Upload
others
View
13
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Phần I: THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Hướng dẫn học sinh lớp 2 sử dụng dấu câu qua phân
môn Luyện từ và câu.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học phân môn Luyện từ và câu, môn
Tiếng Việt lớp 2.
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy Trang
Ngày, tháng, năm sinh: 24 . 12 . 1984
Trình độ chuyên môn: Cử nhân đại học sư phạm Tiểu học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Bình Minh, thành
phố Hải Dương.
Điện thoại: 0168.352.3889
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Bình Minh, thành
phố Hải Dương.
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Học sinh được học chương trình Tiếng Việt mới (do Nguyễn Minh
Thuyết chủ biên)
- Học sinh được học 2 buổi / ngày trong các nhà trường Tiểu học.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2014 – 2015
Tác giả Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến
Nguyễn Thị Thuỳ Trang
1
Phần II: TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kĩ năng sử dụng Tiếng
Việt ở bậc Tiểu học là giúp cho học sinh biết dùng dấu câu một cách phù hợp
trong giao tiếp, trong các bài viết; đặc biệt là trong bài tập làm văn. Dùng dấu
câu đúng, phù hợp với nội dung, một mặt giúp các em thể hiện ý sáng sủa, rõ
ràng; mặt khác giúp người đọc theo dõi theo dõi được nội dung bài văn, câu
văn một cách dễ dàng. Hiện nay, các em học sinh nói chung, nhất là học sinh
Tiểu học, tuổi còn nhỏ, vốn từ chưa nhiều nên các em còn tỏ ra lúng túng
trong việc làm quen với các dấu câu và sử dụng dấu câu vào quá trình đọc, viết.
Trăn trở trước những yêu cầu ngày càng cao của thời đại mới, hướng tới mục
tiêu đào tạo một thế hệ trẻ vừa hồng, vừa chuyên đòi hỏi người giáo viên dày
công, nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp giúp học sinh giải quyết các vấn đề nảy
sinh trong quá trình học tập về dấu câu.
2. Điều kiện, thời gian đối tượng áp dụng sáng kiến:
2.1 Điều kiện:
- Học sinh được học chương trình Tiếng Việt mới (do Nguyễn Minh
Thuyết chủ biên)
- Học sinh được học 2 buổi / ngày trong các nhà trường Tiểu học.
2.2 Thời gian : Sáng kiến được áp dụng trên đối tượng học sinh lớp 2
trong 9 tháng của một năm học.
2.3 Đối tượng áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 2
3. Nội dung sáng kiến:
3.1 Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Đây là vấn đề mới nảy sinh trong quá trình dạy và học chưa có trong các
văn bản hướng dẫn của ngành mà nhiều đồng nghiệp trong khối cũng như
bản thân tôi đang tìm tòi phương án giải quyết giúp cho học sinh khối 2 sử
dụng dấu câu một cách thành thạo.
2
Sáng kiến đã thống kê lại hệ thống kiến thức nội dung, phương pháp dạy
học cũng như các dạng bài tập giúp học sinh luyện kĩ năng sử dụng dấu câu
ở lớp 2.
3.2 Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến này mang lại lợi ích cho giáo viên và học sinh trong quá trình
dạy học các môn học ở Tiểu học nói chung và phần dấu câu lớp 2 nói riêng.
Sáng kiến có khả năng áp dụng đối với các em học sinh lớp 2 trong các nhà
trường. Cũng có thể áp dụng linh hoạt đối với các em học sinh ở các lớp học
cao hơn. Sáng kiến góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên
cũng như hiệu quả học tập của học sinh.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Sáng kiến đã góp phần giúp học sinh lớp 2A có kĩ năng sử dụng dấu câu
theo chương trình một cách thành thạo khi làm các bài tập về dấu câu, linh
hoạt trong viết văn…
5. Đề xuất, kiến nghị:
Đề nghị các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp góp ý để sáng kiến được
khả thi hơn giúp các em học sinh sử dụng dấu câu Tiếng Việt đúng và hay hơn.
3
Phần III: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Ngay ở lớp 1, khi dạy nói và đọc, giáo viên cũng đã chú ý đến dấu câu. .
Và ngay đầu học kì 1 ở lớp 2, các em đã học cách sử dụng dấu chấm và dấu
phẩy. Đến cuối bậc tiểu học, 10 loại dấu câu cơ bản này, học sinh đã có kĩ
năng sử dụng, đặc biệt là đối tượng học sinh có năng khiếu. Tuy vậy, nhiều
học sinh, nhất là học sinh chưa hoàn thành vẫn chưa có ý thức sử dụng đúng
nơi, đúng chỗ. Điều đó chứng tỏ việc sử dụng dấu câu ở học sinh tiểu học còn
rất tuỳ tiện. Vì thế, tôi chọn đề tài: Hướng dẫn học sinh lớp 2 sử dụng dấu
câu với mong muốn góp phần rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng đúng
những dấu câu trong chương trình Luyện từ và câu lớp 2. 2. Cơ sở lí luận của vấn đề dạy dấu câu cho học sinh lớp 2:
Trong chương trình tiểu học đang hiện hành, nội dung về dấu câu được học
từ lớp 2. Dấu câu là kí hiệu chữ viết để biểu thị ngữ điệu khác nhau. Những
ngữ điệu này lại biểu thị những quan hệ ngữ pháp khác nhau và những mục
đích nói khác nhau. Nếu sử dụng dấu câu sai dẫn đến việc người đọc, người
nghe hiểu sai nội dung diễn đạt. Vì thế, dạy cho học sinh sử dụng đúng các
loại dấu câu là yêu cầu quan trọng của giáo viên Tiểu học.
3. Thực trạng việc dạy và học của giáo viên và học sinh về cách sử
dụng dấu câu
3.1 . Thực trạng việc dạy học của GV:
Do quan điểm biên soạn sách giáo khoa mới, coi trọng thực hành luyện tập
và thông qua luyện tập thực hành để rèn kĩ năng nên việc giảng dạy của giáo
viên còn mắc phải các hạn chế sau đây:
* Không chốt lại được kiến thức vì không có phần bài học về cách sử
dụng dấu câu.
* Khi sửa bài tập làm văn , giáo viên ít chú ý sửa dấu câu sử dụng sai
cho HS.
4
* Chưa chú ý hướng dẫn cách đọc thể hiện dấu câu đặc biệt là ngữ
điệu câu kể, câu hỏi, câu cảm và câu khiến.
* Hệ thống bài tập chuẩn bị để rèn kĩ năng sử dụng dấu còn khô khan,
sơ sài thiếu trọng tâm.
* Quy trình dạy các bài tập điền dấu chưa phát huy được tính sáng tạo
của học sinh, chủ yếu chỉ tập trung vào đối tượng học chưa hoàn thành mà
không chú ý đến đối tượng học sinh có năng khiếu đã có khả năng sử dụng
dấu câu thành thạo.
3.2. Thực trạng về việc học của học sinh:
Với kiến thức về dấu câu, học sinh thường mắc phải những lỗi sai sau
đây:
* Lỗi không dùng dấu câu : Là những câu sai do không dùng dấu
câu ở chỗ cần thiết. Cả một đoạn văn dài có nhiều ý riêng biệt, học sinh cứ
viết mà không có bất kì một dấu phẩy, dấu chấm nào được sử dụng. Học
sinh đã không sử dụng dấu chấm kết thúc câu và dấu phẩy ngăn cách các
thành phần trong câu. Như vậy, học sinh đã vi phạm quy tắc sử dụng dấu
câu. Việc đó gây khó khăn trong giao tiếp, người đọc không thể nhanh
chóng hiểu được nội dung truyền đạt, thậm chí không xác định được ý
muốn diễn tả.
* Lỗi sử dụng dấu câu sai: Là lỗi của những câu học sinh sử dụng
dấu không hợp lí, không đúng quy tắc, đáng lẽ phải dùng dấu này lại dùng
dấu khác, phải đặt ở chỗ này lại đặt ở chỗ khác.
3.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
Việc học sinh không sử dụng dấu câu và sử dụng sai dấu dấu nhiều chứng
tỏ các em chưa thấy được tác dụng của dấu câu trong việc diễn đạt nội dung
và chưa nắm được cách sử dụng chúng. Nói chung các em còn ngại sử dụng
dấu câu, chưa có ý thức sử dụng đúng dấu câu. Một nguyên nhân khác cùng
quan trọng không kém đó là tác động từ phía giáo viên.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:
4.1 Tổng quan về dấu câu trong Tiếng Việt:
5
Dấu câu là phương tiện ngữ pháp dùng trong chữ viết. Tác dụng của nó là
làm rõ trên mặt chữ viết một cấu tạo ngữ pháp, bằng cách chỉ ranh giới giữa các
câu, giữa các thành phần của câu đơn, giữa các vế của câu ghép, giữa các yếu
tố của ngữ và của liên hợp. Nói chung, nó thể hiện ngữ điệu lên trên câu văn,
câu thơ. Cho nên, có trường hợp nó không phải chỉ là một phương tiện ngữ
pháp, mà còn là phương tiện để biểu thị những sắc thái tế nhị về nghĩa của câu,
về tư tưởng, về cả tình cảm, thái độ của người viết. Dấu câu dùng thích hợp thì
bài viết được người đọc hiểu rõ hơn, nhanh hơn. Không dùng dấu câu, có thể
gây ra hiểu lầm. Có trường hợp vì dùng sai dấu câu mà thành ra sai ngữ pháp,
sai nghĩa.
Cho nên, quy tắc về dấu câu cần được vận dụng nghiêm túc.
Tuy vậy, cũng có trường hợp vận dụng quy tắc dấu câu cũng ít nhiều có
tính chất linh hoạt. Nói chung, đó là khi mà dù không dùng dấu câu, ranh giới
cũng đã rõ, và không gây ra lầm lẫn.
Hiện nay, Tiếng Việt dùng mười dấu câu là:
1. Dấu chấm .
2. Dấu hỏi ?
3. Dấu cảm !
4. Dấu ba chấm …
5. Dấu phẩy ,
6. Dấu chấm phẩy ;
7. Dấu hai chấm :
8. Dấu ngang –
9. Dấu ngoặc đơn ( )
10. Dấu ngoặc kép “ ”
4.2. Mục tiêu phân môn Luyện từ và câu lớp 2:
Nhằm góp phần hoàn thành mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 2 trong
chương trình Tiểu học mới, phân môn Luyện từ và câu tập trung rèn luyện
cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Bồi dưỡng
6
cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu và thích học Tiếng
Việt.
4.3 Nội dung phần kiến thức dấu câu trong chương trình Luyện từ và
câu, môn Tiếng Việt lớp 2:
Trong đó, ở chương trình lớp 2, các em được học 4 dấu câu: Dấu chấm, dấu
chấm hỏi, dấu chấm than và dấu phẩy.
Tuy nhiên, ở lớp 2, không có bài học lí thuyết. Các kiến thức ngữ pháp liên
quan đến dấu câu được thể hiện thông qua các bài tập thực hành.
4.4 Các kiến thức liên quan: Giáo viên cần nắm vững kiến thức về các
loại dấu câu để hướng dẫn học sinh sử dụng dấu câu cho đúng.
a. Dấu chấm.
1. Dấu chấm dùng ở cuối câu tường thuật.
Ví dụ: Dòng sông lào xào vỗ sóng. Gió chạy loạt soạt trong cỏ, trăng đã lên
cao, đêm đã khuya lắm.
(Nguyễn Đình Thi)
2. Khi đọc, phải ngắt đoạn ở dấu chấm. Dấu chấm là chỗ có quãng ngắt tương
đối dài hơn, so với dấu phẩy, dấu chấm phẩy.
b. Dấu hỏi ?
1. Dấu hỏi dùng ở cuối câu nghi vấn.
2. Thường gặp là trường hợp dấu hỏi dùng trong đoạn văn đối thoại, có người
hỏi, có người đáp.
Ví dụ:
- Anh ốm, sao lại đi làm?
- Ốm xoàng thôi.
Có trường hợp tự đặt ra câu hỏi và tự trả lời, trong lời đối thoại nghệ thuật.
Ví dụ:
- Chồng ai chết trong tố cộng?
- Chồng tôi.
- Con ai chết trong dinh điền?
7
- Con tôi.
(Tế Hanh)
Có trường hợp, một vế của câu ghép được cấu tạo theo kiểu câu nghi vấn
nhưng không phải để hỏi mà để nêu lên tiền đề; trong trường hợp này không
dùng dấu hỏi.
Ví dụ: Văn học nghệ thuật là gì, xưa nay người ta định nghĩa nhiều rồi.
(Phạm Văn Đồng)
3. Khi đọc, phải ngắt đoạn ở dấu hỏi, và nói chung, có lên giọng.
4. Dấu hỏi có thể đặt trong dấu ngoặc đơn (?) để biểu thị thái độ hoài
nghi đối với một lời trích thuật. Nếu dấu chấm (hay tương đương) ngắt câu ở
cùng chỗ, thì dấu này đặt sau dấu chấm.
Ví dụ: Bọn xâm lược Mĩ làm ra vẻ ngạc nhiên. Chúng chối biến rằng chúng
không hề biết gì. (?)
(Báo Nhân dân)
c. Dấu cảm !
1. Dấu cảm dùng: - Ở cuối câu cảm xúc.
Ví dụ: Hỡi anh
Người đồng chí quang vinh!
(Sóng Hồng)
- Hay ở cuối câu cầu khiến.
Ví dụ: Hãy yêu quý thanh niên! Hãy trân trọng và tích cực đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ trẻ!
(Tạp chí Học tập)
2. Khi đọc, phải ngắt đoạn ở dấu cảm và có thể hoặc lên hoặc xuống
giọng, tuỳ hoàn cảnh.
3. Dấu cảm có thể đặt trong dấu ngoặc đơn: (!), để biểu thị thái độ mỉa
mai; hay dùng kết hợp với dấu hỏi rồi đặt trong dấu ngoặc đơn: (!?), để biểu thị
thái độ vừa mỉa mai, vừa hoài nghi. Những dấu này cũng thường đặt sau dấu
chấm, nếu có dấm chấm (hay tương đương) ngắt câu ở cùng chỗ.
8
Ví dụ: Y còn đòi các nước sản xuất dầu mỏ “hợp tác” với Mĩ để giải quyết cả
vấn đề dầu mỏ lẫn vấn đề lương thực (!)
(Báo Nhân dân)
AFP đưa tin theo cách ỡm ờ của AFP.
“…họ là 80 người sức lực khá tốt nhưng hơi gầy…” (!?)
(Nguyễn Tuân)
d. Dấu phẩy ,
1. Dấu phẩy được dùng để chỉ ranh giới bộ phận nòng cốt với thành phần
ngoài nòng cốt của câu đơn và câu ghép.
Thành phần ngoài nòng cốt có thể là các thành phần than gọi, chuyển
tiếp, chú thích, tình huống, khởi ý.
Ví dụ:
Mẹ ơi, có khách đấy!
Cuối cùng, Mỹ đã thua to.
Tôi trở về thành phố Hồ Chí Minh, thành phố thân yêu của tôi.
Thong thả, anh ấy bước ra.
Bài hát ấy, tôi nghe nhiều lần.
Đáng chú ý là:
Khi thành phần tình huống đặt ở đầu câu, dấu phẩy có thể được lược bớt,
nếu thành phần đó là một danh ngữ có cấu tạo đơn giản dùng để chỉ thời gian,
nơi chốn.
Ví dụ: Lúc ấy, Mai cũng về tới bản Đảy.
(Tô Hoài)
- Khi thành phần ấy là do động từ hay tính từ đảm nhiệm và đặt ở cuối câu
thì rất cần dấu phẩy giữa nó và nòng cốt.
Ví dụ:
Lời trăn trối mang hồn người sắp chết
Vọng qua vách, trang nghiêm và thống nhất.
(Nguyễn Dân Trung)
9
2. Dấu phẩy dùng để chỉ ranh giới giữa các yếu tố trong liên hợp, nhất là
liên hợp qua lại.
Ví dụ:Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ, song nhất
định thắng lợi.
(Hồ Chí Minh)
Đáng chú ý là:
- Giữa các yếu tố của một liên hợp song song, khi đã dùng kết từ thì thường
lược bớt dấu phẩy.
Ví dụ: Đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động cần phải xung phong
gương mẫu trong sản xuất và công tác.
- Giữa các yếu tố của một liên hợp song song có tính chất ổn định hoá, dấu
phẩy cũng thường được lược bớt.
Ví dụ:Hầm chông, hố chông trong ruộng lúa tựa như được nước lụt che, thằng
giặc chẳng biết đâu mà mò.
(Anh Đức)
5.3. Dấu phẩy dùng để chỉ ranh giới giữa các vế trong câu ghép (song song hay
qua lại).
Ví dụ: Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến
đấu, quét sạch nó đi.
(Hồ Chí Minh)
Đáng chú ý là:
Khi có dùng kết từ trong câu ghép song song hay qua lại thì có thể lược
bớt dấu phẩy giữa các vế.
Ví dụ:
Chú Hai đã đi làm phu cao su ở Hớn Quản, lại ra làm thợ mỏ ở Đông Dương
và chú còn đi những chân trời góc bể đâu khác.
(Tô Hoài)
Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau
10
thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ.
(Hồ Chí Minh)
4. Dấu phẩy có thể dùng để chỉ ranh giới giữa phần đề và phần thuyết trong
những trường hợp sau đây:
- Khi phần đề làm thành một đoạn khá dài.
Ví dụ: Một trong những công việc cần phải thực hiện cấp tốc lúc này, là nâng
cao dân trí.
(Hồ Chí Minh)
- Khi lược bớt động từ là trong câu luận.
Ví dụ: Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữa đồng lúa chín. Tre hi
sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động. Tre, anh hùng chiến đấu.
(Thép Mới)
- Khi phần thuyết được đặt trước phần đề
Ví dụ: Trong lịch sử có hai loại chiến tranh: chiến tranh chính nghĩa và chiến
tranh phi nghĩa. Chính nghĩa, những cuộc chiến tranh chống bọn áp bức, bọn
xâm lược, giành tự do, độc lập. Phi nghĩa, những cuộc chiến tranh xâm lược
hoặc bình định cốt chiếm nước ngoài hoặc cướp tự do, hạnh phúc của một số
người.
(Trường Chinh)
Ngoài những trường hợp vừa kể thì giữa phần đề và phần thuyết của nòng
cốt câu đơn, nói chung, không dùng dấu phẩy.
5. Dấu phẩy còn dùng vì lẽ nhịp điệu trong câu, nhất là khi nhịp điệu có
tác dụng biểu cảm.
Ví dụ:
Bộ tư lệnh: những lớp tóc hoa râm
Những mái đầu trắng xoá
Vẫn có Bác, ung dung, trông xuống, dịu dàng.
(Tố Hữu)
6. Khi đọc, phải ngắt đoạn ở dấu phẩy. Nói chung, quãng ngắt ở dấu
phẩy tương đối ngắn, so với những dấu đã nói trên.
11
4.5 Quan điểm dạy học phần kiến thức dấu câu cho học sinh lớp 2:
a. Quan điểm dạy học giao tiếp: Khi dạy học phần dấu câu, giáo viên luôn
luôn đưa ra các ngữ liệu để học sinh thực hành điền dấu. Ngữ liệu ở đây là
những câu nói, câu văn câu thơ đơn giản để học sinh vận dụng trong khi nói
và viết. Từ những tình huống cụ thể, sinh dộng trong giao tiếp, học sinh luyện
kĩ năng sử dụng dấu câu và nắm được vững vàng cách dùng từng loại dấu câu
cụ thể.
a. Quan điểm tích hợp: Việc dạy và học về dấu câu được tích hợp rất rõ
trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập Viết,
Chính tả và đặc biệt là phân môn Tập Làm Văn đều hướng tới kĩ năng sử
dụng thành thạo từ, câu và dấu câu. Các môn học khác như Toán, Tự nhiên và
Xã hội, Nghệ thuật, ... cũng góp phần giúp học sinh sử dụng câu và dấu câu
thành thạo hơn.
a. Quan điểm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh: Học sinh là
trung tâm của quá trình dạy học. Giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng
dẫn các em làm việc trong các tình huống có vấn đề để phát hiện, tìm hiểu và
chiểm lĩnh tri thức một các chủ động. Trong việc học dấu câu cũng vậy, các
em cũng sẽ được hoạt động một cách tích cực, được bộc lộ mình và chiếm
lĩnh kiến thức để phát triển lời nói với dấu câu phù hợp.
4.6 Biện pháp dạy học rèn kĩ năng sử dụng dấu câu.
a/ Thông qua các bài tập để rèn kĩ năng thực hành sử dụng dấu câu.
Như ta đã biết, thông qua luyện tập thực hành, học sinh lĩnh hội kiến
thức là quan điểm dạy học coi trọng khả năng thực hành. Vì thế , đối với nội
dung dạy học về dấu câu, tôi cũng chú trọng đến việc đưa ra những bài tập
để giúp học sinh luyện kĩ năng sử dụng dấu câu thành thạo.
+ Các dạng bài tập có thể sử dụng là :
1. Điền dấu (có thể là dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm hỏi....) vào câu văn
hay đoạn văn cho đúng (Dấu điền có yêu cầu cụ thể)
Ví dụ: * Điền dấu phẩy vào câu sau cho đúng:
a. Mùa xuân hoa đào hoa mai thi nhau nở rộ.
12
b. Xe anh xe em tíu tít nhận hàng về và chở hàng ra.
c. Cây bầu cây bí nói chuyện bằng quả.
d. Su hào xà lách bắp cải cũng mơn mởn xanh.
e.Hà Nội Hải Phòng Huế thành phố Hồ Chí Minh là những thành phố
lớn của Việt Nam.
* Điền dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm cảm, dấu chấm hỏi vào
đoạn văn sau đây cho thích hợp và trình bày lại đoạn văn cho đúng
chính tả :
Thấy bà Thần Chết ngạc nhiên hỏi :
- Làm sao ngươi có thể tìm tới tận nơi đây
Bà mẹ trả lời:
- Vì tôi là mẹ hãy trả lại con cho tôi
2. Điền dấu vào ô trống (dấu điền có yêu cầu cụ thể )
Ví dụ: Điền dấu phẩy , dấu chấm vào ô trống cho đúng :
Tôi tròn xoe mắt Nhưng rồi vui vẻ nhận lời vì đó là việc
làm mà tôi đã nói trong bài tập làm văn
Ví dụ: Điền dấu thích hợp vào ô trống cho đúng: (dấu không được yêu
cầu cụ thể)
Sẻ Non rất yêu bằng lăng và bé Thơ Nó muốn giúp bông hoa
Nó chắp cánh bay vù về phía cành bằng lăng mảnh mai Nó nhìn kĩ
cành hoa rồi đáp xuống Cành hoa chao qua chao lại Sẻ Non cố
đứng vững Thế là bông hoa chúc hẳn xuống lọt vào khuôn của sổ
Lập tức sẻ nghe tiếng reo từ trong gian phòng tràn ngập ánh nắng
- Ôi đẹp quá Sao lại có bông hoa bằng lăng nở muộn thế kia
3. Điền dấu vào đoạn văn và trình bày lại cho đúng chính tả :
Ví dụ: Ôm quanh Ba Vì là bát ngát đồng bằng mênh mông hồ nước với
những Suối Hai đồng Mô Ao Vua .... nổi tiếng vẫy gọi mướt mát rừng keo
những đảo Hồ đảo Sếu xanh ngắt bạch đàn những đồi Măng đồi Hòn rừng ấu
thơ rừng thanh xuân...
4. Đoạn văn đã sử dụng sai dấu câu, hãy sửa và trình bày lại cho đúng:
13
Ví dụ : Sông nằm uốn khúc giữa làng. Rồi chạy dài bất tận, những hàng tre
xanh chạy dọc theo bờ sông chiều chiều. Khi ánh hoàng hôn buông xuống.
Em lại ra sông hóng mát, trong sự yên tĩnh của dòng sông . Em nghe rõ cả
tiếng thì thào của hàng tre xanh và lòng em trở nên thảnh thơi, trong sáng vô
cùng.
Ví dụ : Trình bày đoạn văn sau dưới dạng hội thoại và sử dụng dấu
câu cho phù hợp :
Thấy rùa tập chạy Thỏ mỉa mai mày mà cũng đòi tập chạy à anh đừng
vội coi thường tôi anh với tôi cùng chạy thi xem ai hơn ai được được thi thì
thi sợ gì...
b. Dùng bài viết sai của học sinh để sửa chung cho cả lớp.
Khi kiểm tra, nhận xét bài tập làm văn, giáo viên cần chú ý lỗi dùng dấu
câu sai của học sinh và khi trả bài, khi dạy các tiết tăng cường, phải lấy đó
làm bài tập để hướng dẫn cả lớp sửa chữa. Có như thế, các em mới thấy
được lỗi của mình, biết tự sửa để sau đó có ý thức sử dụng dấu câu tốt hơn.
c. Tự viết một đoạn văn có sử dụng tất cả các dấu câu đã học.
Bài tập này, dành cho đối tượng học sinh có năng khiếu học tập môn
học. giáo viên cần dày công nghiên cứu, sưu tầm để có được tuyển tập dạng
đề bài nâng cao và có kế hoạch áp dụng với từng đối tượng học sinh của
lớp mình cho phù hợp..
Ví dụ : Hãy cho biết ý kiến của em về sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm
khi đi xe máy tham gia giao thông, trong đó có sử dụng các dấu câu đã học.
d/ Điền dấu phẩy vào đoạn văn sau đây và cho biết tác dụng của mỗi
trường hợp sử dụng.
Ví dụ : Hôm qua mẹ mua cho tôi thật nhiều đồ dùng học tập. Nào bút
mực cặp vở sách giáo khoa. Sách Tiếng Việt rất dày sách Đạo đức thì mỏng
vở Mỹ thuật lại có nhiều hình vẽ đẹp mắt. Thích quá !
Ở bài tập này, yêu cầu học sinh phải giải thích cách sử dụng dấu câu
và có nêu cảm nhận của các em, cách hiểu của các em về các dùng mỗi dẫu
câu cụ thể .
14
Cách trình bày bài làm có thể như sau:
Hôm qua, (1) mẹ mua cho tôi thật nhiều đồ dùng học tập. Nào bút,
(2) mực, (3) cặp, (4) vở, (5) sách giáo khoa . Sách Tiếng Việt rất dày (6)
sách Đạo đức thì mỏng, (7) vở Mỹ thuật lại có nhiều hình vẽ đẹp mắt. Thích
quá!
(1) : Dấu phẩy ngăn cách bộ phận trả lời câu hỏi Khi nào? (Hôm qua)
đứng đầu câu với các bộ phận khác trong câu
(2, 3, 4, 5) : Dấu phẩy ngăn cách các từ ngữ cùng chỉ sự vật đứng cạnh
nhau, có ý liệt kê. (Bút, mực, cặp, vở, sách giáo khoa)
(7, 8) : Dấu phẩy ngăn cách các ý (vế của câu ghép: Sách Tiếng Việt rất
dày, sách Đạo đức thì mỏng, vở Mỹ thuật lại có nhiều hình vẽ đẹp mắt.)
e, Bài tập hoàn thành câu:
a. Những chú chim bói cá…, …
b. Dòng sông quê tôi …, …
c. Các bạn học sinh lớp 2A …, …
d. Ngày nào đi làm về, mẹ cũng đi chợ, …, …
e. Mùa xuân đến, từng đàn chim én từ dãy núi đàng xa bay tới, lượn vòng trên
những bến đò, …
g. Thông qua việc ghi nhớ các cách sử dụng của từng loại dấu câu.
Ngoài việc sử dụng hệ thống bài tập phù hợp, trong quá trình giảng
dạy môn Tiếng Việt, giáo viên cần phải giúp học sinh ghi nhớ cách sử dụng
các loại dấu câu thông thường. Có thể các em mới chỉ làm quen với dấu câu
trong những bài Tập đọc, nhưng giáo viên cũng gợi mở để các em thấm dần
và nhớ lâu. Khi có kiến thức chắc chắn về vấn đề này, các em sẽ có thói
quen sử dụng, sử dụng đúng chỗ, như một kĩ sảo khi viết .
Dấu chấm : Đặt cuối câu kể. Khi kết thúc đoạn văn thì dấu chấm được
gọi là dấu chấm xuống dòng.
Dấu chấm hỏi : Đặt cuối câu hỏi.
Dấu chấm cảm : Đặt cuối câu cảm và câu khiến.
15
Dấu hai chấm : - Báo hiệu dùng kèm dấu dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang
để dẫn lời nói trực tiếp hoặc lời giải thích thuyết minh .
Dấu gạch ngang : Đặt trước câu hội thoại, trước bộ phận liệt kê, tách rời
phần giải thích với các bộ phận khác của câu, đặt giữa các tên riêng hoặc
các con số để chỉ sự liên kết.
Dấu ngoặc đơn : Chỉ ra nguồn gốc trích dẫn, chỉ ra lời giải thích .
Dấu ngoặc kép : Báo hiệu lời trích dẫn trực tiếp, đánh dấu tên gọi một tác
phẩm, báo hiệu từ ở trong ngoặc được dùng theo nghĩ khác.
Dấu ba chấm : Biểu thị lời nói bị đứt quãng, ghi chỗ kéo dài của âm
thanh, chỉ ra người nói chưa nói hết ...
Dấu phẩy : Ngăn cách trạng ngữ với bộ phận chính của câu, các từ ngữ có
ý liệt kê, từ ngữ cùng loại, ngăn cách các vế trong câu ghép.
Giáo viên không cần phải yêu cầu học sinh học thuộc cách sử dụng
mà chỉ thông qua bài tập, vừa thực hành vừa buộc học sinh giải thích vì sao
lại sử dụng dấu câu này ở đó ? Như vậy, nghĩa là giáo viên đã giúp học sinh
rèn kĩ năng sử dụng lại nắm được bản chất sử dụng của từng dấu câu Tiếng
Việt.
4.2. Phương pháp giảng dạy các bài tập sử dụng dấu câu.
Song song với nội dung ôn luyện, tôi đã tích cực sử dụng các
phương pháp dạy học về dấu câu phù hợp với trình độ học sinh tiểu học.
Phương pháp giảng dạy tốt sẽ góp phần giúp ta phát huy năng lực sáng tạo
cho học sinh, kích thích được khả năng tự học , tự rèn luyện của các em. Do
đó tôi, đã sử dụng các phương pháp dạy học sau đây cho phù hợp với các
nhóm đối tượng học sinh của lớp :
a/ Phương pháp động não, tự suy nghĩ.
Phương pháp này dùng cho học sinh có năng khiếu. Cứ mỗi bài tập
về dấu câu giáo viên nêu ra để yêu cầu học sinh thực hành thì các phút đầu
tiên, giáo viên không được gợi ý mà chỉ yêu cầu học sinh đọc thầm để hiểu
nội dung văn bản. Với đối tượng học sinh có năng khiếu, khi đã hiểu nội
dung văn bản thì các em sẽ điền đúng các loại dấu vào đoạn văn. Nếu không
16
thể điền đúng hết thì cũng có khoảng 80% số dấu đã sử dụng đúng chỗ. Đây
là phương pháp động não, tăng cường khả năng suy nghĩ của học sinh, rất
có hiệu quả khi sử dụng để dạy về dấu câu cho học sinh có năng khiếu.
b/ Phương pháp phân tích thành phần câu.
Đối với đối tượng học sinh chưa hoàn thành, hay với những chỗ khó
thì giáo viên phải sử dụng phương pháp phân tích thành phần câu, khai thác
việc đọc hiểu của học sinh bằng câu hỏi để các em suy nghĩ và có thể điền
dấu đúng.
Ví dụ : Điền dấu câu thích hợp vào đoạn văn sau đây:
Đêm trăng biển yên tĩnh một số chiến sĩ thả câu một số khác quây
quần trên boong tàu ca hát thổi sao bỗng có tiếng đập nước ùm ùm như có
ai đang tập bơi một người kêu lên cá heo anh em ùa ra vỗ tay hoan hô.
Để hướng dẫn học sinh làm bài tập này, giáo viên phải thực hiện các
bước :
- Yêu cầu đọc thầm và điền dấu vào chỗ thích hợp (dành cho học sinh có
năng khiếu)
- Sau 1, 2 phút, qua theo dõi, nếu thấy còn nhiều học sinh chưa làm tốt,
giáo viên dùng hệ thống câu hỏi sau:
- Đoạn văn nói về việc gì ?
- Đoạn văn có mấy câu. Câu một từ đâu đến đâu ? Câu hai...v..v..
- Câu nào là lời của nhân vật ? Cần phải sử dụng dấu câu nào ?
- Có thể đặt dấu phẩy ở những chỗ nào ? Vì sao ?
Như thế, khi học sinh trả lời được các câu hỏi nghĩa là các em đã điền
được dấu câu vào đoạn văn.
b/ Phương pháp đọc mẫu
Cuối cùng, nếu trong lớp còn vài học sinh chưa hoàn thành, chưa
thể điền đúng hết được thì giáo viên sử dụng phương pháp cuối cùng. Đó
là đọc, chú ý ngắt nghỉ hơi đúng chỗ để thông qua việc nghe đọc, học sinh
điền dấu. Và đây cũng là bước để học sinh có năng khiếu tự kiểm tra bài
làm của mình, xem đúng hay chưa đúng, trước khi chữa bài trước lớp.
17
4.3 Các dạng bài tập rèn kĩ năng sử dụng dấu câu.
Như vậy, thông qua các hệ thống bài tập, chúng ta có thể rèn kĩ năng sử
dụng dấu câu cho học sinh từ lớp 2 tuỳ theo mức độ và kiến thức về dấu câu
các em đã học. Có thể thống kê các dạng bài tập đó như sau :
a. Điền dấu vào câu văn hay đoạn văn cho đúng.
b. Điền dấu vào ô trống.
c. Đoạn văn đã sử dụng dấu câu sai, hãy sửa lại cho đúng.
d. Tập viết đoạn văn theo chủ đề có sử dụng các dấu câu đã học.
e. Điền dấu và giải thích tác dụng sử dụng của dấu câu đó trong câu .
g. Tập phát hiện dấu câu dùng sai và sửa lại trong các bài làm văn của
học sinh.
h. Thay thế dấu câu được dùng bằng dấu câu khác cho đúng.
i. Đặt câu và sử dụng dấu câu theo yêu cầu cho trước.
g. Hoàn thiện câu còn khuyết một số thành phần.
h. Sắp xếp các cụm từ cho trước tạo thành câu (điền dấu câu hợp lí)
Yêu cầu khi soạn bài tập thực hành về dấu câu :
* Phải dùng những ngữ liệu các em đã được học trong nội dung
chương trình. Chỉ với đối tượng học sinh có năng khiếu mới tìm ngữ liệu ở
ngoài.
* Các đoạn ngữ liệu phải không quá khó, sử dụng dấu câu ở dạng
chuẩn mực, không đưa những đoạn ngữ liệu dùng dấu câu với hàm ý ẩn dụ
khác, không phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học.
* Để tránh mất thời gian cho việc thực hành, giáo viên phải chép
đoạn văn cần điền dấu vào bảng phụ để học sinh theo dõi và làm. Không
buộc các em chép đề rồi mới làm bài, làm tốn thời gian, ảnh hưởng đến việc
ôn luyện các kiến thức khác.
* Luôn kết hợp ôn luyện về cách sử dụng dấu với hoạt động đọc của
học sinh. Thông qua việc đọc các văn bản, giáo viên hướng dẫn học sinh
ngắt nghỉ hơi, nâng cao, hạ thấp giọng, nhấn giọng để thể hiện đúng giọng
18
đọc của từng kiểu câu. Điều đó hỗ trợ tốt cho công tác rèn kĩ năng nghe,
đọc, nói, viết cho học sinh tiểu học.
5. Kết quả đạt được.
Tôi và các đồng nghiệp trong tổ đã tiến hành áp dụng những kinh nghiệm
có được vào việc dạy học cho học sinh ngay từ đầu năm học. Kết quả thu lại
sau từng tháng đã thể hiện sự tiến bộ của học sinh.
Qua việc quan sát các em đọc trong giờ Tập đọc, thực hành các bài tập
Luyện từ và câu, viết Chính tả cũng như viết văn, tôi nhận thấy các em đã sử
dụng đúng dấu câu, khắc phục được nhiều nhược điểm mà trước kia các em
còn nhầm lẫn. Các em diễn đạt mạch lạc, rõ nghĩa, chân thật và biểu cảm
hơn rất nhiều. Việc áp dụng những kinh nghiệm này cũng được chúng tôi
trao đổi và áp dụng với học sinh ở các lớp học khác trong khối 2 và thu
được những kết quả khả quan như sau:
LớpSĩ
số
Tháng 8
Khảo sátTháng 9
Tháng 10, 11,
12, 1
Điểm
5, 6
Điểm
7, 8
Điểm
9, 10
Điểm
7, 8
Điểm
9, 10
Có
tiến
bộ
Hoàn
thành
tốt
2A 35 3 22 10 20 15 10 25
2B 34 5 21 8 18 16 14 20
2C 33 8 20 5 19 14 12 21
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
Để sáng kiến được nhân rộng, các nhà trường có chương trình rèn kĩ năng
sử dụng dấu câu cho học sinh theo kế hoạch (bố trí xen các tiết học chính và
vào các tiết tăng).
Giáo viên giảng dạy cần nắm vững kiến thức chuyên môn, nội dung dạy
học và tích cực rèn luyện học sinh.
Học sinh tích cực học tập và rèn luyện để chiếm lĩnh kiến thức về dấu câu
một cách tích cực.
19
Phần IV: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Dạy học là cả một quá trình lao động vừa thực hiện những điều đã
biết trong giảng dạy vừa phải tìm tòi thêm cái mới, nghiên cứu thêm kiến
thức cũ để có kiến thức chuyên sâu về nhiều vấn đề liên qua đến nội dung
và phương pháp dạy học. Có như thế, việc dạy học mới trở nên hứng thú,
tránh được sự lặp lại, sáo mòn, hiệu quả kém.
Thông qua việc tiến hành áp dụng những kinh nghiệm của bản thân vào
dạy học phần dấu câu, tôi đã giúp học sinh có kĩ năng sử dụng dấu câu.
Những bài học ngấm vào học sinh từng ngày giúp cho các em sử dụng dấu
câu tự nhiên và chính xác, làm đẹp thêm Tiếng Việt trong sáng của chúng
ta.
2. Kiến nghị:
- Đối với nhà trường :
Tạo điều kiện cho đội ngũ GV làm tốt công tác giảng dạy.
Quan tâm đến việc rèn kĩ năng sử dụng dấu câu cho học sinh thông qua
việc bố trí thời khoá biểu, lên chương trình dạy học; tổ chức sinh hoạt tổ
chuyên môn theo hướng nghiên cứu từng bài học cụ thể… để việc dạy học
của giáo viên có định hướng, có hiệu quả tốt hơn.
Đối với lãnh đạo cấp trên: Tổ chức thêm những hội thảo về các mảng kiến
thức khó dạy trong đội ngũ giáo viên để giúp GV sớm khắc phục hững tồn tại
trong quá trình giảng dạy. Nghiên cứu sách giáo khoa để có chương trình hợp
lí hơn về thời lượng dạy kiến thức phần dấu câu cho học sinh.
Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, đánh giá, góp ý từ lãnh đạo cấp
trên, từ phía các bạn đồng nghiệp để hoàn thiện thêm kho kiến thức, kinh
nghiệm dạy học của ngành giáo dục.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hải Dương, ngày 24 tháng 2 năm 2015
20
PHẦN PHỤ LỤC
1. Giáo án minh hoạ
21
22
2. Danh mục tài liệu tham khảo:
* Dạy học ngữ pháp ở tiểu học của tác giả Lê Phương Nga.
* Tuyển tập đề thi học sinh giỏi Tiếng Việt bậc tiểu học.
* Sách giáo khoa môn Tiếng Việt khối lớp 2
* Mấy vấn đề về dạy và học ngữ pháp của Tác giả Đặng Hồng Phúc.
* 100 bài tập luyện cách dùng dấu câu Tiếng Việt (dành cho học
sinh Tiểu học). Tác giả Nguyễn Quang Ninh. Nguyễn Thị Ban
* Từ ngữ, ngữ pháp. Tác giả Đặng Mạnh Thường
23
3. MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
I Phần I: Thông tin chung về sáng kiến 1
II Phần II: Tóm tắt sáng kiến 2
II Phần III: Mô tả sáng kiến 4
1 Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến 4
2 Cơ sở lí luận của vấn đề dạy dấu câu cho học sinh lớp 2 4
3 Thực trạng việc dạy và học của giáo viên và học sinh về cách sử
dụng dấu câu
4
4 Các giải pháp, biện pháp thực hiện 5
5 Kết quả đạt được 19
6 Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng 19
IV Phần IV: Kết luận và khuyến nghị 20
V Phần V: Phụ lục 21
1 Giáo án minh hoạ 21
2 Danh mục tài liệu tham khảo 23
3 Mục lục 24
24