Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
191
Bài 7 KẾT THÚC KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Nội dung Mục tiêu
Sau khi học bài này, các bạn nắm được:
Những công việc kiểm tra kiểm toán viên
phải thực hiện để kết thúc cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính.
Trách nhiệm báo cáo của kiểm toán viên với
ban quản trị và ủy ban kiểm toán/kiểm soát.
Báo cáo kiểm toán, nội dung và những yêu
cầu có liên quan.
Hướng dẫn học
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận
các nội dung:
Trình bày những bước công việc để
kết thúc công việc kiểm toán báo cáo
tài chính của công ty khách hàng.
Trình bày những trách nhiệm của kiểm
toán viên trong quan hệ với kết quả
kiểm toán báo cáo tài chính theo các
quy định liên quan.
Báo cáo kiểm toán.
Để học tốt bài này sinh viên cần:
Đọc tài liệu hướng dẫn học kỹ.
Nghĩ về những công việc mà kiểm toán viên
thực hiện trong quan hệ với quy trình kiểm
toán báo cáo tài chính, quy trình kế toán của
khách hàng.
Làm bài tập sau khi đọc những ví dụ minh
họa về thực hiện các công việc để kết thúc
kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
192
Tình huống dẫn nhập
Một kiểm toán viên được giao nhiệm vụ kiểm toán báo cáo tài chính của Công ty Thuốc Tiên,
năm tài chính kết thúc vào 31/12/2016. Công ty này là một công ty con của Công ty Thuốc toàn
cầu, đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thuốc Tiên được thành lập từ năm 1990 với mục
đích là sản xuất và cung cấp các sản phẩm thuốc đông nam dược vào thị trường thuốc này trên
toàn lãnh thổ Việt Nam. Kể từ khi thành lập, Thuốc Tiên luôn phải đối mặt với những khó khăn
trong kinh doanh.
Thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên đã thu thập được đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp trong
quá trình thực hiện kiểm toán. Để thực hiện kết thúc kiểm toán và đưa ra ý kiến, kiểm toán viên
phải thực hiện những đánh giá cuối cùng đối với những bằng chứng đã thu thập được. Trên cơ sở
những bằng chứng thu thập, kiểm toán viên cho rằng trừ khi Thuốc Tiên nhận được những khoản
tiền lớn hoặc cải thiện các điều kiện kinh doanh cụ thể, Công ty sẽ bị phá sản trong vòng 3 tháng
tới. Kiểm toán viên đã tiến hành phỏng vấn CEO của Thuốc Tiên về những vấn đề liên quan.
CEO cho rằng không có bất cứ vấn đề gì phải lo lắng với tình hình tài chính của Thuốc Tiên. Các
chủ sở hữu đã đảm bảo hỗ trợ tài chính cho Công ty Thuốc Tiên.
Trong bài này, những vấn đề mà kiểm toán viên cần xem xét để kết thúc kiểm toán sẽ được đề
cập tới. Nghiên cứu Bài 7, chúng ta sẽ hiểu cách mà kiểm toán viên thực hiện để kết thúc kiểm
toán liên quan tới tình huống nêu trên qua trả lời những câu hỏi sau đây:
1. Tại sao kiểm toán viên phải đánh giá giả thiết hoạt động liên tục của Công ty
Thuốc Tiên để kết thúc kiểm toán?
2. Những bằng chứng nào cần thiết để đánh giá sự thích hợp của giả thiết
doanh nghiệp hoạt động liên tục trong tình huống của Công ty Thuốc Tiên?
3. Giả sử Công ty Thuốc Tiên được xem là hoạt động liên tục, theo anh/chị
điều gì sẽ được Công ty này được trình bày trên báo cáo tài chính?
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
193
7.1. Thực hiện những hoạt động theo yêu cầu để kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính
7.1.1. Kiểm tra, tổng hợp và giải quyết những sai phạm được phát hiện
Những hoạt động kiểm tra hướng tới kết thúc kiểm toán thường tương đối khác biệt.
Những hoạt động kiểm tra cụ thể trong mục này và những phần tiếp theo là những hoạt
động chính giúp kiểm toán viên có thể thực hiện những điều chỉnh với báo cáo tài chính
hoặc tới quy trình kiểm toán để những ý kiến của kiểm toán viên là phù hợp.
Hoạt động đầu tiên để kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên cần kiểm tra, tổng hợp và giải
quyết những sai phạm được phát hiện. Kiểm toán viên cần tổng hợp những sai phạm
phát hiện được trong cuộc kiểm toán để xác định những sai phạm có trọng yếu hay
không và cần được ghi nhận hoặc sửa chữa nếu có. Những sai phạm được phân loại
thành những nhóm sau:
Sai phạm chắc chắn (known misstatement): là những sai phạm được xác định và
không có bất cứ nghi ngờ gì về sai phạm này. Thực tế, loại sai phạm này còn được
gọi là sai phạm thực tế (factual misstatement).
Sai phạm dự đoán (projected misstatement): là những sai phạm do kiểm toán viên
thực hiện những ước tính tốt nhất trong một tổng thể. Dự đoán về sai phạm được
nhận diện trong một mẫu kiểm toán đối với toàn bộ tổng thể.
Sai phạm xét đoán (judgement misstatement): là những sai phạm phát sinh từ những
khác biệt trong xét đoán của nhà quản trị liên quan tới những ước tính kế toán mà
kiểm toán viên xem xét là không hợp lý hoặc việc lựa chọn và áp dụng những chính
sách kế toán tại khách hàng được kiểm toán viên đánh giá là không phù hợp.
Trong khi thực hiện kiểm toán, những sai phạm có thể được phát hiện là không trọng
yếu và kiểm toán viên sẽ tạm thời bỏ qua khả năng yêu cầu khách hàng phải điều chỉnh.
Hầu hết các công ty kiểm toán độc lập đều sử dụng giấy làm việc (Working paper - WP)
để tổng hợp những sai phạm được phát hiện hoặc những sai lệch dự kiến. Dưới đây là
mẫu giấy làm việc của một công ty kiểm toán trong khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính của khách hàng (Hình 7.1).
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
194
Hình 7.1. Giấy làm việc của kiểm toán viên
Từ những WP riêng rẽ như trên, kiểm toán viên tiến hành tổng hợp các điều chỉnh trên
WP (tổng hợp đối với tất cả các khoản mục) và tính lại số dư của các khoản mục sau khi
điều chỉnh. Khi thực hiện điều chỉnh cuối cùng, kiểm toán viên cần phải chú ý tới ước
lượng trọng yếu theo kế hoạch (có thể được điều chỉnh), sử dụng sai số chấp nhận
được,... Trong quá trình thực hiện tổng hợp các điều chỉnh, kiểm toán viên có thể lập
bảng tổng hợp điều chỉnh và phân loại theo mẫu trình bày dưới đây:
Bảng 7.1. Tổng hợp các bút toán điều chỉnh và phân loại
(Tổng hợp các điều chỉnh cho các khoản mục có liên quan trên báo cáo kết quả kinh doanh và bảng
cân đối kế toán)
Khoản mục Số dư trước điều chỉnh
và phân loại
Tổng hợp số điều
chỉnh/phân loại
Số dư sau điều chỉnh và
phân loại
1. TSCĐ hữu hình
2. …
Đối với những cuộc kiểm toán liên kết, kiểm toán viên đánh giá khả năng sai phạm báo
cáo tài chính được nhận diện trong cuộc kiểm toán có phải là kết quả của những thiếu sót
quan trọng hoặc yếu điểm trọng yếu trong kiểm soát nội bộ hay không. Điều này trở nên
quan trọng ngay cả khi kiểm toán viên không phát hành báo cáo về hiệu lực kiểm soát
WAC Công ty Kiểm toán Thế giới
5610
Khách hàng: CT nhựa ABC Người lập: NAT Ngày: 17/3/2016
Kỳ : 31/12/2016 Người soát xét: NTH Ngày: 17/3/2016
Nội dung : TK211 Người soát xét: NTN Ngày 19/3/2016
Chênh lệch
Khoản mục Số trước
kiểm toán Điều chỉnh
Số sau
kiểm toán Số năm trước
Tuyệt đối %
Nguyên giá 35357346754 1063596613 36420943367 31510656066 4910287301 15,58
Hao mòn lũy kế -16492424292 54344184 -16438080108 -13850443412 -2587636696 18,68
Tổng 18864922462 1117940797 19982863259 17660212654 2322650605 13,15
Bút toán điều chỉnh:
Nợ TK 214: 396.726.530
Nợ TK 411: 63.488.340
Có TK211: 460.214.870
Nợ TK 211: 1.523.811.483
Có TK214: 342.382.346
Có TK411: 1.181.429.137
Tóm tắt kết quả kiểm toán: trong phần tóm tắt này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào những vấn đề
phát hiện được trong quá trình kiểm toán để đưa ra những ảnh hưởng của những phát hiện này lên
BCTC và đưa ra ý kiến.
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
195
nội bộ đối với báo cáo tài chính vì nó giúp kiểm toán viên có những tư vấn nhất cho
công ty khách hàng, đặc biệt là hệ thống kế toán.
Từ cuộc kiểm toán, kiểm toán viên đánh giá tính nghiêm trọng của mỗi thiếu sót kiểm
soát đơn lẻ để xem xét khả năng những thiếu sót kiểm soát ấy có phải là yếu điểm trọng
yếu hay không. Tuy nhiên, những thiếu sót kiểm soát chưa hẳn trọng yếu không nên bỏ
qua mà cần tổng hợp trên giấy làm việc. Kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên đánh giá
liệu sự kết hợp của những thiếu sót kiểm soát (được đánh giá không trọng yếu) có dẫn
tới một yếu điểm trọng yếu không. Kiểm toán viên cần xác định khả năng những thiếu
sót kiểm soát đơn lẻ có thể ảnh hưởng tới cùng một tài khoản hoặc một công bố quan
trọng hoặc một cơ sở dẫn liệu liên quan mà kết quả tổng hợp sẽ trọng yếu hay không.
Xem xét một tình huống cụ thể, kiểm toán viên nhận diện một số thiếu sót kiểm soát
chung trong chu trình doanh thu: Khi xem xét đơn lẻ, không một thiếu sót nào là trọng
yếu. Tuy nhiên, những thiếu sót đa dạng trong cùng một chu trình làm tăng khả năng sai
phạm trong chu trình có thể được kết hợp, tạo thành một yếu điểm trọng yếu. Trong
trường hợp này, kiểm toán viên cần hoàn thành đánh giá trước khi xác định loại ý kiến
thích hợp về kiểm soát nội bộ (nếu muốn).
7.1.2. Những sự kiện bất thường ảnh hưởng tới kiểm toán
Những sự kiện bất thường có thể ảnh hưởng tới thông tin trình bày trên báo cáo tài
chính, từ đó ảnh hưởng tới người sử dụng thông tin báo cáo tài chính. Kiểm toán viên
phải xem xét những sự kiện bất thường có thể ảnh hưởng tới kết luận kiểm toán. Những
sự kiện bất thường bao gồm:
Khả năng không thu hồi những khoản phải thu khách hàng và những khoản cho vay;
Nghĩa vụ bảo hành sản phẩm;
Khả năng bị mất tài sản ở nước ngoài;
Tranh chấp, kiện tụng liên quan tới những khoản phải thu và đánh giá tài sản;
Những nghĩa vụ phải trả ngân hàng/chủ nợ theo các điều khoản tín dụng;
Thỏa thuận mua lại;
Các cam kết mua và bán (lớn).
Đối với các sự kiện bất thường, nhà quản lý có trách nhiệm thiết kế, duy trì những chính
sách và những thủ tục để có thể nhận diện, đánh giá và kế toán đối với các sự kiện bất
thường có ảnh hưởng tới thông tin kế toán trên báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có
trách nhiệm xác định xem công ty khách hàng có nhận diện, kế toán và công bố các sự
kiện bất thường ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính một cách thích hợp không.
Nếu một sự kiện bất thường có khả năng và có lý do ảnh hưởng tới những ước tính kế
toán thì những sự kiện bất thường cần phải được trình bày theo yêu cầu trong lập và
trình bày báo cáo tài chính. Tuy nhiên, kiểm toán viên cần nhận thức rằng không phải tất
cả những thông tin trên báo cáo tài chính đều yêu cầu có những ước tính chính xác trước
khi chúng được ghi sổ. Ví dụ, hầu hết các thể chế tài chính không thể biết một cách
chính xác có tổng cộng bao nhiêu khoản nợ (cho vay) không thể thu hồi nhưng cũng
không thể xoá sổ chúng trừ phi có các ước tính phù hợp.
Để thu thập bằng chứng về các sự kiện bất thường, kiểm toán viên có thể thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau tùy thuộc vào mỗi trường hợp cụ thể. Nguồn thu thập bằng
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
196
chứng cơ bản từ ban quản trị của công ty khách hàng. Kiểm toán viên nên thu thập
những thông tin sau đây từ ban quản trị của công ty:
Mô tả và đánh giá của những sự kiện bất thường tồn tại vào ngày lập báo cáo tài
chính hoặc phát sinh trước khi kết thúc công việc điều tra và công việc của luật sư đã
tư vấn;
Sự đảm bảo của nhà quản lý thể hiện trong thư quản lý/xác nhận về thông tin kế toán
và những công khai là phù hợp với khuẩn mực kế toán hiện hành hoặc chuẩn mực
quốc tế được chấp nhận và chuẩn mực chung (nếu có), ví dụ, GAAP tại Mỹ.
Kiểm toán viên cũng nên kiểm tra các tài liệu có liên quan tới quyền sở hữu của công ty
khách hàng như là sự hợp lý và có đủ chứng từ (từ luật sư). Một nguồn cung cấp bằng
chứng kiểm toán về các sự kiện bất thường khác là các thoả thuận hợp tác, các hợp đồng,
mối liên hệ với các cơ quan nhà nước và từ những thư xác nhận của ngân hàng. Trong
khi kiểm toán bán hàng và mua hàng, kiểm toán viên nên cảnh báo đối với tất cả các
cam kết có thể dẫn tới kết quả lỗ. Ví dụ, ban quản trị có thể đã ký cam kết mua nguyên
vật liệu ở mức giá cố định và nguyên vật liệu sẽ được chuyển sau khi năm tài chính kết
thúc. Nếu một khoản lỗ từ cam kết này phát sinh (vì có thể giá thị trường của loại
nguyên vật liệu này vào cuối năm giảm xuống) thì khoản lỗ này phải được tính vào trong
năm và trình bày chi tiết trên thuyết minh báo cáo tài chính (phần thuyết minh về Báo
cáo kết quả kinh doanh).
Nguồn thu thập bằng chứng cơ bản liên quan tới những vụ việc như bị kiện hoặc tranh
chấp về khoản nợ phải thu hay về đánh giá giá trị của khoản nợ phải thu,…là những nhà
tư vấn pháp lý cho công ty khách hàng. Kiểm toán viên nên yêu cầu khách hàng gửi thư
yêu cầu (thông tin) kiểm toán (Letter of Inquyry) cho tư vấn luật pháp để yêu cầu họ
khẳng định thông tin về những khoản phải thu đã được xác nhận và khả năng xác nhận.
Trong bức thư này thường chứa đựng những nội dung cơ bản như:
Nhận diện về công ty, về những chi nhánh hoặc công ty con của công ty và ngày
thực hiện kiểm toán;
Tập hợp những vấn đề của nhà quản lý trong đó mô tả và đánh giá những sự kiện bất
thường cho tới những sự kiện mà luật sư đã thông báo cần phải đặc biệt chú ý;
Yêu cầu luật sư cung cấp cho kiểm toán viên một số tài liệu có liên quan.
Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể thì những sự kiện bất thường có thể ảnh hưởng tới báo
cáo kiểm toán ở các mức độ khác nhau. Luật sư từ chối cung cấp những thông tin được
yêu cầu hoặc nói hoặc viết là một sự giới hạn về quy mô dẫn tới không thể có ý kiến
chấp nhận hoàn toàn. Tuy nhiên, luật sư có thể không tạo ra một kết luận tương tự như là
một kết quả không mong muốn hoặc kết quả lỗ bởi vì những yếu tố không chắc chắn
luôn tiềm ẩn trong chính những kết luận ấy.
7.1.3. Kiểm tra những ước tính quan trọng
Một số công ty chủ động quản lý thu nhập bằng cách tạo ra những khoản dự trữ (được
che dấu) trong những năm hoạt động tốt, một cách bất thường (trong kế toán, thủ thuật
này gọi là “cookie-jar”). Sau đó, những khoản này lại được sử dụng trong những năm
tiếp theo khi lợi nhuận thực tế không đạt được so với kế hoạch. Trong những tình huống
ấy, kiểm toán viên có trách nhiệm cung cấp một sự đảm bảo:
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
197
Ban quản trị có hệ thống thông tin để phát triển những ước tính có thể là trọng yếu
đối với các báo cáo tài chính;
Các ước tính đều có cơ sở;
Các ước tính được trình bày phù hợp với GAAP.
Các ước tính kế toán dựa nhiều vào hiểu biết và kinh nghiệm của ban quản trị về những
sự kiện trong hiện tại và quá khứ cũng như là những giả thiết về các điều kiện cho dự
đoán. Các ước tính dựa vào cả những nhân tố chủ quan và khách quan. Trong đánh giá
tính hợp lý của một ước tính, kiểm toán viên thường tập trung vào những nhân tố chính
và những giả thiết sau đây:
Tầm quan trọng của các ước tính kế toán;
Sự nhạy cảm đối với các nhân tố biến đổi ảnh hưởng tới ước tính;
Sự sai lệch so với các mẫu ước tính ban đầu;
Tầm quan trọng và sự nhạy cảm đối với những sai phạm và xu hướng;
Không phù hợp với những xu hướng kinh tế hiện tại.
Kiểm toán viên nên xem xét kinh nghiệm của công ty khách hàng trong việc ước tính
trong quá khứ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện tại các nhân tố có thể đã thay đổi hoặc
bản thân các thủ tục của công ty khách hàng đã làm cho các nhân tố thay đổi so với quá
khứ và vì thế trở thành yếu tố cần thiết cho ước tính.
Những sự kiện hoặc nghiệp vụ xảy ra sau ngày lập bảng cân đối kế toán nhưng trước khi
hoàn thành kiểm toán có thể sẽ trở nên hữu ích cho kiểm toán viên nhằm nhận diện và
đánh giá sự phù hợp của các ước tính. Các sự kiện có liên quan có thể là khả năng thu
tiền từ các khoản phải thu, bán hàng, các công cụ tài chính, mua hàng theo các cam kết
mua,... trong đó có liên quan tới ước tính khả năng bị thua lỗ. Trách nhiệm của kiểm
toán viên đối với việc xem xét các sự kiện xảy ra sau được tác giả đề cập tới ở phần sau.
7.1.4. Kiểm tra sự phù hợp của những công bố
Báo cáo của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính cơ bản gồm Bảng cân đối kế toán,
Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Báo cáo thay đổi vốn chủ sở
hữu và Thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu kiểm toán viên xác định những công bố
thông tin không phù hợp, kiểm toán viên phải xác định điều đó trên báo cáo kiểm toán.
Những công bố có thể trình bày trên báo cáo tài chính hoặc trên Thuyết minh báo cáo
tài chính.
Khi kiểm tra sự phù hợp của những công bố, kiểm toán viên cần bảo đảm một cách hợp
lý về:
Những sự kiện và nghiệp vụ công bố đã xảy ra và gắn liền với đơn vị;
Tất cả những công bố nên trình bày đã được trình bày;
Người sử dụng có thể hiểu được những công bố;
Thông tin được công bố chính xác và lượng thông tin phù hợp.
Chuẩn mực kế toán có thể gợi ý một danh mục những nội dung công bố, ví dụ, IFRS xác
định một danh sách cần kiểm tra. Kiểm toán viên có thể xem xét để kiểm tra dựa trên
những gợi ý công bố liên quan trong chuẩn mực kế toán. Trên thực tế danh sách những
nội dung công bố cần kiểm tra cũng là một tài liệu thuận tiện cho kiểm toán viên có thể
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
198
đánh giá về những công bố của công ty khách hàng. Tuy nhiên, có thể có nhiều khoản
mục cần được công bố nhưng không được công ty khách hàng công khai hết. Do đó,
kiểm toán viên không nên chỉ dựa theo danh mục kiểm tra theo chuẩn mực kế toán gợi ý
mà cần dựa trên xét đoán kiểm toán thích hợp, đặc biệt, khi kiểm toán viên cho rằng
người sử dụng cần có nhận thức về nhiều trường hợp không thông thường đã phát sinh.
Kiểm toán viên nên xem xét những vấn đề về công bố khi thu thập bằng chứng trong
suốt cuộc kiểm toán mà không phải chỉ tập trung vào giai đoạn cuối của cuộc kiểm toán.
Một trong những công bố quan trọng là tóm lược về những chính sách kế toán quan
trọng của công ty kháchhàng. Trong đánh giá về vấn đề này, kiểm toán viên được hướng
dẫn thực hiện theo bản chất của những nghiệp vụ cũng như là bản chất phát triển của
hoạt động kinh doanh mà không nên thực hiện kiểm tra đơn giản theo những hướng dẫn
kế toán liên quan.
Cuối cùng, kiểm toán viên cần lưu ý một điểm quan trọng nữa là báo cáo kiểm toán viên
không thể bao hàm cụ thể các báo cáo do ban quản trị lập trong phần phân tích và thảo
luận của ban quản trị trên báo cáo hàng năm. Tuy nhiên, kiểm toán viên kiểm tra theo
trình tự phân tích và thảo luận của ban quản trị để cung cấp một sự bảo đảm hợp lý về
khả năng chúng không có thông tin không chính xác hoặc không phù hợp với phần báo
cáo tài chính và thuyết minh kèm theo đã được kiểm toán.
7.1.5. Trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan tới hành vi không tuân thủ luật và
các quy định của khách hàng
Nhà quản trị và những trách nhiệm với quản trị công ty phải bảo đảm về những hoạt
động của công ty và quá trình lập báo cáo tài chính được thực hiện trong quan hệ với
những quy định và luật liên quan. Theo AU-C 250, hành vi không tuân thủ liên quan tới
“việc bỏ qua hành động hoặc cam kết của công ty một cách chủ ý hay vô tình, ngược lại
với những quy định hoặc luật hiện hành”. Kiểm toán viên có trách nhiệm đưa ra một sự
bảo đảm hợp lý việc các báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Trong thực hiện
trách nhiệm ấy, các kiểm toán viên nên xem xét những hạn chế tiềm ẩn trong những quy
định hoặc luật hiện hành để phát hiện những sai phạm trọng yếu liên quan tới sự tuân thủ
với luật và những quy định liên quan. Những giới hạn có thể gồm:
Luật và những quy định thường liên quan tới vấn đề hoạt động trong phạm vi đơn vị
mà không cần thiết liên quan tới các báo cáo tài chính. Do đó, hệ thống thông tin liên
quan tới lập báo cáo tài chính có thể không có hành vi không tuân thủ;
Ban quản trị có thể hành động để che giấu hành vi bất tuân thủ hoặc có thể lợi dụng
kiểm soát hoặc có thể cố tình không trình bày thông tin thực tế cho kiểm toán viên;
Sự vận dụng luật pháp theo hướng không tuân thủ là một vấn đề phức tạp của phân
quyền pháp lý để giải quyết và không phải là vấn đề của kiểm toán viên.
Trong đánh giá những hành động bất tuân thủ tiềm ẩn, vì kiểm soát nội bộ được thiết kế
để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định và luật nên đạt được hiểu biết về những
kiểm soát nội bộ của đơn vị có vai trò quan trọng. Nếu ban quản trị hoặc những người
chịu trách nhiệm quản trị công ty không đưa ra một cam kết đối với kiểm soát nội bộ về
hành vi bất tuân thủ, kiểm toán viên nên mở rộng công việc kiểm toán trong đánh giá
những tình huống bất tuân thủ.
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
199
7.1.6. Đánh giá giả thuyết hoạt động liên tục
Những thất bại trong kinh doanh của công ty khách hàng là kết quả của nhiều nguyên
nhân khác nhau, chẳng hạn như tài chính không thuận lợi, những vấn đề về luân chuyển
tiền, quản lý yếu kém, sản phẩm lỗi thời, mất những khách hàng chính,... Nhà đầu tư sẽ
rất thất vọng khi công ty mà mình đầu tư gặp những thất bại trong kinh doanh, đặc biệt
là ngay sau khi kiểm toán viên phát hành báo cáo chấp nhận hoàn toàn. Ý kiến của kiểm
toán viên không đảm bảo về sự hoạt động liên tục của công ty khách hàng. Tuy nhiên,
kiểm toán viên phải đánh giá về sự hoạt động liên tục của mỗi khách hàng cho một kỳ
nhưng không vượt quá một năm từ ngày lập bảng cân đối kế toán. Kiểm toán viên có thể
đánh giá giải thuyết hoạt động liên tục dựa trên những thông tin thu thập được từ những
thủ tục kiểm toán thông thường (đã thực hiện để kiểm tra với các CSDL quản lý). Thông
thường kiểm toán viên sẽ không thực hiện những thủ tục riêng rẽ trừ khi kiểm toán viên
có những nghi ngờ cụ thể về khả năng hoạt động liên tục của công ty khách hàng nhưng
người sử dụng báo cáo tài chính thường mong muốn kiểm toán viên đánh giá về giả
thuyết hoạt động liên tục. Do đó, một số công ty kiểm toán độc lập thường sử dụng
những mô hình dự đoán khả năng phá sản trong việc phân tích giả thuyết doanh nghiệp
hoạt động liên tục đối với một khách hàng cụ thể nhằm xem xét những vấn đề có liên
quan. Nếu kiểm toán viên có nghi ngờ cụ thể về khả năng công ty khách hàng hoạt động
không liên tục, kiểm toán viên sẽ nhận diện và đánh giá những kế hoạch của ban quản trị
đối với những vấn đề liên quan và đánh giá lại khả năng tiếp tục các hoạt động của công
ty khách hàng. Hình 7.2 sau đây tóm tắt quá trình xem xét về khả năng hoạt động liên
tục của công ty khách hàng.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
200
Hình 7.2. Tóm tắt quy trình xem xét khả năng hoạt động liên tục
Khi đánh giá khả năng hoạt động liên tục, kiểm toán viên cần phải chú ý tới những
những chỉ tiêu có liên quan phục vụ cho việc đánh giá. Kiểm toán viên thường phải phân
tích một cách kỹ lưỡng tất cả những nhân tố biểu hiện của khả năng hoạt động liên tục
trong trường hợp ban quản trị của công ty khách hàng có kế hoạch để xác định những
vấn đề này. Dưới đây là một số nhân tố thường được kiểm toán viên sử dụng cho đánh
giá giả thuyết hoạt động liên tục của công ty khách hàng:
Những xu hướng bất lợi diễn ra như: tái diễn lỗ kinh doanh, thiếu vốn cố định, dòng
tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh âm, những xu hướng biến động trái chiều của
những tỷ suất tài chính cơ bản;
Những vấn đề nội bộ phát sinh như: mất những cá nhân giữ vị trí quan trọng, đình
công của nhân viên, các sản phẩm và phương tiện bị sản xuất sử dụng quá hạn và
những cam kết/hợp đồng dài hạn không kinh tế;
Những vấn đề bên ngoài, chẳng hạn: một chính sách mới có ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh của công ty, vấn đề về luật pháp chưa được giải quyết, mất nhượng
quyền/bản quyền có ảnh hưởng quan trọng, mất các khách hàng và nhà cung cấp
chính, không có khả năng bù đắp những khoản lỗ từ mất tài sản;
Chỉ số về khả năng
hoạt động liên
tục không?
Nhà quản lý có thể
làm giảm nhẹ
vấn đề này?
Thông tin trình bày
có phù hợp không?
Có
Phát hành báo cáo chấp nhận
hoàn toàn
Phát hành báo cáo chấp nhận
hoàn toàn với phần giải thích về
hoạt động liên tục
Phát hành báo cáo không
chấp nhận
Không hoặc không biết
Có
Có
Không
Không
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
201
Các vấn đề khác như: những điều khoản mặc định đối với một khoản vay, không có khả
năng chi trả lãi, tái lập tỷ lệ nợ, vi phạm luật pháp, không có khả năng mua chịu;…
Trở lại quá trình đánh giá khả năng hoạt động liên tục, nếu kiểm toán viên kết luận rằng
có khả năng doanh nghiệp hoạt động không liên tục thì kiểm toán viên nên nhận diện và
đánh giá các kế hoạch giải quyết vấn đề này của ban quản trị. Chẳng hạn, ban quản trị có
thể bán tài sản không cần thiết, vay tiền hoặc tăng vốn đầu tư,... Kiểm toán viên nên
nhận diện những nhân tố được xem là yếu tố cơ bản để giải quyết vấn đề, thu thập bằng
chứng độc lập để xác định khả năng thành công của các kế hoạch.
Nếu kiểm toán viên vẫn tin tưởng vào những nghi ngờ của mình về khả năng hoạt động
liên tục của công ty khách hàng trong một kỳ (không vượt quá một năm tính từ ngày báo
cáo tài chính được kiểm toán) thì kiểm toán viên nên tiếp tục kiểm tra sự phù hợp của
những thông tin công bố có liên quan. Khi kiểm toán viên tin rằng những kế hoạch của
nhà quản lý là để giải quyết những vấn đề liên quan, việc công bố những điều kiện ảnh
hưởng trước hết tới sự nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục nên được kiểm toán viên
xem xét.
Trong một số trường hợp, một đoạn giải thích được bổ sung khi kiểm toán viên kết luận
rằng vẫn tồn tại những nghi vấn cụ thể về khả năng hoạt động liên tục của công ty khách
hàng trong một khoảng thời gian. Đoạn này mô tả mối quan tâm của kiểm toán viên và
nên được bổ sung vào báo cáo kiểm toán chấp nhận hoàn toàn (unqualified). Kiểm toán
viên thường phát hành một báo cáo kiểm toán chấp nhận từng phần (qualified) nếu kiểm
toán viên tin rằng những công bố của công ty khách hàng là không phù hợp.
7.1.7. Thực hiện phân tích báo cáo tài chính
Phân tích giúp các kiểm toán viên đánh giá việc trình bày tổng thể các báo cáo tài chính.
Chuẩn mực kiểm toán yêu cầu sử dụng những thủ tục phân tích trong bước đánh giá cuối
cùng của một cuộc kiểm toán nhằm trợ giúp các kiểm toán viên nhận diện bất cứ vấn đề
bất thường nào trong mối quan hệ cuối cùng với tài khoản. Ở giai đoạn này, nhóm kiểm
toán phân tích dữ liệu từ những hướng tiếp cận kinh doanh tổng thể. Các kiểm toán viên
không chỉ xem xét xu hướng, các tỷ suất mà còn yêu cầu phải trả lời những câu hỏi như
liệu những kết quả của công ty có rõ ràng không trong quan hệ với những xu hướng của
ngành và của nền kinh tế. Bằng việc thực hiện phân tích cuối cùng, công ty kiểm toán có
thể nhận diện bất cứ vấn đề bất thường, không mong muốn hoặc mối quan hệ không thể
giải thích nào phát sinh cần giải quyết. Kỳ vọng của các kiểm toán viên trong thực hiện
thủ tục phân tích ở giai đoạn này có thể không quan trọng như những thủ tục phân tích
cơ bản trong giai đoạn trước nhưng vẫn áp dụng theo trình tự chung gồm 4 bước:
Phát triển một kỳ vọng;
Định nghĩa sự khác nhau giữa kỳ vọng của kiểm toán viên và số dư thực tế của khách
hàng có thể được xem là quan trọng;
Tính toán sự khác biệt giữa kỳ vọng của kiểm toán viên và số dư thực tế của khách hàng;
Kiểm tra và giải thích sự khác biệt quan trọng.
Những thủ tục phân tích cung cấp bằng chứng về khả năng những mối quan hệ nhất định
có rõ ràng hay không trong quan hệ với sự hiểu biết tích lũy được trong cuộc kiểm toán.
Những thủ tục này có thể chỉ ra công việc kiểm toán bổ sung cần thực hiện trước khi
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
202
hoàn tất ý kiến kiểm toán. Phân tích tỷ suất, báo cáo tài chính tương đối và phân tích
thay đổi theo % và theo giá trị tiền trên mỗi khoản mục báo cáo kết quả kinh doanh so
với năm trước thường phát huy tốt vai trò để kiểm toán viên đạt được mục đích này.
Kiểm toán viên nên tổng hợp đầy đủ những bằng chứng thích hợp trong suốt cuộc kiểm
toán để giải thích cho bất cứ sự thay đổi bất thường nào phát sinh như: thay đổi khi kiểm
toán viên không mong nuốn; không có thay đổi khi kiểm toán viên lại mong muốn; hoặc
sự thay đổi mà không phải với quy mô như kỳ vọng hoặc hướng mong muốn. Nếu
những thay đổi như kỳ vọng không phản ánh trên những ghi chép kế toán, tài liệu kiểm
toán nên chỉ ra bằng chứng thích hợp cho điều này, bổ sung giải thích của ban quản trị
nhằm kết hợp với những giải thích trước đó. Ngoài ra, kiểm toán viên nên điều tra thêm
để xác định lý do về sự khác biệt trong dữ liệu khi dữ liệu cho thấy những số dư tài
khoản bị trình bày sai lệch. Ví dụ, với doanh thu và chi phí, thủ thục phân tích được thực
hiện đối với các khoản mục trên báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp bằng chứng về
mối liên hệ chắc chắn tạo ra xu hướng đã nhận diện trong khi kiểm toán.
Cuối cùng, những thủ tục phân tích được thực hiện trong giai đoạn kiểm tra, rà soát kết thúc
kiểm toán nên phối hợp với những kết luận hình thành trong quá trình kiểm toán. Đây là
những kết luận giúp kiểm toán viên chuẩn bị hình thành ý kiến kiểm toán. Nếu những thủ
tục phân tích được thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán xác định dược rủi ro sai
phạm trọng yếu đã không được nhận diện trước đây, kiểm toán viên phải quay lại và kiểm
tra đánh giá rủi ro ban đầu và thực hiện những thủ tục kiểm toán bổ sung để xác định rủi ro.
Thủ tục kiểm toán bổ sung đặc biệt cần thiết khi liên quan tới việc ban quản trị không thể
cung cấp lời giải thích về rủi ro đã không được nhận diện trước đây qua thủ tục phân tích.
7.1.8. Đánh giá giải trình của nhà quản lý
Kiểm toán viên nên thu thập Thư Giải trình của quản lý (Letter of Management
Representation) khi kết thúc kiểm toán. Thư giải trình của nhà quản lý có nhiều cách
trình bày khác nhau, dưới đây là một ví dụ về thư quản lý.
Công ty THULOKI
No 2016, Cao ốc CODE, Cầu Giấy, Hanoi
Ngày 28 tháng 01 năm 2016 (ngày báo cáo kiểm toán)
Kính gửi: Các kiểm toán viên Victor Mark, Micheal Jonhl
Bản giải trình này được lập ra trong phạm vi công tác kiểm toán của Ông (bà) cho báo
cáo tài chính của Công ty ABC, năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2016.
Chúng tôi chịu trách nhiệm lập và trình bày trung thực và hợp lý các báo cáo tài chính
của đơn vị phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận
tại công văn số TT 15 ngày 20 tháng 06 năm N của BTC).
Trong phạm vi chịu trách nhiệm và sự hiểu biết của mình, chúng tôi xin xác nhận các
giải trình sau đây:
Không có bất cứ một sai phạm nào từ Ban Giám đốc hay các nhân viên có vai trò
quan trọng liên quan đến hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc có thể
có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính;
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
203
Chúng tôi đã chuyển cho ông (bà) xem xét tất cả sổ sách kế toán, các tài liệu,
chứng từ liên quan và tất cả các biên bản họp Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị,
(gồm biên bản họp ngày 15/03/2007 và ngày 30/09/2007);
Chúng tôi khẳng định là đã cung cấp toàn bộ các thông tin về các bên có liên quan;
Chúng tôi khẳng định là báo cáo tài chính không có những sai phạm trọng yếu;
Công ty chúng tôi đã tuân thủ tất cả các khoản quan trọng của các hợp đồng có ảnh
hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính. Không có bất kỳ sự không tuân thủ nào liên
quan đến các yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền, có thể có ảnh hưởng trọng
yếu đến báo cáo tài chính;
Các yếu tố sau đây đã được ghi nhận một cách đúng đắn và trong trường hợp cần
thiết các thông tin thích hợp đã được nêu ra trong phần thuyết minh báo cáo
tài chính:
a. Số dư và các nghiệp được thực hiện với các bên có liên quan;
b. Thua lỗ từ các hợp đồng mua và bán;
c. Thoả thuận và khả năng mua lại các tài sản đã được chuyển nhượng trước đây;
d. Các tài sản đem đi thế chấp.
Chúng tôi không có bất kỳ một kế hoạch hay dự tính nào đó có thể làm sai lạc đáng
kể giá trị kế toán hoặc cách phân loại tài sản và công nợ đã được phản ánh trong
báo cáo tài chính;
Chúng tôi không có bất kỳ một kế hoạch nào nhằm ngừng sản xuất một loại sản
phẩm đang được sản xuất, cũng không có một kế hoạch hay dự tính nào có thể dẫn
đến tình trạng hàng tồn kho, ứ đọng hoặc lạc hậu, và không có bất kỳ một khoản
hàng tồn kho nào được hạch toán với giá trị cao hơn giá trị thực hiện thuần;
Công ty là chủ sở hữu tất cả các tài sản trên báo cáo tài chính và không có bất kỳ
một tài sản nào đang được cầm cố, thế chấp hoặc bị cầm giữ, ngoại trừ những tài
sản được nêu trong phần thuyết minh X của báo cáo tài chính;
Tất cả các khoản nợ, cam kết vay và các khoản bảo lãnh của Công ty với bên thứ
ba đã được Công ty hạch toán hoặc giải trình trong phần thuyết minh X;
Hiện tại, Công ty không có bất kỳ sự kiện nào phát sinh sau ngày kết thúc niên độ
kế toán có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính hoặc phải giải trình trong phần
thuyết minh;
Vụ tranh chấp với Công ty XYZ đã được giải quyết với khoản tiền là XXX VNĐ,
và đã được lập dự phòng trong báo cáo tài chính. Không có bất kỳ một khiếu nại
trong một vụ tranh chấp nào khác đang được khởi tố hoặc hiện nay có thể dự
đoán được;
Chúng tôi đã hạch toán hoặc đã công bố đầy đủ trong báo cáo tài chính tất cả các kế hoạch
này, các khoản đảm bảo cũng như việc chuyển đổi và các yêu cầu có liên quan khác.
Giám đốc (hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị)
(Chữ ký, họ và tên, đóng dấu)
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
204
Việc nhà quản lý từ chối cung cấp thư giải trình (của nhà quản lý) cũng được xem như là
một sự giới hạn phạm vi đủ để không đưa ra ý kiến chấp nhận hoàn toàn. Thư giải trình
của nhà quản lý là một phần của bằng chứng kiểm toán nhưng nó không phải là dạng
bằng chứng đủ để thay thế cho các thủ tục kiểm toán. Mục đích của thư giải trình của
nhà quản lý là:
Nhắc nhở nhà quản lý về những trách nhiệm của họ đối với các báo cáo tài chính;
Nó khẳng định các câu trả lời (bằng miệng) mà kiểm toán viên đã thu thập được lúc
trước và tiếp tục khẳng định sự thích hợp của những câu trả lời ấy;
Nó giảm trách nhiệm về những vấn đề mà kiểm toán viên chưa hiểu có liên quan tới
những nội dung trình bày trong thư.
Thư giải trình của nhà quản lý được trình bày trên giấy có viết sẵn đầu đề, được ghi địa
chỉ tới kiểm toán viên, và thường do nhà quản lý cao cấp hoặc giám đốc tài chính ký.
Thư này nên lập vào ngày báo cáo kiểm toán để có thể diễn đạt được tất cả những vấn đề
cho tới thời điểm kết thúc công việc kiểm toán. Thư này thường do các kiểm toán viên
chuẩn bị cho công ty khách hàng đọc và ký. Nội dung của thư giải trình của nhà quản lý
dựa trên những tình huống của cuộc kiểm toán, bản chất và cơ sở của việc trình bày báo
cáo tài chính. Nó có thể bị giới hạn đối với một số vấn đề được đánh giá là trọng yếu đối
với báo cáo tài chính, loại trừ việc trình bày những hành vi gian lận liên quan tới ban
quản trị hoặc nhân (Vấn đề này phải có những đánh giá đáng tin cậy của kiểm toán
viên). Kiểm toán viên có thể nhận được những bức thư giải trình riêng rẽ từ những nhà
quản lý khác nhau trong công ty được kiểm toán.
7.1.9. Kiểm tra những sự kiện xảy ra sau và kết quả phát hiện
a. Xem xét thông thường đối với các sự kiện xảy ra sau
Trên thực tế kiểm toán, kiểm toán viên phải xem xét nhiều vấn đề phát sinh có liên quan
tới cuộc kiểm toán, thậm chí có thể ảnh hưởng tới kết luận của cuộc kiểm toán ngay cả
khi công việc kiểm tra của các kiểm toán viên đã kết thúc. Vì vậy, xem xét các sự kiện
xảy ra sau có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng và rủi ro kiểm toán. Thông
thường, các sự kiện được xem xét có thể chia thành 3 những giai đoạn sau đây (để kiểm
toán viên xem xét):
Xem xét các sự kiện xảy ra trước khi phát hành báo cáo kiểm toán - Xảy ra vào thời
điểm đang tiến hành kiểm toán;
Những phát hiện thực tế vào ngày phát hành báo cáo kiểm toán;
Xem xét các thủ tục bỏ sót sau ngày phát hành báo cáo kiểm toán.
Những tình huống có liên quan được khái quát trong Hình 7.3 dưới đây. Theo đó, trong
mọi cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán để xem xét
những sự kiện và nghiệp vụ xảy ra trong giai đoạn sau - Từ thời điểm lập bảng cân đối
kế toán cho tới thời điểm kết thúc công việc kiểm toán (Đoạn A). Kiểm toán viên không
có trách nhiệm tiếp tục thu thập bằng chứng kiểm toán sau khi kết thúc công việc kiểm
toán (Đoạn B và C). Tuy nhiên, khi công ty khách hàng đang tiến hành những thủ tục
đăng ký với Ủy ban chứng khoán để bán cổ phiếu mới thì kiểm toán viên thường phải
thực hiện xem xét những sự kiện sau ngày lập bảng cân đối kế toán tới ngày có hiệu lực
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
205
đăng ký với SEC - Ngày có hiệu lực đăng ký với SEC là thời điểm SEC chấp nhận cho
công ty khách hàng có thể bắt đầu bán cổ phiếu mới ra công chúng (có thể cách thời
điểm kết thúc công việc kiểm toán tới vài tháng).
Hình 7.3: Tóm tắt những giai đoạn xảy ra các sự kiện cần chú ý
Khi đề cập tới các sự kiện xảy ra sau, các kiểm toán viên thường phân chia thành hai loại
có thể ảnh hưởng tới kết quả kiểm toán. Vì thế, kiểm toán viên có thể phải thực hiện
những điều chỉnh số dư đối với một số khoản mục trên báo cáo tài chính hoặc phải công
bố trên thuyết minh báo cáo tài chính.
Loại sự kiện thứ nhất: cung cấp những bằng chứng kiểm toán về sự đúng đắn của thông
tin trên các báo cáo tài chính tồn tại vào ngày lập bảng cân đối kế toán. Chẳng hạn, các
ước tính kế toán là một phần/khoản mục (tổng hợp) của báo cáo tài chính. Ước tính kế
toán nên được xây dựng trên cơ sở những thông tin tốt nhất có được vào thời điểm báo
cáo tài chính được lập và phát hành. Trong trường hợp này, kiểm toán viên nên xem xét
các sự kiện và nghiệp vụ xảy ra trước khi kết thúc công việc kiểm toán để đảm bảo chắc
chắn những ước tính kế toán được tính toán dựa trên những thông tin sẵn có thích hợp.
Loại sự kiện xảy ra sau thứ nhất thường cung cấp bằng chứng về các điều kiện tồn tại
vào ngày lập bảng cân đối kế toán. Số liệu của báo cáo tài chính nên được điều chỉnh để
phản ánh thông tin này. Ngoài ra, một số thông tin có thể phải trình bày trên Thuyết
minh báo cáo tài chính để cung cấp thêm những thông tin cần thiết cho người sử dụng.
Ví dụ: Một khách hàng chính của công ty bị phá sản trong giai đoạn sau khi kết thúc
công việc kiểm tra. Kiểm toán viên và công ty khách hàng đều không biết được điều này
cho tới khi kiểm tra các tài liệu liên quan. Kiểm toán viên nên xem xét và ước tính dự
phòng phải thu khó đòi một cách thích hợp, từ đó điều chỉnh dự phòng phải thu khó đòi
đã lập (trong trường hợp lập chưa thích hợp – không đủ bù đắp vào phần thiệt hại tiềm
tàng do khách hàng không trả được khoản nợ).
Loại sự kiện thứ hai xảy ra sau ngày lập bảng cân đối kế toán và không ảnh hưởng trực
tiếp tới số liệu trên báo cáo tài chính, không tồn tại vào ngày lập báo cáo tài chính nên
thông thường các số liệu trên báo cáo tài chính không cần phải điều chỉnh. Tuy nhiên,
kiểm toán viên cần xem xét các sự kiện này và có thể yêu cầu công ty khách hàng trình
bày trong trong thuyết minh báo cáo tài chính nhằm mục đích giúp cho những người sử
dụng hiểu đầy đủ hơn về các báo cáo tài chính. Ví dụ: Một vụ kiện có liên quan tới một
vụ tai nạn xảy ra sau ngày lập báo cáo tài chính nhưng có ảnh hưởng tới nghĩa vụ phải
trả, phải bồi thường vật chất. Kiểm toán viên sẽ yêu cầu công ty phải thuyết minh về
Ngày lập Bảng cân đối kế toán
Ngày kết thúc công việc kiểm toán
Ngày phát hành báo cáo tới khách hàng
A B C
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
206
nghĩa vụ phải trả (trường hợp chưa có phán quyết của toà án) như một khoản nợ tiềm
tàng trên thuyết minh báo cáo tài chính.
Đối với các sự kiện xảy ra sau, kiểm toán viên có thể vận dụng các thủ tục kiểm toán
như đã trình bày ở trong các chương đầu. Ví dụ các thủ tục thường sử dụng là kiểm tra
tính đúng kỳ, xem xét việc thu hồi các khoản phải thu khách hàng sau, tìm kiếm các
khoản nợ phải trả chưa ghi sổ,... Ngoài các thủ tục phổ biến đã nêu, kiểm toán viên cũng
có thể thực hiện bổ sung các thủ tục kiểm toán khác như:
Nghiên cứu biên bản các cuộc họp ban giám đốc, cổ đông,...;
Nghiên cứu các báo cáo tài chính trước khi kiểm toán và so sánh với báo cáo tài
chính sau khi kiểm toán phát hiện và ghi lại những thay đổi cụ thể;
Phỏng vấn ban quản trị về những vấn đề có liên quan như: những thay đổi cụ thể
trong báo cáo tài chính, sự thay đổi trong vốn lưu động, sự tồn tại của những khoản
nợ phải trả bất thường,...;
Phỏng vấn ban quản trị và cố vấn luật pháp của công ty về nghĩa vụ phải trả bất
thường (nếu có phát sinh);
Thu thập thư giải trình của nhà quản lý.
Khi kiểm toán viên phát hiện một sự kiện xảy ra sau khi công việc kiểm toán kết thúc và
trước khi phát hành báo cáo kiểm toán (Đoạn B) và sự kiện này đã được công khai thì
kiểm toán viên có hai lựa chọn cụ thể sau đây liên quan tới việc trình bày trên báo cáo
kiểm toán:
Sử dụng ngày phát sinh sự kiện này như là ngày của báo cáo kiểm toán;
Báo cáo ở cả hai thời điểm (dual date): sử dụng ngày kết thúc công việc kiểm toán và
ngày phát sinh sự kiện để trình bày những công việc hoàn thành (chỉ đối với những
sự kiện xảy ra sau khi hoàn thành công việc kiểm toán).
Ví dụ: Giả sử kiểm toán viên hoàn thành cuộc kiểm toán vào ngày 27/02/2016. Hoả hoạn
xảy ra làm công ty mất một tài sản cố định hữu hình có giá trị lớn vào ngày 02/03/2016.
Sự kiện này phải được trình bày trong Thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán
được phát hành vào ngày 05/03/2017. Kiểm toán viên có thể trình bày báo cáo vào ngày
02/03/2016 hoặc báo cáo cả hai thời điểm là vào ngày 27/02/2017 và vào ngày
02/03/2017. Kiểm toán viên có thể sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm bởi cách báo cáo theo
hai thời điểm. Chỉ những sự kiện xảy ra sau khi kết thúc công việc kiểm toán thì kiểm
toán viên sẽ mang trách nhiệm (được trình bày trong thuyết minh). Kiểm toán viên có
thể phải chịu trách nhiệm đối với tất cả các sự kiện xảy ra trong giai đoạn B (minh hoạ
trên Hình 7.2) nếu báo cáo kiểm toán được lập vào ngày 02/03/2017 và kiểm toán viên
nên thực hiện các thủ tục kiểm toán để nhận diện các sự kiện xảy ra sau vào giữa ngày
27/02/2017 và ngày 02/03/2017.
b. Xem xét những phát hiện sau liên quan tới những sự kiện vào ngày lập báo
cáo kiểm toán
Trong một số trường hợp cụ thể, kiểm toán viên chỉ phát hiện những sự kiện sau khi phát
hành báo cáo kiểm toán (Đoạn C trong Hình 7.2), có ảnh hưởng tới báo cáo tài chính đã
được hoàn thành và cũng ảnh hưởng tới báo cáo kiểm toán đã phát hành. Kiểm toán viên
có thể phát hiện được những sự kiện này từ việc cung cấp một số dịch vụ khác cho công
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
207
ty khách hàng (chẳng hạn, xem xét các báo cáo tài chính mới, các hợp đồng kinh doanh
khác hoặc xem xét kết quả kiểm toán từ cuộc kiểm toán trước,..). Nếu các sự kiện này đã
được điều tra thì kiểm toán viên có thể phát hiện ra vào ngày lập báo cáo kiểm toán. Tuy
nhiên, kiểm toán viên đã không phát hiện được trước khi lập báo cáo kiểm toán mặc dù
chúng có ảnh hưởng tới báo cáo tài chính được kiểm toán. Trong trường hợp này, kiểm
toán viên nên xác định những thông tin sau đây:
Độ tin cậy của thông tin về sự kiện;
Kiểm tra những sự kiện đã xảy ra vào ngày phát hành báo cáo. Kiểm toán viên không
bắt buộc phải phát hành các báo cáo tài chính đã được kiểm tra lại và báo cáo kiểm
toán nếu những sự kiện sự kiện phát hiện xảy ra sau ngày lập báo cáo kiểm toán;
Xem xét động thái của người sử dụng có dựa vào các báo cáo tài chính hay không - kiểm
toán viên nên nên xác định khoảng thời gian xem xét (tiếp tục) báo cáo tài chính;
Báo cáo kiểm toán có bị ảnh hưởng từ các sự kiện được phát hiện - Những sự kiện này
nên được kiểm toán viên nhắc tới vào ngày lập báo cáo.
Nếu kiểm toán viên quyết định thực hiện những bước công việc nêu trên để đảm bảo độ
tin cậy của thông tin trình bày các báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán thì kiểm toán
viên thường đề xuất công ty khách hàng trình bày hợp lý và đúng thời điểm các sự kiện
mới phát hiện. Đây được xem là một hành động kịp thời để khuyến cáo người sử dụng
không tiếp tục dựa vào những thông tin thiếu trung thực. Tuy nhiên, hành động của kiểm
toán viên còn phụ thuộc vào những tình huống thực tế tại đơn vị.
Trong trường hợp, kiểm toán viên hoàn toàn chắc chắn về những đề xuất sau phát hiện
những sự kiện xảy ra vào ngày lập báo cáo tài chính (có ảnh hưởng tới báo cáo) nhưng
công ty khách hàng thiếu hợp tác thì kiểm toán viên nên:
Lưu ý cho khách hàng và các cơ quan có thể điều chỉnh đối về việc không nhất quán
giữa báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính;
Lưu ý cho người sử dụng để họ không sử dụng báo cáo kiểm toán. Những kiểm toán
viên dường như không thể thông báo cho tất cả những đối tượng đã nhận báo cáo
kiểm toán. Vì vậy, các cơ quan quản lý liên quan nên yêu cầu xem xét khả năng công
khai tình huống này.
c. Xem xét các thủ tục bị bỏ sót sau ngày lập báo cáo
Sau phát hành báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cũng có thể phát hiện một thủ tục kiểm
toán quan trọng đã không được thực hiện. Chẳng hạn, việc bỏ sót thủ tục kiểm toán được
phát hiện khi người ta kiểm tra các giấy làm việc (trong quá trình kiểm soát chất lượng
nội bộ hoặc bên ngoài). Trong trường hợp như vậy, kiểm toán viên nên quyết định xem
xét mức độ đảm bảo hợp lý của báo cáo kiểm toán đã được phát hành (cho dù thiếu vắng
các thủ tục kiểm toán). Nếu kết quả xem xét trên cho thấy báo cáo kiểm toán không đảm
bảo thì kiểm toán viên phải tiếp tục thực hiện các thủ tục kiểm toán bị bỏ sót hoặc thực
hiện thủ tục kiểm toán thay thế (Kết quả của các thủ tục tiếp tục được ghi chép lại trên
giấy làm việc). Nếu kết quả của những thủ tục này chỉ ra rằng báo cáo tài chính và báo
cáo kiểm toán đã phát hành cần phải sửa lại thì kiểm toán viên nên thực hiện những
hướng dẫn trong phần đầu. Ngược lại, kiểm toán viên sẽ không phải thực hiện thêm bất
cứ công việc điều tra bổ sung nào khác.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
208
d. Thực hiện kiểm tra chất lượng thực hiện cam kết kiểm toán
Bước công việc này được xem là một phần trong cuộc kiểm toán chất lượng, công ty
kiểm toán phải có những chính sách và thủ tục thiết lập để thực hiện kiểm tra nội bộ mỗi
cuộc kiểm toán trước khi phát hành ý kiến kiểm toán. Kiểm toán viên thường thực hiện
những thủ tục đánh giá ngay cả khi không được yêu cầu. Người đánh giá có kinh nghiệm
không phải là một thành viên của nhóm kiểm toán nhưng có đủ năng lực, độc lập, liêm
chính và khách quan, thực hiện những đnáh giá độc lập. Bước công việc này được xem
là đánh giá của chủ phần hùn hoặc đánh giá chất lượng cam kết kiểm toán. Mục đích của
những đánh giá trong bước này là cung cấp một sự bảo đảm về những tài liệu kiểm toán
và cuộc kiểm toán là hoàn thành và cung cấp ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính hoặc
bao gồm cả báo cáo về kiểm soát nội bộ của khách hàng (với cuộc kiểm toán liên kết).
Mặc dù các kiểm toán viên đã thực hiện kiểm toán với mức độ thận trọng nghề nghiệp
đúng mực nhưng các kiểm toán viên có thể không thể nhận thức được tất cả những vấn
đề như một kiểm toán viên có hiểu biết (nhưng không tham gia kiểm toán) có thể đưa ra
các câu hỏi. Vì vậy, hầu hết các công ty thường đặt ra yêu cầu đối với các kiểm toán
viên trước khi phát hành báo cáo kiểm toán, chủ phần hùn kiểm toán phải đánh giá lại
cuộc kiểm toán và các báo cáo tài chính. Thông thường, một cá nhân đánh giá chất
lượng trên cơ sở xem xét giấy làm việc của kiểm toán viên và các báo cáo tài chính để:
đánh giá tính đầy đủ của công việc kiểm toán và sự thích hợp của bằng chứng kiểm toán;
để xác định sự phù hợp trong việc trình bày các báo cáo tài chính; để đánh giá sự thích
hợp của việc trình bày các báo cáo tài chính. Đây cũng chính là lần đánh giá cuối cùng
được thực hiện về chất lượng công việc kiểm toán trước khi gửi báo cáo kiểm toán cho
công ty khách hàng. Một số thủ tục đánh giá phổ biến:
Thảo luận với nhóm kiểm toán về tất cả những vấn đề quan trọng liên quan tới báo
cáo tài chính và kiểm soát nội bộ, bao gồm cả nhận định của kiểm toán viên về yếu
điểm trọng yếu và thủ tục kiểm toán để xác định những rủi ro quan trọng;
Đánh giá những xét đoán về tính trọng yếu và thứ tự những sai phạm được nhận diện
không được sửa chữa và được sửa chữa;
Kiểm tra những đánh giá của nhóm kiểm toán về sự động lập của công ty kiểm toán
với hợp đồng kiểm toán;
Kiểm tra những tài liệu kiểm toán có liên quan tới xác định tính đầy đủ
Đọc các báo cáo tài chính, báo cáo của ban quản trị về kiểm soát nội bộ và báo cáo
của kiểm toán viên;
Khẳng định với chủ phần hùn về việc không có những vấn đề không được giải quyết
quan trọng;
Xác định nếu những tư vấn phù hợp được thực hiện với những vấn đề khó hoặc
tranh chấp;
Đánh giá khả năng liệu tài liệu kiểm toán có bổ trợ cho những kết luận có liên hệ với
những vấn đề được kiểm tra hay không;
Đánh giá liệu những vấn đề thích hợp được trao đổi với những thành viên ủy ban
kiểm toán/ban kiểm soát, ban quản trị và những bên thích hợp khác hay không;
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
209
Đánh giá liệu có những mức độ giám sát thích hợp và những kiểm tra hoạt động
kiểm toán đơn lẻ được hoàn thành thích hợp trong quá trình kiểm toán hay không.
Những bằng chứng thu thập trong khi đánh giá chất lượng thực hiện hợp đồng kiểm toán
được ghi lại trên tài liệu kiểm toán. Những tài liệu kiểm toán có liên quan thường gồm
những thông tin như:
Người thực hiện kiểm tra chất lượng thực hiện hợp đồng kiểm toán;
Những tài liệu được kiểm tra bởi người đánh giá chất lượng kiểm toán;
Thời gian người thực hiện đánh giá chất lượng thực hiện cam kết kiểm toán đã cung
cấp thống nhất với phê chuẩn việc phát hành.
7.2. Trao đổi với nhà quản lý và ủy ban kiểm toán
7.2.1. Trách nhiệm của kiểm toán viên với ủy ban kiểm toán/kiểm soát
Trong một số trường hợp kiểm toán viên nên thảo luận về một vài khoản mục với ủy ban
kiểm toán (nếu có). Việc trao đổi này nên được thực hiện để trợ giúp cho ủy ban kiểm
toán thực hiện đầy đủ các trách nhiệm để giám sát các quá trình lập báo cáo tài chính.
Những khoản mục sau đây là những khoản mục mà kiểm toán viên nên lưu ý trong khi
thảo luận với ủy ban kiểm toán:
Những quá trình quản lý được ban quản trị xây dựng và thực hiện để xác định các
ước tính kế toán “nhạy cảm” và bất cứ vấn đề gì có liên quan mà kiểm toán viên có
được liên quan tới những quá trình ấy cùng với kết quả;
Những điều chỉnh kiểm toán cụ thể, thậm chí ban quản trị sẵn sàng đồng ý tạo
ra chúng;
Những ghi chép kế toán chính và báo cáo không có sự khớp đúng với ban quản trị,
ngay cả khi đã được giải quyết;
Thảo luận của nhà quản lý với công ty kiểm toán khác được xem như là cách thức
giải quyết các vấn đề kế toán chưa thống nhất;
Những khó khăn trong thực hiện kiểm toán;
Gian lận và các hành vi bất hợp pháp khác;
Không hiệu quả trong việc thiết kế hoặc hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ;
Tất cả những vấn đề có thể dẫn tới sự nghi ngờ về tính độc lập của kiểm toán viên.
7.2.2. Trao đổi với nhà quản trị qua thư quản lý
Các kiểm toán viên thường đưa ra những lưu ý về những vấn đề giúp cho nhà quản lý có
thể quản lý tốt hơn. Báo cáo về những quan sát của kiểm toán viên trong thư quản lý do
kiểm toán viên cung cấp được xem như là một phần của cuộc kiểm toán. Thư quản lý
không nên có những vấn đề mâu thuẫn với thư giải trình của nhà quản lý. Thư quản lý
không phải là một nội dung bắt buộc nhưng bản thân nó lại cung cấp những đề xuất cần
thiết về hoạt động nói chung và hoạt động kiểm soát nói riêng của công ty khách hàng.
Nhân viên kiểm toán được khuyến khích đề suất các ý kiến cải thiện từ những phát hiện
của mình trong khi thực hiện kiểm toán có liên quan tới hoạt động sản xuất và hoạt động
kiểm soát không hiệu quả.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
210
7.3. Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
7.3.1. Khái niệm và ý nghĩa của báo cáo kiểm toán
Sau khi hoàn thành các bước công việc trên, kiểm toán viên phải lập báo cáo kiểm toán
về báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính về thực chất là một bản
thông báo về kết quả cuộc kiểm toán về báo cáo tài chính cho người sử dụng báo cáo
tài chính.
Nội dung trình bày của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có thể khác nhau nhưng
phải chuyển đến cho người đọc bản báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính những đánh
giá của kiểm toán viên về sự phù hợp của những thông tin định lượng của báo cáo tài
chính cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực, hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập báo
cáo tài chính này.
Hình thức trình bày báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có thể có nhiều hình thức
khác nhau có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng (trong trường hợp đơn giản, khi kiểm
toán báo cáo tài chính cho một cá nhân nào đó và họ không cần có kết quả kiểm toán
trình bày dưới dạng bằng văn bản).
Theo quy định mang tính phổ biến của một quốc gia hoặc của ủy ban về chuẩn mực
kiểm toán (IAPC) của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) thì báo cáo kiểm toán về báo
cáo tài chính được quy định viết dưới dạng văn bản và phải tuân thủ các quy định cả về
mặt nội dung và hình thức.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong hoạt động
kiểm toán và với người sử dụng báo cáo tài chính. Đối với hoạt động kiểm toán, báo cáo
kiểm toán về báo cáo tài chính là khâu cuối cùng trong quá trình thực hiện cuộc kiểm
toán báo cáo tài chính để trình bày kết quả của cuộc kiểm toán bằng những ý kiến đánh
giá của kiểm toán viên về thông tin định lượng và trình bày báo cáo tài chính theo quy
định của chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành. Đối với người sử dụng báo cáo tài
chính, khi sử dụng báo cáo tài chính có báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính đính kèm
giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá được độ tin cậy của các thông tin
định lượng trên báo cáo tài chính trên cơ sở đó mà họ có các quyết định kinh tế đúng
đắn, hiệu quả trong mối quan hệ kinh tế đối với tổ chức hoặc doanh nghiệp có báo cáo
tài chính này.
Khi kết thúc cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải lập báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính trình bày ý kiến của kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý
của các thông tin định lượng và sự trình bày các thông tin định lượng này trên báo cáo
tài chính do đơn vị (tổ chức, doanh nghiệp) mời kiểm toán đã lập. Báo cáo kiểm toán về
báo cáo tài chính phải được trình bày theo chuẩn mực kiểm toán quy định cả về nội
dung, kết cấu và hình thức.
7.3.2. Nội dung báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số báo cáo kiểm toán tài chính thường bao gồm
những nội dung cơ bản sau đây:
Tên và địa chỉ công ty kiểm toán
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
211
Trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính cần nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao
dịch, số điện thoại, số fax và số hiệu liên lạc khác của công ty kiểm toán (hoặc chi
nhánh) phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính. Nếu một cuộc kiểm toán
do hai công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện thì phải ghi đủ các thông tin nêu trên
của các công ty cùng ký báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Số hiệu báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Số hiệu báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là số hiệu phát hành báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính của công ty kiểm toán theo từng năm. Số hiệu báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính cần phải đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của
công ty kiểm toán.
Tiêu đề báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân
biệt báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính do kiểm toán viên lập với các loại báo
cáo khác. Tiêu đề báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có thể có tên gọi: “Báo cáo
kiểm toán về báo cáo tài chính”, hoặc “Báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên độc
lập”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm... của Công ty...”.
Người nhận báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Người nhận báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là người ký hợp đồng kiểm toán
với người thực hiện kiểm toán (công ty kiểm toán hoặc kiểm toán viên). Người nhận
báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc, hoặc
các cổ đông đơn vị được kiểm toán. Người nhận báo cáo kiểm toán về báo cáo tài
chính sẽ được ghi ngay vào dòng, ví dụ: “Kính gửi Hội đồng quản trị và Tổng Giám
đốc Tổng công ty...”.
Mở đầu của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Phần mở đầu của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải ghi rõ các báo cáo tài
chính là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày và niên độ lập báo cáo
tài chính; khẳng định rõ rằng việc lập báo cáo tài chính là thuộc trách nhiệm của
Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán trên các mặt: Tuân thủ
chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận và lựa chọn các nguyên
tắc và phương pháp kế toán, các ước tính kế toán thích hợp. Trách nhiệm của kiểm
toán viên là kiểm tra các thông tin định lượng trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến
về báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình.
Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải nêu chuẩn mực kiểm toán và kế hoạch
kiểm toán đã áp dụng để thực hiện cuộc kiểm toán. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài
chính phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng sự khẳng định
công việc kiểm toán được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán (Chuẩn mực kiểm
toán quốc gia, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận).
Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán nêu trên chỉ khả năng của kiểm toán
viên khi thực hiện các thủ tục kiểm toán phải được dựa trên cơ sở chuẩn mực kiểm
toán và được vận dụng các quy định này tùy theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này
là cần thiết để đảm bảo cho người sử dụng báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
hiểu rằng cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
212
thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên đã thực hiện các thủ tục kiểm
toán khác thì cần phải ghi rõ trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải nêu những công việc và thủ tục kiểm
toán mà kiểm toán viên đã thực hiện, gồm:
o Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản,...) những bằng chứng
kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong báo cáo tài chính;
o Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp
nhận); Các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo
tài chính;
o Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được Giám đốc (hoặc
người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính;
o Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính.
o Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp
những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên.
Ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính:
Có 4 loại ý kiến mà kiểm toán viên có thể trình bày trên báo cáo kiểm toán về báo
cáo tài chính tùy thuộc vào kết quả của cuộc kiểm toán:
(1). Ý kiến Chấp nhận toàn phần: Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính đưa ra ý
kiến Chấp nhận toàn phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và
công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên
các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù
hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp
nhận). ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về
nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một
cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. ý
kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là
hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu. ý kiến
chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả các trường hợp: Báo cáo tài chính được
kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã
điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên; Báo cáo tài chính sau khi điều chỉnh
đã được kiểm toán viên chấp nhận. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có
một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến
báo cáo tài chính, nhưng không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán về báo cáo
tài chính. Đoạn nhận xét này thường đặt sau đoạn đưa ra ý kiến nhằm giúp người
đọc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
(2). Ý kiến Chấp nhận từng phần: Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính đưa ra ý
kiến Chấp nhận từng phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và
công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý
trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh
hưởng bởi yếu tố tùy thuộc mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán
về báo cáo tài chính. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do kiểm toán viên
nêu ra trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính có ảnh hưởng trọng yếu đến
báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
213
trên các khía cạnh trọng yếu. Yếu tố tùy thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không
chắc chắn, như các vấn đề liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hoặc một khoản doanh thu có thể không được công nhận làm ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Yếu tố tùy thuộc của kiểm toán viên
thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng
kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc đưa ra ý kiến tùy thuộc cho phép kiểm
toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người
đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra.
Ý kiến Chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho
rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp
nhận do không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn, là
quan trọng nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức
có thể dẫn đến “Ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận”. Ý kiến chấp nhận
từng phần còn được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ” ảnh hưởng của các vấn đề
không được chấp nhận, bằng mẫu câu: “ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) của
những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu...”.
(3). Ý kiến Từ chối (Không thể đưa ra ý kiến): Ý kiến từ chối được đưa ra trong trường
hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông
tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên
không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý
kiến về báo cáo tài chính.
(4). Ý kiến Không chấp nhận/Bác bỏ: Loại Ý kiến không chấp nhận được đưa ra trong
trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan
đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý
kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng
yếu của báo cáo tài chính.
Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính:
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ
công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng
kiểm toán viên đã xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng đến báo cáo tài chính,
hoặc báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính cho đến tận ngày ký báo cáo kiểm toán
về báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải ghi rõ địa điểm
(Tỉnh, Thành phố) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm
phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính. Ngày ký báo cáo kiểm toán về báo
cáo tài chính không được ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị ký
báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá
trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính được phép ghi
cùng ngày với ngày ký báo cáo tài chính.
Chữ ký và đóng dấu:
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải ký rõ tên của kiểm toán viên là người
chịu trách nhiệm kiểm toán, và ký rõ tên của Giám đốc (hoặc người được ủy quyền)
của công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo
tài chính.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
214
Ví dụ về một Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính
Số 234/2016/VNIFC- BCKT
BÁO CÁO KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Kính gửi: Ban giám đốc Công ty Nhựa ABC
Chúng tôi đã tiến hành kiểm toán Bảng cân đối kế toán ngày 31/12/2016 cùng
với Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Nhựa ABC cho năm tài chính
kết thúc cùng ngày, Báo cáo tài chính đó được lập theo nguyên tắc kế toán được
thừa nhận chung tại Việt Nam như đó trình bày trong thuyết minh số 2 của thuyết
minh BCTC.
Trách nhiệm của Ban giám đốc
Như đã trình bày trong báo cáo của Ban gám đốc tại trang 2-4, Ban giám đốc
của công ty có trách nhiệm lập BCTC. Trách nhiệm của Kiểm toán viên là đưa ra ý
kiến về BCTC này dựa trên kết quả của cuộc kiểm toán.
Cơ sở ý kiến
Chúng tôi đó thực hiện kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Các chuẩn mực này yêu cầu chúng tôi phải lập kế hoạch và tiến hành kiểm toán để
đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng BCTC không có sai phạm trọng yếu. Công việc
kiểm toán bao gồm việc kiểm tra trên cơ sở chọn mẫu các bằng chứng có liên quan
đến số liệu và thông tin trình bày trên BCTC. Chúng tôi đồng thời đánh giá nguyên
tắc kế toán được sử dụng và các ước tính quan trọng của Ban giám đốc cũng như
đánh giá tổng quát tính đúng đắn của việc trình bày các thông tin trên BCTC.
Chúng tôi tin tưởng rằng, công việc kiểm toán đó cung cấp cơ sở hợp lý cho ý kiến
của chúng tôi.
Tuy nhiên, công việc kiểm toán của chúng tôi bị hạn chế bởi một số vấn đề sau:
Chúng tôi không tham gia kiểm kê tiền mặt, hàng tồn kho, TSCĐ và khối
lượng công trình xây dựng cơ bản dở dang của công ty tại ngày 31/12/2016. Theo
đó, chúng tôi không đưa ra ý kiến nhận xét về tính đúng đắn về giá trị và sự hiện
hữu của tiền mặt, hàng tồn kho, TSCĐ, công trình xây dựng cơ bản dở dang cũng
như ảnh hưởng của các khoản mục này tới các khoản mục khác được trình bày
trên BCTC.
Ý kiến kiểm toán viên
Theo ý kiến của chúng tôi, BCTC sau khi đó được điều chỉnh theo ý kiến
kiểm toán viên đó phản ánh trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình
hình tài chính của công ty tại thời điểm 31/12/2016 cũng như kết quả hoạt động
kinh doanh cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với các nguyên tắc kế
toán được chấp nhận chung tại Việt Nam.
Tổng giám đốc Kiểm toán viên
Nguyễn Nguyễn Thương Hương
(CCKTV số 9000/BTC) (CCKTV số 9700/BTC)
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
215
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Trước khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến về độ tin cậy, tính trung thực, khách quan của thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải xem xét thận trọng những vấn đề khác nhau
có liên quan tới báo cáo tài chính, ảnh hưởng tới người sử dụng thông tin. Những vấn đề được
kiểm toán viên tập trung xem xét như: báo cáo có được trình bày phù hợp không; có phản ánh
những sự kiện sau ngày lập báo cáo cho tới trước khi kết thúc công việc kiểm toán; kiểm tra giả
thiết hoạt động liên tục.
Kiểm toán viên phải đảm bảo rủi ro kiểm toán được giữ ở mức thấp hợp lý. Một chương trình
đánh giá nội bộ có thể trợ giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đảm bảo không có bất
cứ một thủ tục kiểm toán then chốt nào bị bỏ qua và có đủ bằng chứng thuyết phục cho ý kiến
kiểm toán.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
216
BÀI TẬP THỰC HÀNH
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày những bước công việc cơ bản mà kiểm toán viên phải thực hiện để kết thúc kiểm
toán báo cáo tài chính của công ty khách hàng?
2. Kiểm toán viên có phải thực hiện những bước kiểm tra tiếp theo không sau khi kết thúc kiểm
toán? Khi nào kiểm toán viên phải thực hiện điều chỉnh trên báo cáo tài chính?
3. Trình bày những loại ý kiến của kiểm toán viên trình bày trong báo cáo kiểm toán báo cáo tài
chính cùng với điều kiện đưa ra loại ý kiến đó?
4. Thư xác nhận của quản lý là gì? Đặc trưng cơ bản và việc sử dụng thư xác nhận hay giải trình
của nhà quản lý? Sự khác biệt giữa thư xác nhận/giải trình của nhà quản lý và thư quản lý?
5. Kiểm toán viên nên xác định những loại sự kiện xảy ra sau nào trong quá trình thực hiện
công việc kết thúc kiểm toán? Mỗi loại sự kiện trên cần được thể hiện trên báo cáo tài chính
như thế nào?
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Báo cáo kiểm toán xét về bản chất là sự bảo đảm chắc chắn của kiểm toán viên rằng các báo
cáo tài chính trình bày trung thực.
2. Ý kiến trái ngược được đưa ra khi báo cáo tài chính trình bày không tuân thủ, hợp lý đối với
các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận rộng rãi.
3. Kiểm toán viên có thể không bao giờ đưa ra loại ý kiến chấp nhận toàn phần khi báo cáo tài
chính sai lệch trọng yếu so với các nguyên tắc kế toán được thừa nhận rộng rãi.
4. Nhìn chung, kiểm toán viên thường phát hành loại báo cáo dạng chấp nhận từng phần nếu
khách hàng không cho phép kiểm toán viên quan sát, kiểm kê hàng tồn kho hoặc gửi thư xác
nhận các khoản phải thu.
5. Đoạn mở đầu của báo cáo kiểm toán có nêu rõ trách nhiệm của Ban giám đốc đối với báo cáo
tài chính được kiểm toán.
6. Kiểm toán viên có thể phát hành các loại báo cáo kiểm toán khác nhau cho các năm kiểm
toán khác nhau của cùng một khách hàng.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Một khách hàng của công ty được kiểm toán báo cáo tài chính nắm giữ 25% cổ phiếu đang
lưu hành sau khi kết thúc năm cho tới trước khi cuộc kiểm toán hoàn thành. Kiểm toán viên
nên làm gì?
A. Khuyên ban quản trị công bố thông tin này trong thuyết minh báo cáo tài chính.
B. Phát hành báo cáo tài chính tương đối cung cấp những ảnh hưởng từ việc sở hữu cổ phần
ngay khi việc nắm giữ cổ phần xảy ra vào thời điểm kết thúc năm.
C. Khuyên ban quản trị thực hiện điều chỉnh số dư để phản ánh lượng cổ phần nắm giữ.
D. Công bố việc nắm giữ cổ phần trong đoạn ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán.
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
217
2. Thông tin nào dưới đây là một thủ tục phân tích nên được áp dụng với báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh?
A. Lựa chọn những khoản mục doanh thu và chi phí và đối chiếu số tiền với những tài liệu
bổ trợ liên quan.
B. Chắc chắn rằng thu nhập thuần trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ khớp đúng với thu nhập
thuần trên báo cáo kết quả kinh doanh.
C. Thu thập thư quản lý của công ty khách hàng, số lượng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ, từ đó
kiểm toán viên xác định giá vốn hàng bán.
D. So sánh doanh thu và chi phí thực tế với những số liệu tương ứng của kỳ trước và điều tra
những khác biệt phát hiện được.
3. Một lý do giải thích tại sao kiểm toán viên độc lập thực hiện thủ tục phân tích với những hoạt
động của công ty khách hàng là để xác định:
A. những yếu điểm của bản chất trọng yếu trong hoạt động kiểm soát nội bộ.
B. sự không tuân thủ với những thủ tục kiểm soát đã thiết kế.
C. việc phân chia trách nhiệm tài chính khác với chức năng kế toán.
D. những nghiệp vụ bất thường.
4. Nếu báo cáo tài chính có chứa đựng một sai phạm trọng yếu nhưng không ảnh hưởng lan tỏa
thì kiểm toán viên nên xem xét đưa ra ý kiến:
A. ý kiến chấp nhận từng phần với sự đối chiếu tới điểm xuất phát của ý kiến.
B. ý kiến trái ngược với phần giải thích về giới hạn phạm vi kiểm toán.
C. ý kiến trái ngược với phần đối chiếu với điểm xuất phát của ý kiến này.
D. ý kiến bác bỏ.
5. Thông tin nào dưới dây không phải là một thủ tục kiểm toán được kiểm toán viên thực hiện
để tìm kiếm những sự kiện quan trọng trong giai đoạn sau ngày kết thúc niên độ kế toán?
A. Rà soát biên bản của các cuộc họp của Hội đồng giám đốc/quản trị.
B. Rà soát những báo cáo tài chính giữa niên độ sau cùng.
C. Phỏng vấn về những điều chỉnh không thông thường được thực hiện sau ngày kết thúc
niên độ kế toán.
D. Rà soát những thay đổi trong hoạt động kiểm soát nội bộ trong giai đoạn sau ngày lập
bảng cân đối kế toán.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
Công ty Hanam sử dụng phương pháp LIFO để đánh giá trị giá một bộ phận hàng tồn kho,
còn một phần khác Công ty sử dụng phương pháp bình quân gia quyền. Theo bạn, trong
trường hợp đó liệu kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến dạng chấp nhận toàn phần hay không?
Giải thích tại sao?
Bài tập 2
Vào ngày 15/06/2016, Hải – kiểm toán viên độc lập, đã chấp nhận một cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính cho Công ty Thao Lâm kết thúc ngày 31/12/2016. Công ty Thao Lâm trước đó
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
218
chưa hề được thực hiện kiểm toán bởi bất cứ công ty kiểm toán độc lập nào và Hải không có
đủ chứng cứ để hài lòng về tính trung thực của số dư đầu kỳ hàng tồn kho. Theo anh/chị thì:
a. Hải nên báo cáo về kết quả kiểm toán của mình như thế nào?
b. Hải nên từ chối đưa ra ý kiến hoặc đưa ra ý kiến dạng chấp nhận từng phần về bảng cân
đối kế toán kết thúc 31/12/2016, nhưng có thể đưa ra ý kiến dạng chấp nhận toàn phần về
báo cáo kết quả kinh doanh và bảng lưu chuyển tiền tệ hay không?
c. Hải cần từ chối đưa ra ý kiến về toàn bộ báo cáo tài chính hay không?
d. Hải có thể đưa ra ý kiến dạng chấp nhận toàn phần về toàn bộ báo cáo tài chính vì sự thay đổi
hàng tồn kho trong năm giữa số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ là không trọng yếu hay không?
e. Hải có thể từ chối cho ý kiến hoặc đưa ra ý kiến loại chấp nhận từng phần về báo cáo kết
quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ, nhưng có thể đưa ra ý kiến loại chấp nhận
toàn phần về bảng cân đối kế toán kết thúc ngày 31/12/2016 hay không?
Bài tập 3
Trong chuẩn mực kiểm toán quy định sự thay đổi về phương pháp kế toán áp dụng từ phương
pháp kế toán này sang một phương pháp kế toán khác nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của
chuẩn mực kế toán liên quan hoặc của GAAP (ở Mỹ) không cản trở kiểm toán viên phát hành
loại báo cáo kiểm toán dạng chấp nhận toàn phần. Dưới quan điểm của kiểm toán viên thực
hiện những công việc để kết thúc cuộc kiểm toán, theo anh/chị, sự ảnh hưởng của thay đổi đó
sẽ được trình bày đầy đủ và trung thực trên thuyết minh báo cáo tài chính như thế nào?
Bài 7: Kết thúc kiểm toán báo các tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
219
ĐÁP ÁN
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Trách nhiệm của kiểm toán viên là phải thực hiện kiểm tra và thu thập bằng chứng nhằm
bảo đảm chắc chắn các báo cáo tài chính trình bày trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng
yếu (nhưng không bảo đảm tuyệt đối).
2. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Khi không tuân thủ các nguyên tắc kế toán trong lập và trình bày thông tin và có đủ bằng
chứng, kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến trái ngược/bác bỏ.
3. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Đây là một trong số những vi phạm nghiêm trọng chắc chắn ảnh hưởng tới báo cáo tài
chính và người đọc. Vì vậy, ngay cả khi có điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, thì ý
kiến của kiểm toán viên không thể là chấp nhận hoàn toàn. Mặt khác, việc điều chỉnh này
khó có thể thực hiện được.
4. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Trong điều kiện, kiểm toán viên không thể quan sát kiểm kê hàng tồn kho hoặc gửi thư
xác nhận các khoản phải thu, kiểm toán viên sẽ không thể xác nhận được về độ tin cậy của
thông tin về giá trị của 2 khoản mục này. Vì thế, kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến ngoại trừ (2
khoản mục này).
5. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Đây có thể coi là những thông tin đưa ra cam kết của Ban quản lý về việc trình bày thông
tin trung thực, khách quan.
6. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Ý kiến của kiểm toán viên phụ thuộc vào kết quả kiểm tra, thể hiện bằng bằng chứng thu
thập được. Giữa các năm kiểm toán khác nhau, các sự kiện khác nhau,… thông tin được trình
bày khác nhau và đương nhiên ảnh hưởng tới kiểm toán.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đáp án đúng là: A. Khuyên ban quản trị công bố thông tin này trong thuyết minh báo cáo tài chính.
Vì: Tỷ lệ sở hữu có thể ảnh hưởng tới việc thực hiện cũng như những nghĩa vụ hay ghi chép
nghiệp vụ và kết quả của các nghiệp vụ liên quan. Việc công bố thông tin này trên thuyết
minh là cần thiết để cung cấp thông tin đầy đủ về sự tồn tại của những bên liên quan.
2. Đáp án đúng là: D. So sánh doanh thu và chi phí thực tế với những số liệu tương ứng của kỳ
trước và điều tra những khác biệt phát hiện được.
Vì: Đây là cách kiểm tra tính hợp lý của doanh thu, chi phí với kỳ trước; Kiểm tra sự hợp lý
của doanh thu với chi phí trong quan hệ với biến động giữa các kỳ. Cách kiểm tra này giúp
kiểm toán viên có thể đánh giá tổng thể về sự hợp lý thông qua báo cáo kết quả kinh doanh.
3. Đáp án đúng là: D. những nghiệp vụ bất thường.
Bài 7: Kết thúc báo cáo kiểm toán tài chính
ACC509_Bai7_v2.0018103215
220
Vì: Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán cũng như những giai đoạn trước đó, thủ tục phân tích
là thủ tục kiểm toán phổ biến, hiệu lực để phát hiện những biến động bất thường, từ đó tìm
kiếm khả năng có sai phạm trọng yếu. Kết quả thực hiện thủ tục phân tích giúp kiểm toán
viên xác định những nghiệp vụ bất thường.
4. Đáp án đúng là: A. ý kiến chấp nhận từng phần với sự đối chiếu tới điểm xuất phát của ý kiến.
Vì: Sai phạm trọng yếu và không ảnh hưởng lan tỏa tới mức bác bỏ báo cáo tài chính thì
kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần.
5. Đáp án đúng là: D. Rà soát những thay đổi trong hoạt động kiểm soát nội bộ trong giai đoạn
sau ngày lập bảng cân đối kế toán.
Vì: Vì nó không ảnh hưởng hoặc ít có liên hệ tới thông tin trình bày trên báo cáo tài chính
của năm kiểm toán.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
Có thể.
Vì: Việc đưa ra ý kiến này phụ thuộc vào bằng chứng kiểm toán dẫn đến kết luận kiểm toán
viên về các khoản mục trên báo cáo tài chính được phản ánh một cách trung thực, khách quan
trên các khía cạnh trọng yếu mà không phải dựa vào việc sự khác biệt trong phương pháp kế
toán của công ty này với công ty khác; phương pháp được vận dụng không đi ngược lại
những quy định có liên quan. Tuy nhiên, sự trong một tình huống cụ thể, kiểm toán viên cần xem
xét về sự khác biệt giữa phương pháp đánh giá của 2 công ty về hàng tồn kho tương tự nhau có
thể hàm chứa những thông tin hữu ích về phương pháp tính giá tồn kho có phù hợp không.
Bài tập 2
a. Hải cần chỉ ra những giới hạn trong phạm vi kiểm toán có thể dẫn đến những loại ý kiến
cụ thể ngoài ý kiến chấp nhận từng phần. Với khoản mục tồn kho, đánh giá giá trị của tồn
kho dựa trên kiểm tra tồn kho cuối kỳ, trong đó thủ tục chứng kiến kiểm kê là một thủ tục
không thể thay thế. Trong trường hợp như vậy, ý kiến của kiểm toán viên phụ thuộc vào
kết quả kiểm tra hàng tồn kho cuối kỳ, đánh giá tồn cuối kỳ có thể làm cơ sở để kiểm tra
tồn đầu kỳ.
b. Không! Các báo cáo có liên hệ chặt chẽ với nhau, đặc biệt là báo cáo kết quả kinh doanh.
Mặc dù vậy, kiểm toán viên vẫn cần xem xét tình huống cụ thể dẫn tới kết luận từ chối
đưa ra ý kiến.
c. Không! Xem phân tích câu a.
d. Không! Ý kiến chấp nhận toàn phần hay ý kiến khác phụ thuộc vào bằng chứng kiểm
toán viên thu thập được hoặc không thu thập đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
e. Không! Xem giải thích b.
Bài tập 3
Kế toán cần phải thuyết minh về sự thay đổi cũng như việc áp dụng một nguyên tắc kế toán
thay thế. Đánh giá sự khác biệt và công bố thông tin về ảnh hưởng của những thay đổi là cần
thiết đối với người sử dụng và là nghĩa vụ phải công bố từ phía doanh nghiệp.