58
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ (Tứ Thập Niên) TÒA THÁNH TÂY NINH PHạM- MôN GIữ BảN QUYềN Định ~hiên Lươnj Q&i N^ứt Bổn H&ệ T`ôn* Đạo Fá} ĐQuầw $anh Trí-Huệ-Cung THIÊN-HỈ-ĐỘNG Bản ngày 15 tháng 9 năm Quí Sửu (1973)

Trí-Huệ-Cung - tusachcaodai.files.wordpress.com · 2. Ngày 16 tháng chạp năm Canh Dần (1950) Tại Trí-Huệ-Cung 15 3. Ngày 25 tháng chạp năm Canh Dần (1950) Tại

  • Upload
    halien

  • View
    214

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ ( T ứ T h ậ p N i ê n )

TÒA THÁNH TÂY NINH

phạm-môn giữ bản quyền

Zí Định ~hiên Lươnj Q&i N^ứt Bổn

H&ệ T ôn* Đạo Fá} Độ Quầw $anh

Trí-Huệ-Cung

THIÊN-HỈ-ĐỘNG

Bản ngày 15 tháng 9 năm Quí Sửu (1973)

2

Ebook được làm theo Ấn-Bản phổ biến trên Website của daocaodai. info. Mọi góp ý, đề nghị bổ túc, sửa đổi những sơ sót, có thể có, xin vui lòng gởi điện thư vào địa chỉ: tamnguyen351@live. com

Thành thật tri ơn Ban Phụ Trách Phổ Biến Kinh Sách Website daocaodai.info đã bỏ nhiều tâm-huyết và công sức trong việc sưu tập, biên khảo, đánh máy, in ấn hay phổ biến trên Website ngỏ hầu Giáo-Lý Đại-Đạo được phổ truyền rộng rãi, lưu lại di-sản tinh-thần vô-giá cho thế-hệ hiện tại và nhiều thế-hệ tiếp nối mai sau.

California, 29/06/2013Tầm Nguyên

3

Thiên-Hỉ-Động Trí-Huệ-Cung

Trí

Định

Thiên

Lương

Qui

Nhứt

Bổn

Huệ

Thông

Ðạo

Pháp

Độ

Quần

Sanh

4

ĐỨC HỘ PHÁP THIỀN ĐỊNH

5

MỤC LỤC

� GIỚI THIỆU � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �7

� TRÍ-HUỆ-CUNG Thiên-Hỉ-Động �����������������������������������������������9

� PHƯƠNG LUYỆN KỶ � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �11 � TRÍ-HUỆ-CUNG � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �131. Đêm 14 tháng Chạp năm Canh-Dần (1950) tại đền-thánh � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � 132. Ngày 16 tháng chạp năm Canh Dần (1950) Tại Trí-Huệ-Cung � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � 153. Ngày 25 tháng chạp năm Canh Dần (1950) Tại Trí-Huệ-Cung � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � 164. Đêm Rằm tháng Giêng Tân-Mão Tại Đền-Thánh (1951) � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � 185. Đêm 17 tháng 04 năm Tân-Mão (22-5-1951) Tại Đền-Thánh � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � 216. Đêm 19 tháng 4 năm Tân-Mão (1951) Tại Đền-Thánh � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �24

� Bây giờ làm thế nào để lập ĐỨC? � � � � � � � � � � � � � � � � 25 � Bây giờ đến lập CÔNG � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �26 � Bây giờ tới lập NGÔN � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �27

7. Đêm Rằm tháng 5 năm Tân-Mão (1951) � � � � � � � � � � � �298. Trí-Huệ-Cung, đêm 25 tháng Chạp năm Canh Dần (1950)� � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �34

� CAO THƯỢNG PHẨM � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �349. Trí-Huệ-Cung, đêm mùng 7 tháng Giêng năm Tân-Mão (1951) � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �36

� CAO THƯỢNG PHẨM � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �36

6

� DIÊU TRÌ KIM-MẪU � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �3610. Bài Thuyết Đạo của Đức HỘ-PHÁP, ngày 30 tháng 5 năm Quí-Tỵ (1953) � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �38

� PHỤ BẢN Trí-Huệ-Cung –Bí-Pháp Tu-Chơn �������������������4311. BÀI THUYẾT-ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP – CẢNH SỐ: 3 � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �44

� 10 ĐIỀU CẤM-RĂN � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �55 � TÀI LIỆU THAM KHẢO � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � �57

giỚi ThiỆu

Chúng tôi trân trọng giới thiếu quyển: “Trí-Huệ-Cung – Thiên-Hỉ-Động” do chư vị

tiền bối PHẠM-MÔN kết tập và ấn hành các bài thuyết giảng của Đức HỘ-PHÁP về ý nghĩa sự tạo lập Trí-Huệ-Cung —Thiên-Hỉ-Động.

Chúng tôi may duyên sưu tầm được bản photo copy của Bản in “Biếu Không” đề ngày 15 tháng 9 Quý-Sửu (1973), và chúng tôi đã đánh máy lại cùng chuyển đổi làm thành quyển ebook này. Ngoài ra, để giúp tiện lợi trong việc nghiên cứu và học hỏi, chúng thêm vào phần Phụ-Bản ở phía sau quyển ebook này: bài thuyết Đạo “Trí-Huệ-Cung —Bí-Pháp Tu-Chơn” và “10 Điều Cấm-Răn” của Đức Hộ Pháp riêng cho các TÍN-ĐỒ PHẠM-MÔN PHƯỚC-THIỆN – THIÊN-HỈ-ĐỘNG mà chúng tôi đã sưu tầm được.

Những tài liệu chúng tôi sưu tầm được là những bản photo copy từ những bản-in hay bản-đánh-máy đã cũ có nhiều từ bị phai mờ, không được rõ ràng, vì thế chúng tôi phải đối chiếu lại với bài mà chúng tôi tìm gặp trong các quyển Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp. Tuy nhiên, có những đoạn hay bài thuyết giảng mà chúng tôi không tìm gặp bản tương ứng thứ hai để đối chiếu, vì thế chúng đã phải cố suy đoán, do vậy, rất có thể, sự suy đoán của

7

chúng tôi không được chính xác hay sai lầm, nên chúng tôi hi vọng chư Đạo-Hữu, Đạo-Tâm khi đọc phát hiện bất kỳ điều gì sai sót, hay lầm lỗi, xin vui lòng cho chúng tôi được biết để giúp chúng tôi có thể chỉnh sửa lại cho được chính xác và hoàn hảo hơn. Xin chân thành cảm tạ.

Trân trọng,California, ngày 28 tháng 6, 2013

Tầm Nguyên

GIỚI THIỆU

8

9

TRÍ-HUỆ-CUNG Thiên-Hỉ-Động

GIỚI THIỆU

10

11

HỘ-PHÁP-ĐƯỜNG ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘvăn-phòng Nhị thập nhị niên

Số: 209 Tòa-Thánh Tây-Ninh

PHƯƠNG LUYỆN KỶĐẶNG VÀO CON ĐƯỜNG THỨ BA ĐẠI-ĐẠO

Phải biết thân-thích cùng cả nhơn vật tức là tìm nguyên do của Vạn-Linh cùng Chí-Linh.

Phải ân-hậu và khoan-hồng. Phải thanh-nhàn đừng vị-kỷ. Phải bình-tĩnh nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của

họa, phước, buồn, vui (tập tánh không không đừng nhiểm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).

Phải độ-lượng, khoan-dung, tha-thứ. Phải vui-vẻ, điều-hoà, tự-chủ, và quyết-đoán. Giữ linh-tâm làm căn bổn. Hiếu-hạnh với Chí-Tôn

và Phật-Mẫu.

PHƯƠNG-PHÁP TRỊ TÂM VÌ TÂM LÀ HÌNH ẢN H CỦA THIÊN-LƯƠNG

Đức-tin và khôn-ngoan là kho chí bữu, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô gía.

Ai đã cố oán kẻ thù của mình, thì khó giữ thanh tâm công-chánh cho đặng.

Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù nghịch

PHƯƠNG LUYỆN KỶ

12

cùng mình. Sự cừu hận là mối thảm khổ đệ nhứt của nhơn sanh,

nên người hiền thì không biết đến, hay là từ bỏ cừu hận oán ghét.

Thắng đặng khí nộ mình, thì không chọc ai giận dữ. Lấy thiện mà trừ ác. Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo tàn. Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp-hòi. Lấy chánh trừ tà. Ấy là đường thương huệ kiếm.

LUYỆN THÂN, LUYỆN TRÍ

Ẩm-thực tinh-khiết. Tư-tưởng tinh-khiết. Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu. Thương yêu vô tận. Ấy là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Đài tại thế nầy.

Tòa-Thánh, ngày 14 tháng Giêng năm Đinh-Hợi (1947)Hộ-Pháp(Ấn-Ký)

Đêm 14 THáNG CHạP Năm CaNH-DầN (1950) TạI ĐềN-THáNH

13

TRÍ-HUỆ-CUNGĐức hỘ-phÁp ThuyếT về ý-nghĩa sự Tạo lập

ThiÊn-hỈ-ĐỘng – TRÍ-huỆ-cung

1. ĐÊM 14 THÁNG CHẠP NĂM CANH-DẦN (1950) TẠI ĐỀN-THÁNH

Ngày mai nầy là ngày “Trấn Pháp” Thiên-Hỉ-Động, Trí-Huệ-Cung. Bần-Đạo lấy làm mừng đã làm tròn phận-sự đặc-biệt của Bần-

Đạo. Từ thử đến giờ Bần-Đạo đã nhiều phen giảng-giải về hình-thể Đức CHÍ-TÔN.

Bần-Đạo đã gánh vác về thể-pháp Cửu-Trùng-Đài, tạo nghiệp cho Đạo là làm giùm cho thiên-hạ chớ không phải phận-sự của Bần-Đạo. Ngày nay là ngày vui mừng của Bần-Đạo hơn hết, là Bần-Đạo còn sức khỏe đầy đủ cầm Bí-Pháp của Đức CHÍ-TÔN đã giao phó, ấy là phận sự đặc-biệt của BẦN-ĐẠO đó vậy.

HỘ-PHÁP đến kỳ Long-Hoa Hội nầy cốt để rước Cửu nhị ức Nguyên-Nhân là Bạn chí thân của Người đã bị đọa-lạc nơi hồng-trần nầy không phương giải-thoát. Muốn rước các bạn chí-thân của Bần-Đạo, Đức CHÍ-TÔN buộc phải lấy Pháp-Giới tận-độ chúng-sanh.

Hôm nay là ngày mở cửa Thiêng-Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên-Nhân ấy một quyền-năng đặng tự giải-thoát lấy mình; hai món Bí-Pháp ấy là:

1. LONG-TU-PHIẾN của Đức CAO THƯỢNG-PHẨM để lại.

2. KIM-TIÊN của Bần-Đạo.

TRÍ-HUỆ-CUNG

14

Hiệp với ba vòng Vô-Vi, tức nhiên Diệu-Quang Tam-Giáo hay là hình-trạng Càn-Khôn Vũ-Trụ mà đó cũng là tượng ảnh Huệ-Quang-Khiếu của chúng ta đó vậy.

KIM TIÊN(1) là gì? – Là tượng hình-ảnh điển-lực điều-khiển Càn-

Khôn Vũ-Trụ mà chính nơi đó là điển-lực tức nhiên là sanh lực của vạn-vật đó vậy. Với nó mới có thể mở Đệ-Bát-Khiếu – trong thân thể con người có Thất-Khiếu và còn có một khiếu vô-hình là Huệ-Quang-Khiếu – vì nó là điển-lực nên nó mở Khiếu ấy mới được.

Nói rõ, con người có Ngũ-quan hữu-tướng và Lục-quan vô-hình, mà phải nhờ cây Kim-Tiên ấy mới có đủ quyền hành mở Lục quan của mình đặng.

LONG-TU-PHIẾN có thể vận-chuyển Càn-Khôn Vũ-Trụ do nguơn-khí đào-độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào-độn nguơn-khí, thâu-hoạch nguơn-khí để trong sanh lực.

Con người nắm được điều ấy là kẻ đắc-Pháp, nhờ nó mới có thể luyện TINH hóa KHÍ, luyện KHÍ hóa THẦN được.

Ấy là Bí-Pháp trấn tại Thiên-Hỉ-Động – Trí-Huệ-Cung – Toàn thể ngó thấy không có gì hết mà trong đó có huyền-pháp vô biên, vô giới. giải-thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó mà thôi. n

(1). Hộ-Pháp đến kỳ này cây Gián-Ma-Xử của người còn để lại cõi vô-hình đặng trấn giữ Tây-Phương Cực-Lạc. Chính cập Kim-Tiên của Đức Cảm Ứng Lôi-Thinh Phổ-Hóa Thiên-Tôn, tức Thái-Sư Văn-Trọng, Ngài giao cho Hộ-Pháp một và Ngài còn giữ một.

NGàY 16 THáNG CHạP Năm CaNH DầN (1950) TạI TRÍ-HUỆ-CUNG

15

2. NGÀY 16 THÁNG CHẠP NĂM CANH DẦN (1950) TẠI TRÍ-HUỆ-CUNG

Bần-Đạo xin để lời cám ơn toàn thể con cái Đức CHÍ-TÔN Nam, Nữ nhứt là Thánh-thể của Ngài.Ngày hôm nay nếu chúng ta biết đặng hồng-ân

của Đức CHÍ-TÔN ban thưởng thế nào, thì đây là một ngày vui của chúng ta không thế gì tả được. Bởi giờ phút nầy, sau khi hai mươi mấy năm chúng ta chịu khổ-hạnh, vì Đạo mà lăn lóc cực-nhọc về phần xác lẫn phần hồn.

Ngày nay Đức CHÍ-TÔN đã mở cho chúng ta một con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống và Bần-Đạo đã vâng mạng lịnh của Đức Ngài tạo dựng một bến giải-thoát cho toàn thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy.

Bần-Đạo nói: “Từ đây, kể từ ngày nay cửa Thiêng-Liêng của Đạo đã mở rộng, Bần-Đạo kêu toàn thể con cái Đức CHÍ-TÔN, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu nhị ức Nguyên Nhân (92 Ức Nguyên Nhân) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức CHÍ-TÔN”.

“Cửa nầy là cửa của các Người đến đạt-Pháp đặng giải-thoát lấy mình, nếu không tự mình đến trong lòng Đức CHÍ-TÔN, vì Đức CHÍ-TÔN đã đưa tay ra nâng-đỡ, mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Đô”.

“Giờ phút ấy không còn trách Đức CHÍ-TÔN rằng: không thương yêu con cái của Ngài, không đem cơ-quan tận-độ chúng-sanh để nơi mặt địa-cầu nầy cứu vớt nữa”.

Bần-Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái của Đức CHÍ-TÔN một phen nữa.

TRÍ-HUỆ-CUNG

16

3. NGÀY 25 THÁNG CHẠP NĂM CANH DẦN (1950) TẠI TRÍ-HUỆ-CUNG

Hôm nay là ngày Thuyết Đạo trọng yếu, cả thảy rán để ý nghe cho rõ, đừng để rồi sau hối hận.

Bần-Đạo xin cả thảy lắng lặng nghe cho rõ.Trước khi mở lời, Bần-Đạo cám ơn toàn thể con

cái Đức CHÍ-TÔN nam nữ, nhứt là để lời thiết-yếu nồng-nàn cám ơn Thánh-thể của Ngài tức nhiên Hội-Thánh.

Các bạn ngày nay Bần-Đạo tạm giải chức HỘ-PHÁP; giờ phút nầy là người bạn tu của các Bạn mà thôi. Bần-Đạo tạm giải chức Hộ Pháp đặng đến với các con cái của Ngài, với một tình ái nồng-nàn, Hộ Pháp cũng là người bạn Thiêng-Liêng về phần hồn với con cái của Ngài.

TRÍ-HUỆ-CUNG là một cơ-quan tận-độ chúng-sanh đã xuất hiện mà bạn đã ngó thấy: quyền tận-độ đã xuất hiện nơi cửa Đạo CAO-ĐÀI nầy. Bần-Đạo nói rằng:

“Không phải của tư, của đặc-biệt của chúng ta, mà nó là của toàn-thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy”.

Bởi nó tượng-trưng hình ảnh Chí-Linh, Đức CHÍ-TÔN nơi thế nầy, mà hễ tượng-trưng hình ảnh Chí-Linh, tức nhiên không có quyền nào nắm nó được, vì nó là của đặc-biệt của toàn thể nhơn-loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức CHÍ-TÔN. Nó không có phép phân biệt đảng phái, Tôn giáo hay là nòi giống nơi mặt địa-cầu nầy.

Cửa Thiên-Hỉ-Động là cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống của toàn thể các Đẳng Chơn-linh, nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư-tưởng nào hơn là tượng-trưng cái quyền vô-tận, vô-đối của Đấng Chí-Linh, hằng

NGàY 25 THáNG CHạP Năm CaNH DầN (1950) TạI TRÍ-HUỆ-CUNG

17

tạo dựng đại-nghiệp cho con cái của Ngài trên mặt địa-cầu nầy, tức nhiên toàn thể nhơn-loại đó vậy.

Nó đã đến, đến đặng chi?Đặng làm bạn chí thân cùng toàn thể con cái của

Ngài, thì nó phải có độ-lượng yêu-ái nồng nàn, nó không phân biệt tư-tưởng hay hình-thể, nếu nó có còn tư tâm để cả tinh-thần nơi một chủ-hướng nào, thì nó đã phạm quyền vô biên của Đức CHÍ-TÔN tại thế đó vậy.

Ấy vậy, toàn thể con cái của Đức CHÍ-TÔN, các bạn đồng tu cùng Bần-Đạo, không phân biệt Đảng-Phái, Tôn-Giáo, hay nòi giống tư-tưởng nào, Bần-Đạo đã thọ mạng lịnh Đức CHÍ-TÔN đến làm bạn với các con cái của Ngài, nhứt là: “Cửu-Nhị-Ức Nguyên0Nhân hãy tỉnh mộng lại!”.

Những hình-thể của thiên-hạ đã để nơi trí óc con người từ thử đến giờ chưa có ai đặng quyền-năng nắm cơ giải-thoát, thì giờ phút nầy, Cửu Nhị Ức Nguyên Nhân vẫn còn đọa lạc.

Bần-Đạo cả tiếng kêu con cái Đức CHÍ-TÔN, nhứt là Cửu Nhị Ức Nguyên-Nhân hãy tỉnh mộng lại, ngó lại nơi Trí-Huệ-Cung, phải vào cửa ấy mới đoạt đặng mà thôi. Đạt cơ giải-thoát đặng mới nhập vào cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống, mà Đức CHÍ-TÔN đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mỗi người. n

TRÍ-HUỆ-CUNG

18

4. ĐÊM RẰM THÁNG GIÊNG TÂN-MÃO TẠI ĐỀN-THÁNH (1951)

Kể từ ngày 16 tháng giêng năm Tân-Mão, tức là ngày mai đây Bần-Đạo nhập vào Trí-Huệ-Cung.

Bần-Đạo đã nghe ngoài đời đồn rất dị thường, Bần-Đạo lên Giảng-Đài cốt để giải rõ nghĩa lý của Bần-Đạo nhập vào Trí-Huệ-Cung.

Bần-Đạo xin cho cả thảy con cái Đức CHÍ-TÔN biết rằng: “Nền Đạo Cao Đài Đức CHÍ-TÔN đến lập do nơi Chơn-lý tối cao, chính mình Đức CHÍ-TÔN đến để diệt mê-tín dị-đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn-chánh nầy mà thôi.”

Nó có hai quyền-năng sở hữu của nó nơi mặt thế này, cả hành-tàng sống chết của nó đều chịu dưới hệ thống của hai quyền-năng. Sống về xác thịt của ta đây, nó có thời gian sống của nó; từ buổi sanh ra đến lớn lên, đến già rồi chết, luật thiên-nhiên ấy không ai qua khỏi: luật thiên nhiên có giới hạn, có định luật chuẩn thằng cho kiếp sống của chúng ta, nơi mặt thế này là hình-thể, còn về mặt chơn-linh của chúng ta, tức nhiên hồn của chúng ta phải chịu hệ-thống dưới quyền vi chủ của nó, mà người làm chủ của nó không ai khác hơn là ĐẠI-TỪ-PHỤ, tức nhiên Thượng-Đế.

Nhơn loại mê-tín dị-đoan đã nhiều rồi, tinh-thần loài người đã bị họ gạt-gẫm nhiều rồi, bởi thế không gạt được nữa. Chỉ có hai quyền-năng ấy, không còn có mặt luật nào khác hơn nữa, ta chỉ tùng hai quyền-năng ấy mà thôi, ngoài ra là giả-dối.

Đêm Rằm THáNG GIêNG TâN-mão TạI ĐềN-THáNH (1951)

19

Bần-Đạo vào Trí-Huệ-Cung tịnh luyện, điều ấy không nói được Đức CHÍ-TÔN cho cùng không, chính Bần-Đạo cũng không biết được. Ngài ban cho chúng ta cùng chăng là do hồng-ân đặc-biệt của Ngài mà thôi, ấy là lời Bần-Đạo giải nghĩa về mê-tín dị-đoan cho toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này vậy.

Bần-Đạo vào Trí-Huệ-Cung là do lẽ nhơn-loại phạm Thiên Điều, vì loài người quá dữ gây oan nghiệt nơi mặt địa-cầu nầy đầy dẫy. Vì cớ, nếu không có tội tình ấy, Bần-Đạo dám quả quyết rằng: “CHÍ-TÔN không có đến dạy hội hiệp con cái của Ngài lập cơ giải-thoát tận-độ con cái của Ngài bao giờ”. Ngài đến đây bởi tội tình của con cái Ngài không phương cứu rỗi nên chính mình Ngài phải đến.

Bằng cớ hiển nhiên chúng ta đã thấy, Vạn-Quốc xô nhau đến con đường tử lộ, bởi quả-kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng biết cái sống của người khác. Nhứt là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không biết bao nhiêu, giết đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ không quá tám mươi tuổi rồi chết, thử hỏi, như thế biểu sao không gây oan-nghiệt tội-tình quả-kiếp.

Các Tôn giáo hiện hữu họ cố tìm phương cứu rỗi, kiếm phương này không được họ tìm phương khác, cả toàn cầu vạn quốc họ cũng bày ra Vạn-Quốc Thống-Nhứt, đặng tìm giải pháp duy trì hòa bình, tìm một giải pháp đặng tránh cho khỏi nạn tương tàn, tương sát với nhau.

Ôi! ỷ tài, ỷ tận! lấy trí khôn-ngoan để tìm cái chết!... Cả quyền-năng cái sống Thiêng-liêng kia đã ban cho họ, họ lại làm món lợi khí tận diệt lấy họ. Đó là bom nguyên tử, họ lấy trí khôn của họ tìm ra cái chết chớ không phải

TRÍ-HUỆ-CUNG

20

tìm lấy cái sống, coi mạng sống của mình không có gì hết, không kể Trời-Đất đạo-lý luân-thường gì hết, không còn kể quả kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa!...

Rồi họ lại tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt luật Thiên-Điều, Thiên-Điều kia, họ không thể vi chủ nó được, vì nó là điều cầm sanh-mạng của họ, chết hay sống đều do mặt luật Thiên-Điều mà thôi. Họ không tìm được phương-pháp nào để giải quyết được hết!

Thử coi trong ba tháng Bần-Đạo quì gối dưới chân Đức CHÍ-TÔN, khóc lóc thỉnh-cầu nơi Ngài cứu thử sanh-mạng loài người đặng chăng cho biết. Toàn thể con cái Đức CHÍ-TÔN nam nữ cũng thế, rán giúp Bần-Đạo, Bần-Đạo xin một điều là trong ba tháng Bần-Đạo vào trong cảnh tịch-mịch ấy tương-thân cùng Đức CHÍ-TÔN, ở ngoài rán cầu nguyện giúp sức với Bần-Đạo.

Bần-Đạo xin rán nhớ một điều này là: “Xin cho đồng bào của mấy người, cũng như xin cho nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này được phương cứu rỗi đó là may!”.

Bần-Đạo chỉ đặt cái máy truyền-thanh chỗ đó mà thôi, đặng cùng chăng là do nơi tinh-thần của toàn con cái Đức CHÍ-TÔN đó vậy. n

Đêm 17 THáNG 04 Năm TâN-mão (22-5-1951) TạI ĐềN-THáNH

21

5. ĐÊM 17 THÁNG 04 NĂM TÂN-MÃO (22-5-1951) TẠI ĐỀN-THÁNH

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong. Trước khi Bần-Đạo để lời về đạo-đức tinh-thần cho toàn thể con cái Đức CHÍ-TÔN, Bần-Đạo

xin cảm ơn toàn thể Nam, Nữ.Bần-Đạo nói rằng nhờ tình cảm của toàn thể chư

Đạo-Hữu mà Bần-Đạo được hưởng một đặc ân của Đức CHÍ-TÔN ban cho.

Kể từ ngày nhập tịnh nơi Trí-Huệ-Cung, chắc con cái Đức CHÍ-TÔN đều đánh dấu hỏi (?): “Đức Hộ-Pháp nhập tịnh để làm gì? Muốn làm gì? Nghĩa lý gì mà nhập Trí-Huệ-Cung ba tháng nay?”.

Vậy Bần-Đạo giải rõ hành-tàng trong ba tháng mà Bần-Đạo đã làm. Cái hành-tàng đó cũ-kỹ chớ không mới lạ gì, cái hành-tàng đã có từ thời thượng-cổ.

Về mặt Đạo giống như bốn mươi ngày của Đức Chúa JÉSUS ra ngoài sa-mạc cầu khẩn với Đức CHÍ-TÔN ban bố hồng-ân cho toàn nhơn-loại đặng đem cơ-quan cứu-thế của Ngài giao cho khắp xã-hội nhơn-quần được hưởng, giống như Đức Phật THÍCH-CA vào vườn Bồ-Đề ngồi thoàn-định đặng xin giải-thoát cho chúng-sanh.

Còn về mặt Thế, nó giống như Vua DAVID vì tội tình nhơn-loại mà buổi nọ ra đồng sa-mạc cầu-đảo, xin giải-pháp cứu-khổ cho dân Israel; giống như Vua HẠ-VÕ mặc hài gai đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc-dân khỏi tội.

Muốn nói rõ hành-tàng căn-mạng của toàn thể nhơn-loại và toàn thể quốc-dân Việt-Nam đã làm cho Bần-

TRÍ-HUỆ-CUNG

22

Đạo phải chịu ba tháng nơi chốn tịch-mịch, để cầu khẩn với Đức CHÍ-TÔN ban hồng-ân đặc-biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ-quan cứu khổ của Ngài đã thiệt hiện cho toàn thể nhơn-loại nhứt là sắc dân yêu-quí đồng-chủng cùng Bần-Đạo là sắc dân Việt-Nam.

Chúng ta thử hỏi, một người tượng-trưng tinh-thần của một dân-tộc, tinh-thần đạo-đức cho nước Việt-Nam, đã có sứ mạng đem tinh-thần đạo-đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa lại cái hành-tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng-liêng của Đức CHÍ-TÔN, nước Thiêng-liêng đạo-đức của Ngài, dọn con đường Thánh Đức cho sạch sẽ đừng cho nhơ-bẩn, ấy là nước Chí-Thánh của Ngài, cầm giọt cam-lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng-sanh nơi mặt địa-cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn?

Ôi! Cái cao-vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của mình, Kẻ xin thì khác, mà kẻ được lại khác.

Hại thay! Tạo nghiệp của nhơn-loại từ khi có nơi mặt địa-cầu nầy, đến bao giờ mới bảo-vệ được sanh-mạng của họ, cấp tiến trong con đường giải-khổ, họ đã gầy thêm trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều, mà phúc hậu lại ít, biểu sao không có trường lưu huyết!.

Nếu chúng ta dở lịch sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế kỷ hai mươi dĩ chí đến 1951, không buổi nào nhơn-loại hưởng đặng hanh phúc hòa bình, chỉ tương tàn tương sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền-năng Thiêng-Liêng kia thì Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Không ai cứu chữa tội tình nhơn-loại được. Chúng ta thương nhơn-loại không bằng Cha sanh của họ, đã sanh họ ra

Đêm 17 THáNG 04 Năm TâN-mão (22-5-1951) TạI ĐềN-THáNH

23

vừa hình-thể, vừa linh hồn tức là ĐẠI TỪ-PHỤ. Ngài đã cầm sanh-mạng của nhơn-loại mà không cứu-chữa tội tình của nhơn-loại được, phải chịu khoanh tay ngồi đổ lụy vì căn quả của nhơn-sanh đã định vậy. Chính mình Đức CHÍ-TÔN cũng không phương sửa cải, nếu có phương sửa cải, thì không cần gì Bần-Đạo phải vào Trí-Huệ-Cung cầu-khẩn, Ngài đã làm trước rồi.

May thay! Nhờ đạo-tâm của toàn Thánh-Thể của Ngài và toàn con cái nam, nữ cũng vậy, nhứt là đám thiếu-niên đã làm cho cảm động Đức CHÍ-TÔN, nên Ngài cho Bần-Đạo hội diện cùng quyền-năng thiêng-liêng bốn phen trong ba tháng.

Bần-Đạo nói rằng: “Cái định-mạng của nhơn-loại, cũng như cái định-mạng của toàn thể quốc dân Việt-Nam, trong giờ phút nầy ở trong tay của Đức CHÍ-TÔN” và Bần-Đạo dám quả quyết rằng: “Luật nhơn quả của nhơn-loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc hòa-bình được”.

Cái mơ-vọng của thiên-hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào khối Thánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh phúc của họ mới có, và cơ-quan cứu khổ của Đức CHÍ-TÔN mới thực-hiện được”. n

TRÍ-HUỆ-CUNG

24

6. ĐÊM 19 THÁNG 4 NĂM TÂN-MÃO (1951) TẠI ĐỀN-THÁNH

Đêm nay Bần-Đạo giảng “phương-pháp lập thiên vị” mình. Ngày Bần-Đạo đến tại Trí-Huệ-Cung có đặng

nhiều bức thơ của mấy bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí-Huệ-Cung một lượt với Bần-Đạo nhiều lắm!...

Ngày giờ ấy chính mình Bần-Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn-linh đem vào cửa Thiêng-liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương-pháp nhập Trí-Huệ-Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao (?). May duyên thay Đức CHÍ-TÔN thấy không phương thế giải quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm quyền Thiêng-liêng của Đạo. Khi đặng hiểu rõ rồi, Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh thấy rằng: “Cái nền Chơn Giáo của Đức CHÍ-TÔN vẫn là đường đường ngay chánh, nhứt định về thể-pháp Chơn-truyền, không hề mê hoặc ai cả thảy”. Và Bần-Đạo cũng quả quyết rằng: “Những phương-pháp mê hoặc của thiên-hạ về Đạo-lý sẽ bị Chơn-truyền của Đức CHÍ-TÔN từ từ tiêu diệt hết”.

Muốn định Thiên-vị của mình, quyền Thiêng-liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có tam-lập của mình mới được, gọi là nhơn luân. Điều ấy Bần-Đạo có truyền cho Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài hay trước rồi và dường như Đức TR ẦN KHAI-PHÁP đã có thuyết minh điều ấy rồi. Bần-Đạo không cần luận thêm nữa, chỉ nói tại làm sao phải có tam-lập ấy mà thôi.

Nếu người nào không có tam-lập thì không có ở

Đêm 19 THáNG 4 Năm TâN-mão (1951) TạI ĐềN-THáNH

25

chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của Đời, tức nhiên thể-pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí-pháp, đạt pháp, đạt Đạo. Thể pháp mà họ không làm đặng, Bí-Pháp vẫn khó, làm sao cho rồi, nếu mà không rồi hành-tàng của họ về Bí-Pháp tức nhiên mê hoặc chúng-sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng, khi nào thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết định có hình, bóng hình phải tương liên với nhau mới đặng.

Ấy vậy tam-lập là: Lập ĐỨC, lập CÔNG, lập NGÔN, con người khi sanh ra mặt địa-cầu nầy không có tam-lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã-hội nhơn-quần được.

Nếu con người không có ĐỨC thì làm sao xử sự trong gia-đình, ngoài xã-hội đặng.

Con người không có CÔNG thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời, thì sống với ai(?).

Cũng như người ta thì chơn-chất thật-thà, hiền lương đạo-đức, còn mình xảo-ngữ lường-gạt, không chút dạ nhơn-từ, dầu cho con người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thế gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi.

BÂY GIỜ LÀM THẾ NÀO ĐỂ LẬP ĐỨC?

Lập đức với vợ con mình được không?... Không được. Lập Đức với anh em Tông-đường mình được không?... Cũng không được. Lập Đức với quốc-gia xã-

TRÍ-HUỆ-CUNG

26

hội mình được không?... Hơi khá khá chút... nhưng mà cũng chưa đủ, phải lập Đức khắp mặt địa-cầu nầy... và phải lập đức với toàn thể nhơn-loại. Nếu muốn được như vậy, không ở cửa nào hơn là cửa Đạo; nếu cái đó không cần ích chi thì Đức CHÍ-TÔN không cần lập Giáo. Phương pháp của Ngài lập Đạo CAO-ĐÀI là cốt-yếu để cho chúng ta lập ĐỨC mình, không đến ở trong cửa Đạo nầy thì không thế gì lập ĐỨC với toàn-thể thiên-hạ được.

BÂY GIỜ ĐẾN LẬP CÔNG

Chén cơm, manh quần tấm áo, ngọn rau tấc đất đều là nợ của chúng ta, nếu không trả được tức nhiên còn thiếu nợ, muốn trả thì lập CÔNG với ai?... Vì tôi chưa biết làm ra chén cơm cho tôi ăn, manh áo tôi mặc và tôi cũng không biết rõ người ơn của tôi, thì đụng ai tôi trả nấy, tức nhiên tôi phải phụng sự cho toàn-thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy. Bởi nhờ ơn của họ đã làm cho tôi sống, tôi mới trả công ơn cho cha mẹ tôi được. Cha mẹ tôi cho tôi xác thịt chớ không cho tôi manh quần tấm áo. Cha mẹ tôi có thể cho tôi trí não chớ không cho tôi sống ở xã-hội nhơn-quần, xã-hội dạy khôn cho tôi. Cha mẹ tôi có thể nuôi tôi khi còn thơ-ấu chớ không thể nuôi tôi cho đến chết; như vậy xã-hội nuôi tôi, tôi phải trả ơn ấy.

Muốn trả ơn ấy tôi phải lập CÔNG, nhưng không biết lập công với ai buộc tôi phải trả công cho toàn thể nhơn-loại, không còn có nơi nào khác hơn cửa Đạo, phải vô cửa Đạo mới phụng-sự cho toàn thể nhơn-loại được, vì cớ ấy cho nên Đức CHÍ-TÔN mới lập Giáo.

Đêm 19 THáNG 4 Năm TâN-mão (1951) TạI ĐềN-THáNH

27

BÂY GIỜ TỚI LẬP NGÔN

Tôi đi học của đời, tôi bị họ lường gạt nhiều quá, họ chỉ giành-giựt với nhau mà thôi, chưa khi nào để Thánh-ngôn lụng lại cho tinh-thần tôi mở mang, phát-huệ, không khi nào họ để lại một chơn-chất ngôn, chỉ ngụy biện mà thôi. Vậy bây giờ tôi biết khôn rồi, tôi không để họ ngụy-biện với tôi nữa, tự-ên tôi kiếm những Thánh-ngôn của các Bậc tiền-bối để lại coi cái gì hay, cái gì thiệt, cái gì đáng, cái gì không đáng. Quyển sách của các vị ấy để lại cho tôi, tôi tạo dựng ngôn-ngữ cho tôi. Tôi kiếm Thánh-ngôn nào phải hiền-từ, phải chí-thánh, chí thiện đặng chi?... đặng tôi bắt chước mà lưu lại cho đời cái thiện ngôn ấy, cái đạo ngôn-ngữ ấy. Dám chắc, muốn kiếm đạo-ngôn và thiên-ngôn ấy không phải vào hàng cá, hàng tôm, hàng thịt mà có, cũng không phải vào xóm đời mà có được.

Cả một đời kiếm thiện-ngôn ấy cũng không khi nào có nếu không phải trong cửa Đạo, nếu không vào cửa Đạo CAO-ĐÀI nầy. Thánh-ngôn Đức CHÍ-TÔN đến đã để lại từ thử mà thôi và cả Tam-Giáo nữa. Phải vào Đạo CAO-ĐÀI nầy mới kiếm được thiện-ngôn ấy, tôi kiếm được rồi tôi có thể lập ngôn-ngữ của tôi mà lưu-chiếu lại cho con cháu tôi. Chúng ta khi nào mà được ba điều ấy rồi, mới gọi rằng đã phụng-sự cho nhơn-loại.

Tôi lập ĐỨC, lập CÔNG, lập NGÔN tại mặt thế nầy được thì nơi cửa thiêng-liêng kia tôi mới có thể lập vị của tôi được. Hể thiên-hạ đã nhìn nhận cho tôi có đủ ba điều đó, thì tôi có thể lập-vị của tôi được.

Ấy vậy, khi muốn bước vô Trí-Huệ-Cung phải có đủ Tam-lập là: “TU THÂN”, nhưng làm sao biết họ đã

TRÍ-HUỆ-CUNG

28

lập CÔNG, lập ĐỨC, lập NGÔN của họ rồi, dầu giao cho Bộ Pháp-Chánh cũng chưa chắc điều-tra được, bởi nó thuộc về nửa bí-pháp nửa thể-pháp.

Bây giờ Bần-Đạo có một điều: “Những người nào xin đến Trí-Huệ-Cung, Bần-Đạo coi màng-màng được thì Bần-Đạo trục Thần của họ cho hội diện cùng quyền-năng thiêng-liêng, nếu có Tam-lập thì vô, không đủ thì ra”. n

Đêm Rằm THáNG 5 Năm TâN-mão (1951)

29

7. ĐÊM RẰM THÁNG 5 NĂM TÂN-MÃO (1951)

Hôm nay Bần-Đạo giảng về BÍ-PHÁP, ấy là một điều giảng rất khó khăn, Bần-Đạo lấy cả tình-trạng của nó thuyết ra đây, chẳng phải

đứng nơi Tòa Giảng này mà thuyết cho đủ được. Nếu như không có điều gì trở ngại về bí-quyết, Bần-Đạo thuyết-minh cho toàn thể con cái Đức CHÍ-TÔN thấu đáo, hiểu cho tận tường cái bí-pháp Đức CHÍ-TÔN đến trong thời kỳ này để trong nền chơn giáo của Ngài.

Ấy vậy, Bần-Đạo có một điều mơ-vọng tìm phương trụ vững cả đức-tin con cái của Ngài, Nam, Nữ đặng cái đức tin ấy làm một ngọn huệ-quang Thiêng-liêng, nó dìu dắt Thánh-Thể của NGÀI trong con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống: tức nhiên con đường giải-thoát.

BÍ-PHÁP là gì? THỂ-PHÁP là gì?

– Thể phapr là những cái hình-tướng của Đạo về hữu hình, tức nhiên hình-trạng của Hội-Thánh, tức là hình-trạng của Thánh-Thể Đức CHÍ-TÔN tại mặt thế nầy.

– Bí-Pháp là quyền-năng điều-khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ: tức là quyền-năng vô-đối của Đức CHÍ-TÔN đã cầm nơi tay, Ngài đến cùng con cái của Ngài, Ngài ban cho một quyền hành đủ phương-pháp, đủ quyền-năng tự giải-thoát cho mình.

Tiên Nho chúng ta có nói: Có trạng tả một điều vô-hình, mới trạng tả ra một hình-trạng hữu vi, nó vô tướng mà hữu lý làm sao đâu.

TRÍ-HUỆ-CUNG

30

Tiên Nho gọi chúng ta là khách-trần, gọi thế gian là quán-tục, tức nhiên ta là khách, trần là quán, nó hay làm sao đâu. Không lấy tỉ thí gì minh bạch chơn-chánh hơn tỉ thí đó. Chúng ta hãy thử nghĩ: “Cả toàn cơ-quan huyền-diệu vô-biên Đức CHÍ-TÔN đào tạo trong Càn-Khôn Vũ-Trụ và vạn vật hữu-hình, chúng ta có thể quan sát trước mắt chúng ta đây, chúng ta ngó thấy đều do khuôn luật thiên-nhiên tương-đối mà ra”. Ấy vậy, hễ có khuôn luật tương đối tức nhiên nó phải có đối cảnh. Bởi khuôn luật tạo ra hình, hễ có hình thì có cảnh, tức nhiên có hình thì có bóng, vô bóng tức nhiên vô-hình.

Chúng ta thử nghĩ luật tương đối, chúng ta lấy điều đơn-sơ quan-sát, chúng ta ngó thấy trong giấc ngủ, và chúng ta sống trong khi thức. Ngủ là sống với Vạn-Linh, thức là sống với Vạn-Vật. Chúng ta quan sát được hai đối cảnh, sánh với khuôn luật Càn-Khôn Vũ-Trụ kia cũng vậy không có gì khác, có cảnh sống cũng có cảnh chết, sống chúng ta thế nào, chết chúng ta thể ấy. Sống chúng ta là khách của “Quán tục” nầy khi chết tức nhiên trở về nguyên-cội, tức nhiên nhập trong cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống chớ không có chi lạ.

Bây giờ, hai hình-trạng ấy chúng ta thử nghĩ nó có liên-quan mật-thiết với chúng ta thể nào(?). Đơn sơ chúng ta lấy tỉ-thí một cách khoa-học là: khi chúng ta thức chúng ta mơ vọng một điều gì, làm điều gì cái năng lực trong hành-tàng thường thức của chúng ta, trong giấc ngủ chúng ta nằm mộng mơ nói tầm xàm là đối cảnh của nó đối với buổi thức; tức nhiên buổi sống. Ấy vậy, thức, ngủ là trong khuôn luật sống, chết. Cái sống phải có cái chết, hành-tàng sống chúng ta thể nào, thì buổi chết chúng ta

Đêm Rằm THáNG 5 Năm TâN-mão (1951)

31

nó cũng hiện tượng ra nguyên vẹn, không có điều gì lạ hết.Bây giờ luận về phần Thiêng-Liêng: tức nhiên

phần linh hồn của chúng ta. Bần-Đạo nói mỗi cá nhân con cái của Đức CHÍ-TÔN đều có phẩm vị của họ, từ thử đến giờ khuôn luật vẫn có một mà thôi. Chúng ta thấy trong Bí-Pháp của Phật Tổ: Ngài đạt đặng bí pháp Ngài để trong khuôn luật giải-thoát chúng ta đã ngó thấy. Tại sao người khác Đức CHÍ-TÔN không để “Tam Diệu Đề”; lại để cho Đức Phật Thích Ca thấy Tam Diệu Đề. Khi Phật Thích Ca thấy Tam Diệu Đề Ngài mới thêm một đề SANH nữa là Tứ-Diệu-Đề (SANH, LÃO, BỊNH, TỬ), Đức Phật Thích Ca nhờ bí-pháp của Đức CHÍ-TÔN để trước mặt Ngài mà Ngài đạt được cơ-quan giải-thoát có chi đâu (?). Muốn tránh Tứ Diệu Đề tức nhiên Tứ Khổ thì đừng gây Nhân, có Nhân tức nhiên có Quả, muốn tránh cho khỏi Bịnh, Tử thì phải diệt cho hết Quả, lẽ dĩ nhiên đó vậy.

Bí-Pháp Đức CHÍ-TÔN đã cho Phật Thích Ca thế nào, Đức CHÍ-TÔN cũng có thể cho con cái của Ngài mỗi đứa để tự giải-thoát lấy mình.

Nếu Đức Lão Tử không làm Thượng-Thơ làm sao Ngài vô được đại thơ phòng nhà Châu, nếu Ngài không vô Thư Viện nhà Châu lật Bát Quái Đồ của Phục Hi để lại, chưa chắc rằng Ngài đã đạt pháp. Nơi đó, Ngài ngồi tiềm-tàng coi Bát Quái Đồ để trong Thư Viện nhà Châu, tức nhiên Bí-Pháp của Đức CHÍ-TÔN dành để cho LÃO TỬ. Khi Ngài đã đạt được mới trở nên vị Giáo Chủ Đạo-Giáo đến ngày nay.

Bây giờ tới Đức Chúa JÉSUS, vị Giáo Chủ danh vọng đương buổi nầy gồm cả Vạn Quốc, các Dân Tộc Âu

TRÍ-HUỆ-CUNG

32

Châu trong khuôn khổ đạo-đức của Ngài. Nếu không có 40 ngày Ngài đã ra đồng sa-mạc thiền định, Đức CHÍ-TÔN không đến cùng Ngài và bị quỉ cám dỗ thì Bí-Pháp của Ngài không thể gì hiện tượng ra được.

Bây giờ đến Đức KHỔNG PHU TỬ, nếu Ngài không có khổ về Nhơn đạo của Ngài, về xã-hội của Ngài bị giặc giả can qua, bởi Ngài sanh ra gặp buổi loạn ly đời Đông Châu Liệt Quốc, nếu Ngài không có khổ về công danh của Ngài cho đến đổi, và nếu Ngài không khổ về tinh-thần của Ngài vì hiếu, thì chắc tinh-thần của Ngài chưa ngó toàn thể các sắc dân, tức nhiên chủng tộc đồng bào của Ngài, thì tôi tưởng Đạo Nho của Ngài chưa xuất hiện.

Đức CHÍ-TÔN nếu không để THÁNH-THỂ của NGÀI trước ngày mở Đạo sáu mươi (60) năm. Ngài không sai các chơn-linh xuống thế, không tạo hình ảnh Cửu Thiên Khai Hóa, Ngài không mở cửa Bạch Ngọc Kinh tại thế gian nầy, thì dám chắc nền chơn giáo của Ngài chưa hiện tượng.

Huyền diệu thay nền chơn giáo của NGÀI! NGÀI lấy cả quyền-năng vô-biên mà làm Thể

Pháp, còn Bí-Pháp NGÀI lấy căn bản Vạn linh NGÀI tạo nên đắc phẩm-vị Thần, Thánh, Tiên, Phật trên mặt thế gian nầy hết.

Ấy vậy, nơi cửa Tịnh-Thất chúng ta có thể nói là nơi chúng ta đưa bạn chúng ta đi cũng là một cửa rước bạn chúng ta đến.

Bí-pháp ấy càng ngày con cái Đức CHÍ-TÔN càng ngó thấy. Vì mới mở nên hình-trạng chưa có rõ, chừng hoàn-thành rồi con cái Đức CHÍ-TÔN sẽ ngó thấy đối

Đêm Rằm THáNG 5 Năm TâN-mão (1951)

33

tượng Thiêng-Liêng của nó thế nào (?).

Phải để đức tin vững vàng nơi Thánh-Thể NGÀI cho cường liệt, Đức CHÍ-TÔN mới xoay chuyển xã-hội, nhơn-quần và tạo hạnh phúc cho xã-hội nhơn-quần được. n

TRÍ-HUỆ-CUNG

34

8. TRÍ-HUỆ-CUNG, ĐÊM 25 THÁNG CHẠP NĂM CANH DẦN (1950).

Phò LoanHỘ-PHÁP – TIẾP-ĐẠO

Trí-Huệ-Cung, đêm 25 tháng Chạp năm Canh Dần (1950)

Hầu bút Thừa-Sử LỢI CAO THƯỢNG PHẨM

Chào Hộ-Pháp, Tiếp-Đạo và Thừa-Sử.Cười... Hộ-Pháp, nếu bạn trông thấy cái vui mừng

vô-biên nơi Diêu-Trì-Cung và Ngọc-Hư-Cung từ ngày trấn bửu-pháp đến nay thì sự khổ nhọc của Bạn cũng nên cho là đáng giá.

Đức Chí-Tôn vui mừng hơn hết, còn các Bạn Nữ của mình thì chỉ có thấy một điều, nhứt là Bát-Nương:

“Bạn không cho ai vui với Bạn hết”... cười... Bát-Nương gởi nhắn một bài thi. Bần-Đạo chỉ làm lon-ton đưa lại.

THIMở rộng đường mây rước khách-trần,Bao nhiêu tình gởi nhắn nguyên-nhân.Biển-Mê Cầu-Ngọc liền phàm-tục,Cõi Thọ Sông-Ngân tiếp Đảnh-Thần.Chuyển nổi Càn-Khôn xây Vũ-trụ,Nhẹ nâng Nhựt Nguyệt chiếu Đài-vân.Cầm gươm Huệ chặt tiêu oan trái,Điều-độ quần-sinh diệt quả-nhân.

Hộ-Pháp!... có lời Diêu-Trì-Cung cho hay rằng: “Phật-Mẫu muốn giáng thăm” xin Hộ-Pháp định ngày tiếp rước.

HỘ-PHÁP: Xin để Đức Mẹ trọn quyền định ngày.– Vậy thì Bần-Đạo thưa lại rằng: Ngày mùng 7

TRÍ-HUỆ-CUNG, Đêm 25 THáNG CHạP Năm CaNH DầN (1950).

35

tháng Giêng lúc giờ Tý. Hộ-Pháp liệu đặng không?HỘ-PHÁP: Đặng, phải Tiếp-Đạo phò loan chăng?

– Phải, Tiếp-Đạo phò-loan chớ ai bây giờ? Cám ơn các bạn.

Thăng.

TRÍ-HUỆ-CUNG

36

9. TRÍ-HUỆ-CUNG, ĐÊM MÙNG 7 THÁNG GIÊNG NĂM TÂN-MÃO (1951)

Phò LoanHỘ-PHÁP – TIẾP-ĐẠO

Trí-Huệ-Cung, đêm mùng 7 tháng Giêng năm Tân-Mão (1951)

CAO THƯỢNG PHẨM

Chào Hộ-Pháp, mấy Em.Tiếp-Đạo, em nâng loan cho PHẬT-MẪU giáng

dạy nghe! Cười... viết không quen nên viết chậm Hộ-Pháp và em để mắt xem kỹ-lưỡng.

DIÊU TRÌ KIM-MẪU

Mụ mừng các Thiên-Mạng.HỘ-PHÁP, xin nghe...

Từ Vô-cực vào trong trong giới-cảnh,Mới để tâm so-sánh Tiên Phàm

Chẳng trừ ô-trược dương-gian,Vì thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm

Vầng Thiên-sắc độ phạm thoát tục,Đóng Phong-đô giải ngục đọa-đầy.

Máy linh cơ-tạo nơi tay,Giác-mê cứu đám lạc-loài nguyên-nhân.

Nên ôm rải hồng-ân khắp thế,Bỏ ngôi linh gương huệ trau dồi.

Cõi Thiên định vị phân ngôi,Vạn-linh gặp hội phục-hội thiện duyên.

Từ khi sơ để khuyên buổi trước,Nay duyên may, mừng được con nên

TRÍ-HUỆ-CUNG, Đêm mùNG 7 THáNG GIêNG Năm TâN-mão (1951)

37

Chừ nay đã toại thửa nguyền,Độ sanh vững nắm chơn-truyền Chí-tôn.

Đã thấy nẽo Thiên môn rộng mở,Hội Long-Hoa rỡ-rỡ soi đời.

Nhập vào Thiên-Hỉ an nơi,Cõi Tiên cảnh Tục một vời không xa.

Con đã biết quyền Già cùng Trẻ,Mạng Chí-Tôn đã để đủ phương.

Cứu ngay độ khổ là thường,Ví rằng Bát-phẩm chơn hồn MỤ sanh.

Hể làm Mẹ quyền hành dạy trẻ,Con đừng lo mạng Thế thi Phàm.

Huyền-linh Mẹ chịu phần cam,Ban cho con trẻ vẹn toàn pháp môn.

Độ cho hết các Hồn Địa-giới,Độ vong-linh từ ngoại Càn-Khôn

Cửa linh cầm Phướn chiêu-hồn,Độ trong Cửu Nhị Nguyên Nhân nhập trường,

Các chủng-tộc còn đương tầm ngỏ,Soi huệ-quang cho rõ cửa Thiền.

Máy linh để sẵn diệu-huyền,Giải-căn đợi kẻ hữu duyên định phần.

Con nên vui phận an thân...Tiếp-Đạo đọc lại cho toàn Nam Nữ, con của Mụ

nghe rằng: “Mụ để lời chào mừng nó”.Thăng

TRÍ-HUỆ-CUNG

38

10. BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP, NGÀY 30 THÁNG 5 NĂM QUÍ-TỴ (1953)

Phạm môn là gì? Do nơi đâu mà nảy sanh ra Phạm-Môn?

Phạm-Môn là cửa Phật, Phạm là Phật, Môn là cửa, tức là cửa Phật, thật hành là nhà Phật.

Trong “Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển” trang thứ 119 về khoản thi văn dạy Đạo có một bài thi Tứ-tuyệt, chính mình Đức Chí-Tôn giáng cho như vầy:

“Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm-Môn,Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn.Vô-lao bất phục hồi chơn mạng,Tỉnh thế kỳ thân đắc Chánh-Tôn.

Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm-Môn là nghĩa gì?Nghĩa là: CHÍ-TÔN kêu cả con cái của Đức CHÍ-

TÔN thức giấc cho mau hiến-thân vào cửa Phạm.Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn nghĩa là:

khuyên chúng sanh nên ráng Tu-hành tùng khuôn viên kỷ-luật nhà Phật thì ngày kia đặng siêu thăng thoát-hóa.

Vô lao bất phục hồi chơn mạng nghĩa là: Đức Chí-Tôn dạy con cái của Ngài nếu không có công lao khổ hạnh trong cửa Đạo thì không thể nào trở về ngôi xưa vị cũ cho đặng.

Tỉnh thế kỳ-thân đắc chánh-tôn nghĩa là: nhằm lúc thế kỷ hai muoi nầy thời kỳ Đức CHÍ-TÔN rộng mở cửa Phật độ toàn con cái của Ngài, chỉ khuyên chúng ta ráng tu Tỉnh-Ngộ, hủy cả hành vi của thế sự, đem thân

BàI THUYếT Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP, NGàY 30 THáNG 5 Năm QUÍ-Tỵ (1953)

39

vào cửa Phạm chịu nâu-sồng khổ-hạnh cho đặng, thì tự nhiên đắc Đạo tại thế đó vậy.

Thưa Chư Chức-Sắc Thiên-Phong Nam Nữ bài thi nầy chính Đức CHÍ-TÔN giáng dạy trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển hai mươi mấy năm trường song le ít ai để ý tìm hiểu nghĩa lý sâu xa có ẩn nhiều huyền vi mầu-nhiệm của Đạo.

Do bởi tấm màn bí-mật nên khó nổi truy tầm, song cũng có lắm người vén màn bí-mật ấy, nên ngày nay nhơn-sanh mới hưởng giọt nước cam-lồ của Đức CHÍ-TÔN rưới chan cho toàn nhơn-loại.

Đời quá ư bạo tàn, cho nên Đức CHÍ-TÔN mới giáng trần mở Đạo cho con cái của Ngài biết các Ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu. Trong thời kỳ ấy Bần-Đạo vâng lịnh Đức CHÍ-TÔN xuống mở Đạo, thì Đức CHÍ-TÔN mới hỏi rằng: “Con phục lịnh xuống thế mở Đạo con mở BÍ-PHÁP trước hay là mở THỂ-PHÁP trước?” Bần-Đạo mới trả lời: “Xin mở BÍ-PHÁP trước”, CHÍ-TÔN nói: “Nếu con mở BÍ-PHÁP trước thì phải khổ đa. Đang lúc Đời cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở BÍ-PHÁP trước cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh-giành phá-hoại thì mối Đạo phải ra thế nào? Vì thế nên mở THỂ-PHÁP trước, dầu cho Đời quá dữ có tranh-giành phá-hoại Cơ-Thể hữu-vi hữu hủy đi nữa thì cũng vô-hại, xin miễn mặc BÍ-PHÁP còn là Đạo còn”.

BÍ-PHÁP là Hiệp-Thiên-Đài giữ.THỂ-PHÁP là Cửu-Trùng-Đài mở mang bành-

trướng về mặt phổ-thông Chơn-Giáo, thì bên Hiệp-Thiên-

TRÍ-HUỆ-CUNG

40

Đài Bần-Đạo vâng lịnh Đức CHÍ-TÔN mở PHẠM-MÔN dùng tấm màn bí-mật bao phủ khuất lấp cả hành-vi, khó ai hiểu đặng.

Mười mấy năm khổ-hạnh nâu-sòng trong cửa Phạm, ẩn-nhẫn tạo nên cả Cơ-Thể hữu-tướng dường ấy. Hai thay! Chúa quỉ biết rõ cơ mầu-nhiệm nên mới tương liên cùng Chánh Phủ Pháp tìm hiểu yếu-lý Huyền-vi của Phạm-Môn liền ra lịnh đóng cửa thì lại nảy sanh ra trăm, ngàn sở PHƯỚC THIỆN.

Từ ngày Phước-Thiện ra đời cho đến nay thì toàn cả Nhơn-Sanh nam nữ vào cửa Phước-Thiện nầy và đạt vị rất nhiều, đã hiển nhiên y theo bài thi của ĐẠI TỪ-PHỤ mà Bần-Đạo mới vừa đọc trên đây.

Thưa Chư Chức-Sắc Thiên-Phong nam, nữ, cơ Đạo của CHÍ-TÔN giáng lập kỳ ba là cốt-yếu cứu vớt Cửu-Nhị ức Nguyên-Nhân còn lẫn-lộn trong hàng Tín-Đồ đang vạch lối tìm đường mở ngỏ hầu trở về ngôi Phẩm.

Trường xuất Thánh của Đạo, Đức ĐẠI-TỪ-PHỤ mở rộng mà hại thay! Những người giữ cửa rất hẹp hòi, lại quá ư nghiêm khắc, Phước-Thiện Phạm-Môn ra đời kêu réo mỏi hơi, song hàng nguyên-nhân phần nhiều bị đóng cửa chẳng đặng vào thì ngày nào tận-độ chúng-sanh mới trọn câu phổ-độ?

Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Đức CHÍ-TÔN có nói rằng: “Con người dưới thế này, muốn giàu sang phải kiếm phương-thế mà làm ra của. Còn Thần, Thánh, Tiên Phật muốn đắc Đạo thì phải có công quả. Thầy đến thế nầy lập một Trường Công Quả.

Vậy các con muốn đạt thủ địa vị của mình phải

BàI THUYếT Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP, NGàY 30 THáNG 5 Năm QUÍ-Tỵ (1953)

41

đến trường Thầy mà thi thố, chớ không đi nơi nào khác mà đắc Đạo bao giờ”.

Ấy vậy cơ-quan Phước-Thiện Phạm-Môn là Trường-Thi Công Quả của Đức CHÍ-TÔN đến lập sẵn đã có mỗi nơi, làng nào, ấp nào cũng có cơ-sở Phước-Thiện cho toàn Đạo hữu ở thôn quê có chỗ đén đó đặng thi-thố, lập công bồi đức hầu đạt thủ địa vị Thiêng-liêng Đức Chí-Tôn đã dành sẵn cho mỗi con cái của Ngài.

Cơ-Quan Phước-Thiện Phạm-Môn là một đại danh từ của toàn nhơn-loại chớ không riêng biệt cho người nào, ngày nay cái màn bí mật đã vén lên hết rồi, dòm thấy rõ ràng chớ không ẩn còn ẩn vi như trước nữa.

Vậy Bần-Đạo xin Chư Chức-Sắc Thiên-Phong nam nữ, Chư Chức-Sắc Lưỡng Phái hãy mở hoạt cửa Thiêng-Liêng ra cho cửu nhị ức Nguyên Nhân lần bước vào Trường-Thi công quả của Đức Chí-Tôn.

Tóm lại, Phạm-Môn Phước-Thiện là Trường học của Linh-Hồn, là một cái thang Thiêng-Liêng 12 nấc Chí-Tôn đem bắc sẵn sàng cho Thời Tam-Kỳ Phổ-Độ, chuyển-thế kêu gọi tất cả con cái của Ngài hãy rán bước, kẻ trước người sau mà leo lên cho tột nấc thang Thiêng-Liêng ấy là ngày giờ chúng ta được hội hiệp cùng Thầy và vui vẻ nhứt hơn hết nơi cõi Hư-Linh đó vậy. n

TRÍ-HUỆ-CUNG

42

BàI THUYếT Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP, NGàY 30 THáNG 5 Năm QUÍ-Tỵ (1953)

43

PHỤ BẢN Trí-Huệ-Cung –Bí-Pháp Tu-Chơn

TRÍ-HUỆ-CUNG

44

11. BÀI THUYẾT-ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP – CẢNH SỐ: 3

TRI-HUỆ-CUNG thuộc cung CẤN (là Núi)

Đây là con Đường thứ Ba: “Bí-Pháp Tu-Chơn”.

Ai là người Nguyên-Nhân sẵn có Đạo-tâm, cần trau luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hườn Hư, luyện Hư hườn Vô là Đạo-Tâm.

Tâm-lý hư-vô đạt được ba cái không, người Tu bỏ được Danh, Lợi, Quyền, sẽ đạt Pháp Đắc Đạo, trở về nguyên-bổn là nguồn-cội của Tu-Chơn, tức là qui được Tam-Giáo. Lấy Đức lập quyền là chánh-pháp về Ngôi Vị.

Ai có Đạo-Tâm nên tìm-hiểu sau đây:

Cảnh số: 3 khai hoang TRÍ-HUỆ-CUNG. Cung nầy thuộc Bí-Pháp mới có xuất Thánh. Cung nầy chánh-thức Qui Tam-Giáo-Đạo. TRÍ-HUỆ-CUNG là nhà Tu của Nữ-Phái, thuộc Cung Đức DIÊU-TRÌ KIM-MẪU. Khi lập thành Thể-Pháp hữu-hình, mà có ẩn Bí-Pháp bên trong, nên mới Trấn-Pháp nơi đây là ngày 15 tháng 12 năm Canh-Dần (1950). Khánh-Thành Trấn-Pháp Thiên-Hỉ-Động TRÍ-HUỆ-CUNG có ba vòng Vô-Vi: Vàng, Xanh, Đỏ.

Phái NGỌC chỉ có liên-quan với Phái THƯỢNG mà thôi, còn Phái THƯỢNG được liên-quan cùng Phái THÁI để tượng Pháp-thân, Pháp-giới và Pháp Thiên, là hiệp: Tinh–Khí–Thần, là ĐẠO. Mà Pháp nầy do TÒA-THÁNH đem đến Trấn nơi đây, tượng-trưng hữu-hình là Qui Tam-Giáo, hay là Càn-Khôn vũ-Trụ.

Chúng ta mà có tâm-Đạo, cần phải sửa tâm, do

BàI THUYếT-Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP – CẢNH SỐ: 3

45

Bí-Pháp mới có đắc vô-vi, mầu-nhiệm và trật-tự. Thánh phải tùng Tiên, Tiên phải kiêng Phép PHẬT, còn PHẬT phải dưới Quyền TRỜI tức là CHÍ-TÔN, cho có trật-tự phân-minh ngôi thứ rõ-ràng mới vững-an Vũ-trụ điều-hòa cả Thế-Giới.

Đạo CAO-ĐÀI khai nhằm đời Hạ-Ngươn phải phản tiền vi-hậu. Nghĩa là: mở Thánh khai Tiên, rồi lập Nhà Phật sau hết, nên gọi là Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Vì cửa Trời mới mở ra cửa Phật, tức là Thiên-Môn mở cửa Bồng-Lai, chúng ta mới an-tâm để bước vào cửa Thiền là Phạm-Môn.

TRÍ-HUỆ-CUNG là con đường thứ Ba của Đại-Đạo, mà hể luận đến danh Đạo lại là vô-vi Chi Pháp, nên tượng-trưng cửa hữu-hình Ba Vòng Vô-Vi: Vàng, Xanh, Đỏ thấy trống không là Bí-Pháp. Nên phải lập hữu-hình trấn tại TRÍ-HUỆ-CUNG. Treo nằm ngang là ám chỉ bình-đẳng, Phật, Tiên, Thánh kết liền, liên-quan cùng nhau thành Qui Tam-Giáo, không còn chia rẻ nữa. Mà Bạch-Y, Bạch-Pháp Vi-chủ thống-nhứt là bí-mật cao-siêu mầu-nhiệm.

Chúng ta là người có Đạo, phải có đức-tin và khôn-ngoan về lý-Đạo mới thấy Chơn-Pháp, muốn Tu-tâm cần phải sửa tánh cho được thanh-bạch: tức là cho Linh-tâm cho được trong (sáng) trắng mới có quyền làm chủ cả cơ-thể hữu-hình, tức là cầm vận-mạng của nhơn-sanh, Đức Quyền GIÁO-TÔNG lên Ngôi, phải mặc y-phục trắng trong, nên Quyền Vạn-Linh là Thiên-hạ.

TRÍ-HUỆ-CUNG

46

Đức Quyền GIÁO-TÔNG là Anh Cả của Vạn-Linh nên mặc Y-phục trắng, mà có hơn cùng chăng là có thêm 8 chữ trên Mão, Áo là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, tượng-trưng Bát-Quái, mà nhập trong Bát-Quái mới vào được Ngọc-Hư-Cung là Thánh-Thể của Đức CHÍ-TÔN tại thế (về phần xác).

Còn Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài mặc Y-phục trong trắng cho Quyền Vạn-Linh đối với Chí-Linh là vậy. Thành ra màu trắng sẽ làm chủ các màu khác, nên muốn Tu-chơn là cửa Phật vô-vi, không có sắc tướng là thanh-bạch, lấy chủ-định Thiên-Lương mới qui nhứt-bổn, là căn-bản đắc Đạo, là nhờ có Chánh-Pháp.

Còn Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài thuộc Cửu-Phẩm Thần-Tiên, cho nên lập-công đạt Ngôi-vị Cầu-phong, thì Đức Lý-Đại-Tiên phải chấm Phái. Khi được Thăng phẩm, không được thay đổi sắc Phái, là tượng-trưng Tam-Giáo mà thôi, thuộc về Chi-Thế là Đời của Đạo.

Phần bên Thế-giới Cực-Lạc thuộc về Chi-Đạo: Do Đức HỘ-PHÁP phân Ngôi Vị Thập-Nhị Đẳng cấp Thiêng-Liêng, cho nên lập-công với Hội-Thánh Phước Thiện được đoạt Ngôi-Vị. Ba Phẩm Phái NGỌC, Ba Phẩm Phái THƯỢNG, Ba Phẩm Phái THÁI, đủ chín Phẩm, mà mỗi vị Thăng Phẩm đủ ba cấp, được lảnh Sắc-Lịnh đủ ba mầu, Nam-nữ y nhau, tượng-trưng về phần hồn, Nên đặc-biệt là HỘI-THÁNH của HỘ-PHÁP.

Đến khi về Cúng Đức DIÊU-TRÌ KIM-MẪU, thì tất cả Nam-Nữ đều mặc Y-Phục trắng trong y nhau, dầu

BàI THUYếT-Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP – CẢNH SỐ: 3

47

cho GIÁO-TÔNG hay HỘ-PHÁP Áo-Mão cũng để ngoài, ám chỉ là làm quan với ai kia, chớ về đến nhà Mẹ, thuộc về Anh, Chị, Em, là con yêu-dấu đại gia-đình Thiêng-Liêng, không xưng-hô Chức-Sắc, Đạo bình-đẳng.

Thiên-Phục Sắc-Lịnh của Chức-Sắc Phước-Thiện mặc khi đi Chầu CHÍ-TÔN tại TÒA-THÁNH hay các Thánh-Thất địa phương mà thôi, không có phép mang đi đường là phạm-pháp, là bộ Đại-Phục không được dùng theo đồ thường thế, vì Sắc-Lịnh thuộc về Pháp.

Nếu chúng ta muốn vào cửa Tu-Chơn là Phạm-Môn, buộc bỏ hết Sắc-tướng, nên phải từ chức quyền. Vì “Cao Quyền khó thấy đặng cao Ngôi” Nên cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống do chỗ Áo-Mão, buộc phải phân giai-cấp, nên Đạo là bình-đẳng, còn nắm Quyền hành là sai pháp-luật, phải bị mòn-mõi đức, khó rửa tâm-hồn cho trong sạch, còn nhơ bợn, khó giải-thoát siêu-thăng.

HỘ-PHÁP có cho biết trước rằng: Cơ-Quan Phước-Thiện là Thể-Pháp, để ra mặt xã-hội, nên tạm Phong Chức-Sắc. Lên đến Đạo-Nhơn chẳng hạn mà trở về cửa Tu-chơn sẽ hạ mình xuống Minh-Đức không chừng, vì cửa nầy thuộc âm-chất và tâm-đức vô-vi, đắc Đạo do nơi Tâm, không do nơi sắc tướng. Áo-Mão, quyền-tước bề ngoài, đạt ngôi vị đây mới có giá-trị thiệt-thọ.

Chúng ta muốn vào cửa Tu-chơn, phải hỏi lại lương-tâm mình coi được chơn chưa, nếu được thì cương-quyết bước đến lập âm-chăt, Tâm-Đức sẽ Đạt Pháp nơi cửa Phật mới cao trọng siêu-hình, buộc phải đủ Tam-lập

TRÍ-HUỆ-CUNG

48

là: Ngôn-ngữ, cử-chỉ, và hành-động, một mảy mún gì cũng hoàn-toàn là Đạo, mới đạt đặng cơ giải-thoát.

Thấy ra, muốn tầm cho được Đạo, rất là cam-go khổ-khắc, phải luyện tập cho được chí-chơn, chí-thành mới đạt lần Chí-Thánh, là trọn lành tức là Chí-Thiện mới đoạt được cơ giải-thoát mầu-nhiệm.

Cửa Tu-Chơn là để chọn lựa người có tâm-đức, có căn Tu, mới lập Đời Thánh-Đức, là lập Đời Thượng-Cổ, TAM-HOÀNG NGŨ-ĐẾ, Đời Thượng-Đức tức là Đời NGHIÊU-THUẤN, làm ăn tập-thể, nhà không đóng cửa, của rơi không ai lượm, Đời Minh-Đức, Tân-Dân là vô tội.

Nền Đạo Khai sáng lấy THANH-HƯƠNG làm Tịch-Đạo, làm ăn tập-thể, chung sống, không giai-cấp, trẻ, già, Nam, Nữ và Ban Kỳ-Lão Phạm-Môn không phải là nhà Dưỡng-Lão.

Người già sức yếu làm việc nhẹ-nhàng giữ-gìn tài-sản chung, còn hạng Thanh-niên tráng-kiện còn sức lao-động tạo ra nhiều cơ-sở, làm ăn lương-thiện, mở lương điền, công kỹ-nghệ để làm nhiều huê-lợi để chung-sống, tức là chia cơm xẻ áo, bình-đẳng đồng đều, ăn chung một Trai-Đường, thật hành nhơn-nghĩa, hoạn-nạn có nhau, nâng-đở tầng lớp cô-độc tật-nguyền nuôi người già, dưỡng trẻ nhỏ, đầy đủ sự thương-yêu, thật hành Phước-Thiện giúp đở kẻ cô-thế, là giải-thoát phần xác. Trong nền Đạo tôn-trọng mạng sống quyền Vạn-Linh, là đạt Pháp phi-thường, giải-thoát về phần hồn là cửa Phật, từ-bi bác-ái.

Cửa Thiên-Hỉ-Động là cửa Thiêng-Liêng Hằng-

BàI THUYếT-Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP – CẢNH SỐ: 3

49

Sống, là cửa về Trời, Lập-nghiệp hữu-hình mà đối cảnh Chí-Linh cùng CHÍ-TÔN, nêu tại mặt thế nầy không tư-tưởng cá-nhân nào cả.

Cửa nầy dành riêng cho mọi người bất luận Đạo hay Đời không phân-biệt nòi giống, Tôn-Giáo, ai đến Tu cũng được, nhưng phải đủ Tam-Lập.

TRÍ-HUỆ-CUNG là Chánh-Pháp, nên mới Trấn-Pháp hữu hình nơi đây cho Quyền Vạn-Linh thấy rõ để tùng Pháp, mới Độ-tận được 92 Ức Nguyên-Nhân. Nhờ Đức CHÍ-TÔN, (HỘ-PHÁP) cả tiếng kêu ai là người đứng vào hàng Nguyên-Nhân hãy tỉnh-mộng lại hướng về cửa TRÍ-HUỆ-CUNG để đạt cơ giải-thoát mới nhập vào cảnh Thiêng-Liêng Hằng-sống mà thôi.

Lập bến giải-thoát, là cửa Bạch-Ngọc-Kinh, mà người trong Đạo lại khinh-thường, cho rằng nhà Tu của Nứ Phái là không thông Bí-Pháp.

Cửa nầy tận-độ cho đủ 92 Ức Nguyên-Nhân. Chơn-Linh hết cả Nước Việt-Nam đâu đủ. Ấy vậy hiệp cả hoàn-cầu, các sắc Dân chung cả Ngoại-Bang, Quốc-Tế mới đủ cơ tận-độ.

TRÍ-HUỆ-CUNG là một Cơ-Quan Tận-độ đã xuất-hiện trong cửa Đạo CAO-ĐÀI nầy, không phải của tư, không phân biệt Tôn-Giáo, Đảng-Phái, nòi-giống, đến để đoạt cơ giải-thoát mà thôi. Vậy có ích cho Đời, Đạo, ai cũng có quyền đến Tu nhưng phải tùng khuôn-khổ Pháp-Luật của Tu-Chơn.

TRÍ-HUỆ-CUNG đã thành-lập nên hình tướng

TRÍ-HUỆ-CUNG

50

nhiệm-mầu, bề cao: 12 m, chia làm ba tầng, mỗi tầng 4 m y nhau, bốn bên mỗi mặt là 12 m vuông-vứt như cái hộp, ở giữa trung-tâm có một cây cột đội luôn ba tầng đến nóc, gọi là: Nhứt Trụ Sang-Thiêng là nhiệm-mầu.

Lập Cơ hữu-hình mà thuộc Vô-vi Chi-Pháp, không sắc tướng, trống không mà chứa đựng nhiệm-mầu, ban pháp vô-biên, vô-giới, nên Thờ Cha vô-hình, Mẹ Thiêng-Liêng. Đúng giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu có Lịnh đổ kiểng Ba Hồi, mỗi hồi giựt đủ 36 tiếng, âm-dương, chung lại 72 tiếng âm-thinh cho nhơn-sanh tỉnh-ngộ đứng dậy thành-tâm tưởng-niệm.

Cúng đủ TỨ THỜI được phép tụng niệm bốn bài Kinh:

1. Bài Niệm Hương2. Bài Khai Kinh3. Bài Ngọc-Hoàng-Kinh4. Bài Phật-Mẫu Chơn-kinh

Dâng Tam-Bửu rồi tụng Ngũ-Nguyện là chấm dứt. Cúng đủ Tứ-Thời, không tốn nhang, đèn chi hết. Đạo là vô-vi, cúng cũng vô-vi, là Chánh-Pháp. Bất luận đứng ngồi nơi đâu nghe Lịnh đổ kiểng (giựt chuông) liền đứng dậy, tay bắt Ấn-Tý, day về hướng TRÍ-HUỆ-CUNG để tưởng-niệm. Mà duy chỉ có nơi vùng Thiên-Hỷ-Động, hoặc mấy hương kế cận mới được phép Cúng đủ Âm-dương một lượt. Có nghĩa là: Thờ Cha kính Mẹ, là hữu-hạp, là thuộc Đạo.

Cầu-nguyện vô-vi do nơi Tâm, hoặc đi đường,

BàI THUYếT-Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP – CẢNH SỐ: 3

51

đi ngang qua TRÍ-HUỆ-CUNG cũng phải đứng dừng lại khi nghe kiểng đổ,

Chúng ta Tu cần phải sưu-tầm kiếm hiểu, cơ Đạo do nơi đâu mà xuất hiện, rồi hườn-nguyên hiệp lại Tinh, Khí, Thần mới Đắc Đạo. Cho nên Đức CHÍ-TÔN buộc khi Cúng Đại-Đàn phải dâng Tam-Bửu cho đủ, cho trọn là Bí-Pháp:

❒ Tam-Bửu: của TRỜI là Nhựt, Nguyệt, Tinh ❒ Tam-Bửu: của ĐẤT là Thủy, Hỏa, Phong. ❒ Tam-Bửu: của Người là Tinh, Khí, Thần.

Trời có ba món báu ấy là mà dưỡng-dục cả muôn loài, hóa sanh ra cả vạn-vật luân-chuyển ra ngày, đêm, sáng, tối. Đất nhờ ba món báu mà phong-điều võ-thuận, cây cỏ được tươi nhuận, phân ra thời-tiết: Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa. Người cũng nhờ ba món báu ấy mà tạo Tiên, tác Phật, là khi nào Tu-Luyện Tinh, Khí, Thần mới Đắc Đạo.

Trong Hiệp-Thiên-Đài có ba chi: Chi-Pháp đứng giữa, tả là Chi-Thế, hữu là Chi-Đạo, tượng-trưng Tinh, Khí, Thần là Tam-Bửu. Thiên-Địa-Nhơn là Tam-Tài. Đứng trên ba Ngôi Hiệp-Thiên-Đài TÒA-THÁNH ở sau chót hết để Quyền Vạn-Linh ngồi trước là Bí-Pháp, Huyền-Diệu Thiêng-Liêng gọi là Phản-Tiền Vi-Hậu. Vì vậy Thượng-Phẩm đứng nơi nào là Đạo nơi đó.

Thượng-Phẩm thuộc về Chi-Đạo làm Chủ, đủ quyền cầm cán điều-khiển các Tịnh-Thất. Cho nên TRÍ-HUỆ-CUNG thuộc về cái mũi của khuôn Thuyền Bát-Nhã Thiên-Đạo, cho nên Đức Thượng-Phẩm đứng tại

TRÍ-HUỆ-CUNG

52

mũi Thuyền là Chủ-Tịch, nên Cơ-Quan Phước-Thiện là Môn-đệ của Thượng-Phẩm, là học trò Tiên mà không hiểu.

Lập Phạm-Môn tức là mở cửa Phật, Bần-Đạo buổi đầu tiên chọn-lọc thêm cho đủ 72 vị Môn-đệ tạo ra đủ tâm-đức mới lập được nhà Tu cho Phái yếu, tức là Nữ Phái.

Thầy tạo hoàn-thành lại Trấn-Pháp Vĩnh-viễn, sau Thầy có Qui-Thiên, Phái Nam phân bì lập Vạn-Pháp-Cung trên Núi Điện-Bà là nhà Tu của Nam-Phái (lời Di-Ngôn nầy Đức Hộ-Pháp nói tại văn-phòng Hội-Thánh Phước-Thiện ngày 6 tháng Giêng Ất-Mùi (1955).

Phạm-Môn là tiền-bối dẫn lối đem đường, lấy không làm ra có, bắt gió nắn nên hình là nhờ Ông Minh-Sư chỉ dẫn.

Tạo ra được bến giải-thoát là Thiên-Hỉ-Động, TRÍ-HUỆ-CUNG cho chúng-sanh đến lập-công, làm âm-chất cho đủ đầy 3.000 khổ-nhục, bị vu-khống mà vui lãnh mới đi vững trên con đường thứ Ba của Đại-Đạo dễ dàng. Nhờ Tu Chánh-Pháp thọ khổ nâu-sòng, quên mình tạo nghiệp chung cho Thiên-hạ hưởng nhờ, đó mới Đắc Thánh, hưởng cảnh thanh-nhàn nơi cõi Thiên-Liêng là nhờ có tiền-duyên định sẵn.

Vậy ngày nay chúng ta Tu lập-công sau, nên noi gương, nối chí người Tu trước. Muốn Tu-chơn theo cửa Phạm, phải gội rửa tâm-hồn cho trong sạch đừng nhiểm-nhơ bụi trần khó mong giải-thoát.

Người có Thiện-căn, hữu-duyên, nhờ Tu nhiều kiếp, ngày nay mới rõ nguồn chơn-Đạo cao-siêu Huyền-

BàI THUYếT-Đạo Của ĐứC HỘ-PHáP – CẢNH SỐ: 3

53

Pháp. Chúng ta Tu đây có sách, có Thầy. HỘ-PHÁP có để Sách dạy “Phương Luyện-Kỷ” là khuôn vàng thước ngọc, người Tu-Chơn cần cố-gắng học cho thuộc mà tìm hiểu từ câu nói, mới vào con Đường Thứ Ba Đại-Đạo.

Phải trau-giồi cho thuộc và hiểu kỷ-luật, rồi sau mới học Thập-Điều Giới-răn. Nếu ta bỏ Pháp-Luật, đâu phải là môn-đệ của Thầy, làm sao vô Bạch-Ngọc-Kinh cho đặng, do nơi Tâm luyện hườn-hư vô là nhờ mở khiếu Huyền-quang được, nên Tu không thủ-lợi, cầu-danh mới là Tâm Đạo.

TRỜI là lý, thì lý ấy rất thông-minh sáng-suốt bao-quát cả Càn-khôn thế-giới. Tầm cho được lý hư-vô mới đạt Pháp, mới thâu cặp nhãn-nhục vào Tâm cho được thành Ngôi Thái-Cực, tức là Thiên-Nhãn mới xem thấy Ba Vòng Vô-Vi chi Pháp, ấy là Bí-Pháp Trấn tại TRÍ-HUỆ-CUNG Thiên-Hỉ Động, toàn-thể chúng ta ai cũng đều ngó thấy, không có gì hết, trống trơn, mà trong đó có Huyền-Pháp Vô-Biên, Vô-giới siêu-hình.

TU MÀ GIẢI-THOÁT ĐẶNG CÙNG CHĂNG LÀ DO BAO NHIÊU ĐÓ MÀ THÔI.

Nếu người Tu-Chơn mà không rõ thấu Trấn-Pháp Ba Vòng VÔ-VI để làm gì, thì làm sao giải-thoát cho đặng lục-dục thất-tình, làm sao đạt Lục-Thông, là Tu giả.

Người Tu trong TRÍ-HUỆ-CUNG là người Tu sáng-suốt lắm. Rất đổi đổ kiểng là Chánh-Pháp. Đổ 36 tiếng là 36 từng TRỜI, hiệp đủ Âm-Dương là: 72 quả Địa-Cầu, là nhiệm-mầu. Pháp-Luật Tu-Chơn mà không tùng,

TRÍ-HUỆ-CUNG

54

nghĩa là khi Đổ Kiểng mà không đứng dậy Cầu-ngyện là không khi nào Tu giải-thoát được.

Vậy người Tu cầm Pháp là bổn-phận Đổ Kiểng: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu bằng sai là thất Pháp. n

Nên cần Lưu-ý: VÌ SAO NHIÊU NGƯỜI TU-CHƠN ĐỀU NHỚ LỊNH ĐÓ LÀ PHÁP.

Sao Y BẢN-CHÁNH

Ngày 10 tháng 10 năm Kỷ-Tỵ (1989)

BAN TỐC-KÝ

55

10 Điều cẤm-RĂn

Của Đức hỘ-phÁp riêng Cho TÍn-ĐỒ PhẠM-MÔn PhƯỚC-ThiỆn – Thiên-hỈ-ĐỘng

1. Phải tuân-y luật-pháp Chơn-Truyền của CHÍ-TÔN.

2. Phải trọn hiếu với Tông-đường Phụ-Mẫu, trọn nghĩa vợ chồng, vẹn phận làm cha.

3. Phải giữ Trai-giới.4. Phải xa-lánh các Đảng-phái.5. Phải thật-hành Phước-Thiện, giúp kẻ cô-thế,

nuôi người già, dưỡng trẻ nhỏ.6. Không đặng thâu của Chúng-Sanh.7. Phải coi Đồng-đạo như anh em ruột thịt.8. Chẳng đặng Bội-Sư, phản bạn.9. Phải ở như các Thánh-Hiền, đừng phạm tội

vong-công bội-đức.10. Phải thương yêu cả loài người và loài-vật, kỉnh

trọng mạng-sanh đặng vùa theo Thánh-Chất của CHÍ-TÔN là CHÚA sự sống.

  

10 ĐIềU CẤm-RăN

56

Lời của ĐỨC HỘ-PHÁP nói tại NỮ ĐẦU-SƯ-ĐƯỜNG “cũ” bằng tranh năm 1946 trong cuộc hội họp đủ mặt Chức-Sắc Thiên-Phong và toàn Đạo Nam Nữ khi Đức Ngài mới vừa Hồi-Loan:

«Trước giờ đi hải-ngoại để cho mấy em “10 MÓN BỬU-PHÁP” nếu em nào làm được là THÁNH tại thế khỏi cần đi đâu hết.

Chư-Thánh Lưỡng-Đài làm chứng cho lời nói của BẦN-ĐẠO tại mặt thế nầy hay về Thiêng-Liêng cũng vậy.»

Đức Ngài truyền đọc lên 10 ĐIỀU CẤM-R ĂN cho Hội-Thánh và Tín-Đồ nghe.

THI ĐỨC CHÍ-TÔN

Đổ lụy Thầy phân cũng nghẹn-ngào,Các con đau Thầy há vui sao!Còn Lời còn dạy chim chung-tổ,Vắng tiếng vắng khuyên ngựa rẻ tào.Xét quấy lo tròn nhân-đức trước,Độ Đời mới vẹn nghĩa ân sâu.Thương nhau phải lúc chung vai-gánh,Danh-giá đừng quên Đạo đứng đầu.

TRÍ-HUỆ-CUNG, Ngày 15 tháng Giêng Năm Ất-Mão.BAN KỲ-LÃO TRÍ HUỆ-CUNG PHẠM-MÔN

(L� D� T�)

TÀi liỆu Tham Khảo

1. TRÍ-HUỆ-CUNG – Thiên-Hỉ-Động do PHẠM-MÔN ấn-tống ngày 15/9/Quý-Sửu.

2. Lời Thuyết-Đạo của Đức HỘ-PHÁP, Quyển III và Quyển VI-1

3. Bản dánh-máy bài thuyết Đạo : TRÍ-HUỆ-CUNG – Bí-Pháp Tu-Chơn của Đức HỘ-PHÁP.

4. Phương-Luyện-Kỷ của Đức HỘ-PHÁP, Chú thích do CSHBCS biên soạn.

57

tk@06•29•2013 9:11 PM

TRÍ-HUỆ-CUNGTHIÊN-HỈ-ĐỘNG