại cho r ng: “Nội các Trần Trọng
Kim không thể là cái gì khác hơn một chính phủ bù nhìn do người Nhật dựng lên
sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp, nhằm phục vụ chính sách chiếm đóng Việt Nam
của người Nhật” [143, tr.346].
Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản công trình “Tổng khởi
nghĩa tháng Tám 1945 ở đồng b ng Bắc Bộ” của Nguyễn Đình Cả. Công trình đã
phân tích sự linh hoạt, tích cực, chủ động, ý chí đấu tranh kiên cường của Đảng bộ
và quần chúng cách mạng các tỉnh, thành đồng b ng Bắc Bộ trong cuộc vận động
giải phóng dân tộc (1939 - 1945); nêu rõ những thành công nổi bật và kinh nghiệm
của Đảng bộ các tỉnh, thành trong quá trình chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng
Tám 1945. Bàn về tác động của tổng khởi nghĩa ở các tỉnh, thành đồng b ng Bắc Bộ
đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên toàn quốc, tác giả cho
r ng: “Thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh, thành đồng bằng
Bắc Bộ là điểm tựa tinh thần và vật chất cho tất cả các địa phương, là tấm gương
cho cả nước học tập để tiến hành khởi nghĩa thắng lợi làm nên Cách mạng tháng
Tám 1945” [36, tr.239-240]. Tuy nhiên, do công trình được phát triển từ Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng nên tác giả đã chú trọng việc trình bày, phân
tích chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng, vai trò của các tổ chức Đảng địa
phương; trong khi đó vấn đề vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các tổ chức
quần chúng, vai trò của thanh niên trí thức trong quá trình chuẩn bị và khởi nghĩa
giành chính quyền chưa được trình bày một cách có hệ thống. Mặc dù vậy, công
trình đã cung cấp những luận cứ quan trọng giúp tác giả luận án có cơ sở để đối
sánh Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ với các tỉnh, thành
đồng b ng Bắc Bộ.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã tập trung làm sáng tỏ về
bối cảnh lịch sử, quá trình chuẩn bị lực lượng, diễn biến, tính chất, đặc điểm, ý
nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở Việt Nam. Một số công trình đã đề cập đến diễn biến cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở các địa phương, trong đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ.
18
1.2.1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Trong hơn 70 năm qua, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
Việt Nam luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà sử học trên thế giới như:
Aphônhin, Kebeliep, Buđanop, Varônhin, Guber, Ephimmop, Grammachicop (Liên
Xô c ); Paul Mus, Philippe Devillers, Chales Fourniau (Pháp); Masaya Shiraishi,
Motoo Furuta (Nhật Bản); Stein Tonnesson (Na Uy); David G.Marr, William J.
Duiker (Mĩ)... Sau đây là một số công trình tiêu biểu.
Phân tích nguyên nhân dẫn đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, tác giả
Paul Mus, trong công trình “Vietnam, Sociologie d’une guerre” xuất bản năm 1952,
cho r ng: “Chính quyền thực dân Pháp phải chịu trách nhiệm về việc đã phá vỡ cơ
sở và cấu trúc kinh tế - xã hội của Việt Nam, khiến Việt Nam trở thành một dân tộc
mất cân bằng; và Cách mạng tháng Tám là cách người Việt Nam lập lại thế cân
bằng đó” [163, tr.261]. Có thể nói, Paul Mus là sử gia phương Tây đầu tiên phân
tích nguyên nhân xã hội - chính trị sâu xa của Cách mạng tháng Tám.
Trong chuyên luận “Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí
Cộng sản ở Pháp số tháng 9-1961, Chales Fourniau xem đây là “điểm tập trung của
phong trào dân tộc và dân chủ, hai trào lưu lớn xuyên qua toàn bộ lịch sử nước Việt
Nam. Cuộc khởi nghĩa chống bọn xâm lược Nhật - Pháp thắng lợi là một chiến
công to lớn ghi vào lịch sử như những chiến công của Lê Lợi, Quang Trung…” [55].
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ có ý nghĩa đối với
dân tộc Việt Nam, mà còn tác động tới phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Trong công trình “The Vietnamese Revolution of 1945, Roosevelt, Ho Chi Minh
and De Gaulle in a world at war”, xuất bản năm 1991, tác giả Stein Tonnesson cho
r ng: “Tuyên bố độc lập của Việt Nam năm 1945 mở ra thời kì phi thực dân hóa ở
châu Á, tiếp đến là châu Phi” [159, tr.426].
Công trình “Vietnam 1945. The quest for power” của nhà sử học người Mĩ
David G.Marr, xuất bản lần đầu năm 1995 có thể xem là công trình sử học nghiên
cứu chi tiết nhất về Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam ở nước ngoài.
Để cho ra đời công trình này, David G.Marr đã mất 13 năm sưu tầm tư liệu, khảo
sát ở Mĩ, Pháp, Australia và Việt Nam. Đánh giá về tầm vóc của Cách mạng tháng
Tám năm 1945, tác giả David G.Marr khẳng định: “Mặc dù quy mô nhỏ hơn nhưng
cuộc cách mạng của người Việt Nam có thể đặt ngang hàng các cuộc Cách mạng
Pháp, Nga và Trung Quốc về các kết quả của sự phê bình, so sánh” [148, tr.10].
19
Ở một khía cạnh khác, tác giả Philippe Devillers đã phần nào hiểu được bản
chất của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền nổ ra ở Hà Nội c ng như tính chất nhân
dân, chính nghĩa của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông viết: “Đúng vào ngày
19-8, qua cuộc biểu tình của các công nhân viên chức đòi độc lập và thống nhất Tổ
quốc, các cán bộ Việt Minh đã lọt vào thành phố và thuyết phục được vị Khâm sai
theo họ và chiếm chính quyền. Lập tức mở những cuộc tiếp xúc với các đảng phái
quốc gia và các cơ quan của Nhật... Kể từ đây, trên sân khấu châu Á đã có một
nước Việt Nam mới, một Chính phủ Việt Nam cho toàn nước Việt Nam” [41, tr.142].
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên một số sử gia trên có những nhận định
thiếu xác thực về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Trong công trình
“Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952”, Philippe Devilers xem thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945 là “sự ăn may” (le mendicité) [162]. Cùng quan điểm
với Philippe Devilers, Stein Tonnesson cho r ng: “Với việc tạo ra khoảng trống
quyền lực, các nước lớn đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó giúp Việt Minh
giành chính quyền” [159, tr.5-6]. Trong khi đó, David G.Marr khẳng định: “Sau
ngày 9-3-1945 các sự kiện diễn ra một cách tự phát, không có bàn tay điều khiển
nào… Việt Nam đã kinh qua một cuộc khởi nghĩa quy mô toàn quốc, nhưng chưa
phải một cuộc cách mạng” [158, tr.4-6]. Rõ ràng, các tác giả chưa thấu hiểu được
vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt trận Việt Minh và tính chủ động của
nhân dân Việt Nam trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây ít đề cập đến Cách mạng
tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Trong công trình của mình, tác giả
David G.Marr đã dành hơn 30 trang để viết về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở
khu vực này nhưng hết sức khái quát, chưa có hệ thống.
1.2.1.3. Các hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ và các bài nghiên cứu đăng
trên các tạp chí chuyên ngành
Trong những năm 60 của thế kỉ XX, để xuất bản công trình Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhiều hội thảo khoa học đã được tổ chức trong cả nước. Tiêu
biểu là “Cuộc tọa đàm về Cách mạng tháng Tám” từ ngày 29-3 đến ngày 2-4-1963
do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự
của 178 đại biểu, trong đó có 6 ủy viên Trung ương Đảng. Cuộc tọa đàm đã thảo
luận nhiều nội dung quan trọng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 như: Sự thay
20
đổi chỉ đạo chiến lược và chủ trương của Đảng đối với giai cấp địa chủ, tư sản; tính
chất, đặc điểm, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám.
Chẳng hạn, khi thảo luận về vấn đề hình thái vận động trong Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945 đã có 12 ý kiến phát biểu xung quanh vấn đề này nhưng “không có
đồng chí nào khẳng định trong Cách mạng tháng Tám biểu hiện hoàn toàn quy luật
nông thôn bao vây thành thị và cũng không có đồng chí nào khẳng định hoàn toàn
là thành thị tiến về nông thôn” [34, tr.28]. Đại biểu Bạch Ngọc Anh - Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội cho r ng, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đã biểu
hiện đầy đủ cả bốn trạng thái khác nhau: “Từ nông thôn bao vây thành thị: Nhiều
nhất ở Bắc Bộ; từ thành thị trở về nông thôn: Nhiều nhất ở Nam Bộ; nông thôn bao
vây thành thị rồi lực lượng thành thị nổi lên cùng với nông thôn giải quyết thành
thị, tức là nông thôn và thành thị cùng làm một lúc; một số nông thôn trước rồi đến
thành thị. Thành thị lại ảnh hưởng đến nông thôn còn lại. Ở đây có sự ảnh hưởng
chứ không có sự bao vây rồi cùng nhau khởi nghĩa cướp chính quyền” [34, tr.28].
Trong khi đó, một số ý kiến khác lại cho r ng “khởi nghĩa tháng Tám đã diễn biến
theo đúng với tư tưởng chỉ đạo của Trung ương nghĩa là không coi nhẹ nông thôn
mà cũng không coi nhẹ thành thị” [34, tr.28].
Kỉ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, vào năm 2010,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học
“Cách mạng tháng Tám ở Nam Bộ”. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của các nhà
nghiên cứu, giảng viên các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. 50 báo cáo khoa
học được lựa chọn để xuất bản trong kỉ yếu của hội thảo đã phân tích làm rõ bối
cảnh thế giới, khu vực; sự chỉ đạo của Đảng; diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền và đặc điểm, nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Nam Bộ. Tác giả Trần Văn Giàu với bài “Mấy
đặc điểm của Cách mạng tháng Tám ở Sài Gòn, Nam Bộ” đã chỉ ra r ng: “Ở Sài
Gòn, quyết định khởi nghĩa là kết quả sau cùng của mấy hội nghị kéo dài, trong đó
hai chiến lược đối chọi nhau gay gắt” [142, tr.10] và “trong điều kiện trở lực hết
sức lớn, Đảng bộ đã kịp thời tập hợp đủ lực lượng để khởi nghĩa thành công đồng
nhịp với Hà Nội, Huế” [142, tr.15]; đồng thời “một cách chỉ đạo khởi nghĩa gần sát
với khoa học và nghệ thuật khởi nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin” [142, tr.20]. Tác
giả Lê Huỳnh Hoa với bài “Cách mạng tháng Tám ở Sài Gòn và những điểm khác
21
biệt” đã phân tích những điểm nổi bật của cuộc cách mạng tại thành phố Sài Gòn,
đó là “sự tồn tại và hoạt động của tổ chức Đảng ở Nam Kì, hình thức tập hợp quần
chúng, xây dựng lực lượng thành một mặt trận thống nhất ủng hộ Việt Minh, hình
thức khởi nghĩa giành chính quyền…” [142, tr.458]. Tác giả cho r ng, so với Hà
Nội, Huế, hình thái vận động của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn lại
khác hoàn toàn: “Cũng sử dụng lực lượng cách mạng là quần chúng nhân dân yêu
nước mà chủ lực là Thanh niên Tiền phong, đoàn viên Tổng Công đoàn Nam Bộ
song cuộc chiến đấu giành chính quyền lại được thực hiện từ trong ra và gần như
không một tiếng súng. Đó là cuộc khởi nghĩa mà kết quả của nó đã được xác lập
trước ánh bình minh” [142, tr.464]. Đây là những luận cứ quan trọng giúp tác giả
luận án có cơ sở để rút ra những đặc điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945, báo chí cách mạng giữ
vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối của Đảng, vận động các tầng
lớp nhân dân tham gia đấu tranh. Năm 2012, tác giả Nguyễn Văn Trung đã hoàn
thành Luận án Tiến sĩ lịch sử với đề tài “Báo chí của các cấp Đảng bộ Trung Kì
trong những năm 1930 - 1945” tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn -
Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án đã tái hiện được bức tranh sinh động về báo chí
các cấp của Đảng bộ Trung Kì từ ngày Đảng ra đời đến Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công; làm rõ nội dung, vai trò, thực tế sắc thái lịch sử của báo chí các
cấp Đảng bộ Trung Kì trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, trong đó có một số
tờ báo của tổ chức Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ; đưa ra những nhận xét, đánh giá và
kinh nghiệm chủ yếu qua hoạt động báo chí các cấp của Đảng bộ Trung Kì.
Ngoài ra, nhiều bài nghiên cứu liên quan đến đề tài được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành, tiêu biểu là: Văn Phong (1955), “Tính chất xã hội Việt Nam và
Cách mạng tháng Tám”, Tập san Văn Sử Địa, số 02; Trần Huy Liệu (1956), “Mấy
nét đặc biệt về Cách mạng tháng Tám”, Tập san Văn Sử Địa, số 20; Nguyễn Công
Bình (1960), “Bàn về tính chất Cách mạng tháng Tám”, Nghiên cứu Lịch sử, số 17;
Trần Văn Tí (1961), “Tìm hiểu những kinh nghiệm của hình thái đấu tranh Cách
mạng tháng Tám”, Nghiên cứu Lịch sử, số 29, 30; Nguyễn Ngọc Minh (1965),
“Cách mạng tháng Tám và nền kinh tế Việt Nam”, Nghiên cứu kinh tế, số 28;
Lương Sơn Châu (1970), “Vấn đề thời cơ - Từ khởi nghĩa tháng Mười Nga đến khởi
22
nghĩa tháng Tám của Việt Nam, Nội san Nghiên cứu Lịch sử Đảng, số 03; Thanh
Đạm (1975), “Nghiên cứu vấn đề tầng lớp trung gian trong thời kì Cách mạng tháng
Tám”, Nghiên cứu Lịch sử, số 163; Nguyễn Thế Nguyên (1980), “Tìm hiểu nghệ
thuật tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Cộng sản, số 08;
Nguyễn Nhân Tâm (1985), “Tìm hiểu chủ trương khởi nghĩa từng phần của Đảng
trong Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 03, 04; Nguyễn Thành
(1990), “Cách mạng tháng Tám 1945 trong dư luận chính trị ở Pháp”, Nghiên cứu
Lịch sử, số 04; Văn Tạo (2005), “Cách mạng tháng Tám - thắng lợi của đường lối
chiến lược, sách lược chủ động và sáng tạo của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 739;
Nguyễn Mạnh Hà (2006), “Bàn thêm về đặc điểm của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945”, Tạp chí Cộng sản, số 16; Nguyễn Hoàng Giáp (2010), “Tầm vóc
thời đại của Cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 08…
Các bài nghiên cứu trên đã cung cấp những tư liệu mới, đặt ra nhiều vấn đề
và đánh giá mới về Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
hạn hẹp của một bài tạp chí, các bài viết chủ yếu trình bày những nhận định, đánh
giá về Cách mạng tháng Tám toàn quốc, không đi sâu phân tích cụ thể về từng tỉnh;
vấn đề nêu đặc điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
c ng không được đề cập đến. Trên cơ sở tập hợp các bài viết chuyên khảo, chúng
tôi đã có sự đối chứng, so sánh, mở rộng những nhận định, đánh giá về cuộc vận
động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
1.2.2. Những công trình về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ
1.2.2.1. Các công trình lịch sử địa phương
Năm 1966, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Thanh Hóa xuất bản công
trình “Sơ giản lịch sử Cách mạng tháng Tám (1939 - 1945)”. Công trình đã trình
bày khái quát quá trình chuẩn bị và diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
tháng Tám năm 1945 ở Thanh Hóa. Trong phần kết luận, công trình đã phân tích
những ưu điểm và hạn chế của Đảng bộ tỉnh trong quá trình lãnh đạo cuộc vận động
giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Về những hạn chế của Đảng bộ tỉnh, công trình đã
chỉ ra r ng: “Có lúc một bộ phận trong ban lãnh đạo của Đảng bộ tỏ ra thiếu kiên
định vững vàng, công khai hình thức, bị động chạy theo phong trào, tạo sơ hở cho
đế quốc dễ khủng bố. Ngược lại cũng có lúc bị kẻ thù khủng bố ác liệt, trong lãnh
23
đạo một số đồng chí lại nảy sinh khuynh hướng do dự rụt rè không mạnh bạo phát
động quần chúng đấu tranh duy trì phong trào” [33, tr.87]. Đặc biệt, nhiều số liệu
được sử dụng trong công trình là từ kết quả của các cuộc điều tra xã hội học do Ban
Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh và các huyện, thị tiến hành trong năm 1964 nên có
độ tin cậy cao. Tuy nhiên, do bước đầu nghiên cứu biên soạn, nhiều tài liệu chưa
được sưu tầm hết và tổng kết một cách có hệ thống nên công trình chỉ trình bày khái
quát quá trình đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở Thanh Hóa. Vấn đề nêu
đặc điểm c ng chưa được công trình đề cập đến.
Công trình “Cách mạng tháng Tám 1939 - 1945” do Ban Nghiên cứu Lịch sử
Đảng Tỉnh ủy Nghệ An xuất bản năm 1966 đã trình bày khái quát quá trình chuẩn bị
và khởi nghĩa giành chính quyền c ng như công cuộc bảo vệ, củng cố chính quyền
cách mạng của nhân dân Nghệ An. Trong phần kết luận, công trình đã phân tích
những ưu điểm của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Nghệ An, đồng thời một số
hạn chế của tổ chức Đảng địa phương trong quá trình lãnh đạo phong trào c ng
được làm rõ. Công trình viết: “Do chưa nhận thức đầy đủ vị trí của nông dân trong
cách mạng, nên Đảng bộ Nghệ An đã thiếu sự quan tâm đúng mức trong việc tổ
chức lực lượng nông dân và chưa đề ra được những khẩu hiệu cụ thể và thiết thực
để phát động nông dân. Trong lúc địch khủng bố, đúng ra phải chuyển hoạt động về
nông thôn để duy trì và củng cố lực lượng, nhưng phong trào ở Nghệ An vẫn bám
vào thành phố và xoay quanh thành phố...” [27, tr.84].
Năm 1966, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Hà Tĩnh xuất bản công
trình “Thời kì Cách mạng tháng Tám (1939 - 1945)”. Công trình là kết quả của sự
phối hợp nghiên cứu giữa Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh với Ban Nghiên cứu
Lịch sử Đảng các huyện, thị. Do đó, công trình đã tập hợp được nhiều tài liệu địa
phương, nhiều ý kiến của các nhân vật đã từng lãnh đạo hoặc tham gia trong phong
trào đấu tranh cách mạng giai đoạn 1939 - 1945 ở Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, công
trình đã trình bày khái quát quá trình chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền
tháng Tám năm 1945 ở Hà Tĩnh. Tuy nhiên, một số sự kiện, nội dung chưa được
phản ánh chân thực như ngày khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Can Lộc,
vai trò của tầng lớp thanh niên trí thức đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 ở Hà Tĩnh...
24
Năm 1974, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Quảng Bình xuất bản
công trình “Lịch sử Cách mạng tháng Tám Quảng Bình (sơ thảo)”. Trong công trình
này, các tác giả đã dành hơn 40 trang sách để trình bày về quá trình chuẩn bị và diễn
biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở Quảng Bình. Trên
cơ sở đó, công trình đã rút ra một số bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở Quảng Bình, đó là: “Nắm vững tư tưởng bạo lực cách mạng, kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang”; “Nhận rõ vai trò của nông dân,
kiên trì giáo dục và phát động cao trào khởi nghĩa của nông dân”; “Thực hiện
đúng đắn chính sách mặt trận dân tộc thống nhất vững chắc và rộng rãi, triệt để
phân hóa cô lập kẻ thù”; “Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định mọi thắng lợi
trong Cách mạng tháng Tám” [31, tr.80-97]. Tuy nhiên, do bước đầu nghiên cứu
nên công trình chỉ trình bày một cách khái quát quá trình chuẩn bị và khởi nghĩa
giành chính quyền ở Quảng Bình, không có sự đối sánh với phong trào cách mạng ở
các tỉnh lân cận; vấn đề nêu đặc điểm về quá trình chuẩn bị, hình thái khởi nghĩa và
phương thức giành chính quyền c ng chưa được đề cập đến.
Ngoài ra, c ng phải kể đến một số công trình khác như: Ban Nghiên cứu
Lịch sử tỉnh Nghệ Tĩnh (1984), “Lịch sử Nghệ Tĩnh”, tập 1; Ban Nghiên cứu và
biên soạn lịch sử tỉnh Thanh Hóa (1996), “Lịch sử Thanh Hóa (1930 - 1945)”, tập 5;
Đặng Duy Báu (chủ biên) (2000), “Lịch sử Hà Tĩnh”, tập 1; Nguyễn Văn Hoa (chủ
biên) (2005), “Địa chí Thừa Thiên Huế” (phần lịch sử); Nguyễn Khắc Thái (2014),
“Lịch sử Quảng Bình”... đã ít nhiều phác họa sơ lược công cuộc chuẩn bị và khởi
nghĩa giành chính quyền của nhân dân các tỉnh nói trên.
Đặc biệt, đến nay tất cả các tỉnh, huyện, thị, thành và nhiều xã, phường trong
khu vực đã biên soạn lịch sử Đảng bộ của địa phương mình. Có thể kể ra đây một
số công trình như: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1993), “Lịch sử Đảng bộ
Hà Tĩnh, tập 1 (1930 - 1954)”; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1995),
“Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình, tập 1 (1930 - 1954)”; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Thừa Thiên Huế (1995), “Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập 1 (1930 - 1954)”;
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1996), “Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, tập 1
(1930 - 1954)”; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1998), “Lịch sử Đảng bộ
Nghệ An, tập 1 (1930 - 1954)”; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2010),
“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930 - 1954)”...
25
Những công trình lịch sử Đảng bộ mới chỉ dừng lại ở việc tái hiện các sự
kiện lịch sử có liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách
mạng của nhân dân tại các địa phương, vấn đề nêu đặc điểm gần như chưa được đề
cập. Có nhiều vấn đề quan trọng chưa được giải quyết thấu đáo hoặc còn đang tranh
luận hay xác minh. Chẳng hạn tình trạng thiếu đoàn kết, nhất trí trong nội bộ những
người cộng sản tại một số tỉnh thời gian đầu sau ngày 9-3-1945; việc vận động tầng
lớp trung gian ở các địa phương; vai trò của thanh niên, trí thức trong những ngày
diễn ra khởi nghĩa giành chính quyền tuy có đề cập đến nhưng vẫn còn hạn chế…
Hầu hết các công trình ít khai thác và sử dụng nguồn tư liệu của chính quyền thực
dân Pháp và phát xít Nhật.
1.2.2.2. Các hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài
nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử “Công nhân xí nghiệp vôi thủy Long
Thọ (1896 - 1945)” của tác giả Nguyễn Thị Đảm được bảo vệ thành công tại
Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội năm 1994 đã trình bày một cách có hệ thống,
tương đối hoàn chỉnh, trung thực về tình hình đội ng công nhân xí nghiệp vôi thủy
Long Thọ. Trong chương 2 của luận án, tác giả đã dành một mục để trình bày hoạt
động đấu tranh của công nhân Long Thọ, trong đó có phong trào phá kho thóc Nhật,
việc thành lập và hoạt động của Tổ Việt Minh trong xí nghiệp, việc giành chính
quyền ở nhà máy và tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế. Tác giả
cho r ng: “Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), công nhân Long Thọ
nhanh chóng hòa vào phong trào giải phóng ở Thừa Thiên Huế tự nhiên và mau lẹ.
Nhờ đấy trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám họ trở thành lực lượng đi đầu trong cuộc
đấu tranh giành chính quyền ở địa phương” [47, tr.146].
Năm 2003, tác giả Trần Văn Thức đã hoàn thành Luận án Tiến sĩ lịch sử với
đề tài “Quá trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở Nghệ An thời kì 1939 -
1945” tại Viện Sử học. B ng nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả đã tái hiện công
cuộc chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 ở Nghệ An; rút ra một số
nhận xét về quá trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở Nghệ An; so sánh
với Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Thanh Hóa và Hà Tĩnh. Mặc dù
vậy, trong luận án một số nhận định của tác giả cần được tiếp tục thảo luận trên cơ
sở tư liệu và đánh giá vấn đề có tính toàn diện. Chẳng hạn, khi bàn về thời gian
26
chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An, tác giả khẳng định: “Quá trình
chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền cho Cách mạng tháng
Tám 1945 chỉ thực sự được bắt đầu từ khi Việt Minh Nghệ Tĩnh ra đời (19-5-1945)
đến khi khởi nghĩa giành chính quyền. Điều đó chứng tỏ rằng, thời gian chuẩn bị
lực lượng cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An là hết sức ngắn ngủi
và quá ít ỏi so với tiến trình chung của cả nước” [124, tr.147].
Luận văn Thạc sĩ sử học “Chiến khu Ngọc Trạo trong Cách mạng tháng Tám
năm 1945 ở Thanh Hóa” của tác giả Phạm Thị H ng được bảo vệ thành công tại
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế năm 2009 đã trình bày tương đối toàn diện
và có hệ thống về sự ra đời, quá trình xây dựng và hoạt động của chiến khu Ngọc
Trạo trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thanh Hóa. Qua đó, tác giả rút ra
đặc điểm, vai trò và bài học kinh nghiệm của chiến khu Ngọc Trạo đối với phong
trào cách mạng tỉnh Thanh Hóa.
Năm 2011, học viên Lê Thị Tuyết Nhung bảo vệ thành công Luận văn Thạc
sĩ sử học với đề tài “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quảng Trị” tại Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Huế. Luận văn đã làm rõ quá trình chuẩn bị về mọi mặt,
diễn biến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và rút ra một số nhận xét về Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở tỉnh Quảng Trị.
Trong những năm gần đây, mảng đề tài phong trào yêu nước và cách mạng
các địa phương thời cận đại thu hút nhiều học viên, nghiên cứu sinh tìm hiểu. Năm
2012, tác giả Nguyễn Tất Thắng đã hoàn thành Luận án Tiến sĩ lịch sử với đề tài
“Phong trào yêu nước và cách mạng Hà Tĩnh từ cuối thế kỉ XIX đến Cách mạng
tháng Tám năm 1945” tại Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. Với nguồn tư
liệu tương đối phong phú, tác giả luận án đã tái hiện các phong trào yêu nước và
cách mạng ở Hà Tĩnh từ năm 1885 đến năm 1945; qua đó làm rõ sự chuyển biến
của phong trào yêu nước và cách mạng Hà Tĩnh từ hệ tư tưởng phong kiến sang dân
chủ tư sản và cuối cùng là sự thắng lợi của con đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên,
do công trình nghiên cứu trong một khoảng thời gian 60 năm nên cuộc vận động
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Hà Tĩnh được trình bày hết sức khái quát.
Ngoài ra, có thể kể đến những bài nghiên cứu của nhiều tác giả được đăng
trên các tạp chí chuyên ngành. Tác giả Phạm Cúc với bài “Khởi nghĩa giành chính
quyền tháng Tám 1945 ở Thanh Hóa” đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng, số 04 năm
27
1991 đã trình bày khái quát diễn biến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và
phân tích những nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Thanh Hóa.
C ng trong số 04 của Tạp chí Lịch sử Đảng năm 1991, tác giả Hoàng Tiêu với bài
“Sự vận dụng sáng tạo đường lối khởi nghĩa của Trung ương Đảng ở Thanh Hóa”
đã phân tích và chứng minh Tỉnh ủy, Việt Minh Thanh Hóa vận dụng một cách linh
hoạt đường lối khởi nghĩa của Trung ương trong quá trình chuẩn bị và khởi nghĩa
giành chính quyền ở địa phương, khẳng định đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn
đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở Thanh Hóa. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,
số 01 năm 2003 đã đăng bài “Góp phần làm sáng tỏ thêm cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ở Nghệ An” của tác giả Trần Văn Thức. Trong bài viết này, sau khi
trình bày khái quát quá trình khẩn trương chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền,
tác giả đã rút ra một số nhận xét về cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở
Nghệ An trên các phương diện: Thời gian chuẩn bị, hình thái khởi nghĩa, phương
thức giành chính quyền, vai trò của tổ chức Đảng và Việt Minh Nghệ Tĩnh, tác động
của Cách mạng tháng Tám ở Nghệ An đối với sự nghiệp cách mạng của nước bạn
Lào… Chẳng hạn, bàn về hình thái khởi nghĩa giành chính quyền ở Nghệ An, tác
giả cho r ng: “Do đặc điểm tình hình và so sánh lực lượng giữa các vùng thành thị,
đồng bằng, trung du và miền núi không đều nhau, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở Nghệ An diễn ra trong hình thái nông thôn mở đầu…; thành thị, nông thôn đồng
thời tiến hành…; và cuối cùng kết thúc ở nông thôn miền núi” [125, tr.22].
Kỉ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám, năm 2015, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức Hội thảo
khoa học “Trí thức và tôn giáo Thừa Thiên Huế với Cách mạng tháng Tám - 70 năm
nhìn lại”. 21 báo cáo được lựa chọn để in trong kỉ yếu của hội thảo đã phân tích,
làm rõ sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Thừa Thiên Huế đối với trí thức và tôn
giáo; trí thức Thừa Thiên Huế với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng quê hương, đất
nước và sự đồng hành của các tôn giáo trong tiến trình lịch sử dân tộc thời cận, hiện
đại. Một số bài viết đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở Thừa Thiên Huế. Tác giả Trương Công Huỳnh Kỳ với bài
“Trường Thanh niên Tiền tuyến với Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên
Huế” đã phân tích về sự ra đời, quá trình “Việt Minh hóa” và đóng góp của Trường
Thanh niên Tiền tuyến đối với Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trên cơ sở đó, tác
28
giả khẳng định: “Trong cuộc khởi nghĩa ở Huế tháng 8-1945, lực lượng Thanh niên
Tiền tuyến tuy ít về số lượng (chỉ 43 người) nhưng đã thực hiện những trọng trách
của một lực lượng đặc biệt cùng với lực lượng tự vệ cứu quốc góp phần tạo nên
thắng lợi ở trung tâm chính trị đầu não của Chính phủ bù nhìn “Việt Nam đế quốc”
[64, tr.71-72]. Ở một khía cạnh khác, tác giả Nguyễn Đắc Xuân với bài “Bảy mươi
năm (1945 - 2015) nhìn lại sự kiện vua Bảo Đại thoái vị và làm Cố vấn cho Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đã phân tích ý nghĩa chính trị của sự kiện này.
Việc buộc Bảo Đại thoái vị và mời được Bảo Đại ra đảm nhận chức vụ Cố vấn cho
Chính phủ lâm thời đồng nghĩa với sự thừa nhận về tính hợp pháp của quốc tế đối
với chính quyền mới và sự đồng thuận của nhân dân. Có thể nói, đây là những nhận
thức mới giúp tác giả luận án có một cái nhìn toàn diện hơn khi trình bày về Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên Huế.
1.2.3. Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được các công trình nghiên
cứu giải quyết
Thứ nhất, các công trình đã phân tích bối cảnh lịch sử của cuộc vận động
Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cả nước nói chung và ở từng tỉnh thuộc khu
vực Bắc Trung Bộ nói riêng.
Thứ hai, làm rõ quá trình chuẩn bị và diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở
từng tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng địa phương.
Thứ ba, bước đầu rút ra một số nhận xét về nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa
lịch sử, bài học kinh nghiệm và hạn chế của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các
tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ.
Thứ tư, các công trình “Quá trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở
Nghệ An thời kì 1939 - 1945” của tác giả Trần Văn Thức và “Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở Quảng Trị” của tác giả Lê Thị Tuyết Nhung đã nêu lên đặc điểm
về quá trình chuẩn bị, hình thái khởi nghĩa và phương thức giành chính quyền của
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở tỉnh Nghệ An và tỉnh Quảng Trị.
Tóm lại, vấn đề “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ”
bước đầu đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở một số góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, do mục đích của các công trình, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu thật sự có tính hệ thống, toàn diện về vấn đề này dưới góc độ khu vực.
Tuy mức độ liên quan đến đề tài luận án có khác nhau, nhưng các công trình trên là
29
cơ sở quan trọng để tác giả tham khảo, kế thừa trong việc thu thập, xử lí nguồn tư
liệu và phương pháp luận vào quá trình thực hiện đề tài.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở khảo cứu nguồn tài liệu từ nhiều phía, phân tích chính sách thống
trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và Nam triều ở các tỉnh Bắc Trung Bộ từ năm
1939 đến năm 1945, nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ như:
Những thủ đoạn vừa đàn áp khủng bố quyết liệt lực lượng cách mạng trên địa bàn,
vừa mua chuộc thâm độc nh m lôi kéo, dụ dỗ những phần tử nhẹ dạ, cả tin, phá
hoại sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng các cấp và khối đại đoàn kết các
dân tộc ở Bắc Trung Bộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Tái hiện một cách chi tiết và đầy đủ về quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành
chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ năm 1945 trên các khía cạnh cụ thể như: Sự
vận dụng đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương; quá trình xây
dựng, khôi phục và thống nhất tổ chức cơ sở Đảng; xây dựng lực lượng chính trị,
lực lượng v trang, căn cứ địa; tập dượt quần chúng đấu tranh. Phân tích những ưu
điểm và hạn chế trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh.
Mặt khác, cần làm sáng tỏ quá trình khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ trên các phương diện: Phong trào khởi nghĩa từng phần; việc nhận
định tình hình, chớp thời cơ, chủ động đề ra kế hoạch khởi nghĩa và diễn biến của
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Phân tích vai trò của tầng lớp thanh niên trí
thức trong quá trình giành chính quyền ở một số địa phương. Rút ra những ưu điểm
và hạn chế của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Hơn nữa, cần làm nổi rõ đặc điểm về quá trình chuẩn bị, hình thái vận động,
phương thức khởi nghĩa giành chính quyền của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ qua sự đối sánh với Cách mạng tháng Tám ở các tỉnh đồng
b ng Bắc Bộ, các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ và các tỉnh Nam Bộ. Mặt khác, phân
tích vai trò của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đối với
Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong toàn quốc và đối với sự nghiệp cách mạng
của nước bạn Lào. Đồng thời, đúc rút một số bài học kinh nghiệm từ quá trình
chuẩn bị và khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh, mà những kinh nghiệm đó có
thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển ở Bắc Trung Bộ hiện nay.
30
Chương 2
QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
(TỪ THÁNG 9-1939 ĐẾN THÁNG 3-1945)
2.1. TÌNH HÌNH CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ TRƯỚC CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ HAI
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và truyền
thống yêu nước, cách mạng của các tỉnh Bắc Trung Bộ trước năm 1930
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Trải dài trên một miền đất rộng, địa hình Bắc Trung Bộ rất đa dạng, bao gồm
rừng núi, trung du, đồng b ng và thềm lục địa. Đặc điểm nổi bật của địa hình khu
vực Bắc Trung Bộ là có nhiều dãy núi đâm ra biển1, ranh giới giữa các tỉnh được
phân định bởi hình thế “một đèo, một đèo, lại một đèo”. Sự phức tạp của địa hình
kéo theo sự thất thường của khí hậu.
Bắc Trung Bộ n m trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng mưa lớn,
đồng b ng hẹp ngang, khiến cho hệ thống sông ngòi ở Bắc Trung Bộ có những nét
đặc thù. Phần lớn các con sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, qua nhiều
miền địa hình, chủ yếu là rừng núi nên sông ngắn, dốc, nước chảy xiết. Lưu lượng
nước không nhiều, phụ thuộc vào chế độ mưa. Bắc Trung Bộ có các hệ thống sông
chính gồm: Sông Mã - sông Chu, sông Hoạt, sông Yên, sông Lạch Bạng (Thanh
Hóa); sông Cả, sông Con, sông Hiếu (Nghệ An); sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu,
sông La, sông Nghèn, sông Rào Cai (Hà Tĩnh); sông Gianh, sông Nhật Lệ (Quảng
Bình); sông Bến Hải, sông Hiếu, sông Thạch Hãn, sông Ô Lâu (Quảng Trị); sông
Bồ, sông Hương, sông Truồi (Thừa Thiên). Nhìn chung, hệ thống sông ngòi ở Bắc
Trung Bộ có mật độ khá dày, có giá trị đối với hoạt động dân sinh và quốc phòng.
Dựa vào địa thế tự nhiên hiểm trở và hệ thống sông ngòi, lực lượng kháng
chiến có thể xây dựng các căn cứ địa, tiến hành chiến tranh du kích. Trong khi đó,
đồng b ng đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của phong trào yêu
nước và cách mạng của các tỉnh Bắc Trung Bộ, nhất là khi đối phương tiến hành
1 Dãy Hoàng Mai (Nghệ An), dãy Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), dãy Hoành Sơn (Quảng Bình), dãy Bạch Mã (Thừa
Thiên).
31
khủng bố, lực lượng kháng chiến có thể rút về hoạt động và xây dựng chỗ đứng
chân vững chắc chủ yếu ở đồng b ng. Ngoài ra, khí hậu nóng ẩm c ng là một bất
lợi cho đối phương. Tuy nhiên, địa hình đa dạng có đủ rừng núi, trung du, đồng
b ng, thềm lục địa và hệ thống sông ngòi dày đặc tạo điều kiện thuận lợi cho đối
phương tiến hành khủng bố, cô lập phong trào đấu tranh của nhân dân giữa các
vùng trong một tỉnh, giữa các tỉnh với nhau, giữa khu vực Bắc Trung Bộ với khu
vực khác. Chính vì vậy, trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945, các
tỉnh Bắc Trung Bộ thường xuyên mất liên lạc với Xứ ủy Trung Kì và Trung ương
Đảng c ng như sự liên kết phong trào giữa các tỉnh chưa được thể hiện rõ nét, một
phần là do điều kiện tự nhiên của khu vực.
2.1.1.2. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
Tại khu vực Bắc Trung Bộ có thành phố Huế là thủ phủ của Nam triều, đồng
thời là trung tâm đầu não của xứ Trung Kì bảo hộ. Triều đình phong kiến đứng đầu
là nhà vua với hệ thống quan lại, hoàng tộc và 6 bộ đã trở thành phương tiện phục
vụ cho chính sách thống trị của thực dân Pháp. Mọi hoạt động của triều đình đều bị
chi phối bởi Khâm sứ Trung Kì. Tại các tỉnh, chính quyền “bảo hộ” của thực dân
Pháp nắm hết mọi quyền hành chính và tư pháp. Chính quyền phong kiến trở thành
bù nhìn tay sai. Đến tháng 4-1945, Huế là trung tâm đầu não của Chính phủ thân
Nhật Trần Trọng Kim. Chính đặc điểm này c ng ảnh hưởng đến quá trình chuẩn bị
c ng như việc giành chính quyền ở đây.
Sau khi cơ bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam b ng quân sự
(1896), thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn.
Trước hết, thực dân Pháp mở rộng khai thác b ng cách cướp đoạt ruộng đất
của nông dân để lập đồn điền. Tại Thanh Hóa, tư bản Pháp đã tước đoạt 24.000 ha
ruộng đất để lập đồn điền, trong đó diện tích trồng cây cà phê trên 10.000 ha [63,
tr.88]. Năm 1925, Nghệ An mới có 13 đồn điền của Pháp với 3.761 ha, đến năm
1929 đã tăng lên 36 đồn điền với 6.934 ha. Đến trước năm 1930, Hà Tĩnh có 19 đồn
điền của Pháp, trong đó lớn nhất là đồn điền Sông Con (Hương Sơn) của Ferrey.
Năm 1925, ở Quảng Bình mới hình thành một số đồn điền nhỏ của tư bản Pháp. Tại
Quảng Trị, tư bản Pháp đã chiếm đoạt 6.878 ha ruộng đất để lập 10 đồn điền trồng
cây công nghiệp và chăn nuôi dọc quốc lộ 9. Địa chủ, quan lại c ng dựa vào thế lực
của thực dân Pháp ra sức bóc lột tô tức và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.
32
Để phát triển nông nghiệp, thực dân Pháp chủ trương xây dựng một số công
trình thủy nông ở Bắc Trung Bộ. Đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân
Pháp “đã hoàn thành xây dựng các hệ thống thủy nông Bái Thượng (Thanh Hóa)
tưới cho 50.000 ha, hệ thống Đô Lương (Nghệ An) tưới cho 35.600 ha, hệ thống
Đồng Cạm (Hà Tĩnh) tưới 20.000 ha” [62, tr.91].
Cùng với nông nghiệp, từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiểu thủ công
nghiệp c ng có nhiều chuyển biến đáng kể. Ngoài các nghề thủ công truyền thống
như chế biến gạo, nấu rượu trong thời kì này đã xuất hiện thêm một số nghề mới
như chăn t m, gốm sứ, dệt tơ lụa. Theo nghiên cứu của Ch.Robequain “ở Thanh
Hóa thời kì giữa những năm 1930 có khoảng 1.200 khung dệt lụa, tập trung chủ yếu
ở hai huyện Thiệu Hóa và Hoằng Hóa” [166, tr.427]. Nhiều nghề thủ công gia đình
như mộc, điêu khắc, vẽ, chạm, khảm, đan lát, đan nón … có bước phát triển.
Bên cạnh những biến đổi trong các ngành kinh tế truyền thống, các ngành
kinh tế hiện đại được đầu tư và có bước phát triển. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, nhiều công ti khai thác và thương mại của Pháp lần lượt được thành lập và đặt
trụ sở tại Thanh Hóa, Nghệ An. Cảng Bến Thủy được thực dân Pháp liệt vào loại
quan trọng sau cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn: “Vinh - Bến Thủy sẽ là một thành
phố có nhiều triển vọng. Đây là cái chìa khóa của xứ Lào, vì có hai con đường
chính nối liền Lào với cảng Bến Thủy: Đường Vinh sang Trấn Ninh qua Cửa Rào,
đường Vinh sang Mê Kông qua Khăm Muộn là tỉnh giàu có của xứ Lào... Bến Thủy
có đầy đủ đường giao thông các mặt và tất cả đều nhóm về cảng” [20, tr.26-27].
Từ nhận định ấy, tư bản Pháp đã đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở công
thương nghiệp ở Vinh - Bến Thủy. Đến năm 1924, tại Vinh - Bến Thủy đã có hàng
chục nhà máy được thành lập như: diêm, cưa, sửa chữa xe lửa, điện, cá hộp, rượu...
Trong đó có những nhà máy lớn, tập trung hàng ngàn công nhân như Nhà máy sửa
chữa xe lửa Trường Thi, Nhà máy diêm. Đặc biệt, tập đoàn tư bản lớn nhất miền
Trung là Công ti vô danh rừng và diêm đầu tư mạnh tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ.
Tại Nghệ An, hãng này vừa sản xuất diêm, khai thác gỗ và các lâm sản quý để xuất
khẩu, vừa kinh doanh hàng nhập khẩu, vừa mở đồn điền.
Tại các tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên,
thực dân Pháp cho xây dựng một số cơ sở, nhà máy phục vụ cho sinh hoạt đô thị
như: Nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy rượu, xưởng chế biến nước mắm, Nhà
33
máy vôi thủy Long Thọ. Song song với việc xây dựng và mở rộng các nhà máy,
việc khai thác mỏ c ng được tư bản Pháp xúc tiến. Tại Thanh Hóa, tư bản Pháp đã
độc chiếm 35 khu mỏ. Năm 1923, toàn tỉnh Nghệ An có 17 đơn xin khai mỏ, đến
năm 1926 tăng lên 71 đơn [20, tr.28].
Tư bản Pháp còn độc quyền kinh doanh một số mặt hàng như rượu, muối,
thuốc phiện, thuốc lào. Thâm độc nhất là chúng phân bổ theo đầu người, buộc từng
làng phải tiêu thụ hết số rượu Fontaine của chúng. Chỉ tính riêng tỉnh Nghệ An, năm
1912 phải tiêu thụ 13.269 lít, đến năm 1927 đã phải tiêu thụ tới hơn 1 triệu lít rượu
Fontaine [138, tr.22]. Về muối, nhân dân sản xuất ra được bao nhiêu đều phải bán
cho các sở thương chánh. Giá muối chúng mua ở nơi sản xuất là 0,62 đồng/1 tạ, bán
ra ở đồng b ng là 3,62 đồng/1 tạ và ở miền núi là 6,26 đồng/1 tạ. Rõ ràng, thực dân
Pháp đã sử dụng muối như một công cụ để khống chế đồng bào các dân tộc miền núi.
Về chế độ sưu thuế, có hàng trăm thứ thuế, điển hình là thuế điền thổ và thuế
đinh. Thuế điền thổ được chia ra làm 4 hạng điền, 6 hạng thổ. Thuế mỗi năm một
tăng, năm 1904 tăng 8%, năm 1930 tăng 30%. Thuế thân (tức thuế đinh hoặc sưu) là
một thứ thuế cực kì vô lí bổ vào đầu đàn ông từ 18 đến 60 tuổi. Trước năm 1928,
thực dân Pháp chia nhân đinh ra làm 4 hạng để nộp các mức thuế khác nhau. Ngày
30-10-1928, chúng sửa đổi lại: Tất cả nhân đinh từ 18 đến 60 tuổi đều phải nộp
đồng loạt 2,5 đồng mỗi năm. Vì không có ruộng hoặc thiếu ruộng đất và các tư liệu
sản xuất khác, nông dân buộc phải lĩnh canh nộp tô hoặc thuế ruộng đất của phú
nông, địa chủ. Ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, địa tô chiếm từ 40% đến 70% hoa lợi.
Đến trước năm 1930, thực dân Pháp đã hoàn thành xây dựng các trục đường:
Quốc lộ 1 bắc - nam qua các tỉnh Bắc Trung Bộ, quốc lộ 7 (Vinh - Cửa Rào - Lào),
quốc lộ 8 (Vinh - Napê - Lào), quốc lộ 9 (thị trấn Đông Hà - Hướng Hóa - Lào).
Năm 1927, đường sắt Hà Nội - Vinh được nối thông với Đông Hà, Huế, Đà Nẵng.
Năm 1929, thực dân Pháp xây dựng xong sân bay Vinh.
Về giáo dục, y tế: Đến trước năm 1930, tại các tỉnh Bắc Trung Bộ có khoảng
200 trường sơ học, 32 trường tiểu học, 2 trường cao đẳng tiểu học (Quốc học Vinh
và Đồng Khánh), 2 trường trung học (Quốc học Huế và Trung học bảo hộ Thanh
Hóa). Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông, một số trường kĩ thuật trung sơ cấp
c ng được thành lập như: Trường Canh nông Huế (26-10-1898), Trường Bá công
Huế (12-9-1899), đến năm 1925, Trường được đổi tên thành Trường Kĩ nghệ thực
34
hành Huế. Năm 1894, Bệnh viện Tây Y Huế được thành lập, đến năm 1944 đổi tên
thành Bệnh viện Trung ương Huế. Đây là bệnh viện Tây y đầu tiên của Việt Nam.
Ngoài ra, ở mỗi tỉnh có một nhà thương nhỏ và vài trạm xá tại các phủ, huyện, chủ
yếu là để chữa bệnh cho quan lại, địa chủ phong kiến. Việc thực dân Pháp thành lập
hệ thống trường học và y tế các cấp đã tạo điều kiện để tập trung và sản sinh đội
ng trí thức khá đông đảo tại các tỉnh. Đây là lực lượng có vai trò quan trọng trong
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở Bắc Trung Bộ.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã dẫn đến sự phân hóa
giai cấp trong xã hội ở các tỉnh Bắc Trung Bộ ngày càng sâu sắc.
Nông dân chiếm hơn 90% dân số ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Họ không chỉ bị
đế quốc, phong kiến bóc lột về tô, tức, sưu, thuế, chiếm đoạt ruộng đất, phu đài tạp
dịch mà còn bị tư sản Pháp cướp bóc nặng nề về các thứ hàng nông, lâm, hải sản.
Ngoài ra, họ còn bị khổ nhục, điêu đứng bởi nạn áp bức, nh ng nhiễu, hà hiếp của
các hào lí. Sống trên vùng đất có bề dày truyền thống yêu nước, phần lớn nông dân
các tỉnh Bắc Trung Bộ đều giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc rất cao, là lực
lượng cơ bản của cách mạng ở nông thôn các tỉnh.
Giai cấp công nhân ở các tỉnh Bắc Trung Bộ phần lớn xuất thân là nông dân
địa phương bị phá sản, nên đời sống và sinh hoạt của họ gắn chặt với gia đình ở
nông thôn. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 1929 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
có khoảng 15.000 công nhân, chủ yếu tập trung ở khu công nghiệp Vinh - Bến
Thủy, các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền ở Thanh Hóa, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Công nhân phải làm việc với một cường độ lao động cao nhưng đồng lương hết sức
rẻ mạt. Trung bình giờ làm việc của công nhân từ 10 đến 14 giờ, lương từ 5 xu đến
3 hào/1 ngày. Bên cạnh đó, họ còn bị cai kí trong nhà máy và hào lí ở nông thôn áp
bức, hành hạ. Điều đó làm cho giai cấp công nhân ở các tỉnh Bắc Trung Bộ sớm
giác ngộ về chính trị, liên hệ mật thiết với nông dân. Tuy số lượng chỉ chiếm gần
0,5% dân số của các tỉnh, trình độ còn thấp, nhưng giai cấp công nhân các tỉnh Bắc
Trung Bộ là đại biểu cho một lực lượng sản xuất mới, triệt để cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản ở Bắc Trung Bộ bao gồm viên chức, trí thức, học sinh,
tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công. Khi thực dân Pháp mở rộng khai thác, tầng lớp
này ngày càng đông đảo, nhất là ở Huế, Vinh - Bến Thủy, Thanh Hóa. Dưới chế độ
thực dân, phong kiến, họ là tầng lớp bị bạc đãi, thường xuyên đối mặt với nạn thất
35
nghiệp, phá sản. Một số khá đông trí thức, học sinh các tỉnh Bắc Trung Bộ đã phát
huy được truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, hăng hái tham gia các hoạt
động yêu nước và cách mạng. Một bộ phận trong số đó trở thành những hạt nhân
của phong trào yêu nước và tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào các tỉnh.
Giai cấp tư sản ở các tỉnh Bắc Trung Bộ rất nhỏ bé, hình thành sau giai cấp
công nhân, đa số xuất thân từ địa chủ, phú nông. Các nhà tư sản ở Bắc Trung Bộ
c ng muốn mở mang hoạt động thương mại, chấn hưng kinh tế, nhưng bị chính
sách độc quyền kinh tế của Pháp và sự chèn ép của tư sản Hoa kiều, Ấn kiều nên họ
không thể phát triển được. Do đó, họ có ý thức phản kháng tư sản ngoại quốc và tư
tưởng chống chế độ phong kiến. Bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận có quyền lợi gắn
chặt với thực dân Pháp, đối lập với lợi ích của dân tộc và nhân dân.
Giai cấp địa chủ ở Bắc Trung Bộ có nhiều hạng. Triều đình phong kiến đứng
đầu là nhà vua, quan lại, hoàng tộc, địa chủ kiêm quan lại phong kiến, địa chủ lớn,
địa chủ Nhà chung hầu hết đều có quyền lợi gắn chặt với đế quốc và cấu kết với
chúng chống phá các phong trào yêu nước và cách mạng. Tầng lớp địa chủ vừa và
nhỏ bị thực dân, quan lại phong kiến chèn ép nên oán ghét chúng, có ý thức dân tộc.
Các điều kiện kinh tế - xã hội trên đây là tiền đề thúc đẩy nhân dân các tỉnh
Bắc Trung Bộ bước sang thời kì đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2.1.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng
Từ buổi bình minh của lịch sử, con người đã có mặt trên vùng đất Bắc Trung
Bộ. Trải qua thời gian, một cộng đồng cư dân được hình thành, đa dạng về tộc
người bao gồm người Việt, Mường, Thái, HMông, Dao, Khơmú, Thổ, Chăm, Chứt,
Bru-Vân Kiều, Tà-ôi, Cơ-tu… Mỗi tộc người có những nét riêng về văn hóa, phong
tục tập quán nhưng đã đoàn kết, hỗ trợ nhau trong cuộc đấu tranh chống thiên tai,
địch họa để bảo vệ cuộc sống và giữ yên xóm làng.
Là một trong những địa bàn tụ cư và khai thác lâu đời của người Việt và
người Chăm với nền văn hóa Đông Sơn, văn hóa Chămpa, lối sống của người nông
dân vùng Bắc Trung Bộ chất phác, cần kiệm, chịu thương chịu khó, không quá câu
nệ nhưng c ng không quá phóng khoáng. Nhìn chung, ngoài tinh thần yêu nước và
tính năng động cách mạng, bản sắc con người vùng Bắc Trung Bộ là cần kiệm,
khẳng khái, trung d ng, quyết liệt, trọng việc nghĩa, có ý thức cộng đồng, đùm bọc,
36
giúp đỡ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn. Những đức tính này ít nhiều tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến nét riêng trong quá trình đấu tranh cách mạng của địa phương.
Nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ có truyền thống yêu nước từ lâu đời: Tham
gia cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo nổ ra vào năm 40, góp phần quan
trọng đối với sự thắng lợi của ba cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên ở
thế kỉ XIII, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân xâm lược Minh (1418 - 1427) và
chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789), đập tan hoàn toàn âm mưu xâm chiếm Đại
Việt của quân Thanh.
Khi thực dân Pháp tiến hành v trang xâm lược nước ta (1-9-1858), nhân dân
các tỉnh Bắc Trung Bộ đã kiên quyết đứng lên giết giặc cứu nước. Tuy nhiên, trước
thái độ chống đỡ một cách yếu ớt, nhượng bộ và từng bước chấp nhận sự bảo hộ
của thực dân Pháp của triều đình Huế, nhân dân Bắc Trung Bộ cùng với các văn
thân đã tỏ rõ quyết tâm đánh “cả Triều lẫn Tây”. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa năm
Giáp Tuất (1874) do Trần Tấn, Đặng Như Mai, Trần Quang Cán lãnh đạo nổ ra ở
Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Sau khi vụ biến kinh thành Huế thất bại (5-7-1885), Tôn Thất Thuyết đưa
vua Hàm Nghi cùng phe chủ chiến rời khỏi kinh thành Huế, tiếp tục cuộc kháng
chiến để giành lại độc lập cho dân tộc. Ngày 13-7-1885, tại Tân Sở (Quảng Trị),
vua Hàm Nghi ban Dụ Cần Vương kêu gọi nhân dân ra sức giúp vua cứu nước.
Hưởng ứng Dụ Cần Vương, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân yêu nước,
nhân dân Bắc Trung Bộ đã sôi nổi đứng lên chống Pháp. Ở Thừa Thiên có cuộc
khởi nghĩa do Đặng Hữu Phổ chỉ huy nổ ra vào tháng 7-1885. Ở Quảng Trị có các
cuộc khởi nghĩa của Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như. Ở Quảng Bình nổi lên
cuộc khởi nghĩa của Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân, Lê Mô Khởi, Đoàn Đức Mậu,
Mai Lượng, Hoàng Phúc, Trần Văn Định… trong khoảng thời gian từ năm 1885
đến năm 1888. Ở Hà Tĩnh có các cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh, Nguyễn Trạch, Ngô
Quảng, Nguyễn Hữu Thuận… đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 -
1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo. Đây là cuộc khởi nghĩa có quy
mô lớn nhất, kéo dài nhất trong phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX. Ở Nghệ An
có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ (1885 - 1889). Ở Thanh
Hóa tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) do Pham Bành, Đinh Công
Tráng lãnh đạo và khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1885 - 1892) do Tống Duy Tân, Cao
37
Điển chỉ huy. Trong phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX, Bắc Trung Bộ là trung
tâm của phong trào, đồng thời là khu vực mà phong trào đạt đến đỉnh cao nhất.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, Bắc Trung Bộ là địa bàn chiến lược của xu
hướng bạo động của Phan Bội Châu, là một trong những khu vực có phong trào
Đông Du phát triển mạnh mẽ và phong trào chống thuế năm 1908 thể hiện xu
hướng tả khuynh, tiếp đến là cuộc vận động khởi nghĩa do Kì bộ Việt Nam Quang
phục hội Trung Kì lãnh đạo năm 1916.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhiều thanh niên, giáo viên và học sinh
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ hăng hái tìm cách thể hiện lòng yêu nước và ý chí hoạt
động cách mạng. Các nhóm “bài Pháp” được bí mật thành lập và hoạt động ở các
tỉnh Thừa Thiên, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Trước những chuyển biến của tình
hình trong và ngoài nước, ngày 14-7-1925, một số chính trị phạm mới ra tù như Lê
Văn Huân, Trần Mộng Bạch, Nguyễn Đình Kiên và một số thanh niên tân học tổ
chức cuộc họp tại núi Con Mèo (trên đường Vinh đi Bến Thủy) quyết định thành
lập Hội Phục Việt. Sau khi thành lập, Hội Phục Việt tiến hành tuyên truyền tư tưởng
yêu nước cách mạng trong giáo viên, học sinh, các nhà nho có chí khí và xây dựng
cơ sở, phát triển hội viên.
Có thể thấy, trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân
các tỉnh Bắc Trung Bộ đã thể hiện rõ nét truyền thống yêu nước và sẵn sàng xả thân
trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Qua đó, đã hun đúc được cho
mình một bản sắc riêng ngày càng rõ nét, đó là sự cố kết cộng đồng để chống kẻ thù
chung. Đây là một truyền thống tốt đẹp hình thành nên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ,
phối hợp hành động giữa các tỉnh trong phong trào vận động giải phóng dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
2.1.2. Sự ra đời của tổ chức Đảng và phong trào cách mạng của nhân
dân các tỉnh Bắc Trung Bộ những năm 1930 - 1939
2.1.2.1. Sự ra đời của tổ chức Đảng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Trong quá trình tiếp cận đường lối cách mạng giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng vô sản do Nguyễn Ái Quốc truyền bá, Bắc Trung Bộ là nơi có đông
đảo thanh niên trí thức yêu nước tập hợp trong tổ chức Tâm Tâm xã nên được tiếp
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin sớm nhất. Chính vì vậy, Bắc Trung Bộ là nơi trưởng
thành của lớp người cộng sản đầu tiên ở nước ta như: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn,
38
Lê Hồng Phong, Trương Vân Lĩnh… Xu hướng cách mạng vô sản ở khu vực Bắc
Trung Bộ hình thành sớm với sự ra đời, hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên và sự chuyển biến của Tân Việt Cách mạng đảng.
Trong số các tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Trung Kì,
Hội Thanh Niên của phần lớn các tỉnh Bắc Trung Bộ được thực dân Pháp xếp vào
hàng quan trọng bậc nhất: Những tỉnh xét về tầm quan trọng của sự phát triển của
Hội Thanh Niên có thể được xếp theo thứ tự sau: 1. Nghệ An, 2. Hà Tĩnh, 3. Quảng
Trị, 4. Quảng Ngãi, 5. Quảng Nam, 6. Thừa Thiên Huế. Mỗi tỉnh đó thành lập một
đảng bộ có ủy ban chấp hành của nó là Tỉnh bộ. Quảng Bình, Phú Yên, Khánh Hòa
chỉ có vài ủy viên. Điều đó đã được phát giác qua một cuộc xử án [167, tr.15-16].
Khu vực Bắc Trung Bộ c ng là địa bàn chiến lược của Tân Việt Cách mạng
đảng. Tại Nghệ An, Hà Tĩnh, công tác tuyên truyền, phát triển lực lượng, xây dựng
tổ chức cơ sở của các đại tổ Tân Việt được tiến hành mạnh mẽ. Cuối năm 1928, các
tiểu tổ, đại tổ đã phát triển rộng khắp trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố và
các vùng nông thôn của hai tỉnh, với 612 hội viên. Giữa năm 1928, Tỉnh bộ lâm thời
Tân Việt Thừa Thiên được thành lập do Trần Hữu Duẩn làm Bí thư. Cuối năm
1928, Tỉnh bộ Tân Việt Thanh Hóa được thành lập do Nguyễn Xuân Thúy làm Bí
thư. Tại Quảng Trị, cuối năm 1928, một số tiểu tổ Tân Việt được thành lập ở Cam
Lộ, Triệu Phong, Gio Linh. Tháng 7-1929, nhóm Tân Việt ở ga Kẻ Rấy (Quảng
Bình) được thành lập.
Sau khi Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức ám sát trùm mộ phu Bazin (2-
1929), thực dân Pháp cấu kết với Nam triều mở chiến dịch khủng bố phong trào
cách mạng Việt Nam, trong đó có cơ sở của Thanh Niên và Tân Việt ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ. Trong Thông tri số 532 ngày 29-11-1929 của Viện Cơ mật gửi các quan
lại hàng tỉnh đã chỉ rõ: “Những sự hoạt động và tuyên truyền cộng sản là những
mối nguy cơ cho sự thống trị của Chính phủ Nam triều” [102]. Bản thông tri còn đề
ra một số biện pháp để ngăn chặn, đàn áp những hoạt động cộng sản.
Mặc dù thực dân Pháp và Nam triều đã sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau để
đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam nhưng cơ sở của Thanh Niên và Tân Việt
vẫn đứng vững tại các tỉnh Bắc Trung Bộ. Trong khi đó, Việt Nam Quốc dân đảng
không xây dựng được cơ sở tại khu vực này. Đảng Bảo Hoàng do Phạm Quỳnh vận
động thành lập hợp tác với chính quyền thực dân Pháp nên không được sự ủng hộ
39
của quần chúng. Đây là điều kiện thuận lợi để các tổ chức chính trị theo xu hướng
vô sản phát triển ảnh hưởng vào các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tháng 3-1930, Phân cục Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Kì được thành lập và đến giữa năm 1930
đổi tên thành Xứ ủy Trung Kì do Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư. Trụ sở chính của
Xứ ủy trong những năm 1930 - 1931 đặt tại thành phố Vinh và trụ sở 2 đặt tại Đà
Nẵng. Sau khi thành lập, Xứ ủy cử cán bộ, đảng viên về các tỉnh để xây dựng, phát
triển hệ thống tổ chức Đảng. Tính đến cuối năm 1930 phần lớn các tỉnh Bắc Trung
Bộ hình thành được hệ thống đảng bộ, gồm 6 ban tỉnh ủy: Vinh (3-1930), Nghệ An
(3-1930), Hà Tĩnh (3-1930), Quảng Trị (4-1930), Thừa Thiên (4-1930), Thanh Hóa
(7-1930); 20 thị ủy và huyện ủy; trên 239 chi bộ, 1.440 đảng viên.
Bảng 2.1. Số lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ cuối năm 1930
Tỉnh/ Thành phố Tỉnh ủy Huyện ủy Chi bộ Số lượng
đảng viên
Thanh Hóa 1 11 72
Nghệ An 1 8 97 661
Vinh 1 2 11 185
Hà Tĩnh 1 5 Trên 90 376
Quảng Bình 2 11
Quảng Trị 1 4 Trên 25 82
Thừa Thiên 1 1 Trên 3 53
Tổng cộng 6 20 Trên 239 1.440
Nguồn: Tác giả thống kê từ các sách lịch sử Đảng bộ các tỉnh
[19], [20], [21], [22], [23], [24].
Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tại các tỉnh đánh dấu bước phát
triển quan trọng của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tại khu vực này. Từ đây
phong trào cách mạng các tỉnh Bắc Trung Bộ đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng Cộng sản, chấm dứt sự phân tán của các tổ chức cách mạng, chuyển phong
trào yêu nước của nhân dân các tỉnh lên thành phong trào cách mạng dưới ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố
40
có vai trò quan trọng nhất đối với tiến trình lịch sử cả nước nói chung và các tỉnh
Bắc Trung Bộ nói riêng trong thời kì 1930 - 1945.
2.1.2.2. Phong trào cách mạng của nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ
những năm 1930 - 1939
Trên cơ sở đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra trong “Chính
cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” (2-1930) và “Luận cương chính trị” (10-1930),
Xứ ủy Trung Kì chủ trương phát động quần chúng đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến, đòi quyền lợi cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là công nhân và nông
dân với các yêu cầu, mục tiêu như: Thợ thuyền đòi tăng lương, mỗi ngày làm việc 8
giờ, tự do tổ chức công hội, tự do bãi công, tự do tuần hành; dân cày đòi giảm thuế
ruộng đất, bỏ thuế thân, thuế thổ trạch, thuế chợ, thuế đò, bỏ lệ bắt phu, tạp dịch...
Trên cơ sở chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung Kì, tổ chức
Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ vận động quần chúng đấu tranh đòi những quyền lợi
dân sinh, dân chủ thiết thực h ng ngày và đưa ra những khẩu hiệu tuyên truyền cao
hơn như tịch thu ruộng đất của địa chủ ngoại quốc và địa chủ bản xứ chia cho bần
nông, cố nông; đánh đổ đế quốc Pháp và Nam triều phong kiến, Việt Nam hoàn
toàn độc lập, chính quyền về tay công nông binh… Tiêu biểu là đợt đấu tranh kỉ
niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930 diễn ra đồng loạt ở tất cả các tỉnh với nhiều
hình thức như treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn, biểu tình, diễn thuyết, đánh dấu
bước chuyển biến lớn của phong trào cách mạng các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Sau đợt đấu tranh ngày 1-5-1930, phong trào tiếp tục phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Theo thống kê của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương
năm 1960, từ tháng 5 đến cuối tháng 8-1930, ở các tỉnh Bắc Trung Bộ nổ ra hơn
100 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, riêng Nghệ An và Hà Tĩnh có 94
cuộc. Đặc điểm của phong trào đấu tranh trong thời gian này là diễn ra tương đối ôn
hòa, quần chúng không có hành động bạo lực. Phong trào diễn ra b ng các hình
thức và phương pháp đấu tranh phổ biến như rải truyền đơn, treo cờ đỏ, mít tinh,
biểu tình, đình công, bãi công… Trong một số cuộc biểu tình đã xuất hiện các đội tự
vệ, nhưng hầu hết quần chúng đi biểu tình tay không, chưa mang theo gậy gộc, giáo
mác. Từ đầu tháng 8-1930, phong trào diễn ra có phần quyết liệt và mạnh mẽ hơn.
Sang đầu tháng 9-1930 trở đi, phong trào cách mạng ở Nghệ An, Hà Tĩnh phát triển
ngày càng quyết liệt, quần chúng không chỉ đưa đơn thỉnh cầu hay yêu sách, mà còn
41
có cả những cuộc đập phá công đường, dùng áp lực buộc quan lại sở tại phải hứa
thực hiện những đòi hỏi chính đáng của nhân dân. Từ tháng 9-1930 đến tháng 4-
1931, ở Nghệ An và Hà Tĩnh nổ ra 1.209 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.
Cơn bão táp cách mạng ở Nghệ An, Hà Tĩnh dâng lên mạnh mẽ, thu hút
đông đảo các tầng lớp trong xã hội tham gia, làm cho hệ thống chính quyền của đế
quốc phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều nơi. Trong bối cảnh đó, các Ban Chấp
hành Nông hội đỏ dưới sự chỉ đạo của các chi bộ đảng đứng ra thay mặt nhân dân
đảm nhiệm chức năng cai quản hương thôn theo mô hình chính quyền Xô viết công
nông binh ở nước Nga. Chính quyền Xô viết được thành lập ở 200 làng thuộc tỉnh
Nghệ An và 172 làng ở Hà Tĩnh. Các Xô viết vừa lãnh đạo, tổ chức đấu tranh, vừa
chăm lo giải quyết quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho nhân dân, đập
tan chính quyền c , xây dựng một trật tự xã hội mới ở nông thôn. Thành quả to lớn
của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã làm nức lòng nhân dân cả nước, tiếp thêm sức
mạnh cho phong trào đấu tranh vì mục tiêu đánh đổ ách áp bức, giải phóng dân tộc.
Phong trào đấu tranh của nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ đã làm cho thực
dân Pháp và Nam triều lúng túng trong cách đối phó. Khâm sứ Trung Kì Châtel đã
thừa nhận trong bản báo cáo gửi Chính phủ Pháp ngày 5-7-1930: “Lâu nay chúng ta
chỉ mới biết những phương pháp hoạt động của các đảng cách mạng cũ. Lần này,
các quan lại hình như lúng túng, bối rối về sự tổ chức hoàn hảo của cộng sản theo
kiểu châu Âu. Tình thế ấy đặt chúng ta vào tình trạng đôi đường khó xử” [65].
Trước tình hình đó, thực dân Pháp đã tiến hành “khủng bố trắng” đối với
phong trào cách mạng của nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh. Để giữ gìn và phát triển
phong trào, Trung ương Đảng phát động một cuộc đấu tranh trên phạm vi cả nước
nh m ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ chống chính sách khủng bố trắng và chống chiến tranh
đế quốc. Xứ ủy Trung Kì ra nghị quyết phát động quần chúng nhân dân đấu tranh
hưởng ứng phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh.
Thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung Kì, tại các tỉnh
Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Thanh Hóa, truyền đơn xuất hiện ở nhiều nơi
trong thành phố, thị xã, vùng nông thôn kêu gọi ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ và phản đối
chính sách khủng bố của thực dân Pháp. Ngày 30-9-1930, Tỉnh ủy Thừa Thiên vạch
kế hoạch đẩy mạnh cuộc vận động “bênh vực Nghệ An đỏ” chống chính sách khủng
bố của thực dân Pháp: “Mở cuộc truy điệu theo kế hoạch trong nghị quyết án Kì bộ
42
mà ấn định... Tường thuật vụ tàn sát của đế quốc Pháp ở Nghệ Tĩnh làm báo tranh
đấu đại cương theo ý nghĩa báo Lao khổ” [135]. Bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh
liên tiếp nổ ra ở các tỉnh. Cuối tháng 9-1930, nông dân huyện Phú Vang (Thừa
Thiên) tổ chức mít tinh để ủng hộ Nghệ An đỏ, phản đối thực dân Pháp ném bom
hủy diệt Hưng Nguyên. Tại các trường học ở Thừa Thiên, Quảng Trị, Thanh Hóa,
các chi hội học sinh đỏ lập ra ban đấu tranh trong học sinh tổ chức các cuộc diễn
thuyết, tuyên truyền bãi khóa để ủng hộ nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh. Đầu năm
1931, Chi bộ nhà lao Đồng Hới (Quảng Bình) lãnh đạo tù nhân đấu tranh đòi cải
thiện chế độ sinh hoạt, phản đối chính sách khủng bố của thực dân Pháp. Trong khi
đó, phong trào cách mạng Quảng Trị lên cao, nhất là ở các phủ Vĩnh Linh, Triệu
Phong, Hải Lăng: “Nông dân nổi lên giành lại những ruộng đất đã bị địa chủ và
cường hào chiếm đoạt trước đây. Một số nơi đã biến thành “làng đỏ”. Ở đấy, nhân
dân quản lí mọi việc, giữ gìn trật tự, tổ chức học quốc ngữ” [35, tr.250].
Trước sự phát triển của phong trào, thực dân Pháp tập trung lực lượng và sử
dụng các thủ đoạn thâm độc cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa để đối phó.
Do đó, từ giữa năm 1931, phong trào tạm thời lắng xuống và chuyển sang một giai
đoạn đấu tranh mới.
Có thể nói, qua phong trào cách mạng 1930 - 1931, chủ trương, đường lối
của Đảng đã thâm nhập vào trong các tầng lớp nhân dân. Xứ ủy Trung Kì nhận
định: “Phong trào đấu tranh đã qua là một điều thắng lợi rất to lớn của Đảng và có
ảnh hưởng rất sâu xa cho tất cả các phong trào cách mạng trong nước” [155]. Sở
Mật thám Trung Kì c ng thừa nhận r ng: “Lúc nào tinh thần dân chúng cũng thiên
về các cuộc biểu tình chống chính phủ và do đó họ như sẵn sàng tham gia một cách
tích cực với Đảng Cộng sản” [67, tr.71]. Bên cạnh những thành công, phong trào
cách mạng 1930 - 1931 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ còn bộc lộ những hạn chế. Khẩu
hiệu và hình thức đấu tranh của các Đảng bộ quá “tả”. Trong chỉ thị gửi Xứ ủy
Trung Kì ngày 20-5-1931, Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình chủ trương
thanh Đảng của Xứ ủy: “Xứ ủy Trung Kì, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh
Đảng viết rõ từng chữ: Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ, như vậy
thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ
đoán và là một lối hành động quàng xiên chí tướng” [50, tr.157]. Ở Nghệ An và Hà
Tĩnh, nhiều cấp ủy thúc ép quần chúng đi đấu tranh trong hoàn cảnh nạn đói diễn ra
43
nghiêm trọng làm cho quần chúng căng thẳng mệt mỏi trước sự đàn áp khủng bố ác
liệt của thực dân Pháp. Những hạn chế này là bài học quý giá cho các cấp đảng bộ
về việc vận dụng phương pháp đấu tranh thích hợp trong các thời kì sau.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề nhưng cán bộ, đảng viên và quần chúng cách
mạng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ vẫn thể hiện tinh thần kiên cường bất khuất, đấu
tranh để khôi phục phong trào trong những năm 1932 - 1935. Nét nổi bật của phong
trào đấu tranh cách mạng ở Bắc Trung Bộ trong thời gian này đó là đấu tranh chống
chế độ hà khắc của nhà tù, biến nhà tù thành trường học cách mạng, đấu tranh tìm
mọi cách để khôi phục lại hệ thống tổ chức cơ sở Đảng, khôi phục lại phong trào
cách mạng trong bối cảnh thực dân tiến hành cuộc khủng bố trắng. Đặc biệt, trên
mặt trận tư tưởng, diễn ra cuộc đấu tranh văn minh vật chất và văn minh tinh thần
giữa Hải Triều, Lâm Mộng Quang, Hải Thanh với Phan Khôi trên các tờ báo “Đông
Phương”, “Phụ nữ Tân tiến” và cuộc tranh luận giữa hai quan điểm nghệ thuật vị
nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh giữa Hải Triều với Thiếu Sơn trên các tờ báo
“Đời mới”, “Ánh sáng”, “Hương Giang”. Cuộc đấu tranh giữa phái duy vật và phái
duy tâm đã thu hút được sự theo dõi của học sinh trí thức, giới văn nghệ sĩ. Qua
cuộc đấu tranh này, tư tưởng yêu nước, cách mạng đã thấm sâu vào nhận thức của
các tầng lớp nhân dân, hướng họ vào cuộc đấu tranh chung của cả dân tộc chống
chủ nghĩa thực dân, phong kiến.
Trước sự phục hồi và phát triển của phong trào, thực dân Pháp tiến hành
khủng bố. Đến cuối năm 1935, tổ chức Đảng các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên
lần lượt bị vỡ. Mặc dù vậy, sự phục hồi của phong trào cách mạng những năm 1932
- 1935 là tiền đề thúc đẩy sự phát triển của cuộc vận động dân chủ trong những năm
1936 - 1939 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng (7-1936), Xứ ủy
Trung Kì đã chỉ đạo các tổ chức Đảng địa phương chuẩn bị tích cực cho cuộc đấu
tranh chống phát xít, chống chiến tranh, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi
các quyền dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Duới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ
ủy Trung Kì, phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ ở các tỉnh Bắc Trung Bộ diễn
ra sôi nổi với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, đa dạng. Phong trào đấu tranh ở
các tỉnh chuyển sang một giai đoạn mới, bắt kịp với phong trào cả nước. Mở đầu là
phong trào vận động tổ chức Đông Dương đại hội. Dưới sự chỉ đạo của các tổ chức
44
cơ sở Đảng và đảng viên, các Ủy ban hành động được thành lập khắp nơi. Đỉnh cao,
là ngày 20-9-1936, Đại hội đại biểu nhân dân Trung Kì được tổ chức tại thành phố
Huế với sự tham dự của hơn 500 đại biểu. Đại hội bầu ra Ủy ban lâm thời chi nhánh
Trung Kì của Đông Dương đại hội gồm 26 người do Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng
Lưu chủ trì, các cựu chính trị phạm làm lực lượng nòng cốt. Trước sự phát triển của
phong trào, Khâm sứ Graffeuil ra lệnh cấm Đông Dương đại hội trên toàn xứ Trung
Kì. Mặc dù phong trào Đông Dương đại hội bị cấm hoạt động nhưng đông đảo quần
chúng lao động đã thức tỉnh, bước đầu hình thành được một mặt trận dân chủ lấy
công, nông, trí thức làm nòng cốt, Đảng đã tích l y được một số kinh nghiệm lãnh
đạo đấu tranh công khai, hợp pháp.
Đầu năm 1937 đánh dấu bước phát triển mới của phong trào dân chủ ở Việt
Nam với hoạt động vận động nhân dân làm bản dân nguyện lấy chữ kí, tổ chức đón
Godart để biểu dương lực lượng và ý chí của quần chúng lao động. Chính quyền
thực dân tìm cách hướng Godart không đến những nơi nhân dân tập họp nhưng tại
nhiều tỉnh các cuộc đón tiếp vẫn được tiến hành để đưa các bản “dân nguyện”.
Phong trào đón Godart trở thành một cuộc biểu dương lực lượng hùng hậu chưa
từng thấy ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, riêng tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên huy động
hàng vạn nhân dân khiến giới cầm quyền lo sợ, tìm mọi cách ngăn cản sự tiếp xúc
của quần chúng với phái đoàn. Tuy vậy, quần chúng nhân dân vẫn kiên trì, ăn ngủ
ngay trên đường phố để đón Godart như ở Thừa Thiên, hoặc cử đại diện mang bản
“dân nguyện” vào Tòa công sứ trao cho Godart như ở Thanh Hóa. Có thể khẳng
định, phong trào đón Godart có một tiếng vang trong toàn xứ, có ảnh hưởng chính
trị sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, khiến chính quyền thực dân phong kiến lo sợ.
Trong những năm 1937 - 1938, các ứng cử viên của Mặt trân dân chủ đã
trúng cử vào Viện Dân biểu Trung Kì và đấu tranh chống “Dự án tăng thuế” của
thực dân Pháp vào năm 1938, đòi giảm thuế ruộng đất, sửa lại thuế thân cho dân
nghèo, bỏ chế độ độc quyền về rượu, muối, mở trường dạy chữ quốc ngữ... Cuộc
đấu tranh đã giành được thắng lợi.
Bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của công nhân và
nông dân liên tiếp nổ ra ở nhiều địa phương. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công
nhân Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi diễn ra từ ngày 3-7 đến ngày 12-8-1937
đòi giới chủ tăng lương, giảm giờ làm và phong trào đấu tranh của nông dân Hương
45
Sơn, Can Lộc, Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đòi chia lại ruộng đất công, giảm tô tức, nợ lãi,
đòi tự do bầu chọn lí trưởng kéo dài trong hai năm 1937 - 1938.
Không chỉ đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, ở các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh còn có phong trào đòi “Phòng thủ Đông Dương” và cuộc vận
động ủng hộ nhân dân Trung Hoa chống phát xít Nhật với nhiều hình thức phong
phú như: Viết và lưu hành cuốn “Họa chiến tranh với vấn đề phòng thủ Đông
Dương”; tổ chức “gánh hàng ngày xuân”, lập các quầy hàng, bán các thứ “quạt hòa
bình”, “mứt thân ái”. Thông qua các hình thức đấu tranh này đã góp phần làm rõ
chủ trương đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, hướng dẫn quần chúng hành
động theo phương hướng của Đảng đã vạch ra, giáo dục cho nhân dân ý thức chống
phát xít, chống chiến tranh, thắt chặt tình đoàn kết với nhân dân Trung Quốc.
Từ thực tế trên, có thể thấy phong trào dân chủ 1936 - 1939 ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ thể hiện một số nét nổi bật. Bắc Trung Bộ là trung tâm của nhiều phong
trào đấu tranh của cả xứ Trung Kì, thậm chí trên một số mặt, có những phong trào
nổi trội hơn cả Hà Nội, Sài Gòn như phong trào vận động tổ chức Đông Dương đại
hội, phong trào đón Godart, cuộc vận động bầu cử Viện dân biểu Trung Kì, đấu
tranh chống “Dự án tăng thuế” của thực dân Pháp, phong trào đòi “Phòng thủ Đông
Dương”. Phong trào thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, từ nông dân,
công nhân, tiểu thương, viên chức, học sinh, sinh viên cho đến các trí thức nho học,
tân học, một số tư sản, địa chủ vừa và nhỏ, đặc biệt còn lôi kéo một số người thuộc
dòng dõi hoàng tộc làm việc trong Chính phủ Nam triều và cả những người trong bộ
máy chính quyền thực dân Pháp. Kết quả của phong trào dân chủ 1936 - 1939 là
một trong những tiền đề để các tỉnh Bắc Trung Bộ tiến hành công cuộc chuẩn bị
giải phóng dân tộc trong giai đoạn 1939 - 1945.
2.2. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng Việt Nam
của Đảng Cộng sản Đông Dương
2.2.1.1. Tình hình trong nước và các tỉnh Bắc Trung Bộ
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp tiến công
phong trào cách mạng Việt Nam, trước hết nh m tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông
Dương. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương Catroux ban hành sắc lệnh đặt
các tổ chức cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các tổ chức nghiệp đoàn,
46
tương tế, ái hữu. Trong tuyên bố ngày 4-1-1940 tại Hội đồng Chính phủ Đông
Dương, Catroux khẳng định: “Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ
chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương
mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền không
thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta phải hành động không thương tiếc”
[161, tr.20]. Thực dân Pháp còn thành lập nhiều nhà tù, căng an trí mới ở những nơi
sơn cùng thủy tận để giam cầm, đày đọa những người yêu nước và cách mạng.
Chính quyền thuộc địa thực hiện chính sách “kinh tế chiến tranh” rồi “kinh tế
chỉ huy” nh m cung cấp tối đa tiềm lực của Đông Dương cho chính quốc. Chúng ra
sức cướp đoạt của cải, tài sản của nhân dân, tăng cường phát hành giấy bạc, kiểm
soát gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định giá cả độc đoán, tăng thuế c , đặt thêm
thuế mới, tổ chức lạc quyên, công trái, xổ số.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Ở Đông Dương, phát
xít Nhật đã thực thi một chính sách chiếm đóng hoàn toàn trái ngược với những
tuyên bố của họ trong kế hoạch thành lập “Khu vực Đại Đông Á thịnh vượng
chung”. Đối với giới quân phiệt Nhật, việc lựa chọn “cộng tác - cộng trị” với thực
dân Pháp là một “chính sách hợp lí cao” [157, tr.59], là phương thức giúp phát xít
Nhật đạt được các mục đích chiến lược của mình tại Đông Dương một cách hữu
hiệu và ít tốn kém nhất. B ng cách này, phát xít Nhật đã chiếm được Đông Dương
khá dễ dàng, đồng thời họ còn có thể lợi dụng được bộ máy đàn áp, bóc lột mà thực
dân Pháp đã xây dựng gần một thế kỉ ở Việt Nam, thông qua đó khai thác triệt để
các nguồn lợi ở nước ta phục vụ cho cuộc chiến tranh, lại tiết kiệm được các khoản
chi phí cho quản lí và cai trị nếu họ lật đổ thực dân Pháp. Tuy vậy, việc duy trì chế
độ thực dân Pháp, cộng tác với chế độ này để thống trị và bóc lột nhân dân Việt
Nam, phát xít Nhật đã tự phơi bày bộ mặt giả dối của họ. Đảng Cộng sản Đông
Dương khẳng định : “Chính sách của Nhật ở Đông Dương là cướp bóc, đánh giết,
làm nhục và lừa dối” [52, tr.282].
Được sự hậu thuẫn của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nhiều đảng phái và
nhóm chính trị được thành lập, ra sức tuyên truyền cho Chính phủ phản động Pétain
hoặc tung hô cho Đại Nhật Bản. Các tổ chức, đảng phái dù thân Pháp hay thân
Nhật, đều có một tính chất chung là dùng chiêu bài “quốc gia”, “dân tộc” giả hiệu
để uốn mình làm tay sai cho kẻ thù, phản bội đất nước. Ngày 15-9-1939, Bảo Đại ra
47
thông cáo thể hiện quyết tâm giúp nước Pháp tham chiến: “Bổn phận của chúng ta
đã được vạch rõ rằng: Chúng ta xiết chặt hàng ngũ bên cạnh nước Pháp để đem tới
cho nó sự giúp đỡ của tất cả các năng lực của chúng ta trong cuộc chiến đấu vĩ đại
này” [45, tr.43]. Tiếp đó, ngày 5-10-1939, Bảo Đại ban hành đạo dụ cấm tất cả các
cuộc hội họp tuyên truyền cộng sản ở Trung Kì và tịch thu các loại sách báo tiến bộ.
Tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, để quản lí chặt chẽ tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội, Toàn quyền Catroux đã tiến hành cuộc Tổng điều tra dân số nh m nắm chắc
tình hình dân cư đến tận từng thôn xóm. Số liệu điều tra do Tòa sứ các tỉnh ở Bắc
Trung Bộ cung cấp cho biết đã thống kê được tổng dân số năm 1943 là 3.627.940
người [160], chủ yếu là người Việt. Một bộ phận dân tộc thiểu số thuộc các dân tộc
Mường, Thái, HMông, Dao, Khơmú, Thổ, Chứt, Bru-Vân Kiều, Tà-ôi, Cơ-tu và
một số ít kiều dân Pháp, Nhật, Hoa, Ấn Độ. Bên cạnh đó, thực dân Pháp cùng với
Nam triều sắp xếp lại hệ thống hành chính ở các tỉnh nh m nắm chắc hơn nữa bộ
máy chính quyền làng xã, tăng cường nguồn nhân lực để thực hiện chính sách khai
thác, bóc lột. Theo đó, tỉnh Thanh Hóa gồm 1 thị xã, 7 phủ, 7 huyện, 6 châu; 133
tổng; 1.920 phường, xã, thôn. Tỉnh Nghệ An gồm 1 thành phố, 5 phủ, 6 huyện; 69
tổng; 931 phường, xã. Tỉnh Hà Tĩnh được phân chia thành 2 phủ, 6 huyện; 45 tổng;
544 xã, thôn, phường, trang, vạn. Tỉnh Quảng Bình gồm 2 phủ, 3 huyện; 29 tổng;
380 xã, thôn, phường, giáp, trang, ấp, sách. Tỉnh Quảng Trị được phân chia thành 3
phủ, 3 huyện; 24 tổng; 479 xã, thôn, phường, giáp. Tỉnh Thừa Thiên gồm 1 thành
phố, 6 huyện; 31 tổng; 472 phường, xã, thôn, trang, máng, vạn, ấp [4, tr.39-41].
Sau khi Nghị định của Toàn quyền Đông Dương và đạo dụ của Nam triều
được ban hành, phong trào cách mạng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ bị khủng bố dữ dội.
Hàng trăm tổ chức nghiệp đoàn, hội tương tế, hội ái hữu bị phá vỡ và tịch thu tài
sản; hàng ngàn cán bộ, đảng viên, những người tích cực tham gia phong trào Mặt
trận Dân chủ lần lượt bị bắt giam. Các cựu chính trị phạm bị bắt giam trở lại. Chỉ
riêng tỉnh Quảng Trị, từ tháng 9-1939 đến tháng 11-1940 đã có 65 người bị bắt,
trong đó có 20 cựu chính trị phạm bị bắt trở lại [104]. Ở Nghệ An, từ tháng 9-1939
đến tháng 5-1941 đã có 743 người bị bắt, trong đó có 264 người bị kết án, 229
người bị quản thúc, 33 người đi trại tập trung, 117 người được trắng án [109].
Trong các nhà tù, những chính trị phạm sắp mãn hạn bị chúng giữ lại. Những tù
chính trị được chúng liệt vào hàng “quan trọng” hoặc có thái độ chống đối thì chúng
48
bí mật thủ tiêu, hay đưa đi giam giữ tại các trại tập trung đặc biệt. Những người tình
nghi mà chưa bị bắt thì chúng ra lệnh quản thúc chặt chẽ.
Ở hầu khắp các tỉnh Bắc Trung Bộ, thực dân Pháp tăng cường bộ máy đàn áp
để kiềm chế phong trào đấu tranh của nhân dân. Hầu hết các tổ chức đã được chúng
dùng để đàn áp phong trào cách mạng 1930 - 1931 như hệ thống đồn binh, hệ thống
bang tá, tổ chức đoàn phu, hội đồng tộc biểu… đến lúc này đều được phục hồi. Các
chòi canh, điếm gác được dựng lên ở khắp nơi, nhất là ở những ngã đường nhân dân
thường đi lại. Từ thành thị đến nông thôn, chúng bố trí một mạng lưới mật thám dày
đặc. Thực dân Pháp còn cho sửa lại “hương ước”, đặt thêm chức chánh, phó hương
hội, thăng chức tước và tăng quyền hành cho tổng lí, hương chức nh m quản lí việc
trị an thôn xã.
Để tạo nên sự hoang mang, nghi ngờ lẫn nhau trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân, ngoài việc sử dụng những kẻ phản bội làm chỉ điểm, thực dân Pháp còn
bắt cả những chiến sĩ trung kiên đi theo trong những trận đánh phá cơ sở. Chúng thả
lỏng những người đã khai báo hoặc ra đầu thú để dụ hàng và điều tra những người
chưa bị lộ hoặc đang trốn tránh nh m phá hết cơ sở và quét sạch lực lượng. Chúng
dùng tiền tài, danh vọng mua chuộc những phần tử thoái hóa, biến chất, khoác áo
cộng sản để đánh bẫy cán bộ. Đối với các cựu chính trị phạm, “chúng vừa không
chế về tinh thần, vừa tạo điều kiện cho làm ăn, để hướng họ vào hoạt động kinh tế,
xa lánh hoạt động chính trị. Chúng tung ra luận điệu thâm độc làm cách mạng khi
bị bắt nếu có khai báo chút ít thì cũng không hề gì, để kích thích tư tưởng cầu an
thỏa hiệp đối với những người đang bị giam giữ hoặc khi bị tra tấn” [27, tr.26-27].
Sau hiệp ước đầu hàng của Toàn quyền Decoux ngày 23-7-1941, phát xít
Nhật bắt đầu đưa quân vào các tỉnh Bắc Trung Bộ, đóng tại các thành phố, sân bay,
hải cảng và các đầu mối giao thông chính. Thừa Thiên, Quảng Trị, Nghệ An và
Thanh Hóa trở thành những căn cứ quân sự quan trọng của Nhật.
Ở Bắc Trung Bộ, phần tử thân Nhật “sáng giá” nhất là Ngô Đình Diệm. Sau
khi tập hợp được một số nhân sĩ, trí thức, sĩ quan người Việt trong quân đội thuộc
địa, giữa năm 1943, Ngô Đình Diệm cử Phan Thúc Ngộ sang Nhật bắt liên lạc với
Cường Để, đồng thời giao Đỗ Mậu “thảo một kế hoạch hoạt động chi tiết để phối
hợp với quân Nhật làm đảo chính tấn công quân Pháp và một dự án dài hạn khác
49
về việc tái tổ chức quân đội bảo an chuẩn bị cho Cường Để về nước lập chính phủ
thân Nhật” [85, tr.26].
Đi đôi với chính sách khủng bố về chính trị, thực dân Pháp tăng cường bóc
lột về kinh tế để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Chúng trưng thu, trung mua
lương thực của nông dân với giá rẻ mạt. Các thứ thuế c đồng loạt tăng, nhiều loại
thuế mới được ban hành như thuế quốc phòng, thuế cư trú, thuế súc vật, thuế bán
hàng rong, thuế cây ăn quả. Báo “Tiến lên”, số ra ngày 18-4-1941, đăng bài xã luận
có đoạn: “Bọn đồn điền và các hội mỏ Pháp chiếm ¼ đất cày, bọn phú nông An
Nam chiếm hơn 50%. Cách bóc lột kiểu tư bản lại nhờ đế quốc săn sóc, nào là thuế
thân, thuế đất, nào là xâu đi canh. Bọn điền chủ bóc lột dân cày nghèo một năm đến
60% tiền hoa lợi, sưu thuế lại rút hết 10%, đó là chưa kể đến sự cho vay lời rút đỉa
nồi lúa non công nông” [129]. Ngoài ra, thực dân Pháp còn bắt các làng xã phải lập
quỹ “nghĩa thương trợ chiến”, phải bán ruộng đất công để gây quỹ chiến tranh.
Nhân cơ hội chiến tranh, tư sản mại bản, tư sản nước ngoài ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ ra sức vơ vét hàng hóa, đầu cơ tích trữ làm cho hàng hóa, vật liệu càng
khan hiếm, gây nên giá cả hàng hóa trên thị trường đắt đỏ, không ổn định. Ở các
vùng nông thôn, tầng lớp địa chủ, quan lại, kể cả tổng lí c ng dùng đủ mọi mưu
mẹo gian lận để bóc lột trắng trợn nhân dân.
Các tầng lớp nhân dân ở Bắc Trung Bộ phải chịu ba tầng áp bức của thực
dân Pháp, phát xít Nhật và Nam triều. Đời sống của nông dân hết sức khó khăn bởi
tô, thuế, hàng hóa khan hiếm, giá cả rất đắt đỏ. Nông dân còn bị bắt đi lính, đi phu
và các công trình quân sự cho Nhật. Đời sống của công nhân c ng rất khó khăn.
Chúng tăng giờ làm việc của công nhân từ 8 giờ lên 9 giờ một ngày, nhưng lương
vẫn giữ nguyên. Báo cáo của Mật thám Vinh ngày 5-9-1939 nói rõ: “Ngày 4-9-
1939, ông chủ nhà máy Trường Thi có báo cho công nhân viên biết quyết nghị của
Toàn quyền Đông Dương bắt buộc thợ phải làm việc 9 giờ một ngày” [114]. Giờ
làm việc tăng nhưng công nhân nhận được đồng lương rất rẻ mạt, từ 0,15 đồng đến
0,25 đồng/1 ngày [27, tr.10]. Lí giải việc trả lương cho công nhân thấp, thực dân
Pháp lập luận: “Sự sống của thợ An Nam bình thường chỉ cần 0,25 đồng một ngày
chia ra như sau: 8 xu gạo, 4 xu muối, 4 xu rau, 3 xu nhà ở, 3 xu thuốc, 2 xu quần áo
và 1 xu thuế” [68, tr.47]. Do hàng hóa trên thị trường khan hiếm, giá cả sinh hoạt
đắt đỏ nên đời sống của công nhân hết sức điêu đứng, ngày càng có nhiều công
50
nhân bị sa thải, thất nghiệp. Trong khi đó, đời sống của tiểu tư sản, tư sản, địa chủ
vừa và nhỏ c ng sa sút.
Có thể nói, chính sách thống trị của phát xít Pháp - Nhật ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ đã làm cho mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với các thế lực đế quốc
- phát xít ngày càng gay gắt. Một bộ phận trong số quan lại, địa chủ, trí thức, học
sinh lúc đầu có phần sợ Nhật, phục Nhật nhưng dần về sau c ng tỏ ra nghi ngờ về
những lời tuyên truyền của chúng. Không có con đường nào khác, họ phải vùng dậy
đấu tranh để giành quyền sống và lật đổ ách thống trị bạo tàn, thiết lập nên một chế
độ xã hội mới.
2.2.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương
Chiến tranh thế giới thứ hai là một thử thách lớn đối với dân tộc Việt Nam
nhưng nó không làm cho Đảng Cộng sản Đông Dương bất ngờ. Trong những năm
1938 - 1939, trước những biến chuyển của tình hình thế giới, Trung ương Đảng đã
chỉ thị cho các cấp ủy đảng phải chuyển dần trọng tâm công tác về nông thôn.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã cảnh cáo thực dân Pháp về nguy cơ xâm lược của phát xít Nhật, đòi chúng mở
rộng các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân và cùng nhân dân
Đông Dương chống Nhật. Trong “Thông cáo cho các đồng chí các cấp bộ” ngày 29-
9-1939, Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn
đề dân tộc giải phóng… Tất cả các đồng chí phải thấu hiểu vấn đề dân tộc giải
phóng… gây cho tất cả các tầng lớp dân chúng hiểu biết tinh thần dân tộc giải
phóng” [51, tr.98].
Ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức
tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị
khẳng định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con
đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm, vô luận da trắng hay da vàng, để tranh lấy giải phóng dân tộc” [51, tr.536].
Để tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến
tranh đế quốc và ách thống trị của phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương tạm gác khẩu
hiệu cách mạng ruộng đất, chính sách đề ra là tịch thu ruộng đất của đế quốc và
những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc; khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công,
nông, binh được thay thế b ng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hòa; thành
51
lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ
Đông Dương không còn thích hợp. Để phù hợp với tính chất cuộc cách mạng trong
giai đoạn mới, đòi hỏi có sự thay đổi về sách lược và phương pháp đấu tranh, từ
hoạt động công khai, hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp; từ đấu tranh
chính trị, hòa bình sang đấu tranh v trang đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai.
Từ giữa năm 1940, tình hình thế giới chuyển biến hết sức nhanh chóng.
Tháng 6-1940, Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức. Tháng 9-1940, phát xít Nhật
xâm lược Đông Dương, nhân dân Việt Nam phải chịu ách thống trị của cả Pháp lẫn
Nhật. Trước tình hình đó, từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp hội nghị tại Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội nghị nhận định sự cấu kết
giữa đế quốc Pháp và phát xít Nhật đem đến cho nhân dân tai họa không kể xiết. Để
chống lại, nhân dân ta bắt đầu sử dụng những hình thức đấu tranh cao hơn, tuy chưa
phổ biến và quyết liệt nhưng “một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng
phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc Đông
Dương bị áp bức vũ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập” [52, tr.58].
Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng. Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao B ng). Trên cơ sở nhận định
tình hình thế giới và phân tích tình hình trong nước, Hội nghị khẳng định tiếp tục
chủ trương của Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhưng đề cao hơn nữa nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được” [52, tr.113].
Để tập trung m i nhọn vào kẻ thù chủ yếu của dân tộc, Đảng đã tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc
và Việt gian phản quốc chia cho dân cày, tiến hành giảm tô, giảm tức, chia lại công
điền cho hợp lí, tiến tới thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Chủ trương này
nh m phân hóa sâu sắc hàng ng kẻ thù, tạo điều kiện để tranh thủ thêm bạn đồng
52
minh của cách mạng. Đó là sự trở lại với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong nhận
thức của Đảng Cộng sản Đông Dương về xác định nhiệm vụ của cách mạng.
Để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương liên hiệp tất cả
các giai cấp tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị, đảng
phái vào một mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc thật rộng rãi, lấy liên minh
công nông làm cơ sở. Muốn vậy cần phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết
sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân.
Vì thế mặt trận phải đổi tên cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ
hiệu triệu hơn. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập
Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh nh m “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân
dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào,
đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở” [52,
tr.149]. Đây là sự trở lại với tư tưởng mặt trận đúng đắn trong “Cương lĩnh đầu
tiên” của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị thành lập Đảng (2-
1930) thông qua. Nhờ đó, Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Mặt trận Việt
Minh đã tập hợp được sức mạnh của toàn thể dân tộc vào mục tiêu giành độc lập.
Hội nghị Trung ương 8 của Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân
tộc ở Đông Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp - Nhật và tay sai,
giành độc lập cho mỗi dân tộc. Và sau khi đánh đuổi được Pháp - Nhật, “các dân
tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành liên bang cộng hòa
dân chủ hay đứng riêng thành một quốc gia dân tộc tùy ý” [52, tr.113].
Một trong những nội dung quan trọng nhất của Hội nghị Trung ương 8 là chủ
trương về khởi nghĩa v trang. Trước đây, trong các Hội nghị Trung ương tháng 11-
1939 và tháng 11-1940, vấn đề này đã được dự kiến và có những phác họa bước
đầu. Nay nhờ có kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và binh
biến Đô Lương, Hội nghị có chủ trương đúng đắn là phải xúc tiến công tác chuẩn bị
khởi nghĩa, coi đây là nhiệm vụ trung tâm; phân tích những điều kiện khách quan và
chủ quan cho cuộc khởi nghĩa v trang thắng lợi; dự kiến hình thái khởi nghĩa là từ
khởi nghĩa từng phần, giành thắng lợi ở các địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa,
giành thắng lợi trong toàn quốc.
Có thể nói, từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 đến Hội nghị Trung ương
8, Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh
53
trong tình hình mới. Trong hoàn cảnh mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội đã phát triển
đến độ gay gắt nhất, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đang đặt ra một
cách trực tiếp, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên cao hơn hết, Đảng Cộng sản
Đông Dương có chủ trương về vấn đề dân tộc đúng đắn, nh m thực hiện cho được
mục tiêu chủ yếu là độc lập dân tộc. Đảng c ng đề ra hàng loạt chủ trương và biện
pháp cách mạng đúng đắn, tích cực mở rộng khối đoàn kết dân tộc nh m tập hợp tất
cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân yêu nước trong công cuộc chuẩn bị để tiến lên
khởi nghĩa v trang, giành độc lập tự do. Đường lối đó phù hợp với nguyện vọng
của toàn thể nhân dân, của các giai cấp, của các dân tộc ở Đông Dương, phù hợp
với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa phát xít xâm lược.
Với những chủ trương của các hội nghị này, những hạn chế của “Luận cương chính
trị” (10-1930) đã được khắc phục hoàn toàn.
Sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn đó đánh dấu một bước trưởng
thành mới của Đảng Cộng sản Đông Dương, là sự trở lại với tư tưởng của Nguyễn
Ái Quốc đề ra trong “Cương lĩnh đầu tiên” (2-1930) và có ý nghĩa quyết định đến
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
B ng nhiều phương thức và thời điểm khác nhau, các nghị quyết trên được
truyền đạt đến các tỉnh Bắc Trung Bộ, trở thành ngọn cờ chỉ đạo đảng bộ các cấp và
nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ khẩn trương bước vào công cuộc chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền.
2.2.2. Kết hợp chuẩn bị với đấu tranh để tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8-1945, các tỉnh Bắc
Trung Bộ ra sức chuẩn bị về mọi mặt, kết hợp đấu tranh với chuẩn bị. Thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự chuẩn bị về mọi mặt và kịp thời
chớp lấy thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền.
2.2.2.1. Khôi phục tổ chức cơ sở Đảng sau các đợt khủng bố của thực dân Pháp
Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Xứ ủy Trung Kì đã có những
chủ trương và kế hoạch đối phó với chính sách khủng bố của đế quốc Pháp như:
Chuyển địa bàn hoạt động cho các xứ ủy viên, những cán bộ chủ chốt phải thoát li,
thay đổi khẩu hiệu và hình thức đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới. Tuy
54
nhiên, do sự khủng bố khốc liệt của chế độ phản động thuộc địa, có sự cấu kết chặt
chẽ của Nam triều và sự phá hoại của những phần tử A.B2 nên cuối năm 1939 cơ
quan Xứ ủy bị vỡ, hầu hết các xứ ủy viên bị bắt.
Do tình hình biến chuyển hết sức nhanh chóng, nhiều tổ chức Đảng ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ lúng túng, thiếu kịp thời chuyển hướng về tổ chức, tư tưởng và
phương pháp công tác cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt mất cảnh giác trước sự phá
hoại của các phần tử A.B nên khi Chiến tranh thế giới thứ hai vừa nổ ra thì hầu hết
cán bộ lãnh đạo của Đảng từ tỉnh đến huyện, xã đều bị thực dân Pháp bắt giam,
Tỉnh ủy của các tỉnh bị vỡ, các cơ sở đảng, cơ sở quần chúng tổn thất rất nặng nề.
Yêu cầu của cách mạng đặt ra là cần phải nhanh chóng khôi phục lại hệ thống tổ
chức Đảng ở các địa phương để thực hiện nhiệm vụ do Trung ương Đảng đề ra.
Sau một thời gian tạm lánh vào Sài Gòn, đầu tháng 1-1940, Bùi San - Ủy
viên Xứ ủy trở về Trung Kì hoạt động. Ngày 15-2-1940, Bùi San triệu tập một số
cán bộ ở các địa phương họp tại Thuận An (Thừa Thiên) để phổ biến Nghị quyết
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 và lập lại Xứ ủy Trung Kì. Một Xứ ủy
mới được thành lập gồm Bùi San, Hồ Xuân Lưu, Nguyễn Đức Dương, Trần Hữu
Dực, Lê Chưởng, Trần Mạnh Quỳ. Đồng thời, Xứ ủy phân công các xứ ủy viên và
cán bộ Xứ ủy đi phụ trách các địa phương: Bùi San, Hồ Xuân Lưu, Trần Mạnh Quỳ
phụ trách 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh; Nguyễn Đức Dương, Trần Văn
Ngoạn phụ trách 4 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam; Trần
Hữu Dực phụ trách các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận và 5 tỉnh Tây Nguyên [44, tr.222].
Trong số các tỉnh Bắc Trung Bộ, Quảng Trị là địa phương sớm nắm bắt được
tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1939. Theo “Hồi kí” của Hồ
Trí Tân, đầu tháng 12-1939, “chị Hoàng Thị Ái đã về Quảng Trị và mang theo một
số tài liệu, trong đó có dụng cụ ấn loát Nghị quyết Trung ương họp năm 1939. Sau
khi Mặt trận bình dân Pháp đổ, chúng tôi làm một cái chòi ở Hải Khê Đông để
nghiên cứu, in tài liệu” [119]. Do vậy, dù phải trải qua nhiều cuộc khủng bố của
thực dân Pháp từ cuối năm 1939 nhưng đến năm 1940, Đảng bộ Quảng Trị đã dần
được phục hồi, củng cố. Tính đến cuối năm 1940, toàn tỉnh có 70 chi bộ, trên 400
đảng viên. Các đoàn thể quần chúng phát triển mạnh vào giữa năm 1940 với gần
2 A.B: Viết tắt của cụm từ Antibolchevik: Chống cộng sản
55
4.000 hội viên. Ở phủ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến cuối năm 1939 đã có thêm 5
chi bộ với 20 đảng viên. Đầu năm 1940, Ban cán sự phủ được thành lập gồm 3 ủy
viên, do Nguyễn Văn Huyên phụ trách. Được sự giúp đỡ của Xứ ủy Trung Kì, tháng
3-1940, Tỉnh ủy lâm thời Nghệ An được lập lại gồm 3 ủy viên do Nguyễn Đức
Dương làm Bí thư. Các cấp bộ Đảng được thành lập ở Vinh, Nghi Lộc, Anh Sơn,
Diễn Châu, Hưng Nguyên, Thanh Chương. “Chỉ tính riêng ở Anh Sơn, đầu năm
1940 đã có 3 tổng ủy, 25 chi bộ với hơn 150 đảng viên” [20, tr.140]. Tại Vinh - Bến
Thủy, thành lập được 5 chi bộ đảng ở nhà máy Trường Thi, đề pô ga xe lửa Vinh,
đường phố, công nhân và những người làm công. Tháng 3-1940, Tỉnh ủy lâm thời
Hà Tĩnh được khôi phục, do Hà Quang Tập làm Bí thư. Tính đến cuối năm 1940,
Hà Tĩnh thành lập được 3 Huyện ủy ở các huyện Hương Sơn, Can Lộc, Đức Thọ và
1 chi bộ ở Hương Khê với 20 đảng viên [19, tr.154]. Tại Thừa Thiên, tháng 4-1940,
Thành ủy Huế được thành lập và bí mật xây dựng được một số chi bộ ở Bao Vinh,
An Cựu và Kim Long. Giữa năm 1940, Chi bộ nhà lao Thừa Phủ được thành lập do
Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư. Qua sự giới thiệu của Chi bộ nhà lao, một số tổ chức
Đảng ở các huyện Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Điền (Thừa Thiên), Quảng Trị và
Đà Nẵng đã liên lạc được với nhau. Tháng 11-1940, Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa
được lập lại do Trần Bảo làm Bí thư, ra báo “Tự do” làm cơ quan ngôn luận.
Sau cuộc binh biến Đô Lương (1-1941) và cuộc bạo động ở Hương Sơn (5-
1941), thực dân Pháp và Nam triều tăng cường khủng bố, bắt bớ, phá vỡ nhiều tổ
chức Đảng mới phục hồi, hàng trăm cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng bị
bắn giết và giam giữ, các tổ chức quần chúng đều ngừng hoạt động. Trong hồ sơ
lưu trữ của thực dân Pháp c ng phản ánh về vấn đề này [100], [105], [111], [113].
Đêm 29 rạng ngày 30-5-1941, Bùi San và Hồ Xuân Lưu, đại diện cho Xứ ủy
Trung Kì đi dự Hội nghị Trung ương 8 về đến ga Cầu Giát (Nghệ An) thì bị mật
thám Pháp và tay sai đón bắt [164], [165]. Tiếp đó, ngày 19-7-1941, Trần Văn
Ngoạn bị bắt tại Huế; ngày 16-8-1941, Trần Mạnh Quỳ c ng bị sa lưới mật thám
Pháp tại Yên Thành (Nghệ An). Ngày 19-8-1941, cơ quan ấn loát cuối cùng của Xứ
ủy Trung Kì ở Hưng Nguyên bị phá vỡ. Đến ngày 9-9-1941, Trần Hữu Dực bị bắt
tại Ninh Thuận, Xứ ủy không còn.
Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, Trung ương đặt cơ quan ở vùng
ven Hà Nội và thiết lập đường dây liên lạc với Đảng bộ Trung Kì. Đó là đường dây
56
liên lạc Hà Nội - Vinh - Quảng Trị - Huế do Nguyễn Thị Quang Thái, Phạm Thị Hà
(tức Châu), Phan Thị Lợi và Lê Thị Nhồng (tức Nam) phụ trách. Qua đường dây
này, tháng 8-1941, Trương Văn An (Tỉnh ủy Quảng Nam) bắt liên lạc với Trung
ương, nhận được các tài liệu quan trọng như: “Chương trình”, “Điều lệ” của Mặt
trận Việt Minh và thư của Nguyễn Ái Quốc. Đồng thời, Trung ương chỉ thị cho
Trương Văn An trở về bắt liên lạc với Lê Chưởng, Trương Hoàn lập lại Xứ ủy
Trung Kì để chỉ đạo phong trào. Tháng 9-1941, Trương Văn An đã gặp Lê Chưởng,
Trương Hoàn tại cơ quan Tỉnh ủy Quảng Trị ở Gia Đẳng (Triệu Phong), lập ra Xứ
ủy lâm thời Trung Kì do Lê Chưởng làm Bí thư. Do phong trào ở Quảng Trị và Bắc
Trung Bộ đang bị đánh phá, cơ quan Xứ ủy được đặt tại La Thọ (Điện Bàn, Quảng
Nam). Tuy nhiên, sau các cuộc khủng bố liên tiếp cuối năm 1941 đầu năm 1942 của
thực dân Pháp, phong trào cách mạng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ gặp muôn vàn khó
khăn. Trước tình hình đó, tháng 6-1942, Ban Thường vụ lâm thời Xứ ủy Trung Kì
ra lời hiệu triệu kêu gọi cán bộ, đảng viên tích cực hoạt động, khôi phục tổ chức cơ
sở Đảng: “Phải tìm cách chỉnh đốn lại những tổ chức của Đảng và của quần chúng
bị tan vỡ. Nơi nào chi bộ cũ bị bắt hết hay một phần mà còn liên lạc được quần
chúng thì phải đào tạo thêm người tổ chức ra chi bộ mới. Nơi nào mất hẳn hết liên
lạc, thì hãy chiến đấu chắp mối lại” [154, tr.2]. Hưởng ứng lời kêu gọi của Xứ ủy
Trung Kì, cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên các tỉnh Bắc Trung Bộ đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, đấu tranh phục hồi cơ sở cách mạng và tổ chức Đảng.
Tại Hà Tĩnh, những cán bộ, đảng viên thoát được đợt khủng bố của thực dân
Pháp giữa năm 1941, đầu năm 1942 vẫn bám sát cơ sở, hướng dẫn quần chúng, bí
mật tổ chức xây dựng lại lực lượng. Báo cáo số 1418 ngày 18-2-1942 của Mật thám
Hà Tĩnh gửi Khâm sứ Trung Kì đã đề cập đến những hoạt động này: “Có những tin
báo có triệu chứng hoạt động cộng sản ở Trúc Lâm - Hương Khê. Có những tổ
chức ái hữu như trung tam thôn, hội gặt lúa do các chính trị phạm bị tù trở về thành
lập hoạt động” [107]. Tháng 8-1943, thực dân Pháp lại tiến hành khủng bố, phần
lớn cán bộ, đảng viên từ cơ sở đến tỉnh bị bắt. Trong khi đó, những cán bộ, đảng
viên và quần chúng tích cực chưa bị bắt vẫn tiếp tục xây dựng cơ sở, các tổ chức
tương tế, ái hữu dần dần mở rộng.
Tháng 8-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị được tổ
chức tại An Nha (Gio Linh), cử Trương Hoàn làm Bí thư Tỉnh ủy. Sau hội nghị, tổ
57
chức Đảng phát triển ở 5 phủ huyện, thị xã Quảng Trị, thị trấn Đông Hà và trong
các đồn điền dọc đường 9 với 5 phủ huyện ủy, 30 chi bộ. Cuối năm 1942, thực dân
Pháp khủng bố ác liệt, cơ sở đảng bị tổn thất nặng nề, phong trào cách mạng ở
Quảng Trị tạm lắng. Vấn đề này c ng được phản ánh trong báo cáo số 1633/c ngày
2-12-1943 của Tuần v Quảng Trị: “Trong tháng 11 vừa qua, trong tỉnh hạt tôi
được ninh thiếp3, nhân dân chăm lo làm ăn, không nghe có tư tưởng gì lạ” [106].
Tháng 7-1942, Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hoá được lập lại do Lê Tất Đắc làm
Bí thư. Tỉnh ủy chủ trương thành lập Thanh Hóa ái quốc hội và xây dựng tổ chức cơ
sở Đảng ở những địa bàn mới như Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Ho ng Hóa…
Cuối năm 1942, Tỉnh ủy bắt được liên lạc với cơ sở Đảng ở Hà Nội, nhận được
“Nghị quyết Trung ương 8” và “Chương trình” của Việt Minh. Đầu năm 1943, Bí
thư Tỉnh ủy lâm thời Thanh Hóa là Lê Tất Đắc ra Bắc gặp được Hoàng Văn Thụ.
Tại cuộc gặp này, Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương công nhận Đảng bộ Thanh
Hóa, đồng thời giao cho Thanh Hóa nhiệm vụ bắt liên lạc với các tỉnh miền Trung
để tìm lại Xứ ủy, nếu không còn thì xúc tiến lập Xứ ủy mới [53, tr.74]. Sau khi liên
lạc với Trung ương, hệ thống tổ chức Đảng được xây dựng tại một số phủ, huyện
đồng b ng và trung du trong tỉnh.
Tại Nghệ An, tháng 2-1942, Phủ ủy Diễn Châu được thành lập. Tuy nhiên,
ngày 11-6-1942, Phạm Tự và Trần Ti trong Phủ ủy Diễn Châu bị địch bắt, tổ chức
Đảng ở Diễn Châu vừa mới được lập lại đã bị phá vỡ. Điều này c ng được phản ánh
trong phụ lục công văn số 621 ngày 17-7-1942 của Mật thám Trung Kì: “Các hoạt
động trấn áp đánh vào một mầm mống tổ chức lại cộng sản của Nghệ An đã bắt
được 6 đảng viên và cảm tình Đảng ở phủ Diễn Châu” [108, tr.47]. Tháng 9-1943,
Tỉnh ủy Thanh Hóa cử Nguyễn Xuân Linh về Nghệ An xây dựng cơ sở nhưng vào
Nghệ An chưa đầy một tuần, ông đã sa bẫy của mật thám Pháp. Hoạt động của
Đảng bộ Nghệ An đến năm 1943 tạm thời bị gián đoạn.
Tại Quảng Bình, tháng 3-1942, Ban liên lạc Đảng huyện Lệ Thủy được
thành lập và bí mật xây dựng cơ sở mới ở Quy Hậu, Tuy Lộc, Hòa Bắc. Giữa năm
1942, Phủ ủy Quảng Trạch được thành lập và xây dựng thêm cơ sở ở Bố Trạch và
Tuyên Hóa. Các đảng viên ở Đồng Hới, Quảng Ninh tích cực hoạt động, gây dựng
3 Ninh thiếp: ninh (寧) an ninh, yên ổn; thiếp (帖) tuân theo, quy phục. Nghĩa chung: nhiệm vụ bảo đảm về
an ninh.
58
cơ sở trong quần chúng nhân dân. Từ tháng 11-1942 đến tháng 3-1943, thực dân
Pháp và Nam triều tiến hành khủng bố, các tổ chức Đảng ở Lệ Thủy, Quảng Trạch
bị đánh phá, nhiều đảng viên, quần chúng cảm tình bị bắt. Trước tình hình đó, các
đảng viên có khả năng bị lộ ở Lệ Thủy, Quảng Trạch tạm lánh qua Lào và Xiêm,
những đảng viên còn lại bám sát cơ sở, ổn định tinh thần quần chúng. Ở những nơi
không bị lộ như Bố Trạch, Đồng Hới và Quảng Ninh, đảng viên vẫn hoạt động bình
thường nhưng hết sức đề cao cảnh giác đề phòng địch khủng bố dây chuyền.
Tháng 7-1942, Tỉnh uỷ Thừa Thiên được lập lại do Nguyễn Chí Thanh làm
Bí thư. Cuối năm 1942, Huyện ủy lâm thời Phú Lộc được thành lập. Liên chi ủy
Phong - Quảng phát triển thêm nhiều đảng viên mới và tách ra làm hai chi bộ: Chi
bộ Phong Điền và Chi bộ Quảng Điền. Các chi bộ ghép Hương Thủy - Phú Lộc,
Hương Trà - ngoại ô Huế hình thành và hoạt động tích cực. Sau khi Nguyễn Chí
Thanh bị bắt, tháng 7-1943, Tỉnh ủy lâm thời tổ chức hội nghị bàn kế hoạch hoạt
động, đẩy mạnh phong trào, cử cán bộ đi tìm bắt liên lạc với cấp trên, xin chỉ thị
mới và bầu bổ sung ban chấp hành, Nguyễn Sơn được cử làm Bí thư Tỉnh ủy.
Tính đến tháng 3-1945, 4/6 tỉnh ở Bắc Trung Bộ có tổ chức Đảng là Thanh
Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên; trong đó 2 tỉnh có cơ quan tỉnh ủy lãnh
đạo là Thanh Hóa, Thừa Thiên. Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh có đảng viên hoạt động
song không lập lại được tổ chức Đảng.
Như vậy, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội nhưng sau một thời gian,
tổ chức Đảng ở phần lớn các tỉnh Bắc Trung Bộ được củng cố lại và có bước phát
triển. Tuy chưa được đều khắp, thiếu vững chắc nhưng sự khôi phục lại bộ máy lãnh
đạo các cấp đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng,
c ng như trong lãnh đạo phong trào cách mạng, thể hiện sự sáng tạo lớn của cán bộ,
đảng viên và khả năng thích ứng của tổ chức Đảng địa phương. Đây là một nhân tố
cực kì quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình chuẩn bị lực lượng cách mạng
tại các địa phương.
2.2.2.2. Xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng
Xây dựng lực lượng chính trị
Sau khi tiếp nhận Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tháng 11-1939, tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, công tác xây dựng các hội phản đế đạt
được những kết quả bước đầu. Tỉnh ủy Quảng Trị chủ trương chuyển các tổ chức
59
quần chúng từ công khai thành các đoàn thể “phản đế” như Nông dân phản đế, Phụ
nữ phản đế, Thanh niên phản đế,… hệ thống tổ chức quần chúng có những nơi lên
đến cấp huyện. Ở Triệu Phong, các hội nông dân, phụ nữ, thanh niên đều có Ban
chấp hành huyện. Ở Nghệ An, công tác xây dựng các tổ chức của Mặt trận phản đế
được xúc tiến mạnh mẽ. Chỉ tính riêng huyện Anh Sơn, đầu năm 1940 đã có “360
hội viên nông hội, 21 tổ phụ nữ giải phóng với 180 hội viên, 5 tổ hội thanh niên
phản đế với 250 hội viên” [20, tr.140]. Tại Vinh - Bến Thủy, Đoàn thanh niên phản
đế cứu quốc được thành lập, thu hút một số lượng đáng kể học sinh, thanh niên
thành phố tham gia. Trong phạm vi toàn tỉnh, những hội viên còn hoạt động trong
các phường hội tương tế, ái hữu đều được chuyển sang làm nòng cốt cho các đoàn
thể phản đế của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh... hoạt động theo
đường lối của Đảng. Để có tài liệu huấn luyện cho cán bộ, đảng viên, Tỉnh ủy Nghệ
An đã biên soạn và phổ biến cuốn “Tóm tắt công tác chi bộ”; đồng thời xuất bản
báo “Cởi ách” làm cơ quan tuyên truyền. Sau khi được lập lại, tháng 7-1940, Huyện
ủy Hương Sơn (Hà Tĩnh) ban hành kế hoạch hoạt động “giải thích cho quần chúng
thấu hiểu về tình hình thế giới và trong nước, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham
gia các hội phản đế” [99]. Ở Thanh Hóa, triển khai Nghị quyết của Hội nghị Đảng
bộ tỉnh (11-1940), các cơ sở đảng trong tỉnh khẩn trương tổ chức chỉ đạo, xây dựng
Hội phản đế cứu quốc. Phong trào xây dựng Hội phản đế cứu quốc phát triển mạnh
ở Thạch Thành, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, thị xã Thanh Hóa, Ho ng Hóa,
Hậu Lộc. Hầu hết các cơ sở cách mạng c đã tổ chức Hội phản đế cứu quốc, nhiều
làng còn tổ chức các đoàn thể như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc [23,
tr.121]. Tại Thừa Thiên, từ cuối năm 1941 các tổ chức xã hội như Thanh niên Phật
tử, Thanh niên thể dục thể thao, Hội truyền bá quốc ngữ được thành lập, thu hút sự
tham gia đông đảo của thanh niên, trí thức, tín đồ Phật tử trên địa bàn tỉnh.
Sau khi nhận được “Nghị quyết Trung ương 8”, từ đầu năm 1942, Tỉnh ủy
Quảng Trị đã thành lập Ủy ban Việt Minh hay Ủy ban vận động Việt Minh ở một số
nơi, đồng thời chuyển các hội phản đế thành các hội cứu quốc như Hội nông dân
cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc,
Đoàn thanh niên cứu quốc… Tính đến cuối năm 1942, toàn tỉnh đã thành lập được
khoảng 50 Ủy ban Việt Minh và vận động được gần 6.000 quần chúng tham gia các
hội cứu quốc [170]. Các báo “Cứu quốc”, báo “Dân tộc” của Xứ ủy Trung Kì, “Cờ
60
khởi nghĩa” của Liên Tỉnh ủy Bình - Trị - Thiên được tuyên truyền trong quần
chúng nhân dân. Để đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, tuyên truyền
“Nghị quyết Trung ương 8” và “Chương trình” của Việt Minh, Tỉnh ủy Quảng Trị
quyết định xuất bản tờ báo “Cờ khởi nghĩa”. Nhờ vậy, “Chương trình”, “Điều lệ” của
Việt Minh được tuyên truyền ở hầu khắp các phủ huyện, cờ đỏ sao vàng được treo ở
nhiều nơi, ảnh hưởng của Việt Minh lan rộng, không khí cách mạng dâng cao trong
quần chúng.
Trong bối cảnh Đảng bộ Nghệ An chưa được khôi phục, những quần chúng
tích cực ở cơ sở, nhất là tầng lớp thanh niên, học sinh, vẫn bí mật hoạt động. Được
một số cán bộ, đảng viên ở Hà Nội, Huế bắt liên lạc và cho xem sách, báo, tài liệu,
truyền đơn của Đảng, của Mặt trận Việt Minh, họ đã tự tổ chức ra các nhóm cứu
quốc để hoạt động ở một số nơi như Vinh, Quỳnh Lưu, Diễn Châu.
Tại Quảng Bình, việc tuyên truyền đường lối của Đảng và chương trình của
Mặt trận Việt Minh được tổ chức ở Lệ Thủy, Quảng Trạch, Bố Trạch. Ban liên lạc
Đảng huyện Lệ Thủy còn mở các lớp huấn luyện Việt Minh cho một số đối tượng
nhiệt tình, hăng hái để làm nòng cốt thành lập Mặt trận Việt Minh. Ở Đồng Hới, cơ
sở Việt Minh được xây dựng ở nhà máy điện, ga Thuận Lí, Sở Công chánh, xóm
Phố, xóm Cầu… Từ những cơ sở này, “Chương trình” của Mặt trận Việt Minh
“được truyền đạt đến đội ngũ công nhân tự do làm nghề dịch vụ, công nhân của các
tiệm may, xưởng mộc, xưởng đúc, phu xây đất, công nhân Sở Dây thép (bưu điện)
và công nhân lục bộ (giao thông). Đặc biệt, qua nhóm công nhân nhà ga Thuận Lí,
bộ phận công nhân đường sắt cũng được tiếp thu chương trình và những chính sách
của Mặt trận Việt Minh” [120, tr.548]. Tại Thừa Thiên, sau Hội nghị cán bộ Đảng
toàn tỉnh (7-1942), “Nghị quyết Trung ương 8” và “Chương trình” của Mặt trận
Việt Minh được phổ biến về các cơ sở. Việc thành lập Mặt trận Việt Minh các cấp
được tiến hành khẩn trương, chấn chỉnh Hội nông dân, thu hút thêm nhiều hội viên
mới, Đoàn thanh niên phản đế đổi thành Thanh niên cứu quốc hội. Những đảng viên
có kinh nghiệm được phân công tham gia vào các tổ chức xã hội như Hội truyền bá
quốc ngữ, Thanh niên phật tử để giáo dục vận động quần chúng hưởng ứng đường
lối của Mặt trận Việt Minh. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên còn mở các lớp huấn
luyện cho cán bộ, đảng viên trong tỉnh.
61
Tại Thanh Hóa, sau khi tiếp nhận được “Nghị quyết Trung ương 8” và
“Chương trình” của Việt Minh, cuối năm 1942, Tỉnh ủy quyết định chuyển Thanh
Hóa ái quốc hội thành Mặt trận Việt Minh và đẩy mạnh việc thành lập các đoàn thể
cứu quốc. Cơ sở của Mặt trận Việt Minh phát triển mạnh ở Thọ Xuân, Thiệu Hóa,
Yên Định. “Các đoàn thể cứu quốc đã có sáng kiến tổ chức phong trào chăn nuôi
cứu quốc, trồng cây cứu quốc” [133]. Các hội viên lợi dụng các buổi uống nước
chè, đám cưới, đám ma, lợp nhà, chỗ đông người... để tuyên truyền cách mạng trong
quần chúng. Để tăng cường đội ng cán bộ lãnh đạo, Việt Minh Thanh Hóa vận
động các cựu chính trị phạm tham gia mặt trận: “Nay nhân danh cách mệnh, nhân
danh các tầng lớp nhân dân, tin cậy ở bao lời tâm huyết, hùng hồn của các bạn đã
từng nói trước đây, chúng tôi thiết tha mời các bạn tham gia Việt Nam Độc lập
Đồng minh” [78]. Bên cạnh đó, Việt Minh Thanh Hóa còn vận động hào lí ở làng
xã tham gia phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. “Hỡi các bạn tổng lí!
Lệnh bắt phu đã mang tới một họa lớn cho các bạn. Thiếu phu, mất phu, các bạn bị
chửi mắng, roi đòn! Muốn tránh khổ nhục, các bạn chỉ còn một cách là đoàn kết
cùng nhân dân tranh đấu” [79]. Nhờ những phương pháp vận động sáng tạo nên
sau một thời gian, Mặt trận Việt Minh các phủ, huyện, thị xã lần lượt ra đời, các
đoàn thể cứu quốc từng bước được thành lập.
Đầu năm 1943, tổ chức Đảng ở Hà Tĩnh vẫn chưa liên lạc được với Trung
ương nên chưa nắm được thật cụ thể các nghị quyết của Đảng. Trước tình hình đó,
một số cán bộ lãnh đạo phong trào đã vận dụng những hiểu biết trước đây của mình,
thành lập một tổ chức cách mạng, lấy tên là Hội Việt Nam cứu quốc. Hội đã ra sức
tuyên truyền, phát triển hội viên, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân. Sau khi
thành lập, Hội Việt Nam cứu quốc Hà Tĩnh bắt liên lạc được với tổ chức Đảng ở
Nghệ An. Nhờ đó, Hà Tĩnh nhận được các tài liệu như “Nghị quyết Trung ương 8”,
“Chương trình Việt Minh”, “Vấn đề du kích chiến tranh”. Tháng 4-1943, Hội Việt
Nam cứu quốc Hà Tĩnh đổi thành Mặt trận cứu quốc và đề ra chương trình hoạt động:
“- Liên lạc với các gia đình cơ sở cũ, bắt mối lại về tổ chức, chuẩn bị cho
việc hình thành Mặt trận Việt Minh Hà Tĩnh.
- Tổ chức một cơ quan in tài liệu.
- Chuẩn bị các điều kiện như vũ khí, lương thực, quần áo để khi có tình hình
thuận tiện thì tổ chức đội vũ trang, xây dựng căn cứ du kích” [3].
62
Mặt trận cứu quốc Hà Tĩnh đã tích cực xây dựng cơ sở và phát triển mạnh ở
các huyện Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Hương Sơn, Hương Khê. Để
có thêm phương tiện tuyên truyền, mặt trận đã xây dựng cơ quan ấn loát ở Trại
Hồng (Can Lộc) in các tài liệu, báo chí của Đảng, của Mặt trận Việt Minh và
chuyển về các vùng trong tỉnh.
Điểm nổi bật trong việc xây dựng lực lượng chính trị ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ là sự phát triển của Hội truyền bá quốc ngữ. Nhiều lớp học đã được mở ở thị xã
Thanh Hóa, thành phố Vinh, thị xã Đồng Hới và thành phố Huế, thu hút đông đảo
sinh viên trí thức tham gia. Hội đã tổ chức những buổi nói chuyện về các danh y,
các cuộc thi câu đối nôm, diễn thuyết, trưng bày, soạn sách vở, tổ chức các lớp học
Pháp văn, cấp b ng và phần thưởng cho những người hoàn thành khóa học. Việc tổ
chức Đảng các tỉnh đưa những cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm vào sinh hoạt
trong các Hội truyền bá quốc ngữ đã kịp thời giáo dục, vận động quần chúng hưởng
ứng chủ trương của Đảng và Mặt trận Việt Minh, đưa hoạt động của hội phát triển
đúng hướng. Tuy không mạnh b ng các tỉnh, thành đồng b ng Bắc Bộ và Nam Bộ
nhưng thông qua hoạt động của Hội truyền bá quốc ngữ ở các tỉnh Bắc Trung Bộ,
nhiều giáo viên và thanh niên đã liên lạc với tổ chức thanh niên cứu quốc, trở thành
cán bộ của quần chúng và Mặt trận Việt Minh.
Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa
Đầu năm 1941, Xứ ủy lâm thời Trung Kì nhận định tình hình cho r ng có
những điều kiện để tiến hành v trang toàn dân chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa
tại địa phương. Trong “Thông tri” ngày 15-2-1941 gửi đảng bộ các tỉnh, Xứ ủy chủ
trương: “Chúng ta nhất thiết phải áp dụng chiến thuật du kích để thắng kẻ thù và
khi ta dùng chiến thuật ấy, thì tuyệt đối không cần thiết phải làm một cuộc tổng
khởi nghĩa trên toàn cõi Đông Dương nhưng bước đầu ta có thể làm ở vài tỉnh,
những phong trào địa phương cùng lúc mà có thể tiếp tục ở những tỉnh khác”
[156]. Bản “Thông tri” còn giải thích thêm: “Trong khi quân Anh tấn công Pháp và
Nhật phía trước, chúng ta tấn công phía sau và ta nổi dậy cướp chính quyền. Trên
cơ sở đó sẽ phát triển phong trào khởi nghĩa nhằm mở rộng chính quyền, mở rộng
phong trào cách mạng trong cả nước và toàn Đông Dương” [156].
Sau khi có chủ trương của Xứ ủy Trung Kì, công tác xây dựng lực lượng v
trang và căn cứ địa được đẩy mạnh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tại Thanh Hóa, trên
63
cơ sở Hội phản đế cứu quốc phát triển mạnh, các cán bộ, đảng viên chỉ đạo xây
dựng lực lượng tự vệ và du kích ở các làng, tổng làm nòng cốt cho phong trào đấu
tranh cách mạng của quần chúng. Ở hầu hết các địa phương có Hội phản đế cứu
quốc đều xây dựng lực lượng tự vệ. Để lực lượng tự vệ có điều kiện luyện tập và
công tác, Hội phản đế cứu quốc đã vận động quần chúng đóng góp lương thực, thực
phẩm, thuốc men, v khí. Sau Hội nghị đại biểu các cơ sở đảng toàn tỉnh (2-1941),
công tác xây dựng lực lượng v trang cách mạng diễn ra khẩn trương và đạt được
những kết quả đáng khích lệ. “Ở Thọ Xuân, phần lớn các làng, tổng đã xây dựng
được đội tự vệ cứu quốc có khoảng 40 chiến sĩ. Làng Long Linh Ngoại, đội tự vệ
cứu quốc có quân số gần 100 người, được tổ chức chặt chẽ theo nguyên tắc tam chế
(3 người một tổ, 3 tổ thành tiểu đội, 3 tiểu đội thành trung đội)” [23, tr.124]. Tuy
nhiên, ở một số địa phương các đội tự vệ được trang bị đồng phục khiến nguy cơ
bộc lộ lực lượng rất lớn, thực dân Pháp có cớ để đàn áp phong trào. Trước tình hình
đó, Tỉnh ủy đã ra Thông cáo khẩn cấp gửi các cấp đảng bộ cảnh báo: “Bọn mật
thám hiện chui rúc vào hàng ngũ chúng ta, cổ động anh em mặc thêm, rồi nay mai
chúng cứ nhè những anh em có đồ đặc biệt ấy mà bắt cho hết” [134]. Để chấm dứt
tình trạng trên, Tỉnh ủy chỉ rõ: “Các đồng chí hãy giải thích cho anh em hiểu sự lợi
hại về lối ăn mặc giống nhau ấy... Nếu đồng chí khuyên anh em nào không nghe,
đồng chí có toàn quyền trừ khử bí mật” [134].
Trên cơ sở xây dựng và phát triển các đội tự vệ, các cán bộ, đảng viên đã lựa
chọn những người can đảm, trung thành xây dựng các tiểu tổ du kích. Ba tiêu chí
của chiến sĩ du kích đã được Hội phản đế cứu quốc chỉ rõ: “Chiến sĩ du kích là
người có tinh thần cảm tử, tuyệt đối trọng kỉ luật, có khả năng tổ chức vận động
quần chúng” [146]. Ngày 10-7-1941, Huyện ủy Hội phản đế cứu quốc Thạch Thành
(Thanh Hóa) đã chọn 11 chiến sĩ du kích đưa về Ngọc Trạo xây dựng cơ sở cách
mạng và chuẩn bị cơ sở vật chất cho chiến khu. Cuối tháng 7-1941, chiến khu Ngọc
Trạo được thành lập cùng với ban lãnh đạo của chiến khu gồm: Đặng Châu Tuệ,
Đặng Văn Hỉ, Trịnh Huy Lãn, do Đặng Châu Tuệ phụ trách chung. Cùng với ban
lãnh đạo chiến khu, còn có những cán bộ cốt cán từ nhiều cơ sở khác tới hoạt động.
Một số cán bộ, tự vệ và du kích ở cơ sở được tổ chức Đảng lựa chọn đưa đến Ngọc
Trạo chuẩn bị hậu cần cho chiến khu, cơ quan ấn loát của Tỉnh ủy Thanh Hóa được
chuyển từ Yên Định lên Ngọc Trạo. Để bảo vệ an toàn cho cơ quan lãnh đạo chiến
64
khu, các tiểu đội tự vệ làng Ngọc Trạo tích cực tuần tra canh gác, nhân dân đóng
góp lương thực, thực phẩm nuôi dưỡng cán bộ cách mạng. Ngày 19-9-1941, tại
Hang Treo (Hà Long, Hà Trung) đội du kích Ngọc Trạo được thành lập gồm 21
chiến sĩ do Đặng Châu Tuệ làm chỉ huy trưởng. Đội du kích Ngọc Trạo được phiên
chế thành 3 tiểu đội. Bên cạnh ban chỉ huy chung, đội còn có ban chỉ huy quân sự,
hậu cần, bảo vệ. Hàng ngày buổi sáng các chiến sĩ được học quân sự, buổi chiều
học chính trị, buổi tối sinh hoạt văn nghệ. Các chiến sĩ được trang bị dao, kiếm,
súng hỏa mai, súng kíp để luyện tập và chiến đấu. Đến cuối tháng 9-1941, quân số
của đội lên tới 84 chiến sĩ và được phiên chế lại theo từng bộ môn: Tiểu đội súng,
tiểu đội trinh sát, trung đội cảm tử, ban tiếp tế, tổ liên lạc, tổ sản xuất v khí.
Ngày 18-10-1941, thực dân Pháp huy động 500 lính và hàng ngàn tuần đinh,
chia làm bốn cánh quân bao vây chiến khu Ngọc Trạo. Ngày 19-10-1941, chúng bí
mật tập kích vào các vọng gác tiền tiêu, sau đó bao vây trung đội cảm tử của đội du
kích Ngọc Trạo. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, nhưng do tương quan lực lượng
quá chênh lệch nên tối ngày 19-10-1941 đội du kích đã bí mật rút khỏi Ngọc Trạo
về Cẩm Bào - Xuân Áng (Vĩnh Lộc). Ngày 25-10-1941, ban chỉ huy chiến khu
quyết định phân tán lực lượng về địa phương dựa vào nhân dân tiếp tục đấu tranh.
Như vậy, trong bối cảnh chưa nhận được “Nghị quyết Trung ương 8” nhưng
Đảng bộ Thanh Hóa đã căn cứ tình hình cụ thể của địa phương, xây dựng chiến khu
Ngọc Trạo, thành lập đội du kích để bảo vệ chiến khu là một chủ trương đúng đắn
và sáng tạo, nh m đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng trong tỉnh. Đây là
chiến khu cách mạng và lực lượng v trang ra đời sớm nhất ở các tỉnh Trung Kì và
gần như cùng thời gian với một số căn cứ địa, trung đội cứu quốc quân ở các tỉnh
trung du, miền núi Bắc Bộ lúc bấy giờ. Đặc biệt, đội du kích Ngọc Trạo được tổ
chức khá bài bản, việc trang bị v khí và các kiến thức về quân sự, chính trị cho các
chiến sĩ được ban lãnh đạo chiến khu và Tỉnh ủy Thanh Hóa hết sức quan tâm. Bên
cạnh những ưu điểm, quá trình ra đời và hoạt động của chiến khu Ngọc Trạo còn
bộc lộ một số hạn chế.
Chiến khu Ngọc Trạo tuy được thành lập sớm nhưng trong bối cảnh phong
trào cách mạng cả nước và khu vực c ng như tỉnh Thanh Hóa gặp muôn vàn khó
khăn, mối liên lạc với Xứ ủy Trung Kì và Trung ương Đảng nhiều lần bị gián đoạn.
Trong quá trình hoạt động, ban lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo chưa thực sự quan
65
tâm đến công tác xây dựng cơ sở Đảng, chưa xây dựng được những căn cứ phụ để
hỗ trợ cho chiến khu. Mặc dù có địa thế hiểm trở nhưng chiến khu Ngọc Trạo lại ở
gần các tuyến đường chính và đồn bốt của đế quốc Pháp nên dễ bị lộ; Ngọc Trạo là
một bản nghèo, đất đai khô c n, nhân dân thiếu đói quanh năm, do đó việc cung ứng
lương thực cho chiến khu gặp rất nhiều khó khăn.
Mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng chiến khu Ngọc Trạo là
đỉnh cao của phong trào phản đế cứu quốc ở Thanh Hóa, có ảnh hưởng to lớn đối
với nhân dân địa phương và các tỉnh xung quanh, trở thành cơ sở cách mạng quan
trọng để Trung ương Đảng quyết định xây dựng chiến khu Hòa - Ninh - Thanh
trong thời kì tiền khởi nghĩa.
Tháng 3-1942, Ban liên lạc Đảng huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) thành lập đội
tự vệ gồm 13 chiến sĩ làm nhiệm vụ theo dõi, bảo vệ cơ sở, bảo vệ các cuộc mít tinh
và cán bộ, đảng viên. Tại Phú Lộc (Thừa Thiên), tháng 7-1942, thành lập đội tự vệ
bí mật (gọi là đội Xích vệ) gồm 7 chiến sĩ, trang bị giáo mác, dao găm, tích cực
luyện tập để bảo vệ cơ quan đầu não của huyện và chuẩn bị làm nhiệm vụ mới.
Tháng 4-1943, Mặt trận cứu quốc Hà Tĩnh thành lập các đội tự vệ; đồng thời phân
công các địa phương chuẩn bị những trang bị cần thiết như quần áo, giáo, mác,
lương thực. Các căn cứ du kích ở Ngàn Trươi và Truông Bát (Hương Khê) được
xây dựng. Dưới hình thức các nhóm học võ dân tộc, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa
chọn lựa một số người có đủ tiêu chuẩn vào các đội tự vệ cứu quốc. Tháng 3-1944,
Tỉnh ủy Thanh Hóa mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên tại Nga Sơn do Hoàng Tiến
Trình và Trương Vân Lĩnh phụ trách. Sau lớp học này, Tỉnh ủy tiếp tục mở nhiều
lớp huấn luyện đào tạo cán bộ tiểu đội và trung đội đáp ứng yêu cầu xây dựng phát
triển lực lượng v trang tại địa phương.
Để thúc đẩy việc chuẩn bị lực lượng và tiến hành khởi nghĩa giành chính
quyền khi thời cơ đến, ngày 7-5-1944, dựa vào chủ trương của Trung ương Đảng,
Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Thực hiện chỉ thị của Tổng bộ
Việt Minh, các tỉnh Bắc Trung Bộ đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng v trang.
Tại Thừa Thiên, giữa năm 1944, Huyện ủy Phú Lộc chủ trương củng cố và
phát triển đội tự vệ Diêm Trường. Ngày 24-6-1944, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa được tổ chức tại Vĩnh Liệt (Hà Trung) chủ trương gấp rút mở thêm
nhiều lớp huấn luyện chính trị, quân sự ngắn hạn, đào tạo thêm nhiều cán bộ chính
66
trị, quân sự để cung cấp cho cuộc khởi nghĩa sắp tới. Để đáp ứng yêu cầu đó, mỗi
huyện, phủ phải có một địa điểm bí mật huấn luyện chính trị, quân sự [24, tr.144-
145]. Ngày 15-9-1944, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa ra Chỉ thị “Kíp sửa soạn khởi
nghĩa”. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh bộ Việt Minh, các phủ huyện đẩy mạnh phong
trào quyên góp tiền lập quỹ mua súng, tập trung lò rèn sản xuất dao, kiếm, mã tấu,
các đội tự vệ và du kích tổ chức bao vây đánh úp các tổ tuần tiễu, các đồn lẻ của
lính khố xanh và lính Nhật tước v khí. Phong trào luyện tập quân sự như tập bắn
súng, tập võ, tập trận diễn ra sôi nổi. Cùng với luyện tập quân sự, lực lượng v trang
tích cực tuần tra canh gác bảo vệ các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt
Minh và hỗ trợ quần chúng đấu tranh. Tháng 2-1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa chủ
trương đổi tờ báo “Đuổi giặc nước” thành tờ báo “Khởi nghĩa”. Báo “Khởi nghĩa”
số 1, ra ngày 15-2-1945 có lời kêu gọi: “…Hỡi các giới đồng bào yêu nước! Hỡi
các đồng chí cứu quốc! Cơ hội khởi nghĩa không đợi người, bỏ lỡ dịp tốt này là tội
lớn…” [72]. Để đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa, ngày 3-3-1945, Hội nghị
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được tổ chức đề ra chủ trương “đẩy mạnh hoạt động của
các lực lượng vũ trang, chủ động tập kích, lấy vũ khí địch tự trang bị, đẩy mạnh các
cuộc diễn thuyết xung phong, vạch tội ác của Nhật - Pháp và tay sai, kêu gọi đồng
bào ủng hộ Việt Minh, đoàn kết toàn dân chống kẻ thù chung” [23, tr.147-148].
Quá trình khôi phục hệ thống tổ chức Đảng kết hợp với chuẩn bị về lực
lượng chính trị và lực lượng v trang trên đây nh m tạo ra thế và lực cho cuộc vận
động giải phóng dân tộc ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
2.2.2.3. Đấu tranh chống đế quốc - phát xít và tay sai
Cùng với quá trình tạo thế, tạo lực để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền,
phong trào đấu tranh chống đế quốc - phát xít và tay sai đã diễn ra thu hút các giai
cấp và tầng lớp nhân dân tham gia. Các chi bộ cộng sản được thành lập tại nhà lao
Đồng Hới, Lao Bảo, Quảng Trị, Thừa Phủ cuối năm 1939, đầu năm 1940. Ở các
nhà lao Hà Tĩnh, Vinh và Thanh Hóa, tuy tù chính trị không lập được chi bộ nhưng
c ng hình thành những nhóm trung kiên làm nòng cốt trong mọi hoạt động. Hàng
chục cuộc đấu tranh lớn nổ ra tại các nhà lao trong những năm 1940 - 1941. Hình
thức đấu tranh từ đưa yêu sách đến làm reo, tuyệt thực dài ngày phản đối chế độ lao
tù khắc nghiệt, đòi quyền lợi hàng ngày.
67
Nhiều cuộc đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp liên tiếp nổ ra. Trong công
nhân Vinh - Bến Thủy, Nhà máy diêm Hàm Rồng, đồn điền Rome ở Hướng Hóa
(Quảng Trị), những cuộc họp kín, rải truyền đơn, vận động biểu tình, đình công và
đưa yêu sách lên chủ, đòi phụ cấp khi làm việc thêm giờ, đòi tăng lương cho người
làm công nhật, phản đối đuổi thợ và sa thải thợ, vận động lạc quyên giúp đỡ những
công nhân bị đuổi việc, bị thất nghiệp… liên tiếp diễn ra.
Ngày 4-9-1939, sau khi được thông báo nghị định của Toàn quyền Đông
Dương bắt buộc thợ phải làm việc 9 giờ một ngày, toàn bộ công nhân Nhà máy
Trường Thi “đã quyết định đòi phụ cấp làm thêm giờ. Nếu nhà máy không chiếu cố
đến nguyện vọng đó, họ sẽ làm đơn gửi đi” [114]. Công nhân các nhà máy ở Vinh -
Bến Thủy còn lạc quyên giúp đỡ nhau và có ý định liên kết với công nhân các nơi
khác để cùng tranh đấu. Điều đáng chú ý là trụ cột trong phong trào đấu tranh của
công nhân Vinh - Bến Thủy không chỉ là những người thợ giàu nhiệt huyết cách
mạng, hăng hái tranh đấu mà chính họ còn là những người có tay nghề, chuyên môn
giỏi. Báo cáo đề ngày 30-5-1940 của Khâm sứ Trung Kì gửi Tổng thanh tra công
chính Đông Dương đã phải thừa nhận r ng: “Theo các thông tin tập hợp được từ
ông chánh kĩ sư trưởng hạt của nhà máy Trường Thi, 3 người cần phải loại trừ
được ghi nhận là công nhân giỏi. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Ở
nơi nào cũng vậy, những người tuyên truyền giỏi nhất đều được chọn trong những
số không có gì chê trách được về mặt nghiệp vụ” [66].
Cùng với phong trào đấu tranh của công nhân, cuộc đấu tranh chống ách
thống trị của thực dân và phong kiến ở nông thôn các tỉnh tiếp tục diễn ra. Những
vụ kiện hào lí nh ng nhiễu vẫn là hình thức đấu tranh phổ biến. Bên cạnh việc đấu
tranh đòi chia lại ruộng đất công, nông dân đã kiên quyết đấu tranh không cho địa
chủ, hào lí chiếm lại những ruộng đất mà họ đã giành được. Báo cáo của mật thám ở
Vinh ngày 3-12-1939 nêu cụ thể: “Một số người dân Yên Dũng Thượng rất bất bình
về việc nhà nước đem bán đấu giá bãi đất của sân bay cũ” [112]. Phong trào đấu
tranh chống bắt phu, bắt lính, đấu tranh chống sưu thuế, chống thu thóc, chống phá
hoa màu trồng bông diễn ra khá mạnh mẽ ở các tỉnh. Tại nhiều làng xã thuộc các
tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, nhân dân đã đánh cả lính lệ, bang tá về làng đốc thúc thu
thuế. Ở một số nơi, quần chúng lợi dụng tình hình lộn xộn, không đóng thuế trong
68
nhiều mùa liền. Trên thực tế, phong trào đấu tranh của quần chúng đã ảnh hưởng tới
cả hào lí địa phương và chính quyền tỏ ra lúng túng trong việc đối phó. Báo cáo mật
ngày 23-8-1940 của Mật thám Vinh đã thừa nhận: “Trong vùng Phù Long (Hưng
Nguyên), Nam Kim (Nam Đàn) đã thành lập một tổ chức cộng sản có mối liên lạc
rất rộng. Một cuộc tuyên truyền sâu rộng làm cho các hương lí đã phải đứng về
phía bọn cổ động. Vả lại, điều tra thì sẽ khó khăn vì bề ngoài là những hội biến
tướng” [66]. Có thể nói, những hình thức đấu tranh trên đây của nông dân rất thích
hợp với thời kì chuẩn bị khởi nghĩa: “Trong lúc sửa soạn khởi nghĩa, tranh đấu
chống bắt phu, cũng như chống thu lúa, cướp đất, tăng thuế là cách làm suy yếu
quân thù và là cách rèn đúc tinh thần, tập luyện hàng ngũ cách mệnh. Chỉ từ những
cuộc tranh đấu nhỏ, chúng ta mới có thể tiến lên đủ gan dạ và kinh nghiệm, cởi ách
cho giống nòi” [83].
Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1940, các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì
nổ ra đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân các
tỉnh Bắc Trung Bộ. Báo cáo số 1904/c ngày 6-11-1940 của Tuần v Quảng Trị đề
cập đến cuộc mít tinh của hàng ngàn người dân Triệu Phong, Cam Lộ, Vĩnh Linh
trong hai ngày 20 và 21-10-1940 [106].
Ngày 4-1-1941, tại thành phố Vinh, 2.000 học sinh của các trường Quốc
Học, Lễ Văn, Minh Tân đấu tranh chống chủ hiệu buôn vải người Ấn Độ đánh đập
tàn nhẫn một phụ nữ nông thôn đến làm thuê. Cuộc đấu tranh của học sinh đã được
đông đảo anh em phu xe kéo, chị em tiểu thương và tầng lớp dân nghèo trong khu
phố hưởng ứng. Cuộc đấu tranh của học sinh, giáo chức đã gây được tiếng vang lớn.
Không dàn xếp nổi, thực dân Pháp phải mang lính và đưa xe có vòi phun nước để
giải tán và bắt 40 học sinh. Để tránh những hành động tự phát và những việc làm vì
hăng hái mà nh m sai đối tượng đấu tranh, Chi bộ Đường phố phối hợp với Đoàn
thanh niên phản đế cứu quốc Vinh rải truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân gia
nhập Hội Thanh niên phản đế cứu quốc: “Chúng tôi, đoàn viên Việt Nam Thanh
niên phản đế cứu quốc đoàn nhiệt liệt hoan nghênh cử chỉ của thanh niên học sinh
Vinh hôm 4-1-1941... Để cứu Tổ quốc và đồng bào, anh chị em hãy gia nhập Việt
Nam Thanh niên phản đế cứu quốc đoàn cùng hoạt động với những người yêu
nước, những người cách mạng chân chính” [54].
69
Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh đã tác động phần
nào tới các tầng lớp xã hội khác. Một số nơi, anh em binh lính đã liên lạc xin xem
sách báo và tài liệu cách mạng bí mật. Đặc biệt, ngày 13-1-1941, dưới sự chỉ huy
của viên đội Nguyễn Văn Cung, binh lính Việt Nam yêu nước đã tự động nổi dậy
đánh chiếm các đồn Chợ Rạng, Đô Lương và định tiến đánh chiếm thành phố Vinh.
Cuộc binh biến Đô Lương không được chuẩn bị đầy đủ, thiếu tổ chức, phiêu lưu và
cô độc nên bị đế quốc Pháp nhanh chóng dập tắt. Mặc dù thất bại nhưng cuộc binh
biến Đô Lương là hành động yêu nước của binh lính người Việt trong quân đội
Pháp, cổ v mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, để lại cho Đảng Cộng sản
Đông Dương nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Không chỉ có binh lính yêu nước, trong các cuộc đấu tranh của nông dân ở
vùng nông thôn, một số địa chủ, phú nông và hào lí có tinh thần dân tộc đã tham gia
ủng hộ như ở Hậu Lộc, Ho ng Hóa, Thiệu Hóa (Thanh Hóa); Nam Đàn, Hưng
Nguyên (Nghệ An), Vĩnh Linh, Triệu Phong (Quảng Trị).
Ngày 22-1-1941, hàng ngàn người dân Hưng Nguyên (Nghệ An) tổ chức
cuộc mít tinh, biểu tình thị uy lớn tại Chợ Liễu: “Chính phiên Chợ Liễu xã Dương
Xá, phủ Hưng Nguyên ngày hôm nay (22-1-1941), lúc buổi chợ đông người, chúng
tôi được tin báo ở chợ có người treo cờ, treo khẩu hiệu ở trên cây, rồi diễn thuyết”
[105, tr.33]. Nội dung cuộc mít tinh là hưởng ứng và ủng hộ các cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn, Nam Kì và binh biến Đô Lương, phản đối chính sách tăng thuế, phản đối
chiến tranh đế quốc. Quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng chủ trương của Đảng. Binh
lính đồn Tràng Cát đóng gần đó “án binh bất động” không can thiệp [6, tr.137].
Sau khi xâm lược Đông Dương, phát xít Nhật đã xúi giục quân Xiêm xâm
lấn lãnh thổ Đông Dương, làm cho mâu thuẫn dân tộc trở nên sâu sắc. Trong báo
cáo số 375M của Chánh mật thám Vinh - Humbert gửi Tổng đốc Nghệ An ngày 10-
3-1941 đã đề cập đến sự thay đổi nhận thức và sự liên kết lẫn nhau giữa công nhân
Vinh - Bến Thủy với các tầng lớp nhân dân: “Công nhân ở Nhà máy Trường Thi
nói với nhau rằng: Ngày nay, nước Nhật và nước Xiêm đã sắp sửa hợp tác để trị
quân Pháp. Nay anh em mình phải liên lạc với nhau để giúp đỡ nhau. Lúc này cần
có lòng nhân ái để chờ cơ hội mà giành lấy lợi quyền. Hiện nay, từ binh lính cho
đến thôn quê đang còn thay đổi óc não, anh em coi đó mà làm gương” [105]. Bên
cạnh đó, một số cuộc bạo động khác đã nổ ra.
70
Đêm 14-5-1941, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Sông Con (Hà Tĩnh), quần
chúng nhân dân đã tiến công tiêu diệt chủ đồn điền Ferrey, thu được 14 khẩu súng
và 700 viên đạn. Ngày 15-5-1941, Bang tá Hồ D ng Tài khi dẫn lính về bắt những
người bạo động đã bị Bí thư Huyện ủy - Hồ Hảo bắn chết. Cuộc bạo động đã làm
cho thực dân Pháp hoảng hốt, lo sợ nhưng cuộc bạo động nổ ra khi chưa có thời cơ,
chưa có một phong trào cách mạng rộng lớn làm hậu thuẫn, vì thế bị đàn áp và thất
bại. Tuy vậy, cuộc bạo động đã làm sáng tỏ một vấn đề cốt yếu chung là cách mạng
muốn thành công phải được chuẩn bị đầy đủ về lực lượng; đồng thời nó bổ sung cho
phong trào cách mạng Hà Tĩnh nhiều nhận thức quý giá.
Lực lượng tự vệ của một số địa phương tổ chức các cuộc phục kích vào các
toán binh lính đi tuần tra để giải vây cán bộ, đảng viên và nhân dân yêu nước bị bắt.
Ngày 14-7-1941, tiểu đội tự vệ ở Thiệu Hóa (Thanh Hóa) đã tổ chức phục kích một
toán binh lính và đoàn phu, giải vây cho ba chiến sĩ cách mạng bị bắt. Bàn về ý
nghĩa của sự kiện này, báo “Tự do” viết: “Tiểu đội tự vệ ấy đã tỏ ra hi sinh và dũng
cảm đáng làm gương cho hàng ngũ cách mạng... Hành động anh hùng ấy lại cảnh
cáo cho binh lính và đoàn phu chớ nên lầm nghe lời nhồi sọ của bọn quan lại phản
động mà bắt bớ những người cách mạng” [147]
Sang năm 1942, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục diễn ra. Tháng
4-1942, 300 công nhân đồn điền Rome (Quảng Trị) bãi công đòi tăng lương, buộc
chủ đồn điền phải nhượng bộ tăng tiền công từ 5 hào một ngày lên 6 hào một ngày.
Thắng lợi đó đã tăng thêm tình đoàn kết đấu tranh của công nhân ở đồn điền Rome
và có ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của công nhân ở những đồn điền trên
đường 9.
Từ cuối năm 1943, phong trào đấu tranh ở Thanh Hoá ngày càng quyết liệt
hơn. Ngày 4-12-1943, tại phủ lị Ho ng Hóa hơn 5.000 quần chúng nhân dân tổ chức
biểu tình ngăn cản đoàn xe ô tô chở 140 phu đi làm đường cho phát xít Nhật. Cuộc
biểu tình tuy chưa giành được thắng lợi nhưng gây được tiếng vang lớn, đồng thời
để lại cho tổ chức Đảng Thanh Hóa nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về tập hợp
và tổ chức quần chúng đấu tranh.
Ngày 11-3-1944, khoảng 400 quần chúng các làng Y Bích, Lộc Tiến thuộc
huyện Hậu Lộc đấu tranh chống chính quyền địa phương đập phá miếu và đào
nghĩa địa để làm ruộng muối [80]. Trước sức mạnh của quần chúng, viên Tây đoan
71
buộc phải nhượng bộ và hứa sẽ bồi thường cho những miếu và mồ mả bị phá, cuộc
đấu tranh giành được thắng lợi. Điều đáng ghi nhận là trong cuộc đấu tranh của
nhân dân làng Y Bích, Lộc Tiến đã nhận được sự ủng hộ của giáo dân làng Đa Phạn.
Ngày 12-6-1944, công nhân Nhà máy diêm Hàm Rồng (Thanh Hóa) tổ chức
đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện sinh hoạt, chống đánh đập và sa
thải công nhân. Trước sức mạnh đoàn kết của công nhân, giới chủ đã phải nhượng bộ.
Đêm 21-9-1944, truyền đơn cách mạng được rải ở thị xã Thanh Hóa và các
phủ huyện: Thiệu Hóa, Đông Sơn, Ho ng Hóa, Nông Cống, Hà Trung, Hậu Lộc,
Yên Định, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc [98], khiến chính quyền thực dân hết sức lo sợ và
căm phẩn.
Từ ngày 11-12-1944 đến ngày 10-1-1945, truyền đơn của Việt Minh được rải
liên tục ở Trường Trung học bảo hộ Thanh Hóa. Trong hồ sơ lưu trữ của Pháp xác
nhận cơ sở của Việt Minh đã được xây dựng tại trường học này [109]. Tháng 2-
1945, thực dân Pháp tiến hành lục soát Trường Trung học bảo hộ Thanh Hóa, bắt
học sinh Nguyễn Hữu Khanh, Nguyễn Sơn Diệp và Giáo sư Đỗ Ngọc Thuận. Căm
phẩn trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, ngày 25-2-1945, học sinh tổ
chức bãi khóa, gửi kiến nghị lên hiệu trưởng yêu cầu nhà trường can thiệp để trả tự
do cho những người bị bắt [101]. Trước thái độ kiên quyết của học sinh, ông hiệu
trưởng đã tiếp nhận kiến nghị và hứa sẽ can thiệp với chính quyền để trả tự do cho
những học sinh và giáo viên bị bắt. Cuộc đấu tranh của học sinh đã gây được tiếng
vang lớn ở thị xã Thanh Hóa, có tác dụng làm chuyển biến về tư tưởng, nhận thức
đối với những người còn do dự, lừng chừng. Các cuộc đấu tranh của học sinh Vinh
và học sinh Thanh Hóa đã nói lên r ng trong xã hội, không riêng gì công nhân và
nông dân, mà các tầng lớp khác c ng không thể sống nổi dưới ách áp bức bóc lột
bạo tàn của chế độ thực dân phát xít và học sinh, giáo chức c ng là một lực lượng
yêu nước quan trọng ở đô thị.
Như vậy, từ tháng 9-1939 đến tháng 3-1945, mặc dù thực dân Pháp, phát xít
Nhật tiến hành khủng bố dữ dội phong trào cách mạng Việt Nam nhưng tại các tỉnh
Bắc Trung Bộ vẫn nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của các giai cấp và tầng lớp khác
nhau. Các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Trị nổ ra nhiều cuộc đấu
tranh quy mô lớn đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ hàng ngày, thậm chí có một số
72
cuộc thiên về v trang bạo động. Trừ cuộc nổi dậy tự phát của binh lính đồn Chợ
Rạng (Thanh Chương) và cuộc đấu tranh của học sinh Vinh, phần lớn các cuộc đấu
tranh có sự chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng, Hội phản đế cứu quốc, Mặt trận Việt
Minh và của cán bộ, đảng viên.
Tiểu kết chương 2
Bắc Trung Bộ là vùng đất có vị thế chiến lược quan trọng và là một trong
những khu vực có bề dày truyền thống yêu nước, cách mạng. Đầu năm 1930, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, c ng là lúc phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ
trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Trung Kì, tổ chức Đảng các
tỉnh Bắc Trung Bộ ngay từ khi ra đời đã nhanh chóng xác lập vai trò lãnh đạo tại địa
phương. Qua các phong trào cách mạng trong những năm 1930 - 1939, các tỉnh Bắc
Trung Bộ đã tạo dựng được lực lượng mới và trận địa mới cho phong trào giải
phóng dân tộc 1939 - 1945.
Trong thời gian từ tháng 9-1939 đến tháng 3-1945, phong trào cách mạng
các tỉnh Bắc Trung Bộ bị đế quốc Pháp, phát xít Nhật khủng bố tàn khốc và tổn thất
hết sức nặng nề. Phần lớn cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ tỉnh đến huyện bị bắt giam, tổ
chức Đảng và cơ sở quần chúng bị phá vỡ liên tục. Đặc biệt, từ cuối năm 1942 đến
giữa năm 1943, Đảng bộ các tỉnh Quảng Trị, Nghệ An, Hà Tĩnh bị đình đốn hoạt
động kéo dài cho đến năm 1945. Trong khi đó, giữa năm 1942, Xứ ủy Trung Kì bị
vỡ, mối liên lạc của các tỉnh với Xứ ủy và Trung ương Đảng bị gián đoạn. Có thể
nói, đây là giai đoạn phong trào cách mạng các tỉnh Bắc Trung Bộ gặp nhiều khó
khăn nhất nhưng tinh thần quật cường, ý chí tranh đấu của nhân dân các tỉnh c ng
chưa bao giờ được thử thách như lúc này. Nhờ sự chủ động, sáng tạo của các tổ
chức Đảng địa phương, của cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước, phong trào
cách mạng các tỉnh Bắc Trung Bộ dần dần được phục hồi: 4/6 tỉnh có tổ chức Đảng
hoạt động, trong đó có 2 tỉnh duy trì được cơ quan Tỉnh ủy; công cuộc xây dựng lực
lượng chính trị, lực lượng v trang và căn cứ địa cách mạng đạt được những kết quả
đáng khích lệ; các cuộc đấu tranh của các giai cấp và tầng lớp khác nhau vẫn liên
tiếp nổ ra, trong đó có một số cuộc thiên về v trang bạo động. Đây là quá trình tạo
thế, tạo lực để khi có điều kiện thuận lợi, nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ tiến hành
gấp rút chuẩn bị về mọi mặt và khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
73
Chương 3
GẤP RÚT CHUẨN BỊ VỀ MỌI MẶT VÀ KHỞI NGHĨA
GIÀNH CHÍNH QUYỀN Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
(TỪ THÁNG 3-1945 ĐẾN THÁNG 8-1945)
3.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG SAU KHI
NHẬT ĐẢO CHÍNH PHÁP
3.1.1. Âm mưu và thủ đoạn của phát xít Nhật
Đêm 9-3-1945, quân Nhật nổ súng đánh Pháp cùng lúc trên toàn Đông
Dương. Quân Pháp chống cự một cách yếu ớt và chỉ sau hơn một ngày thì đầu hàng
phát xít Nhật. Ngay sau đảo chính, Chính phủ Nhật tuyên bố “trao trả độc lập” cho
Việt Nam, xem đây là cách “mắc mồi tốt cái gọi là độc lập cho người bản xứ để
động viên nhân dân Đông Dương vào chiến tranh” [116, tr.33].
Về phía Nam triều, Bảo Đại vốn là vua bù nhìn của thực dân Pháp, trở thành
vua bù nhìn của phát xít Nhật. Trong bản thông điệp nhân dịp năm mới (1945), Bảo
Đại cho r ng: “Chúng ta tha thiết cảm ơn đô đốc của Pháp - Decoux, người đã lái
con tàu Đông Dương qua cơn bão táp của thế giới. Nhờ Đô đốc mà Đông Dương
được hưởng hòa bình và an ninh” [95, tr.152-153]. Tuy nhiên, ngày 11-3-1945,
Bảo Đại ra “Tuyên cáo Việt Nam độc lập” tuyên bố xóa bỏ hiệp ước kí với Pháp
năm 1884, đồng thời cam kết “một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc,
quyết chí hợp tác với nước Nhật” [97, tr.388] và ca ngợi: “Nay nhờ Hoàng quân
của Đại Nhật Bản nước nhà đã được giải phóng” [46].
Ngày 17-4-1945, Chính phủ thân Nhật do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng
được thiết lập. Trong “Lời tuyên cáo” của Nội các có đoạn viết: “Quốc dân ta phải
gắng sức làm việc, chịu nhiều hi sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với nước
Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của
Đại Đông Á có thịnh, thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng
thoáng qua” [94]. Trong tình hình vô cùng phức tạp và khó khăn của đất nước sau
cuộc đảo chính, Nội các Trần Trọng Kim tuyên bố “sẽ lập ra một kỉ niệm đài ghi
công các bậc anh hùng vì nòi giống” [94] nh m gây mạnh cái tinh thần yêu nước
trong mọi giai tầng xã hội và “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc
lập của quốc gia” [94]. Với việc xác định và đề ra các chủ trương căn bản như trên,
74
có thể thấy r ng Nội các Trần Trọng Kim“đã bắt mạch đúng nguyện vọng, ý chí của
dân tộc Việt Nam lúc đó và nhận thức rõ được ý nghĩa vô cùng to lớn của việc phát
huy cao độ tinh thần yêu nước và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân nhằm xây
dựng và giữ gìn nền độc lập dân tộc” [143, tr.199].
Trong thực tế, Nội các Trần Trọng Kim đã có một số hoạt động tích cực,
đáng được ghi nhận. Sau khi định xong tên nước, quốc kì, quốc ca, ngày 29-5-1945,
Nội các đã ra lệnh bỏ hết các tên đường phố tại các thành phố, thị trấn mang tên các
quan chức thực dân Pháp và tay sai; thay vào đó là tên các vị anh hùng dân tộc và
danh nhân Việt Nam. Cho đến đầu tháng 8-1945, về căn bản những đường phố
mang tên các quan chức thực dân và những biểu tượng dấu tích khác gắn với chủ
nghĩa thực dân Pháp đều bị xóa bỏ. Cho dù việc làm này chỉ có tính chất hình thức,
biểu tượng là chủ yếu, nhưng nó đã góp phần cổ v mạnh mẽ tinh thần yêu nước
của nhân dân Việt Nam, nhất là các tầng lớp nhân dân thành thị.
Một nỗ lực khác của Nội các Trần Trọng Kim là thương lượng với Tổng Tư
lệnh quân đội Nhật ở Hà Nội để thống nhất lãnh thổ. Từ đầu tháng 5 đến đầu tháng
8-1945, lần lượt Bắc Bộ, ba thành phố nhượng địa là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng
và Nam Bộ được sáp nhập vào Việt Nam đế quốc. Có thể nói r ng, cho dù Nội các
Trần Trọng Kim tiến hành thương lượng với người Nhật để thống nhất lãnh thổ với
mục đích gì chăng nữa thì trong bối cảnh lịch sử lúc đó, những thành công và đóng
góp của Nội các trong nỗ lực này là rất đáng được ghi nhận.
Qua những việc làm trên có thể thấy, Nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng
thể hiện tình cảm yêu nước và tinh thần dân tộc của mình ở mức độ nhất định. Tuy
nhiên, do những hạn chế, sai lầm trầm trọng của Nội các và điều kiện khách quan
không thuận lợi nên Nội các Trần Trọng Kim không thể vượt qua vai trò thực tế mà
lịch sử đã dành cho nó: Một chính phủ bất lực, bế tắc trước những nhiệm vụ đã đặt
ra. Bảo Đại đã phải thừa nhận: “Thuế má không thu vào được nữa, việc kiện tụng cứ
lan rộng hoài. Quyền lực cứ suy sụp dần. Tình trạng mất trật tự ngự trị hầu như khắp
nơi. Thế mà Chính phủ hầu như không có một lực lượng nào để giữ trật tự” [45].
Nhận thức rõ vị trí trọng yếu của các tỉnh Bắc Trung Bộ trong chiến lược
phải giữ cho b ng được Đông Dương, sau ngày đảo chính Pháp, phát xít Nhật đã
đưa một số lượng quân đội lớn vào chiếm đóng ở những vị trí quan trọng của các
tỉnh. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, ở Huế Nhật có khoảng 4.500 quân, ở
75
Quảng Trị khoảng 1.500 quân, ở Thanh Hóa khoảng 1.000 quân, ở Hà Tĩnh khoảng
300 quân, ở Quảng Bình khoảng 600 quân. Tại Nghệ An, hầu hết các công trình lịch
sử địa phương [18], [20], [27], [30] cho r ng, sau ngày 9-3-1945 khoảng 1 vạn quân
Nhật chiếm đóng ở những vị trí quan trọng của tỉnh. Tuy nhiên, theo chúng tôi đó là
một con số quá lớn, vượt khỏi điều kiện thực tế lúc bấy giờ. Bởi lẽ, số lượng quân
đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương là 6 vạn quân [149, tr.180], trong khi các vị trí
quan trọng khác như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, V ng Tàu, Sài
Gòn c ng được Nhật hết sức chú ý. Vì vậy, chúng tôi tán thành kết quả nghiên cứu
của Viện Lịch sử Đảng năm 1985 cho r ng ở Nghệ An “sau ngày 9-3-1945, quân
Nhật có khoảng 1.000 tên đóng ở Vinh, Cửa Lò, Bến Thủy và một số vị trí dọc bờ
biển, đường số 1, số 7, số 8” [149, tr.160].
Sau đảo chính, về cơ bản phát xít Nhật vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị như
thực dân Pháp trước đây. Để tranh thủ quần chúng nhân dân, phát xít Nhật cách
chức một số quan lại người Việt Nam bị tố cáo về tội tham ô, nh ng lạm. Bên cạnh
đó, Chính phủ Trần Trọng Kim cho đổi tên cấp hành chính Kì mà chính quyền Pháp
đặt ra trước đây thành Bộ (Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ); đổi chức tổng đốc, tuần
phủ thành tỉnh trưởng; tri phủ, tri huyện thành phủ trưởng, huyện trưởng; đổi các
sắc lính khố xanh thời Pháp thành lính bảo an do những sĩ quan người Việt điều
khiển. Về số lượng lính bảo an đóng ở các tỉnh, thành, Trần Trọng Kim cho biết:
“Ở Kinh đô Huế có tất cả hơn 100 lính bảo an (tức lính khố xanh cũ) và sáu bảy
chục khẩu súng cũ, đạn cũ. Ở các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các
phủ huyện thì độ chừng vài chục người” [63, tr.57]. Đối với bộ máy hào lí ở làng
xã, Chính phủ Trần Trọng Kim hoàn toàn chưa thể đả động tới, vì chưa có cơ sở để
can thiệp xuống nông thôn.
Về kinh tế, phát xít Nhật tiếp tục khoanh vùng đất đai, bắt nhân dân nhổ lúa,
ngô và các hoa màu khác để trồng thầu dầu; đồng thời, trưng thu, trưng mua các loại
cây có sợi và hạt có dầu như bông, lạc, vừng… Chúng ngăn cấm nhân dân mua bán,
vận chuyển những thứ nguyên vật liệu đó. Đối với các huyện ven biển, nhân dân
buộc phải dời nhà, đốn cây, phá hoa màu… để cho quân Nhật dựng doanh trại, xây
công sự, mở rộng sân bay. “Hàng ngày, chúng đưa lính vào các làng xã đốc thúc
tổng lí dồn bắt nhân dân đi phục vụ cho các công trình quân sự. Cảnh đánh đập,
chém giết, chôn sống dân phu diễn ra ngày càng nhiều ở các công trình quân sự và
76
doanh trại của quân đội Nhật” [9, tr.137]. Thảm cảnh này c ng tái diễn đối với phu
làm hầm trại cho quân Nhật ẩn nấp tại sân bay Lai Thành, Thanh Hóa: “Suốt trên 3
mẫu đất, anh em phu làm việc dưới lưỡi lê của tụi lính Nhật, không dám chuyện vãn
từ sáng sớm đến tối mò. Chậm tay một tí là chúng cứa sống gươm vào gáy, sừng sộ
dọa chém!” [84]. Cảnh lính Nhật vào nhà dân cướp của diễn ra hàng ngày: “Chúng
đã xông vào các nhà giàu, đuổi cả gia đình người ta ra đường, chiếm lấy nhà, bàn
ghế, giường và cả mâm, thau, nồi, bát...” [84].
Được sự hậu thuẫn của phát xít Nhật, các đảng phái chính trị thân Nhật được
thành lập, hoạt động mạnh và có mặt ở hầu khắp các tỉnh.
Tháng 6-1945, Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chính phủ
Trần Trọng Kim lập ra phong trào Thanh niên xã hội do Tạ Quang Bửu làm thủ
lĩnh, hô hào thanh niên tham gia để phụng sự, cống hiến cho công cuộc bảo vệ và
kiến thiết nước nhà. Do đó, phong trào nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của thanh
niên ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, cơ sở của nó được tổ chức xuống tận huyện, xã.
Hội Tân Việt Nam do một nhóm trí thức và một số chính trị phạm vừa ra tù
như Tôn Quang Phiệt, Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Trần Hữu Duẩn thành lập ở Huế,
mở rộng phạm vi hoạt động ra Thanh Hóa, vào đến các tỉnh Nam Trung Bộ. Hội
Tân Việt Nam đã thu hút được nhiều người trong tầng lớp trí thức như bác sĩ, kĩ sư,
giáo viên, công chức và một số thanh niên học sinh tham gia.
Tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, phát xít Nhật giúp đỡ những
phần tử trí thức, viên chức trong giai cấp tư sản, địa chủ và cả một số cựu cán bộ
cách mạng bị lừa dối hoặc đã thoái hóa, biến chất lập ra tổ chức Ủng hộ Việt Nam
độc lập đoàn. Được sự khuyến khích của phát xít Nhật, các phần tử trong tổ chức
Ủng hộ Việt Nam độc lập đoàn ra sức tuyên truyền cho nền độc lập giả hiệu, ca
ngợi chính sách Đại Đông Á, chính sách “đồng chủng, đồng văn” của Nhật. Để
đánh lạc hướng dư luận của nhân dân và lôi kéo những người có tinh thần yêu nước
ra hợp tác với Nhật, chúng nêu chiêu bài “ái quốc, ái quần”, “tố cáo” tội ác của thực
dân Pháp và bọn tham quan ô lại.
Phát xít Nhật còn mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức chiếu phim, luyện võ,
thi đấu thể thao… nh m lôi kéo tầng lớp thanh niên, học sinh theo chúng. Ngoài ra,
để nắm được lực lượng này, chúng đã thành lập tổ chức Việt Nam Ái quốc đoàn do
Trần Hữu Khuê - một giáo học cầm đầu. Lực lượng chủ yếu là con của các tư sản,
77
địa chủ, trí thức, tiểu tư sản quanh các thị xã, thị trấn. Số thủ lĩnh ở các phủ, huyện
hầu hết là những cựu chính trị phạm không nắm vững chủ trương của Đảng, có tư
tưởng cơ hội hữu khuynh, mơ hồ chính trị muốn dựa vào Nhật để nắm quần chúng.
Mặc dù đã sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau nhưng các thế lực tay sai vẫn
không thể che lấp nổi dã tâm ăn cướp và hành động tàn ác của phát xít Nhật. Chính
sách cướp bóc tàn bạo của phát xít Nhật đã đẩy nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ vào
con đường điêu đứng, bế tắc. Nạn đói khủng khiếp cuối năm 1944 đầu năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ đã nói lên sự thật đó.
Theo số liệu điều tra của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thanh Hóa, chỉ
riêng làng Thủ Phú, tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương có 217 người chết đói
trên tổng số 1.141 nhân khẩu [116, tr.570]. Ở Nghệ An, theo số liệu thống kê chưa
đầy đủ đã có tới 42.630 người chết đói. Trong 16.358 gia đình có người chết đói thì
có tới 2.250 gia đình chết không sót một ai [20, tr.157]. Theo số liệu điều tra của
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Tĩnh năm 1963, huyện Nghi Xuân có 8.161
người chết đói, riêng xã Xuân Liên có tới 1.165 người chết [19, tr.165]. Tại phủ
Quảng Trạch (Quảng Bình) có đến 1.518 người chết, 1.419 người phải đi ăn xin,
6.692 người bỏ làng đi làm ăn nơi khác [31, tr.35]. Chỉ riêng làng Thổ Ngọa có 600
người chết trong tổng số 2.339 nhân khẩu, chiếm tỉ lệ 25,7% dân số [116, tr.485]. Ở
Quảng Trị, theo số liệu điều tra của Cao Văn Biền tại làng Cẩm Phổ, tổng Xuân
Hòa, huyện Gio Linh có 71 người chết đói, 65 người mất tích trong tổng số 316
nhân khẩu [116, tr.502]. Ở Thừa Thiên, “nạn đói xuất hiện và lan tràn, nhiều nơi
phải ăn củ cây chuối, trái da, rau má... thay cơm cháo, tại cầu Bao Vinh đã có
người chết đói ở vệ đường” [17, tr.122-123]. Tại nhiều địa phương, khắp các nẻo
đường, đình, chợ, xác chết đói n m ngổn ngang và chồng chất lên nhau.
Thực tế chính sách cướp bóc tàn bạo của phát xít Nhật đã phơi bày bản chất
của nó. Chỉ một số ít nhân sĩ, trí thức, học sinh, viên chức, tiểu tư sản ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ, vì chưa hiểu bản chất của thuyết “Đại Đông Á”, “đồng chủng, đồng văn”
của phát xít Nhật, nên tham gia cổ động cho phong trào thân Nhật; còn tuyệt đại đa
số các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là công nhân, nông dân đều có lòng căm
ghét cao độ đối với chúng. Ngay cả những người đã từng sùng bái, đặt kì vọng vào
các chính sách của Nhật, nay trực tiếp chứng kiến những hành động tàn ác của
chúng, họ c ng dần dần tỉnh ngộ.
78
3.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương
Ngay trong đêm 9-3-1945, khi tiếng súng đảo chính vừa nổ là lúc Hội nghị mở
rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng bắt đầu họp tại làng Đình Bảng (Bắc
Ninh) do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Chỉ thị khẳng định, kẻ thù chủ yếu của nhân dân Đông Dương lúc này là phát
xít Nhật, do đó khẩu hiệu “đánh đuổi Pháp - Nhật” được thay b ng khẩu hiệu “đánh
đuổi phát xít Nhật” và nêu khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân
dân”, chống lại Chính phủ Trần Trọng Kim. Có quan điểm cho r ng, tất yếu phát xít
Nhật sẽ bị Đồng minh đánh bại, nên không cần đánh Nhật, mà tập trung đánh Pháp
để trừ hậu họa. Trái với quan điểm đó, chỉ thị của Đảng xác định: “Sau cuộc đảo
chính này phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân
dân Đông Dương” [52, tr.366]. Có nhận định đúng đắn này là do Đảng Cộng sản
Đông Dương xuất phát từ mục tiêu giành chính quyền, mà chính quyền thống trị
nước ta sau đảo chính là phát xít Nhật và Chính phủ Trần Trọng Kim. Mặt khác,
phát xít Nhật c ng chính là đối tượng cần đánh đổ của phong trào cách mạng thế
giới lúc này. Đảng Cộng sản Đông Dương còn quán triệt tư tưởng lợi dụng mâu
thuẫn và phân hóa hàng ng kẻ thù chủ yếu nhất. Đối với thực dân Pháp, tuy là kẻ
thống trị Đông Dương mấy chục năm, nhưng nay đã bị phát xít Nhật truất quyền
nên Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương liên hiệp hành động với Pháp để cùng
kháng Nhật nhưng “vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn De Gaulle định khôi
phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương” [52, tr.366].
Trên cơ sở đó, Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định:
“Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc
tổng khởi nghĩa... Sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ
điều kiện” [52, tr.367]. Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp đảng bộ
phải chuyển mọi hoạt động sang thời kì tiền khởi nghĩa, động viên mau chóng nhân
dân hướng đến tổng khởi nghĩa, b ng các hình thức đấu tranh cao hơn như: Tuyên
truyền xung phong, v trang tuyên truyền, thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng
(UBNDCM), Ủy ban công nhân cách mạng, lập các đội danh dự trừ gian, tiểu trừ
những tên tay sai, phản quốc, đẩy mạnh hoạt động v trang kết hợp với đấu tranh
chính trị. Đảng Cộng sản Đông Dương còn đề ra một chủ trương sáng tạo là “phá
79
kho thóc, giải quyết nạn đói” kịp thời đáp ứng nguyện vọng tha thiết của quần
chúng, có sức thu hút, lôi cuốn hàng triệu người lên trận tuyến đấu tranh trực diện
với kẻ thù, tập dượt cho quần chúng bước vào trận chiến đấu quyết định.
Dự đoán về thời cơ khởi nghĩa, chỉ thị vạch ra ba khả năng cụ thể tiến hành
tổng khởi nghĩa: Một là, “cách mạng Nhật bùng nổ”; hai là, “giặc Nhật mất nước
như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần”; ba là “quân Đồng
minh đổ bộ vào Đông Dương” [52, tr.372-373]. Bên cạnh việc dự báo về thời cơ
khởi nghĩa, chỉ thị còn đặt ra yêu cầu các hệ thống tổ chức cơ sở Đảng, mặt trận,
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân phải “đóng vai trò chủ động trong việc
đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng
minh một cách tích cực” [52, tr.372].
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” có tác dụng to lớn
đối với sự phát triển của cao trào kháng Nhật cứu nước và cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945. Trước hết, chỉ thị soi sáng cho toàn Đảng về mục tiêu, nhiệm
vụ và phương pháp đấu tranh trong thời kì tiền khởi nghĩa, làm dấy lên cao trào
kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, đưa công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa phát triển nhảy
vọt, làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Chỉ thị còn khẳng định thời cơ khởi
nghĩa cụ thể, chỉ rõ phương hướng hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương khi
thời cơ xuất hiện, tạo điều kiện cho các Đảng bộ hành động thống nhất, kiên quyết,
mau lẹ và kịp nắm lấy thời cơ, đưa Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến thành công.
3.2. GẤP RÚT XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VỀ MỌI MẶT TIẾN TỚI KHỞI
NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
Trước sự chuyển biến mới của tình hình, cán bộ, đảng viên các tỉnh Bắc
Trung Bộ đẩy mạnh hoạt động về mọi mặt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
3.2.1. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng
Sau ngày 9-3-1945, một số lượng lớn cán bộ, đảng viên có kinh nghiệm,
được tôi luyện trong đấu tranh, thoát khỏi các nhà tù của đế quốc trở về địa phương
hoạt động. Ở nhà đày Buôn Ma Thuột, từ ngày 15 đến ngày 20-3-1945, gần 300
chiến sĩ cộng sản sau một thời gian dài bị đày ải đã được trả tự do, về địa phương
hoạt động. Ngoài ra, ở các nhà lao, căng an trí tập trung, các chiến sĩ cộng sản và
quần chúng cách mạng bị giam cầm c ng được thoát ra ngoài tham gia hoạt động
cách mạng. “Trên chuyến xe lửa ngày 2-4-1945, hàng trăm tù chính trị ở các nhà
80
lao Trung Bộ, chủ yếu là ở nhà lao Kon Tum về tới ga Vinh. Thành phố Vinh lúc
này trở thành nơi tập trung tù chính trị của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh” [18,
tr.132]. Theo điều tra của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An năm
1964 thì tổng số tù chính trị quê ở Nghệ An được trả tự do sau ngày 9-3-1945 là 307
người thuộc 81 xã đồng b ng [27, tr.35].
Trước thực trạng Xứ ủy Trung Kì chưa được lập lại, các tổ chức Đảng không
thống nhất, “không khí hoài nghi, chia rẽ tràn ngập, chủ nghĩa cô độc và đầu óc địa
phương nặng nề” [52, tr.401], tháng 3-1945, Trung ương Đảng đã chỉ thị thành lập
Ủy ban thống nhất Trung Kì. Ủy ban có trách nhiệm “trù bị một cuộc cách mạng
hội nghị hay đại biểu hội nghị toàn xứ để kiến thiết một Đảng bộ Trung Kì thống
nhất” [148]. Ngày 27-3-1945, Ủy ban thống nhất Trung Kì ra lời kêu gọi “Các đồng
chí cộng sản Trung Kì mau thống nhất lại”. Sau khi chỉ rõ những tồn tại yếu kém
của Đảng bộ, Ủy ban thống nhất Trung Kì kêu gọi: “Hỡi các đồng chí, các tỉnh bộ
cộng sản Trung Kì! Mau thống nhất lại. Hãy thành thực xóa hết những xích mích
giữa cá nhân! Hãy cương quyết gạt hết những thái độ hoài nghi do dự! Hãy hết sức
tẩy trừ những xu hướng biệt phái địa phương!” [148].
Được bổ sung cán bộ và sự chỉ đạo của Ủy ban thống nhất Trung Kì, hệ
thống tổ chức Đảng một số tỉnh từng bước được khôi phục, củng cố.
Sau khi nghe tin Nhật đảo chính Pháp, ngày 12-3-1945, Chi bộ nhà lao
Quảng Trị đã mở hội nghị để nhận định tình hình và bàn phương hướng hoạt động
trong thời gian sắp tới. Nội dung cuộc họp nổi lên hai vấn đề quan trọng: “Vấn đề
thứ nhất là đánh giá đúng đối tượng kẻ thù của nhân dân Việt Nam lúc này là phát
xít Nhật và vấn đề thứ hai là ra nghị quyết: Sau khi thoát khỏi nhà lao, các đảng
viên phải bằng đủ mọi cách để móc nối cơ sở xây dựng thực lực chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra trong thời gian không xa” [92, tr.160]. Tháng 4-
1945, Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn tỉnh được tổ chức tại Liêm Công Đông (Vĩnh
Linh) chủ trương: Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, củng cố phát triển chi bộ
đảng, thành lập và củng cố các phủ ủy, huyện ủy, tìm bắt liên lạc với các nhóm
đảng viên khác hoạt động trong tỉnh [22, tr.183]. Hội nghị quyết định thành lập
Tỉnh ủy lâm thời, Bùi Trung Lập được cử làm Bí thư. Hội nghị đánh dấu giai đoạn
Đảng bộ Quảng Trị và phong trào cách mạng trong toàn tỉnh được phục hồi, khắc
81
phục tình trạng thiếu sự lãnh đạo của Tỉnh ủy trong thời gian dài. Sau hội nghị, các
Phủ ủy Vĩnh Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và Huyện ủy Gio Linh được lập lại.
So với các tỉnh trong khu vực, Thanh Hóa là địa phương sớm nhận được Chỉ
thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Tỉnh ủy
Thanh Hóa mở hội nghị bàn biện pháp triển khai chỉ thị của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng. Hội nghị chủ trương củng cố, mở rộng tổ chức cơ sở Đảng và quần
chúng ở các phủ huyện; vạch mặt bọn Đại Việt, chống Nhật, mở rộng ảnh hưởng
của Việt Minh, thành lập Ủy ban giải phóng tỉnh và huyện; phát triển các đội tự vệ,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền v trang, xây dựng chiến khu, v trang toàn dân
tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền [23, tr.149-150].
Sau hội nghị, Tỉnh ủy lâm thời được củng cố; cán bộ, đảng viên tỏa về các
địa phương xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở các phủ, huyện trung du đồng b ng như
Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Thiệu Hóa, Ho ng Hóa, Yên Định, Hà Trung, Hậu Lộc,
Nga Sơn, Nông Cống. Riêng Thạch Thành và Thiệu Hóa đã có huyện ủy, một số
nơi lập được tổng ủy. Đến trước ngày diễn ra tổng khởi nghĩa, Thanh Hóa là tỉnh có
tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên nhiều nhất trong 6 tỉnh Bắc Trung Bộ.
Ngày 23-5-1945, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Thừa Thiên được triệu tập tại
đầm Cầu Hai (Phú Lộc) dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Sơn. Hội nghị
chủ trương cần đặt rõ trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên mạnh dạn tiếp xúc rộng rãi
với quần chúng, tuyên truyền chính sách đoàn kết cứu nước của Mặt trận Việt
Minh, vận động nhân dân tham gia các tổ chức cứu quốc; đẩy mạnh xây dựng các
cơ sở của Việt Minh trong thanh niên, học sinh, công chức, binh lính, thân sĩ, trí
thức… Đối với anh chị em từ các nhà tù, căng an trí trở về chưa tham gia hoạt động
cần liên lạc và mạnh dạn giao công tác cho từng người, huy động lực lượng cán bộ
vào việc vận động, phát triển phong trào cứu nước ở các nơi [136].
Từ sau hội nghị trên, Tỉnh ủy lâm thời Thừa Thiên được củng cố, phân công
các tỉnh ủy viên phụ trách các ban chuyên trách của Đảng và tỏa xuống các địa
phương xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở các huyện, thị. Trong đó, thành phố Huế,
huyện Phú Lộc đã lập được thị ủy và huyện ủy lâm thời.
Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, lúc này vẫn chưa có một tổ chức lãnh đạo chung
phong trào cách mạng ở hai tỉnh và c ng chưa có cán bộ, đảng viên nào bắt được
82
liên lạc với Trung ương Đảng. Do đó, dựa vào các mối quan hệ và sự hiểu biết nhau
từ trong các nhà tù đế quốc và trong các phong trào cách mạng trước đây, từng cá
nhân hoặc nhóm ở các địa phương đã chủ động liên lạc với nhau để hoạt động. Họ
tự phân công tỏa đi các nơi để bắt liên lạc và xây dựng cơ sở: Quỳnh Lưu liên lạc
với Thanh Hóa; Nghĩa Đàn liên lạc với Quỳnh Lưu; Anh Sơn, Thanh Chương, Nam
Đàn, Hưng Nguyên và Nghi Xuân liên lạc với Vinh; Kì Anh và Cẩm Xuyên liên lạc
với thị xã Hà Tĩnh; Hương Khê và Đức Thọ liên lạc với Hương Sơn; Diễn Châu và
Can Lộc, một nhóm liên lạc với Vinh, một nhóm liên lạc với Hà Nội. Sau một thời
gian, các tổ chức cơ sở Đảng ở Nghệ An và Hà Tĩnh được phục hồi, đáp ứng được
yêu cầu của phong trào cách mạng thời kì tiền khởi nghĩa.
Tại Quảng Bình, tháng 6-1945, Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương được
thành lập ở thị xã Đồng Hới gồm 6 đảng viên do Nguyễn Đình Chuyên và Hoàng
Văn Diệm làm nòng cốt. Ở Quảng Trạch, Phủ ủy lâm thời họp bàn biện pháp chống
Nhật thu thóc, cử cán bộ, thanh niên cài cắm vào tổ chức Thanh niên xã hội và
chính quyền các làng xã. Tại Bố Trạch, Quảng Ninh và Lệ Thủy, các tổ chức cơ sở
Đảng có nhiều hoạt động chống Nhật thu thóc, tẩy chay các cuộc diễn thuyết của
các tổ chức thân Nhật, kêu gọi nhân dân đoàn kết chống Nhật, cứu nước.
Mặc dù tổ chức cơ sở Đảng ở các tỉnh được phục hồi và hoạt động khá tích
cực, nhưng việc thống nhất lực lượng ở Bắc Trung Bộ c ng mới chỉ là bước đầu,
giữa các cán bộ, đảng viên có những quan điểm không thống nhất về thái độ đối với
Đồng minh Anh - Pháp (De Gaulle) - Mĩ, với Chính phủ Trần Trọng Kim và phát
xít Nhật. Tại một số địa phương, giữa nhóm này với nhóm khác vẫn còn có những
hiện tượng thành kiến, nghi kị lẫn nhau. Trước tình hình đó, ngày 27-6-1945,
Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư kêu gọi các đồng chí Trung Kì mau thống
nhất lại. Bức thư có đoạn viết: “Các đồng chí! Cơ hội quyết định vận mệnh ngàn
năm của Tổ quốc đang đến, không thể biệt phái chia rẽ! Không thể do dự, hoài
nghi! Các đồng chí Trung Kì đã đi đầu trong nhiều cuộc vận động quyết liệt thì
nhất định cũng không thể vắng mặt trong cao trào kháng Nhật cứu nước” [128].
Lời kêu gọi của Thường vụ Trung ương Đảng đã tác động mạnh mẽ đối với
cán bộ, đảng viên ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Nó đã thức tỉnh và tiếp thêm sức chiến
đấu cho cán bộ, đảng viên, đẩy lùi các thành kiến xích mích, mọi thái độ hoài nghi
83
do dự và xu hướng biệt phái địa phương, tập trung vào nhiệm vụ khẩn cấp trước
mắt là lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, trong bối cảnh chưa khôi phục được Tỉnh ủy, thì ở
từng địa phương, cán bộ, đảng viên và những người yêu nước đã tập hợp nhau lại
trong tổ chức Việt Minh Nghệ Tĩnh do Nguyễn Xuân Linh làm Bí thư, hình thành
nên hạt nhân để lãnh đạo phong trào. Bất kì nơi nào cán bộ Việt Minh kêu gọi là
quần chúng nhân dân tập hợp lại và hành động theo chủ trương của Việt Minh.
Cuối tháng 6-1945, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Trị tổ chức hội nghị mở rộng tại
Liêm Công Đông (Vĩnh Linh) để thảo luận, nghiên cứu Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định đổi Tỉnh ủy lâm thời thành
Ban vận động thống nhất Đảng bộ Quảng Trị. Ngày 18-8-1945, Hội nghị cán bộ
toàn tỉnh được triệu tập tại làng Phước Lễ (Triệu Phong) đã thống nhất lực lượng
cách mạng trong tỉnh, lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 2-7-1945, Hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh Quảng Bình được triệu tập
tại An Xá (Lệ Thủy) để nghe phổ biến Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta”, thành lập Ban vận động thống nhất Đảng bộ gồm 3 ủy viên do Đoàn
Khuê làm Trưởng ban và ra lời kêu gọi cán bộ, đảng viên, nhân dân đoàn kết nhất
trí, thống nhất hành động, đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu nước. Sự ra đời của
Ban vận động thống nhất Đảng bộ đã chấm dứt tình trạng hoạt động riêng lẻ, thiếu
sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của các tổ chức cơ sở Đảng trong tỉnh, là nhân tố
quyết định đối với sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quảng Bình.
3.2.2. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị
3.2.2.1. Xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh
Ở Quảng Trị, sau Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn tỉnh tổ chức vào tháng 4-
1945, công tác xây dựng các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh diễn ra khẩn
trương, đạt được những kết quả to lớn. Ủy ban Việt Minh từ phủ, huyện đến tổng,
làng được thành lập và hoạt động theo chương trình Việt Minh của tỉnh đã vạch ra
trước đây. “Ở Triệu Phong, đến tháng 5-1945 nhiều nơi đã tổ chức được Việt Minh
tổng hoặc xã để phụ trách công việc của địa phương” [92, tr.45]. Đông đảo công
nhân, nông dân, thanh niên tham gia hội cứu quốc. Các tổ chức công nhân cứu quốc
được thành lập ở một số đồn điền dọc đường 9, nhà máy điện, nhà máy nước, nhà
84
ga, ở các thị trấn... Công nhân tích cực tham gia các cuộc mít tinh, nghe cán bộ Việt
Minh diễn thuyết ở các chợ, bến xe vạch tội ác của phát xít Nhật, đồng thời làm
nhiệm vụ bảo vệ các công sở ở tỉnh lị và các phủ, huyện lân cận. Một số tổ chức cứu
quốc đã đưa ra chương trình, mục đích của hội cụ thể, thiết thực. Hội nông dân cứu
quốc đã chỉ ra mục đích là “giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực quyền lợi cho nhau. Cho
nên công việc cốt yếu của nông hội là phải tranh đấu quyền lợi và chống lại những
việc áp bức, bóc lột của địa chủ, cường hào” [130].
Ở Thanh Hóa, sau Hội nghị Tỉnh ủy tổ chức vào tháng 4-1945, các hội cứu
quốc được thành lập ở nhiều nơi. Đến tháng 7-1945, Ban cán sự Việt Minh được
thành lập ở nhiều phủ huyện trung du, đồng b ng, ven biển, xuống tận các tổng, xã,
làng. Riêng huyện Thạch Thành đã lập được 8 Tổng ủy Việt Minh trên 11 tổng, số
lượng hội viên cứu quốc tăng nhanh. Tính đến đầu tháng 8-1945, số quần chúng của
các hội cứu quốc trong tỉnh đã lên đến hàng chục vạn người [175].
Tại Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Thừa Thiên tổ chức ở đầm Cầu Hai (Phú Lộc)
tháng 5-1945 đã bầu Ban Chấp hành Việt Minh tỉnh gồm 13 ủy viên, lấy bí danh là
Việt Minh Nguyễn Tri Phương do Nguyễn Sơn làm Bí thư. Sau hội nghị này, công
tác xây dựng các đoàn thể cứu quốc ở các địa phương diễn ra khẩn trương, gấp rút.
Phong trào cách mạng ở các huyện và thành phố phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên,
trong công chức, học sinh, binh lính, thân sĩ, trí thức, phong trào phát triển chậm, cơ
sở của Đảng và Việt Minh còn yếu.
Trong khi đó, đến cuối tháng 5-1945, tổ chức Việt Minh Thuận Hóa4 “phát
triển khá mạnh trong công chức thanh niên, học sinh, thân sĩ, trí thức ở Huế và bắt
đầu có cơ sở ở chợ Sịa (Quảng Điền), Ưu Điềm (Phong Điền)” [1, tr.149-150]. Việt
Minh Thuận Hóa tiến hành nhiều cuộc rải truyền đơn tuyên truyền chủ trương
đường lối của Đảng và Mặt trận Việt Minh, qua đó tập hợp được đông đảo các tầng
lớp nhân dân ở thành phố Huế tham gia. Tuy nhiên, trong cùng một tỉnh lại tồn tại
hai tổ chức Việt Minh sẽ dẫn đến nguy cơ chia rẽ trong phong trào cách mạng. Do
đó, việc thống nhất tổ chức Việt Minh Nguyễn Tri Phương và Việt Minh Thuận
Hóa được đặt ra cấp thiết.
4 Tổ chức Việt Minh Thuận Hóa là sự kết hợp giữa nhóm Việt Minh trong công chức, trí thức ở Huế với
nhóm Việt Minh là các thanh niên, trí thức ở Hà Nội vào.
85
Sau một thời gian theo dõi, tìm hiểu và phân tích truyền đơn của Việt Minh
Thuận Hóa, Việt Minh Nguyễn Tri Phương quyết định cử đại diện bắt liên lạc, thảo
luận kế hoạch thống nhất tổ chức. Cuối tháng 6-1945, ban lãnh đạo hai tổ chức Việt
Minh họp tại Huế quyết định sáp nhập tổ chức Việt Minh Thuận Hóa vào Việt Minh
Nguyễn Tri Phương và thống nhất kế hoạch hoạt động.
Việc thống nhất hai tổ chức Việt Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của phong trào cách mạng trong tỉnh. Công tác vận động công chức, thanh
niên, học sinh, trí thức, binh lính được đẩy mạnh. Đến tháng 7-1945, Mặt trận Việt
Minh được thành lập ở tất cả các huyện trong tỉnh. Nhiều nơi, Chấp ủy Việt Minh
được thành lập ở cấp tổng, xã. Huyện Phong Điền có 2/3 số xã lập được Chấp ủy
Việt Minh. Huyện Phú Lộc có 4/5 số tổng có Chấp ủy Việt Minh và hầu hết các xã
lập được Ủy ban vận động cứu quốc [174]. Ngay cả thành phố Huế, tổ chức cứu
quốc c ng phát triển đều khắp các khu phố và các xã, cơ sở Việt Minh được bí mật
thành lập ở chợ Đông Ba, Bao Vinh, An Cựu; Nhà máy Vôi thủy Long Thọ; Trường
Kĩ nghệ thực hành... Nét nổi bật ở Thừa Thiên là sự kiện "Việt Minh hóa" Trường
Thanh niên Tiền tuyến Huế do Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập vào đầu tháng
7-1945. Các cuộc tuyên truyền xung phong được tổ chức khắp các chợ, bến xe, bến đò.
Trong khi chưa lập lại được tổ chức Đảng, các cán bộ nòng cốt của hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh đã nhất trí lấy hình thức tổ chức thích hợp nhất là Việt Minh
để tập hợp lực lượng quần chúng, gây dựng phong trào cách mạng. Đồng thời, do
thực tiễn cách mạng ở hai tỉnh có sự giống nhau, lại có mối quan hệ tương đồng về
điều kiện lịch sử, tự nhiên, văn hóa nên chủ trương trên đã được bàn bạc và thống
nhất trong cán bộ nòng cốt của hai tỉnh. Trên cơ sở đó, chủ trương thành lập Ban
vận động Việt Minh Nghệ Tĩnh được xúc tiến ngay để chỉ đạo phong trào cách
mạng ở Nghệ An và Hà Tĩnh [27, tr.36-37].
Ngày 19-5-1945, tại thành phố Vinh, Nguyễn Xuân Linh cùng với một số
cựu chính trị phạm của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh quyết định thành lập Ban vận
động Việt Minh Nghệ Tĩnh để kịp thời tập hợp rộng rãi lực lượng chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền. Hội nghị đã nhất trí cử Nguyễn Xuân Linh làm Trưởng
ban vận động và đề ra một số công tác khẩn cấp trước mắt: Liên lạc với cựu chính
trị phạm và quần chúng cách mạng ở các huyện lập ra các cấp bộ Việt Minh ở cơ sở
để lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống chính sách cướp bóc của phát xít Nhật, khẩn
86
trương chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến, cử người
liên lạc với Trung ương Đảng [30, tr.181]. Sau hội nghị, các đại biểu đều lấy tư
cách Ban vận động Việt Minh Nghệ Tĩnh tỏa về các địa phương để tiến hành công
tác chuẩn bị khởi nghĩa.
Nh m kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia hội cứu quốc, Việt Minh Nghệ
Tĩnh đã lập ra nhà in Phạm Hồng Thái, xuất bản báo “Kháng địch” và ấn hành các
tài liệu để tuyên truyền trong quần chúng. Báo “Kháng địch”, số 1 ra ngày 15-6-
1945 kêu gọi “toàn thể quốc dân, không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo hãy mạnh
bạo gia nhập hàng ngũ Việt Minh để diệt trừ phát xít Nhật là kẻ thù số một của
nước ta và phá tan mưu mô khôi phục chính quyền của đế quốc Pháp ở xứ này.
Không lúc nào bằng lúc này, chúng ta hãy sát cánh dưới ngọn cờ lãnh đạo của Việt
Minh, chuẩn bị võ trang khởi nghĩa để cướp lấy chính quyền, giải phóng Tổ quốc,
dựng nên một nền độc lập chân chính hoàn toàn của nước Việt Nam” [77]. Nhờ đẩy
mạnh hoạt động tuyên truyền, các đoàn thể cứu quốc được mở rộng, thu hút đông
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7-1945, Chấp
ủy Việt Minh được thành lập ở Kì Anh, Cẩm Xuyên, thị xã Hà Tĩnh, Thạch Hà, Can
Lộc, Hương Sơn, Hương Khê, Vinh, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh
Chương, Anh Sơn, Diễn Châu, Quỳnh Lưu. Tại Vinh, các Ủy ban vận động, Hội
công nhân cứu quốc được lập ra trong các nhà máy Sifa, Trường Thi, Đề pô. Các tổ
chức Việt Minh bí mật c ng ra đời và hoạt động tại các làng Yên D ng, Yên Lưu,
Lộc Đa, Đức Thịnh. Đến tháng 6-1945, phong trào Việt Minh Kì Anh phát triển đều
khắp trong bốn tổng: Cấp Dẫn, Hà Trung, Vọng Liệu, Đậu Chữ. Tại Hương Sơn,
trong nửa tháng đã có 26 trên 54 làng, xã trong huyện thành lập được Chấp ủy Việt
Minh [19, tr.168], [171]. Tại Can Lộc, bên cạnh Đoàn Thanh niên cứu quốc do
Nguyễn Chung Anh và Nguyễn Đổng Chi phụ trách, sau ngày 9-3-1945, một số
đảng viên c như Trần Đề Quê, Thân Đông Minh và các cựu tù chính trị là Ngô
Đức Mậu, Ngô Đức Thắng thành lập tổ chức Việt Minh hoạt động ở vùng Trảo Nha.
Để thống nhất tổ chức và hành động, ngày 8-8-1945, Đại hội đại biểu Việt
Minh Nghệ Tĩnh được tổ chức tại Hưng Châu (Hưng Nguyên, Nghệ An). Hơn 40
đại biểu của các phủ, huyện thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh đã về dự Đại hội.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Việt Minh Nghệ Tĩnh gồm 7 ủy viên, do Nguyễn
Xuân Linh làm Bí thư.
87
Ở Quảng Bình, Ủy ban thống nhất Trung Kì cử Trần Công Ái ra Quảng Bình
truyền đạt cụ thể về nội dung hoạt động của Mặt trận Việt Minh, nhờ đó phong trào
cách mạng trong tỉnh dần dần được phục hồi. Mặt trận Việt Minh được thành lập ở
Quảng Ninh, Quảng Trạch, Lệ Thủy, Bố Trạch, Tuyên Hóa. Tại Đồng Hới, cơ sở
Việt Minh được hình thành trong nội thị và các làng ngoại ô như Lộc Đại, Thuận Lí,
Diêm Điền, Trung Bính, Phú Hội. Tháng 6-1945, Thị bộ Việt Minh Đồng Hới đã
“mở các lớp huấn luyện cấp tốc về Điều lệ Đoàn Thanh niên cứu quốc và 5 bước
công tác cách mạng của cán bộ thanh vận” [15, tr.63].
Ngày 4-7-1945, tại trại sản xuất An Sinh (Trường Thủy, Lệ Thủy), Hội nghị
Việt Minh toàn tỉnh được triệu tập. Hội nghị quyết định thống nhất lực lượng Việt
Minh trong toàn tỉnh, lấy bí danh là “Việt Minh Cô Tám”, xuất bản tờ báo “Vì
nước” làm cơ quan ngôn luận. Sau hội nghị một thời gian ngắn, Ban Chấp hành
Việt Minh các tổng, làng được thành lập. Các hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc, Phụ lão cứu quốc c ng được hình thành từ thành thị đến nông thôn thu hút
đông đảo quần chúng tham gia. Trong các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền, Hội công
nhân cứu quốc đã công khai hoạt động. Có thể nói, cùng với Ban vận động thống
nhất Đảng, “Việt Minh Cô Tám” ra đời đã phát huy được vai trò lãnh đạo, nhanh
chóng tập hợp các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy quá trình chuẩn bị lực lượng tiến tới
khởi nghĩa giành chính quyền.
3.2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phát xít Nhật và tay sai
Trong công cuộc gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, hoạt động
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng với phát xít Nhật và tay sai có vai trò đặc biệt quan
trọng. Vì chỉ trên cơ sở đó, tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh mới vạch mặt, cô
lập được phát xít Nhật và tay sai, động viên được lòng yêu nước và nhiệt huyết cách
mạng của quần chúng, mới tổ chức và tập hợp được rộng rãi lực lượng yêu nước
tham gia công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
Trên cơ sở nhận định phát xít Nhật không những “làm hại dân Việt Nam mà
còn đè nén ức hiếp dân Nhật, bắt dân Nhật ra trận để làm mồi cho bom đạn mà vợ
con, bố mẹ, anh em họ ở nhà vẫn bị sưu cao thuế nặng, đói rét, khổ sở” [140], Tổng
bộ Việt Minh khẳng định: “Phát xít Nhật là tàn ác, cướp của, giết người...” [140].
Đồng thời, Tổng bộ Việt Minh c ng chỉ ra cho những ai muốn lợi dụng Nhật thấy
r ng: “Lợi dụng Nhật là tự mình để cho Nhật lợi dụng, lợi dụng Nhật, đi theo Nhật
88
tức là trốn ra ngoài hàng ngũ kháng Nhật cứu nước mà toàn thể đồng bào đương
hăng hái bước vào, lợi dụng Nhật là “đánh đu với tinh”, lợi dụng Nhật là tự tử”
[139]. Trên cơ sở đó, công tác tuyên truyền cổ động để vạch mặt nền độc lập giả
hiệu, những thủ đoạn của phát xít Nhật và tay sai được tổ chức Đảng và Việt Minh
các tỉnh Bắc Trung Bộ đẩy mạnh.
Báo “Khởi nghĩa”, số 3 ra ngày 15-4-1945 của Việt Minh Ba Đình đăng bài
xã luận chỉ rõ: “Phải nêu cao khẩu hiệu “Đánh đổ phát xít Nhật”. Phải dùng đủ
mọi hình thức tuyên truyền cổ động mạnh bạo: Truyền đơn, biểu ngữ, băng cờ, diễn
thuyết xung phong, mít tinh công khai vạch mặt bọn Đại Việt và chỉ cho dân chúng
biết giặc Nhật sẽ chết” [73]. Tỉnh ủy Quảng Trị xác định “đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vạch rõ bản chất của giặc Nhật và kiểu độc lập giả hiệu của Chính phủ bù
nhìn Bảo Đại - Trần Trọng Kim, phê phán tư tưởng muốn lợi dụng Nhật của một số
cựu chính trị phạm” [21, tr.183] là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân yêu nước trong tỉnh thời kì tiền khởi nghĩa. Ngày 10-
6-1945, Việt Minh Nghệ Tĩnh phát truyền đơn khẳng định: “Giặc Nhật truất quyền
giặc Pháp không phải để giải phóng nhân dân ta. Chính phủ thân Nhật chỉ là bộ
máy đè nén hút máu dân ta để nuôi béo giặc lùn” [20, tr.156]. Tiếp đó, báo “Kháng
địch”, số 1 ra ngày 15-6-1945 của Việt Minh Nghệ Tĩnh đăng bài nêu rõ chủ trương
của Tổng bộ Việt Minh là tranh thủ ngoại giao, sẵn sàng đón tiếp quân Đồng minh
vào giải giáp quân Nhật, nhưng nhấn mạnh: “Không quá lạc quan đến chỗ ỷ lại vào
Đồng minh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phải nhớ rằng tự do không
phải xin là được, nền độc lập của Tổ quốc phải do xương máu của dân tộc đắp xây
trước hết” [77].
Có thể nói, truyền đơn, báo chí của Việt Minh các tỉnh phát ra đã góp phần
đập tan những luận điệu lừa bịp của phát xít Nhật và tay sai, đem lại cho đông đảo
cán bộ, đảng viên, nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ những nhận thức đúng đắn về
kẻ thù và nhiệm vụ cách mạng trước mắt. Đây là một luồng sinh khí mới trên bước
đường đấu tranh cách mạng của nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ.
3.2.2.3. Lợi dụng tổ chức Thanh niên xã hội và “Việt Minh hóa” học viên
Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế
Do không đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng nhân dân Việt Nam
lúc bấy giờ nên uy tín chính trị của Chính phủ Trần Trọng Kim ngày càng suy sụp.
89
Để cứu vãn tình hình, nâng cao vai trò trong đời sống chính trị, Nội các chủ trương
thi hành chính sách đã được coi trọng ngay từ đầu, đó là vận động thanh niên. Ngày
15-6-1945, theo đề nghị của Bộ Thanh niên, Nội các đã đệ trình vua Bảo Đại ban
Đạo sắc về tổ chức phong trào thanh niên. Theo đó, ở Huế, một Hội đồng cố vấn
giúp việc cho Bộ Thanh niên được thành lập gồm có Hoàng Đạo Thúy (Chủ tịch),
Trần Duy Hưng (Phó Chủ tịch, phụ trách Bắc chi bộ) và Tạ Quang Bửu (Phó Chủ
tịch, phụ trách Nam chi bộ). Tiếp đó, tại hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đều
có Ủy ban vận động thanh niên. Đích thân Bộ trưởng Phan Anh và Hoàng Đạo
Thúy đã đi diễn thuyết ở hầu khắp các tỉnh và thành phố, hô hào, kệu gọi thanh niên
tham gia vào phong trào Thanh niên xã hội, sẵn sàng đứng lên phụng sự Tổ quốc.
Phong trào Thanh niên xã hội đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới trẻ
ở Bắc Trung Bộ. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, ước tính đã có hàng vạn người tham
gia. Nhiều cuộc mít tinh, diễu hành rầm rộ được tổ chức để cổ v tinh thần yêu
nước, ý thức phục vụ dân tộc, phụng sự nhân dân. Nhiều nơi Thanh niên xã hội còn
tổ chức cả các buổi tập luyện quân sự. Một cán bộ chủ chốt của phong trào nhớ lại:
“Nội dung hoạt động của Đoàn Thanh niên xã hội là rèn luyện tinh thần yêu nước
cho các đoàn viên bằng cách tổ chức đi tham quan, cắm trại tại các di tích lịch sử,
tìm hiểu về công tích của các anh hùng dân tộc, là rèn luyện sức khỏe thông qua
các trò chơi ngoài trời, tập các động tác quân sự như lăn lê bò toài...” [93, tr.34].
Có thể nói, trong không khí cách mạng sục sôi của những ngày chuẩn bị khởi
nghĩa, phần đông thanh niên, học sinh tham gia Thanh niên xã hội đều xuất phát từ
động cơ yêu nước. Tuy vậy, trong hàng ng của Thanh niên xã hội vẫn có một bộ
phận thanh niên, học sinh thuộc tầng lớp trên còn mơ hồ về bản chất của phát xít
Nhật, thậm chí làm tay sai cho Nhật hòng lung lạc, lái thanh niên yêu nước Việt
Nam đi chệch hướng, biến họ thành những người lính tiên phong trong việc bảo vệ
chế độ thuộc địa của người Nhật.
Để làm thất bại âm mưu của các phần tử tay sai thân Nhật và tập hợp đông
đảo quần chúng nhân dân, Việt Minh các tỉnh đề ra chủ trương lợi dụng tổ chức
Thanh niên xã hội. Vấn đề ở đây là cần phân biệt sự khác nhau về chủ trương lợi
dụng tổ chức Thanh niên xã hội của các phần tử cơ hội hữu khuynh và Việt Minh
các tỉnh. Nếu như chủ trương lợi dụng tổ chức thân Nhật của những phần tử cơ hội
hữu khuynh là dựa vào tổ chức này để phát huy ảnh hưởng cho nó thì Việt Minh các
90
tỉnh lợi dụng tổ chức này là để nắm quần chúng, tách ảnh hưởng của tay sai thân
Nhật ra khỏi quần chúng. Đối với Hội Tân Việt Nam, Việt Minh các tỉnh một mặt
tìm cách lôi kéo những người bị mua chuộc, lầm đường lạc lối, mặt khác kiên quyết
vạch mặt những phần tử cầm đầu để hạn chế ảnh hưởng của chúng.
Thực hiện chủ trương lợi dụng tổ chức Thanh niên xã hội, Việt Minh các tỉnh
đã vận dụng nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của
các địa phương.
Ở Thừa Thiên, Việt Minh Nguyễn Tri Phương đã chi phối được tổ chức
Thanh niên xã hội. Qua sự vận động của cán bộ Việt Minh Nguyễn Tri Phương, Hội
Tân Việt Nam tuyên bố tự giải tán, nhiều người trong tổ chức này, trong đó có cụ
Tôn Quang Phiệt đã tham gia Việt Minh. Hội truyền bá quốc ngữ trở thành cơ quan
tuyên truyền giáo dục cho quần chúng về chương trình và điều lệ Việt Minh.
Các tổ chức Đảng và Việt Minh ở Quảng Bình, Quảng Trị chủ trương cài
cắm thanh niên cứu quốc tham gia vào các tổ chức Thanh niên xã hội; có nơi còn bố
trí thanh niên cứu quốc tham gia vào ban lãnh đạo thanh niên huyện, thị để hướng
hoạt động của họ vào mục tiêu đấu tranh chống phát xít Nhật.
Tại Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh, ở những nơi tổ chức Thanh niên xã hội
đã bị tay sai thân Nhật nắm trước, Việt Minh tìm cách đưa người vào hoạt động,
đồng thời tranh thủ, thuyết phục những người đứng đầu, thông qua đó để nắm quần
chúng, gạt các phần tử tay sai thân Nhật ra ngoài, chuyển nó thành tổ chức công
khai hợp pháp của cách mạng. Ở các địa phương mà chính quyền thân Nhật đang
chuẩn bị thành lập Thanh niên xã hội, Việt Minh đưa cán bộ hoặc quần chúng có
cảm tình với cách mạng ra tranh cử các chức vụ lãnh đạo chủ chốt để hướng tổ chức
này hoạt động theo chương trình của Việt Minh hoặc chuyển dần tổ chức Thanh
niên xã hội thành Thanh niên cứu quốc. Ở các địa phương chưa có hoạt động của
tay sai thân Nhật, Việt Minh lợi dụng hình thức công khai hợp pháp này để ngụy
trang cho cán bộ hoạt động xây dựng cơ sở Việt Minh, đặc biệt là tại các địa bàn cơ
sở cách mạng còn yếu và bộ máy chính quyền địch còn mạnh. Tại một số phủ huyện
như Hậu Lộc, Hà Trung, Nông Cống, Thiệu Hoá, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Thanh
Chương, Hưng Nguyên, Can Lộc, Cẩm Xuyên và Kì Anh, Việt Minh các tỉnh đã
tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi, tiến hành giáo dục quần chúng, tập luyện
quân sự, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
91
Với việc sử dụng các hình thức đấu tranh linh hoạt, Việt Minh các tỉnh
không những tránh được sự khủng bố và phá hoại của kẻ thù, hạn chế địa bàn hoạt
động của tay sai, mà còn lôi kéo được tuyệt đại bộ phận quần chúng trong các tổ
chức thân Nhật đi theo cách mạng. Chính lực lượng quần chúng này đóng vai trò rất
quan trọng đối với sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh
vào tháng 8-1945.
Tuy nhiên, tại các tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, một số cán bộ
đã áp dụng các biện pháp lôi kéo quần chúng trong tổ chức Thanh niên xã hội đi
theo Việt Minh một cách máy móc do không nhận thức đầy đủ chủ trương của Mặt
trận Việt Minh các tỉnh. Do không nhất trí với chủ trương lợi dụng tổ chức Thanh
niên xã hội của Việt Minh nên một số cán bộ, đảng viên có thái độ phản đối hoặc
không kịp thời đưa người vào tổ chức này. Trong khi đó, có những nơi lực lượng
cựu tù chính trị đông, cơ sở quần chúng mạnh, đáng lí ra phải dùng tổ chức hội cứu
quốc để tập hợp lực lượng, nhưng cán bộ Việt Minh vẫn rập khuôn, máy móc lợi
dụng hình thức tổ chức Thanh niên xã hội. Việc đưa những người có cảm tình với
cách mạng ra nắm giữ các chức vụ chủ chốt của Thanh niên xã hội là cần thiết,
nhưng ở một số nơi đã đưa các cựu tù chính trị và đảng viên có uy tín ra làm thủ
lĩnh của tổ chức này dẫn đến nhận thức mơ hồ nhầm lẫn của một bộ phận nhân dân.
Ngày 16-6-1945, Nội các Trần Trọng Kim ra quyết định thành lập Trường
Thanh niên Tiền tuyến, trụ sở đặt tại thành phố Huế. Ngày 2-7-1945, Trường chính
thức khai giảng khóa đào tạo đầu tiên gồm 43 học viên, do Thiếu úy Phan Tử Lăng,
Chỉ huy trưởng bảo an binh Trung Bộ làm Hiệu trưởng.
Trường Thanh niên Tiền tuyến về hình thức là của Chính phủ Trần Trọng
Kim, ra đời gắn với phong trào Thanh niên xã hội, nhưng thực chất xuất phát từ tinh
thần yêu nước, ý thức đấu tranh vì độc lập dân tộc và tự do của tầng lớp trí thức
Việt Nam. Đây là "một sáng kiến đặc biệt của Phan Anh và Tạ Quang Bửu" [143,
tr.212]. Trong bối cảnh không thể lập ra Bộ Quốc phòng và công khai tổ chức, phát
triển binh bị, một số trí thức yêu nước trong Chính phủ Trần Trọng Kim, tiêu biểu
là Bộ trưởng Bộ Thanh niên - Phan Anh đã nhận thức sâu sắc về sự cấp thiết và ý
nghĩa của việc chuẩn bị thực lực v trang của dân chúng nh m sẵn sàng bảo vệ chủ
quyền đất nước khi cần đến trong những tình huống hiểm nghèo. Do đó, Phan Anh
cùng với Tạ Quang Bửu và một số trí thức yêu nước cùng chí hướng bàn cách lợi
92
dụng tình hình để lập ra một trường võ bị, đào tạo cán bộ chỉ huy quân sự cho quân
đội bảo vệ Tổ quốc trong tương lai. Tuy vậy, hai ông luôn giữ bí mật mục tiêu thực
sự của Trường. Trong lễ khai giảng, Phan Anh chỉ nói chung chung: Học xong ai về
quê người ấy.
Đa số học viên là những thanh niên đang học tú tài hoặc vừa đậu tú tài năm
học 1944 - 1945, có người đã đỗ tú tài và đang học ở Đại học Đông Dương, một số
đã đi làm và rất nhiệt huyết với tiền đồ của dân tộc. Động cơ vào Trường của mỗi
học viên c ng có sự khác nhau: “Người thì đã được tổ chức Việt Minh ở Hà Nội
giác ngộ trước khi về Huế nên thấy rõ con đường tương lai là phục vụ cách mạng;
có người khâm phục, mến mộ anh Tạ Quang Bửu... Nhưng cũng có người thì chịu
ảnh hưởng của bạn bè, có người còn mang theo chút màu sắc lãng mạn tiểu tư
sản... Cái chung nhất trong anh em là tinh thần yêu nước, chống thực dân Pháp,
ghét phát xít Nhật, mong muốn góp phần xây dựng một nước Việt Nam độc lập thực
sự sau này” [88, tr.69].
Chính sách đại đoàn kết dân tộc để "kháng Nhật cứu nước" của Mặt trận Việt
Minh không chỉ thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia mà còn
tác động mạnh mẽ tới các tổ chức chính trị, các tầng lớp nhân dân yêu nước lúc bấy
giờ. Ngay từ khi thành lập, do ảnh hưởng của các sinh viên vốn là cán bộ Việt Minh
từ Hà Nội về, quá trình "Việt Minh hóa" trong Trường đã diễn ra sớm. Lúc đầu có
một tổ Việt Minh bí mật gồm 3 người: Nguyễn Kèn (tức Nguyễn Thế Lâm - Tổ
trưởng), Võ Quang Hồ và Lê Khánh Khang. Sau đó, Phan Hàm, Đặng Văn Việt xin
gia nhập và được thu nhận. Trên cơ sở đó, thành lập Ban Việt Minh của Trường
gồm 5 người. Ban Việt Minh Trường Thanh niên Tiền tuyến đã chủ động bắt liên
lạc với các nhóm Việt Minh công chức ở các trường học tại Huế. Theo sự phân
công của Việt Minh Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Kèn phụ trách vận động học sinh,
sinh viên gia nhập Việt Minh. Qua sự tuyên truyền vận động của Ban Việt Minh, tất
cả học viên của Trường “đều hưởng ứng, sẵn sàng làm mọi việc mà cách mạng cần
đến, sẵn sàng hi sinh cả tính mệnh trước yêu cầu của đất nước” [93, tr.136]. Đến
giữa tháng 7-1945, toàn bộ học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến đã ngả theo
Việt Minh, trở thành lực lượng nòng cốt, xung kích trước mọi công việc, là chỗ dựa
đáng tin cậy của Ủy ban khởi nghĩa (UBKN) tỉnh Thừa Thiên trong quá trình khởi
nghĩa giành chính quyền và thời gian đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
93
Như vậy, nh m biến trở lực thành trợ lực, các cấp bộ Việt Minh đã tương kế,
tựu kế lợi dụng phong trào Thanh niên xã hội, “Việt Minh hóa” Trường Thanh niên
Tiền tuyến để tổ chức, rèn luyện lòng yêu nước, chống phát xít Nhật và tay sai.
Sự chuyển biến của lực lượng thanh niên yêu nước theo Việt Minh có nhiều
yếu tố. Ngoài tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự do, sự vận động khéo léo của
Đảng và Mặt trận Việt Minh các cấp thì việc Chính phủ Trần Trọng Kim ngày càng
tỏ ra bất lực, ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh ngày càng lớn mạnh, phong trào
yêu nước do Mặt trận Việt Minh lãnh đạo trở thành xu thế tất yếu thì chính đội ng
thanh niên trí thức yêu nước này từ các vị thủ lĩnh đến các hội viên, kể cả Phan
Anh, Tạ Quang Bửu, Hoàng Đạo Thúy, Trần Duy Hưng... đã nhanh chóng và kiên
quyết gia nhập lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Bởi lẽ “Trường Thanh niên Tiền tuyến thực chất không phải là nơi đào tạo
sĩ quan cho Chính phủ Trần Trọng Kim, phục vụ cho phát xít Nhật, mà là nơi hội tụ
tầng lớp trí thức trẻ yêu nước đầy nhiệt huyết ở Trung Kì, trong đó chủ yếu là trí
thức trẻ Thừa Thiên Huế để đào tạo thành cán bộ quân sự cho mục đích tốt đẹp của
dân tộc” [63, tr.71]. Chính lực lượng thanh niên ưu tú này về sau đã góp phần đáng
kể trong cuộc tổng khởi nghĩa lật đổ Chính phủ Trần Trọng Kim, làm nên Cách
mạng tháng Tám ở Hà Nội, Huế và các tỉnh Bắc Bộ, Trung Bộ.
3.2.2.4. Vận động các tầng lớp trung gian tham gia hội cứu quốc
Vận động các tầng lớp trung gian tham gia vào công cuộc cứu nước là một
hoạt động quan trọng của cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc
Trung Bộ. Trước hết là vận động binh lính gia nhập hoặc tán trợ Việt Minh. Ở các
tỉnh Nghệ An, Quảng Bình và Thừa Thiên thành lập Ban binh vận. Việt Minh Nghệ
Tĩnh xây dựng cơ sở nội ứng trong đồn bảo an binh ở Vinh, nắm được lính lệ canh
gác ở một số phủ, huyện đường. Việt Minh Quảng Bình xây dựng cơ sở trong đồn
bảo an binh ở Đồng Hới. Việt Minh Thừa Thiên phát triển cơ sở cứu quốc trong các
đơn vị bảo an binh đóng tại địa bàn thuộc các khu phố Phú Bình, Phú Hòa, Gia Hội,
An Cựu. Lực lượng này giữ vai trò hạt nhân tác động và chi phối cả lực lượng bảo
an binh ở Huế, Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang. Việt Minh Thanh Hóa, Hà
Tĩnh, Quảng Trị c ng vận động được một số binh lính làm nội ứng.
Các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình và Thừa Thiên đẩy mạnh công tác vận động
công chức, học sinh, nhân sĩ, trí thức tham gia các hội cứu quốc. Ở Nghệ An, sau
94
ngày Nhật đảo chính Pháp, các quan lại, viên chức n m trong guồng máy cai trị của
đế quốc phát xít đều hoang mang, dao động. Nắm cơ hội này, Việt Minh Nghệ Tĩnh
đã tuyên truyền, thuyết phục họ làm theo yêu cầu của Việt Minh. Có người đã giúp
Việt Minh nắm tình hình hoạt động của quân Nhật và bộ máy chính quyền của
chúng [138, tr.114-115]. Việt Minh Quảng Bình vận động quần chúng thuộc tầng
lớp trên, có tinh thần yêu nước vào các hội Công chức cứu quốc, Công thương cứu
quốc. Một số nhân sĩ có tinh thần yêu nước được sung vào Ban quản lí các hội cứu
đói [172]. Việt Minh Thừa Thiên bí mật thành lập các hội cứu quốc ở các trường
Khải Định, Đồng Khánh, Thuận Hóa, Việt Anh. Truyền đơn Việt Minh được rải
trong các công sở như Tòa Đốc lí, Sở Công chánh, Sở Dây thép, Nhà máy điện...
Đối với các tôn giáo, chủ trương của Việt Minh các tỉnh là vận động nắm tín
đồ Phật giáo, Công giáo, phân hóa cao độ để hạn chế sự chống đối của chức sắc
phản động trong các tôn giáo này. Do làm tốt công tác tuyên truyền đường lối cứu
nước của cán bộ Việt Minh nên thái độ của tín đồ Phật giáo và Công giáo có những
chuyển biến tích cực. Ở Thừa Thiên, nhiều tín đồ Phật giáo ngả theo Việt Minh, các
chùa Từ Đàm, Từ Hiếu, Báo Quốc, Tường Vân... là những địa điểm luyện tập quân
sự của tự vệ cứu quốc [174]. Ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình nhiều đồng bào
Công giáo tham gia Việt Minh. Tổ chức Công giáo cứu quốc hoạt động mạnh, có
đóng góp vào phong trào lạc quyên ủng hộ quỹ cứu quốc và phong trào cứu đói.
Trong khi đó, nhiều địa chủ, tư sản ở các tỉnh Bắc Trung Bộ công khai ủng
hộ Việt Minh. Ở Thanh Hóa, trước khí thế cách mạng ngày càng lên cao, một bộ
phận tư sản, địa chủ trước đây có thái độ do dự đã ngả theo cách mạng. Tại Ho ng
Hóa, tháng 7-1945, Việt Minh huyện đã triệu tập 80 tổng lí của 5 tổng: Bút Sơn, Bái
Thạch, Hành Vĩ, Ngọc Chuế, Từ Quang về làng Ho ng Trì (Ho ng Thắng) tuyên
truyền giác ngộ để họ đứng về phía nhân dân [78]. Ở Nghệ An và Thừa Thiên, có
gia đình địa chủ đóng góp công quỹ đến hàng chục đồng. Nhiều địa chủ còn tham
gia vào các hội thân hào cứu quốc. Nhiều nhà tư sản ở Thanh Hóa, Vinh - Bến
Thủy, Đồng Hới đóng góp tiền xây dựng trường học, mua v khí ủng hộ Việt Minh.
Đối với Chính phủ Trần Trọng Kim, Việt Minh các tỉnh nêu thẳng khẩu hiệu
đánh đổ, vạch mặt tính chất mị dân, thân Nhật của Chính phủ này nhưng đối với
từng cá nhân cụ thể trong nội các, ở cấp tỉnh, huyện, các tổ chức Đảng, Mặt trận
Việt Minh có sách lược cụ thể với từng đối tượng, trung lập hóa những đối tượng có
95
thể trung lập được, cô lập và làm thất bại mọi mưu đồ tranh cướp chính quyền của
các đảng phái phản động: Đại Việt, Quốc dân đảng... Các viên phủ trưởng, huyện
trưởng Thạch Thành, Hậu Lộc, Hà Trung, Vĩnh Lộc (Thanh Hóa); Đức Thọ, Hương
Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh); Quảng Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy (Quảng Bình),
Vĩnh Linh, Triệu Phong (Quảng Trị) chủ động liên lạc với Việt Minh. Cả Tỉnh
trưởng Quảng Bình - Nguyễn Thơ, Bang tá Đồng Hới - Nguyễn Duy Cương, huyện
trưởng Phong Điền, Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc,
Đốc lí thành phố Huế (Thừa Thiên) khi được vận động đều rất thiện chí, sẵn sàng
hợp tác với Việt Minh. Công tác vận động quan chức cao cấp trong triều đình Huế
và Chính phủ Trần Trọng Kim bắt đầu có kết quả. Tổng lí Ngự tiền văn phòng
Phạm Khắc Hòe thường xuyên liên lạc với Tôn Quang Phiệt. Bộ trưởng Bộ Nội vụ -
Trần Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Bộ Tiếp tế -
Nguyễn Hữu Thí, Bộ trưởng Bộ Thanh niên - Phan Anh... đã công khai đề nghị Nội
các Trần Trọng Kim rút lui, giao chính quyền cho Việt Minh. Chỉ huy trưởng Bảo
an binh của Chính phủ Trần Trọng Kim - Phan Tử Lăng khi được vận động đã “hết
lòng ủng hộ Việt Minh, tham gia Việt Minh góp phần cứu nước” [1, tr.167]. Đặc
biệt, nhiều người trong hoàng tộc khi được vận động đã hướng về cách mạng, gia
nhập vào hàng ng của Việt Minh như Vĩnh Tập, Vĩnh Mẫn, Tôn Thất Cảnh, Tôn
Thất Hoàng, Bửu Tiến...
Như vậy, đến giữa tháng 8-1945, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã xây dựng được
lực lượng chính trị đủ mạnh để bước vào khởi nghĩa giành chính quyền.
3.2.3. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa
Ở những mức độ khác nhau, các tỉnh đều đặt vấn đề xây dựng lực lượng v
trang, căn cứ địa cách mạng và đạt được những kết quả quan trọng.
Ở Thanh Hóa, Hội nghị Tỉnh ủy tổ chức vào tháng 4-1945 chủ trương phát
triển các đội tự vệ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền v trang, xây dựng chiến khu,
v trang toàn dân tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Chủ trương của Tỉnh ủy
được quần chúng nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Phong trào “sắm v khí tự trang
bị” phát triển sâu rộng ở các huyện Ho ng Hóa, Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân…
Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 20-5-
1945, chiến khu Quang Trung (Hòa - Ninh - Thanh) được thành lập. Vùng Quỳnh
Lưu (Ninh Bình), Ngọc Trạo (Thanh Hóa), Diềm Tu Lí, Mường Khói, Cao Phong,
96
Thạch Yên (Hòa Bình) được chọn làm trung tâm của chiến khu. Đây là vùng rừng
núi tiếp giáp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, có nhiều đường giao thông liên lạc, một địa
bàn chiến lược cơ động quan trọng. Đầu tháng 6-1945, một trung đội giải phóng
quân đầu tiên của chiến khu ra đời, làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng v
trang trong chiến khu; đồng thời thúc đẩy việc thành lập các đội tự vệ, tiểu tổ du
kích ở các địa phương trong tỉnh. Các tiểu đội, trung đội tự vệ được thành lập ở Lí
Bôn, Cai Mao (Yên Định), Yên Lộ (Thiệu Hóa), Cự Lệ (Cẩm Thủy). Ở Thạch
Thành, tất cả các tổng có phong trào Việt Minh đều xây dựng lực lượng tự vệ, ở
làng thì tổ chức tự vệ của các làng. Đặc biệt tại Ho ng Hóa, lực lượng v trang phát
triển nhanh chóng: Trước ngày 24-7-1945 toàn huyện chỉ có gần 400 chiến sĩ tự vệ,
sau đó ít lâu đã phát triển lên 3.025 chiến sĩ [23, tr.154]. Đến trước ngày khởi nghĩa,
Thanh Hóa đã phát triển được một lực lượng v trang với hơn 2 vạn chiến sĩ du kích
và tự vệ [175].
Trong cuộc hội nghị cuối tháng 6-1945, cùng với nhiệm vụ mở rộng và củng
cố Mặt trận Việt Minh, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Trị chủ trương “phát triển các đội
tự vệ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền xung phong, xây dựng các chiến khu, vũ
trang toàn dân tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền” [22, tr.185].
Xác định vấn đề lập vùng giải phóng là hết sức quan trọng, Phủ ủy Triệu
Phong đã tập trung lực lượng vào việc xây dựng vùng căn cứ. Từ tháng 3 -1945,
Triệu Phong là địa phương có phong trào cách mạng mạnh nhất trong tỉnh Quảng
Trị. Các tổ chức quần chúng của Mặt trận Việt Minh, lực lượng tự vệ v trang và
phong trào tập luyện quân sự phát triển mạnh mẽ. Các cuộc mít tinh, biểu tình của
quần chúng nhân dân diễn ra dồn dập đã trực diện tấn công vào chính quyền cơ sở,
khiến cho bộ máy tay sai ở nhiều tổng, xã, làng bị tê liệt [170]. Trên cơ sở đó, tháng
7-1945, vùng giải phóng Triệu Phong được thành lập, bao gồm các làng, xã n m
ven tỉnh lộ 64 từ Sãi đi Cửa Việt và liên hoàn với một số vùng khác như Phước Lễ,
Mĩ Lộc, Đại Hòa, Vệ Nghĩa, Quảng Điền, Quảng Lượng... mà trung tâm là Mĩ Lộc.
Mĩ Lộc được chọn làm “đại bản doanh” của vùng giải phóng vì nơi đây được bao
bọc xung quanh b ng những cánh đồng, cách thị xã Quảng Trị trên 10 km, có
đường rút ra biển, đi vào Hải Lăng, băng qua Gio Linh rất thuận lợi cùng với truyền
thống yêu nước cao của nhân dân, đảm bảo cả 3 yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân
hòa của một khu căn cứ. Mọi hoạt động của các làng trong vùng giải phóng đều do
97
nhân dân làm chủ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban dân tộc giải phóng
(UBDTGP) phủ Triệu Phong do Lê Thế Hiếu làm Chủ tịch. Trên cơ sở đó, Ban vận
động thống nhất Đảng bộ tỉnh và Mặt trận Việt Minh quyết định chuyển địa bàn
đứng chân từ Vĩnh Linh vào Triệu Phong để thuận lợi trong chỉ đạo phong trào.
Việc thành lập vùng giải phóng và tổ chức UBDTGP Triệu Phong có tác
dụng cổ v mạnh mẽ tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân trong toàn tỉnh. Ở
Hải Lăng, thành lập chiến khu Thượng Nguyên - Phú Long, nơi có phong trào Việt
Minh mạnh, lại ở gần rừng, tổ chức đội tự vệ cứu quốc để bảo vệ chiến khu. Đội tự
vệ chiến đấu của huyện gồm 3 tiểu đội và “lực lượng phát triển rất nhanh từ 3 tiểu
đội tiến lên gần 1 đại đội lúc Nhật đầu hàng và được trang bị chủ yếu là kiếm, dao
găm, đến khi Nhật đầu hàng mới lấy được một khẩu súng 2 nòng” [92, tr.86]. Để
đào tạo cán bộ quân sự cho các tổng, xã, Phủ ủy Triệu Phong tổ chức một lớp huấn
luyện quân sự tại tổng An Dạ, có ảnh hưởng lớn và tạo nên khí thế đấu tranh mới
trong nhân dân: “Sự kiện đó xuất hiện đã làm cho bà con xa gần xung quanh nô nức
kéo nhau đến xem rất đông. Bằng tai nghe, mắt thấy các vị chỉ huy điều khiển với
con số gần 60 học viên được phiên chế thành một đại đội” [92, tr.162]. Trường
Tiểu học Đại Áng trở thành sân tập luyện của tự vệ cứu quốc các tổng, xã, thôn
trong phủ với v khí thô sơ như giáo mác, mõ xảy, dao găm, sào vót nhọn… Ở thị
xã Quảng Trị, một số đội tự vệ được thành lập ở các chợ, trường học hoặc công sở
như Nhà máy nước, Nhà máy đèn, Sở Dây thép [16, tr.98]. Ở Cùa (Cam Lộ), ngày
10-8-1945 đã thành lập đội tự vệ gồm 30 người trang bị đùi, dây, dao găm, dao
phay và 1 khẩu súng mousqueton. Phong trào luyện tập quân sự phát triển rầm rộ,
công khai trong quần chúng: “Với tinh thần hăng hái, sôi nổi…, trong những đêm
có trăng cũng như khi tối trời lúc nào thấy cần là bà con kêu nhau ra bãi, lên các
mặt đường quốc lộ, tỉnh lộ tập có khi chỉ một cá nhân, cha với con hoặc mọi người
trong một gia đình rủ nhau ra đứng giữa sân trong nhà mình luyện tập và tự luyện
tập một cách say sưa cho đến 12 giờ đêm, 1-2 giờ sáng, khi nào thấy chân tay mỏi
nhừ lúc đó mới chịu đi ngủ” [92, tr.163].
Để làm nòng cốt cho đấu tranh v trang, Việt Minh Phú Lộc (Thừa Thiên)
quyết định thành lập đội tự vệ và mở lớp huấn luyện ở Nghi Giang do Nguyễn Đình
Sản phụ trách. Tại Quảng Điền, các tiểu đội tự vệ được thành lập ở Phò Nam, Nam
Dương, Phổ Lại, Hạ Lang, Bác Vọng, Phú Lễ, Hà Lạc, Phong Lai, Thành Trung,
98
Tây Thành. Ở Niêm Phò đã thành lập một trung đội tự vệ tích cực canh gác, luyện
tập, sắm sửa v khí. Ở Hương Thủy, tháng 7-1945 thành lập đội tự vệ Thanh Thủy
Thượng được trang bị những v khí thô sơ và một số súng lấy được của Pháp. Tại
Phú Vang, đội tự vệ đầu tiên của huyện được thành lập tại Hà Trung do Dương Y
phụ trách. Sau đó, các đội tự vệ khác c ng lần lượt ra đời, tích cực chuẩn bị v khí,
luyện tập quân sự. Đầu tháng 8-1945, “Bùi Trung Hoàn, cai khố đỏ ở Thuận An, đã
vận động thêm một số binh lính, lấy 4 khẩu súng lập đội tự vệ, tham gia khởi nghĩa”
[11, tr.35]. Tại Phong Điền, lực lượng tự vệ được thành lập, tổ chức trang bị v khí
thô sơ nhưng tập luyện tích cực, làm nòng cốt khởi nghĩa ở làng, tổng, huyện. Ngay
ở Huế, một thành phố có 4.500 quân Nhật chiếm đóng, “đại bản doanh” của Nam
triều và Chính phủ Trần Trọng Kim nhưng các đội tự vệ vẫn được bí mật thành lập
trong Nhà máy Vôi thủy Long Thọ, Ga Huế, Nhà máy điện, Trường Kĩ nghệ thực
hành. Những nơi chưa thành lập được đơn vị thì có những đội viên tự vệ cứu quốc
hoạt động bí mật [17, tr.129].
Ở Nghệ An, các đội tự vệ được thành lập và phát triển nhanh chóng, rộng
khắp từ thành thị đến nông thôn. Tại Vinh, tự vệ cứu quốc được lập ra trong các nhà
máy Sifa, Trường Thi, Đềpô… Ở một số phủ, huyện như Nghi Lộc và Diễn Châu,
ngoài các đội tự vệ ở cơ sở, còn có đội tự vệ thường trực ở huyện để làm nòng cốt
cho cuộc khởi nghĩa khi thời cơ đến. Việt Minh Nghệ Tĩnh còn phân công một số
cán bộ về các địa phương thu nhặt v khí, thâm nhập cơ sở quần chúng, tích cực
chuẩn bị lực lượng cho việc thành lập các khu an toàn theo chỉ thị của Trung ương.
Ở Hà Tĩnh, lực lượng tự vệ phát triển nhanh ở các xã của huyện Can Lộc,
Hương Sơn nhưng lực lượng v trang tập trung của tỉnh còn rất mỏng. Đến trước
ngày khởi nghĩa, toàn tỉnh có khoảng 1.000 đội viên tự vệ và đã xây dựng được các
khu căn cứ ở Tràng Sim, Khe Trầm (Hương Sơn), Truông Bát (Hương Khê) [3].
Ở Quảng Bình, các đội tự vệ được thành lập ở thị xã Đồng Hới và các phủ,
huyện để làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.
Trung Thuần (Quảng Trạch) được xây dựng thành chiến khu, Võ Xá (Quảng Ninh)
được xây dựng thành khu căn cứ. Thị xã Đồng Hới xây dựng khu căn cứ Bàu Rèng.
Tại Võ Xá, Tỉnh bộ Việt Minh mở một số lớp huấn luyện cán bộ cho các phủ,
huyện; thành lập đội nghĩa binh của tỉnh và thường xuyên luyện tập, một số tự vệ
các phủ, huyện, thị c ng được gửi về Võ Xá dự các lớp huấn luyện. Tại chiến khu
99
Trung Thuần, đội tự vệ gồm 40 chiến sĩ tích cực tập luyện quân sự, sẵn sàng hỗ trợ
quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền.
Như vậy, với những mức độ khác nhau, tất cả các tỉnh đã tiến hành xây dựng
lực lượng v trang và căn cứ địa chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Thanh Hóa là nơi
phong trào phát triển mạnh hơn cả, có quân số đông khoảng 2 vạn chiến sĩ tự vệ, du
kích, được tổ chức chu đáo. Sau Thanh Hóa là Nghệ An, Thừa Thiên và Quảng Trị,
các tỉnh còn lại quân số ít. Cùng với việc phát triển lực lượng v trang, xây dựng
căn cứ địa, việc chuẩn bị v khí c ng được gấp rút thực hiện.
Việt Minh các tỉnh giao cho từng đoàn thể cứu quốc tự nguyện góp đồng, sắt,
huy động thợ rèn, rèn đúc các loại v khí thô sơ trang bị cho tự vệ, đội viên tiểu tổ
du kích của đoàn thể mình. Ở Thừa Thiên và Quảng Trị, quần chúng nhân dân sáng
tạo cải tiến những dụng cụ lao động, sinh hoạt thường ngày thành v khí để trang bị
cho tự vệ qua câu phương ngôn “mõ xảy đập ngay5, dao phay tra cán
6” [170],
[173]. Các loại v khí hiện đại được huy động từ nhiều nguồn: Tìm những v khí
của quân Pháp cất giấu khi Nhật đảo chính; vận động quân Nhật và lính bảo an ủng
hộ; vận động hội viên cứu quốc góp tiền mua sắm v khí. Một số nơi đội du kích có
cơ sở nội ứng trong binh lính đột nhập vào đồn địch lấy súng...
Ở Thanh Hóa, ngày 20-5-1945, trung đội Lí Bôn và tiểu đội Cai Mao dưới sự
chỉ huy của Đỗ Huy Chi và Lê Quốc Lộc tiến công vào đồn Đa Nẫm, thu được
nhiều súng và làm chủ đồn. Việt Minh Quảng Bình vận động Tỉnh trưởng Nguyễn
Thơ và chỉ huy đồn lính bảo an Quản Long giao nộp 100 khẩu súng trường và đạn
dược. Số v khí trên nhanh chóng được vận chuyển lên khu căn cứ Võ Xá [15,
tr.65], [172]. Việt Minh Đồng Hới tổ chức cho lực lượng tự vệ ra sân bay đào bới
v khí của quân Pháp cất giấu khi Nhật đảo chính, lấy được 32 khẩu súng
mousqueton. Tại Thừa Thiên, đội tự vệ huyện Phú Lộc tìm được 1 khẩu pháo, 30
súng tiểu liên, 1 trung liên và một số đạn của máy bay Mĩ bị lực lượng phòng không
Nhật bắn rơi ở động Truồi. C ng trong thời gian này, một tàu chiến Nhật bị máy
bay Mĩ bắn chìm ở m i Chân Mây, Việt Minh Phú Lộc huy động thanh niên, tự vệ
5 Mõ xảy là dụng cụ thường được người nông dân sử dụng để phơi rơm, cán b ng tre, đầu có hai thanh sắt uốn
cong và nhọn. Để tăng tính sát thương, quần chúng nhân dân đã đập thẳng hai thanh sắt uốn công đầu mõ xảy. 6 Dao phay là dụng cụ thường được nhân dân sử dụng vào việc chế biến thực phẩm, cán dao thường b ng gỗ
dài khoảng 10 đến 15 cm, lưỡi dao là thanh thép được rèn mỏng và sắc dài từ 20 đến 25 cm. Để tiện sử dụng
trong quá trình tuần hành, thị uy giành chính quyền, quần chúng nhân dân đã tra cán dao dài hơn.
100
đem thuyền ra lấy được khá nhiều v khí. Tự vệ huyện Phú Lộc còn tìm được 1
khẩu pháo 20 li trên chiếc máy bay của Nhật bị quân Đồng minh bắn rơi. Trước khi
Nhật đầu hàng Đồng minh, Việt Minh Phú Lộc đã vận động được 8 lính Nhật vận
chuyển cho cách mạng nhiều v khí từ Đồng Hới vào [173].
Tính chung, đến trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, trong 6 tỉnh số
súng chỉ hơn 600 khẩu, phân bố rải rác ở nhiều phủ huyện. V khí chủ yếu của tự
vệ, du kích vẫn là dao, kiếm, mã tấu, gậy. Vấn đề xây dựng căn cứ địa chỉ được
thực hiện thành công ở Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị nhưng quy mô nhỏ. Các
tỉnh còn lại đang trong quá trình vận động xây dựng.
Có thể nói, đến trước ngày khởi nghĩa giành chính quyền, các tỉnh Bắc Trung
Bộ đã xây dựng được lực lượng cách mạng khá hùng hậu, sẵn sàng cùng với đồng
bào cả nước “đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [87, tr.554].
3.3. CAO TRÀO KHÁNG NHẬT CỨU NƯỚC
Dựa vào chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong Chỉ thị
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945), các cấp bộ đảng đã
chuyển mọi hoạt động sang thời kì tiền khởi nghĩa để đẩy thời cơ nhanh chóng chín
muồi. Sự chính xác và kịp thời của bản Chỉ thị đã tạo một bước chuyển biến đưa
phong trào cách mạng trong cả nước nói chung, các tỉnh Bắc Trung Bộ nói riêng
tiến lên cao trào kháng Nhật cứu nước với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, quyết
liệt thể hiện tính sáng tạo của địa phương.
3.3.1. Phong trào phá kho thóc giải quyết nạn đói
Trước thực tế nạn đói diễn ra ngày càng trầm trọng, tổ chức Đảng, Việt Minh
các tỉnh Bắc Trung Bộ đã phát động phong trào đấu tranh cứu đói diễn ra mạnh mẽ,
thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, hình thức đấu tranh phong phú.
Ngày 4-3-1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa ban hành Chỉ thị “Đòi ăn”. Bản chỉ thị
vạch rõ: “Nạn đói trầm trọng, dai dẳng đang dày vò dân chúng, hàng mấy mươi
vạn đồng bào không còn gì ăn, số chết đói đã rất lớn và còn tăng lên nữa!... Tình
trạng nguy cấp của đồng bào cùng đồng chí và chính sách cướp bóc của giặc... bắt
buộc chúng ta phải đối phó lập tức” [137]. Từ thực trạng đó, chỉ thị khẳng định:
“Chỉ có đấu tranh với Pháp - Nhật và bất đắc dĩ với các nhà giàu mới giải quyết
được nạn đói cho đồng bào và đồng chí chúng ta...” [137].
101
Chỉ thị “Đòi ăn” đã hướng dẫn cán bộ, đảng viên phát động được một phong
trào quần chúng mạnh mẽ. Nông dân đoàn kết tương trợ lẫn nhau và kiên quyết
vùng dậy đấu tranh. Nhiều nơi quần chúng làm đơn, cử đại biểu đến gặp phủ
trưởng, huyện trưởng đòi cứu tế, đòi được vay thóc, ngô. Một số cuộc biểu tình thị
uy để tịch thu và cưỡng vay thóc gạo được tổ chức tại các phủ, huyện Thiệu Hóa,
Ho ng Hóa, Hậu Lộc. Nông dân Hà Trung đã chặn xe giành lại số thóc bị Nhật
cướp mang đi, nông dân Thiệu Hóa đấu tranh đòi địa chủ cho vay thóc gạo.
Ở Nghệ An, các cuộc đấu tranh đòi vay lúa của địa chủ để phân phát cho dân
bị đói được tổ chức ở Nghi Lộc, Quỳnh Lưu. Tại Thanh Chương, dưới sự lãnh đạo
của Việt Minh, “nhân dân các làng Thanh Cao, Tiên Hội, Võ Liệt... kéo đến nhà
tổng lí đòi lấy tiền lúa công của làng xã để cứu tế cho dân bị đói; đồng thời, trấn
áp, trừng trị những tổng lí đi thu vét thóc gạo cho Nhật” [14, tr.124].
Phong trào phá kho thóc của Nhật giải quyết nạn đói phát triển mạnh mẽ ở
Hà Tĩnh. Tại các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Cẩm Xuyên, quần chúng nhân
dân đã phá hàng chục kho thóc phân phát cho các gia đình bị đói. Ở Kì Anh, nhân
dân “đã phá những kho thóc của Nhật ở Voi, ở huyện lị, ở đồn điền chợ Gia...” [7,
tr.70]. Trong các vùng nông thôn, nông dân đã buộc hào lí phải đem chia các loại
thóc quỹ để cứu đói.
Ở Quảng Bình, Hội đồng cứu đói do tổ chức Đảng hoặc đảng viên làm nòng
cốt được thành lập tại hầu hết các phủ, huyện, thị đã vận động hàng trăm quần
chúng đi phá kho thóc của Nhật chia cho dân hoặc đấu tranh đòi “quan lại, lí hương
xuất thóc gạo để cứu trợ đồng bào” [123]. Ngoài ra, các Hội đồng cứu đói phát
động phong trào tương trợ trong nội bộ những người nghèo khổ, vận động tầng lớp
hữu sản ủng hộ tiền, thóc giúp đỡ nhân dân, yêu cầu Tỉnh trưởng Nguyễn Thơ “đem
mấy thuyền gạo phát cho dân”, mở cuộc “hưng công đại chẩn” [32], [40], [176].
Bên cạnh đó, các đội tự vệ tổ chức phục kích đánh úp các đồn lẻ của địch,
tịch thu tài sản hoặc bắt giữ thuyền chở gạo của phát xít Nhật, chia cho dân nghèo.
Ở Thanh Hóa, lực lượng tự vệ dưới sự chỉ huy của Đinh Chương Lân, tổ
chức bao vây đồn Lạch Trường thu 7 khẩu súng, 4 kho thóc và 1 kho muối. Tháng
6-1945, Việt Minh Ho ng Hóa tổ chức cuộc mít tinh với hơn 1.000 người dự, tuyên
bố tịch thu thóc của hai tên Việt gian là cai Bái và bản Doan chia cho dân nghèo. Ở
Nghệ An, tự vệ tổng Xâm Lâm (Thanh Chương) chặn lấy bốn thuyền gạo của Nhật
102
để cấp cho dân bị đói. Tháng 6-1945, đội tự vệ Mai Xá (Gio Linh, Quảng Trị) do
Trương Công Tự chỉ huy đã phục kích đánh đắm thuyền chở gạo của phát xít Nhật
từ Đông Hà về cảng Cửa Việt. Giữa tháng 7-1945, đội tự vệ Phú Hội (Quảng Bình)
chặn các ghe thuyền của chính quyền thân Nhật đi từ Nam ra Bắc, vận động chủ
ghe thuyền trao lại 600 tấn muối và gạo cho Việt Minh. Tại Phú Lộc (Thừa Thiên),
ngày 25-7-1945, đội tự vệ Nghi Giang bắt giữ hai đò thóc gồm 30 tấn của tay sai
thân Nhật ở bến đò Phụng Chính chia cho dân nghèo.
Có thể nói, phong trào đấu tranh cứu đói ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã thu
được nhiều thắng lợi lớn. Thắng lợi đó không những đã giải quyết phần nào nạn đói
trước mắt, mà còn phát động được một phong trào quần chúng rộng lớn, tạo ra động
lực thực sự, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh cách mạng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
3.3.2. Đẩy mạnh tuyên truyền xung phong, khởi nghĩa từng phần, lập
chính quyền cách mạng
Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, bên cạnh phong trào phá kho thóc giải
quyết nạn đói, các tỉnh Bắc Trung Bộ còn đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền xung
phong, tiến hành khởi nghĩa từng phần, lập chính quyền cách mạng.
Các đội tuyên truyền xung phong tỏa xuống các làng nổi trống, mõ, tổ chức
mít tinh đông người, treo cờ đỏ sao vàng, giăng biểu ngữ, công khai giải thích chủ
trương kháng Nhật cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Nhiều nơi các đội tuyên
truyền xung phong hoạt động rất mạnh, đột nhập vào các cuộc hiểu dụ của quan lại
địa phương, các cuộc họp của Thanh niên xã hội để tẩy chay hoặc biến thành những
cuộc mít tinh tuyên truyền vận động quần chúng. Cuối tháng 6-1945, tự vệ huyện
Nga Sơn đã biến cuộc hiểu dụ tổng lí của tri huyện thành cuộc diễn thuyết xung
phong của Việt Minh. Nhiều cuộc tuyên truyền xung phong như vậy được tổ chức ở
các chợ, các buổi cắm trại của thanh niên, kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách
mạng [33, tr.65]. Những cuộc đốt lửa trại của Thanh niên xã hội tổ chức đều có
thanh niên cứu quốc tham gia và bảo vệ cho cán bộ Việt Minh lên diễn thuyết. Ở
Hoàn Lão, Huyện đoàn Thanh niên xã hội Bố Trạch “tổ chức đốt lửa trại, thanh
niên cứu quốc huyện và một số thanh niên thị xã Đồng Hới ra bảo vệ để đồng chí
Nguyễn Đức Thưởng lên diễn thuyết, kêu gọi thanh niên đoàn kết, chống Nhật, cứu
nước” [21, tr.105]. Trong cuộc hội nghị của Thanh niên xã hội tổng Hoàng Phổ
(Quảng Ninh) tổ chức tại trường Đại Phúc, cán bộ Việt Minh “đã đến dự và tự động
103
lên nói chuyện với hội nghị, vạch rõ sai lầm của chính quyền Trần Trọng Kim, sai
lầm của thanh niên Phan Anh, kêu gọi ủng hộ Việt Minh” [121].
Các cuộc mít tinh, biểu tình diễn ra đồng loạt ở nhiều phủ, huyện, thị của các
tỉnh với khí thế cờ giong trống thúc uy hiếp tinh thần tổng lí địa phương và không
dừng lại ở mục tiêu đòi dân sinh dân chủ bình thường nữa mà đã trực diện tấn công
vào chính quyền cơ sở, quyết liệt chống bắt xâu, vơ vét lúa gạo, chống nhổ lúa
trồng bông… Theo điều tra của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An
năm 1964, chỉ tính từ tháng 5 đến tháng 7-1945, riêng các phủ huyện đồng b ng đã
có tới 262 cuộc đấu tranh, trong đó có 64 cuộc chống thuế, 29 cuộc chống bắt phu
bắt lính, 65 cuộc chống Nhật thu thóc và nhổ lúa, màu để trồng đay, 104 cuộc đấu
tranh và kiện bọn hào lí nh ng nhiễu nhân dân [20, tr.157]. Ngày 11-7-1945, hơn
1.000 quần chúng có sự hỗ trợ của 200 tự vệ các tổng Bái Thạch, Hành Vĩ, Bút Sơn,
Ngọc Chuế xuống đường tuần hành thị uy từ 7 giờ đến 24 giờ với quãng đường dài
20 km. Đến mỗi làng, đoàn đều dừng lại diễn thuyết, bắt Việt gian ra cảnh cáo, kêu
gọi quần chúng không nộp thuế, không đi phu, đi lính, đoàn kết đánh đuổi phát xít
Nhật. Báo “Khởi nghĩa”, số 6 ra ngày 15-7-1945 miêu tả: “Trong ngày ấy già trẻ
trai gái tấp nập hai bên đường nhảy múa reo hò như một ngày hội lớn” [75]. Các
cuộc tuần hành thị uy c ng được tổ chức ở Hậu Lộc, Quảng Xương, Thọ Xuân,
Thiệu Hóa, Hà Trung, Nga Sơn. Ngày 25-7-1945, Mặt trận Việt Minh Phú Lộc tổ
chức cuộc mít tinh ở nhà hát Mĩ Lợi có khoảng 2.000 người dự, trong đó có 400 tự
vệ của tổng Diêm Trường. Ở Vĩnh Linh, cuộc biểu dương lực lượng của hàng ngàn
quần chúng nhân dân được tổ chức ngày 2-8-1945 tại sân vận động Trạng Cù, có
lực lượng bảo vệ và đội tự vệ võ trang dưới sự chỉ huy của Trần Giác. Lần đầu tiên,
lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới trên bầu trời sân vận động chỉ cách phủ đường Vĩnh
Linh mấy trăm mét. Tại khu căn cứ Võ Xá, Việt Minh Quảng Bình tổ chức cuộc mít
tinh thu hút hàng ngàn quần chúng nhân dân tham dự.
Trước khí thế sôi nổi của cách mạng, bộ máy tay sai ở tổng, xã, làng nhiều
nơi n m im, không dám phản ứng. Một số lí trưởng mang sổ sách, con dấu nộp cho
Việt Minh, một số chánh tổng thì lo sợ, không dám hoạt động. Có thể nói, phong
trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã làm phân hóa mạnh mẽ tầng lớp thống
trị, khiến chính quyền của địch ở một số địa phương bị tê liệt, sụp đổ. Trên cơ sở
đó, chính quyền cách mạng của nhân dân được thiết lập ở nhiều làng, xã.
104
Báo “Khởi nghĩa”, số 4 ra ngày 15-5-1945 đăng bài xã luận “Kinh nghiệm
thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng” đã chỉ rõ: “Sự thành lập các Ủy ban dân tộc
giải phóng làng phải tùy theo hoàn cảnh thực tế từng địa phương mà tiến hành. Ở
những làng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Việt Minh, sức phản động không có hay
kém, thì dễ thực hiện một ủy ban gồm toàn những người hăng hái cách mạng, được
toàn dân tín nhiệm” [74]. Đối với những làng còn những người sợ mất địa vị, quyền
lợi riêng... ta có thể giữ nguyên ban hương chức c , đồng thời thành lập UBDTGP
nắm tất cả quyền hành trong làng. Trong số hương chức c , chọn vài người tương
đối tốt hơn cho tham gia ủy ban nhưng không được giao cho họ những nhiệm vụ
quan trọng [74]. Từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7-1945, UBDTGP được thành lập ở
nhiều làng thuộc huyện Hà Trung, Thiệu Hóa và Ho ng Hóa.
Ở Quảng Bình, UBDTGP được thành lập tại làng Trung Thuần (Quảng
Trạch) và làng Võ Xá (Quảng Ninh). Tháng 7-1945, UBDTGP phủ Triệu Phong và
huyện Gio Linh (Quảng Trị) được thành lập. Ở Phú Lộc (Thừa Thiên), trước khí thế
quật cường của nhân dân, bộ máy chính quyền của địch ở xã Nghi Giang phải từ
chức. Chấp ủy Việt Minh Nghi Giang họp dân làng, bầu ra Hội đồng dân ủy thực thi
các chính sách tiến bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Bên cạnh đó, cuộc khởi nghĩa từng phần cấp huyện đã bùng nổ và giành
được thắng lợi ở Ho ng Hóa.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Ho ng Hóa, ngày
24-7-1945, theo lệnh của phát xít Nhật, Phủ trưởng Phạm Trọng Bào cùng Quản
Hiến tổ chức hai toán quân để khủng bố đồng bào, bắt cán bộ, đảng viên hòng uy
hiếp phong trào đấu tranh của nhân dân trong phủ. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ
Ho ng Hóa, Đinh Chương Lân đã tổ chức cho tự vệ và quần chúng cách mạng bao
vây, tiến công quyết liệt bắt sống toàn bộ quân lính và Phạm Trọng Bào; Quản Hiến
phải tháo chạy về thị xã Thanh Hóa. Phát huy thắng lợi, trưa ngày 24-7-1945, quần
chúng cách mạng kéo về cồn Ba Cây tổ chức mít tinh chào mừng chiến thắng, xử
tội Phạm Trọng Bào và bao vây phủ lị Ho ng Hóa. Trước khí thế mạnh mẽ của
quần chúng, bọn nha lại đầu hàng, nộp con dấu và toàn bộ sổ sách, chính quyền về
tay nhân dân. Tại các tổng, làng trong huyện đã xúc tiến thành lập UBDTGP thay
cho chính quyền thân Nhật.
105
Hành động kiên quyết, kịp thời và linh hoạt của cán bộ, đảng viên và nhân
dân Ho ng Hóa là hoàn toàn phù hợp với tình hình và yêu cầu của cách mạng Việt
Nam sau ngày 9-3-1945. Để bảo vệ thành quả cách mạng, Tỉnh ủy Thanh Hóa chủ
trương phải tìm mọi biện pháp chống địch khủng bố. Thực hiện chủ trương của
Tỉnh ủy, Chi bộ Ho ng Hóa đã phát động nhân dân vừa kiên quyết trấn áp bọn phản
cách mạng, vừa tích cực chuẩn bị sẵn sàng tiến hành chiến tranh du kích nếu phát
xít Nhật và tay sai đưa quân về khủng bố.
Từ ngày 1 đến ngày 10-8-1945, lực lượng cách mạng Ho ng Hóa đã đẩy lùi
ba cuộc phản công của lính bảo an có sĩ quan Nhật chỉ huy, kết thúc thắng lợi cuộc
đấu tranh giành chính quyền của nhân dân trong huyện. Theo sự chỉ đạo của Tỉnh
ủy, sáng ngày 17-8-1945, Chi bộ cộng sản và Ban Cán sự Việt Minh huyện tổ chức
Hội nghị đại biểu nhân dân và tuyên bố thành lập UBNDCM lâm thời huyện Ho ng
Hóa. Khởi nghĩa ở Ho ng Hóa đã diễn ra một cách quyết liệt dưới hình thức đấu
tranh v trang kết hợp với đấu tranh chính trị, giành được thắng lợi trọn vẹn.
Như vậy, qua cao trào kháng Nhật cứu nước, ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã
xuất hiện hai hình thái chính quyền cùng song song tồn tại ở một số địa phương: Đó
là chính quyền thân Nhật và các UBDTGP mới được thiết lập. Đây là giai đoạn tập
hợp quần chúng mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu rộng ở thành thị và
nông thôn, đồng b ng và trung du, kết hợp với phát triển lực lượng v trang. Đấu
tranh v trang kết hợp với đấu tranh chính trị thực hiện khởi nghĩa từng phần là một
quá trình đánh lùi địch từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, xây dựng và tích l y
lực lượng về mọi mặt ở nông thôn c ng như ở thành thị để tiến tới bước quyết định
khi thời cơ đến vùng dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
3.4. THỜI CƠ VÀ KẾ HOẠCH KHỞI NGHĨA CỦA ĐẢNG BỘ, MẶT TRẬN
VIỆT MINH CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
3.4.1. Thời cơ của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ
Đến đầu tháng 8-1945, những điều kiện chủ quan của một cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền trong toàn quốc đã xuất hiện. Chỉ chờ điều kiện khách quan chín
muồi là cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra trong toàn quốc.
Với sự kiện Mĩ thả 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirosima (6-8-
1945) và Nagasaki (9-8-1945), cùng với thắng lợi của Hồng quân Liên Xô, phát xít
106
Nhật chấp nhận đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Thời cơ của một tổng khởi
nghĩa đã chín muồi trong toàn quốc.
Chớp lấy thời cơ thuận lợi, chiều ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh đã thành lập UBKN toàn quốc. Vào lúc 23 giờ ngày 13-8-1945,
UBKN ra bản “Quân lệnh số 1”, chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa trong cả
nước. Bản “Quân lệnh” có đoạn viết: “Hỡi quốc dân toàn quốc! 12 giờ trưa ngày
13-8-1945, phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật đã bị tan rã tại
khắp các mặt trận. Kẻ thù chúng ta đã ngã gục. Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội
có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!...
Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng
thận trọng!” [52, tr.421-422].
Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương
họp tại Tân Trào quyết định lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Để đảm bảo lãnh đạo
tổng khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị đề ra ba nguyên tắc: “a. Tập trung - tập trung
lực lượng vào những việc chính; b. Thống nhất - thống nhất mọi phương diện quân
sự, chính trị, hành động và chỉ huy; c. Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ
hội” [52, tr.425]. Hội nghị còn đề ra phương châm hành động và nhiệm vụ quân sự
trong lúc khởi nghĩa là phối hợp quân sự với chính trị, “đánh chiếm ngay những nơi
chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Thành lập những Ủy ban nhân dân ở
những nơi ta làm chủ” [52, tr.425], tước v khí, tịch thu tài sản của quân Nhật,
“đánh cho quân giặc những đòn chí tử, tiêu diệt lực lượng của chúng, chớp lấy
những căn cứ chính (cả các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào” [52, tr.429], đề
ra chính sách về đối nội, đối ngoại cần thực hiện sau khi tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân đại hội c ng được tổ chức ở Tân Trào với
sự tham dự của 60 đại biểu đại diện các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể
nhân dân, các dân tộc, tôn giáo trong nước và kiều bào nước ngoài. Đại hội tán
thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10
chính sách lớn của Việt Minh, cử ra UBDTGP Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch. Nghị quyết của Đại hội đã khẳng định: “Không phải Nhật bại là nước ta tự
nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải khôn khéo
và kiên quyết. Khôn khéo để tránh những sự không lợi cho ta. Kiên quyết để giành
cho được nền độc lập hoàn toàn” [52, tr.561]. Đại hội quốc dân Tân Trào thể hiện
107
sự đoàn kết và quyết tâm của dân tộc Việt Nam trước thời khắc quyết định của lịch
sử, là hội nghị Diên Hồng của thế kỉ XX.
Quyết định Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã
tác động mạnh mẽ đến tình hình cách mạng cả nước, đáp ứng nguyện vọng của toàn
thể nhân dân Việt Nam, là điều kiện có ý nghĩa hàng đầu để Việt Minh các tỉnh Bắc
Trung Bộ lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền
trong bối cảnh thời cơ cách mạng ở đây đã chín muồi.
Đến giữa tháng 8-1945, Mặt trận Việt Minh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã được
xây dựng rộng khắp, trở thành trung tâm tập hợp các lực lượng yêu nước. Phong trào
phá kho thóc, giải quyết nạn đói, các hoạt động tuyên truyền xung phong, tiểu trừ
Việt gian, tấn công vào chính quyền tay sai, lập chính quyền cách mạng diễn ra ở
một số địa phương; không khí chuẩn bị vùng lên khởi nghĩa bao trùm ở hầu khắp
các tỉnh. Đa số các tầng lớp trung gian đã ngả về phía cách mạng, kể cả những nhân
vật quan trọng trong Chính phủ Trần Trọng Kim và Nam triều phong kiến.
Tuy vậy, ở Bắc Trung Bộ, bên cạnh thời cơ thuận lợi c ng có một số khó
khăn. Tại thành phố Huế tập trung đông đảo đội ng trí thức, công chức tham gia
trong chính quyền của thực dân Pháp trước đó và phát xít Nhật. Bảo Đại và Trần
Trọng Kim vẫn chưa muốn từ bỏ quyền lực. Mặc dù tin phát xít Nhật đầu hàng
khiến cho Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang cực độ, một số bộ trưởng thức
thời xin từ chức nhưng Bảo Đại và Trần Trọng Kim vẫn cố gắng lập ra cái gọi là
Chính phủ lâm thời. Ngày 14-8-1945, Chính phủ lâm thời một mặt tuyên bố vẫn
hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản, mặt khác tìm cách bắt liên lạc với các đế quốc Anh,
Pháp, Mĩ và cho phái viên đi mời các đảng phái về Huế (kể cả Việt Minh) lập nội
các mới. Quân Nhật tập trung ở Bắc Trung Bộ tương đối đông (khoảng 9.000 quân),
lại chưa nhận được lệnh hạ v khí đầu hàng. Nhiều địa phương chưa nhận được
lệnh tổng khởi nghĩa và chính sách của Mặt trận Việt Minh được thông qua tại Đại
hội quốc dân Tân Trào. Ở miền núi các tỉnh, cơ sở cách mạng còn yếu, nhất là miền
núi tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, thành phần lang đạo, thổ ti chưa đi theo Việt
Minh, thế lực của chúng còn mạnh, có thể khống chế được quần chúng nhân dân.
Tình hình trên đây đặt ra cho Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ, nhất là ở
Thừa Thiên cần phải có đối sách phù hợp để đưa cách mạng đến thắng lợi trọn vẹn,
ít đổ máu và đảm bảo được khối đoàn kết để tiếp tục chống các thế lực ngoại xâm.
108
3.4.2. Kế hoạch khởi nghĩa của các tỉnh Bắc Trung Bộ
Trên cơ sở phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, việc lập lại Xứ
ủy Trung Kì được xúc tiến để tiến tới lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn xứ.
Thực hiện chủ trương của Ủy ban thống nhất Trung Kì, Tố Hữu đã phân
công Trần Hữu Dực chuẩn bị địa điểm họp đại biểu các tỉnh toàn Trung Kì để lập
lại Xứ ủy. Địa điểm được chọn là làng Mĩ Thổ (Lệ Thủy) là nơi đóng cơ quan của
Việt Minh Quảng Bình. Công việc đang tiến hành thì Nhật đầu hàng, các địa
phương tiến hành tổng khởi nghĩa, cuộc hội nghị lập Xứ ủy do đó phải hoãn lại.
Chính vì vậy, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, c ng như khu vực miền
Trung nói chung, các tỉnh Bắc Trung Bộ không nhận được sự chỉ đạo của Xứ ủy.
Trong khi đó, Ủy ban thống nhất Trung Kì tuy được lập ra nhưng không hoạt động
được gì nhiều. Trong bối cảnh đó, Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ phải phát huy
tinh thần chủ động, sáng tạo và căn cứ vào Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta” đã quyết định vạch ra kế hoạch khởi nghĩa, phát động quần
chúng đứng lên giành chính quyền, đầu tiên là ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Trên cơ sở tiếp thu chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và căn cứ thực tiễn
phong trào cách mạng ở địa phương, ngày 8-8-1945, Việt Minh Nghệ Tĩnh triệu tập
đại hội đại biểu để bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền. Để thuận tiện cho
việc chỉ đạo phong trào, đại hội quyết định chia Nghệ An và Hà Tĩnh ra làm 6 phân
khu, đồng thời phân công cán bộ phụ trách các phân khu đó. Đối với việc đón tiếp
quân Đồng minh, đại hội chủ trương một mặt sẵn sàng đủ khí giới và lương thực để
ủng hộ họ khi đến tước khí giới quân Nhật; mặt khác phải đề phòng, nếu họ tỏ thái
độ xâm lược thì sẵn sàng đối phó. Về khởi nghĩa giành chính quyền, đại hội chủ
trương khi thời cơ đến sẽ tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở nông thôn
trước, thành thị sau. Việc trừng trị bọn Việt gian phản động phải giữ đúng nguyên
tắc: Án tử hình phải được tỉnh duyệt, bắt Việt gian phải được huyện đồng ý [20,
tr.160-161], [27, tr.49-50]. Trong điều kiện giao thông liên lạc hết sức khó khăn,
không máy móc chờ lệnh của Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Việt Minh Nghệ
Tĩnh đã nhạy bén lập ra UBKN và phát động khởi nghĩa giành chính quyền. Xuất
phát từ tình hình thực tế địa phương và so sánh tương quan lực lượng giữa cách
109
mạng và phản cách mạng, Ban Thường vụ Việt Minh Nghệ Tĩnh đã thận trọng đề ra
kế hoạch khởi nghĩa từng bước: “Cướp chính quyền bắt đầu từ xã rồi đến huyện lị...
Thành phố Vinh vì ở vào một trường hợp đặc biệt nên cần phải chờ kết quả của các
địa phương rồi mới định đoạt” [27, tr.51].
Mặc dù chưa nhận được lệnh của Trung ương nhưng sau khi tiếp nhận được
tin Nhật Bản đầu hàng các nước Đồng minh không điều kiện, chiều ngày 15-8-
1945, UBKN Nghệ Tĩnh đã ban hành lệnh khởi nghĩa: Các đặc phái, các UBKN
phân khu, phủ, huyện, tổng, làng và các đồng chí Quỳnh Lưu, Phủ Diễn, Yên
Thành, Nghĩa Đàn, Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn, Đức Thọ, Hương Sơn,
Hương Khê, Kì Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc phải bố trí ngay việc giành
chính quyền, lập UBNDCM ở làng, lập chính phủ lâm thời ở phủ, huyện, tùy hoàn
cảnh và năng lực mà làm, không câu nệ làng trước hay huyện trước, phải chiếm các
đồn khố xanh. Sau khi thành lập chính quyền cách mạng phải lập tức tuyên bố: Hủy
bỏ hết tất cả pháp luật và quyền lợi về kinh tế, chính trị, xã hội do Nhật, Pháp và
chính phủ bù nhìn lập ra; tuyên bố thi hành “Chương trình” Việt Minh; kế hoạch
chính trị và quân sự để khởi nghĩa do UBKN địa phương định đoạt [145, tr.138-
139]. Ngoài ra, Việt Minh Nghệ Tĩnh còn phát hàng vạn truyền đơn, kêu gọi toàn
thể quốc dân, đồng bào “hãy đoàn kết dưới ngọn cờ đỏ sao vàng của Việt Minh
đứng dậy đánh đổ chính phủ Việt gian, lập chính quyền nhân dân cách mạng, sẵn
sàng lực lượng đối phó với tất cả những sức phản động” [76].
Được tin phát xít Nhật có nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 10-8-1945, Thường vụ
Việt Minh Thừa Thiên họp và quyết định: Sau khi phát xít Nhật đầu hàng các nước
Đồng minh phải chớp thời cơ phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn tỉnh, không chờ lệnh của Trung ương [24, tr.181], [133]. Quyết định này
là kết quả của cuộc đấu tranh gay gắt trong Ban Thường vụ Việt Minh tỉnh, vì có ý
kiến cho r ng “lấy gì để đảm bảo tin Nhật đầu hàng là đúng sự thật?” [1, tr.160]
nên cuối cùng Thường vụ phải biểu quyết với đa số ý kiến tán thành gấp rút chuẩn
bị và phát động khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến. Đây thực sự là một
quyết định táo bạo và linh hoạt, bởi Thừa Thiên là địa bàn khá phức tạp với thành
phố Huế là trung tâm cai trị của phát xít Nhật ở Trung Bộ và Nam triều phong kiến.
Ngày 15-8-1945, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh được tổ chức ở nhà số 46 Giáp
Hạ, phường Phú Bình, thành phố Huế quyết định chọn huyện Phong Điền và Phú
110
Lộc để phát động giành chính quyền trước nh m rút kinh nghiệm cho các huyện
khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Huế tiến hành khởi nghĩa. Do đặc điểm
chính trị phức tạp ở Huế, Thường vụ Việt Minh tỉnh đã có những cố gắng cao nhất
để cô lập, phân hóa cao độ lực lượng của kẻ thù nh m giảm bớt sức chống phá cách
mạng của chúng như: Gửi thư cho các thành viên trong Chính phủ Trần Trọng Kim,
tỉnh trưởng, Đốc lí thành phố Huế, huyện trưởng 6 huyện, những người có trách
nhiệm trong các tổ chức thân Nhật và chính quyền địa phương nói rõ chủ trương
của Việt Minh là đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân để cứu nước khỏi ách nô lệ, kêu
gọi mọi người tham gia cứu nước. Đối với quân đội Nhật, Thường vụ Việt Minh gửi
thư cho cố vấn Nhật yêu cầu không được can thiệp vào công việc của cách mạng.
Sáng ngày 20-8-1945, Thường vụ Tỉnh ủy họp, quyết định kế hoạch khởi
nghĩa ở Huế và bàn việc vận động Bảo Đại thoái vị. Có ý kiến cho r ng “khả năng
Bảo Đại và hoàng tộc nhà Nguyễn tự nguyện rời bỏ ngai vàng phong kiến rất khó
xảy ra. Chúng ta đề ra yêu cầu này chỉ làm lộ kế hoạch khởi nghĩa chứ không đưa
lại lợi ích gì” [1, tr.175-176]. Tuy nhiên, ý kiến chung của Hội nghị đã phân tích
r ng: “Trước việc phát xít Nhật đầu hàng, phong trào cách mạng sôi sục và đã thu
được nhiều thắng lợi trong cả nước. Hà Nội và nhiều tỉnh, thành đã khởi nghĩa
thành công, ngay ở Thừa Thiên, chính quyền của nhiều huyện đã về tay nhân dân,
Bảo Đại và những người thân tín với ông ta không thể không thấy rằng ngày sụp đổ
của chính quyền bù nhìn do phát xít dựng lên là không thể tránh khỏi, cách khôn
ngoan nhất là tự nguyện rút lui vừa để cứu bản thân, vừa được tiếng là tham gia
cứu nước” [1, tr.176]. Chiều ngày 20-8-1945, Thường vụ Tỉnh ủy đã cử ông Tôn
Quang Phiệt liên hệ với Văn phòng của Bảo Đại, đưa ra yêu cầu Bảo Đại thoái vị.
Chủ trương vận động Bảo Đại thoái vị đã được một số quan chức cao cấp
thường tiếp xúc với Bảo Đại như Phạm Khắc Hòe, Phan Anh hưởng ứng và thực
hiện. Chiều ngày 20-8-1945, đoàn cán bộ của Trung ương Đảng gồm Tố Hữu, Hồ
Tùng Mậu và Nguyễn Duy Trinh đến Huế tham gia chỉ đạo khởi nghĩa. Cùng ngày,
UBKN tỉnh Thừa Thiên được thành lập do Tố Hữu làm Chủ tịch. Tận dụng cơ hội
Chính phủ Trần Trọng Kim có kế hoạch tổ chức cuộc mít tinh lớn ở sân vận động
Huế để mừng việc Nam Bộ được sáp nhập vào Việt Nam đế quốc, đêm 21-8-1945,
UBKN tỉnh họp và quyết định tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố
Huế vào ngày 23-8-1945. UBKN sắp xếp kế hoạch huy động quần chúng ở các
111
huyện tập trung về Huế, quần chúng các phường của thành phố tham gia mít tinh
tuần hành trong ngày 23-8-1945. Các đoàn thể có nhiệm vụ chiếm giữ các cơ quan,
công sở, kho tàng của nhà nước. Lực lượng v trang bao gồm các đội tự vệ, các đội
lính bảo an mà Việt Minh đã nắm được và học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến
làm nhiệm vụ bảo vệ quần chúng tuần hành, bảo vệ cuộc mít tinh ở sân vận động
Huế. Đối với những tên tay sai nguy hiểm thì phải bắt giữ để tăng thêm độ an toàn
cho cuộc khởi nghĩa.
Ngày 13-8-1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa họp hội nghị mở rộng để quyết định
những chủ trương, biện pháp khẩn cấp phát động nhân dân nổi dậy giành chính
quyền. Trong khi hội nghị đang họp thì ngày 15-8-1945, Thanh Hóa nhận được tin
Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Mặc dù chưa nhận được lệnh Tổng
khởi nghĩa của Trung ương nhưng hội nghị cho r ng: “Thời cơ tổng khởi nghĩa đã
đến, tình thế chuyển biến thuận lợi không thể ngồi chờ, cần phát động toàn dân
trong tỉnh nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền, đồng thời cử cán bộ đi gặp Trung
ương Đảng báo cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo” [23, tr.156-157], [33, tr.70-71].
Hội nghị đã thành lập UBKN và UBNDCM lâm thời tỉnh gồm 7 ủy viên do Lê Tất
Đắc làm Chủ tịch. UBKN tỉnh chỉ định chủ tịch UBKN và UBNDCM lâm thời ở
các phủ, huyện (trừ 6 châu miền núi), đồng thời phát động toàn dân nổi dậy giành
chính quyền vào đêm 18-8-1945 b ng lực lượng chính trị và lực lượng v trang
nhân dân, kết hợp chặt chẽ hình thức đấu tranh chính trị với đấu tranh v trang, “đột
kích bất ngờ, đánh nhanh, thắng nhanh”, ở đâu có điều kiện chín muồi khởi nghĩa
trước, sau đó sẽ tập trung lực lượng hỗ trợ cho nơi khác còn yếu. Đối với quân Nhật
đóng ở Thanh Hóa, UBKN tỉnh gửi thư yêu cầu chúng phải tập trung về vị trí quy
định, tuyệt đối không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam [23,
tr.157-158]. Đối với Đảng Đại Việt và chính quyền tay sai thì kiên quyết đánh đổ,
quét sạch chúng ngay trong những ngày đầu khởi nghĩa. Phải bắt giữ tất cả bọn Việt
gian phản động để xử lí [33, tr.71]. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra kế hoạch khởi
nghĩa giành chính quyền: “Tiến hành khởi nghĩa ở các huyện có phong trào trước
rồi dùng lực lượng quần chúng ở những nơi này hỗ trợ cho những nơi yếu. Lấy
chính quyền miền xuôi xong sẽ tiến lên giải phóng miền núi” [33, tr.71].
Ở Quảng Trị, sau khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, ngày
13-8-1945, Tỉnh ủy tiến hành họp tại làng Di Hòa (Triệu Phong) bàn kế hoạch khởi
112
nghĩa [149, tr.192]. Ngày 18-8-1945, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh được tổ chức tại
làng Phước Lễ (sau dời về làng Mĩ Lộc) đã xác định thời cơ của khởi nghĩa và phân
tích thái độ từng đối tượng của cách mạng để có sách lược đánh đổ cho phù hợp.
Đối với quân Nhật phải mềm dẻo, linh hoạt, dùng bạo lực quần chúng biểu tình thị
uy gây áp lực cho việc điều đình, thương lượng; đồng thời tích cực chuẩn bị đấu
tranh v trang nếu chúng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đối với
chính quyền thân Nhật, lực lượng bảo an binh thì phải thuyết phục cảm hóa, lôi kéo
họ ủng hộ cách mạng.
Giữa lúc đó, Trần Hữu Dực và Đặng Thí đi dự Hội nghị thành lập Xứ ủy
Trung Kì trở về, kịp thời truyền lệnh khởi nghĩa của Trung ương Đảng7 cho hội
nghị vào khoảng 20 giờ ngày 19-8-1945. Vì có thêm chủ trương mới, Hội nghị tiếp
tục bàn thêm một số vấn đề và quyết định: Thành lập UBKN tỉnh gồm 5 ủy viên do
Trần Hữu Dực làm Chủ tịch. Ngày khởi nghĩa chiếm thị xã Quảng Trị là đêm 22
rạng sáng ngày 23-8-1945. Các phủ, huyện trong tỉnh khởi nghĩa cùng ngày giờ
trên, trừ trường hợp phải châm chước do UBKN tỉnh quyết định. Các huyện Hướng
Hóa, Cam Lộ bao gồm thị trấn Đông Hà, có nhiều quân Nhật đóng phải chậm lại 1
đến 3 ngày. Về lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Quảng Trị, huy
động nhân dân phủ Triệu Phong và một số làng của tổng An Thái, Văn Vận thuộc
phủ Hải Lăng cùng với lực lượng chính trị và lực lượng v trang tại chỗ. Sau khi
giành được chính quyền, các UBKN chuyển thành UBNDCM lâm thời, làm chức
năng quản lí chính quyền nhà nước, cho đến lúc có quyết định mới. Các tổng, xã,
phường do Ban Chấp hành Việt Minh (nơi chưa có thì thành lập ngay) đảm nhận cả
chức năng UBKN, sau đó chuyển thành UBNDCM lâm thời [5, tr.77-78].
UBKN tỉnh c ng đề ra kế hoạch biểu tình cụ thể cho từng phủ, huyện mà
trước hết huyện bộ phải “khai hội để xét lực lượng và trình độ quần chúng ra thế
nào để quyết định cuộc biểu tình chính trị, khi đã quyết định rồi thì huyện bộ phải
xét ý nguyện và sự yêu cầu của quần chúng để đặt ra kế hoạch. Tiếp đó huyện bộ
cho ít đồng chí hăng hái trong huyện để đặt ra ban tổ chức biểu tình” [131].
7 Theo Trần Hữu Dực, đêm 18-8-1945 tại Mĩ Thổ (Lệ Thủy - Quảng Bình) ông được liên lạc đặc biệt của
Trung ương Đảng đến trao hỏa tốc một số văn kiện và một thư. Trong thư đề cập đến việc phân công Trần
Hữu Dực phụ trách khởi nghĩa ở Quảng Trị. Vì thời gian cấp bách, hội nghị đại biểu các tỉnh thành lập Xứ ủy
Trung Kì phải hoãn lại, khởi nghĩa xong sẽ họp. Trong số các văn kiện Trần Hữu Dực nhận được có Lệnh
khởi nghĩa của UBKN toàn quốc.
113
Hội nghị kết thúc, các đại biểu dự hội nghị nhanh chóng tỏa về các địa
phương truyền đạt lệnh khởi nghĩa cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân
đang nóng lòng chờ đợi quyết định của tỉnh để đứng lên giành chính quyền.
Sau khi nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh do cơ sở Việt Minh thị xã
Đồng Hới cung cấp, tại khu căn cứ Võ Xá, Tỉnh bộ Việt Minh Quảng Bình tổ chức
hội nghị ngay trong ngày 15-8-1945. Hội nghị nhận định thời cơ khởi nghĩa giành
chính quyền đã đến nhưng các đại biểu tham dự hội nghị chưa thống nhất được
những vấn đề về hình thái khởi nghĩa, phương thức giành chính quyền, thái độ đối
với quân đội Nhật. Để tranh thủ thời cơ, Tỉnh bộ Việt Minh chủ trương phân công
cán bộ xuống các địa phương xúc tiến việc chuẩn bị mọi điều kiện để khởi nghĩa
giành chính quyền; đồng thời cử Trần Đình Giáp đi xin ý kiến của Trung ương
Đảng và Ủy ban thống nhất Trung Kì. Trên đường ra Bắc, đến Hà Tĩnh, Trần Đình
Giáp gặp Tố Hữu, đặc phái viên của Trung ương Đảng vào chỉ đạo khởi nghĩa ở các
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên. Ngày 17-8-1945, Quảng Bình nhận
được lệnh khởi nghĩa của Trung ương Đảng do Tố Hữu vào truyền đạt. Ngay sau
khi nhận được lệnh khởi nghĩa, Tỉnh bộ Việt Minh tổ chức hội nghị tại thị xã Đồng
Hới và quyết định: “Lấy ngày 23-8-1945 làm ngày khởi nghĩa chung cho toàn tỉnh.
Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị Đồng Hới và các phủ, huyện trong cùng một
ngày, cùng một lúc, sau đó giải quyết hệ thống chính quyền tổng, xã” [21, tr.118].
Đối với quân Nhật, Việt Minh tỉnh gửi tối hậu thư yêu cầu họ không được can thiệp
vào công việc nội bộ của cách mạng, đồng thời bố trí lực lượng v trang theo dõi
chặt chẽ, nếu chúng có hành động chống phá thì kịp thời ứng phó. Đối với chính
quyền thân Nhật, Việt Minh tỉnh cử người đến yêu cầu chúng phải giao lại chính
quyền cho cách mạng, ai ngoan cố chống lại thì sẽ bắt giam.
Như vậy, chủ trương khởi nghĩa ở các tỉnh Bắc Trung Bộ được tiến hành
sớm, thể hiện sự chủ động, sáng tạo của các tổ chức Việt Minh địa phương. Đây là
một trong những nhân tố làm cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Trung
Bộ giành được thắng lợi tương đối sớm và trọn vẹn.
3.5. DIỄN BIẾN KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN Ở CÁC TỈNH BẮC
TRUNG BỘ (TỪ NGÀY 15-8-1945 ĐẾN NGÀY 26-8-1945)
Mặc dù nhiều tỉnh ở Bắc Trung Bộ chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của
UBKN toàn quốc, kế hoạch khởi nghĩa của Hội nghị toàn quốc của Đảng và 10
114
chính sách của Mặt trận Việt Minh nhưng với tinh thần chủ động, sáng tạo, Việt
Minh các tỉnh đã đề ra kế hoạch khởi nghĩa phù hợp với tình hình của địa phương
và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đứng lên giành chính quyền. Cuộc khởi nghĩa lần
lượt diễn ra ở các tỉnh Hà Tĩnh (15-8-1945), Nghệ An (17-8-1945), Thanh Hóa (19-
8-1945), Thừa Thiên (19-8-1945), Quảng Bình (23-8-1945), Quảng Trị (23-8-1945).
3.5.1. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Tĩnh (từ ngày 15-8-1945
đến ngày 21-8-1945)
Sau khi có lệnh khởi nghĩa của Việt Minh Nghệ Tĩnh, công tác chuẩn bị
được thực hiện hết sức khẩn trương. UBKN các huyện, thị được thành lập và họp
bàn kế hoạch giành chính quyền.
Ngày 15-8-1945, một nhóm Thanh niên cứu quốc ở Can Lộc (Hà Tĩnh) do
liên lạc được với Việt Minh Hà Nội nên đã sớm nhận thấy được sự chuyển biến
mau lẹ của tình hình. Sau khi cử người đi gặp đại biểu Việt Minh Phân khu Nam Hà
trở về, nhóm này đã huy động một số thanh niên v trang giáo mác tiến hành tước
v khí của lính bảo an, bắt giữ huyện trưởng và chiếm huyện đường Can Lộc. Việc
đánh chiếm huyện lị Can Lộc thắng lợi đã mở đầu cho cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở Hà Tĩnh, “có tác dụng thúc đẩy nhanh sự tan rã của bộ máy ngụy quyền,
ngụy quân đến tận gốc rễ, tạo nên khí thế cách mạng của nhân dân trong vùng nói
riêng và Nghệ Tĩnh nói chung” [3].
Như vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Can Lộc giành thắng lợi từ
rất sớm, trước 3 ngày so với tỉnh lị Hà Tĩnh (18-8-1945) và trước 4 ngày so với Hà
Nội (19-8-1945). Thắng lợi đó đạt được do nhiều nguyên nhân. Trước hết là do sự
nỗ lực cách mạng phi thường của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Can Lộc.
Bên cạnh đó là nhờ sự nhạy bén của tầng lớp thanh niên trí thức. Trong khi Mặt trận
Việt Minh huyện Can Lộc chưa có chủ trương giành chính quyền nhưng nhận thấy
thời cơ đã chín muồi, nhóm Thanh niên cứu quốc mà phần lớn là tiểu tư sản, trí thức
đã táo bạo tổ chức giành chính quyền thắng lợi nhanh gọn. Trong bối cảnh quân
Nhật còn chiếm đóng ở nhiều nơi, quân Pháp đang ẩn náu ở biên giới Việt - Lào,
Trung ương Đảng c ng đã ban hành lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước, việc nhóm
Thanh niên cứu quốc tổ chức giành chính quyền ở Can Lộc thể hiện sự nhạy bén,
mưu trí và sáng tạo của tầng lớp thanh niên trí thức.
115
Về ngày khởi nghĩa thắng lợi ở Can Lộc các tài liệu viết khác nhau. Sách
“Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các địa phương” của Viện
Sử học ghi chiều ngày 17-8-1945. Sách “Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh” ghi ngày 16-8-
1945. Sách “Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ Tĩnh” sau khi
trình bày cuộc khởi nghĩa thắng lợi ở Cẩm Xuyên, Thạch Hà đã khẳng định ngày
khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Can Lộc là 17-8-1945.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Chung Anh là người phụ trách nhóm thanh niên cứu
quốc và căn cứ biên bản cuộc họp ngày 15-1-1979 của Ban Nghiên cứu Lịch sử
Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh8 gồm những người tham gia lãnh đạo Cách mạng tháng
Tám ở Nghệ Tĩnh và Can Lộc xác định: “Ngày 15-8-1945 (tức là ngày 8 tháng 7
năm Ất Dậu), Đoàn thanh niên cứu quốc đã cướp chính quyền huyện Can Lộc, đi
đầu việc cướp chính quyền ở toàn tỉnh” [3].
Ngày 17-8-1945, UBKN huyện Thạch Hà và Cẩm Xuyên lãnh đạo quần
chúng nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giành chính quyền ở tỉnh lị Hà Tĩnh.
Tại thị xã Hà Tĩnh, sáng ngày 18-8-1945, UBKN Phân khu Nam Hà gửi thư
cho chỉ huy đơn vị quân Nhật đóng ở thị xã, yêu cầu chúng không được can thiệp
vào công việc nội bộ của nhân dân; đồng thời huy động hàng ngàn nhân dân thị xã
và các huyện lân cận kéo đến bao vây dinh Tỉnh trưởng. Trước khí thế sục sôi của
quần chúng, tỉnh trưởng buộc phải trao trả chính quyền cùng toàn bộ sổ sách, con
dấu, súng đạn và tiền bạc cho cách mạng. Chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh Hà
Tĩnh được thành lập do Trần Hữu Duyệt làm Chủ tịch. Cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở tỉnh lị Hà Tĩnh thắng lợi nhanh gọn trong sự vui mừng khôn xiết của nhân
dân. Gần trưa ngày 18-8-1945, quần chúng nhân dân tiến về sân vận động thị xã Hà
Tĩnh tổ chức mít tinh, khẳng định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở tỉnh lị Hà Tĩnh. Hà Tĩnh trở thành 1 trong 5 tỉnh giành chính quyền sớm nhất
trong cả nước ở tỉnh lị.
Tin khởi nghĩa ở thị xã Hà Tĩnh thành công đã cổ v mạnh mẽ nhân dân toàn
tỉnh. Trong ngày 18-8-1945, UBKN các huyện Kì Anh và Đức Thọ lãnh đạo quần
chúng v trang biểu tình bao vây huyện đường. Các huyện trưởng sau khi được
8 Cuộc họp gồm các đồng chí: Nguyễn Tạo, Nguyễn Xuân Linh, Lê Lộc, Trần Hữu Chương, Hồ Văn Ninh,
Nguyễn Chung Anh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Viết Lượng, Lê Hồng Cơ, Lê Viết Quân, Phạm Ý, Ngô Đức
Mậu, Ngô Đức Thắng, Nguyễn Huy Tần, Trần Phỉ, Lê Viết Hanh, Nguyễn Thụy, Nguyễn Đình Triển.
116
thông báo chính quyền tỉnh đã về tay cách mạng, đều chấp thuận yêu cầu của
UBKN; chính quyền cách mạng lâm thời các huyện được thành lập và lãnh đạo
nhân dân tiếp tục giành chính quyền ở các tổng và các xã.
Sau khi nhận được thông tri của Việt Minh Nghệ Tĩnh yêu cầu giành chính
quyền, UBKN huyện Nghi Xuân lập tức chuyển cuộc mít tinh quần chúng thành
cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ngay đêm 19-8-1945. Cùng ngày, UBKN huyện
Hương Sơn vận động quần chúng biểu tình thị uy rồi kéo đến chiếm đồn lính bảo
an, giành chính quyền ở huyện, buộc đơn vị quân Nhật ở đồn Ferrey phải rút về
Vinh, tạo điều kiện cho việc giành chính quyền ở các xã.
Ở Hương Khê, được cán bộ và lực lượng của UBKN Phân khu Nam Hà giúp
sức, ngày 21-8-1945, UBKN huyện huy động quần chúng kéo đến tước khí giới
quân địch ở đồn Chu Lễ, giành chính quyền ở huyện lị. Từ huyện lị, UBKN phân
công cán bộ về các địa phương phát động khởi nghĩa giành chính quyền.
Như vậy, mặc dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa nhưng Mặt trận Việt
Minh và nhân dân Hà Tĩnh đã chủ động tiến hành giành chính quyền khi thời cơ
đến, là một trong năm tỉnh đi đầu cả nước về việc giành chính quyền thắng lợi sớm
nhất ở tỉnh lị. Hình thái khởi nghĩa là nông thôn mở đầu, thành thị và nông thôn
đồng thời tiến hành, cuối cùng kết thúc ở nông thôn và miền núi.
3.5.2. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Nghệ An (từ ngày 17-8-1945
đến ngày 26-8-1945)
Ngay sau khi nhận được lệnh khởi nghĩa của UBKN Nghệ Tĩnh, cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi và đều khắp ở các phủ, huyện, thành phố.
Thực hiện kế hoạch của UBKN huyện Quỳnh Lưu, ngày 17-8-1945, hàng
vạn quần chúng từ các ngã đường tiến về huyện lị Cầu Giát mang theo biểu ngữ, cờ
đỏ sao vàng, v khí thô sơ, hô vang các khẩu hiệu. Trước sức mạnh của quần chúng,
Huyện trưởng Chữ Ngọc Liên và đề lại mang con dấu, hồ sơ, sổ sách, v khí nộp
cho cách mạng. Một cuộc mít tinh lớn được tổ chức ngay trong sân huyện đường.
Chủ tịch UBKN huyện Nguyễn Xuân Mai long trọng tuyên bố: Từ nay chính quyền
đã về tay nhân dân, chấm dứt ách thống trị của phát xít và tay sai [13, tr.97-98].
Ở Hưng Nguyên, Hội nghị Phủ ủy ngày 17 và 18-8-1945 quyết định: “Trong
thời gian 10 ngày, các Ủy ban ấy (tức UBNDCM lâm thời) phải thành lập khắp phủ
hạt để bố trí sẵn sàng chờ lệnh cướp chính quyền và tổng động viên nhân dân, tài
117
sản để tiếp tục cuộc cách mạng” [96]. Tuy nhiên, khi nhận được thông tri khẩn cấp
của UBKN Nghệ Tĩnh, không kịp triệu tập hội nghị để bàn lại kế hoạch, một số
đồng chí trong thường trực UBKN phủ Hưng Nguyên đã huy động nhân dân biểu
tình kéo lên phủ lị giành chính quyền thắng lợi vào ngày 19-8-1945 [6, tr.149-150].
Ngày 21-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Diễn Châu thắng
lợi, thành lập UBNDCM lâm thời, thực hành các chính sách của Việt Minh.
Rạng sáng ngày 21-8-1945, hàng vạn nhân dân Vinh - Bến Thủy với sự hỗ
trợ của nông dân huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc đã giương cao cờ đỏ sao vàng,
rầm rộ biểu tình, tuần hành thị uy dọc các đường phố. Sau khi đại biểu Việt Minh ra
điều kiện buộc quân đội Nhật phải để yên cho quần chúng cách mạng hành động,
UBKN Nghệ Tĩnh đã lãnh đạo quần chúng và lực lượng tự vệ chiếm các công sở,
bao vây dinh Tỉnh trưởng. Đúng 12 giờ ngày 21-8-1945, Tỉnh trưởng Đặng Văn
Hướng giao nộp con dấu, tuyên bố đầu hàng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa ở Vinh -
Bến Thủy kết thúc thắng lợi nhanh gọn trong vòng một ngày, không có đổ máu.
Khởi nghĩa thắng lợi ở Vinh - Bến Thủy đã đập tan cơ quan đầu não của chính
quyền thân Nhật tỉnh Nghệ An, tạo điều kiện thuận lợi cho những phủ huyện ở nông
thôn chưa giành được chính quyền, nhất là ở những nơi lực lượng cách mạng còn
yếu như miền núi, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Sáng ngày 22-8-1945, hàng ngàn quần chúng cách mạng huyện Nghĩa Đàn
và đông đảo công nhân các đồn điền vùng Phủ Quỳ đã mang theo súng săn, giáo
mác, gậy gộc, rìu rựa, hô vang các khẩu hiệu cách mạng, rầm rộ kéo về huyện lị.
Các đội tự vệ dẫn đầu từng đoàn biểu tình tiến vào huyện đường, bắt giữ Huyện
trưởng Hoàng Mộng Kham và đề lại, tịch thu con dấu, sổ sách, ngân quỹ, đồng thời
mở cửa nhà lao, phóng thích tù nhân. Trước hàng ngàn quần chúng tham gia khởi
nghĩa, UBNDCM lâm thời đã ra mắt đồng bào, tuyên bố xóa bỏ vĩnh viễn chế độ đế
quốc, phong kiến và bộ máy chính quyền tay sai của phát xít Nhật [8, tr.84].
Ngày 23-8-1945, UBKN các phủ huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Anh Sơn
lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi,
thành lập UBNDCM lâm thời. Ngày 25-8-1945, UBNDCM lâm thời c ng được
thiết lập ở huyện Yên Thành [59, tr.143-144]. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở
huyện Nghi Lộc kết thúc thắng lợi vào ngày 26-8-1945.
118
Các châu, huyện miền núi của Nghệ An lúc bấy giờ chưa giành được chính
quyền gồm có Quỳ Châu, Tương Dương, Con Cuông, Vĩnh Hòa. Trước ngày diễn
ra khởi nghĩa, cơ sở đảng, cơ sở cách mạng chưa được hình thành tại các châu,
huyện miền núi trên. Chính quyền ở các châu, huyện miền núi này đều do các thổ ti,
lang đạo cha truyền con nối thống trị nhân dân. Các thổ ti, lang đạo âm mưu dựa
vào thế núi rừng hiểm trở để tổ chức chống lại cách mạng. Ngoài ra ở đây còn có
khá nhiều đồn lính của Nhật như Con Cuông, Khe Choang, Khe Kiền, Cửa Rào,
Mường Xén. Trước tình hình đó, Việt Minh Nghệ Tĩnh chủ trương giành chính
quyền b ng phương pháp mềm dẻo và linh hoạt, vừa tiến hành thuyết phục các quan
lại trong bộ máy chính quyền tay sai, các thổ ti, lang đạo vừa dùng biện pháp hành
chính để buộc chúng trao lại chính quyền cho cách mạng dưới hình thức cải tổ hành
chính. Còn lực lượng chính trị của quần chúng tuy có, nhưng ở mức độ rất hạn chế.
Ngày 26-8-1945, tại công đường phủ Quỳ Châu, đặc phái viên của UBKN
tỉnh Nghệ An - ông Chu Huệ tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến,
thành lập UBNDCM huyện gồm 7 ủy viên, trong đó có các chức dịch c như Sầm
Văn Viên, nguyên phủ trưởng làm Chủ tịch; Sầm Văn Cương, nguyên thẩm phán
tòa án làm Phó Chủ tịch… Đối với các tổng, xã chưa lập được UBNDCM, ông Chu
Huệ giao nhiệm vụ cho các cai phó tổng và lí trưởng các xã phải phục tùng mệnh
lệnh của UBNDCM huyện và không được làm điều gì trái với chính sách, chủ
trương của cách mạng.
Tại phủ Tương Dương và các huyện Vĩnh Hòa, Con Cuông, việc cải tổ chính
quyền được tiến hành dưới hình thức một cuộc họp giữa đại biểu Việt Minh với số
quan lại, tổng lí các làng bản vào ngày 26-8-1945. Tại cuộc họp này, đại biểu Việt
Minh tuyên bố xóa bỏ chính quyền c , thành lập chính quyền mới. Những phủ
trưởng, huyện trưởng đã quy thuận cách mạng hoặc còn có uy tín trong nhân dân
được giữ làm cố vấn cho chính quyền mới. Một số quan lại không được nhân dân
tín nhiệm thì thay thế b ng các cán bộ Việt Minh vào làm nòng cốt. Còn ở các làng,
bản hầu hết vẫn giữ nguyên bộ máy hào lí, sau khi xây dựng được cơ sở quần chúng
mới tiến hành tổ chức chính quyền mới.
Có thể khẳng định r ng khi thời cơ đến, Mặt trận Việt Minh và nhân dân
Nghệ An đã chủ động khởi nghĩa, không chờ mệnh lệnh của cấp trên. Cuộc khởi
nghĩa diễn ra trong vòng 10 ngày và giành được thắng lợi tương đối trọn vẹn. Điểm
119
nổi bật của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Nghệ An là việc giành chính quyền
ở các phủ huyện miền núi b ng hình thức thuyết phục các chức dịch trong chính
quyền tay sai, cải tổ thành chính quyền mới và từng bước xây dựng bộ máy chính
quyền cách mạng.
3.5.3. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa (từ ngày 19-8-
1945 đến ngày 26-8-1945)
Đêm 18-8-1945, UBKN tỉnh phát lệnh khởi nghĩa giành chính quyền. Quần
chúng nhân dân và tự vệ các phủ, huyện, thị vùng lên quyết liệt.
Ở Thiệu Hóa, đúng 24 giờ ngày 18-8-1945, hai cánh quân từ hai phía tả ngạn
và hữu ngạn sông Chu được lệnh tiến quân về phủ lị. Tuy nhiên, do phối hợp không
nhịp nhàng nên khi cánh quân bộ đã bao vây tấn công vào phủ đường thì cánh quân
thủy mới cập bờ, chưa kịp triển khai lực lượng đã bị lộ, lính bảo an đóng trong
trường tiểu học đã kịp ứng phó. Trận đánh trở nên quyết liệt. Trước khí thế tiến
công của quân khởi nghĩa, lính bảo an hoảng sợ, co cụm vào một số phòng học để
chống cự. Các chiến sĩ tự vệ áp sát chất bàn ghế và châm lửa đốt. Thấy nguy cơ bị
tiêu diệt, đội Thuận cùng một số lính tháo chạy thoát thân, số còn lại bị tự vệ tiêu
diệt hoặc bắt sống. Trận đánh kết thúc, “12 chiến sĩ tự vệ hi sinh, 20 chiến sĩ khác bị
thương” [23, tr.159], [33, tr.73]. Sáng ngày 19-8-1945, lực lượng khởi nghĩa đã làm
chủ phủ lị Thiệu Hóa. Quần chúng cách mạng hân hoan chào đón UBNDCM lâm
thời do Ngô Ngọc Toản làm Chủ tịch.
Cuộc khởi nghĩa ở phủ Thọ Xuân diễn ra tương đối phức tạp, bởi vì cùng
một lúc quân khởi nghĩa phải đánh chiếm cả 3 vị trí là phủ lị, Sở Bang tá và đồn Bái
Thượng. Tại mỗi vị trí trên thường xuyên có 30 lính bảo an đóng giữ. Mặc dù vậy,
nhờ UBKN phủ đề ra những biện pháp vừa kiên quyết vừa khôn khéo để li gián và
cô lập lực lượng bảo an binh, cho nên đã giành được thắng lợi vào sáng ngày 19-8-
1945 mà không đổ một giọt máu.
Ở Cẩm Thủy, lợi dụng cơ hội huyện trưởng hoang mang dao động bỏ trốn,
sáng ngày 19-8-1945, Hà Công Thắng từ Bá Thước kéo quân xuống Cẩm Thủy
chiếm huyện đường, tự xưng là huyện trưởng. Trưa ngày 19-8-1945, lực lượng v
trang của huyện Vĩnh Lộc phối hợp với lực lượng cách mạng Cẩm Thủy tiến đánh
đồn Phong Ý. Sau khi làm chủ được đồn, lực lượng cách mạng kéo về huyện lị Cẩm
120
Thủy, buộc Hà Công Thắng phải giao lại chính quyền cho cách mạng. UBNDCM
lâm thời huyện Cẩm Thủy được thành lập.
Sáng ngày 19-8-1945, lực lượng tự vệ và quần chúng cách mạng các tổng
Kim Khê, Thạch Khê, Tuyên Hóa thuộc huyện Đông Sơn tổ chức mít tinh tại đình
xóm Dân thuộc xã Đông Tiến, sau đó tuần hành qua các tổng, làng bắt những tên
phản động có nợ máu với nhân dân, tuyên bố xóa bỏ chính quyền c , buộc chánh
tổng, lí trưởng phải giao lại con dấu, sổ sách cho cách mạng. Chiều ngày 19-8-1945,
khởi nghĩa giành chính quyền ở các tổng, xã trong huyện giành được thắng lợi.
Trong khi đó, một số phần tử của tổ chức thanh niên thân Nhật tự động lên chiếm
huyện lị. Lực lượng cách mạng của Việt Minh huyện đến chậm hơn nên phải lập
một chính quyền hỗn hợp giữa Việt Minh và lực lượng thanh niên đã giành chính
quyền [151, tr.392].
C ng trong ngày 19-8-1945, lực lượng khởi nghĩa các huyện Yên Định, Vĩnh
Lộc, Thạch Thành, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Hậu Lộc đã vùng lên đánh
đổ chính quyền thân Nhật, thành lập chính quyền cách mạng.
Ở thị xã Thanh Hóa, sáng ngày 19-8-1945, quần chúng cách mạng và tự vệ
với băng cờ, khẩu hiệu, v khí thô sơ tổ chức biểu tình xuất phát từ phố Lò Chum
đến phố Trường Thi, về ngã tư chùa Hai Voi qua phố Paul-Bert, đến khách sạn
Reynard. Quân đội Nhật chặn đường đoàn biểu tình. Phạm Văn Sáu đưa thư của
Việt Minh Thanh Hóa cho chỉ huy quân Nhật đề nghị không được can thiệp vào
công việc nội bộ của người Việt Nam. Chỉ huy quân Nhật ra lệnh rút quân về nơi
quy định, đoàn biểu tình tiếp tục tuần hành tiến về bao vây dinh Tỉnh trưởng. Tỉnh
trưởng Nguyễn Trác nộp con dấu, hồ sơ, sổ sách và đầu hàng cách mạng. Chiều
ngày 20-8-1945, UBNDCM lâm thời thị xã Thanh Hóa ra mắt đồng bào.
Ngày 20-8-1945, nhân dân và tự vệ huyện Tĩnh Gia dưới sự chỉ đạo của
UBKN huyện đã vùng lên giành chính quyền. Ngày 21-8-1945, quần chúng cách
mạng và lực lượng tự vệ Nông Cống khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Các châu, huyện miền núi của Thanh Hóa lúc bấy giờ chưa giành được chính
quyền gồm có Thường Xuân, Ngọc Lặc, Như Xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan
Hóa. Sau khi ra mắt đồng bào, ngày 26-8-1945, UBNDCM lâm thời tỉnh Thanh Hóa
triệu tập châu trưởng các châu miền núi về thị xã tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực
dân ở 6 châu, từng bước cải biến chính quyền phong kiến địa phương thành chính
121
quyền cách mạng. Những lang đạo có tinh thần yêu nước được thức tỉnh, ngả theo
cách mạng. Nhiều lang đạo lớn đã phải khuất phục, các lang đạo phản động dần bị
cô lập, chính quyền cách mạng ở miền núi Thanh Hóa từng bước được củng cố.
Mặc dù chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa nhưng dưới sự lãnh đạo của tổ
chức Đảng, Mặt trận Việt Minh, cuộc khởi nghĩa quyền giành chính quyền ở Thanh
Hóa đã thành công trong vòng 8 ngày. Đây là tỉnh duy nhất ở Bắc Trung Bộ có tổn
thất lớn về người trong quá trình tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Điểm nổi
bật của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thanh Hóa là phát triển từ khởi nghĩa
từng phần (Ho ng Hóa) tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh.
Bên cạnh đó, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các châu, phủ miền núi được
tiến hành dưới hình thức thuyết phục các quan lại trong bộ máy chính quyền tay sai,
các thổ ti, lang đạo và dùng biện pháp hành chính để buộc chúng trao lại chính
quyền cho cách mạng dưới hình thức cải tổ hành chính, lực lượng chính trị của quần
chúng tuy có nhưng không đáng kể.
3.5.4. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Thừa Thiên (từ ngày 19-8-
1945 đến ngày 23-8-1945)
Sau khi lệnh khởi nghĩa của Thường vụ Việt Minh tỉnh được phổ biến về các
huyện, quần chúng nhân dân sục sôi khí thế cách mạng.
Ở Phong Điền, ngày 18-8-1945, nhân dân và tự vệ hai tổng Phò Ninh, Hiền
Lương nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19-8-1945, nhân dân các tổng Phò Trạch,
Chánh Lộc, Phong Thu, Vĩnh Xương… tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền,
sau đó giành chính quyền ở huyện, thành lập UBNDCM lâm thời [10, tr.51].
Ngày 18-8-1945, Mặt trận Việt Minh huyện Phú Lộc họp bầu UBKN và
vạch ra kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện đường Cầu Hai vào ngày
19-8-1945, sau đó tỏa về giành chính quyền ở các xã, thôn còn lại. UBKN viết thư
gửi Huyện trưởng Tôn Thất Lâm nói rõ chủ trương, chính sách của Việt Minh Phú
Lộc. Ngày 19-8-1945, “đông đảo quần chúng trong huyện mang vũ khí thô sơ, băng
cờ, khẩu hiệu từ An Cư ra, An Nông, Lương Điền về, từ Diêm Trường vượt phá Cầu
Hai sang khởi nghĩa ở huyện lị, lập chính quyền nhân dân cách mạng” [152,
tr.177]. Thành công của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện Phong
Điền và Phú Lộc đã thúc đẩy cho khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện còn lại
và thành phố Huế giành thắng lợi.
122
Tại Hương Thủy, sau khi tiến hành giành chính quyền ở tổng, xã, sáng ngày
22-8-1945, hàng vạn quần chúng cách mạng từ các hướng khác nhau kéo về huyện
lị giành chính quyền, thành lập UBNDCM lâm thời.
Ở Phú Vang, sau khi 3 tổng Mậu Tài, Ngọc Anh và Dương Nỗ tiến hành
khởi nghĩa thành công, ngày 22-8-1945, hơn 5.000 quần chúng cách mạng, hàng
ng chỉnh tề kéo về huyện lị giành chính quyền, thành lập UBNDCM lâm thời.
Ngày 23-8-1945, UBKN huyện Hương Trà và Quảng Điền lãnh đạo quần
chúng nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, thành lập
UBNDCM lâm thời.
Tại thành phố Huế, khoảng 18 giờ ngày 21-8-1945, trên Đài Phát thanh Huế
vang lên tin Bảo Đại tuyên bố sẵn sàng thoái vị, nhường quyền cho một đảng chính
trị mạnh nhất. Tuy nhiên, lời tuyên bố không nói rõ nhường quyền cho Mặt trận
Việt Minh, như vậy có thể tạo ra khe hở cho những người có nhiều tham vọng gây
rối ren. Thường vụ Việt Minh tỉnh đã liên hệ với Phạm Khắc Hòe, yêu cầu Bảo Đại
tuyên bố rõ là sẵn sàng thoái vị, nhường quyền quản lí đất nước cho Mặt trận Việt
Minh. Đúng 18 giờ ngày 22-8-1945, trên Đài Phát thanh Huế vang lên lời tuyên bố
của Bảo Đại “sẵn sàng thoái vị và nhường quyền quản lí đất nước cho Mặt trận
Việt Minh” [1, tr.180]. Thời cơ cách mạng ở thành phố Huế đã chín muồi.
Ngày 23-8-1945, quần chúng nhân dân các huyện, b ng những phương tiện
giao thông khác nhau như xe lửa, xe đò, thuyền bè, đi bộ tiến về Huế cùng nhân dân
thành phố khởi nghĩa giành chính quyền. Theo phân công của UBKN tỉnh, lực
lượng v trang (bao gồm các đội tự vệ và học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến
Huế) xông vào chiếm các công sở, bắt những tên Việt gian thân Pháp, thân Nhật
nguy hiểm như Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân, Nguyễn Tiến Lãng và canh gác
các vị trí xung yếu. Đúng 16 giờ ngày 23-8-1945, tại sân vận động Huế, UBKN tổ
chức cuộc mít tinh với sự tham gia của hàng vạn nhân dân để mừng thắng lợi. Thay
mặt UBKN, Tố Hữu đọc diễn văn nêu rõ tầm vóc, ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa,
tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và giới thiệu UBNDCM lâm thời tỉnh do Tôn
Quang Phiệt làm Chủ tịch.
Sau cuộc mít tinh, UBNDCM lâm thời tỉnh điện ra Hà Nội báo cáo với
Trung ương Đảng về thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế và đề
nghị UBDTGP Việt Nam cử phái đoàn vào tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại. Ngay
123
đêm 23-8-1945, UBDTGP Việt Nam đã gửi Bảo Đại bức điện với nội dung: “Một
Chính phủ nhân dân cách mạng lâm thời đã thành lập. Chủ tịch là cụ Hồ Chí Minh.
Yêu cầu đức Vua thoái vị ngay để củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà”
[59, tr.75]. Ngày 24-8-1945, Bảo Đại ủy quyền cho Tổng lí Ngự tiền văn phòng
Phạm Khắc Hòe trả lời thư của UBDTGP Việt Nam. Bức thư có đoạn viết: “Hoàng
đế vui lòng thoái vị ngay và đã sắp đặt sẵn sàng... Ngài mong ông Chủ tịch Chính
phủ nhân dân cách mạng lâm thời gấp về Thuận Hóa để Ngài giao chính quyền và
Ngài muốn ông cho biết ngày làm lễ ấy” [59, tr.76]. Ngày 28-8-1945, tại sân vận
động Huế, UBNDCM lâm thời tỉnh Thừa Thiên tổ chức mít tinh chào mừng phái
đoàn của UBDTGP Việt Nam vào tiếp nhận sự thoái vị của Bảo Đại do Trần Huy
Liệu làm Trưởng đoàn, cùng với Nguyễn Lương B ng và Cù Huy Cận. Chiều ngày
29-8-1945, tại điện Kiến Trung, phái đoàn tuyên bố với Bảo Đại những điều khoản
cần thiết và bàn thủ tục thoái vị. Đúng 13 giờ ngày 30-8-1945, lễ thoái vị được cử
hành ở Ngọ Môn. Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và trao lại cho đại diện chính phủ
Quốc ấn b ng vàng và một thanh gươm b ng vàng nạm ngọc, đánh dấu sự chấm dứt
hoàn toàn của chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Việc Bảo Đại tự nguyện thoái vị, nhường quyền quản lí đất nước cho Mặt
trận Việt Minh trước hết là do tình thế cách mạng của cả nước, mà trực tiếp là sức
mạnh cách mạng của tỉnh Thừa Thiên. Trước khi Bảo Đại chính thức thoái vị,
phong trào cách mạng đã sục sôi trên cả nước. Nhiều tỉnh đã khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi, đặc biệt là thành phố Hà Nội. Ngay tại Thừa Thiên, phong trào
Việt Minh trong 6 huyện và nhiều phố phường c ng sục sôi, chính quyền ở nhiều
huyện đã về tay nhân dân. Nội các Trần Trọng Kim khủng hoảng. Một số thành
viên thức thời của Nội các đã ngả theo Việt Minh. Việt Minh c ng nắm được cả lực
lượng bảo an của Chính phủ Trần Trọng Kim do Phan Tử Lăng đứng đầu. Trường
Thanh niên tiền tuyến c ng đã được “Việt Minh hóa”. Nước Pháp thì đang kiệt quệ
và còn ở xa. Phát xít Nhật thì bại trận đã đầu hàng Đồng minh, chỉ chờ ngày rút về
nước. Bảo Đại - ông vua bù nhìn, từng được thực dân Pháp rồi phát xít Nhật che
chở, từ chỗ muốn giữ ngai vàng đến lúc chỉ còn lo cho mạng sống của bản thân,
không có con đường nào khác ngoài việc phải thoái vị.
Mặt khác, ảnh hưởng và uy tín của Nguyễn Ái Quốc có tác dụng đối với việc
Bảo Đại quyết định nhanh chóng tự nguyện thoái vị. Ngày 20-8-1945, khi Phạm
124
Khắc Hòe khuyên Bảo Đại thoái vị, nhường quyền quản lí đất nước cho Mặt trận
Việt Minh thì Bảo Đại nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là “Thánh Nguyễn
Ái Quốc” thì tôi sẵn sàng thoái vị ngay” [59, tr.69]. Ngày 24-8-1945, khi được biết
Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, Bảo Đại đã bật ngay ra một câu tiếng Pháp “Ca
vant bien le coup alors” nghĩa là “như thế thì thật đáng thoái vị” [59, tr.76].
Việc quyết định tự nguyện thoái vị, nhường quyền quản lí đất nước cho Mặt
trận Việt Minh là sách lược của Bảo Đại. Trong những ngày diễn ra khởi nghĩa, Bảo
Đại hết sức hoang mang và lo sợ. Là người thức thời, chắc r ng Bảo Đại vẫn còn
nhớ kết cục bi thảm của vua Louis XVI khi cách mạng tư sản Pháp bùng nổ năm
1789 và vua Nicolas đệ nhị khi Cách mạng tháng Mười Nga (1917) diễn ra. Do đó,
khi được UBKN tỉnh Thừa Thiên và UBDTGP Việt Nam chấp thuận bảo đảm tính
mạng của Bảo Đại và những người trong hoàng tộc c ng như giữ gìn các lăng tẩm,
đền miếu của các vua nhà Nguyễn thì ông ta đồng ý thoái vị ngay. Còn về câu nói
“Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ” thực chất là chủ
ý của Phạm Khắc Hòe.
Trong bản “Chiếu động viên quốc dân” do Phạm Khắc Hòe dự thảo, được
Bảo Đại kí và ban bố vào lúc 16 giờ ngày 17-8-1945 có đoạn viết: “Trẫm để hạnh
phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước
độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cũng một
lòng hi sinh như Trẫm” [59, tr.65]. Sau này, trong “Chiếu thoái vị” của Bảo Đại đọc
ngày 30-8-1945, Phạm Khắc Hòe đã khéo léo lồng ghép câu này vào bản Chiếu.
Tuy nhiên, cựu hoàng Bảo Đại đã không thực hiện đúng những gì mà ông đã tuyên
bố. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, không những “làm dân một nước độc
lập”, cựu hoàng Bảo Đại còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm Cố vấn tối cao
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng Cố vấn Vĩnh Thụy vốn quen với đời
sống trưởng giả nên ông dường như chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm độc lập cho
dân tộc b ng con đường nếm mật n m gai. Và dần dần ông đã khước từ cơ hội đi
chung đường với cả dân tộc9.
9 Ngày 16-3-1946, Cố vấn Vĩnh Thụy tham gia phái đoàn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng
Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước mà về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn
Minh, ông đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mĩ. Sau các cuộc tiếp xúc này, Cố vấn Vĩnh
Thụy viết thư gửi về nước xin từ chức Cố vấn tối cao trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 1-
7-1949, Vĩnh Thụy được thực dân Pháp tấn phòng làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam.
125
Mặc dù là một trong những địa bàn phức tạp bậc nhất của cả nước nhưng cuộc
khởi nghĩa ở Thừa Thiên giành được thắng lợi nhanh gọn và trọn vẹn. Hình thái khởi
nghĩa là từ nông thôn đến thành thị (lấy nông thôn bao vây thành thị). Ngoài lực lượng
quần chúng cách mạng tiến hành khởi nghĩa như các tỉnh, thành khác trong cả nước, ở
Thừa Thiên còn có sự tham gia của một lực lượng rất đặc biệt đó là học viên Trường
Thanh niên Tiền tuyến và những người trong hoàng tộc. Đây chính là những điểm khác
biệt của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên so với các tỉnh trong khu vực
Bắc Trung Bộ và cả nước.
3.5.5. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Bình (ngày 23-8-1945)
Sau khi UBKN tỉnh chính thức phát lệnh, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
đã diễn ra đồng loạt ở tất cả các phủ, huyện, thị.
Ở Quảng Trạch, UBKN chỉ huy động lực lượng v trang và quần chúng
trong Mặt trận Việt Minh đi giành chính quyền. Rạng sáng ngày 23-8-1945, các
đoàn biểu tình được trang bị băng cờ, gươm đao, giáo mác, gậy gộc tiến vào phủ lị.
Trước sức mạnh của quần chúng, phủ trưởng và nha lại xin đầu hàng, lực lượng tự
vệ chiếm các công sở, tịch thu con dấu và toàn bộ hồ sơ, tuyên bố xóa bỏ chính
quyền thân Nhật, thiết lập chính quyền cách mạng.
C ng trong ngày 23-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Bố
Trạch thắng lợi, thành lập UBNCCM lâm thời.
Đêm 22 rạng sáng ngày 23-8-1945, lực lượng tự vệ, công nhân xe lửa và
quần chúng nhân dân tiến vào trung tâm thị xã Đồng Hới. Được lực lượng Việt
Minh trong các công sở tiếp ứng, đội tự vệ chiếm giữ nhanh chóng nhà bưu điện,
kho bạc, đường giao thông, cầu thị xã. Đội tự vệ của công nhân có bảo an binh làm
nội ứng bao vây đồn lính bảo an. Sau đó, quần chúng kéo đến bao vây dinh Tỉnh
trưởng. Tỉnh trưởng Nguyễn Thơ cùng một số quan lại của chính quyền tay sai đầu
hàng và bị bắt giữ. Quân Nhật án binh bất động, không có hành động kháng cự.
Trong một thời gian rất ngắn, toàn thị xã và các công sở của tỉnh lị Quảng Bình
thuộc về cách mạng. Ngay sau khi chiếm xong thị xã, quần chúng nhân dân tiến về
tập trung trước dinh Tỉnh trưởng để tham dự cuộc mít tinh chào mừng chính quyền
cách mạng. Chủ tịch Trần Văn Sớ thay mặt UBNDCM lâm thời tỉnh tuyên bố “bãi
bỏ toàn bộ hệ thống chính quyền đế quốc phong kiến từ tỉnh đến xóm thôn, thiết lập
126
chính quyền mới. Các thứ thuế cũ đều bãi bỏ. Tù nhân ở trại giam được phóng
thích. Các công sở của tỉnh vẫn tiếp tục làm việc bình thường” [152, tr.38].
Ở Quảng Ninh, đêm 22-8-1945, hai chiếc phà và 60 chiếc đò được chuẩn bị
sẵn, lần lượt chở hàng ngàn nhân dân từ bờ nam sang bờ bắc sông Quán Hàu nhanh
chóng và an toàn. Khoảng 3 giờ ngày 23-8-1945, quần chúng cách mạng với băng
cờ, biểu ngữ có sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ tiến về phủ lị giành chính quyền.
Trước sức mạnh của hàng vạn quần chúng, quan lại, binh lính không dám chống cự.
Sáng ngày 23-8-1945, UBKN phủ tổ chức mít tinh, tuyên bố xóa bỏ chính quyền
thân Nhật và ra mắt UBNDCM lâm thời của huyện.
Đêm 22-8-1945, UBKN huyện Lệ Thủy đã huy động hàng trăm chiếc đò kết
thành từng mảng làm cầu phao cho quần chúng qua sông Kiến Giang. Rạng sáng
ngày 23-8-1945, quần chúng cách mạng từ ba hướng khác nhau với băng cờ, khẩu
hiệu và các loại v khí thô sơ tiến vào huyện đường giành chính quyền thắng lợi.
Ở Tuyên Hóa, sáng ngày 23-8-1945, quần chúng cách mạng từ ba hướng
khác nhau tiến vào huyện đường. Viên huyện trưởng đã bỏ trốn từ hai ngày trước,
bọn nha lại nộp con dấu, hồ sơ cho chính quyền cách mạng. UBKN cử người về
Đồng Hới báo cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo của UBNDCM lâm thời tỉnh.
Ngày 25-8-1945, UBKN tỉnh cử cán bộ lên cùng với Việt Minh huyện tổ chức mít
tinh tuyên bố giải tán chính quyền thân Nhật, thành lập UBNDCM lâm thời.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Bình tuy diễn ra muộn, nhưng
Quảng Bình là tỉnh duy nhất ở Bắc Trung Bộ khởi nghĩa giành chính quyền thắng
lợi gọn nhất và nhanh nhất (trong 1 ngày) với hình thái nông thôn và thành thị đồng
loạt tiến hành.
3.5.6. Khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Trị (từ ngày 23-8-
1945 đến ngày 25-8-1945)
Chiều ngày 22-8-1945, sau khi UBKN tỉnh chính thức phát lệnh, cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi, đều khắp ở các phủ, huyện nông thôn
đồng b ng và thị xã tỉnh lị.
Ở Vĩnh Linh, rạng sáng ngày 23-8-1945, hàng ngàn quần chúng có v trang
và các đội tự vệ với hàng ng chỉnh tề, được trang bị v khí thô sơ đồng loạt nổi
dậy khởi nghĩa, tấn công vào những vị trí đã được UBKN phủ xác định. Đến 8 giờ
ngày 23-8-1945, quần chúng cách mạng hoàn toàn làm chủ phủ lị. Đúng 9 giờ ngày
127
23-8-1945, trước hàng vạn quần chúng nhân dân, UBNDCM lâm thời Vĩnh Linh ra
mắt đồng bào, tuyên bố cuộc khởi nghĩa ở phủ lị đã giành thắng lợi.
Tại Gio Linh, đúng 4 giờ ngày 23-8-1945, quần chúng cách mạng chia làm
ba hướng, cùng lúc tiến về bao vây, đánh chiếm huyện đường, ga Hà Thanh, Sở
Chè, Sở Canh nông (trạm thí nghiệm nông nghiệp). Khoảng 8 giờ ngày 23-8-1945,
tại sân huyện đường, một cuộc mít tinh lớn với sự tham dự của hàng vạn quần
chúng được tổ chức để chào mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa và ra mắt
UBNDCM lâm thời huyện do Nguyễn Đăng Khoa làm Chủ tịch [126, tr.76].
Ở Triệu Phong, các đoàn biểu tình với băng cờ, khẩu hiệu, trống, mõ và lực
lượng tự vệ được trang bị b ng những v khí thô sơ làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự, cứ
100 người có 5 tự vệ đi kèm tiến về phủ lị, giành chính quyền thắng lợi nhanh gọn
trong đêm 22 rạng ngày 23-8-1945 [125, tr.70]. Sáng ngày 23-8-1945, UBKN phủ
Triệu Phong tổ chức mít tinh tuyên bố xóa bỏ chính quyền thân Nhật, thành lập
UBNDCM lâm thời do Hồ Ngọc Tích làm Chủ tịch.
Tại thị xã Quảng Trị, đúng 1 giờ ngày 23-8-1945, theo lệnh của UBKN tỉnh,
các đơn vị tự vệ chiến đấu được giao nhiệm vụ chiếm đóng bắt đầu đột nhập nội thị,
chiếm lĩnh tất cả những vị trí quan trọng đã được phân công trước đó. Đồng thời,
lực lượng chính trị làm nhiệm vụ tuần hành thị uy từ 4 hướng lớn xung quanh thị xã
đều nhất tề giương cao băng cờ, khẩu hiệu, nổi trống, mõ, thanh la hô vang khẩu
hiệu kéo vào thị xã, chiếm các công sở của chính quyền thân Nhật. Vào lúc 9 giờ
ngày 23-8-1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trước dinh Tỉnh trưởng, Trần
Hữu Dực tuyên bố xóa bỏ chính quyền thân Nhật các cấp, thành lập UBNDCM lâm
thời tỉnh. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Quảng Trị thắng lợi nhanh
chóng, với hình thức mít tinh, tuần hành thị uy là chủ yếu.
C ng trong ngày 23-8-1945, chính quyền cách mạng được thiết lập ở phủ
Hải Lăng do Nguyễn Quýnh làm Chủ tịch.
Sáng ngày 24-8-1945, hàng vạn quần chúng ở Gio Linh, Vĩnh Linh, Hải
Lăng, Triệu Phong đã tập trung về tỉnh lị Quảng Trị tham gia cuộc mít tinh tại sân
Tòa công sứ. Tại đây, UBNDCM lâm thời tỉnh Quảng Trị ra Thông cáo số 1 nêu rõ:
“Quốc dân ta hoàn toàn độc lập, không thừa nhận chính quyền Bảo Đại, cũng
không phụ thuộc dưới quyền của chính phủ nào khác” [142] và “bảo vệ chính
quyền cách mạng là nhiệm vụ cần kíp hiện tại của toàn thể quốc dân” [142].
128
Ngày 24-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở huyện lị
Cam Lộ và các tổng, làng. Riêng thị trấn Đông Hà do có đông quân Nhật chiếm
đóng nên việc giành chính quyền diễn ra muộn hơn.
Sáng ngày 25-8-1945, đoàn biểu tình xuất phát từ chợ Đông Hà với sự tham
gia của đông đảo quần chúng tiến vào trung tâm thị trấn. Quân Nhật trong tư thế sẵn
sàng đàn áp đã chĩa m i lê vào đoàn người biểu tình. Các đồng chí chỉ huy đã
thuyết phục chúng với lí lẽ: “Chúng tôi đi đánh Tây chứ không phải đi đánh các
ông!”, đồng thời hô vang khẩu hiệu “đả đảo đế quốc Pháp!”. Viên chỉ huy đồn bảo
an binh điều lính ra đàn áp đã bị quần chúng ập vào khống chế. Nhân cơ hội đó, đội
tự vệ công nhân được lệnh áp sát từng lính bảo an, buộc chúng phải trao súng và
dẫn đầu đoàn binh lính tiến vào sân vận động tham dự cuộc mít tinh, tuyên bố thành
lập chính quyền cách mạng ở Đông Hà. Sau khi giành thắng lợi, Trần Quang Đán
thay mặt chính quyền cách mạng gặp viên sĩ quan chỉ huy quân đội Nhật đưa đề
nghị: “Các ông đã phải đầu hàng, thế nào rồi cũng bị quân Đồng minh vào tước vũ
khí. Vậy tốt nhất là các ông cho binh lính các ông giao trước vũ khí cho chúng tôi.
Chúng tôi sẽ bảo toàn tính mạng của các ông, tạo điều kiện cho các ông trước khi
rút về nước một cách thuận lợi” [22, tr.212]. Viên sĩ quan Nhật đồng ý, lập biên
bản bàn giao hàng chục tấn đạn và hàng trăm khẩu súng các loại.
Sau khi các phủ, huyện đồng b ng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền thân
Nhật ở Hướng Hóa do Lữ Mộng Liên đứng đầu tự tan rã, đầu hàng cách mạng.
Ngày 25-8-1945, UBNDCM lâm thời huyện Hướng Hóa được thành lập.
Như vậy, chỉ trong vòng 12 ngày (từ ngày 15 đến ngày 26-8-1945) nhân dân các
tỉnh Bắc Trung Bộ dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Việt Minh các cấp đã vùng dậy giành
lấy chính quyền b ng bạo lực cách mạng của quần chúng, thắng lợi chủ yếu dựa vào
lực lượng chính trị, có sự hỗ trợ của lực lượng v trang.
Cuộc khởi nghĩa đã diễn ra tương đối hòa bình ít đổ máu (trừ ở Thanh Hóa) và
giành được thắng lợi trọn vẹn. Đây là khu vực có tỉnh giành chính quyền sớm nhất ở
tỉnh lị cùng với 4 tỉnh khác là Hà Tĩnh. Trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế (23-8-1945) là có
tính điển hình nhất. Vì cuộc khởi nghĩa diễn ra ở trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa
của xứ Trung Kì, trực tiếp chấm dứt Nam triều phong kiến (Bảo Đại) và Chính phủ
Trần Trọng Kim.
129
Trong quá trình khởi nghĩa, chỉ có Hà Tĩnh là địa phương diễn ra khởi nghĩa
sớm nhất (15-8-1945) và là 1 trong 5 tỉnh giành chính quyền sớm nhất ở tỉnh lị cùng
với Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam, Mĩ Tho. Còn các tỉnh khác diễn ra từ ngày 17
đến ngày 19-8-1945 như Nghệ An, Thanh Hóa, Thừa Thiên. Quảng Bình và Quảng Trị
khởi nghĩa diễn ra tương đối muộn (23-8-1945). Tuy nhiên, đây là 2 tỉnh giành chính
quyền thắng lợi nhanh chóng: Quảng Bình trong 1 ngày (23-8-1945), Quảng Trị chỉ
trong vòng 3 ngày (từ ngày 23 đến ngày 25-8-1945).
Tiểu kết chương 3
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, hàng ngàn tù chính trị được trả tự do hoặc tổ
chức vượt ngục thành công về địa phương hoạt động đã bổ sung một lực lượng cán
bộ quan trọng, quyết định cho việc phục hồi và phát triển phong trào ở các tỉnh.
Trong vòng 5 tháng, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã có những nỗ lực lớn trong việc xây
dựng lực lượng cách mạng: 4 trong 6 tỉnh lập được Tỉnh ủy hoặc Ban vận động
thống nhất Đảng. Mặt trận Việt Minh được kiện toàn từ tỉnh đến huyện và phần lớn
các tổng, xã. Tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh chủ động, sáng tạo, nhanh chóng
tập hợp lực lượng cán bộ và nhân dân, gấp rút chuẩn bị về mọi mặt, tiến tới khởi
nghĩa giành chính quyền, bắt kịp với phong trào cách mạng toàn quốc.
Khi phát xít Nhật đầu hàng các nước Đồng minh, nhân dân các tỉnh Bắc
Trung Bộ đã sẵn sàng cùng cả nước chớp thời cơ “ngàn năm có một” nổi dậy giành
chính quyền. Từ ngày 15 đến ngày 26-8-1945, chính quyền cách mạng được thành
lập trên toàn bộ khu vực. Có 3 trong 6 tỉnh phát lệnh khởi nghĩa khi chưa nhận được
lệnh của Trung ương; có những tỉnh nổ ra khởi nghĩa sớm, kết thúc nhanh, thể hiện
tính chủ động, kiên quyết của các tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh địa phương.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ diễn ra dưới
nhiều hình thức phong phú, đa dạng, giành thắng lợi nhanh gọn và khá trọn vẹn. Tổ
chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ sáng tạo, linh hoạt và giải
quyết kịp thời các tình huống phát sinh trong quá trình giành chính quyền. Thắng
lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã chặn
đứng được âm mưu tranh cướp chính quyền của các đảng phái phản động, các thổ
ti, lang đạo và tàn quân Pháp ở vùng biên giới Việt - Lào, góp phần quan trọng để
Việt Nam là nước “chủ nhà độc lập” đón các nước Đồng minh vào Đông Dương
giải giáp v khí quân đội Nhật.
130
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ
4.1. ĐẶC ĐIỂM
4.1.1. Quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ diễn ra trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng đã đạt được những
kết quả toàn diện, thể hiện tính chủ động, sáng tạo của các địa phương
C ng như các khu vực khác trong toàn quốc, quá trình chuẩn bị khởi nghĩa
tại các tỉnh Bắc Trung Bộ được bắt đầu từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
với chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tuy
nhiên, do những khác biệt về lịch sử, chính trị, xã hội so với các khu vực khác nên
quá trình chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ diễn ra
trong điều kiện vô cùng khó khăn, phức tạp.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phong trào cách mạng các tỉnh Bắc
Trung Bộ chịu những tổn thất rất nặng nề. Phần lớn các tỉnh ủy hoặc tổ chức cơ sở
Đảng bị vỡ ngay từ đầu. Các Tỉnh ủy Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị và Thừa Thiên
phải lập đi lập lại nhiều lần. Tại Quảng Bình, đến trước ngày 2-7-1945, các tổ chức
cơ sở Đảng hoạt động riêng lẻ, không có cơ quan lãnh đạo thống nhất trong toàn
tỉnh. Đặc biệt, hoạt động của Đảng bộ Nghệ An và Hà Tĩnh bị đình trệ từ năm 1943
và đến ngày diễn ra khởi nghĩa vẫn chưa lập lại được tỉnh ủy. Sở dĩ có tình trạng đó,
ngoài những thiếu sót của cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành đường lối, nguyên
tắc kỉ luật của Đảng thì một thực tế cần phải thừa nhận là do chính sách khủng bố
của thực dân Pháp và hoạt động phá hoại của các phần tử A.B.
Trong điều kiện hoạt động bí mật, chưa nắm chính quyền, việc xây dựng,
củng cố và kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự
thành bại của cách mạng. Để dập tắt phong trào cách mạng, trước hết đối phương
nh m vào việc đánh phá tổ chức Đảng. Do đó, trong đấu tranh cách mạng, vấn đề
bảo vệ tổ chức Đảng có ý nghĩa cực kì quan trọng. Từ khi Chiến tranh thế giới thứ
hai bùng nổ, thực dân Pháp và tay sai đã tập trung lực lượng để đánh phá phong trào
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Chúng đã sử dụng mọi thủ đoạn nham hiểm và thâm độc
nhất mà chúng rút kinh nghiệm được trong các cuộc đàn áp trước đó để gieo mối
131
hoài nghi, đố kị chia rẽ lẫn nhau trong nội bộ hàng ng cách mạng để phá hoại
phong trào cả về tổ chức lẫn tư tưởng. Chính vì vậy, trong giai đoạn này, cán bộ,
đảng viên các tỉnh Bắc Trung Bộ đã phải chiến đấu vô cùng khó khăn và gian khổ
để bảo vệ, xây dựng tổ chức Đảng. Mặc dù đã kiên trì trong việc đấu tranh phục hồi
tổ chức Đảng, nhưng phần lớn Đảng bộ các tỉnh vẫn không tránh khỏi bị thực dân
Pháp liên tiếp phá vỡ trong thời gian 1939 - 1943 và một số Đảng bộ bị gián đoạn,
đình đốn hoạt động từ năm 1943 đến năm 1945. Đây là một thực tế lịch sử nói lên
sự khó khăn lớn của các tỉnh trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa.
So với các tỉnh Bắc Bộ và Nam Trung Bộ, hoạt động của những phần tử A.B
ở các tỉnh Bắc Trung Bộ rất mạnh [89, tr.79]. Trong khi đó, thực dân Pháp khủng
bố liên tiếp, tổ chức Đảng không ổn định, dẫn đến công tác kiểm tra nội bộ, vạch
mặt sự phản bội của những phần tử A.B không có điều kiện tiến hành kịp thời. Điều
đó đã gây ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên về tinh thần cảnh giác
c ng như ý chí chiến đấu. Do không phân biệt được âm mưu phá hoại và gây li gián
của thực dân Pháp và tay sai nên trước hiện tượng tổ chức liên tiếp bị phá vỡ, trong
hàng ng cán bộ, đảng viên10
đã nảy sinh tư tưởng hoài nghi và ngờ vực lẫn nhau.
Một số không tin đồng chí, không tin vào quần chúng và sợ thực dân Pháp khủng bố
nên do dự không dám ra hoạt động hoặc cầu an, n m im. Có đồng chí ra hoạt động,
khi đi chắp mối xây dựng cơ sở thì “có nhiều mối không đáng ngờ mà các đồng chí
không dám chắp, hay chắp rồi nhưng không điều tra, nghiên cứu, không bình tĩnh
nhận xét, lại tin vào một cớ nhỏ mọn nào đó để nghi ngờ. Hơn nữa, một vài đồng
chí phụ trách bao biện, giữ hết các mối, chạy hết mọi nơi, vì không tin ai, nên không
dám giao việc cho ai cả” [38, tr.261-262]. Tình hình đó càng gây nên những khó
khăn trở ngại cho việc phục hồi tổ chức Đảng ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Xứ ủy Trung Kì c ng bị đánh phá ác liệt, nhiều xứ ủy viên bị bắt, Xứ ủy phải
lập đi lập lại nhiều lần. Sau đợt đánh phá của thực dân Pháp giữa năm 1942, Xứ ủy
Trung Kì bị vỡ và phải đến ngày 31-8-1945 mới lập lại được. Đây là một khó khăn
rất lớn đối với các cấp Đảng bộ ở Trung Kì, trong đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Trong khi đó, Xứ ủy Bắc Kì vẫn được duy trì để chỉ đạo phong trào cách mạng ở
các tỉnh Bắc Bộ. Ở các tỉnh Nam Bộ, vào tháng 4 và tháng 5-1945, Xứ ủy lâm thời
10
Giữa tù chính trị và cựu chính trị, giữa người bị bắt và người không bị bắt, giữa người bị bắt trước và
người bị bắt sau, giữa người bị giam và người không bị giam, giữa người được tha trước và người được tha
sau…
132
Tiền Phong và Xứ ủy Giải Phóng được thành lập, kịp thời chuẩn bị lực lượng, lãnh
đạo quần chúng nhân dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong điều kiện đó, sự liên lạc giữa Trung ương với các tỉnh Bắc Trung Bộ
thường xuyên bị gián đoạn. Khác với các tỉnh Bắc Bộ nhận được sự chỉ đạo trực
tiếp của Trung ương và các tỉnh ở Nam Bộ c ng nối được liên lạc với Trung ương
từ đầu năm 1943 [150, tr.92]. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng c ng được chuyển vào Nam Bộ
ngay sau khi hoàn chỉnh [60, tr.92].
Nếu như Hà Nội là trung tâm chính trị của Đông Dương, Sài Gòn được xem
là dinh l y của chế độ thực dân, phát xít thì Huế là “đại bản doanh” của Nam triều
và Chính phủ Trần Trọng Kim. Đây là một địa bàn phức tạp về nhiều mặt so với các
khu vực khác. Trước hết là sự cấu kết rất chặt chẽ giữa Nam triều với chế độ thực
dân, phát xít; tầng lớp hoàng tộc của triều Nguyễn và đội ng trí thức nho học, tân
học rất đông đảo với nhận thức chính trị khác nhau; hoạt động tuyên truyền lừa bịp
nhân dân và vận động những chiến sĩ cộng sản của Chính phủ Trần Trọng Kim ở
khu vực Bắc Trung Bộ được đẩy mạnh hơn so với các tỉnh, thành khác. Bên cạnh
đó, các tôn giáo, các đảng phái phản động, các lang đạo, thổ ti ở đây c ng rất phức
tạp nên đến khi khởi nghĩa, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh phải đối phó với mưu
đồ tranh cướp chính quyền của chúng.
Tất cả những khó khăn trên đây đặt ra cho cán bộ, đảng viên các tỉnh Bắc
Trung Bộ phải phát huy hơn bao giờ hết tính chủ động sáng tạo trên các lĩnh vực
công tác để xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, chớp thời cơ và lãnh đạo
nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.
Thực tiễn của quá trình vận động cách mạng 1939 - 1945 ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ cho thấy sau mỗi lần nhận được nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng Cộng
sản Đông Dương, phong trào ở các tỉnh lại có bước phát triển. Sau khi nhận được
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939, phong trào cách mạng
Quảng Trị có bước chuyển biến tích cực. Cuối năm 1940, ở Quảng Trị đã lập được
4 phủ huyện ủy, 70 chi bộ, trên 400 đảng viên và gần 4.000 hội viên trong các hội
phản đế cứu quốc. Đầu năm 1942, Quảng Trị nhận được Nghị quyết Trung ương 8
và đến cuối năm trong toàn tỉnh đã lập lại 5 phủ huyện ủy, 30 chi bộ, thành lập 50
Ủy ban Việt Minh và gần 6.000 hội viên cứu quốc. Điều này cho thấy tầm quan
133
trọng của chủ trương, đường lối của Trung ương và khẳng định sự nỗ lực phi
thường của cán bộ, đảng viên Đảng bộ Quảng Trị.
Mặc dù luôn bị thực dân Pháp, phát xít Nhật và tay sai đánh phá nhưng
phong trào tại một số tỉnh vẫn được duy trì liên tục. Trong suốt gian đoạn cam go
thử thách 1942 - 1945, Thanh Hóa, Thừa Thiên là hai tỉnh duy nhất ở Trung Bộ đã
bảo vệ và duy trì được sự lãnh đạo của tổ chức Đảng. Trong phong trào phản đế cứu
quốc, Thanh Hóa đã xây dựng được chiến khu Ngọc Trạo ở huyện Thạch Thành, trở
thành điển hình về phong trào đấu tranh có tính chất v trang của nông dân trong
toàn quốc năm 1941. Tuy chiến khu Ngọc Trạo bị địch đánh phá nhiều lần nhưng
“ảnh hưởng và sức sống của nó đã tạo ra cơ sở cho những bước tiến vượt bậc của
phong trào Việt Minh Thanh Hóa” [125, tr.23]. Ngay khi Nhật đảo chính lật đổ
Pháp (9-3-1945), các cán bộ, đảng viên bị tù đấu tranh đòi địch trả tự do hoặc tổ
chức vượt ngục ra ngoài hoạt động, đã phân công công tác cụ thể cho từng cán bộ
trước khi trở về địa phương. Khi ra tù, các cán bộ, đảng viên, cả người được tổ chức
Đảng trong nhà tù phân công lẫn người không được phân công khẩn trương liên lạc
với cơ sở để khôi phục và phát triển phong trào. Trong khi đó, mặc dù được sự chỉ
đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kì nhưng một số tỉnh ở đồng
b ng Bắc Bộ như Hải Phòng - Kiến An, Nam Định cho đến trước khi diễn ra tổng
khởi nghĩa còn “trắng” cả ban lãnh đạo và đội ng đảng viên [36, tr.218].
Nhờ quán triệt và vận dụng sáng tạo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 nên
ngày 4-3-1945, Tỉnh ủy Thanh Hóa ban hành Chỉ thị “Đòi ăn”, phát động phong
trào cứu đói trong toàn tỉnh. Trong điều kiện lao tù, ngày 12-3-1945, Chi bộ nhà lao
Quảng Trị đã mở hội nghị để phân tích nguyên nhân dẫn đến Nhật làm đảo chính
Pháp, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Việt
Nam, chủ trương đẩy mạnh việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
trong thời gian tới. Chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa và Chi bộ nhà lao Quảng Trị
hoàn toàn phù hợp với nhận định của Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong Chỉ
thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ban hành ngày 12-3-1945.
C ng nhờ quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương Đảng,
trực tiếp nhất là Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, tổ chức
Đảng, Việt Minh các tỉnh đã đề ra được chủ trương, nội dung hoạt động đúng đắn,
phù hợp với thời kì tiền khởi nghĩa.
134
Trong điều kiện Đảng bộ chưa kịp phục hồi, việc thành lập Việt Minh Nghệ
Tĩnh là một sự cố gắng, linh hoạt của các cán bộ, đảng viên tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh. Đối với các tỉnh còn lại của khu vực Bắc Trung Bộ, bên cạnh tổ chức Đảng
còn có Mặt trận Việt Minh với hệ thống tổ chức được thiết lập từ tỉnh đến huyện,
tổng, làng. Ngay sau khi ra đời, Việt Minh các tỉnh đã tố cáo những chính sách
cướp bóc tàn bạo, đặc biệt là nạn đói khủng khiếp cuối năm 1944 đầu năm 1945 do
thực dân Pháp, phát xít Nhật gây ra để khơi dậy sự phẫn nộ của nhân dân và đưa
dần các tầng lớp nhân dân ra tranh đấu với những hình thức phong phú như trốn
tránh, kêu kiện, phá kho thóc, đột nhập tấn công các đồn địch lấy lương thực, bắt
giữ các thuyền chở thóc, gạo của phát xít Nhật. Khi nhân dân đã được tổ chức và
phát động, Việt Minh các tỉnh chuyển lên các hình thức đấu tranh cao hơn như mít
tinh, biểu tình để tập dượt quần chúng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong quá trình xây dựng lực lượng cách mạng, Việt Minh các tỉnh đã kết
hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng v trang. Tất cả các
tỉnh đều lấy xây dựng lực lượng chính trị làm cơ sở để từ đó xây dựng lực lượng v
trang, xem chính trị trọng hơn quân sự. Trong công tác xây dựng lực lượng chính
trị, ngoài các đoàn thể cứu quốc của quần chúng nhân dân, Việt Minh các tỉnh đã
tương kế tựu kế lợi dụng tổ chức Thanh niên xã hội, “Việt Minh hóa” Trường
Thanh niên Tiền tuyến, vận động các tầng lớp trung gian như binh lính, tín đồ các
tôn giáo, địa chủ phong kiến, tư sản dân tộc, nhân sĩ, trí thức, viên chức, bộ phận
quan lại trong hệ thống chính quyền tay sai, các quan chức cao cấp trong Chính phủ
Trần Trọng Kim và Nam triều, những người trong hoàng tộc... tham gia Việt Minh.
Nhờ khéo léo vận dụng các hình thức tổ chức và đấu tranh thích hợp trên
đây, Việt Minh các tỉnh đã khắc phục được những khó khăn nội tại, hạn chế được
hoạt động phá hoại của Pháp, Nhật và tay sai, kịp thời củng cố được hàng ng , tập
hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp tạo nên một sức mạnh to lớn. Không những
sáng tạo, linh hoạt trong quá trình xây dựng lực lượng, Việt Minh các tỉnh Bắc
Trung Bộ còn nhạy bén và kịp thời trong việc nắm bắt tình hình, chớp thời cơ và
lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Việt Minh các tỉnh luôn bám sát với
những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, căn cứ vào thực tiễn của
địa phương, đánh giá đúng so sánh tương quan lực lượng của cách mạng và các thế
135
lực phản cách mạng đề ra chủ trương thành lập UBDTGP ở những làng, xã hội đủ
các điều kiện; chuyển địa bàn đứng chân của Tỉnh ủy, Việt Minh các tỉnh về đồng
b ng, thành thị đúng lúc. Việt Minh các tỉnh còn tham dự cuộc họp liên tỉnh để
thống nhất kế hoạch hành động, xác định đúng đắn thái độ đối với quân Đồng minh
khi họ vào Đông Dương. Khi nhận được tin phát xít Nhật chuẩn bị đầu hàng, Việt
Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ đã chủ động tổ chức hội nghị để lên kế hoạch và đề ra
những điều kiện khởi nghĩa sát với địa phương, tiến hành thương lượng với quân
đội Nhật buộc chúng phải “án binh bất động”, đồng thời vận động Bảo Đại thoái vị.
Trong quá trình chỉ đạo khởi nghĩa, Việt Minh các tỉnh đã bám sát tình hình, kịp
thời, sáng tạo trong việc đề ra chủ trương, hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh
thích hợp với đặc điểm tình hình và so sánh lực lượng giữa các địa phương dẫn đến
thắng lợi nhanh gọn, tương đối trọn vẹn.
Có thể nói, Mặt trận Việt Minh chính là người tổ chức và lãnh đạo nhân dân
làm nên thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thành công và uy tín của Mặt trận Việt Minh c ng đồng nghĩa với thành công và uy
tín của các tổ chức Đảng địa phương. Điều đó nói lên r ng, tổ chức Đảng các tỉnh
Bắc Trung Bộ đã “hóa thân” vào Mặt trận, sống trong dân để lãnh đạo nhân dân làm
cách mạng, vừa đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, vừa tôn trọng tính độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Mặt trận và tạo điều kiện để Mặt trận hoạt động có hiệu quả. Đây
được xem là thành công lớn của các tỉnh Bắc Trung Bộ trong quá trình xây dựng
lực lượng cách mạng.
4.1.2. Hình thái khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
linh hoạt và đa dạng
Khác với Cách mạng tháng Mười Nga, từ thành thị phát triển về nông thôn
và Cách mạng Trung Quốc, từ nông thôn vào thành thị, lấy nông thôn bao vây thành
thị, Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã diễn ra với sự kết hợp hài hòa
nông thôn và thành thị: “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thể hiện rõ một
hình thái khởi nghĩa chung nhất, mang tính bản chất là vừa nổi dậy đồng loạt ở cả
nông thôn và thành thị, vừa tác động giây chuyền giữa các vùng miền với nhau, tạo
nên một chiến thắng vĩ đại, nhanh gọn, kịp thời và gần như đồng thời trên khắp
nước ta” [150, tr.228].
136
Trong tổng số 58 phủ, huyện, châu thuộc 6 tỉnh Bắc Trung Bộ có 21 phủ
huyện khởi nghĩa thành công trước tỉnh lị: Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên (Hà
Tĩnh); Ho ng Hóa, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Đông Sơn, Yên Định, Vĩnh
Lộc, Thạch Thành, Hà Trung, Nga Sơn, Quảng Xương, Hậu Lộc (Thanh Hóa);
Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên (Nghệ An); Phong Điền, Phú Lộc, Phú Vang, Hương
Thủy (Thừa Thiên); có 15 phủ huyện khởi nghĩa cùng ngày với tỉnh lị: Kì Anh, Đức
Thọ (Hà Tĩnh); Tĩnh Gia (Thanh Hóa); Diễn Châu (Nghệ An); Quảng Trạch, Bố
Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa (Quảng Bình); Vĩnh Linh, Gio Linh,
Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị); Hương Trà, Quảng Điền (Thừa Thiên); có 22
phủ, huyện, châu khởi nghĩa sau thắng lợi ở tỉnh lị: Nghi Xuân, Hương Sơn, Hương
Khê (Hà Tĩnh); Nông Cống, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Như Xuân, Lang Chánh, Bá
Thước, Quan Hóa (Thanh Hóa); Nghĩa Đàn, Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn,
Yên Thành, Nghi Lộc, Quỳ Châu, Tương Dương, Vĩnh Hòa, Con Cuông (Nghệ
An); Cam Lộ, Hướng Hóa (Quảng Trị).
Như vậy, nông thôn giữ một vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy và hỗ trợ
cho thành thị trong giai đoạn đầu khi khởi nghĩa diễn ra. Thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa ở các phủ huyện nông thôn đã làm cho chính quyền địch ở tỉnh lị bị cô lập, kẻ
thù hoang mang, bối rối và tan rã; hơn nữa, lực lượng cách mạng được huy động và
tập trung cao độ, làm cho thế và lực của cách mạng ở vị trí áp đảo, tạo điều kiện cho
khởi nghĩa ở tỉnh lị thắng lợi. Thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lị
đã đập tan đầu não chính quyền địch tại các tỉnh, làm cho tương quan so sánh lực
lượng hoàn toàn nghiêng hẳn về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho nông
thôn giành chính quyền, nhất là ở những nơi lực lượng còn yếu như vùng miền núi.
Tại khu vực Bắc Trung Bộ có khởi nghĩa từng phần ở Ho ng Hóa tiến lên
cao trào tổng khởi nghĩa trong những ngày tháng Tám năm 1945. Ở Thừa Thiên do
tầm quan trọng của Huế nên việc giành chính quyền phải theo hình thái khởi nghĩa
ở tất cả các huyện xong mới tiến đến tỉnh lị. Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh vừa có
khởi nghĩa ở phủ huyện trước nhưng c ng có những phủ huyện khởi nghĩa cùng lúc
với tỉnh lị c ng là nh m thăm dò phản ứng của quân Nhật, khi đã nắm chắc quân
Nhật không can thiệp mới lập tức chuyển sang khởi nghĩa ở tỉnh lị và các phủ huyện
châu còn lại. Ở Quảng Bình, khởi nghĩa tại tỉnh lị và 5 phủ huyện cùng ngày do khả
năng ứng biến linh hoạt, táo bạo, kịp thời của Ban vận động thống nhất Đảng và
137
Tỉnh bộ Việt Minh. Do đặc điểm tình hình và sự chênh lệch giữa lực lượng thành
thị và nông thôn không lớn nên cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Trị
diễn ra trong hình thái nông thôn, đồng b ng, thị xã tỉnh lị mở đầu và kết thúc ở một
số huyện còn lại ở đồng b ng, miền núi.
Ở cấp cơ sở, mặc dù tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh chủ trương
giành chính quyền bắt đầu từ xã rồi đến huyện lị hoặc từ phủ huyện về tổng, xã
nhưng trên thực tế hình thái khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra rất đa dạng. Phần
lớn các tổng, xã tiến hành xóa bỏ chính quyền c , lập chính quyền cách mạng sau
khi đã khởi nghĩa thành công ở phủ, huyện lị. Trong khi đó, các phủ huyện Đông
Sơn (Thanh Hóa), Diễn Châu và một số xã của các phủ huyện Quỳnh Lưu, Hưng
Nguyên, Nam Đàn, Con Cuông (Nghệ An), Phong Điền, Hương Thủy, Phú Vang
(Thừa Thiên) khởi nghĩa ở tổng, xã trước mới tiến lên phủ, huyện, sau đó quay về
thành lập chính quyền cách mạng ở những xã còn lại.
4.1.3. Phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ phong phú và độc đáo
Trước hết, sự phong phú về phương thức khởi nghĩa ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
thể hiện dưới các dạng sau đây:
Thứ nhất, ở Thanh Hóa, xét về mặt hình thức đấu tranh thì đấu tranh v trang
là hình thức nổi bật so với các tỉnh khác trong khu vực vì ở Thanh Hóa lực lượng v
trang tổ chức tấn công diệt nhiều bảo an binh. Mặc dù vậy, lực lượng chính trị vẫn
đóng vai trò chính. Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị sử dụng
lực lượng chính trị được trang bị v khí thô sơ, có sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ tổ
chức tuần hành thị uy, chiếm các công sở của chính quyền địch và kết thúc b ng các
cuộc mít tinh, tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng.
Thứ hai, khởi nghĩa giành chính quyền ở tổng, xã, làng chủ yếu dưới hình
thức Mặt trận Việt Minh tập họp quần chúng, tổ chức mít tinh, chánh phó tổng,
hương lí mang con dấu, sổ sách ra nộp, nhận tội trước nhân dân rồi tuyên bố thành
lập UBNDCM lâm thời.
Thứ ba, trong tổng khởi nghĩa, các tỉnh Nghệ An, Quảng Trị và Thừa Thiên
đã huy động lực lượng từ các huyện, xã tiến vào tỉnh lị phối hợp với lực lượng tại
chỗ giành chính quyền. Các tỉnh Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Quảng Bình, do điều kiện
thuận lợi, nên Việt Minh các tỉnh đã kịp thời chớp thời cơ phát động nhân dân trong
138
thị xã giành chính quyền, không chờ lực lượng nông thôn về phối hợp. Tuy vậy, dù
ở dạng nào sự nổi dậy của quần chúng khởi nghĩa tại chỗ ở nhiều tỉnh vẫn đóng vai
trò quyết định thắng lợi.
Bên cạnh đó, so với toàn quốc, phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ còn có những biểu hiện rất độc đáo.
Thứ nhất, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở thành phố Huế được tiến
hành b ng hình thức sử dụng lực lượng tự vệ và học viên Trường Thanh niên Tiền
tuyến đột nhập tấn công chiếm các công sở, trại lính, bắt các tên Việt gian nguy
hiểm; đồng thời huy động quần chúng biểu tình, có lực lượng tự vệ, lính bảo an ngả
theo Việt Minh hỗ trợ làm áp lực buộc chính quyền địch phải đầu hàng, tổ chức
cuộc mít tinh tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng. Điểm độc đáo là, việc
chiếm các công sở, trại lính và tổ chức quần chúng tuần hành, mít tinh được tiến
hành song song. Trong khi đó, phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội
là huy động quần chúng (có sự tham gia của lực lượng Thanh niên Hoàng Diệu) mít
tinh, sau đó biến mít tinh thành tuần hành của quần chúng có lực lượng v trang làm
nòng cốt, đi chiếm các công sở của chính quyền địch. Cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở Sài Gòn sử dụng lực lượng cách mạng là quần chúng nhân dân yêu nước
mà chủ lực là Thanh niên Tiền phong, đoàn viên Tổng công đoàn Nam Bộ chiếm
các cơ quan chính quyền công sở từ bên trong và kết thúc b ng cuộc biểu tình tuần
hành của một triệu quần chúng nhân dân, tuyên bố thành lập chính quyền cách
mạng. Ngoài ra, trong lực lượng của quần chúng cách mạng tiến hành khởi nghĩa
giành chính quyền ở Huế có sự tham gia của một bộ phận rất đặc biệt đó là những
người trong hoàng tộc. Cùng với lực lượng Thanh niên Tiền tuyến, sự tham gia của
những người trong hoàng tộc là một hiện tượng lịch sử đặc biệt của Cách mạng
tháng Tám năm 1945 ở thành phố Huế. Ở một khía cạnh khác, việc Bảo Đại thoái vị
ngày 30-8-1945 thực chất là một cuộc “chuyển giao” chính quyền diễn ra trong hòa
bình. Khẳng định điều này để thấy được sự độc đáo về phương thức giành chính
quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Thứ hai, tại một số phủ, huyện, châu miền núi Thanh Hóa, Nghệ An giành
chính quyền b ng phương thức vừa thuyết phục các quan lại trong bộ máy chính
quyền c , các thổ ti, lang đạo vừa dùng biện pháp hành chính để buộc chúng trao lại
chính quyền cho cách mạng dưới hình thức cải tổ hành chính.
139
Tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra r ng, muốn
thiết lập chính quyền cách mạng thì phải sử dụng sức mạnh của quần chúng nhân
dân để đập tan, phá hủy chính quyền c . Bởi vì “không có cách mạng bạo lực thì
không thể thay thế nhà nước vô sản được” [69, tr.28] và “điều kiện tiên quyết của bất
cứ cuộc cách mạng nhân dân thật sự nào là đập tan, là phá hủy bộ máy nhà nước có
sẵn” [69, tr.47]. Khi soi xét nguyên lý ấy vào việc giành chính quyền ở miền núi tỉnh
Thanh Hóa và Nghệ An có điều khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Như chúng ta đã biết cho đến sát ngày khởi nghĩa mà cơ sở cách mạng về cơ
bản vẫn chưa được xây dựng ở miền núi tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Mặc dù thắng
lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh lị và các phủ huyện đồng
b ng, trung du đã tác động, gây nên sự hoang mang, dao động cho chính quyền c ở
các châu, phủ huyện miền núi. Tuy vậy, chính quyền c gồm các phủ trưởng, tổng
lí, thổ ti, lang đạo vẫn có thế lực khống chế nhân dân nên việc giành chính quyền
không thể tiến hành như các phủ huyện trung du, đồng b ng. Trong hoàn cảnh đó,
Tỉnh ủy Thanh Hóa và Việt Minh Nghệ Tĩnh chủ trương dùng biện pháp hành chính
để từng bước cải tổ bộ máy chính quyền c thành chính quyền cách mạng là hoàn
toàn phù hợp với tình hình và đặc điểm lịch sử của khu vực miền núi hai tỉnh lúc
bấy giờ. B ng hình thức thuyết phục là chủ yếu, với phương pháp tương đối mềm
dẻo, linh hoạt, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh đã hạn chế được sức phản kháng
của lực lượng lâu nay làm tay sai cho thực dân Pháp, nhanh chóng ổn định được
tình hình và tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên từng bước tổ chức phát
động quần chúng đấu tranh thực hiện các chính sách, chủ trương của cách mạng,
tiến tới xây dựng chính quyền thực sự của nhân dân. Rõ ràng bộ máy chính quyền
không thay đổi nhưng chính quyền lại thay đổi về bản chất. Chính quyền c là bù
nhìn, làm tay sai cho thực dân Pháp, chính quyền mới là cách mạng, phải thực thi
các chủ trương, chính sách của Đảng, của Mặt trận Việt Minh. Có thể nói đây là
một sách lược đúng đắn phù hợp với tình thế cách mạng miền núi tỉnh Thanh Hóa
và Nghệ An lúc bấy giờ. Từ thực tế đó, chúng ta thấy trong Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945, tại các châu, phủ miền núi tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An đã để lại
một nét khá độc đáo so với cả nước về phương thức giành chính quyền.
Thứ ba, trong quá trình khởi nghĩa, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh đã vận
dụng hết sức sáng tạo, linh hoạt tất cả các điều kiện thuận lợi về kinh tế, tự nhiên để
140
giành chính quyền nhanh nhất. Đó là việc dùng phà, đò chuyên chở tự vệ và quần
chúng cách mạng về phủ huyện, tỉnh lị tiến hành khởi nghĩa. Phương thức độc đáo
này diễn ra ở các phủ huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy (Quảng Bình) và thành phố Huế.
Phương thức khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Trung Bộ phong phú và
độc đáo là vì trong quá trình chuẩn bị, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh quán triệt
đường lối khởi nghĩa v trang của Trung ương Đảng, tiến hành xây dựng lực lượng
chính trị, lực lượng v trang và căn cứ địa cách mạng. Các tổ chức cơ sở Đảng ở
Huế và một số địa phương đã khéo léo kết hợp giữa đấu tranh với vận động, lôi kéo
những nhân sĩ yêu nước tiến bộ trong Nội các Trần Trọng Kim, trong hệ thống
chính quyền Nam triều. Ngay từ khá sớm, nhóm thanh niên Việt Minh trong
Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế đã thành công trong việc “Việt Minh hóa” nhà
trường, đưa toàn bộ học viên và Đội Bảo an binh ở kinh thành đứng hẳn về phía
Việt Minh. Thông qua mối quan hệ cá nhân giữa Tôn Quang Phiệt và Phạm Khắc
Hòe cùng với một số bộ trưởng là trí thức yêu nước trong Nội các, Mặt trận Việt
Minh đã khôn khéo vận động được Bảo Đại tự nguyện thoái vị; đồng thời tác động
mạnh mẽ để Nội các Trần Trọng Kim nhanh chóng tới chỗ tan rã vào đầu tháng 8-
1945. Hơn nữa, trong khi tiến hành khởi nghĩa, tùy đặc điểm tình hình cụ thể của
các địa phương, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh linh hoạt, sáng tạo sử dụng hình
thức thích hợp nh m giành thắng lợi một cách nhanh nhất. Đây là một sáng tạo có ý
nghĩa to lớn, góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc
Trung Bộ c ng như trên phạm vi cả nước.
4.2. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ
4.2.1. Ưu điểm
4.2.1.1. Thống nhất về ý chí và quyết tâm, sáng tạo trong quá trình xây
dựng lực lượng cách mạng
Nhìn lại giai đoạn 1939 - 1945, cán bộ, đảng viên các tỉnh Bắc Trung Bộ có
ưu điểm căn bản là tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong chốn lao tù
khắc nghiệt của đế quốc, cán bộ, đảng viên vẫn thể hiện phẩm chất anh hùng của
người cộng sản, luôn có một khát vọng cháy bỏng là chờ thời cơ trở về địa phương
hoạt động. Những cán bộ ở ngoài chưa bị bắt, mặc dù bị đế quốc khủng bố, kiềm
chế gắt gao và tổ chức Đảng bị đánh phá nhiều lần nhưng vẫn tìm mọi cách đấu
tranh và hoạt động để đưa phong trào vượt qua khó khăn, tiếp tục tiến lên. Người
141
này bị bắt, người khác kế tiếp; cơ sở đảng nơi này bị phá vỡ, các cán bộ, đảng viên
lại đi bắt liên lạc với nơi khác để hoạt động. Trong giai đoạn này, mặc dù việc bồi
dưỡng và giáo dục của Đảng thiếu chu đáo, nhưng trong nội bộ tổ chức Đảng các
tỉnh Bắc Trung Bộ vẫn giữ được sự thống nhất về ý chí và quyết tâm. Nhờ có ưu
điểm này, nên bất cứ lúc nào, mỗi khi Đảng kêu gọi là cán bộ, đảng viên ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ biết đặt lợi ích của dân tộc và nhân dân lên trên hết, gác lại mọi định
kiến xích mích cá nhân để tập trung vào thực hiện nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của cách mạng là giải phóng dân tộc. Nếu không có được sự nhất trí về ý chí và
quyết tâm, thì cán bộ, đảng viên ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và
Quảng Trị không thể nhanh chóng khắc phục được những khó khăn tạm thời trong
nội bộ để thống nhất về tổ chức, thống nhất về hành động và do đó c ng không thể
tập hợp được lực lượng nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong khi đó, tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh một số tỉnh ở khu vực Nam
Trung Bộ và Nam Bộ không có sự thống nhất cao về tổ chức. Ở Bình Định, trước
thời cơ thuận lợi, hai tổ chức là Ủy ban vận động Việt Minh và Ủy ban vận động
cứu quốc vẫn không thống nhất về tổ chức, trái lại còn đề ra các chủ trương khác
nhau, làm chậm tiến độ khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương. Ở Phú
Yên, vì Tỉnh ủy lâm thời nghi ngờ nhóm Việt Minh thị xã Tuy Hòa do Đinh Nho
Khôi lãnh đạo không triệt để cách mạng nên dẫn đến việc bắt giữ cán bộ của Việt
Minh thị xã khi họ ra Sông Cầu đề nghị Ủy ban Việt Minh tỉnh cho tiến hành khởi
nghĩa, đưa đến vụ xô xát giữa tự vệ và thân nhân những người bị bắt biểu tình phản
đối. Tình trạng không thống nhất về tổ chức diễn ra đặc biệt nghiêm trọng ở các tỉnh
Nam Bộ. Trong cùng một địa bàn, cùng một thời đoạn lịch sử có 2 hệ thống tổ chức
Đảng song song tồn tại, đó là Xứ ủy lâm thời Giải Phóng và Xứ ủy Tiền Phong.
Trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1945, có 12 tỉnh tồn tại 2 Tỉnh ủy là Gia
Định, Biên Hòa, Tân An, Chợ Lớn, Mĩ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Châu Đốc, Long
Xuyên, Sa Đéc, Bến Tre, Bạc Liêu. Sự chia rẽ này chủ yếu bắt nguồn từ sự thiếu
thống nhất trong cấp Xứ. Mặc dù trong thực tế, những người lãnh đạo trong các Xứ
ủy và tổ chức Đảng các tỉnh Nam Bộ đã liên hệ gặp gỡ nhau nhiều lần để bàn
chuyện thống nhất nhưng kết quả đạt được không như mong muốn. Đến tháng 8-
1945, trong số 12 tỉnh có sự chia rẽ trong tổ chức thì chỉ có 2 tỉnh là Bến Tre và Mĩ
Tho thống nhất được. Ở Sa Đéc trước ngày nổ ra khởi nghĩa giành chính quyền hai
142
bên c ng gặp nhau để thống nhất hành động. Chính vì thiếu thống nhất về tổ chức
nên trong khởi nghĩa tháng 8-1945, ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã xảy ra một số
sự kiện đáng tiếc như vụ xử bắn ông Võ Xán tại Bồng Sơn (Bình Định) ngày 27-8-
1945 hay vụ bắn nhau ở bốt Tân Bình (Phú Nhuận, Gò Vấp, Gia Định) ngày 25-8-
1945. Sự thiếu thống nhất còn để lại những hậu quả lâu dài về sau.
Trong công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh đã
xây dựng được cơ sở tương đối sâu rộng ở nông thôn và thành thị, tập hợp đông đảo
giai cấp nông dân và công nhân. Ngoài ra, các tỉnh còn vận động được nhiều giới,
và tầng lớp trong xã hội như thanh niên, phụ nữ, tiểu thương, tiểu chủ, tư sản, phú
hào, binh lính, tín đồ tôn giáo, quan chức cao cấp trong Nam triều và Chính phủ
Trần Trọng Kim tham gia hoặc tán trợ Việt Minh. Tổ chức Đảng và Việt Minh các
tỉnh thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ng của kẻ thù để cô lập,
phân hóa cao độ lực lượng của chúng, tương kế tựu kế lợi dụng tổ chức Thanh niên
xã hội, biến trở lực thành trợ lực, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đội
quân cách mạng tham gia giành chính quyền ở các tỉnh, đặc biệt tại thành phố Huế,
tầng lớp thanh niên vốn trước đây là lực lượng của tổ chức Thanh niên xã hội chiếm
số lượng lớn, có vai trò rất quan trọng đối với sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.
Căn cứ chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng và tình hình thực tế của
địa phương, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh đã đề ra những chủ trương cụ thể,
thích hợp, đi từ thấp đến cao, phát huy kịp thời từng thắng lợi, động viên quần
chúng vùng dậy đấu tranh. Kết hợp khéo léo các hình thức đấu tranh hợp pháp với
bất hợp pháp; từ khẩu hiệu kinh tế đòi miễn giảm hoặc khất thuế năm 1941, chống
bắt phu năm 1943, chống thuế, chống thu thóc, thu bông, cứu đói năm 1944 và 1945
tiến dần lên các khẩu hiệu mang nội dung chính trị chống Chính phủ Trần Trọng
Kim, đả đảo phát xít Nhật, lập chính quyền cách mạng.
Quán triệt tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường
lối khởi nghĩa v trang của Đảng Cộng sản Đông Dương, tổ chức Đảng, Việt Minh
các tỉnh Bắc Trung Bộ đã chú trọng xây dựng lực lượng v trang cách mạng. Tuy
nhiên, do đặc thù của phong trào cách mạng các tỉnh từ trước luôn nặng về đấu
tranh chính trị nên việc xây dựng lực lượng v trang là hết sức mới mẽ, khó khăn và
phức tạp. Để khắc phục những khó khăn đó, tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các
tỉnh chú trọng xây dựng lực lượng v trang tuyên truyền để phát động quần chúng
143
và từ phong trào quần chúng quay lại phát triển lực lượng v trang. Nhờ có phương
thức xây dựng lực lượng v trang đúng đắn nên chỉ sau một thời gian ngắn cả lực
lượng chính trị và lực lượng v trang đều có bước phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt,
công tác chính trị được Tỉnh ủy Thanh Hóa, Thừa Thiên, Ban vận động thống nhất
Đảng bộ tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị rất coi trọng. Nh m nâng cao chất lượng
chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng v trang, các tỉnh trên đều
có tỉnh ủy viên trực tiếp phụ trách, nhờ đó đã khắc phục được những khuynh hướng
và hành động lệch lạc trong lực lượng v trang.
Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, điểm nổi bật của các tỉnh Bắc Trung Bộ
là chủ trương xây dựng căn cứ địa trong lòng dân. Theo quan niệm truyền thống về
xây dựng căn cứ địa thường xem nó phải được xây dựng ở những nơi sơn cùng thủy
tận, có vị thế chiến lược tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Tuy nhiên, các khu căn cứ
Trung Thuần, Bàu Rèng, Võ Xá, (Quảng Bình); Triệu Phong, Thượng Nguyên
(Quảng Trị) được xây dựng ngay giữa vùng nông thôn, đồng b ng, nơi có phong
trào cách mạng mạnh, dù cả hai tỉnh có hơn 80% diện tích rừng núi. Điều đó giúp tổ
chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh vừa nắm bắt được tình hình địch, vừa duy
trì, phát triển phong trào cách mạng ở cả nông thôn, đồng b ng, vùng trung du và
thành thị. Chủ trương đó hoàn toàn đúng đắn khi phong trào cách mạng của hai tỉnh
phát triển mạnh ở những địa bàn này, trong khi ở miền núi phong trào còn yếu. Trên
thực tế, khu căn cứ Võ Xá và Triệu Phong không những là địa bàn đứng chân của
Ban vận động thống nhất Đảng bộ, Mặt trận Việt Minh, cơ quan ấn loát, xưởng rèn
v khí mà còn là địa điểm tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự cho hội
viên các tổ chức quần chúng và lực lượng tự vệ, là nơi khởi phát của các cuộc mít
tinh, biểu tình có quy mô lớn với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng nhân dân.
4.2.1.2. Chủ động lên kế hoạch khởi nghĩa và giành chính quyền thắng lợi
sớm ở tỉnh lị
Mác đã khẳng định r ng, khởi nghĩa là một nghệ thuật. Để cho khởi nghĩa là
một nghệ thuật thì cần phải thỏa mãn ba điều kiện: “Muốn thắng lợi, khởi nghĩa
không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng, mà phải dựa vào giai cấp
tiền phong. Đó là điểm thứ nhất. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào cách mạng của
nhân dân. Đó là điểm thứ hai. Khởi nghĩa phải dựa vào một bước ngoặt trong lịch
sử của cuộc cách mạng đang lên, khi mà tính tích cực của những bộ phận tiên tiến
144
trong nhân dân lên cao hơn cả, khi mà những dao động trong hàng ngũ địch và
trong hàng ngũ những người bạn mềm yếu, lừng chừng và không kiên quyết của
cách mạng mạnh hơn cả. Đó là điểm thứ ba” [70, tr.321]. Khi đã hội đủ ba điều
kiện đó, cuộc khởi nghĩa diễn ra vào thời điểm nào là tùy thuộc vào sự nhạy bén của
giai cấp tiền phong.
Trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, nếu không kịp thời chớp thời
cơ “ngàn năm có một”, phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền sẽ phải đối
mặt với nguy cơ tái xâm lược của thực dân Pháp và hành động phá hoại của các thế
lực thù địch. Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết này, tất cả các tỉnh ở khu vực Bắc
Trung Bộ đã chủ động tổ chức hội nghị để bàn kế hoạch khởi nghĩa ngay sau khi
được tin phát xít Nhật có nguy cơ bị tiêu diệt hoặc khi nhận được thông tin phát xít
Nhật đầu hàng các nước Đồng minh, trong đó có 3 tỉnh phát động khởi nghĩa giành
chính quyền không chờ lệnh của Trung ương là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
Đây là một sự sáng tạo tự thân, không sao chép máy móc, không rập khuôn giáo
điều mà là hành động đúng quy luật và tuân thủ quy luật khách quan.
Trong khi đó, dù sớm nhận được tin Nhật đầu hàng nhưng Ủy ban vận động
cứu quốc Bình Định thiếu nhạy bén, chủ động trước sự chuyển biến mau lẹ của tình
hình nên trong cuộc hội nghị ngày 18-8-1945 còn dè dặt nhận định: “Lệnh khởi
nghĩa của Trung ương chưa nhận được, phải thận trọng” [89, tr.131]. Ở Nam Bộ,
phải sau 3 lần họp Xứ ủy mới quyết định phát lệnh khởi nghĩa vào chiều ngày 24-8-
1945. Nguyên nhân chủ yếu là do trong Xứ ủy vẫn còn ý kiến do dự, cho r ng: “Hà
Nội làm thì ta sẽ làm ngay. Hà Nội có làm sớm thì Sài Gòn mới khỏi trễ nải nguy
hiểm. Tuy Sài Gòn đã tập họp đủ lực lượng nhưng nếu Hà Nội chưa làm thì vị tất
Sài Gòn đã làm vì còn nhớ mãi kinh nghiệm của tháng 11-1940” [141, tr.39]. Việc
thiếu chủ động, linh hoạt của Ủy ban vận động cứu quốc Bình Định và Đảng bộ
Nam Kì đã ảnh hưởng đến tiến độ của cuộc khởi nghĩa ở các địa phương.
Trong khi đó, nhờ chủ động lên kế hoạch khởi nghĩa đã góp phần quan trọng
giúp các tỉnh Bắc Trung Bộ giành được chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất cả nước.
Theo thống kê của Viện Lịch sử Đảng, chỉ có 13 tỉnh11
trong tổng số 65 tỉnh,
thành, đặc khu nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương trước khi khởi nghĩa
giành chính quyền [150, tr.226]. Vậy còn lại 49 tỉnh, thành, đặc khu khác c ng
11
Ở khu vực Bắc Trung Bộ có 3 tỉnh nhận được lệnh khởi nghĩa là Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên.
145
không nhận được lệnh của Trung ương như trường hợp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, những nơi quyết định khởi nghĩa sớm và giành thắng lợi
nhanh chóng ở tỉnh lị trong các ngày 18 và 20-8-1945 như các tỉnh Hà Tĩnh, Thanh
Hóa chỉ có 8 tỉnh. Đó là Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam, Mĩ Tho khởi nghĩa
thắng lợi ngày 18-8 cùng lúc với Hà Tĩnh. Thái Nguyên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Ninh
Bình, khởi nghĩa thắng lợi cùng thời gian với Thanh Hóa (20-8).
Bảng 4.1. Thời gian các tỉnh, thành, đặc khu khởi nghĩa thắng lợi ở tỉnh lị
Thời gian (ngày) 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
Tổng số tỉnh trong cả nước 5 4 5 7 3 10 5 17 6 1 2
Số tỉnh Bắc Trung Bộ 1 1 1 3
Như vậy, trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, Hà Tĩnh là 1 trong 5
tỉnh giành được chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất cả nước. Vậy tại sao Hà Tĩnh đạt
được kết quả này? Thử lí giải vấn đề này trong sự đối sánh với các tỉnh Nghệ An và
Quảng Bình.
Trước hết phải khẳng định, đạt được thành quả to lớn trên là nhờ sự nỗ lực
vượt bậc, tinh thần kiên quyết tiến công, táo bạo của cán bộ, đảng viên và quần
chúng cách mạng ở Hà Tĩnh. Bên cạnh đó, trong quá trình khởi nghĩa giành chính
quyền, Hà Tĩnh có những thuận lợi hơn so với các tỉnh trong khu vực. Số lượng
quân Nhật chiếm đóng ở Hà Tĩnh không đông, ít nhất trong 6 tỉnh thuộc khu vực
Bắc Trung Bộ nên càng củng cố quyết tâm giành chính quyền của UBKN Phân khu
Nam Hà. Tuy cùng chung hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, chính trị như các
tỉnh trong khu vực, nhưng trong Ban chỉ đạo khởi nghĩa Phân khu Nam Hà (trong
đó có thị xã Hà Tĩnh) có ông Phan Trọng Nhã, nguyên là ủy viên Trung ương Đảng
được bầu bổ sung trước đây. Vì thế, Ban chỉ đạo khởi nghĩa Phân khu Nam Hà đã
lĩnh hội, quán triệt được tinh thần chủ động, sáng tạo căn cứ vào tình hình địa
phương mà Trung ương đã chủ trương trước đó [124, tr.156]. Mặt khác, cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh trong khu vực, đặc biệt là các tỉnh giáp giới với
Hà Tĩnh nổ ra, thắng lợi c ng có những lí do riêng của nó. Tại Nghệ An, một lực
lượng quân Nhật với số lượng đông, có đầy đủ v khí đang chiếm đóng trên các địa
bàn lúc bấy giờ, và chủ yếu tập trung ở thành phố Vinh. Chính vì vậy, để tránh xung
đột, đổ máu, một sự cân nhắc kĩ lưỡng về phương án và thời điểm để tiến hành khởi
146
nghĩa đã được đặt ra. Và thực tiễn lịch sử đã chứng minh r ng đó là phương án tối
ưu và thời điểm được chọn là phù hợp với hoàn cảnh của Nghệ An lúc bấy giờ.
Trong khi đó, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Bình có thể nổ ra và
giành được thắng lợi cùng thời điểm với Hà Tĩnh. Tuy nhiên, do Ban vận động
thống nhất Đảng bộ, Việt Minh tỉnh Quảng Bình chủ trương phải có lệnh của Trung
ương Đảng mới phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền nên đã làm chậm
bước tiến của cuộc khởi nghĩa ở địa phương.
4.2.1.3. Vô hiệu hóa quân Nhật và thu được nhiều vũ khí của đối phương
Khi nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính
quyền, khoảng 9.000 quân Nhật với trang bị v khí hiện đại vẫn chiếm đóng ở khu
vực này, chủ yếu là ở các tỉnh lị. Tuy tinh thần quân Nhật có hoang mang, dao động
nhưng vẫn đang trong tình trạng chiến tranh. Do đó, để tránh các cuộc đụng độ với
quân Nhật đóng tại địa phương, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh phải cân nhắc kĩ
lưỡng về thái độ đối với chúng, nh m giành thắng lợi nhanh và trọn vẹn.
Trên thực tế, sau khi Hà Nội khởi nghĩa thành công (19-8), không có đổ máu
do biết vô hiệu hóa quân Nhật, đã mở ra khả năng có thể tránh được các cuộc đụng
độ với lính Nhật. Ngày 21-8-1945, Trung ương Đảng chỉ thị các địa phương cần
học tập Hà Nội: “Ở Hà Nội giữa chúng ta và quân đội Nhật đã có cuộc thương
lượng rồi, chúng đã bằng lòng giao cho “chính quyền Việt Minh” một số vũ khí và
Chính phủ ta đã bảo đảm giúp cho chúng giải quyết vấn đề lương thực; bây giờ các
tỉnh, nơi nào có thể thương lượng theo hướng đó thì cứ tiến hành thương lượng” [39].
Như vậy, cho đến thời điểm các tỉnh Bắc Trung Bộ tổ chức hội nghị để bàn
về việc khởi nghĩa giành chính quyền thì vẫn chưa nhận được sự hướng dẫn cụ thể
của Trung ương Đảng và trong thực tế lúc bấy giờ chưa có tỉnh, thành, đặc khu nào
của cả nước đi đầu xử trí về vấn đề quân đội Nhật. Tuy nhiên, do yêu cầu của cuộc
khởi nghĩa và căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, tổ chức Đảng, Việt Minh các
tỉnh đề ra chủ trương vô hiệu hóa quân Nhật, buộc chúng phải án binh bất động
trong quá trình nhân dân giành chính quyền b ng nhiều phương thức khác nhau
như: Viết thư gửi các viên sĩ quan chỉ huy quân đội Nhật, cử cán bộ đến điều đình
trực tiếp với chúng, tiến hành khởi nghĩa từng bộ phận để thăm dò phản ứng của
quân Nhật như ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Trị và Thừa Thiên. Đây là chủ trương
đúng đắn, sáng tạo của tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ.
147
Ưu điểm nổi bật của các tỉnh Bắc Trung Bộ là tất cả 6 tỉnh trong khu vực đều chủ
trương buộc quân Nhật phải n m im. Thừa Thiên là nơi có đông quân Nhật nhất
(khoảng 4.500 quân), lại là “đại bản doanh” của Nam triều và Chính phủ Trần
Trọng Kim nhưng Thường vụ Tỉnh ủy chủ trương thăm dò trước phản ứng của quân
Nhật, viết thư gửi cho cố vấn Nhật yêu cầu không được can thiệp vào công việc nội
bộ của Việt Minh nên khởi nghĩa ở đây nổ ra thuận lợi, tránh được đổ máu, thành
lập được ngay chính quyền cách mạng tỉnh. Trong khi đó, một số tỉnh ở đồng b ng
Bắc Bộ và Nam Trung Bộ, các cuộc đụng độ với quân Nhật đã diễn ra vừa gây cho
cách mạng một số tổn thất, vừa làm chậm bước tiến của khởi nghĩa ở địa phương.
Ở Đông Anh (Phúc Yên), trong khi chiếm huyện lị, lực lượng v trang cách
mạng đã chiến đấu với quân Nhật, 3 chiến sĩ hi sinh, 3 người khác bị thương [150,
tr.235]. Quảng Ngãi là tỉnh có chủ trương ngay từ đầu tấn công quân sự, tước v khí
quân Nhật dẫn đến tổn thất về người và tài sản. Theo số liệu thống kê của Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi, tính đến ngày ra mắt chính quyền nhân dân toàn
tỉnh, về phía lực lượng khởi nghĩa 121 nhà dân bị quân Nhật đốt cháy, 80 người bị
bắt, 51 người bị địch giết. Quảng Nam tuy lúc đầu không đưa ra chủ trương tấn
công quân Nhật nhưng vì không có đối sách cụ thể với chúng cho các huyện nên
dẫn đến đổ máu ở Điện Bàn và Đại Lộc [89, tr.120].
Kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh cho thấy không phải ở đâu có lực
lượng v trang hùng hậu, v khí trang thiết bị hiện đại là c ng có thể giành thắng lợi
trên mặt trận quân sự. Ở Thái Nguyên, ngày 20-8-1945, sau khi lực lượng Việt Nam
giải phóng quân gồm 450 chiến sĩ, được trang bị v khí hiện đại chiếm dinh Tỉnh
trưởng, trại lính bảo an, chính quyền địch trong thị xã thì tổ chức tấn công quân
Nhật trong trại lính khố xanh. Cuộc chiến đấu giữa Việt Nam giải phóng quân với
quân Nhật diễn ra rất quyết liệt trong một thời gian dài vẫn không dứt điểm được
[56]. Sau khi khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, do Nhật đề nghị, “cuộc đụng độ giữa Giải
phóng quân và lính Nhật ở Thái Nguyên được giải quyết bằng thương lượng” [37].
Không những vô hiệu hóa được quân đội Nhật, các tỉnh Bắc Trung Bộ còn
thuyết phục được một số lính Nhật có tư tưởng tiến bộ gia nhập Việt Minh và vận
động được quân Nhật trao cho nhiều v khí.
Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Việt Minh Phú Lộc (Thừa Thiên) đã
vận động 8 lính Nhật phản chiến làm huấn luyện viên quân sự cho lực lượng v
148
trang của huyện [173]. Trong khi nhân dân Đồng Hới (Quảng Bình) khởi nghĩa
giành chính quyền, có 3 lính Nhật gia nhập hàng ng cách mạng, được Việt Minh
thị xã đưa sang Bảo Ninh tạm lánh. Trong đó có 1 bác sĩ, sau Cách mạng tháng Tám
được bố trí làm việc tại Viện quân y với cái tên Việt Nam là Lê Trung. Hai lính
Nhật khác được Việt Minh Đồng Hới đưa về làm huấn luyện viên quân sự cho du
kích thị xã [15, tr.66]. Tại Nghệ An, trong cuộc thương lượng với quân đội Nhật,
sau khi chấp thuận hầu hết các điều kiện của Việt Minh Nghệ Tĩnh đưa ra, chỉ huy
quân Nhật đã giao nộp một số lượng v khí đáng kể gồm “hơn 500 súng trường,
trên 1 vạn viên đạn, gần 1.000 lựu đạn của trại Bảo an” [152, tr.13]. Việt Minh
Quảng Trị đã vận động viên sĩ quan chỉ huy quân đội Nhật bàn giao cho chính
quyền cách mạng nhiều tấn đạn và hàng trăm khẩu súng các loại [170]. Về điểm
này, nếu so sánh với Tổng khởi nghĩa tháng Tám trong toàn quốc, thì cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã thành công trong việc tịch thu
v khí của phát xít Nhật.
4.2.2. Hạn chế
4.2.2.1. Một số tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc, kỉ luật của Đảng và
chưa thanh toán triệt để tư tưởng hẹp hòi, cục bộ địa phương
Trong thời kì bị đế quốc khủng bố, hơn bao giờ hết công tác xây dựng Đảng
về mặt tổ chức và tư tưởng phải thật chặt chẽ, nhưng đối với Đảng bộ Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Trị lại có phần lỏng lẻo và sơ hở về mặt này. Ở một số địa phương do
nhu cầu gay gắt về lực lượng lãnh đạo đã kết nạp những phần tử không đủ tiêu
chuẩn vào Đảng, kết quả là không phát huy được tác dụng, thậm chí còn gây tác hại
cho phong trào cách mạng, cuối cùng buộc phải thanh trừ. Tại Nghệ An, việc phục
hồi, phát triển đảng viên và đề bạt cán bộ vào các cấp ủy Đảng không đảm bảo tiêu
chuẩn, không nắm vững đường lối giai cấp của Đảng và không qua thử thách trong
đấu tranh. Công tác giáo dục tư tưởng, nhất là giáo dục về lập trường giai cấp vô
sản, về ý chí chiến đấu kiên định, về ý thức cảnh giác và các nguyên tắc bí mật của
Đảng chưa được chú ý đúng mức [124, tr.150]. Tại Thanh Hóa, trong phong trào
quần chúng năm 1939 và năm 1941, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng bộ có xu
hướng công khai hình thức, bị động chạy theo phong trào, tạo sơ hở cho đế quốc
khủng bố. Ở một số địa phương, trong quá trình xây dựng tổ chức cơ sở Đảng chưa
tạo ra được sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác này với việc xây dựng các tổ chức
149
quần chúng để che chở cho tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên. Mặt khác, do cán
bộ, đảng viên chưa chấp hành nghiêm chỉnh kỉ luật và các quy định về nguyên tắc
bí mật của Đảng nên cơ sở và lực lượng của Đảng thường xuyên bị lộ, hàng loạt
chiến sĩ cộng sản, quần chúng trung kiên sa lưới mật thám Pháp.
Trong giai đoạn 1939 - 1945, mặc dù tổ chức Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ đã
đạt được sự nhất trí về ý chí và quyết tâm, nhưng về tổ chức vẫn còn những thiếu
sót nên đã ảnh hưởng đến việc đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì thiếu cảnh giác,
các tỉnh Bắc Trung Bộ đã để cho Đinh Văn Di12
và các phần tử A.B ngấm ngầm
hoạt động phá hoại Đảng từ bên trong. Tuy nhiên, khi phát hiện ra hoạt động phá
hoại của chúng, tổ chức Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ lại thiếu biện pháp khắc phục
để ổn định về tổ chức và tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Trong khi nâng cao tinh
thần cảnh giác, cán bộ, đảng viên lại thiếu bình tĩnh, thận trọng để phân biệt địch ta
dẫn đến thái độ do dự, rụt rè không mạnh dạn phát động quần chúng đấu tranh để
duy trì phong trào, thậm chí sa vào cạm bẫy khiêu khích, chia rẽ của đế quốc, định
kiến, hiểu nhầm và nghi ngờ lẫn nhau. Đúng như phân tích của Ủy ban thống nhất
Trung Kì: “Phải nói rằng chính trị phá cách mạng của giặc có hiệu quả, phần lớn
không phải vì chúng tài giỏi mà chính vì chúng ta quá cẩu thả, vụng về. Nhất là sự
tổ chức không nghiêm để lọt vào hàng ngũ những phần tử hèn nhát, không giữ kỉ
luật Đảng lúc bị bắt, phá nát cơ sở Đảng, lột uy tín của Đảng trong quần chúng,
gây nên một khó khăn vô cùng cho các đồng chí tiếp tục hoạt động” [148].
Chính sự “cẩu thả, vụng về” của một số cán bộ, đảng viên trong công tác xây
dựng Đảng là nguyên nhân cơ bản làm cho tổ chức Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ
thường xuyên bị đế quốc phá vỡ và gián đoạn hoạt động trong giai đoạn 1939 -
1945. Để cho cơ sở Đảng bị phá vỡ liên tục trong những năm 1939 - 1942 và một số
Đảng bộ các tỉnh như Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Trị bị đình đốn hoạt động từ
năm 1943 đến năm 1945 là một hạn chế lớn. Việc không khôi phục được Đảng bộ
Nghệ An, Hà Tĩnh để kịp thời lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền là
12
Đinh Văn Di quê xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Từ năm 1935 đến năm 1939, Đinh Văn
Di giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Bí thư Liên Tỉnh ủy Thanh - Nghệ - Tĩnh. Bị đế quốc Pháp mua
chuộc, Đinh Văn Di đã phản bội Đảng, ngấm ngầm chỉ điểm cho địch và hoạt động phá hoại trong Đảng cho
đến cuối năm 1939 mới bị lộ. Đinh Văn Di đã bị tòa án cách mạng Nghệ An xử bắn sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 tại huyện Nghi Lộc.
150
một thực tế lịch sử khó có thể chấp nhận đối với vùng đất được xem là một trong
những cái nôi hình thành nên khuynh hướng cách mạng vô sản ở Việt Nam.
Trong một thời gian dài, các cơ sở Đảng ở Quảng Bình hoạt động độc lập,
riêng lẻ, không phối hợp, hỗ trợ nhau khi điều kiện thuận lợi và khó khăn; việc
chậm thống nhất tổ chức Đảng trong toàn tỉnh Quảng Bình hay tình trạng mâu thuẫn
dẫn đến xung đột giữa các nhóm Việt Minh ở Can Lộc (Hà Tĩnh) trong các ngày 15,
17 và 21-8-1945 [3] còn là biểu hiện của tư tưởng hẹp hòi, cục bộ địa phương.
4.2.2.2. Một số địa phương chưa chú trọng xây dựng cơ sở ở miền núi,
thiếu nhạy bén, linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo khởi nghĩa
Trong công tác vận động quần chúng tham gia các hội cứu quốc, tổ chức
Đảng, Việt Minh các tỉnh hầu như “quên lãng” một lực lượng chiếm gần 10% dân
số là đồng bào các dân tộc ít người. Chính vì vậy, phong trào đấu tranh cách mạng ở
miền núi các tỉnh rất yếu. Trong khi đó, cùng điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị
như khu vực Bắc Trung Bộ nhưng các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ rất chú trọng
công tác vận động đồng bào dân tộc ít người tham gia Việt Minh. “Ở Quảng Ngãi
công tác vận động đồng bào dân tộc ít người đã được xúc tiến từ những năm 1942 -
1943. Do đó phong trào Việt Minh ở miền Tây Quảng Ngãi đến lúc này đã phát
triển mạnh, số hội viên cứu quốc tăng nhanh, có nơi tổ chức được tự vệ mật và du
kích... Ở Phú Yên công tác này được đẩy mạnh ở vùng Củng Sơn, Thạnh Hội huyện
Sơn Hòa” [90, tr.174-175].
Các tỉnh Bắc Trung Bộ có tới 4/5 diện tích thuộc vùng rừng núi là điều kiện
rất thuận lợi để duy trì lực lượng cách mạng và hoạt động lâu dài nhưng trong quá
trình xây dựng lực lượng chính trị, cơ sở miền núi chưa được Việt Minh các tỉnh
quan tâm đúng mức. Những thiếu sót này, không những đã hạn chế việc phát triển
phong trào, củng cố, duy trì lực lượng cách mạng mà còn ảnh hưởng đến tiến trình
khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở một số tỉnh.
Năng lực lãnh đạo của một chính đảng không chỉ được thể hiện b ng cương
lĩnh, đường lối, quyết sách chiến lược lớn, mà còn được biểu hiện b ng những quyết
định ở những thời khắc lịch sử mang tính chất bước ngoặt. Ở Quảng Bình, đến
thượng tuần tháng 8-1945, lực lượng chính trị, lực lượng tự vệ v trang đã trong tư
thế sẵn sàng cùng toàn dân đứng lên lật đổ chính quyền tay sai. Khi phát xít Nhật
đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Quảng Bình dao động, chính quyền tay sai
151
hoang mang tan rã, các giới công thương tư sản, lực lượng bảo an binh đều ngả về
cách mạng. Trong tình thế như vậy đáng ra ở Quảng Bình có thể khởi nghĩa vào các
ngày 17 hoặc 18-8-1945 c ng giành được thắng lợi [15, tr.67]. Thận trọng, thăm dò
thái độ của quân Nhật là cần thiết nhưng trong tình thế “kẻ địch đã rệu rã từ trên
xuống dưới” [21, tr.117], việc Ban vận động thống nhất Đảng bộ, Việt Minh tỉnh
chủ trương phải có lệnh của Trung ương Đảng mới phát động quần chúng khởi
nghĩa giành chính quyền là thiếu nhạy bén và linh hoạt.
Hầu hết các tỉnh trong khu vực đã thực hiện tốt việc vận động lực lượng bảo
an binh ngả theo Việt Minh, góp phần quan trọng đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng
lợi. Tuy nhiên, ở một số phủ, huyện các cuộc đụng độ với lính bảo an đã diễn ra dẫn
đến tổn thất về người và tài sản, điển hình là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở
phủ lị Thiệu Hóa, ở cầu Tống Giang huyện Hà Trung (Thanh Hóa).
Có những hạn chế trên đây trước hết là do sự khủng bố quyết liệt của thực
dân Pháp, sự phá hoại của các phần tử A.B nh m phá nát tổ chức cơ sở Đảng và sự
đoàn kết, thống nhất trong cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước. Trong khi đó,
công tác đấu tranh tự phê bình và phê bình trong tổ chức Đảng không được tiến
hành thường xuyên, khiến cho bệnh chủ quan, thiếu cảnh giác cách mạng trong cán
bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước phát triển hơn. Trong một số tổ chức Đảng và
cán bộ, đảng viên ở các tỉnh Bắc Trung Bộ tư tưởng tiểu tư sản chưa được thanh
toán triệt để nên dẫn đến tình trạng chậm thống nhất, xung đột giữa các tổ chức Việt
Minh. Bên cạnh đó, trải dài trên một miền đất rộng, địa hình đa dạng, hệ thống sông
ngòi dày đặc khiến cho việc liên lạc giữa các địa phương ở Bắc Trung Bộ thường
xuyên bị đứt mạch. Bắc Trung Bộ là khu vực có truyền thống đấu tranh cách mạng
nhưng phong trào chủ yếu diễn ra ở đồng b ng, trung du; nguồn cán bộ ở một số
tỉnh tuy đông nhưng trong giai đoạn 1939 - 1945 phần lớn bị giam cầm trong nhà tù
của đế quốc, thực dân nên việc xây dựng cơ sở ở miền núi và vận động đồng bào
dân tộc ít người tham gia cách mạng gặp rất nhiều khó khăn. Một số tổ chức Đảng ở
Bắc Trung Bộ còn thụ động, chờ lệnh của Trung ương, chưa đề ra chủ trương
thương lượng với lính bảo an trước khi tiến hành khởi nghĩa nên đã làm chậm bước
tiến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và tổn thất về người và tài sản.
Tuy có một số nhược điểm nhưng Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Bắc
Trung Bộ vẫn là một kì tích trong đấu tranh cách mạng của tổ chức Đảng, Mặt trận
152
Việt Minh và nhân dân các tỉnh, trong đó, thành tích, ưu điểm vẫn là cơ bản và có ý
nghĩa cực kì to lớn.
4.3. VAI TRÒ
4.3.1. Trực tiếp chấm dứt chế độ phong kiến, làm sụp đổ Chính phủ
Trần Trọng Kim, thiết lập hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân ở các tỉnh
Bắc Trung Bộ
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, chế độ phong kiến đã có
những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và sáng tạo ra
nhiều thành tựu văn minh.
Trong 143 năm tồn tại (1802 - 1945), đặc biệt từ năm 1802 đến năm 1858,
triều Nguyễn đã có những đóng góp quan trọng đối với lịch sử dân tộc: hoàn thành,
củng cố sự nghiệp thống nhất đất nước mà phong trào Tây Sơn đã đặt nền móng;
đẩy mạnh công tác khẩn hoang, phát triển nhiều vùng đất trù phú ở miền Nam; phát
triển văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, so với yêu cầu của lịch sử, triều Nguyễn có những
khuyết điểm lớn. Sự độc đoán, chuyên quyền cao độ của triều Nguyễn đã triệt tiêu
các đề nghị cải cách, duy tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ,
Đinh Văn Điền, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch..., làm cho tiềm lực đất nước không
được phát triển và tạo ra mâu thuẫn xã hội sâu sắc. Điều đó chứng tỏ triều Nguyễn
bước vào giai đoạn khủng hoảng. Hệ quả tất yếu của tình trạng này là Việt Nam
không có khả năng đương đầu với các thế lực ngoại xâm. Hệ quả này cùng với
những sai lầm về đường lối cứu nước của triều Nguyễn từ năm 1858 đến năm 1884
nên cuối thế kỉ XIX Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Kể từ sau
Hiệp ước Patenôtre (6-6-1884), trừ một số vị vua yêu nước (Kiến Phúc, Hàm Nghi,
Thành Thái, Duy Tân), về cơ bản triều Nguyễn trở thành chỗ dựa cho thực dân
Pháp, phát xít Nhật thiết lập bộ máy thống trị và khai thác bóc lột ở Việt Nam. Vì
vậy, vào cuối thế kỉ XIX, lịch sử Việt Nam đặt ra yêu cầu đánh đổ ách thống trị của
ngoại bang và chế độ phong kiến tay sai giành độc lập dân tộc, thiết lập một chế độ
xã hội tiến bộ hơn.
Mặc dù có sự tác động, ảnh hưởng của phong trào cách mạng cả nước nhưng
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã trực tiếp
chấm dứt chế độ phong kiến lạc hậu do triều Nguyễn đại diện, buộc Bảo Đại phải
thoái vị, đập tan bộ máy thống trị của chính quyền thân Nhật từ trung ương đến địa
153
phương, thiết lập hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân. Thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã góp phần cùng với cả nước phá được kế hoạch
thực dân Pháp từ bên ngoài trở lại xâm lược Việt Nam và giành chính quyền thắng
lợi trước khi quân đội các nước Đồng minh vào Đông Dương.
Bên cạnh đó, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ đã đưa người dân từ thân phận nô lệ lên địa vị người làm chủ quê hương,
đất nước, làm chủ cuộc sống của chính bản thân mình, được hưởng các quyền tự do
dân chủ. Ngay sau ngày khởi nghĩa thành công nhân dân được hưởng những thành
quả đầu tiên của cuộc cách mạng vốn nghìn đời ước mơ: Chính quyền cách mạng
tuyên bố xóa bỏ các thứ thuế bất công của chế độ c , thực hiện giảm tô, giảm tức,
chia lại ruộng đất công, thực hiện nam nữ bình quyền, phổ thông đầu phiếu, thực
hiện một nền văn hóa, giáo dục mang tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng... đã
tạo nên một niềm phấn khởi cách mạng mãnh liệt trong nhân dân, nó trở thành động
lực tinh thần và là tiền đề quan trọng để các tỉnh Bắc Trung Bộ xây dựng và bảo vệ
chính quyền dân chủ nhân dân. Có thể nói, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã mở ra thời kì lịch sử mới cho nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ nói
riêng và cả nước nói chung.
4.3.2. Tác động đến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền một số tỉnh ở
Nam Trung Bộ và Nam Bộ
Cùng với khởi nghĩa ở Hà Nội, việc các tỉnh Bắc Trung Bộ, đặc biệt là thành
phố Huế giành được chính quyền trở thành điểm tựa cho các tỉnh Nam Trung Bộ và
Nam Bộ tiến hành khởi nghĩa thắng lợi. Bàn về vấn đề này, Trường Chinh nhận xét:
“Những thắng lợi khởi nghĩa ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, nhất là ở Hà Nội và Huế,
ảnh hưởng vang dội rất mạnh, nhân dân cách mạng buộc Bảo Đại thoái vị, chính
quyền bù nhìn buộc phải đầu hàng ở Bắc Bộ và Trung Bộ, làm cho địch ở Nam Bộ
và miền Nam Trung Bộ càng thêm hoang mang, phân hóa sâu sắc và tan rã” [39].
Trước khi các tỉnh Bắc Trung Bộ tiến hành khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa Ba
Tơ và phong trào cách mạng ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi đã có ảnh hưởng,
tác động nhất định đối với khu vực Bắc Trung Bộ. Tuy nhiên, sau khi một số tỉnh
Bắc Trung Bộ khởi nghĩa thắng lợi đã tác động trở lại đối với các tỉnh ở Nam Trung
Bộ chưa giành được chính quyền. Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Tĩnh, Thanh Hóa, mà
tâm điểm là Huế trực tiếp cùng một số tỉnh trong cả nước đã bồi tiếp một đòn sấm
154
sét vào chính quyền thân Nhật còn lại ở các tỉnh Nam Trung Bộ, động viên cổ v ,
tạo thêm sức mạnh tinh thần cho nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ vùng lên. Bên
cạnh đó, thắng lợi của khởi nghĩa tại các tỉnh Bắc Trung Bộ đã tác động đến các
tỉnh Nam Bộ: “Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở miền Bắc (gồm cả Hà Nội và Huế)
là thắng lợi có tính chất quyết định của cuộc khởi nghĩa. Thắng lợi của miền Bắc
tạo điều kiện và cổ vũ nhân dân ở Nam Bộ và những vùng chưa giải phóng nổi dậy
giành chính quyền không thể chậm trể được nữa” [39].
Có thể khẳng định, thắng lợi của quá trình khởi nghĩa tại các tỉnh Bắc Trung
Bộ mà tâm điểm là Huế đã tạo nên niềm tin mãnh liệt, chỗ dựa tinh thần cho một số
địa phương ở Nam Trung Bộ và các tỉnh Nam Bộ vùng lên giành chính quyền.
4.3.3. Có ảnh hưởng nhất định đối với sự nghiệp cách mạng của nước
bạn Lào
Khi nghe tin Chính phủ Nhật đầu hàng các nước Đồng minh, số tàn quân
Pháp chạy qua vùng biên giới Việt - Lào sau ngày Nhật đảo chính lật đổ Pháp (9-3-
1945), đã tập trung lại để thực hiện âm mưu cướp lại chính quyền ở Nghệ An, Hà
Tĩnh. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Hà Tĩnh, Nghệ An vừa kết
thúc thắng lợi, ngày 6-9-1945, nhóm tàn quân Pháp đã co cụm ở Napê (Lào) hòng
thực hiện âm mưu trên. Ngày 6-9-1945, bất chấp hỏa lực của quân Pháp, dưới sự
lãnh đạo của Việt Minh và chính quyền hai tỉnh, lực lượng v trang đã tiến hành
bao vây chỉ huy sở của chúng tại Bungalow. Ngày 7-9-1945, lực lượng v trang
Nghệ An, Hà Tĩnh phối hợp chiến đấu có hiệu quả, đánh tan đồn lính Napê, thu
nhiều quân trang, quân dụng. Thắng lợi này không những kịp thời ngăn chặn được
nguy cơ Pháp quay trở lại tấn công Nghệ An, Hà Tĩnh, bảo vệ thành quả cách mạng
vừa giành được, mà còn tạo điều kiện cho lực lượng v trang của Lào tiến lên quét
sạch quân Pháp ra khỏi lãnh thổ: “Chiến thắng Napê đã góp phần xứng đáng vào
việc đập tan âm mưu tái xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp trong những ngày
đầu cách mạng mới thành công và đẩy cách mạng Lào tiến lên một bước mới, tạo
điều kiện thuận lợi cho đội vũ trang tuyên truyền của cách mạng Lào tiếp tục quét
sạch bọn Pháp ở các vị trí Naxalum, Noọng Hét, Cam Cớt, Khăm Muộn, Lạc Xao,
giải phóng cả một vùng rộng lớn từ Thà Khẹt đến biên giới Lào - Việt” [26, tr.61].
Như vậy, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Tĩnh, Nghệ An
đã có ảnh hưởng nhất định đối với sự nghiệp cách mạng của nước bạn Lào.
155
4.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
4.4.1. Về phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết và xây dựng mặt
trận dân tộc thống nhất
Bàn về sức mạnh của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [86, tr.171].
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, Bắc Trung Bộ là vùng đất có
bề dày truyền thống yêu nước rất đáng tự hào. Điểm đặc sắc là truyền thống yêu
nước đó đã được tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên các tỉnh Bắc Trung Bộ khơi dậy
đúng thời điểm; đồng thời được phát triển lên một bước mới trong suốt thời kì đấu
tranh cách mạng 1930 - 1945. Nhờ vậy, tổ chức Đảng các tỉnh Bắc Trung Bộ đã xây
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy cao độ lòng yêu nước, chí căm thù
giặc, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của nhân dân, quyết tâm đánh đổ
ách thống trị của ngoại bang, giành lại độc lập, tự do cho quê hương, đất nước.
Trong giai đoạn 1939 - 1945, mặt trận dân tộc thống nhất có vai trò quan
trọng trong việc tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng nh m thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong quá trình chuẩn bị
khởi nghĩa, các tỉnh Bắc Trung Bộ luôn coi trọng công tác xây dựng mặt trận dân
tộc thống nhất. Sau khi nhận được Nghị quyết Trung ương 8, Chương trình Việt
Minh một thời gian, phong trào Việt Minh ở các tỉnh có bước phát triển. Đến trước
tổng khởi nghĩa, tất cả các tỉnh đều thành lập được Tỉnh bộ Việt Minh hoặc mặt trận
liên tỉnh và phát triển hệ thống Việt Minh xuống tận huyện, tổng, làng. Học giả
người Pháp Paul Mus cho r ng: “Trong Mặt trận Việt Minh, những người lãnh đạo
cộng sản đã có được một sự cố kết dân tộc không thể tranh cãi như thế nào trong
những người cộng tác và trong đông đảo quần chúng” [163, tr.265]. Mặt trận Việt
Minh các tỉnh không những vận động quần chúng nhân dân tham gia cách mạng mà
còn tập hợp được khá đông đảo các tầng lớp trên của xã hội như địa chủ, tư sản, trí
thức, những người có chức sắc và cả những lực lượng của chính quyền thân Nhật
như bảo an binh, Thanh niên xã hội cho đến các quan chức cao cấp của Nam triều
và Chính phủ Trần Trọng Kim. Thành công này góp phần vô hiệu hóa bộ máy thống
156
trị của chính quyền tay sai, đưa cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ thắng lợi nhanh và khá trọn vẹn.
4.4.2. Về phương pháp xây dựng lực lượng cách mạng
Ngay khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định con đường duy
nhất để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai giành chính quyền là con
đường bạo lực cách mạng. Quán triệt tư tưởng đó của Đảng, tổ chức Đảng các tỉnh
Bắc Trung Bộ đã xây dựng được một đạo quân chính trị đông đảo có sức mạnh và
khả năng to lớn bởi sức hút của nó thông qua các phong trào cách mạng, thông qua
tổ chức Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng. Trước hết là công tác
tuyên truyền, giác ngộ quần chúng thông qua báo chí, sách vở, truyền đơn, diễn
thuyết, thông qua các cuộc mít tinh, biểu tình cả bí mật và công khai. Bên cạnh đó
là việc mở các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, về các kĩ năng công tác lập hội,
tuyên truyền, nâng cao trình độ nhận thức về lí luận và thời cuộc cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng cách mạng. Đặc biệt, thông qua các phong trào đấu tranh để tập
hợp, giác ngộ quần chúng. Ở địa bàn nông thôn, các phong trào đấu tranh như đòi
giảm thuế, khất thuế, đòi chia lại ruộng đất công cho nông dân, chống bắt phu, bắt
lính phát triển mạnh. Với những biện pháp thiết thực đó, tổ chức Đảng, Việt Minh
các tỉnh đã thu hút được một lực lượng quần chúng to lớn đi theo đường lối của
Đảng. C ng chính từ kết quả này, khi bước vào thời kì tiền khởi nghĩa, cao trào
kháng Nhật cứu nước ở các tỉnh phát triển mạnh mẽ, thu hút hàng chục vạn quần
chúng tham gia với nhiều hình thức đấu tranh phong phú.
Quán triệt tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường
lối khởi nghĩa v trang của Đảng, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã chú trọng xây dựng lực
lượng v trang. Nét nổi bật là tổ chức Đảng các tỉnh luôn lấy việc vận động đấu
tranh cách mạng để phát triển lực lượng cách mạng, lấy lực lượng chính trị để giáo
dục chính trị tư tưởng làm nền tảng cho việc xây dựng lực lượng v trang. Thực tiễn
của phong trào đấu tranh chính trị đặt ra yêu cầu là phải nhanh chóng xây dựng lực
lượng v trang làm nòng cốt cho các cuộc đấu tranh. Do đó, tất cả các tỉnh dù ít, dù
nhiều đều có lực lượng v trang, dẫu cho v khí hết sức thô sơ chỉ là giáo mác,
cuốc, thuổng, gậy gộc. Điều đặc biệt là lực lượng v trang không phải ra đời ở
những nơi sơn cùng thủy tận mà lại được xây dựng ngay giữa vùng trung du, đồng
b ng. Đây là một nỗ lực to lớn của tổ chức Đảng và nhân dân các tỉnh trong quá
157
trình xây dựng lực lượng tiến tới tổng khởi nghĩa. Song hành cùng với sự lớn mạnh
của lực lượng tự vệ v trang là phong trào luyện tập quân sự, mua sắm v khí phát
triển mạnh mẽ trong nhân dân. Từ những anh em thanh niên đến những cháu thiếu
niên, thậm chí cả những cụ phụ lão, chị em phụ nữ bận con nhỏ đều tham gia luyện
tập rất hăng say, bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào mọi người đều tranh thủ tự
trang bị kiến thức và v khí cho mình, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa đang đến gần.
Trước tổng khởi nghĩa, Trung ương Đảng chủ trương xây dựng 7 chiến khu
trong cả nước. Trong phạm vi các tỉnh Bắc Trung Bộ có một phần của chiến khu
Hòa - Ninh - Thanh. Ngoài ra, nhiều tỉnh đã xây dựng thành công các chiến khu và
căn cứ địa cách mạng như: Ngọc Trạo (Thanh Hóa), Khe Trầm, Truông Bát (Hà
Tĩnh), Trung Thuần, Võ Xá (Quảng Bình), Triệu Phong, Thượng Nguyên (Quảng
Trị)… Chính từ những khu căn cứ này tạo ra một nguồn sức mạnh to lớn góp phần
cùng với quần chúng cách mạng tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
4.4.3. Về nắm bắt thời cơ và chớp đúng thời cơ
Một thành công lớn trong nghệ thuật lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm
1945 của tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ là nắm vững thời cơ và
chớp đúng thời cơ.
Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, với tầm nhìn chiến lược,
Đảng Cộng sản Đông Dương đã phân tích, đánh giá tình hình một cách khoa học,
toàn diện, cụ thể, dự báo chính xác chủ nghĩa phát xít nhất định thua, Liên Xô và
các lực lượng chống phát xít nhất định giành chiến thắng, thời cơ cho cách mạng
Việt Nam tiến lên giành thắng lợi đang đến gần. Với đường lối chiến lược cách
mạng “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, Đảng Cộng sản Đông Dương đã có
những chủ trương, biện pháp đúng đắn, từng bước tạo thế và lực bên trong để động
viên, tổ chức toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, trong khoảng thời gian từ tháng
9-1939 đến tháng 3-1945, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã tiến hành xây dựng lực lượng
chính trị, lực lượng v trang, căn cứ địa cách mạng và tập dượt quần chúng đấu
tranh. Đây là bước tạo đà hết sức quan trọng để khi tình thế cách mạng xuất hiện sẽ
đưa phong trào cách mạng trong toàn khu vực tiến lên thế cao trào.
Sau khi Nhật đảo chính lật đổ Pháp, các tỉnh Bắc Trung Bộ đã chạy đua với
thời gian, phát triển đội quân chính trị quần chúng bao gồm các tầng lớp nhân dân
158
trong Mặt trận Việt Minh, tập hợp những lực lượng có thể tập hợp được, đẩy mạnh
xây dựng lực lượng v trang, căn cứ địa cách mạng và khu giải phóng, tiến hành
cao trào kháng Nhật cứu nước, thúc đẩy thời cơ nhanh chóng chín muồi.
Sự phát triển của cao trào kháng Nhật cứu nước ở các tỉnh Bắc Trung Bộ cho
thấy giai cấp thống trị không thể thống trị như c , hệ thống chính quyền thân Nhật
các cấp ở một số địa phương rơi vào khủng hoảng. Nạn đói khủng khiếp cuối năm
1944 đầu năm 1945 đẩy nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ vào bước đường cùng, sự
chịu đựng đã đến giới hạn cuối cùng, quần chúng nhân dân sẵn sàng nổi dậy lật đổ
chính quyền thân Nhật, thiết lập nên một chế độ xã hội tiến bộ hơn. Đồng thời, cao
trào kháng Nhật cứu nước đã tác động đến lập trường, tư tưởng của các tầng lớp, bộ
phận trung gian, những trí thức yêu nước tiến bộ, những người có tư tưởng dân tộc,
kể cả một bộ phận trong giai cấp hữu sản nhưng gần với quần chúng, nhận thức
được xu thế lịch sử, ngả về phía lực lượng cách mạng. Trong khi đó, tổ chức Đảng,
Việt Minh các tỉnh Bắc Trung Bộ đã chuẩn bị chu đáo, toàn diện và sẵn sàng lãnh
đạo quần chúng nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Tình thế cách
mạng đã chín muồi, chỉ cần điều kiện khách quan thuận lợi là cách mạng sẽ nổ ra.
Sau khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng các nước Đồng minh không
điều kiện, mặc dù không có sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban thống nhất Trung Kì
nhưng tất cả các tỉnh ở khu vực Bắc Trung Bộ đều chủ động tổ chức hội nghị và đề
ra kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền. Trong đó, 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An
và Hà Tĩnh phát động khởi nghĩa khi chưa nhận được lệnh của Trung ương. Ở
huyện Can Lộc (Hà Tĩnh), mặc dù UBKN huyện chưa có chủ trương giành chính
quyền nhưng một số thanh niên trí thức nhận thấy thời cơ chín muồi nên đã chủ
động tiến hành khởi nghĩa và giành được thắng lợi. Trong quá trình lãnh đạo tổng
khởi nghĩa, tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh luôn quán triệt tư tưởng cách
mạng tiến công, lãnh đạo nhân dân tiến hành giành chính quyền thắng lợi khá trọn vẹn.
4.4.4. Về công tác xây dựng tổ chức Đảng
Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân chính là
nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, là một trong những điều kiện quan
trọng giúp Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững được vai trò lãnh đạo. Cán bộ, đảng
viên là người lãnh đạo và tổ chức quần chúng, còn quần chúng là lực lượng vật chất
tiến hành cách mạng. Sự lãnh đạo của cán bộ, đảng viên kết hợp với tính tích cực,
159
sáng tạo của quần chúng tạo nên một sức mạnh to lớn. Lênin đã khẳng định r ng,
Đảng Cộng sản “chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần
chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên” [71, tr.28].
Quán triệt quan điểm của Lênin, trong quá trình xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, phần lớn cán bộ, đảng viên các tỉnh Bắc Trung Bộ biết khơi dậy
tính chủ động và sáng tạo của quần chúng nhân dân. Giữa cán bộ, đảng viên với
quần chúng hình thành mối quan hệ hai chiều: Tổ chức Đảng đi sâu tuyên truyền
giáo dục đưa quần chúng vào tổ chức và hướng dẫn quần chúng đấu tranh nhưng
khi tổ chức cơ sở Đảng bị bể vỡ thì chính quần chúng được Đảng tuyên truyền giác
ngộ lại tự động hoạt động, tự hình thành tổ chức đi tìm Đảng để từ đó gây dựng lại
phong trào. Trường hợp nhóm thanh niên cứu quốc ở Can Lộc (Hà Tĩnh) là một
điển hình. Thực tiễn cách mạng cho thấy, đến trước ngày khởi nghĩa giành chính
quyền, số lượng đảng viên ở các tỉnh tương đối mỏng, trong khi đó số đơn vị làng
xã lên đến 4.726, nếu thiếu vai trò năng nỗ của những quần chúng cách mạng ở cơ
sở thì các chủ trương của Đảng, Mặt trận Việt Minh rất khó đến được với các tầng
lớp nhân dân. Ngược lại, nhờ cán bộ, đảng viên bám sát cơ sở nên các chủ trương,
đường lối của Đảng được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, tổ chức Đảng các tỉnh phải thường
xuyên đề cao cảnh giác, kịp thời phát hiện và kiên quyết thanh trừ những phần tử cơ
hội, thoái hóa biến chất. Việc cất nhắc, chọn lựa những cán bộ vào bộ máy lãnh đạo,
đặc biệt là ở cấp cao phải hết sức cẩn trọng. Những hậu quả tai hại về việc để những
phần tử A.B nguy hiểm như Đinh Văn Di leo cao trong hàng ng lãnh đạo là bài
học đau đớn trong công tác xây dựng Đảng của các tỉnh Bắc Trung Bộ giai đoạn này.
Bên cạnh đó, tổ chức Đảng các tỉnh còn quan tâm đến công tác giáo dục tư
tưởng, nâng cao trình độ lí luận cho đảng viên, đào tạo và phát triển đội ng cán bộ.
Tổ chức Đảng trong các nhà tù mở những lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho các
địa phương. Ở bên ngoài, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh xuất bản sách báo bí
mật tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Nhờ đó trong nội bộ có sự thống nhất cao về đường lối giải phóng dân tộc của
Đảng, mọi biểu hiện mơ hồ, lệch lạc, hữu khuynh trong một số cán bộ đảng viên
qua một quá trình đấu tranh thẳng thắn, nghiêm túc cuối cùng c ng được xóa bỏ.
160
Trước đòi hỏi của phong trào cách mạng, các nhóm Việt Minh ở Quảng Trị
và Thừa Thiên đã thống nhất với nhau để lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh quá trình
chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Trong khi đó, ở Can Lộc (Hà Tĩnh) do
không giải quyết tốt vấn đề này nên dẫn đến những xung đột giữa các nhóm Việt
Minh, tuy không có tổn thất về người nhưng để lại những hậu quả không tốt về sau.
Cả ưu điểm của Quảng Trị, Thừa Thiên, cùng các tỉnh khác và khuyết điểm của Can
Lộc đã để lại một bài học về tính đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng.
Tiểu kết chương 4
Ngoài những đặc điểm chung của tổng khởi nghĩa toàn quốc, cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh Bắc Trung Bộ c ng có những đặc điểm riêng,
những nét đặc thù của nó. Chính những nét riêng, nét đặc thù của khu vực Bắc
Trung Bộ và nhiều vùng miền khác là những gam màu khác nhau tạo nên bức tranh
toàn cảnh đa dạng và diệu kì về Cách mạng tháng Tám năm 1945 của dân tộc.
C ng như trong toàn quốc, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
các tỉnh Bắc Trung Bộ là kết quả của sự kết hợp giữa nhân tố chủ quan và khách
quan, song yếu tố chủ quan đóng vai trò quyết định. Thành công của các cuộc khởi
nghĩa là cơ sở để phủ định mọi quan niệm sai trái về sự thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Một cuộc cách mạng được báo trước đó hàng chục năm, một
phương pháp cách mạng được sàng lọc, chọn lựa từ thực tế đấu tranh; và quan trọng
là quá trình chuẩn bị toàn diện, chu đáo cho một cuộc cách mạng duy nhất trong
lịch sử Việt Nam từ cổ sơ cho đến hiện đại. Thành công của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 là chiến thắng của khát vọng độc lập, tự do của một dân tộc có lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh chống các thế lực ngoại bang xâm lược và đô hộ.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã
góp phần xứng đáng vào thắng lợi của toàn dân tộc và có tác động nhất định đối với
sự nghiệp cách mạng của nước bạn Lào. Cùng với cả nước, thời kì thống trị đẫm
máu và nước mắt của đế quốc Pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai đã chấm
dứt ở các tỉnh. Từ đây, nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ bước sang một trang sử mới
tốt đẹp hơn. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung
Bộ để lại cho nhân dân và sự nghiệp cách mạng của các tỉnh nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu và vẫn gợi mở cho hiện tại nhiều vấn đề thiết thực.
161
KẾT LUẬN
1. Là một trong những địa bàn có tầm quan trọng về chiến lược của cả nước,
Bắc Trung Bộ từng được coi là “phên dậu”, là nơi sản sinh ra biết bao anh hùng,
hào kiệt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhân dân các tỉnh Bắc Trung
Bộ đã viết nên nhiều trang sử vẻ vang với những chiến công chói lọi chống xâm
lược và ách thống trị của ngoại bang. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân
dân các tỉnh Bắc Trung Bộ phải chịu ách áp bức bóc lột hết sức nặng nề của đế
quốc, phong kiến. Bên cạnh đó là các hiện tượng thời tiết cực đoan thường xuyên
xảy ra khiến đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân và nông dân vô
cùng điêu đứng, cơ cực. Những điều kiện trên đây đã tôi luyện cho nhân dân các
tỉnh Bắc Trung Bộ tinh thần đoàn kết, hỗ trợ nhau trong cuộc sống và anh d ng
trong đấu tranh chống cường quyền. Trước năm 1930, nhân dân các tỉnh Bắc Trung
Bộ đã liên tục nổi dậy đấu tranh chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai nhưng
đều thất bại. Từ tháng 2-1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng
với nhân dân toàn quốc, nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ đã vùng lên với một khí
thế vô cùng mãnh liệt và đạt tới đỉnh cao nhất của phong trào cách mạng 1930 -
1931 là thành lập chính quyền Xô viết tại nhiều làng xã thuộc tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh. Sự ra đời, hoạt động của chính quyền Xô viết thể hiện sức mạnh phi thường
và sự sáng tạo của quần chúng nhân dân. Trong những năm 1936 - 1939, khi tình
hình biến chuyển thuận lợi, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương,
nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ nổi dậy đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh,
dân chủ, là một trong những khu vực có phong trào phát triển mạnh của cả nước.
2. Từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đến khi Nhật đảo chính Pháp
là giai đoạn các tỉnh Bắc Trung Bộ bước vào giai đoạn tiến hành chuẩn bị về mọi
mặt để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền với những thử thách hết sức ngặt
nghèo. Các cuộc đàn áp, khủng bố liên tiếp, kéo dài với quy mô chưa từng thấy của
thực dân Pháp, phát xít Nhật và tay sai đã làm cho tổ chức Đảng bị tổn thất nặng nề,
sự chỉ đạo của Trung ương Đảng không được thông suốt, Xứ ủy Trung Kì không
còn, giao thông liên lạc giữa các tỉnh bị gián đoạn, phần lớn cán bộ đảng viên bị bắt,
mối liên hệ giữa cấp ủy Đảng với nhân dân gặp khó khăn, đứt mạch. Cứ tưởng
những trở lực đó sẽ làm chùn bước chân của cán bộ, đảng viên và quần chúng cách
162
mạng ở vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng này. Trái lại, sự mất mát
và đau thương cùng cực ấy đã hun đúc thành sức mạnh để nhân dân các tỉnh Bắc
Trung Bộ vùng lên giành lấy quyền sống, quyền làm người của mình. Đây c ng là
giai đoạn Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chuyển hướng đấu tranh trong
hoàn cảnh lịch sử mới. Phần lớn các tỉnh Bắc Trung Bộ đã kịp thời thực hiện chủ
trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương nên phong trào
vẫn thể hiện được sự bền bỉ, liên tục, không để bị gián đoạn kéo dài. Sau những lần
bị bể vỡ phong trào lại được khôi phục và có bước phát triển. Trong khi đó, tổ chức
Đảng các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh do không bắt kịp tình hình để chỉ đạo phong trào
đấu tranh của quần chúng nhân dân, gây nên những ảnh hưởng nhất định cho phong
trào cách mạng. Tổ chức Đảng, cơ sở cách mạng bị thực dân, phát xít và tay sai triệt
phá gần như tận gốc, phong trào công nhân và nông dân gặp rất nhiều khó khăn.
Sau ngày 9-3-1945 các tỉnh đã chạy đua với thời gian, kịp chuyển phong trào
trong khu vực lên thời kì tiền khởi nghĩa, bắt kịp với phong trào của toàn quốc.
Trong thời gian gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền (từ tháng 3 đến
tháng 8-1945), tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh đã biết khéo léo kết hợp chặt chẽ
phong trào thành thị và nông thôn, biết lấy nông thôn làm chỗ dựa nên đã phát động
được phong trào toàn dân nhưng c ng không xem nhẹ vai trò của thành thị. Xuất
phát từ chủ trương, đường lối của Trung ương và thực tiễn của địa phương, tổ chức
Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh phát động các phong trào đấu tranh thích hợp,
đáp ứng nguyện vọng tha thiết của quần chúng nhân dân nên đã tập hợp đông đảo
các giai tầng trong xã hội đi theo đường lối của Đảng. Tuy nhiên, trước và trong
thời kì tiền khởi nghĩa, tổ chức Đảng, Việt Minh các tỉnh ít chú ý đến việc xây dựng
cơ sở ở miền núi và vận động đồng bào các dân tộc ít người tham gia cách mạng là
một hạn chế lớn. Mặt khác, sau khi bắt được liên lạc với Trung ương Đảng nhưng
Nghệ An và Hà Tĩnh vẫn không kịp lập lại Đảng bộ là một thực tế lịch sử khó có
thể chấp nhận được. Những thiếu sót này ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình chuẩn bị
và bước tiến của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương.
3. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
là biểu hiện sinh động của sự kết hợp hài hòa giữa đường lối của Trung ương Đảng
với chủ trương, biện pháp của tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh các tỉnh và sức
mạnh đấu tranh quật cường của nhân dân để giành lấy quyền độc lập, tự do; là thắng
163
lợi của phương pháp, nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa sáng tạo, linh hoạt, vừa kiên
quyết, vừa mềm dẻo, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng v
trang, giữa tuyên truyền, thuyết phục, thương lượng với bạo lực… nh m phân hóa
và cô lập kẻ thù đến cao độ, tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ được để giành
thắng lợi sớm và trọn vẹn. Đó là thắng lợi của tinh thần chủ động tiến công, nhận
định tình hình, chớp thời cơ và phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền.
Ngoài những nét chung về phương thức khởi nghĩa như đã diễn ra tại nhiều tỉnh,
thành trong cả nước, tổ chức Đảng, Việt Minh một số tỉnh đã giải quyết kịp thời và
sáng tạo nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình giành chính quyền tại một số phủ
huyện, thành phố Vinh, thành phố Huế và các châu, phủ miền núi của tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An phù hợp với đặc điểm tình hình của từng vùng, khu vực theo phương
châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Từ đó, để lại những nét độc đáo về phương thức
giành chính quyền so với trong cả nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ là
bước ngoặt trong tiến trình phát triển của các tỉnh, trực tiếp chấm dứt chế độ phong
kiến, làm sụp đổ chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim, có ảnh hưởng lớn đối với
các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ, có tác động đối với sự nghiệp cách mạng của
nước bạn Lào. Việc Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945 tại thành phố Huế là sự kiện
trực tiếp dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945.
Thắng lợi đó là bước tạo đà hết sức quan trọng để nhân dân các tỉnh Bắc Trung Bộ
bước vào thời kì đấu tranh củng cố và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân; đồng
thời góp phần phủ nhận các luận điểm thiếu xác thực của các nhà sử học nước ngoài
về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.
4. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
có sự đóng góp quan trọng của tầng lớp thanh niên trí thức.
Trong giai đoạn đầy cam go thử thách của cách mạng các tỉnh Bắc Trung Bộ
(từ tháng 9-1939 đến tháng 3-1945), phong trào đấu tranh của học sinh, hoạt động
của Hội truyền bá quốc ngữ, Hội Hướng đạo sinh ở một số tỉnh đã góp phần tích
cực vào việc tuyên truyền lòng yêu nước, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, thúc
đẩy nhanh quá trình phân hóa trong các tầng lớp tiểu tư sản, tăng cường thêm lực
lượng ủng hộ cách mạng, tạo thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh của các giai tầng
khác, ngăn chặn âm mưu chia rẽ, phá hoại cách mạng của thực dân Pháp, phát xít
164
Nhật và tay sai. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, nhiều thanh niên trí thức do liên lạc
được với cơ sở ở Hà Nội nên đã chủ động thành lập các tổ chức Việt Minh như ở
Can Lộc (Hà Tĩnh), thành phố Huế (Thừa Thiên) và đẩy mạnh công tác chuẩn bị
khởi nghĩa giành chính quyền. Bên cạnh đó, nhiều thanh niên trí thức của tổ chức
Thanh niên xã hội, Hội Tân Việt Nam, Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế khi được
cán bộ, đảng viên vận động đã gia nhập các tổ chức cứu quốc của Mặt trận Việt
Minh, trở thành một lực lượng chính trị to lớn, góp phần quan trọng tạo dựng ra lực
lượng v trang cách mạng của các tỉnh. Bản thân học viên Trường Thanh niên Tiền
tuyến là lực lượng v trang cách mạng với thành phần đặc biệt là thanh niên trí
thức. Đây được xem là lực lượng v trang nòng cốt đầu tiên của Việt Minh Thuận
Hóa bên cạnh lực lượng tự vệ cứu quốc của Việt Minh Nguyễn Tri Phương. Khi
phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, một số nhóm thanh niên trí
thức đã táo bạo, linh hoạt tổ chức khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi như ở Can
Lộc (Hà Tĩnh) hoặc trở thành lực lượng xung kích cho cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền như trường hợp các học viên Trường Thanh niên Tiền tuyến ở thành phố
Huế. Nhiều thanh niên trí thức còn đảm trách các nhiệm vụ quan trọng trong bộ
máy chính quyền cách mạng ở một số địa phương thuộc các tỉnh Bắc Trung Bộ.
5. Hơn 70 năm đã đi qua kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm
1945, đất nước, xã hội và con người Việt Nam, trong đó có các tỉnh Bắc Trung Bộ
đã đạt được những bước tiến dài. Nghĩ về quá khứ, cuộc vận động Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ vẫn gợi mở cho hiện tại những vấn đề thiết
thực. Đó là về sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ của tổ chức Đảng; về vai trò
lãnh đạo của Đảng trong việc sâu sát thực tế, kịp thời dự báo, nắm bắt, giải đáp và
tổng kết thực tiễn; là vấn đề huy động sức mạnh toàn dân, dựa vào nhân dân, là mối
quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và dân; là sự xã thân hi sinh, năng động, linh
hoạt, dám nghĩ, dám làm của đội ng cán bộ, đảng viên; là sự vận dụng sáng tạo
đường lối, chủ trương của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương; là vấn đề xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy yếu tố nội lực và bản lĩnh độc lập tự
chủ của nhân dân, của mỗi địa phương. Bên cạnh đó, từ việc nhận định tình hình,
nắm bắt và chớp thời cơ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, các tỉnh Bắc Trung
Bộ sẽ suy nghĩ cách tận dụng những thời cơ, vượt qua các thách thức mới của thế
giới, khu vực và của đất nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
165
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Mạnh Hùng (2013), “Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam qua
sự nhìn nhận, đánh giá của một số nhà nghiên cứu Pháp”, Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học Quan hệ Việt - Pháp: Quá khứ và hiện tại, Hội Hữu nghị Việt -
Pháp tỉnh Thừa Thiên Huế, Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học
Khoa học - Đại học Huế, (tháng 4-2013), tr.106-109.
2. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Phong trào yêu nước và cách mạng Quảng Bình 30
năm đầu thế kỉ XX”, in trong Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc gia về Quảng
Bình 410 năm hình thành và phát triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội,
tr.456-467.
3. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Đặc điểm Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
Quảng Bình”, in trong Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc gia về Quảng
Bình 410 năm hình thành và phát triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà
Nội, tr.500-512.
4. Đỗ Mạnh Hùng (2014), “Khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945 ở Hà
Tĩnh”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 272, tr.22-26.
5. Đỗ Mạnh Hùng (2015), “Các cuộc thương lượng với quân đội Nhật trong
Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ”, Tạp chí
Lịch sử Quân sự, số 285, tr.12-17.
6. Đỗ Mạnh Hùng (2016), “Vai trò của Việt Minh Nguyễn Tri Phương đối với
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên Huế”, Tạp chí
Khoa học Đại học Huế (đã nhận đăng).
7. Đỗ Mạnh Hùng (2016), “Thừa Thiên Huế trong cuộc vận động Cách mạng
tháng Tám năm 1945”, Đề tài cấp Đại học Huế (đang chờ nghiệm thu).
166
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TÀI LIỆU THÀNH VĂN
1.1. Tiếng Việt
1. Hoàng Anh (2001), Quê hương và cách mạng (hồi kí), Nxb Thuận Hóa, Huế.
2. Phan Anh (1960), “Con đường đi tới Cách mạng tháng Tám của tôi”, Báo Nhân
dân, số 2346 ngày 21-8-1960, tr.4-6.
3. Nguyễn Chung Anh (1979), Tài liệu về Cách mạng tháng Tám ở Nghệ Tĩnh, lưu tại
Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kí hiệu: T19.5.
4. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành
chính (1945 - 2002), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hải Lăng (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện Hải
Lăng 1930 - 1975, Xí nghiệp in Quảng Trị, Đông Hà.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hưng Nguyên (2000), Lịch sử Đảng bộ Hưng
Nguyên (tập 1)1930 - 1945, Nxb Nghệ An, Vinh.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Kì Anh (2003), Lịch sử Đảng bộ huyện Kì Anh
(1930 - 2000), Xí nghiệp in Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn (1990), Lịch sử Đảng bộ huyện Nghĩa
Đàn (sơ thảo), tập 1, 1930 - 1954, Nxb Khí tượng Thủy văn, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nghi Lộc (1991), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam huyện Nghi Lộc, sơ thảo (tập 1), Nxb Nghệ An, Vinh.
10. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phong Điền (1999), Lịch sử Đảng bộ huyện
Phong Điền (1930 - 1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phú Vang (1999), Đảng bộ huyện Phú Vang 65
năm đấu tranh và xây dựng (1930 - 1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Điền (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện
Quảng Điền (sơ thảo), Nxb Thuận Hóa, Huế.
13. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện
Quỳnh Lưu (1930 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Chương (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện
Thanh Chương (1930 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
167
15. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Đồng Hới (1997), Lịch sử Đảng bộ Đồng Hới
1930 - 1975, Xí nghiệp in Quảng Bình, Đồng Hới.
16. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Quảng Trị (1999), Lịch sử Đảng bộ thị xã Quảng
Trị 1930 - 1995, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Huế (2010), Lịch sử Đảng bộ thành phố Huế
1930 - 2000, Nxb Thuận Hóa, Huế.
18. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Vinh (2000), Sự kiện lịch sử Đảng bộ thành
phố Vinh (tập 1), Nxb Nghệ An, Vinh.
19. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1993), Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, (tập 1)
1930 - 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1998), Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, (tập
1) 1930 - 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (1995), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,
(tập 1) 1930 - 1954 (sơ thảo), Xí nghiệp in Quảng Bình, Đồng Hới.
22. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1996), Lịch sử Đảng bộ Quảng
Trị,(tập 1) 1930 - 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa 1930 - 1954, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
24. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa
Thiên Huế, (tập 1) 1930 - 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng (1967), Tìm hiểu Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
26. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Hà Tĩnh (1966), Thời kì Cách mạng tháng
Tám (1939 - 1945), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Hà Tĩnh xuất bản.
27. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An (1966), Cách mạng tháng Tám
1939 - 1945, Xí nghiệp in Nghệ An, Vinh.
28. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, Văn kiện Đảng bộ Nghệ An
1933 - 1945, lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An.
29. Ban Nghiên cứu Lịch sử Nghệ Tĩnh (1980), Danh nhân Nghệ Tĩnh, tập 1, Nxb
Nghệ Tĩnh, Vinh.
168
30. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh (1987), Lịch sử Đảng bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ Tĩnh (tập1) 1925 - 1954 (sơ thảo), Nxb
Nghệ Tĩnh, Vinh.
31. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Quảng Bình (1974), Lịch sử Cách mạng
tháng Tám Quảng Bình (sơ thảo), Xí nghiệp in Quảng Bình, Đồng Hới.
32. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Quảng Bình (1974), Tư liệu về Cách
mạng tháng Tám Quảng Bình, lưu tại Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, kí hiệu: T19/17.
33. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Thanh Hóa (1966), Sơ giản lịch sử Cách
mạng tháng Tám Thanh Hóa (1939 - 1945), Xí nghiệp in Ba Đình, Thanh Hóa.
34. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1963), Cuộc tọa đàm về Cách mạng
tháng Tám từ ngày 29-3 đến ngày 2-4-1963, lưu tại Viện Lịch sử Đảng - Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kí hiệu: 1/C1.21.
35. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1976), Những sự kiện lịch sử Đảng
(tập 1), 1920 - 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Nguyễn Đình Cả (2010), Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 ở đồng bằng Bắc Bộ,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Trường Chinh (1963), Bài nói chuyện về Cách mạng tháng Tám tại Trường
Nguyễn Ái Quốc Trung ương, các ngày 16, 17-4-1963, lưu tại Viện Lịch sử
Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
38. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
39. Trường Chinh (1963), Một số vấn đề về Cách mạng tháng Tám Việt Nam, lưu tại
Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kí hiệu: C/1c.54.
40. Nguyễn Chuân (1993), Những việc ghi nhớ lại trong các cuộc vận động cứu
nước và cách mạng ở huyện Quảng Ninh, lưu tại Ban Tuyên giáo Huyện ủy
Quảng Ninh, mã số: 02.
41. Philippe Devillers (2003), Paris - Sài Gòn - Hà Nội: Tài liệu lưu trữ về cuộc
chiến tranh 1944 - 1947, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã
hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Tiền phong, Hà Nội.
169
43. Nguyễn Anh D ng (1985), Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng tháng Tám,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44. Trần Hữu Dực (2010), Bước qua đầu thù (Hồi kí), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Bảo Đại, Con rồng An Nam, bản dịch của Viện Sử học, lưu tại Phòng tư liệu
Viện Sử học, Hà Nội.
46. Bảo Đại (1945), Lời tuyên chiếu của Hoàng đế ngày 8-5-1945, Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia I, phông Tòa Đốc lí Hà Nội, hồ sơ số: 3485.
47. Nguyễn Thị Đảm (1994), Công nhân xí nghiệp vôi thủy Long Thọ (1896 - 1945),
Luận án Phó tiến sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Chặt xiềng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, (tập 2) 1930, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, (tập 3) 1931, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, (tập 6) 1936 - 1939,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, (tập 7) 1940 - 1945,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Lê Tất Đắc (1985), Chim vượt gió (hồi kí), Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
54. Đoàn Thanh niên Phản đế cứu quốc Vinh (1941), Truyền đơn rải ở Vinh đêm 22-1-
1941, lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, hồ sơ số: 02/1941.
55. Charles Fourniau, Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam, bản dịch lưu tại Viện
Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kí hiệu: C/1c/10.
56. Võ Nguyên Giáp, Đội quân giải phóng, lưu tại Viện Lịch sử Đảng - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kí hiệu: C/1c/11.
57. Trần Văn Giàu (1963), Giai cấp công nhân Việt Nam (1939 - 1945), tập 3, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
58. Phạm Thị H ng (2009), Chiến khu Ngọc Trạo trong Cách mạng tháng Tám năm
1945 ở Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm - Đại
học Huế, Huế.
59. Phạm Khắc Hòe (1987), Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
170
60. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (1995), 19-8. Cách mạng là sáng tạo, Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
61. Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Yên Thành (1990), Lịch sử huyện Yên
Thành, Nxb Nghệ Tĩnh, Vinh.
62. Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858 - 1945), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
63. Trần Trọng Kim (1969), Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, Sài Gòn.
64. Trương Công Huỳnh Kỳ (2015), “Trường Thanh niên Tiền tuyến với Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên Huế”, in trong Trí thức và Tôn giáo
Thừa Thiên Huế với Cách mạng tháng Tám 70 năm nhìn lại, Kỉ yếu Hội thảo
khoa học, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh
Thừa Thiên Huế, Huế.
65. Khâm sứ Trung Kì (1930), Báo cáo của Khâm sứ Trung Kì gửi Chính phủ Pháp
ngày 5-7-1930, bản dịch lưu tại Phòng Lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An,
hồ sơ số: 07.
66. Khâm sứ Trung Kì (1940), Báo cáo, công văn của Khâm sứ Trung Kì về các
hoạt động của công nhân Nhà máy xe lửa Trường Thi và các hoạt động khác
của Đảng ở Nghệ An năm 1940, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, phong sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến hoạt
động của Đảng 1925 - 1945, ĐVBQ: 043.
67. Liên hiệp Công đoàn Quảng Nam Đà Nẵng (1987), Phong trào công nhân và
công đoàn Quảng Nam Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
68. Liên đoàn Lao động tỉnh Quảng Trị (1998), Lịch sử phong trào công nhân và
công đoàn tỉnh Quảng Trị 1929 - 1995, Nxb Lao động, Hà Nội.
69. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
70. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
71. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
72. Mặt trận Việt Minh Ba Đình (1945), Báo Khởi nghĩa, số 1 ra ngày 15-2-1945,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6240/Gy4599.
73. Mặt trận Việt Minh Ba Đình (1945), Báo Khởi nghĩa, số 3 ra ngày 15-4-1945,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6241/Gy4600.
171
74. Mặt trận Việt Minh Ba Đình (1945), Báo Khởi nghĩa, số 4 ra ngày 15-5-1945,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6242/Gy4601.
75. Mặt trận Việt Minh Quang Trung (1945), Báo Khởi nghĩa, số 6 ra ngày 15-7-1945,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6243/Gy4602.
76. Mặt trận Việt Minh Nghệ Tĩnh (1945), Truyền đơn của Việt Minh Nghệ Tĩnh kêu
gọi quốc dân đồng bào đứng lên đánh đổ chính phủ Việt gian, lập chính quyền
nhân dân cách mạng, lưu tại Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh, kí hiệu: 198/Gy149.
77. Mặt trận Việt Minh Nghệ Tĩnh (1945), Báo Kháng địch, số 01, ra ngày 15-6-
1945, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông tư liệu sưu tập sách,
báo, truyền đơn của Đảng 1925 - 1945, ĐVBQ: 226.
78. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1943), Báo Đuổi giặc nước, số 03 ra ngày 15-
10-1943, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6229/Gy4589.
79. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1943), Báo Đuổi giặc nước, số 04 ra ngày 15-
12-1943, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6230/Gy4589.
80. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1944), Báo Đuổi giặc nước, số 07 ra ngày 15-
6-1944, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6232/Gy4591.
81. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1944), Báo Đuổi giặc nước, số 08 ra ngày 15-
7-1944, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, KHTL: BTCM 6233/Gy 4592.
82. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1944), Báo Đuổi giặc nước, số 11 ra ngày 15-
10-1944, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, KHTL: BTCM 6238/Gy 4597.
83. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1944), Báo Đuổi giặc nước, số 12 ra ngày 15-
11-1944, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, KHTL: BTCM 6239/Gy 4598.
84. Mặt trận Việt Minh Thanh Hóa (1945), Tin bốn phương, số 01 ra ngày 1-9-1945,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6245/Gy4604.
85. Đỗ Mậu (2000), Tâm sự tướng lưu vong (tái bản lần thứ 4), Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
88. Lâm Quang Minh (2014), “Nhớ về Trường Thanh niên tiền tuyến trong khởi nghĩa
giành chính quyền ở Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 272, tr.69-73.
172
89. Ngô Văn Minh (2001), Đảng bộ các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ lãnh đạo quá
trình vận động cách mạng 1939 - 1945, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
90. Ngô Văn Minh (2005), Cách mạng tháng Tám tại các tỉnh ven biển Nam Trung
Bộ, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
91. Lê Thị Tuyết Nhung (2011), Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Quảng Trị,
Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Huế.
92. Nhiều tác giả (1985), Bình Trị Thiên tháng Tám bốn lăm (hồi kí), Nxb Thuận
Hóa, Huế.
93. Nhiều tác giả (2008), Trường Thanh niên tiền tuyến Huế 1945 - Một hiện tượng
lịch sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
94. Nội các Trần Trọng Kim (1945), Lời tuyên cáo của Nội các, Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia I, phông Tòa Đốc lí Hà Nội, hồ sơ số: 3485.
95. Archimedes L.A.Patti (2008), Tại sao Việt Nam?, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
96. Phủ ủy Hưng Nguyên (1945), Nghị quyết của khoáng đại Hội nghị toàn phủ
Hưng Nguyên năm 1945, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông
sưu tập tài liệu các Xứ ủy Bắc - Trung - Nam Kì (1930 - 1945), ĐVBQ: 088.
97. Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam - Những sự kiện lịch sử (1919 - 1945),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
98. Sở Mật thám Bắc Kì và Tòa án Trung ương (1944), Công văn của Mật thám Bắc
Kì và Tòa án Trung ương về hoạt động của Đảng ở Thanh Hóa năm 1944, bản
dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu
chính quyền c liên quan đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 115.
99. Sở Mật thám Hà Tĩnh (1940), Báo cáo, công văn của Mật thám Hà Tĩnh về hoạt
động của Đảng ở Hà Tĩnh năm 1940, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến hoạt
động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 085.
100. Sở Mật thám Thanh Hóa (1942), Báo cáo của Mật thám Thanh Hóa về tình
hình hoạt động của Đảng ở Thanh Hóa năm 1942, bản dịch lưu tại Cục Lưu
trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên
quan đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 113.
173
101. Sở Mật thám Thanh Hóa (1945), Báo cáo của Mật thám Thanh Hóa về hoạt
động của Đảng ở Thanh Hóa năm 1945, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến
hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 116.
102. Sở Mật thám Trung Kì (1944), Báo cáo, công văn của Mật thám Trung Kì về hoạt
động của Đảng ở Thừa Thiên từ năm 1929 đến năm 1944, bản dịch lưu tại Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên
quan đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 269.
103. Sở Mật thám Trung Kì (1933), Báo cáo, công văn của Mật thám Trung Kì về
hoạt động của Đảng ở Nghệ An năm 1933, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến
hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 030.
104. Sở Mật thám Trung Kì (1940), Chỉ thị, báo cáo, công văn của Mật thám Trung
Kì về hoạt động của Đảng Cộng sản ở Quảng Trị năm 1940, bản dịch lưu tại
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền
c liên quan đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 164.
105. Sở Mật thám Trung Kì (1941), Báo cáo, công văn của Mật thám Trung Kì theo
dõi hoạt động của Đảng ở Nghệ An năm 1941, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan
đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 046.
106. Sở Mật thám Trung Kì (1944), Báo cáo, công văn của Mật thám Trung Kì về
hoạt động của Đảng ở Quảng Trị, Thừa Thiên từ năm 1941 đến năm 1944, bản
dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu
chính quyền c liên quan đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 285.
107. Sở Mật thám Trung Kì (1942), Công văn, chỉ thị của Mật thám Trung Kì về
hoạt động của Đảng ở Hà Tĩnh năm 1942, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến
hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 087.
108. Sở Mật thám Trung Kì (1942), Báo cáo, công văn của Mật thám Trung Kì về
hoạt động của Đảng ở Nghệ An năm 1942, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn
174
phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến
hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 047.
109. Sở Mật thám Trung Kì (1943), Báo cáo, công văn của Mật thám Trung Kì về
hoạt động của Đảng ở Nghệ An năm 1943, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến
hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 048.
110. Sở Mật thám Trung Kì (1945), Báo cáo của Mật thám Trung Kì về hoạt động
của Đảng Cộng sản từ năm 1943 đến năm 1945, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan
đến hoạt động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 104.
111. Sở Mật thám Trung Kì (1945), Báo cáo của Mật thám Trung Kì về tình hình
Quảng Trị (1939 - 1945), Phòng Lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Trị,
phông Tỉnh ủy Quảng Trị 1930 - 1975, ĐVBQ: 036.
112. Sở Mật thám Vinh (1939), Báo cáo của Sở Mật thám Vinh về những hoạt động
của Đảng ở Nghệ An năm 1939, bản dịch lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu chính quyền c liên quan đến hoạt
động của Đảng (1925 - 1945), ĐVBQ: 042.
113. Sở Mật thám Vinh (1941), Báo cáo số 1723 ngày 30-6-1941 của Mật thám
Vinh gửi Công sứ Nghệ An về tình hình chính trị ở Bắc Trung Kì, bản dịch lưu
tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, kí hiệu: PNT 441.
114. Sở Mật thám Vinh (1939), Hoạt động của công nhân Trường Thi 9-1939 sau
vụ đình công của công nhân nhà máy Gia Lâm, bản dịch lưu tại Ban Nghiên
cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, kí hiệu: PNT 402.
115. Văn Tạo (chủ biên) (1995), Cách mạng tháng Tám - Một số vấn đề lịch sử,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
116. Văn Tạo, Furuta Motoo (chủ biên) (1995), Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam -
Những chứng tích lịch sử, Viện Sử học xuất bản, Hà Nội.
117. Văn Tạo, Thành Thế Vĩ, Nguyễn Công Bình (1960), Lịch sử Cách mạng tháng
Tám, Nxb Sử học, Hà Nội.
118. Nguyễn Thanh Tâm (2005), Khởi nghĩa từng phần lên Tổng khởi nghĩa trong
Cách mạng tháng Tám 1945, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
175
119. Hồ Trí Tân (1939), Hồi kí, Phòng Lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Trị,
phông Tỉnh ủy Quảng Trị 1930 - 1975, ĐVBQ: 037.
120. Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
121. Hồ Thắng (1993), Một số tư liệu lịch sử về Đảng bộ Quảng Ninh, lưu tại Ban
Tuyên giáo Huyện ủy Quảng Ninh, mã số: 04.
122. Nguyễn Tất Thắng (2012), Phong trào yêu nước và cách mạng Hà Tĩnh từ
cuối thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, Luận án Tiến sĩ Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Huế.
123. Phạm Xuân Thừ (1993), Một số tư liệu về lịch sử Đảng bộ Quảng Ninh, lưu tại
Ban Tuyên giáo Huyện ủy Quảng Ninh.
124. Trần Văn Thức (2003), Quá trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở
Nghệ An thời kì 1939 - 1945, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Sử học, Hà Nội.
125. Trần Văn Thức (2003), “Góp phần làm sáng tỏ thêm cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ở Nghệ An”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 01-2003, tr.18-25.
126. Thường vụ Huyện ủy Gio Linh (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện Gio Linh (1930
- 1975), Xí nghiệp in Quảng Trị, Đông Hà.
127. Thường vụ Huyện ủy Triệu Phong (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện Triệu
Phong (1930 - 1975), (sơ thảo), Xí nghiệp in Quảng Trị, Đông Hà.
128. Thường vụ Trung ương Đảng (1945), Thư của Thường vụ Trung ương gửi các
đồng chí Trung Kì kêu gọi thống nhất lại đánh bại những phần tử phản lại
Đảng ngày 27-6-1945, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông tư
liệu Hội nghị hợp nhất, Đại hội 1, Ban Thường vụ Trung ương 1930 - 1945,
ĐVBQ: 188.
129. Tỉnh ủy Quảng Trị (1941), Báo Tiến lên số 2 (18-4-1941), Phòng Lưu trữ Văn
phòng Tỉnh ủy Quảng Trị, phông Tỉnh ủy Quảng Trị 1930 - 1975, ĐVBQ: 049.
130. Tỉnh ủy Quảng Trị (1945), Công việc nông hội (19-8-1945), Phòng Lưu trữ Văn
phòng Tỉnh ủy Quảng Trị, phông Tỉnh ủy Quảng Trị 1930 - 1975, ĐVBQ: 019.
131. Tỉnh ủy Quảng Trị (1945), Kế hoạch biểu tình (15-8-1945), Phòng Lưu trữ Văn
phòng Tỉnh ủy Quảng Trị, phông Tỉnh ủy Quảng Trị 1930 - 1975, ĐVBQ: 020.
176
132. Tỉnh ủy Thanh Hóa (1941), Nghị quyết Hội nghị đại biểu Tỉnh ủy Thanh Hóa
(bản sao), Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông Xứ ủy Trung Kì
1930 - 1945, ĐVBQ: 134.
133. Tỉnh ủy Thanh Hóa (1944), Nghị quyết Hội nghị đại biểu Đảng bộ Thanh Hóa
ngày 24-6-1944, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông Xứ ủy
Trung Kì 1930 - 1945, ĐVBQ: 135.
134. Tỉnh ủy Thanh Hóa (1941), Thông cáo khẩn cấp của Tỉnh ủy Thanh Hóa, Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông Xứ ủy Trung Kì 1930 - 1945,
ĐVBQ: 130.
135. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (1930), Kế hoạch thi hành án nghị quyết Kì bộ về
cuộc vận động bênh vực Nghệ An đỏ và chống lại chính sách khủng bố, Phòng
Lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, phông số 01, cặp số: 02.
136. Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (1977), Hồ sơ tập sự kiện của Đảng bộ Thừa Thiên
Huế thời kì 1930 - 1945, Phòng Lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế.
137. Tỉnh ủy Việt Minh Thanh Hóa (1945), Chỉ thị Đòi ăn ngày 4-3-1945, lưu tại
Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM17516/Gy14537.
138. Tiểu ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An (2000), Xô viết Nghệ
Tĩnh, Nxb Nghệ An, Vinh.
139. Tổng bộ Việt Minh (1945), Báo Cứu quốc số ra ngày 25-6-1945, lưu tại Bảo
tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6514/Gy4873.
140. Tổng bộ Việt Minh (1945), Thư trả lời Quân đội Nhật Bản, lưu tại Bảo tàng
Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM17390/Gy14411.
141. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1995), Cách mạng tháng
Tám và sự nghiệp đổi mới hôm nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
142. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Hội thảo Cách
mạng tháng Tám ở Nam Bộ, Nxb Đại học Sư phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.
143. Phạm Hồng Tung (2010), Nội các Trần Trọng Kim - Bản chất, vai trò và vị trí
lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
144. Ủy ban Lâm thời tỉnh Quảng Trị (1945), Thông cáo số 1 của Ủy ban Lâm thời
Quảng Trị (8-1945), Phòng Lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Trị, phông
Tỉnh ủy Quảng Trị 1930 - 1975, ĐVBQ: 044.
177
145. Ủy ban khởi nghĩa Nghệ Tĩnh (1945), Lệnh khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa
Nghệ Tĩnh, lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An.
146. Ủy ban Mặt trận Phản đế cứu quốc Bắc Trung Kì (1941), Báo Tự do, số 3, lưu
tại Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa.
147. Ủy ban Mặt trận Phản đế cứu quốc Bắc Trung Kì (1941), Báo Tự do, số 6, lưu
tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, kí hiệu: BTCM6656/Gy5015.
148. Ủy ban thống nhất Trung Kì (1945), Thư của Ủy ban thống nhất Trung Kì kêu
gọi các đồng chí cộng sản Trung Kì mau thống nhất lại, Cục Lưu trữ Văn
phòng Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu các Xứ ủy Bắc - Trung - Nam
Kì (1930 - 1945), ĐVBQ: 047.
149. Viện Lịch sử Đảng (1985), Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội.
150. Viện Lịch sử Đảng (1995), Lịch sử Cách mạng tháng Tám, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
151. Viện Sử học (1960), Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các
địa phương, quyển 1, Nxb Sử học, Hà Nội.
152. Viện Sử học (1960), Cách mạng tháng Tám - Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội và các
địa phương, quyển 2, Nxb Sử học, Hà Nội.
153. Xứ ủy Trung Kì (1940), Báo cáo vắn tắt tình hình Đảng bộ Trung Kì, Cục Lưu trữ
Văn phòng Trung ương Đảng, phông Xứ ủy Trung Kì 1930 - 1945, ĐVBQ: 035.
154. Xứ ủy Trung Kì (1942), Lời hiệu triệu của Ban Thường vụ lâm thời Xứ ủy
Trung Kì ngày 1-6-1942, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông
sưu tập tài liệu các Xứ ủy Bắc - Trung - Nam Kì (1930 - 1945), ĐVBQ: 046.
155. Xứ ủy Trung Kì (1930), Nghị quyết Hội nghị chấp ủy Trung Kì mở rộng ngày
27-12-1930, lưu tại Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
156. Xứ ủy Trung Kì (1941), Thông tri của Xứ ủy Trung Kì ngày 15-2-1941 về tình
hình mới cần kịp thời vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa, Cục Lưu trữ Văn phòng
Trung ương Đảng, phông sưu tập tài liệu các Xứ ủy Bắc - Trung - Nam Kì
(1930 - 1945), ĐVBQ: 042.
178
1.2. Tiếng nước ngoài
1.2.1. Tiếng Anh
157. Indochine in the 1940s and 1950s, vol.2, Southeast Asia Program, Cornell
University, 1992.
158. David Marr (1995), Vietnam 1945. The quest for Power, University of
California press, Berkely - Los Angeles, London.
159. Stein Tonnesson (1991), The Vietnamese Revolution of 1945, Roosevelt, Ho
Chi Minh and De Gaulle in a world at war, International Peace Research
Institute, Oslo, SAGE, London, Newbury - New delhi.
1.2.2. Tiếng Pháp
160. Annuaire Statistique de L’Indochine 1943 - 1946, lưu tại Thư viện Quốc gia, kí
hiệu: FV375/64.
161. Général Catroux (1959), Deux actes du drame Indochinois, Plon, Paris.
162. Philippe Devillers (1952), Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952, Éditions du
Seuil, Paris.
163. Paul Mus (1952), Viet Nam Sociologie d’une guerre, Éditions du Seuil, Paris.
164. L’Inspecteur Principal de la Sureté Rossi Louis en mission à Vinh, Note 1437,
Vinh, le ler Juin 1941, À Monsieur le Chef local des Services de Police en
Annam à Hue; En c.ion à Monsieur le Résident de France à Vinh; Son
Exellence le Tong Doc d’Antinh: Respression communiste dans la province de
Nghe An, Affaire Lam Nhat Phan, lưu tại Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Bản dịch của Phạm Văn Tị.
165. Le Chef des Services de Police au Tonkin P. Pujol, Note 11408/s, Hanoi, le 30
Mai 1941, (secret), À M.M. le Résident supérieur au Tonkin, à L’Inspecteur
Général des Services de Police (Hanoi), Arrestation le trois membres du
“Commité central” du Parti communiste Indochinois, lưu tại Viện Lịch sử
Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Bản dịch của Phạm Văn Tị.
166. Charles Robequain (1934), Le Thanh Hoa, vol.2, Paris.
179
167. Résidence Superieur en Annam, Rapport au sujet de la mesure de respression
prise contre les membres de l’ Association resvolutionnaire “Viet Nam cach
mang Thanh Nien” du Résident Supérieur en Annam (10-3-1930), lưu tại Bảo
tàng cách mạng Việt Nam, kí hiệu: K.H.17.112. Bản dịch của Phạm Hữu Lư.
168. Résidence Superieur en Annam, Situation Politique et Administrative de
L’Annam 1933, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, phông Khâm sứ Trung Kì, hồ
sơ số: 378/1 RSA/RP. Bản dịch của Phạm Văn Tị.
169. Résidence de Quang Tri, Situation Politique de Quang Tri 1933, Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia IV, phông Khâm sứ Trung Kì, hồ sơ số: 378/2 RSA/RP. Bản
dịch của Phạm Văn Tị.
2. TÀI LIỆU PHỎNG VẤN NHÂN CHỨNG
170. Ông Thái Văn Công, sinh năm 1923, cán bộ lão thành cách mạng, hiện cư trú
tại xã Hải Quy, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
171. Ông Phan Văn Hạnh, sinh năm 1924, cán bộ lão thành cách mạng, hiện cư trú
tại xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
172. Ông Lại Văn Ly , sinh năm 1927, cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Trưởng
Ty Giao thông vận tải tỉnh Bình Trị Thiên.
173. Ông Lê Quy Mỹ, sinh năm 1927, Bí thư Đảng ủy đầu tiên của xã Vinh Mĩ,
huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện cư trú tại xã Lộc An, huyện Phú
Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
174. Ông Hà Văn Sỹ, sinh năm 1920, cán bộ tiền khởi nghĩa, hiện cư trú tại phường
Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
175. Ông Nguyễn Xuân Tảo, sinh năm 1925, cán bộ lão thành cách mạng, hiện cư
trú tại xã Thiệu Vận, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
176. Ông Phạm Văn Thứ, sinh năm 1930, cán bộ lão thành cách mạng, hiện cư trú tại
phường Đồng Phú, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.