Upload
others
View
9
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh
NGUYÔN KH¾C Hµ
X¢Y DùNG §éi ngò c¸n bé l·nh ®¹o, qu¶n lýchuyªn tr¸ch c«ng t¸c thi ®ua, khen thëng
ë níc ta giai ®o¹n hiÖn nay
luËn ¸n tiÕn sÜ khoa häc chÝnh trÞ
Hµ Néi – 2014
Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh
NguyÔn kh¾c hµ
X¢Y DùNG §éi ngò c¸n bé l·nh ®¹o, qu¶n lýchuyªn tr¸ch c«ng t¸c thi ®ua, khen thëng
ë níc ta giai ®o¹n hiÖn nay
Chuyªn ngµnh: X©y dùng §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam M· sè: 62 31 23 01
luËn ¸n tiÕn sÜ khoa häc chÝnh trÞ
Ngêi híng dÉn khoa häc: PGS, TS Lª Kim ViÖt
Hµ Néi - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận án là
trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Khắc Hà
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CBLĐQL Cán bộ lãnh đạo quản lý
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
HTCT Hệ thống chính trị
Nxb Nhà xuất bản
TĐKT Thi đua, khen thưởng
TW Trung ương
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”[105, tr. 269]; “công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”[105, tr. 273]. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ, đặc biệt
là cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐQL) các ngành, các cấp. Đây là đội ngũ
cán bộ quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, các
cấp, các ngành và thắng lợi của cách mạng. Nhờ luôn chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, Đảng đã đề ra đường lối, các chủ trương, nghị quyết đúng đắn và
triển khai thực hiện với quyết tâm chính trị cao, đạt kết quả to lớn. Đội ngũ
cán bộ các ngành, các cấp ở nước ta, trong đó có đội ngũ CBLĐQL được xây
dựng ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng đưa cách mạng nước ta đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,
HĐH) đất nước, với mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề và có nhiều mới mẻ,
được thực hiện trong điều kiện có nhiều thời cơ, thuận lợi, nhưng cũng gặp
không ít khó khăn, thách thức quyết liệt, đội ngũ cán bộ nói chung, CBLĐQL
nói riêng càng có vai trò rất quan trọng. Nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc
đổi mới chỉ có thể được hoàn thành khi xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là
CBLĐQL có chất lượng tốt. Bởi “cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng…”[57, tr. 66]. Tổng kết 10 năm
thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng ta
tiếp tục nhấn mạnh: “Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”[64,
2
tr. 239-240]. Đồng thời, Đảng chỉ rõ "Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
dạo, quản lý trên các lĩnh vực.... những tài năng và những chuyên gia giỏi trên
các lĩnh vực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..."[64, tr. 241]. Xây dựng đội ngũ
cán bộ, nói chung, đội ngũ CBLĐQL, các chuyên gia giỏi các ngành, các cấp,
nói riêng đã trở thành nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và được toàn Đảng,
các cấp uỷ đảng và cả hệ thống chính trị (HTCT) triển khai thực hiện. Nhờ đó,
chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ, kể cả đội ngũ CBLĐQL, các
chuyên gia hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu, nhiệm vụ của
công cuộc đổi mới. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội (CNXH), Đảng phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐQL, các
chuyên gia trên các lĩnh vực có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, cao về
chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng.
Xây dựng đội ngũ CBLĐQL có chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công cuộc đổi mới những năm tới phải được tiến hành đồng bộ ở các cấp, các
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong đó, xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng (TĐKT) là một bộ phận rất quan
trọng, bởi TĐKT đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, TĐKT lại càng có vai trò và tác dụng đối với
sư nghiệp đổi mới. Đó là động lực thúc đẩy những cá nhân, tập thể năng động,
sáng tạo tìm tòi các giải pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển.
Để phát huy vai trò, tác dụng của TĐKT trong giai đoạn hiện nay, Bộ Chính
trị đã ban hành Chỉ thị 35-CT/TW ngày 3/6/1998 “Về đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong giai đoạn mới”; tiếp theo là Chỉ thị số 39-CT/TW,
3
ngày 21/5/2004 “Về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”. Gần đây, Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa X) có Kết luận số 83-KL/TW ngày 30-8-2010
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW của Bộ Chính trị, trong đó nhấn mạnh
phải tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước và xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt.
Thực hiện các chỉ thị, kết luận nêu trên, việc xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã có chuyển biến tích cực trên tất cả
các khâu, như: cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ; quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ và thực hiện
chính sách cán bộ... Nhờ đó, chất lượng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT đã được nâng lên một bước: số lượng và cơ cấu từng bước được cải
thiện; bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ mọi mặt, năng
lực và tính chuyên nghiệp trong công việc được nâng lên, tích lũy được nhiều
kinh nghiệm công tác; từng bước đáp ứng yêu cầu công tác TĐKT của ngành,
địa phương, cơ quan, đơn vị trong thời kỳ mới...
Tuy nhiên, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém về nhiều mặt: Số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ chưa
phù hợp; nhiều cán bộ thiếu hụt kiến thức về quản lý nhà nước, pháp luật, kinh
tế thị trường và kiến thức về các khoa học khác, nên còn lúng túng và có sai sót
trong công việc, nhất là về chỉ đạo các phong trào thi đua trong các lĩnh vực,
các giai tầng xã hội và trong thẩm định hồ sơ khen thưởng. Một số cán bộ chưa
đáp ứng tốt nhiệm vụ tổ chức triển khai, kiểm tra các phong trào thi đua và
tham mưu các giải pháp quản lý nhà nước về TĐKT đạt hiệu quả. Bởi vậy,
chưa ngăn chặn một cách cơ bản tình trạng một số ngành, địa phương, đơn vị
tuỳ tiện đặt ra các hình thức tôn vinh không đúng quy định của Luật TĐKT, cá
biệt còn để xảy ra một số trường hợp lợi dụng TĐKT nhằm tạo danh hiệu cho
cá nhân và tập thể vì mục đích riêng.
4
Nhìn một cách tổng thể, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT mới cơ bản đáp ứng yêu cầu về thẩm định hồ sơ khen thưởng cho tập
thể và cá nhân ở một số ngành, lĩnh vực nhất định nên đã xảy ra những sai sót,
gây phức tạp... Tình trạng khá phổ biến là hẫng hụt CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT kế cận có trình độ quản lý, chuyên môn cao và có nhiều kinh
nghiệm công tác. Việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, nổi lên là: tiêu chuẩn chức danh
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT tuy đã được cụ thể hóa, song vẫn còn
chung chung, hạn chế kết quả thực hiện các khâu của công tác cán bộ; quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT tuy đã được nhiều nơi xây dựng,
song việc thực hiện quy hoạch còn nhiều lúng túng, nhất là việc đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển cán bộ; quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ
vẫn là khâu yếu; chưa tạo được sự liên thông trong công tác cán bộ giữa Ban
TĐKT trung ương với các địa phương, ban ngành, đơn vị...
Bởi vậy, nghiên cứu một cách toàn diện, tìm giải pháp khả thi nhằm
phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm nêu trên, xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT trong những năm tới là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Để góp phần giải quyết vấn đề cấp bách nêu trên, tôi chọn và thực hiện
đề tài luận án tiến sĩ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay”.2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đíchTrên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta giai đọan hiện nay, luận
án đề xuất những giải pháp chủ yếu, khả thi nhằm xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác TĐKT trong
những năm tới.
5
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện các mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Luận giải rõ những vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta giai đọan hiện nay, gồm: khái niệm, vai
trò, đặc điểm của công tác TĐKT và đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT; khái niệm, nội dung, phương thức xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT...
- Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT ở nước ta và thực trạng việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT từ năm 2001 đến nay, chỉ ra nguyên nhân, kinh
nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án khảo sát, nghiên cứu thực trạng CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT và thực trạng xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT của các Vụ, Ban, Phòng TĐKT thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, các ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương; các tổng
công ty, tập đoàn kinh tế Nhà nước và của cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực tiễn từ năm 2001 đến nay.
6
Phương hướng, giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ và về TĐKT.
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta trong
những năm qua.
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời sử dụng các phương pháp: logic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống
kê, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Khái niệm : Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT là toàn bộ hoạt động của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, ở
ban, bộ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ở trung ương, ở các tổng
công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, cán bộ, đảng viên và các tổ chức có liên
quan về thực hiện các khâu của công tác cán bộ nhằm tạo nên đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có phẩm chất chính trị, phẩm chất
đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo, quản lý và tham mưu đề xuất, là những
chuyên gia trong lĩnh vực TĐKT.
- Ba kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT từ năm 2001 đến nay:
Một là, cấp uỷ địa phương, đơn vị cần nhận thức đúng đắn về vai trò,
tác dụng, yêu cầu của công tác TĐKT và tầm quan trọng của việc xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay; trên
cơ sở đó, đề ra các chủ trương, giải pháp đúng, có quyết tâm chính trị cao
trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện là nhân tố quan trọng hàng đầu để xây dựng
đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đạt kết quả.
7
Hai là, cấp ủy tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo của cấp trên và kết hợp
chặt chẽ với Ban TĐKT Trung ương trong công tác cán bộ nói chung và xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng trong tất cả
các khâu của công tác cán bộ, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh,
nâng cao tính chuyên nghiệp cho đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Ba là, các cấp ủy đảng cần coi trọng công tác tạo nguồn và thực hiện
tốt công tác quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, mạnh dạn đưa
những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực, có triển vọng vào dự nguồn các chức
danh LĐQL công tác TĐKT ở cơ cơ quan, địa phương, đơn vị mình.
- Hai giải pháp đột phá: Tăng cường công tác tạo nguồn và quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng và
luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT theo chiều dọc giữa các
địa phương, bộ, ban với Ban TĐKT Trung ương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
ở nứơc ta giai đọan hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong quá trình xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong những năm tới. Đồng
thời, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập và
nghiên cứu tại Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ thuộc Ban TĐKT Trung ương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐQL các cấp trong giai đoạn
hiện nay thu hút nhiều cơ quan và các nhà khoa học nghiên cứu từ những góc
độ khác nhau, ở các địa bàn khác nhau. Kết quả nghiên cứu của nhiều công
trình đã được công bố trên sách, báo, tạp chí và được thể hiện trong các tham
luận hội thảo khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ... Sau đây là một số
công trình tiêu biểu:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TRONG NƯỚC
1.1.1. Đề tài khoa học
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.04.09, “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân” của Bộ Nội vụ (2002-2004) [122].
Đề tài nêu bật sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng đòi hỏi xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Trong đó, đề cập đến một số tiêu chuẩn và giải pháp xây dựng đội ngũ
CBLĐQL các cấp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân hiện nay, nhấn mạnh
những quy định về pháp lý đối với trách nhiệm cá nhân từng chức danh
CBLĐQL và đề xuất các giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ này,
theo chức danh cán bộ thay vì đào tạo, bồi dưỡng chung tất cả cán bộ ở các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước hiện nay.
Một số kết quả nghiên cứu của đề tài rất bổ ích cho việc thực hiện luận
án, nhất là về đề xuất giải pháp đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT theo chức danh.
9
- Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005, KX. 05. 6,
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Vũ Văn Hiền làm Chủ
nhiệm [70].
Các nhà khoa học đã làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xây dựng đội ngũ CBLĐQL nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước; phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng đội ngũ CBLĐQL ở
nước ta hiện nay, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, nhấn mạnh nguyên
nhân của khuyết điểm. Đồng thời, khẳng định nguyên nhân chủ yếu của
những ưu điểm và khuyết điểm của đội ngũ CBLĐQL thuộc về những ưu,
khuyết điểm của công tác cán bộ. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ
yếu xây dựng đội ngũ CBLĐQL đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế.
Nhiều nội dung của đề tài có giá trị tham khảo quan trọng đối với luận
án để đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT.
- Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005, KX.05. 07,
Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, do Thang Văn
Phúc làm chủ nhiệm [121].
Các nhà khoa học đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay, khảo sát, đánh
giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức và thể chế quản lý cán bộ, công
chức hiện nay; đưa ra những kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức của một số nước trên thế giới. Một nội dung quan trọng được
trình bày là tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, trong đó đã phân
tích quan điểm của Người về vai trò, phương pháp xây dựng đội ngũ cán bộ;
phân tích nội dung, các quan điểm và nguyên tắc đổi mới cán bộ và công
10
tác cán bộ của Đảng ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu
tham khảo bổ ích đối với tác giả luận án trong việc làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn của luận án.
- Đề tài khoa học cấp bộ năm 2011, Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, do Trần Minh Tuấn làm chủ nhiệm [144].
Đề tài đã luận giải rõ yêu cầu cấp thiết hiện nay về đào tạo, bồi dưỡng
CBLĐQL theo chức danh; công tác đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL theo chức
danh tại Học viện từ 2005 đến nay – thực trạng và những vấn đề đặt ra cần
giải quyết; quan điểm và những giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng CBLĐQL theo chức danh tại Học viện. Trong đó, một số giải
pháp có giá trị: xác định đối tượng và mục tiêu đào tạo; đổi mới chương
trình đào tạo; phân định rõ các chương trình đào tạo và các chương trình
bồi dưỡng; mỗi chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới một loại
đối tượng cụ thể và từng chức danh; chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải
đa dạng, mang tính “mềm” và phải tiến tới theo nhu cầu của người học, sát
với từng chức danh đào tạo; phải nâng cao chất lượng giảng viên, báo cáo
viên và đổi mới quá trình dạy và học theo hướng tích cực…
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo tốt để tác giả luận án
làm rõ cơ sở lý luận và giải pháp đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
- Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước (2010-2013), Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay, Mã
số: 02/2010, do Trần Thị Hà làm chủ nhiệm [71].
Các nhà khoa học đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận chung về
công tác TĐKT, đưa ra các khái niệm thi đua, khái niệm khen thưởng; ý
nghĩa, bản chất của TĐKT; mối quan hệ biện chứng giữa thi đua và khen
thưởng; quản lý nhà nước về TĐKT; hệ thống hóa những quan điểm của chủ
11
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về TĐKT.
Đề tài cũng đề cập đến những vấn đề chủ yếu về TĐKT ở các nước: Liên-Xô
(trước đây); chế độ khen thưởng của Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp; Trung
Quốc...cùng những kinh nghiệm có giá trị.
Đề tài đã tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng công tác TĐKT và
quy định của pháp luật về TĐKT; tổ chức, bộ mày và cán bộ làm công tác
TĐKT, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân. Đồng thời, nêu mục tiêu, nội
dung, các giải pháp chủ yếu đổi mới công tác TĐKT trong giai đọan hiện nay
và các kiến nghị. Các kiến nghị của Đề tài, gồm: Đề nghị Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết để tiếp tục phát huy truyền thống thi đua yêu nước và sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011- 2016); kiến nghị Quốc hội sớm sửa đổi, bổ
sung Luật TĐKT; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu
nước gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đổi mới
hoạt động của các cơ quan truyền thông để tuyên truyền các gương điển hình
tiên tiến; ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống tổ chức TĐKT; củng
cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng TĐKT các cấp; đẩy mạnh
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác TĐKT; thành lập
Viện Nghiên cứu bồi dưỡng, đào tạo cán bộ TĐKT.
Kết quả nhiên cứu của Đề tài có giá trị tham khảo tốt, trực tiếp để giúp
tác giả thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận án, nhất là một số nội dung về
công tác cán bộ.
1.1.2. Sách
- Trần Xuân Sầm (chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội [131].
Cuốn sách đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, như: việc phát hiện, lựa chọn, đào tạo, rèn
12
luyện nhà cách mạng chủ yếu là qua phong trào đấu tranh cách mạng của
quần chúng. Để cách mạng giành thắng phải tạo được đội ngũ cán bộ đủ sức
gánh vác nhiệm vụ cách mạng. Khi cách mạng chuyển giai đoạn phải có sự
thay đổi cần thiết trong cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ. Các tác giả chỉ rõ, cán bộ
phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ lãnh đạo; đồng thời phải tích cực
tu dướng rèn luyện các đức tính khiêm tốn, ham học hỏi, không giấu dốt,
thường xuyên tự phê bình và phê bình, không chủ quan tự mãn, gặp thất bại
không nản chí… Đây là những phẩm chất thuộc tiêu chuẩn hàng đầu của
người cán bộ lãnh đạo.
Qua khảo sát, phân tích thực trạng cơ cấu tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
chủ chốt, xuất phát từ yêu cầu công cuộc đổi mới, các tác giả đưa ra tiêu
chuẩn chung đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt trên các mặt: chính trị, đạo đức,
trình độ, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật... Đồng thời, đề xuất một số giải
pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt theo cơ cấu, tiêu
chuẩn đã dược các tác giả đề ra. Các tác giả cũng luận bàn và nhấn mạnh việc
cụ thể hóa cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ cho từng tổ chức, từng cấp, từng ngành.
- Nguyễn Phú trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), (2001), Luận
cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội [143].
Cuốn sách đã luận giải sâu sắc cơ sở lý luận và phương pháp luận của
việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đưa ra và phân tích rõ những kinh nghiệm
xây dựng tiêu chuẩn cán bộ của Đảng ta phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng
giai đoạn cách mạng, trong đó nhấn mạnh những tiêu chuẩn về phẩm chất
chính trị, lòng trung thành với Đảng, sự nghiệp cách mạng và với nhân dân,
phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực tổ chức thực tiễn... Đồng thời, đưa ra
những quan điểm, phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
13
bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đặc biệt, nhấn mạnh nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ; tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác cán bộ, thực hiện tiêu
chuẩn hóa cán bộ; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, quản lý và
bảo vệ cán bộ; xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ; kiện toàn,
nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ; cải
cách tổ chức, bộ máy và cơ chế vận hành của HTCT.
Đề tài có giá trị tham khảo tốt để xây dựng các khái niệm và đề xuất
phương hướng, giải pháp của luận án.
- Vũ Minh Giang (2004), “Vấn đề luân chuyển quan lại trong lịch sử
trung đại Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội [89].
Tác giả chỉ rõ việc luân chuyển quan lại bắt đầu từ thời nhà Lý (1009 -
1015) đến cuối thế kỷ XIX và nêu một số nguyên tắc về bố trí, điều động quan
lại. Nhà Trần (1225 - 1400), đã áp dụng những nguyên tắc điều động, luân
chuyển quan lại của nhà Lý và đặc biệt coi trọng việc sử dụng những người
trong hoàng tộc và áp dụng chính sách thưởng phạt nghiêm minh kể cả quan
lại trong hoàng tộc. Nhà Trần còn quy định rõ thời hạn đánh giá thực hiện
công việc của quan lại, cứ 15 năm có hai lần xét duyệt, nếu không mắc sai
phạm thì sau 10 năm trấn trị thăng tước một cấp, 15 năm thăng một bậc. Nhà
Lê, nhà Nguyễn cũng tiến hành luân chuyển các quan lại.
Qua việc luân chuyển quan lại trong các triều đại phong kiến nước ta,
tác giả rút ra một số nhận xét có giá trị tham khảo đối với luận án: Điều động,
luân chuyển quan lại theo chiều dọc từ Trung ương về địa phương và ngược
lại từ địa phương về Trung ương; theo chiều ngang giữa các địa phương với
nhau và giữa các bộ phận trong triều đình với nhau; điều động, luân chuyển
14
quan lại ở địa phương không dùng người ở địa phương cai trị tại địa phương;
quy định rõ về thời gian luân chuyển (nhà Lê quy định 4 năm, nhà Nguyễn 6
năm); đánh giá thường xuyên (khảo khoá) làm cơ sở cho việc thăng - giáng
chức qua luân chuyển, điều động quan lại; việc thăng - giáng và phục hồi
chức của quan lại được tiến hành thường xuyên.
- Trần Đình Hoan (chủ biên), (2008) Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [75].
Các tác giả đã đưa ra và phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CBLĐQL thời kỳ CNH, HĐH đất nước;
khảo sát và đánh giá thực trạng việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
CBLĐQL những năm qua, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và tổng kết
được những kinh nghiệm có giá trị. Đặc biệt, các tác giả đã nêu kinh nghiệm
về đánh giá, luân chuyển, chuẩn bị quan lại của các triều đại phong kiến nước
ta và những kinh nghiệm về vấn đề này. Trên cơ sở đó, đưa ra những vấn đề
cần giải quyết đối với việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CBLĐQL ở
nước ta giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp có giá trị để thực
hiện tốt việc đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CBLĐQL ở nước ta những
năm tới.
- Trương Thị Thông và Lê Kim Việt (đồng chủ biên), (2008), Bệnh
quan liêu trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay - Thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [141].
Các tác giả đã đưa ra quan niệm về bệnh quan liêu trong công tác cán
bộ; phân tích sâu sắc nguồn gốc, bản chất và những tác hại của nó. Đặc biệt,
đã luận giải có sức thuyết phục những biểu hiện của bệnh quan liêu trong các
khâu của công tác cán bộ. Đồng thời, cũng phân tích những biểu hiện của
bệnh quan liêu ở chủ thể công tác cán bộ; khẳng định bệnh quan liêu do nhiều
15
nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu thuộc về chủ thể công tác cán bộ.
Trên cơ sở đó, cuốn sách cung cấp cho người đọc quan điểm, phương hướng
và những giải pháp có giá trị, khả thi nhằm phòng, chống bệnh quan liêu
trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách có giá trị tham khảo tốt đối với luận án nhất là về đề xuất
các giải pháp phòng chống bệnh quan liêu trong công tác cán bộ ngành TĐKT.
- Thân Minh Quế (2012), Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội [125].
Cuốn sách đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác
quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý ở các tỉnh miền
núi phía Bắc; phân tích rõ thực trạng đội ngũ cán thuộc diện Ban Thường vụ
tỉnh ủy quản lý và thực trạng xây dựng quy hoạch cán bộ này, chỉ ra ưu, khuyết
điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm bổ ích. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ tỉnh ủy các tỉnh miền núi phía Bắc quản lý, gồm: nâng cao nhận
thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí uỷ viên ban
thường vụ tỉnh uỷ và cấp uỷ viên các cấp, cán bộ lãnh đạo các cơ quan, đơn vị,
địa phương về công tác quy hoạch cán bộ; cụ thể hoá tiêu chuẩn từng chức
danh cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý phù hợp với từng tỉnh;
đánh giá cán bộ, tạo nguồn cán bộ dồi dào, nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu
số, cán bộ trẻ, cán bộ nữ; đổi mới, hoàn thiện nội dung, quy trình xây dựng quy
hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh ủy quản lý; thực hiện tốt việc
kiểm tra, rà soát, bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ; chủ động phát hiện,
khắc phục các biểu hiện tiêu cực, tư tưởng cục bộ khép kín, tự ti dân tộc; xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ....
16
1.1. 3. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Luận án tiến sĩ khoa học
chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [90].
Tác giả đã làm rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã và công tác cán bộ cấp xã; đánh giá thực trạng, nêu kinh nghiệm và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết; xác định rõ mục tiêu, quan điểm và đưa ra hệ
thống giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng
sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, các giải pháp đáng quan
tâm: tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
và quản lý, kiểm tra đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; xây dựng HTCT và
phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở để rèn luyện, bồi dưỡng, tuyển
chọn, kiểm tra cán bộ; tiếp tục hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ
cấp xã và tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ của cấp huyện.
Đây là luận án có giá trị tham khảo tốt, nhất là phần cơ sởp lý luận và
thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng
bằng sông Cửu Long và một số giải pháp.
- Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, Luận án tiến sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [132].
Luận án đã luận giải vị trí, vai trò, chức năng của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh; đánh giá đúing thực trạng đội ngũ cán bộ và việc xây
dựng đội ngũ cán bộ này, ở đồng bằng sông Hồng. Từ đó xác định nguyên nhân
của ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế và rút ra 5 kinh nghiệm có giá trị.
Luận án phân tích đặc điểm, vai trò, vị trí, yêu cầu CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và những vấn đề đặt ra
17
cần giải quyết; xác định tiêu chuẩn chung cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
và tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ. Đồng thời, đề xuất sáu giải pháp có giá
trị về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng sông
Hồng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- Huỳnh Văn Long (2003), Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch
uỷ ban nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi của
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Luận án Tiến sĩ Chính trị học,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [118].
Luận án đã làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng
đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) huyện ở đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay; khảo sát, phân tích thực trạng đội
ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện vùng này, từ 1996 đến 2003; đề
xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch
UBND huyện những năm tới. Trong đó, đáng chú ý là các giải pháp: đổi mới
công tác đánh giá cán bộ; nêu cao ý thức trách nhiệm cá nhân của cán bộ gắn
với việc đẩy mạnh phân cấp quản lý; tăng cường kiểm tra, giám sát thực thi
công vụ của CBLĐQL chủ chốt ở cấp huyện.
- Trần Thanh Sơn (2006), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc
diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
[133].
Luận văn đã làm sáng tỏ khái niệm CBLĐQL; đội ngũ CBLĐQL thuộc
Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý; vị trí, vai trò và đặc điểm của đội
ngũ cán bộ này; làm sáng tỏ quan niệm về luân chuyển CBLĐQL; nêu lên
những vấn đề có tính nguyên tắc và qui trình thực hiện luân chuyển CBLĐQL.
Đồng thời, phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác luân
chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý, những
18
kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém, chỉ ra những nguyên nhân, rút ra một số
kinh nghiệm bổ ích. Trên cơ sở đó, đề xuất sáu giải pháp khả thi tăng cường
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý
trong những năm tới. Luận văn có giá trị tham khảo đối với việc thực hiện
luận án ở một số vấn đề lý luận, thực tiễn về luân chuyển CBLĐQL thuộc
diện Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý.
- Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ hệ
thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ
khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam [134].
Luận án đã đề cập khá đầy đủ những vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt là nữ hệ HTCT xã ở đồng bằng sông Hồng; đánh giá rõ thực
trạng xây dựng đội ngũ cán bộ này từ năm 2001 đến nay, chỉ ra ưu, khuyết
điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm. Luận án đề xuất những giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ HTCT trị ở đồng bằng sông Hồng
những năm tới, gồm: Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ,
các tổ chức có liên quan. Thứ hai, tiếp tục cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ chủ
chốt của HTCT xã và nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ. Thứ ba, nâng cao chất lượng việc quản lý, đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm
cán bộ chủ chốt là nữ của HTCT xã. Thứ tư, phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học
tập, rèn luyện của cán bộ và thực hiện tốt chính sách cán bộ nữ. Thứ năm, phát
huy vai trò của đảng uỷ, các tổ chức trong HTCT xã và nhân dân, coi trọng vai
trò của Hội Liên hiệp phụ nữ xã. Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và
tạo điều kiện thuận lợi của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể huyện và cấp trên.
1.1.4. Các bài báo khoa học
- Võ Văn Kiệt (2005), Quản lý cán bộ phải sâu sát, chặt chẽ, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 08 [93].
Theo tác giả, quản lý cán bộ nói chung, cán bộ trung, cao cấp nói riêng
hiện nay còn lỏng lẻo, không sâu sát hoạt động thực tiễn của cán bộ. Hiện
19
tượng khá phổ biến là người đứng đầu của ngành, địa phương, đơn vị coi như
không có trách nhiệm gì đối với cán bộ dưới quyền khi cán bộ phạm sai lầm,
khuyết điểm, thậm chí khuyết điểm rất nghiêm trọng. Tác giả cho rằng, quản
lý cán bộ không thể theo cách gián tiếp, phải coi đó là biểu hiện của bệnh
quan liêu trong quản lý cán bộ, và nhấn mạnh cấp uỷ quản lý cán bộ cấp nào
thì phải nắm chắc, sâu sát cán bộ cấp đó…
- Trần Đình Hoan (2002), Luân chuyển cán bộ - khâu đột phá nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới.
Tạp chí Cộng sản, số 7 [75].
Tác giả đã nêu những kinh nghiệm quý trong việc dùng người của ông
cha ta, đồng thời chỉ ra những thành công, hạn chế trong công tác luân chuyển
cán bộ hiện nay và khẳng định chưa bao giờ công tác luân chuyển cán bộ lại
cấp bách như hiện nay và phải được coi là một trong những khâu đột phá có
tính quyết định đối với việc xây dựng chiến lược cán bộ ngang tầm nhiệm vụ
cách mạng mới. Tác giả cũng nêu ra những nguyên tắc và phương châm chỉ
đạo công tác luân chuyển cán bộ và bốn nhóm công việc cần thực hiện thống
nhất, mạnh mẽ và hiệu quả.
- Nguyễn Trọng Điều (2005), Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 10 [69].
Tác giả đã phân tích và luận giải sự khác nhau giữa đánh giá, nhận xét
con người và đánh giá, nhận xét cán bộ; luận giải sự khác nhau giữa luân
chuyển cán bộ và điều động cán bộ. Đồng thời, xem xét việc đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển cán bộ ở nước ta qua các thời kỳ và rút ra cái được và
chưa được, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ hiện nay.
- Thanh Toàn (2007), Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10 [139].
20
Tác giả chỉ ra phẩm chất, năng lực người lãnh đạo, gồm 7 tiêu chí cơ
bản: có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, với
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có tư duy lãnh đạo; có năng
lực định hướng hoạt động cho tập thể, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; có năng lực
tổ chức; có năng lực xử lý đúng đắn các mối quan hệ; có nghệ thuật giao tiếp,
ứng xử linh hoạt, khoa học; độ lượng, nhân hậu, yêu thương cấp dưới.
- Văn Tất Thu (2008), Quan điểm và nghệ thuật tuyển dụng nhân tài
trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc, Tạp chí Tổ
chức Nhà nước - Bộ Nội vụ, số 5 [138].
Tác giả khẳng định, trong giai đoạn hiện nay, học tập và vận dụng sáng
tạo quan điểm và nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhất định sẽ phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng được nhiều nhân tài
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Nguyễn Thế Thắng (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong sự nghiệp đổi mới hôm nay, www.tutuonghochiminh.vn ngày
23/01/2011 [137].
Tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng và tính
tất yếu của thi đua; thi đua là bản tính của con người... Đồng thời, nhấn mạnh
những điểm cần thiết để vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong sự nghiệp đổi mới, gồm: phát động các phong trào thi đua thiết
thực, sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; thi đua phải có mục đích,
mục tiêu; xây phải đi đôi với chống; tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và cải
tiến thủ tục, quy trình xét khen thưởng, thực hiện công khai, dân chủ, kịp thời và
đảm bảo tính nêu gương, giáo dục trong khen thưởng...
- Nguyễn Thế Thắng (2012), Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng, Tạp chí Cộng sản
điện tử, ngày 29/01/2012 [136].
21
Tác giả đã phân tích một số quan điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác-Lênin
về thi đua và chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa cạnh tranh trong xã hội tư bản
với thi đua XHCN. Đồng thời, đi sâu vào phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thi
đua ái quốc và nhấn mạnh: phải làm cho mọi người tự nguyện, tự giác tham gia
phong trào thi đua ái quốc; Đảng phải lãnh đạo thi đua; phải đổi mới nội dung và
hình thức thi đua...
- Nguyễn Thị Doan (2013), Bài phát biểu tại buổi gặp mặt các thế hệ
làm công tác thi đua, khen thưởng nhân kỷ niệm 65 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 – 11/6/2013), Tạp chí Thi đua- Khen
thưởng, số 12 năm 2013 [47].
Sau khi khẳng định vai trò của các phong trào thi đua yêu nước từ khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc, tác giả khẳng định vai trò,
tác dụng của TĐKT trong giai đoạn hiện nay, và nhấn mạnh những nhiệm vụ
trọng tâm ngành TĐKT cần tập trung thực hiện: Một là, phong trào thi đua và
công tác khen thương phải nhằm động viên được sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, của cả HTCT vào việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành, địa
phương, cơ quan, đơn vị. Hai là, nội dung và phương thức thi đua phải gắn kết
chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, khen
thưởng phải đảm bảo tính nêu gương, giáo dục; khắc phục bệnh thành tích, tính
hình thức trong TĐKT. Chuyển trọng tâm TĐKT về cơ sở, nhất là những cơ sở
trực tiếp sản xuất. Bốn là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác
TĐKT theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ. Năm là, củng cố,
kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ công tác TĐKT. Sáu là, phối hợp với Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, các Bộ, ngành liên quan đưa
tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong hệ
thống trường Đảng và các trường đại học, cao đẳng.
22
- Trần Thị Hà (2013), Diễn văn kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2013), Tạp chí Thi đua -
Khen thưởng, số 12 năm 2013 [72].
Tác giả đã nêu khái quát lịch sử công tác TĐKT từ khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc và thành tựu đạt được qua các thời kỳ cách
mạng, nhấn mạnh vai trò tác dụng to lớn của công tác TĐKT trong giai đoạn
hiện nay. Đồng thời, khẳng định vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức ngành
TĐKT, nhất là đội ngũ CBLĐQL chuyên trách của Ngành, và nhấn mạnh:
Với các hình thức tổ chức bộ máy, đầu mối trực thuộc khác nhau
theo từng giai đoạn lịch sử, các thế hệ cán bộ làm công tác thi đua
khen thưởng vẫn luôn tiếp nối được truyền thống vẻ vang của ngành
thi đua khen thưởng, làm tốt nhiệm vụ tham mưu cho các cấp lãnh
đạo, thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong từng thời kỳ, đảm
bảo hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao [70, tr. 3].
Tác giả nêu những nhiệm vụ trọng tâm của công tác TĐKT trong những
năm tới, và nhấn mạnh, thi đua phải được tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và phải được thực hiện thường xuyên; cán bộ, đảng viên phải
tích cực vận động quần chúng tham gia và đi đầu làm gương cho mọi người;
kết hợp chặt chẽ thi đua với khen thưởng “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là
thu hoạch”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT, nhất là đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay.
- Trần Thị Thu Hà (2014), Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi đua
khen thưởng, Tạp chí diện tử Bạn đọc làm báo, ngày 15/5/2014 [73].
Tác giả đã luận giải vai trò, tác dụng và sự cần thiết của TĐKT trong
điều kiện hiện nay; phân tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác
TĐKT; chỉ ra ưu, khuyết điểm công tác TĐKT ở Bộ Khoa học và Công nghệ và
23
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công TĐKT những năm tới, gồm: Tiếp
tục đổi mới nội dung và hình thức công tác TĐKT bảo đảm phù hợp và sát thực
tiễn, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Bộ, đơn vị. Chú trọng công tác
phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến.
Đề cao vai trò chỉ đạo, điều hành đối với công tác TĐKT. Công tác TĐKT phải
bảo đảm công bằng, kịp thời, đánh giá đúng mức sự nỗ lực, thành tích đạt được.
Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị thực hiện công tác
TĐKT và các quy chế, quy định nội bộ của Bộ.
1.1.5. Những công trình của các nhà khoa học Việt Nam viết về cán
bộ của một số nước
- Chu Hảo (2002), Cần thêm gì vào tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong thời đại kinh tế trí thức?, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 02 [74].
Tác giả đưa ra và phân tích 5 phẩm chất cần có đối với cán CBLĐQL
trong thời đại kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, do ông Phi-
lip-Yeo, Chủ tịch Uỷ ban Phát triển Kinh tế Sin-ga-po đưa ra trong bài phát
biểu tại Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Tri thức (Ku-a-la Lăm-pua, tháng 4-
2000). Đó là: biết xử lý tốt thông tin (biến thông tin thành tri thức và áp dụng
có hiệu quả); phân biệt nhanh được các ý tưởng tốt và xấu; kiên quyết hơn và
dám chấp nhận mạo hiểm; nhận thức rõ việc tiếp xúc trực tiếp có vai trò rất
quan trọng trong công việc và phải biết tạo cảm hứng khích lệ người khác.
- Nguyễn Duy Hùng, Lê Văn Yên (2009), Về kinh nghiệm xây dựng đội
ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [88].
Các tác giả đã phân tích những vấn đề liên quan đến công tác cán bộ
như: chế độ công vụ của cán bộ, công chức; việc cải cách thể chế chính trị;
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản; việc xây dựng tố chất và năng lực của
CBLĐQL; công tác đào tạo, bồi dưỡng; tiến cử, lựa chọn, đề bạt, sử dụng và
đánh giá CBLĐQL của Trung Quốc.
24
- Đảng Cộng sản Trung Quốc, Ban Tổ chức Trung ương, Quy định về
công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền, của Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, GS,TS Đỗ Tiến Sâm, dịch (2006), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội [49].
Cuốn sách gồm 7 chương, 31 điều, với những nội dung: Nguyên tắc
chung; Đối tượng luân chuyển; phạm vi và cách thức luân chuyển; tổ chức thực
hiện; kỷ luật cán bộ luân chuyển; biện pháp bảo đảm; các điều khoản kèm theo.
Những nội dung có giá trị tham khảo đối với luận án: Tổng thuật về công
tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền của Trung Quốc; đánh giá
công tác luân chuyển cán bộ, những thành tựu, kinh nghiệm và một số hạn
chế. Giá trị nhất là 4 kinh nghiệm về công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo
đảng, chính quyền: Một là, phải đưa công tác luân chuyển cán bộ vào kếhoạch tổng thể cải cách chế độ nhân sự. Hai là, xây dựng phương hướng dùng
người được bồi dưỡng từ cơ sở, nhân tài trưởng thành từ sản xuất; chú trọng
tuyển chọn, đề bạt những người có kinh nghiệm công tác, lãnh đạo ở cơ sởlàm cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, chính quyền cấp trên. Ba là, nắm
chắc việc luân chuyển cán bộ lãnh ở các bộ, ban, ngành có quyền lực và các
vị trí then chốt, đặc biệt là người chịu trách nhiệm chính trong ban lãnh đạo
đảng, chính quyền. Bốn là, luân chuyển một cách có kế hoạch, đúng thời điểm,
đảm bảo ổn định tình hình và ưu hoá kết cấu ban lãnh đạo.
- Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng và Lê Văn Yên, (2009), Kinh nghiệm xâydựng đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [46].
Các tác giả đã chỉ rõ: trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách, mở cửa, Đảng và
Nhà nước Trung Quốc rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt,
gồm: có tố chất cao, có tri thức, nắm vững nghiệp vụ, hoàn thành tốt trọng trách
được giao, trung thành với chủ nghĩa Mác, kiên trì con đường XHCN, biết lãnh
đạo, quản lý đất nước, xã hội, đặc biệt là quản lý nền kinh tế thị trường XHCN
của Trung Quốc... Cuốn sách đã đề cấp các giải pháp để có đội ngũ cán bộ hội
đủ những yêu cầu đó: Chế độ cán bộ, công chức; cải cách thể chế chính trị; tăng
25
cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao tố chất và năng lực cán bộ lãnh đạo;
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tiến cử, lựa chọn, đề bạt, sử dụng và nhận
xét, đánh giá cán bộ; quản lý cán bộ...
1.2. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC
NGOÀI
1.2.1. Một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài
* Các công trình của các nhà khoa học Trung Quốc
- Mã Linh - Lý Minh, (2004), Hồ Cẩm Đào, con đường phía trước, Nxb
Lao động, Hà Nội, 2004, biên dịch từ tác phẩm “Hồ Cẩm Đào- từ đâu tới và sẽ đi
về đâu?” của hai tác giả trên, Nxb Minh Báo- Hồng Kông năm 2003.
Các tác giả cho rằng, Trung Quốc đã sớm phát hiện và tạo điều kiện thuận
lợi cho một nhân tài trẻ tuổi thăng tiến vượt cấp - Trường hợp Tổng Bí thư - Chủ
tịch Nước Hồ Cẩm Đào. Con đường đi đến đỉnh cao quyền lực của ông do nhiều
yếu tố tạo nên: Tài năng, sự phấn đấu, thời thế và việc sớm phát hiện, tiến cử và
nâng đỡ, dìu dắt của một số lãnh đạo thế hệ trước. Theo tác giả, tài năng của Hồ
Cẩm Đào có điều kiện phát triển rất thuận lợi vì có đường lối “bốn hoá” cán bộ
của Đặng Tiểu Bình (cách mạng hoá, trẻ hoá, tri thức hoá, chuyên môn hoá).
Đến nay, Trung Quốc vẫn duy trì việc cán bộ lãnh đạo phải biết phát hiện và tiến
cử người tài cho đất nước.
- Triệu Gia Kỳ, (Ban Tổ chức Thành ủy Bắc Kinh), (2004) “Tăng
cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh
đạo”, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Xây dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [95].
Tác giả đã phân tích công tác xây dựng Đảng của Thành ủy Bắc Kinh
và chỉ ra những kinh nghiệm: Một là, kiên trì bao quát toàn cục, điều hoà các
mặt, phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng ủy địa phương, gồm:
kiện toàn và hoàn thiện thể chế lãnh đạo để Đảng ủy địa phương phát huy vai
26
trò hạt nhân chính trị; quán triệt và thực hiện tốt đường lối, phương châm vàchính sách của Đảng; kiên trì lập Đảng vì công, cầm quyền vì dân. Hai là,nắm chắc nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, thiết thực là thúc đẩy kinh tế - xã
hội địa phương phát triển toàn diện, hài hoà và bền vững; tối ưu hoá môitrường phát triển, đẩy mạnh sáng tạo về thể chế; kiên trì giải quyết tốt mối
quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định. Ba là, tăng cường xây dựng
Đảng, không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền của
Đảng, gồm: quán triệt thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kiện toàn và
hoàn thiện hơn nữa cơ chế nghị sự và ra quyết sách của Đảng ủy địa phương.Công trình này có giá trị tham khảo đối với luận án, nhất là những kinh
nghiệm nêu trên.
- Tôn Hiểu Quần (Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc), (2004), Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầnglớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt, Hội thảo lý luận giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng
cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [124].
Những giải pháp xây dựng tập thể và các nhân ban lãnh đạo, có giá trịtham khảo đối với luận án, gồm: Coi trọng việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin đểvũ trang nhận thức cho cán bộ lãnh đạo; coi trọng nâng cao trình độ và nănglực công tác của ban lãnh đạo và cán bộ trong thực tiễn; kiên trì tiêu chuẩn
trong chọn người, dùng người một cách khoa học, xác lập định hướng công
tác cán bộ đúng đắn; đi sâu cải cách chế độ tự chọn và bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo Đảng và chính quyền các cấp; thiết thực tăng cường giám sát đối với cán
bộ lãnh đạo.
- Chu Phúc Khởi (Cục cán bộ 1 Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc), (2004), Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắngxây dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao, Hội thảo lý luận giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng cầm
27
quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội [92].
Tác giả đã làm rõ những vấn đề: Ý nghĩa chiến lược của việc xây
dựng đội ngũ cán bộ dự bị và đề xuất các giải pháp. Những giải pháp về xây
dựng đội ngũ cán bộ dự bị có giá trị tham khảo đối với luận án, gồm: Xuất
phát từ đòi hỏi thực tế của việc xây dựng ban lãnh đạo, phải xây dựng quy
hoạch thiết thực, khả thi về xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị; tăng cường xây
dựng chế độ hoá, quy phạm hoá chặt chẽ về tiêu chuẩn, quy trình và yêu cầu
đối với các khâu trong công tác cán bộ dự bị; thực hiện quản lý sự biến động,
đảm bảo số lượng và chất lượng cán bộ dự bị; kiên trì dự trữ kết hợp với sửdụng, kịp thời tuyển chọn cán bộ dự bị với điều kiện đã chín muồi một cách
có kế hoạch.
- Giả Cao Kiến (Trường Đảng Trung ương, Đảng Cộng sản Trung
Quốc), (2004), Phát huy đầy đủ vai trò của trường Đảng, làm tốt công tácgiáo dục và đào tạo cán bộ, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của
Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [94].
Tác giả đã phân tích và làm rõ vai trò đặc biệt quan trọng của hệ thống
trường Đảng ở Trung Quốc, khái quát về hoạt động giáo dục và đào tạo cán
bộ của các trường Đảng, nhấn mạnh những ưu, khuyết điểm chính và đề xuất
các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của hệthống trường Đảng.
Các giải pháp có giá trị tham khảo đối với luận án: Phân biệt rõ yêu cầu,
nội dung và phương thức tổ chức hai loại lớp học, đào tạo và bồi dưỡng; phân
loại, phân tầng việc thiết kế nội dung dạy học; những vấn đề có tính nguyên
tắc về phát huy vai trò của trường Đảng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
* Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Lào
- Nich Khăm, (2013), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt HộiLiên hiệp phụ nữ ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới,
28
Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam [91].
Luận án đã làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và quan điểm về xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Lào; khảo sát, đánhgiá thực trạng cán bộ lãnh đạo các cấp của Hội Liên hiệp phụ nữ Lào; đề xuất
phương hướng và giải pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủchốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Lào trong giai đoạn hiện nay.
Những nội dung có giá trị tham khảo đối với luận án: quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về cán bộ và
công tác cán bộ; những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
Hội Liên hiệp phụ nữ ở Lào, gồm: xác định cơ cấu và quy hoạch cán bộ gắn
với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng các quy chế công tác cán bộ Hội Liên
hiệp phụ nữ; xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ Hội.
- On Kẹo Phôm Ma Kon (2012), Đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chứccủa đảng và hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế thị trườngđịnh hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp nhà nước
(hợp tác giữa Việt Nam và Lào): “Xây dựng Đảng cầm quyền trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và Lào” [120].
Tác giả đã làm rõ: Vị trí, vai trò của việc đổi mới, kiện toàn hệ thống bộmáy tổ chức, cán bộ của HTCT từ Trung ương đến cơ sở trong quá trình phát
triển kinh tế hành hóa định hướng XHCN ở Lào; thực trạng đổi mới, kiện
toàn hệ thống bộ máy tổ chức và cán bộ của HTCT ở Lào; quan điểm, biện
pháp đổi mới, kiện toàn hệ thống HTCT ở Lào.
Vấn đề có giá trị tham khảo đối với luận án là củng cố kiện toàn bộ máy
hành chính Nhà nước và sắp xếp bố trí cán bộ một cách hợp lý theo hướng
tinh gọn và có quy chế quản lý theo ngành; nhất thể hóa chức danh cán bộđứng đầu tổ chức đảng với cán bộ đứng đầu chính quyền cùng cấp.
29
1.2.2. Những kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của
một số nước.
* Kinh nghiệm của một số nước tư bản (nguồn Đề tài độc lập cấpNhà nước: “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng tronggiai đoạn hiện nay” do Trần Thị Hà, làm chủ nhiệm [71].
Qua nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ công chức của một số nước tư
bản có thể rút ra những kinh nghiệm:
Một là, coi trọng đào tạo bài bản, bồi dưỡng thường xuyên
Các nước tư bản rất coi trọng đào tạo một cách bài bản công chức nói
chung và công chức làm việc trong lĩnh vực khen thưởng nói riêng. Các công
chức đều phải được đào tạo một cách bài bản theo chương trình thống nhất
quốc gia và thực hiện quy trình chặt chẽ theo vị trí việc làm. Kết quả đào tạo
chỉ là một căn cứ để tuyển chọn công chức theo vị trí việc làm. Nội dung thi
tuyển công chức là những vấn đề cơ bản về lý thuyết và nghiệp vụ, nên buộc
những ứng viên muốn trúng tuyển trong các kỳ thi tuyển công chức hằng năm
phải bằng mọi cách để được đào tạo bài bản.
Công chức đã trúng tuyển trong các kỳ thi tuyển công chức, có việc
làm phải được bồi dưỡng thường xuyên theo công việc đảm nhiệm và vị trí
việc làm. Đây là quy định bắt buộc trong toàn quốc. Chương trình bồi dưỡng
được quy định chung thống nhất cho các loại công chức (phần cứng), chương
trình bồi dưỡng linh hoạt đối với công chức ở từng ngành (chương trình mở).
Hai là, có quy định bắt buộc về thời gian đi thực tế hằng năm đối với
công chức làm việc trong lĩnh vực khen thưởng
Nhiều nước tư bản có quy định này được cơ quan quản lý thực hiện
nghiêm chỉnh, công chức tự giác sắp xếp thời gian vầ đề nghị được đi thực tế
để hoàn thành nhiệm vụ theo quy định. Công chức ở cấp trung ương hàng
năm phải đi thực tế ở các Bộ, Cục, Tỉnh, quận để tìm hiểu thực tế, phát hiện
những vấn đề mới, bức xúc về khen thưởng liên quan đến những quy định
30
hiện hành để kiến nghị, bổ sung cho hoàn chỉnh, hoặc đề nghị bãi bỏ và xây
dựng quy định mới nếu cần thiết. Vì vậy, công chức làm việc trong lĩnh vực
khen thưởng có chuyên môn rất sâu, tính chuyên nghiệp cao và tri thức rộng.
Ba là, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức làm công tác khen
thưởng ở các cấp đề xác định vị trí việc làm và số lượng công chức. Cơ quan
làm công tác khen thưởng ở trung ương trực thuộc văn phòng tổng hay phủ
toàn quyền được xác định rất linh hoạt phù hợp với từng nước.
Từ kinh nghiệm trên, nên đội ngũ công chức làm việc trong lĩnh vực
khen thưởng không có tình trạng thừa công chức yếu kém về năng lực, trình
độ và vừa thiếu những công chức có trình độ chuyên môn cao và sâu.
Các tổ chức, bộ phận khen thưởng được bố trí từ trung ương tới địa
phương, cơ sở. Tổ chức bộ máy khen thưởng thường trực cấp trung ương
thuộc Văn phòng Tổng thống (Nga), Phủ Tổng thống (Pháp); Ban thư ký khen
thưởng trực thuộc phủ toàn quyền (Úc), một số nước có cơ quan khen thưởng
thuộc Bộ Ngoại giao....
* Kinh nghiệm của Nhật Bản (nguồn Đề tài độc lập cấp Nhà nước:
“Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện
nay” do Trần Thị Hà làm chủ nhiệm [71].
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp lớn đều có một
nguyên tắc sử dụng cán bộ, công nhân viên chính thức) đến suốt đời.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp đều rất coi trọng
giá trị tinh thần tập thể và cộng đồng.
Thứ ba, Nhật Bản rất coi trọng và tạo điều kiện cho nhân sự phát triển
toàn diện, trở thành những người có khả năng tổng hợp.
Thứ tư, đánh giá công chức thông qua thành tích chung của tập thể, cơ
quan mà cá nhân đó lãnh đạo hoặc là thành viên; rất coi trọng sự đánh giá và
tín nhiệm của những người đồng cấp trong cơ quan và ngoài cơ quan.
31
* Kinh nghiệm của Trung Quốc (nguồn Đề án của Bộ Chính trị: “Đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay” [35].
Một là, tập trung xây dựng những quy phạm về công tác cán bộ và chỉ
đạo thực hiện nghiêm.
Những quy phạm về công tác cán bộ được xây dựng, bổ sung, hoàn
chỉnh, được thực hiện nghiêm đã có tác dụng tích cực trong việc lựa chọn, đề
bạt, sử dụng cán bộ; đồng thời có tác dụng ngăn ngừa và khắc phục những
lệch lạc trong việc dùng người.
Hai là, luôn coi trọng việc thẩm tra, nhận xét cán bộ.
Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành
"Quy định về thẩm tra đánh giá cán bộ đảng và chính quyền". Các địa phương
và bộ, ngành đã xây dựng chế độ đánh giá hiệu quả công việc, chế độ trách
nhiệm trong thẩm tra đánh giá cán bộ.
Ba là, thực hiện thí điểm phương thức thi tuyển cạnh tranh các chức
danh CBLĐQL thay cho phương thức bổ nhiệm CBLĐQL theo kiểu truyền
thống, sau đó thực hiện trong cả nước..
Phương thức này, được thực hiện thí điểm ở một số địa phương từ năm
1994; từ 2001 được thực hiện trong cả nước. Đây là phương thức mới, nhằm
thay thế phương thức bổ nhiệm CBLĐQL truyền thống.
Bốn là, luôn chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, tăng cường tính chủ động và hiệu quả trong đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ.
Năm là, không ngừng tăng cường công tác giám sát cán bộ.
Sáu là, thăm dò ý kiến công luận trước khi bổ nhiệm cán bộ.
Dữ liệu cơ bản về triển vọng của CBLĐQL như: tên tuổi, chức vụ hiện
tại, quá trình đào tạo, vị trí dự kiến được bổ nhiệm…được thông báo công
khai ra công luận nhằm thỉnh cầu ý kiến của quảng đại quần chúng.
32
* Kinh nghiệm của Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (nguồn Đề án
của Bộ Chính trị: “Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn
hiện nay” [35].
Một là, ngăn chặn và loại trừ có hiệu quả những tác động tiêu cực từ
phong tục, tập quán, cách nghĩ, tầm nhìn người sản xuất nhỏ, manh mún, tản
mạn, phân tán, quan hệ huyết thống..., xây dựng đội ngũ cán bộ gắn liền với
những quan điểm mới về công tác tổ chức Nhân dân cách mạng Lào, sẽ có đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào là nước đa dân tộc, gồm nhiều bộ tộc,
kinh tế chủ yếu phụ thuộc thiên nhiên, tự túc, tự cấp, đang triển khai mạnh mẽ
xây dựng nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Những phong tục tập quán của các bộ tộc, cách nghĩ tầm nhìn của người sản
xuất nhỏ phân tán, tản mạn, manh mún, quan hệ huyết thống... còn ảnh hưởng
nặng nề đối với công tác tổ chức, cán bộ. Song, qua thực tiễn ở Lào cho thấy,
nơi nào ngăn chặn và loại trừ có hiệu quả những tiêu cực nêu trên, gắn chặt
việc xây dựng đội ngũ cán bộ với những quan điểm mới về công tác tổ chức
của Đảng Nhân dân cách mạng Lào sẽ có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn liền với việc phát động, duy
trì phong trào cách mạng của quần chúng tại các bộ tộc, dựa vào quần chúng
để xây dựng đội ngũ cán bộ.
Ba là, xây dựng và thực hiện tốt quy phạm thi tuyển cạnh tranh, trong lựa
chọn và bổ nhiệm cán bộ, có tính đến cơ cấu dân tộc, các bộ tộc.
*
* *
Như vậy, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về công tác cán
bộ nói chung, trong đó có một số công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ
33
CBLĐQL các cấp ở các địa phương trong giai đoạn hiện nay đạt kết quả đáng
trân trọng về lý luận và thực tiễn. Những kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học nêu trên có giá trị tham khảo tốt để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ của luận án. Tuy nhiên, do mục tiêu, nhiệm vụ khác nhau và góc độ
nghiên cứu có những điểm khác nhau, các công trình khoa học nêu trên chưa
có điều kiện đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong giai đoạn hiện nay.
34
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN TRÁCH
CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở NƯỚC TA
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. THI ĐUA, KHEN THƯỞNG, CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN TRÁCH CÔNG TÁC
THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
2.1.1. Thi đua, khen thưởng - Khái niệm, nội dung, hình thức và
mối quan hệ
2.1.1.1. Khái niệm, mục đích, nội dung, hình thức thi đua
* Khái niệm thi đua
Theo Đại từ điển tiếng Việt: Thi đua là cùng nhau đưa hết khả năng ra
làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất: thi đua sản xuất; thi đua dạy
tốt, học tốt; phong trào thi đua ở các đơn vị... [148, tr. 1559].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi luận bàn về thi đua, đã nhấn mạnh:
Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những việc hàng ngày. Thật
ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua. Thí dụ từ trước đến nay ta
vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, ở, mặc sao cho sạch, cho hợp vệ
sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta vẫn làm ruộng nay ta thi đua làm cho ruộng tốt
hơn, sản xuất nhiều hơn, mọi việc đều thi đua như vậy [104, tr. 658].
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thi đua là công việc diễn ra hàng
ngày trong một tập thể trên tất cả các mặt hoạt động nhằm đạt kết quả tốt nhất.
Luật TĐKT định nghĩa: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham
gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt
nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [126, tr. 1].
35
Từ những điều nêu trên, có thể định nghĩa: thi đua là hoạt động tự
nguyện, có tổ chức diễn ra trong tất cả các tổ chức, các ngành, các cấp, các
lĩnh vực đời sống xã hội nhằm làm cho các hoạt động đạt kết quả tốt nhất
góp phần xây dựng đất nước vững mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Khái niệm thi đua, có nhiều điểm liên quan đến khái niệm cạnh tranh.
Hai khái niệm này, tuy có nhiều điểm tương đồng, song cũng có những điểm
khác nhau căn bản. Sự tương đồng giữa thi đua và cạnh tranh thể hiện ở: thi
đua thúc đẩy, khuyến khích cá nhân, tập thể hoạt động đạt kết quả tốt nhất.
Cạnh tranh, nhất là cạnh tranh lành mạnh cũng có tác dụng làm cho hoạt động
của cá nhân và tập thể tốt hơn, song cạnh tranh kiểu này không nhiều. Điểm
khác biệt chủ yếu giữa thi đua với cạnh tranh là ở động cơ và mục đích của
thi đua và của cạnh tranh. Mọi hoạt động thi đua đều xuất phát từ động cơ
làm cho hoạt động của cá nhân, tập thể đạt kết quả tốt nhất, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Còn cạnh tranh thường nặng về động cơ vì cá nhân
hoặc một nhóm người nhằm chiếm ưu thế và kết quả vượt trội so với cá nhân
hoặc nhóm người khác. Nguy hại hơn, cạnh tranh không lành mạnh, cạnh
tranh tự do nhiều khi gây hậu quả to lớn, khó lường, ảnh hưởng đến sự phát
triển của tập thể và đất nước.
* Mục đích thi đua
Ở nước ta, thi đua nhằm huy động, khai thác mọi tiềm năng của mỗi cá
nhân và toàn xã hội làm cho hoạt động của cá nhân và tập thể đạt kết quả tốt
nhất, đơn vị, ngành, địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần
xây dựng đất nước vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong giai đoạn
hiện nay, thi đua nhằm làm cho cá nhân và tập thể, ngành, địa phương, đơn vị
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao góp phần thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ
công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Thi đua theo ý nghĩa đó, được gọi
là thi đua yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ điều này, đã đưa ra cách
36
tiếp cận và nhìn nhận mới về thi đua ở nước ta: “Thi đua là yêu nước, yêu
nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước
nhất”[104, tr. 473].
* Nội dung thi đua
Hoạt động thi đua ở nước ta có nội dung rất đa dạng, phong phú, bao
hàm tất cả hoạt động của cá nhân và tập thể trên các lĩnh vực đời sống xã hội,
như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh...: thi đua phát
triển kinh tế - xã hội; thi đua phát triển khoa học và ứng dụng học công nghệ
vào sản xuất, công tác...; thi đua phát triển và thực hiện chương trình giáo dục,
đào tạo; thi đua giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo; thi đua bảo vệ Tổ
quốc, giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội; thi đua xây dựng nếp sống văn
minh và văn hóa, làm việc theo pháp luật, thực hành tiết kiệm, phòng chống
tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội khác; thi đua rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lối sống và học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh...
* Hình thức thi đua
Hình thức thi đua rất đa dạng, phong phú, gồm các hình thức chủ yếu:
Thi đua thường xuyên hằng năm, thường được quán triệt, phát động từ
đầu năm cùng với triển khai nhiệm vụ trong năm tất cả các ngành, địa
phương, đơn vị, được duy trì và tiến hành bình xét các danh hiệu thi đua vào
cuối năm; cũng có nhiều đơn vị các hoạt động thi đua được tiến hành theo
năm học, nhất là ở các trường học, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ...
Thi đua theo đợt dài ngày hoặc ngắn ngày diễn ra trên quy mô toàn
quốc hoặc ở địa phương, ngành, đơn vị để lập thành tích chào mừng một kiện
quan trọng nào đó, của đất nước, của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, như chào
mừng ngày thành lập Nước, thành lập Đảng, đoàn thể, ngày giải phóng Thủ
đô Hà Nội, ngày thành lập tỉnh, thành phố, ngày tỉnh, thành phố được giải
phóng khỏi ách áp bức của đế quốc...
37
Trong hình thức này, còn có loại: thi đua đột xuất, trước đây thường
gọi là “thi đua nước rút” được tổ chức trong thời gian ngắn ở ngành, địa
phương, đơn vị nhằm tập trung cao độ thực hiện tốt một số nhiệm vụ, chỉ tiêu
nào đó; thi đua đột kích tập trung vào một vấn đề hay một nhiệm vụ trọng
tâm nào đó, trong thời gian không dài, tạo chuyển biến, tạo thuận lợi thực
hiện các nhiệm vụ khác.
2.1.1.2. Khái niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức khen
thưởng* Khái niệm về khen thưởng
Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: khen thưởng là khen và thưởng bằng
hiện vật xứng với thành tích, công lao: khen thưởng về thành tích lao động
sáng tạo; khen thưởng các học sinh giỏi [148, tr. 896].
Trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, ghi rõ việc khen thưởng
các Sứ thần Triều Lê: Khen thưởng người có công trong chiến trận, người có
công trong việc đi sứ, người phò tá có công lao tài đức, người tiến cử người
hiền tài, người có lời tâu đúng, người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị
nể người quyền quý cấp trên, người có công làm thuỷ lợi, người có tài văn
chương, người cao tuổi [48, tr.95].
Quốc lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, được Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký, ban hành vào ngày 26/01/1946 gồm:
1. Nhà nào có 3 con tòng quân sẽ được thưởng; 2. Ai lập được quân công
sẽ được thưởng; 3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng; 4. Ai ra trận can đảm
phi thường sẽ được thưởng; 5. Ai làm việc một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ
được thưởng; 6. Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng
mến phục sẽ được thưởng; 7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ
được thưởng; 8. Ai bắt được nhiều kẻ phản quốc sẽ được thưởng; 9. Ai liều
mình vì công việc sẽ được thưởng; 10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được
thưởng[102, tr. 163].
38
Tại khoản 2 Điều 3 Luật TĐKT, năm 2003 quy định: “Khen thưởng là
việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích
vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”[126, tr. 1].
Từ những điều nêu trên có thể định nghĩa: khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công trạng
và thành tích xuất sắc của cá nhân, tập thể trong học tập, lao động và công
tác, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Mục đích khen thưởng
Mục đích khen thưởng là động viên, khích lệ tính tích cực, tinh thần
hăng hái, nhiệt tình, trách nhiệm của cá nhân tập thể điển hình tiên tiến trong
lao động sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác để nhân ra diện rộng góp
phần giáo dục, động viên thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Đối tượng khen thưởng
Mọi người dân từ 11 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ dân tộc, tôn
giáo, trình độ, kể cả người nước ngoài có nhiều công lao đối với nước ta.
* Nội dung khen thưởng
Khen thưởng các cá nhân và tập thể hoạt động trên tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội có công trạng thành tích xuất sắc.
* Hình thức khen thưởng
Nhà nước có các hình thức khen thưởng: các danh hiệu anh hùng, các
loại huy chương, huân chương, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch
nước, các danh hiệu thi đua...
Các tổ chức, cơ quan, đơn vị, chính quyền, đoàn thể địa phương có
các hình thức khen thưởng: các danh hiệu như bằng khen, giấy khen...
Các cấp ủy đảng có hình thức khen thưởng như: giấy khen, bằng khen,
cờ. Trong toàn Đảng có các huy hiệu 30, 40, 50, 55, 60, 65 ... năm tuổi Đảng.
39
Trong các hình thức khen thưởng đều kết hợp khen thưởng về tinh
thần và động viên vật chất.
2.1.1.3. Quan hệ giữa thi đua với khen thưởng
Thi đua và khen thưởng quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể
thống nhất.
Khen thưởng là sự công nhận, tôn vinh kết quả của thi đua, là nhân tố
thúc đẩy phong trào thi đua phát triển, khen thưởng đúng, kịp thời sẽ thúc đẩy
thi đua tiếp tục phát triển sâu rộng hơn, hiệu quả hơn. Thi đua là động lực
thúc đẩy cá nhân, tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đó là cơ sở
thuận lợi để khen thưởng đạt kết quả và phát huy tác dụng tốt. Có thi đua mới
có khen thưởng, song nhiều trường hợp khen thưởng không liên quan đến thi
đua, như tôn vinh một phát minh, sáng chế...
2.1.2. Công tác thi đua, công tác khen thưởng - Khái niệm, nội
dung, vai trò, mối quan hệ và đặc điểm
2.1.2.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của công tác thi đua* Khái niệm công tác thi đua
Sách tra cứu các mục từ về tổ chức cho rằng: “Công tác là công việc của tổ
chức, cơ quan, đơn vị (Đảng, Nhà nước, đoàn thể, đơn vị kinh tế, sự nghiệp...)
cùng nhau thực hiện hoặc giao cho từng thành viên trong tổ chức, cơ quan,
đơn vị đó thực hiện”[108, tr. 174]. Trên thực tế, “Công tác” thường được gọi
là việc công.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Công tác thi đua là hoạt
động của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân
nhằm xác định nội dung, xây dựng chương trình, kế hoạch, phát động, tổ
chức thực hiện, sơ kết, tổng kết, rút kinh nhiệm về các phong trào thi đua
làm cho các họat động của các tổ chức, các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa
phương đạt kết quả tốt nhất, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của đơn vị, địa phương.
40
* Nội dung công tác thi đua
Nội dung công tác thi đua, gồm các hoạt động của các cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân về xác định chủ trương và nội dung
của từng phong trào thi đua; xây dựng chương trình, kế hoạch tiến hành; tổ
chức thực hiện nội dung, chương trình thi đua đã được xây dựng, gồm tuyên
truyền, phát động, duy trì các phong trào thi đua; kiểm tra việc thực hiện; sơ
kết, tổng kết đánh giá kết quả các phong trào thi đua để khen thưởng và rút ra
những kinh nghiệm. Như vậy, nội dung công tác thi đua, gồm :
Xác định chủ trương về từng phong trào thi đua và nội dung thi đua, có thể
xác định tên của từng phong trào thi đua, tư tưởng chỉ đạo, phương thức tổ chức,
biện pháp và phương tiện thực hiện. Trong đó, cần xác định rõ nội dung từng
phong trào thi đua, thuộc lĩnh vực nào, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh...tập trung vào những mặt, những vấn đề trọng tâm của nhiệm vụ chính trị
của địa phương, đơn vị.
Tiến hành công tác tư tưởng và phát động phong trào thi đua: tổ chức lễ
phát động phong trào thi đua; cán bộ được phân công nhiệm vụ này, thường là
thủ trưởng cơ quan, đơn vị tiến hành quán triệt trong toàn thể cán bộ, công
nhân, viên chức, công chức cơ quan, đơn vị về lý do, nội dung, mục tiêu,
chương trình, kế hoạch thực hiện; các đơn vị trình bày kế hoạch hành động và
thách thức thi đua.
Tổ chức thực hiện phong trào thi đua theo chương trình, kế hoạch để thực
hiện nội dung thi đua và duy trì phong trào thi đua.
Định kỳ và đột xuất kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch, nội dung,
mục tiêu của phong trào thi đua để nêu gương những cá nhân, đơn vị thực hiện
tốt, nhắc nhở những cá nhân và tổ chức thực hiện chưa tốt, uốn nắn kịp thời
những lệch lạc để phong trào thi đua diễn ra đúng hướng và đạt kết quả.
Sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả và đúc rút kinh nghiệm về phong trào
thi đua để triển khai các phong trào thi đua khác đạt kết quả tốt hơn.
41
Xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, nhất là CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở các địa phương,
các ngành, các cấp.
* Vai trò của công tác thi đua
V.I. Lênin đã khẳng định vai trò và tác dụng của thi đua khi được tổ
chức và lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước – công tác thi đua. Công tác
này, được triển khai rộng rãi, được đông đảo nhân dân tham gia với trí tuệ và
sức lực cao nhất, đem lại kết quả to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Người viết:
Chủ nghĩa xã hội không những không dập tắt thi đua, mà trái lại lần đầu
tiên đã tạo ra khả năng áp dụng thi đua một cách rộng rãi, với quy mô thật sự
to lớn, tạo ra khả năng thu hút thật sự đa số nhân dân lao động vào vũ đài hoạt
động khiến họ có thể tỏ rõ bản lĩnh, dốc hết năng lực của mình, phát hiện
những tài năng mà nhân dân sẵn có cả một nguồn vô tận, những tài năng mà
chủ nghĩa tư bản đã giày xéo, đè nén, bóp nghẹt mất hàng nghìn, hàng triệu.
Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay, khi Chính phủ xã hội chủ nghĩa đang cầm
quyền là phải tổ chức thi đua[115, tr. 234-235].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò và tác dụng của công tác thi đua.
Đó là nơi thể hiện và khẳng định lòng yêu nước của mỗi người dân. Thực
hiện tốt công tác thi đua, làm cho nó ăn sâu, lan rộng trong các lĩnh vực đời
sống xã hội và các tầng lớp nhân dân, sẽ giúp giúp Đảng, Nhà nước và nhân
dân vượt qua khó khăn, gian khổ, cách mạng dành thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, công tác thi đua có vai trò to lớn đối
với sự phát triển, tiến bộ của mọi người dân. Người nhấn mạnh: “Thi đua
không phải là tranh đua… không giấu nghề, người đi trước hiểu biết, dẫn
người đi sau, làm cho mọi người cùng tiến bộ”. Đó là “một cách rất tốt, rất
thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ” [104, tr 270].
42
Trên cơ sở quan điểm của V.I.Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của công tác thi đua có thể khái quát về vai trò của công tác thi đua trong
công cuộc đổi mới hiện nay, thể hiện ở:
Công tác thi đua là nhân tố đặc biệt quan trọng khơi dậy tính quần
chúng, toàn diện của thi đua (tham gia các phong trào thi đua gồm mọi cá
nhân, tổ chức và đông đảo nhân dân; thi đua triển khai trên tất các các lĩnh
vực đời sống xã hội) trên tất cả các mặt, các hoạt động của công cuộc đổi mới.
Nhờ công tác thi đua mà bản thân thi đua thể hiện rõ sức thu hút, sự
huy động của mình đối với mọi nguồn lực (sức lực, trí tuệ của đông đảo nhân
dân; tiền tài, vật lực trong nhân dân...) vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của
địa phương, đơn vị và mục tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới.
Công tác thi đua có vai trò to lớn trong khắc phục lệch lạc trong các
phong tào thi đua, đưa các phong trào thi đua theo đúng đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, nâng cao chất
lượng, hiệu quả các phong trào thi đua, phục vụ đắc lực việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị của địa phương, đơn vị và mục tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới.
Qua công tác thi đua các phong trào thi đua được tổng kết, rút ra những
kinh nghiệm có giá trị để nhân rộng và chỉ đạo các phong trào thi đua tiếp
theo, kích thích các phong tào thi đua đạt và vượt kết quả các phong trào thi
đua trước đó. Qua đó, góp phần phát triển lý luận về thi đua trong điều kiện
hiện nay.
2.1.2.2. Khái niệm, nội dung và vai trò của công tác khen thưởng
* Khái niệm công tác khen thưởng
Từ khái niệm “công tác” và quan niệm về “khen thưởng” nêu trên,
có thể đưa ra định nghĩa: “Công tác khen thưởng” là toàn bộ hoạt động của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức có liên quan nhằm
ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và thành tích xuất sắc của cá
43
nhân, tập thể trong học tập, lao động và công tác, góp phần xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, về thực chất, công tác khen thưởng là đánh giá đúng kết quả thi
đua, của sự đóng góp của cá nhân và tập thể đối với kết quả hoạt động và sự phát
triển của địa phương, đơn vị và của đất nước; đánh giá đúng mức độ, tác dụng,
giá trị vật chất và tinh thần của kết quả thi đua của cá nhân và tập thể đối với xã
hội qua các danh hiệu thi đua.
* Nội dung công tác khen thưởng
Nội dung công tác khen thưởng gồm các hoạt động của của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức có liên quan để công nhận và
trao tặng các danh hiệu thi đua cho cá nhân và tập thể có công trạng và thành
tích xuất sắc trong các phong trào thi đua đã được phát động. Cụ thể là:
Xây dựng và ban hành các văn bản, hệ thống danh hiệu thi đua và chính
sách khen thưởng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khen thưởng; tuyên
truyền, quán triệt các văn bản, hệ thống danh hiệu thi đua và chính sách đó.
Hướng dẫn các văn bản hợp tác quốc tế về khen thưởng theo đường lối, quan
điểm đối ngoại của Đảng đối với các tổ chức và trên các lĩnh vực cần thiết.
Chỉ đạo các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị thực hiện các quy định,
quy trình, thủ tục khen thưởng và trình các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền
xem xét, phê duyệt.
Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiến hành thẩm định hồ sơ khen
thưởng và ban hành quyết định khen thưởng theo mức độ công trạng và thành
tích đạt được của cá nhân và tập thể theo các danh hiệu thi đua đã ban hành.
Tổ chức trao tặng, tuyên dương những cá nhân, tập thể đạt các danh
hiệu thi đua theo thủ tục và quy định.
Xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, nhất là CBLĐQL chuyên trách công tác thi đua ở các địa
44
phương, các ngành, các cấp. Công việc này được tiến hành cùng với xây dựng,
củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
công tác TĐKT.
Sơ kết, tổng kết việc khen thưởng, đúc rút kinh nghiệm về triển khai thực
hiện công tác khen thưởng, gồm: chỉ đạo việc tuân thủ các quy định, thủ tục,
quy trình khen thưởng; thẩm định hồ sơ khen thưởng; thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý sai phạm về khen thưởng, để công tác này, đạt
kết quả tốt hơn.
* Vai trò của công tác khen thưởng
Công tác khen thưởng có vai trò rất quan trọng, bảo đảm cho việc khen
thưởng chính xác, công bằng, công khai, kịp thời và nghiêm minh. Qua đó,
công tác khen thưởng sẽ phát huy trí tuệ khơi dậy tính sáng tạo, lòng yêu
nước, tinh thần trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong tìm tòi các giải pháp
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao và chống lại có hiệu quả những tiêu cực,
xây dựng con người mới và xã hội mới.
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây, việc khen thưởng
được coi là một tiêu chí để đánh giá sự mạnh yếu của đất nước. Nguyễn Trãi cho
rằng, một nhà nước mà thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời là nhà nước vững
mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn thưởng là nhà nước đang suy tàn. Nhà nước
nào thưởng nhiều hơn phạt là nhà nước phồn vinh [145, tr. 21].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác khen thưởng và nhấn
mạnh công tác này phải đảm bảo cho việc “thưởng, phạt nghiêm minh”, “có
công thì thưởng, có lỗi thì phạt”; công tác khen thưởng phải thể hiện rõ vai trò,
tác dụng “động viên, giáo dục, nêu gương”[145, tr. 20]. Người luôn căn dặn
cán bộ: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên
ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”[102, tr.163].
Trong giai đoạn hiện nay, công tác khen thưởng lại càng có vai trò quan
trọng đối thắng lợi của công cuộc đổi mới. Thực hiện tốt công tác khen thưởng
45
sẽ ghi nhận đúng đắn, kịp thời những cống hiến, những sáng kiến, những cá
nhân và tập thể tiên tiến trong công cuộc đổi mới. Qua đó, lôi cuốn, động viên
khuyến khích mọi người, mọi tổ chức phát huy truyền thống yêu nước, tính
năng động sáng tạo, vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực
đời sống xã hội, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đạt thành tựu to lớn hơn,
đưa đất nước từng bước tiến đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh và xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta.
2.1.2.3. Mối quan hệ giữa công tác thi đua với công tác khen thưởng
Công tác thi đua và công tác khen thưởng quan hệ mật thiết với nhau
tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong suốt quá trình lãnh đạo công tác
TĐKT của Đảng, sự quản lý nhà nước về TĐKT, hoạt động của các cơ quan,
cán bộ chuyên trách công tác TĐKT và việc triển khai các hoạt động thi đua
trong thực tiễn. Mối quan hệ này xuất phát từ mối quan hệ biện chứng, thâm
nhập vào nhau giữa thi đua với khen thưởng. Trong thi đua đã có khen thưởng,
qua từng bước, từng mặt của một phong trào thi đua sẽ có cá nhân, tập thể
tiêu biểu được động viên, hoặc việc sơ kết thi đua sẽ có động viên, khuyết
khích nêu gương cá nhân tập thể tiêu biểu. Trong khen thưởng đã kích thích,
cổ vũ tinh thần thi đua.
Thực hiện tốt công tác thi đua, tạo nên các phong trào thi đua rộng khắp,
sôi nổi, duy trì tốt các phong trào đó, kiểm tra, giám sát các hoạt động thi đua,
sơ kết, tổng kết, đánh giá đúng kết quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện
tốt công tác khen thưởng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi để công tác khen
thưởng được tiến hành chính xác, công bằng, công khai, kịp thời, nghiêm
minh và phát huy tác dụng, thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của
cá nhân, tập thể. Thực hiện tốt công tác khen thưởng, đảm bảo cho việc khen
thưởng được thực hiện chính xác, công bằng, công khai, kịp thời, nghiêm
minh sẽ có tác dụng to lớn đối với công tác thi đua. Đó là động lực mạnh mẽ
của công tác thi đua, thúc đẩy công tác thi đua đạt kết quả tốt.
46
2.1.2.4. Đặc điểm công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta hiện nay
Một là, công tác TĐKT ở nước ta hiện nay là hoạt động liên quan đến
đông đảo nhân dân, diễn ra trên phạm vi rộng lớn trong thời gian khá dài.
TĐKT là lĩnh vực hoạt động mang tính quần chúng rộng rãi, tính nhân
dân sâu sắc và diễn ra trong thời gian dài, có tính liên tục. Các phong trào thi
đua có thể nối tiếp nhau, hoặc song hành, kết hợp với nhau. Tham gia các
phong trào thi đua và hoạt động khen thưởng gồm đông đảo các tầng lớp nhân
dân không phân biệt độ tuổi, trình độ mọi mặt, dân tộc, tôn giáo, giới tính.
Đặc điểm này, đòi hỏi tập thể, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo công tác TĐKT phải
có trình độ nhất định về mọi mặt, năng lực công tác tư tưởng, dân vận, công
tác tổ chức, say mê công việc và phong cách làm việc gần dân, làm việc với
con người.
Hai là, công tác TĐKT ở nước ta hiện nay là hoạt động của các tổ
chức trong HTCT và các tổ chức khác trong xã hội, song chủ yếu là hoạt động
của các tổ chức trong HTCT dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng.
Đảng, cấp ủy đảng các cấp lãnh đạo công tác TĐKT trong các tổ chức
của HTCT. Trong Đảng tuy nhiều tổ chức đảng không thường xuyên phát
động các phong trào thi đua, song công tác khen thưởng được duy trì thành
nền nếp hằng năm khi đánh giá phân loại đảng viên và tổ chức cơ sở đảng.
Những đảng viên ưu tú đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được cấp
giấy khen. Những tổ chức cơ sở đảng hoành thành xuất sắc nhiệm vụ, được
công nhận là tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Cạnh đó là các huy hiệu 30
năm, 40 năm, 50 năm... tuổi Đảng.
Các hoạt động TĐKT ở nước ta, nhất là hiện nay, dưới sự lãnh đạo của
Đảng là hoạt động của đông đảo nhân dân nhằm làm cho mọi người, tổ chức,
địa phương, cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, đem lại trước hết là lợi ích tinh thần,
47
tiếp đến là lợi ích vật chất cho mỗi người, cơ quan, đơn vị trong quan hệ hài
hòa với lợi ích của đất nước, dân tộc. Đây là tính chất chính trị, xã hội, kinh tế
của TĐKT. Đây là công việc của các tổ chức trong HTCT dưới sự lãnh đạo
của Đảng, trực tiếp, thường xuyên là các cấp ủy đảng. Đồng thời, là trách
nhiệm của chính quyền các cấp.
Ba là, công tác TĐKT ở nước ta hiện nay là hoạt động tác động đến ý
thức, tư tưởng, tình cảm và niềm tin của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Để động viên đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua và
công tác TĐKT, trước hết phải tác động vào ý thức, tư tưởng, tình cảm, niềm
tin của mỗi người dân tạo chuyển biến nhận thức, sự thống nhất về ý chí, dẫn
tới thống nhất hành động. Đặc điểm này, đòi hỏi cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực này phải có năng lực, kinh nghiệm công tác tư tưởng, giáo dục, thuyết
phục và phải có nghệ thuật giáo dục thuyết phục.
Bốn là, công tác TĐKT ở nước ta hiện nay chịu tác động của việc xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vừa có hợp tác,
vừa có cạnh tranh; đồng thời vẫn còn chịu tác động của tâm lý, tập tập quán
của người sản xuất nhỏ, hoạt động lâu dài trong cơ chế hành chính, tập trung
bao cấp và trong chiến tranh.
Nền kinh tế thị trường đang được xây dựng ở nước ta hiện nay, mặc dù
được xây dựng theo định hướng XHCN, song nó cũng tác động khá mạnh mẽ
đến công tác TĐKT. Đã có nhiều ý kiến cho rằng trong điều kiện hiện nay,
quy luật giá trị, quy luật kinh tế thị trường chi phối rất mạnh mẽ mọi người, tổ
chức vươn lên đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động. Từ đó, đi đến phủ nhận
vai trò, tác dụng và sự cần thiết của TĐKT. Mặt trái của kinh tế thị trường tác
động mạnh mẽ dẫn đến tình trạng "chạy bằng khen, danh hiệu", "đánh bóng,
quảng bá thương hiệu" để thuận lợi trong hoạt động vì mục đích không trong
sáng. Tuy nhiên, tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nói riêng
48
và các hoạt động của HTCT và toàn xã hội nói chung lại càng làm tăng thêm
động lực, tính định hướng cho hoạt động TĐKT ở nước ta hiện nay. Bởi vì
bản chất hoạt động thi đua của chúng ta là thi đua yêu nước, thi đua XHCN.
Tâm lý người sản xuất nhỏ, tư tưởng bình quân cào bằng vẫn còn tác
động ở những mức độ khác nhau cản trở nhất định đến việc hưởng ứng các
phong trào thi đua của không ít người dân. Cạnh đó, là các hình thức, phương
pháp phát động, tổ chức các phong trào thi đua suốt thời kỳ dài của cuộc
chiến tranh vẫn còn tác động chi phối trong công tác thi đua của một bộ phận
cán bộ, đảng viên.
Với các đặc điểm có tính đặc thù nêu trên, để công tác TĐKT được thực
hiện tốt, đồng thời để có các phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực, phát huy
được sức mạnh toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, trong công cuộc đổi mới đòi
hỏi phải có những con người, những cán bộ chuyên trách làm công tác TĐKT
một cách chuyên nghiệp, vừa có tâm, vừa có tầm. Đội ngũ cán bộ đó vừa phải
tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác TĐKT,
vừa có nhiệm vụ hướng dẫn, thẩm định, kiểm tra thực hiện công tác TĐKT
trong các cơ quan, địa phương, ngành, đơn vị. Do đó, việc xây dựng đội ngũ
cán bộ này là rất quan trọng và rất cần thiết, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay. Tuy
nhiên, để xây dựng được đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
trước hết cần hiểu và làm rõ đặc điểm, vai trò, chức trách, nhiệm vụ của đội
ngũ cán bộ này.
2.1.3. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi
đua, khen thưởng – Khái niệm, chức trách, nhiệm vụ, vai trò và đặc điểm
2.1.3.1. Khái niệm về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyêntrách công tác thi đua, khen thưởng
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “cán bộ”, 1. người làm việc trong cơ quan
49
nhà nước: cán bộ nhà nước; bố mẹ đều là cán bộ. 2. người giữ chức vụ, phân
biệt với người bình thường, không giữ chức vụ, trong các cơ quan, tổ chức
nhà nước: cán bộ tổ chức; cán bộ đại đội [148, tr. 249].
“Lãnh đạo” là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể; “lãnh
đạo” còn dùng để chỉ các cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả
năng tổ chức, dẫn dắt phong trào [148, tr. 979].
Sách tra cứu các mục từ về tổ chức đưa ra định nghĩa rõ hơn về cán bộ
theo nghĩa và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp “cán bộ bao gồm những người được
bầu hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong các tổ chức (Đảng, Nhà nước,
đoàn thể nhân dân) thuộc HTCT ở các cấp từ Trung ương tới cơ sở”[108, tr.
122]. “Theo nghĩa rộng, cán bộ gồm tất cả những người đảm nhiệm một công
việc, mà những công việc này cần khả năng tập hợp, vận động nhân dân
hưởng ứng, cùng thực hiện không chỉ trong các tổ chức thuộc hệ thống chính
trị mà cả trong các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội”[108, tr. 123]. Từ đối
tượng nghiên cứu, luận án sử dụng định nghĩa này, theo nghĩa hẹp.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã luận
bàn sâu sắc và chỉ ra những điểm chủ yếu về sự lãnh đạo của Đảng. Người
khẳng định Đảng là người lãnh đạo cách mạng, Đảng như người cầm lái con
thuyền cách mạng, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy” [101, tr. 268]. Trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”. Người chỉ rõ thêm: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1. Phải
quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng... 2. Phải tổ chức sự thi hành cho
đúng... 3. Phải tổ chức sự kiểm soát...” [103, tr.285].
Sách tra cứu các mục từ về tổ chức còn chỉ rõ : “Quản lý: quá trình thu
thập và xử lý thông tin, ra quyết định và chuyển tải quyết định đó dưới dạng văn
bản tới các đối tượng bị quản lý” [108, tr. 545].
Như vậy, lãnh đạo quan hệ mật thiết và có nhiều điểm tương đồng với
50
quản lý. Hoạt động lãnh đạo đã bao hàm những nội dung của hoạt động quản lý
và ngược lại. Trên thực tế, khó có thể phân biệt rạch ròi hoạt động lãnh đạo với
hoạt động quản lý. Hoạt động lãnh đạo cũng phải tiến hành những việc của quản
lý và ngược lại. Hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý kết hợp chặt chẽ với
nhau nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đã được xác định. Sách tra cứu các mục từ về
tổ chức đã luận bàn về điều này: “lãnh đạo cùng với quản lý là công việc mà tất
cả các chủ thể là tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tác động đến các tổ chức và
cá nhân dưới quyền và các thành viên khác trong xã hội khi thi hành nhiệm vụ
do các chủ thể đó vạch ra” [108, tr. 471].
Cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện một số chức năng quản lý và cán bộ
quản lý cũng phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Song, trong quá trình
hoạt động, cán bộ lãnh đạo chủ yếu thực hiện phương thức của hoạt động lãnh
đạo, tức là giáo dục, thuyết phục, tổ chức động viên, sắp xếp, điều hành tổ chức,
cán bộ, sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm... Cán bộ quản lý chủ yếu sử dụng
các công cụ, phương tiện quản lý để điều hành hoạt động của tổ chức và cá nhân.
Phân biệt rạch ròi hai loại cán bộ này là rất khó.
Để đưa ra quan niệm về CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn
phải làm rõ khái niệm “chuyên trách”.
“Chuyên trách: chỉ làm và chỉ chịu trách nhiệm một việc nào đó” [148,
tr.406]. Sách tra cứu các mục từ về tổ chức cung cấp cách hiểu về cán bộ chuyên
trách trên cơ sở đưa ra định nghĩa về cán bộ không chuyên trách: “những
người tự nguyện làm việc ích nước, lợi nhà được nhân dân tín nhiệm suy tôn
làm cán bộ (như cán bộ không chuyên trách làm trưởng thôn, tổ trưởng dân
phố, cán bộ công tác phát thanh, truyền hình, dạy bình dân học vụ...làm việc
từ thiện không hưởng lương”[108, tr. 123].
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: CBLĐQL chuyên trách
là những cán bộ được bầu cử hoặc được bổ nhiệm giữ các chức vụ trong các
51
tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và và các đoàn thể nhân dân thuộc HTCT
các cấp, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, chỉ làm và chịu trách nhiệm về
một việc nào đó.
Trong khái niệm nêu trên, cần hiểu "một việc" theo nghĩa, đó là một
nghề. Thành ngữ Việt Nam có câu: "Một nghề cho chín hơn chín mười nghề,
nên chuyên về một nghề cho thành thạo, tinh thông, chuyên môn hóa nghề
nghiệp" [148, tr.1141].
Theo đó, CBLĐQL chuyên trách công TĐKT là những cán bộ được bổ
nhiệm giữ các chức vụ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, các
đoàn thể nhân dân, các doanh nghiệp... hưởng lương từ ngân sách nhà nước,
chuyên làm và chịu trách nhiệm về công tác TĐKT.
Đây là những cán bộ làm việc trong ngành TĐKT, thành thạo, tinh thông
về lĩnh vực TĐKT.
Từ khái niệm nêu trên, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nước
ta hiện nay, gồm:
- Ở Ban Thi đua, Khen thưởng Trung ương :
Trưởng ban, các Phó Trưởng ban; các Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng;
Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra; Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn
phòng, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng thuộc các Vụ, và Ban Thanh tra,
Văn phòng của Ban; Tổng Biên tập, Phó Tổng biên tập, các Trưởng, Phó
trưởng phòng Tạp chí Thi đua, Khen thưởng; Giám đốc, Phó Giám đốc, các
Trưởng, Phó trưởng phòng thuộc Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Thi đua,
Khen thưởng.
- Ở các Bộ, Ban, Ngành, Đoàn thể trung ương
Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng, Trưởng phòng, Phó trưởng phòng ở Vụ
Thi đua, Khen thưởng ở một số Bộ và cơ quan ngang Bộ; Trưởng phòng, Phó
trưởng phòng TĐKT ở một số Bộ và cơ quan ngang Bộ khác và Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân.
52
- Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban Thi đua - Khen thưởng cấp tỉnh, thành
phố; Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ 1 (theo dõi công tác TĐKT
các Sở, ban, ngành và doanh nghiệp), phòng Nghiệp vụ 2 (theo dõi công tác
TĐKT các huyện, thị xã, thành phố và xã, phường, thị trấn), (một số tỉnh chỉ có
hai phòng và phòng Tổng hợp - Hành chính thực hiện thêm chức năng, nhiệm vụ
của phòng Nghiệp vụ 1); thủ trưởng phụ trách công tác TĐKT ở những sở, ban,
ngành, đoàn thể cấp tỉnh đã thành lập tổ chức này.
- Ở cấp huyện:
Chỉ có cán bộ chuyên trách phụ trách công tác TĐKT huyện, quận, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh, không có CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT.
- Ở các Tập đoàn kinh tế và Tổng công ty Nhà nước:
Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng
TĐKT ở các đơn vị này.
- Ở xã, phường, thị trấn và các doanh nghiệp, hội, trường học trên địa
bàn tỉnh:
Chỉ có cán bộ kiêm nhiệm công tác TĐKT, không có CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT.
2.1.3.2. Chức trách, nhiệm vụ và vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
* Chức trách:
- Tham mưu
Tham mưu cho cấp ủy, lãnh đạo, chính quyền và hội đồng thi đua các
cấp, các đơn vị về công tác TĐKT, gồm: xác định, ban hành chủ trương phát
động các phong trào thi đua, nội dung thi đua, phương pháp tiến hành, sơ kết,
tổng kết các phong trào thi đua... ; tham mưu cho cấp ủy, hội đồng TĐKT, lãnh
53
đạo chính quyền, đơn vị về công tác khen thưởng đảm bảo đúng đường lối,
quan điểm, của Đảng, Luật TĐKT về khen thưởng; phối hợp với cơ quan tổ
chức cán bộ của cấp ủy và sở nội vụ tham mưu về chương trình, kế hoạch xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác TĐKT ở địa phương, ngành, đơn
vị; tham mưu về bảo đảm những điều kiện cần thiết khác để công tác TĐKT
đạt kết quả.
- Lãnh đạo, quản lý
Từ việc tham mưu cho cấp ủy về chủ trương, nội dung, phương pháp
tiến hành, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác TĐKT, đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã tham gia vào các hoạt động lãnh
đạo công tác TĐKT. Đội ngũ cán bộ này cũng tham mưu cho chính quyền, hội
đồng thi đua các cấp, các đơn vị về công tác TĐKT, họ cũng tham gia vào việc
quản lý nhà nước về công tác TĐKT. Trong quá trình hoạt động, đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trực tiếp quản lý nhà nước về công tác
TĐKT ở nhiều công việc.
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn là CBLĐQL cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT, họ lãnh đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan này, quản lý các hoạt động của cơ quan, bao gồm: lãnh đạo
cán bộ, công chức tổ chức duy trì các phong tào thi đua, sơ kết tổng kết các
phong trào thi đua của địa phương, đơn vị, lãnh đạo, quản lý cán bộ, công chức
triển khai công tác khen thưởng.
- Hướng dẫn, kiểm tra:
Hướng dẫn việc tổ chức, duy trì sơ kết, tổng kết công tác thi đua và làm
thủ tục khen thưởng; hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác
TĐKT trong cơ quan chuyên trách công tác TĐKT cấp mình và cấp dưới; kiểm
tra, giám sát công tác TĐKT, thẩm định hồ sơ khen thưởng.
* Nhiệm vụ
54
Xây dựng kế hoạch, chương trình, phương án tiến hành công tác TĐKT
trình các cấp lãnh đạo.
Hướng dẫn nghiệp vụ công tác TĐKT cho cán bộ làm công tác TĐKT
của các đơn vị ở địa phương, ngành.
Thực hiện một số nhiệm vụ được giao về quản lý nhà nước công tác
TĐKT; tổ chức việc kiểm tra và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi
phạm trong thực hiện chính sách, chế độ, pháp luật, những quy chế, quy trình
nghiệp vụ về TĐKT ở địa phương ngành, đơn vị theo chức trách, nhiệm vụ
của từng chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Chỉ đạo và thực hiện việc tổng hợp, thẩm định hồ sơ đề nghị khen
thưởng của các cơ quan, tổ chức để trình cấp có thẩm quyền quyết định khen
thưởng...
Triển khai thực hiện các quyết định của cấp ủy về xây dựng tổ chức bộ
máy, cán bộ, công chức của cơ quan làm công tác TĐKT bảo đảm hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ được giao.
* Vai trò
Thứ nhất, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có vai trò rất
quan trọng đối với thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về công tác TĐKT, xây dựng đội ngũ cán bộ
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
nói chung, về công tác TĐKT nói riêng chỉ có thể được thực hiện đạt kết
quả khi có đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐQL các cấp có chất lượng tốt.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: khi Đảng, Nhà nước đã đề ra được đường lối,
chính sách đúng, vấn đề then chốt để đường lối, chính sách được thực hiện
thắng lợi là phải có được những cán bộ tốt, nếu không có được những cán bộ
đó, “thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [117, tr. 449].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng của cán bộ
đối với sự thành công hay thất bại của cách mạng. Người khẳng định: “Cán
55
bộ là cái gốc của mọi công việc”[103, tr. 269]; “Công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[103, tr.273]. Trong công cuộc đổi mới
hiện nay, Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng”[64, tr. 329].
Có thể nói rằng, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là
một trong những nhân tố góp phần quyết định thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác
TĐKT ở các cấp, ngành, địa phương, đơn vị và trong cả nước. Đội ngũ cán
bộ này, trực tiếp chỉ đạo phát động, thực hiện, duy trì và sơ kết, tổng kết
các phong trào thi đua trong cả nước và tiến hành các thủ tục cần thiết để
khen thưởng những cá nhân, tập thể tiên tiến theo đúng quan điểm của Đảng,
Luật TĐKT. Qua đó, góp phần cổ vũ, động viên nhân dân, cán bộ, đảng viên
tích cực thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, trước
hết là chủ trương, nghị quyết của cấp uỷ, chính quyền địa phương về phát
triển mọi mặt trên địa bàn, nhiệm vụ chính trị của ngành, đơn vị. Qua các
phong trào thi đua, đội ngũ cán bộ trưởng thành, trở thành những cán bộ tốt
của Đảng; đội ngũ đảng viên, công chức, viên chức tiến bộ bổ sung cho đội
ngũ cán bộ của Đảng nhân lực và tố chất mới góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ.
Thứ hai, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là lực lượng
quan trọng về tham mưu, đề xuất những nội dung cần sửa chữa, bổ sung, hoàn
thiện chủ trương, chính sách TĐKT và xây dựng các chủ trương, chính sách
mới phù hợp thực tiễn nhằm phát huy vai trò, tác dụng của công tác TĐKT.
Là lực lượng trực chuyên trách, trực tiếp chỉ đạo, điều hành các hoạt động
về TĐKT ở các cấp, các ngành, đơn vị theo đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT; kiểm tra, giám sát những hoạt
động này, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT sẽ phát hiện được
56
những điểm chưa hợp lý hoặc lạc hậu trong các chủ trương, chính sách công
tác TĐKT. Với kinh nghiệm và năng lực chuyên môn của mình, họ là người
tham mưu, đề xuất những nội dung sát thực để sửa chữa những điểm chưa hợp
lý hoặc lạc hậu trong một số chủ trương, chính sách, bổ sung những điểm cần
thiết để chủ trương, chính sách về TĐKT hợp lý hơn. Đồng thời, tham mưu, đề
xuất những nội dung để xây dựng chủ trương, chính sách mới về công tác
TĐKT nhằm phát huy vai trò, tác dụng của TĐKT trong điều kiện hiện nay.
Thứ ba, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là nhân tố
quyết định hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách công tác
TĐKT ở các cấp, ngành, đơn vị, trực tiếp xây dựng đội ngũ cán bộ ngành
TĐKT đáp ứng yêu cầu công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay.
Đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là những CBLĐQL
chủ chốt của các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, trực tiếp lãnh đạo,
quản lý và tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này,
nhân tố quyết định để các cơ quan này hoàn thành chức năng, nhiệm vụ.
Đồng thời, là lực lượng trực tiếp bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, công chức
ngành TĐKT tạo nguồn cán bộ cho ngành TĐKT và tham gia đào tạo, bồi
dưỡng trong thực tiễn những cán bộ, công chức thành những CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay.
Thứ tư, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cung cấp cơ
sở thực tiễn, kinh nghiệm và tham gia vào việc nghiên cứu phát triển lý
luận về TĐKT trong điều kiện hiện nay.
Lý luận về TĐKT trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN, mở cửa, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất cầm quyền là vấn đề rất
mới, còn rất nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn. Những
vấn đề này, chỉ có thể từng bước được sáng tỏ nhờ tổng kết thực tiễn và khái
57
quát lý luận từ thực tiễn công tác TĐKT ở nước ta hiện nay. Đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một lực lượng rất quan trọng
cung cấp cơ sở thực tiễn, những kinh nghiệm có giá trị cho việc nghiên cứu
phát triển lý luận về công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay. Đồng thời, là
lực lượng tham gia nghiên cứu, phát triển lý luận về công tác TĐKT.
2.1.3.3. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
trách công tác thi đua, khen thưởng
Một là, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nước ta
hiện nay vừa là CBLĐQL, vừa là cán bộ tham mưu giúp việc cho cấp ủy,
chính quyền các cấp, ban lãnh đạo đơn vị, tổng công ty, tập đoàn kinh tế về
công tác TĐKT.
Với tư cách là CBLĐQL, hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT được thể hiện chủ yếu trong lãnh đạo,
quản lý hoạt động của cơ quan, bộ phận chuyên trách công tác TĐKT ở các
ngành, các địa phương, đơn vị, doanh nghiệp. Để hoàn thành nhiệm vụ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phải xác định chủ trương, các giải
pháp, quán triệt và tổ chức động viên cán bộ, công chức trong các cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT thực hiện đạt kết quả. Đây là những nội dung
của hoạt động lãnh đạo. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ này, lại là người trực tiếp
tham gia phát động, cổ vũ động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua,
duy trì các phong trào thi đua... Những hoạt động này mang tính chất của hoạt
động lãnh đạo. Mặt khác, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT lại
trực tiếp quản lý nhà nước về công tác TĐKT và trực tiếp quản hoạt động của
cơ quan chuyên trách công tác TĐKT. Để hoàn thành nhiệm vụ, họ phải thực
hiện các biện pháp, quy định của hoạt động quản lý. Điều này, thể hiện tính
chất quản lý trong hoạt động của họ. Chức năng chủ yếu của đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là tham mưu, giúp việc và hướng dẫn,
58
kiểm tra về công tác TĐKT. Bởi vậy, đặc trưng nổi trội của đội ngũ cán bộ
này, là cán bộ tham mưu. Việc đào, tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, sử dụng họ
phải chú ý đến tính chất, đặc trưng của cán bộ tham mưu.
Hai là, hoạt động của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
chủ yếu là hoạt động nghiệp vụ chuyên sâu, đồng thời là hoạt động nghiệp vụ
về tổ chức các phong trào thi đua yêu nước.
Mặc dù hoạt động của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT có những điểm là hoạt động lãnh đạo, quản lý, song tính chất nổi trội
trong hoạt động của họ là hoạt động tham mưu, đây là hoạt động chuyên sâu
trong một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội - hoạt động TĐKT. Hoạt động
này, đòi hỏi rất cao và thể hiện rõ tính chất chuyên nghiệp, chuyên sâu. Điều
này được quy định chủ yếu bởi công tác TĐKT tác động đến ý thức, tư tưởng,
tình cảm và niềm tin của các tầng lớp nhân dân. Đây là hoạt động của cán bộ
làm công tác tư tưởng. Cạnh đó, hoạt động của đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT lại luôn tác động đến đông đảo nhân dân chủ yếu bằng
phương thức vận động, giáo dục thuyết phục đông đảo nhân dân tham gia các
phong trào thi đua, tiếp xúc với đông đảo nhân dân để lựa chọn người có
thành tích xuất sắc để khen thưởng... Đây là cũng hoạt động của cán bộ dân
vận. Với các đặc điểm đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ này không chỉ có trình độ,
năng lực công tác mà phải có phẩm chất chính trị, bản lĩnh chính trị, lập
trường tư tưởng vững vàng, đạo đức trong sáng, công tâm, khách quan.
Ba là, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT mới thực sự
được quan tâm xây dựng trong những năm gần đây, bên cạnh những điểm mạnh
vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Suốt thời gian rất dài, công tác TĐKT được tiến hành trên cơ sở các
Thông tri, Nghị định của Chính phủ và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Viện
Thi đua - Khen thưởng Nhà nước. Hệ thống tổ chức, bộ máy công tác TĐKT
59
chưa thực sự được quan tâm xây dựng từ Trung ương đến địa phương.
Đến ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban
hành Luật TĐKT. Sau đó, Ban TĐKT Trung ương được Chính phủ thành lập
vào ngày 25/8/2004 theo Nghị định số 158/2004/NĐ- CP của Chính phủ, trên
cơ sở Viện Thi đua – Khen thưởng Nhà nước. Đến nay, tuy hệ thống tổ chức,
bộ máy và cán bộ, nhất là CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT từ Trung
ương đến địa phương đã được hình thành và đi vào hoạt động.
Hiện tại, mới có ó 08/24 Bộ, cơ quan ngang bộ thành lập Vụ Thi đua,
Khen thưởng; 14/24 đơn vị thành lập Phòng TĐKT; có Bộ chỉ bố trí cán bộ
chuyên trách công tác TĐKT (Bộ Y tế). Trong 08 cơ quan trực thuộc Chính
phủ có 04 cơ quan thành lập Vụ (Ban hoặc Phòng); 04 cơ quan bố trí cán bộ
chuyên trách công tác TĐKT. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
Trung ương, có 5/6 đơn vị thành lập Phòng TĐKT; 01 đơn vị bố trí cán bộ
chuyên trách (Hội Cựu chiến binh Việt Nam)....[71, tr. 14-15]. Vì thế, đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT chưa được hình thành một cách cơ bản.
Bên cạnh những điểm mạnh, như: tuyệt đại đa số CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối
sống trong sạch, lành mạnh; trình độ mọi mặt, năng lực công tác, năng lực tham
mưu, đề xuất, phong cách, lề lối làm việc... được nâng lên một bước, cơ cấu đã
được cải thiện, đội ngũ cán bộ này cũng còn nhiều điểm yếu kém, bất cập. Cụ
thể là: Cán bộ nữ chiếm tỷ lệ rất thấp (15%); cán bộ có tuổi dưới 30 tuổi
chiếm tỷ lệ thấp (80/599, chiếm 15% [Phụ lục 2]); cán bộ có tuổi đời từ 45
đến 60 tuổi chiếm tỷ lệ còn cao (324/599, chiếm trên 55% [Phụ lục 2]. Phần
lớn cán bộ thiếu kiến thức cần thiết về các lĩnh vực đời sống xã hội. Cạnh đó,
một số cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, một số chưa thật yên tâm công tác.
Đội ngũ cán bộ mới được quan tâm xây dựng nên nhiều cán bộ chưa sâu về
chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tham mưu, đề xuất còn nhiều bất cập. Ở
60
nhiều nơi, đang xay ra tình trạng hụt hẫng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT kế cận có trình độ quản lý, chuyên môn cao, có thâm niên nghề nghiệp
và kinh nghiệm thực tiễn về công tác TĐKT.
Bốn là, trong thực thi công vụ, ngoài những nhân tố tích cực, đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn phải đối mặt với không ít khó
khăn, thách thức và tiêu cực trong công tác TĐKT.
Thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, mở cửa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tạo nên những
thuận lợi lớn cho công tác TĐKT và đội ngũ ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT hoàn thành tốt nhiệm vụ. Song, so với những thời kỳ cách
mạng trước đây, công tác TĐKT và đội ngũ cán bộ này, phải đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức và tiêu cực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Trước hết, ở không ít nơi và nhiều người dân, trong đó có cán bộ, đảng viên còn
có nhận thức không đúng, cho rằng, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường TĐKT không còn tác dụng và không cần thiết. Từ nhận thức không đúng
đó, họ không những không tham gia vào các phong trào thi đua, coi thường các
danh hiệu thi đua, mà còn gây nên những tác động tiêu cực không nhỏ đối với
nhiều người khác trong tham gia vào các phong trào thi đua và những người có
công trạng, thành tích được tặng các danh hiệu thi đua. Tình trạng này, gây khó
khăn không nhỏ cho ngũ cán CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong chỉ
đạo phát động, duy trì các phong trào thi đua và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Cạnh đó, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn phải đối
mặt với những tiêu cực tinh vi của bệnh thành tích, tình trạng “chạy danh hiệu”,
“chạy huân, huy chương” trong công cuộc đổi mới vì lợi ích cá nhân và nhóm,
cục bộ, tạo và “ đánh bóng” thương hiệu cơ quan, đơn vị vì mục đích cá nhân,
cục bộ, nhóm... Những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hạn chế về
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác sẽ dễ mắc sai sót trong
thực thi nhiệm vụ. Một số cán bộ có bản lĩnh chính trị không vững vàng, yếu
61
kém về phẩm chất đạo đức chưa được phát hiện, sẽ dễ tiêu cực, ảnh hưởng
không nhỏ đến vai trò, tác dụng của công tác TĐKT hiện nay.
2.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN
TRÁCH CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở NƯỚC TA – KHÁI NIỆM,
NỘI DUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC
2.2.1. Khái niệm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
trách công tác thi đua, khen thưởng
Đại từ điển tiếng Việt: xây dựng là làm nên, gây dựng nên; ...có tinh
thần đóng góp, làm tốt hơn: ý kiến xây dựng; thái độ xây dựng [148, tr. 1857].
Trong qua trình xây dựng Đảng Cộng sản và lãnh đạo giai cấp công
nhân, nhân dân lao động làm cách mạng C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã
nhiều lần bàn về những công việc phải tiến hành để có đội ngũ cán bộ tốt.
C.Mác viết: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn” [97, tr. 181]. Những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn, chính là đội ngũ cán bộ.
V.I.Lênin rất quan tâm việc “đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp”
và khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào”[110, tr. 473]. Những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức
và lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, đó là những cán bộ có khả năng xây dựng đường lối cách mạng và lãnh
đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động thực hiện thắng lợi đường lối đã
được xây dựng. V.I.Lênin luôn chú ý đến việc tìm, phát hiện cán bộ, thử thách
về phẩm chất và năng lực cán bộ và đề bạt cán bộ. Người viết:
Chú ý tìm cho ra và thử thách một cách hết sức nhẫn nại, hết sức thận
trọng những người thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt và
có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ
62
nghĩa xã hội lại vừa có năng lực lặng lẽ… Chỉ có những người như thế, chúng
ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo lao động của nhân dân, lên những
chức vụ lãnh đạo, quản lý, sau khi đã thử thách họ hàng chục lần bằng cách
cho họ đảm nhận từ những nhiệm vụ đơn giản nhất đến những nhiệm vụ khó
khăn nhất [116, tr. 236-237].
V.I.Lênin nhấn mạnh việc lựa chọn cán bộ để bố trí vào chức vụ xứng
đáng, có lợi cho cách mạng. Người viết: “Chúng ta cần phải lựa chọn cán bộ
phụ trách...có lợi cho sự nghiệp”[113, tr. 359]; “...và người được lựa chọn có
xứng đáng với chức vụ người ấy sẽ đảm nhiệm không”[113, tr.359].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam và rèn luyện Đảng ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về những điều nêu trên, đã có nhiều bài viết, bài nói
chuyện về cán bộ và công tác cán bộ. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,
Người đã chỉ ra những công việc chủ yếu phải thực hiện để có cán bộ tốt,
gồm: huấn luyện cán bộ; kiểm tra cán bộ; chọn cán bộ; dùng cán bộ; đối đãi
với cán bộ... Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc huấn luyện
cán bộ, coi đó, “là công việc gốc của Đảng” [103, tr. 269].
Chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đã chỉ
ra những những việc cơ bản phải làm, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
tốt yêu cầu CNH, HĐH đất nước, gồm: xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; rèn
luyện; tuyển chọn; nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực của cán bộ; giáo
dục; bồi dưỡng; qui hoạch; đào tạo; bố trí; sử dụng cán bộ; phát hiện; kiểm
tra, giám sát; quản lý; đánh giá cán bộ và chính sách cán bộ, trách nhiệm của
cơ quan, cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ...
Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có
cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững
vàng”[61, tr. 13]. Đồng thời, nhấn mạnh những nội dung chủ yếu của xây
63
dựng đội ngũ cán bộ, như: cơ cấu đội ngũ cán bộ; vấn đề cán bộ kế tiếp; dân
chủ, khoa học, công minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ; ứng cử, bầu cử, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, thay thế cán bộ; phát hiện, lựa chon, tuyển chọn cán bộ;
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí, sử dụng cán bộ; đãi ngộ cán bộ…
Những vấn đề nêu trên được phát triển, bổ sung trong Báo cáo tổng kết
10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trong đó, đã bổ sung những quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai
đoạn hiện nay. Quan điểm thứ sáu về công tác cán bộ được Đảng ta phát triển
và hoàn chỉnh: “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm của
các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị”[64, tr.
241]. Quan điểm này, chỉ rõ chủ thể của xây dựng đội ngũ cán bộ là Đảng,
trước hết là cấp uỷ các cấp, các ngành, cấp uỷ cơ quan, đơn vị; lực lượng
tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ là cán bộ, đảng viên, các tổ chức trong
HTCT; người đứng đầu các tổ chức trong HTCT có trách nhiệm cao đối với
xây dựng đội ngũ cán bộ.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ, Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ rõ:
Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng người có đức, có tài. Nâng cao
chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; …Làm tốt công tác quy hoạch
và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ,.. ; đánh giá và sử dụng cán bộ… Thực
hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức, thay thế cán bộ… Thực
hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch… Tăng cường
giáo dục, quản lý cán bộ [65, tr. 161-162].
Một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ về xây dựng đội ngũ cán bộ ở
các cấp đã đưa khái niệm xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong đó, đáng quan tâm
là luận văn thạc sĩ của Trần Thọ về "Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban
64
Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng quản lý giai đoạn hiện nay". Luận văn đã đưa
ra quan niệm:
Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng
quản lý, kể cả cán bộ đương chức và cán bộ dự nguồn là toàn bộ hoạt động
của Thành ủy Đà Nẵng, các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ và các cơ
quan có kiên quan, thực hiện các khâu: xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ, quản lý kiểm tra, giám sát
cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ... nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ thuộc diện
Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng quản lý có đủ phẩm chất, năng lực đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, ngành, đơn vị và của Thành phố trong
giai đoạn hiện nay[140. tr. 26-27].
Đáng chú ý hơn là luận án tiến sĩ của Trịnh Thanh Tâm: “Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt là nữ của hệ thống chính trị các xã ở đồng bằng sông Hồng
giai đoạn hiện nay”. Tác giả đưa ra khái niệm:
Xây dựng đội ngũ CBCCLN của HTCT xã ở ĐBSH là toàn bộ hoạt
động của các cấp uỷ, các cơ quan tham mưu của cấp uỷ từ tỉnh đến đảng uỷ
xã; của cán bộ, đảng viên và các cơ quan có liên quan, mà trực tiếp là hoạt
động của huyện uỷ, đảng uỷ xã và sự phối hợp giữa các tổ chức này trong
thực hiện các khâu của công tác cán bộ đối với cán bộ nữ đương chức và dự
nguồn các chức danh CBCC của HTCT xã và việc tự học, tự rèn của họ,
nhằm tạo nên đội ngũ CBCCLN của HTCT xã có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ xã[134, tr. 67].
Từ những luận giải và quan niệm về CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT, tham khảo các khái niệm nêu trên: có thể định nghĩa: Xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là toàn bộ hoạt động của các cấp
ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, ở ban, bộ, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân ở trung ương, ở các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, cán
bộ, đảng viên và các tổ chức có liên quan về thực hiện các khâu của công tác
65
cán bộ nhằm tạo nên đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có phẩm
chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo, quản lý và tham
mưu đề xuất, là những chuyên gia trong lĩnh vực TĐKT.
* Mục tiêu xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT:
Xây dựng đội ngũ CNLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đảm bảo số
lượng theo quy định của Trung ương; có cơ cấu hợp lý, có chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu công tác TĐKT ở cấc cấp, ngành, địa phương, đơn vị, góp phần
thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về công tác TĐKT, qua đó góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của địa phương, ngành, đơn vị.
Đối với từng cấp, từng ngành, địa phương, đơn vị, xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có bản lĩnh chính trị vững vàng,
chuyên môn sâu, có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh đáp ứng tốt yêu
cầu, nhiệm vụ công tác TĐKT ở các cấp, ngành, địa phương, đơn vị đó.
* Chủ thể xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKTTheo phân cấp quản lý cán bộ, CBLĐQL thuộc diện quản lý của cấp ủy
cấp nào, thì cấp ủy cấp đó là chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách của mình: CBLĐQL Ban TĐKT Trung ương do
Ban Bí thư trung ương Đảng trực tiếp xây dựng; CBLĐQL cấp Vụ ở Ban
TĐKT Trung ương do Đảng ủy Ban và Đảng ủy Bộ Nội vụ trực tiếp xây dựng;
cán bộ quản lý cấp vụ ở những ban, ngành, đoàn thể, ở đó thành lập Vụ
TĐKT và tương đương do cấp ủy lãnh đạo ở ban ngành, đoàn thể trực tiếp
xây dựng; cán bộ quản lý cấp phòng và tương đương trong các cơ quan
chuyên trách về công tác TĐKT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do
cấp ủy lãnh đạo Ban TĐKT tỉnh, thành phố và cấp ủy lãnh đạo sở Nội vụ trực
tiếp xây dựng. Cán bộ quản lý cấp phòng các cơ quan chuyên trách công tác
TĐKT của bộ, ban, ngành, đoàn thể do cấp ủy cơ quan TĐKT và cấp ủy ở bộ,
ban, ngành, đoàn thể đó trực tiếp xây dựng.
66
* Lực lượng tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên tráchcông tác TĐKT:
Nhà nước và chính quyền các cấp, ban quản lý đơn vị là lực lượng quan
trọng hàng đầu xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của
cấp mình. Bởi vì, tổ chức, cơ quan chuyên trách công tác TĐKT được phép
thành lập là những cơ quan trực thuộc chính quyền cùng cấp. CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của chính
quyền cùng cấp.
Các ban tham mưu của Đảng, Nhà nước, nhất là Ban Tổ chức Trung ương,
Bộ Nội vụ tham mưu và tổ chức xây dựng CBLĐQL Ban TĐKT Trung ương;
tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các quy định về công tác cán bộ, về
chế độ, chính sách cán bộ, hướng dẫn các cơ quan tổ chức, cán bộ của cấp uỷ,
chính quyền, đoàn thể ở địa phương, để các cơ quan này, tham mưu cho cấp uỷ,
chính quyền, các ban chấp hành đoàn thể địa phương về xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của mình và của địa phương.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là lực lượng rất
quan trọng tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ cùng cấp.
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước, Đoàn thể
nhân dân và các cơ sở khác, là nơi đào tạo CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT một cách cơ bản, hệ thống những nội dung cần thiết và bồi dưỡng, cập
nhật kiến thức liên quan đến công tác TĐKT. Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ TĐKT của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, bồi dưỡng nghiệp
vụ công tác TĐKT và những kiến thức khác cho cán bộ ngành TĐKT và
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và cán bộ
trong quy hoạch, một mặt là đối tượng xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
67
trách công tác TĐKT. Mặt khác, với tư cách là người tự học tập, tự rèn luyện
bản thân để trở thành cán bộ tốt, họ cũng là chủ thể xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành dưới sự lãnh đạo của
các cấp uỷ đảng tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở các cấp, ngành, địa phương mình.
2.2.2. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên
trách công tác thi đua, khen thưởng
2.2.2.1. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
Xây dựng tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT các cấp, các ngành là nội dung đầu tiên, rất quan trọng của xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
được giao.
Tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT các cấp,
các ngành được cụ thể hoá, là hệ thống các chuẩn mực về phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, năng
lực công tác, ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách làm việc, sức khoẻ… đảm
bảo cho cán bộ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của chức danh cán bộ đó.
Để xây dựng tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT cần nắm chắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
về cán bộ và công tác cán bộ; căn cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo nhà nước trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước; dựa vào Luật Cán bộ, công chức; nhiệm vụ công tác
TĐKT ở từng cấp, ngành đơn vị; quy định về chức trách, nhiệm vụ của chức
danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT; sự hướng dẫn của cấp trên về
tiêu chuẩn cán bộ.
68
Về tiêu chuẩn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi trọng
và nhấn mạnh đức và tài của cán bộ, trong đó đức là gốc. Trong điều kiện
hiện nay, khi cụ thể hoá tiêu chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
một mặt, cần coi trọng phẩm chất chính trị, mặt khác cần đặc biệt coi trọng
phẩm chất đạo đức, lối sống. Bởi vì, phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo
đức, lối sống, quan hệ mật thiết với nhau và trên thực tế đã có nhiều cán bộ từ
sự suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống dẫn đến suy thoái về phẩm chất
chính trị. Đồng thời, cần coi trọng tài, song phải coi đức là gốc. Tài của cán
bộ được thể hiện ở trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tổ chức thực
hiện công tác TĐKT. Bởi vì, đức và tài quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên
năng lực và phẩm chất của cán bộ. Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước khẳng định điều này: “Các tiêu chuẩn cán bộ có quan hệ mật
thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc” [57, tr.80].
Dựa vào tiêu chuẩn chung của cán bộ trong giai đoạn hiện nay và tiêu
chuẩn riêng của cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân được
thể hiện trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và
được bổ sung trong Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ tại
Hội nghị Trung ương chín, khoá X. Đồng thời, dựa vào chức trách, nhiệm vụ
của chức danh cán bộ để cụ thể hoá tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT. Điều này, đảm bảo tính sát thực của tiêu chuẩn chức
danh cán bộ đã được cụ thể hoá. Đồng thời, cần làm nổi bật những nét đặc thù
của CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, đó là cán bộ tham mưu về công
tác TĐKT, CBLĐQL cơ quan chuyên trách công tác TĐKT.
2.2.2.2. Tạo nguồn và xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
Tạo nguồn cán bộ để chuẩn bị đưa vào quy hoạch CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT. Lực lượng này, gồm toàn thể cán bộ, công chức, song
69
cần chú ý đến những cán bộ đã làm việc trong ngành TĐKT và những cán bộ,
công chức làm việc ở các ngành, lĩnh vực khác, nhưng có khả năng làm tốt
công tác TĐKT, có triển vọng phát triển.
Căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ công tác
TĐKT của địa phương, cơ quan, đơn vị; tiêu chuẩn cán bộ đưa vào quy hoạch;
quan tâm đến tình hình đội ngũ cán bộ và nguồn cán bộ có thể đưa vào quy
hoạch để xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Xem xét những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức
đủ năng lực tiếp tục đảm đương nhiệm vụ và còn thời gian làm việc thêm một
nhiệm kỳ nữa, để đưa vào quy hoạch cán bộ cho nhiệm kỳ tiếp theo.
Xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT theo đúng
các quan điểm, nguyên tắc, phương châm, quy trình do Đảng đề ra và thực
hiện nghiêm hướng dẫn của cấp trên.
2.2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ và thực trạng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT đương chức tiến hành xây dựng kế hoạch đưa những cán
bộ đương chức chưa đạt chuẩn và cán bộ trong quy hoạch đi đào tạo, bồi
dưỡng theo các hình thức thích hợp tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
của Đảng, Nhà nước, Đoàn thể nhân dân và các cơ sở khác, để họ được đào
tạo cơ bản, hệ thống và dược bồi dưỡng cập nhật kiến thức. Cần coi trọng bồi
dưỡng những cán bộ này trong thực tiễn, qua thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được phân công.
Luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong quy hoạch,
nhằm đào tạo toàn diện cán bộ trong thực tiễn. Đây là quá trình tiếp tục đào
tạo, bồi dưỡng, bổ sung kiến thức, nhất là rèn luyện năng lực tổ chức, chỉ đạo
các hoạt động TĐKT, xử lý tình huống trong quá trình thực thi công vụ,
70
chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để bố trí cán bộ vào cương vị công tác
theo quy hoạch. Luân chuyển những cán bộ này, theo đúng quy hoạch và giải
quyết tốt những vấn đề nảy sinh trong quá trình luân chuyển cán bộ và trong
hoạt động của cán bộ ở nơi họ được luân chuyển đến.
2.2.2.4. Đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi
đua, khen thưởng đương chức và cán bộ trong quy hoạch
Đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và cán
bộ trong quy hoạch theo quy định của Đảng và hướng dẫn của cấp trên, để có
chủ trương, giải pháp kịp thời phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, hạn
chế, tạo điều kiện cho cán bộ phát triển. Đánh giá những cán bộ trong quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cần coi trọng đánh giá về xu
hướng phát triển; đưa những người không đáp ứng yêu cầu ra khỏi quy hoạch;
tạo điều kiện đưa những nhân tố mới, tiến bộ vào quy hoạch, bổ sung cho quy
hoạch nguồn lực và tố chất mới, tạo “sân chơi bình đẳng” cho đội ngũ cán bộ,
công chức trong công tác quy hoạch cán bộ.
Đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cần căn cứ vào tiêu
chuẩn chức danh cán bộ; kết quả hoàn thành nhiệm vụ; sự tín nhiệm của cán bộ,
công chức; tham khảo ý kiến của các đoàn thể nhân dân tại đơn vị; ý kiến của
cấp uỷ, tập thể lãnh đạo, quản lý đơn vị; cơ quan tổ chức, cán bộ trực tiếp quản
lý cán bộ đó, theo phân cấp quản lý cán bộ.
2.2.2.5. Bổ nhiệm, bố trí, sử dụng, quản lý và thực hiện chính sách
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
Thực hiện tốt nội dung này sẽ thúc đẩy việc thực hiện những nội dung
khác của xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đạt kết
quả; cổ vũ, động viên các cấp uỷ, tổ chức đảng tiếp tục thực hiện tốt công tác
cán bộ; cổ vũ đội ngũ cán bộ tích cực phấn đấu, vươn lên. Cần thực hiện
nghiêm chỉnh các nguyên tắc, thủ tục, quy trình bố trí, sử dụng cán bộ; phải
71
xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của công tác TĐKT, từ nhiệm vụ của
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, từ chức danh trong quy hoạch cán bộđể bố trí, sử dụng cán bộ. Đồng thời, phải dân chủ, khách quan, công tâm,
công khai khi bố trí, sử dụng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.Duy trì thành nền nếp và nâng cao chất lượng công tác quản lý
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cả cán bộ đương chức và cán bộ trong
quy hoạch. Coi trọng đổi mới nội dung, phương thức quản lý cán bộ, đảm bảo
quản lý toàn diện cả số lượng, chất lượng; cả lập trường quan điểm, phẩm chất
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ, năng lực công tác; quan hệ gia
đình, xã hội; phong cách làm việc; ý thức tổ chức, kỷ luật; thái độ với nhân dân
và sức khoẻ… Thực hiện nghiêm chỉnh những quan điểm, nguyên tắc, quy
định về quản lý cán bộ; tăng cường quản lý những cán bộ thuộc diện ban
thường vụ cấp uỷ quản lý theo phân cấp quản lý cán bộ.
Triển khai thực hiện chính sách đối với CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT đương chức và cán bộ trong quy hoạch trên ba phương diện chủyếu: chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán
bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần đối với những
cán bộ đương chức và cán bộ trong diện quy hoạch. Phê phán kịp thời những
biểu hiện chưa đúng, cho rằng, việc thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là trách nhiệm của cán bộ, dẫn đến
xem nhẹ và thực hiện không đến nơi, đến chốn việc động viên, khen thưởng
cán bộ.
2.2.2.6. Phát huy vai trò của chính quyền, lãnh đạo đơn vị, Mặt trậnTổ quốc, các đoàn thể tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lýchuyên trách công tác thi đua, khen thưởng và việc tự học, tự rèn của cán bộ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là những người thường tiến
hành công việc liên quan, trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức và đông đảo
nhân dân, liên quan trực tiếp đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của họ về
72
TĐKT; đảm bảo công bằng trong khen thưởng, phát huy vai trò, tác dụng của
TĐKT... Nhân dân, cán bộ, công chức thông qua các tổ chức chính trị - xã hội
của mình, thường nắm chắc hoạt động của cán bộ, giám sát có hiệu quả hoạt
động và việc giữ gìn phảm chất của cán bộ. Họ sẽ có những đóng góp có giá trị
về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT và đối với từng
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một bộ phận trong
đội ngũ CBLĐQL của chính quyền các cấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ này,
chính là xây dựng đội ngũ CBLDQL của chính quyền và là trách nhiệm của
chính quyền. Chính quyền các cấp cần xác định rõ trách nhiệm của mình.
Cấp uỷ cần có các quy định về phối hợp hoạt động của cấp uỷ, chính
quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT thông qua
việc tự học tập, tự rèn luyện của từng cán bộ đương chức và cán bộ trong quy
hoạch có vai trò và ý nghĩa rất lớn. Nhiều trường hợp, việc tự học tập, tự rèn
luyện của cán bộ trở thành một trong những nhân tố quyết định sự phát triển
của cán bộ. Cấp uỷ cần làm cho cán bộ nhận thức sâu sắc điều này, và luôn
coi trọng đề cao trách nhiệm của từng cán bộ trong việc tự giác tự học tập, rèn
luyện đáp ứng tốt yêu cầu, tiêu chuẩn CBLDQL chuyên trách công tác TĐKT.
Đồng thời, luôn động viên và tạo điều kiện, thuận lợi để cán bộ tự học tập, rèn
luyện đạt kết quả.
2.2.3. Những vấn đề có tính nguyên tắc về xây dựng đội ngũ cán bộlãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh các quan điểm chỉ đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước đã được bổ sung trong Kết luận số 37-KL/TW ngày 2-2-2009
73
của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 .
Những quan điểm đó, gồm:
Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là, phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, CNH, HĐH đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.
Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với
nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân
biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước
hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; không định kiến với những người
có sai lầm trong quá khứ, nay đã sửa chữa và có tâm huyết xây dựng đất nước.
Bốn là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi
mới cơ chế, chính sách, với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của
nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào nhân dân
để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của
các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong HTCT.
74
Các cấp ủy đảng cần quán triệt những quan điểm nêu trên vào từng
khâu của công tác cán bộ và từng nội dung xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT ở các cấp, ngành, đoàn thể...
Thứ hai, xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phải
thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay,
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới.
Mục đích của thi đua là nhằm lôi cuốn, khuyến khích, động viên mọi
cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn
lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tạo thành sức mạnh to lớn thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới, xây dựng thành công CNXH
trên đất nước ta, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Mục đích của công tác khen thưởng là ghi nhận, tôn vinh, biểu dương
thành tích và nhân điển hình tiên tiến về những tập thể và cá nhân trong lao
động sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác; góp phần động viên toàn dân
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Như vậy, xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
trước hết phải tuân thủ nguyên tắc này, phải xuất phát từ nhiệm vụ công tác
TĐKT để xác định các chủ trương, giải pháp xây đội ngũ cán bộ này, qua đó
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới ở từng cấp,
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị và trên bình diện cả nước. Đây cũng chính
là quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẳng định, đó là vì việc mà
“đặt” người.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phải
bảo đảm đủ về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, bởi đây là mục
tiêu, là đích hướng tới của việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
75
tác TĐKT. Quán triệt nguyên tắc này, khi tiến hành xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT buộc các cấp ủy đảng, chính quyền hay
lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, các bộ, ban, ngành, địa phương phải tính đến số
lượng theo định biên, đồng thời phải tính đến yêu cầu đảm bảo chất lượng, cơ
cấu thành phần, độ tuổi để bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các
thế hệ cán bộ. Thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền
cần tuyệt đối tránh tình trạng không biết bố trí cán bộ vào đâu thì bối trí cán bộ
làm công tác TĐKT, hoặc những cán bộ không thể cất nhắc, đề bạt vào vị trí
nào thì đưa sang Ban TĐKT của cơ quan, đơn vị. Là những người trực tiếp
“cầm cân nảy mực” trong việc đánh giá, thẩm định thành tích, công trạng để đề
nghị khen thưởng cho các tập thể, cá nhân, đòi hỏi những CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT phải là những cán bộ mẫu mực, có trình độ, năng lực và
phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phải
được thực hiện đồng bộ, thông qua các khâu trong công tác cán bộ và trên cơ
sở các quy định của Đảng, Nhà nước. TĐKT là hoạt động có tính đặc thù, cũng
cần có những cơ chế, giải pháp đặc thù để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT một cách hiệu quả. Tuy nhiên, các chủ thể tiến hành xây
dựng đội ngũ cán bộ này vẫn phải thực hiện đầy đủ các khâu trong công tác cán
bộ, từ xây dựng tiêu chuẩn, tạo nguồn, đánh giá, lựa chọn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, quản lý, bố trí sử dụng và thực hiện các
chính sách cán bộ theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
76
Tiểu kết chương 2
Đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một bộ phận rất
quan trọng trong đội ngũ cán bộ ngành TĐKT, nhân tố quyết định thực hiện
thắng lợi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác
TĐKT và nhiệm vụ của ngành TĐKT. Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác TĐKT trong giai
đoạn hiện nay là rất cần thiết.
Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phải trên cơ
sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ; xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT và nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức chuyên trách công tác
TĐKT; từ chức trách, nhiệm vụ, vị trí, vai trò và đặc điểm đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT; thực hiện tốt nội dung, phương thức và những
vấn đề có tính nguyên tắc về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT.
Để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng
tốt yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay, ngoài việc thực hiện tốt những vấn
đề đã luận giải ở trên, một vấn đề rất quan trọng cần thực hiện tốt là điều tra,
khảo sát thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT và thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ này, trong những
năm gần đây, để có căn cứ thực tiễn đề xuất các giải pháp khả thi.
77
Chương 3
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN TRÁCH
CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN TRÁCH CÔNG TÁC
THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở NƯỚC TA - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN
TRÁCH CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
3.1.1. Ưu điểm
3.1.1.1. Về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn
Sau khi Ban TĐKT Trung ương được thành lập, ở các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, bộ, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể ở
Trung ương, các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước, cơ quan chuyên
trách công tác TĐKT được củng cố, kiện toàn và đi vào hoạt động. Đến nay,
ở cấp huyện không có cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, chỉ có cán bộ
phụ trách công tác TĐKT. Như vậy, ở cấp huyện không có CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT. Ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có Ban
TĐKT và thường có ba phòng trực thuộc (phòng hành chính - tổng hợp,
phòng nghiệp vụ I và II ), tỉnh Đồng Nai có thêm phòng nghiệp vụ III; tỉnh
Lạng Sơn có thêm phòng thanh tra. Ở các bộ, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị xã - hội Trung ương, các Tổng công ty, Tập đoàn kinh
tế nhà nước thành lập Ban hoặc Vụ TĐKT, trong đó thường có hai phòng trực
thuộc (phòng hành chính - tổng hợp và phòng nghiệp vụ công tác TĐKT).
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, gồm những cán bộ từ phó trưởng
phòng tương đương trong ban TĐKT tỉnh, thành phố, trong ban, vụ TĐKT
của các đơn vị, trong Ban TĐKT Trung ương trở lên.
Qua khảo sát và phân tích số liệu báo cáo cho thấy:
78
* Về số lượng
Tổng số CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước, tính
đến tháng 12 năm 2013 là 599 cán bộ, trong đó ở các tỉnh, thành phố có 465
cán bộ; ở bộ, ban, ngành, đoàn thể trung ương (kể cả Ban TĐKT Trung ương)
có 98 cán bộ; ở các tập đoàn, tổng công ty kinh tế nhà nước có 36 cán bộ [Phụ
lục 2]. Như vậy, phần lớn tỉnh, thành phố, bộ, ban, đoàn thể...bảo đảm về số
lượng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT theo quy định về biên chế của
cấp trên. Cán bộ lãnh đạo Ban TĐKT trung ương, các bộ cấp vụ trong Ban
nhìn chung luôn đảm bảo về số lượng theo định biên (một vụ trưởng, hai vụ
phó), cán bộ các phòng trong Ban có lúc thiếu một hai đồng chí, song sau thời
gian ngắn được kiện toàn đủ số lượng theo quy định. Ở các bộ, ban, đoàn thể,
tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, về cơ bản đảm bảo số lượng cán bộ
cấp vụ, ban và cấp phòng ở những nơi thành lập ban, hoặc vụ TĐKT; đặc biệt,
ở những nơi thành lập phòng TĐKT, số lượng trưởng, phó trưởng phòng
TĐKT luôn đảm bảo về số lượng theo quy định.
Ở phần lớn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trưởng ban và
một phó trưởng ban TĐKT tỉnh, thành phố; 23 tỉnh, thành phố có trưởng ban
và hai phó trưởng ban; thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ngãi có trưởng
ban và ba phó trưởng ban; tỉnh Bắc Kạn, Hà Nam, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Gia
Lai, Lâm Đồng chỉ có trưởng ban, không có phó trưởng ban; tỉnh Hòa Bình
chỉ có một phó trưởng ban, không có trưởng ban TĐKT[Phụ lục 9]. Cán bộ
cấp phòng, nhìn chung đảm bảo về số lượng.
Tuyệt đại đa số các tỉnh, thành phố đều bố trí đồng chí Phó giám đốc
sở nội vụ là CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT và là Phó chủ tịch thường
trực hội đồng TĐKT tỉnh, thành phố; riêng tỉnh Hòa Bình và tỉnh Bắc Giang
không bố trí Trưởng ban TĐKT tỉnh là phó giám đốc sở nội vụ và không là
phó chủ tịch thường trực hội đồng TĐKT tỉnh, do chưa chuẩn bị kịp về nhân
sự [Phụ lục 9].
79
* Về cơ cấu
- Về tuổi đời, giới tính
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT từ phó trưởng phòng trở lên ở
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tuổi đời dưới 45 tuổi chiếm 46%
(62+ 141/465); số cán bộ còn lại có tuổi đời từ 45 đến 60 tuổi [Phụ lục 2].
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT từ phó trưởng phòng trở lên ở
các bộ, ban, Đoàn thể ở Trung ương có có tuổi đời dưới 45 tuổi chiếm 45,7%;
số cán bộ còn lại có tuổi đời từ 45 đến 60; cán bộ nữ chiếm 7,3% [Phụ lục 2].
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT từ phó trưởng phòng trở lên ở
các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước có tuổi đời dưới 45 tuổi chiếm
42, 6%; số cán bộ còn lại có tuổi đời từ 45 đến 60 tuổi; cán bộ nữ chiếm
10%[Phụ lục 2].
Như vậy, trong đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, cán bộ
nữ chiếm khoảng 13,35% (80/599); cán bộ có tuổi đời dưới 45 chiếm khoảng
45,9%(80+195/599), số cán bộ còn lại có tuổi đời từ 45 đến 60)[Phụ lục 2].
- Về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước và tin
học, ngoại ngữ
Về trình độ đại học, trên đại học: tất cả CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT có trình độ đại học, một số cán bộ có trình độ đại học văn bằng 2
thuộc các chuyên ngành có nhiều liên quan đến công tác TĐKT. 153 cán bộ
có trình độ trên đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) chiếm 25,54% (153/599) tổng số
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT[Phụ lục 3].
Về trình độ lý luận chính trị: trên 30% CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT có trình độ cử nhân chính trị và cao cấp lý luận chính trị; một số ít
cán bộ có trình độ trung cấp lý luận chính trị, là những phó trưởng phòng ở
các cơ quan [Phụ lục 3] chuyên trách công tác TĐKT không thuộc quy hoạch
chức danh cán bộ cao hơn.
80
Về trình độ quản lý nhà nước và ngạch công chức: CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT từ trưởng phòng trở lên đều được học qua các lớp quản
lý nhà nước; ở các tỉnh, thành phố có 19 cán bộ là chuyên viên cao cấp, 320
cán bộ là chuyên viên chính, 126 cán bộ là chuyên viên. Ở các bộ, ban, đoàn
thể trung ương có 35 cán bộ là chuyên viên cao cấp, 63 cán bộ là chuyên viên
chính, không có CBLĐQL là chuyên viên. Ở các tập đoàn, tổng công ty kinh
tế nhà nước có 7 cán bộ là chuyên viên cao cấp, 29 cán bộ là chuyên viên
chính, không có CBLĐQL là chuyên viên. [Phụ lục 3]. Những cán bộ này,
được học và có chứng chỉ cao cấp và trung cấp quản lý nhà nước; một số phó
trưởng phòng là chuyên viên ở các tỉnh, thành phố có trình độ quản lý nhà
nước theo bậc chuyên viên.
Như vậy, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước là
chuyên viên cao cấp chiếm 10,18% so với tổng số CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT (61/599) [Phụ lục 3] và chiếm 1,66% (61/3667) so với tổng
số cán bộ, công chức chuyên trách công tác TĐKT cả nước[Phụ lục 3; 1]; cán
bộ là chuyên viên chính chiếm 68% (412/599) so với tổng số CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT cả nước; CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT là chuyên viên cao cấp tập trung ở các bộ, ban, đoàn thể trung ương.
Về trình độ tin học, ngoại ngữ: tất cả CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đều có trình độ tin học trình độ B trở lên và sử dụng được máy vi tính
phục vụ công việc. Nhiều cán bộ, nhất là cán bộ cấp phòng sử dụng tốt máy vi
tính phục vụ công việc. CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở Ban TĐKT
Trung ương, bộ, ngành, đoàn thể tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đề
có trình độ ngoại ngữ từ trình độ B trở lên. CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở các tỉnh, thành phố nhìn chung rất yếu về ngoại ngữ (trừ các thành
phố lớn).
81
3.1.1.2. Về phẩm chất và năng lực
* Về phẩm chất chính trị:
Kết luận số 83-KL/TW ngày 30-8-2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 39-CT/TW nêu trên, khẳng định: “Hội đồng thi đua, khen
thưởng và tổ chức bộ máy thi đua, khen thưởng các cấp tiếp tục được củng cố,
kiện toàn, hoạt động ngày càng có hiệu quả”[2, tr. 1] .
Phát biểu tại buổi gặp mặt các thế hệ cán bộ làm công tác TĐKT, đồng
chí Nguyễn Thị Doan nhấn mạnh:
Qua gần 10 năm thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 21/5/2004 của Bộ
Chính trị (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, đội ngũ cán bộ
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng đã được các cấp ủy, chính quyền
quan tâm xây dựng củng cố trình độ, năng lực tham mưu hoạch định chính sách
về thi đua, khen thưởng đã được nâng lên rõ rệt. Đây là đội ngũ cán bộ có
phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư duy đổi mới được đào tạo bài
bản và bề dày kinh nghiệm thực tiễn một nguồn nhân lực quý cho ngành thi
đua, khen thưởng trong những năm tới[47, tr.12].
Như vậy, tuyệt đại đa số CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, đất nước và nhân dân, TĐKT
đã có bước trưởng thành về chính trị. Nhiều cán bộ tích cực đấu tranh với
những quan điểm sai trái, bảo vệ quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước,
nhất là về công tác TĐKT, đấu tranh với những hành động biểu hiện sự xem
nhẹ vai trò, tác dụng của công tác TĐLT trong điều kiện hiện nay.
* Về phẩm chất đạo đức, lối sống
Trong điều kiện hiện nay, mặc dù đời sống của phần lớn CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT còn nhiều khó khăn, nhưng phần lớn cán bộ vẫn
giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh; luôn
82
tận tâm với công việc; gần gũi với cán bộ, công chức và nhân dân, giản dị
trong sinh hoạt và được tín nhiệm; nhiều cán bộ có ý thức tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống, khắc phục khó khăn trong cuộc sống, vươn lên
trọng học tập, công tác và trưởng thành. Từ năm 2008 đến nay, ở Ban TĐKT
Trung ương đã có 15 cán bộ trong quy hoạch được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý từ Trưởng phòng trở lên, trong đó 6 cán bộ giữ chức Vụ trưởng
và Phó Vụ trưởng. Một số Trưởng Ban TĐKT các tỉnh, thành phố được bổ
nhiệm Giám đốc Sở Nội vụ [71, tr. 11].
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT luôn tiên phong, gương mẫu
trong học tập, công tác và giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, trở thành
trung tâm đoàn kết trong cơ quan, đơn vị; gương mẫu trong chấp hành đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quy
định của địa phương nơi cư trú, được nhân dân thừa nhận và tôn trọng.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Ban TĐKT Trung ương
lần thứ 24, nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2010- 2015 đánh giá:
Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cùng với những mặt tích
cực những mặt tiêu cực của nó cũng tác động lớn đến tâm tư, tình cảm, phẩm
chất đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, song đội ngũ này, đến nay cơ bản
vẫn giữ được phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, đức tính khiêm
tốn, giản dị, sống gần gũi, gắn bó với nhân dân và cán bộ, công chức trong
Ban có tinh thần đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm, chủ động sáng tạo trong
việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước và chủ trương đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và Chỉ thị 35, 39 CT/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng hiện nay, với ý thức quyết tâm cao luôn phấn đấu hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị của Vụ, cơ quan, đơn vị mình [4, tr. 9].
* Về năng lực lãnh đạo quản lý, tham mưu và kinh nghiệm công tác
83
Trong những thập niên gần đây, nhất là từ khi tổ chức, bộ máy, ngành
TĐKT trong cả nước được củng cố, kiện toàn, hoạt động của đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hiệu quả hơn. Đội ngũ cán bộ này, đã
có những bước tiến bộ nhất định, thể hiện năng lực lãnh đạo, quản lý và khả
năng tham mưu về công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay. Nhiều cán bộ đã
thích ứng với cơ chế mới, năng động, sáng tạo, lăn lộn với phong trào thi đua
ở cơ sở, địa phương; có trách nhiệm trong công việc; luôn tìm tòi, phát hiện
những cái mới, nắm bắt những vấn đề bức xúc nảy sinh từ thực tiễn công tác
TĐKT; nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của nhân dân để tham mưu cho
Đảng, Nhà nước và cấp uỷ địa phương ban hành những chủ trương, giải pháp
đúng đắn về công tác TĐKT, trực tiếp phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thực hiện
có hiệu quả.
Qua khảo sát cho thấy, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
ở địa phương, cơ quan trung ương về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ phát triển ngành TĐKT. Nhiều cán bộ có trình độ chuyên môn khá,
được thử thách qua thực tiễn đã thể hiện rõ năng lực lãnh đạo, quản lý, có khả
năng tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học và đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào việc tham mưu về công tác TĐKT đạt kết quả. CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT trong các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà
nước đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm góp phần
xây dựng củng cố các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả, đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của các địa phương, khẳng định vai trò, tác dụng của công tác TĐKT trong
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Cán bộ có thời gian công tác trong ngành TĐKT dưới 5 năm chiếm
51,58% (309/599); từ 6 đến 10 năm chiếm 33,72% (202/599); trên 10 năm
chiếm khoảng 14,69% (88/599)[Phụ lục 2]. Cán bộ có thời gian công tác
84
tromg ngành TĐKT có trên 10 năm thường có nhiều kinh nghiệm công tác
hơn cán bộ có thời gian công tác trong ngành từ 6 đến 10 năm.
* Về phong cách lãnh đạo quản lý và ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành
pháp luật
Nhìn chung, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã tích
cực rèn luyện phong cách lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc; coi trọng
rèn luyện, đổi mới hình thức, phương pháp chỉ đạo, duy trì các phong trào thi
đua; vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và của cấp uỷ địa
phương về công tác TĐKT góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Nhiều CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có phong cách lãnh đạo,
quản lý từng bước thích ứng với công tác TĐKT trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, hội nhập quốc tế. Một số cán
bộ luôn bám sát thực tiễn, chủ động tìm các giải pháp phù hợp để triển khai
công tác TĐKT ở địa phương, đơn vị.
Nhiều cán bộ đã tích cực, chủ động rèn luyện phong cách quản lý khoa
học, sâu sát thực tiễn, xử lý dứt điểm công việc; lãnh đạo, quản lý mọi hoạt
động của đơn vị theo quy định của pháp luật. Nhờ đó, năng lực tổ chức thực
tiễn của nhiều CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT được nâng lên, nhất là
năng lực về nắm bắt, xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong công tác
TĐKT, năng lực xây dựng tổ chức và điều hành hoạt động của cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT; phong cách, lề lối làm việc và thái độ ứng xử
với nhân dân trong thực thi công vụ.
Phần lớn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có ý thức tổ chức kỷ
luật và chấp hành pháp luật của Nhà nước. Trong đó, đã tích cực chủ động
chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, quan điểm của Đảng Nhà nước về công
85
tác TĐKT. Cán bộ lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã tích cực, chủ động
lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức nghiên cứu các văn bản của Đảng, Nhà nước về
công tác TĐKT, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện trong Ban. Đồng thời, giúp
đỡ, hướng các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước thực hiện.
3.1.2. Những yếu kém, hạn chế
3.2.1.1. Về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn
* Về số lượng
Nhìn chung, số lượng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT không
ổn định. Tuy nhiều nơi số lượng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT được
đảm bảo theo quy định, song số lượng ấy, lại không ổn định trong cả nhiệm
kỳ, rõ nhất là sau các kỳ Đại hội Đảng ở các địa phương, đơn vị hoặc qua bầu
cử Hội đồng nhân dân theo định kỳ. Chức danh trưởng ban TĐKT tỉnh, thành
phố luôn đảm bảo về số lượng, song thường được điều động từ các cơ quan,
đơn vị ở địa phương; chức danh phó trưởng ban TĐKT tỉnh, thành phố ở
nhiều địa phương còn thiếu, song chưa được quan tâm thỏa đáng để kiện toàn.
Hiện tại còn 6 tỉnh không có phó trưởng ban TĐKT tỉnh, gồm tỉnh Bắc Kạn,
Hà Nam, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Gia Lai, Lâm Đồng [Phụ lục 9].
Sau đại hội Đảng bộ, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT thường
được điều động đến các cơ quan, đơn vị khác trong tỉnh, thành phố, một số
cán bộ ở các cơ quan khác lại được điều động thay thế những CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT được thăng tiến hoặc chuyển đi.
Ở một số bộ, ngành Trung ương, Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà
nước và các đơn vị trực thuộc số lượng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT cũng không ổn định, không chỉ sau mỗi lần đại hội Đảng bộ, mà còn
trong các thời điểm khác; cơ quan chuyên trách công tác TĐKT ở một số nơi
thường là nơi "khá thích hợp" để điều động cán bộ ở đơn vị khác về nhận
nhiệm vụ. Tình trạng hụt hẫng về cán bộ kế cận công tác TĐKT đã xảy ra ở
nhiều địa phương, đơn vị.
86
* Về cơ cấu
- Về tuổi đời, giới tính
Trong đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT chưa có sự hợp
lý về cơ cấu độ tuổi. Cán bộ nữ chiếm tỷ lệ rất thấp (15%), CBLĐQL cấp vụ,
ban tuổi đời còn cao, thời gian công tác còn lại không nhiều. CBLĐQL
chuyên trách có tuổi đời dưới 45 tuổi chiếm tỷ lệ chưa phù hợp, trong khi đó
cán bộ có tuổi từ 45 đến 60 tuổi chiếm tỷ lệ còn lớn; ảnh hưởng nhất định đến
việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ này. Sự chưa phù hợp về cơ cấu độ tuổi trong đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ảnh hưởng đáng kể đến sự kế
thừa, phát triển liên tục và vững vàng trong đội ngũ cán bộ.
Lực lượng cán bộ kế cận CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong
10 đến 15 năm tới cũng đang thiếu hụt khá lớn, trong khi đó việc thu hút nhân
tài về công tác trong ngành TĐKT trong những năm qua, kết quả thấp, làm
cho tình hình này chậm được cải thiện.
- Về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước và tin học,
ngoại ngữ
Mặc dù CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đều có trình độ cử
nhân, song các chuyên ngành được đào tạo liên quan không nhiều đến công
tác TĐKT, trừ một số chuyên ngành thuộc khoa học xã hội - nhân văn có liên
quan nhiều hơn đến công tác TĐKT. Vì thế, đội ngũ cán bộ này, còn thiếu hụt
những tri thức cơ bản, cần thiết trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo,
quản lý công tác TĐKT. Hơn nữa, công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay,
rất đa dạng phong phú, diễn ra trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, các tổ
chức, cơ quan, đơn vị, các giai tầng xã hội... đòi hỏi CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT phải có tri thức nhất định, khá toàn diện thì mới có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ, nhất là việc thẩm định hồ sơ khen thưởng.
Phần lớn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đều được bồi dưỡng
những kiến thức về quản lý nhà nước, song những kiến thức đó, chủ yếu là
87
những kiến thức chung và thời gian học tập không nhiều nên nhiều cán bộ còn
thiếu kiến thức về quản lý nhà nước, pháp luật.
Nhiều CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, tuy có chứng chỉ ngoại
ngữ, tin học trình độ B trở lên, song trên thực tế, việc sử dụng ngoại ngữ phục
vụ công việc rất hạn chế. Phần lớn cán bộ có tuổi đời khá cao không sử dụng
thành thạo những tri thức về tin học phục vụ công việc, nhất là sử dụng máy
vi tính, hạn chế không nhỏ chất lượng, hiệu quả công việc.
3.2.1.2. Về phẩm chất và năng lực
- Về phẩm chất chính trị
Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 21-5-2004 của Bộ Chính trị về việc tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết
và nhân diển hình tien tiến, chỉ rõ: “Việc khen thưởng có lúc chưa kịp thời,
chưa chính xác hoặc có biểu hiện tiêu cực”[31, tr.1]. Văn kiện Đại hội XI
của Đảng khẳng dịnh: “tình trạng chạy.... huân chương chưa được khắc
phục”[65, tr.174]. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay, nhận định:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc[66, tr. 22].
Những biểu hiện tiêu cực trong công tác khen thưởng; tình trạng chạy
huân chương chưa được ngăn chặn. Nhận định của Nghị quyết Trung ương 4
về xây dựng Đảng, cho thấy, hiện tại, vẫn còn có một số ít CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị giảm có
88
những việc làm sai trái tạo điều kiện cho những tiêu cực trong công tác TĐKT,
nhất là công tác khen thưởng nảy nở, phát triển gây bất bình trong nhân dân,
làm giảm vai trò, tác dụng của công tác TĐKT. Cạnh đó, một số cán bộ thiếu
tinh thần trách nhiệm, một số chưa thật yên tâm công tác.
- Về phẩm chất đạo đức, lối sống
Kết luận số 83-KL/TW ngày 30-8-2010 của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW nêu trên, chỉ rõ:
...có biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong suy tôn, bình xét khen
thưởng;... Một số tập thể cá nhân, chưa có thành tích tiêu biểu, xuất sắc, nhiều
vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nội bộ thiếu đoàn kết, thống nhất đã
được cơ quan có thẩm quyền xem xét kết luận, nhưng vẫn được đề nghị khen
thưởng, có trường hợp khi tổ chức khen thưởng đã gây phản cảm, bức xúc
trong dư luận xã hội [2, tr. 1].
Những tiêu cực nêu trên là điều đáng quan tâm không chỉ về tình trạng
suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, mà còn cả về trình độ, năng lực của
một bộ phận CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Hiện tại, vẫn còn một số CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT không
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, chưa làm chủ bản thân,
để cho những tác động từ mặt trái kinh tế thị trường chi phối dẫn đến suy
thoái về đạo đức, lối sống, ảnh hưởng đến công việc, đến uy tín, thanh danh
của ngành TĐKT, gây bức xúc trong nhân dân.
- Về năng lực lãnh đạo quản lý, tham mưu và kinh nghiệm công tác
Năng lực lãnh đạo, quản lý của nhiều CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT còn nhiều hạn chế, nhất là năng lực tổ chức chỉ đạo duy trì, tổng kết
các phong trào thi đua ở địa phương và đơn vị. Năng lực xử lý đúng đắn, có
kết quả các tình huống nảy sinh trong các hoạt động TĐKT vẫn là khâu yếu.
Năng lực quản lý hoạt động của cán bộ, công chức trong các cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT còn nhiều bất cập, nhất là trong tổ chức phân bố
89
lực lượng để triển khai công việc và kiểm tra, đánh giá kết quả hoàn thành
nhiệm vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền lãnh đạo, quản lý.
Năng lực phối hợp và kết hợp giữa cơ quan chuyên trách công tác
TĐKT với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong triển khai công việc của
nhiều cán bộ còn yếu và lúng túng. Điều đáng quan tâm hơn là năng lực thẩm
định hồ sơ khen thưởng của nhiều cán bộ còn bất cập.
Năng lực tham mưu, đề xuất với cấp uỷ địa phương, đơn vị về những
chủ trương, giải pháp triển khai công tác TĐKT của phần lớn cán bộ vẫn là
điều đáng quan tâm hơn cả. Khả năng nhận thức chủ trương, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác TĐKT của nhiều cán
bộ để tham mưu cho cấp uỷ đề ra chủ trương đúng, giải pháp khả thi về công
tác TĐKT vẫn là khâu yếu vào bậc nhất. Điều này, tác động trực tiếp làm
giảm chất lượng, hiệu quả của công tác TĐKT ở không ít nơi. Cạnh đó, là
năng lực tham mưu về chủ trương giải pháp xử lý các tình huống phức tạp,
nảy sinh trong công tác TĐKT của cán bộ cũng còn nhiều hạn chế. Trong một
số trường hợp việc tham mưu không đúng đắn đã dẫn đến những phức tạp,
việc giải quyết ổn thoả gặp nhiều khó khăn, trở ngại, ảnh hưởng nhất định đến
phong trào thi đua trên địa bàn.
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có thời gian công tác trong
ngành TĐKT từ 6 năm trở lên còn chưa nhiều, từ 11 năm trở lên còn rất ít,
hạn chế việc truyền đạt kinh nghiệm trong đội ngũ cán bộ. Cán bộ có thời
gian công tác trong ngành dưới 5 năm chiếm tỷ lệ lớn [Phụ lục 2]. Những
cán bộ này thường có rất ít, hoặc chưa có kinh nghiệm công tác trong ngành
TĐKT.
- Về phong cách lãnh đạo quản lý và ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành
pháp luật
Một số không nhỏ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn chịu
ảnh hưởng khá nặng của cách tư duy, phong cách lãnh đạo, quản lý của thời
90
kỳ thực hiện cơ chế hành chính, tập trung, bao cấp và thời chiến tranh, đã đem
áp dụng phong cách đó vào công tác TĐKT giai đoạn hiện nay.
Tình trạng e dè, nể nang trong phê bình và xử lý công việc, ít sâu sát,
tinh thần trách nhiệm chưa cao và những biểu hiện quan liêu, cửa quyền còn
xảy ra. Thái độ, tác phong công tác chưa thật công tâm, khách quan, gây
phiền hà cho cán bộ, nhân dân và cơ quan, đơn vị trong tiến hành công tác
TĐKT, nhất là công tác khen thưởng diễn ra ở một vài CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT.
Ý thức tổ chức kỷ luật của một số CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT còn chưa cao, vẫn còn một số cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng, kỷ luật
của đơn vị bị xử lý (3 cán bộ, trong đó có 1 cán bộ lãnh đạo Ban TĐKT tỉnh
Vĩnh Phúc bị xử lý kỷ luật cảnh cáo [71, tr. 28]). Cạnh đó, là tư tưởng ngại
khó, ngại học tập nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là ngại đi học tập trung, dài
hạn còn tồn tại ở không ít cán bộ.
Nhìn một cách tổng thể, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT còn nhiều yếu kém, bất cập so với ứng yêu cầu ngày càng cao của
công tác TĐKT những năm tới.
3.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN
TRÁCH CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở NƯỚC TA - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
3.2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta
3.2.1.1. Ưu điểm
* Về xây dựng và cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT
Trên cơ sở nghiên cứu, quán triệt tiêu chuẩn cán bộ do Nghị quyết
Trung ương ba, Khoá VIII của Đảng về “Chiến lược cán bộ thời lỳ đẩy mạnh
91
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, gồm tiêu chuẩn chung của đội ngũ
cán bộ và tiêu chuẩn riêng của từng loại cán bộ, Ban TĐKT Trung ương đã
xác định CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là cán bộ lãnh đạo đảng, nhà
nước, đoàn thể nhân dân. Đồng, thời, quán triệt những quy định của Nhà nước
về tiêu chuẩn cán bộ, công chức, nhất là Luật Cán bộ, công chức; Quyết định
số 83/2004/QĐ-BNV ngày 17/11/2004 của Bộ Nội vụ về ban hành tiêu chuẩn
Vụ trưởng thuộc Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ.
Ban TĐKT Trung ương đã tập trung chỉ đạo, triển khai xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ, công chức của Ban, tập trung hơn vào xây dựng tiêu chuẩn cán
bộ từ phó trưởng phòng và tương đương trở lên. Trong đó, nhấn mạnh chức
năng tham mưu, đề xuất, năng lực tổ chức, hướng dẫn các phong trào thi đua
và thẩm định hồ sơ khen thưởng.
Để thực hiện có kết quả công việc này, cùng với việc quán triệt tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân do Đảng đề ra, Ban
TĐKT Trung ương đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ của ngành TĐKT trong
giai đoạn hiện nay và chức năng, nhiệm vụ của Ban, quan tâm đến thực trạng
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác TĐKT, tham khảo tiêu chuẩn CBLĐQL
của các ban, ngành khác để xây dựng tiêu chuẩn CBLĐQL công tác TĐKT
của Ban. Tiêu chuẩn cán bộ, gồm:
Tiêu chuẩn chung:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân và sự nghiệp xây dựng CNXH; kiên
quyết trong đấu tranh với những quan điểm sai trái, lệch lạc và những âm
mưu thủ đoạn xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch về đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ đường lối, chủ
trương, chính sách ấy, nhất là trên lĩnh vực TĐKT.
92
Có trình độ lý luận chính trị, kiến thức về luật pháp, quản lý nhà nước,
và các tri thức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; giỏi về chuyên môn, nghiệp
vụ, nhất là về chỉ đạo, tổ chức các phong trào thi đua, hướng dẫn công tác
khen thưởng, thẩm định hồ sơ khen thưởng theo chức trách, quyền hạn và
nhiệm vụ được giao.
Có đạo đức cách mạng trong sáng, gương mẫu về đạo đức, lối sống, sống
trung thực, giản dị, không tham ô, lãng phí, không nhũng nhiễu cửa quyền,
quan liêu, độc đoán trong công tác TĐKT, không lợi dụng uy tín và vị trí công
tác để mưu cầu lợi ích cá nhân, phải lấy lợi ích của dân, của ngành TĐKT làm
mục tiêu phấn đấu của bản thân. Biết điều chỉnh hoạt động và hành vi của mình
cho phù hợp với lợi ích chung của xã hội, của Ban và ngành TĐKT.
Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và quy định ở nơi cư trú; quan hệ mật thiết với nhân
dân và gương mẫu về đạo đức, lối sống ở nơi cư trú.
Tiêu chuẩn một số chức danh CBLĐQL ở Ban TĐKT Trung ương:
Đối với các chức danh Phó Vụ trưởng và tương đương, Chánh Văn
phòng, Phó Chánh Văn phòng; Chánh, Phó Chánh Thanh tra Ban; Tổng Biên
tập, Phó Tổng biên tập tạp chí TĐKT; Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm
Tin học; Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
TĐKT Trung ương: Ngoài tiêu chuẩn chung nêu trên, tiêu chuẩn của các chức
danh cán bộ này được xây dựng, đã nhấn mạnh về năng lực tham mưu; tổ
chức và tổng kết thực tiễn; nghiên cứu và xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật...; khả năng quy tụ đoàn kết đội ngũ cán bộ, công chức của đơn vị;
hiểu biết sâu nghiệp vụ quản lý Nhà nước về công tác TĐKT; có kinh nghiệm
công tác TĐKT...
Đối với Trưởng, Phó phòng trực thuộc các Vụ, đơn vị thuộc Ban TĐKTTrung ương: Ngoài tiêu chuẩn chung nêu trên, tiêu chuẩn của các chức danh
93
cán bộ này, được xây dựng, đã nhấn mạnh về năng lực quản lý, điều hành
công việc thuộc một bộ phận trong đơn vị và chuyên sâu về công việc của bộphận đó...
Ban TĐKT Trung ương đã phổ biến cho các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và tương đương để tham khảo và hướng dẫn xây dựng tiêu chuẩn
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh.
Đến nay phần lớn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đươngđã có tiêu chuẩn chung của những cán bộ này.
Một số Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương, một
số tập đoàn kinh tế, tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã xác định
những điểm chủ yếu của tiêu chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKTđể thành lập các cơ quan chuyên trách về công tác TĐKT của mình.
* Về tạo nguồn và xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách côngtác TĐKT
Sau khi được thành lập lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã quan tâm
chỉ đạo tiến hành ngay việc xây dựng quy hoạch CBLĐQL các vụ, phòng cho
nhiệm kỳ tiếp theo. Đồng thời, tiến hành các hoạt động tạo nguồn để chuẩn bịđưa cán bộ vào quy hoạch dài hạn từ hai nhiệm kỳ trở lên, khắc phục tình
trạng hụt hẫng CBLĐQL. Là Ban mới được thành lập, cán bộ được điều động
từ nhiều nơi, cấp uỷ và lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã xác định việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó xây dựng đội ngũ CBLĐQL cácđơn vị trong Ban là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, và đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tiến hành công việc này. Ban đã xây dựng và triển khai thực hiện
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Ban đến năm 2015 và chuẩn bị các
điều kiện để tạo bước chuyển biến căn bản về nguồn nhân lực đến năm 2020. Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban đã tập trung chỉ đạo xây dựng quy hoạch, cán
bộ lãnh đạo, quản lý các đơn vị. Trước hết, tập trung chỉ đạo rà soát đội ngũ
cán bộ, công chức để phát hiện và lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch.
94
Quy trình giới thiệu quy hoạch cán bộ dự bị cho các chức danh lãnh
đạo cấp Vụ, phòng, các đơn vị trực thuộc Ban được các đơn vị thực hiện khá
tốt. Công tác quy hoạch CBLĐQL đã gắn với các khâu khác của công tác cán
bộ, được tiến hành theo đúng hường dẫn của cấp trên, đảm bảo dân chủ, công
khai, đúng thủ tục, quy trình và đảm bảo phương châm “động” và “mở”. Hiện
tại đối với 11 chức danh cán bộ diện lãnh đạo Ban quản lý (Vụ trưởng, Phó
Vụ trưởng và tương đương; Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ Ban, Uỷ viên Ban
Chấp hành đảng bộ Ban; Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn Thanh niên Ban,
Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng thuộc Ban TĐKT Trung ương) đều có hai
hoặc ba cán bộ được đưa vào quy hoạch. Hiện tại, đã có 25 đồng chí được đưa
vào quy hoạch các chức danh cán bộ nêu trên, trong đó có một số cán bộ
thuộc các ban ngành, đoàn thể ở Trung ương và một số tỉnh, thành phố ở ba
miền Bắc, Trung, Nam; một số cán bộ của Ban được quy hoạch cho hai hoặc
ba chức danh CBLĐQL các đơn vị của Ban[10, tr.9].
Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã quan tâm việc tạo
nguồn dài hạn để chuẩn bị nhân sự đưa vào quy hoạch CBLĐQL các đơn vị
của Ban từ hai đến ba nhiệm kỳ. Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban đã đề ra chủ
trương tuyển dụng công chức trẻ tuổi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng
trong cả nước, đủ tiêu chuẩn công chức ngành TĐKT, có nguyện vọng công
tác trong ngành, trước hết ưu tiên con, em cán bộ trong ngành. Đồng thời,
chọn và tiếp nhận một số cán bộ trẻ có năng lực, phẩm chất đạo đức đang
công tác ở các cơ quan, đơn vị khác về làm việc tại Ban TĐKT Trung ương
và giáo dục, rèn luyện họ về năng lực trình độ, nghiệp vụ công tác TĐKT để
đưa vào quy hoạch dài hạn. Đến nay, đã có 11 cán bộ công chức được tuyển
dụng và tiếp nhận theo chủ trương này[10, tr. 14].
Phần lớn tỉnh, thành phố đã xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT của mình cho nhiệm kỳ trước mắt, nhiều tỉnh, thành phố
đã chú ý chuẩn bị nguồn để xây dựng dài hạn, số lượng và chất lượng nguồn
95
khá dồi dào, điển hình là Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Cần
Thơ, Đà Nẵng. Các tỉnh, thành phố này, đã chủ động xin cấp trên và Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh mở các lớp đào tạo thạc sĩ các
chuyên ngành Mác-Lênin, xây dựng Đảng, luật, quản lý kinh tế, khoa học xã
hội - nhân văn và một số chuyên ngành khác, tạo nguồn cán bộ dồi dào.
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh còn đăng ký và mở các lớp đại
học chính trị văn bằng 2 về các chuyên ngành như : công tác tổ chức, cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát...để tạo nguồn cán bộ dài hạn để đưa vào quy
hoạch CBLĐQL của mình và quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT các cấp của các thành phố đó. Một số tỉnh như: Đồng Nai, Bình
Dương, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc đã phối hợp
mở các lớp học theo phương thức nêu trên để tạo nguồn để xây dựng quy
hoạch cán bộ.
* Về đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT
Đảng uỷ, Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương, các tỉnh, thành uỷ, cấp uỷ
và Lãnh đạo các bộ ngành, đoàn thể, các tổng công ty... đã tích cực chủ động
thực hiện công việc này. Lãnh đạo các cơ quan này, đã triển khai quán triệt
Quy định của Bộ Chính trị số 54-QĐ/TW, ngày 12 tháng 5 năm 1999 về “Chế
độ học tập lý luận chính trị trong Đảng” và Nghị định số 18/2010/NĐ- CP
ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL ở trong nước
và ngoài nước; Quyết định số 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính
trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho CBLĐQL các cấp... và triển
khai thực hiện các Quy định, Nghị định, quyết định này trong đơn vị, nhất là
đối với CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong quy hoạch và cán bộ dự
nguồn. Nhờ đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT trong cả nước đã đi vào trọng tâm hơn và có chuyển biến tích cực.
96
Những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức nhưng
chưa đạt chuẩn, được cấp uỷ cử đi học các lớp tại chức về lý luận chính trị
cao cấp và quản lý nhà nước. Từ năm 2008 đến nay, toàn ngành TĐKT đã
có 35 cán bộ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT được cử đi học lý luận
chính trị cao cấp tập trung và tại chức theo quy định. Trong đó, ở Ban TĐKT
Trung ương có 12 cán bộ, 23 cán bộ ở các tỉnh, thành phố, bộ, ngành, đoàn
thể trung ương. Từ năm 2012 đến nay đã có 25 lượt cán bộ được cử đi
nghiên cứu, khảo sát, đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày ở các nước như Pháp,
Trung Quốc, Thái Lan theo các chương trình 165 của Ban Tổ chức Trung
ương, ADB của Bộ Nội vụ và Ban TĐKT Trung ương về những vấn đề liên
quan đến chuyên môn, nghiệp vụ. Những cán bộ tham gia các chương trình
này, gồm một số cán bộ của Ban TĐKT Trung ương và CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT các địa phương, đơn vị khác[10, tr. 9].
Ban TĐKT Trung ương đã chủ động phối hợp với Ban tổ chức Trung
ương, Bộ Nội vụ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, để
cử cán bộ tham dự các khoá đào tạo cao học, cử nhân, cao cấp lý luận chính
trị, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước. Từ khi xây
dựng quy hoạch CBLĐQL của Ban đến nay, đã có 10 cán bộ trong quy hoạch
cán bộ cấp vụ, cấp phòng được cử đi học lý luận chính trị cao cấp tại Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, giai đoạn 2012-2015; 14
cán bộ hoàn thành chương trình bồi dưỡng quản lý nhà nước; 10 cán bộ được
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh dành cho đối tượng 2; 3 cán bộ
được đi học cao học và nghiên cứu sinh[10. tr. 9].
Ban TĐKT Trung ương đã thành lập Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ TĐKT và đi vào hoạt động, góp phần quan trọng vào chuyển biến
công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là công tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác
TĐKT nói chung và CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng. Hằng
năm, Trung tâm đã mở đều đặn 3 - 4 lớp bồi dưỡng cán bộ ngành TĐKT. Nội
97
dung bồi dưỡng gồm: kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ ; chính sách mới về
công tác thi đua, khen thưởng của Đảng, Nhà nước; trao đổi kinh nghiệm về
công tác TĐKT; đã quan tâm đến việc xử lý các tình huống trong công tác
TĐKT... Từ ngày thành lập (năm 2004) đến nay, Ban và Trung tâm đã mở 14
lớp bồi dưỡng cán bộ của Ngành với hàng nghìn cán bộ[71, tr. 15].
Một số tỉnh, thành uỷ, bộ, ban, ngành, đoàn thể nhân dân ở Trung
ương và một số tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã chú ý luân chuyển
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong phạm vi địa phương, đơn vị,
nhất là cán bộ trong quy hoạch và đặt trong tổng thể kế hoạch luân chuyển
CBLĐQL của địa phương.
* Về đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và
cán bộ trong quy hoạch
Đảng ủy và Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương, các tỉnh, thành uỷ...đã
tiến hành quán triệt các văn bản của Đảng về đánh giá cán bộ, nhất là Quyết
định số 50-QĐ/TW ngày 03-5-1999 của Bộ Chính trị về ban hành Quy chế
đánh giá cán bộ; Hướng dẫn số 11-HD/TCTW ngày 30-10-2002 của Ban Tổ
chức Trung ương về thực hiện Quy chế đánh giá cán bộ; Quyết định số 286-
QĐ/TW ngày 08-02-2010 của Bộ Chính trị về ban hành Quy chế đánh giá cán
bộ, công chức. Đồng thời, hướng dẫn cấp ủy ở cơ quan, tổ chức chuyên trách
công tác TĐKT thực hiện.
Tiêu chí đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã được
Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương xác định rõ hơn, gồm: tiêu chuẩn chức danh
cán bộ đã được xây dựng; uy tín của cán bộ trong đơn vị; kết quả hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Trong đó, kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao của
cán bộ, được coi là tiêu chí quan trọng nhất. Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban đã chỉ
đạo và duy trì thành nền nếp việc tổ chức lấy ý kiến góp ý của các đoàn thể
nhân dân trong đơn vị về từng CBLĐQL và lãnh đạo, chỉ đạo việc đánh giá
98
cán bộ theo định kỳ hàng năm. Đồng thời, công khai những ý kiến nhận xét
đánh giá cho từng cán bộ, kể cả những ý kiến góp ý của các đoàn thể và cán
bộ, công chức. Trong đánh giá cán bộ diện quy hoạch CBLĐQL được Đảng
uỷ và Lãnh đạo Ban chỉ đạo coi trọng đánh giá về xu hướng phát triển; tiến
hành các thủ tục bổ sung vào quy hoạch và đưa ra khỏi quy hoạch những cán
bộ không đáp ứng yêu cầu.
Các cấp uỷ tỉnh, thành phố và tương đương đã tiến hành đánh giá
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cấp tỉnh, thành phố và cán bộ trong
quy hoạch trong các đợt đánh giá CBLĐQL thuộc ban thường vụ cấp uỷ quản
lý. Nhiều cấp uỷ đã chú ý hơn đến việc chỉ đạo đánh giá CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT cấp tỉnh cả cán bộ đương chức và cán bộ trong quy
hoạch và duy trì thành nền nếp việc đánh giá những cán bộ này. Đồng thời,
lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ trong các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đánh
giá những cán bộ cấp phòng, ban và cán bộ trong quy hoạch. Thành phố Hà
Nội, thành Phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ. Các tỉnh: Thanh Hoá, Nam
Định, Ninh Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Long, An Giang... đã thực hiện khá tốt
công việc này với những cách làm đem lại hiệu quả như: trước khi cấp uỷ có
thẩm quyền kết luận về đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cấp
uỷ đã chỉ đạo lấy ý kiến không chỉ của các đoàn thể nhân dân, cán bộ, công
chức trong đơn vị, mà còn lấy ý kiến của các đoàn thể và cơ quan, đơn vị có
nhiều quan hệ với cán bộ đó trong công tác TĐKT.
* Về quản lý và thực hiện chính sách đối với CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKTCác cấp uỷ ở các bộ, ban ngành, đoàn thể Trung uơng, nhiều tỉnh, thành
uỷ đã coi trọng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên
trách công tác TĐKT của địa phương, đơn vị làm cơ sở chủ yếu để bố trí, sử
dụng cán bộ. Đặc biệt, Ban TĐKT Trung ương đã tập trung xác định rõ, cụ
thể chức năng, nhiệm vụ của các vụ, đơn vị và các phòng trực thuộc các vụ,
99
đơn vị thuộc Ban và sáp nhập các đơn vị một cách phù hợp để tinh gọn tổ chức
bộ máy, biên chế. Qua đó, đề cao tính chủ động và sự năng động, sáng tạo
trong công việc của các đơn vị thuộc Cơ quan Đại diện Ban TĐKT Trung ương
ở phía Nam có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ đã khách quan hơn, thận trọng và đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tình trạng bố trí, sử dụng CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT chỉ chủ yếu xem xét về lý lịch cán bộ, nhận xét của cơ
quan cũ hoặc phản ánh của một vài đồng chí có trách nhiệm hoặc dư luận ở
Ban TĐKT Trung ương và nhiều nơi khác trước đây đã giảm hẳn, ở nhiều nơi
tình trạng này đã chấm dứt.
Các cấp uỷ đã tiến hành các thủ tục, quy trình bố trí cán bộ vào vị trí
công tác trong thời điểm thích hợp. Từ sau khi thành lập Ban TĐKT Trung
ương, ở các địa phương, bộ, ban, ngành đoàn thể ở Trung ương và các Tổng
công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước, cơ quan chuyên trách công tác TĐKT
được củng cố, kiện toàn, chức năng, nhiệm vụ được xác định cụ thể, rõ ràng
hơn. Nhờ đó, việc bố trí, sử dụng cán bộ thuận lợi hơn.
Các cấp uỷ tỉnh, thành phố và tương đương cũng như các cấp uỷ trong
các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, Đảng uỷ, Lãnh đạo Ban TĐKT
Trung ương đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Quyết định số 49 -
QĐ/TW của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ; Hướng dẫn số
11/TCTW của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện về phân cấp
quản lý cán bộ; đã xác định rõ những chức danh cán bộ thuộc ban thường vụ
cấp uỷ các cấp quản lý. Các cấp uỷ đã chỉ đạo và tiến hành quản lý CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT theo phân cấp đã được xác định.
Nội dung, phương thức quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở nhiều nơi đã có đổi mới, đem lại hiệu quả, như : quản lý toàn diện về
phẩm chất chính trị, quá trình và trình độ được đào tạo, bồi dưỡng; quản lý về
100
năng lực và quá trình thực thi nhiệm vụ; quản lý về quan hệ gia đình, xã hội;
quản lý về sinh hoạt, lối sống... Các cấp uỷ luôn nhấn mạnh việc quản lý về
sinh hoạt, lối sống, vì thực tế đã chỉ ra rằng không ít cán bộ từ sự suy thoái về
phấm chất đạo đức, sinh hoạt và lối sống dẫn đến suy thoái về chính trị.
Phương thức quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của
nhiều cấp uỷ địa phương và cấp uỷ ở một số bộ, ban, cơ quan, đơn vị đã có
cải tiến, như : quản lý thông qua kết quả học tập, rèn luyện và nhất là kết quả
thực hiện nhiệm vụ được giao; quản lý thông qua cán bộ cùng cấp, cán bộ
dưới quyền và cán bộ, công chức thường xuyên quan hệ, làm việc với
CBLĐQL ... Thành Phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Ban TĐKT Trung
ương và nhiều bộ, ngành đã quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
kết hợp với việc thực hiện Quy định số 76-NQ/TW, ngày 15-6-2000 của Bộ
Chính trị “Về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn
vị sự nghiệp giữ mối quan hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực
hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ
chức trong HTCT và nhân dân trong quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT; coi trọng quản lý cán bộ trong thẩm định hồ sơ khen thưởng để hạn
chế tiêu cực.
Trên cơ sở những văn bản của Đảng và hướng dẫn của cấp trên các cấp
uỷ và Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã chỉ đạo thực hiện tốt chính sách cán
bộ đối với CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Coi trọng thực hiện chính
sách, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, khen thưởng cán bộ; quan tâm chăm sóc
sức khoẻ, hỗ trợ những CBLĐQKL chuyên trách công tác TĐKT có hoàn cảnh
gia đình khó khăn và gia đình gặp rủi ro... Từ năm 2004 đến nay, toàn ngành
TĐKT đã có 41 cán bộ được nhận huân chương các loại [71, tr. 21].
* Về phát huy vai trò của chính quyền, lãnh đạo đơn vị, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQKL chuyên trách
công tác TĐKT và việc tự học, tự rèn của cán bộ
101
Lãnh dạo Ban TĐKT Trung ương đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, giải pháp của Đảng và của Đảng uỷ Ban về công tác cán
bộ và xây dựng đội ngũ CBLĐQL; giúp đỡ các cấp uỷ, chính quyền, ban lãnh
đạo các tỉnh, thành phố, cơ quan, đơn vị trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT.
Chính quyền tỉnh, thành phố, ban lãnh đạo các cơ quan đơn vị đã xác
định xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương,
cơ quan, đơn vị là trách nhiệm của mình. Chính quyền ở nhiều tỉnh, thành phố
và ban lãnh đạo các cơ quan đơn vị đã tích cực, chủ động thực hiện sự chỉ đạo
của cấp uỷ cùng cấp và phối hợp chặt chẽ với các ban tham mưu của cấp uỷ
trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Đồng thời, chỉ
đạo các cơ quan tham mưu của mình triển khai các hoạt động xây dựng đội ngũ
CBLĐQL nói chung, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng.
Lãnh đạo các bộ, ban, ngành, đoàn thể và các cơ quan đơn vị đã chú ý
chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị trực thuộc về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT của mình và của cấp trên đạt kết quả. Trong đó, coi trọng
việc tham gia xây dựng tiêu chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ;
quy hoạch, quản lý cán bộ, giám sát hoạt động của cán bộ, chỉ đạo các cơ quan
thanh tra tiến hành thanh tra những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT khi
có sai phạm và bị tố cáo...
Các đoàn thể nhân dân ở các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đã
trực tiếp tham gia vào các hoạt động xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT của đơn vị mình bằng các hình thức, phương pháp đem lại hiệu
quả như: bỏ phiếu tín nhiệm quy hoạch CBLĐQL theo quy định về đối tượng
được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm; tham gia quản lý cán bộ đương chức và cán
bộ trong quy hoạch; giám sát hoạt động của CBLĐQL đơn vị; góp ý kiến cho
cán bộ theo định kỳ...
102
Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân ở một số tỉnh, thành phố đã
tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa
phương bằng những phương thức đem lại kết quả, như: giám sát cán bộ về
chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
quy định của địa phương và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống tại nơi cư
trú thông qua đoàn viên, hội viên của mình; qua các cuộc giao ban, làm việc
giữa cán bộ chủ chốt các đoàn thể với cấp uỷ có trách nhiệm quản lý CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT theo phân cấp quản lý cán bộ ; tiếp nhận những ý
kiến của đoàn viên, hội viên về CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa
phương và phản ánh cho cấp uỷ có trách nhiệm quản lý cán bộ...
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và cán bộ trong
quy hoạch đều nhận thức rõ vai trò và sự cần thiết của việc tự học tập, tự rèn
luyện nâng cao trình độ mọi mặt và năng lực công tác trong điều kiện hiện
nay. Nhiều cán bộ đã khắc phục khó khăn, bố trí công việc hợp lý để tự học
tập và rèn luyện bản thân. Một số cán bộ đã chủ động đăng ký học tập tại các
lớp không tập trung để đạt trình độ cử nhân (văn bằng hai) về các chuyên
ngành liên quan trực tiếp đến ngành TĐKT. Những cán bộ trong quy hoạch đã
chủ động đề xuất với cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị và bố trí thời gian theo học các
lớp không tập trung để đạt chuẩn về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ.
Việc tự nguyện theo học các lớp ngoại ngữ, tin học được phần lớn cán bộ,
nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Cần Thơ
và Đà Nẵng thực hiện có kết quả.
Việc tự rèn luyện về năng lực, phương pháp công tác và đạo đức, lối
sống được phần lớn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT coi trọng và tự
giác thực hiện, nhất là những cán bộ trong quy hoạch. Nhiều cán bộ đã bám
sát các phong trào thi đua ở địa phương, đơn vị và ở cơ sở để chỉ đạo, giúp đỡ
tháo gỡ khó khăn duy trì các phong trào thi đua; hướng dẫn về tiến hành các
103
thủ tục, quy trình đề nghị khen thưởng; tham gia vào việc xử lý các tình
huống trong công tác TĐKT; học hỏi, trao đổi kinh nghiệm công tác với
những cán bộ làm công tác TĐKT thế hệ trước; tích cực tham gia hoạt động
của các đoàn thể để nâng cao tri thức một cách toàn diện, tạo thuận lợi để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Các cấp uỷ, chính quyền tỉnh, thành phố và các cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị
có cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đã tạo điều kiện thuận lợi kể như ban
hành những quy định về dành thời gian và hỗ trợ kinh phí cho cán bộ tự học
tập nâng cao trình độ mọi mặt, tạo điều kiện thụận lợi để cán bộ tham gia học
tập đạt kết quả.
3.2.1.2. Những hạn chế, yếu kém
* Về cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT
Hầu hết các tỉnh, thành phố, các bộ, ban ngành, đoàn thể ở Trung ương,
Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước chưa thực quan tâm cụ thể hoá tiêu
chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của mình. Bởi vậy, hầu như
chưa có tiêu chuẩn cụ thể về những cán bộ này.
Đối với các tỉnh, thành phố tiêu chuẩn trưởng ban, phó trưởng ban
TĐKT tỉnh, thành phố chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn chung của giám đốc, phó
giám đốc sở và nhấn mạnh thêm về trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác
TĐKT. Tương tự, tiêu chuẩn trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương
trong ban TĐKT tỉnh, thành phố cũng chưa được xây dựng, mà chủ yếu dựa
vào tiêu chuẩn trưởng phòng, phó trưởng phòng của các sở trong tỉnh, thành
phố và đề cập đến một số điểm về trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác
TĐKT. Đối với cấp huyện không có cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, mà
chỉ có cán bộ phụ trách công tác TĐKT, nên không đặt ra việc cụ thể hoá tiêu
chuẩn cán bộ này.
104
Ở các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, các Tổng công ty và Tập
đoàn kinh tế nhà nước cũng có tình trạng tương tự. Hầu hết các cơ quan, đơn vị
này, chưa có tiêu chuẩn cụ thể về CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Tiêu
chuẩn cán bộ này, thường được dựa vào tiêu chuẩn vụ trưởng, phó vụ trưởng,
trưởng phòng, ban, phó trưởng phòng, ban của đơn vị và nhấn mạnh thêm một
số điểm về công tác TĐKT.
Mặc dù Ban TĐKT Trung ương đã xây dựng được tiêu chuẩn CBLĐQL của
Ban, gồm tiêu chuẩn vụ trưởng, phó vụ trưởng và tương đương, tiêu chuẩn trưởng
phòng, phó trưởng phòng và tương đương (cả những cán bộ công tác đảng, đoàn thể),
song vẫn còn dừng lại ở những điểm chung. Tiêu chuẩn chức danh cán bộ của Ban
TĐKT Trung ương chưa được xây dựng, chẳng hạn tiêu chuẩn của Vụ trưởng Vụ Tổ
chức cán bộ phải khác tiêu chuẩn của Vụ trưởng vụ Nghiên cứu tổng hợp (Vụ I), Vụ
TĐKT các Bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương (Vụ II) của Ban... Những tiêu chuẩn
CBLĐQL do Ban xây dựng vẫn chưa được coi trọng điều chỉnh, bổ sung.
Nhìn chung, các cấp uỷ ở địa phương, bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung
ương và ở các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước chưa quan tâm thoả
đáng đến công việc này. Phần lớn các đơn vị đều có tình trạng này, trừ Ban
TĐKT Trung ương, quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng về cán bộ và công
tác cán bộ nói chung và tiêu chuẩn cán bộ nói riêng vào đơn vị mình để xác định
tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Cơ quan tham mưu về công tác tổ chức - cán bộ
của cấp uỷ, chính quyền địa phương, đơn vị còn lúng túng trong việc này.
* Về tạo nguồn và xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT Suốt thời kỳ dài, nhất là trước khi thành lập Ban TĐKT Trung ương
(năm 2004) việc tạo nguồn CBLĐQL trách công tác TĐKT, hầu như không
được quan tâm. Nguồn cho đội ngũ cán bộ này, chủ yếu từ cán bộ, công chức ở
các sở, ban, ngành, đoàn thể ở các tỉnh, thành phố, các bộ, ban, ngành, đơn vị.
Sau khi Ban TĐKT Trung ương được thành lập và đi vào hoạt động đã hình
105
thành hệ thống tổ chức ngành TĐKT từ Trung ương đến địa phương, song ở
nhiều nơi việc tạo nguồn để quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT chưa thực sự được coi trọng và còn gặp nhiều khó khăn, còn nhiều lúng
túng. Việc tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ này, còn chủ yếu được tiến hành trong
tổng thể việc tạo nguồn CBLĐQL của các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở
nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập: một số
cán bộ đưa vào quy hoạch còn chưa đạt được những yêu cầu về tiêu chuẩn do
Đảng đề ra ; nhiều nơi cạn kiệt nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch, vì những cán
bộ, công chức này chưa được đào tạo đạt yêu cầu tối thiểu về tri thức ngành
TĐKT; khá nhiều nơi chưa tiến hành đến nơi, đến chốn việc xây dựng quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, thậm chí có nơi chưa xây dựng
quy hoạch cán bộ này. Ở nhiều nơi, tuy đã triển khai xây dựng quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, nhưng công việc này, được tiến hành
một cách hình thức, không đúng quy trình và theo sự hướng dẫn của cấp trên,
có biểu hiện của bệnh thành tích, chất lượng thấp; thậm chí một số chức danh
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT chỉ có một người được đưa vào quy
hoạch ; một số nơi đã xây dựng quy hoạch đạt chất lượng khá tốt, song việc
thực hiện quy hoạch còn lúng túng, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng quản lý,
đánh giá ... cán bộ trong quy hoạch; vẫn còn tình trạng “quy hoạch treo”; việc
xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT mới chủ yếu cho
nhiệm kỳ tiếp theo. Công tác quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT chưa gắn chặt chẽ với công tác đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh
được quy hoạch...
* Về đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT
106
Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
vẫn còn những yếu kém, bất cập. Trước khi thành lập Trung tâm Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ thi đua, khen thưởng việc đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT còn chắp vá và thường được tiến hành cùng với việc đào
tạo, bồi dưỡng CBLĐQL của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Sau khi Trung
tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ TĐKT trực thuộc Ban TĐKT Trung ương, việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuy được cải thiện một bước, song cũng bộc lộ những
yếu kém, bất cập mới : nội dung, chương trình còn nghèo, chưa được đổi mới
mạnh mẽ, nhiều chuyên đề còn nặng về lý thuyết, chưa gắn giữa lý luận và
thực tiễn phong trào thi đua ở địa phương và cơ sở, ít đi sâu vào nghiệp vụ, ít
tổ chức tham quan, nghiên cứu và học tập trong thực tế; trình độ giảng viên còn
hạn chế ; chưa mở được nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ ở các vùng, miền...
Việc đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn
chưa thực sự gắn chặt với quy hoạch cán bộ, chưa tổ chức các lớp đào tạo,
bồi dưỡng riêng cho cán bộ trong quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT. Chưa xây dựng được kế hoạch đào tạo dài hạn, chỉ đào tạo, bồi
dưỡng cho yêu cầu trước mắt; chất lượng hiệu quả đào tạo còn thấp; nội
dung chương trình bồi dưỡng, đào tạo chưa thực sự hiệu quả còn dàn trải.
Công tác kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT còn chưa thường xuyên, còn hình thức, chất lượng thấp
và có biểu hiện bệnh thành tích. Việc quản lý cán bộ được cử đi học dài hạn ở
các cơ sở đào tạo cán bộ còn bị buông lỏng, đặc biệt là việc kết hợp giữa cấp
uỷ với cơ sở đào tạo cán bộ để quản lý cán bộ trong thời gian học tại trường
còn chưa chặt chẽ, hạn chế chất lượng đào tạo và rèn luyện của cán bộ.
Việc đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, nhất
là cán bộ trong quy hoạch, tại cơ quan, đơn vị dưới sự kèm cặp của những cán
bộ có trình độ và kinh nghiệm công tác còn chưa trở thành hoạt động thường
107
xuyên của phần lớn các cơ quan, đơn vị chuyên trách về công tác TĐKT.
Nhiều nơi hầu như không tiến hành công việc này.
Việc luân luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, nhất là
cán bộ trong quy hoạch ở nhiều nơi chưa được coi trọng, thậm chí ở một số nơi
chưa tiến hành công việc này. Ban TĐKT Trung ương tuy quan tâm đến luân
chuyển cán bộ, song cũng chưa duy trì đều đặn và mới tiến hành luân chuyển
CBLĐQL giữa một số đơn vị trong nội bộ Ban, chưa phối hợp để luân chuyển
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT giữa Ban với các tỉnh, thành phố.
* Về đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và
cán bộ trong quy hoạch
Việc đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là khâu còn
nhiều bất cập và yếu nhất của công tác cán bộ. Nhìn chung, các cấp uỷ và
lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị chưa xây dựng được tiêu chí cụ thể
để đánh giá cán bộ, nhất là đánh giá chức danh cán bộ. Tiêu chí đánh giá
cán bộ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn chung chung, còn có
điểm chưa thật thống nhất giữa Ban TĐKT Trung ương và các địa phương,
cơ quan, đơn vị, và giữa các địa phương trên những điểm cụ thể về yêu cầu
của ngành TĐKT nên việc đánh giá những cán bộ này còn chung chung.
Tình trạng nể nang, né tránh, chủ quan, chủ yếu căn cứ vào ý kiến
của người đứng đầu cơ quan chuyên trách công tác TĐKT khi đánh giá cán
bộ còn xảy ra ở không ít nơi. Trong đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở nhiều nơi còn chưa thực sự chú ý đến kết quả hoàn thành nhiệm vụ
được giao và uy tín của cán bộ, cán bộ còn chưa được thông báo ý kiến đánh
giá về bản thân mình.
Nhiều cấp uỷ, cơ quan đơn vị còn đồng nhất việc đánh giá cán bộ hàng
năm với đánh giá cán bộ để đưa vào quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, và với đánh giá cán bộ trong quy hoạch.
108
* Về bố trí, sử dụng, quản lý và thực hiện chính sách đối với
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Việc bố trí, sử dụng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở một số
nơi đôi khi còn chủ quan, chưa hợp lý, có trường hợp không theo quy
hoạch, thiếu kiên quyết; chậm thay thế một số cán bộ năng lực hạn chế,
không hoàn thành tốt nhiệm vụ, uy tín giảm sút, gây ách tắc việc bố trí, sử
dụng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong quy hoạch đã hội đủ
những yêu cầu và tiêu chuẩn.
Ở một số nơi chưa tích cực chủ động tạo thuận lợi để bố trí CBLĐQL
trong quy hoạch vào vị trí đã được quy hoạch một cách kịp thời nên đã xảy ra
tình trạng một số cán bộ đủ điều kiện và tiêu chuẩn bị lỡ thời cơ, ảnh hưởng
kết quả thực hiện quy hoạch cán bộ. Ở nhiều tỉnh thường bố trí trưởng ban
TĐKT tỉnh là đồng chí phó giám đốc sở nội vụ tỉnh, kể cả phó giám đốc sở
nội vụ tỉnh mới được đề bạt. Cũng có trường hợp bố trí những cán bộ yếu
kém ở các cơ quan, đơn vị trong tỉnh đảm nhiệm chức vụ CBLĐQL chuyên
trách các bộ phận của cơ quan chuyên trách công tác TĐKT.
Công tác quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức
và trong quy hoạch chưa được thực hiện thành nền nếp; nội dung quản lý còn
chưa toàn diện, phương thức quản lý chưa đa dạng, phong phú, còn chủ yếu
dựa vào hồ sơ, lý lịch; chưa quản lý tốt cán bộ trong thực thi công việc và
sinh hoạt, đời sống, quan hệ xã hội, nhất là những cán bộ chịu trách nhiệm
chính về thẩm định hồ sơ khen thưởng cho những cơ quan, đơn vị và cá nhân
hoạt động trong các lĩnh vực nhạy cảm dễ nảy sinh tiêu cực.
Việc thực hiện chính sách đối với CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT vẫn còn những điểm chưa thoả đáng và chưa thực sự thành động lực
cổ vũ, động viên cán bộ vươn lên và yên tâm công tác và thu hút mạnh mẽ
những người có đức, có tài đến làm việc trong ngành TĐKT.
109
Công tác khen thưởng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở nhiều
nơi còn chưa được quan tâm và có biểu hiện hữu khuynh, ngại tiến hành công
việc này để tránh xảy ra phức tạp khi khen thưởng cán bộ trong ngành TĐKT,
đã gây thiệt thòi cho cán bộ.
* Về phát huy vai trò của chính quyền, lãnh đạo đơn vị, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể tham gia xây dựng đội CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT và việc tự học, tự rèn của cán bộ
Cấp uỷ tỉnh, thành phố ngành, đơn vị tuy đã quan tâm lãnh đạo chính
quyền cùng cấp và ban lãnh đạo, quản lý đơn vị về xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT, song sự quan tâm còn chưa cụ thể đối với ngành
TĐKT. Ở một số nơi khi sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan chuyên
trách công tác TĐKT, chính quyền mới tiến hành điều động một số cán bộ ở
các cơ quan khác về nhận nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý cơ quan này. Có nơi đã
giao hẳn công việc này cho sở nội vụ.
Việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân trong
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Ở nhiều nơi vai trò của các tổ chức này còn mờ nhạt, nhất là việc
tham gia vào các khâu của công tác cán bộ và giám sát hoạt động của
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Cơ chế giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân đối với hoạt động của cấp uỷ, chính
quyền, ban lãnh đạo các đơn vị về công tác cán bộ còn chưa được xây dựng.
Nhìn chung, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân cấp tỉnh chưa thể hiện rõ
và cụ thể vai trò của mình trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT của địa phương.
Việc phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT tự học tập, tự rèn luyện cũng còn những hạn chế. Cụ thể
là, một bộ phận không nhỏ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn chưa
110
tích cực chủ động sắp xếp công việc hợp lý để tham gia các lớp bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ công tác TĐKT, còn đưa ra các lý do như: áp lực của
công việc; phải tập trung cho những nhiệm vụ trọng yếu... Một số CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT khi tham gia các lớp học về bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ công tác TĐKT còn có biểu hiện chạy theo bằng cấp
để đạt yêu cầu chuẩn hóa cán bộ và yêu cầu về trình độ đào tạo của cán bộ
trong quy hoạch. Phần lớn cán bộ còn ngại đi học các lớp đào tạo cán bộ dài
hạn, tập trung, mà muốn tham gia các lớp học theo phương thức đào tạo tại
chức mở tại địa phương, cơ quan, đơn vị.
Việc tham gia học tập để đạt trình độ cử nhân văn bằng thứ hai về các
ngành khoa học sát với lĩnh vực TĐKT còn chưa trở thành ý thức tự nguyện
của nhiều CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Cạnh đó, việc chủ động
tham gia các lớp học về nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, quan lý nhà nước
vẫn chưa thành ý thức thường nhật của nhiều cán bộ.
Nhiều cấp uỷ và lãnh đạo cơ quan đơn vị chưa thường xuyên quan tâm
tạo điều kiện thuận lợi cho CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT tự học tập,
rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt, chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo
đức, lối sống.
3.2.2. Nguyên nhân, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra
3.2.2.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, Nhà nước
về cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay được ban hành kịp thời
và ngày càng cụ thể hơn
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng
ta đã đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ CBLĐQL các cấp, các ngành, đã
ban hành kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế về công tác cán
111
bộ. Những nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế ấy lại được bổ sung ngày
càng hoàn thiện hơn. Đặc biệt, những nội dung của Chiến lược cán bộ thời kỳđẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và những nội dung có giá trị được bổ sung
trong Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ tại Hội nghịTrung ương lần thứ chín, Khoá X; những nội dung của các nghị quyết chuyên
đề về công tác quy hoạch và công tác luân chuyển CBLĐQL các cấp; những
quy định, hướng dẫn về thực hiện các khâu của công tác cán bộ... có vai trò to
lớn đối với công tác cán bộ ngành TĐKT. Đây là căn cứ đặc biệt quan trọng
để Ban TĐKT Trung ương và các cấp uỷ quán triệt, đề ra các chủ trương, giải
pháp về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT và tổ chức
thực hiện đem lại kết quả.
Hai là, phần lớn cấp uỷ ở địa phương, các bộ, ban, ngành, đoàn thểtrung ương và ở các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước đã quan tâm vàtích cực, chủ động cùng chính quyền, ban lãnh đạo đơn vị tìm các chủ trương,giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của mìnhvà có quyết tâm chính trị cao trong tổ chức thực hiện.
Phần lớn cấp uỷ ở địa phương, các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung
ương và ở các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước có nhận thức đúngđắn về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT; coi công
việc này là nhiệm vụ trọng tâm, nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác TĐKT góp phần to lớn vào thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Từ đó, có sự thống nhất cao và
tích cực, chủ động tìm các chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQLchuyên trách công tác TĐKT của mình, cùng chính quyền, ban lãnh đạo đơnvị tập trung chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện các chủ trương, giải pháp đó.
Ba là, tuyệt đại đa số CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đươngchức và cán bộ trong quy hoạch đã quyết tâm khắc phục khó khăn, nỗ lựcphấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, tích luỹ kinh nghiệm và rèn luyệnphẩm chất đạo đức lối sống đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
112
Tuyệt đại đa số CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và
cán bộ trong quy hoạch đã xác định rõ trách nhiệm và nhiệm vụ của mình,
thấy được yêu cầu ngày càng cao của công việc đảm nhiệm, đã quyết tâm
khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, tích
luỹ kinh nghiệm và rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống. Đồng thời, đã tự
hào, biết kế thừa, phát huy những thành tựu và những kinh nghiệm quý báu và
truyền thống của ngành TĐKT trong hoạt động của từng cán bộ, đã vượt qua
những tác động tiêu cực, những cám dỗ từ mặt trái kinh tế thị trường, mở cửa,
hội nhập quốc tế để vươn lên hoàn thiện bản thân đáp ứng yêu cầu công tác
TĐKT trong điều kiện mới.
Bốn là, cấp uỷ ở nhiều địa phương, đơn vị đã lãnh đạo và phát huy tốt
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và đội ngũ cán bộ, công chức ở các
cơ quan, đơn vị trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT.
Phần lớn cấp uỷ trong các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đã có
nhận thức đúng và tìm các giải pháp phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội và cổ vũ, động viên toàn thể cán bộ, công chức trong
cơ quan tham gia tích cực vào xây dựng đội ngũ CBLĐQL của cơ quan mình,
coi đó là một trong những nhân tố quyết định để cơ quan hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. Các tổ chức chính trị - xã hội ở nhiều địa phương, đơn vị dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương, đơn vị đã xác định tham gia xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương, đơn vị là nhiệm
vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mình. Từ đó, đã chủ động, tích cực tham gia
có kết quả vào công việc này.
Năm là, Đảng uỷ, lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương sau khi được
thành lập đã coi trọng việc phối hợp với các cấp uỷ địa phương, đơn vị trong
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
113
Khi được thành lập và bước vào hoạt động, Đảng uỷ, Lãnh đạo Ban
TĐKT Trung ương đã nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của đội ngũ cán bộ, nhất là CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đối
với chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn ngành TĐKT; đối với việc nâng
cao vị thế, khẳng định vai trò của ngành trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đã
tích cực tìm các chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
nói chung và CBLĐQL của Ban, nói riêng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao. Đồng thời, coi trọng và triển khai việc phối hợp với các cấp uỷ địa
phương, đơn vị trong cả nước trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT toàn ngành.
* Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, nhiều cấp uỷ nhận thức về các chủ trương, nghị quyết của
Đảng về cán bộ và công tác cán bộ còn có điểm chưa sâu sắc; việc cụ thể hoá
thành các chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT của địa phương, đơn vị còn hạn chế
Nhìn chung, việc cụ thể hoá thành các chủ trương, giải pháp khả thi về
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương,
đơn vị còn hạn chế và lúng túng. Không ít cấp uỷ chưa tiến hành công việc
này; trình độ và sự hiểu biết của phần lớn cán bộ trong các cơ quan tham mưu
về công tác tổ chức - cán bộ của cấp uỷ về công tác TĐKT còn chưa nhiều,
hạn chế lớn việc tham mưu cho cấp uỷ và cán bộ chủ chốt về xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở không ít địa phương, đơn vị phải
dựa vào những chủ trương, giải pháp chung về xây dựng đội ngũ CBLĐQL.
Do đó, việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT khó
tránh khỏi chung chung, lúng túng, chất lượng hạn chế.
114
Thứ hai, một số CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và
cán bộ trong quy hoạch chưa tích cực học tập nâng cao trình độ mọi mặt,
năng lực công tác và tích luỹ kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay.
Sự phấn đấu vươn lên của một bộ phận CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT còn chưa mạnh mẽ, thường xuyên, khá nhiều cán bộ còn có biểu
hiện lười học, không thích đi học tập trung, dài hạn; một số cán bộ có thời
gian công tác không còn nhiều đã có biểu hiện bằng lòng với trình độ, năng
lực hiện có. Vẫn còn những cán bộ trong quy hoạch CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT chưa vươn lên mạnh mẽ trong học tập, công tác để hội đủ
những điều kiện và tiêu chuẩn chức danh được quy hoạch và còn có biểu hiện
của tư tưởng kém an tâm và tin tưởng vào sự hiện thực hoá chức danh bản
thân cán bộ được quy hoạch.
Thứ ba, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT và công tác
cán bộ ngành TĐKT ít được kế thừa về trình độ, kinh nghiệm của các thế hệ
cán bộ các thời kỳ trước đây.
Thời gian rất dài trước khi thành lập Ban TĐKT Trung ương (năm
2004), công tác TĐKT do Viện Thi đua - Khen thưởng Nhà nước tiến hành.
Công tác tổ chức - cán bộ ngành TĐKT được tiến hành với quy mô một Viện
nên còn nhiều hạn chế. Đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, vì
thế chưa được xây dựng một cách cơ bản với tầm nhìn chiến lược.
Sau khi Ban TĐKT Trung ương được thành lập, công tác cán bộ ngành
TĐKT đã có khởi sắc và được coi trọng tổng kết kinh nghiệm, song với thời
gian hoạt động chưa nhiều (từ năm 2004 đến nay) nên kinh nghiệm về việc
này, còn rất khiêm tốn. Bởi vậy, việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT trong những năm qua hầu như không có sự kế thừa kinh
115
nghiệm công tác cán bộ của các thời kỳ trước; đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT ít được kế thừa những kinh nghiệm công tác của những cán
bộ tiền bối. Điều này, hạn chế không nhỏ kết quả xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT.
Thứ tư, sự phối hợp giữa Ban TĐKT Trung ương với các cấp uỷ địa
phương, đơn vị trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT còn chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.
Việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của các
địa phương, đơn vị trong cả nước do cấp uỷ địa phương đơn vị chịu trách
nhiệm và tiến hành. Ngoài chức năng quản lý hành chính nhà nước về công
tác TĐKT, Ban TĐKT Trung ương còn phải phối hợp và giúp đỡ các cấp uỷ
địa phương, đơn vị trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, trên thực tế sự phối hợp
giữa Ban TĐKT Trung ương với các cấp uỷ địa phương, đơn vị trong công
tác cán bộ nói chung, và xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT nói riêng, còn chưa chặt chẽ, chưa có sự liên thông trong công tác cán
bộ giữa Ban và các cấp uỷ địa phương, đơn vị.
Thứ năm, các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của Đảng và hướng dẫn
của cấp trên về công tác cán bộ còn có những điểm chưa cụ thể, chế độ đãi
ngộ cán bộ, công chức ngành TĐKT còn chưa thoả đáng.
Một số điểm trong các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của Đảng và
hướng dẫn của cấp trên về công tác cán bộ còn chưa cụ thể, nên việc xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn lúng túng. Cạnh đó,
chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức công tác TĐKT còn chưa thoả
đáng, hạn chế sự thu hút người có đức, có tài đến làm việc trong ngành TĐKT
và hạn chế nhất định sự yên tâm công tác, cống hiến của một số cán bộ trong
Ngành. Điều này, ảnh hưởng đáng kể đến việc tạo nguồn và xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
116
3.2.2.2. Những kinh nghiệm chủ yếu
Một là, cấp uỷ địa phương, đơn vị cần nhận thức đúng đắn về vai trò,
tác dụng, yêu cầu của công tác TĐKT và tầm quan trọng của việc xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay. về
cán bộ, công tác cán bộ, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, đề ra các chủ trương, giải pháp đúng,
có quyết tâm chính trị cao trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện là nhân tố quan
trọng hàng đầu để xây dựng đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
đạt kết quả
Thực tế ở những nơi xây dựng thành công đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT cho thấy, thực hiện được những điều nêu trên thì việc
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đỡ bị động, lúng
túng, khi nảy sinh những vấn đề phức tạp sẽ tìm được cách tháo gỡ có kết quả,
và việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tính chuyên nghiệp.
Hai là, cấp ủy đảng ở các cơ quan, đơn vị cần tranh thủ sự quan tâm,
chỉ đạo của cấp trên và kết hợp chặt chẽ với Ban TĐKT Trung ương trong
công tác cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT nói riêng trong tất cả các khâu của công tác cán bộ, từ việc cụ thể
hoá tiêu chuẩn cán bộ, quy hoạch, đánh giá, quản lý, luân chuyển, đến việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cán bộ
sẽ tránh được những bỡ ngỡ, lúng túng. Đồng thời, tận dụng được những kinh
nghiệm về công tác cán bộ của Ban TĐKT Trung ương trong xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Có như vậy sẽ đảm bảo xây
dựng đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ.
Ba là, coi trọng công tác tạo nguồn và thực hiện quy hoạch CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, đội ngũ
117
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT chủ yếu chuyển từ công tác khác sang,
thậm chí một số cán bộ do khó bó trí công tác khác nên phải chuyển về hoặc
chuyển sang làm công tác TĐKT. Vì vậy, cả về tư tưởng, tinh thần, trách
nhiệm, cả về năng lực, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ công tác TĐKT của
đội ngũ cán bộ này còn nhiều hạn chế. Do đó, để đảm bảo tính chủ động trong
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT và để có được đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có trình độ, năng lực, các cấp ủy
đảng phải coi trọng việc tạo nguồn, quy hoạch những cán bộ trẻ, có triển vọng
dự nguồn các chức danh LĐQL công tác TĐKT ở cơ cơ quan, địa phương,
đơn vị mình.
Bốn là, coi trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ làm công tác TĐKT nói chung và CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT nói riêng. Thực tế nhiều năm qua cũng cho thấy, vì các cấp ủy đảng
không chủ động trong công tác tạo nguồn, quy hoạch CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT nên đội ngũ cán bộ này không được đào tạo, bồi dưỡng cơ
bản, trình độ chuyên môn còn nhiều chắp. Để sớm khắc phục tình trạng này,
cùng với việc tạo nguồn, quy hoạch CBLĐQL, các cấp ủy đảng cần coi trọng
công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này. Nội dung
đào tạo, bồi dưỡng cần đảm bảo tính cân đối, hợp lý cả về chuyên môn,
nghiệp vụ, cả về phẩm chất, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của người làm
công tác TĐKT. Những biểu hiện suy thoái, tiêu cực trong công tác TĐKT sẽ
dẫn đến những hiện tượng thương mại hóa hoạt động TĐKT, những hiện
tượng “chạy” huân, huy chương để đánh bóng tên tuổi, thương hiệu…
Năm là, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội ở địa phương, đơn vị tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT, nhất là giám sát hoạt động của cán bộ trong
công tác khen thưởng, sẽ có được đội ngũ cán bộ có chất lượng. Mặt trận Tổ
118
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia vào xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, một mặt sẽ có được đội ngũ cán bộ
có chất lượng tốt. Mặt khác, còn tạo thuận lợi cho đội ngũ cán bộ thực hiện tốt
nhiệm vụ của họ. Bởi vì, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
không chỉ là lực lượng đông đảo tiến hành công tác TĐKT, mà còn có vai trò
rất quan trọng trong giám sát các hoạt động của CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, nhất là giám sát công tác khen thưởng.
3.2.2.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Một là, xây dựng mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ dài hạn, có thể
đến năm 2030 về TĐKT làm cơ sở xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT các cấp, các ngành trong cả nước đặt trong tổng thể chiến
lược cán bộ của Đảng.
Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH trên đất nước ta tiếp tục diễn ra
mạnh mẽ trong thời gian rất dài, TĐKT rất cần thiết và có vai trò, tác dụng cổ
vũ toàn Đảng, toàn dân nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu công
cuộc đổi mới ở từng địa phương, ngành, đơn vị. Đồng thời, góp phần vào
thắng lợi công cuộc đổi mới, từng bước đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH ở nước ta. Để
TĐKT tiếp tục thể hiện rõ vai trò và phát huy tác dụng trong công cuộc đổi
mới nhân tố đặc biệt quan trọng là xây dựng được đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đáp ứng những yêu cầu đó, vấn đề rất quan trọng cần đặc biệt quan
tâm là: xây dựng mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ dài hạn, có thể đến năm
2030 về TĐKT làm cơ sở xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT các cấp, các ngành trong cả nước đặt trong tổng thể chiến lược cán bộ
của Đảng.
119
Hai là, về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Trung
tâm Bồi dưỡng cán bộ Thi đua, Khen thưởng
Hiện tại, trong các cơ sở đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước hầu
như chưa có môn học về TĐKT, mới chỉ có một vài vấn đề liên quan đến
công tác TĐKT, nên cán bộ tốt nghiệp đại học, cao đẳng ở các trường hầu
như chưa được trang bị kiến thức cơ bản về công tác TĐKT. Khi được tuyển
dụng vào làm việc tại các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, cán bộ, công
chức chưa có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của ngành. Điều này, đặt ra
trách nhiệm nặng nề của Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Thi đua - Khen
thưởng. Hiện tại, hoạt động của Trung tâm còn nhiều hạn chế, bất cập. Vấn đề
đặt ra cần giải quyết là nghiên cứu nâng cấp và giao thêm nhiệm vụ đào tạo cán
bộ cho Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ TĐKT. Đi liền với việc này, là
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của
Trung tâm.
Ba là, về sự phối hợp và sự liên thông trong công tác cán bộ, nhất là
trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT giữa cấp uỷ
địa phương, đơn vị với Ban TĐKT Trung ương
Hiện tại, sự phối hợp và sự liên thông trong công tác cán bộ giữa cấp
uỷ địa phương, đơn vị với Ban TĐKT Trung ương còn nhiều hạn chế, vướng
mắc. Tình hình này, không phải chỉ do một số cấp uỷ địa phương, đơn vị và
Ban TĐKT Trung ương chưa tích cực, chủ động trong công việc, mà còn do
chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Đây là cản trở không nhỏ. Vấn đề đặt
ra cần giải quyết là nghiên cứu và có quy định cụ thể về sự phối hợp và tạo sự
liên thông trong công tác cán bộ giữa cấp uỷ địa phương, đơn vị với Ban
TĐKT Trung ương.
Bốn là, về tạo nguồn lâu dài để đưa vào quy hoạch CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT
120
Việc thu hút những người có đức, có tài, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi
ở các trường đại học, cao đẳng về làm việc tại các cơ quan chuyên trách công
tác TĐKT còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Điều này, chủ yếu do chính sách thu
hút nhân tài của ngành còn chưa đủ mạnh. Cần nghiên cứu giải quyết một
cách hợp lý.
Năm là, việc đấu tranh chống lại có hiệu quả những quan điểm sai trái
về vai trò, tác dụng của công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay
Trên thực tế, vẫn còn sự lan truyền những quan điểm sai trái về vai trò,
tác dụng của công tác TĐKT trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường,
định hướng XHCN, mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay. Những người có quan
điểm này, đã phủ nhận vai trò, tác dụng to lớn của công tác TĐKT trong điều
kiện hiện nay. Họ cho rằng, trong điều kiện hiện nay, quy luật kinh tế thị
trường chi phối mạnh mẽ, kích thích mọi người, mọi tổ chức tìm cách hoạt
động có hiệu quả và tồn tại nên không cần đến công tác TĐKT...Những quan
điểm sai trái này, cản trở lớn việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT, cần được đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả và loại trừ.
121
Tiểu kết chương 3
Trong những năm qua, nhất là từ khi Ban TĐKT Trung ương được
thành lập và tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT đã được các cấp uỷ quan tâm hơn, có những chuyển biến tích cực
và đạt được kết quả quan trọng. Chất lượng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT được nâng lên một bước, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công
tác TĐKT, góp phần tạo nên kết quả công tác TĐKT và thành tựu công cuộc
đổi mới.
Tuy nhiên, việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT vẫn còn nhiều yếu kém, hạn chế: nhiều cấp uỷ đảng còn chưa thực sự
quan tâm đến công việc này; còn lúng túng trong tạo nguồn cán bộ, quy hoạch
cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT đương chức và trong quy hoạch; sự phối hợp giữa Ban
TĐKT Trung ương với các cấp ủy địa phương trong xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn chưa chặt chẽ, thường xuyên;
chưa có sự liên thông trong công tác cán bộ giữa Ban TĐKT Trung ương với
các cấp ủy địa phương; tình trạng hụt hẫng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT còn diễn ra ở nhiều nơi...
Những ưu điểm, hạn chế yếu kém nêu trên, chủ yếu do các nguyên
nhân chủ quan. Những ưu điểm, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân được chỉ
ra trong chương này là cơ sở quan trọng xác định phương hướng và đề xuất
các giải pháp phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế, yếu kém, xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ công tác TĐKT trong những năm tới.
122
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TIẾP TỤC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CHUYÊN TRÁCH CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG
Ở NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2020
4.1. DỰ BÁO NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỤC TIÊU, PHƯƠNG
HƯỚNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN
TRÁCH CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN THƯỞNG Ở NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2020
4.1.1. Dự báo những nhân tố thuận lợi, khó khăn tác động đến việc
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua,
khen thưởng
4.1.1.1. Những thuận lợi
- Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm đến công tác TĐKT, trong đó
có sự quan tâm đến xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã nhận thức sâu sắc vai trò,
tác dụng của công tác TĐKT đối với thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và luôn
quan tâm đề ra các chủ trương, chỉ thị đẩy mạnh công tác TĐKT, đặc biệt coi
trọng xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ngang tầm
nhiệm vụ.
Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 3
tháng 6 năm 1998 “về đổi mới công tác TĐKT trong giai đoạn mới”; Quốc
hội đã ban hành Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật này. Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW,
ngày 21 tháng 5 năm 2004 “về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào
yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”. Chỉ
thị nhấn mạnh công tác tổ chức cán bộ ngành TĐKT: “Ban Cán sự
123
đảng Chính phủ chỉ đạo việc củng cố hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ làm
công tác thi đua, khen thưởng...”[31, tr. 3].
Ban Bí thư đã ra Kết luận số 83-KL/TW, ngày 30 tháng 8 năm 2010 về
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39 nêu trên, xác định các giải pháp đẩy mạnh tổ
chức và thực hiện các phong trào thi đua yêu nước do Đảng phát động. Trong
đó, chỉ rõ: “Có kế hoạch tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...”[2, tr. 3].
Tiếp theo, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 7/4/2014 “Về
tiếp tục đổi mới công tác TĐKT” nhấn mạnh việc tổ chức bộ máy, cán bộ
ngành TĐKT: " ... khẩn trương kiện toàn bộ máy làm công tác thi đua, khen
thưởng các cấp nhằm tạo sự thống nhất, ổn định từ Trung ương đến địa
phương. Bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng cần tổ chức gọn nhẹ, hiệu
quả" [37, tr. 2].
Luật Thi đua, Khen thưởng và các kết luận, chỉ thị, nêu trên đã, đang và
sẽ được các cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo
thuận lợi lớn để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
trong cả nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Việc tổng kết 30 năm đổi mới, trong đó có tổng kết về thực hiện những
quan điểm, chủ trương về đổi mới công tác cán bộ; Hiến pháp sửa đổi đã
được Quốc hội thông qua sẽ được triển khai thực hiện; Đại hội XII của Đảng
sẽ hoàn thiện, bổ sung những quan điểm về công tác cán bộ.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, quyết định về công tác cán bộ, chỉ đạo
sơ kết, tổng kết đúc rút kinh nghiệm và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
một cách quyết liệt hơn: Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết về luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo
124
quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; các quy chế của Bộ Chính trị
về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, về bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu
cán bộ ứng cử; các quy định về phân cấp quản lý cán bộ, về bổ nhiệm, miễn
nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ... Nhà nước ban hành Luật Cán bộ, công
chức...
Để công tác cán bộ đạt kết quả hơn, Đảng ta đã tổng kết 10 năm thực
hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, rút ra những
kinh nghiệm bổ ích và bổ sung nhiều vấn đề lý luận quan trọng cùng những
giải pháp thiếp tục thực hiện thắng lợi Chiến lược cán bộ. Tại Đại hội XI,
Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán
bộ”[65, tr. 261]. “Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kết hợp
các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển”[65, tr. 262].
Đảng đang triển khai tổng kết 30 năm đổi mới, trong đó có tổng kết về
thực hiện những quan điểm, chủ trương về đổi mới công tác cán bộ, những
quan điểm, chủ trương này, sẽ được hoàn thiện hơn. Đại hội XII của Đảng sẽ
được tổ chức, Đại hội sẽ kết luận và bổ sung, hoàn chỉnh thêm những quan
điểm, chủ trương về đổi mới công tác cán bộ... Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992
sửa đổi đã được Quốc hội thông qua đang được triển khai thực hiện khẩn
trương và mạnh mẽ. Một nội dung rất quan trọng sẽ được triển khai là sửa đổi,
bổ sung và hoàn chỉnh các văn bản pháp luật, trong đó có Luật Thi đua, Khen
thưởng.
Đây là những nhân tố rất quan trọng là cơ sở để xác định chủ trương giải
pháp phù hợp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp
ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ công tác TĐKT những năm tới.
- Sự trưởng thành của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
trong những năm qua là tiền đề để tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý chuyên trách công tác TĐKT
125
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng ngành TĐKT đã có nhiều cố
gắng, công tác cán bộ đã có những đổi mới, đội ngũ cán bộ nói chung, đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng đã trưởng thành một
bước, thích ứng dần với điều kiện mới, tích lũy được những kinh nghiệm bổ
ích về lãnh đạo, tổ chức, tham mưu công tác TĐKT, tính chuyên nghiệp của
đội ngũ cán bộ này đã bước đầu được thể hiện; các cấp ủy đã rút ra được
những kinh nghiệm bổ ích về công tác cán bộ, trong đó có những kinh nghiệm
có giá trị về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong
điều kiện hiện nay. Đây là những nhân tố đặc biệt quan trọng để xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong những năm tới đạt kết quả
lớn hơn.
- Nghị quyết Trung ương 4, Khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”; việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” tiếp tục được triển khai thực hiện và duy trì
Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh bảo đảm lãnh đạo thắng lợi
công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước, Đảng đã ban hành Nghị quyết
Trung ương 4, khoá XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
Qua gần hai năm thực hiện Đảng đã sơ kết và có những kết luận có giá trị, tạo
cơ sở quan trọng để các cấp uỷ và toàn Đảng triển khai thực hiện Nghị quyết
này một cách mạnh mẽ với quyết tâm chính trị cao hơn với những biện pháp
cụ thể, thiết thực hơn trong những năm tới. Trong đó, những giải pháp về thực
hiện quy hoạch các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước
nhiệm kỳ 2016 – 2020; tạo nguồn quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ tham mưu; về ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, sẽ được triển khai
mạnh mẽ với những biện pháp thiết thực hơn. Những hoạt động này, sẽ tác
động mạnh mẽ tạo chuyển biến trong xây dựng đội ngũ đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT.
126
Để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, Đảng đã phát động Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và lãnh đạo
thực hiện đạt kết quả quan trọng; đã sơ kết, tổng kết việc thực hiện cuộc vận
động này, rút ra những kinh nghiệm bổ ích.
Để đưa việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
thành nền nếp thường xuyên, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày
14-5-2011 “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, với mục đích, yêu cầu và những nội dung cụ thể, thiết thực,
nhằm góp phần thực hiện thắng lợi công tác xây dựng Đảng và Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng. Chỉ thị này đang và sẽ được các cấp uỷ đảng địa
phương, các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị và các cấp uỷ đảng ở Ban TĐKT
trung ương triển khai mạnh mẽ và ngày càng đi vào chiều sâu, sẽ tác động
mạnh góp phần quan trọng xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đạt kết quả. Trong đó, một trong những nhân tố tác động mạnh đến
việc xây dựng đội ngũ cán bộ này, là việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống và phong cách lãnh đạo, quản lý, lề lối làm việc của CBLĐQL công tác
TĐKT theo tấm gương đạo đức và phong cách làm việc của Người.
- Thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới trong
gần 30 năm và kết quả công tác thi đua, khen thưởng trong những năm qua sẽ
tạo cơ sở vững chắc cho xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
trong gần 30 năm đã đạt được thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù
hiện tại đất nước ta còn gặp nhiều khó khăn về phát triển kinh tế - xã hội do
tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và những yếu kém trong lãnh
đạo, quản lý của các cấp, các ngành, song đất nước vẫn ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội được đảm bảo, kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi, vượt qua
127
khó khăn thách thức và tiếp tục phát triển. Thành tựu công cuộc đổi mới và
những nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vẫn tác động mạnh mẽ,
tạo sự phấn khởi, cổ vũ, động viên các cấp uỷ, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên nói chung và đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói
riêng tìm các giải pháp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Trong đó, có
các giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Trong những năm tới, công cuộc đổi mới trên đất nước ta sẽ vượt qua
khó khăn thách thức hiện tại và tiếp tục phát triển đạt kết quả, từng bước đưa
nước ta đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
xây dựng thành công CNXH. Những thành tựu ấy, sẽ tác động mạnh mẽ hơn
cổ vũ, động viên các cấp ủy, cán bộ, đảng viên xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước đạt kết quả lớn hơn.
Trong những năm qua, phong trào thi đua yêu nước và công tác TĐKT
trong cả nước đã có bước tiến bộ, đạt kết quả quan trọng. Các cấp ủy, tổ chức
đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân đã quan tâm hơn đến công tác TĐKT; đã phối hợp chặt chẽ tổ chức nhiều
phong trào thi đua thiết thực, được đông đảo đoàn viên, hội viên và nhân dân
tham gia. Công tác khen thưởng, nhìn chung được thực hiện đúng quy định
của Luật Thi đua, Khen thưởng, tôn vinh, khen thưởng kịp những tổ chức, cá
nhân có thành tích và cống hiến trong thời kỳ đổi mới. Những kết quả đạt
được của công tác TĐKT đã góp phần quan trọng vào thành tựu công cuộc
đổi mới.
Các cấp uỷ đảng, đội ngũ cán bộ, công chức ngành TĐKT đã nhận
thức sâu sắc rằng, kết quả đạt được của công tác TĐKT những năm qua, trong
đó có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT. Đây là nhân tố có giá trị, cổ vũ, động viên các cấp uỷ, cán bộ, đảng
viên trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT những
năm tới.
128
- Sự biến đổi của tình hình thế giới và khu vực, sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học - công nghệ
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực nhất là Khu vực
châu Á - Thái Bình Dương và vùng Đông Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển
năng động. Đây là điều kiện thuận lợi để các các cấp ủy tiếp thu, vận dụng
những kinh nghiệm về xây dựng công chức của các nước tiên tiến và tìm tòi
những giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có
chất lượng, đáp ứng sự biến đổi nhanh chóng của khu vực, góp phần thực hiện
chủ trương của Đảng về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ sẽ cho ra đời các
phương tiện hiện đại phục vụ hoạt động của các cấp uỷ đảng và của CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT, góp phần to lớn nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các cấp uỷ và đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
trong đó có hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ này.
4.1.1.2. Những khó khăn, thách thức
- Nhận thức của cấp ủy, chính quyền ở nhiều nơi và của không ít
người dân, trong đó có cán bộ, đảng viên về công tác TĐKT và cán bộ làm
công tác TĐKT còn chưa đầy đủ, sâu sắc, thậm chí có biểu hiện lệch lạc
Nhìn chung, trong những năm qua công tác TĐKT được tiến hành khá
tốt và thể hiện vai trò, tác dụng trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, ở nhiều
nơi, công tác TĐKT còn hình thức, nhiều phong trào thi đua có “phát” nhưng
không “động”, không thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, kết quả, vai
trò, tác dụng thấp; công tác khen thưởng còn chưa kịp thời, công bằng, chính
xác và có những tiêu cực như: chạy bằng khen, huân, huy chương, danh hiệu
thi đua để quảng bá, đánh bóng thương hiệu vì lợi ích cá nhân, cục bộ phe,
nhóm. Trên thực tế, nhiều cấp ủy, cán bộ đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về
công tác TĐKT sự cần thiết và vai trò, tác dụng của nó trong điều kiện hiện
129
nay. Cạnh đó, những tư tưởng, quan điểm phủ nhận vai trò, tác dụng của công
tác TĐKT trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta, vẫn còn tồn tại ở không ít người dân, trong đó có cán bộ, đảng viên.
Đã có ý kiến cho rằng, thực hiện cơ chế thị trường, thì quy luật kinh tế thị
trường là nhân tố mạnh nhất kích thích mọi người trong hoạt động, không cần
phải TĐKT, Thực tế đó, sẽ tác động gây khó khăn đáng kể cho việc xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Cạnh đó, tư tưởng ngại khó
trong một số cấp ủy, cán bộ đảng viên trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT. Đây là trở lực rất lớn đối với xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT những năm tới.
- Tác động của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế
Mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế còn tác động khá mạnh
đến hoạt động xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT và
đến hoạt động của đội ngũ cán bộ này. Một mặt, nhiều cán bộ trẻ có tư tưởng
không muốn làm việc suốt đời, trong ngành TĐKT, mà muốn “chân trong,
chân ngoài ” để vừa đảm bảo nhu cầu tối thiểu về cuộc sống từ đồng lương từ
ngân sách nhà nước, vừa hoạt động bên ngoài để tăng thu nhập. Điều này gây
khó khăn cho việc quy hoạch, đào tạo CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
trở thành những cán bộ chuyên nghiệp. Mặt khác, từ những chi phối, cám dỗ
của vật chất do mặt trái của kinh tế thị trường đem lại, dễ làm cho một số
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT mắc sai lầm, khuyết điểm, thoái hóa,
biến chất, ảnh hưởng không nhỏ đền vị thế, uy tín, thanh danh của cán bộ làm
công tác TĐKT, gây khó khăn cho việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT.
Mặt trái của mở cửa, hội nhập quốc tế, tác động gây khó khăn đáng kểđối với việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.Những tư tưởng không đúng đắn về TĐKT ở các nước tư bản thâm nhập vào
130
nước ta, tác động đến cán bộ, đảng viên và người dân, hạn chế, hoặc cản trởviệc tham gia của họ vào các phong trào thi đua yêu nước và xây dựng ngành
TĐKT nói chung, xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKTnói riêng.
- Những yếu kém trong Đảng, bộ máy nhà nước, trong công tác xâydựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Những yếu kém trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước, đặc biệt là tệtham nhũng, “chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp,
chạy huân chương”[65, tr. 262] và “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộcao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...”[66, tr. 22] chưađược ngăn chặn căn bản. Điều này, đã và sẽ còn tiếp tục gây bức xúc trong
nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng đáng kể đến niềm tin và sựủng hộ tích cực của nhân dân đối với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng và đến kết quả xây dựng đội ngũ CBLĐQL các cấp, nói chung và xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng. Những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT và những hạn chế, bất cập của đội ngũ cán bộCBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT chưa thể khắc phục một cách cơ bản
trong thời gian ngắn, sẽ ảnh hưởng đáng kể đến kết quả xây dựng đội ngũCBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT những năm tới. Trong đó, nổi lên là
sự bất cập giữa trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý,
tham mưu, thẩm định hồ sơ khen thưởng của nhiều cán bộ so với yêu cầu
ngày càng cao, nhiệm vụ ngày càng nặng nề của công tác TĐKT. Bên cạnh đó,tư tưởng, nhận thức của một số cấp ủy về công tác TĐKT và xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn hạn chế.
- Tác động của suy thoái kinh tế những năm qua làm cho đời sống của
phần lớn cán bộ làm công tác TĐKT vốn đã khó khăn lại khó khăn hơn, diễn
biến rất phức tạp về biển đảo nước ta
131
Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính,
sự nghiệp nói chung, cán bộ làm công tác TĐKT nói riêng còn chưa đảm bảo,
đời sống của cán bộ và gia đình còn nhiều khó khăn. Cạnh đó, khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, sự suy thoái về kinh tế đất nước những năm qua tác động
mạnh làm cho đời sống của phần lớn gia đình cán bộ, công chức làm việc
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp nói chung và cán bộ, công chức
ngành TĐKT nói riêng, vốn đã khó khăn, lại khó khăn hơn.
Mặc dù gần đây, tình hình kinh tế đất nước đang có dấu hiệu phục hồi,
vượt qua suy thoái, song vẫn chưa vững chắc, còn nhiều phức tạp và rủi ro,
trong khi chưa có nhiều giải pháp khả thi tạo chuyển biến mạnh mẽ, vững
chắc về phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội. Lạm phát tăng và
chưa có các giải pháp kìm chế đạt hiệu quả cao; giá cả nhu yếu phẩm ngày
càng tăng... tác động xấu đến đời sông của phần lớn dân cư nói chung và cán
bộ, công chức ngành TĐKT nói riêng, cạnh đó, là diễn biến rất phức tạp về
biển đảo nước ta. Điều này, sẽ tác động đến việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT.
4.1.2. Mục tiêu, phương hướng
4.1.2.1. Mục tiêu
Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá
VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước tại Hội
nghị Trung ương 9, khoá X, đã xác định mục tiêu chung xây dựng đội ngũ cán
bộ trong những năm tới:
Xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ
mới. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức...; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững
vàng giữa các thế hệ cán bộ[64, tr. 241].
132
Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới, trẻ hoá
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục,
kế thừa và phát triển”[65, tr. 262]; “Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn
cán bộ trẻ, nữ...”[65, tr. 261].
Kết luận số 83-KL/TW, ngày 30 tháng 8 năm 2010 về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 39 CT/TW ngày 21 tháng 5 năm 2004 của Bộ Chính trị “về
việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng,
tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”, nêu rõ yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên làm công tác TĐKT là “Không ngừng nâng cao phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính chí công vô tư, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ, đảng viên làm công tác thi đua, khen thưởng” [2, tr. 2].
Tiếp đến, Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 7/4/2014 Bộ Chính trị về tiếp tục
đổi mới công tác TĐKT nhấn mạnh: "...bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có năng lực, trình độ phù hợp, đáp ứng yêu cầu công tác thi đua, khen
thưởng"[37, tr. 2].
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ làm công tác TĐKT nói riêng, đồng thời
căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của công tác TĐKT trong những năm tới, có
thể xác định mục tiêu xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT những năm tới là:
Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có phẩm chất
chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mẫu
mực, trong sáng về đạo đức, lối sống, có đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng tốt yêu cầu công tác TĐKT trong
thời kỳ đổi mới.
Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, có thể xác định mục tiêu cơ bản xây dựng
đội ngũ CNLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở các ngành, địa phương:
133
Đối với Ban TĐKT Trung ương: xây dựng đội ngũ CNLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT cấp Ban, vụ, phòng đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý, thực
sự là những cán bộ chuyên nghiệp, các chuyên gia của ngành TĐKT, có phẩm
chất chính trị tốt, đạo đức trong sáng, lối sống trong sạch, lành mạnh bảo đảm
hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác TĐKT do Đảng và Nhà nước giao.
Đối với cấp tỉnh, thành phố: xây dựng đội ngũ CNLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT cấp tỉnh, thành phố đủ số lượng, có cơ cấu hợp lý, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt, hiểu sâu các hoạt động TĐKT của địa
phương, có khả năng cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chỉ thị của
cấp trên về công tác TĐKT vào địa phương để tham mưu cho cấp ủy để quyết
định thực hiện, lãnh đạo, quản lý cơ quan chuyên trách công tác TĐKT địa
phương hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đối với các Bộ, Ngành, Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước...:
xây dựng đội ngũ CNLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của các bộ, ngành,
đơn vị này, đủ số lượng, có chất lượng tốt, nắm chắc các hoạt động đặc thù và
các hoạt động TĐKT của Bộ, Ngành, Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà
nước, có khả năng cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác
TĐKT vào bộ, ngành, đơn vị để tham mưu cho cấp ủy quyết định thực hiện,
bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
4.1.2.2. Phương hướng
Từ mục tiêu xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
việc xây dựng đội ngũ cán bộ này, trong những năm tới cần tập trung vào
những công việc chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để có bộ tiêu chuẩn chức danh
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT từ phó trưởng phòng trở lên ở các tỉnh,
thành phố, các cơ quan, đơn vị tương đương và ở Ban TĐKT Trung ương.
Các cấp ủy tỉnh, thành phố và các cơ quan, đơn vị tương đương tập
134
trung hơn vào công việc này để tạo thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, như: quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ...
Thứ hai, đẩy mạnh các hoạt động để có nguồn cán bộ đưa vào quy
hoạch các chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Đẩy mạnh các hoạt động của cấp ủy các cấp, ngành để có nguồn cán bộ
dự bị, kế cận dồi dào được đào tạo cơ bản về các ngành khoa học khác nhau,
trẻ tuổi, có năng lực, tâm huyết với công tác TĐKT để chuẩn bị đưa vào quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT diễn ra ở các cấp ngành, các giai tầng và các lĩnh vực đời
sống xã hội.
Tạo bước chuyển biến căn bản về công tác quy hoạch CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT ở các tỉnh, thành phố và các cơ quan, đơn vị tương
đương; từng bước tạo sự gắn kết công tác quy hoạch CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT ở các tỉnh, thành phố và các cơ quan, đơn vị với công tác quy
hoạch CBLĐQL ở Ban TĐKT Trung ương.
Khắc phục tình trạng đang diễn ra ở nhiều nơi: quy hoạch CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT được tiến hành cùng với việc quy hoạch tổng thể
CBLĐQL của các địa phương, cơ quan, đơn vị và chưa chú ý thoả đáng đến
ngành TĐKT.
Thứ ba, tạo chuyển biến về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng
nghiệp vụ công tác TĐKT cho CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm
bù đắp sự thiếu hụt về các tri thức về công tác TĐKT của cán bộ, vì cán bộ
chuyên trách công tác TĐKT không tiếp nhận được những tri thức về công tác
TĐKT từ các trường đại học, cao đẳng trong quá trình đào tạo. Coi trọng bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ công tác TĐKT cho cán bộ, từng bước trở
135
thành những cán bộ chuyên nghiệp tinh thông về công tác TĐKT ở các ngành,
các cấp, địa phương, đơn vị.
Thứ tư, đẩy mạnh việc luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở các tỉnh, thành phố và có hướng giải quyết việc luân chuyển cán bộ
giữa Ban TĐKT Trung ương với các địa phương, đơn vị trong cả nước.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để từng bước tạo sự liên thông trong công
tác cán bộ giữa Ban TĐKT Trung ương với các địa phương, đơn vị, khắc
phục dần sự khép kín trong công tác cán bộ giữa các cơ quan, đơn vị này. Qua
đó, tạo điều kiện thuận lợi để đào tạo, bồi dưỡng trong thực tiễn CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT trong quy hoạch.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHUYÊN TRÁCH CÔNG TÁC THI ĐUA, KHEN
THƯỞNG Ở NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2020
4.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, lãnh
đạo đơn vị về vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng và việc xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
trong tình hình mới
Để đạt mục tiêu và phương hướng xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT những năm tới, trước hết cần tạo nhận thức đúng đắn về
vị trí, vai trò của TĐKT và đội ngũ đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT trong điều kiện mới - xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng
XHCN, mở cửa, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đề cao trách nhiệm của cấp ủy
chính quyền tỉnh, thành phố và các cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong công tác TĐKT và việc xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Bởi vì, cấp uỷ, chính quyền, cán
bộ chủ chốt có nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động này,
mới có thể đề ra được những chủ trương, giải pháp đúng đắn về công tác
TĐKT và mới xây dựng được đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
136
của mình có chất lượng. Khi có nhận thức đúng về vị trí, vai trò công tác
TĐKT và vai trò của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT thì mới
có chủ trương, giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đạt kết quả. Để đáp ứng yêu cầu đó, cần tập trung thực hiện tốt những
công việc sau đây:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc, tạo nhận thức thống nhất trong cấp ủy,
chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về vai
trò, tác dụng của TĐKT, vai trò đặc biệt của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT và việc xây dựng đội ngũ cán bộ này trong điều kiện hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, có nhiều thời cơ,
thuận lợi, nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức. Đảng và nhân dân ta
chỉ có thể tận dụng thời cơ, thuận lợi vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ này, khi Đảng, chính quyền các cấp
huy động được sức mạnh, nguồn lực to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để có được sức mạnh tổng
hợp đó, phải thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham và cán bộ,
chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên gia các phong trào thi đua yêu nước. Do đó,
TĐKT có vai trò và tác dụng to lớn, góp phần thúc đẩy thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của các địa phương, ngành, đơn vị và mục tiêu, nhiệm vụ
của công cuộc đổi mới.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc vai trò, tác
dụng to lớn của TĐKT, đã đề ra các chủ trương, ban hành các chỉ thị nhằm
lãnh đạo, chỉ đạo công tác TĐKT đạt kết quả tốt, góp phần vào thành tựu
công cuộc đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Cán bộ là gốc của mọi công việc”[103,
tr. 269], “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[103,
tr. 273]. Đảng ta cũng khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
137
của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [64, tr. 239].
Như vậy, để có được phong trào thi đua và để thực hiện tốt công tác TĐKT
cần phải có những con người trực tiếp làm công tác TĐKT. Đội ngũ cán bộ,
nhất là CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là nhân tố góp phần quyết
định trực tiếp kết quả công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay, bảo đảm cho
công tác TĐKT được thực hiện đúng đắn và đạt hiệu quả thiết thực, bởi vì đây
là đội ngũ cán bộ trực tiếp tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các
quy định của Đảng, Nhà nước về công tác TĐKT ở các cơ quan, đơn vị theo
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời họ là những người trực
tiếp tham gia đánh giá, thẩm định kết quả, thành tích của các tập thể, cá nhân
trong hoạt động TĐKT cũng như trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình. Có đội ngũ cán bộ tốt thì mới có phong trào tốt, thực tiễn đã
chứng minh “cán bộ nào, phong trào ấy”. Muốn có được đội ngũ cán bộ làm
công tác TĐKT nói chung, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng
phải coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ này.
Theo đó, các cấp ủy đảng, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, địa phương,
đơn vị cần coi nhiệm vụ xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT là một bộ phận rất quan trọng của công tác cán bộ. Để có đội ngũ cán
bộ thể hiện rõ vai trò và đáp ứng tốt yêu cầu của công tác TĐKT trong điều
kiện hiện nay, phải đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng việc xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Từ nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của TĐKT và việc xây dựng đội
ngũ đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT các cấp ủy đảng, chính
quyền, lãnh đạo đơn vị cần xác định trách nhiệm của mình trong xây dựng đội
ngũ đội ngũ cán bộ này. Nhận thức, trách nhiệm ấy, cần được thể hiện thành
các chủ trương, giải pháp và việc làm cụ thể đem lại hiệu quả về xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Cụ thể là, các cấp ủy, tổ chức
138
đảng, trước hết là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cần coi việc xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một trong những nhiệm vụ chủ yếu
và trực tiếp của mình, tránh tình trạng coi nhiệm vụ đó là của cấp trên hay của
ngành TĐKT. Sự quan tâm, coi trọng của các cấp ủy đảng về xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cần được thể hiện trong các nghị
quyết chuyên đề về công tác cán bộ, trong chương trình, kế hoạch công tác
trong nhiệm kỳ, chương trình, kế hoạch cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, các chủ trương, giải pháp về thực hiện chính sách cán bộ
cải thiện và nâng cao đời sống cán bộ, trong kiểm thực hiện nhiệm vụ chính
trị hằng năm, trong sơ kết tổng kết hoạt động của cấp ủy giữa nhiệm kỳ và đại
hội đảng bộ.
Thứ hai, nâng cao chất sinh hoạt đảng, sử dụng linh hoạt các phương
thức tuyên truyền để quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ,
chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân
dân về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Để góp phần nâng cao và tạo nhận thức đúng đắn cho các cấp ủy đảng,
chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị về vai trò của công tác TĐKT và xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, cần thông qua nhiều
hình thức, trong đó có thông qua sinh hoạt đảng và các phương thức tuyên
truyền. Các tổ chức đảng trong các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT cần
tổ chức sinh hoạt chi bộ trực thuộc các đảng uỷ theo chuyên đề về công tác
cán bộ và xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ, cần đưa nội dung xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT vào nội dung sinh hoạt của các đoàn thể ở các cơ quan
này và xác định trách nhiệm của từng đoàn thể trong xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Cùng với đó, các cấp ủy đảng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong
các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở địa phương về công
139
tác TĐKT và vai trò, sự cần thiết xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT của địa phương, xác định trách nhiệm và hướng dẫn các tổ
chức này tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Cấp ủy cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại
chúng của địa phương tuyên truyền về vai trò, tác dụng của công tác TĐKT
và sự cần thiết xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
trong điều kiện hiện nay.
Các cấp uỷ tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất
lượng các hoạt động kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Thi
đua ái quốc - ngày truyền thống Thi đua yêu nước ở các địa phương, cơ quan,
đơn vị, đồng thời tổ chức trang nghiêm lễ kỷ niệm ở Trung ương. Qua đó,
tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức và động viên nhân dân tích cực
tham gia các phong trào thi đua và các hoạt động khen thưởng.
Thứ ba, phát huy mạnh mẽ vai trò của Tạp chí Thi đua Khen thưởng
trong nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, lãnh đạo cơ quan,
đơn vị, cán bộ, công chức trong, ngoài ngành TĐKT về xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Cần tăng cường cán bộ có chất lượng, nâng cấp trang, thiết bị và nâng
cao chất lượng Tạp chí Thi đua Khen thưởng. Qua đó, phát huy mạnh mẽ vai
trò của Tạp chí trong tuyên truyền, định hướng công tác TĐKT theo chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị,
cán bộ, công chức trong, ngoài ngành TĐKT, nhất là cán bộ, công chức trong
ngành về công tác TĐKT và xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT trong điều kiện hiện nay.
Xây dựng Tạp chí Thi đua Khen thưởng trở thành lực lượng nòng cốt,
trong tuyên truyền về vai trò, tác dụng của công tác TĐKT, nâng cao nhận
140
thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, cán
bộ, đảng viên về xây dựng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT; định
hướng tư tưởng và hành động trong thực hiện nhiệm vụ công tác TĐKT; đồng
thời, trở thành diễn đàn chủ yếu đăng tải các bài viết của các nhà lý luận và
thực tiễn trong cả nước để đấu tranh có hiệu quả với những tư tưởng, quan
điểm không đúng đắn hòng phủ nhận vai trò, tác dụng của công tác TĐKT
trong điều kiện hiện nay. Tạp chí cần định kỳ mở chuyên mục về vấn đề này.
4.2.2. Xây dựng tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý
chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng phù hợp với yêu cầu hiện nay
Để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất
lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay phải xác định rõ, cụ
thể tiêu chuẩn từng chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Thực
chất, công việc này, là việc cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT. Đây là tiền đề, cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện các nội dung khác của việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT đạt kết quả. Công việc này, phải được tiến hành chặt chẽ,
nghiêm túc và trên cơ sở khoa học. Cần thực hiện tốt những vấn đề như: Quán
triệt, nhận thức sâu sắc và thực hiện tốt những quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác
cán bộ; bám chắc vào những quy định về tiêu chuẩn các chức danh CBLĐQL
do Đảng, Nhà nước ban hành; nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan,
đơn vị; nắm vững yêu cầu, nhiệm vụ của công tác TĐKT giai đoạn hiện nay
và chức trách, nhiệm vụ của từng chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT đã được quy định trong các văn bản của Đảng, Nhà nước; chú ý đến
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hiện tại của địa phương, cơ
quan, đơn vị và cán bộ dự nguồn... để xác định tiêu chuẩn chức danh
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
141
Tiêu chuẩn từng chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
được xác định phải phù hợp, khả thi, đáp ứng yêu cầu công tác TĐKT của địa
phương, cơ quan, đơn vị, bảo đảm sự phát triển liên tục, vững vàng của đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Thực hiện tốt những điều nêu trên, đặc biệt coi trọng việc bám chắc vào
quy định về tiêu chuẩn CBLĐQL trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước để
cụ thể hoá tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Cụ
thể là:
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước đã xác định tiêu chuẩn chung của đội ngũ cán bộ
và tiêu chuẩn riêng của cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân;
Quyết định số 83/2004/QĐ-BNV ngày 17/11/2004 của Bộ Nội vụ về ban
hành tiêu chuẩn Vụ trưởng thuộc Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc
Chính phủ và tiêu chuẩn chung của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong
đó nhấn mạnh : bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc với Đảng với nhân dân, Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có ý thức đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước ; khả năng lãnh đạo, quản lý, dự báo, tổng kết thực
tiễn; gương mẫu về đạo đức, lối sống ; phong cách làm việc khoa học, dân
chủ; ý thức tổ chức, kỷ luật, trách nhiệm; khả năng đoàn kết quy tụ đội ngũ
cán bộ; tập hợp và phát huy được sức mạnh tập thể, quyết đoán và dám chịu
trách nhiệm vì mục đích chung; bản thân và gia đình gương mẫu thực hiện tốt
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, địa
phương nơi cư trú...Những tiêu chuẩn này, quan hệ mật thiết với nhau thể
hiện mối quan hệ biện chứng giữa đức và tài, trong đó, đức là gốc.
Trên cơ sở những quy định về tiêu chuẩn chung CBLĐQL nêu trên, có
thể xác định tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT trong giai đoạn hiện nay, gồm:
142
* Về tiêu chuẩn chung CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Về phẩm chất chính trị:
Ngoài những tiêu chuẩn chung về phẩm chất chính trị của CBLĐQL của
Đảng, như: có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, trung thành và kiên định mục tiêu và con đường XHCN; quyết
tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới; kiên quyết đấu tranh bảo vệ các
quan điểm, đường lối của Đảng; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách
nhiệm cao, nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật
của Nhà nước..., CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT còn phải có các tiêu
chuẩn như: kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, những nhận
thức lệch lạc về vị trí, vai trò của công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay,
bảo vệ có kết quả quan điểm của Đảng về công tác TĐKT; tăng cường tuyên
truyền quản điểm của Đảng về TĐKT trong nhân dân, nỗ lực phấn đấu, cổ vũ
động viên nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng, Nhà nước về
công tác TĐKT; đấu tranh kiên quyết với những tiêu cực trong công tác
TĐKT, không sa vào những tiêu cực trong TĐKT, nhất là trong công tác khen
thưởng, như tiếp tay cho những phần tử xấu trong chạy bằng khen, huân, huy
chương, danh hiệu vì lợi ích bát chính.
Về phẩm chất đạo đức, lối sống:
Có đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, có lối sống giản dị, trong sạch, lành mạnh; trung thực, thẳng thắn,
khách quan, công tâm, công bằng, tận tụy với công việc, sẵn sàng chịu trách
nhiệm cá nhân về các quyết định chưa đúng đắn về công tác TĐKT, nhất là
những ý kiến tham mưu về công tác khen thưởng, không đẩy trách nhiệm
cho người khác và tập thể; không lợi dụng vị trí, trách nhiệm công tác trong
ngành TĐKT để vụ lợi
Về kiến thức và năng lực:
143
Nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước và những kiến thức cần thiết về kinh tế, văn hoá, xã hội..., nhất là
kiến thức về TĐKT; có trình độ lý luận chính trị, chuyên môn về công việc
đảm nhiệm, với phương châm “giỏi một việc và biết nhiều việc”; có năng lực
tham mưu cho cấp uỷ, lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị về công tác
TĐKT và năng lực thẩm định hồ sơ khen thưởng; có năng lực lãnh đạo, quản
lý, điều hành công việc, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết đúic rút kinh
nghiệm; có khả năng xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động đạt hiệu
quả, kinh nghiệm công tác; đoàn kết, quy tụ cán bộ, phát huy sức mạnh tập
thể và sử dụng tốt cán bộ, công chức dưới quyền.
Có phong cách lãnh đạo quản lý khoa học, dân chủ:
Có phương pháp làm việc khoa học; phong cách lãnh đạo dân chủ,
lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tôn trọng nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, quyết đoán trong công việc. Không
định kiến, trù dập người phê bình thẳng thắn, đúng sự thật về khuyết điểm
của mình. Có khả năng giao tiếp, vận động nhân dân tham gia các hoạt
động TĐKT. Không nhũng nhiễu cửa quyền trong công tác TĐKT.
* Về tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Trên cơ sở những tiêu chuẩn chung của CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT nêu trên, khi xác định tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT cần căn cứ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chuyên trách
công tác TĐKT của từng bộ phận trong cơ quan này và chức trách, nhiệm vụ
của chức danh cán bộ. Cụ thể là:
- Đối với Trưởng ban, các Phó Trưởng Ban TĐKT Trung ương,
CBLĐQL cấp vụ (Vụ trưởng, các Phó Vụ trưởng) và tương đương ở Ban TĐKT
Trung ương, Vụ trưởng Vụ TĐKT ở các bộ, ban, đoàn thể trung ương và tương
đương, các Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban TĐKT ở các tỉnh, thành phố trực
144
thuộc Trung ương
Yêu cầu về phẩm chất chính trị:
Yêu nước, kiên định đường lối đổi mới, độc lập dân tộc và CNXH, tận
tụy phục vụ nhân dân. Làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, thể hiện bằng
hiệu quả và chất lượng công việc.
Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, có tinh thần đấu tranh phê bình
và tự phê bình, trung thực, thẳng thắn, chống bảo thủ trì trệ và cục bộ, bản vị,
kiên quyết chống tham nhũng và không tham nhũng.
Giữ gìn đoàn kết nội bộ, chân tình với đồng nghiệp, tập hợp và phát huy
tốt sức mạnh tập thể, được tập thể tín nhiệm. Có ý thức tổ chức kỷ luật, gương
mẫu chấp hành luật pháp; các quy định của Nhà nước, quy chế của cơ quan.
Bản thân và gia đình thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước; các quy định của địa phương và nơi cư
trú, được nhân dân nơi cư trú tín nhiệm.
Yêu cầu về năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành:
Có năng lực tham mưu, lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện. Có
năng lực tổng kết thực tiễn và cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, các quy định của Trung ương và cấp uỷ, chính quyền,
lãnh đạo bộ, ban, đoàn thể, cơ quan, đơn vị về công tác TĐKT.
Có năng lực nghiên cứu và xây dựng các văn bản hướng dẫn công tác
TĐKT, nghiên cứu thực tiễn, đề xuất định hướng, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển và tăng cường quản lý Nhà nước về công tác TĐKT ở địa
phương, cơ quan, đơn vị để cấp uỷ, chính quyền và lãnh đạo địa phương, cơ
quan, đơn vị xem xét, quyết định. Đề xuất với cấp uỷ, chính quyền, lãnh đạo
địa phương, cơ quan, đơn vị các giải pháp triển khai thực hiện theo chức trách,
quyền hạn và nhiệm vụ được giao.
Có năng lực điều hành các hoạt động của cơ quan, đơn vị, nắm vững
các hoạt động về công tác TĐKT của cơ quan chuyên trách công tác TĐKT.
145
Có khả năng quy tụ, đoàn kết cán bộ, công chức của cơ quan và phối hợp với
các cơ quan có liên quan để thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
CBLĐQL cấp vụ và tương đương ở Ban TĐKT Trung ương phải có
năng lực lãnh đạo, quản lý và tham mưu chuyên sâu công tác TĐKT về lĩnh
vực do Vụ phụ trách, tức là theo chức năng, nhiệm vụ của Vụ được Ban
TĐKT Trung ương giao cho.
Yêu cầu về trình độ:
Nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về công tác quản lý Nhà nước về TĐKT. Nắm vững các văn bản
quy phạm pháp luật về lĩnh vực liên quan đến hoạt động và quản lý của cơ
quan chuyên trách công tác TĐKT. Hiểu biết sâu nghiệp vụ quản lý nhà nước
về công tác TĐKT, có kinh nghiệm tổ chức và quản lý Vụ; Ban.
Nắm vững tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của đất nước,
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tốt nghiệp đại học trở lên; dưới 40 tuổi phải được đào tạo chính quy,
chuyên ngành phù hợp với công tác TĐKT. Có kinh nghiệm công tác trong
ngành từ 3-5 năm trở lên. Tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị; dưới 45 tuổi
phải qua đào tạo cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung. Đã qua đào tạo, bồi
dưỡng các chương trình quản lý hành chính nhà nước cho ngạch chuyên viên
chính và tương đương trở lên. Biết ít nhất một ngoại ngữ thông dụng đạt trình
độ C (đối với cấp trưởng), trình độ B (đối với cấp Phó); cán bộ có tuổi đời
dưới 45 tuổi phải biết thông thạo một ngoại ngữ thông dụng. Biết sử dụng
máy vi tính thành thạo để áp dụng tin học vào công tác lãnh đạo, quản lý và
chuyên môn nghiệp vụ.
- Đối với Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng trực thuộc các Vụ và tương
đương ở Ban TĐKT Trung ương và Vụ TĐKT ở các bộ, Ban và tương đương, ở
các Ban TĐKT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
146
Bảo đảm những yêu cầu về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống theo tiêu chuẩn của CBLĐQL cấp vụ nêu trên. Song, tiêu chuẩn về năng
lực và phong cách lãnh đạo, quản lý điều hành công việc được xác định thấp
hơn CBLĐQL cấp vụ. Tức là có năng lực và phong cách lãnh đạo, quản lý,
điều hành tốt công việc của phòng chuyên môn thuộc các cơ quan chuyên
trách công tác TĐKT.
Yêu cầu về trình độ: Tốt nghiệp đại học trở lên theo chuyên ngành phù
hợp với công tác được đảm nhiệm; đã qua đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
trung cấp trở lên; đã qua đào tạo, bồi dưỡng các chương trình quản lý hành
chính Nhà nước; biết ít nhất một ngoại ngữ thông dụng đạt trình độ B; biết sử
dụng máy vi tính phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ.
4.2.3. Đẩy mạnh việc tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua,
khen thưởng
4.2.3.1. Đẩy mạnh việc tạo nguồn và quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
* Đẩy mạnh việc tạo nguồn
Tạo nguồn cán bộ là một một hoạt động hết sức quan trọng, giúp cho
công tác cán bộ có tính chủ động, đi vào nền nếp, có tầm nhìn xa, đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Thực hiện tốt việc tạo nguồn,
giúp cho việc lựa chọn, bố trí, bầu cử, bổ nhiệm cán bộ đủ về số lượng, bảo
đảm cơ cấu, chất lượng và có sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế
hệ cán bộ. Theo đó, tạo nguồn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trước
mắt và lâu dài là việc rất quan trọng để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT có chất lượng. Tiến hành công tác tạo nguồn cán bộ là
thể hiện tầm nhìn chiến lược của các cấp ủy đảng về xây dựng đội ngũ nói
chung, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng trong điều kiện hiện
147
nay. Tạo được nguồn cho các chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT phong phú, đa dạng thì việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ này,
sẽ tránh được tình trạng bị động, lúng túng và thu được kết quả tốt.
Để tiến hành công tác tạo nguồn cán bộ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, các cấp uỷ đảng cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, từ việc
xác định nguồn, phát hiện, lựa chọn nguồn cán bộ chuẩn bị đưa vào quy
hoạch các chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Về xác định nguồn, cần xác định các loại nguồn: nguồn gần, nguồn xa,
nguồn tại chỗ và nguồn từ nơi khác.
Nguồn gần (nguồn trực tiếp, kế cận), đó là các cán bộ đang trực tiếp
làm công tác TĐKT ở cơ quan, địa phương, đơn vị, còn trẻ hoặc đủ độ tuổi để
quy hoạch. Ở Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương: nguồn gần của lãnh đạo
Ban là các trưởng, phó phòng thuộc các đơn vị trực thuộc ban. Nguồn gần của
lãnh đạo các phòng, ban trực thuộc đơn vị cấp vụ là các chuyên viên công tác
tại các phòng, ban đó. Ở các Bộ, Ban, Ngành, Đoàn thể Trung ương: nguồn
gần của lãnh đạo các vụ, phòng, hoặc ban TĐKT là các cán bộ lãnh đạo, quản
lý của các đơn vị trực thuộc vụ, ban hoặc cán bộ, chuyên viên của các phòng,
ban TĐKT. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: nguồn gần của lãnh
đạo Ban TĐKT cấp tỉnh là các trưởng, phó phòng nghiệp vụ. Nguồn gần của
lãnh đạo các phòng là cán bộ, chuyên viên ở các ban TĐKT hoặc cán bộ
chuyên viên ở các sở, ban, ngành trong tỉnh. Ở các Tập đoàn kinh tế và Tổng
công ty Nhà nước: nguồn gần của lãnh đạo ban, phòng TĐKT là các cán bộ,
chuyên viên của phòng, ban hoặc cán bộ lãnh đạo, quản lý khác đang công tác
ở các đơn vị thuộc tập đoàn, tổng công ty.
Nguồn xa (nguồn dài hạn): đây là nguồn khá rộng và dồi dào. Nguồn
xa đối với CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cấp ban và cấp phòng ở
các cơ quan Trung ương hoặc các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty có thể là
148
những cán bộ, chuyên viên đang trực tiếp công tác các ban, phòng đó có độ
tuổi còn trẻ, chưa được bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đối với nguồn này
cần được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, tích cực cả ở trong
trường lớp và cả tại chỗ. Một nguồn xa khác của CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT ở các cấp còn là những cán bộ, công chức, viên chức không trực
tiếp làm công tác TĐKT nhưng đang công tác tại các cơ quan, đơn vị thuộc
bộ, ban, ngành ở Trung ương hoặc địa phương. Các cấp ủy đảng cần có chính
sách thu hút những cán bộ có năng lực, trình độ ở các cơ quan trung ương và
các địa phương về công tác tại các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT để
chuẩn bị đưa họ vào quy hoạch các chức danh CBLĐQL của cơ quan.
Để chuẩn bị nguồn xa một cách dồi dào đưa vào quy hoạch các chức
danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT từ hai nhiệm kỳ trở lên, một mặt
thông qua các phong trào thi đua cách mạng của quần chúng ở các địa phương,
cơ quan, đơn vị các cấp ủy phát hiện những người có đức, có tài, có triển
vọng phát triển để tạo nguồn. Mặt khác, cần có chính sách thu hút sinh viên
tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, nhất là các chuyên ngành liên quan
trực tiếp đến công tác TĐKT, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, trình độ,
ý chí phấn đấu vươn lên có nguyện vọng công tác trong ngành TĐKT. Đây là
lực lượng quan trọng để từng bước trẻ hóa và chuẩn hóa đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT của địa phương, cơ quan, đơn vị một cách vững
chắc. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng này, rèn luyện trưởng thành
trong công việc của Ngành để chuẩn bị đưa vào quy hoạch các chức danh
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
* Xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là nội dung trọng
yếu để việc xây dựng đội ngũ cán bộ này đi vào nề nếp, để đội ngũ cán bộ
phát triển liên tục, có kế thừa tri thức, kinh nghiệm công tác của những cán bộ
149
thế hệ trước, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Để làm tốt công tác
quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT các ủy ở địa phương, cơ
quan, đơn vị cần:
Một là, quán triệt và thực hiện tốt những nội dung chủ yếu về công tác
quy hoạch CBLĐQL trong quá xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT
Xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cần quán
triệt và thực hiện tốt những vấn đề chủ yếu, như: bám sát yêu cầu, nhiệm vụ
công tác TĐKT của ngành và của địa phương, cơ quan, đơn vị; quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phải gắn liền với các khâu khác của
công tác cán bộ; thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao
tinh thần trách nhiệm, khách quan, công tâm trong xây dựng quy hoạch và thể
hiện tầm nhìn chiến lược trong xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT; xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
của địa phương cơ, quan, đơn vị phải đặt trong tổng thể quy hoạch CBLĐQL
của địa phương, cơ quan, đơn vị, có sự liên thông trong tổng thể quy hoạch ấy,
và thể hiện phương châm “động và mở” trong quy hoạch.
Hai là, đánh giá đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hiện
có, dự báo sự biến động và nhu cầu CBLĐQL cho nhiệm kỳ trước mắt và
nhiệm kỳ tiếp theo
Thực hiện tốt công việc này, sẽ thấy được bức tranh tổng thể về
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương, cơ quan, đơn vị, qua
đó tạo điều kiện thuận lợi cho Ban TĐKT Trung ương, cũng như các cấp ủy
đảng thấy rõ bức tranh toàn cảnh về đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT của Ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trên cơ sở đó Ban Thi đua -
Khen thưởng Trung ương và các cấp ủy đảng địa phương xác định chủ trương
giải pháp phối hợp với các cấp uỷ, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, các
150
đơn vị có liên quan xây dựng đội ngũ CBLĐQL của toàn Ngành đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ.
Các cấp uỷ cần đánh giá toàn diện về phẩm chất, năng lực, khả năng
phát triển và phân loại CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của mình.
Trên cơ sở đó, có thể xếp thành 04 nhóm cán bộ để có chủ trương lãnh đạo,
chỉ đạo việc xây dựng xây dựng quy hoạch cán bộ một cách cụ thể, chi tiết
cùng các giải pháp thực hiện quy hoạch khi quy hoạch cán bộ đã được xây
dựng và chuẩn y. Các nhóm cán bộ gồm:
Nhóm thứ nhất, gồm những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
đã được đào tạo đại học về các chuyên ngành có nhiều liên quan đến công tác
TĐKT, được đào tạo về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, được bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ công tác TĐKT, qua thực thi công việc thể hiện
khả năng đảm đương chức vụ hiện tại và có thể đảm nhận cương vị cao hơn.
Những cán bộ này, chỉ cần bồi dưỡng thêm và cập nhật kiến thức theo yêu
cầu công việc đảm nhiệm.
Nhóm thứ hai, gồm những cán bộ có khả năng đảm đương nhiệm vụ,
được đào tạo đại học về các chuyên ngành ít liên quan đến công tác TĐKT,
chưa được đào tạo về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, được bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ công tác TĐKT nhưng chưa thường xuyên. Đối với
những cán bộ này, cần được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cơ bản cần thiết về
các chuyên ngành có nhiều liên quan đến công tác TĐKT và bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ.
Nhóm thứ ba, gồm những cán bộ không đảm đương được nhiệm vụ,
uy tín thấp, năng lực hạn chế đã qua bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ
nhưng không thể hiện rõ khả năng phát triển; một số cán bộ vi phạm kỷ luật
đảng, nhà nước chậm sửa chữa, giảm sút ý chí phấn đấu.
Nhóm thứ tư, gồm những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
chuẩn bị nghỉ hưu theo chế độ của Nhà nước.
151
Từ kết quả đánh giá, phân loại đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, cấp uỷ xác định nhu cầu CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
cho những nhiệm kỳ tiếp theo và xây dựng chương trình, kế hoạch và có chủ
trương, giải pháp chỉ đạo xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, chú ý về số lượng, cơ cấu một cách hợp lý.
Ba là, nắm chắc nguồn cán bộ dự bị, trên cơ sở đánh giá, phân loại
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hiện có để tiến hành các thủ tục, quy
trình đưa cán bộ dự bị vào quy hoạch các chức danh CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT một cách hợp lý
Chọn cán bộ đưa vào quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT phải có 3 thế hệ (thế hệ thấp nhất có tuổi đời dưới 30 tuổi; thế hệ thứ
hai từ 31 đến 45 tuổi; thế hệ thứ ba là những cán bộ đang giữ cương vị công tác
hiện tại trong tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể có độ tuổi từ
45 đến dưới 55 tuổi tùy theo năng lực và giới tính). Thực hiện nghiêm chỉnh
các thủ tục, quy trình xây dựng quy hoạch cán bộ đã được ban hành và những
hướng dẫn của cấp trên.
Cấp uỷ cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các bước, các khâu
của quy trình, thủ tục quy hoạch cán bộ. Đặc biệt coi trọng việc đấu tranh loại
trừ những biểu hiện cục bộ, bè phái và lợi dụng việc quy hoạch cán bộ vì mục
đích không trong sáng, cần đặt lên hàng đầu việc đảm bảo đoàn kết nội bộ, nhất
là sau khi quy hoạch cán bộ.
Khi quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt phải xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch hằng năm
của cấp uỷ và tổ chức thực hiện.
Bốn là, duy trì thành nền nếp việc quản lý, đánh giá cán bộ trong quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hàng năm và xem xét bổ sung,
hoàn chỉnh quy hoạch
152
Các cấp uỷ đảng cần tăng cường quản lý toàn diện cán bộ trong quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, trong đó coi trọng hơn việc quản lý
về phẩm chất chính trị, năng lực tổ chức thực tiễn, ý thức tổ chức, kỷ luật, lề
lối làm việc, tác phong công tác, thái độ với nhân dân, việc tự học, tự rèn và
khả năng phát triển của cán bộ.
Duy trì trì thành nền nếp hằng năm việc xem xét, đánh giá cán bộ
trong quy hoạch để tạo điều kiện cho cán bộ phấn đấu tốt, vươn lên, trưởng
thành nhanh chóng, vững chắc; giúp đỡ những cán bộ gặp khó khăn về hoàn
cảnh gia đình và trong công việc để họ vượt qua và vươn lên; uốn nắn những
khuyết điểm, thiếu sót của cán bộ. Đồng thời, đưa ra khỏi quy hoạch những
cán bộ không đáp ứng yêu cầu; bổ sung vào quy hoạch cán bộ có khả năng
phát triển, tạo “sân chơi bình đẳng” cho mọi cán bộ, công chức, nhất là cán bộ,
công chức trong ngành TĐKT phấn đấu, trưởng thành và trở thành những
CBLĐQL tốt của ngành TĐKT.
Năm là, Ban TĐKT Trung ương đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tạo
nguồn và xây dựng quy hoạch CBLĐQL của Ban và tích cực phối hợp, giúp
đỡ các cấp uỷ ở địa phương, cơ quan, đơn vị xây dựng quy hoạch CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT
Việc xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở các địa
phương, cơ quan, đơn vị thường được tiến hành cùng với việc xây dựng quy
hoạch CBLĐQL ở địa phương, cơ quan, đơn vị và thường chưa được quan
tâm thoả đáng, còn nhiều lúng túng rất cần được sự phối hợp, giúp đỡ của cấp
trên, nhất là Ban TĐKT Trung ương. Sau khi được thành lập Ban TĐKT
Trung ương đã tiến hành có kết quả công việc này. Ban cần sơ kết tổng kết và
tiến hành xây dựng quy hoạch CBLĐQL của mình đạt chất lượng tốt hơn và
tập trung hơn vào công tác tạo nguồn từ xa. Đồng thời, tích cực phối hợp và
giúp đỡ các cấp uỷ ở địa phương, cơ quan, đơn vị trong xây dựng quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
153
4.2.3.2. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
* Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT
Cũng như các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý khác, cán bộ chuyên
trách công tác TĐKT cũng là một nghề, bởi vậy, mỗi cán bộ làm công tác này
cần phải được đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức. Trên cơ sở quy hoạch
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã được phê duyệt, các cấp ủy đảng
cần tiến hành đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Việc đào tạo,
trang bị những kiến thức cơ bản về TĐKT, lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
nhất là trang bị những kiến thức cơ bản về TĐKT cho rất quan trọng. Đây là
một nội dung rất cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ, đáp ứng tốt yêu cầu,
nhiệm vụ. Bởi vì, tuy CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và
trong quy hoạch đã tốt nghiệp đại học, song các trường đại học không có các
chuyên ngành, các nội dung đào tạo về công tác TĐKT, một số trường chỉ có
một số chuyên đề gần với công tác TĐKT. Việc đào tạo, bồi dưỡng những tri
thức khác và chuyên môn, nghiệp vụ cho CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT tuy còn gặp khó khăn, song rất cần thiết.
Để việc đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
đạt kết quả cần thực hiện tốt những việc sau đây:
Thứ nhất, rà soát lại đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
xây dựng kế hoạch chuẩn hóa những cán bộ chưa đạt chuẩn.
Các cấp ủy, chỉ đạo cơ quan tổ chức, cán bộ của cấp ủy tiến hành chặt
chẽ công việc này. Qua rà soát, cần xác định những cán bộ đạt chuẩn, chưa
đạt chuẩn. Đối những cán bộ chưa đạt chuẩn, cần phân loại một cách cụ thể
những cán bộ chưa đạt chuẩn về điểm nào, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch
cử cán bộ đi học đạt chuẩn trong các khoảng thời gian và hình thức thích
154
hợp, không ảnh hưởng lớn đến tiến độ công việc chung của các cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT. Cơ quan quản lý cán bộ cần phối hợp chặt chẽ
với các cơ sở đào tạo cán bộ để tiến hành chuẩn hóa CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT, thống nhất kế hoạch chung cụ thể, để các cơ sở đào tạo cán
bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đối với cán bộ trong quy hoạch CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT cần có kế hoạch, nội dung chương trình đào
tạo một cách cơ bản.
Thực hiện nghiêm chỉnh việc cử cán bộ đi đào tạo cơ bản về lý luận
chính trị tại các trường chính trị tỉnh, thành phố, hệ thống Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh theo hệ tập trung. Những cán bộ trong quy hoạch cán
bộ cấp vụ, ban TĐKT ở các tỉnh, thành phố và tương đương nhất thiết phải
được đào tạo tập trung về lý luận chính trị tại hệ thống Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh để được trang bị một cách có hệ thống, cơ bản các tri
thức lý luận chính trị.
Đối với những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức
còn đủ tuổi đời làm việc trong ngành từ hai nhiệm kỳ trở lên cần khuyến
khích và có chế độ hỗ trợ kinh phí để họ theo học đạt trình độ cử nhân văn
bằng 2 ở các trường đại học có đào tạo các chuyên ngành kinh tế, tài chính,
luật, khoa học xã hội và nhân văn...
Thứ hai, triển khai thực hiện chủ trương về chương trình, nội dung
giảng dạy TĐKT của Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 7/4/2014 Bộ Chính trị về
tiếp tục đổi mới công tác TĐKT, tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ và kiến thức cần thiết cho CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 7/4/2014 Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới
công tác TĐKT, chỉ rõ: "Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các
trường chính trị cấp tỉnh thực hiện việc đưa vào chương trình giảng dạy
đường lối, chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen
155
thưởng"[38. tr.2]. Theo đó, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cần
triển khai thực hiện chủ trương này, xác định những nội dung cần thiết, biên
soạn giáo trình, bài giảng và chỉ đạo và giúp đỡ các trường chính trị cấp tỉnh
thực hiện. Có thể đưa vào môn tư tưởng Hồ Chí Minh chuyên đề "tư tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và khen thưởng"; đưa vào môn xây dựng
Đảng chuyên đề “Chủ trương, quan điểm của Đảng về TĐKT và Đảng lãnh
đạo công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay”. Đồng thời, tăng cường bồi
dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức cần thiết cho CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT, nhất là các môn tâm lý học, xã hội học, quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, công tác dân vận và kỹ năng
tham mưu.
Thứ ba, đổi mới và đa dạng hóa hình thức, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng, coi trọng bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn;
Cần đổi mới hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT theo hướng đa dạng hoá hình thức, phương pháp
đào tạo, bồi dưỡng, kết hợp bồi dưỡng thường xuyên trong các lớp học tập
trung với đào tạo, bồi dưỡng bán tập trung ở các địa điểm thuận lợi, thích hợp,
kết hợp đào tào, bồi dưỡng do các cơ sở đào tạo chủ trì với việc kiên kết đào
tạo, bồi dưỡng.
Hạn chế việc đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức chung chung, lớp học
gồm nhiều đối tượng cán bộ; đi sâu vào bồi dưỡng kỹ năng công tác gắn với
chức danh cán bộ và vị trí việc làm. Khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng
thụ động (thầy giảng, trò nghe, ghi và thi trả bài), phát huy tính tích cực của
người học, tăng cường đối thoại, trao đổi giữa thày và trò và các học viên.
Đặc biệt coi trọng bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tổ
chức thực tiễn cho CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức, nhất
là cán bộ trong quy hoạch qua thực tiễn tại cơ quan, đơn vị bằng các hình thức,
156
phương pháp như: sự kèm cặp, giúp đỡ của những cán bộ có nhiều kinh
nghiệm công tác; giao công việc, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra việc thực
hiện; qua các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác TĐKT; qua giao lưu, học tập,
trao đổi kinh nghiệm giữa các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT các địa
phương, đơn vị; phối hợp giữa Ban TĐKT Trung ương với các cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước để cử cán bộ của Ban đi nghiên
cứu thực tiễn công tác TĐKT ở các địa phương, đơn vị...
Thứ tư, tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng giảng viên, các trang,
thiết bị và nâng cấp Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Thi đua, Khen
thưởng trở thành nơi trang bị đầy đủ cho CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ, kỹ năng công tác TĐKT
Hiện tại Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ TĐKT chưa đủ năng lực
đảm nhiệm công việc nêu trên. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, trong
đó nguyên nhân chủ yếu nhất là chưa được giao chức năng, nhiệm vụ và chưa có
đủ lực lượng, nhất là đội ngũ giảng viên có khả năng đảm đương nhiệm vụ đó.
Do vậy, cần xây dựng đề án phát triển Trung tâm này thành cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chuyên trách của Ngành thi đua, trong đó đặc biệt coi trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có chất lượng, tiến hành biên soạn bài giảng,
giáo trình và mở lớp học một cách bài bản, phù hợp.
Thứ năm, cấp uỷ ở các địa phương, cơ quan, đơn vị phối hợp chặt chẽ
với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để quản lý tốt cán bộ của mình trong
thời gian học tập tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, có chế độ chính
sách đối với cán bộ đi học
Cần phối hợp để quản lý cán bộ một cách toàn diện trong thời gian học
tập tại các trường, học viện về tiếp thu kiến thức, nhất là việc rèn luyện bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực công tác. Đồng thời, nắm
chắc những khó khăn của từng cán bộ và gia đình họ, để có chủ trương giúp
157
đỡ giải quyết, tạo thuận lợi cho cán bộ học tập đạt kết quả tốt, có chế độ chính
sách đối với cán bộ đi học tạo thuận lợi cho cán bộ yên tâm học tập, rèn luyện
đạt kết quả.
Thứ sáu, có chính sách hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Trong điều kiện mở cửa, hội nhập sâu rộng quốc tế và thực đường lối đối
ngoại của Đảng, việc trao đổi, học tập kinh nghiệm của các nước và hợp tác về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trên các lĩnh vực đời sống xã hội là rất
cần thiết. Trong đó, có đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT. Cần có chính sách hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ
này, trên cơ sở đường lối đối ngoại của Đảng và thực hiện nghiêm chỉnh đường
lối đó. Ban TĐKT Trung ương cần có kế hoạch để cấp có thẩm quyền phê
duyệt về mời các nhà khoa học, các cơ quan khen thưởng của các nước đến
nước ta, hoặc cử các đoàn cán bộ đến các nước để tiến hành công việc này.
Đồng thời, cử cán bộ ngành TĐKT tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ ở các nước theo kế hoạch đã được phê duyệt.
* Triển khai việc luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT,
nhất là cán bộ trong quy hoạch
Đây là một giải pháp rất quan trọng, nhằm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
một cách toàn diện trong thực tiễn, nhất là năng lực tổ chức thực tiễn và năng
lực lãnh đạo, quản lý để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT có chất lượng tốt, đáp ứng nhiệm vụ được giao.
Hiện tại, việc luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở
tỉnh, thành phố, bộ, ngành... hầu như không thực hiện, do quy mô về tổ chức
cơ quan chuyên trách công tác TĐKT ở những nơi đó, do đặc thù của
Ngành...Vấn đề đặt ra là các cấp uỷ và Ban TĐKT Trung ương cần tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công
158
tác TĐKT theo ngành chiều dọc trong ngành TĐKT giữa Ban với các địa
phương, đơn vị.
Theo phân cấp quản lý cán bộ, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
ở các địa phương, đơn vị do cấp uỷ ở những nơi đó quản lý, Ban TĐKT
Trung ương không có chức năng quản lý những cán bộ này. Song, để xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước có chất
lượng tốt, cần luân chuyển cán bộ, nhất là CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT trong quy hoạch theo chiều dọc trong ngành giữa cán bộ của Ban và
cán bộ của các địa phương, đơn vị. Vì vậy, cần có sự phối hợp giữa Ban
TĐKT Trung ương với các cấp uỷ địa phương, đơn vị để có cơ chế, quy chế
tạo sự thống nhất trong toàn ngành TĐKT, sự đồng thuận với các cấp ủy
ngành, địa phương, đơn vị về luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT theo chiều dọc trong ngành TĐKT.
Ban TĐKT Trung ương cần chủ động và sớm xây dựng được cơ chế,
quy chế luân chuyển cán bộ trong ngành TĐKT trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt và triển khai thực hiện.
4.2.4. Thực hiện tốt việc quản lý, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
* Thực hiện tốt việc quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT Quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một giải pháp trọng
yếu để xây dựng xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ. Song, quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT chỉ thể hiện
rõ vai trò khi công tác này được thực hiện tốt. Qua quản lý, các cấp uỷ đảng
nắm chắc đội ngũ cán bộ và từng cán bộ để có các chủ trương, giải pháp phát
huy ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, tháo gỡ những khó khăn của cả
đội ngũ và từng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Thực hiện tốt việc
quản lý cán bộ cũng là cơ sở thuận lợi để tiến hành các khâu khác của công
tác cán bộ, giúp đội ngũ cán bộ và từng cán bộ trưởng thành.
159
Do vậy, các cấp uỷ ở địa phương, cơ quan, đơn vị cần coi trọng quản lý
chặt chẽ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và cán bộ trong
quy hoạch; cần thực hiện nghiêm chỉnh các quan điểm, nguyên tắc quản lý
cán bộ của Đảng và sự hướng dẫn của cấp trên. Đối với cán bộ trong quy
hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cần quản lý thật chặt chẽ, nắm
chắc mọi mặt, nhất là khả năng phát triển đảm đương tốt chức trách, nhiệm vụ
theo chức danh được quy hoạch.
Về nội dung quản lý:
Cần quản lý chặt chẽ, toàn diện về chính trị, tư tưởng, quá trình công
tác, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phẩm
chất đạo đức, lối sống, quan hệ xã hội, ý thức tổ chức, kỷ luật, thái độ đối với
nhân dân, phong cách, lề lối làm việc, năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức
thực tiễn … Đối với những cán bộ trong quy hoạch cần quan tâm hơn và nắm
chắc khả năng phát triển đảm đương chức vụ đã được quy hoạch; quản lý việc
tự học tập, nâng cao trình độ mọi mặt và năng lực công tác và việc tự rèn
luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống...
Một trong những đối tượng cần chú ý quản lý chặt chẽ là những
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trực tiếp chỉ đạo công tác TĐKT ở
những địa bàn, lĩnh vực và đơn vị dễ xảy ra tiêu cực, nhất là về chỉ đạo tiến
hành các thủ tục và thẩm định hồ sơ khen thưởng thành tích cao. Thực hiện
tốt việc này, sẽ góp phần quan trọng ngăn chặn tình trạng chạy thành tích,
chạy “huân chương” ngay từ khi mới manh nha.
Về phương thức quản lý:
Theo phân cấp quản lý cán bộ, cấp uỷ các cấp có thẩm quyền quản lý
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và trong quy hoạch thuộc
cơ quan, đơn vị. Cụ thể là: Trưởng ban và Phó Trưởng ban TĐKT tỉnh, thành
phố và tương đương thuộc quyền quản lý của Ban Thường vụ tỉnh uỷ, thành
160
uỷ và cấp uỷ tương đương; các Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và tương đương ở
Ban TĐKT Trung ương do Ban thường vụ đảng uỷ, lãnh đạo Bộ Nội vụ quản
lý; các Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và tương đương ở Ban TĐKT tỉnh,
thành phố do cấp uỷ và lãnh đạo Sở Nội vụ quản lý... Do vậy, các cấp ủy đảng
cần quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT bằng nhiều hình thức, có
thể phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vi có liên quan để thực hiện. Một số hình
thức quản lý đội ngũ cán bộ này cần được coi trọng là: quản lý thông qua cấp
ủy, chi bộ; quản lý thông qua lãnh đạo cơ quan, đơn vị; quản lý thông qua cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng khi cán bộ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Vì
vậy, các cấp ủy cần coi trọng, tích cực, chủ động phối hợp với các tổ chức, cơ
quan, đơn vị, các cơ sở đào tạo… để quản lý tốt những cán bộ thuộc thẩm
quyền quản lý của mình.
Một hình thức quản lý cán bộ quan trọng khác là phát huy vai trò của
các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương, cơ quan, đơn vị trong quản lý
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và trong quy hoạch. Đồng
thời, thực hiện tốt việc quản lý cán bộ ở nơi cư trú thông qua việc thực hiện
Quy định số 76-NQ/TW, ngày 15-6-2000 của Bộ Chính trị về đảng viên đang
công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp giữ mối quan hệ với
chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
* Đánh giá đúng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
Đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một khâu, một nội
dung rất quan trọng của xây dựng đội ngũ cán bộ, liên quan, chi phối và là cơ
sở để tiến hành tốt các nội dung khác của xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT, như : xây dựng quy hoạch cán bộ; xây dựng kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách cán bộ ... Những công
việc này, chỉ đạt kết quả tốt khi đánh giá đúng CBLĐQL chuyên trách công
161
tác TĐKT đương chức và cán bộ trong quy hoạch. Điều này, lại phụ thuộc và
được quyết định bởi việc đánh giá đúng cán bộ. Để đáp ứng yêu cầu đó, các
cấp uỷ đảng cần tập trung vào những điểm chủ yếu sau đây:
Một là, bám chắc các tiêu chí đánh giá và thực hiện nghiêm việc
đánh giá cán bộ theo quy định của Trung ương Đảng; đồng thời Ban TĐKT
Trung ương cần tiếp tục cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá cho phù hợp với đặc
điểm đặc thù của công tác TĐKT
Tiêu chí đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT gồm: tiêu
chuẩn chung của CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, tiêu chuẩn riêng
của từng chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT; kết quả thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao - thước đo quan trọng nhất trên thực tế
để đánh giá năng lực của từng cán bộ; uy tín của từng cán bộ đối với cán bộ,
đảng viên, công chức trong cơ quan, đơn vị và trong nhân dân, trước hết là uy
tín trong cơ quan chuyên trách công tác TĐKT.
Cần sử dụng đồng thời ba tiêu chí nêu trên trong đánh giá CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT, trong đó, đặc biệt coi trọng kết quả thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, không cứng nhắc, máy móc sử
dụng tiêu chí này, mà cần xem xét kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao của cán bộ trong môi trường, điều kiện làm việc; xem xét quá trình
thực hiện chức trách, nhiệm vụ, kết quả đó, có liên tục hay nhất thời...
Hai là, đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT qua kết quả
bình bầu các danh hiệu thi đua, đánh giá, phân loại đảng viên hằng năm và tỷ
lệ phiếu tín nhiệm khi đưa vào quy hoạch và làm thủ tục bổ nhiệm cán bộ
Xem xét, đánh giá uy tín của cán bộ qua hoạt động hàng ngày và qua
tỷ lệ phiếu tín nhiệm trong cán bộ, công chức ở cơ quan, đơn vị trong các
cuộc bầu các danh hiệu thi đua, đánh giá phân loại đảng viên hằng năm và lấy
phiếu tín nhiệm khi đưa vào quy hoạch, khi chuẩn bị bổ nhiệm cán bộ là một
162
trong những phương pháp quan trọng và cần thiết. Theo đó, các cấp ủy đảng
cần chỉ đạo chặt chẽ, đúng quy trình, thủ tục, nguyên tắc khi tiến hành công
việc này, đề phòng các tiêu cực trong lấy phiếu tín nhiệm, xử lý tốt những vấn
đề nảy sinh trước, trong và sau khi lấy phiếu tín nhiệm, tăng cường đoàn kết
trong cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng.
Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương,
trong cơ quan, đơn vị chuyên trách công tác TĐKT trong đánh giá CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT
Cấp ủy đảng duy trì thành nền nếp và lãnh đạo thực hiện nghiêm chỉnh
việc tổ chức để các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ quan chuyên trách công
tác TĐKT, Sở Nội vụ đóng góp ý kiến về CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT. Có thể tiến hành việc này qua các cuộc tiếp xúc cá nhân giữa cấp uỷ
viên của cấp uỷ có thẩm quyền quản lý cán bộ với cán bộ, đảng viên, công
chức trong các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, có thể qua hòm thư góp
ý của cơ quan... Tham khảo các ý kiến của các tổ chức trong HTCT cấp tỉnh,
thành phố và các tổ chức có liên quan về CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ việc tự đánh giá của CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT thông qua tự phê bình và phê bình trong chi bộ, trong kiểm
điểm thực hiện nhiệm vụ hằng năm với các ý kiến đánh giá của cấp uỷ, cán bộ,
đảng viên, công chức trong cơ quan, đơn vị
Để đảm bảo tính dân chủ, khách quan trong đánh giá cán bộ, trước khi
đưa ra kết luận về đánh giá cán bộ, các cấp ủy cần căn cứ vào ý kiến tự đánh
giá của cán bộ bằng văn bản, hoặc thông qua tự phê bình và phê bình trong
chi bộ, trong kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ hằng năm, đồng thời căn cứ vào ý
kiến đánh giá của cấp uỷ, cán bộ, đảng viên, công chức trong cơ quan, đơn vị.
Duy trì thành nền nếp và thực hiện tốt những công việc nêu trên là cơ sở quan
163
trọng để đánh giá đúng cán bộ nói chung, CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT nói riêng.
Năm là, thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của Đảng và hướng
dẫn của cấp trên về đánh giá cán bộ trong đánh giá CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT
Để đánh giá đúng cán bộ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cần
thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của Đảng và hướng dẫn của cấp trên
về đánh giá cán bộ, trong đó đặc biệt là thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ. Ý kiến đánh giá cán bộ phải là kết luận theo đa số cấp uỷ viên của cấp uỷ
có thẩm quyền về đánh giá cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ sau khi đã
thảo luận một cách dân chủ. Cần có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử
cụ thể khi đánh giá cán bộ; công khai ý kiến đánh giá cán bộ cho cán bộ được
đánh giá, có thể công khai những ý kiến của cán bộ, công chức và các tổ chức
chính trị - xã hội cho cán bộ được đấnh giá.
Đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong quy hoạch cần
phân biệt rõ với đánh giá cán bộ hàng năm. Trong đó, chú ý hơn đến đánh giá
về xu hướng phát triển, khả năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của chức
danh cán bộ đã được quy hoạch.
* Nâng cao chất lượng việc bổ nhiệm CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT
Như đã quan niệm, CBLĐQL chuyên trách công TĐKT là những người
được bổ nhiệm giữ các chức vụ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,
các đoàn thể nhân dân, các doanh nghiệp... hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, chuyên làm và chịu trách nhiệm về công tác TĐKT. Do đó, để xây
dựng được đội ngũ cán bộ này có chất lượng, cần đổi mới, nâng cao chất
lượng thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ. Theo đó, bổ nhiệm CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT cần thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập
164
trung dân chủ, công khai và quyết định theo đa số, bảo đảm bổ nhiệm đúng
người, đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo yêu cầu của chức danh cán bộ và bảo
đảm bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, những trường hợp đặc biệt, do cấp uỷ
có thẩm quyền quyết định.
Để thực hiện nghiêm chỉnh quy trình bổ nhiệm CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT vào các cương vị lãnh đạo, quản lý và phải trên cơ sở những
quy định của Đảng, Nhà nước, căn cứ vào tiêu chuẩn, nhưng yếu tố quyết
định là phải đánh giá chính xác, toàn diện về cán bộ được bổ nhiệm. Khi thực
hiện quy trình bổ nhiệm, bên cạnh những yêu cầu, tiêu chuẩn chung đối với
các cán bộ diện được xem xét bổ nhiệm, các cấp ủy đảng cần mạnh dạn bổ
nhiệm những cán bộ trẻ, có triển vọng, đã được rèn luyện, thử thách, được
đào tạo và có đủ tiêu chuẩn vào các chức danh CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, chống tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, thành kiến và những biểu hiện
chạy chức trong bổ nhiệm CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
4.2.5. Phát huy vai trò tự giác phấn đấu học tập, rèn luyện của bản
thân cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen
thưởng và thực hiện tốt chính sách đối với đội ngũ cán bộ này.
* Phát huy vai trò tự giác phấn đấu học tập, rèn luyện của bản thân
cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng
Việc tự giác tự học tập, rèn luyện để trưởng thành của mỗi cán bộ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có vai trò rất quan trong để xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt. Bởi vì, dù
các cấp uỷ, chính quyền địa phương, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị chủ động
thực hiện tốt những khâu khác của công tác cán bộ; song bản thân mỗi cán bộ
không tự giác tự học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, kỹ năng quản lý... của mình, thì việc xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cũng không đạt kết quả
165
như mong muốn. Thực tiễn cho thấy, mức độ cống hiến và sự trưởng thành
của mỗi cán bộ, được quyết định chủ yếu bởi sự nỗ lực phấn đấu, rèn luyện
của bản thân mỗi cán bộ. Không cá nhân, tổ chức nào có thể làm thay việc tự
học tập, rèn luyện của từng cán bộ.
Hơn nữa, phong trào thi đua và công tác TĐKT trong giai đoạn hiện
nay ngày càng phát triển mạnh mẽ, rất đa dạng, phong phú, nhiệm vụ của
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cũng rất nặng nề, phức tạp, được tiến
hành trong điều kiện có những thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn,
thách thức và sự cám dỗ về lợi ích vật chất. Những tri thức và kinh nghiệm,
năng lực công tác đã tích luỹ được, nếu không thường xuyên được nâng cao
và bổ sung thì cán bộ khó hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài việc học tập ở nhà
trường, việc bổ sung, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, năng lực công tác chỉ
có thể được thực hiện có kết quả qua việc giác tự học tập, rèn luyện của mỗi
cán bộ.
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có vai trò rất quan trọng trong
tổ chức, đánh giá kết quả thi đua của các cá nhân đơn vị và chỉ đạo, hướng
dẫn làm các thủ tục khen thưởng, thẩm định hồ sơ khen thưởng. Đó là những
cán bộ có quyền lực hành chính nhà nước trong lĩnh vực TĐKT, và như vậy,
họ phải đối mặt với những tiêu cực về “chạy huân chương”, “quảng bá, đánh
bóng thương hiệu”… để trục lợi. Nếu không tự giác rèn luyện đạo đức cách
mạng, kiên quyết đấu tranh với những tiêu cực sẽ khó tránh được những cám
dỗ trong thực thi công việc, nhất là thẩm định hồ sơ khen thưởng, tiếp tay cho
những tệ nạn nêu trên phát triển.
Thực tế cũng cho thấy, những cán bộ thoái hoá, biến chất, có những
hành vi, việc làm trái quy định, nhận hối lộ, “lót tay”, làm sai lệch về hồ sơ
khen thưởng để trục lợi thường đầu tư “trí tuệ” và tìm các thủ đoạn tinh vi
hòng vượt qua sự kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý của các các cơ quan
166
chức năng. Những hành vi đó thường gây khó khăn cho các cơ quan chức
năng trong điều tra, xác minh và xử lý. Nếu xảy ra tình trạng này và để kéo
dài sẽ rất nguy hại cho công tác TĐKT và sự phát triển của đất nước, uy tín,
thanh danh của Đảng, Nhà nước. Để CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
có bản lĩnh, sức “đề kháng”, khả năng “miễn dịch”, nâng cao cảnh giác trước
những cám dỗ, tiêu cực đó, trước hết từng cán bộ phải thường xuyên tự giác
học tập nâng cao trình độ mọi mặt và nhất là rèn luyện đạo đức cách mạng.
Cụ thể là:
Từng cán bộ chủ động tự học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị và trình
độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ.
Cần bố trí thời gian hợp lý để đọc sách, báo, tạp chí khoa học, những bài nói
chuyện, bài phát biểu của các cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể;
nghiên cứu các bài viết của các nhà nhà lý luận, các cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn ở các cơ quan, ban ngành ở Trung ương và địa phương, nhất là
những bài viết về công tác TĐKT; tận dụng thời gian để đọc các tác phẩm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là các tác phẩm như: Đường kách mệnh; Sửa đổi
lối làm việc; Đạo đức cách mạng; Dân vận; Di chúc…. coi trọng nghiên cứu
tư tưởng của Người về thi đua yêu nước. Qua đó, liên hệ với công việc mình
đang đảm nhiệm; đồng thời, chú ý nghiên cứu các văn kiện, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, cấp uỷ cấp trên, các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến
công tác TĐKT và học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ,
cập nhật thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng. Thực hiện nghiêm
chỉnh quan điểm của Đảng: “Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường
xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những hiểu biết mới, cũng là biểu hiện
của sự thoái hoá”[56, tr. 141].
Coi trọng và thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị,
năng lực công tác và đạo đức cách mạng, thực hiện chuẩn mực đạo đức của
người cán bộ làm công tác TĐKT: tận tụy, sáng tạo và gương mẫu
167
Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, năng lực công tác là
yêu câu quan trọng vào bậc nhất đối với CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT trong điều kiện hiện nay. Từng cán bộ cần nhận thức sâu sắc và chủ
động, tích cực thực hiện việc này. Đồng thời, cần đặt lên hàng đầu việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo chuẩn mực của người cán bộ làm
công tác TĐKT. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [103, tr. 252-253]. Người
còn khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài, càng sáng, vàng càng luyện càng trong”[105, tr. 293]. CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT chỉ có thể đạt được yêu cầu chuẩn mực người
cán bộ làm công tác TĐK nêu trên bằng việc học tập và tự học tập, tu dưỡng,
rèn luyện bản thân và tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, thể hiện trong công việc hàng ngày.
Các cấp ủy, chính quyền ở địa phương, cơ quan, đơn vị cần tạo tạo cơ
chế, điều kiện thuận lợi cho cán bộ tự học tập, rèn luyện
Các cấp ủy, chính quyền ở địa phương, cơ quan, đơn vị cần thức rõ
trách nhiệm của mình về tạo điều kiện thuận lợi để CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT thực hiện quá tốt việc trình tự học, rèn luyện và trưởng thành.
Trách nhiệm đó, phải được thể hiện thành những quy định, cơ chế, chính sách
phù hợp để cổ vũ, động viên việc tự học, rèn luyện của cán bộ và phải thường
xuyên kiểm tra việc tự học, tự rèn luyện của cán bộ.
* Thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT
Thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT là một động lực thúc đẩy, cổ vũ động viên cán bộ đem tài năng
168
cống hiến, tạo nên thành quả của công tác TĐKT. Để góp phần xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt, cần:
Có những quy định cụ thể về hỗ trợ kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi về
thời gian để khuyến khích CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức
và trong quy hoạch đi đào tạo đại học văn bằng 2, trên đại học.
Nắm chắc các đối tượng cán bộ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đề
bạt, bố trí và sử dụng hợp lý. Khen thưởng, động viên CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT có sáng kiến có tính khả thi, đem lại kết quả công tác TĐKT
như : tăng lương trước thời hạn, đưa vào quy hoạch cán bộ, đề bạt cán bộ...
đồng thời, xử lý nghiêm những cán bộ vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của
Nhà nước và quy định về công tác TĐKT.
Xây dựng chính sách thu hút những cán bộ có đức, có tài về làm việc
tại các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT để bổ sung cho đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nguồn lực, tố chất mới và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ ngành TĐKT.
Xây dựng chính sách khuyến khích sinh viên tốt nghiệp các trường đại
học, cao đẳng đạt từ loại khá trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, có nguyện
vọng về làm việc trong ngành TĐKT để tạo nguồn cán bộ dự bị phong phú bổ
sung cho đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ở các địa phương,
cơ quan, đơn vị. Để thực hiện được điều này, cấp uỷ cần đề nghị cấp trên
phân bổ chỉ tiêu về công chức dự bị cho các cơ quan chuyên trách công tác
TĐKT và có sự ưu tiên cho các cơ quan này, tạo điều kiện thuận lợi để xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng và có tính
chiến lược.
Trong quá trình CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT thực hiện chức
trách, nhiệm vụ, cần quan tâm giúp đỡ giải quyết những khó khăn của cán bộ
và gia đình họ, nhất là khi gia đình cán bộ gặp rủi ro, hoạn nạn. Cần động
169
viên, giúp đỡ kịp thời về vật chất và động viên tinh thần cho cán bộ để họ
vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Ban TĐKT Trung ương cần tập trung thực hiện và tạo chuyển biến
mạnh mẽ về thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ, công chức nói chung
và CBLĐQL của Ban nói riêng, nhất là chính sách thu hút cán bộ và sinh viên
tốt về công tác tại Ban. Qua đó, xây dựng đội ngũ CBLĐQL của Ban có đủ số
lượng, cơ cấu hợp ly và có chất lượng tốt, một mặt vừa hoàn thành tốt chức
năng, nhiệm vụ của Ban, mặt khác vừa làm nòng cốt giúp đỡ các cấp uỷ ở địa
phương, cơ quan, đơn vị xây dựng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
đạt kết quả.
4.2.6. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, Bộ Nội vụ,
các bộ, ban, ngành và các tổ chức liên quan quan tâm xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác đua, khen thưởng
Thi đua, khen thưởng là hoạt động được tiến hành rộng khắp ở các cấp,
các ngành và trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời, tham gia các
hoạt động thi đua, khen thưởng vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi
công dân, nhất là đối với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong
các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị.
Theo đó, tiến hành công tác TĐKT là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các
cơ quan, đơn vị, đoàn thể, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT nói
chung, CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị. Một trong những quan điểm nhất quán của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay là: “Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ
chức trong hệ thống chính trị”[64, tr. 241]. Vì vậy, đối với việc xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, các tổ chức chính trị - xã hội ở
170
các địa phương, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu các tổ chức này có vai trò
và trách nhiệm rất lớn.
Vai trò của các tổ chức này trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT thể hiện tập trung ở những vấn đề chủ yếu, như: phát hiện
và giới thiệu những người có đức, có tài, trung thực, không vụ lợi để cấp uỷ và
các tổ chức có thẩm quyền xem xét đưa vào quy hoạch CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT; tham gia vào các khâu của công tác cán bộ như: tạo nguồn, lựa
chọn, giới thiệu cán bộ vào quy hoạch, rèn luyện cán bộ trong thực tiễn, quản lý,
giám sát hoạt động của cán bộ đương chức và trong quy hoạch, thực hiện việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ hoặc tham gia đánh giá, góp ý
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Do vậy, các cấp uỷ
đảng cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính
trị - xã hội, nhất là các đoàn thể chính trị - xã hội trong các cơ quan chuyên trách
công tác TĐKT và người đứng đầu các tổ chức này tích cực tham gia xây dựng
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Cần tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của cấp uỷ
về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Cùng với việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội, các cấp ủy đảng cần lãnh đạo việc phát huy vai trò của các
bộ, ban, ngành và các tổ chức có liên quan trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT. Cụ thể:
Ở các bộ ngành Trung ương và ở các tỉnh, thành phố: Lãnh đạo
các Bộ ngành có vai trò rất lớn đối với công tác TĐKT nói chung và
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng. Sự
quan tâm của lãnh đạo các bộ ngành đối với công tác TĐKT và xây
dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác TĐKT cần được thể
171
hiện trên nhiều khía cạnh, từ việc kiện toàn tổ chức, bộ máy, quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ và thực hiện chế độ chính sách đối
với cán bộ. Đây là những nhân tố quyết định chất lượng của phong trào thi
đua và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng.
Các ban đảng ở Trung ương và địa phương có vai trò rất quan trọng
trong công tác TĐKT và xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT. Ban Tổ chức là cơ quan trực tiếp tham mưu, giúp việc cho cấp ủy về
công tác tổ chức, cán bộ, trong đó xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng. Các ban tuyên giáo,
ban dân vận các cấp có vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động,
giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về TĐKT và
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, tuyên truyền, giáo
dục gương tốt, người tốt, việc tốt…
Bộ Nội vụ và Sở Nội vụ ở các tỉnh, thành phố là những cơ quan chủ
quản, được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý về mặt nhà nước đối với các hoạt
động TĐKT và bộ máy chuyên trách làm công tác TĐKT. Theo đó, Bộ Nội
vụ cần xây dựng chương trình, kế hoạch dài hạn về xây dựng đội ngũ
CBLĐQL của Ban TĐKT Trung ương, cụ thể hoá trong từng nhiệm kỳ và chỉ
đạo tổ chức thực hiện. Bộ Nội vụ tăng cường chỉ đạo các Sở Nội vụ trong
thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
của các địa phương ; phối hợp với các cấp uỷ địa phương, đơn vị trong xây
dựng ban tổ chức cấp uỷ để cơ quan này xây dựng nhiệm vụ và quan tâm đến
việc xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa
phương, đơn vị. Đồng thời, chỉ đạo và giúp đỡ cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan
chuyên trách công tác TĐKT trong xây dựng bộ phận làm công tác tổ chức -
cán bộ của mình trở thành lực lượng đắc lực trong xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương, đơn vị.
172
Bộ Nội vụ cần tập trung chỉ đạo Ban TĐKT Trung ương, xây dựng,
nâng cao chất lượng hoạt động của Vụ Tổ chức cán bộ của Ban trở thành lực
lượng nòng cốt về tham mưu và chỉ đạo thực hiện việc xây dựng đội ngũ
CBLĐQL của Ban và giúp đỡ các địa phương, đơn vị trong xây dựng đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Trung ương Đảng và Chính phủ tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc xây
dựng, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên trách công tác
TĐKT tạo sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cơ sở. Cần chỉ đạo
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về tổ chức, bộ máy, cán bộ, công chức các cơ
quan chuyên trách công tác TĐKT trong cả nước. Trên cơ sở đó, hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này, tạo thuận lợi và là cơ sở để xây
dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo các cấp uỷ địa phương và các bộ, ban ngành, đoàn thể ở Trung ương
về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, coi trọng chỉ
đạo kiểm tra việc thực hiện công việc này. Coi trọng việc nghiên cứu, ban
hành kịp thời những chủ trương, chính sách về công tác TĐKT và về cán bộ,
công chức ngành TĐKT, chỉ đạo thực hiện đạt kết quả.
Trung ương Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục những bất cập.
lạc hậu trong một số văn bản pháp luật về TĐKT, hoàn thiện và nâng cao chất
lượng hệ thống pháp luật về TĐKT phù hợp với điều kiện hiện nay.
173
KẾT LUẬN
1. Công tác TĐKT có vai trò và tác dụng to lớn trong các giai đoạn
cách mạng trước đây, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò và tác
dụng của công tác TĐKT lại càng tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện,
mạnh mẽ của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Qua gần ba mươi năm đổi mới, công tác TĐKT đã thể hiện rõ và khẳng định
vai trò, tác dụng của mình, góp phần không nhỏ vào thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới. Vai trò và tác dụng to lớn ấy của công
tác TĐKT phụ thuộc và được quyết định bởi nhiều nhân tố, trong đó chất
lượng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là một nhân tố đặc biệt
quan trọng. Để công tác TĐKT tiếp tục phát huy vai trò, tác dụng, góp phần
lớn hơn vào thành tựu công cuộc đổi mới, một vấn đề rất quan trọng, rất cần
thiết và cấp bách cần thực hiện tốt là nghiên cứu, tìm giải pháp xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có chất lượng tốt.
2. Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT là toàn bộ
hoạt động của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, ở ban, bộ, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ở Trung ương, ở các tổng công ty, tập đoàn
kinh tế nhà nước, cán bộ, đảng viên và các tổ chức có liên quan về thực hiện
các khâu của công tác cán bộ nhằm tạo nên đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực
lãnh đạo, quản lý và tham mưu đề xuất, là những chuyên gia trong lĩnh vực
TĐKT.
3. Trong những năm qua, các cấp uỷ đã khắc phục khó khăn, tìm tòi các
giải pháp xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đạt được
kết quả quan trọng. Chất lượng đội ngũ cán bộ này, được nâng lên một bước
khá lớn, nhân tố quan trọng của kết quả công tác TĐKT ở địa phương, đơn vị,
174
góp phần vào thành tựu công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ và việc
xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT vẫn còn nhiều hạn
chế, khuyết điểm cần được khắc phục, sửa chữa.
Từ hoạt động xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
những năm qua, có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích: Một là, cấp uỷ, chính
quyền các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị nhận thức sâu sắc chỉ thị, nghị quyết
của Đảng về vị trí, vai trò, tác dụng, yêu cầu của công tác TĐKT trong điều
kiện hiện nay, về cán bộ, công tác cán bộ, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, đề ra các chủ trương, giải
pháp đúng, có quyết tâm chính trị cao trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện là
nhân tố quan trọng hàng đầu để xây dựng đội ngũ CBCLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT đạt kết quả. Hai là, tranh thủ sự giúp đỡ và kết hợp chặt chẽ
với Ban TĐKT Trung ương trong công tác cán bộ nói chung và xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng trong tất cả các khâu
của công tác cán bộ, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh, nâng cao
tính chuyên nghiệp sẽ đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ này, đạt chất lượng,
hiệu quả. Ba là, nắm chắc đặc điểm của đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT, hiểu rõ điều kiện làm việc, hoàn cảnh gia đình cán bộ để giúp đỡ,
động viên kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ vươn lên, sẽ có được
đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT có năng lực, trình độ, tâm
huyết, gắn bó với ngành, dần thành những chuyên gia và hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Bốn là, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương, đơn vị tham gia xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT, nhất là giám sát hoạt động của
cán bộ trong công tác khen thưởng, sẽ có được đội ngũ cán bộ có chất lượng.
4. Để xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong
những năm tới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác TĐKT phải thực hiện
175
nhiều giải pháp, trong đó cần nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp
do luận án đề xuất: Thứ nhất, tạo nhận thức đúng đắn của các cấp ủy đảng,
chính quyền, lãnh đạo đơn vị về vị trí, vai trò của TĐKT và việc xây dựng đội
ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong tình hình mới. Thứ hai, xây
dựng tiêu chuẩn từng chức danh CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT phù
hợp với yêu cầu hiện nay. Thứ ba, đẩy mạnh việc tạo nguồn, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng và luân chuyển CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Thứ
tư, quản lý, đánh giá, bổ nhiệm đúng CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT.
Thứ năm, tạo cơ chế, điều kiện thuận lợi cho CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT tự học tập, rèn luyện; thực hiện tốt chính sách cán bộ. Thứ sáu, đề ra
những biện pháp để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, Bộ Nội vụ, các bộ, ban,
ngành và các tổ chức liên quan quan tâm xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT.
5. Xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong
giai đoạn hiện nay là vấn đề rất lớn, mới và khó cần được quan tâm chỉ đạo và
tổ chức nghiên cứu với quy mô lớn, trong thời gian cần thiết. Kết quả nghiên
cứu của luận án chỉ là một phần rất nhỏ. Do trình độ và năng lực của nghiên
cứu sinh còn nhiều hạn chế, nên luận án khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác
giả luận án rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo,
các nhà khoa học, các cấp uỷ đảng, cán bộ hoạt động thực tiễn và đồng nghiệp.
Song, tác giả cũng hy vọng luận án sẽ góp phần xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT đạt chất lượng tốt hơn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ công tác TĐKT những năm tới./.
176
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Khắc Hà (2006), "Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ diện lãnh
đạo Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương quản lý hiện nay”, Tạp chí Thi
đua, Khen thưởng, số 78.
2. Nguyễn Khắc Hà (2006), “Thực trạng và giải pháp xây dựng đội
ngũ cán bộ diện Ban thi đua, khen thưởng Trung ương quản lý trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11.
3. Nguyễn Khắc Hà (2010),“Tính tất yếu khách quan và một số giải
pháp trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi đua,
khen thưởng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 8.
4. Nguyễn Khắc Hà (2012), “Kinh nghiệm về công tác thi đua, khen
thưởng của một số quốc gia”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 11.
5. Nguyễn Khắc Hà (2013), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu
nước”, Tạp chí Thông tin Khoa học Chính trị - Hành chính, số 5 (17).
6. Nguyễn Khắc Hà (2013), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách
công tác thi đua, khen thưởng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6.
7. Nguyễn Khắc Hà (2013), “Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng”, Tạp chí Lý
luận Chính trị, số 12.
177
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư (2007), Quy định số 51/QĐ/TW, ngày 19 tháng 4 năm 2007,
Về nhiệm vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh uỷ, thành uỷ.
2. Ban Bí thư (2010), Kết luận số 83-KL/TW, ngày 30 tháng 8 năm 2010 của
Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 21
tháng 5 năm 2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng
kết và nhân điển hình tiên tiến.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2005),
Báo cáo của BCH Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương
tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương
lần thứ 23, nhiệm kỳ 2006 - 2010.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2010),
Báo cáo của BCH Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương
tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương
lần thứ 24, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2006),
Báo cáo số 03-BC/ĐU ngày 15/01/2006 của Đảng ủy Ban Thi đua –
Khen thưởng Trung ương Tổng kết công tác đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở Đảng và đảng viên năm 2005.
6. Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2006), Hướng dẫn số 269/HD-
BTĐKT ngày 10/3/2006 của Trưởng ban Ban Thi đua – Khen
thưởng Trung ương về việc triển khai thực hiện Nghị định của
Chính phủ về quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng.
7. Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2006), Hướng dẫn 69/HD-BTĐKT
ngày 13/1/2006 Hướng dẫn tạm thời Tiêu chuẩn chức danh cán bộ
178
lãnh đạo, quản lý của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
8. Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2006), Kế hoạch số 68
KH/BTĐKT ngày 13/01/2006 của Trưởng ban Ban Thi đua – Khen
thưởng Trung ương triển khai công tác quy hoạch cán bộ quản lý
thuộc Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
9. Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2007), Luật Thi đua, Khen
thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội.
10. Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2012), Đề án quy hoạch Ban
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương giai đoạn 2011- 2020.
11. Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương (2005), Phát biểu của lãnh đạo
Đảng, Nhà nước tại Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII, (Ban
Thi đua – Khen thưởng Trung ương tập hợp).
12. Ban Tổ chức Trung ương (2002), Công văn về việc tăng cường quản lý,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị
(số 947-CV/TCTW, ngày 24-1-2002).
13. Ban Tổ chức Trung ương (2002), Hướng dẫn về việc xét duyệt ngạch cán
sự, chuyên viên hoặc ngạch tương đương (số 12- HD/TCTW, ngày
18-11-2002).
14. Ban Tổ chức Trung ương (2005), Hướng dẫn số 36- HD/TCTW, ngày 27-
1-2005 thực hiện chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức cơ quan đảng, mặt trận và đoàn thể.
15. Ban Tổ chức Trung ương (2001), Lý luận nghiệp vụ công tác tổ chức cán
bộ, tập 1,2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Ban Tổ chức Trung ương (2003), 323 câu hỏi và trả lời về cán bộ và công
tác cán bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
179
17. Ban Tổ chức Trung ương (2004), Một số quy định chức năng nhiệm vụ
của các Đảng bộ, chi bộ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Ban Tổ chức Trung ương (2005), Hệ thống những văn bản về chính sách
đổi mới công tác quản lý cán bộ của Đảng, Nxb Lao động xã hội,
Hà Nội.
19. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1993), Quyết định số 414/TCCP-VC ngày
29/5/1993 của Bộ trưởng - Trưởng ban Ban Tổ chức cán bộ Chính
phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức
hành chính.
20. Ban Tổ chức Trung ương (2005), Hướng dẫn số 55 - HD/TCTW, ngày 31-
12-2005 bổ sung thực hiện chuyển xếp lương và phụ cấp đối với
cán bộ, công chức, viên chức cơ quan đảng, mặt trận và đoàn thể.
21. Ban Tổ chức Trung ương (2006), Hướng dẫn tính điểm thi đua (ban hành
kèm theo Quy định số 04-QĐ/TCTW, ngày 7-12-2006).
22. Ban Tổ chức Trung ương (2007), Công văn số 1611- CV/TCTW, ngày 29-
3-2007 về một số vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
23. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Công văn số 3600 - CV/TCTW, ngày
21-3-2008 về một số vấn đề trọng tâm trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ .
24. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Quy định số 07 - QĐ/TCTW, ngày 16-4-2008
về tiêu chuẩn kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên.
25. Ban Tổ chức Trung ương (2012), Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05-
11-2012 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tinh
thần nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị
khoá IX và kết luận số 24- KL/TW của Bộ Chính trị khoá XI.
26. Nguyễn Đức Bình (2004), “Về đánh giá cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
Hà Nội.
180
27. Nguyễn Đức Bình (2002), Trần Ngọc Hiên... (1999), Đổi mới và tăng
cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị 35-CT/TW ngày 3/6/1998 của Bộ Chính trị về
đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới.
29. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 11/NQ-TƯ ngày 25/1/2002 của Bộ
Chính trị về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý.
30. Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42/NQ-TW ngày 30/11/2004 của Bộ
chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
31. Bộ Chính trị (2004), Chỉ thị 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị
về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến.
32. Bộ Chính trị (2007), Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ
(kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 7-5-2007)
33. Bộ Chính trị (2007), Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử
(kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW, ngày 4-7-2007 của Bộ Chính trị
về Quyết định ban hành Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán
bộ ứng cử .
34. Bộ Chính trị (2012), Kết luận số 24-KL/TW, ngày 05-6-2012 về đẩy mạnh
công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ, quản lý đến năm 2020
và những năm tiếp theo.
35. Bộ Chính trị (2012), Đề án đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong
giai đoạn hiện nay.
36. Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 về việc
ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị -xã hội.
181
37. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị 34-CT/TW, ngày 7/4/2014 về tiếp tục đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng.
38. Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 83/2004/QĐ-BNV ngày 17/11/2004 của
Bộ Nội vụ về việc ban hành Tiêu chuẩn Vụ trưởng thuộc Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
39. Chính phủ (2003), Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19/2/2003 của
Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm
lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
40. Chính phủ (2004), Nghị định 158/2004/NĐ-CP ngày 25/8/2004 của Chính
phủ về thành lập Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương.
41. Chính phủ (2005), Nghị định 122/2005/NĐ-CP ngày 4/10/2005 của Chính
phủ Quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng.
42. Chính phủ (2006), Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy
định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình
quản lý, phụ trách.
43. Chính phủ (2007), Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy
định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ.
44. Chính phủ (2007), Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy
định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị
trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.
45. Nguyễn Văn Côi (2012), Luân chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ
quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam.
182
46. Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng, Lê Văn Yên (2009), Kinh nghiệm xây dựng
đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Doan (2013), “Bài phát biểu tại buổi gặp mặt các thế hệ làm
công tác thi đua, khen thưởng nhân kỷ niệm 65 năm ngày Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc – Ngày truyền thống thi
đua yêu nước (11/6/1948 - 11/6/2013)”, Tạp chí Thi đua - Khen
thưởng, số 12.
48. Đại Việt Sử ký Toàn thư (1993), Nxb Khoa học xã hội, tập 2.
49. Đảng Cộng sản Trung Quốc, Ban Tổ chức Trung ương, Quy định về công
tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, Dịch từ tiếng Trung, Người dịch Đỗ Tiến Sâm
2006, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Báo cáo Xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban
chấp hành Trung ương (Khoá VI), Nxb Sự thật, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
183
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2)
Ban chấp hành TW khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban
chấp hành TW khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện hội nghị lần thứ chín Ban
chấp hành TW khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành TW khoá XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành TW khoá XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện hội nghị lần thứ tám, Ban
chấp hành TW khoá XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Trọng Điều (2005), “Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán
bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 10.
184
70. Vũ Văn Hiền (Chủ nhiệm) (2013), Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước
giai đoạn 2001-2005 “ Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, mã số KX.03.02.
71. Trần Thị Hà (Chủ nhiệm) (2012), Đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay”;
Mã số: 02/2010.
72. Trần Thị Hà (2013), “Diễn văn kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời
kêu gọi thi đua ái quốc – Ngày truyền thống thi đua yêu nước
(11/6/1948 – 11/6/2013)”, Tạp chí Thi đua- Khen thưởng, số 12.
73. Trần Thị Thu Hà (2014), “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi đua,
khen thưởng”, Tạp chí điện tử Bạn đọc làm báo, ngày 15/5/2014.
74. Chu Hảo (2002), “Cần thêm gì vào tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong thời đại kinh tế tri thức”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 02.
75. Trần Đình Hoan (2002), “Luân chuyển cán bộ - khâu đột phá nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển
mới”, Tạp chí Cộng sản, số 7.
76. Trần Đình Hoan (chủ biên) (2008), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán
bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2008 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2009.
78. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo tổng kết phong
trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai đoạn 2006-2010,
phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2011-2015, tại Đại hội Thi đua
toàn quốc lần thứ VIII (tháng 12-2010).
185
79. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2010 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2011.
80. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2011 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2012.
81. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2012 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2013.
82. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2008 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2009.
83. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo tổng kết phong
trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai đoạn 2006-2010,
phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2011-2015.
84. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đu - Khen thưởng Trung ương năm 2010 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2011.
85. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2011 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2012.
86. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Báo cáo công tác của Hội
đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương năm 2012 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2013.
87. Hội đồng Lý luận Trung ương (2013), Kiên định mục tiêu và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
186
88. Nguyễn Duy Hùng, Lê Văn Yên (2009), Về kinh nghiệm xây dựng đội ngũ
cán bộ ở Trung Quốc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Vũ Minh Giang (2004), “Vấn đề luân chuyển quan lại trong lịch sử trung
đại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Phạm Công Khâm (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng
nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa
học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
91. Nich Khăm (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội
Liên hiệp phụ nữ ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong thời kỳ
đổi mới, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam.
92. Chu Phúc Khởi (2004), “Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng
xây dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao”, Hội thảo lý luận
giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây
dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của
Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
93. Võ Văn Kiệt (2005), “Quản lý cán bộ phải sâu sát, chặt chẽ”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 08.
94. Giả Cao Kiến (2004), “Phát huy đầy đủ vai trò của trường Đảng, làm tốt
công tác giáo dục và đào tạo cán bộ”, Hội thảo lý luận giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng
cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung
Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Thiệu Gia Kỳ (2004), “Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát
huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo”, Hội thảo lý luận giữa Đảng
187
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Xây dựng đảng
cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung
Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Đặng Xuân Kỳ (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
98. C.Mác và Ăngghen (1995), toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
100. C.Mác-Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (1995),Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Quang Thưởng Lê (2004) Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
109. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
110. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
111. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
112. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
113. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 19, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
114. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 24, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
115. V.I.Lênin, (1976) Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ, Matxcơva
188
116. V.I.Lênin, (1976) Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Matxcơva
117. V.I.Lênin, (1978) Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva
118. Huỳnh Văn Long (2003), Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch ủy
ban nhân dân huyện ở đồng bằng sông Cửu Long ngang tầm đòi hỏi
của thời kỳ CNH-HĐH đất nước, Luận án tiến sĩ Chính trị học,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
119. Lê Hữu Nghĩa (2004), “Đánh giá cán bộ - khâu quan trọng trong công
tác cán bộ ”, Tạp chí Cộng sản, tr.7-11.
120. On Kẹo Phôm Ma Kon (2012), “Đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức của
đảng và hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào”, Kỷ yếu Đề tài Khoa học
cấp Nhà nước (hợp tác giữa Việt Nam và Lào Xây dựng Đảng cầm
quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
122. Thang Văn Phúc (Chủ nhiệm) (2005), Đề tài Khoa học cấp Nhà nước
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, mã số
KX.04.09.
123. Thang Văn Phúc (Chủ nhiệm) (2005), Đề tài Khoa học xã hội cấp Nhà
nước giai đoạn 2001-2005 “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức”, mã số KX.05.07.
124. Tôn Hiểu Quần (2004), Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình
thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt, Hội
thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
189
Quốc, “Xây dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Thân Minh Quế (2012), công tác quy hoạch cán bộ diện Ban thường vụ
Tỉnh uỷ quản lý ở các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Quốc hội (2003), Luật thi đua, khen thưởng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
127. Quốc hội (2005) Luật Phòng chống tham nhũng, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
128. Quốc hội (2008) Luật Cán bộ công chức , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
129. Quốc hội (2010), Luật Viên chức , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Tô Huy Rứa (Chủ biên) (2008), Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
131. Trần Xuân Sầm (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo
chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
132. Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước, Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
133. Trần Thanh Sơn (2006), Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc
diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam.
134. Trịnh Thanh Tâm (2012), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ trong
hệ thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay,
190
Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam.
135. Phạm Tất Thắng (2010), Đánh giá cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh uỷ
quản lý ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay,
Luận án tiến sĩ Khoa học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam.
136. Nguyễn Thế Thắng (2012), “Một số quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua, khen
thưởng”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 29/01/2012.
137. Nguyễn Thế Thắng (2011), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong sự nghiệp đổi mới hôm nay”,
http://tutuonghochiminh.vn, ngày 23/01/2011.
138. Văn Tất Thu (2008), Quan điểm và nghệ thuật tuyển dụng nhân tài
trong xây dựng chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc”,
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 5.
139. Thanh Toàn (2007), “Năng lực, phẩm chất người lãnh đạo trong sự
nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 10.
140. Trần Thọ (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
Thành ủy Đà Nẵng quản lý giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa
học Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
141. Trương Thị Thông – Lê Kim Việt (2008), Bệnh quan liêu trong công tác
cán bộ ở nước ta hiện nay – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
142. Tổng cục Thống kê, (2009), Niên giám Thống kê (tóm tắt), Nxb Thống
kê, Hà Nội.
191
143. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
144. Trần Minh Tuấn (Chủ nhiệm) (2005), Đề tài Khoa học cấp Bộ “Công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chức danh tại
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh”.
145. Viện Thi đua và Khen thưởng Nhà nước (1977), Những quy định cơ bản
về công tác thi đua và chế độ khen thưởng, Hà Nội
146. Trần Khắc Việt (2012), “Phong cách làm việc của người đứng đầu”, Tạp
chí Cộng sản, số 68.
147. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh cán bộ, công chức, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
148. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá-
Thông tin, Hà Nội.
192
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Cơ cấu độ tuổi, học vấn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước của cán bộ, công chức
ngành Thi đua Khen thưởng (đến tháng 12-2013)
Giới tính Tuổi đời Trình độ học vấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT
Cơ cấuTỉnh,Thành,Đơn vị
Tổngsố
Nam Nữ Dưới30
30 –45
46 -60
TrênĐH ĐH Cao
đẳngCaocấp
Trungcấp
Sơcấp
CVCC
CVC CV Cơ sở
Ghi chú
1Tỉnh, thành
phố trực thuộcTrung ương
2813 1721 1092 556 1317 940 70 2123 620 411 1075 809 19 367 1761 443
2Bộ, ban,
ngành, đoànthể
365 189 176 65 168 132 71 283 11 95 146 85 35 92 203 19
3Tập đoàn, tổngcông ty kinh tế
Nhà nước489 351 138 17 194 278 12 382 95 53 245 158 7 46 235 35
Tổng cộng 3667 2261 1406 638 1679 1350 153 2788 726 559 1466 1052 61 505 2199 497
Số CB,Côngchức
còn lạichưahọc
LLCT,QPNN
Tỷ lệ % 100,00
61,65 38,34 17,39 45,78 36,81 4,17 76,02 19,79 16,33 39,97 28,68 1,66 13,77 59,96 13,55
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua -Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 2Cơ cấu giới tính, tuổi đời, năm công tác trong ngành TĐKT của CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT cả nước (đến tháng 12 – 2013)
Giới tính Tuổi đời Năm công tác trong ngành TĐKTTT
Cơ cấuTỉnh,Thành,Đơn vị
Tổngsố Nam Nữ Dưới 30 30 – 45 46 - 60
Dưới 5năm
6 – 10năm
Trên 10năm
1
Tỉnh, thànhphố trực
thuộc Trung ương
465 396 69 62 141 263 236 157 72
2Bộ, ban,
ngành, đoànthể
98 91 7 13 32 53 59 29 10
3
Tập đoàn,tổng công tykinh tế nhà
nước
36 32 4 4 11 21 14 16 6
Tổng cộng 599 519 80 80 195 324 309 202 88
Tỷ lệ % 100,00 86,64 13,35 13,35 32,55 54,09 51,58 33,72 14,69
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua - Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 3Cơ cấu trình độ học vấn, LLCT, QLNN đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT cả nước (đến tháng 12 – 2013)
Trình độ học vấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT
Cơcấu
Tỉnh,Thành,Đơn vị
Tổngsố Trên
ĐH ĐH DướiĐH Cao cấp
Trungcấp Sơ cấp CVCC CVC CV Cơ sở
1
Tỉnh,thành phốtrực thuộc
trungương
465 70 395 156 309 19 320 126
2Bộ, ban,ngành,
đoàn thể98 71 27 34 64 35 63
3
Tập đoàn,tổng côngty kinh tếnhà nước
36 12 24 11 35 7 29
Tổng cộng 599 153 446 201 408 61 412 126
Tỷ lệ % 100,00 25,54 74,45 33,55 68,11 10,18 68,78 21,03
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua – Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 4Cơ cấu đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT một số tỉnh,
thành phố phía Bắc ( đến tháng 12- 2013)
Giới tính Tuổi đời Trình độ học vấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT
Cơcấu
Tỉnh,Thành phố
Tổngsố Nam Nữ Dưới
3030-45
46-60
TrênĐH ĐH Dưới
ĐHCaocấp
Trungcấp
Sơcấp CVCC CVC CV
1 Lai Châu 8 7 1 1 3 4 0 8 3 5 0 82 Hà Giang 8 6 2 0 3 5 0 8 3 5 0 83 Cao Bằng 6 5 1 0 2 4 0 6 2 4 0 64 Lạng Sơn 11 9 2 1 5 5 0 11 3 8 1 105 Hòa Bình 5 4 1 0 2 3 1 4 3 2 0 56 Bắc Giang 6 5 1 0 3 3 2 4 2 4 1 57 Yên Bái 9 8 1 1 4 4 1 8 4 5 0 98 Hải Dương 8 7 1 1 2 5 3 5 3 5 1 79 Quảng Ninh 9 8 1 1 4 4 2 7 4 5 1 8
10 Nam Định 7 6 1 2 2 3 3 4 4 3 1 611 TP. Hà Nội 9 8 1 2 3 4 6 3 6 3 3 612 TP. Hải Dương 8 7 1 1 3 4 4 4 3 5 2 6
Tổng Cộng 97 80 14 10 36 48 22 72 40 54 10 84Tỷ lệ % 100,00 82,47 14,43 10,30 37,11 49,48 22,68 74,22 41,23 55,67 10,30 86,59
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua – Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 5Cơ cấu đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT một số tỉnh,
thành phố phía Nam ( đến tháng 12- 2013)
Giới tính Tuổi đời Trình độ học vấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT
Cơcấu
Tỉnh,Thành phố
Tổngsố Nam Nữ Dưới
3030-45
46-60
TrênĐH ĐH Dưới
ĐHCaocấp
Trungcấp
Sơcấp CVCC CVC CV
1 Đồng Nai 10 8 2 1 3 6 2 8 3 7 1 92 Bình Phước 6 5 1 0 4 2 1 5 2 4 6
3Bà Rịa – Vũng
Tàu6 5 1 1 1 4 2 4 2 4 1 5
4 Ninh Thuận 7 6 1 0 1 6 1 6 2 5 75 Bến Tre 9 7 2 1 2 6 2 7 3 6 1 86 Đồng Tháp 9 7 2 1 3 5 2 7 2 7 97 Sóc Trăng 6 5 1 0 2 4 1 5 2 4 68 Kiên Giang 7 5 2 1 1 5 1 6 2 5 79 Cà Mau 4 4 0 0 1 3 0 4 1 5 4
10 TP. Hồ Chí Mình 10 8 2 2 2 6 3 7 4 6 3 711 TP. Cần Thơ 7 6 1 1 2 4 2 5 3 4 2 5
Tổng Cộng 81 66 15 8 22 51 17 64 26 55 8 73Tỷ lệ % 100,00 81,48 18,51 9,87 27,16 62,96 20,98 79,01 32,09 67,90 9,87 90,12
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua – Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 6Cơ cấu đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT một số tỉnh,
thành phố Miền Trung – Tây Nguyên ( đến tháng 12- 2013)
Giới tính Tuổi đời Trình độ họcvấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT
Cơcấu
Tỉnh,Thành phố
Tổngsố
Nam Nữ Dưới30
30-45
46-60
TrênĐH ĐH Dưới
ĐHCaocấp
Trungcấp
Sơcấp CVCC CVC CV
1 Thanh Hóa 8 6 2 1 2 5 3 5 3 5 1 7
2 Nghệ An 9 7 2 1 3 5 3 6 3 6 2 7
3Thừa thiên –
Huế8 7 1 1 2 5 2 6 3 5 1 7
4 Quảng Ngãi 10 8 2 2 2 6 10 2 8 10
5 Khánh Hòa 5 4 1 0 1 4 1 4 1 4 5
6 Đắc Lắc 5 5 0 0 2 3 5 1 4 5
7 Gia Lai 5 4 1 0 2 3 5 5 5
8 Đắc Nông 6 5 1 0 2 4 6 6 6
9 TP. Đà Nẵng 6 4 2 1 1 4 3 3 3 3 2 4
Tổng Cộng 62 50 12 6 17 39 12 50 16 46 6 52
Tỷ lệ % 100,00 80,64 19,35 9,67 27,41 62,90 19,35 80,64 25,80 74,19 9,67 83,87
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua – Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 7Cơ cấu đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT một số
Bộ, Ban, Ngành, Đoàn thể (đến tháng 12- 2013)Giới tính Tuổi đời Trình độ học vấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT Cơ cấuBộBan, NgànhĐoàn thể
Tổngsố Nam Nữ Dướ
i 3030-45
46-60
TrênĐH ĐH
Dưới
ĐH
Caocấp
Trungcấp
Sơcấp
CVCC
CVC
CV
1 Văn phòng CP 2 2 0 0 1 1 1 1 2 0 1 12 Hội chữ thập đỏ 3 3 0 0 1 2 3 1 2 33 Văn phòng TW 4 4 0 0 1 3 4 2 2 1 34 Tổng LĐLĐVN 7 6 1 1 2 4 1 6 2 5 1 6
5 Bộ NN & PTNT 7 5 2 1 2 4 2 5 2 5 7
6Liên hợp
KHKTVN2 2 0 0 1 1 1 1 1 1 2
7 Đài THVN 1 1 0 0 0 1 1 1 0 0 18 Bộ KH – CN 7 6 1 1 2 4 2 6 2 5 79 Bộ xây dựng 9 7 2 1 3 5 2 7 2 7 9
10 Thanh tra CP 5 4 1 0 2 3 3 3 2 2 311 Ban dân vận TW 1 1 0 0 0 1 1 1 0 1 012 Ng.hàng NNVN 7 6 1 1 2 4 1 6 3 4 713 Ủy ban KTTW 3 2 1 0 1 2 3 2 1 2 1
Tổng Cộng 58 49 9 5 18 35 10 48 24 34 8 50
Tỷ lệ% 100,00
84,48 15,51 8,6231,0
360,3
417,2
482,7
541,37
58,62
13,7986,2
0
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua – Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 8Cơ cấu đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
một số Tập đoàn, Tổng công ty kinh tế nhà nước (đến tháng 12- 2013)Giới tính Tuổi đời Trình độ học vấn Trình độ LLCT Trình độ QLNN
TT Cơ cấu
Tập đoàn,Tổng công ty
Tổngsố Nam Nữ Dưới
3030-45
46-60
TrênĐH ĐH Dưới
ĐHCaocấp
Trungcấp
Sơcấp CVCC CVC CV
1Tổng công ty lương
thực Miền Bắc 3 2 1 0 1 2 3 1 2 3
2Tổng công ty lương
thực Miền Nam 2 2 0 0 0 2 2 1 1 2
3Tổng công ty hàng hải
Việt Nam 7 5 2 1 2 4 2 5 2 5 7
4Tập đoàn công nghiệp
cao su Việt Nam 7 6 1 1 1 5 2 5 2 5 1 6
5Tổng công ty xi măng
Việt Nam 7 6 1 0 1 6 7 2 5 1 6
6Tổng công ty bưu
chính viễn thông VN 7 6 2 1 1 5 2 5 2 5 1 6
7Tổng công ty cà phê
Việt Nam 6 5 1 0 1 5 6 1 5 6
8Tổng công ty đường
sắt Việt Nam 3 3 0 0 2 1 1 2 1 2 1 2
9Tổng công ty giấy
Việt Nam 2 2 0 0 0 2 2 1 1 1 1
10Tổng công ty thuốc lá
Việt Nam 7 6 1 1 1 5 2 5 2 5 1 6
11Tập đoàn Điện lực
Việt Nam 8 7 1 0 1 7 3 5 2 5 1 7
Tổng Cộng 59 49 10 4 11 44 12 47 18 41 7 52Tỷ lệ % 100,00 83,05 16,94 6,77 18,64 74,57 20,33 79,66 30,50 69,49 11,86 88,13
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban Thi đua – Khen thưởng trung ương
PHỤ LỤC 9Số lượng CBLĐQL Ban TĐKT tỉnh, thành phố giữ các chức vụ trong
Hội đồng TĐKT Tỉnh, Thành phố (đến tháng 12 – 2013)
TT Tỉnh, thành phố
Trưởngban
TĐKTTỉnh,thànhphố
Phótrưởng
banTĐKTTỉnh,thànhphố
Trưởngban TĐKT
lá phógiám đốcsở Nội vụ
Tỉnh,Thành phố
Trưởng banTĐKT là phó
chủ tịchthường trực
Hội đồngTĐKT Tỉnh,Thành phố
Trưởngban TĐKTlà thườngtrực Hội
đồngTĐKT
Tỉnh, thànhphố
1. Sơn La 1 1 X X 02. Lai Châu 1 1 X X 03. Điện Biên 1 2 X X 04. Lào Cai 1 1 X X 05. Hà Giang 1 1 X X 06. Cao Bằng 1 1 X X 07. Lạng Sơn 1 2 X X 08. Hòa Bình 0 1 0 0 09. Bắc Kạn 1 0 X X 010. Phú Thọ 1 1 X X 011. Bắc Giang 1 1 0 0 012. Thái Nguyên 1 1 X X 013. Tuyên Quang 1 2 X X 014. Yên Bái 1 2 X X 015. Vĩnh Phúc 1 2 X X 016. Bắc Ninh 1 1 X 0 X17. Hải Dương 1 1 X X PB18. Hưng Yên 1 1 X X 019. Quảng Ninh 1 2 X X 020. Hà Nam 1 0 0 0 X21. Nam Định 1 2 X X 022. Thái Bình 1 2 X X 023. Ninh Bình 1 2 X X 024. TP. Hà Nội 1 2 X X 025. TP. Hải Phòng 1 1 X X 026. Thanh Hóa 1 1 X X 027. Nghệ An 1 2 X X 028. Hà Tĩnh 1 1 X X 029. Quảng Bình 1 2 X X 030. Quảng trị 1 2 X X 031. Thừa Thiên Huế 1 1 X X 032. Quảng Nam 1 1 X X X33. Quảng Ngãi 1 3 X 0 X34. Bình Định 1 1 X X 0
35. Phú Yên 1 2 X X 036. Khánh Hòa 1 0 X X 037. Đắc Lắc 1 0 X X 038. Gia Lai 1 0 0 X 039. Kon Tum 1 1 X X 040. Lâm Đồng 1 0 X X 041. Đắc Nông 1 1 X X 042. TP. Đà Nẵng 1 1 X X 043. Đồng Nai 1 1 X X 044. Bình Dương 1 1 X X PB45. Bình Phước 1 1 X X 046. Tây Ninh 1 1 X X 047. Bà Rịa – VT 1 1 X X 048. Bình Thuận 1 1 X X 049. Ninh Thuận 1 2 X X 050. Tiền Giang 1 2 X X 051. Long An 1 1 X X 052. Bến Tre 1 2 X X 053. Trà Vinh 1 2 X 0 PB54. Vĩnh Long 1 2 X X 055. Đồng Tháp 1 2 X X 056. Hậu Giang 1 1 X X 057. Sóc Trăng 1 1 X X PB58. Bạc Liêu 1 1 X X 059. Kiên Giang 1 2 X X 060. An Giang 1 2 X X 061. Cà Mau 1 1 X X 062. TP. Hồ Chí Minh 1 3 X X 063. TP. Cần Thơ 1 2 X X 0
Ghi chú:- Tỉnh Hải Dương, Quảng Nam, 1 phó trưởng ban TĐKT tỉnh là thường trực hội
đồng TĐKT Tỉnh- Tỉnh Trà Vinh: 1 phó trưởng ban TĐKT tỉnh là thành viên, thư ký Hội đồng
TĐKT Tỉnh- Tỉnh Sóc Trăng: 1 phó trưởng ban TĐKT Tỉnh là thư ký Hội đồng TĐKT Tỉnh- Tỉnh Hòa Bình: chưa có trưởng ban TĐKT Tỉnh- Tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương, Trà Vinh có trưởng ban
TĐKT Tỉnh là thường trực hội đồng TĐKT Tỉnh- Tỉnh Hải Dương, Quảng Nam: có phó trưởng ban TĐKT Tỉnh là thường trực hội
đồng TĐKT Tỉnh.
Nguồn: Vụ Tổ chức – Cán bộ, Ban TĐKT Trung ương