23
Tài liệu sinh hoạt chi bộ tháng 11-2018 NỘI DUNG TRỌNG TÂM SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 11-2018 - Lãnh đạo tuyên truyền kết quả Hội nghị Trung ương 8 khóa XII; những điểm mới, điểm quan trọng của các nghị quyết, kết luận, quy định của Hội nghị. Tuyên truyền kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIV và Kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân tỉnh khoá XI. Tuyên truyền các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ, các sự kiện chính trị diễn ra trong tháng 11/2018[1]. Tuyên truyền công tác chuẩn bị Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon Tum năm 2018 (tháng 12-2018). - Ngoài ra, tuyên truyền kết quả đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết XV Đảng bộ tỉnh (theo Báo cáo số 308-BC/TU, ngày 02-7-2018 của Tỉnh ủy). Tiếp tục tuyên truyền kết quả 02 năm thực hiện Chỉ thị 05 -CT/TW của Bộ Chính trị "về đẩy mạnh việc học tập tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh", tập trung biểu dương, cổ vũ các tấm gương điển hình cá nhân và tập thể trong các lĩnh vực công tác, các phong trào thi đua gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tuyên truyền các nội dung Đề án tuyên truyền bảo vệ chủ quyền và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam giai đoạn 2018 – 2020 theo Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 28/7/2018 của Thủ tướng chính phủ. Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc theo tinh thần Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 02-4-2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tuyên truyền nhằm đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới theo Hướng dẫn số 41-HD/BTGTU, ngày 20-6-2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao cảnh giác trước những âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ bí mật nhà nước liên quan đến quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch số 165/KH-UBND, ngày 16/5/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh. Tuyên truyền các nội dung theo Kết luận số 34-KL/TW ngày 07-8-2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; việc triển khai thực hiện các chương trình của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV về thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, 6 khóa XII của Đảng; trong đó tăng cường tuyên truyền việc thực hiện Chương trình số 51-Ctr/TU, ngày 09-02-2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV. Tuyên truyền kết quả thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm 2025 (Kết luận số 927-KL/TU, ngày 02-5-2018). Thông tin, tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các địa phương, đơn vị; về phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản phẩm chủ lực của tỉnh; triển

Tài liệu sinh hoạt chi bộ tháng 11-2018

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Tài liệu sinh hoạt chi bộ tháng 11-2018

NỘI DUNG TRỌNG TÂM SINH HOẠT CHI BỘ THÁNG 11-2018

- Lãnh đạo tuyên truyền kết quả Hội nghị Trung ương 8 khóa XII; những điểm mới,

điểm quan trọng của các nghị quyết, kết luận, quy định của Hội nghị. Tuyên truyền

kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIV và Kỳ họp thứ 7 Hội đồng nhân tỉnh khoá

XI.

Tuyên truyền các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ, các sự kiện chính trị diễn ra trong

tháng 11/2018[1]. Tuyên truyền công tác chuẩn bị Tuần Văn hóa – Du lịch tỉnh Kon

Tum năm 2018 (tháng 12-2018).

- Ngoài ra, tuyên truyền kết quả đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết XV

Đảng bộ tỉnh (theo Báo cáo số 308-BC/TU, ngày 02-7-2018 của Tỉnh ủy). Tiếp tục

tuyên truyền kết quả 02 năm thực hiện Chỉ thị 05 -CT/TW của Bộ Chính trị "về đẩy

mạnh việc học tập tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh", tập trung biểu

dương, cổ vũ các tấm gương điển hình cá nhân và tập thể trong các lĩnh vực công

tác, các phong trào thi đua gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về

tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Tuyên truyền các nội dung Đề án tuyên truyền bảo vệ chủ quyền và phát triển bền

vững biển, đảo Việt Nam giai đoạn 2018 – 2020 theo Quyết định số 930/QĐ-TTg

ngày 28/7/2018 của Thủ tướng chính phủ. Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc theo tinh thần Chỉ

thị số 14-CT/TU ngày 02-4-2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Tuyên truyền nhằm

đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới

theo Hướng dẫn số 41-HD/BTGTU, ngày 20-6-2018 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.

Tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các tầng

lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng

cao cảnh giác trước những âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực

thù địch; đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ bí mật

nhà nước liên quan đến quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch số

165/KH-UBND, ngày 16/5/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh. Tuyên truyền các nội

dung theo Kết luận số 34-KL/TW ngày 07-8-2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một

số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017 của Ban Chấp

hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ

máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; việc triển khai

thực hiện các chương trình của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV về thực hiện

nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, 6 khóa XII của Đảng; trong đó tăng cường tuyên

truyền việc thực hiện Chương trình số 51-Ctr/TU, ngày 09-02-2018 của Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh khóa XV. Tuyên truyền kết quả thực hiện Quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kon Tum giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm

2025 (Kết luận số 927-KL/TU, ngày 02-5-2018).

Thông tin, tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các địa phương,

đơn vị; về phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản phẩm chủ lực của tỉnh; triển

khai nông nghiệp công nghệ cao; bảo tồn và phát triển thương hiệu sản phẩm sâm

Ngọc Linh; xây dựng nông thôn mới; công tác phòng, chống dịch bệnh; phòng, chống

thiên tai; công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, phát hiện và xử lý các hành vi gian

lận thương mại, thực phẩm bẩn, thực phẩm kém an toàn.

B. THÔNG TIN THỜI SỰ

I. THÔNG TIN CHUYÊN ĐỀ

Chuyên đề 1: Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước

hết là cán bộ cấp cao

Ngày 25-10-2018, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn

Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu gương của

cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên

Ban Chấp hành Trung ương.

Quy định nêu rõ: Để nêu gương trở thành việc làm tự giác, thường xuyên, hiệu quả

của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ

viên Ban Chấp hành Trung ương, Ban Châp hành Trung ương Đảng quy định:

Điều 1. Cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư,

Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều

lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước; gương mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí

thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ

chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số

việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương. Cán bộ, đảng viên giữ chức

vụ càng cao càng phải gương mẫu nêu gương.

Điều 2. Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung

ương phải gương mẫu đi đầu thực hiện:

1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nghiên cứu, nắm vững hệ thống các nguyên tắc cơ bản và kiên quyết bảo vệ chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có lập trường tư tưởng vững vàng, quan

điểm đúng đắn, chính kiến rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm.

Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

2. Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân,

của quốc gia - dân tộc và mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Không làm bất cứ

việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân dân. Lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài

lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

3. Thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả;

thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Chỉ đạo

quyết liệt, hiệu quả công tác cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu khoa học, công

nghệ.

4. Sẵn sàng nhận và nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ khi được phân công. Tâm

huyết, tận tuỵ với công việc. Tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức

xúc, tồn đọng kéo dài; chủ động, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống khẩn cấp,

đột xuất, bất ngờ trong địa phương, lĩnh vực mình phụ trách.

5. Tích cực thực hiện quy định về phân cấp, phân quyền và kiểm soát chặt chẽ quyền

lực. Chủ động thực hiện chủ trương thí điểm của Trung ương; khuyến khích mô hình,

cách làm mới, hiệu quả. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; tìm tòi, đổi mới,

phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

6. Giữ vững nguyên tắc, dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch trong

công tác cán bộ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ kế cận. Chủ động,

tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến. Bảo

vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự

nghiệp của Đảng, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

7. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực

về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản

dị, thẳng thắn, chân thành.

8. Nghiêm túc thực hành tự phê bình và phê bình; thấy đúng phải cương quyết bảo

vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh; không tranh công đổ lỗi. Dũng cảm nhận khuyết

điểm và trách nhiệm. Chủ động xin từ chức khi thấy mình không còn đủ điều kiện,

năng lực, uy tín để thực hiện nhiệm vụ.

Điều 3. Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung

ương phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống:

1. Chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị. Lợi dụng tập thể để né tránh trách nhiệm hoặc

lấy danh nghĩa tập thể thực hiện mục đích cá nhân. Nói không nhất quán, nói không

đi đôi với làm, nói nhiều làm ít.

2. Độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn,

bức xúc của nhân dân. Định kiến với người góp ý, phê bình. Trực tiếp, mượn danh

hoặc cung cấp tài liệu cho người khác để nói, viết, đăng tin, bài sai sự thật nhằm đề

cao tập thể, cá nhân mình hoặc hạ thấp uy tín của tập thể, cá nhân khác trên các

phương tiện truyền thông, mạng xã hội.

3. Chủ trì tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách trái chủ trương, đường lối của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng hoặc gây thiệt

hại đối với lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.

4. Chạy hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy phiếu tín

nhiệm. Can thiệp không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác

cán bộ; đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định,

nhất là đối với người nhà, người thân.

5. Tham nhũng, hối lộ dưới mọi hình thức; tặng quà, nhận quà vì vụ lợi. Can thiệp

không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác kiểm tra, thanh tra,

kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đối với việc đề xuất, cho chủ trương,

thẩm định, phê duyệt, đấu thầu, chỉ định thầu các dự án, đề án kinh tế - xã hội, quốc

phòng - an ninh; đấu giá đất đai, tài sản nhà nước.

6. Lãng phí công quỹ, tài sản, phương tiện, nhân lực và thời gian làm việc. Tổ chức

đoàn đi công tác ở trong và ngoài nước không đúng thành phần, thời gian và nội dung

yêu cầu công việc. Sống, sinh hoạt, tiêu dùng, giải trí xa hoa, lãng phí.

7. Lợi dụng doanh nghiệp hoặc để doanh nghiệp lợi dụng nhằm vụ lợi. Lợi dụng chức

vụ, quyền hạn, uy tín để sử dụng, vay, mượn tiền, tài sản, phương tiện của tổ chức,

cá nhân trái quy định.

8. Để vợ (chồng), bố, mẹ, con, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín

của mình để vụ lợi. Để vợ (chồng), con đẻ, con nuôi sống xa hoa, phô trương, lãng

phí hoặc sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.

Điều 4. Tổ chức thực hiện

1. Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy định và định kỳ báo cáo

Ban Chấp hành Trung ương. Các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các quy định nêu gương; gắn việc thực hiện Quy định với

kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên và lấy phiếu tín nhiệm theo quy định.

Kịp thời xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm để làm gương cho cấp

dưới.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội trong phạm vi, nhiệm

vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện Quy định.

3. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương theo

dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Quy định này được phổ biến đến chi bộ.

Chuyên đề 2: Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện

quy chế dân chủ ở cơ sở

Ngày 10-9-2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 16-CT/TU về tiếp tục

đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nội dung cụ thể sau:

Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TU, ngày 10-10-2006 của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIII) “về đẩy mạnh triển khai thực hiện quy chế dân chủ

ở cơ sở”, việc thực hiện quy chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở trên địa bàn tỉnh đã đạt

được nhiều kết quả tích cực. Nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên,

công chức, viên chức và Nhân dân trong việc thực hiện QCDC được nâng lên rõ rệt.

Các tổ chức trong hệ thống chính trị đã tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt

động theo hướng “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”.

Công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, đối thoại trực tiếp với Nhân

dân được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Hầu hết các ý kiến, tâm tư, nguyện

vọng hợp pháp, chính đáng của Nhân dân đã được tiếp thu và giải quyết kịp thời,

thỏa đáng.

Tuy nhiên, một số nơi vẫn còn xảy ra tình trạng dân chủ hình thức, vi phạm quyền

làm chủ của Nhân dân, người lao động, chưa thực hiện đầy đủ các nội dung công

khai để Nhân dân được biết, được bàn, được tham gia thực hiện và kiểm tra, giám

sát; còn tình trạng lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh, trật tự, gây mất đoàn kết,

chia rẽ nội bộ. Việc thực hiện QCDC ở cơ sở chưa đồng đều ở các loại hình cơ sở.

Nhiều doanh nghiệp tư nhân, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, cơ sở dịch vụ... chưa

nghiêm túc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở theo yêu cầu.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ

sở, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh

ủy, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, các cơ quan hành

chính nhà nước, chính quyền các cấp, các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh:

1. Tiếp tục lãnh đạo phổ biến, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng nội dung Chỉ thị số

30-CT/TW, ngày 18-02-1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) "về xây dựng và thực hiện

Quy chế dân chủ cơ sở", Kết luận số 120-KL/TW, ngày 07-01-2016 của Bộ Chính

trị (khóa XII) về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng

và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” và các văn bản của Trung ương, của Tỉnh ủy,

Ủy ban nhân dân tỉnh liên quan đến việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở đến

toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền, phản ánh khách quan, trung

thực về gương người tốt, việc tốt, các mô hình điển hình trong xây dựng và thực hiện

QCDC ở cơ sở để Nhân dân dễ dàng tiếp cận thông tin, tự giác thực thi pháp luật và

thực hiện tốt quyền tự do, dân chủ theo quy định của pháp luật.

2. Phát huy dân chủ trong Đảng, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và vai trò gương

mẫu của cán bộ, đảng viên. Chống quan liêu và các hành vi xâm phạm quyền làm

chủ của Nhân dân. Mở rộng dân chủ đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, kịp

thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ để lôi kéo, kích động gây

mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

3. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11,

ngày 20-4-2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội "về thực hiện dân chủ ở xã, phường,

thị trấn", các nghị định của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong các loại hình,

Quyết định số 1408-QĐ/TU, ngày 25-9-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "công

tác đối thoại giữa bí thư các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chính quyền các

cấp với Nhân dân" và Quyết định số 02/2015/QĐ-UBND, ngày 22-01-2015 của Ủy

ban nhân dân tỉnh Quy định về việc thực hiện dân chủ trong công tác thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi triển khai dự án đầu tư; chú trọng thực hiện dân chủ

trong loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước và các lĩnh vực

liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân.

4. Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung hoặc ban hành mới các quy chế, quy định liên quan

đến quyền làm chủ của Nhân dân cho phù hợp với tình hình thực tế ở cơ quan, đơn

vị, địa phương. Đẩy mạnh cải cách hành chính, công khai, minh bạch các quy định,

quy trình, các khoản phí, lệ phí, thời gian giải quyết hồ sơ để Nhân dân biết, thực

hiện và tham gia giám sát.

5. Lãnh đạo, hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp tích

cực vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân tích cực tham gia thực hiện QCDC ở

cơ sở; thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng

của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã

hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh;

nâng cao chất lượng việc xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, hoạt động của

Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.

6. Xây dựng chương trình, kế hoạch để chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị này; thường

xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Lồng ghép việc thực hiện QCDC

trong chương trình công tác hằng năm của cơ quan, đơn vị, địa phương gắn với triển

khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Chỉ thị số 05-CT/TW

của Bộ Chính trị

7. Giao Ban Dân vận Tỉnh ủy (Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo xây dựng và thực

hiện QCDC ở cơ sở của tỉnh) chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Ban

Thường vụ Tỉnh ủy hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát và sơ kết, tổng kết việc

thực hiện Chỉ thị này; định kỳ hằng năm, báo cáo kết quả thực hiện về Ban Thường

vụ Tỉnh ủy.

Chỉ thị này được phổ biến đến chi bộ và thay thế Chỉ thị số 04-CT/TU, ngày 10-10-

2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa XIII) về đẩy mạnh triển khai thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở.

Chuyên đề 3: Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm

kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ

Ngày 12-9-2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 17-CT/TU về việc tiếp

tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Nội dung cụ thể sau:

Thời gian qua, công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ đã được các cấp, các ngành

quan tâm triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo được sự đồng thuận cao trong cán bộ,

đảng viên và Nhân dân, thể hiện sự tri ân, tôn kính, biết ơn và ghi nhớ sâu sắc công

lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ; từng bước đáp ứng nguyện vọng của thân nhân,

gia đình liệt sĩ và nhân dân; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, yêu nước

đối với các thế hệ, nhất là thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ vẫn còn hạn chế; số hài cốt liệt

sỹ được phát hiện, quy tập còn ít so với thực tế, nhất là số liệt sĩ hy sinh trong chiến

dịch Tết Mậu Thân năm 1968 và Chiến dịch Xuân - Hè năm 1972... Chưa huy động

được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong việc cung cấp, xác minh

thông tin và hỗ trợ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ; còn tình trạng phó mặc cho lực

lượng chuyên trách. Công tác xác minh danh tính liệt sỹ còn gặp nhiều khó khăn...

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ trong thời

gian tới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu:

1. Các cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy; các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng

ủy trực thuộc Tỉnh ủy; các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; các huyện ủy, thành ủy: (a)

Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm các chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác tìm

kiếm quy tập hài cốt liệt sĩ[2]. Tập trung đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền,

phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp và các

cơ quan thông tấn báo chí, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên

và Nhân dân về mục đích, ý nghĩa của công tác tìm kiếm, quy tập và xác định danh

tính hài cốt liệt sĩ. (b) Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tìm kiếm, quy tập hài

cốt liệt sỹ với quyết tâm chính trị cao nhất. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính

trị, phát huy vai trò của các các cấp, các ngành, nhất là cựu chiến binh, cựu quân

nhân, ban liên lạc truyền thống các đơn vị và Nhân dân trong việc phát hiện, cung

cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ và phối hợp tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tổ

chức phát động phong trào toàn dân cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ. (c) Ưu

tiên bố trí nguồn kinh phí của địa phương để hỗ trợ công tác tìm kiếm, quy tập hài

cốt liệt sỹ theo quy định; kịp thời khen thưởng, động viên đối với các tổ chức, cá

nhân có thành tích cung cấp thông tin, tham gia tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; tổ

chức chu đáo việc giúp đỡ tìm kiếm mộ liệt sĩ quê quán ở các địa phương khác hy

sinh tại tỉnh Kon Tum; phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành việc tìm kiếm, quy tập

hài cốt số liệt sĩ còn lại đã có thông tin và cơ bản hoàn thành công tác tìm kiếm, quy

tập hài cốt liệt sĩ vào những năm tiếp theo.

2. Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, ban thường vụ các huyện ủy, thành ủy: (a)

Rà soát, kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo tìm kiếm,

quy tập và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ của tỉnh (Ban Chỉ đạo 515), các ban chỉ

đạo tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ cấp huyện để chỉ đạo đến từng cấp ủy, chính

quyền, đoàn thể và phát động phong trào rộng rãi trong Nhân dân tích cực cung cấp

thông tin về mộ liệt sĩ và phối hợp tìm kiếm hài cốt liệt sĩ. (b) Chỉ đạo các cấp, các

ngành sử dụng hiệu quả trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, tăng cường ứng dụng

công nghệ thông tin trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; chủ động phối

hợp với các cơ quan liên quan trong giám định ADN xác định danh tính hài cốt liệt

sĩ còn thiếu thông tin. Phối hợp tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả kết quả giải

mã ký hiệu, phiên hiệu đơn vị Quân đội; hồ sơ, danh sách, cơ sở dữ liệu về liệt sĩ,

mộ liệt sĩ để kết nối thông tin, phục vụ cho công tác tìm kiếm, quy tập, nhất là các

khu vực có mộ tập thể; lập bản đồ, sơ đồ quy tập hài cốt liệt sĩ theo hướng dẫn của

Trung ương. Đồng thời, chủ động thực hiện tốt việc số hóa thông tin mộ liệt sĩ bằng

ứng dụng công nghệ thông tin, tích hợp đầy đủ các thông tin về liệt sĩ của tỉnh, góp

phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Thực hiện tốt công tác “Đền ơn đáp nghĩa”,

tạo điều kiện cho thân nhân liệt sĩ và Nhân dân tiếp cận thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ

và nghĩa trang liệt sĩ nhanh chóng, chính xác. Chỉ đạo chặt chẽ việc lấy mẫu sinh

phẩm, di chuyển, bàn giao, an táng hài cốt liệt sĩ bảo đảm trang nghiêm, chu đáo,

chặt chẽ và an toàn tuyệt đối. (c) Chỉ đạo tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ban Công

tác đặc biệt các tỉnh Nam Lào, Ban Chuyên trách tỉnh Rat-ta-na-ki-ri (Cam-pu-chia)

và chính quyền, nhân dân các tỉnh Bạn đẩy nhanh công tác tìm kiếm, quy tập, hồi

hương hài cốt quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào và Cam-pu-

chia. Tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc

cung cấp thông tin về liệt sĩ hy sinh, mất tin, mất tích trong chiến tranh; chia sẻ kinh

nghiệm, hỗ trợ về các mặt bảo đảm cho công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Bảo

đảm tốt về kinh phí, trang bị, phương tiện và chế độ, chính sách; làm tốt công tác

kiểm tra, sơ kết, kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong công

tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

3. Các cơ quan, đơn vị, địa phương được giao nhiệm vụ ở trên tiến hành phổ biến,

quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao

theo chức năng, nhiệm vụ.

4. Giao Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì, phối hợp với Đảng ủy Quân

sự tỉnh và các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc thực

hiện Chỉ thị này.

Chỉ thị được phổ biến, quán triệt đến Chi bộ.

II. TIN TRONG TỈNH

1. Ngày 9-10, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV tổ chức Hội nghị lần thứ

13. Đồng chí Nguyễn Văn Hùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy,

Chủ tịch HĐND tỉnh chủ trì hội nghị.

Hội nghị tập trung thảo luận, cho ý kiến đối với các báo cáo và tờ trình của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 và phương hướng, nhiệm

vụ năm 2019; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TU của Tỉnh ủy về “Giảm

nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020” và dự thảo nội dung

bổ sung, chỉnh sửa Sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum tập I (1930-1975).

Sau 01 ngày làm việc khẩn trương, tích cực, hội nghị đã hoàn thành nội dung, chương

trình đề ra. Các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thể hiện tinh thần

trách nhiệm cao, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, có

trách nhiệm vào các văn bản trình tại hội nghị.

Đối với Báo cáo và Tờ trình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tình hình kinh tế - xã

hội năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019, hội nghị thống nhất đánh giá:

Năm 2018, tỉnh Kon Tum đã triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ

trên các lĩnh vực: tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 13.443 tỷ đồng, tăng

9,28% so với năm trước và vượt kế hoạch đề ra; thu nhập bình quân đầu người tăng

từ 34,77 triệu đồng (năm 2017) lên 37,49 triệu đồng; tổng thu ngân sách nhà nước

tại địa bàn ước đạt 2.436,6 tỷ đồng, đạt 112,2% dự toán; lĩnh vực giáo dục, y tế, văn

hóa, thể thao và du lịch tiếp tục có bước phát triển tích cực; công tác đảm bảo an sinh

xã hội được quan tâm thực hiện; quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Trong năm 2019, Tỉnh ủy tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để lãnh

đạo phát triển kinh tế - xã hội: huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để

tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trọng tâm là phát triển hạ tầng đô

thị, các khu đô thị mới kết hợp dịch vụ; quy hoạch, xây dựng khu công nghiệp - dịch

vụ - đô thị; phát triển nông nghiệp đi vào chiều sâu theo hướng sản xuất hàng hóa,

ứng dụng công nghệ cao, gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ; hình thành và phát

triển lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đầu tư phát triển các loại cây dược liệu,

nhất là dược liệu dưới tán rừng, gắn với chế biến; có chiến lược đầu tư phát triển sản

phẩm, xây dựng thương hiệu sâm Ngọc Linh.

Đối với việc thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy khóa XV về “Giảm

nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020”, Ban Chấp hành

Đảng bộ thống nhất đánh giá: Sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết, với nhiều chính

sách, chương trình, dự án giảm nghèo đã tạo điều kiện, cơ hội cho người dân khu vực

nông thôn được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, góp phần cải thiện, nâng cao chất

lượng sống; bình quân tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,56%/năm (đạt 101,71%) so với kế

hoạch.

Để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết, Tỉnh ủy xác định các giải

pháp trọng tâm tập trung lãnh đạo trong thời gian tới: tiếp tục đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền và nhân dân về công tác

giảm nghèo; kiên quyết khắc phục tình trạng tái nghèo hoặc phát sinh hộ nghèo mới;

nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo; thực hiện tốt việc lồng

ghép nguồn lực các chính sách có cùng mục tiêu, nhiệm vụ giảm nghèo thuộc các

lĩnh vực bảo đảm đồng bộ, hiệu quả, dễ theo dõi, dễ thực hiện...

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cũng thống nhất nội dung bổ sung, chỉnh sửa sách Lịch

sử Đảng bộ tỉnh tập I (1930-1975) và tái bản lần thứ hai tập sách trên; đồng thời giao

Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo rà soát, hoàn chỉnh và sớm ban hành.

Để các nội dung thông qua tại hội nghị lần này được tổ chức thực hiện có kết quả,

đồng chí Nguyễn Văn Hùng đề nghị các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết, nhất trí, đồng lòng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo,

triển khai thực hiện các nội dung Tỉnh ủy đã quyết định, bảo đảm đạt hiệu quả cao

nhất.

2. Chiều 3-10, Thường trực Tỉnh ủy tổ chức giao ban trực tuyến với các huyện

ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy và giao ban khối Đảng quý III năm

2018. Đồng chí Y Mửi - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, chủ trì Hội nghị.

Trong quý III năm 2018, các đơn vị địa phương đã bám sát các chương trình, chỉ đạo

của Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy và tình hình thực tế để triển khai thực hiện

và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong đó, đã thực hiện có hiệu quả hầu hết các nội dung tại thông báo kết luận giao

ban quý trước; chuẩn bị chu đáo nội dung đón tiếp và làm việc với đoàn công tác của

Thủ tướng Chính phủ; tổ chức thành công Hội nghị “Đầu tư phát triển sâm Ngọc

Linh Kon Tum và các dược liệu khác”; tập trung triển khai các biện pháp đảm bảo

an ninh, trật tự; chủ động phòng, chống và khắc phục thiệt hai do mưa lũ gây ra, góp

phần sớm ổn định cuộc sống của người dân; tích cực, chủ động nắm bắt thông tin,

kịp thời định hướng dư luận xã hội…

Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy ban hành các Chỉ thị về tiếp tục đẩy

mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; tăng cường thực hiện quy chế dân

chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh; thống nhất chủ trương điều chỉnh quy hoạch chung

thành phố Kon Tum; chỉ đạo triển khai chủ trương bố trí công an chính quy đảm

nhận các chức danh công an xã trên địa bàn toàn tỉnh…

Trong quý, Ban Thường vụ Tỉnh ủy thành lập 04 đoàn kiểm tra, giám sát. Ủy ban

kiểm tra cấp ủy các xã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức Đảng, 04 đảng viên và giám sát

18 tổ chức Đảng, 43 đảng viên; phát hiện và thi hành kỷ luật 38 đảng viên vi phạm…

Nhìn chung, đến nay các địa phương, đơn vị đã triển khai các nội dung công việc

đảm bảo tiến độ đề ra, các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội đều đạt kế hoạch; công tác an

sinh được đảm bảo; quốc phòng, an ninh được giữ vững; công tác xây dựng Đảng

tiếp tục được quan tâm.

Tuy nhiên, theo đánh giá của các cơ quan tham mưu giúp việc Tỉnh ủy và các huyện

ủy, thành ủy, Đảng ủy trực thuộc việc triển khai thực hiện phong trào “Toàn dân bảo

vệ an ninh Tổ quốc” chưa hiệu quả; công tác quản lý nhà nước về tôn giáo chưa chặt

chẽ; trật tự xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất là hoạt động “tín dụng đen”…

Sau khi nghe gần 20 lượt ý kiến phát biểu của lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam

tỉnh; UBND tỉnh và các sở, ngành của tỉnh và các huyện ủy, thành ủy; phát biểu kết

luận Hội nghị, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy đề nghị các địa phương, cơ quan,

đơn vị tập trung rà soát, đánh giá việc triển khai thực hiện chỉ đạo, kết luận của Ban

Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy và chương trình công tác của cơ quan, đơn vị năm

2018, trên cơ sở đó, tập trung thực hiện hiệu quả những việc còn lại; kịp thời báo cáo

Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy để chỉ đạo giải quyết khó khăn, vướng mắc.

Riêng các huyện ủy, thành phố, Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đẩy mạnh tuyên truyền,

phát động phong trào thi đua chào mừng các ngày truyền thống, ngày kỷ niệm của

đất nước, của tỉnh trong quý IV; tổ chức Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa

bàn tỉnh đảm bảo chu đáo, thiết thực, hiệu quả; chú trọng công tác phòng, chống dịch

bệnh trên người và vật nuôi, cây trồng; chủ động đấu tranh có hiệu quả với các loại

tội phạm về trật tự xã hội, khai thác, vận chuyển, cất giấu lâm sản, khoáng sản trái

pháp luật; thực hiện tốt công tác tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của

công dân.

3. Ngày 10-10, tại Hội trường Ngọc Linh, UBND tỉnh tổ chức Đại hội thi đua

quyết thắng Lực lượng vũ trang tỉnh Kon Tum lần thứ VIII (giai đoạn 2013-

2018), với sự tham dự của 90 điển hình tiên tiên trong phong trào thi đua Quyết thắng

giai đoạn 2013-2018.

Trong giai đoạn 2013-2018, phong trào thi đua quyết thắng và công tác thi đua, khen

thưởng của LLVT tỉnh đã phát triển toàn diện, đúng định hướng, được duy trì thường

xuyên, liên tục, gắn chặt với phong trào thi đua yêu nước của địa phương, các cuộc

vận động lớn của Đảng, Nhà nước, Quân đội, thực sự là động lực tinh thần to lớn,

trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng nền

quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững

chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Diện mạo của từng cơ quan, đơn vị có nhiều thay đổi; nhiều chuyển biến trong xây

dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, môi trường văn hóa lành mạnh, phong

phú; đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân được tăng cường; đời sống vật chất, tinh

thần của cán bộ, chiến sĩ được nâng cao; cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững

vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, sẵn sàng nhận và

hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tăng cường củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu

nghị với các tỉnh giáp ranh biên giới...

5 năm qua, LLVT tỉnh đã được Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc

phòng, Quân khu và Tỉnh ủy, UBND tỉnh ghi nhận, tặng thưởng nhiều phần thưởng

cao quý. Đã có 1 tập thể, 1 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng

vũ trang nhân dân; 12 cá nhân được tặng Huân chương Chiến công thành tích vì làm

nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Lào và Campuchia; 3 cá nhân được tặng Huân chương

chiến công thành tích làm nhiệm vụ ở tuyến 1 biên giới phía Bắc; 77 cá nhân được

tặng và 2 cá nhân được truy tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc; 435 lượt cá nhân

được tặng Huy chương Quân kỳ Quyết thắng, Huy chương chiến sĩ vẻ vang; 9 tập

thể, 14 cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng Cờ thi đua, Bằng khen; 48 lượt tập thể, 12

lượt cá nhân được Quân khu tặng cờ thi đua, Đơn vị Quyết thắng, Đơn vị tiên tiến,

chiến sĩ thi đua cơ sở và hàng ngàn lượt tập thể, cá nhân được các đơn vị khen

thưởng…

Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, đồng chí Thiếu tướng Nguyễn Đình Tiến, Phó tư lệnh

Quân khu 5 và đồng chí Y Mửi, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy ghi nhận, biểu

dương những thành tích mà LLVT tỉnh đã đạt được trong thời gian qua. Yêu

cầu trong thời gian tới, LLVT tỉnh cần tập trung làm tốt công tác tham mưu cho cấp

ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân,

thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; triển khai kịp

thời nhiệm vụ quốc phòng - quân sự địa phương; xây dựng lực lượng chính quy, tinh

nhuệ, từng bước hiện đại. Kết hợp chặt chẽ Phong trào Thi đua Quyết thắng của

LLVT tỉnh với phong trào thi đua yêu nước của các ngành, các cấp. Tăng cường bám

sát địa bàn, sâu sát dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên

giới; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc

phòng...

Cũng nhân dịp này, đồng chí Phó tư lệnh Quân khu 5 cảm ơn cấp ủy, chính quyền

tỉnh Kon Tum đã quan tâm tạo điều kiện cho các đơn vị quân đội đứng chân trên địa

bàn tỉnh và LLVT tỉnh hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao....

Phát biểu bế mạc Đại hội, đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn

Văn Hòa yêu cầu LLVT tỉnh phát huy những thành tích đạt được, tiếp tục xây dựng

lực lượng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách

mạng của Đảng, của nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, nêu cao ý chí và trách

nhiệm trong thực hiện chức trách được giao. cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh

phải giữ gìn đạo đức, lối sống, chấp hành pháp luật, kỷ luật quân đội, chủ động tham

mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương đấu tranh chống âm mưu "Diễn biến hòa

bình" của các thế lực thù địch, kiên quyết không để xảy ra các vụ việc nghiêm trọng

ảnh hưởng đến sức chiến đấu và bản chất truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ".

Đại hội đã trao tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho 05 tập thể, 10 cá nhân;

Bằng khen của BTL Quân khu 5 cho 02 tập thể, 03 cá nhân và Giấy khen của BCH

Quân sự tỉnh cho nhiều tập thể và cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong phong trào

thi đua Quyết thắng giai đoạn 2013-2018.

4. Sáng 16-10, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh tổ chức Lễ phát

động Tháng cao điểm Vì người nghèo năm 2018.

9 tháng đầu năm 2018, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh đã chủ động

xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai công tác xây dựng Qũy Vì người nghèo

gắn với các hoạt động an sinh xã hội, nhân đạo từ thiện, đền ơn đáp nghĩa tại các địa

phương. Từ ngày 01/01/2018 đến hết ngày 30/9/2018, Ban Vận động Qũy Vì người

nghèo tỉnh Kon Tum đã vận động, quyên góp được trên 19 tỷ đồng. Trong đó, dư

đầu kỳ năm 2017 chuyển sang hơn 03 tỷ đồng, cấp tỉnh vận động gần 12 tỷ đồng,

gần 04 tỷ đồng do cấp huyện và cấp xã huy động, kinh phí Trung ương chuyển về

khoảng 50 triệu đồng. Trong 9 tháng đầu năm 2018, từ nguồn Qũy Vì người nghèo

tỉnh, hơn 90 căn nhà đại đoàn kết được xây dựng; gần 900 hộ nghèo được hỗ trợ phát

triển sản xuất; trao tặng hơn 35.000 suất quà cho người nghèo dịp lễ, tết với tổng trị

giá gần 14 tỷ đồng. Các hoạt động giúp đỡ người nghèo được triển khai dưới nhiều

hình thức đã giúp người nghèo, đối tượng khó khăn, gia đình chính sách ổn định cuộc

sống, từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững. Việc triển khai xây dựng Qũy Vì

người nghèo đã góp phần tích cực vào thực hiện mục tiêu giảm nghèo của tỉnh, ổn

định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh – quốc phòng tại địa

phương; từng bước thay đổi nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân

về công tác giảm nghèo; góp phần vun đắp truyền thống đoàn kết, tương thân tương

ái trong cộng đồng.

Tại Lễ phát động Tháng cao điểm Vì người nghèo năm 2018, thay mặt Ban Thường

trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, Ban Vận động Qũy Vì người nghèo tỉnh, đại diện

lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Kon Tum đã ra lời kêu gọi các cơ quan, đơn

vị, doanh nghiệp, cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, các nhà hảo tâm

trong và ngoài tỉnh tích cực tham gia ủng hộ vật chất, tinh thần để chăm lo cải thiện

đời sống cho người nghèo, góp phần xây dựng tỉnh Kon Tum ổn định, phát triển

nhanh và bền vững.

Nhân dịp này, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Kon Tum đã tặng hoa

và khen thưởng 19 tập thể có nhiều đóng góp tích cực cho công tác an sinh – xã hội

trên địa bàn tỉnh thời gian vừa qua.

Tại Lễ phát động, hơn 20 cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh đã đăng

ký ủng hộ Qũy Vì người nghèo với tổng số tiền trị giá gần 7 tỷ đồng. Các cá nhân,

doanh nghiệp, nhà hảo tâm tham gia đóng góp gần 40 triệu đồng.

5. Sáng 26-10, Đoàn khảo sát của Hội đồng Lý luận Trung ương do đồng chí Tạ

Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương làm Trưởng đoàn đã có

buổi làm việc với Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum về tình hình triển khai thực

hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

(bổ sung và phát triển năm 2011).

Tiếp và làm việc với đoàn có các đồng chí: Nguyễn Văn Hùng - Ủy viên Trung ương

Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Văn Hòa - Phó Bí thư Tỉnh ủy,

Chủ tịch UBND tỉnh; Kring Ba - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch

Thường trực HĐND tỉnh; Lê Thị Kim Đơn - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy,

Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; lãnh đạo các sở, ban ngành liên quan của tỉnh.

Theo báo cáo của Tỉnh ủy Kon Tum tại cuộc họp, thực hiện Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011),

Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum đã cụ thể hóa Cương lĩnh vào các Nghị

quyết Đại hội XIV, XV Đảng bộ tỉnh, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế

- xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị để lãnh

đạo, chỉ đạo tập trung triển khai thực hiện và đạt được một số kết quả.

Chỉ tính riêng năm 2018, tổng sản phẩm của tỉnh ước đạt 13.443 tỷ đồng, tăng 9,28%

so với năm trước và vượt kế hoạch đề ra. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ

34,77 triệu đồng năm 2017 lên 37,49 triệu đồng. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước

đạt 2.436,6 tỷ đồng, đạt 112,2% dự toán.

Tỉnh ủy đã ban hành và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết

số 06-NQ/TU, ngày 24-8-2016 "về giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều

giai đoạn 2016-2020".

Tính đến 31-12-2017, có 07/10 huyện, thành phố đạt kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo so

với mục tiêu Nghị quyết số 06-NQ/TU đề ra; bình quân tỷ lệ hộ nghèo giảm

3,56%/năm (từ 26,11% vào cuối năm 2015 xuống còn 20,30% vào cuối năm 2017),

đạt 101,71% so với kế hoạch (trong 3 năm thực hiện Nghị quyết, tổng số hộ thoát

nghèo là 10.519 hộ). Kinh tế, xã hội ở vùng sâu, vùng xa đã có bước phát triển; tỷ lệ

hộ nghèo, thất nghiệp, thiếu việc làm và các tệ nạn xã hội giảm dần; trình độ dân trí,

chất lượng nguồn lao động được nâng cao…

Công tác xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả; các chính sách an sinh xã hội

được thực hiện đồng bộ, kịp thời; hoạt động văn hóa, thể thao diễn ra sôi nổi; giáo

dục, y tế tiếp tục phát triển; việc phòng ngừa và chấn chỉnh vi phạm, công tác thanh

tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh; công tác tiếp công

dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện tốt; quốc phòng, an ninh được giữ

vững, ổn định; công tác đối ngoại tiếp tục được tăng cường.

Tại buổi làm việc, tỉnh Kon Tum đề nghị Trung ương sớm xem xét, công nhận Di

tích lịch sử Quốc gia Ngục Kon Tum là Di tích Quốc gia đặc biệt; Hằng năm, sớm

phân bổ vốn thuộc Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững; Nâng định mức hỗ

trợ chuyển đổi ngành nghề từ 5 triệu đồng/hộ lên 10 triệu đồng/hộ; Bổ sung các xã

thuộc vùng II, III thuộc diện xã khó khăn theo Quyết định 582/QĐ-TTg ngày 28-4-

2017 của Thủ tướng Chính phủ được vay vốn sản xuất kinh doanh vùng khó khăn;

Nâng mức vốn cho vay đối với hộ nghèo để xây dựng mới nhà ở lên 40 triệu đồng/hộ;

hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn lên 70 triệu đồng/hộ;

Ngoài ra, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Quyết định danh mục các đơn vị hành

chính thuộc vùng khó khăn thay thế Quyết định 1049/QĐ-TTg ngày 26-6-2014 của

Thủ tướng Chính phủ; Đề nghị Bộ Tài chính, Ủy ban Dân tộc, Ngân hàng chính sách

xã hội sớm cấp kinh phí hỗ trợ vốn vay để địa phương thực hiện chính sách đặc thù

hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi; Xem xét có chế độ chính

sách phù hợp đối với cán bộ thực hiện việc kiêm nhiệm các chức danh người đứng

đầu của các cơ quan, đơn vị; việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã, thôn đảm

bảo hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương…

Sau khi nghe ý kiến của các đại biểu tham dự cuộc họp, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý

luận Trung ương Tạ Ngọc Tấn ghi nhận những nỗ lực, thành tựu của địa phương đạt

được trong thời gian qua; đồng thời ghi nhận những kiến nghị, đề xuất của tỉnh trình

Chính phủ, Bộ ngành liên quan để tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, hạn chế trong quá

trình thực hiện Cương lĩnh và các chương trình, chính sách phát triển KT-XH, ANQP

đặc thù tại địa phương. Nhân dịp này, thay mặt đoàn công tác, đồng chí Tạ Ngọc Tấn

chúc Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đưa tỉnh nhà ngày

càng phát triển, mang lại đời sống no ấm, hạnh phúc cho bà con nhân dân các dân

tộc trong tỉnh.

III. TIN TRONG NƯỚC

1. Một số kết quả chủ yếu của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XII

Từ ngày 02 - 06/10/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp Hội

nghị lần thứ 8 để bàn và quyết định một số nội dung quan trọng:

(1) Về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2018 và nhiệm vụ năm 2019 Ban Chấp hành Trung ương thống nhất ban hành Kết luận về tình hình kinh tế - xã

hội năm 2018; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm

2019 với các nội dung cơ bản sau:

a) Về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018: Năm 2018, kinh tế toàn cầu phục hồi

nhưng còn có rủi ro, xu hướng bảo hộ, tranh chấp thương mại gia tăng. Trong nước,

ngay từ đầu năm, các cấp, các ngành đã quyết liệt triển khai thực hiện kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội. Nhờ sự nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng

đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục

đà chuyển biến tích cực. Kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm

phát được kiểm soát. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả năm ước tính tăng dưới 4%; tổng

kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt khoảng 475 tỉ USD và là năm thứ 3 liên tiếp xuất siêu.

Tăng trưởng GDP dự báo vượt chỉ tiêu đề ra (6,7%). Tỉ lệ hộ nghèo còn 5,2 - 5,7%,

giảm 1 - 1,5%. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng

phó biến đổi khí hậu có nhiều tiến bộ. Cải cách hành chính, công tác thanh tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo và thực

hiện quyết liệt. Tiềm lực quốc phòng; an ninh được tăng cường; trật tự, an toàn xã

hội được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu, vị thế và uy

tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả

đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Giải ngân vốn đầu tư

công, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn còn chậm. Sản xuất kinh doanh

vẫn còn khó khăn. Đời sống một bộ phận nhân dân chưa được cải thiện, còn khó

khăn. Tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội có lúc, có nơi diễn biến phức tạp.

b) Về một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2019: (i) Tiếp tục củng cố nền tảng vĩ

mô, kiểm soát lạm phát, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. (ii) Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các đột phá chiến lược. (iii) Tạo chuyển

biến rõ nét trong cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng

suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. (iv) Phát triển văn hoá, xã hội hài hoà

với phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. (v) Chấn

chỉnh công tác quản lý tài nguyên, môi trường, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng

phó biến đổi khí hậu. (vi) Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ

cương, tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quyết liệt phòng,

chống tham nhũng, lãng phí. (vii) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo

đảm trật tự, an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc

tế. (viii) Làm tốt hơn nữa công tác thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội, tạo

niềm tin và khát vọng dân tộc. (ix) Về dự toán ngân sách nhà nước năm 2019: Giữ

vững kỷ luật tài chính - ngân sách nhà nước; tiếp tục củng cố cơ sở thuế, tăng cường

chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá. Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước

theo hướng tăng tỉ trọng thu nội địa, chi đầu tư và giảm tỉ trọng chi thường xuyên;

giảm bội chi ngân sách nhà nước; quản lý và sử dụng hiệu quả, bảo đảm an toàn nợ

công. Dự kiến đến cuối năm 2019, nợ công khoảng 61,3%, nợ Chính phủ khoảng

52,2%, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 49,9% GDP.

(2) Về Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa X về Chiến lược

biển Việt Nam đến năm 2020

Ban Chấp hành Trung ương thống nhất ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám,

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh

tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có một số nội

dung đáng chú ý như:

Mục tiêu tổng quát đến năm 2030: Xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh

đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững. Kinh tế biển xanh đóng vai trò chủ

đạo; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước

biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, phục hồi và bảo tồn

các hệ sinh thái biển quan trọng; chống sạt lở bờ biển và biển xâm thực; khoa học,

công nghệ tiên tiến và những thành tựu khoa học - công nghệ mới trở thành nhân tố

trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển.

Tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền

vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào các

vấn đề biển và đại dương của quốc tế và khu vực, góp phần quan trọng xây dựng

nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về một số chủ trương: Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất 5 chủ trương

lớn: (1) Phát triển kinh tế biển và ven biển: Đến năm 2030, phát triển thành công, có

bước đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: Phát triển du lịch biển,

đảo; Kinh tế hàng hải; Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác;

Nuôi trồng, khai thác thuỷ hải sản và phát triển hạ tầng nghề cá; Phát triển công

nghiệp đóng tàu; Phát triển năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế mới. (2) Phát

triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa bảo tồn và

phát triển. (3) Bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển,

chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai.

(4) Xây dựng văn hoá biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển. (5) Bảo đảm quốc

phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Về các khâu đột phá: Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định 3 đột phá: (l) Hoàn

thiện thể chế phát triển bền vững biển, ưu tiên tạo hành lang pháp lý đổi mới mô hình

phát triển theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, năng suất, chất lượng cao, cạnh

tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển, hoàn thiện cơ chế

quản lý tổng hợp và thống nhất về biển; (2) Phát triển khoa học, công nghệ và đào

tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành

tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng

đầu, nhân lực chất lượng cao; (3) Phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ dựa

trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa

các vùng trong nước và với quốc tế.

Về các giải pháp thực hiện: Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất 7 nhóm

giải pháp chủ yếu: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn

xã hội. (2) Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

về phát triển bền vững biển. (3) Phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều

tra cơ bản biển. (4) Đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển. (5) Tăng

cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. (6) Chủ

động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển. (7) Huy

động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững

biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh.

(3) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua nội dung cơ bản Quy định về

trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị,

Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: Sự nêu gương của cán bộ, đảng viên

có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng,

cũng là phẩm chất của người cán bộ, đảng viên. Thực hiện Nghị quyết Trung ương

4, khoá XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Ban Bí thư đã ban hành Quy định số

101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất

là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 55-

QĐ/TW, ngày 19/12/2016 về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm

nêu gương của cán bộ, đảng viên và bước đầu đạt được một số kết quả tích cực. Tuy

nhiên, nhận thức và thực hiện trách nhiệm nêu gương của không ít cán bộ, đảng viên

còn hạn chế. Việc ban hành và thực hiện hiệu quả Quy định về trách nhiệm nêu

gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư,

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng sẽ tạo sự lan toả mạnh mẽ, góp phần củng

cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhất là đối với Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Do vậy, ban hành Quy định là cần thiết trong tình

hình hiện nay.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng tình, nhất trí cao với việc ban hành Quy định

để việc nêu gương trở thành việc làm tự giác, thường xuyên và nếp văn hóa; nâng

cao ý thức trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết

là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương

Đảng; góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng

lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên; củng cố niềm tin

của nhân dân đối với Đảng. Đồng thời, Quy định được ban hành sẽ có tác dụng giáo

dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và phòng ngừa sai phạm…

Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: Từng đồng chí Ủy viên Trung ương

Đảng khoá XII thật sự soi vào bản thân mình, đề cao trách nhiệm nêu gương và

gương mẫu đi đầu thực hiện thì sẽ có sức lan tỏa rất lớn, sẽ tạo được chuyển biến

mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, góp phần củng cố, tăng cường

niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào Đảng, vào Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư.

Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo tiếp thu ý kiến thảo luận

của Trung ương, hoàn thiện dự thảo Quy định để xin ý kiến Ban Chấp hành Trung

ương Đảng bằng văn bản trước khi ban hành.

(4) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận và thống nhất, quyết định

thành lập 5 Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng gồm: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu

ban Kinh tế - Xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức

phục vụ Đại hội. Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu các Tiểu ban cần khẩn

trương xây dựng chương trình, kế hoạch để sớm đi vào hoạt động.

(5) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất cao (100%) giới thiệu đồng

chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng để Quốc hội

bầu giữ chức vụ Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ Quốc

hội khoá XIV (2016 - 2021) tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIV; bầu bổ sung hai

Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá XII; cho ý kiến để Bộ Chính trị xem xét,

quyết định theo thẩm quyền việc giới thiệu đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Ủy viên

Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, quyền Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền

thông để Thủ tướng Chính phủ trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIV phê chuẩn

giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.

(6) Về thi hành kỷ luật cán bộ

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét, quyết định thi hành kỷ luật đồng chí

Nguyễn Bắc Son, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng,

nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông bằng hình thức: Cách chức Ủy viên

Trung ương Đảng khoá XI và Bí thư Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông

nhiệm kỳ 2011 - 2016.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã xem xét, quyết định thi hành kỷ luật đồng

chí Trần Văn Minh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng Ban Tổ

chức Trung ương, nguyên Phó Bí thư Thành uỷ, nguyên Bí thư Ban cán sự đảng,

nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng bằng hình thức: Khai trừ ra

khỏi Đảng.

(7) Theo Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban

Bí thư khoá XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét và thống nhất cao với

Báo cáo các công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung

ương 7 đến Hội nghị Trung ương 8, khoá XII; Báo cáo công tác tài chính đảng năm

2017.

2. Một số nét chính về tình hình kinh tế-xã hội của nước ta tháng 9 và 9 tháng

năm 2018

Một số kết quả cụ thể:

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2018 của nước ta tiếp tục chuyển

biến tích cực; cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng đi vào thực

chất hơn. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm

phát được kiểm soát. Thị trường tiền tệ, tín dụng, chứng khoán phát triển ổn định.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III năm 2018 duy trì đà tăng cao, ước đạt

6,88%; 9 tháng ước đạt 6,98%, cao nhất so với cùng kỳ trong 07 năm qua; thu hút

11,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng 22,9%. Xuất khẩu 9 tháng tăng 15,4% so với cùng

kỳ; xuất siêu đạt gần 5,4 tỷ USD. Thu ngân sách nhà nước tăng 13,7%; tỷ lệ nợ công

so với GDP giảm. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện tăng 10,9%. Môi trường đầu tư,

kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập và quy mô

vốn bình quân đều tăng so với cùng kỳ... Công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân, an

toàn vệ sinh thực phẩm được chú trọng. Chính sách an sinh xã hội được bảo đảm,

đặc biệt là công tác đền ơn, đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng được

quan tâm thực hiện tốt. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Công tác đối ngoại, hội nhập được chú trọng, tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn

kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018, khẳng định và góp phần nâng

cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội nước ta còn gặp không ít khó khăn, thách thức: cuộc chiến thương mại Hoa

Kỳ - Trung Quốc; rủi ro tỷ giá, lãi suất gia tăng; căng thẳng địa chính trị diễn biến

khó lường; khoa học công nghệ và cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục tác

động, ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta trên nhiều phương diện. Áp lực lạm phát

vẫn còn hiện hữu; đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng giảm; giải ngân đầu tư

công và vốn ODA còn thấp so với yêu cầu. Số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động

tăng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cao. Tình trạng buôn lậu, gian lận

thương mại, trật tự an toàn xã hội, tai nạn giao thông, cháy nổ, khiếu kiện đông người

ở một số địa bàn diễn biến phức tạp. Thời gian qua, thời tiết, thiên tai, bão lũ đã gây

thiệt hại nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống.

Một số nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới:

Để phấn đấu thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, tạo

thế và lực tốt hơn cho đất nước vào những năm cuối nhiệm kỳ, Chính phủ yêu cầu

các bộ, cơ quan, địa phương không chủ quan, lơ là, theo dõi chặt chẽ diễn biến tình

hình trong nước và thế giới, kịp thời có đối sách phù hợp; tập trung thực hiện đồng

bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội,

Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, các Nghị quyết chuyên đề và Nghị quyết

phiên họp thường kỳ của Chính phủ. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ

tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề cao trách nhiệm cá

nhân, tập trung chỉ đạo, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành

các nhiệm vụ, công việc được giao, đặc biệt là các nhiệm vụ về xây dựng và hoàn

thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo chuyển biến rõ nét trong

những tháng còn lại của năm 2018; trong đó tập trung thực hiện một số nội dung sau:

Thứ nhất, các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến tình hình giá cả, thị

trường, tăng cường công tác phân tích, dự báo, kịp thời có các biện pháp điều hành

phù hợp, kiểm soát lạm phát, nhất là vào thời điểm cuối năm.

Thứ hai, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về cơ cấu lại nền kinh tế, tăng

năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, khả năng chống chịu của nền kinh tế; thúc

đẩy phát triển các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân; tăng

năng lực cạnh tranh của các đô thị; coi khoa học - công nghệ là động lực tăng trưởng

mới. Chủ động nghiên cứu, xây dựng chương trình hành động nâng cao năng lực tiếp

cận Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư của từng ngành, từng lĩnh vực và từng

địa phương, nhất là xây dựng khung pháp lý, quản lý hiệu quả các mô hình kinh tế

ứng dụng công nghệ thông tin. Tập trung thực hiện nghiêm chỉ đạo của đồng chí

Tổng Bí thư tại cuộc họp lãnh đạo chủ chốt.

Thứ ba, Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử, cơ quan thường trực là Văn phòng

Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ, đôn đốc việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải

pháp về xây dựng Chính phủ điện tử theo phân công, bảo đảm tiến độ và hiệu quả.

Thứ tư, các bộ, ngành chủ động phối hợp với Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh

nghiệp thực hiện bàn giao các tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo đúng kế hoạch,

bảo đảm hoạt động bình thường của các doanh nghiệp.

Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ

Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế, Ủy ban

Quốc gia phòng chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, Bộ Lao động

- Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và

Công nghệ, Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại

giao, Bộ Thông tin và Truyền thông trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình thực

hiện nghiêm túc các nhiệm vụ cụ thể được giao trong Nghị quyết số 124/NQ-CP của

Chính phủ, ngày 06/10/2018.

3. Một số lưu ý khi kết nạp người vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa

gia đình vào Đảng

Ngày 28-8-2018, Ban Bí thư đã ban hành Quy định số 05-QĐi/TW quy định một số

điểm về kết nạp lại đối với đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng và kết nạp quần chúng vi

phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình vào Đảng (Quy định này thay thế

Quy định số 173-QĐ/TW, ngày 11/3/2013 của Ban Bí thư khoá XI và có hiệu lực thi

hành kể từ ngày ký), như sau:

(1) Tiêu chuẩn, điều kiện, thẩm quyền kết nạp lại vào Đảng đối với đảng viên đã bị

đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình:

- Đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia

đình chỉ được xem xét, kết nạp lại vào Đảng khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy

định của Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Trung ương và yêu cầu thực tế

của công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị; là người có uy tín trong cơ

quan, đơn vị, cộng đồng dân cư, được cấp uỷ nơi công tác và nơi cư trú, các tổ chức

đoàn thể mà mình là thành viên đánh giá cao về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm

vụ được giao, về ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và phải có thời gian phấn đấu

ít nhất là 24 tháng đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ ba hoặc 36 tháng đối với

trường hợp vi phạm sinh con thứ tư kể từ ngày bị đưa ra khỏi Đảng đến ngày chi bộ

họp xét đề nghị kết nạp vào Đảng.

- Việc kết nạp lại đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế

hoạch hoá gia đình vào Đảng phải được ban thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương

đồng ý bằng văn bản trước khi ban thường vụ cấp ủy huyện (hoặc tương đương)

quyết định kết nạp.

(2) Tiêu chuẩn, điều kiện, thẩm quyền kết nạp vào Đảng đối với quần chúng vi phạm

chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình:

- Quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình chỉ được xem xét,

kết nạp vào Đảng khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Điều lệ Đảng,

các quy định, hướng dẫn của Trung ương và yêu cầu thực tế của công tác xây dựng

Đảng của địa phương, đơn vị; là người có uy tín trong cơ quan, đơn vị, cộng đồng

dân cư, được cấp uỷ nơi công tác và nơi cư trú, các tổ chức đoàn thể mà mình là

thành viên đánh giá cao về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, về ý

thức trách nhiệm đối với nhân dân và phải có thời gian phấn đấu ít nhất là 24 tháng

đối với trường hợp vi phạm sinh con thứ ba hoặc 36 tháng đối với trường hợp vi

phạm sinh con thứ tư kể từ ngày sinh con đến ngày chi bộ họp xét đề nghị kết nạp

vào Đảng.

- Việc kết nạp quần chúng vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình vào

Đảng do ban thường vụ cấp uỷ huyện (hoặc tương đương) xem xét, quyết định.

(3) Các trường hợp không xem xét kết nạp lại và kết nạp vào Đảng:

Đảng viên sau khi bị đưa ra khỏi Đảng lại vi phạm chính sách dân số và kế hoạch

hoá gia đình.

Quần chúng đã vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình trong trường hợp

sinh con thứ năm trở lên.

C. VĂN BẢN MỚ

I. VĂN BẢN CỦA TỈNH

1. Ngày 09/10/2018, UBND tỉnh ban hành Quyết định 26/2018/QĐ-UBND quy

định đối tượng, một số mức chi, mức hỗ trợ từ nguồn kinh phí sự nghiệp thực

hiện Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 trên

địa bàn tỉnh.

Theo đó, các huyện, thành phố và các Sở, ban ngành khối tỉnh sử dụng kinh phí sự

nghiệp thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới phân bổ để

chi hỗ trợ đối với 08 nội dung, gồm: (1) Quy hoạch xây dựng nông thôn mới cấp xã;

(2) Hỗ trợ dự án phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với tiêu

thụ sản phẩm; (3) Mức chi hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn; (4) Chi hỗ trợ

học phẩm, tài liệu học tập phát triển giáo dục ở nông thôn; (5) Chi hỗ trợ xây dựng

nhà tiêu hợp vệ sinh; (6) Chi hỗ trợ xây dựng chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh; (7)

Chi hỗ trợ xử lý chất thải rắn tại hộ gia đình; (8) Tập huấn nâng cao năng lực, nhận

thức cho cộng đồng và người dân về nông thôn mới; tập huấn, nâng cao kiến thức,

kỹ năng cho cán bộ xây dựng nông thôn mới.

Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/10/2018.

2. Ngày 11/10/2018, UBND tỉnh ban hành Quyết định 1071/QĐ-UBND ban hành

thiết kế mẫu 07 loại công trình thực hiện theo cơ chế đặc thù thuộc các Chương

trình MTQG giai đoạn 2018 – 2020 trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, 07 loại công trình gồm: Bê tông hóa công trình giao thông; Kiên cố hóa

kênh mương nội đồng; Nhà văn hóa thôn (Nhà rông, nhà sàn truyền thống của đồng

bào dân tộc thiểu số, hội trường sinh hoạt văn hóa của đồng bào người kinh); Khu

thể thao thôn, xã (sân bóng đá, bóng chuyền...); Lớp học mầm non được xây ở các

thôn (điểm trường lẻ của thôn); Lớp học bậc tiểu học (bao gồm nhà vệ sinh) được

xây dựng ở các thôn (điểm trường lẻ của thôn); Giếng nước sinh hoạt (giếng đào).

Đồng thời tại Quyết định trên cũng quy định chuyển tiếp: Đối với các dự án đang

triển khai thực hiện áp dụng thiết kế mẫu, dự toán mẫu theo quy định tại Quyết định

số 991/QĐ-UBND ngày 03/10/2014 của UBND tỉnh và Quyết định số 549/QĐ-

UBND ngày 19/6/2017 của UBND tỉnh đến ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành

nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự toán của dự án thì áp dụng

thiết kế mẫu, dự toán mẫu theo quy định tại Quyết định này.

Đối với các dự án đang triển khai thực hiện áp dụng thiết kế mẫu, dự toán mẫu theo

quy định tại Quyết định số 991/QĐ-UBND ngày 03/10/2014 của UBND tỉnh và

Quyết định số 549/QĐ-UBND ngày 19/6/2017 của UBND tỉnh và đã được cơ quan

có thẩm quyền phê duyệt dự toán trước ngày Quyết định này có hiệu lực thi hành thì

tiếp tục áp dụng thiết kế mẫu, dự toán mẫu đã được phê duyệt đến khi hoàn thành dự

án.

3. Ngày 15/10/2018, UBND tỉnh ban hành văn bản khẩn 2879/UBND-KGVX yêu

cầu các ngành, địa phương triển khai ngay các biện pháp cấp bách phòng chống

dịch bệnh bạch hầu.

UBND tỉnh yêu cầu Sở Y tế chỉ đạo triển khai quyết liệt các biện pháp phòng chống

dịch bệnh bạch hầu trên địa bàn tỉnh; giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh; giám sát

tiếp xúc, lấy mẫu xét nghiệm, phát hiện sớm các trường hợp bệnh và nghi nghờ bệnh

để cách ly, điều trị, điều trị dự phòng, khoanh vùng, xử ổ bệnh kịp thời, đúng quy

định nhằm khống chế không để dịch bệnh bùng phát, lan rộng trong cộng đồng. Chỉ

đạo, kiểm tra các huyện, thành phố tiêm vét, tiêm bổ sung vắc xin Quinvaxem cho

trẻ em từ 2 tháng đến dưới 12 tháng tuổi; vắc xin DPT4 cho trẻ em từ 18 tháng đến

24 tháng tuổi bảo đảm đạt tỷ lệ trên 95% quy mô xã. Khẩn trương xây dựng, triển

khai kế hoạch phòng chống dịch bệnh bạch hầu cấp bách, trong đó có tiêm vắc xin

uốn ván - bạch hầu (Td) tại các địa phương có dịch bệnh để tạo miễn dịch cộng đồng

bền vững phòng chống dịch bệnh.

Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chuẩn bị đầy đủ cơ sở cách ly, thuốc, vật tư, trang

thiết bị, nhân lực… tổ chức tốt việc thu dung, cách ly, cấp cứu, điều trị bệnh nhân

kịp thời, hạn chế tối đa số trường hợp biến chứng nặng và tử vong. Chủ động triển

khai tập huấn, các chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao trách nhiệm của các địa

phương, cộng đồng và nhận thức của người dân để tích cực tham gia công tác phòng

chống dịch bệnh bạch hầu tại cộng đồng.

UBND các huyện, thành phố chỉ đạo tăng cường công tác truyền thông phòng chống

dịch bệnh nói chung và dịch bệnh bạch hầu nói riêng để nâng cao nhận thức cho cộng

đồng và người dân. Tổ chức tốt công tác vệ sinh môi trường, nhà cửa, trường học…

nhất là vùng có ổ bệnh và vùng liên quan. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, ban ngành

liên quan trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với ngành Y tế thực hiện việc cách ly người

bệnh, hạn chế đi lại vùng có ổ bệnh, tuân thủ điều trị dự phòng theo quy định. Tuyên

truyền, vận động người dân thực hiện việc tiêm chủng đầy đủ, đúng lịch đối với tất

cả các loại vắc xin trong tiêm chủng mở rộng nói chung và vắc xin phòng bệnh bạch

hầu nói riêng; tích cực và tuân thủ việc tiêm vắc xin Td theo hướng dẫn của ngành

Y tế để phòng bệnh bạch hầu cho bản thân và cộng đồng. Đối với địa bàn có ca bệnh,

khẩn trương tổ chức họp Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh để triển khai công tác

phòng chống, khống chế kịp thời dịch bệnh bạch hầu, không để dịch bệnh bạch hầu

lan rộng, bùng phát trong cộng đồng.

(Từ đầu tháng 10 đến nay, Khoa Y học nhiệt đới, Bệnh viện Đa khoa tỉnh đã tiếp

nhận 5 bệnh nhân có biểu hiện đau họng, ho khan, sốt nhẹ, họng có giả mạc. Kết quả

xét nghiệm của Viện vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên xác định, có 2 bệnh nhân dương tính

với vi khuẩn bạch hầu, gồm 1 bệnh nhân nữ (26 tuổi, ở huyện Tu Mơ Rông) và 1

bệnh nhân nam (14 tuổi, ở huyện Đăk Tô). Sau vài ngày điều trị, bệnh nhân nam đột

ngột tử vong do biến chứng. Như vậy cùng với bệnh nhân ở huyện Đăk Hà tử vong

trước đó, thời gian ngắn vừa qua ngành Y tế tỉnh Kon Tum ghi nhận đã có 2 trường

hợp tử vong vì bệnh bạch hầu).

4. Ngày 24/10/2018, UBND tỉnh có Văn bản 2957/UBND-KTTH yêu cầu UBND

các huyện, thành phố tạm dừng công tác tuyển dụng công chức cấp xã để thống

nhất công tác sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính các cấp trên địa bàn tỉnh;

hạn chế khó khăn trong công tác sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức dôi dư khi

thực hiện Đề án tổng thể sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trên

địa bàn tỉnh từ nay đến năm 2021.

Đối với các huyện, thành phố đã xây dựng và triển khai kế hoạch tuyển dụng công

chức cấp xã có văn bản thông báo công khai và gửi cho cá nhân đăng ký dự tuyển

biết về việc tạm dừng công tác tuyển dụng công chức cấp xã.

Đồng thời chỉ đạo triển khai các công việc có liên quan đến thủ tục tuyển dụng, tránh

để xảy ra sai sót dẫn đến phát sinh các vấn đề phức tạp liên quan đến công tác tuyển

dụng theo quy định hiện hành (trường hợp cần thiết có thể xem xét, quyết định hủy

kế hoạch tuyển dụng, trả hồ sơ dự tuyển cho cá nhân).

Trong trường hợp thật sự cần thiết phải tổ chức tuyển dụng công chức cấp xã theo

hình thức xét tuyển (đối với chức danh Chỉ huy trưởng quân sự cấp xã) hoặc tuyển

dụng không qua thi tuyển đối với các trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng, các địa

phương báo cáo UBND tỉnh (qua Sở Nội vụ) để xem xét, có ý kiến trước khi thực

hiện.

II. VĂN BẢN CỦA TRUNG ƯƠNG

Nghị quyết số 125/NQ/CP, ngày 08/10/2018 của Chính phủ về việc ban hành

Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018

của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách

chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), có hiệu lực thi hành từ ngày ký. Chương

trình hành động có một số nội dung đáng chú ý sau:

Phấn đấu đạt các chỉ tiêu cụ thể:

a) Giai đoạn đến năm 2021: Phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ

tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham

gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng

28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 45%

số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp

hưu trí xã hội; tỷ lệ giao dịch điện tử đạt 100%; thực hiện dịch vụ công trực tuyến

mức độ 4; giảm số giờ giao dịch giữa cơ quan BHXH với doanh nghiệp đạt mức

ASEAN 4; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 80%.

b) Giai đoạn đến năm 2025: Phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ

tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham

gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng

35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 55%

số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp

hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức

85%.

c) Giai đoạn đến năm 2030: Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ

tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham

gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng

45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; có khoảng 60%

số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hàng tháng và trợ cấp

hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức

90%.

Để đạt được các chỉ tiêu trên, Chính phủ chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ,

giải pháp chủ yếu sau: (1) Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao

nhận thức về chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, tạo sự đồng thuận trong cải

cách chính sách BHXH. (2) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc

làm, BHXH, bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật có liên quan để thể chế hóa các nội

dung cải cách chính sách BHXH. (3) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

về BHXH. (4) Nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách

BHXH, bảo hiểm thất nghiệp. (5) Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BHXH: a) Đàm

phán, ký kết các hiệp định song phương về BHXH; b) Xây dựng kế hoạch phê chuẩn

một số công ước và khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế về BHXH.

_________

Nguyễn Phi Em thực hiện