45
VIỆN DÂN TỘC HỌC * I. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA VIỆN Từ tổ Dân tộc học trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Dân tộc học chính thức được thành lập theo Nghị định 59/CP ngày 14 tháng 5 năm 1968 của Hội đồng Chính phủ, và được khẳng định lại tại Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ. Viện có tên giao dịch quốc tế là Institute of Anthropology. Theo Quyết định số 244/ QĐ-KHXH ngày 27 tháng 02 năm 2013 của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc có các chức năng và nhiệm vụ chính như sau: Chức năng: Nghiên cứu cơ bản, toàn diện, kết hợp với nghiên cứu ứng dụng và dự báo về các vấn đề dân tộc ở Việt Nam và thế giới, nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất * Bài viết này góp phần hướng tới kỷ niệm 45 năm thành lập Viện Dân tộc học. Kế thừa phần viết của PGS.TS. Khổng Diễn (nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học) trong công trình “Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia 50 năm xây dựng và phát triển” (Nxb Khoa học xã hội, H, 2003), PGS.TS. Vương Xuân Tình, Viện trưởng Viện Dân tộc học, chỉnh sửa một số yếu tố kỹ thuật để phù hợp với bối cảnh mới và bổ sung các thành tựu của Viện từ năm 2003 – 2013. 1

Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

  • Upload
    vudat

  • View
    225

  • Download
    2

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

VIỆN DÂN TỘC HỌC *

I. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA VIỆN

Từ tổ Dân tộc học trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Dân tộc học chính thức được thành lập theo Nghị định 59/CP ngày 14 tháng 5 năm 1968 của Hội đồng Chính phủ, và được khẳng định lại tại Nghị định số 109/2012/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ. Viện có tên giao dịch quốc tế là Institute of Anthropology.

Theo Quyết định số 244/ QĐ-KHXH ngày 27 tháng 02 năm 2013 của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc có các chức năng và nhiệm vụ chính như sau:

Chức năng: Nghiên cứu cơ bản, toàn diện, kết hợp với nghiên cứu ứng dụng và dự báo về các vấn đề dân tộc ở Việt Nam và thế giới, nhằm cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập; tham gia tư vấn khoa học và đào tạo đại học, sau đại học về Dân tộc học/ Nhân học.

Nhiệm vụ: 1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến Dân tộc học/ Nhân học ở Việt Nam và trên thế giới. 2. Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển về các tộc người và nhóm xã hội, bao gồm những vấn đề: Nguồn gốc, lịch sử, dân số, ngôn ngữ, kinh tế, quá trình tộc người và quan hệ tộc người, cấu trúc và phân tầng xã hội, giao lưu và bản sắc văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng, tri thức dân gian, giáo dục, y tế, môi trường, đô thị hóa, tác động của toàn cầu hóa, xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững, chính sách và việc thực hiện chính sách dân tộc, mối quan hệ giữa tộc người và quốc gia, dân tộc. 3. Kết hợp nghiên cứu với đào tạo đội ngũ chuyên gia về Dân tộc học/ Nhân học cho Viện và cho ngành; tham gia đào tạo đại học và sau đại học, góp phần phát

* Bài viết này góp phần hướng tới kỷ niệm 45 năm thành lập Viện Dân tộc học. Kế thừa phần viết của PGS.TS. Khổng Diễn (nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học) trong công trình “Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia 50 năm xây dựng và phát triển” (Nxb Khoa học xã hội, H, 2003), PGS.TS. Vương Xuân Tình, Viện trưởng Viện Dân tộc học, chỉnh sửa một số yếu tố kỹ thuật để phù hợp với bối cảnh mới và bổ sung các thành tựu của Viện từ năm 2003 – 2013.

1

Page 2: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo yêu cầu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các tổ chức khác ở trong và ngoài nước. 4. Thẩm định khoa học các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các bộ, ngành, địa phương theo sự phân công của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 5. Thực hiện các tư vấn khoa học và phản biện xã hội phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Viện. 6. Hợp tác quốc tế về nghiên cứu và đào tạo theo quy định hiện hành. 7. Trao đổi thông tin khoa học với các cơ quan trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật; quản lý tư liệu, thư viện của Viện; xuất bản các ấn phẩm khoa học; phổ biến kết quả nghiên cứu và truyền bá kiến thức khoa học.

Trong chặng đường 45 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tập thể cán bộ, công chức Viện Dân tộc học đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xứng đáng là Viện nghiên cứu chuyên ngành của cả nước, thể hiện trong mọi lĩnh vực, nổi bật là trong nghiên cứu khoa học. Những thành tựu to lớn và đáng tự hào về nghiên cứu khoa học và về các lĩnh vực khác của Viện đã được Nhà nước ghi nhận bằng việc trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập Viện (1983), Huân chương Lao động hạng Nhất nhân dịp Viện tròn 30 tuổi (1998) và Huân chương Độc lập hạng Ba nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập Viện (2003).

II. NHỮNG THÀNH TỰU KHOA HỌC

Hòa vào tiến trình lịch sử chung, cùng với sự trưởng thành và phát triển của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, bám sát nhiệm vụ chuyên môn được giao, bằng những nỗ lực và phấn đấu không ngừng, cán bộ công chức Viện Dân tộc học đã từng bước gặt hái được những thành tựu ngày càng to lớn và có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu chuyên môn. Những đóng góp khoa học của Viện trong 45 năm qua là đa dạng, phong phú, thể hiện trên nhiều lĩnh vực, đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng vùng dân tộc và miền núi qua từng thời kỳ phát triển của đất nước, nhất là từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới đến nay.

1. Giai đoạn Kháng chiến chống Mỹ (1968-1975)

Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cũng là giai đoạn thành lập (5/1968) và bước đầu phát triển của Viện. Khi mới thành lập vào năm 1968, Viện chỉ có 20

2

Page 3: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

cán bộ công chức, trong đó có 17 cán bộ nghiên cứu, 02 cán bộ thư viện, 01 cán bộ hành chính. Đến những năm đầu thập niên 70, cơ cấu tổ chức của Viện chỉ có hai tổ nghiên cứu khoa học là Tổ Miền núi miền Bắc và Tổ Việt – Mường, Phòng Tư liệu – Thư viện, Tòa soạn Tạp chí và Bộ phận Hành chính, với tổng số 23 cán bộ công chức. Do cả nước có chiến tranh, điều kiện học tập, nghiên cứu cũng như đời sống của cán bộ trong Viện rất khó khăn, thiếu thốn. Với đặc thù của ngành, anh em phải thường xuyên đi điền dã tại các vùng dân tộc và miền núi, một công việc gian khổ, vất vả, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và nghị lực. Mặc dù vậy, với tình yêu và lòng say mê nghề nghiệp, với tinh thần cả nước cùng đánh Mỹ, tập thể cán bộ công chức trong Viện đã đoàn kết, khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt các nhiệm vụ nghiên cứu được giao. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu có được từ khi còn là Tổ Dân tộc thuộc Viện Sử học và sau đó trực thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện đã triển khai nhiều hoạt động khoa học khác nhau, trọng tâm và nổi bật trong đó là Điều tra, nghiên cứu để xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam, Nghiên cứu cơ bản về các dân tộc và văn hóa dân tộc.

a. Điều tra, nghiên cứu để xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam

Đây là nhiệm vụ chuyên môn khoa học quan trọng hàng đầu của Viện trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Do đặc thù đất nước tạm bị chia cắt, công việc xác định thành phần các dân tộc ở miền Bắc được triển khai ngay sau khi Viện được thành lập tháng 5-1968 và đến năm 1975, ngay sau ngày thống nhất đất nước được tiến hành ở các tỉnh miền Nam và kết thúc vào năm 1979.

Những năm trước 1968, công tác xác định thành phần dân tộc Việt Nam đã được các học giả trong và ngoài nước quan tâm và nghiên cứu. Mặc dù vậy, kết quả đạt được còn hạn chế. Tại thời điểm này, vẫn chưa có được danh mục dân tộc tương đối hoàn chỉnh và thống nhất. Số lượng các dân tộc ở Việt Nam khi là 120, khi là 64, lúc là 59. Có sự nhầm lẫn trong việc gọi tên nhiều dân tộc. Trên văn bản cũng như trong nghiên cứu, không ít trường hợp hoặc một dân tộc được gọi bằng nhiều tên khác nhau, hoặc nhiều dân tộc được gọi bằng cùng một tên,… Tình hình đó đặt ra cho ngành Dân tộc học, trực tiếp là Viện Dân tộc học nhiệm vụ điều tra, nghiên cứu để xác định xem trên đất nước Việt Nam có bao nhiêu dân tộc, bao nhiêu nhóm địa phương, bao nhiêu nhóm ngôn ngữ, làm rõ

3

Page 4: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

vấn đề tộc danh, đâu là tên tự gọi, đâu là tên do các dân tộc khác đặt cho…, để Đảng và Nhà nước có căn cứ xây dựng chính sách dân tộc đúng đắn và phù hợp cho từng đối tượng.

Công việc quan trọng đầu tiên cần làm là thống nhất các tiêu chí xác định thành phần dân tộc. Trên cơ sở các cuộc điều tra, xác định thử, nhiều bài viết liên quan đã được công bố. Một số cuộc tọa đàm chuyên đề đã được tổ chức. Sau một thời gian dài chuẩn bị, hai cuộc hội thảo lớn bàn về tiêu chí xác định thành phần dân tộc do Viện chủ trì đã được tổ chức vào tháng 6 và tháng 11 năm 1973. Trong hai cuộc hội thảo này, từ kinh nghiệm sẵn có và trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa có chọn lọc lý thuyết và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, kết hợp với xem xét đặc điểm các dân tộc trong nước, các tiêu chí xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam đã được khẳng định và thống nhất. Theo đó, ba tiêu chí dùng trong xác định thành phần dân tộc là: Ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Phần lớn các ý kiến và quan điểm liên quan đến ba tiêu chí xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam trong hội thảo nói trên đã lần lượt được đăng tải trên các số của Thông báo Dân tộc học (tiền thân của Tạp chí Dân tộc học) năm 1973, về sau, được tập hợp trong cuốn Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam công bố năm 1975. Việc đưa ra và thống nhất được các tiêu chí xác định thành phần dân tộc là thành tựu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn không chỉ với công tác xác định thành phần dân tộc mà còn với thực tiễn công tác nghiên cứu Dân tộc học nói chung. Để đi đến thống nhất ba tiêu chí này, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đã được đặt ra và làm rõ. Trước hết là khái niệm dân tộc và cộng đồng tộc người. Chia sẻ quan điểm của các nhà Dân tộc học Liên Xô trước đây, hầu hết các nhà Dân tộc học Việt Nam đều cho rằng dân tộc và cộng đồng tộc người là hai khái niệm tương đương. Cũng có số ít ý kiến cho rằng khái niệm cộng đồng tộc người rộng lớn hơn khái niệm dân tộc. Điều khẳng định là cộng đồng tộc người hay dân tộc phải được coi là đơn vị cơ bản để tiến hành xác định thành phần dân tộc. Trong khi các nhà Dân tộc học Liên Xô chịu ảnh hưởng của định nghĩa do Stalin đưa ra, coi lãnh thổ tộc người và đặc điểm kinh tế là hai trong số các tiêu chí cơ bản để hình thành cộng đồng tộc người, thì ở Việt Nam, do quá trình tộc người diễn ra mạnh mẽ và các dân tộc cư trú rất phân tán, lại đan xen với nhau trong từng vùng, thậm chí trong từng xã, ít dân tộc nào có một khu vực cư trú riêng biệt, các nhà Dân tộc học không

4

Page 5: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

coi lãnh thổ tộc người là tiêu chí xác định thành phần dân tộc. Cũng như thế, ở Việt Nam, do quan hệ qua lại giữa các tộc người diễn ra mạnh mẽ, chỉ tồn tại các đặc điểm kinh tế của vùng lãnh thổ hay vùng cảnh quan địa lý chứ không tồn tại đặc điểm kinh tế của từng tộc người. Cộng đồng tộc người và cộng đồng kinh tế thường không trùng nhau. Cộng đồng kinh tế xuất hiện trước hết thông qua cộng đồng lãnh thổ, kết hợp với cộng đồng quốc gia. Nó không được tạo ra từ nội bộ bên trong của tộc người mà từ mối quan hệ nội tại của quốc gia. Tương tự, trên cơ sở phân tích thực tiễn đời sống các dân tộc, các yếu tố tâm lý tộc người, nội tộc hôn, nguồn gốc lịch sử,… không được các nhà Dân tộc học Việt Nam coi là tiêu chí xác định dân tộc. Tóm lại, khác với ở nhiều nước trên thế giới coi lãnh thổ, đặc điểm kinh tế, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán… là những tiêu chí xác định tộc người, ở ta, do hoàn cảnh lịch sử và quá trình tộc người, các nhà Dân tộc học thống nhất chỉ có ba tiêu chí dùng trong xác định dân tộc là ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người.

Cùng với việc xác định các tiêu chí là việc xác định nội hàm và các nguyên tắc áp dụng trong tiêu chí xác định thành phần dân tộc.

Ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng trong xác định thành phần dân tộc. Mỗi dân tộc đều có tiếng nói riêng, là tiếng mẹ đẻ được tiếp nhận từ thuở ấu thơ, là công cụ duy nhất giúp mỗi người hiểu biết một cách tường tận và tinh tế mọi sắc thái của đời sống tinh thần, giúp mỗi người trong cùng tộc hiểu nhau thấu đáo hơn. Tuy vậy, để xác định dân tộc, không thể chỉ căn cứ vào đặc trưng ngôn ngữ, bởi trong thực tế, có những dân tộc nói hai ba thứ tiếng, ngược lại, cũng có khi hai ba dân tộc cùng nói một thứ tiếng.

Văn hóa là cái mà mỗi dân tộc xây dựng nên trong quá trình phát triển lịch sử của mình, được trao truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia. Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, tượng trưng cho bản sắc tộc người. Tuy nhiên, trong điều kiện giao lưu và hội nhập diễn ra mạnh mẽ, đi tìm những đặc trưng văn hóa tộc người là công việc không đơn giản. Chưa kể văn hóa là khái niệm rất rộng, chỉ cần nhấn mạnh quá mức điểm này hay điểm khác sẽ dẫn đến những cách nhìn và đánh giá khác nhau. Do vậy, khi coi văn hóa như là yếu tố xác định dân tộc, phải chú ý kết hợp xem xét các tiêu chí khác.

Ý thức tự giác dân tộc là ý thức tự nhận mình thuộc về một cộng đồng xác định. Nó xuất hiện và tồn tại ở những người cùng một dân tộc, thể hiện ở

5

Page 6: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

hàng loạt các yếu tố liên quan như có chung một tộc danh, một nguồn gốc lịch sử hay một truyền thuyết về tổ tiên chung. Ý thức tự giác dân tộc có tính độc lập cao. Cho dù lãnh thổ có bị chia cắt, văn hóa bị đứt gãy hay ngôn ngữ mẹ đẻ bị tiêu vong, ý thức dân tộc vẫn được duy trì.

Vận dụng ba tiêu chí trên, liên tục trong những năm sau đó, hàng nhiều chục đoàn cán bộ nghiên cứu của Viện đã trèo đèo, lội suối đến các bản làng xa xôi thuộc nhiều tỉnh, nhiều vùng dân tộc khác nhau trong cả nước để tiến hành việc điều tra, khảo sát, nghiên cứu. Trên cơ sở đó, nhiều cuộc tọa đàm để thảo luận và lấy ý kiến cán bộ và đại diện người dân về thành phần và tên gọi các dân tộc, nhóm dân tộc tại các địa phương đã được tổ chức. Có những vùng, những tỉnh, do tình hình các nhóm địa phương phức tạp, để đi đến nhất trí, phải tổ chức tọa đàm đến hai, ba lần, như trường hợp dân tộc Cao Lan - Sán Chỉ; các nhóm của dân tộc Thổ ở Tây Nghệ An; các nhóm Hà Lăng, Cà Dong của người Xơ-đăng; các nhóm Giẻ - Triêng ở Gia Lai - Kon Tum và Quảng Nam - Đà Nẵng,… Cuối cùng, đến năm 1978, việc điều tra nghiên cứu để xác định thành phần dân tộc ở nước ta đã hoàn thành tốt đẹp. Một bảng Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam gồm 54 dân tộc, trong đó, 53 dân tộc thiểu số do Viện xây dựng được khẳng định, được Nhà nước công nhận và được Tổng cục Thống kê chính thức công bố vào ngày 2 tháng 3 năm 1979. Đây là thành công lớn của ngành Dân tộc học Việt Nam, được giới khoa học trong nước và quốc tế hoan nghênh và đánh giá cao. Lần đầu tiên ở Việt Nam có một bản danh mục thành phần các dân tộc hợp lý, khoa học, phản ánh đầy đủ bức tranh tộc người của cả nước. Bảng Danh mục đã không chỉ khẳng định đúng đắn và còn đầy đủ tên gọi chính thức, số lượng các dân tộc, các nhóm địa phương, các ngữ hệ và nhóm ngôn ngữ, địa bàn cư trú, mà còn qua đó, xác lập quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc, đồng thời, xóa bỏ những tên gọi mang tính chất miệt thị, chia rẽ dân tộc do chế độ phong kiến, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới áp đặt cho các dân tộc nhằm phục vụ lợi ích của chúng. Bảng Danh mục cũng là minh chứng của quyền cùng làm chủ đất nước của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, bảng Danh mục thành phần dân tộc ở Việt Nam đã được sử dụng và phục vụ đắc lực cho bốn cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc vào các năm 1979, 1989, 1999 và 2009. Việc đưa ra ba tiêu chí xác định thành phần dân tộc và hoàn thiện bảng Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam năm 1979 của Viện Dân tộc học là thành tựu có ý nghĩa hết sức lớn lao không chỉ về khoa

6

Page 7: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

học, mà còn về thực tiễn. Nó thực sự góp phần vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước trong những thập niên qua.

b. Nghiên cứu cơ bản các dân tộc và văn hóa các dân tộc

Nghiên cứu cơ bản các dân tộc và văn hóa các dân tộc được coi là hoạt động chuyên môn thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại của Viện cho đến nay. Trước năm 1975, do đặc điểm đất nước bị chi cắt, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các dân tộc thiểu số miền núi miền Bắc, trọng tâm là các dân tộc ở Tây Bắc thuộc khu vực hữu ngạn sông Hồng. Bên cạnh hàng loạt các bài nghiên cứu tổng quan hay từng mặt về từng dân tộc đăng trên tạp chí chuyên ngành và các tạp chí khoa học xã hội khác, nhiều sách chuyên khảo giản chí về các vùng dân tộc, các nhóm dân tộc hay từng dân tộc do cán bộ trong Viện biên soạn đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó là các cuốn Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày Nùng Thái ở Việt Nam (1968), Người Dao ở Việt Nam (1971), Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam (1972),v.v… Nội dung của các công trình nghiên cứu cơ bản thường tập trung vào việc giới thiệu bức tranh chung về các dân tộc, các nhóm dân tộc, từ tên gọi, phân bố, nguồn gốc lịc sử, sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa đến đời sống vật chất, tinh thần cùng mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân tộc và các nhóm dân tộc. Các bài nghiên cứu, các sách nói trên, ở những mức độ khác nhau đã giới thiệu toàn diện và làm sáng tỏ đặc điểm của các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc trong cả nước hiểu biết và giúp đỡ lẫn nhau, qua đó, góp phần vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là vốn tài liệu quý giá chuẩn bị cho việc biên soạn hai bộ sách giới thiệu về các dân tộc ở Việt Nam của Viện trong những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX.

2. Giai đoạn trước Đổi mới (1976-1986)

Từ sau 1975 đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, với việc đất nước hoàn toàn thống nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện Dân tộc học chuyển sang trang mới. Lực lượng nghiên cứu và cơ cấu tổ chức nghiên cứu từng bước được củng cố và tăng cường. Số lượng cán bộ công chức trong Viện tăng dần từ 41 người (trong đó có 33 cán bộ nghiên cứu) năm 1978 lên 53 người (có 42 cán bộ nghiên cứu) năm 1983. Bên cạnh Tổ Miền núi miền Bắc và Tổ Việt – Mường, hai tổ nghiên cứu mới được thành lập là Tổ Bình - Trị - Thiên và

7

Page 8: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Tổ Văn nghệ Dân gian. Năm 1979, các tổ nghiên cứu được sắp xếp lại và đổi thành các phòng nghiên cứu, bao gồm Phòng Miền núi miền Bắc, Phòng Người Việt, Phòng Trường Sơn – Tây Nguyên, Phòng Xã hội học – Tộc người và Phòng Kỹ thuật – Hiện vật. Năm 1983, thành lập thêm Phòng Địa lý và Bản đồ tộc người, sau đó là Phòng Các dân tộc nước ngoài. Địa bàn nghiên cứu không chỉ bó hẹp ở các dân tộc bắc vĩ tuyến 17, mà trải dài khắp đất nước, từ các dân tộc ở vùng biên giới Việt – Trung ở phía Bắc đến các dân tộc ở vùng tận cùng phía Nam Tổ quốc. Hai thành tựu khoa học nổi bật và đáng ghi nhận của Viện trong giai đoạn này là:

a. Tiếp tục nghiên cứu cơ bản về các dân tộc và văn hóa tộc người

Tiếp nối công việc này từ giai đoạn trước và coi đây như là nhiệm vụ chuyên môn thường xuyên, trong thời gian hơn 10 năm sau giải phóng miền Nam, Viện đã động viên toàn thể cán bộ tiến hành các cuộc nghiên cứu rộng rãi và cơ bản về các dân tộc trong cả nước. Nhiều đợt điều tra, khảo sát đã được triển khai theo hướng nghiên cứu toàn diện, từ cội nguồn lịch sử, động thái dân số, các hoạt động kinh tế truyền thống, các loại hình tổ chức và thiết chế xã hội, các phong tục tập quán, các luật tục và hương ước, các dạng thức văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần bao gồm đồ ăn, thức uống, trang phục, nhà cửa, công cụ sản xuất, đồ gia dụng, phương tiện vận chuyển, văn hóa, văn nghệ dân gian, trò chơi dân gian, các lễ hội, tôn giáo và tín ngưỡng, đến các tri thức địa phương về sử dụng các nguồn tài nguyên, y học dân tộc và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, về các ứng xử giữa con người với nhau và giữa con người với môi trường tự nhiên, cùng với đó là những biến đổi và thích nghi trước tác động của điều kiện mới. Tất cả các khía cạnh trên của đời sống tộc người được xem xét, phân tích và lý giải trong mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và đổi mới, giữa so sánh lịch đại với so sánh đồng đại, giữa tiếp cận định tính và định lượng. Cũng theo hướng nghiên cứu này, các công trình Dân tộc học đương thời đã đi sâu phân tích các thành tố văn hóa cụ thể để làm rõ các bản sắc văn hóa của từng tộc người, trên cơ sở đó giúp cho việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa theo hướng phát triển và đoàn kết dân tộc. Kết quả của các quá trình nghiên cứu cơ bản theo hướng toàn diện trên là hàng loạt các công trình giới thiệu về các dân tộc và văn hóa tộc người của một vùng dân tộc hay một dân tộc được xuất bản, trong đó, đáng chú ý là các công trình Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái (1977); Góp phần nghiên cứu bản lĩnh, bản sắc các dân tộc ở Việt

8

Page 9: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Nam (1980); Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (1978); Các dân tộc tỉnh Gia Lai – Công Tum (1981); Đại cương về các dân tộc Ê-đê, Mnông ở Đăk Lắk (1982); Người Sán Dìu ở Việt Nam (1983); Văn hóa nếp sống của người Hà Nhì, Lô Lô (1985); Nhà cửa các dân tộc Trung du Bắc Bộ Việt Nam (1980); Lệ làng, phép nước (1985),… Với những kết quả nghiên cứu cơ bản nói trên, các khía cạnh văn hóa của nhiều tộc người được làm sáng tỏ, chân dung kinh tế, xã hội, văn hóa của hầu hết các dân tộc thiểu số có dân số đông trong cả nước đã lần lượt được khảo sát và giới thiệu. Đáng chú ý hơn cả là, trên cơ sở các công trình sách và tạp chí về dân tộc trước và trong giai đoạn này, kết hợp với việc tiếp tục điều tra, khảo sát ở những dân tộc còn lại, Viện Dân tộc học đã hợp tác với một số nhà nghiên cứu bên ngoài lần lượt chủ trì biên soạn và cho ra đời bộ sách giới thiệu về 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, bao gồm hai tập, mang tựa đề Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) (1978) và Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984). Với hai tập sách mang tựa đề trên, lần đầu tiên, ở Việt Nam có một bộ “Bách khoa thư” tương đối đầy đủ và toàn diện về tất cả các dân tộc thiểu số. Ở đây, người đọc có thể tìm thấy những chỉ dẫn cơ bản và cần thiết về từng dân tộc trong cả nước. Hai công trình trên cũng là cơ sở cho các nghiên cứu của các ngành kế cận như văn hóa, tôn giáo, lịch sử, nông nghiệp, kinh tế…

b. Nghiên cứu kinh tế - xã hội phục vụ công cuộc phát triển của đất nước

Đây là hướng nghiên cứu mới so với giai đoạn trước. Theo đó, bên cạnh những nghiên cứu cơ bản, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, trong những năm trước Đổi mới, đã xuất hiện và ngày càng có ý nghĩa các công trình nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu tổng thể về những vấn đề kinh tế, xã hội các vùng lãnh thổ để trực tiếp phục vụ cho công cuộc phát triển trong thời kỳ 10 năm đầu cả nước thống nhất ở vùng miền núi và dân tộc. Trong quá trình triển khai các hoạt động nghiên cứu này, đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa Viện với các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Phương pháp nghiên cứu cũng có sự chuyển đổi: từ nghiên cứu Dân tộc học thuần túy sang nghiên cứu liên ngành, đa ngành giữa Dân tộc học với nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế, văn hóa, … Thành tựu khoa học nổi bật trên lĩnh vực này trước hết phải kể đến đóng góp của tập thể cán bộ Viện trong việc chủ trì thành công hai đề tài cấp Nhà nước: Xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện chính sách đối với các

9

Page 10: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

dân tộc thiểu số và phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi nước ta (KX-04-11); và Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước (KX-06-05). Cũng trong thời kỳ này, Viện đã tham gia tích cực nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội cấp Nhà nước quan trọng như: Chương trình Tây Nguyên I; Chương trình Tây nguyên II; Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc… Một số cuộc hội thảo chuyên đề nhằm triển khai các chương trình nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội trên được Viện kết hợp với các địa phương tổ chức thành công tại Yên Bái (1982), Đắc Lắc (1983), Thái Nguyên (1984), Gia Lai – Kon Tum (1984). Một số công trình tiêu biểu phản ánh kết quả nghiên cứu của tập thể cán bộ Viện theo hướng này đã được xuất bản là: Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc (1987); Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển (1989); Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đăk Lắk (1990),… Thông qua các đề tài và chương trình đã nêu, Viện đã có những đóng góp quan trọng trong việc nhận diện và đánh giá trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc tại hai địa bàn chiến lược là miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, Viện đã đề xuất các luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoạch định và cụ thể hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến địa bàn dân tộc và miền núi, phù hợp với đặc điểm từng vùng và từng dân tộc. Nhiều đề xuất khoa học đã được ứng dụng vào thực tiễn, được thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Ví dụ các đề xuất như: Công cuộc xây dựng và phát triển vùng dân tộc và miền núi cần đi theo những quy luật và bước đi riêng, phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của từng vùng, từng dân tộc, tránh máy móc, dập khuôn, mô hình hóa và đốt cháy giai đoạn; Việc quy hoạch các nông lâm trường, việc đưa dân từ đồng bằng lên xây dựng kinh tế mới ở vùng dân tộc và miền núi cần được tiến hành và tính toán thận trọng, chắc chắn, trên cơ sở điều tra, nghiên cứu các điều kiện tự nhiên và con người tại chỗ để tìm ra mô hình phù hợp và bền vững; Ở vùng dân tộc và miền núi, do tồn tại nhiều trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cần được vận dụng mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng vùng, từng dân tộc, tránh áp dụng một chính sách cho nhiều vùng, nhiều dân tộc có đặc điểm kinh tế, xã hội và dân trí khác nhau,… Tuy vậy, cũng cần nhận thức rằng, trong các nghiên cứu kinh tế - xã hội phục vụ phát triển, mặc dù đã rất cố gắng gắn nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, nhưng phần do thiếu kinh nghiệm, phần do thoát ly thế mạnh của ngành,

10

Page 11: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

đôi lúc, đôi nơi, các nhà Dân tộc học không khỏi có những lúng túng, thậm chí đi làm thay chức năng, nhiệm vụ của ngành khác, dẫn đến kết quả đạt được còn hạn chế.

3. Giai đoạn từ Đổi mới đến nay (1987-2013)

Từ những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước trở lại đây, do tác động của đường lối Đổi mới và chính sách mở cửa, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các dân tộc thiểu số nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới để phát triển và hội nhập. Cơ hội là chính sách đổi mới được ban hành, cơ chế kinh tế thị trường được xác lập, tạo điều kiện cho quá trình hòa nhập và tiếp thu cái mới trong từng dân tộc và giữa các dân tộc. Bên cạnh những cơ hội, cũng còn nhiều thách thức: áp lực dân số lớn, thể hiện ở tốc độ tăng dân số tự nhiên và cơ học, môi trường sinh thái (nhất là đất, rừng) suy thoái nghiêm trọng, kết cấu hạ tầng (nhất là đường giao thông) ở các vùng sâu, vùng xa còn nhiều yếu kém, dân trí hạn chế, dẫn đến khó tiếp cận các dịch vụ kinh tế, xã hội, văn hóa mới, phương thức sống còn dựa vào tự nhiên, lệ thuộc vào tự nhiên, đời sống khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao, trình độ học vấn thấp, ốm đau, bệnh tật nhiều, đội ngũ cán bộ yếu về chất lượng và thiếu về số lượng… Trong bối cảnh đó, hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện Dân tộc học được triển khai theo tinh thần Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng về dân tộc miền núi, Nghị quyết 5 (Khóa VIII) của Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết 7 (Khóa IX) của Trung ương Đảng về công tác dân tộc và tôn giáo... Theo đó, định hướng nghiên cứu khoa học chủ đạo của Viện trong giai đoạn này là nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa dân tộc, trong đó chú trọng đi sâu nghiên cứu văn hóa và văn hóa dân tộc; kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu phát triển để phục vụ thực tiễn xây dựng và phát triển bền vững vùng miền núi và dân tộc trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu khoa học trong thời kỳ Đổi mới, Viện đã có những thay đổi và phát triển về cơ cấu tổ chức và lực lượng nghiên cứu. Đến những năm đầu thập niên 90, Viện có biên chế trên 50 cán bộ công chức. Năm 1995, Phòng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam với biên chế lúc đầu là 18 người. Năm 1998, Viện có 47 cán bộ viên chức, 8 phòng/ trung tâm nghiên cứu là: Trung tâm Sinh thái - Dân số học tộc người, Phòng Di sản văn hóa tộc

11

Page 12: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

người, Phòng Xã hội học - Tộc người, Phòng Người Việt, Phòng Miền núi phía Bắc, Phòng Trường Sơn - Tây Nguyên, Phòng Các dân tộc ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long, Phòng Dân tộc học nước ngoài. Từ giữa năm 2002, thành lập thêm Trung tâm Nhân học và Sức khỏe cộng đồng và Phòng Tôn giáo và Tín ngưỡng dân tộc, đưa tổng số phòng/trung tâm nghiên cứu lên 10 phòng/trung tâm. Ngoài ra, còn có 04 phòng chức năng nghiệp vụ là: Phòng Tạp chí Dân tộc học, Phòng Tư liệu - Thư viện, Phòng Tổ chức Cán bộ và Đào tạo và Phòng Hành chính. Năm 2003, sau 35 năm thành lập, Viện có 60 cán bộ công chức, trong đó, 50 cán bộ nghiên cứu, gồm 01 phó giáo sư, 23 tiến sĩ, 10 thạc sĩ, số còn lại là cử nhân.

Năm 2006, Viện có những thay đổi về cơ cấu tổ chức đối với các phòng và trung tâm nghiên cứu. Ngoài 4 phòng chức năng và nghiệp vụ là Hành chính – Tổng hợp, Quản lý khoa học và Đào tạo, Thư viện và Biên tập - Trị sự (thuộc Tạp chí Dân tộc học), Viện có 14 phòng/ trung tâm nghiên cứu. Các phòng/ trung tâm này được tổ chức nghiên cứu theo tộc người và theo vấn đề. Các phòng nghiên cứu theo tộc người bao gồm: 1. Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc ngôn ngữ Việt - Mường; 2. Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc ngôn ngữ Tày - Thái và Ka đai; 3. Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ me; 4. Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc ngôn ngữ Hmông - Dao và Hán - Tạng; 5. Phòng Nghiên cứu các dân tộc thuộc ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo. Các phòng nghiên cứu theo vấn đề, gồm: 1. Phòng Nghiên cứu các dân tộc nước ngoài; 2. Phòng Nghiên cứu di sản văn hóa dân tộc; 3. Phòng Tôn giáo - Tín ngưỡng dân tộc; 4. Phòng Xã hội học - Tộc người; 5. Phòng Nhân học Hình ảnh; 6. Phòng Thực nghiệm Nhân chủng học - Tộc người; 7. Trung tâm Sinh thái - Dân số học tộc người; 8. Trung tâm Nghiên cứu sức khỏe cộng đồng; 9. Trung tâm Nhân học phát triển.

Đến năm 2012, Viện sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, và hiện nay (2013), Viện có 14 phòng/ trung tâm. Ngoài 4 phòng chức năng là Tổ chức - Hành chính, Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế, Thông tin - Thư viện và Biên tập - Trị sự, Viện có 10 phòng/ trung tâm nghiên cứu. Các phòng/ trung tâm này vẫn tiếp tục được tổ chức nghiên cứu theo tộc người và theo vấn đề. Ngoài 5 phòng nghiên cứu theo tộc người như đã nêu trên, có 5 phòng nghiên cứu theo vấn đề gồm: 1. Phòng Nghiên cứu lý luận và chính sách dân tộc; 2. Phòng Nhân học Môi trường; 3. Phòng Nhân học Y tế và Dân số; 4. Phòng Nhân học Tôn giáo; 5.

12

Page 13: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Trung tâm Nghiên cứu phát triển cộng đồng. Cách tổ chức phòng/ trung tâm nghiên cứu như vậy vừa phản ánh hướng nghiên cứu truyền thống và chủ đạo của Viện Dân tộc học là nghiên cứu tộc người, song cũng thể hiện hướng nghiên cứu phát triển và sự hội nhập với Nhân học thế giới.

a. Nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa tộc người

Xuất phát từ nhu cầu và hoàn cảnh mới của thực tiễn, việc nghiên cứu sâu về văn hóa và văn hóa tộc người được Viện chú trọng và đẩy mạnh hơn một bước. Từ Đổi mới đến nay, nhất là từ đầu thập niên 90, chịu tác động của tiến trình phát triển đang diễn ra ngày một rộng khắp và mạnh mẽ, văn hóa các dân tộc đã và đang biển đổi nhanh chóng. Nhiều yếu tố văn hóa truyền thống ở vùng các dân tộc bị mai một và có nguy cơ tiếp tục bị mai một. Sự biển đổi này là tất yếu khách quan nhằm thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh mới. Vấn đề đặt ra là cần lưu giữ lại bằng ấn phẩm những yếu tố văn hóa đang còn chưa bị mai một, đồng thời tiến hành các nghiên cứu để cùng Nhà nước và người dân tìm ra sự lựa chọn thích hợp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc trong khung cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 5 năm 1998 của Đảng. Đó là lý do dẫn đến sự nở rộ của các công trình nghiên cứu về văn hóa và văn hóa tộc người của cán bộ trong Viện ở giai đoạn này, thể hiện ở một số lượng khá lớn công trình được xuất bản, bao gồm: Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề tộc (1991); Nhà rông của các dân tộc ở Tây Nguyên (1991); Các dân tộc Tày-Nùng ở Việt Nam (1992); Những biến đổi kinh tế - văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc (1993); Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc (1993); Lượn Cọi (1994); Nhà ở cổ truyền các dân tộc ở Việt Nam (2 tập, 1994 và 1996); Buôn làng cổ truyền xứ Thượng (1994); Đặc trưng văn hóa và truyền thống cách mạng các dân tộc ở Kỳ Sơn, Nghệ An (1995); Dân tộc Khơ Mú ở Việt Nam (1999); Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang (1999); Người Xinh Mun ở Việt Nam (1999); Dân tộc La Hủ ở Việt Nam (2000); Dân tộc Si La ở Việt Nam (2001); Về văn hóa Xinh Mun (2002); Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn (2003); Các làng khoa bảng Thăng Long-Hà Nội (2004); Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc (2004); Gia đình và hôn nhân người Mường ở Phú Thọ (2005); Tri thức địa phương của người Mường trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (2009); Tôn giáo tín ngưỡng của người Ve ở Việt Nam (2009); Văn hóa truyền thống dân tộc Sán

13

Page 14: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Dìu ở Tuyên Quang (2011); Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La (2012); Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc (2012)…

Bên cạnh nghiên cứu sâu về văn hóa và văn hóa các dân tộc, cũng thuộc về hướng nghiên cứu cơ bản, trong thập niên qua, Viện không quên triển khai nghiên cứu các mặt khác của đời sống các dân tộc như hoạt động kinh tế, tổ chức và thiết chế xã hội, hôn nhân và gia đình, tôn giáo tín ngưỡng, dân số, môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng,… Điều này có thể thấy rõ trước hết qua các công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành. Theo thống kê, trải qua 23 năm của Tạp chí Dân tộc học (1974-1996), trong tổng số khoảng 1.000 bài viết, có trên 300 bài về văn hóa, trên 250 bài về các lĩnh vực chung, 120 bài về lĩnh vực kinh tế, 120 bài về thiết chế và tổ chức xã hội, hôn nhân, gia đình. Trong các nghiên cứu văn hóa, các nghiên cứu về dân số, môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng từng bước được chú ý. Hầu hết các công trình Dân tộc học khi viết về các vùng, các dân tộc đều ít nhiều đề cập đến môi trường tự nhiên nơi con người sinh sống. Số lượng các chuyên khảo về môi trường trong Tạp chí Dân tộc học tăng dần và chiếm số lượng đáng kể. Trong 700 bài viết về các vấn đề cụ thể trên Tạp chí từ 1974-1996, có 70 bài viết về môi trường, chiếm 10%. Nếu thống kê từ năm 1980 (sau khi công bố bản Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam) đến năm 2012, có 2.062 bài nghiên cứu đăng trên Tạp chí Dân tộc học, và theo ước tính, có khoảng 1/3 số bài là của cán bộ Viện Dân tộc học. Trong tổng số bài đó, chỉ có dân tộc La Hủ là chưa có bài đề cập. Vẫn trong số 2.062 bài đã nêu, có 453 bài (chiếm 19,7 %) với nội dung nghiên cứu phát triển.

Cùng với các công trình đăng trên tạp chí, hàng loạt sách viết về các mặt khác của đời sống các dân tộc cũng được xuất bản trong giai đoạn Đổi mới, trong đó, đáng chú ý là: Gia đình và hôn nhân truyền thống ở các dân tộc Malayo-Polinêxia Trường Sơn – Tây Nguyên (1994); 50 năm các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (1995); Các tộc người ở miền núi phía Bắc Việt Nam và môi trường (1998); Dân số kế hoạch hóa gia đình người Hmông ở Hòa Bình (1998); Trồng trọt truyền thống của các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên (2000); Tiền Hải miền quê lấn biển (2000); Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam (2001); Một số vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam (2003); Thực trạng đói nghèo và một số biện pháp xóa đói giảm nghèo đối

14

Page 15: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

với các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên (2005); Sự phát triển của làng nghề La Phù (2006); Phát triển nông thôn miền núi và dân tộc trong thời kỳ kinh tế chuyển đổi (2007); Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội): Truyền thống và biến đổi (2009); Tác động của công nghiệp hóa - đô thị hóa tới phát triển kinh tế và biến đổi kinh tế - xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc (2009); Một số vấn đề về chính sách giáo dục ở vùng cao phía Bắc Việt Nam (2012), Địa chí Vĩnh Phúc (2012)…

Cùng với các nghiên cứu cơ bản trong hai giai đoạn trước, những kết quả nghiên cứu cơ bản trong giai đoạn Đổi mới đã giới thiệu kỹ hơn, đầy đủ hơn và cụ thể hơn về bức tranh văn hóa vừa thống nhất vừa đa dạng của các dân tộc ở Việt Nam, từ đó, góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc theo tinh thần Nghị quyết 5 (Khóa VIII) của Trung ương Đảng, tiếp tục làm rõ các đặc điểm kinh tế - xã hội truyền thống của các dân tộc, nhất là đặc điểm về trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công, gia đình, dân số, môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng,… làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội đối với vùng miền núi và dân tộc của Đảng và Nhà nước trong điều kiện mới.

b. Kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng nhằm phục vụ thực tiễn xây dựng và phát triển bền vững vùng miền núi và dân tộc

Đây là hướng nghiên cứu đúng đắn và ngày càng được khẳng định là có ý nghĩa nhằm phục vụ thực tiễn xây dựng và phát triển vùng miền núi và dân tộc trong điều kiện mới. Do nhu cầu của thực tiễn trong nước, nghiên cứu phát triển của Viện trong giai đoạn Đổi mới được triển khai liên tục và đều đặn, với nhiều đối tác trong nước và ngoài nước, bao gồm hai dạng:

Thứ nhất, thực hiện các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc do Đảng và Nhà nước giao.

Thứ hai, trực tiếp triển khai hoặc tham gia cùng các đối tác trong và ngoài nước triển khai các đề tài, dự án nghiên cứu hay phát triển cộng đồng, nhằm một mặt, nâng cao năng lực phát triển cộng đồng cho cán bộ và người dân địa phương, mặt khác, góp phần lý giải những vấn đề của thực tiễn công cuộc phát triển bền vững ở vùng các dân tộc.

15

Page 16: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Thuộc về dạng thứ nhất, Viện đã huy động cán bộ thực hiện thành công một loạt đề tài, dự án cấp Nhà nước, cấp bộ và điều tra như: Các quá trình dân số tộc người ở Việt Nam; Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ; Thực trạng sử dụng đất đai ở một số tỉnh Tây Nguyên; Di dân tự phát của các dân tộc thiểu số từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên; Tình hình đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa các cư dân ven biển miền Bắc; Nghiên cứu kinh tế, xã hội các dân tộc vùng ngập thủy điện Sơn La; Điều tra đánh giá các tác động xã hội, văn hóa của các dự án thủy điện ở Việt Nam; Điều tra, xác định lại thành phần một số dân tộc và nhóm dân tộc ở Việt Nam; Điều tra kinh tế-xã hội các dân tộc ở Việt Nam; Điều tra phong tục tập quán của các dân tộc bản địa và tác động của chúng đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên; Những vấn đề cấp bách về dân tộc ở nước ta hiện nay; Ứng dụng công nghệ tin học sưu tầm, mã hoá, phổ biến chữ viết và các văn bản chữ viết các dân tộc thiểu số Việt Nam; Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát triển kinh tế - xã hội của dân tộc Chăm; Mối quan hệ dân tộc vùng biên giới Việt – Lào; Sự chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành ở người Hmông; Nghiên cứu, bảo tồn văn hóa các dân tộc vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La; Điều tra cơ bản các dân tộc vùng Tây Bắc; Văn hóa dân gian và tri thức bản địa của người dân sống trong khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia; Những vấn đề dân tộc-tôn giáo nhằm phát triển bền vững vùng Tây Bắc đến năm 2015; Một số vấn đề chính sách giáo dục ở vùng cao miền núi phía Bắc Việt Nam; Vai trò của người Việt trong quá trình phát triển bền vững vùng Đông Bắc Việt Nam; Một số vấn đề cơ bản về chính sách đất đai vùng dân tộc miền Tây Thanh Hoá - Nghệ An; Phát triển bền vững về văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập vùng Đông Bắc; Những vấn đề cơ bản của các dân tộc ở Việt Nam; Một số vấn đề cơ bản về các dân tộc vùng Đông Bắc; Một số vấn đề cơ bản về các dân tộc vùng Tây Nguyên; Một số vấn đề cơ bản về dân tộc Chăm ở Trung Bộ; Một số vấn đề cơ bản về dân tộc Khơ-me Nam Bộ; Một số vấn đề cơ bản trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam dưới góc nhìn Dân tộc học; Một số vấn đề cơ bản về dân tộc - tôn giáo trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam; Một số vấn đề cơ bản về kinh tế-xã hội trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam; Một số vấn đề cơ bản về văn hóa trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam; Một số vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam; Một số vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam…

16

Page 17: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Kết quả nghiên cứu của nhiều trong số các đề tài, dự án, điều tra nói trên đã được công bố dưới dạng sách như: Dân số và dân số tộc người (1995); Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc (1996); Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi (1996); Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ (1999); Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên (2000); Dân số - kế hoạch hóa gia đình các dân tộc ở Hòa Bình (2001);Dân tộc Cơ Lao ở Việt Nam (2003); Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát triển kinh tế-xã hội của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (2007); Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới” ?: Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin Lành (2009); Tri thức địa phương của người Mường trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (2009); Một số vấn đề về chính sách giáo dục ở vùng cao miền núi Việt Nam (2012); Phát triển bền vững văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc (2012); Tri thức địa phương của người dân sống trong vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên (2012); Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy điện Sơn La (2012)…

Với việc triển khai các đề tài trên, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển bền vững vùng miền núi và dân tộc đã được giải quyết hoặc làm sáng tỏ. Có thể nêu một số dẫn chứng về kết quả nghiên cứu từ việc thực hiện những đề tài đã nêu:

Đề tài Di dân tự phát của các dân tộc thiểu số từ miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên đã đưa ra những phân tích và lý giải sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quá trình di dân, nguyên nhân di dân, đặc điểm di dân, thực trạng đời sống người dân, những tác động tích cực và tiêu cực của di dân trước đây cũng như hiện nay, không chỉ ở Tây Nguyên mà còn cả trong nước, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến nghị có giá trị khoa học và thực tiễn cao, làm cơ sở để Đảng, Nhà nước có những chính sách và giải pháp nhằm giải quyết hữu hiệu vấn đề di dân.

Những kết quả nghiên cứu về Kinh tế - xã hội các dân tộc vùng ngập thủy điện Sơn La đã làm sáng tỏ những đặc điểm kinh tế, xã hội của các dân tộc trong vùng ngập dự án tiền khả thi thủy điện Sơn La, qua đó, một mặt, đưa ra những cảnh báo đáng chú ý về nguy cơ bất lợi có thể sẽ diễn ra của quá trình di dân tái định cư khỏi vùng lòng hồ thủy điện Sơn La nếu không có phương án phù hợp như các nguy cơ mất mát văn hóa, suy thoái môi trường, thiếu đất sản

17

Page 18: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

xuất, tái định cư trở lại, đói nghèo,… mặt khác, cung cấp những dữ liệu tin cậy phục vụ cho việc xây dựng các phương án tái định cư phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và truyền thống văn hóa của người dân các dân tộc phải di chuyển khỏi vùng lòng hồ…

Với việc thực hiện đề tài Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên, các nhà Dân tộc học đã đưa ra những phân tích và nhận định khoa học, toàn diện về tiến trình và thực trạng sử dụng đất đai ở vùng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong các thời kỳ lịch sử, đặc biệt trong giai đoạn trước Đổi mới và Đổi mới, những tác động khác nhau của thực trạng đó đối với xã hội và con người, đối với mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, môi trường, an ninh quốc phòng,… Trong đó, đặc biệt, khuyến cáo rằng, từng tồn tại quyền làm chủ đối với toàn bộ đất rừng của các dân tộc Tây Nguyên và do điều này không được chú ý nên đã làm phát sinh những mâu thuẫn và bất cập xung quanh quá trình sử dụng và quản lý đất rừng giữa người dân tại chỗ với người dân mới đến, mà nếu không có những giải pháp kịp thời thì hậu quả xảy ra thật khôn lường. Lời cảnh báo dưới đây trong đề tài hoàn thành từ năm 1998 được thực tế những năm gần đây chứng minh là đúng và cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị thời sự: “Sẽ là không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì vấn đề dân tộc rất có thể sẽ phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là máu lại đổ, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắn trợn của kẻ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi đã để vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ dẫn tới thật khôn lường”. Dự án cũng đề xuất những giải pháp hiện thực và thuyết phục nhằm vừa giải quyết những bức xúc và mất ổn định liên quan đến đất rừng trước mắt, vừa góp phần quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất rừng bền vững lâu dài không chỉ cho Tây Nguyên mà còn cho các vùng miền núi và dân tộc khác trong cả nước.

Trên cơ sở các cuộc điều tra nghiên cứu thực địa tại nhiều vùng dân tộc trong cả nước, Đề tài Những vấn đề cấp bách về dân tộc ở nước ta hiện nay đã chỉ ra và phân tích một cách sâu sắc, đầy đủ những mâu thuẫn mang tính bức xúc và nổi cộm đã và đang diễn ra ở các vùng dân tộc và miền núi như đất đai, tôn giáo, đói nghèo, cán bộ, giáo dục, y tế, di dân tự do, suy thoái môi trường, quan hệ dân tộc, từ đó, đưa ra những khuyến nghị vừa trước mắt vừa lâu dài làm

18

Page 19: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề cấp bách đang diễn ra nói trên ở các vùng dân tộc và miền núi.

Dự án Điều tra, xác định lại thành phần một số dân tộc và nhóm dân tộc ở Việt Nam được triển khai trong những năm đầu của thế kỷ 21. Như đã khẳng định ở trên, việc xây dựng bảng Danh mục thành phần các dân tộc Việt Nam năm 1979 là thành tựu to lớn và đáng tự hào của ngành Dân tộc học Việt Nam, trực tiếp là của Viện Dân tộc học. Tuy vậy, thành phần dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Nó không bất biến, trái lại, do sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội, thành phần dân tộc có thể thay đổi theo. Vì thế, qua từng thời kỳ phát triển của đất nước, thành phần dân tộc cần được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện mới. Trong những năm từ Đổi mới đến nay, đã và đang nảy sinh những mâu thuẫn và bất cập đòi hỏi được lý giải và khắc phục liên quan đến thành phần các dân tộc Việt Nam. Dưới ánh sáng của nhận thức và các nguồn tài liệu mới, một số nhà khoa học cho rằng cần xem xét lại tên gọi và thành phần dân tộc của một số dân tộc, nhóm tộc người. Bên cạnh đó, diễn ra tình trạng bản thân người dân thuộc một số dân tộc, nhóm dân tộc thiểu số hoặc muốn sửa đổi tộc danh, hoặc muốn tách ra thành một dân tộc độc lập. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng tựu trung có hai nguyên nhân chính: Hoặc muốn khẳng định cộng đồng và bảo vệ văn hóa cộng đồng vốn có của mình, hoặc nhằm được hưởng các quyền lợi từ chính sách dân tộc hay từ các chương trình, dự án pháp triển trong nước và quốc tế đã và đang được triển khai ngày càng nhiều trong thời kỳ Đổi mới. Đây chính là lý do dẫn đến việc Viện Dân tộc học triển khai dự án Điều tra, xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam.

Việc triển khai dự án Điều tra, xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam là cần thiết và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa chính trị, nhằm hướng tới mục tiêu bình đẳng và đoàn kết dân tộc. Kế thừa kinh nghiệm đợt xác định trước và để đảm bảo dự án đạt kết quả như mong đợi, Viện đã tổ chức hai cuộc hội thảo giữa những người làm công tác Dân tộc học để Bàn về tiêu chí xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam tại Hà Nội (7/2002) và Thành phố Hồ Chí Minh (10/2002), trong đó đã đi đến thống nhất là để xác định thành phần dân tộc, cần áp dụng ba tiêu chí “cứng” là ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người, ngoài ra, tùy từng

19

Page 20: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

vùng, từng dân tộc cụ thể có thể áp dụng thêm các tiêu chí “mềm”. Tuy nhiên không vì thế mà dẫn đến sự tùy tiện, mỗi nơi làm mỗi khác....

Theo thiết kế, dự án đã điều tra, xác định tên gọi của 6 dân tộc và 40 nhóm dân tộc cư trú trải dài từ bắc xuống nam của đất nước và đã nêu lên những kiến nghị có giá trị để các cơ quan có trách nhiệm xem xét về vấn này.

Dự án Điều tra phong tục tập quán của các dân tộc bản địa và tác động của chúng đối với sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên đã một mặt, nêu ra bức tranh đầy đủ và khách quan về phong tục tập quán của các dân tộc Tây Nguyên trong truyền thống, từ sản xuất và đời sống đến vệ sinh môi trường, sinh đẻ, tang ma,… mặt khác, làm rõ sự biến đổi cùng những tác động tiêu cực của các phong tục tập quán đó đến môi trường tự nhiên và xã hội trong điều kiện mới, trên cơ sở đó, đề xuất và kiến nghị nhiều giải pháp cụ thể và hữu hiệu nhằm góp phần phục vụ công cuộc phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.

Đề tài nghiên cứu Mối quan hệ dân tộc vùng biên giới Việt - Lào đã đặc biệt chú ý tới mối quan hệ dân tộc xuyên biên giới của các dân tộc Hmông, Thái, Khơ-mú… Nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm văn hóa tộc người như quan hệ dòng họ, quan hệ hôn nhân, ngôn ngữ, phong tục tập quán của cư dân ở trong vùng có ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng tại nơi đây. Nghiên cứu còn đề xuất các kiến nghị và giải pháp liên quan đến xây dựng chính sách quản lý mối quan hệ dân tộc xuyên biên giới Việt - Lào và sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng này.

Sự chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành ở người Hmông là đề tài nghiên cứu đáp ứng việc tìm hiểu và giải quyết một thực trạng nóng bỏng ở dân tộc Hmông trong hàng thập kỷ qua. Đây không chỉ thuần túy là vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, mà liên quan chặt chẽ đến vấn đề an ninh, quốc phòng, đặc biệt là tình trạng xưng vua, nổi phỉ và việc thành lập “Vương quốc Hmông”. Nghiên cứu đã có những lý giải đúng đắn về nguyên nhân của sự chuyển đổi, cả trong nội tộc người, dưới tác động của những biến đổi về kinh tế - xã hội và đặc biệt là của các thế lực thù địch. Những kết quả nghiên cứu giúp cho cơ quan làm công tác dân tộc nhận diện rõ hơn thực trạng chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin Lành ở người Hmông, qua đó, có chính sách phù hợp với một bộ phận cư dân của tộc người này.

20

Page 21: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Dự án Nghiên cứu, bảo tồn văn hóa các dân tộc vùng lòng hồ và vùng tái định cư Nhà máy thủy điện Sơn La đã nghiên cứu tổng thể văn hóa của toàn bộ các cư dân thuộc đối tượng được điều tra. Cùng với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác như khảo cổ học, văn hóa học, nghiên cứu dưới góc độ Dân tộc học của Viện đã góp phần nhận diện thực trạng văn hóa tộc người của cư dân vùng lòng hồ và vùng tái định cư, từ đó đề xuất những phương án bảo tồn văn hóa của họ để vừa giữ gìn các di sản quý báu, vừa góp phần phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.

Dự án Điều tra cơ bản các dân tộc vùng Tây Bắc đã điều tra tổng thể các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa ở nhiều tộc người tại vùng này. Qua thực hiện, Dự án đã góp phần tìm hiểu thực trạng đời sống kinh tế - xã hội của các tộc người trong vùng; đề xuất kiến nghị và giải pháp, đồng thời xây dựng nền tảng cho các vấn đề nghiên cứu mới trong tương lai.

Đề tài Phát triển bền vững về văn hóa tộc người trong quá trình hội nhập vùng Đông Bắc đã nghiên cứu quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập tác động như thế nào đến văn hóa tộc người ở vùng này. Trên cơ sở xây dựng tiêu chí của phát triển bền vững văn hóa tộc người, đề tài đã sử dụng bộ tiêu chí ấy làm khung phân tích để đánh giá mức độ bền vững văn hóa tộc người ở cấp cộng đồng (thôn/ bản). Từ đó, đề tài nêu lên nguy cơ từ đa dạng chuyển sang đơn dạng văn hóa tộc người ở trong vùng, khi kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết văn hóa của các cộng đồng đều bị xói mòn. Nghiên cứu cũng nêu lên một số giải pháp về sử dụng ngôn ngữ, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong sự biến đổi, trong xây dựng thiết chế văn hóa cơ sở.

Chương trình nghiên cứu cấp bộ Những vấn đề cơ bản của các dân tộc ở Việt Nam được triển khai thành một số đề tài liên quan đến các vùng ở Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Thanh Nghệ, Tây Nguyên; ở dân tộc Chăm tại ven biển miền Trung; dân tộc Khơ-me ở Tây Nam Bộ. Tại mỗi vùng, các đề tài đã xác định được một số vấn đề cơ bản có tính đặc thù của vùng hoặc tộc người trong vùng. Qua đó, Chương trình đã nêu lên các vấn đề cơ bản ở các dân tộc của Việt Nam, như đói nghèo, tái định cư, đất đai, quan hệ dân tộc, chuyển đổi tôn giáo tín ngưỡng, văn hóa tộc người, đội ngũ cán bộ ở cơ sở, đồng thời đề xuất các kiến nghị, giải pháp liên quan.

21

Page 22: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Chương trình nghiên cứu cấp bộ Một số vấn đề cơ bản trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam dưới góc nhìn Dân tộc học đã được triển khai thành các đề tài, như về vấn đề chính sách dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, quan hệ dân tộc và tôn giáo, đội ngũ cán bộ cơ sở và vấn đề văn hóa ở vùng biên. Các nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm tộc người trong vấn đề phát triển ở mỗi vùng biên giới; những cơ hội và thách thức đang đặt ra với phát triển của các tộc người ở vùng này, đặc biệt là quan hệ của vấn đề tộc người với an ninh, quốc phòng tại vùng biên. Nghiên cứu còn đề xuất những kiến nghị và giải pháp liên quan đến phát triển ở vùng biên giới dưới góc độ Dân tộc học, trong đó nhấn mạnh việc cần xây dựng chính sách riêng biệt cho những dân tộc ở vùng biên; cần thực hiện quản lý tốt hơn mối quan hệ dân tộc xuyên biên giới và cần tăng cường yếu tố văn hóa quốc gia ở vùng này.

Ý nghĩa, giá trị khoa học và thực tiễn của việc thực hiện các chương trình, dự án nói trên là hết sức to lớn, thể hiện ở chỗ, một số đề xuất khoa học đã được thực tiễn cuộc sống chứng minh là đúng đắn, mặt khác, nếu những đề xuất đó được áp dụng vào thực tiễn, thì hiệu quả của công cuộc xây dựng và phát triển vùng dân tộc và miền núi sẽ cao hơn nhiều, cũng như nhiều bất cập và mâu thuẫn về kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi sẽ không diễn ra gay gắt như đã và đang diễn ra.

Thuộc về dạng thứ hai, bằng các phương pháp nghiên cứu ứng dụng, trọng tâm là phương pháp tham dự, Viện đã hoặc trực tiếp triển khai hoặc tham gia cùng các đối tác thực hiện nhiều đề tài, dự án nhằm mục tiêu nâng cao năng lực cho cán bộ của Viện, nâng cao năng lực phát triển cộng đồng cho cán bộ và người dân địa phương, mặt khác, góp phần lý giải những vấn đề của thực tiễn công cuộc phát triển bền vững ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Trước hết là việc hợp tác với Khoa Nghiên cứu các dân tộc bản địa của trường Đại học Tổng hợp Trent-Canada để thực hiện Dự án Đào tạo cán bộ quản lý người dân tộc ở Sa Pa (Lào Cai)(1997-1999). Thông qua dự án này, bằng cách nghiên cứu và trực tiếp tổ chức các khóa đào tạo địa phương, các nhà Dân tộc học đã trang bị cho các học viên là cán bộ dân tộc thiểu số vốn hiểu biết về các giá trị văn hóa truyền thống, những kiến thức cần thiết về quản lý và phát triển cộng đồng, về nhu cầu và phương thức phát triển cộng đồng trong khung cảnh đổi mới và hội nhập, qua đó, từng bước nâng cao năng lực tham gia của chính người dân vào các quá trình phát triển ở địa phương.

22

Page 23: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

Một số cán bộ của Viện đã tham gia tích cực vào Dự án hợp tác Việt Nam - Canada Giảm nghèo cho các địa phương Việt Nam: Nâng cao năng lực đánh giá chính sách và lập dự án (1999-2003) do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) là cơ quan đồng chủ trì. Những cán bộ này đã tiến hành điều tra, khảo sát thực địa tại nhiều vùng dân tộc, góp phần nâng cao năng lực giảm nghèo vùng dân tộc cho giảng viên các trường đại học và cho cán bộ làm công tác giảm nghèo các địa phương, đồng thời chủ trì và thực hiện xuất sắc việc biên soạn tài liệu phục vụ giảng dạy mang tiêu đề Vấn đề giảm nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Trong những năm 1999-2001, Viện đã cử một số cán bộ tham gia vào Chương trình Nghiên cứu lập kế hoạch xây dựng thủy điện quốc gia Việt Nam do SIDA (Thụy Điển) tài trợ, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) chủ trì, trong đó, trực tiếp thực hiện nội dung nghiên cứu Đánh giá các tác động kinh tế - xã hội của 21 dự án thủy điện tiền khả thi trên 05 lưu vực sông: Đà, Lô-Gâm, Cả, Sê San và Đồng Nai. Thông qua việc thu thập dữ liệu bằng phương pháp cùng tham gia tại nhiều địa phương và bản làng người dân thiểu số, các kết quả nghiên cứu đã cung cấp những luận cứ xác thực góp phần vào việc hoạch định và xây dựng các công trình thủy điện trên cả nước trong tương lai.

Nhiều cán bộ trong Viện đã đem những kinh nghiệm và hiểu biết của mình về kinh tế - xã hội truyền thống các tộc người để tư vấn và đóng góp vào thành công của một số dự án phát triển do các cơ quan bên ngoài chủ trì như: Dự án thủy điện Ya Ly; Dự án xây dựng khu công nghiệp Dung Quất; Dự án xây dựng khu cảng Chân Mây; Dự án y tế nông thôn ở Việt Nam (ABC tài trợ, Bộ Y tế chủ trì); Dự án đánh giá tác động xã hội, văn hóa của nhà máy giấy Bãi Bằng; Dự án nghiên cứu nhu cầu giáo dục và y tế của các dân tộc thiểu số ở tiểu vùng sông Mê Kông; Dự án Thủy điện đa mục tiêu Sông Hinh: Nâng cao năng lực đánh giá tác động kinh tế - xã hội của các công trình thủy điện ở Việt Nam...

Viện đã hợp tác với Trung tâm Khoa học xã hội Pháp thực hiện thành công Đề tài Làng Việt với những biến đổi của nó.

Trong nửa sau của thập niên 90, Viện đã cùng với Trung tâm Nghiên cứu vùng và phát triển bền vững của Trường Đại học Tổng hợp Chiềng Mai (Thái Lan) thực hiện Dự án Các cộng đồng thiểu số trong môi trường biến đổi, kết

23

Page 24: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

hợp với Trường Đại học Tổng hợp Goteborg của Thụy Điển thực hiện Dự án Nâng cao năng lực trong nghiên cứu Dân tộc học /Nhân học xã hội (trong khuôn khổ Chương trình Phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển),...

Từ năm 2002 - 2005, Viện Dân tộc học phối hợp với Viện Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài Nguyên và Môi trường) đã hợp tác với Trường Đại học KU Leuven - Vương quốc Bỉ thực hiện Dự án Tăng cường sự hợp tác giữa các bên tham gia trong việc bảo tồn cảnh quan đá vôi ở vùng Pù Luông - Cúc Phương, phía Bắc Việt Nam. Trong Dự án này, Viện Dân tộc học đã thực hiện nghiên cứu khía cạnh xã hội và văn hóa của cư dân địa phương trong mối quan hệ với vùng cảnh quan của Dự án. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Dự án, tỉnh Hòa Bình đã xây dựng Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn - Ngổ Luông cuối năm 2005. Vẫn trong khuôn khổ hoạt động hợp tác với các tổ chức và vấn đề nghiên cứu đã nêu, từ năm 2007 - 2012, Viện Dân tộc học lại tiếp tục tham gia Dự án Nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển công viên địa chất ở một số vùng Đông Bắc Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Dự án, 4 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ, Yên Minh thuộc tỉnh Hà Giang đã được UNESCO công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu vào tháng 3 năm 2010.

Trong các năm từ 2004 - 2007, được sự tài trợ của Quỹ Rockefeller, Viện đã thực hiện Dự án nghiên cứu về Cơ chế ứng phó với tình trạng thiếu lương thực của các dân tộc thiểu số tại vùng cao Việt Nam. Vẫn theo hướng nghiên cứu đó, từ 2005 - 2008, Quỹ Rockefeller lại tài trợ cho Viện thực hiện Dự án hợp tác với Viện Nghiên cứu văn hóa của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về Cơ chế ứng phó với tình trạng thiếu lương thực của các dân tộc thiểu số tại vùng cao Việt Nam và Lào. Đây là hai Dự án liên ngành, do các nhà Dân tộc học kết hợp với các nhà khoa học thuộc lĩnh vực y tế, nông nghiệp và kinh tế thực hiện. Dự án đã phân tích thực trạng và nguyên nhân thiếu lương thực của các dân tộc thiểu số, từ đó đề xuất giải pháp liên quan đến việc sử dụng 5 nguồn vốn, đó là vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn con người, vốn tài chính và vốn vật chất của cộng đồng cư dân được nghiên cứu.

Hiện nay (2013), Viện đang hợp tác với Viện Nhân học xã hội thuộc Viện Max Planck của Cộng hòa liên bang Đức để nghiên cứu về Sự chuyển đổi của chợ trong xã hội Việt Nam đương đại. Trong đề tài này, Viện đã tiếp nhận 6 cán bộ và nghiên cứu sinh tiến sĩ của Viện Nhân học xã hội (Đức) sang nghiên cứu;

24

Page 25: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

đồng thời, Viện cũng cử một số cán bộ trẻ tham gia. Một phần kết quả nghiên cứu đã được trình bày ở Hội thảo quốc tế “Sự chuyển đổi của chợ trong xã hội Việt Nam đương đại theo hướng tiếp cận Nhân học” được tổ chức tại Hà Nội vào đầu tháng 4 năm 2013. Nghiên cứu cũng góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ trẻ của Viện Dân tộc học.

Bên cạnh thực hiện những dự án hợp tác với nước ngoài, Viện còn có nhiều đề tài, dự án hợp tác với các địa phương trong nước để triển khai nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu phát triển dưới góc độ Dân tộc học/ Nhân học, như thực hiện các đề tài nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu, về nhóm người Thủy ở Tuyên Quang; nghiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, phát triển du lịch ở tỉnh Sơn La; chăm sóc sức khỏe các tộc người, xây dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Điện Biên; vấn đề biến đổi kinh tế-xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc; địa chí Vĩnh Phúc; phát huy các yếu tố truyền thống trong xây dựng đời sống văn hóa mới ở tỉnh Thái Bình… Ngoài ra, Viện còn có đội ngũ các nhà khoa học làm tư vấn cho nhiều tổ chức quốc tế, như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Bộ phát triển quốc tế Anh (DFID), Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIA), Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV)… trong thực hiện các dự án nghiên cứu và phát triển ở nhiều địa phương của Việt Nam về các lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, lâm nghiệp cộng đồng, giao đất giao rừng, biến đổi khí hậu...

Tóm lại, trong 45 năm xây dựng và phát triển, bao gồm ba giai đoạn chống Mỹ, trước Đổi mới và Đổi mới, Viện Dân tộc học đã trải qua một chặng đường dài nghiên cứu, phản ánh sự trưởng thành nhanh chóng với tư cách là cơ quan nghiên cứu độc lập chuyên ngành. Những thành tựu khoa học mà Viện Dân tộc học đã đạt được trong 45 năm qua là rất phong phú, to lớn và đáng tự hào. Trong rất nhiều những thành tựu đó, tựu trung, có các thành tựu được coi là cơ bản và nổi bật như sau:

1. Trên cơ sở xác định đúng đắn các tiêu chí xác định thành phần dân tộc, đã triển khai việc điều tra, khảo sát và nghiên cứu để đưa ra được Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam năm 1979 gồm 54 dân tộc, một đóng góp có ý nghĩa to lớn không chỉ về khoa học mà còn về thực tiễn, một thành công đáng ghi nhận của ngành Dân tộc học Việt Nam. Trong những thập niên qua, Bảng danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam đã góp phần đáng kể vào công

25

Page 26: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước nói chung, vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nói riêng và vào bốn cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc các năm 1979, 1989, 1999 và 2009. Bên cạnh đó, do biến động của thực tiễn và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, Viện đã tiến hành việc điều tra xác định lại thành phần một số dân tộc và nhóm dân tộc để góp phần ổn định, bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, cũng là góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng dân tộc và miền núi trong giai đoạn mới.

2. Triển khai các nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa các dân tộc, trong đó, bằng hàng nghìn bài báo, hàng trăm cuốn sách, giới thiệu và làm rõ các đặc trưng kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt là giới thiệu và làm rõ các đặc trưng văn hóa của các dân tộc trong cả nước. Trên cơ sở đó, một mặt, giúp cho các dân tộc trong cả nước hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau, củng cố khối đoàn kết dân tộc, tăng cường lòng tự tôn dân tộc, phục vụ cho việc đề ra và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước qua từng thời kỳ, mặt khác, góp phần đắc lực vào việc thực hiện chủ trương bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền thống của các dân tộc trong khung cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập do Đảng ta khởi xướng, một chủ trương xuyên suốt và được đặc biệt khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) và Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX) của Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững vùng dân tộc và miền núi trong khung cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo hướng kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu phát triển, Viện đã chủ trì thực hiện thành công hoặc tham gia có hiệu quả nhiều chương trình, dự án, đề tài về những vấn đề phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc, bao gồm các chương trình cấp Nhà nước, cấp bộ, dự án điều tra, các chương trình, dự án, đề tài hợp tác với các viện, các cơ quan trong nước và các đối tác ngoài nước. Qua đó, đưa ra được những thực trạng, cảnh báo, khuyến nghị và những đề xuất khách quan, khoa học làm cơ sở để Đảng, Nhà nước và các cơ quan quản lý xây dựng các chính sách, hoạch định các chương trình phát triển phù hợp với đặc điểm tự nhiên và con người từng vùng, từng dân tộc, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, xã hội bình đẳng, dân chủ, công bằng, văn minh cho vùng miền núi và dân tộc.

4. Những thành tựu khoa học đã có cho phép khẳng định Viện Dân tộc học với tư cách là cơ quan nghiên cứu chuyên ngành đã và đang hoàn thành tốt

26

Page 27: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước và xã hội giao phó, cũng chứng minh vai trò quan trọng không thể thiếu của Viện trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng dân tộc và miền núi nói riêng và cả nước nói chung. Hơn bao giờ hết, thực tiễn cần đến Dân tộc học, cũng như hơn bao giờ hết, thực tiễn đòi hỏi ở Dân tộc học sự nỗ lực, phấn đấu, vươn lên để đáp ứng những nhu cầu của thực tiễn.

III. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Luôn luôn trau dồi, học tập, trao đổi để nắm vững và cập nhật những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc qua từng thời kỳ làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động chuyên môn khoa học của Viện, của ngành.

2. Trong quá trình triển khai các hoạt động chuyên môn, đã chú ý quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể, trong đó, mấu chốt là vận dụng biện chứng các quan điểm của Đảng vào tình hình thực tiễn Việt Nam, đồng thời, mở rộng giao lưu, hội nhập theo hướng toàn cầu hóa, đa phương hóa để thường xuyên cập nhật những lý thuyết, phương pháp, kinh nghiệm và nội dung nghiên cứu của các nước trên thế giới và khu vực.

3. Những nghiên cứu Dân tộc học chỉ đạt tới chân lý khách quan cũng như bảo đảm ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao khi chúng là kết quả của quá trình kết hợp hài hòa giữa phân tích các tài liệu có sẵn với các tài liệu thu thập được tại thực địa để so sánh, đối chiếu dưới góc độ thời gian và không gian, trong đó, phân tích các tài liệu tại thực địa có vai trò đặc biệt quan trọng. Điều này có nghĩa là, nghiên cứu Dân tộc học đòi hỏi các cuộc điền dã thường xuyên và liên tục như một điều kiện bắt buộc không thể thiếu. Chỉ có thông qua các cuộc đi công tác tại thực địa, trong đó, triển khai các phương pháp điền dã Dân tộc học, theo dõi và bám sát thực tế từng tộc người, từng vùng dân tộc, người làm công tác nghiên cứu Dân tộc học mới nắm được thực tiễn sinh động đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người dân, và thuyết phục về những vấn đề khoa học và thực tiễn.

4. Là một chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu cơ bản dân tộc và văn hóa dân tộc là chức năng và nhiệm vụ tất yếu và xuyên suốt của ngành Dân tộc học. Tuy nhiên, để hòa nhập vào trong khung cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh nghiên cứu cơ bản về dân tộc và văn hóa dân tộc, Dân tộc học ngày nay rất cần triển khai nhiệm vụ kết hợp nghiên cứu cơ

27

Page 28: Vien Dan toc hoc_Bai viet cho sach cua Vien HL-1.doc

bản với nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng to lớn và cấp thiết của thực tiễn cuộc sống. Thực tiễn đã chứng minh mối quan hệ biện chứng của hai hướng nghiên cứu Dân tộc học nói trên. Muốn phục vụ thực tiễn có hiệu quả, cần phải nghiên cứu sâu theo dân tộc, theo vấn đề, theo vùng, theo từng thành tố văn hóa và nhìn chúng trong động thái phát triển chung của quốc gia và quốc tế; ngược lại, nghiên cứu cơ bản chỉ có ý nghĩa khi gắn nó và so sánh nó với những biến đổi đã và đang diễn ra, từ đó, phát hiện và nắm bắt được những quy luật biến đổi và phát triển của kinh tế, xã hội và văn hóa của từng vùng, từng dân tộc.

5. Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở vùng dân tộc và miền núi, bên cạnh việc luôn luôn nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, đòi hỏi những người làm công tác nghiên cứu Dân tộc học phải luôn năng động và sáng tạo trong chuyên môn, phải hội nhập tốt với các nghiên cứu của quốc tế, phải luôn kết hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương trong việc tìm tòi, đề xuất, nghiên cứu những vấn đề mà cuộc sống đặt ra đòi hỏi nghiên cứu và giải quyết.

28