Upload
others
View
11
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
1
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
2
Chúng tôi nhận được bản soft copy “Tối Thượng Châu
Quang” là nhờ cô Ngô Mỹ Hạnh ở Biên Hòa đã bỏ công copy
và gửi cho chúng tôi. Nhận thấy giá trị quý báu của quyển Kinh,
chúng tôi phát nguyện đánh lại vào máy vi tính để có thể đưa
lên mạng phân phát cho mọi người cùng đọc và tìm hiểu.
Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi
lầm. Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng thời xin chỉ
bảo những chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.
Xin chân thành cảm tạ,
Viễn Lưu, Oct/16/2014.
Email: [email protected]
Version: 2.0
Đã kiểm lại với bản gốc của cô Ngô Mỹ Hạnh. 11/11/2014.
--oOo--
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG
- THÁNH TỰA
- VÔ CỰC THIÊN ĐỊA ĐỒ
- DIÊU TRÌ KIM MẪU MINH GIẢI
- THẦN CƠ KHẢM CUNG – KHÍ CƠ TẠI LY CUNG
- LÝ CỦA KHỬ TRƯỢC LƯU THANH
- SƠ DIÊU ĐỘNG PHÁT KHỞI
- CÁCH RÚT THẦN CÔNG
- MINH CHỈ HUYỀN QUANG KHIẾU
- YẾU LÝ VỀ THỰC VẬT CHẤT
- XUẤT HUYỀN NHẬP TẨN
GIẢNG GIẢI NGŨ HÀNH
- 10 THIÊN CAN
- 12 ĐỊA CHI
- CAN CHI THUỘC VỀ ÂM DƯƠNG
- CAN CHI THUỘC VỀ NGŨ HÀNH
- NGŨ HÀNH LIÊN BỐN MÙA
- SÁU CHI HẠP THUỘC NGŨ HÀNH
- SÁU CHI XUNG KHẮC NHAU
- SÁU CHI HẠI NHAU
- MƯỜI HAI THÁNG KIẾN CHI
- NHỊ THẬP TỨ TIẾT KHÍ
- NĂM SẮC THUỘC NĂM HÀNH
- NGŨ HÀNH TƯƠNG SANH
- NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC
ĐẠI LƯỢC TỔNG LUẬN VỀ VÔ CỰC THIÊN ĐỒ
ĐẠI THIÊN
- THIÊN ĐỊA THỦY SƠ
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
3
HIỆP THIÊN ĐÀI
Pháp-Đàn: CHƠN-KHÔNG LA-HÁN
Chơn-Đồng: LINH-THÔNG HUYỀN-QUANG
Điển-Văn: DIỆU-GIÁC QUẢNG TIÊN
Tứ-Bửu: PHỔ-MINH CHƠN-ĐỊNH, THÁI-TUẾ-TINH,
Nam-
THANH-VĂN TẾ-TRÍ, ĐỊA-VIÊN-TINH
HIỂN-CHÁNH QUANG-NỮ, QUÃNG-TÂM TIÊN-NỮ
Nữ-
TRƯỜNG-HẠNH TIÊN-CÔ, QUÃNG-CHÍ TIÊN-NỮ
Chứng-Đàn: THÔNG-THIÊN PHỔ-TẾ VĂN-THÙ TỊNH-
DƯƠNG
HỘ-ĐÀN
Nam Đại-Đức
THIÊN-HUYỀN CỰC-TIÊN, THIÊN-MINH-TINH
HỎA-ĐỨC-TINH
Nữ
BẠCH-HƯƠNG HOA-TIÊN, HẠNH-ĐỨC TIÊN-CÔ
CHÍ-CHƠN TIÊN –CÔ, HIỀN-HÒA TIÊN-CÔ
BẠCH-TUYẾT TIÊN-CÔ, LIÊN-TÂM THÚY-NHỤY
THÁNH-TỰA
Tiếp điển:
BỔN-CẢNH THẦN-HOÀNG! Kính chào chư Thiên-Mạng
lưỡng ban Nội Đàn bất khả thất-lễ! BỔN-THẨN khuyến cáo
toàn thể nữ nam giai quì đồng đẳng, hầu tiếp rước THIÊN-
THẦN ĐẾ-QUÂN giáng hạ.
Vậy BỔN-THẦN xuất ngoại thủ Đàn giờ nay, toàn thể huy
nghiêm, nếu sơ thất, BỒN-THẦN sẽ bị thọ tội, thì Thiên-Mạng
sẽ đắc tội! Nên hiểu! BỔN-THẦN kính chào Thiên-Mạng
lưỡng ban!
Kính chào ngoại hầu!
Tiếp điển:
THI HUỲNH-ĐẠO LÊ Minh, giáo chúng đồng,
ĐỨC ân DUYỆT tác, lập kỳ công,
ĐẾ thừa TẢ bút, khuyên đời tỉnh;
QUÂN-mạng QUÂN-hoàn, Sắc-Chỉ không.
Ngã ĐẾ-QUÂN chào mừng Thiên-Mạng! Đắc Lịnh lai Cơ
giáo phận, Chư-hiền khả-thính ngô-ngôn tri-tường phận cả.
Giờ nay Chư Lão Lai Đàn, thừa Thiên-Sắc thọ Lịnh GIÁO-
TÒA, vừa có Chiếu-Chỉ TAM-GIÁO thông qua NGŨ-
PHƯƠNG cùng GIÁO-CHỦ THÍCH-CA MƯU-NI THẾ-TÔN
phóng đại hào-quang ban ân lành cho cõi thế, hầu Thiên-Mạng
lãnh hội lập kỳ đại-công-quả. Nên chi TAM-GIÁO Chỉ-Truyền
cho Chư Lão giáng thông ban phận sự. Vậy rạng minh-nhựt, sở
tại khả cấp thi-hành lịnh-truyền, đắc Lịnh TAM-GIÁO chuẩn
phê và DIÊU-CUNG. Chư-hiền khả đáo-lai tận nơi NHƯ-Ý
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
4
truyền lịnh ban hành cấp-thời huy-hoàng nghi-lễ nơi ấy: trầm,
hương xông đốt liên-miên trong những ngày hành-sự, vì sẽ có
Chư-Thần và Vạn Tiên lai chầu lập thành quyển KINH.
Vậy mỗi mỗi đều tinh-khiết, đúng Tý-Thời Nhị-Thập, ?? là
ngày mai – đẳng đẳng nguyện cầu Vạn TIÊN lâm hạ khẩn tấu
Tây-Phương Bát-Tiên chứng Lễ để hoàn thành QUYỂN KINH
với sứ mạng cho được sớm nghe chăng! Và đòi chư hiền nơi
HOA-LINH-ĐIỆN họp đồng tề-tựu – thi hành Lịnh vừa phán
trên.
Vì bước đầu tiên, ngày ra mắt chư Vạn TIÊN và cũng là ngày
Kiết-Nhựt, chư hiền bắt tay vào việc để tâm không nguyện vọng
CHÍ-TÔN cùng DIÊU-MẪU ban huệ-từ, để lo tròn công quả đó
nghe. Và nơi sở-tại NHƯ-Ý sau ngày Nhị-Thập, túc-trực hiện
diện mỗi hiền dưới đây thính lịnh:
Nam-giới: ĐỜI, HƯNG, SAI, TIẾNG, SỬU (nơi Như-Ý),
Nữ-giới: XUÂN, LÀNH, THĂNG, DỄ.
Những hiền điểm-danh nơi đây túc trực mỗi khi CHƠN-
ĐỒNG hành sự, trước giờ phải triêm bái Vạn TIÊN.
Còn chư phận sự nơi DIỆU-GIÁC LINH-CHÂU-ĐÀN, vào
những ngày nói trên được khiếm diện, nhưng nhị nhựt hay tam
nhựt phải đến nơi triêm bái mà được ân hồng vào giờ Dậu hay
Tuất-Thời mỗi nhựt vừa ban. Nhưng chư-hiền sở-tại khi vắng
mặt nơi NHƯ-Ý, thì mỗi hiền nơi tư-gia đúng Tứ-Thời phải
nguyện cầu, chớ không được dễ vui nghe chăng? (!)
Vậy chư hiền khá thận trọng uy-nghiêm trong những ngày
phân-minh. Phận sự Điển-Văn khi đắc Lịnh ban truyền KINH-
VÀNG, CHƠN-ĐỒNG Tịnh-Định trong những khi chấp-bút.
Ngoài giờ mãn phận thông công, thì bổn phận ĐỜI khả cấp-thời
sao-y nguyên-văn đâu đó cho có thứ-tự, đừng bừa-bãi. Còn
phận CHẤN-TÝ, nếu hiền hữu-chí, mỗi giờ hành phận, hiền
đến tận nơi phụ vào càng thêm dày công lập Đức đó nghe!
Nhưng chánh nhiệm-vụ là ĐỜI, phải quan sát kỹ-càng và minh
rành bổn-điển, đừng khuyết thiếu lời Vàng Ngọc thì e thọ Tam-
Đồ-Khổ nghe!
Mỗi khi KINH-VÀNG chào đời, thì lời Kim-Ngôn Thánh-Bút
chẳng phải được dễ vui, tự ý-kiến riêng mà đạm vào lời Thánh-
Huấn nên hiểu hai hiền CHẤN-TÝ và NGÀN – thì bổn-phận
chư hiền nào thực hành sứ-mạng phải hiểu rõ. Nếu những chữ
nào xem không được rành thì nên ghi riêng mà tấu bạch với
Thiêng-Liêng hay những danh từ khuyết thiếu, thì cần thông
qua cho chư-hiền nào am hiểu khá hơn, nhưng nếu thấy vô-ý-
nghĩa thì mau tấu-bạch, chớ nên đạm vào mà đắc-tội.
THI KINH VÀNG xuất-thế buổi Kỳ-Nguơn,
Tứ-Đức ân-thâm ! Khá trọng ơn,
Giáo-thế chúng-sanh, về bổn Vị;
Muôn năm nhứt-hội – lập KINH-CHƠN.
HỰU KINH-CHƠN khuyến thế, tỉnh đời mê,
Tứ-Khổ làm sao thoát – trở về,
Về chốn DIÊU-ĐÀI, nơi hưởng thọ;
Bụi hồng chẳng bợn, thoát trần mê.
HƯỜN Trần-nê bao kiếp, khá quay về!
TIÊN, PHẬT bao kỳ độ kẻ mê,
Nhưng bởi lòng tham, đành phải đọa;
Chẳng tròn chữ ĐẠO, phản lời thề.
HUỜN-THI
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
5
Lời thề có nhớ thuở KIM-CUNG,
Nguyện xuống trần ai – tận chí hùng,
Quyết dạ tu-bồi! Về rảnh nợ;
Nhưng không nhớ thuở hứa HUYỀN-KHUNG.
Vậy Đàn nay chư Thiên-Mạng khá luận-suy Lịnh mà phân
minh lời giáo-phận. Khá nhớ lời Lão dạy qua nơi NHƯ-Ý, chư
hiền chớ nên thất lễ và trầm, hương tinh-khiết xông đốt cho
trược-địa tan đi, hầu Vạn TIÊN ngự Đàn chứng lễ ra KINH.
Mỗi khi CHƠN-ĐỒNG hành phận, phải xông trầm cho tinh
tấn, hiệp-hành thông-công mà lưu-loát Điển-Quang, Minh-Ký
cho mau hoàn-thành sứ-mạng KINH-VÀNG.
Vậy thừa Sắc-Linh TAM-GIÁO, HUYỀN-QUANG CHƠN-
ĐỒNG khá Lịnh truyền, đừng sơ-thất, việc tư gia hiền nên gác
lại và hiền nên hy sinh vì ĐẠO, lấy chí đại-hùng khoan-hồng tất
cả việc tư tiểu, để rồi đây Thiêng-Liêng sẽ dụng Huyền-Linh
mà đánh tan Tà-Thần, mà những gì hiền đã ưu-phiền bấy lâu.
Đời lắm gai chông, ĐẠO lắm khảo-đảo! Cơ thí-hội phải nhiều
kỳ. Vậy hiền an-tâm thọ mạng lo xong nhiệm-vụ Thiêng-Liêng.
Rồi đây ân ban THƯỢNG-PHỤ sẽ làm toại-lòng hiền, chư Lão
cũng đáng khen phục tâm-chí hy-sinh của hiền bấy lâu vì
THẦY, vì ĐẠO, trọng Nhơn-Sanh. Nhưng hiền thử nghĩ xem
Cơ ĐẠO nghiêng-chinh, anh-tài rất ít, kẻ tiểu nhơn lại nhiều,
hưng ĐẠO thì khó lập, bại-vong thì thiếu chi kẻ làm hư, hiền
nên nhẫn-nại mà lo việc Đại Thành Chơn Lý Chánh-Nghĩa là
hơn.
THI (Cho CHƠN-LINH HUYỀN-QUANG Đồng-Tử)
LINH mầu độ-thế, gánh lương-sanh,
THÔNG diệu HIỆP-THIÊN, chí đại-thành,
HUYỀN khí HƯ-LINH, THẦY điểm nhuận;
QUANG minh đô-tận, gắng nên danh.
Vậy ra Đàn, Điển-văn cấp-thời trao Sắc-lịnh cho HUYỀN-
QUANG – nán lại thời gian hành phận, vì Sắc-lịnh THƯỢNG-
PHỤ và TAM-GIÁO phê chuẩn, thì hiền chớ nên bê-trễ và
HUYỀN-QUANG CHƠN-ĐỒNG khá y lịnh giúp thành quyển
KINH. Rồi đây Cơ Thiên sẽ hoàn thành một ngày mai và thêm
lời cho HUYỀN-QUANG hiểu – Sớ hiền vừa tâu đến KIM-
GIAI, PHỤ-HOÀNG rơi lụy trẻ khờ trần-ai thảm-thương sanh-
chúng, tấu-bạch THẦY đổ lụy ân-hồng, nhưng rồi đây Huyền-
Linh sẽ đánh tan, hiều chớ nên tư lự, e xao Điển khó hành-phận
nghe!
THƯỢNG-PHỤ cấm hiền không được tư-lự và lo ngoài phận
sự HIỆP-THIÊN, chớ nên Thượng-Khải tấu trình cho lắm, mà
làm cho sự động thấu đến KIM-GIAI, Vạn TIÊN khó bề phân-
đoán, nên Sớ hiền đang Thượng-Khẩn nơi BẠCH-NGỌC, Vạn
TIÊN chưa được sự phê chuẩn của THƯỢNG-HOÀNG.
Vậy hiền khá nhẫn nại, rồi đây Thiên-Linh sẽ hựu-hộ cho.
Chư phận-sự khá tiếp thỉnh LÊ-SƠN lai Đàn khuyến cáo!
Chư Lão Thượng Thiên chầu lễ.
Tiếp điển
THI TIÊN Động Hoa-Mầu, nhặt lấy hoa,
NƯƠNG trì liên-bạch, điểm ngân-hà,
NỮ trao lịnh phán, đêm vằn-vặt;
BÍCH-Ngọc lai Cơ, cách bặt xa.
Kính chào Thiên-Mạng! Nương Cơ mừng hội-ngộ! Mừng
chung Đàn nội. Tôi có đôi lời phân-trần tâm-niệm và thô-sơ lời
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
6
văn, mong Thiên-Mạng vui lòng chứng lời thanh trong dạ khúc,
được đến đây báo Đàn.
Vậy Thiên-Mạng có được biết tôi chăng? Tôi vừa thọ Sắc
KIM-MẪU, vì trước kia tôi cũng đã dày công với ĐẠO, nhưng
thời gian hành Đạo quá cam-go, thân liễu-bồ không cùng chung
với ĐẠO, nhưng chí tâm thành, THƯỢNG-PHỤ và DIÊU-
MẪU ân-hồng ban huệ thưởng khảo lập quả Đức nơi trần tu-
thân. Nay xuất u cảnh-thế về tận cõi Bồng-Non, dựa kề MẪU
PHỤ, tầm đến động Tiên. Phước may DIÊU-MẪU động lòng
thương-tình, vì ĐẠO, Sắc-Phong điểm hồng thưởng bao công
nhọc nơi cảnh Tiên Bang.
Tôi vốn thật ở miền Hậu Giang, quê ở Kiên-Giang, các Chị
nào rõ quê xưa của tôi. Nay đến đây để hội-ngộ nhứt kỳ, hầu
khuyến-khích trên đường lập Đức bằng Linh-Diệu Hồn-Thanh.
Vậy chư Thiên-Mạng khá vì Linh-Quang, khá trọng thể-thân –
vì còn thể-thân mới trọn lập Đức đăng Ngôi. Như bao Vị tưởng
lầm Hồn xa lìa cõi tạm, Phách ở không-gian, Linh-Quang chấm
điểm. Nhưng khi được anh-minh, Hồn xa Xác mà tội-lỗi vẫn
còn dẫy-đầy làm sao chuộc tội, làm gì mong ly-thoát đường
Diêm-La Ngục-Địa.
Vậy đây là tấm gương soi, mong quí Thiên-Mạng thức-lý
ĐẠO TRỜI trọn giữ báu-trân, qui-hồi Tịnh-Định mà mong
ngày về bến cũ vị xưa – MẸ chờ, chị trông, em đợi đó các
Thiên-Mạng ơi!
Chư Thiên-Mạng nam nữ mau hầu-chầu sẽ có Đức LÊ-SƠN
lai Đàn giáo-phận và xin Thiên-Mạng huy-nghiêm!
NỮ-TIÊN xuất-ngoại hầu-chầu.
Tiếp điển
THI LÊ dân còn đợi Nước Ma-Ha!
SƠN Động nhìn qua cảnh Thế-Ba,
THÁNH chạnh lòng thương, vì lạc nẻo;
MẪU dùng Thuyền-Nhã, độ con qua.
TÔN-SƯ mừng chư ái-nữ và các nam-tử nữ-nhi! Thọ kỳ ân-
hồng KINH-VÀNG khá vẹn.
Nầy hỡi các Sĩ-Tử đời Mạt-Thế, Thượng-Nguơn dựng-lập,
cảnh điêu linh trong buổi cận màng. Vui vui làm chi bao kẻ thở-
than dấn thân lụy trong con đường trụy-lạc, cảnh diễn đầy ai
không chán lại dò chân rảo bước ra lần Tứ-Khổ.
Nầy chư ái-nữ! Chạnh tủi lòng GIÀ thâu canh vắng dạng. Tiết
TRUNG THU mờ dạng con khờ, nhưng khi nhìn lại đường tơ,
CHƠN-ĐỒNG vắng dạ chờ MẪU-NGHI. Tiết TRUNG-THU
vắng Cơ nơi cảnh DIỆU-GIÁC ĐÀN mờ ngán trần-ai!
THÁN-TỰ Trần-ai Ta ngán ai-trần!
Vì đời, vì trẻ, trăm phần ngổn-ngang.
Rơi lụy Ngọc! Kìa đàng Tử-Địa!
Máu đạm màu, đất Ngọc Việt-Bang.
Rồi đây: Khóc! Khóc !!! Chư ái-nữ sẽ vui hay khóc, hay
than?? Nhìn Nhìn đi cho kỹ cho càng!
Lòng GIÀ chạnh tủi, thở-than cho sầu!
BÀI Trăng thu còn sáng canh khuya,
Sao bằng đường ĐẠO rẽ chia làm gì?
Giọt rơi, giọt đổ lâm-ly!
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
7
Lệ tuôn Suối-Ngọc, MẪU-NGHI đau lòng!
Khóc !!!
Trăng thu đường ĐẠO sáng trong,
Mới là hưởng cảnh Non-Bồng Thanh-Sơn.
TỊNH đi sẽ được lai-huờn
Trắng Thu đêm vắng, tiếng đờn sẽ vang.
Từ đây Thu sáng mở đàng,
Nếu con chẳng vẹn, đừng màng lập-thân.
Thu về tỏ ánh-sáng ngần,
Nhưng pha mầu đạm, vang rân túc còi.
Khá mau TỊNH Chí mà coi,
ĐIỂN-QUANG chớp-nhoáng, sáng-soi dương-trần.
Ầm Ầm thân nát, rã thân,
Chẳng Tu ĐỊNH-TỊNH, Báu-Trân xa Hồn.
Thu về nước chảy bôn-chôn,
Đất kia tan-rã, Xác Hồn lê-dân.
TU đi sẽ đặng hồng ân,
Tu-bồi chí-nguyện, Tân-Dân lập-thành.
Đường dài như sợi chỉ mành,
Ẩn TU mới được thanh-bần là hay.
Chớ đừng vui lả, vui lay,
E thân chẳng vẹn, đọa-đày ngày-mai.
TỊNH đi sẽ thấy hằng ngày,
Toàn thân tráng-kiện, Điển THẦY bố-ban.
Thu về khắp cả Nhơn-Gian,
Trẻ buồn, trẻ khóc, trẻ than, trẻ cười !!!
Gẫm xem hoàn-vũ tơi-bời,
Cũng vì bạo-ngược, nên đời lâm-ly.
Thu nay vẹn vẽ hội THI!
Chờ ngày thẳng bước, Thiên-Thai Động-Đào.
Thu về trăng sáng làu làu,
Bồng-Lai Tiên-Cảnh, xôn-xao trẻ về.
TỊNH đi con được hồi QUÊ,
Bồng-Non là chỗ hương-quê, vị nhàn.
Mau mau rước khách lên THOÀN,
TỊNH-TU phản bổn, bước sang – bỏ trần.
Giờ nay Thu đạm Thanh-Ngân !
Vui mùi ngâm vịnh, vị phần sẵn kia.
Thu về Đạo-Lý trau-tria,
Phàm-tâm tà-dại, rẽ chia CHÁNH thành.
Thanh-Thanh, Bạch-Bạch rạng danh,
Ngán thay ẩn núp, mất danh buổi nầy.
ĐẠO, ĐỜI đương lúc chuyển-xoay,
Nếu con hẹp tính, THẦY đây bế đường.
Đường dài thì khá liệu-lường,
Thu sang cũng thế, bóng Dương định ngày.
NGỌ kia còn đợi Thảo-Mai,
Mong cho ai giúp, sau nầy đáp ơn.
Thu về nhờ Điển ban ơn,
ĐỊNH-TÂM THOÀN-TỊNH, keo-sơn chí-trì.
Hoàn-thành sứ-mạng hội THI,
Nữ-tài nam-giới, KINH ni lập-thành.
Nữ-nhi lập chút sử danh,
KINH-VÀNG lượm-lặt, đoạt-thành kỳ-công.
NGÂM Đức, Tài thi-hội lập-công,
Gắng tâm trau phận, dẹp mầm LỤC-CĂN.
Hỏa sanh – thì khá nên dằn,
Đừng cho xao-xuyến, tâm phăng Điển lành.
Mong cho nam, nữ khá thành,
Thành xong sứ-mạng, nêu danh hậu đời.
Trẻ thơ, trẻ biết suy thời,
Đức dày nên lập, chiều mơi sẽ tròn.
Tròn câu Chí-Nguyện lời Son,
Thệ xưa vẹn Tín, Bồng-Non đăng phần.
THI
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
8
Giã-tạm trần-lao, có khác nào,
Bèo trôi vân-cẩu, dạ đừng nao,
Đường lành Đạo-Đức, nên tầm học;
Mới đáng Sĩ-Nhân chí kiệt-hào.
TÔN-SƯ mừng chư ái-nữ chung Đàn! Vậy khá tiếp cầu NỮ-
THÁNH lai Cơ. TÔN-SƯ thăng Vị!
Tiếp điển:
THI
THÁNH tâm đăng vị, phước DIÊU ban,
NỮ-Đức nhờ Trên Sắc PHỤ-HOÀNG,
VIỆT đắc chí-thành, người gái thiện;
NAM-phong Thục-Nữ, đến Tiên-Đàn.
THÁNH-NỮ mừng chung Đàn nội! Này chư-hiền nữ nam khá
bình tâm mà nghe THÁNH-NỮ phân qua:
CHƠN-LÝ ĐẠO thì bao giờ cũng là Chơn-Lý. Đạo-Đức thông
mới hiểu đặng thời-cơ; Đạo, Đời cũng thế, đâu phải như sự hẹp
lượng của nhân-tâm. Sự xử-thế đối-nhân không phải là dễ,
nhưng tại lòng người cho đó là tầm-thường. Sự xử-thế đối-nhân
không ngoài quan-niệm Đạo-Đức anh-minh chơn-căn hạnh-
kiểm, đưa con người đến chỗ siêu-việt chánh minh.
Nhưng bởi tại lòng Nhơn-Sanh chưa thấu đoạt Huyền-Cơ
Thiên-Lý, cho rằng mỗi mỗi việc chi nơi Đời và Đạo do tại ý
muốn, chớ kỳ-trung Chơn-Minh Thiên-Địa vẫn nắm quyền
CHỦ-SỬ, thúc đẩy Nhơn-Sanh tạo-thành Đạo-Đức Duy-Báu-
Chân.
Nhưng ĐẠO cũng phân nhiều lớp học, ĐỜI cũng tạo lắm trò
dâu bể. ĐẠO thì rèn luyện chí hy-sinh bảo-tồn Thánh-Thể Linh-
Quang bất-di bất-dịch – nhưng lòng phàm không hy sing để
đoạt thành mục-đích SIÊU-HÌNH THƯỢNG-HỌC!
ĐỜI thì đã sẵn người ra gánh vác. Chung-qui rồi Đạo hay Đời
cũng phải trở về con đường huờn NHỨT-KHÍ, đó là ngã-ba
đường cho Nhơn-Sanh chọn lựa. Chọn sự lành thì giống lành sẽ
kết ngày-mai, chọn sự dữ thì sự dữ sẽ về ngay.
TU-CHƠN là điều BÍ-QUYẾT của ĐẠO-HUỲNH, tạo nên
trụy-lạc xa-hoa sẽ gieo thêm mầm thống khổ mà đưa đến cảnh
tán Hồn thế ru !
THÁNH-NỮ khuyên ai là người trí-thức, hiểu rộng thấy xa.
Trần-nê là chỗ chôn-vùi Linh-Quang. Trần-gian là đầy cạm-bẫy
cho những ai mê-muội dấn thân vào tục-tử. Bởi thế trường đời
là lò rèn tạo Quỉ nên Yêu cũng do đó, thành Tiên tác Phật cũng
do nơi đó. Bởi thế nếu biết xử-dụng, cảnh tục-lụy là một nơi
giả-tạm đường CHƠN, biết nơi trần là cảnh lửa lòng, Thần Tiên
Thánh Phật xuống nơi đây cũng đều gớm-ghê sợ-sệt.
Thí-dụ: Như hột NGỌC sa vào trong bãi sa-mạc, bị bao nhiêu
bụi lấm bùn bao từ ngàn năm không được người lượm, hay tìm
để trau-giồi cho sáng tỏ, hoặc đã không được sáng tỏ nhưng
cũng được đôi phần sạch sạch một tí những bợn dơ phủ ngoài.
Rồi lần hồi hữu-hạnh thay! Được người trí-thức biết những vật
ấy là Báu-Trân, mới hy-sinh chùi, mài, giũa, lau cho sáng lạng,
thì nó sẽ thành Quí-Vật trên đời, hiển-nhiên nhờ những điện-tử
trong ánh của KIM THÁI-DƯƠNG mà chói-ngời ra bao nhiêu
màu sắc lộng-lẫy trong hòn Ngọc đó – chư-hiền ái-nữ ôi!
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
9
Thì có phải chăng những ai dày công hy-sinh trau-luyện thân-
tâm cũng như hòn Ngọc, thì THÂN đây là một điểm Linh-
Quang cần siêng-năng hy-sinh tận-tụy với nó.
Bởi thế THẦY là ĐẠI-LINH-QUANG, còn chư Thiên-Mạng
là TIỂU-LINH-QUANG.
Nếu bộ-máy CÁI muốn chuyền điện, hoặc-giả thông-công,
nhưng bộ máy Nhỏ bị tê-liệt hết MỘT, HAI nơi trong KHIẾU-
QUAN, rồi làm sao chư ái-nữ vẹn bề đoạt-thành mục-đích mà
trở về Nguyên-Căn. Như thế Báu-Trân không vẹn giữ, hòn
Ngọc chẳng lau chùi, thể như hòn Ngọc chẳng biết xử dụng.
Trọng lấy Thân-Tâm là điểm tối cần cho đời người trong bản
thể đó chư ái-nữ!
Chớ nên liều-lĩnh cho rằng “mặc-tình đưa-đẩy, lượn sóng ba-
đào nhồi đi”. Dầu cho đời hay Đạo cũng thế, sự Chơn-Tâm phải
vẹn thành bổn-thể, thì sự xử-thế đối-nhân cũng như điểm tối
cần.
Còn người u-tối do bởi đâu mà ra? Vì KHIẾU-QUAN không
thông đạt được, làm sao phân-tách Lẽ-Phải, Lẽ-Chánh cũng như
Lẽ-Tà, thì sự đối-nhân xử-thế hay lập lại câu: HÌNH-NHI
THƯỢNG-HỌC đó vậy chư ái-nữ!
Đời còn sa vào tân-tiến văn-minh bao nhiêu, thì càng đem về
sự tiêu-diệt bấy nhiêu. THÁNH-NỮ trước kia cũng là phàm-
nhơn, cũng vì lòng hoán-thông thời-cuộc, nên quyết dạ hy-sinh
vẹn bề trinh-nữ, máu lòng yêu nước ai lại chẳng có trong quan-
niệm của nữ nam – Gái HỒNG, Trai LẠC. Nhưng dù sao khi
thoát khỏi trần-nê, mới biết rằng đòn-cân công-lý, mới hiểu tận
thiên-tai định-luật. Chỉ có chữ TU mới mong đem lại cho bao
nhiêu sự ngổn-ngang ở thế đời bạo-ngược, hay ổn-định an-ninh
đều do Đạo-Đức.
TU-THÂN là nguồn-gốc bản-chất con-người luôn luôn phải
suy-luận. Đây là thể-chất tạm-thời thọ huyết-nhục của CHA,
MẸ nơi trần-gian. Chớ kỳ-trung không qua ba tấc hơi, cũng như
KHÍ HẠO-NHIÊN của THƯỢNG-PHỤ ban cho.
THÁNH-NỮ hôm nay mong chư ái-nữ cũng như nam-giới
đồng thanh hy-sinh đoạt-thành sao cho kỳ được đến mục-đích
Tiên-Chơn Vị-Quả. Nếu trên thế-giới không-gian chẳng có
HẠO-NHIÊN-KHÍ do nơi sự Thiên-Lý, thì nhơn-gian mọi vật
đều tắt thở trong nháy mắt.
Sự nuôi-nấng của HẠO-NHIÊN CHI-KHÍ của Nhơn-Sanh
hấp-thụ là do nơi Thiên-Lý ban cho, nếu chẳng có thì làm sao
Nhơn-Sanh được tồn-tại trên vùng quả Địa-Cầu Nam-Thiệm.
Nên hiểu mà quí trọng con đường bất-diệt, nhập Thánh Siêu-
Phàm nghe chăng? (!)
Chớ đừng nghe luận-điệu của thuyết Mị-Tà mà làm cho tổn
hại Linh-Quang đó!
BÀI Cơ tận-thế, cận màng diễn-tả,
Hỡi Nhơn-Sanh, hối-hả quày về,
Chớ đừng xa-cách Ngôi Quê;
Báu-Trân TAM-BỬU, chớ xuê thân nầy.
Cùng chung xây-đắp quí thay!
Hồn nương với Xác, ngày ngày Chơn-Thân.
Nếu chẳng nghĩ, bỏ lần báu-vật,
Thì sẽ hao, mà mất Linh-Quang,
Làm sao bước thẳng THIÊN-ĐÀNG;
Dầu nơi Trung-Giái, khó an Linh-Hồn.
Hồn trong vẹn, bảo-tồn Thánh-Thể,
Hãy xa đời, mà chế Phách tan,
Hằng ngày TỊNH-ĐỊNH THAM-THOÀN;
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
10
Điển-Quang THẦY bố, trần-gian người nhờ.
Ngọ với Tý – đợi-chờ ĐIỂN xuống,
Ruồng châu-thân, như uống Linh-Đơn,
Chớ nên xao-động dứt cơn;
Điển-Quang khó tiếp, Ơn-Trên thâu liền.
Khi THOÀN-ĐỊNH, cần yên tâm, trí,
Chớ phóng ra, mà nghĩ ngoài đời,
Thâu lần TẠP-NIỆM vòng khơi;
LƯỠNG-QUANG phản-chiếu, thông-thời TRUNG-
TÂM.
Phép HƯ-VÔ, chú-chăm học nhớ,
Đừng nản lòng, bợ-ngợ thối nan,
Rồi sau tiếc đến ngàn VÀNG;
CHƠN-SƯ khó gặp, chỉ đàng CHƠN-TIÊN.
Đêm về khuya, nữ-hiền ráng nhớ,
Bền Tâm đây, dạ chớ lãng-lơ,
Từng giờ, từng khắc vẹn thờ;
Chí-tâm Qui-Mạng, THIÊN-THƠ Mật-Truyền.
THI Vẹn thờ lời dạy – Đức KIM-CUNG,
KINH báu chào đời, khá thính tùng,
Lập Đức chót kỳ, khai CHÁNH-ĐẠO;
Phản-hồi HƯ-ĐỘNG, khán TRUNG-DUNG.
THÁNH-NỮ mừng chung Đàn nữ, nam ! Và mong chư Thiên-
Mạng lo tròn bổn-phận GIÁO-ĐỒ ĐẠO-THẦY trong khi cận
ngày thành tựu.
THÁNH-NỮ thăng!
--oOo--
THI TRẦN hoàn LÝ-ĐẠO vẫn chưa thông,
HƯNG thạnh THƯỜNG suy, Lý Đại-Đồng.
ĐẠO-Đức KIỆT-Tài ra đỡ vạt,
VƯƠNG tôn GIÁNG cấp, vẫn bay Hồn.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
11
Mừng chung chư đẳng đẳng hiền-khanh và chư-vị Thiên-
Phong hành Đạo!
Giờ nay Chư Lão CÔNG-THẦN giáng Đàn vì sứ-mạng TAM-
GIÁO chuẩn-y, để truyền Lịnh cho chư Thiên-Mạng thính lời.
CHÍ-TÔN cùng DIÊU-CUNG và Chư Vạn TIÊN đang sắp sửa
ngự trần, hầu để chứng Lễ tả KINH-VÀNG trong kỳ Thượng-
Hội, để qui-hồi Căn-Linh trở về Duy-Nhứt Căn-Nguyên Vị cũ.
Vậy đẳng đẳng đồng thừa Sắc-Lịnh, chớ khá sơ thất rồi e Thiên-
Oai chẳng vị đâu nghe.
Thừa Chỉ Chư Lão khuyến-cáo toàn-tất trung Đàn nữ nam hiện
diện, để tâm-thành chí-kỉnh, hầu mong lượng cả THIÊN-
HOÀNG ban Võ-Lộ phê cho Quyển BỬU-KINH, hầu lấy đó
làm phương-châm mục-tiêu Siêu-Thoát, lánh khổ qui về CỘI
CẢ đó Thiên-Mạng ơi!
Vậy Chư Lão xin nhắc lại một lần nữa, những Thiên-Mạng
nào được điểm danh Đàn rồi, thì mỗi mỗi chư Thiên-Mạng y-
hành mỗi phận đừng sái và những Thiên-Chức nào được rộng
phép về nơi tư-gia TỊNH mỗi Tứ-Thời phải Lễ-Bái, thành-tâm
TỊNH-TỌA, hầu Điển mỗi hiền xông lên BẠCH-NGỌC tỏ lòng
chí-kỉnh. Giờ phút chẳng quên sứ-mạng nguyện-cầu cho Quyển
KINH-VÀNG sớm chào đời, hầu phổ-biến Lương-Sanh Thức-
Tu ĐẠI-ĐẠO mà tránh khỏi sự lửa cháy ngang mày, nước sôi
rụt thể. Khá nghe hiểu mà tường-tri Cơ chinh đổ. Đời cận biến
Thiên, Địa chẳng yên, làn nước không tịnh phẳng đó chư Thiên-
Mạng à! (Làn nước, có nghĩa là tất cả Ngũ-Châu).
Vậy giờ nay Thiên-Mạng khá ĐẠI-TỊNH trong Nhứt-Thời nơi
Chánh-Điện, hầu thông-cảm lời nguyện và cũng là để tỏ sự
cung-kính nghinh tiếp Vạn TIÊN, PHẬT, THÁNH, THẦN, hơn
nữa huy-hoàng triều-bái THƯỢNG-PHỤ và DIÊU-CUNG
chứng Lễ.
Chư Thiên-Mạng có gì khó hiểu khá bạch giữa đây, Lão chỉ
thêm và phân-minh lời dạy vừa rồi. Đừng sơ thất yên lặng mà
thất lễ nghe chăng? (!)
Giờ đã nhặt thúc, Thiên-Linh đã lâm trần, cấp-thời chư Thiên-
Mạng kíp đứng phân lưỡng-ban mau và đổ ba hồi-chuông Lịnh
trang nghiêm, rồi tịnh-tâm tái đọc bài Thỉnh-Tiên sẽ có BỒ-
TÁT giáng Đàn. Chí-kỉnh chí-thành để cung-nghinh tiếp Vạn
TIÊN đang chầu chực CHÍ-TÔN và DIÊU-MẪU đang lâm-
phàm kia!
Chư Đại-Lão chào chư Thiên-Mạng xuất ngoại hầu-chầu
Thánh-Giá lai lâm!
BỔN THẦN kính chào, Thiên-Mạng tiếp đọc bài cầu Thỉnh-
Tiên.
Tiếp điển:
THI HUỆ khai nhụy kín điểm sương thu,
LINH tánh Thức-Căn, tượng phiếm-phù,
BỒ Tịnh Tâm-Minh, sanh Huệ-Nhãn;
TÁT Tiên tảo đắc, lắm công phu.
BỒ-TÁT mừng đẳng đẳng chư Thiên-Mạng nữ nam, lưỡng
Ban Cửu-Trùng và Hiệp-Thiên hiện diện!
Hôm nay BỒ-TÁT thọ-mạng DIÊU-CUNG và TAM-GIÁO lai
Đàn truyền-minh huấn-vụ. Vậy đẳng đẳng khả y-hành phận cả
và có đôi lời cùng hai em Đời, Xuân, cháu Thắng từ này khá
chí-kỉnh lo hoàn thành sứ-mạng KIM-CUNG.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
12
Các em rất hữu-phước mới được Thiêng-Liêng đã lập Thánh-
Cảnh, hầu giờ này được Vạn TIÊN lai Đàn, đem lại cho chư
Thiên-Mạng cùng các em một sự đại kỳ công-quả. Thì tưởng
nghĩ các em cũng như chư Thiên-Mạng hữu-hạnh được lập quả
chót kỳ Ngươn hội. Vậy phải tận chí hy-sinh để lo tròn, đừng
xao-xuyến, chớ nên dạ tốn hao, e chẳng vẹn sự Đạo-Đức nghe
chăng?
KINH-VÀNG vô-giá, khác nào để lưu lại hậu-thế một TÀNG-
THƠ Quí Ngọc Điệp Châu cho Lương-Sanh Thức-Tu CHƠN-
ĐẠO và trọn lý ân-thâm hóa-hoằng diễn-tả.
Chị mong toàn-tất hãy chí-kỉnh mà trọn lòng góp phần vào
công việc Tả-Kinh – nghe hiểu !
Vậy BỒ-TÁT vui chào, chư Thiên-Mạng khá vui vẻ hân-hoan
để cho Điển-Lành Thiêng-Liêng chan-rưới vào Chơn-Thân của
Thiên-Mạng được dồi-dào, hầu lo tròn nhiệm-vụ nơi đây.
Thôi BỒ-TÁT kỉnh chào toàn-tất ! Chị xuất-ngoại lo phần
KINH báu trong lúc hộ DIÊU-CUNG và bầu chầu THƯỢNG-
PHỤ, Vạn TIÊN chứng Lễ.
Ra Đàn Điển-Văn nhớ truyền Lịnh vừa dạy qua thứ-tự, nghi-lễ
đâu đó cho hoàn xong, nghiêm-trang kính-cẩn.
Về phần LINH-THÔNG HUYỀN-QUANG Tịnh-Định Tâm-
Thần, qua nơi tư-tịnh của Thắng, hầu lo hành-sự. Chị lui Đàn.
***** THĂNG *****
TIẾP ĐIỂN
Có Hộ-Pháp TÔN-GIÀ chứng Đàn. Hộ Pháp mừng chư Thiên-
Mạng! Mau cung-nghinh TAM-TRẤN chứng Lễ Tả-Kinh.
TÔN-GIÀ xin ngoại-hầu và thừa Sắc-Chỉ hộ Điển.
Tiếp điển
THI TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ, THIÊN ban hành,
TRẤN tướng ĐÀN khai, ĐẠO định thành,
OAI-Linh TẢ Chơn, BÍ diệu-lý;
NGHI truyền KINH ứng, QUYẾT tự danh.
Chúng-đẳng TAM-TRẤN OAI-NGHI mừng chư-hiền! Đồ-
ứng tiếp THẬP-NHỊ ĐẠI-TIÊN lâm Đàn chứng Lễ, truyền
BỬU-KINH của Cơ Siêu-Việt TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ. Lịnh-Sắc
DIÊU-CUNG, khá sáng-suốt thành-tâm tiếp Lịnh có TAM-
TRẤN ứng-hầu BỬU-TÒA hộ Sắc!
Tiếp điển
THẬP-NHỊ ĐẠI-TIÊN !!!
BÀI
Thừa Sắc-Chiếu – Lai QUẢNG-THÀNH-TỬ
VÂN-TRUNG-TỬ, hiệp lữ đồng-thinh,
Có XÍCH-TINH-TỬ ĐẠO HUỲNH;
HUỲNH-LONG LÃO-TRƯỞNG, Cao-Minh Pháp-Thiền.
LÃO-NGỌC-ĐẢNH, Chơn-Tiên Thượng-Đức,
ĐA-BỬU THIÊN-TÔN Thức Máy-Trời,
THÁI-ẤT-TÔN, Kinh truyền đời;
THANH-HƯ ĐẠO-ĐỨC, để lời Ngọc-Châu.
TỪ-THOÀN BỒ-TÁT, đầu cứu khổ,
QUẢNG-PHÁP THIÊN-TÔN, độ Vạn-Linh,
PHỔ-HIỀN-PHẬT, thuyết vô-hình;
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
13
NAM-CỰC CHƯỞNG-GIÁO, chứng Kinh Tối-Thừa.
THẬP-NHỊ ĐẠI-TIÊN mừng chư sĩ-tử bình-khương! THẬP-
NHỊ ĐẠI-TIÊN chúc lành cho chư sĩ-tử! Từ đây sẽ nhờ Kinh
TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG mà rõ thông Thiên-Cơ
chuyển-vận của CÀN-KHÔN TẠO-HÓA.
Mau thành-tâm chí-kỉnh, hầu tiếp Sắc TAM-GIÁO ngự Đàn
chứng kiến. THẬP-NHỊ TIÊN hầu Sắc-Chỉ Đàn hộ KINH ứng-
tiếp.
Tiếp điển
THI THÍCH-CA giáng thế, phổ Căn-Nguyên,
THÁI-THƯỢNG Hư-Vô, Tổ ĐẠO-TIÊN,
KHỔNG-THÁNH Trung Dung, truyền hoán nhứt;
Đồng-hòa TAM-GIÁO, văn minh thiền.
Hựu Minh Thiền VÔ-CỰC, Điện TIÊN-THIÊN,
Chi-tiết phân-minh, các Cảnh Huyền,
GIÁO-CHỦ Nhơn-Sanh, thuần tánh lý;
Tu-trì BÍ-QUYẾT, nội-dung kiên.
Hựu Dung kiên toàn-bảo, Lưỡng-Huyền thông,
Tương-đối ÂM, DƯƠNG, hiệp niệm đồng,
CỬU-KHIẾU, TAM-QUAN, Giao Xứ lập;
Tứ-Thời, Bát-Tiết, hựu Huyền-Công.
Hựu Huyền-Công Thất-NHỊ, hiện Kinh Trung,
Đạo-Giáo HƯ-VÔ, đệ khả tùng,
Bất quản phong sương, tìm CHÁNH kiến;
TÂY-VƯƠNG Thiên-Điện, hiệp TAM-CUNG.
TAM-GIÁO lâm trần mừng chư sĩ-tử lưỡng-phái hộ Đàn Tả-
Kinh Diệu-Lý Chơn-Nguyên, ĐẠO-THỂ và ĐẠO-DỤNG, hầu
hành-vi cho đúng CHƠN-NHƯ BÍ-PHÁP nghe! Mới lưu Thệ-
Lý HƯ-VÔ Vạn-Nguyên thông-thấu ĐẠO-MẦU, hầu TỊNH-
THOÀN mới đắc-thành CHÁNH-GIÁO CAO-THƯỢNG
CHƠN-NHƯ, khỏi sai-lầm CHƠN: “CAO-ĐÀI THỐNG-
NHỨT”, hồi-quang Hiệp-Nhứt-Nguyên, đã rạnh đề trong Kinh
TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG nầy.
TAM-GIÁO rất mừng lòng, được đủ đều kết-quả của sự mơ-
ước bấy lâu chẳng hoại. Hôm nay mới thấy công-đức HIỆP-
THIÊN-ĐÀI HƯ-VÔ lãnh truyền CHÁNH-PHÁP, y như VÔ-
CỰC-ĐỒ sở-hiện hữu-tướng TRUNG-GIANG vậy.
Rất vui thay! Đẹp thay! Với các trò mau thành-kỉnh chí-tâm
đảnh-lễ nghinh-tiếp VÔ-CỰC ĐẠI-TỪ-TÔN với: !!! … … …
Có Đức NHIÊN-ĐĂNG và Chư Phật giá-lâm chứng Lễ Tả-
Kinh của HIỆP-THIÊN-ĐÀI VÔ-VI thọ Sắc Thiên-Linh Đại-
Đức CHÍ-HƯ CHÍ-LINH.
TA Thượng-Ỷ!
****** THĂNG *****
Tiếp điển
THI THƯỢNG-Tối Cao-Siêu, Đạo-Lý mầu,
CỔ Kinh TÂN-PHÁP, ý vô cầu,
NHIÊN tâm chiếu-lộ, TAM-KHÔNG cảnh;
ĐĂNG Diệu hoan-huy, vạn nhứt thâu.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
14
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT! Bát-Nhã Ba-La Mật-Đa! Mừng
chư môn-đồ, chư Chúng-Sanh, chư Linh-Căn Duyên-Hóa!!!
Phát BỒ-ĐỀ Tâm, Đồng đắc A-DI, Tam-Diệu Bồ-Đề!
Hôm nay tại HẠO-NHIÊN CHƠN-ĐÀN, nữ-phái nam-giai
được đặc ân ban kinh TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG là một
PHÁP-MÔN duy-nhứt ĐẠI-ĐẠO CAO-SIÊU của CAO-ĐÀI,
TAM-TÀI NGŨ-HÀNH thống-hệ Phục-Nhứt TAM-GIÁO
Đồng-Nguyên.
Bần-Đạo ước-mong chư chúng-sanh khả học, khả hành-y nội-
dung Tả Chơn-Quyết, ngoại-cảnh hữu-hình y như kiểu-mẫu:
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU BỬU-ĐIỆN, thì Đắc-Pháp TỊNH-TU về
TỐI-THƯỢNG HUYỀN-THỪA là đây. Lại còn lưu lại tại
VIỆT-NAM: SIÊU-HÌNH, bỉnh Đạo-Giáo của TIÊN-THIÊN
lập-thành lưu lại CỐT-CHỈ VÔ-CỰC-ĐIỆN tại Trung-Giang,
hầu Vạn-Bửu Triều-Tông, đủ KINH với Thể-Tướng đồng thì
ĐẠO-CHƠN, CHƠN-TRUYỀN bất thất đó vậy.
Bần-Tăng ban ơn lành cho chư Môn-đồ toàn-tất Chúng-sanh,
đồng đắc-thành nguyện-vọng – A-Nậu Đa-La Tam-Diệu Tam-
Bồ-Đề-Tâm!
Thành tâm cung-nghinh Đại-Đức MẪU-HOÀNG giá-ngự
chứng Lễ Tả-Kinh. Vậy các ngươi lễ tạ Phật, Tiên, Hương-Hoa,
Lễ-phẩm cúng-dường có Bần-Tăng hộ KINH hầu lịnh.
Bần-Tăng Thượng-Ỷ, Chơn-Đồng Tịnh-Tâm tiếp Lịnh có
MẪU-HOÀNG giá-ngự và điểm nhuận CHƠN-KINH.
Bần-Tăng chúc-tụng ân-lành cho nữ-phái hộ KINH!
THI Đại-hội VÔ-VI, mở THÁNH-TÒA,
Tả-Kinh ấn-tống, ĐẠO Nhà-Ta,
Mong nhờ nam nữ truyền Kinh-Luật;
Thất-ức dư-niên, thoát ái-hà.
Thành-tâm mật-niệm ĐẠO Thiên-Gia !!!
THI CHÂU-QUANG DIÊU-ĐỘNG, chiếu Tâm-Xuân,
MINH cảnh ĐIỆN-Trung, Tam-Đẳng từng,
SÁNG kiến TỪ-Tâm, vi Chánh-Giác;
TẠO-thành CUNG-Điện, ĐẠO CHƠN-THÂN.
THI PHONG-THUẦN KIM-ảnh, tại Nam-Bang,
HÓA-chuyển MẪU-NGHI, Đức, Hạnh, Trang,
TÂN-PHÁP LÃO-ÂM, Nhân-Loại hưởng;
TRUYỀN-Chơn TÔN-Thượng, chứng KINH-VÀNG.
Hựu KINH-VÀNG NHUẬN-Sắc, thị Thiên-Thơ,
TỐI yếu CÔNG-Phu, Giáo Chánh-Cơ,
THƯỢNG Đức SĨ minh, Tâm Lý Diệu;
QUANG huy THỨ-tự, mối mành tơ.
Tiếp điển
PHƯỚC-HUỆ TIÊN-CÔ, NGỌC-HOA-TIÊN, KIM-QUANG-
CHÂU THÁNH-MẪU, HUỆ-LINH BỒ-TÁT, THỂ-LIÊN
TIÊN-NƯƠNG !!!
Năm TA kính chào quí-vị Thiên-Mạng trung Đàn hối-hả! Khá
chỉnh-túc xiêm-y cung-nghinh QUAN-ÂM lâm Đàn. Hộ-giá, hộ
ĐẠO, hộ Cơ nghe! Năm TA đồng lai lâm nghinh-tiếp và hầu-
chầu NHƯ-LAI Phật-Vị giá lâm!
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
15
Tiếp điển
THI QUAN cảnh HẠO-NHIÊN, độ Thiên-Tâm,
ÂM thanh CHƠN-ĐIỆN, cứu Hôn-Trầm,
NHƯ Nhiên Ý-Niệm, thành Bồ-Tát;
LAI hộ ĐẠO-TÂM, thoát trược Âm.
Nam-Mô! TAM-GIÁO Đạo-Sư đồng Tôn VÔ-CỰC, ĐẠI-BỒ-
TÁT MA-HA-TÁT. Bần-Đạo chào chư Chúng-sanh Hiền-Đồ
ráng tròn sứ-mạng, rồi tảo-đắc ân-hồng tưởng-thưởng CHƠN-
NHƯ Chi-Tánh, mới có thể vào dự HỘI-LONG-HOA BÀN-
ĐÀO HỘI-YẾN, Lạc-Thiện Kỳ-Tâm, thoát đặng khổ trần-ai,
nay là TIÊN-CHƠN NHÀN-SỰ. Vậy trước hết dẹp MÁY
LUÂN-HỒI là hơn! Mau thành-tâm tiếp-nghinh MẪU-NGHI
VÕ-TRỤ giá-ngự chứng KINH.
Bần-Tăng tiếp-nghinh cung-hầu Phụng-Bệ, khá nghiêm-chỉnh
Túc-Y-Cân, chớ nên thất lễ.
Tiếp điển
THI KIM Quang NGUYỆT chiếu, SÁNG CÀN-KHÔN,
MẪU Đạo THANH Chơn, TỊNH bảo-TỒN,
DIÊU Chỉ DIỆU Linh, SANH Hóa LOẠI;
TRÌ Liên TÁNH Đức, LÝ Minh HÔN.
NGỰ Bút CHỈ phê KINH Bửu LẬP;
HẠO thuần DIỄN giải, SẮC Cao TÔN.
NHIÊN Như THIÊN Giáo, NHƠN trung PHÁP,
ĐÀN tại CƠ trung, THÔNG hoàn MÔN.
MẸ mừng các con nam nữ! MẸ ban ơn lành các con an-tọa.
MẸ rất vui thay! Các con đông đủ hầu KINH-CHƠN, Chơn Thị
Hạnh! Ráng tâm một thuở cho tròn phận-sự, danh rạng ngàn
thu, lưu danh kỷ-niệm Tịnh-Tâm nghe lời Vàng MẸ phán dạy.
Mừng Chúng-Sanh hoan-hỷ và các con yêu-dấu của MẸ!
Đồng thời các con hiện-diện hãy đảnh-lễ Chư PHẬT, THÁNH,
TIÊN và Thiên-Vương Đẳng THẦN, Liệt-Tú đã có mặt chứng
Lễ - TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG KINH! Trong khoảng đời
Mạt-Pháp. Mới có một lần, mừng cho các con đặng thấy và
nghe. Khá kỉnh! Khá tuân! … … … … …
Thôi, Thìn-Thời sẽ tiếp.
Mẹ ban ơn lành thăng hồi DIÊU CUNG!
TIẾP ĐIỂN
THI TÂY Phang DIÊU Điện, liễu nghiêng mình,
CUNG Ngọc TRÌ Liên, thoại thảo xinh,
VÔ giá KIM Hoa, hương phủ kín;
CỰC Đài MẪU Ngự, Lạc phùng vinh.
LÃO nhàn KHUYÊN tử Tâm thành nguyện;
MẪU hỷ NHI hòa, hiếu bửu tinh.
TỪ hạnh TẢ phân lời Thánh-Bút,
TÔN minh KINH điển, cảnh đời chinh.
MẸ Linh-Hồn mừng đồng đẳng nữ nam ái-tử! Vậy khá Định,
hầu nghe MẸ giáo-truyền bớ trẻ !!!
BÀI
“HỌC LÀ HOÁN THÔNG”
Linh Quyết rằng: “Đọc Thơ cầu LÝ”,
Minh chiếu ám, thất Lý Nhơn-Tâm,
Đốt đuốc đi khỏi lạc-lầm;
Đọc Thơ cầu Lý, Huyền-Thâm cuộc-đời.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
16
Nay là buổi ĐẠO-TRỜI mở rộng,
Học cho thông: đất rộng, biển sâu,
Núi cao tòng thọ vót lầu;
Phong, Hàn, Thử, Thấp, PHÁP đâu dịu-hòa.
Nhờ KHÔNG-KHÍ đoanh qua, lộn lại,
Từ Thượng, Trung, Hạ, trải thời trang,
Giúp loài thảo mộc đều an;
Nhơn, Vật đặng sống, bảo-toàn quả hoa.
NHỰT, bởi đâu sáng ra – ánh rọi,
NGUYỆT, căn nào – tròi-trọi mát êm,
Tự-tri, khá hiểu mà tìm;
Linh-Minh hai ÁNH, như KIM chói-ngời.
Tại sao người Ba-Mươi-Mốt Tuổi,
Chẳng lớn thêm, ngắn-ngủi lại dừng,
Đến đây như nước hết dưng;
Lần lần nhỏ lại, tuổi xuân do hà?
Loại RẮN, SẤU, lột da bế KHÍ,
Sống như RÙA, Ngọ, Tý tuyết-sương,
Biết gì đến Quỉ VÔ-THƯỜNG;
Trường-Sanh bất Lão, đởm-đương SỐNG mà.
Cần phải học – mùa-xa, xa-tít,
Hành mới Minh, lợi-ích sưu-tầm,
Học rồi, thuộc để vịnh, ngâm;
Rõ Thiên-Lý-Học, DƯƠNG-ÂM Nhiệt, Hàn.
Học Địa-Dư, biết đàng Võ-Trụ,
Chỗ siễng thâm, nước trụ phương nào?
Triết-Lý, Toán-Học làm sao?
Trắc lượng thì phải phân sao cho đồng? (!)
Kỷ-Hà-Học, thuyết Công-Phu luận,
Đoán Âm-Dương, người đứng chỗ nào?
Trời bao-la, vật-thể sao?
ĐẤT, TRỜI được biết thấp, cao, vuông, tròn (!)
Hình Vạn-Vật, biển, non, nhỏ, lớn?
Muôn vạn hình lợn-cợn, bé, to,
Lấy chi làm thước mà đo;
Mới rõ Khoáng-Sản quanh co, eo hình.
Nhìn mênh-mông, vô-tình, vô-niệm,
Chẳng cần ai sâu-hiễm, hiền-lương,
Mới thông Vũ-Trụ không bường;
CAO là KHÍ nhẹ, THẤP thường ĐÀI sâu.
Phần thế-sự là đầu Đại-Học,
Lấy TRUNG-DUNG, cần đọc NGŨ-KINH,
Tứ-Ân, Cang-Thường phân-minh;
Liêm-Trung Báo-Quốc, đinh-ninh giống-giòng.
Mỗi phận: phải trả xong chức vụ,
Cần học-hành, Thập-Trụ Căn-Cơ,
Hiếu, Nghĩa, Trinh-Tiết trọn thờ;
Thông-minh nhờ HỌC, mụi, khờ đánh-tan.
DÂN có học, mới an Quốc-Thể,
ĐẠO Giáo-Truyền, cứu-thế hoằng-thâm,
Nhờ học: Bổn-Tánh thêm tầm;
Dịu-dàng ai, lạc, Ngũ-âm giọng hòa.
Nay sẵn có: Đạo-Gia Kinh, Sám,
Đủ đầy trang, đã hãng lối đi,
Mở Học-Vụ, hạp TAM-KỲ;
TÂN-DÂN tiến-triển, hành-vi độ đời.
Phải tầm học luân, vơi, Trời, Bể,
Học Hoán-Thông: Nghi-Lễ ĐẠO-TRỜI,
Học để xử-dụng chiều, mơi;
Truyền gieo học-thuyết, khắp nơi giống lành.
Rồi học qua: Đạo-Gia Tâm-Lý,
Thông Dân, Quyền, Sử-Ký nước nhà,
DÂN-ĐỨC thì học Đạo-Gia;
DÂN-SANH ôn-cố, học là Khai-Tâm.
Tâm minh thấu Dương, Âm lưỡng KHÍ,
Dung-hòa đều ngụ-lý, nơi đâu?
Tại sao chinh-chiến hoàn-cầu?
Con-người tranh chấp, bắt đầu tại sao? (!!!)
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
17
Về BÁT-QUÁI, phân bao Tám Quẻ,
Rồi chồng thêm Tám Quẻ Biến-Sanh,
Tám-lần-tám: Sáu-Bốn rành; (64)
THỦY, HỎA, KIM, MỘC, lập-thành THỔ trung
Hậu BÁT-QUÁI, Tượng-Dung lại khác,
KIM, MỘC, THỦY, HỎA lạc THỔ tùng,
Cốt xoay, gió vận – đổi CUNG;
Mồ-Thiên, Kỷ-Địa, Chánh-Trung lưỡng hòa.
Đạo, Sáu-bốn Quẻ là: Chuyển-vận,
Dụng luân-hành, Trời, Đất đổi xoay,
Bố-ban Vũ-Trụ hiệp-vầy;
Đều nhờ HẠO-KHÍ, dẫn xoay vòng-tròn.
Có TỨ-TƯỢNG, cân-đòn Nam, Bắc,
Với Đông, Tây, đường tắt giao-thông,
Thâu rút Hàn, Nhiệt vào trong;
Phát ra THANH-KHÍ, ân-hồng rày đây.
Gốc TỨ-TƯỢNG, chia xây BÁT-QUÁI,
Cũng qui trung, cốt CÁI TU-DI,
TAM-GIÁI đồng cả tương tùy;
Hành-vi trách-nhiệm, củ-qui đủ-đầy.
Biến muôn CUNG, cũng THẦY biến-hóa,
Thâu về MỘT, con khá nghiệm-suy,
PHẬT, TIÊN, THÁNH, THẦN cũng y;
Đồng thừa nhứt Lịnh, ân-thi hộ đời.
Học cần hiểu: TRỜI là độc-nhứt,
Hành cho y, Tứ-Đức vẹn-toàn,
Học thông tròn, xéo, vuông, ngang,
Hầu làm Thiên-Chức huy-hoàng hôm, mơi.
Cần ôn học ĐẤT, TRỜI khắp Chủ,
Đã ân-ban đầy đủ - giúp đời,
Chấn-hưng sửa-đổi nhiều nơi;
Vạn-vật thất-tụ, đổi dời Sanh-Linh.
Phải học đủ Năm-Châu Ba mối,
Học nằm lòng sớm, tối, đâu đâu,
Thông-Thiên, Triệt-Địa vì đâu?
Vòng-tròn giáp mí, con hầu hiểu thông.
Chưa hiểu mối, ráng công học hiểu,
Hiểu mối rồi, đường-lối học Văn,
ĐẠO-TRỜI chỉ rõ trầm, thăng;
Đừng cho Hồn, Phách theo lằn gió bay.
Uổng công học, bất-tài thối-hóa,
Lòng ngã-chấp, như “cá trong ao”,
Khôn thì tợ cá ra bào;
Dại thì ở lại, chờ ngày diệt-vong.
Chưa hiểu rõ: Đại-Đồng Thống-Nhứt,
Rán theo THẦY, Tâm-Tức Tương-Y,
Khải chương – Cách-Vật Trí-Tri;
Học thông TRIẾT-HỌC, mới qui TÂM về.
Nay đã đến Nhơn hề, Tu-Đức,
Các trò ôi! Tốc-tức Học-Tràng,
Biết bao đều phải hóa hoang;
Làm người thiếu học, như làn mực đen.
Trời hừng-sáng, trăng, đèn, phân biệt,
Đỏ hòa đen, xanh-biếc, trắng vàng,
Bởi NGŨ-HÀNH hóa NGŨ-QUANG;
NGŨ-VẬN LỤC-KHÍ, con đàng ĐẠO xoay.
Không học, thì Đông, Tây chẳng rõ,
Học hiểu rồi, sáng-tỏ Bắc, Đông,
Chung nhau cần học CHÁNH-TÔNG;
CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO, Phổ-thông ĐẠO lành.
Học ĐẠO-PHÁP, lưu-danh Thiên-Cổ,
TỊNH-THOÀN rồi, cảnh-khổ đâu còn,
Không học thì hổ nước-non;
CHUÔNG-VÀNG tiếng đổ, vẫn còn nghe xa.
Ráng tìm học cho ra CHÁNH-LÝ,
Để dùng về CHÁNH-KỶ cứu dân,
Sống thì Tướng, thác nên Thần;
Nếu mà chẳng học, như sân cỏ đùa.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
18
MẸ mừng các con! MẸ hồi về DIÊU-CUNG. Nghỉ đôi phút,
Dậu-Thời hành-phận.
***** THĂNG *****
TIẾP ĐIỂN
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU MINH-GIẢI
1- THẦN cư tại KHẢM CUNG ( )
2- KHÍ cư tại LY CUNG ( )
Âm, Dương chi giao-cấu CHƠN-CHÁNH-LÝ, thử thời chánh-
yếu PHỤC-THỰC KIM-ĐƠN chi Nhứt Huờn.
A. THẦN cư KHẢM Cung, KHÍ cư LY Cung,
Là lối ÂM, DƯƠNG giao-cấu, ANH-TRẠCH HOA-PHÒNG,
ấy là vừa lối Phục-Thực hay là Nuốt Đơn tại TRUNG-HUỲNH,
rồi còn tiếp THAI-TIÊN luôn là đã Huờn-Lai KHỐI CHƠN-
TINH rồi, mà là phải phục nơi TÂM-LY, là THẦN-THẤT.
Còn về câu “THẦN QUANG phản-chiếu nơi KHÍ-HUYỆT”,
mà chánh là chỗ LƯỠNG-THẦN SONG-QUANG, mà là
KHẢM Cung, sẽ nghịch thì thăng đằng vậy:
- DƯƠNG-KHÍ thăng,
- ÂM-KHÍ giáng!
Hòa giao nơi không-gian là HUỲNH-ĐÌNH NỘI-CẢNH hay
HUYỀN-QUANG-KHIẾU đó vậy, nên gọi là CÀN-KHÔN
GIAO-CẤU, ÂM-DƯƠNG TƯƠNG-TIẾP, giao hội mới kết
đặng có Vị Ngươn-Thần trấn tại Huỳnh-Trung – đã nên rồi
THAI-TIÊN.
B. Còn chỗ nói Lý “KHỬ-TRƯỢC LƯU-THANH”,
Là bởi từ SUNG ĐÁI-MẠCH thăng lên NÊ-HƯỜN-CUNG,
thì bổ-sơ thuộc DƯƠNG, mà là CÀN. Từ đó tuột xuống thuộc
ÂM là KHÔN, mà rồi CÀN hữu ÂM – LY là TÂM, ( ) –
đã có lộn-lẫn tạp Âm-Hỏa rồi.
Còn KHÔN tuy hữu DƯƠNG là Nội THẬN ( ), nó bèn
tiếp-xúc tại THẦN-HUYỆT-KHÍ, hay là TRUNG-GIANG
LƯỠNG-THẬN, nó bèn hiệp-hành Nội THẬN vậy. Thì bây
giờ NGUƠN-KHÍ nơi Cung KHẢM vẫn là CHƠN-DƯƠNG
của CÀN Cung đã thất vị. Cớ nên Âm, Dương giao-cấu nhau
mới tương-khắc cùng nhau mà biến-sanh, sanh-biến, phải đành
lưu-lãng sanh, tử, tử, sanh mãi mãi vậy. Than ôi cho Hồn!
ÂM, DƯƠNG giao-cấu đây là THẬN-THỦY đem KHÍ-
THỦY (Thận) lên Cung LY (Tâm). TÂM-HỎA giáng rút KHÍ-
HỎA (Tâm) xuống Cung KHẢM (Thận). Thì bây giờ LY
“TÂM”, biến thành CÀN-DƯƠNG là THỦY ở TÂM, tức là
LY ( ) biến CÀN ( ) … … …
Còn KHẢM “THẬN” hóa KHÔN Âm, HỎA tại dưới THẬN
nơi KÝ-TẾ, mà bèn giao-cấu … … …
Nhờ ĐẠI-TỊNH mà KHÍ-THỦY khắc HỎA mà vọt lên LY
“TÂM”; Vậy là HỎA-BỨC KIM-HÀNH thăng lên TRUNG-
HUỲNH nơi SŨNG-NGỰC dưỡng LINH-THAI đó vậy. Dùng
ÂM-HỎA mà dưỡng Chơn CÀN-DƯƠNG là CÀN, KHÔN
giao-cấu grong khoảng BÁ-NHỰT TRÚC-CƠ của khoảng
Tịnh-Hành HƯ-VÔ Đắc-Dược Kết-Đơn.
“Đây là chánh khoảng Tịnh-Thủ Hư-Vô, thâu liễm Âm
Dương tại THÁI-CỰC-ĐỒ HẠ-ĐIỀN là lớp BÁ-NHỰT
TRÚC-CƠ”.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
19
- Giải Lý về KHỬ-TRƯỢC LƯU-THANH là đem giả Âm ra
và làm cho tiêu-tán. Cầm Chơn Âm lại ở KHẢM Cung, đem
về trả lại cho Tạng TÂM – LY Cung đó. Thì hiện giờ LY Cung
là CHƠN-DƯƠNG-THỦY cư tại Tâm-Linh. Còn KHẢM
Cung đã hóa ra CHƠN-ÂM-HỎA trở về Tạng THẬN. Đó là
lọc vàng Chơn-Kim ra sạch trong, đặng biến THỦY Chiếu-
diệu biến thành CHƠN-THẦN LINH-QUANG THIÊN-ĐIỂN,
đó là KIM-THỦY Nhứt Gia đều-hòa, mà gọi là cách Chiết
KHẢM Điền LY đó!
C. Sự Diêu-Động phát-khởi,
Nhờ Chơn-Tịnh HƯ-VÔ nhiều ngày, nên Qui-Đầu khởi Động
(Vô-Tâm Chi-Động). Như nó có phát khởi Diêu-Động, thì con
mau phải dụng THẦN-CÔNG đem nó về NÊ-HƯỜN-CUNG
nghe! (1)
Phép Rút THẦN-CÔNG cho thật mạnh, con đem nó về là
Cách hít nhiều CỐC-ĐẠO (Ngoại Túc Tử) đó.
D. THẦY dạy SANH – Cách Rút THẦN-CÔNG tường !
Con mở áo Đồng-Tử, lột tới hai nách của nó, đặng THẦY
chuyển cách Qui LẬU-TINH cho SANH nó thấy mà học theo.
- SANH, con đừng dụng Ngoại-Công mà vô-ích nghe con! Chỉ
phải dụng THẦN-CÔNG cho thật mạnh mà con đem nó về là:
Rút TINH về HUYỆT-KHÍ nghe con! Rồi THẦY sẽ giúp Điện
đem nó lên NÊ-HƯỜN-CUNG nghe !!!
Chớ gẫm lại phàm-tâm mà làm sao đem nó lên cho nổi con à!
Con ôi! Con phải biết THÂN-NGOẠI VÔ-ĐẠO, ĐẠO TẠI
KỲ-TRUNG!
Cách đó là THẦY, MẸ bảo con giữ TRUNG-KHIẾU. (2)
(Đây là lời MẸ nhắc lại cho các con nhớ nghe !)
E. MINH-CHỈ HUYỀN-QUANG-KHIẾU.
HUYỀN-QUANG-KHIẾU HUYỆT nó ở tại từ nơi NÊ-
HƯỜN-CUNG cho đến tột chỗ thật trống là HƯ-KHIẾU thông
Giáng-Tắc-Cung (TÝ), đặng thâu Điện Hư-Vô. Chớ con đừng
luyện HỎA-PHÙ mà sái nghe – bớ con!
THẦY, MẸ đã nói: “Mảnh thân các con là cái máy, mà là con
đó! Sao các con trở lại luyện cái máy các con ???”.
* NÓI VỀ CÁI MÁY TRƯỜNG SANH
Vậy con biết ai sắm nó đó chăng? Ai coi nó? Ai thâu nó đó
vậy? Con ôi! Vạn sự do nơi THẦY, chớ cái máy mà con trở lại
coi “Cái Máy” sao đặng con à ???
Chính con là “Cái Máy”, mà con trở lại luyện “Cái Máy”,
không kết-quả vào đâu con khờ!
Bước đầu-tiên con phải tập lần TỊNH HƯ-VÔ đi! Cho tinh-
thần đầy-đủ, theo cách THẦY đã chỉ cho con đó và hơi-thở
cho đều-hòa về XUẤT-HUYỀN NHẬP-TẨN (3) thì đủ chớ có
chi lạ con à!
Xưa kia Chư TIÊN, PHẬT Đắc Đạo vẫn có bấy nhiêu đó mà
thôi.
F. YẾU-LÝ về Thực-Vật-Chất
Hễ con dụng vật-chất, thì con còn sanh tử. Nay con TU ĐẠI
ĐẠO HƯ-VÔ của THẦY, cùng đã dụng về CHÁNH-KHÍ
TIÊN-THIÊN, thì con sẽ đặng Trường-Sanh Bất-Lão. Nhưng
Trường-Sanh Bất-Lão là một Điển-Linh Chơn-Tánh của con,
nó đã hao-tán đi. Nay con nhờ Thực NGŨ-CỐC, mà nhờ lấy
CỐC-KHÍ cũng bồi-bổ mà sống đặng, nhưng chẳng đặng
trường cửu, mãn cõi thì cũng bất tồn-sanh. Vì tuy Tinh-Ba của
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
20
Khí Ngũ-Cốc vẫn là Tinh-Anh, mà nó thuộc về HẬU-THIÊN-
KHÍ, nên con phải còn khắc TIÊN-THIÊN-KHÍ.
Còn con ăn Bá-Thảo, thì con đẳng bổ Cơ-Nhuận-Thể mà thôi,
chớ đâu có đặng Trường-Sanh. Chỉ có một điều độc nhứt là
con giữ TAM-BỬU của con cho đặng cứng đều hoàn-toàn rồi,
thì bắt đầu ăn Nội CHƠN-KHÍ mà thôi, mà ăn CHƠN-KHÍ là
“ĐẠI-TỊNH CHI-CHÍ HƯ-VÔ” đó.
Ôi! MẸ đã rất thương từ các Linh-Chưởng xuống trần mà đã
bị Hà-Luyện (x) trong Lò BÁT-QUÁI (x), MẸ rất thương-tâm
cho các con đó.
Nay TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ, trên đã có THẦY, MẸ coi “Cái
Máy” Thiên-Tạo mà chế luyện. Ôi! Các con chẳng gia-tâm tri
hiểu thiệt, thật rất lầm thay! Con khờ! – Lầm là con trở lại
luyện “Cái Máy”, là con đó. MẸ hỏi con làm sao con luyện
đặng hỡi con?
- Con luyện như thế nó càng hại các con, lại thêm oan nghiệt
nữa. MẸ lập-thành Tiên-Thể cho các con phi-thăng, hầu trở về
nơi BẠCH-NGỌC-KINH và DIÊU-ĐIỆN.
- Ngày nào mà con trở về với THẦY ???
- Các con khá thi-hành TỊNH như tử-thi đi (x), thì có THẦY,
MẸ sẽ bố-ban Linh-Điển cho. Nó sẽ bắt vào HUYỀN-
QUANG-KHIẾU đặng mà giúp Vị Chơn-Nhơn của con, cho
“Tượng-Hình Xá-Lợi-Tử”. Ráng nghe THẦY, MẸ chỉ rõ nét
Tịnh Hư-Vô đây nghe con!
MẸ mừng chung các trẻ! MẸ hồi DIÊU-CUNG.
Thìn-Thời ngày mai sẽ chấp-bút.
***** THĂNG *****
1) Rút THẦN-CÔNG, thì đứng thẳng lưng, hai chân đứng hình chữ BÁT,
chấp hai tay rồi đưa thẳng lên trên không, đoạn nín hơi, lấy Chơn-Ý
bắt từ dưới mà rút cho thật mạnh – được ba lầzn, là nó thấu NÊ-
HƯỜN-CUNG và đã huờn TINH rồi đó con. Rất dễ dàng, nó vẫn chạy
ro ro! Khi con Rút THẦN-CÔNG, thì nó qui về Nội THẬN (HUYỆT-
KHÍ), rồi THẦY giúp con, nó sẽ thăng lên Nê-Huờn mà con nào hay
biết? (!)
2) Gom về có một chỗ là về nơi KHẢM-CUNG KHÍ-HUYỆT, Nội THẬN
tức là NỘI-THẬN SONG-QUAN, đó chánh thị KHẢM-CUNG.
3) XUẤT-HUYỀN NHẬP-TẨN là làm cho đều-hòa hô-hấp, đi cho có độ-số
tại lỗ-mũi và thở cho có độ-lượng quân-bình. Con hấp THANH-KHÍ
phải cho tới chí Rún qua HUỲNH-ĐÌNH, rồi thẳng tột chỗ (Rún). Vậy
nên kêu là “Nhập Tẩn”, khi còn lại con ngưng chậm chậm rồi sẽ Hô ra
cho tới chỗ NỘI-TỶ-ĐOAN (chót mũi), nên chữ Hán gọi là “Xuất-
Huyền”, nghĩa là thở ra bắt từ Rún vọt lên lỗ-mũi vậy nghe!
Còn hít THANH-KHÍ và bắt từ mũi cho chí HUỲNH-ĐÌNH, rồi thẳng
tột chỗ Rún vậy.
O
OOO
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
21
THI VÔ hình SƠ Thủy, hóa CÀN, KHÔN,
CỰC động KHAI sanh HẠO-KHÍ tôn,
LÃO hiện NGUYÊN Quân Hồng, Thái, Hắc;
MẪU minh THỈ-tổ, lập TAM-HỒN.
MẸ ban ơn lành toàn-tất chư ái-tử nữ nam! Ráng lập Đức đại
kỳ-công Qui-Nguyên Mạt-hội này. Vậy Tịnh nghe MẸ giảng-giải
về NGŨ-HÀNH.
TAM-TÀI, NGŨ-HÀNH, THIÊN-CAN và ĐỊA-CHI.
NGŨ-HÀNH Tương-Sanh và NGŨ-HÀNH Tương-
Khắc.
CAN-CHI thuộc Năm Hành, liên Bốn Mùa và hòa
Ngũ-Phương 12 tháng thuộc Kiến-Sóc chuyển luân.
A. 10 THIÊN-CAN
1.Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
B. 12 ĐỊA-CHI
2.Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
C. CAN-CHI thuộc ÂM-DƯƠNG
3.Giáp, Bính, Mồ, Canh, Nhâm: thuộc DƯƠNG
Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quí : thuộc ÂM.
4.Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất: thuộc DƯƠNG
Sửu, Mẹo, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi : thuộc ÂM.
D. CAN-CHI thuộc NGŨ-HÀNH
(Bốn Mùa liên-hòa Bốn Phương)
5.Giáp, Ất : thuộc MỘC : Phương ĐÔNG,
Bính, Đinh : thuộc HỎA : Phương NAM,
Mồ, Kỷ : thuộc THỔ : Trung-Ương,
Canh,Tân : thuộc KIM : Phương TÂY,
Nhâm, Quí : thuộc THỦY : Phương BẮC.
E. NGŨ-HÀNH liên Bốn Mùa
6.Dần, Mẹo, Thìn thuộc MỘC, về mùa Xuân, là phương Đông.
Tỵ, Ngọ, Mùi thuộc HỎA, về mùa Hạ, là phương Nam.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
22
Thân, Dậu, Tuất thuộc KIM, về mùa Thu, là phương Tây
Hợi, Tý, sửu thuộc THỦY, về mùa Đông, là phương Bắc.
Riêng 4 chi: Thìn, Mùi, Tuất, Sửu nói về sự Đơn thì thuộc
THỔ. Coi 4 tháng quí như:
- Tháng Ba quí Xuân,
- Tháng Sáu quí Hạ,
- Tháng Chín quí Thu,
- Tháng Chạp quí Đông.
Bốn-Phương Giáp-mí TỨ-DUY là Bốn hướng phụ:
7.Đông-Bắc, Tây-Bắc, Đông-Nam và Tây-Nam,
Đó là 4 hướng phụ của BÁT-QUÁI HẬU-THIÊN đó vậy.
F. SÁU CHI HẠP thuộc NGŨ-HÀNH
8.Tý hạp với Sửu thuộc Thổ
Dần hạp với Hợi thuộc Mộc
Thìn hạp với Dậu thuộc Kim
Mẹo hạp với Tuất thuộc Hỏa
Tỵ hạp với Thân thuộc Thủy
Ngọ hạp với Mùi thuộc Thổ
Mà Ngọ là THÁI-DƯƠNG, Mùi là THÁI-ÂM.
G. BA CHI hạp với NGŨ-HÀNH
9.Thân, Tý, Thìn hạp cuộc Thủy
Dần, Ngọ, Tuất hạp cuộc Hỏa
Hợi, Mẹo, Mùi hạp cuộc Mộc
Tỵ, Dậu, Sửu hạp cuộc Kim
Trong 4 cuộc hạp đều chung vào HÀNH-THỔ cả. (TRUNG
ƯƠNG).
H. Sáu CHI xung nhau
10. Tý với Ngọ Xung nhau
Dần với Thân Xung nhau
Thìn với Tuất Xung nhau
Sửu với Mùi Xung nhau
Mẹo với Dậu Xung nhau
Tỵ với Hợi Xung nhau
I. Sáu CHI hại nhau
11. Tý với Mùi Hại nhau
Thân với Hợi Hại nhau
Thìn với Tỵ Hại nhau (?)
Sửu với Ngọ Hại nhau
Dậu với Tuất Hại nhau
Mẹo với Dần Hại nhau (?)
J. Mười-Hai Tháng KIẾN CHI
12. Tháng Giêng Kiến Dần
Tháng Ba Kiến Thìn
Tháng Năm Kiến Ngọ
Tháng Bảy Kiến Thân
Tháng Chín Kiến Tuất
Tháng Mười-Một Kiến Tý
Tháng Hai Kiến Mẹo
Tháng Tư Kiến Tỵ
Tháng Sáu Kiến Mùi
Tháng Tám Kiến Dậu
Tháng Mười Kiến Hợi
Tháng Mười-Hai (Chạp) Kiến Sửu.
Còn năm nào có Tháng Nhuần, thì tháng Nhuần là thuộc tháng
Trung-Khí.
Nửa tháng trên: từ ngày mùng 1 tới ngày 15 (Rằm), thì
phải theo về chữ KIẾN của tháng trước.
Nửa tháng dưới: từ ngày 16 tới ngày 30, thì theo KIẾN
tháng sau.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
23
K. NHỊ-THẬP-TỨ TIẾT-KHÍ
L. Năm Sắc thuộc Mười-Hai CHI
13. Sắc Lam - Xanh thuộc Dần, Mẹo, Thìn - mùa Xuân- phương
Đông
Sắc Hồng - Đỏ thuộc Tỵ, Ngọ, Mùi - mùa Hạ - phương Nam
Sắc Bạch – Trắng thuộc Thân, Dậu, Tuất - mùa Thu- phương Tây
Sắc Hắc – Đen thuộc Hợi, Tý, Sửu - mùa Đông - phương Bắc
CHI Thìn, Mùi, Tuất, Sửu thuộc 4 tháng “QUÍ” ở 4 phương là
gom lại tại Trung-Tâm (THỔ) đó vậy.
M. Năm Sắc thuộc Năm-Hành
Sắc Hồng thuộc HỎA
Sắc Hắc thuộc THỦY
Sắc Thanh thuộc MỘC
Sắc Bạch thuộc KIM
Sắc Huỳnh (Trung-Ương) thuộc THỔ
N. NGŨ-HÀNH Tương-Sanh
Mộc sanh Hỏa (lửa lấy ở cây ra)
Hỏa sanh Thổ (lửa đốt vật thành than)
Thổ sanh Kim (mỏ có các loại kim sanh ra)
Kim sanh Thủy (loài Kim do mồ-hôi hóa ra nước)
Thủy sanh Mộc (cây phải có nước mới mọc đặng, mà
xanh tươi).
O. NGŨ-HÀNH Tương-Khắc
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim
Kim trở lại khắc Mộc, cứ như thế luân hành đó!
ĐẠI-LƯỢC TỔNG-LUẬN
VỀ
VÔ-CỰC-ĐỒ
Do Cơ Tịnh Động, Động Tịnh chuyển-biến CÀN KHÔN
mới có ra ( ), biến thành KHẢM LY ( ) là
“Vật, Nhơn”, mà KHẢM LY là Nhựt, Nguyệt có ra đó! Còn
CÀN KHÔN là ÂM DƯƠNG vậy!
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
24
*** Nói Về ***
THIÊN-ĐỊA CHI-SƠ Hồi Thủy-Sơ (ban đầu) NHỨT-KHÍ HƯ-VÔ ( ). Rồi NHỨT
biến NHỊ ( ), NHỊ giao-cấu sanh TAM ( ), kế TAM
biến TỨ, rồi TỨ biến NGŨ – Như vậy là TIÊN-THIÊN HÀ-ĐỒ
NGŨ-HÀNH. Đoạn TIÊN-THIÊN HÀ-ĐỒ mới biến BÁT-
QUÁI TIÊN-THIÊN, là CÀN, KHÔN, KHẢM, LY sanh ra
CHẤN, TỐN, CẤN, ĐOÀI.
Rồi từ BÁT-QUÁT TIÊN-THIÊN sanh ra thành HẬU-THIÊN
LẠC-THƠ là KHẢM, LY, CHẤN, ĐOÀI mới hóa CÀN, TỐN,
CẤN, KHÔN; mà Khôn, Cấn, Tốn, Càn là 4 QUÁI Phụ Vị.
Nay người muốn TU về CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO, TÂN-PHÁP
CHÁNH-TRUYỀN TỊNH-THỦ HƯ-VÔ của TIÊN-THIÊN
HÀ-ĐỒ cho KHẢM hóa thành KHÔN, hầu đặng Tinh-Thần
đầy-đủ, mới được vĩnh-viễn trường-tồn, nhàn-cư thiện-lạc đặng
– y hồi khoảng Thủy-Sơ, ban đầu là – TIÊN-NHƠN, đó là dụng
công CHƠN-DƯƠNG, CHƠN-ÂM điên-đảo, khi bãi chiến rồi
đến định-thành, mới có LINH-CHƠN-ĐIỂN xuất ra là THẦN-
QUANG XÁ-LỢI – mới Sống đời muôn năm, thì mới có Chơn-
Âm, Chơn-Dương hòa-hiệp. Đó là nên ĐẠI-ĐẠO TIÊN-
THIÊN HƯ-VÔ, “TÂN-PHÁP CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐỨC” ân ban
vậy.
CHÚ-GIẢI về Lý Mầu-Nhiệm ĐẠI-ĐẠO THIÊN-CƠ của
VÔ-CỰC-ĐỒ chuyển-biến ÂM-DƯƠNG Động Tịnh, Tịnh
Động biến-thiên là NHỨT-BỔN TÁN VẠN-THÙ. ĐẠI-ĐẠO
bởi NHỨT-KHÍ HƯ-VÔ mới thành THÁI-CỰC, mới sanh
LƯỠNG-NGHI, TAM-TÀI, TỨ-TƯỢNG, NGŨ-HÀNH, BÁT-
QUÁI TIÊN-THIÊN và HẬU-THIÊN.
Mà Tứ-Tượng là LÃO-DƯƠNG (Càn), LÃO-ÂM (Khôn), lại
hóa THIẾU DƯƠNG (Ly), THIẾU ÂM (Khảm). Tứ-Tượng
mới sanh BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN là “CÀN-KHÔN, KHẢM-
LY, CẤN-ĐOÀI, CHẤN-TỐN”. Khi Bát-Quái đã thành rồi, thì
KHÍ cũng phân ra do bởi NGŨ-KHÍ và BÁT-KHÍ mà ra. Bởi
đó sanh ra Vạn-Vật, tức là chỗ của “Nhứt-Bổn Tán Vạn-Thù”,
thì TÂM Ta lạc mà Tán tiêu-vong.
Vậy bậc tầm TU HÀ-LUYỆN PHANH-TU CHẾ-TÁNH HƯ-
KHÔNG, nên cần Tịnh-Thủ Hư-Vô cho CHƠN-KHÍ Huờn-
Nguyên – là “Vạn-Thù Qui Nhứt-Bổn” đó mới là Chơn-Qui
Hư-Vô !
CHƠN-ĐẠO HƯ-VÔ – TÂN-PHÁP CAO-ĐÀI TIÊN-
THIÊN! Các Môn-Đồ xem đó thì biết nợ Tứ-Ân Vô-Vi là nặng,
nên phải cần Tịnh-Luyện Huờn-Quang, hầu đáp-đền Dưỡng-
Dục của Chúa Càn-Khôn là ngày TẠO-HÓA có trò ra. Nay
chẳng chịu HUỜN về thì NGÀI vẫn còn trông-đợi các con mãi
mãi đó vậy !!!
Ráng nghiệm-suy và nghe đoạn này.
Thôi MẸ mừng các con! MẸ hồi DIÊU-ĐIỆN
***** THĂNG *****
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
25
TIẾP ĐIỂN
MẸ - TÂY-VƯƠNG-MẪU của mỗi trẻ, các con! Nam nữ Đại-
Tịnh, hầu-chầu THƯỢNG-HOÀNG và Vạn TIÊN Giá-ngự!
Tiếp Đàn Thìn Thời!
TỔNG-LUẬN VỀ
TIÊN-THIÊN ĐỊA-ĐỒ
(Động-Tịnh Chuyển-Biến)
THÁI-CỰC ĐẠI-TỊNH bất Mãn Động sanh HOÀNG CỰC.
TỔNG-LUẬN: Từ VÔ-CỰC THỦY-SƠ chi trung, phân sang
Chung-Mạc, do Cơ Tịnh-Động bất mãn, Động-Tịnh Chân-
Truyền, mà biến-sanh Thiên-Vạn đó là Cơ “Nhứt-Bổn Tán Vạn-
Thù”, mà là từ Tiên-Thiên Chuyển-Hóa ra Hậu-Thiên (Ly-
Khảm), thành thử ra TẠP-NIỆM (TRƯỢC-KHÍ), mới bị nhơ
bẩn – nên giảm lần lần và tiêu-tán KHÍ-LINH-CHƠN của TRỜI
ĐẤT bố-ban cho, mà phải bị tán-tiêu thì là Tử Mạng vậy !!!
Vậy nay THẦY và MẸ cùng TAM-GIÁO Tổ-Sư, đã ân-ban
CHƠN-TRUYỀN tại thế - Về Khoa BÍ-TRUYỀN, PHÁP-MÔN
THOÀN-TỌA, TỊNH-THỦ HƯ-VÔ, thâu KHÍ PHỤC-THẦN
ĐỊNH-Ý, thống-nhứt TAM-TÀI gom Nội BỬU, thống-nhứt vào
HUYỀN-QUANG-KHIẾU (là nơi THẦN-THẤT) sẽ đặng
VẠN-THÙ QUI NHỨT-BỔN cho theo hồi Thủy-Sơ, Tánh
Bổn-Thiện, vậy là chứng Ngôi Tiên-Tử. Đó là không phụ TRỜI
ĐẤT ban-bố Hoằng-Khai Hóa Độ Sanh-Cơ, các con ra khỏi
Đời mà lập Vị. Được vậy là các con đã trả mối Nợ Tứ-Ân Chí-
Báo đó vậy.
Các con ra đời Lập-Vị là giúp đời, lập ĐẠO, lo sự Sống-
Chung cho Nhơn-Loại, lo Công-Phu Tịnh-Tọa tham-khảo Bí-
Khuyết Chơn-Cơ cho thông-thấu chỗ HUYỀN-VI DIỆU-
PHÁP, rồi đem lại dạy-dỗ cho Chúng-sanh được hết Tối-Tăm –
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
26
trở nên Sáng-Lạng, hết mê mờ, đoạn-tuyệt Vô-minh, mà làm
cho đời loạn hóa ra trị, người mê ra sáng – mới là TRUNG-
DUNG Quân-Tử vậy.
ĐẠI-LƯỢC TỔNG-LUẬN
Về VÔ-CỰC THIÊN-ĐỒ ĐẠI-THIÊN
ĐỊA-ĐỒ
Do Cơ Tịnh-Động, Động-Tịnh đó, bèn chuyển-biến CÀN-
KHÔN, mới có ra NGŨ-HÀNH TIÊN-THIÊN và NGŨ-HÀNH
HẬU-THIÊN đến BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN và HẬU-THIÊN
– là CÀN KHÔN sang KHẢM LY mà là NHỰT NGUYỆT, mà
Nhựt Nguyệt cũng do trong HẠO-KHÍ của Ngũ-Hành, mà có ra
Sở Hóa đó, tức là THÁI-ÂM và THÁI-DƯƠNG.
THIÊN-ĐỊA THỦY-SƠ (Bổ-túc)
Hồi Thủy-Sơ (ban đầu): Nhứt-Khí Hư-Vô ( ), rồi Nhứt biến
Nhị ( ), Nhị giao-cấu sanh Tam ( ), rồi hóa Tứ-Tượng
( ). Tứ mà Qui Ngũ – tức là Ngũ-Hành: Thủy, Hỏa, Mộc,
Kim, Thổ, vậy là TIÊN-THIÊN HÀ-ĐỒ NGŨ-HÀNH.
Đoạn rồi Tiên-Thiên Hà-Đồ biến Bát-Quái Tiên-Thiên, lại
biến ra Bát-Quái Hậu-Thiên (Khảm Ly).
Bát-Quái Hậu-Thiên (Khảm-Ly, Chấn-Đoài, Càn-Tốn, Cấn-
Khôn) mà là về “LẠC-THƠ-ĐỒ”, mà Khảm, Ly, Chấn, Đoài là
Tứ-Chánh Chi-Vị. Còn Càn, Tốn, Cấn, Khôn là Tứ-Phụ đó.
Nay đã là thời-kỳ mạt-pháp, sẽ bị chung-đồng tiêu-diệt, các
con sẽ vào Hồng-Thủy Chi-tai. Các con muốn thoát khỏi ách-tai
thiên-chuyển, thì tự Tu về CAO-ĐÀI TÂN-PHÁP, PHẢN-BỔN
HƯỜN-NGUYÊN, cho LẠC-THƠ trở lại HÀ-ĐỒ, thì tất-nhiên
các con phải tùy theo đường-lối đã vạch sẵn rồi – Là CHÁNH-
PHÁP NHÃN-TẠNG, HỒI-QUANG NỘI-CHIẾU đã chỉ rõ
trong CỬU-QUYẾT HUỜN-THẦN thì phải Tịnh-Thủ Hư-Vô
mà diệt lấy LỤC-THẤT cho TÌNH-Ý tiêu-vong, hầu TINH hóa
ĐIỂN thăng-đằng nhẹ bổng lên trên Thượng-Từng Hội-Liệt
Tiên-Bang.
Vậy mới y như TIÊN-THIÊN HÀ-ĐỒ, thì các con phải dụng
KHẢM hồi LY cho biến-thành CÀN Chơn-Dương đi. KHẢM
hóa thành KHÔN là Chơn-Âm, cho Chơn-Âm hòa Chơn-Dương
nhứt tràng giao-cấu VONG-NGÃ đi, thì hóa nên Chơn-Điển
Thần-Quang là nhờ Tịnh-Thủ Hư-Vô nhiều ngày mà tinh thần
của con đặng đầy-đủ TAM-BỬU qui vào HUYỀN-QUANG-
KHIẾU (THẦN-THẤT), sẽ ở Thủ nơi Cung HUỲNH-ĐÌNH,
mà chờ chiếu-triệu thăng-trực lên Nê-Huờn Thiên-Cung, mới
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
27
đặng trường-tồn vĩnh-viễn Nhàn-Cư Thiện-Lạc, hết sa vào khổ-
đọa trần ai.
Vậy y hồi Thủy-Sơ – là Phục-Phản Hồi-Nguyên, tức TIÊN-
NHƠN đó.
Đó là Pháp dụng Chơn-Âm hóa Chơn-Dương điên-đảo giao-
cấu nhứt trường, đoạn rồi khi bãi-chiễn định-thành, mới có
Linh-Chơn Thiên-Điển xuất-lộ là ánh Thần-Quang, hay là Xá-
Lợi-Tử, mới đặng sống đời đời triệu năm, mà là người BẢO-
NGỌC KIM-QUANG ánh ngời. Đó là đã nên ĐẠI-ĐẠO TIÊN-
THIÊN HƯ-VÔ của TÂN-PHÁP CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐỨC ân-ban
cho chúng sanh lương-từ trong thời-kỳ Mạt-pháp vậy.
Lời ấn-chứng của Đức ĐÔNG-HOA ĐẾ-QUÂN giáng Đàn
ân-phê chuẩn-phận tại ĐÂU-SUẤT THIÊN-CUNG (Thanh-
Tịnh-Đàn – Mỹ-tho ngày 25 tháng 8 năm Quí-Tỵ), chú-giải về
lý Mầu-Nhiệm Thiên Cơ … … … … …
MẸ mừng các con nam nữ! Đúng Thìn-Thời, tất cả các Bổn-
Điển và Bổn-Chánh mà các con đang trích-lục lại đó, phải gom
hết đem để ngay Thiên-Bàn, nơi Chơn-Đồng chấp-bút, hầu MẸ
duyệt y lại.
***** THĂNG *****
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
28
TIẾP ĐIỂN
MẸ mừng các con nam nữ!
Chú-giải Về Lý Mầu-Nhiệm Thiên-Cơ
Lý MẦU-NHIỆM THIÊN-CƠ của VÔ-CỰC THIÊN-ĐỒ
chuyển-biến ÂM, DƯƠNG, Tịnh Động, Động Tịnh. Biến-thiên
là Cơ Nhứt-Bổn Tán ư Vạn-Thù cho nên ĐẠI-ĐẠO bởi Nhứt-
Khí Hư-Vô mới sanh THÁI-CỰC, Thái-Cực mới sanh
LƯỠNG-NGHI, TAM-TÀI, TỨ-TƯỢNG, NGŨ-HÀNH; BÁT-
QUÁI TIÊN-THIÊN, HẬU-THIÊN.
Mà Thái-Cực là Lão-Âm và Lão-Dương tức Càn-Khôn, Tứ-
Tượng là Thiếu-Âm và Thiếu-Dương, tức Khảm-Ly đã dụng
đó.
Tứ-Tượng bèn sanh ra Bát-Quái Tiên-Thiên và Bát-Quái Hậu-
Thiên. Khi Bát-Quái Lưỡng Cá đã thành rồi, thì cũng do Ngũ-
Khí, Bát-Quái mà có ra. Duyên cớ đó, Nhứt-Khí Hạo-Nhiên
tùng Cơ Tịnh-Động, Động-Tịnh mà có ra Vạn-Vật Tối-Linh
khắp đầy trong Vũ-trụ bao-la CÀN-KHÔN thế-giới đầy đủ. Rồi
ngày hôm nay tới giờ phải đành diệt-vong là lý cố nhiên – bởi
bánh xe đi lộn ngược lại nghe!
Hôm nay bậc chí-vĩ nhơn-tài trí-thức, biết có tuần-huờn
chuyển biến phải y chịu tiêu-diệt, thì mau mau tầm Tu giác-ngộ,
Hà-Phanh Thể-Luyện, cứ để Tánh Hư-Không cho Chơn-Khí
huờn-lai tự nhập vào HUYỀN-QUANG, vậy là Vạn-Thù Qui
Nhứt-Bổn, mới là Chơn-Qui Hư-Vô, mà là Chơn-Đạo Hư-Vô
Tân-Pháp Cao-Đài Tiên-Thiên đã đắc thành Xá-Lợi Kim-Đơn.
Các Môn-Đồ ôi! Các Môn-Đồ xem đó thì Nợ Tứ-Ân Vô-Vi là
nặng. Nên nay phải cần Tịnh-Luyện Huờn-Nguyên Bổn-Giác
Chơn-Ngươn, Phục-Huờn y như hồi Thủy-Sơ – hóa Thần-
Quang thăng Thượng, hầu đáp-đền ân-thâm dưỡng-dục của
TRỜI-ĐẤT sanh-dưỡng có ta ra cảnh đời lập-vị đến ngày hôm
nay, là ta phải tự đền-ơn nhũ-bộ của Chúa-Cả Càn-Khôn, nhờ
Ngài Tạo-Hóa có ta ra trong đời nầy, chẳng chịu Qui-Huờn về
Nhứt-Khí, Ngài vẫn trông đợi các trò mãi mãi.
Hồi Hoàng-Cực động sanh Thái-Cực
Thái-Cực tịnh bất-mãn, động sanh Lão-Dương
Lão-Dương động bất-mãn, tịnh sanh Lão-Âm
Lão-Âm tịnh bất-mãn, động sanh Thái-Dương
Thái-Dương động bất-mãn, tịnh sanh Thái-Âm
Thái-Âm tịnh bất-mãn, động sanh Thiếu-Dương
Thiếu-Dương động bất-mãn, tịnh sanh Thiếu-Âm
Do thể theo động tịnh chuyển-biến chín lần THAI đủ (ba-trăm
Châu-Thiên) Túc-Khí, bèn phá Thai-Bào mà ra chào đời, bị
Hậu-Thiên áp Khí mới khóc lên 3 tiếng oa! Oa! Oa! Đó vậy.
TỔNG LUẬN
Từ VÔ-CỰC THỦY-SƠ chí Chung phân, do Cơ TỊNH bất
mãn rồi Động lại. Động-Tịnh; Tịnh-Động là về Cơ “Nhứt-Bổn
Tán Vạn-Thù”, mà từ Tiên-Thiên chuyển-biến hóa ra Hậu-
Thiên “Ly-Khảm”, thành ra Tạp-Niệm Trược-Khí, mới bị giảm
lần lần hết khí Linh-Chơn của Trời-Đất ban cho, mà phải chịu
tán-thi tử-mạng vậy! Than ôi cho Hồn !!!
Vậy nay THẦY MẸ và TAM-GIÁO ân-ban Chơn-Truyền tại
thế về Khoa “TỊNH-TỌA HƯ-VÔ”, Thâu-Khí, Phục-Thần,
Định-Ý thống-nhứt TAM-TÀI Nội Bửu vào HUYỀN-QUANG-
KHIẾU, sẽ đặng “Vạn-Thù Qui Nhứt-Bổn” cho y lời Thủy-Sơ,
mới chứng Ngôi Tiên-Tử, mà là không phụ ơn Công-Đức
Hoằng-Hóa của Trời-Đất sanh có ta ra đời, giúp đời hành Đạo,
làm cho đời càng thêm tấn-hóa, mới là trả tròn câu “Mối Nợ
Tứ-Ân, Vô-Vi Chi-Báo” đó!
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
29
Thôi! MẸ mừng chung các con!
Dậu-Thời MẸ sẽ tiếp.
TIẾP ĐIỂN
Tịnh tâm nghe lời MẸ giảng vụ!
MẸ Linh-Hồn các con! MẸ mừng các con nam nữ, các con
yêu-dấu của MẸ! Khá nghe những lời Kim-ngôn Ngọc-Lý của
MẸ phân phán đây.
Vì nay là tuần-huờn dĩ-đáo, phục-thỉ hồi đầu, lập lại Thượng-
Cổ, Tân-Dân đồng Thiện. Cho nên MẸ chuyển các con lập HƯ-
VÔ “VÔ-CỰC BỬU-ĐIỆN”, để làm tiêu-biểu kỷ-niệm TIÊN-
THIÊN ĐẠI-ĐẠO, hầu vạn-tãi lưu-lai, mới biết các con ở trong
đời mạt-pháp. Tạo-thành Chơn-Kinh “VÔ-CỰC THIÊN-ĐỒ”,
để đoàn hậu-tấn cho rõ biết Chánh-Thỉ của Cao-ĐÀI VÔ-CỰC,
gầy nên giữa Trung-Gian Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Vậy MẸ cậy các con nữ-phái Đạo-Tâm, NGŨ Thiếu ÂM:
A. BẠCH-LAN TIÊN-CÔ (Tô-thị-Nuôi)
1. HIỂN-CHÁNH QUANG-NỮ (Tân-thị-Phú)
2. QUẢNG-TÂM TIÊN-NỮ (Nguyễn-thị-Tám)
3. BẠCH-TUYẾT TIÊN-CÔ (Nguyễn-thị-Trầm)
4. TRƯỜNG-HẠNH TIÊN-CÔ (Nguyễn-thị-Xuân)
5. QUẢNG-CHÍ TIÊN-NỮ (Nguyễn-thị-Thắng)
B. BẠCH-HƯƠNG HOA-TIÊN (Nguyễn-thị-Lành)
1. NHỨT-TRÍ TIÊN-CÔ (Nguyễn-thị-Nhờ)
2. HẠNH-ĐỨC TIÊN-CÔ (Trần-thị-Như)
3. LỊCH-ĐÀO QUANG-HUY (Phạm-thị-An)
4. CHÍ-CHƠN TIÊN-CÔ (Phạm-thị-Dễ)
5. LIÊN-TÂM THÚY-NHỤY (Nguyễn-thị-Nhàn)
C. HIỀN-HÒA TIÊN-CÔ (Trương-thị-Xuân)
Các con nữ-phái Tiền, Trung, Hậu của MẸ GIÀ, đã điểm-
nhuận, đều được thọ-ký ân-huệ của MẸ lành tưởng-thưởng cho
chút công lao trong thời Mạt-Pháp. Được thấy Tâm-Quảng thể
bàn của con thơ nam-phái, đều được cung-phụng cho vẹn-toàn
sứ-mạng!
1. Con nào có tên, thì LINH-CHÂU cũng nên đem vào, và
danh-sách 36 Thánh (Thiên-Tinh) với 72 Địa-Sát cũng y
(Địa-Tinh)
2. Với Nhị-Thập-Tứ Khí (4 mùa), cho đủ Nhị-Thập-Bát Tú,
cũng trích-lục đem vào KINH, hầu lưu-công với ĐẠO
nghe!
3. Còn những tên mới điểm, ấy là ân-phong các con! Mới là
công-phu đẹp hòa của Đạo-Tâm.
TAM TỪNG HƯ-VÔ
ĐỐI TAM-GIANG HỮU HÌNH
1. Thượng-Từng Hữu-vô của Vô-Cực-Đồ, Tam-Thập Lục-
Thánh chi Quang-Minh, do Nhứt-Khí hóa Ngũ-Hành mà
có ra.
2. Hạ-Từng 72 Địa-Ngục, Thập Đô chuyển-biến, gốc là:
THIÊN-CAN ĐỊA-CHI phối-hiệp vậy.
3. Trung-Từng Thập-Nhị Thời-Thần, làm thông-công Tam-
Giái là Trung-Giang, thể là “CHÂU-LINH THÁNH-
TÒA”.
A. Mà là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ (Mồ-Thổ)
Canh, Tân, Nhâm, Quí, Kỷ (Kỷ-Thổ)
Bên Hữu: “Nhựt” Hồn (Sanh)
Bên Tả: “Nguyệt” Phách (Tử)
Tức là đường Giao-Khí từ Đông qua Tây, thuộc Trung-Giang.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
30
B. HẠ-HỒNG có Thông-Khí từ Đất lên Trời. Thông lên
qua TRUNG-HUỲNH hình như chữ Thập-tự (+), đều
qui vào HUỲNH-TRUNG (Mồ-Kỷ Nhị-Thổ) đó.
C. Nơi Thông-Khí là từ “Bắc lại Nam”, là giữa Trung-
Ương Thông-Lý Tam-Giang của Vũ-Trụ vậy.
Với khoảng giữa Trung-Tâm là: Tý, Sửu, Dần Mẹo,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi; mà là
Thập-Nhị Thời-Thần đó.
TỔNG LUẬN
Nên chi THẦY MẸ lập ĐẠO, đều phân lập Hữu-Hình cũng y
Vô-Vi, mới có Tam-Giang giao-cảm ứng-hiện thành-hình, mà
rồi Hữu Vô Hiệp-Nhứt, là nơi Trung-Huỳnh vậy. Mà nơi
Trung-Huỳnh là nơi kết-lập Chơn-Nguơn hay là Chơn-Như vậy
đó. Có đặng Chơn-Như Linh-Tánh, mới gọi là “Huờn-Đơn”.
Hiện giờ MẸ có thể cho các con nam và nữ phái Linh-Chưởng
Căn-Nguyên biết Căn Cơ Tạo Hóa, Tam-Từng giao-thông
Định-Vị của Cơ Mạt-thế đáo-đầu chuyển-biến. Tức là Phản-
Phục Vị Căn-Nguyên Thủy-Sơ, đó là “Vô-Cực Bửu-Điện” mà
là “Vô-Cực-Đồ”, không còn hình thể chữ VẠN ( ) nữa.
Nên chi cho các con trong Tôn-Giáo rõ chỗ Bí-Yếu Diệu-Linh
giá-trị vô cùng vô-biên của Vô-Cực-Đồ, mà là hữu-hình “Diêu-
Trì Bửu-Điện” đủ Tam-Từng hiện rõ tại “Châu-Minh” Tòa-
Thánh” Tiên-Thủy” tầm Tu nơi đây.
Những điều Bí-Yếu Siêu-Việt của Thiêng-Liêng đã chỉ nơi
căn-cứ. THẦY MẸ đã bao năm khải-giáo, hóa-hoằng đã sở-
định, cũng như giá-trị, bạc vàng tại thế-gian nầy, có người đã
hiểu và quí-trọng vật báu, biết báu là Linh-tử (tên Hỏa-Đơn).
Nên đã thọ-ký điểm Đạo, TAM-GIÁO châu-phê ấn-định rồi,
nên chi THẦY và MẸ cùng các Đấng Thiêng-Liêng chứng-kiến
Lý Diệu-Thâm, Tri-Thức kiến-văn, do Bổn-Lai Tâm-Bồ-Đề đã
hành công Thiên-Sự. Đã rõ ra mà có thi-hành hiện-hữu họa-đồ
lập-thành hôm nay.
Nay TAM-GIÁO công-đồng chỉ-phán được ý-chí chỗ Hiển-
Diệu của “Diêu-Trì Bửu-Điện” hữu-hình tại thế-gian, đã lập-
thành Tam-Từng, hiện rõ cảnh đường đồ-sộ đó, của Lý-Diệu
phô-trương.
Thượng-Kinh viết “Diêu-Trì Bửu-Điện” đối với “Vô-Cực
Thiên-Đồ” Vô-Hình Hư-Vô Không-Giái giã dã !!! Hầu các con
coi chỗ Hữu mà đến chỗ Vô, mà Vô-Vô Không là Chơn-Lý
ĐẠO vậy.
(Xem hình đồ trang 36) (VÔ-CỰC ĐỘNG TỊNH BIẾN
CHUYỂN)
BÁT-QUÁI LIÊN NGŨ-PHƯƠNG VÀ NGŨ-
HÀNH HÒA BÁT-QUÁI
ĐẠO-TÂM VỊ-THẾ 1. CÀN, “Tuồng” Tiểu-tràng :Tây-Bắc phương; Trạch : Bạch, Hắc-khí
2. KHÔN, “Đời” Đại-tràng : Tây-Nam phương;Vân : Xích-khí
3. KHẢM, “Lực” Trược-Tinh : Bắc phương; Nguyệt: Hắc-khí (Quang)
4. LY, “Trợ” Thức-Thần : Nam-phương; Nhựt : Hồng-quang-khí
5. CHẤN, “Hưng” Vu-Hồn : Đông-phương; Xuyên : Thanh-khí (Can)
6. ĐOÀI, “Sai” Phế : Tây-Phương; Sơn : Bạch-khí (Quỉ
Phách)
7. CẤN, “Sáu” Bàng-quan : Đông-Bắc phương; Lôi : Thanh, Hắc-khí
8. TỐN, “Đào” Đởm : Đông-Nam phương; Phong : Thanh, Xích-khí
Nhân dịp đây, MẸ để lời hộ-vệ những Tịnh-Thất, Chùa và bổn
thân-phàm đều phải noi Vô-Hình-Đồ mà tượng-trưng.
I. Mỗi Tịnh-Thất phải có một cái VÔ-CỰC-ĐỒ thượng trên
“BÁT-QUÁI-ĐÀI”, y như kiểu Thánh-Tòa, hầu che-chở nhân-
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
31
sanh sẽ đến đây là ngày phong-ba bão-tố “Đông-Bắc”.
II. Các con Đạo-Tâm hiển-lương, muốn đặng sự ủng-hộ trong
khoảng kinh-hồn, cũng nên có một cái “Vô-Cực-Đồ” nhỏ, 3
phân ngang, sẽ đặng vạn-an Thái-Thế là “Bùa TAM-THIÊN”.
Phải giữ trường-chay mới khỏi và thêm âm-đức nghe.
III. Gần đây lại đến Thất-Nhựt, Thất-Dạ, Bình-Quang là khổ.
Là lời Tiên-Tri, khá tuân, thì trăm đường khỏi hại. Tịnh TU
Chơn-Định, đắc Điển Nội-Thân, mới thoát vòng trần ai.
--oOo--
THI “CHỮ TÂM”
(Học Cho Đúng Pháp-Đạo)
Chơn-Định phân-minh, vạn-vật đồng,
Thượng bao Trời-Đất, mãng Hư-Không,
Người nay Chí-Tín, lòng Chơn-Đạo;
Vắng-lặng Không Thiêng, Chánh Tổ-Tông.
Trước nhứt – MẸ sanh một điểm Linh,
Do ÂM “Tịnh” xuất Dương-Tinh hình,
Âm Dương hòa-hiệp, kết nên khối;
Linh-Diệu ẩn trong, rất sạch tinh.
Hóa thành Vạn-vật Lưỡng-Tương Không,
Thủy ẩn, Hỏa Trung, chất thật trong,
Chiếu mãng Càn-Khôn soi Chánh-Niệm;
Tứ-Thời Bát-Tiết, Chủ Nhơn-Ông.
Động Tịnh Thủy-Nguyên, Hỏa nhập lai,
Lưỡng-Tương giao-hiệp, thống TAM-TÀI,
Hoài-Thai Thập-Ngoạt, Linh-Thần xuất;
Tâm-Ý phẩm Cao, Thiện Đức oai.
TÂM như gương sáng, chiếu Hư-Không,
THẦN ngự TRUNG-ĐIỀN, chuyển Pháp-Thân,
Cửu-Chuyển Thâu-Ngươn, Huờn Thiện-Tánh;
Đủ-đầy TAM-BỬU, thống Qui-Nguyên.
TÂM vốn không nhơ, rửa ích chi,
An-nhiên Thanh-Tịnh, tự Nguyên-Qui,
Lặng lòng, Tán Trược, thì trong tốt;
Thay đổi Càn-Khôn, đoạn Khảm-Ly.
TỊNH rồi mới biết: Chủ-Nhơn-Ông,
Vắng-lặng Không-Tâm, thật diệu-trung,
Chỉ dẹp giặc trong, vô chướng-ngại;
LỤC-TRẦN bất nhiễm, KHÍ Thần-Thông.
Vọng-Niệm dấy lên, Thần phải thiên,
Thần thiên, Sáu-Giặc loạn Tâm-Điền,
Tâm-Điền đã loạn, Thần nan chủ;
Sáu Cửa luân-hồi, thấy nhãn tiền.
Trong mình nhóm Một, có Tâm-Huyền,
Bất Tịnh, Sáu-Thần khó nỗi yên,
Vọng-Thị Định-Vô, Tâm biến khổ;
Không TU phải chịu mất Ngôi-Tiên.
Chơn-Thật Vô-Vi ẩn tại Thân,
Trần-gian Giáo-hóa Hải hòa Sơn,
Thà cam mình khổ, an dân-thứ;
Niệm-Chiếu Hồi-Quang, Tịnh Phục-Nguyên.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
32
Đại-Tịnh Vô-Tâm, Thần tại Thân,
Trung-Tâm, thấy ứng rõ Linh-Thần,
Nếu TU biết PHÁP, phân Thanh, Trược;
Diệt bặt Thức-Thần, Tử hoán Tân.
THI
Kìa là Ngũ-Uẩn, lẹ trừ xong,
Thống-nhứt HUYỀN-QUANG, KHÍ Nhập-Trung,
TAM-BỬU đủ-đầy, QUANG xuất hiện;
Hóa TINH thành ĐIỂN, ĐIỂN vi TÔNG.
LINH-ĐÀI là chỗ Phục THẦN-LINH,
ĐƠN-DƯỢC Cư Trung, ĐẠO gọi ĐÌNH,
Trụ đó Dưỡng Ôn, chờ Chiếu Thượng;
Ngọc-Chây bái-mạng, PHÁP-THÂN Hình.
VẠN-PHÁP TU-CHƠN, TÔNG Tịnh TÂM,
TÂM tồn Trược nhiễm, ĐẠO Vô-thâm,
CAO-ĐÀI TÂN-PHÁP, vi Thanh-Diệu;
PHỔ-ĐỘ TAM-KỲ, chuyển phụ-lâm.
MẸ mừng chung Đàn nội nữ nam! Nay đã bao ngày chí-tâm
hành-phận về việc Kinh-Vàng – cũng gần hoàn-thành. THẦY
MẸ và các Vạn TIÊN cùng các đẳng Thiên-Thần rất hoan-lạc.
Vậy MẸ phê Lịnh cho đẳng đẳng các con tạm-thời an-dưỡng,
vì Chơn-Đồng hao Thần, cần nghỉ đôi ngày. Vậy Đàn-Cơ được
phép thuyên chuyển về Thanh-Tịnh-Đàn, đúng ngày 25 tháng 8,
giờ Ngọ Khai-Kinh.
Vậy Đời, Tiếng, Chấn-Tý, Lực và Ban Hiệp-Thiên-Đài đồng
hành nữ-phái: Thắng, Phú, Như đồng lo với Tám về phòng thực
Chung Đàn cho đến mãn Đàn Kinh, khá tuân nghe!
MẸ ban ân lành toàn-tất nữ nam!
MẸ thăng về TÂY-THIÊN.
***** THĂNG *****
NGÃ HUỲNH-ĐỨC ĐẾ-QUÂN lai Đàn. Vậy nội Đàn khá
huy-nghiêm hầu Lịnh! Hầu Tiếp-Giá THÁI-CỔ lâm Đàn. Lão
ngoại-hầu trấn-thủ. SANH, khá cấp ứng hầu.
Chư Thiên-Mạng khá Đại-Tịnh tiếp Đức THÁI-CỔ ngự Đàn.
Lão xuất-ngoại hộ chầu Kim-Giai.
Tiếp-điển
THI THÁI-CỔ Thủy-Khai Vũ-Trụ Đài,
THƯỢNG, Trung, Hạ lập cảnh trần-ai,
ĐẠO Truyền Chơn-Pháp, thâu Linh-Chưởng;
TỔ độ HUỲNH-MÔN, khả Thức-Lai.
THƯỢNG-CỔ ĐẠI-ĐỨC LÃO-QUÂN, THỦY-TỔ CÀN-
KHÔN chào hỷ-lạc chư đẳng đẳng Sĩ-tử nữ nam!
THƯỢNG-CỔ mừng thay! Vui thay! Linh-Chưởng được về
tựu-tề nơi đây!
Điển-văn, con đọc bài thi cho LINH-CHÂU nghe và Linh-
Châu – con giải-thích cho Sĩ-tử đồng hiểu nơi đây:
LINH-CHÂU phụng giải: … … (1)
Vậy các con khá thành tâm nguyện-cầu Vạn TIÊN tá-trợ!
Xong phận, những trẻ nào hữu-chí, thì đúng Tý-Thời – sau giờ
hành-phận các con được hồi-gia, hay ra Đàn nay – các con nào
muốn hồi-gia cũng được, tùy phương-tiện của các con, nhưng
đến giờ đây – đầu tiên Khai-Cơ, THẦY chỉ muốn các con tựu-tề
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
33
đông đủ lập phần công nguyện-cầu khẩn vái Thiêng-Liêng để
nhờ sự thành-tâm khẩn-nguyện mà Thiêng-Liêng thương lòng
trần-lụy, và giờ nay các con cũng là góp phần công-quả đó vậy.
THẦY ban ơn lành cho đẳng đẳng Nhơn-Vật dưới thế-gian
cùng tất cả muôn loài, đồng-thể Môn-Đồ ĐẠI-ĐẠO hiện-diện,
cũng như tất cả Chúng-Sanh khá Thức-Tri hiểu biết Nguyên-
Bổn mà trở về tầm TU ĐẠI-ĐẠO.
THÁI-CỔ ban ân-hồng tất cả Đàn trung Sĩ-tử. Vậy khá tâm-
thành chí-nguyện, hầu lập-công bồi-đức, mai-hậu được Siêu-
Rỗi Linh-Căn, Phản-Bổn Hồi-Nguyên về nơi Căn-Vị.
NGÂM Giã-từ Sĩ-tử trung Đàn,
Nữ nam trọn Lịnh, huy-hoàng CHƠN-KINH.
SANH cùng ĐỜI trẻ hy-sinh,
CHÂU, CHẤN khá vẹn, nghiêng mình Nhơn-Sanh.
Bốn con chí-quyết tâm-thành,
Hành xong sứ-mạng CAO Lành điểm công.
Giã-từ các trẻ chung lòng,
THÁI-CỔ thăng Vị, HƯ-KHÔNG thăng hồi.
***** THĂNG *****
(1) – LINH-CHÂU-TỬ phụng giải chú-thích chánh-thể về bài Thi:
“THÁI THƯỢNG ĐẠO-TỔ”:
Chữ THÁI ( ): là Nhứt-Điểm Hư-Linh ( ), hòa-hiệp với Âm-
Dương ( ), thành Đại ( ), mà Đại là lớn hơn hết, bao khắp Vũ-
trụ Càn Khôn. Đã là Đại rồi, lại có thêm Một Điểm Kim-Quang
Hư-Linh-Khí pha lẫn vào cõi giữa chữ Đại “trong Trời Đất”, đó là
Trung-Gian đắc Hư-Linh tức chữ Thái ( ) – mà là “Đại Gia
Nhứt-Điểm Trung Nhi Hạ” vậy.
Thiên-Địa đã Định Vị rồi, tức là Ngôi THÁI-CỰC đó; mà THÁI là
đời Thái-Cổ ngàn xưa.
Thuở xưa, khi mới mở màn Trời-Đất, vừa phân ra 3 cõi, ban đầu
chỉ có một lằn Kim-Quang Sanh-Khí bao bọc bên ngoài theo vòng
VÔ-CỰC mà thôi; lằn Kim-Quang Sanh-Khí đó; Thiên-Văn Địa-Lý
Học gọi là Quĩ-Đạo. Còn tầng dưới này, ánh-sáng lòa soi-sáng của
Sanh-Khí Kim-Quang khắp 3 cảnh Thượng, Trung, Hạ đều tương-
thông.
Sau khi có Trời-Đất cũng đã sẵn Nhựt, Nguyệt, Tinh-Thần, là 3
ánh-sáng soi cùng mọi nơi, đó là TAM-TÀI ĐỊNH-VỊ hấp-thụ Khí
Hư-Linh Kim-Quang mới có được ánh-sáng đó. Nói rõ ra về lằn
Kim-Quang bên ngoài vòng Vô-Cực Căn-Cơ là Chánh-Khí Hư-
Linh bao quát “Vô-Cực Thiên-Đồ” khắp Vũ-trụ cũng như khắp
Ngôi Bờ-Cõi. Thật rất Bí-Diệu Hư-Linh và đứng trước như thế mới
gọi là Sắc-Thái-Khí, tức là Thái-Sắc. Bởi nhờ nơi Căn-Cơ Kim-
Quang biến ra Thái-Sắc đó, khi Khai-Thiên Tịch-Địa thuở ban đầu
còn hỗn-độn chưa phân – mà là THIÊN-ĐỊA VỊ-PHÂN.
Thái-Sắc, riêng phần Hư-Linh ra trước nhứt (Căn-Cơ là một lằn
Kim-Quang Chi-Khí đã bao quanh vòng Vô-Cực Thiên-Đồ) lằn đó
gọi là lằn MINH-KHÍ và đương-nhiên bao quanh vòng Vô-Cực từ
lâu của Hư-Linh Quang-Khí tạo-thành. Đã có ánh-sáng soi quanh
vòng Vô-Cực rồi, còn xâm-chiếm vào chánh-trung Vô-Cực Thiên-
Đồ nữa làm chi?
Do Hỏa-Khí nội-trú của Vô-Cực quá nóng nên tương khắc mà nổ.
Nguyên-Bổn lằn Kim-Quang-Khí là vốn của Hư-Linh tương sanh
(bị khắc thì tự-nhiên phải nổ) và có nổ, nên đã phân ra thành Thiên
thượng, Địa hạ. Cũng vì nổ, nên Kim-Quang-Khí bọc ngoài vòng
Vô-Cực phải xuất ly và chung vào phân Vô-Cực-Đồ ra làm 2 mảnh,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
34
( ). Bây giờ lằn Kim-Quang-Điển đó xẹt băng ngang qua Vô-
Cực-Đồ hình như “Con rắn Điển” có ánh-quang-lòa.
Khoảng phân Vô-Cực, do hết khắc mới sanh (là Thiên-Địa Định-
Vị), chỗ nói lằn Kim-Quang xẹt chung vào giữa chánh-trung, bởi
lằn Kim-Quang Vi-Diệu cũng là Lý-Diệu Thiên-Cơ phân ra ÂM,
DƯƠNG riêng biệt từ thuở ban đầu (Thủy) – Khí-Huyền ở trên,
Khí-Hồng trầm xuống dưới.
Khi Âm, Dương đã phân, lằn Điển Kim-Quang huờn lại một
Điểm-Linh-Quang-Khí tự trấn giữa THÁI-CỰC mà phân ra 2 Ngôi
( ), nhưng chính là 3.
- Khí nhẹ của Ngôi trên là Trời, Động, Sắc-đen – gọi là
“HUYỀN-THIÊN THƯỢNG-ĐẾ”.
- Khí nặng của Ngôi dưới là Đất, Tịnh, Sắc-đỏ - gọi là
“HỒNG-QUÂN ĐẠO-TỔ”.
- Còn lằn Kim-Quang ở Trung-gian thì bị 2 Khi Sắc của đen
và đỏ lam qua mà biến-thành ra Sắc-Thái, thống-hiệp của
Cơ Động, Tịnh, chuyển hóa ra ánh-sáng quang-minh của
Sắc-Thái, nên tự xưng là “THÁI-THƯỢNG ĐẠO-QUÂN”.
Và từ đây Thái-Sắc ra đời vi Thủy-Sơ, gọi là “THÁI-HƯ”, chủ
trương Thái-Sắc trụ-trấn nơi Trung-Gian nên không còn gọi là Vô-
Cực Hư-Linh nữa. Vì đã phân 2 mà thành 3, nên không còn Vô-
Cực-Đồ: mà gọi là Thái-Cực-Đồ - do bởi ở trên là Dương-Thủy,
dưới là Âm-Hỏa, khoảng giữa (trung-gian) là Thủy-Hỏa (Động-
Tịnh), mà biến sanh ra Ngũ-Hành – Đại-Đức THÁI-THƯỢNG là
TỔ-KHÍ của ÂM DƯƠNG.
Tiếp đó mới có Khí-Thủy, cho nên từ Thái-Cực trở xuống gọi là
Thiên-Nhứt Sanh-Thủy, thuộc Ngũ-Hành Tiên-Thiên.
Tại sao sanh ra THỦY?
Vì Thủy-Khí có là do Kim-Sắc-Khí bị đốt nóng bởi Hỏa-Khí trong
Vô-Cực-Đồ tung ra, nên Vàng rươm-rướm chảy, gọi là “Hỏa-Bức
Kim-Hành” – đó là: Vàng bị lửa đốt, chảy ra sanh “Nước” vậy,
nên mới gọi là “Kim Sanh lệ Thủy”.
Chỗ nói lửa nóng đây là: Lửa Thiên ẩn trong cặn bã của Thạch
Khí, đóng trong Vô-Cực mà sanh ra, cho nên mới nói là “Địa-Nhị
Sanh-Hỏa”.
Tóm lại mà nói: “Thái-Sắc ra đời sanh Vũ-trụ”, gọi là “Thái-
Thượng”, vì Thái-Thượng đã có từ buổi ban đầu Sơ-Thủy vậy.
Chữ THƯỢNG ( ): Nguyên gốc chữ Thượng là - trên thì có Nhứt
Dương ( ), dưới có Nhứt Âm ( ) và khoảng giữa có đeo theo
Nhứt-Khí giao-hòa của Âm, Dương thành là chữ Thượng ( ).
Mà Thượng là gốc của Hư-Linh-Khí, nay đem vào giữa Âm-
Dương Chánh-Trung là nguồn gốc “Khai-Thiên Tịch-Địa” đó. Và
bắt đầu từ đó mới dụng lấy Âm-Dương mà làm BỬU-PHÁP dung-
hòa, hiệp lại một Lý của chữ ĐẠO ( ), vì ĐẠO có trước Trời-Đất
( ).
1. Từ Hư-Linh Chi-Khí là “Thái-Hư”
2. Đến Hạo-Nhiên-Khí là “Thái-Thủy”
3. Đến Tiên-Thiên-Khí là “Thái-Sơ”
4. Đến Hoàng-Cực-Khí là “Thái-Vô”
5. Đến Ngũ-Hành-Khí là “Thái-Tố”
Cho đến Bát-Quái-Khí … v… v… mà Hư-Linh-Khí có trước nhứt,
mới biến-hóa Tứ-Khí kia.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
35
Vì Hư-Linh-Khí hóa Kim-Quang ánh-sáng-lòa trước nhứt bao
vòng ngoài Minh-Khí Vô-Cực-Đồ có sẵn từ ngàn xưa, nên mới gọi
là “THƯỢNG” đẳng
Chữ ĐẠO ( ): Hư-Linh của Lưỡng-Khí Âm Dương dung-hòa
hiệp Nhứt ( ), mà nên Đạo-Mầu. Ở giữa có chữ Tự ( ) thành ra
chữ Thủ ( ) để thọ-hưởng Thanh-Khí mà tự vận-chuyển theo Cơ
Huyền-Vi Tịnh-Động đó. Rồi có chữ Tẩu ( ) nên gọi là Tẩu + Thủ
chuyển-luân thành ra chữ Đạo ( ), nghĩa là xoay chạy theo vòng
Vô-Cực, tức là vận-chuyển luân hành Âm-Dương Khí-Hóa mà rút
HƠI Vô-Cực mới là thành ĐẠO. Cho nên ĐẠO viết “HƯ-VÔ” vì
Đạo đã có Âm-Dương trước Trời-Đất.
Có Trời-Đất rồi thì có Tam-Tài Tứ-Tượng, Ngũ-Hành từ đó biến
sanh, sanh-biến ra muôn-loài, vạn-vật, mới gọi là “ĐẠO”. Mà
ĐẠO là Nhứt-Âm và Nhứt-Dương hiệp thành đó.
Chữ TỔ ( ): là Thả-Thị hiệp thành, hoàn-toàn mới thấy rõ Mối
Đạo Hư-Vô, ấy là Cơ tại Mục ( ). Phải dụng Điển-Quang của Âm-
Dương, Nhứt-Khí Hư-Linh mới Hồi-Quang Nội-Chiếu đặng, ấy là
chữ Thả ( ) tức là Cơ-Mục. Thêm chữ Thị ( ) nghĩa là xem.
Tu-Hành theo ĐẠI-ĐẠO HƯ-VÔ, phải đem Song-Mâu-Quang mà
chiếu vào Trung-Huỳnh mới gom Âm-Dương hiệp Nhứt, thành Xá-
Lợi Linh-Quang, (PHÁP-TƯỚNG).
Có Pháp-Tướng rồi, đem Hoằng-Pháp Lợi-Sanh cho nên Đạo-
Mầu, mới tự xưng là Tổ ( ).
--oOo--
THI BẠCH-Sắc, BẠCH-Quang, BẠCH thế-gian,
HẠC reo, HẠC trổi, HẠC thanh-nhàn,
ĐỒNG tâm, ĐỒNG đạo, ĐỒNG Tu-Tánh;
Tử-Chí, Tử-Minh, Tử báo-Đàn.
Tiểu-Thánh chào trung-Đàn! Chưởng-Quản Hư-Vô Hình-Đài và
chư Nho-Sĩ! Mau tiếp-nghinh, có Ngũ-Quang Đồng-Tử: Hắc-
Quang, Thanh-Quang, Hồng-Quang và Bạch-Quang lai Đàn!!!
Huỳnh-Quang Ngũ-vị Chơn-Quang cũng đồng hộ nghinh, có Đại-
Đức CHÍ-TÔN ngự Đàn!
Năm TÔI đồng ứng-hầu dưới Bệ.
Tiếp-điển
THI NGỌC Quí giá cao, báu Ngọc ban,
HOÀNG đồ hiện-tượng, cảnh trần-gian,
THƯỢNG-THỪA Thọ-sắc, Truyền TÂN-PHÁP;
ĐẾ ĐẠO tu-tri, Vạn-Cổ Quang.
THẦY mừng các con! THẦY vui-vầy cùng các con! THẦY được
thấy LINH-CHÂU-TỬ và các con nam nữ! Đồng-Loan và Đồng-
Nữ Thừa-Sắc Tả-Kinh “TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG KINH”,
để cho thế-gian thấu-đáo Căn-Cơ Linh-Huyền của Tạo-Công thông-
cảm, chỉ về chỗ u-ẩn Vô-Hình xuất-hiện có ra hữu-tượng một cảnh
đồ sộ “DIÊU-TRÌ BỬU-ĐIỆN”, lấy đấy mà Minh Tường Tận Lý-
Diệu-Thâm, Thâm-Diệu cho các con rõ thấu sự Mầu-Nhiệm của
“Nhứt-Khí Hạo-Nhiên” lập-thành Vũ-Trụ Càn-Khôn cho các con
được biết sự Vô-Hữu và Căn-Cội nơi Thánh-Thể “Vô-Cực Bửu-
Điện” là tượng-trưng một bầu “Càn-Khôn Thế-Giái” của TÂN-
PHÁP CAO-ĐÀI, làm kỷ-niệm tại thế-gian nầy.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
36
Là một vô-giá Bửu-Kinh sẽ biểu truyền thất-ức dư-niên, thế-thái
vĩnh-xương đó vậy, mà cũng là chỗ nội-dung thật-tướng chỉ ra
trong Kinh này.
THẦY hôm nay đến hội-hiệp cùng các con nam nữ để lập-thành
Chơn-Kinh “Tối-Thượng Châu-Quang Kinh” và luôn dịp THẦY
vui ban cho đôi liễn ngoài bìa quyển Thiên-Kinh, mà làm Kỷ-ước
lưu-lai của ĐẠO-TRỜI; là năm Giáp-Ngọ sang Ất-Mùi lập-thành
Chơn-Kinh, để tả cảnh hành vi nội-dung, ngoại-diện của “Vô-Cực
Bửu-Điện” Chi-Quang-Minh tại Việt Nam.
Đôi liễn ngoài bìa Kinh là:
- Hư-Cực Vô-Vi, Nhứt-Mạch Nguyên-Lưu Kim-Xá Tạo,
- Truyền-Quang Hữu-Định, Tam-Khai Bổn Vạn-Cổ Lai Minh.
Vậy Định-Thần, Tịnh-Tâm lóng nghe THẦY chỉ-phán và điểm
nhuận “Tối-Thượng Châu-Quang Kinh” nầy.
THI
TỐI-Linh NGỌC-Sắc, chiếu Sơn-Hà,
THƯỢNG Thọ HOÀNG-Ân, độ thế-gia,
CHÂU chứng THƯỢNG minh Vô-Cực Lý;
QUANG-KINH ĐẾ khuyết, Huệ Kim-Hoa.
Linh-Châu-Tử, con phải đọc lại bài Thi trên thành giá tréo, thì rõ ý
THẦY đã tiền định “Vô-Cực Bửu-Điện” tại trung, mới có ra Kinh
này. Hôm nay, nơi dưới chỗ hiệu Kinh, phải đề cơ-sở chỗ ra Kinh.
Bổn-Kinh Quí-Báu này, cũng ân ban cho nữ-phái ấn-tống, nam-
phái hộ-trì cho kịp-kỳ ban-bố nghe! Trong khoảng Long-Hoa đây,
và tân Đồng-Tử Tả-Kinh, Pháp-Đàn, Hộ-Đàn và Chưởng-Quản Vô-
Hữu Hình-Đài đứng chứng Thiên-Kinh và kiểm-điểm lại hoàn-
thành, đừng sai-siểng và thật-tế Diệu-Lý Chơn-Kinh nghe!
Vậy các con thành-kỉnh, nguyện-cầu Điển lành của TAM-GIÁO
và Chư Vạn TIÊN, THÁNH, THẦN đồng điểm-nhuận Điện-Quang
vào Kinh và chứng chiếu cho Bổn “Tối-Thượng Châu-Quang-
Kinh”, dành để cho những người chí-đức, chí-thành, chí-tâm, chí-
thiện, chí-hiếu thưởng-thức. Xem rồi tự Tu, tự Học theo chỗ
CHÁNH-PHÁP Nhãn-Tạng đem vào HUỲNH-TRUNG sẽ thông
Lý-Diệu-Hữu Phật-Trời. Cứ hành theo, sẽ đắc Đạo-Quả Trường-
Sanh Cửu-Thị chẳng hại đâu, đó là Pháp-Môn Cao-Thượng Siêu-
Việt Siêu-Xuất Tam-Giới Phi-Thượng cảnh Tiêu-Diêu muôn đời.
Khá Đại-Tịnh, Võ-Thái Định nghe THẦY nhuận phân TAM-
THỪA:
VỀ NỘI VÔ-VI VÀ
NGOẠI VÔ-VI
CỦA THỂ-DỤNG
VÔ-CỰC-ĐỒ
Vô-Cực-Đồ có phân làm 2 ứng-hiện là:
- Nội-ứng của “Vô-Cực-Đồ” là từ “Nhứt-Khí biến Vạn-Thù”
mà là “Nội-Vô-Vi” dụng Linh-Diệu Tịnh-Động bất mãn
chuyển-biến vô cùng vô tận.
- Ngoại-hiện của “Vô-Cực-Đồ” là “Vạn-Thù qui Nhứt-Bổn”
mà là “Ngoại-Vô-Vi”, ngoại Vô-Vi là “Thể”, do Cơ Động mà
sanh-sanh, hóa-hóa thêm, thêm mãi! Hôm nay “Thể và Dụng”
đã lập-thành tại thế-gian trong thế-kỷ 20 của đời mạt-thế tại
“Tòa-Thánh Vô-Vi Trung-Gian” tức là của Trung-Gian Vũ-
Trụ vậy, mới gọi là “Định-Cơ”, vậy thì hết “Vạn-Tự” ( )
biến-thiên huờn Vô-Cực ( ).
Cho nên mới gọi là DỤNG Siêu-Hình Thượng-Học, năng-
lực vô cùng, mới Định Cung Huờn lại Nhứt-Khí đặng ( ), mà
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
37
khi huờn lại Nhứt-Khí rồi, thì hết chuyển-biến, vậy là “Định-
Cung”.
Còn THỂ là Siêu-Hình Hạ-Học, để phân-tích chỉ
đường-lối hành tàng cho Sĩ-Nhu rõ thấu, mảnh Chơn-
Thể của Càn-Khôn hiệp Dụng vào Nhứt Nguyện-Ni,
mà là “Nhứt-Khí Hạo-Nhiên” Định-Cung.
TỔNG-LUẬN: Từ Nhứt-Bổn Tán Vạn-Thù là Hữu-Hình, mà
Hữu-Hình tắc Hữu-Hoại vậy!
Còn hiện nay hết sức Động rồi mới Định lại mà là Vạn-Thù
Qui Nhứt-Bổn, thì huờn-qui Vô-Cực-Đồ, đương nhiên Vô-Vi
thì Vô-Hoại.
Cho nên phép huờn ĐẠI-ĐẠO, phải Tịnh Nhập Hư-Vô, mới
Huờn Qui Bổn-Tánh, chỉ là TIÊN-VỊ, vậy – Nhơn đắc Tiên-
Thiên-Khí bảo-tồn, giữ Tiên-Thiên trường thọ đó!
Khoa “Tâm-Truyền Bí-Pháp Vô-Vi” nội ĐẠO là Siêu-
Hình. Có phần Vô-Vi ẩn trong “Vô-Cực Thiên Đồ”,
manh động tự-nhiên chỉ có Tiên-Thiên Hư-Vô về TÂN-
PHÁP CAO-ĐÀI Truyền-Bá ĐẠO-DỤNG và Chánh-
Thể Vô-Vi Chí-Cực đó.
Các con nên hiểu rằng Mối CHÁNH-ĐẠO hiện thế-gian nầy
là của Trời-Đất sáng-tạo dựng ra một Vừng Độc-Nhứt xưng-tôn
trên hết các ĐẠO. Vì chỗ thống-hiệp Ngũ-Chi, Tam-Giáo, Cửu-
Lưu vào trong thống-hệ của Đại-Tịnh “Vô-Cực-Đồ”, hành lý
của Nội ĐẠO Vô-Vi, thì Đạo Duy-Diệu Toàn Hảo muôn năm
bảo-tồn vạn-vật, đó là Cơ Ứng-tiếp hiện-hữu vậy.
Chớ thật Dụng của Khoa Đại-Đạo Vô-Vi, để đem về Tu-Tánh
Luyện-Mạng, hầu có phản “Tánh Bổn-Thiện Phục-Sơ” về
phương-pháp “Siêu-Phàm Nhập-Thánh” chỉ rõ Căn-Cơ của
Trời-Đất về Ngũ-Hành chuyển-biến, mà thâu huờn Luyện-Kỷ,
thâu KHÍ huờn THẦN rồi sẽ chứng ĐẠO Hồi-Nguyên. Nhờ
Tự-Giác rồi Thế-Thiên Hành-Hóa, mới Giác-Tha để câu: Ái
Chủng hồ-bi đồng thọ khổ, Tướng nan tại ư-tư, trong kỳ gian
mạc-vận; Thì bây giờ bậc Tự-Giác đã Giác-Ngộ, thấy cảnh đời
chua-cay ác-nghiệt, nên mới có chán đời tầm TIÊN học ĐẠO,
thấu rõ điều tội. Cho Hư-Vô “Vô-Cực Diêu-Trì Kim-Mẫu”
hiện-tướng nội-dung và bao quanh hiện-tượng, làm cho Chúng-
sanh rõ thấu có Trời trong “Không” mà ra có Tượng, vậy tức là
“ĐẠO”, cũng như Chơn-Đạo. Ngồi Tịnh là KHÔNG, rồi có
Linh-Quang nháng ra là CÓ; thật y hệt sự biến-hóa của Trời-
Đất, Thể-Dụng chẳng sai trong Cơ-Tịnh, rồi lại phát sanh Tâm-
Phàm, mà rồi Tam-Tài là Linh-Quang Chơn-Điển, tức là sanh
“Khí-Thần-Quang” của Vũ-Trụ vậy.
* Khoa Ngoại Đạo Vô-Vi “Siêu-Hình Đại-Học”, thì phổ-thông
Triết-Lý của Tâm-Lý Thiệt-Tướng, để đem đi phổ-khai, hầu
dắt-dẫn Thiện-Nhơn biết chỗ “Biểu-Lý Cao-Siêu Vũ-Trụ”
Luân-hành và Sanh-Hóa mà chỉ về đường-lối cho Nhơn-sanh
Tu-Hành Chánh-Kiến, khỏi lầm Tà-Kiến của Đại-Đạo Cao-Siêu
thăng-đằng Chí-Hư thành Tiên; đó là Thể-Đạo Vô-Vi của Cơ
Phổ-Độ Tam-Kỳ.
Về Chơn-Cơ Chánh-Pháp thực-hành chỗ thông-tri danh-từ
Diệu-Hữu: “Thể, Dụng” của ĐẠO-CẢ TRỜI ban, mà nay Đạo
là Thiệt-Tướng đã gom vào Nhứt-Cực, mà là “Vô-Vi Thiên-
Đồ” cũng gọi là “Diêu-Trì Bửu-Điện” vậy! Rồi sẽ chuyển-biến
nơi thân con. Con cứ Đại-Tịnh là yên nghe các con ngu-khờ.
THẦY bảo Linh-Châu Triết-Lý thay THẦY giúp các con.
* “Hình-Nhi Hạ-Học” về Công-Giáo Công-Truyền thì trị-gia
cứu-quốc, bình thiên-hạ. Lấy Chánh-Ngôn Đại-Học làm chuẩn-
thằng, đem Chơn-Lý sửa-tạo cõi đời thiện-lương, mỹ-tục
phong-thuần cho Nhơn-loại hạnh hưởng sống chung, ân Trời
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
38
huệ-nhuận, lửa lòng sớm tắt, cảnh biến ly-loạn cang-thường trở
lại Nhơn-Luân trật-tự “Thánh-Đức” vậy. Như thế “Đạo-Tâm-
Pháp” của KHỔNG-MÔN, lấy chỗ Trung-Dung là chấp-trung
hoán-nhứt, hầu bảo-vệ Tâm-Linh mà hết loạn đến Bình-Trị - trở
lại y như đất THUẤN Trời NGHIÊU đại-chủng, mới là nhàn-
lạc Thần-Tiên tại thế cứu dân buổi tàn.
THI
ĐẠI-ĐẠO Huyền-Quang “Vô-Cực-Dồ”,
Tam-Tài Hữu-Tướng, hữu từng vô,
Hiện vi Nhứt-Cực, thành Chơn-Thể;
Tam,Tứ, Bát-Trung, cộng thử đồ.
MẪU-MẠNG THUẬN-HÀNH
PHÀM-NHƠN GIAO-CẤU Tinh-Huyết tương-đầu “tùng Cửu-Chuyển” đủ 10 tháng xuất
Bào, do Động-Tịnh hóa vi-nhơn hình “Xích-tử Bào-Thai”.
1. “Vô-Cực” Đại-Tịnh từ 7 ngày đến 1 tháng (4 x 7 = 28) cư
nội-dung hóa-sanh, sanh-hóa Thân-hình lần nở-nang,
khoảng đó như một Điểm Tuyết-Sương trong sáng như
Thủy-Tinh.
2. “Vô-Cực” Tịnh-Động “Âm-Dương” sanh “Hoàng-Cực” là:
Thai 2 tháng, dường như sữa nhợt-nhạt mà đặc, vừa tượng
hình người, như con Xứa vừa sanh Tia, là khoảng được 49
ngày đến 60 ngày.
3. “Hoàng-Cực” Tịnh-Động “Âm-Dương” sanh “Thái-Cực” là:
Thai 3 tháng, như cục Huyết đỏ hồng, ánh-soi lại vừa sanh
có Thể-Thân, ở dưới trước sanh Thận, ở trên sanh ra Đôi-
Mắt và ở chính giữa là Tâm – nơi sủng-ngực.
4. “Thái-Cực” Động-Tịnh “Lão-Dương và Lão-Âm” là: Tứ-
Ngoạt, như một hình vượng – tạo đủ-đầy: trong thịt, ngoài
da bao bọc thân-thể.
5. “Lão-Dương và Lão-Âm” sanh “Thái-Âm” là: Thai 5 tháng.
Lão-Âm và Lão-Dương Động-Tịnh sanh “Thái-Dương”, có
đủ Ngũ-Thể rõ-ràng, là phần trên đã sanh “Ngũ-Quang”,
dưới sanh “Ngũ-Trược”, chính giữa sanh “Ngũ-Tạng”.
6. “Lão-Âm và Lão-Dương” Tịnh-Động sanh “Thiếu-Dương”
và “Thiếu-Âm”, có Lục-Căn đầy-đủ: Thận, Tâm, Tỳ, Phế,
Can và Đởm; Ruột-già, Ruột-non, Bọng-đái và Màng-mỡ
“Hoành-Cách-Mạt” là: Thai 6 tháng.
7. “Thái-Dương và Thái Âm” Động-Tịnh sanh Càn-Khôn: Thai
7 tháng, đã đủ-đầy hoàn-toàn bộ-cốt Nhơn-Thân-Hình, làm
xương trụ trong Nhơn-Thân.
8. “Thái-Âm và Thái-Dương” Tịnh-Động sanh Đoài-Cấn: Thai
8 tháng, có đủ-đầy lỗ chơn lông (có 8 muôn, 4 ngàn sợi lông
– 84,000) và trên đầu có sẵn tóc, óc, hoặc khi cũng có răng-
sữa nữa.
9. “Thiếu-Âm và Thiếu-Dương” Động-Tịnh sanh Ly-Khảm:
Thai 9 tháng. Tháng thứ 9 này – mặt-mày, tướng-mạo khôi-
ngô chơn-hình và biết máy-động, chờ lần ngày xuất Thai-
Bào. Khoảng này “Xích-Hài-Tử” ở trong Bọc-Thai, nhờ hít
thở hơi Khí-Sanh của Mẹ đem vào mà nuôi đặng sống-sanh.
Lần lần phì lớn đủ-đầy Âm-Dương nhiệt-hàn cũng y như
Trời-Đất vậy.
10. “Thiếu-Dương và Thiếu-Âm” Tịnh-Động sanh Chấn-Tốn:
sắp phá Thai-Bào của Mẫu-Mạng mà ra chào Đời là: Thai
10 tháng. Vì túc số 300 khí đủ-đầy, non-xinh tự phá bào
xuất-thế chào đời như Hoa đúng kỳ tự khai-sanh
thì … … …
Khi ra đời, bị Khí Hậu-Thiên chụp lại, ngưng hơi, bèn phát
khóc: oa! Oa! Oa! 3 tiếng, gọi là chào đời của kẻ Thai-Sanh có
đủ đầy “Tánh-Linh”.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
39
TỔNG-LUẬN: Về Thai-bào Mẫu-Mạng phôi-thai và Thai-
sanh ở trong 10 tháng, cũng do “ÂM” Tịnh bất mãn mà “Âm”
phải đành sanh “DƯƠNG”, than ôi!
Rất thương ôi! Cho phần nữ đoàn lấm sanh, lấy theo thế hệ
tình đời, tình dục bộc khởi “Dương-Âm”, “Âm-Dương” giao
hòa chỗ khắc, bèn sanh đó vậy.
Nếu không dục-khởi, thì đâu có bị Thai sanh! Nhưng kỳ-trung
là chức-vụ của Tạo-Công Sở-Định, mà cũng là chịu một Công-
phu với người, gẫm lại rất cấn-nan.
Xem đó thì các con đủ biết khổ-lao của Mẫu-Mạng, Mẹ lành
trong thời-gian 10 tháng cưu-mang nặng-nề “Thai-Nghén”, đẻ
đau như ghe xuồng ra bể khơi, sông cả bị sóng nhồi “Vạn-Tử
Nhứt-Sanh” nhưng cũng chẳng đành rời con, là câu “Phụ-Mẫu
Ái-Tử Vô-Sở Bất-Chí”, rồi còn nuôi con cho bú-mớm, lúc ốm-
đau phải tròn câu “hộ-toàn hài-nhi”!
Khoảng lớn lên từ 1 tuổi đến 3 tuổi, vừa biết ăn nói bặp-bẹ, bò,
đi, đứng, chạy, khóc, cười – Mẹ thảy thảy gánh-lo tất cả. Thật
chạnh nỗi-niềm phải chịu, lắm khi khổ-sầu đeo-mang, lại còn
lắm khi chịu trược-nhiễm, thân Mẹ ướt dầm, để riêng con nằm
ấm áp châu-toàn lúc ngủ, khi chơi, lúc cười!
Về phần Cha lo làm vất-vả cho có ra tiền, hầu lo cơm, thuốc
mà hoạn-dưỡng cho con và Mẹ đầy-đủ, thoát khỏi ốm-đau.
Khoảng lớn lên nên 7, lo đến sự học-vấn của con, phải tận tâm
đem trẻ đến trường, nhờ Thầy nghiêm-huấn; ước lớn lên sẽ trở
thành người đức-hạnh, trong gia-phong hữu-đức, thì Phụ-Mẫu
mới đẹp lòng thuận dạ, sanh nối chí lành hương-lửa mai-hậu.
Đây là Ân của người đã chịu Thai-Sanh:
1. Thứ-Nhứt: Ân Trời-Đất bảo-toàn tuyết-sương,
2. Thứ-Nhì: Ân Cha-Mẹ sanh-dưỡng nên người,
3. Thứ-Ba: Ân Thầy dạy-dỗ cho hiểu biết văn-chương, phẩm
cách giá-trị con-người,
4. Thứ-Tư: Ân bằng-hữu chi-giao dạy khôn, chỉ dại giúp vùa
cho ta khỏi điều thất-bát, tương-ứng, tương-đồng, thiện-hữu
chi giao, chỉ bảo hư, nên.
Đó là Tứ-Ân, phận-sự và chức-vụ con người ở thế đều chịu
dưới thế-hệ liên quan với đời, chính là “Xử-thế đối-nhân”.
Chính là Thuận-hành Cửu-Chuyển Động-Tịnh, Tịnh-Động,
Tinh-Huyết giao-đầu, tình Cha, ý Mẹ “Phàm-Nhơn Giao-Cấu”
bởi Tịnh-Niệm Dục-Tình, mới hóa-thành Mẫu-Mạng phôi-thai
đến Thai-Nhi, túc-số Thập-Ngoạt phá bào nhi-sanh.
TRÁI LẠI: Hiện nay “TÂN-PHÁP CAO-ĐÀI THIÊN-ĐỊA”
dạy các con Phản-Bổn Huờn-Nguyên, là Thâu-Khí Huờn-Thần
Hóa-Điển Nghịch-hành, Thăng-Thượng Bái-Chầu Ngọc-Kinh,
để chứng Vị “ĐẠI-LA THIÊN-TIÊN”, hầu vào hàng Phật-Tử,
là người “Đắc-Pháp”.
THẦY mừng chung Đàn các con! THẦY thăng!
--oOo--
THI NGỌC lộ NHÀ-NAM, Nguyệt Nhựt Hồng,
HOÀNG đồ NƯỚC-VIỆT, Thống Tam-Tông,
THƯỢNG lưu QUỐC-ĐẠO, Tân-Dân Thức;
ĐẾ Giáo QUI-NGUYÊN, Lý-Diệu thông.
THẦY Linh-Hồn các con! Hỷ-Lạc! Hỷ-Lạc! THẦY ban võ-lộ
cho đẳng Chúng-sanh và vạn-vật giai đồng nhuần-gội, hưởng
lấy Huệ-Từ Thượng-Hoàng điểm đó.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
40
Nữ nam Đại-Tịnh thính kỳ Chơn-Pháp, bớ các con Linh-
Chưởng.
ĐOẠN NHÌ GIẢI RÕ
CHIẾT KHẢM ĐIỀN LY
Thực-Sự
Không còn noi theo “BÁT-QUÁI” là: đem Ly xuống, cho
Khảm lên nữa (vì nghe qua rất vô-hiệu-quả).
Ngồi Đại-Tịnh đi, thì nước “Tạp-Trược” (Quí Thủy) ở Thận,
lóng cặn-bã đó đọng lại, cho Chơn-Thủy (Nhâm-Thủy) bị Hỏa,
làm bứt mà hồi Thủy-Khí tự thăng lên chỗ nhà cũ của nó, hồi
còn Sơ-Sanh tại Ly-Cung ( ).
Nay nhờ Đại-Tịnh mà Hỏa Tạp-Niệm ở Cung-Ly “Tâm-Vị”,
bị Thủy-Khí áp-dụng phủ đầu, nên tự hạ xuống Khảm-Cung
( ) là Thận, mà Tịnh cư vì chất còn nặng.
Thì bấy giờ “Giả-Thủy” nhờ Tịnh là: hâm nấu nên hóa làm
“Chơn-Thủy”. Còn “Giả-Hỏa” tại Ly-Cung bị Thủy-Khí phủ
dụng, bèn hóa “Chơn-Hỏa”.
Khi biết đặng có Chơn-Thủy và Chơn-Hỏa rồi, mau lo phải
Hồi-Quang Nội-Chiếu cho đặng thường thường, thì Thủy-Hỏa
bèn “Ký-Tế” hóa làm Tân-Dịch (nước miếng) đã lọc sạch trong
tốt rồi có thứ nước “Tân-Dịch” nầy. Nhờ Tịnh nhiều ngày mới
hóa “Hơi Thở Tiên-Thiên” tốt, là Nội-Tức ở trong thân người,
từ Rún tự thở có bậc hơi nhẹ mà tự thông lên ra Mũi cho con tự
biết. Cứ để thử miếng gòn-bông, thì nó tự nhảy tưng tưng, đó là
dấu ở trong đã có “Nội-Tức” rồi, thì sẽ dụng Khí Thiêng-Liêng
trong nhẹ của Nội-Tức nầy, mà vận luyện trong 3 tháng thì đã
hóa ra “Chơn-Tinh-Linh” rồi!
LÀM SAO BIẾT
CÓ “NỘI-TỨC” Ở TRONG
Nghe đây – THẦY giảng-giải: Người chưa Tu Tịnh-Thoàn
đều là “Vị-Tế”.
TRÁI LẠI: Hồi còn “Hài-Tử’ sơ-sanh là “Ký-Tế’, rồi nên đầy
đủ tinh-thần thơ-thới Tâm-Linh.
Từ khi lọt-lòng Mẹ ra khỏi Thai-Bào “Tỉ là: Vô-Cực-Đồ” thì
vẫn hô-hấp đều toàn Dương-Khí của Hậu-Thiên Tạp-Niệm luôn
luôn cả.
Khoảng lớn lên như: Nam thì 16 tuổi – Tinh đủ đầy phát dục.
Nữ thì 13 tuổi bị “Hàm-Linh Xuẩn-Động” Tâm-Tánh bởi Âm-
Tịnh bất mãn làm khởi động lại, huyết mạch đến lúc, nên mới
muốn tự dâm.
1. Gái đồng-trinh thì bảo-tồn Linh-Căn thuần nhan diễm-mỹ.
2. Trai khoảng 16 tuổi, thì Chơn-Tánh tự minh, hình-thể đoan
trang, vì Chơn-Tánh Bổn-Thiện còn nguyên cho nên gọi rằng
Nam Nữ đồng-trinh là “Ký-Tế” vậy.
Còn không Ký-Tế là: Trai với Gái tự dâm-giao, nên Tinh đã
xuất, Huyết-Chơn tự khai vệ-hạ rồi.
Thì bây giờ: Nam thọ Trược-Tinh “Giả-Thủy” cả. Gái bảo Âm
“Giả-Huyết” tư-lự thì động, bèn rỉ-rả rịn ra, mà tục-danh là
Kinh-Kỳ, một lẽ thường-tình tất cả thế-gian. Còn dâm-dục quá
độ, tư-lự càng nhiều lại làm chứng băng xối-xả (đùm trứng dập,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
41
mà bèn tuôn ra, rồi dựng lại nơi “Huyết-Hải” chỗ ngay vệ-hạ
đó.
Nhưng tuy làm mất “Tánh Bổn-Thiện của Thiên Chi Sở Phú”
mà vẫn sống sanh được thường-thường, nhưng mà vẫn sống
bằng “Âm-Tịnh”, chỉ còn chút Tinh-Linh của Mẹ già để vào
vừa khít đó thôi.
Và nam-nhi khi giao-cấu rồi đã mất Tánh Chơn-Tinh thì cũng
hấp-thụ Giả-Tinh là Trược-Tinh, mà tạm sống qua thời đó thôi!
Là nhờ thực Ngũ-Cốc có Âm-Tinh, Dương-Khí bổ-túc mà sống,
chớ gẫm lại đâu bằng hồi còn bé-tí tốt tươi nhan-hình (còn là
vàng).
Khi có giao cấu rồi là thuộc Khảm-Ly ( ), cho nên gọi là
“Vị-Tế”, mà Vị-Tế là “Lửa” Ly-Cung ở trên, “Nước” Khảm-
Cung ở dưới; thì lưỡng tương sai biệt do đó về Hậu-thiên
Khảm-Ly chịu chết.
Than ôi! Mối nợ Vô-Vi Tứ-Ân chưa rồi trả, bởi xác hồn đã
tiêu-vong hóa gió là ma không rồi.
Đây – THẦY chỉ rõ-ràng về CHIẾT-KHẢM ĐIỀN-LY, thanh-
minh tỏ-tường cho hiểu thấu BÁT-QUÁI, mà vẫn chưa rành;
dầu cho tự học trăm năm các con cũng chưa hiểu rành về hai
chữ Chiết-Khảm, Điền-Ly, là gì? …
Con Tu và Tịnh-Tọa Tham-Thoàn theo “TÂN-PHÁP CAO-
ĐÀI”, thường đem Thủy-Khảm lên trên, kéo Ly-Hỏa xuống; lấy
Chơn-Hỏa mà nấu, dụng Chơn-Thủy (Càn ) thì đặng Ký-Tế
hóa Tinh-Linh – hơi tốt bốc lên là Điển Khí Quang: Chơn-Anh-
Hồn, đó là Chơn-Đạo vậy. Mà “Anh-Hồn” gốc là Tinh-Linh của
của Ngũ-Khí Chơn-Ngươn đó vậy.
Hỡi người Tu-Sĩ Nữ-Tài luyện “Huyết” hóa Khí, phải xét suy
trong đoạn này, ấy là Bí-Quyết của sự Đại-Thiền Siêu-Việt.
Vậy thì Chơn-Tinh nhờ lấy Thanh-Khí và hóa Khí, bởi Hỏa-
Hầu trưng nấu ba phen mà lọc sanh ra Chơn-Hỏa mà Thanh, và
Trược tự tiêu-tán cho nên Thủy-Khí của Thần-Hỏa được thăng
tại “Càn-Cung” chỗ Ly-Âm Tâm-Vị. Còn Ly-Âm Giả-Hỏa, nhờ
Tịnh mà hóa ra Chơn-Hỏa giáng hạ về Khảm-Cung vì đã biến
thành Khôn ( ) rồi. Tức Càn đối Khôn, nay mới thật là Càn-
Khôn tương đối.
Do nhờ Đại-Tịnh hô-hấp đều-hòa, vận-hành có độ-số y như
Châu-Thiên, Trung-Chánh tuần-huờn giáng và thăng mới thành
“Tân-Dịch”.
Nên nhờ cốt-căn Tân-Dịch mới có đặng Nội-Tức, mà là: Tức
Tịnh mà có Tâm sanh, tự Tâm sanh Tức, rồi Tức-Tức qui vào
Căn “Huyền-Quang Nội-Khiếu” mới gom thành Chơn-Linh-
Tinh đó. Nên có bài Thi của Lữ-Tổ kệ rằng:
LỮ hiền “Anh-Trạch” tại “Khảm-Quan”,
TỔ khiếu “Động” khai thâu Hỏa giang,
THUẦN mãng Khinh-Thanh, qui Nhứt-Thống;
DƯƠNG-Âm lãm chiếu, tượng Khôn-Càn.
Đây là Ngài chỉ rõ chỗ Khảm-Ly biến thành Càn-Khôn, mới
gọi là Chơn-Đạo Tịnh-Thoàn Hư-vô Chánh-Pháp của Nhãn-
Tạng đó vậy, mà cũng chánh-nghĩa là “Thay Hồn Đổi Xác
Phách Tan”; nhờ cách vận-dụng Âm-Dương phản Khảm-Ly
biến Càn-Khôn, đó là Đại-Đạo Phục-Huờn Chơn-Chưởng Linh-
Căn Huờn-Nguyên Bổn-Vị.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
42
GIẢI RÕ
KHẢM LY TƯƠNG-PHẢN
HÓA THÀNH CÀN-KHÔN
Còn Ngươn Âm-Khí Khảm-Cung bị phản Dương-Khí Càn-
Cung giáng Hỏa, cho nên “Thượng-Trung-Càn” phải biến là
Ly-Tâm “Tâm-Âm”, thì bây giờ Thần phải thuộc âm, mà cư-trụ
nơi Ly, ấy là chỗ của “Dương-Càn” vậy là Âm-Khắc-Dương có
đó, cho nên Dương lần lần phải tuyệt.
Phàm con-người “Dương-Can” đã bị khắc “Âm” rồi. Than ôi!
ở chỗ Dương tuyệt, thì con người phải đành chết vậy.
TỔNG-LUẬN: Đó là Khảm-Ly Hậu-Thiên đã bị chuyên-chế
về Phách chủ-sử, vì Càn-Khôn đã Thất-Vị rồi nghe!
Chánh-Nghĩa: Nay Tu theo “TÂN-PHÁP CAO-ĐÀI” dùng lấy
Đại-Tịnh Hư-Vô Vận-Hành Hô-Hấp đều hòa Thâu-Liễm
Thanh-Khí huờn về “Huyền-Quang-Khiếu” (Trung-Điền), dùng
“Song-Mâu-Quang” của Nhãn-Tạng đem phản-chiếu vào
Không-Tâm cho thường, hầu làm Nội-Tức Túc-Qui CÀN Khiếu
đống thành khối. Có khối Tinh-Linh rồi, mới có hiện Linh-
Quang Nhãn sáng ra, thì còn đâu bị Hậu-Thiên Trược-Nhiễm
của trần-lụy Thân nữa vậy, vì đã hóa Pháp-Thân “Xác-Hơi”
thăng-đằng bay lên.
Đây – nói về Trung-Thiên-Địa Hóa-Tạo chỉ rõ cách làm Phật,
Tiên trong thời-kỳ Mạt-Pháp mà cứu-vớt Nguyên-Nhân, hầu
phản thành thăng Thượng-Giái cho tuyệt kiếp luân-hồi là ân
Huệ-Từ, ân của Thượng-Phụ và Tam-Giáo rất lân-mẫn trong
Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giái đó vậy.
Than ôi! Mà nào Linh-Chưởng có biết đâu (?) tình-thương của
“ĐẠI-ĐỨC NGỌC-HOÀNG CAO-ĐÀI ĐẠI-LÃO CHÍ-TÔN”
lâm trần Kỳ-Ba Cứu-Thế đó vậy. Mà dụng rõ chỗ “Chiết-Khảm,
Điền-Ly” và Phản-Huờn “Càn-Khôn” tương-đối.
Tu Đại-Thiền, thì dụng lấy Khí Cư-Trụ Thận “Khảm-Cung”
đem về giao chỗ Tâm “Ly Âm”, thì Thủy-Khí Nguyên-Bổn,
Dương được Âm hòa của Cung “LY” TÂM, thì Khí-Hỏa
“Cung-Ly” nó phải chịu hạ huờn nơi Bổn Vị Cửu-Xứ của nó là
“KHẢM-CUNG”.
Hợi-Thời sẽ tiếp … … …
***** THĂNG *****
Tiếp Điển:
CAO-ĐÀI GIÁO-CHỦ! THẦY CHA-CẢ của các muôn-loài
đồng Linh-Căn-Chưởng!
Tiếp Bài Ngọ-Thời (đoạn trên) –
Còn Thần-Quang vốn là Thanh-Khí hóa Nguyên-Bổn của Vũ-
Trụ chiếu nơi trong Khảm-Cung, thì ra “Âm”, không khắc
“Dương”, cho nên Thủy-Khí phải tự thăng về Nguyên cõi
“CÀN” ( ).
SỰ GIAO CẤU CÓ 2 LẼ
Sự giao-cấu 2 lẽ đó, các con phải cần hiểu biết cho thật rành,
cho tường, hầu dụng một lẽ giao-cấu để làm. Phàm giao-cấu mà
phải chịu đọa-lạc ngàn-thu luân-hồi chưa thôi nghe!
Bởi giao-cấu mà biến-sanh, sanh-biến, thì nào đâu khỏi chung
vào vòng Lục-Đạo tối-mê vô-ngằn.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
43
Cũng do bởi Thủy-Hỏa mà trùng-phùng, tức-nhiên tự phải
“Huyết” hao, là lẽ cố-nhiên.
--oOo--
TẠI SAO GIAO ÂM-DƯƠNG
LÀ THÀNH ĐẠI-ĐẠO
* Âm-Dương giao-cấu Ngươn-Bổn là bởi ĐẠO-PHÁP giao
Nguyên-Bổn là “Giao-Cấu chỉ Tiên-Thiên”, nơi đây có
“Chơn-Khí”, tự sanh-biến Chơn-Tinh là “Tinh-Linh”, tức là
Thần-Quang.
* Với sự giao-cấu phàm-tình (theo Lạc-Thơ) của kẻ tục, thì là
về phàm-hóa đó, mà về gốc Tạp-Trược của Trược-Tinh,
dục-tình dâm-niệm bộc-khởi “Quý-Thủy” là “Hỏa-Khí”
giao-cấu Thần Vị-Tế - Thủy giao Hỏa, thì Hỏa phải tuyệt,
Hỏa vào Thủy – thì Thủy tự-nhiên phải sanh Huyết, ấy là
“Âm sát Dương”, “Dương lại sát Âm” cũng do nó – do kẻ
tục ham ăn ngũ-cốc, quả, thảo, mà sanh ra Trược-Vật để rồi
khổ; tham ăn sương-tuyết Trời, thì sống bền lâu như
Trời … … …
Vậy các con nào khôn ngoan, do đây mà tự hiểu Lý-Đạo-Mầu
phàm hay Thánh hãy đồng nghe!
Chớ nói 2 lẽ: Lạc-Thơ biến ra Hà-Đồ, sao là Hà-Đồ biến ra
Lạc-Thơ
Lẽ thứ nhứt: Cứ Tịnh-Thủ Hư-Vô, thì Lạc-Thơ sẽ hóa ra
Nguyên-Bổn Hà-Đồ Thủy-Sơ Tiên-Nhơn.
Lẽ thứ nhì: Phàm thì dụng Hỏa-Khí dâm tâm của Hậu-Thiên
giao-cấu gốc “Quý Thủy” Trược-Tinh Tạp-niệm “Ly-Cung”
sanh Nhục-Thể, chẳng bền, lần lần bị Chơn-dương Thủy
khắc mà phải tiêu diệt vậy.
Tổng-yếu: Phàm thì dụng “Hậu-Thiên-Khí” tương-khắc “Tiên-
Thiên-Khí” là có hại lớn, đó là về Phàm Đạo tương khắc.
Độc-điểm: Thanh thì “Càn-Khôn tương đối” là Tiên-Thiên; mà
hễ Tiên-Thiên ngộ đắc Tiên-Thiên, tắc sanh hại nữa là
“Dương nó: Càn-Dương” tất Thanh thượng-đẳng Cung-Ly,
vậy là Thanh. Thanh-Khí tương đối đó khi đặng hiểu chỗ lại
qua, qua lại cũng một lẽ, nhưng mà phải chịu phân hai. Tử-
Sĩ ôi! Khá suy-nghiệm lại cho cùng Căn-Cội, thì mới rõ
thấu “Đơn-Nguơn” giao cấu “Dương Phùng Dương tất
thành”.
Trái lại: Âm mà phùng Dương, thì Âm-trược tự vong, là thường
cố nhiên là “Lạc-Thơ Biến Vi Hà-Đồ”.
Lục-Âm thuần toàn “Hữu dụng Tam-Âm, Tam-Âm hữu dụng
là: 15 đến 18, đến 23 – Nguyệt-Quang vận chuyển hóa
thuần toàn Lục-Âm.
Đây tùy theo “Nguyệt-Quang”, từ 18 đến 21, tỷ là “Sơ-Âm hào”
Cửu-Tứ”, Quẻ “Long-Dước tại Uyên” – Tẩu vô cửu dã, nhi
phản phúc dã – là “Cửu-Ngoạt” (tháng Chín).
Thìn-Thời sẽ tiếp …
***** THẦY THĂNG *****
TIẾP ĐIỂN
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
44
THẦY CHA-CẢ các con, mừng các ái-tử! Khá chí Tịnh, hậu nhựt
sẽ hoàn-thành sứ-mạng. Nghe THẦY phán! Vậy nghe THẦY
dạy tiếp bài Hợi-Thời (bài trước):
Tại Huyền Công là “Phanh Luyện”
Tại Hà-Đồ: “Hỏa sanh Thổ” là Tâm dượng Tỳ.
Tại Lạc-Thơ: “Kim khắc Mộc”, là Phế khắc Can.
Theo Nguyệt-Quang, kể lấy ngày 18 tới 23, là “Trung-Âm”, mà
“Cửu-Ngũ” là “Long Phi Tại Thiên” là “Lục-Ngoạt, danh là:
Hội-Kiến Đại-Nhơn.
Tại Huyền-Công “Âm-Dương đối tương Hòa”.
Tại Hà-Đồ, “Thổ sanh Kim” là Tỳ thông Phế.
Tại Lạc-Thơ “Thổ khắc thổ” là Tỳ khắc Vị.
Vậy là “Lục Âm” thuần toàn.
Ngày 23 đến 30, là “Mạt-Âm”, thuộc hào “Thượng Cửu”, danh
là: Cang-Long Hữu-Hối, dịnh bất khã cửu, đó là: Thập-Ngoạt,
về tháng 10 vậy.
Tại Huyền-Công “Tiết-Mãng”, thì Âm tuyệt, Dương
thuần. Cho nên Khôn tùng Càn, chuyển nhi hành
Huyền-Công tấn thủ tới nơi ban đầu như: Tánh Bổn-
Thiện. Vậy là “Luyện-Hồn Chế-Phách” dụng Cửu
Thiên-Cực, bất khả thủ giả dã !!! Mà là Luyện Tuyệt-
Âm, phản Thuần-Dương.
Tại Hà-Đồ “Âm phục-huờn Dương”.
Tại Lạc-Thơ “Lục-Âm dĩ tuyệt”, nhi Dương-Khí tựu
hóa thành “Linh-Điển Thần-Quang”, đắc-thành Xá-Lợi
Linh-Quang, là đặng chứng vị “Kim-Tiên Đại-Giác” đó
vậy.
--oOo--
LUYỆN-KHÍ HUỜN-THẦN
QUI-NGUYÊN PHỤC-MẠNG
THI-BÀI
Luyện Chơn-Khí, đắp-bồi mạng-thể,
Dụng Công-Phu, chớ trễ ngày giờ,
“Thất-Huờn”, thông-công Thiên-cơ;
Thủ-trì chuyển-vận, mà nhờ Thân sanh.
Tại Hà-Đồ, “Kim-Hành Đắc-Vị”,
Động-Tịnh Nguyên, Hỏa, Thủy lưỡng đồ,
Phản-hồi Động-Tịnh phục tô;
Qui-hồi Vận KHÍ HƯ-VÔ Linh-Thần.
Thất-Huờn ĐẠO, lời phân hạ thủ,
Chuyển Pháp-Luân, qui-tụ Khí-Tinh,
Tựu-Thần, Qui-Khí hòa-bình;
Huờn-Nguyên Bổn-Giác, hồi minh Chơn-Truyền.
Dụng công phản, Hậu-Thiên Lục-Chuyển,
Phản Tiên-Thiên, vận-chuyển Ngũ-Hành,
Lục-Quan phân rõ Tam-Sanh;
Sơ-Tam tại “Tý”, lập-thành Huyền-Công.
Hào “Sơ-Cửu”, hiện Long-Cửu-Nhị,
Long tại tiền, Hỏa, Thủy khắc, sanh,
Lạc-Thơ Thủy, Hỏa khắc hành;
Nghịch-hành, sanh-khắc, khắc-sanh thuận-hành.
Thập-ngũ Hào “Mộc sanh Hỏa-Khí”,
Lạc-Thơ-Đồ “Hỏa Thị khắc Kim”,
Huyền-Công lưu phản khá tìm;
Tịch-Dương chi “Tỵ”, “Cửu-Tam” Quái, Hào.
Đủ Tam-Dương, một màu Khai-Thái,
Hậu Tam-Âm, phân-giải khá tường,
Thập-ngũ Túc-Khí “Tam-Dương”;
Tam-Dương Khai-Thái, lập-trường Luyện-Phanh.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
45
Hỏa thọ Hào, Kim-Hành khắc Vị,
Lục-Thập Hào, Quái-Vị Hiệp-Đồng,
Tam-Bá phong cố Bào trung;
Thất-Thập Nhị-Khí, Huyền-Công gom vào.
Nghịch tả chuyển, Điền Hào hoán tượng,
Thủy khắc sanh, Hỏa chưởng huờn liên,
Luyện liên cho kỹ về Nguyên;
“Tam-Huê Tựu-Đảnh”, Huyền-Huyền vận nuôi.
--oOo--
Đây là bài Tổng-Luận chỉ rõ từ Lập-Trường Đơn-Đạo chí Bá-
Nhựt Trúc-Cơ, Qui-KHÍ Tựu-THẦN tại HẠ-ĐIỀN “Thái-Cực”
là nơi khởi đoan chỗ Giao-Hội Hòa-Hiệp Âm-Dương Sơ-Thủy
đó.
Cứ ngồi Tịnh-Thần, Thâu-Liễm đủ đầy “300” Châu-Thiên độ-
số rồi Điển-Hóa Tam-Quang ruồng qua Cửu-Khiếu “Hậu-Bối”
Đốc-Mạch lướt qua Thượng-Kiều vào Nội-Huỳnh-Đình
“Trung-Điền”, là nơi tượng-trưng “Đại-Hội Trung-Nguyên” mà
Thượng-Tôn “Thái-Thượng”, Ngài hiệp Âm-Dương chuyển-
vận Hạo-Khí hóa thành Chơn-Nhơn.
Nay đây đem lại toàn Chơn Chi Giáo đó vậy!
Đại-Thoàn phải vạn-duyên đốn-tuyệt, Vận-Khí Hồi-Nguyên y
chỗ sanh-nhi bất-sanh, tử-phi phi-tử, được lâu ngày chỗ Thâu-
Liễm Chơn-Ngươn vào Trung-Điền thăng Thượng-Điền “Nê-
Huờn-Cung” Đảnh-Thượng, trụ đó còn nhờ ân Thiên, mới vào
Huyền-Quang Diệu-Khiếu.
Mà là còn chờ chiếu triệu Thiên-Ân, mới có xuất Hào-Quang
Bái Chầu “Kim-Khuyết” (Ngọc-Kinh) hưởng thú Thần-Tiên
tiêu-diêu tự toại sống đời trường-niên, cũng một Vị “Đại-La
Thiên-Tiên” của Cao-Đài Tân-Pháp Tân-Truyền, hiện-hữu đắc-
thành tại thế Kỳ-Ba Phổ-Độ Tam-Kỳ mới hay! Hay!!!
Đó là huờn thành trả rồi duyên-nợ Tứ-Ân mới thoát Tam-Đồ
chi khổ đó.
Thật rất vui thay! Mừng thay! Có trẻ dưới trần nhờ Tu-Luyện
“Tân-Pháp Cao-Đài” Thống-Nhứt nay rày thành TIÊN.
TIẾP ĐIỂN
Thi Đề: Cửu-Chuyển Tiên-Thiên chứng thành Hư-Vô Chơn-
Nhứt. Sắc-Tứ: Nguyên-Bổn Bí-Quyết “Cửu-Chuyển-Đồ”,
Động-Tịnh Huờn-Sanh (kế tiếp ra đây)
THI
NGỌC lành CHÂU-RẠNG, khắp Châu-Đông,
HOÀNG cảnh VIỆT-NAM, lố bóng hồng,
THƯỢNG-Đại THIÊN-KHAI dìu chủng-tộc;
ĐẾ từ TRUYỀN-GIÁO, Pháp Lòng-Không.
KIM Triêu GIÁ-HẠ, Thần-Quang-Điển.
VIẾT tự ĐỒ-THƠ, gọi Chủ-Ông.
CAO-Đức TẬN-TƯỜNG mau Tịnh-Định,
ĐÀI-ân LẬP-BỔN, điểm thành-công.
THIÊN-ĐỊA-ĐỒ
Bảng Số 7 và Số 8 (Tiếp theo Đàn trước)
* Bảng số 7 của Thiên-Địa-Đồ:
. Thượng từng có 24 KHÍ (1x6x4 = 24)
. Trung từng có 64 KHÍ, lấy theo Hào-Quái của Bát-Quái
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
46
. Hạ từng có 72 KHÍ (1x6x10+12 = 72) – do 60 KHÍ cộng với
12 Đại-Khí, thành ra 72 Khí, là 72 Địa-Từng, tức (Địa-Phủ).
* Bảng Tiên-Thiên Hà-Đồ số 8:
. Thượng từng có 125 Đại-Khí, do (1x5x5x5 = 125) Đại-Khí,
mà tên gọi là “Linh-Quang Chơn-Khí”.
. Trung từng có 300 KHÍ: 1- Tấn-Hỏa 180 độ.
2- Thối-Phù 120 độ
Kêu là “Phong-Thần Chi-Khí”.
. Hạ từng gồm có 240 KHÍ, là “Tiên-Thiên Địa-Quang Khí”:
125 Đại-Khí của “Thiên”
240 Đại-Khí của “Địa”
Đem lại công chung với số Khí của Thiên-Địa, thành ra 360
Khí, đều thuộc về Địa-Từng.
TỔNG-LUẬN: Cảnh Hự-Từng thuộc “Địa-Nhơn” mỗi mỗi của
Âm-Dương biến Chi-Khí thành, mà là theo Bát-Quái chuyển-
vận, rồi biến thêm, thêm, thêm ra số nhiều, thành Đại-số
180.000 Đại-Khí.
Nầy các con yêu-dấu nam nữ ôi! Vậy sự Tu-Hành thiệt-tướng
của “Thể-Dụng” (Vô-Cực Bửu-Điện) phần Thể-Dụng Nhị-Cơ,
THẦY và Mẹ đã tạo-dựng tượng-trưng, thành có “Vô-Cực Bửu-
Điện” hiện-hữu vi đó, mà được thấy, hầu tầm học Linh-Chơn
Đại-Tịnh, xuất Linh-Chơn Pháp-Tướng thẳng về NGỌC-KINH,
các con sẽ đặng hơn trăm phần cảnh Trược-Trần khổ-não nầy,
của loại Vô-Nhân-Đạo, đào-tạo mà giết lẫn nhau, do chỗ quyền,
danh, lợi-sắc đó các con ôi!
Than ôi! Chỗ vô-minh mà khổ cho Linh-Hồn, đành chịu luân-
hồi cổn-cổn không thôi! … trong vòng Lục-Đạo tối-mê.
Các con nên hiểu, cố-gắng tầm suy chỗ Chánh-Lý Ngoại-Tình
của Đạo, là Nhiệm-Mầu Vô-Vi Trời-Đất, nhưng Chơn-Lý nầy
do một phần các Đấng Thiêng-Liêng giáng Cơ-Loan, Bút chỉ
Giáo, Chánh là của Phật, Tiên lẫn mãi lâm Trần dẫn-dụ cho
Linh-Căn hồi-đầu giác-ngạn đó ru !!! …
Còn một phần của Thánh-Triết “Thế-Thiên Hành-Hóa” giảng
thích ra, mà độ đời cho Nhơn-Sanh bỏ dữ làm lành, hầu đồng
đặng giác-ngạn, là phận-sự đã Thọ-Sắc vậy, để Giáo-Dân Hành-
Hóa, chớ khinh-thường mà lầm nghe. Mà là bực Thức-Trí chỗ
Biểu-Lý của “Vô-Cực Thiên-Đồ” các con nhận là: phải biết
phân mới là Hiền-Nhân, Quân-Tử đó là: “Học Khã Vấn Chi,
Tầm Chi” mới nên câu: “Bác Học Thẩm-Vấn Chi” – Vì Thánh-
Nhân cũng lẫn-lộn với các-con, chịu đồng tủi-nhục mà đem
Chơn-Đạo Phô-Khai cho y hồi Vô-cực phân phán.
Vậy các con nào hiểu thấu, cũng nên đáp lại mới là: Trò Hay
Con Hiếu. Ấy là hiểu tường con thảo của THẦY, THẦY Trời
nuôi-hộ, dạy-dỗ lắm lần, trong mỗi giai-đoạn kiếp-số dài vắn
của các con khờ đều cũng của THẦY độ-hộ dạy-dỗ bấy lâu.
Trong mỗi giai-đoạn dài vắn của các con khổ, đều có THẦY
hộ-độ nơi trong.
--oOo--
ĐỨC-TIN NGÔN-LUẬN Hoặc chép bài của THẦY đã hiện ra, để lưu-lai Thiên-
Sử, chỗ u-ẩn, lưu-truyền Huệ-Tâm hiểu rõ.
Hoặc của vị đệ-tử có học ĐẠO THẦY truyền mà tả ra
trong những chỗ u-ẩn, giáo-hóa Nhơn-Sanh.
Hoặc ẩn, hoặc hiện, có nhiều phương-pháp độ đời. Nếu
các con nghi-kỵ mà lầm, những câu văn, lời nghĩa
chánh-tín diệu-văn là đây, chỗ định người về Nguyên
(vì lời thật hiện) lại còn bày chỗ cao-siêu, vạch Trời chỉ
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
47
Đất, rõ người là Chí-Thánh tại thế-gian đó các con
à! … để phân-biệt Hồng-Huyền.
Các con nam nữ học Đạo, theo THẦY, MẸ mà đồng hồi Bổn-
Nguyên, chỉ việc đã xảy ra bất-bình trong vũ-trụ, đã biết bao lần
khổ cảnh làm cho Mạng mãng u-ám, lại mong che-lấp ĐẠO-
TRỜI, cũng như đã xảy ra trong làng Đạo-Tràng là Lý Tấn-Hóa
Diệu-Linh, tất lẽ dĩ-nhiên của người hành Đạo vậy!
Vì bị lắm đứa bất-minh, ĐẠO là của vô-hình vô-ảnh, vô-xứ,
vô-thinh, nhưng mà đặng Linh-Thông hoạt-bát độ đời cho qua
cảnh khổ. Than ôi! Đất-Trời cứu-thế, người lại đút tay phàm
vào sửa-đổi máy Nhiệm-Mầu của Tạo-Hóa Thiên-Cơ.
Vì sao hôm nay THẦY phải phân-phán rõ-rệt cho các con
được hiểu chỗ Chí-Linh Chí-Diệu của “Vô-Cực Bửu-Điện” chi
vậy ??? …
Đó là mỹ-ý của THẦY thấy các con đã luân-hồi nhiều kiếp,
hóa thân, nay đã là Chí-Nhân vừa đã qua bực.
BA THỨ TINH-HOA CAO CẢ
Qua khỏi Ngũ-Kim
Qua khỏi Thảo-Mộc
Qua khỏi Thú-Cầm
Đến nơi Nhơn-Loại
Mà Nhơn-Loại của các con là Nhơn-Loại đã hấp-thụ Đạo-Đức
Vô-Vi chút ít, phân tường chỗ Lý-Tánh Bửu-Lý của “Vô-Cực
Bửu-Điện”.
Vậy các con đã thấy, đã nghe nơi ngoài của Tánh Vô-Vi (Vô-
Cực Bửu-Điện) hiện-hữu rồi, cứ lo Thoàn-Tâm Luyện-Kỷ về
hầu Mẹ-Già Cha-Cao, đêm lẫn ngày trông mãi những con yêu-
dấu, sớm dẹp Máy Luân-Hồi xoay-chuyển, mà gấp trở về thăng
Vị cựu Ngôi.
THẦY lại thấy các con cả có công với Đất-Trời, nên chi
THẦY minh rõ các con đều hiểu câu Lý Diệu-Linh của Tạo-
Hóa lập-thành Thượng-Cổ. Bắt đầu hôm nay khá hiểu, chớ u-ơ
mà lầm. Tịnh-Tâm nghe bài!
BÀI Vô-Cực Nhứt-Nguyện CÀN-KHÔN,
Nội trong Vô-Hữu, bảo-tồn Linh-Cơ.
Chuyển Nhứt-Hóa, Đồ-Thơ Định-Vị,
Ngũ-Hành khai, Ngọ, Tý – Khắc, sanh,
Càn vi Thiên, Địa Ngươn-Hanh;
Ngũ-Hành, Ngũ-Khí, lập-thành Khí-Quang.
Thiên-Can Đẩu, Đạo-Tràng bố liệt,
Nhứt-Nguyện Cung, Minh-Triết chỉ rành,
Nội-dung Túc-Dụng Hữu-Hình;
Đi theo Thể-Dụng, ĐẠO-HUỲNH dựng nên.
Trong Vô-Cực, móng-nền xây-tạo,
Lấy Hư-Vô, chỉ Đạo Căn-Cơ,
Tam-Gian Cửu-Khiếu Thiên-Thơ;
Cửu-Cung Thập-Điện, Đạo-Cơ sắp thành.
Trên Thượng-Từng, Ngũ-Hành bày rõ,
Nội Huyền-Cung, là Ánh Huỳnh-Quang,
Giữa Trung-Từng – Chánh Tiên-Đàn;
Hư-Vô Nhứt-Nguyện (O) Khôn, Càn – tương-giao.
Ba-sáu Ánh Thiên-Tào thọ-mang,
Giúp Thiên-Cơ, quá ngạn Đạo-Huyền,
Phổ-Giáo Minh-Lý Bổn-Nguyên;
Thế-Thiên Hành-Đạo, Giáo-Truyền Đạo-Dân.
Hạ-Từng phân, Ngươn-Thần cư-trụ,
Bảy-Hai Vị, cư-ngụ Thập-Đô,
Cai-quản tội-lỗi Ngục-Đồ;
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
48
Cho Hồn hối-ngộ, Phong-Đô “Tuyền-Đài”.
Nay mừng – gặp CAO-ĐÀI Cứu-Thế,
“Vô-Cực-Đồ”, Đức-Chế Xá-Ân,
Ai Tu thì đắc Pháp-Thân;
Theo Hình-Thể-Dụng, Tân-Dân đắc thành.
Lập “Bửu-Điện”, MẸ sanh tại thế,
Cảnh Trung-Gian, Phổ-Tế Quần-Sanh,
Nội-Cung “Vô-Cực” chỉ rành;
Y “Vô-Cực-Điện”, đắc thành Tiên-Chơn.
Cạn lời phân-phán Mạt-Ngươn,
Không lo Tu-Luyện – phụ ơn CAO-ĐÀI.
THẦY, MẸ ban ơn lành các con chung Đàn! Mau tiếp Lịnh
“Cửu Thiên Huyền-Nữ” lâm Đàn chỉ rõ Nội-Dung Ngoại-Thể
của “Diêu-Trì Bửu-Điện” cho các con tường-thấu Diệu-Linh
Lý-Nhiệm của Âm-Dương chuyển-hóa trong Nội-Dung Ngoại-
Thể của “Diêu-Trì Bửu-Điện” là “Vô-Cực Thiên-Đồ” hiện-
tượng tại thế nơi Trung-Gian, có đủ phân-tích Hình-Thể Diệu-
Dụng của Thiên-Ân ban-bố. Bất tuân y-hành thì khổ đó các
con!
Ban ơn chung Đàn !!!
NGÂM
(MỪNG TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG KINH)
CHƠN-TRUYỀN TÂN-PHÁP
“Vô-Cực-Điện” để biểu dương,
Cho đời rõ thấu, mau bươn đắp nền.
“Diêu-Trì Bửu-Điện” đề tên,
Lưu-lai kỷ-niệm, đôi bên rạnh đề.
Đền “Diêu-Trì” – bút châu-phê,
Chỉ-Truyền ĐẠI-ĐẠO, diệt mê cho đời.
ĐẠO là Hít-Thở, tìm Hơi,
Cùng là để lại nhiều thời Khí Sanh.
Nhờ Thoàn-Tịnh liễm Điển-Thanh,
Điển sanh thêm Điển, mới thành Hào-Quang.
Phật, Tiên chứng-kiến Kinh-Vàng,
Với là Tinh-Tú, Quang-Quang ánh-lòa.
Đẹp thay “Diêu-Điện Bửu-Tòa”,
Ra Kinh “Tối-Thượng”, phân ba Thể-Hình.
Thượng-Từng là – BẠCH-NGỌC-KINH,
Trung là – HUỲNH-SẮC, Thiên-Linh Viên-Kỳ.
Hạ-Từng THÊN-CAN, ĐỊA-CHI,
Ba Từng chỉ rõ Huyền-Vi Đất-Trời.
Giã-từ chí-sĩ con ôi!
THẦY hồi Kim-Khuyết Cao-Ngôi Bửu-Tòa.
Điểm công – con đã nhìn CHA,
Ân ban Võ-Lộ, vậy là trọn công.
Tam-Kỳ - ĐẠO-GIÁO CHÁNH-TÔNG,
Ngũ-Châu tìm đến, để lòng Kinh-Thiên.
THẦY ban ân-lành cho toàn-tất các con nữ nam trung-thành.
THẦY thăng Thiên-Tòa!
--oOo--
TIẾP ĐIỂN
CỬU Chuyển HUYỀN-CÔNG chỉ tận tường,
THIÊN-Ân QUANG hiện Ngũ Cung trường,
KHAI Minh TỐI-yếu Tam-Từng cảnh;
HÓA-Giáo THƯỢNG-CAO, Bát-Khí Lương.
HUYỀN-Diệu Kinh Trung phân – Tánh, Lý;
NỮ-Tài xuất-thế, hiệp “Âm-Dương”.
LÃO lai tương-ứng “Diêu-Trì-Điện”,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
49
MẪU-tử, Nguyên-Huờn, thống-nhứt hương.
LÃO-HUYỀN-NỮ CỬU-THIÊN Thừa Sắc Mẫu-Hoàng
Ngự đến Tiên-Đàn “Đâu-Suất Thiên-Cung – Thanh-Tịnh-
Đàn”, hầu phân-tích Nội-dung Ngoại-diện của Tam-Từng
Diệu-Dụng “Hữu-Vô Vô-Hữu” các bực Căn-Lành đặng biết
lòng háo sanh Đại-Đức của Đấng Mẹ Lành đối với các con
đang đắm-đuối được thấy rõ “Đất, Trời, Người” ứng hiện trí-
cảnh tại Trung-Gian có “Diêu-Trì Bửu-Điện” lập-thành, hầu
hành theo “Tối-Thượng Châu-Quang Kinh” chỉ-giáo là:
đường Phản-Bổn Huờn-Nguyên và chỉ rõ “Vạn-Thù” ngày
nay “Qui Nhứt-Bổn” – định-vị mới có lập-thành Thượng-
Cảnh Tam-Từng. “Diêu-Trì Kim-Mẫu” định-vị chấm công
nữ-liệt nam-tài tròn công độ thế, y lời đã hứa với Mẫu-Hoàng
giữa Đại-Hội Bàn-Đào.
Vậy Lão-Mẫu mừng chư Môn-Đồ nam nữ khá tuân! Khá
nghe! Khá kỉnh! … Tịnh-Tâm lóng nghe Lão-Mẫu phân-tích
Diệu-Lý của “Diêu-Trì Bửu-Điện” do Máy Mầu-Nhiệm Tịnh-
Động Âm, Dương biến-sanh, sanh biến mà củng-cố thành Vũ-
Trụ Càn-Khôn, ra có Thể-Dụng, Hữu-Vi và Vô-Vi, Nội-Thể
và Ngoại-Dụng đó các con!
Vậy nghe phân thành-phần Nội-Dụng Ngoại-Thể “Diêu-Trì
Bửu-Điện” là:
1. Nhứt-Khí Hư-Vô là một vòng Vô-Vi ( ) “Vô-Cực
Thiên-Đồ”, ở giữa trung-tâm Bửu-Điện, có từ Đông
qua Tây là Giao-Khí.
2. Là “Nhị-Nghi” – Âm-Nghi và Dương-Nghi, tức là
“Nhựt-Châu-Đài và Nguyệt-Châu-Đài”; tại con-người
là “Lưỡng Nhãn-Quang”, cái mình là tại “Diêu-Trì
Bửu-Điện” là Lưỡng-Đài, ở trong mặt dựng là Tỷ nam
nữ Quang-Thần hay là “Thanh-Quang”.
3. Tam-Tài là “Nhựt-Châu-Lầu” – Hồn bên Tả; Nguyệt-
Cung “Nguyệt-Châu-Lầu” – Phách bên Hữu; Trung-
tâm là một vòng-tròn Vô-Cực Không-Khí, Ngũ-Khí
đều nhập vào trong ( ) ở chính giữa mặt dựng gọi là
– Đại-Tịnh.
4. Tứ-Tượng là bốn bên: Đông, Tây, Nam, Bắc – mà làm
Tiền-Môn, Hậu-Môn và Đông-Lang (hữu), Tây-Lang
(tả).
5. Ngũ-Hành: Đen, Đỏ, Xanh, Trắng, Vàng (màu-sắc) –
hữu-tượng là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trên cao là
– Nhị-Thập Tứ-Khí.
LÃO-MẪU mừng các con! Thìn-Thời sẽ tiếp ….
THI
Lưỡng Thổ song-song, ĐẠO đắc-thành,
Lập cân Song-Điểm khắc Phùng Sanh,
Trấn-an Bá-Pháp, Kim-Thân ẩn;
Anh-dõng Cao-Huờn, Thượng đẳng danh.
BẮC-ĐẾ CHƠN-VÕ!
Mừng chung Đàn các con nam nữ! Các con nghe THẦY phán
đây!
THI BÀI
ĐẠO-PHÁP TRUYỀN-CHƠN
NỘI-DUNG CHUYỂN-VẬN
Hồn nương Xác, lập-công học-hỏi,
Xác nương Hồn, tiêu-rỗi Hư-Linh,
Biết TU – có thể cứu mình;
Ngũ-Hành Luyện đặng – Huờn TINH, KHÍ, THẦN.
Khoa BÍ-PHÁP, ân-cần tham-khảo,
Cho xảo thông – Chánh-Giáo Chơn-Truyền,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
50
Hiểu tường Bảy-Thể Khí-Dương;
Luyện-Phanh Vận-Chuyển, cốt-xương Mạch nào.
Khí-Huyệt thông, mới vào Nội-Thể,
Khiếu Huyền-Quang, Ký-Tế Âm-Dương,
Cho thông-suốt đặng nẻo đường;
Lọc TINH chất-phát, Thần-Dương nhẹ-nhàng.
Lấy Hô-Hấp vào hang – chế Thuốc,
Dụng ý, mà dẫn tuốt vào Lư,
Khí, Thần hiệp mới Không-Hư;
Lâu ngày ngưng kết Chơn-Sư Mật-Truyền.
Tâm an Tịnh, Tham-Thoàn khảo-cứu,
Cho thạo-thông Thất-Bửu, Hỏa-Hầu,
Giáng LONG phục HỔ Huờn-Châu;
Cho rành phép-tắc, Qui-Đầu lớp-lang.
Luyện Huờn-Đơn, lớp-lang trí-hóa,
Xuất Chơn-Thần, cá-cá Trường-Sanh,
Giữ chừng nguy-hiểm chung quanh;
Đừng cho Ngoại-Thể bất-thành công-phu.
Trong Hồ quến Ngưu-Hoàn, Đơn-Dược,
Uống đặng rồi, hạnh-phước biết bao,
Bên tai gió thổi dào-dào;
Sấm vang chuyển-động, ba-đào Châu-Thiên.
Tâm an tịnh, Diệu-Huyền phát-hiện,
Sáng-suốt thông, chuyển-đạt Cơ-Mầu,
Nhẹ-nhàng đoạt đặng Bửu-Châu;
Lâu ngày ngưng kết nền MÂU nội thành.
Âm-Dương-Khí, kết-thành Pháp-Báu,
Mười-tháng nuôi cho thấu-thông đường,
Lần lần Âm thiểu, đa Dương;
Ba-năm tám-tháng, Thuần-Dương nhẹ-nhàng.
Xuất Hồn lên Niết-Bàn học Đạo,
Đặng nhờ ơn Chưởng-Giáo chỉ bày,
Thần-Thông biến-hóa cao-dày;
Chín-năm Thiền-Định, là ngày Thành-Nhơn.
Chừng ấy đặng, đăng-sơn hóa-thủy
Vui quả-hoa, thỏa-chí cảnh nhàn,
Cờ tiên, rượu Thánh xuê-xang;
Khi chơi Đông-Thắng, lúc sang Non-bồng.
An cảnh ngoại, Tiên-Ông bạn-hữu,
Đến Chầu THẦY, Thất-Bửu Linh-Tiêu,
Tiêu-dao cảnh thọ mai, chiều;
Bủa luồng Thanh-Khí, dắt-dìu trần-gian.
--oOo--
THUYẾT-VĂN
HỒNG-MÔNG phân-phán Lưỡng-Nghi, Sanh Tứ-Tượng,
hóa Bát-Quái trấn Bát-Vi, Vạn-loài phân-phán Càn-Khôn đả-
phá, Vô-Vi định Châu-Thiên Tinh-Tường.
Mỗi thế-giới: Nhựt Nguyệt bất-phân, thử-thời u-u ám-ám,
minh-minh quang-quang, do bất-phân vi Thiên-Địa, Nhiên-Kỳ
Thủy-Hỏa Điển-Linh thành-thử ngoại-cảm Thất-Tình, Nội-
Sanh ác-tâm tham-tàn sát-nhơn, chuyển thân Vọng-Niệm, bị
Lục-Tặc chưởng-quyền tâm-mê muội-tánh.
Ôi! Diệt Hữu, Vô hình-ảnh, nhi Chơn-Nhơn thành Vô-Vi, do
tại Thiên-Chơn thành Khảm-Ly điên-đảo vô nghịch-vận
Thuần-Dương có nội-tình hoan-lạc tại Âm-Dương cơ-sở đả-
phá Càn-Khôn vạn-sự kỳ lao-tâm. Tốc Luyện Bổn-Nguyên
thành Chơn-Tinh, hủy bỏ hồng-phấn.
Các con yêu-dấu ôi!
Uổng tâm thảo-mộc bổ Tiên-Thiên! Tiên-Thiên thảo-mộc
bất năng Cơ Khán-Khẳng chư Bang, tắt bịnh-xiễng, Kim-
Nhựt tận-thế, hỗn-loạn Nhơn-Tâm ác-liệt thảm đa, thành
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
51
nhơn-loại khổ-sầu, Nhơn-sanh Khẳng tâm vi vụ ư pháo-đạn,
thành-thử Tinh khô Huyết Càn-Địa hóa Vi-Sa.
Ô hô! Phách lạc tại Huỳnh-Tuyền do đa-đoan ác-nghiệt, hồi
chuyển Nhơn-Tình hóa thú lai-lai vãn-vãn, cổn-cổn vô-định,
cam thủ-mạng thành khô cốt nhu san hiệu-thực.
NGÔ tùng Thiên-Mạng lân-mẫn “Đại-Thiên” Tam-Thiên
Thế-Giái Chúng-Sanh đồng thọ-khổ ư thành-sầu hỏa-trạch,
cho nên mới khai – Trung-Nguyên Đại-Hội, dĩ độ Huờn-
Nguyên Chơn-Tánh phục-hồi cảnh-xứ giã!
MINH tận-tâm không học-tập hoàn-thành, hành Thoàn tùy
Chơn-Cơ Động-Tịnh, Tịnh-Động, thâu Khí huờn Thần nhập
vu ư Huỳnh-Đình, Phanh-Luyện hóa Thần-Quang, hầu đắc
thăng-đằng Thượng-Cung “Nê-Huờn” nghe.
CHIÊU nhơn chí-tâm, chí-thiện chuyển-hóa hồi-đầu thọ-
mạng Thiên-Hoàng chi-giáo, nghịch-hành uyển-chuyển Khí
hiệp Thần, Thần hóa Tinh, Tinh hóa Điển-Quang khinh-phù,
Thiên-niên nhàn-lạc giã dã!
Chơn-Tịnh thoát-ly khổ cảnh hiện Phật-Pháp, Tăng Tam-
Bửu, Tổng Minh-Giác Chơn-Truyền Tịnh-Tọa, tùng Tân-
Pháp Cao-Thiên thị hạnh, hỷ biện-minh tại ư Trung Nhứt bộ
Chơn-Kinh, là “Tối-Thượng Châu-Quang Kinh” độ dẫn
Nguyên-Chưởng, thâu huờn nhứt Điển-Linh-Chơn; Linh-
Chơn Xá-Lợi dã.
LAI dẫn Nhơn Tu-Luyện: Tiên tạo Công-Đức, hầu thăng
Chí-Cực, chứng-quả Bồ-Đề-Tâm, Minh Chỉ-Giáo đắc
Trường-Sanh chi lộ-cảnh; Khuyến Nhơn-Nhơn đồng Tham-
Tu Chánh-Đạo, đoạn nghiệt-oan bảo Hồn, tất đắc Chánh danh
Chơn-Tiên, thoát vòng tục-lụy!
TRẦN tường Cảnh-Mạng cư an bất cửu, khã cảm-hoài
Thiên-Địa chi ân-thâm, nghi Âm-công hành Chơn-Pháp,
chuyển Linh-Nhơn tùng Thiên chỉ-định, Tu-Tánh Luyện-
Mạng, tảo đắc-thành “Xá-Lợi Kim-Đơn” – Thân đặng Cực-
Lạc, thị thành Phật-Quang, khuyến Nhơn-Nhơn khẳng tâm
tùng Thiên giáo-hóa, tánh-mạng Song-Tu, hiện Thần-Quang
tại thế, nhi Hòa-Quang hỗn-tục, thị bất-hoài-công học Đạo
Chỉnh-Giáo Tâm-Truyền đã khổ-nhọc bấy thu.
CÔNG trình tham khảo chỗ Tu-Tâm, Luyện-Tánh, châm-
cứu Khẩu-Quyết, Linh-Chơn Phật, Tiên kỳ giáo; tượng phân-
minh tận lộ cảnh Chơn-Truyền giảng-giải, Nhơn-Sanh hấp-
thụ chỗ u-ẩn chí-lý “Tu-Đơn”, Quyết-Nội, Nhứt-Nhứt trình
khai, hữu công-trình, công-quả, công-phu tận-tâm Luyện-
Mạng, Nhựt-Vãng Nguyệt-Lai; tầm Tu nhiên an-tịnh. Nhi thủ
đoạn-tuyệt trần-tâm, nhi nể đắc kiến sanh tại thế; Tại thế !!!
Khả tùng Thiên-Mạng, thi-ân bố-đức, phổ-lập thiện-nhơn,
đắc Pháp hồi-Tâm bất nhuế: Tham, Sân, thị-vi chánh-tín, nghi
tịnh-an thành “Chánh-Đẳng Bồ-Tát” Tiên-Nhan Sư-Ân ban-
bố Tâm-Huệ khải-thông Nhãn-Tạng tinh-vi Điển chiếu, hầu
cứu-hộ lương-nhân, vi-thị chứng-quả “Tân-Pháp Tâm-
Truyền” Cao-Tiên môn-đệ “Tam-Kỳ Phổ-Độ” thị-hạnh giã dã.
Lạc-Tâm phổ-chiếu mãng: Càn-Khôn – do Chánh-Tâm đoạn-
tuyệt ái-ân nhi sử âm-tuyệt Dương-Thuần Chánh “Càn-Dương
ngộ Càn-Dương” nhi xuất-lộ Linh-Quang, dụng thử Thần-
Quang thăng Thượng “Vô-Cực Thiên-Cung” thị Chơn-Chánh-
Tín là “Đại-La Thiên-Tiên”.
SANH “LINH-CHÂU” nhập thế-cuộc nhi bất nịch-trầm ư
thế-cuộc, kỷ đoạn phù-hoa, hữu-ý tảo tầm Chơn tạo Tánh
Linh-Chơn, như “Liên-Hoa Túy-Nhụy” sanh trần: nhi bất
nhiễm trần-nê – do hữu Huệ-Tâm thiền, Thiên hộ đãm dẫn
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
52
Đạo đến tột chỗ tinh-thần thống-nhứt Qui-Nguyên Triệt-để;
mới là “Tánh danh môn-đệ Cao-Chơn” !
Con đã được KHÍ Ngươn-Tinh (ngưng tụ xứ) rồi; lẹ đem vào
Huyền-Quang-Khiếu, còn nhờ ơn Võ-Lộ Cao-Thiên, rút nó tự
lên Nê-Huờn là vui !!! Thì con sẽ đặng Thuần-Dương Bổn-
Tánh Chơn-Như phục hồi Cổ-Nhơn Chi Sơ-Sanh đó.
TỬ khả thừa Chơn-Mạng “Thế-Thiên Hành-Hóa” y-hành
Thánh-Huấn cho vạn-sự mỹ-toàn, hầu bá-tánh Tộc-Chơn,
đồng đăng qui Giác-Ngạc Niệm-Chú, tụng Kinh đắc hữu
Huyền-Linh hựu-hộ vạn-an thoát-ly nghiệp-chướng khả cầu:
Dân-An Quốc-Thới, Toàn-báo Tứ-Ân – hầu đắc vĩnh thoát
“Tam-Đồ Chi-Nghiệp”, chứng-thị toàn-công Sư-Ân trạch
dụng đó.
THI (Điểm HUYỀN-QUANG)
HUYỀN-QUANG Nhứt-Khiếu, hộ Thiên-Linh,
ĐỒNG lập Đức-âm – “Tối-Thượng Kinh”,
TỬ-SĨ thừa-hành y Sứ-Mạng;
NGUYỄN-Đường hữu-chí, Đức lưu vinh.
NGỌC-MINH ĐÂU-SUẤT – Truyền CHƠN-PHÁP;
CHÂU lộ Thiên-Cung, hiển ĐẠO-HUỲNH.
CHÍ-LỊNH ân-phê, tiền-định Thức,
TIÊN-TRI Chưởng-Quản, khả phân-minh.
Vậy NGÔI-HAI cũng mừng chào chung đẳng đẳng Thiên-
Mạng Sĩ-Nhu! Ráng lập-thành Chơn-Thể Linh-Quang, hầu trở
về Ngôi-Vị; đừng mê-lụy trược-trần u-tối, thì khó vẹn phần
hồi Cựu-Vị Chơn-Tiên!
Vậy Đàn nay tạm mãn, được phép nghỉ hồi-gia.
***** THĂNG *****
THI
LÊ truyền LÝ-ĐẠO, Thức Dân-Nam,
DUYỆT sự THƯỜNG sanh, khả Tịnh tham,
ĐẠI-Chí KIỆT-Thời, đô ứng-biến;
THẦN Minh LAI thế, ẩn Sơn-Lam.
Chư Đại-Thần đồng mừng chào Lưỡng-Đài nam-nữ! Hôm
nay hai Lão Thừa Sắc-Lịnh TAM-GIÁO lai Đàn truyền Lịnh.
Vậy đẳng đẳng toàn-tất nữ nam hiện-diện, khá Đại-Tịnh, hầu
Tiếp Giá “Thập-Phương Chư-Phật” đẳng đẳng các Vị La-Hán
và Đại-Đức VĂN-THÙ cùng “Vạn-Cổ-Phật” ngự trần, hầu
chứng Kinh.
Chư Thiên-Mạng khả khắc-kỷ huy-nghiêm Đại-Tịnh!
Chư Lão mừng chung Đàn! Xuất-ngoại hộ trấn trung-đàn.
***** THĂNG *****
TIẾP ĐIỂN
NGŨ-BÁ A-LA-HÁN Chúng-Đẳng hầu-chầu Đại-Tôn giá
lâm Như-Ý Linh-Thần Đài, chứng Kinh Tối-Thượng và sẽ
nhắc lại Tứ-Ân Kinh khả báu.
Chúng Tiểu-Đẳng ngoại Đàn hầu chầu, mau kỉnh thành
Tâm-Tịnh Cung-Nghinh tiếp Giá Phật lâm!
Tiếp Điển:
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
53
THI
VĂN – vẳng bên tai – tiếng niệm-kinh,
THÙ Ân Sĩ-Tử: hiệp-hòa minh,
BỒ Tâm Thanh-Tịnh, tùng Thiên-Lý;
TÁT đã độ nhơn, hóa Pháp-Thân.
GIÁNG Điển phân-tường – Tu Luyện-Kỷ;
HẠO thông Chơn-Tánh, đoạn suy tình.
NHIÊN bình hỗn-loạn, do hoài-cảm,
ĐÀN giảng Tứ-Ân, Đức phục Tinh.
Nam-Mô NHIÊN-ĐĂNG THƯỢNG-CỔ PHẬT, Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát!
Nam-Mô HUYỀN-KHUNG CAO-ĐÀI GIÁO-CHỦ TAM-
KỲ Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát!
Nam-Mô TAM-GIÁO TỔ-SƯ ĐẠI-ĐỨC CHÍ-HƯ CHÍ-
LINH Bồ-Tát Ma-Ha-Tát!
PHẬT-TÔN mừng Chơn-Linh của Bần-Đạo công-đức trong
buổi mạt đời Thế-Thiên thừa-mạng, hành Chánh-Đạo đã phô-
trương Tân-Pháp Cao-Đài cho Nhơn-Sanh Nhuần-Gội, học-
hỏi hoán-thông Tánh-Lý Chơn-Như, hầu noi đó mà hoàn cốt
Chuyển-Tâm, Huờn-Nguyên Bổn-Giác đắc thành Xá-Lợi
Kim-Đơn – sẽ hầu chầu NGỌC-BỆ, đó là Thượng-Báo
Trùng-Ân, rồi còn đặng hạ tế “Tam-Đồ Chi-Khổ”.
Bần-Tăng rất vui cho đó vậy! Chào chung Đàn chư Thiện-
Tín sẽ đặng công-đức lớn lao và sẽ được đáp-đền Tứ-Ân thậm
trọng, rồi thoát cảnh Luân-Hồi, chứng Vị Chơn-Nhơn Tịnh-
Tâm, Định-Thần đồng nghe Bần-Đạo giải-lý về Lục-Thông;
Tịnh-Tâm Đại-Định đồng tiếp-nghinh THẾ-TÔN ngự-giá.
Tiếp Điển:
NGÃ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT, giá-ngự Đàn tiền giáo
giảng Lục-Thông Chi Lý-Nhiệm.
Mừng Chư Thiện-Tín nam nữ và Linh-Châu-Tử Tịnh-Tâm
nghe lời Phật dạy!
Bần-Đạo mừng chư sĩ-tử HIỆP-THIÊN-ĐÀI VÔ-VI, khá
lóng nghe Phật-Thuyết:
Về chỗ Nhơn đối Hình-Thiên, Tam-Cảnh đã có lập rồi, các
Môn-đồ được thấy rõ tại Đâu-Suất Thiên-Cung (Thanh-Tịnh-
Đàn). Nguyên Đại-Hội vừa qua, phần Chưởng-Quản Tam-
Giang đã thừa Sắc Thiên-Hoàng Mẫu-Nghi và Tam-Giáo
cùng các Đấng Thiêng-Liêng đồng chứng Lễ: Khai-Minh
giáo-Lý Chánh-Thể của Tiên-Thiên Hư-Vô lập-thành dĩ-chí
đến Trung-Giang Tòa-Thánh (Tiên-Thủy). Bần-Đạo và Thái-
Thượng Lão-Quân, Đức Thượng-Đế, Thái Cực Thánh-Hoàng
và Đại-Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu – đã ấn-chứng cho Linh-
Châu-Tử, nó đã thọ-ký rồi sẽ đem truyền nguyên bổn ra, sau
cho người Chơn-Tu rõ thấu đường TU, không còn sai-lạc của
Pháp-Môn Cao-Đài Tân-Pháp – vì Bàng-Môn Tả-Đạo chẳng
có Lục-Thông!
LỤC-THÔNG
BÍ-DIỆU
CHƠN-HƯ
1. Trong khoảng thời Tịnh-Thủ Hư-Vô, thì bỗng nhiên
Tâm-Quang phát-hiện nơi Trung-Tâm; thì tự con đặng
thấy Phế và Can; bề ngoài – con đặng thấy Tóc và Lông-
mày nữa; Lại còn được biết Ngươn-Thần của Ta trấn tại
Trung-Huỳnh Thân-Ta mà rất nên dõng-dượt, trong
Tinh-thần mỗi ngày được khoái-sướng tứ-chi bá-hài nữa.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
54
Tự Tâm Ta thông-cảm – tự trổi giọng ngâm-thi vịnh-phú
ca-ngâm ngàn câu mà chẳng biết mỏi-mệt; thích-chí
Thuyết-Pháp Lý Huyền-Vi thêm tao-nhã vô-cùng vô-tận
gọi là “TẬN-CẢNH-THÔNG”.
2. Chẳng ra khỏi nhà Tịnh, đã túc-tri Tiên-đoán được vị-
lai. Thân tuy ở cách vách nhưng lại thấy đồ-vật bên kia
vách, lại được biết những chuyện duyên khởi đã xảy ra
và sẽ xảy ra trong Trời-Đất – vì Ta đã biết được Linh-
Điển với Thông-Công rồi, đó là “THẦN-CẢNH-
THÔNG”.
3. Trong khoảng đương “lim-dim” ngồi Tịnh-Thoàn, đang
khi tiếp Điển, bỗng lại bất Tịnh say-mê; mê tỉnh hỗn-độn
bất-phân, thoạt nhiên sanh ra ham muốn. Lại một chập
khác bỗng nhiên thấy Khai Thiên-Địa Sơn-Hà Quang-
Minh Thế-Giới, dường như không biết gì cả - nhưng mà
lại biết, được nhận-thấy xa-xăm ngàn-trùng kiến-văn tri-
thức và thấy rõ tương-lai, đó là “THIÊN-NHÃN-
THÔNG”.
4. Tường-thông nghe được tiếng Thập-phương, thông-
thuyết của thế-giái luận-đàm; như tiếng nói ấy kề gần
nho nhỏ bên tai, lại còn năng ức ý tiền sanh chi-sự nữa,
dường thể tỏ rõ tại nhãn-tiền, chi hiện cảnh đó vậy, đó là
“THIÊN-NHĨ-THÔNG”.
5. Hoặc trụ hoặc thá, thường năng nhập Tịnh, thượng-kiến
Thiên-Đàng, hạ-kiến Địa-Ngục; được quảng-kiến là nhờ
sự Tịnh-Thủ Hư-Vô, dẹp tình ý lưỡng-vọng song-vong,
dẹp bặt cảnh thất-tình lục-dục, không còn luyến-lưu ái-
tình nữa, đó là “LẬU-TẬN-THÔNG” liên-túc “TÁNH-
THÔNG”.
6. Được có Thần-Thông biến-hóa, tự Ta có xuất-nhập Tư-
Như; Động thì đắc-kiến Chúng-Sanh, tầm nơi ẩn-vi chi-
sự, ý-niệm vi-vi khởi-hiện, nhiên đã tiên-tri và tiến-thủ,
ấy là “THA-TÂM-THÔNG”.
Làm sao đặng có Lục-Thông?
Nhờ Tịnh-Thủ HƯ-Vô, nên Thâu-Liễm “Hạo-Nhiên Chi-
Khí” phục-huờn vào Huyền-Quang, Ta đã bồi-bổ chỗ tán-
hao phục-bình; Cho nên Đức Thánh Tử-Tư nói “Tâm vi
Tịnh Thân vị chi Thánh cớ Tâm nãi năng định, định nhi
năng Huệ “ – Tâm Ta tịch, nhi năng cảm; Tâm thường Tịnh,
nhi năng trí; Tâm-Không nhi năng Linh; Tâm-Thanh nhi
năng Minh; Tâm-Hư nhi năng Chánh-Giác; Công-phu chí
thử giã dã !!! … thị Chơn-Thành Tánh-Mạng chi Quang-
Minh vậy.
Tổng-Luận: Đại-Phàm nhứt-thiết Thiện-ác chi cảnh-giái:
lầu, đài, điện, các Chư PHẬT cập Chúng TIÊN đã dĩ đoạn-
tuyệt nhiễm-trược, đó là “Sắc-Không, Không-Sắc” vậy!
Thử-thời tự-động Hư-Không chi Đạo, đã tự mở Động Môn-
Khai (1) – sáng thêm tỏ rõ đó vậy, là Lục-Thông Pháp-Hiện
Thuần-Toàn! Bần-Đạo thăng …
(1)
Không còn dấu-diếm nữa, nay chỉ rõ sự vận-động của Bộ-Máy Càn-
Khôn, cũng như Bộ-Máy Tiểu-Châu-Thiên của con người là Bí-Diệu
Huyền-Thâm vậy.
THI
QUANG-Huy Diệu-Lý, Pháp Siêu-Hình,
ÂM diệt lưu Thanh, đốn Dục-tình,
NHƯ-Ý thủ Trung, Thần-Thông hiệp;
LAI huờn Xá-Lợi, Thượng Côn minh.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
55
Bần-Đạo mừng chư Thiện-Tín nữ nam! Đại-Tịnh hầu nghe
Bần-Nữ bình-giảng về Đoạn-Huyết-Tín của nữ-đoàn.
DIỆU-PHÁP TỐI-THÂM
LUYỆN TUYỆT TÍN-KỲ
--oOo--
Diệu dùng Thần-Công thống nhứt Tam-Điền – “Chơn-Khí
Thăng-Giáng”, phản Quí thành Nhâm, Huyết Thăng Trung-
Điền, Thống-Qui Tam-Ngũ, phục-hồi Khí-Căn-Huyệt “Bổn-
Nguyên”, đắc-thành Xá-Lợi Kim-Đơn.
Nhược hữu nhơn Thiện-Tín, hiếu Tâm, hiền-nữ, túc ước
Căn-Nguyên trí-thức thị thế như “Phù-Du”(1)
, tảo cấp Tịnh-
Tọa Tham-Thoàn Hô-Hấp, cho Khí hóa Thần, biến Ngươn-
Tánh nhị Huờn Hư-Cảnh-Thượng; tắc bất-nhập Lục-Đạo(2)
, sẽ
thoát hóa Thượng-đằng Tiên-Bang.
Nầy nữ-liệt anh-thư ôi! Tâm nghi Tịnh, bất nghi Động Tâm-
Thể; Tâm-Thể Thuần-Thanh; tất đắc Minh Thần-Quang khã
hỷ. Ý thủ Tịnh, tắc phát kết-thành, tường tất thị hạnh, tắc
chứng-quả Thần-Thông Quang hiện.
Nhân hữu Thiện-Căn duyên, ước giác-thế như “Mộng-Huyễn
Bào-Ảnh” hoán tưởng Khí tán Thần vong, Sĩ hoàn Hồn ly
uyển-nhục; Tão cấp nhập Tịnh-Thủ Hư-Vô – thâu Khí Huờn
Thần, hóa Tinh thành Điển xuất Hồn để thoát-ly trần sanh
khổ-hải. Nghi phát “Bồ-Đề-Tâm” xuất Huệ Căn lãm hiện đắc
Tâm sanh Lực, Lực sanh Chơn-Tức, Tức luân-hành Châu-
Thiên Nội-Thân, Tam-Quan Cửu-Khiếu vào Ngũ-Tạng hiệp
Ngũ-Ngươn, qui ư Mồ-Kỷ Nhị-Thổ “Trung-Điền”.
(1) Phù-Du là Đom-đóm nháng-sáng qua giờ đó thôi, chứ chẳng còn
sáng lâu. (2) Lục-Đạo luân hồi là 6 đường Đầu-thai khác khác vậy!
xuất đắc Thần-Quang thị hạnh, do tại nhờ nhập Tịnh Thoàn-
Cơ, theo Tân-Pháp Cao-Đài Thượng-Đế ân ban cho – Thâu
Huyết, Hóa Tinh; Tinh-Linh thành Điển, thị Điển nhi phát
Huệ-Quang; tốc tốc Tịnh-Thủ Hư-Vô, nhi đắc Thuần-Nhan
Mẫn-Tánh; Tánh hóa Tinh-Linh ư Nội-Khiếu Huyền-Quang
thành khối “Tam-Bửu” bảo-hộ Kỳ-Thân; Thân-Thể dung lệ
tợ Tiên-Nga. Ôi! Mạt hoán phiền-ba khổ-cảnh, lụy Tánh
nhập Mê-đồ. Hồn hóa Âm-Thần lạc ư Âm-Giái, hà-thời phục
đắc Nhơn Nhơn Hình dĩ dáo, chung Huờn oan-trái Tứ-Ân
Vô-Vi thậm trọng – ôi! Than ôi! Tắc lạc ư u-đồ đầu-sanh giã
dã!
Nghi tốc Thức-Tánh, Tự-Giác Giác-Tha, khả nghi tiên
Tịnh-Tọa, hậu tiếp-xúc Tiên-Thiên Chánh-Khí Vô-Trần, đem
vào nơi Khiếu-Huyền-Quan Thể-Luyện Hà-Phanh Tọa tại
Thanh-Thiên đắc Chơn-Khí, nhi hóa Điển, hữu Điển đắc trừ
đoạn nội Lục-Căn Tạp-Niệm(1)
nhi phản Huờn đắc Lục-
Thông Trí-Tuệ, chuyển-vận qui ư Trung-Điền “Pháp-Môn”
thị tại Không-Hư “Huyết-Hải” giã dã!
* Khả tương Hấp-Khí cánh yếu khinh-khinh nhập ư Đơn-
Điền(2).
Hồ-Khí diệt cánh yếu, xuất chánh vu Tỷ-Đoan(3)
nhi đắc
“Lưỡng-Khí Song-Huyền” điều-hòa phát-sanh “Tân-Dịch”.
Dịch sanh Nội-Tức; Tức-Tức Qui-Căn Khiếu dã. Nhứt Tức
tự Tâm-Sanh, khinh phù Thượng Cao-Đảnh; cư-trụ Đảnh
dưỡng Thần Song-Quang hữu Tinh-Linh tại Nội-Thành-Bửu.
Khã nghi Hồi-Quang Nội-Chiếu (thị Mộc-Dục) ôn-dưỡng
Ngươn-Thần, do Nội-Tức Ngươn-Thần sanh Điển, Điển diệt-
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
56
tận Thức-Tâm, khả chủ Chơn-Ý dĩ Ý Định-Thần. Thần dẫn
Khí qui ư Trung (Huỳnh-Đình), tất bặt xuất-ư ngoại Quyện
dã khắc – khắc diệt Ly ư Thượng Hạ giã dã!
Khã thiệt Dụng Tâm Ý tương-liên chuyển-vận tất thành. Cứ
Đại-Tịnh tương Song-Mâu-Quang chiếu vu Trung-Điền thị
hảo.
Hô-Khí diệt cánh yếu tùy Thần dẫn Khí quá “Vĩ-Lư” thăng
Hậu-Bối “ruồng Đốc-Mạch” chí Ngọc-Chẩm đến Thượng-
Điền(4)
mà trụ đó, rồi qua “Ấn-Đường” Thượng Thước-Kiều
vào Huyệt-Huyền-Ứng (Đốc-giọng) sanh có nước miếng ngọt,
khá mau nhẹ nhẹ mà nuốt cho vào đến Huyền-Quang-Khiếu là
hay như Thần, đó là nhờ nước “Tân-Dịch” bổ Trung-Nội-
Tạng. Nhắc lại nhờ có Tân-Dịch mới có sanh Nội-Tức đó.
(1)
Lục-Căn là 6 Căn nơi Nội-Tâm của con-người, do chỗ thiện ác, đọa-
trầm mà tái sanh bối kiếp đó vậy. (2)
Đơn-Điền là Trung-Điền, chỗ nữ-phái kết-đơn (Thai-Tiên). (3)
Tỷ-Đoan là Sóng-Mũi, trước khi hít-thở phải lấy sóng-mũi ngay Rún mà
làm chuẩn-thằng (giây giong cho ngay đúng) mực-thẳng. (4)
Thượng-Điền là tại Đảnh-Thượng “Nê-Huờn-Cung” đó vậy.
Đoạn nhờ Tức-Tức Qui Căn-Khiếu thành khối Tam-Bửu nơi
trong biến thành Tinh-Linh, chuyển-luân Châu-Truyền thăng
giáng.
Khi đến “Hạ-Thước-Kiều” (Tam-Xa-Lộ) là chỗ nguy-hiểm,
khá dặt-dè mới có qua Vĩ-Lư - ải đầu, mà chỗ tiền “Mạch-
Nhâm” hầu ruồng Tam-Quan qua Cửu-Khiếu nhập vào
Huyền-Quang (Trung-Điền) đặng.
Nhờ Tịnh nhiều ngày, Thần bảo Khí, Khí dưỡng Tinh, Tinh
hóa Điển, Điển sanh Quang, Quang-Ánh thông Thần mới
chứng Vị nữ-tài Tiên-Nương “Đắc-Đạo Tiên-Quang”.
Khi ngủ khi mê – nhờ Đại-Tịnh mà Liễm-Thâu Khí-Thanh,
nhóm vào Trung-Huỳnh, mà gọi là “Ngũ-Khí Triều-Ngươn”.
Có Ngũ-Khí Triều-Ngươn đắc-thành, mới gọi là hoàn-toàn thị
Pháp-Thân(1)
.
Trong khoảng đặng có Pháp-Thân rồi, là Ta sẽ bảo đền đặng
mối nợ Tứ-Ân – vì đã có Ngũ-Hành, Tam-Bửu, Nhứt-Khí
Hạo-Nhiên thành Điển-Quang toàn rồi, thì còn gì nữa – mà sở
dĩ luân-hồi?
- Kính xin hỏi Bạn-Đạo-Đồng còn gì là chết nữa ru??? (1)
Pháp-Thân là “Xác-Hơi”, có Tánh, Tình, Tinh, Thần và Khí ở trong
Nội-Thân.
TỔNG-YẾU VẤN-ĐỀ
TU-CHƠN CỦA PHỤ-NỮ
Đoạn Dâm-Căn, Dâm-Thân và Tư-Lự với Trú-Ý, cứ nhứt-
tâm Đại-Tịnh điều-hòa Hô-Hấp – đắc-thành chẳng sai.
ĐẠI-ĐỂ: ít ăn, ít nói, ít làm nặng và suy-nghĩ tưởng-gẫm là
hay. Hít vô cho nhè-nhẹ chí Rún, rồi bắt đầu từ Rún từ từ thở
ra chí Mũi (cho đủ 3 lần) như vậy, rổi nghỉ, đừng trú-ý vào
đâu đâu nữa. Khi Hít Thở cứ chăm-chỉ vào nơi Trung-Điền
(Sủng-Ngực) là đúng. Lấy Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu cho đủ Tứ-
Thời; Công-Phu Tịnh-Tọa chớ trễ chớ rời là hay. Cứ Mộc-
Dục là đúng đường TU (vì nơi trong Thủy-thăng Hỏa-giáng);
Lấy Lửa nấu Nước, Nước hóa thành Hơi, Dụng Hơi làm ra
Tinh-Ba “Tam-Bửu” bảo-hộ Thân nầy, thì ta sống đời.
Cứ y vậy mà làm thì đã diệt đặng Lục-Dục Thất-Tình bặt
dứt, thì Nhơn-Tâm đã tử, ắt có Huyền-Quang (Đạo-Tâm)
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
57
sanh, thì an-bình trường sanh cửu-thị - nhưng còn phải Hồi-
Quang Ôn-dưỡng cho thường thường – chớ cho rời hơi-âm-
ấm thật là trung-dung – cách truyền cho Chơn-Khí đã có
Thánh-Thai. Cứ Đại-Tịnh cho vững-vàng, để mất song-bằng
thì ý phải lo ra thí Khí qui Huờn! Nên hiểu đoạn nầy (!).
Cứ ăn nói đàng-hoàng, đi đứng chậm-rãi, mà cần phải soi
vào Trung-Huỳnh (Chánh-Trung), chớ rời – Tịnh yên dùng Ý
bảo Thần là hơn.
Tinh đã có, vì nơi trong đầy-đủ; thì “Hỏa-Bức Kim-Hành”.
Nhờ Hỏa tống Thủy-Khí lên mà vào nơi Huỳnh-Đình “Khí-
Huyệt” đã hóa Tinh-Linh-Tinh. Tinh muốn theo đường mà về
Hạ-Môn, thì lẹ mau rút ngay Thần-Công nghe!
Vậy giờ-khắc nào cũng bất-ly Thượng Hạ. Cứ chăm-chỉ
Không-Tâm là đủ. Ta cứ Đại-Tịnh đặng thường, thì Ta đặng
vong-ngã. Vọng-niệm sanh thì toàn-thể hiện rày Hào-Quang,
vì nhờ thường Tịnh mà Huyết đã hóa Hơi, không còn ứ-đọng
nơi Huyết-Bồn, thì còn đâu Vệ-Hạ nữa (?)
Đã đặng Kinh-Kỳ bặt-tín, đã không ra ngoài (Quyện) – thì
Ly-Khảm ( ) phản thành Càn-Khôn ( ), cũng
như Nam-Hành mà gọi là “Trảm-Xích-Long”.
Nếu biết đặng rồi – sớm TU Tịnh-Thoàn cho bặt dứt Kinh-
Kỳ, thì Càn-Khôn tương-đối tán-tan Linh-Hồn. Than ôi! Hồn
hỡi Hồn vậy ru!
Đại-Tịnh nhược-nhơn bất-thành Càn-Khôn tương-đối, thì
bất-thành Đại-Đạo Chơn-Hư của Điển ân Trời truyền. Mẹ
cũng quá thương-tâm đã lắm khi truyền lời cho tất cả các ái-
nữ - Tịnh lẹ đi, hầu mau phản Điển, thăng về Diêu-Cung –
Chị em bạn Tiên trông-chờ.
ĐẠI-LUẬN
HUỜN-HƯ LUYỆN-KỶ
THI LUẬN-ĐẠO
(Thuộc Lớp LỤC-THOÀN LUYỆN-KỶ)
--oOo--
TỨ-CHUYỂN KẾT-ĐƠN
(Có THẦY Ấn-Chứng)
THI Tam-hiện “Dương-Quang” mới “Kết-Đơn”
Lục-Căn Chấn-Động – đó là “CHƠN”
Đơn-Điền tợ Hỏa làm bằng chứng;
Lưỡng Thận “Hơi Xung” nóng chớ sờn.
Cặp mắt Hào-Quang như Điển-Chớp;
Lỗ tai dường thể gió nhiều cơn.
Châu-Thiên “Vận-Chuyển” hai vòng lớn,
Nguy-hiểm “Thượng-Điền” Ý dẫn Huờn.
NGŨ-CHUYỂN HUỜN-ĐƠN
THI Huờn-Đơn trở lại tại “Huỳnh-Đình”
Ý thủ đừng rời, chớ dễ-khinh,
Đại-Tịnh nếu lìa – tan Thuốc mất;
Gắng trau sớm, tối phải phân-minh.
Ngồi nằm dường thể “Mèo rình Chuột”
Đi đứng “Hồi-Quang” cẩn-thận gìn.
Nội-Tức qui Trong, mà Hộ lấy,
Tọa-Thoàn “Định-Tịnh” gắng công-trình.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
58
LỤC-CHUYỂN ÔN-DƯỠNG
THI Ôn-Dưỡng “Hoài-Thai” – Pháp Định-Thần,
Huỳnh-Đình Ý-Thủ chớ rời phân,
Dưỡng trong “Nội-Tức” là “Giáng-Hỏa”
Ngoài mũi “Không Hơi” thiệt quí nhân.
Tân-Dịch lối chừng “Ba Tháng dứt”
Mạch ngưng “Sáu Tháng” hết trong Thân.
Thai-Viên “Thập-Ngoạt” thăng lên Đảnh,
Ý-Thủ “ Nê-Huờn” tập xuất Thần.
TỔNG-LUẬN
CỬU-CHUYỂN HƯỜN ĐẠI-THÀNH Nhứt-Chuyển, Nhị-Chuyển “Luyện-Kỷ”
Tam-Chuyển “Đắc-Dược”
Tứ-Chuyển “Kết-Đơn”
Ngũ-Chuyển “Huờn-Đơn”
Lục-Chuyển “Ôn-Dưỡng”
Thất-Chuyển “Thoát-Thai”
Bát-Chuyển “Thần-Hóa”
Cửu-Chuyển “Phổ-Thiên-Đường”
Hiệp chi Thiên-Thần vạn Thông Như-Ý!
*****THĂNG*****
THI VĂN-nhân kiến-thức, Tứ-Ân Kinh,
THÙ tả Diễn-ca, khá lượng mình,
BỒ-Liễu, nam-nhi tròn hạnh-đức;
TÁT khuyên Sanh-Chúng – luận lời Minh.
Bần-Đạo mừng chư Thiện-Tín nữ nam! Tịnh-Tâm nghe Bần-
Tăng giảng-thuyết Báo-Hiếu Tứ-Ân Kinh đây!
PHẬT-THUYẾT
“BÁO-HIẾU TỨ-ÂN KINH”
DIỄN CA
--- VĂN-THÙ BỒ-TÁT “TRÙNG-TUYÊN” ---
BÀI
Ta từng nghe!
Một thuở nọ THẾ-TÔN – Định-Trụ,
Xá-Vệ thành, kỳ-thụ viên-trung,
Chư Tăng cu Hội rất đông;
Tính ra đến số - tám-muôn-bốn-ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ-Tát,
La-Hán đây, đủ mặt Tịnh-Trường,
Bấy giờ Phật lại lên đường;
Cùng hàng Phật-Tử, năm-phương – tiến-hành.
Đáo bán-lộ, đành-rành mắt thấy,
Núi xương-khô bỏ đấy lâu đời,
Thế-Tôn bèn vội đến nơi;
Lạy liền Ba-Lạy, lụy rơi giọt-hồng.
Đức “A-Nan”, chạnh-lòng bạch lại,
Chẳng hiểu sao – Phật lạy đống xương (?)
Vội-vàng xin Phật dạy tường;
THẦY là Sư-Phụ ba-phương, bốn loài!
Ai ai cũng Kính Thầy – dường ấy,
Cớ sao? – Thầy cúi lạy xương-khô,
Phật rằng – trong các Môn-đồ;
Ngươi là Đệ-Tử Hớn-Hồ dày-công.
Bởi chưa biết đục, trong, tỏ rõ,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
59
Nên vì ngươi, Ta tỏ đuôi đầu,
Đống-xương dồn-dập bấy lâu;
Cho nên trong đó biết bao cốt-hài.
Chắc cũng có Ông, Bà, Cha, Mẹ,
Hoặc thân ta, hoặc kẻ sanh ta,
Luân-hồi, sanh-tử - mà ra;
Lục-Thân đời trước, Hài là tụ-cư.
Ta lễ-bái Kỉnh người tiền-bối,
Cảm ngậm-ngùi, vì nhớ kiếp xưa,
Đống-xương hỗn-tạp chẳng vừa;
Không phân trai, gái, bỏ bừa khó coi.
Ngươi chịu khó, xét soi cho kỹ,
Phân làm hai: bên nữ, bên nam,
Sắp cho phân-biệt cốt-phàm;
Không còn lộn-lạo nữ, nam, chất-chồng.
Đức “A-Nan”, trong lòng tha-thiết,
Biết làm sao, phân-biệt khỏi sai,
Người bèn xin Phật chỉ-bày;
Vì khó chọn-lựa gái, trai –Ý Thầy.
Còn sanh-tiền, dễ bề sắp-đặt,
Hình đứng đi, ăn-mặc phân-minh,
Nay đã rã xác, khác hình;
Xương ai như nấy, khó nhìn, khó phân.
Phật mới bảo – A-Nan rõ biết!
Xương nữ, nam, phân-biệt rõ-ràng,
Người trai – xương trắng nặng-quằng;
Gái-bà xương nhẹ, đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn-bà sanh-đẻ, đó là,
Sanh con ba-đấu Huyết ra;
Tám-hộc bốn-đấu Sữa – hòa nuôi con.
Vì cớ ấy, hao-mòn thân-thể,
Xương đàn-bà đen, nhẹ hơn trai,
A-Nan nghe vậy, bi-ai;
Xót-thương cha mẹ công-dày, sanh thân.
Bèn cầu Phật – Thi- ân dạy biểu,
Phương-pháp nào – báo-hiếu Song-Thân ? (!)
Thế-Tôn mới chỉ Tứ-Ân;
Vì ngươi, Ta sẽ phân-trần – khá nghe.
Thân đàn-bà: nhiều bề cực-nhọc,
Sanh đặng con, thập-ngoạt cưu-mang,
Tháng đầu Thai-Đậu tợ Sương;
Mai chiều gìn-giữ, sợ tan bất-thường.
Tháng thứ-hai, dường như sữa-đặc,
Tháng thứ-ba, như cục Huyết-ngưng,
Bốn-tháng, đã tượng nên hình;
Năm-tháng Ngũ-Thể(1)
, hiện-sinh rõ-ràng.
Tháng thứ-sáu, Lục-Căn(2)
đều lộ,
Bảy-tháng thì đủ bộ cốt-xương,
Lại thêm đủ lỗ-lông luôn;
Cộng chung đến số: tám-muôn-bốn-ngàn.
Tháng thứ-tám, hoàn-toàn Tạng-Phủ,
Chín-tháng thì đầy-đủ vóc-hình,
Mười-tháng thì đúng kỳ Sinh;
Nếu con hiếu-thuận, xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ-nghịch, làm buồn Thân-Mẫu,
Nó vẫy-vùng, đạp quấu lung-tung,
Làm cho cha mẹ hãi-hùng;
Sự đau, sự khổ, không cùng tỏ phân.
Khi xuất-thai, muôn phần khoái-lạc,
Cũng ví như được bạc, được vàng,
Thế-Tôn lại bảo A-Nan;
Ơn-Cha, Nghĩa-Mẹ - mười phần Kỉnh-Tin. (1)
Ngũ-Thể là Đầu, hai Tay và hai Chân. (2)
Lục-Căn là Mắt, Tai, Mũi, Miệng, Tâm và Ý.
Điều thứ-nhứt – giữ-gìn Thai-Giáo,
Mười-tháng tường, châu-đáo mọi bề,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
60
Thứ-hai – sanh-đẻ gớm-ghê;
Chịu đau, chịu khổ, mỏi-mê trăm-phần.
Điều thứ-ba – Thâm-Ân Sanh-Dưỡng,
Cực đến đâu, thương-tưởng chẳng lay,
Thứ-tư ăn-đắng, nuốt-cay;
Để dành bùi-ngọt, đủ-đầy cho con
Điều thứ-năm – lại còn giấc-ngủ,
Ướt Mẹ nằm, khô-ráo phần con,
Thứ-sáu – sú-nước nhai-cơm;
Miễn con no-ấm, chẳng nhồm, chẳng ghê.
Điều thứ-bảy – không chê ô-uế,
Giặt đồ dơ của trẻ, không phiền,
Thứ-tám – chẳng nỡ chia-riêng;
Nếu con đi vắng; Cha phiền, Mẹ lo.
Điều thứ-chín – miễn con sung-sướng,
Dầu phải mang nghiệp-chướng, cũng cam,
Tính sao, có lợi lòng tham;
Chẳng màng tội-lỗi, bị-giam, bị-cầm.
Điều thứ-mười – chẳng ham trau-chuốt,
Dành cho con các cuộc hỷ-nhàn,
Thương-con như ngọc, như vàng;
Ơn-Cha, Nghĩa-Mẹ - sánh bằng Thái-Sơn.
Phật lại bảo A-Nan hiểu biết,
Trong Chúng-Sanh tuy thiệt phẩm người,
Mười phần, mê-muội cả mười;
Không tường ơn-trọng, nhơn-từ Song-Thân.
Chẳng kính-mến, quên Ân, trái mực,
Không xót-thương dưỡng-dục, cù-lao,
Ấy là bất-hiếu, mạt giao;
Vì những người ấy, đời nào nên thân.
Mẹ sanh con, cưu-mang mười-tháng,
Khổ ba-năm, gánh-nặng trên vai,
Uống ăn chẳng đặng, vì Thai;
Cho nên thân-thể hình-hài – kém-suy.
Khi sanh-sản, hiểm-nguy chi-siết,
Sanh đặng rồi, Tinh, Huyết dầm-dề,
Ví như thọc-huyết trâu, dê;
Nhứt-sanh, thập-tử, nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ, hoàn-toàn săn-sóc,
Ân đắng-cay, bùi-ngọt phần con,
Phải tắm, phải giặt rửa trôn;
Biết rằng nê-trược, Mẹ không nại gì.
Nằm phía ướt, con thì phía ráo,
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn,
Hoặc khi ghẻ-chốc khắp thân;
Ắt con phải chịu trăm-phần thảm-thương
Trọn ba-năm, vẫn thường sữa Mẹ,
Thân gầy-mòn, nào nệ với con,
Khi con vừa được lớn khôn;
Cha Mẹ dạy bảo cho con vỡ-lòng.
Cho đi học mở thông trí-huệ,
Dựng vợ-chồng, gia-thế làm ăn,
Ước-mong con đặng nên thân;
Dầu cho cha mẹ cơ-bần, quản chi.
Con đau-ốm, tức thì lo chạy,
Dầu tốn-hao cách mấy, cũng đành,
Miễn con – căn bịnh đặng lành;
Thì Cha Mẹ mới an-tâm, tĩnh thần
Công dưỡng-dục, sánh bằng non, biển,
Cớ sao con chẳng biện ơn nầy,
Hoặc khi lầm-lỗi, bị rầy;
Chẳng tuân, thì chớ, lại bày ngỗ-ngang.
Chống Cha Mẹ - phùng-mang, trợn-mắt,
Khinh trưởng-huynh, nộ nạt thê-nhi,
Bà-con chẳng kể ra gì;
Không tuân Sư-Phạm, Lễ-nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo, Song-Đường không nghỉ,
Tiếng khuyên-răn, anh chị chẳng màng,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
61
Trái-ngang, chống-báng mọi đàng;
Ra vào, lui tới – mắng càng người trên.
Vì lỗ-mảng, tánh quen làm bướng,
Chẳng kể lời trưởng-thượng dạy răn,
Lớn lên theo thói hung-hăng;
Đã không nhẫn-nhịn, lại càng hành-hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ,
Nết tập quen, làm việc trái-ngang,
Nghe lời dụ-dỗ quân hoang;
Bỏ Cha, bỏ Mẹ, bỏ sang quê-người.
Trước còn tập theo thời, theo thế,
Thân lập thân – tìm kế sanh-nhai,
Hoặc đi buôn-bán kiếm tài;
Hoặc vào quân-lính, Các-Đài lập-công.
Vì ràng-buộc đồng-công, đồng-nợ,
Hoặc trở-ngăn vì vợ, vì con,
Quên Cha, quên Mẹ tình-thâm;
Quên xứ, quên sở, lâu năm không về.
Ấy là nói – những đề có chí,
Chớ phần nhiều du-hí mà thôi,
Sau khi phá hết của rồi;
Phải tìm phương-thế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm-cướp, hoặc bài-bạc, hát,
Phạm-tội hình, tù-rạt phải vương,
Hoặc khi mang bịnh giữa đường;
Không người nuôi-dưỡng, bỏ xương ngoài đồng.
Hay tin dữ, bà-con cô-bác,
Cùng Mẹ Cha xao-xác buồn-rầu,
Thương-con thảm-khóc ưu-sầu;
Có khi mang bịnh đui-mù, vấn-vương.
Hoặc bịnh nặng, vì thương quá lẽ,
Phải bỏ mình, làm kẻ oan-ương,
Hoặc nghe con chẳng lo-lường;
Trà-đình tửu-điếm, phố-phường ngao-du.
Cứ mài-miệt, kẻ ngu bất-chính,
Chẳng mấy khi “Thần-Tỉnh Mộ-Khang”
Làm cho Cha Mẹ than-van;
Sanh con bất-hiếu, phải mang tiếng đời.
***** THĂNG *****
THI NGƯƠN-HẠ mạt đời, thất Kỷ-Cương,
THỈ-Chung bằng-hữu, loạn Luân-Thường,
THIÊN-Nhiên TẠO-HÓA, nhơn vô-tín;
TỔ-PHỤ ân-thâm bất kỉnh nhường.
NGÃ THIÊN-TÔN lâm Đàn, đẳng đẳng khả thính kỳ Giáo-
Truyền.
BÀI
TỔNG-LUẬN TỨ-ÂN
Ân Trời-Đất – Tạo-Công khai-sáng,
Hiệp Âm-Dương, lạnh bán, bán nồng,
Chuyển-luân, luân-chuyển Hư-Không;
Hạo-Nhiên Nhứt-Khí, Hỏa, Phong, Thủy hiền.
Do Động-Tịnh, chân-truyền Động-Tịnh,
Tịnh bất-mãn – do Tịnh Động khai,
Đó là Lưỡng-Khí phân hai;
Do trong chỗ Khắc, đêm ngày Khắc, Sanh.
Dụng chất Sanh, Khí-Thanh Dục-Dưỡng,
Giúp muôn-loài, trưng-tượng Sống, Sanh,
Phân-minh Khí-Hóa lập-thành;
Trong Không – mà có Tinh-Anh hộ đời.
Chất Khí-Thanh, nơi nơi đều có,
Giúp cho người, cây-cỏ, thú-cầm,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
62
Sanh Thiên cao, Địa hậu thâm;
Công-ơn Trời-Đất – muôn-năm đời-đời.
Vậy người phải thời-thời lo trả,
Nghĩa-ân cao, người đã thọ-phù,
Còn Thân, thì phải lo TU;
Đáp ơn Sanh-Hóa, Thiên-Thu thâm-quằng.
Tu sao đặng thường hằng trường-cửu,
Như “Bành-Tổ”, sống chủ Sanh-Linh,
Đó là bồi-đắp vô-hình;
Chẳng đem xác-tục, chôn mình đất sâu.
ĐẠO TỨ-ÂN – đứng đầu Trời-Đất,
Đến Cha-Mẹ - chất-ngất công-thâm,
Sư-ân dạy-dỗ chớ lầm;
Bằng-hữu cũng trọng, tháng năm kính-thành.
Đừng phụ-bạc, cam-đành bất-hiếu,
Với bất-tín, mà thiếu Tứ-Ân,
Trong ba, thiếu một – là Thần;
Nếu còn sanh-sống – Tứ-Ân lo đền.
Người Hiếu-Đạo – tuổi tên trần-thế,
Phải biết rằng: Cứu-Tế Trời ban,
Lo TU mới trả hoàn-toàn;
Đất là MẸ đẻ, nặng mang nợ đền.
Trời không-gian, Cao-Trên vạn-vật,
Dưới Ngũ-Hành, là Đất thấp bằng,
Chở-che, bảo-dưỡng giáng, thăng;
Vòng-tròn Vũ-Trụ, theo lằn Càn-Khôn.’
Nhờ bởi KHÍ – mà con mới Sống,
Nương theo Thần, mềm-mỏng quang-minh,
Mới là Nhơn-Hữu Tánh-Tình;
Khôn hơn vạn-vật – phải nhìn Tứ-Ân.
Trò là Đệ PHÁP-TÂN, TÂN-PHÁP,
CAO-ĐÀI – nguyên – Âm ráp hòa Dương,
Nhớ khi đắc Tánh-Chơn-Thường;
Phận người cõi-tạm, tỏ-tường công-thâm.
THI Công-thâm Dưỡng-Dục, hộ Quần-Sanh
Tứ-Đức Đạo-Truyền Giác giảng thành,
Sư-Phụ khuyên-răn, nên chí-thiện;
Đường ngay, lối thẳng, tiếng thơm danh.
ÂN SƯ-PHỤ (ngàn ngày chớ quên)
BÀI Từ KHỔNG-THÁNH, gia-băng Giá-Hạc,
Chốn Hạnh-Đường, bỗng thoạt buồn-hiu,
Thất-Thập-Nhị Hiền chín-chiều;
Nhớ Thầy – hình-bóng – lắm nhiều giọt-tuôn.
Người thì cảm quá, buồn nhắc-nhở,
Trò thì trông, có thuở chiêm-bao,
Nghĩ thương –ruột-thắt, tâm-bào;
Như gà chít mẹ, biết sao gặp Thầy.
Lâu ngày nhớ, bỗng thay-đổi Chí,
Trò thì lo hành lý – qui-gia,
Trò lại gương-mặt buồn-so;
Lạy Linh-Sàng đó – lần dò lui chơn.
Chỉ còn lại: Tử-Ngươn, Tử-Cống,
Tăng, Mạnh-Tử tâm-thống nhớ Thầy,
Ngày đêm tấc-dạ chẳng khuây;
Thầy đây? – trường đó! Hỡi Thầy đi đâu?
Hàng Đệ-Tử, Tử cầu phản-chưởng,
Bàn cùng nhau – quá tưởng mà sai,
Thầy qui-Vị, có người thay;
Thế Thầy Chủ-Trưởng hằng ngày dạy ta.
Anh Tử-Nghiêm – cũng là đúng-đắng,
Tôn làm Thầy, cho sáng Hạnh-Đường,
Đừng bi-lụy, dứt Cang-Thường;
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
63
Ta nên hiệp-ý nhịn-nhường – thế Sư.
Tăng-Tử nghe, ngôn-từ bất-hạnh,
Lại càng thêm lòng-chạnh thêm đau,
Ý anh – tưởng nghĩ làm sao;
Dám đem anh bạn thế vào Thầy ta.
Tính như vậy, thật là bội-nghĩa,
Coi Sư-Ân như tỉa đậu-mè,
Khác nào vắng chủ - tháo be;
Quên ơn dạy-dỗ, ta e mất hiền.
Tôi tình-nguyện nhẫn-kiên thủ mộ,
Đủ ba-năm, báo bổ ơn Thầy,
Che chòi – khuya sớm phía Tây;
Cúng-dường Hương-Thủy, giải-khuây lòng phiền.
Xem đó biết, Tánh hiền Quân-Tử,
Sự vong tồn, cũng giữ như sanh,
Hỡi ai nỡ đoạn cho đành;
Nghĩa-Ân Sư-Phụ, bỏ danh-giá Thầy.
Mặc-tình bạn đổi-thay, bội-bạc,
Tăng-Tử nguyền Đạo-Lạc chi-ân,
Quân, Sư, Phụ nhị Trung-Dung;
Trọn đời chẳng dám phụ-lòng Sư-Ân.
Huống Thầy là – Chủ-nhân KHỔNG-GIÁO,
Nỡ phụ Thầy, áo-não cho trò,
Tội Ngũ-Luân, phạm càng lo;
Nghịch Sư, Bội Giáo, ai cho hiền-tài.
--oOo--
ĐẠO BẰNG HỮU (Á-Thánh Mạnh-Tử)
BÀI
Tình Bằng-Hữu chi-giao, là trọng,
Nghĩa Kim-Bằng, công-cộng lòng thương,
Chung-đồng giúp đỡ họa-ương;
Trong khi tai-nạn, đởm-đương lo dùm.
Lại dạy ta đừng dùng thô-bỉ,
Chỉ phân rành, tỉ-mỉ răn-khuyên,
Hòa-tâm nhẫn-nại cao-kiên;
Cho ra hiền-hiếu, đầu-tiên Đức lành.
Lòng thương-mến em, anh như ruột,
Để giúp nhau thang-thuốc khi đau,
Nghèo-khổ - chung-thủy một màu;
Khuyên đừng phản-phúc, khác nào Trực-Tiên.
Niềm chi-giao, chỗ hiền – chỉ bảo,
Lánh khổ-thân, thiện-hảo lòng nhân,
Đó là khoảng chánh – Tứ-Ân;
Nhớ lời Hồng-Thệ keo-sơn – ghi lòng.
Nếu phụ-nghĩa, bị vòng oan-trái,
Chiếu Thiên-Điều, tê-tái lương-tâm,
Phản nhau thì hổ lương-tâm;
Cũng như Tôn-Tẩn bị lầm Bàn-Uyên.
ĐẠO BẰNG-HỮU, phải liên chung nhánh,
Xá lỗi nhau, lòng-chánh dạ-ngay,
Y lời thương-tưởng hằng ngày;
Đoàn-viên kết-nghĩa, hôm nay tiếng còn.
Lưu, Quan, Trương lòng-son như Nhứt,
Anh-dũng-hùng, tín-thức chi-giao,
Đạo-Gia rán giữ hơn nào;
Đừng lòng phụ-bạc, khó, giàu – rẻ chia.
Ân-nghĩa nặng, như bia cẩm-thạch,
Chạy hồ-văn, trọng-trách Kim-Bằng,
Cho tròn nghĩa-vụ như trăng;
Đừng lòng ân, oán, lẽ hằng Tứ-Ân.
Phải nhớ bạn, ơn-mang nghĩa-bạn,
Chớ phụ-lòng, mặt rạng mày chì,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
64
Giữ sao Nhơn-Nghĩa cho y;
Cũng như ruột-thịt, liên-chi bạn VÀNG.
Tứ-Ân cho vẹn – mới an,
Tròn câu – Bằng-Bối Huy-Hoàng – tương-thân.
TIẾP ĐIỂN
Thánh Nhơn-Sanh trong vòng tục-lụy, hầu thực-hành “TÂN-
PHÁP SIÊU-HÌNH” về Nguyên-Bổn.
THI LÝ-ĐẠO truyền gieo Chưởng giống lành,
THÁI-hòa ban phước khắp Lương-Sanh,
BẠCH minh Giáo-Lý, Linh-Căn tỉnh;
Kiêm chiếu hậu-lai – tạc Sử-Danh.
GIÁO-Hóa phổ-thông, đường CHÁNH-PHÁP;
TÔNG Khai độ-dẫn, Đức viên thành.
NGỰ-HOÀNG phê-bút, Chơn-Kinh đắc,
ĐÀN nội chí-tâm, phụng-lịnh hành.
Phàm sanh đứng làm người, phải biết có chi chi trên đầu,
Đại-Tịnh Không-Trung – kêu ấy, tức là Trời. Nhờ bẩm thọ
Âm, Dương mà thành Hình, rồi nhờ nơi Trời chiết cho một
Điểm Linh-Quang, mới biết được mọi sự-vật – là một Đấng
cầm-quyền cả Càn-Khôn Thế-Giới, làm Đấng Tạo-Hóa cho
Nhơn-Loại hưởng.
Nhờ các Vị Phật, Tiên, Thánh, Thần cùng Nhựt, Nguyệt
Tinh-Tú, Vân, Phong, Lôi, Sương, Tuyết – đều tuân theo một
luật Vận-Hành của Trời mà xoay chuyển.
Còn người là một Tiểu-Linh-Quang của Trời chiết chia
xuống – đặng lo công-cuộc tấn-hóa của đời cho mau đến chỗ
Tận-Thiện, Tận-Mỹ vậy.
Như một Chơn-Linh tá-thế, thì chưa biết đâu là ĐẠO, là
Đời; chỉ biết một thân mình, rồi chí-công học-hành, hầu tạo
chút công-danh. Chừng bước lên đôi bực khoa-trường, mới
biết mình là Đấng-Làm-Người, còn phải lo cho Quốc-Gia Xã-
Hội! Rồi mới biết thương Dân, thương Nước, mến Đạo – mà
gắng chí đặng mở Tâm Khai-Hóa, sửa cuộc trị-an Đời-Đạo
Song-Tu hầu dẫn Chúng Gội-Nhuần Âu-Ca Lạc-Nghiệp.
Chốn hoạn-trường càng trường-trải, càng thấu-rõ sự Đời, chí
thanh-liêm hằng giữ-gìn, thương cho Nhơn-Sanh ác ra mất
Đức mà nghèo khổ. Bước qua một bước, nhìn lại trường hậu-
tấn mà đau-đớn chí trung-thành, vì tấc đất ngọn rau, do chẳng
may mà khuất-bóng non Thần, cũng gạt tiếng muôn-năm bất-
hủ.
Cũng một lý ấy, người vừa biết cuộc-đời, vừa nhàn sự-thế,
xả kiếp phù-sinh, đi tìm chốn Tu-Hành – thì tưởng làm cho
mình nên Tiên, nên Phật. Đã trải qua một thời-kỳ, đôi khi
thất-vọng, rồi mới biết mình TU để cứu đời, lo cho tinh-thần
Chúng-Sanh tấn-hóa, mới hạp với Cơ-Trời. Chừng ấy mới
quên mình, mà lo cho vạn-vật, dầu phải cơn lao-khổ cũng
chẳng nài chi kiếp-sống trên thế-gian, lo Đạo không nhàm,
tuyết-sương chẳng quản - ấy mới xứng cái địa-vị làm Tiên,
làm Phật.
Sống thì độ đời, thác thì còn dài hương-khói – bởi thế nên
CHÍ-TÔN mới hạ Lịnh cho chư-hiền xuống chốn phàm-trần!
Chưa đặng rõ cho lắm, nên Chúng-Sanh nhát sự Tu-Hành
không cần giúp Chúng.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
65
Đời – Đạo vẫn tương đối nhau và phải khác nhau; quyền đời,
quyền Đạo cũng thế.
- Đời là vì lòng người hung-ác, kẻ xảo-mưu, tham tranh danh
đoạt lợi, giành thế, giựt quyền, sát-sanh hại-vật, tàn-phá lẫn
nhau. Nên muốn sắp-đặt cuộc trị-an, sửa đàng cho Chúng-
Sanh bước tới, thì đời phải có quan-quyền. Quan là người biết
hơn Dân, mà Quyền lại là thế-lực bề trên ban xuống – nên sửa
đời mới đặng.
- Còn Đạo thì giữa cuộc-đời vật-chất – vì lòng ham muốn,
sanh Lục-Dục Thất-Tình, tạo nên tứ-tường (sắc, tài, tửu, khí)
mỗi ngày càng lụy, khổ xác nhọc hồn, mờ-ám Linh-Quang;
phải có Đạo để mở-mang cho người đời mau Thức-Tỉnh – vì
vậy phải có Hướng-Đạo hay Thiên-Ân. Hướng-Đạo là người
biết Thức-Tỉnh hơn Chúng-Sanh, biết sự khổ của thế mà lo
Tu-Hành mới lo sự Khai-Hóa Tinh-Thần cho vạn-vật hấp-thụ
Chơn-Tâm.
Đạo cũng có quyền Đạo là Đức, nhờ có Đức mới cảm hóa
lòng người – không răn mà sợ, không phạt mà nghe; cốt-yếu
về chỗ Thương – Thương mới đem Đường cho người đặng.
Vậy muốn người thương, trước phải thương người hay phải
tạo lòng thương của ta trước đã, thì mới mong đi đến chỗ tận-
thiện tận-mỹ - Dân-sanh, Dân-trí, Dân-đức hoàn-thành.
Chơn-Linh là đồng-thể - mà tại sao kẻ cao, người thấp, kẻ
dại, người khôn – chẳng qua vì nhiều kiếp. Người ít kiếp Tu,
hoặc nhiều kiếp trước tạo gây oan-nghiệt, nên kiếp này phải
chịu khổ-nạn đền-bồi, hoặc vì kiếp trước khéo Tu – tạo nhiều
Âm-Đức, nên kiếp này được hưởng lắm sự vinh-sang.
Bởi kiếp trước mê-sa vật-dục, làm những điều tán-tận lương-
tâm, khi ấy động Điểm Linh-Quang – phải mờ-ám – mà sanh
kiếp này phải khờ-dại. Vì kiếp trước có chí Tu-Hành, cần trau
Tâm-Tánh Thiện-Nhơn được sáng-suốt thông-minh, nên kiếp
này khôn-ngoan trí-não – đó là sự cấu-kết Xác và Hồn đời
trước và đời nay vậy.
Đến đây chư-hiền vừa thấy cái phận-sự Thiên-Chức Hành-
Đạo là quan-trọng và lớn lao đáng mấy; và người có Tiền-Căn
mới lãnh vai nặng Thiên-Ân Sứ-Mạng.
Kết-cuộc Huỳnh-Đạo Thiên-Khai Dụng Tân-Pháp Cao-Đài,
tự Thủ Hư-Vô Phục-Huờn Chơn-Tánh. Đời, Đạo phải tường,
quyền nào theo quyền nấy.
Vậy sự sắp-đặt của Đạo phải biết rằng “cái khuôn” để dìu-
dắt Chúng-Sanh, chớ chẳng phải cái quyền hành-phạt người
lỗi Đạo. Sự lỗi là bởi lầm – vì không biết mà lầm, thì lỗi ấy do
nơi người biết.
Vậy phải xét rằng – thế-gian là khổ, mà nhứt là tại sự dốt-nát
vô-minh tạo nên; bằng được biết nó rồi thì thế-gian là cõi
Thiên-Đàng vậy – vì Chúng-Sanh nhờ Tịnh mà an, thì Thất-
Tình bất khởi.
Chư-hiền là người TU, cần phải giúp đời và quên mình với
Đạo, rồi mới có chỗ hòa-thuận sau nầy. Bởi chư-hiền có lòng
lo Đạo, chẳng phân sang, hèn, nơi nào cũng lo cũng giúp –
cần phải suy mới biết, nên Lão đáng kính khen trọn lòng vưng
Sứ-Mạng độ Dân trong thời-kỳ Mạt Hội-Hợi, Tý-Hội sẽ sang.
Cái chí Tu cần phải có lập-trường cho vững và tương-ái nhau
mà đến nơi, hầu sắp bày cảnh Vô-Vi Vô-Cực tại thế an-nhàn
và cũng là Niết-Bàn hi-hữu vậy.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
66
--oOo--
THI BÀI
Trải cuộc-thế, hoạn-trường tấn-bộ,
Đâu sánh bằng ẩn-số - Thiên-Tào,
Đã từng thấy cuộc-đời đau;
Nhưng lòng hằng tỉnh, biết sao bấy giờ.
Cuộc Quốc-Túy, Đồ-Thơ gánh nặng,
Cảnh Dân-Sanh, biết đặng sửa xây,
Hùng-Thư thổn-thức canh chầy;
Thiết-tha sự-thế, khó khuây Cơ-Đời.
Cảnh Gia-Đạo, Máy-Trời luân-chuyển,
Đạo không hòa, xao-xuyến Tâm, Cang,
Nhãn suy, Tình phải vướng mang;
Tấm thân bảy-thước, khó toan liệu nào.
Chỉ còn có – Tu sao – đắc Pháp,
Hầu thành-công chỗ ráp Máy Thiên,
Định-Tâm, Quan-niệm Kiền-Thiền;
Nhờ Thầy điểm khuyết oan-khiên diệt hào.
Tiếng trẻ nhắn – xôn-xao giấc-mộng,
Lòng vẫn trau cho chóng, kiếp Tu,
Cảnh đời như ánh Phù-Du;
Tầm nơi Đạo-Đức, công-phu Tịnh bền.
Vì hữu Căn – cho nên ngộ Đạo,
Do lòng nhân thấu-đáo Cơ-Trời,
Chí-thành thông-cảm Phật-Trời;
Nguyện xưa nhớ lại – Tu thời thành-công.
Cầu Thượng-Phụ chứng lòng chí-nguyện,
Dục giảm-thuyên, độ tiến Nhơn-Sanh,
Đáp-đền Đức-Hóa Căn lành;
Chí-Tâm học Đạo, Tịnh-Hành sớm khuya.
THI Sớm khuya Tịnh-Định, hứng Ân-Trời,
Bốn buổi cố-kiên, dạ chớ lơi,
Tý-Ngọ - đúng giờ Thâu-Liễm KHÍ;
Chiều mơi, Tâm-Ý buộc đừng lơi.
***** THĂNG *****
THI NGỌC-Bút Ân-Thiên, điểm Huệ xuân,
HOÀNG thành Phê Sắc các con mần,
THƯỢNG trao Danh-nghĩa – Chơn HUỲNH-ĐẠO;
ĐẾ trạch Sách ban, trẻ thấm-nhuần.
CHỨNG-Quả Trọn lòng thừa Sứ-Mạng;
LỄ công Lập Đức, tạ Tiên, Thần.
HUỜN Ngôi Đại-Thánh, Kim Viên-Mãn,
KINH báu Công tròn, độ vạn Dân.
THẦY Linh-Hồn các con! Lành thay! Lành thay! Vui thay!
Vui thay!!! …
--oOo--
ĐIỂM-CÔNG ĐẠO-TÂM HOÀN-THÀNH
CHƠN-KINH (Nữ Nam Chung Thành Bửu-Quyện)
- DANH-SÁCH ÂN-PHÊ –
THI BÀI
Thừa vưng Sắc: Hư-Vô Bửu-Điện,
Tử-Linh-Châu, đại-diện cao-niên,
Tam-Giang Chưởng-Quản, Tiên-Thiên;
CAO-ĐÀI THỐNG-NHỨT, qui nguyên phục hườn.
Truyền TÂN PHÁP, Nhứt Chơn Cao Đạo,
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
67
Tại “Phú-Long”, chánh Hạo-Nhiên-Đàn
Lập Kinh “Tối-Thượng Châu-Quang”;
CAO-ĐÀI QUỐC-ĐẠO VIỆT-NAM CHƠN-
TRUYỀN.
Hiến Đạo chung, Căn-Nguyên Tu-Học;
Hầu rõ thông, tầm đọc Kinh-Chơn,
Rõ-ràng Cửu-chuyển Thất-Huờn,
Theo lời chỉ dạy – Huờn-Đơn Đạo-Thành.
THẦY điểm con, thinh-danh Tân-Pháp,
Trọn một lòng chuyển-đạt Ngũ-Phang,
Lập-thành Tịnh-Thất Đạo-Tràng;
Truyền-Chơn Vô-Hữu, Thiên-Hoàng ấn ban.
HUỲNH-QUANG-SẮC, huy-hoàng tại thế,
VÔ-CỰC-ĐỒ, Bí-Chế Hữu-Hình,
Vô-Vi thống-hệ trong Kinh;
CHÂU-QUANG TỐI-THƯỢNG, phân-minh tỏ bày.
Lắm công-phu, trần-ai với ĐẠO,
Chí hy-sinh, quyết tạo Bổn-Nguyên,
Nên nay thông-thấu Tam-Điền;
Huỳnh-Đình chấp-chưởng mối-giềng Hư-Vô.
Điểm công con – trương-phô Thiên-Đạo,
Hòa Nhơn-Đạo, hiệp-hảo Âm-Dương,
Lưu-danh đắc Tánh Chơn-Thường;
Thông-Thiên Phổ-Tế, Tịnh-Dương Phật-Thiền.
Nguyễn-Ngọc-Châu, thọ-truyền Đồng-Tử,
Bảo-Quân Tế-Trung, ngữ Linh-Thông,
Huyền-Quang dẫn Đạo chí-công;
Đáp-đền sanh-dưỡng, Đại-Đồng Phổ-Nhơn.
Ánh Hào-Quang, Ngũ-Chơn Minh-Đạo,
Mở hoát bài – Khí-Hạo Huyền-Linh,
Huyền-Quang thông-cảm Thiên-Đình;
Giáng trần dạy bảo hữu-hình, đặng Tu.
Hành Sứ-Mạng, ôn-nhu Bổn-tánh,
Truyền Pháp-Cơ, người lánh khổ-sầu,
Hư-Vô Tịnh-Thủ công đầu;
Mối-mang Chuyển-Hóa cao-sâu huy-hoàng.
Sẽ hưởng phước an-nhàn Thánh-Cảnh,
Nơi Hư-Vô, lập Đảnh An-Lư,
Đâu còn chấp tướng ý tư;
Từ đây Tịnh-Định, Đại-Từ ân-ban.
Chơn-Không Tánh Tịnh-An đắc Bửu,
Thông Tam-Tài, Vô-Hữu, Hữu-Vô,
Văn-Phương đoạn-tuyệt trần-đồ;
Rán thêm vài dặm, điểm-tô Đạo-Thành.
Công-Đức trẻ, lưu-danh Bí-Pháp,
Đã dày-công, dụng-áp Bổn-Tâm,
Đến đây trẻ khỏi lạc-lầm;
Theo đề “Tân-Pháp”, ngàn năm sống đời.
Diệu-Giác con, Tứ-Thời cứ Tịnh,
Chấn-Tý học, rán vịn chơn THẦY,
Dẹp Hỏa-Tánh, MẸ, THẦY khuây;
Nếu con còn Hỏa, hội này khó Thi.
Thương trẻ dại, biết đi tầm Đạo,
Đạo thấy rồi, Tâm-Não còn non,
Định đi, THẦY điểm Huệ son;
Chờ con dứt Tánh, Bồng-Non an-nhàn.
Võ-Văn-Ngàn, con đàng Đạo-Đức,
Ớ nầy con – đoạn-dứt Phách-mê,
Huờn Anh-Hồn, lẹ quày về;
Chớ theo ảo-vọng, Tâm-mê khó thành.
Con phải nhớ - dưỡng-sanh thậm trọng,
Nợ Tứ-Ân, lồng-lộng đất dày,
Tịnh đi – đắc Điển có THẦY;
Chớ đừng ngoa-ngữ, trẻ chầy nghe con.
Lời răn nhắc, cân-đòn còn nhớ,
Thoát Tử-Thần, trong thuở Vọng-Tâm,
Quá thương trẻ - dạy Huyền-Thâm;
Con ôi! Chớ phụ, ráng tầm Phổ-Minh.
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
68
THẦY cạn bút, con tin ngậm thẻ,
Đạo-Chơn là – lặng-lẽ Tịnh-Thanh,
Dẹp Tánh-Vọng, mới đắc-thành;
Tứ-Ân báo-đáp, rán hành hiếu-nhi.
Tiếng hiếu-đạo, bước đi kịp bước,
Nếu chậm chơn, khó lướt khổ gai,
Cách nào đáng phận làm trai;
Thật tình mỗi mỗi, MẸ, CHA, đẹp lòng.
Tiếng tất Tiếng, khá thông Trời-Đất,
Gió, Mây, Mưa, Dân-Quốc thế nào (?)
Đạo, Đời phân-biệt ra sao (?)
Ngàn năm mới gặp, kíp trau Tinh-Thần.
Con sống-sót – tấm thân ai cứu,
Há còn muốn – phú-hữu ích chi,
Thất-bại mới có Quy-Y;
Con ôi! Còn nhớ TAM-KỲ là đây.
Trát lượng lấy cảnh nầy giả-tạm,
Con khá hành, thoát-nạn nghe con,
Nạn giảm tiêu, thì sẽ mòn;
Con đừng phiền-phức nghe con – vẹn tròn.
Lực – con phải sắt-son Đạo-Đức,
Định-Tịnh-Thần, Nội-Tức Hóa-Sanh,
Ở đời, nên tánh hiền-lành;
Hết hồi vận-bỉ, thới thanh lộc hòa.
Tiên-Trợ trẻ, nghe GIÀ điểm-nhuận,
Khen con thơ – hiếu-thuận Song-Đường,
Ở chỗ nghèo, biết nhịn-nhường;
Ráng công bồi Đức, học Phương-cứu-mình.
Hưng đầu bạc, thân-hình gần đất,
Ráng tô-bồi Âm-Chất thêm lên,
Cách nào – con đặng tròn tên;
Lưu-danh hậu-thế, chớ quên nguyện-thề.
Đến – trễ bước, bởi mê giọng uyển,
Chẳng tin THẦY, u-hiển xét coi,
ĐẠO-THẦY, con khá tùng noi;
Thiếu phần Âm-Chất, sóng nhồi lật ghe.
Sửu thuận-thảo, Xuân, Hè, Thu tiết,
Ráng dặt-dè, Đông thiệt lạnh-lùng,
Tu-Hành, báo-bổ Đức-Trung;
Tử-Tôn tấn-phát, dũng-hùng Đạo-Chơn.
Thuộc lập Đức – qua cơn nạn tám,
Nhớ thuở - con trong ám cầu-minh,
Thiền-tâm cho vẹn phận mình;
Cần Tu, cần Học, chống kình e nguy.
Nghĩa con trẻ, ráng thì cung-bái,
Tứ-Thời lo – hương phải đượm hơi,
Dứt đi những sự vui-chơi;
Sáu hành hiếu-đạo, Đất-Trời ân-ban.
Chấm công chung, huy-hoàng Kinh báu,
Tiếng trường-lưu, phải tạo công-phu,
Công-quả tiếng rạng hiền-nhu;
Giúp người thông Đạo, là TU thật-hành.
Bạn tác con, tròn danh Đạo-Lý,
Điểm tên con, Chánh-Kỷ vẹn trong,
Tu-Kỷ Lập-Đức Đại-Đồng;
Dầu cho gặp Khổ, phước-hồng lướt qua.
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU – MẸ các on!
- - - - - - - - BÀI - - - - - - - - - - “Điểm Công-Quả Nữ-Phái Hầu Kinh”
Điểm nữ-phái – công đầu lo-liệu,
Xuân, Thắng, Phẩm ráng chịu quả-công,
Hôm nay danh rạng Đại-Đồng;
CAO-ĐÀI THỐNG-NHỨT, ân-hồng MẸ ban.
Kinh đã thành Nhàn, An tu-chỉnh
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
69
Để Dân-Sanh chí-kỉnh tầm Tu,
Danh đề ba trẻ thiên-thu;
Vẫn còn bia-đá u-du lo tròn.
Còn phần Thắng – sắt-son cho trọn,
Lập quả-công, gom gọn kỳ nầy,
Đặng thành Nam, Bắc, Đông, Tây;
Chung-hòa Mối ĐẠO, hiệp-vầy Nữ-Tiên.
Phú với Tám – lòng yên Chí-Định,
Lo tròn xong, chớ vịn cầm chừng,
Thấy con MẸ cảm rưng rưng;
ÂM chưa chịu dứt, Dương thuần làm sao.
Bỏ tánh cũ, cao rao giận-dũi,
Mà hỏng-hư, e tủi phận con,
Rồi ra Lý-Đạo mỏi-mòn;
Tấm-thân tiều-tụy, bởi con Tâm-phàm.
Cách nào đặng tròn làm công-quả,
Sự Tả-Kinh – lã-chã chẳng tròn,
Nhưng mà còn chút điểm son;
Ngó lơ MẸ điểm cho con đặng nhờ.
Lành phải lành tùy cơ, lập Đức,
Tiền với tài triệu-ức, ra ngoài,
Dầu đem chẳng đến Tuyền-Đài;
Chi bằng lập Đức – rạng ngày ấn-kinh.
Tuân – thấy trẻ có tin Lý-Đạo,
MẸ điểm vào, lập tạo Đức-Công,
Ngọc-Anh bé nhỏ có lòng;
Tên đề có Chí – vào trong Kinh-Vàng.
Bạch-Tuyết con, lời than MẸ cảm,
Phận Tịnh-Tu, chớ giảm nghe con,
Còn Đạo, còn Đức, còn Non;
Ráng công bồi Đức, sắt-son một lòng.
Ngô-thị-Bon, ráng xong chay-lạt,
Rồi ân ban, danh-tạc bảng Tiên,
Con ôi! Tịnh rạng Hậu, Tiền;
“Trùng-Điền” ngưng kiết, mối giềng Hư-Vô.
Nhờ nên rõ – Cực-Đồ của MẸ,
MẸ ân ban lý-lẽ đành-rành,
Có công mới đặng Tiên-Danh;
Có Đức mới hưởng Khí-Thanh của GIÀ.
Lời nhắc – nhở Tam-Đa Kiết-Khánh,
Phận Tu-Hành, phải tránh mị-tà,
Mị-tà vẫn nói gần xa;
Ít công gánh Đạo, đâu mà lãnh công.
THẦY, MẸ khuyên – vòng trong Môn-Đệ,
Lập ĐẠO-HUỲNH chẳng dễ, nghe con,
Một lòng tín-ngưỡng tạo còn;
Thì con vững Chí – rán bòn quả-công.
Kinh “TỐI-THƯỢNG”, phước-hồng người Đạo,
Nhưng lãnh phần, tự tạo nữ ban,
Nam-phái cũng đứng ngang hàng;
Thi công lập Đức, hoàn-toàn cho xong.
Lời THẦY điểm – có lòng giúp Đạo,
TAM-GIÁO nghe – tự tạo Kinh-Vàng,
Thương con, đượm nhỏ song hàng;
Hộ cho các trẻ huy-hoàng tròn xong.
Đây là Thống-Nhứt CAO-TÔNG,
HƯ-VÔ ĐẠI-ĐẠO, ban trong Môn-Đồ.
THI Môn-Đồ ráng Tịnh-Thủ Hư-Vô,
Vô-Hữu, Hữu-Vô “Thái-Cực-Đồ”
Tam-Bửu huờn Nguyên, y Chánh-Định;
Nhứt-danh Thế-thế, hết Đơn-Cô.
“Châu-Quang Tối Thượng” – Kinh Thiên-Chiếu;
Việt-Quốc phước-hồng, sám địa-tô.
Tân-Pháp Cao-Đài, vi Phật-Tánh,
Độ Căn-Nguyên-Chưởng, đoạn Phong-Đô
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
70
Vậy các con phải lo cho tròn, ấy là Công-Đức thiện-phước
đó các con!
THẦY, MẸ và TAM-GIÁO chuẩn-phê Kinh-Vàng “Tối-
Thượng Châu-Quang” ra đời độ-dẫn Nguyên-Nhân Chí-Đức
lần-lượt Đạo-Vị, hầu chầu DIÊU-MẪU NGỌC-KINH trông-
chờ.
Đồng đắc Tam-Diệu Tam Bồ-Đề-Tâm!
Thăng-hồi thượng Điện huy-hoàng Môn-Đồ !!!
***** THĂNG *****
--oOo--
PHỤ BẢN CHỨNG-LỄ KỶ-NIỆM
Thượng Bảng CAO-ĐÀI QUỐC-ĐẠO VIỆT-NAM
Thượng Linh-Phướn HUỲNH-ĐẠO THIÊN-KHAI QUI-
NGUYÊN Năm 1938
--oOo--
Duyệt Kinh “TỐI-THƯỢNG CHÂU-QUANG”
Chỉ về VÔ-THỈ DĨ-LAI CHÍ ĐƯƠNG-KIM “TAM-KỲ PHỔ-
ĐỘ”
HUỲNH-ĐẠO THIÊN-KHAI (BÍNH-TÝ) MẠT-PHÁP
HUỜN-NGUYÊN (THƯỢNG-CỔ)
PHƯƠNG-PHÁP TU-THÂN
TÙY-CƠ ĐỘNG-TỊNH Huờn-Nguyên CHƠN-TÁNH-THIỆN
ĐÀN Ngọ-Thời, Ngày 20-05-1959 tại Đâu-Suất Thiên-Cung
--oOo--
Có NGŨ-LÃO TIÊN-THIÊN NGƯƠN-THỈ NHUẬN-KINH!
THI
HƯ truyền Đạo-Mạch: Bổn VÔ-VI,
VÔ-HỮU lập-thành – NHỨT thống-qui,
TIÊN hóa Khai hoàn Thâu Vạn-Pháp;
TRƯỞNG thành Độ-Chúng, Hiệp NGŨ-CHI.
NGỰ TỐI-THƯỢNG KINH, VÔ-CỰC-ĐIỆN;
HẠO Chuyển CHÂU-QUANG, hiện hiền huy.
NHIÊN phương Minh phú, THANH lồng-lộng,
ĐÀN NỘI Bửu-Khai, quyện Nhứt-Ky.
THI NGŨ-KHÍ Triều-Ngươn, Nhứt HẠO Nguyên,
LÃO-ÂM, DƯƠNG-TỔ, THÁI-SƠ tiền,
TIÊN Khai sáng-tạo: CÀN-KHÔN Đại;
THIÊN THỦY lập-thành VÕ-TRỤ miên.
CHỨNG-kiến Tâm-Linh, Hưng CHÁNH-GIÁO;
TỐI-Cao PHÁP-NHIỆM, ĐẠO Chơn-Truyền.
THƯỢNG ân thống-hiệp, TAM-TỪNG hiện,
QUANG ứng Như-Lai, xuất Chủ ĐIỀN.
Đại-Đức NGŨ-LÃO TIÊN-THIÊN.
Đề 2 câu-đối như vậy trước Điện DIÊU-TRÌ KIM-MẪU TỪ-
TÔN tại Trúc-Giang:
- VÔ-CỰC BỔN-LAI CHƠN-TỊNH, CÀN NHỨT-KHÍ, ÂN
THÂM VẠN-LOẠI;
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
71
- DIÊU-TRÌ NGƯƠN-THỈ TỰ-ĐỘNG, HÓA TAM-TỪNG,
HOẰNG PHÁP SONG SANH
Đôi nhì:
- BỬU-ĐIỆN THÔNG TAM-GIANG, DIỆU-LINH
CHUYỂN-BIẾN, VẠN TỰ KIM QUI NHỨT-
BỔN;
- TỪ-TÔN TRUYỀN PHÁP HƯỚNG, U-ẨN THÔNG
QUANG BÁ-ỨC, CỔ ĐOẠN THIÊN-CÀN.
Đôi ba:
- HƯ-VÔ ĐỊNH-TÁNH, TAM-THOÀN THÔNG TAM-GIÁI
- KHÔNG-CẢNH BÌNH-TÂM, NGŨ-KHÍ THỐNG NHỨT-
TRUNG
--oOo--
NHỊ-THẬP BÁT-TÚ Là 28 VỊ CẦM-TINH liên hệ với 28 VỊ THIÊN-QUÂN
THƯỢNG-ĐẲNG TINH QUÂN
1. Liễu-Thổ-Chướng (văn-Nhiêu)
2. Quỉ-Kim-Dương (văn-Diệu)
3. Tĩnh-Mộc-Cang (Lê-Quang-Nhiễu)
4. Sâm-Thủy-Viên (Huệ-Hữu-Viên)
5. Chủy-Hỏa-Hầu (Ngọc-Huệ)
6. Tất-Nguyệt-Ô (Âu-văn-Dẹp)
7. Mão-Nhựt-Kê (Nguyễn-văn-Tâm)
8. Vị-Thổ-Trĩ (Phạm-văn-Chánh)
9. Lâu-Kim-Cẩu (Lê-Đại-Luân)
10. Khuê-Mộc-Lan (Lê-Văn-Hóa)
11. Bích-Thủy-Du (Lê-Văn-Có)
12. Thất-Hỏa-Trư (Phạm-Thành-Dĩ)
13. Nguy-Nguyệt-Yến (Lê-Hùng-Chiếm)
14. Hư-Nhựt-Thử (văn-Biên)
15. Nữ-Thổ-Bức (Nguyễn-thị-Tình)
16. Ngưu-Kim-Ngưu (Trần-văn-Tấu)
17. Đẩu-Mộc-Giải (Đàm-Minh-Luân)
18. Cơ-Thủy-Báo (Kiến-Chơn-Long)
19. Vĩ-Hỏa-Hổ (Nguyễn-văn-Tương)
20. Tâm-Nguyệt-Hồ (Trần-văn-Tri)
21. Phòng-Nhựt-Thố ( văn-Lành)
22. Đê-Thổ-Lạc ( văn-Thanh)
23. Càn-Kim-Long ( văn-Tửu)
24. Giác-Mộc-Giao ( văn-Vân)
25. Chẩn-Thủy-Dẫn (Nguyễn-Ng-Tương)
26. Dực-Hỏa-Xà (Lê-văn-Sang)
27. Trương-Nguyệt-Lộc (Trần-Thừa-Khưu)
28. Tinh-Nhựt-Mã (Trần-văn-Phương)
Đây là 28 vì SAO trên từng Thượng-Đẳng!
NHỊ-THẬP-TỨ KHÍ CHÂU-NIÊN (Phân Bát-Tiết)
Đây là Cõi-Thượng-Từng có 24 Đại-Khí, phân làm 4 Mùa 8
Tiết: A – Đông-Chí: Tiểu-Hàn, Đại-Hàn (Lập-Xuân) Võ-Thủy, Kinh-Chấp.
B – Xuân-Phân: Thanh-Minh, Cốc-Võ (Lập-Hạ) Tiểu-Mãn, Mang-Chưởng.
C - Hạ-Chí: Tiểu-Thử, Đại-Thử (Lập-Thu), Xử-Thử, Bạch-Lộ
D - Thu-Phân: Hàn-Lộ, Sương-Giáng (Lập-Đông), Tiểu-Tiết, Đại-Tiết.
ĐẠI TỔNG-LUẬN
1. Trời có Tứ-Khí, là: Xuân, Hạ, Thu, Đông; phân ra 4 mùa:
Đông-Chí, Xuân-Phân, Hạ-Chí, Thu-Phân, và thêm có 8
tiết.
2. Nhơn có Thập-Nhị Thời-Thần, là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
3. Đất có Thất-Thập-Nhị-Địa-Sát-Quân, là: Thiên-Địa chi
Can phối-hiệp; là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ (Thiên-
Cang); Canh, Tân, Nhâm, Quí, Kỷ (Địa-Cang).
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
72
Đều do bởi Nhứt-Khí Hư-Vô, Tịnh-Động Động-Tịnh bất
mãn mới chuyển-biến, cũng do Sanh-Khắc Khắc-Sanh của
Âm-Dương. Nhờ Âm-Dương Sanh-Hóa có ra Vạn-Vật, Triệu-
Loài, muôn vàn hình-thể, đều tung lên hượt động dưới khoảng
thế-gian này. Cũng do Ngũ-Hành Sanh (Ngũ-Loại Kim-Khí)
tinh-anh trước hết chuyển-thể, hóa-trang đun chất đó vậy.
Do chỗ Dinh, Hư, Tiêu, Trưởng vô-thường Động-Tịnh mà 4
Mùa xoay đổi là: Xuân-Sanh, Hạ-Chưởng, Thu-Thâu, Đông-
Tàng – luân-chuyển vận Khí Châu-Truyền, mà cũng do bởi
Ngũ-Khí, Ngũ-Hành Động sanh Tịnh hóa mà có ra 8 KHÍ tùy
theo Bát-Quái chấp chồng xoay-đổi đó vậy. Là sự tương-đối
Âm-Dương của Vạn-Khí trong Hình-Thể trang-trí biến-dịch
vô-biên vậy. Chỉ rõ ra 8 Tiết-Khí hòa-vận mới có ra Nhị-
Thập-Tứ KHÍ nầy đây!
Vậy đây là Danh-đề của 24 Tiết-Khí trong Châu-niên về
Khách-Vận và Chủ-Vận, đó là 365 ngày đều có liên-hệ với
nhau cả!
ĐẠO cũng do Nhứt-Âm, Nhứt-Dương phối-hiệp, mới gọi
rằng “ĐẠO”. Bởi chỗ Nhứt-Khí biến Ngũ-Khí, mà dụng
chánh Ngũ-Hành số làm Căn-Đề, của 5 lần biến, mới ra có 25
Đại-Khí; Nhưng trừ hết Nhứt-Khí chỉ còn có 24 Đại-Khí mà
thôi.
Mà rồi Cõi Trung-Gian cũng do 4 Đại-Khí của Tứ-Hành.
Phải 2 lần chuyển mới có ra BÁT-QUÁI.
Toát-Yếu: Học ĐẠI-ĐẠO của TRỜI-ĐẤT phải hiểu rõ chỗ
Thủy-Chung tiết-khí chuyển-vận; thì cứ Tu-Chơn Huờn Đạo,
nào đâu có lầm. Lầm là tại nơi chúng ta tự-cường tự-đắc, khoe
danh làm hại thân ta và xã-hội – mà Hư-danh ĐẠI-ĐẠO của
TRỜI-ĐẤT Huệ-Từ ân-ban. Khá hiểu! Khá thông! Chớ
Vọng!!! Phải nương theo mực lằn!
DANH-SÁCH PHẬT-VỊ BỔ-TÁT VÀ LA-HÁN
CHƯỞNG-QUẢN HIỆP-THIÊN-ĐÀI THỐNG-NHỨT TAM-
GIANG
HIỆP-THIÊN-ĐÀI VÔ-VI Đại-Đức LINH-CHÂU-TỬ “Thông-Thiên Phổ-Tế Văn-Thù Tịnh-
Dương Bồ-Tát” (Hộ-Pháp Tam-Giang)
Đức LINH-THÔNG HUYỀN-QUANG “Bảo-Trung Tế-Quân La-
Hán” Chơn-Đồng Hư-Vô Chơn-Nhứt.
HIỆP-THIÊN-ĐÀI VÔ-VI DIỆU-LÝ KHẢI-THÔNG
(Bến-Tranh Định-Tường) Đức ĐẠI-THÀNH BỔN-GIÁC NGỌC-CHƠN-QUÂN “Phục-Hổ
La-Hán”
Đức ĐẠI-THÀNH CHIẾU-ĐỨC HỒNG-ĐĂNG-QUÂN “Phổ-
Hiền La-Hán”
Đức BỬU-THÀNH LA-HÁN “Diệu-Dược Tinh-Quân” Chơn-
Đồng
Quí-Vị Đại-Thiên-Phong
LA-HÁN
Đức THIÊN-NGƯƠN LA-HÁN “Nguyễn-văn-Năm”
Đức HANH-THÔNG LA-HÁN “Đoàn-văn-Thu”
Đức HÒA-PHONG LA-HÁN “Nguyễn-văn-Ngọc”
500 VỊ LA-HÁN Lão-Thành và Thanh-Niên
600 VỊ TIÊN-NỮ VÀ ĐẠO-CÔ Lão-Bà và Thanh-Xuân
Hiện CHIẾU-MẠNG.
CHƯ-VỊ ĐẠI-BỒ-TÁT Thường Cư-trụ Chiếu-Điển tại Thế
CỨU-ĐỘ CHÚNG-SANH
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
73
1. Nhứt-Trấn Quan-Thế-Âm Như-Lai
2. Thường Tinh-Tấn Bồ-Tát
3. Diệu-Đức Bồ-Tát
4. Thường-Bi Cứu-Khổ Bồ-Tát
5. Diệu-Âm Chơn Bồ-Tát
6. Chí-Quang-Anh Bồ-Tát
7. Bảo-Chưởng-Thiện Bồ-Tát
8. Phổ-Bình-Linh Bồ-Tát
9. Đại-Lực-Hộ Bồ-Tát
10. Diệt-Tâm Giải Bồ-Tát
11. Đức-Thù Bồ-Tát
12. Vô-Lượng-Tuế Bồ-Tát
13. Tứ-Dị-Vương Bồ-Tát
14. Bát-Dạ-Hoa Bồ-Tát
15. Trì-Thế Bồ-Tát
16. Hương-Tượng-Vương Bồ-Tát
17. Sư-Tử-Hống Bồ-Tát
18. Mãn-Nguyện-Tâm Bồ-Tát
19. Đại-Hương-Tượng Bồ-Tát
20. Bảo-Tích-Đức Bồ-Tát
21. Trì-Thế-Đồ Bồ-Tát
22. Sư-Tử-Phấn Bồ-Tát
23. Bồ-Đề-Đạt-Ma Bồ-Tát
TIÊN-THIÊN HƯ-VÔ Diệu-Giác Quảng-Tiên La-Hán Chánh-Hưng Thánh-Tịnh
Thiên-Các-Tinh (Ô. Thành-Kỉnh) //
Địa-Ly-Tinh (Ô. Phạm-v-Đào) //
Thái-Tuế-Tinh (Ô.Võ-v-Phước) //
Hỏa-Đức-Tinh (Ô. Lâm-t-Trợ) //
Địa-Lương-Tinh (Ô.Nguyễn-v-Ở) //
Địa-Mãng-Tinh (Ô. Nguyễn-v-Đến) //
Thiên-Huyền Cực-Tiên (Ô. Phan-v-Vĩnh) Chiếu-Minh Sài Gòn
Chơn-Không La-Hán (Ô. Nguyễn-v-Đời) Như-Ý Linh-Đài
Địa-Kỳ-Tinh (Ô. Trần-v-Trát) Như-Ý Lái-Thiêu
Địa-Viên-Tinh (Ô. Nguyễn-v-Tiếng) //
Thiên-Minh-Tinh (Ô. Nguyễn-hữu-Lợi) Oai-Linh-Điện Chợ Lớn
Lộc-Tồn-Tinh (Ô. Nguyễn-hữu-Đắc) Lư-Bồng Đạo-Đức Chợ
Lớn
Văn-Khúc-Tinh (Ô. Trần-v-Thọ) Đâu-Suất Thiên-Cung
Võ-Khúc-Tinh (Ô. Nguyễn-xuân-Liêm) Huyền-Ưng-Đàn Vĩnh-Long
Thiên-Khôi-Tinh (Ô. Nguyễn-v-Ngọc) Minh-Lý Sài Gòn
Thiên-Đởm-Tinh (Ô. Miết) //
Liêm-Trinh-Tinh (Ô.Trần-v-Dưỡng) Ngọc-Chẩm-Đàn Gò-Vấp
Cẩm-Vân-Tiên (Ô. Trì) Tam-Thanh Bửu-Điện
Ô-Qui-Tinh (Ô. Lê-v-Qui) Đâu-Suất-Thiên-Cung
Đạo-Chơn (Ô. Đoàn-v-Ngôi) Thánh-Thất Tân-Định
Thiên-Kỉnh-Tinh (Ô. Lê-v-Cang) Minh-Kiến-Đài Gò-Vấp
Thiên-Định-Tinh (Ô. Năm Mục) //
Thiên-Đức-Tinh (Ô. Tiểu-Sư Lộc) //
Hải-Dương-Tinh (Ô. Huỳnh-v-Hải) //
Thiên-Bình-Tinh (Ô. Thành-Như) An-Thiên Thánh-Tịnh
TAM-THẬP-LỤC THIÊN TINH
----- CHIẾU MẠNG -----
1. Thiên-Khôi-Tinh (Lê-văn-Ngọc) Đạo Minh-Lý Sài-Gòn
2. Thiên-Đởm-Tinh (Nguyễn-văn-Miết) //
3. Thiên-La-Tinh (Lê-văn-Nghĩa) Ngọc-Minh-Đài Sài-Gòn
4. Thiên-Cảnh-Tinh (Trần-văn-Chấn) Chánh-Hưng Thánh-Tịnh Sài-Gòn
5. Thiên-Kỉnh-Tinh (Lê-văn-Cang) Minh-Kiến-Đài Gò-Vấp
6. Thiên-Đức-Tinh (Nguyễn-Hữu-Lộc) Minh-Kiến-Đài Gò-Vấp
7. Thiên-Giác-Tinh (Phạm-Bảy)
8. Thiên-Quang-Tinh (Faugere) Sài-Gòn
9. Thiên-Định-Tinh (Ông Mục) Minh-Kiến-Đài Gò-Vấp
10. Thiên-Cốc-Tinh (Văn-Thuận) Minh-Kiến-Đài Gò-Vấp
11. Thiên-Huyền-Tinh (Phan-văn-Vĩnh) Chiếu-Minh Sài-Gòn
12. Thiên-Hỏa-Tinh (Hồ-Tấn-Sĩ) Tam-Thanh Bửu-Điện Khánh-Hậu Tân-An
13. Thiên-Hà-Tinh (Nguyễn-văn-Tuất) Ngọc-Bửu-Đàn Tân-Nhựt Chợ-Lớn
14. Thiên-Minh-Tinh (Nguyễn-Hữu-Lợi) Oai-Linh-Điện Phú-Lâm Chợ-Lớn
15. Thiên-Lộc-Tinh (Nguyễn-Hữu-Đắc) Lư-Bồng Đạo-Đức Phú-Lâm Chợ-
Lớn
16. Thiên-Lương-Tinh (Nguyễn-văn-Đời)Như-Ý Linh-Đài Lái-Thiêu Bình-
Dương
17. Thiên-Thành-Tinh (Trần-Ngọc-Lân) Cao-Thượng Bửu-Tòa Bặc Liêu
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
74
18. Thiên-Thủy-Tinh (Nguyễn-văn-Dự) Thanh-Tịnh-Đàn Bến-Tranh Định-
Tường
19. Thiên-Kim-Tinh (Huỳnh-văn-Ngài) Châu-Minh Sóc-Sải Tiên-Thủy Bến-
Tre
20. Thiên-Thổ-Tinh (Võ-văn-Tuồng) Bồng-Lai Thánh-Tịnh Lái-Thiêu Bình-
Dương
21. Thiên-Mộc-Tinh (Nguyễn-văn-Ngợi) Châu-Minh Sóc-Sải Tiên-Thủy
Bến-Tre
22. Thiên-Bồng-Tinh (Ô. Văn-Điện) Ngũ-Long-Môn Bình-Đại Bến-Tre
23. Thiên-Lộ-Tinh (Văn-Kha) Minh-Tân Vĩnh-Hội Sài-Gòn
24. Thiên-Hỷ-Tinh (Lý-văn-Tình) Tâm-Lý Mật-Truyền Sài-Gòn
25. Thiên-Xảo-Tinh (Ông Văn-Hảo) Châu-Minh Sóc-Sải Tiên-Thủy Bến-
Tre
26. Thiên-Dõng-Tinh (Lê-văn-Tấn) Liên-Hoa-Đàn Sài-Gòn
27. Thiên-Bĩnh-Tinh (Nguyễn-văn-Như) An-Thiên-Tịnh Chợ-Lách Vĩnh-
Long
28. Thiên-Cơ-Tinh (Huỳnh-văn-Đa) Châu-Minh Sóc-Sải Tiên-Thủy Bến-Tre
29. Thiên-Hùng-Tinh (Ô. Văn-Hào) Tâm-Lý Mật-Truyền Long-Thạnh Tây-
Ninh
30. Thiên-Ánh-Tinh (Lâm-Hồng-Hẫu) Đại-Thanh Gò-Vấp
31. Thiên-Bảo-Tinh (Văn-Quân) Thập-Ngũ-Đài-Quang Tam-Bình Vĩnh-Long
32. Thiên-Ngươn-Tinh (Văn-Vân) Diêu-Trì Cung Sóc-Sải Tiên-Thủy Bến-
Tre
33. Thiên-Chuẩn-Tinh (Lý-văn-Khọt) Minh-Kiến-Đài Gò-Vấp
34. Thiên-Sách-Tinh (Văn-Chưởng)
35. Thiên-Cầu-Tinh (Văn-Lai)
36. Thiên-Dương-Tinh (Đinh-văn-Đệ) Minh-Tân Sài-Gòn
THẤT-THẬP-NHỊ ĐỊA-SÁT TINH-
QUÂN
THIÊN-TINH CHIẾU-MẠNG
1. Địa-Lý-Tinh (Dương-văn-Dậu) Chánh-Hưng Chợ-Lớn
2. Địa-Cốc-Tinh (Nguyễn-đăng-Khoa) Minh-Tân
3. Địa-Hựu-Tinh (Phạm-văn-Chai) Hư-Vô Chơn-Nhứt
4. Địa-Thâu-Tinh (Phạm-văn-Phát) Lái-Thiêu
5. Địa-Vân-Tinh (Nguyễn-văn-Ngọc) Minh-Tân
6. Địa-Kỳ-Tinh (Trần-văn-Trát) Như-Ý Linh-Đài
7. Địa-Thân-Tinh (Nguyễn-văn-Trong) Như-Ý Linh-Đài
8. Địa-Viên-Tinh (Nguyễn-văn-Tiếng) Như-Ý Linh-Đài
9. Địa-Hành-Tinh (Đoàn-văn-Thơ) Tam-Thanh Bửu-Điện
10. Địa-Xảo-Tinh ( văn-Thất) Minh-Tân
11. Địa-Sát-Tinh (Phạm-thành-Mai) Minh-Tân
12. Địa-Hội-Tinh (Võ-văn-Ngàn) Cao-Đài Việt-Nam
13. Địa-Tú-Tinh (Huỳnh-văn-Sửu) Hoa-Linh Nguyệt-Điện
14. Địa-Khôi-Tinh (Ô. Tư Qui) Nam-Thành Sài-Gòn
15. Địa-Quang-Tinh (Nguyễn-văn-Nở) Minh-Kiến
16. Địa-Châu-Tinh (Nguyễn-văn-Trương) Minh-Kiến
17. Địa-Linh-Tinh (Lê-văn-Trân) Minh-Tân
18. Địa-Kiệt-Tinh (Nguyễn-văn-Út) Minh-Tân
19. Địa-Liệt-Tinh (Ô. Ba Quí) Minh-Kiến
20. Địa-Mãnh-Tinh (Ô. Huỳnh) Minh-Đức
21. Địa-Cô-Tinh (Ô. Văn-Đáo) Sài-Gòn
22. Địa-Mộc-Tinh (Ô. Kim-Ngọc) Minh-Kiến
23. Địa-Ánh-Tinh (Chấn-Tý) Chánh-Hưng
24. Địa-Luông-Tinh (Lê-Thiệt) Tứ-Long-Châu
25. Địa-Dõng-Tinh (Võ-Kỳ) Xích-Long Minh-Đàn
26. Địa-Mân-Tinh (Võ-Phước) Sài-Gòn
27. Địa-Cường-Tinh (Phan-văn-Tuôi) Thiên-Thai
28. Địa-Hòa-Tinh (Lương-Trọng-Đậu) Minh-Tân
29. Địa-Bình-Tinh (Nguyễn-văn-Thuộc) Thanh-Tịnh-Đàn
30. Địa-Tốc-Tinh (Trương-Sĩ) Gò-Công
31. Địa-Tặc-Tinh (Văn-Truyền) Vĩnh-Long
32. Địa-Tá-Tinh (Võ-văn-Nghĩa) Hà-Long-Điện
33. Địa-Hùng-Tinh (Huỳnh-văn-Gấm) Phú-Long Lái-Thiêu
34. Địa-Hầu-Tinh (Ngọc-Hồng) Châu-Minh
35. Địa-Ân-Tinh (Văn-Hoài) An-Vô Đài-Võ
36. Địa-Ngươn-Tinh (Văn-Thể) Thanh-Tịnh-Đàn
37. Địa-Luân-Tinh (Cao-văn-Kha) Tứ-Long-Châu
38. Địa-Chấn-Tinh (Ô. Quân) Giồng-Miểu
39. Địa-Khương-Tinh (Văn-Phước) Tân-An
40. Địa-Hào-Tinh (Ô. Dực) Tân-An
41. Địa-Nô-Tinh (Ô. Bá) Bình-Nhựt
42. Địa-Hóa-Tinh (Văn-Chữ) Ngũ-Long-Môn
43. Địa-Ấn-Tinh (Ô. Huờng) Đại-Thanh
44. Địa-Ẩm-Tinh (Ô. Thiền) Ngọc-Chiếu
45. Địa-Cổ-Tinh (Ô. Cung) Minh-Tân
46. Địa-Hoàng-Tinh (Ô. Thanh-Sơn) Minh-Kiến
47. Địa-Hư-Tinh (Văn-Sĩ) Gò-Công
48. Địa-Đồng-Tinh (Lê-Huệ) Thanh-Tịnh-Đàn
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
75
49. Địa-Câu-Tinh (Nguyễn-Phụng) Thanh-Tịnh-Đàn
50. Địa-Giác-Tinh (Ô. Phan-Tân) Gò-Vấp
51. Địa-La-Tinh (Nhị-Lan) Hòa-Phương Nhơn-Sĩ
52. Địa-Lộ-Tinh (Ô. Mạnh) Ngọc-Chiếu
53. Địa-Lan-Tinh (Ô. Giáo) Huyền-Ưng-Đàn
54. Địa-Huy-Tinh (Ô. Kiến-Huệ) Minh-Tân
55. Địa-Tráng-Tinh (Ô. Văn-Huệ) Thanh-Tịnh-Đàn
56. Địa-Oai-Tinh (Ô. Văn-Vân) Đại-Thanh
57. Địa-Lương-Tinh (Nguyễn-văn-Ở) Chánh-Hưng Thánh-Tịnh
58. Địa-Mãng-Tinh (Nguyễn-văn-Đến) Chánh-Hưng Thánh-Tịnh
59. Địa-Phù-Tinh (Ô. Văn-Viết) Ngọc-Chiếu
60. Địa-Mặc-Tinh (Ô. Me) Bồng-Lai
61. Địa-Minh-Tinh (Lương-văn-Bồi) Nam-Thành
62. Địa-Đăng-Tinh (Ô. Thử) Bửu-Tòa-Đàn
63. Địa-Nhàn-Tinh (Ô. Đỗ-Trung) Vĩnh-Long
64. Địa-Sô-Tinh (Ô. Đậu) Vĩnh-Long
65. Địa-Cẩu-Tinh (Tống-Thành-Long) Phước-Long
66. Địa-Hình-Tinh (Ô. Văn-Bảy) Vĩnh-Long
67. Địa-Tràng-Tinh (Ô. Lương) Gò-Vấp
68. Địa-Kiên-Tinh (Ô. Văn-Ngọ) Tam-Hòa
69. Địa-Phổ-Tinh (Ngọc-đa-Sự) Nam-Thành
70. Địa-Chánh-Tinh (Ô. Văn-Chánh) Vĩnh-Long
71. Địa-Cảnh-Tinh (Ô. Thôn) Giồng-Miếu
72. Địa-Xương-Tinh (Ô. Lê-Quận) Bến-Tre
THẤT ĐẨU TINH QUÂN
Chiếu Mạng
1. Hữu-Bật-Tinh (Tạ-Văn-An) Thánh-Thất Tân-An
2. Văn-Khúc-Tinh (Trần-Văn-Thọ) Đâu-Suất Thiên-Cung
3. Võ-Khúc-Tinh (Nguyễn-Xuân-Liêm) Huyền-Ưng-Đàn
4. Bạch-Báo-Tinh (Ô. Văn-Long) Minh-Tân Sài-Gòn
5. Chánh-Quang-Tinh (Truyền-Chánh) Minh-Tân Sài-Gòn
6. Liêm-Trinh-Tinh (Trần-Văn-Dưỡng) Ngọc-Chẩm-Đàn
7. Huỳnh-Long-Tinh (Nguyễn-Huỳnh-Tân) Phủ-Thờ Tân-An
NGŨ-HÀNH
Bạch-Sắc-Tinh (Văn-Yến)
Thanh-Sắc-Tinh (Nối)
Huỳnh-Sắc-Tinh (Phổ)
Hồng-Sắc-Tinh (Hồng-Vân)
Hắc-Sắc-Tinh (Nhan)
--oOo--
Danh-Sách Chư-Vị HÀNG-TINH và
HÀNH-TINH
--- ĐẨU-TÚ ---
Chiếu-Mạng Huỳnh-Đình-Tinh (Huỳnh-Đình)
Hồng-Loan-Tinh (Trần-Dực)
Táng-Môn-Tinh (Văn-Phấn)
Phá-Quân-Tinh (Văn-Lúa)
Bửu-Linh-Tinh (Văn-Thử)
Chí-Ư Chơn-Tinh (Kim-Tốt)
Chơn-Huệ-Tinh (Mai-Lịnh)
Huyền-Hóa-Tinh (Văn-Cứ)
Mãng-Xà-Tinh (Văn-Chỉ)
Hồng-Ngươn-Tinh (Văn-Thiệt)
Kíp-Sát-Tinh (Văn-Côn)
Tử-Phủ-Tinh (Có)
Tiểu-Hao-Tinh (Gấm)
Tuế-Phá-Tinh (Thâu)
Bạo-Bài-Tinh (Văn-Huờng)
Bảo-Hộ-Tinh (Thinh)
Chỉ-Bội-Tinh (Văn-Hoài)
Phi-Liêm-Tinh (Mới)
Ác-Lai-Tinh (Văn-Mân)
Phước-Tinh-Tinh (Văn-Chơn)
Hàm-Trì-Tinh (Văn-Ngươn)
Huyền-Thiết-Tinh (Văn-Lương)
Ngũ-Quỉ-Tinh (Văn-Tứ)
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
76
Phi-Đầu-Tinh (Văn-Tự)
Cư-Tuất-Ni (Văn-Tuất)
Diêm-Phu-Tinh (Dương)
Ngọc-Kỳ-Lân (Hoằng-Thoại)
Kỳ-Lân-Tinh (Lê-Thơm)
Thanh-Long-Tinh (Văn-Lữ)
Huyền-Võ-Tinh (Văn-Chưa)
Tam-Thai-Tinh (Văn-Mính)
Mạch-Việt-Tinh (Văn-Mẹo)
Trần-Ngươn-Tinh (Văn-Phùng)
Hổ-Vệ-Tinh (Văn-Lý)
Huyền-Võ-Tinh (Văn-Văn)
Bản-Xà-Tinh (Văn-Ngọ)
Phi-Mã-Tinh (Vân-Hài)
Quả-Tú-Tinh (Văn-Nữ)
Điếu-Khách-Tinh (Văn-Đề)
Bình-Phù-Tinh (Văn-Kiết)
Vọng-Thần-Tinh (Văn-Ơn)
Kiên-Phong-Tinh (Văn-Cầu)
Hồi-Khí-Tinh (Văn-Sáu)
Tuế-Hồi-Tinh (Văn-Gọt)
Phan-An-Tinh (Văn-Trâm)
Địch-Mã-Tinh (Văn-Thiên)
Tâm-Môn-Tinh (Văn-Thành)
Hỏa-Cái-Tinh (Nguyên-Sưu)
Long-Dực-Tinh (Văn-Nghị)
Mỹ-Diệm-Tinh (Văn-Hoa)
Chơn-Thiên-Tinh (Huỳnh-Bảy)
Đẩu-Tinh-Quân (Văn-Ơ)
Bạch-Minh-Tinh (Văn-Hiền)
Thiên-Ninh-Tinh (Văn-Tông)
Bửu-Sắc-Tinh Huỳnh-Đàn (Văn-Thiệt)
Mão-Thiên-Quang (Văn-Trường)
Cao-Huyền Sĩ-Tinh (Văn-Thôi)
Châu-Linh-Hóa (Văn-Thòn)
Hồng-Liên-Tâm (Văn-Ngọ)
Bửu-Pháp-Minh (Văn-Hiện)
Linh-Sắc-Tinh (Văn-Trung)
Hắc-Vân-Tinh (Văn-Bình)
Huỳnh-Vân-Tinh (Văn-Thành)
Hắc-Quang-Tinh (Văn-Thế)
Hải-Dương-Tinh (Huỳnh-Hải)
Hùng-Sơn-Tinh (Văn-Liễu)
Bạch-Vân-Quang (Văn-Nhiễu)
Bạch-Vân (Văn-Điện)
Thiên-Huyền-Tâm (Văn-Nhựt)
Chấn-Quang-Tinh (Văn-Tri)
Bác-Hổ-Tinh (Văn-Hiến)
Hải-Thần-Tinh (Trân-Nam)
Trường-Sanh-Tinh (Văn-Trọng)
Nguyệt-Đức-Tinh (Khắc-Sửu)
Huỳnh-Liên-Tinh (Văn-Ơn)
DANH-SÁCH NỮ-PHÁI THỌ THIÊN-
ÂN PHONG
TIÊN-CÔ và ĐẠO-CÔ
TIÊN-THIÊN HƯ-VÔ VÔ-VI CHỨNG-
CHIẾU + Đại-Đức “Vô-Cực Diêu-Trì Kim-Mẫu Từ-Tôn”
& Cửu-Thiên Huyền-Nữ & Lê-Sơn Thánh-Mẫu
& Từ-Thoàn Bồ-Tát & Huệ-Linh Bồ-Tát
& Thể-Liên Tiên-Nữ & Long-Kiết Công-Chúa
THẬP-NHỊ TIÊN-NƯƠNG CHIẾU MẠNG + Bạch-Lan-Tiên Nguyệt-Thanh-Cung Ấn-Đường-Đàn
Chưởng-Quản Nữ-Phái
LỤC CHƠN-ÂM (Lão-Âm) LỤC-THIẾU-ÂM (Thiếu-Âm)
1. Bạch-Mẫu Đơn-Tiên (Hoài) 1. Hồng-Điệp Tiên-Cô (N.Ngà)
2. Bạch-Tuyết Tiên-Cô (Trầm) 2. Thanh-Lan Tiên-Cô (L.T.Quế)
3. Huỳnh-Thọ Tiên-Cô (Lương) 3. Xích-Liên Tiên-Cô (Vàng)
4. Hương-Trầm Tiên-Cô (Trâm) 4. Hồng-Liên Tiên-Cô (T. Sen)
5. Hạnh-Đào Tiên-Cô (Long) 5. Hắc-Hương Tiên-Cô (T. Tươi)
6. Thanh-Thủy Tiên-Cô (N.C.Đàn) 6. Xích-Huờng Tiên-Cô (T. Quảng)
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
77
NGŨ-HÀNH TIÊN-CÔ
NỮ-ĐẨU CHIẾU-MẠNG
1. Hạnh-Đức Tiên-Cô (Trần-thị-Như)
2. Hiển-Chánh Tiên-Nữ (T. Phú) 4. Quảng-Chí Tiên-Cô (Thắng)
3. Quảng-Tâm Tiên-Cô (T. Tám) 5. Huỳnh-Trang Tiên-Cô (Trang)
ÂM NGŨ-HÀNH
NỮ-TÚ CHIẾU-MẠNG
1. Bạch-Hương Hoa-Tiên (T. Lành) 3. Nhứt-Trí Tiên-Cô (T. Nhờ)
2. Trường-Hạnh Tiên-Cô (T. Xuân) 4. Thanh-Dương Tiên-Cô (Kim Chi)
5. Huệ-Hương Tiên-Cô (Cô Năm Maurice)
TIÊN-THIÊN BÁT-QUÁI TIÊN-CÔ
CHIẾU-MẠNG CÀN: Hồng-Cúc Đạo-Cô (T. Cúc) CHẤN: Thành-Đức Tiên-Cô (…)
KHÔN: Ngọc-Quế Tiên-Cô (T. Đến) TỐN: Bạch-Hạp Tiên-Cô (…)
LY: Hồng-Hoa Tiên-Cô (Nhàn) CẤN: Hồng-Qui Tiên-Cô (…)
KHẢM: Thanh-Liễu Tiên-Cô (Chín) ĐOÀI: Kim-Cúc Tiên-Cô (K. Cúc)
HẬU-THIÊN BÁT-QUÁI TIÊN-CÔ
CHIẾU-MẠNG CÀN: Hạc-Đồng Nữ-Tiên (T. Dần) TỐN: Hoa-Lý Tiên-Cô
KHẢM: Thủy-Tiên Hóa-Tiên (T. Hội) LY: Thanh-Trước Tiên-Cô
CẤN: Bạch-Cúc Tiên-Cô (T. Cúc) KHÔN: Quả-Lý Tiên-Nữ
CHẤN: Hồng-Hoa Huờng-Cô (T. Minh) ĐOÀI: Mộc-Minh Tiên-Nữ
THẬP-NHỊ-CUNG TIÊN-CÔ
CHIẾU-MẠNG 1. Bách-Mai Tiên-Cô (Huỳnh-thị-Lầu)
2. Huờng-Vi Tiên-Cô (Huỳnh-thi-Huờng)
3. Cẩm-Vân Tiên-Cô (Phạm-thị-Lang)
4. Liên-Tâm Thúy-Nhụy (Phạm-thị-Nhàn)
5. Lịch-Đào Quang-Huy (Phạm-Phạm-An)
6. Tâm-Kỉnh Đạo-Cô (Lê-thị-Được)
7. Ngọc-Nữ Tiên-Cô (Trương-ngọc-Anh)
8. Thanh-Hà Tiên-Cô (Trần-thị-Phụng)
9. Ý-Đức Tiên-Cô (Cao-thị-Anh)
10. Văn-Hỏa Đạo-Cô (Lý-thị-Còn)
11. Hoa-Hồng Tiên-Cô ( Lý-thị-Cư)
12. Mai-Hoằng Hoa-Tiên ( Cẩm-Tuyết)
CỬU-NƯƠNG TIÊN-NỮ
CHIẾU-MẠNG
1. Nhứt-Nương (Phạm-thị-Tâm)
2. Nhị-Nương ( Lê-thị-Cân)
3. Tam-Nương (Nguyễn-t.-Phụng)
4. Tứ-Nương (Nguyễn-thị-Sưu)
5. Ngũ-Nương ( thị-Hành)
6. Lục-Nương (Huỳnh-thị-Liên)
7. Thất-Nương ( thị-Nhâm)
8. Bát-Nương ( thị-Tú)
9. Cửu-Nương (Bạch-thị-Đinh)
THẬP-NHỊ NẠI-BÀ
Vô-Vi Hóa Nữ-Tiên Đẩu-Tú
TAM-TIÊU THAI-SANH NƯƠNG-
NƯƠNG HỘ-THẾ 1. Vân-Tiêu Thường-Cơ Nương-Nương
2. Bích-Tiêu Thượng-Cơ Nương-Nương
3. Huỳnh-Tiêu Thượng-Cơ Nương-Nương (Cứu-hộ Thai-Sanh)
4. Chí-Chơn Tiên-Cô (Phạm-thị-Dễ)
5. Thành-Hòa Tiên-Cô (Phan-thị-Huỳnh)
6. Xảo-Hạnh Tiên-Cô (Bùi-thị-Cúc)
7. Tịnh-Ngươn Tiên-Nữ (Lê-thị-Nghĩa)
8. Chánh-Đức Tiên-Cô ( thị-Tánh)
9. Chánh-Thành Tiên-Cô ( thị-Yến)
10. Bảo-Dưỡng Tiên-Cô (Phạm-thị-Thiều)
11. Thánh-Anh Tiên-Cô (Trần-thị-Thiên)
12. Hộ-Sanh Tiên-Cô (Lê-thị-Bổn)
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
78
& THẬP-NHỊ-CUNG QUẢN-LÝ SỰ-VỤ &
NGỰ-HOA TIÊN-ĐÀO (THANH-VIÊN)
TIÊN-CUNG (DIÊU-TRÌ BỬU-ĐIỆN) +Cung-Đao +Cung-Liên +Cung-Lê +Cung-Lý
+Cung-Huệ +Cung-Nghê +Cung-Diêu +Cung-Bích
+Cung-Hương +Cung-Huỳnh +Cung-Hạnh +Cung-Quế
+ Chí-Hiếu Tiên-Cô (thị-Sẩm)
+ Ngọc-Loan Tiên-Cô (thị-Loan)
+ Thược-Dược Tiên-Cô (thị-Biếu)
+ Thắng-Cảnh Tiên-Cô (thị-Kiều)
+ Ngọc-Lựu Tiên-Cô (thị-Tuần)
+ Huệ-Khiếu Tiên-Nữ (Huệ-Khiếu-Quang)
+ Nguyệt-Thanh Tiên-Cô (Đoàn-thị-Mót)
+ Ngọc-Mai Tiên-Cô (thị-Cần)
+ Hồng-Đơn Tiên-Cô (thị-Chi)
+ Ngọc-Anh Tiên-Nữ (thị-Sáu)
+ Huỳnh-Thọ Tiên-Cô (thị-Pháp)
+ Bạch-Cúc Hương-Tiên (thị-Huờng)
ĐẠI-THỪA LIỄU-ĐẠO
Thọ-Ân Thiên-Tước
TIÊN-THIÊN HƯ-VÔ --oOo--
& Giác-Quang Tiên-Trưởng (Nguyễn-văn-Hộ) HƯ-VÔ-CHƠN-NHỨT
* Thắng-Đức Chơn-Tiên (Phạm-trung-Tín) //
* Khai-Đạo Tiên-Chơn (Phạm-trung-Trực) //
* Giác-Linh Đại-Thánh (Đinh-văn-Ngàn) //
* Giác-Thắng Chơn-Nhơn (Mai-văn-Tam) //
* Chánh-Công Chơn-Nhơn (Võ-văn-Trước) //
* Mộc-Sơn Chơn-Nhơn (Nguyễn-văn-Giỏi) //
* Giác-Huệ Linh-Thần (Hỳ-văn-Nhiều) //
* An-Nhàn Sơn-Thần (Huỳnh-văn-An) //
* Giác-Mẫn Sơn-Thần (Lý-thành-Kế) //
* Minh-Đức Sơn-Thần (Nguyễn-văn-Kiểng) //
* Bình-Chơn Sơn-Thần (Lê-văn-Hẹ) //
* Tế-Đạo Sơn-Thần ( văn-Lặng) //
* Khai-Hội Đồng-Loan (Lữ-văn-Kinh) //
* Thanh-Tòng Đồng-Tử (Lữ-văn-Nữ) //
* Thái-Tinh Đồng-Tử (Thái-văn-Ngân) //
&Thành-Ý Chơn-Tiên(Trần-thành-Ý) VÔ-VI THÁNH-TÒA
* Chánh-Trực Chơn-Tiên (Nguyễn-văn-Quảng) CHUNG-TÂM HÒA-PHÁT
* Đức-Thắng Chơn-Tiên (Nguyễn-văn-Ngọc) //
* Kỉnh-Đức Chơn-Chơn (Nguyễn-M-Pháp) //
* Trọng-Đức Lão-Sư (Nguyễn-Nhựt-Như) //
* Huyền-Đức Thánh-Nhơn (Vương-Quang-Kỳ) //
* Chơn-Thanh Thánh-Nhơn (Khương-thành-Nguyên) //
* Chánh-Kính Thánh-Nhơn (Kha-Võ-Lân) //
* Chánh-Nghĩa Chơn-Thần (Nguyễn-văn-Lý) //
* Chánh-Hóa Chơn-Thần (Nguyễn-văn-Trực) //
* Chánh-Hiệp Chơn-Thần (Võ-Đông-Sơ) //
* Hiền-Hòa Chơn-Thần (Lê-văn-Cư) //
* Hiển-Ân Chơn-Thần (Bùi-văn-Lam) //
* Chánh-Tín Chơn-Thần (Tạ-văn-Cu) //
* Chánh-Trực Chơn-Thần (Nguyễn-văn-Cấu) //
* Tam-Thanh Chơn-Thần (Trương-văn-Y) //
* Hỏa-Dương-Tinh Đồng-Tử (Trần-thanh-Trầm) //
& Mông-Trực Thánh-Nhơn (Nguyễn-văn-Hinh) NGỌC-BỬU TIÊN-ĐÀN
* Chánh-Hiến Chơn-Nhơn (Võ-văn-Nhan) //
* Hòa-Ái Chơn-Nhơn (Phan-văn-Tào) //
* Giác-Minh Chơn-Thần (Nguyễn-văn-Quản) //
* Hiệp-Hòa Chơn-Thần (Nguyễn-văn-Hưởn) //
& Hộ-Đạo Thánh-Nhơn (Nguyễn-minh-Hy) TAM-THANH BỬU-ĐIỆN
* Thanh-Châu Sứ-Giả (Phan-văn-Chức) //
& Giác-Lý Chơn-Nhơn (Mai-văn-Xuyến) AN-THÀNH THÁNH-TỊNH
* Hiếu-Đạo Chơn-Nhơn (Võ-văn-Dự) //
* Chơn-Tâm Chánh-Thần (Âu-văn-Tước) //
& Linh-Tánh Chơn-Thánh (Phan-văn-Ngưu) ÁI-BÌNH TIÊN-ĐÀN
* Thiền-Tịnh Thánh-Nhơn (Phan-bá-Phước) //
* Giác-Đức Chơn-Nhơn (Phan-văn-Ái) //
& Huệ-Pháp Chơn-Đồng (Huỳnh-cần-Kiệm) NGỌC-CHIẾU-ĐÀN
* Huệ-Minh Chơn-Đồng (Nguyễn-văn-Lên) //
& Giác-Tâm Linh-Thần ( văn-Ngộ) GIÁC-NGỘ TIÊN-ĐÀN
* Hành-Đạo Chơn-Đồng (Nguyễn-văn-Khanh) //
TỐI THƯỢNG CHÂU QUANG Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
79
& Hiệp-Đức Thánh-Nhơn (Nguyễn-Huỳnh-Tân) PHỦ-MINH-ĐƯỜNG
& Thái-Ất Chơn-Công (Võ-văn-Tuồng) BỒNG-LAI THÁNH-TỊNH
& Hồi-Giác Chơn-Tiên (Võ-trường-Thọ) MINH-TÂN-ĐẠO
& Chánh-Chơn Ngươn-Thần (Phạm-văn-Hạnh) BÌNH-NHÂM-ĐÀN
& Khải-Đàn Thánh-Nhơn (Nguyễn-bá-Vạn) VÂN-SƠN THẠCH-TỰ
& Giác-Huệ Đạo-Nhơn (Lê-văn-Bảy) BẠCH-MINH-ĐÀN
& Tánh-Thiền Chơn-Thần (Âu-văn-Dẹp) BỒNG-LAI THÁNH-TỊNH
& Dực-Đức Chơn-Thần (Huỳnh-Phối) NGUYỆT-THANH-CUNG
& Lương-Hạnh Chơn-Thần (Nguyễn-văn-Tùng) THÁNH-TỊNH PHÚ-ĐỊNH
& Bác-Ái Chơn-Thần (Võ-văn-Ái) THÁNH-TỊNH ÁI-BÌNH
& Hư-Vô Chơn-Thần (Huỳnh-văn-Trước) CHÁNH-CÔNG CHƠN-THẦN
& Giác-Tánh Sơn-Thần (Lượng-văn-Giảng) ĐỒNG-QUAN-TỊNH
QUÍ-VỊ THIÊN-PHONG QUÁ-VÃNG
NỮ PHÁI
KHAI-ĐẠO CÔNG-QUẢ + Nguyễn-Thị-Nghĩa (Giáo-Sư) HƯ-VÔ CHƠN-NHỨT
+ Lương-Thị-Tiết (Giáo-Sư) //
+ Quách-Thị-Vu (Phối-Sư) CHUNG-TÂM HÒA-PHÁT
+ Nguyễn-Thị-Tồn //
+ Hương-Thanh Tiên-Nữ (Nguyễn-thị-Đẳng) //
+ Chơn-Đức Tiên-Nữ (Nguyễn-thị-Ẩn) //
+ Lê-Thị-Trọ (Giáo-Hữu) //
+ Thị-Út (Giáo-Hữu) //
+ Huệ-Hoa Tiên-Cô (Trần-thị-Hiếu) NGUYỆT-THANH-CUNG
--oOo--