Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ HÒE
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN THÀNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là
trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.
Tác giả luận án
Trần Thị Hòe
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền
con người 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người 15
1.3. Những giá trị của các công trình liên quan đến luận án và những vấn đề
đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu 23
Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI 26
2.1. Quyền con người và bảo đảm quyền con người 26
2.2. Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người - Tầm quan trọng và
biểu hiện 43
Chương 3: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 63
3.1. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đến nhà nước trong việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam 63
3.2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người
trong điều kiện hội nhập quốc tế 76
3.3. Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện
hội nhập quốc tế hiện nay - Những vấn đề đặt ra 104
Chương 4: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP 112
4.1. Một số quan điểm cơ bản 112
4.2. Một số giải pháp chủ yếu 122
KẾT LUẬN 152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156
PHỤ LỤC 166
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
HNQT : Hội nhập quốc tế
HTQT : Hợp tác quốc tế
KTTT : Kinh tế thị trường
LHQ : Liên hợp quốc
QCD : Quyền công dân
QCN : Quyền con người
TCH : Toàn cầu hóa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con người (Human Rights) (QCN) là giá trị cao quý, là thành quả đấu
tranh chung của toàn nhân loại chống lại áp bức, bất công. Do đó, bảo đảm QCN trở
thành khát vọng của loài người, là giá trị cơ bản mà các chế độ xã hội luôn hướng tới.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vấn đề bảo đảm QCN cũng được nhận
thức và thực hiện tốt hơn với những giá trị, chuẩn mực về QCN ngày càng được mở
rộng. Tuy nhiên tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử, chế độ kinh tế, chính trị, quan điểm giai
cấp khác nhau... mà những chuẩn mực, nguyên tắc bảo đảm QCN khác nhau. Do vậy,
bên cạnh những giá trị chung, phổ biến về QCN, khó có một quan niệm thống nhất về
QCN và bảo đảm QCN, nhất là trong điều kiện trên thế giới đang tồn tại đa dạng các
nhà nước với các giai cấp với những chế độ chính trị vì những mục tiêu, lợi ích khác
nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong quan điểm chính trị, cách tổ chức, thực thi quyền
lực của các nhà nước cụ thể.
Ngày nay, toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập quốc tế (HNQT) là một xu thế tất yếu
đối với các quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình TCH và HNQT
đã làm cho các quốc gia "xích" lại gần nhau hơn, tạo ra các điều kiện và cơ hội thuận
lợi hơn cho sự phát triển vì sự tiến bộ chung của nhân loại, góp phần quan trọng vào
việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN. Tuy nhiên, TCH và HNQT cũng nảy sinh
nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tình trạng
mâu thuẫn giữa các dân tộc do sự chênh lệch, bất công về cơ hội, điều kiện trong việc
chiếm lĩnh các nguồn lực để thực hiện và phân chia hệ thống lợi ích xã hội; trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia dân tộc trong hội nhập;
những mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong một nhà nước cụ thể đang cản trở cuộc
đấu tranh vì những lợi ích chung cho xã hội, vì tiến bộ xã hội... dẫn tới phạm vi và mức
độ bảo đảm, thực hiện QCN ở các quốc gia có khác nhau. Giải quyết vấn đề này mỗi nhà
nước có quan điểm, nguyên tắc riêng về bảo đảm QCN vì sự phát triển chung của xã hội
và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, nhà nước Việt Nam đã nhận thức ngày càng sâu sắc và tham
gia tích cực vào quá trình đấu tranh để bảo vệ QCN trên phạm vi quốc tế vì sự phát triển
chung của nhân loại và bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự tham gia ngày càng tích cực vào các
tổ chức quốc tế bảo vệ và đấu tranh cho QCN, quyền tự quyết của các dân tộc, chống
2
phân biệt chủng tộc, đảm bảo phân chia lợi ích giữa các quốc gia... đã cho thấy vai trò
của Việt Nam trong thế giới hiện nay.
Theo Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhiều chủ thể,
trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng. Bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhà
nước và là vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động của nhà nước. Nguyên tắc này
đã được khẳng định trong Lời nói đầu Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ (1776), rằng: "quyền lực chính đáng của các chính phủ phải xuất phát từ sự nhất trí
của nhân dân" [124, tr.15]. Chính phủ đó phải "dựa trên nền tảng của những nguyên tắc
và tổ chức quyền lực theo cách thức mà nhân dân thấy thích hợp nhất để đảm bảo an
ninh và hạnh phúc cho họ" [124, tr.15] và nếu chính phủ nào "đối nghịch" hoặc không
đáp ứng được yêu cầu trên thì nhân dân "có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ nó"để thiết lập
một chính phủ mới"…
Ở Việt Nam, tư tưởng về một chính quyền của dân, bảo vệ các quyền của dân đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nếu để dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi;
Nếu để dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi; Nếu để dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi" [85, tr.572]. Do đó, ngay từ Hiến
pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, việc tôn
trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động của Nhà nước.
Quán triệt nguyên tắc này, bảo đảm QCN đã trở thành một trong những mục tiêu
đầu tiên và quan trọng hàng đầu của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội củ
nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Chính vì vậy, trong việc hoạch định các chính sách phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại..., Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn
đề con người và bảo đảm QCN vào vị trí trung tâm và là mục tiêu quan trọng nhằm
hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
Nhiệm vụ "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia ký kết" [30, tr.76] được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và
"Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh
phúc, sự phát triển tự do của mỗi người [33, tr.85] tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định chủ trương đúng đắn về định vị trí, vai trò, trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, xác định nguyên tắc bảo vệ các QCN
của công dân trước quyền lực chính trị của nhà nước.
3
Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực trong việc thực hiện xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; tổ
chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm
QCN; tham gia hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực QCN...
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động
của Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội đã đem lại cho chúng ta những
kinh nghiệm quý báu về tổ chức nhà nước, về phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối
với việc bảo đảm các QCN. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc bảo đảm QCN của
Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực pháp luật, nhiều quy định của pháp luật
còn chồng chéo, bất cập, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với Hiến pháp, khó triển
khai trong thực tiễn.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về QCN cho người dân và đội ngũ cán bộ công
chức mang tính hình thức, nặng về lý thuyết, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, bên cạnh
đó, nhận thức và am hiểu về QCN của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, gây trở
ngại cho việc thực hiện QCN của người dân.
Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, một số cơ quan còn chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của
đổi mới và hội nhập. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trách nhiệm, vô cảm, thậm chí vi
phạm nghiêm trọng các QCN của người dân của một số cán bộ, công chức, gây bức
xúc trong xã hội, tạo kẽ hở cho một số thế lực thù địch coi đó là lý do để vu cáo Việt
Nam vi phạm QCN.
Hội nhập quốc tế mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội trong việc bảo
đảm QCN, song cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về QCN, gây trở ngại cho
việc bảo đảm QCN của nhà nước. Bởi lẽ, việc tuân thủ các định chế, các nguyên tắc,
các cam kết của các tổ chức quốc tế và khu vực trong quá trình hội nhập làm cho việc
hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm QCN của nhà
nước đứng trước nhiều thách thức.
Ngoài ra, việc phân bổ nguồn lực chưa hợp lý; quy trình ban hành chính sách,
pháp luật về QCN còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy
định của định chế quốc tế cũng như những đòi hỏi của quá trình HNQT. Chất lượng
của chính sách kinh tế, chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của
thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về QCN còn nhiều bất cập, lúng
4
túng... Thực tế này đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết, can thiệp ở mức độ nhất định
nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất cho mục tiêu bảo đảm QCN.
Từ những hạn chế, bất cập kể trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận về nhà nước
đối với việc bảo đảm QCN; phân tích thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo
đảm QCN trong điều kiện HNQT, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu
quả của Nhà nước đối với việc bảo QCN ở nước ta thời gian tới là một yêu cầu cần
thiết và cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn
vấn đề "Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội
nhập quốc tế hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN
và thực tiễn bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm
và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc
bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về QCN và bảo đảm QCN, luận án tập trung:
- Làm rõ khái niệm quyền con người, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của việc bảo
đảm QCN và những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.
- Làm rõ quá trình HNQT của Việt Nam và những tác động của HNQT đến QCN
và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT hiện nay và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao tính hiệu quả của Nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án không nghiên cứu toàn bộ lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN mà chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề
này dưới góc độ triết học.
- Trong phần thực trạng, luận án chỉ giới hạn khảo sát thực trạng Nhà nước Việt
Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT (từ 1995 đến nay).
5
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo đảm QCN; những vấn đề lý
luận và thực tiễn về nhà nước đối việc bảo đảm QCN. Luận án có kế thừa một số kết
quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học khác liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương pháp lô-gíc và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê và so sánh, trừu tượng và cụ thể
và một số phương pháp khác.
4. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của
nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.
- Trên cơ sở phân tích về những tác động của HNQT đến QCN và nhà nước đối
với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, luận án phân tích và làm rõ thực trạng Nhà nước
Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN (những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân) và
những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao tính hiệu quả của
Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Những kết luận rút ra trong luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những người hoạch định chính sách và quản lý xã hội khi đề xuất, đánh giá, xem xét và
giải quyết các vấn đề có liên quan đến QCN, bảo đảm QCN, nâng cao tính hiệu quả
của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về QCN
và các vấn đề khác có liên quan.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên
quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu
gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về QCN, những vấn đề lý luận và thực tiễn
bảo đảm QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN đã và đang là đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và các nhà khoa học trong và
ngoài nước. Vì vậy, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản, thể hiện tập trung ở
các nội dung sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người
Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về QCN của
nhiều học giả trong và ngoài nước, tiêu biểu là cuốn sách Quyền con người của Jacques
Mourgon, giáo sư trường đại học khoa học xã hội Toulouse (Pháp) [60]. Bằng việc
phân tích bản chất của con người và QCN, tác giả khẳng định QCN là trung tâm của
chính trị và trung tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con người, nhưng QCN
cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con người. Quyền con người là "những
đặc quyền" được các quy tắc điều khiển mà con người "giữ riêng" lấy trong các quan
hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Như vậy, QCN trước hết là các
quyền cố hữu, tự nhiên con người sinh ra đã có (cả thể xác và tư tưởng) và các quyền
này được sử dụng trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính
quyền. Trên cơ sở khái niệm QCN, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để
bảo đảm, thực hiện QCN như: sự công nhận quyền trong các điều ước quốc tế về QCN;
sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế kiểm soát các quyền
nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước
bảo đảm QCN và sự phụ thuộc của các quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nước.
Giáo sư Hoàng Nam Sâm, trường đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung Quốc trong
bài "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn hóa Trung Quốc" (2002) cho
rằng: "Quyền con người là những quyền cơ bản mà con người sinh ra đã được hưởng,
bao gồm trước hết là quyền được sống và quyền được phát triển; sau đó là các quyền
khác" [98, tr.40], chẳng hạn như "quyền được tham gia các hoạt động chính trị, xã hội,
trong đó quyền bình đẳng là quan trọng nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi
người có thể sống như một cá nhân độc lập và quan hệ giữa con người với con người
là bình đẳng, xét trên phương diện nhân phẩm" [98, tr.40]. Để có được một học thuyết
7
về QCN, tác giả cho rằng phải được thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về
QCN; thứ hai là tư tưởng về QCN; thứ ba là QCN dưới góc độ pháp lý; thứ tư là khái
niệm QCN và thứ năm là học thuyết về QCN. Tác giả cũng khẳng định việc Trung
Quốc thực hiện cải cách, mở cửa đã đưa sự phát triển về QCN sang một giai đoạn mới.
Bằng việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền, các QCN của người dân
Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập thể kết hợp hòa quyện
với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện mức sống của người dân.
Bài viết "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh vì
quyền con người trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng định: "Quyền
con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận xã
hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và
giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội" [48, tr.231]. Theo
tác giả, QCN nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, do đó,
QCN trước hết là quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển
QCN, sự cải thiện mối quan hệ QCN là quá trình lâu dài trong lịch sử, tự do và bình
đẳng trừu tượng không phải là thước đo thông dụng đối với QCN mà chỉ là tiêu chí để
đánh giá mức độ phát triển của QCN mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc
bảo đảm QCN và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và
biện chứng với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về QCN cũng như
các cơ chế, thiết chế bảo vệ QCN.
Ở nước ta, việc nghiên cứu QCN được bắt đầu từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.
Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ là bước đầu và chưa được
xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là thời gian đánh dấu sự "bùng nổ"
về hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy
hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi
bổ sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư về Vấn đề
quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta. Hiến pháp 1992, Hiến pháp
của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm QCN được quy định tại điều 50, thể
hiện sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong nhận thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự
kiện này khẳng định việc đánh giá một cách chính thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam
với vấn đề QCN, tạo nền tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng
dạy và tổ chức thực hiện bảo đảm các QCN ở Việt Nam.
8
Trong Chương trình "Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế -
xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, QCN đã trở thành đối tượng nghiên cứu cấp
nhà nước. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong
sự nghiệp đổi mới đất nước", do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân
tích những vấn đề lý luận về QCN như: khái niệm QCN, lịch sử phát triển của QCN,
những nội dung cơ bản của QCN; thực trạng việc vi phạm QCN trên thế giới cũng như
các điều kiện đảm bảo QCN [43]. Từ đó đến nay, vấn đề QCN được nhiều học giả tập
trung nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố có giá trị cả về mặt lý
luận và thực tiễn trên hầu hết lĩnh vực của QCN, như đề tài khoa học cấp bộ "Quan
điểm C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con người", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997)
[46]; đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người", Cao Đức Thái chủ nhiệm
(1998) [104]; đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con
người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm [119],
đề tài "Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người", Hoàng Mai Hương chủ nhiệm (2009)
[58]; đề tài "Tư tưởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý cơ bản",
Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) [101]. Các công trình trên đã tập trung phân tích
những vấn đề lý luận cơ bản về QCN: nguồn gốc của QCN, khái niệm QCN, các quan
điểm, luận điểm khác nhau về QCN trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin về QCN; tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN cũng như các điều kiện cần thiết để bảo
đảm QCN và khẳng định: QCN là một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính
giai cấp; nó là sản phẩm của phương thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nước và
pháp luật, được bảo vệ bằng pháp luật; được thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phương pháp luận cho
việc triển khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về QCN.
Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về QCN đã được
công bố như: "Quyền con người trong thế giới hiện đại", tác giả Phạm Khiêm Ích và
Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) [59], sách "Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới
hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên [111]; sách tham khảo "Góp phần tìm hiểu
quyền con người" (2006) của tác giả Phạm Văn Khánh [61]; sách "Triết học chính trị
về quyền con người" (2006) của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh; "Quyền con người, tiếp cận
đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tư tưởng
về quyền con người, Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội [64], "Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc
9
gia" (2011) của Hội đồng Lý Luận Trung ương [55], "Quyền con người, lý luận và
thực tiễn" (2014) của Viện NC quyền con người [139],... Mặc dù cách tiếp cận và phân
tích có khác nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái
niệm QCN, bản chất đặc trưng của QCN, nội dung các quyền cơ bản của con người
cũng như các điều kiện, cơ chế bảo đảm QCN...
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn giáo
trình giảng dạy về QCN. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về quyền con người" do Viện
nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên
soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người" của Khoa luật, Đại học
quốc gia (2009) [63]... Mặc dù cách tiếp cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung,
các giáo trình này đều tập trung giới thiệu về những vấn đề lý luận của QCN như: khái
niệm QCN; đặc trưng cơ bản của QCN; nội dung cơ bản của QCN; sự phát triển QCN
trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về QCN; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về QCN;
quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QCN; phân tích
các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh "Ngày
nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên
tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con
người. Tuy nhiên, việc bảo đảm các quyền con người hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong
khuôn khổ quốc gia, trong thẩm quyền pháp lý của các nhà nước" [138, tr.126]. Vì vậy,
các quốc gia đều có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi QCN theo quy định
của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám sát quốc
tế và phải tuân thủ các công ước mà quốc gia đã ký kết, gia nhập....
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người
- Về khái niệm bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN,
tuy nhiên phần lớn các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc
bảo đảm QCN, còn vấn đề lý luận bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập. Tác
giả Lê Hồng Sơn trong bài "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành và hoạt
động của các cơ chế bảo đảm quyền con người" cho rằng: "Bảo đảm quyền con người
là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế,
chính trị, văn hóa, pháp luật trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tâm quan trọng hàng
đầu" [99, tr.123]. Điều đó có nghĩa bảo đảm QCN không thực hiện một cách đơn lẻ mà
phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau, vấn đề là phải tạo ra các điều
kiện để việc bảo đảm QCN được thực hiện.
10
Khái niệm bảo đảm QCN còn được đề cập đến trong một số bài viết như: "Bảo
đảm quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính" (2009) của tác giả Lê
Thị Hồng Nhung, [90]; "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân" (2014) của Hoàng Hùng Hải [41]. Tác giả Hoàng Hùng Hải cho rằng:
"Bảo đảm quyền con người là hoạt động của các chủ thể thực hiện một hệ thống các
điều kiện và biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật hướng tới việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức" [41, tr.1]. Như vậy, bảo đảm
QCN theo tác giả là hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm tạo ra các điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện QCN.
Ngoài ra có công trình không đề cập trực tiếp về khái niệm bảo đảm QCN mà tập
trung bàn về các điều kiện bảo đảm QCN. Chẳng hạn, nhóm tác giả đề tài "Các điều
kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước"
[43] cho rằng, bảo đảm QCN gắn liền với dân chủ, nhà nước pháp quyền, pháp luật,
dân trí, thông tin, kinh tế..., trong đó nhấn mạnh: dân chủ gắn bó hữu cơ với nhân
quyền và là công cụ, phương tiện bảo đảm và phát triển QCN. Mỗi nấc thang của dân
chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất lượng của QCN. Pháp luật là
phương tiện để ghi nhận các QCN, là một trong những điều kiện quan trọng nhất để
QCN được thực hiện.
Tác giả Nguyễn Thị Báo trong bài viết "Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm và
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay" (2009) cho rằng, "các quyền con người
chỉ được bảo đảm và thực hiện khi bảo đảm được các điều kiện bảo đảm về chính trị;
về mặt thể chế; về nguồn lực kinh tế và về văn hóa" [6, tr.121]. Trên cơ sở phân tích
các điều kiện bảo đảm QCN, tác giả nhấn mạnh: "sự hiện diện ở tất cả các điều kiện
bảo đảm quyền con người trên chỉ có thể được bảo đảm khi có sự vận hành của các cơ
quan trong tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp" [6, tr.121]. Như vậy, theo tác giả, bảo bảo đảm QCN cần có hai yếu
tố, thứ nhất là các điều kiện để bảo đảm QCN; thứ hai, cơ chế bảo đảm QCN.
- Về thực tiễn bảo đảm QCN, đã có nhiều công trình được công bố, trong đó phải
kể đến công trình nghiên cứu "Hiến pháp, pháp luật và quyền con người- Kinh nghiệm
Việt Nam và Thụy Điển", do Trung tâm NC quyền con người Việt Nam và Viện Raoul
Wallenberg Thụy Điển thực hiện (2001). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các học
giả hai nước về cơ chế bảo đảm QCN, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc bảo
đảm QCN, những thành tựu bảo đảm QCN ở Việt Nam và Thụy Điển. Bằng những lập
11
luận khoa học và các dẫn chứng sinh động về thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam
những năm qua, tác giả Hoàng Văn Hảo nhấn mạnh "Việt Nam đã đạt được những
thành tựu rất to lớn, rất cơ bản trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân. Đó là
quyền sống trong độc lập, tự do. Phạm vi quyền ngày càng được mở rộng theo tiến
trình phát triển của đất nước, đặc biệt là, chúng ta đã giải quyết thành công một khối
lượng lớn các vấn đề xã hội" [125, tr.153-154].
Bài viết "Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt
ra hiện nay" của tác giả Đặng Dũng Chí (2014) tập trung phân tích thực tiễn việc bảo
đảm QCN của Việt Nam như quyền bầu cử ứng cử; quyền tự do lập hội; quyền tự do
ngôn luận, báo chí, thông tin; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền giáo dục; quyền
chăm sóc sức khỏe; quyền phụ nữ, trẻ em...Tác giả khẳng định "Những thành tựu đạt
được trên lĩnh vực quyền con người trong thời gian qua tạo nền tảng vững chắc để
chúng ta giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực nhân quyền trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" [19, tr.270].
Bài viết "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con người trong thời
kỳ đổi mới", tác giả Tạ Ngọc Tấn (2014) đã phân tích những thành tựu về QCN mà
Việt Nam đạt được như: (1) Khẳng định QCN là bản chất của chế độ XHCN, là mục
tiêu của Nhà nước và là động lực của sự phát triển đất nước; (2) Hình thành được
những quan điểm cơ bản về QCN làm cơ sở cho việc xem xét, thực hiện QCN ở Việt
Nam; (3) Xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong việc thực thi QCN ở Việt
Nam....Đánh giá về những thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam, tác giả nhấn
mạnh: "Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang giải quyết thành công những nhiệm
vụ đặt ra trên lĩnh vực quyền con người trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập quốc tế,
vừa bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam,
vừa góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nhân quyền quốc tế" [103, tr.10]. Những
thành tựu đó có ý nghĩa to lớn, không chỉ thể hiện sự kiên định lựa chọn con đường
XHCN của Đảng ta, mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của các lực lượng tiến bộ
và cách mạng trên thế giới.
Ngoài các công trình trên, nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn bảo đảm QCN
của các nhóm cụ thể. Chẳng hạn, trên lĩnh vực dân sự, chính trị, công trình: "Một số
vấn đề về quyền dân sự, chính trị" (1999) do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ
biên [45], đề tài "Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị trong pháp luật và thực tiễn ở
Việt Nam" (2010), Tường Duy Kiên chủ nhiệm [68], sách "Những vấn đề lý luận và
12
thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên
[143]…Các công trình này đã tập trung phân tích cơ chế bảo đảm QCN, quan điểm của
Đảng, chính sách của Nhà nước ta về quyền dân sự, chính trị; phân tích các quy định
của pháp luật quốc tế và quốc gia về các quyền dân sự, chính trị và thực tiễn thực hiện
quyền dân sự, chính trị trên các lĩnh vực: khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận, tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, tự do báo chí, thông tin, bầu cử ứng cử, quyền bình đẳng trước pháp
luật cũng như cơ chế bảo đảm quyền dân sự, chính trị... từ đó đề xuất một số giải pháp,
kiến nghị nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền dân sự, chính trị ở nước ta.
Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, sách "Một số vấn đề về quyền kinh tế, xã
hội", do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên (1996) [44]; đề tài khoa học
cấp bộ "Thành tựu về thực hiện quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam" (2001) do
Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm [47]; sách tham khảo "Bảo vệ và thúc đẩy quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam", Nhà xuất bản Lao động xã
hội ấn hành (2011) [52]… Các công trình này tập trung phân tích những quy định pháp
luật quốc tế và quốc gia về kinh tế, xã hội, văn hóa; đánh giá thực trạng những thành
tựu, hạn chế trong việc thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (quyền giáo dục;
quyền lao động, việc làm; quyền an sinh xã hội; quyền chăm sóc sức khỏe…). Từ đó
đề xuất các giải pháp, kiến nghị bảo đảm tốt hơn các quyền trên như: hoàn thiện pháp
luật về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường các chính sách, chương trình và hành
động hỗ trợ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là các nhóm xã
hội dễ tổn thương,huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng;
cần tích cực chủ động trong việc tuyên truyền, giáo dục về các kinh tế, xã hội, văn hóa
làm cho tất cả các cơ quan, viên chức nhà nước và toàn thể nhân dân....
Về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, đã có nhiều công trình được triển khai
nghiên cứu như: sách "Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã
hội dễ bị tổn thương" (2007) của nhóm tác giả Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao,
Tường Duy Kiên biên soạn [112]; đề tài nghiên cứu "Những cản trở trong việc bảo
đảm quyền của nhóm người dễ bị tổn thương" (2011) do Trần Thị Hòe chủ nhiệm [53];
"Dự án điều tra cơ bản việc thực hiện quyền công dân của nhóm yếu thế tại các tỉnh
miền núi Phía Bắc" (2014) do Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm [102]… Các công trình trên
tập trung phân tích những thành tựu, hạn chế trong việc bảo vệ quyền của nhóm xã hội
dễ tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người có HIV, người khuyết tật, người cao tuổi, người
nghèo, người dân tộc thiểu số…), phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn
13
chế, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp bảo đảm tốt hơn quyền của các
nhóm xã hội trên như: (1) Hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, chính sách về
quyền của nhóm dễ tổn thương, (2) Đổi mới bộ máy, cơ chế hoạt động của cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ và thực hiện quyền của các nhóm dễ tổn thương, (3) Chú
trọng đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý, thực
thi việc bảo vệ quyền của các nhóm dễ tổn thương, (4) Đẩy mạnh thông tin, truyền
thông và giáo dục nhằm thay đổi hành vi trong việc thực hiện công tác bảo đảm quyền
của nhóm dễ tổn thương...
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong điều
kiện hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vậy
HNQT đã và đang tác động đến QCN và vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN
như thế nào? Trả lời câu hỏi này, tác giả Kieren Pitzpatrick, trưởng ban thư ký của Asia
Pacific Forum có bài viết "Toàn cầu hóa, thương mại và nhân quyền" (2004). Bằng
những số liệu khảo sát từ nhiều quốc gia, tác giả khẳng định TCH đã và đang là "thách
thức đối với việc tuân thủ quyền con người". Bởi lẽ, TCH đã làm cho khoảng 400 triệu
người trên thế giới phải đối mặt với nạn thiếu lương thực, thất nghiệp và phân hóa giàu
nghèo ngày càng gia tăng (20% dân số thế giới là những người nghèo nhất nhưng chỉ
chiếm 1,3% mức tiêu thụ cá nhân). Nó giúp các nước giàu được giàu hơn, còn công
bằng xã hội bị chối bỏ nhiều hơn, quyền được làm việc, quyền chăm sóc sức khỏe,
quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục luôn bị đe dọa bởi những tác
động của TCH. Vì vậy, "toàn cầu hóa gây nên phản ứng mạnh mẽ trong xã hội công
dân cũng như các cá nhân trên toàn thế giới. Họ nhận thấy những quyết định ảnh
hưởng đến đời sống của học được đưa ra bởi những tập đoàn hùng mạnh nhưng thiếu
trách nhiệm" [69, tr.215-216]. Do đó, các quốc gia cần phải có những "quy tắc mới cho
các cuộc chơi" toàn cầu nhằm bảo đảm những nhu cầu căn bản của nhân dân như: sức
khỏe, giáo dục, việc làm...
Nghiên cứu về QCN trong TCH và HNQT, tác giả Lưu Kiệt có cách nhìn toàn
diện hơn về tác động của HNQT, trong bài viết "Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới và sự nghiệp quyền con người của Trung Quốc" (2002). Theo tác giả, gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội để Trung Quốc cải thiện và
thúc đẩy QCN. Chẳng hạn, gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ có điều kiện để mở rộng và
bảo đảm các QCN của người dân theo một cách thức hiệu quả hơn, kinh tế tăng trưởng,
14
các quyền lao động, việc làm, quyền có mức sống thỏa đáng của người dân được cải
thiện và bảo đảm và điều quan trọng là việc tham gia WTO đã tác động đến việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm QCN trên lĩnh vực kinh tế, xã hội của
Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu hợp tác về QCN… Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng đưa
đến cho Trung Quốc nhiều thách thức mới, đó là sự can thiệp của các tổ chức phi chính
phủ vào việc bảo vệ QCN cũng như việc đặt ra hàng loạt các QCN mới đòi hỏi chính
phủ phải giải quyết như: bảo vệ quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Trung
Quốc; bảo vệ quyền có việc làm của người dân trong các công ty đa quốc gia; vấn đề
về tiêu chuẩn lao động tối thiểu; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quyền thành lập công
đoàn của người lao động… Do đó, gia nhập WTO, cơ hội bảo đảm và thúc đẩy QCN,
nhưng thách thức cũng không nhỏ, vì vậy, chính phủ Trung Quốc phải có những chính
sách, bước đi phù hợp để "biến cái tiêu cực thành cái tích cực, tức là chuyển vấn đề này
thành động lực phát triển sự nghiệp quyền con người" [70, tr.479].
Ở Việt Nam, vấn đề TCH với quyền con người và quyền công dân (QCD) đã
được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó, cuốn sách "Toàn cầu hóa và quyền công dân
ở Việt Nam (nhìn từ khía cạnh văn hóa)" (1999), do Trần Văn Bính chủ biên, đã khởi
đầu cho các công trình nghiên cứu được xuất bản tiếp theo. Trên cơ sở phân tích về tính
tất yếu của TCH cũng như các tác động của TCH đến việc thực hiện QCN và QCD,
các tác giả khẳng định, TCH bên cạnh mặt tích cực của nó thì cũng bộc lộ không ít tiêu
cực đến QCN, đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, là những tệ nạn xã hội
nảy sinh tràn lan, là sự du nhập của văn hóa và lối sống vị kỷ của Phương Tây…Theo
nhóm tác giả, "để hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa để khắc phục những yếu kém trước
đây, Nhà nước tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo
định hướng XHCN" [12, tr.25]; xây dựng và hoàn thiện các chính sách xã hội; không
ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân…
Cùng nghiên cứu về tác động của TCH đến QCN, các bài viết: "Toàn cầu hóa,
kinh tế thị trường và nhân quyền", tác giả Cao Đức Thái [106]; "Toàn cầu hóa với việc
bảo đảm quyền con người ở Việt Nam" (2009), tác giả Hoàng Hùng Hải [40]; "Quyền
con người trong bối cảnh toàn cầu hóa", tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, sách "Những vấn
đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự, chính trị" (2009) [57]... Các bài viết
này tập trung đề cập đến tác động của TCH đến QCN. Theo tác giả Cao Đức Thái,
TCH là "cơ hội hiếm có để con người nâng cao nhân phẩm", nhưng đồng thời cũng
"làm hoen ố lương tâm, danh dự, lòng tự trọng, sự khoan dung, lòng nhân ái" của con
15
người. Toàn cầu hóa bên cạnh việc mở ra cơ hội để con người nâng cao chất lượng
cuộc sống nhưng cũng tạo ra những vấn đề bức xúc đối với QCN, đó là "sự bất bình
đẳng, bất công giữa khu vực với khu vực, quốc gia với quốc gia và cá nhân với cá
nhân" [106, tr.191]. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: TCH không chỉ làm thay
đổi về bức tranh kinh tế mà còn là sự thay đổi về văn hóa trong đó có QCN bởi lẽ, thực
tiễn quá trình TCH làm cho giá trị phổ biến của QCN đang lấn át các giá trị đặc thù.
Toàn cầu hóa "đặt các chính phủ, nhất là ở các nước đang phát triển trước một tình thế
khó xử khi phải đáp ứng cùng một lúc hai thỏa thuận; một là thỏa thuận về bảo đảm và
thực thi QCN nói trên; và hai là thỏa thuận về toàn cầu hóa, yêu cầu nhà nước phải rút
khỏi những hoạt động can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội" [57, tr.48]. Điều này
đòi hỏi các quốc gia phải có sự điều chỉnh chính sách và luật pháp cho phù hợp để vừa
tham gia hội nhập, lại vừa giữ được chủ quyền của mình.
Bàn về tác động của TCH đến QCN, tác giả Hoàng Hùng Hải nhấn mạnh: "toàn
cầu hóa là thời cơ đi liên thách thức trong việc bảo đảm quyền con người" [40, tr.148],
bởi tham gia TCH, các quốc gia có cơ hội mở rộng và hiện thực hóa các QCN, trong đó
có nhiều quyền mới, song nó cũng tạo ra nhiều thách thức và trở ngại trong việc bảo
đảm QCN. Do đó, Việt Nam tham gia vào quá trình TCH cần phải tận dụng được thời
cơ, vượt qua thách thức, bảo đảm tốt hơn các QCN bằng cách: xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
cách tư pháp; mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của các quốc gia
theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi…
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam
Sách "Quyền lực nhà nước và quyền công dân" (2003) của tác giả Đinh Văn
Mậu tiếp cận QCN từ góc độ tổ chức nhà nước. Theo tác giả, quyền lực nhà nước thực
chất là quyền lực của nhân dân, nhưng nhân dân không thể thực hiện được quyền lực
của mình, mà phải ủy quyền cho nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước do nhân dân
thiết lập và trao quyền. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân và được bảo đảm
thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước. Do vậy, "nhà nước có nghĩa vụ bảo
đảm và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân" [83, tr.88] và "quyền
con người được bảo đảm và thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà
16
nước như cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân
dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát)" [83, tr.88], trong đó Quốc hội là
cơ quan có vị trí cao nhất, là "trung tâm của cơ chế bảo đảm và thực hiện mối quan hệ
giữa nhà nước và cá nhân công dân". Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp tổ
chức thực hiện mối quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân công dân. Toàn án và Viện
kiểm sát nhân dân là những bộ phận "chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong
pháp luật vào đời sống xã hội qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể". Chính vì vậy, để
ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước trong việc bảo đảm QCN và QCD,
theo tác giả cần hoàn thiện tổ chức Nhà nước, trong đó chú trọng: đổi mới tổ chức thực
hiện thẩm quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính Nhà nước, cải cách tư pháp và
nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân chủ hóa xã hội.
Sách tham khảo "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (2004), tác giả Trần Ngọc Đường tập trung phân tích vai
trò của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Tác giả nhấn
mạnh: những bảo đảm pháp lý trong việc thực hiện QCN bao gồm hệ thống thống nhất
về mặt pháp lý các yếu tố sau: a/ Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ
pháp lý thông qua hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan
hành pháp, thông qua hệ thống cơ quan tư pháp, thông qua mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
b/ Thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; c/ Thông qua hành vi hợp pháp
và trình độ văn hóa pháp lý của mỗi cá nhân công dân. Tác giả nhấn mạnh trách nhiệm
của "cộng đồng quốc tế và Nhà nước thành viên phải ghi nhận và bảo vệ các giá trị của
quyền con người" [35, tr.139] và "muốn đạt được điều đó, bên cạnh hệ thống các quyền
và nghĩa vụ của công dân, phải thiết lập một hệ thống các quyền và nghĩa vụ của Nhà
nước. Đó chính là thiết lập trách nhiệm của các viên chức có chức, có quyền trong bộ
máy Nhà nước" [35, tr.138].
Đề cập đến vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN nhưng trong phạm vi
một quyền cụ thể của con người, Luận án Tiến sỹ "Vai trò của Nhà nước đối việc thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam ở Việt Nam hiện nay" (2002), tác giả
Trần Thị Băng Thanh, đã phân tích vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện quyền
dân chủ, thực trạng vai trò Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân, từ đó đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
17
quả tác động của Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân
ở nước ta hiện nay [113].
Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo, bài tạp chí viết về vai trò của Nhà nước trong việc
bảo đảm QCN: bài "Nhà nước, cơ chế bảo đảm quyền con người" (Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 2/2003), tác giả Tường Duy Kiên. Bài viết đã tập trung làm sáng rõ vai
trò của Nhà nước cũng như cơ chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN và khẳng
định: "việc bảo vệ quyền con người, các quyền tự do của công dân là trách nhiệm trước
tiên thuộc về Nhà nước, thông qua họat động thực hiện chức năng của các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước" [65, tr.28]. Điều đó có nghĩa là cơ chế bảo đảm các QCN ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay chính là tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tác giả nhấn mạnh, trong cơ chế bảo đảm
QCN ở Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò trụ cột trong đó, các cơ quan chịu trách
nhiệm chính trong việc bảo đảm QCN gồm: Quốc hội; Chính phủ; các cơ quan Tư
pháp (Tòa án, Viện kiểm sát…). Tuy nhiên, "Nhà nước mới chỉ là một phân hệ trong
hệ thống chính trị", do đó, cơ chế bảo đảm QCN ở nước ta cần xác định rộng hơn, tức
là cả hệ thống chính trị.
Cùng chủ đề này, tạp chí Nghề luật, số 8/2004, tác giả Tường Duy Kiên có bài
viết "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con
người". Theo tác giả, nhà nước đóng vai trò quan trọng, giữ vị trí trụ cột trong việc bảo
đảm QCN và QCD. Để QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tôn trọng
và bảo vệ thì cần phải: a/ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng pháp
luật về quyền con người, quyền công dân; b/ Xây dựng chế độ trách nhiệm của cơ quan
Nhà nước, cán bộ công chức trong quá trình thực thi công vụ; c/ Đảm bảo tính độc lập
của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; d/
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; e/ Đề cao vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự...
Nhận định về vai trò quan trọng của nhà nước trong việc tôn trọng và bảo đảm
QCN, bài viết "Quyền con người và Nhà nước pháp quyền" (2009), tác giả Nguyễn
Trung Tín khẳng định: "...để bảo vệ quyền con người nói chung và thực hiện các cam
kết quốc tế về quyền con người nói riêng, quốc gia phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất
định như: nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện" [121, tr.112].
Nghĩa vụ tôn trọng QCN của quốc gia là đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải kiềm
chế không can thiệp (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào việc hưởng thụ các QCN của cá
18
nhân. Nghĩa vụ này thường liên quan đến các quyền dân sự, chính trị. Nghĩa vụ thực
hiện của quốc gia đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải có những hành động tích cực
nhằm bảo đảm QCN được thực hiện trên thực tế, tức là đưa các quy định pháp luật về
QCN phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế vào cuộc sống. Nghĩa vụ bảo vệ đặt ra trách
nhiệm của nhà nước phải ngăn chặn các hành vi vi phạm các QCN từ phía các chủ thể
khác (có thể là cá nhân, tổ chức hoặc chính các cơ quan nhà nước) trên tất cả các lĩnh
vực: dân sự, chính trị; kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của nhóm dễ bị tổn thương.
Bài viết "Đảng và Nhà nước ta với quyền con người", tác giả Cao Đức Thái (Tạp
chí quốc phòng toàn dân) (2012) đã khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước trong
việc bảo đảm các QCN của công dân. Nhà nước có trách nhiệm ban hành các chính
sách, đạo luật tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN; tham gia ký kết các Văn kiện
quốc tế về QCN và nội luật hóa các quy định đó vào hệ thống pháp luật Việt Nam.
Phân tích về vai trò của Nhà nước, nhân tố trụ cột trong việc bảo đảm và thực hiện
QCN, tác giả viết "…Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Các quyền cơ bản của mọi người
được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ" [108]. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các
Công ước quốc tế về QCN và luật hóa những công ước đó trong hệ thống pháp luật
quốc gia. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về QCN; các
quyền về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân ta đã được bảo đảm
ngày càng tốt hơn trong thực tế.
Bài viết "Bảo đảm quyền con người thuộc bản chất của Nhà nước ta" của tác giả
Lệ Chi (2012) đã tập trung phân tích những quan điểm, chủ trương và các biện pháp
nhằm bảo đảm QCN của Nhà nước ta, phân tích những thành tựu về QCN mà Nhà
nước Việt Nam đạt được từ khi Đổi mới đến nay và khẳng định, "với bản chất ưu việt
của nhà nước XHCN, bảo vệ QCN, chăm lo cho con người là mục tiêu cao nhất của
Nhà nước Việt Nam" [17].
Khẳng định vai trò nhà nước trong việc bảo đảm QCN, bài viết "Bảo đảm thực
hiện quyền con người ở Việt Nam" của tác giả Võ Văn Ninh (Báo điện tử Đảng cộng
sản Việt Nam) tập trung phân tích những thành tựu về QCN mà Việt Nam đạt được
trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đồng thời khẳng định Nhà
nước Việt Nam đóng vai trò quan trọng và là chủ thể chính trong việc bảo đảm và thực
thi QCN: "Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả và khát
vọng chung của nhân loại...Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động
19
lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo
và thúc đẩy các quyền con người" [91]. Do đó, để phát huy hiệu quả của Nhà nước
trong việc bảo đảm QCN, Nhà nước cần tích cực ban hành các đạo luật về QCN. Vì
vậy, bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các luật về QCD; xây
dựng, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, xây dựng cơ chế kiểm tra,
giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước; không ngừng
nâng cao mức sống của nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng
xã hội, tạo nền tảng cho phát triển bền vững, bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN…
Cũng đề cập đến vai trò nhà nước trong bảo đảm QCN, bài viết "Cơ chế và các
điều kiện nhằm bảo đảm quyền kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay", trong sách "Một số
vấn đề về quyền kinh tế, xã hội" (1996) [44], tác giả Tường Duy Kiên đã tập trung
phân tích cơ chế, vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền kinh tế, xã hội. Tác
giả nhấn mạnh: Cơ chế bảo đảm là những biện pháp, cách thức tác động của Nhà nước
thông qua việc ban hành các chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện bộ máy, các cơ
quan chuyên trách thực hiện chức năng giám sát đối với tất cả các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội trong những lĩnh vực có liên quan nhằm thúc đẩy, bảo đảm quyền kinh tế,
xã hội của công dân được thi hành trong thực tiễn cuộc sống…Chính vì vậy, trách
nhiệm của nhà nước là phải tạo ra một cơ chế thích hợp để bảo vệ các quyền kinh tế, xã
hội của người dân một cách cao nhất trong khả năng của mình.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người trong điều kiện hội nhập quốc tế
Đề tài cấp bộ "Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế - vấn đề và giải pháp" (2008), do Đặng Dũng Chí chủ nhiệm.
Từ lăng kính nhân quyền, nhóm tác giả cho rằng, TCH và HNQT là cơ hội để các quốc
gia xóa bỏ khoảng cách về địa lý, văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giúp người
dân tiếp cận thông tin, nâng cao trình độ dân trí, tìm kiếm việc làm, cải thiện thu nhập
để thoát khỏi đói nghèo, tạo điều kiện để các quốc gia bảo đảm tốt hơn các quyền kinh
tế, xã hội, văn hóa, đồng thời cũng đặt các quốc gia trước nhiều thách thức, đó là vấn
đề đói nghèo, thất nghiệp, bệnh dịch, khủng bố, chiến tranh nhân danh nhân quyền. Vì
vậy, phát huy vai trò nhà nước trong việc bảo đảm QCN là vấn đề quan trọng hơn bao
giờ hết bởi chỉ nhà nước với vai trò, vị trí, chức năng của mình mới có thể đảm đương
được nhiệm vụ này. Trong điều kiện HNQT, Nhà nước Việt Nam cần: (a) thực hiện
nghĩa vụ đối với các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên; (b) thực thi
20
tất cả các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm QCN, trong đó chú
trọng cải cách hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện bộ máy thực hiện quyền
hành pháp, hoàn thiện hệ thống tư pháp..; (c) tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục
nội dung các công ước quốc tế về QCN; (d) soạn thảo và đệ trình các báo cáo quốc gia
về QCN; (e) hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực thực hiện công ước về QCN [18]...
Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT còn được đề cập khi
phân tích về nghĩa vụ của các quốc gia thành viên khi tham gia các điều ước quốc tế về
QCN của đề tài cấp bộ "Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia một
số nước ASEAN và Trung Quốc - Kinh nghiệm đối với Việt Nam" do Nguyễn Đức
Thùy chủ nhiệm (2011). Các tác giả khẳng định: Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên
trong việc bảo đảm QCN điều kiện HNQT gồm: (a) Nội luật hóa các quy định của các
điều ước quốc tế về QCN vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, thông qua việc áp
dụng trực tiếp hoặc gián tiếp; (b) Tôn trọng, bảo vệ và thực thi ở mức cao nhất có thể
những quy định, chuẩn mực QCN quốc tế (thông qua hoạch định chính sách, chương
trình hành động); (c) Thúc đẩy việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về QCN cho các
cán bộ công chức cũng như người dân nhằm hạn chế sự vi phạm về QCN từ các cơ
quan và đại diện công quyền; (d) Hợp tác chặt chẽ với các tổ chức liên chính phủ, tổ
chức chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy và bảo đảm QCN; (e) Tiến hành
soạn thảo, đệ trình và báo cáo quốc gia định kỳ kiểm điểm về thực thi những điều ước
quốc tế về QCN, giải trình các vấn đề mà các Ủy ban công ước có liên quan đặt ra, trả
lời kháng thư, tiếp thu các nhận xét, bình luận của các Ủy ban công ước trong việc bảo
đảm, thực thi các nghĩa vụ cam kết quốc tế [120].
Bài viết "Bảo đảm và thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập quốc tế", tác giả Vũ Hoàng Công (2014). Mặc dù không bàn trực tiếp về vai trò
nhà nước trong việc bảo đảm QCN, song bằng việc phân tích những thành tựu mà Việt
Nam đã đạt được cũng như những khó khăn, thách thức mà Việt Nam gặp phải đối với
việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT, tác giả nhấn mạnh để bảo đảm tốt hơn các
QCN, Nhà nước Việt Nam cần: (1) Chủ động, tích cực tham gia các công ước và diễn
đàn quốc tế về QCN trong phạm vi toàn cầu và khu vực; (2) Tiếp tục hoàn thiện thể
chế pháp lý theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; (3)
Tăng cường pháp chế trong bảo vệ QCN; (4) Tăng cường hợp tác quốc tế, sẵn sàng đối
thoại về QCN, đồng thời đấu tranh với những đòi hỏi và luận điệu phi lý từ bên ngoài;
(5) Tích cực HNQT, lấy sức mạnh kinh tế làm nền tảng lâu dài cải thiện QCN, đồng
21
thời làm sức hút với quốc tế và ngăn cản các thế lực muốn lợi dụng vấn đề QCN để can
thiệp vào nước ta [22].
Tiếp tục chủ đề trên, tác giả luận án có bài viết "Tác động của hội nhập quốc tế
đến việc bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam hiện nay", (Tạp chí Nhân lực khoa
học xã hội tháng 10/2014). Bài viết phân tích những cơ hội và thách thức đối với việc
bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT và khẳng định, HNQT là một xu thế tất yếu,
khách quan của các quốc gia. Đối với Việt Nam, HNQT đã tạo ra những cơ hội thuận
lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế bảo đảm QCN, thay đổi tư duy pháp lý về QCN,
song nó cũng có nhiều tác động tiêu cực đến QCN như: quyền lao động việc làm,
quyền sống trong môi trường trong sạch, quyền được hưởng an sinh xã hội... Để tồn tại
và phát triển, các nhà nước cần "tận dụng những tác động tích cực, hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của hội nhập quốc tế đến các quyền con người", trong đó, tập trung thực hiện:
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN, sửa đổi, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, nâng cao năng lực cho các chủ thể, tạo điều kiện cho con người thực
hiện đầy đủ các QCN trên các lĩnh vực; hoàn thiện tổ chức bộ máy bảo đảm QCN, tăng
cường cơ chế kiểm tra giám sát việc bảo đảm và thực thi QCN, mở rộng HTQT trên
lĩnh vực QCN, "có như vậy, vai trò và vị thế của nước ta mới không ngừng được nâng
cao trên trường quốc tế" [54, tr.33].
Bàn về phương hướng, giải pháp nâng cao tính hiệu quả của nhà nước đối với
việc bảo đảm QCN, sách chuyên khảo "Chủ nghĩa xã hội và quyền con người" của tác
giả Đặng Dũng Chí và Hoàng Văn Nghĩa (2014) tập trung phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn bảo đảm QCN ở nước XHCN, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá sự phát triển về mặt lý luận và những thành tựu bảo đảm QCN mà Việt
Nam đạt được trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa thời kỳ đổi
mới và hội nhập, nhóm tác giả làm rõ những yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm QCN
trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay, đó là: (1) Hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về QCN; (2) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đổi mới tổ
chức bộ máy của các cơ quan nhà nước; (3) Kiện toàn bộ máy, tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan Tư pháp); (4) Đẩy
mạnh cải cách hành chính Nhà nước; (5) Đẩy mạnh cải cách tư pháp; (6) xây dựng và
hoàn thiện các thiết chế, cơ chế bảo đảm QCN; (7) Tăng cường nâng cao nhận thức
pháp luật về QCN; (8) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường, phát triển văn hóa, chăm lo đến con người và sự phát triển QCN [20].
22
Cùng chung chủ đề này, bài viết "Nâng cao trách nhiệm bảo đảm quyền con
người của Nhà nước hiện nay", tác giả Nguyễn Thanh Tuấn và Trần Thị Hòe (Tạp chí
Lý luận chính trị số 1/2015) [126]. Bài viết đã tập trung phân tích nghĩa vụ của nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT. Theo tác giả, để bảo đảm có
hiệu quả các QCN trong điều kiện HNQT hiện nay, các chủ thể của Nhà nước cần áp
dụng một số biện pháp chủ yếu như: Hướng dẫn, tổ chức và thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết có ý nghĩa chiến lược về bảo đảm QCN; Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc
thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm QCN; Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, tổ
chức, thực hiện các chương trình, chính sách phát triển; tập trung xây dựng và củng cố
các thiết chế bảo đảm QCN; Tuyên truyền nâng cao nhận thức về QCN...
Cùng đề cập đến hương hướng bảo đảm QCN của nhà nước, chuyên đề "Quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người", (trong
Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã
hội, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, tập 8), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2014) [51]. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
QCN, chuyên đề đã đưa ra những định hướng của Đảng Nhà nước về bảo đảm QCN.
Đó là: (1) Giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; (2) Xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo vệ và thúc đẩy QCN;
(3) Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội bảo đẩm và nâng cao sự hưởng thụ của con
người; (4) Đẩy mạnh dân chủ, giữ vững ổn định xã hội, bảo đảm QCN; (5) Giáo dục về
QCN; (6) Mở rộng HTQT về QCN. Đây là những định hướng quan trọng nâng cao
hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
Có thể khẳng định, dù cách tiếp cận, phân tích và diễn đạt có khác nhau, song
nhìn chung, các công trình kể trên ít nhiều đều đề cập tới nhà nước đối với việc bảo
đảm QCN thời kỳ HNQT, phân tích về những yêu cầu, nhiệm vụ của nhà nước đối với
việc bảo đảm QC, từ đó khuyến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN. Đây là những tài liệu tham khảo có giá
trị để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu và tiếp tục phân tích trong luận án.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình, bài viết về QCN, bảo vệ QCN, về tác động của
HNQT đến QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN của nhiều học giả trong và
ngoài nước khác, nhưng do giới hạn của Luận án, tác giả chỉ nêu một số công trình
khoa học liên quan, mặc dù vậy trong mục tài liệu tham khảo có đề cập và trích dẫn.
23
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA MÀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những giá trị cần tham khảo của các công trình liên quan
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều luận giải các vấn đề về QCN, bảo
đảm và thực hiện QCN, tác động của HNQT đến QCN, về nhà nước đối với việc bảo
đảm QCN, các giải pháp, kiến nghị về phát huy nhà nước đối với việc bảo đảm QCN,
nhất là trong thời kỳ HNQT... Các công trình khoa học trên có ý nghĩa về mặt lý luận
và thực tiễn, gợi mở nhiều vấn đề để tác giả luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo
hướng mới.
Các giá trị khoa học của các công trình được luận án tiếp thu, kế thừa có chọn lọc
nhằm thực hiện được mục tiêu chính của luận án. Sau khi nghiên cứu các công trình
trên, tác giả luận án rút ra một số kết luận sau:
Một là, dựa trên kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm
QCN, các công trình khoa học đã đưa ra bức tranh chung về sự hình thành và phát triển
những vấn đề lý luận về QCN và thực tiễn bảo đảm QCN. Mặc dù cách tiếp cận và
luận giải khác nhau, nhưng các tác giả đều có chung quan điểm:
Thứ nhất, về khái niệm QCN, dù cách định nghĩa có khác nhau, song đều khẳng
định QCN là những nhu cầu tự nhiên, bẩm sinh, vốn có của con người để tồn tại với tư
cách là một "thực thể tự nhiên" và với tư cách là một thực thể xã hội, được nhà nước
thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật [58], [59], [61], [101], [138], [144]...
Thứ hai, về bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN, tuy
nhiên phần lớn đều tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc bảo đảm
QCN, còn việc định nghĩa thế nào là bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập.
Trong các tài liệu mà tác giả có điều kiện tham khảo, một vài công trình có đề cập đến
khái niệm bảo đảm QCN, song chủ yếu nhấn mạnh tới chủ thể có nghĩa vụ là nhà nước
còn các chủ thể khác chưa được đề cập đến [41], [99], [90], còn phân lớn các công
trình khác đều đề cập đến bảo đảm QCN từ góc độ phân tích về các cơ chế và điều kiện
đảm bảo QCN ở Việt Nam như bảo đảm về mặt pháp luật, bảo đảm về mặt chính sách,
hoàn thiện tổ chức bộ máy bảo đảm QCN... [17], [43], [52], [59], [91], [6],... Nhiều
công trình đề cập đến bảo đảm QCN thông qua việc phân tích, khái quát những thành
tựu và hạn chế về QCN mà Việt Nam đạt được [17], [19], [42], [91], [103]... Đây là
những tư liệu quan trọng để chúng tôi tiếp thu và tiếp tục làm sâu sắc hơn trong
Chương 2 và Chương 3 của Luận án.
24
Hai là, nhiều công trình tập trung phân tích tác động của TCH và HNQT đến
QCN và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh: TCH và HNQT
mở ra nhiều cơ hội cho mở rộng và thực thi QCN, song cũng đặt nhà nước trước nhiều
thách thức bởi việc tuân thủ các định chế quốc tế cùng với sự can thiệp của các tổ chức
quốc thế, các tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội dân sự...vai trò của nhà nước dường
như bị thu hẹp. Điều này đã và đang là trở ngại cho việc nâng cao tính hiệu quả của nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN. Kết quả nghiên cứu của các công trình này là tư liệu
quan trọng và hữu ích để luận án đề xuất cách tiếp cận mới cơ chế bảo đảm QCN trong
điều kiện HNQT [12], [22], [40], [54], [57], [70], [106]...
Ba là, nhiều công trình đã đi sâu phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của Nhà
nước Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Các nghiên cứu đi sâu lý giải tầm quan trọng
của nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực cao nhất và duy nhất có khả năng bảo
đảm QCN.
Do đó, Nhà nước phải được coi là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc tôn
trọng, bảo vệ và thực hiện QCN, kiềm chế, không can thiệp (cả trực tiếp và gián tiếp)
vào việc hưởng thụ các QCN đã được ghi nhận trong pháp luật; xây dựng các kế hoạch,
chương trình cụ thể để bảo đảm mọi công dân được hưởng thụ các QCN ở mức cao
nhất có thể; tổ chức thực hiện trên thực tế các biện pháp cụ thể bảo đảm QCN cho
người dân. Để thực hiện tốt các nghĩa vụ trên, nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp
luật bảo đảm QCN, xây dựng cơ chế bảo đảm QCN; xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác bảo vệ QCN; thực hiện các chính sách an sinh xã hội; tham gia hợp tác quốc
tế trên lĩnh vực QCN...
Những giá trị khoa học này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là tiền đề để
luận án phân tích sâu sắc hơn cơ sở triết học của vai trò nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN trong HNQT [20], [22], [36], [63], [65], [91], [120], [121]...
Bốn là, các công trình nghiên cứu đã đề xuất phương hướng, kiến nghị, giải pháp
quan trọng mà Nhà nước ta cần phải làm để thực hiện tốt nghĩa vụ bảo đảm QCN của
mình. Nhiều kiến nghị có giá trị khoa học và thiết thực cho các nhà hoạch định chính
sách, thực thi chính sách, các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, cơ quan nghiên
cứu, giảng dạy và các nhà khoa học như kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật mang tính đồng bộ về QCN; củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy
Nhà nước để bảo vệ QCN; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên
lĩnh vực QCN; thực hiện cải cách tư pháp; cải cách hành chính; phát triển kinh tế gắn
25
với bảo đảm QCN; tuyên truyền giáo dục QCN; tăng cường HTQT trên lĩnh vực
QCN... Đây là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất những giải pháp cơ
bản góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT [18], [20], [22], [54], [120], [126], [138]...
1.3.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã có nhiều đóng góp khoa học quan trọng
khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN, thực tiễn bảo đảm QCN,
tác động của TCH và HNQT đến QCN và Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm
QCN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT, nhất là tiếp cận dưới góc độ triết học thì hầu như chưa có.
Do đó, hướng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề này trong luận án là hoàn toàn
mới. Kế thừa những giá trị mà các công trình trước, luận án tiếp tục đi sâu phân tích
những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, phân tích đặc
trưng bản chất của QCN, các điều kiện bảo đảm QCN.
Thứ hai, luận án phân tích và luận giải về tầm quan trọng của nhà nước đối với
việc bảo đảm QCN; phân tích những biểu hiện cụ thể của vai trò nhà nước đối với việc
bảo đảm QCN; đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và khu vực trong
việc phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN làm cơ sở để so
sánh với việc bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam.
Thứ ba, luận án góp phần làm rõ khái niệm HNQT, quá trình HNQT của Việt
Nam, tác động HNQT đến QCN và Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm QCN.
Thứ tư, luận án đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của Nhà nước Việt Nam
đối với việc bảo đảm QCN, đánh giá những thành tựu đạt được, những hạn chế tồn tại
và nguyên nhân, cũng như những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với
việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT.
Thứ năm, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính
hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam
hiện nay.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng xác định rằng, đây là vấn đề rất mới và khó, nên
những kết quả nghiên cứu trong luận án chỉ là bước đầu, vấn đề này vẫn cần tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn trong những công trình tiếp theo.
26
Chương 2
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
2.1. QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
2.1.1. Quyền con người - một số vấn đề lý luận cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm quyền con người
Để làm rõ khái niệm bảo đảm QCN, trước tiên cần tìm hiểu QCN là gì? Cho đến
nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về QCN dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau,
điển hình là:
Từ phương diện pháp lý, Văn phòng Cao ủy LHQ định nghĩa: "Quyền con người
là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân
phẩm, sự được phép và tự do cơ bản của con người [151, tr.8].
Định nghĩa này được các nhà nghiên cứu trích dẫn khá phổ biến trong nhiều thập
kỷ qua. Cơ sở của định nghĩa này bắt ngồn từ Thuyết nhân quyền pháp lý (legal rights).
Theo Thuyết nhân quyền pháp lý, QCN không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một
cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm
pháp luật. Chẳng hạn, Jeremy Bentham trong tác phẩm "Phê phán học thuyết về các
quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng" (1843), khẳng định: ý tưởng về quyền tự
nhiên là vô nghĩa và chẳng có quyền nào không thể chuyển nhượng được. Quyền con
người là tất cả những gì mà nhà nước thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ
những gì pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì mới là QCN.
Xét về bản chất QCN, Thuyết nhân quyền pháp lý có điểm hợp lý là gắn QCN
với pháp luật, với nhà nước và thấy được vai trò quan trọng, tầm quan trọng của pháp
luật trong việc bảo vệ QCN "không có pháp luật thì không có quyền". Tuy nhiên, nếu
chỉ coi ý chí nhà nước là nguồn gốc của QCN, coi trọng tính hợp pháp của quyền mà
không quan tâm đến tính hợp lý của QCN (đó là những đòi hỏi, nhu cầu bẩm sinh, tự
nhiên, hợp lý của cuộc sống con người, coi nhẹ cơ sở giá trị của đạo đức, văn hóa…) sẽ
rơi vào chủ quan, siêu hình, biến QCN trở thành công cụ phục vụ giới cầm quyền, cổ
vũ tính quan liêu của bộ máy nhà nước.
Từ phương diện "Pháp quyền tự nhiên"(Natural rights), "nhân quyền là những
quyền bẩm sinh, vốn có của con người" [140, tr.1239]. Đó là "quyền tự nhiên và cố hữu
của con người" [150, tr.6], là "những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con
27
người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với những cá nhân và chính quyền"
[60, tr.12]. Các định nghĩa về QCN này bắt nguồn từ Thuyết pháp quyền tự nhiên thời
kỳ Phục Hưng. Theo học thuyết này, ở trạng thái tự nhiên, con người có các quyền tự
do, bình đẳng và tư hữu. Đó là các quyền bẩm sinh, vốn có được bắt nguồn từ "bản
chất muôn đời và bất biến của con người" [82, tr.80]. Trách nhiệm của nhà nước là phải
bảo đảm các quyền tự nhiên cho các công dân của họ. Bằng việc khẳng định các QCN
là tự nhiên, bẩm sinh, Thuyết pháp quyền tự nhiên thể hiện khát vọng của các thế lực
tiến bộ chống lại những bất công trong xã hội, đòi QCN. Tuy nhiên, nếu quá nhấn
mạnh tính tự nhiên của QCN dễ dẫn đến xem nhẹ nguồn gốc xã hội của QCN, không
thấy được tính lịch sử, tính giai cấp của QCN.
Từ phương diện chính trị- xã hội, học giả Trung Quốc, Lang Nghị Hoài cho rằng:
"quyền con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa
nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là một tồn tại xã hội" [49, tr.231].
Vấn đề "then chốt là ở chỗ phải gắn tiêu chuẩn quyền con người với những lý giải khác
nhau và tính đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi giai cấp" [49, tr.232]. Với cách tiếp cận
này, QCN không phải xuất phát từ bản năng mà chịu sự chi phối của chế độ xã hội.
Điểm hợp lý của quan niệm nhân quyền này là nhấn mạnh sự thừa nhận của xã hội và
lịch sử đấu tranh của con người giành lấy quyền của mình, song nếu quá nhấn mạnh
đến tính xã hội của QCN, dễ dẫn đến phủ nhận hoặc coi thường QCN với tư cách là
con người cá nhân, hòa tan giá trị cá nhân vào trong xã hội.
Từ phương diện đạo đức, nhân quyền được định nghĩa "là quyền lợi được thừa
nhận, bảo đảm rõ ràng về mặt pháp lý để mỗi cá nhân có thể được hưởng một cách độc
lập, đầy đủ, tự do nhất về các lĩnh vực cá tính, tinh thần, đạo đức" [142, tr.606].
Từ các cách tiếp cận trên cho thấy, QCN là vấn đề chính trị- xã hội phức tạp.
Nhận thức về QCN không chỉ phụ thuộc vào quan điểm chính trị, mà còn ảnh hưởng
sâu sắc truyền thống lịch sử, văn hóa của mỗi quốc gia. Thời gian qua, khi các nước
Phương Tây luôn có xu hướng đề cao quyền cá nhân, coi trọng tính tự nhiên của QCN,
xem quyền dân sự, chính trị là nội dung quan trọng, cốt lõi của QCN thì ở Phương
Đông lại đề cao quyền lợi của cộng đồng, nhấn mạnh đến tính lịch sử, xã hội của QCN,
coi trọng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của con người cũng như điều kiện để thực
hiện các quyền đó. Trong bối cảnh chưa có quan điểm thống nhất về QCN, có thể dẫn
đến những lý giải tùy tiện về nguồn gốc, bản chất của QCN. Vì vậy, để tránh lạm dụng
28
vấn đề QCN, cần phải có một quan niệm thống nhất. Để đạt được điều đó, theo chúng
tôi, trước hết phải dựa vào chủ nghĩa Mác - Lênin.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, con người tự phân biệt với con vật
nhờ có lao động, ngôn ngữ trong các quan hệ với tự nhiên và xã hội. Trong tác phẩm
"Hệ tư tưởng Đức", C.Mác viết: "Có thể phân biệt con người với con vật bằng ý thức,
bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu tự
phân biệt với con vật ngay khi bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình - một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định" [78, tr.24]. Thế giới tự nhiên đã
không thỏa mãn nhu cầu của con người, nên con người quyết định bằng hành động của
mình sáng tạo ra thiên nhiên thứ hai như một tồn tại xã hội cho con người, từ đó, con
người sáng tạo ra lịch sử và văn hóa, hình thành các quyền và nghĩa vụ trong đời sống
cộng đồng. Ở trạng thái ban đầu, các quyền là thái độ của con người coi những điều
kiện tự nhiên của sản xuất của mình như một cái gì thuộc về mình, đã có từ trước cùng
với sự tồn tại của bản thân mình [78, tr.145], do đó, cơ sở phát sinh quyền ở đây không
phải bắt nguồn từ khái niệm nảy sinh ra trong đầu óc con người như các nhà triết học
duy tâm quan niệm mà theo C.Mác, chúng "bắt nguồn từ quan hệ vật chất giữa người
với người và từ sự đấu tranh giữa người với người do quan hệ đó gây ra" [78, tr.458].
Trong xã hội nguyên thuỷ, chưa có sự phân hóa giàu nghèo, giai cấp, quyền và nghĩa
vụ con người là ngang bằng và thống nhất một cách tự nhiên. Với tư cách là chủ thể
của sản xuất, con người có những quyền nhất định được xã hội mà nó đang tồn tại công
nhận, mặt khác, với tư cách là thành viên của xã hội, con người phải thực hiện các
nghĩa vụ của mình nhằm duy trì sự tồn tại và cố kết cộng đồng. Chính sự thống nhất tự
nhiên này giúp con người tận dụng các năng lực của mình, hợp thành các yếu tố cơ bản
trong nhân cách con người cùng các giá trị chân, thiện, mỹ đã phát triển trong lịch sử.
Như vậy, con người có quan hệ với quyền của mình là nhằm xác lập những hành động
phù hợp với ý chí của họ, tác động làm thay đổi thế giới mà họ đang tồn tại và phát
triển và là yếu tố cần thiết để xác lập vị trí và đặc tính các hội của con người. Tuy
nhiên, trong điều kiện của xã hội đó thì "nhiều lắm cũng chỉ có thể nói về quyền bình
đẳng giữa những thành viên của cộng đồng, lẽ dĩ nhiên phụ nữ, nô lệ, người ngoại lai
đều không có quyền đó" [80, tr.149].
Sau này, khi xã hội có sự phân chia giai cấp, khi lực lượng sản xuất đã vượt ra
khỏi khuôn khổ của xã hội cộng sản nguyên thủy, phân công lao động phát triển, những
mây thuẫn và xung đột xã hội xuất hiện là cơ sở cho việc hình thành những hình thái xã
29
hội áp đặt và nô dịch người lao động. Bước tiến văn minh đầu tiên về tổ chức xã hội
được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà nước và cùng với quá trình này là thiết lập quyền
của chủ nô thống trị và tước đoạt quyền của người nô lệ. Giai cấp chủ nô được quyền
lựa chọn mục đích và phương tiện sản xuất, trái lại, người nô lệ luôn phải thực hiện ý
chí của giai cấp thống trị. Thời kỳ này mở đầu sự tha hóa về quyền và nghĩa vụ con
người. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác đã phân tích sâu sắc về sự tha hóa
và xem nó như một tất yếu lịch sử, được diễn ra trong tất cả các giai đoạn phát triển của
xã hội loài người kể từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp và đạt tới giai đoạn phát
triển toàn diện trong xã hội tư bản. Trong tha hóa, các quá trình sản xuất ra của cải vật
chất, kết quả của lao động, các thiết chế xã hội, cả nhà nước và thị trường..." đã trở
thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải
con người thống trị" [78, tr.47]. Sở dĩ có tình trạng trên vì con người không phải là một
cá nhân trừu tượng hay cô lập, mà là một động vật xã hội luôn gắn bó với một hệ thống
xã hội đang tồn tại, với một giai cấp, một dân tộc, một nhóm người hay một ngành
nghề xác định đang vận hành theo những quy luật riêng của nó. Do vậy, con người luôn
bị giới hạn và lệ thuộc vào xã hội. Trong hoàn cảnh đó, nhiều thế lực xã hội như chế độ
tư hữu, nhà nước của giai cấp bóc lột và các lực lượng chưa được kiểm soát được luôn
áp đặt con người trên cả phương diện kinh tế lẫn phương diện chính trị -xã hội. Trong
đời sống, "hoạt động của chúng chẳng những đối lập với ý chí loài người, mà trái lại
còn điều khiển ý chí ấy và hành động ấy" [78, tr.49]. Đó là những thời kỳ lịch sử con
người bị tước đoạt các quyền tự do và là nguồn gốc xã hội chủ yếu để các giai cấp bị áp
bức, các lực lượng tiến bộ đấu tranh đòi QCN, giành lấy địa vị xứng đáng là con người.
Tuy nhiên, trong sự phát triển của lịch sử, con người không chấp nhận sự lệ thuộc
và sự tha hóa như một định mệnh, mà con người luôn cố gắng vượt qua những trở ngại
nhờ hoạt động thực tiễn của mình. Ngay trong các trường hợp con người bị tước đoạt
nhiều nhất về các phương tiện hoạt động, thì nó vẫn chứa đựng khả năng của một
‘động vật chính trị" như Aristotle quan niệm hay khả năng làm thay đổi hoàn cảnh của
chính mình như C.Mác đã khẳng định trong "Luận cương về Feuerbach" và những khả
năng này càng được gia tăng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng
thành của giai cấp công nhân, của tri thức và văn hóa, nó giúp con người vượt qua giới
hạn của sự lệ thuộc và tha hóa. Trong quá trình này, những yêu sách về QCN bắt nguồn
từ phẩm giá con người và những giá trị bình đẳng, tự do đã sản sinh ra trong lịch sử tìm
được khả năng hiện thực hóa các quyền của mình trong những hành động tập thể của
30
các nhóm xã hội, các giai cấp, các đảng phái chính trị, nhằm vượt qua những hình thức
ép buộc và bất công, tổ chức xã hội theo đó mọi người đều có được cơ hội để phát triển
năng lực của mình, được lựa chọn những hành động có ý nghĩa cho chính họ và cho xã
hội. Vì vậy, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm nhân quyền luôn
gắn với các hành động tự giải phóng của các giai cấp bị áp bức, nó là sự xác nhận các
khả năng để con người khắc phục sự tước đoạt và tình trạng mất tự do trong tiến trình
lịch sử. Vì vậy, C.Mác khẳng định "quyền con người với tư cách là hiện thân của tự do"
[76, tr.183], hiện thân của ý thức và hành động đã giúp cho con người vượt qua sự lệ
thuộc, thực hiện sự phát triển toàn diện con người.
Từ phân tích trên, có thể khẳng định, QCN không có nguồn gốc thuần túy từ tự
nhiên "về nhân quyền, sự phê phán không nói ra điều nào có tính phê phán hơn điều
mà Hêghen nói, nhân quyền không phải là bẩm sinh, mà là sản sinh ra trong lịch sử"
[77, tr.173] và không phải được suy ra từ "ý niệm" mang tính chủ quan, trừu tượng mà
xuất phát từ bản chất xã hội của con người. Nó là một giá trị xã hội, mà con người
giành được để đi đến sự phát triển tự do, nó không chỉ liên quan đến kinh tế, mà còn có
quan hệ mật thiết với văn hóa, văn minh, thúc đẩy sự phát triển của xã hội phù hợp với
quy luật khách quan của lịch sử.
Trong đời sống hiện thực, QCN luôn tồn tại dưới hình thức các quyền tự do, bình
đẳng trên nhiều lĩnh vực liên quan đến sự mở rộng các khả năng đa dạng của con
người, nó là sự thống nhất biện chứng giữa khả năng xã hội và khả năng cá nhân trong
sự phát triển lịch sử, bởi "chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được phương tiện để
có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có những cộng
đồng mới có thể có tự do cá nhân" [76, tr.108]. Quyền tự do theo quan điểm Mác-xít
không phải là "một thứ tự do tuyệt đối của ý muốn" mà nó bao hàm một sự lựa chọn có
lý do - "sự phát triển tự do". Đó là sự phát triển phù hợp với phẩm giá con người, là sự
phát triển tuân theo quy luật khách quan của lịch sử.
Tiến trình phát triển của lịch sử, kể từ khi xuất hiện nhà nước và pháp luật, QCN
không chỉ tồn tại trong hình thức các tập quán xã hội, mà còn được xác lập trong các
hình thức pháp lý, trực tiếp phản ánh mối quan hệ giữa con người với quyền lực chính
trị của nhà nước. Với tư cách là một quan hệ pháp lý, QCN chính là sự thừa nhận xã
hội dưới hình thức pháp luật các quyền tự do được hình thành trong quá trình con
người tổ chức xã hội và phát triển năng lực của mình. Trong mối quan hệ này, pháp luật
đóng vai trò hợp pháp hoá ý nghĩa quan trọng về mặt đạo đức và lẽ phải các quyền tự
31
do được áp dụng phổ biến cho mọi người. Mặt khác, thông qua pháp luật, QCN xác lập
vị trí độc lập của nó trong quan hệ với quyền lực nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã
hội khác. C.Mác viết: "Tự do là cái vốn có của con người đến mức ngay cả kẻ thù của
tự do cũng thực hiện tự do... Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp tự do,
ngược lại luật pháp là tiêu chuẩn rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một sự tồn tại vô
ngã, mang tính lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ" [81,
tr.133-134]. Đây là dấu hiệu đặc trưng của khái niệm QCN, phân biệt với các khái niệm
khác có liên quan đến đời sống xã hội của con người như đạo đức, lòng từ thiện, nhu
cầu, lợi ích…Trong tác phẩm "Chủ nghĩa xã hội pháp lý" (1886), Ph.Ăngghen phân
tích về bản chất và đặc trưng của nhân quyền. Theo Ph.Ăngghen, xét về bản chất, QCN
là hiện thân của tự do, xuất phát từ con người hiện thực. Về đặc trưng, nhân quyền tồn
tại trong các hình thức, các chuẩn mực khách quan nhằm xác lập những hành động có ý
thức của xã hội hướng đến việc đáp ứng nhu cầu và phẩm giá của con người. Đây là sự
thống nhất giữa khách quan và chủ quan, giữa mục đích và phương tiện; giữa khả năng
và hiện thực, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Cách luận giải này cho
chúng ta thấy vai trò pháp luật trong việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người.
Từ sự trình bày trên, có thể nhận xét, khái niệm QCN trong quan niệm của chủ
nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất biện chứng giữa nhu cầu, năng lực vốn có của con
người với các hoạt động chính trị - thực tiễn của con người, khẳng định những phẩm
giá của con người và thúc đẩy sự phát triển xã hội phù hợp với phẩm giá con người.
Điều đó làm cho QCN đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, nó hợp thành nội dung cơ bản của sự phát triển toàn
diện, sự phát triển lấy con người làm trung tâm. Đây là mô hình nhân quyền tổng quát,
khả thi để triển khai và đánh giá các QCN của các cá nhân cũng như xã hội. Do đó,
chúng tôi cho rằng, quyền con người là một phạm trù chính trị- xã hội - lịch sử, phản
ánh nhu cầu, lợi ích, năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn
mực khách quan, được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định pháp luật.
Khái niệm QCN mà chúng tôi đưa ra thể hiện những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, QCN là những nhu cầu, lợi ích vốn có và cần phải có của con người
để tồn tại với tư cách là một "thực thể tự nhiên" (nhu cầu để sống, để sinh tồn) và
với tư cách là một "nhân tính tự do" (nhu cầu về sự phát triển năng lực vốn có của
bản thân, về sự hoàn thiện nhân cách). Các nhu cầu vốn có này áp dụng chung cho
tất cả mọi người mà không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính,
32
ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội
v.v... "Sự hiện diện các quyền con người phụ thuộc vào con người chứ không phải
phụ thuộc vào địa vị của họ trong nền văn hóa, hoàn cảnh hoặc hệ thống xã hội mà
họ đang sinh sống" [129, tr.16].
Thứ hai, các nhu cầu, lợi ích của con người mang tính thiết yếu và có mối quan
hệ thống nhất, không thể tách rời. Mức độ bảo đảm các nhu cầu, lợi ích này không phải
đều như nhau mà phải có thứ tự ưu tiên, nghĩa là có những nhu cầu cần phải bảo đảm
trước tiên để làm tiền đề, nền tảng cho việc thực hiện các nhu cầu khác. Chẳng hạn,
nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và thiết yếu của con người. Để bảo đảm được nhu
cầu sinh tồn (quyền sống), con người cần có thức ăn, nước uống, môi trường sống...Vì
thế, các QCN (với tính cách là những nhu cầu được xã hội thừa nhận) có mối quan hệ
biện chứng, quy định lẫn nhau, trong đó, có những quyền là tiền đề, là hạt nhân, là
chuẩn mực của việc thực hiện các quyền khác.
Thứ ba, những nhu cầu, năng lực, lợi ích này phải được xã hội thừa nhận và bảo
đảm thông qua các chế định pháp luật. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá
trị xã hội của QCN. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì
những nhu cầu, lợi ích vốn có của con người chưa trở thành quyền mà chỉ dừng lại ở
mong muốn, khát vọng mà thôi. Do đó, sự ghi nhận của pháp luật đã "khuôn" các nhu
cầu, lợi ích của con người vào điều kiện thực tế. Hơn nữa, việc ghi nhận của pháp luật
về các QCN còn thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác
(chính trị, kinh tế, văn hóa...). Các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật, thể hiện
dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên
qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy được vai trò của
mình trong việc bảo đảm QCN.
Để hiểu rõ hơn về QCN, chúng ta phân biệt: quyền con người và quyền công dân.
Đây là hai phạm trù gần nhưng không hoàn toàn đồng nhất.
Quyền công dân (citizen’ ringhts) chỉ gắn liền với sự xuất hiện của cách mạng tư
sản. Có thể khẳng định, cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại một giá trị nhân
văn to lớn là đưa con người từ những địa vị thần dân trở thành những công dân (với tư
cách là những thành viên bình đẳng của một nhà nước) và pháp điển hóa các quyền tự
nhiên của con người dưới hình thức các QCD trong pháp luật. Xét về bản chất, "quyền
công dân chính là quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công
dân của nước mình" [37, tr.21].
33
Quyền công dân là QCN trong một xã hội cụ thể, đứng trong một chế độ chính
trị, xã hội nhất định với hệ thống pháp luật cụ thể do nhà nước thừa nhận và quy định.
C.Mác khẳng định: "Droits de I’homme - nhân quyền khác với droits du citoyen -
quyền công dân nhà nước" [76, tr.549] và sự khác biệt của "cái gọi là nhân quyền,
droits de I’homme" với "droits du citoyen, chẳng qua chỉ là những quyền của thành
viên xã hội công dân" [76, tr.549]. Do đó, QCD là QCN với tư cách là thành viên của
cộng đồng chính trị, cộng đồng nhà nước. Nói cách khác, đó là những quyền chính
trị, những quyền cá nhân con người với tư cách là thành viên "xã hội công dân", còn
"quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người với tư cách là con người, là
thành viên của xã hội loài người" [123, tr.14].
Nếu như quyền công dân là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp luật địa vị
con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nước
chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước, thì QCN ở đây được biểu hiện
ra như một quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với xã hội (tức là con người được
hiểu là một thực thể xã hội) với môi trường xã hội (bao gồm cả lịch sử, văn hóa, các
quan hệ dân tộc, tôn giáo, quốc gia, nhân loại...). Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội, QCN bao hàm cả những quyền tự nhiên được xác định khi họ sinh ra và theo họ
trong suốt cuộc đời (quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do...).
Các quyền đó đóng vai trò "là cơ sở để xác định tính điều chỉnh, tự định đoạt của con
người, khả năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [141,
tr.22]. Trong mối quan hệ với cộng đồng nhân loại, QCN không chỉ bao gồm những
nhu cầu, lợi ích của con người được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia mà
còn là những nhu cầu, lợi ích được ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật quốc tế. Do
đó, phạm vi áp dụng của QCN không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch mà chủ thể của
QCN là tất cả các thành viên của loài người, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch... Nói
cách khác, QCN được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư
cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.
Một cá nhân con người (ngoại trừ những người không có quốc tịch), về hình thức
đồng thời là chủ thể của cả hai loại QCN và QCD. Sự phân biệt trong việc hưởng thụ
hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn, một
người nước ngoài sẽ không được hưởng một số QCD (và cũng là QCN) đặc thù như
quyền bầu cử, ứng cử như công dân của nước mà người đó sinh sống, làm việc, nhưng
34
người đó vẫn được hưởng các QCN phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công
dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại như: quyền sống, quyền tự do và an
ninh cá nhân...
2.1.1.2. Đặc trưng của quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, QCN có đặc trưng cơ bản sau:
Một là, QCN là quyền bẩm sinh, vốn có của con người. Quyền con người vừa
phản ánh nhu cầu tự nhiên, khách quan vừa thể hiện ý chí chủ quan của từng con người
và xã hội trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng và cá
nhân với nhà nước. Với tư cách là thành viên cá nhân trong xã hội, con người có khả
năng tự quyết định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không xâm phạm
đến quyền và lợi ích của người khác. Điều này có nghĩa rằng, mọi người đều có các
quyền bẩm sinh, thuộc sở hữu vốn có của con người mà đã là tự nhiên, bẩm sinh, vốn
có thì không thể bị xâm phạm, không thể được ban phát, chuyển nhượng, tước đoạt hay
hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà
nước, trừ một số trường hợp đặc biệt (như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị
tước đoạt quyền tự do) và càng không thể ban phát, chuyển nhượng quyền sống của
người này cho người khác, hoặc chuyển nhượng nhượng danh dự, nhân phẩm của
người này cho người khác...
Hai là, QCN mang giá trị "phổ biến, không chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau"
[134, tr.441]. Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài mang giá trị phổ biến,
là một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất, cao cả nhất kết tinh những giá trị
nhân văn của nhân loại. Đó là những giá trị được bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của
con người và được áp dụng cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại,
không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, độ tuổi, địa vị xã
hội....Do đó, "các quyền con người, không còn nghi ngờ gì nữa, là phổ biến" [149,
tr.1] và "Bản chất phổ cập của các quyền và tự do không có gì phải tranh cãi" [124,
tr.93]. Tính phổ biến của QCN đòi hỏi các nhà nước tuân thủ nghiêm túc các tiêu
chuẩn nhân quyền trong các Công ước quốc tế mà họ là thành viên. Các chính phủ
không được tùy tiện lựa chọn QCN nào thì thực hiện, QCN nào thì không, vì như
vậy, sẽ coi là không hoàn thành nghĩa vụ quốc gia.
Ba là, QCN mang tính lịch sử - cụ thể. Theo C.Mác, nhân quyền không phải là
bẩm sinh mà là sản phẩm mang tính lịch sử. Tính lịch sử - cụ thể của QCN trước hết
phụ thuộc vào truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc ở mỗi giai đoạn lịch sử
35
nhất định. Trên thực tế, sự khác biệt về văn hóa giữa phương Đông và phương Tây đã
hình thành nên những quan điểm khác nhau về QCN. Nếu như văn hóa phương Đông
thiên về xu hướng lấy cộng đồng làm bản vị, "mình vì mọi người, mọi người vì mình",
đã góp phần quan trọng cho việc hình thành các quyền tập thể, khẳng định quyền được
tôn trọng và bảo đảm các lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, cộng đồng thì văn hóa
phương Tây thiên về xu hướng lấy cá nhân con người làm trung tâm và coi đây là động
lực cơ bản để khẳng định và thúc đẩy các quyền và tự do cá nhân như quyền sở hữu,
quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận...
Tính lịch sử cụ - thể của QCN phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia. Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người nhưng trạng thái
và mức độ thỏa mãn quyền lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa
của mỗi quốc gia. Chủ nghĩa Mác cho rằng: QCN phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế và
chế độ chính trị, văn hóa, xã hội nhất định, đặc biệt là cơ sở kinh tế và phương thức thể
hiện quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Sự phát triển kinh tế là cơ sở phát triển
chính trị, luật học, triết học, tôn giáo, văn hóa... dẫn đến hậu quả tất yếu là: "Quyền
không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế
độ kinh tế đó quyết định" [79, tr.36]. Sự sản sinh, phát triển và mức độ bảo đảm QCN
đều dựa vào những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở và phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, xã hội đó. Chính trình độ phát triển kinh tế, xã hội quyết định
thước đo về lượng được hưởng của nhân quyền.
Tính lịch sử - cụ thể của QCN không chỉ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế
mà còn phụ thuộc vào chế độ chính trị nhà nước đó theo đuổi. Chẳng hạn, trong xã hội
Tư bản, xuất phát từ bản chất giai cấp, nhà nước tư sản quá đề cao quyền sở hữu (đồng
nghĩa với việc thừa nhận và bảo hộ cho chế độ người bóc lột người), do đó, không thể
có bình đẳng thật sự về quyền mà quyền bình đẳng ở đây xét về thực chất, chỉ là "bình
đẳng" hình thức mà thôi. Còn trong chủ nghĩa xã hội, với bản chất quyền lực chính trị
quyền lực của nhà nước thuộc về số đông, nên nhà nước XHCN đã tích cực đấu tranh
đòi quyền độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết cho hàng trăm dân tộc bị áp bức trên
thế giới và pháp điển hóa các quyền tập thể, các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa... vào
trong luật pháp quốc tế. Như vậy, lần đầu tiên dưới chủ nghĩa xã hội, một hệ thống cơ
chế và cơ sở vật chất đồng bộ nhằm bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cho
36
đông đảo quần chúng nhân dân đã được xây dựng và hình thành, cung cấp những kinh
nghiệm quý báu về việc bảo đảm các kinh tế, xã hội, văn hóa cho tất cả mọi người.
Bốn là, QCN vừa cần đến nhà nước, xác nhận vai trò của nhà nước trong việc tổ
chức xã hội, quản lý đất nước, vừa đặt ra các yêu cầu hạn chế và ngăn ngừa lạm dụng
quyền lực từ phía nhà nước. Một nhà nước độc lập có chủ quyền, thực thi chế độ dân
chủ và có thiết chế bảo đảm dân chủ thực sự cho công dân, có kỷ luật, kỷ cương đủ
mạnh và có hiệu lực, đảm bảo an ninh cá nhân và trật tự an toàn xã hội, đó là một nhà
nước tôn trọng QCN. Ngược lại, một nhà nước thiếu dân chủ, không tôn trọng kỷ
cương, pháp luật, lạm dụng quyền lực nhà nước vi phạm, hạn chế, kìm hãm sự phát
triển tự do và văn minh thì đó là một nhà nước độc tài, quan liêu. Ngày nay, không
thể tồn tại một nhà nước, một xã hội dân chủ mà vi phạm, hạn chế, thậm chí bóp
nghẹt nhân quyền và ngược lại, không thể coi là một quốc gia, một xã hội văn minh
khi các quyền và tự do cơ bản của con người trong xã hội không được tôn trọng và
bảo đảm. Do đó, nhà nước giữa vai trò nòng cốt trong việc chăm lo cho con người,
bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con người và "là công cụ thực hiện quyền lực
của nhân dân" [28, tr.44].
Năm là, QCN phải được bảo đảm bằng pháp luật. Thực tế cho thấy, bảo đảm
bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các QCN được thực
hiện. Trong quan hệ giữa nhà nước - pháp luật và quyền con người thì nhà nước và
pháp luật là công cụ, phương tiện để bảo đảm và thực hiện QCN. Những tư tưởng,
những khám phá về QCN chỉ là mong muốn, khát vọng nếu không được pháp luật ghi
nhận và được pháp luật bảo vệ. Pháp luật là chuẩn mực khách quan để ghi nhận và bảo
đảm QCN. Khi trở thành quyền pháp định, QCN là ý chí chung của toàn xã hội, được
xã hội phục tùng, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Quyền con người khi được pháp
luật ghi nhận sẽ trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào, kể cả các cơ quan, viên
chức nhà nước cao nhất. Pháp luật bảo vệ QCN còn có phương diện thứ hai, đó là sự
phối hợp của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng cơ chế pháp lý bảo vệ QCN.
"Quyền con người phải được bảo vệ bằng một chế độ pháp luật" [124, tr.61] đã trở
thành một nguyên tắc trong Luật nhân quyền quốc tế. Hiện nay, ở các nhà nước trên thế
giới, tuy mức độ và hình thức ghi nhận khác nhau, nhưng Hiến pháp các nước đều có
chế định về địa vị pháp lý của công dân. Dưới hiến pháp, có các văn bản pháp luật khác
nhau quy định QCN trên các lĩnh vực cụ thể. Điều này cho thấy vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm QCN.
37
2.1.2. Bảo đảm quyền con người
2.1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người
Trong các tài liệu về QCN ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ bảo "đảm quyền con
người" được nhắc đến khá nhiều, nhưng việc đưa ra khái niệm bảo đảm quyền con
người chưa có nhiều tài liệu đề cập đến. Để tìm hiểu về "bảo đảm quyền con người",
trước hết cần làm rõ khái niệm "bảo đảm".
Theo Từ điển tiếng Việt, "bảo đảm" là: Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ
gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để thực hiện được [93, tr.38]. Cách hiểu
này không khác với nguyên tắc bảo đảm pháp luật ở Việt Nam và luật nhân quyền quốc
tế. Chẳng hạn, Từ điển Luật học giải thích thuật ngữ bảo đảm pháp luật là "mọi quyền,
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân... đều được nhà nước bảo hộ bằng những
điều luật cụ thể trong các đạo luật cụ thể" [132, tr.28]. Do đó, nhà nước có trách nhiệm
bảo đảm các QCD đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều kiện
tốt nhất có thể để mọi công dân được hưởng các QCN của mình.
Về khái niệm "bảo đảm quyền con người", đến nay, có nhiều cách hiểu khác
nhau. Theo một số tài liệu của Liên hợp quốc thì cụm từ bảo đảm QCN hay được sử
dụng để chỉ ra nghĩa vụ của các chủ thể có trách nhiệm trong việc bảo vệ và thúc đẩy
các QCN. Lời nói đầu Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị và Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966) đều khẳng định: "theo Hiến
chương Liên Hợp Quốc thì các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ
các quyền và những tự do cơ bản của con người" [124, tr.230].
Ở Việt Nam, bảo đảm QCN được khẳng định trong Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2011-2020 của Đảng, đó là: "phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và
các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện"; "Nhà nước tôn trọng và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân" [33, tr.85]. Thuật ngữ bảo đảm QCN tiếp tục
được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân" (Điều 3). Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa bảo đảm QCN, nhưng tập hợp các ghi
nhận trên, có thể khẳng định được vai trò, tầm quan trọng của việc bảo đảm QCN đồng
thời chỉ ra nghĩa vụ của nhà nước là phải tôn trọng và bảo đảm QCN.
Tác giả Lê Thị Hồng Nhung, "Bảo đảm quyền con người là tạo ra các điều kiện
cho quyền con người được vận hành trong thực tiễn hoặc bảo vệ nó chống lại hành vi
xâm phạm quyền con người" [90, tr.182].
38
Từ góc độ luật học, tác giả Phạm Hồng Thái và Nguyễn Thị Thu Hương định
nghĩa: "Bảo đảm quyền con người là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh
tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện
được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận" [109, tr.1].
Theo các tác giả, bảo đảm QCN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính
quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức
thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội phải thực hiện để bảo đảm QCN và QCD. Các bảo đảm về pháp lý này rất
phong phú và đa dạng, trước hết là sự ghi nhận các QCN và QCD đến việc tạo ra các
điều kiện pháp lý, các điều kiện về tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách
bảo đảm các QCN và QCD.
Trong Giáo trình cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, "Bảo đảm quyền con người là việc các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện
pháp về lập pháp, hành pháp, tư pháp, kinh tế, thể chế…để hiện thực hóa các nguyên
tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động quản lý của nhà nước, trong các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc" [50, tr.384].
Định nghĩa này đã xác định được chủ thể bảo đảm QCN, đồng thời liệt kê được
khá đầy đủ về các điều kiện cần thiết, cách thức và biện pháp áp dụng của chủ thể có
nghĩa vụ trong việc bảo đảm QCN. Các biện pháp mà chủ thể bảo đảm QCN áp dụng
là lập pháp (ban hành luật), hành pháp (tổ chức thực thi pháp luật), tư pháp (áp dụng
pháp luật), thể chế (các quy tắc, quy chế được sử dụng để điều hành hoạt động của chủ
thể đạt được mục tiêu đề ra).
Tuy nhiên, với cách định nghĩa trên, chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm QCN đề cập
đến chủ yếu là nhà nước, còn các chủ thể khác hầu như chưa được đề cập. Theo chúng
tôi, việc bảo đảm QCN không chỉ có nhà nước mà còn có rất nhiều chủ thể khác (các tổ
chức quốc tế, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, gia đình, nhà trường, cá
nhân....) đều tham gia thực hiện ở các cấp độ khác nhau.
Ở cấp độ cá nhân, mỗi cá nhân đều là chủ thể QCN của mình, do đó, bảo vệ và
thực hiện QCN phải được coi trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Ở cấp độ cộng đồng, dù tồn tại dưới hình thức nào, gắn kết với nhau bằng yếu tố
nào, các cộng đồng đều phải có trách nhiệm bảo vệ và thực hiện QCN. Hoạt động bảo
vệ và thực hiện QCN có thể là những quy ước, quy tắc đạo đức, qua đó ý thức bảo vệ
QCN của các thành viên trong cộng đồng được nâng cao. Cấp độ địa phương được
39
hiểu là trách nhiệm bảo đảm QCN của các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và toàn
thể dân cư được phân bổ theo địa giới hành chính là cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh.
Bảo đảm ở cấp quốc gia, là trách nhiệm bảo vệ QCN của toàn bộ dân cư trong
quốc gia đó và Nhà nước là người thực hiện quản lý thống nhất về bảo đảm QCN
thông qua xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về QCN, tổ chức thực thi chính
sách, pháp luật về QCN, xây dựng và củng cố các thiết chế bảo vệ QCN, huy động sự
tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội trong bảo đảm QCN, tuyên truyền giáo dục
nâng cao nhận thức và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN. Ở cấp quốc tế, các quốc gia
đang nỗ lực hợp tác nhằm bảo đảm QCN toàn cầu. Các hội nghị quốc tế được tổ chức,
các tổ chức quốc tế đang được hình thành và các công ước, điều ước quốc tế về QCN
được ký kết là thành quả nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế...
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bảo đảm QCN ở trên,
chúng tôi cho rằng, bảo đảm quyền con người là việc các chủ thể (cá nhân, nhà nước,
các tổ chức chính trị, xã hội...) có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để hiện
thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người nhằm bảo vệ và thực thi hiệu
quả các quyền và tự do cơ bản của con người trong các hoạt động của mình, ngăn
ngừa sự lạm dụng, vi phạm quyền con người từ phía các chủ thể khác.
Với cách hiểu trên, theo chúng tôi, bảo đảm quyền con người bao hàm hai nội
dung cơ bản:
Thứ nhất, đó là những nguyên tắc, quy tắc, cách thức, thủ tục... để thúc đẩy và
bảo vệ QCN. Quyền con người có nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp do đó, để
thúc đẩy và bảo đảm QCN cần có những nguyên tắc, tiêu chuẩn, cách thức khác nhau.
Các nguyên tắc, tiêu chuẩn về QCN là nhân tố quan trọng, là điều kiện cần thiết để các
chủ thể thực hiện nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy QCN. Do đó, tính hiệu quả của việc bảo
đảm QCN phụ thuộc nhiều vào các nguyên tắc, tiêu chuẩn này.
Thứ hai, đó là các yếu tố, các chủ thể... tham gia vào việc thúc đẩy và bảo vệ
QCN. Việc bảo đảm QCN ngày nay phải gắn với những hoạt động có ý thức của các
chủ thể có nghĩa vụ nhằm đưa nguyên tắc về QCN (tính bất khả xâm phạm; bình đẳng
và không phân biệt đối xử, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau; trách nhiệm giải trình và
nhà nước pháp quyền...). Tiêu chuẩn về QCN là những tiêu chuẩn cơ bản, tối thiểu trên
từng lĩnh vực nhằm giúp mọi người đạt được cuộc sống trong nhân phẩm, danh dự,
như: không bị bắt và giam giữ vô cớ; không bị tra tấn, trừng phạt tàn nhẫn, vô nhân
đạo; có mức sống thỏa đáng về thể chất, tinh thần; được tiếp cận với các dịch vụ giáo
40
dục và chăm sóc sức khỏe...). Các nguyên tắc và tiêu chuẩn này phải được thấm sâu
vào các giai đoạn của quá trình hoạch định và thực thi luật pháp, trong mọi hoạt động
của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Trong điều kiện
hiện nay, bảo đảm các QCN, cần phải:
Bảo đảm về chính trị, chính trị là một trong bốn lĩnh vực của đời sống xã hội có
giai cấp liên quan mật thiết tới QCN. Đường lối chính trị của một quốc gia là nhằm bảo
vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển kinh tế phát triển, thực thi
dân chủ. Do đó, ổn định về chính trị có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm QCN.
Một nhà nước có nền chính trị ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi và vững chắc cho công
tác bảo bảo QCN và ngược lại, một nhà nước có nền chính trị bất ổn sẽ trở thành rào
cản cho việc bảo đảm QCN. Chính vì vậy, nhà nước phải xây dựng một xã hội có cơ
cấu tổ chức và chế độ chính trị hướng tới tôn trọng, bảo vệ QCN, tạo được một môi
trường chính trị ổn định làm tiền đề vững chắc cho việc bảo đảm và thực thi có hiệu
quả các QCN.
Bảo đảm về kinh tế, QCN có mối liên hệ mật thiết với kinh tế, bởi quyền không
thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Hơn nữa, bảo đảm tốt các QCN góp
phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển kinh tế. Do đó, trách nhiệm của nhà nước là phải
tạo ra những điều kiện kinh tế để người dân có thể có cuộc sống ngày một đầy đủ hơn
và khi quyền kinh tế được bảo đảm sẽ tạo động lực và cơ hội để bảo đảm các quyền và
tự do cơ bản khác của người dân.
Bảo đảm về văn hóa, văn hóa có mối quan hệ mật thiết với QCN, bảo đảm về
văn hóa là một trong các điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm QCN và là trách nhiệm
của nhà nước bởi lẽ, "văn hóa quyền con người có được sức mạnh lớn nhất từ những
mong muốn hiểu biết của mỗi cá nhân. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người thuộc về
nhà nước. Nhưng chính những hiểu biết, tôn trọng và mong muốn về quyền con
người của mỗi cá nhân đều là điều mang lại kết cấu và sức bật hàng ngày cho quyền
con người" [146, tr.27].
Bảo đảm về pháp luật, bảo đảm QCN bằng pháp luật là một nguyên tắc của nhà
nước pháp quyền. Để thực hiện nguyên tắc này, nhà nước là phải thể chế hóa các tiêu
chuẩn và nguyên tắc về QCN trong hiến pháp và pháp luật quốc gia. Do đó, xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là điều kiện và môi trường để tất cả mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật mà không có bất kỳ sự phân biệt, đối xử nào. Điều kiện bảo
41
đảm QCN ở mỗi nhà nước liên quan đến hàng loạt các lĩnh vực từ chính, kinh tế đến
hiến pháp, pháp luật và thực hiện dân chủ, nhất là thực tiễn thực thi pháp luật.
Bảo đảm về thể chế (institutions). Thể chế là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức và
các thủ tục (hay quy chế) hoạt động của các cơ quan có chức năng trong việc bảo vệ
và thúc đẩy QCN. Trách nhiệm của mỗi nhà nước là phải xây dựng thể chế bảo bảo
đảm QCN hoạt động hiệu quả theo hướng công khai, minh bạch, thực hiện có cơ chế
giám sát việc bảo đảm QCN phù hợp với yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ pháp luật, đạo đức có tinh thần trách
nhiệm cao, tận tuy phục vụ công tác bảo đảm QCN, xây dựng cơ chế huy động nguồn
lực tài chính một cách hợp lý từ ngân sách quốc gia, HTQT và của xã hội vào quá
trình bảo đảm QCN.
2.1.2.2. Tầm quan trọng của bảo đảm quyền con người
- Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế
Bảo đảm QCN trở thành nguyên tắc cơ bản, là mục tiêu cốt lõi của Luật nhân
quyền quốc tế và là một trong những nội dung quan trọng bậc nhất của các Hiến pháp
dân chủ trên thế giới. Điều 2, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966)
và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966) đều ghi nhận: Các
quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong
phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình các quyền đã được công nhận trong
Công ước này, không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ,
tôn giáo; nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân... Điều 1, Hiến
pháp Cộng hòa Liên bang Đức (1949), sửa đổi năm 1993 đã công nhận: Các quyền con
người cơ bản trong hiến pháp sẽ ràng buộc các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp
như luật có thể áp dụng trực tiếp.
Ở Việt Nam, vấn đề bảo đảm QCN đã được khẳng định từ Hiến pháp 1946 và
tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013. Điều 14, Hiến pháp
2013 của Việt Nam ghi nhận: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
- Bảo đảm quyền con người là một nội dung cơ bản của nguyên tắc tiến bộ và
công bằng xã hội.
Tiến bộ và công bằng xã hội là những giá trị nhân văn mang tính nguyên tắc của
các quá trình phát triển hiện nay. Trong điều kiện TCH và HNQT hiện nay, tăng trưởng
42
kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, gắn liền với trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, bảo đảm QCN trên
cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia là yêu cầu trọng tâm của các quốc gia.
Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ phức tạp và khó khăn. Sự tồn tại của tình trạng bất công
sâu sắc giữa các nhóm người, sự gia tăng của khoảng cách giàu nghèo, sự vi phạm
nghiêm trọng các QCN chẳng những là một thất bại xã hội mà còn tiềm ẩn nhiều
nguy cơ mâu thuẫn, xung đột, đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân
tộc. Nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là các hoạt động phát triển, đặc biệt là
phát triển kinh tế tách khỏi các hoạt động bảo đảm QCN cả về lý luận và thực tiễn.
Nhiều quốc gia trong khi theo đuổi các chiến lược phát triển đã bỏ qua các tiêu chuẩn
và nguyên tắc cơ bản về QCN trong xây dựng mục tiêu và triển khai các biện pháp
thúc đẩy phát triển, cũng như trong quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, chính
sách. Biểu hiện cụ thể của tình trạng này là xã hội thiếu các công cụ có tính pháp
quyền để bảo vệ các quyền bình đẳng, ngăn ngừa tình trạng phân biệt đối xử, đáp ứng
những đòi hỏi cơ bản và tối thiểu của người dân, nhất là các nhóm xã hội dễ tổn
thương. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, nhiệm vụ đặt ra
là: Phải bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; xây dựng các thể chế để nhân
dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo vệ thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, có khả năng bảo vệ và
giúp đỡ mọi thành viên xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua
khó khăn hoặc rủi ro trong đời sống [33, tr.288].
- Bảo đảm quyền con người là yêu cầu cơ bản của quá trình phát huy dân chủ và
xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Dân chủ, pháp quyền và QCN luôn có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau.
Bảo đảm QCN cần có dân chủ và pháp quyền, cũng như thực hiện pháp quyền và dân
chủ trong thời đại ngày nay đều có yêu cầu bảo đảm toàn bộ các QCN đã được pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra" [84, tr. 698]. Cụ
thể hóa quan điểm này, Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân… Cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn
43
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và cần thiết phải "có cơ chế cụ thể để nhân
dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Quan tâm hơn nữa việc chăm lo
hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam ký kết" [33, tr.238-239]. Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN, "bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của dân, do nhân dân và vì nhân
dân, do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích
chính đáng của mọi người dân [33, tr.246-247]. Như vậy, bảo đảm QCN là yêu cầu, nội
dung cơ bản của quá trình phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
ở Việt Nam.
2.2. NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI - TẦM
QUAN TRỌNG VÀ BIỂU HIỆN
2.2.1. Tầm quan trọng của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, ra
đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định cùng với những điều kiện kinh tế,
xã hội nhất định. Sự xuất hiện tồn tại của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là nguyên
nhân cơ bản dẫn đến sự khác biệt, mâu thuẫn về địa vị và lợi ích kinh tế, từ đó dẫn đến
sự khác biệt, mâu thuẫn về địa vị và lợi ích chính trị của các thành viên trong xã hội
làm nảy sinh xung đột giữa các thành viên, các nhóm lợi ích trong xã hội ngày càng sâu
sắc và nhà nước ra đời. Sự ra đời của nhà nước là một tất yếu lịch sử nhằm đáp ứng
nhu cầu được quản lý của chính xã hội và duy trì một trật tự xã hội theo ý chí và lợi ích
của giai cấp nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở bất cứ đâu và chừng nào
mà, "về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà
nước xuất hiện" [72, tr.10]. Điều đó có nghĩa là nhà nước "không phải là một quyền lực
từ bên ngoài áp đặt vào xã hội", mà là "một lực lượng nảy sinh từ xã hội", do nhu cầu
của chính con người để quản lý và điều hành xã hội, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm và
lợi ích hợp pháp của con người.
Theo Thomas Hobbes, ở trạng thái tự nhiên, không có nhà nước, con người rơi
vào trạng thái hỗn loạn của "cuộc chiến con người chống lại con người". Vì mục đích
an toàn hơn, con người phải từ bỏ trạng thái tự nhiên, thông qua khế ước xã hội để lập
nên nhà nước nhằm bảo vệ các giá trị về tự do, bình đẳng của con người, tức là không
đi đến tiêu diệt lẫn nhau "tình trạng nguyên thủy sẽ không còn nữa, loài người sẽ bị tiêu
diệt nếu họ không thay đổi cách sống...tìm ra một hình thức liên kết với nhau để dùng
44
sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên... Đó là vấn đề cơ bản mà khế ước đưa ra
cách giải quyết" [97, tr.66-67]. Để đạt được các mục tiêu này, mỗi người cần phải
nhượng quyền của mình, đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển của ý chí
chung. Đó là chủ quyền tối cao của nhân dân được thực hiện thông qua nhà nước và
phù hợp với nguyên tắc của khế ước xã hội. "Quyền hành thì có thể chuyển giao được,
nhưng ý chí thì không" [97, tr.79]. Sự vận hành của xã hội theo cơ chế này theo
J.Jacques Rousseau sẽ đưa đến những hệ quả quan trọng cho các quyền bình đẳng và
tự do như quyền tự do dân sự, quyền chiếm hữu tài sản, quyền của cá nhân gắn với
quyền của tập thể, cộng đồng, quyền được tham gia vào các quyết định tối cao, "đó là
quyền của người công dân không ai được xâm phạm" [97, tr.194].
Như vậy, nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt, là sản phẩm của xã hội
có giai cấp, là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, thể hiện
và thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, giai cấp nhân danh xã hội để điều hành,
quản lý xã hội, bảo đảm QCN thông qua pháp luật và các cơ chế thực hiện "chỉ có nhà
nước mới được độc quyền sử dụng vũ lực. Sự độc quyền cưỡng chế này được xã hội
thừa nhận và nó là hợp pháp" [147, tr.25]. Sự cưỡng chế "hợp pháp" này của nhà nước
được ghi nhận bằng pháp luật, nghĩa là nhà nước thực hiện quyền lực của mình thông
qua pháp luật và được bảo đảm bởi các thiết chế của nhà nước làm cho quyền lực nhà
nước có tính bắt buộc và cưỡng chế đối với xã hội để duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ các QCN, quyền tự do, dân chủ của nhân dân... Do đó, dù ở hình thức nhà nước nào,
bên cạnh việc duy trì bản chất giai cấp, nhà nước luôn giữ vai trò là người đại diện
chính của toàn xã hội, là trung tâm giải quyết các công việc chung của xã hội, bảo đảm
trật tự và ổn định xã hội, thực hiện những hoạt động nhất định phù hợp với yêu cầu của
xã hội nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội
trong chừng mực các lợi ích đó không quá mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Vì vậy, thực vai trò của nhà nước là điều chỉnh vấn đề lợi ích giữa các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội thông qua hệ thống pháp luật, nhằm duy trì cơ sở kinh tế của giai
cấp thống trị trong xã hội và để thực hiện chức năng xã hội của mình, chức năng "làm
dịu bớt xung đột" và "giữ cho xung đột đó nằm trong một trật tự nhất định", bảo đảm
sự ổn định chính trị - xã hội, điều kiện cơ bản, cần thiết cho việc bảo đảm QCN.
Chức năng bảo đảm QCN của nhà nước được thể hiện trên các phương diện hoạt
động của nhà nước tác động tới các lĩnh vực của đời sống xã hội liên quan đến QCN
như: ban hành pháp luật về QCN, tổ chức thực thi pháp luật về QCN, xây dựng các thể
45
chế bảo đảm QCN, điều tiết quá trình phát triển kinh tế, xã hội nhằm đảm bảo sự ổn
định xã hội và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội. Chức năng bảo
đảm QCN của nhà nước không ngừng được tăng cao theo xu hướng phát triển kinh tế,
xã hội, đặc biệt trong điều kiện HNQT hiện nay, trách nhiệm của nhà nước không chỉ
dừng lại ở việc giải quyết các công việc trong nội bộ của quốc gia mình như: phát triển
kinh tế, văn hóa, ổn định trật tự xã hội, bảo đảm QCN cho người dân ở quốc gia mình
mà còn phải giải quyết hàng loạt các vấn đề khác liên quan đến QCN và an ninh con
người ở khu vực và quốc tế, như: khủng bố; đói nghèo; dịch bệnh; di dân tự do giữa
các quốc gia; ô nhiễm môi trường; biến đổi khí hậu; nhân quyền và chủ quyền quốc
gia... Do đó, bảo vệ QCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước, nói cách khác, nhà
nước đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm QCN.
Nhà nước là rất cần thiết cho việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con
người. Sự tồn tại của nhà nước là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ nhu cầu xã hội:
"Nhà nước như một dịch vụ công. Nhân dân những người bị cai trị như khách hàng
phải đóng thuế để mua lại sự cai trị tốt nhất cho mình" [27, tr.49], do đó, "để phát triển
và tồn tại, con người rất cần đến nhà nước" [26, tr.37] và "cuộc sống mà không có nhà
nước hiệu lực để duy trì trật tự, thì rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn
ngủi" [26, tr.21].
Tầm quan trọng của nhà nước trong việc bảo đảm QCN đã được nhà triết học
Imanuenl Kant (1724-1804) khẳng định: "Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong
khuôn khổ pháp luật nhằm giải giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân. Nhà
nước ra đời nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hòa sự phát triển xã hội theo
hướng ngày càng hoàn thiện vì con người. Vì vậy, sứ mệnh của nhà nước nhằm phục
vụ con người" [145, tr.407]. Thomas Jeffersson, cho rằng "Nhà nước là phải đảm bảo
tự do và hạnh phúc cho mọi người; chính phủ, chế độ và pháp luật phải tôn trọng con
người" [82, tr.114]...
Theo luật quốc tế, nhà nước có nghĩa vụ hàng đầu trong bảo đảm QCN bởi chỉ
với vai trò, chức năng của mình, nhà nước là chủ thể duy nhất có nghĩa vụ phê chuẩn
hoặc tham gia các điều ước quốc tế về QCN, thực hành dân chủ và áp dụng nguyên tắc
pháp quyền trong quản lý xã hội nhằm làm cho mọi người được hưởng các quyền và tự
do cơ bản mà không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo... Ngoài ra, các tổ chức quốc tế, các đảng phái chính trị, các doanh
nghiệp, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, các cộng đồng, các gia đình,...
46
tùy theo vị thế của mình, cũng là các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền. Đặc trưng
của các tổ chức này là tính "không chính thức" so với chủ thể nhà nước, nhưng vẫn có
nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ và thực hiện QCN, đặc biệt đối với những nhóm người
dễ bị tổn thương.
Bảo đảm QCN trách nhiệm thuộc về nhiều chủ thể, song nhà nước có tầm quan
trọng đặc biệt bởi nhà nước là cơ quan đặc biệt, một bộ máy quyền lực công do nhân
dân ủy quyền và nhân dân thực hiện quyền lực của mình trên "nền tảng một nhà nước
thừa nhận và bảo vệ các quyền con người" [121, tr.120], đồng thời, là một tổ chức bộ
máy gồm hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương "tạo thành một
chỉnh thể của quyền lực nhà nước" [13, tr.53], cùng với các phương tiện vật chất kèm
theo như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù, nhằm thực thi quyền lực nhà nước. Vì vậy,
theo chúng tôi, tầm quan trọng của nhà nước trong việc bảo đảm QCN được thể hiện
thông qua sự khác biệt về chức năng và tổ chức hoạt động của nhà nước mà không chủ
thể nào có được. Đó là:
Thứ nhất, nhà nước ban hành pháp luật về quyền con người
Quyền con người về mặt pháp lý là các quyền phổ biến của tất cả mọi người song
việc thực hiện nó lại gắn liền với nhà nước và pháp luật. Pháp luật có vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm QCN, song pháp luật không phải tự nhiên mà nó gắn liền với sự ra
đời của nhà nước. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của nhà nước cũng
là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện
tượng có cùng bản chất, gắn bó hết sức mật thiết với nhau. Quyền lực nhà nước chỉ có
thể thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Nhà nước không thể tồn tại và
thực thi quyền lực nếu không có pháp luật, nhưng pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có
hiệu lực thi hành phải dựa vào sức mạnh của quyền lực nhà nước. V.I Lênin viết "ý chí,
nếu nó là ý chí của nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình thức một đạo luật do
chính quyền đặt ra: nếu không thế thì hai tiếng "ý chí" chỉ là một sự rung động không
khí do những âm thanh rỗng tuếch gây nên" [71, tr.340].
Với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, QCN không chỉ tồn tại trong hình thức
các tập quán xã hội, mà còn được xác lập trong các hình thức pháp lý, trực tiếp phản
ánh mối quan hệ giữa con người với quyền lực chính trị của nhà nước. Pháp luật gắn
liền với nhà nước, là sản phẩm hoạt động lập pháp của nhà nước. Để "xây dựng một
chế độ chính trị hoàn thiện, nhà nước cần ban hành pháp luật. Pháp luật không những
thể hiện bản chất chính trị của nhà nước mà còn là hiện thân của công lý, là lĩnh vực
47
thể hiện quyền lực chung và trợ giúp các công dân thỏa mãn các quyền tự do của mình"
[101, tr.17]. Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho pháp
luật được thực hiện theo nguyên tắc công khai, minh bạch, do đó, bảo đảm QCN bằng
pháp luật trở thành một nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.
Để thực hiện nguyên tắc này, nhà nước là phải thể chế hóa các tiêu chuẩn và
nguyên tắc về QCN trong hệ thống pháp luật quốc gia. Điều này đã được Hội luật gia
quốc tế khẳng định "pháp quyền không chỉ có nghĩa là việc sử dụng chính thức các
công cụ pháp lý, mà còn là nguyên tắc công bằng và bảo vệ tất cả các thành viên trong
xã hội trước việc sử dụng quyền lực quá mức" [146, tr.174].
Pháp luật "là công cụ bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội và mỗi người dân,
nhân dân muốn đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình phải tuân theo các quy định của
pháp luật" [34, tr.59]. Nó "không chỉ áp dụng bình đẳng cho mọi công dân, mà các cơ
quan nhà nước cũng phải là đối tượng điều chỉnh của luật pháp" [86, tr.127], đồng thời
là công cụ cao nhất để các chủ thể thực hiện trách nhiệm bảo vệ QCN của mình trong
phạm vi quốc gia và quốc tế. Với ý nghĩa đó, "nhà nước có trách nhiệm đứng ra tổ chức
xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật" [9, tr.140] và chỉ nhà nước mới là chủ thể có
đủ các quyền lực và các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này mà không chủ
thể nào thay thế được.
Thứ hai, nhà nước tạo ra các cơ chế bảo đảm quyền con người
Để bảo đảm và thực hiện QCN, cần có những cơ chế nhất định. Cơ chế bảo đảm
QCN được hiểu là tổng thể các thể chế, thiết chế do cộng đồng thế giới, khu vực và
quốc gia tạo ra nhằm bảo đảm, bảo vệ QCN trong thực tế.
Cơ chế bảo đảm QCN là tập hợp các nguyên tắc, phương thức, quy tắc, biện
pháp, các yếu tố, bộ phận tham gia vào việc bảo đảm các QCN. Hiện nay, cơ chế bảo
đảm QCN được thực hiện ở nhiều cấp độ: quốc tế có cơ chế nhân quyền của LHQ; khu
vực có cơ chế nhân quyền khu vực và quốc gia có cơ chế nhân quyền quốc gia. Trong
các cơ chế nhân quyền ở các cấp độ kể trên, cơ chế nhân quyền quốc gia giữ vị trí quan
trọng, bởi việc bảo đảm QCN ở các quốc gia phụ thuộc vào nhà nước, nói cách, nhà
nước có tầm quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm QCN.
Cơ chế quốc gia về thúc đẩy và bảo đảm QCN xuất phát từ việc thực hiện nghãi
vụ của nhà nước được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về QCN. Cơ chế quốc
gia bảo đảm QCN, nếu xét theo nghĩa rộng rất đa dạng. Về lý thuyết, các cơ quan nhà
nước có chức năng duy trì ổn định trật tự xã hội và bảo đảm QCN của người dân. Các
48
chính quyền dân chủ tồn tại để phục vụ nhân dân, do đó, các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp đều có chức năng bảo vệ QCN.
Theo nguyên tắc chung, các quốc gia đều có khả năng thực hiện một số quyền
nhất định và đồng thời là đối tượng của một số nghĩa vụ trong Luật quốc tế. Vì vậy, các
quốc gia sau khi là thành thành viên của một công ước nhân quyền đều phải có nghĩa
vụ thực hiện các cam kết đó. Đó là nghĩa vụ chuyển hóa các nguyên tắc và quy định
của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm tính tương thích và sự
phù hợp với mục tiêu các quy định của Công ước. Tiếp đến, phải thực hiện các biện
pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp, xây dựng các cơ chế quốc gia nhằm bảo đảm các
QCN trên thực tế (cơ chế tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN, cơ chế giám
sát, phản biện xã hội...).
Cơ chế bảo đảm nhân quyền quốc gia khá đa dạng căn cứ vào đặc thù về thể chế
chính trị của mỗi nước. Tại các nước tư bản, cơ chế nhân quyền quốc gia thể hiện ở sự
phân chia, kiềm chế giữa các nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và sự
tham gia của xã hội dân sự trong việc bảo vệ QCN. Ở các nước lựa chọn con đường
XHCN, bên cạnh những nỗ lực của chính quyền và tăng cường nền dân chủ XHCN,
việc bảo vệ QCN thuộc về quốc hội, một số cơ quan thuộc chính phủ, các tổ chức
chính trị, xã hội, nghề nghiệp thuộc hệ thống chính trị...
Như vậy, cơ chế bảo đảm QCN nảy sinh từ chính nhu cầu của xã hội loài người
qua thực tiễn đấu tranh cho công bằng và lẽ phải. Nó là sự bảo đảm bằng hành động
thiết thực nhất của nhà nước đối với cam kết bảo vệ công dân của chính mình. Vì vậy,
ở bất kỳ nơi đâu mà quyền và lợi ích cốt lõi của con người được thừa nhận thì ở đó, dù
là những mức độ và hình thức khác nhau, phải tồn tại một cơ chế thoả đáng để bảo đảm
cho điều đó trở thành sự thực. Đó là cách thức duy nhất để bảo đảm những quyền lợi
căn bản làm nên giá trị của chính bản thân mình được thực hiện một cách nghiêm túc
và đầy đủ mà không bị bị cản trở bởi chủ thể nào.
Với ý nghĩa như vậy, chỉ có nhà nước mới có đủ chức năng, thẩm quyền để tạo ra
cơ chế để bảo đảm QCN, nói cách khác cơ chế về QCN chỉ có thể được ban hành và
thực hiện bởi nhà nước mà không chủ thể nào làm thay được.
Thứ ba, nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế bảo đảm quyền con người.
Theo quan điểm của Mác, QCN có mối quan hệ mật thiết với trình độ phát triển
kinh tế. Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện
49
QCN. Nhưng muốn phát triển kinh tế yêu cầu đặt ra là phải có các chiến lược, kế hoạch
định hướng phát triển kinh tế, các chính sách phát triển và quản lý kinh tế, điều tiết sự
phát triển của nền kinh tế phù hợp với những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội,
đồng thời, đường lối chính sách, cơ chế phải được cụ thể hóa trong pháp luật.
Chính vì vậy, trong các chủ thể thực hiện nghĩa vụ bảo đảm QCN, chỉ có nhà
nước mới có đủ các quyền lực và các điều kiện cần thiết để điều tiết sự phát triển kinh
tế, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với mục tiêu ổn định xã hội, tạo điều kiện để mọi
người tiếp cận được nhiều quyền hơn (quyền lao động việc làm; quyền sản xuất kinh
doanh...) chứ không phải là đe dọa quyền.
Quản lý, điều tiết sự phát triển kinh tế là một chức năng quan trọng của nhà nước.
Đây là nhiệm khó khăn mà chỉ có nhà nước mới có đủ chức năng và khả năng để thực
hiện được. Thực tiễn cho thấy, nếu một nhà nước chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế
mà quên đi các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, phát triển kinh tế tách khỏi
các hoạt động bảo đảm QCN cả về lý luận và thực tiễn…khi đó, tổ chức bộ máy nhà
nước đó sẽ rơi vào tình trạng mất ổn định, chức năng quản lý, điều tiết kinh tế của nhà
nước không thực hiện được dẫn đến hệ quả tất yếu là nhà nước sẽ đối mặt với tình
trạng bất ổn về mặt xã hội, gia tăng của khoảng cách giàu nghèo, lợi ích nhóm, sự vi
phạm nghiêm trọng các QCN mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mâu thuẫn, xung đột, đe
dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc. Do đó, tăng trưởng kinh tế, điều
tiết phát triển kinh tế gắn liền với mục tiêu bảo vệ QCN là một nhiệm vụ quan trọng mà
không chủ thể nào làm thay được nhà nước.
Sự kết hợp giữa mục tiêu phát triển kinh tế và bảo đảm QCN là một yêu cầu tất
yếu và khách quan của mọi nhà nước. Đặc biệt trong điều kiện HNQT hiện nay, khi mà
vấn đề phát triển kinh tế gắn với bảo đảm QCN một cách bền vững đã trở thành mối
quan tâm và hợp tác của nhiều quốc gia, nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết sự
phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế, bảo đảm QCN trên các lĩnh vực: sản xuất,
kinh doanh; tiêu dùng; ô nhiễm môi trường; dịch bệnh....; bảo vệ quyền và lợi ích của
người lao động trong các doanh nghiệp nước ngoài; các công ty, các tập đoàn xuyên
quốc gia, đa quốc gia... Vì vậy, nhà nước càng trở nên quan trọng, cần thiết hơn bao giờ
hết trong việc can thiệp, điều tiết kinh tế, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm QCN cho
tất cả mọi người và chỉ có nhà nước với vai trò, chức năng của mình mới có đủ các
điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này.
50
Thứ tư, nhà nước thực hiện quản lý xã hội bảo đảm quyền con người
Để thực hiện chức năng quản lý xã hội, bảo đảm QCN, nhà nước phải đáp ứng
những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của nhân dân, như: bảo đảm môi trường xã hội,
bảo đảm an ninh lương thực, phúc lợi xã hội, xây dựng những công trình công cộng...
Ngoài ra, nhà nước còn có vai trò làm trọng tài giải quyết các mâu thuẫn, xung đột,
tranh chấp trong cộng đồng làm cho các bên xung đột lợi ích đi đến thỏa hiệp và giải
quyết mâu thuẫn nhằm bảo đảm trật tự, ổn định xã hội.
Để thực hiện chức năng xã hội, nhà nước phải thực hiện giải quyết các vấn đề xã
hội mang tính tổng thể vì lợi ích chung của toàn xã hội như: vấn đề lao động, việc làm;
văn hóa, giáo dục, y tế, an toàn xã hội, dịch vụ công cộng. Thông qua thực hiện chức
năng này, nhà nước bảo đảm những phúc lợi xã hội, tạo ra khả năng và cơ hội như nhau
cho mọi công dân đạt được những phúc lợi đó đồng thời có những biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của cộng đồng và
các thành viên trong cộng đồng. Bên cạnh đó, nhà nước phải chú trọng tới bộ phận dân
cư chịu thiệt thòi về mặt xã hội như: người nghèo, người có thu nhập thấp, người thất
nghiệp, người già yếu không nơi nương tựa, trẻ em lang thang, trẻ em mồ côi, thực hiện
chính sách bảo hiểm xã hội trên lĩnh vực y tế, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội...
Với chức năng quản lý xã hội của mình, nhà nước phải hoạch định chính sách
phúc lợi xã hội, đồng thời bằng sức mạnh của mình, nhà nước phải thông qua một loạt
các biện pháp công cộng để giảm thiểu và hạn chế đến mức tối đa những khó khăn về
kinh tế, xã hội cho công dân của nước mình, bảo đảm cho họ có một cuộc sống ổn định
hơn, đầy đủ hơn, tạo lập cho họ cơ hội để bình đẳng về kinh tế và chính trị trong xã hội.
Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm giữa vững ổn định xã hội, bảo vệ QCN của mọi nhà
nước, đặc biệt, trong thời đại ngày nay, khi mà con người đang phải đối mặt với những
vấn đề mang tính toàn cầu như: đói nghèo, bất bình đẳng giới, suy thoái tài nguyên, di
dân tự do, chiến tranh hạt nhân, khủng bố và bạo lực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế
giới thì nhà nước càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong việc quản lý xã hội,
bảo đảm QCN, nhất là ở tầm vĩ mô, chỉ có nhà nước mới đủ chức năng, thẩm quyền và
nghĩa vụ giải quyết.
Thứ năm, nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại bảo đảm quyền con người
Bảo vệ và thúc đẩy việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay không
chỉ trong khuôn khổ của mỗi quốc gia, mà cần sự đồng thuận giữa các nước trong khu
51
vực và trên thế giới, nhất là trên lĩnh vực môi trường, đói nghèo, bất bình đẳng giới,
phân biệt chủng tộc, sắc tộc, khủng bố, chiến tranh hạt nhân...
Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và truyền thông đã làm
cho các nước xích lại gần nhau song cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa đến hòa bình
và an ninh quốc gia... Do đó, chỉ có nhà nước mới đủ sức mạnh và thẩm quyền mở
rộng quan hệ quốc tế bảo vệ QCN. Đây cũng chính là thực hiện nghĩa vụ của mỗi quốc
gia đối với cộng đồng quốc tế. Do đó, HTQT là cơ hội để nhà nước tiếp thu những giá
trị tiến bộ về QCN, tiếp thu các kinh nghiệm của các nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN, khẳng định vị thế của mình với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tóm lại, nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo đảm QCN. Tầm
quan trọng đó được thể hiện thông qua các chức năng đặc biệt của nhà nước nhằm điều
chỉnh quá trình quản lý, hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội, an ninh quốc gia và
đối ngoại, thông qua các hệ thống các văn bản pháp lý, sự thực thi pháp luật và sự điều
hành, quản lý của nhà nước trên cơ sở hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của công dân,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và sự bình đẳng cho tất cả các thành viên trong xã
hội, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn với ổn định xã hội, bảo đảm
quyền con người một cách bền vững ở trong nước và trên phạm vi toàn thế giới.
2.2.2. Những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền
con người
Bảo vệ QCN trách nhiệm đầu tiên và trước hết thuộc về nhà nước. Tuy nhiên mỗi
giai đoạn lịch sử khác nhau, các chế độ chính trị khác nhau, biểu hiện của nhà nước đối
với việc bảo đảm QCN khác nhau. Theo Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
(CESCR), việc bảo đảm đầy đủ QCN đòi hỏi nhà nước phải thực hiện 3 nghĩa vụ cơ
bản: Tôn trọng, thực hiện và bảo vệ. Các nghĩa vụ này có mối quan hệ gắn bó, bổ sung
cho nhau và được thừa nhận ở nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.
Nghĩa vụ tôn trọng quyền con người (obligation to respect). Nghĩa vụ này đòi hỏi
nhà nước phải có các hành động: (1) Ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của con
người trong hệ thống pháp luật quốc gia; (2) Xây dựng những chuẩn mực cụ thể về
QCN trên các lĩnh vực dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa; (3) Thường xuyên
chú trọng nâng cao nhận thức cho công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân.
Nghĩa vụ bảo vệ quyền con người (obligation to protect). Nghĩa vụ này đòi hỏi
các nhà nước phải: (1) Kiềm chế và ngăn chặn sự vi phạm QCN từ phía các cơ quan
52
nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cá nhân; (2) Ngăn chặn tình trạng
phân biệt đối xử, hoặc sự hình thành các thế lực đe dọa QCN trên các lĩnh vực; (3) Xử
lý có hiệu quả những vi phạm về QCN; (4) Ngăn chặn, điều tra, xử lý, phục hồi các
quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường vi phạm bất cứ khi nào có thể.
Nghĩa vụ thực hiện quyền con người (obligation to fulfil) đòi hỏi nhà nước phải:
(1) Chủ động, tích cực xây dựng khung thể chế: tổ chức, bộ máy, con người nhằm làm
cho luật pháp và các chuẩn mực về QCN được hiện thực hóa trong cuộc sống; (2) Chú
trọng xây dựng các thiết chế hỗ trợ quá trình thực thi luật pháp về QCN; (3) Tạo môi
trường kinh tế thuận lợi, mang tính hỗ trợ cho việc tiếp cận nhiều quyền của các nhóm
xã hội, nhất là các nhóm dễ tổn thương; (4) Thiết lập và duy trì một cơ chế minh bạch,
hiệu quả để giám sát QCN ở cả khu vực công và khu vực tư.
Từ các nghĩa vụ trên, nhiệm vụ cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN
được thể hiện ở các lĩnh vực sau:
Một là, nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về quyền con người
Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN được thể hiện tập trung ở việc
hoạch định và ban hành chính sách, pháp luật về QCN bởi chính sách, pháp luật về
QCN vừa là những định hướng mang tính chiến lược, vừa là những công cụ, phương
tiện giúp nhà nước bảo đảm QCN hiệu quả. Chính vì vậy, trong quá trình hoạch định
các chính sách, pháp luật về QCN, nhà nước phải thực hiện điều chỉnh, quản lý và duy
trì sự cân bằng các lợi ích để phát triển kinh tế, ổn định xã hội theo hướng bảo đảm
ngày càng tốt hơn các QCN của công dân. Hiện nay, yêu cầu đặt ra với các chính sách,
pháp luật về QCN phải đảm bảo vừa là những định hướng cơ bản trong việc bảo đảm
QCN, vừa là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý, duy trì trật tự xã hội hiệu quả.
Hoạch định chính sách về quyền con người
Chính sách về QCN chiếm một vị trí quan trọng trong việc bảo đảm QCN. Trong
quá trình hoạch định chính sách về QCN, cần phải: xác định được mục tiêu cần đạt
được của chính sách, xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể thực hiện chính sách, xác
định các chủ thể thực hiện chính sách, thời gian thực hiện chính sách, xây dựng mạng
lưới giám sát, kiểm tra, đánh giá tác động của chính sách đến QCN... Nội dung của các
chính sách về QCN gắn với từng lĩnh vực cụ thể như: sở hữu đất đai, tự do kinh doanh,
giáo dục, y tế, văn hóa, lao động, việc làm, an sinh xã hội... Mục tiêu của các chính
sách là thúc đẩy việc bảo đảm QCN, thay đổi nhận thức của các chủ thể trong việc thực
thi chính sách, xây dựng pháp luật về QCN.
53
Hiện nay, xây chính sách về QCN cần tính đến những ảnh hưởng của những điều
kiện kinh tế, xã hội, văn hóa đến QCN, thể hiện nguyên tắc chủ đạo là thúc đẩy việc
thực hiện QCN, bảo vệ quyền và ích hợp pháp của con người, ngăn ngừa sự vi phạm
QCN từ phía các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Do đó, chính sách về QCN
là cơ sở quan trọng để các cơ quan, các tổ chức triển khai các hoạt động cụ thể của
mình, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội gắn với bảo đảm QCN.
Để xây dựng chính sách về QCN có tính hiệu quả cao, tất yếu phải có đề xuất
quản lý quy hoạch chính sách. Mục đích là nhằm tạo ra một khung pháp lý và tổ chức
cần thiết, tăng cường năng lực quản lý nhà nước, phát huy vai trò của các cơ quan và tổ
chức xã hội, tạo ra nguồn lực tài chính cần thiết, tổ chức hoạt động theo dõi, giám sát
việc thực hiện các nội dung chính sách đề ra. Hiệu quả của công tác quản lý nhà nước
về bảo đảm QCN phụ thuộc một phần quan trọng vào quá trình triển khai việc thực
hiện các chính sách bảo đảm QCN.
Do đó, yêu cầu đặt ra với các chính sách về QCN phù hợp với trình độ phát triển
kinh tế, xã hội, bảo đảm sự phù hợp với cơ chế quản lý nhà nước về QCN cũng như cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ chế báo cáo của tổ chức cá nhân và thanh
tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước, bảo đảm lợi ích của cá nhân, tổ chức, cộng đồng...
Như vậy, việc hoạch định chính sách về QCN là một trong những hoạt động quan trọng
của nhà nước để bảo đảm QCN. Tuy nhiên, nếu chỉ có các chính sách thì chưa đủ mà
việc bảo đảm QCN cần phải có một công cụ quan trọng khác, đó là pháp luật về QCN.
Ban hành pháp luật về quyền con người
Một trong những chức năng quan trọng nhất của bộ máy nhà nước là điều hành,
quản lý xã hội thông qua hiến pháp và luật. Pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà
nước ban hành hay thừa nhận, được bảo đảm và thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của
quyền lực tổ chức mang tính chất nhà nước, buộc các đối tượng phải thực hiện. Trong
nhà nước hiện đại, pháp luật "không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội mà còn là công cụ để nhân dân kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà
nước, công cụ để mọi công dân đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình"
[110, tr.68]. Pháp luật cũng chính là phương tiện để chính thức hóa các giá trị xã hội
của QCN. Pháp luật "nếu chỉ có vai trò là công cụ của nhà nước, hoặc chí ít là vai trò
thứ nhất của nhà nước… thì… pháp luật không cần thiết đối với nhà nước. Nhà nước
có thể quản lý xã hội không cần đến pháp luật, vì vậy, pháp luật trước hết là công cụ
54
của nhân dân. Nhân dân sử dụng pháp luật như một thứ công cụ hữu hiệu nhất để bảo
vệ mình" [25, tr.54-55].
Pháp luật về QCN là hệ thống các tiêu chuẩn, quy tắc về các hành vi, cách ứng xử
mang tính chất bắt buộc chung được nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều
chỉnh mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với các tổ chức; cá nhân
với nhà nước cũng như mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân; nhà nước với các tổ
chức và giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước hướng tới mục tiêu bảo đảm QCN
bền vững. Nó là sự thể hiên ý chí chung của mọi công dân, trong đó, các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân được ghi nhận trong các đạo luật cơ bản của nhà nước và có
cơ chế bảo đảm thực hiện. Hiện nay, hệ thống pháp luật về QCN ở các nhà nước gồm:
Luật quốc tế về QCN là tập hợp các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh
mối quan hệ giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ghi nhận, áp dụng các
nguyên tắc và tiểu chuẩn quốc tế về QCN nhằm bảo vệ và thúc đẩy các QCN ở cấp độ
quốc gia, khu vực và quốc tế. Luật quốc tế về QCN gồm các điều ước, hiệp định quốc
tế, các công ước do LHQ và các tổ chức của LHQ thông qua và có hiệu lực, như: Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội, văn hóa (1966) và nhiều công ước trên các lĩnh vực cụ thể như: Công ước về
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1979); Công ước về quyền trẻ em
(1989);... cùng nhiều nghị định thư bổ sung cho các công ước.
Xét về phạm vi áp dụng, luật quốc tế về QCN chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ
giữa các nhà nước và các tổ chức quốc tế, do đó, không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh
thổ quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nào đó, các quy
phạm của luật quốc tế về QCN cần phải được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật
quốc gia, nghĩa là nhà nước phải phê chuẩn các văn bản này.
- Luật quốc gia về QCN là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp
lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể áp
dụng hoặc thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác, nhằm bảo
đảm hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Pháp luật quốc gia về QCN
gồm hiến pháp, các luật và bộ luật về QCN ở từng lĩnh vực cụ thể.
Ban hành hiến pháp, hiến pháp là đạo luật quan trọng nhất của pháp luật, "là văn
bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện
một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển" [74,
tr.77], ghi nhận ý chí của nhân dân, xác lập một cách đầy đủ nhất và cao nhất ý chí và
nguyện vọng của người dân. Hiến pháp là sự thể hiện quan điểm chính trị của nhà nước
55
về bảo vệ QCN, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường trách nhiệm
và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong việc bảo đảm QCN.
Ban hành luật, trên cơ sở hiến pháp, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về
QCN trên từng lĩnh vực cụ thể. Pháp luật về QCN trở thành công cụ để các cấp chính
quyền, các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về QCN, các tổ chức chính
trị xã hội tuân thủ và thực hiện. Các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tổ chức thực
thi pháp luật, hướng dẫn người dân tuân thủ pháp luật, kiểm tra, đánh giá việc chấp
hành pháp luật về QCN của các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm kịp thời
ngăn chặn những biểu hiệu vi phạm QCN.
Như vậy, hoạch định chính sách, pháp luật là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN. Chính sách, pháp luật về QCN phải
gắn với điều kiện về kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước, phù hợp với các điều ước
quốc tế mà quốc gia đã cam kết thực hiện. Do vậy, các chính sách, pháp luật về QCN
càng rõ ràng, cụ thể, đồng bộ, phù hợp với thực tế thì nó sẽ đi vào cuộc sống, và thực
hiện hiệu quả. Ngược lại, các chính sách, pháp luật về QCN mà xa rời với thực tế,
chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì sẽ khó khăn trong tổ chức triển khai thực hiện, dẫn đến
hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực QCN đạt hiệu quả không cao.
Hai là, nhà nước tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người
Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật có thể hiểu là toàn bộ quá trình chuyển hóa
cách ứng xử của chủ thể thành hiện thực đối với các đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu định hướng đề ra. Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hóa chính sách, pháp luật về QCN vào cuộc
sống, khẳng định tính đúng đắn của chính sách, pháp luật. Do đó, việc tổ chức thực thi
chính sách, pháp luật về QCN có ý nghĩa quyết định tới việc thành công hay thất bại
của một chính sách hay một văn bản luật. Để tổ chức thực thi chính sách, pháp luật có
hiệu quả, nhiệm vụ đặt ra với nhà nước là:
Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, pháp luật. Đây là bước quan
trọng nhất làm cơ sở cho các công việc tiếp theo. Kế hoạch này bao gồm kế hoạch tổ
chức, điều hành thực hiện chính sách, pháp luật; kế hoạch cung cấp các nguồn lực; kế
hoạch thời gian kiểm tra thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật,... Như vậy, xây dựng kế hoạch thực thi chính sách, pháp luật nói
chung, về QCN nói riêng là khâu quan trọng và là căn cứ để các cấp, các ngành triển
khai tổ chức thực hiện.
56
Phân công, phối hợp thực hiện chính sách, pháp luật. Trong thực tiễn, việc triển
khai thực thi chính sách cụ thể nào đó, cần phải xác định trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật, phân định rõ cơ quan
chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện. Đây là khâu quan trọng trong việc tổ chức
thực thi chính sách, pháp luật.
Kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật
Kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về QCN là khâu quan
trọng trong tổ chức thực thi chính sách pháp luật về QCN. Chính sách, pháp luật về
QCN có phù hợp với thực tiễn hay không, thực hiện có đúng hay không, đáp ứng
được mục tiêu yêu cầu đặt ra hay không, có cần điều chỉnh, bổ sung hay không thì
kiểm tra, giám sát thực hiện chức năng này. Mục đích của việc kiểm tra, giám sát việc
thực thi chính sách pháp luật nhằm: một là, kiểm tra, giám sát động của các tổ chức
nhà nước, tổ chức kinh tế và công dân đúng pháp luật, bảo đảm các chính sách, pháp
luật về QCN thực hiện đúng hướng đích; hai là, phát hiện điểm bất hợp lý, sai trái
trong tổ chức thực hiện để kịp thời điều chỉnh hoặc kiến nghị việc điều chỉnh cơ chế
chính sách, pháp luật và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền
lực nhà nước được vận hành có hiệu quả và khoa học. Có nhiều hình thức kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về QCN (giám sát trong hệ thống bộ
máy nhà nước và giám sát xã hội là giám sát của tổ chức chính trị, xã hội, giám sát
của nhân dân, của cá nhân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ
quan, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước).
Như vậy, tổ chức thực thì chính sách là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời
gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước
triển khai thực hiện chính sách, pháp luật một cách chủ động. Đây là nhiệm vụ quan
trọng của nhà nước, làm cho chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống.
Ba là, nhà nước xây dựng, hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, con người là "con người hiện thực" mang tính xã
hội, gắn với các hệ thống xã hội đang tồn tại. Xã hội và quốc gia, dân tộc là môi trường
tồn tại cơ bản của con người, đồng thời con người hiện thực dựa vào xã hội đó để tồn
tại và phát triển. Do đó, mọi hoạt động của con người không phải là ngẫu nhiên, bất kỳ
mà phải nó tuân theo một trật tự nhất định để duy trì một tổ chức nhất định. Vì vậy, nhà
nước cần phải xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm QCN nhằm phát huy hiệu
quả, hiệu lực của nhà nước trong việc bảo vệ, thực thi QCN. Trong các nhà nước hiện
57
đại, các thiết chế bảo đảm QCN, gồm: (1) Nhóm các cơ quan có chức năng trực tiếp
trong việc bảo đảm QCN (Ủy ban nhân quyền quốc gia, các cơ quan nghiên cứu, giảng
dạy về QCN...); (2) Nhóm các cơ quan có mối quan tâm đặc biệt đến bảo đảm QCN
trong phạm vi thẩm quyền của họ (các nghị viện/quốc hội; các cơ quan thuộc chính phủ
có lĩnh vực hoạt động liên quan đến QCN...). Theo nguyên tắc phân công trách nhiệm
trên, cả hai nhóm cơ quan có chức năng trực tiếp và cơ quan có mối quan tâm đặc biệt
đến việc bảo đảm QCN phải liên hệ, cộng tác chặt chẽ và trợ giúp lẫn nhau để thực
hiện việc quản lý, tổ chức và thực thi QCN có hiệu quả.
Một trong những vấn đề quan trọng việc xây dựng và củng cố các thiết chế bảo
vệ QCN, phát huy vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN là công tác cán bộ.
Bởi lẽ, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém" [84, tr.269]. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho công tác cán bộ là phải lựa
chọn được những cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ
từng giai đoạn, từng thời kỳ. Hiện nay, yêu cầu đối với người cán bộ không chỉ có
phẩm chất về đạo đức mà phải có năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức,thực thi chính
sách, pháp luật, đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công hay thất bại của việc bảo đảm QCN. Vì vậy, việc bảo đảm QCN của nhà nước
phụ thuộc nhiều vào con người, vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý nhà nước về bảo đảm QCN, nhất là những cán bộ trực tiếp làm nhiệm
vụ hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật về QCN. Một đội ngũ cán bộ có phẩm
chất, năng lực tốt mới có thể đề ra được chiến lược, chính sách, pháp luật về QCN đúng
đắn, phù hợp với các quy luật khách quan, từ đó, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật về QCN và hoàn thiện các thiết chế bảo vệ QCN. Do đó, việc xây dựng
đội ngũ cán bộ có ý nghĩa quyết định tới sự thành công hay thất bại của nhà nước trong
việc hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN.
Hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN, nhà nước chú trọng tới việc phát huy vai
trò của các tổ chức chính trị xã hội bảo đảm QCN. Để làm được điều này, nhà nước
phải thể chế hóa quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức chính trị, xã hội trong bảo vệ
QCN trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành. Đồng thời, có cơ chế phát huy sức
mạnh của các tổ chức chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, giáo dục về QCN cho
mọi tầng lớp trong xã hội.
58
Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm QCN đòi hỏi sự tham gia của rất
nhiều chủ thể khác nhau, song việc tổ chức, điều hành hoạt động của các tổ chức đó
theo một trật tự thống nhất cùng vì mục tiêu chung thì chỉ có nhà nước mới đủ khả
năng, nguồn lực và thẩm quyền pháp lý để thực hiện công việc này. Do đó, nhà
nướcphải huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp bảo vệ,
thúc đẩy, kiểm tra, giám sát việc thực hiện QCN và tuyên truyền giáo dục nâng cao
nhận thức về QCN là rất cần thiết trong việc bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia.
Bốn là, nhà nước tham gia hợp tác quốc tế về quyền con người
Hợp tác quốc tế là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước với mục tiêu phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện hiện nay,
HTQT về QCN cần có sự tham gia của nhiều chủ thể, từ các cá nhân, các tổ chức chính
trị, xã hội, nghề nghiệp, các chính phủ, trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng,
quyết định. Mỗi nhà nước khi tham gia hợp tác quốc tế về QCN cần thực hiện nhiều
nghĩa vụ, trong đó có: (1) Ký kết, phê chuẩn các công ước quốc tế và khu vực về QCN;
(2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo các nguyên tắc của các công ước, điều
ước quốc tế mà nhà nước đó là thành viên; (3) Xây dựng các cơ chế giám sát và thực
thi công ước quốc tế về QCN cũng như cơ chế quốc gia về QCN; (4) Xây dựng các báo
cáo quốc gia về việc thực hiện nghĩa vụ đối với các công ước quốc tế về QCN theo yêu
cầu của các ủy ban của các công ước; (5) Tiếp nhận và trả lời các kháng thư, tiếp nhận
và xử lý những bình luận, khuyến nghị chung của những phiên họp ủy ban; (6) Tham
gia đối thoại với các nhà nước, các tổ chức về QCN để tăng cường hiểu biết giữa các
quốc gia và các tổ chức khác nhau...
Với những nhiệm vụ quan trọng nêu trên, có thể khẳng định nhà nước là chủ thể
chính, có vai trò quan trọng, quyết định trong thực hiện HTQT về QCN bởi chỉ có nhà
nước mới có đủ tư cách pháp lý để đàm phán, tham gia, ký kết và phê chuẩn các công
ước,điều ước, hiệp định quốc tế và khu vực về QCN. Đồng thời chỉ có nhà nước mới
có đủ điều kiện và nguồn lực về tài chính, con người, phương tiện...để thực hiện các
cam về trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia thành viên, tổ chức thực thi các công ước,
điều ước quốc tế, khu vực về QCN mà họ là thành viên còn các chủ thể khác không có
thẩm quyền pháp lý và nguồn lực để giải quyết.
Hiện nay, HTQT về QCN không những đòi hỏi vai trò của nhà nước với tính cách
là chủ thể quan trọng nhất của quá trình hợp tác mà còn phải có một nhà nước năng lực
và hiệu quả với một tổ chức bộ máy tinh gọn, với đội ngũ cán bộ chất lượng cao mới
đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ HTQT về QCN, bảo vệ được quyền và lợi ích
59
hợp pháp của con người, đáp ứng yêu cầu của HNQT và hạn chế những tác động tiêu
cực về QCN do HNQT mang lại.
Các nhiệm vụ bảo vệ QCN của nhà nước nêu trên đang được hầu hết các quốc
gia trên thế giới thực hiện, trong đó có một số quốc gia mà tác giả có điều kiện nghiên
cứu. Chẳng hạn, Thụy Điển là một quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ
QCN. Với nguyên tắc "mọi sức mạnh đều bắt nguồn từ nhân dân"; "tất cả quyền lực xã
hội đều xuất phát từ nhân dân", nhà nước Thụy Điển đã tập trung xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật về QCN; tham gia ký kết hầu hết các điều ước quốc tế về; sửa
đổi hiến pháp, ban hành nhiều đạo luật quan trọng để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản
của công dân như: Đạo luật về quyền thừa kế; Luật về tự do báo chí; Luật cơ bản về
các quyền tự do biểu đạt…Nhà nước Thụy Điển đặc biệt chú trọng tới hoạch định các
đề xuất chính sách về giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội bảo đảm các QCN cho người dân,
nhất là quyền của nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người
già, người thất nghiệp, người di cư...).
Về tổ chức bộ máy, Thụy Điển, không có tòa án hiến pháp và không có cơ quan
chuyên trách về QCN mà được giao về các ủy ban của Quốc hội: Ủy ban hiến pháp; Ủy
ban phúc lợi và sức khỏe; Ủy ban bảo hiểm xã hội; Ủy ban tư pháp; Ủy ban giáo dục; Ủy
ban trẻ em; Ủy ban đối ngoại…Các ủy ban này có nhiệm vụ thực hiện và giải quyết các
vấn đề QCN trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Để bảo vệ các
QCN của công dân, hạn chế sự vi phạm quyền lực từ phía các cơ quan nhà nước, Thụy
Điển thành lập cơ quan chuyên trách về QCN, có tên là "Ombusdsman" (cơ quan thanh
tra của quốc hội). Đây là cơ quan độc lập để bảo vệ quyền của công dân khi họ phát hiện
ra bất cứ một sự lạm dụng quyền lực nào đối với cá nhân. Để bảo đảm các QCN, nhà
nước Thụy Điển đặc biệt chú trọng tới HTQT về nhân quyền. Chương trình hợp tác phát
triển về QCN được mở rộng ra ở nhiều quốc gia với mục tiêu bảo vệ và thúc đẩy QCN,
thúc đẩy sự bình đẳng nam nữ; bảo vệ quyền của nhóm dễ tổn thương…
In-đô-nê-xi-a là một quốc gia Đông Nam Á có nhiều chính sách và biện pháp cụ
thể để bảo vệ QCN. Nhà nước In-đô-nê-xi-a đặc biệt chú trọng tới việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, công cụ quan trọng bảo đảm hiệu quả QCN. Để thực hiện tốt điều này,
Chính phủ In-đô-nê-xi-a đã tiến hành sửa đổi hiến pháp và thông qua nhiều đạo luật
quan trọng về QCN: Luật về QCN; Luật về tự do phát biểu ý kiến; Luật giáo dục; Luật
bảo vệ trẻ em; Luật lập hội công đoàn; Luật việc làm; Luật loại bỏ bạo lực gia đình;
Luật bảo vệ công nhân nhập cư cùng nhiều đạo luật và sắc lệnh khác. Đồng thời, Chính
60
phủ In-đô-nê-xi-a chú trọng tới việc đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước bảo
đảm tốt hơn các QCN như: thành lập Tòa án hiến pháp nhằm xem xét tính hợp hiến của
các đạo luật được ban hành; thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia để tư vấn cho chính
phủ việc gia nhập, phê chuẩn các điều ước quốc tế về QCN; đề xuất bổ sung hoặc hủy
bỏ đạo luật nào đó liên quan đến QCN; tư vấn các biện pháp bảo vệ, thực thi và thúc
đẩy QCN; điều tra các vi phạm về QCN; tuyên truyền các nguyên tắc về QCN; thực
hiện HTQT về QCN…
Kenya là một quốc gia thuộc Châu Phi có nhiều chính sách và biện pháp cụ thể
để bảo vệ QCN. Chính phủ Kenya cho rằng, để thống nhất giữa ý chí và hành động của
các tầng lớp xã hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy QCN, vấn đề đầu tiên phải tăng
cường vai trò của của nhà nước trong bảo vệ QCN bằng nhiều biện pháp cụ thể như:
hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; đổi mới tổ chức bộ máy hoạt động của các cơ
quan nhà nước; thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia. Ủy ban này có nhiệm vụ thúc
đẩy, bảo vệ QCN theo quy định của Hiến pháp và quy định của Công ước quốc tế về
QCN mà Kenya tham gia. Ủy ban cũng có nhiệm vụ chủ động điều tra hoặc dựa trên
khiếu nại về các vụ việc vi phạm QCN; tuyên truyền nâng cao nhận thức của công
chúng về QCN; đưa ra khuyến nghị cho Quốc hội về các biện pháp hiệu quả để thúc
đẩy QCN; tư vấn, giám sát thực hiện các chương trình giáo dục nâng cao nhận thức của
người dân về quyền và nghĩa vụ của họ; tư vấn, giám sát hoạt động của chính phủ trong
việc thực hiện các chiến lược phát triển quốc gia; phối hợp với các cơ chế khác nhằm
thúc đẩy và bảo vệ QCN…
Trung Quốc là quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ QCN. Kể từ khi
thực hiện chính sách cải cách và mở cửa vào cuối những năm 1970, Trung Quốc đã có
nhiều chính sách và biện pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc
bảo vệ QCN như: xây dựng hệ thống các quan điểm về QCN, trong đó nhấn mạnh việc
tôn trọng và bảo đảm QCN trách nhiệm của nhà nước và là công việc nội bộ của mỗi
quốc gia. Đồng thời, chính phủ Trung Quốc đã triển khai một loạt các biện pháp cụ thể
để bảo đảm tốt hơn QCN như: tham gia ký và phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế về
QCN; hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN. Từ năm 1990 đến nay, Trung Quốc đã ba
lần sửa đổi hiến pháp vào các năm 1993; 1999 và 2004; sửa đổi và ban hành nhiều đạo
luật quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm và thực thi các QCN của công dân
như Luật dân sự; Luật hình sự; Luật hôn nhân gia đình; Luật chống độc quyền; Luật về
quyền sở hữu; Luật doanh nghiệp; Luật khiếu nại, tố cáo…Từ năm 1990 đến nay, quốc
61
hội Trung Quốc đã sửa đổi trên 300 luật và pháp lệnh, ban hành nhiều đạo luật mới bảo
đảm tốt hơn các QCN của công dân. Bên cạnh việc hoàn thiện quy trình lập pháp,
chính phủ Trung Quốc chú trọng đổi mới hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư
pháp. Các thiết chế bảo đảm QCN ở Trung Quốc được củng cố nhất là thiết chế tư
pháp. Đặc biệt, tháng 3/2009, chính phủ Trung Quốc phê duyệt "Kế hoạch hành động
về nhân quyền", trong đó, nhấn mạnh việc bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa kinh tế
và QCN; bảo đảm quyền của nhóm người dễ tổn thương; đẩy mạnh giáo dục về QCN
và thực hiện nghĩa vụ quốc tế về QCN.
Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh việc nghiên cứu, giảng dạy QCN
bằng cách thành lập các hội, các trung tâm nghiên cứu QCN ở các trường đại học ở các
địa phương; tổ chức nhiều hội nghị khu vực và thế giới về QCN; tích cực đấu tranh trên
lĩnh vực QCN như; xuất bản sách trắng về nhân quyền; tham gia đối thoại nhân quyền;
cho phép nhiều tổ chức nhân quyền hoạt động trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc gia;
cho phép nhiều đoàn nước ngoài đến Trung Quốc tham quan, khảo sát việc thưch hiện
QCN, kể cả các khu vực nhạy cảm. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc triển khai nhiều
hoạt động tuyên truyền, giáo dục về QCN cho mọi tầng lớp cán bộ, nhân dân dưới
nhiều hình thức phù hợp. Nhờ đó, vai trò nhà nước Trung Quốc trong việc bảo đảm
QCN ngày càng nâng cao.
Điểm qua những bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực và trên
thế giới, có thể khẳng định, ở mỗi quốc gia khác nhau, cách tiếp cận và phương thức
phát huy vai trò của nhà nước trong bảo đảm QCN có khác nhau, nhưng tựu chung lại
thường được tiến hành trên một số phương diện cơ bản như: xây dựng chính sách và
hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN; xây dựng thể
chế (tổ chức bộ máy, con người) làm nhiệm vụ bảo vệ QCN; huy động sự tham gia của
các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ QCN; tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức
về QCN; thực hiện HTQT trên lĩnh vực QCN. Đây là những kinh nghiệm có giá trị cho
Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm QCN.
Kết luận chương 2
Quyền con người là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau. Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về QCN mà chưa có sự
thống nhất chung. Chính vì vậy, chương 2 của luận án đã tập trung phân tích một số
định nghĩa về QCN. Trên cơ sở tiếp thu điểm hợp lý của một số định nghĩa, luận án
khẳng định: Quyền con người là một phạm trù xã hội - chính trị phản ánh nhu cầu,
62
năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn mực khách quan, được
xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định pháp luật. Từ định nghĩa về QCN, tác
giả chỉ ra đặc trưng bản chất của QCN, đó là: bẩm sinh, vốn có; mang giá trị phổ biến
và phụ thuộc lẫn nhau; mang tính lịch sử cụ thể; gắn liền với nhà nước; được bảo vệ
bằng pháp luật...
Chương 2, luận án cũng phân tích các khái niệm bảo đảm QCN và cho rằng: Bảo
đảm QCN là việc các chủ thể (cá nhân, nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội...) có
nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn
về quyền con người nhằm bảo vệ và thực thi hiệu quả các quyền và tự do cơ bản của
con người trong các hoạt động của mình, ngăn ngừa sự lạm dụng, vi phạm quyền con
người từ phía các chủ thể khác.
Chương 2, luận án tập trung phân tích tầm quan trọng của nhà nước đối với việc
bảo đảm QCN. Bảo đảm QCN là trách nhiệm thuộc về nhiều chủ thể, song trách nhiệm
đầu tiên và trước hết thuộc về nhà nước. Cơ sở để tác giả rút ra nhận định này là xuất
phát từ những chức năng cơ bản của nhà nước. Với chức năng của mình, nhà nước là
chủ thể duy nhất được ban hành chính sách, pháp luật về QCN, tạo lập các cơ chế bảo
đảm QCN, điều tiết phát triển kinh tế; quản lý xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp
tác quốc tế về QCN. Đây là lĩnh vực hoạt động chỉ có nhà nước mới thực hiện được mà
không chủ thể nào có đủ điều kiện và nguồn lực để làm thay nhà nước.
Trong Chương 2, luận án tập trung luận giải những nhiệm vụ cụ thể của nhà nước
hiện đại trong việc bảo đảm QCN. Xuất phát từ các chức năng quản lý của mình, nhà
nước cần phát huy vai trò của mình trong việc bảo đảm QCN bằng các nhiệm vụ, hoạt
động cụ thể như: (1) Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo đảm QCN; (2) Tổ
chức thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm QCN; (3) Xây dựng và hoàn thiện tổ chức
bộ máy và các thiết chế bảo vệ QCN bao gồm hoàn thiện các cơ quan chuyên trách trong
việc bảo đảm QCN và hoàn thiện tổ chức bộ máy của các cơ quan trong tổ chức bộ máy
nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ QCN (các nghị viện/quốc hội; các cơ quan thuộc chính
phủ có lĩnh vực hoạt động liên quan đến QCN...) và huy động sự tham gia của các tổ
chức chính trị, xã hội trong việc bảo đảm QCN; (4) Thực hiện HTQT về bảo đảm QCN.
Chương 2, Luận án trình bày kinh nghiệm của một số nhà nước trong việc thực
hiện các nhiệm vụ bảo đảm QCN như Thụy Điển, In-đô-nê-xia; Kenya; Trung Quốc...
làm cơ sở để so sánh với việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm QCN của Nhà nước Việt
Nam tại Chương 3.
63
Chương 3
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
3.1.1. Hội nhập quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
3.1.1.1. Khái niệm hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế (international integration) là khái niệm được sử dụng rộng rãi và
phổ biến. Hiện nay có nhiều cách hiểu và các định nghĩa khác nhau về HNQT, song có
thể hiểu một cách chung nhất, Hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia tiến hành
các hoạt động tăng cường sự gắn kết, liên kết họ với nhau, dựa trên sự chia sẻ về lợi
ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn
khổ các định chế quốc tế hoặc quy định của các tổ chức mà quốc gia đó tham gia.
Từ định nghĩa trên, có thể hiểu bản chất của HNQT như sau:
Thứ nhất, HNQT là hoạt động hợp tác của các quốc gia bắt đầu từ kinh tế, nhưng
không dừng ở đó, mà có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế đến
chính trị, quốc phòng- an ninh, văn hóa- xã hội...). Điều này hoàn toàn phù hợp với
quan điểm biện chứng Mác-xít, quốc tế hóa đời sống kinh tế sẽ dẫn tới quốc tế hóa đời
sống trên các mặt khác, hình thành nên những chuẩn mực chung trong đời sống quốc tế
trên mọi lĩnh vực.
Thứ hai, HNQT là quá trình không có giới hạn về thời gian. Điều đó có nghĩa
HNQT là một quá trình liên tục trong quan hệ hợp tác giữa các nước, có thể đi từ thấp
đến cao, từ trạng thái này đến trạng thái khác.
Thứ ba, HNQT không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ chế hợp tác
song phương mà trên nhiều bình diện (đa phương, khu vực, liên khu vực...).
Thứ tư, HNQT chính là quá trình chủ động chấp nhận, xây dựng và áp dụng các
luật lệ và chuẩn mực chung, theo thông lệ chung. Đây là đặc điểm phân biệt HNQT với
các hoạt động hợp tác quốc tế. Nếu như hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế
đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), HNQT vượt lên
trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của
các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và
64
củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc
tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (1) hoặc là một tổ chức liên
chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính
sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hợp quốc, ASEAN…), (2) hoặc là một tổ chức
siêu quốc gia; (3) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên.
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ
quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết
quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng
tổng hợp tham gia vào quá trình HNQT.
3.1.1.2. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
Hội nhập quốc tế là xu thế chung của thế giới và là sự lựa chọn tất yếu của các
quốc gia. Những năm qua, dù tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp, song Việt Nam luôn có những nhận thức xác đáng về thời đại, về tình hình thế giới
và khu vực để có định hướng những chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, với chủ
trương tham gia mở rộng HTQT trong Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các
nước khác. Chủ trương này được cụ thể hơn tại Đại hội Đảng lần thứ VII, đó là "đa
dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế". Đại hội Đảng
lần thứ VIII, thuật ngữ "hội nhập" bắt đầu được đề cập trong các văn kiện Đảng: "Xây
dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới". Phát triển quan điểm này,
Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa" [30, tr.43]. Chủ trương này được cụ thể hóa
trong Nghị quyết số 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc tế", ngày 27/11/2001 của
Bộ Chính trị.
Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh cần "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác". Ngày 05/02/2007, Bộ
chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW Về một số chủ trương, chính sách lớn để
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới. Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta chủ trương "chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế". Đây là bước chuyển biến quan trọng trong tư duy của Đảng ta từ
"hội nhập kinh tế quốc tế" sang "hội nhập quốc tế" một cách toàn diện.
65
Cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
số 22 Về hội nhập quốc tế. Nghị quyết nhấn mạnh: "Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển" [2], trong đó xác định HNQT là sự nghiệp của
toàn dân và của cả hệ thống chính trị, được thực hiện trên cơ sở phát huy tối đa nội lực;
gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực... Đây là
văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn
Đảng, toàn dân về HNQT trong tình hình mới.
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 22 của Bộ chính trị về Hội nhập quốc tế,
ngày 23/4/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 596/QĐ-TTg về việc thành
lập Ban Chỉ đạo quốc gia về HNQT. Ban Chỉ đạo quốc gia có 3 Ban Chỉ đạo liên
ngành, đó là Ban Chỉ đạo liên ngành HNQT về chính trị, an ninh, quốc phòng; Ban Chỉ
đạo liên ngành HNQT về kinh tế và Ban Chỉ đạo liên ngành HNQT về văn hóa, xã hội,
khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo. Việc thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về
HNQT là sự thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta tham gia HNQT một cách
toàn diện và hiệu quả.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về HNQT, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ ngoại giao với 181
trong số 193 quốc gia thành viên LHQ, quan hệ kinh tế thương mại với 230 nước và
vùng lãnh thổ. Việt Nam là thành viên tích cực của 70 tổ chức quốc tế và khu vực, có
98 cơ quan đại diện các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp các châu lục trên thế giới, tham
gia ký kết hàng trăm hiệp định, trong đó có 90 Hiệp định thương mại, 46 Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 81 thỏa thuận đối
xử tối huệ quốc, đánh dấu sự hội nhập toàn diện, đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế
toàn cầu.
Việt Nam tích cực triển khai một cách khẩn trương và có hiệu quả chủ trương làm
sâu sắc quan hệ với các đối tác quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã xác lập quan hệ đối
tác chiến lược với 13 nước (Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban
Nha, Anh, Đức, Italia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp), xác lập xác lập quan hệ
đối tác toàn diện với Hoa Kỳ, tạo nền tảng cho những bước phát triển mới trong quan
hệ song phương vì lợi ích của hai nước, đồng thời góp phần cho hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển.
66
Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế và khu vực như: tham gia một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào việc
xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định hướng
lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc đẩy hợp
tác, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình. Việt
Nam và các nước ASEAN cũng đang nỗ lực cùng Trung Quốc hướng tới một Bộ quy
tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, kiểm soát các tranh
chấp, góp phần xây dựng lòng tin và củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-
Trung Quốc.
Việt Nam tăng cường tham gia toàn diện, sâu rộng vào các diễn đàn đa phương.
Cụ thể, Việt Nam đăng cai tổ chức thành công Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế
giới IPU lần thứ 132 (tháng 3/2015), thông qua Tuyên bố Hà Nội, khẳng định sự phát
triển bền vững lấy người dân làm trung tâm, thực hiện bảo đảm các QCN, nhằm xóa
nghèo dưới mọi hình thức, xóa bỏ bất bình đẳng, phát huy quyền làm chủ của các cá
nhân trên cơ sở tôn trọng Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế. Việt Nam cũng lần
thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017).
Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như: thành viên của Hội
đồng Thống đốc tổ chức Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), nhiệm kỳ 2013-
2015; thành viên của Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO (tháng 11/2013) và thành
viên Hội đồng Nhân quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu tín nhiệm
(184/193). Kết quả đó thể hiện sự tín nhiệm và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành
cho Việt Nam. Sự kiện thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình Việt Nam và chính thức
tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ (ngày 27/5/2014) đánh dấu sự hội
nhập toàn diện của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sau gần 30 năm thực hiện Đổi mới, Nhà nước Việt Nam đã đạt được những thành
tựu trong tiến trình HNQT. Nếu việc tham gia WTO mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào
nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa phương trên, Việt Nam đã
tham gia hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế. Chủ trương chủ động và tích
cực HNQT đang đẩy tiến trình HNQT của chúng ta lên một tầm cao mới trên tất cả các
lĩnh vực, đặt ra yêu cầu cao hơn về tranh thủ thời cơ chiến lược và sức mạnh thời đại
cho phát triển đất nước cũng như giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường ổn định khi
hội nhập sâu rộng và toàn diện với khu vực và thế giới.
67
3.1.2. Tác động của Hội nhập quốc tế đến nhà nước đối với việc bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam
3.1.2.1. Những tác động tích cực
Hội nhập quốc tế đã và đang mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội đối
với việc bảo đảm QCN trên nhiều lĩnh vực, đó là:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế tác động đến tốc độ, quy trình xây dựng chính sách,
pháp luật về quyền con người của Nhà nước
Nhà nước là chủ thể có vai trò quan trọng, quyết định trong hoạch định các chính
sách, pháp luật, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN, tổ chức thực hiện các
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, ổn định trật tự chính trị, xã hội, tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.
Tham gia HNQT, vai trò của nhà nước có sự thay đổi đáng kể, nhất là trong việc
xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật về QCN. Tiến trình hội nhập của nước ta
ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi hệ thống hệ thống pháp luật phải đáp ứng được
các yêu cầu theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là việc công khai, minh bạch các thiết
chế quản lý. Đây là tiền đề rất quan trọng để thúc đẩy quá trình hoàn thiện chính
sách, pháp luật bảo đảm QCN. Mặt khác, tham gia HNQT, đặc biệt là gia nhập Tổ
chức WTO đánh dấu bước phát triển về chất của tiến trình hội nhập, giúp nước ta có
được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, tiếng nói được tôn trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu
nại công bằng hơn đối với các tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO, tạo
điều kiện và cơ hội để bảo vệ lợi ích của đất nước, thúc đẩy tiến trình cải cách trong
nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo
ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm QCN và xây
dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.
Trước những tác động của HNQT cùng với quá trình hoàn thiện nền KTTT định
hướng XHCN, trách nhiệm của nhà nước càng được tăng lên trong việc hoạch định,
xây dựng chính sách pháp luật, thiết kế các chương trình chính sách phát triển kinh tế,
xã hội, văn hóa, hướng tới mục tiêu bảo đảm QCN. Nhờ đó, việc xây dựng chính sách,
pháp luật về QCN của Nhà nước đã có những tiến bộ đáng ghi nhận cả về tốc độ và
chất lượng. Nhà nước không chỉ "định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công
dân và quyền con người" [32, tr.145] mà còn "chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự
do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng
68
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết" [33,
tr.239]. Đây là bước phát triển mới trong tư duy nhận thức về nghĩa vụ của nhà nước
đối với việc bảo đảm QCN của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với nhận thức chung
của cộng đồng quốc tế về trách nhiệm của các quốc gia đối với việc bảo vệ QCN.
Tuân thủ các chế định của các tổ chức quốc tế là yêu cầu có tính nguyên tắc với
các nhà nước khi hội nhập. Chính vì vậy, HNQT đã thúc đẩy quá trình xây dựng và
hoàn thiện chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về QCN của các nhà
nước diễn ra nhanh hơn, chất lượng hơn, đáp ứng yêu cầu của hội nhập. Theo đó, nội
dung các QCN ngày càng được mở rộng, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và
yêu cầu của quá trình hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN.
Tham gia hội nhập, yêu cầu đặt ra với nhà nước phải có hệ thống pháp luật rõ
ràng, minh bạch. Đây là yêu cầu và động lực để Nhà nước ta sửa đổi và hoàn thiện hệ
thống pháp luật quốc gia cho phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật quốc
tế. Việc nhà nước thực hiện cải cách kinh tế, minh bạch hóa chính sách, sửa đổi và
hoàn thiện chính sách, pháp luật đã tạo điều kiện và cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
bảo đảm QCN. Nhiều bộ luật liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực của QCN được Nhà
nước ta thông qua đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân vừa đáp ứng được yêu cầu
của hội nhập. Các văn bản pháp luật đó không chỉ thể hiện được trách nhiệm của nhà
nước trong việc "tôn trọng và bảo vệ quyền con người" mà còn "gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân" [33, tr.76].
Điều này cho thấy, vai trò của nhà nước trong xây dựng, hoạch định chính sách, pháp
luật về QCN ngày càng tăng trong quá trình hội nhập.
Hội nhập quốc tế tác động đến quá trình cải cách thể chế, xây dựng chính sách,
pháp luật ở Việt Nam, là chất xúc tác thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách thể chế trong
nước diễn ra nhanh hơn, đồng bộ và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng vào việc bảo
đảm QCN. Những thay đổi trong chính sách đầu tư, đã thu hút được một lượng lớn các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp và đặc biệt là thu hút được một lực lượng lao động lớn, tạo
cơ hội giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Theo số liệu của Tổng cục thống kế,
tính đến tháng 1/2014, cả nước có 9.093 doanh nghiệp FDI đang hoạt động với số lao
động trên 3,2 triệu người, gấp 8 lần trong nhăm 2000, trong đó doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài chiếm 92% (năm 2000 là 70,2%), doanh nghiệp liên doanh với ngoài
chiếm 8% [122]. Bình quân mỗi năm thu hút 216,5 nghìn lao động, tạo điều kiện cho
69
việc hiện thực hóa quyền lao động việc làm của người dân. Bên cạnh đó, sự đóng góp
vào ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp FDI làm gia tăng nguồn thu ngân sách
nhà nước, đã tạo cơ sở quan trọng để Nhà nước tăng chi tiêu ngân sách cho các lĩnh
vực xã hội bao gồm y tế, giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện XĐGN, hỗ trợ
các xã đặc biệt khó khăn, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tốt hơn các quyền
của người dân.
Do đó, việc Việt Nam chủ động, tích cực tham gia HNQT không chỉ đơn thuần là
cơ hội để phát triển kinh tế mà xét trên nhiều góc độ, HNQT đã vượt ra ngoài phạm vi
kinh tế, trở thành động lực phát triển của đất nước. Do đó, Việt Nam cần tận dụng cơ
hội, tiềm năng, ưu thế, thậm chí là cả những sức ép của HNQT để đẩy nhanh quá trình
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về QCN,
thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế
Nhà nước trong bảo đảm quyền con người.
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để con người cùng nhau chia sẻ các giá trị về tư
tưởng, ý thức hệ, thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Sự giao lưu và chia sẻ lợi ích và các giá
trị do HNQT mang lại đã tác động tích cực đến việc mở rộng dân chủ ở Việt Nam. Việc
Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức WTO và nhiều tổ chức khác như: Hội đồng
Bảo an, Hội đồng nhân quyền...đã thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách thể chế, hoàn
thiện các thiết chế bảo đảm QCN diễn ra nhanh hơn.
Trong HNQT, vai trò của nhà nước trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về
QCN cũng như việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN ngày
càng được mở rộng cùng với các chế định quốc tế và sự phát triển của các tổ chức
chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Hiện nay, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp đã
và đang có nhiều đóng góp tích cực trong việc bảo đảm QCN. Với những hoạt động và
kết quả đạt được trong lĩnh vực bảo vệ, thúc đẩy QCN, nhất là đối với quyền của các
nhóm xã hội dễ bị tổn thương, tiếng nói của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nhiệp
ngày càng có trọng lượng hơn trên các diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, không thể đủ lý do
để kết luận vai trò của nhà nước với việc bảo đảm QCN trong điều kiện TCH và
HNQT sẽ bị suy giảm, mà trái lại, vai trò đó ngày càng được tăng cường và phát huy
hơn nữa nhằm đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.
70
Hội nhập quốc tế là điều kiện thuận lợi để nhà nhà nước Việt Nam đẩy nhanh quá
trình hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN. Việc tuân thủ các chế định quốc tế đã và
đang tác động tích cực đến vai trò của nhà nước trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy
và các thiết chế nhằm thực hiện các cam kết quốc tế, góp phần quan trọng vào việc bảo
đảm QCN. Trong HNQT, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đàm phán, ký
kết các hiệu định, hiệp ước, công ước quốc tế và khu vực về QCN và vai trò đó ngày
càng tăng lên trong quá trình triển khai thực hiện các cam kết quốc tế. Để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình, yêu cầu đặt ra đối với nhà nước phải có một tổ chức bộ
máy các cơ quan nhà nước gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả đáp ứng được những đòi hỏi
của thực tiễn đất nước và hội nhập. Do đó, vấn đề hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy
các cơ quan nhà nước bảo vệ và thực thi QCN được đặt ra. Các cơ quan trong tổ chức
bộ máy nhà nước các cấp đều được rà soát, tổ chức, sắp xếp theo hướng gọn nhẹ, hoạt
động có chất lượng theo thẩm quyền được phân công, tránh chồng chéo.
Hội nhập quốc tế không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy
các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm QCN mà còn thúc đẩy quá trình hoàn thiện
các thiết chế bảo đảm QCN. Dưới tác động của HNQT, yêu cầu về sự minh bạch thông
tin cùng với quá trình dân chủ hóa đòi hỏi nhà nước phải hoàn thiện các thiết chế hỗ trợ
và thúc đẩy việc bảo đảm QCN như thành lập các cơ quan chuyên trách có chức năng
trực tiếp bảo đảm QCN; tăng cường giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về
QCN; xây dựng mạng lưới tuyên truyền phổ biến về QCN, phát huy vai trò của các tổ
chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong việc bảo vệ và thúc đẩy QCN...
Có thể khẳng định, tác động tích cực của HNQT mang lại không chỉ là cơ hội và
động lực thúc đẩy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về QCN
mà còn là quá trình giúp cho việc củng cố và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN
của nhà nước, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ và thực thi QCN,
thúc đẩy quá trình hội nhập và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, hội nhập quốc tế tạo ra cơ chế phối hợp của Nhà nước với các tổ chức
quốc tế trong việc bảo đảm quyền con người.
Tham gia HNQT, vai trò của nhà nước trong hợp tác quốc tế về QCN ngày càng
được mở rộng cùng với cùng với tiến trình và mức độ hội nhập.Việc tham gia ký kết
và phê chuẩn các Điều ước quốc tế về QCN đòi hỏi Nhà nước Việt Nam tuân thủ, thực
hiện các nguyên tắc, tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, cụ thể hóa các nguyên tắc, tiêu
chuẩn về QCN vào hệ thống pháp luật quốc gia, thúc đẩy nhanh chóng hơn việc thực
71
hiện QCN theo luật nhân quyền quốc tế. Đồng thời, thông qua hội nhập, các nguyên tắc
về QCN trong pháp luật Việt Nam được tiếp cận với pháp luật quốc tế, làm cho thế giới
biết nhiều hơn về những thành tựu, giá trị QCN của Việt Nam, đồng thời cũng là cơ hội
để Việt Nam đưa các giá trị nhân quyền hội nhập cùng thế giới.
Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã chủ động tham gia vào cơ chế nhân quyền
quốc tế và khu vực, tham gia cơ chế giám sát quốc tế về tình hình bảo đảm và thúc đẩy
các QCN trên lãnh thổ quốc gia, tham gia vào hoạt động của một số cơ chế nhân quyền
của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế và khu vực khác. Việc tham gia hoạt động
của nhiều tổ chức quốc tế tại Việt Nam như: Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNDP),
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp quốc
(UNIFEM), Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Ngân hàng thế giới (WB)... cùng nhiều
tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp khác đã góp phần thúc quan trọng vào việc thúc
đẩy quá trình bảo vệ và thực thi QCN ở Việt Nam, nhất là đối với nhóm xã hội dễ tổn
thương. Với mục tiêu, tôn chỉ hoạt động của mình, các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội,
nghề nghiệp đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ cho Việt Nam nhằm hướng tới mục
tiêu thúc đẩy và hỗ trợ hiệu quả hơn cho quá trình phát triển như: hỗ trợ tư pháp, xóa đói
giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, bảo vệ quyền trẻ em, quyền phụ nữ, quyền của
người lao động di cư, quyền của người có HIV/AIDS, quyền của người cao tuổi... góp
phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững, bảo đảm tốt hơn các QCN.
Tham gia HNQT, các quốc gia không còn tự mình giải quyết và đối phó với
những vấn đề QCN mang tính toàn cầu phát sinh từ tiến trình TCH (như ô nhiễm môi
trường, bệnh dịch, lao động di cư, khủng bố...) mà phải có sự phối hợp giải quyết của
nhiều quốc gia, nhiều tổ chức khác nhau. Chính sự "phối hợp" giữa các quốc gia đã làm
cho vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN không bị suy giảm, mà trái lại, vai
trò đó ngày càng được tăng cường, phát huy hơn nữa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
3.1.2.1. Những tác động tiêu cực
Quá trình HNQT bên cạnh việc tạo ra những điều kiện và cơ hội cho Nhà nước
trong việc bảo đảm QCN đồng thời cũng mang lại không ít những ảnh hưởng tiêu
cực đối với Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm QCN. Những thách
thức đó được thể hiện:
Thứ nhất, trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền con người.
Tuân thủ các định chế quốc tế là yêu cầu đặt ra đối với mỗi nhà nước khi tham gia
HNQT. Trong quá trình HNQT, các quốc gia phải chịu những tác động, chi phối lớn
72
từ các định chế của các các tổ chức quốc tế lớn như WTO, Liên hợp quốc, ngân
hành thế giới... và hàng loạt các điều luật, nguyên tắc, qui định, hiệp ước ...mang
tính quốc tế nghiêm ngặt như các Luật quốc tế về QCN; Luật quốc tế về bảo vệ môi
trường, Luật về sa thải người lao động…đã khiến cho việc hoạch định và thực thi
các chính sách, pháp luật về QCN của nhà nước gặp rất nhiều trở ngại. Tham gia
HNQT, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam sẽ không còn giữ quyền tối
cao trong việc hoạch định các chính sách kinh tế, thương mại của mình như trước
đây mà phải căn cứ vào chính sách kinh tế chung của những thiết chế kinh tế mà
mình là thành viên. Các quốc gia sẽ không thể tự mình quyết định các vấn đề về
chính sách kinh tế của quốc gia mình, mà phải căn cứ vào các chính sách kinh tế
của thiết chế tham gia. Điều này dẫn đến chủ quyền quốc gia bị hạn chế, trực tiếp
ảnh hưởng đến những nhiệm vụ kinh tế, xã hội khác trong đó có nhiệm vụ bảo
đảm và thực hiện QCN.
Hiện nay, HNQT diễn ra trong một thế giới toàn cầu hóa, do đó, tính tuỳ thuộc
giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính
chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị
trong nước. Các quốc gia, đặc biệt các nước nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc
xây dựng được một hệ thống chính sách và pháp luật nói chung, về QCN nói riêng
phù hợp, đáp ứng các thông lệ quốc tế vừa đảm bảo là công cụ để nhà nước quản lý
và điều hành xã hội theo cách thức riêng của mình cho phù hợp với điều kiện đất
nước cũng như mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Bất kỳ
một chính sách kinh tế, chính sách xã hội, an ninh, đối ngoại hay một văn bản pháp
luật nào không đáp ứng đủ hai yêu cầu đó thì sẽ rất khó khăn trong việc tổ chức
thực hiện và có thể ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Do đó, có thể khẳng
định, việc tuân thủ các nguyên tắc, chế định của các tổ chức quốc tế một mặt thúc đẩy
thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về QCN, mặt khác chính
sự tuân thủ các cam kết quốc tế này đã chi phối vai trò của nhà nước trong việc hoạch
định các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như việc xây dựng các văn bản
pháp luật nhằm bảo đảm QCN.
Thực tiễn cho thấy, để tham gia HNQT, các quốc gia thường phải chấp nhận các
"luật chơi" của các tổ chức quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Nhà nước sẽ không
được toàn quyền đề ra các chính sách kinh tế và chính sách xã hội khi giải quyết các
vấn đề về QCN của quốc gia mình mà dù ít, dù nhiều đều phải chịu sự chi phối của các
73
nguyên tắc, quy định chung của các thiết chế kinh tế, tài chính, chính trị mà quốc gia
đó tham gia. Điều này dẫn đến vai trò nhà nước trong hoạch định chính sách, pháp luật,
trong đó có chính sách, pháp luật về QCN có phần bị hạn chế bởi sự chi phối của các
định chế quốc tế. Đây là một thực tế không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các nhà
nước của các quốc gia khác trên thế giới đòi hỏi phải có sự điều chỉnh phù hợp để vừa
tận dụng được cơ hội, đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực mà HNQT
mang lại đối với Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
Thứ hai, trong hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người
Có thể khẳng định, HNQT đặt ra nhiều thách thức đối với nhà nước trong việc
hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN. Hội nhập quốc tế đã làm cho các nước xích lại
gần nhau, xóa bỏ sự khác biệt giữa các quốc gia, hướng tới các tiêu chí phát triển
chung. Song chính việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định của các tổ chức quốc tế trong
quá trình hội nhập đã buộc các quốc gia cân nhắc và hy sinh một phần quyền lực của
mình. Điều này đã làm cho vai trò tự chủ của "nhà nước dân tộc, chủ quyền quốc gia
của nhiều nước đang phát triển bị suy giảm, trong khi đó, vai trò quyền lực của các tập
đoàn tư bản xuyên quốc gia, các thể chế quốc tế do các tập đoàn này chi phối tăng lên
nhanh chóng" [10, tr.324]. Đó là chưa kể đến việc đối xử thiếu công bằng trong mối
quan hệ trực tiếp giữa các quốc gia, nhất là giữa các quốc gia đang phát triển với các
quốc gia phát triển. Trong HNQT, nhà nước vẫn là chủ thể quản lý hàng đầu không thể
thay thế của xã hội trong cơ cấu quyền lực chính trị hiện đại, nhưng không phải là duy
nhất và toàn năng mà ít nhiều sẽ bị chi phối bởi các thiết chế, định chế quốc tế.
Trong tiến trình HNQT, theo quan điểm của Đảng, Việt Nam có thể và cần
phải giành lại thế chủ động trên lĩnh vực nhân quyền. Ngày nay xu hướng toàn cầu
hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ; không chỉ lĩnh vực kinh tế, mà các lĩnh
vực khác, kể cả lĩnh vực nhân quyền cũng diễn ra xu hướng này. Dù muốn hay
không, mọi quốc gia đều bị cuốn vào và không khỏi bị tác động bởi tiến trình này.
Các quá trình này còn bị hướng lái và thúc đẩy mạnh mẽ bởi Mỹ và Phương Tây; cả
trên phạm vi toàn cầu cũng như ở mỗi khu vực và tiểu khu vực. Việc các quốc gia
tham gia vào cơ chế nhân quyền quốc tế đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện tổ chức bộ máy,
hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN, trong đó có việc thành lập cơ quan nhân quyền
quốc gia theo nguyên tắc Paris. Đây là vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện các thiết
chế bảo đảm QCN nhằm tránh bị áp đặt, bị lôi cuốn thụ động vào quá trình phức tạp,
nhạy cảm, khó xử lý, nếu xử lý sai sẽ có nhiều hậu quả khôn lường.
74
Theo yêu cầu của nguyên tắc Paris, việc thiết lập cơ quan nhân quyền quốc
gia phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn quốc tế về cơ chế nhân quyền quốc gia,
tương thích với xu hướng quốc tế và khu vực. Hiện nay, hơn 120 nước trên thế giới
đã có cơ quan nhân quyền quốc gia. Trong khu vực Đông Nam Á, ngoài 5 nước đã
có ủy ban nhân quyền quốc gia, một số quốc gia cũng đang chuẩn bị theo xu hướng
này. Bên cạnh đó, các quốc gia thuộc ASEAN cũng đang tiếp tục hoàn thiện các cơ
chế hiện có, đặc biệt là sự tham dự của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Các tổ
chức khu vực mà Việt Nam là thành viên, như APEC, ASEM... đều đưa nhân quyền
thành mối quan tâm chính, một hoạt động chủ yếu, thường xuyên. Bối cảnh trên đòi
hỏi chúng ta cần thiết lập một cơ quan nhân quyền đủ sức đáp ứng các yêu cầu đối
ngoại. Tuy nhiên, căn cứ vào bối cảnh và thực tiễn chính trị Việt Nam, việc xây
dựng cơ quan nhân quyền quốc gia theo đúng, đầy đủ các quy định của Nguyên tắc
Paris là chưa phù hợp. Xuất phát từ thực tiễn trên, có thể khẳng định, HNQT đã tác
động tới việc hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN, đặt quá trình xây dựng và hoàn
thiện các thiết chế bảo đảm QCN ở nước ta đứng trước nhiều thách thức mới.
Thứ ba, trong việc tạo cơ chế phối hợp giữa Nhà nước với các tổ chức quốc tế
đối với việc bảo đảm quyền con người
Quá trình HNQT cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải đối với nhà nước
như vấn đề di dân tự do, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường...
Hiện nay, cùng với tiến trình mở cửa hội nhập, các quốc gia đã, đang và sẽ mặt với
vấn đề di dân tự do rất khó kiểm soát khi mà các dòng tư bản thường xuyên lưu
chuyển, thay đổi địa điểm đầu tư. Quá trình này đã tác động lớn đến lực lượng lao
động. Các lực lượng lao động thường đổ dồn về các thành phố lớn, các trung tâm
công nghiệp, thương mại... làm nảy sinh hàng loạt vấn đề xã hội rất khó giải quyết
như quá tải về mật độ dân số, nhà ở, vấn đề chăm sóc y tế, giáo dục, an sinh xã hội,
phòng chống dịch bệnh, tệ nạn xã hội....
Toàn cầu hóa và HNQT cũng khiến các loại tệ nạn xã hội tầm cỡ quốc tế, các
dịch bệnh lớn dễ dàng lây lan xuyên quốc gia ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống
cộng đồng. Toàn cầu hoá cũng khiến cho tình trạng thất nghiệp, phân hoá giàu
nghèo ngày càng gia tăng, cùng với nó là tỷ lệ số người nghèo đói ngày càng lớn.
Đây là vấn đề vô cùng nan giải mà các nhà nước quốc gia phải đối mặt. Để giải
quyết các vấn đề đó, đòi hỏi nhà nước không chỉ cần có những chính sách xử lý linh
hoạt, đúng đắn mà quan trọng hơn là cần có một nguồn lực tài chính đủ lớn trên cơ
75
sở huy động được sức mạnh của toàn xã hội. Song, tham gia toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế để cạnh tranh thu hút đầu tư, nhà nước phải thực hiện việc cắt giảm
thuế, hỗ trợ đầu tư... làm cho ngân sách nhà nước bị suy giảm. Điều này sẽ ảnh
hưởng tới năng lực của nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội đang gia
tăng từng ngày trong các xã hội.
Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra một thách thức nan giải đối
với Nhà nước Việt Nam trong việc tạo cơ chế phối hợp giữa Nhà nước với các tổ
chức quốc tế trong việc bảo đảm QCN. Thực tiễn cho thấy, các tổ chức phi chính
phủ, các tập đoàn tài chính lớn đã và đang phát huy ảnh hưởng của mình đến sự phát
triển của một số quốc gia đang phát triển. Do đó, vai trò của các tổ chức này đang
ngày càng tăng lên trong quá trình HNQT, thậm chí còn làm thay một số chức năng
của nhà nước, làm cho vai trò nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội phần
nào bị thu hẹp.
Trong các hoạt động của mình, bên cạnh việc làm tăng lợi ích về kinh tế, các tổ
chức quốc tế và các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia còn mở rộng hoạt động của
mình trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như: tham gia xóa đói giảm nghèo; cứu
trợ nhân đạo; bảo vệ môi trường; hỗ trợ giải quyết vấn đề di dân; vấn đề lao động
người nhập cư; thúc đẩy bình đẳng giới; phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em; hỗ trợ
và thúc đẩy việc thực hiện quyền của người già, người có HIV/AIDS... Bằng việc
tham gia sâu rộng vào các hoạt động kinh tế, xã hội, các tổ chức quốc tế, các công ty,
tập đoàn đa quốc gia đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định đối với nhà nước. Nhà nước
không phải là chủ thể duy nhất có thể giải quyết được các vấn đề trên mà đã có sự
tham gia của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức chính trị xã hội. Đây sẽ là một thách thức
đối với nhà nước trong việc phát huy vai trò của mình đối với việc bảo đảm QCN.
Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có sự điều nhằm tạo ra các cơ chế hợp tác phù hợp để
vừa tận dụng, phát huy được sự đóng góp của các tổ chức này mà vẫn giữ vững được
vai trò quản lý của nhà nước.
Ngoài những tác động tiêu cực kể trên, tiến trình HNQT ở nước ta đang đặt
Nhà nước đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà
nước... Lợi dụng các điều kiện phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình mở cửa hội nhập,
nhiều tổ chức chính trị quốc tế lớn (đứng sau nó thường là các nước tư bản lớn) đã
tự cho mình quyền can thiệp vào tình hình chính trị nội bộ của nhiều nước, lợi dụng
76
việc tuân thủ các định chế quốc tế để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường
không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;
lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc
gia nhằm áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc
tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền", gây ra nhiều xáo động về an
ninh, chính trị ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định trật tự xã hội ở các nước này...
Nhà nước ở các quốc gia, nhất là các nước nhỏ phải thường xuyên cảnh giác, ứng
phó với mọi tình huống chính trị xấu có thể xảy ra để đảm bảo luôn giữ vững độc
lập, chủ quyền, an ninh chính trị trong suốt quá trình tham gia hội nhập.
Tóm lại, bên cạnh những thuận lợi là khó khăn, bên cạnh thời cơ là thách thức, đó
là những gì mà HNQT mang lại cho các quốc gia. Nhà nước với tư cách là chủ thể
quản lý quan trọng cần phải nhận thức rõ những cơ hội và thách thức trong quá trình
hội nhập để có sự điều hành hợp lý nhằm tranh thủ tốt nhất thời cơ, vận hội cũng như
luôn sẵn sàng ứng phó với các tình huống xấu có thể xảy ra.
Việt Nam đã và đang tham gia toàn diện vào quá trình HNQT. Cũng như nhiều
quốc gia khác, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi mà HNQT mang lại,Việt Nam cũng
đang phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức trên mọi lĩnh vực đòi hỏi
nhà nước phải giải quyết. Chính vì vậy, nhận thức rõ những tác động của HNQT, chỉ ra
thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện HNQT, từ đó có những phương
hướng, biện pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong bảo đảm QCN là
việc làm rất quan trọng, thiết thực phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay ở nước ta.
3.2. THỰC TRẠNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.2.1. Những thành tựu chủ yếu của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo
đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế
Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định, trong điều kiện HNQT, Nhà nước Việt
Nam đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có bảo đảm QCN. Cụ thể:
Thứ nhất, trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền con người
Việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo đảm QCN. Thời gian qua, Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật về QCN, tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt
động xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật. Phương pháp "tiếp cận dựa trên
77
quyền con người", đặt con người vào "vị trí trung tâm", "mọi mục tiêu, động lực sự
phát triển là vì con người, do con người" [32, tr.154], bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của con người đã trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách, pháp luật
của nhà nước.
Nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng và bảo vệ các QCN, minh bạch hóa trách nhiệm
nhà nước đã được thẩm thấu vào trong quy trình xây dựng và hoạch định chính sách,
pháp luật về QCN. Nhiều chính sách kinh tế, chính sách xã hội hướng tới việc bảo đảm
QCN theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử được ban hành như: chính
sách kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; chính sách bảo vệ quyền tự do sản xuất, kinh
doanh; chính sách lao động, việc làm; chính sách bảo hiểm xã hội; chính sách bảo hiểm
y tế; chính sách giáo dục; chính sách bảo hộ người tiêu dùng; chính sách bảo hộ quyền
đấu tranh, bãi công của công nhân đối với các chủ doanh nghiệp; chính sách an sinh xã
hội; chính sách ưu đãi đặc biệt (cho người già, trẻ em; người dân tộc thiểu số...). Các
chính sách kinh tế, xã hội đó góp phần vào sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề
quan trọng cho việc bảo đảm QCN.
Xuất phát từ nghĩa vụ quan trọng và cơ bản "định ra các đạo luật" xác định các
QCN và QCD, "quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa" [96, tr,70], những năm qua, Nhà nước đã từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm các QCN. Chẳng hạn, từ khi đổi mới và
hội nhập đến nay, Nhà nước ta đã hai lần sửa đổi Hiến pháp vào năm 1992 và 2013 cho
phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.
Tốc độ xây dựng luật của Việt Nam tăng. Số lượng các văn bản luật được sửa đổi
và ban hành mới tăng nhanh qua các năm. Theo số liệu của cơ sở dữ liệu pháp luật
quốc gia, chỉ trong thời gian từ tháng 12/1986 đến hết năm 2013, nhà nước ta đã ban
hành được 471 Luật, Bộ luật, Pháp lệnh (gồm 290 luật, bộ luật và 181 pháp lệnh), gấp
gần 7 lần số lượng luật, bộ luật, pháp lệnh mà nhà nước ta ban hành (từ năm 1945 đến
năm 1986). Năm 2014, năm đầu tiên triển khai thi hành Hiến pháp 2013, Quốc hội đã
thông qua 29 luật, cho ý kiến lần đầu với 28 dự án luật khác liên quan đến QCN [42].
Kết quả này góp phần thể chế hóa các quy định của Hiến pháp vào cuộc sống, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc quản lý đất nước,
quản lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Không chỉ gia tăng về số lượng mà chất lượng các luật của Việt Nam cũng được
nâng cao. Việc sửa đổi đổi, ban hành Hiến pháp 1992 đánh dấu sự đổi mới quan trọng
của Nhà nước Việt Nam trong tư duy pháp lý về QCN. Lần đầu tiên trong lịch sử lập
78
hiến Việt Nam, thuật ngữ quyền con người được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp.
Điều 50, Hiến pháp quy định "Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, được thể hiện
ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" [95, tr.153]. Từ quy
định có tính nguyên tắc này, Hiến pháp 2013 mở rộng chủ thể của các QCN, trong đó
có các quyền và tự do cơ bản của công dân. Nếu như ở Hiến pháp 1992, khái niệm
quyền con người chỉ chủ yếu dừng lại ở chủ thể là "công dân" thì ở Hiến pháp 2013,
các chủ thể của các QCN thuộc về tất cả mọi người chứ không chỉ là công dân.
Việc ghi nhận này có ý nghĩa quan trọng trong việc nội luật hóa các Công ước
quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển,
đồng thời, quan trọng hơn là tránh được sự nhầm lẫn giữa quyền QCN và QCD thường
mắc phải trong các Hiến pháp trước đó. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã bổ sung thêm một
số quyền mới mang tính thực tế, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, thể hiện vai trò
làm chủ thực chất của người dân như: quyền được giữ bí mật thông tin; quyền tham gia
thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và danh dự; quyền được sở
hữu về thu nhập hợp pháp, về nhà ở; quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề
pháp luật không cấm; quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa, sử dụng các giá trị văn
hóa, quyền được sống trong môi trường trong lành...
Việc ghi nhận các quyền mới của con người trong Hiến pháp 1992 và 2013 đã
phản ánh xu thế hội nhập của đất nước, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm
các QCN ở Việt Nam. Điều này cũng thể hiện những nỗ lực của nhà nước Việt Nam
trong việc tôn trọng và thừa nhận các QCN phổ biến được ghi nhận trong pháp luật
quốc tế, là sự năng động, nhạy bén của Nhà nước trong việc xử lý mối quan hệ biện
chứng giữa QCN phổ biến với đặc thù về lịch sử, văn hóa của các quốc gia, giữa luật
quốc tế và pháp luật quốc gia trong quá trình hoàn thiện pháp luật để vừa bảo đảm lợi
ích quốc gia, vừa tuân thủ những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm tốt hơn các
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, Hiến pháp
1992 và sau này là Hiến pháp 2013 quy định về bản chất quyền lực của Nhà nước Việt
Nam là "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân" [96, tr.178]. Do đó, trách nhiệm
79
của nhà nước là phải "bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân..." (Điều 3,
Hiến pháp 2013). Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát
của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Vì vậy, nghĩa vụ của Nhà nước là: tạo mọi điều
kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc
tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28); tạo bình đẳng về cơ hội
để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội (Điều 59)...
Các quy định trên một lần nữa khẳng định nghĩa vụ của nhà nước không chỉ là
ghi nhận các QCN mà còn có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để bảo đảm các QCN đã
được ghi nhận. Cùng với việc nâng cao số lượng và chất lượng các QCN trong Hiến
pháp, Nhà nước chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn
bản luật với các quy định cụ thể, dễ thực hiện, giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại
ở các nguyên tắc chung nhằm giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.
Phạm vi điều chỉnh của luật đã có nhiều thay đổi tích cực. Nếu như trước đây,
các bộ luật chủ yếu tập trung ở một số lĩnh vực cụ thể của QCN thì nay, phần lớn các
lĩnh vực của QCN về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của các nhóm
dễ tổn thương đều đã có luật điều chỉnh. Nhiều bộ luật được sửa đổi và ban hành mới
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền của người dân
như: Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật
lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế, Luật sở hữu trí tuệ, Luật về môi
trường, Luật người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật
người cao tuổi, Luật nuôi con nuôi... (xem phụ lục 2, tr.170 ). Hiện nay, trong số 28 luật
luật liên quan đến QCN đang được lấy ý kiến đóng góp thì có 12 văn bản thuộc lĩnh
vực dân sự, chính trị và 16 văn bản thuộc lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội, văn hóa [42].
Quy trình xây dựng luật cũng được thay đổi theo hướng dân chủ, công khai,
minh bạch. Đến nay, hầu hết các luật, bộ luật trước khi thông qua đều được thảo luận
và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Theo thống kê của Bộ tư
pháp, trong đợt lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đã có 28.014
hội thảo, hội nghị được tổ chức lấy ý kiến và tiếp nhận khoảng 26 triệu lượt ý kiến góp
80
ý của các tập thể, cá nhân [15]. Điều này thể hiện tính dân chủ, khoa học trong quy
trình làm luật.
Đánh giá một cách tổng quát, những kết quả đạt được trong việc ban hành chính
sách, pháp luật về QCN của Nhà nước ta những năm qua là một bước tiến lớn trong
quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN, phù hợp với thực tiễn đòi hỏi trong
nước cũng như đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới và HNQT. Các nguyên tắc,
tiêu chuẩn về QCN trong luật nhân quyền quốc tế đã được quán triệt và trở thành nội
dung quan trọng của văn bản pháp luật Việt Nam về QCN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho các hoạt động bảo vệ và thực thi QCN.
Thứ hai, nhà nước tổ chức, thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới và HNQT, việc bảo đảm QCN trong thực thi Hiến pháp,
pháp luật, chính sách đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Những
nỗ lực của Nhà nước trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN được
thể hiện ở một số hoạt động chủ yếu sau:
Một là, Nhà nước chú trọng ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai và thực
hiện chính sách, pháp luật về quyền con người
Nếu như việc xây dựng chính sách, pháp luật là "đời sống thứ nhất" của pháp luật
thì thực thi chính sách, pháp luật là nhằm tạo ra "đời sống thứ hai" cho pháp luật. Đây
là khâu "trung tâm", có vị trí quan trọng để "kiểm định chất lượng" của chính sách,
pháp luật và mức độ, hiệu quả của chính sách, pháp luật trong thực tiễn.
Thời gian qua, việc tổ chức và thực hiện chính sách, pháp luật về QCN đã được
Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Để triển thực hiện Hiến pháp, pháp
luật hiệu quả, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, và các bộ ngành hữu quan đã
ban hành nhiều Nghị quyết; Nghị định; Quyết định; Thông tư… quy định chi tiết thi
hành luật; quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện luật; quy định về trách nhiệm
thực hiện của các bên liên quan; quy định về tổ chức, bộ máy, phân công nhiệm vụ giữa
các cơ quan trong việc thi hành Hiến pháp, Luật và các chính sách phát triển kinh tế, xã
hội cũng như an ninh quốc phòng, đối ngoại…
Do có sự "quan tâm đặc biệt" của Nhà nước, số lượng các văn bản hướng dẫn thi
hành pháp luật tăng lên nhanh chóng. Tính từ 1990 đến hết năm 2013, Nhà nước ta đã
ban hành 2738 Nghị định, 7080 Thông tư, Thông tư liên tịch của các bộ, ban, ngành
[24] nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 1992, các Luật, bộ luật và các văn bản khác, tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc thực thi Hiến pháp, pháp luật về QCN trong đó có nhiều
Nghị định, Thông tư, hướng dẫn thi hành luật liên quan trực tiếp đến bảo vệ QCN như:
81
Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp; Nghị định số
62/2009/NĐ-CP, ngày 27/7/2009, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật bảo hiểm y tế; Nghị định số 06/2011/NĐ-CP, ngày 14/01/2011, Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người cao tuổi; Nghị định số
24/2013/NĐ-CP, ngày 28/3/2013 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài...
So với trước, hệ thống các văn bản quan hướng dẫn thi hành luật ở nước ta không
chỉ tăng về số lượng mà còn có những bước tiến vượt bậc về chất lượng. Theo đánh
giá, hầu hết các văn bản hướng dẫn thi hành luật đều bám sát vào chủ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, Hiến pháp, pháp luật và các văn bản quản lý nhà nước;
phù hợp với tình hình thực tiễn xã hội; nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của quản lý nhà
nước trên nguyên tắc thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Thời gian
tới, Chính phủ sẽ ban hành 31 Nghị định và 04 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
để hướng dẫn 11 luật có hiệu lực thi hành từ 26/6/2014 đến ngày 01/1/2015, trong đó
nhiều Nghị định liên quan trực tiếp đến QCN như: Nghị định Quy định về việc miễn
thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Nghị định quy định về sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo...Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tạo cơ sở quan trọng để các
quy định của Hiến pháp và pháp luật đi vào cuộc sống, bảo đảm QCN, đáp ứng yêu cầu
của HNQT toàn diện.
Hai là, Nhà nước tổ chức hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực thi
chính sách, pháp luật về quyền con người
Giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về QCN là những hành vi pháp lý
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm theo dõi việc thực hiện pháp luật về QCN
của các tổ chức, cá nhân qua đó, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện
được những bất cập, mâu thuẫn trong hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành, từ đó,
đề xuất các phương án sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Để thực thi chính sách, pháp luật hiệu quả, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm
tới việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm các quyền đã được
công nhận trong Hiến pháp và luật như: quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà
nước, xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tiếp cận
giáo dục, y tế; các quyền về lao động, việc làm, an sinh xã hội...
82
Theo số liệu của Thanh tra Chính phủ, năm 2013, ngành thanh tra đã triển khai
8.921 cuộc thanh tra hành chính và 197.690 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành;
phát hiện vi phạm và kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với những sai phạm về đất
đai là 1.586 tập thể, 2.675 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 72 vụ việc, 75 người;
xử lý vi phạm hành chính là 675 người, chuyển cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm
hình sự 28 vụ với 89 người. Trên lĩnh vực đất đai, Thanh tra Chính phủ phối hợp với
một số cơ quan tổ chức thanh tra trên lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai ở 52 địa phương
với 409 cuộc thanh tra. Kết quả thanh tra đã kiến nghị thu hồi 40,3 tỷ đồng, 401 ha đất,
kiến nghị xử lý hành chính 23 tập thể, 72 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 2 vụ, 2
người. Trong đầu tư xây dựng, Thanh tra Chính phủ tổ chức thanh tra ở 58 địa phương
và 1 bộ với 556 cuộc thanh tra. Kết quả thanh tra đã kiến nghị xử lý hành chính 90 tập
thể, 136 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra 1 vụ… [88].
Những kết quả trên cho thấy, hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính
sách, pháp luật có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, gắn với quá trình cung cấp các biện
pháp cụ thể và hành chính, kinh tế, quy tắc, thủ tục, các dịch vụ xã hội cho việc bảo
đảm QCN và ngăn chặn các hành vi vi phạm QCN theo pháp luật, do đó, nó có tác
động sâu sắc đến thực tiễn bảo đảm QCN của các cơ quan công quyền ở trung ương và
địa phương. Có thể khẳng định, những năm đổi mới, các QCN đã ngày càng được bảo
đảm tốt hơn, đặc biệt Nhà nước đã có thái đội kiên quyết và nghiêm khắc với các biểu
hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật của các cá nhân và cơ quan nhà nước, tạo lòng tin
trong nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Ba là, Nhà nước thực hiện lồng ghép quyền con người vào quá trình xây dựng, tổ
chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển.
Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, thực thi các chương trình, chính sách
phát triển là khâu quan trọng trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật. Đây là
hoạt động được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, phản ánh những đổi mới trong tư duy
của Đảng, Nhà nước Việt Nam, phù hợp với chủ trương xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế kết gắn với mục tiêu công bằng xã hội.
Thời kỳ đổi mới, QCN đã được lồng ghép vào các chương trình, chính sách phát
triển của Nhà nước như: Chương trình Cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 và
2011-2020; Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001-
2005, 2006-2010, 2012-2015; Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn
2006-2010; Chương trình Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ
83
đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; Chương trình Phát triển kinh tế, xã hội ở các xã đặc
biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa;
Chương trình xây dựng nông thôn mới... Nhờ đó, đời sống của người dân được cải
thiện và nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giảm từ 58% năm 1992 -
1993 xuống còn 13,8% năm 2008 và 6,0% năm 2014 [89]. Cơ sở hạ tầng giao thông
nông thôn khu vực miền núi phát triển khá nhanh, 97,42% số xã có đường ô tô đến
trung tâm xã, 100% thị xã, tỉnh lỵ, 98% số huyện và 64% số xã có điện lưới quốc gia;
trên 60% số xã có điện thoại [20, tr.293], giúp Việt Nam trở thành một trong những
quốc gia đầu tiên đạt mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói giảm nghèo.
Chuẩn ngành của Việt Nam từng bước được nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn
nghèo quốc tế. Thành công của Việt Nam trong HNQT góp phần quan trọng vào việc
tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, góp phần thực hiện quyền có mức sống thích đáng
của người dân, tạo tiền đề thúc đẩy và bảo đảm tốt hơn các QCN.
Đánh giá khái quát từ góc độ QCN có thể thấy, nhiều tiêu chuẩn và nguyên tắc
của QCN đã được sử dụng trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, chương
trình phát triển kinh tế, xã hội. Xét một cách tổng thể, các chương trình trên đã hỗ trợ
tích cực người dân phát huy quyền làm chủ trong quản lý nhà nước, xã hội; tiếp cận với
các dịch vụ về việc làm; đào tạo nghề; trợ giúp pháp lý; y tế, giáo dục, an sinh xã
hội...thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng giới và góp phần thực hiện mục
tiêu công bằng xã hội trong quá trình phát triển, (xem phụ lục 2, tr. 182-192).
Bốn là, Nhà nước tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QCN
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QCN là khâu quan trọng không thể
thiếu trong việc thực thi chính sách, pháp luật về QCN. Việc hiểu biết pháp luật về
QCN không chỉ nhằm nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích
chính đáng của công dân mà còn là điều kiện để mọi người nắm bắt và thực hiện các
nghĩa vụ và quyền của mình một cách tự giác. Với ý nghĩa đó, sau khi có Chỉ thị 12-
CT/TW (1992) của Ban Bí thư, Nhà nước ta đã tích cực triển khai nhiều hoạt động
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về QCN bằng nhiều hình thức khác nhau như: đưa bộ
môn QCN vào trong chương trình giảng dạy chính thức ở bậc phổ thông, một số
trường đại học, các học viện, các trường chính trị...
Ngoài ra, việc tuyên truyền pháp luật về QCN còn được thực hiện thông qua
nhiều hình thức: tập huấn, hội thảo, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại
chúng, trợ giúp pháp lý, tổ chức các câu lạc bộ... Nhờ đó, nhận thức về QCN, pháp luật
về QCN của cán bộ và nhân dân đã tăng lên. Nếu như trước năm 1990, khái niệm QCN
84
ít được nhắc đến và thường được hiểu là khái niệm của Phương Tây, hoặc được hiểu
đơn giản hoặc hiểu đồng nhất với khái niệm QCD thì đến nay, QCN và những vấn đề
liên quan trở thành đề tài phổ biến toàn xã hội. Kết quả này thể hiện những nỗ lực của
nhà nước trong việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về QCN.
Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện thiết chế bảo đảm quyền con người
Thiết chế bảo đảm QCN là hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức
xã hội thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ và thúc đẩy việc thực hiện QCN. Ở Việt
Nam, thiết chế bảo đảm QCN gồm hệ thống các cơ quan được thành lập theo thủ tục
pháp luật Việt Nam quy định. Trong nhiều năm qua, để nâng cao vai trò của mình trong
việc bảo đảm QCN, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện các thiết
chế nhằm bảo đảm QCN, trong đó:
Một là, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan Nhà nước
Theo Hiến pháp năm 1992 và hiện nay là Hiến pháp năm 2013, các thiết chế nhà
nước có nghĩa vụ bảo đảm QCN gồm: Quốc hội; Chính phủ, các cơ quan Tư pháp (Tòa
án, Viện kiểm sát), các bộ, ngành có liên quan và chính quyền địa phương các cấp.
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới, kiện toàn
tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước và đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng. Hầu hết các cơ quan Nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ,
hoạt động hiệu quả theo cơ chế phân công và phối hợp trong ba quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền, xâm phạm lợi ích hợp pháp của
công dân từ phía các cơ quan nhà nước.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy của Quốc hội, thời gian qua, Nhà nước ta tích cực
thực hiện đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Quốc hội theo hướng gọn nhẹ,
chuyên sâu, chuyên môn hóa. Nếu như khóa XI, tổ chức bộ máy của Quốc hội gồm có
Hội đồng Dân tộc và 7 Uỷ ban, đến khóa XII và XIII, tổ chức bộ máy của Quốc hội
gồm có Hội đồng dân tộc và 9 Ủy ban, giúp các ủy ban hoạt động theo hướng chuyên
sâu, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc bảo
đảm QCN.
Cùng với việc đổi mới tổ chức bộ máy của Quốc hội, nâng cao chất lượng đại
biểu Quốc hội cũng được Nhà nước coi trọng. Nhiều chính sách và cơ chế để tăng số
đại biểu chuyên trách đã được áp dụng. Số đại biểu Quốc hội chuyên trách đã tăng qua
các nhiệm kỳ, (khóa IX là 5,31%; khóa XII là 29,4% và khóa XIII là 28,8 [130] và dự
kiến tăng lên 35% trong khóa XIV). Nhờ có sự đổi mới tổ chức bộ máy theo hướng
85
chuyên sâu, nhiều vấn đề về QCN đã được thâm nhập vào các hoạt động đổi mới của
Quốc hội như: tăng cường tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội; xem xét định kỳ
báo cáo của Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao; quyết định những vấn đề quan trọng khác của đất nước như chính sách phát triển
kinh tế, xã hội; chính sách dân tộc, tôn giáo; giám sát việc thực hiện các dự án lớn về
phát triển kinh tế, xã hội kinh tế, xã hội... Những hoạt động này không chỉ thu hút mối
quan tâm của cử tri cả nước, mà còn bảo đảm hoạt động đúng đắn các cơ quan nhà
nước, hạn chế sự lạm quyền, phát hiện những hạn chế của hệ thống luật pháp, những
vụ việc vi phạm các quyền của người dân, tăng cường hiệu quả và hiệu lực của Quốc
hội trong việc bảo đảm QCN.
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy Chính phủ, là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định đến việc "đảm bảo quyền con
người và trực tiếp tiếp thực hiện chính sách thúc đẩy và bảo đảm quyền con người"
[39, tr.141], phát triển quyền tự do, dân chủ của công dân. Để phát huy vai trò của
Chính phủ trong bảo đảm QCN, Việt Nam nỗ lực hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ
quan Chính phủ theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. Nếu trước thời điểm thực hiện cải cách
hành chính (năm 2001), cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa X có 48 cơ quan (trong đó có
23 bộ, cơ quan ngang bộ và 25 cơ quan thuộc Chính phủ) thì đến khóa XI, tổ chức bộ
máy Chính phủ giảm xuống còn 37 cơ quan, trong đó có 26 bộ, cơ quan ngang bộ và
11 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 11 đầu mối); khóa XII, tổ chức bộ máy Chính phủ
giảm xuống còn 30 cơ quan (gồm 22 bộ, cơ quan ngang bộ và 08 cơ quan thuộc Chính
phủ) và khóa XIII, cơ cấu tổ chức Chính phủ gồm có 18 bộ, 04 cơ quan ngang bộ và 08
cơ quan thuộc Chính phủ.
Không chỉ sắp xếp lại tổ chức bộ máy Chính phủ, Nhà nước còn chú trọng tới
việc củng cố và hoàn thiện tổ chức của các Bộ, ngành có liên quan trực tiếp tới việc
bảo vệ và thúc đẩy QCN như: Bộ Y tế; Bộ Lao động thương binh- xã hội; Bộ Công
An; Bộ Giáo dục: Ủy ban dân tộc của Chính phủ; Ban tôn giáo Chính phủ; Thanh tra
Chính phủ…Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy của chính phủ và các Bộ; Ban, ngành
thuộc Chính phủ góp phần bảo đảm các QCN trên thực tế một cách hiệu quả.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của Chính phủ, Nhà nước đã và đang triển
khai chương trình Cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 và 2011-2020, mục tiêu
trọng tâm cải cách các thủ tục hành chính, theo hướng công khai, minh bạch, giảm bớt
phiền hà cho người dân trong tiếp cận với các cơ quan công quyền. Sắp xếp lại tổ chức
86
bộ máy các cơ quan hành chính; tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động điều
hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, vì
nhân dân phục vụ, sửa đổi nhiều thủ tục, thực hiện chế dộ một cửa, một dấu... Những
cải cách này đã tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để người dân thực hiện các QCN của
mình như: quyền được đóng góp, kiến nghị các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện
các chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyền được tiếp cận thông tin, quyền khiếu
nại tố cáo, quyền tự do sản xuất kinh doanh...Theo thống kê, trong năm 2014, cả nước
có 74.842 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn 432,2 ngàn tỷ đồng, tăng
8,4% so với năm 2013. Số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trở lại là 15.419 doanh
nghiệp, tăng 7,1% so với năm 2013 [16]. Bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo của công
dân, từ năm 2006 đến năm 2008, tỷ lệ giải quyết khiếu nại tố cáo của các cơ quan hành
chính đạt 83,2%; năm 2014, các cơ quan hành chính nhà nước đã giải quyết 37.716 vụ
khiếu nại tố cáo trong số 44.426 vụ, đạt tỷ lệ 84,9% [4]. Đây là kết quả của những nỗ
lực của Nhà nước ta trong cải cách hành chính, cải cách thể chế bảo đảm QCN.
- Hoàn thiện tổ chức của các cơ quan tư pháp là vấn đề Nhà nước ta quan tâm
đặc biệt. Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/07/2010 của Bộ Chính trị về "Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án,
Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ
quan Tư pháp đã được cải cách đồng bộ, từ việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan điều tra, truy tố, xét xử thi hành án đến việc phân cấp xét xử...Vai trò của
toàn án được đề cao, với việc thống nhất quản lý và tăng cường chức năng, nhiệm vụ
cho Toàn án nhân dân tối cao, thành lập thêm các Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao
động, để người dân có nhiều cơ hội giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi bằng cơ
quan xét xử "độc lập, không thiên vị".
Tổ chức Tòa án nhân dân các cấp được đổi mới theo hướng ngày càng hoàn
thiện, cơ bản đáp ứng được mục tiêu thực hiện công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ QCN.
Hiện cả nước có 742 Tòa án nhân dân (gồm Tòa án nhân dân tối cao, 63 Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, 678 Tòa án nhân dân cấp huyện) [11]. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ
quan Tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm và thực thi QCN.
Công tác cán bộ trong các cơ quan Tư pháp được Nhà nước ta chú trọng cả về số
lượng và chất lượng. Tính đến tháng 6/2013, Tòa án nhân dân các cấp có 13.624 người,
trong đó có: 4.957 thẩm phán; 6.702 thư ký và thẩm tra viên; 1.965 chức danh khác. Về
87
trình độ chuyên môn, toàn ngành Tòa án nhân dân có 17 tiến sĩ (0,1%); 515 thạc sĩ
(3,8%); 11.002 đại học (80,8%)...Việc đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa
án các cấp góp phần quan trọng vào việc khắc phục những bất cập trong tổ chức và
hoạt động của Toà án; bảo đảm cho Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử, thực hiện
quyền tư pháp của quốc gia; phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới và HNQT, đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp
từng bước được củng cố, đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tăng thêm
chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hành tốt quyền công tố và quyền giám sát các hoạt
động tư pháp, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm túc, thống nhất, góp phần
quan trọng vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Để thống nhất và tăng cường năng lực kiểm
tra, giám sát các hoạt động tư pháp, các cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân,
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Viện kiểm sát cấp quân khu được đổi mới, tổ
chức, sắp xếp theo hướng tăng cường cho cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Đặc biệt trong quá trình đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, Nhà
nước Việt Nam đã đặt trọng tâm vào cải cách tổ chức và hoạt động xét xử của tòa án,
tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc tranh tụng tại tòa, xem đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp hiện nay và nhiều năm tiếp theo.
- Củng cố tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp, thực hiện cải cách
hành chính, việc kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của chính quyền địa
phương các cấp được Nhà nước chú trọng. Các đơn vị hành chính địa phương ở cả ba
đã được tổ chức sắp xếp lại. Ở cấp tỉnh số các ủy viên ủy ban là trưởng các sở, ban,
ngành đã giảm từ 38 đến 40 xuống còn 20 đến 24 đầu mối; các phòng, ban ở huyện từ
20 đến 27 xuống 10 đến 15 đầu mối. Tổ chức bộ máy hành chính cấp xã đã có những
điều chỉnh cho phù hợp hơn với đặc điểm, tính chất công tác của chính quyền cơ sở,
hình thành các chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Những thay đổi này
góp phần làm cho các cấp chính quyền địa phương qua hoạt động hiệu quả hơn, đóng
góp thiết thực vào việc bảo đảm các QCN.
Những nỗ lực trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam đã
tạo điều kiện cho việc bảo đảm các QCN trên thực tế. Chẳng hạn, về quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, đến nay, Việt Nam có 845 cơ quan báo chí in, trong đó có 199 cơ
quan báo in, 646 tạp chí và 01 hãng thông tấn quốc gia; 98 báo, tạp chí điện tử; 67 đài
88
phát thanh truyền hình Trung ương và địa phương; 180 kênh phát thanh truyền hình
trong nước và 40 kênh phát thanh truyền hình ở nước ngoài...Việt Nam là nước thứ ba
trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 tại châu Á về số lượng người sử dụng Internet
(30,8 triệu người chiếm 34% dân số) [20, tr.281]. Với số lượng lớn các cơ quan báo
chí, phát thanh, truyền hình, báo chí nước ta đã phát huy được vai trò thực sự là cơ
quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn để
nhân dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng cũng như thông tin với các cơ quan của Đảng
và Nhà nước về những bức xúc trong cuộc sống, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu
cực, tham nhũng, các tệ nạn xã hội; đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù
địch trên lĩnh vực QCN.
Cùng với quyền tự do báo chí, Việt Nam còn đạt được nhiều thành tựu trên các
lĩnh vực khác của QCN như: quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền tự do lập hội,
quyền an sinh xã hội, quyền giáo dục, quyền chăm sóc sức khỏe, quyền phụ nữ, quyền
trẻ em, quyền của người khuyết tật... (xem phụ lục 2).
Đánh giá về thành tựu của Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương ba (khóa VIII) nêu rõ: "Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ quan trọng: đã từng bước phát triển hệ
thống quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân" [29, tr.36], đặc biệt "đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên
lĩnh vực xây dựng Nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho việc đổi mới hệ thống chính
trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước" [29, tr.37].
Hai là, chú trọng xây dựng các cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền con người
Xây dựng, củng cố các thiết chế bảo đảm QCN không chỉ dừng lại ở việc hoàn
thiện các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước mà những năm qua, Nhà nước ta còn
đặc biệt chú trọng tới việc còn xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về
QCN như: Ban chỉ đạo nhân quyền Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn
thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các
Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên.
Thực hiện Chỉ thị 12 của Ban bí thư và Quyết định số 71/TTg, ngày 24/2/ 1993
của Thủ tướng Chính phủ, "Ban chỉ đạo đấu tranh các thế lực lợi dụng vấn đề nhân
quyền chống phá ta" được thành lập với nhiệm theo dõi, phân tích và hướng dẫn việc
đấu tranh, phê phán các luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
89
nước ta về QCN; Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý làm cơ sở cho cuộc đấu
tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá ta…
Theo Quyết định số 63/2004/QĐ-TTg về Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và thành
phần của Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Ban chỉ đạo này gồm18 thành
viên (01 Phó thủ tướng Chính phủ và đại diện các Bộ, Ban, ngành), có nhiệm vụ: Theo
dõi, phân tích thông tin liên quan đến vấn đề nhân quyền; Nghiên cứu các vấn đề lý
luận và pháp lý làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống các thế lực lợi dụng vấn đề nhân
quyền; Chỉ đạo xây dựng nội dung phục vụ công tác tuyên truyền, đối thoại về nhân
quyền với các nước, các tổ chức trên thế giới; Phối hợp với các bộ, ngành và địa
phương trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực đấu tranh và bảo vệ
nhân quyền; triển khai các chương trình HTQT về nhân quyền… Hiện Ban chỉ đạo
nhân quyền đã có mạng lưới về các địa phương để triển khai thực hiện Chỉ thị số 44-
CT/TW ngày 20/7/2004 của Ban Bí thư về "Công tác nhân quyền trong tình hình mới".
Đây là thiết chế quan trọng của Nhà nước trong bảo đảm và đấu tranh về QCN.
Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức của Ban chỉ đạo về nhân quyền
Chính phủ, Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức của
các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về
QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên; Báo cáo nhân quyền trong khuôn khổ Cơ
chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng nhân quyền LHQ cũng như các hoạt
động HTQT khác trên lĩnh vực.
Đặc biệt, trong điều kiện HNQT hiện nay, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân, ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của các cá nhân, tổ chức trong bộ
máy Nhà nước, Việt Nam đang nghiên cứu và xúc tiến việc thành lập Ủy ban nhân
quyền quốc gia để theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi QCN trên các lĩnh vực: ban
hành pháp luật; thực thi Hiến pháp, pháp luật; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; xem
xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về QCN…
Ba là, hoàn thiện thiết chế phản biện xã hội
Phù hợp với quy định về quyền lập hội trong Tuyên ngôn thế giới về QCN
(1948) và Công ước quốc tế về các dân sự, chính trị (1966), Nhà nước Việt Nam chú
trọng tới việc hoàn thiện thiết chế phản biện xã hội của các tổ chức chính trị, xã hội
trong việc bảo đảm QCN. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:
"phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức
đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các
90
chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước…để bảo
đảm tốt nhất các quyền và lợi ích của con người, bảo đảm an sinh xã hội vì mục tiêu
phát triển bền vững" [31, tr.304-305].
Cụ thể hóa quan điểm trên, Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức chính trị, xã hội Luật Công đoàn:
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Theo đó, các tổ chức này có quyền: tham gia góp ý
kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định và các dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa
đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phối hợp với chính quyền các cấp xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội, giải quyết các công việc của dân, tạo ra sự đồng thuận
trong xã hội...Trong 2 tháng đầu năm 2013, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị,
xã hội đã tổ chức lấy ý kiến cho Dự thảo Hiến pháp 1992, thu hút 3.181.529 lượt người
tham gia, với tổng số 8.071.919 ý kiến góp ý cho toàn bộ nội dung Hiến pháp [87].
Nhà nước ta đặc biệt đề cao vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức đoàn thể nhân, tạo cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội. Nhiều
cơ cơ chế, chính sách phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp
được thông qua tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức này tham gia các hoạt động giám sát
việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức Nhà nước; giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở
cơ sở, giám sát thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; giám sát
cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư...Trong năm 2013, tổng số cuộc giám sát
của các ban thanh tra nhân dân ở cơ sở là: 51.077, kiến nghị xử lý 17.089; số vụ, việc
được cơ quan có thẩm quyền xử lý [87].
Thứ tư, hợp tác quốc tế về quyền con người
Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước không chỉ thực hiện các chức năng
đối nội mà còn phải thực hiện đối ngoại, hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Trước
những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, với tinh thần "sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập, hợp tác và phát triển", "tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh
song phương và đa phương, thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế; sẵn sàng
đối thoại với các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân
quyền" [33, tr.237], Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, cụ thể:
91
Một là, Việt Nam tham gia ký kết nhiều Công ước quốc tế về quyền con người.
Việt Nam đã chủ động tham gia vào nhiều lĩnh vực hợp tác về QCN trong khuôn
khổ các diễn đàn đa phương và song phương, tích cực, chủ động gia nhập, phê chuẩn
nhiều Công ước, điều ước quốc tế và khu vực về QCN như: Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị (ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa (ICESCR); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng
tộc (CERD); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
(CEDAW); Công ước về quyền trẻ em (CRC); Công ước về tuổi lao động tối thiểu
(Công ước số 138 của ILO); Công ước số 182 về cấm và hành động ngay để xoá bỏ
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; Công ước số 122 về chính sách việc làm... và
đang hoàn tất các thủ tục để phê chuẩn công ước Công ước chống tra tấn... (xem thêm
phụ lục 1, tr.168). Với tư cách là một quốc gia thành viên của các Công ước quốc tế về
QCN, Việt Nam đã "nghiêm chỉnh thuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết", chuyển hóa nội dung của các Công ước vào quá trình xây dựng hệ thống các văn
bản pháp luật trong nước chính vì vậy, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam sau
khi tham gia các Công ước không ngừng được sửa đổi và hoàn thiện, phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Hai là, Việt Nam thực hiện có trách nhiệm nghĩa vụ báo cáo quốc gia về tình
hình thực hiện các Công ước
Nhà nước Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ quốc gia theo yêu cầu
của các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên, thực hiện tương
đối đầy đủ, có trách nhiệm và bảo đảm thời gian hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ các Báo
cáo quốc gia của các công ước quốc tế về QCN. Cụ thể: Việt Nam bảo vệ thành công
Báo cáo việc thực hiện Công ước chống phân biệt đối xử với phụ nữ (tháng 7/ 2001),
Báo cáo về tình hình thực hiện Công ước xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc
(tháng 8/2001) và 02 báo cáo liên quan đến Công ước về quyền dân sự, chính trị (tháng
7/1990 và tháng 7/2002); hai báo cáo về Công ước quyền trẻ em (tháng 1/1993 và
tháng 1/2003); Báo cáo quốc gia đối với tình hình thực hiện Công ước về chống phân
biệt đối xử với phụ nữ lần thứ 4 (2005) và lần thứ 5 (2014). Việc hoàn thành một khối
lượng công việc lớn để nộp hầu hết các báo cáo đúng thời hạn thể hiện sự nghiêm túc
và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc bảo đảm tôn trọng và thực hiện các
cam kết quốc tế trong lĩnh vực QCN.
92
Cùng với việc tham gia vào các tổ chức quốc tế về QCN, Nhà nước Việt Nam
đặc biệt chú trọng tới việc thực hiện QCN theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR).
Đây là một cơ chế quan trọng của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc trong việc bảo
vệ và thúc đẩy QCN trên toàn thế giới liên quan đến việc rà soát định kỳ các hồ sơ
nhân quyền tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, tạo ra diễn đàn cho tất cả
các bên liên quan thảo luận, xác định những ưu điểm, hạn chế trong hệ thống bảo vệ
QCN, xác định các giải pháp để vượt qua thách thức. Nhà nước Việt Nam đã bảo vệ
thành công báo cáo của mình tại cả hai chu kỳ (1 và 2) năm 2009 và 2014, thu các ý
kiến đóng góp xây dựng của các nước khác, tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia
khác về tình hình thực hiện QCN tại các chu kỳ này (xem phụ lục 2). Sự kiện Việt Nam
bảo vệ thành công Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát về QCN được cộng đồng quốc tế
đánh giá cao là dẫn chứng sinh động cho việc HNQT của Việt Nam trên lĩnh vực QCN.
Ba là, Việt Nam tích cực hợp tác sâu rộng và có chất lượng trên lĩnh vực quyền
con người.
Trong quá trình hội nhập, Nhà nước Việt Nam chủ động, tích cực tham gia
HTQT với nhiều vai trò khác nhau như: tham gia có trách nhiệm vào quá trình xây
dựng các văn kiện nhân quyền mới (Công ước về quyền của người lao động di cư và
gia đình của họ (1990); Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (2000); Tuyên bố
toàn cầu về đa dạng văn hóa (2001); Tuyên ngôn về quyền của người bản địa
(2007)…). Tại khoá họp lần thứ 42 của Uỷ ban phát triển xã hội (2/2004), được sự hỗ
trợ của một số nước trong khu vực, Việt Nam đã đưa sáng kiến, kiến nghị chủ đề ưu
tiên của khoá họp tiếp theo của Uỷ ban là "Hợp tác quốc tế để ngăn chặn và giải quyết
các loại bệnh dịch nghiêm trọng". Việt Nam cũng là một trong ba nước đang phát triển
đã đưa dự thảo điều khoản qui định về "Hợp tác quốc tế" vào thành một điều khoản
chính trong nội dung dự thảo Công ước quốc tế về người khuyết tật, làm cơ sở để các
nước đang phát triển thảo luận và đấu tranh trong các khoá họp của Uỷ ban đặc biệt
soạn thảo Công ước nêu trên.
Nhà nước ta tham gia có nhiệm trong việc kiện toàn cơ chế bảo vệ QCN; thành
viên chính thức của Hội đồng kinh tế, xã hội (ECOSSOC), nhiệm kỳ 2000-2002; thành
viên của Ủy ban nhân quyền (Human rights commission), nhiệm kỳ 2001-2003; thành
viên của Ủy ban phát triển xã hội (Social Development Commission), nhiệm kỳ 2001-
2004; Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (Security Council UN),
nhiệm kỳ 2008-2010 và hiện là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
93
(Human Rights Council of the United Nations), nhiệm kỳ 2014-2016. Tại các diễn đàn
này, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước đóng góp cho mục tiêu chung là thúc
đẩy và bảo vệ QCN và những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về QCN.
Nhà nước Việt Nam thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trả lời và giải quyết kháng thư
của Liên hợp quốc. Trong việc thực thi nghĩa vụ thực hiện các thủ tục đặc biệt (Special
Procedures), Việt Nam đã đón các chuyên gia về các vấn đề người thiểu số; đói nghèo
và QCN; tác động của nợ nước ngoài đối với QCN; Báo cáo viên đặc biệt về quyền
văn hóa và tôn giáo…Việt Nam đăng cai tổ chức nhiều hội thảo quốc tế về QCN như:
Hội thảo về Công ước quốc tế chống tra tấn và đối xử vô nhân đạo (tháng 12/2003);
Hội thảo Việt Nam - EU về Án tử hình (tháng 11/2004), Hội thảo về QCN lần thứ 6
(tháng 12/2004)... Tại các hội thảo này, Việt Nam đã tạo cơ hội để các đại biểu quốc tế
hiểu rõ hơn về chính sách, pháp luật của Việt Nam về QCN. Các cuộc hội thảo này
thực sự là diễn đang trao đổi cởi mở, thẳng thắn nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Công tác tuyên truyền, đối ngoại trên lĩnh vực QCN được Nhà nước quan tâm và
đẩy mạnh. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài tăng cường công tác tiếp
xúc, đối ngoại, giới thiệu về tình hình đất nước, con người Việt Nam, giới thiệu về
những thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm và nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa, tinh thần của mọi người dân. Thông qua các hoạt động này, các quốc gia, các
tổ chức trên thế giới ngày càng hiểu biết hơn về chính sách đối ngoại nói chung, các
thành tựu trong lĩnh vực bảo vệ QCN ở Việt Nam nói riêng.
Bên cạnh hoạt động tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam chủ trương sẵn sàng
đối thoại và hợp tác song phương với các quốc gia khác về những vấn đề của QCN như
đối thoại với Hoa Kỳ; với các nước Liên minh châu Âu (EU) và nhiều quốc gia khác.
Mục đích của đối thoại nhằm giúp các quốc gia hiểu biết sâu sắc hơn về những điều
kiện đặc thù Việt Nam; tìm kiếm điểm đồng, hạn chế bất đồng, nêu cao nguyên tắc
khách quan, không thiên vị, không chính trị hoá vấn đề QCN.
Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên ASEAN, Việt Nam đã có
những đóng góp tích cực vào việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân
quyền (AICHR) (tháng 10/2009), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền
phụ nữ và trẻ em (ACWC) (tháng 4/2010) và Tuyên bố Nhân quyền ASEAN (tháng
11/2012). Qua đó thể hiện cam kết và quyết tâm của Nhà nước ta trong việc tôn trọng,
thúc đẩy các QCN cũng như các quy định của pháp luật quốc tế về QCN.
94
3.2.2. Những hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền
con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Thành tựu của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN thời gian qua là
đáng tự hào, tuy nhiên, QCN là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, do đó, việc bảo đảm QCN
của Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể:
Thứ nhất, hạn chế trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN
Thời gian qua, Nhà nước ta có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng, hoàn thiện
chính sách, pháp luật về QCN, song chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Hệ thống
chính sách, pháp luật về QCN mặc dù được bổ sung và hoàn thiện, song vẫn còn nhiều
bất cập, bộc lộ nhiều "khoảng trống" chưa theo kịp với thực tiễn. Nhiều quy định pháp
luật còn chồng chéo, chưa rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn, nhiều văn bản luật tính khả thi
chưa cao, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các quyền đã được ghi nhận trong Hiến
pháp 2013. Số lượng các văn bản pháp luật quá nhiều, hình thức văn bản, nhiều cấp độ
hiệu lực khác nhau, lại không được thường xuyên rà soát, hệ thống hóa toàn diện gây
khó khăn cho việc tổ chức thực hiện.
Số lượng các văn bản luật, pháp lệnh về quyền tự do dân chủ của công dân ban
hành khá ít; một số dự án luật đã được đưa vào chương trình nghị của Quốc hội nhưng
nội dung chưa đáp ứng, thời điểm chưa phù hợp và một số lý do khác nên chưa được
ban hành, tạo nên hiện tượng gọi là quyền "treo", ít có hiệu lực thực tế, như: quyền lập
hội, biểu tình, tiếp cận thông tin. Trong một số lĩnh vực, pháp luật còn có những quy
định gây trở ngại cho việc bảo vệ các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp, như
quyền có luật sư, quyền được suy đoán vô tội, quyền được im lặng của bị can, bị cáo,
người bị bắt giữ, quyền biểu tình, quyền tiếp cận thông tin...
Ngoài ra, tình trạng kém hiệu quả của pháp luật trong bảo vệ quyền của các nhóm
yếu thế, bảo vệ các quyền về kinh tế, xã hội của người lao động trong các loại hình
doanh nghiệp cũng khá phổ biến. Tất cả những bất cập trong xây dựng và thực thi
chính sách, pháp luật đã và đang tạo kẽ hở trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động
khác, làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực và vi phạm pháp luật và phần nào làm
giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo vệ QCN.
Thứ hai, trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người
Việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN có nhiều đổi mới, tuy nhiên,
quá trình tổ chức thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập. Điển hình là tình trạng chậm trễ trong việc thi hành các quy định của Hiến
95
pháp, luật và chính sách. Ở nước ta, theo quy trình sau khi Luật ban hành thì phải có
các văn bản hướng dẫn thi thành luật. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong việc ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành luật cùng với một số lượng "khổng lồ" các văn bản hướng
dẫn thi hành luật với nhiều cấp độ khác nhau đã và đang là trở ngại cho việc thực thi
chính sách, pháp luật trên thực tế. Tình trạng Hiến pháp chờ Luật, Luật chờ Nghị định
và Nghị định cũng bị "treo" nếu chưa có Thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến.
Chẳng hạn, Luật bình đẳng giới được thông qua từ tháng 11 năm 2006 nhưng đến
tháng 6/2008 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành. Luật phòng, chống HIV/AIDS có
hiệu lực từ tháng 6 năm 2006 nhưng đến tháng 6 năm 2007 mới có Nghị định hướng
dẫn thi hành Luật; Luật Phòng chống bạo lực gia đình thông qua từ tháng 11 năm 2007
đến tháng 2 năm 2009 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành; Luật Người cao tuổi ban
hành ngày 23/11/2009, có hiệu lực ngày 01/1/2010, nhưng cũng phải 1 năm sau mới có
văn bản hướng dẫn thi hành, Luật về người khuyết tật có hiệu lực từ ngày 01/01 /2011
nhưng đến ngày 10/4/2012 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành Luật...Đến tháng
6/2014 vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của luật Bình đẳng giới về
việc hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, và vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Sự chậm trễ này làm
cho các quy định của pháp luật chậm được triển khai trong thực tế.
Sự chồng chéo và "dư thừa" các văn bản hướng dẫn thi hành luật đã làm cho
nhiều quy định của pháp luật không thể đi vào cuộc sống. Chẳng hạn, để thực hiện
được Pháp lệnh thi hành án dân sự (2004), cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau
để hướng dẫn thi hành. Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực hiện phải dựa trên 126
văn bản. Trong lĩnh vực môi trường thì có đến khoảng 300 văn bản pháp luật khác
nhau đang còn hiệu lực. Đó là chưa kể đến tình trạng hướng dẫn không đúng với quy
định của văn bản Luật diễn ra thường xuyên.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, từ năm 2003 đến tháng 1/2013, các bộ, ngành và
địa phương đã kiểm tra 2.353.490 văn bản, trong đó, các bộ, ngành kiểm tra 43.262 văn
bản, phát hiện được 63.277 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp
pháp của văn bản. Chỉ tính riêng từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết ngày
30/4/2014, trong tổng số 1.574 văn bản đã kiểm tra thì đã có 312 văn bản có dấu hiệu
trái luật, trong đó 54 văn bản sai về nội dung, còn lại văn bản sai về thể thức văn bản,
thẩm quyền ban hành [100]. Thực tế này đã và đang tạo ra những "khoảng trống" của
pháp luật, tạo kẽ hở cho một số cơ quan, cá nhân sử dụng quyền lực một cách tùy tiện
vi phạm QCN của công dân.
96
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về QCN
của Nhà nước thời gian chưa sự đạt hiệu quả như mong đợi. Hoạt động thanh tra, kiểm
tra còn nhiều biểu hiện hình thức, kém hiệu quả. Cơ chế bảo đảm cho việc thi hành các
yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, thực hiện kết luận thanh tra chưa cụ thể, rõ ràng,
hiệu lực pháp lý chưa cao. Nhiều sai phạm được cơ quan thanh tra phát hiện nhưng
chưa được xử lý kịp thời. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ năm tháng 1/2015, xử
lý các vi phạm sau thanh tra đạt 70% (trước đó chỉ đạt 20 đến 30%). Đó là chưa kể
nhiều sai phạm có kết luận của thanh tra nhiều năm vẫn không được xử lý hoặc xử lý
qua loa, chiếu lệ. Đơn cử vụ việc sai phạm trên lĩnh vực đất đai ở xã Minh Tân, huyện
Đông Hưng, Thái Bình đã có kết luận của thanh tra từ năm 1998 nhưng đến tháng 4
năm 2015 vẫn chưa được xử lý. Việc chậm trễ trong xử lý sai phạm sau thanh tra làm
giảm kỷ cương, kỷ luật hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ QCN.
Thứ ba, trong xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người
Việc hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN của Nhà nước ta những năm qua đã
có nhiều nỗ lực, tuy nhiên đến nay, các thiết chế này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập,
chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước được
đổi mới, sắp xếp lại nhưng vẫn thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhiều tầng, nấc trung gian,
nhiều về số lượng nhưng hạn chế về chất lượng, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra.
Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương được phân chia làm nhiều cấp khiến
cho bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều nấc trung gian, không rõ chức năng thẩm
quyền dẫn đến chồng chéo, đùn đẩy công việc. Việc đổi mới chính quyền địa phương
theo phương án nào vẫn đang là vấn đề còn tranh luận. Chính sự "chưa ngã ngũ’ này
đang là trở ngại cho việc cải cách hành chính, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền
địa phương, giảm hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
Bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều khâu trung gian, "chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu
chưa thật sự rõ, cơ chế vận hành và mối quan hệ còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ, công
chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ"
[131, tr.20], dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, gây nhiều phiền hà cho dân. Thủ tục
hành chính tuy được đổi mới nhưng vẫn còn chồng chéo, công tác cải cách chế độ công
vụ, công chức trong các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước còn mang nặng tính
hình thức (như việc tổ chức thăm dò ý kiến của tập thể người lao động trong cơ quan
để đề bạt, bổ nhiệm lãnh đạo...). Những hạn chế trên đã và đang tác động tiêu cực đến
Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
97
Thứ tư, trong hợp tác quốc tế về quyền con người
Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN của Nhà nước ta đã thu được nhiều
kết quả đáng khích lệ, song vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Cụ thể:
Các báo cáo định kỳ về việc thực hiện các Công ước quốc tế về QCN (Báo cáo về
tình hình thực hiện quyền phụ nữ; quyền trẻ em; quyền của người thiểu số về dân tộc)...
còn chưa được thực hiện kịp thời, đúng hạn.Theo yêu cầu của các Công ước quốc tế về
QCN, các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ báo cáo tình hình thực hiện Công ước
về QCN theo định kỳ, tuy nhiên vì những lý do khác nhau, Báo cáo của Việt Nam
thường không đúng kỳ hạn, nội dung Báo cáo chưa phản ánh hết đóng góp của quá
trình đổi mới trên lĩnh vực QCN. Điều này làm giảm chất lượng của các báo cáo, tạo cơ
hội để các thế lực thù địch chống phá ta trên lĩnh vực QCN.
Công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch bên ngoài trên lĩnh vực QCN chưa
có chiến lược dài hạn và phương thức đấu tranh cụ thể mà chủ yếu đấu tranh theo kiểu
"đánh đâu đỡ đấy"; chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị;
chưa tạo được thể chủ động trong công tác đấu tranh nhân quyền.
Công tác thông tin, tuyên truyền về thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam chủ
yếu tập trungở các thành tựu về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (xóa đói giảm nghèo; an
sinh xã hội; giáo dục...). Những thành tựu về quyền dân sự, chính trị (quyền tự do báo
chí; tự do tôn giáo, tự do thông tin, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội...);
thành tựu hoàn thiện pháp luật về QCN; dân chủ hóa hoạt động của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp chưa được tuyên truyền đúng mức, tạo kẽ hở để các thế lực thù
địch lợi dụng, vu cáo ta vi phạm dân chủ, tôn giáo, tự do thông tin....
3.2.3. Nguyên nhân
3.2.3.1. Nguyên nhân của thành tựu
Những thành tựu của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện
HNQT theo chúng tôi bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta là nhân tố có ý nghĩa
quyết định.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất trong hệ thống chính trị
ở nước ta. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu phát triển toàn diện đất
nước, phát triển con người là sự thể hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta trên
hàng loạt các vấn đề về thời đại và trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
QCN. Đây là một trong những yếu tố quyết định góp phần cho những thành tựu quan
98
trọng trên nhiều mặt của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, tạo tiền đề để Việt
Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, từng bước hội nhập vào đời sống quốc tế.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội trước hết bằng đường lối chính trị của
mình, đó là kết quả của việc tổng kết từ thực tiễn, phát triển lý luận trên cơ sở nhận
thức đúng đắn về Chủ nghĩa Mác - Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả dân
tộc, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới. Với tư duy con người là vị trí "trung
tâm của sự phát triển", việc bảo đảm QCN được nghiên cứu và nhận thức đầy đủ hơn,
thấu đáo hơn, làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới tư duy kinh tế, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động đan xen nhau trong thời kỳ quá độ. Lợi ích
của người lao động được quan tâm. Đó cũng chính là sự chú ý hơn đến lợi ích cá
nhân, đến quyền của mỗi người trên lĩnh vực kinh tế. Từ lĩnh vực kinh tế, những nhu
cầu về quyền khác của con người cũng được đặt ra và từng bước được đáp ứng như:
quyền tự do sản xuất, kinh doanh; quyền tự do lựa chọn việc làm; quyền sở hữu;
quyền được tiếp cận thông tin; quyền khiếu nại, tố cáo cũng như các quyền tự do cá
nhân khác cũng được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm trên thực tế. Đó cũng chính là
những nội hàm của QCN mà Nhà nước Việt Nam cần thực hiện với tư cách là thành
viên của các điều ước quốc tế về QCN. Vì vậy, có thể khẳng định, đường lối đổi mới
của Đảng ta là nhân tố quyết định hàng đầu cho thành công của sự nghiệp đổi mới và
thực hiện tốt các QCN cơ bản như: quyền được sống trong tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc, quyền được phát triển toàn diện con người trong một đất nước hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
Có được những thành tựu về QCN kể trên là do Đảng và Nhà nước ta biết dựa
vào dân, khuyến khích sự sáng tạo của nhân dân, "đặt lợi ích của mỗi người, của từng
tập thể và toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau"; "tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân", chú trọng "chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người"... coi đó là động lực và mục
đích của công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Trong nỗ lực thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
nâng cao chất lượng đời sống nhân dân trên các lĩnh vực, thực hiện xóa đói giảm
nghèo; thực hiện an sinh xã hội cho nhóm dễ tổn thương; hỗ trợ những vùng còn gặp
nhiều khó khăn, nhất là vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nếu so sánh với
99
nhiều quốc gia có thu nhập tương đương, chất lượng cuộc sống của người dân đã đạt
được những tiến bộ rõ rệt. Hầu hết mọi người dân Việt Nam đều được hưởng thụ thành
quả của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, đổi mới đã nhận được sự hưởng ứng
mạnh mẽ của nhân dân, động viên và thu hút đông đảo nhân dân tham gia thực hiện,
tạo nên sức mạnh dân tộc, tạo cơ sở vững chắc cho thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thành công của đổi mới, hội nhập và bảo đảm QCN.
Thứ ba, xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong thực thi quyền con người
Để có được những thành công trên, Nhà nước ta đã xác định được những nhiệm
vụ ưu tiên trong việc bảo vệ và thực thi QCN. Trên cơ sở xác định việc giữ vững độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ hàng đầu để bảo đảm QCN ở Việt Nam,
Nhà nước ta cũng xác định một số lĩnh vực cần được ưu tiên trước hết trong điều kiện
hiện nay là: (1) Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo
đảm QCN; (2) Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa bảo đảm và nâng cao sự hưởng thụ
của người dân, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo cơ hội bình đẳng
để người dân tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các
phúc lợi xã hội...; (3) Mở rộng dân chủ, giữa vững ổn định chính trị, xã hội bảo vệ và
thực hiện đầy đủ các QCN...Những thành tựu sau gần ba thập kỷ qua là việc mở rộng
cơ hội lựa chọn cho mọi người, phát huy tính chủ động sáng tạo nhằm thích ứng với
các cơ hội của hội nhập. Theo đánh giá của Liên hợp quốc tại Việt Nam "thành công to
lớn của công cuộc đổi mới không chỉ đơn thuần là cung cấp của cải vật chất. Xét một
cách căn bản hơn, đổi mới thực chất là quá trình mở rộng rất thành công sự lựa chọn và
cơ hội cho người dân để họ cải thiện cuộc sống kinh tế và xã hội của mình" [8, tr.56].
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu của hội nhập quốc tế
Có thể khẳng định, yêu cầu của HNQT đã tạo ra động lực và cơ hội để Nhà nước
Việt Nam đạt được những thành tựu trong việc bảo đảm QCN. Tham gia các công ước
quốc tế về QCN, Nhà nước phải có nghĩa vụ thực hiện các báo cáo quốc gia đối theo
các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc. Các báo cáo này đòi hỏi trách nhiệm của Nhà
nước không chỉ làm rõ việc thực hiện các QCN được ghi nhận trong mỗi công ước mà
còn ở việc tuyên truyền, giáo dục và thúc đẩy thực hiện QCN trên thực tế. Vì vậy, có
thể khẳng định, chính thực tiễn đổi mới, hội nhập và phát triển đã đặt ra những yêu cầu
mới trong nhận thức lý luận về QCN nhằm định hướng các hoạt động đối nội, đối
ngoại của đất nước, góp phần tạo nên những thành tựu đáng tự hào của Nhà nước Việt
Nam đối với việc bảo đảm QCN.
100
3.2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN có nhiều nguyên nhân,
theo chúng tôi, có thể quy về các nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, nguyên nhân về nhận thức
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Nhà nước đối với việc bảo
đảm QCN là do nhận thức về QCN của Đảng và Nhà nước còn hạn chế. Trước đổi
mới, vấn đề QCN chưa được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và nghiên cứu một cách
cơ bản và có hệ thống, chưa được quan tâm đúng tầm của nó, dẫn đến chủ quan, duy ý
chí trong nhận thức về QCN dẫn tới tình trạng đồng nhất QCN với QCD; chưa hiểu
đúng bản chất của khái niệm "Quyền con người", nên tách bạch khái niệm "nhân
quyền" và "quyền con người’. Do nhận thức chưa đầy đủ về QCN, nên trước Đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta chưa hình thành được hệ thống quan điểm chỉ đạo việc xây dựng
các chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực QCN. Việc "duy ý chí" trong nhận
thức về QCN dẫn đến hệ quả tất yếu là việc ghi nhận một số QCN trong Hiến pháp và
Luật còn chủ quan, áp đặt theo ý chí của nhà làm luật, nên không thực hiện được trong
thực tiễn. Chẳng hạn, trong Hiến pháp 1980, quy định về quyền được học tập mà
"không phải trả tiền và có chính sách cấp học bổng" (Điều 60); quyền được khám, chữa
bệnh không mất tiền (Điều 61); công dân có quyền có nhà ở (Điều 62)...Việc quy định
các quyền trên là sự áp đặt chủ quan của các nhà làm luật, chưa gắn với điều kiện cụ
thể của đất nước. Đó là, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước
nông nghiệp lạc hậu, điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất cho Nhà nước đảm bảo các QCN
còn rất hạn chế. Vì vậy, các QCN kể trên đã không thực hiện được trên thực tế.
Việt Nam xây dựng Chủ nghĩa xã hội chưa qua Tư bản chủ nghĩa, nghĩa là chúng
ta chưa có nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Vì vậy, nhận thức về "nhà nước
pháp quyền" cũng như sự cần thiết phải xây dựng nó có những lệch lạc nhất định. Suốt
thời gian dài, chúng ta coi "nhà nước pháp quyền" là của nhà nước tư sản và nền dân
chủ tư sản, nên không được đặt ra và giải quyết. Mặt khác, chúng ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội và nhà nước pháp quyền khi chưa có tập quán và truyền thống của một xã
hội dân chủ, nên trình độ nhận thức về văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật còn hạn chế.
Chỉ khi chúng ta thực hiện đổi mới phạm trù "quyền con người", "nhà nước pháp
quyền", "xã hội dân chủ" mới chính thức được đề cập, nghiên cứu định hướng thực
hiện. Đây là nguyên nhân gây trở ngại cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân, phát huy hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
101
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến hạn chế trong nhận thức về QCN ở nước ta là do
trình độ văn hóa nói chung, trình độ hiểu biết về pháp luật, về dân chủ và QCN của
người dân, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều
hạn chế. Điều này dẫn đến việc "vi phạm pháp luật của nhân dân là điều khó tránh
khỏi" [9, tr.147]. Đơn cử, Quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai thực hiện gần 20
năm nhưng thực tế, nhiều quy định về dân chủ người dân chưa nắm được, nhất là
những người dân ở vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó, việc thực hiện "dân chủ mang
nặng tính hình thức" [114], hoặc độc đoán, quan liêu đã và đang tạo kẽ hở cho thế lực
thù địch lợi dụng, xúi giục gây mất ổn định chính trị, xã hội. Sự kiện khiếu kiện tập thể
tại Thái Bình những năm 90, tại Tây Nguyên những năm 2001 và 2005 là những dẫn
chứng sinh động cho nhận định trên.
Thứ hai, nguyên nhân về tổ chức thực hiện
Sở dĩ còn những hạn chế trong việc bảo đảm QCN của Nhà nước là do chúng ta
chưa có cơ chế bảo đảm QCN hiệu quả, đặc biệt là chính quyền của nhân dân chưa thể
hiện được bản chất ưu việt của nó.
Một là, cơ chế phân công quyền lực trách nhiệm giữa các cơ quan trong tổ chức
bộ máy Nhà nước còn nhiều điểm chưa thống nhất. Chức năng làm luật của Quốc hội
chưa rõ, có sự chồng lấn chức năng điều tra hình sự giữa các cơ quan tư pháp và hành
pháp... dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cơ quan quyền lực còn
thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng các cơ quan "đổ lỗi" lẫn nhau hoặc "coi chừng nhau"
trong việc thực thi nhiệm vụ bảo đảm QCN. Về mặt lý thuyết, theo mô hình quản lý
Nhà nước Việt Nam thì "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp" (Điều 2, Khoản 3, Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, chính cách phân
công quyền lực còn "chung chung" này làm nảy sinh nhiều bất cập, bộc lộ không nhiều
vấn đề cần phải giải quyết, nhất là quá trình vận hành, thực thi quyền lực nhà nước.
Hai là, thiếu một cơ quan chuyên trách về QCN. Theo kinh nghiệm của nhiều
quốc gia, để đảm bảo thực hiện tốt các QCN, bên cạnh sự hoàn thiện về tổ chức bộ máy
nhà nước, cần có một cơ quan chuyên trách về QCN. Cơ quan chuyên trách này tồn tại
độc lập với nhà nước, thực hiện chức năng giám sát đối với tất cả các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội về việc thực thi các quyền đó, tạo ra sự thống nhất trong việc
xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, Việt Nam
chưa có cơ quan nhân quyền quốc gia. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn
chế việc vai trò Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
102
Ba là, quy trình xây dựng chính sách, pháp luật về QCN chưa thực sự khoa học,
thiếu thống nhất và sự gắn kết bền vững dẫn đến chất lượng, hiệu quả chưa chưa cao.
Có thể khẳng định, hoạt động xây dựng luật ở Việt Nam còn nhiều điểm bất hợp lý, dẫn
đến tình trạng "vừa thừa" lại "vừa thiếu", gây khó khăn trong việc thực hiện.
Chẳng hạn, biểu tình là quyền của người dân thể hiện quyền tự do và dân chủ.
Quyền này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, nhưng hiện tại, nước ta chưa có Luật
biểu tình để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp. Điều này đã gây khó khăn cho công
tác quản lý, gây trở ngại cho người dân thực hiện quyền biểu tình của mình, tạo kẽ hở
để các thế lực thù địch lợi dụng kích động gây bạo loạn, gây khó khăn cho công tác
quản lý nhà nước.
Việc khảo sát, đánh giá trước khi xây dựng chính sách, pháp luật còn mang nặng
dấu ấn nhiệm kỳ, ngắn hạn dẫn đến nhiều "chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa
sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi" [30, tr.75], nội dung chồng chéo, trùng lắp, mâu
thuẫn, khó thực hiện trong thực tế. Đó là chưa kể nhiều "chính sách bị biến dạng qua
nhiều tầng, nấc hành chính quan liêu" [30, tr.76]. Kết quả khảo sát của Học viện Chính
trị quốc gia cho thấy "chính sách phải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn (78,8%); chính
sách còn chịu sự chi phối của nhiều bên không cần thiết (78,6%), thủ tục hành chính
rườm rà, phức tạp (73,8%) [75, tr.118]. Điều này làm cho quyền và lợi ích của người
dân chưa được bảo đảm như mục tiêu chính sách.
Phương pháp tiếp cận dựa trên QCN với nguyên tắc cơ bản là công dân có quyền
tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ chưa thực sự được coi
trọng và áp dụng trong quá trình xây dựng luật. Trách nhiệm của cơ quan trình dự án,
cơ quan tham gia soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý chưa được phân định rõ ràng theo mỗi
công đoạn, chưa có cơ chế sử dụng các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn
đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu trước khi cung cấp cho đại biểu Quốc
hội. Sự phối hợp giữa các cơ quan Quốc hội với các cơ quan hữu quan có lúc, có việc
chưa chặt chẽ, nhịp nhàng [94].
Quy trình xây dựng pháp luật chưa thực sự khoa học dẫn đến nhiều quy định
pháp luật thiếu ổn định và minh bạch. Nhiều quy định không trực tiếp điều chỉnh được
các quan hệ xã hội phải chờ đợi văn bản hướng dẫn mới đi vào cuộc sống, dẫn đến hiệu
lực, hiệu quả thấp. Đó là chưa kể đến "nội dung của một số văn bản quy phạm pháp
luật chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, còn mang nặng mong muốn chủ
quan" [36] dẫn đến tính khả thi chưa cao.
103
Bốn là, Thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta chưa được hình thành một
cách căn bản, điều đó đã tạo điều kiện cho một số người theo đuổi hành vi vi phạm lợi
ích xã hội để hưởng lợi cho riêng mình. Kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng
làm nảy sinh những vấn nạn xã hội đáng lo ngại: phân hóa giàu nghèo giữa các tầng
lớp dân cư, thất nghiệp và tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng...Bên cạnh đó, những
phong tục tập quán; định kiến mang tính địa phương; định kiến giới, bạo lực gia đình...
vẫn còn tồn tại, nhất là ở những nơi có trình độ dân trí thấp. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến người dân trong việc hưởng thụ QCN mà còn là thách thức đối với các cơ
quan chính quyền trong việc xây dựng, triển khai các chính sách nhằm cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của người dân.
Thứ ba, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ quyền con
người còn hạn chế
Sự hạn chế về năng lực, phẩm chất và trình độ nhận thức về QCN của đội ngũ
cán bộ, công chức đã và đang là trở ngại trong việc bảo đảm QCN của Nhà nước. Có
thể khẳng định, hiện nay, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa
đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước. Tác phong và thái độ thực thi công vụ của
cán bộ, công chức còn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ, thiếu chuyên nghiệp trong
thực thi công vụ. Sự yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức trong công tác quản
lý, tham mưu, hoạch định…dẫn đến tình trạng sai phạm trong cả văn bản quy phạm
pháp luật, nhiều chính sách vừa ban hành đã phải sửa đổi, hiệu lực thực thi không cao.
Sự yếu kém về năng lực của đội ngũ cán bộ làm cho chất lượng hoạt động của cơ
quan Nhà nước bị hạn chế. Chẳng hạn, trên lĩnh vực tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp,
các chức danh tư pháp còn thiếu cả về số lượng và hạn chế về chất lượng dẫn đến
những sai phạm trong quá trình xét xử là điều khó tránh khỏi.
Theo thống kê của ngành tòa án, trong 3 quý của năm 2014 ngành toà án đã giải
quyết xét xử hơn 385.300 vụ án, trong đó, án thụ lý sửa lỗi chủ quan chiếm 1,61%,
nghĩa là có trên 6.200 vụ án phải sửa lỗi chủ quan của thẩm phán. Trong 3 quý đầu năm
2014, ngành công an đã khởi tố điều tra hơn 159.000 bị can, nhưng phải tạm đình chỉ
điều tra 3.200 bị can, đình chỉ điều tra 2.300 vụ, phát hiện 91 công dân bị oan sai và
phát hiện ngành Toà án tuyên 21 bị cáo không phạm tội.
Sự yếu kém về năng lực của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ khởi tố, điều tra tội đã
làm giảm lòng tin của người dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật và giảm lòng tin với
Nhà nước. Bên cạnh đó, sự yếu kém về phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công
104
chức làm công tác bảo vệ QCN là nguyên nhân dẫn đến vi phạm các QCN của người
dân. Tình trạng sa sút về phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán
bộ, công chức dẫn đến nhiều vụ án oan, án sai. Với sứ mệnh và trách nhiệm là bảo vệ
QCN cho người dân, song các cán bộ này vì nhiều lý do lại vi phạm các QCN của
người dân. Nhiều vụ án oan gây bức xúc trong dư luận gần đây. là những minh chứng
cho sự yếu kém về năng lực, phẩm chất đạo đức của các cán bộ trong quá trình điều tra,
xét xử. Không thể phủ nhận, nhiều vụ án oan, oán sai xảy ra là do có sự "tiếp tay", "bao
che", thậm chí là "chủ mưu" của một số cán bộ thiếu phẩm chất đạo đức và lương tâm
nghề nghiệp trong quá trình thực thi công vụ bảo đảm QCN của người dân.
Như vậy, sự hạn chế trong nhận thức, những yếu kém trong tổ chức của các cơ
quan trong bộ máy Nhà nước cùng với năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ bảo
vệ QCN như khái quát ở trên đã làm giảm hiệu quả bảo đảm QCN của Nhà nước.
Nhận định về vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định "Cải cách hành chính cậm, thiếu
kiên quyết, thực hiện chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, ý thức trách nhiệm, kỷ luật và
năng lực tổ chức thực hiện ở các ngành, các cấp còn yếu" [30, tr.258]. Đó là chưa kể
" một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức yếu kém, bất cập về trình độ chuyên
môn, năng lực điều hành công việc, chưa tương xứng với cương vị và trách nhiệm
được giao; một số không ít cán bộ thoái hóa về phẩm chất, sống thực dụng, cửa
quyền, hối lội, sách nhiễu, tham nhũng...ảnh hưởng xấu tới uy tín của Đảng và Nhà
nước..., gây cản trở lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước" [30, tr.258]. Đây là nguyên
nhân của các nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN ở
nước ta hiện nay.
3.3. NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Bảo đảm QCN là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta và được
ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thời gian
qua, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm QCN, tuy nhiên, việc bảo đảm
QCN của Nhà nước đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là:
3.3.1. Vấn đề đặt ra về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa nhân
quyền và chủ quyền trong điều kiện hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội cho việc mở rộng các QCN, song nó cũng đặt ra
nhiều thách thức đối với chủ quyền quốc gia bởi do yêu cầu của thông tin TCH. Tham
gia HNQT, yêu cầu mở rộng các QCN là một tất yếu, song nếu không có sự điều tiết
105
hợp lý của Nhà nước thì nó sẽ trở thành yếu tố gây cản trở cho việc giữ vững độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đây là vấn đề cần giải quyết trong quá trình mở rộng và
hiện thực hóa các QCN với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lý của một quốc gia độc lập,
được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và trong hệ thống pháp luật
quốc gia. Tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng về chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc
của luật pháp quốc tế, theo đó "Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền
đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do theo đuổi con
đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình" [124, tr.102]. Với nguyên tắc
này, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về mặt chủ quyền, có quyền lựa chọn con đường
phát triển, lựa chọn chế độ chính trị, xã hội của mình và chính bản chất chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia, xác định phạm vi và khả năng bảo đảm QCN.
Hiện nay, HNQT đang đặt ra nhiều vấn đề trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
nhân quyền và chủ quyền quốc gia. Sự giao lưu và hợp tác giữa các quốc gia đã giúp
con người nhận thức rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về những giá trị của tự do, dân chủ và
QCN. Tuy nhiên, chính việc mở rộng các QCN cũng có thể làm cho chủ quyền quốc
gia của các nhà nước có thể bị tác động tiêu cực bởi các chế định trong HNQT. Tham
gia hội nhập, việc tuân thủ các định chế quốc tế là nguyên tắc buộc các quốc gia thành
viên phải thực hiện, theo đó, nhà nước phải có sự chia sẻ thông tin, trong đó có những
thông tin trước đây được xem là bí mật quốc gia và ở một khía cạnh, lĩnh vực nào đó,
nhà nước phải chia sẻ một phần trách nhiệm cho các tổ chức quốc tế. Vấn đề giải quyết
mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền nảy sinh từ đây. Bởi nếu nhà nước thực
hiện mở rộng và hiện thực hóa các QCN bằng các chính sách kinh tế, xã hội phù hợp
với điều kiện đất nước thì khó tìm được tiếng nói chung với các chế định quốc tế và
ngược lại, nếu thỏa mãn một số yêu cầu của các định chế quốc tế mục tiêu cốt lõi là giữ
vững chủ quyền quốc gia khó đạt được hiệu quả cao nhất.
Việt Nam đang tham gia HNQT một cách toàn diện. Trong quá trình hội nhập,
việc mở rộng dân chủ, nhân quyền trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia luôn được Nhà nước ta coi là trọng tâm. Dưới tác động của HNQT, lợi dụng yêu
cầu của việc tuân thủ các chế định quốc tế trong quan hệ với Việt Nam, nhiều quốc gia
Phương Tây luôn tìm cách gắn vấn đề hợp tác, viện trợ, đầu tư với những điều kiện đòi
hỏi về cải thiện dân chủ, nhân quyền theo tiêu chí của họ. Lợi dụng lợi thế sức mạnh về
kinh tế và khoa học- công nghệ, các nước tư bản phát triển thao túng các tổ chức kinh
tế tài chính toàn cầu để áp đặt những nguyên tắc, phương thức hoạt động thiếu bình
106
đẳng, lợi thế nghiêng họ thì việc chấp nhận các ‘luật chơi" đó, chúng ta có thể phải đối
mặt với việc họ có thể dùng chính các chế định đó để can thiệp vào vấn đề chủ quyền
quốc gia, dân tộc. Trên các diễn đàn đa phương và song phương, họ đưa ra những lập
luận tuyệt đối hóa tính phổ biến của vấn đề dân chủ, nhân quyền với luận điểm "nhân
quyền cao hơn chủ quyền" áp đặt các tiêu chuẩn đó vào Việt Nam mà không tính đến
đặc thù về kinh tế, xã hội, văn hóa của từng quốc gia, khu vực.
Nếu như trước đây, chủ quyền quốc gia mang tính tuyệt đối, trong xu thế HNQT,
chủ quyền quốc gia mất dần tính tuyệt đối bởi sự điều chỉnh theo các cam kết hội nhập.
Việt Nam không chỉ đứng trước nguy cơ chệch hướng chính trị trong việc mở rộng các
QCN mà còn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền lãnh thổ trước các tổ chức
quốc tế (như tòa án quốc tế, các khối quân sự quốc tế, các tổ chức thương mại và tài
chính quốc tế…). Với các định chế của mình, các tổ chức này đã và đang can thiệp vào
nhiều lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, đòi hỏi Nhà nước phải chia sẻ những thông tin
mà trước đây được xem là bí mật quốc gia.
Cùng với sức ép cạnh tranh của quốc tế; sự can thiệp về mọi mặt của các tổ chức
đọc quyền xuyên quốc gia, việc mở rộng và hiện thực hóa các QCN và tính độc lập tự
chủ của Việt Nam ngày càng đứng trước nhiều nguy cơ, nhiều thách thức, đặt ra nhiều
vấn đề đối với Nhà nước. Nếu nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình trong việc mở
rộng và hiện thực hóa các QCN bằng các chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa phù hợp
với điều kiện trong nước thì khó tìm được tiếng nói chung với các quy định, yêu cầu
của pháp luật quốc tế về QCN và các chế định quốc tế. Ngược lại, nếu thỏa mãn hết các
yêu cầu của các chế định quốc tế thì mục tiêu cốt lõi là mở rộng dân chủ, bảo đảm
QCN gắn với giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia khó đạt được kết quả
cao nhất. Do đó, giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng các QCN trên cơ sở giữ vững
độc lập chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi Nhà nước trong điều
kiện HNQT hiện nay.
3.3.2. Vấn đề đặt ra giữa yêu cầu bảo đảm quyền con người của Nhà nước
với những bất cập trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay
Thứ nhất, vấn đề đặt ra về bảo đảm quyền con người của Nhà nước với bất cập
trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
107
Các QCN chỉ có thể được bảo đảm tốt trong nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên,
trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
còn gặp nhiều bất cập, trở ngại, đó là:
Thể chế và hoạt động của bộ máy Nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với
Nhà nước pháp quyền và việc điều hành nền KTTT định hướng XHCN.Tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém: tổ chức còn
cồng kềnh, nhiều khâu trung gian trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ; bất cập về trình
độ, năng lực quản lý, kiến thức nghề nghiệp. Tổ chức và hoạt động còn nặng nề, chưa
phân định tốt trách nhiệm, quyền hạn, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
quyền lực; chưa bảo đảm tính độc lập tương đối của các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp; mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa phương. Việc kiện toàn tổ chức
bộ máy và công tác cán bộ, vấn đề trật tự và kỷ luật đang là những vấn đề yếu kém của
hệ thống chính trị.
Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ thống pháp
luật cũng như những yêu cầu mới, sự phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật nên đã bộc
lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật và trong xác
định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật cũng như nâng cao tính khả thi
và tính hiệu lực của văn bản pháp luật. Nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn
chưa có luật mà điều chỉnh chủ yếu bằng văn bản dưới luật, thậm chí chưa có văn bản
dưới luật điều chỉnh.
Hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,
chậm đi vào cuộc sống, chưa theo kịp và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân vì
dân; bảo vệ các quyền tự do của con người, của công dân, cho quá trình hội nhập quốc
tế và khu vực. Quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước còn bộc lộ nhiều khuyết
điểm, yếu kém; chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới và chưa đáp ứng yêu
cầu hiện tại. Những bất cập trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật tạo ra kẽ
hở trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác, làm nảy sinh những hiện tượng
tiêu cực và vi phạm pháp luật và phần nào làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, việc phân định rành mạch các chức năng, nhiệm vụ và phương thức
hoạt động giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện Đảng lãnh đạo xã hội là một vấn đề
phức tạp. Trong hoạt động này, chúng ta vẫn đang tìm tòi, thử nghiệm nhiều hơn là đạt
được những kết quả thực tế. Hệ thống chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý của
108
Nhà nước vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, hiệu quả trong thực tiễn chưa cao. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chưa phát huy hết năng lực quản lý và hiệu lực
điều hành của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, vấn đề đặt ra về bảo đảm quyền con người của Nhà nước với bất cập
trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Mục tiêu nhất quán của Nhà nước Việt Nam là phát triển kinh tế, xã hội gắn với
bảo đảm QCN một cách bền vững. Song hiện nay, sự hình thành những yêu cầu mới,
đa dạng về QCN trong bối cảnh xây dựng KTTT định hướng XHCN đã đặt Nhà nước
trước nhiều thách thức. Bởi lẽ, cơ chế thị trường đề cao giá trị của đồng tiền đã tác
động mạnh đến các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức của xã hội. Thực tế cho thấy,
có nhiều mâu thuẫn giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo
đức văn hóa xã hội. "Nguyên tắc tối đa hóa lợi ích cá nhân", lấy lợi ích vật chất là hàng
đầu, KTTT đã và đang đẩy con người vào "vòng xoáy" của lợi nhuận, nảy sinh lối tư
duy thực dụng, "kích thích" tính phi đạo lý, gian dối, bất chấp dư luận xã hội, chà đạp
lên luân lý, luật pháp, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức và đảo lộn bậc thang giá trị
về đạo đức, văn hóa.
Trong hội nhập, hợp tác và giao lưu văn hóa với các nước, chúng ta tiếp thu được
nhiều thành tựu văn minh nhân loại, làm phong phú nền văn hóa dân tộc; song cũng
chịu ảnh hưởng của sự văn hóa ngoại lai. Hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đến
tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên và thế
hệ trẻ, tác động tiêu cực tới việc bảo đảm QCN của Nhà nước.
Hiện nay, khi đất nước đã bước vào giai đoạn đang phát triển với mức thu nhập
trung bình. Do dó, cùng với sự tăng lên của nguồn lực kinh tế và trình độ dân trí trong
xã hội, sẽ xuất hiện yêu cầu cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền
đã được pháp luật quốc tế về QCN thừa nhận. Các hình thức lao động, sản xuất, kinh
doanh cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong điều kiện
KTTT định hướng XHCN đã tạo ra những khả năng mới trong việc bảo đảm QCN. Do
những thay đổi đó nên trong các hoạt động xã hội, bên cạnh những quyền căn bản
(quyền sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục...) cũng
xuất hiện những đòi hỏi cho các quyền mới như: quyền được sống trong môi trường
trong lành, không ô nhiễm; quyền tiếp cận thông tin; quyền biểu tình; quyền tự do lập
hội; quyền sở hữu tư nhân; quyền của người"giới tính thứ ba"; quyền của kiều dân
nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều...
109
Bên cạnh đó, trong nền KTTT định hướng XHCN, sự phân hóa, phân tầng xã hội
không chỉ bị tác động bởi sự phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng
về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người và tác động của văn hóa hải ngoại trong điều
kiện HNQT. Sự phân hóa, phân tầng xã hội đã và sẽ dẫn đến sự đa dạng hóa mạnh mẽ
hơn các nhu cầu về QCN giữa các giai tầng xã hội. Nhà nước vừa phải có nghĩa vụ đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao về QCN cho các nhóm dân cư tại các khu đô thị, vừa phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo đảm các quyền thiết yếu, đặc biệt là các quyền KINH
Tế, XÃ HộI-VH cho các nhóm dễ bị tổn thương. Sự đa dạng đó đã và sẽ tạo ra những
thách thức mới đối Nhà nước trên các lĩnh vực, trong đó có bảo đảm QCN.
3.3.3. Vấn đề đặt ra về yêu cầu cao về bảo đảm quyền con người của Nhà
nước với trình độ dân trí còn nhiều hạn chế
Trong xu thế hội nhập hiện nay, các QCN ngày càng được ghi nhận và mở rộng
nhiều hơn, cùng với đó, việc bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia ngày càng yêu cầu cao hơn,
khắt khe hơn về số lượng cũng như chất lượng quyền. Với sự phát triển của khoa học
công nghệ cùng với những tác động của quá trình hội nhập, yêu cầu về QCN không chỉ
dừng lại ở việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người như: quyền được chăm sóc
sức khỏe, quyền học tập, quyền có việc làm…mà con người còn đòi hỏi phải nhà nước
phải đáp ứng nhiều quyền khác như: quyền được tiếp cận thông tin, quyền tham gia
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền tham gia vào các tổ chức chính trị,
xã hội…Đây là một thực tế đặt đối với Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện hội nhập hiện nay.
Quyền con người là sản phẩm lịch sử, gắn liền với các điều kiện kinh tế, văn hóa.
Về mặt văn hóa, dân trí là điều kiện quan trọng để xác lập và thực hiện QCN. Do đó,
trình độ dân trí có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm QCN, nói cách khác, việc bảo
đảm QCN phụ thuộc rất lớn vào trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật. Trong xã hội
công dân, người dân phải có trình độ văn hóa, trình độ hiểu biết pháp luật nhất định.
Chỉ trên nền tảng tri thức ấy, công dân ý thức được các QCN của mình và tự giác đấu
tranh bảo vệ và thực hiện các quyền của mình trê thực tế. Đồng thời cũng chỉ trên nền
tảng tri thức như vậy, con người mới điều chỉnh được hành vi của mình theo yêu cầu
của pháp luật, chế ngự được sự bột phát dẫn đến vi phạm quyền của người khác, cũng
như coi thường kỷ cương, phép nước, nguyên tắc sinh hoạt vì lợi ích của cộng đồng.
Quyền con người là kết quả do đấu tranh mới giành được chứ không thể là sự ban ơn,
bố thí của bất kỳ ai. Do vậy, đòi hỏi con người phải có kiến thức, kinh nghiệm mới bảo
vệ được các quyền của mình và đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực nhân quyền.
110
Trước những tác động của HNQT, yêu cầu đảm bảo QCN đối với Nhà nước ngày
cao và khắt khe hơn, trong đó trình độ dân trí là nhân tố quan trọng, không thể thiếu
được trong quá trình bảo đảm và thực thi QCN. Những năm qua, Nhà nước Việt Nam
đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao dân trí, góp phần bảo
đảm QCN. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển,
thu nhập đầu người thấp, nền KTTT định hướng XHCN chưa được thể chế hóa đồng
bộ, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, nguồn
lực cần thiết về kinh tế cho việc bảo đảm QCN còn hạn chế. Thêm vào đó, trình độ
trình độ văn hóa, trình độ hiểu biết về pháp luật, về dân chủ và QCN của nhân dân,
nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp nên việc vi phạm
pháp luật của người dân cũng là điều dễ hiểu.
Thực tiễn việc thực hành quy chế dân chủ cơ sở của người dân những năm qua là
một trong các minh chứng về sự hạn chế trong trình độ nhận thức, ý thức thực hành
dân chủ của người dân. Do đó, có thể khẳng định, sự yếu kém về trình độ văn hóa,
trình độ hiểu biết pháp luật về QCN đã và đang là trở ngại cho việc hưởng thụ những
giá trị về quyền và tự do của con người, gây trở ngại cho việc bảo đảm các QCN của
Nhà nước ta. Chính vì vậy, bảo đảm QCN gắn với nâng cao trình độ dân trí, trình độ
hiểu biết pháp luật là yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước ta hiện nay.
Kết luận chương 3
Trong Chương 3, luận án phân tích khái niệm hội nhập quốc tế, tính tất yếu của
HNQT và khẳng định, HNQT là một xu thế tất yếu và khách quan, Việt Nam là một
quốc gia đang phát triển không nằm ngoài xu thế đó. Chương 3, luận án đã làm rõ quá
trình HNQT của Việt Nam, những thành tựu mà Việt Nam thu được trong quá trình
HNQT, phân tích về những tác động tích cực và tiêu cực của HNQT đến QCN và nhà
nước đối với việc bảo đảm QCN. Luận án khẳng định, HNQT mang lại nhiều cơ hội
cho việc bảo đảm QCN và phát huy hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN,
tuy nhiên, HNQT cũng nảy sinh nhiều thức đối với việc bảo đảm QCN, đòi hỏi nhà
nước phải có sự nhạy bén trong nhận thức và giải quyết các vấn đề mà HNQT đặt ra.
Chương 3, luận án tập trung phân tích về thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với
việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT. Luận án khẳng định, sau gần 30 năm đổi
mới, những thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và bảo đảm QCN là đáng
khích lệ, ghi nhận sự nỗ lực của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Với chủ trương
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, vấn đề QCN luôn được đưa vào trọng tâm của sự
111
phát triển trong mọi chính sách của Nhà nước và đã thu được nhiều kết quả quan trọng
trên các lĩnh vực, đó là: (1) Xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật về QCN; (2)
Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; (3) Xây dựng và hoàn thiện các thiết
chế bảo đảm QCN; (4) Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chương 3 luận án cũng phân tích về những
hạn chế của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN; nguyên nhân của những thành tựu
mà Nhà nước đạt được trong việc bảo đảm QCN. Sở dĩ chúng ta đạt được những kết
quả trên là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam, do Nhà nước ta tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con người; xác định được những nhiệm vụ ưu tiên
trong quá trình thực hiện và những tác động tích cực mà HNQT mang lại.
Chương 3 cũng phân tích về hạn chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Đó
là sự hạn chế trong nhận thức về QCN; trong tổ chức thực hiện và hạn chế về năng lực,
phẩm chất của đội ngũ làm công tác bảo đảm và thực thi QCN.
Chương 3, luận án khẳng định, những thành tựu của Nhà nước đối với việc bảo
đảm QCN là kết quả sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong suốt 30 năm qua.
Tuy nhiên, trước những tác động của TCH và HNQT cùng với những đặc thù về điều
kiện kinh tế, xã hội và truyền thống văn hóa, việc bảo đảm và thực hiện QCN của Nhà
nước còn nhiều hạn chế đã đặt ra nhiều vấn đề đối với Nhà nước trong việc bảo đảm
QCN. Những vấn đề đặt ra đó là: thứ nhất, vấn đề đặt ra trong nhận thức và giải quyết
mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia trong điều kiện HNQT; thứ hai,
vấn đề đặt ra giữa yêu cầu bảo đảm các QCN của Nhà nước với trình độ phát triển kinh
tế và quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình KTTT định hướng XHCN; thứ ba, vấn đề
đặt ra giữa yêu cầu bảo đảm QCN của Nhà nước với trình độ dân trí còn bất cập.
Vì vậy, những năm tới cùng với việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN và tham gia HNQT toàn diện, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN; hoàn thiện các thể chế như: tổ chức bộ máy, luật pháp, kinh tế, xã hội,
thể chế dân chủ…. đòi hỏi Nhà nước phải có những quan điểm, giải pháp và bước đi cụ
thể cho từng lĩnh vực như hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện tổ chức
bộ máy các cơ quan Nhà nước hoạt động theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN;
các thiết chế bảo đảm QCN…Có như vậy, Nhà nước mới khức phục được những hạn
chế, tồn tại đối với việc bảo đảm QCN và thực hiện ngày càng tốt hơn nghĩa vụ bảo
đảm QCN. Đó cũng là khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn.
112
Chương 4
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, quá trình HNQT của Việt Nam đã thu
được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, ổn định xã
hội, tạo tiền đề cần thiết cho việc bảo đảm và thực thi các QCN. Tuy nhiên, mặt trái của
HNQT cũng đặt ra nhiều thách thức với việc bảo đảm QCN và chủ quyền quốc gia. Vì
vậy, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN, cần phải thực hiện
theo các quan điểm cơ bản sau:
4.1.1. Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con
người trong điều kiện hội nhập quốc tế phải phù hợp với quy định của Luật quốc
tế về quyền con người trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia
Việt Nam đã và đang thu được nhiều thành tựu quan trọng về QCN, thế và lực
của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, các thế
lực thù địch sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tiến hành chiến lược diễn biến hòa
bình nhằm phá hoại sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Chính vì vậy,
nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT
phải phù hợp với những quy định của luật pháp quốc tế về QCN trên cơ sở giữ vững
độc lập chủ quyền quốc gia.
Để bảo đảm tốt các QCN phải có các tiền đề nhất định, trong đó, độc lập dân tộc
và chủ quyền quốc gia là điều kiện quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Thực tiễn lịch sử
Việt Nam và nhiều nước vừa trải qua đấu tranh giành độc lập đã chứng minh, đất nước
bị nô lệ thì người dân không thể có tự do và QCN theo đúng nghĩa. Vì vậy, các dân tộc
bị áp bức đã không nề hy sinh, mất mát để giành và giữ nền độc lập và quyền dân tộc
tự quyết. Do đó, độc lập dân tộc, dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu của nhân quyền. Nói cách khác, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện
tiên quyết để bảo đảm QCN. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không thể
nói đến việc bảo đảm các QCN một cách trọn vẹn.
Theo Luật quốc tế về QCN, bảo đảm QCN trước hết và chủ yếu thuộc trách
nhiệm của quốc gia. Theo đó, "không quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can
thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia". Độc lập dân tộc, chủ quyền
113
quốc gia là nguyên tắc trong quan hệ quốc tế giải quyết các vấn đề liên quan đến QCN,
do đó, "không sử dụng quyền con người làm công cụ gây sức ép chính trị" [5, tr.2].
Chủ quyền quốc gia có vị trí quan trọng đặc biệt bởi vì, quyền độc lập dân tộc,
quyền tự quyết dân tộc chỉ có thể bảo đảm và bảo vệ vững chắc khi chủ quyền quốc gia
không bị xâm phạm và trong quốc gia có chủ quyền đó, các QCN của người dân mới
có điều kiện bảo đảm và thực hiện. Ngày nay, QCN đã được quốc tế hóa về nhiều mặt,
nhưng việc bảo đảm QCN chủ yếu vẫn thuộc thẩm quyền của các quốc gia. Sự hợp tác
quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền rất quan trọng vì nó có thể bổ sung nguồn lực và kinh
nghiệm trong việc bảo đảm QCN. Tuy nhiên, các cơ chế nhân quyền quốc tế chỉ nhằm
bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành ở mỗi quốc gia. Các quốc gia
khác nhau, tùy theo điều kiện lịch sử, kinh tế, chế độ xã hội, truyền thống văn hóa,...
mà bảo đảm và thực thi QCN ở những mức độ khác nhau. Không có bất cứ quốc gia
nào hay một tổ chức nào có thể đảm đương được việc thực hiện QCN thay cho một
quốc gia khác, nhất là đối với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Đây là những nguyên
tắc cơ bản hàng đầu để phát huy vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong việc bảo đảm và
thực thi nhân quyền, nhưng điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là nhà nước phải sử
dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của quốc
gia. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quyền dân tộc tự quyết với QCN
và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ QCN của Nhà
nước Việt Nam.
Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là mục tiêu xuyên suốt của Đảng ta và là
khát vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Tư tưởng này đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đúc kết và khẳng định bằng cụm từ ngắn gọn "Không có gì quý hơn độc lập tự
do". Giành độc lập là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là nhà nước phải sử dụng các
điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của quốc gia, bởi
nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập tự do cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa QCN với quyền
dân tộc tự quyết và trở thành định hướng quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ QCN
của Nhà nước Việt Nam.
Việc xác định đúng đắn vị trí của độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong quan
hệ với việc bảo đảm và hiện thực nhân quyền không chỉ có ý nghĩa khuyến khích các
quốc gia tôn trọng bảo vệ QCN trong quốc gia, dân tộc mình, mà còn tăng cường sự
114
HTQT và sự tham gia của các nước vào các Công ước quốc tế về QCN, tiếp thu những
giá trị của QCN, gánh và chia sẻ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong việc tôn trọng
các QCN và tự do cá nhân theo quy định của luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ.
Kiên trì quan điểm phát huy vai trò Nhà nước trong việc bảo đảm QCN phù hợp
với các quy định quốc tế về QCN trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, để
phát huy vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm và mở rộng QCN, Nhà nước Việt
Nam chủ động, tích cực chuyển hóa các quy định của các Công ước quốc tế về QCN
phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước. Trong quá trình
HNQT, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nguyên tắc giải quyết mọi mâu thuẫn, khác
biệt trong quan niệm, cách thức giải quyết vấn đề QCN trên cơ sở tôn trọng độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia.
Thế giới hiện đại đang biến đổi hết sức nhanh chóng và phức tạp, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, tùy thuộc lẫn nhau để phát triển. Sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc
không tách rời sự phát triển chung của nhân loại. Bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia không tách rời xu thế liên kết quốc tế để phát triển. Do đó, việc mở rộng các
QCN ở các quốc gia đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia mình
phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, tôn trọng các nguyên tắc và tiêu chuẩn
của luật quốc tế về QCN. Tôn trọng và bảo vệ QCN đang trở thành nguyên tắc ứng xử
toàn cầu. Bất cứ quốc gia nào khi tham gia vào các sinh hoạt quốc tế đều phải thừa
nhận các công ước hay hiệp định song phương hay đa phương; thể chế hóa những nội
dung cơ bản của các công ước và hiệp định đó thành luật pháp quốc gia; xây dựng và
hoàn thiện những đạo luật tương đồng với các nước khác; tăng cường hệ thống thực thi
pháp luật.
Do đó, nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm các QCN
không thể tách rời việc giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ là nguyên tắc nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được khẳng
định trong Cương lĩnh năm 2011 của Đảng ta, đó là " bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội" [33, tr.81]. Quan điểm này không những phù hợp với các
nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế mà còn đáp ứng được vọng ngàn đời của nhân
dân ta là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
115
Ngày nay, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia còn bao gồm cả việc đưa đất nước
tránh khỏi sự lệ thuộc về kinh tế, lệ thuộc vào các định chế quy định được tạo ra bởi
các cường quốc và các định chế toàn cầu. Trong bối cảnh TCH và tranh chấp lãnh thổ
diễn ra gay gắt, giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là một thách thức lớn.
Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng nâng cao nhận thức xã hội về yêu cầu này; đồng
thời nỗ lực xây dựng và thực thi chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. Mục tiêu chung
hiện nay là, một mặt cần tạo ra sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa; mặt khác tránh để đất nước rơi vào vòng xoáy xung đột và bị chi phối bởi các liên
minh quân sự, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, xây dựng các
chiến lược, chính sách và các biện pháp để bảo đảm và mở rộng các QCN.
Như vậy, việc bảo đảm QCN của Việt Nam trách nhiệm đầu tiên và trước hết
thuộc về Nhà nước. Việc mở rộng và thực thi các QCN phải phù hợp với pháp luật
quốc tế trên cơ sở sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Nếu không nhận thức sâu
sắc trách nhiệm này, Nhà nước không thể tạo ra những chuyển biến có tính chất cách
mạng từ tư duy đến hoạt động, từ việc đưa ra các chính sách đối nội, đối ngoại đến việc
chỉ đạo cụ thể toàn bộ quá trình bảo đảm, thực thi, mở rộng và HNQT trên lĩnh vực
QCN trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
4.1.2. Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con
người gắn liền với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, bảo đảm quyền con người của Nhà nước gắn với việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế, phát huy hiệu quả của
Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN. Đó là một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, nhà nước điều hành mọi
hoạt động của xã hội theo pháp luật, trong đó, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối
thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là
nhà nước tôn trọng QCN và QCD, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân, bảo đảm quyền tự do, dân chủ thực sự cho mọi tầng lớp trong xã hội.
Theo hướng đó, Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước bảo đảm tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực là nước là thống nhất, nhưng có sự phân chia
rõ ràng, cụ thể chức năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn
116
nhau giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội phải thể hiện tập trung
nhất, đầy đủ nhất ý chí và nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân. Nhà nước
phải có cơ chế thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ với tư cách là cơ
quan hành chính cao nhất của Nhà nước để khắc phục những hạn chế trong cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Chính phủ; sắp xếp lại tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp
để các cơ quan này có đủ sức mạnh đảm bảo duy trì, tôn trọng hiệu lực của pháp luật.
Bảo đảm QCN là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Trong nhà nước pháp
quyền, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ,
quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức,
nhà nước phải chịu trách nhiệm vật chất, tinh thần về các quyết định và hành vi của
mình, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mối quan hệ giữa nhà nước và cá
nhân là mối quan hệ giữa các đối tác bình đẳng, có các quyền và nghĩa vụ tương ứng
đối với nhau. Nhà nước không chỉ có quyền được yêu cầu cá nhân thực hiện các nghĩa
vụ pháp lý mà còn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ pháp lý đối với cá nhân, không
dừng lại ở khẩu hiệu, tuyên ngôn mà phải có hệ thống đảm bảo pháp lý để thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân.
Trong điều kiện HNQT, yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là Nhà nước phải thực hiện đổi mới hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó:
Hoạt động lập pháp của Nhà nước trong thời đại ngày nay, không hướng trọng
tâm vào thể chế hoá quyền quản lý của bộ máy nhà nước (quyền cai trị) mà phải hướng
trọng tâm vào tạo dựng khuôn khổ pháp lý vững chắc cho một nền dân chủ của xã hội
và tự do của công dân. Điều này có nghĩa là hoạt động lập pháp chuyển trọng tâm từ
quy định quyền của bộ máy nhà nước sang xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của các
cơ quan này, từ quyền cho phép của công quyền sang quyền của công dân trong mối
quan hệ với Nhà nước.
Hoạt động tư pháp chuyển từ nhân danh Nhà nước sang nhân danh luật pháp và
công lý để phán quyết các vi phạm luật pháp và xử lý các tranh chấp, xung đột pháp lý
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước những nhiệm vụ, yêu cầu mới, việc thay đổi tính mục tiêu, nội hàm hoạt
động của lập pháp, hành pháp và tư pháp lẽ đương nhiên phải cơ cấu lại chức năng,
nhiệm vụ mối quan hệ và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội,
Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa phương.
117
Thứ hai, bảo đảm QCN của Nhà nước gắn liền với hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN
Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Đó
là nền kinh tế tôn trọng và vận dụng đúng các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ
quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, đồng thời phải có công cụ
điều tiết và chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Sau gần 30
năm năm đổi mới, việc nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN
trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã đạt được thành tựu to lớn. Sự vận
hành của nền KTTT định hướng XHCN đã làm thay đổi căn bản tư duy cũng như
phương thức quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
QCN. Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn
nhiều hạn chế, bất cập, cần khắc phục... Do đó, nâng cao hiệu quả của Nhà nước
trong việc bảo đảm QCN gắn liền với việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN có ý nghĩa rất quan trọng.
Xây dựng thể chế KTTT đòi hỏi phải căn cứ vào yêu cầu thể chế KTTT định
hướng XHCN. Ngày nay, xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN
cần đáp ứng được các yêu cầu:
- Hoàn thiện thể chế sở hữu trong nền KTTT định hướng XHCN, khuyến khích
sự phát triển đa dạng của các hình thức sở hữu. Đây là vấn đề cốt lõi, giữ vị trí trung
tâm. Ở nước ta hiện nay, xây dựng và phát triển thể chế về sở hữu phải bảo đảm vừa
thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu cho phù hợp với KTTT, đồng
thời giữ vững định hướng XHCN.Chủ trương trên của Đảng đã được thể chế hóa bằng
các luật và các văn bản pháp quy của Nhà nước, hình thành khung pháp lý để thực hiện
đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong KTTT, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, thực hiện quyền tự do sản xuất, kinh doanh, khai thác hiệu quả các nguồn
lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng bền vững.
- Hoàn thiện thể chế về chủ thể sản xuất và kinh doanh. Thể chế KTTT định
hướng XHCN đòi hỏi phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ
thể tham gia thị trường. Do đó, nhanh chóng phá bỏ những mặt lạc hậu của thể chế
kinh doanh, đẩy nhanh việc xây dựng và kiện toàn hệ thống thị trường kinh doanh hiện
đại, thống nhất, mở cửa và cạnh tranh có trật tự. Xây dựng các loại thị trường kinh
doanh, tăng cường chất lượng sản xuất kinh doanh, thiết lập một khuôn khổ pháp lý
bình đẳng, công bằng cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác nhau, hướng
118
về người tiêu dùng, lấy người tiêu dùng làm chủ thể. Hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ tài sản trí
tuệ và cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành
mạnh, bảo đảm quyền của người tiêu dùng.
- Cải thiện quản lý vĩ mô, thành lập thể chế quản lý kinh tế, đảng lãnh đạo, chính
quyền quản lý, doanh nghiệp vận hành theo pháp luật và quy luật thị trường. Thực hiện
công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình về các chính sách quản lý, các đề án phát
triển cũng như trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Thể chế KTTT cùng với
tác động của quá trình mở cửa, hội nhập gắn liền với việc hình thành cấu trúc đa sở hữu
và cơ cấu đa chủ thể kinh tế dẫn đến sự hình thành các "nhóm lợi ích". Về khách quan,
các "nhóm lợi ích" này có thể tác động đến quá trình ra quyết định. Công khai minh
bạch không những tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận thông tin, mà quan trọng hơn,
thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện cho
người dân giám sát các quyết định của các cơ quan quản lý, là biện pháp cơ bản để
ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động của các "nhóm lợi ích" vào quá trình ra quyết
định, bảo đảm cho các quyết định theo chuẩn "giá trị chung", vì lợi ích của đất nước.
Do đó, tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp quy, thực hiện việc quản lý
kinh tế thông qua luật định, nâng cao năng lực giám sát quản lý KTTT...
- Thể chế KTTT định hướng XHCN trong điều kiện HNQT ngày càng sâu rộng
đòi hỏi phải định vị lại mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Theo đó, Nhà nước
chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế sang thực hiện chức năng
kiến tạo phát triển: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu
tư và kinh doanh; tạo cơ chế phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công.
Trong quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, một thách thức đặt
ra cho quản lý của Nhà nước dưới tác động của HNQT là mỗi biến động trên thị trường
thế giới tác động rất lớn đến thị trường trong nước. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải
nâng cao năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách nhằm hạn chế những tác
động xấu đến nền kinh tế. Kinh tế thị trường và HNQT cũng làm cho một bộ phận dân
cư dễ bị tổn thương, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo, nên Nhà nước cần phát huy
"sức mạnh tự điều chỉnh" của thị trường, mặt khác phải "hoá giải" được tác động tiêu
cực của thị trường, bảo đảm định hướng của sự phát triển bền vững. Vì vậy, bộ máy
nhà nước Việt Nam phải được tổ chức hiệu quả để đủ năng lực vừa tuân thủ các cam
kết quốc tế, vừa vận dụng sáng tạo các cam kết này trong quá trình xây dựng và thực
119
thi pháp luật để vừa đảm bảo lợi ích quốc gia, tuân thủ các quy định và cam kết quốc tế
nhằm tạo cơ chế pháp lý và sự hỗ trợ chính sách cần thiết để đưa kinh tế Việt Nam hội
nhập vào nền kinh tế toàn cầu, tạo tiền đề và cơ sở cần thiết để thực hiện an sinh xã hội.
Hiệu quả của Nhà nước trong phát triển kinh tế, bảo đảm QCN không giảm đi mà phải
được tăng cường trên những nội dung mới, theo những phương thức tác động mới.
Thứ ba, bảo đảm quyền con người của Nhà nước gắn với hoàn thiện thể chế
dân chủ
Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN gắn liền với hoàn
thiện thể chế dân chủ. Dân chủ trước hết là một hình thức, một hình thái nhà nước
trong đó, thừa nhận quyền bình đẳng của mọi người tham gia vào công việc của nhà
nước. Sự phát triển quyền và tự do của con người có mối tương quan tỷ lệ thuận với sự
phát triển của dân chủ. Trong một chế độ dân chủ, một mặt nhân dân là chủ thể của
quyền lực, quyết định tổ chức và hoạt động của nhà nước; mặt khác, trong chế độ dân
chủ, các thành viên của xã hội được tôn trọng, mọi người bình đẳng tham gia quyết
định các vấn đề của cộng đồng trên cơ sở pháp luật.
Với nội dung nói trên, dân chủ trở thành phương tiện bảo đảm và phát triển QCN,
mỗi nấc thang phát triển của dân chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất
lượng QCN. Quyền con người gắn bó hữu cơ với dân chủ. Thực hiện các nguyên tắc
dân chủ trong đời sống nhà nước và xã hội là con đường đúng đắn để phát triển QCN.
Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế dân chủ là nhân tố hàng đầu trong việc bảo đảm QCN.
Có thể khẳng định "dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị - nhà
nước của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân
là chủ thể của quyền lực" [127, tr.23]. Vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực
cho sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, mở rộng dân chủ và quá
trình dân chủ hóa phải được thực hiện trên một nền tảng pháp luật vững chắc và một cơ
chế hoạt động hợp lý, có hiệu quả từ phía nhà nước. "Dân chủ hiện đại đi đôi với pháp
luật. Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
riêng phải xây dựng được Hiến pháp và một hệ thống pháp luật đảm bảo tính đồng bộ,
phản ánh và đáp ứng các yêu cầu của tiến bộ xã hội" [114]. Xây dựng một Nhà nước
pháp quyền XHCN vững mạnh là biện pháp quan trọng khắc phục những hạn chế của
chế độ dân chủ trước đây, góp phần tiếp tục đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa, bảo đảm
ngày càng tốt hơn các QCN của công dân.
120
Hiện nay, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, Đảng và
Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, dưới nhiều hình thức sáng
tạo, chẳng hạn, kết hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở với không ngừng dân chủ hóa mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các QCN. Dân chủ hóa
còn được thể hiện thông qua việc thúc đẩy quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông
tin, thu hút sự tham gia của người dân và cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện và
bảo vệ QCN…
Như vậy, quyền con người, kinh tế thị trường, dân chủ, nhà nước pháp quyền là
vấn đề quan trọng của một nhà nước hiện đại. Sự phức tạp trong nội bộ nhà nước ở các
quốc gia hiện nay đều liên quan tới việc giải quyết các mối quan hệ này. Vì vậy, nâng
cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN gắn liền với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN; hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, hoàn thiện thể
chế dân chủ để Nhà nước thực sự trở thành một bộ máy công quyền có hiệu lực.
4.1.3. Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con
người gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí
Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người, nhưng trạng thái và mức độ
thỏa mãn nó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và trình độ dân trí
của mỗi quốc gia. Quan điểm này đã được chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định "quyền
không bao giờ có thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế và văn hóa" của xã hội và tất
nhiên, khi quyền được xác định và thực hiện, nó sẽ có tác động trở lại thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội.
Văn hóa chính là tổng thể các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình sản
lao động, sản xuất, đấu tranh bảo vệ đất nước, chinh phục tự nhiên… Văn hóa với tư
cách là thành tựu của QCN, là sự kết tinh các giá trị của đời sống con người trong suốt
quá trình phát triển lịch sử, trở thành phương tiện và nền tảng, từ đó có quan điểm về
QCN và hiện thực hóa quan điểm ấy. Vì vậy, việc bảo đảm và hiện thực hóa các QCN
phải luôn trên nền tảng của đời sống văn hóa. Đây là con đường đúng đắn để tạo lập
một nền văn hóa tiên tiến, nền văn hóa vì con người và QCN. Do đó, việc thiết lập cơ
chế bảo đảm và thực hiện QCN trở thành nhân tố hàng đầu trong sự phát triển nền văn
hóa nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách hiện nay của các quốc gia, dân tộc.
Văn hóa thể hiện trình độ phát triển cao của con người, là sự thể hiện trình độ, các
giá trị của con người đối với việc xây dựng, củng cố và thực thi pháp luật cùng với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân bảo đảm QCN.Quyền
121
con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và ngược lại, trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa là những điều kiện mang tính chất quyết định đối với việc bảo
đảm và hiện thực hóa các QCN và QCD. Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát
triển cao của kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, con người có điều kiện để làm
chủ bản thân, làm chủ cộng đồng và xã hội. Từ các giá trị văn hóa cơ bản của một quốc
gia, một dân tộc có thể xác định được quyền; bổn phận của các cá nhân, tổ chức và các
tiêu chí để đánh giá các giá trị của một xã hội cụ thể. Thực tiễn cho thấy, cùng ở một
trình độ phát triển nhất định về kinh tế, xã hội song do điều kiện và truyền thống văn
hóa, chế độ chính trị khác nhau, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện QCN khác nhau.
Do đó, văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và hiện thực hóa các QCN.
Quyền không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế, văn hóa là định hướng quan
trọng cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề QCN trong đời sống hiện thực, vừa tránh
được chủ quan duy ý chí trong xây dựng chính sách, pháp luật về QCN, vừa tránh được
tình trạng lạc hậu của chính sách, pháp luật so với sự phát triển của kinh tế và văn hóa.
Trong điều kiện của thế giới phát triển đa dạng và phức tạp như hiện nay, mỗi quốc gia,
dân tộc, trong đó có Việt Nam phải tìm cho mình con đường riêng để phát triển văn
hóa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trên cơ sở tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo cơ sở và tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.
Bảo đảm QCN gắn liền với việc nâng cao trình độ dân trí. Trình độ dân trước hết
là những tri thức, kiến thức nói chung, trong đó có những tri thức, sự hiểu biết về pháp
luật và ý thức chấp hàn pháp luật nói chung, pháp luật về QCN nói riêng. Đó là trình độ
am hiểu pháp luật, là thái độ tôn trọng pháp luật, thực hiện pháp luật về QCN. Do đó có
thể khẳng định, trình độ dân trí và bảo đảm, thực hiện QCN có mối liên hệ mật thiết,
gắn bó biện chứng với nhau. Quyền con người chỉ được bảo đảm và thực hiện trên một
trình độ dân trí nhất định và ngược lại, chỉ ở một trình độ dân trí nhất định, con người
không chỉ thực hiện tốt các quyền của mình mà còn có khả năng đòi hỏi việc ghi nhận
và bảo đảm QCN của mình ở mức độ cao hơn như: quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, quyền được tiếp cận thông tin một cách minh bạch; quyền tự do hội
họp…Và cũng chỉ trên một trình độ dân trí nhất định, một sự hiểu biết nhất định, con
người mới chủ động đấu tranh được với những hành động vi phạm QCN.
Quyền con người không thể được bảo đảm tốt "trên một nền dân trí thấp kém
được" [114], do đó, trình độ dân trí là điều quan trọng để xác lập và thực hiện QCN.
Điều đó không chỉ vì ‘người mù chữ đứng ngoài chính trị" mà còn đòi hỏi con người
122
phải có những hiểu biết nhất định về dân chủ, về pháp luật và ý thức về quyền của
công dân mới có thể bảo đảm thực hiện quyền trong thực tế. Do đó, có thể khẳng
định, trình độ dân trí không chỉ là điều kiện cơ bản giúp con người thực hiện các QCN
của mình mà còn là tiền đề cần thiết để con người đòi hỏi các quyền hợp và lợi ích
pháp của mình, làm cho các QCN ngày càng được mở rộng và phát triển. Đây chính là
quá trình biện chứng của quá trình nâng cao dân trí với việc bảo đảm QCN.
Quyền con người là một giá trị bền vững, nhưng chuẩn mực, thước đo đánh giá
nó lại có thể bị thay đổi phù hợp với sự phát triển của nhân loại, nó mang giá trị thời
đại. Do đó, bảo vệ và thúc đẩy các QCN là một quá trình không ngừng đối với mọi
quốc gia, dân tộc, ở mọi trình độ phát triển khác nhau. Quyền con người là mang tính
thời đại, song việc đánh giá mức độ hưởng thụ các QCN lại không chỉ đơn thuần dựa
trên những chuẩn mực khách quan đó. Quyền con người luôn bao hàm sự thảo mãn của
người dân về quyền của mình, phù hợp với trình độ dân trí, điều kiện kinh tế, xã hội và
truyền thống của mỗi quốc gia. Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau, sự thỏa mãn
quyền có khác nhau, trong điều kiện này thì người dân đã thỏa mãn với các thể chế
trong việc bảo đảm quyền của mình, trong điều kiện khác thì không.
Từ nhận thức trên, một mặt, nâng cao hiệu qủa của Nhà nước trong việc bảo đảm
QCN phải bám sát điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của đất nước, truyền thống dân tộc,
mặt khác, trên trường quốc tế, chúng ta không thể chấp nhận sự áp đặt các tiêu của
nước này cho nước khác, và "dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng "dân chủ", "nhân
quyền" nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào công việc nội
bộ nước ta" [28, tr.72].
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở nước ta hiện nay
là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, song phải tùy thuộc vào yêu cầu, điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của từng thời kỳ để xác định nhiệm vụ trọng tâm. Trước những tác động
của TCH và HNQT, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc của thế giới
cũng như trong nước, vì vậy, nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm
QCN cần chú trọng tới một số nhiệm vụ cơ bản, cụ thể sau đây:
4.2.1. Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người
Việt Nam đang trên bước đường đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đẩy mạnh
HNQT toàn diện nhằm khai tháchiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, xã
hội, bảo đảm QCN. Sau gần 30 năm đổi mới và hội nhập, hệ thống pháp luật của nước
123
ta từng bước được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, giữ
vững an ninh chính trị, thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập và bảo đảm ngày càng tốt
hơn các QCN của người dân, song nhìn chung, hệ thống pháp luật về QCN nước ta còn
bộc lộ nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Chính vì vậy, để nâng cao vai trò quản lý xã hội của Nhà nước trong bảo đảm và thực
hiện QCN, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội
dung lẫn hình thức, thể hiện và tổ chức thực hiện việc tuân thủ nghiêm chỉnh hệ thống
pháp luật là một trong những nhiệm vụ trung tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu
khách quan của Nhà nước ta hiện nay.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN là tiền đề, xuất phát điểm
và là căn cứ pháp lý vững chắc cho toàn bộ hoạt động bảo vệ nhân quyền của các cơ
quan nhà nước, ngăn chặn các kẽ hở vi phạm pháp luật và tạo căn cứ pháp lý cho cá
nhân, công dân tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cương lĩnh xây
dựng dất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định: Nhà nước định ra
các đạo luật quy định quyền con người, quyền công dân, trong đó, bên cạnh các đạo
luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền công dân. Đại hội
VIII của Đảng đã khẳng định cần: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn
bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp,
bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật" [28, tr.132]. Do đó, yêu cầu đặt ra của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về QCN vừa phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, vừa bảo
đảm các yêu cầu của HNQT, đáp ứng được các quy chế chức của các tổ chức quốc tế
mà Việt Nam tham gia, trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ hệ thống các văn bản pháp lý. Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về QCN, thời gian tới cần:
Một là, tập trung hoàn thiện quy trình xây dựng chính sách, pháp luật về
quyền con người
Sở dĩ chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về QCN còn có những mặt
bất cập là do quy trình xây dựng các văn bản pháp lý còn thiếu khoa học và chưa hợp
lý, chưa sát với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các
quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Do vậy, Nhà nước cần có sự thay
đổi về cách thức xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật về QCN và QCD. Để xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN một cách đồng bộ, thống nhất cần phải có
124
một chiến lược xây dựng pháp luật. Chiến lược xây dựng pháp luật về QCN phải được
hình thành trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, phát triển con người
với yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu kiện toàn hệ thống pháp luật, phân định chính
xác nhu cầu và thứ bậc ưu tiến của các đạo luật, pháp lệnh cần ban hành, từ đó, xác
định kế hoạch cụ thể trong thời gian ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, nhất là chương
trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội. Các kế hoạch đó phải dành ưu tiên cho
việc ban hành và sửa đổi các bộ luật liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm QCN trong
điều kiện đổi mới và HNQT.
Trong điều kiện hiện nay, nâng cao vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN bảo
đảm QCN trước mắt cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm
các QCN về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; quyền của nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi….). Để
làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp
luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh, đối chiếu với các quy định quốc tế về QCN mà
Việt Nam tham gia. Chính vì vậy, chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về QCN cần có những bước đi thích hợp, thận trọng, bảo đảm:
- Pháp luật quốc gia bảo đảm QCN phải cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về QCN; phải được xây dựng dựa trên các điều kiện cụ thể, phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và truyền thống của lịch sử dân tộc.
- Các quy định pháp luật quốc gia về QCN phải phù hợp với tiểu chuẩn chung
của quốc tế, nhất là các quy định quốc tế mang tính nhân văn và tiến bộ mà Việt Nam
đã tham gia.
- Quy trình xây dựng pháp luật về lĩnh vực này cần phải chú trọng đến hoạt động
thăm dò, lấy ý kiến trước ban hành pháp luật. Đây là một việc làm quan trọng và cần
thiết đánh giá nhu cầu, tính khả thi của pháp luật; Cung cấp đủ thông tin trong quá trình
xây dựng pháp luật là một yêu cầu lớn trong thiết kế pháp luật. Các thông tin phục vụ
xây dựng pháp luật rất đa dạng, bao gồm thông tin về kinh tế, xã hội, về chủ thể thụ
hưởng QCN,… Để hoạt động thông tin trong quá trình thực hiện pháp luật, chính sách
đạt hiệu quả cần tuân thủ một số nguyên tắc như thống nhất quan điểm, cách hiểu pháp
luật về QCN; xác lập các kênh để thu thập thông tin kịp thời, tránh lệ thuộc vào một
kênh thông tin, đón nhận và xử lý mọi thông tin; hạn chế việc che dấu thông tin.
Để khắc phục quy trình xây dựng pháp luật chủ yếu theo phương thức từ trên
xuống (thiết kế ở cấp quốc gia, thực hiện ở cơ sở, thôn bản) thì một đòi hỏi mang tính
125
nguyên tắc là có sự tham gia của địa phương, cơ sở. Nói cách khác cần có công tác
điều tra, nghiên cứu, nắm tình hình thực tiễn, nghe ý kiến phản hồi, nguyện vọng của
nhiều tầng lớp xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương…để kịp thời bổ sung,
sửa đổi, hay ban hành các quy định mới. Khi soạn thảo, xây dựng các văn bản pháp
luật cần chú ý phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương; cần đi sâu nghiên
cứu, đánh giá tình hình thực tiễn của từng khu vực, từng vùng, để nắm rõ được những
khó khăn, thuận lợi; từ đó có những ý kiến phản hồi, kịp thời đưa ra những sửa đổi, bổ
sung, hủy bỏ, thay thế các văn bản pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn. Các văn
bản này cũng nên quy định những nội dung "mở", để các địa phương trong quá trình
thực hiện pháp luật về QCN có thể căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, xã hội, văn hóa để
vận dụng một cách linh hoạt hơn, nhằm đem lại hiệu quả trong thực thi pháp luật trong
thực tế bảo đảm các QCN cho nhiều nhóm xã hội khác nhau, đặc biệt chú ý nhóm yếu
thế, dễ bị tổn thương.
Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách có liên quan đến bảo
đảm quyền con người phù hợp với Hiến pháp năm 2013
Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, sát thực
tế, có tính ổn định lâu dài tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền và các
lợi ích hợp pháp của công dân là yêu cầu cấp bách ở nước ta hiện nay. Thực tiễn đổi
mới, hệ thống pháp luật của Việt Nam về bảo đảm QCN đã có những bước phát triển
tích cực, phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường và HNQT, tuy nhiên, hệ
thống pháp luật về QCN ở nước ta bộc lộ nhiều hạn chế như: tính khả thi của các văn
bản pháp luật chưa cao; nhiều quy định còn khá chung chung, chồng chéo, thậm chí
mâu thuẫn gây khó khăn cho quá trình triển khai, thực hiện.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm
QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân và trên cơ sở Hiến pháp 2013, cũng như các
quy định của các Công ước Liên hợp quốc về QCN mà Việt Nam là thành viên, Nhà
nước cần tiến hành rà soát lại toàn bộ quy định pháp lý về QCN trên các lĩnh vực dân
sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các nhóm xã hội dễ tổn thương; đánh giá, nhận
định tính hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với thực tiễn của tất cả các văn bản pháp lý quy
định về các nhóm quyền để có sự điều chỉnh, bổ sung, thay thế hay bãi bỏ những văn
bản pháp lý không còn phù hợp. Cụ thể:
126
Đối với các quy định về quyền dân sự, chính trị trong Hiến pháp 2013 cần được
cụ thể hóa hơn trong các văn bản luật cụ thể. Chẳng hạn như quyền được thông tin một
cách công khai, minh bạch tại Điều 28, Hiến pháp 2013, cần khẩn trương xây dựng và
ban hành các đạo luật bảo đảm quyền dân sự, chính trị như:
Luật về tiếp cận thông tin, đây là đạo luật có vị trí bản lề, xâu chuỗi toàn bộ các
quy định về tiếp cận thông tin khá rời rạc hiện nay. Luật sẽ xây dựng các nguyên tắc có
tính nền tảng trong tiếp cận thông tin, hoàn thiện những bất cập cũng như những
khuyết thiếu về mặt quy định pháp lý, từ đó tạo ra một khung pháp lý đồng bộ đảm bảo
quyền tiếp cận thông tin của người dân. Đây cũng là điều kiện cần để bảo đảm tổ hợp
quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin.
Luật về người tị nạn, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải đối diện với vấn đề
người tị nạn. Không phải ngẫu nhiên mà trong cơ cấu tổ chức Liên hợp quốc có cơ
quan cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cũng như trong luật quốc tế đã có các điều
ước quốc tế đa phương toàn cầu về vấn đề người tị nạn, trong đó xác lập nghĩa vụ pháp
lý quốc tế của các quốc gia phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về QCN, đặc biệt đảm
bảo cho họ được hưởng quyền có quốc tịch với các điều kiện thuận lợi, tốt nhất. Do đó,
Việt Nam nên ghi nhận các điều khoản tương ứng của luật quốc tế về người tị nạn
trong luật pháp quốc gia, nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về người tị nạn.
Luật về tín ngưỡng, tôn giáo, hiện nay, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004
là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở
nước ta. Mặc dù Nghị quyết số 25 Khóa IX/2003 đã nêu quan điểm "chuẩn bị để tiến
tới xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo", song vì nhiều lý do khác nhau, Luật này chưa
được ban hành. Trong tình hình đó, trên cơ sở những bất cập, lạc hậu và chưa đảm bảo
tính toàn diện trong những quy định khung, quy định cơ bản hiện nay của Pháp lệnh,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tích cực, chủ động hoàn chỉnh dự thảo bổ sung,
sửa đổi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thành Luật.
Luật xuất nhập cảnh, để hoàn thiện hơn nữa và đáp ứng một cách hoàn toàn,
triệt để những quy định của Hiến pháp mới và yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, cần
tiến hành rà soát và hoàn thiện pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh với mục tiêu tổng
quát là cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động trên; từ đó tiến tới xây dựng một
đạo luật về xuất cảnh, nhập cảnh nhằm xử lý mối quan hệ trong lĩnh vực công dân
qua lại biên giới.
127
Để bảo đảm tốt hơn quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân,
cần khẩn trương ban hành Luật trưng cầu ý dân theo quy định của Hiến pháp 2013 và
Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014. Khẩn
trương ban hành Luật về dân chủ cơ sở để bảo đảm các quy định về dân chủ. Ngoài ra,
thúc đẩy việc xây dựng Luật biểu tình để cụ thể hóa quyền tự do bày tỏ ý kiến, quyền
biểu tình; ban hành Luật về hội để bảo đảm quyền tự do hội họp, lập hội; ban hành
Luật đình công để bảo đảm quyền quyền đình công của công nhân...
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực
tiễn, trên cơ sở Hiến pháp 2013. Do đó, cần rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành, sửa đổi, bổ sung những quy định mới phù hợp với Hiến pháp và các cam kết
quốc tế. Tập trung xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật trong một số
lĩnh vực quan trọng như vấn đề sở hữu, tự do kinh doanh...
Đảm bảo quyền sở hữu, cần có Luật về sở hữu để cụ thể hóa Điều 32, Hiến pháp
2013 nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm soát, bảo vệ tài
sản của mình và Nhà nước thông qua công cụ pháp lý và bộ máy chuyên chính có trách
nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân, để người dân yên tâm đưa vốn vào sản
xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước
phải tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng giữa các loại hình doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm giải phóng sức lao động và huy động được
mọi tiềm năng sẵn có của mỗi cá nhân, công dân và của đất nước nói chung, cũng như
thu hút vốn, công nghệ nước ngoài cho đầu tư, phát triển, thực hiện Điều 33, Hiến pháp
2013 là "mọi người có quyền kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không
cấm". Và khi quyền tự do kinh doanh được thực hiện sẽ là cơ sở để tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động, kéo theo sự bảo vệ của Nhà nước đối với những người làm
công, hưởng lương.
Do đó, cần hoàn thiện, bảo đảm pháp lý quyền lao động, việc làm, trong đó, xác
định rõ các quyền liên quan đến việc làm, quyền tự do lựa chọn việc làm, lựa chọn
nghề nghiệp, nơi làm việc phù hợp với sở thích và khả năng của người lao động… và
các quyền phát sinh từ việc làm như là hệ quả của quan hệ lao động bao gồm cả các
điều kiện làm việc, tiền công, tiền lương, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, đào tạo nâng
cao trình độ.
128
Bảo vệ quyền lợi của người lao động liên quan đến củng cố tổ chức công đoàn,
cần hoàn thiện pháp luật về công đoàn, bảo đảm tổ chức công đoàn thực sự trở thành
chỗ dựa vững chắc cho người lao động; đồng thời trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền, nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN đòi hỏi phải từng
bước hoàn thiện pháp luật về an toàn xã hội, rà soát và sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội,
Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật về nhà ở; Luật giáo dục; Luật sở hữu trí tuệ…bảo
đảm công bằng, bình đẳng cho người dân trong khám chữa bệnh, học tập, an sinh xã
hội... Hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện các chính sách công bằng xã hội về xóa
đói giảm nghèo, về trợ giúp pháp lý...
Về quyền của nhóm dễ bị tổn thương, Nhà nước ta đã có những văn bản pháp luật
quy định quyền và nghĩa vụ của từng nhóm, chẳng hạn như: phụ nữ có Luật bình đẳng
giới (2006), Luật phòng chống bạo lực gia đình (2007); với nhóm người có HIV có
Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
(HIV/AIDS) (2006); đối với người khuyết tật có Luật về người khuyết tật (2010)... Có
thể khẳng định rằng, các đạo luật trên đã có những tác động tích cực tới việc bảo đảm
quyền của các nhóm dễ tổn thương, từng bước đưa hoạt động bảo vệ quyền của các
nhóm dễ tổn thương vào nề nếp, ngăn chặn và giảm thiểu các hành vi vi phạm QCN
của các nhóm dễ tổn thương. Song vẫn cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật,
chính sách bảo vệ quyền của nhóm dễ tổn thương bởi tính khả thi của các văn bản pháp
luật, chính sách chưa cao; một số điểm không mang tính cập nhật hoặc chưa bao quát
được những vấn đề liên quan đến quyền của các nhóm dễ tổn thương trong tiến trình
TCH và HNQT, do đó, hiệu lực của các văn bản này chưa cao; thiếu thống nhất, chưa
có các chế tài đủ mạnh cho cơ quan xử lý các vi phạm về quyền của các nhóm dễ tổn
thương. Do đó, thời gian tới cần:
- Có cơ chế, chính sách đặc thù đối với một số nhóm dễ tổn thương như: người
dân tộc thiểu số, người già, người có HIV, trẻ em. Khi xây dựng chính sách, pháp luật
về quyền của nhóm dễ tổn thương cần đặc biệt chú ý tới đặc điểm về thể chất, tâm lý
của nhóm dễ tổn thương.
- Xây dựng các điều khoản riêng dành cho nhóm xã hội dễ tổn thương. Bổ sung
điều khoản cụ thể quy định và khuyến khích việc xây dựng các dịch vụ chăm sóc y tế
thân thiện với trẻ vị thành niên; người có HIV; người khuyết tật...
- Các văn bản pháp lý chuẩn mực về vấn đề thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em cần bảo đảm có hệ thống toàn diện về chăm sóc và hỗ trợ các đối tượng
129
là trẻ mồ côi, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS,... Cần chú trọng tới việc đảm bảo thực hiện
các chương trình quốc gia chăm sóc sức khỏe theo hướng không tách biệt những nhóm
xã hội dế tổn thương với những người khác, để khắc phục sự kỳ thị đối với người yếu
thế trong xã hội.
Ba là, bảo đảm sự thống nhất trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về quyền con người
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về QCN nói riêng
phải bảo đảm nguyên tắc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, bảo đảm sự thống nhất về
nội dung lẫn hình thức thể hiện của pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Để thực hiện được nguyên tắc này, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật đòi hỏi các chủ thể sáng tạo pháp luật phải tuân thủ pháp luật và nâng cao
tách nhiệm của mình trong xây dựng pháp luật. Lênin đã khẳng định nhiều lần rằng, sự
tuân thủ pháp luật trong hoạt động lập pháp không kém phần quan trọng so với hành
pháp và tư pháp bởi lẽ, nếu không tuân thủ pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật sẽ tạo ra hệ thống pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất,
chất lượng thấp. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động xây dựng pháp
luật cần chú trọng tới những yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần đảm bảo tính đồng bộ trong xây dựng pháp luật. Hệ thống pháp
luật từ Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh cho đến các Nghị định, Thông tư của Chính
phủ, các Bộ, các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền đều phải được ban hành
một cách đồng bộ, bao quát được tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp
giữ vị trí cao nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật, là yếu tố hàng đầu bảo đảm sự
thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật. Tất cả các quy phạm pháp luật thuộc bất cứ
ngành luật nào trong hệ thống pháp luật cũng không được mâu thuẫn và trái với Hiến
pháp. Luật và bộ luật là hình thức pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ
bản, quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Cùng với việc hoàn thiện các bộ luật hiện hành, cần phải hướng tới tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội đều có luật điều chỉnh, chẳng hạn như vấn đề dân chủ, vấn đề
lập hội, biểu tình, bãi công....
Thứ hai, cần đảm bảo tính hệ thống và thứ bậc trong xây dựng pháp luật. Hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả các điều ước quốc tế mà Nhà nước
ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập phải tồn tại trong một thể thống nhất và phối hợp,
có vụ trí pháp lý và thứ bậc rõ ràng, có nội dung điều chỉnh chính xác, minh bạch, đảm
130
bảo tính khả thi cao. Xây dựng pháp luật đảm bảo yêu cầu: Luật phải trực tiếp điều
chỉnh các quan hệ xã hội, hạn chế tối đa những quy định chung chung, chờ đợi văn bản
dưới luật cụ thể hóa mới điều chỉnh được.
Trong trường hợp những quan hệ xã hội mới ra đời, chưa ổn định, cần thiết phải
điều chỉnh bằng luật nhưng chưa tìm ra phương án điều chỉnh trực tiếp, hợp lý và hữu
hiệu nhất, thì không loại trừ luật có các quy định khung, nhưng khung phải rõ ràng,
được giới hạn bởi các phạm vi điều chỉnh cụ thể. Nói cách khác, khung phải xác định
rõ ràng phạm vi giới hạn của nó cả về độ dài, độ rộng và chiều sâu, kiên quyết khắc
phục tình trạng dễ dãi, ngại đi sâu tìm kiếm các công thức pháp lý cụ thể điều chỉnh các
quan hệ xã hội, dẫn đến trình trạng đối với các trường hợp khó, luật thường quy định
chung chung và giao cho Chính phủ quy định hoặc hướng dẫn thi hành, dẫn đến tình
trạng luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư...
Để một đạo luật thực sự đi vào cuộc sống, khi ban hành, các nhà làm luật ngoài
việc xây dựng các quy định cụ thể trong luật đó, còn phải xem xét ngay đến các văn
bản hướng dẫn thi hành để tránh tình trạng luật được ban hành, có hiệu lực rồi nhưng
vẫn còn gây tranh cãi trong quá trình thực thi vì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, gây
khó khăn cho địa phương, cơ sở. Do vậy, để chính sách, pháp luật thực sự đi vào cuộc
sống, tạo thuận lợi cho địa phương, cơ sở triển khai thực hiện, khi xây dựng chương
trình, dự án luật cần có quy định cụ thể về thời gian, trình tự, cơ quan chịu trách nhiệm
ban hành văn bản hướng dẫn.
Bốn là, đổi mới cơ chế áp dụng và thi hành pháp luật về quyền con người
Tính khả thi của pháp luật phụ thuộc không nhỏ vào hoạt động của bộ máy thi
hành pháp luật và ý thức pháp luật của mỗi công dân. Vì thế, ngoài những biện pháp
nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật, Nhà nước ta cần phải cải cách hệ thống tổ chức
bảo đảm thi hành và áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật về QCN nói riêng để tạo
điều kiện cho pháp luật đã được ban hành đi vào cuộc sống và kiểm nghiệm hiệu quả
thực tế của nó. Do đó, các cơ quan chức năng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc
thực thi và áp dụng pháp luật để tránh sự "nhàm chán" và coi thường pháp luật. Thực
tiễn cho thấy, nếu chỉ đề cao vai trò của pháp luật, tuyên truyền về những giá trị và khả
năng của nó mà "không đi liền với kiểm tra việc thực hiện pháp luật, không quan tâm
đến hiệu quả thực tế, mặt mạnh, mặt yếu của nó từ khi ban hành đến khi nó được thực
hiện trong đời sống thì chỉ dẫn đến chỗ làm mất uy tín của pháp luật" [133, tr.9].
131
Pháp luật là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nên hiệu quả điều chỉnh
của nó trước hết làm thay đổi được quan hệ xã hội theo mong muốn của các nhà làm
luật. Trong điều kiện hiện nay, pháp luật phải chứng tỏ được vai trò của mình trong quá
trình HNQT, bảo đảm QCN. Nhiệm vụ đặt ra trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật cần quán triệt với nhiệm vụ bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ độc lập chủ
quyền, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức... Chính vì vậy,
khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật phải tính
toán một cách toàn diện các điều kiện về cơ chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ nhằm
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trên thực tế. Do đó, đổi mới cơ chế thi hành và
áp dụng pháp luật cần chú trọng một số điểm sau:
Thứ nhất, nội dung, pháp luật phải ổn định phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế,
hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN,
chủ động hợp tác và hội nhập với quốc tế và khu vực.
Thứ hai, cần có sự phân công rõ ràng trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, trong hoạt động tổ chức thực thi chính sách, pháp luật còn nhiều
điểm chưa thống nhất, sự phân công trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi chính sách,
pháp luật còn chồng chéo, chưa thật rõ ràng. Chẳng hạn do các cơ quan được phân
công chủ trì chưa được bố trí hợp lý; cùng một văn bản pháp luật, chính sách nhưng lại
chia nhỏ cho nhiều cơ quan chủ trì, thực hiện. Từ đó dẫn đến sự thiếu thống nhất, đồng
bộ trong quá trình triển khai, thực hiện; và gây cho cơ quan quản lý cấp cơ sở lúng túng
trong quá trình triển khai, báo cáo. Nhiều văn bản pháp luật cùng quy định về một đối
tượng thụ hưởng chính sách với nhiều mức thụ hưởng khác nhau, gây khó khăn trong
việc triển khai thực hiện.
Thứ ba, Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng, ban hành văn bản có tính pháp lý về
"Khung hệ thống chính sách"; trong đó nêu từng chính sách cụ thể, gắn với trách nhiệm
chủ trì, thường trực của từng bộ, ngành, địa phương cụ thể, có sự phân công, phối hợp
chặt chẽ giữa chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, theo hướng đảm bảo và thúc đẩy
các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của các nhóm dễ bị tổn
thương, trước mắt cho giai đoạn 2016-2020.
Các cơ quan chính quyền địa phương cần thực hiện các quy định pháp luật, chính
sách của Nhà nước về quyền công dân của các nhóm dễ tổn thương một cách linh hoạt,
phù hợp với địa phương; và coi trọng sự tham gia của người dân, nhất là những người
yếu thế, đồng thời nâng cao chất lượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
132
chức đoàn thể, trong quá trình thực hiện quyền công dân của các nhóm dễ bị tổn
thương tại địa phương.
Thứ tư, chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá việc thực thi chính sách, pháp luật.
Trong xây dựng và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật cần có chương trình và kế
hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật hàng năm và cả nhiệm kỳ theo một lộ trình với
các thứ tự ưu tiên hợp lý, khoa học và chọn các khâu đột phá, cần tập trung mọi nguồn
lực để xây dựng và ban hành kịp thời, đồng thời thường xuyên kiểm tra, đánh giá, tổng
kết thực tiễn thi hành pháp luật để sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với thực tiễn,
có như vậy mới phát huy được vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm QCN và đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập.
4.2.2. Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền con người
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN bảo đảm QCN là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước ta trong
điều kiện HNQT hiện nay. Điều cần lưu ý là việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước không chỉ căn cứa vào các quy định của Hiến pháp về
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, chính quyền địa
phương mà phải chú ý tới toàn bộ các nguyên tắc mang tính nền tảng của Hiến pháp
khi hoàn thiện pháp luật nhằm điều chỉnh tố chức và hoạt động của các cơ quan này.
Mục tiêu cần đạt được của việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước là phải vượt
qua được tư duy của lối quản lý truyền thống "tư duy quyền uy" tiến tới tư duy mới: Tư
duy nghĩa vụ, trách nhiệm, thay đổi cách ứng xử từ "cho phép" sang "phục vụ" trong
mối quan hệ với công dân. Nhà nước với tính chất là "hình thức tổ chức của dân chủ"
không có lợi ích tự thân, và như vậy càng không thể có khái niệm lợi ích, ý chí của bộ
máy nhà nước, cơ quan nhà nước. Lợi ích, ý chí của Nhà nước là lợi ích, ý chí của nhân
dân. Yêu cầu quan trọng và cốt yếu của dân chủ trong giai đoạn mới là phải đặt người
dân vào vị trí trung tâm của mọi hoạt động nhà nước.
Bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên nền tảng "phục vụ Nhân dân" và phải
được hoàn thiện theo hướng, đó là: Đảm bảo cho Nhân dân tham gia tích cực vào các
hoạt động của Nhà nước, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình đối với hoạt
động của bộ máy nhà nước. Hiện nay, thực hiện kiện toàn bộ máy và đổi mới tổ chức
hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm: Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư
pháp là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để phát huy vai trò của Nhà
133
nước ta trong việc bảo đảm QCN. Đây là một nhiệm vụ luôn được quan tâm và đặc biệt
coi trọng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam. Thông qua việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, các chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, việc bảo
đảm QCN ngày càng được mở rộng và nâng cao. Điều này cho thấy, việc tìm kiếm, bổ
sung các cơ chế mới chỉ có tác dụng khi bản thân các nhánh quyền lực cũng nhận thức
rõ và không ngừng đổi mới chính mình. Ngược lại, dù có bổ sung thêm nhiều cơ chế,
nhưng bản thân nhà nước không chuyển động thì các cơ chế mới cũng mất tác dụng và
trở nên vô nghĩa. Với ý nghĩa ấy, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước phải
gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và phải đảm bảo
được các yêu cầu sau:
- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống
chính trị nước ta là vận hành theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ" do một Đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền KTTT định
hướng XHCN, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, giữ vững
và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy phải nhằm bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính
trị hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lắp,
chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan Nhà nước phải đảm bảo tính đồng
bộ, hệ thống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta, phát huy
vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước,
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội.
- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước phải vừa kế thừa những thành quả,
kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của HNQT.
Trong điều kiện hiện nay, trọng tâm cuả việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN cần
tập trung:
Thứ nhất, từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt
động của Quốc hội
Kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước trước hết chú trọng tới
việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của Quốc hội, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,
134
lập pháp. Vì vậy, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao vai trò của "cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" ở nước ta. Để làm tốt
chức năng đại biểu cao nhất của nhân dân cả nước, cần tiếp tục đổi mới cơ chế bầu vừa
bảo đảm được quyền tự do ứng cử và được đề cử rộng rãi của công dân, vừa lựa chọn
được những người có đủ phẩm chất và năng lực, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân và
đất nước. Phải tạo cơ chế để mỗi đại biểu Quốc hội vừa thực sự phản ánh được nguyện
vọng của cử tri, vừa có thể góp ý kiến vào việc thẩm định các dự án luật và xây dựng
pháp luật, lại có điều kiện thực hiện vai trò giám sát việc thực thi pháp luật.
Trong điều kiện hiện nay, hoàn thiện tổ chức, nâng cao vai trò, vị thế của Quốc
hội trong bộ máy Nhà nước hiện nay không có nghĩa là tăng thêm thẩm quyền cho
Quốc hội mà phải tăng cường năng lực làm luật của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Do đó, cần "nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp" sao cho mọi lĩnh vực
hoạt động của xã hội đều được bảo đảm bằng luật, để Quốc hội thực sự trở thành "cơ
quan thay mặt nhân dân để quyết định những vấn đề hệ trọng của dân tộc có liên quan
tới bảo vệ, phát triển quyền con người, quyền tự do của công dân" [67, tr.161], để các
quyết định của Quốc hội trở thành "tối cao" với toàn bộ hệ thống quyền lực Nhà nước.
Do đó, cần thực sự đầu tư và nâng cao chất lượng các đạo luật để các đạo luật phản ánh
được ‘hơi thở’ của cuộc sống, bảo đảm cho chúng có giá trị lâu dài, song "phải bảo đảm
tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể, để giảm bớt tình trạng phải chờ đợi quá nhiều văn
bản hướng dẫn mới thi hành được" [118].
Đồng thời với việc nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, phải bảo đảm cho
Quốc hội có đầy đủ năng lực thực hiện quyền quyết định ngân sách Nhà nước, xem xét
quyết định một cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, các chương trình
quốc gia, các dự án đầu tư lớn cũng như các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và
nhân sự. Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội, xác định rõ cơ chế giám sát của
Quốc hội với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, đổi mới việc xem xét các báo cáo
công tác và xem xét việc trả lới chất vấn của Chính phủ, của Toàn án nhân dân Tối cao
và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, chuyển từ một Quốc hội
hoạt động bán chuyên trách, hoạt động theo kỳ ngắn ngày sang một Quốc hội chuyên
trách, họp thường xuyên dài ngày; từ một Quốc hội tham luận sang một Quốc hội thảo
luận, tranh luận, tức là phải nâng cao chế lượng hoạt động của các kỳ họp Quốc hội. Vì
vậy, thời gian tới cần tăng thêm thành viên chuyên trách của Quốc hội từ 28% như hiện
135
nay lên 40 đến 50% tổng số đại biểu Quốc hội. Thực hiện cải tiến lề lối làm việc của
các Ủy ban, tăng cường số lượng thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đề cao
vai trò và trách nhiệm của từng đại biểu Quốc hội...Trong thời gian tới, để việc giám sát
tối cao của Quốc hội trên lĩnh vực QCN đạt hiệu quả cao, cần thành lập một cơ quan
độc lập (hoặc thuộc Quốc hội) để đảm nhiệm vai trò chuyên trách này.
Thứ hai, từng bước đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Chính phủ
Chính phủ với tư tư cách là cơ quan đứng đầu nền hành chính quốc gia, cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất, có quan hệ trực tiếp, thân thiết đến cuộc sống hàng ngày
của công dân. Mọi quyết định của Quốc hội phải được Chính phủ tôn trọng và tổ chức
thực hiện triệt để. Thực tiễn cho thấy, một nền hành chính mạnh phải được bắt đầu từ
một chính phủ mạnh, một nhà nước hoạt động có hiệu quả thì phải có một hệ thống các
cơ quan hành pháp hay hành chính mạnh, hoạt động có hiệu quả.
Chính vì vậy, cải cách nền hành chính là vấn đề không riêng của Nhà nước, mà
còn liên quan đến đời sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Cải cách thủ tục hành
chính không chỉ nhìn từ khía cạnh kinh tế, tức là tiết kiệm tiền của, là xây dựng môi
trường pháp lý để các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư yên tâm làm ăn, phát triển;
không chỉ nhìn từ khía cạnh xã hội, tức là tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Hơn thế, nó còn xuất phát từ
việc sắp xếp, tổ chức bộ máy theo hướng gọn nhẹ, hiện đại; đổi mới công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức về chuyên môn, nghiệp vụ theo hướng chuyên nghiệp
hoá; góp phần bài trừ tệ quan liêu, cửa quyền, hối lộ, làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Do đó, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, phải đẩy
mạnh thực hiện cải cách hành chính theo hướng "phục vụ" và "dịch vụ", tinh giảm bộ
máy cơ quan quản lý theo hướng gọn nhẹ, lấy hiệu quả làm trọng tâm, đổi mới tổ chức
và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống
nhất, xuyên suốt, hiện đại, đúng với vai trò là cơ quan hành chính cao nhất. Đẩy mạnh
thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020,
trong đó, tập trung vào cải cách thể chế với vai trò là một trong ba trọng tâm của cải
cách hành chính; chú trọng việc nâng cao chất lượng hoạch định, ban hành chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này, trong thời gian tới,
cải cách hành chính cần tập vào những điểm sau:
Một là, xây dựng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực tổ chức
thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra. Xác định rõ phạm vi và nội dung
136
quản lý nhà nước của cơ quan hành chính các cấp. Thực hiện phân cấp nhiều hơn,
mạnh hơn, tăng thêm quyền hạn đi đôi với trách nhiệm cho các sở, ngành, các huyện,
thị và cơ sở, loại bỏ cơ chế "xin- cho", loại bỏ các khâu xin phép, xét duyệt không cần
thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm
pháp luật, loại bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho các tầng lớp nhân dân và
các doanh nghiệp;
Hai là, đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, tập trung triển khai dứt
điểm các phương án đơn giản hóa thủ thủ tục hành chính, kiện toàn toàn bộ máy làm
công tác cải cách thủ tục hành chính theo Nghị định số 48/2013/NĐ-CP, ngày
14/5/2013, của Chính phủ và Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 15/6/2013, của Thủ tướng
Chính phủ. Thực hiện cải cách căn bản thủ tục hành chính cả về thể chế lẫn tổ chức
thực hiện. Tiếp tục triển khai thực hiện cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông", tổ chức
sơ kết, rút kinh nghiệm, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của các mô hình
cải cách hành chính "một cửa", giảm bớt các thủ tục phiền hà cho người dân.
Ba là, đổi mới, tổ chức hoạt động của nền hành chính đảm bảo tính chuyên
nghiệp, hiện đại theo hướng phục vụ con người, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Cần
quy định thủ tục quan hệ trong nội bộ cơ quan hành chính và giữa các cơ quan hành
chính với nhau sao cho các cơ quan này giải quyết hiệu quả các yêu cầu, công việc của
nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tập trung cải cách thủ tục trong lĩnh
vực quản lý hành chính Nhà nước tác động đến đời sống và quyền lợi của nhân dân.
Quy định chế độ công vụ và quy chế phối hợp với các cơ quan hành chính có trách
nhiệm giải quyết yêu cầu của nhân dân một cách công khai, minh bạch và công minh.
Bốn là, cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, trong đó xác định cải
cách thủ tục hành chính là khâu đột phá, và trọng tâm là xây dựng năng lực của đội ngũ
cán bộ, công chức, đặc biệt trong lĩnh vực thực thi pháp luật.
Năm là, tăng cường năng lực thực thi cho cơ quan bảo vệ QCN, hoàn thiện cơ
chế bảo vệ QCN, trong đó coi trong việc hoàn thiện các thủ tục khiếu nại, khiếu kiện và
phản biện xã hội, đảm bảo các tố cáo của công dân phải được các cơ quan hành chính
có thẩm quyền kết luận, cần khắc phục triệt để, dứt điểm hiện tượng những tố cáo của
nhân dân bị rơi vào quên lãng hoặc bị "im lặng". Khi đã có kết luận thì phải xử lý công
khai, minh bạch theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
Sáu là, đối với nhóm yếu thế, dễ tổn thương, để nâng cao sự hưởng thụ QCN của
các nhóm người này, đòi hỏi phải có một cơ chế phối hợp đa ngành, do vậy yêu cầu cấp
137
thiết là tăng cường vai trò của Bộ lao động thương binh xã hội; Bộ Y tế; Bộ Tài chính;
Bộ Công an; Tổng Liên đoàn lao động; Hội chữ thập đỏ; Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam; Mặt trận Tổ quốc,... Theo đó, cần thiết lập một hệ thống liên lạc giữa các Bộ, ban
ngành ở cấp Trung ương cũng như các cấp ở địa phương, có như vậy, những vấn đề
liên quan đến bảo đảm QCN của các nhóm yếu thế, những sai phạm trong việc bảo
đảm QCN của các nhóm này được xử lý kịp thời và hiệu quả.
Bảy là, tăng cường sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối với các hoạt động
liên ngành trong công tác bảo đảm QCN cho người dân. Các cấp, các ngành có
trách nhiệm cần xây dựng chính sách, chương trình phù hợp nhằm khuyến khích,
động viên đồng thời làm rõ trách nhiệm của của cấp và ngành trong việc bảo đảm
QCN; lồng ghép QCN vào các chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở
các ngành, địa phương.
Tám là, các cơ quan nhà nước ở địa phương, nhất là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
huyện và xã, cần phải quan tâm hơn nữa đến việc triển khai thực hiện các văn bản pháp
luật của các cơ quan nhà nước cấp trên về công tác bảo đảm một cách chủ động, sáng
tạo và hiệu quả từ tình hình địa phương; đồng thời thường xuyên kiểm tra, thanh tra,
giám sát để nắm bắt được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai thực
hiện văn bản pháp luật; từ đó có những đề xuất, kiến nghị và đưa ra những giải pháp để
khắc phục những khó khăn và phát huy những thành công khi triển khai thực hiện tại
địa phương. Cơ quan chính quyền địa phương các cấp cần chú trọng quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ quản lý Nhà nước, trình độ chuyên môn của
cán bộ, công chức, bảo đảm QCN cho các tầng lớp nhân dân tại địa phương.
Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, song phải thừa nhận rằng, lĩnh vực tư pháp ở nước ta
vẫn còn nhiều tồn tại, bức xúc. Về chức năng, nhiệm vụ, hệ thống các cơ quan tư pháp
có trách nhiệm giữ gìn pháp luật, bảo đảm QCN, bảo đảm công bằng xã hội và công lý,
kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, ở một số nơi, tình
trạng bắt người trái pháp luật vẫn xảy ra, công tác điều tra còn để oan sai, nguyên tắc
bình đẳng trong xét xử chưa thực sự được chú trọng, hoặc thiếu dân chủ trong tranh
tụng của luật sư. Công tác thi hành án gặp nhiều khó khăn, công tác kiểm sát còn hạn
chế, đôi khi còn "bỏ qua" những vi phạm trong hoạt động tư pháp... Do đó, đẩy mạnh
cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp độc lập là yêu cầu cấp thiết. Trong điều kiện
hiện nay, cải cách tư pháp cần tập trung:
138
Một là, cải cách và kiện toàn hệ thống các toàn án, mà cốt lõi của nó là phải bảo
đảm tính độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Đảm bảo cho tòa án xét
xử độc lập và chỉ tuân thủ đúng pháp luật mà không chịu bất cứ sức ép nào từ phía cơ
quan lập pháp hay hành pháp. Độc lập trong xét xử là thước đo đánh giá bản chất dân
chủ, công minh của nhà nước pháp quyền, do đó, đòi hỏi tòa án phải khách quan, vô tư
dựa trên những chứng cứ thực tế, qua đối chất và đặc biệt qua cơ chế tranh tụng tại tòa
án để tìm ra chân lý khách quan và "chỉ có tư pháp độc lập mới giám sát được các cơ
quan công quyền trong việc tuân thủ pháp luật" [23, tr.111], qua đó, nhân dân mới có
niềm tin vào tòa án mỗi khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Hai là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong cơ quan tư pháp, thực hiện
đổi mới quy trình, thủ tục giải quyết công việc của các tòa án. Trong điều kiện nước ta
hiện nay, bên cạnh việc tăng cường vai trò của tòa án dân sự, tòa án kinh tế, tòa hình sự
trong hoạt động xét xử các vụ án thì chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt đồng xét xử của
các vụ án hành chính, án lao động của tòa hành chính và tòa án lao động là rất quan
trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân.
Ba là, để thực hiện tốt tinh thần cải cách tư pháp cũng như bảo đảm tốt hơn quyền
tiếp cận tư pháp của người dân, cần tăng cường vai trò và năng lực của đội ngũ luật sư,
người bào chữa pháp lý à các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý cho người dân. Tăng
cường và phổ biến nâng cao nhân thức, kỹ năng thực thi pháp luật gắn với việc bảo
đảm QCN cho các cán bộ trong ngành kiểm sát, cảnh sát...
4.2.3. Từng bước hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm quyền con người
Cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN ở nước ta hiện nay hoạt động chưa thực sự hiệu
quả. Vì vậy, cần nghiên cứu hoàn thiện các thiết chế nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu
lực quản lý của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Trong thời gian tới, việc hoàn
thiện các thiết chế đảm QCN cần chú trọng tới các vấn đề sau:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước
Đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước là nhiệm vụ căn bản, có tầm chiến
lược trong việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Với tư cách là
người đại diện cho toàn dân quản lý, chỉ đạo trực tiếp các quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm QCN, đòi hỏi Nhà nước phải có đủ mạnh cả về thế và lực để đảm
đương trọng trách này. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước Việt Nam là Nhà nước do
Đảng cộng sản lãnh đạo, nên việc xây dựng, đổi mới hoạt động của Nhà nước đòi hỏi
không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hoạt động của
139
Nhà nước. Dưới góc độ nhân quyền và bảo đảm nhân quyền, trước hết sự lãnh đạo của
Đảng chính là ở chỗ, Đảng hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách lớn ở tầm vĩ
mô cả trước mắt cũng như lâu dài, trong đó có quan điểm, đường lối về bảo đảm QCN,
trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Vì thế, để nâng cao vai trò Nhà nước pháp quyền, phải làm rõ
sự lãnh đạo của Đảng đối với sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phân định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm của Đảng với thẩm quyền trách nhiệm của Nhà nước, tránh hiện
tượng chồng chéo, trùng lặp về chức năng giữa Đảng và nhà nước, nâng cao hiệu quả
hoạt động của Nhà nước, tuyệt đối Đảng không được bao biện, làm thay công việc của
Nhà nước. Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, tự nó đã là chấp hành chủ trương,
đường lối của Đảng.
Đảm bảo QCN trong Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản đòi hỏi quan điểm, đường lối của Đảng về QCN phải được ưu tiên trong hoạt
động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng tiêu chuẩn nhân quyền
quốc tế mà Việt Nam đã thừa nhận. Đồng thời, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong việc xây dựng bộ máy nhà nước là xây dựng các nguyên tắc, các phương
thức để đảng thực hiện việc xây dựng bộ máy nhà nước và lãnh đạo, giám sát các
hoạt động của bộ máy các cơ quan nhà nước và cả đội ngũ cán bộ, viên chức nhà
nước trong việc thực hiện đường lối, chủ trường của Đảng. Tất cả các cơ quan nhà
nước, từ cơ quan lập pháp, hành pháp đến tư pháp, từ các văn bản pháp lý đến các
chính sách kinh tế, xã hội đều phải được tổ chức và hoạt động theo đúng quan điểm
của Đảng, theo đúng đường lối của Đảng.
Ở nước ta, quá trình hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước phải dựa trên cơ
sở thực tiễn của đất nước và gắn liền với quá trình mở rộng dân chủ xã hội. Do đó, cần
phải tổng kết quá trình đổi mới về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phải tìm ra
phương thức tốt nhất để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà
nước đối với toàn xã hội.
Thứ hai, kiện toàn các cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền con người
Cùng với việc không ngừng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,
trách nhiệm công vụ thông qua chương trình đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp, tư
pháp, tiếp tục hoàn thiện các cơ quan chuyên trách bảo đảm QCN, gồm:
Một là, đổi mới tổ chức hoạt động của Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ
nhằm đảm đương tốt hơn việc chỉ đạo mọi hoạt động nhân quyền, đặc biệt là nhiệm vụ
140
bảo đảm nhân quyền và đấu tranh chống các thế lực thù địch trên lĩnh vực QCN. Trong
khi chưa thành lập được cơ quan nhân quyền quốc gia, cần đầu tư xây dựng một cơ
quan giúp việc cho Ban chỉ đạo nhân quyền Chính phủ, với một đội ngũ cán bộ tương
xứng với nhiệm vụ đang đặt ra hiện nay. Đó là một đội ngũ cán bộ có khả năng nghiên
cứu, giảng dạy và đáp ứng tốt các yêu cầu đối nội và đối ngoại của đất nước. Mô hình
của cơ quan này có thể tham khảo ở một số quốc gia, (Trung Quốc, Hội nghiên cứu
nhân quyền có 166 người; Liên bang Nga, Viện nhà nước - pháp luật có 350 người với
nhiều chuyên gia giỏi được thu hút từ nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.) Các cơ quan này
có nhiệm vụ nghiên cứu, tư vấn cho các cơ quan của chính phủ trong việc bảo vệ QCN
và đấu tranh trên lĩnh vực QCN.
Hai là, kiện toàn các cơ quan, tổ chức có chức năng theo dõi, tư vấn, trợ giúp
Chính phủ trên lĩnh vực QCN. Đó là các cơ quan như: Bộ Tư pháp; Ủy ban dân tộc của
Chính phủ; Ban tôn giáo Chính phủ; các Cục/Vụ về giới, về quyền trẻ em, về việc làm
thuộc Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội.
Ba là, thành lập chức danh nhân quyền tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa
án nhân dân tối cao nhằm giúp người đứng đầu các cơ quan này theo dõi, xử lý các vấn
đề liên quan đến nhân quyền thuộc thẩm quyền.
Bốn là, kiện toàn và tăng cường thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức có chức
năng theo dõi, phản biện Chính phủ về thực thi nhân quyền và các cơ quan tư pháp
trong hoạt động xét xử. Đó là: Hội đồng dân tộc, Ủy ban tư pháp, Ủy ban pháp luật, Ủy
ban đối ngoại, Ban dân nguyện, Ủy ban các vấn đề xã hội; Ủy ban thanh thiếu niên và
nhi đồng thuộc Quốc hội. Hình thành cơ chế phối hợp về hoạt động giám sát và thúc
đẩy QCN của các ủy ban thuộc Quốc hội. Bên cạnh đó, cần thu hút sự tham gia tích
cực hơn của một số ban thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam, Hội nông dân, Hội Luật gia, Hội Luật sư...Các phát hiện, tư vấn của các cơ
quan này có thể chuyển tới Thường vụ Quốc hội, Ban bí thư để kịp thời giải quyết.
Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu để thúc đẩy việc thành lập cơ quan nhân quyền
quốc gia. Để nâng cao vai trò Nhà nước trong bảo đảm QCN, cần tiến hành nghiên cứu
toàn diện nhằm tiến tới thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia. Chức năng, nhiệm vụ,
cơ quan này là theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi nhân quyền chứ không trực tiếp
giải quyết các khiếu nại, tố cáo những vi phạm nhân quyền. Phạm vi xem xét các vấn
đề nhân quyền gồm: xem xét việc ban hành luật và văn bản dưới luật có phù hợp với
Hiến pháp hay không; việc thực thi nhân quyền của Chính phủ; hoạt động điều tra, truy
141
tố, xét xử có theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật và theo hướng bảo vệ công lý, bảo vệ
QCN hay không. Ngoài ra, cơ quan này còn có trách nhiệm xem xét các báo cáo nhân
quyền quốc gia; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc gia với các quy định
của công ước nhân quyền và đề xuất kiến nghị.
Về tính độc lập, cơ quan này được đảm bảo tính độc lập, nhưng không "đối lập",
"đối trọng" với Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Do đặc thù chính trị ở Việt Nam,
hoạt động của cơ quan này phải nhằm mục đích hỗ trợ Nhà nước bảo đảm tốt hơn các
QCN, không phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Về nhân sự, cần lựa
chọn những người có nhiều năm kinh nghiệm công tác trên lĩnh vực bảo vệ pháp luật,
có chuyên môn về QCN, có uy tín xã hội; kiên định với vai trò lãnh đạo của Đảng, định
hướng XHCN, có bản lĩnh trong xử lý công việc....
Xuất phát từ thực tiễn phức tạp của vấn đề nhân quyền ở nước ta trong bối cảnh
hiện nay, việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia có là cần thiết cho việc nâng cao
vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Để thành lập cơ quan nhân quyền quốc
gia, chúng ta cần có sự chuẩn bị đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm, cơ sở pháp lý, chuyên
gia, nhân sự...cho bộ máy cơ quan nhân quyền quốc gia. Dựa trên kinh nghiệm của một
số nước đã có cơ quan nhân quyền quốc gia, các phương án thành lập cơ quan nhân
quyền quốc gia ở Việt Nam có thể lựa chọn là: 1/ Thanh tra quốc hội (Ombusman) hay
Hội đồng nhân quyền của Quốc hội với tính cách là một ủy ban của Quốc hội do Đảng
đoàn Quốc hội lãnh đạo; 2/ Ủy ban về quyền con người trực thuộc Chính phủ; 3/ Hội
bảo vệ quyền con người Việt Nam với tính cách là một tổ chức xã hội thuộc Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; 4/ Viện Nghiên cứu quyền con người quốc gia.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế giám sát việc bảo đảm quyền con người
Để bảo đảm QCN có hiệu quả hơn, Nhà nước ta hiện nay cần coi trọng xây dựng
mạng lưới giám sát thực thi pháp luật và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội bảo đảm
QCN, trước hết là:
- Xây dựng mạng lưới giám sát hành chính, trong thời gian qua, các ngành quản
lý chức năng như: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,
Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo,... đã phát huy
tác dụng góp phần hạn chế những rào cản trong việc bảo đảm QCN và quyền công dân,
triển khai nhiều biện pháp giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, kịp thời phát
hiện và xử lý những sai phạm của cán bộ công chức, tổ chức, cá nhân vi phạm QCN.
142
- Xây dựng mạng giám sát bằng dư luận, trong thời gian vừa qua các cơ quan báo
chí, truyền thông nhằm đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng, việc làm
tiêu cực gây ảnh hưởng xấu chủ trương, chính sách tốt đẹp của Đảng và Nhà nước về
QCN. Đây chính là sự giám sát dư luận mà các cơ quan thông tấn báo chí và truyền
thông đã tạo ra. Mặc dù sự giám sát dư luận không mang tính luật pháp nhưng nó tạo ra
sức ép dư luận xã hội rất lớn lên các biểu hiện, việc làm vi phạm QCN. Ngoài ra, các tổ
chức chính trị, xã hội khác như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,...
đã hoạt động rất tích cực đấu tranh bảo vệ QCN.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội
Phản biện xã hội thực chất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện
trong việc tham gia xây dựng và thực hành pháp luật. Hiện nay ở nước ta, trình độ dân
trí đã được nâng cao, tinh thần dân chủ từng bước được nâng cao, nên sự phản biện là
tất nhiên và phản biện chỉ mang lại hiệu quả tốt cho chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước, làm cho các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước càng được hoàn
thiện hơn, hạn chế các rào cản trong thực hiện chính sách, pháp luật.
Điểm đáng chú ý trong việc hoàn thiện cơ chế là tăng cường sự giám sát của các
cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp đối với công tác bảo đảm QCN, chú ý tăng
cường khả năng hưởng thụ các quyền của nhóm dễ bị tổn thương, đồng thời khuyến
khích sự tham gia của tất cả các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, gia
đình và trường học; thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật hiện hành của Việt Nam
liên quan đến QCN. Tiếp tục củng cố hệ thống luật pháp và các chính sách để thực hiện
và bảo vệ QCN trên các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các
nhóm dễ tổn thương; tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế. Đồng thời, tập trung
lồng ghép một cách hiệu quả các vấn đề QCN vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
của cả nước và của từng địa phương; tăng cường việc giám sát trong triển khai nguồn
lực hiện có cho bảo vệ, nâng cao năng lực hưởng thụ QCN của các nhóm xã hội từ
ngân sách nhà nước và các nguồn được đóng góp bởi các tổ chức trong nước, quốc tế
và cá nhân.
Thứ tư, xây dựng chế độ, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cán bộ công
chức trong việc bảo đảm quyền con người
Đây là một trong những giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách để xây dựng và hoàn
thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN. Chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ,
công chức nhà nước thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực thi công
143
vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của cá nhân, công dân. Vì vậy, vấn đề
đặt ra là, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với nhà nước.
Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy
quyền từ nhân dân, do đó, xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công
dân có quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn Nhà nước, cán
bộ, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định. Nghĩa vụ của
Nhà nước theo chuẩn mực nhân quyền quốc tế là: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện QCN.
Quyền và nghĩa vụ giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng buộc hai chiều.
Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, thực thi pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc triển khai và thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước vào việc bảo đảm QCN. Thực tế cho thấy, sự yếu kém về chuyên môn,
nghiệp vụ, sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công
chức đã trở thành rào cản trong việc triển khai các đường lối, chủ trương, chính sách,
kìm hãm, cản trở việc hưởng thụ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Do đó,
trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ theo hướng nâng cao tính thần trách
nhiệm của cán bộ, công chức là phục vụ dân, chứ không phải là "cai trị dân".
Có một thể chế tốt và một mô hình hệ thống hành chính tốt, nhưng nếu không có
cán bộ, công chức thành thạo chuyên môn nghiệp vụ, tận tụy với công việc, trách
nhiệm với dân thì mọi ý đồ cải cách cũng không thể trở thành hiện thực. Một nền hành
chính nhằm mục tiêu phục vụ con người trong Nhà nước dịch vụ công, đòi hỏi cán bộ,
công chức các cấp chính quyền có kiến thức cần thiết về pháp luật, trình độ chuyên
môn nghiệp, lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, kiến thức xã hội, hành vi
ứng xử giữa con người với con người, con người với tổ chức, lấy con người làm trung
tâm; có phẩm chất năng lực chuyên môn, nghiệp vụ hoàn thành tốt công việc được
giao, có đủ năng lực quản lý vĩ mô, tiếp thu được những thành tựu khoa học tiên tiến
trong quản lý hành chính áp dụng trong điều kiện ở nước ta.
Hiện nay, trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật về cán bộ công chức, mỗi cơ quan
nhà nước do tính chất đặc thù chuyên môn, nghề nghiệp, cần có quy chế riêng về quản
lý cán bộ và có tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc và tinh thần, thái độ
phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước. Do đó, Nhà nước
cần hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ, trong đó tập trung:
Một là, xây dựng, đổi mới, hoàn chỉnh quy trình đánh giá cán bộ làm công tác
bảo vệ và thực thi QCN. Đánh giá cán bộ làm công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực
144
QCN là khâu quan trọng trong công tác cán bộ. Đánh giá đúng, chính xác cán bộ là cơ
sở để lựa chọn, đề bạt, bố trí, sắp xếp cán bộ theo đúng trình độ, năng lực của họ, đồng
thời là cơ sở cho đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ. Vì vậy, để làm tốt công tác
đánh giá cán bộ, trong đó có cán bộ quản lý nhà nước trên lĩnh vực QCN cần thực hiện
đúng nguyên tắc "công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm, lấy hiệu
quả hoàn thành công việc làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ" [31, tr.295].
Hai là, xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ quản lý nhà nước trên lĩnh vực
QCN. Tuyển chọn cán bộ là khâu quan trọng để thu hút, phát hiện người có tài, có đức,
đủ năng lực và phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ của công
việc đặt ra. Do đó, trong quy chế tuyển chọn cán bộ, phải xác định rõ cơ cấu và tiêu
chuẩn chức danh công chức trong từng cơ quan nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và
bố trí sử dụng cán bộ, công chức; xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chức danh,
tiêu chuẩn theo ngạch công chức phù hợp thực tiễn và yêu cầu chuyên môn của từng
đối tượng công chức; xác định địa vị pháp lý của công chức nhà nước, cùng với ghi
nhận trong quyền của mọi công dân có đủ điều kiện đế có thể trở thành công chức nhà
nước; quy định việc tuyển dụng công chức bằng hình thức thi tuyển cạnh tranh, việc
xét tuyển chỉ thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt nhằm thực hiện chính sách xã
hội; có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; quy định chế độ thưởng phạt
nghiêm minh để đảm bảo kỷ cương hành chính và hiệu quả công tác quản lý; quy định
trách nhiệm công chức nhà nước, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, gắn
quyền hạn với trách nhiệm của cán bộ, công chức, chú trọng trọng việc bồi dưỡng,
nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ thực thi pháp luật về QCN...
Ba là, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ quản lý nhà nước về QCN. Đây là việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết nhằm đánh giá chính xác cán bộ, phục vụ cho công tác quy
hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và
HNQT, người cán bộ làm công tác bảo vệ và thực thi QCN cần đáp ứng được các tiêu
chuẩn cơ bản sau:
- Có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu xuyên tạc, phá
hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao, có lối sống lành mạnh,
trong sáng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
145
- Có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn cao; có ý thức học tập để nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, có năng lực tổ chức, lãnh
đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Nắm vững các quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước về QCN. Có năng lực cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết, chính sách, pháp luật về
QCN vào lĩnh vực mình đảm nhiệm thông qua chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý. Có năng lực
xây dựng các chương trình hành động thực hiện các chủ trường, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước sát với tình hình thực tiễn đất nước và địa phương, đồng thời
nắm vững các quy định của pháp luật quốc tế và quốc gia và vận dụng đúng các quy
định pháp luật trong lĩnh vực được giao.
- Có sự hiểu biết về QCN, về kinh tế thị trường và HNQT. Có tinh thần trách
nhiệm trong công việc. Khi cán bộ công chức nhà nước tận tụy với công việc, biết tôn
trọng và lắng nghe nhân dân, phục vụ hết mình vì nhân dân thì đòi hỏi mỗi công dân
cũng phải nâng cao ý thức trách nhiệm trước Nhà nước mà cụ thể ý thức tôn trọng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ công dân đã được Hiến pháp
và pháp luật quy định. Do đó, nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN
ngoài việc ghi nhận quyền của công dân, phải làm rõ nghĩa vụ của công dân, làm rõ
nghĩa vụ, trách nhiệm của các cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước, có như
vậy, mới hạn chế được việc lạm dụng quyền lực để xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân.
Thứ năm, tăng cường nâng cao nhận thức pháp luật và quyền con người
Việc tôn trọng, bảo đảm và thực hiện QCN của Nhà nước phải gắn liền với việc
tăng cường nhận thức pháp luật và QCN, đặc biệt là tăng cường giáo dục QCN cho chủ
thể thực hiện quyền (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức) và chủ thể hưởng thụ
quyền (tất cả mọi cá nhân, nhóm xã hội). Do đó, đồng thời với việc kiện toàn các thể
chế, thiết chế bảo đảm QCN, cần kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nghiên cứu, giáo dục nhân quyền là hết sức cần thiết nhằm tạo sự thống nhất nhận thức
của xã hội về QCN và phát huy vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Cụ thể:
Một là, khẩn trương biên soạn chiến lược giáo dục QCN và kế hoạch, lộ trình cụ
thể cho tuyên truyền, giáo dục QCN. Trong kế hoạch phải xác định được cụ thể nội
dung, cách thức, đối tượng, tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện, thời gian, tiến độ thực
hiện. Việc phổ biến, giáo dục QCN cần chú ý tới nội dung, hình thức phải sát hợp với
146
điều kiện, yêu cầu của từng đối tượng, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, miền núi
và đồng bào dân tộc thiểu số.
Hai là, tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác tuyên truyền, giáo dục
QCN, đặc biệt cần đẩy mạnh việc giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm trang bị kiến thức nhân quyền đúng đắn cho học sinh, sinh viên, những chủ nhân
tương lai của đất nước. Xây dựng một chương trình giáo dục truyền thông mạnh mẽ,
rộng khắp thông qua nhiều phương thức, phương tiện truyền thông khác nhau như: tập
huấn, đào tạo, sử dụng tờ rơi, sách bỏ túi, tổ chức câu lạc bộ,... nhằm phổ biến kiến
thức, nâng cao hiểu biết của cộng đồng về QCN, huy động sự tham gia của cộng đồng
trong việc thúc đẩy sự hưởng thụ QCN cho các nhóm xã hội.
Ba là, từng bước đào tạo, hình thành đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về QCN.
Cần coi trọng việc tập huấn về QCN cho đội ngũ phóng viên, báo chí có hiểu biết
chuyên sâu về nhân quyền để đủ sức đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền.
Bốn là, đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ công chức về trách
nhiệm của họ đối với việc bảo vệ QCN. Đây cũng là việc làm cần thiết và rất cấp bách.
Một khi mỗi cán bộ, công chức, nhà quản lý có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng
QCN thì khi đó, các QCN sẽ được bảo đảm, thực hiện một cách tốt nhất trong điều
kiện kinh tế, xã hội cho phép, thúc đẩy xã hội tiến bộ theo hướng dân chủ, văn minh.
4.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người
Nâng cao hiêu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN không chỉ dừng lại ở
việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, con người và các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN mà
trong điều kiện hiện nay, còn phải tích cực, chủ động mở rộng quan hệ HTQT trên lĩnh
vực QCN. Đây cũng là việc thực hiện một chức năng quan trọng của nhà nước, chức
năng đối ngoại.
Quá trình HNQT và phát triển đặt ra yêu cầu ngày càng cao về hợp tác, trao đổi
với bên ngoài. Theo phương châm là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, Nhà
nước ta phải không ngừng mở rộng HTQT với tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế,
thu hút các nguồn lực, tạo tiền đề cần thiết cho việc bảo đảm QCN.
Thực hiện mục tiêu của HTQT là "làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn quan
điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân
quyền sâu sắc. Hiến pháp, pháp luật của chúng ta là nghiêm minh, hài hòa, tương thích
với pháp luật quốc tế" [107, tr.61-62]. Đồng thời, thông qua HTQT, chúng ta tranh thủ
sự hỗ trợ các nguồn lực về tài chính, kỹ thuật phục vụ cho các nhiệm vụ của quốc gia.
147
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, yêu
cầu đặt ra đối với Nhà nước là phải tiếp tục tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng
hơn nữa trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, an ninh, quốc
phòng nhằm tăng cường sự ủng hộ, sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam
và các đối tác; góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển,
cũng như tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với hoạt động bảo vệ độc
lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có vai trò nền tảng mang ý nghĩa quyết định trong
việc mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, tạo tiền đề quan trọng bảo đảm QCN.
Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong
các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, cần đi trước
một bước để tạo cơ sở. Hội nhập kinh tế nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song
phương, khu vực và đa phương; nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường
quốc tế; kết hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự
chủ, an ninh quốc phòng, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm QCN. Hiện nay,
hội nhập kinh tế quốc tế bảo đảm QCN cần chú trọng:
Một là, tập trung mạnh vào thúc đẩy đàm phán các hiệp định thương mại tự do
mới, phát huy lợi thế của các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết để phục vụ
cho các mục tiêu phát triển. Tiếp tục tổ chức thực hiện và phối hợp tổ chức thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả các cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư, trước hết
là các cam kết trong khuôn khổ WTO, ASEAN và các cam kết song phương khác.
Hai là, chủ động, đề xuất, khởi xướng để xây dựng luật chơi chung theo mẫu
số chung, theo thông lệ quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc và theo lợi ích của đất
nước; tiếp tục chủ động tham gia các điều ước quốc tế, tham gia và các hoạt động ở
các diễn đàn đa phương, nhất là ASEAN, Liên Hợp Quốc.
Ba là, tăng cường thu hút các nguồn lực trong hợp tác quốc tế tạo cơ sở vật
chất quan trọng cho việc bảo đảm QCN, từ đó, khẳng định vị thế của Nhà nước Việt
Nam trên trường quốc tế.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị
Tăng cường hợp tác quốc tế về QCN trên lĩnh vực chính trị, trong đó tập trung:
Một là, đẩy mạnh việc nghiên cứu các công ước quốc tế, chuẩn bị để Việt Nam
tiếp tục tham gia và phê chuẩn một số công ước mới về QCN phù hợp với điều kiện
148
của đất nước. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục phê chuẩn Công ước chống tra tấn, Tòa án
hình sự quốc tế.
Hai là, Tích cực, chủ động phát huy vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc
tế và khu vực mà Việt Nam là thành viên như: Hội đồng Bảo an; Nhân quyền Liên hợp
quốc, Ủy ban liên chính phủ ASEAN về QCN. Tăng cường sự tham gia của Việt
Nam vào hoạt động của một số tập hợp lực lượng tiến bộ như ASEAN, Nhóm các
nước có cùng quan điểm về nhân quyền (LMG), Nhóm châu Á, Nhóm các nước
Không liên kết (NAM)... góp phần vào việc thúc đẩy những quan điểm và lập
trường tích cực về QCN tại Liên hợp quốc.
Ba là, tăng cường mời các báo cáo viên đặc biệt trên lĩnh vực QCN đến Việt Nam
nhất là trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, báo chí, thông tin…để trao đổi thông tin,
giúp họ nắm bắt được thực tiễn việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, tăng cường sự hiểu
biết, khắc phục và thu hẹp những vấn đề còn khác biệt, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, nhân dân thế giới và cộng đồng người Việt
định cư ở nước ngoài trên cơ sở đảm bảo tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,
không can thiệp và công việc nội bộ của nhau, kiên quyết phê phán, vạch trần
những luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa
Tích cực chủ động HNQT trên lĩnh vực văn hóa. Để làm tốt nhiệm vụ này, một
mặt cần chủ động nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc, các thành tựu
khoa học công nghệ của các nước, mặt khác, cần có biện pháp ngăn chặn các sản phẩm
văn hóa ngoại lai xâm nhập, giữa gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này, Nhà nước cần có đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phê bình
văn hóa, nghệ thuật, nhằm định hướng nhận thức và thẩm mỹ cho công chúng, tránh
tình trạng phó mặc cho các cơ quan báo chí phải xử lý mọi vấn đề. Cần sớm giao
nhiệm vụ này cho một tổ chức thích hợp
Thứ tư, trên lĩnh vực giáo dục quyền con người
Giáo dục QCN trong điều kiện HNQT hiện nay là sự cần thiết có tính tất yếu
khách quan. Bởi lẽ,trong một xã hội dân chủ, một nhà nước của dân, do dân và vì
dân, một nền kinh tế tự do thương mại, thì QCN là những giá trị có tính tiền đề cần
được cả xã hội và người dân nhận thức đúng; do đó, QCN chỉ có thể được hiện thực
hóa và bảo đảm thực hiện thông qua các quy định của pháp luật. Hơn nữa, trong bối
cảnh hiện nay của quan hệ quốc tế, các thế lực thù địch thường xuyên có những
149
đánh giá thiếu khách quan, xuyên tạc vấn đề thực hiện QCN ở Việt Nam làm ảnh
hưởng đến hình ảnh cũng như mối quan hệ quốc tế của Việt Nam trên nhiều phương
diện. Vì vậy, đề nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, cần đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục QCN, trong đó tập trung:
Một là, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực trong
giaods dục QCN nhằm nâng cao năng lực cho các cơ quan có liên quan đến lĩnh vực
nhân quyền. Các hình thức hợp tác có thể là: (1) Cung cấp tài liệu nghiên cứu, giảng
dạy về QCN, (2) Tổ chức các buổi hội thảo trao đổi khoa học về QCN và các vấn đề có
liên quan đến QCN; (3) Đào tạo, nâng cao năng cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo
vệ và thực thi QCN; (4) Hợp tác đào tạo cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về QCN.
Hai là, tăng cường tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học song phương và đa
phương về các chủ đề mà các bên cùng quan tâm. Thông qua các hoạt động này, chúng
ta làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ lịch sử, văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội Việt
Nam liên quan đến việc bảo đảm QCN.
Ba là, mở các khóa đào tạo luật quốc tế về QCN, nhất là các công ước quốc tế mà
Việt Nam đã tham gia hoặc có điều kiện tham gia (có sự quản lý chặt chẽ của các cơ
quan chức năng).
Thứ năm, chủ động và đổi mới phương thức đấu tranh chống các lực lượng thù
địch vu cáo Nhà nước ta vi phạm quyền con người
Đấu tranh trên lĩnh vực QCN trong tình hình quốc tế hiện nay có vị trí đặc biệt
quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc đảm môi trường chính trị, kinh tế giữ vững độc
lập chủ quyền quốc gia. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh trên lĩnh vực nhân
quyền, trước hết, cần nhận thức rằng, cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch trên
lĩnh vực QCN là một bộ phận cấu thành của chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của Việt Nam, đồng thời là phương thức để phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
bảo đảm QCN. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này gắn liền với mục tiêu chung của cách
mạng, đó là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Điều đó có
nghĩa là chúng ta cân nhắc đến lợi ích tổng thể của cách mạng khi áp dụng các hình
thức, biện pháp đấu tranh, mặt khác, cần phân hóa đối tượng đấu tranh, tranh thủ mọi
lực lượng, phương tiện có thể tranh thủ được để mở rộng mặt trận của ta trên lĩnh vực
này. Hiện nay, đấu tranh trên lĩnh vực QCN cần tập trung vào một số điểm sau:
Một là, xác định rõ nội dung và chiến lược đấu tranh trên lĩnh vực QCN. Cơ sở để
đấu tranh dựa trên các thành tựu đổi mới tư duy lý luận, vận dụng và phát triển chủ
150
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc về QCN trong luật pháp
quốc tế, từ kinh nghiệm lịch sử quốc tế, quốc gia, nhất là những thành tựu về nhân
quyền thời kỳ đổi mới và HNQT để bác bỏ quan điểm dân chủ, nhân quyền tư sản, bảo
vệ quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta.
Hai là, nhà nước chủ động phát hiện và giải quyết những sai phạm trong việc bảo
đảm QCN thông qua công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc... (không chờ dân đòi hỏi, không để các thế lực thù địch nêu ra, tấn công rồi
chúng ta mới xem xét, giải quyết).
Ba là, nhà nước cần chủ động tăng cường công tác thông tin trong nước và quốc
tế, giới thiệu những thành tựu bảo đảm QCN của Đảng và nhà nước ta. Việc giới thiệu
các thành tựu bảo đảm QCN không chỉ tập trung ở thành tựu về các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa mà cần tuyên truyền nhiều hơn nữa những thành tựu về việc bảo đảm các
quyền dân sự, chính trị, như: thành tựu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; việc
bảo đảm các quyền và tự do an ninh cá nhân; quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã
hội; quyền tự do báo chí, thông tin; tuyên truyền về dân chủ hóa trong hoạt động của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, những đổi mới trong hoạt động tư pháp (với
số liệu và sự kiện cụ thể), nhất là việc bảo đảm QCN trên lĩnh vực: quản lý nhà nước và
xã hội; tôn giáo, tín ngưỡng, quyền của các dân tộc thiểu số; tự do báo chí... Để làm tốt
được nhiệm vụ này, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thông tin, tuyên
truyền: bồi dường kiến thức, nâng cao nhận thức... cho phóng viên, biên tập viên, cán
bộ lãnh đạo, quản lý về báo chí.
- Bốn là, chủ động đấu tranh để giảm thiểu sự áp đặt tiêu chuẩn dân chủ, nhân
quyền kép làm điều kiện cho các hiệp định song phương và đa phương. Đồng thời, cần
thông qua việc đáp ứng ở mức có thể được trên lĩnh vực kinh tế để giải quyết các vấn
đề chính trị theo kiểu "có đi có lại". Cần nâng cao cảnh giác với các thế lực thù địch có
thể thông qua hợp tác kinh tế làm chệch hướng chiến lược, kế hoạch đấu tranh và tha
hóa đội ngũ cán bộ.
Kết luận chương 4
Trong chương 4, luận án trình bày một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều
kiện HNQT. Các quan điểm có tính chất gợi ý để nâng cao hiệu quả của Nhà nước
trong bảo đảm QCN, đó là: (1) Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm
151
QCN phải phù hợp với quy định quốc tế và trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền
quốc gia; (2) Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN gắn liền với
sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN; (3) Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN phải gắn
với phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội.
Từ các quan điểm có tính chất định hướng trên, luận án đã đề ra các giải pháp cơ
bản góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN
trong quá trình HNQT gồm: (1) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, công cụ quan
trọng phát huy quyền lực Nhà nước trong bảo đảm QCN thời kỳ HNQT; (2) Đổi mới tổ
chức bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền bảo đảm QCN; (3)
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN; (4) Tăng cường
hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN.
Trong các giải pháp đưa ra nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối
với việc bảo đảm QCN trong quá trình HNQT, theo chúng tôi, giải pháp tập trung nhất
là tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước và xây dựng chế độ trách nhiệm của
các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức trong thực thi công vụ, bảo đảm và thực hiện
QCN đáp ứng yêu cầu mới.
Sở dĩ tác giả nhấn mạnh tới giải pháp này bởi lẽ, hiện nay nước ta có chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn trong việc bảo đảm QCN, các văn bản pháp
luật bảo vệ QCN xét về mặt lý thuyết là khá đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực liên quan,
nhưng Nhà nước ta đang thiếu một tổ chức bộ máy Nhà nước hoàn thiện đáp ứng yêu
cầu bảo đảm QCN, thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức triển khai và thực hiện
công việc bảo vệ và thực thi QCN, thiếu những cán bộ lãnh đạo có năng lực chỉ đạo và
thực hiện hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ QCN và thiếu những cán bộ có
phẩm chất đạo đức, tâm huyết với sự nghiệp bảo vệ QCN, đặc biệt là cơ chế chịu trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong lĩnh vực họ đảm nhiệm.
Xét đến cùng, chủ thể vi phạm QCN, chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ QCN
chủ yếu là các cán bộ làm trong hệ thống cơ quan nhà nước, mọi chủ trương, chính
sách pháp luật bảo đảm và thực thi QCN cũng là do con người và vì con người xây
dựng nên. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ và thực hiện
QCN và xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất làm công tác bảo vệ và
thực thi QCN là việc làm cần thiết của Nhà nước Việt Nam hiện nay.
152
KẾT LUẬN
Từ quan điểm "con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển", bởi
mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước suy cho cùng là phải hướng tới
phục vụ con người, vì con người và giải phóng con người. Chính vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta luôn chú trọng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là
một nội dung cơ bản trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển KINH Tế, XÃ
HộI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm
QCN của Đảng, Nhà nước ta. Yêu cầu này có cơ sở khoa học từ quan niệm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cuộc sống.
Ngày nay, trước những tác động mạnh mẽ của quá trình HNQT, đòi hỏi các nhà
nước phải suy nghĩ và cách nhìn nhận khoa học, nghiêm túc về mối quan hệ giữa nhà
nước với công dân, giữa lợi ích quốc gia với quốc tế, giữa chủ quyền quốc gia với một
thế giới hội nhập toàn diện một cách sâu sắc hơn ở tầm triết học. Trong điều kiện
HNQT hiện nay, các quốc gia muốn tồn tại và phát triển buộc phải hòa mình vào xu thế
chung của thời đại, việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, trên cơ
sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia đã trở thành vấn đề có ý nghĩa sống còn đối
với mỗi quốc gia.
Trong những năm gần đây, thực hiện đổi mới và HNQT đã đem lại những thành
tựu kinh tế, xã hội to lớn, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm QCN. Tuy nhiên, bên
cạnh những tác động tích cực, mặt trái của HNQT đã tác động tiêu cực, ảnh hưởng
không nhỏ đến các mặt đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có QCN. Trước thực trạng
bảo đảm và thực thi QCN còn nhiều bất cập, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã
từng bước hoàn thiện chức năng quản lý của mình trong lĩnh vực bảo đảm QCN. Nhiều
chính sách, văn bản pháp luật về QCN đã được ban hành; hệ thống quản lý nhà nước
về bảo vệ và thực thi QCN từ Trung ương đến địa phương đã được từng bước đổi mới
và hoàn thiện; ý thức trách nhiệm về bảo vệ QCN của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị, xã hội và cộng đồng ngày càng được nâng cao, góp phần bảo đảm ngày
càng tốt hơn các QCN của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình bảo vệ và thực thi
QCN ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt trong điều kiện HNQT hiện
nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này, nhưng một trong những
nguyên nhân chính là thuộc nhà nước, do nhà nước chưa làm tròn vai trò của mình
trong việc bảo vệ QCN. Điều này được thể hiện ở: các chính sách, pháp luật về QCN
153
chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, tính khả thi chưa cao. Tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà
nước làm nhiệm vụ bảo vệ, thực thi QCN còn cồng kềnh, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ nên hoạt động kém hiệu quả; các thiết chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện
QCN còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ và thực
thi QCN còn hạn chế về phẩm chất và năng lực, chưa tương xứng với nhiệm vụ được
giao; năng lực cán bộ chủ chốt trong xây dựng chính sách, pháp luật bảo vệ QCN còn
hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Thêm nữa, Nhà nước chưa có hệ
thống chính sách pháp luật nhằm phát huy một cách hiệu quả sự tham gia của các tổ
chức chính trị, xã hội trong việc bảo vệ, tư vấn, giám sát việc thực hiện QCN và đặc
biệt là thiếu một cơ quan chuyên trách độc lập làm nhiệm vụ bảo vệ QCN. Chính vì
vậy, nâng cao hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong thời
kỳ HNQT là vấn đề cần thiết và cấp thiết hiện nay.
Để nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN thời kỳ
HNQT ở nước ta cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, với sự tham gia của toàn
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam. Song trong khuôn khổ của luận án,
chúng tôi mạnh dạn đưa ra bốn giải pháp chính, đó là: (1) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật, công cụ quan trọng phát huy quyền lực Nhà nước; (2) Hoàn thiện tổ chức bộ
máy Nhà nước và xây dựng chế độ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cán bộ
công chức trong thực thi công vụ, bảo đảm và thực hiện QCN; (3) Xây dựng và hoàn
thiện các thiết chế, cơ chế bảo đảm QCN; (4) Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực
QCN. Các giải pháp này tập trung vào những vấn đề cơ bản của Nhà nước trong việc
bảo đảm QCN. Đây cũng là mục đích và nhiệm vụ chính của Luận án đặt ra ngay từ
đầu và tìm hướng giải quyết.
Quyền con người là thành quả chung của nhân loại. Vấn đề bảo vệ QCN là vấn
đề có ý nghĩa toàn cầu. Việt Nam thực hiện đổi mới và HNQT một cách toàn trong điều
kiện kinh tế, xã hội chưa phát triển, truyền thống văn hóa còn mang nặng dấu ấn của
Nho giáo, nên không trách khỏi những thiếu sót, hạn chế trong việc bảo đảm QCN và
phát huy hiệu quả của nhà nước trong việc bảo đảm QCN.
Để nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN
trong điều kiện HNQT đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, do đó, ngoài các
giải pháp trên, còn phải bổ sung nhiều giải pháp khác khác và chỉ có thể thực hiện từng
bước trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, vấn đề này đòi hỏi phải được
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Thị Hòe (2003), "Xóa đói giảm nghèo - Một biện pháp thực hiện quyền con
người", Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (2), tr.48-50.
2. Trần Thị Hòe (2004), "Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời kỳ Đổi mới",
Tạp chí Tư tưởng văn hóa,(3), tr.32-36.
3. Trần Thị Hòe (2004), "Quyền được an sinh xã hội trong thời kỳ Đổi mới ở Việt Nam-
thành tựu và những vấn đề đặt ra", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (3), tr.53-57.
4. Trần Thị Hòe (2005), "Quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới -
Thành tựu, vấn đề và giải pháp", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (2), tr.53-57.
5. Trần Thị Hòe (2005), "Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam",
Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.54-58.
6. Trần Thị Hòe (2007), "Bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ trong bối cảnh toàn cầu hóa
ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (8), tr.47-52.
7. Trần Thị Hòe (2007), "Bảo đảm quyền tự do sản xuất và kinh doanh trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế ở nước ta hiện nay", đặc san Báo Đời sống và Pháp luật (Tháng 4),
tr.10-12 và 26-28.
8. Trần Thị Hòe (2008), "Quyền được chăm sóc sức khỏe của phụ nữ khi Việt Nam gia
nhận WTO", Tạp chí Khoa học chính trị, (2), tr.32-37.
9. Trần Thị Hòe (2009), "Nghiên cứu vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới góc độ
quyền con người ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (11), tr.44-49.
10. Trần Thị Hòe (2010), "Pháp luật quốc tế về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ
nữ, Tạp chí Khoa học chính trị, (2), tr.48-55.
11. Trần Thị Hòe (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về các quyền dân sự, chính trị và việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Thông tin Quyền con
người (6), tr. 25-28.
12. Trần Thị Hòe, Vũ Công Giao (2011), Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và
thực tiễn ở Việt Nam, sách tham khảo, Nxb Lao động xã hội.
13. Trần Thị Hòe (2011), "Bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI", Thông tin Quyền con người (2), tr.19-24.
155
14. Nguyễn Duy Sơn, Trần Thị Hòe (2013), "Tiếp cận dựa trên quyền trong hoạch định và
thực thi chính sách ở Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị (2), tr.62-67.
15. Trần Thị Hòe (2013), "Nghiên cứu quyền con người ở Việt Nam hiện nay - Kết quả và
vấn đề đặt ra", Thông tin Quyền con người (2), tr.22-27.
16. Trần Thị Hòe (2014), "Về đấu tranh nhằm bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện
nay", Thông tin quyền con người (3+4), tr.50-52.
17. Trần Thị Hòe (2014), "Bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do thông tin trong điều kiện hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (215), tr.8-13.
18. Trần Thị Hòe (2014), "Hội nhập quốc tế với việc bảo đảm quyền con người", Tạp chí
Lý luận chính trị (6), tr.81-83.
19. Trần Thị Hòe (2014), "Chính sách, pháp luật Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, (6), tr.36-40.
20. Trần Thị Hòe (2014), "Nhà nước - chủ thể trụ cột trong việc bảo đảm quyền con người",
Tạp chí Giáo dục Lý luận, (219), tr.22-27.
21. Trần Thị Hòe (2014), "Tác động của hội nhập quốc tế đến việc bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (10), tr.28-33.
22. Trần Thị Hòe (2015), "Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt
Nam - Thành tựu và vấn đề đặt ra", Tạp chí Khoa học chính trị, (1), tr.100-106.
23. Nguyễn Thanh Tuấn, Trần Thị Hòe (2015), "Nâng cao trách nhiệm của bảo đảm quyền
con người của Nhà nước hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr.36-40.
24. Trần Thị Hòe (2015), "Giám sát quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (227), tr.91-93.
25. Trần Thị Hòe (2015), "Đảm bảo quyền con người trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế", Tạp chí Giáo dục lý luận,
(236), tr. 49-51 và 76.
156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Đình An (2013), "Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế toàn
cầu hóa", Tạp chí Triết học, số 10 (269), tr.83-92.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2013), "Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập quốc
tế", Web http://www.mofahcm.gov.vn, [truy cập ngày 15/4/2013].
3. Ban Chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ (2012), Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của
Ban bí thư Trung ương Đảng về "Vấn đề QCN và quan điểm, chủ trương
của Đảng ta", Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
4. Báo điện tử Chính phủ (2014), "Hội nghị trực tuyến về công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo", Web http://baodientu.chinhphu.vn, [truy cập ngày
19/9/2014].
5. Báo Nhân dân (1993), "Tuyên bố cuối cùng của hội nghị nhân quyền Châu Á", số
ra ngày 17/4, tr.2.
6. Nguyễn Thị Báo (2009), "Một số suy nghĩa về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền
con người ở Việt Nam hiện nay", trong Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền
con người, (Võ Khánh Vinh chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.111-122.
7. Nguyễn Thị Báo (2015), "Tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Web
http://www.moj.vn, [truy cập ngày 03/4/2015].
8. Đặng Quốc Bảo, Trương Thúy Hằng (2003), "Nghiên cứu phát triển con người
(HD) chỉ số phát triển con người (HDI) ở nước ta và những vấn đề đặt ra
cho việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỳ (MDG)", Tạp chí Nghiên cứu con
người, số 1, tr.50-56.
9. Hoàng Chí Bảo, Tống Đức Thảo (2011), Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa
pháp luật một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính,
Hà Nội.
10. Nguyễn Đức Bình (chủ biên) (2007), Những đặc điểm của thế giới đương đại,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.
157
11. Trương Hòa Bình (2014), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý", Web http://toaan.gov.vn, [truy cập ngày
18/4/2014].
12. Trần Văn Bính (Chủ biên) (1999), Toàn cầu hóa và quyền công dân (nhìn từ khía
cạnh văn hóa), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
13. Phạm Bính (2006), Cơ cấu, phương thức thực hiện quyền lực trong hệ thống
hành chính Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
14. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2005), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con
người ở Việt Nam, Hà Nội.
15. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2014), "Báo cáo quốc gia về thực hiện quyền con
người ở Việt Nam theo cơ chế định kỳ phổ cập (UPR) chu kỳ II", Web
http://www.mofahcm.gov.vn.
16. Bộ Tài chính (2015), "Cải thiện môi trường kinh doanh, lấy doanh nghiệp là
trọng tâm", Web http://www.mof.gov.vn, [truy cập ngày 29/1/2015].
17. Lệ Chi (2012), Bảo đảm quyền con người thuộc bản chất của Nhà nước ta, tại
trang http://www.qdnd.vn, [truy cập ngày 13/3/2012].
18. Đặng Dũng Chí (Chủ nhiệm) (2008), Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế- vấn đề và giải pháp, Đề
tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Đặng Dũng Chí (2014), "Thực tiễn việc bảo đảm quyền con người Ở Việt Nam
và những vấn đề đặt ra hiện nay", Tạp chí Cộng sản (6/2014), tr.67-72.
20. Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (2014), Chủ nghĩa xã hội và quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Vũ Hoàng Công (Chủ biên) (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị
- Hành chính, Hà Nội.
22. Vũ Hoàng Công (2014), "Bảo đảm và thực hiện quyền con người trong điều kiện
hội nhập quốc tế", Web http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày
13/3/2014].
23. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
158
24. Nguyễn Văn Cương (2014), "Một số giải pháp tăng cường tính khả thi của văn
bản quy phạm pháp luật",Web http://moj.gov.vn, [truy cập ngày 18/2/2014].
25. Nguyễn Đăng Dung (2000), "Pháp luật không chỉ là công cụ của nhà nước", Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (11), tr.54-57.
26. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb Pháp
lý, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị
Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
34. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
35. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
36. Trần Ngọc Đường (2005), "Tiếp tục nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội",
Web http://www.nhandan.com.vn [truy cập ngày 30/12/2005]
37. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận văn thạc
sỹ Luật học, Hà Nội.
38. Gordon Morris Bakken (2012), "Cách làm luật trong một xã hội dân chủ", trong Về
pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, một số tiểu luận của các học giả nước
ngoài (Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội,
tr.259-272.
159
39. Trương Thị Hồng Hà (2011), "Vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm quyền
con người đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay" trong Cơ chế và bảo đảm quyền con người,
(Võ Khánh Vinh, chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Hoàng Hùng Hải (2009), "Toàn cầu hóa với việc bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam" trong Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã
hội, (Võ Khánh Vinh, chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.147- 162.
41. Hoàng Hùng Hải (2014), "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con
người, quyền công dân", trong Chủ nghĩa Hiến pháp, cơ chế bảo hiến và
quyền con người: Kinh nghiệm cộng hòa Liên ban Đức và Việt Nam (Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế, Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh), Hà Nội.
42. Thu Hằng (2014), "Bảo đảm thực hiện quyền con người trong Hiến pháp 2013",
Web http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 28/3/2014]
43. Hoàng Văn Hảo (Chủ nhiệm) (1995), Các điều kiện bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Chương trình khoa học
công nghệ cấp Nhà nước KX- 07, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp
Nhà nước, Mã số KX.07.16, Hà Nội.
44. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh, (Chủ biên) (1996), Một số vấn đề về quyền
kinh tế- xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.
45. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh, (Chủ biên) (1996), Một số vấn đề về quyền
dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
46. Hoàng Văn Hảo (Chủ nhiệm) (1997), Quan điểm C.Mác- Ph.Ăng ghen về quyền
con người, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
47. Hoàng Văn Hảo (Chủ nhiệm) (2001), Thành tựu về thực hiện quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
48. Bùi Sỹ Hiển (2005), "Dân chủ hóa và minh bạch hóa quá trình soạn thảo văn bản
pháp luật là sự bảo đảm nâng cao tính hiệu quả quản lý của Nhà nước", Tạp
chí nhà nước và pháp luật, số 2, tr.3-9.
160
49. Lang Nghị Hoài (2002), "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và
cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới", trong Quyền con người ở
Trung Quốc và Việt Nam, (truyền thống, lý luận và thực tiễn), (Trung tâm
Nghiên cứu quyền con người và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc
chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.229-241.
50. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), "Bảo đảm và đấu tranh trên
lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam hiện nay", trong Các chuyên đề bổ
trợ, Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, Tập 14, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, tr.383-424.
51. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), "Quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về quyền con người", trong Đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, Giáo trình cao
cấp lý luận chính trị, Tập 8, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.192-222.
52. Trần Thị Hòe, Vũ Công Giao (2011), Bảo vệ và thúc đẩy các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
53. Trần Thị Hòe (Chủ nhiệm) (2011), Những cản trở trong việc bảo đảm quyền của
nhóm người dễ bị tổn thương, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp cơ sở,
Viện Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.
54. Trần Thị Hòe (2014), "Tác động của hội nhập quốc tế đến việc bảo đảm các
quyền con người ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí nhân lực khoa học xã hội
(17), tr.28-33.
55. Hội đồng lý luận Trung ương (2011), Dân chủ, nhân quyền, giá trị toàn cầu và
đặc thù quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội
56. Đặng Vũ Huân (2015), "Cấu trúc quyền lực Nhà nước tổng kết 30 năm đổi mới
và phát triển", Web http://www.moj.vn, [truy cập ngày 14/5/2015].
57. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), "Quyền con người trong bối cảnh toàn cầu hóa"
trong Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính
trị (Võ Khánh Vinh, chủ biên) , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.38-57.
58. Hoàng Mai Hương (2009), Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người, Đề tài cấp cơ
sở, Viện Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.
59. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới hiện
đại, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
161
60. Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Hà Nội.
61. Phạm Văn Khánh (2006), Góp phần tìm hiểu quyền con người, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
62. Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1993), Lịch sử các học thuyết chính
trị trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
63. Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận pháp luật
về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
64. Khoa Luật trường Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Tư tưởng về quyền con người,
Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội.
65. Tường Duy Kiên (2003), "Nhà nước Cơ chế bảo đảm quyền con người", Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, (2), tr.28-32.
66. Tường Duy Kiên (2004), "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
việc bảo đảm quyền con người", Tạp chí Nghề luật, (8), tr.28-32.
67. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
68. Tường Duy Kiên (Chủ nhiệm) (2010), Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị
trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà
Nội (2011) Tổng quan đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội.
69. Kieren Pitzpatrick (2004), "Toàn cầu hóa, thương mại và nhân quyền" trong
Quyền con người - lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Ôt-xtrây-lia (Cao
Đức Thái, Gunther Doeker-Mach, chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
tr.215-242.
70. Lưu Kiệt (2002), "Việc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới và sự nghiệp
quyền con người của Trung Quốc" trong Quyền con người ở Trung Quốc và
Việt Nam, (truyền thống, lý luận và thực tiễn), (Trung tâm Nghiên cứu
quyền con người và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc), Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.469-480.
71. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 32, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
72. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
73. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
74. Nguyễn Đình Lộc (1996), "Sự ra đời và phát triển của hiến pháp trong lịch sử",
Giáo trình Luật lập hiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
162
75. Lê Quốc Lý (Chủ nhiệm) (2009), Điều tra cơ bản về những rào cản làm
chậm quá trình triển khai các quan điểm, đường lối của Đảng và chính
sách của Nhà nước vào thực tiến cuộc sống hiện nay, Tổng quan khoa
học đề tài cấp bộ năm 2008, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
76. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
77. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội
78. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
79. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
80. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
81. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
82. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (1997), Lịch sử các học thuyết chính trị- pháp
lý, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
83. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
86. Ngân hàng Thế giới (2000), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
87. Nguyễn Thiện Nhân (2014), "Tăng cường hoạt động giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo
tinh thần Hiến pháp năm 2013", Web http://www.tapchicongsan.org.vn,
[truy cập ngày 26/9/2014].
88. Hiền Nhi (2013), "Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, xây dựng vẫn tăng và
nóng", Web http://www.congan.com.vn, [truy cập ngày 17/7/2013].
89. An Nhi (2015), "Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,8% đến 2%", Web
http://kinhtevadubao.vn, [truy cập ngày 25/1/2015].
163
90. Lê Thị Hồng Nhung (2009), "Bảo đảm quyền con người bằng các hình thức pháp
lý hành chính", trong Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người (Võ
Khánh Vinh chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.179-206.
91. Võ Văn Ninh (2012), "Bảo đảm thực hiện quyền con người ở Việt Nam", Web
http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 09/6/2012].
92. Từ Sùng Ôn (1992), "Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề quyền con
người", Tạp chí Nghiên cứu triết học (Trung Quốc), (12).
93. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
94. Bùi Phạm Nguyên Phương (2011), "Quốc hội khóa XII: Những thành tựu chủ
yếu và kinh nghiệm rút ra", Web http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy
cập ngày 28/3/2011].
95. Quốc hội (1995), Hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
96. Quốc hội (2002), Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992) và Nghị
quyết về việc bổ sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Nxb
Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
97. Rousseau J.J. (2006), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
98. Hoàng Nam Sâm (2002), "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn
hóa Trung Quốc", trong Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam,
(truyền thống, lý luận và thực tiễn (Trung tâm Nghiên cứu quyền con người
và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc), Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, tr.40-48.
99. Lê Hồng Sơn, (2009), "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành cơ chế
bảo đảm quyền con người", trong Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con
người, (Võ Khánh Vinh chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.123-136.
100. Lê Sơn (2014), "Ban hành văn bản trái luật: không thể chấp nhận được", Web
http://baodientu.chinhphu.vn, [truy cập ngày 12/6/2014].
101. Nguyễn Duy Sơn (Chủ nhiệm) (2013), Tư tưởng nhân quyền trong một số học
thuyết chính trị, pháp lý cơ bản, đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.
102. Nguyễn Duy Sơn (Chủ nhiệm) (2014), Dự án điều tra cơ bản việc thực hiện
quyền công dân của nhóm yếu thế tại các tỉnh miền núi Phía Bắc, Đề tài
khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
103. Tạ Ngọc Tấn (2014), "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con
người trong thời kỳ Đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, số 12 (tr.3-10).
164
104. Cao Đức Thái (Chủ nhiệm) (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con
người, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
105. Cao Đức Thái (Chủ nhiệm) (2003), Sự phát triển quyền con người trên lĩnh vực
kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Đề tài cấp bộ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
106. Cao Đức Thái (2004), "Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và nhân quyền" trong
Quyền con người - lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Ôt-xtrây-lia, (Cao
Đức Thái, Gunther Doeker-Mach Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
tr.183-241.
107. Cao Đức Thái (Chủ nhiệm) (2005), Báo cáo kết quả nghiên cứu và kiến nghị về
quyền con người trong thời kỳ đổi mới, đề tài khoa học cấp Nhà nước 2002-
2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
108. Cao Đức Thái (2012), "Đảng và Nhà nước ta với quyền con người", Web
http://tapchiqptd.vn, [truy cập ngày 04/5/2012].
109. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương (2012), "Bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân trong pháp luật hành chính Việt Nam (Một số
vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên cứu)", Tạp chí Khoa
học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 28, tr.1-7.
110. Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước tư sản và pháp luật tư sản đương đại, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
111. Chu Hồng Thanh (1996), Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại,
Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
112. Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Tường Duy Kiên (2007), Pháp luật quốc gia
và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
113. Trần Thị Băng Thanh (2002), Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
114. Trần Thành (2008), "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, số 4 (230), tr.1-9.
115. Trần Thành (Chủ biên) (2013), Chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay, những
quan điểm lý luận cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
165
116. Đỗ Thị Thơm (Chủ nhiệm) (2010), Pháp luật quốc tế về quyền của nhóm dễ bị
tổn thương, Đề tài cấp cơ sở, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
117. Thomas Meyer và Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
118. Nguyễn Tất Thu, "Đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền nền kinh tế thị trường", Web
http://caicachhanhchinh.gov.vn.
119. Nguyễn Đức Thùy (Chủ nhiệm) (2007), Những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin về quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay, Đề
tài cấp bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
120. Nguyễn Đức Thùy (Chủ nhiệm) (2011), Tổ chức và hoạt động của cơ quan
nhân quyền quốc gia một số nước ASEAN và Trung Quốc- Kinh nghiệm đối
với Việt Nam, Tổng quan đề tài khoa học cấp bộ năm 2010- 2011, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
121. Nguyễn Trung Tín (2009), "Quyền con người và Nhà nước pháp quyền", trong
Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội (Võ
Khánh Vinh, chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.107-128.
122. Tổng cục Thống kê (2014), "Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2000-2013", Web
http://www.gso.gov.vn, [truy cập ngày 27/7/2015].
123. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người (1998), C.Mác, Ph.Ăngghen Về quyền
con người, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
124. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và Viện thông tin khoa học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Các Văn kiện quốc tế về quyền con
người, Hà Nội.
125. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và Viện Raoul Wallenberg về quyền
con người và luật nhân đạo, Đại học Lund Thụy Điển (2001), Hiến pháp,
pháp luật về quyền con người- Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, Hà Nội.
126. Nguyễn Thanh Tuấn, Trần Thị Hòe (2015), "Nâng cao trách nhiệm bảo đảm
quyền con người của Nhà nước hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số
1/2015, tr.36-40.
127. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy Đảng và Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
166
128. UNDP, (2010), Một số nghiên cứu về công tác theo dõi thi hành pháp luật tại
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
129. UNIFEM tại Việt Nam (2006), CEDAW: Thiết lập lại quyền cho phụ nữ,
Hà Nội.
130. Hồng Vân (2014), "Quốc hội Việt Nam hướng đến chuẩn mực nghị viện toàn
cầu", Web http://vovworld.vn, [truy cập ngày 24/10/2014].
131. Viện Chính sách công và pháp luật và Viện Nhà nước và pháp luật (2014), Một
số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới
và Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
132. Viện Khoa học pháp lý (2003), Từ điển Luật học, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
133. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Xã hội và Pháp luật, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
134. Viện Nghiên cứu quyền con người (2005), Luật Quốc tế về quyền con người,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
135. Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), 25 năm thực hiện Công ước về xóa
bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thực
tiễn tại Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
136. Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), Bình luận và khuyến nghị chung
của Ủy ban công ước thuộc Liên Hợp Quốc về quyền con người, Hà Nội.
137. Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), Dân chủ, nhân quyền trong thế giới
hòa hợp, Hà Nội.
138. Viện Nghiên cứu quyền con người (2010), Giáo trình lý luận về quyền con
người, Nxb Lý luận Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
139. Viện Nghiên cứu quyền con người (2014), Quyền con người, lý luận và thực
tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
140. Viện Ngôn ngữ học (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
141. Viện Nhà nước và pháp luật, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn (1997),
Cơ sở pháp lý của quyền con người, Hà Nội.
142. Viện Thông tin khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2001), Thế giới
đương đại, Hà Nội.
143. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
167
144. Nguyễn Văn Vĩnh (2006), Triết học chính trị về quyền con người, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
145. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
146. Wolfgang Bennedek (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
147. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
148. Brysk Alison (2002), Golbaization and Human Rights University of
California Press.
149. Donnelly Jack (1989), Universal Human Rights in Theory and Practice, Ithaca
and London: Cornell University Press.
150. United Nations (1994), Human Rights - Question and answers, Geneva.
151. United Nations, UNHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-
based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva,
2006, tr.8.
168
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC MỘT SỐ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ QUAN TRỌNG
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN [63]
Stt Tên điều ước Tham gia
1 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử về
chủng tộc, 1965
9/6/1981
2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 24/9/1982
3 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966 24/9/1982
4 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử chống
lại phụ nữ, 1979
18/12/1982
5 Công ước về quyền trẻ em, 1989 20/2/1990
5 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, 1948 09/6/1981
7 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác Apacthai, 1968 06/5/1983
8 Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng với các tội ác chiến
tranh và tội ác chống nhân loại, 1968
04/6/1983
9 Công ước về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động
nữ cho những công việc có giá trị ngang nhau (Công ước số 100
của ILO), 1951
07/10/1997
10 Công ước chống phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp
(Công ước số 111 của ILO), 1958
07/10/1997
11 Công ước về cấm và hành động ngay để xóa bỏ các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất, 1999
19/12/2000
12 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em
về việc lôi cuốn trẻ em tham gia xung đột vũ trang, 2000
20/12/2001
13 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em
về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu
dâm trẻ em, 2000
20/12/2001
14 Công ước về lao động cưỡng bức (Công ước số 183 của ILO),
1973
24/6/2003
15 Công ước về lao động cưỡng bức (Công ước số 29 của ILO), 1930 05/3/2007
16 Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật, 2006 22/10/2007
17 Công ước Liên Hợp Quốc chống tra tấn và các hình thức đổi xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người,
1984
28/11/2014
169
PHỤ LỤC 2
BÁO CÁO QUỐC GIA VỀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI
Ở VIỆT NAM THEO CƠ CHẾ KIỂM ĐỊNH ĐỊNH KỲ PHỔ CẬP (UPR)
CHU KỲ II [15]
(Kiểm điểm định kỳ phổ quát (Universal Periodic Review - UPR) là một quy
trình đánh giá định kỳ (4 năm một lần) về tình hình nhân quyền đối với tất cả các
thành viên của Liên hợp quốc (hiện nay có 193 nước). Báo cáo này được bảo vệ
thành công tại Hội đồng nhân quyền ở Geneve (Thụy Sĩ), ngày 05/2/2014).
I. Phương pháp soạn thảo
A. Quy trình soạn thảo Báo cáo.
1. Báo cáo này được soạn thảo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 60/251 ngày
15/3/2006 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết số 5/1 ngày 18/06/2007 và
Quyết định số 17/119 ngày 19/6/2011 của Hội đồng Nhân quyền nhằm kiểm điểm
tình hình thực hiện các quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Báo cáo này tập trung kiểm điểm việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà
Việt Nam đã chấp thuận tại lần kiểm điểm trước và cập nhật những phát triển mới
trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo
cũng chỉ rõ những thách thức còn tồn tại và các hướng ưu tiên của Chính phủ Việt
Nam trong thời gian tới nhằm bảo đảm sự thụ hưởng ngày càng tốt hơn các quyền
và tự do cơ bản của mỗi người dân.
3. Việc soạn thảo Báo cáo được thực hiện bởi Nhóm Công tác liên ngành
gồm các cơ quan thuộc Chính phủ và Quốc hội liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ,
thực hiện và thúc đẩy các quyền con người: Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao,
Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ
Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Uỷ ban Dân tộc, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối
cao, Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Bộ Ngoại giao là cơ quan
đầu mối soạn thảo Báo cáo.
B. Quy trình tham vấn đối với Báo cáo.
4. Việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận trong lần
kiểm điểm vòng I năm 2009 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho từng Bộ,
ngành, cơ quan liên quan. Nhiều hội thảo, hội nghị ở trung ương và địa phương đã
170
được tổ chức nhằm giới thiệu nội dung, các biện pháp thực hiện khuyến nghị và kết
quả đạt được trên thực tế. Việc thực hiện các khuyến nghị được báo cáo định kỳ
hàng năm làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung Báo cáo quốc gia.
5. Báo cáo được xây dựng một cách toàn diện nhờ sự đóng góp ý kiến của
các cơ quan Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân. Dự thảo báo cáo đã
được đăng công khai trên website của Bộ Ngoại giao. Hình thức tham vấn được lựa
chọn là lấy ý kiến đóng góp qua hộp thư điện tử và qua một số cuộc họp tham vấn
về nhiều chủ đề cụ thể. Quá trình tham vấn là cơ hội đối thoại cởi mở, thẳng thắn
giữa Nhóm soạn thảo và tất cả các bên liên quan. Các ý kiến đóng góp được Nhóm
soạn thảo tổng hợp, bổ sung vào Báo cáo. Một hội thảo quốc gia được tổ chức sau
đó, đã trở thành diễn đàn để các bên quan tâm cùng trao đổi, thảo luận về nội dung
Báo cáo, giúp khẳng định rõ các bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ các thách thức cần giải quyết và các hướng ưu
tiên nhằm đem lại sự thụ hưởng tốt nhất các quyền con người của người dân.
II. Tổng quan tình hình bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam kể từ
lần kiểm điểm trước
6. Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các
quyền và tự do cơ bản của con người là nguyên tắc cơ bản của mọi chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời là sự hiện thực hóa các cam kết đối với
các khuôn khổ pháp lý và thể chế quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó có
các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận từ lần kiểm điểm trước. Thực
tiễn thời gian qua đã cho thấy Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
A. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người
7. Xây dựng Nhà nước Pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
và đảm bảo các quyền con người được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992
(được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con
người, quyền công dân được triển khai đồng bộ và xuyên suốt thông qua các
chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội và các chính sách, cơ chế
nhằm triển khai các Luật và văn bản luật này trên thực tế.
8. Ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong việc kiện toàn hệ thống pháp luật
hiện nay là đẩy mạnh quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Mục tiêu sửa
171
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là đảm bảo sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và
chính trị phù hợp với tình hình và những phát triển mới về dân chủ, tiếp tục ưu tiên
phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền
con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Dự
thảo Hiến pháp sửa đổi dành toàn bộ chương II quy định về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ công dân. Ngoài ra, nội dung quyền con người cũng được quy định tại
nhiều điều khác của dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
9. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi được đăng công khai để lấy ý kiến đóng góp
của của các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân nhằm đảm bảo quyền làm chủ và
phản ánh đầy đủ hơn tâm tư, nguyện vọng, chính kiến của mọi tầng lớp nhân dân.
Việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân được bắt đầu từ ngày 02/01/2013 và
tính đến tháng 8/2013, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý cho Dự thảo Hiến pháp
sửa đổi, trong đó tập trung nhiều nhất vào nội dung Chương II về các quyền con
người và quyền công dân. Các ý kiến đóng góp được tổng hợp đầy đủ, chính xác và
được Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nghiên cứu tiếp thu, giải trình nhằm hoàn
thiện Dự thảo trình Quốc hội xem xét trong năm 2013. Dự kiến Quốc hội sẽ thông
qua Dự thảo Hiến pháp sửa đổi vào kỳ họp thứ 6 khóa XIII (tháng 10/2013).
10. Bộ Luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 trong đó
có việc xóa bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh, qua đó giảm số tội danh có áp
dụng án tử hình từ 29 xuống còn 22 tội; không áp dụng hình phạt tù chung thân
hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; bổ sung một số tội danh liên
quan đến khủng bố… Một số nội dung khác của Bộ Luật Hình sự tiếp tục được
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng cường tính nhân đạo, và hài hòa với
các quy định của các điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm mà Việt Nam là
thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm. Các
lĩnh vực cụ thể được xem xét sửa đổi bao gồm: giảm các tội có áp dụng hình phạt tử
hình, sửa đổi các quy định về hình phạt tử hình cho chặt chẽ hơn; hạn chế khả năng
áp dụng hình phạt tù và mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không giam giữ;
điều chỉnh các chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,
miễn giảm hình phạt, xóa án tích, loại bỏ một số hành vi phạm tội không còn tính
nguy hiểm cho xã hội; hoàn thiện chính sách hình sự liên quan đến người chưa
thành niên phạm tội theo hướng đảm bảo lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên,
đồng thời có cơ chế bảo vệ tốt hơn người chưa thành niên bị tội phạm xâm hại; bổ
172
sung chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện… Hiện tại, Việt Nam cũng đang
xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 theo hướng đảm bảo
tốt hơn các quyền của người dân, đặc biệt là người chưa thành niên, trong các hoạt
động tố tụng hình sự.
11. Tính từ năm 2009 đến nay, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi nhiều đạo
luật quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc tôn trọng và bảo
đảm thực thi quyền con người. Các đạo luật được ban hành mới liên quan đến
quyền con người như: Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước (2009), Luật
khám chữa bệnh (2009), Luật lý lịch tư pháp (2009), Luật Người cao tuổi (2010),
Luật Người khuyết tật (2010), Luật nuôi con nuôi (2010), Luật Thi hành án hình sự
(2010), Luật Tố tụng hành chính (2010), Luật Khiếu nại (2011), Luật Tố cáo (2011),
Luật Phòng, chống mua bán người (2011), Luật Công đoàn (2012), Luật Xử lý các
vi phạm hành chính (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (2012)… Một số đạo
luật quan trọng khác cũng được Quốc hội sửa đổi, bổ sung như: Luật Bầu cử Quốc
hội sửa đổi và Luật bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân sửa đổi (2010), Bộ Luật
Lao động sửa đổi (2012), Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung (2012), Luật Xuất bản sửa
đổi (2012). Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi
hành luật, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
12. Quốc hội Việt Nam cũng ban hành các văn bản luật nhằm tạo cơ sở pháp
lý để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao như Luật tổ chức Quốc hội (2001),
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội (2003); thông qua nhiều Nghị quyết với nội
dung tăng cường chức năng giám sát (như Quy chế hoạt động của Quốc hội và các
Ủy ban…). Vai trò giám sát hành pháp của Quốc hội đã ngày càng hiệu quả và được
dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Năm 2013, lần đầu tiên Quốc hội tiến
hành lấy phiếu tín nhiệm đối với các vị trí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính
phủ, thể hiện tiếng nói quyết định của Quốc hội đối với các cơ quan Nhà nước.
13. Vai trò giám sát tư pháp của Quốc hội cũng ngày càng hiệu quả hơn.
Quốc hội chịu trách nhiệm thẩm tra, xem xét các báo cáo công tác của Tòa án, Viện
kiểm sát, báo cáo của Chính phủ về tình hình và công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm và vi phạm pháp luật, về công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham
nhũng, chất vấn những người đứng đầu các cơ quan tư pháp, giám sát việc giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực tư pháp. Bên cạnh đó,
Quốc hội cũng thành lập nhiều đoàn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan tư
173
pháp ở Trung ương và địa phương trong cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng việc
trực tiếp kiểm tra công tác giải quyết án của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao và các cơ quan tư pháp ở địa phương. Ngày
23/11/2012, Quốc hội khóa XIII thông qua Nghị quyết số 37/2012/QH13 yêu cầu
các cơ quan tư pháp hàng năm bao gồm Viện Kiểm sát Nhân dân, Tòa án Nhân dân
và các cơ quan Thi hành án phải kiểm điểm và báo cáo kết quả thực hiện công tác
trước Quốc hội.
B. Tăng cường giáo dục về quyền con người
14. Việt Nam đã tăng cường và mở rộng chương trình giáo dục, đào tạo về
quyền con người cho các cán bộ của các cơ quan nhà nước. Nhiều hội thảo, hội nghị
liên quan đến quyền con người đã được tổ chức với sự tham gia của đông đảo đại
diện nhiều bộ, ngành, các trung tâm nghiên cứu và cơ sở đào tạo chuyên sâu về
quyền con người như Viện Nghiên cứu quyền con người (thuộc Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…; mở
nhiều lớp giảng dạy thường xuyên về quyền con người. Quá trình mở rộng tuyên
truyền và giáo dục về quyền con người đã trang bị kiến thức cơ bản cho cán bộ
chính phủ cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam cũng đẩy mạnh đào tạo kiến thức
nhân quyền cho các cán bộ công chức, viên chức địa phương nhằm tăng cường nhận
thức, năng lực và hiệu quả công tác nhân quyền ở cơ sở.
15. Các nội dung giáo dục về quyền con người đã và đang từng bước được
đưa vào chương trình dạy học ở các trường phổ thông, lồng ghép vào một số môn
học chuyên sâu trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành luật. Thực hiện
khuyến nghị UPR, Việt Nam đã đưa nội dung giáo dục về nhân quyền vào chương
trình giảng dạy tại các trường đào tạo cảnh sát, đồng thời mở nhiều lớp đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức về nhân quyền để trang bị và nâng cao nhận thức, năng lực cho
toàn bộ lực lượng cảnh sát, đặc biệt là các đơn vị có liên quan đến việc bảo đảm
quyền con người.
C. Thực thi các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người
a) Thực hiện nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước quốc tế về nhân quyền
mà Việt Nam là thành viên
16. Trong năm 2012, Việt Nam đã nộp và trình bày Báo cáo quốc gia thực
hiện Công ước xóa bỏ mọi hình thức Phân biệt chủng tộc (ICERD) giai đoạn 2000-
2009; Báo cáo quốc gia thực hiện Công ước về Quyền của Trẻ em (CRC) giai đoạn
174
2008-2011. Năm 2011, Việt Nam đã hoàn thành và nộp Báo cáo quốc gia thực hiện
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) giai đoạn
1993-2010. Năm 2012, Việt Nam đã hoàn thành và gửi Báo cáo quốc gia về tình
hình thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW). Hiện nay, Việt Nam đang ích cực triển khai xây dựng Báo cáo quốc
gia thực thi Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Về cơ bản,
Việt Nam hoàn thành tốt nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước mà Việt Nam là
thành viên.
17. Trong lộ trình thực thi các công ước quốc tế về nhân quyền, Việt Nam đã
tiến hành rà soát các quy định của luật pháp quốc gia về các quyền dân sự, chính trị.
Kết quả rà soát được tiến hành tại khoảng 80% số các cơ quan trung ương và địa
phương cho thấy các quyền dân sự, chính trị được nêu trong các công ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên đã được thể hiện xuyên suốt, thống nhất trong Hiến pháp
và được thể hiện tại nhiều văn bản luật quan trọng. Nguyên tắc bình đẳng, không
phân biệt đối xử là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật Việt Nam, tạo tiền đề
cho việc đảm bảo và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể.
Thời gian tới, Việt Nam tiếp tục rà soát các quy định của pháp luật quốc gia về các
quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
b) Xem xét tham gia hoặc phê chuẩn một số công ước quốc tế về nhân quyền
18. Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) năm
2008, tiếp đó đã thông qua Luật Người khuyết tật năm 2010 và hiện đang hoàn
thiện các thủ tục để sớm phê chuẩn CRPD. Năm 2012, Việt Nam đã gia nhập Công
ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về ngăn chặn,
trấn áp và trừng phạt tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; gia nhập
Công ước số 122 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Chính sách việc làm. Việt
Nam đã phê chuẩn Công ước số 186 về Lao động Hàng hải ngày 8/5/2013 và Công
ước này sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 8/5/2014. Việt Nam cũng đang
hoàn tất các thủ tục pháp lý cuối cùng cho việc gia nhập Công ước chống tra tấn.
19. Bên cạnh đó, Việt Nam đang xem xét khả năng gia nhập Công ước về
người mất tích cưỡng bức, Công ước về quyền của người lao động di cư và thành
viên gia đình họ, Công ước về quy chế của người tị nạn, Công ước về người không
có quốc tịch. Mặc dù chưa tham gia các công ước trên, Chính phủ Việt Nam đã và
đang rà soát hệ thống pháp luật quốc gia và điều kiện đặc thù của đất nước; triển
175
khai nhiều chính sách cụ thể và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo quyền của
các nhóm người liên quan như hợp tác với UNHCR và các nước liên quan giải
quyết các vấn đề về người tị nạn; tăng cường ký kết và tổ chức giám sát việc thực
hiện các thỏa thuận/bản ghi nhớ (MOU) với các nước tiếp nhận lao động Việt Nam;
tích cực tham gia Diễn đàn ASEAN về Lao động Di cư và Tiến trình Colombo liên
quan tới hợp tác trong lĩnh vực di cư lao động, đào tạo nghề và xóa đói, giảm
nghèo; phổ biến thông tin về thị trường lao động để bảo vệ người lao động di cư…
c) Đối thoại, hợp tác với các cơ chế của Liên hợp quốc về nhân quyền
20. Thực hiện các khuyến nghị UPR được chấp nhận, từ tháng 7/2010 –
11/2011, Việt Nam đã đón bốn Thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền (về các
vấn đề người thiểu số, đói nghèo cùng cực và nhân quyền, tác động của nợ nước
ngoài đối với nhân quyền và quyền được chăm sóc y tế). Qua các chuyến thăm này,
các Thủ tục đặc biệt đã tiếp xúc với đại diện các cơ quan chính phủ, tổ chức phi
chính phủ và cá nhân liên quan, tìm hiểu tình hình thực tế tại các địa phương. Các
chuyến thăm đều đạt kết quả như mong muốn của cả hai bên; các cuộc trao đổi, làm
việc diễn ra trên tinh thần cởi mởi, thẳng thắn, xây dựng với nhiều thông tin, qua đó
giúp các Thủ tục đặc biệt hiểu rõ hơn chính sách, pháp luật và thực tiễn đảm bảo
quyền con người trên những lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam. Kết thúc chuyến thăm, các
Thủ tục đặc biệt đều đánh giá cao tinh thần hợp tác, quyết tâm chính trị, các chính
sách, biện pháp Việt Nam đã thực hiện, đồng thời chỉ ra các thách thức Việt Nam
cần giải quyết nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con người.
21. Trong thời gian soạn thảo báo cáo này, Việt Nam đón Báo cáo viên đặc
biệt về quyền văn hóa vào tháng 11/2013, đã gửi lời mời chính thức tới Báo cáo
viên đặc biệt về quyền giáo dục và Báo cáo viên đặc biệt về quyền lương thực. Việt
Nam cũng sẽ xem xét đón Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Báo
cáo viên đặc biệt về quyền của người lao động di cư trong năm 2014; Báo cáo viên
đặc biệt về chống tra tấn sau khi gia nhập CAT; Báo cáo viên đặc biệt về phòng
chống buôn bán và mại dâm trẻ em trong thời gian sớm nhất.
d) Hợp tác quốc tế về nhân quyền
22. Hợp tác quốc tế về nhân quyền là một trong những ưu tiên của Chính phủ
Việt Nam thời gian qua. Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên
ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong việc thành lập Ủy ban liên
Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy
176
các quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) và việc Tuyên bố Nhân quyền ASEAN đã
được lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN thông qua tháng 11/2012. Đây là văn kiện
đầu tiên phác thảo khuôn khổ tăng cường hợp tác và bảo vệ nhân quyền ở khu vực,
là sự cam kết của các nước ASEAN trong việc tôn trọng và đảm bảo các quyền và
tự do cơ bản, bao gồm cả quyền phát triển và quyền hưởng hòa bình, của người dân
trong khu vực.
23. Việt Nam đã tích cực tham gia Sáng kiến cấp Bộ trưởng các nước tiểu
vùng sông Mê kông về phòng, chống nạn buôn bán người (COMMIT), phối hợp
chặt chẽ với các tổ chức của Liên hợp quốc như UNICEF, UNODC, IOM, UNIAP
và ký nhiều thỏa thuận, hiệp định hợp tác song phương với các nước Lào,
Campuchia, Trung Quốc, Malaysia… nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động phòng,
chống buôn bán người trong khu vực. Hiện nay, Việt Nam cũng đang hợp tác chặt
chẽ với Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC) nhằm
tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm du lịch tình dục trẻ em trong
khu vực.
24. Với chủ trương sẵn sàng đối thoại và hợp tác về quyền con người, coi đó
là cơ hội để trao đổi thẳng thắn, xây dựng về những vấn đề nhân quyền cùng quan
tâm, Việt Nam đã thiết lập các cơ chế đối thoại song phương thường kỳ về nhân
quyền với một số nước và đối tác như Mỹ, EU, Úc, Na Uy, Thuỵ Sỹ. Các cơ chế
đối thoại này đã phát huy kết quả tích cực, không chỉ góp phần tăng cường hiểu biết
và thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác, mà còn là kênh trao đổi các kinh
nghiệm tốt nhất của mỗi bên và giải quyết được nhiều vấn đề nhân quyền hai bên
cùng quan tâm. Việt Nam cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ Chương trình phát triển
của Liên hợp quốc (UNDP) và nhiều nước đối tác thông qua việc triển khai Dự án
tăng cường năng lực thực thi các công ước quốc tế về nhân quyền tại Việt Nam (giai
đoạn 2008-2011 và 2012-2016) và nhiều chương trình hợp tác kỹ thuật khác trong
lĩnh vực bảo vệ và thúc đầy quyền con người.
III. Việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế
A. Các quyền dân sự chính trị
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin
25. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã
được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật; được đảm bảo ngày càng tốt hơn nhờ
sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các
177
phương tiện thông tin đại chúng. Các cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện về chủ
trương, chính sách tại Quốc hội, các cuộc tọa đàm, tranh luận, các thông tin đa
chiều trên phương tiện thông tin đại chúng về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước, với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân
là thực tiễn diễn ra hàng ngày trong đời sống của người dân Việt Nam. Việc Dự thảo
Hiến pháp sửa đổi được đăng công khai và nhận được hơn 26 triệu ý kiến đóng góp
là một minh chứng rõ nét về tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến của người dân đối
với những vấn đề quan trọng của đất nước. Dự án Luật tiếp cận thông tin cũng đã
được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII nhằm
cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp về quyền được thông tin của công dân
26. Tính đến tháng 3/2013, cả nước có 812 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn
phẩm (so với 676 cơ quan và gần 700 ấn phẩm của năm 2009); gần 17.000 nhà báo
được cấp thẻ; 01 hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101 kênh truyền
hình và 78 kênh phát thanh, 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội và 1.174
trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động (năm 2011 chỉ có 46 báo điện tử và
287 trang thông tin điện tử). Đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng 99,5% diện tích lãnh
thổ và phủ sóng qua vệ tinh tới nhiều nước trên thế giới. Trên 90% hộ gia đình bắt
được sóng Đài Truyền hình Việt Nam, so với 85% năm 2008.
27. Người dân Việt Nam được tiếp cận với 75 kênh truyền hình nước ngoài,
trong đó có những kênh được phát rộng rãi trên thế giới như CNN, BBC,
Bloomberg, TV5, DW, NHK, KBS, Australia Network... Tất cả các hãng thông tấn
và báo chí lớn của thế giới đều đến với người dân Việt Nam thông qua mạng
internet như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN, Kyodo, Economist, Financial
Times... Có 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam,
nhiều báo và tạp chí nước ngoài in bằng nhiều thứ tiếng được phát hành rộng rãi tại
Việt Nam.
28. Báo chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân,
là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân
dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của Nhà
nước, đặc biệt về quyền con người. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện
vọng, bày tỏ chính kiến, đóng góp ý kiến về tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế xã
hội, văn hóa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều cơ quan báo chí
đã chủ động, tích cực trong việc phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, vi phạm
178
quyền con người, quyền công dân và các biểu hiện tiêu cực khác. Hiện Việt Nam
đang xây dựng Luật báo chí sửa đổi, dự kiến dự thảo Luật này sẽ được trình Quốc
hội với nhiều điểm mới nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình và đồng bộ với các luật
khác như vấn đề quản lý báo chí điện tử, chế tài đối với các tổ chức từ chối nghĩa vụ
cung cấp thông tin cho báo chí…
29. Hiện Việt Nam có 64 nhà xuất bản (năm 2009 chỉ có 55 nhà xuất bản),
với tốc độ tăng bình quân số lượng xuất bản phẩm hàng năm là 5-10%. Năm 2012,
ngành xuất bản tại Việt Nam đã xuất bản 28.009 xuất bản phẩm với khoảng
301.717.000 bản với nội dung phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu đọc của người
dân. Luật Xuất bản sửa đổi đã được Quốc hội thông qua tháng 11/2012, thể hiện sự
nhất quán tôn trọng quyền phổ biến tác phẩm của cá nhân, phù hợp với Hiến pháp.
30. Nhà nước Việt Nam khuyến khích sử dụng internet để phục vụ phát triển
kinh tế - văn hoá - xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc
sống và các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Theo khảo sát gần đây của
WeAreSocial, một tổ chức nghiên cứu độc lập về truyền thông xã hội toàn cầu, tính
đến tháng 12/2012, số người dùng Internet ở Việt Nam là 30,8 triệu người (so với
26 triệu người năm 2010 và 20 triệu người năm 2008), chiếm 34% dân số (cao hơn
mức trung bình của thế giới là 33%). Sự ra đời của dịch vụ truy cập Internet qua
mạng 3G (tháng 10/2009) đánh dấu thời kỳ phát triển bùng nổ của Internet băng
thông rộng tại Việt Nam với số lượng người sử dụng đạt 16 triệu người (chiếm 18%
dân số) chỉ trong 3 năm (tính đến tháng 7/2012). Tính chung cả nước có gần 3 triệu
người có blog cá nhân. Theo xếp hạng năm 2012 của Tổ chức Liên minh viễn thông
quốc tế (ITU), Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 tại Châu
Á về số lượng người sử dụng Internet.
Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng
31. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, với sự hiện diện của các tôn giáo
được truyền vào từ bên ngoài như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo… và các
tôn giáo được hình thành trong nước như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa… Nhiều tôn giáo có bề dày lịch sử và cũng có những tôn giáo mới hình
thành. 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, trong đó trên 24 triệu người là tín đồ của
các tôn giáo khác nhau (so với khoảng 20 triệu người năm 2009). Tính trên cả nước
có khoảng 25 ngàn cơ sở thờ tự và 45 trường đào tạo chức sắc tôn giáo.
179
32. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và tạo điều
kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; coi
trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình đẳng,
không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ
chức tôn giáo bằng pháp luật. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn hoạt động tôn giáo tại
Việt Nam, tháng 11/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy
định chi tiết về biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều điểm
mới phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sinh hoạt tôn giáo của
người dân. Ngoài ra, Quốc hội đã quyết định đưa nội dung sửa đổi Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XIII.
33. Các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam diễn ra sôi động. Hàng năm có
khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ
chức. Đặc biệt, năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo đã thành công tốt đẹp và
Lễ bế mạc có sự tham dự của 50 Giám mục, trong đó có 6 Giám mục là người nước
ngoài, 1.000 linh mục, 2.000 nam nữ tu sĩ, và gần 500.000 lượt giáo dân. Năm 2011
cũng là năm kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành vào Việt Nam với nhiều hoạt động kỉ
niệm lớn được tổ chức tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh với nhiều
chức sắc, tín đồ Tin lành trên cả nước và đại biểu Tin lành người nước ngoài (Mỹ,
Hàn Quốc…). Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản
Liên hợp quốc năm 2014 tại Việt Nam, một sự kiện tôn giáo quốc tế lớn dự kiến thu
hút sự tham dự của hàng nghìn chức sắc, tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới. Nhiều
cơ sở thờ tự được cải tạo hoặc xây mới.
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành được duy trì và mở
rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam được cử đi đào tạo tại nước ngoài
(Mỹ, Pháp, Ý, Ấn Độ...). Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam được khuyến khích và
tạo điều kiện tham gia các hoạt động y tế, văn hoá, xã hội, nhân đạo… đóng góp
cho quá trình xây dựng đất nước, đồng thời có quan hệ quốc tế rộng rãi; đại diện
chức sắc các tôn giáo tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đối thoại tôn giáo, tín
ngưỡng, giao lưu học hỏi, trao đổi giáo lý, giáo luật tại các diễn đàn lớn như ASEM,
ASEAN… Năm 2013, Việt Nam và Vatican đã hoàn thành cuộc họp vòng 4 nhóm
công tác hỗn hợp về thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Tòa thánh Vatican đã cử Đặc
phái viên không thường trú tại Việt Nam từ năm 2011 và đến nay Đặc phái viên
180
không thường trú của Vatican đã thực hiện 25 chuyến thăm Việt Nam, làm việc với
tất cả 26 Giáo phận Công giáo và trên 60 tỉnh, thành phố ở Việt Nam.
34. Đối với các cộng đồng các dân tộc thiểu số, quyền tự do và bình đẳng về
tôn giáo được Nhà nước bảo vệ và hỗ trợ phát triển. Học viện Phật giáo Nam Tông
Khmer đã được thành lập và Kinh sách Phật giáo bằng tiếng Khmer được nhập khẩu
để phục vụ đào tạo chức sắc và sinh hoạt tôn giáo của người dân tộc Khmer. Người
dân tộc Chăm theo Hồi giáo và đạo Bàlamôn được tạo điều kiện thành lập các Ban
đại diện cộng đồng để hỗ trợ việc sinh hoạt tôn giáo, gìn giữ và phát triển tôn giáo
truyền thống. Kinh thánh song ngữ tiếng Việt – Banar/Êđê/Jrai cũng được phát hành
để đáp ứng nhu cầu của người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành.
Quyền tự do hội họp, lập hội
35. Quyền tự do lập hội, hội họp được quy định trong Hiến pháp (điều 69) và
được pháp luật bảo vệ bằng nhiều văn bản luật và dưới luật. Ngoài ra, Chính phủ
cũng đã ban hành Nghị định 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức,
hoạt động và quản lý hội nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công dân, tổ chức ở Việt Nam
thành lập hội và tạo cơ chế, chính sách cho hoạt động của các hội, đảm bảo quyền
lập hội của công dân. Hiện Việt Nam đang xây dựng các luật về lập hội, luật biểu
tình… nhằm bảo đảm tốt hơn quyền tự do của người dân.
36. Ở Việt Nam hiện có khoảng 460 hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp có
phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 380 hội năm 2009); 20 tổ
chức công đoàn ngành; trên 36.000 tổ chức hội, hiệp hội, câu lạc bộ ở cấp địa
phương, hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhìn chung, các hội đã
có nhiều đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước; thể hiện vai trò là
cầu nối giữa các hội viên với cơ quan chính quyền, qua đó phản ánh nguyện vọng
của hội viên, hỗ trợ hội viên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại, cung cấp thông tin tư
vấn về sản xuất và thị trường…
Hoạt động của các hội tập trung nhiều trên các mặt xã hội, nhân đạo, từ
thiện, đặc biệt là cung ứng dịch vụ trong một số lĩnh vực như giáo dục, đào tạo,
chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao, bảo vệ môi trường… Các hội cũng có vai trò
ngày càng tích cực trong việc tư vấn, phản biện đối với các chủ trương, chính sách
và pháp luật của Nhà nước, chương trình và dự án phát triển kinh tế, xã hội của
Chính phủ và của địa phương.
181
Đảm bảo quyền của người đang chấp hành án phạt tù, người bị tạm giam,
tạm giữ đề điều tra
37. Việt Nam luôn tôn trọng các quyền con người cơ bản của những người bị
tạm giữ, tạm giam. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của những người bị tạm giữ, tạm giam. Người bị
tạm giữ, tạm giam có thể được gặp thân nhân, luật sư hoặc người bào chữa khác
theo quy định của pháp luật; được tiếp cận thông tin qua hệ thống báo chí, phát
thanh, truyền hình trong nhà tạm giữ, tạm giam; có quyền khiếu nại, tố cáo đối với
các hành vi vi phạm pháp luật và quy chế của nhà tạm giữ, tạm giam.
38. Những người đang chấp hành án phạt tù bị hạn chế một số quyền công
dân nhưng vẫn được pháp luật bảo vệ và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản. Năm
2011, Chính phủ ban hành Nghị định 117/2011/NĐ-CP quy định việc tổ chức quản
lý phạm nhân và đảm bảo chế độ đối với phạm nhân tại các trại giam, qua đó phạm
nhân đã được nâng cao các chế độ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt và chăm sóc y tế.
39. Các trại giam thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục công dân cho
phạm nhân; phạm nhân được học tập trong thời gian chấp hành án, trong đó có các
chương trình học tập về chính trị, pháp luật, thời sự, phổ cập tiểu học và xóa mù
chữ, học nghề. Công tác phòng, chữa bệnh cho phạm nhân được quan tâm đặc biệt.
Các bệnh xá trại giam được cải tạo, đầu tư nâng cấp; đội ngũ y, bác sỹ được đào tạo
chuyên nghiệp. Nhiều phạm nhân ốm đau, mắc bệnh hiểm nghèo được tạm đình chỉ
thi hành án để chữa bệnh. Ban Quản lý các trại giam cũng phối hợp với chính quyền
địa phương đẩy mạnh tuyên truyền phòng chống ma túy, lây nhiễm HIV, lao và các
bệnh truyền nhiễm khác. Phạm nhân có quyền lao động trên cơ sở sức khỏe cho
phép, thời gian lao động được quy định theo Bộ Luật Lao động; kết quả lao động
được bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày hoặc tính vào thu nhập cá nhân của
phạm nhân.
40. Từ năm 2009 đến nay, thực hiện Luật đặc xá, Nhà nước Việt Nam đã tiến
hành bốn đợt đặc xá với hơn 48.000 phạm nhân được tha tù trước hạn, hơn 600
người được hoãn thi hành án hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Nhân dịp
Quốc khánh 2013, Việt Nam đã tiến hành đợt đặc xá lớn, tha tù trước hạn cho
15.449 phạm nhân đang chấp hành án phạt tù và 78 phạm nhân đang được hoãn
hoặc tạm đình chỉ thi hành án. Công tác đặc xá được thực hiện công khai, công bằng
và minh bạch, thể hiện tính khoan hồng và nhân đạo đối với những người từng
182
phạm tội nhưng đã biết ăn năn, hối cải, được nhân dân cả nước và dư luận quốc tế
ủng hộ và đánh giá cao. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số
80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng
đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, qua đó giúp đỡ, tạo điều kiện cho
những người này nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Quyền được xét xử công bằng
41. Tại Việt Nam, hoạt động tố tụng được tiến hành trên nguyên tắc bảo đảm
cho người tham gia tố tụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một
cách đầy đủ, công bằng, dân chủ; bảo đảm việc xét xử được công khai, minh bạch,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền.
42. Tòa án hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tất cả các
thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm (đối với Tòa án Nhân dân tối cao) hoặc
Chánh án Tòa cấp trên bổ nhiệm thay vì được bầu bởi cơ quan lập pháp cùng cấp
như quy định trước đây. Luật pháp quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật; chỉ có thông qua hoạt động xét xử, Tòa án mới ra phán quyết một người có tội
hay không có tội bằng một bản án; không có ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án. Các phán quyết của Tòa án, quyết
định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao được đăng
công khai và in thành sách, một mặt giúp xây dựng môi trường pháp lý công khai,
minh bạch, mặt khác giúp công chúng giám sát công tác xét xử của Tòa án, giúp
cho việc xét xử được công bằng.
B. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
43. Mặc dù bị ảnh hưởng mạnh bởi cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn
cầu nhưng trong giai đoạn 2009-2012, Việt Nam vẫn đạt một số kết quả đáng ghi
nhận về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá, trung bình 5,5-6%/năm. Nhờ tăng
trưởng kinh tế, mỗi năm Việt Nam tạo thêm hơn 1 triệu việc làm; giáo dục, y tế và
an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo tốt hơn.
Việt Nam đã đạt trước thời hạn nhiều Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs), được
quốc tế đánh giá là một trong những điển hình về thực hiện MDGs, nhất là xóa đói,
giảm nghèo. Năm 2010, Báo cáo chỉ số phát triển con người của UNDP ghi nhận
Việt Nam là một trong mười nước có mức tăng thu nhập cao nhất trong 40 năm qua.
183
Tính từ năm 2008 đến năm 2012, thu nhập bình quân đâu người tăng từ 1.024 đô la
Mỹ/người/năm lên 1.540 đô la Mỹ/người/năm.
Đảm bảo an sinh xã hội
44. Những tiến bộ trong việc đảm bảo an sinh xã hội được thể hiện rõ qua
việc xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm, góp phần giảm bớt khó
khăn, ổn định cuộc sống cho người dân. Việt Nam đã thiết kế các nhóm chính sách
ngày càng đồng bộ hơn về phát triển thị trường lao động, thực hiện chế độ bảo hiểm
xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế,
giảm nghèo và hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2011 đã có
trên 10,2 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội dưới các hình thức bắt buộc và tự
nguyện; 52,4 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 63% dân số cả nước; 8,1
triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tính riêng năm 2012, cả nước có
432.356 người được hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng.
45. Đối với những nhóm xã hội cần sự trợ giúp như người nghèo hoặc cận
nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, trong giai đoạn 2011 - 2012, Nhà
nước đã chi 22.303 tỷ đồng (hơn 1 tỷ đô la Mỹ) để hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Nhờ
đó, trong hai năm qua, 29 triệu lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số được cấp
thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, người dân thuộc diện cận nghèo tham gia mua bảo hiểm
y tế được hỗ trợ bằng 70% mệnh giá. Nhà nước cũng chi 11.844 tỷ đồng (trên 500
triệu đô la Mỹ) để thực hiện chính sách giảm nghèo trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
như miễn giảm học phí cho con hộ nghèo, hộ chính sách, trợ cấp học bổng, hỗ trợ
tiền ăn trưa cho trẻ đến 5 tuổi. Nhờ đó, trong giai đoạn 2011 – 2012, đã có trên bốn
triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, hỗ trợ điều kiện học tập và trợ
cấp tiền ăn, góp phần làm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học và tăng tỷ lệ trẻ em đến trường
đúng độ tuổi.
Phát triển thị trường lao động, thúc đẩy việc làm
46. Tại Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến quý IV/2012,
có 52,79 triệu người trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên), đem lại lợi thế lớn
về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội, song cũng tạo nên sức ép lớn về
nhu cầu việc làm mỗi năm. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm
khoảng 46%, trong đó lao động đã qua đào tạo nghề 33,5%, bước đầu đáp ứng nhu
cầu thị trường lao động.
184
47. Để phát triển thị trường lao động và tạo việc làm, Nhà nước chú trọng
củng cố hệ thống chính sách, pháp luật về lao động và nâng cao hiệu quả các biện
pháp triển khai trên thực tế. Việc sửa đổi Bộ luật Lao động (có hiệu lực từ 1/5/2013)
và ban hành Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (có hiệu lực từ năm 2009) là những
bước phát triển mới về hoàn thiện khung chính sách trong lĩnh vực này. Bên cạnh
đó, các chương trình phát triển thị trường lao động chủ động, nhất là các biện pháp
kết nối cung-cầu lao động được cải thiện. Nhờ đó, các kênh giao dịch trên thị
trường lao động ngày càng đa dạng, trong đó mạng lưới cơ sở dịch vụ việc làm đã
phát triển với hai loại hình Trung tâm giới thiệu việc làm Nhà nước (130 trung tâm)
và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm tư nhân (trên 100 doanh nghiệp). Trung tâm
dự báo và thông tin về thị trường lao động bước đầu hình thành và vận hành tốt.
Quỹ Quốc gia về việc làm đã góp phần tạo việc làm cho khoảng 160.000 lao động,
tạo điều kiện cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (lao động khuyết tật, người dân
tộc thiểu số, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp) có cơ
hội vay vốn phát triển kinh doanh.
48. Các chương trình phát triển thị trường lao động chủ động đã hỗ trợ người
dân có việc làm và tăng thu nhập. Tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước giảm rõ rệt từ
2,9% năm 2009 xuống còn 1,99% năm 2012. Riêng năm 2012, đã tạo thêm 1,52
triệu việc làm, trong đó 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
lao động. Thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2010 tăng gấp 3,5 lần
so với năm 2000.
Xóa đói, giảm nghèo
49. Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là ưu tiên hàng
đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo đảm các quyền con người và các Mục
tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (MDGs). Trong những năm gần đây, công
cuộc giảm nghèo tại Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Nhờ các thành tựu
về tăng trưởng kinh tế và chính sách an sinh xã hội, Việt Nam đã hoàn thành trước
thời hạn MDG về xóa đói, giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ
13,7% năm 2008 xuống còn 9,6% năm 2012. Thu nhập bình quân của hộ nghèo
tăng gần 2 lần trong 5 năm qua. Năm 2012, số lượt hộ thiếu đói giảm 27,6% và tỷ lệ
hộ nghèo cả nước cũng giảm 1,76% so với năm 2011. Xu thế giảm mạnh được thể
hiện ở cả 3 thước đo nghèo quan trọng: tỉ lệ nghèo, khoảng cách nghèo và mức độ
185
nghiêm trọng của nghèo. Điều quan trọng là không chỉ một số lượng lớn người dân
thoát nghèo mà mức sống và chất lượng sống của họ được cải thiện đáng kể.
50. Các chương trình và chính sách giảm nghèo của Chính phủ tập trung trên
ba chiến lược chính: (i) thúc đẩy các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập
cho người nghèo, (ii) tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch
vụ xã hội, (iii) tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức ở vùng nghèo. Những
chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình quốc gia hỗ trợ giảm
nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung vào 5 nhóm chính sách: tín dụng, phát
triển sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế. Nhờ đó, người nghèo
được tiếp cận với các nguồn lực (vốn, đất sản xuất, công nghệ, thị trường…) và các
dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý…). Tính đến
2010, 77,2% người nghèo được hưởng lợi từ các chương trình và chính sách hỗ trợ
của chính phủ, cho thấy mức độ phổ cập chính sách rộng khắp trên cả nước.
51. Chương trình giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo là
chương trình lớn và quan trọng, có tác động mạnh đến giảm nghèo và nâng cao điều
kiện sống của người nghèo. Chương trình này đã lồng ghép một loạt các hạng mục
phát triển kinh tế - xã hội như: phát triển cơ sở hạ tầng công cộng cấp xã, tín dụng
cho người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và
các chương trình khuyến nông. Với chính sách toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh
quan trọng của đời sống và hướng đến nhóm dân cư dễ bị tổn thương và thiệt thòi
nhất ở vùng sâu, vùng xa, các chương trình này đã đạt được mục tiêu chung là giảm
nghèo, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện sống của nhóm cư dân. Kết quả đánh giá
tác động qua 3 năm thực hiện cho thấy tỉ lệ nghèo đã giảm 4-5%/năm và khả năng
tiếp cận dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, điện, nước sạch của các hộ gia đình tăng
đáng kể.
Đảm bảo nhà ở cho người thu nhập thấp
52. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, chương trình phát triển nhà ở
cho các đối tượng có khó khăn về nhà ở như người lao động tại các khu công
nghiệp, học sinh, sinh viên, người nghèo ở nông thôn, người có thu nhập thấp tại
khu vực đô thị... Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế,
chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên, công nhân lao
động tại các khu công nghiệp và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Thông
186
qua các chương trình đó, đến nay đã có hơn 530.000 hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở;
có 62 dự án nhà ở cho công nhân với tổng quy mô 11.719 căn hộ được hoàn thành,
đáp ứng chỗ ở cho 67.600 công nhân lao động tại các khu công nghiệp; 163 khối
nhà cho sinh viên đã được đưa vào sử dụng, đáp ứng khoảng 140.000 chỗ ở (dự
kiến đến hết năm 2013 sẽ đáp ứng được chỗ ở cho 330.000 sinh viên); 56 dự án nhà
cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị được triển khai, đáp ứng cho khoảng
130.000 hộ thu nhập thấp có nhu cầu về nhà ở.
53. Việt Nam cũng đang nghiên cứu, soạn thảo Luật Nhà ở sửa đổi để trình
Quốc hội thông qua vào năm 2014, trong đó tập trung vào các chính sách hỗ trợ cho
người nghèo (cả đô thị và nông thôn), người thu nhập thấp và các đối tượng ưu tiên
khác như công nhân tại khu công nghiệp, học sinh, sinh viên… Trong thời gian tới,
Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách về phát triển nhà ở xã hội, nhà cho thuê ở
khu vực đô thị và nhà ở tái định cư; thúc đẩy các biện pháp tăng cường trách nhiệm
của Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc xây dựng nhà ở cho
người nghèo nhằm hỗ trợ các đối tượng khó khăn có nhà ở, ổn định cuộc sống.
Chăm sóc y tế, giáo dục
54. Việt Nam xác định chăm sóc sức khỏe cộng đồng là ưu tiên hàng đầu
trong các chiến lược phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia và đã đạt được
nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này. Hiện nay, năng lực của hệ thống các cơ sở y tế
được củng cố và phát triển. 100% xã có trạm y tế, 74% số xã có bác sĩ. Tính đến
năm 2012, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 68%. Việt Nam đã
giảm đáng kể tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh: 23/1000 ca năm 2012, giảm 2/3 so với năm
1990. Việt Nam đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong phòng, chống
và kiểm soát bệnh sốt rét. Công tác kiểm soát và phòng chống HIV/AIDS cũng có
những tiến bộ trong việc xác định các ca nhiễm bệnh và cung cấp phác đồ điều trị
kịp thời.
55. Giáo dục và đào tạo cũng đã có chuyển biến tích cực. Việt Nam đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học, đang tiến tới hoàn thành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở. Năm 2012, tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học là 97,7% và bậc
trung học cơ sở là 87,2%. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, các chỉ số phát
triển về cơ sở vật chất được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập ngày càng
tăng của người dân ở các lứa tuổi, vùng miền. Chất lượng đào tạo đã có nhiều
chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực qua đào tạo
187
phục vụ phát triển kinh tế. Chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo đã đạt một số kết
quả, thể hiện ở việc huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học,
đầu tư mở trường, bổ sung kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau.
C. Quyền của các nhóm yếu thế/ dễ bị tổn thương
Người cao tuổi
56. Số lượng người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay là khoảng 7,5 triệu người,
chiếm khoảng 8,7% dân số cả nước. Việc bảo đảm quyền của người cao tuổi được
Chính phủ quan tâm, thông qua việc thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật, các chương trình quốc gia, các đề án hoặc dự án hỗ trợ.
57. Luật Người cao tuổi đã được Quốc hội ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 1/7/2010. Luật đã thể chế hoá chính sách của Việt Nam về người cao tuổi một
cách hệ thống, đầy đủ và toàn diện, đảm bảo cho sự tham gia vào hoạt động xã hội
của người cao tuổi, đồng thời khuyến khích sự quan tâm của các tổ chức xã hội, cá
nhân trong công tác chăm sóc người cao tuổi. Đây là bước cụ thể hóa cam kết của
Chính phủ về thực hiện Tuyên bố chính trị và Chương trình hành động quốc tế
Madrid năm 2002, phù hợp với chính sách chung của nhiều quốc gia và của Liên
hợp quốc về người cao tuổi. Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia về Người cao tuổi giai đoạn 2012-2020 với mục tiêu nâng cao chất
lượng chăm sóc người cao tuổi và phát huy vai trò của người cao tuổi trong xã hội,
phù hợp với tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
58. Trên thực tế, người cao tuổi được chăm sóc sức khỏe thông qua việc định
kì khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế nói chung và hệ thống các bệnh viện lão khoa;
được chăm lo đầy đủ hơn về đời sống tinh thần trong hoạt động văn hóa, giáo dục,
thể dục, thể thao, giải trí, du lịch. Người đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và
bảo hiểm xã hội sẽ được trợ cấp hàng tháng, được hưởng bảo hiểm y tế, được hỗ trợ
chi phí mai táng khi qua đời... Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm
tạo điều kiện tốt nhất để người cao tuổi phát huy vai trò phù hợp với khả năng của
mình thông qua việc bày tỏ ý kiến, nguyện vọng cống hiến trong khoa học, sản
xuất, kinh doanh…
Bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ
59. Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng xây dựng và phát triển các chính
sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện để đảm bảo quyền
188
của phụ nữ. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan
trọng trong việc thúc đấy quyền phụ nữ như: xây dựng và ban hành các văn bản
pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới và không phân biệt đối xử theo quy
định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước CEDAW; lồng ghép bình đẳng giới
trong việc xây dựng và thực thi pháp luật; ban hành Chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2015 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và
nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực
nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ
nữ. Bộ luật Lao động sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2012 quy định tăng
thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng.
60. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập
trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình
đẳng cao, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong
gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp
ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong
việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức
chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xoá bỏ bạo lực giới và bạo lực
gia đình; khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn (việc làm, thu nhập, địa vị xã
hội…). Tỉ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam
nằm trong nhóm nước có tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng
thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị
trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, hai Phó Chủ tịch Quốc
hội, có hai nữ Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ
trưởng là nữ. Tỉ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm
2011, tỉ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỉ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%; 30,53% Thạc
sỹ và 17,1% Tiến sỹ là nữ giới. Nỗ lực bảo đảm bình đằng giới của Việt Nam đã
được quốc tế ghi nhận: theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất
bình đẳng giới (GII), Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc
gia năm 2010.
61. Việt Nam nghiêm túc triển khai thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) trên cả phương diện thúc đẩy
189
hoàn thiện luật pháp và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn. Chính phủ Việt
Nam cũng đã xây dựng và hoàn thành báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện công
ước CEDAW giai đoạn 2004 – 2010 trên cơ sở kết quả tham vấn rộng rãi với các cơ
quan, tổ chức có liên quan và các tầng lớp xã hội.
Trẻ em
62. Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020, hướng tới thực hiện mục tiêu tổng
quát là xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để thực hiện
ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em; từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về
điều kiện sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng, miền; nâng cao chất
lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em.
63. Việt Nam là nước đầu tiên tại Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới
tham gia Công ước về Quyền trẻ em (CRC) và Nghị định thư bổ sung số 1 và số 2.
Nhà nước Việt Nam đã và đang có những nỗ lực lớn trong việc triển khai thực hiện
trên phương diện hoàn thiện chính sách pháp luật, nội luật hoá các quy định của hệ
thống pháp luật quốc tế về quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật quốc gia, và tổ chức
triển khai thực hiện trong thực tế để bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Việt Nam cũng tích cực tham gia các sáng kiến khu vực và quốc tế nhằm thực hiện
việc bảo vệ các quyền của trẻ em; tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế và thực hiện các
cam kết quốc tế có liên quan.
64. Các chương trình, chính sách có tính chiến lược như tiêm chủng cho trẻ
em, hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, phòng
chống lao, phòng chống HIV/AIDS... đã mang lại hiệu quả tích cực. Tỷ lệ tử vong ở
trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58‰ (1990) xuống còn 24 ‰ (2011), dưới 1 tuổi từ 31‰
(2001) xuống còn 15,5 ‰ (2011).
65. Chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 sẽ tập trung
vào các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội để nâng cao nhận thức
và chuyển đổi hành vi thực hiện các quyền của trẻ em; xây dựng và thực hiện các
chương trình, kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách liên quan đến công tác bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em và
thực hiện quyền trẻ em; khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, gia đình, cộng đồng, người dân và trẻ
em tham gia bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao
190
năng lực đội ngũ cán bộ làm việc với trẻ em ở các cấp, các ngành; kiện toàn và phát
triển mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cơ sở;
nâng cao chất lượng công tác theo dõi, giám sát và đánh giá.
Người khuyết tật
66. Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2008 và dự
kiến hoàn thành thủ tục phê chuẩn trong năm 2014, cũng như đang nỗ lực xây dựng
và hoàn thiện luật pháp, chính sách nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết tật.
Trong lộ trình phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tất, Việt Nam đã ban
hành Luật về người khuyết tật năm 2010 và xây dựng các văn bản thi hành. Trong
giai đoạn 2010-2013, đã có 13 văn bản dưới Luật được ban hành có liên quan tới
người khuyết tật trong các lĩnh vực truyền thông, thể thao, du lịch, tiếp cận an sinh
xã hội và thúc đẩy thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ.
67. Chính sách chung của Nhà nước là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi
cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng về các quyền về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội và phát huy khả năng của họ để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng,
tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp
chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các
quyền khác theo quy định của pháp luật.
68. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai
đoạn 2012 - 2020 nhằm đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết
tật theo quy định của Luật Người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của Chính
phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ Biwako về
người khuyết tật khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đề án chia làm 2 giai đoạn
với những chỉ tiêu cụ thể nhằm thúc đẩy sự hòa nhập của người khuyết tật trong các
lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, xây dựng, giao thông, công nghệ thông tin, văn
hóa, thể thao, pháp lý… Bên cạnh đó, Chính phủ cũng triển khai một loạt các chính
sách trợ giúp người khuyết tật như đề án trợ giúp phục hồi chức năng cho người tâm
thần; tham gia và thực hiện các sáng kiến của quốc tế và khu vực; tăng cường sự
tham gia của người khuyết tật và bảo vệ quyền của người khuyết tật; hỗ trợ thành
lập các tổ chức tự lực của người khuyết tật; trợ giúp đào tạo nghề và tạo việc làm;
cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các công trình văn hoá, công cộng và các
dịch vụ xã hội cơ bản khác của người khuyết tật.
Người dân tộc thiểu số
191
69. Nhà nước Việt Nam thực hiện đường lối nhất quán là các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Hệ thống pháp luật Việt Nam
liên tục được hoàn thiện, đáp ứng cơ bản chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, trong đó có việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các dân tộc
thiểu số. Người dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị,
quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham chính ngày
càng tăng, số lượng đại biểu Quốc hội là dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao hơn
so với tỷ lệ dân số. Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là
người dân tộc thiểu số chiếm từ 15,6% đến 17,27%, trong khi người dân tộc thiểu
số chỉ chiếm 14,3% dân số. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016 là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%.
70. Trong giai đoạn 2006 – 2012, Nhà nước đã có 160 văn bản quy phạm
pháp luật về chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, với
kinh phí từ ngân sách lên tới 55.000 tỷ đồng (tương đương 2,6 tỷ đô la Mỹ). Với
nguồn lực như vậy, nhiều chính sách đã phát huy hiệu quả tốt như Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo bền vững; chính sách hỗ trợ nhà ở
cho hộ nghèo; Chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc miền
núi, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng có đông người dân tộc thiểu số giảm từ 32,6% năm 2009
xuống còn 24,3% năm 2012. Cơ sở hạ tầng có sự cải thiện rõ rệt: 98,6% xã có
đường ô tô; 99,8% số xã và 95,5% số thôn được sử dụng điện sinh hoạt.
71. Năm 2012, 100% xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt
chuẩn phổ cập trung học cơ sở, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc giáo dục tiểu học
bình quân cả nước đạt gần 98%, trong đó 95% trẻ em dân tộc thiểu số được đến
trường. Tất cả các tỉnh vùng có đông dân tộc thiểu số đều có trường trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực
nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế. Năm 2010, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 82 quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu
số. Năm 2012, đã có 32 tỉnh tổ chức dạy và học 12 tiếng dân tộc thiểu số. Tính đến
hết năm 2012, cả nước có 2.629 lớp học chữ tiếng dân tộc với 136.600 học sinh. Bộ
Giáo dục và Đào tạo đang hợp tác với UNICEF thí điểm thực hiện giáo dục song
ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Gia Lai bước đầu đạt kết
quả tốt.
192
72. Mạng lưới y tế phát triển nhanh chóng ở vùng có đông dân tộc thiểu số,
hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư, 99,39% xã
có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2011 có 94,2% số thôn
có cán bộ y tế. Đồng bào dân tộc được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ,
đồng bào nghèo được khám chữa bệnh miễn phí. Các dịch bệnh ở vùng dân tộc và
miền núi như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy
dinh dưỡng...
73. Năm 2011, Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hoá
các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020", thể hiện chính sách của Nhà nước
Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số. Đề
án tập trung ưu tiên phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người. Người dân
tộc thiểu số ở tất cả các vùng miền được tham gia hoạt động văn hóa mang bản sắc
các dân tộc, 92% người dân được nghe đài phát thanh, 85% được xem truyền hình,
nhiều chương trình phát bằng tiếng dân tộc thiểu số như: Mông, Thái, Êđê, Chăm,
Khmer... Nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận là di sản văn hoá cấp
quốc gia như: "Lễ hội Lồng Tồng" của dân tộc Tày, "Lễ Cấp sắc" của dân tộc Dao.
Tổ chức UNESCO đã công nhận một số di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam là di sản văn hóa thế giới như: "Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây
Nguyên", "Thánh địa Mỹ Sơn"...
74. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và
miền núi có chuyển biến tích cực, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người
dân. Thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, 100% các tỉnh, thành phố đã có các Trung tâm
trợ giúp pháp lý. Các Trung tâm này cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bằng các
hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng… để giúp đỡ người nghèo, người dân
tộc thiểu số giải quyết các vướng mắc về pháp luật. Từ năm 2009 đến hết 2012, các
tổ chức trợ giúp pháp lý đã thực hiện trợ giúp hơn 200.000 lượt đối tượng là người
dân tộc thiểu số, thành lập gần 2.000 câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở các xã để phổ
biến giáo dục pháp luật cho người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số.
IV. Những ưu tiên và cam kết trong việc tiếp tục thúc đẩy và bảo về các
quyền con người ở Việt Nam
A. Các thách thức còn tồn tại
75. Khuôn khổ pháp luật về quyền con người ở Việt Nam mặc dù đang từng
bước được kiện toàn nhưng vẫn chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự
193
thay đổi của cuộc sống, chậm được sửa đổi, bổ sung. Năng lực xây dựng thể chế,
quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật và việc tuyên truyền pháp luật về
quyền con người đến các ngành, các cấp, các địa phương vẫn còn hạn chế, khiến
cho việc triển khai còn khó khăn, bất cập. Bản thân người dân chưa hiểu biết đầy đủ
về các quy định của pháp luật để thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và hiệu
quả. Việc kiểm tra đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo, dẫn
đến tình trạng có những vi phạm chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
76. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ
môi trường bên ngoài, đặc biệt là từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Là một nước
đang phát triển, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt các nguồn lực
dành cho phát triển, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ và bảo đảm
các quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội. Những rủi ro về biến đổi khí hậu,
thiên tai, dịch bệnh, mà đối tượng chịu tác động nặng nề nhất chính là các nhóm xã
hội yếu thế, đặc biệt là người nghèo, vẫn là một thách thức không nhỏ đối với Việt
Nam. Do thiếu hụt nguồn lực, tầm bao phủ của hệ thống an sinh xã hội hiện nay còn
khiêm tốn, nhất là đối với người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Phần lớn
người nghèo sống ở các khu vực nông thôn và miền núi, tham gia vào các hoạt động
nông nghiệp và ít nhận được hỗ trợ từ các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
77. Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc thực hiện MDGs
về giảm nghèo nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là giải
quyết vấn đề bất bình đẳng và giảm nghèo bền vững. Phần lớn người nghèo là cư
dân nông thôn và người dân tộc thiểu số. Do người dân tộc thiểu số cư trú ở những
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về các điều kiện sản xuất, phát triển kinh tế, giao
thông, tiếp cận thị trường nên tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo còn chiếm khá cao.
Hơn nữa, giảm nghèo hiện nay chưa bền vững do một số hộ gia đình mặc dù đã
thoát nghèo nhưng khả năng tái nghèo rất cao do thiên tai, thời tiết, tai nạn lao động,
giao thông... Năng lực tài chính yếu kém cùng với nguồn lực bảo trợ xã hội hạn chế
khiến cho các hộ gia đình cận nghèo dễ bị rơi trở lại cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó,
nghèo đô thị đang nổi lên là một vấn đề đáng lo ngại do dòng người di cư từ nông
thôn ra các đô thị ngày một tăng.
78. Giáo dục là lĩnh vực được Nhà nước coi trọng và đầu tư lớn, tuy nhiên
trên thực tế còn nhiều tồn tại chưa được khắc phục như sự bất bình đẳng trong tiếp
194
cận giáo dục, khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; cải cách giáo dục trong công tác giảng dạy và
học tập, cải tiến thiết bị, cơ sở vật chất trường học… Giáo dục về nhân quyền trong
các cấp học chưa được đầu tư thỏa đáng. Trong chương trình giáo dục phổ thông,
nội dung giảng dạy về quyền con người nói chung và các quyền cụ thể còn sơ sài và
chưa phù hợp với cấp học và độ tuổi.
79. Các quan niệm lạc hậu, cổ hủ vẫn còn tồn tại khiến cho nhiều nhóm dễ bị
tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số chưa ý thức
và chủ động trong việc bảo vệ các quyền của chính mình. Tư tưởng "trọng nam hơn
nữ" là trở lực cho nhận thức và thực hiện bình đẳng giới, định kiến xã hội vẫn tạo
nên sự kỳ thị nhất định đối với người dân tộc thiểu số, người khuyết tật… Những
hạn chế về nguồn lực khiến việc thực hiện các chương trình và chính sách đạt hiệu
quả chưa cao, đặc biệt là trong việc tăng cường dịch vụ hỗ trợ và khả năng tiếp cận
các dịch vụ xã hội của trẻ em, người khuyết tật, người già…
B. Những hướng ưu tiên
80. Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiện toàn hệ thống pháp luật
trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền
và tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù
hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế. Chính phủ nỗ lực đẩy mạnh các chương
trình cải cách hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, phát
huy dân chủ và nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế
quốc gia bảo vệ quyền con người, trong đó có việc nghiên cứu khả năng thành lập
Cơ quan nhân quyền quốc gia.
81. Khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội được xếp là một trong
những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của người dân. Thực tế cho
thấy việc giảm thu nhập, lạm phát và bệnh tật là ba trong số các nguyên nhân chính
làm giảm mức sống của người dân. Do đó, an sinh xã hội là giải pháp bảo vệ cho
người dân, đặc biệt là người nghèo. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung các
chính sách để tăng khả năng tiếp cận của các nhóm yếu thế vào hệ thống an sinh xã
hội, nghiên cứu khả năng phát triển loại hình bảo hiểm nông nghiệp.
82. Chất lượng giáo dục là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao
năng suất, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và phát triển xã hội. Nhận thức được
tầm quan trong của phát triển nguồn nhân lực, Chính phủ đã đưa ra các chính sách
195
quốc gia và sẽ tiếp tục đầu tư hơn nữa cho hệ thống giáo dục hướng đến hai mục
tiêu: (i) tăng tỉ lệ nhập học đúng tuổi ở mọi cấp giáo dục; và (ii) nâng cao chất
lượng giáo dục. Giáo dục về quyền con người là hướng ưu tiên đặc biệt nhằm nâng
cao nhận thức của người dân và năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật trong
việc đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân.
83. Chính phủ ghi nhận tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển
kinh tế, xã hội thông qua việc xây dựng hai chương trình quy mô quốc gia là Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015. Những chính sách này đã khẳng định bình
đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như
đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội.
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung các chính sách và chiến lược nhằm tăng
cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định
kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng
giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như
giáo dục, y tế, việc làm.
84. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hướng đến một xã hội khỏe mạnh và
được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần,
là một trong những hướng ưu tiên cao của Chính phủ. Nỗ lực của Chính phủ thời
gian tới sẽ tập trung vào các vấn đề: giảm tỉ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là ở trẻ sơ
sinh, tăng cường hiệu quả thực hiện các Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chiến
lược dinh dưỡng quốc gia, Chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản, Chiến lược
quốc gia về phòng chống HIV/AID.
85. Với mục đích tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực phục
vụ cho việc bảo đảm tốt hơn các quyền con người, Chính phủ Việt Nam chủ trương
tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên
môn của Liên hợp quốc có liên quan đến quyền con người; tham gia tích cực và có
trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền, hợp tác đầy đủ và xây dựng
với các Thủ tục đặc biệt, trong đó có việc xem xét tích cực các đề nghị vào thăm;
thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân quyền quốc tế mà
Việt Nam là thành viên; tăng cường hiệu quả các cơ chế đối thoại song phương
thường kỳ về quyền con người.