Upload
mthgroup
View
26
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Quy hoach Coffyn
Citation preview
29
VIẾT THÊM VỀ QUY HOẠCH COFFYN 1862
Tôn Nữ Quỳnh Trân
Trương Hoàng Trương
Khi đề cập đến quy hoạch thành phố Sài Gòn thời thuộc Pháp, chúng ta
vẫn nhắc đến quy hoạch Coffyn1 và có nhiều ý kiến tương phản chung quanh việc
có thực hiện hay không của quy hoạch này. Có ý kiến cho rằng quy hoạch này
không được thực hiện, nhưng cũng có bài viết cho thấy quy hoạch này đã được
thực hiện dù không theo hoàn toàn ý đồ của tác giả.
Bài tham luận2 này góp phần vào việc làm sáng tỏ quy hoạch Coffyn nhờ
hai nguồn tư liệu chính. Một là tư liệu tìm được tại Lưu trữ Quốc gia Pháp -
Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại tại AIX en Provence (Archives Nationales - Centre
des Archives d'Outre-Mer (CAOM) [Aix-en-Provence)3 và một bộ sưu tập về bản
đồ vào thời kỳ ấy của Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển (CEFURDS)4.
PGS.TS, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển. * TS, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển.
1 Lucien Florent Paul Coffyn (20/5/1810 - 5/8/1871) là sĩ quan viễn chinh của Pháp, năm 1838 là Đại úy, Chỉ huy Bộ binh ở vùng Océanie, Tahiti ; năm 1852 là Tiểu đoàn trưởng đoàn 3 vùng Condé Bắc (Pháp); năm 1860 là Trung tá chỉ huy công binh ở Ajaccio (đảo Corse, Pháp); năm 1862 là Đại tá chỉ huy lực lượng công binh viễn chinh Nam Kỳ, nguồn : http://pagesperso-orange.fr/seynaeve/page_c.htm 2 Tham luận này được ThS. Lê Văn Năm và ông Vũ Ngọc Thành hỗ trợ tích cực trong việc phân tích các bản đồ có liên quan. 3 Tài liệu tìm được tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại (CAOM) là bản vẽ quy hoạch bằng màu của Coffyn, và văn bản thuyết minh về quy hoạch này của chính Coffyn, tựa đề là “Note à l’appui d’un projet de la Ville de Saigon” (Ghi chép về một dự án của thành phố Sài Gòn), in lại trong sách Documents pour servir à l’Histoire de Saigon (Tài liệu dùng cho Lịch sử Sài Gòn) của Jean Bouchot, Sài Gòn, NXB Albert Portail, 1927, tr.37-42, lưu trữ tại Đại học Aix en Provence (Aix – Marseille I). 4 Đấy là những bản đồ về Sài Gòn – Chợ Lớn năm 1872, 1878, 1958.
30
Người ra quyết định thiết kế quy hoạch cho Sài Gòn – Chợ Lớn là Phó Đô
đốc Charner1, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ vào năm 1861 và là
người đã chỉ huy phá vỡ được hệ thống phòng thủ Đại đồn Chí Hòa của Nguyễn
Tri Phương vào cuối tháng 2 năm 1861. Sau khi phá được Đại đồn Chí Hòa, làm
chủ đất Sài Gòn – Chợ Lớn, Charner ban hành nghị định thiết kế quy hoạch vào
ngày 11/4/1861, nhưng sau đó Charner được thăng chức và được điều động về
Pháp. Công việc này được người kế nhiệm là Phó Đô đốc Bonard2 tiếp tục tiến
hành. Người chịu trách nhiệm thiết kế là Đại tá Coffyn, Chỉ huy trưởng lực lượng
công binh viễn chinh. Bản quy hoạch của Coffyn có tên là Projet de Ville de
500.000 âmes à Saigon (Dự án thành phố 500.000 người tại Sài Gòn), được đệ
trình vào ngày 30/4/1862, và được Bonard chấp thuận.
Quy hoạch của Coffyn năm 1862
Nguồn: CAOM
1 Léonard Victor Joseph Charner (1797-1869) là Thống đốc quân sự Nam Kỳ từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1861. 2 Louis Adolphe Bonard (1805-1867) thay thế Charner vào tháng 11 năm 1861, sau đó trở thành
Thống đốc dân sự đầu tiên của Nam Kỳ cho đến năm 1863.
31
1. Nội dung của quy hoạch Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon (Dự
án thành phố 500.000 người tại Sài Gòn) của Coffyn
Về ranh giới
Vì ba mặt của thành phố đã được bao bọc bằng ba đường nước thiên nhiên
rồi là rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé, nên Coffyn muốn phát huy
lợi thế ấy, vẽ nên một đường nước thứ tư, mà Coffyn gọi là kênh đấu nối (canal de
jonction), nối kênh Tàu Hũ với rạch Thị Nghè bằng một con kênh vòng cung để
thành phố trở thành như một hòn đảo, được nước bao quanh bốn phía.
Về diện tích và dân số
Với ranh giới này, thành phố sẽ có diện tích khoảng 2500 ha. Dân số dự
kiến từ 500.000 đến 600.000 người. Ngoài ra, còn có một số khu đất ở ngoại thành
nằm ở phía tả sông Sài Gòn và phía hữu rạch Bến Nghé cũng được dự trù dùng để
xây xưởng và nhà kho.
Đất lô
Đất trong thành phố được phân thành lô lớn nhỏ tùy theo vị trí và việc sử
dụng:
- Loại 1: Lô nhà cho thương gia nhỏ trên bến cảng: 10 m x 12 m = 120m2
- Loại 2: Lô nhà cho thương gia lớn trên bến cảng: 20 m x 20 m = 400m2
- Loại 3: Lô nhà ở trong nội thành: 20 m x 80 m = 1.600m2
- Loại 4: Lô nhà ở ngoại ô: 50 m x 90 m = 4.500m2
Đường phố: Đường chính có chiều rộng 40m, vỉa hè rộng 4m với 2 hàng
cây mỗi bên. Đường loại hai rộng 30m, vỉa hè rộng 2m và mỗi bên có trồng 1 hàng
cây.
Thành phố hành chính và thành phố kinh doanh: Thành phố được chia
thành 2 khu vực chính: khu hành chính và khu thương mại, dịch vụ, công nghiệp.
Lấy trục đường Impériale (đường Hai Bà Trưng) để phân định hai khu này. Ở phía
Đông của đường cho đến rạch Thị Nghè là khu hành chính. Trên khu vực rộng
khoảng 200 ha này có các cơ sở quan trọng như dinh Thống đốc, các nha, sở hành
chính, doanh trại quân đội, công xưởng hải quân...
Khu phía Tây đường này kể cả Chợ Lớn là khu thương mại, công nghiệp,
dịch vụ với diện tích khoảng 2.300 ha.
Quy hoạch hệ thống đường
32
Một con đường thẳng góc với thành Phụng (Chasseloup Laubat – Nguyễn
Thị Minh Khai) được lấy làm trục chính để từ đó vạch các con lộ lớn chạy song
song hay chạy thẳng góc với sông Sài Gòn. Các lộ nhỏ sẽ được phóng sao cho tạo
được sự phối hợp hoàn hảo nhất với các lộ chính tùy theo địa hình từng nơi.
Đường sá và bến cảng
Chiều rộng của các con lộ chính loại 1 là 40m, đường loại 2 là 20m. Lộ loại
chính có vỉa hè 4 m chạy dọc trước các dãy nhà, mỗi bên có hai hàng cây. Lộ loại
hai có vỉa hè rộng 2 m và chỉ có một hàng cây.
Chiều rộng của bến cảng dọc sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé bằng chiều
rộng của các lộ chính là 40m, vỉa hè 6m với hai hàng cây, và nếu có thể, để sau
này thiết kế đường sắt. Dọc kênh vành đai (kênh đấu nối kênh Tàu Hũ với rạch
Thị Nghè) là một đại lộ có chiều rộng bằng bến cảng. Bố trí như thế, người dân có
thể dạo chơi dưới bóng cây trên một chiều dài khoảng 20km ven sông, rạch.
Đài phun nước và nước máy
Vì đất Sài Gòn thấp nên không thể tạo những đài phun nước tự nhiên, cho
nên phải sử dụng nước ngầm và với máy hút, đưa nước lên để tạo các đài phun
nước tại những địa điểm đã được chọn.
Việc cung cấp nước cho máy nước được giải quyết dễ hơn bằng cách xây
những guồng nước trên kênh vành đai. Để có thể chứa được nước, cần phải có
cống chặn ở hai đầu con kênh.
Thoát nước mưa và nước sinh hoạt
Việc thoát nước mưa và nước sinh hoạt luôn luôn gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt lại rất khó khăn tại đây vì độ chênh giữa cao độ mặt đất Sài Gòn so với mặt
nước của sông và kênh rạch là rất thấp nên không thể đặt được loại cống bình
thường. Để hỗ trợ cho hệ thống cống, cần có cống có van tự động mà đôi khi hiệu
quả cũng không chắc chắn và việc thực hiện cũng có nhiều khó khăn. Vì thế,
Coffyn đề nghị cùng Bonard làm hồ giống như hồ chứa nước ở Calcutta, tức là
đào một hồ trung tâm rất rộng, có tia ra 4 đường cống thu nước, nối với kênh Tàu
Hũ, rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn và kênh vành đai1. Hồ trung tâm này, mỗi khi
được trang bị cửa cống, sẽ tạo được dòng nước chảy, sẽ cung cấp nước chảy vào 4
1 Trên bản quy hoạch của Coffyn có hai đường nước nối hồ trung tâm với kênh vành đai và rạch Bến Nghé.
33
cống thu và cũng nhận nước từ 4 đường cống thu ấy khi có thủy triều. Cứ hai lần
mỗi tuần sẽ có nước vào và nước ra ở từng cống.
Ngoài ra, cũng phải thi công làm sao để độ dốc của các con đường, bến
cảng, đại lộ bảo đảm được luồng chảy cho nước mưa cũng như cho các đài phun
và nước máy, làm thành những con suối nước chảy dọc theo các vỉa hè.
Còn về nước sinh hoạt, thì cần chứa trong các bể chứa.
Địa điểm nhà tiêu: Các nhà tiêu cần được trang bị các hố kín để chứa phân.
Các hố này nên đặt cạnh bể thoát nước sinh hoạt.
Cổng thành phố: Thành phố có sáu cổng, ba ở phía Bắc, một ở phía Nam,
một ở phía Đông và một ở phía Tây.
Vấn đề phòng ngự: Thành phố sẽ được chính dòng sông và các kênh rạch
bảo vệ, ngoài ra còn có hai đồn và hai giàn pháo. Đồn thứ nhất nằm bên hữu ngạn
sông Sài Gòn1, cách Sài Gòn khoảng 1.500m. Đồn thứ hai đối diện với đồn này2.
Về địa điểm của nơi đặt giàn pháo là, một ở chỗ gặp nhau của sông Sài Gòn và
rạch Bến Nghé, một về phía Nam, ở trên khu đất ngôi chùa hoàng gia cũ.3 Cái đồn
thứ nhất (Hữu Bình) đã hoàn thành, còn đồn thứ hai và hai giàn pháo thì đang
trong thời kỳ thi công. Về phía Thị Nghè, thì hệ thống phòng thủ sẽ là con kênh
vành đai. Dọc kênh sẽ bố trí các ụ, các pháo đài lồi. Hệ thống phòng thủ này sẽ
được hỗ trợ bằng các lũy bán nguyệt, lũy có hình mũi tên tại các cổng vào thành
phố.
1 Tức là đồn Hữu Bình đã có từ trước khi người Pháp đến. 2 Địa điểm của đồn Tả Bình. 3 Chúng tôi chưa có thông tin về ngôi chùa này.
34
Vị trí đồn Hữu Bình và Tả Định
Mảnh cắt từ bản đồ Gia Định Thành
Để kết luận cho dự án này, Coffyn cho rằng mỗi khi mà dự án được triển
khai, thì có thể bán ngay 896 lô đất quy hoạch1.
Vào thời điểm mà Quy hoạch Coffyn được phê duyệt, tình hình chiến sự tại
Nam Kỳ vẫn còn kéo dài, nên quy hoạch này chưa thể triển khai ngay được. Dựa
vào các văn bản và nhất là các bản đồ về sau, ta thấy quy hoạch này đã được triển
khai từng phần, tuy không được hoàn chỉnh.
2. Thành phố Sài Gòn và quy hoạch Coffyn
Năm 1865, sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, chính quyền
thuộc địa bắt đầu công cuộc chỉnh trang thành phố Sài Gòn với Nghị định ngày
1 Tất cả phần này được viết theo bản báo cáo của Coffyn, tựa đề của bản báo cáo được đặt tên là “Note à l’appui d’un projet de la Ville de Saigon” (Ghi chép về một dự án thành phố Sài Gòn), in lại trong sách Documents pour servir à l’Histoire de Saigon (Tài liệu dùng cho Lịch sử Sài Gòn) của Jean Bouchot, Nhà xuất bản Albert Portail, Sài Gòn, 1927, tr.37-42.
Đồn Hữu Bình Đồn Tả Định
35
3/10/18651. Diện tích chỉnh trang được xác định chủ yếu là phần diện tích đã có
đông dân cư với diện tích không quá 3 km2 (nằm ở một phần quận 1 ngày nay).
Việc xây dựng thành phố được thực hiện trên vùng đất trong quận 1 và một phần
quận 3 ngày nay. Sau đây là bản quy hoạch Coffyn và bản đồ năm 1878 để có thể
so sánh việc thực hiện quy hoạch Coffyn.
Mảnh cắt từ bản quy hoạch của Coffyn (tương đương quận 1 và một phần quận 3)
1 Trần Văn Giàu (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập I, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1987, tr.230.
36
Mảnh cắt từ bản đồ Plan de la ville de Saigon – Cochinchine 1878
Về hệ thống đường sá
Đúng như Coffyn đã quy hoạch, con đường thẳng góc với thành Phụng (sau
này có tên là Chasseloup Laubat và hiện nay là Nguyễn Thị Minh Khai) được lấy
làm trục chính để vạch các con lộ lớn khác. Bản đồ 1878 cho thấy một trục đường
mới được hình thành (đường Hai Bà Trưng) cắt thẳng góc với đường trục chính
ấy.
Cuối trục đường mới (Hai Bà Trưng) là một vòng xoay giao thông quan
trọng được hình thành nằm bên bờ sông Sài Gòn. Vòng xoay được ghi chú trên
bản đồ 1867 là Rond Point (nay là công trường Mê Linh), mang hình rẽ quạt, một
hình dáng điển hình của những đô thị được hình thành từ các cảng ven sông, ven
biển. Vòng xoay này đã được thể hiện trên quy hoạch của Coffyn dù trong văn bản
viết không thấy đề cập đến.
Thành phố được chia cắt cân xứng bởi hai trục đường lớn ấy và từ đó mạng
lưới giao thông bàn cờ dần dần xuất hiện, song song hoặc thẳng góc với dòng sông
Sài Gòn. Các đại lộ Norodom (Lê Duẩn), Citadelle (Tôn Đức Thắng), Bonard (Lê
37
Lợi), Canton (Hàm Nghi) xuất hiện vào khoảng những năm 70 của thế kỷ ấy thể
hiện được tinh thần của quy hoạch Coffyn, với chiều rộng 40m, vỉa hè 4 m và
những hàng cây chạy dọc vỉa hè. Cũng từ các trục chính, các con lộ loại hai được
vạch ra như Pellerin (Pasteur ngày nay), Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa)...
Một số bến cảng cũng được thực hiện như Coffyn đã mô tả. Hai bến cảng1
từ xưởng đóng tàu Ba Son uốn theo bờ sông Sài Gòn đến vàm Bến Nghé được
hoàn chỉnh. Dọc hai bến cảng này là các hàng cây chạy dài và có một thời, các
chiếc tramway đã chạy dưới hàng cây này.
Cũng trong thời kỳ này, hệ thống cây xanh và công viên của thành phố
được hình thành. Cây xanh được phủ lên hầu hết các tuyến đường đã có trước đây
và đường mới mở. Đó là các tuyến đường như đường Mois (Nguyễn Đình Chiểu),
đường Thabert (Nguyễn Du), đường d’Espagne (Lê Thánh Tông), đường
Impériale (Hai Bà Trưng), đường Catinat (Đồng Khởi), đường Pellerin (Pasteur),
đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), đường La Grandière (Lý Tự Trọng), 5
đường rẽ quạt của Vòng xoay Rond Point; các đại lộ như Norodom (Lê Duẩn),
Citadelle (Tôn Đức Thắng), Bonard (Lê Lợi), Canton (Hàm Nghi); các đường ven
sông như Quai Primauguet (Tôn Đức Thắng), Quai Napoléon (Tôn Đức Thắng),
Quai de l’Arroyo Chinois (bến Chương Dương)…
1 Hai bến cảng này mang tính chất khác nhau. Đoạn từ xưởng Ba Son đến Vòng xoay được gọi là bến cảng Primauguet, là cảng quân sự, đoạn từ Vòng xoay đến vàm Bến Nghé được gọi là bền cảng Commerce, là cảng thương mại.
38
Hệ thống cây xanh và công viên
(mảnh cắt từ bản đồ Plan de la ville de Saigon (Cochinchine) 1878)
Công viên
Hàng cây
Hai công viên lớn được đặt ở hai đầu đại lộ Norodom (Lê Duẩn) là công
viên Norodom (1) (công viên 30 tháng 4) và vườn Bách Thú (2), công viên Tao
Đàn (3) được tu bổ nằm sát ngay sau dinh Norodom (4).
Chính những cây xanh, công viên này đã tạo nên vẻ đẹp cho Sài Gòn sau
này với những con đường rợp lá me bay như đường Nguyễn Du, đường Phạm
Ngọc Thạch, Lý Tự Trọng, Nguyễn Du, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, hoặc những hàng cổ
thụ sao dầu ở đường Pasteur, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Tôn Đức Thắng, công viên
1
2
3
4
39
Tao Đàn, công viên 30/4, Thảo Cầm Viên với những cánh sao dầu buông mình
xoay tròn trong gió.
Về con kênh đấu nối rạch Thị Nghè và kênh Tàu Hũ
Carte générale de la Cochinchine, Canton de Dương Hòa Trung 1872-1873
Để xem xét con kênh này, chúng tôi dùng bản đồ Carte générale de la
Cochinchine, Canton de Dương Hòa Trung 1872-18731. Bản đồ cho thấy con
kênh mà Koffyn gọi là kênh đấu nối (canal de jonction) đã được đào và mang tên
là Canal de Ceinture. Kênh còn được gọi là kênh Vành Đai, kênh Bao Ngạn. Căn
cứ vào bản đồ 1872 này thì con kênh này có thể ra đời trước năm 18722. Sách Sài
Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển cho biết có đến 40.000 nhân công được huy
1 Bản đồ do Đại úy Hải quân Pháp là Brigel vẽ dựa trên dữ liệu thu thập mới nhất do lệnh của Thống đốc Nam Kỳ Đô đốc Dupré vào năm 1872-1873 2 Theo Lê Công Lý, trong bài “Lịch sử kinh rạch ở Sài Gòn – Chợ Lớn” thì con kênh này được đào vào năm 1875, nguồn: http://vn.360plus.yahoo.com/lecongly83/article, ngày 4/9/2009.
40
động để đào kênh này1. Con kênh có hình vòng cung giống theo quy hoạch
Coffyn, nhưng thay vì nối rạch Thị Nghè với kênh Tàu Hũ, thì kênh mới đào này
nối rạch Thị Nghè ở đoạn gần Cầu Kiệu và chỉ đến rạch Lò Gốm, đường nước tiếp
theo để ra kênh Tàu Hũ chính là rạch Lò Gốm. Nhiều tác giả cho rằng con kênh
này chỉ được thực hiện dở dang và phải ngừng lại2, nhưng những bản đồ tiếp theo
cho thấy con kênh được thực hiện khá hoàn chỉnh. Chỉ có con đại lộ mà Coffyn
thiết kế dọc theo con kênh này không được xây dựng.
Sau đây là bản đồ thành phố Sài Gòn năm 1892 chứng tỏ con kênh Canal
de Ceinture đã được thực hiện. Bản đồ này được lưu trên tường của Bưu điện Sài
Gòn từ khi được thành lập cho đến hiện nay.
Bản đồ Sài Gòn 1892, trên tường Bưu điện TP. Hồ Chí Minh
1 Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1996, tr.135. 2 Vương Hồng Sển, sđd, tr.135; Lưu Thị Tuyết Trinh, “Kinh rạch ở Sài Gòn”, trong Ấn tượng Sài Gòn thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, 2005, tr.300.
41
Ảnh chụp : Trương Hoàng Trương, 05/04/2011
Dấu vết của con kênh này hiện nay không còn, nhưng đối chiếu trên các
bản đồ thì thấy vị trí của con kênh tương đương với đường Nguyễn Thị Nhỏ ở
quận 5, đường Lò Siêu, đường Nguyễn Thị Nhỏ ở quận Tân Bình, còn đoạn từ
Nguyễn Thị Nhỏ (Tân Bình) đến rạch Thị Nghè thì không còn thấy vết tích nào.
Con kênh này tồn tại cho đến khoảng giữa thế kỷ XX thì bắt đầu bị lấp dần. Sau
đây là Bản đồ Đô thành Sài Gòn 1958 cho thấy kênh Vành Đai đã bị lấp một phần
ở đường Nguyễn Thị Nhỏ (quận 5 hiện nay).
Bản đồ Đô thành Sài Gòn 1958, phần 1
Về đất lô
Việc phân đất thành lô để bán đã được thực hiện từ trước khi quy hoạch
Coffyn được phê duyệt. Trong thời gian chiến tranh, cư dân Sài Gòn bỏ nhà cửa
chạy loạn, thực dân Pháp nhân đó đã chiếm đất đai của họ. Ngay từ năm 1861,
một số đất đai ở khu Khánh Hội và Thủ Thiêm đã được thực dân Pháp phân lô để
42
bán1. Sau đó, khi đã thiết lập được quan hệ buôn bán tại Sài Gòn với nước ngoài,
thực dân Pháp đã đem nhiều lô đất ở khu vực ngã ba sông Sài Gòn, Vàm Bến
Nghé bán cho thương gia Pháp, Đức, Anh, Mỹ và mại bản Singapore mua đầu cơ2.
*
* *
Trên đây là những gì mà chúng tôi tìm được về những ý tưởng quy hoạch
đã được thực hiện của Coffyn. Có những ý tưởng không được thực hiện, trong đó
có thể kể là hồ trung tâm và vai trò ranh giới trục đường Impériale (Hai Bà
Trưng). Hồ trung tâm hầu như không có một dấu vết nào trên các bản đồ mà
chúng tôi có dịp quan sát và việc ý tưởng này không được triển khai cũng đã được
nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến3. Trục đường Impériale (Hai Bà Trưng) không
phải là ranh giới giữa phía Đông là khu hành chính và phía Tây là khu thương mại,
dịch vụ, công nghiệp. Những dinh thự quan trọng mang tính hành chính cao như
dinh Thống Đốc (dinh Thống nhất) được khởi công vào năm 1868, tòa Pháp đình
(Tòa án Nhân dân TP. Hồ Chí Minh) - 1881, tòa Đốc lý (Ủy ban Nhân TP. Hồ Chí
Minh) - 1898… đã được xây dựng bên phía Tây của đường Hai Bà Trưng nhưng
cự ly không xa lắm.
Những ý tưởng quy hoạch của Coffyn, có cái không được thực hiện, có cái
được thực hiện nhưng biến mất đi theo sự biến đổi của đô thị, nhưng những gì còn
giữ lại đến được ngày nay vẫn làm cho chúng ta cảm nhận được khi thâm nhập
vào thành phố, sử dụng những trục đường hợp lý của các đại lộ loại 1, đi dưới
những hàng cây cổ thụ của các con đường ngang dọc tại đây.
1 Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Đông Phố, Sài Gòn, 1973, tr.161. 2 Sơn Nam, Bến Nghé xưa, NXB. Văn Nghệ, TP.HCM, 1981, tr.71. 3 Nguyễn Minh Hòa, “Ngập lụt đô thị: những lời giải xưa”, Việt báo, 23/04/2006, Nguồn: http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ngap-lut-do-thi-nhung-loi-giai-xua.
43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, bài viết
1. Coffyn, Lucien Florent Paul, “Note à l’appui d’un projet de la Ville de
Saigon” trong Documents pour servir à l’Histoire de Saigon của Jean
Bouchot, NXB Albert Portail, Sài Gòn, 1927.
2. Lê Công Lý, “Lịch sử kinh rạch ở Sài Gòn – Chợ Lớn”, nguồn:
http://vn.360plus.yahoo.com/lecongly83/article, ngày 4/9/2009.
3. Lưu Thị Tuyết Trinh, “Kinh rạch ở Sài Gòn”, trong Ấn tượng Sài Gòn
thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, 2005, tr.300.
4. Malleret, Louis, Elément d’une Monographie des anciennes Fortifications
et Citadelles de Saigon, trong Bulletin de la Société des Études
Indochinoises, Tome X, 1935
5. Nguyễn Minh Hòa, “Ngập lụt đô thị: những lời giải xưa”, Việt báo,
23/04/2006, Nguồn: http://vietbao.vn/Xa-hoi/Ngap-lut-do-thi-nhung-loi-
giai-xua.
6. Sơn Nam, Bến Nghé xưa, NXB. Văn Nghệ, TP.HCM, 1981.
7. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Đông Phố, Sài Gòn, 1973.
8. Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1996.
Các bản đồ, bản quy hoạch
1. 1862, Coffyn, Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon 30/4/1862
2. 1872-1873, Carte générale de la Cochinchine, dressée par M. Bigrel,
Capitaine de frégate d’après les documents les plus récents, réunis par
l’ordre du M. l’Amiral Dupré.
3. 1878, Plan de la ville de Saigon (Cochinchine) 1878, gravé par F. Dufour,
Challamel Ainé Editeur.
4. 1958, Đô thành Sài Gòn, phần 1, thiết lập trên hệ thống chiếu U.T.M, điều
chỉnh năm 1956 bằng phi-ảnh tỷ lệ xích 1/15.000 của Viện Địa dư Pháp
chụp năm 1953.
5. Gia Định Thành 1816, trong “Bulletin de la Société des Etudes
Indochinoises (BSEI) ”, tome XXXVII, No 4, 1962, tr.412.