27
Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại một số khu tái định cư tập trung ở Sơn La Ngô Văn Giới Trường Đại hc Khoa hc Tnhiên Luận án Tiến ngành: Môi trường đất và nước; Mã số: 62 85 02 05 Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Xuân Cự, PGS.TS Lương Thị Hồng Vân Năm bảo vệ: 2013 Abstract: Xây dựng bộ chỉ thị lượng hóa tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp ở các khu TĐC ở Sơn La. Áp dụng bộ chỉ thị để đánh giá tính bền vững trong việc sử dụng đất nông nghiệp một số khu TĐC tập trung ở Sơn La. Đề xuất các giải pháp để tăng tính bền vững sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu. Góp phần xây dựng các cơ sở khoa học cho việc xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nói riêng và cho môi trường nói chung ở nước ta Keywords: Đất nông nghiệp; Bộ chỉ thị; Sơn La; Phát triển bền vững Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta hiện nay công tác di dân tái định cư (TĐC) là khá phổ biến để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là các công trình thủy điện. Thực tế cho thấy nhiều khu TĐC đã không đáp ứng được các nhu cầu của người dân, đời sống của cộng đồng không ổn định. Việc thiết lập nhiều khu TĐC tất yếu sẽ gây sức ép tới môi trường sống của cộng đồng, đặc biệt là môi trường đất. Sơn La là một tỉnh miền núi, nơi tập trung đa số đồng bào dân tộc thiểu số, hiện tại có số lượng người phải di dân TĐC trong là rất lớn. Vấn đề nổi cộm và phổ biến nhất là sử dụng tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên đất nói riêng [37]. Quá trình thoái hóa đất diễn ra nhanh chóng do sức ép và vấn đề sử dụng không hợp lý. Việc đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp cho một số khu TĐC ở Sơn La để chỉ ra được những tồn tại trong khai thác và sử dụng đất, những yếu tố đang làm suy thoái tài nguyên đất và gây mất ổn định cho cuộc sống của cộng đồng TĐC ở Sơn La. Từ đó tìm ra những yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự PTBV nói chung và vấn đề sử dụng đất nói riêng, đặc biệt là ở những vùng đất dốc ở nước ta. Nghiên cứu định lượng sự bền vững của môi trường đất trong sử dụng nông nghiệp là rất cần thiết . Trên thế giới chỉ thị đánh giá đất đã được các tổ chức FAO, USDA, NRCS, WB, UNEP, UNDP và một số tác giả quan tâm từ rất sớm. Các kết quả nghiên cứu đã rất có ý nghĩa trong việc quản lý và sử dụng đất, tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ mới đề cập đến những vấn đề chung trong đánh giá đất áp dụng cho tất cả các loại đất và các quốc gia và mới chỉ dừng lại ở việc lựa chọn ra các chỉ thị đánh giá chất lượng đất hay đánh giá hệ thống canh tác bền vững. Hơn thế nữa, một hệ thống canh tác bền vững phải dựa trên cơ sở một hệ thống sử dụng đất dốc bền vững. Vì vậy, việc nghiên cứu và phát triển các chỉ thị đánh giá đất được xem là có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/9070/1/01050001021.pdf · Xây dựng bộ chỉ thị đánh

  • Upload
    others

  • View
    11

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử

dụng đất nông nghiệp tại một số khu tái định

cư tập trung ở Sơn La

Ngô Văn Giới

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

Luận án Tiến sĩ ngành: Môi trường đất và nước; Mã số: 62 85 02 05

Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Xuân Cự, PGS.TS Lương Thị Hồng Vân

Năm bảo vệ: 2013

Abstract: Xây dựng bộ chỉ thị lượng hóa tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp ở

các khu TĐC ở Sơn La. Áp dụng bộ chỉ thị để đánh giá tính bền vững trong việc sử

dụng đất nông nghiệp một số khu TĐC tập trung ở Sơn La. Đề xuất các giải pháp để

tăng tính bền vững sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu. Góp phần xây dựng các cơ sở

khoa học cho việc xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nói riêng và

cho môi trường nói chung ở nước ta

Keywords: Đất nông nghiệp; Bộ chỉ thị; Sơn La; Phát triển bền vững

Content

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở nước ta hiện nay công tác di dân tái định cư (TĐC) là khá phổ biến để phục vụ cho các

dự án phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là các công trình thủy điện. Thực tế cho thấy

nhiều khu TĐC đã không đáp ứng được các nhu cầu của người dân, đời sống của cộng đồng

không ổn định. Việc thiết lập nhiều khu TĐC tất yếu sẽ gây sức ép tới môi trường sống của

cộng đồng, đặc biệt là môi trường đất. Sơn La là một tỉnh miền núi, nơi tập trung đa số đồng

bào dân tộc thiểu số, hiện tại có số lượng người phải di dân TĐC trong là rất lớn. Vấn đề nổi

cộm và phổ biến nhất là sử dụng tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên đất nói riêng

[37]. Quá trình thoái hóa đất diễn ra nhanh chóng do sức ép và vấn đề sử dụng không hợp lý.

Việc đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp cho một số khu TĐC ở Sơn La để chỉ ra

được những tồn tại trong khai thác và sử dụng đất, những yếu tố đang làm suy thoái tài

nguyên đất và gây mất ổn định cho cuộc sống của cộng đồng TĐC ở Sơn La. Từ đó tìm ra

những yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến sự PTBV nói chung và vấn đề sử dụng đất nói

riêng, đặc biệt là ở những vùng đất dốc ở nước ta.

Nghiên cứu định lượng sự bền vững của môi trường đất trong sử dụng nông nghiệp là rất

cần thiết. Trên thế giới chỉ thị đánh giá đất đã được các tổ chức FAO, USDA, NRCS, WB,

UNEP, UNDP và một số tác giả quan tâm từ rất sớm. Các kết quả nghiên cứu đã rất có ý

nghĩa trong việc quản lý và sử dụng đất, tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ mới đề cập đến

những vấn đề chung trong đánh giá đất áp dụng cho tất cả các loại đất và các quốc gia và mới

chỉ dừng lại ở việc lựa chọn ra các chỉ thị đánh giá chất lượng đất hay đánh giá hệ thống canh

tác bền vững. Hơn thế nữa, một hệ thống canh tác bền vững phải dựa trên cơ sở một hệ thống

sử dụng đất dốc bền vững. Vì vậy, việc nghiên cứu và phát triển các chỉ thị đánh giá đất được

xem là có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

2

Phát triển bền vững (PTBV) là vấn đề đang được thế giới quan tâm. Đặc biệt là từ sau Hội

nghị Môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro (Rio 92). Ở Việt Nam, vấn đề PTBV cũng đã

được quan tâm từ những năm 1980. Tuy nhiên, các chỉ thị này mới dừng lại ở các mục tiêu và

tiêu chí chung để tiến tới bền vững ở quy mô quốc gia. Các chỉ thị này không lượng hoá chi

tiết mức bền vững cho từng cộng đồng hoặc địa phương cụ thể được.

Với những lý do trên đề tài ”Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông

nghiệp tại một số khu TĐC tập trung ở Sơn La” được thực hiện nhằm góp phần hạn chế các

tiêu cực, bảo vệ tài nguyên cho sự PTBV các vùng TĐC ở Sơn La nói riêng và trong cả nước

nói chung.

2. Mục đích của đề tài

- Xây dựng bộ chỉ thị về tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp ở các khu TĐC ở

Sơn La.

- Áp dụng bộ chỉ thị để đánh giá tính bền vững trong việc sử dụng đất nông nghiệp một số

khu TĐC tập trung ở Sơn La.

- Đề xuất các giải pháp để tăng tính bền vững sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu.

3. Ý nghĩa khoa học của đề tài

- Ý nghĩa về lý luận:

Làm sáng tỏ đặc điểm, tính chất của đất dốc trong mối liên hệ với quá trình sử dụng đất ở

các khu TĐC tập trung tại Sơn La.

Cung cấp cơ sở khoa học cho sử dụng bền vững đất nông nghiệp vùng núi phía Bắc Việt

nam nói chung và ở Sơn La nói riêng.

Góp phần xây dựng các cơ sở khoa học cho việc xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền

vững sử dụng đất nói riêng và cho môi trường nói chung ở nước ta.

- Ý nghĩa về thực tiễn:

Xây dựng bộ chỉ thị để đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại ba khu TĐC

tập trung ở Sơn La là Mường Bú, Hát Lót và Tân Lập.

Góp phần định hướng, thúc đẩy và tìm ra các giải pháp cho cộng đồng TĐC phát triển

theo hướng bền vững. Đặc biệt là trong quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên đất.

Làm cơ sở tham khảo cho việc ra quyết định và điều chỉnh chính sách TĐC cho phù hợp

với điều kiện thực tế.

4. Những đóng góp mới của đề tài - Đóng góp vào lý luận và thực tiễn xây dựng bộ chỉ thị đánh giá chất lượng đất ở nước ta

nói chung và ở các vùng nông thôn miền núi nói riêng.

- Lần đầu tiên xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp ở nước

ta và áp dụng để đánh giá cho các khu TĐC tại Sơn La.

3

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ở tỉnh Sơn La

Kết quả nghiên cứu tông hợp tài liệu cho thấy Sơn La có địa hình rất phức tạp, bị chia cắt

mạnh, có độ dốc lớn, đất canh tác thường nhỏ hẹp. Sơn La nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới

gió mùa, có tính chất lục địa, chịu ảnh hưởng của địa hình. Đất Sơn La được đánh giá ở mức

khá tốt, tầng đất dày, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất khá, phù hợp với nhiều loại

cây trồng. Tiềm năng đất đai trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh vẫn còn khá lớn.

Huyện Mường La đất gồm 3 nhóm chính là Đất Feralit, Đất phù sa sông suối và Đất dốc

tụ. Hầu hết các loại đất trên địa bàn huyện có độ dày tầng đất từ trung bình đến khá, thành phần

cơ giới từ trung bình đến nặng. Các chất dinh dưỡng trong đất có hàm lượng thấp. Đa phần đất

đai nằm trên độ dốc lớn, độ che phủ thấp nên nguy cơ rửa trôi, xói mòn rất lớn.

Huyện Mai Sơn có 3 nhóm đất chính là nhóm đất đỏ vàng, nhóm đất tích vôi, nhóm đất đỏ

vàng biến đổi do trồng lúa. Phần lớn đất có độ dốc lớn, có độ dày tầng đất từ trung bình đến

khá. Thành phần cơ giới từ trung bình đến thịt nặng, tỷ lệ mùn và các chất dinh dưỡng từ trung

bình đến khá, độ chua không cao, nghèo bazơ trao đổi….

Huyện Mộc Châu có 4 nhóm đất chính là nhóm đất đỏ vàng, nhóm đất đen, nhóm đất đỏ

vàng biến đổi do trồng lúa, nhóm đất mùn đỏ vàng trên núi. Hầu hết các loại đất ở Mộc Châu có

độ dày tầng đất khá, thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, tỷ lệ mùn và các chất dinh dưỡng

từ trung bình đến khá, ít chua, nghèo bazơ trao đổi và các chất dễ tiêu. Nhìn chung đất tại Mộc

Châu thuận lợi để hình thành vùng sản xuất hàng hoá quy mô lớn, tập trung với cơ cấu đa dạng.

1.2. Công tác di dân TĐC ở Việt Nam

Trong phần này tác giả trình bày tổng quan về Đặc điểm chung về TĐC ở Việt Nam trong

những năm vừa qua và một số bài học kinh nghiệm về công tác di dân TĐC; Một số khái

niệm thường gặp trong công tác TĐC đã được làm rõ; Đã thống kế các văn bản pháp luật và

chính sách liên quan đến di dân TĐC của Việt Nam, kết quả tổng quan về công tác TĐC ở

Việt Nam cho thấy: Vấn đề TĐC đã được Đảng và nhà nước rất quan tâm. Mặc dù vậy, tại

nhiều nơi cộng đồng TĐC còn gặp nhiều khó khăn. Các chính sách về di dân TĐC đã được

thay đồi theo từng thời kỳ và đã có sự điều chính cho phù hợp với từng giai đoạn của lịch sử

và sự phát triển của kinh tế xã hội.

1.3. Quản lý chất lƣợng tài nguyên đất cho nền nông nghiệp bền vững

Trong phần này luận án đã làm rõ các khái niệm và các thuộc tính cơ bản của chất lượng

đất; Các nghiên cứu về chất lượng đất và chỉ thị chất lượng đất; Các vấn đề về tính bền vững

của nền nông nghiệp; Các vấn đề về quản lý tài nguyên đất cho phát triển nông nghiệp bền

vững thông qua các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Trong đó, có các

tác giả và tổ chức điển hình như: Ludwig 1995; FAO 1994, 1997; Nasir 1999; Hatem 1990;

Jodha 1990; Dumanski 2000; B. Mollison, Remy Mia Slay 1999; Benites, Tschirley 1997;

Dumanski, Pieri 1997; Benites, Shaxson và Vieira 1997,...

1.4. Chỉ thị đánh giá chất lƣợng đất và tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp trên thế

giới và tại Việt Nam

Trong phần này tác giả đã làm rõ các khái niệm và chức năng của các chỉ thị trong nghiên

cứu môi trường, đã tổng hợp các nghiên cứu xây dựng chỉ thị đánh giá chất lượng đất và tính

bền vững sử dụng đất trên thế giới và tại Việt nam; Các nghiên cứu về chỉ thị đánh giá suy

thoái đất với năng suất cây trồng; Các Nghiên cứu xây dựng chỉ thị đánh giá chất lượng đất và

tính bền vững sử dụng đất tại Việt Nam. Các nghiên cứu này đã chỉ ra được các chỉ thị cần

thiết để đánh giá đất và mối quan hệ của chúng với các chức năng của đất hay lý do lựa chọn

và cách xác định chúng. Nhìn chung, các nghiên cứu về chỉ thị đánh giá đất của các tác giả

trong và ngoài nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng

và hoàn thiện các chỉ thị đánh giá đất cho từng quốc gia và từng vùng riêng lẻ. Tuy nhiên, các

bộ chỉ thị đưa ra chủ yếu là mang tính định hướng cho các nghiên cứu cụ thể áp dụng cho

4

từng vùng. Do vậy, cần thiết phải có các nghiên cứu xây dựng các bộ chỉ thị đánh giá chất

lượng đất và chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp cho từng điều kiện cụ

thể.

1.5. Chất lƣợng đất và những yếu tố gây suy thoái đất ở vùng núi phía Bắc Việt Nam

Trong phần này tác giả đã trình bày khái quát về chất lượng đất vùng núi phía Bắc Việt

Nam; Những yếu tố gây suy thoái đất ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Các nghiên cứu của các

tác giả trên thế giới tập trung vào việc xây dựng bộ dữ liệu tối thiểu để đánh giá chất lượng

đất chung và cho mỗi vùng cụ thể. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cũng đã từng bước xây

dựng các tiêu chí, yêu cầu và các cách tiếp cận khác nhau để đánh giá tính bền vững trong sản

xuất nông nghiệp. Tại Việt Nam, nghiên cứu chỉ thị đánh giá chất lượng đất và đánh giá tính

bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp hiện tại vẫn chưa được giải quyết một cách đầy đủ.

Các nghiên cứu thường tập trung vào đánh giá tính chất đất ở các vùng khác nhau và cho từng

loại đất khác nhau. Một số nghiên cứu đã bước đầu xây dựng và giới thiệu bộ chỉ thị đánh giá

bền vững đất đồi núi nhưng mới dừng lại ở các tiêu chí đánh giá chưa có phương pháp và

cách lượng hóa rõ ràng giống như các nghiên cứu của các tác giả khác trên thế giới. Đây là

một trong những lý do quan trọng để tác giả chọn đề tài nghiên cứu này, để tiếp tục nghiên

cứu, hoàn thiện và phát triển các nghiên cứu về chỉ thị đánh giá chất lượng đất, đánh giá tính

bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp. Với mục đích xây dựng được bộ chỉ thị có thể lượng

hóa được tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại các khu TĐC ở Sơn La.

Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại 3 huyện là Mường La, Mai Sơn và Mộc Châu tỉnh Sơn La.

Cụ thể là, đất trồng chè (Camellia sinensis) tại 5 điểm TĐC điển hình thuộc khu TĐC Tân

Lập huyện Mộc Châu là: Bản Nà Tân (NT), Bản Nậm Tôm (TT), Bản Hoa II (BH), Bản Dọi

II (BD), Bản Pa Hía (PH); 5 điểm trên đất trồng mía (Saccharum officinarum) tại khu TĐC

Hát Lót, huyện Mai Sơn là: Tiểu khu 7 (T7), Tiểu khu 13 (T13), Yên Sơn 1 (YS1), Yên Sơn 2

(YS2) và Tiến Sơn (TS); 3 điểm trên đất trồng ngô (Zea mays) thuộc khu TĐC Mường Bú,

huyện Mường La là: Pú Nhuổng (PN), Huổi Hao (HH), Phiêng Bủng (PB); 01 điểm nghiên

cứu trên đất rừng tự nhiên tại xã Mường Bú làm mẫu so sánh (ĐC). Tại mỗi điểm TĐC lấy 3

mẫu đất theo hình thức hỗn hợp, ở 3 vị trí là đỉnh đồi, sườn đồi và chân đồi, tương ứng với

tổng số mẫu đất lấy là 42 mẫu. Mẫu nông sản được lấy tại 9 điểm TĐC (3 điểm/khu) tương

ứng với tổng số mẫu lấy là: 27 mẫu.

2.1.2. Nội dung nghiên cứu

- Khảo sát, đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội đặc biệt là vấn đề sử dụng đất ở

các khu TĐC nghiên cứu. Đánh giá chất lượng đất ở các mô hình canh tác điển hình tại

các khu TĐC nghiên cứu.

- Bố trí thiết lập các ô quan trắc đồng ruộng để đánh giá biến động chất lượng đất và năng

suất cây trồng.

- Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp và áp dụng đánh giá

tại một số khu TĐC nghiên cứu.

- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng tính bền vững cho môi trường đất ở các khu TĐC nghiên

cứu.

2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp như:

Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp; Phương pháp nghiên cứu thực địa;Phương pháp bố trí

các ô quan trắc đồng ruộng; Phương pháp phân tích trong phòng thí nghiệm; Phương pháp

xây dựng và kiến tạo chỉ thị (Xác định nguyên tắc lựa chọn chỉ thị, quy trình chung để xây

5

dựng bộ chỉ thị, phương pháp kiến tạo và lượng hóa các chỉ thị gồm việc xác định trọng số,

xác định giá giá trị đạt được thực tế của toàn hệ thống (Tổng điểm ASI) và xây dựng thang

đánh giá và so sánh); Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu.

Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Hiện trạng sử dụng và những yếu tố gây suy thoái đất nông nghiệp ở Sơn La

3.1.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Sơn La

Các kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tại Sơn La đã khai thác và sử dụng vượt quá rất

nhiều so với tiềm năng đất cho mục đích sản xuất nông (178,83%). Trong khi đó, đất thích

hợp sử dụng cho mục đích lâm nghiệp mới khai thác và sử dụng được 58,66% diện tích. Hiện

tại, đất sản xuất nông nghiệp của Sơn La chiếm 30,09% tổng diện tích đất nông nghiệp. Đáng

chú ý là diện tích đất sử dụng trồng cây hàng năm chiếm 68,47% diện tích đất sản xuất nông

nghiệp nhưng chủ yếu là là ngô (61,68%), đây là một trong những nguy cơ gây xói mòn rửa

trôi, suy thoái đất nông nghiệp tại Sơn La nếu không có kỹ thuật canh tác hợp lý. Mặt khác,

quá trình làm đất và sau thu hoạch là thời điểm rất dễ xảy ra xói mòn mạnh khi có mưa lớn.

Mặc dù vậy, do đặc trưng về địa hình nên ngô vẫn là cây lương thực chủ đạo tại Sơn La.

3.1.2. Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại huyện Mường La, Mai Sơn và Mộc

Châu

3.1.2.1. Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại Mường La

Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Mường La là 142.205

ha. Nhóm đất nông nghiệp chiếm 68,39% tổng diện tích đất tự nhiên và 96,59% diện tích đất

đang sử dụng. Trên diện tích đất nương rẫy chủ yếu được sử dụng để trồng ngô, sắn trên đất

dốc. Nhìn chung, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện đạt thấp, hệ số sử dụng đất

toàn huyện bình quân đạt 1,4 lần. Trong những năm gần đây đa số diện tích nương trên đất

dốc đều chuyển sang trồng ngô, hình thức canh tác chủ yếu là quảng canh mà không có biện

pháp bảo vệ bồi bổ đất dẫn đến tình trạng đất nhanh bị xói mòn, rửa trôi, làm suy giảm chất

lượng đất.

3.1.2.2. Hiện trạng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại huyện Mai Sơn

Huyện Mai Sơn có tổng diện tích đất tự nhiên là 142.821 ha. Diện tích đất đang khai thác

sử dụng vào các mục đích chiếm 67,31% diện tích tự nhiên trong đó: nhóm đất nông nghiệp

chiếm 63,84% so diện tích tự nhiên. Đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ lệ cao nhất (90,23%

với 32.128,98 ha). Đất trồng cây lâu năm chiếm 9,77% đất sản xuất nông nghiệp, điều này là

chưa phù hợp với huyện miền núi như Mai Sơn có lợi thế về phát triển cây lâu năm. Hiệu quả

sử dụng đất canh tác còn thấp, hệ số quay vòng sử dụng đất mới đạt 1,7 lần.

3.1.2.3. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp tại huyện Mộc châu

Mộc Châu với tổng diện tích đất tự nhiên là 202.513,0 ha chiếm 14,40% tổng diện tích đất

tự nhiên toàn tỉnh, diện tích tự nhiên của các xã, thị trấn không đồng đều. Trong đó nhóm đất

nông nghiệp chiếm 66,87% tổng diện tích đất tự nhiên và 95,22% diện tích đất đang sử dụng,

gồm: Đất sản xuất nông nghiệp chiếm 26,69% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, đất trồng

cây hàng năm chiếm tỷ lệ cao nhất 79,6%, đất trồng cây lâu năm chiếm 12,6%, các loại đất

nông nghiệp còn lại chiếm 7,8%. Hiện tại, huyện đang có chủ trương giảm dần diện tích sản

xuất lương thực trên đất dốc, nhưng kết quả đạt được vẫn thấp. Hiệu quả sử dụng đất của

huyện đạt bình quân 1,4 lần và không đều giữa các vùng.

3.1.3. Những yếu tố gây suy thoái đất nông nghiệp ở Sơn La

Kết quả nghiên cứu chỉ ra những yếu tố gây suy thoái đất nông nghiệp chủ yếu ở Sơn La

là: Các yếu tố về điều kiện tự nhiên; Độ che phủ rừng; Các vấn đề kinh tế, xã hội; Sức ép từ

nhiệm vụ di dân, TĐC.

3.2. Thực trạng một số khu TĐC nghiên cứu

6

Kết quả nghiên cứu và phân tích hiện trạng một số khu TĐC tại Sơn La cho thấy, với các

khu TĐC có thời gian định cư lâu hơn người dân TĐC có cuộc sống ổn định hơn. Các khu

mới được TĐC từ công trình thủy điện Sơn La hiện tại cộng đồng còn gặp rất nhiều khó khăn.

Đặc biệt là diện tích đất sản xuất ít hơn nhiều lần, chất lượng đất cũng xấu hơn so với nơi ở

cũ, thiếu nước dùng cho sinh hoạt và canh tác. Các chính sách hỗ trợ của nhà nước cho cộng

đồng hiệu quả còn chưa cao, nhiều dự án đã thất bại gây mất lòng tin và bất ổn trong cộng

đồng (khu TĐC Tân Lập). Việc sử dụng đất nông nghiệp trong những năm đầu TĐC thường

mang tính tự phát nên hiệu quả sản xuất không cao, và đã gây suy thoái đất cục bộ tại một số

điểm TĐC. Tại một số khu TĐC việc sử quy hoạch sử dụng đất chưa được nghiên cứu kỹ đã

gây ra những hậu quả nghiên trọng với tài nguyên đất nông nghiệp, gây lãng phí tiền của của

nhân dân, làm chậm tiến trình phát triển bền vững và ổn định cho cộng đồng TĐC và ảnh

hưởng tới tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại đây.

3.3. Chất lƣợng đất tại các khu TĐC nghiên cứu

3.3.1. Chất lượng đất tại khu TĐC Mường Bú huyện Mường La

Phần lớn đất nông nghiệp tại Khu TĐC Mường Bú được bố trí tại những nơi có độ dốc

>250, phần đất có độ dốc thấp hơn được bố trí làm đất ở cho cộng đồng. Kết quả nghiên cứu

đánh giá tính chất đất tại khu TĐC Mường Bú huyện Mường La qua 3 năm nghiên cứu cho

thấy lượng đất xói mòn tại khu TĐC Mường Bú tương đối lớn, hàm lượng các chất dinh

dưỡng và chất hữu cơ trong đất tại đây dao động ở mức nghèo tới trung bình. Mặt khác,

những khu đất được chọn hầu hết là những vùng đất đã bị thoái hóa bạc mầu, khó canh tác

hoặc canh tác cho năng suất không cao mà cộng đồng bản địa đã bỏ hoang. Sau 3 năm canh

tác chất lượng đất đã có dấu hiệu suy giảm rõ rệt đặc biệt là hàm lượng các chất dinh dưỡng

dễ tiêu và OM (giảm từ 40-60%). Hàm lượng các chất tổng số cũng có sự biến động, nhưng ở

mức thấp.

3.3.2. Chất lượng đất tại khu TĐC Hát Lót, huyện Mai Sơn

Kết quả nghiên cứu tính chất đất tại khu TĐC Hát Lót huyện Mai Sơn cho thấy, lượng đất

xói mòn thấp, hàm lượng các chất dinh dưỡng ở mức trung bình. Có sự khác biệt lớn giữa các

giá trị tại các điểm quan trắc khác nhau, đặc biệt là với các chất dinh dưỡng ở dạng dễ tiêu. Sự

biến động các chất dinh dưỡng tại khu TĐC Hát Lót sau 3 năm canh tác là chưa rõ rệt, hầu hết

các thông số quan trắc đều cho thấy chất lượng đất vẫn được duy trì ở mức ban đầu mặc dù có

sự suy giảm nhưng ở mức thấp. Đây là kết quả phản ánh phương thức canh tác tương đối hợp

lý của người dân tại đây.

3.3.3. Chất lượng đất tại khu TĐC Tân Lập huyện Mộc Châu

Đất tại các khu TĐC Mộc Châu có hàm lượng các chất dinh dưỡng đều ở mức trung bình

tới giầu, phản ứng đất ở mức chua nhẹ, đất giầu mùn, đây là một trong những lợi thế rất lớn

trong phát triển nông nghiệp cho cộng đồng TĐC tại đây. Ở hầu hết các thông số đã quan trắc

về các chất dinh dưỡng tổng số và dễ tiêu trong đất đều cho kết quả cao hơn khu TĐC Hát Lót

và Mường Bú. Mặc dù vậy lượng đất mất do xói mòn tại Tân Lập vẫn ở mức đáng kể. Mức độ

biến động của hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất tại khu TĐC Tân Lập không lớn, một

số chất dinh dưỡng có xu hướng biến đổi tích cực.

3.3.4. Dư lượng hóa chất BVTV trong đất tại các khu TĐC nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 9 mẫu đất nghiên cứu có 3 mẫu phát hiện có dư lượng

hóa chất BVTV là NTa và NTc tại Tân Lập và YS1b tại Hát Lót. Các hóa chất đã phát hiện là

Padan và Monitor. Mặc dù vậy, nồng độ của chúng vẫn nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép (TCVN

5941:1995).

3.3.5. Biến động chất lượng đất tại các khu TĐC nghiên cứu với mẫu đối chứng

Qua phân tích biến động của một số chất dinh dưỡng dễ tiêu, pHKCl, OM và CEC trong đất

tại các khu TĐC so với mẫu đối chứng lấy tại rừng xã Mường Bú cho thấy: Mẫu đất đối

chứng lấy tại rừng Mường Bú ít có sự biến động, và hầu hết là sự biến động theo chiều hướng

tích cực; Mẫu đất lấy tại khu TĐC Mường Bú có sự biến động lớn nhất và sự biến đồng đều

7

xẩy ra theo chiều hướng tiêu cực; Các mẫu đất lấy tại khu TĐC Hát Lót và Tân Lập đã có sự

biến động, mặc dù không lớn. Với mẫu đất tại khu TĐC Hát Lót có xu hướng biến động theo

chiều hướng giảm giá trị các chất dinh dưỡng và hữu cơ trong đất. Các mẫu đất tại khu TĐC

Tân Lập có một số thông số có giá trị biến động giảm và một số biến động tăng. Tại đây, các

giá trị N, P, K dễ tiêu đều có sự biến động tăng.

3.3.6.Chỉ thị sinh học cho chất lượng đất tại các khu TĐC

3.3.6.1. Năng suất cây trồng chỉ thị cho chất lượng đất tại các khu TĐC

a. Khu TĐC Mƣờng Bú, huyện Mƣờng La

Kết quả nghiên cứu khảo nghiệm năng suất ngô tại khu TĐC Mường Bú cho thấy, năng

suất ngô trung bình của Mường Bú trong 3 năm canh tác là 1,22 tấn/ha/năm, so với năng suất

bình quân của Mường La là thấp hơn khoảng 3 lần (Bình quân trong 5 năm của Mường La là

3,23 tấn/ha). Năng suất có sự biến động theo chiều hướng giảm mạnh sau 3 năm canh tác,

trung bình mỗi năm giảm 0,27 tấn/ha. Mức biến động giảm trung bình/năm là 17,57% so với

trung bình năm 2008. Đây là dấu hiệu cho thấy chất lượng đất tại đây đang có xu hướng giảm

dần.

b. Khu TĐC Hát Lót, huyện Mai Sơn

Kết quả khảo nghiệm đồng ruộng theo dõi năng suất mía tại các điểm TĐC ở khu TĐC

Hát Lót cho thấy sau 3 năm canh tác năng suất mía trung bình tại khu TĐC Hát Lót đã tăng

3,84 tấn/ha/năm, tương ứng với mức tăng 6,99% so với năm 2008. Năng suất cao nhất là

66,30 tấn/ha, đạt được tại công thức TSc của bản Tiến Sơn vị trí chân đồi. Năng suất thấp nhất

là 50,75 tấn/ha ở công thức YS1a vị trí đỉnh đồi bản Yên Sơn 1. Năng suất mía tại khu TĐC

Hát Lót ở mức tương đương với năng suất trung bình của huyện (54,93 tấn/ha) trong 3 năm

2008-2010. Kết quả này đã phần nào thể hiện chất lượng đất tại khu TĐC Hát Lót khá ổn định

sau 3 năm canh tác.

c. Khu TĐC Tân Lập huyện Mộc Châu

Kết quả khảo nghiệm đồng ruộng theo dõi năng suất chè tại các điểm TĐC ở khu TĐC

Tân Lập cho thấy năng suất chè trung bình tại khu TĐC Tân Lập sau 3 năm nghiên cứu đã

biến động theo hướng tăng dần, với mức tăng trung bình là 0,29 tấn/ha/năm, tương ứng với

7,55% so với năm 2008. Mặc dù vậy, với năng suất trung bình 3 năm là 4,16 tấn/ha vẫn thấp

hơn năng suất bình quân chung 3 năm của huyện Mộc Châu (6,27 tấn/ha). Kết quả này đã thể

hiện chất lượng đất tại đây đang có xu hướng biến đổi tích cực.

3.3.6.2. Thực vật hoang dại chỉ thị cho chất lượng đất tại các khu TĐC ở Sơn La

Trong thực tế nghiên cứu tại các khu TĐC, ngoài diện tích đất đang được cộng đồng sử

dụng thì còn một phần không nhỏ diện tích đất hiện tại vẫn chưa được cộng đồng đưa vào

khai thác và sử dụng hoặc đã khai thác sử dụng nhưng hiệu quả thấp nên đã bỏ hoang. Để

đánh giá chất lượng đất tại các khu vực này tác giả đã lựa chọn chỉ thị là thực vật hoang dại.

Kết quả xây dựng các chỉ sinh học thị đánh giá chất lượng đất bằng thực vật hoang dại cho

thấy, đất tại khu TĐC Mường Bú có chất lượng xấu, ở hầu hết các diện tích đất phân cho cộng

đồng TĐC đều có độ phì thấp và có nguy cơ thoái hóa mạnh, chỉ có một phần nhỏ diện tích

đất có độ phì trung bình. Đất tại các khu TĐC Hát Lót và Tân Lập được đánh giá tương

đương về chất lượng thông qua các chỉ thị thực vật hoang dại. Cụ thể, phần lớn diện tích đất

tại 2 khu TĐC này có độ phì trung bình, ứng với mức thoái hóa nhẹ tới trung bình, còn lại một

phần diện tích có độ phì thấp.

3.4. Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại một số khu

TĐC tập trung ở Sơn La

3.4.1. Nguyên tắc và phương pháp tiếp cận xây dựng bộ chỉ thị

3.4.1.1. Các phương pháp tiếp cận xây dựng bộ chỉ thị

8

3.4.1.2. Nguyên tắc xây dựng bộ chỉ thị

Bộ chỉ thị được xây dựng sẽ dựa trên nguyên tắc cơ bản là mỗi yếu tố chất lượng đất có

thể chịu tác động đồng thời của nhiều yếu tố tác động khác nhau. Tuy nhiên, tác động tổng

hợp tạo nên xu hướng biến đổi sẽ được chi phối bởi một vài yếu tố chủ đạo. Do vậy, nghiên

cứu sẽ lựa chọn những yếu tố quan trọng, mang tính chất quyết định để đưa vào bộ chỉ thị.

Đồng thời, bộ chỉ thị cũng được xây dựng có ”tính mở”, tức là các chỉ thị đơn có thể được

thay đổi, thêm, bớt tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể của từng khu vực áp dụng.

3.4.2. Đề xuất bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp

3.4.2.1. Lựa chọn chỉ thị đánh giá chất lượng đất và chỉ thị đánh giá tính bền vững sử

dụng đất nông nghiệp tại các khu TĐC nghiên cứu

Bộ chỉ thị chất lượng đất gồm bốn nhóm chính là: (1) nhóm chỉ thị cho tính chất vật lý đất

trong đó gồm các chỉ thị đơn TPCG, mức xói mòn, độ dốc; (2) nhóm chỉ thị cho tính chất hóa

học đất gồm các chỉ thị đơn pHKCl, N, P, K dễ tiêu, OM; (3) nhóm chỉ thị cho tính chất sinh

học đất gồm các chỉ thị đơn cây trồng, năng suất cây trồng, đa dạng VSV đất; (4) nhóm chỉ

thị cho sử dụng đất gồm các chỉ thị diện tích đất/người, hệ thống canh tác, sử dụng phân bón

hoặc hóa chất BVTV.

Việc đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp sẽ dựa trên việc xây dựng các

chỉ thị đánh giá chất lượng đất trong nông nghiệp và sự biến động của chúng theo thời gian.

Sử dụng đất được xem là bền vững khi các chỉ thị chất lượng đất có giá trị ổn định hoặc được

cải thiện theo thời gian. Ngược lại, khi các giá trị chỉ thị chất lượng đất bị giảm hệ thống sử

dụng đất sẽ không bền vững. Từ các kết quả phân tích này, kết hợp với quy trình phân tích,

các tiêu chẩn và nguyên tắc, tác giả đề xuất bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất

nông nghiệp cho các khu TĐC tập trung ở Sơn La, với thông tin cơ bản về bộ chỉ thị được thể

hiện tại bảng 3.17.

9

Bảng 3.17. Thông tin cơ bản bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại

các khu TĐC tập trung ở Sơn La (ASI)

Nhóm

(1)

Ký hiệu

(2)

Tên gọi chỉ thị đơn

(3)

Áp

Lực

PI1 Diện tích đất nông nghiệp được bố trí

PI2 Mức tăng dân số

PI3 Độ dốc

Trạng

thái

SI1 Biến động năng suất của cây trồng chủ

yếu trong các năm gần nhất

SI2 Năng suất (NS) cây trồng

SI3 Biến động lượng đất xói mòn

SI4 Biến động hàm lượng Ndt

SI5 Biến động hàm lượng Pdt

SI6 Biến động hàm lượng Kdt

SI7 Biến động phản ứng của đất

SI8 Biến động hàm lượng OM

SI9 Thực vật hoang dại

SI10 Biến động TPCG

Đáp

ứng

RI1 Hệ cây trồng

RI2 Kỹ thuật canh tác

RI3 Tham gia của cộng đồng

RI4 Sử dụng phân hữu cơ và các sản phẩm

tương tự

3.4.2.2. Phân tích đánh giá và cho điểm các chỉ thị

Kết quả nghiên cứu đã chọn tổng trọng số cho tất cả các chỉ thị là 10, khi đó tổng trọng số

cho nhóm áp lực là 1,9; nhóm hiện trạng là 5,6 và nhóm đáp ứng là 2,5 (tính theo công thức

(2) ở mục 2.2.5). Giá trị của các chỉ thị đơn được đánh giá và tính điểm dựa trên các thông tin

tại cột (5) bảng 3.18, với thang điểm từ 0-10. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được bộ chỉ thị

đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại các khu TĐC tập trung ở Sơn La gồm 3

nhóm, có 17 chỉ thị đơn. Ký hiệu, tên gọi, ý nghĩa các chỉ thị và cách đánh giá, tính điểm

được thể hiện tại bảng 3.18. Các giá trị trong ”()” tại cột (5) bảng 3.18 là điểm số ứng với các

giá trị đạt được của các chỉ thị đơn.

10

11

12

13

14

3.4.3. Áp dụng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại các khu

TĐC tập trung ở Sơn La

3.4.3.1. Kết quả đánh giá tại khu TĐC Mường Bú, huyện Mường La

Kết quả nghiên cứu đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại khu TĐC

Mường Bú có tổng điểm là 30,71/100 được đánh giá ở mức kém bền vững. Các nhân tố chính

làm cho môi trường đất tại Mường Bú kém bền vững là hầu hết các chỉ thị có điểm số dưới

mức trung bình đặc biệt là: tỷ lệ tăng dân số cao, hiện tượng xói mòn xảy ra mạnh, năng suất

cây trồng còn thấp, địa hình quá phức tạp, quá trình sử dụng đất chưa thực sự gắn liền với cải

tạo và bổ sung chất hữu cơ cho đất.

Để nâng cao mức bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại khu TĐC Mường Bú, cũng

là cải thiện mức điểm đạt được của cộng đồng theo đánh giá bằng bộ chỉ thị ASI (Bảng 3.19).

Kết quả nghiên cứu tại bảng 3.19 cho thấy điểm số của hầu hết các chỉ thị đơn là rất thấp. Vì

vậy, để nâng cao các điểm số này cộng đồng cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong

đó, cần chú trọng việc áp dụng các kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc, để hạn chế mất

đất do địa hình dốc. Khai thác tài nguyên đất đi đôi với cải tạo và bảo vệ đất bằng cách sử

dụng phân hữu cơ, trồng xen các cây họ đậu, cây phân xanh... Mặt khác, cộng đồng cần giảm

tỷ lệ sinh, để giảm áp lực lên tài nguyên đất. Đây là các giải pháp nếu được thực hiện kịp thời

sẽ có tác động tích cực, không chỉ trực tiếp tới các chỉ thị đơn PI2, SI2, SI3 và RI4 mà còn tới

các chỉ thị đơn khác trong bộ chỉ thị.

3.4.3.2. Kết quả đánh giá tại khu TĐC Hát Lót, huyện Mai Sơn

Kết quả nghiên cứu đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại khu TĐC

Hát Lót có tổng điểm là 62,26/100, được đánh giá ở mức bền vững tiềm năng. Các nhân tố

chính làm cho môi trường đất tại Hát Lót chưa bền vững là: tỷ lệ tăng dân số cao, hiện tượng

xói mòn vẫn xảy ra cục bộ tại một số nơi, quá trình sử dụng đất, gắn liền với cải tạo và bổ

sung chất hữu cơ cho đất còn chưa được đồng bộ và hiệu quả. Để nâng cao mức bền vững

trong sử dụng đất nông nghiệp tại khu TĐC Hát Lót cộng đồng cần áp dụng các kỹ thuật canh

tác bền vững trên đất dốc một cách đồng bộ và khoa học hơn. Khai thác tài nguyên đất phải đi

đôi với cải tạo và bảo vệ đất bằng cách sử dụng phân hữu cơ, trồng xen các cây họ đậu, cây

phân xanh. Mặt khác, cộng đồng cần giảm tỷ lệ sinh để giảm áp lực lên tài nguyên đất.

3.4.3.3. Kết quả đánh giá tại khu TĐC Tân Lập huyện Mộc Châu

Kết quả nghiên cứu đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại khu TĐC

Mộc Châu có tổng điểm là 53,79/100 điểm được đánh giá ở mức bền vững trung bình. Các

nhân tố chính làm cho môi trường đất tại Tân Lập chưa bền vững là: tỷ lệ tăng dân số cao,

năng suất cây trồng còn chưa cao, hiện tượng xói mòn vẫn xảy ra, quá trình sử dụng đất chưa

gắn liền với cải tạo và bổ sung chất hữu cơ cho đất, tính thích ứng của cộng đồng còn chưa

tốt. Để cải thiện mức bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại khu TĐC Tân Lập cộng

đồng cần áp dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao mức điểm cho các chỉ thị đơn có điểm

số thấp, đặc biệt là các chỉ thị PI2, SI2, SI3, RI4. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng tới các kỹ

thuật canh tác bền vững trên đất dốc. Sử dụng đất cần đi đôi với cải tạo và bảo vệ bằng cách

sử dụng phân hữu cơ, trồng xen các cây họ đậu, cây phân xanh... Mặt khác, cộng đồng cần

giảm tỷ lệ sinh để giảm áp lực lên tài nguyên đất.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại các

khu TĐC ở Sơn La cho thấy:

Mức bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố

gây giảm tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại các khu TĐC ở Sơn La là: điều

kiện địa hình dốc, phức tạp, yếu tố về sự khác biệt giữa nơi ở cũ và nơi mới, phương phức

canh tác không sử dụng phân hữu trong sản xuất nông nghiệp và bổ sung các chất dinh dưỡng

cần thiết cho đất một cánh đầy đủ, năng suất cây trồng một số khu vực có dấu hiệu giảm

xuống do chất lượng đất suy giảm, hiện tượng xói mòn đất cục bộ vẫn xảy ra ở một số nơi. Để

15

hạn chế, khắc phục những khó khăn này và muốn nâng cao tính bền vững sử dụng đất nông

nghiệp tại các khu TĐC ở Sơn La, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và nhóm giải

pháp trong phần 3.5.

Hình 3.31 minh họa mức bền vững sử dụng đất nông nghiệp mà các khu TĐC nghiên cứu

đạt được. Với 5 vùng tương ứng với 5 mức: bền vững, bền vững tiềm năng, bền vững trung

bình, kém bền vững và không bền vững.

16

Hình 3.31. Mức bền vững sử dụng đất nông nghiệp

của các khu TĐC nghiên cứu

3.5. Một số giải pháp sử dụng bền vững đất nông nghiệp ở các khu TĐC

Nhìn chung ở cả 3 khu TĐC nghiên cứu cùng có chỉ thị PI2, SI3 và RI4 có mức điểm rất

thấp nên cộng đồng cần có các chính sách để kiểm soát tỷ lệ sinh (PI2) để giảm bớt áp lực nên

tài nguyên đất. Để hạn chế hiện tượng xói mòn đất (SI3), cộng đồng cần thực hiện tốt và đồng

bộ các kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc. Để nâng cao chất lượng đất, cần sử dụng các

loại phân hữu cơ, phân xanh bón cho cây trồng để cải tạo độ phì cho đất, bù lại các chất dinh

dưỡng đã mất do xói mòn, rửa trôi mà cây trồng lấy đi. Bên cạnh đó, để nâng cao tính bền

vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại các khu TĐC ở Sơn La nói chung cần thực hiện tốt

các giải pháp như thâm canh, bố trí cơ cấu cây trồng, mùa vụ hợp lý, tăng cường trồng các

loại cây che phủ đất để bảo vệ đất chống xói mòn, rửa trôi. Tăng cường công tác nghiên cứu

khoa học sử dụng bền vững tài nguyên đất ....

Bền vững (BV) Khu TĐC Mường Bú

Khu TĐC Hát Lót

Khu TĐC Tân Lập

Không

BV

Kém BV

BV trung bình

BV tiềm năng

80 60 40 20 0 100

17

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

I. KẾT LUẬN

1. Đặc điểm sử dụng đất nông nghiệp ở các khu vực nghiên cứu

- Sơn La với diện tích đất nông nghiệp là 823.216 ha, hiện tại đã khai thác và sử dụng

vượt quá rất nhiều so với tiềm năng sử dụng đất cho mục đích sản xuất nông (178,83%). Cây

trồng hàng năm tại Sơn La chủ yếu là ngô (61,68%), và với hình thức canh tác chủ yếu là

quảng canh, không có biện pháp bảo vệ và phục hồi đất nên đất đang bị xói mòn, rửa trôi làm

chất lượng đất ngày càng giảm.

- Huyện Mường La có 96.284 ha đất nông nghiệp, trong đó đất sản xuất nông nghiệp

chiếm 18,19%. Đất nương rẫy của huyện vẫn chiếm tới 84,21% tổng diện tích đất trồng cây

hàng năm. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của huyện thấp, hệ số sử dụng đất bình quân đạt

1,4 lần.

- Huyện Mai Sơn có 91.181,69 ha đất nông nghiệp, trong đó đất sản xuất nông nghiệp

chiếm 24,99%. Đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ lệ cao nhất (90,23%). Việc sử dụng đất còn

chưa phù hợp. Trong đất trồng cây hàng năm thì diện tích đất chủ yếu (91,41%) được sử dụng

cho trồng ngô, sắn, mía,… Hiệu quả sử dụng đất canh tác còn thấp, hệ số quay vòng sử dụng

đất mới đạt 1,7 lần.

- Huyện Mộc Châu với 135.417 ha đất nông nghiệp, trong đó đất sản xuất nông nghiệp

chiếm 26,69%. Đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ lệ cao nhất 79,6%. Đất nương rẫy vẫn chiếm

tới 93,9% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, trong đó có tới 38.699 ha là đất nương rẫy

chủ yếu trồng ngô, sắn,... trên đất dốc. Hiệu quả sử dụng đất của huyện đạt bình quân 1,4 lần

và không đồng đều giữa các vùng.

- Các nguyên nhân cơ bản gây suy thoái đất tại các khu TĐC nghiên cứu: Địa hình chia

cắt phức tạp, đất có độ dốc lớn; Các yếu tố thời tiết diến biến phức tạp, gió nóng, sương muối,

lũ lụt và hạn hán...; Độ che phủ rừng còn thấp; Các vụ phá rừng làm nương rẫy vẫn tiếp diễn;

Trình độ dân trí thấp, một số tập quán canh tác lạc hậu, các quá trình di dân TĐC đang có nhu

cầu rất lớn về đất nông nghiệp; Quỹ tài nguyên đất cho các điểm TĐC không đủ đáp ứng, thay

đổi sinh kế, môi trường cư trú cho dân TĐC quá nhanh...

2. Đặc điểm, tình hình các khu TĐC nghiên cứu

Với mỗi khu TĐC nghiên cứu có những đặc thù riêng về hình thức và thời gian TĐC. Với

khu TĐC Hát Lót của cộng đồng TĐC từ công trình thủy điện Hòa Bình tại thời điểm nghiên

cứu đời sống của các cộng đồng này đã khá ổn định. Các điều kiện về cơ sở hạ tầng của các

cộng đồng này đã tương đối đầy đủ. Nông nghiệp phát triển mạnh, các bản đều trồng mía

nguyên liệu cho nhà máy, đây là nguồn thu nhập chính cho các cộng đồng này.

Với các bản mới TĐC tại Mường Bú đời sống của cộng đồng vẫn chưa được ổn định, còn

nhiều vấn đề bức xúc. Các nhu cầu tối thiểu của cộng đồng thiếu một cách trầm trọng như

nước sinh hoạt, đất canh tác, cơ sở hạ tầng... Nhiều hộ đã tự ý bỏ về nơi ở cũ. Tiền và lương

thực được trợ cấp từ dự án không được sử dụng đúng mục đích. Địa điểm mới không thuận

lợi cho việc phát triển nghề truyền thống của cộng đồng...

Tại khu TĐC Tân Lập, mặc dù được chọn là khu TĐC kiểu mẫu của tỉnh nhưng cộng

đồng TĐC tại đây đã phải chịu rất nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.

Đặc biệt là sự thất bại trong các dự án nông nghiệp và chăn nuôi tại thời điểm ban đầu triển

khai dự án đã làm cho cộng đồng rất hoang mang về cuộc sống tại nơi ở mới. Đáng chú ý nhất

18

là dự án trồng cỏ, nuôi bò sữa và trồng chè. Hiện tại, đời sống của cộng đồng đã từng bước

được cải thiện.

Đa số cộng đồng TĐC thường có trình độ văn hóa thấp, số người biết tiếng kinh không

nhiều. Đây là một trở ngại lớn khi tiếp thu những chủ trương, chính sách và các quá trình

chuyển giao công nghệ của Đảng và nhà nước. Đại bộ phận cộng đồng TĐC là dân lòng hồ

nên rất thiếu kinh nghiệm trong canh tác nương rẫy.

3. Kết quả xây dựng bộ chỉ thị

Bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong sử đất nông nghiệp tại các khu TĐC được xây

dụng theo mô hình PSR, với các hợp phần chính là chất lượng, sự biến động và quá trình sử

dụng đất. Bộ chỉ thị gồm 17 chỉ thị đơn chia thành 3 mảng áp lực, trạng thái và đáp ứng.

Trong đó, có 3 chỉ thị về áp lực, 10 chỉ thị về hiện trạng và 4 chỉ thị về đáp ứng. Mức độ bền

vững trong sử dụng đất nông nghiệp được đánh giá theo thang điểm 100 gồm 5 mức là không

bền vững, kém bền vững, bền vững trung bình, bền vững tiềm năng và bền vững. Điểm của

các chỉ thị đơn được đánh giá theo thang điểm 10, với tổng trọng số là 10.

4. Kết quả áp dụng bộ chỉ thị vào đánh giá tính bền vững sử dụng đất nông nghiệp tại

các khu TĐC nghiên cứu

Tại khu TĐC Mường Bú có mức điểm là 30,71/100 điểm, được đánh giá ở mức kém bền

vững. Các nhân tố chính làm cho môi trường đất tại Mường Bú kém bền vững là tỷ lệ tăng

dân số cao, hiện tượng xói mòn xảy ra mạnh, năng suất còn thấp, địa hình quá phức tạp, quá

trình sử dụng đất chưa thực sự gắn liền với cải tạo và bổ sung chất hữu cơ cho đất...

Tại khu TĐC Hát Lót có mức điểm là 62,26/100 điểm, được đánh giá ở mức bền vững

tiềm năng. Các nhân tố chính làm cho môi trường đất tại Hát Lót chưa bền vững là: tỷ lệ tăng

dân số cao, hiện tượng xói mòn vẫn xảy ra cục bộ tại một số nơi, quá trình sử dụng đất, gắn

liền với cải tạo và bổ sung chất hữu cơ cho đất còn chưa được đồng bộ và hiệu quả.

Tại khu TĐC Tân Lập có mức điểm là 53,79/100 điểm, được đánh giá ở mức bền vững

trung bình. Các nhân tố chính làm cho môi trường đất tại Tân Lập chưa bền vững là: tỷ lệ tăng

dân số cao, năng suất cây trồng còn chưa cao, hiện tượng xói mòn vẫn xảy ra, quá trình sử

dụng đất chưa gắn liền với cải tạo và bổ sung chất hữu cơ cho đất, tính thích ứng của cộng

đồng còn chưa tốt.

5. Giải pháp nâng cao tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp tại các khu TĐC

nghiên cứu

Để nâng cao tính bền vững trong sử dụng đất tại các khu TĐC nghiên cứu, cần giảm

áp lực lên đất bằng cách giảm tỷ lệ sinh. Áp dụng đồng bộ các kỹ thuật canh tác bền vững trên

đất dốc để hạn chế xói mòn và rửa trôi. Sử dụng phân hữu cơ và phân xanh bón cho cây trồng.

Tập trung thâm canh và đẩy nhanh hơn nữa việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đặc

biệt với khu TĐC Mường Bú; tăng cường trồng các loại cây che phủ đất để bảo vệ đất chống

xói mòn, rửa trôi; tăng cường công tác nghiên cứu khoa học sử dụng bền vững tài nguyên đất;

hạn chế tối đa việc canh tác, trồng cây hàng năm trên đất dốc trên 300; sớm ban hành các cơ

chế, chính sách khuyến khích sử dụng đất trống, đồi núi trọc đưa vào trồng rừng, khoanh nuôi

tái sinh phục hồi rừng để bảo vệ, cải tạo đất; tăng cường công tác giáo dục, phổ biến, tuyên

truyền tại cộng đồng về việc sử dụng đất theo hướng canh tác bền vững.

2. KIẾN NGHỊ

Tuy bộ chỉ thị được xây dựng có ưu điểm là số lượng các chỉ thị không quá nhiều, các

chỉ thị được lựa chọn đơn giản, dễ hiểu; Phương pháp và cách thức lượng hóa các chỉ thị rất

khoa học, rõ ràng và phổ quát; Bộ chỉ thị đã xây dựng có tính mở, có thể áp dụng linh hoạt tùy

19

thuộc vào điều kiện nghiên cứu cụ thể; Bộ chỉ thị đã đưa các trọng số cũng như cách tính và

xây dựng nó trong nghiên cứu đánh giá và áp dụng... Mặc dù vậy, bộ chỉ thị vẫn còn một số

tồn tại như cách xác định các giá trị trọng số của các chỉ thị đơn còn phụ thuộc vào tính chủ

quan của người đánh giá. Vì vậy, cần có các nghiên cứu tiếp để hoàn thiện cách xác định

trọng số cho các chỉ thị đơn trong mỗi nhóm, để đảm bảo tính khách quan trong đánh giá. Bộ

chỉ thị cần được áp dụng vào thực tế trong xây dựng các khu TĐC và các khu vực có điều

kiện tương đồng ở miền núi để kiểm nghiệm và hoàn thiện hơn.

References

Tiếng Việt:

[1] Đào Đình Bắc, Trương Quang Hải (2005), Cơ sở khoa học về mô hình hệ kinh tế sinh thái

đối với các cư dân miền núi tái định cư sau công trình thuỷ điện nhỏ Chu linh, huyện Sa

Pa, tỉnh Lào Cai, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học trọng điểm cấp Đại học Quốc gia, mã

số QGTĐ.03.04, Hà Nội.

[2] Ban công tác Sông Đà tỉnh Sơn La (2005), Báo cáo tình hình thực hiện dự án ổn định dân

cư, phát triển kinh tế – xã hội vùng chuyển dân sông Đà giai đoạn 2001 – 2005, Dự án

1382, Sơn La.

[3] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Xây dựng và thực hiện chương trình PTBV quốc gia của

Việt Nam, Hà Nội.

[4] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2002), Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể di

dân TĐC dự án thuỷ điện Sơn La, Hà Nội.

[5] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2001), Báo cáo tóm tắt quy hoạch phát triển

kinh tế trang trại xã vùng cao Chiềng Ban huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La, Hà Nội.

[6] Bộ Tài nguyên Môi trường (2011), Báo cáo hiện trạng môi trường Quốc gia năm 2010,

Hà Nội.

[7] Nông Quốc Chinh, Ngô Văn Giới, et..al (2011), Giáo dục bảo vệ môi trường và phát triển

bền vững, NXB Đại học Thái Nguyên, 352tr.

[8] Cục Thống kê tỉnh Sơn La (2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010), Niên giám thống kê các

năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009 tỉnh Sơn La, Sơn La.

[9] Nguyễn Xuân Cự (2001), Đánh giá biến động môi trường đất lúa với mức độ thâm canh

khác nhau ở vùng đồng bằng sông Hồng, Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Thổ nhưỡng

học, Trường ĐHKHTN Hà Nội, tr 6-9.

[10] Phạm Hoàng Hải và nnk (2003), Cơ sở khoa học cho công tác di dân, TĐC công trình

thuỷ điện Sơn La, Báo cáo tổng hợp đề tài trọng điểm cấp Trung tâm KHTN & CNQG,

Hà Nội.

20

[11] Phạm Hoàng Hải (2001), ”Vấn đề di dân, TĐC ở công trình thuỷ điện Yaly nhìn từ góc

độ môi trường và phát triển kinh tế – xã hội bền vững”, Tạp chí Địa lý nhân văn (1), Hà

Nội.

[12] Nguyến Quốc Hải, Trần Thị Tâm (2005), ”Ảnh hưởng của băng xanh và phân khoáng

đến năng suất trên đất nương định canh miền núi phía Bắc”, Tạp chí Khoa học Đất (21),

Hà Nội.

[13] Nguyễn Xuân Hải (2004), Bài giảng xói mòn và thoái hóa đất, Trường Đại học KHTN-

ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

[14] Nguyễn Khả Hoà (1994), Lân với cây cà phê chè, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[15] Nguyễn Đình Hoè, Vũ Văn Hiếu (2005), Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu Môi trường

và phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

[16] Hoàng Văn Huây (1985), ”Các loại keo trong đất nhiệt đới Việt Nam”, Tạp chí Khoa học

và Kỹ thuật Nông nghiệp (1), tr.20-25.

[17] Lê Văn Khoa, Trần Thị Lành (1997), Môi trường và PTBV ở miền núi, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

[18] Lê Văn Khoa, Nguyễn Thế Truyền (2001), Nông nghiệp và Môi trường, NXB, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

[19] Nguyễn Đình Long, Ngô Văn Hải (2001), Kinh tế hộ nông dân với hiệu quả kinh tế sử

dụng đất dốc, Khoa học và công nghệ Bảo vệ và sử dụng bền vững đất dốc, Bộ Khoa

học Công nghệ và Môi trường, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

[20] Chế Đình Lý (2006), ”Hệ thống chỉ thị và chỉ số môi trường để đánh giá và so sánh hiện

trạng môi trường giữa các thành phố trên lưu vực sông” Tạp chí Khoa học & Phát triển

Công nghệ (ĐHQG-HCM) tập 9 (2), tr.14-20.

[21] Đặng Văn Minh, Marie Boehm (2001), ”Chất lượng đất: Khái niệm và ứng dụng trong

sản xuất nông nghiệp bền vững”, Tạp chí Khoa học đất (15), tr, 59-62.

[22] Hoàng Thị Minh (2004), Ảnh hưởng của một số loại hình sử dụng đất dốc đến tính chất

đất vùng miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, chuyên ngành Thổ

nhưỡng học, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

[23] Nguyễn Quang Mỹ (2005), Xói mòn đất hiện đại, NXB Quốc Gia, Hà Nội.

[24] Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (2002), Sử dụng bền vững đất miền núi và vùng cao ở Việt

Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[25] Ngô Đình Quế, Đinh Thanh Giang (2001), Nghiên cứu xây dựng mô hình luân canh

nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nương rẫy ở Tây Bắc, Khoa học và công nghệ Bảo

vệ và sử dụng bền vững đất dốc, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

21

[26] Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế, Nguyễn Tử Siêm (2006), Cẩm nang ngành lâm nghiệp,

Bộ NN&PTNN.

[27] Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên (1999), Đất đồi núi Việt Nam thoái hoá và phục hồi,

NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[28] Sở NN&PTNT Sơn La (2005), Báo cáo tình hình thực hiện chính sách di dân TĐC, di

dân tự do 3 khu vực của tỉnh Sơn La trong 10 năm 1996-2005, Sơn La.

[29] Sở TNMT tỉnh Sơn La (2006), Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh sơn La 2005, Sơn La.

[30] Trần Kông Tấu và Lê Văn Lanh (1986), ”Thành phần cơ giới đất feralit vàng đỏ phát

triển trên đá phiến thạch sét và đá gơnai ở Việt Nam’’, Tạp chí Khoa học & Kỹ thuật

Nông nghiệp (2), tr.64-66.

[31] Đào Châu Thu, Trần Minh Tiến (2003), ”Điều tra phân loại đất theo kiến thức bản địa

của người Thái, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La”, Tạp chí Khoa học Đất (17), Hà Nội.

[32] Nguyễn Văn Toàn (2005), Đất đồi núi Việt Nam - Hiện trạng và tiềm năng phát triển

các cây trồng lâu năm và cây đặc sản, Khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển

nông thôn 20 năm đổi mới, Đất Phân bón, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 3,

tr.153-166.

[33] Trần Đức Toàn, Thái Phiên (2001), Ảnh hưởng của các biện pháp kỹ thuật canh tác đến

diến biến độ phì nhiêu của đất dốc, Khoa học và Công nghệ Bảo vệ và sử dụng bền

vững đất dốc, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

[34] Lê Trình, Lê Thạc Cán (2003), Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp

Quốc gia ở Việt Nam, Hà Nội.

[35] Phạm Gia Tu (1970), Một số kết quả nghiên cứu Thổ nhưỡng từ năm 1956 đến 1967,

Nghiên cứu đất phân, tập 2, tr.74-97.

[36] Đào Thế Tuấn (1995), Phát triển bền vững của Nông nghiệp Việt nam, Tính bền vững

của sự phát triển nông nghiệp của miền Bắc Việt nam, NXB Khoa học & Kỹ thuật, Hà

Nội, tr.258-231.

[37] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Báo cáo sơ kết công tác di dân, TĐC Dự án thuỷ điện Sơn

La năm 2005 (2006), Mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch di dân, TĐC năm 2006, Số 04/BC-

UBND, Sơn La.

[38] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Ban quản lý dự án di dân, TĐC thuỷ điện Sơn La (2005),

Các văn bản về chính sách bồi thường, di dân, TĐC thuỷ điện Sơn La, Sơn La.

[39] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Tài nguyên và Môi trường (2005), Bảo tồn đa dạng

sinh học tỉnh Sơn La, Báo cáo chuyên đề thuộc dự án Chiến lược phát triển bền vững

tỉnh Sơn La - LA21, Sơn La.

22

[40] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Tài nguyên và Môi trường (2005), Bảo vệ môi trường

khu TĐC công trình thủy điện Sơn La, Báo cáo chuyên đề thuộc dự án Chiến lược phát

triển bền vững tỉnh Sơn La - LA21, Sơn La.

[41] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Tài nguyên và Môi trường (2005), Bảo vệ và sử dụng

bền vững tài nguyên nước, Báo cáo chuyên đề thuộc dự án Chiến lược phát triển bền

vững tỉnh Sơn La - LA21, Sơn La.

[42] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Tài nguyên và Môi trường (2005), Sử dụng đất đai hợp

lý và ngăn chặn suy thoái đất, Báo cáo chuyên đề thuộc dự án Chiến lược phát triển bền

vững tỉnh Sơn La - LA21, Sơn La.

[43] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2009), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế xã

hội tỉnh Sơn La thời kỳ 2006 – 2020, Sơn La.

[44] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, Sở Tài nguyên và Môi trường (2007), Điều chỉnh chiến

lược BVMT tỉnh Sơn La giai đoạn 2007-2010 và tầm nhìn đến 2020, Sơn La.

[45] Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2007), Sở Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng

môi trường tỉnh Sơn La năm 2006, Sơn La.

[46] Ủy ban nhân dân huyện Mường La (2006), Phòng Tài nguyên Môi trường, Báo cáo hiện

trạng và định hướng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và dự báo đến năm

2015 huyện Mường La, Sơn La.

[47] Ủy ban nhân dân huyện Mộc Châu (2006), Phòng Tài nguyên Môi trường, Báo cáo tổng

hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và dự báo đến năm 2015, Sơn La.

[48] Ủy ban nhân dân huyện Mai Sơn (2006), Phòng Tài nguyên Môi trường, Báo cáo thuyết

minh kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006-2010, Sơn La.

[49] Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Công ty cổ phần Ha Bơ, tỉnh Thái Nguyên (2005),

Báo Cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch phát triển KT-XH khu TĐC xã Mường Bú,

Thái Nguyên.

[50] Ủy ban nhân dân thị Trấn Hát Lót (2007), Báo cáo Tình hình phát triển kinh tế xã hội, an

ninh quốc phòng 9 tháng đầu năm 2007, những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp thực

hiện 3 tháng cuối năm 2007, Sơn La.

[51] Viện nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (2001), Thế giới bền

vững, định nghĩa và trắc lượng PTBV, Hà Nội.

[52] Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (2006), Thuyết minh bản đồ đất tỉnh Sơn La,

Hà Nội.

[53] Nguyễn Vy và Trần Khải (1969), ”Sự phân bố khoáng sét trong đất miền Bắc Việt

Nam”, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp (8), tr.462-474.

Tiếng Anh:

23

[54] Asian Development Bank (1990), Environmental Risk Assessment, Dealing with

Uncertainty in Environmental Impact Assessment, ADB Environment Paper (7), Manila.

[55] Benites J.R. and J.B. Tschirley (1997), Summary report and conclusion of the workshop

on land quality indicators and their use in sustainable agriculture and rural

development, Rome Jan, pp.1-5.

[56] Bill Mollison and Reny Mia Slay (1999), Permaculture: A Designers' Manual, Tagari

Publications, Tyalgum Australia.

[57] Carter, M.R., (2002), Soil quality for sustainable land management: Organic matter and

aggregation interactions that maintain soil function, pp.38-47.

[58] Carter, M. R., E. G. Gregorich, D. W. Anderson, J.W. Doran, H.H. Janzen, and F.J.

Pierce (1997), Concepts of soil quality and their significance, Elsevier Science

Publishers, Amsterdam, The Netherlands, pp.1-19.

[59] D.L. Karlen (1993), Effects of Soil and Crop Management Practices on Soil Quality,

National Soil Tilth Laboratory Agricultural Research Service, U.S. Department of

Agriculture Ames, Iowa, USA.

[60] D. L. Karlen, J. C. Gardner, and M. J. Rosek (1998), A Soil Quality Framework for

Evaluating the Impact of CRP, Prod. Agric, Vol.11, DO1.

[61] D. L. Karlen, M. J. Mausbach, J. W. Doran, R. G. Cline, R. F. Harris, and G. E. Schuman

(2003), Soil Quality: A Concept, Definition, and Framework for Evaluation, Elsevier,

Geoderma, pp.114– 156.

[62] Doran, J.W. and T.B. Parkin (1994), Defining and assessing soil quality, SSSA Special

Pub, (35), ASA, CSSA, and SSSA, Madison, WI, pp.3-21.

[63] Doran, J.W, M. Sarrantonio, and M.A. Liebig (1996), “Soil health and sustainability”,

Advances in Agronomy, Academic Press, San Diego, CA, vol. 56, pp.1-54.

[64] Dumanski J and C. Pieri (1997), Application of the Pressure-State-Response framework

for the land quality indicators (LQI) programme. Proceedings of the workshop

organized by the Land and Water Development Division, FAO Agriculture Department

and the Research – Extension and Training Division, Rome, Italy Land and Water

bulletins (5), pp.35-57.

[65] Dumanski. J (2000), "Assessing sustainable land management (SLM)", Agriculture,

Ecosystems & Environment 81(2), pp.83-92.

[66] FAO (1989), Research and Technology CGIAR, Sustainable agricultural production:

Implications for International agricultural research, Paper 4, Rome, 131p.

[67] FAO (1991), FESLM: An international framework for evaluating sustainable land

management, World Soil Resources Report 73, 74p.

24

[68] FAO (1994), Farming systems development and soil conservation, FAO, Rome, pp.6-15.

[69] FAO (1995), Planning for sustainable use of land resources: Toward a new approach,

Background paper to FAO’s task manager ship for chapter 10 of Agenda 21 of the

UNCED, Land and water bulletin (2), Rome, pp.50-60.

[70] FAO, UNDP, UNEP and WB (1997), Land quality indicators and their use in

sustainable agriculture and rural development, FAO Sustainable Development

Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5), 212p.

[71] Fahnenstock, P., Lal, R. and Hall, G.F., (1995). ”Land use and erosional effects on two

Ohio Alfisols Crop yields”, Journal of Sustainable Agriculture, (7), pp.85-100.

[72] Freddy O. Nachtergaele (2009), The future of drylands, Land Degradation Assessment

Indicators and the LADA project, Soil Conservation and Protection for Europe, Land

and Water development Division, FAO, Italy.

[73] H. Wattenbach and K.H. Friedrich (1997), Farming systems indicators for sustainable

natural resource management, Land quality indicators and their use sustainable

agriculture and rural development, FAO Development Department, Rome, Italy, Land

and water bulletin (5), pp.95-105.

[74] Idowu, O.J., H.M. van Es, G.S. Abawi, D.W. Wolfe, J.I. Ball, B.K. Gugino, B.N.

Moebius, R.R. Schindelbeck and A.V. Bilgili (2008), ”Farmer oriented assessment of

soil quality using field, laboratory and VNIR spectroscopy methods”, Plant Soil (307),

pp.243-253.

[75] J.B. Tschirley (1997), Considerations and constraints on the use of indicators in

sustainable agriculture and rural development, Land quality indicators and their use

sustainable agriculture and rural development, FAO Development Department, Rome,

Italy, Land and water bulletin (5), pp.185-197.

[76] J. Kapetsky and U. Barg (1997), Land quality indicators from the viewpoint of inland

fisheries and aquaculture, Land quality indicators and their use sustainable agriculture

and rural development, FAO Development Department, Rome, Italy, Land and water

bulletin (5), pp.117-127.

[77] J.R. Benites, F. Shaxson and M. Vieira (1997), Land condition change indicators for

sustainable, Land quality indicators and their use sustainable agriculture and rural

development, FAO Development Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5),

pp.57-76.

[78] Jodha N.S (1990), Sustainable agriculture in fragile resource zones, Technological

Imperative, International symposium on natural resource management for a sustainable

agriculture, New Deihli.

25

[79] Larson, W.E. and F.J. Pierce (1991), Conservation and enhancement of soil quality,

Evaluation for Sustainable Land Management in the Developing World, Conference,

International Board for Soil Research and Management (IBSRAM), Jatujak Thailand,

Bangkok, Academic Press, San Diego, CA Thailand.

[80] Larson, W.E. and F.J. Pierce (1994), The dynamics of soil quality as a measure of

sustainable management, pp.37-51, In: J.W. Doran, D.C. Coleman, D.F.Bezdicek, and

B.A. Stewart (eds.), Defining Soil Quality for a Sustainable Environment. SSSA Special

Pub, (35), ASA, CSSA, and SSSA, Madison, WI.

[81] Larson L.O and P. Narain (1997), Land quality and other indicators of sustainable

development statistical data, quality control and problems of aggregation. Land quality

indicators and their use in sustainable agriculture and rural development, FAO

Development Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5), pp.165-185.

[82] Majid Rashidi, et…al (2010), “Evaluation of Some Soil Quality Indicators in the

Varamin Region, Iran”, World Applied Sciences Journal, 9(1), pp.101-108.

[83] M.A. Arshad, S. Martin (2002), “Identifying critical limits for soil quality indicators in

agro-ecosystems”, Agriculture, Ecosystems and Environment (88), pp.153–160.

[84] Moebius, B.N., H.M. van Es, R.R. Schindelbeck, O.J. Idowu, D.J. Clune and J.E. Thies

(2007), “Evaluation of laboratory measured soil physical properties as indicators of soil

physical quality”, Soil Sci (172), pp.895-912.

[85] M. Schomaker (1997), Development of environmental indicators in UNEP, Land quality

indicators and their use sustainable agriculture and rural development, FAO

Development Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5), pp.25-35.

[86] Nasir EL Bassan (1999), Sustainable development in agriculture – Global key issues,

Natural Resource and Development, Vol 51, Istitute for Scientific Co-operation,

Tubingen, Germany, pp.39-41.

[87] Nortcliff, S, (2002), “Standardization of soil quality attributes”, Agriculture, Ecosystems

and Environment (88), pp.161-168.

[88] Pavel Nova’k, Jan Vopravil and Jitka Lagova’ (2010), Assessment of the Soil Quality as

a Complex of Productive and Environmental Soil Function Potentials, Soil & Water Res

5, (3), pp.113–119.

[89] Pimentel, D, Harvey, C., Resoudarmo, et al… (1995), “Environmental and economic

costs of soil erosion”, Journal of Science (267), pp.1117–1123.

[90] RIVM/UNEP (1995), Scanning the global environment: A framework and methodology

for UNEP’s reporting functions, UNEP Environment Assessment Technical Report 95-

01, Nairobi, Kenya.

26

[91] Romig, D.E., M.J. Garlynd, R.F. Harris and K. McSweeney (1995), How farmers assess

soil health and soil quality, J. Soil Water Conservation (50), pp. 225-232.

[92] R.Brinkman (1997), Land quality indicators: aspects of land use, land, soil and plant

nutrients, Land quality indicators and their use sustainable agriculture and rural

development, FAO Development Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5),

pp.79-95.

[93] Sabine Klloge (1997), “Sustainable agriculture in Agenda 21 - The implementation of the

UN action programmed by the EU common agriculture policy”, Plant Research and

Development, Institute for Scientific Cooperation, Tubingen, Germany, Vol.45, pp.7-19.

[94] Sajjapongse, A. (1988), Asialand, management of sloping land network: an overview of

Phase 3, Network Document (23), Bangkok, IBSRAM.

[95] Seybold, C.A, M.J. Mausbach, D.L. Karlen, and H.H. Rogers (1998), Quantification of

soil quality, pp.387-404. In: R. Lal, J.M. Kimble, R.F. Follett, and B.A. Stewart (eds.)

Soil recesses and the carbon cycle. CRC Press, BocaRaton.

[96] SCOPE (1995), Environmental Indicators: Systematic Approach to Measuring and

Reporting on the Environment in the Context of Sustainable Sevelopment. Paper by the

Project on Indicators of Sustainable Development of the Scientific Community on

Problems of the Environment (SCOPE) presented at an International Workshop on

Indicators of Sustainable Development for Decision-Making, 9-11 January, Ghent,

Belgium.

[97] Shumacher, T.E, Lindstrom M.J. Mokma, D.L. and Nelson W, (1994), ”Corn yields:

erosion relationships of representative loess and till soils in the North Central United

States”, Journal of Soil and Water conservation (49), pp.77–81.

[98] Smyth. A.J and Dumanski. J (1993), "FESLM: An international framework for

evaluating sustainable land management", A discussion paper, World Soil Resources

Report 73. FAO, Rome, Italy, pp.73-74.

[99] Simon Bell and Stephen Morse (2008), Sustainability Indicators measuring the

immeasurable? Earthscan in the UK and USA, Second Edition, pp.11-15

[100] S.W. Bie, A. Baldascini and J.B. Tschirley (1997), The context of indicators in FAO,

Land quality indicators and their use sustainable agriculture and rural development.

FAO Development Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5), pp.19-25.

[101] T.F. Shaxson (1997), Land quality indicators: ideas stimulated by work in Costa Rica,

North India and Central Ecuador, Land quality indicators and their use sustainable

agriculture and rural development, FAO Development Department, Rome, Italy, Land

and water bulletin (5), pp.163-165.

27

[102] Thai Phien and Nguyen Tu Siem (1996), "Management of Sloping lands for Sustainable

Agriculture in Vietnam", The management of sloping lands in Asia,

(IBSRAM/ASIALAND) Network Document (20), pp.275-314.

[103] Thomas Dierolf, Thomas Fairhurst and Ernst Mutert (2001), Soil Fertility Kit, A toolkit

for acid, upland soil fertility management in Southeast Asia, Potash & Phosphate

Institute, 149p.

[104] Trzyna T.C (ed) (1995), A Sustainable World, Defining and Measuring Sustainable

Development, IUCN, Earthscan, London.

[105] UN (2007), Indicators of Sustainble Development – Guidelines and Methodologies,

Economic & Social Affairs, Third Edition,United Nations, New York.

[106] UNEP/ISRIC/FAO, (1995), Soil Degradation in South and Southeast Asia (ASSOD),

Wageningen, ISRIC.

[107] UNEP/FAO/UNDP (1994), Land Degradation in South Asia: Its severity, Causes and

effects upon the People NEP/FAO/UNDP, FAO World Soil Resources Report 78 FAO,

Rome.

[108] USDA (2001), Guidelines for Soil Quality Assessment in Conservation Planning,

Natural Resources Conservation Service Soil Quality Institute.

[109] W.G. Sombroek (1997), Land resources evaluation and the role of land-related

indicators, Land quality indicators and their use sustainable agriculture and rural

development, FAO Development Department, Rome, Italy, Land and water bulletin (5),

pp.9-19.

[110] www.gaia.org (2000), Community Sustainability Assessment (CSA), the Global

Ecovillage Network.