22
ĐẠI HC QUC GIA THÀNH PHHCHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HC KINH T-LUT TIU LUN ĐỀ BÀI : Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học. Sinh viên: TRN NGUYÊN THIU Khóa : 11 Lp : K11401 MSSV : K114010069 Thành phHChí Minh, ngày 6 tháng 11 năm 2012.

Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học

Citation preview

Page 1: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT

TIỂU LUẬN

ĐỀ BÀI: Phân tích “học thuyết giá trị lao động”

trong các học thuyết kinh tế đã học.

Sinh viên: TRẦN NGUYÊN THIỆU

Khóa : 11

Lớp : K11401

MSSV : K114010069

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 11 năm 2012.

Page 2: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 2

Mục lục LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................... 3

NỘI DUNG ................................................................................................................................................... 5

I. Khái quát về các nhà kinh tế và học thuyết giá trị lao động của họ. .............................................. 5

1. Sơ lược về cuộc đời của William Petty và học thuyết giá trị lao động của ông. ........................ 5

1.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của William Petty. ........................................................... 5

1.2. Nội dung cơ bản về học thuyết giá trị lao động của William Petty. .................................... 5

2. Sơ lược về cuộc đời của Adam Smith và học thuyết giá trị lao động của ông. .......................... 6

2.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Adam Smith. ............................................................. 6

2.2. Nội dung cơ bản về học thuyết giá trị lao động của Adam Smith....................................... 7

3. Sơ lược về cuộc đời của David Ricardo và học thuyết giá trị lao động của ông. ....................... 8

3.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của David Ricardo. ......................................................... 8

3.2. Nội dung cơ bản về học thuyết giá trị lao động của David Ricardo. .................................. 9

4. Những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Marx và khái quát về học thuyết giá trị lao động

của chủ nghĩa Marx. ............................................................................................................................. 11

4.1. Những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Marx. ............................................................. 11

4.2. khái quát về học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Marx. .......................................... 12

II. Liên hệ thuyết giá trị-lao động với thực tiễn Việt Nam. ............................................................ 14

KẾT LUẬN ................................................................................................................................................. 20

Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................................................................... 22

Page 3: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 3

LỜI MỞ ĐẦU

Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau.

Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người đều có những hiểu biết và cách

giải thích các hiện tượng kinh tế – xã hội nhất định. Việc giải thích các hiện tượng kinh tế

– xã hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết đối với đời sống kinh tế của xã hội loài

người. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện dưới những hình thức tư tưởng kinh tế, về sau mới trở

thành những quan niệm, quan điểm kinh tế có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau,

đáp ứng cho nhu cầu lý luận và bảo vệ các lợi ích của các giai cấp đó. Mặt khác, các

trường phái lý luận qua các giai đoạn lịch sử khác nhau mang tính kế thừa, phát triển,

cũng như phê phán có tính lịch sử của các trường phái kinh tế học.

Trường phái kinh tế chính trị học tư sản đầu tiên là chủ nghĩa Trọng thương. Nó ra đời

trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học

lúc này là lĩnh vực lưu thông và đánh giá cao vai trò tiền tệ trong việc tích luỹ của cải.

Con đường làm tăng của cải là thương nghiệp, là ngoại thương. Họ đòi hỏi sự can thiệp

của Nhà nước vào nền kinh tế để tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản ra đời.

Theo đà thâm nhập của tư bản vào lĩnh vực sản xuất, những vấn đề kinh tế của sản

xuất nảy sinh vượt quá khả năng lý giải của chủ nghĩa Trọng thương; Đòi hỏi phải có

những lý thuyết mới – Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển xuất hiện.

Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ

lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sẵc của trường phái cổ điển

là W.Petty, F.Quesnay, A.Smith, D.Ricacdo. Điểm sáng của trường phái kinh tế chính trị

cổ điển Anh đó chính là học thuyết giá trị lao động, và đây cũng có thể coi là đỉnh cao

của lí luận kinh tế chính trị tư sản cổ điển.

Song thực tế đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của trường phái cổ điển. Đồng thời

thể hiện sự bất lực của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển trước những hiện thực kinh tế

Page 4: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 4

mới. Trước bố cảnh đó, giữa thế kỉ XIX, trên cơ sở những thành tựu của kinh tế, áp dụng

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu kinh tế, Mác-

Ănghen đã làm mộ cuộc cách mạng trong lịch sử các học thuyết kinh tế khác về cơ bản

trên các phương diện: đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, nội dụng, tính giai

cấp,… học thuyết của C.Mác ra đời là sự kế thừa và phát triển của những học thuyết của

các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học.

Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trường phái cũng như của cả quá

trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng vai trò hạt nhân, là cơ sở của các lý

luận khác. Nó cũng bắt đầu sơ khai từ những tư tưởng kinh tế và được phát triển thành

những quan niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát hoá thành những phạm trù, những

hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó đã giải thích được các hiện tượng kinh tế trong xã

hội.

Với những kiến thức tiếp cận được qua các bài giảng của Thầy giáo, qua một số tài

liệu nghiên cứu hiện hành, chúng tôi xin phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong

các học thuyết kinh tế đã học.

Page 5: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 5

NỘI DUNG

I. Khái quát về các nhà kinh tế và học thuyết giá trị lao động của họ.

1. Sơ lược về cuộc đời của William Petty và học thuyết giá trị lao động của ông.

1.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của William Petty.

W. Petty là nhà kinh tế học người Anh, sinh trưởng trong một gia đình thợ thủ

công. Ông là một người có nhiều tài năng. Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau như:

vật lí, y học, âm nhạc, thống kê, kinh tế,… năm 1647 ông phát minh ra máy đánh chữ,

năm 1649 đậu tiến sĩ vật lí, năm 1651 được phong giáo sư về giải phẩu và âm nhạc, ông

được coi là người sáng lập ra kinh tế học. Ngoài ra, ông còn được phong nam tước vì có

công phục vụ cho nhà vua. Về kinh tế, ông có các tác phẩm nổi tiếng như: “bàn về thuế

khóa và lệ phí” (1662), “số học chính trị” (1676),… ông được K.Marx đánh giá cao và

coi ông là cha đẻ của chính trị kinh tế học tư sản ở Anh.

Trong những tác phẩm đầu tiên của mình, W. Petty còn mang nặng tư tưởng trong

thương, nhưng trong tác phẩm cuối cùng của ông thì không còn mang dấu vết của chủ

nghĩa trọng thương.

Về phương pháp luận, W. Petty đã áp dụng phương pháp mới về nhận thức.

Trường phái trọng thương chỉ thỏa mãn với việc đơn thuần đưa ra những biện pháp kinh

tế hay miêu tả lại những hiện tượng kinh tế theo kinh nghiệm. Còn W. Petty đã đi xa hơn

trong việc tìm ra cách giải quyết những hiện tượng đó. Ông đã tiếp cận với qui luật khách

quan. Ông nói: “trong chính sách kinh tế cũng như trong y học cần phải tính đến những

quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng bức riêng của mình để chống

lại những quá trình đó”.

Tuy vậy, ông đã nhầm lẫn trong việc coi các quy luật kinh tế của CNTB cũng như

qui luật tự nhiên là tồn tại vĩnh viễn.

Phương pháp trình bày của ông xuất phát từ nhưng hiện tượng cụ thể, phức tạp, đi

đến hiện tượng trừu tượng. Đó cũng là phương pháp kinh tế học đặc trưng của thế kỉ

XVII.

1.2. Nội dung cơ bản về học thuyết giá trị lao động của William Petty.

Page 6: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 6

W. Petty đã có những nhận xét đúng đắn khi vạch rõ vai trò của lao động trong

việc tạo ra giá trị, tức nguồn gốc thực sự của của cải. Chỉ riêng điều này đã cho thấy ông

là người đầu tiên khai sinh ra lí luận giá trị-lao động.

Khi nghiên cứu về giá trị lao động, ông dùng thuật ngữ “giá cả” và chia thành “giá

cả chính trị” và “giá cả tự nhiên”. Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động hao phí để

sản xuất ra hàng hóa quyết định. Như vậy, W. Petty đã hiểu đúng giá trị lao động với

thuật ngữ “giá cả tự nhiên” và còn giá cả chính trị chính là giá cả thị trường, nó thường

thay đổi theo những điều kiện chính trị, do đó khó hiểu rõ được nó.\

W. Petty cũng đã thấy được mối quan hệ giữa năng suất lao động với “giá cả tự

nhiên”, nó tỉ lệ nghịch với năng suất lao động. Ông đã so sánh khối lượng lao động hao

phí để sản xuất bạc với lượng lao động hao phí để sản xuất lúa mì. Nếu năng suất lao

động sản xuất ra bạc tăng lên thì giá trị của nó giảm xuống. ngoài ra, ông còn đề cập đến

lao động giản đơn và lao động phức tạp nhưng chưa phân tích đầy đủ.

Tuy nhiên, ông còn chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa trọng thương khi cho rằng

chỉ có giá trị khai thác bạc (tiền tệ) mới tạo ra giá trị, lao động trong các ngành khác chỉ

tạo nên của cải khi so sánh với lao động tạo ra tiền. Theo ông, giá trị của hàng hóa là sự

phản ánh giá trị của tiền tệ, giống như ánh mặt trăng là sự phản chiếu của ánh mặt trời.

ông còn cho rằng lao động thương nghiệp là ngành kinh tế có lợi nhất. Đồng thời, ông

còn nêu lên nguyên lí nổi tiếng: “lao động là cha còn đất là mẹ của của cải”. Đáng tiếc

rằng ông chỉ nêu ra nguyên lí mà không lí giải về nguyên lí đó. Ở đây, nếu ông coi đó là

hai yếu tố của quá trình lao động sản xuất thì hoàn toàn đúng đắn, nhưng nếu ông coi đó

là hai yếu tố hình thành giá trị thì lại là sai lầm

2. Sơ lược về cuộc đời của Adam Smith và học thuyết giá trị lao động của ông.

2.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Adam Smith.

Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế học nổi tiếng ở Anh và thế giới. Ông xuất

thân từ một gia đình viên chức thế quan ở Kirkaldy, xứ Scotland. Adam Smith đã học ở

trường đại học Glasgow và Oxford. Sau khi tốt nghiệp tốt đại học, ông nghiên cứu và

giảng dạy ở Edinburg và sau đó, vào 1751 ông được bầu làm giáo sư về môn Logic ở

trường đại học tổng hợp Glasgow, năm 30 tuổi ông còn nhận thêm ghế giáo sư về triết

Page 7: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 7

học đạo đức. Adam Smith am hiểu về nhiều lĩnh vực như triết học, văn chương, lịch sử,

vật lí, toán hoc, kinh tế học,…

Năm 1759, Adam Smith xuất bản cuốn “lí luận đạo đức”, ở đây ông vạch ra các lí

luận về đạo đức, với cuốn sách này đã làm ông nổi tiếng. Năm 1763, ông đi du lịch châu

Âu, nhờ đó đã tiếp xúc được với chủ nghĩa trọng nông. Những quan điểm của chủ nghĩa

trọng nông, nhất là quan điểm về thị trường tự do đã ảnh hưởng nhiều tới Adam Smith.

Đến năm 1766, ông xuất bản tác phẩm nổi tiếng “của cải các dân tộc”.

Adam Smith được đánh giá là một đại biểu xuất sắc của trường phái kinh tế học

chính trị tư sản cổ điển. vào thời kì của ông, Anh là một nước có nền công nghiệp phát

triển mạnh so với các nước khác. Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ cả trong nông

nghiệp. Giai cấp tư sản chiếm địa vị thống trị trong công nghiệp, thương nghiệp và nông

nghiệp. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân cũng ngày càng trở nên lớn mạnh. Tuy nhiên,

mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân không phải là mâu thuẫn chủ yếu

trong xã hội lúc bấy giờ mà là mâu thuẫn của giai cấp tư sản với tầng lớp bảo hoàng

muốn duy trì trật tự phong kiến. Trước tình hình này, giai cấp tư sản cần phải có một lí

luận sắc bén để chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến.

trong điều kiện đó, Adam Smith đã xuất hiện với tư tưởng bảo vệ chủ nghĩa tư bản mà

không vạch ra những mâu thuẫn trong long nó, bởi vì lúc này chủ nghĩa tư bản là phương

thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu, lỗi thời.

2.2. Nội dung cơ bản về học thuyết giá trị lao động của Adam Smith.

Ông phân tích giá trị bằng việc phân tích giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị

hàng hóa.Vì theo ông thì trao đổi là dấu hiệu quan trong nhất nói lên tính chất sản xuất,

xã hội là một khồi liên hiệp của sản xuất và trao đổi sản phẩm.

Hơn nữa, giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị là do hao phí lao động

để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng

khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn,

phức tạp xẽ tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động có chuyên môn hay lao

động giản đơn. Đây là khái niệm đúng đắn về giá trị nhưng ông cũng vấp phải vấn đề về

giá cả sản xuất.

Page 8: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 8

Ông khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Adam Smith

kịch liệt phê phán lí luận lợi ích, một trường phái phổ biến rộng rãi ở thế kỉ XVIII. Ông

khẳng định rằng lợi ích không có liên quan gì tới giá trị trao đổi. theo ông, giá trị trao đổi

là do lao động quyết định, giá trị là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa quyết

định. Đó là khái niệm đúng đắn về giá trị và với khái niệm này, ông được xem là cha đẻ

của lí luận giá trị-lao động. ngoài ra, ông còn nêu lên định nghĩa thứ hai về giá giá trị của

hàng hóa: giá trị một hàng hóa bằng số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ

hàng hóa đó. Theo Adam Smith thì quan điểm này không mâu thuẫn với quan điểm trên.

Về cấu thành giá trị của hàng hóa, theo Adam Smith trong sản xuất TBCN, tiền

lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như của mọi

giá trị trao đổi, đó là quan điểm đúng đắn. song, ông lại sai lầm ở chỗ coi các khoản thu

nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành

giá trị và phân phối giá trị, hơn nữa ông cũng xem thường tư bản bất biến (C), coi giá trị

chỉ có (v+m).

Tóm lại, Adam Smith có nhiều cống hiến đối với giá trị-lao động. Công lao chủ

yếu của ông về lí luận giá trị là đã phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, hơn

nữa ông đã cho rằng lao động là “thước đo thực tế của giá trị”. Song, ở ông vẫn còn có

những sai lầm và hạn chế về lí luận này.

3. Sơ lược về cuộc đời của David Ricardo và học thuyết giá trị lao động của ông.

3.1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của David Ricardo.

David Ricardo (1772-1823) sinh ra trong một gia đình giàu có làm nghề chứng

khoán, là một nhà tư bản có địa vị trong các gia đình giàu có ở châu Âu. Năm 14 tuổi ông

đã làm việc tại thị trường chứng khoán ở Luân Đôn. Ông học hai năm ở trường thương

nghiệp Amsterdiam, sau đó trở về tiếp tục tham gia vào công việc kinh doanh trên thị

trường chứng khoán và trở thành một trong những người giàu nhất nước Anh lúc bấy giờ.

Năm 25 tuổi, ông kiếm đủ tiền để rút khỏi công việc buôn bán.

Đến năm 1799, ông mới bắt đầu nghiên cứu toán, vật lí và cá môn khoa học khác.

Từ năm 1807-1808 ông mới bắt đầu nghiên cứu kinh tế. Năm 1809, ông viết các tác

Page 9: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 9

phẩm “giá cả cao của vàng là bằng chứng của sự giảm giá ngân phiếu”. từ đó, nước Anh

có hai phái kinh tế học là: phái tiền tệ của David Ricardo và phái ngân hàng.

Năm 1815, ở Anh giá lúa mì tăng cao, David Ricardo đã xuất bản tác phẩm “bàn

về giá cả lúa mì”. Năm 1817, ông xuất bản tác phẩm có tính chất lí luận đó là “nguyên lí

cơ bản của chính trị kinh tế học và thuế khóa”. Với tác phẩm này ông được xem là người

phát triển cao nhất của trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển ở nước Anh.

Về phương pháp luận, David Ricardo tiếp tục dùng phương pháp trừu tượng hóa,

ông phân tích chủ nghĩa tư bản ở dạng thuần tí của nó, cố gắng phân tích sâu sắc hơn các

hiện tượng và quá trình kinh tế so với các tiền bối của ông. Ông hiểu được ý nghĩa vật

chất của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa và xem quá trình phát triển của chủ nghĩa tư

bản là quá trình khách quan. Khi đứng trên quan điểm sản xuất, mọi thu nhập đều có

nguồn gốc sản xuất. Ông còn sử dụng phương pháp toán học khi nghiên cứu, cố gắng làm

chính xác hóa kinh tế chính trị học.

Tuy nhiên, phương pháp luận của ông còn mang tính máy móc, siêu hình khi

không thể phân tích được những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, tính phi lịch sử khi cho

rằng chủ nghĩa tư bản sẽ tồn tại vĩnh viễn.

3.2. Nội dung cơ bản về học thuyết giá trị lao động của David Ricardo.

Lí luận giá trị-lao động chiếm vị trí quan trọng trong học thuyết kinh tế của David

Ricardo. Ông đã kế thừa và phát huy tư tưởng của A.Smith. Công lao của David Ricardo

là ông đã rà soát lại toàn bộ lí luận giá trị của A.Smith, phê phán những quan điểm sai

lầm, gạt bỏ những mâu thuẫn trong giải thích nước đôi của A.Smith và phát triển thêm

những nguyên lí đúng đắn, khoa học của A.Smith.

David Ricardo khẳng định rằng: “giá trị của hàng hóa hay số lượng của một hàng

hóa nào khác mà hàng hóa đó trao đổi, là do số lượng lao động tương đối, cần thiết để

sản xuất ra hàng hóa đó quyết định, chứ không phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả

cho lao động đó quyết định”.

Page 10: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 10

Cũng như A.Smith, David Ricardo đã phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hóa là

giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. ông bác bỏ lí luân giá trị sử dụng quyết định giá trị hàng

hóa, ông đã chứng minh các nhân tố tự nhiên giúp con người tạo nên giá trị sử dụng

nhưng không thêm một phần tử gì vào giá trị hàng hóa cả. ông có ý kiến: “tính hữu ích

không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc dù hàng hóa rất cần thiết giá trị này”. Giá trị

khác xa với của cải, giá trị không tùy thuộc vào việc có nhiều hay ít của của cải, mà tùy

thuộc vào điều kiện sản xuất khó khan hay thuận lợi”. theo ông, sở dĩ có nhiều nhầm lẫn

trong khoa kinh tế chính trị là do người ta quên rằng thước đo giá trị chưa phải là thước

đo của của cải vì của cải không phụ thuộc vào giá trị. Theo ông, giá trị hàng hóa được qui

định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa, lượng lao động đó tỉ lệ thuận với lao

động tạo ra hàng hóa “tính hữu ích không phải tăng cùng nhịp độ với tăng giá trị”, “tính

hữu ích là cần thiết vì vật không có ích, nó không có được giá trị trao đổi”.

David Ricardo cho rằng hàng hóa hữu ích sở dĩ có giá trị trao đổi là do hai nguyên

sau:

tính chất khan hiếm.

lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng.

Như vậy là ông đã nhận thức giá trị trao đổi được quyết định bởi lượng lao động

đồng nhất của con người, chứ không phải là lượng lao động hao phí cá biệt. Nhưng nhầm

lẫn của ông là cho rằng giá trị hàng hóa được điều tiết bởi lao động lớn nhất hao phí trong

điều kiện xấu.

David Ricardo phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Ông cho rằng, không

có một giá cả nào mà hàng hóa không bị ảnh hưởng của biến động ngẫu nhiên hay tạm

thời. nhưng nguyện vọng của mỗi nhà tư bản luôn rút vốn mình ra khỏi công việc kinh

doanh lại ít và đầu tư vào một công việc có lãi lớn hơn, nguyện vọng đó không cho phép

giá cả thị trường của hàng hóa dừng lâu ở mức nào đó cao hơn nhiều hay ít hơn nhiều so

với giá cả tự nhiên của chúng.

Page 11: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 11

David Ricardo đã chứng minh một cách tài tình rằng, giá trị hàng hóa giảm khi

năng suất lao động tăng lên, ông gạt bỏ sai lầm của A.Smith cho rằng lao động trong

nông nghiệp có năng suất cao hơn và cho rằng sự tăng lên của của cải đi kèm với giá trị

của nó giảm.

David Ricardo đã trình bày lí luận của mình từ việc phê phán A.Smith. ông đã gạt

bỏ tính không triệt để, không nhất quán về cách xác định giá trị của A.Smith. David

Ricardo kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc giá trị, công lao to lớn của ông

là đã đứng trên quan điểm đó để xây dựng quan điểm khoa học của mình. Đồng thời cũng

phê phán A.Smith cho rằng giá trị là do nguồn gốc thu nhập hợp thành. Theo ông, giá trị

hàng hóa không phải do nguồn gốc thu nhập hợp thành, mà ngược lại được phân thành

các nguồn thu nhập.

Về cơ cấu giá trị của hàng hóa, ông cũng có ý kiến khác với A.Smith bỏ ra C

ngoài giá trị hàng hóa. David Ricardo cho rằng: giá trị hàng hóa không chỉ do lao động

trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc, nhà xưởng,…

Mặt hạn chế trong lí luận của David Ricardo là ở chỗ là ông đã không nhận được

tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Khác với A.Smith, David Ricardo cho rằng

qui luật giá trị vẫn hoạt động trong CNTB, nhưng hoạt động như thế nào thì ông không

chứ minh được, vì ông không thể giải quyết được vấn đề giá cả sản xuất, ông đã đồng

nhất hóa giá trị và giá cả sản xuất. ông cũng chưa hiểu được giá trị trao đổi là hình thức

biểu hiện của giá trị. David Ricardo nói riêng và các nhà kinh tế học nói chung chỉ chú ý

phân tích mặt lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hoàn toàn không phân tích giá trị ấy.

Đây là một trong những nhược điểm chủ yếu của kinh tế chính trị cổ điển tư sản, khuyết

điểm này la do thiếu quan điểm lịch sử, xem xét tiền tệ, tư bản là hình thái tự nhiên vĩnh

viễn.

4. Những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Marx và khái quát về học thuyết

giá trị lao động của chủ nghĩa Marx.

4.1. Những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Marx.

Page 12: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 12

4.1.1. Tiền đề kinh tế-xã hội.

Cuộc cách mạng công nghiệp Anh được bắt đầu vào những năm 70 của thế kỉ

XVIII và hoàn thành vào năm 1825 đã gây ra những hậu quả sau: về mặt kĩ thuật máy

móc ra đời và được sử dụng một cách rộng rãi làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát

triển mạnh mẽ. về mặt xã hội, nó gây phá sản cho hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ.

Thợ thủ công, nông dân, người buôn bán nhỏ không thể đứng nỗi trong cạnh trạnh, phá

sản và trở thành thất nghiệp. các công nhân thì lại bị bóc lột nặng nề. Máy móc phát triển

tạo điều kiện cho lao động phụ nữ và trẻ em với mức lương thấp, điều này cũng tạo sức

ép đối với lao động nam giới. đồng thời, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825 làm tăng

thêm nạn thất nghiệp, làm cho đời sống quần chúng nhân dân thêm cùng cực.

Bên cạnh đó, với ảnh hưởng của cuộc cách mạng Pháp, tư tưởng tự do, bình đẳng

ngày càng có điều kiện phát triển. Giai cấp vô sản được hình thành ngày càng mạnh mẽ

và phong trào công nhân ngày càng lớn mạnh. Tấc cả điều đó, đã tạo cơ sở hình thành

nên chủ nghĩa Marx.

4.1.2. Tiền đề tư tưởng.

Chủ nghĩa Marx là sự kế tục trực tiếp triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ

điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Tây Âu.

Kinh tế chính trị của Marx là sự kế thừa có phê phán kinh tế chính trị cổ điển Anh,

tiếp thu những tiến bộ của nó như sự thừa nhận tính hàng đầu của sản xuất, qui luật kinh

tế khách quan, và giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận. đồng thời, Marx đã giải quyết triệt

để các vấn đề trong khi xây dựng lí luận giá trị-lao động mới. Vạch ra được mâu thuẩn

của hàng hóa và sản xuất hàng hóa, tính hai mặt của lao động của người sản xuất hàng

hóa , ý nghĩa của quy luật giá trị như là quy luật vận động của nền sản xuất hàng hóa.

Marx đã vạch rõ sự sung bái hàng hóa, giải thích các hình thức giá trị, đưa ra khái niệm

thực thể của giá trị, sự khác nhau của giá trị và giá trị trao đổi… trên cơ sở lí luận giá trị-

lao động, Marx đưa ra lí luận giá trị thặng dư, giải thích một cách khoa học bản chất bóc

lột của chủ nghĩa tư bản.

4.2. khái quát về học thuyết giá trị lao động của chủ nghĩa Marx.

Page 13: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 13

Học thuyết kinh tế cho rằng giá trị hàng hoá là do lao động sản xuất ra hàng hoá

quyết định. Người đặt nền móng đầu tiên cho học thuyết này là Pety (W. Petty), rồi đến

Xmit (A. Smith) và Ricacđô (V. Ricardo), là những người đóng góp lớn vào học thuyết

giá trị lao động. Tuy vậy, phải qua nhiều thế kỉ trao đổi hàng hoá, con người mới dần dần

hiểu ra được thực thể của giá trị và nhận thức được quy luật giá trị. Phải chờ đến Mac thì

học thuyết giá trị lao động mới phát triển đầy đủ. Nhờ phát hiện được tính hai mặt của lao

động mới khẳng định được lao động nào tạo ra giá trị hàng hoá. Mac đã phân tích nền

kinh tế tư bản chủ nghĩa, khám phá ra giá trị sức lao động được xem là hàng hoá, quy luật

giá trị thặng dư và hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, qua đó làm cho

nhận thức về quy luật giá trị được đầy đủ hơn.

C. Mác chỉ ra rằng, những giá trị sử dụng của các loại hàng hoá là muôn hình vạn

trạng, không thể dùng số lượng để đo lường chúng là bao nhiêu. Ông nói: "Nếu bóc tách

riêng giá trị sử dụng của hàng hoá ra, hàng hoá chỉ còn lại một thuộc tính, đó là thuộc

tính sản phẩm lao động". Tức là, giá trị của hàng hoá chính là lao động tiêu hao để sản

xuất ra hàng hoá đó. Cho nên, chúng ta thường nói rằng, lao động tạo ra giá trị. Trong chế

độ tư bản chủ nghĩa, để đạt được giá trị thặng dư, nhà tư bản bắt buộc phải tìm trên thị

trường loại hàng hoá mà bản thân giá trị sử dụng của nó có một thuộc tính đặc biệt làm

nguồn gốc cho giá trị, quá trình sử dụng nó đồng thời là quá trình tạo ra giá trị. Loại hàng

hoá đặc thù đó chính là sức lao động của con người. Ðiều cần lưu ý "lao động" và "sức

lao động" là hai khái niệm không giống nhau. Sức lao động là năng lực tiến hành lao

động của con người. Sử dụng sức lao động mới là lao động, mà lao động tức là tạo ra giá

trị. Giá trị của bản thân sức lao động bị quyết định bởi thời gian lao động bắt buộc (tức

giá trị chi phí trang trải sinh hoạt mà công nhân và người nhà của họ cần đến) trong xã

hội có nhu cầu về sức lao động sản xuất. Nhà tư bản mua lại sức lao động theo giá trị sức

lao động trên thị trường, nghĩa là có quyền sử dụng sức lao động đó trong sản xuất, và

cưỡng bức người lao động phải làm việc cả ngày. Ví dụ như để họ làm việc 12 tiếng, thì

trong vòng 6 tiếng (thời gian lao động "bắt buộc"), người lao động đã có thể tạo ra sản

phẩm đủ bù cho chi phí đời sống của họ, 6 tiếng còn lại (thời gian lao động "dư thừa") họ

Page 14: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 14

tạo ra sản phẩm "dư thừa" mà nhà tư bản không phải trả thù lao nữa, tức là giá trị thặng

dư.

Trong lịch sử loài người, do có lao động thặng dư mới sinh ra khả năng bất bình

đẳng, người bóc lột người. C.Mác chỉ rõ: lao động thặng dư không phải xuất hiện từ khi

có tư bản. Trong xã hội được tạo nên bởi kẻ bóc lột và người bị bóc lột, giai cấp thống trị

đều thu được lao động thặng dư trên thân thể của số đông người lao động bị bóc lột ông

nói: "Sự phân biệt các kiểu hình thái kinh tế - xã hội khác nhau như xã hội nô lệ và xã hội

thuê mướn lao động, chỉ là các hình thức khác nhau của việc tước đoạt lao động thặng dư

trên thân thể người sản xuất, người lao động".

II. Liên hệ thuyết giá trị-lao động với thực tiễn Việt Nam.

Như ta đã biết, trươc đây ở nước ta, với nền sản xuất lạc hậu, đặc trưng sản xuất

nhỏ, tự cung, tự cấp, công cụ lao động thủ công, năng suất lao động rất thấp. Trong nông

nghiệp con trâu đi trước, cái cày theo sau, con người theo sau điều khiển cái cày thì quả

thật hao phí lao động tạo ra một đơn vị sản phẩm trong nông nghiệp rất lớn. Vấn đề này,

ngày nay vẫn tồn tại, tuy nhiên không thể dựa vào sản phẩm nông nghiệp xác định làm

thước đo "thời gian lao động xã hội cần thiết" để đo lường giá trị các hàng hóa. Có một

thời chúng ta đã sai lầm, khi lấy gạo làm mặt bằng giá. Thực chất là kéo năng suất lao

động của tất cả các ngành về ngang bằng với ngành sản xuất nông nghiệp. Nếu xác định

lượng giá trị hàng hóa, lượng thời gian lao động xã hội cần thiết như vậy; chẳng những

chúng ta hiểu sai về lý luận giá trị lao động mà còn không thấy được những biểu hiện mới

trong điều kiện hiện nay.

Nghiên cứu học thuyết giá trị lao động của các học giả trước đây thấy được giá trị

lịch sử của học thuyết bao nhiêu, chúng ta càng thấy vai trò to lớn, ý nghĩa của nó trong

điều kiện mới bấy nhiêu. Vấn đề đặt ra hiện nay mà chúng ta cần lý giải là việc xuất hiện

người máy Robot, hệ thống máy tính điện tử...Nhiều sản phẩm tạo ra không còn do trực

tiếp bàn tay con người tác động mà là gián tiếp, thậm chí qua nhiều lần gián tiếp. Phạm

Page 15: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 15

trù giá trị do lao động trừu tượng tạo ra có còn tồn tại không, hiểu về thời gian lao động

xã hội cần thiết của một đơn vị sản phẩm như thế nào?

Hiện nay phạm trù giá trị đang có nhiều tranh luận, nhiều ý kiến khác nhau. Trước

đây William Petty, nhà kinh tế học tư sản cổ điển người Anh, đã khẳng định "lao động là

cha, đất là mẹ của của cải vật chất. Mặc dù lịch sử có nhiều đổi thay, nhưng cấu thành sản

phẩm vẫn do hai yếu tố tự nhiên và lao động. Tuy nhiên, vị trí của mỗi yếu tố có sự khác

nhau rất lớn. Vai trò sức lao động của con người không những ngày càng phát triển mà

còn có sự thay đổi về chất, đó là lao động chất xám, lao động trí tuệ. Chính sự thay đổi về

chất của sức lao động, dẫn đến một loạt các nhân tố thay đổi theo, đầu tiên đó là các phát

minh, sáng kiến mới. Phát minh quan trọng hàng đầu là tạo ra các tư liệu lao động mới,

sự thay đổi này là cơ sở quan trọng để sử dụng đối tượng lao động ngày càng ít. Vị trí

quan trọng đó, nhà kinh tế học người Mỹ Paul Samuelson cho rằng động lực phát triển thị

trường là nhà kỹ thuật và người tiêu dùng. Do đó nếu không có kế hoạch sử dụng tư liệu

lao động hợp lý, không tiếp cận nhanh với thành tựu mới của khoa học công nghệ dẫn

đến lãng phí tài sản vô hình rất lớn. Cũng trên cơ sở sự phát triển của sức lao động đã

xuất hiện một loạt các loại lao động mới, mà kết quả của nó có thể là hữu hình, có thể là

vô hình, có thể là vật chất, có thể là tinh thần, dịch vụ v.v...

Hơn nữa, với sự phát triển của lao động trí tuệ, lao độngchất xám, thì lao động hao

phí trong mỗi đơn vị sản phẩm cũng thay đổi, xu hướng hao phí lao động quá khứ ngày

càng giảm, lao động sống ngày càng tăng lên, Trong kết cấu sản phẩm nếu trước đây lao

động quá khứ chiếm từ 60% đến 70%, lao động sống chỉ chiếm từ 30 đến 40% thì ngày

nay, trong một số mặt hàng nhất là đồ điện tử, lao động sống, đặc biệt là lao động chất

xám, lao động trí tuệ chiếm từ 60% đến 70%, thậm chí có những sản phẩm chiếm 75%

trong kết cấu giá trị hàng hóa. Chính vì lẽ đó, lao động hao phí trong một đơn vị sản

phẩm không thể chỉ tính ở kết quả lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm như trước đây, mà

là gián tiếp gắn với các quá trình lao động khác nhau để cùng tạo ra một sản phẩm. Mặt

khác, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, cũng xuất hiện nhiều mối quan hệ

trong lượng giá trị cần giải quyết. Ví dụ trước đây sản phẩm tạo ra còn rất ít, chưa có

Page 16: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 16

nhiều giá trị sử dụng phong phú, nhu cầu con người chưa nghĩ đến mặt hàng thay thế.

Ngày nay, trong mối quan hệ tổng thể chung của nền kinh tế, sự phát triển của phân công

lao động, sự phát triển của khoa học công nghệ xuất hiện nhiều giá trị sử dụng khác

nhau, có thể thay thế cho nhau. Vì vậy việc xác định lượng giá trị hàng hóa, tất yếu phải

đặt trong mối quan hệ đó. Tuy cơ sở của giá trị là lao động nhưng nó được b ểu hiện

trong điều kiện mới hiện nay.

Trên đây, chúng ta đã phân tích, lý giải về sản xuất, bây giờ chúng ta đề cập đến

vấn đề trao đổi lưu thông.Yêu cầu của quy luật giá trị là trao đổi ngang giá, giá cả hàng

hóa này ngang bằng với giá cả hàng hóa kia, thực chất bên trong là lượng lao động trong

hàng hóa này ngang bằng với hàng hóa khác. Như đã phân tích trên, với cơ chế kế hoạch

hóa tập trung quan liêu bao cấp, vấn đề trao đổi ngang giá hầu như bị triệt tiêu, vì tất cả

đều tuân theo địa chỉ có sẵn.

Chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, thực hiện yêu cầu này của quy

luật giá trị, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trao đổi ngang giá cũng không dừng lại trong

phạm vi quốc gia mà là trên phạm vi quốc tế. Chính vì vậy, nếu không tiếp cận kịp thời

các thành tựu mới của khoa học, công nghệ để giảm chi phí sản xuất, giảm lao động hao

phí sẽ là một thiệt thòi rất lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam

nói riêng. Hơn nữa với cơ chế mở, cơ chế thị trường, buộc các nước phải tuân theo quy

luật chung của quá trình trao đổi. Việc lựa chọn các mặt hàng để sản xuất, lựa chọn mặt

hàng để trao đổi, với lao động hao phí thấp, dựa vào lý thuyết lợi thế so sánh, không còn

là phạm vi của một mặt hàng, một ngành, một vùng một nước, mà là trên phạm vi quốc

tế, xuất phát từ các điều kiện tự nhiên, xã hội kinh tế khác nhau.

Từ một số vấn đề phân tích trên đây. Mặc dù lịch sử đã đổi thay, biết bao nhân tố

tác động đến sự hình thành giá trị, tính muôn màu, muôn vẻ trong nền kinh tế thị trường

hiện nay. Song dẫu sao đi nữa thì cơ sở sâu xa của lý luận giá trị vẫn là kết quả lao

động, giá trị do lao động tạo ra; vẫn thể hiện đầy đủ ý nghĩa lịch sử của nó. Vẫn là cơ sở

Page 17: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 17

để các đơn vị tính toán, hạch toán kinh doanh, bù đắp chi phí sản xuất, cơ sở đảm bảo tái

sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng trong điều kiện hiện nay.

Vận dụng học thuyết giá trị lao động của Karl Marx, chúng ta cũng cần lưu ý rằng

trong điều kiện ngày nay, nền sản xuất xã hội hóa ngày càng cao. Quá trình xã hội hóa đã

vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành quốc tế. Trong thực tiễn đã hình thành chi phí

sản xuất quốc tế. VN là một bộ phận trong hệ thống phân công lao động quốc tế, việc tính

toán chi phí sản xuất, lao động hao phí của một đơn vị sản phẩm không phải chỉ riêng ở

nước ta mà phải đặt trong mối quan hệ chung đó. Chính những vấn đề này đặt ra cho

chúng ta một số vấn đề cần suy nghĩ sau đây:

Một là, từ một nền sản xuất nhỏ lạc hậu phong kiến, lại trải qua nhiều năm chiến

tranh, cơ sở vật chất bị tàn phá hết sức nặng nề, năng suất lao động còn thấp. Để nước ta

có thể tham gia một cách tích cực vào phân công lao động quốc tế, không còn cách nào

khác hơn là phải nhanh chóng tiếp cận các thành tựu mới của khoa học, công nghệ, đổi

mới trang thiết bị máy móc, xây dựng và phát triển nhanh cơ cấu hạ tầng, chóng hòa nhập

vào nền kinh tế thế giới.

Hai là, lao động sống, nhân tố cấu thành lượng giá trị hàng hóa, có ý nghĩa hết sức

quan trọng. ở nước ta hiện nay, mỗi năm bổ sung cho đội ngũ lao động một lực lượng rất

lớn, gần hai triệu người. Những mặt tích cực trong đội ngũ lao động hiện có là có trình độ

văn hóa, khoa học, kỹ thuật, cần cù, chăm chỉ, chịu khó, thông minh, nắm bắt nhanh

những thành tựu văn minh của nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì đội ngũ lao động

hiện có, kể cả bổ sung hàng năm cũng đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết, những vấn đề

cầ n giải quyết. Trước hết đó là cơ cấu đội ngũ lao động không đồng đều giữa khoa học

cơ bản, khoa học ứng dụng. Các thứ bậc trong bằng cấp chưa tương xứng với trình độ

chuyên môn; giữa đại học, trung cấp, sơ cấp, công nhân lành nghề chưa tương xứng hợp

lý. Điều này thể hiện ở nhiều cơ quan đơn vị sản xuất, hành chính sự nghiệp nếu tính

bằng cấp đại học có thể đạt con số tuyệt đối. Nhưng nếu dựa vào đó để đánh giá trình độ,

đánh giá hiệu quả lao động, đánh giá chất xám cao trong cấu thành giá trị thì chưa phải

Page 18: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 18

như vậy, nghĩa là chưa cao nếu không nói là có những người trình độ quá thấp kém so với

bằng cấp của mình.

Ba là, vận dụng học thuyết giá trị lao động của Karl Marx trong tình hình cụ thể

hiện nay, yêu cầu cấp bách về việc đào tạo một đội ngũ lao động có đủ những tiêu chuẩn

cơ bản về chính trị vững vàng, gắn bó với quê hương, yêu nghề, có trình độ chuyên môn

giỏi, cần đạt được một cơ cấu thích hợp giữa các nhà khoa học nghiên cứu, đội ngũ thực

hành, giữa các ngành nghề; phù hợp với kết cấu của tổng giá trị hàng hóa cần tạo ra mà

nhu cầu xã hội đòi hỏi. Giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa lao động phức

tạp và lao động giản đơn, cần có kế hoạch trong đào tạo để có sự chuyển dịch theo một tỷ

trọng hợp lý, theo hướng lao động trí tuệ, lao động chất xám ngày càng tăng trong cấu

thành giá trị hàng hóa. Bên cạnh đó việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý cũng là một yêu

cầu cấp thiết. Bởi lẽ, có các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất mới chỉ là khả năng;

muốn biến khả năng thành hiện thực tạo ra nhiều của cải thì cần phải đào tạo đội ngũ cán

bộ quản lý giỏi.

Bốn là, trong kinh tế thị trường bốn khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất,

phân phối, trao đổi, tiêu dùng thì sản xuất và tiêu dùng đóng vai trò quyết định. Để giảm

chi phí sản xuất, giảm hao phí lao động quá khứ và lao động sống trong một đơn vị sản

phẩm, điều cần thiết là phải mở rộng thị trường, hình thành hệ thống thị trường hoàn

chỉnh đồng bộ. Phải phát triển mạng lưới giao thông vận tải như đường bộ đường thủy,

đường sông, đường hàng không...Tận dụng tất cả các loại phương tiện, nâng cấp các

phương tiện sẳn có đổi mới trang thiết bị. Ưu tiên lựa chọn các loại phương tiện vận

chuyển có hiệu quả cao. Có sự chọn lựa thích hợp trong quá trình sản xuất như địa điểm

thích hợp, vị trí thuận lợi, nhu cầu đòi hỏi cho sản xuất và tiêu dùng.

Trên đây là một số suy nghĩ về cách tiếp cận học thuyết giá trị lao động, chủ yếu

những nhân tố cấu thành lượng giá trị, và những biểu hiện mới, liên quan đến giá trị

hàng hóa. Cách tiếp cậ n này không những làm nổi bật giá trị lịch sử, khoa học của học

Page 19: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 19

thuyết giá trị, mà còn cung cấp cho chúng ta một số tư liệu cần thiết có ý nghĩa quan

trọng trong xây dựng kinh tế thị trường ở VN theo định hướng XHCN.

Page 20: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 20

KẾT LUẬN

Lý luận giá trị lao động đã trải qua chiều dài lịch sử của nhân loại và giữ vai trò

quan trọng trong hệ thống các học thuyết kinh tế để giải thích 1 loạt các hiện tượng kinh

tế qua các thời kỳ phát triển, nó là cơ sở cho hệ thống các lý luận khác về tư bản, tiền

công, lợi nhuận, địa tô trong xã hội.

Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu lý luận giá trị, giá cả hàng hoá đã chỉ rõ mối

quan hệ bản chất, bên trong của nền sản xuất hàng hoá, mối liên hệ phổ biến giữa giá trị

và giá trị sử dụng, các vấn đề về giá cả hàng hoá lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá.

Đặc biệt, nhờ phân biệt được sức lao động và lao động trong sản xuất hàng hoá, phát hiện

được tính chất hai mặt của sản xuất hàng hoá, Marx đã giải đáp được rất nhiều điểm bế

tắc trong các học thuyết của trường phái kinh tế học tư sản cổ điển Anh. Từ đó đã hoàn

thiện lý luận giá trị, tìm ra được nguồn gốc và bản chất của tiền tệ, phân tích đặc thù của

quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản, đưa đến phát hiện về giá trị thặng dư, vạch rõ cơ

chế bóc lột tư bản chủ nghĩa và những hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư trên bề

mặt cuộc sống như lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa

tô.

Trên cơ sở nghiên cứu tiến trình hoàn thiện của lý luận giá trị hàng hoá là lịch sử

của quá trình nhận thức trong xã hội. Nhận thức nói trên không phải là bất di bất dịch mà

nó luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của xã hội loài người và mục đích cơ bản là đạt tới

những giá trị tư tưởng hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn cho phù hợp với quy luật khách quan.

Thông qua nghiên cứu, phân tích, so sánh lý luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học

thuyết kinh tế, so sánh với lý luận của chủ nghĩa Marx để thấy rõ những điểm tích cực,

những mặt còn tồn tại từ đó nhận thức 1 cách sâu sắc quá trình vận động, phát triển kinh

tế – xã hội ở Việt nam, đưa ra được những chủ trương, đường lối, chính sách phát triển

kinh tế phù hợp với các quy luật, các điều kiện khách khách quan; Nó được thể hiện cao

độ thông qua những chủ trương, đường lối của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay là phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước -

Page 21: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 21

Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản

lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Page 22: Phân tích “học thuyết giá trị lao động” trong các học thuyết kinh tế đã học.pdf

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN TẤN PHÁT

Sinh Viên: Trần Nguyên Thiệu Page 22

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế (nhà xuất bản đại học quốc gia TP.

HCM).

2. Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế (đại học kinh tế quốc dân-nhà xuất bản

thống kê)

3. http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc_thuy%E1%BA%BFt_gi%C3%A1_

tr%E1%BB%8B_lao_%C4%91%E1%BB%99ng

4. http://www.hce.edu.vn/hsv/showthread.php?120786-H%E1%BB%8Dc-

thuy%E1%BA%BFt-gi%C3%A1-tr%E1%BB%8B-lao-

%C4%91%E1%BB%99ng-c%E1%BB%A7a-C%C3%A1c-M%C3%A1c-

v%C3%A0-s%E1%BB%B1-%C3%A1p-d%E1%BB%A5ng-v%C3%A0o-

Vi%E1%BB%87t-Nam.

5. http://khotailieu.com/tai-lieu/van-hoa-nghe-thuat/lich-su/ly-luan-hoc-thuyet-gia-

tri-lao-dong-cua-truong-phai-co-dien-anh-va-nhung-dong-gop-to-lon-mang-tinh-

cach-mang-cua-c-mac-vao-hoc-thuyet-nay.html

6. http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/hoc-thuyet-gia-tri-lao-dong-moi-tt-.210618.html

7. http://bookluanvan.vn/f79/phan-tich-hoc-thuyet-gia-tri-lao-dong-trong-cac-hoc-

thuyet-kinh-te-28197/