70
LUẬT HỢP TÁC XÃ Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10; Luật này quy định về hợp tác xã. Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Hợp tác xã Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật. Điều 2. Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động đối với hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Điều 3. Chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã 1. Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây đối với hợp tác xã: a) Ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã về đào tạo cán bộ; phát triển nguồn nhân lực; đất đai; tài chính; tín dụng; xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; áp dụng khoa học và công nghệ; tiếp thị và mở rộng thị trường; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện để hợp tác xã được tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; b) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã phát triển;

super mario world

Embed Size (px)

DESCRIPTION

super mario world super mario world

Citation preview

Page 1: super mario world

LUẬT

HỢP TÁC XÃ

 

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;

Luật này quy định về hợp tác xã.        

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Hợp tác xã

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

Điều 2. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động đối với hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.

Điều 3. Chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã

1. Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây đối với hợp tác xã:

a) Ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã về đào tạo cán bộ; phát triển nguồn nhân lực; đất đai; tài chính; tín dụng; xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; áp dụng khoa học và công nghệ; tiếp thị và mở rộng thị trường; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện để hợp tác xã được tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước;

b) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã phát triển;

c) Bảo đảm địa vị pháp lý và điều kiện sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác;

d) Bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;

đ) Tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã trong sản xuất, kinh doanh;

e) Không can thiệp vào công việc quản lý nội bộ và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã.

Page 2: super mario world

2. Đối với hợp tác xã nông nghiệp, Chính phủ quy định cụ thể chính sách ưu đãi phù hợp với đặc thù và trình độ phát triển trong từng thời kỳ.

Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Vốn góp tối thiểu là số tiền hoặc giá trị tài sản, bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật và các loại giấy tờ có giá khác được quy ra tiền mà xã viên bắt buộc phải góp khi gia nhập hợp tác xã.

2. Góp sức là việc xã viên tham gia xây dựng hợp tác xã dưới các hình thức trực tiếp quản lý, lao động sản xuất, kinh doanh, tư vấn và các hình thức tham gia khác.

3. Vốn điều lệ của hợp tác xã là tổng số vốn do các xã viên đóng góp và được ghi vào Điều lệ hợp tác xã.

4. Biểu tượng của hợp tác xã là ký hiệu riêng của mỗi hợp tác xã để phản ánh đặc trưng riêng biệt của hợp tác xã và phân biệt hợp tác xã đó với các hợp tác xã và doanh nghiệp khác.

5. Dịch vụ của hợp tác xã đối với xã viên là hoạt động cung ứng cho xã viên các hàng hoá, vật tư dưới dạng vật chất hoặc phi vật chất mà xã viên có nhu cầu và phải trả tiền cho hợp tác xã.

6. Mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã là tỷ lệ giá trị dịch vụ mà từng xã viên sử dụng của hợp tác xã trong tổng số giá trị dịch vụ được cung ứng cho toàn bộ xã viên của hợp tác xã.

7. Cam kết kinh tế giữa hợp tác xã và xã viên là những ràng buộc về kinh tế giữa hợp tác xã và xã viên.

Điều 5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã

Hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:

1. Tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật này, tán thành Điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã; xã viên có quyền ra hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

2. Dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ hợp tác xã;

3. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: hợp tác xã tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập.

Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của hợp tác xã, lãi được trích một phần vào các quỹ của hợp tác xã, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã;

4. Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong hợp tác xã, trong cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các hợp tác xã trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

Điều 6. Quyền của hợp tác xã

Page 3: super mario world

Hợp tác xã có các quyền sau đây:

1. Lựa chọn ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm;

2. Quyết định hình thức và cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã;

3. Trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu hoặc liên doanh, liên kết với tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài để mở rộng sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật;

4. Thuê lao động trong trường hợp xã viên không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;

5. Quyết định kết nạp xã viên mới, giải quyết việc xã viên ra hợp tác xã, khai trừ xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

6. Quyết định việc phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ của hợp tác xã;

7. Quyết định khen thưởng những xã viên có nhiều thành tích trong việc xây dựng và phát triển hợp tác xã; thi hành kỷ luật những xã viên vi phạm Điều lệ hợp tác xã; quyết định việc xã viên phải bồi thường các thiệt hại đã gây ra cho hợp tác xã;

8. Vay vốn của tổ chức tín dụng và huy động các nguồn vốn khác; tổ chức tín dụng nội bộ theo quy định của pháp luật;

9. Được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật;

10. Từ chối yêu cầu của tổ chức, cá nhân trái với quy định của pháp luật;

11. Khiếu nại các hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã;

12. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Điều 7. Nghĩa vụ của hợp tác xã

Hợp tác xã có các nghĩa vụ sau đây:

1. Sản xuất, kinh doanh đúng ngành, nghề, mặt hàng đã đăng ký;

2. Thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và kiểm toán;

3. Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật;

4. Bảo toàn và phát triển vốn hoạt động của hợp tác xã; quản lý và sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật;

5. Chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;

6. Bảo vệ môi trường, môi sinh, cảnh quan, di tích lịch sử - văn hoá và các công trình quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật;

7. Bảo đảm các quyền của xã viên và thực hiện các cam kết kinh tế đối với xã viên;

Page 4: super mario world

8. Thực hiện các nghĩa vụ đối với xã viên trực tiếp lao động cho hợp tác xã và người lao động do hợp tác xã thuê theo quy định của pháp luật về lao động; khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động trở thành xã viên;

9. Đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho xã viên là cá nhân và người lao động làm việc thường xuyên cho hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã phù hợp với quy định của pháp luật về bảo hiểm; tổ chức cho xã viên không thuộc đối tượng trên tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chính phủ quy định cụ thể về việc đóng bảo hiểm xã hội đối với xã viên hợp tác xã;

10. Chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết của xã viên, cung cấp thông tin để mọi xã viên tích cực tham gia xây dựng hợp tác xã;

11. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Điều 8. Tên, biểu tượng của hợp tác xã

Hợp tác xã được tự chọn tên và biểu tượng của mình phù hợp với quy định của pháp luật.

Con dấu, bảng hiệu, các hình thức quảng cáo và giấy tờ giao dịch của hợp tác xã phải có ký hiệu "HTX".

Tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được bảo hộ theo quy định của pháp luật.

Điều 9. Tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội trong hợp tác xã

Tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội trong hợp tác xã hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và theo Điều lệ của tổ chức mình phù hợp với quy định của pháp luật.

Chương II

THÀNH LẬP VÀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH HỢP TÁC XÃ

Điều 10. Sáng lập viên

1. Sáng lập viên là cá nhân, hộ gia đình hoặc pháp nhân khởi xướng việc thành lập hợp tác xã và tham gia hợp tác xã.

2. Sáng lập viên báo cáo bằng văn bản với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi dự định đặt trụ sở chính của hợp tác xã về việc thành lập, địa điểm đóng trụ sở, phương hướng sản xuất, kinh doanh và kế hoạch hoạt động của hợp tác xã.

3. Sáng lập viên tiến hành tuyên truyền, vận động các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có nhu cầu tham gia hợp tác xã; xây dựng phương hướng sản xuất, kinh doanh; dự thảo Điều lệ hợp tác xã và xúc tiến các công việc cần thiết khác để tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã.

Điều 11. Hội nghị thành lập hợp tác xã

1. Hội nghị thành lập hợp tác xã do sáng lập viên tổ chức. Thành phần tham gia hội nghị bao gồm sáng lập viên và cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có nguyện vọng trở thành xã viên.

Page 5: super mario world

2. Hội nghị thảo luận và thống nhất về phương hướng sản xuất, kinh doanh; kế hoạch hoạt động của hợp tác xã; dự thảo Điều lệ hợp tác xã; tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã và lập danh sách xã viên.

3. Hội nghị thảo luận và biểu quyết theo đa số các vấn đề sau đây:

a) Thông qua danh sách xã viên; số lượng xã viên từ 7 trở lên;

b) Thông qua Điều lệ, Nội quy hợp tác xã;

c) Quyết định thành lập riêng hay không thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành hợp tác xã.

Đối với hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành thì bầu Ban quản trị và Chủ nhiệm; Chủ nhiệm hợp tác xã đồng thời là Trưởng Ban quản trị; quyết định số lượng Phó chủ nhiệm hợp tác xã.

Đối với hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành thì bầu Ban quản trị và Trưởng Ban quản trị trong số thành viên Ban quản trị; quyết định bầu hoặc thuê Chủ nhiệm hợp tác xã; quyết định số lượng Phó chủ nhiệm hợp tác xã;

d) Bầu Ban kiểm soát và Trưởng Ban kiểm soát trong số thành viên của Ban kiểm soát;

đ) Thông qua biên bản hội nghị thành lập hợp tác xã.

Điều 12. Điều lệ hợp tác xã

1. Mỗi hợp tác xã có Điều lệ riêng. Điều lệ hợp tác xã phải phù hợp với các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật.

2. Điều lệ hợp tác xã có các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Tên hợp tác xã, biểu tượng của hợp tác xã (nếu có);

b) Địa chỉ trụ sở chính của hợp tác xã;

c) Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh;

d) Các quy định về đối tượng, điều kiện, thủ tục gia nhập hợp tác xã và ra hợp tác xã của xã viên;

đ) Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên;

e) Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc;

g) Vốn điều lệ của hợp tác xã;

h) Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn góp của xã viên;

i) Thẩm quyền và phương thức huy động vốn;

k) Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ của hợp tác xã;

Page 6: super mario world

l) Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động và khi hợp tác xã giải thể;

m) Cơ cấu tổ chức quản lý hợp tác xã; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho hợp tác xã;

n) Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã;

o) Thể thức tiến hành Đại hội và thông qua quyết định của Đại hội xã viên;

p) Chế độ xử lý vi phạm Điều lệ hợp tác xã và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;

q) Thể thức sửa đổi Điều lệ hợp tác xã;

r) Các quy định khác do Đại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với quy định của pháp luật.

3. Khi sửa đổi Điều lệ hợp tác xã, hợp tác xã phải gửi Điều lệ sửa đổi có kèm theo biên bản của Đại hội xã viên đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã.

4. Chính phủ ban hành Mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân và hợp tác xã phi nông nghiệp.

Điều 13. Hồ sơ đăng ký kinh doanh

Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:

1. Đơn đăng ký kinh doanh;

2. Điều lệ hợp tác xã;

3. Số lượng xã viên, danh sách Ban quản trị, Ban kiểm soát của hợp tác xã;

4. Biên bản đã thông qua tại Hội nghị thành lập hợp tác xã.

Điều 14. Nơi đăng ký kinh doanh

1. Hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc cấp huyện nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính, tuỳ theo điều kiện cụ thể của hợp tác xã.

2. Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã sẽ thành lập nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh đã chọn và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ đăng ký kinh doanh.

Điều 15. Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

1. Hợp tác xã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định tại Điều 13 của Luật này;

b) Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm;

c) Tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã quy định tại Điều 8 của Luật này;

Page 7: super mario world

d) Có vốn điều lệ. Đối với hợp tác xã kinh doanh ngành, nghề mà Chính phủ quy định phải có vốn pháp định thì vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định;

đ) Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định.

2. Việc cấp, từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và thời điểm hợp tác xã bắt đầu hoạt động như sau:

a) Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải xem xét hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã; trường hợp từ chối thì phải trả lời bằng văn bản;

b) Hợp tác xã có tư cách pháp nhân và có quyền hoạt động kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà hợp tác xã đăng ký hoạt động thì hợp tác xã được kinh doanh những ngành, nghề đó kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật.

3. Trường hợp không đồng ý với quyết định từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của cơ quan đăng ký kinh doanh quy định tại khoản 2 Điều này, người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã sẽ thành lập có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.

Điều 16. Chi nhánh, văn phòng đại diện và doanh nghiệp trực thuộc của hợp tác xã

1. Hợp tác xã có quyền mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài. Trình tự, thủ tục mở chi nhánh, văn phòng đại diện theo quy định chung của Chính phủ đối với mọi loại hình doanh nghiệp.

2. Hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của pháp luật.

Chương III

XÃ VIÊN

Điều 17. Điều kiện trở thành xã viên

1. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có góp vốn, góp sức, tán thành Điều lệ hợp tác xã, tự nguyện xin gia nhập hợp tác xã có thể trở thành xã viên.

Cán bộ, công chức được tham gia hợp tác xã với tư cách là xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã nhưng không được trực tiếp quản lý và điều hành hợp tác xã.

2. Hộ gia đình, pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã. Khi tham gia hợp tác xã, hộ gia đình, pháp nhân phải cử người đại diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham gia.

3. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có thể là xã viên của nhiều hợp tác xã trong trường hợp Điều lệ hợp tác xã không cấm.

Điều 18. Quyền của xã viên

Xã viên có các quyền sau đây:

1. Được ưu tiên làm việc cho hợp tác xã và được trả công lao động theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

Page 8: super mario world

2. Hưởng lãi chia theo vốn góp, công sức đóng góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã;

3. Được hợp tác xã cung cấp các thông tin kinh tế - kỹ thuật cần thiết; được hợp tác xã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ;

4. Hưởng các phúc lợi của hợp tác xã; được hợp tác xã thực hiện các cam kết kinh tế;

5. Được khen thưởng khi có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển hợp tác xã;

6. Dự Đại hội xã viên hoặc bầu đại biểu dự Đại hội xã viên, dự các hội nghị xã viên để bàn bạc và biểu quyết công việc của hợp tác xã;

7. Ứng cử, bầu cử vào Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát và những chức danh được bầu khác của hợp tác xã;

8. Đề đạt ý kiến với Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát của hợp tác xã và yêu cầu được trả lời; yêu cầu Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát triệu tập Đại hội xã viên bất thường theo quy định tại khoản 4 Điều 21 của Luật này;

9. Chuyển vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

10. Xin ra hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

11. Được trả lại vốn góp và các quyền lợi khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã và pháp luật có liên quan trong các trường hợp sau đây:

a) Ra hợp tác xã;

b) Xã viên là cá nhân chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

c) Xã viên là hộ gia đình không có người đại diện đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

d) Xã viên là pháp nhân bị giải thể, phá sản hoặc không có người đại diện đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ hợp tác xã.

Trong các trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 11 Điều này, vốn góp và các quyền lợi khác của xã viên được trả lại cho người có đủ điều kiện thừa kế hoặc giám hộ đối với các xã viên này theo quy định của pháp luật.

Điều 19. Nghĩa vụ của xã viên

Xã viên có các nghĩa vụ sau đây:

1. Chấp hành Điều lệ, Nội quy hợp tác xã, các nghị quyết của Đại hội xã viên;

2. Góp vốn theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; mức vốn góp không vượt quá ba mươi phần trăm vốn điều lệ của hợp tác xã;

3. Đoàn kết, hợp tác giữa các xã viên, học tập nâng cao trình độ, góp phần thúc đẩy hợp tác xã phát triển;

Page 9: super mario world

4. Thực hiện các cam kết kinh tế với hợp tác xã;

5. Trong phạm vi vốn góp của mình, cùng chịu trách nhiệm về các khoản nợ, rủi ro, thiệt hại, các khoản lỗ của hợp tác xã;

6. Bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã.

Điều 20. Chấm dứt tư cách xã viên

1. Tư cách xã viên chấm dứt trong trường hợp sau đây:

a) Xã viên là cá nhân chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; xã viên là hộ gia đình không có người đại diện đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; xã viên là pháp nhân bị giải thể, phá sản hoặc không có người đại diện đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

b) Xã viên đã được chấp nhận ra hợp tác xã theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

c) Xã viên đã chuyển hết vốn góp và các quyền lợi, nghĩa vụ của mình cho người khác theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

d) Xã viên bị Đại hội xã viên khai trừ;

đ) Các trường hợp khác do Điều lệ hợp tác xã quy định.

2. Việc giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ đối với xã viên trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này do Điều lệ hợp tác xã quy định.

Chương IV

TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ HỢP TÁC XÃ

Điều 21. Đại hội xã viên

1. Đại hội xã viên có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã.

2. Hợp tác xã có nhiều xã viên thì có thể tổ chức Đại hội đại biểu xã viên; việc bầu đại biểu xã viên đi dự Đại hội đại biểu xã viên do Điều lệ hợp tác xã quy định. Đại hội đại biểu xã viên và Đại hội toàn thể xã viên (sau đây gọi chung là Đại hội xã viên) có quyền và nhiệm vụ như nhau.

3. Đại hội xã viên thường kỳ họp mỗi năm một lần do Ban quản trị triệu tập trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày khoá sổ quyết toán năm.

4. Đại hội xã viên bất thường do Ban quản trị hoặc Ban kiểm soát của hợp tác xã triệu tập để quyết định những vấn đề cần thiết vượt quá quyền hạn của Ban quản trị hoặc của Ban kiểm soát.

Trong trường hợp có ít nhất một phần ba tổng số xã viên cùng có đơn yêu cầu triệu tập Đại hội xã viên gửi đến Ban quản trị hoặc Ban kiểm soát thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ đơn, Ban quản trị phải triệu tập Đại hội xã viên bất thường; nếu quá thời hạn này mà Ban quản trị không triệu tập thì Ban kiểm soát phải triệu tập Đại hội xã viên bất thường để giải quyết các vấn đề nêu trong đơn.

Điều 22. Nội dung của Đại hội xã viên

Page 10: super mario world

Đại hội xã viên thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:

1. Quy định tiêu chuẩn xã viên khi tham gia hợp tác xã;

2. Báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh trong năm của hợp tác xã, báo cáo hoạt động của Ban quản trị và của Ban kiểm soát;

3. Báo cáo công khai tài chính, dự kiến phân phối thu nhập và xử lý lỗ, các khoản nợ;

4. Phương hướng, kế hoạch sản xuất, kinh doanh;

5. Vốn tối thiểu; tăng, giảm vốn điều lệ; thẩm quyền và phương thức huy động vốn;

6. Xác định giá trị tài sản chung của hợp tác xã theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Luật này;

7. Phân phối lãi theo vốn góp, công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ của các xã viên; các quỹ của hợp tác xã;

8. Thành lập riêng hay không thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành hợp tác xã theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 11 Luật này;

9. Bầu, bãi miễn Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát;

10. Thông qua việc kết nạp xã viên mới và cho xã viên ra hợp tác xã; quyết định khai trừ xã viên;

11. Tổ chức lại, giải thể hợp tác xã;

12. Sửa đổi Điều lệ, Nội quy hợp tác xã;

13. Mức tiền công, tiền lương và tiền thưởng cho Trưởng Ban quản trị và các thành viên khác của Ban quản trị, Chủ nhiệm và các Phó chủ nhiệm hợp tác xã, Trưởng Ban kiểm soát, các thành viên khác của Ban kiểm soát và các chức danh khác của hợp tác xã;

14. Các đối tượng được hợp tác xã đóng bảo hiểm xã hội theo chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc của Nhà nước;

15. Những vấn đề khác do Ban quản trị, Ban kiểm soát hoặc có ít nhất một phần ba tổng số xã viên đề nghị.

Điều 23. Quy định về số lượng đại biểu và biểu quyết trong Đại hội xã viên

1. Đại hội xã viên phải có ít nhất hai phần ba tổng số xã viên hoặc đại biểu xã viên tham dự; trường hợp không đủ số lượng xã viên thì phải tạm hoãn Đại hội xã viên; Ban quản trị hoặc Ban kiểm soát phải triệu tập lại Đại hội xã viên.

2. Quyết định sửa đổi Điều lệ, tổ chức lại, giải thể hợp tác xã được thông qua khi có ít nhất ba phần tư tổng số xã viên hoặc đại biểu xã viên có mặt tại Đại hội biểu quyết tán thành. Các quyết định về những vấn đề khác được thông qua khi có quá một phần hai tổng số đại biểu có mặt tại Đại hội biểu quyết tán thành.

3. Việc biểu quyết tại Đại hội xã viên và các hội nghị xã viên không phụ thuộc vào số vốn góp hay chức vụ của xã viên trong hợp tác xã. Mỗi xã viên hoặc đại biểu xã viên chỉ có một phiếu biểu quyết.

Page 11: super mario world

Điều 24. Thông báo triệu tập Đại hội xã viên

Chậm nhất là mười ngày, trước khi khai mạc Đại hội xã viên, cơ quan triệu tập Đại hội phải thông báo thời gian, địa điểm họp và chương trình Đại hội cho từng xã viên hoặc đại biểu xã viên. Đại hội xã viên thảo luận và quyết định những vấn đề đã ghi trong chương trình Đại hội và những vấn đề phát sinh khi có ít nhất một phần ba tổng số xã viên đề nghị.

Điều 25. Ban quản trị hợp tác xã

1. Ban quản trị hợp tác xã là bộ máy quản lý hợp tác xã do Đại hội xã viên bầu trực tiếp, gồm Trưởng Ban quản trị và các thành viên khác. Số lượng thành viên Ban quản trị do Điều lệ hợp tác xã quy định.

2. Nhiệm kỳ của Ban quản trị hợp tác xã do Điều lệ hợp tác xã quy định nhưng tối thiểu là hai năm và tối đa không quá năm năm.

3. Ban quản trị hợp tác xã họp ít nhất mỗi tháng một lần do Trưởng Ban quản trị hoặc thành viên Ban quản trị được uỷ quyền triệu tập và chủ trì. Ban quản trị hợp tác xã họp bất thường khi có một phần ba thành viên Ban quản trị hoặc Trưởng Ban quản trị, Trưởng Ban kiểm soát, Chủ nhiệm hợp tác xã yêu cầu. Cuộc họp của Ban quản trị hợp tác xã hợp lệ khi có ít nhất hai phần ba số thành viên Ban quản trị tham dự. Ban quản trị hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số. Trong trường hợp biểu quyết mà số phiếu tán thành và không tán thành ngang nhau thì số phiếu biểu quyết của bên có người chủ trì cuộc họp là quyết định.

Điều 26. Tiêu chuẩn và điều kiện thành viên Ban quản trị hợp tác xã

Thành viên Ban quản trị phải là xã viên, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực quản lý hợp tác xã.

Thành viên Ban quản trị không đồng thời là thành viên Ban kiểm soát, kế toán trưởng, thủ quỹ của hợp tác xã và không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của họ; các tiêu chuẩn và điều kiện khác (nếu có) do Điều lệ hợp tác xã quy định.

Điều 27. Hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành

1. Ban quản trị có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó chủ nhiệm hợp tác xã theo đề nghị của Chủ nhiệm hợp tác xã;

b) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuê hoặc chấm dứt hợp đồng thuê kế toán trưởng (nếu hợp tác xã có chức danh này);

c) Quyết định cơ cấu tổ chức các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ của hợp tác xã;

d) Tổ chức thực hiện nghị quyết của Đại hội xã viên;

đ) Chuẩn bị báo cáo về kế hoạch sản xuất, kinh doanh, huy động vốn và phân phối lãi của hợp tác xã, báo cáo hoạt động của Ban quản trị trình Đại hội xã viên;

e) Chuẩn bị chương trình nghị sự của Đại hội xã viên và triệu tập Đại hội xã viên;

g) Đánh giá kết quả sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã; duyệt báo cáo quyết toán tài chính để trình Đại hội xã viên;

h) Tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã quy định tại Điều 6 và Điều 7 của Luật này;

Page 12: super mario world

i) Xét kết nạp xã viên mới và giải quyết việc xã viên ra hợp tác xã (trừ trường hợp khai trừ xã viên) và báo cáo để Đại hội xã viên thông qua;

k) Đại diện chủ sở hữu tài sản của hợp tác xã và doanh nghiệp trực thuộc trong trường hợp hợp tác xã có doanh nghiệp;

l) Kiểm tra, đánh giá công việc của Chủ nhiệm và các Phó chủ nhiệm hợp tác xã theo các quyết định của Ban quản trị;

m) Chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước Đại hội xã viên và trước pháp luật;

n) Các quyền và nhiệm vụ khác do Điều lệ hợp tác xã quy định.

2. Chủ nhiệm hợp tác xã có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Đại diện hợp tác xã theo pháp luật;

b) Thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh và điều hành các công việc hàng ngày của hợp tác xã;

c) Tổ chức thực hiện các quyết định của Ban quản trị hợp tác xã;

d) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, phân công các chức danh trong Ban quản trị hợp tác xã, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Đại hội xã viên và Ban quản trị hợp tác xã;

đ) Ký kết các hợp đồng nhân danh hợp tác xã;

e) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Ban quản trị hợp tác xã;

g) Đề nghị với Ban quản trị về phương án bố trí cơ cấu tổ chức hợp tác xã;

h) Tuyển dụng lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Ban quản trị hợp tác xã;

i) Các quyền khác được quy định tại Điều lệ hợp tác xã, nghị quyết của Đại hội xã viên;

k) Chịu trách nhiệm trước Đại hội xã viên và Ban quản trị về công việc được giao;

Khi vắng mặt, Chủ nhiệm uỷ quyền cho một Phó chủ nhiệm hoặc một thành viên Ban quản trị điều hành công việc của hợp tác xã.

Điều 28. Hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành

1. Ban quản trị có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuê hoặc chấm dứt hợp đồng thuê Chủ nhiệm hợp tác xã theo nghị quyết của Đại hội xã viên;

b) Bổ nhiệm, miễn nhiệm các Phó chủ nhiệm hợp tác xã theo đề nghị của Chủ nhiệm hợp tác xã.

Ngoài các quyền và nhiệm vụ trên đây, Ban quản trị hợp tác xã còn có các quyền, nhiệm vụ quy định tại các điểm b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m và n khoản 1 Điều 27 của Luật này.

Page 13: super mario world

2. Trưởng Ban quản trị hợp tác xã có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Đại diện hợp tác xã theo pháp luật;

b) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Ban quản trị;

c) Triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Ban quản trị, Đại hội xã viên;

d) Chịu trách nhiệm trước Đại hội xã viên và Ban quản trị về công việc được giao;

đ) Ký các quyết định của Đại hội xã viên và Ban quản trị;

e) Các quyền và nhiệm vụ khác do Điều lệ hợp tác xã quy định.

3. Chủ nhiệm hợp tác xã có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

a) Thực hiện kế hoạch hoạt động sản xuất, kinh doanh và điều hành các công việc hàng ngày của hợp tác xã;

b) Tổ chức thực hiện các quyết định của Ban quản trị hợp tác xã;

c) Ký kết các hợp đồng nhân danh hợp tác xã do Ban quản trị hợp tác xã uỷ quyền;

d) Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Ban quản trị hợp tác xã;

đ) Đề nghị với Ban quản trị về phương án bố trí cơ cấu tổ chức hợp tác xã;

e) Tuyển dụng lao động theo uỷ quyền của Ban quản trị hợp tác xã;

g) Các quyền khác được quy định tại Điều lệ hợp tác xã, nghị quyết của Đại hội xã viên hoặc theo hợp đồng ký kết với Ban quản trị hợp tác xã.

Khi vắng mặt, Chủ nhiệm ủy quyền cho một Phó chủ nhiệm điều hành công việc của hợp tác xã.

Trường hợp Chủ nhiệm hợp tác xã là xã viên hoặc thành viên Ban quản trị hợp tác xã thì ngoài việc phải thực hiện đầy đủ các quyền và nhiệm vụ của Chủ nhiệm hợp tác xã theo quy định của Điều này, phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của xã viên hoặc thành viên Ban quản trị hợp tác xã.

Trường hợp Chủ nhiệm hợp tác xã được thuê thì phải thực hiện đầy đủ các quyền và nhiệm vụ của Chủ nhiệm hợp tác xã quy định tại Điều này và tại hợp đồng thuê Chủ nhiệm hợp tác xã. Chủ nhiệm hợp tác xã được tham gia các cuộc họp của Ban quản trị và Đại hội xã viên nhưng không được quyền biểu quyết và không được hưởng các quyền khác của xã viên, thành viên Ban quản trị hợp tác xã.

Điều 29. Ban kiểm soát

1. Ban kiểm soát là bộ máy giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của hợp tác xã theo đúng pháp luật và Điều lệ hợp tác xã.

2. Ban kiểm soát do Đại hội xã viên bầu trực tiếp. Số lượng thành viên Ban kiểm soát do Điều lệ hợp tác xã quy định; hợp tác xã có ít xã viên có thể chỉ bầu một kiểm soát viên.

Page 14: super mario world

3. Tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm soát như tiêu chuẩn thành viên Ban quản trị. Thành viên Ban kiểm soát không được đồng thời là thành viên Ban quản trị, kế toán trưởng, thủ quỹ của hợp tác xã và không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của họ.

4. Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát theo nhiệm kỳ của Ban quản trị.

Điều 30. Quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát

Ban kiểm soát có các quyền và nhiệm vụ sau đây:

1. Kiểm tra việc chấp hành Điều lệ, Nội quy hợp tác xã và nghị quyết của Đại hội xã viên;

2. Giám sát hoạt động của Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã và xã viên theo đúng pháp luật và Điều lệ, Nội quy hợp tác xã;

3. Kiểm tra về tài chính, kế toán, phân phối thu nhập, xử lý các khoản lỗ, sử dụng các quỹ của hợp tác xã, sử dụng tài sản, vốn vay và các khoản hỗ trợ của Nhà nước;

4. Tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo có liên quan đến công việc của hợp tác xã; giải quyết hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

5. Dự các cuộc họp của Ban quản trị;

6. Thông báo kết quả kiểm tra cho Ban quản trị hợp tác xã và báo cáo trước Đại hội xã viên; kiến nghị với Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã khắc phục những yếu kém trong sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã và giải quyết những vi phạm Điều lệ, Nội quy hợp tác xã;

7. Yêu cầu những người có liên quan trong hợp tác xã cung cấp tài liệu, sổ sách, chứng từ và những thông tin cần thiết để phục vụ công tác kiểm tra nhưng không được sử dụng các tài liệu, thông tin đó vào mục đích khác;

8. Chuẩn bị chương trình nghị sự và triệu tập Đại hội xã viên bất thường khi có một trong các trường hợp sau đây:

a) Khi có hành vi vi phạm pháp luật, Điều lệ, Nội quy hợp tác xã và nghị quyết của Đại hội xã viên, Ban kiểm soát đã yêu cầu mà Ban quản trị không thực hiện hoặc thực hiện không có kết quả các biện pháp ngăn chặn;

b) Ban quản trị không triệu tập Đại hội xã viên bất thường theo yêu cầu của xã viên quy định tại khoản 4 Điều 21 của Luật này.

Chương V

TÀI SẢN VÀ TÀI CHÍNH CỦA HỢP TÁC XÃ

Điều 31. Vốn góp của xã viên

1. Khi gia nhập hợp tác xã, xã viên phải góp vốn theo quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật này.

Xã viên có thể góp vốn một lần ngay từ đầu hoặc nhiều lần; mức, hình thức và thời hạn góp vốn do Điều lệ hợp tác xã quy định.

Mức vốn góp tối thiểu được điều chỉnh theo quyết định của Đại hội xã viên.

Page 15: super mario world

2. Xã viên được trả lại vốn góp trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 20 của Luật này.

Việc trả lại vốn góp của xã viên căn cứ vào thực trạng tài chính của hợp tác xã tại thời điểm trả lại vốn sau khi hợp tác xã đã quyết toán năm và đã giải quyết xong các quyền lợi, nghĩa vụ về kinh tế của xã viên đối với hợp tác xã. Hình thức, thời hạn trả lại vốn góp cho xã viên do Điều lệ hợp tác xã quy định.

 

Điều 32. Huy động vốn

1. Hợp tác xã được vay vốn ngân hàng và huy động vốn bằng các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

2. Hợp tác xã được huy động bổ sung vốn góp của xã viên theo quyết định của Đại hội xã viên.

3. Hợp tác xã được nhận và sử dụng vốn, trợ cấp của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước do các bên thoả thuận và theo quy định của pháp luật.

Điều 33. Vốn hoạt động của hợp tác xã

Vốn hoạt động của hợp tác xã được hình thành từ vốn góp của xã viên, vốn tích luỹ thuộc sở hữu của hợp tác xã và các nguốn vốn hợp pháp khác.

Vốn hoạt động của hợp tác xã được quản lý và sử dụng theo quy định của Luật này, các quy định khác của pháp luật và Điều lệ hợp tác xã.

Điều 34. Quỹ của hợp tác xã

1. Hợp tác xã phải lập quỹ phát triển sản xuất và quỹ dự phòng theo hướng dẫn của Chính phủ; các quỹ khác do Điều lệ hợp tác xã và Đại hội xã viên quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của từng hợp tác xã. Tỷ lệ cụ thể trích lập các quỹ do Đại hội xã viên quyết định.

2. Mục đích, phương thức quản lý và sử dụng các quỹ của hợp tác xã do Điều lệ hợp tác xã quy định.

Điều 35. Tài sản của hợp tác xã

1. Tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã được hình thành từ vốn hoạt động của hợp tác xã.

2. Việc quản lý, sử dụng tài sản của hợp tác xã được thực hiện theo quy định của Điều lệ hợp tác xã và các quy định của pháp luật có liên quan.

3. Trong hợp tác xã có bộ phận tài sản chung, bao gồm các công trình phục vụ sản xuất, công trình phúc lợi văn hoá, xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ chung cho cộng đồng dân cư được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của hợp tác xã, các nguồn vốn do Nhà nước trợ cấp, quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.

Điều 36. Xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã khi giải thể

1. Khi giải thể, hợp tác xã không chia cho xã viên vốn và tài sản chung do Nhà nước trợ cấp mà chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý.

Đối với vốn và tài sản chung của hợp tác xã được hình thành từ các nguồn vốn và công sức của xã viên, quà biếu, tặng của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước thì do Đại hội xã viên quyết định.

Page 16: super mario world

2. Vốn góp của xã viên bằng giá trị quyền sử dụng đất và đất do Nhà nước giao cho hợp tác xã sử dụng được xử lý theo quy định của pháp luật về đất đai.

3. Sau khi thanh toán hết các khoản nợ và các chi phí cho việc giải thể hợp tác xã, việc xử lý tài sản, vốn, quỹ khác còn lại của hợp tác xã được thực hiện theo quy định tại Điều này, các quy định khác của pháp luật có liên quan và Điều lệ hợp tác xã.

Điều 37. Phân phối lãi

1. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của hợp tác xã được phân phối như sau:

a) Trả bù các khoản lỗ của năm trước (nếu có) theo quy định của pháp luật về thuế;

b) Trích lập quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng và các quỹ khác của hợp tác xã; chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.

2. Căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh nhu cầu tích luỹ để phát triển hợp tác xã, Đại hội xã viên quyết định cụ thể tỷ lệ phân phối lãi hàng năm vào các khoản mục quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

Điều 38. Xử lý các khoản lỗ

Lỗ phát sinh trong năm của hợp tác xã được trừ vào khoản thu từ tiền đền bù, bồi thường của cá nhân, tổ chức có liên quan; nếu chưa đủ thì bù đắp bằng quỹ dự phòng; nếu vẫn chưa đủ thì số lỗ còn lại được chuyển sang năm sau theo quy định của pháp luật về thuế.

Chương VI

TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ, PHÁ SẢN HỢP TÁC XÃ

Điều 39. Chia, tách hợp tác xã

Đại hội xã viên quyết định việc chia, tách một hợp tác xã thành hai hay nhiều hợp tác xã.

Điều 40. Thủ tục chia, tách hợp tác xã

1. Ban quản trị của hợp tác xã dự định chia, tách phải:

a) Thành lập Hội đồng để giải quyết việc chia, tách hợp tác xã. Hội đồng chia, tách gồm Ban quản trị hợp tác xã dự định chia, tách và những người đại diện của các hợp tác xã mới dự định hình thành từ hợp tác xã chia, tách. Hội đồng có nhiệm vụ bàn bạc, hiệp thương để thống nhất giải quyết các vấn đề liên quan đến việc chia, tách hợp tác xã; lập hồ sơ xin chia, tách hợp tác xã; hình thành bộ máy quản lý, điều hành của hợp tác xã mới;

b) Xây dựng phương án xử lý tài sản, vốn, quỹ, tổ chức, nhân sự, xã viên và lao động (gồm cả chi nhánh, văn phòng đại diện, doanh nghiệp trực thuộc của hợp tác xã) khi chia, tách; xây dựng phương hướng sản xuất, kinh doanh; dự thảo Điều lệ hợp tác xã mới; các quyền, lợi ích, trách nhiệm và nghĩa vụ của các hợp tác xã sau chia, tách;

c) Triệu tập Đại hội xã viên để quyết định những vấn đề quy định tại điểm b khoản này; tiến hành các công việc quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 11 của Luật này;

Page 17: super mario world

d) Thông báo bằng văn bản cho các chủ nợ, các tổ chức và cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã về quyết định chia, tách và giải quyết các vấn đề kinh tế có liên quan đến họ;

đ) Gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã chia, tách theo quy định của Luật này đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh kèm theo nghị quyết của Đại hội xã viên về việc chia, tách hợp tác xã; phương án giải quyết các vấn đề liên quan đến việc chia, tách đã thảo luận với các chủ nợ, tổ chức, cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã.

2. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ chia, tách, cơ quan đăng ký kinh doanh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ra thông báo bằng văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận việc chia, tách hợp tác xã. Trường hợp không đồng ý với quyết định không chấp thuận việc chia, tách thì hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.

Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã dự định chia phải thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của hợp tác xã đó sau khi chia; hợp tác xã bị chia phải nộp ngay con dấu cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Các hợp tác xã có chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc doanh nghiệp trực thuộc khi chia, tách phải thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh về việc tiếp tục hoặc chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện, doanh nghiệp.

Điều 41. Hợp nhất, sáp nhập hợp tác xã

1. Hai hay nhiều hợp tác xã có thể hợp nhất thành một hợp tác xã mới, bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang hợp tác xã hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các hợp tác xã bị hợp nhất.

Một hoặc một số hợp tác xã có thể sáp nhập vào một hợp tác xã khác, bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang hợp tác xã sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của hợp tác xã bị sáp nhập.

2. Thủ tục hợp nhất hợp tác xã được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Ban quản trị các hợp tác xã bị hợp nhất phải cùng nhau thành lập Hội đồng hợp nhất để dự kiến tên, trụ sở của hợp tác xã hợp nhất; thủ tục và điều kiện hợp nhất; phương án xử lý tài sản, vốn, các khoản nợ, xã viên, lao động và những vấn đề tồn đọng của các hợp tác xã bị hợp nhất sang hợp tác xã hợp nhất; dự thảo phương án sản xuất, kinh doanh và Điều lệ của hợp tác xã hợp nhất;

b) Tổ chức Đại hội xã viên của hợp tác xã hợp nhất để quyết định việc hợp nhất và thông qua các vấn đề quy định tại điểm a khoản này; 

c) Lập hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã hợp nhất theo quy định tại Điều 13 của Luật này và gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh;

d) Thông báo bằng văn bản cho các chủ nợ, các tổ chức và cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã về quyết định hợp nhất và phương thức giải quyết các mối quan hệ kinh tế có liên quan đến họ;

đ) Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp nhất, cơ quan đăng ký kinh doanh phải ra thông báo bằng văn bản chấp thuận hay không chấp thuận việc hợp nhất và cấp đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã hợp nhất. Trường hợp không đồng ý với quyết định của cơ quan đăng ký kinh doanh, hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật;

Page 18: super mario world

e) Sau khi đăng ký kinh doanh, hợp tác xã hợp nhất có quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các hợp tác xã bị hợp nhất.

3. Thủ tục sáp nhập hợp tác xã được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Ban quản trị các hợp tác xã sáp nhập và bị sáp nhập phải cùng nhau thành lập Hội đồng sáp nhập để dự kiến thủ tục và điều kiện sáp nhập, phương án xử lý tài sản, vốn, các khoản nợ, xã viên, lao động và những vấn đề tồn đọng của hợp tác xã bị sáp nhập; dự thảo phương án sản xuất, kinh doanh và Điều lệ hợp tác xã sáp nhập;

b) Tổ chức Đại hội xã viên bao gồm các xã viên của hợp tác xã sáp nhập và xã viên của hợp tác xã bị sáp nhập để quyết định các vấn đề quy định tại điểm a khoản này;

c) Thông báo bằng văn bản cho các chủ nợ, các tổ chức và cá nhân có quan hệ kinh tế với hợp tác xã về quyết định sáp nhập và phương thức giải quyết các mối quan hệ kinh tế có liên quan đến họ;

d) Gửi đơn, biên bản sáp nhập và Điều lệ hợp tác xã đến cơ quan đăng ký kinh doanh để bổ sung hồ sơ hợp tác xã sáp nhập. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ sáp nhập, cơ quan đăng ký kinh doanh phải ra thông báo bằng văn bản chấp thuận hay không chấp thuận việc sáp nhập. Trường hợp không đồng ý với quyết định của cơ quan đăng ký kinh doanh, hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật;

đ) Sau khi bổ sung hồ sơ đăng ký kinh doanh, hợp tác xã sáp nhập có quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các hợp tác xã bị sáp nhập.

Điều 42. Giải thể hợp tác xã

Việc giải thể hợp tác xã được quy định như sau:

1. Giải thể tự nguyện:

Trong trường hợp giải thể tự nguyện theo nghị quyết của Đại hội xã viên, hợp tác xã phải gửi đơn xin giải thể và nghị quyết của Đại hội xã viên đến cơ quan đăng ký kinh doanh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã, đồng thời đăng báo địa phương nơi hợp tác xã hoạt động trong ba số liên tiếp về việc xin giải thể và thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng.

Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn thanh toán nợ và thanh lý các hợp đồng, cơ quan đăng ký kinh doanh nhận đơn phải ra thông báo chấp thuận hoặc không chấp thuận việc xin giải thể của hợp tác xã.

Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được thông báo chấp thuận việc xin giải thể của cơ quan đăng ký kinh doanh, hợp tác xã phải xử lý vốn, tài sản theo quy định tại Điều 36 của Luật này, thanh toán các khoản chi phí cho việc giải thể, trả vốn góp và giải quyết các quyền lợi cho xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã;

2. Giải thể bắt buộc:

Uỷ ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có quyền quyết định buộc giải thể đối với hợp tác xã khi có một trong các trường hợp sau đây:

a) Sau thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà hợp tác xã không tiến hành hoạt động;

Page 19: super mario world

b) Hợp tác xã ngừng hoạt động trong mười hai tháng liền;

c) Trong thời hạn mười tám tháng liền, hợp tác xã không tổ chức được Đại hội xã viên thường kỳ mà không có lý do chính đáng;

d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật;

3. Uỷ ban nhân dân ra quyết định giải thể lập Hội đồng giải thể và chỉ định Chủ tịch Hội đồng để tổ chức việc giải thể hợp tác xã.

Hội đồng giải thể hợp tác xã phải đăng báo địa phương nơi hợp tác xã hoạt động trong ba số liên tiếp về quyết định giải thể hợp tác xã; thông báo trình tự, thủ tục, thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng, xử lý vốn, tài sản theo quy định tại Điều 36 của Luật này, trả vốn góp và giải quyết các quyền lợi khác có liên quan của xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã.

Thời hạn thanh toán nợ, thanh lý các hợp đồng tối đa là một trăm tám mươi ngày, kể từ ngày đăng báo lần thứ nhất;

4. Kể từ ngày hợp tác xã nhận được thông báo giải thể, cơ quan đăng ký kinh doanh đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và xoá tên hợp tác xã trong sổ đăng ký kinh doanh; hợp tác xã phải nộp ngay con dấu cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

5. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân về việc giải thể hợp tác xã thì hợp tác xã có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.

Điều 43. Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với hợp tác xã

Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với hợp tác xã được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản.

Chương VII

LIÊN HIỆP HỢP TÁC XÃ, LIÊN MINH HỢP TÁC XÃ

Điều 44. Liên hiệp hợp tác xã

1. Các hợp tác xã có nhu cầu và tự nguyện có thể cùng nhau thành lập liên hiệp hợp tác xã.

Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã quy định tại Điều 5 của Luật này, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã thành viên, hỗ trợ nhau trong hoạt động và đáp ứng các nhu cầu khác của các thành viên tham gia.

Liên hiệp hợp tác xã thành lập Hội đồng quản trị và Ban giám đốc.

Người đứng đầu Hội đồng quản trị là Chủ tịch Hội đồng quản trị; người đứng đầu Ban giám đốc là Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

Liên hiệp hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh.

2. Liên hiệp hợp tác xã được tự chọn tên và biểu tượng của mình phù hợp với quy định của pháp luật. Con dấu, bảng hiệu, giấy tờ giao dịch của liên hiệp hợp tác xã phải có ký hiệu "LHHTX".

Page 20: super mario world

3. Mục đích, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của liên hiệp hợp tác xã được quy định trong Điều lệ liên hiệp hợp tác xã do Đại hội các thành viên thông qua.

Điều 45. Liên minh hợp tác xã

1. Liên minh hợp tác xã là tổ chức kinh tế - xã hội do các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự nguyện cùng nhau thành lập. Liên minh hợp tác xã được tổ chức theo ngành và các ngành kinh tế. Liên minh hợp tác xã được thành lập ở trung ương và tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

2. Liên minh hợp tác xã có các chức năng sau đây:

a) Đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã thành viên;

b) Tuyên truyền, vận động phát triển hợp tác xã;

c) Hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho sự hình thành và phát triển của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã do Chính phủ giao; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã theo quy định của Chính phủ;

d) Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về hợp tác xã;

đ) Đại diện cho hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã trong quan hệ hoạt động phối hợp của các thành viên với các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

3. Quyền, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, tên gọi và tài chính của liên minh hợp tác xã do Điều lệ liên minh hợp tác xã quy định.

4. Điều lệ liên minh hợp tác xã trung ương do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận; Điều lệ liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ra quyết định công nhận.

5. Nhà nước tạo điều kiện để liên minh hợp tác xã ở trung ương và địa phương hoạt động theo quy định của pháp luật.

6. Chính phủ quy định cụ thể mối quan hệ công tác giữa liên minh hợp tác xã với chính quyền các cấp.

Chương VIII

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HỢP TÁC XÃ

Điều 46. Quản lý nhà nước đối với hợp tác xã

1. Nội dung quản lý nhà nước đối với hợp tác xã bao gồm:

a) Ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về hợp tác xã;

b) Xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển hợp tác xã;

c) Tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;

d) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và các kiến thức cần thiết cho xã viên hợp tác xã;

Page 21: super mario world

đ) Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;

e) Tổ chức chỉ đạo việc thực hiện hợp tác quốc tế về hợp tác xã.

2. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hợp tác xã:

a) Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với hợp tác xã;

b) Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã;

c) Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong phạm vi địa phương theo quy định của pháp luật;

d) Chính phủ quy định cụ thể việc phân công, phân cấp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương trong quản lý nhà nước đối với hợp tác xã.

Điều 47. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp đối với hợp tác xã

1. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình:

a) Tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho việc hình thành và phát triển hợp tác xã thuộc địa phương mình;

b) Hướng dẫn, khuyến khích các hợp tác xã phối hợp cùng hoạt động vì lợi ích của nhân dân ở địa phương;

c) Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật hợp tác xã và các văn bản pháp luật có liên quan;

d) Giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về hợp tác xã;

đ) Thực hiện các nội dung khác về quản lý nhà nước đối với hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

2. Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong lĩnh vực được giao.

Điều 48. Mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và vai trò của các tổ chức này đối với hợp tác xã

1. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc tổ chức thi hành pháp luật về hợp tác xã.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng và phát triển hợp tác xã; tham gia với các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng chính sách và giám sát thi hành pháp luật về hợp tác xã.

Chương IX

KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 49. Khen thưởng

Page 22: super mario world

Tổ chức, cá nhân sau đây được khen thưởng theo quy định của pháp luật:

1. Xã viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và liên minh hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, có nhiều đóng góp cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;

2. Tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất, kinh doanh và phát triển hợp tác xã.

Điều 50. Xử lý vi phạm

1. Người nào vi phạm các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ ra khỏi hợp tác xã, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

2. Tổ chức, cá nhân có hành vi gian dối trong việc đăng ký kinh doanh hoặc lợi dụng danh nghĩa hợp tác xã để hoạt động; hợp tác xã hoạt động không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc không đúng ngành, nghề đã đăng ký thì bị đình chỉ hoạt động và bị xử lý theo quy định của pháp luật.

3. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không đúng quy định của pháp luật hoặc cố ý không cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi tổ chức có đủ điều kiện thành lập hợp tác xã thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Chương X

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 51. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2004.

Luật này thay thế Luật hợp tác xã năm 1996.

Điều 52. Hướng dẫn thi hành

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.

 

                     

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003.

 

                                                          CHỦ TỊCH QUỐC HỘI

 

HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA -  KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁPQuá trình phát triển hợp tác xã nói chung, hợp tác xã nông nghiệp nói riêng đã trải qua nhiều bước thăng trầm, song luôn là nội dung có tính chiến lược trong phát triển kinh tế nông nghiệp

Page 23: super mario world

và nông thôn. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách tháo gỡ vấn đề này. Tuy nhiên đây là khu vực đặc thù ưu tiên, do vậy cần kết hợp các giải pháp tổng hợp (quản lý, kỹ thuật, tài chính, thị trường ...) với các giải pháp về xã hội để tạo điều kiện phát triển đối với hợp tác xã nông nghiệp

Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW ngày 24/5/1996 của Ban bí thư Trung ương Đảng khoá VII về : “Phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế” và 4 năm thực hiện Luật hợp tác xã (HTX). Việc chuyển đổi, xây dựng mới HTX nông nghiệp và các hình thức kinh tế hợp tác đã có những chuyển biến bước đầu. Tuy nhiên trên thực tế diễn ra còn nhiều phức tạp, khó khăn trong quá trình chuyển đổi và thành lập mới HTX nông nghiệp... Để chuyển đổi, xây dựng HTX nông nghiệp và các hình thức hợp tác khác thực sự đem lại hiệu quả, theo chúng tôi cần phải thấy rõ những tồn tại để đề ra giải pháp thiết thực. Qua điều tra, nghiên cứu,  ý kiến của chúng tôi về vấn đề này như sau :

1. Những tồn tại khó khăn

Thứ nhất : Nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của hầu hết cán bộ cơ sở và nông dân chưa thấu đáo và quán triệt đầy đủ, mặt khác trên thực tế việc chuyển đổi và thành lập mới HTX còn mang nặng tính hình thức và thiếu những mô hình hoạt động có hiệu quả. Tuy các cuộc khảo sát, phỏng vấn các hộ xã viên và hộ nông dân ở nhiều địa phương có trên 80% trả lời cần   thiết phải có HTX; song chưa thể khẳng định tiêu thức đó đã phản ánh đúng nhận thức về HTX kiểu mới, mà từ lâu họ đã quen có HTX để được bao cấp, giúp đỡ và các quyền lợi khác... Từ đó khi tham gia không thấy hết được nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với HTX. Thậm chí một số lớn xã viên sau khi đã đóng cổ phần (khoảng 50000 đ/xã viên) cũng không quan tâm đến nghĩa vụ của mình, phó mặc cho ban quản lý, thờ ơ trong mọi hoạt động, thậm chí quên mất mình là xã viên.

Thứ hai : Vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của HTX còn yếu kém đang là một trong những khó khăn lớn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của HTX trong quá trình chuyển đổi và xây dựng mới.

                Qua khảo sát 30 HTX ở Hải Dương, Nam Định, Hà Tây cho thấy : Vốn bình quân 1 HTX chuyển đổi và xây dựng mới khoảng 500 triệu đồng, trong đó tài sản cố định khoảng trên 400 triệu đồng, vốn lưu động trên 100 triệu đồng, vốn của HTX phần lớn đang bị chiếm dụng hoặc khoanh lại chờ Nhà nước giải quyết. Khảo sát 15 HTX xếp loại khá bình quân vốn lưu động có khoảng gần 200 triệu đồng, nhưng bị chiếm dụng đến 69,4%. Nhiều xã viên nợ HTX chưa giải quyết xong nợ cũ thì nợ mới tiếp tục phát sinh trong quá trình chuyển đổi.

                Thực tế  do vốn lưu động ít làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Tình trạng đó dẫn đến HTX không mở rộng được hoạt động dịch vụ, hiệu quả hoạt động thấp, khả năng đáp ứng nhu cầu dịch vụ cho xã viên hạn chế. Hơn nữa, trong điều kiện mới khi HTX chuyển sang các hoạt động gắn với cơ chế thị trường, thực hiện liên kết, hợp tác liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác... rất khó khăn.

                Đối với tài sản cố định sau khi được đánh giá lại từ HTX cũ chuyển sang  HTX mới, chủ yếu là công trình thuỷ nông, công trình điện, hệ thống máy móc cũ lạc hậu... đã xuống cấp nghiêm trọng.

                Thứ ba : Trình độ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp còn bất cập so với cơ chế quản lý mới.

                Sau chuyển đổi, bộ máy quản lý HTX đã được tinh giảm gọn nhẹ hơn, nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý hầu hết hoạt động theo kinh nghiệm thực tế, không được đào tạo cơ bản, ít được bồi dưỡng tập huấn. Qua khảo sát 50 HTX ở các tỉnh phía Bắc (Hải Dương, Nam Định, Hưng Yên, Bắc Giang) cho thấy trong tổng số 50 chủ nhiệm HTX có 6,3% có trình độ đại học, 13,7% là trung cấp, 57,5% chưa qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn. Mặt khác năng lực nắm bắt thông tin và có khả năng dự báo thị trường, sự nhạy cảm linh hoạt để đáp ứng trước những yêu cầu đa dạng phức tạp của cơ chế thị trường còn có nhiều hạn chế. Một đặc điểm khác của đội ngũ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp là thường xuyên thay đổi và vì vậy họ không yên tâm công tác. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ quản lý luôn ở trong tình trạng thiếu cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong công tác quản lý.

Thứ tư : Về công tác quản lý và giúp đỡ của Nhà nước đối với kinh tế HTX.

                Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách (đặc biệt có Luật HTX) tạo hành lang pháp lý cho HTX chuyển đổi, xây dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh-dịch vụ. Nhưng trên thực tế, sự tác động của các chủ trương, chính sách đó còn chậm đến các cơ sở. Nhiều chính sách đã được ban hành nhưng đến nay các HTX nông nghiệp chưa được hưởng lợi từ những chính sách đó.

2. Một số giải pháp phát triển.

+ Trước hết cần tâp trung phân loại, xử lý các tồn đọng của các HTX cũ, để tiếp tục hỗ trợ, giúp đỡ  các HTX tiếp tục chuyển đổi có hiệu quả. Đối với các HTX yếu kém không có khả năng chuyển đổi nên giải thể, để thành lập mới các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng, phù hợp hơn từ thấp đến cao theo nhu cầu của kinh tế hộ với đặc điểm của từng cơ sở. Đồng thời tiến hành tổng kết các mô hình HTX nông nghiệp có hiệu quả để phổ biến nhân ra diện rộng, tập trung vào các mô hình sau : Mô hình HTX kinh doanh tổng hợp, mô hình HTX chuyên khâu, mô  hình HTX dịch vụ tổng hợp, HTX nông nghiệp ngành hàng v.v...

Page 24: super mario world

+ Tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền về Luật HTX, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác và HTX. Giới thiệu và tổ chức tham quan các mô hình kinh tế hợp tác và HTX kiểu mới ở địa phương là nội dung có ý nghĩa và tác dụng rất lớn trong giai đoạn hiện nay vì qua một thời gian dài tồn tại mô hình HTX kiểu cũ đã gây ra không ít những mặc cảm, tâm lý thiếu tin tưởng của đông đảo hộ xã viên.

+ Để khuyến khích kinh tế hợp tác và HTX phát triển, Nhà nước cần bổ sung, ban hành thêm một số chính sách và thực hiện một số giải pháp mang tính hỗ trợ về kinh tế, để khuyến khích, tạo thuận lợi cho kinh tế hợp tác và HTX phát triển.

Về chính sách đất đai, mặc dù đã có Luật đất đai sửa đổi và có các văn bản hướng dẫn thi hành, song các HTX nông nghiệp hiện nay vẫn gặp không ít vướng mắc và cản trở cần được tháo gỡ. Đối với đất HTX dùng vào làm trụ sở, xây dựng kho bãi, Nhà nước cần thiết có chính sách giao đất hoặc cho thuê ưu đãi đối với HTX, để tạo điều kiện cho HTX mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Chính sách tín dụng hiện nay chưa thực sự tạo điều kiện cho HTX vay vốn, để HTX vay được vốn cần phải lập quỹ bảo lãnh tín dụng, để HTX vay vốn thông qua bảo lãnh của quỹ này. Đồng thời cho phép HTX được làm chức năng tín dụng nội bộ, để HTX thuận lợi trong việc huy động vốn tại chỗ cho sản xuất kinh doanh.

Chính sách xoá nợ cũ cho các HTX là phù hợp với thực tiễn hiện nay, để tạo điều kiện cho các HTX mới phát triển và được vay vốn thuận lợi.

Về đầu tư, Nhà nước cần dành một phần vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua các HTX, đặc biệt ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh sản xuất hàng hoá.

 

+ Nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ sở và HTX : Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX, như là một giải pháp quan trọng nâng cao nguồn lực lâu dài cho HTX, tăng cường hoạt động kinh doanh có hiệu quả và mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết, hợp tác với các thành phần kinh tế khác.

+ Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với HTX.  Ngoài ban hành các chính sách tạo hành lang pháp lý để HTX hoạt động, chính quyền các cấp cần hỗ trợ giúp đỡ theo hướng lấy HTX làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân trong việc tổ chức thực hiện dự án, làm đại lý cung ứng vật tư và thu gom nguyên liệu, phân cấp quản lý thuỷ nông và làm cơ sở chuyển giao TBKT, trình diễn mô hình... như là điểm tựa cho xây dựng nông thôn mới và đào tạo cán bộ cho cơ sở. Mặt khác tiến hành tổng kết, nghiên cứu các mô hình kinh tế hợp tác, để chuyển giao có hiệu quả phong trào xây dựng và phát triển HTX hiện nay.

+ Cần bổ sung và sửa đổi thêm những nội dung trong Luật và Điều lệ HTX cho phù hợp hơn với thực tế hiện nay trong quá trình tổ chức phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX. Chức năng và nhiệm vụ của HTX không chỉ phục vụ cho kinh tế hộ, mà cần bổ sung thêm về hướng dẫn tổ chức sản xuất cho kinh tế hộ, mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài dịch vụ để nâng cao lợi nhuận cho HTX. Đối với HTX ngoài mục tiêu dịch vụ phát triển kinh tế hộ cần phải có sự kết hợp tốt với mục tiêu nâng cao lợi nhuận trong các hoạt động của HTX, để HTX phấn đấu có tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, nâng cao thu nhập của hộ nông dân. Cần mở rộng các hình thức vốn góp của xã viên, không chỉ vốn góp mà còn cả vốn dưới dạng tài sản cố định, đất đai, máy móc, trâu bò và các yếu tố khác có thể quy về vốn.

Vai trò Hợp tác xã ở một số nước trên thế giới 21/09/2011         Hợp tác xã là một loại hình kinh tế tập thể khá phổ biến, hoạt động trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội và hiện diện ở các nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau. Đến nay, hợp tác xã vẫn tỏ ra là mô hình hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Và quan trọng hơn nữa, thông qua hợp tác xã, các hộ nông dân, các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với nhau, tăng sức mạnh để đối phó với khó khăn và tránh các nguy cơ thua lỗ cao.

Vai trò của hợp tác xã tại một số nước phát triểnChâu âu có gần 290.000 hợp tác xã (HTX) với 140 triệu thành viên và khoảng 4,9

triệu người làm thuê. Liên minh châu Âu (EU) có khoảng 30.000 HTX nông nghiệp với doanh số khoảng 210 tỷ ơ-rô

* Đức: Là một trong những chiếc nôi đầu tiên của mô hình kinh tế ở Châu Âu. Cho

Page 25: super mario world

đến nay, đất nước nay vẫn duy trì một hệ thống HTX mạnh, xem đó là một bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế quốc doanh. Với nguyên tắc kinh doanh “Lợi thế nhờ quy mô, mua bán sĩ tốt hơn mua bán lẻ”, thành viên HTX cũng chính là những khách hàng quan trọng của HTX. Bất cứ nhu cầu nào của thành viên được phát sinh là HTX có thể thiết kế sản phẩm để đáp ứng. Các HTX nông nghiệp của Đức đang nắm thị phần cao đối với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp quan trọng: 70% thị phần sản phẩm thịt chế biến, hơn 60% thị phần của các sản phẩm sữa, hơn 30% thị phần rượu nho. Các HTX này rất nhạy bén trong việc nắm bắt xu thế chung của người tiêu dùng là ưa chuộng các nông phẩm sinh thái, các nông sản “sạch” để định hướng, tư vấn hỗ trợ các thành viên của mình trong việc trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, chế biến theo đúng tiêu chuẩn, quy định. Các sản phẩm thịt sạch, sữa sạch, rau quả sạch mang thương hiệu HTX… đang là những sản phẩm rất có lợi thế trên thị trường tiêu dùng ở Đức. Sự trợ giúp đó của HTX giúp cho người nông dân tiêu thụ được sản phẩm và tăng thêm thu nhập trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn.Ngoài dịch vụ cung cấp cho thành viên, các HTX nông nghiệp tạo ra khoảng 150.000 việc làm trực tiếp. Tính trung bình, mỗi HTX nông nghiệp sử dụng 46 lao động. Theo quy định của Luật HTX Đức, hằng năm, các HTX đều được kiểm toán định kỳ và do Hiệp hội HTX thực hiện.

 * Phần Lan: Được xem là “quê hương” của HTX. Mô hình kinh tế này đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối người dân nông thôn và nghề nghiệp của họ với kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa được diễn ra nhanh chóng. Phạm vi hoạt động của HTX trải rộng gần như trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đến mức hiện nay hầu như mỗi người dân Phần Lan đều có quan hệ với  HTX trong một hay nhiều lĩnh vực của đời sống. Các HTX ở Phần Lan thường giữ thị phần cao trong các lĩnh vực then chốt, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp lương thực, ngân hàng - bảo hiểm, thương mại nông nghiệp và bán lẻ.

 * Mỹ: Có gần 50.000 HTX với khoảng 150 triệu thành viên. Các HTX nông nghiệp (3.500 HTX) đóng vai trò quan trọng, đảm nhận gần 1/3 công việc thu hoạch, chế biến và thương mại nông nghiệp. Tổng doanh thu của các HTX này vào khoảng 100 tỷ ơ-rô, trong đó 1/3 thuộc về 100 HTX lớn nhất. Trong vòng 20 năm qua, ở Mỹ nổi lên một thế hệ các HTX nông nghiệp mới dựa trên việc đánh giá lại các nguyên tắc HTX. Sự ra đời của thế hệ HTX mới này xuất phát từ nhu cầu tạo thêm nguồn sinh lực mới cho các HTX nông nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh. Các HTX thế hệ mới ở các Bang của Mỹ đều là những công ty lớn với tổng đầu tư khoảng 2 tỷ ơ-rô.

            * Nhật Bản: HTX là nhân tố tích cực, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế. Các loại hình tổ chức HTX ở Nhật Bản bao gồm: HTX nông nghiệp và HTX tiêu dùng.

                 HTX tiêu dùng (JCCU) là tổ chức cấp cao của khu vực HTX ở Nhật Bản. JCCU có các chức năng và nhiệm vụ như: tăng cường hướng dẫn quản lý và hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho các HTX thành viên; lập kế hoạch; phát triển và cung cấp sản phẩm, các chương trình bảo hiểm và mạng lưới thông tin đáp ứng nhu cầu cho của các xã viên; tổ chức các khóa học và hội thảo về công tác quản lý và giáo dục cho các HTX thành viên; xuất - nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng… Các HTX thành viên của JCCU đã sản xuất trên 10.000 sản phẩm khác nhau mang nhãn hiệu “Co-op”, bao gồm lương thực, thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng.

             Năm 1972, Liên hiệp các HTX quốc gia Nhật Bản (BEN-NOH) chính thức được thành lập và được Chính phủ giao thực hiện các mục tiêu về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Các HTX nông nghiệp Nhật Bản có mặt hầu hết các làng mạc, thành phố, thị trấn. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của HTX nông nghiệp Nhật Bản là hợp tác trong phân phối chứ không hợp tác trong sản xuất. HTX nông nghiệp thực hiện hai nhiệm vụ chính: một là, cung cấp cho nông dân các yếu tố “đầu vào” phục vụ sản xuất nông nghiệp, như phân bón, hóa chất nông nghiệp, trang thiết bị, kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi gia súc… ; hai là, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm bằng cách thu gom, bảo quản, dự trữ, bán các nông sản, vật tư dựa váo mạng lưới  tiêu thụ sản phẩm quốc gia và quốc tế. HTX nông nghiệp là kênh tiêu thụ nông sản chính: 90% lúa gạo; trên 50% rau, hoa quả, sữa tươi… Nông dân Nhật Bản chủ yếu mua hàng qua HTX.

             Mô hình HTX nông nghiệp Nhật Bản được đặc trưng bởi hệ thống 3 cấp: Các HTX nông nghiệp cơ sở, các liên hiệp và các liên đoàn quốc gia. HTX nông nghiệp cơ sở có hai loại: loại thứ nhất là HTX nông nghiệp đa chức năng tham gia hầu hết các hoạt động và dịch vụ, từ tiếp thị sản phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu sản xuất và vật dụng thiết yếu

Page 26: super mario world

hằng ngày, nhận gửi tiền và cho vay, đầu tư vốn, cung cấp bảo hiểm đến hướng dẫn kinh doanh cho nông dân…; loại thứ hai là HTX nông nghiệp đơn chức hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất cụ thể như chế biến sữa, nuôi gia cầm và các nghề truyền thống khác, tiếp thị sản phẩm của các xã viên và cung cấp nguyên liệu sản xuất…

         Để giúp các tổ chức HTX hoạt động, Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường xây dựng hệ thống phục vụ xã hội hóa nông nghiệp, coi HTX nông nghiệp là một trong những hình thức phục vụ xã hội hóa tốt nhất và yêu cầu các cấp , các ngành phải giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức này. 

             Đóng góp của HTX tại một số nền kinh tế mới 

            * Ấn Độ: HTX đã ra đời từ rất lâu và trở thành lực lượng vững mạnh, tham gia hầu hết các hoạt động kinh tế của đất nước. Người nông dân coi HTX là phương tiện để tiếp nhận tín dụng, các yếu tố “đầu vào” và các dịch vụ cần thiết cho sản xuất nông nghiệp. Khu vực HTX có phạm vi hoạt động rất rộng, trong các lĩnh vực tín dụng, chế biến nông sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ và xây dựng nhà ở với tổng vốn hoạt động khoảng 18,33 tỷ USD. Nổi bật nhất là các HTX tín dụng nông nghiệp, chiếm tới 43% tổng số tín dụng trong cả nước; các HTX sản xuất đường chiếm tới 62,4% tổng sản lượng đường trên cả nước; HTX sản xuất phân bón chiếm 34% tổng sản lượng phân bón được sản xuất trong nước. 

            Liên minh HTX quốc gia Ấn Độ (NCUI) là tổ chức cao nhất, đại diện cho toàn bộ HTX ở Ấn Độ. Mục tiêu chính của NCUI là hỗ trợ và phát triển phong trào HTX ở Ấn Độ, giáo dục và hướng dẫn nông dân xây dựng và phát triển HTX.

             Nhận rõ vai trò của các HTX trong nền kinh tế quốc dân, Chính phủ Ấn độ đã  thành lập công ty quốc gia phát triển HTX, thực hiện nhiều dự án khác nhau trong lĩnh vực chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản, hàng tiêu dùng, lâm sản và các mặt hàng khác, đồng thời thực hiện các dự án về phát triển những vùng nông thôn còn lạc hậu. Ngoài ra, Chính phủ còn khuyến khích sự phát triển của khu vực HTX thông qua xúc tiến xuất khẩu; sửa đổi Luật HTX; tạo điều kiện cho các HTX tự chủ và năng động hơn; chấn chỉnh hệ thống  tín dụng HTX; thiết lập mạng lưới thông tin hai chiều giữa  những người nghèo nông thôn với các tổ chức HTX; bảo đảm trách nhiệm của các liên đoàn HTX đối với  các HTX thành viên.

            * Thái Lan: HTX nông nghiệp được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu của xã viên trong các lĩnh vực vay vốn, gửi tiết kiệm và tiền ký quỹ, tiêu thụ sản phẩm, tiếp thụ, hỗ trợ phát triển nông nghiệp và các dịch vụ khác. Thông qua sự trợ giúp của Chính phủ, ngân hàng nông nghiệp và HTX nông nghiệp, xã viên được vay vốn với lãi suất thấp, thời hạn ưu đãi thích hợp cho việc kinh doanh hặc sản xuất của họ. Hiện nay, số HTX tham gia hoạt động SXKD này chiếm khoảng 39%. Hoạt động của HTX tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu xã viên về các lĩnh vực: khuyến khích gửi tiền tiết kiệm của các xã viên; góp cổ phần; cung cấp các dịch vụ vay cho xã viên… HTX tín dụng nông thôn được thành lập từ lâu.  Do hoạt động của HTX trong lĩnh vực này có hiệu quả, nên hàng loạt HTX tín dụng đã ra đời trên khắp đất nước. Bên cạnh đó, sự phát triển của HTX tiêu dùng, các loại HTX công nghiệp cũng phát triển mạnh và trở thành một trong những yếu tố quan trong trong sự phát triển kinh tế của Thái Lan.

             Liên đoàn HTX Thái Lan (CLT) là tổ chức HTX cấp cao quốc gia, thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ, giáo dục và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các HTX và xã viên theo luật định.

            Để tạo điều kiện cho khu vực HTX phát triển và khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan đã thành lập Bộ nông nghiệp và HTX, trong đó có hai vụ chuyên trách về HTX là Vụ phát triển HTX (để giúp HTX thực hiện các hoạt động kinh doanh, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra) và Vụ Kiểm toán HTX (thực hiện chức năng kiểm toán HTX và hướng dẫn nghiệp vụ kế toán trong công tác quản lý tài chính, kế toán HTX). Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách, như chính sách giá, tín dụng với mục tiêu bảo đảm chi phí “đầu vào” hợp lý để có giá bán ổn định cho người tiêu dùng, góp phần ổn định giá nông sản tại thị trường trong nước

Page 27: super mario world

thấp hơn giá thị trường thế giới, khuyến khích xuất khẩu.

         * Hàn Quốc: Từ khi thành lập năm 1961, Liên đoàn quốc gia HTX nông nghiệp Hàn Quốc (NACF) đã lập mạng lưới HTX từ trung ương đến cơ sở. Với gần 1.400 HTX thành viên, hoạt động của NACF rất đa dạng và nắm giữ 40% thị phẩm nông sản trong nước và là một ngân hàng có số tiền gửi lớn nhất Hàn Quốc. Nhằm mở rộng thị trường nông sản, NACF quản lý một mạng lưới dịch vụ vận chuyển nông sản từ nông trại đến người tiêu dùng, giúp người nông dân sản xuất theo đúng yêu cầu của thị trường, giảm tối thiểu chi phí lưu thông, hao hụt, thất thoát; điều hành một hệ thống DN kinh doanh nông sản lớn nhất và cạnh tranh mạnh nhất; cung cấp các vật tư nông nghiệp bảo đảm cho nông dân có đủ vật tư thiết yếu đúng thời gian, giá rẻ, chất lượng. NACF sở hữu một hệ thống hạ tầng và thiết bị hùng hậu giúp tăng thêm giá trị cho hàng nông sản. NACF còn điều hành cả hệ thống ngân hàng nông nghiệp và các quỹ tín dụng của HTX, cung cấp nhiều loại dịch vụ: giao dịch ngân hàng, dịch vụ thẻ tín dụng, cho vay, đầu tư, bảo hiểm, giao dịch quốc tế… Hệ thống bảo hiểm của NACF chiếm lĩnh toàn bộ thị trường nông thôn.

            * Ma-lai-xi-a: Các tổ chức HTX được thành lập từ những năm đầu của thế kỷ XX. Sự phát triển vững chắc của kinh tế HTX là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước này. Tổ chức HTX Ma-lai-xi-a ANGKASA là tổ chức cấp cao của các HTX Ma-lai-xi-a, có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX thành viên về phương thức điều hành và quản lý các hoạt động của HTX qua việc tư vấn, giáo dục hoặc tổ chức  những dịch vụ cần thiết. Năm 1993, Luật HTX của Ma-lai-xi-a ra đời tạo khung pháp lý để các HTX hoạt động, xây dựng kế hoạch phát triển và đào tạo cán bộ quản lý HTX, củng cố quyền của xã viên cũng như công tác đào tạo xã viên. Luật cũng quy định về luật kiểm toán nội bộ và xây dựng báo cáo tổng hợp của Ban chủ nhiệm HTX trong đại hội xã viên thường kỳ hằng năm. Chính phủ Ma-lai-xi-a đã thành lập Cục phát triển HTX với một số hoạt động chính, như quản lý và giám sát các hoạt động của HTX; giúp đỡ tài chính và phát triển kết cấu hạ tầng; xây dựng kế hoạch phát triển HTX, đào tạo cán bộ quản lý…

            Qua các hoạt động của hệ thống HTX ở một số nước nêu trên, có thể nhận thấy  một nét chung nhất là, hoạt động của HTX không chỉ đem lại hiệu quả kinh tế mà còn mang lại sản phẩm, dịch vụ tốt nhất, để người nông dân có được giá tốt nhất. Dịch vụ chính là sản phẩm chủ yếu của HTX.

                                                                                                                           ( Sưu tầm)Mô hình kinh tế hợp tác xã của một số nước châu Á 02:37-02/03/2010

Kinh tế tập thể, trong đó, kinh tế hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt, hiện nay, mô hình HTX đã trở thành lực lượng vững mạnh ở một số nước châu Á. Tạp chí Công nghiệp xin giới thiệu một số mô hình phát triển hợp tác xã ở các nước này.

 Kinh tế tập thể, trong đó, kinh tế hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt, hiện nay, mô hình HTX đã trở thành lực lượng vững mạnh ở một số nước châu Á. Tạp chí Công nghiệp xin giới thiệu một số mô hình phát triển hợp tác xã ở các nước này.

Tại Ấn Độ Ở Ấn Độ, tổ chức hợp tác xã (HTX) được ra đời từ lâu và chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nước này, trong đó, Liên minh HTX Quốc gia Ấn Độ (NCUI) là tổ chức cao nhất, đại diện cho toàn bộ HTX ở Ấn Độ. NCUI có 212 thành viên, gồm 17 liên đoàn HTX chuyên ngành cấp quốc gia, 171 liên đoàn HTX thuộc các bang và 24 liên hiệp HTX đa chức năng cấp quốc gia. Mục tiêu chính của NCUI là hỗ trợ và phát triển phong trào HTX ở Ấn Độ, giáo

Page 28: super mario world

dục và hướng dẫn nông dân cùng nhau xây dựng và phát triển HTX. Nhiệm vụ quan trọng của NCUI là công tác đào tạo với hệ thống đào tạo 3 cấp: Viện Đào tạo quốc gia có nhiệm vụ đào tạo và cấp bằng cao đẳng về quản lý kinh doanh HTX; Viện Đào tạo cấp bằng đào tạo và bằng trung cấp về quản lý, kinh doanh HTX; Trung tâm đào tạo cấp quận, huyện đào tạo cán bộ HTX cơ sở, đào tạo nghề. Do có các chính sách và phân cấp đào tạo hợp lý nên Ấn Độ đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, thúc đẩy khu vực kinh tế HTX phát triển, và mô hình HTX trở thành lực lượng vững mạnh, tham gia vào hầu hết các hoạt động kinh tế của đất nước.Là một nước nông nghiệp, sự phát triển kinh tế của Ấn Độ phụ thuộc rất nhiều vào việc phát triển nông nghiệp. Người nông dân coi HTX là phương tiện để tiếp nhận tín dụng, đầu vào và các nhu cầu cần thiết về dịch vụ. Khu vực HTX có cơ sở hạ tầng rộng lớn, hoạt động trong các lĩnh vực tín dụng, chế biến nông sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ và xây dựng nhà ở với tổng số vốn hoạt động khoảng 18,33 tỷ USD. Những lĩnh vực hoạt động quan trọng của khu vực kinh tế HTX ở Ấn Độ đang nổi lên là HTX tín dụng nông nghiệp, có tỷ trọng chiếm tới 43% tổng số tín dụng trong cả nước, các HTX sản xuất đường chiếm tới 62,4% tổng sản lượng đường của cả nước, HTX sản xuất phân bón chiếm 34% tổng số phân bón của cả nước. Nổi bật là Liên hiệp HTX sản xuất sữa Amul, bang Gujaza, được thành lập từ năm 1953. Đây là một liên hiệp sản xuất sữa lớn nhất của Ấn Độ, và là một trong những liên hiệp HTX hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Sau gần 50 năm hoạt động, Liên hiệp này có gần 2 triệu cổ phần. Mỗi ngày, Liên hiệp sản xuất 1 triệu lít sữa. Sản lượng sữa do Liên hiệp sản xuất chiếm 42,6% thị phần trong cả nước. Nhận rõ vai trò của các HTX chiếm vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, Chính phủ Ấn Độ đã thành lập công ty quốc gia phát triển HTX, thực hiện nhiều dự án khác nhau trong lĩnh vực chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản, hàng tiêu dùng, lâm sản và các mặt hàng khác, đồng thời thực hiện các dự án về phát triển những vùng nông thôn còn lạc hậu. Ngoài ra, Chính phủ đã thực hiện chiến lược phát triển cho khu vực HTX như: Xúc tiến xuất khẩu; Sửa đổi Luật HTX, tạo điều kiện cho các HTX tự chủ và năng động hơn; Chấn chỉnh hệ thống tín dụng HTX; Thiết lập mạng lưới thông tin hai chiều giữa những người nghèo nông thôn với các tổ chức HTX; Bảo đảm trách nhiệm của các liên đoàn HTX đối với các HTX thành viên.Tại Nhật Bản Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tổ chức HTX Nhật Bản là nhân tố tích cực, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội.Các loại hình tổ chức HTX Nhật Bản bao gồm: HTX nông nghiệp, HTX tiêu dùng. HTX tiêu dùng Nhật Bản phát triển mạnh từ những năm 1960-1970. Liên hiệp HTX tiêu dùng (JCCU) là tổ chức cấp cao của khu vực HTX ở Nhật Bản. Hiện nay, JCCU có 617 HTX thành viên. Các HTX thành viên đã sản xuất trên 10.000 sản phẩm khác nhau mang nhãn hiệu “Co-op”, bao gồm lương thực, thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng. JCCU có các chức năng và nhiệm vụ như: tăng cường hướng dẫn quản lý và hỗ trợ hoạt động kinh doanh cho các HTX thành viên; Lập kế hoạch; Phát triển và cung cấp sản phẩm, các chương trình bảo hiểm và mạng lưới thông tin, đáp ứng nhu cầu của các xã viên; Tổ chức các khóa học và hội thảo về công tác quản lý và giáo dục cho các HTX thành viên; Xuất-nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng...HTX Nông nghiệp Nhật Bản được đặc trưng bởi hệ thống 3 cấp: các HTX nông nghiệp cơ sở, các liên hiệp và các liên đoàn quốc gia. Các tổ chức HTX cơ sở được tổ chức ở cấp làng, thị trấn và thành phố trực thuộc tỉnh, gồm những thành viên thường xuyên là nông dân và các thành viên liên kết khác. HTX nông nghiệp cơ sở có 2 loại: HTX nông nghiệp đa chức năng và HTX nông nghiệp đơn chức năng. HTX nông nghiệp đa chức năng có nhiệm vụ hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiếp thị sản phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu sản xuất và các vật dụng thiết yếu hàng ngày; Cho vay và đầu tư vốn, cung cấp bảo hiểm... HTX

Page 29: super mario world

nông nghiệp đơn chức năng hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất cụ thể như chế biến sữa, nuôi gia cầm và các nghề truyền thống khác. Ngoài ra, còn có chức năng tiếp thị sản phẩm của các xã viên thành viên và cung cấp nguyên liệu sản xuất... Các tổ chức HTX cấp tỉnh: Các HTX nông nghiệp được điều hành, quản lý thông qua các liên đoàn, các hiệp hội HTX nông nghiệp tỉnh và các liên minh HTX nông nghiệp tỉnh. Các liên đoàn HTX cấp tỉnh điều phối các hoạt động của các HTX trong phạm vi, quyền hạn của mình, đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, tiếp thị cho các HTX thành viên. Các liên hiệp HTX tỉnh chỉ đạo các vấn đề về tổ chức, quản lý, giáo dục, nghiên cứu cũng như đưa các kiến nghị lên các cơ quan của Chính phủ. Các liên minh HTX nông nghiệp tỉnh có nhiệm vụ giám sát và quản lý toàn bộ hoạt động của các HTX nông nghiệp liên kết.Để giúp các tổ chức HTX hoạt động, Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường xây dựng hệ thống phục vụ xã hội hóa nông nghiệp, coi HTX nông nghiệp là một trong những hình thức phục vụ xã hội hóa tốt nhất và yêu cầu các cấp, các ngành phải giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho tổ chức này. Đồng thời, Chính phủ còn yêu cầu các ngành tài chính, thương nghiệp giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, tư liệu sản xuất v.v…, tuy nhiên, không làm ảnh hưởng đến tính tự chủ và độc lập của các HTX này.Tại Thái LanỞ Thái Lan, HTX tín dụng nông thôn được thành lập từ lâu. Do hoạt động của HTX này có hiệu quả, nên hàng loạt HTX tín dụng được thành lập khắp cả nước. Cùng với sự phát triển của các HTX tiêu dùng, các loại hình HTX nông nghiệp, công nghiệp cũng được phát triển mạnh, và trở thành một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước cũng như giữ vững ổn định xã hộiNăm 2001, Thái Lan có 5.611 HTX các loại với hơn 8 triệu xã viên, trong đó có 3.370 HTX nông nghiệp với hơn 4 triệu xã viên; 100 HTX đất đai với hơn 147 nghìn xã viên; 76 HTX thủy sản với hơn 13 nghìn xã viên; 1.296 HTX tín dụng với hơn 2 triệu xã viên; 400 HTX dịch vụ với hơn 146 nghìn xã viên.Liên đoàn HTX Thái Lan (CLT) được thành lập, là tổ chức HTX cấp cao quốc gia, thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ, giáo dục và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các HTX và xã viên theo luật định.Hiện nay, Thái Lan có một số mô hình HTX tiêu biểu: HTX nông nghiệp và HTX tín dụng. HTX Nông nghiệp được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu của xã viên trong các lĩnh vực: Vay vốn, gửi tiền tiết kiệm và tiền ký quỹ, tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, hỗ trợ phát triển nông nghiệp và các dịch vụ khác. Thông qua sự trợ giúp của Chính phủ, Ngân hàng Nông nghiệp và HTX Nông nghiệp, xã viên được vay vốn với lãi suất thấp với thời hạn ưu đãi thích hợp cho việc kinh doanh hoặc sản xuất của họ. Hiện nay, số HTX tham gia hoạt động kinh doanh này chiếm khoảng 39%.Hoạt động của HTX tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu của xã viên về các lĩnh vực: Khuyến khích gửi tiền tiết kiệm của các xã viên; Góp cổ phần; Cung cấp các dịch vụ vốn vay cho xã viên... Để tạo điều kiện cho khu vực HTX phát triển và khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan đã ban hành nhiều chính sách thiết thực như chính sách giá, tín dụng nhằm khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Mục tiêu của chính sách giá cả là: Đảm bảo chi phí đầu vào hợp lý để có giá bán ổn định cho người tiêu dùng, đồng thời góp phần làm ổn định giá nông sản tại thị trường trong nước, giữ giá trong nước thấp hơn giá thị trường thế giới, khuyến khích xuất khẩu. Với chính sách tín dụng, các xã viên có thể vay tín dụng từ các HTX Nông nghiệp, các cơ quan chính phủ, các ngân hàng thương mại để đầu tư vào sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho nông nghiệp. Trong giai đoạn 2002-2004, Chính phủ đã dành 134 tỷ Bạt để cải thiện và phát triển HTX, bao gồm phát triển sản phẩm mới, giống công nghệ sinh học, mở rộng tưới tiêu...Ngân hàng các HTX Nông nghiệp và nông thôn Thái Lan đã

Page 30: super mario world

dành 2 tỷ Bạt để khuyến khích xã viên các HTX sản xuất-kinh doanh. Ngoài ra, Chính phủ đã thành lập Bộ Nông nghiệp và HTX, trong đó có 2 vụ chuyên trách về HTX là Vụ phát triển HTX và Vụ kiểm toán HTX. Vụ phát triển HTX đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các HTX thực hiện các hoạt động kinh doanh, nhằm đạt được các mục tiêu do các HTX đề ra; Vụ kiểm toán HTX thực hiện chức năng kiểm toán HTX và hướng dẫn nghiệp vụ kế toán trong công tác quản lý tài chính, kế toán HTX. Hàng năm, Liên đoàn HTX Thái Lan tổ chức hội nghị toàn thể với sự tham gia của các đại diện từ các loại hình HTX trong cả nước và đại diện các cơ quan của Chính phủ liên quan đến tổ chức HTX. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ Thái Lan thực sự có hiệu quả trong việc hoạch định các chính sách đối với phát triển khu vực HTX.Tại MalaixiaỞ Malaixia, các tổ chức HTX được thành lập từ những năm đầu của thế kỷ XX. Hiện nay, tổ chức HTX đang là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Tổ chức HTX Malaixia (ANGKASA) là tổ chức cấp cao của các HTX Malaixia. ANGKASA có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX thành viên về phương thức điều hành và quản lý các hoạt động của HTX bằng cách tư vấn, giáo dục hoặc tổ chức những dịch vụ cần thiết. Hiện nay, ANGKASA có 4.049 HTX các loại với 4,33 triệu xã viên, trong đó, HTX tín dụng và ngân hàng có 442 HTX với 1,32 triệu xã viên; HTX nông nghiệp có 205 HTX với 0,19 triệu xã viên; HTX xây dựng nhà ở có 103 HTX với 0,07 triệu xã viên; HTX công nghiệp có 51 HTX với 0,01 triệu xã viên; HTX tiêu dùng có 2.359 HTX với 2 triệu xã viên; HTX dịch vụ có 362 HTX với 0,14 triệu xã viên v.v... Sự phát triển vững chắc của các khu vực kinh tế HTX đã thúc đẩy nền kinh tế Malaixia có bước phát triển mới.Các nguyên tắc của HTX được ANGKASA nêu cụ thể như sau: Quản lý dân chủ; Thành viên tự nguyện; Thu nhập bình đẳng; Phân phối lợi nhuận kinh doanh theo mức độ sử dụng các dịch vụ của các xã viên và mức đóng góp cổ phần của xã viên; Hoàn trả vốn theo mức đầu tư; Xúc tiến công tác đào tạo phổ cập kiến thức quản lý và KHKT nông nghiệp cho các xã viên.Năm 1922, Pháp lệnh đầu tiên về HTX của Nhà nước Malaixia ra đời. Sau đó, năm 1993, Luật HTX ra đời, là khung khổ pháp lý để các HTX hoạt động, đồng thời xây dựng kế hoạch phát triển và đào tạo cán bộ quản lý HTX, củng cố quyền của xã viên cũng như công tác đào tạo xã viên. Luật cũng quy định việc kiểm toán nội bộ và xây dựng báo cáo toàn diện của Ban chủ nhiệm HTX trong Đại hội xã viên thường kỳ hàng năm. Đặc biệt, Chính phủ Malaixia đã thành lập Cục Phát triển HTX với một số hoạt động chính như: Quản lý và giám sát các hoạt động của HTX; Giúp đỡ tài chính và cơ sở hạ tầng để HTX có thể tồn tại hoạt động; Xây dựng kế hoạch phát triển HTX, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý... Hồng Vân (Tạp chí Công nghiệp)

BÀN VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH   TẾ Posted on 15/12/2008 by Civillawinfor

THS.NGUYỄN QUỐC TÒNG

Hợp tác xã (HTX) là vấn đề không xa lạ gì đối với Việt Nam (và dĩ nhiên là với các nước TBCN cũng vậy) song vấn đề cần bàn kỹ ở đây là thế nào là HTX nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi?

Page 31: super mario world

- HTX là phương thức tất yếu trong lao động sản xuất và các hoạt động kinh tế, gắn liền với sự phát triển kinh tế và bị ràng buộc và qui định bởi sự tiến triển trong quá trình xã hội hoá của hoạt động kinh tế của con người và phải thích ứng với tiến trình phát triển kinh tế đó. HTX phải tạo ra xung lực tăng NSLĐ và đạt hiệu quả kinh tế cao.

- HTX là hình thức thực hiện các quá trình hợp tác trong hoạt động kinh tế. Mục tiêu của HTX là phát triển được sức sản xuất xã hội, tiết kiệm lao động, tăng hiệu quả kinh tế, phải thích hợp với các mối quan hệ kinh tế mới trong điều kiện mới.

- Đặc trưng của HTX nông nghiệp – nông thôn trong điều kiện mới đó là liên kết hợp tác của các chủ thể kinh tế tự chủ (kinh tế hộ, kinh tế trang trại) đây là hạt nhân và là nền tảng cơ bản của HTX kiểu mới được thiết lập.

- Việc thiết lập HTX kiểu mới không làm mất đi tính tự chủ vốn có của các bên tham gia, trái lại nó tăng thêm sức mạnh tổng lực và phát triển được những ưu thế của phương thức HTX.

- Vậy HTX đâu phải là cái đích cuối cùng mà vấn đề ở đây là tạo ra đòn bẩy để phát triển kinh tế các chủ thể kinh tế tự chủ. HTX là việc liên kết nhau lại giữa các chủ thể kinh tế tự chủ tạo ra sức mạnh mới, thông qua đó phát triển được kinh tế của mình. Như vậy khi thành lập HTX mới không phải vì kinh tế HTX mà là sự phát triển kinh tế cụ thể của các kinh tế của HTX. Do đó, kinh tế HTX là tổ chức kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế tự chủ. HTX kiểu mới phải thể hiện được bản chất tự do lựa chọn phương thức hoạt động kinh tế của họ trong điều kiện kinh tế thị trường vì kinh tế thị trường thì các chủ thể kinh tế tự chủ họ có nhiều cách để đạt tới mục đích kinh tế của mình. Như vậy, trong điều kiện mới, các chủ thể kinh tế tự chủ họ có thể tham gia HTX hoặc không, khi HTX không đáp ứng yêu cầu của họ.

Một khía cạnh khác nữa là HTX là tổ chức kinh tế dân chủ, do đó kinh tế hộ, chủ trang trại họ tự nguyện liên hợp lại vì mục tiêu lợi ích chung vì thế họ bình đẳng, cùng đồng tham gia quyết định mọi hoạt động kinh tế chung. Để cùng có lợi, họ vào HTX là để tăng sức sản xuất chung lên, tiết kiệm và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ cao, chia sẻ rủi ro, do đó tăng hiệu quả kinh tế lên, lợi ích này sẽ là của chung và sẽ được phân bổ tuỳ thuộc vào sự tham gia đóng góp của từng chủ thể kinh tế tự chủ trong HTX.

Một nét cơ bản HTX mới khác với HTX cũ là ở chỗ HTX trước khi kinh tế chưa chuyển đổi được thiết lập trên cơ sở học thuyết nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp và kinh tế đóng, do đó HTX được hình thành trên cơ sở tập thể hoá tư liệu sản xuất, tập thể hoá lao động, tập thể hoá toàn bộ mọi hoạt động kinh tế, ở đây kinh tế HTX đã chuyển và đồng nghĩa với kinh tế tập thể, đồng thời xoá bỏ kinh tế tự chủ của người nông dân, biến nông dân thành kẻ làm thuê, làm công, bình công qua hình thức công điểm của hTX. Đây là một sai lầm lớn trong học thuyết kinh tế, đối lập với hoạt động sản xuất nông nghiệp, dẫn đến kinh tế nông thôn đi đến chỗ suy thoái, đình đốn tiêu điều. Điều này chúng ta đã phải trả giá quá đặt (đặc biệt là ở miền Bắc khi hình thành từ tổ đổi công à lên HTX à HTX bậc cao) và biến mỗi huyện thành một đại nông trường thủ công, v,v…. Tất cả đã đi ngược lại với thuyết kinh tế thị trường, trái qui luật phát triển, lãng phí nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực nông hộ, cái họ có chính là sức lực, họ lao động (thậm chí bán sức mình) tự bóc lột mình, họ không còn biết họ

Page 32: super mario world

khổ ra sao cả… để đạt được mục tiêu kinh tế đó là thu nhập. Kế đến là ruộng đất, cái mà họ có từ ngàn đời nay, họ dùng để chống rủi ro, để có thu nhập… thì đem xung vào kinh tế HTX. Xét từ góc độ này, HTX kiểu cũ sụp đổ là điều dễ hiểu. Như vậy, thực chất HTX kiểu mới là hình thức hợp tác về kinh tế, dựa trên lý thuyết lợi nhuận của kinh tế hộ, kinh tế trang trại tăng thì đó là lợi nhuận của HTX được tăng lên. Vậy, đây là một yêu cầu tự nguyện, tự thân cho nên họ tự ngồi lại với nhau, liên kết nhau lại. Nhà nước phải đổi mới cách tiếp cận cho đúng, nghĩa là chỉ tạo ra khung pháp lý, điều này luật HTX ra đời 1996 thể hiện được cách nhìn mới đó. Song việc chuyển đổi HTX sang mới, giải thể HTX cũ không phải là câu chuyện ngày một ngày hai. Vì một lẽ hiểu được HTX kiểu mới đã là việc khó, song chấp nhận mô hình thành và tự tan rã trong cơ chế mới thật không dễ dàng. Cội nguồn của vấn đề là tư duy cũ trong nhiều tầng lớp cán bộ lãnh đạo, nhất là tỉnh và huyện không bắt kịp với sự phát triển trong tình hình đổi mới.

Để có được những HTX đích thực của nông dân, tạo điều kiện, giúp họ giải quyết được những khó khăn phát triển kinh tế, chúng ta cần hiểu ra và kỹ HTX trong điều kiện kinh tế chuyển đổi hiện nay, mà chủ yếu là hiểu được kinh tế nông dân nông thôn phát triển ra sao, như thế nào.

Hiện nay kinh tế nông thôn đang chịu áp lực chung cho cả 2 hướng: chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp nông thôn lạc hậu, chậm phát triển sang kinh tế thị trường phát triển và quá trình này thúc đẩy bởi tiến trình CNH và HĐH. Hai quá trình này diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phải hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và chịu sự tác động mạnh mẽ của cuộc CM khoa học công nghệ cao, hiện đại. Đây cũng là thời cơ và thách thức và cũng là tác nhân góp sức, thúc đẩy kinh tế nông dân, nông thôn có sự thay đổi sâu sắc cả trên bình diện rộng và sâu, làm thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và nhận thức sản xuất kinh tế nông thôn đang hình thành phương thức sản xuất công nghiệp, phương thức kinh doanh hướng thị trường, theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao. Xã hội nông thôn, nông dân đang bị phân hoá, tầng lớp giàu và nghèo. Kinh tế nông thôn đang vận động và chuyển đổi không ngừng phương thức sản xuất và đây là mấu chốt để hiểu cho đúng kiểu hợp tác và HTX. Có thể có được HTX trong khuôn khổ các chủ thể kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, giữa chúng có những cách biệt quá xa về phương thức sản xuất? Mặt khác, tiến trình kinh tế nông thôn đang có sự phân hoá kinh tế nông dân theo nghề nghhiệp kinh tế nông dân chuyển theo hướng đa canh, đa ngành và một phần chuyển mạnh sang hướng chuyên môn hoá và công nghiệp dịch vụ, tức là hoạt động phi nông nghiệp tăng lên. Điểm nữa là, kinh tế nông thôn đang trong quá trình thị trường hoá. Các hoạt động nông nghiệp nông thôn càng ngày càng gắn vào thị trường và bị lôi cuốn vào thị trường. Các hộ nông dân lớp trên đã chuyển sang kinh doanh và hoạt động kinh tế đang gắn với nhu cầu thị trường. Các vấn đề kinh tế đang được giải quyết trên nhu cầu thị trường (như vốn, vật tư nông nghiệp, lao động, thị trường hàng hoá, dịch vụ v.v….). Các vấn đề này cho thấy hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế tự chủ chủ yếu thiên về các quan hệ dịch vụ, hàng hoá, nếu họ tham gia HTX thì sẽ là các loại hình HTX dịch vụ, mua bán, vật tư, hay các hiệp hội tiêu thụ nông sản, v.v….

Dĩ nhiên, phát triển kinh tế nông nghiệp – nông thôn có các cơ sở vật chất, hoặc dịch vụ mang tính chất công (điện, trường, trạm, thuỷ lợi, hệ thống chống lũ, hệ thống thông tin, khuyến nông…) do Nhà nước đảm nhận và đây cũng là vai trò vô cùng quan trọng của Chính phủ trong công cuộc phát triển nông nghiệp nông thôn.

Page 33: super mario world

Tóm lại qua phân tích ở trên, tôi thấy trong nền kinh tế chuyển đổi và trên bình diện kinh tế thị trường, HTX có một ý nghĩa nhất định đối với quá trình phát triển kinh tế nói chung và nông thôn nói riêng, song vị trí của nó không lớn đến nỗi là bao trùm lên tất cả, lại càng không phải là giải pháp toàn bộ cho phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn và kinh tế nông dân. HTX chỉ là một trong biện pháp hoặc là hình thức hỗ trợ cho kinh tế nông thôn chuyển đổi và phát triển.

Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Trong quá trình chuyển đổi và phát triển với sự hỗ trợ của Nhà nước trên phương diện quản lý tầm vĩ mô, các hộ nông dân có quyền và tự lựa chọn, quyết định giải pháp tối ưu nhất để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất mà mình đặt ra. Nhà nước hỗ trợ tối đa, quan tâm họ tối đa trên nguyên tắc xây dựng khung pháp lý, còn phát triển kinh tế nông thôn sao cho hiệu quả là công việc mãi mãi là của họ. Chúng ta cần nhấn mạnh một lần nữa là HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế phát triển kinh tế hộ gia đình, lợi ích hộ không mâu thuẫn với lợi ích HTX, việc hình thành HTX phải theo nguyên tắc thị trường, vận hành theo quan hệ và qui luật kinh tế. Tuyệt đối không nên quan niệm HTX là tổ chức XH; cứu trợ XH đối với nông dân và tập thể hoá nông dân.

· Một số kiến nghị về xây dựng và phát triển kinh tế HTX nông thôn:

1) Kinh tế hộ tự chủ là điều kiện tiên quyết thành lập HTX:

+ Như trên đã nêu, sự khác biệt giữa HTX kiểu mới và HTX kiểu cũ, kinh tế HTX kiểu mới, nền tảng là hộ kinh tế tự chủ, vì vậy phải làm cho hộ nông dân thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ, đây là vấn đề mấu chốt, nếu hộ nông dân chưa thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ thì họ không có nhu cầu tham gia HTX. Trái lại, kinh tế HTX cần kinh tế hộ, cùng tồn tại, không hạn chế, loại trừ kinh tế hộ mà hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển.

+ Chủ trương của Nhà nước ta là “Kinh tế hộ là đơn vị kinh tế tự chủ” “ai giỏi nghề gì làm nghề đó” – nhìn chung trong 15 năm đổi mới, kinh tế hộ đã có bước phát triển tốt, song cần cụ thể hơn nữa các quyền cho nông hộ, đó là:

- 5 quyền đất đai.

- Tích tụ, tập trung quản lý ruộng đất hợp lý.

- Hỗ trợ vốn, tín dụng cho nông hộ.

- Tổ chức tốt các dịch vụ sản xuất nông hộ (vật tư tiêu thụ sản phẩm, thông tin kinh tế, v.v….).

- Xây dựng khung pháp lý bảo vệ hộ sản xuất nông nghiệp (qui mô sản xuất, thuê mướn lao động, đầu tư nông nghiệp…) và tuyên truyền giải thích cho nông dân hiểu tốt về môi trường làm ăn, kinh doanh, làm giàu ở trong XH nói chung và ở nông thôn nói riêng.

2) Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác:

+ Lựa chọn hình thức HTX nào là do trình độ phát triển của kinh tế hộ quyết định.

Page 34: super mario world

+ Kinh tế tự cấp, tự túc thì không có nhu cầu hợp tác, kinh tế hàng hoá có nhu cầu trao đổi, hợp tác, do đó HTX xuất hiện khi có nhu cầu trao đổi tiêu thụ sản phẩm, đây là đặc điểm của kinh tế nông hộ, do đó HTX ra đời ở những nơi có kinh tế hàng hoá phát triển.

+ Khuyến khích thành lập các loại hình thức như tổ đổi công hợp tác phong phú đa dạng giữa các hộ theo như luật HTX đã qui định. Vì đây là tiền đề hình thành HTX khi sản xuất hàng hoá bắt đầu phát triển.

+ Không nên chuyển đổi HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới mà nên giải thể (triệt để không hình thành HTX kiểu mới trên nền HTX kiểu cũ). Vì một lẽ đơn giản là do cơ chế rườm rà hiện nay của ta mà HTX mới hình thành hay chuyển đổi từ cũ sang mới sẽ không bao giờ có hiệu quả.

Cuối cùng, để phát triển hình thức kinh tế HTX nông thôn Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng chiến lược thị trường, xúc tiến thương mại, giải quyết nhanh chóng đầu ra cho nông dân.

Phát triển hợp tác xã nông nghiệp: Tạo đà xây dựng nông thôn mới 10:41-02/03/2010

Con số 70% dân số sống tại nông thôn và cuộc sống phụ thuộc vào nguồn thu nhập bấp bênh từ nông nghiệp đã nói lên vai trò quan trọng của kinh tế nông nghiệp ở mỗi địa phương. Để nền kinh tế đó phát huy hiệu quả, không có con đường nào ngắn bằng việc gắn nó với việc phát triển các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp. Con số 70% dân số sống tại nông thôn và cuộc sống phụ thuộc vào nguồn thu nhập bấp bênh từ nông nghiệp đã nói lên vai trò quan trọng của kinh tế nông nghiệp ở mỗi địa phương. Để nền kinh tế đó phát huy hiệu quả, không có con đường nào ngắn bằng việc gắn nó với việc phát triển các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hồ Xuân Hùng nhấn mạnh, phát triển HTX nông nghiệp chính là giải pháp quan trọng ngăn chặn nguy cơ mất ổn định xã hội, tiến tới hiện thực hóa xây dựng nông thôn mới (NTM).

May hàng xuất khẩu tại HTX công nghiệp Tiến Bộ

"Lột xác" cho các HTX nông nghiệpTheo số liệu báo cáo của các địa phương, hiện cả nước có trên 9.000 HTX nông nghiệp; trong đó có 76,41% HTX chuyển đổi từ HTX cũ; tổng số xã viên khoảng 6,5 triệu người; tỷ lệ hộ nông dân tham gia HTX nông nghiệp đạt khoảng 58%. Tuy nhiên, trong một giai đoạn dài của thời kỳ đổi mới, không ít các HTX nông nghiệp đã rơi vào tình trạng "giậm chân tại chỗ", thậm chí nhiều HTX buộc phải giải thể vì hoạt động không hiệu quả. Đánh giá về thực trạng của các HTX nông nghiệp trong thời kỳ đổi mới, Thứ trưởng Hồ Xuân Hùng cho biết, các

Page 35: super mario world

HTX nông nghiệp trong thời kỳ đó đều rơi vào tình trạng "ách tắc", tại nhiều địa phương HTX nông nghiệp còn bị lãng quên. Điểm báo động đỏ cho sự "tan rã" đó đã khiến Nhà nước phải có những chính sách, biện pháp khôi phục, phát huy tiềm năng vốn có của các HTX nông nghiệp trước kia, hay còn gọi là nền kinh tế tập thể tại các địa phương. Tại hội thảo tổng kết 4 năm thực hiện dự án Tăng cường chức năng HTX nông nghiệp ở Việt Nam do tổ chức Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ vừa diễn ra, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hồ Xuân Hùng một lần nữa khẳng định vai trò của các HTX nông nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế cả nước nói chung. Phát triển HTX nông nghiệp, cải thiện nó sao cho phù hợp, hiệu quả là đòn bẩy bảo đảm cân bằng mức sống giữa khu vực nông thôn và thành thị.

Sau 4 năm (2006-2010) thực hiện dự án không ít các HTX nông nghiệp của ta đã được "lột xác", phát huy hiệu quả kinh tế. Theo ông Nguyễn Văn Nghiêm, Trưởng phòng Kinh tế hợp tác (KTHT) - trang trại (Cục KTHT và PTNT Bộ NN&PTNT), sau khi triển khai dự án, các HTX nông nghiệp tiếp thu được rất nhiều kinh nghiệm từ các mô hình HTX nông nghiệp tiên tiến của Nhật Bản. Số HTX tổ chức tiêu thụ sản phẩm tăng, hoạt động tín dụng nội bộ cũng phát triển. Nhiều HTX khá đang có xu hướng mở rộng các ngành nghề dịch vụ mới theo mô hình HTX nông nghiệp đa chức năng. Trong năm 2008, có 6.688 HTX hoạt động có lãi chiếm 74% tổng số HTX; lãi bình quân là 50 triệu đồng/1 HTX, nhiều HTX có lãi từ 200-300 triệu đồng. Ông Nguyễn Chí Quý, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Hà Nội cho biết, Hà Nội hiện có gần 1.000 HTX nông nghiệp trong đó 50% số HTX đạt kết quả kinh doanh dịch vụ khá, 30% đạt trung bình và vẫn còn 20% HTX thuộc loại yếu kém, không hiệu quả.

Điểm nhấn trong phong trào xây dựng NTMTheo đánh giá của Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2009 theo giá so sánh 1994 ước đạt 219.887 tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2008; trong đó nông nghiệp đạt 160.081 tỷ đồng, tăng 2,2%, lâm nghiệp đạt 7.008 tỷ đồng, tăng 3,8%, thủy sản đạt 52.799 tỷ đồng, tăng 5,4%. Mặc dù nền kinh tế này đóng góp trên 20% GDP nhưng khu vực nông thôn vẫn tồn tại nhiều vấn đề nổi cộm như hạ tầng nghèo nàn; quy hoạch và quản lý quy hoạch bất cập; môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Công cuộc xóa đói giảm nghèo có tiến triển nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn còn lớn. Lao động thiếu việc làm, tỷ lệ qua đào tạo thấp, tình trạng thất nghiệp và tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng đang là mối đe dọa lớn ở nông thôn. Ông Tăng Minh Lộc, Phó cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác - PTNT (Bộ NN&PTNT) cho rằng, một trong những chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn quan trọng là nâng cao mức sống cho xã viên HTX thông qua việc nâng cao năng lực và tổ chức của HTX nông nghiệp. Phát triển các HTX nông nghiệp được coi là cốt lõi trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Để giúp nông dân nâng cao thu nhập từ nông nghiệp thì phải giúp họ bán được nông sản với giá hợp lý và mua được vật tư đầu vào chất lượng; vay những khoản vay dài hạn lãi suất thấp; tiếp cận khoa học kỹ thuật. Để làm được những việc này, nông dân không thể tự mình đơn lẻ thực hiện. Do đó, muốn nâng cao vị thế giao dịch cho nông dân phải nâng cao quy mô hoạt động thông qua hợp tác tự nguyện với nhau. Đây là lý do cơ bản phải củng cố các HTX nông nghiệp, HTX có phát triển nông dân mới có vốn, có kiến thức, có thị trường, có nguồn cung cầu dồi dào và bền vững. Thứ trưởng Hồ Xuân Hùng khẳng định, HTX nông nghiệp có phát triển thì phong trào xây dựng NTM mới khởi sắc.

Chương trình hành động của Chính phủ về tam nông là một mảnh đất lớn cần được cải tạo, trong đó phát triển HTX nông nghiệp được coi là "vi chất" đầu tiên cần "bón" trên mảnh đất đó. Vấn đề tam nông hơn lúc nào hết trở nên cấp thiết và trọng yếu như hiện nay, bởi nó là nhân tố duy trì cán cân phát triển kinh tế đất nước. Phát triển kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống tinh thần cũng như vật chất cho nông dân, xây dựng nông thôn theo 19 tiêu chí xây dựng NTM của Chính phủ đề ra đều là những động thái nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng cân bằng, xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.

Đào Huyền   Khi hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụNgày cập nhật: 11-03-2010Hậu Giang có rất nhiều hợp tác xã (HTX) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng có không ít HTX làm ăn không hiệu quả vì không làm dịch vụ. Từ đó, nhiều xã viên không

Ông Hai Chiến vừa làm dịch vụ cho HTX, vừa là nông dân sản xuất giỏi.

Page 36: super mario world

còn mặn mà với mô hình HTX. Tuy nhiên, ở HTX Nông nghiệp Thạnh Phước, xã Đông Thạnh, huyện Châu Thành thì khác. * Hiệu quả từ làm dịch vụ Trong 2 năm 2008-2009, HTX Nông nghiệp Thạnh Phước thu lợi nhuận xấp xỉ 400 triệu đồng và chia đều cho xã viên nên ai nấy đều phấn khởi. Được kết quả như hôm nay là do sự phấn đấu không ngừng của Ban chủ nhiệm và ý thức vươn lên của xã viên. Ông Hai Chiến (Nguyễn Văn Chiến), Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp Thạnh Phước, nhớ lại: Lúc mới thành lập vào năm 1999, HTX chỉ có 16 xã viên, vốn điều lệ 16 triệu đồng. Lúc đó HTX có đến 11 hộ xã viên nghèo. Tuy nhiên, nhờ có Chương trình Hifer hỗ trợ nên các xã viên dần thoát nghèo. Hiện tại, HTX có tổng diện tích 47 ha, 50 xã viên (224 nhân khẩu), vốn điều lệ lên đến 1 tỉ đồng, hoạt động trên lĩnh vực ươm, ghép cây giống các loại, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nuôi thủy sản và sản xuất chiếu lác. Giờ đây, nhiều hộ xã viên đã thoát nghèo và có nhà cửa khang trang, vườn tược cho trái xum xuê.   Theo ông Chiến, HTX nông nghiệp muốn thành công thì phải biết làm dịch vụ. Để làm được điều này, Ban chủ nhiệm phải biết cách quản lý, điều hành, tìm đối tác, thị trường thì xã viên mới an tâm sản xuất. Cơ sở vật chất của HTX Nông nghiệp Thạnh Phước hiện tại có 2 nhà lưới; 1 cơ sở dệt chiếu (3 máy), mỗi máy trị giá khoảng 50 triệu đồng, giải quyết việc làm cho 30 lao động với mức thu nhập khoảng 1,2 triệu đồng/người/tháng. Năm 2008, HTX có tổng doanh thu trên 1,7 tỉ đồng (vốn đầu tư 1,5 tỉ đồng), chia lãi cho xã viên gần 200 triệu đồng. Năm 2009, mức lãi 200 triệu đồng, trong đó lãi từ chanh không hạt 108 triệu đồng, lãi cây giống 75 triệu đồng, lãi từ dệt chiếu 9 triệu đồng... Ông Chiến tâm sự: “Ban chủ nhiệm luôn xây dựng chương trình hoạt động và có kế hoạch cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương với phương châm là mang lại lợi nhuận cho xã viên và HTX. Phần lớn các hộ xã viên phát triển theo mô hình VACB, trong đó HTX hỗ trợ vốn, kỹ thuật, giống cây sạch bệnh. Để thành công, phải xóa bỏ tư tưởng HTX kiểu cũ, bỏ tập quán làm ăn cá thể, nhiệt tình giúp đỡ xã viên nắm bắt thông tin thị trường. Đồng thời, thu gom hết sản phẩm của xã viên bằng giá thỏa thuận, vì vậy xã viên hầu hết đều có lợi nhuận cao”.  10 năm qua, HTX Nông nghiệp Thạnh Phước nhận được rất nhiều bằng khen từ Trung ương đến địa phương. Riêng năm 2008-2009, được Liên minh HTX Việt Nam tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng và phát triển HTX. Ông Chiến còn cho biết, giai đoạn 2010-2014, HTX sẽ cung ra thị trường khoảng 100.000 cây giống sạch bệnh; tiếp tục đầu tư khôi phục lại làng nghề truyền thống đan chiếu lác; thực hiện chương trình VietGAP trên chanh không hạt với diện tích 30 ha theo tiêu chuẩn an toàn sinh học để xuất khẩu. Bên cạnh đó, mở thêm một cửa hàng vật tư nông nghiệp để phục vụ cho các xã viên. Đặc biệt, hơn một năm qua, HTX còn mở thêm một trang trại trồng chanh không hạt ở tỉnh Đồng Nai và một cơ sở bán cây giống với diện tích đất thuê 50 ha, thời gian 10 năm với số tiền khoảng 1,2 tỉ đồng, đang hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận cho xã viên HTX. * Năng lực quản lý là cơ bản Trên thực tế, có không ít HTX nông nghiệp bị thất bại từ làm dịch vụ do Ban chủ nhiệm bị hạn chế về mặt kiến thức quản lý, không tìm được đối tác để tạo đầu ra cho sản phẩm của xã viên và HTX. Ông Nguyễn Hoàng Xe, Chủ tịch Liên minh HTX Hậu Giang, nhận xét: Mặt hạn chế của HTX nông nghiệp là năng lực quản lý điều hành của Ban chủ nhiệm yếu dẫn đến thiếu phương án sản xuất kinh doanh; hạn chế khâu sổ sách kế toán, ít vốn, ít tư  liệu sản xuất, đất đai manh mún; thiếu những hợp đồng bao tiêu sản phẩm, không khả năng phát triển xã viên và làm dịch vụ. Năm 2009, toàn tỉnh chỉ có 146/189 HTX được xem xét phân loại, trong đó loại giỏi chỉ có 47 HTX (32%), khá  41 HTX (28%), trung bình chỉ 25 HTX (17%), yếu chiếm 15 HTX (10%). Trong số HTX không nằm trong diện bình xét và những HTX yếu kém là do làm dịch vụ không hiệu quả hoặc không làm dịch vụ. Theo ông Xe, để phát triển tốt hơn nữa, Nhà nước nên xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển HTX, bên cạnh đó tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh cho HTX. Vì qua thực tế, nơi nào có sự quan tâm nhiều của chính quyền địa phương thì nơi ấy HTX hoạt động lớn mạnh và phát triển. Đối với các HTX trong tỉnh, tới đây cần phát huy nội lực sẵn có, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, nắm bắt thị trường để đưa HTX hoạt động hiệu quả. Để làm được điều này, cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nên có kế hoạch tốt hơn nữa để đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý HTX về chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với xã viên phải coi HTX là nhà và HTX phải biết làm lợi cho xã viên thông qua các phương án sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và thu lợi nhuận từ các dịch vụ...Danh sách chuyên đề  » Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Theo thống kê của Liên minh HTX Hậu Giang, hiện nay, toàn tỉnh có trên 5.300 tổ hợp tác (tổ hợp tác, tổ hùn vốn, tổ liên kết sản xuất, CLB, nhóm phụ nữ tiết kiệm...). Hiện có 122 HTX nông nghiệp, 27 HTX CN-TTCN, 8 HTX vận tải; 28 HTX xây dựng... với tổng vốn điều lệ khoảng 65 tỉ đồng, gần 18.000 xã viên và người lao động. Phần lớn các HTX thuộc dạng kinh doanh đa ngành nghề và có làm thêm dịch vụ...

Page 37: super mario world

Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản và bài học rút ra cho Việt NamKhởi tạo bởi: tailieu |  Đăng bởi : tinkinhte | Cập nhật: 13/04/2009 14:34E-mail | Bản in | Lưu xem sau

TÓM TẮT

Bài báo khảo sát kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản, qua đó rút ra một số vấn đề và bài học để phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

 

1. Đặt vấn đề

      Bước vào cơ chế thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhất là sau khi gia nhập WTO, hộ nông dân Việt Nam phải đối đầu với nhiều đối thủ sản xuất kinh doanh mạnh. Đó là các hàng hoá nông sản nhập khẩu và cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu của nông dân các nước phát triển hơn, có tổ chức rất tốt về quy mô, về trình độ hợp tác. Trong khi 50% giá trị sản xuất nông nghiệp của Việt Nam dành cho xuất khẩu thì tình trạng đơn thương độc mã hiện nay không cho phép các hộ tiểu nông cạnh tranh nổi trong sản xuất, thương thuyết nổi trong mua bán, tranh thủ được về chính sách [3]. Phải nói rằng, hơn lúc nào hết, người nông dân cần có tổ chức thực sự của mình, được tổ chức tốt từ trên xuống dưới do họ bầu ra và thực sự quản lý, giúp cho họ vốn, tiêu thụ sản phẩm và kỹ thuật sản xuất tiên tiến,… Đó chính là các hợp tác xã nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay ở hầu hết các địa phương, hợp tác xã nông nghiệp vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó cũng như chưa đáp ứng được mong mỏi của các hộ nông dân. Bài viết mong muốn khảo sát kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản rút ra một số vấn đề và bài học để phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam.

2. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản

      Ở Nhật Bản, các hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức theo ba cấp: Liên đoàn toàn quốc hợp tác xã nông nghiệp; Liên đoàn hợp tác xã nông nghiệp tỉnh; Hợp tác xã nông nghiệp cơ sở. Các Hợp tác xã nông nghiệp cơ sở gồm hai loại: đơn chức năng và đa chức năng. Từ năm 1961 trở về trước các hợp tác xã đơn chức năng khá phổ biến. Nhưng từ năm 1961 trở về đây, do chính phủ Nhật Bản khuyến khích hợp nhất các hợp tác xã nông nghiệp nhỏ thành hợp tác xã nông nghiệp lớn, nên mô hình hoạt động chủ yếu của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản hiện nay là đa chức năng. Các hợp tác xã nông nghiệp đa chức năng chịu trách nhiệm đối với nông dân trên tất cả các lĩnh vực dịch vụ như cung cấp nông cụ, tín dụng, mặt hàng, giúp nông dân chế biến, tiêu thụ sản phẩm và bảo hiểm cho hoạt động của nông dân. Có thể thấy ưu nhược điểm của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản qua phân tích cơ chế quản lý và chức năng hoạt động của chúng.

      Các hợp tác xã nông nghiệp đa chức năng của Nhật bản thường đảm đương các nhiệm vụ sau:

Page 38: super mario world

      - Cung cấp dịch vụ hướng dẫn nhằm giáo dục, hướng dẫn nông dân trồng trọt, chăn nuôi có năng suất, hiệu quả cao cũng như giúp họ hoàn thiện kỹ năng quản lý hoạt động sản xuất. Thông qua các cố vấn của mình, các hợp tác xã nông nghiệp đã giúp nông dân trong việc lựa chọn chương trình phát triển nông nghiệp theo khu vực; lập chương trình sản xuất cho nông dân; thống nhất trong nông dân sử dụng nông cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến,… Các tổ chức Liên hiệp tỉnh và Trung ương thường quan tâm đào tạo bồi dưỡng cố vấn cho hợp tác xã nông nghiệp cơ sở.

      - Mục tiêu của hợp tác xã là giúp nông dân tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất. Do đó, mặc dù các hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị hạch toán lấy thu bù chi nhưng các hợp tác xã không đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà chủ yếu là trợ giúp nông dân. Các hình thức giao dịch giữa hợp tác xã với nông dân khá linh hoạt. Nông dân có thể ký gửi hàng hoá cho hợp tác xã, hợp tác xã sẽ thanh toán cho nông dân theo giá bán thực tế với một mức phí nhỏ; nông dân cũng có thể gửi hợp tác xã bán theo giá họ mong muốn và hợp tác xã lấy hoa hồng; thông thường nông dân ký gửi và thanh toán theo giá cả thống nhất và hợp lý của hợp tác xã.

      Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản do hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã đã đề nghị nông dân sản xuất theo kế hoạch với chất lượng và tiêu chuẩn thống nhất với nhau và ưu tiên bán cho hợp tác xã. Về phần mình, hợp tác xã định tỷ lệ hoa hồng thấp. Các hợp tác xã tiêu thụ nông sản theo quy mô lớn, không chỉ ở chợ địa phương mà thông qua liên đoàn tiêu thụ trên toàn quốc với các khách hàng lớn như xí nghiệp, bệnh viện,… Hợp tác xã đã mở rộng hệ thống phân phối hàng hoá khá tốt ở Nhật Bản.

      - Hợp tác xã cung ứng hàng hoá cho xã viên theo đơn đặt hàng và theo giá thống nhất và hợp lý. Các hợp tác xã đã đạt đến trình độ cung cấp cho mọi xã viên trên toàn quốc hàng hoá theo giá cả như nhau, nhờ đó giúp cho những người ở các vùng xa xôi có thể có được hàng hoá mà không chịu cước phí quá đắt. Hàng tiêu dùng không cần đặt hàng theo kế hoạch trước. Thông thường các hợp tác xã nhận đơn đặt hàng của xã viên, tổng hợp và đặt cho liên hiệp hợp tác xã tỉnh, sau đó tỉnh đặt cho liên hiệp hợp tác xã toàn quốc. Đôi khi liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp tỉnh hoặc hợp tác xã nông nghiệp cơ sở đặt hàng trực tiếp cho doanh nghiệp sản xuất. Nhìn chung các liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp tỉnh và Trung ương không phải là cấp quản lý thuần tuý mà là các tổ chức kinh tế, các trung tâm phân phối và tiêu thụ hàng hoá.

      - Hợp tác xã nông nghiệp cung cấp tín dụng cho các xã viên của mình và nhận tiền gửi của họ với lãi suất thấp. Các khoản vay có phân biệt: cho xã viên khó khăn vay với lãi suất thấp (có khi chính phủ trợ cấp cho hợp tác xã để bù vào phần lỗ do lãi suất cho vay thấp). Hợp tác xã nông nghiệp cũng được phép sử dụng tiền gửi của xã viên để kinh doanh. Ở Nhật Bản có tổ chức một trung tâm ngân hàng hợp tác xã nông nghiệp để giúp các hợp tác xã quản lý số tín dụng cho tốt. Trung tâm này có thể được quyền cho các tổ chức kinh tế công nghiệp vay nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp.

      - Hợp tác xã nông nghiệp còn sở hữu các phương tiện sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản để tạo điều kiện giúp nông dân sử dụng các phương tiện này hiệu quả nhất, hạn chế sự chi phối của tư nhân. Các loại phương tiện thuộc sở hữu hợp tác xã thường là: Máy cày cỡ lớn, phân xưởng chế biến, máy bơn nước, máy phân loại, đóng gói nông sản. Hợp tác xã trực tiếp quản lý việc sử dụng các tài sản này.

Page 39: super mario world

      - Các hợp tác xã còn là diễn đàn để nông dân kiến nghị Chính phủ các chính sách hợp lý cũng như tương trợ lẫn nhau giữa các hợp tác xã và địa phương.

      - Ngoài ra, các hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản còn tiến hành các nhiệm vụ giáo dục xã viên tinh thần hợp tác xã thông qua các tờ báo, phát thanh, hội nghị, đào tạo, tham quan ở cả ba cấp hợp tác xã nông nghiệp cơ sở, tỉnh và Trung ương.

      Như vậy, có thể thấy rằng hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản đã phát triển từ các đơn vị đơn năng đến ngày nay trở thành các đơn vị đa năng dịch vụ mọi mặt cho cho nhu cầu của nông dân và tổ chức liên kết qui mô lớn toàn quốc. Một nước công nghiệp hoá như Nhật Bản, hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp hiệu quả vẫn là hộ gia đình, do đó hợp tác xã nông nghiệp, một mặt được thành lập để hỗ trợ nông dân, giúp cho họ vừa nâng cao hiệu quả sản xuất, vừa cải thiện cuộc sống ở nông thôn, mặt khác vẫn tôn trọng mô hình kinh tế nông hộ và chỉ thay thế hộ nông dân và tư thương ở khâu nào hợp tác xã tỏ ra có ưu thế hơn hẳn trong tương quan với mục tiêu hỗ trợ nông dân. 

3. Một số vấn đề và bài học để phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam

      Thứ nhất. Để giúp các hộ nông dân cải thiện điều kiện sống và phát triển sản xuất, cần phải liên kết các hoạt động đầu ra, đầu vào cho họ dưới hình thức tốt nhất là hợp tác xã, nông nghiệp. Bởi vì theo tôn chỉ của hợp tác xã từ trước đến nay thì hợp tác xã có thể mang đến nhiều điều lợi cho nông dân như:

      + Bán hàng cho nông dân với giá phải chăng, tiện lợi và đảm bảo chất lượng.

      + Giúp nông dân tiêu thụ hàng hoá dễ dàng, có kế hoạch với chi phí giảm, giá cả hợp lý, buôn bán văn minh, tiêu chuẩn hoá sản phẩm ở mức cao.

      + Tạo thế cạnh tranh tốt cho nông dân cả khi mua và khi bán hàng hoá.

      + Liên kết nông dân sử dụng hết công suất máy móc, chi phí sản xuất thấp.

      + Đào tạo năng lực tự quản lý, năng lực áp dụng kỹ thuật tiên tiến cho nông dân.

      Tuy nhiên, các giá trị trên chỉ có được khi hợp tác xã thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự lực tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ, hiệu quả hoạt động cao, có sự tương trợ lẫn nhau.

      Thứ hai, để hợp tác xã nông nghiệp ra đời và phát triển tốt rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước về các mặt: tạo khuôn khổ luật pháp; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhất là đường giao thông, điện, nước; tuyên truyền, khuyến khích, quảng bá cho các hợp tác xã. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã thực thi kiểm soát bằng các chế định luật hạn chế ban lãnh đạo hợp tác xã lũng đoạn, trá hình doanh nghiệp tư nhân dưới lốt hợp tác xã để hưởng ưu đãi.

      Thứ ba, tiêu thụ được sản phẩm cho hộ nông dân với giá phải chăng và chi phí thấp chính là sự hỗ trợ đáng giá mà các hộ nông dân Việt Nam đang cần. Để làm được điều này các hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam phải đáp ứng được ba điều kiện:

Page 40: super mario world

      + Ban quản lý hợp tác xã phải có tâm huyết với mục tiêu giúp nông dân làm giàu hơn là dùng hợp tác xã để làm giàu cho cá nhân mình hay để tích luỹ lợi nhuận cho hợp tác xã.

      + Người nông dân hiểu được hợp tác xã chính là tổ chức tự họ giúp họ nên hợp tác với ban quản lý nhằm thiết lập được chế độ hoạt động tối ưu cho hợp tác xã.

      + Chính quyền địa phương không được can thiệp vào công việc của hợp tác xã nhưng phải tạo điều kiện cho các mục tiêu xã hội của hợp tác xã có thể thực hiện dễ dàng nhất.

      Thứ tư, hợp tác xã nông nghiệp phải được tổ chức ở những khâu nào mà hợp tác xã làm thì tốt hơn hộ gia đình, tốt hơn tư nhân, thậm chí tốt hơn cả doanh nghiệp Nhà nước. Do đó lựa chọn khâu nào để hợp tác xã làm là hết sức quan trọng. Kinh nghiệm của Nhật Bản chỉ ra rằng bốn khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm và khuyến nông là rất phù hợp với hợp tác xã [1]. Nhưng để chiến thắng tư nhân thì hợp tác xã nên tổ chức theo kiểu đa năng và tuyển chọn người giỏi làm giám đốc để quản lý, điều hành. Cán bộ là khâu rất quan trọng, có tính chất quyết định đến sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của hợp tác xã.

      Thứ năm, theo kinh nghiệm của Nhật Bản cần đề cao vấn đề giáo dục đào tạo nhân lực cho hợp tác xã. Các tổ chức Liên hiệp hợp tác xã tỉnh, quốc gia đều coi trọng nhiệm vụ này. Nếu làm tốt nhiệm vụ này thì phong trào hợp tác xã sẽ phát triển bền vững. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ tư vấn cho hợp tác xã và nông dân. Đặc biệt các hợp tác xã cần coi trọng hoạt động khuyến nông, coi đây là phương tiện cơ bản giúp nông dân vượt khó, xoá nghèo để vươn lên làm giàu. Hợp tác xã nông nghiệp phải coi cải tạo tư tưởng phong cách, lề lối, tập quán sản xuất của nông dân là mục tiêu của mình thì mới giúp ích nhiều cho nông dân và giúp hộ nông dân phát triển lực lượng sản xuất để cạnh tranh hiệu quả với nông dân thế giới trong nền kinh tế toàn cầu và chắc chắn 100% nông dân sẽ trở thành xã viên của hợp tác xã như ở Nhật Bản. 

4. Kết luận

      Hợp tác xã nông nghiệp chỉ phát triển và phát huy tác dụng tốt cho hộ nông dân khi: hợp tác xã thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ, hiệu quả hoạt động cao; việc lựa chọn khâu dịch vụ nào để hợp tác xã làm là hết sức quan trọng. Bốn khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm và khuyến nông là rất phù hợp với hợp tác xã. Nhưng để chiến thắng tư nhân thì hợp tác xã nên tổ chức theo kiểu đa năng và tuyển chọn người giỏi làm giám đốc để quản lý, điều hành. Ngoài ra để hợp tác xã nông nghiệp phát triển cũng cần sự hỗ trợ của Nhà nước.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

1. Nguyễn Hữu Tiến, Tổ chức hợp tác xã ở một số nước châu Á, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.

2. Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Kỷ, Nguyễn Văn Phúc, Kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.

Page 41: super mario world

3. Phạm Bảo Dương, Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp trong nông nghiệp nông thôn, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số 9/2004, tr.12-14.

Kinh nghiệm phát triển HTX Nhật Bản: Có thể tham khảo cho HTX nông nghiệp Việt Nam tulieuhtx - Tư liệu HTX Thứ sáu, 18 Tháng 6 2010 07:42           Một là, tăng cường các hoạt động phục vụ nhu cầu cần thiết của xã viên.  

 

          Để tận dụng triệt để tính ưu việt của tổ chức HTX, HTX nông nghiệp của Việt Nam, ngoài việc củng cố các hoạt động truyền thống như dịch vụ thủy lợi, điện, phòng trừ sâu bệnh, làm đất, cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất… cần mở thêm các hoạt động mà HTX nông nghiệp Nhật Bản hiện đang làm, cụ thể là: Hướng dẫn làm trang trại; hướng dẫn bà con tổ chức cuộc sống tốt hơn, nghiên cứu và phát triển thị trường hàng hóa nông sản; chế biến sản phẩm; cung cấp các sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống của nông dân; cung cấp tín dụng, bảo hiểm, phúc lợi, du lịch, giáo dục, quan hệ cộng đồng, tổ chức vận động hành lang…

            Hai là: mở rộng quy mô HTX 

           Mở rộng quy mô HTX bao gồm tổng số xã viên tham gia và tăng vốn góp của từng thành viên. HTX càng có nhiều xã viên, quy mô vốn góp của HTX càng lớn, thì triển khai các dịch vụ theo nhu cầu chung của xã viên càng hiệu quả. Quy mô xã viên bình quân ở Nhật Bản là 7.684 xã viên/HTX, trong khi ở Việt Nam là 500 xã viên/HTX. Tỷ lệ vốn góp tính theo tháng thu nhập ở Nhật Bản cũng lớn hơn, với vốn góp bình quân tương đương 2 tháng thu nhập. Ở Việt Nam, con số này chỉ vài chục ngàn đồng, tương đương 1/10 thu nhập hàng tháng của bà con xã viên.

            Ba là, từng bước thành lập Liên đoàn HTX nông nghiệp 

           Mô hình HTX nông nghiệp Nhật Bản cần được nghiên cứu và học tập, đồng thời có sự cân nhắc tới điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế. Cần học hỏi mô hình Liên đoàn HTX nông nghiệp Nhật Bản trong việc từng bước thành lập Liên đoàn HTX nông nghiệp bằng việc sát nhập, hợp nhất HTX thành các HTX có mô hình lớn để tạo sức mạnh liên kết và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX.            Bốn là, thường xuyên nâng cao năng lực quản lý HTX  

          Muốn HTX phát triển tốt cần phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, tâm huyết, được đào tạo và gắn bó với sự nghiệp phát triển HTX. Công tác đào tạo nâng cao năng lực quản lý HTX nông nghiệp tại Nhật Bản là nội dung hoạt động hết sức quan trọng. Hàng năm, HTX dành khoản ngân sách lớn cho hoạt động này, tất cả Liên đoàn cấp địa phương đều có trung tâm đào tạo HTX. Các

Page 42: super mario world

khóa học ngắn hạn được mở ra thường xuyên nhằm cung cấp thông tin và phổ cập kiến thức quản lý mới giúp những người quản lý HTX cùng tham gia hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. 

           Năm là, tăng cường hỗ trợ và giám sát của Nhà nước đối với HTX  

          Khuôn khổ pháp lý hiện đối với HTX ở Việt Nam đã có nhưng chưa hoàn thiện, nhiều quy định  còn chưa đúng với bản chất HTX, một số quy định không nhất thiết thì lại thi lại được ban hành, trong khi đó, một số quy định quan trọng lại không được ban hành. Công tác hỗ trợ, giám sát của nhà nước cũng chưa được quan tâm đúng mức. Để tăng cường các hoạt động này, trước hết phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và rà soát, sửa đổi cơ chế, chính sách hỗ trợ đối với  HTX nông nghiệp. 

           HTX nông nghiệp có đặc thù là gắn với thôn bản, làng xóm nên có thể thu hút cộng đồng dân cư thông qua HTX các công trình cộng đồng như trường học, trạm  y tế, đường giao thông, thủy lợi…  

          Sáu là, khuyến khích và hướng dẫn nông dân làm nông trại 

           Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, là quy luật phát triển chủ yếu  của sản xuất nông nghiệp hàng hóa và đã được Nhật Bản áp dụng và có kinh nghiệm nhiều năm qua. Vì vậy, cần có nhận thức đúng đắn vị trí quan trọng của của kinh tế trang trại, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển, có cơ chế cho các chủ trang trại tích tụ đất đai, thu hút lao động vào trang trạng; tăng cường chuyển giao tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, đưa các giông cây trồng, vật nuôi có năng suất cao vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường cạnh tranh trên thị trường. 

           Kết luận: 

           HTX nông nghiệp không chỉ có ở Việt nam, mà đã và đang tồn tại và phát triển mạnh tại các nước tư bản có nền kinh tế thị trường phát triển như Nhật Bản và nhiều nước khác. Để phát triển bền vững, song hành với việc rút kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong quá trình phát triển HTX trước đây ở Việt Nam, HTX nông nghiệp cần được nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế của các nước đi trước như Nhật Bản để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm phát huy tối đa tính ưu việt của thể chế này. 

           Nhật Bản đã trải qua  lịch sử phát triển HTX từ hơn 100 năm mới đạt được kết quả như ngày nay. Vì vậy, việc phát triển HTX nông nghiệp ở Việt Nam là quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì trong chính sách phát triển. Việt Nam tuy có lợi thế của nước đi sau, có thể học hỏi để rút ngắn thời gian phát triển nhưng cũng có bất lợi là sự ảnh hưởng nặng nề của mô hình HTX cũ nên việc tuyên truyền làm thay đổi nhận thức về HTX, phổ biến các mô hình HTX

Page 43: super mario world

của các nước như Nhật Bản là hết sức khó khăn.

                                  Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ươngChính sách phát triển hợp tác xã ở Việt Nam 08:41-07/09/2009

50 năm qua (1958 - 2008) chủ trương, đường lối và chính sách phát triển hợp tác xã (HTX) của Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử là từng bước đổi mới HTX theo hướng phù hợp với điều kiện khách quan. HTX được phát triển theo các nấc thang, trình độ khác nhau có thăng, trầm trong thời kỳ chuyển đổi

50 năm qua (1958 - 2008) chủ trương, đường lối và chính sách phát triển hợp tác xã (HTX) của Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử là từng bước đổi mới HTX theo hướng phù hợp với điều kiện khách quan. HTX được phát triển theo các nấc thang, trình độ khác nhau có thăng, trầm trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá chỉ huy, bao cấp kéo dài dẫn tới quan liêu sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.   

Thành công qua các giai đoạn

Sự phát triển HTX được Nhà nước ta thể chế hoá kịp thời ở các cấp độ luật pháp khác nhau

Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở những chủ trương, đường lối lớn của Đảng, đã khẳng định:

kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức

dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi. Nhà nước tạo điều

kiện để củng cố và mở rộng các HTX hoạt động có hiệu quả. Điều đó là kết quả của một thời

gian dài vận động thực tiễn và tổng kết lý luận của Đảng và Nhà nước ta về HTX. Sự khẳng

định của Hiến pháp năm 1992 đã tạo đà cho sự đổi mới không ngừng về cơ chế quản lý phát

triển HTX của Nhà nước.

Trên cơ sở những điều mà Hiến pháp năm 1992 viết về kinh tế tập thể, ngày 20/3/1996, tại

kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá 9, Luật HTX được thông qua, mở ra một trang sử mới cho công

tác tổ chức, quản lý và phát triển kinh tế tập thể nói chung, HTX nói riêng. Luật HTX 1996

Page 44: super mario world

ban hành là cơ sở pháp lý bước đầu cho việc chuyển đổi mô hình HTX kiểu cũ sang mô hình

HTX kiểu mới. Theo đó Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản dưới luật như: (1) Nghị

định 15/CP ngày 21/1/1997 quy định chính sách khuyến khích phát triển HTX; (2) Nghị định

16CP ngày 21/2/1997 về xử lý công nợ của HTX cũ chuyển đổi sang hoạt động theo luật; và

(3) Thông tư số 14 BKH ngày 29/3/1997 của Bộ kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn việc

chuyển đổi và đăng ký gia đình HTX. Dưới sự điều chỉnh của hệ thống các luật và văn bản

dưới luật trên, quá trình phát triển HTX ở nước ta diễn ra theo hai hình thức sau: chuyển đổi

mô hình HTX kiểu cũ sang mô hình HTX kiểu mới và thành lập mới các HTX với chức năng

chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho hộ xã viên cho cộng đồng và tạo việc làm cho những người

lao động dễ bị tổn thương trong cơ chế kinh tế thị trường.

Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Luật HTX sửa đổi đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ

họp thứ 4 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2004. Luật đã có nhiều thay đổi tích

cực so với Luật của năm 1996, tạo ra nhiều thuận lợi và thông thoáng hơn cho các HTX phát

triển. Theo Luật, HTX có được khung khổ pháp lý hoàn chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị

trường và các chuẩn mực quốc tế.

Phạm vi hoạt động của các HTX đã được mở rộng, không chỉ giới hạn trong ngành nông

nghiệp mà đã lan rộng sang các ngành và các lĩnh vực kinh tế khác trong nền kinh tế

Nếu chỉ xét riêng lĩnh vực nông nghiệp, khu vực có nhiều HTX nhất đang hoạt động, thì hầu

hết các HTX đã đảm nhiệm nhiều dịch vụ nông nghiệp phục vụ các hộ xã viên và cạnh tranh

với các cơ sở dịch vụ khác trên cùng địa bàn. Bên cạnh đó, các HTX đã không chỉ giới hạn

phạm vi hoạt động của mình trong nội bộ ngành mà đã mở rộng sang cung cấp dịch vụ tổng

hợp cho các xã viên của mình và cho thị trường.

Mở rộng liên kết kinh tế theo cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường

Hầu hết các HTX hiện đại ngày nay đã và đang hình thành những mối liên kết mới mà trước

đây chưa có hoặc mới chỉ manh nha xuất hiện trong diện hẹp. Mối liên kết giữa các hộ xã

viên với doanh nghiệp nhà nước, với các trang trại và với các hộ xã viên thuộc các HTX khác

nhau ngày một mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả của dịch vụ. Sự liên kết giữa các

HTX với các thành phần khác trong nền kinh tế được xuất phát từ nhu cầu của nền sản xuất

hàng hoá, ví dụ tại đồng bằng Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long đã thành lập nhiều

HTX nông nghiệp để làm cầu nối liên kết giữa hộ nông dân với doanh nghiệp và các ngành

tài chính, ngân hàng.

Các HTX đã góp phần giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng tích cực

Nhiều HTX đã phát huy được tinh thần tương thân tương ái trong việc hỗ trợ các hộ xã viên

tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Ví dụ các HTX Nga Thanh, Nga Yên

(Nga Sơn); Dân Lý, Xuân Thịnh (Triệu Sơn), Thiệu Hưng (Thiệu Hoá) Thanh Hoá; Đình Bảng

(Bắc Ninh); An Mỹ (Mỹ Đức, Hà Tây), Bình Tây (Tiền Giang) đã ứng trước không lấy lãi cho

các hộ xã viên nghèo, khó khăn một số vật tư chủ yếu như giống, phân bón, thuốc trừ sâu,

để họ phát triển sản xuất.

Page 45: super mario world

Góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động tại khu vực nông thôn, nâng cao

thu thập và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.

Cải thiện tình trạng xuống cấp và không ngừng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn

như điện, đường, trường, trạm, nhà trẻ và nhiều công trình phúc lợi xã hội khác.

Đa dạng hoá các dịch vụ phục vụ cộng đồng người dân nông thôn, phòng chống tệ nạn xã

hội và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao tình làng, nghĩa xóm và tinh thần

tương trợ nhau những lúc khó khăn.

Những vấn đề đặt ra

Một là, hầu hết các HTX có quy mô nhỏ, vốn nghèo, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều yếu

kém. Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001 của Tổng cục

Thống kê năm 2003 cho thấy: bình quân 1 HTX có khoảng 641 triệu đồng vốn, trong đó tài

sản cố định chiếm 66,4%, vốn lưu động chiếm 33,6%. Tài sản cố định chủ yếu là các công

trình thuỷ lợi nhưng đã xuống cấp rất nhiều, vốn lưu động thấp và tồn tại chủ yếu trên sổ

sách giấy tờ, còn thực tế là tồn tại ở các khoản nợ. Với thực trạng đó, các HTX rất khó khăn

trong hoạt động sản xuất - kinh doanh và hỗ trợ các hộ xã viên.

Hai là, các HTX thiếu cán bộ có năng lực quản lý và điều hành các hoạt động dịch vụ. Trong

nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực cấp cao, nhất là những nhà quản lý, điều hành giỏi

không mong muốn làm việc cho các HTX bởi vì chế độ đãi ngộ trong các HTX thấp. Các cán

bộ quản lý cũ chưa được đào tạo lại cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới của HTX, đã

lúng túng trong điều hành, quản lý và phát triển HTX kiểu mới. Bên cạnh đó, các trường đào

tạo cán bộ cho các HTX bị giới hạn về phạm vi, thiếu kinh phí hoạt động và đội ngũ giảng

viên còn chưa đáp ứng được trong điều kiện mới. Mặt khác, trong bố trí, sắp xếp cán bộ HTX

còn mang tính áp đặt từ chính quyền địa phương.

Ba là, sự tồn tại hoạt động của HTX theo vùng địa lý không đồng đều. Hiện nay trong tổng số

các HTX nông nghiệp thì có đến 42% nằm tại Đồng bằng sông Hồng, 20% ở vùng Bắc Trung

Bộ, và 9% ở Duyên hải Nam Trung bộ, ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, số HTX mới

thành lập trong 3 năm 2001 - 2003 có tăng nhanh nhưng còn ít và phân bố không đều. Trong

khi phong trào phát triển mạnh tại 4 tỉnh là An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng và Đồng Tháp thì

Long An chỉ có 4 HTX nông nghiệp, Cà Mau có 1 HTX...

Bốn là, nhiều HTX nông nghiệp chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hình thức là chủ yếu. Phần lớn

các HTX nông nghiệp khi chuyển đổi từ mô hình kiểu cũ sang mô hình kiểu mới chủ yếu chỉ

dừng lại ở hình thức, còn nội dung thì chưa thay đổi được nhiều. Một số khác được thành lập

theo sự chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong khi chưa có đầy đủ các điều kiện

cần thiết nên chưa phát huy được vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế địa phương.

Theo cục Thống kê thì có đến 40% số HTX nông nghiệp hoạt động không hiệu quả, thực chất

là tồn tại trên danh nghĩa, giấy tờ.

Năm là, thu nhập của xã viên trong các HTX còn thấp. Các HTX vẫn còn đang trong quá trình

chuyển đổi từ mô hình kiểu cũ sang mô hình kiểu mới, tập quán sản xuất kinh doanh vẫn còn

Page 46: super mario world

bị ảnh hưởng nặng nề của cơ chế cũ nên chưa năng động, tích cực trong tìm kiếm nguồn thu

nhập mới. Điều đó đã hạn chế rất nhiều trong việc nâng cao thu nhập cho HTX nói chung,

cán bộ xã viên nói riêng. Đến nay thu nhập bình quân của một cán bộ quản lý HTX kiểu mới

ở các tỉnh phía Bắc khoảng 200 - 250 nghìn đồng/người/tháng, đây là mức thu nhập rất thấp

nếu chúng ta đem so sánh với các lao động quản lý của doanh nghiệp tại các thành phần

kinh tế khác. Thu nhập của lao động xã viên và HTX còn thấp nên tính ưu việt của mô hình

HTX kiểu mới còn chưa được thể hiện rõ. Kết quả là HTX gặp nhiều khó khăn trong con

đường phát triển của mình.

Giải pháp phát triển trong những năm tới

Đảng ta đã đề ra hệ thống các quan điểm phát triển kinh tế tập thể trong tình hình mới khá

đầy đủ và toàn diện tại Hội nghị Trung ương 5 khoá IX:

Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các

thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh

doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô,

lĩnh vực, địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn

góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và người

nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức lao động trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện,

bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập

thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên

làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên

cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các

thành viên.

Tiếp tục phát triển kinh tế tập thể trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn, trong đó coi trọng tâm là

ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn

phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế

hộ, trang trại phát triển; gắn với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây

dựng nông thôn mới; không ngừng phát triển sức sản xuất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tiếp

tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Nhà nước ban hành các chính

sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ

đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị

trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây, khuyến khích

việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong HTX. Phát huy quá trình của Liên minh

HTX Việt Nam, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, vận

Page 47: super mario world

động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm

công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu

thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển sản xuất, tránh duy ý

chí, nóng vội, gò ép, áp đặt; đồng thời không buông lỏng lãnh đạo để mặc cho tình hình phát

triển tự phát chậm nắm bắt và đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế hợp tác của nhân dân.

Với hệ thống quan điểm phát triển như trên, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển kinh

tế tập thể trong thời gian tới là:

Thứ nhất, triển khai thực hiện tốt Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm giai đoạn 2006 -

2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định 272/2005/QĐ-TTg ngày

31/10/2005.

Thứ hai, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế tập thể, đưa kinh tế tập thể cùng kinh tế các

thành viên và kinh tế hộ xã viên đóng góp ngày càng cao trong tỷ trọng nền kinh tế, góp phần

thực hiện sự nghiệp xoá đói giảm nghèo.

Thứ ba, tạo điều kiện phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng phù hợp với trình độ

phát triển của các ngành, nghề, trên các địa bàn.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình HTX kiểu mới trên cơ sở tổng kết các đơn vị

làm tốt để tạo động lực phát triển, tăng sức hấp dẫn của kinh tế tập thể. Đa dạng hoá hình

thức sở hữu trong kinh tế tập thể (có sở hữu của pháp nhân, tập thể, thể nhân). Phát triển

các loại hình doanh nghiệp trong HTX và các hình thức liên hiệp HTX.

Năm là, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX; phát huy vai trò của HTX trong việc

cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã viên; quyết định công nghệ tiên tiến, nâng cao hiệu quả

hoạt động và sức cạnh tranh của HTX, liên hiệp HTX và kinh tế xã viên.

Thứ sáu, khuyến khích huy động cổ phần và nguồn vốn của xã viên để không ngừng tăng

thêm vốn đầu tư phát triển HTX; tăng tài sản và quỹ không chia. Giải thể hoặc chuyển các

HTX không đủ đoàn kết theo quy định của Luật HTX sang các loại hình tổ chức sản xuất,

kinh doanh phù hợp với quy định của quy luật.

Thứ bảy, phát triển HTX, nòng cốt của thành phần kinh tế tập thể, phải đồng bộ, gắn kết với

các thành phần kinh tế khác. HTX phải vận hành theo cơ chế thị trường, thực sự là chủ thể

kinh tế tự chủ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa./.

 (PGS. TS Nguyễn Đình Kháng - Tạp chí kinh tế và dự báo)Phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở Hải Dương ( 17/8/2011)

Page 48: super mario world

Trong những năm gần đây, phát triển kinh tế của tỉnh Hải Dương luôn đạt tốc độ tăng trưởng khá, đời sống của nhân dân được cải thiện, nâng lên về mọi mặt. Đặc biệt, ngày càng có nhiều loại hình, mô hình kinh tế mới được ra đời, đã và đang góp phần tích cực vào định hướng phát triển kinh tế của tỉnh theo hướng bền vững. Điển hình, mô hình Hợp tác xã (HTX) đang được đánh giá cao, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế.

1 - Tính đến ngày 15/10/2010 toàn tỉnh có 353 HTX, liên hiệp HTX và tổ hợp tác đang hoạt động tăng 5,4% so với năm 2005, trong đó có: 315 HTX dịch vụ nông nghiệp (gồm 215 HTX có quy mô toàn xã, 19 HTX có quy mô liên thôn, 81 HTX có quy mô thôn); 34 HTX chăn nuôi - thuỷ sản; 02 liên hiệp HTX chăn nuôi - thuỷ sản; 02 tổ hợp tác dịch vụ nông nghiệp. Kinh tế hợp tác phát triển đã thu hút hơn 70% số hộ dân nông thôn tham gia, tổ hợp tác sản xuất nông - lâm - thủy sản, góp phần tăng năng suất, nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, và phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Ở mức độ khác nhau, HTX nông nghiệp đã thể hiện được vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, theo hướng sản xuất hàng hoá và hiệu quả kinh tế; góp phần tích cực thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Nhiều HTX đã tham gia cung ứng các dịch vụ thiết yếu cho xã viên, cụ thể: nhiều HTX đa dạng hoá nhiều khâu dịch vụ như dịch vụ điện có 18,1% số HTX làm; 2,2% số HTX làm dịch vụ thú y; 15,2% số HTX làm dịch vụ làm đất; 20,6% số HTX làm dịch vụ cung ứng giống, vật tư; 2,5% số HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm; 44,4% số HTX làm các dịch vụ khác, đã mở rộng các loại hình dịch vụ gắn với việc đáp ứng nhu cầu sản xuất của các hộ xã viên, như dịch vụ tín dụng nội bộ (15,1% HTX nông nghiệp), dịch vụ tư vấn, thông tin, cũng như các dịch vụ phục vụ đời sống, văn hoá, môi trường, nước sạch, dạy nghề, hiếu hỉ... Hầu hết các HTX dịch vụ nông nghiệp là tổ chức tham mưu chính, thực hiện quy hoạch, phân vùng sản xuất ở trên địa bàn HTX. Thông qua hoạt động dịch vụ như hướng dẫn xã viên đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; cung ứng giống cây trồng, đặc biệt là những giống cây mới có giá trị kinh tế cao; tổ chức tưới tiêu, bảo vệ thực vật, thú y... HTX đã thống nhất được kế hoạch sản xuất với xã viên, chỉ đạo hướng dẫn gieo trồng đúng thời vụ.

Cùng đó, các HTX chăn nuôi - thuỷ sản phát triển mạnh ở các huyện Nam Sách, Tứ Kỳ, Thanh Hà, Gia Lộc, Kinh Môn, Thanh Miện… Các HTX tổ chức hoạt động theo hình thức xã viên chung mua thức ăn chăn nuôi, thực hiện chung quy trình kỹ thuật sản xuất, tổ chức dịch vụ thú y, tiêu thụ sản phẩm, đã nhanh chóng phát huy hiệu quả góp phần mang lại lợi nhuận cao cho xã viên. Đa số các HTX đã ký hợp đồng làm đại lý cấp I cho các công ty kinh doanh thức ăn chăn nuôi - thuỷ sản để được hưởng một số quyền lợi như mua cám với giá ưu đãi; hưởng phần trăm lợi nhuận do nhà máy chi trả, công ty thức ăn chăn nuôi, thuỷ sản hỗ trợ con giống, kỹ thuật chăn nuôi, phòng bệnh.

Năm 2009 các HTX cung ứng khoảng hơn 7000 tấn thức ăn, HTX cung ứng nhiều nhất đạt 600 tấn/năm. So với giá bán bình quân trên thị trường, xã viên mua thức ăn chăn nuôi của HTX với giá rẻ hơn từ 5000-7000 đồng/bao 25kg, chất lượng bảo đảm. Chi phí đầu vào giảm đã giúp xã viên tăng lợi nhuận. Các HTX chú trọng đào tạo nghề, cập nhật kỹ thuật chăn nuôi cho xã viên, tổ chức hội thảo, tập huấn kỹ thuật

Page 49: super mario world

chăn nuôi, thú y. Đặc biệt các HTX thực hiện chặt chẽ quy trình chăn nuôi an toàn. Do chủ động được con giống, mua thức ăn giá rẻ, không để xảy ra dịch bệnh, nên 5 năm qua xã viên trong các HTX chăn nuôi thuỷ sản đều làm ăn có lãi, trung bình mỗi xã viên lãi 50 triệu đồng/năm.

Việc hình thành các HTX nông nghiệp chuyên sâu, chuyên ngành đang phát triển và nhìn chung hoạt động hiệu quả, như: HTX trồng hoa cây cảnh, sản xuất rau an toàn, tiêu thụ trái cây, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Một số HTX đã liên kết thành lập liên hiệp HTX nông nghiệp. Hiện tại toàn tỉnh có 2 liên hiệp HTX là : Liên hiệp HTX thuỷ sản chất lượng cao Tứ Kỳ gồm 5 HTX thuỷ sản thuộc huyện Tứ Kỳ làm thành viên, được thành lập từ tháng 8 năm 2009; Liên hiệp HTX chăn nuôi Nam Sách gồm 7 HTX thành viên thuộc huyện Nam Sách được thành lập từ tháng 7 năm 2005. Sau khi thành lập, liên hiệp HTX Nam Sách đã tiến hành xây trụ sở, nhà xưởng chế biến thực phẩm, mua sắm máy móc, thiết bị sản xuất và thiết bị văn phòng, đồng thời tổ chức sản xuất, kinh doanh một số lĩnh vực như cung cấp thức ăn chăn nuôi cho hơn 60% xã viên trong liên hiệp, dịch vụ cung cấp thuốc thú y, dịch vụ chữa bệnh và tiêm phòng cho gia súc…

Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, nhưng việc phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn của tỉnh thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế:

- Tính hình thức trong chuyển đổi HTX theo Luật Hợp tác xã chưa được khắc phục căn bản: Đa số xã viên của các HTX dịch vụ nông nghiệp chuyển đổi khi tham gia HTX không có đơn và vốn góp mới; việc kết nạp xã viên mới vẫn tiến hành không đúng theo quy định của Luật Hợp tác xã, vì vậy dẫn đến xã viên không ý thức đầy đủ được quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong HTX; tình trạng không rõ ràng về quyền sở hữu tài sản của HTX còn khá phổ biến, nhất là các tài sản gắn với đất đai và tài sản do HTX cũ để lại cũng là nguyên nhân dẫn đến tính hình thức trong chuyển đổi của các HTX dịch vụ nông nghiệp chưa thể khắc phục được triệt để.

- Nhiều HTX quy mô nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, khả năng cạnh tranh thấp, chậm đổi mới, năng lực nội tại của các HTX còn yếu: Hiện đa số các HTX vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ truyền thống như thuỷ nông, bảo vệ thực vật, và chuyển giao khoa học kỹ thuật, tỷ lệ số HTX tổ chức được các dịch vụ mới thấp. Tài sản cố định trong các HTX là hệ thống cầu, cống, kênh mương, trạm bơm phục vụ dịch vụ thuỷ nông, hệ thống điện, trụ sở làm việc, nhà kho, cửa hàng... Các tài sản này chủ yếu được nhận từ các HTX nông nghiệp cũ chuyển sang. Toàn tỉnh chỉ có 78 HTX và 1 liên hiệp HTX có trụ sở riêng, 150 HTX nhờ trụ sở UBND xã, 36 HTX nhờ nhà văn hoá thôn, 84 HTX làm việc tại nhà riêng của cán bộ HTX.

- Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế về trình độ, năng lực, cán bộ chủ chốt không ổn định, thường xuyên thay đổi, nhiều cán bộ không nhiệt tình. Số cán bộ có năng lực muốn chuyển sang làm công việc khác ổn định hơn như chuyển sang cán bộ xã. Năm 2010 tổng số cán bộ quản lý HTX nông nghiệp có 1.822 người, bình quân 1 HTX có 5,2 người; trong đó có 755 người tham gia Ban quản trị, 353 người tham gia Ban kiểm soát, 710 người làm kế toán, thủ kho, thủ quỹ. Xã viên và người lao động trực tiếp làm việc cho HTX là 7.746 người, bình quân 1 HTX có 22,2 người. Về trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý HTX trong đó Chủ nhiệm: Đại học, Cao đẳng: 24 người, chiếm 6,9%; Trung cấp: 98 người, chiếm 28,2%; Sơ cấp và đào tạo ngắn hạn:

Page 50: super mario world

226 người, chiếm 64,9%. Kiểm soát viên: Đại học, Cao đẳng: 6 người, chiếm 1,7%; trung cấp: 33 người, chiếm 9,5%; Sơ cấp và đào tạo ngắn hạn: 309 người, chiếm 88,8%. Kế toán trưởng HTX: Đại học, Cao đẳng: 9 người, chiếm 2,6%; Trung cấp: 85 người, chiếm 24,4%; sơ cấp và đào tạo ngắn hạn: 254 người, chiếm 73%. Ở không ít địa phương việc lựa chọn cán bộ HTX hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức Đảng và chính quyền.

- Thù lao cán bộ quản lý còn thấp, nhiều HTX không trả đủ lương tối thiểu để đóng bảo hiểm xã hội cho cán bộ quản lý HTX. L¬ương bình quân của chủ nhiệm HTX năm 2010 là 550.000 đồng; cán bộ quản lý khác trong HTX lương bình quân là 440.000 đồng/tháng; người lao động trong HTX lương bình quân là 330.000 đồng/tháng, đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác quản lý HTX.

- Công nợ trong HTX nhất là HTX chuyển đổi chậm được xử lý làm cản trở cho sự phát triển HTX. Việc xử lý công nợ làm minh bạch tài chính trong HTX là điều kiện để HTX mở rộng và thúc đẩy hoạt động có hiệu quả, nhưng chính quyền địa phương chỉ đạo HTX xử lý công nợ, (bao gồm nợ phải thu và phải trả) kết quả còn chưa được như mong đợi. Thu nợ cũ đã gặp khó khăn, nay xã viên lại phát sinh nợ mới ở khá nhiều HTX, nhất là nợ thuỷ lợi phí và thuỷ lợi nội đồng.

2 - Hải Dương đang tập trung thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của tỉnh 5 năm 2010-2015:

- Củng cố và nâng cao hiệu quả các HTX, liên hiệp HTX hiện có, nhất là các HTX dịch vụ nông nghiệp.

- Số lượng HTX thuỷ sản tăng bình quân hàng năm khoảng 10%, từ 34 HTX năm 2010 lên 51 HTX năm 2015.

- Phấn đấu đến năm 2015 có 100 tổ hợp tác trong nông nghiệp đăng ký với UBND xã.

- Doanh thu bình quân 1 HTX tăng hàng năm khoảng 5%, từ 155.155 triệu đồng năm 2010 lên 193.944 triệu đồng năm 2015.

- Phấn đấu đến năm 2015 100% xã viên tham gia HTX góp vốn điều lệ theo quy định.

- Tỷ lệ cán bộ quản lý HTX ba chức danh chủ chốt là chủ nhiệm, trưởng ban kiểm soát và kế toán trưởng có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm 70%.

Vì vậy, để phát triển kinh tế tập thể nói chung và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nói riêng cần tăng cường công tác tuyên truyền các Nghị quyết của Đảng, Luật Hợp tác xã và các chính sách phát triển kinh tế tập thể của Nhà nước đến các cấp, các ban ngành, đoàn thể, tổ chức kinh tế và đông đảo nhân dân. Đặc biệt cần quan tâm cân đối, bố trí ngân sách, nguồn lực, lồng ghép nội dung, nhiệm vụ, cũng như khẳng định vai trò tích cực của kinh tế tập thể, tổ chức sắp xếp lại hoạt động của các HTX, tổ hợp tác phù hợp với yêu cầu, điều kiện thực tế của địa phương; tăng cường công tác

Page 51: super mario world

đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX; tăng cường liên doanh, liên kết giữa các HTX với các doanh nghiệp; thực hiện lồng ghép các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp; nhân rộng các mô hình kinh tế HTX, tổ hợp tác, cá nhân điển hình tiên tiến làm ăn có hiệu quả; cơ quan chức năng của tỉnh cần phải khẩn trương nghiên cứu tháo gỡ các khó khăn về cơ chế chính sách liên quan đến HTX nông nghiệp như: Hỗ trợ, khuyến khích thành lập HTX; bồi dưỡng, đào tạo; giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTX; tài chính tín dụng và chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ HTX; tập trung chỉ đạo giải quyết những tồn tại của các HTX dịch vụ nông nghiệp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò các đoàn thể nhân dân đối với phát triển kinh tế tập thể, đồng thời nhân rộng các mô hình liên kết giữa hộ nông dân với các thành phần kinh tế ở nông thôn, các doanh nghiệp tổ chức khoa học, thương mại, hiệp hội ngành nghề và xây dựng tiêu chí đánh giá HTX, tổ hợp tác có hiệu quả, phục vụ chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới./.