199
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ HÒE NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN THÀNH HÀ NỘI - 2015

NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HÒE

NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM

QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN

HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng

và Chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số : 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. TRẦN THÀNH

HÀ NỘI - 2015

Page 2: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là

trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra

trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.

Tác giả luận án

Trần Thị Hòe

Page 3: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền

con người 6

1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền

con người 15

1.3. Những giá trị của các công trình liên quan đến luận án và những vấn đề

đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu 23

Chương 2: BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI 26

2.1. Quyền con người và bảo đảm quyền con người 26

2.2. Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người - Tầm quan trọng và

biểu hiện 43

Chương 3: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỰC TRẠNG

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 63

3.1. Hội nhập quốc tế và tác động của nó đến nhà nước trong việc bảo đảm

quyền con người ở Việt Nam 63

3.2. Thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người

trong điều kiện hội nhập quốc tế 76

3.3. Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện

hội nhập quốc tế hiện nay - Những vấn đề đặt ra 104

Chương 4: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP 112

4.1. Một số quan điểm cơ bản 112

4.2. Một số giải pháp chủ yếu 122

KẾT LUẬN 152

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156

PHỤ LỤC 166

Page 4: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HNQT : Hội nhập quốc tế

HTQT : Hợp tác quốc tế

KTTT : Kinh tế thị trường

LHQ : Liên hợp quốc

QCD : Quyền công dân

QCN : Quyền con người

TCH : Toàn cầu hóa

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Page 5: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Quyền con người (Human Rights) (QCN) là giá trị cao quý, là thành quả đấu

tranh chung của toàn nhân loại chống lại áp bức, bất công. Do đó, bảo đảm QCN trở

thành khát vọng của loài người, là giá trị cơ bản mà các chế độ xã hội luôn hướng tới.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vấn đề bảo đảm QCN cũng được nhận

thức và thực hiện tốt hơn với những giá trị, chuẩn mực về QCN ngày càng được mở

rộng. Tuy nhiên tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử, chế độ kinh tế, chính trị, quan điểm giai

cấp khác nhau... mà những chuẩn mực, nguyên tắc bảo đảm QCN khác nhau. Do vậy,

bên cạnh những giá trị chung, phổ biến về QCN, khó có một quan niệm thống nhất về

QCN và bảo đảm QCN, nhất là trong điều kiện trên thế giới đang tồn tại đa dạng các

nhà nước với các giai cấp với những chế độ chính trị vì những mục tiêu, lợi ích khác

nhau. Điều này thể hiện rất rõ trong quan điểm chính trị, cách tổ chức, thực thi quyền

lực của các nhà nước cụ thể.

Ngày nay, toàn cầu hóa (TCH) và hội nhập quốc tế (HNQT) là một xu thế tất yếu

đối với các quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình TCH và HNQT

đã làm cho các quốc gia "xích" lại gần nhau hơn, tạo ra các điều kiện và cơ hội thuận

lợi hơn cho sự phát triển vì sự tiến bộ chung của nhân loại, góp phần quan trọng vào

việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN. Tuy nhiên, TCH và HNQT cũng nảy sinh

nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tình trạng

mâu thuẫn giữa các dân tộc do sự chênh lệch, bất công về cơ hội, điều kiện trong việc

chiếm lĩnh các nguồn lực để thực hiện và phân chia hệ thống lợi ích xã hội; trong việc

giải quyết mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia dân tộc trong hội nhập;

những mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong một nhà nước cụ thể đang cản trở cuộc

đấu tranh vì những lợi ích chung cho xã hội, vì tiến bộ xã hội... dẫn tới phạm vi và mức

độ bảo đảm, thực hiện QCN ở các quốc gia có khác nhau. Giải quyết vấn đề này mỗi nhà

nước có quan điểm, nguyên tắc riêng về bảo đảm QCN vì sự phát triển chung của xã hội

và sự phát triển bền vững của quốc gia.

Trong bối cảnh đó, nhà nước Việt Nam đã nhận thức ngày càng sâu sắc và tham

gia tích cực vào quá trình đấu tranh để bảo vệ QCN trên phạm vi quốc tế vì sự phát triển

chung của nhân loại và bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự tham gia ngày càng tích cực vào các

tổ chức quốc tế bảo vệ và đấu tranh cho QCN, quyền tự quyết của các dân tộc, chống

Page 6: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

2

phân biệt chủng tộc, đảm bảo phân chia lợi ích giữa các quốc gia... đã cho thấy vai trò

của Việt Nam trong thế giới hiện nay.

Theo Luật nhân quyền quốc tế, bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhiều chủ thể,

trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng. Bảo đảm QCN là trách nhiệm của nhà

nước và là vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động của nhà nước. Nguyên tắc này

đã được khẳng định trong Lời nói đầu Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa

Kỳ (1776), rằng: "quyền lực chính đáng của các chính phủ phải xuất phát từ sự nhất trí

của nhân dân" [124, tr.15]. Chính phủ đó phải "dựa trên nền tảng của những nguyên tắc

và tổ chức quyền lực theo cách thức mà nhân dân thấy thích hợp nhất để đảm bảo an

ninh và hạnh phúc cho họ" [124, tr.15] và nếu chính phủ nào "đối nghịch" hoặc không

đáp ứng được yêu cầu trên thì nhân dân "có quyền thay đổi hoặc xóa bỏ nó"để thiết lập

một chính phủ mới"…

Ở Việt Nam, tư tưởng về một chính quyền của dân, bảo vệ các quyền của dân đã

được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nếu để dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi;

Nếu để dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; Nếu để dân dốt là Đảng và Chính phủ có

lỗi; Nếu để dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi" [85, tr.572]. Do đó, ngay từ Hiến

pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, việc tôn

trọng các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong

hoạt động của Nhà nước.

Quán triệt nguyên tắc này, bảo đảm QCN đã trở thành một trong những mục tiêu

đầu tiên và quan trọng hàng đầu của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội củ

nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Chính vì vậy, trong việc hoạch định các chính sách phát

triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại..., Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn

đề con người và bảo đảm QCN vào vị trí trung tâm và là mục tiêu quan trọng nhằm

hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.

Nhiệm vụ "Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi

người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã

tham gia ký kết" [30, tr.76] được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và

"Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh

phúc, sự phát triển tự do của mỗi người [33, tr.85] tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định chủ trương đúng đắn về định vị trí, vai trò, trách

nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, xác định nguyên tắc bảo vệ các QCN

của công dân trước quyền lực chính trị của nhà nước.

Page 7: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

3

Cụ thể hóa quan điểm của Đảng, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có

nhiều nỗ lực trong việc thực hiện xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; tổ

chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm

QCN; tham gia hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực QCN...

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động

của Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội đã đem lại cho chúng ta những

kinh nghiệm quý báu về tổ chức nhà nước, về phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối

với việc bảo đảm các QCN. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, việc bảo đảm QCN của

Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Trên lĩnh vực pháp luật, nhiều quy định của pháp luật

còn chồng chéo, bất cập, thậm chí mâu thuẫn, chưa phù hợp với Hiến pháp, khó triển

khai trong thực tiễn.

Công tác tuyên truyền, giáo dục về QCN cho người dân và đội ngũ cán bộ công

chức mang tính hình thức, nặng về lý thuyết, thiếu sự gắn kết với thực tiễn, bên cạnh

đó, nhận thức và am hiểu về QCN của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, gây trở

ngại cho việc thực hiện QCN của người dân.

Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, một số cơ quan còn chồng chéo về

chức năng, nhiệm vụ dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của

đổi mới và hội nhập. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu trách nhiệm, vô cảm, thậm chí vi

phạm nghiêm trọng các QCN của người dân của một số cán bộ, công chức, gây bức

xúc trong xã hội, tạo kẽ hở cho một số thế lực thù địch coi đó là lý do để vu cáo Việt

Nam vi phạm QCN.

Hội nhập quốc tế mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội trong việc bảo

đảm QCN, song cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về QCN, gây trở ngại cho

việc bảo đảm QCN của nhà nước. Bởi lẽ, việc tuân thủ các định chế, các nguyên tắc,

các cam kết của các tổ chức quốc tế và khu vực trong quá trình hội nhập làm cho việc

hoạch định, thực thi chính sách phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm QCN của nhà

nước đứng trước nhiều thách thức.

Ngoài ra, việc phân bổ nguồn lực chưa hợp lý; quy trình ban hành chính sách,

pháp luật về QCN còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy

định của định chế quốc tế cũng như những đòi hỏi của quá trình HNQT. Chất lượng

của chính sách kinh tế, chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của

thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về QCN còn nhiều bất cập, lúng

Page 8: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

4

túng... Thực tế này đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết, can thiệp ở mức độ nhất định

nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất cho mục tiêu bảo đảm QCN.

Từ những hạn chế, bất cập kể trên, việc nghiên cứu vấn đề lý luận về nhà nước

đối với việc bảo đảm QCN; phân tích thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo

đảm QCN trong điều kiện HNQT, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu

quả của Nhà nước đối với việc bảo QCN ở nước ta thời gian tới là một yêu cầu cần

thiết và cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn

vấn đề "Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội

nhập quốc tế hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ phạm vi nghiên cứu

2.1. Mục đích của luận án

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN

và thực tiễn bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm

và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc

bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ của luận án

Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng

cộng sản Việt Nam về QCN và bảo đảm QCN, luận án tập trung:

- Làm rõ khái niệm quyền con người, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của việc bảo

đảm QCN và những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.

- Làm rõ quá trình HNQT của Việt Nam và những tác động của HNQT đến QCN

và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam.

- Làm rõ thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều

kiện HNQT hiện nay và những vấn đề đặt ra.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao tính hiệu quả của Nhà

nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.

2.3. Phạm vi nghiên cứu của luận án

- Luận án không nghiên cứu toàn bộ lý luận về nhà nước đối với việc bảo đảm

QCN mà chỉ tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề

này dưới góc độ triết học.

- Trong phần thực trạng, luận án chỉ giới hạn khảo sát thực trạng Nhà nước Việt

Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT (từ 1995 đến nay).

Page 9: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

5

3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

3.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo đảm QCN; những vấn đề lý

luận và thực tiễn về nhà nước đối việc bảo đảm QCN. Luận án có kế thừa một số kết

quả nghiên cứu có giá trị của các công trình khoa học khác liên quan.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương pháp lô-gíc và lịch sử,

phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê và so sánh, trừu tượng và cụ thể

và một số phương pháp khác.

4. Đóng góp khoa học của luận án

- Luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, tầm quan trọng của

nhà nước đối với việc bảo đảm QCN.

- Trên cơ sở phân tích về những tác động của HNQT đến QCN và nhà nước đối

với việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, luận án phân tích và làm rõ thực trạng Nhà nước

Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN (những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân) và

những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều

kiện HNQT hiện nay.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao tính hiệu quả của

Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay.

5. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Những kết luận rút ra trong luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

những người hoạch định chính sách và quản lý xã hội khi đề xuất, đánh giá, xem xét và

giải quyết các vấn đề có liên quan đến QCN, bảo đảm QCN, nâng cao tính hiệu quả

của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về QCN

và các vấn đề khác có liên quan.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên

quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu

gồm 4 chương, 10 tiết.

Page 10: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO

ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về QCN, những vấn đề lý luận và thực tiễn

bảo đảm QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN đã và đang là đề tài thu hút sự

quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức, các nhà lãnh đạo và các nhà khoa học trong và

ngoài nước. Vì vậy, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản, thể hiện tập trung ở

các nội dung sau:

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về quyền con người

Có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh những vấn đề lý luận về QCN của

nhiều học giả trong và ngoài nước, tiêu biểu là cuốn sách Quyền con người của Jacques

Mourgon, giáo sư trường đại học khoa học xã hội Toulouse (Pháp) [60]. Bằng việc

phân tích bản chất của con người và QCN, tác giả khẳng định QCN là trung tâm của

chính trị và trung tâm của các mối quan hệ giữa quyền lực và con người, nhưng QCN

cũng không phải là những cái gì quá xa lạ với con người. Quyền con người là "những

đặc quyền" được các quy tắc điều khiển mà con người "giữ riêng" lấy trong các quan

hệ của mình với những cá nhân và với chính quyền". Như vậy, QCN trước hết là các

quyền cố hữu, tự nhiên con người sinh ra đã có (cả thể xác và tư tưởng) và các quyền

này được sử dụng trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính

quyền. Trên cơ sở khái niệm QCN, tác giả tập trung phân tích các điều kiện cần thiết để

bảo đảm, thực hiện QCN như: sự công nhận quyền trong các điều ước quốc tế về QCN;

sự ghi nhận quyền trong pháp luật quốc tế và quốc gia; thiết chế kiểm soát các quyền

nhằm ngăn chặn sự lạm quyền từ phái các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước

bảo đảm QCN và sự phụ thuộc của các quyền vào cộng đồng quốc tế và các nhà nước.

Giáo sư Hoàng Nam Sâm, trường đại học Tổng hợp Bắc Kinh, Trung Quốc trong

bài "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn hóa Trung Quốc" (2002) cho

rằng: "Quyền con người là những quyền cơ bản mà con người sinh ra đã được hưởng,

bao gồm trước hết là quyền được sống và quyền được phát triển; sau đó là các quyền

khác" [98, tr.40], chẳng hạn như "quyền được tham gia các hoạt động chính trị, xã hội,

trong đó quyền bình đẳng là quan trọng nhất. Quyền này thể hiện ở chỗ tất cả mọi

người có thể sống như một cá nhân độc lập và quan hệ giữa con người với con người

là bình đẳng, xét trên phương diện nhân phẩm" [98, tr.40]. Để có được một học thuyết

Page 11: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

7

về QCN, tác giả cho rằng phải được thiết lập qua 5 giai đoạn: thứ nhất là ý thức về

QCN; thứ hai là tư tưởng về QCN; thứ ba là QCN dưới góc độ pháp lý; thứ tư là khái

niệm QCN và thứ năm là học thuyết về QCN. Tác giả cũng khẳng định việc Trung

Quốc thực hiện cải cách, mở cửa đã đưa sự phát triển về QCN sang một giai đoạn mới.

Bằng việc thực thi dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền, các QCN của người dân

Trung Quốc không ngừng mở rộng, quyền cá nhân và quyền tập thể kết hợp hòa quyện

với nhau, tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện mức sống của người dân.

Bài viết "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh vì

quyền con người trên thế giới", (2002), tác giả Lang Nghị Hoài khẳng định: "Quyền

con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa nhận xã

hội mà con người giành được với tư cách là sự vật tồn tại trong xã hội. Sự thừa nhận và

giới định này biểu hiện ở tư cách là người tham dự giao lưu xã hội" [48, tr.231]. Theo

tác giả, QCN nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, do đó,

QCN trước hết là quyền của một giai cấp nhất định, có tính giai cấp rõ rệt. Sự phát triển

QCN, sự cải thiện mối quan hệ QCN là quá trình lâu dài trong lịch sử, tự do và bình

đẳng trừu tượng không phải là thước đo thông dụng đối với QCN mà chỉ là tiêu chí để

đánh giá mức độ phát triển của QCN mà thôi. Đặc biệt, trong thế giới hiện nay, việc

bảo đảm QCN và bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia có mối quan hệ mật thiết và

biện chứng với nhau, do đó, cần có cái nhìn toàn diện và khoa học về QCN cũng như

các cơ chế, thiết chế bảo vệ QCN.

Ở nước ta, việc nghiên cứu QCN được bắt đầu từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.

Tuy nhiên, thời gian này, các công trình nghiên cứu mới chỉ là bước đầu và chưa được

xã hội hóa một cách có hệ thống. Những năm 1990 là thời gian đánh dấu sự "bùng nổ"

về hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam. Hai sự kiện có thể coi là động lực thúc đẩy

hoạt động nghiên cứu QCN ở Việt Nam những năm đầu của thập kỷ này là việc sửa đổi

bổ sung Hiến pháp 1992 và việc ban hành Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư về Vấn đề

quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta. Hiến pháp 1992, Hiến pháp

của công cuộc Đổi mới, lần đầu tiên, khái niệm QCN được quy định tại điều 50, thể

hiện sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong nhận thức về vấn đề này ở Việt Nam. Sự

kiện này khẳng định việc đánh giá một cách chính thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam

với vấn đề QCN, tạo nền tảng chính trị và pháp lý cho các hoạt động nghiên cứu, giảng

dạy và tổ chức thực hiện bảo đảm các QCN ở Việt Nam.

Page 12: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

8

Trong Chương trình "Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế -

xã hội", mã số KX.07/91-95, lần đầu tiên, QCN đã trở thành đối tượng nghiên cứu cấp

nhà nước. Đó là đề tài "Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong

sự nghiệp đổi mới đất nước", do Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung phân

tích những vấn đề lý luận về QCN như: khái niệm QCN, lịch sử phát triển của QCN,

những nội dung cơ bản của QCN; thực trạng việc vi phạm QCN trên thế giới cũng như

các điều kiện đảm bảo QCN [43]. Từ đó đến nay, vấn đề QCN được nhiều học giả tập

trung nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố có giá trị cả về mặt lý

luận và thực tiễn trên hầu hết lĩnh vực của QCN, như đề tài khoa học cấp bộ "Quan

điểm C.Mác-Ph.Ăngghen về quyền con người", Hoàng văn Hảo chủ nhiệm (1997)

[46]; đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con người", Cao Đức Thái chủ nhiệm

(1998) [104]; đề tài "Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về quyền con

người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay" (2007), Nguyễn Đức Thùy chủ nhiệm [119],

đề tài "Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người", Hoàng Mai Hương chủ nhiệm (2009)

[58]; đề tài "Tư tưởng nhân quyền trong một số học thuyết chính trị, pháp lý cơ bản",

Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm (2013) [101]. Các công trình trên đã tập trung phân tích

những vấn đề lý luận cơ bản về QCN: nguồn gốc của QCN, khái niệm QCN, các quan

điểm, luận điểm khác nhau về QCN trong lịch sử, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-

Lênin về QCN; tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN cũng như các điều kiện cần thiết để bảo

đảm QCN và khẳng định: QCN là một phạm trù lịch sử; mang tính nhân loại và tính

giai cấp; nó là sản phẩm của phương thức sản xuất vật chất; gắn liền với nhà nước và

pháp luật, được bảo vệ bằng pháp luật; được thực hiện triệt để nhất trong chủ nghĩa xã

hội và chủ nghĩa cộng sản. Đây là những công trình đặt cơ sở phương pháp luận cho

việc triển khai nghiên cứu các chủ đề khác nhau về QCN.

Cùng với các đề tài khoa học, nhiều sách chuyên khảo có giá trị về QCN đã được

công bố như: "Quyền con người trong thế giới hiện đại", tác giả Phạm Khiêm Ích và

Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995) [59], sách "Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới

hiện đại" (1996), Chu Hồng Thanh chủ biên [111]; sách tham khảo "Góp phần tìm hiểu

quyền con người" (2006) của tác giả Phạm Văn Khánh [61]; sách "Triết học chính trị

về quyền con người" (2006) của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh; "Quyền con người, tiếp cận

đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên, "Tư tưởng

về quyền con người, Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam" (2011) của Khoa Luật,

Đại học quốc gia Hà Nội [64], "Dân chủ nhân quyền giá trị toàn cầu và đặc thù quốc

Page 13: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

9

gia" (2011) của Hội đồng Lý Luận Trung ương [55], "Quyền con người, lý luận và

thực tiễn" (2014) của Viện NC quyền con người [139],... Mặc dù cách tiếp cận và phân

tích có khác nhau, song các công trình trên đều tập trung nghiên cứu, luận giải khái

niệm QCN, bản chất đặc trưng của QCN, nội dung các quyền cơ bản của con người

cũng như các điều kiện, cơ chế bảo đảm QCN...

Trên cơ sở các công trình nghiên cứu, một số cơ sở đào tạo đã biên soạn giáo

trình giảng dạy về QCN. Tiêu biểu là giáo trình "Lý luận về quyền con người" do Viện

nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010) biên

soạn và "Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người" của Khoa luật, Đại học

quốc gia (2009) [63]... Mặc dù cách tiếp cận, phân tích khác nhau, song nhìn chung,

các giáo trình này đều tập trung giới thiệu về những vấn đề lý luận của QCN như: khái

niệm QCN; đặc trưng cơ bản của QCN; nội dung cơ bản của QCN; sự phát triển QCN

trong lịch sử nhân loại; luật quốc tế về QCN; Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về QCN;

quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về QCN; phân tích

các điều kiện và cơ chế quốc gia và quốc tế bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh "Ngày

nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt. Đó là việc xác lập các nguyên

tắc và chuẩn mực nhân quyền. Đó là sự hình thành cơ chế quốc tế bảo vệ quyền con

người. Tuy nhiên, việc bảo đảm các quyền con người hiện nay chủ yếu vẫn nằm trong

khuôn khổ quốc gia, trong thẩm quyền pháp lý của các nhà nước" [138, tr.126]. Vì vậy,

các quốc gia đều có nghĩa vụ ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực thi QCN theo quy định

của Luật nhân quyền quốc tế, đồng thời có trách nhiệm tôn trọng cơ chế giám sát quốc

tế và phải tuân thủ các công ước mà quốc gia đã ký kết, gia nhập....

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người

- Về khái niệm bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN,

tuy nhiên phần lớn các công trình tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc

bảo đảm QCN, còn vấn đề lý luận bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập. Tác

giả Lê Hồng Sơn trong bài "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành và hoạt

động của các cơ chế bảo đảm quyền con người" cho rằng: "Bảo đảm quyền con người

là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế,

chính trị, văn hóa, pháp luật trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tâm quan trọng hàng

đầu" [99, tr.123]. Điều đó có nghĩa bảo đảm QCN không thực hiện một cách đơn lẻ mà

phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau, vấn đề là phải tạo ra các điều

kiện để việc bảo đảm QCN được thực hiện.

Page 14: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

10

Khái niệm bảo đảm QCN còn được đề cập đến trong một số bài viết như: "Bảo

đảm quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính" (2009) của tác giả Lê

Thị Hồng Nhung, [90]; "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con người,

quyền công dân" (2014) của Hoàng Hùng Hải [41]. Tác giả Hoàng Hùng Hải cho rằng:

"Bảo đảm quyền con người là hoạt động của các chủ thể thực hiện một hệ thống các

điều kiện và biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật hướng tới việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức" [41, tr.1]. Như vậy, bảo đảm

QCN theo tác giả là hoạt động có mục đích của các chủ thể nhằm tạo ra các điều kiện

cần thiết cho việc thực hiện QCN.

Ngoài ra có công trình không đề cập trực tiếp về khái niệm bảo đảm QCN mà tập

trung bàn về các điều kiện bảo đảm QCN. Chẳng hạn, nhóm tác giả đề tài "Các điều

kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước"

[43] cho rằng, bảo đảm QCN gắn liền với dân chủ, nhà nước pháp quyền, pháp luật,

dân trí, thông tin, kinh tế..., trong đó nhấn mạnh: dân chủ gắn bó hữu cơ với nhân

quyền và là công cụ, phương tiện bảo đảm và phát triển QCN. Mỗi nấc thang của dân

chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất lượng của QCN. Pháp luật là

phương tiện để ghi nhận các QCN, là một trong những điều kiện quan trọng nhất để

QCN được thực hiện.

Tác giả Nguyễn Thị Báo trong bài viết "Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm và

bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay" (2009) cho rằng, "các quyền con người

chỉ được bảo đảm và thực hiện khi bảo đảm được các điều kiện bảo đảm về chính trị;

về mặt thể chế; về nguồn lực kinh tế và về văn hóa" [6, tr.121]. Trên cơ sở phân tích

các điều kiện bảo đảm QCN, tác giả nhấn mạnh: "sự hiện diện ở tất cả các điều kiện

bảo đảm quyền con người trên chỉ có thể được bảo đảm khi có sự vận hành của các cơ

quan trong tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành

pháp và tư pháp" [6, tr.121]. Như vậy, theo tác giả, bảo bảo đảm QCN cần có hai yếu

tố, thứ nhất là các điều kiện để bảo đảm QCN; thứ hai, cơ chế bảo đảm QCN.

- Về thực tiễn bảo đảm QCN, đã có nhiều công trình được công bố, trong đó phải

kể đến công trình nghiên cứu "Hiến pháp, pháp luật và quyền con người- Kinh nghiệm

Việt Nam và Thụy Điển", do Trung tâm NC quyền con người Việt Nam và Viện Raoul

Wallenberg Thụy Điển thực hiện (2001). Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các học

giả hai nước về cơ chế bảo đảm QCN, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc bảo

đảm QCN, những thành tựu bảo đảm QCN ở Việt Nam và Thụy Điển. Bằng những lập

Page 15: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

11

luận khoa học và các dẫn chứng sinh động về thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam

những năm qua, tác giả Hoàng Văn Hảo nhấn mạnh "Việt Nam đã đạt được những

thành tựu rất to lớn, rất cơ bản trong lĩnh vực quyền con người, quyền công dân. Đó là

quyền sống trong độc lập, tự do. Phạm vi quyền ngày càng được mở rộng theo tiến

trình phát triển của đất nước, đặc biệt là, chúng ta đã giải quyết thành công một khối

lượng lớn các vấn đề xã hội" [125, tr.153-154].

Bài viết "Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và những vấn đề đặt

ra hiện nay" của tác giả Đặng Dũng Chí (2014) tập trung phân tích thực tiễn việc bảo

đảm QCN của Việt Nam như quyền bầu cử ứng cử; quyền tự do lập hội; quyền tự do

ngôn luận, báo chí, thông tin; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền giáo dục; quyền

chăm sóc sức khỏe; quyền phụ nữ, trẻ em...Tác giả khẳng định "Những thành tựu đạt

được trên lĩnh vực quyền con người trong thời gian qua tạo nền tảng vững chắc để

chúng ta giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực nhân quyền trong

giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" [19, tr.270].

Bài viết "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con người trong thời

kỳ đổi mới", tác giả Tạ Ngọc Tấn (2014) đã phân tích những thành tựu về QCN mà

Việt Nam đạt được như: (1) Khẳng định QCN là bản chất của chế độ XHCN, là mục

tiêu của Nhà nước và là động lực của sự phát triển đất nước; (2) Hình thành được

những quan điểm cơ bản về QCN làm cơ sở cho việc xem xét, thực hiện QCN ở Việt

Nam; (3) Xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong việc thực thi QCN ở Việt

Nam....Đánh giá về những thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam, tác giả nhấn

mạnh: "Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang giải quyết thành công những nhiệm

vụ đặt ra trên lĩnh vực quyền con người trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập quốc tế,

vừa bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam,

vừa góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nhân quyền quốc tế" [103, tr.10]. Những

thành tựu đó có ý nghĩa to lớn, không chỉ thể hiện sự kiên định lựa chọn con đường

XHCN của Đảng ta, mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của các lực lượng tiến bộ

và cách mạng trên thế giới.

Ngoài các công trình trên, nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn bảo đảm QCN

của các nhóm cụ thể. Chẳng hạn, trên lĩnh vực dân sự, chính trị, công trình: "Một số

vấn đề về quyền dân sự, chính trị" (1999) do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ

biên [45], đề tài "Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị trong pháp luật và thực tiễn ở

Việt Nam" (2010), Tường Duy Kiên chủ nhiệm [68], sách "Những vấn đề lý luận và

Page 16: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

12

thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị" (2009), Võ Khánh Vinh chủ biên

[143]…Các công trình này đã tập trung phân tích cơ chế bảo đảm QCN, quan điểm của

Đảng, chính sách của Nhà nước ta về quyền dân sự, chính trị; phân tích các quy định

của pháp luật quốc tế và quốc gia về các quyền dân sự, chính trị và thực tiễn thực hiện

quyền dân sự, chính trị trên các lĩnh vực: khiếu nại, tố cáo, tự do ngôn luận, tự do tín

ngưỡng, tôn giáo, tự do báo chí, thông tin, bầu cử ứng cử, quyền bình đẳng trước pháp

luật cũng như cơ chế bảo đảm quyền dân sự, chính trị... từ đó đề xuất một số giải pháp,

kiến nghị nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền dân sự, chính trị ở nước ta.

Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, sách "Một số vấn đề về quyền kinh tế, xã

hội", do Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên (1996) [44]; đề tài khoa học

cấp bộ "Thành tựu về thực hiện quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam" (2001) do

Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm [47]; sách tham khảo "Bảo vệ và thúc đẩy quyền kinh tế,

xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam", Nhà xuất bản Lao động xã

hội ấn hành (2011) [52]… Các công trình này tập trung phân tích những quy định pháp

luật quốc tế và quốc gia về kinh tế, xã hội, văn hóa; đánh giá thực trạng những thành

tựu, hạn chế trong việc thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (quyền giáo dục;

quyền lao động, việc làm; quyền an sinh xã hội; quyền chăm sóc sức khỏe…). Từ đó

đề xuất các giải pháp, kiến nghị bảo đảm tốt hơn các quyền trên như: hoàn thiện pháp

luật về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường các chính sách, chương trình và hành

động hỗ trợ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, nhất là các nhóm xã

hội dễ tổn thương,huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội và cộng đồng;

cần tích cực chủ động trong việc tuyên truyền, giáo dục về các kinh tế, xã hội, văn hóa

làm cho tất cả các cơ quan, viên chức nhà nước và toàn thể nhân dân....

Về quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, đã có nhiều công trình được triển khai

nghiên cứu như: sách "Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã

hội dễ bị tổn thương" (2007) của nhóm tác giả Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao,

Tường Duy Kiên biên soạn [112]; đề tài nghiên cứu "Những cản trở trong việc bảo

đảm quyền của nhóm người dễ bị tổn thương" (2011) do Trần Thị Hòe chủ nhiệm [53];

"Dự án điều tra cơ bản việc thực hiện quyền công dân của nhóm yếu thế tại các tỉnh

miền núi Phía Bắc" (2014) do Nguyễn Duy Sơn chủ nhiệm [102]… Các công trình trên

tập trung phân tích những thành tựu, hạn chế trong việc bảo vệ quyền của nhóm xã hội

dễ tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người có HIV, người khuyết tật, người cao tuổi, người

nghèo, người dân tộc thiểu số…), phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn

Page 17: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

13

chế, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp bảo đảm tốt hơn quyền của các

nhóm xã hội trên như: (1) Hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, chính sách về

quyền của nhóm dễ tổn thương, (2) Đổi mới bộ máy, cơ chế hoạt động của cơ quan

quản lý nhà nước về bảo vệ và thực hiện quyền của các nhóm dễ tổn thương, (3) Chú

trọng đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý, thực

thi việc bảo vệ quyền của các nhóm dễ tổn thương, (4) Đẩy mạnh thông tin, truyền

thông và giáo dục nhằm thay đổi hành vi trong việc thực hiện công tác bảo đảm quyền

của nhóm dễ tổn thương...

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong điều

kiện hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vậy

HNQT đã và đang tác động đến QCN và vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN

như thế nào? Trả lời câu hỏi này, tác giả Kieren Pitzpatrick, trưởng ban thư ký của Asia

Pacific Forum có bài viết "Toàn cầu hóa, thương mại và nhân quyền" (2004). Bằng

những số liệu khảo sát từ nhiều quốc gia, tác giả khẳng định TCH đã và đang là "thách

thức đối với việc tuân thủ quyền con người". Bởi lẽ, TCH đã làm cho khoảng 400 triệu

người trên thế giới phải đối mặt với nạn thiếu lương thực, thất nghiệp và phân hóa giàu

nghèo ngày càng gia tăng (20% dân số thế giới là những người nghèo nhất nhưng chỉ

chiếm 1,3% mức tiêu thụ cá nhân). Nó giúp các nước giàu được giàu hơn, còn công

bằng xã hội bị chối bỏ nhiều hơn, quyền được làm việc, quyền chăm sóc sức khỏe,

quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được giáo dục luôn bị đe dọa bởi những tác

động của TCH. Vì vậy, "toàn cầu hóa gây nên phản ứng mạnh mẽ trong xã hội công

dân cũng như các cá nhân trên toàn thế giới. Họ nhận thấy những quyết định ảnh

hưởng đến đời sống của học được đưa ra bởi những tập đoàn hùng mạnh nhưng thiếu

trách nhiệm" [69, tr.215-216]. Do đó, các quốc gia cần phải có những "quy tắc mới cho

các cuộc chơi" toàn cầu nhằm bảo đảm những nhu cầu căn bản của nhân dân như: sức

khỏe, giáo dục, việc làm...

Nghiên cứu về QCN trong TCH và HNQT, tác giả Lưu Kiệt có cách nhìn toàn

diện hơn về tác động của HNQT, trong bài viết "Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế

giới và sự nghiệp quyền con người của Trung Quốc" (2002). Theo tác giả, gia nhập Tổ

chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội để Trung Quốc cải thiện và

thúc đẩy QCN. Chẳng hạn, gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ có điều kiện để mở rộng và

bảo đảm các QCN của người dân theo một cách thức hiệu quả hơn, kinh tế tăng trưởng,

Page 18: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

14

các quyền lao động, việc làm, quyền có mức sống thỏa đáng của người dân được cải

thiện và bảo đảm và điều quan trọng là việc tham gia WTO đã tác động đến việc xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm QCN trên lĩnh vực kinh tế, xã hội của

Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu hợp tác về QCN… Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng đưa

đến cho Trung Quốc nhiều thách thức mới, đó là sự can thiệp của các tổ chức phi chính

phủ vào việc bảo vệ QCN cũng như việc đặt ra hàng loạt các QCN mới đòi hỏi chính

phủ phải giải quyết như: bảo vệ quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Trung

Quốc; bảo vệ quyền có việc làm của người dân trong các công ty đa quốc gia; vấn đề

về tiêu chuẩn lao động tối thiểu; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quyền thành lập công

đoàn của người lao động… Do đó, gia nhập WTO, cơ hội bảo đảm và thúc đẩy QCN,

nhưng thách thức cũng không nhỏ, vì vậy, chính phủ Trung Quốc phải có những chính

sách, bước đi phù hợp để "biến cái tiêu cực thành cái tích cực, tức là chuyển vấn đề này

thành động lực phát triển sự nghiệp quyền con người" [70, tr.479].

Ở Việt Nam, vấn đề TCH với quyền con người và quyền công dân (QCD) đã

được nhiều học giả nghiên cứu, trong đó, cuốn sách "Toàn cầu hóa và quyền công dân

ở Việt Nam (nhìn từ khía cạnh văn hóa)" (1999), do Trần Văn Bính chủ biên, đã khởi

đầu cho các công trình nghiên cứu được xuất bản tiếp theo. Trên cơ sở phân tích về tính

tất yếu của TCH cũng như các tác động của TCH đến việc thực hiện QCN và QCD,

các tác giả khẳng định, TCH bên cạnh mặt tích cực của nó thì cũng bộc lộ không ít tiêu

cực đến QCN, đó là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, là những tệ nạn xã hội

nảy sinh tràn lan, là sự du nhập của văn hóa và lối sống vị kỷ của Phương Tây…Theo

nhóm tác giả, "để hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa để khắc phục những yếu kém trước

đây, Nhà nước tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường theo

định hướng XHCN" [12, tr.25]; xây dựng và hoàn thiện các chính sách xã hội; không

ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân…

Cùng nghiên cứu về tác động của TCH đến QCN, các bài viết: "Toàn cầu hóa,

kinh tế thị trường và nhân quyền", tác giả Cao Đức Thái [106]; "Toàn cầu hóa với việc

bảo đảm quyền con người ở Việt Nam" (2009), tác giả Hoàng Hùng Hải [40]; "Quyền

con người trong bối cảnh toàn cầu hóa", tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, sách "Những vấn

đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự, chính trị" (2009) [57]... Các bài viết

này tập trung đề cập đến tác động của TCH đến QCN. Theo tác giả Cao Đức Thái,

TCH là "cơ hội hiếm có để con người nâng cao nhân phẩm", nhưng đồng thời cũng

"làm hoen ố lương tâm, danh dự, lòng tự trọng, sự khoan dung, lòng nhân ái" của con

Page 19: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

15

người. Toàn cầu hóa bên cạnh việc mở ra cơ hội để con người nâng cao chất lượng

cuộc sống nhưng cũng tạo ra những vấn đề bức xúc đối với QCN, đó là "sự bất bình

đẳng, bất công giữa khu vực với khu vực, quốc gia với quốc gia và cá nhân với cá

nhân" [106, tr.191]. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: TCH không chỉ làm thay

đổi về bức tranh kinh tế mà còn là sự thay đổi về văn hóa trong đó có QCN bởi lẽ, thực

tiễn quá trình TCH làm cho giá trị phổ biến của QCN đang lấn át các giá trị đặc thù.

Toàn cầu hóa "đặt các chính phủ, nhất là ở các nước đang phát triển trước một tình thế

khó xử khi phải đáp ứng cùng một lúc hai thỏa thuận; một là thỏa thuận về bảo đảm và

thực thi QCN nói trên; và hai là thỏa thuận về toàn cầu hóa, yêu cầu nhà nước phải rút

khỏi những hoạt động can thiệp vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội" [57, tr.48]. Điều này

đòi hỏi các quốc gia phải có sự điều chỉnh chính sách và luật pháp cho phù hợp để vừa

tham gia hội nhập, lại vừa giữ được chủ quyền của mình.

Bàn về tác động của TCH đến QCN, tác giả Hoàng Hùng Hải nhấn mạnh: "toàn

cầu hóa là thời cơ đi liên thách thức trong việc bảo đảm quyền con người" [40, tr.148],

bởi tham gia TCH, các quốc gia có cơ hội mở rộng và hiện thực hóa các QCN, trong đó

có nhiều quyền mới, song nó cũng tạo ra nhiều thách thức và trở ngại trong việc bảo

đảm QCN. Do đó, Việt Nam tham gia vào quá trình TCH cần phải tận dụng được thời

cơ, vượt qua thách thức, bảo đảm tốt hơn các QCN bằng cách: xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải

cách tư pháp; mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của các quốc gia

theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi…

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO

ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền

con người ở Việt Nam

Sách "Quyền lực nhà nước và quyền công dân" (2003) của tác giả Đinh Văn

Mậu tiếp cận QCN từ góc độ tổ chức nhà nước. Theo tác giả, quyền lực nhà nước thực

chất là quyền lực của nhân dân, nhưng nhân dân không thể thực hiện được quyền lực

của mình, mà phải ủy quyền cho nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước do nhân dân

thiết lập và trao quyền. Quyền lực đó thể hiện ý chí của nhân dân và được bảo đảm

thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước. Do vậy, "nhà nước có nghĩa vụ bảo

đảm và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân" [83, tr.88] và "quyền

con người được bảo đảm và thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà

Page 20: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

16

nước như cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân

dân các cấp), cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát)" [83, tr.88], trong đó Quốc hội là

cơ quan có vị trí cao nhất, là "trung tâm của cơ chế bảo đảm và thực hiện mối quan hệ

giữa nhà nước và cá nhân công dân". Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp tổ

chức thực hiện mối quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân công dân. Toàn án và Viện

kiểm sát nhân dân là những bộ phận "chuyển tải quyền lực nhà nước chứa đựng trong

pháp luật vào đời sống xã hội qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể". Chính vì vậy, để

ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước trong việc bảo đảm QCN và QCD,

theo tác giả cần hoàn thiện tổ chức Nhà nước, trong đó chú trọng: đổi mới tổ chức thực

hiện thẩm quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính Nhà nước, cải cách tư pháp và

nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân chủ hóa xã hội.

Sách tham khảo "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (2004), tác giả Trần Ngọc Đường tập trung phân tích vai

trò của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Tác giả nhấn

mạnh: những bảo đảm pháp lý trong việc thực hiện QCN bao gồm hệ thống thống nhất

về mặt pháp lý các yếu tố sau: a/ Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ

pháp lý thông qua hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan

hành pháp, thông qua hệ thống cơ quan tư pháp, thông qua mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

b/ Thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; c/ Thông qua hành vi hợp pháp

và trình độ văn hóa pháp lý của mỗi cá nhân công dân. Tác giả nhấn mạnh trách nhiệm

của "cộng đồng quốc tế và Nhà nước thành viên phải ghi nhận và bảo vệ các giá trị của

quyền con người" [35, tr.139] và "muốn đạt được điều đó, bên cạnh hệ thống các quyền

và nghĩa vụ của công dân, phải thiết lập một hệ thống các quyền và nghĩa vụ của Nhà

nước. Đó chính là thiết lập trách nhiệm của các viên chức có chức, có quyền trong bộ

máy Nhà nước" [35, tr.138].

Đề cập đến vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN nhưng trong phạm vi

một quyền cụ thể của con người, Luận án Tiến sỹ "Vai trò của Nhà nước đối việc thực

hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam ở Việt Nam hiện nay" (2002), tác giả

Trần Thị Băng Thanh, đã phân tích vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện quyền

dân chủ, thực trạng vai trò Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của

nhân dân, từ đó đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu

Page 21: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

17

quả tác động của Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân

ở nước ta hiện nay [113].

Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo, bài tạp chí viết về vai trò của Nhà nước trong việc

bảo đảm QCN: bài "Nhà nước, cơ chế bảo đảm quyền con người" (Tạp chí Nghiên cứu

Lập pháp, số 2/2003), tác giả Tường Duy Kiên. Bài viết đã tập trung làm sáng rõ vai

trò của Nhà nước cũng như cơ chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN và khẳng

định: "việc bảo vệ quyền con người, các quyền tự do của công dân là trách nhiệm trước

tiên thuộc về Nhà nước, thông qua họat động thực hiện chức năng của các cơ quan

trong bộ máy Nhà nước" [65, tr.28]. Điều đó có nghĩa là cơ chế bảo đảm các QCN ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay chính là tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động

của của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tác giả nhấn mạnh, trong cơ chế bảo đảm

QCN ở Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò trụ cột trong đó, các cơ quan chịu trách

nhiệm chính trong việc bảo đảm QCN gồm: Quốc hội; Chính phủ; các cơ quan Tư

pháp (Tòa án, Viện kiểm sát…). Tuy nhiên, "Nhà nước mới chỉ là một phân hệ trong

hệ thống chính trị", do đó, cơ chế bảo đảm QCN ở nước ta cần xác định rộng hơn, tức

là cả hệ thống chính trị.

Cùng chủ đề này, tạp chí Nghề luật, số 8/2004, tác giả Tường Duy Kiên có bài

viết "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con

người". Theo tác giả, nhà nước đóng vai trò quan trọng, giữ vị trí trụ cột trong việc bảo

đảm QCN và QCD. Để QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tôn trọng

và bảo vệ thì cần phải: a/ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng pháp

luật về quyền con người, quyền công dân; b/ Xây dựng chế độ trách nhiệm của cơ quan

Nhà nước, cán bộ công chức trong quá trình thực thi công vụ; c/ Đảm bảo tính độc lập

của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; d/

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; e/ Đề cao vai trò của các tổ

chức xã hội dân sự...

Nhận định về vai trò quan trọng của nhà nước trong việc tôn trọng và bảo đảm

QCN, bài viết "Quyền con người và Nhà nước pháp quyền" (2009), tác giả Nguyễn

Trung Tín khẳng định: "...để bảo vệ quyền con người nói chung và thực hiện các cam

kết quốc tế về quyền con người nói riêng, quốc gia phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất

định như: nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện" [121, tr.112].

Nghĩa vụ tôn trọng QCN của quốc gia là đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải kiềm

chế không can thiệp (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào việc hưởng thụ các QCN của cá

Page 22: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

18

nhân. Nghĩa vụ này thường liên quan đến các quyền dân sự, chính trị. Nghĩa vụ thực

hiện của quốc gia đặt ra trách nhiệm của nhà nước phải có những hành động tích cực

nhằm bảo đảm QCN được thực hiện trên thực tế, tức là đưa các quy định pháp luật về

QCN phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế vào cuộc sống. Nghĩa vụ bảo vệ đặt ra trách

nhiệm của nhà nước phải ngăn chặn các hành vi vi phạm các QCN từ phía các chủ thể

khác (có thể là cá nhân, tổ chức hoặc chính các cơ quan nhà nước) trên tất cả các lĩnh

vực: dân sự, chính trị; kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của nhóm dễ bị tổn thương.

Bài viết "Đảng và Nhà nước ta với quyền con người", tác giả Cao Đức Thái (Tạp

chí quốc phòng toàn dân) (2012) đã khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước trong

việc bảo đảm các QCN của công dân. Nhà nước có trách nhiệm ban hành các chính

sách, đạo luật tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN; tham gia ký kết các Văn kiện

quốc tế về QCN và nội luật hóa các quy định đó vào hệ thống pháp luật Việt Nam.

Phân tích về vai trò của Nhà nước, nhân tố trụ cột trong việc bảo đảm và thực hiện

QCN, tác giả viết "…Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là Nhà

nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Các quyền cơ bản của mọi người

được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ" [108]. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các

Công ước quốc tế về QCN và luật hóa những công ước đó trong hệ thống pháp luật

quốc gia. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã tương thích với luật quốc tế về QCN; các

quyền về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân ta đã được bảo đảm

ngày càng tốt hơn trong thực tế.

Bài viết "Bảo đảm quyền con người thuộc bản chất của Nhà nước ta" của tác giả

Lệ Chi (2012) đã tập trung phân tích những quan điểm, chủ trương và các biện pháp

nhằm bảo đảm QCN của Nhà nước ta, phân tích những thành tựu về QCN mà Nhà

nước Việt Nam đạt được từ khi Đổi mới đến nay và khẳng định, "với bản chất ưu việt

của nhà nước XHCN, bảo vệ QCN, chăm lo cho con người là mục tiêu cao nhất của

Nhà nước Việt Nam" [17].

Khẳng định vai trò nhà nước trong việc bảo đảm QCN, bài viết "Bảo đảm thực

hiện quyền con người ở Việt Nam" của tác giả Võ Văn Ninh (Báo điện tử Đảng cộng

sản Việt Nam) tập trung phân tích những thành tựu về QCN mà Việt Nam đạt được

trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đồng thời khẳng định Nhà

nước Việt Nam đóng vai trò quan trọng và là chủ thể chính trong việc bảo đảm và thực

thi QCN: "Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyền con người là thành quả và khát

vọng chung của nhân loại...Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động

Page 23: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

19

lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo

và thúc đẩy các quyền con người" [91]. Do đó, để phát huy hiệu quả của Nhà nước

trong việc bảo đảm QCN, Nhà nước cần tích cực ban hành các đạo luật về QCN. Vì

vậy, bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các luật về QCD; xây

dựng, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức, xây dựng cơ chế kiểm tra,

giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và cơ quan nhà nước; không ngừng

nâng cao mức sống của nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng

xã hội, tạo nền tảng cho phát triển bền vững, bảo đảm ngày càng tốt hơn các QCN…

Cũng đề cập đến vai trò nhà nước trong bảo đảm QCN, bài viết "Cơ chế và các

điều kiện nhằm bảo đảm quyền kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay", trong sách "Một số

vấn đề về quyền kinh tế, xã hội" (1996) [44], tác giả Tường Duy Kiên đã tập trung

phân tích cơ chế, vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm quyền kinh tế, xã hội. Tác

giả nhấn mạnh: Cơ chế bảo đảm là những biện pháp, cách thức tác động của Nhà nước

thông qua việc ban hành các chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện bộ máy, các cơ

quan chuyên trách thực hiện chức năng giám sát đối với tất cả các cơ quan nhà nước, tổ

chức xã hội trong những lĩnh vực có liên quan nhằm thúc đẩy, bảo đảm quyền kinh tế,

xã hội của công dân được thi hành trong thực tiễn cuộc sống…Chính vì vậy, trách

nhiệm của nhà nước là phải tạo ra một cơ chế thích hợp để bảo vệ các quyền kinh tế, xã

hội của người dân một cách cao nhất trong khả năng của mình.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm quyền

con người trong điều kiện hội nhập quốc tế

Đề tài cấp bộ "Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu

hóa và hội nhập quốc tế - vấn đề và giải pháp" (2008), do Đặng Dũng Chí chủ nhiệm.

Từ lăng kính nhân quyền, nhóm tác giả cho rằng, TCH và HNQT là cơ hội để các quốc

gia xóa bỏ khoảng cách về địa lý, văn hóa, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giúp người

dân tiếp cận thông tin, nâng cao trình độ dân trí, tìm kiếm việc làm, cải thiện thu nhập

để thoát khỏi đói nghèo, tạo điều kiện để các quốc gia bảo đảm tốt hơn các quyền kinh

tế, xã hội, văn hóa, đồng thời cũng đặt các quốc gia trước nhiều thách thức, đó là vấn

đề đói nghèo, thất nghiệp, bệnh dịch, khủng bố, chiến tranh nhân danh nhân quyền. Vì

vậy, phát huy vai trò nhà nước trong việc bảo đảm QCN là vấn đề quan trọng hơn bao

giờ hết bởi chỉ nhà nước với vai trò, vị trí, chức năng của mình mới có thể đảm đương

được nhiệm vụ này. Trong điều kiện HNQT, Nhà nước Việt Nam cần: (a) thực hiện

nghĩa vụ đối với các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên; (b) thực thi

Page 24: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

20

tất cả các biện pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm QCN, trong đó chú

trọng cải cách hoạt động lập pháp, xây dựng và hoàn thiện bộ máy thực hiện quyền

hành pháp, hoàn thiện hệ thống tư pháp..; (c) tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục

nội dung các công ước quốc tế về QCN; (d) soạn thảo và đệ trình các báo cáo quốc gia

về QCN; (e) hợp tác quốc tế (HTQT) trên lĩnh vực thực hiện công ước về QCN [18]...

Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT còn được đề cập khi

phân tích về nghĩa vụ của các quốc gia thành viên khi tham gia các điều ước quốc tế về

QCN của đề tài cấp bộ "Tổ chức và hoạt động của cơ quan nhân quyền quốc gia một

số nước ASEAN và Trung Quốc - Kinh nghiệm đối với Việt Nam" do Nguyễn Đức

Thùy chủ nhiệm (2011). Các tác giả khẳng định: Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên

trong việc bảo đảm QCN điều kiện HNQT gồm: (a) Nội luật hóa các quy định của các

điều ước quốc tế về QCN vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, thông qua việc áp

dụng trực tiếp hoặc gián tiếp; (b) Tôn trọng, bảo vệ và thực thi ở mức cao nhất có thể

những quy định, chuẩn mực QCN quốc tế (thông qua hoạch định chính sách, chương

trình hành động); (c) Thúc đẩy việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về QCN cho các

cán bộ công chức cũng như người dân nhằm hạn chế sự vi phạm về QCN từ các cơ

quan và đại diện công quyền; (d) Hợp tác chặt chẽ với các tổ chức liên chính phủ, tổ

chức chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy và bảo đảm QCN; (e) Tiến hành

soạn thảo, đệ trình và báo cáo quốc gia định kỳ kiểm điểm về thực thi những điều ước

quốc tế về QCN, giải trình các vấn đề mà các Ủy ban công ước có liên quan đặt ra, trả

lời kháng thư, tiếp thu các nhận xét, bình luận của các Ủy ban công ước trong việc bảo

đảm, thực thi các nghĩa vụ cam kết quốc tế [120].

Bài viết "Bảo đảm và thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong điều kiện hội

nhập quốc tế", tác giả Vũ Hoàng Công (2014). Mặc dù không bàn trực tiếp về vai trò

nhà nước trong việc bảo đảm QCN, song bằng việc phân tích những thành tựu mà Việt

Nam đã đạt được cũng như những khó khăn, thách thức mà Việt Nam gặp phải đối với

việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT, tác giả nhấn mạnh để bảo đảm tốt hơn các

QCN, Nhà nước Việt Nam cần: (1) Chủ động, tích cực tham gia các công ước và diễn

đàn quốc tế về QCN trong phạm vi toàn cầu và khu vực; (2) Tiếp tục hoàn thiện thể

chế pháp lý theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; (3)

Tăng cường pháp chế trong bảo vệ QCN; (4) Tăng cường hợp tác quốc tế, sẵn sàng đối

thoại về QCN, đồng thời đấu tranh với những đòi hỏi và luận điệu phi lý từ bên ngoài;

(5) Tích cực HNQT, lấy sức mạnh kinh tế làm nền tảng lâu dài cải thiện QCN, đồng

Page 25: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

21

thời làm sức hút với quốc tế và ngăn cản các thế lực muốn lợi dụng vấn đề QCN để can

thiệp vào nước ta [22].

Tiếp tục chủ đề trên, tác giả luận án có bài viết "Tác động của hội nhập quốc tế

đến việc bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam hiện nay", (Tạp chí Nhân lực khoa

học xã hội tháng 10/2014). Bài viết phân tích những cơ hội và thách thức đối với việc

bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT và khẳng định, HNQT là một xu thế tất yếu,

khách quan của các quốc gia. Đối với Việt Nam, HNQT đã tạo ra những cơ hội thuận

lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế bảo đảm QCN, thay đổi tư duy pháp lý về QCN,

song nó cũng có nhiều tác động tiêu cực đến QCN như: quyền lao động việc làm,

quyền sống trong môi trường trong sạch, quyền được hưởng an sinh xã hội... Để tồn tại

và phát triển, các nhà nước cần "tận dụng những tác động tích cực, hạn chế ảnh hưởng

tiêu cực của hội nhập quốc tế đến các quyền con người", trong đó, tập trung thực hiện:

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN, sửa đổi, ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật, nâng cao năng lực cho các chủ thể, tạo điều kiện cho con người thực

hiện đầy đủ các QCN trên các lĩnh vực; hoàn thiện tổ chức bộ máy bảo đảm QCN, tăng

cường cơ chế kiểm tra giám sát việc bảo đảm và thực thi QCN, mở rộng HTQT trên

lĩnh vực QCN, "có như vậy, vai trò và vị thế của nước ta mới không ngừng được nâng

cao trên trường quốc tế" [54, tr.33].

Bàn về phương hướng, giải pháp nâng cao tính hiệu quả của nhà nước đối với

việc bảo đảm QCN, sách chuyên khảo "Chủ nghĩa xã hội và quyền con người" của tác

giả Đặng Dũng Chí và Hoàng Văn Nghĩa (2014) tập trung phân tích những vấn đề lý

luận và thực tiễn bảo đảm QCN ở nước XHCN, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở phân

tích, đánh giá sự phát triển về mặt lý luận và những thành tựu bảo đảm QCN mà Việt

Nam đạt được trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa thời kỳ đổi

mới và hội nhập, nhóm tác giả làm rõ những yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm QCN

trong điều kiện HNQT ở Việt Nam hiện nay, đó là: (1) Hoàn thiện hệ thống chính sách,

pháp luật về QCN; (2) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đổi mới tổ

chức bộ máy của các cơ quan nhà nước; (3) Kiện toàn bộ máy, tổ chức và hoạt động

của các cơ quan Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan Tư pháp); (4) Đẩy

mạnh cải cách hành chính Nhà nước; (5) Đẩy mạnh cải cách tư pháp; (6) xây dựng và

hoàn thiện các thiết chế, cơ chế bảo đảm QCN; (7) Tăng cường nâng cao nhận thức

pháp luật về QCN; (8) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, bảo vệ

môi trường, phát triển văn hóa, chăm lo đến con người và sự phát triển QCN [20].

Page 26: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

22

Cùng chung chủ đề này, bài viết "Nâng cao trách nhiệm bảo đảm quyền con

người của Nhà nước hiện nay", tác giả Nguyễn Thanh Tuấn và Trần Thị Hòe (Tạp chí

Lý luận chính trị số 1/2015) [126]. Bài viết đã tập trung phân tích nghĩa vụ của nhà

nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT. Theo tác giả, để bảo đảm có

hiệu quả các QCN trong điều kiện HNQT hiện nay, các chủ thể của Nhà nước cần áp

dụng một số biện pháp chủ yếu như: Hướng dẫn, tổ chức và thực hiện các chỉ thị, nghị

quyết có ý nghĩa chiến lược về bảo đảm QCN; Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc

thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm QCN; Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, tổ

chức, thực hiện các chương trình, chính sách phát triển; tập trung xây dựng và củng cố

các thiết chế bảo đảm QCN; Tuyên truyền nâng cao nhận thức về QCN...

Cùng đề cập đến hương hướng bảo đảm QCN của nhà nước, chuyên đề "Quan

điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người", (trong

Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã

hội, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, tập 8), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh (2014) [51]. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về

QCN, chuyên đề đã đưa ra những định hướng của Đảng Nhà nước về bảo đảm QCN.

Đó là: (1) Giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; (2) Xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo vệ và thúc đẩy QCN;

(3) Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội bảo đẩm và nâng cao sự hưởng thụ của con

người; (4) Đẩy mạnh dân chủ, giữ vững ổn định xã hội, bảo đảm QCN; (5) Giáo dục về

QCN; (6) Mở rộng HTQT về QCN. Đây là những định hướng quan trọng nâng cao

hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Có thể khẳng định, dù cách tiếp cận, phân tích và diễn đạt có khác nhau, song

nhìn chung, các công trình kể trên ít nhiều đều đề cập tới nhà nước đối với việc bảo

đảm QCN thời kỳ HNQT, phân tích về những yêu cầu, nhiệm vụ của nhà nước đối với

việc bảo đảm QC, từ đó khuyến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN. Đây là những tài liệu tham khảo có giá

trị để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu và tiếp tục phân tích trong luận án.

Ngoài ra, còn có nhiều công trình, bài viết về QCN, bảo vệ QCN, về tác động của

HNQT đến QCN, về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN của nhiều học giả trong và

ngoài nước khác, nhưng do giới hạn của Luận án, tác giả chỉ nêu một số công trình

khoa học liên quan, mặc dù vậy trong mục tài liệu tham khảo có đề cập và trích dẫn.

Page 27: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

23

1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA MÀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Những giá trị cần tham khảo của các công trình liên quan

Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều luận giải các vấn đề về QCN, bảo

đảm và thực hiện QCN, tác động của HNQT đến QCN, về nhà nước đối với việc bảo

đảm QCN, các giải pháp, kiến nghị về phát huy nhà nước đối với việc bảo đảm QCN,

nhất là trong thời kỳ HNQT... Các công trình khoa học trên có ý nghĩa về mặt lý luận

và thực tiễn, gợi mở nhiều vấn đề để tác giả luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo

hướng mới.

Các giá trị khoa học của các công trình được luận án tiếp thu, kế thừa có chọn lọc

nhằm thực hiện được mục tiêu chính của luận án. Sau khi nghiên cứu các công trình

trên, tác giả luận án rút ra một số kết luận sau:

Một là, dựa trên kết quả nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm

QCN, các công trình khoa học đã đưa ra bức tranh chung về sự hình thành và phát triển

những vấn đề lý luận về QCN và thực tiễn bảo đảm QCN. Mặc dù cách tiếp cận và

luận giải khác nhau, nhưng các tác giả đều có chung quan điểm:

Thứ nhất, về khái niệm QCN, dù cách định nghĩa có khác nhau, song đều khẳng

định QCN là những nhu cầu tự nhiên, bẩm sinh, vốn có của con người để tồn tại với tư

cách là một "thực thể tự nhiên" và với tư cách là một thực thể xã hội, được nhà nước

thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật [58], [59], [61], [101], [138], [144]...

Thứ hai, về bảo đảm QCN, có nhiều công trình nghiên cứu về bảo đảm QCN, tuy

nhiên phần lớn đều tập trung phân tích những kết quả và thực trạng việc bảo đảm

QCN, còn việc định nghĩa thế nào là bảo đảm QCN chưa có nhiều công trình đề cập.

Trong các tài liệu mà tác giả có điều kiện tham khảo, một vài công trình có đề cập đến

khái niệm bảo đảm QCN, song chủ yếu nhấn mạnh tới chủ thể có nghĩa vụ là nhà nước

còn các chủ thể khác chưa được đề cập đến [41], [99], [90], còn phân lớn các công

trình khác đều đề cập đến bảo đảm QCN từ góc độ phân tích về các cơ chế và điều kiện

đảm bảo QCN ở Việt Nam như bảo đảm về mặt pháp luật, bảo đảm về mặt chính sách,

hoàn thiện tổ chức bộ máy bảo đảm QCN... [17], [43], [52], [59], [91], [6],... Nhiều

công trình đề cập đến bảo đảm QCN thông qua việc phân tích, khái quát những thành

tựu và hạn chế về QCN mà Việt Nam đạt được [17], [19], [42], [91], [103]... Đây là

những tư liệu quan trọng để chúng tôi tiếp thu và tiếp tục làm sâu sắc hơn trong

Chương 2 và Chương 3 của Luận án.

Page 28: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

24

Hai là, nhiều công trình tập trung phân tích tác động của TCH và HNQT đến

QCN và nhà nước đối với việc bảo đảm QCN, trong đó nhấn mạnh: TCH và HNQT

mở ra nhiều cơ hội cho mở rộng và thực thi QCN, song cũng đặt nhà nước trước nhiều

thách thức bởi việc tuân thủ các định chế quốc tế cùng với sự can thiệp của các tổ chức

quốc thế, các tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội dân sự...vai trò của nhà nước dường

như bị thu hẹp. Điều này đã và đang là trở ngại cho việc nâng cao tính hiệu quả của nhà

nước đối với việc bảo đảm QCN. Kết quả nghiên cứu của các công trình này là tư liệu

quan trọng và hữu ích để luận án đề xuất cách tiếp cận mới cơ chế bảo đảm QCN trong

điều kiện HNQT [12], [22], [40], [54], [57], [70], [106]...

Ba là, nhiều công trình đã đi sâu phân tích, làm rõ vai trò quan trọng của Nhà

nước Việt Nam trong việc bảo đảm QCN. Các nghiên cứu đi sâu lý giải tầm quan trọng

của nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực cao nhất và duy nhất có khả năng bảo

đảm QCN.

Do đó, Nhà nước phải được coi là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc tôn

trọng, bảo vệ và thực hiện QCN, kiềm chế, không can thiệp (cả trực tiếp và gián tiếp)

vào việc hưởng thụ các QCN đã được ghi nhận trong pháp luật; xây dựng các kế hoạch,

chương trình cụ thể để bảo đảm mọi công dân được hưởng thụ các QCN ở mức cao

nhất có thể; tổ chức thực hiện trên thực tế các biện pháp cụ thể bảo đảm QCN cho

người dân. Để thực hiện tốt các nghĩa vụ trên, nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp

luật bảo đảm QCN, xây dựng cơ chế bảo đảm QCN; xây dựng đội ngũ cán bộ làm

công tác bảo vệ QCN; thực hiện các chính sách an sinh xã hội; tham gia hợp tác quốc

tế trên lĩnh vực QCN...

Những giá trị khoa học này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là tiền đề để

luận án phân tích sâu sắc hơn cơ sở triết học của vai trò nhà nước đối với việc bảo đảm

QCN trong HNQT [20], [22], [36], [63], [65], [91], [120], [121]...

Bốn là, các công trình nghiên cứu đã đề xuất phương hướng, kiến nghị, giải pháp

quan trọng mà Nhà nước ta cần phải làm để thực hiện tốt nghĩa vụ bảo đảm QCN của

mình. Nhiều kiến nghị có giá trị khoa học và thiết thực cho các nhà hoạch định chính

sách, thực thi chính sách, các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, cơ quan nghiên

cứu, giảng dạy và các nhà khoa học như kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống

chính sách, pháp luật mang tính đồng bộ về QCN; củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy

Nhà nước để bảo vệ QCN; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trên

lĩnh vực QCN; thực hiện cải cách tư pháp; cải cách hành chính; phát triển kinh tế gắn

Page 29: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

25

với bảo đảm QCN; tuyên truyền giáo dục QCN; tăng cường HTQT trên lĩnh vực

QCN... Đây là những hướng gợi mở quan trọng để luận án đề xuất những giải pháp cơ

bản góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều

kiện HNQT [18], [20], [22], [54], [120], [126], [138]...

1.3.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã có nhiều đóng góp khoa học quan trọng

khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về QCN, bảo đảm QCN, thực tiễn bảo đảm QCN,

tác động của TCH và HNQT đến QCN và Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm

QCN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều

kiện HNQT, nhất là tiếp cận dưới góc độ triết học thì hầu như chưa có.

Do đó, hướng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề này trong luận án là hoàn toàn

mới. Kế thừa những giá trị mà các công trình trước, luận án tiếp tục đi sâu phân tích

những vấn đề sau:

Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ khái niệm QCN, bảo đảm QCN, phân tích đặc

trưng bản chất của QCN, các điều kiện bảo đảm QCN.

Thứ hai, luận án phân tích và luận giải về tầm quan trọng của nhà nước đối với

việc bảo đảm QCN; phân tích những biểu hiện cụ thể của vai trò nhà nước đối với việc

bảo đảm QCN; đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và khu vực trong

việc phát huy tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN làm cơ sở để so

sánh với việc bảo đảm QCN của Nhà nước Việt Nam.

Thứ ba, luận án góp phần làm rõ khái niệm HNQT, quá trình HNQT của Việt

Nam, tác động HNQT đến QCN và Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm QCN.

Thứ tư, luận án đánh giá thực trạng việc phát huy vai trò của Nhà nước Việt Nam

đối với việc bảo đảm QCN, đánh giá những thành tựu đạt được, những hạn chế tồn tại

và nguyên nhân, cũng như những vấn đề đặt ra đối với Nhà nước Việt Nam đối với

việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT.

Thứ năm, đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tính

hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT ở Việt Nam

hiện nay.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng xác định rằng, đây là vấn đề rất mới và khó, nên

những kết quả nghiên cứu trong luận án chỉ là bước đầu, vấn đề này vẫn cần tiếp tục

nghiên cứu sâu hơn trong những công trình tiếp theo.

Page 30: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

26

Chương 2

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

2.1. QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

2.1.1. Quyền con người - một số vấn đề lý luận cơ bản

2.1.1.1. Khái niệm quyền con người

Để làm rõ khái niệm bảo đảm QCN, trước tiên cần tìm hiểu QCN là gì? Cho đến

nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về QCN dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau,

điển hình là:

Từ phương diện pháp lý, Văn phòng Cao ủy LHQ định nghĩa: "Quyền con người

là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các

cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân

phẩm, sự được phép và tự do cơ bản của con người [151, tr.8].

Định nghĩa này được các nhà nghiên cứu trích dẫn khá phổ biến trong nhiều thập

kỷ qua. Cơ sở của định nghĩa này bắt ngồn từ Thuyết nhân quyền pháp lý (legal rights).

Theo Thuyết nhân quyền pháp lý, QCN không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một

cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm

pháp luật. Chẳng hạn, Jeremy Bentham trong tác phẩm "Phê phán học thuyết về các

quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng" (1843), khẳng định: ý tưởng về quyền tự

nhiên là vô nghĩa và chẳng có quyền nào không thể chuyển nhượng được. Quyền con

người là tất cả những gì mà nhà nước thông qua pháp luật để quy định cho cá nhân. Chỉ

những gì pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì mới là QCN.

Xét về bản chất QCN, Thuyết nhân quyền pháp lý có điểm hợp lý là gắn QCN

với pháp luật, với nhà nước và thấy được vai trò quan trọng, tầm quan trọng của pháp

luật trong việc bảo vệ QCN "không có pháp luật thì không có quyền". Tuy nhiên, nếu

chỉ coi ý chí nhà nước là nguồn gốc của QCN, coi trọng tính hợp pháp của quyền mà

không quan tâm đến tính hợp lý của QCN (đó là những đòi hỏi, nhu cầu bẩm sinh, tự

nhiên, hợp lý của cuộc sống con người, coi nhẹ cơ sở giá trị của đạo đức, văn hóa…) sẽ

rơi vào chủ quan, siêu hình, biến QCN trở thành công cụ phục vụ giới cầm quyền, cổ

vũ tính quan liêu của bộ máy nhà nước.

Từ phương diện "Pháp quyền tự nhiên"(Natural rights), "nhân quyền là những

quyền bẩm sinh, vốn có của con người" [140, tr.1239]. Đó là "quyền tự nhiên và cố hữu

của con người" [150, tr.6], là "những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con

Page 31: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

27

người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với những cá nhân và chính quyền"

[60, tr.12]. Các định nghĩa về QCN này bắt nguồn từ Thuyết pháp quyền tự nhiên thời

kỳ Phục Hưng. Theo học thuyết này, ở trạng thái tự nhiên, con người có các quyền tự

do, bình đẳng và tư hữu. Đó là các quyền bẩm sinh, vốn có được bắt nguồn từ "bản

chất muôn đời và bất biến của con người" [82, tr.80]. Trách nhiệm của nhà nước là phải

bảo đảm các quyền tự nhiên cho các công dân của họ. Bằng việc khẳng định các QCN

là tự nhiên, bẩm sinh, Thuyết pháp quyền tự nhiên thể hiện khát vọng của các thế lực

tiến bộ chống lại những bất công trong xã hội, đòi QCN. Tuy nhiên, nếu quá nhấn

mạnh tính tự nhiên của QCN dễ dẫn đến xem nhẹ nguồn gốc xã hội của QCN, không

thấy được tính lịch sử, tính giai cấp của QCN.

Từ phương diện chính trị- xã hội, học giả Trung Quốc, Lang Nghị Hoài cho rằng:

"quyền con người là một phạm trù xã hội mang tính tổng hợp, là sự giới định và thừa

nhận xã hội mà con người giành được với tư cách là một tồn tại xã hội" [49, tr.231].

Vấn đề "then chốt là ở chỗ phải gắn tiêu chuẩn quyền con người với những lý giải khác

nhau và tính đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi giai cấp" [49, tr.232]. Với cách tiếp cận

này, QCN không phải xuất phát từ bản năng mà chịu sự chi phối của chế độ xã hội.

Điểm hợp lý của quan niệm nhân quyền này là nhấn mạnh sự thừa nhận của xã hội và

lịch sử đấu tranh của con người giành lấy quyền của mình, song nếu quá nhấn mạnh

đến tính xã hội của QCN, dễ dẫn đến phủ nhận hoặc coi thường QCN với tư cách là

con người cá nhân, hòa tan giá trị cá nhân vào trong xã hội.

Từ phương diện đạo đức, nhân quyền được định nghĩa "là quyền lợi được thừa

nhận, bảo đảm rõ ràng về mặt pháp lý để mỗi cá nhân có thể được hưởng một cách độc

lập, đầy đủ, tự do nhất về các lĩnh vực cá tính, tinh thần, đạo đức" [142, tr.606].

Từ các cách tiếp cận trên cho thấy, QCN là vấn đề chính trị- xã hội phức tạp.

Nhận thức về QCN không chỉ phụ thuộc vào quan điểm chính trị, mà còn ảnh hưởng

sâu sắc truyền thống lịch sử, văn hóa của mỗi quốc gia. Thời gian qua, khi các nước

Phương Tây luôn có xu hướng đề cao quyền cá nhân, coi trọng tính tự nhiên của QCN,

xem quyền dân sự, chính trị là nội dung quan trọng, cốt lõi của QCN thì ở Phương

Đông lại đề cao quyền lợi của cộng đồng, nhấn mạnh đến tính lịch sử, xã hội của QCN,

coi trọng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của con người cũng như điều kiện để thực

hiện các quyền đó. Trong bối cảnh chưa có quan điểm thống nhất về QCN, có thể dẫn

đến những lý giải tùy tiện về nguồn gốc, bản chất của QCN. Vì vậy, để tránh lạm dụng

Page 32: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

28

vấn đề QCN, cần phải có một quan niệm thống nhất. Để đạt được điều đó, theo chúng

tôi, trước hết phải dựa vào chủ nghĩa Mác - Lênin.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, con người tự phân biệt với con vật

nhờ có lao động, ngôn ngữ trong các quan hệ với tự nhiên và xã hội. Trong tác phẩm

"Hệ tư tưởng Đức", C.Mác viết: "Có thể phân biệt con người với con vật bằng ý thức,

bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu tự

phân biệt với con vật ngay khi bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình - một

bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định" [78, tr.24]. Thế giới tự nhiên đã

không thỏa mãn nhu cầu của con người, nên con người quyết định bằng hành động của

mình sáng tạo ra thiên nhiên thứ hai như một tồn tại xã hội cho con người, từ đó, con

người sáng tạo ra lịch sử và văn hóa, hình thành các quyền và nghĩa vụ trong đời sống

cộng đồng. Ở trạng thái ban đầu, các quyền là thái độ của con người coi những điều

kiện tự nhiên của sản xuất của mình như một cái gì thuộc về mình, đã có từ trước cùng

với sự tồn tại của bản thân mình [78, tr.145], do đó, cơ sở phát sinh quyền ở đây không

phải bắt nguồn từ khái niệm nảy sinh ra trong đầu óc con người như các nhà triết học

duy tâm quan niệm mà theo C.Mác, chúng "bắt nguồn từ quan hệ vật chất giữa người

với người và từ sự đấu tranh giữa người với người do quan hệ đó gây ra" [78, tr.458].

Trong xã hội nguyên thuỷ, chưa có sự phân hóa giàu nghèo, giai cấp, quyền và nghĩa

vụ con người là ngang bằng và thống nhất một cách tự nhiên. Với tư cách là chủ thể

của sản xuất, con người có những quyền nhất định được xã hội mà nó đang tồn tại công

nhận, mặt khác, với tư cách là thành viên của xã hội, con người phải thực hiện các

nghĩa vụ của mình nhằm duy trì sự tồn tại và cố kết cộng đồng. Chính sự thống nhất tự

nhiên này giúp con người tận dụng các năng lực của mình, hợp thành các yếu tố cơ bản

trong nhân cách con người cùng các giá trị chân, thiện, mỹ đã phát triển trong lịch sử.

Như vậy, con người có quan hệ với quyền của mình là nhằm xác lập những hành động

phù hợp với ý chí của họ, tác động làm thay đổi thế giới mà họ đang tồn tại và phát

triển và là yếu tố cần thiết để xác lập vị trí và đặc tính các hội của con người. Tuy

nhiên, trong điều kiện của xã hội đó thì "nhiều lắm cũng chỉ có thể nói về quyền bình

đẳng giữa những thành viên của cộng đồng, lẽ dĩ nhiên phụ nữ, nô lệ, người ngoại lai

đều không có quyền đó" [80, tr.149].

Sau này, khi xã hội có sự phân chia giai cấp, khi lực lượng sản xuất đã vượt ra

khỏi khuôn khổ của xã hội cộng sản nguyên thủy, phân công lao động phát triển, những

mây thuẫn và xung đột xã hội xuất hiện là cơ sở cho việc hình thành những hình thái xã

Page 33: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

29

hội áp đặt và nô dịch người lao động. Bước tiến văn minh đầu tiên về tổ chức xã hội

được đánh dấu bằng sự ra đời của nhà nước và cùng với quá trình này là thiết lập quyền

của chủ nô thống trị và tước đoạt quyền của người nô lệ. Giai cấp chủ nô được quyền

lựa chọn mục đích và phương tiện sản xuất, trái lại, người nô lệ luôn phải thực hiện ý

chí của giai cấp thống trị. Thời kỳ này mở đầu sự tha hóa về quyền và nghĩa vụ con

người. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác đã phân tích sâu sắc về sự tha hóa

và xem nó như một tất yếu lịch sử, được diễn ra trong tất cả các giai đoạn phát triển của

xã hội loài người kể từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp và đạt tới giai đoạn phát

triển toàn diện trong xã hội tư bản. Trong tha hóa, các quá trình sản xuất ra của cải vật

chất, kết quả của lao động, các thiết chế xã hội, cả nhà nước và thị trường..." đã trở

thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải

con người thống trị" [78, tr.47]. Sở dĩ có tình trạng trên vì con người không phải là một

cá nhân trừu tượng hay cô lập, mà là một động vật xã hội luôn gắn bó với một hệ thống

xã hội đang tồn tại, với một giai cấp, một dân tộc, một nhóm người hay một ngành

nghề xác định đang vận hành theo những quy luật riêng của nó. Do vậy, con người luôn

bị giới hạn và lệ thuộc vào xã hội. Trong hoàn cảnh đó, nhiều thế lực xã hội như chế độ

tư hữu, nhà nước của giai cấp bóc lột và các lực lượng chưa được kiểm soát được luôn

áp đặt con người trên cả phương diện kinh tế lẫn phương diện chính trị -xã hội. Trong

đời sống, "hoạt động của chúng chẳng những đối lập với ý chí loài người, mà trái lại

còn điều khiển ý chí ấy và hành động ấy" [78, tr.49]. Đó là những thời kỳ lịch sử con

người bị tước đoạt các quyền tự do và là nguồn gốc xã hội chủ yếu để các giai cấp bị áp

bức, các lực lượng tiến bộ đấu tranh đòi QCN, giành lấy địa vị xứng đáng là con người.

Tuy nhiên, trong sự phát triển của lịch sử, con người không chấp nhận sự lệ thuộc

và sự tha hóa như một định mệnh, mà con người luôn cố gắng vượt qua những trở ngại

nhờ hoạt động thực tiễn của mình. Ngay trong các trường hợp con người bị tước đoạt

nhiều nhất về các phương tiện hoạt động, thì nó vẫn chứa đựng khả năng của một

‘động vật chính trị" như Aristotle quan niệm hay khả năng làm thay đổi hoàn cảnh của

chính mình như C.Mác đã khẳng định trong "Luận cương về Feuerbach" và những khả

năng này càng được gia tăng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng

thành của giai cấp công nhân, của tri thức và văn hóa, nó giúp con người vượt qua giới

hạn của sự lệ thuộc và tha hóa. Trong quá trình này, những yêu sách về QCN bắt nguồn

từ phẩm giá con người và những giá trị bình đẳng, tự do đã sản sinh ra trong lịch sử tìm

được khả năng hiện thực hóa các quyền của mình trong những hành động tập thể của

Page 34: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

30

các nhóm xã hội, các giai cấp, các đảng phái chính trị, nhằm vượt qua những hình thức

ép buộc và bất công, tổ chức xã hội theo đó mọi người đều có được cơ hội để phát triển

năng lực của mình, được lựa chọn những hành động có ý nghĩa cho chính họ và cho xã

hội. Vì vậy, trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm nhân quyền luôn

gắn với các hành động tự giải phóng của các giai cấp bị áp bức, nó là sự xác nhận các

khả năng để con người khắc phục sự tước đoạt và tình trạng mất tự do trong tiến trình

lịch sử. Vì vậy, C.Mác khẳng định "quyền con người với tư cách là hiện thân của tự do"

[76, tr.183], hiện thân của ý thức và hành động đã giúp cho con người vượt qua sự lệ

thuộc, thực hiện sự phát triển toàn diện con người.

Từ phân tích trên, có thể khẳng định, QCN không có nguồn gốc thuần túy từ tự

nhiên "về nhân quyền, sự phê phán không nói ra điều nào có tính phê phán hơn điều

mà Hêghen nói, nhân quyền không phải là bẩm sinh, mà là sản sinh ra trong lịch sử"

[77, tr.173] và không phải được suy ra từ "ý niệm" mang tính chủ quan, trừu tượng mà

xuất phát từ bản chất xã hội của con người. Nó là một giá trị xã hội, mà con người

giành được để đi đến sự phát triển tự do, nó không chỉ liên quan đến kinh tế, mà còn có

quan hệ mật thiết với văn hóa, văn minh, thúc đẩy sự phát triển của xã hội phù hợp với

quy luật khách quan của lịch sử.

Trong đời sống hiện thực, QCN luôn tồn tại dưới hình thức các quyền tự do, bình

đẳng trên nhiều lĩnh vực liên quan đến sự mở rộng các khả năng đa dạng của con

người, nó là sự thống nhất biện chứng giữa khả năng xã hội và khả năng cá nhân trong

sự phát triển lịch sử, bởi "chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được phương tiện để

có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có những cộng

đồng mới có thể có tự do cá nhân" [76, tr.108]. Quyền tự do theo quan điểm Mác-xít

không phải là "một thứ tự do tuyệt đối của ý muốn" mà nó bao hàm một sự lựa chọn có

lý do - "sự phát triển tự do". Đó là sự phát triển phù hợp với phẩm giá con người, là sự

phát triển tuân theo quy luật khách quan của lịch sử.

Tiến trình phát triển của lịch sử, kể từ khi xuất hiện nhà nước và pháp luật, QCN

không chỉ tồn tại trong hình thức các tập quán xã hội, mà còn được xác lập trong các

hình thức pháp lý, trực tiếp phản ánh mối quan hệ giữa con người với quyền lực chính

trị của nhà nước. Với tư cách là một quan hệ pháp lý, QCN chính là sự thừa nhận xã

hội dưới hình thức pháp luật các quyền tự do được hình thành trong quá trình con

người tổ chức xã hội và phát triển năng lực của mình. Trong mối quan hệ này, pháp luật

đóng vai trò hợp pháp hoá ý nghĩa quan trọng về mặt đạo đức và lẽ phải các quyền tự

Page 35: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

31

do được áp dụng phổ biến cho mọi người. Mặt khác, thông qua pháp luật, QCN xác lập

vị trí độc lập của nó trong quan hệ với quyền lực nhà nước và các tổ chức kinh tế, xã

hội khác. C.Mác viết: "Tự do là cái vốn có của con người đến mức ngay cả kẻ thù của

tự do cũng thực hiện tự do... Luật pháp không phải là những biện pháp đàn áp tự do,

ngược lại luật pháp là tiêu chuẩn rõ ràng, phổ biến, trong đó tự do có một sự tồn tại vô

ngã, mang tính lý luận, không phụ thuộc vào sự tùy tiện của cá nhân riêng lẻ" [81,

tr.133-134]. Đây là dấu hiệu đặc trưng của khái niệm QCN, phân biệt với các khái niệm

khác có liên quan đến đời sống xã hội của con người như đạo đức, lòng từ thiện, nhu

cầu, lợi ích…Trong tác phẩm "Chủ nghĩa xã hội pháp lý" (1886), Ph.Ăngghen phân

tích về bản chất và đặc trưng của nhân quyền. Theo Ph.Ăngghen, xét về bản chất, QCN

là hiện thân của tự do, xuất phát từ con người hiện thực. Về đặc trưng, nhân quyền tồn

tại trong các hình thức, các chuẩn mực khách quan nhằm xác lập những hành động có ý

thức của xã hội hướng đến việc đáp ứng nhu cầu và phẩm giá của con người. Đây là sự

thống nhất giữa khách quan và chủ quan, giữa mục đích và phương tiện; giữa khả năng

và hiện thực, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Cách luận giải này cho

chúng ta thấy vai trò pháp luật trong việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người.

Từ sự trình bày trên, có thể nhận xét, khái niệm QCN trong quan niệm của chủ

nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất biện chứng giữa nhu cầu, năng lực vốn có của con

người với các hoạt động chính trị - thực tiễn của con người, khẳng định những phẩm

giá của con người và thúc đẩy sự phát triển xã hội phù hợp với phẩm giá con người.

Điều đó làm cho QCN đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng giai cấp

công nhân và nhân dân lao động, nó hợp thành nội dung cơ bản của sự phát triển toàn

diện, sự phát triển lấy con người làm trung tâm. Đây là mô hình nhân quyền tổng quát,

khả thi để triển khai và đánh giá các QCN của các cá nhân cũng như xã hội. Do đó,

chúng tôi cho rằng, quyền con người là một phạm trù chính trị- xã hội - lịch sử, phản

ánh nhu cầu, lợi ích, năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn

mực khách quan, được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định pháp luật.

Khái niệm QCN mà chúng tôi đưa ra thể hiện những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, QCN là những nhu cầu, lợi ích vốn có và cần phải có của con người

để tồn tại với tư cách là một "thực thể tự nhiên" (nhu cầu để sống, để sinh tồn) và

với tư cách là một "nhân tính tự do" (nhu cầu về sự phát triển năng lực vốn có của

bản thân, về sự hoàn thiện nhân cách). Các nhu cầu vốn có này áp dụng chung cho

tất cả mọi người mà không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính,

Page 36: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

32

ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội

v.v... "Sự hiện diện các quyền con người phụ thuộc vào con người chứ không phải

phụ thuộc vào địa vị của họ trong nền văn hóa, hoàn cảnh hoặc hệ thống xã hội mà

họ đang sinh sống" [129, tr.16].

Thứ hai, các nhu cầu, lợi ích của con người mang tính thiết yếu và có mối quan

hệ thống nhất, không thể tách rời. Mức độ bảo đảm các nhu cầu, lợi ích này không phải

đều như nhau mà phải có thứ tự ưu tiên, nghĩa là có những nhu cầu cần phải bảo đảm

trước tiên để làm tiền đề, nền tảng cho việc thực hiện các nhu cầu khác. Chẳng hạn,

nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và thiết yếu của con người. Để bảo đảm được nhu

cầu sinh tồn (quyền sống), con người cần có thức ăn, nước uống, môi trường sống...Vì

thế, các QCN (với tính cách là những nhu cầu được xã hội thừa nhận) có mối quan hệ

biện chứng, quy định lẫn nhau, trong đó, có những quyền là tiền đề, là hạt nhân, là

chuẩn mực của việc thực hiện các quyền khác.

Thứ ba, những nhu cầu, năng lực, lợi ích này phải được xã hội thừa nhận và bảo

đảm thông qua các chế định pháp luật. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá

trị xã hội của QCN. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì

những nhu cầu, lợi ích vốn có của con người chưa trở thành quyền mà chỉ dừng lại ở

mong muốn, khát vọng mà thôi. Do đó, sự ghi nhận của pháp luật đã "khuôn" các nhu

cầu, lợi ích của con người vào điều kiện thực tế. Hơn nữa, việc ghi nhận của pháp luật

về các QCN còn thể hiện mối quan hệ giữa pháp luật và các điều kiện bảo đảm khác

(chính trị, kinh tế, văn hóa...). Các điều kiện trên đều phải thông qua pháp luật, thể hiện

dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên

qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các điều kiện đó mới phát huy được vai trò của

mình trong việc bảo đảm QCN.

Để hiểu rõ hơn về QCN, chúng ta phân biệt: quyền con người và quyền công dân.

Đây là hai phạm trù gần nhưng không hoàn toàn đồng nhất.

Quyền công dân (citizen’ ringhts) chỉ gắn liền với sự xuất hiện của cách mạng tư

sản. Có thể khẳng định, cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại một giá trị nhân

văn to lớn là đưa con người từ những địa vị thần dân trở thành những công dân (với tư

cách là những thành viên bình đẳng của một nhà nước) và pháp điển hóa các quyền tự

nhiên của con người dưới hình thức các QCD trong pháp luật. Xét về bản chất, "quyền

công dân chính là quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công

dân của nước mình" [37, tr.21].

Page 37: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

33

Quyền công dân là QCN trong một xã hội cụ thể, đứng trong một chế độ chính

trị, xã hội nhất định với hệ thống pháp luật cụ thể do nhà nước thừa nhận và quy định.

C.Mác khẳng định: "Droits de I’homme - nhân quyền khác với droits du citoyen -

quyền công dân nhà nước" [76, tr.549] và sự khác biệt của "cái gọi là nhân quyền,

droits de I’homme" với "droits du citoyen, chẳng qua chỉ là những quyền của thành

viên xã hội công dân" [76, tr.549]. Do đó, QCD là QCN với tư cách là thành viên của

cộng đồng chính trị, cộng đồng nhà nước. Nói cách khác, đó là những quyền chính

trị, những quyền cá nhân con người với tư cách là thành viên "xã hội công dân", còn

"quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người với tư cách là con người, là

thành viên của xã hội loài người" [123, tr.14].

Nếu như quyền công dân là sự thể chế hóa về mặt nhà nước bằng pháp luật địa vị

con người trong khuôn khổ nhà nước, là sự thừa nhận, trong chừng mực mà nhà nước

chấp nhận, địa vị con người của cá nhân trong nhà nước, thì QCN ở đây được biểu hiện

ra như một quan hệ xã hội, quan hệ giữa con người với xã hội (tức là con người được

hiểu là một thực thể xã hội) với môi trường xã hội (bao gồm cả lịch sử, văn hóa, các

quan hệ dân tộc, tôn giáo, quốc gia, nhân loại...). Trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã

hội, QCN bao hàm cả những quyền tự nhiên được xác định khi họ sinh ra và theo họ

trong suốt cuộc đời (quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do...).

Các quyền đó đóng vai trò "là cơ sở để xác định tính điều chỉnh, tự định đoạt của con

người, khả năng độc lập của con người trong việc giải quyết các nhu cầu cá nhân" [141,

tr.22]. Trong mối quan hệ với cộng đồng nhân loại, QCN không chỉ bao gồm những

nhu cầu, lợi ích của con người được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật quốc gia mà

còn là những nhu cầu, lợi ích được ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật quốc tế. Do

đó, phạm vi áp dụng của QCN không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch mà chủ thể của

QCN là tất cả các thành viên của loài người, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch... Nói

cách khác, QCN được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân

tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư

cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.

Một cá nhân con người (ngoại trừ những người không có quốc tịch), về hình thức

đồng thời là chủ thể của cả hai loại QCN và QCD. Sự phân biệt trong việc hưởng thụ

hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn, một

người nước ngoài sẽ không được hưởng một số QCD (và cũng là QCN) đặc thù như

quyền bầu cử, ứng cử như công dân của nước mà người đó sinh sống, làm việc, nhưng

Page 38: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

34

người đó vẫn được hưởng các QCN phổ biến (mà đồng thời cũng là các quyền công

dân) áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại như: quyền sống, quyền tự do và an

ninh cá nhân...

2.1.1.2. Đặc trưng của quyền con người

Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, QCN có đặc trưng cơ bản sau:

Một là, QCN là quyền bẩm sinh, vốn có của con người. Quyền con người vừa

phản ánh nhu cầu tự nhiên, khách quan vừa thể hiện ý chí chủ quan của từng con người

và xã hội trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng và cá

nhân với nhà nước. Với tư cách là thành viên cá nhân trong xã hội, con người có khả

năng tự quyết định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà không xâm phạm

đến quyền và lợi ích của người khác. Điều này có nghĩa rằng, mọi người đều có các

quyền bẩm sinh, thuộc sở hữu vốn có của con người mà đã là tự nhiên, bẩm sinh, vốn

có thì không thể bị xâm phạm, không thể được ban phát, chuyển nhượng, tước đoạt hay

hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà

nước, trừ một số trường hợp đặc biệt (như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị

tước đoạt quyền tự do) và càng không thể ban phát, chuyển nhượng quyền sống của

người này cho người khác, hoặc chuyển nhượng nhượng danh dự, nhân phẩm của

người này cho người khác...

Hai là, QCN mang giá trị "phổ biến, không chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau"

[134, tr.441]. Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài mang giá trị phổ biến,

là một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất, cao cả nhất kết tinh những giá trị

nhân văn của nhân loại. Đó là những giá trị được bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của

con người và được áp dụng cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại,

không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, độ tuổi, địa vị xã

hội....Do đó, "các quyền con người, không còn nghi ngờ gì nữa, là phổ biến" [149,

tr.1] và "Bản chất phổ cập của các quyền và tự do không có gì phải tranh cãi" [124,

tr.93]. Tính phổ biến của QCN đòi hỏi các nhà nước tuân thủ nghiêm túc các tiêu

chuẩn nhân quyền trong các Công ước quốc tế mà họ là thành viên. Các chính phủ

không được tùy tiện lựa chọn QCN nào thì thực hiện, QCN nào thì không, vì như

vậy, sẽ coi là không hoàn thành nghĩa vụ quốc gia.

Ba là, QCN mang tính lịch sử - cụ thể. Theo C.Mác, nhân quyền không phải là

bẩm sinh mà là sản phẩm mang tính lịch sử. Tính lịch sử - cụ thể của QCN trước hết

phụ thuộc vào truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc ở mỗi giai đoạn lịch sử

Page 39: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

35

nhất định. Trên thực tế, sự khác biệt về văn hóa giữa phương Đông và phương Tây đã

hình thành nên những quan điểm khác nhau về QCN. Nếu như văn hóa phương Đông

thiên về xu hướng lấy cộng đồng làm bản vị, "mình vì mọi người, mọi người vì mình",

đã góp phần quan trọng cho việc hình thành các quyền tập thể, khẳng định quyền được

tôn trọng và bảo đảm các lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, cộng đồng thì văn hóa

phương Tây thiên về xu hướng lấy cá nhân con người làm trung tâm và coi đây là động

lực cơ bản để khẳng định và thúc đẩy các quyền và tự do cá nhân như quyền sở hữu,

quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận...

Tính lịch sử cụ - thể của QCN phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội

của mỗi quốc gia. Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người nhưng trạng thái

và mức độ thỏa mãn quyền lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa

của mỗi quốc gia. Chủ nghĩa Mác cho rằng: QCN phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế và

chế độ chính trị, văn hóa, xã hội nhất định, đặc biệt là cơ sở kinh tế và phương thức thể

hiện quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Sự phát triển kinh tế là cơ sở phát triển

chính trị, luật học, triết học, tôn giáo, văn hóa... dẫn đến hậu quả tất yếu là: "Quyền

không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế

độ kinh tế đó quyết định" [79, tr.36]. Sự sản sinh, phát triển và mức độ bảo đảm QCN

đều dựa vào những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở và phụ thuộc vào trình

độ phát triển kinh tế, xã hội đó. Chính trình độ phát triển kinh tế, xã hội quyết định

thước đo về lượng được hưởng của nhân quyền.

Tính lịch sử - cụ thể của QCN không chỉ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế

mà còn phụ thuộc vào chế độ chính trị nhà nước đó theo đuổi. Chẳng hạn, trong xã hội

Tư bản, xuất phát từ bản chất giai cấp, nhà nước tư sản quá đề cao quyền sở hữu (đồng

nghĩa với việc thừa nhận và bảo hộ cho chế độ người bóc lột người), do đó, không thể

có bình đẳng thật sự về quyền mà quyền bình đẳng ở đây xét về thực chất, chỉ là "bình

đẳng" hình thức mà thôi. Còn trong chủ nghĩa xã hội, với bản chất quyền lực chính trị

quyền lực của nhà nước thuộc về số đông, nên nhà nước XHCN đã tích cực đấu tranh

đòi quyền độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết cho hàng trăm dân tộc bị áp bức trên

thế giới và pháp điển hóa các quyền tập thể, các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa... vào

trong luật pháp quốc tế. Như vậy, lần đầu tiên dưới chủ nghĩa xã hội, một hệ thống cơ

chế và cơ sở vật chất đồng bộ nhằm bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cho

Page 40: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

36

đông đảo quần chúng nhân dân đã được xây dựng và hình thành, cung cấp những kinh

nghiệm quý báu về việc bảo đảm các kinh tế, xã hội, văn hóa cho tất cả mọi người.

Bốn là, QCN vừa cần đến nhà nước, xác nhận vai trò của nhà nước trong việc tổ

chức xã hội, quản lý đất nước, vừa đặt ra các yêu cầu hạn chế và ngăn ngừa lạm dụng

quyền lực từ phía nhà nước. Một nhà nước độc lập có chủ quyền, thực thi chế độ dân

chủ và có thiết chế bảo đảm dân chủ thực sự cho công dân, có kỷ luật, kỷ cương đủ

mạnh và có hiệu lực, đảm bảo an ninh cá nhân và trật tự an toàn xã hội, đó là một nhà

nước tôn trọng QCN. Ngược lại, một nhà nước thiếu dân chủ, không tôn trọng kỷ

cương, pháp luật, lạm dụng quyền lực nhà nước vi phạm, hạn chế, kìm hãm sự phát

triển tự do và văn minh thì đó là một nhà nước độc tài, quan liêu. Ngày nay, không

thể tồn tại một nhà nước, một xã hội dân chủ mà vi phạm, hạn chế, thậm chí bóp

nghẹt nhân quyền và ngược lại, không thể coi là một quốc gia, một xã hội văn minh

khi các quyền và tự do cơ bản của con người trong xã hội không được tôn trọng và

bảo đảm. Do đó, nhà nước giữa vai trò nòng cốt trong việc chăm lo cho con người,

bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con người và "là công cụ thực hiện quyền lực

của nhân dân" [28, tr.44].

Năm là, QCN phải được bảo đảm bằng pháp luật. Thực tế cho thấy, bảo đảm

bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các QCN được thực

hiện. Trong quan hệ giữa nhà nước - pháp luật và quyền con người thì nhà nước và

pháp luật là công cụ, phương tiện để bảo đảm và thực hiện QCN. Những tư tưởng,

những khám phá về QCN chỉ là mong muốn, khát vọng nếu không được pháp luật ghi

nhận và được pháp luật bảo vệ. Pháp luật là chuẩn mực khách quan để ghi nhận và bảo

đảm QCN. Khi trở thành quyền pháp định, QCN là ý chí chung của toàn xã hội, được

xã hội phục tùng, được quyền lực nhà nước bảo vệ. Quyền con người khi được pháp

luật ghi nhận sẽ trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào, kể cả các cơ quan, viên

chức nhà nước cao nhất. Pháp luật bảo vệ QCN còn có phương diện thứ hai, đó là sự

phối hợp của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng cơ chế pháp lý bảo vệ QCN.

"Quyền con người phải được bảo vệ bằng một chế độ pháp luật" [124, tr.61] đã trở

thành một nguyên tắc trong Luật nhân quyền quốc tế. Hiện nay, ở các nhà nước trên thế

giới, tuy mức độ và hình thức ghi nhận khác nhau, nhưng Hiến pháp các nước đều có

chế định về địa vị pháp lý của công dân. Dưới hiến pháp, có các văn bản pháp luật khác

nhau quy định QCN trên các lĩnh vực cụ thể. Điều này cho thấy vai trò của pháp luật

trong việc bảo đảm QCN.

Page 41: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

37

2.1.2. Bảo đảm quyền con người

2.1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người

Trong các tài liệu về QCN ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ bảo "đảm quyền con

người" được nhắc đến khá nhiều, nhưng việc đưa ra khái niệm bảo đảm quyền con

người chưa có nhiều tài liệu đề cập đến. Để tìm hiểu về "bảo đảm quyền con người",

trước hết cần làm rõ khái niệm "bảo đảm".

Theo Từ điển tiếng Việt, "bảo đảm" là: Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ

gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để thực hiện được [93, tr.38]. Cách hiểu

này không khác với nguyên tắc bảo đảm pháp luật ở Việt Nam và luật nhân quyền quốc

tế. Chẳng hạn, Từ điển Luật học giải thích thuật ngữ bảo đảm pháp luật là "mọi quyền,

quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân... đều được nhà nước bảo hộ bằng những

điều luật cụ thể trong các đạo luật cụ thể" [132, tr.28]. Do đó, nhà nước có trách nhiệm

bảo đảm các QCD đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều kiện

tốt nhất có thể để mọi công dân được hưởng các QCN của mình.

Về khái niệm "bảo đảm quyền con người", đến nay, có nhiều cách hiểu khác

nhau. Theo một số tài liệu của Liên hợp quốc thì cụm từ bảo đảm QCN hay được sử

dụng để chỉ ra nghĩa vụ của các chủ thể có trách nhiệm trong việc bảo vệ và thúc đẩy

các QCN. Lời nói đầu Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị và Công ước

quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966) đều khẳng định: "theo Hiến

chương Liên Hợp Quốc thì các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ

các quyền và những tự do cơ bản của con người" [124, tr.230].

Ở Việt Nam, bảo đảm QCN được khẳng định trong Chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội 2011-2020 của Đảng, đó là: "phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và

các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện"; "Nhà nước tôn trọng và bảo

đảm quyền con người, quyền công dân" [33, tr.85]. Thuật ngữ bảo đảm QCN tiếp tục

được ghi nhận trong Hiến pháp 2013, "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ

của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công

dân" (Điều 3). Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa bảo đảm QCN, nhưng tập hợp các ghi

nhận trên, có thể khẳng định được vai trò, tầm quan trọng của việc bảo đảm QCN đồng

thời chỉ ra nghĩa vụ của nhà nước là phải tôn trọng và bảo đảm QCN.

Tác giả Lê Thị Hồng Nhung, "Bảo đảm quyền con người là tạo ra các điều kiện

cho quyền con người được vận hành trong thực tiễn hoặc bảo vệ nó chống lại hành vi

xâm phạm quyền con người" [90, tr.182].

Page 42: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

38

Từ góc độ luật học, tác giả Phạm Hồng Thái và Nguyễn Thị Thu Hương định

nghĩa: "Bảo đảm quyền con người là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh

tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện

được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận" [109, tr.1].

Theo các tác giả, bảo đảm QCN có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và mang tính

quyết định, là cốt lõi, là sự thể chế hóa các bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức

thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước, các tổ chức

xã hội phải thực hiện để bảo đảm QCN và QCD. Các bảo đảm về pháp lý này rất

phong phú và đa dạng, trước hết là sự ghi nhận các QCN và QCD đến việc tạo ra các

điều kiện pháp lý, các điều kiện về tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách

bảo đảm các QCN và QCD.

Trong Giáo trình cao cấp lý luận chính trị của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, "Bảo đảm quyền con người là việc các chủ thể có nghĩa vụ áp dụng các biện

pháp về lập pháp, hành pháp, tư pháp, kinh tế, thể chế…để hiện thực hóa các nguyên

tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong hoạt động quản lý của nhà nước, trong các

chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, dân tộc" [50, tr.384].

Định nghĩa này đã xác định được chủ thể bảo đảm QCN, đồng thời liệt kê được

khá đầy đủ về các điều kiện cần thiết, cách thức và biện pháp áp dụng của chủ thể có

nghĩa vụ trong việc bảo đảm QCN. Các biện pháp mà chủ thể bảo đảm QCN áp dụng

là lập pháp (ban hành luật), hành pháp (tổ chức thực thi pháp luật), tư pháp (áp dụng

pháp luật), thể chế (các quy tắc, quy chế được sử dụng để điều hành hoạt động của chủ

thể đạt được mục tiêu đề ra).

Tuy nhiên, với cách định nghĩa trên, chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm QCN đề cập

đến chủ yếu là nhà nước, còn các chủ thể khác hầu như chưa được đề cập. Theo chúng

tôi, việc bảo đảm QCN không chỉ có nhà nước mà còn có rất nhiều chủ thể khác (các tổ

chức quốc tế, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, gia đình, nhà trường, cá

nhân....) đều tham gia thực hiện ở các cấp độ khác nhau.

Ở cấp độ cá nhân, mỗi cá nhân đều là chủ thể QCN của mình, do đó, bảo vệ và

thực hiện QCN phải được coi trách nhiệm của mỗi cá nhân.

Ở cấp độ cộng đồng, dù tồn tại dưới hình thức nào, gắn kết với nhau bằng yếu tố

nào, các cộng đồng đều phải có trách nhiệm bảo vệ và thực hiện QCN. Hoạt động bảo

vệ và thực hiện QCN có thể là những quy ước, quy tắc đạo đức, qua đó ý thức bảo vệ

QCN của các thành viên trong cộng đồng được nâng cao. Cấp độ địa phương được

Page 43: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

39

hiểu là trách nhiệm bảo đảm QCN của các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và toàn

thể dân cư được phân bổ theo địa giới hành chính là cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh.

Bảo đảm ở cấp quốc gia, là trách nhiệm bảo vệ QCN của toàn bộ dân cư trong

quốc gia đó và Nhà nước là người thực hiện quản lý thống nhất về bảo đảm QCN

thông qua xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về QCN, tổ chức thực thi chính

sách, pháp luật về QCN, xây dựng và củng cố các thiết chế bảo vệ QCN, huy động sự

tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội trong bảo đảm QCN, tuyên truyền giáo dục

nâng cao nhận thức và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN. Ở cấp quốc tế, các quốc gia

đang nỗ lực hợp tác nhằm bảo đảm QCN toàn cầu. Các hội nghị quốc tế được tổ chức,

các tổ chức quốc tế đang được hình thành và các công ước, điều ước quốc tế về QCN

được ký kết là thành quả nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế...

Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bảo đảm QCN ở trên,

chúng tôi cho rằng, bảo đảm quyền con người là việc các chủ thể (cá nhân, nhà nước,

các tổ chức chính trị, xã hội...) có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để hiện

thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn về quyền con người nhằm bảo vệ và thực thi hiệu

quả các quyền và tự do cơ bản của con người trong các hoạt động của mình, ngăn

ngừa sự lạm dụng, vi phạm quyền con người từ phía các chủ thể khác.

Với cách hiểu trên, theo chúng tôi, bảo đảm quyền con người bao hàm hai nội

dung cơ bản:

Thứ nhất, đó là những nguyên tắc, quy tắc, cách thức, thủ tục... để thúc đẩy và

bảo vệ QCN. Quyền con người có nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp do đó, để

thúc đẩy và bảo đảm QCN cần có những nguyên tắc, tiêu chuẩn, cách thức khác nhau.

Các nguyên tắc, tiêu chuẩn về QCN là nhân tố quan trọng, là điều kiện cần thiết để các

chủ thể thực hiện nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy QCN. Do đó, tính hiệu quả của việc bảo

đảm QCN phụ thuộc nhiều vào các nguyên tắc, tiêu chuẩn này.

Thứ hai, đó là các yếu tố, các chủ thể... tham gia vào việc thúc đẩy và bảo vệ

QCN. Việc bảo đảm QCN ngày nay phải gắn với những hoạt động có ý thức của các

chủ thể có nghĩa vụ nhằm đưa nguyên tắc về QCN (tính bất khả xâm phạm; bình đẳng

và không phân biệt đối xử, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau; trách nhiệm giải trình và

nhà nước pháp quyền...). Tiêu chuẩn về QCN là những tiêu chuẩn cơ bản, tối thiểu trên

từng lĩnh vực nhằm giúp mọi người đạt được cuộc sống trong nhân phẩm, danh dự,

như: không bị bắt và giam giữ vô cớ; không bị tra tấn, trừng phạt tàn nhẫn, vô nhân

đạo; có mức sống thỏa đáng về thể chất, tinh thần; được tiếp cận với các dịch vụ giáo

Page 44: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

40

dục và chăm sóc sức khỏe...). Các nguyên tắc và tiêu chuẩn này phải được thấm sâu

vào các giai đoạn của quá trình hoạch định và thực thi luật pháp, trong mọi hoạt động

của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Trong điều kiện

hiện nay, bảo đảm các QCN, cần phải:

Bảo đảm về chính trị, chính trị là một trong bốn lĩnh vực của đời sống xã hội có

giai cấp liên quan mật thiết tới QCN. Đường lối chính trị của một quốc gia là nhằm bảo

vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển kinh tế phát triển, thực thi

dân chủ. Do đó, ổn định về chính trị có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm QCN.

Một nhà nước có nền chính trị ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi và vững chắc cho công

tác bảo bảo QCN và ngược lại, một nhà nước có nền chính trị bất ổn sẽ trở thành rào

cản cho việc bảo đảm QCN. Chính vì vậy, nhà nước phải xây dựng một xã hội có cơ

cấu tổ chức và chế độ chính trị hướng tới tôn trọng, bảo vệ QCN, tạo được một môi

trường chính trị ổn định làm tiền đề vững chắc cho việc bảo đảm và thực thi có hiệu

quả các QCN.

Bảo đảm về kinh tế, QCN có mối liên hệ mật thiết với kinh tế, bởi quyền không

thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế, xã hội. Hơn nữa, bảo đảm tốt các QCN góp

phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển kinh tế. Do đó, trách nhiệm của nhà nước là phải

tạo ra những điều kiện kinh tế để người dân có thể có cuộc sống ngày một đầy đủ hơn

và khi quyền kinh tế được bảo đảm sẽ tạo động lực và cơ hội để bảo đảm các quyền và

tự do cơ bản khác của người dân.

Bảo đảm về văn hóa, văn hóa có mối quan hệ mật thiết với QCN, bảo đảm về

văn hóa là một trong các điều kiện cần thiết cho việc bảo đảm QCN và là trách nhiệm

của nhà nước bởi lẽ, "văn hóa quyền con người có được sức mạnh lớn nhất từ những

mong muốn hiểu biết của mỗi cá nhân. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người thuộc về

nhà nước. Nhưng chính những hiểu biết, tôn trọng và mong muốn về quyền con

người của mỗi cá nhân đều là điều mang lại kết cấu và sức bật hàng ngày cho quyền

con người" [146, tr.27].

Bảo đảm về pháp luật, bảo đảm QCN bằng pháp luật là một nguyên tắc của nhà

nước pháp quyền. Để thực hiện nguyên tắc này, nhà nước là phải thể chế hóa các tiêu

chuẩn và nguyên tắc về QCN trong hiến pháp và pháp luật quốc gia. Do đó, xây dựng

và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là điều kiện và môi trường để tất cả mọi người đều

bình đẳng trước pháp luật mà không có bất kỳ sự phân biệt, đối xử nào. Điều kiện bảo

Page 45: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

41

đảm QCN ở mỗi nhà nước liên quan đến hàng loạt các lĩnh vực từ chính, kinh tế đến

hiến pháp, pháp luật và thực hiện dân chủ, nhất là thực tiễn thực thi pháp luật.

Bảo đảm về thể chế (institutions). Thể chế là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức và

các thủ tục (hay quy chế) hoạt động của các cơ quan có chức năng trong việc bảo vệ

và thúc đẩy QCN. Trách nhiệm của mỗi nhà nước là phải xây dựng thể chế bảo bảo

đảm QCN hoạt động hiệu quả theo hướng công khai, minh bạch, thực hiện có cơ chế

giám sát việc bảo đảm QCN phù hợp với yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Xây

dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ pháp luật, đạo đức có tinh thần trách

nhiệm cao, tận tuy phục vụ công tác bảo đảm QCN, xây dựng cơ chế huy động nguồn

lực tài chính một cách hợp lý từ ngân sách quốc gia, HTQT và của xã hội vào quá

trình bảo đảm QCN.

2.1.2.2. Tầm quan trọng của bảo đảm quyền con người

- Bảo đảm quyền con người là mục tiêu cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế

Bảo đảm QCN trở thành nguyên tắc cơ bản, là mục tiêu cốt lõi của Luật nhân

quyền quốc tế và là một trong những nội dung quan trọng bậc nhất của các Hiến pháp

dân chủ trên thế giới. Điều 2, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966)

và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966) đều ghi nhận: Các

quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong

phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình các quyền đã được công nhận trong

Công ước này, không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ,

tôn giáo; nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân... Điều 1, Hiến

pháp Cộng hòa Liên bang Đức (1949), sửa đổi năm 1993 đã công nhận: Các quyền con

người cơ bản trong hiến pháp sẽ ràng buộc các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp

như luật có thể áp dụng trực tiếp.

Ở Việt Nam, vấn đề bảo đảm QCN đã được khẳng định từ Hiến pháp 1946 và

tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013. Điều 14, Hiến pháp

2013 của Việt Nam ghi nhận: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền

con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa được công nhận, tôn

trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

- Bảo đảm quyền con người là một nội dung cơ bản của nguyên tắc tiến bộ và

công bằng xã hội.

Tiến bộ và công bằng xã hội là những giá trị nhân văn mang tính nguyên tắc của

các quá trình phát triển hiện nay. Trong điều kiện TCH và HNQT hiện nay, tăng trưởng

Page 46: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

42

kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội, gắn liền với trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, bảo đảm QCN trên

cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia là yêu cầu trọng tâm của các quốc gia.

Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ phức tạp và khó khăn. Sự tồn tại của tình trạng bất công

sâu sắc giữa các nhóm người, sự gia tăng của khoảng cách giàu nghèo, sự vi phạm

nghiêm trọng các QCN chẳng những là một thất bại xã hội mà còn tiềm ẩn nhiều

nguy cơ mâu thuẫn, xung đột, đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân

tộc. Nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là các hoạt động phát triển, đặc biệt là

phát triển kinh tế tách khỏi các hoạt động bảo đảm QCN cả về lý luận và thực tiễn.

Nhiều quốc gia trong khi theo đuổi các chiến lược phát triển đã bỏ qua các tiêu chuẩn

và nguyên tắc cơ bản về QCN trong xây dựng mục tiêu và triển khai các biện pháp

thúc đẩy phát triển, cũng như trong quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, chính

sách. Biểu hiện cụ thể của tình trạng này là xã hội thiếu các công cụ có tính pháp

quyền để bảo vệ các quyền bình đẳng, ngăn ngừa tình trạng phân biệt đối xử, đáp ứng

những đòi hỏi cơ bản và tối thiểu của người dân, nhất là các nhóm xã hội dễ tổn

thương. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, nhiệm vụ đặt ra

là: Phải bảo vệ các quyền con người, quyền công dân; xây dựng các thể chế để nhân

dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế, bảo vệ thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, có khả năng bảo vệ và

giúp đỡ mọi thành viên xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương vượt qua

khó khăn hoặc rủi ro trong đời sống [33, tr.288].

- Bảo đảm quyền con người là yêu cầu cơ bản của quá trình phát huy dân chủ và

xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Dân chủ, pháp quyền và QCN luôn có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy lẫn nhau.

Bảo đảm QCN cần có dân chủ và pháp quyền, cũng như thực hiện pháp quyền và dân

chủ trong thời đại ngày nay đều có yêu cầu bảo đảm toàn bộ các QCN đã được pháp

luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích

đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm

của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra" [84, tr. 698]. Cụ

thể hóa quan điểm này, Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: Xây dựng và hoàn

thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân… Cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn

Page 47: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

43

trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và cần thiết phải "có cơ chế cụ thể để nhân

dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Quan tâm hơn nữa việc chăm lo

hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người

mà Việt Nam ký kết" [33, tr.238-239]. Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền XHCN, "bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của dân, do nhân dân và vì nhân

dân, do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích

chính đáng của mọi người dân [33, tr.246-247]. Như vậy, bảo đảm QCN là yêu cầu, nội

dung cơ bản của quá trình phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

ở Việt Nam.

2.2. NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI - TẦM

QUAN TRỌNG VÀ BIỂU HIỆN

2.2.1. Tầm quan trọng của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người

Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, ra

đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định cùng với những điều kiện kinh tế,

xã hội nhất định. Sự xuất hiện tồn tại của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là nguyên

nhân cơ bản dẫn đến sự khác biệt, mâu thuẫn về địa vị và lợi ích kinh tế, từ đó dẫn đến

sự khác biệt, mâu thuẫn về địa vị và lợi ích chính trị của các thành viên trong xã hội

làm nảy sinh xung đột giữa các thành viên, các nhóm lợi ích trong xã hội ngày càng sâu

sắc và nhà nước ra đời. Sự ra đời của nhà nước là một tất yếu lịch sử nhằm đáp ứng

nhu cầu được quản lý của chính xã hội và duy trì một trật tự xã hội theo ý chí và lợi ích

của giai cấp nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu. Ở bất cứ đâu và chừng nào

mà, "về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà

nước xuất hiện" [72, tr.10]. Điều đó có nghĩa là nhà nước "không phải là một quyền lực

từ bên ngoài áp đặt vào xã hội", mà là "một lực lượng nảy sinh từ xã hội", do nhu cầu

của chính con người để quản lý và điều hành xã hội, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm và

lợi ích hợp pháp của con người.

Theo Thomas Hobbes, ở trạng thái tự nhiên, không có nhà nước, con người rơi

vào trạng thái hỗn loạn của "cuộc chiến con người chống lại con người". Vì mục đích

an toàn hơn, con người phải từ bỏ trạng thái tự nhiên, thông qua khế ước xã hội để lập

nên nhà nước nhằm bảo vệ các giá trị về tự do, bình đẳng của con người, tức là không

đi đến tiêu diệt lẫn nhau "tình trạng nguyên thủy sẽ không còn nữa, loài người sẽ bị tiêu

diệt nếu họ không thay đổi cách sống...tìm ra một hình thức liên kết với nhau để dùng

Page 48: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

44

sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên... Đó là vấn đề cơ bản mà khế ước đưa ra

cách giải quyết" [97, tr.66-67]. Để đạt được các mục tiêu này, mỗi người cần phải

nhượng quyền của mình, đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển của ý chí

chung. Đó là chủ quyền tối cao của nhân dân được thực hiện thông qua nhà nước và

phù hợp với nguyên tắc của khế ước xã hội. "Quyền hành thì có thể chuyển giao được,

nhưng ý chí thì không" [97, tr.79]. Sự vận hành của xã hội theo cơ chế này theo

J.Jacques Rousseau sẽ đưa đến những hệ quả quan trọng cho các quyền bình đẳng và

tự do như quyền tự do dân sự, quyền chiếm hữu tài sản, quyền của cá nhân gắn với

quyền của tập thể, cộng đồng, quyền được tham gia vào các quyết định tối cao, "đó là

quyền của người công dân không ai được xâm phạm" [97, tr.194].

Như vậy, nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt, là sản phẩm của xã hội

có giai cấp, là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, thể hiện

và thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, giai cấp nhân danh xã hội để điều hành,

quản lý xã hội, bảo đảm QCN thông qua pháp luật và các cơ chế thực hiện "chỉ có nhà

nước mới được độc quyền sử dụng vũ lực. Sự độc quyền cưỡng chế này được xã hội

thừa nhận và nó là hợp pháp" [147, tr.25]. Sự cưỡng chế "hợp pháp" này của nhà nước

được ghi nhận bằng pháp luật, nghĩa là nhà nước thực hiện quyền lực của mình thông

qua pháp luật và được bảo đảm bởi các thiết chế của nhà nước làm cho quyền lực nhà

nước có tính bắt buộc và cưỡng chế đối với xã hội để duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo

vệ các QCN, quyền tự do, dân chủ của nhân dân... Do đó, dù ở hình thức nhà nước nào,

bên cạnh việc duy trì bản chất giai cấp, nhà nước luôn giữ vai trò là người đại diện

chính của toàn xã hội, là trung tâm giải quyết các công việc chung của xã hội, bảo đảm

trật tự và ổn định xã hội, thực hiện những hoạt động nhất định phù hợp với yêu cầu của

xã hội nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội

trong chừng mực các lợi ích đó không quá mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.

Vì vậy, thực vai trò của nhà nước là điều chỉnh vấn đề lợi ích giữa các giai cấp,

tầng lớp trong xã hội thông qua hệ thống pháp luật, nhằm duy trì cơ sở kinh tế của giai

cấp thống trị trong xã hội và để thực hiện chức năng xã hội của mình, chức năng "làm

dịu bớt xung đột" và "giữ cho xung đột đó nằm trong một trật tự nhất định", bảo đảm

sự ổn định chính trị - xã hội, điều kiện cơ bản, cần thiết cho việc bảo đảm QCN.

Chức năng bảo đảm QCN của nhà nước được thể hiện trên các phương diện hoạt

động của nhà nước tác động tới các lĩnh vực của đời sống xã hội liên quan đến QCN

như: ban hành pháp luật về QCN, tổ chức thực thi pháp luật về QCN, xây dựng các thể

Page 49: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

45

chế bảo đảm QCN, điều tiết quá trình phát triển kinh tế, xã hội nhằm đảm bảo sự ổn

định xã hội và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội. Chức năng bảo

đảm QCN của nhà nước không ngừng được tăng cao theo xu hướng phát triển kinh tế,

xã hội, đặc biệt trong điều kiện HNQT hiện nay, trách nhiệm của nhà nước không chỉ

dừng lại ở việc giải quyết các công việc trong nội bộ của quốc gia mình như: phát triển

kinh tế, văn hóa, ổn định trật tự xã hội, bảo đảm QCN cho người dân ở quốc gia mình

mà còn phải giải quyết hàng loạt các vấn đề khác liên quan đến QCN và an ninh con

người ở khu vực và quốc tế, như: khủng bố; đói nghèo; dịch bệnh; di dân tự do giữa

các quốc gia; ô nhiễm môi trường; biến đổi khí hậu; nhân quyền và chủ quyền quốc

gia... Do đó, bảo vệ QCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước, nói cách khác, nhà

nước đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm QCN.

Nhà nước là rất cần thiết cho việc bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của con

người. Sự tồn tại của nhà nước là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ nhu cầu xã hội:

"Nhà nước như một dịch vụ công. Nhân dân những người bị cai trị như khách hàng

phải đóng thuế để mua lại sự cai trị tốt nhất cho mình" [27, tr.49], do đó, "để phát triển

và tồn tại, con người rất cần đến nhà nước" [26, tr.37] và "cuộc sống mà không có nhà

nước hiệu lực để duy trì trật tự, thì rất đơn độc, nghèo nàn, đồi bại, tàn bạo và ngắn

ngủi" [26, tr.21].

Tầm quan trọng của nhà nước trong việc bảo đảm QCN đã được nhà triết học

Imanuenl Kant (1724-1804) khẳng định: "Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong

khuôn khổ pháp luật nhằm giải giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân. Nhà

nước ra đời nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hòa sự phát triển xã hội theo

hướng ngày càng hoàn thiện vì con người. Vì vậy, sứ mệnh của nhà nước nhằm phục

vụ con người" [145, tr.407]. Thomas Jeffersson, cho rằng "Nhà nước là phải đảm bảo

tự do và hạnh phúc cho mọi người; chính phủ, chế độ và pháp luật phải tôn trọng con

người" [82, tr.114]...

Theo luật quốc tế, nhà nước có nghĩa vụ hàng đầu trong bảo đảm QCN bởi chỉ

với vai trò, chức năng của mình, nhà nước là chủ thể duy nhất có nghĩa vụ phê chuẩn

hoặc tham gia các điều ước quốc tế về QCN, thực hành dân chủ và áp dụng nguyên tắc

pháp quyền trong quản lý xã hội nhằm làm cho mọi người được hưởng các quyền và tự

do cơ bản mà không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, dân tộc, màu da, giới tính,

ngôn ngữ, tôn giáo... Ngoài ra, các tổ chức quốc tế, các đảng phái chính trị, các doanh

nghiệp, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, các cộng đồng, các gia đình,...

Page 50: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

46

tùy theo vị thế của mình, cũng là các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền. Đặc trưng

của các tổ chức này là tính "không chính thức" so với chủ thể nhà nước, nhưng vẫn có

nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ và thực hiện QCN, đặc biệt đối với những nhóm người

dễ bị tổn thương.

Bảo đảm QCN trách nhiệm thuộc về nhiều chủ thể, song nhà nước có tầm quan

trọng đặc biệt bởi nhà nước là cơ quan đặc biệt, một bộ máy quyền lực công do nhân

dân ủy quyền và nhân dân thực hiện quyền lực của mình trên "nền tảng một nhà nước

thừa nhận và bảo vệ các quyền con người" [121, tr.120], đồng thời, là một tổ chức bộ

máy gồm hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương "tạo thành một

chỉnh thể của quyền lực nhà nước" [13, tr.53], cùng với các phương tiện vật chất kèm

theo như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù, nhằm thực thi quyền lực nhà nước. Vì vậy,

theo chúng tôi, tầm quan trọng của nhà nước trong việc bảo đảm QCN được thể hiện

thông qua sự khác biệt về chức năng và tổ chức hoạt động của nhà nước mà không chủ

thể nào có được. Đó là:

Thứ nhất, nhà nước ban hành pháp luật về quyền con người

Quyền con người về mặt pháp lý là các quyền phổ biến của tất cả mọi người song

việc thực hiện nó lại gắn liền với nhà nước và pháp luật. Pháp luật có vai trò quan trọng

trong việc bảo đảm QCN, song pháp luật không phải tự nhiên mà nó gắn liền với sự ra

đời của nhà nước. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của nhà nước cũng

là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện

tượng có cùng bản chất, gắn bó hết sức mật thiết với nhau. Quyền lực nhà nước chỉ có

thể thực hiện và có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Nhà nước không thể tồn tại và

thực thi quyền lực nếu không có pháp luật, nhưng pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có

hiệu lực thi hành phải dựa vào sức mạnh của quyền lực nhà nước. V.I Lênin viết "ý chí,

nếu nó là ý chí của nhà nước thì phải được biểu hiện dưới hình thức một đạo luật do

chính quyền đặt ra: nếu không thế thì hai tiếng "ý chí" chỉ là một sự rung động không

khí do những âm thanh rỗng tuếch gây nên" [71, tr.340].

Với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, QCN không chỉ tồn tại trong hình thức

các tập quán xã hội, mà còn được xác lập trong các hình thức pháp lý, trực tiếp phản

ánh mối quan hệ giữa con người với quyền lực chính trị của nhà nước. Pháp luật gắn

liền với nhà nước, là sản phẩm hoạt động lập pháp của nhà nước. Để "xây dựng một

chế độ chính trị hoàn thiện, nhà nước cần ban hành pháp luật. Pháp luật không những

thể hiện bản chất chính trị của nhà nước mà còn là hiện thân của công lý, là lĩnh vực

Page 51: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

47

thể hiện quyền lực chung và trợ giúp các công dân thỏa mãn các quyền tự do của mình"

[101, tr.17]. Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho pháp

luật được thực hiện theo nguyên tắc công khai, minh bạch, do đó, bảo đảm QCN bằng

pháp luật trở thành một nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Để thực hiện nguyên tắc này, nhà nước là phải thể chế hóa các tiêu chuẩn và

nguyên tắc về QCN trong hệ thống pháp luật quốc gia. Điều này đã được Hội luật gia

quốc tế khẳng định "pháp quyền không chỉ có nghĩa là việc sử dụng chính thức các

công cụ pháp lý, mà còn là nguyên tắc công bằng và bảo vệ tất cả các thành viên trong

xã hội trước việc sử dụng quyền lực quá mức" [146, tr.174].

Pháp luật "là công cụ bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội và mỗi người dân,

nhân dân muốn đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình phải tuân theo các quy định của

pháp luật" [34, tr.59]. Nó "không chỉ áp dụng bình đẳng cho mọi công dân, mà các cơ

quan nhà nước cũng phải là đối tượng điều chỉnh của luật pháp" [86, tr.127], đồng thời

là công cụ cao nhất để các chủ thể thực hiện trách nhiệm bảo vệ QCN của mình trong

phạm vi quốc gia và quốc tế. Với ý nghĩa đó, "nhà nước có trách nhiệm đứng ra tổ chức

xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật" [9, tr.140] và chỉ nhà nước mới là chủ thể có

đủ các quyền lực và các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này mà không chủ

thể nào thay thế được.

Thứ hai, nhà nước tạo ra các cơ chế bảo đảm quyền con người

Để bảo đảm và thực hiện QCN, cần có những cơ chế nhất định. Cơ chế bảo đảm

QCN được hiểu là tổng thể các thể chế, thiết chế do cộng đồng thế giới, khu vực và

quốc gia tạo ra nhằm bảo đảm, bảo vệ QCN trong thực tế.

Cơ chế bảo đảm QCN là tập hợp các nguyên tắc, phương thức, quy tắc, biện

pháp, các yếu tố, bộ phận tham gia vào việc bảo đảm các QCN. Hiện nay, cơ chế bảo

đảm QCN được thực hiện ở nhiều cấp độ: quốc tế có cơ chế nhân quyền của LHQ; khu

vực có cơ chế nhân quyền khu vực và quốc gia có cơ chế nhân quyền quốc gia. Trong

các cơ chế nhân quyền ở các cấp độ kể trên, cơ chế nhân quyền quốc gia giữ vị trí quan

trọng, bởi việc bảo đảm QCN ở các quốc gia phụ thuộc vào nhà nước, nói cách, nhà

nước có tầm quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm QCN.

Cơ chế quốc gia về thúc đẩy và bảo đảm QCN xuất phát từ việc thực hiện nghãi

vụ của nhà nước được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về QCN. Cơ chế quốc

gia bảo đảm QCN, nếu xét theo nghĩa rộng rất đa dạng. Về lý thuyết, các cơ quan nhà

nước có chức năng duy trì ổn định trật tự xã hội và bảo đảm QCN của người dân. Các

Page 52: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

48

chính quyền dân chủ tồn tại để phục vụ nhân dân, do đó, các cơ quan lập pháp, hành

pháp và tư pháp đều có chức năng bảo vệ QCN.

Theo nguyên tắc chung, các quốc gia đều có khả năng thực hiện một số quyền

nhất định và đồng thời là đối tượng của một số nghĩa vụ trong Luật quốc tế. Vì vậy, các

quốc gia sau khi là thành thành viên của một công ước nhân quyền đều phải có nghĩa

vụ thực hiện các cam kết đó. Đó là nghĩa vụ chuyển hóa các nguyên tắc và quy định

của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm tính tương thích và sự

phù hợp với mục tiêu các quy định của Công ước. Tiếp đến, phải thực hiện các biện

pháp lập pháp, hành pháp và tư pháp, xây dựng các cơ chế quốc gia nhằm bảo đảm các

QCN trên thực tế (cơ chế tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN, cơ chế giám

sát, phản biện xã hội...).

Cơ chế bảo đảm nhân quyền quốc gia khá đa dạng căn cứ vào đặc thù về thể chế

chính trị của mỗi nước. Tại các nước tư bản, cơ chế nhân quyền quốc gia thể hiện ở sự

phân chia, kiềm chế giữa các nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và sự

tham gia của xã hội dân sự trong việc bảo vệ QCN. Ở các nước lựa chọn con đường

XHCN, bên cạnh những nỗ lực của chính quyền và tăng cường nền dân chủ XHCN,

việc bảo vệ QCN thuộc về quốc hội, một số cơ quan thuộc chính phủ, các tổ chức

chính trị, xã hội, nghề nghiệp thuộc hệ thống chính trị...

Như vậy, cơ chế bảo đảm QCN nảy sinh từ chính nhu cầu của xã hội loài người

qua thực tiễn đấu tranh cho công bằng và lẽ phải. Nó là sự bảo đảm bằng hành động

thiết thực nhất của nhà nước đối với cam kết bảo vệ công dân của chính mình. Vì vậy,

ở bất kỳ nơi đâu mà quyền và lợi ích cốt lõi của con người được thừa nhận thì ở đó, dù

là những mức độ và hình thức khác nhau, phải tồn tại một cơ chế thoả đáng để bảo đảm

cho điều đó trở thành sự thực. Đó là cách thức duy nhất để bảo đảm những quyền lợi

căn bản làm nên giá trị của chính bản thân mình được thực hiện một cách nghiêm túc

và đầy đủ mà không bị bị cản trở bởi chủ thể nào.

Với ý nghĩa như vậy, chỉ có nhà nước mới có đủ chức năng, thẩm quyền để tạo ra

cơ chế để bảo đảm QCN, nói cách khác cơ chế về QCN chỉ có thể được ban hành và

thực hiện bởi nhà nước mà không chủ thể nào làm thay được.

Thứ ba, nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế bảo đảm quyền con người.

Theo quan điểm của Mác, QCN có mối quan hệ mật thiết với trình độ phát triển

kinh tế. Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện

Page 53: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

49

QCN. Nhưng muốn phát triển kinh tế yêu cầu đặt ra là phải có các chiến lược, kế hoạch

định hướng phát triển kinh tế, các chính sách phát triển và quản lý kinh tế, điều tiết sự

phát triển của nền kinh tế phù hợp với những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội,

đồng thời, đường lối chính sách, cơ chế phải được cụ thể hóa trong pháp luật.

Chính vì vậy, trong các chủ thể thực hiện nghĩa vụ bảo đảm QCN, chỉ có nhà

nước mới có đủ các quyền lực và các điều kiện cần thiết để điều tiết sự phát triển kinh

tế, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với mục tiêu ổn định xã hội, tạo điều kiện để mọi

người tiếp cận được nhiều quyền hơn (quyền lao động việc làm; quyền sản xuất kinh

doanh...) chứ không phải là đe dọa quyền.

Quản lý, điều tiết sự phát triển kinh tế là một chức năng quan trọng của nhà nước.

Đây là nhiệm khó khăn mà chỉ có nhà nước mới có đủ chức năng và khả năng để thực

hiện được. Thực tiễn cho thấy, nếu một nhà nước chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế

mà quên đi các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, phát triển kinh tế tách khỏi

các hoạt động bảo đảm QCN cả về lý luận và thực tiễn…khi đó, tổ chức bộ máy nhà

nước đó sẽ rơi vào tình trạng mất ổn định, chức năng quản lý, điều tiết kinh tế của nhà

nước không thực hiện được dẫn đến hệ quả tất yếu là nhà nước sẽ đối mặt với tình

trạng bất ổn về mặt xã hội, gia tăng của khoảng cách giàu nghèo, lợi ích nhóm, sự vi

phạm nghiêm trọng các QCN mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mâu thuẫn, xung đột, đe

dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc. Do đó, tăng trưởng kinh tế, điều

tiết phát triển kinh tế gắn liền với mục tiêu bảo vệ QCN là một nhiệm vụ quan trọng mà

không chủ thể nào làm thay được nhà nước.

Sự kết hợp giữa mục tiêu phát triển kinh tế và bảo đảm QCN là một yêu cầu tất

yếu và khách quan của mọi nhà nước. Đặc biệt trong điều kiện HNQT hiện nay, khi mà

vấn đề phát triển kinh tế gắn với bảo đảm QCN một cách bền vững đã trở thành mối

quan tâm và hợp tác của nhiều quốc gia, nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết sự

phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế, bảo đảm QCN trên các lĩnh vực: sản xuất,

kinh doanh; tiêu dùng; ô nhiễm môi trường; dịch bệnh....; bảo vệ quyền và lợi ích của

người lao động trong các doanh nghiệp nước ngoài; các công ty, các tập đoàn xuyên

quốc gia, đa quốc gia... Vì vậy, nhà nước càng trở nên quan trọng, cần thiết hơn bao giờ

hết trong việc can thiệp, điều tiết kinh tế, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm QCN cho

tất cả mọi người và chỉ có nhà nước với vai trò, chức năng của mình mới có đủ các

điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này.

Page 54: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

50

Thứ tư, nhà nước thực hiện quản lý xã hội bảo đảm quyền con người

Để thực hiện chức năng quản lý xã hội, bảo đảm QCN, nhà nước phải đáp ứng

những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của nhân dân, như: bảo đảm môi trường xã hội,

bảo đảm an ninh lương thực, phúc lợi xã hội, xây dựng những công trình công cộng...

Ngoài ra, nhà nước còn có vai trò làm trọng tài giải quyết các mâu thuẫn, xung đột,

tranh chấp trong cộng đồng làm cho các bên xung đột lợi ích đi đến thỏa hiệp và giải

quyết mâu thuẫn nhằm bảo đảm trật tự, ổn định xã hội.

Để thực hiện chức năng xã hội, nhà nước phải thực hiện giải quyết các vấn đề xã

hội mang tính tổng thể vì lợi ích chung của toàn xã hội như: vấn đề lao động, việc làm;

văn hóa, giáo dục, y tế, an toàn xã hội, dịch vụ công cộng. Thông qua thực hiện chức

năng này, nhà nước bảo đảm những phúc lợi xã hội, tạo ra khả năng và cơ hội như nhau

cho mọi công dân đạt được những phúc lợi đó đồng thời có những biện pháp phòng

ngừa, ngăn chặn những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của cộng đồng và

các thành viên trong cộng đồng. Bên cạnh đó, nhà nước phải chú trọng tới bộ phận dân

cư chịu thiệt thòi về mặt xã hội như: người nghèo, người có thu nhập thấp, người thất

nghiệp, người già yếu không nơi nương tựa, trẻ em lang thang, trẻ em mồ côi, thực hiện

chính sách bảo hiểm xã hội trên lĩnh vực y tế, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội...

Với chức năng quản lý xã hội của mình, nhà nước phải hoạch định chính sách

phúc lợi xã hội, đồng thời bằng sức mạnh của mình, nhà nước phải thông qua một loạt

các biện pháp công cộng để giảm thiểu và hạn chế đến mức tối đa những khó khăn về

kinh tế, xã hội cho công dân của nước mình, bảo đảm cho họ có một cuộc sống ổn định

hơn, đầy đủ hơn, tạo lập cho họ cơ hội để bình đẳng về kinh tế và chính trị trong xã hội.

Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm giữa vững ổn định xã hội, bảo vệ QCN của mọi nhà

nước, đặc biệt, trong thời đại ngày nay, khi mà con người đang phải đối mặt với những

vấn đề mang tính toàn cầu như: đói nghèo, bất bình đẳng giới, suy thoái tài nguyên, di

dân tự do, chiến tranh hạt nhân, khủng bố và bạo lực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế

giới thì nhà nước càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết trong việc quản lý xã hội,

bảo đảm QCN, nhất là ở tầm vĩ mô, chỉ có nhà nước mới đủ chức năng, thẩm quyền và

nghĩa vụ giải quyết.

Thứ năm, nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại bảo đảm quyền con người

Bảo vệ và thúc đẩy việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT hiện nay không

chỉ trong khuôn khổ của mỗi quốc gia, mà cần sự đồng thuận giữa các nước trong khu

Page 55: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

51

vực và trên thế giới, nhất là trên lĩnh vực môi trường, đói nghèo, bất bình đẳng giới,

phân biệt chủng tộc, sắc tộc, khủng bố, chiến tranh hạt nhân...

Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và truyền thông đã làm

cho các nước xích lại gần nhau song cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ đe dọa đến hòa bình

và an ninh quốc gia... Do đó, chỉ có nhà nước mới đủ sức mạnh và thẩm quyền mở

rộng quan hệ quốc tế bảo vệ QCN. Đây cũng chính là thực hiện nghĩa vụ của mỗi quốc

gia đối với cộng đồng quốc tế. Do đó, HTQT là cơ hội để nhà nước tiếp thu những giá

trị tiến bộ về QCN, tiếp thu các kinh nghiệm của các nhà nước đối với việc bảo đảm

QCN, khẳng định vị thế của mình với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Tóm lại, nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo đảm QCN. Tầm

quan trọng đó được thể hiện thông qua các chức năng đặc biệt của nhà nước nhằm điều

chỉnh quá trình quản lý, hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội, an ninh quốc gia và

đối ngoại, thông qua các hệ thống các văn bản pháp lý, sự thực thi pháp luật và sự điều

hành, quản lý của nhà nước trên cơ sở hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của công dân,

bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và sự bình đẳng cho tất cả các thành viên trong xã

hội, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn với ổn định xã hội, bảo đảm

quyền con người một cách bền vững ở trong nước và trên phạm vi toàn thế giới.

2.2.2. Những biểu hiện cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền

con người

Bảo vệ QCN trách nhiệm đầu tiên và trước hết thuộc về nhà nước. Tuy nhiên mỗi

giai đoạn lịch sử khác nhau, các chế độ chính trị khác nhau, biểu hiện của nhà nước đối

với việc bảo đảm QCN khác nhau. Theo Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

(CESCR), việc bảo đảm đầy đủ QCN đòi hỏi nhà nước phải thực hiện 3 nghĩa vụ cơ

bản: Tôn trọng, thực hiện và bảo vệ. Các nghĩa vụ này có mối quan hệ gắn bó, bổ sung

cho nhau và được thừa nhận ở nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.

Nghĩa vụ tôn trọng quyền con người (obligation to respect). Nghĩa vụ này đòi hỏi

nhà nước phải có các hành động: (1) Ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của con

người trong hệ thống pháp luật quốc gia; (2) Xây dựng những chuẩn mực cụ thể về

QCN trên các lĩnh vực dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa; (3) Thường xuyên

chú trọng nâng cao nhận thức cho công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước,

các tổ chức xã hội và các tầng lớp nhân dân.

Nghĩa vụ bảo vệ quyền con người (obligation to protect). Nghĩa vụ này đòi hỏi

các nhà nước phải: (1) Kiềm chế và ngăn chặn sự vi phạm QCN từ phía các cơ quan

Page 56: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

52

nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cá nhân; (2) Ngăn chặn tình trạng

phân biệt đối xử, hoặc sự hình thành các thế lực đe dọa QCN trên các lĩnh vực; (3) Xử

lý có hiệu quả những vi phạm về QCN; (4) Ngăn chặn, điều tra, xử lý, phục hồi các

quyền đã bị vi phạm hoặc bồi thường vi phạm bất cứ khi nào có thể.

Nghĩa vụ thực hiện quyền con người (obligation to fulfil) đòi hỏi nhà nước phải:

(1) Chủ động, tích cực xây dựng khung thể chế: tổ chức, bộ máy, con người nhằm làm

cho luật pháp và các chuẩn mực về QCN được hiện thực hóa trong cuộc sống; (2) Chú

trọng xây dựng các thiết chế hỗ trợ quá trình thực thi luật pháp về QCN; (3) Tạo môi

trường kinh tế thuận lợi, mang tính hỗ trợ cho việc tiếp cận nhiều quyền của các nhóm

xã hội, nhất là các nhóm dễ tổn thương; (4) Thiết lập và duy trì một cơ chế minh bạch,

hiệu quả để giám sát QCN ở cả khu vực công và khu vực tư.

Từ các nghĩa vụ trên, nhiệm vụ cụ thể của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN

được thể hiện ở các lĩnh vực sau:

Một là, nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về quyền con người

Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN được thể hiện tập trung ở việc

hoạch định và ban hành chính sách, pháp luật về QCN bởi chính sách, pháp luật về

QCN vừa là những định hướng mang tính chiến lược, vừa là những công cụ, phương

tiện giúp nhà nước bảo đảm QCN hiệu quả. Chính vì vậy, trong quá trình hoạch định

các chính sách, pháp luật về QCN, nhà nước phải thực hiện điều chỉnh, quản lý và duy

trì sự cân bằng các lợi ích để phát triển kinh tế, ổn định xã hội theo hướng bảo đảm

ngày càng tốt hơn các QCN của công dân. Hiện nay, yêu cầu đặt ra với các chính sách,

pháp luật về QCN phải đảm bảo vừa là những định hướng cơ bản trong việc bảo đảm

QCN, vừa là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý, duy trì trật tự xã hội hiệu quả.

Hoạch định chính sách về quyền con người

Chính sách về QCN chiếm một vị trí quan trọng trong việc bảo đảm QCN. Trong

quá trình hoạch định chính sách về QCN, cần phải: xác định được mục tiêu cần đạt

được của chính sách, xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể thực hiện chính sách, xác

định các chủ thể thực hiện chính sách, thời gian thực hiện chính sách, xây dựng mạng

lưới giám sát, kiểm tra, đánh giá tác động của chính sách đến QCN... Nội dung của các

chính sách về QCN gắn với từng lĩnh vực cụ thể như: sở hữu đất đai, tự do kinh doanh,

giáo dục, y tế, văn hóa, lao động, việc làm, an sinh xã hội... Mục tiêu của các chính

sách là thúc đẩy việc bảo đảm QCN, thay đổi nhận thức của các chủ thể trong việc thực

thi chính sách, xây dựng pháp luật về QCN.

Page 57: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

53

Hiện nay, xây chính sách về QCN cần tính đến những ảnh hưởng của những điều

kiện kinh tế, xã hội, văn hóa đến QCN, thể hiện nguyên tắc chủ đạo là thúc đẩy việc

thực hiện QCN, bảo vệ quyền và ích hợp pháp của con người, ngăn ngừa sự vi phạm

QCN từ phía các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Do đó, chính sách về QCN

là cơ sở quan trọng để các cơ quan, các tổ chức triển khai các hoạt động cụ thể của

mình, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội gắn với bảo đảm QCN.

Để xây dựng chính sách về QCN có tính hiệu quả cao, tất yếu phải có đề xuất

quản lý quy hoạch chính sách. Mục đích là nhằm tạo ra một khung pháp lý và tổ chức

cần thiết, tăng cường năng lực quản lý nhà nước, phát huy vai trò của các cơ quan và tổ

chức xã hội, tạo ra nguồn lực tài chính cần thiết, tổ chức hoạt động theo dõi, giám sát

việc thực hiện các nội dung chính sách đề ra. Hiệu quả của công tác quản lý nhà nước

về bảo đảm QCN phụ thuộc một phần quan trọng vào quá trình triển khai việc thực

hiện các chính sách bảo đảm QCN.

Do đó, yêu cầu đặt ra với các chính sách về QCN phù hợp với trình độ phát triển

kinh tế, xã hội, bảo đảm sự phù hợp với cơ chế quản lý nhà nước về QCN cũng như cơ

chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ chế báo cáo của tổ chức cá nhân và thanh

tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước, bảo đảm lợi ích của cá nhân, tổ chức, cộng đồng...

Như vậy, việc hoạch định chính sách về QCN là một trong những hoạt động quan trọng

của nhà nước để bảo đảm QCN. Tuy nhiên, nếu chỉ có các chính sách thì chưa đủ mà

việc bảo đảm QCN cần phải có một công cụ quan trọng khác, đó là pháp luật về QCN.

Ban hành pháp luật về quyền con người

Một trong những chức năng quan trọng nhất của bộ máy nhà nước là điều hành,

quản lý xã hội thông qua hiến pháp và luật. Pháp luật là hệ thống các quy phạm do nhà

nước ban hành hay thừa nhận, được bảo đảm và thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của

quyền lực tổ chức mang tính chất nhà nước, buộc các đối tượng phải thực hiện. Trong

nhà nước hiện đại, pháp luật "không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý mọi mặt của

đời sống xã hội mà còn là công cụ để nhân dân kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà

nước, công cụ để mọi công dân đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình"

[110, tr.68]. Pháp luật cũng chính là phương tiện để chính thức hóa các giá trị xã hội

của QCN. Pháp luật "nếu chỉ có vai trò là công cụ của nhà nước, hoặc chí ít là vai trò

thứ nhất của nhà nước… thì… pháp luật không cần thiết đối với nhà nước. Nhà nước

có thể quản lý xã hội không cần đến pháp luật, vì vậy, pháp luật trước hết là công cụ

Page 58: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

54

của nhân dân. Nhân dân sử dụng pháp luật như một thứ công cụ hữu hiệu nhất để bảo

vệ mình" [25, tr.54-55].

Pháp luật về QCN là hệ thống các tiêu chuẩn, quy tắc về các hành vi, cách ứng xử

mang tính chất bắt buộc chung được nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều

chỉnh mối quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với các tổ chức; cá nhân

với nhà nước cũng như mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân; nhà nước với các tổ

chức và giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước hướng tới mục tiêu bảo đảm QCN

bền vững. Nó là sự thể hiên ý chí chung của mọi công dân, trong đó, các quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân được ghi nhận trong các đạo luật cơ bản của nhà nước và có

cơ chế bảo đảm thực hiện. Hiện nay, hệ thống pháp luật về QCN ở các nhà nước gồm:

Luật quốc tế về QCN là tập hợp các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh

mối quan hệ giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ghi nhận, áp dụng các

nguyên tắc và tiểu chuẩn quốc tế về QCN nhằm bảo vệ và thúc đẩy các QCN ở cấp độ

quốc gia, khu vực và quốc tế. Luật quốc tế về QCN gồm các điều ước, hiệp định quốc

tế, các công ước do LHQ và các tổ chức của LHQ thông qua và có hiệu lực, như: Công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh

tế, xã hội, văn hóa (1966) và nhiều công ước trên các lĩnh vực cụ thể như: Công ước về

xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1979); Công ước về quyền trẻ em

(1989);... cùng nhiều nghị định thư bổ sung cho các công ước.

Xét về phạm vi áp dụng, luật quốc tế về QCN chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ

giữa các nhà nước và các tổ chức quốc tế, do đó, không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh

thổ quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nào đó, các quy

phạm của luật quốc tế về QCN cần phải được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật

quốc gia, nghĩa là nhà nước phải phê chuẩn các văn bản này.

- Luật quốc gia về QCN là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp

lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể áp

dụng hoặc thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác, nhằm bảo

đảm hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Pháp luật quốc gia về QCN

gồm hiến pháp, các luật và bộ luật về QCN ở từng lĩnh vực cụ thể.

Ban hành hiến pháp, hiến pháp là đạo luật quan trọng nhất của pháp luật, "là văn

bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện

một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển" [74,

tr.77], ghi nhận ý chí của nhân dân, xác lập một cách đầy đủ nhất và cao nhất ý chí và

nguyện vọng của người dân. Hiến pháp là sự thể hiện quan điểm chính trị của nhà nước

Page 59: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

55

về bảo vệ QCN, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường trách nhiệm

và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong việc bảo đảm QCN.

Ban hành luật, trên cơ sở hiến pháp, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về

QCN trên từng lĩnh vực cụ thể. Pháp luật về QCN trở thành công cụ để các cấp chính

quyền, các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về QCN, các tổ chức chính

trị xã hội tuân thủ và thực hiện. Các cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tổ chức thực

thi pháp luật, hướng dẫn người dân tuân thủ pháp luật, kiểm tra, đánh giá việc chấp

hành pháp luật về QCN của các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm kịp thời

ngăn chặn những biểu hiệu vi phạm QCN.

Như vậy, hoạch định chính sách, pháp luật là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước

nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN. Chính sách, pháp luật về QCN phải

gắn với điều kiện về kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước, phù hợp với các điều ước

quốc tế mà quốc gia đã cam kết thực hiện. Do vậy, các chính sách, pháp luật về QCN

càng rõ ràng, cụ thể, đồng bộ, phù hợp với thực tế thì nó sẽ đi vào cuộc sống, và thực

hiện hiệu quả. Ngược lại, các chính sách, pháp luật về QCN mà xa rời với thực tế,

chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì sẽ khó khăn trong tổ chức triển khai thực hiện, dẫn đến

hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực QCN đạt hiệu quả không cao.

Hai là, nhà nước tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người

Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật có thể hiểu là toàn bộ quá trình chuyển hóa

cách ứng xử của chủ thể thành hiện thực đối với các đối tượng quản lý nhằm đạt được

mục tiêu định hướng đề ra. Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hóa chính sách, pháp luật về QCN vào cuộc

sống, khẳng định tính đúng đắn của chính sách, pháp luật. Do đó, việc tổ chức thực thi

chính sách, pháp luật về QCN có ý nghĩa quyết định tới việc thành công hay thất bại

của một chính sách hay một văn bản luật. Để tổ chức thực thi chính sách, pháp luật có

hiệu quả, nhiệm vụ đặt ra với nhà nước là:

Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, pháp luật. Đây là bước quan

trọng nhất làm cơ sở cho các công việc tiếp theo. Kế hoạch này bao gồm kế hoạch tổ

chức, điều hành thực hiện chính sách, pháp luật; kế hoạch cung cấp các nguồn lực; kế

hoạch thời gian kiểm tra thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện

chính sách, pháp luật,... Như vậy, xây dựng kế hoạch thực thi chính sách, pháp luật nói

chung, về QCN nói riêng là khâu quan trọng và là căn cứ để các cấp, các ngành triển

khai tổ chức thực hiện.

Page 60: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

56

Phân công, phối hợp thực hiện chính sách, pháp luật. Trong thực tiễn, việc triển

khai thực thi chính sách cụ thể nào đó, cần phải xác định trách nhiệm của các cơ quan,

tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật, phân định rõ cơ quan

chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện. Đây là khâu quan trọng trong việc tổ chức

thực thi chính sách, pháp luật.

Kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật

Kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về QCN là khâu quan

trọng trong tổ chức thực thi chính sách pháp luật về QCN. Chính sách, pháp luật về

QCN có phù hợp với thực tiễn hay không, thực hiện có đúng hay không, đáp ứng

được mục tiêu yêu cầu đặt ra hay không, có cần điều chỉnh, bổ sung hay không thì

kiểm tra, giám sát thực hiện chức năng này. Mục đích của việc kiểm tra, giám sát việc

thực thi chính sách pháp luật nhằm: một là, kiểm tra, giám sát động của các tổ chức

nhà nước, tổ chức kinh tế và công dân đúng pháp luật, bảo đảm các chính sách, pháp

luật về QCN thực hiện đúng hướng đích; hai là, phát hiện điểm bất hợp lý, sai trái

trong tổ chức thực hiện để kịp thời điều chỉnh hoặc kiến nghị việc điều chỉnh cơ chế

chính sách, pháp luật và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền

lực nhà nước được vận hành có hiệu quả và khoa học. Có nhiều hình thức kiểm tra,

giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về QCN (giám sát trong hệ thống bộ

máy nhà nước và giám sát xã hội là giám sát của tổ chức chính trị, xã hội, giám sát

của nhân dân, của cá nhân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ

quan, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước).

Như vậy, tổ chức thực thì chính sách là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời

gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước

triển khai thực hiện chính sách, pháp luật một cách chủ động. Đây là nhiệm vụ quan

trọng của nhà nước, làm cho chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống.

Ba là, nhà nước xây dựng, hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người

Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, con người là "con người hiện thực" mang tính xã

hội, gắn với các hệ thống xã hội đang tồn tại. Xã hội và quốc gia, dân tộc là môi trường

tồn tại cơ bản của con người, đồng thời con người hiện thực dựa vào xã hội đó để tồn

tại và phát triển. Do đó, mọi hoạt động của con người không phải là ngẫu nhiên, bất kỳ

mà phải nó tuân theo một trật tự nhất định để duy trì một tổ chức nhất định. Vì vậy, nhà

nước cần phải xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm QCN nhằm phát huy hiệu

quả, hiệu lực của nhà nước trong việc bảo vệ, thực thi QCN. Trong các nhà nước hiện

Page 61: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

57

đại, các thiết chế bảo đảm QCN, gồm: (1) Nhóm các cơ quan có chức năng trực tiếp

trong việc bảo đảm QCN (Ủy ban nhân quyền quốc gia, các cơ quan nghiên cứu, giảng

dạy về QCN...); (2) Nhóm các cơ quan có mối quan tâm đặc biệt đến bảo đảm QCN

trong phạm vi thẩm quyền của họ (các nghị viện/quốc hội; các cơ quan thuộc chính phủ

có lĩnh vực hoạt động liên quan đến QCN...). Theo nguyên tắc phân công trách nhiệm

trên, cả hai nhóm cơ quan có chức năng trực tiếp và cơ quan có mối quan tâm đặc biệt

đến việc bảo đảm QCN phải liên hệ, cộng tác chặt chẽ và trợ giúp lẫn nhau để thực

hiện việc quản lý, tổ chức và thực thi QCN có hiệu quả.

Một trong những vấn đề quan trọng việc xây dựng và củng cố các thiết chế bảo

vệ QCN, phát huy vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN là công tác cán bộ.

Bởi lẽ, "cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều do

cán bộ tốt hay kém" [84, tr.269]. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho công tác cán bộ là phải lựa

chọn được những cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ

từng giai đoạn, từng thời kỳ. Hiện nay, yêu cầu đối với người cán bộ không chỉ có

phẩm chất về đạo đức mà phải có năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức,thực thi chính

sách, pháp luật, đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống.

Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức

trong bộ máy nhà nước chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành

công hay thất bại của việc bảo đảm QCN. Vì vậy, việc bảo đảm QCN của nhà nước

phụ thuộc nhiều vào con người, vào phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm

công tác quản lý nhà nước về bảo đảm QCN, nhất là những cán bộ trực tiếp làm nhiệm

vụ hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật về QCN. Một đội ngũ cán bộ có phẩm

chất, năng lực tốt mới có thể đề ra được chiến lược, chính sách, pháp luật về QCN đúng

đắn, phù hợp với các quy luật khách quan, từ đó, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính

sách, pháp luật về QCN và hoàn thiện các thiết chế bảo vệ QCN. Do đó, việc xây dựng

đội ngũ cán bộ có ý nghĩa quyết định tới sự thành công hay thất bại của nhà nước trong

việc hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN.

Hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN, nhà nước chú trọng tới việc phát huy vai

trò của các tổ chức chính trị xã hội bảo đảm QCN. Để làm được điều này, nhà nước

phải thể chế hóa quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức chính trị, xã hội trong bảo vệ

QCN trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành. Đồng thời, có cơ chế phát huy sức

mạnh của các tổ chức chính trị xã hội trong việc tuyên truyền, giáo dục về QCN cho

mọi tầng lớp trong xã hội.

Page 62: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

58

Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm QCN đòi hỏi sự tham gia của rất

nhiều chủ thể khác nhau, song việc tổ chức, điều hành hoạt động của các tổ chức đó

theo một trật tự thống nhất cùng vì mục tiêu chung thì chỉ có nhà nước mới đủ khả

năng, nguồn lực và thẩm quyền pháp lý để thực hiện công việc này. Do đó, nhà

nướcphải huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp bảo vệ,

thúc đẩy, kiểm tra, giám sát việc thực hiện QCN và tuyên truyền giáo dục nâng cao

nhận thức về QCN là rất cần thiết trong việc bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia.

Bốn là, nhà nước tham gia hợp tác quốc tế về quyền con người

Hợp tác quốc tế là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước với mục tiêu phát triển

kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện hiện nay,

HTQT về QCN cần có sự tham gia của nhiều chủ thể, từ các cá nhân, các tổ chức chính

trị, xã hội, nghề nghiệp, các chính phủ, trong đó, nhà nước đóng vai trò quan trọng,

quyết định. Mỗi nhà nước khi tham gia hợp tác quốc tế về QCN cần thực hiện nhiều

nghĩa vụ, trong đó có: (1) Ký kết, phê chuẩn các công ước quốc tế và khu vực về QCN;

(2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo các nguyên tắc của các công ước, điều

ước quốc tế mà nhà nước đó là thành viên; (3) Xây dựng các cơ chế giám sát và thực

thi công ước quốc tế về QCN cũng như cơ chế quốc gia về QCN; (4) Xây dựng các báo

cáo quốc gia về việc thực hiện nghĩa vụ đối với các công ước quốc tế về QCN theo yêu

cầu của các ủy ban của các công ước; (5) Tiếp nhận và trả lời các kháng thư, tiếp nhận

và xử lý những bình luận, khuyến nghị chung của những phiên họp ủy ban; (6) Tham

gia đối thoại với các nhà nước, các tổ chức về QCN để tăng cường hiểu biết giữa các

quốc gia và các tổ chức khác nhau...

Với những nhiệm vụ quan trọng nêu trên, có thể khẳng định nhà nước là chủ thể

chính, có vai trò quan trọng, quyết định trong thực hiện HTQT về QCN bởi chỉ có nhà

nước mới có đủ tư cách pháp lý để đàm phán, tham gia, ký kết và phê chuẩn các công

ước,điều ước, hiệp định quốc tế và khu vực về QCN. Đồng thời chỉ có nhà nước mới

có đủ điều kiện và nguồn lực về tài chính, con người, phương tiện...để thực hiện các

cam về trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia thành viên, tổ chức thực thi các công ước,

điều ước quốc tế, khu vực về QCN mà họ là thành viên còn các chủ thể khác không có

thẩm quyền pháp lý và nguồn lực để giải quyết.

Hiện nay, HTQT về QCN không những đòi hỏi vai trò của nhà nước với tính cách

là chủ thể quan trọng nhất của quá trình hợp tác mà còn phải có một nhà nước năng lực

và hiệu quả với một tổ chức bộ máy tinh gọn, với đội ngũ cán bộ chất lượng cao mới

đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ HTQT về QCN, bảo vệ được quyền và lợi ích

Page 63: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

59

hợp pháp của con người, đáp ứng yêu cầu của HNQT và hạn chế những tác động tiêu

cực về QCN do HNQT mang lại.

Các nhiệm vụ bảo vệ QCN của nhà nước nêu trên đang được hầu hết các quốc

gia trên thế giới thực hiện, trong đó có một số quốc gia mà tác giả có điều kiện nghiên

cứu. Chẳng hạn, Thụy Điển là một quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ

QCN. Với nguyên tắc "mọi sức mạnh đều bắt nguồn từ nhân dân"; "tất cả quyền lực xã

hội đều xuất phát từ nhân dân", nhà nước Thụy Điển đã tập trung xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật về QCN; tham gia ký kết hầu hết các điều ước quốc tế về; sửa

đổi hiến pháp, ban hành nhiều đạo luật quan trọng để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản

của công dân như: Đạo luật về quyền thừa kế; Luật về tự do báo chí; Luật cơ bản về

các quyền tự do biểu đạt…Nhà nước Thụy Điển đặc biệt chú trọng tới hoạch định các

đề xuất chính sách về giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội bảo đảm các QCN cho người dân,

nhất là quyền của nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người

già, người thất nghiệp, người di cư...).

Về tổ chức bộ máy, Thụy Điển, không có tòa án hiến pháp và không có cơ quan

chuyên trách về QCN mà được giao về các ủy ban của Quốc hội: Ủy ban hiến pháp; Ủy

ban phúc lợi và sức khỏe; Ủy ban bảo hiểm xã hội; Ủy ban tư pháp; Ủy ban giáo dục; Ủy

ban trẻ em; Ủy ban đối ngoại…Các ủy ban này có nhiệm vụ thực hiện và giải quyết các

vấn đề QCN trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Để bảo vệ các

QCN của công dân, hạn chế sự vi phạm quyền lực từ phía các cơ quan nhà nước, Thụy

Điển thành lập cơ quan chuyên trách về QCN, có tên là "Ombusdsman" (cơ quan thanh

tra của quốc hội). Đây là cơ quan độc lập để bảo vệ quyền của công dân khi họ phát hiện

ra bất cứ một sự lạm dụng quyền lực nào đối với cá nhân. Để bảo đảm các QCN, nhà

nước Thụy Điển đặc biệt chú trọng tới HTQT về nhân quyền. Chương trình hợp tác phát

triển về QCN được mở rộng ra ở nhiều quốc gia với mục tiêu bảo vệ và thúc đẩy QCN,

thúc đẩy sự bình đẳng nam nữ; bảo vệ quyền của nhóm dễ tổn thương…

In-đô-nê-xi-a là một quốc gia Đông Nam Á có nhiều chính sách và biện pháp cụ

thể để bảo vệ QCN. Nhà nước In-đô-nê-xi-a đặc biệt chú trọng tới việc hoàn thiện hệ

thống pháp luật, công cụ quan trọng bảo đảm hiệu quả QCN. Để thực hiện tốt điều này,

Chính phủ In-đô-nê-xi-a đã tiến hành sửa đổi hiến pháp và thông qua nhiều đạo luật

quan trọng về QCN: Luật về QCN; Luật về tự do phát biểu ý kiến; Luật giáo dục; Luật

bảo vệ trẻ em; Luật lập hội công đoàn; Luật việc làm; Luật loại bỏ bạo lực gia đình;

Luật bảo vệ công nhân nhập cư cùng nhiều đạo luật và sắc lệnh khác. Đồng thời, Chính

Page 64: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

60

phủ In-đô-nê-xi-a chú trọng tới việc đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước bảo

đảm tốt hơn các QCN như: thành lập Tòa án hiến pháp nhằm xem xét tính hợp hiến của

các đạo luật được ban hành; thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia để tư vấn cho chính

phủ việc gia nhập, phê chuẩn các điều ước quốc tế về QCN; đề xuất bổ sung hoặc hủy

bỏ đạo luật nào đó liên quan đến QCN; tư vấn các biện pháp bảo vệ, thực thi và thúc

đẩy QCN; điều tra các vi phạm về QCN; tuyên truyền các nguyên tắc về QCN; thực

hiện HTQT về QCN…

Kenya là một quốc gia thuộc Châu Phi có nhiều chính sách và biện pháp cụ thể

để bảo vệ QCN. Chính phủ Kenya cho rằng, để thống nhất giữa ý chí và hành động của

các tầng lớp xã hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy QCN, vấn đề đầu tiên phải tăng

cường vai trò của của nhà nước trong bảo vệ QCN bằng nhiều biện pháp cụ thể như:

hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN; đổi mới tổ chức bộ máy hoạt động của các cơ

quan nhà nước; thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia. Ủy ban này có nhiệm vụ thúc

đẩy, bảo vệ QCN theo quy định của Hiến pháp và quy định của Công ước quốc tế về

QCN mà Kenya tham gia. Ủy ban cũng có nhiệm vụ chủ động điều tra hoặc dựa trên

khiếu nại về các vụ việc vi phạm QCN; tuyên truyền nâng cao nhận thức của công

chúng về QCN; đưa ra khuyến nghị cho Quốc hội về các biện pháp hiệu quả để thúc

đẩy QCN; tư vấn, giám sát thực hiện các chương trình giáo dục nâng cao nhận thức của

người dân về quyền và nghĩa vụ của họ; tư vấn, giám sát hoạt động của chính phủ trong

việc thực hiện các chiến lược phát triển quốc gia; phối hợp với các cơ chế khác nhằm

thúc đẩy và bảo vệ QCN…

Trung Quốc là quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ QCN. Kể từ khi

thực hiện chính sách cải cách và mở cửa vào cuối những năm 1970, Trung Quốc đã có

nhiều chính sách và biện pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc

bảo vệ QCN như: xây dựng hệ thống các quan điểm về QCN, trong đó nhấn mạnh việc

tôn trọng và bảo đảm QCN trách nhiệm của nhà nước và là công việc nội bộ của mỗi

quốc gia. Đồng thời, chính phủ Trung Quốc đã triển khai một loạt các biện pháp cụ thể

để bảo đảm tốt hơn QCN như: tham gia ký và phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế về

QCN; hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN. Từ năm 1990 đến nay, Trung Quốc đã ba

lần sửa đổi hiến pháp vào các năm 1993; 1999 và 2004; sửa đổi và ban hành nhiều đạo

luật quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm và thực thi các QCN của công dân

như Luật dân sự; Luật hình sự; Luật hôn nhân gia đình; Luật chống độc quyền; Luật về

quyền sở hữu; Luật doanh nghiệp; Luật khiếu nại, tố cáo…Từ năm 1990 đến nay, quốc

Page 65: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

61

hội Trung Quốc đã sửa đổi trên 300 luật và pháp lệnh, ban hành nhiều đạo luật mới bảo

đảm tốt hơn các QCN của công dân. Bên cạnh việc hoàn thiện quy trình lập pháp,

chính phủ Trung Quốc chú trọng đổi mới hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư

pháp. Các thiết chế bảo đảm QCN ở Trung Quốc được củng cố nhất là thiết chế tư

pháp. Đặc biệt, tháng 3/2009, chính phủ Trung Quốc phê duyệt "Kế hoạch hành động

về nhân quyền", trong đó, nhấn mạnh việc bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa kinh tế

và QCN; bảo đảm quyền của nhóm người dễ tổn thương; đẩy mạnh giáo dục về QCN

và thực hiện nghĩa vụ quốc tế về QCN.

Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh việc nghiên cứu, giảng dạy QCN

bằng cách thành lập các hội, các trung tâm nghiên cứu QCN ở các trường đại học ở các

địa phương; tổ chức nhiều hội nghị khu vực và thế giới về QCN; tích cực đấu tranh trên

lĩnh vực QCN như; xuất bản sách trắng về nhân quyền; tham gia đối thoại nhân quyền;

cho phép nhiều tổ chức nhân quyền hoạt động trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc gia;

cho phép nhiều đoàn nước ngoài đến Trung Quốc tham quan, khảo sát việc thưch hiện

QCN, kể cả các khu vực nhạy cảm. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc triển khai nhiều

hoạt động tuyên truyền, giáo dục về QCN cho mọi tầng lớp cán bộ, nhân dân dưới

nhiều hình thức phù hợp. Nhờ đó, vai trò nhà nước Trung Quốc trong việc bảo đảm

QCN ngày càng nâng cao.

Điểm qua những bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực và trên

thế giới, có thể khẳng định, ở mỗi quốc gia khác nhau, cách tiếp cận và phương thức

phát huy vai trò của nhà nước trong bảo đảm QCN có khác nhau, nhưng tựu chung lại

thường được tiến hành trên một số phương diện cơ bản như: xây dựng chính sách và

hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm QCN; xây dựng thể

chế (tổ chức bộ máy, con người) làm nhiệm vụ bảo vệ QCN; huy động sự tham gia của

các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ QCN; tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức

về QCN; thực hiện HTQT trên lĩnh vực QCN. Đây là những kinh nghiệm có giá trị cho

Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm QCN.

Kết luận chương 2

Quyền con người là vấn đề nhạy cảm, phức tạp và được tiếp cận dưới nhiều góc

độ khác nhau. Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về QCN mà chưa có sự

thống nhất chung. Chính vì vậy, chương 2 của luận án đã tập trung phân tích một số

định nghĩa về QCN. Trên cơ sở tiếp thu điểm hợp lý của một số định nghĩa, luận án

khẳng định: Quyền con người là một phạm trù xã hội - chính trị phản ánh nhu cầu,

Page 66: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

62

năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn mực khách quan, được

xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định pháp luật. Từ định nghĩa về QCN, tác

giả chỉ ra đặc trưng bản chất của QCN, đó là: bẩm sinh, vốn có; mang giá trị phổ biến

và phụ thuộc lẫn nhau; mang tính lịch sử cụ thể; gắn liền với nhà nước; được bảo vệ

bằng pháp luật...

Chương 2, luận án cũng phân tích các khái niệm bảo đảm QCN và cho rằng: Bảo

đảm QCN là việc các chủ thể (cá nhân, nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội...) có

nghĩa vụ sử dụng các biện pháp, cách thức để hiện thực hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn

về quyền con người nhằm bảo vệ và thực thi hiệu quả các quyền và tự do cơ bản của

con người trong các hoạt động của mình, ngăn ngừa sự lạm dụng, vi phạm quyền con

người từ phía các chủ thể khác.

Chương 2, luận án tập trung phân tích tầm quan trọng của nhà nước đối với việc

bảo đảm QCN. Bảo đảm QCN là trách nhiệm thuộc về nhiều chủ thể, song trách nhiệm

đầu tiên và trước hết thuộc về nhà nước. Cơ sở để tác giả rút ra nhận định này là xuất

phát từ những chức năng cơ bản của nhà nước. Với chức năng của mình, nhà nước là

chủ thể duy nhất được ban hành chính sách, pháp luật về QCN, tạo lập các cơ chế bảo

đảm QCN, điều tiết phát triển kinh tế; quản lý xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp

tác quốc tế về QCN. Đây là lĩnh vực hoạt động chỉ có nhà nước mới thực hiện được mà

không chủ thể nào có đủ điều kiện và nguồn lực để làm thay nhà nước.

Trong Chương 2, luận án tập trung luận giải những nhiệm vụ cụ thể của nhà nước

hiện đại trong việc bảo đảm QCN. Xuất phát từ các chức năng quản lý của mình, nhà

nước cần phát huy vai trò của mình trong việc bảo đảm QCN bằng các nhiệm vụ, hoạt

động cụ thể như: (1) Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo đảm QCN; (2) Tổ

chức thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm QCN; (3) Xây dựng và hoàn thiện tổ chức

bộ máy và các thiết chế bảo vệ QCN bao gồm hoàn thiện các cơ quan chuyên trách trong

việc bảo đảm QCN và hoàn thiện tổ chức bộ máy của các cơ quan trong tổ chức bộ máy

nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ QCN (các nghị viện/quốc hội; các cơ quan thuộc chính

phủ có lĩnh vực hoạt động liên quan đến QCN...) và huy động sự tham gia của các tổ

chức chính trị, xã hội trong việc bảo đảm QCN; (4) Thực hiện HTQT về bảo đảm QCN.

Chương 2, Luận án trình bày kinh nghiệm của một số nhà nước trong việc thực

hiện các nhiệm vụ bảo đảm QCN như Thụy Điển, In-đô-nê-xia; Kenya; Trung Quốc...

làm cơ sở để so sánh với việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm QCN của Nhà nước Việt

Nam tại Chương 3.

Page 67: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

63

Chương 3

NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM

QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ -

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NHÀ NƯỚC TRONG

VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM

3.1.1. Hội nhập quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam

3.1.1.1. Khái niệm hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế (international integration) là khái niệm được sử dụng rộng rãi và

phổ biến. Hiện nay có nhiều cách hiểu và các định nghĩa khác nhau về HNQT, song có

thể hiểu một cách chung nhất, Hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia tiến hành

các hoạt động tăng cường sự gắn kết, liên kết họ với nhau, dựa trên sự chia sẻ về lợi

ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn

khổ các định chế quốc tế hoặc quy định của các tổ chức mà quốc gia đó tham gia.

Từ định nghĩa trên, có thể hiểu bản chất của HNQT như sau:

Thứ nhất, HNQT là hoạt động hợp tác của các quốc gia bắt đầu từ kinh tế, nhưng

không dừng ở đó, mà có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế đến

chính trị, quốc phòng- an ninh, văn hóa- xã hội...). Điều này hoàn toàn phù hợp với

quan điểm biện chứng Mác-xít, quốc tế hóa đời sống kinh tế sẽ dẫn tới quốc tế hóa đời

sống trên các mặt khác, hình thành nên những chuẩn mực chung trong đời sống quốc tế

trên mọi lĩnh vực.

Thứ hai, HNQT là quá trình không có giới hạn về thời gian. Điều đó có nghĩa

HNQT là một quá trình liên tục trong quan hệ hợp tác giữa các nước, có thể đi từ thấp

đến cao, từ trạng thái này đến trạng thái khác.

Thứ ba, HNQT không chỉ diễn ra thông qua việc tham gia các cơ chế hợp tác

song phương mà trên nhiều bình diện (đa phương, khu vực, liên khu vực...).

Thứ tư, HNQT chính là quá trình chủ động chấp nhận, xây dựng và áp dụng các

luật lệ và chuẩn mực chung, theo thông lệ chung. Đây là đặc điểm phân biệt HNQT với

các hoạt động hợp tác quốc tế. Nếu như hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế

đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), HNQT vượt lên

trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của

các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và

Page 68: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

64

củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc

tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: (1) hoặc là một tổ chức liên

chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính

sách, chẳng hạn như tổ chức Liên hợp quốc, ASEAN…), (2) hoặc là một tổ chức

siêu quốc gia; (3) hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên.

Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan hệ

quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết

quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng

tổng hợp tham gia vào quá trình HNQT.

3.1.1.2. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam

Hội nhập quốc tế là xu thế chung của thế giới và là sự lựa chọn tất yếu của các

quốc gia. Những năm qua, dù tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức

tạp, song Việt Nam luôn có những nhận thức xác đáng về thời đại, về tình hình thế giới

và khu vực để có định hướng những chính sách đối nội và đối ngoại phù hợp.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, với chủ

trương tham gia mở rộng HTQT trong Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các

nước khác. Chủ trương này được cụ thể hơn tại Đại hội Đảng lần thứ VII, đó là "đa

dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế". Đại hội Đảng

lần thứ VIII, thuật ngữ "hội nhập" bắt đầu được đề cập trong các văn kiện Đảng: "Xây

dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới". Phát triển quan điểm này,

Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực

theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc

lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa" [30, tr.43]. Chủ trương này được cụ thể hóa

trong Nghị quyết số 07-NQ/TW "Về hội nhập kinh tế quốc tế", ngày 27/11/2001 của

Bộ Chính trị.

Đại hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh cần "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế

quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác". Ngày 05/02/2007, Bộ

chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW Về một số chủ trương, chính sách lớn để

nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức

Thương mại thế giới. Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta chủ trương "chủ động và tích

cực hội nhập quốc tế". Đây là bước chuyển biến quan trọng trong tư duy của Đảng ta từ

"hội nhập kinh tế quốc tế" sang "hội nhập quốc tế" một cách toàn diện.

Page 69: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

65

Cụ thể hóa chủ trương trên, ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết

số 22 Về hội nhập quốc tế. Nghị quyết nhấn mạnh: "Chủ động và tích cực hội nhập

quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân

tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển" [2], trong đó xác định HNQT là sự nghiệp của

toàn dân và của cả hệ thống chính trị, được thực hiện trên cơ sở phát huy tối đa nội lực;

gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực... Đây là

văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn

Đảng, toàn dân về HNQT trong tình hình mới.

Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 22 của Bộ chính trị về Hội nhập quốc tế,

ngày 23/4/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 596/QĐ-TTg về việc thành

lập Ban Chỉ đạo quốc gia về HNQT. Ban Chỉ đạo quốc gia có 3 Ban Chỉ đạo liên

ngành, đó là Ban Chỉ đạo liên ngành HNQT về chính trị, an ninh, quốc phòng; Ban Chỉ

đạo liên ngành HNQT về kinh tế và Ban Chỉ đạo liên ngành HNQT về văn hóa, xã hội,

khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo. Việc thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về

HNQT là sự thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta tham gia HNQT một cách

toàn diện và hiệu quả.

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về HNQT, Việt Nam đã đạt được

những thành tựu quan trọng. Đến nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ ngoại giao với 181

trong số 193 quốc gia thành viên LHQ, quan hệ kinh tế thương mại với 230 nước và

vùng lãnh thổ. Việt Nam là thành viên tích cực của 70 tổ chức quốc tế và khu vực, có

98 cơ quan đại diện các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp các châu lục trên thế giới, tham

gia ký kết hàng trăm hiệp định, trong đó có 90 Hiệp định thương mại, 46 Hiệp định

khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, 81 thỏa thuận đối

xử tối huệ quốc, đánh dấu sự hội nhập toàn diện, đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế

toàn cầu.

Việt Nam tích cực triển khai một cách khẩn trương và có hiệu quả chủ trương làm

sâu sắc quan hệ với các đối tác quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã xác lập quan hệ đối

tác chiến lược với 13 nước (Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban

Nha, Anh, Đức, Italia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp), xác lập xác lập quan hệ

đối tác toàn diện với Hoa Kỳ, tạo nền tảng cho những bước phát triển mới trong quan

hệ song phương vì lợi ích của hai nước, đồng thời góp phần cho hòa bình, ổn định, hợp

tác và phát triển.

Page 70: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

66

Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng

quốc tế và khu vực như: tham gia một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào việc

xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định hướng

lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc đẩy hợp

tác, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình. Việt

Nam và các nước ASEAN cũng đang nỗ lực cùng Trung Quốc hướng tới một Bộ quy

tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, kiểm soát các tranh

chấp, góp phần xây dựng lòng tin và củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-

Trung Quốc.

Việt Nam tăng cường tham gia toàn diện, sâu rộng vào các diễn đàn đa phương.

Cụ thể, Việt Nam đăng cai tổ chức thành công Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế

giới IPU lần thứ 132 (tháng 3/2015), thông qua Tuyên bố Hà Nội, khẳng định sự phát

triển bền vững lấy người dân làm trung tâm, thực hiện bảo đảm các QCN, nhằm xóa

nghèo dưới mọi hình thức, xóa bỏ bất bình đẳng, phát huy quyền làm chủ của các cá

nhân trên cơ sở tôn trọng Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế. Việt Nam cũng lần

thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC (năm 2017).

Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như: thành viên của Hội

đồng Thống đốc tổ chức Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), nhiệm kỳ 2013-

2015; thành viên của Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO (tháng 11/2013) và thành

viên Hội đồng Nhân quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu tín nhiệm

(184/193). Kết quả đó thể hiện sự tín nhiệm và lòng tin của cộng đồng quốc tế dành

cho Việt Nam. Sự kiện thành lập Trung tâm gìn giữ hòa bình Việt Nam và chính thức

tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ (ngày 27/5/2014) đánh dấu sự hội

nhập toàn diện của Việt Nam trên trường quốc tế.

Sau gần 30 năm thực hiện Đổi mới, Nhà nước Việt Nam đã đạt được những thành

tựu trong tiến trình HNQT. Nếu việc tham gia WTO mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào

nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa phương trên, Việt Nam đã

tham gia hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế. Chủ trương chủ động và tích

cực HNQT đang đẩy tiến trình HNQT của chúng ta lên một tầm cao mới trên tất cả các

lĩnh vực, đặt ra yêu cầu cao hơn về tranh thủ thời cơ chiến lược và sức mạnh thời đại

cho phát triển đất nước cũng như giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường ổn định khi

hội nhập sâu rộng và toàn diện với khu vực và thế giới.

Page 71: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

67

3.1.2. Tác động của Hội nhập quốc tế đến nhà nước đối với việc bảo đảm

quyền con người ở Việt Nam

3.1.2.1. Những tác động tích cực

Hội nhập quốc tế đã và đang mở ra cho Nhà nước Việt Nam nhiều cơ hội đối

với việc bảo đảm QCN trên nhiều lĩnh vực, đó là:

Thứ nhất, hội nhập quốc tế tác động đến tốc độ, quy trình xây dựng chính sách,

pháp luật về quyền con người của Nhà nước

Nhà nước là chủ thể có vai trò quan trọng, quyết định trong hoạch định các chính

sách, pháp luật, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN, tổ chức thực hiện các

chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế, ổn định trật tự chính trị, xã hội, tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.

Tham gia HNQT, vai trò của nhà nước có sự thay đổi đáng kể, nhất là trong việc

xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật về QCN. Tiến trình hội nhập của nước ta

ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi hệ thống hệ thống pháp luật phải đáp ứng được

các yêu cầu theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là việc công khai, minh bạch các thiết

chế quản lý. Đây là tiền đề rất quan trọng để thúc đẩy quá trình hoàn thiện chính

sách, pháp luật bảo đảm QCN. Mặt khác, tham gia HNQT, đặc biệt là gia nhập Tổ

chức WTO đánh dấu bước phát triển về chất của tiến trình hội nhập, giúp nước ta có

được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách

thương mại toàn cầu, tiếng nói được tôn trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu

nại công bằng hơn đối với các tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO, tạo

điều kiện và cơ hội để bảo vệ lợi ích của đất nước, thúc đẩy tiến trình cải cách trong

nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo

ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm QCN và xây

dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.

Trước những tác động của HNQT cùng với quá trình hoàn thiện nền KTTT định

hướng XHCN, trách nhiệm của nhà nước càng được tăng lên trong việc hoạch định,

xây dựng chính sách pháp luật, thiết kế các chương trình chính sách phát triển kinh tế,

xã hội, văn hóa, hướng tới mục tiêu bảo đảm QCN. Nhờ đó, việc xây dựng chính sách,

pháp luật về QCN của Nhà nước đã có những tiến bộ đáng ghi nhận cả về tốc độ và

chất lượng. Nhà nước không chỉ "định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công

dân và quyền con người" [32, tr.145] mà còn "chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự

do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng

Page 72: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

68

và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết" [33,

tr.239]. Đây là bước phát triển mới trong tư duy nhận thức về nghĩa vụ của nhà nước

đối với việc bảo đảm QCN của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với nhận thức chung

của cộng đồng quốc tế về trách nhiệm của các quốc gia đối với việc bảo vệ QCN.

Tuân thủ các chế định của các tổ chức quốc tế là yêu cầu có tính nguyên tắc với

các nhà nước khi hội nhập. Chính vì vậy, HNQT đã thúc đẩy quá trình xây dựng và

hoàn thiện chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về QCN của các nhà

nước diễn ra nhanh hơn, chất lượng hơn, đáp ứng yêu cầu của hội nhập. Theo đó, nội

dung các QCN ngày càng được mở rộng, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và

yêu cầu của quá trình hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN.

Tham gia hội nhập, yêu cầu đặt ra với nhà nước phải có hệ thống pháp luật rõ

ràng, minh bạch. Đây là yêu cầu và động lực để Nhà nước ta sửa đổi và hoàn thiện hệ

thống pháp luật quốc gia cho phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật quốc

tế. Việc nhà nước thực hiện cải cách kinh tế, minh bạch hóa chính sách, sửa đổi và

hoàn thiện chính sách, pháp luật đã tạo điều kiện và cơ sở pháp lý quan trọng cho việc

bảo đảm QCN. Nhiều bộ luật liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực của QCN được Nhà

nước ta thông qua đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân vừa đáp ứng được yêu cầu

của hội nhập. Các văn bản pháp luật đó không chỉ thể hiện được trách nhiệm của nhà

nước trong việc "tôn trọng và bảo vệ quyền con người" mà còn "gắn quyền con người

với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân" [33, tr.76].

Điều này cho thấy, vai trò của nhà nước trong xây dựng, hoạch định chính sách, pháp

luật về QCN ngày càng tăng trong quá trình hội nhập.

Hội nhập quốc tế tác động đến quá trình cải cách thể chế, xây dựng chính sách,

pháp luật ở Việt Nam, là chất xúc tác thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách thể chế trong

nước diễn ra nhanh hơn, đồng bộ và hiệu quả hơn, góp phần quan trọng vào việc bảo

đảm QCN. Những thay đổi trong chính sách đầu tư, đã thu hút được một lượng lớn các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy sự cạnh

tranh giữa các doanh nghiệp và đặc biệt là thu hút được một lực lượng lao động lớn, tạo

cơ hội giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Theo số liệu của Tổng cục thống kế,

tính đến tháng 1/2014, cả nước có 9.093 doanh nghiệp FDI đang hoạt động với số lao

động trên 3,2 triệu người, gấp 8 lần trong nhăm 2000, trong đó doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài chiếm 92% (năm 2000 là 70,2%), doanh nghiệp liên doanh với ngoài

chiếm 8% [122]. Bình quân mỗi năm thu hút 216,5 nghìn lao động, tạo điều kiện cho

Page 73: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

69

việc hiện thực hóa quyền lao động việc làm của người dân. Bên cạnh đó, sự đóng góp

vào ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp FDI làm gia tăng nguồn thu ngân sách

nhà nước, đã tạo cơ sở quan trọng để Nhà nước tăng chi tiêu ngân sách cho các lĩnh

vực xã hội bao gồm y tế, giáo dục, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện XĐGN, hỗ trợ

các xã đặc biệt khó khăn, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm tốt hơn các quyền

của người dân.

Do đó, việc Việt Nam chủ động, tích cực tham gia HNQT không chỉ đơn thuần là

cơ hội để phát triển kinh tế mà xét trên nhiều góc độ, HNQT đã vượt ra ngoài phạm vi

kinh tế, trở thành động lực phát triển của đất nước. Do đó, Việt Nam cần tận dụng cơ

hội, tiềm năng, ưu thế, thậm chí là cả những sức ép của HNQT để đẩy nhanh quá trình

hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về QCN,

thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế của

Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ hai, hội nhập quốc tế tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế

Nhà nước trong bảo đảm quyền con người.

Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để con người cùng nhau chia sẻ các giá trị về tư

tưởng, ý thức hệ, thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa và tri thức quốc tế, tăng cường sự

hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc. Sự giao lưu và chia sẻ lợi ích và các giá

trị do HNQT mang lại đã tác động tích cực đến việc mở rộng dân chủ ở Việt Nam. Việc

Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức WTO và nhiều tổ chức khác như: Hội đồng

Bảo an, Hội đồng nhân quyền...đã thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách thể chế, hoàn

thiện các thiết chế bảo đảm QCN diễn ra nhanh hơn.

Trong HNQT, vai trò của nhà nước trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về

QCN cũng như việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN ngày

càng được mở rộng cùng với các chế định quốc tế và sự phát triển của các tổ chức

chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Hiện nay, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp đã

và đang có nhiều đóng góp tích cực trong việc bảo đảm QCN. Với những hoạt động và

kết quả đạt được trong lĩnh vực bảo vệ, thúc đẩy QCN, nhất là đối với quyền của các

nhóm xã hội dễ bị tổn thương, tiếng nói của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nhiệp

ngày càng có trọng lượng hơn trên các diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, không thể đủ lý do

để kết luận vai trò của nhà nước với việc bảo đảm QCN trong điều kiện TCH và

HNQT sẽ bị suy giảm, mà trái lại, vai trò đó ngày càng được tăng cường và phát huy

hơn nữa nhằm đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.

Page 74: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

70

Hội nhập quốc tế là điều kiện thuận lợi để nhà nhà nước Việt Nam đẩy nhanh quá

trình hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN. Việc tuân thủ các chế định quốc tế đã và

đang tác động tích cực đến vai trò của nhà nước trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy

và các thiết chế nhằm thực hiện các cam kết quốc tế, góp phần quan trọng vào việc bảo

đảm QCN. Trong HNQT, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đàm phán, ký

kết các hiệu định, hiệp ước, công ước quốc tế và khu vực về QCN và vai trò đó ngày

càng tăng lên trong quá trình triển khai thực hiện các cam kết quốc tế. Để thực hiện tốt

chức năng, nhiệm vụ của mình, yêu cầu đặt ra đối với nhà nước phải có một tổ chức bộ

máy các cơ quan nhà nước gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả đáp ứng được những đòi hỏi

của thực tiễn đất nước và hội nhập. Do đó, vấn đề hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy

các cơ quan nhà nước bảo vệ và thực thi QCN được đặt ra. Các cơ quan trong tổ chức

bộ máy nhà nước các cấp đều được rà soát, tổ chức, sắp xếp theo hướng gọn nhẹ, hoạt

động có chất lượng theo thẩm quyền được phân công, tránh chồng chéo.

Hội nhập quốc tế không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy

các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm QCN mà còn thúc đẩy quá trình hoàn thiện

các thiết chế bảo đảm QCN. Dưới tác động của HNQT, yêu cầu về sự minh bạch thông

tin cùng với quá trình dân chủ hóa đòi hỏi nhà nước phải hoàn thiện các thiết chế hỗ trợ

và thúc đẩy việc bảo đảm QCN như thành lập các cơ quan chuyên trách có chức năng

trực tiếp bảo đảm QCN; tăng cường giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về

QCN; xây dựng mạng lưới tuyên truyền phổ biến về QCN, phát huy vai trò của các tổ

chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong việc bảo vệ và thúc đẩy QCN...

Có thể khẳng định, tác động tích cực của HNQT mang lại không chỉ là cơ hội và

động lực thúc đẩy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về QCN

mà còn là quá trình giúp cho việc củng cố và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN

của nhà nước, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ và thực thi QCN,

thúc đẩy quá trình hội nhập và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ ba, hội nhập quốc tế tạo ra cơ chế phối hợp của Nhà nước với các tổ chức

quốc tế trong việc bảo đảm quyền con người.

Tham gia HNQT, vai trò của nhà nước trong hợp tác quốc tế về QCN ngày càng

được mở rộng cùng với cùng với tiến trình và mức độ hội nhập.Việc tham gia ký kết

và phê chuẩn các Điều ước quốc tế về QCN đòi hỏi Nhà nước Việt Nam tuân thủ, thực

hiện các nguyên tắc, tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, cụ thể hóa các nguyên tắc, tiêu

chuẩn về QCN vào hệ thống pháp luật quốc gia, thúc đẩy nhanh chóng hơn việc thực

Page 75: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

71

hiện QCN theo luật nhân quyền quốc tế. Đồng thời, thông qua hội nhập, các nguyên tắc

về QCN trong pháp luật Việt Nam được tiếp cận với pháp luật quốc tế, làm cho thế giới

biết nhiều hơn về những thành tựu, giá trị QCN của Việt Nam, đồng thời cũng là cơ hội

để Việt Nam đưa các giá trị nhân quyền hội nhập cùng thế giới.

Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã chủ động tham gia vào cơ chế nhân quyền

quốc tế và khu vực, tham gia cơ chế giám sát quốc tế về tình hình bảo đảm và thúc đẩy

các QCN trên lãnh thổ quốc gia, tham gia vào hoạt động của một số cơ chế nhân quyền

của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế và khu vực khác. Việc tham gia hoạt động

của nhiều tổ chức quốc tế tại Việt Nam như: Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (UNDP),

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ phát triển phụ nữ Liên hợp quốc

(UNIFEM), Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Ngân hàng thế giới (WB)... cùng nhiều

tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp khác đã góp phần thúc quan trọng vào việc thúc

đẩy quá trình bảo vệ và thực thi QCN ở Việt Nam, nhất là đối với nhóm xã hội dễ tổn

thương. Với mục tiêu, tôn chỉ hoạt động của mình, các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội,

nghề nghiệp đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ cho Việt Nam nhằm hướng tới mục

tiêu thúc đẩy và hỗ trợ hiệu quả hơn cho quá trình phát triển như: hỗ trợ tư pháp, xóa đói

giảm nghèo, thực hiện bình đẳng giới, bảo vệ quyền trẻ em, quyền phụ nữ, quyền của

người lao động di cư, quyền của người có HIV/AIDS, quyền của người cao tuổi... góp

phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững, bảo đảm tốt hơn các QCN.

Tham gia HNQT, các quốc gia không còn tự mình giải quyết và đối phó với

những vấn đề QCN mang tính toàn cầu phát sinh từ tiến trình TCH (như ô nhiễm môi

trường, bệnh dịch, lao động di cư, khủng bố...) mà phải có sự phối hợp giải quyết của

nhiều quốc gia, nhiều tổ chức khác nhau. Chính sự "phối hợp" giữa các quốc gia đã làm

cho vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN không bị suy giảm, mà trái lại, vai

trò đó ngày càng được tăng cường, phát huy hơn nữa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

3.1.2.1. Những tác động tiêu cực

Quá trình HNQT bên cạnh việc tạo ra những điều kiện và cơ hội cho Nhà nước

trong việc bảo đảm QCN đồng thời cũng mang lại không ít những ảnh hưởng tiêu

cực đối với Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm QCN. Những thách

thức đó được thể hiện:

Thứ nhất, trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền con người.

Tuân thủ các định chế quốc tế là yêu cầu đặt ra đối với mỗi nhà nước khi tham gia

HNQT. Trong quá trình HNQT, các quốc gia phải chịu những tác động, chi phối lớn

Page 76: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

72

từ các định chế của các các tổ chức quốc tế lớn như WTO, Liên hợp quốc, ngân

hành thế giới... và hàng loạt các điều luật, nguyên tắc, qui định, hiệp ước ...mang

tính quốc tế nghiêm ngặt như các Luật quốc tế về QCN; Luật quốc tế về bảo vệ môi

trường, Luật về sa thải người lao động…đã khiến cho việc hoạch định và thực thi

các chính sách, pháp luật về QCN của nhà nước gặp rất nhiều trở ngại. Tham gia

HNQT, các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam sẽ không còn giữ quyền tối

cao trong việc hoạch định các chính sách kinh tế, thương mại của mình như trước

đây mà phải căn cứ vào chính sách kinh tế chung của những thiết chế kinh tế mà

mình là thành viên. Các quốc gia sẽ không thể tự mình quyết định các vấn đề về

chính sách kinh tế của quốc gia mình, mà phải căn cứ vào các chính sách kinh tế

của thiết chế tham gia. Điều này dẫn đến chủ quyền quốc gia bị hạn chế, trực tiếp

ảnh hưởng đến những nhiệm vụ kinh tế, xã hội khác trong đó có nhiệm vụ bảo

đảm và thực hiện QCN.

Hiện nay, HNQT diễn ra trong một thế giới toàn cầu hóa, do đó, tính tuỳ thuộc

giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính

chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị

trong nước. Các quốc gia, đặc biệt các nước nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc

xây dựng được một hệ thống chính sách và pháp luật nói chung, về QCN nói riêng

phù hợp, đáp ứng các thông lệ quốc tế vừa đảm bảo là công cụ để nhà nước quản lý

và điều hành xã hội theo cách thức riêng của mình cho phù hợp với điều kiện đất

nước cũng như mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Bất kỳ

một chính sách kinh tế, chính sách xã hội, an ninh, đối ngoại hay một văn bản pháp

luật nào không đáp ứng đủ hai yêu cầu đó thì sẽ rất khó khăn trong việc tổ chức

thực hiện và có thể ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Do đó, có thể khẳng

định, việc tuân thủ các nguyên tắc, chế định của các tổ chức quốc tế một mặt thúc đẩy

thúc đẩy quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về QCN, mặt khác chính

sự tuân thủ các cam kết quốc tế này đã chi phối vai trò của nhà nước trong việc hoạch

định các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như việc xây dựng các văn bản

pháp luật nhằm bảo đảm QCN.

Thực tiễn cho thấy, để tham gia HNQT, các quốc gia thường phải chấp nhận các

"luật chơi" của các tổ chức quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Nhà nước sẽ không

được toàn quyền đề ra các chính sách kinh tế và chính sách xã hội khi giải quyết các

vấn đề về QCN của quốc gia mình mà dù ít, dù nhiều đều phải chịu sự chi phối của các

Page 77: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

73

nguyên tắc, quy định chung của các thiết chế kinh tế, tài chính, chính trị mà quốc gia

đó tham gia. Điều này dẫn đến vai trò nhà nước trong hoạch định chính sách, pháp luật,

trong đó có chính sách, pháp luật về QCN có phần bị hạn chế bởi sự chi phối của các

định chế quốc tế. Đây là một thực tế không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các nhà

nước của các quốc gia khác trên thế giới đòi hỏi phải có sự điều chỉnh phù hợp để vừa

tận dụng được cơ hội, đồng thời hạn chế được những tác động tiêu cực mà HNQT

mang lại đối với Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Thứ hai, trong hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người

Có thể khẳng định, HNQT đặt ra nhiều thách thức đối với nhà nước trong việc

hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN. Hội nhập quốc tế đã làm cho các nước xích lại

gần nhau, xóa bỏ sự khác biệt giữa các quốc gia, hướng tới các tiêu chí phát triển

chung. Song chính việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định của các tổ chức quốc tế trong

quá trình hội nhập đã buộc các quốc gia cân nhắc và hy sinh một phần quyền lực của

mình. Điều này đã làm cho vai trò tự chủ của "nhà nước dân tộc, chủ quyền quốc gia

của nhiều nước đang phát triển bị suy giảm, trong khi đó, vai trò quyền lực của các tập

đoàn tư bản xuyên quốc gia, các thể chế quốc tế do các tập đoàn này chi phối tăng lên

nhanh chóng" [10, tr.324]. Đó là chưa kể đến việc đối xử thiếu công bằng trong mối

quan hệ trực tiếp giữa các quốc gia, nhất là giữa các quốc gia đang phát triển với các

quốc gia phát triển. Trong HNQT, nhà nước vẫn là chủ thể quản lý hàng đầu không thể

thay thế của xã hội trong cơ cấu quyền lực chính trị hiện đại, nhưng không phải là duy

nhất và toàn năng mà ít nhiều sẽ bị chi phối bởi các thiết chế, định chế quốc tế.

Trong tiến trình HNQT, theo quan điểm của Đảng, Việt Nam có thể và cần

phải giành lại thế chủ động trên lĩnh vực nhân quyền. Ngày nay xu hướng toàn cầu

hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ; không chỉ lĩnh vực kinh tế, mà các lĩnh

vực khác, kể cả lĩnh vực nhân quyền cũng diễn ra xu hướng này. Dù muốn hay

không, mọi quốc gia đều bị cuốn vào và không khỏi bị tác động bởi tiến trình này.

Các quá trình này còn bị hướng lái và thúc đẩy mạnh mẽ bởi Mỹ và Phương Tây; cả

trên phạm vi toàn cầu cũng như ở mỗi khu vực và tiểu khu vực. Việc các quốc gia

tham gia vào cơ chế nhân quyền quốc tế đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện tổ chức bộ máy,

hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN, trong đó có việc thành lập cơ quan nhân quyền

quốc gia theo nguyên tắc Paris. Đây là vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện các thiết

chế bảo đảm QCN nhằm tránh bị áp đặt, bị lôi cuốn thụ động vào quá trình phức tạp,

nhạy cảm, khó xử lý, nếu xử lý sai sẽ có nhiều hậu quả khôn lường.

Page 78: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

74

Theo yêu cầu của nguyên tắc Paris, việc thiết lập cơ quan nhân quyền quốc

gia phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn quốc tế về cơ chế nhân quyền quốc gia,

tương thích với xu hướng quốc tế và khu vực. Hiện nay, hơn 120 nước trên thế giới

đã có cơ quan nhân quyền quốc gia. Trong khu vực Đông Nam Á, ngoài 5 nước đã

có ủy ban nhân quyền quốc gia, một số quốc gia cũng đang chuẩn bị theo xu hướng

này. Bên cạnh đó, các quốc gia thuộc ASEAN cũng đang tiếp tục hoàn thiện các cơ

chế hiện có, đặc biệt là sự tham dự của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Các tổ

chức khu vực mà Việt Nam là thành viên, như APEC, ASEM... đều đưa nhân quyền

thành mối quan tâm chính, một hoạt động chủ yếu, thường xuyên. Bối cảnh trên đòi

hỏi chúng ta cần thiết lập một cơ quan nhân quyền đủ sức đáp ứng các yêu cầu đối

ngoại. Tuy nhiên, căn cứ vào bối cảnh và thực tiễn chính trị Việt Nam, việc xây

dựng cơ quan nhân quyền quốc gia theo đúng, đầy đủ các quy định của Nguyên tắc

Paris là chưa phù hợp. Xuất phát từ thực tiễn trên, có thể khẳng định, HNQT đã tác

động tới việc hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN, đặt quá trình xây dựng và hoàn

thiện các thiết chế bảo đảm QCN ở nước ta đứng trước nhiều thách thức mới.

Thứ ba, trong việc tạo cơ chế phối hợp giữa Nhà nước với các tổ chức quốc tế

đối với việc bảo đảm quyền con người

Quá trình HNQT cũng nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải đối với nhà nước

như vấn đề di dân tự do, thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường...

Hiện nay, cùng với tiến trình mở cửa hội nhập, các quốc gia đã, đang và sẽ mặt với

vấn đề di dân tự do rất khó kiểm soát khi mà các dòng tư bản thường xuyên lưu

chuyển, thay đổi địa điểm đầu tư. Quá trình này đã tác động lớn đến lực lượng lao

động. Các lực lượng lao động thường đổ dồn về các thành phố lớn, các trung tâm

công nghiệp, thương mại... làm nảy sinh hàng loạt vấn đề xã hội rất khó giải quyết

như quá tải về mật độ dân số, nhà ở, vấn đề chăm sóc y tế, giáo dục, an sinh xã hội,

phòng chống dịch bệnh, tệ nạn xã hội....

Toàn cầu hóa và HNQT cũng khiến các loại tệ nạn xã hội tầm cỡ quốc tế, các

dịch bệnh lớn dễ dàng lây lan xuyên quốc gia ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống

cộng đồng. Toàn cầu hoá cũng khiến cho tình trạng thất nghiệp, phân hoá giàu

nghèo ngày càng gia tăng, cùng với nó là tỷ lệ số người nghèo đói ngày càng lớn.

Đây là vấn đề vô cùng nan giải mà các nhà nước quốc gia phải đối mặt. Để giải

quyết các vấn đề đó, đòi hỏi nhà nước không chỉ cần có những chính sách xử lý linh

hoạt, đúng đắn mà quan trọng hơn là cần có một nguồn lực tài chính đủ lớn trên cơ

Page 79: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

75

sở huy động được sức mạnh của toàn xã hội. Song, tham gia toàn cầu hoá và hội

nhập quốc tế để cạnh tranh thu hút đầu tư, nhà nước phải thực hiện việc cắt giảm

thuế, hỗ trợ đầu tư... làm cho ngân sách nhà nước bị suy giảm. Điều này sẽ ảnh

hưởng tới năng lực của nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội đang gia

tăng từng ngày trong các xã hội.

Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra một thách thức nan giải đối

với Nhà nước Việt Nam trong việc tạo cơ chế phối hợp giữa Nhà nước với các tổ

chức quốc tế trong việc bảo đảm QCN. Thực tiễn cho thấy, các tổ chức phi chính

phủ, các tập đoàn tài chính lớn đã và đang phát huy ảnh hưởng của mình đến sự phát

triển của một số quốc gia đang phát triển. Do đó, vai trò của các tổ chức này đang

ngày càng tăng lên trong quá trình HNQT, thậm chí còn làm thay một số chức năng

của nhà nước, làm cho vai trò nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội phần

nào bị thu hẹp.

Trong các hoạt động của mình, bên cạnh việc làm tăng lợi ích về kinh tế, các tổ

chức quốc tế và các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia còn mở rộng hoạt động của

mình trong việc giải quyết các vấn đề xã hội như: tham gia xóa đói giảm nghèo; cứu

trợ nhân đạo; bảo vệ môi trường; hỗ trợ giải quyết vấn đề di dân; vấn đề lao động

người nhập cư; thúc đẩy bình đẳng giới; phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em; hỗ trợ

và thúc đẩy việc thực hiện quyền của người già, người có HIV/AIDS... Bằng việc

tham gia sâu rộng vào các hoạt động kinh tế, xã hội, các tổ chức quốc tế, các công ty,

tập đoàn đa quốc gia đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định đối với nhà nước. Nhà nước

không phải là chủ thể duy nhất có thể giải quyết được các vấn đề trên mà đã có sự

tham gia của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức chính trị xã hội. Đây sẽ là một thách thức

đối với nhà nước trong việc phát huy vai trò của mình đối với việc bảo đảm QCN.

Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có sự điều nhằm tạo ra các cơ chế hợp tác phù hợp để

vừa tận dụng, phát huy được sự đóng góp của các tổ chức này mà vẫn giữ vững được

vai trò quản lý của nhà nước.

Ngoài những tác động tiêu cực kể trên, tiến trình HNQT ở nước ta đang đặt

Nhà nước đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ

quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà

nước... Lợi dụng các điều kiện phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình mở cửa hội nhập,

nhiều tổ chức chính trị quốc tế lớn (đứng sau nó thường là các nước tư bản lớn) đã

tự cho mình quyền can thiệp vào tình hình chính trị nội bộ của nhiều nước, lợi dụng

Page 80: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

76

việc tuân thủ các định chế quốc tế để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường

không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;

lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc

gia nhằm áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc

tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền", gây ra nhiều xáo động về an

ninh, chính trị ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định trật tự xã hội ở các nước này...

Nhà nước ở các quốc gia, nhất là các nước nhỏ phải thường xuyên cảnh giác, ứng

phó với mọi tình huống chính trị xấu có thể xảy ra để đảm bảo luôn giữ vững độc

lập, chủ quyền, an ninh chính trị trong suốt quá trình tham gia hội nhập.

Tóm lại, bên cạnh những thuận lợi là khó khăn, bên cạnh thời cơ là thách thức, đó

là những gì mà HNQT mang lại cho các quốc gia. Nhà nước với tư cách là chủ thể

quản lý quan trọng cần phải nhận thức rõ những cơ hội và thách thức trong quá trình

hội nhập để có sự điều hành hợp lý nhằm tranh thủ tốt nhất thời cơ, vận hội cũng như

luôn sẵn sàng ứng phó với các tình huống xấu có thể xảy ra.

Việt Nam đã và đang tham gia toàn diện vào quá trình HNQT. Cũng như nhiều

quốc gia khác, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi mà HNQT mang lại,Việt Nam cũng

đang phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức trên mọi lĩnh vực đòi hỏi

nhà nước phải giải quyết. Chính vì vậy, nhận thức rõ những tác động của HNQT, chỉ ra

thực trạng vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện HNQT, từ đó có những phương

hướng, biện pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong bảo đảm QCN là

việc làm rất quan trọng, thiết thực phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay ở nước ta.

3.2. THỰC TRẠNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM

QUYỀN CON NGƯỜI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

3.2.1. Những thành tựu chủ yếu của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo

đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế

Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định, trong điều kiện HNQT, Nhà nước Việt

Nam đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,

trong đó có bảo đảm QCN. Cụ thể:

Thứ nhất, trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quyền con người

Việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN có ý nghĩa quan trọng

trong việc bảo đảm QCN. Thời gian qua, Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn

thiện hệ thống chính sách, pháp luật về QCN, tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt

động xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật. Phương pháp "tiếp cận dựa trên

Page 81: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

77

quyền con người", đặt con người vào "vị trí trung tâm", "mọi mục tiêu, động lực sự

phát triển là vì con người, do con người" [32, tr.154], bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của con người đã trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách, pháp luật

của nhà nước.

Nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng và bảo vệ các QCN, minh bạch hóa trách nhiệm

nhà nước đã được thẩm thấu vào trong quy trình xây dựng và hoạch định chính sách,

pháp luật về QCN. Nhiều chính sách kinh tế, chính sách xã hội hướng tới việc bảo đảm

QCN theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử được ban hành như: chính

sách kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; chính sách bảo vệ quyền tự do sản xuất, kinh

doanh; chính sách lao động, việc làm; chính sách bảo hiểm xã hội; chính sách bảo hiểm

y tế; chính sách giáo dục; chính sách bảo hộ người tiêu dùng; chính sách bảo hộ quyền

đấu tranh, bãi công của công nhân đối với các chủ doanh nghiệp; chính sách an sinh xã

hội; chính sách ưu đãi đặc biệt (cho người già, trẻ em; người dân tộc thiểu số...). Các

chính sách kinh tế, xã hội đó góp phần vào sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề

quan trọng cho việc bảo đảm QCN.

Xuất phát từ nghĩa vụ quan trọng và cơ bản "định ra các đạo luật" xác định các

QCN và QCD, "quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã

hội chủ nghĩa" [96, tr,70], những năm qua, Nhà nước đã từng bước hoàn thiện hệ thống

pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm các QCN. Chẳng hạn, từ khi đổi mới và

hội nhập đến nay, Nhà nước ta đã hai lần sửa đổi Hiến pháp vào năm 1992 và 2013 cho

phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.

Tốc độ xây dựng luật của Việt Nam tăng. Số lượng các văn bản luật được sửa đổi

và ban hành mới tăng nhanh qua các năm. Theo số liệu của cơ sở dữ liệu pháp luật

quốc gia, chỉ trong thời gian từ tháng 12/1986 đến hết năm 2013, nhà nước ta đã ban

hành được 471 Luật, Bộ luật, Pháp lệnh (gồm 290 luật, bộ luật và 181 pháp lệnh), gấp

gần 7 lần số lượng luật, bộ luật, pháp lệnh mà nhà nước ta ban hành (từ năm 1945 đến

năm 1986). Năm 2014, năm đầu tiên triển khai thi hành Hiến pháp 2013, Quốc hội đã

thông qua 29 luật, cho ý kiến lần đầu với 28 dự án luật khác liên quan đến QCN [42].

Kết quả này góp phần thể chế hóa các quy định của Hiến pháp vào cuộc sống, hoàn

thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc quản lý đất nước,

quản lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Không chỉ gia tăng về số lượng mà chất lượng các luật của Việt Nam cũng được

nâng cao. Việc sửa đổi đổi, ban hành Hiến pháp 1992 đánh dấu sự đổi mới quan trọng

của Nhà nước Việt Nam trong tư duy pháp lý về QCN. Lần đầu tiên trong lịch sử lập

Page 82: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

78

hiến Việt Nam, thuật ngữ quyền con người được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp.

Điều 50, Hiến pháp quy định "Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền

con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, được thể hiện

ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" [95, tr.153]. Từ quy

định có tính nguyên tắc này, Hiến pháp 2013 mở rộng chủ thể của các QCN, trong đó

có các quyền và tự do cơ bản của công dân. Nếu như ở Hiến pháp 1992, khái niệm

quyền con người chỉ chủ yếu dừng lại ở chủ thể là "công dân" thì ở Hiến pháp 2013,

các chủ thể của các QCN thuộc về tất cả mọi người chứ không chỉ là công dân.

Việc ghi nhận này có ý nghĩa quan trọng trong việc nội luật hóa các Công ước

quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển,

đồng thời, quan trọng hơn là tránh được sự nhầm lẫn giữa quyền QCN và QCD thường

mắc phải trong các Hiến pháp trước đó. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã bổ sung thêm một

số quyền mới mang tính thực tế, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, thể hiện vai trò

làm chủ thực chất của người dân như: quyền được giữ bí mật thông tin; quyền tham gia

thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ

quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ

chức, cá nhân; quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và danh dự; quyền được sở

hữu về thu nhập hợp pháp, về nhà ở; quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề

pháp luật không cấm; quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa, sử dụng các giá trị văn

hóa, quyền được sống trong môi trường trong lành...

Việc ghi nhận các quyền mới của con người trong Hiến pháp 1992 và 2013 đã

phản ánh xu thế hội nhập của đất nước, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm

các QCN ở Việt Nam. Điều này cũng thể hiện những nỗ lực của nhà nước Việt Nam

trong việc tôn trọng và thừa nhận các QCN phổ biến được ghi nhận trong pháp luật

quốc tế, là sự năng động, nhạy bén của Nhà nước trong việc xử lý mối quan hệ biện

chứng giữa QCN phổ biến với đặc thù về lịch sử, văn hóa của các quốc gia, giữa luật

quốc tế và pháp luật quốc gia trong quá trình hoàn thiện pháp luật để vừa bảo đảm lợi

ích quốc gia, vừa tuân thủ những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm tốt hơn các

quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, Hiến pháp

1992 và sau này là Hiến pháp 2013 quy định về bản chất quyền lực của Nhà nước Việt

Nam là "nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân" [96, tr.178]. Do đó, trách nhiệm

Page 83: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

79

của nhà nước là phải "bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;

công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân..." (Điều 3,

Hiến pháp 2013). Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,

quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy

phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát

của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan

liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Vì vậy, nghĩa vụ của Nhà nước là: tạo mọi điều

kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc

tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28); tạo bình đẳng về cơ hội

để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội (Điều 59)...

Các quy định trên một lần nữa khẳng định nghĩa vụ của nhà nước không chỉ là

ghi nhận các QCN mà còn có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để bảo đảm các QCN đã

được ghi nhận. Cùng với việc nâng cao số lượng và chất lượng các QCN trong Hiến

pháp, Nhà nước chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn

bản luật với các quy định cụ thể, dễ thực hiện, giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại

ở các nguyên tắc chung nhằm giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.

Phạm vi điều chỉnh của luật đã có nhiều thay đổi tích cực. Nếu như trước đây,

các bộ luật chủ yếu tập trung ở một số lĩnh vực cụ thể của QCN thì nay, phần lớn các

lĩnh vực của QCN về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của các nhóm

dễ tổn thương đều đã có luật điều chỉnh. Nhiều bộ luật được sửa đổi và ban hành mới

đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền của người dân

như: Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật

lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế, Luật sở hữu trí tuệ, Luật về môi

trường, Luật người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật

người cao tuổi, Luật nuôi con nuôi... (xem phụ lục 2, tr.170 ). Hiện nay, trong số 28 luật

luật liên quan đến QCN đang được lấy ý kiến đóng góp thì có 12 văn bản thuộc lĩnh

vực dân sự, chính trị và 16 văn bản thuộc lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội, văn hóa [42].

Quy trình xây dựng luật cũng được thay đổi theo hướng dân chủ, công khai,

minh bạch. Đến nay, hầu hết các luật, bộ luật trước khi thông qua đều được thảo luận

và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Theo thống kê của Bộ tư

pháp, trong đợt lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đã có 28.014

hội thảo, hội nghị được tổ chức lấy ý kiến và tiếp nhận khoảng 26 triệu lượt ý kiến góp

Page 84: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

80

ý của các tập thể, cá nhân [15]. Điều này thể hiện tính dân chủ, khoa học trong quy

trình làm luật.

Đánh giá một cách tổng quát, những kết quả đạt được trong việc ban hành chính

sách, pháp luật về QCN của Nhà nước ta những năm qua là một bước tiến lớn trong

quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN, phù hợp với thực tiễn đòi hỏi trong

nước cũng như đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới và HNQT. Các nguyên tắc,

tiêu chuẩn về QCN trong luật nhân quyền quốc tế đã được quán triệt và trở thành nội

dung quan trọng của văn bản pháp luật Việt Nam về QCN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng

cho các hoạt động bảo vệ và thực thi QCN.

Thứ hai, nhà nước tổ chức, thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người

Trong thời kỳ đổi mới và HNQT, việc bảo đảm QCN trong thực thi Hiến pháp,

pháp luật, chính sách đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Những

nỗ lực của Nhà nước trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN được

thể hiện ở một số hoạt động chủ yếu sau:

Một là, Nhà nước chú trọng ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai và thực

hiện chính sách, pháp luật về quyền con người

Nếu như việc xây dựng chính sách, pháp luật là "đời sống thứ nhất" của pháp luật

thì thực thi chính sách, pháp luật là nhằm tạo ra "đời sống thứ hai" cho pháp luật. Đây

là khâu "trung tâm", có vị trí quan trọng để "kiểm định chất lượng" của chính sách,

pháp luật và mức độ, hiệu quả của chính sách, pháp luật trong thực tiễn.

Thời gian qua, việc tổ chức và thực hiện chính sách, pháp luật về QCN đã được

Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Để triển thực hiện Hiến pháp, pháp

luật hiệu quả, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, và các bộ ngành hữu quan đã

ban hành nhiều Nghị quyết; Nghị định; Quyết định; Thông tư… quy định chi tiết thi

hành luật; quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện luật; quy định về trách nhiệm

thực hiện của các bên liên quan; quy định về tổ chức, bộ máy, phân công nhiệm vụ giữa

các cơ quan trong việc thi hành Hiến pháp, Luật và các chính sách phát triển kinh tế, xã

hội cũng như an ninh quốc phòng, đối ngoại…

Do có sự "quan tâm đặc biệt" của Nhà nước, số lượng các văn bản hướng dẫn thi

hành pháp luật tăng lên nhanh chóng. Tính từ 1990 đến hết năm 2013, Nhà nước ta đã

ban hành 2738 Nghị định, 7080 Thông tư, Thông tư liên tịch của các bộ, ban, ngành

[24] nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 1992, các Luật, bộ luật và các văn bản khác, tạo cơ sở

pháp lý quan trọng cho việc thực thi Hiến pháp, pháp luật về QCN trong đó có nhiều

Nghị định, Thông tư, hướng dẫn thi hành luật liên quan trực tiếp đến bảo vệ QCN như:

Page 85: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

81

Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp; Nghị định số

62/2009/NĐ-CP, ngày 27/7/2009, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật bảo hiểm y tế; Nghị định số 06/2011/NĐ-CP, ngày 14/01/2011, Quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người cao tuổi; Nghị định số

24/2013/NĐ-CP, ngày 28/3/2013 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài...

So với trước, hệ thống các văn bản quan hướng dẫn thi hành luật ở nước ta không

chỉ tăng về số lượng mà còn có những bước tiến vượt bậc về chất lượng. Theo đánh

giá, hầu hết các văn bản hướng dẫn thi hành luật đều bám sát vào chủ đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, Hiến pháp, pháp luật và các văn bản quản lý nhà nước;

phù hợp với tình hình thực tiễn xã hội; nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của quản lý nhà

nước trên nguyên tắc thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Thời gian

tới, Chính phủ sẽ ban hành 31 Nghị định và 04 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

để hướng dẫn 11 luật có hiệu lực thi hành từ 26/6/2014 đến ngày 01/1/2015, trong đó

nhiều Nghị định liên quan trực tiếp đến QCN như: Nghị định Quy định về việc miễn

thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Nghị định quy định về sinh con

bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo...Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tạo cơ sở quan trọng để các

quy định của Hiến pháp và pháp luật đi vào cuộc sống, bảo đảm QCN, đáp ứng yêu cầu

của HNQT toàn diện.

Hai là, Nhà nước tổ chức hướng dẫn, giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực thi

chính sách, pháp luật về quyền con người

Giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về QCN là những hành vi pháp lý

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm theo dõi việc thực hiện pháp luật về QCN

của các tổ chức, cá nhân qua đó, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện

được những bất cập, mâu thuẫn trong hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành, từ đó,

đề xuất các phương án sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Để thực thi chính sách, pháp luật hiệu quả, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm

tới việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm các quyền đã được

công nhận trong Hiến pháp và luật như: quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà

nước, xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tiếp cận

giáo dục, y tế; các quyền về lao động, việc làm, an sinh xã hội...

Page 86: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

82

Theo số liệu của Thanh tra Chính phủ, năm 2013, ngành thanh tra đã triển khai

8.921 cuộc thanh tra hành chính và 197.690 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành;

phát hiện vi phạm và kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với những sai phạm về đất

đai là 1.586 tập thể, 2.675 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 72 vụ việc, 75 người;

xử lý vi phạm hành chính là 675 người, chuyển cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm

hình sự 28 vụ với 89 người. Trên lĩnh vực đất đai, Thanh tra Chính phủ phối hợp với

một số cơ quan tổ chức thanh tra trên lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai ở 52 địa phương

với 409 cuộc thanh tra. Kết quả thanh tra đã kiến nghị thu hồi 40,3 tỷ đồng, 401 ha đất,

kiến nghị xử lý hành chính 23 tập thể, 72 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 2 vụ, 2

người. Trong đầu tư xây dựng, Thanh tra Chính phủ tổ chức thanh tra ở 58 địa phương

và 1 bộ với 556 cuộc thanh tra. Kết quả thanh tra đã kiến nghị xử lý hành chính 90 tập

thể, 136 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra 1 vụ… [88].

Những kết quả trên cho thấy, hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực thi chính

sách, pháp luật có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, gắn với quá trình cung cấp các biện

pháp cụ thể và hành chính, kinh tế, quy tắc, thủ tục, các dịch vụ xã hội cho việc bảo

đảm QCN và ngăn chặn các hành vi vi phạm QCN theo pháp luật, do đó, nó có tác

động sâu sắc đến thực tiễn bảo đảm QCN của các cơ quan công quyền ở trung ương và

địa phương. Có thể khẳng định, những năm đổi mới, các QCN đã ngày càng được bảo

đảm tốt hơn, đặc biệt Nhà nước đã có thái đội kiên quyết và nghiêm khắc với các biểu

hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật của các cá nhân và cơ quan nhà nước, tạo lòng tin

trong nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Ba là, Nhà nước thực hiện lồng ghép quyền con người vào quá trình xây dựng, tổ

chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển.

Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, thực thi các chương trình, chính sách

phát triển là khâu quan trọng trong việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật. Đây là

hoạt động được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, phản ánh những đổi mới trong tư duy

của Đảng, Nhà nước Việt Nam, phù hợp với chủ trương xây dựng nền KTTT định

hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế kết gắn với mục tiêu công bằng xã hội.

Thời kỳ đổi mới, QCN đã được lồng ghép vào các chương trình, chính sách phát

triển của Nhà nước như: Chương trình Cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 và

2011-2020; Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001-

2005, 2006-2010, 2012-2015; Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn

2006-2010; Chương trình Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ

Page 87: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

83

đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; Chương trình Phát triển kinh tế, xã hội ở các xã đặc

biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa;

Chương trình xây dựng nông thôn mới... Nhờ đó, đời sống của người dân được cải

thiện và nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giảm từ 58% năm 1992 -

1993 xuống còn 13,8% năm 2008 và 6,0% năm 2014 [89]. Cơ sở hạ tầng giao thông

nông thôn khu vực miền núi phát triển khá nhanh, 97,42% số xã có đường ô tô đến

trung tâm xã, 100% thị xã, tỉnh lỵ, 98% số huyện và 64% số xã có điện lưới quốc gia;

trên 60% số xã có điện thoại [20, tr.293], giúp Việt Nam trở thành một trong những

quốc gia đầu tiên đạt mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói giảm nghèo.

Chuẩn ngành của Việt Nam từng bước được nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn

nghèo quốc tế. Thành công của Việt Nam trong HNQT góp phần quan trọng vào việc

tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, góp phần thực hiện quyền có mức sống thích đáng

của người dân, tạo tiền đề thúc đẩy và bảo đảm tốt hơn các QCN.

Đánh giá khái quát từ góc độ QCN có thể thấy, nhiều tiêu chuẩn và nguyên tắc

của QCN đã được sử dụng trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật, chương

trình phát triển kinh tế, xã hội. Xét một cách tổng thể, các chương trình trên đã hỗ trợ

tích cực người dân phát huy quyền làm chủ trong quản lý nhà nước, xã hội; tiếp cận với

các dịch vụ về việc làm; đào tạo nghề; trợ giúp pháp lý; y tế, giáo dục, an sinh xã

hội...thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng giới và góp phần thực hiện mục

tiêu công bằng xã hội trong quá trình phát triển, (xem phụ lục 2, tr. 182-192).

Bốn là, Nhà nước tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QCN

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QCN là khâu quan trọng không thể

thiếu trong việc thực thi chính sách, pháp luật về QCN. Việc hiểu biết pháp luật về

QCN không chỉ nhằm nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích

chính đáng của công dân mà còn là điều kiện để mọi người nắm bắt và thực hiện các

nghĩa vụ và quyền của mình một cách tự giác. Với ý nghĩa đó, sau khi có Chỉ thị 12-

CT/TW (1992) của Ban Bí thư, Nhà nước ta đã tích cực triển khai nhiều hoạt động

tuyên truyền, giáo dục pháp luật về QCN bằng nhiều hình thức khác nhau như: đưa bộ

môn QCN vào trong chương trình giảng dạy chính thức ở bậc phổ thông, một số

trường đại học, các học viện, các trường chính trị...

Ngoài ra, việc tuyên truyền pháp luật về QCN còn được thực hiện thông qua

nhiều hình thức: tập huấn, hội thảo, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại

chúng, trợ giúp pháp lý, tổ chức các câu lạc bộ... Nhờ đó, nhận thức về QCN, pháp luật

về QCN của cán bộ và nhân dân đã tăng lên. Nếu như trước năm 1990, khái niệm QCN

Page 88: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

84

ít được nhắc đến và thường được hiểu là khái niệm của Phương Tây, hoặc được hiểu

đơn giản hoặc hiểu đồng nhất với khái niệm QCD thì đến nay, QCN và những vấn đề

liên quan trở thành đề tài phổ biến toàn xã hội. Kết quả này thể hiện những nỗ lực của

nhà nước trong việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về QCN.

Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện thiết chế bảo đảm quyền con người

Thiết chế bảo đảm QCN là hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức

xã hội thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ và thúc đẩy việc thực hiện QCN. Ở Việt

Nam, thiết chế bảo đảm QCN gồm hệ thống các cơ quan được thành lập theo thủ tục

pháp luật Việt Nam quy định. Trong nhiều năm qua, để nâng cao vai trò của mình trong

việc bảo đảm QCN, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện các thiết

chế nhằm bảo đảm QCN, trong đó:

Một là, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động của các cơ quan Nhà nước

Theo Hiến pháp năm 1992 và hiện nay là Hiến pháp năm 2013, các thiết chế nhà

nước có nghĩa vụ bảo đảm QCN gồm: Quốc hội; Chính phủ, các cơ quan Tư pháp (Tòa

án, Viện kiểm sát), các bộ, ngành có liên quan và chính quyền địa phương các cấp.

Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới, kiện toàn

tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước và đã thu được nhiều thành tựu quan

trọng. Hầu hết các cơ quan Nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ,

hoạt động hiệu quả theo cơ chế phân công và phối hợp trong ba quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền, xâm phạm lợi ích hợp pháp của

công dân từ phía các cơ quan nhà nước.

- Hoàn thiện tổ chức bộ máy của Quốc hội, thời gian qua, Nhà nước ta tích cực

thực hiện đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Quốc hội theo hướng gọn nhẹ,

chuyên sâu, chuyên môn hóa. Nếu như khóa XI, tổ chức bộ máy của Quốc hội gồm có

Hội đồng Dân tộc và 7 Uỷ ban, đến khóa XII và XIII, tổ chức bộ máy của Quốc hội

gồm có Hội đồng dân tộc và 9 Ủy ban, giúp các ủy ban hoạt động theo hướng chuyên

sâu, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc bảo

đảm QCN.

Cùng với việc đổi mới tổ chức bộ máy của Quốc hội, nâng cao chất lượng đại

biểu Quốc hội cũng được Nhà nước coi trọng. Nhiều chính sách và cơ chế để tăng số

đại biểu chuyên trách đã được áp dụng. Số đại biểu Quốc hội chuyên trách đã tăng qua

các nhiệm kỳ, (khóa IX là 5,31%; khóa XII là 29,4% và khóa XIII là 28,8 [130] và dự

kiến tăng lên 35% trong khóa XIV). Nhờ có sự đổi mới tổ chức bộ máy theo hướng

Page 89: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

85

chuyên sâu, nhiều vấn đề về QCN đã được thâm nhập vào các hoạt động đổi mới của

Quốc hội như: tăng cường tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội; xem xét định kỳ

báo cáo của Chính phủ, của Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao; quyết định những vấn đề quan trọng khác của đất nước như chính sách phát triển

kinh tế, xã hội; chính sách dân tộc, tôn giáo; giám sát việc thực hiện các dự án lớn về

phát triển kinh tế, xã hội kinh tế, xã hội... Những hoạt động này không chỉ thu hút mối

quan tâm của cử tri cả nước, mà còn bảo đảm hoạt động đúng đắn các cơ quan nhà

nước, hạn chế sự lạm quyền, phát hiện những hạn chế của hệ thống luật pháp, những

vụ việc vi phạm các quyền của người dân, tăng cường hiệu quả và hiệu lực của Quốc

hội trong việc bảo đảm QCN.

- Hoàn thiện tổ chức bộ máy Chính phủ, là cơ quan hành chính nhà nước cao

nhất, hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định đến việc "đảm bảo quyền con

người và trực tiếp tiếp thực hiện chính sách thúc đẩy và bảo đảm quyền con người"

[39, tr.141], phát triển quyền tự do, dân chủ của công dân. Để phát huy vai trò của

Chính phủ trong bảo đảm QCN, Việt Nam nỗ lực hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ

quan Chính phủ theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. Nếu trước thời điểm thực hiện cải cách

hành chính (năm 2001), cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa X có 48 cơ quan (trong đó có

23 bộ, cơ quan ngang bộ và 25 cơ quan thuộc Chính phủ) thì đến khóa XI, tổ chức bộ

máy Chính phủ giảm xuống còn 37 cơ quan, trong đó có 26 bộ, cơ quan ngang bộ và

11 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 11 đầu mối); khóa XII, tổ chức bộ máy Chính phủ

giảm xuống còn 30 cơ quan (gồm 22 bộ, cơ quan ngang bộ và 08 cơ quan thuộc Chính

phủ) và khóa XIII, cơ cấu tổ chức Chính phủ gồm có 18 bộ, 04 cơ quan ngang bộ và 08

cơ quan thuộc Chính phủ.

Không chỉ sắp xếp lại tổ chức bộ máy Chính phủ, Nhà nước còn chú trọng tới

việc củng cố và hoàn thiện tổ chức của các Bộ, ngành có liên quan trực tiếp tới việc

bảo vệ và thúc đẩy QCN như: Bộ Y tế; Bộ Lao động thương binh- xã hội; Bộ Công

An; Bộ Giáo dục: Ủy ban dân tộc của Chính phủ; Ban tôn giáo Chính phủ; Thanh tra

Chính phủ…Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy của chính phủ và các Bộ; Ban, ngành

thuộc Chính phủ góp phần bảo đảm các QCN trên thực tế một cách hiệu quả.

Để nâng cao chất lượng hoạt động của Chính phủ, Nhà nước đã và đang triển

khai chương trình Cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 và 2011-2020, mục tiêu

trọng tâm cải cách các thủ tục hành chính, theo hướng công khai, minh bạch, giảm bớt

phiền hà cho người dân trong tiếp cận với các cơ quan công quyền. Sắp xếp lại tổ chức

Page 90: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

86

bộ máy các cơ quan hành chính; tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động điều

hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, vì

nhân dân phục vụ, sửa đổi nhiều thủ tục, thực hiện chế dộ một cửa, một dấu... Những

cải cách này đã tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để người dân thực hiện các QCN của

mình như: quyền được đóng góp, kiến nghị các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện

các chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyền được tiếp cận thông tin, quyền khiếu

nại tố cáo, quyền tự do sản xuất kinh doanh...Theo thống kê, trong năm 2014, cả nước

có 74.842 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn 432,2 ngàn tỷ đồng, tăng

8,4% so với năm 2013. Số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trở lại là 15.419 doanh

nghiệp, tăng 7,1% so với năm 2013 [16]. Bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo của công

dân, từ năm 2006 đến năm 2008, tỷ lệ giải quyết khiếu nại tố cáo của các cơ quan hành

chính đạt 83,2%; năm 2014, các cơ quan hành chính nhà nước đã giải quyết 37.716 vụ

khiếu nại tố cáo trong số 44.426 vụ, đạt tỷ lệ 84,9% [4]. Đây là kết quả của những nỗ

lực của Nhà nước ta trong cải cách hành chính, cải cách thể chế bảo đảm QCN.

- Hoàn thiện tổ chức của các cơ quan tư pháp là vấn đề Nhà nước ta quan tâm

đặc biệt. Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và Kết luận số 79-KL/TW

ngày 28/07/2010 của Bộ Chính trị về "Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án,

Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ

quan Tư pháp đã được cải cách đồng bộ, từ việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của

từng cơ quan điều tra, truy tố, xét xử thi hành án đến việc phân cấp xét xử...Vai trò của

toàn án được đề cao, với việc thống nhất quản lý và tăng cường chức năng, nhiệm vụ

cho Toàn án nhân dân tối cao, thành lập thêm các Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao

động, để người dân có nhiều cơ hội giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi bằng cơ

quan xét xử "độc lập, không thiên vị".

Tổ chức Tòa án nhân dân các cấp được đổi mới theo hướng ngày càng hoàn

thiện, cơ bản đáp ứng được mục tiêu thực hiện công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ QCN.

Hiện cả nước có 742 Tòa án nhân dân (gồm Tòa án nhân dân tối cao, 63 Tòa án nhân

dân cấp tỉnh, 678 Tòa án nhân dân cấp huyện) [11]. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy cơ

quan Tư pháp có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm và thực thi QCN.

Công tác cán bộ trong các cơ quan Tư pháp được Nhà nước ta chú trọng cả về số

lượng và chất lượng. Tính đến tháng 6/2013, Tòa án nhân dân các cấp có 13.624 người,

trong đó có: 4.957 thẩm phán; 6.702 thư ký và thẩm tra viên; 1.965 chức danh khác. Về

Page 91: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

87

trình độ chuyên môn, toàn ngành Tòa án nhân dân có 17 tiến sĩ (0,1%); 515 thạc sĩ

(3,8%); 11.002 đại học (80,8%)...Việc đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động của Tòa

án các cấp góp phần quan trọng vào việc khắc phục những bất cập trong tổ chức và

hoạt động của Toà án; bảo đảm cho Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử, thực hiện

quyền tư pháp của quốc gia; phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới và HNQT, đáp

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp

từng bước được củng cố, đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tăng thêm

chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hành tốt quyền công tố và quyền giám sát các hoạt

động tư pháp, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm túc, thống nhất, góp phần

quan trọng vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Để thống nhất và tăng cường năng lực kiểm

tra, giám sát các hoạt động tư pháp, các cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân,

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Viện kiểm sát cấp quân khu được đổi mới, tổ

chức, sắp xếp theo hướng tăng cường cho cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân

dân tối cao. Đặc biệt trong quá trình đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, Nhà

nước Việt Nam đã đặt trọng tâm vào cải cách tổ chức và hoạt động xét xử của tòa án,

tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc tranh tụng tại tòa, xem đây là khâu đột phá của hoạt

động tư pháp hiện nay và nhiều năm tiếp theo.

- Củng cố tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp, thực hiện cải cách

hành chính, việc kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của chính quyền địa

phương các cấp được Nhà nước chú trọng. Các đơn vị hành chính địa phương ở cả ba

đã được tổ chức sắp xếp lại. Ở cấp tỉnh số các ủy viên ủy ban là trưởng các sở, ban,

ngành đã giảm từ 38 đến 40 xuống còn 20 đến 24 đầu mối; các phòng, ban ở huyện từ

20 đến 27 xuống 10 đến 15 đầu mối. Tổ chức bộ máy hành chính cấp xã đã có những

điều chỉnh cho phù hợp hơn với đặc điểm, tính chất công tác của chính quyền cơ sở,

hình thành các chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Những thay đổi này

góp phần làm cho các cấp chính quyền địa phương qua hoạt động hiệu quả hơn, đóng

góp thiết thực vào việc bảo đảm các QCN.

Những nỗ lực trong việc hoàn thiện tổ chức bộ máy của Nhà nước Việt Nam đã

tạo điều kiện cho việc bảo đảm các QCN trên thực tế. Chẳng hạn, về quyền tự do ngôn

luận, tự do báo chí, đến nay, Việt Nam có 845 cơ quan báo chí in, trong đó có 199 cơ

quan báo in, 646 tạp chí và 01 hãng thông tấn quốc gia; 98 báo, tạp chí điện tử; 67 đài

Page 92: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

88

phát thanh truyền hình Trung ương và địa phương; 180 kênh phát thanh truyền hình

trong nước và 40 kênh phát thanh truyền hình ở nước ngoài...Việt Nam là nước thứ ba

trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 tại châu Á về số lượng người sử dụng Internet

(30,8 triệu người chiếm 34% dân số) [20, tr.281]. Với số lượng lớn các cơ quan báo

chí, phát thanh, truyền hình, báo chí nước ta đã phát huy được vai trò thực sự là cơ

quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn để

nhân dân phản ánh tâm tư, nguyện vọng cũng như thông tin với các cơ quan của Đảng

và Nhà nước về những bức xúc trong cuộc sống, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu

cực, tham nhũng, các tệ nạn xã hội; đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù

địch trên lĩnh vực QCN.

Cùng với quyền tự do báo chí, Việt Nam còn đạt được nhiều thành tựu trên các

lĩnh vực khác của QCN như: quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền tự do lập hội,

quyền an sinh xã hội, quyền giáo dục, quyền chăm sóc sức khỏe, quyền phụ nữ, quyền

trẻ em, quyền của người khuyết tật... (xem phụ lục 2).

Đánh giá về thành tựu của Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện tổ chức và

hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, Hội nghị Ban chấp hành Trung

ương ba (khóa VIII) nêu rõ: "Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ quan trọng: đã từng bước phát triển hệ

thống quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì

dân" [29, tr.36], đặc biệt "đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên

lĩnh vực xây dựng Nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho việc đổi mới hệ thống chính

trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước" [29, tr.37].

Hai là, chú trọng xây dựng các cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền con người

Xây dựng, củng cố các thiết chế bảo đảm QCN không chỉ dừng lại ở việc hoàn

thiện các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước mà những năm qua, Nhà nước ta còn

đặc biệt chú trọng tới việc còn xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về

QCN như: Ban chỉ đạo nhân quyền Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn

thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các

Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên.

Thực hiện Chỉ thị 12 của Ban bí thư và Quyết định số 71/TTg, ngày 24/2/ 1993

của Thủ tướng Chính phủ, "Ban chỉ đạo đấu tranh các thế lực lợi dụng vấn đề nhân

quyền chống phá ta" được thành lập với nhiệm theo dõi, phân tích và hướng dẫn việc

đấu tranh, phê phán các luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

Page 93: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

89

nước ta về QCN; Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý làm cơ sở cho cuộc đấu

tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá ta…

Theo Quyết định số 63/2004/QĐ-TTg về Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và thành

phần của Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Ban chỉ đạo này gồm18 thành

viên (01 Phó thủ tướng Chính phủ và đại diện các Bộ, Ban, ngành), có nhiệm vụ: Theo

dõi, phân tích thông tin liên quan đến vấn đề nhân quyền; Nghiên cứu các vấn đề lý

luận và pháp lý làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống các thế lực lợi dụng vấn đề nhân

quyền; Chỉ đạo xây dựng nội dung phục vụ công tác tuyên truyền, đối thoại về nhân

quyền với các nước, các tổ chức trên thế giới; Phối hợp với các bộ, ngành và địa

phương trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực đấu tranh và bảo vệ

nhân quyền; triển khai các chương trình HTQT về nhân quyền… Hiện Ban chỉ đạo

nhân quyền đã có mạng lưới về các địa phương để triển khai thực hiện Chỉ thị số 44-

CT/TW ngày 20/7/2004 của Ban Bí thư về "Công tác nhân quyền trong tình hình mới".

Đây là thiết chế quan trọng của Nhà nước trong bảo đảm và đấu tranh về QCN.

Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức của Ban chỉ đạo về nhân quyền

Chính phủ, Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức của

các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về

QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên; Báo cáo nhân quyền trong khuôn khổ Cơ

chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng nhân quyền LHQ cũng như các hoạt

động HTQT khác trên lĩnh vực.

Đặc biệt, trong điều kiện HNQT hiện nay, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của nhân dân, ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của các cá nhân, tổ chức trong bộ

máy Nhà nước, Việt Nam đang nghiên cứu và xúc tiến việc thành lập Ủy ban nhân

quyền quốc gia để theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi QCN trên các lĩnh vực: ban

hành pháp luật; thực thi Hiến pháp, pháp luật; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; xem

xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về QCN…

Ba là, hoàn thiện thiết chế phản biện xã hội

Phù hợp với quy định về quyền lập hội trong Tuyên ngôn thế giới về QCN

(1948) và Công ước quốc tế về các dân sự, chính trị (1966), Nhà nước Việt Nam chú

trọng tới việc hoàn thiện thiết chế phản biện xã hội của các tổ chức chính trị, xã hội

trong việc bảo đảm QCN. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:

"phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức

đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các

Page 94: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

90

chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước…để bảo

đảm tốt nhất các quyền và lợi ích của con người, bảo đảm an sinh xã hội vì mục tiêu

phát triển bền vững" [31, tr.304-305].

Cụ thể hóa quan điểm trên, Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản pháp luật quy

định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức chính trị, xã hội Luật Công đoàn:

Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Theo đó, các tổ chức này có quyền: tham gia góp ý

kiến vào các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định và các dự thảo văn

bản quy phạm pháp luật; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa

đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phối hợp với chính quyền các cấp xây dựng chiến

lược phát triển kinh tế, xã hội, giải quyết các công việc của dân, tạo ra sự đồng thuận

trong xã hội...Trong 2 tháng đầu năm 2013, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị,

xã hội đã tổ chức lấy ý kiến cho Dự thảo Hiến pháp 1992, thu hút 3.181.529 lượt người

tham gia, với tổng số 8.071.919 ý kiến góp ý cho toàn bộ nội dung Hiến pháp [87].

Nhà nước ta đặc biệt đề cao vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ

chức đoàn thể nhân, tạo cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội. Nhiều

cơ cơ chế, chính sách phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp

được thông qua tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức này tham gia các hoạt động giám sát

việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức Nhà nước; giám sát việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở

cơ sở, giám sát thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; giám sát

cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư...Trong năm 2013, tổng số cuộc giám sát

của các ban thanh tra nhân dân ở cơ sở là: 51.077, kiến nghị xử lý 17.089; số vụ, việc

được cơ quan có thẩm quyền xử lý [87].

Thứ tư, hợp tác quốc tế về quyền con người

Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước không chỉ thực hiện các chức năng

đối nội mà còn phải thực hiện đối ngoại, hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Trước

những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, với tinh thần "sẵn

sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa

bình, độc lập, hợp tác và phát triển", "tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh

song phương và đa phương, thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế; sẵn sàng

đối thoại với các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan đến vấn đề dân chủ, nhân

quyền" [33, tr.237], Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, cụ thể:

Page 95: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

91

Một là, Việt Nam tham gia ký kết nhiều Công ước quốc tế về quyền con người.

Việt Nam đã chủ động tham gia vào nhiều lĩnh vực hợp tác về QCN trong khuôn

khổ các diễn đàn đa phương và song phương, tích cực, chủ động gia nhập, phê chuẩn

nhiều Công ước, điều ước quốc tế và khu vực về QCN như: Công ước quốc tế về các

quyền dân sự, chính trị (ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn

hóa (ICESCR); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng

tộc (CERD); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ

(CEDAW); Công ước về quyền trẻ em (CRC); Công ước về tuổi lao động tối thiểu

(Công ước số 138 của ILO); Công ước số 182 về cấm và hành động ngay để xoá bỏ

các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; Công ước số 122 về chính sách việc làm... và

đang hoàn tất các thủ tục để phê chuẩn công ước Công ước chống tra tấn... (xem thêm

phụ lục 1, tr.168). Với tư cách là một quốc gia thành viên của các Công ước quốc tế về

QCN, Việt Nam đã "nghiêm chỉnh thuân thủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký

kết", chuyển hóa nội dung của các Công ước vào quá trình xây dựng hệ thống các văn

bản pháp luật trong nước chính vì vậy, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam sau

khi tham gia các Công ước không ngừng được sửa đổi và hoàn thiện, phù hợp với các

điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Hai là, Việt Nam thực hiện có trách nhiệm nghĩa vụ báo cáo quốc gia về tình

hình thực hiện các Công ước

Nhà nước Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ quốc gia theo yêu cầu

của các Công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên, thực hiện tương

đối đầy đủ, có trách nhiệm và bảo đảm thời gian hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ các Báo

cáo quốc gia của các công ước quốc tế về QCN. Cụ thể: Việt Nam bảo vệ thành công

Báo cáo việc thực hiện Công ước chống phân biệt đối xử với phụ nữ (tháng 7/ 2001),

Báo cáo về tình hình thực hiện Công ước xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc

(tháng 8/2001) và 02 báo cáo liên quan đến Công ước về quyền dân sự, chính trị (tháng

7/1990 và tháng 7/2002); hai báo cáo về Công ước quyền trẻ em (tháng 1/1993 và

tháng 1/2003); Báo cáo quốc gia đối với tình hình thực hiện Công ước về chống phân

biệt đối xử với phụ nữ lần thứ 4 (2005) và lần thứ 5 (2014). Việc hoàn thành một khối

lượng công việc lớn để nộp hầu hết các báo cáo đúng thời hạn thể hiện sự nghiêm túc

và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc bảo đảm tôn trọng và thực hiện các

cam kết quốc tế trong lĩnh vực QCN.

Page 96: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

92

Cùng với việc tham gia vào các tổ chức quốc tế về QCN, Nhà nước Việt Nam

đặc biệt chú trọng tới việc thực hiện QCN theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR).

Đây là một cơ chế quan trọng của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc trong việc bảo

vệ và thúc đẩy QCN trên toàn thế giới liên quan đến việc rà soát định kỳ các hồ sơ

nhân quyền tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, tạo ra diễn đàn cho tất cả

các bên liên quan thảo luận, xác định những ưu điểm, hạn chế trong hệ thống bảo vệ

QCN, xác định các giải pháp để vượt qua thách thức. Nhà nước Việt Nam đã bảo vệ

thành công báo cáo của mình tại cả hai chu kỳ (1 và 2) năm 2009 và 2014, thu các ý

kiến đóng góp xây dựng của các nước khác, tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia

khác về tình hình thực hiện QCN tại các chu kỳ này (xem phụ lục 2). Sự kiện Việt Nam

bảo vệ thành công Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát về QCN được cộng đồng quốc tế

đánh giá cao là dẫn chứng sinh động cho việc HNQT của Việt Nam trên lĩnh vực QCN.

Ba là, Việt Nam tích cực hợp tác sâu rộng và có chất lượng trên lĩnh vực quyền

con người.

Trong quá trình hội nhập, Nhà nước Việt Nam chủ động, tích cực tham gia

HTQT với nhiều vai trò khác nhau như: tham gia có trách nhiệm vào quá trình xây

dựng các văn kiện nhân quyền mới (Công ước về quyền của người lao động di cư và

gia đình của họ (1990); Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (2000); Tuyên bố

toàn cầu về đa dạng văn hóa (2001); Tuyên ngôn về quyền của người bản địa

(2007)…). Tại khoá họp lần thứ 42 của Uỷ ban phát triển xã hội (2/2004), được sự hỗ

trợ của một số nước trong khu vực, Việt Nam đã đưa sáng kiến, kiến nghị chủ đề ưu

tiên của khoá họp tiếp theo của Uỷ ban là "Hợp tác quốc tế để ngăn chặn và giải quyết

các loại bệnh dịch nghiêm trọng". Việt Nam cũng là một trong ba nước đang phát triển

đã đưa dự thảo điều khoản qui định về "Hợp tác quốc tế" vào thành một điều khoản

chính trong nội dung dự thảo Công ước quốc tế về người khuyết tật, làm cơ sở để các

nước đang phát triển thảo luận và đấu tranh trong các khoá họp của Uỷ ban đặc biệt

soạn thảo Công ước nêu trên.

Nhà nước ta tham gia có nhiệm trong việc kiện toàn cơ chế bảo vệ QCN; thành

viên chính thức của Hội đồng kinh tế, xã hội (ECOSSOC), nhiệm kỳ 2000-2002; thành

viên của Ủy ban nhân quyền (Human rights commission), nhiệm kỳ 2001-2003; thành

viên của Ủy ban phát triển xã hội (Social Development Commission), nhiệm kỳ 2001-

2004; Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (Security Council UN),

nhiệm kỳ 2008-2010 và hiện là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc

Page 97: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

93

(Human Rights Council of the United Nations), nhiệm kỳ 2014-2016. Tại các diễn đàn

này, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước đóng góp cho mục tiêu chung là thúc

đẩy và bảo vệ QCN và những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về QCN.

Nhà nước Việt Nam thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trả lời và giải quyết kháng thư

của Liên hợp quốc. Trong việc thực thi nghĩa vụ thực hiện các thủ tục đặc biệt (Special

Procedures), Việt Nam đã đón các chuyên gia về các vấn đề người thiểu số; đói nghèo

và QCN; tác động của nợ nước ngoài đối với QCN; Báo cáo viên đặc biệt về quyền

văn hóa và tôn giáo…Việt Nam đăng cai tổ chức nhiều hội thảo quốc tế về QCN như:

Hội thảo về Công ước quốc tế chống tra tấn và đối xử vô nhân đạo (tháng 12/2003);

Hội thảo Việt Nam - EU về Án tử hình (tháng 11/2004), Hội thảo về QCN lần thứ 6

(tháng 12/2004)... Tại các hội thảo này, Việt Nam đã tạo cơ hội để các đại biểu quốc tế

hiểu rõ hơn về chính sách, pháp luật của Việt Nam về QCN. Các cuộc hội thảo này

thực sự là diễn đang trao đổi cởi mở, thẳng thắn nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Công tác tuyên truyền, đối ngoại trên lĩnh vực QCN được Nhà nước quan tâm và

đẩy mạnh. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài tăng cường công tác tiếp

xúc, đối ngoại, giới thiệu về tình hình đất nước, con người Việt Nam, giới thiệu về

những thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm và nâng cao đời sống vật chất,

văn hóa, tinh thần của mọi người dân. Thông qua các hoạt động này, các quốc gia, các

tổ chức trên thế giới ngày càng hiểu biết hơn về chính sách đối ngoại nói chung, các

thành tựu trong lĩnh vực bảo vệ QCN ở Việt Nam nói riêng.

Bên cạnh hoạt động tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam chủ trương sẵn sàng

đối thoại và hợp tác song phương với các quốc gia khác về những vấn đề của QCN như

đối thoại với Hoa Kỳ; với các nước Liên minh châu Âu (EU) và nhiều quốc gia khác.

Mục đích của đối thoại nhằm giúp các quốc gia hiểu biết sâu sắc hơn về những điều

kiện đặc thù Việt Nam; tìm kiếm điểm đồng, hạn chế bất đồng, nêu cao nguyên tắc

khách quan, không thiên vị, không chính trị hoá vấn đề QCN.

Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên ASEAN, Việt Nam đã có

những đóng góp tích cực vào việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân

quyền (AICHR) (tháng 10/2009), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền

phụ nữ và trẻ em (ACWC) (tháng 4/2010) và Tuyên bố Nhân quyền ASEAN (tháng

11/2012). Qua đó thể hiện cam kết và quyết tâm của Nhà nước ta trong việc tôn trọng,

thúc đẩy các QCN cũng như các quy định của pháp luật quốc tế về QCN.

Page 98: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

94

3.2.2. Những hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền

con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.

Thành tựu của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN thời gian qua là

đáng tự hào, tuy nhiên, QCN là vấn đề nhạy cảm, phức tạp, do đó, việc bảo đảm QCN

của Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể:

Thứ nhất, hạn chế trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN

Thời gian qua, Nhà nước ta có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng, hoàn thiện

chính sách, pháp luật về QCN, song chưa đạt được hiệu quả như mong đợi. Hệ thống

chính sách, pháp luật về QCN mặc dù được bổ sung và hoàn thiện, song vẫn còn nhiều

bất cập, bộc lộ nhiều "khoảng trống" chưa theo kịp với thực tiễn. Nhiều quy định pháp

luật còn chồng chéo, chưa rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn, nhiều văn bản luật tính khả thi

chưa cao, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các quyền đã được ghi nhận trong Hiến

pháp 2013. Số lượng các văn bản pháp luật quá nhiều, hình thức văn bản, nhiều cấp độ

hiệu lực khác nhau, lại không được thường xuyên rà soát, hệ thống hóa toàn diện gây

khó khăn cho việc tổ chức thực hiện.

Số lượng các văn bản luật, pháp lệnh về quyền tự do dân chủ của công dân ban

hành khá ít; một số dự án luật đã được đưa vào chương trình nghị của Quốc hội nhưng

nội dung chưa đáp ứng, thời điểm chưa phù hợp và một số lý do khác nên chưa được

ban hành, tạo nên hiện tượng gọi là quyền "treo", ít có hiệu lực thực tế, như: quyền lập

hội, biểu tình, tiếp cận thông tin. Trong một số lĩnh vực, pháp luật còn có những quy

định gây trở ngại cho việc bảo vệ các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp, như

quyền có luật sư, quyền được suy đoán vô tội, quyền được im lặng của bị can, bị cáo,

người bị bắt giữ, quyền biểu tình, quyền tiếp cận thông tin...

Ngoài ra, tình trạng kém hiệu quả của pháp luật trong bảo vệ quyền của các nhóm

yếu thế, bảo vệ các quyền về kinh tế, xã hội của người lao động trong các loại hình

doanh nghiệp cũng khá phổ biến. Tất cả những bất cập trong xây dựng và thực thi

chính sách, pháp luật đã và đang tạo kẽ hở trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động

khác, làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực và vi phạm pháp luật và phần nào làm

giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo vệ QCN.

Thứ hai, trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người

Việc tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN có nhiều đổi mới, tuy nhiên,

quá trình tổ chức thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn chế,

bất cập. Điển hình là tình trạng chậm trễ trong việc thi hành các quy định của Hiến

Page 99: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

95

pháp, luật và chính sách. Ở nước ta, theo quy trình sau khi Luật ban hành thì phải có

các văn bản hướng dẫn thi thành luật. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong việc ban hành các

văn bản hướng dẫn thi hành luật cùng với một số lượng "khổng lồ" các văn bản hướng

dẫn thi hành luật với nhiều cấp độ khác nhau đã và đang là trở ngại cho việc thực thi

chính sách, pháp luật trên thực tế. Tình trạng Hiến pháp chờ Luật, Luật chờ Nghị định

và Nghị định cũng bị "treo" nếu chưa có Thông tư hướng dẫn diễn ra khá phổ biến.

Chẳng hạn, Luật bình đẳng giới được thông qua từ tháng 11 năm 2006 nhưng đến

tháng 6/2008 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành. Luật phòng, chống HIV/AIDS có

hiệu lực từ tháng 6 năm 2006 nhưng đến tháng 6 năm 2007 mới có Nghị định hướng

dẫn thi hành Luật; Luật Phòng chống bạo lực gia đình thông qua từ tháng 11 năm 2007

đến tháng 2 năm 2009 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành; Luật Người cao tuổi ban

hành ngày 23/11/2009, có hiệu lực ngày 01/1/2010, nhưng cũng phải 1 năm sau mới có

văn bản hướng dẫn thi hành, Luật về người khuyết tật có hiệu lực từ ngày 01/01 /2011

nhưng đến ngày 10/4/2012 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành Luật...Đến tháng

6/2014 vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện quy định của luật Bình đẳng giới về

việc hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc

thiểu số, và vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Sự chậm trễ này làm

cho các quy định của pháp luật chậm được triển khai trong thực tế.

Sự chồng chéo và "dư thừa" các văn bản hướng dẫn thi hành luật đã làm cho

nhiều quy định của pháp luật không thể đi vào cuộc sống. Chẳng hạn, để thực hiện

được Pháp lệnh thi hành án dân sự (2004), cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau

để hướng dẫn thi hành. Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực hiện phải dựa trên 126

văn bản. Trong lĩnh vực môi trường thì có đến khoảng 300 văn bản pháp luật khác

nhau đang còn hiệu lực. Đó là chưa kể đến tình trạng hướng dẫn không đúng với quy

định của văn bản Luật diễn ra thường xuyên.

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, từ năm 2003 đến tháng 1/2013, các bộ, ngành và

địa phương đã kiểm tra 2.353.490 văn bản, trong đó, các bộ, ngành kiểm tra 43.262 văn

bản, phát hiện được 63.277 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp

pháp của văn bản. Chỉ tính riêng từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết ngày

30/4/2014, trong tổng số 1.574 văn bản đã kiểm tra thì đã có 312 văn bản có dấu hiệu

trái luật, trong đó 54 văn bản sai về nội dung, còn lại văn bản sai về thể thức văn bản,

thẩm quyền ban hành [100]. Thực tế này đã và đang tạo ra những "khoảng trống" của

pháp luật, tạo kẽ hở cho một số cơ quan, cá nhân sử dụng quyền lực một cách tùy tiện

vi phạm QCN của công dân.

Page 100: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

96

Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về QCN

của Nhà nước thời gian chưa sự đạt hiệu quả như mong đợi. Hoạt động thanh tra, kiểm

tra còn nhiều biểu hiện hình thức, kém hiệu quả. Cơ chế bảo đảm cho việc thi hành các

yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, thực hiện kết luận thanh tra chưa cụ thể, rõ ràng,

hiệu lực pháp lý chưa cao. Nhiều sai phạm được cơ quan thanh tra phát hiện nhưng

chưa được xử lý kịp thời. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ năm tháng 1/2015, xử

lý các vi phạm sau thanh tra đạt 70% (trước đó chỉ đạt 20 đến 30%). Đó là chưa kể

nhiều sai phạm có kết luận của thanh tra nhiều năm vẫn không được xử lý hoặc xử lý

qua loa, chiếu lệ. Đơn cử vụ việc sai phạm trên lĩnh vực đất đai ở xã Minh Tân, huyện

Đông Hưng, Thái Bình đã có kết luận của thanh tra từ năm 1998 nhưng đến tháng 4

năm 2015 vẫn chưa được xử lý. Việc chậm trễ trong xử lý sai phạm sau thanh tra làm

giảm kỷ cương, kỷ luật hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ QCN.

Thứ ba, trong xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người

Việc hoàn thiện các thiết chế bảo đảm QCN của Nhà nước ta những năm qua đã

có nhiều nỗ lực, tuy nhiên đến nay, các thiết chế này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập,

chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước được

đổi mới, sắp xếp lại nhưng vẫn thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhiều tầng, nấc trung gian,

nhiều về số lượng nhưng hạn chế về chất lượng, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra.

Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương được phân chia làm nhiều cấp khiến

cho bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều nấc trung gian, không rõ chức năng thẩm

quyền dẫn đến chồng chéo, đùn đẩy công việc. Việc đổi mới chính quyền địa phương

theo phương án nào vẫn đang là vấn đề còn tranh luận. Chính sự "chưa ngã ngũ’ này

đang là trở ngại cho việc cải cách hành chính, hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền

địa phương, giảm hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều khâu trung gian, "chức năng,

nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu

chưa thật sự rõ, cơ chế vận hành và mối quan hệ còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ, công

chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ"

[131, tr.20], dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, gây nhiều phiền hà cho dân. Thủ tục

hành chính tuy được đổi mới nhưng vẫn còn chồng chéo, công tác cải cách chế độ công

vụ, công chức trong các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước còn mang nặng tính

hình thức (như việc tổ chức thăm dò ý kiến của tập thể người lao động trong cơ quan

để đề bạt, bổ nhiệm lãnh đạo...). Những hạn chế trên đã và đang tác động tiêu cực đến

Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Page 101: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

97

Thứ tư, trong hợp tác quốc tế về quyền con người

Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN của Nhà nước ta đã thu được nhiều

kết quả đáng khích lệ, song vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Cụ thể:

Các báo cáo định kỳ về việc thực hiện các Công ước quốc tế về QCN (Báo cáo về

tình hình thực hiện quyền phụ nữ; quyền trẻ em; quyền của người thiểu số về dân tộc)...

còn chưa được thực hiện kịp thời, đúng hạn.Theo yêu cầu của các Công ước quốc tế về

QCN, các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ báo cáo tình hình thực hiện Công ước

về QCN theo định kỳ, tuy nhiên vì những lý do khác nhau, Báo cáo của Việt Nam

thường không đúng kỳ hạn, nội dung Báo cáo chưa phản ánh hết đóng góp của quá

trình đổi mới trên lĩnh vực QCN. Điều này làm giảm chất lượng của các báo cáo, tạo cơ

hội để các thế lực thù địch chống phá ta trên lĩnh vực QCN.

Công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch bên ngoài trên lĩnh vực QCN chưa

có chiến lược dài hạn và phương thức đấu tranh cụ thể mà chủ yếu đấu tranh theo kiểu

"đánh đâu đỡ đấy"; chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị;

chưa tạo được thể chủ động trong công tác đấu tranh nhân quyền.

Công tác thông tin, tuyên truyền về thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam chủ

yếu tập trungở các thành tựu về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (xóa đói giảm nghèo; an

sinh xã hội; giáo dục...). Những thành tựu về quyền dân sự, chính trị (quyền tự do báo

chí; tự do tôn giáo, tự do thông tin, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội...);

thành tựu hoàn thiện pháp luật về QCN; dân chủ hóa hoạt động của Quốc hội và Hội

đồng nhân dân các cấp chưa được tuyên truyền đúng mức, tạo kẽ hở để các thế lực thù

địch lợi dụng, vu cáo ta vi phạm dân chủ, tôn giáo, tự do thông tin....

3.2.3. Nguyên nhân

3.2.3.1. Nguyên nhân của thành tựu

Những thành tựu của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện

HNQT theo chúng tôi bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta là nhân tố có ý nghĩa

quyết định.

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất trong hệ thống chính trị

ở nước ta. Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu phát triển toàn diện đất

nước, phát triển con người là sự thể hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta trên

hàng loạt các vấn đề về thời đại và trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có

QCN. Đây là một trong những yếu tố quyết định góp phần cho những thành tựu quan

Page 102: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

98

trọng trên nhiều mặt của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, tạo tiền đề để Việt

Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, từng bước hội nhập vào đời sống quốc tế.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội trước hết bằng đường lối chính trị của

mình, đó là kết quả của việc tổng kết từ thực tiễn, phát triển lý luận trên cơ sở nhận

thức đúng đắn về Chủ nghĩa Mác - Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả dân

tộc, không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới. Với tư duy con người là vị trí "trung

tâm của sự phát triển", việc bảo đảm QCN được nghiên cứu và nhận thức đầy đủ hơn,

thấu đáo hơn, làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.

Xuất phát từ yêu cầu đổi mới tư duy kinh tế, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của

nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động đan xen nhau trong thời kỳ quá độ. Lợi ích

của người lao động được quan tâm. Đó cũng chính là sự chú ý hơn đến lợi ích cá

nhân, đến quyền của mỗi người trên lĩnh vực kinh tế. Từ lĩnh vực kinh tế, những nhu

cầu về quyền khác của con người cũng được đặt ra và từng bước được đáp ứng như:

quyền tự do sản xuất, kinh doanh; quyền tự do lựa chọn việc làm; quyền sở hữu;

quyền được tiếp cận thông tin; quyền khiếu nại, tố cáo cũng như các quyền tự do cá

nhân khác cũng được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm trên thực tế. Đó cũng chính là

những nội hàm của QCN mà Nhà nước Việt Nam cần thực hiện với tư cách là thành

viên của các điều ước quốc tế về QCN. Vì vậy, có thể khẳng định, đường lối đổi mới

của Đảng ta là nhân tố quyết định hàng đầu cho thành công của sự nghiệp đổi mới và

thực hiện tốt các QCN cơ bản như: quyền được sống trong tự do, quyền mưu cầu

hạnh phúc, quyền được phát triển toàn diện con người trong một đất nước hòa bình,

thống nhất, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân

Có được những thành tựu về QCN kể trên là do Đảng và Nhà nước ta biết dựa

vào dân, khuyến khích sự sáng tạo của nhân dân, "đặt lợi ích của mỗi người, của từng

tập thể và toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau"; "tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng

của nhân dân", chú trọng "chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con

người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người"... coi đó là động lực và mục

đích của công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Trong nỗ lực thực hiện chiến lược

phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng

nâng cao chất lượng đời sống nhân dân trên các lĩnh vực, thực hiện xóa đói giảm

nghèo; thực hiện an sinh xã hội cho nhóm dễ tổn thương; hỗ trợ những vùng còn gặp

nhiều khó khăn, nhất là vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nếu so sánh với

Page 103: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

99

nhiều quốc gia có thu nhập tương đương, chất lượng cuộc sống của người dân đã đạt

được những tiến bộ rõ rệt. Hầu hết mọi người dân Việt Nam đều được hưởng thụ thành

quả của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, đổi mới đã nhận được sự hưởng ứng

mạnh mẽ của nhân dân, động viên và thu hút đông đảo nhân dân tham gia thực hiện,

tạo nên sức mạnh dân tộc, tạo cơ sở vững chắc cho thành công của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thành công của đổi mới, hội nhập và bảo đảm QCN.

Thứ ba, xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong thực thi quyền con người

Để có được những thành công trên, Nhà nước ta đã xác định được những nhiệm

vụ ưu tiên trong việc bảo vệ và thực thi QCN. Trên cơ sở xác định việc giữ vững độc

lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ hàng đầu để bảo đảm QCN ở Việt Nam,

Nhà nước ta cũng xác định một số lĩnh vực cần được ưu tiên trước hết trong điều kiện

hiện nay là: (1) Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, kiện toàn các thiết chế bảo

đảm QCN; (2) Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa bảo đảm và nâng cao sự hưởng thụ

của người dân, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo cơ hội bình đẳng

để người dân tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các

phúc lợi xã hội...; (3) Mở rộng dân chủ, giữa vững ổn định chính trị, xã hội bảo vệ và

thực hiện đầy đủ các QCN...Những thành tựu sau gần ba thập kỷ qua là việc mở rộng

cơ hội lựa chọn cho mọi người, phát huy tính chủ động sáng tạo nhằm thích ứng với

các cơ hội của hội nhập. Theo đánh giá của Liên hợp quốc tại Việt Nam "thành công to

lớn của công cuộc đổi mới không chỉ đơn thuần là cung cấp của cải vật chất. Xét một

cách căn bản hơn, đổi mới thực chất là quá trình mở rộng rất thành công sự lựa chọn và

cơ hội cho người dân để họ cải thiện cuộc sống kinh tế và xã hội của mình" [8, tr.56].

Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu của hội nhập quốc tế

Có thể khẳng định, yêu cầu của HNQT đã tạo ra động lực và cơ hội để Nhà nước

Việt Nam đạt được những thành tựu trong việc bảo đảm QCN. Tham gia các công ước

quốc tế về QCN, Nhà nước phải có nghĩa vụ thực hiện các báo cáo quốc gia đối theo

các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc. Các báo cáo này đòi hỏi trách nhiệm của Nhà

nước không chỉ làm rõ việc thực hiện các QCN được ghi nhận trong mỗi công ước mà

còn ở việc tuyên truyền, giáo dục và thúc đẩy thực hiện QCN trên thực tế. Vì vậy, có

thể khẳng định, chính thực tiễn đổi mới, hội nhập và phát triển đã đặt ra những yêu cầu

mới trong nhận thức lý luận về QCN nhằm định hướng các hoạt động đối nội, đối

ngoại của đất nước, góp phần tạo nên những thành tựu đáng tự hào của Nhà nước Việt

Nam đối với việc bảo đảm QCN.

Page 104: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

100

3.2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế

Những hạn chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN có nhiều nguyên nhân,

theo chúng tôi, có thể quy về các nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, nguyên nhân về nhận thức

Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Nhà nước đối với việc bảo

đảm QCN là do nhận thức về QCN của Đảng và Nhà nước còn hạn chế. Trước đổi

mới, vấn đề QCN chưa được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và nghiên cứu một cách

cơ bản và có hệ thống, chưa được quan tâm đúng tầm của nó, dẫn đến chủ quan, duy ý

chí trong nhận thức về QCN dẫn tới tình trạng đồng nhất QCN với QCD; chưa hiểu

đúng bản chất của khái niệm "Quyền con người", nên tách bạch khái niệm "nhân

quyền" và "quyền con người’. Do nhận thức chưa đầy đủ về QCN, nên trước Đổi mới,

Đảng và Nhà nước ta chưa hình thành được hệ thống quan điểm chỉ đạo việc xây dựng

các chính sách, pháp luật liên quan đến lĩnh vực QCN. Việc "duy ý chí" trong nhận

thức về QCN dẫn đến hệ quả tất yếu là việc ghi nhận một số QCN trong Hiến pháp và

Luật còn chủ quan, áp đặt theo ý chí của nhà làm luật, nên không thực hiện được trong

thực tiễn. Chẳng hạn, trong Hiến pháp 1980, quy định về quyền được học tập mà

"không phải trả tiền và có chính sách cấp học bổng" (Điều 60); quyền được khám, chữa

bệnh không mất tiền (Điều 61); công dân có quyền có nhà ở (Điều 62)...Việc quy định

các quyền trên là sự áp đặt chủ quan của các nhà làm luật, chưa gắn với điều kiện cụ

thể của đất nước. Đó là, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước

nông nghiệp lạc hậu, điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất cho Nhà nước đảm bảo các QCN

còn rất hạn chế. Vì vậy, các QCN kể trên đã không thực hiện được trên thực tế.

Việt Nam xây dựng Chủ nghĩa xã hội chưa qua Tư bản chủ nghĩa, nghĩa là chúng

ta chưa có nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Vì vậy, nhận thức về "nhà nước

pháp quyền" cũng như sự cần thiết phải xây dựng nó có những lệch lạc nhất định. Suốt

thời gian dài, chúng ta coi "nhà nước pháp quyền" là của nhà nước tư sản và nền dân

chủ tư sản, nên không được đặt ra và giải quyết. Mặt khác, chúng ta xây dựng chủ

nghĩa xã hội và nhà nước pháp quyền khi chưa có tập quán và truyền thống của một xã

hội dân chủ, nên trình độ nhận thức về văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật còn hạn chế.

Chỉ khi chúng ta thực hiện đổi mới phạm trù "quyền con người", "nhà nước pháp

quyền", "xã hội dân chủ" mới chính thức được đề cập, nghiên cứu định hướng thực

hiện. Đây là nguyên nhân gây trở ngại cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

của dân, do dân, vì dân, phát huy hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Page 105: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

101

Nguyên nhân thứ hai dẫn đến hạn chế trong nhận thức về QCN ở nước ta là do

trình độ văn hóa nói chung, trình độ hiểu biết về pháp luật, về dân chủ và QCN của

người dân, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều

hạn chế. Điều này dẫn đến việc "vi phạm pháp luật của nhân dân là điều khó tránh

khỏi" [9, tr.147]. Đơn cử, Quy chế dân chủ cơ sở đã được triển khai thực hiện gần 20

năm nhưng thực tế, nhiều quy định về dân chủ người dân chưa nắm được, nhất là

những người dân ở vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó, việc thực hiện "dân chủ mang

nặng tính hình thức" [114], hoặc độc đoán, quan liêu đã và đang tạo kẽ hở cho thế lực

thù địch lợi dụng, xúi giục gây mất ổn định chính trị, xã hội. Sự kiện khiếu kiện tập thể

tại Thái Bình những năm 90, tại Tây Nguyên những năm 2001 và 2005 là những dẫn

chứng sinh động cho nhận định trên.

Thứ hai, nguyên nhân về tổ chức thực hiện

Sở dĩ còn những hạn chế trong việc bảo đảm QCN của Nhà nước là do chúng ta

chưa có cơ chế bảo đảm QCN hiệu quả, đặc biệt là chính quyền của nhân dân chưa thể

hiện được bản chất ưu việt của nó.

Một là, cơ chế phân công quyền lực trách nhiệm giữa các cơ quan trong tổ chức

bộ máy Nhà nước còn nhiều điểm chưa thống nhất. Chức năng làm luật của Quốc hội

chưa rõ, có sự chồng lấn chức năng điều tra hình sự giữa các cơ quan tư pháp và hành

pháp... dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cơ quan quyền lực còn

thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng các cơ quan "đổ lỗi" lẫn nhau hoặc "coi chừng nhau"

trong việc thực thi nhiệm vụ bảo đảm QCN. Về mặt lý thuyết, theo mô hình quản lý

Nhà nước Việt Nam thì "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối

hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp" (Điều 2, Khoản 3, Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, chính cách phân

công quyền lực còn "chung chung" này làm nảy sinh nhiều bất cập, bộc lộ không nhiều

vấn đề cần phải giải quyết, nhất là quá trình vận hành, thực thi quyền lực nhà nước.

Hai là, thiếu một cơ quan chuyên trách về QCN. Theo kinh nghiệm của nhiều

quốc gia, để đảm bảo thực hiện tốt các QCN, bên cạnh sự hoàn thiện về tổ chức bộ máy

nhà nước, cần có một cơ quan chuyên trách về QCN. Cơ quan chuyên trách này tồn tại

độc lập với nhà nước, thực hiện chức năng giám sát đối với tất cả các cơ quan nhà

nước, các tổ chức xã hội về việc thực thi các quyền đó, tạo ra sự thống nhất trong việc

xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, Việt Nam

chưa có cơ quan nhân quyền quốc gia. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn

chế việc vai trò Nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Page 106: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

102

Ba là, quy trình xây dựng chính sách, pháp luật về QCN chưa thực sự khoa học,

thiếu thống nhất và sự gắn kết bền vững dẫn đến chất lượng, hiệu quả chưa chưa cao.

Có thể khẳng định, hoạt động xây dựng luật ở Việt Nam còn nhiều điểm bất hợp lý, dẫn

đến tình trạng "vừa thừa" lại "vừa thiếu", gây khó khăn trong việc thực hiện.

Chẳng hạn, biểu tình là quyền của người dân thể hiện quyền tự do và dân chủ.

Quyền này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, nhưng hiện tại, nước ta chưa có Luật

biểu tình để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp. Điều này đã gây khó khăn cho công

tác quản lý, gây trở ngại cho người dân thực hiện quyền biểu tình của mình, tạo kẽ hở

để các thế lực thù địch lợi dụng kích động gây bạo loạn, gây khó khăn cho công tác

quản lý nhà nước.

Việc khảo sát, đánh giá trước khi xây dựng chính sách, pháp luật còn mang nặng

dấu ấn nhiệm kỳ, ngắn hạn dẫn đến nhiều "chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa

sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi" [30, tr.75], nội dung chồng chéo, trùng lắp, mâu

thuẫn, khó thực hiện trong thực tế. Đó là chưa kể nhiều "chính sách bị biến dạng qua

nhiều tầng, nấc hành chính quan liêu" [30, tr.76]. Kết quả khảo sát của Học viện Chính

trị quốc gia cho thấy "chính sách phải qua nhiều khâu, nhiều công đoạn (78,8%); chính

sách còn chịu sự chi phối của nhiều bên không cần thiết (78,6%), thủ tục hành chính

rườm rà, phức tạp (73,8%) [75, tr.118]. Điều này làm cho quyền và lợi ích của người

dân chưa được bảo đảm như mục tiêu chính sách.

Phương pháp tiếp cận dựa trên QCN với nguyên tắc cơ bản là công dân có quyền

tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ chưa thực sự được coi

trọng và áp dụng trong quá trình xây dựng luật. Trách nhiệm của cơ quan trình dự án,

cơ quan tham gia soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý chưa được phân định rõ ràng theo mỗi

công đoạn, chưa có cơ chế sử dụng các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn

đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu trước khi cung cấp cho đại biểu Quốc

hội. Sự phối hợp giữa các cơ quan Quốc hội với các cơ quan hữu quan có lúc, có việc

chưa chặt chẽ, nhịp nhàng [94].

Quy trình xây dựng pháp luật chưa thực sự khoa học dẫn đến nhiều quy định

pháp luật thiếu ổn định và minh bạch. Nhiều quy định không trực tiếp điều chỉnh được

các quan hệ xã hội phải chờ đợi văn bản hướng dẫn mới đi vào cuộc sống, dẫn đến hiệu

lực, hiệu quả thấp. Đó là chưa kể đến "nội dung của một số văn bản quy phạm pháp

luật chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, còn mang nặng mong muốn chủ

quan" [36] dẫn đến tính khả thi chưa cao.

Page 107: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

103

Bốn là, Thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta chưa được hình thành một

cách căn bản, điều đó đã tạo điều kiện cho một số người theo đuổi hành vi vi phạm lợi

ích xã hội để hưởng lợi cho riêng mình. Kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng

làm nảy sinh những vấn nạn xã hội đáng lo ngại: phân hóa giàu nghèo giữa các tầng

lớp dân cư, thất nghiệp và tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng...Bên cạnh đó, những

phong tục tập quán; định kiến mang tính địa phương; định kiến giới, bạo lực gia đình...

vẫn còn tồn tại, nhất là ở những nơi có trình độ dân trí thấp. Điều này không chỉ ảnh

hưởng đến người dân trong việc hưởng thụ QCN mà còn là thách thức đối với các cơ

quan chính quyền trong việc xây dựng, triển khai các chính sách nhằm cải thiện đời

sống vật chất, tinh thần của người dân.

Thứ ba, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ quyền con

người còn hạn chế

Sự hạn chế về năng lực, phẩm chất và trình độ nhận thức về QCN của đội ngũ

cán bộ, công chức đã và đang là trở ngại trong việc bảo đảm QCN của Nhà nước. Có

thể khẳng định, hiện nay, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa

đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước. Tác phong và thái độ thực thi công vụ của

cán bộ, công chức còn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ, thiếu chuyên nghiệp trong

thực thi công vụ. Sự yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức trong công tác quản

lý, tham mưu, hoạch định…dẫn đến tình trạng sai phạm trong cả văn bản quy phạm

pháp luật, nhiều chính sách vừa ban hành đã phải sửa đổi, hiệu lực thực thi không cao.

Sự yếu kém về năng lực của đội ngũ cán bộ làm cho chất lượng hoạt động của cơ

quan Nhà nước bị hạn chế. Chẳng hạn, trên lĩnh vực tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp,

các chức danh tư pháp còn thiếu cả về số lượng và hạn chế về chất lượng dẫn đến

những sai phạm trong quá trình xét xử là điều khó tránh khỏi.

Theo thống kê của ngành tòa án, trong 3 quý của năm 2014 ngành toà án đã giải

quyết xét xử hơn 385.300 vụ án, trong đó, án thụ lý sửa lỗi chủ quan chiếm 1,61%,

nghĩa là có trên 6.200 vụ án phải sửa lỗi chủ quan của thẩm phán. Trong 3 quý đầu năm

2014, ngành công an đã khởi tố điều tra hơn 159.000 bị can, nhưng phải tạm đình chỉ

điều tra 3.200 bị can, đình chỉ điều tra 2.300 vụ, phát hiện 91 công dân bị oan sai và

phát hiện ngành Toà án tuyên 21 bị cáo không phạm tội.

Sự yếu kém về năng lực của đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ khởi tố, điều tra tội đã

làm giảm lòng tin của người dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật và giảm lòng tin với

Nhà nước. Bên cạnh đó, sự yếu kém về phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công

Page 108: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

104

chức làm công tác bảo vệ QCN là nguyên nhân dẫn đến vi phạm các QCN của người

dân. Tình trạng sa sút về phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán

bộ, công chức dẫn đến nhiều vụ án oan, án sai. Với sứ mệnh và trách nhiệm là bảo vệ

QCN cho người dân, song các cán bộ này vì nhiều lý do lại vi phạm các QCN của

người dân. Nhiều vụ án oan gây bức xúc trong dư luận gần đây. là những minh chứng

cho sự yếu kém về năng lực, phẩm chất đạo đức của các cán bộ trong quá trình điều tra,

xét xử. Không thể phủ nhận, nhiều vụ án oan, oán sai xảy ra là do có sự "tiếp tay", "bao

che", thậm chí là "chủ mưu" của một số cán bộ thiếu phẩm chất đạo đức và lương tâm

nghề nghiệp trong quá trình thực thi công vụ bảo đảm QCN của người dân.

Như vậy, sự hạn chế trong nhận thức, những yếu kém trong tổ chức của các cơ

quan trong bộ máy Nhà nước cùng với năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ bảo

vệ QCN như khái quát ở trên đã làm giảm hiệu quả bảo đảm QCN của Nhà nước.

Nhận định về vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định "Cải cách hành chính cậm, thiếu

kiên quyết, thực hiện chưa đồng bộ, hiệu quả thấp, ý thức trách nhiệm, kỷ luật và

năng lực tổ chức thực hiện ở các ngành, các cấp còn yếu" [30, tr.258]. Đó là chưa kể

" một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức yếu kém, bất cập về trình độ chuyên

môn, năng lực điều hành công việc, chưa tương xứng với cương vị và trách nhiệm

được giao; một số không ít cán bộ thoái hóa về phẩm chất, sống thực dụng, cửa

quyền, hối lội, sách nhiễu, tham nhũng...ảnh hưởng xấu tới uy tín của Đảng và Nhà

nước..., gây cản trở lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước" [30, tr.258]. Đây là nguyên

nhân của các nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN ở

nước ta hiện nay.

3.3. NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Bảo đảm QCN là mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta và được

ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thời gian

qua, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm QCN, tuy nhiên, việc bảo đảm

QCN của Nhà nước đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đó là:

3.3.1. Vấn đề đặt ra về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa nhân

quyền và chủ quyền trong điều kiện hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội cho việc mở rộng các QCN, song nó cũng đặt ra

nhiều thách thức đối với chủ quyền quốc gia bởi do yêu cầu của thông tin TCH. Tham

gia HNQT, yêu cầu mở rộng các QCN là một tất yếu, song nếu không có sự điều tiết

Page 109: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

105

hợp lý của Nhà nước thì nó sẽ trở thành yếu tố gây cản trở cho việc giữ vững độc lập

dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đây là vấn đề cần giải quyết trong quá trình mở rộng và

hiện thực hóa các QCN với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lý của một quốc gia độc lập,

được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và trong hệ thống pháp luật

quốc gia. Tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng về chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc

của luật pháp quốc tế, theo đó "Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Với quyền

đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do theo đuổi con

đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của mình" [124, tr.102]. Với nguyên tắc

này, tất cả các quốc gia đều bình đẳng về mặt chủ quyền, có quyền lựa chọn con đường

phát triển, lựa chọn chế độ chính trị, xã hội của mình và chính bản chất chính trị, xã

hội của mỗi quốc gia, xác định phạm vi và khả năng bảo đảm QCN.

Hiện nay, HNQT đang đặt ra nhiều vấn đề trong việc giải quyết mối quan hệ giữa

nhân quyền và chủ quyền quốc gia. Sự giao lưu và hợp tác giữa các quốc gia đã giúp

con người nhận thức rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về những giá trị của tự do, dân chủ và

QCN. Tuy nhiên, chính việc mở rộng các QCN cũng có thể làm cho chủ quyền quốc

gia của các nhà nước có thể bị tác động tiêu cực bởi các chế định trong HNQT. Tham

gia hội nhập, việc tuân thủ các định chế quốc tế là nguyên tắc buộc các quốc gia thành

viên phải thực hiện, theo đó, nhà nước phải có sự chia sẻ thông tin, trong đó có những

thông tin trước đây được xem là bí mật quốc gia và ở một khía cạnh, lĩnh vực nào đó,

nhà nước phải chia sẻ một phần trách nhiệm cho các tổ chức quốc tế. Vấn đề giải quyết

mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền nảy sinh từ đây. Bởi nếu nhà nước thực

hiện mở rộng và hiện thực hóa các QCN bằng các chính sách kinh tế, xã hội phù hợp

với điều kiện đất nước thì khó tìm được tiếng nói chung với các chế định quốc tế và

ngược lại, nếu thỏa mãn một số yêu cầu của các định chế quốc tế mục tiêu cốt lõi là giữ

vững chủ quyền quốc gia khó đạt được hiệu quả cao nhất.

Việt Nam đang tham gia HNQT một cách toàn diện. Trong quá trình hội nhập,

việc mở rộng dân chủ, nhân quyền trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc

gia luôn được Nhà nước ta coi là trọng tâm. Dưới tác động của HNQT, lợi dụng yêu

cầu của việc tuân thủ các chế định quốc tế trong quan hệ với Việt Nam, nhiều quốc gia

Phương Tây luôn tìm cách gắn vấn đề hợp tác, viện trợ, đầu tư với những điều kiện đòi

hỏi về cải thiện dân chủ, nhân quyền theo tiêu chí của họ. Lợi dụng lợi thế sức mạnh về

kinh tế và khoa học- công nghệ, các nước tư bản phát triển thao túng các tổ chức kinh

tế tài chính toàn cầu để áp đặt những nguyên tắc, phương thức hoạt động thiếu bình

Page 110: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

106

đẳng, lợi thế nghiêng họ thì việc chấp nhận các ‘luật chơi" đó, chúng ta có thể phải đối

mặt với việc họ có thể dùng chính các chế định đó để can thiệp vào vấn đề chủ quyền

quốc gia, dân tộc. Trên các diễn đàn đa phương và song phương, họ đưa ra những lập

luận tuyệt đối hóa tính phổ biến của vấn đề dân chủ, nhân quyền với luận điểm "nhân

quyền cao hơn chủ quyền" áp đặt các tiêu chuẩn đó vào Việt Nam mà không tính đến

đặc thù về kinh tế, xã hội, văn hóa của từng quốc gia, khu vực.

Nếu như trước đây, chủ quyền quốc gia mang tính tuyệt đối, trong xu thế HNQT,

chủ quyền quốc gia mất dần tính tuyệt đối bởi sự điều chỉnh theo các cam kết hội nhập.

Việt Nam không chỉ đứng trước nguy cơ chệch hướng chính trị trong việc mở rộng các

QCN mà còn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền lãnh thổ trước các tổ chức

quốc tế (như tòa án quốc tế, các khối quân sự quốc tế, các tổ chức thương mại và tài

chính quốc tế…). Với các định chế của mình, các tổ chức này đã và đang can thiệp vào

nhiều lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, đòi hỏi Nhà nước phải chia sẻ những thông tin

mà trước đây được xem là bí mật quốc gia.

Cùng với sức ép cạnh tranh của quốc tế; sự can thiệp về mọi mặt của các tổ chức

đọc quyền xuyên quốc gia, việc mở rộng và hiện thực hóa các QCN và tính độc lập tự

chủ của Việt Nam ngày càng đứng trước nhiều nguy cơ, nhiều thách thức, đặt ra nhiều

vấn đề đối với Nhà nước. Nếu nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình trong việc mở

rộng và hiện thực hóa các QCN bằng các chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa phù hợp

với điều kiện trong nước thì khó tìm được tiếng nói chung với các quy định, yêu cầu

của pháp luật quốc tế về QCN và các chế định quốc tế. Ngược lại, nếu thỏa mãn hết các

yêu cầu của các chế định quốc tế thì mục tiêu cốt lõi là mở rộng dân chủ, bảo đảm

QCN gắn với giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia khó đạt được kết quả

cao nhất. Do đó, giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng các QCN trên cơ sở giữ vững

độc lập chủ quyền quốc gia là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi Nhà nước trong điều

kiện HNQT hiện nay.

3.3.2. Vấn đề đặt ra giữa yêu cầu bảo đảm quyền con người của Nhà nước

với những bất cập trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa hiện nay

Thứ nhất, vấn đề đặt ra về bảo đảm quyền con người của Nhà nước với bất cập

trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Page 111: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

107

Các QCN chỉ có thể được bảo đảm tốt trong nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên,

trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN

còn gặp nhiều bất cập, trở ngại, đó là:

Thể chế và hoạt động của bộ máy Nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với

Nhà nước pháp quyền và việc điều hành nền KTTT định hướng XHCN.Tổ chức, hoạt

động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém: tổ chức còn

cồng kềnh, nhiều khâu trung gian trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ; bất cập về trình

độ, năng lực quản lý, kiến thức nghề nghiệp. Tổ chức và hoạt động còn nặng nề, chưa

phân định tốt trách nhiệm, quyền hạn, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan

quyền lực; chưa bảo đảm tính độc lập tương đối của các quyền lập pháp, hành pháp và

tư pháp; mối quan hệ phân cấp giữa trung ương và địa phương. Việc kiện toàn tổ chức

bộ máy và công tác cán bộ, vấn đề trật tự và kỷ luật đang là những vấn đề yếu kém của

hệ thống chính trị.

Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ thống pháp

luật cũng như những yêu cầu mới, sự phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật nên đã bộc

lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật và trong xác

định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật cũng như nâng cao tính khả thi

và tính hiệu lực của văn bản pháp luật. Nhiều lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội vẫn

chưa có luật mà điều chỉnh chủ yếu bằng văn bản dưới luật, thậm chí chưa có văn bản

dưới luật điều chỉnh.

Hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,

chậm đi vào cuộc sống, chưa theo kịp và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã

hội của đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân vì

dân; bảo vệ các quyền tự do của con người, của công dân, cho quá trình hội nhập quốc

tế và khu vực. Quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước còn bộc lộ nhiều khuyết

điểm, yếu kém; chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới và chưa đáp ứng yêu

cầu hiện tại. Những bất cập trong xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật tạo ra kẽ

hở trong sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác, làm nảy sinh những hiện tượng

tiêu cực và vi phạm pháp luật và phần nào làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước.

Bên cạnh đó, việc phân định rành mạch các chức năng, nhiệm vụ và phương thức

hoạt động giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện Đảng lãnh đạo xã hội là một vấn đề

phức tạp. Trong hoạt động này, chúng ta vẫn đang tìm tòi, thử nghiệm nhiều hơn là đạt

được những kết quả thực tế. Hệ thống chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý của

Page 112: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

108

Nhà nước vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, hiệu quả trong thực tiễn chưa cao. Sự

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chưa phát huy hết năng lực quản lý và hiệu lực

điều hành của bộ máy nhà nước.

Thứ hai, vấn đề đặt ra về bảo đảm quyền con người của Nhà nước với bất cập

trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN

Mục tiêu nhất quán của Nhà nước Việt Nam là phát triển kinh tế, xã hội gắn với

bảo đảm QCN một cách bền vững. Song hiện nay, sự hình thành những yêu cầu mới,

đa dạng về QCN trong bối cảnh xây dựng KTTT định hướng XHCN đã đặt Nhà nước

trước nhiều thách thức. Bởi lẽ, cơ chế thị trường đề cao giá trị của đồng tiền đã tác

động mạnh đến các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức của xã hội. Thực tế cho thấy,

có nhiều mâu thuẫn giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo

đức văn hóa xã hội. "Nguyên tắc tối đa hóa lợi ích cá nhân", lấy lợi ích vật chất là hàng

đầu, KTTT đã và đang đẩy con người vào "vòng xoáy" của lợi nhuận, nảy sinh lối tư

duy thực dụng, "kích thích" tính phi đạo lý, gian dối, bất chấp dư luận xã hội, chà đạp

lên luân lý, luật pháp, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức và đảo lộn bậc thang giá trị

về đạo đức, văn hóa.

Trong hội nhập, hợp tác và giao lưu văn hóa với các nước, chúng ta tiếp thu được

nhiều thành tựu văn minh nhân loại, làm phong phú nền văn hóa dân tộc; song cũng

chịu ảnh hưởng của sự văn hóa ngoại lai. Hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đến

tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít người, trong đó có cả cán bộ, đảng viên và thế

hệ trẻ, tác động tiêu cực tới việc bảo đảm QCN của Nhà nước.

Hiện nay, khi đất nước đã bước vào giai đoạn đang phát triển với mức thu nhập

trung bình. Do dó, cùng với sự tăng lên của nguồn lực kinh tế và trình độ dân trí trong

xã hội, sẽ xuất hiện yêu cầu cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền

đã được pháp luật quốc tế về QCN thừa nhận. Các hình thức lao động, sản xuất, kinh

doanh cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong điều kiện

KTTT định hướng XHCN đã tạo ra những khả năng mới trong việc bảo đảm QCN. Do

những thay đổi đó nên trong các hoạt động xã hội, bên cạnh những quyền căn bản

(quyền sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục...) cũng

xuất hiện những đòi hỏi cho các quyền mới như: quyền được sống trong môi trường

trong lành, không ô nhiễm; quyền tiếp cận thông tin; quyền biểu tình; quyền tự do lập

hội; quyền sở hữu tư nhân; quyền của người"giới tính thứ ba"; quyền của kiều dân

nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều...

Page 113: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

109

Bên cạnh đó, trong nền KTTT định hướng XHCN, sự phân hóa, phân tầng xã hội

không chỉ bị tác động bởi sự phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng

về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người và tác động của văn hóa hải ngoại trong điều

kiện HNQT. Sự phân hóa, phân tầng xã hội đã và sẽ dẫn đến sự đa dạng hóa mạnh mẽ

hơn các nhu cầu về QCN giữa các giai tầng xã hội. Nhà nước vừa phải có nghĩa vụ đáp

ứng yêu cầu ngày càng cao về QCN cho các nhóm dân cư tại các khu đô thị, vừa phải

tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo đảm các quyền thiết yếu, đặc biệt là các quyền KINH

Tế, XÃ HộI-VH cho các nhóm dễ bị tổn thương. Sự đa dạng đó đã và sẽ tạo ra những

thách thức mới đối Nhà nước trên các lĩnh vực, trong đó có bảo đảm QCN.

3.3.3. Vấn đề đặt ra về yêu cầu cao về bảo đảm quyền con người của Nhà

nước với trình độ dân trí còn nhiều hạn chế

Trong xu thế hội nhập hiện nay, các QCN ngày càng được ghi nhận và mở rộng

nhiều hơn, cùng với đó, việc bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia ngày càng yêu cầu cao hơn,

khắt khe hơn về số lượng cũng như chất lượng quyền. Với sự phát triển của khoa học

công nghệ cùng với những tác động của quá trình hội nhập, yêu cầu về QCN không chỉ

dừng lại ở việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người như: quyền được chăm sóc

sức khỏe, quyền học tập, quyền có việc làm…mà con người còn đòi hỏi phải nhà nước

phải đáp ứng nhiều quyền khác như: quyền được tiếp cận thông tin, quyền tham gia

quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền tham gia vào các tổ chức chính trị,

xã hội…Đây là một thực tế đặt đối với Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều

kiện hội nhập hiện nay.

Quyền con người là sản phẩm lịch sử, gắn liền với các điều kiện kinh tế, văn hóa.

Về mặt văn hóa, dân trí là điều kiện quan trọng để xác lập và thực hiện QCN. Do đó,

trình độ dân trí có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm QCN, nói cách khác, việc bảo

đảm QCN phụ thuộc rất lớn vào trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật. Trong xã hội

công dân, người dân phải có trình độ văn hóa, trình độ hiểu biết pháp luật nhất định.

Chỉ trên nền tảng tri thức ấy, công dân ý thức được các QCN của mình và tự giác đấu

tranh bảo vệ và thực hiện các quyền của mình trê thực tế. Đồng thời cũng chỉ trên nền

tảng tri thức như vậy, con người mới điều chỉnh được hành vi của mình theo yêu cầu

của pháp luật, chế ngự được sự bột phát dẫn đến vi phạm quyền của người khác, cũng

như coi thường kỷ cương, phép nước, nguyên tắc sinh hoạt vì lợi ích của cộng đồng.

Quyền con người là kết quả do đấu tranh mới giành được chứ không thể là sự ban ơn,

bố thí của bất kỳ ai. Do vậy, đòi hỏi con người phải có kiến thức, kinh nghiệm mới bảo

vệ được các quyền của mình và đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực nhân quyền.

Page 114: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

110

Trước những tác động của HNQT, yêu cầu đảm bảo QCN đối với Nhà nước ngày

cao và khắt khe hơn, trong đó trình độ dân trí là nhân tố quan trọng, không thể thiếu

được trong quá trình bảo đảm và thực thi QCN. Những năm qua, Nhà nước Việt Nam

đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao dân trí, góp phần bảo

đảm QCN. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển,

thu nhập đầu người thấp, nền KTTT định hướng XHCN chưa được thể chế hóa đồng

bộ, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, nguồn

lực cần thiết về kinh tế cho việc bảo đảm QCN còn hạn chế. Thêm vào đó, trình độ

trình độ văn hóa, trình độ hiểu biết về pháp luật, về dân chủ và QCN của nhân dân,

nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp nên việc vi phạm

pháp luật của người dân cũng là điều dễ hiểu.

Thực tiễn việc thực hành quy chế dân chủ cơ sở của người dân những năm qua là

một trong các minh chứng về sự hạn chế trong trình độ nhận thức, ý thức thực hành

dân chủ của người dân. Do đó, có thể khẳng định, sự yếu kém về trình độ văn hóa,

trình độ hiểu biết pháp luật về QCN đã và đang là trở ngại cho việc hưởng thụ những

giá trị về quyền và tự do của con người, gây trở ngại cho việc bảo đảm các QCN của

Nhà nước ta. Chính vì vậy, bảo đảm QCN gắn với nâng cao trình độ dân trí, trình độ

hiểu biết pháp luật là yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước ta hiện nay.

Kết luận chương 3

Trong Chương 3, luận án phân tích khái niệm hội nhập quốc tế, tính tất yếu của

HNQT và khẳng định, HNQT là một xu thế tất yếu và khách quan, Việt Nam là một

quốc gia đang phát triển không nằm ngoài xu thế đó. Chương 3, luận án đã làm rõ quá

trình HNQT của Việt Nam, những thành tựu mà Việt Nam thu được trong quá trình

HNQT, phân tích về những tác động tích cực và tiêu cực của HNQT đến QCN và nhà

nước đối với việc bảo đảm QCN. Luận án khẳng định, HNQT mang lại nhiều cơ hội

cho việc bảo đảm QCN và phát huy hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN,

tuy nhiên, HNQT cũng nảy sinh nhiều thức đối với việc bảo đảm QCN, đòi hỏi nhà

nước phải có sự nhạy bén trong nhận thức và giải quyết các vấn đề mà HNQT đặt ra.

Chương 3, luận án tập trung phân tích về thực trạng Nhà nước Việt Nam đối với

việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT. Luận án khẳng định, sau gần 30 năm đổi

mới, những thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và bảo đảm QCN là đáng

khích lệ, ghi nhận sự nỗ lực của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Với chủ trương

đúng đắn của Đảng và Nhà nước, vấn đề QCN luôn được đưa vào trọng tâm của sự

Page 115: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

111

phát triển trong mọi chính sách của Nhà nước và đã thu được nhiều kết quả quan trọng

trên các lĩnh vực, đó là: (1) Xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật về QCN; (2)

Tổ chức thực thi chính sách, pháp luật về QCN; (3) Xây dựng và hoàn thiện các thiết

chế bảo đảm QCN; (4) Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chương 3 luận án cũng phân tích về những

hạn chế của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN; nguyên nhân của những thành tựu

mà Nhà nước đạt được trong việc bảo đảm QCN. Sở dĩ chúng ta đạt được những kết

quả trên là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam, do Nhà nước ta tôn

trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con người; xác định được những nhiệm vụ ưu tiên

trong quá trình thực hiện và những tác động tích cực mà HNQT mang lại.

Chương 3 cũng phân tích về hạn chế của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Đó

là sự hạn chế trong nhận thức về QCN; trong tổ chức thực hiện và hạn chế về năng lực,

phẩm chất của đội ngũ làm công tác bảo đảm và thực thi QCN.

Chương 3, luận án khẳng định, những thành tựu của Nhà nước đối với việc bảo

đảm QCN là kết quả sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong suốt 30 năm qua.

Tuy nhiên, trước những tác động của TCH và HNQT cùng với những đặc thù về điều

kiện kinh tế, xã hội và truyền thống văn hóa, việc bảo đảm và thực hiện QCN của Nhà

nước còn nhiều hạn chế đã đặt ra nhiều vấn đề đối với Nhà nước trong việc bảo đảm

QCN. Những vấn đề đặt ra đó là: thứ nhất, vấn đề đặt ra trong nhận thức và giải quyết

mối quan hệ giữa nhân quyền và chủ quyền quốc gia trong điều kiện HNQT; thứ hai,

vấn đề đặt ra giữa yêu cầu bảo đảm các QCN của Nhà nước với trình độ phát triển kinh

tế và quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình KTTT định hướng XHCN; thứ ba, vấn đề

đặt ra giữa yêu cầu bảo đảm QCN của Nhà nước với trình độ dân trí còn bất cập.

Vì vậy, những năm tới cùng với việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng

XHCN và tham gia HNQT toàn diện, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền XHCN; hoàn thiện các thể chế như: tổ chức bộ máy, luật pháp, kinh tế, xã hội,

thể chế dân chủ…. đòi hỏi Nhà nước phải có những quan điểm, giải pháp và bước đi cụ

thể cho từng lĩnh vực như hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN; hoàn thiện tổ chức

bộ máy các cơ quan Nhà nước hoạt động theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN;

các thiết chế bảo đảm QCN…Có như vậy, Nhà nước mới khức phục được những hạn

chế, tồn tại đối với việc bảo đảm QCN và thực hiện ngày càng tốt hơn nghĩa vụ bảo

đảm QCN. Đó cũng là khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới mà Đảng và

nhân dân ta đã lựa chọn.

Page 116: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

112

Chương 4

NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY -

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, quá trình HNQT của Việt Nam đã thu

được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, ổn định xã

hội, tạo tiền đề cần thiết cho việc bảo đảm và thực thi các QCN. Tuy nhiên, mặt trái của

HNQT cũng đặt ra nhiều thách thức với việc bảo đảm QCN và chủ quyền quốc gia. Vì

vậy, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN, cần phải thực hiện

theo các quan điểm cơ bản sau:

4.1.1. Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con

người trong điều kiện hội nhập quốc tế phải phù hợp với quy định của Luật quốc

tế về quyền con người trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia

Việt Nam đã và đang thu được nhiều thành tựu quan trọng về QCN, thế và lực

của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, các thế

lực thù địch sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tiến hành chiến lược diễn biến hòa

bình nhằm phá hoại sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Chính vì vậy,

nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN trong điều kiện HNQT

phải phù hợp với những quy định của luật pháp quốc tế về QCN trên cơ sở giữ vững

độc lập chủ quyền quốc gia.

Để bảo đảm tốt các QCN phải có các tiền đề nhất định, trong đó, độc lập dân tộc

và chủ quyền quốc gia là điều kiện quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Thực tiễn lịch sử

Việt Nam và nhiều nước vừa trải qua đấu tranh giành độc lập đã chứng minh, đất nước

bị nô lệ thì người dân không thể có tự do và QCN theo đúng nghĩa. Vì vậy, các dân tộc

bị áp bức đã không nề hy sinh, mất mát để giành và giữ nền độc lập và quyền dân tộc

tự quyết. Do đó, độc lập dân tộc, dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể

thiếu của nhân quyền. Nói cách khác, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện

tiên quyết để bảo đảm QCN. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không thể

nói đến việc bảo đảm các QCN một cách trọn vẹn.

Theo Luật quốc tế về QCN, bảo đảm QCN trước hết và chủ yếu thuộc trách

nhiệm của quốc gia. Theo đó, "không quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can

thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia". Độc lập dân tộc, chủ quyền

Page 117: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

113

quốc gia là nguyên tắc trong quan hệ quốc tế giải quyết các vấn đề liên quan đến QCN,

do đó, "không sử dụng quyền con người làm công cụ gây sức ép chính trị" [5, tr.2].

Chủ quyền quốc gia có vị trí quan trọng đặc biệt bởi vì, quyền độc lập dân tộc,

quyền tự quyết dân tộc chỉ có thể bảo đảm và bảo vệ vững chắc khi chủ quyền quốc gia

không bị xâm phạm và trong quốc gia có chủ quyền đó, các QCN của người dân mới

có điều kiện bảo đảm và thực hiện. Ngày nay, QCN đã được quốc tế hóa về nhiều mặt,

nhưng việc bảo đảm QCN chủ yếu vẫn thuộc thẩm quyền của các quốc gia. Sự hợp tác

quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền rất quan trọng vì nó có thể bổ sung nguồn lực và kinh

nghiệm trong việc bảo đảm QCN. Tuy nhiên, các cơ chế nhân quyền quốc tế chỉ nhằm

bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành ở mỗi quốc gia. Các quốc gia

khác nhau, tùy theo điều kiện lịch sử, kinh tế, chế độ xã hội, truyền thống văn hóa,...

mà bảo đảm và thực thi QCN ở những mức độ khác nhau. Không có bất cứ quốc gia

nào hay một tổ chức nào có thể đảm đương được việc thực hiện QCN thay cho một

quốc gia khác, nhất là đối với các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Đây là những nguyên

tắc cơ bản hàng đầu để phát huy vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong việc bảo đảm và

thực thi nhân quyền, nhưng điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là nhà nước phải sử

dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của quốc

gia. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quyền dân tộc tự quyết với QCN

và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ QCN của Nhà

nước Việt Nam.

Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là mục tiêu xuyên suốt của Đảng ta và là

khát vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Tư tưởng này đã được Chủ tịch Hồ Chí

Minh đúc kết và khẳng định bằng cụm từ ngắn gọn "Không có gì quý hơn độc lập tự

do". Giành độc lập là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là nhà nước phải sử dụng các

điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của quốc gia, bởi

nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập tự do cũng

chẳng có ý nghĩa gì. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa QCN với quyền

dân tộc tự quyết và trở thành định hướng quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ QCN

của Nhà nước Việt Nam.

Việc xác định đúng đắn vị trí của độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong quan

hệ với việc bảo đảm và hiện thực nhân quyền không chỉ có ý nghĩa khuyến khích các

quốc gia tôn trọng bảo vệ QCN trong quốc gia, dân tộc mình, mà còn tăng cường sự

Page 118: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

114

HTQT và sự tham gia của các nước vào các Công ước quốc tế về QCN, tiếp thu những

giá trị của QCN, gánh và chia sẻ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong việc tôn trọng

các QCN và tự do cá nhân theo quy định của luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ.

Kiên trì quan điểm phát huy vai trò Nhà nước trong việc bảo đảm QCN phù hợp

với các quy định quốc tế về QCN trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, để

phát huy vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm và mở rộng QCN, Nhà nước Việt

Nam chủ động, tích cực chuyển hóa các quy định của các Công ước quốc tế về QCN

phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước. Trong quá trình

HNQT, Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nguyên tắc giải quyết mọi mâu thuẫn, khác

biệt trong quan niệm, cách thức giải quyết vấn đề QCN trên cơ sở tôn trọng độc lập dân

tộc, chủ quyền quốc gia.

Thế giới hiện đại đang biến đổi hết sức nhanh chóng và phức tạp, vừa hợp tác,

vừa đấu tranh, tùy thuộc lẫn nhau để phát triển. Sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc

không tách rời sự phát triển chung của nhân loại. Bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền

quốc gia không tách rời xu thế liên kết quốc tế để phát triển. Do đó, việc mở rộng các

QCN ở các quốc gia đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia mình

phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, tôn trọng các nguyên tắc và tiêu chuẩn

của luật quốc tế về QCN. Tôn trọng và bảo vệ QCN đang trở thành nguyên tắc ứng xử

toàn cầu. Bất cứ quốc gia nào khi tham gia vào các sinh hoạt quốc tế đều phải thừa

nhận các công ước hay hiệp định song phương hay đa phương; thể chế hóa những nội

dung cơ bản của các công ước và hiệp định đó thành luật pháp quốc gia; xây dựng và

hoàn thiện những đạo luật tương đồng với các nước khác; tăng cường hệ thống thực thi

pháp luật.

Do đó, nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm các QCN

không thể tách rời việc giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh

thổ là nguyên tắc nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được khẳng

định trong Cương lĩnh năm 2011 của Đảng ta, đó là " bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân

và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc

gia và trật tự, an toàn xã hội" [33, tr.81]. Quan điểm này không những phù hợp với các

nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế mà còn đáp ứng được vọng ngàn đời của nhân

dân ta là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.

Page 119: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

115

Ngày nay, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia còn bao gồm cả việc đưa đất nước

tránh khỏi sự lệ thuộc về kinh tế, lệ thuộc vào các định chế quy định được tạo ra bởi

các cường quốc và các định chế toàn cầu. Trong bối cảnh TCH và tranh chấp lãnh thổ

diễn ra gay gắt, giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là một thách thức lớn.

Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng nâng cao nhận thức xã hội về yêu cầu này; đồng

thời nỗ lực xây dựng và thực thi chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia. Mục tiêu chung

hiện nay là, một mặt cần tạo ra sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn

hóa; mặt khác tránh để đất nước rơi vào vòng xoáy xung đột và bị chi phối bởi các liên

minh quân sự, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, xây dựng các

chiến lược, chính sách và các biện pháp để bảo đảm và mở rộng các QCN.

Như vậy, việc bảo đảm QCN của Việt Nam trách nhiệm đầu tiên và trước hết

thuộc về Nhà nước. Việc mở rộng và thực thi các QCN phải phù hợp với pháp luật

quốc tế trên cơ sở sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Nếu không nhận thức sâu

sắc trách nhiệm này, Nhà nước không thể tạo ra những chuyển biến có tính chất cách

mạng từ tư duy đến hoạt động, từ việc đưa ra các chính sách đối nội, đối ngoại đến việc

chỉ đạo cụ thể toàn bộ quá trình bảo đảm, thực thi, mở rộng và HNQT trên lĩnh vực

QCN trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.

4.1.2. Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con

người gắn liền với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và

hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, bảo đảm quyền con người của Nhà nước gắn với việc xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN

Để phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế, phát huy hiệu quả của

Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, cần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

XHCN. Đó là một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, nhà nước điều hành mọi

hoạt động của xã hội theo pháp luật, trong đó, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối

thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là

nhà nước tôn trọng QCN và QCD, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và

công dân, bảo đảm quyền tự do, dân chủ thực sự cho mọi tầng lớp trong xã hội.

Theo hướng đó, Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước bảo đảm tất cả

quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực là nước là thống nhất, nhưng có sự phân chia

rõ ràng, cụ thể chức năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư

pháp, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn

Page 120: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

116

nhau giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội phải thể hiện tập trung

nhất, đầy đủ nhất ý chí và nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân. Nhà nước

phải có cơ chế thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ với tư cách là cơ

quan hành chính cao nhất của Nhà nước để khắc phục những hạn chế trong cơ cấu tổ

chức và hoạt động của Chính phủ; sắp xếp lại tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp

để các cơ quan này có đủ sức mạnh đảm bảo duy trì, tôn trọng hiệu lực của pháp luật.

Bảo đảm QCN là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Trong nhà nước pháp

quyền, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ,

quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức,

nhà nước phải chịu trách nhiệm vật chất, tinh thần về các quyết định và hành vi của

mình, đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mối quan hệ giữa nhà nước và cá

nhân là mối quan hệ giữa các đối tác bình đẳng, có các quyền và nghĩa vụ tương ứng

đối với nhau. Nhà nước không chỉ có quyền được yêu cầu cá nhân thực hiện các nghĩa

vụ pháp lý mà còn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ pháp lý đối với cá nhân, không

dừng lại ở khẩu hiệu, tuyên ngôn mà phải có hệ thống đảm bảo pháp lý để thực hiện

quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân.

Trong điều kiện HNQT, yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là Nhà nước phải thực hiện đổi mới hoạt động

lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó:

Hoạt động lập pháp của Nhà nước trong thời đại ngày nay, không hướng trọng

tâm vào thể chế hoá quyền quản lý của bộ máy nhà nước (quyền cai trị) mà phải hướng

trọng tâm vào tạo dựng khuôn khổ pháp lý vững chắc cho một nền dân chủ của xã hội

và tự do của công dân. Điều này có nghĩa là hoạt động lập pháp chuyển trọng tâm từ

quy định quyền của bộ máy nhà nước sang xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của các

cơ quan này, từ quyền cho phép của công quyền sang quyền của công dân trong mối

quan hệ với Nhà nước.

Hoạt động tư pháp chuyển từ nhân danh Nhà nước sang nhân danh luật pháp và

công lý để phán quyết các vi phạm luật pháp và xử lý các tranh chấp, xung đột pháp lý

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trước những nhiệm vụ, yêu cầu mới, việc thay đổi tính mục tiêu, nội hàm hoạt

động của lập pháp, hành pháp và tư pháp lẽ đương nhiên phải cơ cấu lại chức năng,

nhiệm vụ mối quan hệ và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội,

Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa phương.

Page 121: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

117

Thứ hai, bảo đảm QCN của Nhà nước gắn liền với hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN

Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Đó

là nền kinh tế tôn trọng và vận dụng đúng các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ

quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, đồng thời phải có công cụ

điều tiết và chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội. Sau gần 30

năm năm đổi mới, việc nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN

trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta đã đạt được thành tựu to lớn. Sự vận

hành của nền KTTT định hướng XHCN đã làm thay đổi căn bản tư duy cũng như

phương thức quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có

QCN. Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn

nhiều hạn chế, bất cập, cần khắc phục... Do đó, nâng cao hiệu quả của Nhà nước

trong việc bảo đảm QCN gắn liền với việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng

XHCN có ý nghĩa rất quan trọng.

Xây dựng thể chế KTTT đòi hỏi phải căn cứ vào yêu cầu thể chế KTTT định

hướng XHCN. Ngày nay, xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN

cần đáp ứng được các yêu cầu:

- Hoàn thiện thể chế sở hữu trong nền KTTT định hướng XHCN, khuyến khích

sự phát triển đa dạng của các hình thức sở hữu. Đây là vấn đề cốt lõi, giữ vị trí trung

tâm. Ở nước ta hiện nay, xây dựng và phát triển thể chế về sở hữu phải bảo đảm vừa

thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu cho phù hợp với KTTT, đồng

thời giữ vững định hướng XHCN.Chủ trương trên của Đảng đã được thể chế hóa bằng

các luật và các văn bản pháp quy của Nhà nước, hình thành khung pháp lý để thực hiện

đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong KTTT, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần, thực hiện quyền tự do sản xuất, kinh doanh, khai thác hiệu quả các nguồn

lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng bền vững.

- Hoàn thiện thể chế về chủ thể sản xuất và kinh doanh. Thể chế KTTT định

hướng XHCN đòi hỏi phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ

thể tham gia thị trường. Do đó, nhanh chóng phá bỏ những mặt lạc hậu của thể chế

kinh doanh, đẩy nhanh việc xây dựng và kiện toàn hệ thống thị trường kinh doanh hiện

đại, thống nhất, mở cửa và cạnh tranh có trật tự. Xây dựng các loại thị trường kinh

doanh, tăng cường chất lượng sản xuất kinh doanh, thiết lập một khuôn khổ pháp lý

bình đẳng, công bằng cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác nhau, hướng

Page 122: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

118

về người tiêu dùng, lấy người tiêu dùng làm chủ thể. Hoàn thiện pháp luật về cạnh

tranh, kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ tài sản trí

tuệ và cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành

mạnh, bảo đảm quyền của người tiêu dùng.

- Cải thiện quản lý vĩ mô, thành lập thể chế quản lý kinh tế, đảng lãnh đạo, chính

quyền quản lý, doanh nghiệp vận hành theo pháp luật và quy luật thị trường. Thực hiện

công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình về các chính sách quản lý, các đề án phát

triển cũng như trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Thể chế KTTT cùng với

tác động của quá trình mở cửa, hội nhập gắn liền với việc hình thành cấu trúc đa sở hữu

và cơ cấu đa chủ thể kinh tế dẫn đến sự hình thành các "nhóm lợi ích". Về khách quan,

các "nhóm lợi ích" này có thể tác động đến quá trình ra quyết định. Công khai minh

bạch không những tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận thông tin, mà quan trọng hơn,

thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình, tạo điều kiện cho

người dân giám sát các quyết định của các cơ quan quản lý, là biện pháp cơ bản để

ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động của các "nhóm lợi ích" vào quá trình ra quyết

định, bảo đảm cho các quyết định theo chuẩn "giá trị chung", vì lợi ích của đất nước.

Do đó, tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp quy, thực hiện việc quản lý

kinh tế thông qua luật định, nâng cao năng lực giám sát quản lý KTTT...

- Thể chế KTTT định hướng XHCN trong điều kiện HNQT ngày càng sâu rộng

đòi hỏi phải định vị lại mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Theo đó, Nhà nước

chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế sang thực hiện chức năng

kiến tạo phát triển: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu

tư và kinh doanh; tạo cơ chế phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công.

Trong quá trình hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, một thách thức đặt

ra cho quản lý của Nhà nước dưới tác động của HNQT là mỗi biến động trên thị trường

thế giới tác động rất lớn đến thị trường trong nước. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải

nâng cao năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách nhằm hạn chế những tác

động xấu đến nền kinh tế. Kinh tế thị trường và HNQT cũng làm cho một bộ phận dân

cư dễ bị tổn thương, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo, nên Nhà nước cần phát huy

"sức mạnh tự điều chỉnh" của thị trường, mặt khác phải "hoá giải" được tác động tiêu

cực của thị trường, bảo đảm định hướng của sự phát triển bền vững. Vì vậy, bộ máy

nhà nước Việt Nam phải được tổ chức hiệu quả để đủ năng lực vừa tuân thủ các cam

kết quốc tế, vừa vận dụng sáng tạo các cam kết này trong quá trình xây dựng và thực

Page 123: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

119

thi pháp luật để vừa đảm bảo lợi ích quốc gia, tuân thủ các quy định và cam kết quốc tế

nhằm tạo cơ chế pháp lý và sự hỗ trợ chính sách cần thiết để đưa kinh tế Việt Nam hội

nhập vào nền kinh tế toàn cầu, tạo tiền đề và cơ sở cần thiết để thực hiện an sinh xã hội.

Hiệu quả của Nhà nước trong phát triển kinh tế, bảo đảm QCN không giảm đi mà phải

được tăng cường trên những nội dung mới, theo những phương thức tác động mới.

Thứ ba, bảo đảm quyền con người của Nhà nước gắn với hoàn thiện thể chế

dân chủ

Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN gắn liền với hoàn

thiện thể chế dân chủ. Dân chủ trước hết là một hình thức, một hình thái nhà nước

trong đó, thừa nhận quyền bình đẳng của mọi người tham gia vào công việc của nhà

nước. Sự phát triển quyền và tự do của con người có mối tương quan tỷ lệ thuận với sự

phát triển của dân chủ. Trong một chế độ dân chủ, một mặt nhân dân là chủ thể của

quyền lực, quyết định tổ chức và hoạt động của nhà nước; mặt khác, trong chế độ dân

chủ, các thành viên của xã hội được tôn trọng, mọi người bình đẳng tham gia quyết

định các vấn đề của cộng đồng trên cơ sở pháp luật.

Với nội dung nói trên, dân chủ trở thành phương tiện bảo đảm và phát triển QCN,

mỗi nấc thang phát triển của dân chủ lại mở rộng thêm phạm vi, làm sâu sắc thêm chất

lượng QCN. Quyền con người gắn bó hữu cơ với dân chủ. Thực hiện các nguyên tắc

dân chủ trong đời sống nhà nước và xã hội là con đường đúng đắn để phát triển QCN.

Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế dân chủ là nhân tố hàng đầu trong việc bảo đảm QCN.

Có thể khẳng định "dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị - nhà

nước của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân

là chủ thể của quyền lực" [127, tr.23]. Vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực

cho sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, mở rộng dân chủ và quá

trình dân chủ hóa phải được thực hiện trên một nền tảng pháp luật vững chắc và một cơ

chế hoạt động hợp lý, có hiệu quả từ phía nhà nước. "Dân chủ hiện đại đi đôi với pháp

luật. Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói

riêng phải xây dựng được Hiến pháp và một hệ thống pháp luật đảm bảo tính đồng bộ,

phản ánh và đáp ứng các yêu cầu của tiến bộ xã hội" [114]. Xây dựng một Nhà nước

pháp quyền XHCN vững mạnh là biện pháp quan trọng khắc phục những hạn chế của

chế độ dân chủ trước đây, góp phần tiếp tục đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa, bảo đảm

ngày càng tốt hơn các QCN của công dân.

Page 124: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

120

Hiện nay, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, Đảng và

Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, dưới nhiều hình thức sáng

tạo, chẳng hạn, kết hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở với không ngừng dân chủ hóa mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các QCN. Dân chủ hóa

còn được thể hiện thông qua việc thúc đẩy quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông

tin, thu hút sự tham gia của người dân và cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện và

bảo vệ QCN…

Như vậy, quyền con người, kinh tế thị trường, dân chủ, nhà nước pháp quyền là

vấn đề quan trọng của một nhà nước hiện đại. Sự phức tạp trong nội bộ nhà nước ở các

quốc gia hiện nay đều liên quan tới việc giải quyết các mối quan hệ này. Vì vậy, nâng

cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN gắn liền với việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN; hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, hoàn thiện thể

chế dân chủ để Nhà nước thực sự trở thành một bộ máy công quyền có hiệu lực.

4.1.3. Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con

người gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí

Quyền con người là nhu cầu vốn có của con người, nhưng trạng thái và mức độ

thỏa mãn nó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và trình độ dân trí

của mỗi quốc gia. Quan điểm này đã được chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định "quyền

không bao giờ có thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế và văn hóa" của xã hội và tất

nhiên, khi quyền được xác định và thực hiện, nó sẽ có tác động trở lại thúc đẩy sự phát

triển kinh tế, xã hội.

Văn hóa chính là tổng thể các giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình sản

lao động, sản xuất, đấu tranh bảo vệ đất nước, chinh phục tự nhiên… Văn hóa với tư

cách là thành tựu của QCN, là sự kết tinh các giá trị của đời sống con người trong suốt

quá trình phát triển lịch sử, trở thành phương tiện và nền tảng, từ đó có quan điểm về

QCN và hiện thực hóa quan điểm ấy. Vì vậy, việc bảo đảm và hiện thực hóa các QCN

phải luôn trên nền tảng của đời sống văn hóa. Đây là con đường đúng đắn để tạo lập

một nền văn hóa tiên tiến, nền văn hóa vì con người và QCN. Do đó, việc thiết lập cơ

chế bảo đảm và thực hiện QCN trở thành nhân tố hàng đầu trong sự phát triển nền văn

hóa nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách hiện nay của các quốc gia, dân tộc.

Văn hóa thể hiện trình độ phát triển cao của con người, là sự thể hiện trình độ, các

giá trị của con người đối với việc xây dựng, củng cố và thực thi pháp luật cùng với việc

xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân bảo đảm QCN.Quyền

Page 125: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

121

con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và ngược lại, trình độ phát

triển kinh tế, văn hóa là những điều kiện mang tính chất quyết định đối với việc bảo

đảm và hiện thực hóa các QCN và QCD. Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự phát

triển cao của kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, con người có điều kiện để làm

chủ bản thân, làm chủ cộng đồng và xã hội. Từ các giá trị văn hóa cơ bản của một quốc

gia, một dân tộc có thể xác định được quyền; bổn phận của các cá nhân, tổ chức và các

tiêu chí để đánh giá các giá trị của một xã hội cụ thể. Thực tiễn cho thấy, cùng ở một

trình độ phát triển nhất định về kinh tế, xã hội song do điều kiện và truyền thống văn

hóa, chế độ chính trị khác nhau, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện QCN khác nhau.

Do đó, văn hóa có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm và hiện thực hóa các QCN.

Quyền không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế, văn hóa là định hướng quan

trọng cho việc giải quyết đúng đắn vấn đề QCN trong đời sống hiện thực, vừa tránh

được chủ quan duy ý chí trong xây dựng chính sách, pháp luật về QCN, vừa tránh được

tình trạng lạc hậu của chính sách, pháp luật so với sự phát triển của kinh tế và văn hóa.

Trong điều kiện của thế giới phát triển đa dạng và phức tạp như hiện nay, mỗi quốc gia,

dân tộc, trong đó có Việt Nam phải tìm cho mình con đường riêng để phát triển văn

hóa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trên cơ sở tiếp thu những

tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo cơ sở và tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.

Bảo đảm QCN gắn liền với việc nâng cao trình độ dân trí. Trình độ dân trước hết

là những tri thức, kiến thức nói chung, trong đó có những tri thức, sự hiểu biết về pháp

luật và ý thức chấp hàn pháp luật nói chung, pháp luật về QCN nói riêng. Đó là trình độ

am hiểu pháp luật, là thái độ tôn trọng pháp luật, thực hiện pháp luật về QCN. Do đó có

thể khẳng định, trình độ dân trí và bảo đảm, thực hiện QCN có mối liên hệ mật thiết,

gắn bó biện chứng với nhau. Quyền con người chỉ được bảo đảm và thực hiện trên một

trình độ dân trí nhất định và ngược lại, chỉ ở một trình độ dân trí nhất định, con người

không chỉ thực hiện tốt các quyền của mình mà còn có khả năng đòi hỏi việc ghi nhận

và bảo đảm QCN của mình ở mức độ cao hơn như: quyền tham gia quản lý nhà nước

và xã hội, quyền được tiếp cận thông tin một cách minh bạch; quyền tự do hội

họp…Và cũng chỉ trên một trình độ dân trí nhất định, một sự hiểu biết nhất định, con

người mới chủ động đấu tranh được với những hành động vi phạm QCN.

Quyền con người không thể được bảo đảm tốt "trên một nền dân trí thấp kém

được" [114], do đó, trình độ dân trí là điều quan trọng để xác lập và thực hiện QCN.

Điều đó không chỉ vì ‘người mù chữ đứng ngoài chính trị" mà còn đòi hỏi con người

Page 126: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

122

phải có những hiểu biết nhất định về dân chủ, về pháp luật và ý thức về quyền của

công dân mới có thể bảo đảm thực hiện quyền trong thực tế. Do đó, có thể khẳng

định, trình độ dân trí không chỉ là điều kiện cơ bản giúp con người thực hiện các QCN

của mình mà còn là tiền đề cần thiết để con người đòi hỏi các quyền hợp và lợi ích

pháp của mình, làm cho các QCN ngày càng được mở rộng và phát triển. Đây chính là

quá trình biện chứng của quá trình nâng cao dân trí với việc bảo đảm QCN.

Quyền con người là một giá trị bền vững, nhưng chuẩn mực, thước đo đánh giá

nó lại có thể bị thay đổi phù hợp với sự phát triển của nhân loại, nó mang giá trị thời

đại. Do đó, bảo vệ và thúc đẩy các QCN là một quá trình không ngừng đối với mọi

quốc gia, dân tộc, ở mọi trình độ phát triển khác nhau. Quyền con người là mang tính

thời đại, song việc đánh giá mức độ hưởng thụ các QCN lại không chỉ đơn thuần dựa

trên những chuẩn mực khách quan đó. Quyền con người luôn bao hàm sự thảo mãn của

người dân về quyền của mình, phù hợp với trình độ dân trí, điều kiện kinh tế, xã hội và

truyền thống của mỗi quốc gia. Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau, sự thỏa mãn

quyền có khác nhau, trong điều kiện này thì người dân đã thỏa mãn với các thể chế

trong việc bảo đảm quyền của mình, trong điều kiện khác thì không.

Từ nhận thức trên, một mặt, nâng cao hiệu qủa của Nhà nước trong việc bảo đảm

QCN phải bám sát điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của đất nước, truyền thống dân tộc,

mặt khác, trên trường quốc tế, chúng ta không thể chấp nhận sự áp đặt các tiêu của

nước này cho nước khác, và "dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng "dân chủ", "nhân

quyền" nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào công việc nội

bộ nước ta" [28, tr.72].

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

Nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm QCN ở nước ta hiện nay

là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, song phải tùy thuộc vào yêu cầu, điều kiện, hoàn

cảnh cụ thể của từng thời kỳ để xác định nhiệm vụ trọng tâm. Trước những tác động

của TCH và HNQT, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc của thế giới

cũng như trong nước, vì vậy, nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm

QCN cần chú trọng tới một số nhiệm vụ cơ bản, cụ thể sau đây:

4.2.1. Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người

Việt Nam đang trên bước đường đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đẩy mạnh

HNQT toàn diện nhằm khai tháchiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, xã

hội, bảo đảm QCN. Sau gần 30 năm đổi mới và hội nhập, hệ thống pháp luật của nước

Page 127: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

123

ta từng bước được hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, giữ

vững an ninh chính trị, thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập và bảo đảm ngày càng tốt

hơn các QCN của người dân, song nhìn chung, hệ thống pháp luật về QCN nước ta còn

bộc lộ nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.

Chính vì vậy, để nâng cao vai trò quản lý xã hội của Nhà nước trong bảo đảm và thực

hiện QCN, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt cả về nội

dung lẫn hình thức, thể hiện và tổ chức thực hiện việc tuân thủ nghiêm chỉnh hệ thống

pháp luật là một trong những nhiệm vụ trung tâm, một đòi hỏi cấp thiết, một tất yếu

khách quan của Nhà nước ta hiện nay.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN là tiền đề, xuất phát điểm

và là căn cứ pháp lý vững chắc cho toàn bộ hoạt động bảo vệ nhân quyền của các cơ

quan nhà nước, ngăn chặn các kẽ hở vi phạm pháp luật và tạo căn cứ pháp lý cho cá

nhân, công dân tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cương lĩnh xây

dựng dất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định: Nhà nước định ra

các đạo luật quy định quyền con người, quyền công dân, trong đó, bên cạnh các đạo

luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các đạo luật về quyền công dân. Đại hội

VIII của Đảng đã khẳng định cần: "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn

bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp,

bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước

pháp luật" [28, tr.132]. Do đó, yêu cầu đặt ra của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống

pháp luật về QCN vừa phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống, vừa bảo

đảm các yêu cầu của HNQT, đáp ứng được các quy chế chức của các tổ chức quốc tế

mà Việt Nam tham gia, trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là sợi chỉ đỏ

xuyên suốt toàn bộ hệ thống các văn bản pháp lý. Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật về QCN, thời gian tới cần:

Một là, tập trung hoàn thiện quy trình xây dựng chính sách, pháp luật về

quyền con người

Sở dĩ chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về QCN còn có những mặt

bất cập là do quy trình xây dựng các văn bản pháp lý còn thiếu khoa học và chưa hợp

lý, chưa sát với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các

quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Do vậy, Nhà nước cần có sự thay

đổi về cách thức xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật về QCN và QCD. Để xây

dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN một cách đồng bộ, thống nhất cần phải có

Page 128: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

124

một chiến lược xây dựng pháp luật. Chiến lược xây dựng pháp luật về QCN phải được

hình thành trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, phát triển con người

với yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu kiện toàn hệ thống pháp luật, phân định chính

xác nhu cầu và thứ bậc ưu tiến của các đạo luật, pháp lệnh cần ban hành, từ đó, xác

định kế hoạch cụ thể trong thời gian ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, nhất là chương

trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội. Các kế hoạch đó phải dành ưu tiên cho

việc ban hành và sửa đổi các bộ luật liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm QCN trong

điều kiện đổi mới và HNQT.

Trong điều kiện hiện nay, nâng cao vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN bảo

đảm QCN trước mắt cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm

các QCN về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; quyền của nhóm đối

tượng dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi….). Để

làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp

luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh, đối chiếu với các quy định quốc tế về QCN mà

Việt Nam tham gia. Chính vì vậy, chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật

về QCN cần có những bước đi thích hợp, thận trọng, bảo đảm:

- Pháp luật quốc gia bảo đảm QCN phải cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà

nước ta về QCN; phải được xây dựng dựa trên các điều kiện cụ thể, phù hợp với trình

độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và truyền thống của lịch sử dân tộc.

- Các quy định pháp luật quốc gia về QCN phải phù hợp với tiểu chuẩn chung

của quốc tế, nhất là các quy định quốc tế mang tính nhân văn và tiến bộ mà Việt Nam

đã tham gia.

- Quy trình xây dựng pháp luật về lĩnh vực này cần phải chú trọng đến hoạt động

thăm dò, lấy ý kiến trước ban hành pháp luật. Đây là một việc làm quan trọng và cần

thiết đánh giá nhu cầu, tính khả thi của pháp luật; Cung cấp đủ thông tin trong quá trình

xây dựng pháp luật là một yêu cầu lớn trong thiết kế pháp luật. Các thông tin phục vụ

xây dựng pháp luật rất đa dạng, bao gồm thông tin về kinh tế, xã hội, về chủ thể thụ

hưởng QCN,… Để hoạt động thông tin trong quá trình thực hiện pháp luật, chính sách

đạt hiệu quả cần tuân thủ một số nguyên tắc như thống nhất quan điểm, cách hiểu pháp

luật về QCN; xác lập các kênh để thu thập thông tin kịp thời, tránh lệ thuộc vào một

kênh thông tin, đón nhận và xử lý mọi thông tin; hạn chế việc che dấu thông tin.

Để khắc phục quy trình xây dựng pháp luật chủ yếu theo phương thức từ trên

xuống (thiết kế ở cấp quốc gia, thực hiện ở cơ sở, thôn bản) thì một đòi hỏi mang tính

Page 129: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

125

nguyên tắc là có sự tham gia của địa phương, cơ sở. Nói cách khác cần có công tác

điều tra, nghiên cứu, nắm tình hình thực tiễn, nghe ý kiến phản hồi, nguyện vọng của

nhiều tầng lớp xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương…để kịp thời bổ sung,

sửa đổi, hay ban hành các quy định mới. Khi soạn thảo, xây dựng các văn bản pháp

luật cần chú ý phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương; cần đi sâu nghiên

cứu, đánh giá tình hình thực tiễn của từng khu vực, từng vùng, để nắm rõ được những

khó khăn, thuận lợi; từ đó có những ý kiến phản hồi, kịp thời đưa ra những sửa đổi, bổ

sung, hủy bỏ, thay thế các văn bản pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn. Các văn

bản này cũng nên quy định những nội dung "mở", để các địa phương trong quá trình

thực hiện pháp luật về QCN có thể căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, xã hội, văn hóa để

vận dụng một cách linh hoạt hơn, nhằm đem lại hiệu quả trong thực thi pháp luật trong

thực tế bảo đảm các QCN cho nhiều nhóm xã hội khác nhau, đặc biệt chú ý nhóm yếu

thế, dễ bị tổn thương.

Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách có liên quan đến bảo

đảm quyền con người phù hợp với Hiến pháp năm 2013

Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, sát thực

tế, có tính ổn định lâu dài tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền và các

lợi ích hợp pháp của công dân là yêu cầu cấp bách ở nước ta hiện nay. Thực tiễn đổi

mới, hệ thống pháp luật của Việt Nam về bảo đảm QCN đã có những bước phát triển

tích cực, phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường và HNQT, tuy nhiên, hệ

thống pháp luật về QCN ở nước ta bộc lộ nhiều hạn chế như: tính khả thi của các văn

bản pháp luật chưa cao; nhiều quy định còn khá chung chung, chồng chéo, thậm chí

mâu thuẫn gây khó khăn cho quá trình triển khai, thực hiện.

Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm

QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân và trên cơ sở Hiến pháp 2013, cũng như các

quy định của các Công ước Liên hợp quốc về QCN mà Việt Nam là thành viên, Nhà

nước cần tiến hành rà soát lại toàn bộ quy định pháp lý về QCN trên các lĩnh vực dân

sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các nhóm xã hội dễ tổn thương; đánh giá, nhận

định tính hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với thực tiễn của tất cả các văn bản pháp lý quy

định về các nhóm quyền để có sự điều chỉnh, bổ sung, thay thế hay bãi bỏ những văn

bản pháp lý không còn phù hợp. Cụ thể:

Page 130: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

126

Đối với các quy định về quyền dân sự, chính trị trong Hiến pháp 2013 cần được

cụ thể hóa hơn trong các văn bản luật cụ thể. Chẳng hạn như quyền được thông tin một

cách công khai, minh bạch tại Điều 28, Hiến pháp 2013, cần khẩn trương xây dựng và

ban hành các đạo luật bảo đảm quyền dân sự, chính trị như:

Luật về tiếp cận thông tin, đây là đạo luật có vị trí bản lề, xâu chuỗi toàn bộ các

quy định về tiếp cận thông tin khá rời rạc hiện nay. Luật sẽ xây dựng các nguyên tắc có

tính nền tảng trong tiếp cận thông tin, hoàn thiện những bất cập cũng như những

khuyết thiếu về mặt quy định pháp lý, từ đó tạo ra một khung pháp lý đồng bộ đảm bảo

quyền tiếp cận thông tin của người dân. Đây cũng là điều kiện cần để bảo đảm tổ hợp

quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin.

Luật về người tị nạn, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải đối diện với vấn đề

người tị nạn. Không phải ngẫu nhiên mà trong cơ cấu tổ chức Liên hợp quốc có cơ

quan cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cũng như trong luật quốc tế đã có các điều

ước quốc tế đa phương toàn cầu về vấn đề người tị nạn, trong đó xác lập nghĩa vụ pháp

lý quốc tế của các quốc gia phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về QCN, đặc biệt đảm

bảo cho họ được hưởng quyền có quốc tịch với các điều kiện thuận lợi, tốt nhất. Do đó,

Việt Nam nên ghi nhận các điều khoản tương ứng của luật quốc tế về người tị nạn

trong luật pháp quốc gia, nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về người tị nạn.

Luật về tín ngưỡng, tôn giáo, hiện nay, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004

là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở

nước ta. Mặc dù Nghị quyết số 25 Khóa IX/2003 đã nêu quan điểm "chuẩn bị để tiến

tới xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo", song vì nhiều lý do khác nhau, Luật này chưa

được ban hành. Trong tình hình đó, trên cơ sở những bất cập, lạc hậu và chưa đảm bảo

tính toàn diện trong những quy định khung, quy định cơ bản hiện nay của Pháp lệnh,

cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tích cực, chủ động hoàn chỉnh dự thảo bổ sung,

sửa đổi Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thành Luật.

Luật xuất nhập cảnh, để hoàn thiện hơn nữa và đáp ứng một cách hoàn toàn,

triệt để những quy định của Hiến pháp mới và yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, cần

tiến hành rà soát và hoàn thiện pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh với mục tiêu tổng

quát là cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động trên; từ đó tiến tới xây dựng một

đạo luật về xuất cảnh, nhập cảnh nhằm xử lý mối quan hệ trong lĩnh vực công dân

qua lại biên giới.

Page 131: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

127

Để bảo đảm tốt hơn quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân,

cần khẩn trương ban hành Luật trưng cầu ý dân theo quy định của Hiến pháp 2013 và

Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014. Khẩn

trương ban hành Luật về dân chủ cơ sở để bảo đảm các quy định về dân chủ. Ngoài ra,

thúc đẩy việc xây dựng Luật biểu tình để cụ thể hóa quyền tự do bày tỏ ý kiến, quyền

biểu tình; ban hành Luật về hội để bảo đảm quyền tự do hội họp, lập hội; ban hành

Luật đình công để bảo đảm quyền quyền đình công của công nhân...

Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực

tiễn, trên cơ sở Hiến pháp 2013. Do đó, cần rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật

hiện hành, sửa đổi, bổ sung những quy định mới phù hợp với Hiến pháp và các cam kết

quốc tế. Tập trung xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật trong một số

lĩnh vực quan trọng như vấn đề sở hữu, tự do kinh doanh...

Đảm bảo quyền sở hữu, cần có Luật về sở hữu để cụ thể hóa Điều 32, Hiến pháp

2013 nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm soát, bảo vệ tài

sản của mình và Nhà nước thông qua công cụ pháp lý và bộ máy chuyên chính có trách

nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân, để người dân yên tâm đưa vốn vào sản

xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.

Đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước

phải tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng giữa các loại hình doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm giải phóng sức lao động và huy động được

mọi tiềm năng sẵn có của mỗi cá nhân, công dân và của đất nước nói chung, cũng như

thu hút vốn, công nghệ nước ngoài cho đầu tư, phát triển, thực hiện Điều 33, Hiến pháp

2013 là "mọi người có quyền kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không

cấm". Và khi quyền tự do kinh doanh được thực hiện sẽ là cơ sở để tạo ra nhiều việc

làm cho người lao động, kéo theo sự bảo vệ của Nhà nước đối với những người làm

công, hưởng lương.

Do đó, cần hoàn thiện, bảo đảm pháp lý quyền lao động, việc làm, trong đó, xác

định rõ các quyền liên quan đến việc làm, quyền tự do lựa chọn việc làm, lựa chọn

nghề nghiệp, nơi làm việc phù hợp với sở thích và khả năng của người lao động… và

các quyền phát sinh từ việc làm như là hệ quả của quan hệ lao động bao gồm cả các

điều kiện làm việc, tiền công, tiền lương, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, đào tạo nâng

cao trình độ.

Page 132: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

128

Bảo vệ quyền lợi của người lao động liên quan đến củng cố tổ chức công đoàn,

cần hoàn thiện pháp luật về công đoàn, bảo đảm tổ chức công đoàn thực sự trở thành

chỗ dựa vững chắc cho người lao động; đồng thời trong quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền, nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN đòi hỏi phải từng

bước hoàn thiện pháp luật về an toàn xã hội, rà soát và sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội,

Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật về nhà ở; Luật giáo dục; Luật sở hữu trí tuệ…bảo

đảm công bằng, bình đẳng cho người dân trong khám chữa bệnh, học tập, an sinh xã

hội... Hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện các chính sách công bằng xã hội về xóa

đói giảm nghèo, về trợ giúp pháp lý...

Về quyền của nhóm dễ bị tổn thương, Nhà nước ta đã có những văn bản pháp luật

quy định quyền và nghĩa vụ của từng nhóm, chẳng hạn như: phụ nữ có Luật bình đẳng

giới (2006), Luật phòng chống bạo lực gia đình (2007); với nhóm người có HIV có

Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người

(HIV/AIDS) (2006); đối với người khuyết tật có Luật về người khuyết tật (2010)... Có

thể khẳng định rằng, các đạo luật trên đã có những tác động tích cực tới việc bảo đảm

quyền của các nhóm dễ tổn thương, từng bước đưa hoạt động bảo vệ quyền của các

nhóm dễ tổn thương vào nề nếp, ngăn chặn và giảm thiểu các hành vi vi phạm QCN

của các nhóm dễ tổn thương. Song vẫn cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật,

chính sách bảo vệ quyền của nhóm dễ tổn thương bởi tính khả thi của các văn bản pháp

luật, chính sách chưa cao; một số điểm không mang tính cập nhật hoặc chưa bao quát

được những vấn đề liên quan đến quyền của các nhóm dễ tổn thương trong tiến trình

TCH và HNQT, do đó, hiệu lực của các văn bản này chưa cao; thiếu thống nhất, chưa

có các chế tài đủ mạnh cho cơ quan xử lý các vi phạm về quyền của các nhóm dễ tổn

thương. Do đó, thời gian tới cần:

- Có cơ chế, chính sách đặc thù đối với một số nhóm dễ tổn thương như: người

dân tộc thiểu số, người già, người có HIV, trẻ em. Khi xây dựng chính sách, pháp luật

về quyền của nhóm dễ tổn thương cần đặc biệt chú ý tới đặc điểm về thể chất, tâm lý

của nhóm dễ tổn thương.

- Xây dựng các điều khoản riêng dành cho nhóm xã hội dễ tổn thương. Bổ sung

điều khoản cụ thể quy định và khuyến khích việc xây dựng các dịch vụ chăm sóc y tế

thân thiện với trẻ vị thành niên; người có HIV; người khuyết tật...

- Các văn bản pháp lý chuẩn mực về vấn đề thực hiện Luật bảo vệ chăm sóc và

giáo dục trẻ em cần bảo đảm có hệ thống toàn diện về chăm sóc và hỗ trợ các đối tượng

Page 133: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

129

là trẻ mồ côi, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS,... Cần chú trọng tới việc đảm bảo thực hiện

các chương trình quốc gia chăm sóc sức khỏe theo hướng không tách biệt những nhóm

xã hội dế tổn thương với những người khác, để khắc phục sự kỳ thị đối với người yếu

thế trong xã hội.

Ba là, bảo đảm sự thống nhất trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

về quyền con người

Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về QCN nói riêng

phải bảo đảm nguyên tắc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, bảo đảm sự thống nhất về

nội dung lẫn hình thức thể hiện của pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật. Để thực hiện được nguyên tắc này, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện

pháp luật đòi hỏi các chủ thể sáng tạo pháp luật phải tuân thủ pháp luật và nâng cao

tách nhiệm của mình trong xây dựng pháp luật. Lênin đã khẳng định nhiều lần rằng, sự

tuân thủ pháp luật trong hoạt động lập pháp không kém phần quan trọng so với hành

pháp và tư pháp bởi lẽ, nếu không tuân thủ pháp luật trong xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật sẽ tạo ra hệ thống pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất,

chất lượng thấp. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động xây dựng pháp

luật cần chú trọng tới những yêu cầu sau:

Thứ nhất, cần đảm bảo tính đồng bộ trong xây dựng pháp luật. Hệ thống pháp

luật từ Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh cho đến các Nghị định, Thông tư của Chính

phủ, các Bộ, các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền đều phải được ban hành

một cách đồng bộ, bao quát được tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp

giữ vị trí cao nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật, là yếu tố hàng đầu bảo đảm sự

thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật. Tất cả các quy phạm pháp luật thuộc bất cứ

ngành luật nào trong hệ thống pháp luật cũng không được mâu thuẫn và trái với Hiến

pháp. Luật và bộ luật là hình thức pháp luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ

bản, quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân. Cùng với việc hoàn thiện các bộ luật hiện hành, cần phải hướng tới tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội đều có luật điều chỉnh, chẳng hạn như vấn đề dân chủ, vấn đề

lập hội, biểu tình, bãi công....

Thứ hai, cần đảm bảo tính hệ thống và thứ bậc trong xây dựng pháp luật. Hệ

thống các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm cả các điều ước quốc tế mà Nhà nước

ta đã tham gia ký kết hoặc gia nhập phải tồn tại trong một thể thống nhất và phối hợp,

có vụ trí pháp lý và thứ bậc rõ ràng, có nội dung điều chỉnh chính xác, minh bạch, đảm

Page 134: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

130

bảo tính khả thi cao. Xây dựng pháp luật đảm bảo yêu cầu: Luật phải trực tiếp điều

chỉnh các quan hệ xã hội, hạn chế tối đa những quy định chung chung, chờ đợi văn bản

dưới luật cụ thể hóa mới điều chỉnh được.

Trong trường hợp những quan hệ xã hội mới ra đời, chưa ổn định, cần thiết phải

điều chỉnh bằng luật nhưng chưa tìm ra phương án điều chỉnh trực tiếp, hợp lý và hữu

hiệu nhất, thì không loại trừ luật có các quy định khung, nhưng khung phải rõ ràng,

được giới hạn bởi các phạm vi điều chỉnh cụ thể. Nói cách khác, khung phải xác định

rõ ràng phạm vi giới hạn của nó cả về độ dài, độ rộng và chiều sâu, kiên quyết khắc

phục tình trạng dễ dãi, ngại đi sâu tìm kiếm các công thức pháp lý cụ thể điều chỉnh các

quan hệ xã hội, dẫn đến trình trạng đối với các trường hợp khó, luật thường quy định

chung chung và giao cho Chính phủ quy định hoặc hướng dẫn thi hành, dẫn đến tình

trạng luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư...

Để một đạo luật thực sự đi vào cuộc sống, khi ban hành, các nhà làm luật ngoài

việc xây dựng các quy định cụ thể trong luật đó, còn phải xem xét ngay đến các văn

bản hướng dẫn thi hành để tránh tình trạng luật được ban hành, có hiệu lực rồi nhưng

vẫn còn gây tranh cãi trong quá trình thực thi vì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, gây

khó khăn cho địa phương, cơ sở. Do vậy, để chính sách, pháp luật thực sự đi vào cuộc

sống, tạo thuận lợi cho địa phương, cơ sở triển khai thực hiện, khi xây dựng chương

trình, dự án luật cần có quy định cụ thể về thời gian, trình tự, cơ quan chịu trách nhiệm

ban hành văn bản hướng dẫn.

Bốn là, đổi mới cơ chế áp dụng và thi hành pháp luật về quyền con người

Tính khả thi của pháp luật phụ thuộc không nhỏ vào hoạt động của bộ máy thi

hành pháp luật và ý thức pháp luật của mỗi công dân. Vì thế, ngoài những biện pháp

nhằm đổi mới và hoàn thiện pháp luật, Nhà nước ta cần phải cải cách hệ thống tổ chức

bảo đảm thi hành và áp dụng pháp luật nói chung, pháp luật về QCN nói riêng để tạo

điều kiện cho pháp luật đã được ban hành đi vào cuộc sống và kiểm nghiệm hiệu quả

thực tế của nó. Do đó, các cơ quan chức năng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc

thực thi và áp dụng pháp luật để tránh sự "nhàm chán" và coi thường pháp luật. Thực

tiễn cho thấy, nếu chỉ đề cao vai trò của pháp luật, tuyên truyền về những giá trị và khả

năng của nó mà "không đi liền với kiểm tra việc thực hiện pháp luật, không quan tâm

đến hiệu quả thực tế, mặt mạnh, mặt yếu của nó từ khi ban hành đến khi nó được thực

hiện trong đời sống thì chỉ dẫn đến chỗ làm mất uy tín của pháp luật" [133, tr.9].

Page 135: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

131

Pháp luật là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội nên hiệu quả điều chỉnh

của nó trước hết làm thay đổi được quan hệ xã hội theo mong muốn của các nhà làm

luật. Trong điều kiện hiện nay, pháp luật phải chứng tỏ được vai trò của mình trong quá

trình HNQT, bảo đảm QCN. Nhiệm vụ đặt ra trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật cần quán triệt với nhiệm vụ bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ độc lập chủ

quyền, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức... Chính vì vậy,

khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật phải tính

toán một cách toàn diện các điều kiện về cơ chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ nhằm

bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trên thực tế. Do đó, đổi mới cơ chế thi hành và

áp dụng pháp luật cần chú trọng một số điểm sau:

Thứ nhất, nội dung, pháp luật phải ổn định phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế,

hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN,

chủ động hợp tác và hội nhập với quốc tế và khu vực.

Thứ hai, cần có sự phân công rõ ràng trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, trong hoạt động tổ chức thực thi chính sách, pháp luật còn nhiều

điểm chưa thống nhất, sự phân công trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi chính sách,

pháp luật còn chồng chéo, chưa thật rõ ràng. Chẳng hạn do các cơ quan được phân

công chủ trì chưa được bố trí hợp lý; cùng một văn bản pháp luật, chính sách nhưng lại

chia nhỏ cho nhiều cơ quan chủ trì, thực hiện. Từ đó dẫn đến sự thiếu thống nhất, đồng

bộ trong quá trình triển khai, thực hiện; và gây cho cơ quan quản lý cấp cơ sở lúng túng

trong quá trình triển khai, báo cáo. Nhiều văn bản pháp luật cùng quy định về một đối

tượng thụ hưởng chính sách với nhiều mức thụ hưởng khác nhau, gây khó khăn trong

việc triển khai thực hiện.

Thứ ba, Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng, ban hành văn bản có tính pháp lý về

"Khung hệ thống chính sách"; trong đó nêu từng chính sách cụ thể, gắn với trách nhiệm

chủ trì, thường trực của từng bộ, ngành, địa phương cụ thể, có sự phân công, phối hợp

chặt chẽ giữa chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, theo hướng đảm bảo và thúc đẩy

các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của các nhóm dễ bị tổn

thương, trước mắt cho giai đoạn 2016-2020.

Các cơ quan chính quyền địa phương cần thực hiện các quy định pháp luật, chính

sách của Nhà nước về quyền công dân của các nhóm dễ tổn thương một cách linh hoạt,

phù hợp với địa phương; và coi trọng sự tham gia của người dân, nhất là những người

yếu thế, đồng thời nâng cao chất lượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ

Page 136: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

132

chức đoàn thể, trong quá trình thực hiện quyền công dân của các nhóm dễ bị tổn

thương tại địa phương.

Thứ tư, chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá việc thực thi chính sách, pháp luật.

Trong xây dựng và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật cần có chương trình và kế

hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật hàng năm và cả nhiệm kỳ theo một lộ trình với

các thứ tự ưu tiên hợp lý, khoa học và chọn các khâu đột phá, cần tập trung mọi nguồn

lực để xây dựng và ban hành kịp thời, đồng thời thường xuyên kiểm tra, đánh giá, tổng

kết thực tiễn thi hành pháp luật để sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với thực tiễn,

có như vậy mới phát huy được vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm QCN và đáp

ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập.

4.2.2. Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền con người

Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN bảo đảm QCN là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước ta trong

điều kiện HNQT hiện nay. Điều cần lưu ý là việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các

cơ quan trong bộ máy nhà nước không chỉ căn cứa vào các quy định của Hiến pháp về

Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, chính quyền địa

phương mà phải chú ý tới toàn bộ các nguyên tắc mang tính nền tảng của Hiến pháp

khi hoàn thiện pháp luật nhằm điều chỉnh tố chức và hoạt động của các cơ quan này.

Mục tiêu cần đạt được của việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước là phải vượt

qua được tư duy của lối quản lý truyền thống "tư duy quyền uy" tiến tới tư duy mới: Tư

duy nghĩa vụ, trách nhiệm, thay đổi cách ứng xử từ "cho phép" sang "phục vụ" trong

mối quan hệ với công dân. Nhà nước với tính chất là "hình thức tổ chức của dân chủ"

không có lợi ích tự thân, và như vậy càng không thể có khái niệm lợi ích, ý chí của bộ

máy nhà nước, cơ quan nhà nước. Lợi ích, ý chí của Nhà nước là lợi ích, ý chí của nhân

dân. Yêu cầu quan trọng và cốt yếu của dân chủ trong giai đoạn mới là phải đặt người

dân vào vị trí trung tâm của mọi hoạt động nhà nước.

Bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên nền tảng "phục vụ Nhân dân" và phải

được hoàn thiện theo hướng, đó là: Đảm bảo cho Nhân dân tham gia tích cực vào các

hoạt động của Nhà nước, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình đối với hoạt

động của bộ máy nhà nước. Hiện nay, thực hiện kiện toàn bộ máy và đổi mới tổ chức

hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm: Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư

pháp là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để phát huy vai trò của Nhà

Page 137: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

133

nước ta trong việc bảo đảm QCN. Đây là một nhiệm vụ luôn được quan tâm và đặc biệt

coi trọng trong điều kiện HNQT ở Việt Nam. Thông qua việc đổi mới tổ chức và hoạt

động của Quốc hội, các chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, việc bảo

đảm QCN ngày càng được mở rộng và nâng cao. Điều này cho thấy, việc tìm kiếm, bổ

sung các cơ chế mới chỉ có tác dụng khi bản thân các nhánh quyền lực cũng nhận thức

rõ và không ngừng đổi mới chính mình. Ngược lại, dù có bổ sung thêm nhiều cơ chế,

nhưng bản thân nhà nước không chuyển động thì các cơ chế mới cũng mất tác dụng và

trở nên vô nghĩa. Với ý nghĩa ấy, việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước phải

gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và phải đảm bảo

được các yêu cầu sau:

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải phù hợp với đặc điểm của hệ thống

chính trị nước ta là vận hành theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân

làm chủ" do một Đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với đặc điểm của nền KTTT định

hướng XHCN, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, giữ vững

và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy phải nhằm bảo đảm các cơ quan trong hệ thống chính

trị hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lắp,

chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm

vụ. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu lực,

hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan Nhà nước phải đảm bảo tính đồng

bộ, hệ thống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nước ta, phát huy

vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước,

Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội.

- Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước phải vừa kế thừa những thành quả,

kinh nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của HNQT.

Trong điều kiện hiện nay, trọng tâm cuả việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt

động của bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN cần

tập trung:

Thứ nhất, từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt

động của Quốc hội

Kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước trước hết chú trọng tới

việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của Quốc hội, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,

Page 138: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

134

lập pháp. Vì vậy, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao vai trò của "cơ quan đại biểu

cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" ở nước ta. Để làm tốt

chức năng đại biểu cao nhất của nhân dân cả nước, cần tiếp tục đổi mới cơ chế bầu vừa

bảo đảm được quyền tự do ứng cử và được đề cử rộng rãi của công dân, vừa lựa chọn

được những người có đủ phẩm chất và năng lực, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân và

đất nước. Phải tạo cơ chế để mỗi đại biểu Quốc hội vừa thực sự phản ánh được nguyện

vọng của cử tri, vừa có thể góp ý kiến vào việc thẩm định các dự án luật và xây dựng

pháp luật, lại có điều kiện thực hiện vai trò giám sát việc thực thi pháp luật.

Trong điều kiện hiện nay, hoàn thiện tổ chức, nâng cao vai trò, vị thế của Quốc

hội trong bộ máy Nhà nước hiện nay không có nghĩa là tăng thêm thẩm quyền cho

Quốc hội mà phải tăng cường năng lực làm luật của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.

Do đó, cần "nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp" sao cho mọi lĩnh vực

hoạt động của xã hội đều được bảo đảm bằng luật, để Quốc hội thực sự trở thành "cơ

quan thay mặt nhân dân để quyết định những vấn đề hệ trọng của dân tộc có liên quan

tới bảo vệ, phát triển quyền con người, quyền tự do của công dân" [67, tr.161], để các

quyết định của Quốc hội trở thành "tối cao" với toàn bộ hệ thống quyền lực Nhà nước.

Do đó, cần thực sự đầu tư và nâng cao chất lượng các đạo luật để các đạo luật phản ánh

được ‘hơi thở’ của cuộc sống, bảo đảm cho chúng có giá trị lâu dài, song "phải bảo đảm

tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể, để giảm bớt tình trạng phải chờ đợi quá nhiều văn

bản hướng dẫn mới thi hành được" [118].

Đồng thời với việc nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, phải bảo đảm cho

Quốc hội có đầy đủ năng lực thực hiện quyền quyết định ngân sách Nhà nước, xem xét

quyết định một cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, các chương trình

quốc gia, các dự án đầu tư lớn cũng như các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và

nhân sự. Nâng cao chất lượng giám sát của Quốc hội, xác định rõ cơ chế giám sát của

Quốc hội với Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, đổi mới việc xem xét các báo cáo

công tác và xem xét việc trả lới chất vấn của Chính phủ, của Toàn án nhân dân Tối cao

và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, chuyển từ một Quốc hội

hoạt động bán chuyên trách, hoạt động theo kỳ ngắn ngày sang một Quốc hội chuyên

trách, họp thường xuyên dài ngày; từ một Quốc hội tham luận sang một Quốc hội thảo

luận, tranh luận, tức là phải nâng cao chế lượng hoạt động của các kỳ họp Quốc hội. Vì

vậy, thời gian tới cần tăng thêm thành viên chuyên trách của Quốc hội từ 28% như hiện

Page 139: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

135

nay lên 40 đến 50% tổng số đại biểu Quốc hội. Thực hiện cải tiến lề lối làm việc của

các Ủy ban, tăng cường số lượng thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đề cao

vai trò và trách nhiệm của từng đại biểu Quốc hội...Trong thời gian tới, để việc giám sát

tối cao của Quốc hội trên lĩnh vực QCN đạt hiệu quả cao, cần thành lập một cơ quan

độc lập (hoặc thuộc Quốc hội) để đảm nhiệm vai trò chuyên trách này.

Thứ hai, từng bước đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Chính phủ

Chính phủ với tư tư cách là cơ quan đứng đầu nền hành chính quốc gia, cơ quan

hành chính nhà nước cao nhất, có quan hệ trực tiếp, thân thiết đến cuộc sống hàng ngày

của công dân. Mọi quyết định của Quốc hội phải được Chính phủ tôn trọng và tổ chức

thực hiện triệt để. Thực tiễn cho thấy, một nền hành chính mạnh phải được bắt đầu từ

một chính phủ mạnh, một nhà nước hoạt động có hiệu quả thì phải có một hệ thống các

cơ quan hành pháp hay hành chính mạnh, hoạt động có hiệu quả.

Chính vì vậy, cải cách nền hành chính là vấn đề không riêng của Nhà nước, mà

còn liên quan đến đời sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Cải cách thủ tục hành

chính không chỉ nhìn từ khía cạnh kinh tế, tức là tiết kiệm tiền của, là xây dựng môi

trường pháp lý để các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư yên tâm làm ăn, phát triển;

không chỉ nhìn từ khía cạnh xã hội, tức là tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực

hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Hơn thế, nó còn xuất phát từ

việc sắp xếp, tổ chức bộ máy theo hướng gọn nhẹ, hiện đại; đổi mới công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ, công chức về chuyên môn, nghiệp vụ theo hướng chuyên nghiệp

hoá; góp phần bài trừ tệ quan liêu, cửa quyền, hối lộ, làm trong sạch bộ máy nhà nước.

Do đó, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, phải đẩy

mạnh thực hiện cải cách hành chính theo hướng "phục vụ" và "dịch vụ", tinh giảm bộ

máy cơ quan quản lý theo hướng gọn nhẹ, lấy hiệu quả làm trọng tâm, đổi mới tổ chức

và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống

nhất, xuyên suốt, hiện đại, đúng với vai trò là cơ quan hành chính cao nhất. Đẩy mạnh

thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020,

trong đó, tập trung vào cải cách thể chế với vai trò là một trong ba trọng tâm của cải

cách hành chính; chú trọng việc nâng cao chất lượng hoạch định, ban hành chính sách,

pháp luật của Nhà nước. Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này, trong thời gian tới,

cải cách hành chính cần tập vào những điểm sau:

Một là, xây dựng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực tổ chức

thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra. Xác định rõ phạm vi và nội dung

Page 140: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

136

quản lý nhà nước của cơ quan hành chính các cấp. Thực hiện phân cấp nhiều hơn,

mạnh hơn, tăng thêm quyền hạn đi đôi với trách nhiệm cho các sở, ngành, các huyện,

thị và cơ sở, loại bỏ cơ chế "xin- cho", loại bỏ các khâu xin phép, xét duyệt không cần

thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm

pháp luật, loại bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho các tầng lớp nhân dân và

các doanh nghiệp;

Hai là, đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, tập trung triển khai dứt

điểm các phương án đơn giản hóa thủ thủ tục hành chính, kiện toàn toàn bộ máy làm

công tác cải cách thủ tục hành chính theo Nghị định số 48/2013/NĐ-CP, ngày

14/5/2013, của Chính phủ và Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 15/6/2013, của Thủ tướng

Chính phủ. Thực hiện cải cách căn bản thủ tục hành chính cả về thể chế lẫn tổ chức

thực hiện. Tiếp tục triển khai thực hiện cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông", tổ chức

sơ kết, rút kinh nghiệm, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của các mô hình

cải cách hành chính "một cửa", giảm bớt các thủ tục phiền hà cho người dân.

Ba là, đổi mới, tổ chức hoạt động của nền hành chính đảm bảo tính chuyên

nghiệp, hiện đại theo hướng phục vụ con người, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Cần

quy định thủ tục quan hệ trong nội bộ cơ quan hành chính và giữa các cơ quan hành

chính với nhau sao cho các cơ quan này giải quyết hiệu quả các yêu cầu, công việc của

nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tập trung cải cách thủ tục trong lĩnh

vực quản lý hành chính Nhà nước tác động đến đời sống và quyền lợi của nhân dân.

Quy định chế độ công vụ và quy chế phối hợp với các cơ quan hành chính có trách

nhiệm giải quyết yêu cầu của nhân dân một cách công khai, minh bạch và công minh.

Bốn là, cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, trong đó xác định cải

cách thủ tục hành chính là khâu đột phá, và trọng tâm là xây dựng năng lực của đội ngũ

cán bộ, công chức, đặc biệt trong lĩnh vực thực thi pháp luật.

Năm là, tăng cường năng lực thực thi cho cơ quan bảo vệ QCN, hoàn thiện cơ

chế bảo vệ QCN, trong đó coi trong việc hoàn thiện các thủ tục khiếu nại, khiếu kiện và

phản biện xã hội, đảm bảo các tố cáo của công dân phải được các cơ quan hành chính

có thẩm quyền kết luận, cần khắc phục triệt để, dứt điểm hiện tượng những tố cáo của

nhân dân bị rơi vào quên lãng hoặc bị "im lặng". Khi đã có kết luận thì phải xử lý công

khai, minh bạch theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.

Sáu là, đối với nhóm yếu thế, dễ tổn thương, để nâng cao sự hưởng thụ QCN của

các nhóm người này, đòi hỏi phải có một cơ chế phối hợp đa ngành, do vậy yêu cầu cấp

Page 141: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

137

thiết là tăng cường vai trò của Bộ lao động thương binh xã hội; Bộ Y tế; Bộ Tài chính;

Bộ Công an; Tổng Liên đoàn lao động; Hội chữ thập đỏ; Hội Liên hiệp phụ nữ Việt

Nam; Mặt trận Tổ quốc,... Theo đó, cần thiết lập một hệ thống liên lạc giữa các Bộ, ban

ngành ở cấp Trung ương cũng như các cấp ở địa phương, có như vậy, những vấn đề

liên quan đến bảo đảm QCN của các nhóm yếu thế, những sai phạm trong việc bảo

đảm QCN của các nhóm này được xử lý kịp thời và hiệu quả.

Bảy là, tăng cường sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối với các hoạt động

liên ngành trong công tác bảo đảm QCN cho người dân. Các cấp, các ngành có

trách nhiệm cần xây dựng chính sách, chương trình phù hợp nhằm khuyến khích,

động viên đồng thời làm rõ trách nhiệm của của cấp và ngành trong việc bảo đảm

QCN; lồng ghép QCN vào các chương trình, chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở

các ngành, địa phương.

Tám là, các cơ quan nhà nước ở địa phương, nhất là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,

huyện và xã, cần phải quan tâm hơn nữa đến việc triển khai thực hiện các văn bản pháp

luật của các cơ quan nhà nước cấp trên về công tác bảo đảm một cách chủ động, sáng

tạo và hiệu quả từ tình hình địa phương; đồng thời thường xuyên kiểm tra, thanh tra,

giám sát để nắm bắt được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai thực

hiện văn bản pháp luật; từ đó có những đề xuất, kiến nghị và đưa ra những giải pháp để

khắc phục những khó khăn và phát huy những thành công khi triển khai thực hiện tại

địa phương. Cơ quan chính quyền địa phương các cấp cần chú trọng quy hoạch, đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ quản lý Nhà nước, trình độ chuyên môn của

cán bộ, công chức, bảo đảm QCN cho các tầng lớp nhân dân tại địa phương.

Thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, song phải thừa nhận rằng, lĩnh vực tư pháp ở nước ta

vẫn còn nhiều tồn tại, bức xúc. Về chức năng, nhiệm vụ, hệ thống các cơ quan tư pháp

có trách nhiệm giữ gìn pháp luật, bảo đảm QCN, bảo đảm công bằng xã hội và công lý,

kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, ở một số nơi, tình

trạng bắt người trái pháp luật vẫn xảy ra, công tác điều tra còn để oan sai, nguyên tắc

bình đẳng trong xét xử chưa thực sự được chú trọng, hoặc thiếu dân chủ trong tranh

tụng của luật sư. Công tác thi hành án gặp nhiều khó khăn, công tác kiểm sát còn hạn

chế, đôi khi còn "bỏ qua" những vi phạm trong hoạt động tư pháp... Do đó, đẩy mạnh

cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp độc lập là yêu cầu cấp thiết. Trong điều kiện

hiện nay, cải cách tư pháp cần tập trung:

Page 142: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

138

Một là, cải cách và kiện toàn hệ thống các toàn án, mà cốt lõi của nó là phải bảo

đảm tính độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Đảm bảo cho tòa án xét

xử độc lập và chỉ tuân thủ đúng pháp luật mà không chịu bất cứ sức ép nào từ phía cơ

quan lập pháp hay hành pháp. Độc lập trong xét xử là thước đo đánh giá bản chất dân

chủ, công minh của nhà nước pháp quyền, do đó, đòi hỏi tòa án phải khách quan, vô tư

dựa trên những chứng cứ thực tế, qua đối chất và đặc biệt qua cơ chế tranh tụng tại tòa

án để tìm ra chân lý khách quan và "chỉ có tư pháp độc lập mới giám sát được các cơ

quan công quyền trong việc tuân thủ pháp luật" [23, tr.111], qua đó, nhân dân mới có

niềm tin vào tòa án mỗi khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Hai là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong cơ quan tư pháp, thực hiện

đổi mới quy trình, thủ tục giải quyết công việc của các tòa án. Trong điều kiện nước ta

hiện nay, bên cạnh việc tăng cường vai trò của tòa án dân sự, tòa án kinh tế, tòa hình sự

trong hoạt động xét xử các vụ án thì chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt đồng xét xử của

các vụ án hành chính, án lao động của tòa hành chính và tòa án lao động là rất quan

trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân.

Ba là, để thực hiện tốt tinh thần cải cách tư pháp cũng như bảo đảm tốt hơn quyền

tiếp cận tư pháp của người dân, cần tăng cường vai trò và năng lực của đội ngũ luật sư,

người bào chữa pháp lý à các hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý cho người dân. Tăng

cường và phổ biến nâng cao nhân thức, kỹ năng thực thi pháp luật gắn với việc bảo

đảm QCN cho các cán bộ trong ngành kiểm sát, cảnh sát...

4.2.3. Từng bước hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm quyền con người

Cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN ở nước ta hiện nay hoạt động chưa thực sự hiệu

quả. Vì vậy, cần nghiên cứu hoàn thiện các thiết chế nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu

lực quản lý của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Trong thời gian tới, việc hoàn

thiện các thiết chế đảm QCN cần chú trọng tới các vấn đề sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước

Đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước là nhiệm vụ căn bản, có tầm chiến

lược trong việc nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Với tư cách là

người đại diện cho toàn dân quản lý, chỉ đạo trực tiếp các quá trình phát triển kinh tế -

xã hội, bảo đảm QCN, đòi hỏi Nhà nước phải có đủ mạnh cả về thế và lực để đảm

đương trọng trách này. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước Việt Nam là Nhà nước do

Đảng cộng sản lãnh đạo, nên việc xây dựng, đổi mới hoạt động của Nhà nước đòi hỏi

không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hoạt động của

Page 143: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

139

Nhà nước. Dưới góc độ nhân quyền và bảo đảm nhân quyền, trước hết sự lãnh đạo của

Đảng chính là ở chỗ, Đảng hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách lớn ở tầm vĩ

mô cả trước mắt cũng như lâu dài, trong đó có quan điểm, đường lối về bảo đảm QCN,

trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,

pháp luật của Nhà nước. Vì thế, để nâng cao vai trò Nhà nước pháp quyền, phải làm rõ

sự lãnh đạo của Đảng đối với sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phân định rõ thẩm

quyền và trách nhiệm của Đảng với thẩm quyền trách nhiệm của Nhà nước, tránh hiện

tượng chồng chéo, trùng lặp về chức năng giữa Đảng và nhà nước, nâng cao hiệu quả

hoạt động của Nhà nước, tuyệt đối Đảng không được bao biện, làm thay công việc của

Nhà nước. Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, tự nó đã là chấp hành chủ trương,

đường lối của Đảng.

Đảm bảo QCN trong Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng

sản đòi hỏi quan điểm, đường lối của Đảng về QCN phải được ưu tiên trong hoạt

động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng tiêu chuẩn nhân quyền

quốc tế mà Việt Nam đã thừa nhận. Đồng thời, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà

nước trong việc xây dựng bộ máy nhà nước là xây dựng các nguyên tắc, các phương

thức để đảng thực hiện việc xây dựng bộ máy nhà nước và lãnh đạo, giám sát các

hoạt động của bộ máy các cơ quan nhà nước và cả đội ngũ cán bộ, viên chức nhà

nước trong việc thực hiện đường lối, chủ trường của Đảng. Tất cả các cơ quan nhà

nước, từ cơ quan lập pháp, hành pháp đến tư pháp, từ các văn bản pháp lý đến các

chính sách kinh tế, xã hội đều phải được tổ chức và hoạt động theo đúng quan điểm

của Đảng, theo đúng đường lối của Đảng.

Ở nước ta, quá trình hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước phải dựa trên cơ

sở thực tiễn của đất nước và gắn liền với quá trình mở rộng dân chủ xã hội. Do đó, cần

phải tổng kết quá trình đổi mới về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phải tìm ra

phương thức tốt nhất để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà

nước đối với toàn xã hội.

Thứ hai, kiện toàn các cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền con người

Cùng với việc không ngừng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,

trách nhiệm công vụ thông qua chương trình đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp, tư

pháp, tiếp tục hoàn thiện các cơ quan chuyên trách bảo đảm QCN, gồm:

Một là, đổi mới tổ chức hoạt động của Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ

nhằm đảm đương tốt hơn việc chỉ đạo mọi hoạt động nhân quyền, đặc biệt là nhiệm vụ

Page 144: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

140

bảo đảm nhân quyền và đấu tranh chống các thế lực thù địch trên lĩnh vực QCN. Trong

khi chưa thành lập được cơ quan nhân quyền quốc gia, cần đầu tư xây dựng một cơ

quan giúp việc cho Ban chỉ đạo nhân quyền Chính phủ, với một đội ngũ cán bộ tương

xứng với nhiệm vụ đang đặt ra hiện nay. Đó là một đội ngũ cán bộ có khả năng nghiên

cứu, giảng dạy và đáp ứng tốt các yêu cầu đối nội và đối ngoại của đất nước. Mô hình

của cơ quan này có thể tham khảo ở một số quốc gia, (Trung Quốc, Hội nghiên cứu

nhân quyền có 166 người; Liên bang Nga, Viện nhà nước - pháp luật có 350 người với

nhiều chuyên gia giỏi được thu hút từ nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.) Các cơ quan này

có nhiệm vụ nghiên cứu, tư vấn cho các cơ quan của chính phủ trong việc bảo vệ QCN

và đấu tranh trên lĩnh vực QCN.

Hai là, kiện toàn các cơ quan, tổ chức có chức năng theo dõi, tư vấn, trợ giúp

Chính phủ trên lĩnh vực QCN. Đó là các cơ quan như: Bộ Tư pháp; Ủy ban dân tộc của

Chính phủ; Ban tôn giáo Chính phủ; các Cục/Vụ về giới, về quyền trẻ em, về việc làm

thuộc Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội.

Ba là, thành lập chức danh nhân quyền tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa

án nhân dân tối cao nhằm giúp người đứng đầu các cơ quan này theo dõi, xử lý các vấn

đề liên quan đến nhân quyền thuộc thẩm quyền.

Bốn là, kiện toàn và tăng cường thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức có chức

năng theo dõi, phản biện Chính phủ về thực thi nhân quyền và các cơ quan tư pháp

trong hoạt động xét xử. Đó là: Hội đồng dân tộc, Ủy ban tư pháp, Ủy ban pháp luật, Ủy

ban đối ngoại, Ban dân nguyện, Ủy ban các vấn đề xã hội; Ủy ban thanh thiếu niên và

nhi đồng thuộc Quốc hội. Hình thành cơ chế phối hợp về hoạt động giám sát và thúc

đẩy QCN của các ủy ban thuộc Quốc hội. Bên cạnh đó, cần thu hút sự tham gia tích

cực hơn của một số ban thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động

Việt Nam, Hội nông dân, Hội Luật gia, Hội Luật sư...Các phát hiện, tư vấn của các cơ

quan này có thể chuyển tới Thường vụ Quốc hội, Ban bí thư để kịp thời giải quyết.

Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu để thúc đẩy việc thành lập cơ quan nhân quyền

quốc gia. Để nâng cao vai trò Nhà nước trong bảo đảm QCN, cần tiến hành nghiên cứu

toàn diện nhằm tiến tới thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia. Chức năng, nhiệm vụ,

cơ quan này là theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi nhân quyền chứ không trực tiếp

giải quyết các khiếu nại, tố cáo những vi phạm nhân quyền. Phạm vi xem xét các vấn

đề nhân quyền gồm: xem xét việc ban hành luật và văn bản dưới luật có phù hợp với

Hiến pháp hay không; việc thực thi nhân quyền của Chính phủ; hoạt động điều tra, truy

Page 145: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

141

tố, xét xử có theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật và theo hướng bảo vệ công lý, bảo vệ

QCN hay không. Ngoài ra, cơ quan này còn có trách nhiệm xem xét các báo cáo nhân

quyền quốc gia; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc gia với các quy định

của công ước nhân quyền và đề xuất kiến nghị.

Về tính độc lập, cơ quan này được đảm bảo tính độc lập, nhưng không "đối lập",

"đối trọng" với Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Do đặc thù chính trị ở Việt Nam,

hoạt động của cơ quan này phải nhằm mục đích hỗ trợ Nhà nước bảo đảm tốt hơn các

QCN, không phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Về nhân sự, cần lựa

chọn những người có nhiều năm kinh nghiệm công tác trên lĩnh vực bảo vệ pháp luật,

có chuyên môn về QCN, có uy tín xã hội; kiên định với vai trò lãnh đạo của Đảng, định

hướng XHCN, có bản lĩnh trong xử lý công việc....

Xuất phát từ thực tiễn phức tạp của vấn đề nhân quyền ở nước ta trong bối cảnh

hiện nay, việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia có là cần thiết cho việc nâng cao

vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Để thành lập cơ quan nhân quyền quốc

gia, chúng ta cần có sự chuẩn bị đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm, cơ sở pháp lý, chuyên

gia, nhân sự...cho bộ máy cơ quan nhân quyền quốc gia. Dựa trên kinh nghiệm của một

số nước đã có cơ quan nhân quyền quốc gia, các phương án thành lập cơ quan nhân

quyền quốc gia ở Việt Nam có thể lựa chọn là: 1/ Thanh tra quốc hội (Ombusman) hay

Hội đồng nhân quyền của Quốc hội với tính cách là một ủy ban của Quốc hội do Đảng

đoàn Quốc hội lãnh đạo; 2/ Ủy ban về quyền con người trực thuộc Chính phủ; 3/ Hội

bảo vệ quyền con người Việt Nam với tính cách là một tổ chức xã hội thuộc Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam; 4/ Viện Nghiên cứu quyền con người quốc gia.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế giám sát việc bảo đảm quyền con người

Để bảo đảm QCN có hiệu quả hơn, Nhà nước ta hiện nay cần coi trọng xây dựng

mạng lưới giám sát thực thi pháp luật và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội bảo đảm

QCN, trước hết là:

- Xây dựng mạng lưới giám sát hành chính, trong thời gian qua, các ngành quản

lý chức năng như: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,

Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo,... đã phát huy

tác dụng góp phần hạn chế những rào cản trong việc bảo đảm QCN và quyền công dân,

triển khai nhiều biện pháp giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, kịp thời phát

hiện và xử lý những sai phạm của cán bộ công chức, tổ chức, cá nhân vi phạm QCN.

Page 146: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

142

- Xây dựng mạng giám sát bằng dư luận, trong thời gian vừa qua các cơ quan báo

chí, truyền thông nhằm đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng, việc làm

tiêu cực gây ảnh hưởng xấu chủ trương, chính sách tốt đẹp của Đảng và Nhà nước về

QCN. Đây chính là sự giám sát dư luận mà các cơ quan thông tấn báo chí và truyền

thông đã tạo ra. Mặc dù sự giám sát dư luận không mang tính luật pháp nhưng nó tạo ra

sức ép dư luận xã hội rất lớn lên các biểu hiện, việc làm vi phạm QCN. Ngoài ra, các tổ

chức chính trị, xã hội khác như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,...

đã hoạt động rất tích cực đấu tranh bảo vệ QCN.

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội

Phản biện xã hội thực chất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện

trong việc tham gia xây dựng và thực hành pháp luật. Hiện nay ở nước ta, trình độ dân

trí đã được nâng cao, tinh thần dân chủ từng bước được nâng cao, nên sự phản biện là

tất nhiên và phản biện chỉ mang lại hiệu quả tốt cho chính sách, pháp luật của Đảng và

Nhà nước, làm cho các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước càng được hoàn

thiện hơn, hạn chế các rào cản trong thực hiện chính sách, pháp luật.

Điểm đáng chú ý trong việc hoàn thiện cơ chế là tăng cường sự giám sát của các

cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp đối với công tác bảo đảm QCN, chú ý tăng

cường khả năng hưởng thụ các quyền của nhóm dễ bị tổn thương, đồng thời khuyến

khích sự tham gia của tất cả các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, gia

đình và trường học; thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật hiện hành của Việt Nam

liên quan đến QCN. Tiếp tục củng cố hệ thống luật pháp và các chính sách để thực hiện

và bảo vệ QCN trên các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và các

nhóm dễ tổn thương; tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế. Đồng thời, tập trung

lồng ghép một cách hiệu quả các vấn đề QCN vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội

của cả nước và của từng địa phương; tăng cường việc giám sát trong triển khai nguồn

lực hiện có cho bảo vệ, nâng cao năng lực hưởng thụ QCN của các nhóm xã hội từ

ngân sách nhà nước và các nguồn được đóng góp bởi các tổ chức trong nước, quốc tế

và cá nhân.

Thứ tư, xây dựng chế độ, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cán bộ công

chức trong việc bảo đảm quyền con người

Đây là một trong những giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách để xây dựng và hoàn

thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN. Chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ,

công chức nhà nước thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực thi công

Page 147: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

143

vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của cá nhân, công dân. Vì vậy, vấn đề

đặt ra là, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với nhà nước.

Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy

quyền từ nhân dân, do đó, xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công

dân có quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn Nhà nước, cán

bộ, công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định. Nghĩa vụ của

Nhà nước theo chuẩn mực nhân quyền quốc tế là: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện QCN.

Quyền và nghĩa vụ giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng buộc hai chiều.

Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, thực thi pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng

trong việc triển khai và thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước vào việc bảo đảm QCN. Thực tế cho thấy, sự yếu kém về chuyên môn,

nghiệp vụ, sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công

chức đã trở thành rào cản trong việc triển khai các đường lối, chủ trương, chính sách,

kìm hãm, cản trở việc hưởng thụ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Do đó,

trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ theo hướng nâng cao tính thần trách

nhiệm của cán bộ, công chức là phục vụ dân, chứ không phải là "cai trị dân".

Có một thể chế tốt và một mô hình hệ thống hành chính tốt, nhưng nếu không có

cán bộ, công chức thành thạo chuyên môn nghiệp vụ, tận tụy với công việc, trách

nhiệm với dân thì mọi ý đồ cải cách cũng không thể trở thành hiện thực. Một nền hành

chính nhằm mục tiêu phục vụ con người trong Nhà nước dịch vụ công, đòi hỏi cán bộ,

công chức các cấp chính quyền có kiến thức cần thiết về pháp luật, trình độ chuyên

môn nghiệp, lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, kiến thức xã hội, hành vi

ứng xử giữa con người với con người, con người với tổ chức, lấy con người làm trung

tâm; có phẩm chất năng lực chuyên môn, nghiệp vụ hoàn thành tốt công việc được

giao, có đủ năng lực quản lý vĩ mô, tiếp thu được những thành tựu khoa học tiên tiến

trong quản lý hành chính áp dụng trong điều kiện ở nước ta.

Hiện nay, trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật về cán bộ công chức, mỗi cơ quan

nhà nước do tính chất đặc thù chuyên môn, nghề nghiệp, cần có quy chế riêng về quản

lý cán bộ và có tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc và tinh thần, thái độ

phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước. Do đó, Nhà nước

cần hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ, trong đó tập trung:

Một là, xây dựng, đổi mới, hoàn chỉnh quy trình đánh giá cán bộ làm công tác

bảo vệ và thực thi QCN. Đánh giá cán bộ làm công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực

Page 148: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

144

QCN là khâu quan trọng trong công tác cán bộ. Đánh giá đúng, chính xác cán bộ là cơ

sở để lựa chọn, đề bạt, bố trí, sắp xếp cán bộ theo đúng trình độ, năng lực của họ, đồng

thời là cơ sở cho đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ. Vì vậy, để làm tốt công tác

đánh giá cán bộ, trong đó có cán bộ quản lý nhà nước trên lĩnh vực QCN cần thực hiện

đúng nguyên tắc "công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm, lấy hiệu

quả hoàn thành công việc làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ" [31, tr.295].

Hai là, xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ quản lý nhà nước trên lĩnh vực

QCN. Tuyển chọn cán bộ là khâu quan trọng để thu hút, phát hiện người có tài, có đức,

đủ năng lực và phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ của công

việc đặt ra. Do đó, trong quy chế tuyển chọn cán bộ, phải xác định rõ cơ cấu và tiêu

chuẩn chức danh công chức trong từng cơ quan nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và

bố trí sử dụng cán bộ, công chức; xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chức danh,

tiêu chuẩn theo ngạch công chức phù hợp thực tiễn và yêu cầu chuyên môn của từng

đối tượng công chức; xác định địa vị pháp lý của công chức nhà nước, cùng với ghi

nhận trong quyền của mọi công dân có đủ điều kiện đế có thể trở thành công chức nhà

nước; quy định việc tuyển dụng công chức bằng hình thức thi tuyển cạnh tranh, việc

xét tuyển chỉ thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt nhằm thực hiện chính sách xã

hội; có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; quy định chế độ thưởng phạt

nghiêm minh để đảm bảo kỷ cương hành chính và hiệu quả công tác quản lý; quy định

trách nhiệm công chức nhà nước, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, gắn

quyền hạn với trách nhiệm của cán bộ, công chức, chú trọng trọng việc bồi dưỡng,

nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ

cho đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ thực thi pháp luật về QCN...

Ba là, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ quản lý nhà nước về QCN. Đây là việc làm hết

sức quan trọng và cần thiết nhằm đánh giá chính xác cán bộ, phục vụ cho công tác quy

hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và

HNQT, người cán bộ làm công tác bảo vệ và thực thi QCN cần đáp ứng được các tiêu

chuẩn cơ bản sau:

- Có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu xuyên tạc, phá

hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền.

- Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao, có lối sống lành mạnh,

trong sáng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.

Page 149: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

145

- Có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn cao; có ý thức học tập để nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, có năng lực tổ chức, lãnh

đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Nắm vững các quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà

nước về QCN. Có năng lực cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết, chính sách, pháp luật về

QCN vào lĩnh vực mình đảm nhiệm thông qua chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý. Có năng lực

xây dựng các chương trình hành động thực hiện các chủ trường, chính sách, pháp luật

của Đảng và Nhà nước sát với tình hình thực tiễn đất nước và địa phương, đồng thời

nắm vững các quy định của pháp luật quốc tế và quốc gia và vận dụng đúng các quy

định pháp luật trong lĩnh vực được giao.

- Có sự hiểu biết về QCN, về kinh tế thị trường và HNQT. Có tinh thần trách

nhiệm trong công việc. Khi cán bộ công chức nhà nước tận tụy với công việc, biết tôn

trọng và lắng nghe nhân dân, phục vụ hết mình vì nhân dân thì đòi hỏi mỗi công dân

cũng phải nâng cao ý thức trách nhiệm trước Nhà nước mà cụ thể ý thức tôn trọng Hiến

pháp và pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ công dân đã được Hiến pháp

và pháp luật quy định. Do đó, nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN

ngoài việc ghi nhận quyền của công dân, phải làm rõ nghĩa vụ của công dân, làm rõ

nghĩa vụ, trách nhiệm của các cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước, có như

vậy, mới hạn chế được việc lạm dụng quyền lực để xâm phạm quyền và lợi ích hợp

pháp của người dân.

Thứ năm, tăng cường nâng cao nhận thức pháp luật và quyền con người

Việc tôn trọng, bảo đảm và thực hiện QCN của Nhà nước phải gắn liền với việc

tăng cường nhận thức pháp luật và QCN, đặc biệt là tăng cường giáo dục QCN cho chủ

thể thực hiện quyền (đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức) và chủ thể hưởng thụ

quyền (tất cả mọi cá nhân, nhóm xã hội). Do đó, đồng thời với việc kiện toàn các thể

chế, thiết chế bảo đảm QCN, cần kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan

nghiên cứu, giáo dục nhân quyền là hết sức cần thiết nhằm tạo sự thống nhất nhận thức

của xã hội về QCN và phát huy vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN. Cụ thể:

Một là, khẩn trương biên soạn chiến lược giáo dục QCN và kế hoạch, lộ trình cụ

thể cho tuyên truyền, giáo dục QCN. Trong kế hoạch phải xác định được cụ thể nội

dung, cách thức, đối tượng, tổ chức chịu trách nhiệm thực hiện, thời gian, tiến độ thực

hiện. Việc phổ biến, giáo dục QCN cần chú ý tới nội dung, hình thức phải sát hợp với

Page 150: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

146

điều kiện, yêu cầu của từng đối tượng, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, miền núi

và đồng bào dân tộc thiểu số.

Hai là, tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác tuyên truyền, giáo dục

QCN, đặc biệt cần đẩy mạnh việc giáo dục QCN trong hệ thống giáo dục quốc dân

nhằm trang bị kiến thức nhân quyền đúng đắn cho học sinh, sinh viên, những chủ nhân

tương lai của đất nước. Xây dựng một chương trình giáo dục truyền thông mạnh mẽ,

rộng khắp thông qua nhiều phương thức, phương tiện truyền thông khác nhau như: tập

huấn, đào tạo, sử dụng tờ rơi, sách bỏ túi, tổ chức câu lạc bộ,... nhằm phổ biến kiến

thức, nâng cao hiểu biết của cộng đồng về QCN, huy động sự tham gia của cộng đồng

trong việc thúc đẩy sự hưởng thụ QCN cho các nhóm xã hội.

Ba là, từng bước đào tạo, hình thành đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về QCN.

Cần coi trọng việc tập huấn về QCN cho đội ngũ phóng viên, báo chí có hiểu biết

chuyên sâu về nhân quyền để đủ sức đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền.

Bốn là, đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ công chức về trách

nhiệm của họ đối với việc bảo vệ QCN. Đây cũng là việc làm cần thiết và rất cấp bách.

Một khi mỗi cán bộ, công chức, nhà quản lý có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng

QCN thì khi đó, các QCN sẽ được bảo đảm, thực hiện một cách tốt nhất trong điều

kiện kinh tế, xã hội cho phép, thúc đẩy xã hội tiến bộ theo hướng dân chủ, văn minh.

4.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người

Nâng cao hiêu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN không chỉ dừng lại ở

việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, con người và các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN mà

trong điều kiện hiện nay, còn phải tích cực, chủ động mở rộng quan hệ HTQT trên lĩnh

vực QCN. Đây cũng là việc thực hiện một chức năng quan trọng của nhà nước, chức

năng đối ngoại.

Quá trình HNQT và phát triển đặt ra yêu cầu ngày càng cao về hợp tác, trao đổi

với bên ngoài. Theo phương châm là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, Nhà

nước ta phải không ngừng mở rộng HTQT với tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế,

thu hút các nguồn lực, tạo tiền đề cần thiết cho việc bảo đảm QCN.

Thực hiện mục tiêu của HTQT là "làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn quan

điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân

quyền sâu sắc. Hiến pháp, pháp luật của chúng ta là nghiêm minh, hài hòa, tương thích

với pháp luật quốc tế" [107, tr.61-62]. Đồng thời, thông qua HTQT, chúng ta tranh thủ

sự hỗ trợ các nguồn lực về tài chính, kỹ thuật phục vụ cho các nhiệm vụ của quốc gia.

Page 151: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

147

Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, yêu

cầu đặt ra đối với Nhà nước là phải tiếp tục tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng

hơn nữa trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, an ninh, quốc

phòng nhằm tăng cường sự ủng hộ, sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam

và các đối tác; góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển,

cũng như tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với hoạt động bảo vệ độc

lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế

Hội nhập kinh tế quốc tế có vai trò nền tảng mang ý nghĩa quyết định trong

việc mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, tạo tiền đề quan trọng bảo đảm QCN.

Hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài hòa với hội nhập trong

các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm, cần đi trước

một bước để tạo cơ sở. Hội nhập kinh tế nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song

phương, khu vực và đa phương; nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường

quốc tế; kết hợp chặt chẽ hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự

chủ, an ninh quốc phòng, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm QCN. Hiện nay,

hội nhập kinh tế quốc tế bảo đảm QCN cần chú trọng:

Một là, tập trung mạnh vào thúc đẩy đàm phán các hiệp định thương mại tự do

mới, phát huy lợi thế của các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết để phục vụ

cho các mục tiêu phát triển. Tiếp tục tổ chức thực hiện và phối hợp tổ chức thực

hiện nghiêm túc, có hiệu quả các cam kết quốc tế về thương mại và đầu tư, trước hết

là các cam kết trong khuôn khổ WTO, ASEAN và các cam kết song phương khác.

Hai là, chủ động, đề xuất, khởi xướng để xây dựng luật chơi chung theo mẫu

số chung, theo thông lệ quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc và theo lợi ích của đất

nước; tiếp tục chủ động tham gia các điều ước quốc tế, tham gia và các hoạt động ở

các diễn đàn đa phương, nhất là ASEAN, Liên Hợp Quốc.

Ba là, tăng cường thu hút các nguồn lực trong hợp tác quốc tế tạo cơ sở vật

chất quan trọng cho việc bảo đảm QCN, từ đó, khẳng định vị thế của Nhà nước Việt

Nam trên trường quốc tế.

Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị

Tăng cường hợp tác quốc tế về QCN trên lĩnh vực chính trị, trong đó tập trung:

Một là, đẩy mạnh việc nghiên cứu các công ước quốc tế, chuẩn bị để Việt Nam

tiếp tục tham gia và phê chuẩn một số công ước mới về QCN phù hợp với điều kiện

Page 152: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

148

của đất nước. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục phê chuẩn Công ước chống tra tấn, Tòa án

hình sự quốc tế.

Hai là, Tích cực, chủ động phát huy vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc

tế và khu vực mà Việt Nam là thành viên như: Hội đồng Bảo an; Nhân quyền Liên hợp

quốc, Ủy ban liên chính phủ ASEAN về QCN. Tăng cường sự tham gia của Việt

Nam vào hoạt động của một số tập hợp lực lượng tiến bộ như ASEAN, Nhóm các

nước có cùng quan điểm về nhân quyền (LMG), Nhóm châu Á, Nhóm các nước

Không liên kết (NAM)... góp phần vào việc thúc đẩy những quan điểm và lập

trường tích cực về QCN tại Liên hợp quốc.

Ba là, tăng cường mời các báo cáo viên đặc biệt trên lĩnh vực QCN đến Việt Nam

nhất là trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, báo chí, thông tin…để trao đổi thông tin,

giúp họ nắm bắt được thực tiễn việc bảo đảm QCN ở Việt Nam, tăng cường sự hiểu

biết, khắc phục và thu hẹp những vấn đề còn khác biệt, tranh thủ sự đồng tình, ủng

hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, nhân dân thế giới và cộng đồng người Việt

định cư ở nước ngoài trên cơ sở đảm bảo tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng,

không can thiệp và công việc nội bộ của nhau, kiên quyết phê phán, vạch trần

những luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở nước ta.

Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa

Tích cực chủ động HNQT trên lĩnh vực văn hóa. Để làm tốt nhiệm vụ này, một

mặt cần chủ động nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc, các thành tựu

khoa học công nghệ của các nước, mặt khác, cần có biện pháp ngăn chặn các sản phẩm

văn hóa ngoại lai xâm nhập, giữa gìn, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Để

thực hiện tốt nhiệm vụ này, Nhà nước cần có đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phê bình

văn hóa, nghệ thuật, nhằm định hướng nhận thức và thẩm mỹ cho công chúng, tránh

tình trạng phó mặc cho các cơ quan báo chí phải xử lý mọi vấn đề. Cần sớm giao

nhiệm vụ này cho một tổ chức thích hợp

Thứ tư, trên lĩnh vực giáo dục quyền con người

Giáo dục QCN trong điều kiện HNQT hiện nay là sự cần thiết có tính tất yếu

khách quan. Bởi lẽ,trong một xã hội dân chủ, một nhà nước của dân, do dân và vì

dân, một nền kinh tế tự do thương mại, thì QCN là những giá trị có tính tiền đề cần

được cả xã hội và người dân nhận thức đúng; do đó, QCN chỉ có thể được hiện thực

hóa và bảo đảm thực hiện thông qua các quy định của pháp luật. Hơn nữa, trong bối

cảnh hiện nay của quan hệ quốc tế, các thế lực thù địch thường xuyên có những

Page 153: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

149

đánh giá thiếu khách quan, xuyên tạc vấn đề thực hiện QCN ở Việt Nam làm ảnh

hưởng đến hình ảnh cũng như mối quan hệ quốc tế của Việt Nam trên nhiều phương

diện. Vì vậy, đề nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, cần đẩy

mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục QCN, trong đó tập trung:

Một là, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực trong

giaods dục QCN nhằm nâng cao năng lực cho các cơ quan có liên quan đến lĩnh vực

nhân quyền. Các hình thức hợp tác có thể là: (1) Cung cấp tài liệu nghiên cứu, giảng

dạy về QCN, (2) Tổ chức các buổi hội thảo trao đổi khoa học về QCN và các vấn đề có

liên quan đến QCN; (3) Đào tạo, nâng cao năng cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo

vệ và thực thi QCN; (4) Hợp tác đào tạo cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về QCN.

Hai là, tăng cường tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học song phương và đa

phương về các chủ đề mà các bên cùng quan tâm. Thông qua các hoạt động này, chúng

ta làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ lịch sử, văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội Việt

Nam liên quan đến việc bảo đảm QCN.

Ba là, mở các khóa đào tạo luật quốc tế về QCN, nhất là các công ước quốc tế mà

Việt Nam đã tham gia hoặc có điều kiện tham gia (có sự quản lý chặt chẽ của các cơ

quan chức năng).

Thứ năm, chủ động và đổi mới phương thức đấu tranh chống các lực lượng thù

địch vu cáo Nhà nước ta vi phạm quyền con người

Đấu tranh trên lĩnh vực QCN trong tình hình quốc tế hiện nay có vị trí đặc biệt

quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc đảm môi trường chính trị, kinh tế giữ vững độc

lập chủ quyền quốc gia. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh trên lĩnh vực nhân

quyền, trước hết, cần nhận thức rằng, cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch trên

lĩnh vực QCN là một bộ phận cấu thành của chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

của Việt Nam, đồng thời là phương thức để phát huy vai trò của Nhà nước trong việc

bảo đảm QCN. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này gắn liền với mục tiêu chung của cách

mạng, đó là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Điều đó có

nghĩa là chúng ta cân nhắc đến lợi ích tổng thể của cách mạng khi áp dụng các hình

thức, biện pháp đấu tranh, mặt khác, cần phân hóa đối tượng đấu tranh, tranh thủ mọi

lực lượng, phương tiện có thể tranh thủ được để mở rộng mặt trận của ta trên lĩnh vực

này. Hiện nay, đấu tranh trên lĩnh vực QCN cần tập trung vào một số điểm sau:

Một là, xác định rõ nội dung và chiến lược đấu tranh trên lĩnh vực QCN. Cơ sở để

đấu tranh dựa trên các thành tựu đổi mới tư duy lý luận, vận dụng và phát triển chủ

Page 154: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

150

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc về QCN trong luật pháp

quốc tế, từ kinh nghiệm lịch sử quốc tế, quốc gia, nhất là những thành tựu về nhân

quyền thời kỳ đổi mới và HNQT để bác bỏ quan điểm dân chủ, nhân quyền tư sản, bảo

vệ quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta.

Hai là, nhà nước chủ động phát hiện và giải quyết những sai phạm trong việc bảo

đảm QCN thông qua công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ

quốc... (không chờ dân đòi hỏi, không để các thế lực thù địch nêu ra, tấn công rồi

chúng ta mới xem xét, giải quyết).

Ba là, nhà nước cần chủ động tăng cường công tác thông tin trong nước và quốc

tế, giới thiệu những thành tựu bảo đảm QCN của Đảng và nhà nước ta. Việc giới thiệu

các thành tựu bảo đảm QCN không chỉ tập trung ở thành tựu về các quyền kinh tế, xã

hội, văn hóa mà cần tuyên truyền nhiều hơn nữa những thành tựu về việc bảo đảm các

quyền dân sự, chính trị, như: thành tựu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; việc

bảo đảm các quyền và tự do an ninh cá nhân; quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã

hội; quyền tự do báo chí, thông tin; tuyên truyền về dân chủ hóa trong hoạt động của

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, những đổi mới trong hoạt động tư pháp (với

số liệu và sự kiện cụ thể), nhất là việc bảo đảm QCN trên lĩnh vực: quản lý nhà nước và

xã hội; tôn giáo, tín ngưỡng, quyền của các dân tộc thiểu số; tự do báo chí... Để làm tốt

được nhiệm vụ này, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thông tin, tuyên

truyền: bồi dường kiến thức, nâng cao nhận thức... cho phóng viên, biên tập viên, cán

bộ lãnh đạo, quản lý về báo chí.

- Bốn là, chủ động đấu tranh để giảm thiểu sự áp đặt tiêu chuẩn dân chủ, nhân

quyền kép làm điều kiện cho các hiệp định song phương và đa phương. Đồng thời, cần

thông qua việc đáp ứng ở mức có thể được trên lĩnh vực kinh tế để giải quyết các vấn

đề chính trị theo kiểu "có đi có lại". Cần nâng cao cảnh giác với các thế lực thù địch có

thể thông qua hợp tác kinh tế làm chệch hướng chiến lược, kế hoạch đấu tranh và tha

hóa đội ngũ cán bộ.

Kết luận chương 4

Trong chương 4, luận án trình bày một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm

nâng cao tính hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong điều

kiện HNQT. Các quan điểm có tính chất gợi ý để nâng cao hiệu quả của Nhà nước

trong bảo đảm QCN, đó là: (1) Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm

Page 155: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

151

QCN phải phù hợp với quy định quốc tế và trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền

quốc gia; (2) Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN gắn liền với

sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện thể chế KTTT định

hướng XHCN; (3) Nâng cao hiệu quả của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN phải gắn

với phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội.

Từ các quan điểm có tính chất định hướng trên, luận án đã đề ra các giải pháp cơ

bản góp phần nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN

trong quá trình HNQT gồm: (1) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, công cụ quan

trọng phát huy quyền lực Nhà nước trong bảo đảm QCN thời kỳ HNQT; (2) Đổi mới tổ

chức bộ máy Nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền bảo đảm QCN; (3)

Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các cơ chế, thiết chế bảo đảm QCN; (4) Tăng cường

hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN.

Trong các giải pháp đưa ra nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối

với việc bảo đảm QCN trong quá trình HNQT, theo chúng tôi, giải pháp tập trung nhất

là tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước và xây dựng chế độ trách nhiệm của

các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức trong thực thi công vụ, bảo đảm và thực hiện

QCN đáp ứng yêu cầu mới.

Sở dĩ tác giả nhấn mạnh tới giải pháp này bởi lẽ, hiện nay nước ta có chủ trương,

đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn trong việc bảo đảm QCN, các văn bản pháp

luật bảo vệ QCN xét về mặt lý thuyết là khá đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực liên quan,

nhưng Nhà nước ta đang thiếu một tổ chức bộ máy Nhà nước hoàn thiện đáp ứng yêu

cầu bảo đảm QCN, thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức triển khai và thực hiện

công việc bảo vệ và thực thi QCN, thiếu những cán bộ lãnh đạo có năng lực chỉ đạo và

thực hiện hệ thống chính sách pháp luật về bảo vệ QCN và thiếu những cán bộ có

phẩm chất đạo đức, tâm huyết với sự nghiệp bảo vệ QCN, đặc biệt là cơ chế chịu trách

nhiệm của cán bộ, công chức trong lĩnh vực họ đảm nhiệm.

Xét đến cùng, chủ thể vi phạm QCN, chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ QCN

chủ yếu là các cán bộ làm trong hệ thống cơ quan nhà nước, mọi chủ trương, chính

sách pháp luật bảo đảm và thực thi QCN cũng là do con người và vì con người xây

dựng nên. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ và thực hiện

QCN và xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất làm công tác bảo vệ và

thực thi QCN là việc làm cần thiết của Nhà nước Việt Nam hiện nay.

Page 156: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

152

KẾT LUẬN

Từ quan điểm "con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển", bởi

mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước suy cho cùng là phải hướng tới

phục vụ con người, vì con người và giải phóng con người. Chính vì vậy, Đảng và Nhà

nước ta luôn chú trọng tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là

một nội dung cơ bản trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển KINH Tế, XÃ

HộI vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm

QCN của Đảng, Nhà nước ta. Yêu cầu này có cơ sở khoa học từ quan niệm của chủ

nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cuộc sống.

Ngày nay, trước những tác động mạnh mẽ của quá trình HNQT, đòi hỏi các nhà

nước phải suy nghĩ và cách nhìn nhận khoa học, nghiêm túc về mối quan hệ giữa nhà

nước với công dân, giữa lợi ích quốc gia với quốc tế, giữa chủ quyền quốc gia với một

thế giới hội nhập toàn diện một cách sâu sắc hơn ở tầm triết học. Trong điều kiện

HNQT hiện nay, các quốc gia muốn tồn tại và phát triển buộc phải hòa mình vào xu thế

chung của thời đại, việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, trên cơ

sở giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia đã trở thành vấn đề có ý nghĩa sống còn đối

với mỗi quốc gia.

Trong những năm gần đây, thực hiện đổi mới và HNQT đã đem lại những thành

tựu kinh tế, xã hội to lớn, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm QCN. Tuy nhiên, bên

cạnh những tác động tích cực, mặt trái của HNQT đã tác động tiêu cực, ảnh hưởng

không nhỏ đến các mặt đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có QCN. Trước thực trạng

bảo đảm và thực thi QCN còn nhiều bất cập, những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã

từng bước hoàn thiện chức năng quản lý của mình trong lĩnh vực bảo đảm QCN. Nhiều

chính sách, văn bản pháp luật về QCN đã được ban hành; hệ thống quản lý nhà nước

về bảo vệ và thực thi QCN từ Trung ương đến địa phương đã được từng bước đổi mới

và hoàn thiện; ý thức trách nhiệm về bảo vệ QCN của các cơ quan nhà nước, các tổ

chức chính trị, xã hội và cộng đồng ngày càng được nâng cao, góp phần bảo đảm ngày

càng tốt hơn các QCN của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình bảo vệ và thực thi

QCN ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt trong điều kiện HNQT hiện

nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này, nhưng một trong những

nguyên nhân chính là thuộc nhà nước, do nhà nước chưa làm tròn vai trò của mình

trong việc bảo vệ QCN. Điều này được thể hiện ở: các chính sách, pháp luật về QCN

Page 157: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

153

chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ, tính khả thi chưa cao. Tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà

nước làm nhiệm vụ bảo vệ, thực thi QCN còn cồng kềnh, chồng chéo về chức năng,

nhiệm vụ nên hoạt động kém hiệu quả; các thiết chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện

QCN còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ và thực

thi QCN còn hạn chế về phẩm chất và năng lực, chưa tương xứng với nhiệm vụ được

giao; năng lực cán bộ chủ chốt trong xây dựng chính sách, pháp luật bảo vệ QCN còn

hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Thêm nữa, Nhà nước chưa có hệ

thống chính sách pháp luật nhằm phát huy một cách hiệu quả sự tham gia của các tổ

chức chính trị, xã hội trong việc bảo vệ, tư vấn, giám sát việc thực hiện QCN và đặc

biệt là thiếu một cơ quan chuyên trách độc lập làm nhiệm vụ bảo vệ QCN. Chính vì

vậy, nâng cao hiệu quả của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN trong thời

kỳ HNQT là vấn đề cần thiết và cấp thiết hiện nay.

Để nâng cao vai trò của Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm QCN thời kỳ

HNQT ở nước ta cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, với sự tham gia của toàn

Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân Việt Nam. Song trong khuôn khổ của luận án,

chúng tôi mạnh dạn đưa ra bốn giải pháp chính, đó là: (1) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống

pháp luật, công cụ quan trọng phát huy quyền lực Nhà nước; (2) Hoàn thiện tổ chức bộ

máy Nhà nước và xây dựng chế độ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, cán bộ

công chức trong thực thi công vụ, bảo đảm và thực hiện QCN; (3) Xây dựng và hoàn

thiện các thiết chế, cơ chế bảo đảm QCN; (4) Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực

QCN. Các giải pháp này tập trung vào những vấn đề cơ bản của Nhà nước trong việc

bảo đảm QCN. Đây cũng là mục đích và nhiệm vụ chính của Luận án đặt ra ngay từ

đầu và tìm hướng giải quyết.

Quyền con người là thành quả chung của nhân loại. Vấn đề bảo vệ QCN là vấn

đề có ý nghĩa toàn cầu. Việt Nam thực hiện đổi mới và HNQT một cách toàn trong điều

kiện kinh tế, xã hội chưa phát triển, truyền thống văn hóa còn mang nặng dấu ấn của

Nho giáo, nên không trách khỏi những thiếu sót, hạn chế trong việc bảo đảm QCN và

phát huy hiệu quả của nhà nước trong việc bảo đảm QCN.

Để nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của nhà nước đối với việc bảo đảm QCN

trong điều kiện HNQT đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, do đó, ngoài các

giải pháp trên, còn phải bổ sung nhiều giải pháp khác khác và chỉ có thể thực hiện từng

bước trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, vấn đề này đòi hỏi phải được

tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.

Page 158: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

154

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Hòe (2003), "Xóa đói giảm nghèo - Một biện pháp thực hiện quyền con

người", Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (2), tr.48-50.

2. Trần Thị Hòe (2004), "Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong thời kỳ Đổi mới",

Tạp chí Tư tưởng văn hóa,(3), tr.32-36.

3. Trần Thị Hòe (2004), "Quyền được an sinh xã hội trong thời kỳ Đổi mới ở Việt Nam-

thành tựu và những vấn đề đặt ra", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (3), tr.53-57.

4. Trần Thị Hòe (2005), "Quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới -

Thành tựu, vấn đề và giải pháp", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (2), tr.53-57.

5. Trần Thị Hòe (2005), "Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam",

Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.54-58.

6. Trần Thị Hòe (2007), "Bảo đảm quyền chính trị của phụ nữ trong bối cảnh toàn cầu hóa

ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (8), tr.47-52.

7. Trần Thị Hòe (2007), "Bảo đảm quyền tự do sản xuất và kinh doanh trong bối cảnh toàn

cầu hóa kinh tế ở nước ta hiện nay", đặc san Báo Đời sống và Pháp luật (Tháng 4),

tr.10-12 và 26-28.

8. Trần Thị Hòe (2008), "Quyền được chăm sóc sức khỏe của phụ nữ khi Việt Nam gia

nhận WTO", Tạp chí Khoa học chính trị, (2), tr.32-37.

9. Trần Thị Hòe (2009), "Nghiên cứu vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới góc độ

quyền con người ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (11), tr.44-49.

10. Trần Thị Hòe (2010), "Pháp luật quốc tế về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ

nữ, Tạp chí Khoa học chính trị, (2), tr.48-55.

11. Trần Thị Hòe (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về các quyền dân sự, chính trị và việc

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Thông tin Quyền con

người (6), tr. 25-28.

12. Trần Thị Hòe, Vũ Công Giao (2011), Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và

thực tiễn ở Việt Nam, sách tham khảo, Nxb Lao động xã hội.

13. Trần Thị Hòe (2011), "Bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong Văn kiện Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI", Thông tin Quyền con người (2), tr.19-24.

Page 159: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

155

14. Nguyễn Duy Sơn, Trần Thị Hòe (2013), "Tiếp cận dựa trên quyền trong hoạch định và

thực thi chính sách ở Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị (2), tr.62-67.

15. Trần Thị Hòe (2013), "Nghiên cứu quyền con người ở Việt Nam hiện nay - Kết quả và

vấn đề đặt ra", Thông tin Quyền con người (2), tr.22-27.

16. Trần Thị Hòe (2014), "Về đấu tranh nhằm bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện

nay", Thông tin quyền con người (3+4), tr.50-52.

17. Trần Thị Hòe (2014), "Bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do thông tin trong điều kiện hội

nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (215), tr.8-13.

18. Trần Thị Hòe (2014), "Hội nhập quốc tế với việc bảo đảm quyền con người", Tạp chí

Lý luận chính trị (6), tr.81-83.

19. Trần Thị Hòe (2014), "Chính sách, pháp luật Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người

trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền

thông, (6), tr.36-40.

20. Trần Thị Hòe (2014), "Nhà nước - chủ thể trụ cột trong việc bảo đảm quyền con người",

Tạp chí Giáo dục Lý luận, (219), tr.22-27.

21. Trần Thị Hòe (2014), "Tác động của hội nhập quốc tế đến việc bảo đảm quyền con

người ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (10), tr.28-33.

22. Trần Thị Hòe (2015), "Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt

Nam - Thành tựu và vấn đề đặt ra", Tạp chí Khoa học chính trị, (1), tr.100-106.

23. Nguyễn Thanh Tuấn, Trần Thị Hòe (2015), "Nâng cao trách nhiệm của bảo đảm quyền

con người của Nhà nước hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr.36-40.

24. Trần Thị Hòe (2015), "Giám sát quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền con người ở Việt

Nam hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (227), tr.91-93.

25. Trần Thị Hòe (2015), "Đảm bảo quyền con người trong xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế", Tạp chí Giáo dục lý luận,

(236), tr. 49-51 và 76.

Page 160: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

156

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Đình An (2013), "Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế toàn

cầu hóa", Tạp chí Triết học, số 10 (269), tr.83-92.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2013), "Nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập quốc

tế", Web http://www.mofahcm.gov.vn, [truy cập ngày 15/4/2013].

3. Ban Chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ (2012), Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của

Ban bí thư Trung ương Đảng về "Vấn đề QCN và quan điểm, chủ trương

của Đảng ta", Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

4. Báo điện tử Chính phủ (2014), "Hội nghị trực tuyến về công tác tiếp dân, giải

quyết khiếu nại, tố cáo", Web http://baodientu.chinhphu.vn, [truy cập ngày

19/9/2014].

5. Báo Nhân dân (1993), "Tuyên bố cuối cùng của hội nghị nhân quyền Châu Á", số

ra ngày 17/4, tr.2.

6. Nguyễn Thị Báo (2009), "Một số suy nghĩa về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền

con người ở Việt Nam hiện nay", trong Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền

con người, (Võ Khánh Vinh chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

tr.111-122.

7. Nguyễn Thị Báo (2015), "Tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong quá trình xây

dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Web

http://www.moj.vn, [truy cập ngày 03/4/2015].

8. Đặng Quốc Bảo, Trương Thúy Hằng (2003), "Nghiên cứu phát triển con người

(HD) chỉ số phát triển con người (HDI) ở nước ta và những vấn đề đặt ra

cho việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỳ (MDG)", Tạp chí Nghiên cứu con

người, số 1, tr.50-56.

9. Hoàng Chí Bảo, Tống Đức Thảo (2011), Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa

pháp luật một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính,

Hà Nội.

10. Nguyễn Đức Bình (chủ biên) (2007), Những đặc điểm của thế giới đương đại,

Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội.

Page 161: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

157

11. Trương Hòa Bình (2014), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, bảo vệ công lý", Web http://toaan.gov.vn, [truy cập ngày

18/4/2014].

12. Trần Văn Bính (Chủ biên) (1999), Toàn cầu hóa và quyền công dân (nhìn từ khía

cạnh văn hóa), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

13. Phạm Bính (2006), Cơ cấu, phương thức thực hiện quyền lực trong hệ thống

hành chính Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

14. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2005), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con

người ở Việt Nam, Hà Nội.

15. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2014), "Báo cáo quốc gia về thực hiện quyền con

người ở Việt Nam theo cơ chế định kỳ phổ cập (UPR) chu kỳ II", Web

http://www.mofahcm.gov.vn.

16. Bộ Tài chính (2015), "Cải thiện môi trường kinh doanh, lấy doanh nghiệp là

trọng tâm", Web http://www.mof.gov.vn, [truy cập ngày 29/1/2015].

17. Lệ Chi (2012), Bảo đảm quyền con người thuộc bản chất của Nhà nước ta, tại

trang http://www.qdnd.vn, [truy cập ngày 13/3/2012].

18. Đặng Dũng Chí (Chủ nhiệm) (2008), Bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế- vấn đề và giải pháp, Đề

tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

19. Đặng Dũng Chí (2014), "Thực tiễn việc bảo đảm quyền con người Ở Việt Nam

và những vấn đề đặt ra hiện nay", Tạp chí Cộng sản (6/2014), tr.67-72.

20. Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (2014), Chủ nghĩa xã hội và quyền con

người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Vũ Hoàng Công (Chủ biên) (2009), Xây dựng và phát triển nền dân chủ trong

điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị

- Hành chính, Hà Nội.

22. Vũ Hoàng Công (2014), "Bảo đảm và thực hiện quyền con người trong điều kiện

hội nhập quốc tế", Web http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày

13/3/2014].

23. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

Page 162: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

158

24. Nguyễn Văn Cương (2014), "Một số giải pháp tăng cường tính khả thi của văn

bản quy phạm pháp luật",Web http://moj.gov.vn, [truy cập ngày 18/2/2014].

25. Nguyễn Đăng Dung (2000), "Pháp luật không chỉ là công cụ của nhà nước", Tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, (11), tr.54-57.

26. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

27. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb Pháp

lý, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị

Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

34. Nguyễn Minh Đoan (2008), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

35. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

36. Trần Ngọc Đường (2005), "Tiếp tục nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội",

Web http://www.nhandan.com.vn [truy cập ngày 30/12/2005]

37. Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, Luận văn thạc

sỹ Luật học, Hà Nội.

38. Gordon Morris Bakken (2012), "Cách làm luật trong một xã hội dân chủ", trong Về

pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, một số tiểu luận của các học giả nước

ngoài (Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội,

tr.259-272.

Page 163: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

159

39. Trương Thị Hồng Hà (2011), "Vai trò của Chính phủ trong việc bảo đảm quyền

con người đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay" trong Cơ chế và bảo đảm quyền con người,

(Võ Khánh Vinh, chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

40. Hoàng Hùng Hải (2009), "Toàn cầu hóa với việc bảo đảm quyền con người ở Việt

Nam" trong Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã

hội, (Võ Khánh Vinh, chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.147- 162.

41. Hoàng Hùng Hải (2014), "Vai trò của toàn án trong việc bảo đảm quyền con

người, quyền công dân", trong Chủ nghĩa Hiến pháp, cơ chế bảo hiến và

quyền con người: Kinh nghiệm cộng hòa Liên ban Đức và Việt Nam (Kỷ

yếu Hội thảo quốc tế, Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh), Hà Nội.

42. Thu Hằng (2014), "Bảo đảm thực hiện quyền con người trong Hiến pháp 2013",

Web http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 28/3/2014]

43. Hoàng Văn Hảo (Chủ nhiệm) (1995), Các điều kiện bảo đảm quyền con người,

quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Chương trình khoa học

công nghệ cấp Nhà nước KX- 07, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp

Nhà nước, Mã số KX.07.16, Hà Nội.

44. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh, (Chủ biên) (1996), Một số vấn đề về quyền

kinh tế- xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội.

45. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh, (Chủ biên) (1996), Một số vấn đề về quyền

dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

46. Hoàng Văn Hảo (Chủ nhiệm) (1997), Quan điểm C.Mác- Ph.Ăng ghen về quyền

con người, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

47. Hoàng Văn Hảo (Chủ nhiệm) (2001), Thành tựu về thực hiện quyền kinh tế, xã

hội, văn hóa ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

48. Bùi Sỹ Hiển (2005), "Dân chủ hóa và minh bạch hóa quá trình soạn thảo văn bản

pháp luật là sự bảo đảm nâng cao tính hiệu quả quản lý của Nhà nước", Tạp

chí nhà nước và pháp luật, số 2, tr.3-9.

Page 164: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

160

49. Lang Nghị Hoài (2002), "Thực tế quyền con người trong chủ nghĩa xã hội và

cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới", trong Quyền con người ở

Trung Quốc và Việt Nam, (truyền thống, lý luận và thực tiễn), (Trung tâm

Nghiên cứu quyền con người và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc

chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.229-241.

50. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), "Bảo đảm và đấu tranh trên

lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam hiện nay", trong Các chuyên đề bổ

trợ, Giáo trình cao cấp lý luận chính trị, Tập 14, Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội, tr.383-424.

51. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), "Quan điểm của Đảng cộng

sản Việt Nam về quyền con người", trong Đường lối của Đảng cộng sản

Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, Giáo trình cao

cấp lý luận chính trị, Tập 8, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.192-222.

52. Trần Thị Hòe, Vũ Công Giao (2011), Bảo vệ và thúc đẩy các quyền kinh tế, xã hội,

văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

53. Trần Thị Hòe (Chủ nhiệm) (2011), Những cản trở trong việc bảo đảm quyền của

nhóm người dễ bị tổn thương, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp cơ sở,

Viện Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.

54. Trần Thị Hòe (2014), "Tác động của hội nhập quốc tế đến việc bảo đảm các

quyền con người ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí nhân lực khoa học xã hội

(17), tr.28-33.

55. Hội đồng lý luận Trung ương (2011), Dân chủ, nhân quyền, giá trị toàn cầu và

đặc thù quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội

56. Đặng Vũ Huân (2015), "Cấu trúc quyền lực Nhà nước tổng kết 30 năm đổi mới

và phát triển", Web http://www.moj.vn, [truy cập ngày 14/5/2015].

57. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), "Quyền con người trong bối cảnh toàn cầu hóa"

trong Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính

trị (Võ Khánh Vinh, chủ biên) , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.38-57.

58. Hoàng Mai Hương (2009), Tư tưởng V.I.Lênin về quyền con người, Đề tài cấp cơ

sở, Viện Nghiên cứu quyền con người, Hà Nội.

59. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới hiện

đại, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 165: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

161

60. Jacques Mourgon (1995), Quyền con người, Hà Nội.

61. Phạm Văn Khánh (2006), Góp phần tìm hiểu quyền con người, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

62. Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1993), Lịch sử các học thuyết chính

trị trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

63. Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận pháp luật

về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

64. Khoa Luật trường Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Tư tưởng về quyền con người,

Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội.

65. Tường Duy Kiên (2003), "Nhà nước Cơ chế bảo đảm quyền con người", Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, (2), tr.28-32.

66. Tường Duy Kiên (2004), "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với

việc bảo đảm quyền con người", Tạp chí Nghề luật, (8), tr.28-32.

67. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

68. Tường Duy Kiên (Chủ nhiệm) (2010), Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị

trong pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà

Nội (2011) Tổng quan đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội.

69. Kieren Pitzpatrick (2004), "Toàn cầu hóa, thương mại và nhân quyền" trong

Quyền con người - lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Ôt-xtrây-lia (Cao

Đức Thái, Gunther Doeker-Mach, chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,

tr.215-242.

70. Lưu Kiệt (2002), "Việc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới và sự nghiệp

quyền con người của Trung Quốc" trong Quyền con người ở Trung Quốc và

Việt Nam, (truyền thống, lý luận và thực tiễn), (Trung tâm Nghiên cứu

quyền con người và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc), Nxb Chính

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.469-480.

71. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 32, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

72. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

73. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.

74. Nguyễn Đình Lộc (1996), "Sự ra đời và phát triển của hiến pháp trong lịch sử",

Giáo trình Luật lập hiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Page 166: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

162

75. Lê Quốc Lý (Chủ nhiệm) (2009), Điều tra cơ bản về những rào cản làm

chậm quá trình triển khai các quan điểm, đường lối của Đảng và chính

sách của Nhà nước vào thực tiến cuộc sống hiện nay, Tổng quan khoa

học đề tài cấp bộ năm 2008, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

76. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

77. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội

78. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

79. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

80. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

81. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

82. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (1997), Lịch sử các học thuyết chính trị- pháp

lý, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

83. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

86. Ngân hàng Thế giới (2000), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001,

Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

87. Nguyễn Thiện Nhân (2014), "Tăng cường hoạt động giám sát và phản biện xã

hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo

tinh thần Hiến pháp năm 2013", Web http://www.tapchicongsan.org.vn,

[truy cập ngày 26/9/2014].

88. Hiền Nhi (2013), "Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai, xây dựng vẫn tăng và

nóng", Web http://www.congan.com.vn, [truy cập ngày 17/7/2013].

89. An Nhi (2015), "Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,8% đến 2%", Web

http://kinhtevadubao.vn, [truy cập ngày 25/1/2015].

Page 167: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

163

90. Lê Thị Hồng Nhung (2009), "Bảo đảm quyền con người bằng các hình thức pháp

lý hành chính", trong Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người (Võ

Khánh Vinh chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.179-206.

91. Võ Văn Ninh (2012), "Bảo đảm thực hiện quyền con người ở Việt Nam", Web

http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 09/6/2012].

92. Từ Sùng Ôn (1992), "Về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề quyền con

người", Tạp chí Nghiên cứu triết học (Trung Quốc), (12).

93. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

94. Bùi Phạm Nguyên Phương (2011), "Quốc hội khóa XII: Những thành tựu chủ

yếu và kinh nghiệm rút ra", Web http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy

cập ngày 28/3/2011].

95. Quốc hội (1995), Hiến pháp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

96. Quốc hội (2002), Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992) và Nghị

quyết về việc bổ sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Nxb

Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

97. Rousseau J.J. (2006), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

98. Hoàng Nam Sâm (2002), "Khái niệm quyền con người trong truyền thống văn

hóa Trung Quốc", trong Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam,

(truyền thống, lý luận và thực tiễn (Trung tâm Nghiên cứu quyền con người

và Hội Nghiên cứu nhân quyền Trung Quốc), Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội, tr.40-48.

99. Lê Hồng Sơn, (2009), "Các nhân tố pháp lý tác động đến việc hình thành cơ chế

bảo đảm quyền con người", trong Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con

người, (Võ Khánh Vinh chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.123-136.

100. Lê Sơn (2014), "Ban hành văn bản trái luật: không thể chấp nhận được", Web

http://baodientu.chinhphu.vn, [truy cập ngày 12/6/2014].

101. Nguyễn Duy Sơn (Chủ nhiệm) (2013), Tư tưởng nhân quyền trong một số học

thuyết chính trị, pháp lý cơ bản, đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.

102. Nguyễn Duy Sơn (Chủ nhiệm) (2014), Dự án điều tra cơ bản việc thực hiện

quyền công dân của nhóm yếu thế tại các tỉnh miền núi Phía Bắc, Đề tài

khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

103. Tạ Ngọc Tấn (2014), "Thành tựu phát triển lý luận của Đảng về quyền con

người trong thời kỳ Đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, số 12 (tr.3-10).

Page 168: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

164

104. Cao Đức Thái (Chủ nhiệm) (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quyền con

người, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

105. Cao Đức Thái (Chủ nhiệm) (2003), Sự phát triển quyền con người trên lĩnh vực

kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Đề tài cấp bộ, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

106. Cao Đức Thái (2004), "Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và nhân quyền" trong

Quyền con người - lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Ôt-xtrây-lia, (Cao

Đức Thái, Gunther Doeker-Mach Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,

tr.183-241.

107. Cao Đức Thái (Chủ nhiệm) (2005), Báo cáo kết quả nghiên cứu và kiến nghị về

quyền con người trong thời kỳ đổi mới, đề tài khoa học cấp Nhà nước 2002-

2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

108. Cao Đức Thái (2012), "Đảng và Nhà nước ta với quyền con người", Web

http://tapchiqptd.vn, [truy cập ngày 04/5/2012].

109. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương (2012), "Bảo đảm, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân trong pháp luật hành chính Việt Nam (Một số

vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên cứu)", Tạp chí Khoa

học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 28, tr.1-7.

110. Thái Vĩnh Thắng (2010), Nhà nước tư sản và pháp luật tư sản đương đại, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

111. Chu Hồng Thanh (1996), Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại,

Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

112. Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Tường Duy Kiên (2007), Pháp luật quốc gia

và quốc tế về bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Nxb Đại

học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

113. Trần Thị Băng Thanh (2002), Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện

quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

114. Trần Thành (2008), "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, số 4 (230), tr.1-9.

115. Trần Thành (Chủ biên) (2013), Chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay, những

quan điểm lý luận cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

Page 169: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

165

116. Đỗ Thị Thơm (Chủ nhiệm) (2010), Pháp luật quốc tế về quyền của nhóm dễ bị

tổn thương, Đề tài cấp cơ sở, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

117. Thomas Meyer và Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

118. Nguyễn Tất Thu, "Đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước đáp ứng yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền nền kinh tế thị trường", Web

http://caicachhanhchinh.gov.vn.

119. Nguyễn Đức Thùy (Chủ nhiệm) (2007), Những quan điểm cơ bản của chủ

nghĩa Mác-Lênin về quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay, Đề

tài cấp bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

120. Nguyễn Đức Thùy (Chủ nhiệm) (2011), Tổ chức và hoạt động của cơ quan

nhân quyền quốc gia một số nước ASEAN và Trung Quốc- Kinh nghiệm đối

với Việt Nam, Tổng quan đề tài khoa học cấp bộ năm 2010- 2011, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

121. Nguyễn Trung Tín (2009), "Quyền con người và Nhà nước pháp quyền", trong

Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội (Võ

Khánh Vinh, chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.107-128.

122. Tổng cục Thống kê (2014), "Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 2000-2013", Web

http://www.gso.gov.vn, [truy cập ngày 27/7/2015].

123. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người (1998), C.Mác, Ph.Ăngghen Về quyền

con người, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

124. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và Viện thông tin khoa học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Các Văn kiện quốc tế về quyền con

người, Hà Nội.

125. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và Viện Raoul Wallenberg về quyền

con người và luật nhân đạo, Đại học Lund Thụy Điển (2001), Hiến pháp,

pháp luật về quyền con người- Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển, Hà Nội.

126. Nguyễn Thanh Tuấn, Trần Thị Hòe (2015), "Nâng cao trách nhiệm bảo đảm

quyền con người của Nhà nước hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số

1/2015, tr.36-40.

127. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động

của bộ máy Đảng và Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

Page 170: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

166

128. UNDP, (2010), Một số nghiên cứu về công tác theo dõi thi hành pháp luật tại

Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

129. UNIFEM tại Việt Nam (2006), CEDAW: Thiết lập lại quyền cho phụ nữ,

Hà Nội.

130. Hồng Vân (2014), "Quốc hội Việt Nam hướng đến chuẩn mực nghị viện toàn

cầu", Web http://vovworld.vn, [truy cập ngày 24/10/2014].

131. Viện Chính sách công và pháp luật và Viện Nhà nước và pháp luật (2014), Một

số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới

và Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

132. Viện Khoa học pháp lý (2003), Từ điển Luật học, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.

133. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Xã hội và Pháp luật, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

134. Viện Nghiên cứu quyền con người (2005), Luật Quốc tế về quyền con người,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

135. Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), 25 năm thực hiện Công ước về xóa

bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thực

tiễn tại Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

136. Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), Bình luận và khuyến nghị chung

của Ủy ban công ước thuộc Liên Hợp Quốc về quyền con người, Hà Nội.

137. Viện Nghiên cứu quyền con người (2008), Dân chủ, nhân quyền trong thế giới

hòa hợp, Hà Nội.

138. Viện Nghiên cứu quyền con người (2010), Giáo trình lý luận về quyền con

người, Nxb Lý luận Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

139. Viện Nghiên cứu quyền con người (2014), Quyền con người, lý luận và thực

tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

140. Viện Ngôn ngữ học (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

141. Viện Nhà nước và pháp luật, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn (1997),

Cơ sở pháp lý của quyền con người, Hà Nội.

142. Viện Thông tin khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2001), Thế giới

đương đại, Hà Nội.

143. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của

nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 171: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

167

144. Nguyễn Văn Vĩnh (2006), Triết học chính trị về quyền con người, Nxb Chính

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

145. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

146. Wolfgang Bennedek (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

147. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý luận

và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

148. Brysk Alison (2002), Golbaization and Human Rights University of

California Press.

149. Donnelly Jack (1989), Universal Human Rights in Theory and Practice, Ithaca

and London: Cornell University Press.

150. United Nations (1994), Human Rights - Question and answers, Geneva.

151. United Nations, UNHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-

based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva,

2006, tr.8.

Page 172: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

168

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

DANH MỤC MỘT SỐ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ QUAN TRỌNG

VỀ QUYỀN CON NGƯỜI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN [63]

Stt Tên điều ước Tham gia

1 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử về

chủng tộc, 1965

9/6/1981

2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 24/9/1982

3 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966 24/9/1982

4 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử chống

lại phụ nữ, 1979

18/12/1982

5 Công ước về quyền trẻ em, 1989 20/2/1990

5 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, 1948 09/6/1981

7 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội ác Apacthai, 1968 06/5/1983

8 Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng với các tội ác chiến

tranh và tội ác chống nhân loại, 1968

04/6/1983

9 Công ước về Trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động

nữ cho những công việc có giá trị ngang nhau (Công ước số 100

của ILO), 1951

07/10/1997

10 Công ước chống phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp

(Công ước số 111 của ILO), 1958

07/10/1997

11 Công ước về cấm và hành động ngay để xóa bỏ các hình thức lao

động trẻ em tồi tệ nhất, 1999

19/12/2000

12 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em

về việc lôi cuốn trẻ em tham gia xung đột vũ trang, 2000

20/12/2001

13 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em

về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu

dâm trẻ em, 2000

20/12/2001

14 Công ước về lao động cưỡng bức (Công ước số 183 của ILO),

1973

24/6/2003

15 Công ước về lao động cưỡng bức (Công ước số 29 của ILO), 1930 05/3/2007

16 Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật, 2006 22/10/2007

17 Công ước Liên Hợp Quốc chống tra tấn và các hình thức đổi xử

hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người,

1984

28/11/2014

Page 173: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

169

PHỤ LỤC 2

BÁO CÁO QUỐC GIA VỀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI

Ở VIỆT NAM THEO CƠ CHẾ KIỂM ĐỊNH ĐỊNH KỲ PHỔ CẬP (UPR)

CHU KỲ II [15]

(Kiểm điểm định kỳ phổ quát (Universal Periodic Review - UPR) là một quy

trình đánh giá định kỳ (4 năm một lần) về tình hình nhân quyền đối với tất cả các

thành viên của Liên hợp quốc (hiện nay có 193 nước). Báo cáo này được bảo vệ

thành công tại Hội đồng nhân quyền ở Geneve (Thụy Sĩ), ngày 05/2/2014).

I. Phương pháp soạn thảo

A. Quy trình soạn thảo Báo cáo.

1. Báo cáo này được soạn thảo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 60/251 ngày

15/3/2006 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Nghị quyết số 5/1 ngày 18/06/2007 và

Quyết định số 17/119 ngày 19/6/2011 của Hội đồng Nhân quyền nhằm kiểm điểm

tình hình thực hiện các quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam.

2. Báo cáo này tập trung kiểm điểm việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà

Việt Nam đã chấp thuận tại lần kiểm điểm trước và cập nhật những phát triển mới

trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo

cũng chỉ rõ những thách thức còn tồn tại và các hướng ưu tiên của Chính phủ Việt

Nam trong thời gian tới nhằm bảo đảm sự thụ hưởng ngày càng tốt hơn các quyền

và tự do cơ bản của mỗi người dân.

3. Việc soạn thảo Báo cáo được thực hiện bởi Nhóm Công tác liên ngành

gồm các cơ quan thuộc Chính phủ và Quốc hội liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ,

thực hiện và thúc đẩy các quyền con người: Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao,

Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ

Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào

tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Uỷ ban Dân tộc, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối

cao, Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Bộ Ngoại giao là cơ quan

đầu mối soạn thảo Báo cáo.

B. Quy trình tham vấn đối với Báo cáo.

4. Việc thực hiện các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận trong lần

kiểm điểm vòng I năm 2009 đã được Thủ tướng Chính phủ giao cho từng Bộ,

ngành, cơ quan liên quan. Nhiều hội thảo, hội nghị ở trung ương và địa phương đã

Page 174: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

170

được tổ chức nhằm giới thiệu nội dung, các biện pháp thực hiện khuyến nghị và kết

quả đạt được trên thực tế. Việc thực hiện các khuyến nghị được báo cáo định kỳ

hàng năm làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung Báo cáo quốc gia.

5. Báo cáo được xây dựng một cách toàn diện nhờ sự đóng góp ý kiến của

các cơ quan Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ

chức nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân. Dự thảo báo cáo đã

được đăng công khai trên website của Bộ Ngoại giao. Hình thức tham vấn được lựa

chọn là lấy ý kiến đóng góp qua hộp thư điện tử và qua một số cuộc họp tham vấn

về nhiều chủ đề cụ thể. Quá trình tham vấn là cơ hội đối thoại cởi mở, thẳng thắn

giữa Nhóm soạn thảo và tất cả các bên liên quan. Các ý kiến đóng góp được Nhóm

soạn thảo tổng hợp, bổ sung vào Báo cáo. Một hội thảo quốc gia được tổ chức sau

đó, đã trở thành diễn đàn để các bên quan tâm cùng trao đổi, thảo luận về nội dung

Báo cáo, giúp khẳng định rõ các bước phát triển mới trong việc bảo đảm quyền con

người ở Việt Nam, đồng thời chỉ rõ các thách thức cần giải quyết và các hướng ưu

tiên nhằm đem lại sự thụ hưởng tốt nhất các quyền con người của người dân.

II. Tổng quan tình hình bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam kể từ

lần kiểm điểm trước

6. Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các

quyền và tự do cơ bản của con người là nguyên tắc cơ bản của mọi chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời là sự hiện thực hóa các cam kết đối với

các khuôn khổ pháp lý và thể chế quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó có

các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận từ lần kiểm điểm trước. Thực

tiễn thời gian qua đã cho thấy Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

A. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người

7. Xây dựng Nhà nước Pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

và đảm bảo các quyền con người được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992

(được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con

người, quyền công dân được triển khai đồng bộ và xuyên suốt thông qua các

chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh của Quốc hội và các chính sách, cơ chế

nhằm triển khai các Luật và văn bản luật này trên thực tế.

8. Ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong việc kiện toàn hệ thống pháp luật

hiện nay là đẩy mạnh quá trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Mục tiêu sửa

Page 175: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

171

đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là đảm bảo sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và

chính trị phù hợp với tình hình và những phát triển mới về dân chủ, tiếp tục ưu tiên

phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền

con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Dự

thảo Hiến pháp sửa đổi dành toàn bộ chương II quy định về quyền con người, quyền

và nghĩa vụ công dân. Ngoài ra, nội dung quyền con người cũng được quy định tại

nhiều điều khác của dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

9. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi được đăng công khai để lấy ý kiến đóng góp

của của các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân nhằm đảm bảo quyền làm chủ và

phản ánh đầy đủ hơn tâm tư, nguyện vọng, chính kiến của mọi tầng lớp nhân dân.

Việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân được bắt đầu từ ngày 02/01/2013 và

tính đến tháng 8/2013, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý cho Dự thảo Hiến pháp

sửa đổi, trong đó tập trung nhiều nhất vào nội dung Chương II về các quyền con

người và quyền công dân. Các ý kiến đóng góp được tổng hợp đầy đủ, chính xác và

được Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nghiên cứu tiếp thu, giải trình nhằm hoàn

thiện Dự thảo trình Quốc hội xem xét trong năm 2013. Dự kiến Quốc hội sẽ thông

qua Dự thảo Hiến pháp sửa đổi vào kỳ họp thứ 6 khóa XIII (tháng 10/2013).

10. Bộ Luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 trong đó

có việc xóa bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh, qua đó giảm số tội danh có áp

dụng án tử hình từ 29 xuống còn 22 tội; không áp dụng hình phạt tù chung thân

hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; bổ sung một số tội danh liên

quan đến khủng bố… Một số nội dung khác của Bộ Luật Hình sự tiếp tục được

nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng cường tính nhân đạo, và hài hòa với

các quy định của các điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm mà Việt Nam là

thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm. Các

lĩnh vực cụ thể được xem xét sửa đổi bao gồm: giảm các tội có áp dụng hình phạt tử

hình, sửa đổi các quy định về hình phạt tử hình cho chặt chẽ hơn; hạn chế khả năng

áp dụng hình phạt tù và mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không giam giữ;

điều chỉnh các chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,

miễn giảm hình phạt, xóa án tích, loại bỏ một số hành vi phạm tội không còn tính

nguy hiểm cho xã hội; hoàn thiện chính sách hình sự liên quan đến người chưa

thành niên phạm tội theo hướng đảm bảo lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên,

đồng thời có cơ chế bảo vệ tốt hơn người chưa thành niên bị tội phạm xâm hại; bổ

Page 176: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

172

sung chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện… Hiện tại, Việt Nam cũng đang

xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 theo hướng đảm bảo

tốt hơn các quyền của người dân, đặc biệt là người chưa thành niên, trong các hoạt

động tố tụng hình sự.

11. Tính từ năm 2009 đến nay, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi nhiều đạo

luật quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc tôn trọng và bảo

đảm thực thi quyền con người. Các đạo luật được ban hành mới liên quan đến

quyền con người như: Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà nước (2009), Luật

khám chữa bệnh (2009), Luật lý lịch tư pháp (2009), Luật Người cao tuổi (2010),

Luật Người khuyết tật (2010), Luật nuôi con nuôi (2010), Luật Thi hành án hình sự

(2010), Luật Tố tụng hành chính (2010), Luật Khiếu nại (2011), Luật Tố cáo (2011),

Luật Phòng, chống mua bán người (2011), Luật Công đoàn (2012), Luật Xử lý các

vi phạm hành chính (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (2012)… Một số đạo

luật quan trọng khác cũng được Quốc hội sửa đổi, bổ sung như: Luật Bầu cử Quốc

hội sửa đổi và Luật bầu cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân sửa đổi (2010), Bộ Luật

Lao động sửa đổi (2012), Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung (2012), Luật Xuất bản sửa

đổi (2012). Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi

hành luật, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

12. Quốc hội Việt Nam cũng ban hành các văn bản luật nhằm tạo cơ sở pháp

lý để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao như Luật tổ chức Quốc hội (2001),

Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội (2003); thông qua nhiều Nghị quyết với nội

dung tăng cường chức năng giám sát (như Quy chế hoạt động của Quốc hội và các

Ủy ban…). Vai trò giám sát hành pháp của Quốc hội đã ngày càng hiệu quả và được

dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Năm 2013, lần đầu tiên Quốc hội tiến

hành lấy phiếu tín nhiệm đối với các vị trí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính

phủ, thể hiện tiếng nói quyết định của Quốc hội đối với các cơ quan Nhà nước.

13. Vai trò giám sát tư pháp của Quốc hội cũng ngày càng hiệu quả hơn.

Quốc hội chịu trách nhiệm thẩm tra, xem xét các báo cáo công tác của Tòa án, Viện

kiểm sát, báo cáo của Chính phủ về tình hình và công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm và vi phạm pháp luật, về công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham

nhũng, chất vấn những người đứng đầu các cơ quan tư pháp, giám sát việc giải

quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực tư pháp. Bên cạnh đó,

Quốc hội cũng thành lập nhiều đoàn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan tư

Page 177: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

173

pháp ở Trung ương và địa phương trong cả nước, trong đó đặc biệt chú trọng việc

trực tiếp kiểm tra công tác giải quyết án của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát Nhân

dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao và các cơ quan tư pháp ở địa phương. Ngày

23/11/2012, Quốc hội khóa XIII thông qua Nghị quyết số 37/2012/QH13 yêu cầu

các cơ quan tư pháp hàng năm bao gồm Viện Kiểm sát Nhân dân, Tòa án Nhân dân

và các cơ quan Thi hành án phải kiểm điểm và báo cáo kết quả thực hiện công tác

trước Quốc hội.

B. Tăng cường giáo dục về quyền con người

14. Việt Nam đã tăng cường và mở rộng chương trình giáo dục, đào tạo về

quyền con người cho các cán bộ của các cơ quan nhà nước. Nhiều hội thảo, hội nghị

liên quan đến quyền con người đã được tổ chức với sự tham gia của đông đảo đại

diện nhiều bộ, ngành, các trung tâm nghiên cứu và cơ sở đào tạo chuyên sâu về

quyền con người như Viện Nghiên cứu quyền con người (thuộc Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…; mở

nhiều lớp giảng dạy thường xuyên về quyền con người. Quá trình mở rộng tuyên

truyền và giáo dục về quyền con người đã trang bị kiến thức cơ bản cho cán bộ

chính phủ cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Việt Nam cũng đẩy mạnh đào tạo kiến thức

nhân quyền cho các cán bộ công chức, viên chức địa phương nhằm tăng cường nhận

thức, năng lực và hiệu quả công tác nhân quyền ở cơ sở.

15. Các nội dung giáo dục về quyền con người đã và đang từng bước được

đưa vào chương trình dạy học ở các trường phổ thông, lồng ghép vào một số môn

học chuyên sâu trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành luật. Thực hiện

khuyến nghị UPR, Việt Nam đã đưa nội dung giáo dục về nhân quyền vào chương

trình giảng dạy tại các trường đào tạo cảnh sát, đồng thời mở nhiều lớp đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức về nhân quyền để trang bị và nâng cao nhận thức, năng lực cho

toàn bộ lực lượng cảnh sát, đặc biệt là các đơn vị có liên quan đến việc bảo đảm

quyền con người.

C. Thực thi các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người

a) Thực hiện nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước quốc tế về nhân quyền

mà Việt Nam là thành viên

16. Trong năm 2012, Việt Nam đã nộp và trình bày Báo cáo quốc gia thực

hiện Công ước xóa bỏ mọi hình thức Phân biệt chủng tộc (ICERD) giai đoạn 2000-

2009; Báo cáo quốc gia thực hiện Công ước về Quyền của Trẻ em (CRC) giai đoạn

Page 178: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

174

2008-2011. Năm 2011, Việt Nam đã hoàn thành và nộp Báo cáo quốc gia thực hiện

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) giai đoạn

1993-2010. Năm 2012, Việt Nam đã hoàn thành và gửi Báo cáo quốc gia về tình

hình thực hiện Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ

nữ (CEDAW). Hiện nay, Việt Nam đang ích cực triển khai xây dựng Báo cáo quốc

gia thực thi Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Về cơ bản,

Việt Nam hoàn thành tốt nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước mà Việt Nam là

thành viên.

17. Trong lộ trình thực thi các công ước quốc tế về nhân quyền, Việt Nam đã

tiến hành rà soát các quy định của luật pháp quốc gia về các quyền dân sự, chính trị.

Kết quả rà soát được tiến hành tại khoảng 80% số các cơ quan trung ương và địa

phương cho thấy các quyền dân sự, chính trị được nêu trong các công ước quốc tế

mà Việt Nam là thành viên đã được thể hiện xuyên suốt, thống nhất trong Hiến pháp

và được thể hiện tại nhiều văn bản luật quan trọng. Nguyên tắc bình đẳng, không

phân biệt đối xử là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật Việt Nam, tạo tiền đề

cho việc đảm bảo và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể.

Thời gian tới, Việt Nam tiếp tục rà soát các quy định của pháp luật quốc gia về các

quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.

b) Xem xét tham gia hoặc phê chuẩn một số công ước quốc tế về nhân quyền

18. Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) năm

2008, tiếp đó đã thông qua Luật Người khuyết tật năm 2010 và hiện đang hoàn

thiện các thủ tục để sớm phê chuẩn CRPD. Năm 2012, Việt Nam đã gia nhập Công

ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về ngăn chặn,

trấn áp và trừng phạt tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; gia nhập

Công ước số 122 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Chính sách việc làm. Việt

Nam đã phê chuẩn Công ước số 186 về Lao động Hàng hải ngày 8/5/2013 và Công

ước này sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 8/5/2014. Việt Nam cũng đang

hoàn tất các thủ tục pháp lý cuối cùng cho việc gia nhập Công ước chống tra tấn.

19. Bên cạnh đó, Việt Nam đang xem xét khả năng gia nhập Công ước về

người mất tích cưỡng bức, Công ước về quyền của người lao động di cư và thành

viên gia đình họ, Công ước về quy chế của người tị nạn, Công ước về người không

có quốc tịch. Mặc dù chưa tham gia các công ước trên, Chính phủ Việt Nam đã và

đang rà soát hệ thống pháp luật quốc gia và điều kiện đặc thù của đất nước; triển

Page 179: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

175

khai nhiều chính sách cụ thể và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo quyền của

các nhóm người liên quan như hợp tác với UNHCR và các nước liên quan giải

quyết các vấn đề về người tị nạn; tăng cường ký kết và tổ chức giám sát việc thực

hiện các thỏa thuận/bản ghi nhớ (MOU) với các nước tiếp nhận lao động Việt Nam;

tích cực tham gia Diễn đàn ASEAN về Lao động Di cư và Tiến trình Colombo liên

quan tới hợp tác trong lĩnh vực di cư lao động, đào tạo nghề và xóa đói, giảm

nghèo; phổ biến thông tin về thị trường lao động để bảo vệ người lao động di cư…

c) Đối thoại, hợp tác với các cơ chế của Liên hợp quốc về nhân quyền

20. Thực hiện các khuyến nghị UPR được chấp nhận, từ tháng 7/2010 –

11/2011, Việt Nam đã đón bốn Thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền (về các

vấn đề người thiểu số, đói nghèo cùng cực và nhân quyền, tác động của nợ nước

ngoài đối với nhân quyền và quyền được chăm sóc y tế). Qua các chuyến thăm này,

các Thủ tục đặc biệt đã tiếp xúc với đại diện các cơ quan chính phủ, tổ chức phi

chính phủ và cá nhân liên quan, tìm hiểu tình hình thực tế tại các địa phương. Các

chuyến thăm đều đạt kết quả như mong muốn của cả hai bên; các cuộc trao đổi, làm

việc diễn ra trên tinh thần cởi mởi, thẳng thắn, xây dựng với nhiều thông tin, qua đó

giúp các Thủ tục đặc biệt hiểu rõ hơn chính sách, pháp luật và thực tiễn đảm bảo

quyền con người trên những lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam. Kết thúc chuyến thăm, các

Thủ tục đặc biệt đều đánh giá cao tinh thần hợp tác, quyết tâm chính trị, các chính

sách, biện pháp Việt Nam đã thực hiện, đồng thời chỉ ra các thách thức Việt Nam

cần giải quyết nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con người.

21. Trong thời gian soạn thảo báo cáo này, Việt Nam đón Báo cáo viên đặc

biệt về quyền văn hóa vào tháng 11/2013, đã gửi lời mời chính thức tới Báo cáo

viên đặc biệt về quyền giáo dục và Báo cáo viên đặc biệt về quyền lương thực. Việt

Nam cũng sẽ xem xét đón Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Báo

cáo viên đặc biệt về quyền của người lao động di cư trong năm 2014; Báo cáo viên

đặc biệt về chống tra tấn sau khi gia nhập CAT; Báo cáo viên đặc biệt về phòng

chống buôn bán và mại dâm trẻ em trong thời gian sớm nhất.

d) Hợp tác quốc tế về nhân quyền

22. Hợp tác quốc tế về nhân quyền là một trong những ưu tiên của Chính phủ

Việt Nam thời gian qua. Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên

ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong việc thành lập Ủy ban liên

Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy

Page 180: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

176

các quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) và việc Tuyên bố Nhân quyền ASEAN đã

được lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN thông qua tháng 11/2012. Đây là văn kiện

đầu tiên phác thảo khuôn khổ tăng cường hợp tác và bảo vệ nhân quyền ở khu vực,

là sự cam kết của các nước ASEAN trong việc tôn trọng và đảm bảo các quyền và

tự do cơ bản, bao gồm cả quyền phát triển và quyền hưởng hòa bình, của người dân

trong khu vực.

23. Việt Nam đã tích cực tham gia Sáng kiến cấp Bộ trưởng các nước tiểu

vùng sông Mê kông về phòng, chống nạn buôn bán người (COMMIT), phối hợp

chặt chẽ với các tổ chức của Liên hợp quốc như UNICEF, UNODC, IOM, UNIAP

và ký nhiều thỏa thuận, hiệp định hợp tác song phương với các nước Lào,

Campuchia, Trung Quốc, Malaysia… nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động phòng,

chống buôn bán người trong khu vực. Hiện nay, Việt Nam cũng đang hợp tác chặt

chẽ với Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC) nhằm

tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm du lịch tình dục trẻ em trong

khu vực.

24. Với chủ trương sẵn sàng đối thoại và hợp tác về quyền con người, coi đó

là cơ hội để trao đổi thẳng thắn, xây dựng về những vấn đề nhân quyền cùng quan

tâm, Việt Nam đã thiết lập các cơ chế đối thoại song phương thường kỳ về nhân

quyền với một số nước và đối tác như Mỹ, EU, Úc, Na Uy, Thuỵ Sỹ. Các cơ chế

đối thoại này đã phát huy kết quả tích cực, không chỉ góp phần tăng cường hiểu biết

và thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác, mà còn là kênh trao đổi các kinh

nghiệm tốt nhất của mỗi bên và giải quyết được nhiều vấn đề nhân quyền hai bên

cùng quan tâm. Việt Nam cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ Chương trình phát triển

của Liên hợp quốc (UNDP) và nhiều nước đối tác thông qua việc triển khai Dự án

tăng cường năng lực thực thi các công ước quốc tế về nhân quyền tại Việt Nam (giai

đoạn 2008-2011 và 2012-2016) và nhiều chương trình hợp tác kỹ thuật khác trong

lĩnh vực bảo vệ và thúc đầy quyền con người.

III. Việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế

A. Các quyền dân sự chính trị

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin

25. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã

được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật; được đảm bảo ngày càng tốt hơn nhờ

sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các

Page 181: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

177

phương tiện thông tin đại chúng. Các cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện về chủ

trương, chính sách tại Quốc hội, các cuộc tọa đàm, tranh luận, các thông tin đa

chiều trên phương tiện thông tin đại chúng về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội

của đất nước, với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân

là thực tiễn diễn ra hàng ngày trong đời sống của người dân Việt Nam. Việc Dự thảo

Hiến pháp sửa đổi được đăng công khai và nhận được hơn 26 triệu ý kiến đóng góp

là một minh chứng rõ nét về tự do ngôn luận, bày tỏ chính kiến của người dân đối

với những vấn đề quan trọng của đất nước. Dự án Luật tiếp cận thông tin cũng đã

được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII nhằm

cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp về quyền được thông tin của công dân

26. Tính đến tháng 3/2013, cả nước có 812 cơ quan báo chí in với 1.084 ấn

phẩm (so với 676 cơ quan và gần 700 ấn phẩm của năm 2009); gần 17.000 nhà báo

được cấp thẻ; 01 hãng thông tấn, 67 đài phát thanh, truyền hình, 101 kênh truyền

hình và 78 kênh phát thanh, 74 báo và tạp chí điện tử, 336 mạng xã hội và 1.174

trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động (năm 2011 chỉ có 46 báo điện tử và

287 trang thông tin điện tử). Đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng 99,5% diện tích lãnh

thổ và phủ sóng qua vệ tinh tới nhiều nước trên thế giới. Trên 90% hộ gia đình bắt

được sóng Đài Truyền hình Việt Nam, so với 85% năm 2008.

27. Người dân Việt Nam được tiếp cận với 75 kênh truyền hình nước ngoài,

trong đó có những kênh được phát rộng rãi trên thế giới như CNN, BBC,

Bloomberg, TV5, DW, NHK, KBS, Australia Network... Tất cả các hãng thông tấn

và báo chí lớn của thế giới đều đến với người dân Việt Nam thông qua mạng

internet như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN, Kyodo, Economist, Financial

Times... Có 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam,

nhiều báo và tạp chí nước ngoài in bằng nhiều thứ tiếng được phát hành rộng rãi tại

Việt Nam.

28. Báo chí đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân,

là công cụ quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của nhân

dân và trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của Nhà

nước, đặc biệt về quyền con người. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện

vọng, bày tỏ chính kiến, đóng góp ý kiến về tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế xã

hội, văn hóa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều cơ quan báo chí

đã chủ động, tích cực trong việc phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, vi phạm

Page 182: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

178

quyền con người, quyền công dân và các biểu hiện tiêu cực khác. Hiện Việt Nam

đang xây dựng Luật báo chí sửa đổi, dự kiến dự thảo Luật này sẽ được trình Quốc

hội với nhiều điểm mới nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình và đồng bộ với các luật

khác như vấn đề quản lý báo chí điện tử, chế tài đối với các tổ chức từ chối nghĩa vụ

cung cấp thông tin cho báo chí…

29. Hiện Việt Nam có 64 nhà xuất bản (năm 2009 chỉ có 55 nhà xuất bản),

với tốc độ tăng bình quân số lượng xuất bản phẩm hàng năm là 5-10%. Năm 2012,

ngành xuất bản tại Việt Nam đã xuất bản 28.009 xuất bản phẩm với khoảng

301.717.000 bản với nội dung phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu đọc của người

dân. Luật Xuất bản sửa đổi đã được Quốc hội thông qua tháng 11/2012, thể hiện sự

nhất quán tôn trọng quyền phổ biến tác phẩm của cá nhân, phù hợp với Hiến pháp.

30. Nhà nước Việt Nam khuyến khích sử dụng internet để phục vụ phát triển

kinh tế - văn hoá - xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc

sống và các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Theo khảo sát gần đây của

WeAreSocial, một tổ chức nghiên cứu độc lập về truyền thông xã hội toàn cầu, tính

đến tháng 12/2012, số người dùng Internet ở Việt Nam là 30,8 triệu người (so với

26 triệu người năm 2010 và 20 triệu người năm 2008), chiếm 34% dân số (cao hơn

mức trung bình của thế giới là 33%). Sự ra đời của dịch vụ truy cập Internet qua

mạng 3G (tháng 10/2009) đánh dấu thời kỳ phát triển bùng nổ của Internet băng

thông rộng tại Việt Nam với số lượng người sử dụng đạt 16 triệu người (chiếm 18%

dân số) chỉ trong 3 năm (tính đến tháng 7/2012). Tính chung cả nước có gần 3 triệu

người có blog cá nhân. Theo xếp hạng năm 2012 của Tổ chức Liên minh viễn thông

quốc tế (ITU), Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 tại Châu

Á về số lượng người sử dụng Internet.

Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng

31. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, với sự hiện diện của các tôn giáo

được truyền vào từ bên ngoài như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo… và các

tôn giáo được hình thành trong nước như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tứ Ân

Hiếu Nghĩa… Nhiều tôn giáo có bề dày lịch sử và cũng có những tôn giáo mới hình

thành. 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, trong đó trên 24 triệu người là tín đồ của

các tôn giáo khác nhau (so với khoảng 20 triệu người năm 2009). Tính trên cả nước

có khoảng 25 ngàn cơ sở thờ tự và 45 trường đào tạo chức sắc tôn giáo.

Page 183: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

179

32. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và tạo điều

kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; coi

trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình đẳng,

không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ

chức tôn giáo bằng pháp luật. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn hoạt động tôn giáo tại

Việt Nam, tháng 11/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy

định chi tiết về biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo với nhiều điểm

mới phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sinh hoạt tôn giáo của

người dân. Ngoài ra, Quốc hội đã quyết định đưa nội dung sửa đổi Pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XIII.

33. Các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam diễn ra sôi động. Hàng năm có

khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ

chức. Đặc biệt, năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo đã thành công tốt đẹp và

Lễ bế mạc có sự tham dự của 50 Giám mục, trong đó có 6 Giám mục là người nước

ngoài, 1.000 linh mục, 2.000 nam nữ tu sĩ, và gần 500.000 lượt giáo dân. Năm 2011

cũng là năm kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành vào Việt Nam với nhiều hoạt động kỉ

niệm lớn được tổ chức tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh với nhiều

chức sắc, tín đồ Tin lành trên cả nước và đại biểu Tin lành người nước ngoài (Mỹ,

Hàn Quốc…). Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản

Liên hợp quốc năm 2014 tại Việt Nam, một sự kiện tôn giáo quốc tế lớn dự kiến thu

hút sự tham dự của hàng nghìn chức sắc, tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới. Nhiều

cơ sở thờ tự được cải tạo hoặc xây mới.

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành được duy trì và mở

rộng. Nhiều chức sắc và nhà tu hành Việt Nam được cử đi đào tạo tại nước ngoài

(Mỹ, Pháp, Ý, Ấn Độ...). Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam được khuyến khích và

tạo điều kiện tham gia các hoạt động y tế, văn hoá, xã hội, nhân đạo… đóng góp

cho quá trình xây dựng đất nước, đồng thời có quan hệ quốc tế rộng rãi; đại diện

chức sắc các tôn giáo tham gia nhiều diễn đàn quốc tế, đối thoại tôn giáo, tín

ngưỡng, giao lưu học hỏi, trao đổi giáo lý, giáo luật tại các diễn đàn lớn như ASEM,

ASEAN… Năm 2013, Việt Nam và Vatican đã hoàn thành cuộc họp vòng 4 nhóm

công tác hỗn hợp về thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Tòa thánh Vatican đã cử Đặc

phái viên không thường trú tại Việt Nam từ năm 2011 và đến nay Đặc phái viên

Page 184: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

180

không thường trú của Vatican đã thực hiện 25 chuyến thăm Việt Nam, làm việc với

tất cả 26 Giáo phận Công giáo và trên 60 tỉnh, thành phố ở Việt Nam.

34. Đối với các cộng đồng các dân tộc thiểu số, quyền tự do và bình đẳng về

tôn giáo được Nhà nước bảo vệ và hỗ trợ phát triển. Học viện Phật giáo Nam Tông

Khmer đã được thành lập và Kinh sách Phật giáo bằng tiếng Khmer được nhập khẩu

để phục vụ đào tạo chức sắc và sinh hoạt tôn giáo của người dân tộc Khmer. Người

dân tộc Chăm theo Hồi giáo và đạo Bàlamôn được tạo điều kiện thành lập các Ban

đại diện cộng đồng để hỗ trợ việc sinh hoạt tôn giáo, gìn giữ và phát triển tôn giáo

truyền thống. Kinh thánh song ngữ tiếng Việt – Banar/Êđê/Jrai cũng được phát hành

để đáp ứng nhu cầu của người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành.

Quyền tự do hội họp, lập hội

35. Quyền tự do lập hội, hội họp được quy định trong Hiến pháp (điều 69) và

được pháp luật bảo vệ bằng nhiều văn bản luật và dưới luật. Ngoài ra, Chính phủ

cũng đã ban hành Nghị định 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức,

hoạt động và quản lý hội nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công dân, tổ chức ở Việt Nam

thành lập hội và tạo cơ chế, chính sách cho hoạt động của các hội, đảm bảo quyền

lập hội của công dân. Hiện Việt Nam đang xây dựng các luật về lập hội, luật biểu

tình… nhằm bảo đảm tốt hơn quyền tự do của người dân.

36. Ở Việt Nam hiện có khoảng 460 hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp có

phạm vi hoạt động toàn quốc, liên tỉnh, thành phố (so với 380 hội năm 2009); 20 tổ

chức công đoàn ngành; trên 36.000 tổ chức hội, hiệp hội, câu lạc bộ ở cấp địa

phương, hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhìn chung, các hội đã

có nhiều đóng góp vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước; thể hiện vai trò là

cầu nối giữa các hội viên với cơ quan chính quyền, qua đó phản ánh nguyện vọng

của hội viên, hỗ trợ hội viên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng

lực cạnh tranh, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp thương mại, cung cấp thông tin tư

vấn về sản xuất và thị trường…

Hoạt động của các hội tập trung nhiều trên các mặt xã hội, nhân đạo, từ

thiện, đặc biệt là cung ứng dịch vụ trong một số lĩnh vực như giáo dục, đào tạo,

chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao, bảo vệ môi trường… Các hội cũng có vai trò

ngày càng tích cực trong việc tư vấn, phản biện đối với các chủ trương, chính sách

và pháp luật của Nhà nước, chương trình và dự án phát triển kinh tế, xã hội của

Chính phủ và của địa phương.

Page 185: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

181

Đảm bảo quyền của người đang chấp hành án phạt tù, người bị tạm giam,

tạm giữ đề điều tra

37. Việt Nam luôn tôn trọng các quyền con người cơ bản của những người bị

tạm giữ, tạm giam. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của những người bị tạm giữ, tạm giam. Người bị

tạm giữ, tạm giam có thể được gặp thân nhân, luật sư hoặc người bào chữa khác

theo quy định của pháp luật; được tiếp cận thông tin qua hệ thống báo chí, phát

thanh, truyền hình trong nhà tạm giữ, tạm giam; có quyền khiếu nại, tố cáo đối với

các hành vi vi phạm pháp luật và quy chế của nhà tạm giữ, tạm giam.

38. Những người đang chấp hành án phạt tù bị hạn chế một số quyền công

dân nhưng vẫn được pháp luật bảo vệ và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản. Năm

2011, Chính phủ ban hành Nghị định 117/2011/NĐ-CP quy định việc tổ chức quản

lý phạm nhân và đảm bảo chế độ đối với phạm nhân tại các trại giam, qua đó phạm

nhân đã được nâng cao các chế độ về ăn, mặc, ở, sinh hoạt và chăm sóc y tế.

39. Các trại giam thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục công dân cho

phạm nhân; phạm nhân được học tập trong thời gian chấp hành án, trong đó có các

chương trình học tập về chính trị, pháp luật, thời sự, phổ cập tiểu học và xóa mù

chữ, học nghề. Công tác phòng, chữa bệnh cho phạm nhân được quan tâm đặc biệt.

Các bệnh xá trại giam được cải tạo, đầu tư nâng cấp; đội ngũ y, bác sỹ được đào tạo

chuyên nghiệp. Nhiều phạm nhân ốm đau, mắc bệnh hiểm nghèo được tạm đình chỉ

thi hành án để chữa bệnh. Ban Quản lý các trại giam cũng phối hợp với chính quyền

địa phương đẩy mạnh tuyên truyền phòng chống ma túy, lây nhiễm HIV, lao và các

bệnh truyền nhiễm khác. Phạm nhân có quyền lao động trên cơ sở sức khỏe cho

phép, thời gian lao động được quy định theo Bộ Luật Lao động; kết quả lao động

được bổ sung vào khẩu phần ăn hàng ngày hoặc tính vào thu nhập cá nhân của

phạm nhân.

40. Từ năm 2009 đến nay, thực hiện Luật đặc xá, Nhà nước Việt Nam đã tiến

hành bốn đợt đặc xá với hơn 48.000 phạm nhân được tha tù trước hạn, hơn 600

người được hoãn thi hành án hoặc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Nhân dịp

Quốc khánh 2013, Việt Nam đã tiến hành đợt đặc xá lớn, tha tù trước hạn cho

15.449 phạm nhân đang chấp hành án phạt tù và 78 phạm nhân đang được hoãn

hoặc tạm đình chỉ thi hành án. Công tác đặc xá được thực hiện công khai, công bằng

và minh bạch, thể hiện tính khoan hồng và nhân đạo đối với những người từng

Page 186: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

182

phạm tội nhưng đã biết ăn năn, hối cải, được nhân dân cả nước và dư luận quốc tế

ủng hộ và đánh giá cao. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số

80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng

đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù, qua đó giúp đỡ, tạo điều kiện cho

những người này nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Quyền được xét xử công bằng

41. Tại Việt Nam, hoạt động tố tụng được tiến hành trên nguyên tắc bảo đảm

cho người tham gia tố tụng được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một

cách đầy đủ, công bằng, dân chủ; bảo đảm việc xét xử được công khai, minh bạch,

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền.

42. Tòa án hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tất cả các

thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm (đối với Tòa án Nhân dân tối cao) hoặc

Chánh án Tòa cấp trên bổ nhiệm thay vì được bầu bởi cơ quan lập pháp cùng cấp

như quy định trước đây. Luật pháp quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp

luật; chỉ có thông qua hoạt động xét xử, Tòa án mới ra phán quyết một người có tội

hay không có tội bằng một bản án; không có ai bị coi là có tội và phải chịu hình

phạt khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án. Các phán quyết của Tòa án, quyết

định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao được đăng

công khai và in thành sách, một mặt giúp xây dựng môi trường pháp lý công khai,

minh bạch, mặt khác giúp công chúng giám sát công tác xét xử của Tòa án, giúp

cho việc xét xử được công bằng.

B. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

43. Mặc dù bị ảnh hưởng mạnh bởi cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn

cầu nhưng trong giai đoạn 2009-2012, Việt Nam vẫn đạt một số kết quả đáng ghi

nhận về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Tốc

độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá, trung bình 5,5-6%/năm. Nhờ tăng

trưởng kinh tế, mỗi năm Việt Nam tạo thêm hơn 1 triệu việc làm; giáo dục, y tế và

an sinh xã hội ngày càng được đảm bảo tốt hơn.

Việt Nam đã đạt trước thời hạn nhiều Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs), được

quốc tế đánh giá là một trong những điển hình về thực hiện MDGs, nhất là xóa đói,

giảm nghèo. Năm 2010, Báo cáo chỉ số phát triển con người của UNDP ghi nhận

Việt Nam là một trong mười nước có mức tăng thu nhập cao nhất trong 40 năm qua.

Page 187: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

183

Tính từ năm 2008 đến năm 2012, thu nhập bình quân đâu người tăng từ 1.024 đô la

Mỹ/người/năm lên 1.540 đô la Mỹ/người/năm.

Đảm bảo an sinh xã hội

44. Những tiến bộ trong việc đảm bảo an sinh xã hội được thể hiện rõ qua

việc xây dựng và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm, góp phần giảm bớt khó

khăn, ổn định cuộc sống cho người dân. Việt Nam đã thiết kế các nhóm chính sách

ngày càng đồng bộ hơn về phát triển thị trường lao động, thực hiện chế độ bảo hiểm

xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế,

giảm nghèo và hỗ trợ người dân tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2011 đã có

trên 10,2 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội dưới các hình thức bắt buộc và tự

nguyện; 52,4 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 63% dân số cả nước; 8,1

triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tính riêng năm 2012, cả nước có

432.356 người được hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng.

45. Đối với những nhóm xã hội cần sự trợ giúp như người nghèo hoặc cận

nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, trong giai đoạn 2011 - 2012, Nhà

nước đã chi 22.303 tỷ đồng (hơn 1 tỷ đô la Mỹ) để hỗ trợ mua bảo hiểm y tế. Nhờ

đó, trong hai năm qua, 29 triệu lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số được cấp

thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, người dân thuộc diện cận nghèo tham gia mua bảo hiểm

y tế được hỗ trợ bằng 70% mệnh giá. Nhà nước cũng chi 11.844 tỷ đồng (trên 500

triệu đô la Mỹ) để thực hiện chính sách giảm nghèo trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo

như miễn giảm học phí cho con hộ nghèo, hộ chính sách, trợ cấp học bổng, hỗ trợ

tiền ăn trưa cho trẻ đến 5 tuổi. Nhờ đó, trong giai đoạn 2011 – 2012, đã có trên bốn

triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, hỗ trợ điều kiện học tập và trợ

cấp tiền ăn, góp phần làm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học và tăng tỷ lệ trẻ em đến trường

đúng độ tuổi.

Phát triển thị trường lao động, thúc đẩy việc làm

46. Tại Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến quý IV/2012,

có 52,79 triệu người trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên), đem lại lợi thế lớn

về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội, song cũng tạo nên sức ép lớn về

nhu cầu việc làm mỗi năm. Tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm

khoảng 46%, trong đó lao động đã qua đào tạo nghề 33,5%, bước đầu đáp ứng nhu

cầu thị trường lao động.

Page 188: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

184

47. Để phát triển thị trường lao động và tạo việc làm, Nhà nước chú trọng

củng cố hệ thống chính sách, pháp luật về lao động và nâng cao hiệu quả các biện

pháp triển khai trên thực tế. Việc sửa đổi Bộ luật Lao động (có hiệu lực từ 1/5/2013)

và ban hành Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (có hiệu lực từ năm 2009) là những

bước phát triển mới về hoàn thiện khung chính sách trong lĩnh vực này. Bên cạnh

đó, các chương trình phát triển thị trường lao động chủ động, nhất là các biện pháp

kết nối cung-cầu lao động được cải thiện. Nhờ đó, các kênh giao dịch trên thị

trường lao động ngày càng đa dạng, trong đó mạng lưới cơ sở dịch vụ việc làm đã

phát triển với hai loại hình Trung tâm giới thiệu việc làm Nhà nước (130 trung tâm)

và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm tư nhân (trên 100 doanh nghiệp). Trung tâm

dự báo và thông tin về thị trường lao động bước đầu hình thành và vận hành tốt.

Quỹ Quốc gia về việc làm đã góp phần tạo việc làm cho khoảng 160.000 lao động,

tạo điều kiện cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương (lao động khuyết tật, người dân

tộc thiểu số, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp) có cơ

hội vay vốn phát triển kinh doanh.

48. Các chương trình phát triển thị trường lao động chủ động đã hỗ trợ người

dân có việc làm và tăng thu nhập. Tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước giảm rõ rệt từ

2,9% năm 2009 xuống còn 1,99% năm 2012. Riêng năm 2012, đã tạo thêm 1,52

triệu việc làm, trong đó 80 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

lao động. Thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2010 tăng gấp 3,5 lần

so với năm 2000.

Xóa đói, giảm nghèo

49. Giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được xác định là ưu tiên hàng

đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc bảo đảm các quyền con người và các Mục

tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (MDGs). Trong những năm gần đây, công

cuộc giảm nghèo tại Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Nhờ các thành tựu

về tăng trưởng kinh tế và chính sách an sinh xã hội, Việt Nam đã hoàn thành trước

thời hạn MDG về xóa đói, giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ

13,7% năm 2008 xuống còn 9,6% năm 2012. Thu nhập bình quân của hộ nghèo

tăng gần 2 lần trong 5 năm qua. Năm 2012, số lượt hộ thiếu đói giảm 27,6% và tỷ lệ

hộ nghèo cả nước cũng giảm 1,76% so với năm 2011. Xu thế giảm mạnh được thể

hiện ở cả 3 thước đo nghèo quan trọng: tỉ lệ nghèo, khoảng cách nghèo và mức độ

Page 189: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

185

nghiêm trọng của nghèo. Điều quan trọng là không chỉ một số lượng lớn người dân

thoát nghèo mà mức sống và chất lượng sống của họ được cải thiện đáng kể.

50. Các chương trình và chính sách giảm nghèo của Chính phủ tập trung trên

ba chiến lược chính: (i) thúc đẩy các hoạt động sản xuất và sinh kế để tăng thu nhập

cho người nghèo, (ii) tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch

vụ xã hội, (iii) tăng cường năng lực và nâng cao nhận thức ở vùng nghèo. Những

chiến lược này được hiện thực hóa bằng các chương trình quốc gia hỗ trợ giảm

nghèo và phát triển xã hội, trong đó tập trung vào 5 nhóm chính sách: tín dụng, phát

triển sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế. Nhờ đó, người nghèo

được tiếp cận với các nguồn lực (vốn, đất sản xuất, công nghệ, thị trường…) và các

dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý…). Tính đến

2010, 77,2% người nghèo được hưởng lợi từ các chương trình và chính sách hỗ trợ

của chính phủ, cho thấy mức độ phổ cập chính sách rộng khắp trên cả nước.

51. Chương trình giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP

của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo là

chương trình lớn và quan trọng, có tác động mạnh đến giảm nghèo và nâng cao điều

kiện sống của người nghèo. Chương trình này đã lồng ghép một loạt các hạng mục

phát triển kinh tế - xã hội như: phát triển cơ sở hạ tầng công cộng cấp xã, tín dụng

cho người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và

các chương trình khuyến nông. Với chính sách toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh

quan trọng của đời sống và hướng đến nhóm dân cư dễ bị tổn thương và thiệt thòi

nhất ở vùng sâu, vùng xa, các chương trình này đã đạt được mục tiêu chung là giảm

nghèo, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện sống của nhóm cư dân. Kết quả đánh giá

tác động qua 3 năm thực hiện cho thấy tỉ lệ nghèo đã giảm 4-5%/năm và khả năng

tiếp cận dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế, điện, nước sạch của các hộ gia đình tăng

đáng kể.

Đảm bảo nhà ở cho người thu nhập thấp

52. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, chương trình phát triển nhà ở

cho các đối tượng có khó khăn về nhà ở như người lao động tại các khu công

nghiệp, học sinh, sinh viên, người nghèo ở nông thôn, người có thu nhập thấp tại

khu vực đô thị... Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế,

chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên, công nhân lao

động tại các khu công nghiệp và người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Thông

Page 190: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

186

qua các chương trình đó, đến nay đã có hơn 530.000 hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở;

có 62 dự án nhà ở cho công nhân với tổng quy mô 11.719 căn hộ được hoàn thành,

đáp ứng chỗ ở cho 67.600 công nhân lao động tại các khu công nghiệp; 163 khối

nhà cho sinh viên đã được đưa vào sử dụng, đáp ứng khoảng 140.000 chỗ ở (dự

kiến đến hết năm 2013 sẽ đáp ứng được chỗ ở cho 330.000 sinh viên); 56 dự án nhà

cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị được triển khai, đáp ứng cho khoảng

130.000 hộ thu nhập thấp có nhu cầu về nhà ở.

53. Việt Nam cũng đang nghiên cứu, soạn thảo Luật Nhà ở sửa đổi để trình

Quốc hội thông qua vào năm 2014, trong đó tập trung vào các chính sách hỗ trợ cho

người nghèo (cả đô thị và nông thôn), người thu nhập thấp và các đối tượng ưu tiên

khác như công nhân tại khu công nghiệp, học sinh, sinh viên… Trong thời gian tới,

Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách về phát triển nhà ở xã hội, nhà cho thuê ở

khu vực đô thị và nhà ở tái định cư; thúc đẩy các biện pháp tăng cường trách nhiệm

của Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc xây dựng nhà ở cho

người nghèo nhằm hỗ trợ các đối tượng khó khăn có nhà ở, ổn định cuộc sống.

Chăm sóc y tế, giáo dục

54. Việt Nam xác định chăm sóc sức khỏe cộng đồng là ưu tiên hàng đầu

trong các chiến lược phát triển, chương trình mục tiêu quốc gia và đã đạt được

nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này. Hiện nay, năng lực của hệ thống các cơ sở y tế

được củng cố và phát triển. 100% xã có trạm y tế, 74% số xã có bác sĩ. Tính đến

năm 2012, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt khoảng 68%. Việt Nam đã

giảm đáng kể tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh: 23/1000 ca năm 2012, giảm 2/3 so với năm

1990. Việt Nam đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong phòng, chống

và kiểm soát bệnh sốt rét. Công tác kiểm soát và phòng chống HIV/AIDS cũng có

những tiến bộ trong việc xác định các ca nhiễm bệnh và cung cấp phác đồ điều trị

kịp thời.

55. Giáo dục và đào tạo cũng đã có chuyển biến tích cực. Việt Nam đã hoàn

thành phổ cập giáo dục tiểu học, đang tiến tới hoàn thành phổ cập giáo dục trung

học cơ sở. Năm 2012, tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học là 97,7% và bậc

trung học cơ sở là 87,2%. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, các chỉ số phát

triển về cơ sở vật chất được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập ngày càng

tăng của người dân ở các lứa tuổi, vùng miền. Chất lượng đào tạo đã có nhiều

chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực qua đào tạo

Page 191: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

187

phục vụ phát triển kinh tế. Chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo đã đạt một số kết

quả, thể hiện ở việc huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học,

đầu tư mở trường, bổ sung kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau.

C. Quyền của các nhóm yếu thế/ dễ bị tổn thương

Người cao tuổi

56. Số lượng người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay là khoảng 7,5 triệu người,

chiếm khoảng 8,7% dân số cả nước. Việc bảo đảm quyền của người cao tuổi được

Chính phủ quan tâm, thông qua việc thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp

luật, các chương trình quốc gia, các đề án hoặc dự án hỗ trợ.

57. Luật Người cao tuổi đã được Quốc hội ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ

ngày 1/7/2010. Luật đã thể chế hoá chính sách của Việt Nam về người cao tuổi một

cách hệ thống, đầy đủ và toàn diện, đảm bảo cho sự tham gia vào hoạt động xã hội

của người cao tuổi, đồng thời khuyến khích sự quan tâm của các tổ chức xã hội, cá

nhân trong công tác chăm sóc người cao tuổi. Đây là bước cụ thể hóa cam kết của

Chính phủ về thực hiện Tuyên bố chính trị và Chương trình hành động quốc tế

Madrid năm 2002, phù hợp với chính sách chung của nhiều quốc gia và của Liên

hợp quốc về người cao tuổi. Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chương trình hành

động quốc gia về Người cao tuổi giai đoạn 2012-2020 với mục tiêu nâng cao chất

lượng chăm sóc người cao tuổi và phát huy vai trò của người cao tuổi trong xã hội,

phù hợp với tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

58. Trên thực tế, người cao tuổi được chăm sóc sức khỏe thông qua việc định

kì khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế nói chung và hệ thống các bệnh viện lão khoa;

được chăm lo đầy đủ hơn về đời sống tinh thần trong hoạt động văn hóa, giáo dục,

thể dục, thể thao, giải trí, du lịch. Người đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và

bảo hiểm xã hội sẽ được trợ cấp hàng tháng, được hưởng bảo hiểm y tế, được hỗ trợ

chi phí mai táng khi qua đời... Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm

tạo điều kiện tốt nhất để người cao tuổi phát huy vai trò phù hợp với khả năng của

mình thông qua việc bày tỏ ý kiến, nguyện vọng cống hiến trong khoa học, sản

xuất, kinh doanh…

Bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ

59. Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng xây dựng và phát triển các chính

sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện để đảm bảo quyền

Page 192: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

188

của phụ nữ. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan

trọng trong việc thúc đấy quyền phụ nữ như: xây dựng và ban hành các văn bản

pháp quy thể hiện nguyên tắc về bình đẳng giới và không phân biệt đối xử theo quy

định của Luật Bình đẳng giới 2006 và Công ước CEDAW; lồng ghép bình đẳng giới

trong việc xây dựng và thực thi pháp luật; ban hành Chiến lược quốc gia về bình

đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai

đoạn 2011-2015 với mục tiêu nâng cao nhận thức, thu hẹp khoảng cách về giới và

nâng cao vị thế của phụ nữ; tích cực thực hiện các sáng kiến quốc tế và khu vực

nhằm thúc đẩy việc bảo vệ quyền của phụ nữ và chống phân biệt đối xử đối với phụ

nữ. Bộ luật Lao động sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2012 quy định tăng

thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng.

60. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được tập

trung triển khai ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình

đẳng cao, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong

gia đình, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp

ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. Chính phủ cũng triển khai các giải pháp trong

việc thực thi pháp luật cũng như hợp tác quốc tế nhằm vượt qua những thách thức

chủ yếu liên quan tới nhận thức về bình đẳng giới; xoá bỏ bạo lực giới và bạo lực

gia đình; khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn (việc làm, thu nhập, địa vị xã

hội…). Tỉ lệ nữ tham gia Quốc hội khóa XIII (2011-2016) đạt 24,4%, đưa Việt Nam

nằm trong nhóm nước có tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao ở khu vực và thế giới (đứng

thứ 43/143 nước trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN). Phụ nữ đảm nhiệm nhiều vị

trí lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Phó Chủ tịch nước, hai Phó Chủ tịch Quốc

hội, có hai nữ Bộ trưởng; 14/30 Bộ hoặc cơ quan trực thuộc Chính phủ có Thứ

trưởng là nữ. Tỉ lệ lao động có việc làm là nữ giới chiếm 49%. Tính đến hết năm

2011, tỉ lệ phụ nữ biết chữ là 92%; 80% trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân

tộc thiểu số được đi học đúng tuổi. Tỉ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50%; 30,53% Thạc

sỹ và 17,1% Tiến sỹ là nữ giới. Nỗ lực bảo đảm bình đằng giới của Việt Nam đã

được quốc tế ghi nhận: theo xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất

bình đẳng giới (GII), Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc

gia năm 2010.

61. Việt Nam nghiêm túc triển khai thực hiện Công ước quốc tế về xoá bỏ

mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) trên cả phương diện thúc đẩy

Page 193: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

189

hoàn thiện luật pháp và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tiễn. Chính phủ Việt

Nam cũng đã xây dựng và hoàn thành báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện công

ước CEDAW giai đoạn 2004 – 2010 trên cơ sở kết quả tham vấn rộng rãi với các cơ

quan, tổ chức có liên quan và các tầng lớp xã hội.

Trẻ em

62. Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành

động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020, hướng tới thực hiện mục tiêu tổng

quát là xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để thực hiện

ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em; từng bước giảm khoảng cách chênh lệch về

điều kiện sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các vùng, miền; nâng cao chất

lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi trẻ em.

63. Việt Nam là nước đầu tiên tại Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới

tham gia Công ước về Quyền trẻ em (CRC) và Nghị định thư bổ sung số 1 và số 2.

Nhà nước Việt Nam đã và đang có những nỗ lực lớn trong việc triển khai thực hiện

trên phương diện hoàn thiện chính sách pháp luật, nội luật hoá các quy định của hệ

thống pháp luật quốc tế về quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật quốc gia, và tổ chức

triển khai thực hiện trong thực tế để bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em.

Việt Nam cũng tích cực tham gia các sáng kiến khu vực và quốc tế nhằm thực hiện

việc bảo vệ các quyền của trẻ em; tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế và thực hiện các

cam kết quốc tế có liên quan.

64. Các chương trình, chính sách có tính chiến lược như tiêm chủng cho trẻ

em, hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, phòng

chống lao, phòng chống HIV/AIDS... đã mang lại hiệu quả tích cực. Tỷ lệ tử vong ở

trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 58‰ (1990) xuống còn 24 ‰ (2011), dưới 1 tuổi từ 31‰

(2001) xuống còn 15,5 ‰ (2011).

65. Chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 sẽ tập trung

vào các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động xã hội để nâng cao nhận thức

và chuyển đổi hành vi thực hiện các quyền của trẻ em; xây dựng và thực hiện các

chương trình, kế hoạch bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; hoàn thiện hệ thống

pháp luật, chính sách liên quan đến công tác bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em và

thực hiện quyền trẻ em; khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế,

tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, gia đình, cộng đồng, người dân và trẻ

em tham gia bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; củng cố hệ thống tổ chức, nâng cao

Page 194: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

190

năng lực đội ngũ cán bộ làm việc với trẻ em ở các cấp, các ngành; kiện toàn và phát

triển mạng lưới cộng tác viên, tình nguyện viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cơ sở;

nâng cao chất lượng công tác theo dõi, giám sát và đánh giá.

Người khuyết tật

66. Việt Nam đã ký Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2008 và dự

kiến hoàn thành thủ tục phê chuẩn trong năm 2014, cũng như đang nỗ lực xây dựng

và hoàn thiện luật pháp, chính sách nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết tật.

Trong lộ trình phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tất, Việt Nam đã ban

hành Luật về người khuyết tật năm 2010 và xây dựng các văn bản thi hành. Trong

giai đoạn 2010-2013, đã có 13 văn bản dưới Luật được ban hành có liên quan tới

người khuyết tật trong các lĩnh vực truyền thông, thể thao, du lịch, tiếp cận an sinh

xã hội và thúc đẩy thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ.

67. Chính sách chung của Nhà nước là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi

cho người khuyết tật thực hiện bình đẳng về các quyền về chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội và phát huy khả năng của họ để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng,

tham gia các hoạt động xã hội. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp

chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các

quyền khác theo quy định của pháp luật.

68. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai

đoạn 2012 - 2020 nhằm đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết

tật theo quy định của Luật Người khuyết tật, đồng thời thực hiện cam kết của Chính

phủ Việt Nam về 7 lĩnh vực ưu tiên trong Thập kỷ thứ II Thiên niên kỷ Biwako về

người khuyết tật khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đề án chia làm 2 giai đoạn

với những chỉ tiêu cụ thể nhằm thúc đẩy sự hòa nhập của người khuyết tật trong các

lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, xây dựng, giao thông, công nghệ thông tin, văn

hóa, thể thao, pháp lý… Bên cạnh đó, Chính phủ cũng triển khai một loạt các chính

sách trợ giúp người khuyết tật như đề án trợ giúp phục hồi chức năng cho người tâm

thần; tham gia và thực hiện các sáng kiến của quốc tế và khu vực; tăng cường sự

tham gia của người khuyết tật và bảo vệ quyền của người khuyết tật; hỗ trợ thành

lập các tổ chức tự lực của người khuyết tật; trợ giúp đào tạo nghề và tạo việc làm;

cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng các công trình văn hoá, công cộng và các

dịch vụ xã hội cơ bản khác của người khuyết tật.

Người dân tộc thiểu số

Page 195: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

191

69. Nhà nước Việt Nam thực hiện đường lối nhất quán là các dân tộc bình

đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Hệ thống pháp luật Việt Nam

liên tục được hoàn thiện, đáp ứng cơ bản chính sách phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước, trong đó có việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các dân tộc

thiểu số. Người dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị,

quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham chính ngày

càng tăng, số lượng đại biểu Quốc hội là dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao hơn

so với tỷ lệ dân số. Trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là

người dân tộc thiểu số chiếm từ 15,6% đến 17,27%, trong khi người dân tộc thiểu

số chỉ chiếm 14,3% dân số. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân

dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2011 - 2016 là 18%, cấp huyện là 20%, cấp xã là 22,5%.

70. Trong giai đoạn 2006 – 2012, Nhà nước đã có 160 văn bản quy phạm

pháp luật về chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, với

kinh phí từ ngân sách lên tới 55.000 tỷ đồng (tương đương 2,6 tỷ đô la Mỹ). Với

nguồn lực như vậy, nhiều chính sách đã phát huy hiệu quả tốt như Nghị quyết số

30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo bền vững; chính sách hỗ trợ nhà ở

cho hộ nghèo; Chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc miền

núi, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng có đông người dân tộc thiểu số giảm từ 32,6% năm 2009

xuống còn 24,3% năm 2012. Cơ sở hạ tầng có sự cải thiện rõ rệt: 98,6% xã có

đường ô tô; 99,8% số xã và 95,5% số thôn được sử dụng điện sinh hoạt.

71. Năm 2012, 100% xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt

chuẩn phổ cập trung học cơ sở, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc giáo dục tiểu học

bình quân cả nước đạt gần 98%, trong đó 95% trẻ em dân tộc thiểu số được đến

trường. Tất cả các tỉnh vùng có đông dân tộc thiểu số đều có trường trung học

chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề và đào tạo nghiệp vụ trong các lĩnh vực

nông nghiệp, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế. Năm 2010, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 82 quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu

số. Năm 2012, đã có 32 tỉnh tổ chức dạy và học 12 tiếng dân tộc thiểu số. Tính đến

hết năm 2012, cả nước có 2.629 lớp học chữ tiếng dân tộc với 136.600 học sinh. Bộ

Giáo dục và Đào tạo đang hợp tác với UNICEF thí điểm thực hiện giáo dục song

ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà Vinh, Gia Lai bước đầu đạt kết

quả tốt.

Page 196: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

192

72. Mạng lưới y tế phát triển nhanh chóng ở vùng có đông dân tộc thiểu số,

hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư, 99,39% xã

có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến năm 2011 có 94,2% số thôn

có cán bộ y tế. Đồng bào dân tộc được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ,

đồng bào nghèo được khám chữa bệnh miễn phí. Các dịch bệnh ở vùng dân tộc và

miền núi như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế; giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy

dinh dưỡng...

73. Năm 2011, Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hoá

các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020", thể hiện chính sách của Nhà nước

Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số. Đề

án tập trung ưu tiên phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người. Người dân

tộc thiểu số ở tất cả các vùng miền được tham gia hoạt động văn hóa mang bản sắc

các dân tộc, 92% người dân được nghe đài phát thanh, 85% được xem truyền hình,

nhiều chương trình phát bằng tiếng dân tộc thiểu số như: Mông, Thái, Êđê, Chăm,

Khmer... Nhiều di sản văn hóa các dân tộc được công nhận là di sản văn hoá cấp

quốc gia như: "Lễ hội Lồng Tồng" của dân tộc Tày, "Lễ Cấp sắc" của dân tộc Dao.

Tổ chức UNESCO đã công nhận một số di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số ở

Việt Nam là di sản văn hóa thế giới như: "Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây

Nguyên", "Thánh địa Mỹ Sơn"...

74. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và

miền núi có chuyển biến tích cực, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người

dân. Thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, 100% các tỉnh, thành phố đã có các Trung tâm

trợ giúp pháp lý. Các Trung tâm này cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bằng các

hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng… để giúp đỡ người nghèo, người dân

tộc thiểu số giải quyết các vướng mắc về pháp luật. Từ năm 2009 đến hết 2012, các

tổ chức trợ giúp pháp lý đã thực hiện trợ giúp hơn 200.000 lượt đối tượng là người

dân tộc thiểu số, thành lập gần 2.000 câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở các xã để phổ

biến giáo dục pháp luật cho người dân, trong đó có người dân tộc thiểu số.

IV. Những ưu tiên và cam kết trong việc tiếp tục thúc đẩy và bảo về các

quyền con người ở Việt Nam

A. Các thách thức còn tồn tại

75. Khuôn khổ pháp luật về quyền con người ở Việt Nam mặc dù đang từng

bước được kiện toàn nhưng vẫn chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự

Page 197: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

193

thay đổi của cuộc sống, chậm được sửa đổi, bổ sung. Năng lực xây dựng thể chế,

quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật và việc tuyên truyền pháp luật về

quyền con người đến các ngành, các cấp, các địa phương vẫn còn hạn chế, khiến

cho việc triển khai còn khó khăn, bất cập. Bản thân người dân chưa hiểu biết đầy đủ

về các quy định của pháp luật để thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và hiệu

quả. Việc kiểm tra đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo, dẫn

đến tình trạng có những vi phạm chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.

76. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ

môi trường bên ngoài, đặc biệt là từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Là một nước

đang phát triển, Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt các nguồn lực

dành cho phát triển, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ và bảo đảm

các quyền của các nhóm yếu thế trong xã hội. Những rủi ro về biến đổi khí hậu,

thiên tai, dịch bệnh, mà đối tượng chịu tác động nặng nề nhất chính là các nhóm xã

hội yếu thế, đặc biệt là người nghèo, vẫn là một thách thức không nhỏ đối với Việt

Nam. Do thiếu hụt nguồn lực, tầm bao phủ của hệ thống an sinh xã hội hiện nay còn

khiêm tốn, nhất là đối với người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Phần lớn

người nghèo sống ở các khu vực nông thôn và miền núi, tham gia vào các hoạt động

nông nghiệp và ít nhận được hỗ trợ từ các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

77. Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc thực hiện MDGs

về giảm nghèo nhưng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là giải

quyết vấn đề bất bình đẳng và giảm nghèo bền vững. Phần lớn người nghèo là cư

dân nông thôn và người dân tộc thiểu số. Do người dân tộc thiểu số cư trú ở những

vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về các điều kiện sản xuất, phát triển kinh tế, giao

thông, tiếp cận thị trường nên tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo còn chiếm khá cao.

Hơn nữa, giảm nghèo hiện nay chưa bền vững do một số hộ gia đình mặc dù đã

thoát nghèo nhưng khả năng tái nghèo rất cao do thiên tai, thời tiết, tai nạn lao động,

giao thông... Năng lực tài chính yếu kém cùng với nguồn lực bảo trợ xã hội hạn chế

khiến cho các hộ gia đình cận nghèo dễ bị rơi trở lại cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó,

nghèo đô thị đang nổi lên là một vấn đề đáng lo ngại do dòng người di cư từ nông

thôn ra các đô thị ngày một tăng.

78. Giáo dục là lĩnh vực được Nhà nước coi trọng và đầu tư lớn, tuy nhiên

trên thực tế còn nhiều tồn tại chưa được khắc phục như sự bất bình đẳng trong tiếp

Page 198: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

194

cận giáo dục, khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng

sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; cải cách giáo dục trong công tác giảng dạy và

học tập, cải tiến thiết bị, cơ sở vật chất trường học… Giáo dục về nhân quyền trong

các cấp học chưa được đầu tư thỏa đáng. Trong chương trình giáo dục phổ thông,

nội dung giảng dạy về quyền con người nói chung và các quyền cụ thể còn sơ sài và

chưa phù hợp với cấp học và độ tuổi.

79. Các quan niệm lạc hậu, cổ hủ vẫn còn tồn tại khiến cho nhiều nhóm dễ bị

tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số chưa ý thức

và chủ động trong việc bảo vệ các quyền của chính mình. Tư tưởng "trọng nam hơn

nữ" là trở lực cho nhận thức và thực hiện bình đẳng giới, định kiến xã hội vẫn tạo

nên sự kỳ thị nhất định đối với người dân tộc thiểu số, người khuyết tật… Những

hạn chế về nguồn lực khiến việc thực hiện các chương trình và chính sách đạt hiệu

quả chưa cao, đặc biệt là trong việc tăng cường dịch vụ hỗ trợ và khả năng tiếp cận

các dịch vụ xã hội của trẻ em, người khuyết tật, người già…

B. Những hướng ưu tiên

80. Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cường công tác kiện toàn hệ thống pháp luật

trên nguyên tắc phát huy nhân tố con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền

và tự do cơ bản của người dân, đảm bảo hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù

hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc tế. Chính phủ nỗ lực đẩy mạnh các chương

trình cải cách hành chính nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, phát

huy dân chủ và nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tăng cường các thể chế

quốc gia bảo vệ quyền con người, trong đó có việc nghiên cứu khả năng thành lập

Cơ quan nhân quyền quốc gia.

81. Khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội được xếp là một trong

những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của người dân. Thực tế cho

thấy việc giảm thu nhập, lạm phát và bệnh tật là ba trong số các nguyên nhân chính

làm giảm mức sống của người dân. Do đó, an sinh xã hội là giải pháp bảo vệ cho

người dân, đặc biệt là người nghèo. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung các

chính sách để tăng khả năng tiếp cận của các nhóm yếu thế vào hệ thống an sinh xã

hội, nghiên cứu khả năng phát triển loại hình bảo hiểm nông nghiệp.

82. Chất lượng giáo dục là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao

năng suất, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và phát triển xã hội. Nhận thức được

tầm quan trong của phát triển nguồn nhân lực, Chính phủ đã đưa ra các chính sách

Page 199: NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI …hcma.vn/Uploads/2015/10/4/tran_thi_hoe_la.pdf · NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN

195

quốc gia và sẽ tiếp tục đầu tư hơn nữa cho hệ thống giáo dục hướng đến hai mục

tiêu: (i) tăng tỉ lệ nhập học đúng tuổi ở mọi cấp giáo dục; và (ii) nâng cao chất

lượng giáo dục. Giáo dục về quyền con người là hướng ưu tiên đặc biệt nhằm nâng

cao nhận thức của người dân và năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật trong

việc đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân.

83. Chính phủ ghi nhận tầm quan trọng của bình đẳng giới trong phát triển

kinh tế, xã hội thông qua việc xây dựng hai chương trình quy mô quốc gia là Chiến

lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về

bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015. Những chính sách này đã khẳng định bình

đẳng giới là yếu tố tiền đề để xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh, cũng như

đẩy mạnh chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội.

Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tập trung các chính sách và chiến lược nhằm tăng

cường nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi thái độ và tư tưởng về giới vốn là định

kiến trong xã hội; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết vấn đề bình đẳng

giới, đặc biệt là ở các nhóm yếu thế và trong các lĩnh vực có tính chiến lược như

giáo dục, y tế, việc làm.

84. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hướng đến một xã hội khỏe mạnh và

được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần,

là một trong những hướng ưu tiên cao của Chính phủ. Nỗ lực của Chính phủ thời

gian tới sẽ tập trung vào các vấn đề: giảm tỉ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là ở trẻ sơ

sinh, tăng cường hiệu quả thực hiện các Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chiến

lược dinh dưỡng quốc gia, Chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản, Chiến lược

quốc gia về phòng chống HIV/AID.

85. Với mục đích tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực phục

vụ cho việc bảo đảm tốt hơn các quyền con người, Chính phủ Việt Nam chủ trương

tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên

môn của Liên hợp quốc có liên quan đến quyền con người; tham gia tích cực và có

trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền, hợp tác đầy đủ và xây dựng

với các Thủ tục đặc biệt, trong đó có việc xem xét tích cực các đề nghị vào thăm;

thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân quyền quốc tế mà

Việt Nam là thành viên; tăng cường hiệu quả các cơ chế đối thoại song phương

thường kỳ về quyền con người.