64
Thông tin TUYÊN GIÁO ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ càng các đề án và đóng góp ý kiến dồi dào, để đảm bảo Đại hội thành công thật tốt đẹp…”. Đại hội Đảng “là một dịp rèn luyện chính trị rất quan trọng và rất rộng khắp cho toàn Đảng. Cho nên tất cả các đảng viên cần phải hăng hái tham gia thảo luận”.

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

  • Upload
    others

  • View
    11

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Thông tin TUYÊN GIÁO

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

“Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ càng các đề án và đóng góp ý kiến dồi dào, để đảm bảo Đại hội thành công thật tốt đẹp…”.

Đại hội Đảng “là một dịp rèn luyện chính trị rất quan trọng và rất rộng khắp cho toàn Đảng. Cho nên tất cả các đảng viên cần phải hăng hái tham gia thảo luận”.

Trích bài viết của Bác Hồ “Một cách thảo luận dự thảoĐiều lệ Đảng” đăng trên Báo Nhân dân ngày 3/4/1960

Page 2: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO
Page 3: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 3

Từ sau khi tái lập tỉnh năm 1997, Quảng Nam nằm trong nhóm những tỉnh nghèo nhất nước, đời sống Nhân dân còn nhiều khó

khăn, tỷ lệ đói nghèo cao, kết cấu hạ tầng yếu kém, nhiều xã ở miền núi không điện, không đường, không trường, không trạm,... Sau 18 năm nỗ lực phấn đấu, đến nay Quảng Nam đã vươn lên trở thành địa phương phát triển khá ở khu vực miền Trung, hòa mình cùng sự phát triển chung của đất nước. Có thể nhận thấy một số kết quả nổi bật như: kinh tế liên tục giữ được tốc độ tăng trưởng khá, quy mô và năng lực sản xuất của nền kinh tế không ngừng mở rộng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế (năm 2015 chiếm 84% GDP của tỉnh). Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư phát triển. Văn hóa-xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống Nhân dân không ngừng được cải thiện. Quốc phòng-an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Năng lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp được nâng cao; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên, thể hiện rõ vai trò hạt nhân chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, cơ quan, đơn vị và từng bước đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Đạt được những thành tựu trên là do Đảng bộ, chính quyền, quân và dân toàn tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, truyền thống văn hóa, cách mạng, kiên trì và bền bỉ phấn đấu thực hiện các cơ chế, chính sách đổi mới của Đảng; nghiên

cứu tìm hướng đi mới, xác định những vấn đề đột cứu tìm hướng đi mới, xác định những vấn đề đột phá phù hợp với đặc điểm và tình hình thực tế của phá phù hợp với đặc điểm và tình hình thực tế của tỉnh, vừa tranh thủ được sự chỉ đạo, giúp đỡ của tỉnh, vừa tranh thủ được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương, vừa phát huy nội lực địa phương để Trung ương, vừa phát huy nội lực địa phương để xây dựng và phát triển. xây dựng và phát triển.

Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân toàn tỉnh quyết tâm phát huy truyền thống, nỗ toàn tỉnh quyết tâm phát huy truyền thống, nỗ lực phấn đấu khắc phục những mặt hạn chế, tập lực phấn đấu khắc phục những mặt hạn chế, tập trung thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại trung thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra là: hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra là: Tạo bước chuyển mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng bước chuyển mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; phát quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; phát huy dân chủ, truyền thống cách mạng, bản sắc văn huy dân chủ, truyền thống cách mạng, bản sắc văn hóa; huy động mọi nguồn lực và tạo bước đột phá hóa; huy động mọi nguồn lực và tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư để phát triển kinh tế nhanh, trong thu hút đầu tư để phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần bền vững; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm quốc phòng - an ninh; chú của nhân dân; bảo đảm quốc phòng - an ninh; chú trọng công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; trọng công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; phấn đấu đến năm 2020, Quảng Nam trở thành tỉnh phấn đấu đến năm 2020, Quảng Nam trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.theo hướng hiện đại.

Để đạt được mục tiêu đó, Đảng bộ, chính Để đạt được mục tiêu đó, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong tỉnh phấn đấu thực quyền, quân và dân trong tỉnh phấn đấu thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

Trước hết, tập trung huy động mọi nguồn lực , tập trung huy động mọi nguồn lực Trước hết, tập trung huy động mọi nguồn lực Trước hếtcho phát triển kinh tế-xã hội. Nghiên cứu, đánh cho phát triển kinh tế-xã hội. Nghiên cứu, đánh giá những ảnh hưởng, tác động của tình hình thế giá những ảnh hưởng, tác động của tình hình thế giới, khu vực, các chủ trương, chiến lược phát triển giới, khu vực, các chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước để có những kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước để có những giải pháp tích cực đón đầu cơ hội, khai thác hiệu giải pháp tích cực đón đầu cơ hội, khai thác hiệu

Toàn Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI

NguyễNguyễN Ngọc QuaNgBí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnhBí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh

Page 4: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/20154

quả tiềm năng, lợi thế, tạo bước bứt phá mạnh mẽ, toàn diện. Trong đó, tiếp tục thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; đồng thời, tập trung thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và tạo đột phá trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; coi đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm làm thay đổi căn bản diện mạo nông thôn và công cuộc giảm nghèo của tỉnh.

Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; đổi mới hoạt động khoa học-công nghệ, làm cho khoa học-công nghệ thực sự là động lực phát triển; nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp. Khai thác hiệu quả thế mạnh của tỉnh về phát triển du lịch; xây dựng Quảng Nam thành trung tâm du lịch lớn của cả nước. Xây dựng vùng đồng bằng, ven biển thành khu vực động lực với Khu kinh tế mở Chu Lai, các khu, cụm công nghiệp, các khu đô thị, dịch vụ, du lịch để thúc đẩy phát triển lan tỏa. Đồng thời, xây dựng khu vực trung du-miền núi là vùng nguyên liệu với các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với bố trí sắp xếp lại dân cư, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng để phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống cho người dân, thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững.

Cùng với việc tập trung phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Quảng Nam cần tiếp tục quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc cho sự phát triển bền vững. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học; xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo cụ thể để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh; đa dạng hóa các hình thức, phương pháp dạy nghề phù hợp với đối tượng học nghề và yêu cầu sản xuất góp phần tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là lao động nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ hai, tập trung xây dựng chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp vững mạnh. Đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp, ban hành nghị quyết khả thi, sát đúng thực tiễn, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của cử tri. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhanh chóng điều chỉnh, loại bỏ những quy định, thủ tục không cần thiết, khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý hành chính. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính để nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của ủy ban nhân dân các cấp.

Củng cố, kiện toàn bộ máy của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của công tác vận động quần chúng trong tình hình mới. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp vững mạnh, là chỗ dựa tin cậy của các tầng lớp Nhân dân, là nơi triển khai thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân và các phong trào cách mạng ở địa phương. Thực hiện hiệu quả việc giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo tinh thần Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; chính trị - xã hội”; chính trị - xã hội” “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.quyền”.quyền”

Thứ ba, tăng cường công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt của Đảng bộ nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển. Trước hết phải đổi mới tư duy, nâng tầm trí tuệ của Đảng bộ; làm cho Đảng bộ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm lãnh đạo toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh.

Làm tốt công tác chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức lý tưởng, giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống quê hương để mỗi cán bộ, đảng viên nỗ lực phấn đấu thực hiện hoàn thành xuất

Page 5: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 5

sắc nhiệm vụ chính trị được phân công. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”. Đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác đi vào nề nếp thường xuyên trong sinh hoạt chi bộ, cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Tập trung tạo đột phá về công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức từ tỉnh đến cơ sở bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý, vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, có năng lực và trình độ, thật sự có tâm và có tầm để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo hướng giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, tập trung vào những lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm; chủ động phòng ngừa vi phạm và kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy. Triển khai thực hiện tốt công tác dân vận. Mỗi cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải tiên phong, gương mẫu, sâu sát cơ sở để nắm bắt tình hình tư tưởng, đời sống của Nhân dân để có phương pháp vận động hiệu quả và tham mưu cho cấp ủy Đảng chỉ đạo giải quyết kịp thời những phát sinh tại cơ sở.

Thứ tư, Thứ tư, phát huy những kinh nghiệm đã được phát huy những kinh nghiệm đã được đúc kết trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng bộ, nhất là 06 bài học kinh nghiệm mà Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XX đã rút ra. Trọng tâm là phải

giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất cả trong tư tưởng và hành động trong toàn Đảng bộ, quyết tâm và kiên định thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, dựa vào dân, tin tưởng ở Nhân dân, tạo được sự đồng thuận và quyết tâm của toàn xã hội phấn đấu thực hiện các mục tiêu phát triển của tỉnh.

Trong phát triển kinh tế phải xác định và phát huy các lợi thế so sánh của tỉnh; phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, thực hiện công bằng xã hội; giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển. Tiếp thu và vận dụng có hiệu quả sự chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương vào điều kiện cụ thể của địa phương. Tranh thủ sự hỗ trợ của bạn bè trong nước và quốc tế, tạo mối liên kết phát triển với các địa phương trong cả nước, nhất là các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Trong chỉ đạo, điều hành phải tập trung, kiên quyết, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Mạnh dạn phân cấp quản lý, phân cấp đi đôi với xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn trong quản lý, điều hành. Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân.

Phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống anh hùng, Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, phấn đấu đến năm 2020, Quảng Nam trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm Quảng Nam trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại như tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng như tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI.,.

Page 6: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/20156

Công tác Tuyên giáo là nhiệm vụ quan trọng thuộc lĩnh vực xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng cùng với xây

dựng Đảng về tổ chức đảm bảo công tác xây dựng Đảng đồng bộ trên các mặt, làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, nhân tố quyết định cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng. Để góp phần thực hiện mục tiêu công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng nói riêng đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra: “Giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay” và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, trong 5 năm qua (2010-2015) công tác Tuyên giáo của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam đạt được những kết quả nổi bật sau đây:

1- Nhiệm vụ xuyên suốt nhiệm kỳ qua là các cấp uỷ, tổ chức đảng đã đẩy mạnh tuyên truyền, thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị (khóa XI) gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Nhờ đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thường xuyên tổ chức học tập chuyên đề toàn khóa và hàng năm, nên các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên đã nâng cao nhận thức, nghiên túc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Coi đây là giải pháp cơ bản, hàng đầu để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Hầu hết các cấp uỷ, tổ chức đảng sau khi tổ chức học tập các chuyên đề đã liên hệ với tình hình thực tế ở chi bộ, cơ quan, đơn vị để từng đảng viên đăng ký thực hiện khắc phục

Một số kết quả nổi bật của công tác Tuyên giáo trong nhiệm kỳ qua và những nhiệm vụ trọng tâm

trong nhiệm kỳ đếnNgô VăN HùNg

UVBTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

những khuyết điểm, yếu kém, đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn biến hoà bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

Công tác kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Chỉ thị được tiến hành thường xuyên ở chi bộ, cơ quan, đơn vị, cùng với việc thực hiện nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo tinh thần Chỉ thị 10 của Ban Bí thư đã tạo nên sự chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ cũng như trong hệ thống các cơ quan chính quyền, Mặt trận, đoàn thể. Qua việc thực hiện đã xuất hiện nhiều gấm gương điển hình trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, được các cấp uỷ biểu dương, khen thưởng. Việc gương mẫu, nêu gương thực hiện của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, sự phối hợp giữa cấp uỷ và người đứng đầu chính quyền, cơ quan, đơn vị có vai trò quyết định trong việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị ở các cấp, các ngành.

Khen thưởng các tập thể và cá nhân đã có thành tích trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tại Hội nghị Sơ kết

03 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị

Page 7: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 7

2- Việc tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được đổi mới.

Các cấp uỷ Đảng đã chủ động xây dựng kế hoạch và kịp thời tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền, và xây dựng chương trình hành động thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Bí thư các cấp uỷ Đảng, chi bộ đã nêu cao trách nhiệm trong việc quán triệt nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và cấp mình; đảm bảo tất cả cán bộ, đảng viên đều được học tập nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Trong quá trình chuẩn bị triển khai chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các cấp ủy đã quan tâm trong việc nghiên cứu xây dựng các chương trình hành động thực hiện phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị. Đã khắc phục một bước tình trạng làm chiếu lệ, thiếu thực tiễn.

3- Công tác thông tin, tuyên truyền định hướng tư tưởng chính trị cho đảng viên và quần chúng Nhân dân được nâng cao chất lượng.

Trong 5 năm qua, hệ thống các cơ quan chuyên trách về thông tin, tuyên truyền trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được củng cố và phát triển, nhất là Báo Quảng Nam và Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh, các tạp chí, bản tin, các chuyên mục, các trang thông tin điện tử của tỉnh, các ngành, Mặt trận, đoàn thể đã đầu tư đồng bộ về công nghệ, con người, cơ sở vật chất-kỹ thuật, tài chính, đổi mới cơ chế quản lý, nên đã đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền do cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể giao. Bằng các hình thức thích hợp, hệ thống thông tin, tuyên truyền các cấp đã làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận của xã hội; động viên, cổ vũ công tác xây dựng Đảng, các phong trào hành động cách mạng của quần chúng Nhân dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; biểu dương gương người tốt-việc tốt, những điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua; phê phán những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phản bác những quan điểm sai trái, lệch lạc, bảo đảm định hướng tư tưởng của Đảng...

Cùng với củng cố, phát huy hệ thống cơ quan làm công tác thông tin, tuyên truyền, các cấp uỷ Đảng đã kịp thời củng cố và phát huy tích cực vai trò đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên thông qua quản lý và tổ chức các hoạt động tuyên truyền miệng của Ban Tuyên giáo các cấp. Hàng tháng, ngoài bản tin

nội bộ do Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ phát hành phục vụ sinh hoạt chi bộ, các huyện, thị, thành uỷ đã tổ chức thông tin tương đối kịp thời tình hình quốc tế, trong nước, trong tỉnh thông qua nhiều hình thức: hội nghị báo cáo viên, tuyên truyền viên, nói chuyện thời sự, chuyên đề,... cho cán bộ, đảng viên.

4- Công tác nắm bắt, dự báo tình hình chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân được tăng cường.

Cấp uỷ các cấp thường xuyên chỉ đạo Ban Tuyên giáo và các ngành chức năng theo dõi, nắm bắt kịp thời diễn biến tư tưởng chính trị của đảng viên, qua đó chấn chỉnh, uốn nắn những lệch lạc, định hướng và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh mới về tư tưởng nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ. Đồng thời, nắm bắt tình hình an ninh tư tưởng trong xã hội để chủ động có những giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ ổn định để xây dựng, phát triển quê hương.

Ngành Tuyên giáo thường xuyên lựa chọn những chủ đề được xã hội quan tâm để tiến hành điều tra dư luận xã hội với trên 140 đợt điều tra dư luận xã hội, tập trung những chủ đề về thực hiện các nghị quyết của Đảng, những vấn đề nổi cộm, bức xúc tại các địa phương; trên cơ sở đó, tiến hành phân tích, dự báo tình hình để tham mưu cấp uỷ, tổ chức Đảng những căn cứ khoa học và thực tiễn trong quá trình ra quyết định lãnh đạo, chỉ đạo đáp ứng nguyện vọng chính đáng của đảng viên và Nhân dân, phù hợp với tình hình thực tiễn.

5- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân được thực hiện có hiệu quả.

Trường Chính trị tỉnh và hệ thống các Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị cấp huyện được đầu tư về cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng giảng viên, bên cạnh đó, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã quan tâm đào tạo lý luận chính trị bậc cao cấp cho cán bộ chủ chốt của các ngành của tỉnh và của huyện, nên không những hoàn thành mục tiêu về số lượng mà chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được đảm bảo. Trong nhiệm kỳ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã mở 21 lớp lý luận chính trị và chuyên đề, có 3.617 học viên tham dự; các cấp ủy đảng trực thuộc Tỉnh ủy đã tổ chức 3.015 lớp thuộc các chương trình: Lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và các lớp chuyên đề theo yêu cầu của cấp ủy cho 432.827 lượt cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên.

Một nét nổi bật trong nhiệm kỳ là các cấp ủy

Page 8: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/20158

đã lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức cách mạng, truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân thông qua nhiều cách làm, hình thức chuyển tải phong phú, sinh động.

6- Công tác khoa giáo, văn hóa-văn nghệ đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Công tác tập hợp và phát huy đội ngũ trí thức đã được tăng cường, các hội của trí thức như Liên hiệp các hội Khoa học-Kỹ thuật, Hội Văn học-Nghệ thuật, Hội Nhà báo tỉnh được củng cố và phát triển, kết quả sáng tạo của đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển của tỉnh. Các cấp ủy đảng đã triển khai thực hiện đầy đủ các chủ trương của Đảng trong lĩnh vực khoa giáo, văn hóa-văn nghệ, nhất là các Nghị quyết Trung ương 6,7,8,9, khóa XI về bảo vệ tài nguyên-môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, về phát triển khoa học-công nghệ, về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam; tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương trong lĩnh vực khoa giáo, văn hóa-văn nghệ ; trong đó có nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới về xây dựng, phát triển văn hóa, con người ở tỉnh Quảng Nam.

7- Công tác nghiên cứu,biên soạn lịch sử Đảng đạt được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo thực hiện.

Đến nay, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng nghiên cứu, biên soạn xong công trình “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (1975-1996)”, đồng thời biên soạn công trình “Biên niên sự kiện lịch sử Đảng bộ Quảng Nam (2006-2015)”; Các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh đã biên soạn, xuất bản các công trình lịch sử Lực lượng vũ trang Nhân dân tỉnh Quảng Nam, Công an Nhân dân tỉnh Quảng Nam; Lịch sử ngành Tổ chức xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam; Lịch sử công tác Dân vận của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam, lịch sử các đoàn thể tỉnh. Đặc biệt, Hội Tù yêu nước tỉnh xuất bản tập: “Ánh sáng trong ngục tối, Kiên trung bất khuất” (8 tập); 17/18 huyện, thành phố đã biên soạn, xuất bản lịch sử đảng bộ giai đoạn 1930 - 1975, một số huyện đã xuất bản đến năm 2005. Một số huyện, thành phố tiếp tục triển khai nghiên cứu, biên soạn giai đoạn sau 1975 và tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, tái bản giai đoạn trước năm 1975. Để hỗ trợ các địa phương miền núi nghiên cứu, biên soạn lịch sử Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã phê duyệt và cấp kinh phí để các địa

phương thực hiện “Đề án hỗ trợ khinh phí nghiên cứu, biên soạn, xuất bản lịch sử Đảng bộ, lịch sử đấu tranh cách mạng các xã, thị trấn thuộc các huyện miền núi tỉnh Quảng Nam giai đoạn (2012 - 2016)”.

Việc triển khai Chỉ thị 54 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác sưu tầm tư liệu, hiện vật đề tài chiến tranh cách mạng, công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ, ngành, địa phương cũng đạt kết quả tích cực; đến nay, hầu hết các sự kiện lịch sử đấu tranh cách mạng trên địa bàn tỉnh đã được nghiên cứu, biên soạn đầy đủ tư liệu, góp phần cung cấp nguồn sử liệu có giá trị phục vụ công tác giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước và cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng còn một số hạn chế, như: có lúc, có nơi công tác tư tưởng thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt tình hình tư tưởng đôi lúc chưa kịp thời; việc tổ chức học tập, quán triệt và thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng tuy có đổi mới nhưng vẫn chưa đạt như mong muốn, có đảng viên chưa chú trọng việc học lý luận chính trị, học nghị quyết, có hiện tượng học qua loa, chưa chú tâm học để vận dụng vào thực tiễn công tác; một số cấp uỷ chưa có biện pháp phong phú và thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng đảng viên; trình độ, năng lực một bộ phận cán bộ tuyên giáo chưa đáp ứng yêu cầu tham mưu cho cấp uỷ và thực hiện một số nhiệm vụ được cấp uỷ phân công.

Trong nhiệm kỳ đến, sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, có những biện pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém, các cấp uỷ, tổ chức đảng cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số giải pháp sau đây nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Tuyên giáo trong toàn Đảng bộ, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI.

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, của cán bộ đảng viên về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng về công tác Tuyên giáo.

Công tác Tuyên giáo là vấn đề quan trọng của công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng-nhiệm vụ cốt lõi, hàng đầu của cả hệ thống chính trị, của tất cả đảng viên, cấp ủy, tổ chức đảng, là yếu tố quyết định đối với sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thực hiện việc xây dựng, phát triển Quảng Nam phù hợp và góp phần thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển đất nước. Công tác Tuyên giáo là công tác vì mục tiêu phát triển con người- nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Đảng bộ.

Page 9: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 9

Từ nhận thức sâu sắc về công tác Tuyên giáo, các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là đồng chí Bí thư cấp uỷ cần quan tâm đúng mức, thường xuyên và có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Tuyên giáo, góp phần nâng tầm lãnh đạo của Đảng bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong thời gian đến.

Trong công tác Tuyên giáo - công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng cần chú ý yếu tố văn hóa, đạo đức, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, phòng chống “ tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

Hai là, tiếp tục đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền, đổi mới phương thức học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng.

Trong công tác thông tin, tuyên truyền cần xác định rõ đối tượng để lựa chọn nội dung, phương pháp, cách thức thực hiện cho phù hợp. Chú trọng tính chiến đấu, tính hiệu quả và tính thuyết phục, gắn liền lý luận với thực tiễn; thông quan công tác tuyên truyền, cần tăng cường việc đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của quần chúng Nhân dân, khắc phục những cách làm áp đặt, tuyên truyền một chiều. Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, các bản tin, trang thông tin điện tử… để làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền trong toàn Đảng bộ. Việc đổi mới phương thức học tập, quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng cần theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, gắn với xây dựng Chương trình hành động cụ thể ở từng địa phương, đơn vị. Các cấp ủy đảng chú trọng các khâu từ ra nghị quyết, triển khai quán triệt và học tập nghị quyết, biên soạn tài liệu, phương thức truyền đạt, đánh giá, kiểm tra nhận thức theo hướng “thực sự đổi mới, thiết thực, tập trung vào những nội dung cơ bản, đặc biệt là những vấn đề mới trong nghị quyết, không dàn trải”.

Ba là, tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức,trình độ lý luận chính trị, giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho đảng viên và Nhân dân.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần quan tâm hơn nữa công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, gắn học lý luận với vận dụng vào thực tiễn thực hiện các nhiệm vụ được phân công; thực hiện có hiệu quả bồi dưỡng mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phổ biến, tuyên truyền các chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao chất lượng giảng viên, cán bộ quản lý của Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, đồng thời thực hiện đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận ở các trường đại học, cao đẳng. Phát huy vai trò của Mặt trận, đoàn thể trong công tác giáo dục lý luận chính trị gắn với bồi dưỡng các kỹ năng tập hợp, vận động quần chúng thực hiện các phong trào hành động cách mạng ở các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Bốn là, chủ động và tích cực nắm bắt và dự báo tình hình tư tưởng trong Đảng và trong xã hội; chỉ đạo quyết liệt đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng trong Đảng và xã hội, chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ chức điều tra dư luận xã hội để giải quyết những vấn đề xã hội quan tâm; đồng thời, làm tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho đảng viên và Nhân dân về âm mưu chống phá của các thế lực thù địch thông qua “diễn biến hòa bình”, từ đó tăng cường tinh thần cảnh giác, nâng cao sức đề kháng, tích cực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục của các bài viết, bài nói; thu hút rộng rãi hơn sự tham gia tích cực của các cơ quan nghiên cứu, đội ngũ trí thức, các lực lượng xã hội, các tầng lớp Nhân dân vào cuộc đấu tranh này.

Năm là, tập trung xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác Tuyên giáo từ tỉnh đến cơ sở.

Công tác Tuyên giáo, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng là của cả hệ thống chính trị, nhưng đội ngũ chuyên trách đóng vai trò quan trọng. Vì vậy, các cấp uỷ cần quan tâm đến nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác Tuyên giáo để thực hiện tốt công tác tham mưu với cấp ủy và thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được cấp ủy giao trong lĩnh vực Tuyên giáo. Trong đó, cần kiện toàn bộ máy, tổ chức và chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác Tuyên giáo một cách có hệ thống, chuyên nghiệp và tinh nhuệ. Đảm bảo đội ngũ cán bộ Tuyên giáo phải nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, được đào tạo bài bản, chính quy, trưởng thành từ thực tiễn, có kỹ năng, phương pháp, phong cách linh hoạt, nhạy bén, chính xác trong các mặt nghiệp vụ công tác./.

Page 10: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201510

Đảng bộ tỉnh Quảng Nam có 1.180 tổ chức cơ sở đảng (gồm 402 đảng bộ cơ sở và 778 chi bộ cơ sở), được chia theo các loại hình tổ chức

cơ sở đảng như sau: 244 xã, phường, thị trấn; 126 doanh nghiệp; 159 đơn vị sự nghiệp; 558 cơ quan hành chính; 93 lực lượng vũ trang với 60.107 đảng viên. Trong những năm qua, sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TU, ngày 16/4/2013 của tỉnh ủy về việc“nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên” công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng đã có những bước chuyển biến tích cực, từng tổ chức đảng ở cơ sở đã thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, nhiều tổ chức đảng đã giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân chính trị, thật sự trở thành cầu nối giữa Đảng với Nhân dân; là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng; nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.

Để tổ chức cơ sở đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thật sự là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, trong thời gian qua, các cấp ủy

Đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh luôn xác định vị trí đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, luôn coi trọng xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, xem đây là nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Tỉnh ủy đã ban hành nhiều Nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, trong đó đáng chú ý là Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 16/4/2013 về “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên”. đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên”. đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên”

Qua hơn 02 năm triển khai, thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TU, kết quả cho thấy năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trên địa bàn tỉnh đã có bước chuyển biến rõ nét; Nghị quyết đã thật sự đi vào cuộc sống, từng tổ chức đảng ở cơ sở đã thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, nhiều tổ chức đảng đã giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân chính trị.

Nâng cao chất lượng công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới

TrầN XuâN THọ UVBTV, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy

Hội nghị Tổng kết công tác Tổ chức xây dựng Đảng năm 2014, triển khai nhiệm vụ 2015.

Page 11: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 11

Công tác phát triển đảng viên mới đạt được nhiều kết quả quan trọng, hầu hết các tổ chức cơ sở đảng kết nạp đảng viên mới đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, Công tác chỉ đạo đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng được các cấp ủy tổ chức thực hiện nghiêm túc, bảo đảm khách quan, thực chất. Kết quả, năm 2014 có 1.176/1.183 cơ sở đảng được đánh giá chất lượng bằng 99,4%; trong đó TSVM 791/1.176 bằng 67,26%; bằng 99,4%; trong đó TSVM 791/1.176 bằng 67,26%; bằng 99,4%; trong đó TSVM 791/1.176 bằng 67,26%TSVMTB 157/791, bằng 19,85 %; HTTNV 325/1.176, bằng 27,64%; HTNV 58/1.176 bằng 4,93%; Yếu kém 02/1.176, bằng 0,17%. Trên cơ sở kết quả phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên năm 2014, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã kịp thời biểu dương và tặng 11 Cờ và 04 bằng khen cho tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh tiêu biểu 5 năm liền; Tặng bằng khen cho 14 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh tiêu biểu 5 năm liền; Tặng bằng khen cho 137 đảng viên đạt tiêu chuẩn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 5 năm liền. Bên cạnh đó, trong năm 2014 các tổ chức cơ sở đảng đã kịp thời trao tặng Huy hiệu Đảng cho 1.907 đảng viên.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn những hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục trong thời gian tới đó là: hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn tuy có những chuyển biến nhưng còn một số nơi chưa mạnh, chưa đủ khả năng để giải quyết khi có sự việc đột xuất xảy ra; một số nơi vai trò lãnh đạo của Đảng còn hạn chế, để cán bộ đảng viên vi phạm pháp luật, có biểu hiện bao biện hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Chất lượng sinh hoạt chi bộ một số nơi còn hạn chế, tình trạng bao che khuyết điểm vẫn còn xảy ra, thực hiện nguyên tắc phê bình và tự phê bình chưa mạnh; tỷ lệ tổ chức đảng trong doanh nghiệp tư nhân còn thấp. Công tác kiểm tra, giám sát ở một số tổ chức cơ sở đảng chưa được chú trọng, một bộ phận cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, vi phạm tư cách người đảng viên nên bị xử lý kỷ luật; đội ngũ cán bộ ở cơ sở nhất là ở miền núi còn yếu.

Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới đòi hỏi tổ chức cơ sở đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn tổ chức của mình; chất lượng các mặt của đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng được nâng cao; để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị đề ra, cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:

Một là: Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; quán triệt, học tập Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ

XXI của Đảng bộ tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Hai là: Đầu nhiệm kỳ, các cấp ủy xây dựng kế hoạch mở các lớp bồi dưỡng về công tác xây dựng Đảng (Điều lệ Đảng, Hướng dẫn nghiệp vụ đảng viên) cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở phấn đấu 100% cấp ủy viên cơ sở được bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ công tác Đảng nhằm giúp cho cấp ủy, đồng chí bí thư cấp ủy, nắm vững Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Trung ương.

Ba là: Tập trung chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở vững mạnh, nhất là cán bộ chủ chốt. Do đó, cần tổng kết Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy, tiếp tục thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ, quy hoạch cán bộ, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ, trong đó chú trọng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo ở xã, phường, thị trấn đối với cán bộ công chức theo đề án 500 của tỉnh.

Bốn là: Tiếp tục thực hiện tốt công tác kết nạp đảng viên mới, chú trọng kết nạp ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít đảng viên, nhất là các doanh nghiệp tư nhân. Thực hiện tốt chủ trương kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Đối với các xã, phường, thị trấn cần tập trung vào các trường học, cơ sở y tế, các thôn, khối phố. Tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện thí điểm việc kết nạp những người chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng.

Năm là: Tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình trong Đảng, đảm bảo tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu trong sinh hoạt Đảng. Tiếp tục kiện toàn mô hình của một số loại tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng gắn với việc nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh.

Sáu là: Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Tập trung đổi mới, nội dung và phương pháp đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm theo hướng chất lượng, kiên quyết xóa bỏ tình trạng chạy theo thành tích trong phân loại tổ chức đảng và đảng viên.

Năm 2016, là năm đầu tiên triển khai học tập và thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp, vì vậy các cấp ủy Đảng phải tập trung, chỉ đạo quyết liệt nâng cao chất lượng công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Page 12: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201512

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm Tcông tác dân vận là nhiệm T

vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta, là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.

Trong những năm qua, thực hiện các văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác dân vận,Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, các văn bản chỉ đạo của Đảng có liên quan đến công tác dân vận. Nhiều chủ trương, nghị quyết đã đi vào cuộc sống và được Nhân dân đồng tình hưởng ứng, như: Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Nghị về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Nghị về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộcquyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; các nghị quyết về giai cấp công nhân, thanh niên, phụ nữ, trí thức, doanh nhân, dân tộc, tôn giáo và các nghị quyết, quyết định của Tỉnh ủy như: Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 12/10/2009 về công tác dân vận trong tình hình mới, Quyết định số công tác dân vận trong tình hình mới, Quyết định số công tác dân vận trong tình hình mới1422-QĐ/TU, ngày 23/8/2010 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về ban hành Quy chế công tác dân vận của cả hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Quảng Nam,…

Việc thể chế hóa các chủ trương về công tác dân vận thành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện đã được các cơ quan Nhà nước, các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh quan tâm triển khai thực hiện như: Chỉ thị số 19/CT-UBND, ngày 05/6/2009 của

Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác Dân vận trong tình hình mới

NguyễN THị Kim DuNg UVBTV, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy

Ban Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Tọa đàm “Phong trào thi đua Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới”.

UBND tỉnh về tăng cường công tác dân vận của chính quyền trong tình hình mới; Chỉ thị số 22/CT-UBND, quyền trong tình hình mới; Chỉ thị số 22/CT-UBND, quyền trong tình hình mớingày 12/10/2012 về tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian làm việc trong các cơ quan, đơn vị; Chỉ thị số 07/CT-UBND, việc trong các cơ quan, đơn vị; Chỉ thị số 07/CT-UBND, việc trong các cơ quan, đơn vịngày 14/5/2013 của UBND tỉnh Quảng Nam về tăng cường triển khai thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh,... Công tác cải cách hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, công khai các thủ tục, các chế độ chính sách, việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại trực tiếp và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được coi trọng.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phong phú, đa dạng và hướng về cơ sở. Nhiều chủ trương đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp Nhân dân và đã trở thành phong trào sâu rộng, có tác động tích cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự tại địa phương. Đặc biệt, thực hiện Quyết định 217, 218 của Bộ Chính trị về Quy chế giám sát và phản biện xã hội

Page 13: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG COÂNG TAÙC XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 13

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và trị - xã hội và trị - xã hội Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã chủ động phối hợp tham mưu cho các cấp ủy đảng lãnh đạo, chỉ đạo; đồng thời, xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện, tích cực tuyên truyền, phổ biến đến đoàn viên, hội viên và Nhân dân bước đầu đạt kết quả tốt.

Có thể khẳng định rằng, những kết quả đạt được trong thời gian qua là do sự đóng góp toàn diện của các cấp, các ngành và của các tầng lớp Nhân dân, trong đó có sự đóng góp tích cực của công tác dân vận. Nhận thức và trách nhiệm về công tác dân vận từ tỉnh đến cơ sở, của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, các tầng lớp Nhân dân có nhiều chuyển biến, tiến bộ. Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, nhất là trong xây dựng nông thôn mới, hoạt động của Tổ dân vận thôn, khối phố, tham gia giải quyết những phát sinh hạn chế ở cơ sở và trong cộng đồng dân cư đạt hiệu quả tốt. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, bám sát cơ sở, chương trình, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước rộng khắp; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân, phối hợp và tham gia cùng với các cơ quan chức năng giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc của Nhân dân; kịp thời kiến nghị, đề xuất với cấp ủy đảng, chính quyền ban hành và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.

Tuy nhiên, công tác dân vận vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; việc tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về công tác dân vận có lúc chưa kịp thời; một số chủ trương, chính sách chưa đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của một bộ phận nhân dân; thủ tục hành chính vẫn còn phiền hà; một số cán bộ, công chức, viên chức còn xa dân; tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn có hiệu quả; đời sống của một bộ phận Nhân dân còn nhiều khó khăn; một số cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước còn xem nhẹ công tác dân vận, coi công tác dân vận là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội,…

Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về “tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; đây là Nghị với công tác dân vận trong tình hình mới”; đây là Nghị với công tác dân vận trong tình hình mới”quyết mang ý nghĩa sâu sắc, toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận.

Để tiếp tục đổi mới công tác Dân vận đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, các ngành cần tiếp tục triển khai thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo, chỉ Thứ nhất, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo, chỉ Thứ nhấtđạo đối với công tác dân vận; tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện Quyết định 290-QĐ/TW, Quyết định 1422-QĐ/TU và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, trước hết là triển khai thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới gắn với thực hiện tốt Nghị vận trong tình hình mới gắn với thực hiện tốt Nghị vận trong tình hình mớiquyết Trung ương 4 (khoá XI) một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và Chỉ thị 03-CT/TW, ngày về xây dựng Đảng hiện nay và Chỉ thị 03-CT/TW, ngày về xây dựng Đảng hiện nay14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đáp ứng yêu cầu về trình độ, năng lực thực tiễn và uy tín để làm công tác vận động quần chúng.

Thứ hai, chính quyền và các cơ quan thuộc chính quyền các cấp tăng cường và đổi mới công tác dân vận, nhất là những ngành, cơ quan, đơn vị có quan hệ trực tiếp đến đời sống Nhân dân; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo của Nhân dân; chủ động nắm tình hình và giải quyết những công việc liên quan đến đời sống của Nhân dân.

Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn

(Xem tiếp trang 20)

Page 14: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201514

Quảng Nam tiến hành công nghiệp hoá với xuất phát điểm thấp về kinh tế, các nguồn lực cho công nghiệp hoá còn thiếu

về nhiều mặt. Do đó, tỉnh luôn tìm kiếm, lựa chọn Qvề nhiều mặt. Do đó, tỉnh luôn tìm kiếm, lựa chọn Qnhững hướng đột phá chính để thu hút và phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhiệm kỳ qua (2010-2015), trong bối cảnh thiên tai dịch bệnh và suy giảm kinh tế tác động nhiều mặt, nhưng Đảng bộ và Nhân dân trong tỉnh nỗ lực vượt khó thực hiện đạt kết quả khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng giữ ở mức cao (11,5%/năm ); cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh sang hướng công nghiệp và dịch vụ. Điểm nổi bật trong những năm qua là tỉnh đã tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư các dự án lớn, giữ vai trò động lực phát triển kinh tế. Hạ tầng các tuyến giao thông huyết mạch đường bộ, đường biển, đường hàng không, giao thông nông thôn và miền núi được nâng cấp, kết nối các vùng trong tỉnh, mở rộng giao thương với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước. Mạng lưới điện, cấp nước, bưu chính – viễn thông , hạ tầng kỹ thuật các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế, các đô thị từng bước hoàn thiện. Trường học, bệnh viên, các thiết chế văn hóa , cơ sở y tế được nâng cấp và xây dựng mới. Diện mạo khu vực thành thị và nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực. Tiềm lực kinh tế của tỉnh được nâng lên, tạo thế và lực để tỉnh đẩy nhanh tốc độ phát triển.

Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt

được trong thời gian qua, giai đoạn 2015 - 2020, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Quảng Nam tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức và quyết tâm thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, phát triển nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra.

1-Về tạo đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đồng bộ. Quảng Nam có lợi thế là một tỉnh nằm ở vị trí trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, ở thế liên kết thuận lợi với Tây Nguyên, với tuyến hành lang kinh tế Đông Tây qua Nam Lào-Đông Bắc Thái Lan cũng như với khu vực Đông Nam Á.

Để phát huy lợi thế đó, tỉnh tập trung tạo đột phá trong xây dựng giao thông đường bộ, đường hàng không và đường biển phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh và của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Tây Nguyên, cũng như Chiến lược phát triển kinh tế biển của nước ta.

Về đường bộ, phối hợp tốt với các cơ quan Trung ương trong việc triển khai và hoàn thành xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng- Quảng Nam- Quảng Ngãi, đường ven biển nối Đà Nẵng-Chu Lai, đường Nam Quảng Nam nối Tam Kỳ với Tây Nguyên và đường Đông Trường Sơn, hoàn thành kết cấu hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang, hoàn thành cầu Giao Thủy kết nối Nông Sơn, Quế Sơn với Đà Nẵng.Về đường biển, nâng cấp cảng Kỳ Hà và cảng Tam Hiệp (Núi Thành) để phục vụ

Tiếp tục tập trung thực hiện 3 nhiệm vụ đột phá để Quảng Nam phát triển nhanh, bền vững

trong giai đoạn đến

Ngô VăN HùNgUVBTV, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Page 15: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 15

vận tải hàng hoá cho khu Kinh tế mở Chu Lai. Về hàng không, nhiều nghiên cứu cho thấy, sân bay Chu Lai có vị trí thuận lợi để xây dựng cảng hàng không trung chuyển quốc tế (trong bán kính 3.000 Km, sân bay Chu Lai trở thành trung tâm của các vùng kinh tế năng động nhất Đông Nam Á, Đông Á và Tây Á).Trung ương đã quy hoạch xây dựng cảng hàng không Chu Lai đến năm 2025; tỉnh cần phối hợp thúc đẩy đầu tư để quy hoạch được thực tế hóa.

Các địa phương và Nhân dân cần tập trung nội lực, huy động sức người, sức của, kết hợp với các chương trình mục tiêu kinh tế-xã hội để phát triển giao thông nông thôn, miền núi, nâng cấp các tỉnh lộ, huyện lộ, mở các tuyến đường mới để kết nối các địa phương ở vùng phía Tây và phía Đông của tỉnh, để tạo sự tác động lẫn nhau theo phân vùng kinh tế của tỉnh, hoàn chỉnh các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước, hội nhập quốc tế, một trong những kết cấu hạ tầng kỹ thuật quan trọng là hệ thống thông tin-truyền thông, mà công nghệ phổ biến là công nghệ mạng Internet. Thực chất mạng Internet không chỉ là kết cấu hạ tầng thông tin, mà còn là một ngành kinh tế, tham gia trực tiếp vào các lĩnh vực; một số nghiên cứu ở 99 quốc gia cho thấy, số hộ dùng mạng Internet tăng thêm 1%, thì xuất khẩu tăng 4,3%; cứ đầu tư 1 USD trên băng thông rộng, thì thu lại gấp 10 lần). Trong 5 năm đến, cùng với thúc đẩy đầu tư nâng chất lượng hạ tầng thông tin-truyền thông, các cấp các ngành cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, nhất là trong quản lý hành chính, kinh tế, xã hội, hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, thông tin, tuyên truyền...Đồng thời nhận thấy rõ những mặt tác động tiêu cực của Internet để tăng cường quản lý mạng, nhất là tác động về văn hoá, tội phạm công nghệ thông tin, các thế lực phản động dùng làm công cụ để tuyên truyền chống phá, kích động...

Ngoài ra, cần đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, trước hết hạ tầng các thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ, thành phố Hội An và chuỗi đô thị theo các trục giao thông Bắc Nam và ở các vùng, kết cấu hạ tầng đồng bộ tại các khu công nghiệp không chỉ phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp, mà

còn phục vụ đời sống, sinh hoạt của công nhân lao động.

Cùng với xây dựng hạ tầng kinh tế, hạ tầng văn hóa xã hội, nhất là thiết chế văn hóa, nâng cấp hệ thống các trường của ngành giáo dục, y tế cũng phải tính toán đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để phát huy tích cực phục vụ đời sống của Nhân dân.

Thực tế cho thấy, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng với suất đầu tư lớn, mang ý nghĩa toàn vùng có thành công hay không là phụ thuộc nhiều sự hỗ trợ của Trung ương, sự phối kết hợp với các địa phương khác trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và có nhiều hình thức đầu tư khác nhau trong và ngoài nước. Hy vọng rằng, sự đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng sẽ tác động để tăng tốc phát triển, cất cánh về kinh tế, đồng thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hoá, xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng của tỉnh trong thời gian tới.

2- Về tạo đột phá trong phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta cần nhận thấy rằng, phát triển nguồn nhân lực là nội dung quan trọng trong chiến lược không những ở cấp quốc gia, cấp tỉnh (cấp vĩ mô) mà còn ở mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (vi mô), ở các ngành, lĩnh vực khác nhau và phải xem xét nó trong điều kiện hội nhập quốc tế. Trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 của nước ta, Ban Chấp hành Trung ương đã chọn hướng đột phá về phát triển nguồn nhân lực là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao”. Giải pháp cơ bản để đạt được mục tiêu đó là “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Đó là định hướng chiến lược của Trung ương đối với cả nước. Còn ở Quảng Nam, phải làm thế nào để tạo đột phá trong phát triển nguồn nhân lực?

Trước hết, cần xác định mục đích phát triển nguồn nhân lực là để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trực tiếp là thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa từ nay đến 2020 và những năm tiếp theo.

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 5 năm đến là: Công nghiệp, xây

Page 16: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201516

dựng chiếm 42% trong cơ cấu GRDP hiện nay, tăng lên 46%, Dịch vụ chiếm 42% hiện nay lên 44% và Nông nghiệp chiếm 16% hiện nay giảm còn khoảng 10% vào năm 2020. Cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sẽ phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh. Theo đó, mục tiêu đến năm 2020, lao động nông nghiệp giảm xuống còn 40% (hiện nay 50,1%). Đặc biệt, phải tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 65%, lao động qua đào tạo nghề đạt 55% (hiện nay đạt 45%).

Yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá của Quảng Nam là rất lớn. Vì vậy, cần tạo đột phá trong giáo dục và đào tạo theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện để nâng cao chất lượng, đồng thời tập trung đào tạo cơ bản về mặt số lượng, đáp ứng nguồn nhân lực ở 3 khu vực trọng yếu của tỉnh là: Cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học-công nghệ đầu đàn và đào tạo nghề.

Cùng với đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý, cần đổi mới trong công tác cán bộ, từ khâu quy hoạch, đào tạo đến bố trí, sử dụng. Có cơ chế, chính sách đãi ngộ, khen thưởng thích đáng nhằm thúc đẩy đổi mới tư duy, sức sáng tạo, gắn với trách nhiệm của mỗi cá nhân trong từng vị trí công tác. Có cơ chế, chính sách nhằm tạo bước nhảy vọt trong việc đào tạo, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ ở cơ sở. Có chương trình, kế hoạch đào tạo nhằm nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho cán bộ ở các ngành tổng hợp, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hội nhập quốc tế.

Tiếp tục có những giải pháp thiết thực để xây dựng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học - công nghệ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7, khoá X. Trong đó, một mặt ưu tiên đào tạo cán bộ đầu đàn đảm bảo thực hiện các chương trình trọng điểm về KH&CN; mặt khác có chính sách phát huy sáng tạo của đội ngũ trí thức trên hai lĩnh vực Khoa học – Công nghệ, và Văn học -Nghệ thuật .Chính đội ngũ này sẽ làm nòng cốt trong tiếp thu, làm chủ và ứng dụng công nghệ mới, tri thức tiên tiến để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoặc sáng tạo ra các sản phẩm văn hoá, tinh thần để phục vụ phát triển. Có những cơ chế, chính sách trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài trong các lĩnh vực

KH&CN, VH&NT.

Trong việc đào tạo cán bộ KH&CN, VH&NT, xây dựng đội ngũ trí thức của tỉnh, các trường đại học, cao đẳng, các cơ quan nghiên cứu-triển khai đóng vai trò quan trọng. Các trường đại học, cao đẳng không chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực, mà còn là các trung tâm nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Các cơ quan nghiên cứu-triển khai, đơn vị sự nghiệp, cơ sở sản xuất của các ngành cần tạo sự liên kết hữu cơ trong việc nghiên cứu và triển khai, ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất và phục vụ đời sống Nhân dân.

Để có thể thực hiện được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề, trong năm năm đến cần tạo đột phá trong đào tạo nghề ở các bậc từ cao đẳng, trung cấp đến công nhân lao động. Nhận thức rằng, đào tạo không những là sự nghiệp cao cả của toàn xã hội, mà còn là một ngành kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, cần có cơ chế nhằm tạo bứt phá trong thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề, như liên kết giữa nhà trường và các doanh nghiệp trong việc đào tạo và sử dụng lao động, phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề trên toàn tỉnh, hình thành mạng lưới đào tạo nghề ở các địa phương. Chú trọng đào tạo nghề ở nông thôn. Nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường phổ thông trung học.

3- Về tạo đột phá trong tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là quá trình tiếp tục thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần, hoàn thiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy, cùng với phát triển lực lượng sản xuất, phải củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, điều phối nền kinh tế, củng cố hợp tác xã và phát triển kinh tế hợp tác cùng với phát triển các thành phần kinh tế khác.

Mục tiêu huy động vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm trong 5 năm đến (2015-2020) phải đạt trên 30% GRDP để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng GDRP khoảng 10-10,5%/năm. Để đạt được mục tiêu đó một mặt cần có cơ chế, chính sách, mặt

Page 17: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 17

khác cần tạo đột phá trong việc tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư toàn xã hội. Nếu không thu hút được đầu tư phát triển, thì mục tiêu cơ bản thành tỉnh công nghiệp sẽ khó đạt được.

Nhưng, thế nào là môi trường thuận lợi, phạm vi đến đâu và làm thế nào để tạo được môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất của các thành phần kinh tế ?

Môi trường thu hút đầu tư có phạm vi rộng, bao gồm môi trường pháp lý, môi trường hành chính thuộc hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đầu tư, hoạt động của các doanh nghiệp và môi trường văn hoá của toàn xã hội.

Về môi trường pháp lý. Phương hướng công nghiệp hoá của Quảng Nam là phải gắn với hiện đại hoá, phát triển nhanh, nhưng bền vững. Vì vậy, cần rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, quy hoạch các ngành,địa phương và có cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, tạo ra sản phẩm mới, đặc thù của Quảng Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường.Tranh thủ các dự án đầu tư công nghệ cao, các dự án du lịch và các ngành dịch vụ. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để hình thành và phát triển các loại thị trường mới ở tỉnh ta như thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường công nghệ...để tạo môi trường thuận lợi trong đầu tư, sản xuất.

Về môi trường hành chính. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp quản lý đầu tư tham khảo việc đánh giá chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) để kịp thời điều chỉnh các chỉ tiêu, nhất là chỉ tiêu nâng cao tính minh bạch trong việc cấp phép đầu tư, mặt khác, cần xây dựng các tiêu chí để thực hiện, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính gắn với tiếp tục thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đề ra quy chế, tiêu chí để đảng viên, cán bộ, công chức thực hiện việc làm theo tấm gương của Bác bằng việc làm cụ thể để góp phần thu hút đầu tư. Các cấp uỷ đảng và cơ quan chức năng cần thường xuyên tiến hành giám sát, kiểm tra, thanh tra trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính ở các cấp để kịp thời uốn nắn,

chấn chỉnh nhằm tạo môi trường hành chính thông thoáng.

Về tạo lập môi trường văn hoá của toàn xã hội để thu hút đầu tư. Trước hết, chúng ta cần nhận thức rằng, kinh tế và văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc phát triển kinh tế không nhằm mục đích tự thân của nó, mà các chính sách kinh tế cuối cùng là nhằm mục đích để xây dựng phát triển văn hoá, phát triển con người. Vì vậy, ngay từ lúc lập quy hoạch, nghiên cứu các dự án đầu tư cần phải xem xét các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội ở vùng dự án. Không phát triển các dự án kinh tế, nếu dự án đó tác động xấu đến văn hoá, xã hội và môi trường tự nhiên. Không triển khai dự án khi không có những giải pháp nhằm bảo đảm an sinh, xã hội ở vùng dự án và không đảm bảo về bảo vệ môi trường. Ngược lại muốn phát triển văn hoá, xã hội thì phải dựa trên nền tảng phát triển kinh tế. Vì vậy, việc tạo lập môi trường văn hoá để thu hút đầu tư phát triển phải trở thành ý thức xã hội.

Để việc tạo lập môi trường văn hoá nhằm thu hút đầu tư phát triển trở thành ý thức xã hội, trước hết, các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp cần phối hợp với chủ đầu tư tổ chức tuyên truyền các chủ trương, chính sách về đền bù, tái định cư, chuẩn bị mặt bằng để thực hiện các dự án, làm cho Nhân dân vùng dự án thấy rõ những tác động tích cực của dự án và cùng phối hợp xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án. Những lợi ích của Nhân dân như đào tạo chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh cho Nhân dân vùng dự án ... phải được quan tâm đầy đủ trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư.

Phải thật sự phát huy dân chủ, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” trong việc thực hiện quy hoạch, nghiên cứu, triển khai các dự án đầu tư và các dự án thuộc các chương trình mục tiêu kinh tế-xã hội mà nhân dân trực tiếp hưởng lợi. Xây dựng văn hoá ứng xử văn minh, thân thiện trên cơ sở phát huy văn hoá truyền thống của vùng đất, con người Quảng Nam và tiếp thu có chọn lọc các ứng xử theo thông lệ quốc tế để xử lý các mối quan hệ giữa xây dựng môi trường văn hoá với thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh./.

Page 18: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201518

Vùng miền núi của tỉnh Quảng Nam là địa bàn cư trú lâu đời của các thành phần dân tộc thiểu Vcư trú lâu đời của các thành phần dân tộc thiểu Vsố bản địa, gồm: Cơ Tu, Xơ Đăng, Gié - Triêng, Vsố bản địa, gồm: Cơ Tu, Xơ Đăng, Gié - Triêng, V

Cor và một số đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Mường, Dao... ở các tỉnh phía Bắc di cư tự do vào từ sau ngày giải phóng miền Nam (4/1975). Toàn từ sau ngày giải phóng miền Nam (4/1975). Toàn tỉnh có 6 huyện miền núi vùng cao: Đông Giang, Tây Giang, Nam Trà My, Phước Sơn, Nam Giang, Bắc Trà My và 3 huyện miền núi: Nông Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước. Dân số vùng miền núi chiếm khoảng 21% dân số toàn tỉnh; trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 7 % dân số toàn tỉnh. Diện tích tự nhiên 9 huyện miền núi chiếm 74,2% so với diện tích toàn tỉnh. Địa bàn miền núi tỉnh có 14 xã biên giới Việt - Lào với chiều dài 142,5 km; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh biên giới, môi trường sinh thái của tỉnh và của cả nước.

Vùng dân tộc và miền núi của tỉnh luôn được Đảng bộ tỉnh Quảng Nam xác định là một bộ phận quan trọng cùng với vùng đồng bằng, trung du, vùng cát ven biển, tạo thành một thể thống nhất trong sự phát triển chung của cả tỉnh. Do vậy, từ sau ngày tái lập tỉnh đến nay, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh luôn nhận được sự quan tâm đầu tư hỗ trợ của Đảng, Nhà nước và của tỉnh thông qua việc đầu tư hỗ trợ từ các Chương trình, dự án, chính sách đặc thù. Cùng với sự quan tâm đó, đồng bào các dân tộc miền núi tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, đã có những nỗ lực, phấn đấu trong phát triển sản xuất, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống mới và có nhiều đóng góp cho tỉnh trong qúa trình xây dựng quê hương Quảng Nam ngày càng giàu, đẹp.

Tuy nhiên, vùng dân tộc và miền núi của tỉnh vẫn là vùng còn nhiều khó khăn nhất so với các vùng khác trong tỉnh. Hiện nay toàn tỉnh có 03 huyện nghèo được thụ hưởng chính sách theo

nghị quyết 30a gồm: Tây Giang, Nam Trà My, Phước Sơn và các huyện Bắc Trà My, Đông Giang, Nam Giang được bổ sung theo Quyết định số 615/QĐ-TTg ngày 25/4/2011 và Quyết định số 293/QĐ-TTg TTg ngày 25/4/2011 và Quyết định số 293/QĐ-TTg ngày 5/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định được thụ hưởng 70% theo Nghị quyết 30a. Các được thụ hưởng 70% theo Nghị quyết 30a. Các huyện miền núi còn lại Tiên Phước, Nông Sơn, Hiệp Đức được thụ hưởng chính sách đặc thù của tỉnh (30c). Trong giai đoạn 2012-2015, vùng dân tộc và miền núi của tỉnh được công nhận có 84 xã khu vực III và 44 thôn đặc biệt khó khăn thuộc 19 xã khu vực II. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo bình quân của 09 huyện miền núi là 42,20% (Toàn tỉnh 12,10%); cơ sở hạ tầng thiết yếu để phục vụ sản xuất và phúc lợi tập thể tuy được quan tâm đầu tư xây dựng, nhưng hiện vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn so với nhu cầu phát triển; về sản xuất, chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt, còn mang tính tự cung tự cấp, chưa tạo ra sản phẩm hàng hóa tập trung; chưa khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế về rừng, đất rừng và tài nguyên khoáng sản; bên cạnh đó đội ngũ cán bộ cấp cơ sở còn thiếu và yếu, chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển; một số tập tục lạc hậu, tư tưởng trông chờ ỷ lại, tệ nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn tồn tại làm kìm hãm sự phát triển; mặt khác điều kiện tự nhiên không thuận lợi về địa hình, độ dốc, đất đai bị chia cắt, manh mún và nhất là điểm xuất phát kinh tế - xã hội của vùng dân tộc và miền núi thấp so với các vùng khác cũng là nguyên nhân chậm phát triển.

Trong thời gian đến, để thực hiện thành công sự nghiệp giảm nghèo bền vững cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, tiếp tục phấn đấu xây dựng hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới; tạo tiền đề phát triển kinh tế, xã hội toàn vùng miền núi Quảng Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

Thực trạng và giải phápnâng cao hiệu quả đầu tư phát triểnKinh tế - xã hội miền núi tỉnh Quảng Nam

HuỳNH KHáNH ToàNUVBTV, PCT TT UBND tỉnh Quảng Nam

Page 19: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 19

- Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 31/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa VIII về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 55/2012/NQ-HĐND ngày 19/9/2012 của HĐND tỉnh về chương trình tổng thể phát triển kinh tế xã hội miền núi tỉnh giai đoạn 2013-2016 và năm 2020; Quyết định số 832/QĐ-UBND ngày 16/3/2012 của UBND tỉnh Quảng Nam về Ban hành Chương trình hỗ trợ giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020. Đồng thời thực hiện có hiệu quả chương trình nông thôn mới và các chương trình, chính sách, dự án đặc thù vùng dân tộc và miền núi hiện hành.

- Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng quy hoạch, bảo đảm sự phù hợp và tính liên kết giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh với quy hoạch phát triển kinh tế vùng, quy hoạch ngành; điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng; quy hoạch thủy điện. Nghiên cứu lập quy hoạch các vùng nguyên liệu, các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với các sản phẩm có sức cạnh tranh và giá trị kinh tế cao; quy hoạch xây dựng phát triển các khu dân cư, điểm dân cư tập trung, rà soát lại quỹ đất, bố trí sắp xếp lại dân cư và phát triển theo mô hình nông thôn mới phù hợp với điều kiện thực tế từng địa phương. Điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách về lồng ghép các dự án và chương trình giảm nghèo vào kế hoạch đầu tư phát triển chung của địa phương nhằm hạn chế tối đa việc phân tán nguồn lực, tránh chồng chéo trong quản lý và tạo sự chủ động cho các địa phương trong quá trình xây dựng các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các ngành và địa phương.

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các chính sách nâng cao dân trí và các Chương trình hỗ trợ và phát triển sản xuất cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho các xã miền núi đặc biệt khó khăn, các xã biên giới Việt - Lào, chương trình phát triển kinh tế xã hội vùng theo Nghị quyết 39/NQ-CP, chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, chương trình 229, chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch, chương trình hỗ trợ đầu tư cụm công nghiệp, đầu tư hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu, hỗ trợ đầu tư y tế huyện, xã và các chương trình mục tiêu

quốc gia như: chương trình nông thôn mới, nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn, giảm nghèo, việc làm, văn hóa, y tế, giáo dục, biến đổi khí hậu,... và các chương trình, chính sách, dự án đặc thù của tỉnh.

- Tập trung ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội như: đường giao thông từ tỉnh đến huyện, từ trung tâm huyện tới xã, đường liên xã, liên thôn; các công trình thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, thông tin truyền thông; các công trình trường học nội trú, cơ sở dạy nghề; bệnh viện tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã, trạm chuyển tiếp phát thanh xã; nhà văn hóa xã, thôn; chợ khu vực cụm xã, tạo mặt bằng các cụm công nghiệp, làng nghề, trung tâm dịch vụ tổng hợp về nông, lâm nghiệp... Thực hiện xã hội hóa có sự hỗ trợ của Nhà nước trong đầu tư một số công trình như: trường học, trạm xá, chợ, nhà sinh hoạt cộng đồng, đường giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương…Đồng thời tạo môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư, xây dựng cơ chế ưu đãi để thu hút các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư vào khu vực miền núi.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của cả hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở. Thực hiện chính sách luân chuyển và tăng cường cán bộ có năng lực về cơ sở và có chính sách hỗ trợ, đãi ngộ thỏa đáng để thu hút, khuyến khích trí thức trẻ về tham gia tổ công tác tại các xã miền núi theo Chương trình đặc thù của Trung ương và của tỉnh. Tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo ưu tiên theo hình thức cử tuyển, đào tạo chuyên sâu cho học sinh người dân tộc thiểu số sau khi đã tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học để tạo nguồn cán bộ tại chỗ, đủ chuẩn cho các xã miền núi. Xây dựng và hoàn thiện các trung tâm dạy nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, tổ chức các mô hình dạy nghề đa dạng, linh hoạt phù hợp với đặc điểm và điều kiện của từng nhóm đối tượng trên từng địa bàn. Tăng cường trách nhiệm của các doanh nghiệp được hưởng lợi từ tài nguyên, khoáng sản trong việc đào tạo và giải quyết nguồn lao động địa phương.

- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, hướng dẫn kỹ thuật nhằm thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu của Nhân dân; đào tạo, tập huấn cho cán bộ cơ sở về công tác khuyến nông-lâm-ngư. Đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng các mô hình mẫu để hướng dẫn và nhân rộng trong Nhân dân.

Page 20: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201520

Sớm hoàn thành việc giao đất, giao rừng theo quy định của nhà nước cho hộ gia đình và cộng đồng quản lý, bảo vệ có hiệu quả diện tích rừng hiện có. Thực hiện các biện pháp quản lý, ngăn chặn khai thác khoáng sản, lâm sản trái phép, áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý, khai thác tài nguyên để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

- Tiếp tục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn. Đầu tư phát triển hệ thống thông tin truyền thông vùng dân tộc thiểu số, cung cấp một số phương tiện thiết yếu nhằm đảm bảo việc tiếp cận và hưởng thụ thông tin của người dân. Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực tại các bệnh viện tuyến huyện, phòng khám đa khoa khu vực cụm xã, trạm y tế, trạm quân dân y kết hợp ở những xã khu vực biên giới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; có chính sách đào tạo, đãi ngộ thu hút đội ngũ bác sỹ. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học; đầu tư phát triển hệ thống trường dân tộc nội trú. Tăng cường công tác đào tạo giáo viên tại chỗ là người dân tộc thiểu số, từng bước ổn định đội ngũ giáo viên các cấp học, đảm bảo mục tiêu phát triển giáo dục miền núi.

- Tiếp tục quán triệt chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong hệ thống chính trị từ tỉnh về đến cơ sở. Thực hiện công khai dân chủ đối với các chương trình, chính sách, dự án đầu tư hỗ trợ về đến xã thôn, người dân kịp thời giải quyết những vướng mắc từ cơ sở. Thực hiện Quyết định số 18/QĐ-TTg, Chỉ thị số 06/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách để tôn vinh vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, phát huy tinh thần gắn bó chặt chẽ quân dân ở các xã biên giới, xây dựng thế trận Nhân dân trong từng xã, thôn biên giới. Gắn đầu tư phát triển kinh tế xã hội với xây dựng khu vực phòng thủ và tiềm lực an ninh quốc phòng. Đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về triển khai thực hiện Chỉ thị 21, 48 của Bộ Chính trị phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, phòng chống tội phạm mua bán người. Tiếp tục tăng cường lực lượng chuyên trách làm công tác phòng, chống tội phạm ở cơ sở, nhất là các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh trật tự, địa bàn khu vực biên giới.

Tin tưởng rằng, trong thời gian đến với sự tiếp

tục vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến huyện, xã, sự quyết tâm, nỗ lực của người dân phấn đấu vì mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới; vùng dân tộc và miền núi của tỉnh sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ, phát triển toàn diện về kinh tế xã hội, thu hẹp dần khoảng cách phân hóa giữa các vùng trong tỉnh./.

(Tiếp theo trang 13)Tiếp tục...thể chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tập hợp quần chúng theo hướng thiết thực, hiệu quả; phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; xây dựng tổ chức vững mạnh; thực hiện tốt Quyết định 217, 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Thứ tư, các đơn vị lực lượng vũ trang tiếp tục phối hợp với các ngành chức năng thực hiện tốt công tác vận động quần chúng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ động tham mưu, đề xuất với cấp uỷ, chính quyền về nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân, bảo vệ biên giới, biển đảo. Xây dựng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong ngành.

Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo”, đặc biệt là dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang, trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, chiến sĩ và các tầng lớp Nhân dân.

Thứ sáu, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác dân vận; kịp thời sơ kết, tổng kết và nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới./.

Page 21: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 21

Từ hiện trạngNăm 1997, sau khi tỉnh Quảng Nam chính thức

được tái lập; đó được xem là mốc thời gian ban đầu cho quá trình đánh giá, định hình hệ thống đô thị tỉnh Quảng Nam. Kết quả hiện nay, các đô thị phát triển khá đồng bộ từ hình thái kiến trúc đến hạ tầng kỹ thuật; về số lượng, toàn tỉnh có 15 đô thị, với 2 đô thị loại III (Tam Kỳ, Hội An), 1 đô thị loại 4 (thị xã Điện Bàn) và 12 đô thị là thị trấn huyện lỵ các huyện; đồng thời, hình thành 3 trung tâm hành chính, chính trị của 3 huyện (Tây Giang, Nam Trà My, Nông Sơn) và 3 khu vực phát triển đô thị theo chức năng đặc thù: Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế cửa khẩu Nam Giang, Khu đô thị mới Điện Nam Điện Ngọc. Vai trò của đô thị ngày càng được khẳng định trong việc ổn định cấu trúc trong tổng thể các mối quan hệ với khu vực nông thôn, các khu công nghiệp, du lịch; và là các điểm phát triển tại các nút giao của hệ thống giao thông kết nối vùng, liên vùng trong toàn tỉnh.

Tuy nhiên, hiện trạng các đô thị đang có những áp lực và tồn tại cần được nhìn nhận; đặc biệt trong bối cảnh hội nhập và yêu cầu liên kết trong mối quan hệ phát triển bền vững, chủ yếu là:

Các chỉ tiêu phát triển đô thị chung cho hệ thống đô thị và từng đô thị còn khiêm tốn so với cả nước và khu vực Miền Trung; tỷ lệ đô thị hóa trên toàn tỉnh Quảng Nam là 19,2% (2013) thấp hơn so với mức bình quân chung toàn quốc là 32,19% và thấp hơn so với Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung là 36,94%; Tốc độ đô thị hóa trên toàn tỉnh Quảng Nam là 1,62 (2013) thấp hơn so với mức bình quân chung toàn quốc là 3,26% và thấp hơn so với Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung là 3,1%.

Phân bố đô thị không đồng đều giữa vùng Đông và vùng Tây; sự nổi trội của khu vực phía Bắc và phía Nam; và sự chênh lệch lớn giữa đô thị với

khu vực ngoại vi và khu vực nông thôn. Điều này cũng là hình ảnh phản ánh hiện trạng chênh lệch về điều kiện phát triển kinh tế giữa các vùng. Đây là nguy cơ dẫn đến sự thiếu bền vững trong phát triển hệ thống đô thị, đó là sự di dân; chuyển dịch lao động; sự quá tải về hạ tầng và các “tai biến” về xã hội tại các đô thị lớn.

Chất lượng đô thị còn hạn chế, đặc biệt là các thị trấn cấp huyện. Hiện trạng này xuất phát từ bài toán đầu tư, đó là sự cân bằng giữa quy mô, vốn và nhu cầu thực tiễn. Thực tế, hầu hết các đô thị đều là đô thị nhỏ, quy mô dân số khoảng 7000 dân (và có xu hướng di dân); nhu cầu mở rộng quy mô đô thị là chưa bức thiết; đô thị thiếu sức hấp dẫn, thiếu lợi thế trong thu hút đầu tư; nguồn vốn đầu tư cho hạ tầng từ nguồn ngân sách còn hạn chế.

Đô thị thiếu bản sắc: Từ năm 1997 đến nay, các đô thị của Quảng Nam được hình thành với mục tiêu gắn với hình thành trung tâm hành chính các cấp; theo đó, về cơ bản, đô thị chỉ mới đáp ứng các yêu cầu về hạ tầng, về quy hoạch sử dụng đất. Các mục tiêu khác, đặc biệt đối với quy hoạch không gian kiến trúc cảnh quan cho đô thị chưa được xem trọng đúng mức; hoặc giải pháp còn mang tính hình thức, thiếu tính khả thi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các đô thị lớn như Hội An, Điện Bàn, Tam Kỳ đã có bước chuyển đáng kể trong xây dựng bản sắc cho đô thị. Các khái niệm đã hình thành: Đô thị xanh, đô thị ven sông, đô thị sinh thái...và đó đã được nhìn nhận như chiến lược hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, xây dựng bản sắc riêng cho các đô thị.

Định hướng phát triển đến 2030Trong giai đoạn 1997-2010, do thực trạng về

quy mô và những hạn chế của các tác động ngoại vùng; hệ thống đô thị được quản lý theo mô hình điểm gắn với các trung tâm hành chính. Đây là

thực trạng và giải pháp phát triển đến năm 2030NguyễN PHú

Giám đốc Sở Xây dựng

thực trạng và giải pháp phát triển đến năm 2030Hệ thống đô thị tỉnh Quảng Nam

Page 22: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201522

mô hình đơn giản, chủ yếu tập trung cho công tác quản lý phát triển theo từng đô thị riêng lẽ. Theo đó, sự biến chuyển lớn nhất trong định hướng là (1) tập trung cho quản lý hệ thống, tăng cường mối liên kết và (2) chú trọng nâng cao chất lượng phát triển từng đô thị; cụ thể tập trung chủ yếu cho các yêu cầu như sau:

- Phù hợp với định hướng phát triển đô thị Quốc gia; Quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung; Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh; Quy hoạch kinh tế xã hội của tỉnh; các Quy hoạch ngành của tỉnh;

- Phát huy lợi thế các vùng kinh tế động lực, các hành lang kinh tế, trung tâm vùng để hình thành các cụm đô thị, các chuỗi đô thị theo các hành lang đô thị hóa gắn với các lợi thế riêng biệt của từng vùng;

- Tạo sự liên kết phát triển các cụm đô thị, các chuỗi đô thị với các đô thị trung tâm vùng; Liên kết giữa vùng Đông và vùng Tây; Liên kết giữa vùng có tốc độ đô thị hóa cao với vùng có tiềm năng phát triển; Liên kết các khu chức năng đặc thù với từng đô thị, tạo sự lan tỏa phát triển vùng.

Các yêu cầu trên đã được xác định bằng các giải pháp tổng

thể, phối hợp đa ngành; trong đó, đối với quản lý quy hoạch xây dựng, UBND tỉnh đã phê duyệt và ban hành các quy hoạch, gồm: Quy hoạch Vùng Đông (năm 2011); quy hoạch Vùng Tây (năm 2013); quy hoạch Vùng Tỉnh (năm 2014) và hoàn thành Chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh đến năm 2020 và 2030 (năm 2015).

Cụ thể về định hướng phát triển hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh:

Chỉ tiêu phát triển đô thị: Đến năm 2020, dân số toàn tỉnh là 1.552.000 người; 1.600.000 người vào năm 2030; Quy mô đất xây dựng đô thị đến năm 2020 là 183,55 km2 và 296,44 km2 vào năm 2030.

Số lượng đô thị: - Đến năm 2020, toàn tỉnh có 20 đô thị,

gồm: 02 đô thị loại II (Tam Kỳ, Hội An); 01 đô thị loại III (Núi Thành); 06 đô thị loại IV

(Điện Bàn, Ái Nghĩa, Nam Phước, Hà Lam, Thạnh Mỹ, Khâm Đức); 11 đô thị loại V, trong đó có 05 đô thị hình thành mới (Trung Phước, Tắk Pỏ, Tơ Viêng, Hương An, Việt An).

- Đến năm 2030, toàn tỉnh có 28 đô thị, gồm: 02 đô thị loại II (Tam Kỳ, Hội An); 01 đô thị loại III (Núi Thành); 06 đô thị loại IV (Điện Bàn, Ái Nghĩa, Nam Phước, Hà Lam, Thạnh Mỹ, Khâm Đức); 19 đô thị loại V.

Mô hình quản lý phát triển đô thị: Chuyển từ mô hình phát triển hệ thống đô thị theo dạng điểm theo đơn vị hành chính sang mô hình cụm đô thị, và chuỗi đô thị. Định hướng đến năm 2030, hình

Mạng lưới đô thị tỉnh Quảng Nam đến năm 2030

Tam Kỳ, đô thị xanh

Page 23: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 23

thành 3 trục đô thị hóa, gồm: Trục Quốc lộ 1A: Kết nối các đô thị Núi Thành, Tam Kỳ, Hà Lam, Hương An, Nam Phước, Điện Bàn; Trục đường bộ ven biển: Kết nối các đô thị ven biển như: Núi Thành, Tam Kỳ, Bình Minh, Duy Nghĩa và đô thị chuyên ngành Hội An; và trục Hồ Chí Minh: Kết nối dải đô thị P’Rao, Thạnh Mỹ, Khâm Đức; và theo 3 hành lang phát triển, gồm: Hành lang Bắc theo tuyến Quốc lộ 14B-D; Hành lang trung theo tuyến Quốc lộ 14E và hành lang Nam theo tuyến Quốc lộ 40B. Hình thành 3 cụm động lực khu vực ven biển và 03 đô thị trung tâm vùng phía Tây của tỉnh.

Nâng cao chất lượng đô thị: Tập trung phát triển các tiêu chí về phát triển đô thị toàn tỉnh đạt và cao hơn so với các chỉ tiêu đã xác định tại Quyết định 1659/QĐ-TTg ngày 7/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Hình thành các tuyến phố, khu phố văn minh trong mỗi đô thị.

Giải phápTriển khai thực hiện các định hướng trên, giới

hạn trong phạm vi quản lý ngành, xác định các giải pháp thực hiện chủ yếu như sau:

Thứ nhất, quản lý hệ thống: Sở Xây dựng đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Chương trình phát triển đô thị tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 và năm 2030. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm xác định mục tiêu và yêu cầu phát triển từng đô thị gắn với mối quan hệ tổng thể hệ thống các đô thị trên địa bàn tỉnh.

Thứ hai, quản lý chất lượng phát triển từng đô thị: Đối với từng địa phương, Sở Xây dựng đã nhấn mạnh vai trò và yêu cầu của công tác lập quy

hoạch vùng huyện, vùng liên huyện; lập Chương trình phát triển đô thị từng địa phương; lập Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc từng đô thị;

Quản lý công tác đầu tư: Triển khai lập khu vực phát triển đô thị và kế hoạch thực hiện làm công cụ kiểm soát hoạt động đầu tư xây dựng đô thị theo Nghị định 11 của Chính phủ.

Các điều kiện hỗ trợ khác:Nguồn vốn cho công tác lập quy hoạch, trong

đó tiếp tục đẩy mạnh và hoàn tất phủ kín quy hoạch phân khu trên địa bàn các đô thị để làm cơ sở cho triển khai quy hoạch chi tiết gắn với kêu gọi và thu hút đầu tư.

Huy động các nguồn tài chính từ ngân sách, từ các thành phần kinh tế và nội lực trong nhân dân tập trung đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, nâng cao chất lượng, tiện nghi môi trường sống cho dân cư đô thị.

Nâng cao chất lượng đội ngũ những người tham gia vào công tác quy hoạch bao gồm cả cán bộ quản lý nhà nước về quy hoạch, đội ngũ tư vấn lập quy hoạch và cán bộ, chuyên gia thẩm định quy hoạch.

Sự thành công của hệ thống đô thị đòi hỏi sự tham gia quản lý, phối hợp của nhiều ngành, địa phương, nhà đầu tư và cả người dân đô thị. Bằng tham vọng và cơ sở thực tiễn, tôi tin tưởng rằng các định hướng nêu trên sẽ được hiện thực hóa; sẽ đạt được những thành quả góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hội nhập và phát triển./.

Hội An, đô thị sinh thái ven sông

Page 24: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201524

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định con người là một thực

thể tự nhiên, đồng thời là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội. Với tư cách là một thực thể xã hội, con người chịu sự tác động của quy luật xã hội, của môi trường xã hội. Họ là sản phẩm của lịch sử đồng thời cũng là chủ thể góp phần sáng tạo lịch sử.

Với việc xác định vai trò quan trọng của việc xây dựng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, Người còn căn dặn Đảng ta “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng, rất cần thiết”. Với quan điểm coi trọng sức mạnh văn hóa trong việc xây dựng xã hội và con người, Nghị quyết 33-NQ/TW BCH TW Đảng (khóa XI) đã đề ra mục tiêu:“Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Vấn đề xây dựng con người phục vụ yêu cầu

Xây dựng con người - Nhiệm vụ trung tâm về xây dựng văn hóa ở Quảng Nam:Thực trạng và giải pháp

ĐiNH HàiTUV, Giám đốc Sở VH-TT-DL Quảng Nam

Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 9 (Khóa XI).

của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được Đảng ta đặt trên bình diện rộng lớn gắn liền với trách nhiệm của từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ lĩnh vực phát triển kinh tế, tạo nền tảng vật chất để xây dựng con người tới phát triển về thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chăm sóc sức khỏe cho con người gắn liền với trách nhiệm xã hội của các ngành y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin đại chúng, dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Như vậy, đứng trước yêu cầu của đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề quan trọng là phải đặt con người và vấn đề xây dựng con người trong môi trường kinh tế - xã hội mới, thấy rõ được các nhân tố bên ngoài và bên trong tác động vào đời sống của

Page 25: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 25

con người để xác định những yêu cầu cụ thể đối với việc xây dựng con người, mà yếu tố văn hóa trong con người là vấn đề quan trọng nhất, trước hết là xây dựng và hoàn thiện về nhân cách, tư tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh, bản sắc của con người Việt Nam. Đây là những nội dung cốt lõi phản ánh chất lượng cao của việc xây dựng con người, gắn liền với yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, những tác động tiêu cực từ mặt trái của quá trình này vào đời sống xã hội, làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người và xã hội có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, bên cạnh việc ngăn chặn sự suy thoái này, Đảng ta đề cao nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống trong xã hội, trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội, trong từng gia đình, tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh để nuôi dưỡng đời sống tinh thần của con người. Sự đan xen giữa yếu tố tích cực và tiêu cực trong quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế ở thời kỳ chuyển đổi đã tạo nên sự phức tạp trong vấn đề xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người. Kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ mười khóa IX đã thẳng thắn nêu rõ: “Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của Nhân dân”. Vì vậy, trong vấn đề xây dựng con người, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ đặt lên hàng đầu là nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở... Để khắc phục khuynh hướng giản đơn, chủ quan nóng vội, duy ý chí trong vấn đề này, Đảng ta nhấn mạnh rằng: “Cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài”.

Như vậy, vấn đề xây dựng con người và phát triển con người đã được Đảng ta đặt vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Sự sáng tạo của Đảng trong quá trình vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay là triển khai vấn đề xây dựng con người trên nhiều bình diện khác nhau, gắn liền với nhiều nội dung khác nhau để phát triển con người thích ứng với đòi hỏi của cách mạng trong một bối cảnh mới, bối cảnh của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển bền vững. Hướng tới các giá trị nhân văn, vì con người, cho con người, chăm lo vun đắp cho sự nghiệp “trồng người” là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay.

Trong lĩnh vực xây dựng con người, thời gian qua tỉnh Quảng Nam đã đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách mới để tạo động lực cho giáo dục đào tạo phát triển. Công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã được quan tâm đầu tư, tạo nên sự chuyển biến tích cực trong việc đảm bảo công bằng xã hội và hỗ trợ những vùng gặp khó khăn. Đặc biệt là phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng văn hóa, gia đình văn hóa đã được triển khai trong cộng đồng dân cư, là chiếc nôi nuôi dưỡng con người, hướng tới phục vụ con người, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người, được Nhân dân đồng tình hưởng ứng và thực hiện, tạo nên một phong trào sâu rộng trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần to lớn vào củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong tỉnh.

Thời gian qua, những tiến bộ và thành tựu trên lĩnh vực văn hóa đã góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của Nhân dân trong tỉnh, góp phần vào xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh, làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy

Page 26: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201526

nhiên, trong quá trình thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa, đối với Quảng Nam, chúng ta thấy nổi lên một số tồn tại như: Việc xây dựng và phát triển văn hóa mới tiến hành chủ yếu trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, chưa tác động sâu rộng và gắn bó chặt chẽ với kinh tế và chính trị. Nhiều vấn đề xã hội nổi lên như giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội còn chậm chưa được giải quyết. Những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế và chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Tình trạng phân hóa trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền, các tầng lớp xã hội gia tăng. Tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách trên lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, giữa văn hóa và công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị còn chậm và thiếu đồng bộ, làm hạn chế tác động của văn hóa đối với sự phát triển của tỉnh.

Hiện nay, tỉnh Quảng Nam đang hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI sẽ đề ra, đặc biệt là những quan điểm, nhiệm vụ về xây dựng văn hóa, phát triển con người Quảng Nam, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của phát triển văn hóa, xã hội và con người trong thời gian tới. Giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội. Cần tạo ra hợp lực chung của tất cả các ngành, các cấp, của cả xã hội trong việc thực hiện chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa Quảng Nam. Xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng

cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người, phát triển văn hóa.

Một vấn đề quan trọng để xây dựng con người là tạo điều kiện về môi trường văn hóa, đây là yếu tố quyết định nhất để phát huy tính năng động, sáng tạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn thể xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của vấn đề xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn định đáp ứng yêu cầu xã hội hóa các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao nhằm huy động mọi nguồn lực trong tỉnh tham gia vào sự nghiệp xây dựng con người và phát triển văn hóa.

Tập trung xây dựng môi trường văn hóa, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tính tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của Nhân dân thông qua các thiết chế văn hóa. Khuyến khích sự sáng tạo văn hóa, văn học nghệ thuật, tạo ra những công trình khoa học và nghệ thuật có giá trị cao. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng xây dựng hoàn thiện các thiết chế văn hóa - xã hội ở những khu vực này. Tăng cường đầu tư các thiết chế văn hóa - xã hội ở những khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung đông công nhân lao động. Kiên quyết đấu tranh loại trừ các tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Bên cạnh việc khuyến khích các hoạt động văn hóa lành mạnh, cần bài trừ các tệ nạn xã hội có nguy hại đến đạo đức, lối sống, nhân cách con người.

Hướng về Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, chúng ta tin tưởng chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa Quảng Nam chính là mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng và phát triển, góp phần quan trọng củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của Nhân dân, góp phần vào sự phát triển bền vững của tỉnh Quảng Nam./.

Page 27: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 27

Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự góp sức của

toàn xă hội, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, phát huy thành tựu đạt được, khắc phục khó khăn, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động và các phong trào thi đua, hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ giáo dục đề ra; toàn ngành đã tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiều giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý giáo dục.

Đến nay, hệ thống mạng lưới cơ sở giáo dục các cấp học, bậc học được phát triển, phân bố khá hợp lý và đều khắp trên địa bàn toàn tỉnh, đáp ứng được nhu cầu học tập của Nhân dân. Toàn tỉnh hiện có 241 trường mầm non, 270 trường tiểu học, 214 trường trung học cơ sở, phổ thông cơ sở và 55 trường trung học phổ thông với 323.452 học sinh; đội ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng và trình độ đào tạo đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Cả tỉnh có 20.021 giáo viên (gồm 3533 giáo viên mầm non, 7547 giáo viên tiểu học, 6207 giáo viên trung học cơ sở, 2824 giáo viên THPT) hơn 1908 cán bộ quản lý giáo dục các cấp và 4078 nhân viên; toàn tỉnh có 02 trường đại học, 06 trường cao đẳng, 03 trường trung cấp chuyên nghiệp. Số lượng học sinh, sinh viên học tại các trường Đại học, Cao đẳng, TCCN trên cả nước và ở tại địa bàn tỉnh Quảng Nam tăng khá mạnh.

Bên cạnh việc tăng quy mô trường lớp, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đầu tư trang thiết bị phục vụ cho dạy và học một cách hợp lý và hiệu quả. Từ năm 2010 đến nay, với sự cố gắng rất lớn của các địa phương, đơn vị, công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đã đạt được những kết quả khá quan trọng, số lượng trường

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Quảng Nam - Thực trạng và giải pháp

Hà THaNH QuốcGiám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh

Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học

đạt chuẩn quốc gia tăng lên đáng kể. So với các tỉnh khu vực miền Trung Tây Nguyên, Quảng Nam là tỉnh có tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia cao nhất. (Toàn tỉnh có 411 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 52,5% . Trong đó, MN có 106 trường, tỉ lệ 44%, Tiểu học có 185 trường, tỉ lệ 68%, THCS có 108 trường, tỉ lệ 50,4%, THPT có 12 trường, tỉ lệ 22.2%.); sự hình thành và phát triển 2 trường chuyên của tỉnh đã đáp ứng nhu cầu học tập, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh nhà; chất lượng giáo dục có nhiều khởi sắc; việc chỉ đạo thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh trên địa bàn tỉnh cơ bản đạt hiệu quả; kỳ thi THPT quốc gia năm 2015, có 16732/18776 học sinh đỗ tốt nghiệp, tỉ lệ 89,11%, xếp vị thứ 2 ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên; số lượng học sinh giỏi tăng dần qua từng năm học. Kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia năm 2015, học sinh Quảng Nam đạt được 27 giải, đây là kết quả cao nhất của tỉnh Quảng Nam từ trước đến nay; đặc biệt, đến nay, tỉnh Quảng Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và

Page 28: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201528

phổ cập giáo dục trung học cơ sở tiếp tục được duy trì bền vững. Với những thành tựu trên đã tạo được những tiền đề cơ bản để Quảng Nam tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Trong thời gian đến, với mục tiêu “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”, toàn ngành giáo dục tỉnh nhà sẽ tiếp tục tập trung triển khai thực hiện Chương trình hành động số 28-CTr/TU ngày 25/4/2014 của Tỉnh ủy Quảng Nam về thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, với các nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể sau:

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo

Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong cả hệ thống chính trị, trong ngành giáo dục - đào tạo và trong toàn xã hội. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Chuyển người học thành chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục và đào tạo. Tạo ra sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh.

Coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Tham mưu với các cấp, các ngành tiến hành xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo; trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện.

2. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục - đào tạo theo hướng

coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học

Thực hiện nghiêm túc việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, đảm bảo hài hòa giữa đức dục, trí dục, thể dục và mỹ dục; giữa dạy người, dạy chữ và dạy nghề; đổi mới phương pháp phù hợp với lứa tuổi, trình độ; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp, có khả năng thích ứng, chủ động trong môi trường công việc. tham mưu hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước. Bảo đảm cơ hội cho mọi người (nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách) được học tập không ngừng, học tập suốt đời để nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học.

Nâng cao giáo dục thể chất trong trường học.

Page 29: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 29

3. Xây dựng hệ thống giáo dục theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp Nhân dân

Hoàn thiện quy hoạch hệ thống trường học, cơ sở giáo dục đảm bảo cân đối, hợp lý giữa quy mô và cơ cấu; giữa các loại hình, giữa các vùng miền và giữa các cấp học. Sắp xếp lại các trung tâm giáo dục thường xuyên - hướng nghiệp, các trung tâm dạy nghề và các trung tâm khác; tiếp tục củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng tại các xã, phường, thị trấn; đẩy mạnh công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học; nâng cao hiệu quả hoạt động của các trường THPT chuyên của tỉnh.

Tăng cường năng lực các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa tỉnh nhà.

4. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Tiến hành rà soát, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục để xây dựng kế hoạch bố trí, sắp xếp, điều chuyển, luân chuyển hợp lý. Có chính sách để thu hút và đãi ngộ cán bộ, giáo viên, giảng viên giỏi. Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp. Song song với đó, kịp thời thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục để họ yên tâm công tác, cống hiến vì sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà trong thời gian đến.

5. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo

Tham mưu các cấp ưu tiên sử dụng nguồn ngân sách để đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng giáo dục - đào tạo; thực hiện xã hội hóa giáo dục nhằm tăng thêm nguồn lực để đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Khuyến khích

việc hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài nhằm giúp học sinh, sinh viên nghèo có điều kiện vươn lên trong học tập. Trong đó, trước mắt tập trung ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục mầm non, đầu tư xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia.

6. Phát triển giáo dục miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng đề án phát triển giáo dục miền núi giai đoạn 2015-2020 và tầm nhìn đến 2025; xem đây là một khâu đột phá trong phát triển giáo dục của tỉnh nhà trong thời gian đến. Qua đề án, Quy hoạch lại mạng lưới trường, lớp hợp lý, đáp ứng yêu cầu học tập cho học sinh miền núi, đặc biệt vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đảm bảo tỷ lệ huy động học sinh ở các cấp học, bậc học ra lớp; giảm tối đa số học sinh bỏ học. Xây dựng loại hình trường phổ thông có học sinh bán trú ở các huyện miền núi cao như các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú để đảm bảo việc ăn ở cho học sinh phù hợp với lứa tuổi, địa bàn cư trú và tập quán sinh hoạt người dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng giáo dục, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền; góp phần vào việc nâng cao trình độ dân trí và đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cho các địa phương miền núi.

Ngoài chế độ chính sách theo quy định của Nhà nước, có chính sách hỗ trợ tốt nhất về điều kiện học tập cho học sinh là người dân tộc thiểu số; nhất là đối với các em thuộc gia đình nghèo, các em ở các xã đặc biệt khó khăn.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục người dân tộc thiểu số để đảm bảo tính ổn định của đội ngũ ở các cơ sở giáo dục miền núi; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần để nhà giáo yên tâm công tác ở vùng cao, vùng khó khăn. Xây dựng Trường PTDTNT tỉnh thành trường PTDTNT chất lượng cao.

Dưới sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và các địa phương; cùng với sự nỗ lực của cán bộ, giáo viên và học sinh trong toàn ngành, giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến chắc chắn sẽ có những bước phát triển mới, góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế-xã hội của tỉnh nhà trong nhiệm kỳ 2015-2020./.

Page 30: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201530

Trong 5 năm qua (2010-2015), được sự lãnh, chỉ đạo của Bộ Y tế, Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân

tỉnh, sự phối hợp của mặt trận, đoàn thể và các địa phương, cùng sự nỗ lực của tập thể cán bộ trong toàn ngành, công tác y tế của tỉnh Quảng Nam đã triển khai thực hiện các mục tiêu về y tế từ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần rất lớn vào hoạt động nâng cao chất lượng dân số tỉnh nhà.

Tính đến nay, toàn tỉnh có 7.230 cán bộ y tế. Tổng số Bác sĩ là 943 đạt 6,28 Bác sĩ/vạn dân. Cán bộ y tế tuyến xã tăng từ 5 lên 5,2/trạm; 94 trạm y tế có bác sĩ làm việc, tỉ lệ (38,52%); 226 trạm y tế có nữ hộ sinh/y sĩ sản nhi, tỉ lệ (92,62%); 100% thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động; 106 xã, phường, thị trấn đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020, tỉ lệ (43,44%); số giường bệnh tăng từ 19,18 giường lên 25,65 giường/vạn dân. Tỷ lệ tham gia bao hiểm y tế (BHYT) tăng từ 64,27% năm 2010 lên 79% năm 2014, góp phần công bằng trong chăm sóc sức khỏe.

Đội ngũ y tế đã được đào tạo nâng cao chất lượng chuyên môn và công tác quản lý, đặc biệt coi trọng việc đào tạo chuyên sâu tuyến tỉnh, đào tạo phổ cập và đào tạo nâng cao tuyến cơ sở.

Cùng với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, ngành Y tế cũng đã thực hiện tốt vai trò tham mưu để Tỉnh

Công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân:Nhìn từ kết quả thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đến

NguyễN VăN HaiTUV, Giám đốc Sở Y tế Quảng Nam

Bệnh viện Trung ương Huế chuyển giao kỹ thuật cao, kỹ thuật mới trong phẫu thuật cho các bác sĩ tại bệnh viện Đa khoa Quảng Nam

uỷ, HĐND, UBND tỉnh sơ, tổng kết các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về y tế và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo lĩnh vực này; tham mưu tỉnh đề án Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống Y tế Quảng Nam, Kế hoạch thực hiện Chiến lược Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ Nhân dân. Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở được củng cố và hoàn thiện: xây dựng mới và đưa vào hoạt động Bệnh viện Đa khoa tỉnh (bệnh viện hạng II, qui mô 600 giường bệnh); Bệnh viện Đa khoa khu vực miền núi phía Bắc của tỉnh; xây dựng mới một số bệnh viện chuyên khoa; Nhiều đơn vị được củng cố, nhiều tổ chức được hình thành, đáp ứng nhu cầu mới như: Trung tâm Mắt, Trung tâm phòng

Page 31: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 31

chống HIV/AIDS, cơ sở điều trị Methadone; Xây dựng mới và nâng cấp hầu hết các Trung tâm y tế tuyến huyện, thành,Trạm y tế xã, phường, thị trấn và giải quyết cơ bản, khắc phục trạm y tế tạm bợ hoặc tình trạng xã “trắng” về y tế. Đầu tư các trang thiết bị phù hợp, cần thiết cho các cơ sở y tế đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Củng cố lại Trung tâm Y tế tuyến huyện, thành để đảm đương thực hiện đồng thời hai chức năng dự phòng và khám chữa bệnh sau nhiều lần mô hình tổ chức thay đổi.

Từ đó, các hoạt động của ngành đã đem lại hiệu quả đáng khích lệ: Hàng năm đã tăng cường giám sát, xử lý kịp thời không để dịch bùng phát, lây lan. Các dự án thuộc chương trình y tế thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra, công tác phòng chống sốt rét liên tục nhiều năm đạt 3 mục tiêu... Chương trình phòng chống lao đạt hiệu quả tốt; Duy trì thanh toán bệnh phong, bại liệt và loại trừ uốn ván sơ sinh, phát hiện và quản lý tốt bệnh nhân tâm thần, triển khai các hoạt động phòng chống cao huyết áp, đái tháo đường trong toàn tỉnh. Thực hiện tốt công tác quân-dân y kết hợp trong khám chữa bệnh tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Công tác tiêm chủng mở rộng được duy trì, hàng năm đạt tỷ lệ trên 95% trẻ dưới 1 tuổi được gây miễn dịch cơ bản với 8 loại vacin; 100% huyện, thị, thành đạt mục tiêu tiêm chủng cho trẻ em; trên 90% bà mẹ mang thai được tiêm VAT; các bệnh dịch nguy hiểm ở trẻ em không xảy ra…

Các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, hạn chế tốc độ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng được tăng cường. Thực hiện tốt dự án cải thiện Dinh dưỡng trẻ em: Tỷ lệ SDD theo cân nặng, chiều cao giảm dần qua các năm và có tính bền vững, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em thể nhẹ cân giảm từ 16,7% năm 2011 còn 14,6% năm 2014, thể thấp còi từ 31,40% năm 201 còn 27,50% năm 2014. Các chỉ số chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) ngày càng tăng; tỷ lệ trung bình khám thai trên 3 lần đạt 93,58%, tỷ số chết mẹ giảm từ 10,18 năm 2011 còn 10,03 năm 2014…

Công tác lãnh, chỉ đạo lĩnh vực DS-KHHGD đạt nhiều kết quả tốt, sự hiểu biết và tự nguyện thực hiện chính sách dân số của người dân được nâng lên rõ rệt, tỷ suất sinh thô đạt 13,83%0 (mục tiêu: 15,45%o); tỷ lệ sinh con 3 trở lên giảm dần 17,30% năm 2011 còn 16,03% năm 2014; tình trạng mất

cân bằng giới tính khi sinh giảm: 113,80 trai/100 gái năm 2011 giảm còn 110 năm 2014 (mục tiêu: 114).

Chất lượng khám chữa bệnh được chú trọng. Công tác xã hội hóa y tế được quan tâm chỉ đạo. Hoạt động nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh, triển khai ứng dụng có hiệu quả các kết quả nghiên cứu khoa học, các kỹ thuật mới trong khám chữa bệnh, y tế dự phòng. Trong 5 năm đã có gần 300 đề tài nghiên cứu khoa học được thực hiện (5 đề tài cấp tỉnh)…

Triển khai tốt chính sách quốc gia về thuốc, ưu tiên dùng thuốc sản xuất tại Việt Nam (60-70%). Thường xuyên thanh tra, kiểm tra , hạn chế tối đa tình trạng thuốc giả, kém phẩm chất, tăng giá. Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về y tế được đẩy mạnh. Công tác tài chính được đảm bảo tiết kiệm 10% chi thường xuyên và huy động 35% ngân sách từ nguồn thu để lại bổ sung quỹ lương; nâng cao năng lực quản lý của lãnh đạo các đơn vị và thực hành tiết kiệm, hiệu quả; công tác thanh tra, kiểm tra và thẩm định quyết toán được thực hiện thường xuyên đúng quy định hiện hành .

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CSSKND trên địa bàn tỉnh vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm nhất định, như: Công tác lãnh, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn trên một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao, thiếu bền vững. Thủ tục hành chính, thủ tục khám chữa bệnh, chuyển bệnh, thanh toán phí bảo hiểm y tế, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh... vẫn còn phiền hà, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với ngành y tế. Thực hiện quy chế dân chủ, quy chế phối hợp hoạt động, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền có nơi chưa thường xuyên và kém hiệu quả. Trang thiết bị Y tế nhiều nơi còn thiếu, nhất là tuyến Y tế cơ sở, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ Y tế.

Nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm, là do: Một số các chủ trương, chính sách liên quan đến ngành y tế thay đổi, điều chỉnh nhưng điều kiện để thực thi thì chưa đảm bảo, chưa phù hợp. Vận dụng, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, của các cấp ủy đối với lĩnh vực y tế đôi lúc đôi nơi thiếu cương quyết, chưa kịp thời, hiệu quả thấp. Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan thẩm quyền chưa thật tốt, chưa phát hiện kịp thời các vấn đề nảy sinh để chấn chỉnh, ngăn chặn. Các mặt trái của xã hội; tình

Page 32: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201532

trạng suy thoái về chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong xã hội đã ảnh hưởng không ít đến tư tưởng, tình cảm, nhiệt huyết của cán bộ, đảng viên, người lao động trong ngành.

Nhìn lại kết quả vừa nêu cho thấy, việc đưa mục tiêu về y tế của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX vào cuộc sống đã được ngành Y tế tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội, trong đó, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nhận thức của toàn bộ hệ thống chính trị đối với y tế cơ sở và nhận thức về hành vi quyền và nghĩa vụ trong chăm sóc sức khỏe của các tầng lớp Nhân dân được nâng lên đậm nét.

Với những thành quả đã đạt được, không chỉ khẳng định những hướng đi phù hợp, đúng đắn của ngành y tế tỉnh nhà trong thời gian qua, mà còn làm tiền đề cho việc thực hiện tốt “Chiến lược chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2015-2020” mà Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ tỉnh đề ra.

Trong nhiệm kỳ đến, toàn ngành quyết tâm tiếp tục xây dựng ngành y tế Quảng Nam theo hướng: công bằng, hiệu quả, phát triển, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh để đáp ứng được mục tiêu xây dựng Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại và tạo niềm tin thật sự của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự mong đợi của toàn dân. Với tinh thần trên, ngành y tế Quảng Nam, tiếp tục phấn đấu đến năm 2020: 80 % xã, phường, thị trấn đạt Bộ Tiêu chí quốc gia về y tế xã; 09 bác sĩ/vạn dân; 1,5 dược sĩ/vạn dân;52 cán bộ y tế/vạn dân; 31,5 giường bệnh/vạn dân (kể cả giường bệnh ngoài công lập nhưng không tính giường bệnh tại các trạm y tế);Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi: Thể nhẹ cân (cân nặng theo tuổi): dưới 10 %; Thể thấp còi (chiều cao theo tuổi): dưới 22 %; Giảm tỉ lệ sinh: 0,2 %o/năm; Khống chế dịch bệnh kịp thời, không để dịch lớn xảy ra; 95% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.

Và để thực hiện có chất lượng, hiệu quả các mục tiêu trên, toàn ngành tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:

- Đa dạng hóa hình thức, nội dung và triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả công

tác thông tin, giáo dục, truyền thông, thay đổi hành vi về chăm sóc sức khỏe, chính sách pháp luật, các chủ trương, quy định của Đảng, Nhà nước, ngành về công tác BVCS&NCSKND; nâng cao y đức, thực hiện tốt quy tắc ứng xử và trách nhiệm cán bộ y tế.

- Tiếp tục củng cố, kiện toàn mạng lưới y tế, chú trọng mạng lưới y tế cơ sở, mạng lưới DS-KHHGĐ; mạng lưới YHCT, không ngừng bồi dưỡng đào tạo chuyên môn cho cán bộ y tế nhất là lĩnh vực chuyên sâu, mũi nhọn; tích cực thực hiện chính sách thu hút bác sĩ, chính sách ưu đãi, đào tạo bác sĩ, bác sĩ nội trú của tỉnh, ưu tiên cho các ngành, chuyên khoa khó thu hút.

- Phát triển, hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng, triển khai có hiệu quả các chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, CSSKSS, phòng chống HIV/AIDS, tiêm chủng mở rộng, ATTP, vệ sinh môi trường và các chương trình y tế khác; nâng cao năng lực giám sát, phát hiện, khống chế dịch bệnh nhất là các dịch bệnh nguy hiểm, mới phát sinh, không để dịch bệnh lớn xảy ra;

- Tiếp tục triển khai Luật Khám chữa, bệnh, Luật BHYT sửa đổi, Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về BVCS&NCSKND trong tình hình mới, Chỉ thị 06-CT/TW của Ban Bí thư về củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, Đề án “Quy hoạch phát triển sự nghiệp y tế tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025”, các Đề án của Bộ Y tế: Đề án Bệnh viện vệ tinh, Đề án cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, Đề án 1816 về tăng cường bác sĩ cho tuyến dưới, Tiêu chí quốc gia y tế xã giai đoạn 2011-2020...;

- Thực hiện tốt Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, Đề án 52 của Chính phủ về kiểm soát dân số các vùng biển, đảo, ven biển giai đoạn 2009-2020, đẩy mạnh các hoạt động chương trình mục tiêu quốc gia, nâng cao chất lượng dân số, giảm bền vững tỷ lệ sinh hàng năm;

- Lãnh đạo Sở Y tế tham mưu UBND tỉnh đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế theo hướng hiện đại để nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế tại các tuyến; phối hợp UBND các địa phương xây dựng xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã, nhất là các xã xây dựng nông thôn mới;

Page 33: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

ÑÒNH HÖÔÙNG PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI 5 NAÊM ÑEÁN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 33

- Thực hiện tốt chính sách quốc gia về thuốc, đảm bảo cung ứng thường xuyên, đủ thuốc có chất lượng cho các cơ sở khám, chữa bệnh, đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động y tế, tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạng lưới y tế ngoài công lập, góp phần cung cấp đa dạng các dịch vụ y tế cho người dân và giảm tải hệ thống y tế nhà nước.Tăng cường hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước về y tế; cải cách mạnh mẽ thủ tục khám bệnh, chữa bệnh nhằm giảm phiền hà cho Nhân dân; đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra chuyên ngành, thực hiện tốt việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.

- Đẩy mạnh công tác quản lý tài chính, tài sản công, thẩm định quyết toán, quản lý ngân sách theo đúng quy định của nhà nước; phấn đấu tăng thu nhập cho người lạo động. Mở rộng hợp tác quốc tế, tìm nguồn đầu tư, tranh thủ các chương trình dự án y tế, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tiếp cận, ứng dụng các thành tựu khoa học hiện đại vào các dịch vụ BVCS&NCSKND trong tình hình mới.

- Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14/05/2011 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với Nghị quyết hội nghị TW4 (K.XI) về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, đồng thời trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, đồng thời trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”gắn với thực hiện Thông tư 07-TT/BYT, năm 2014 của Bộ Y tế về “Quy tắc ứng xử của người cán bộ, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế”, trong đó, chú trọng xây dựng tiêu chuẩn đạo đức người cán bộ y tế và triển khai thường xuyên phù hợp với đặc thù công việc của từng cơ quan, đơn vị và cá nhân.

Tin rằng, với quan điểm đặt lợi ích của con người lên trên hết, bằng trách nhiệm, nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các tổ chức của hệ thống chính trị các cấp và tinh thần đoàn kết của đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động của ngành y tế trên địa bàn tỉnh, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân của tỉnh ta sẽ gặt hái thêm nhiều kết quả, góp phần tăng cường sức khỏe, tăng tuổi thọ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay./.

1- Các chỉ tiêu phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân (theo phương pháp tính mới) từ 10 - 10,5%/năm. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 75 triệu đồng (tương đương 3.400 USD). Thu nhập bình quân đầu người vào năm 2020 đạt trên 45 triệu đồng (tương đương 2000 USD). Tỷ trọng các ngành trong GRDP: nông nghiệp khoảng 10%, công nghiệp – xây dựng khoảng 46%, dịch vụ khoảng 44%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 16%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân trên 15%/năm. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm trên 30% GRDP.

2- Các chỉ tiêu về xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm khoảng 2 - 2,5%/năm. Đến năm 2020, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân dưới 10%. Tỷ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt 95%, trung học phổ thông đạt 75%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65%, qua đào tạo nghề đạt 55%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp dưới 40%. Giải quyết việc làm mới tăng thêm 5 năm đạt 75.000 lao động. Phấn đấu đạt 9 bác sĩ và 31,5 giường bệnh/vạn dân. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi. Có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 32%.

3- Các chỉ tiêu về môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng đạt 52%. Tất cả các khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường. Xử lý 90% chất thải rắn (kể cả thông thường và nguy hại), 95% chất thải y tế đạt tiêu chuẩn môi trường. 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh.

CÁC CHỈ TIÊUPHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

TRONG NHIỆM KỲ ĐẾN

Page 34: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201534

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể Nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, thực hiện dân chủ, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường mối liên hệ giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước”.

Với vai trò quan trọng ấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tỉnh Quảng Nam trong nhiệm kỳ qua đã chủ động đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh không ngừng mở rộng về tổ chức, kết nạp nhiều thành viên, qua đó tăng cường

Đổi mới công tác Mặt trận góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI

VÕ XuâN caUVBTV, Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh

UBMTTQVN huyện Duy Xuyên tổ chức Diễn đàn lấy ý kiến Nhân dân góp ý vào lĩnh vực Y tế và Tài nguyên - Môi trường.

tập hợp, thu hút, phát triển nhiều đoàn viên, hội viên, người uy tín, cá nhân tiêu biểu trong các tầng lớp, giai cấp, các dân tộc, tôn giáo tham gia. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh ngày càng thể hiện rõ hình ảnh tiêu biểu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn tỉnh.

1. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiều hoạt động nổi bật trong 05 năm qua của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên đã từng bước khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình trong việc củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn tỉnh. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cưxây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh tiếp tục

Page 35: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 35

được triển khai ngày càng đi vào chiều sâu, khơi dậy và phát huy tối đa tiềm năng nội tại của Nhân dân trong xây dựng đời sống văn hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống Nhân dân. Tỷ lệ hộ gia đình, khu dân cư, tộc họ đạt chuẩn văn hóa hằng năm tăng lên đáng kể. Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” được triển khai sâu rộng, thu hút sự tham gia của cả hệ thống chính trị và Nhân dân. Hằng năm, nguồn quỹ vì người nghèo huy động được hàng chục tỷ đồng hỗ trợ xây dựng hàng ngàn nhà ở và phương tiện sản xuất cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo, góp phần quan trọng giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh từ 24,1% năm 2010 xuống còn 12,01% năm 2014. Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, nhân đạo, từ thiện, cứu trợ thiên tai... được Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên duy trì thường xuyên, góp phần thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và người có công với cách mạng.

“Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc” ở khu dân cư nhân kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18-11) đã thật sự trở thành ngày hội lớn của toàn dân, mang nhiều ý nghĩa, khơi dậy và phát huy “tình làng nghĩa xóm”, tăng cường sự hiểu biết, gắn bó mật thiết giữa lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên với nhân dân ở mỗi cộng đồng dân cư; là biểu hiện sinh động, cụ thể của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.

2. Phát huy vai trò cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân được Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp xác định là nhiệm vụ “quan trọng”, là điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ, khơi dậy và động viên sức sáng tạo của Nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn tỉnh. Thực hiện nhiệm vụ trên, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp tích cực tham gia tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016; tham gia góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, nhiệm kỳ

(2015-2020). Hằng năm, tham gia góp ý hàng chục dự thảo các dự án, đề án, chỉ thị, nghị quyết, quyết định của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp... góp phần bảo đảm, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.

Thực hiện “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội”, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã chủ động triển khai các cuộc giám sát chuyên đề. Phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII, Thường trực và các Ban của HĐND tỉnh, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh giám sát việc thực hiện pháp luật về cải cách hành chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo; hoạt động tư pháp; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất... Đồng thời, thường xuyên định hướng, hướng dẫn Ủy ban MTTQ Việt Nam các địa phương vận động Nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, đảng viên và đại biểu dân cử, nhất là ở cơ sở và khu dân cư...; thường xuyên phối hợp nắm bắt tình hình tư tưởng Nhân dân, tổ chức tốt hoạt động tiếp xúc cử tri với đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, kịp thời tập hợp, tổng hợp đầy đủ ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân phản ảnh với các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp.

3. Đại đoàn kết toàn dân tộc luôn luôn gắn liền với việc không ngừng mở rộng và thực hiện dân chủ cơ sở. Trong 05 năm qua, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã động viên Nhân dân thực hiện và giám sát tốt việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn; chủ trì tổ chức hàng trăm “diễn đàn nhân dân” góp ý xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng công an; thường xuyên duy trì hình thức “đối thoại” giữa lãnh đạo cấp ủy và chính quyền cơ sở với Nhân dân; tham gia xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước thôn, tổ dân phố. Thường xuyên củng cố, kiện toàn và phát huy vai trò của hơn 3000 Tổ hoà giải ở cơ sở, 1.718 Ban Công tác Mặt trận, 244 Ban Thanh tra nhân dân, 129 Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng... với hàng nghìn thành viên đã chủ động giám sát hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng hạ tầng ở cơ sở, tham gia hoà giải thành hàng nghìn vụ việc mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp nhỏ trong nội bộ Nhân dân,

Page 36: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201536

hạn chế tối đa tình trạng khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp... góp phần hết sức quan trọng đảm bảo an ninh trật tự ở cơ sở, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết ở mỗi cộng đồng dân cư.

4. Sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc là của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hết sức quan trọng, vì vậy, để tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam tỉnh góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, cần tập trung một số nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, đổi mới hình thức thông tin, tuyên truyền, chú trọng việc vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tập hợp Nhân dân phù hợp với từng đối tượng động viện họ tự nguyện, tự giác tham gia tổ chức, hăng hái hưởng ứng các phong trào thi đua, các cuộc vận động:“Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”...nhằm huy động mọi nguồn lực, tạo sự đồng thuận xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng tỉnh Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020.

Hai là, phát huy vai trò chủ trì, phối hợp thống nhất hành động của Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trong việc xây dựng và thực hiện hiệu quả Chương trình phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên; khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, chồng chéo, hình thức, phân công rõ ràng trách nhiệm của cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp trong việc tổ chức thực hiện các phong trào, các cuộc vận động. Định kỳ kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Quy chế phối hợp với các tổ chức thành viên, cơ quan liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Ba là, Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp và các tổ chức chính trị-xã hội tập trung thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quan trọng được Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định. Trọng tâm là giám sát, phản biện xã hội,

tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Chủ động tham gia theo chức năng, nhiệm vụ đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.

Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng mạnh về cơ sở, khu dân cư, tập trung xây dựng cộng đồng dân cư tự quản vững mạnh. Thường xuyên nắm bắt tình hình, tâm tư, nguyện vọng và quản lý tốt đoàn viên, hội viên; định kỳ tập hợp, tổng hợp, phản ảnh ý kiến, kiến nghị của các tầng lớp Nhân dân đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, làm tốt vai trò “cầu nối” giữa Nhân dân với Đảng và chính quyền.

Năm là, thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy chuyên trách Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp theo hướng tinh gọn, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, coi trọng chất lượng; quan tâm chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác Mặt trận các cấp, nhất là cơ sở; có chính sách đào tạo, chú trọng việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, xây dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận “có tâm, có tầm” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới theo tinh thần Kết luận số 62-KL/TW ngày 08/12/2009 của Bộ Chính trị.

Sáu là, tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào thi đua trong các tầng lớp Nhân dân. Công tác thi đua, khen thưởng phải dân chủ, công khai, thực chất. Thường xuyên sơ kết, tổng kết và nhân rộng các mô hình tiêu biểu; gương người tốt, việc tốt trong các cuộc vận động, các phong trào thi đua.

Phát huy kết quả đạt được, thực hiện tốt những nội dung trên, chúng ta tin tưởng rằng, MTTQ Việt Nam các cấp tỉnh Quảng Nam sẽ tiếp tục củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng./.

Page 37: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 37

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và các văn bản, chính sách của Ttỉnh lần thứ XX và các văn bản, chính sách của Ttrung ương, của tỉnh về KH&CN, tỉnh Quảng Ttrung ương, của tỉnh về KH&CN, tỉnh Quảng T

Nam đã ban hành, triển khai thực hiện nhiều chương trình trọng điểm về KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh Quảng Nam.

Công tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ bám sát các chương trình KH&CN trọng điểm, các chương trình mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và góp phần giải quyết các vấn đề thực tế đặt ra.

Trong giai đoạn 5 năm (2011-2015), toàn tỉnh đã

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển tỉnh quảng nam

PHạm ViếTạm ViếTạm Viế TícH Giám đốc Sở KH&CN Quảng Nam

Lễ ký kết hợp đồng dự án KH&Lễ ký kết hợp đồng dự án KH&Lễ ký kết hợp đồng dự án KH CN:“Nghiên cứu thiết kế, chế tạo xe khách giường nằm mang thương hiệu Việt Nam”

Mô hình ứng dụng phân bón qua lá thủy phân từ trùn quế cho hoa cúc.

phê duyệt triển khai 73 nhiệm vụ KH&CN các cấp, trong đó có 58 đề tài, 03 nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh, 01 công trình và 11 nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp Nhà nước. Bình quân hàng năm có hơn 15 nhiệm vụ KH&CN được phê duyệt triển khai thực hiện, trong đó, nhiều nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống, có

Lễ ký kết hợp đồng dự án KH&Lễ ký kết hợp đồng dự án KH&Lễ ký kết hợp đồng dự án KH CN:

Mô hình ứng dụng phân bón qua lá thủy phân từ

Page 38: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201538

địa chỉ ứng dụng cụ thể, góp phần phát triển KT-XH của tỉnh.

Các nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh bám sát vào danh mục 9 chương trình khoa học và công nghệ cấp tỉnh đến năm 2015, tầm nhìn 2020 đã được UBND tỉnh phê duyệt; tập trung vào nghiên cứu triển khai, chú trọng các nghiên cứu có tính ứng dụng cao, có khả năng nhân rộng.

Bên cạnh đó, Quảng Nam đã triển khai nhiều nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp Nhà nước thuộc các Chương trình hỗ trợ phát triển KH&CN của Trung ương, đặc biệt là Chương trình nông thôn miền núi; đã đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển KT-XH tại địa bàn, thực sự là cầu nối giữa khoa học và sản xuất, là sự hiện diện rõ nét của khoa học và công nghệ ở nông thôn, miền núi.

Công tác quản lý nhà nước về KH&CN trên các mặt đạt nhiều kết quả:

Công tác quản lý công nghệ, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ, thanh tra KH&CN có bước chuyển biến tích cực, dần đi vào chiều sâu, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, chăm sóc sức khỏe Nhân dân; xây dựng và phát triển thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh và giá trị kinh tế của các sản phẩm đặc trưng, làng nghề truyền thống của địa phương.

Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đạt nhiều kết quả, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và phục vụ hội nhập WTO trên địa bàn tỉnh...

Bên cạnh đó, khoa học và công nghệ Quảng Nam đang tập trung đẩy mạnh nhiệm vụ “đưa KH&CN gần hơn với doanh nghiệp”, bước đầu thu được một số kết quả đáng khích lệ như triển khai chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề... xây dựng nhãn hiệu, phát triển thương hiệu, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; triển khai Đề án “Nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2012-2020” nhằm địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2012-2020” nhằm địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2012-2020”hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, các công cụ nâng cao năng suất chất lượng, cải tiến, hoàn thiện, đổi mới, chuyển giao công nghệ, đánh giá hợp chuẩn hợp quy, công bố tiêu chuẩn cơ sở…góp phần nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa, tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; hỗ trợ phát triển các sản phẩm chủ lực của tỉnh như cây dược liệu, cao su, cơ khí ô tô,... Bước đầu một số doanh nghiệp đã quan tâm

đầu tư cho hoạt động nghiên cứu triển khai (R&D) bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước như Công ty cao su, Công ty Cổ phần Thương mại Dược và Sâm Ngọc Linh, Công ty Cổ phần Hồng Đào – Chu Lai, Công ty Cổ phần Gỗ Cẩm Hà... Điển hình nhất là hỗ trợ Công ty cổ phần ô tô Trường Hải triển khai thực hiện Dự án khoa học công nghệ cấp quốc gia “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo xe khách giường nằm cao cấp mang thương hiệu Việt Nam” với tổng kinh phí 109,174 tỷ thương hiệu Việt Nam” với tổng kinh phí 109,174 tỷ thương hiệu Việt Nam”đồng, trong đó kinh phí từ nguồn SNKH Trung ương là 38,59 tỷ đồng. Hiện nay, ngành KHCN đang tiếp tục tham mưu UBND tỉnh đề xuất đặt hàng với Bộ KH&CN triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm, linh kiện, phụ tùng… trong công nghiệp ô tô nhằm hỗ trợ Công ty Cổ phần ô tô Trường Hải tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa, làm chủ công nghệ, giảm giá thành, phục vụ yêu cầu hội nhập AFTA sau năm 2018.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động KH&CN của tỉnh chưa thực sự trở thành động lực, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH phục vụ phát triển KT-XH địa phương.

Công tác quản lý nhà nước tuy đổi mới và có hệ thống, nhưng năng lực và kinh nghiệm còn yếu, nhất là cấp huyện và ngành; Cơ chế quản lý hoạt động KH&CN chậm được đổi mới… cơ chế tài chính còn chưa hợp lý. Cụ thể là tình trạng đầu tư dàn trải, không đúng mục đích, kém hiệu quả; phân bổ ngân sách nhà nước cho hoạt động KH&CN: chưa căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí KH&CN của ngành, địa phương; chưa đẩy mạnh cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ KH&CN và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KH&CN cuối cùng theo kết quả đầu ra; chưa chú trọng phương thức giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KH&CN, đồng thời chưa có biện pháp chế tài đủ mạnh để ràng buộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện đề tài/dự án KHCN.

Tiềm lực KH&CN của tỉnh còn ở mức thấp. Đội ngũ cán bộ KH&CN tuy có tăng về số lượng, nhưng cơ cấu chưa hợp lý, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu,còn thiếu những cán bộ, chuyên gia giỏi trong nhiều lĩnh vực để đủ sức đảm nhiệm các nhiệm vụ nghiên cứu có hàm lượng khoa học cao, có đóng góp đột phá trong phát triển KT-XH. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật KH&CN đang ở mức rất thấp và đầu tư không đồng bộ, chưa đáp ứng được các điều kiện cần, điều kiện thiết yếu cho cán bộ, chuyên gia, các nhà khoa học hoạt động nghiên cứu, ứng dụng. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất cho các tổ chức R&D chưa

Page 39: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 39

nhiều, manh mún, thiếu đồng bộ. Hầu hết các đơn vị R&D của tỉnh hoạt động mang tính hành chính, thiếu năng lực nghiên cứu cả về nhân lực lẫn đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật.

Các dịch vụ thông tin và xã hội hóa đầu tư cho KH&CN chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu dựa vào ngân sách. Hoạt động R&D chưa thực sự trở thành phong trào sâu rộng trong các cơ quan, doanh nghiệp. Hoạt động R&D trong các doanh nghiệp còn hạn chế, nhỏ lẻ; chưa có cơ chế khuyến khích đẩy mạnh; chưa có đề án, kế hoạch hình thành hệ thống doanh nghiệp KH&CN của tỉnh.

Việc triển khai nhân rộng, đưa các kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống chưa đáp ứng yêu cầu.Nhiều nghiên cứu có kết quả tốt và khả năng ứng dụng cao nhưng thiếu các điều kiện cần thiết cũng như trách nhiệm liên quan để triển khai nhân rộng trên thực tế.

Phát huy những kết quả đạt được, tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém, trong những năm đến, ngành KH&CN sẽ tổ chức triển khai hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

Trước hết, phải đổi mới tư duy, nâng cao nhận Trước hết, phải đổi mới tư duy, nâng cao nhận Trước hếtthức, trách nhiệm, xác lập quan điểm đúng đắn về vai trò nền tảng và động lực của KH&CN đối với phát triển KT-XH trong toàn hệ thống chính trị. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH của từng ngành, từng cấp; xây dựng kế hoạch ứng dụng và phát triển KH&CN là một nội dung bắt buộc của quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của ngành và địa phương.

Thứ hai,đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trên cơ sở tiếp tục đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức và triển khai hiệu quả các cơ chế, chính sách mới về quản lý và hoạt động KH&CN.

Phát triển hợp lý, đồng bộ giữa khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; chú trọng các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, công nghệ cơ khí, chế tạo máy, tự động hóa, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ chế biến, khai khoáng… phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống, có địa chỉ ứng dụng cụ thể; tiếp tục triển khai 09 chương trình trọng điểm về KH&CN của tỉnh, tập trung vào các lĩnh vực điều tra cơ bản; sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường;nghiên cứu bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá, truyền thống yêu nước và cách mạng của địa

phương; đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực chẩn đoán và điều trị, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng... Đồng thời, chú trọng đến hoạt động KH&CN phục vụ chương trình nông thôn mới, phát triển KT-XH nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và các vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.

Việc xác định, xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN phải bám sát và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Áp dụng quy định mới về cơ chế đặt hàng, tăng cường đặt hàng của lãnh đạo tỉnh, các ngành, địa phương, doanh nghiệp để phục vụ chiến lược phát triển KT-XH; triển khai cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng hoặc khoán chi từng phần nhiệm vụ KH&CN và thực hiện cấp phát kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế quỹ, tức là cấp toàn bộ kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN một lần cho cơ quan quản lý chủ động phân bổ cho các đề tài/dự án được xác định thường xuyên, liên tục trong năm theo đề xuất đặt hàng cho những nhiệm vụ cấp thiết phát sinh, nhằm hạn chế dần và đi đến xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa, thủ tục, hóa đơn tài chính rườm rà trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Xác định cụ thể biện pháp chế tài, tăng cường trách nhiệm của các ngành chủ quản, trách nhiệm và quyền lợi của các cơ quan chủ trì, chủ nhiệm nhiệm vụ trong việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống sau khi nghiệm thu.

Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về KH&CN từ cấp tỉnh đến cấp huyện và các cơ quan chuyên ngành.

Tăng cường đề xuất đặt hàng của tỉnh để tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương cho các nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp Nhà nước trên địa bàn tỉnh; tham gia tích cực vào các chương trình trọng điểm quốc gia để thu hút các cơ quan Trung ương về đầu tư, phát triển hoạt động KH&CN trên địa bàn tỉnh.

Thứ ba,tập trung phát triển tiềm lực, nâng cao năng lực hoạt động nghiên cứu ứng dụngcho các tổ chức R&Dtheo hướng đầu tư chiều sâu, cả về nguồn nhân lực lẫn cơ sở vật chất kỹ thuật;đầu tư có trọng điểm, tăng cường đầu tư cho các tổ chức KH&CN công lập,ưu tiên các ngành chủ lực trong phát triển KT-XH.

Phát triển và xã hội hoá mạnh mẽ các hoạt động dịch vụ KH&CN, đặc biệt là các dịch vụ thông tin, tư vấn, môi giới, đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ; các dịch vụ sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; tăng cường thông tin, phổ biến

(Xem tiếp trang 42)

Page 40: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201540

Xuyên suốt quá trình lịch sử đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, Đảng ta luôn xác định, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy, là

cánh tay đắc lực của Đảng, là người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Trước vai trò quan trọng của thanh niên đối trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X) đã ra Nghị quyết chuyên đề về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và mới đây, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 42-CT/TW ngày 24/3/2015 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015- 2030” đã và đang tạo ra nhiều cơ hội và môi trường thuận lợi cho tuổi trẻ rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Đây chính là rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Đây chính là những chủ trương nền tảng hết sức quan trọng để định hướng cũng như tạo điều kiện cho thanh niên Quảng Nam đóng góp vào tiến trình CNH, HĐH tỉnh nhà và tham gia xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Trong những năm qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh luôn nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác xây dựng Đảng, coi công tác xây dựng Đảng là hạt nhân cơ bản của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi. Đồng thời xác định, công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng phải luôn gắn liền với các phong trào hành động cách mạng của Đoàn. Qua đây, sẽ vừa phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ tham gia thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh, đảm bảo an sinh xã hội; hỗ trợ giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông đảo ĐVTN, vừa đào tạo, phát hiện, bồi dưỡng những đoàn viên ưu tú, xuất sắc để được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đoàn đã thường xuyên tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên thanh niên thông qua việc quán triệt các nghị quyết, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác xây dựng Đảng; các hình thức như diễn đàn, đối thoại “Đảng với thanh niên-Thanh niên với Đảng”, các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Đoàn, về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đoàn kết, tập hợp và phát huy tinh thần xung kích tình nguyện của tuổi trẻ, tạo môi trường để thanh niên rèn luyện, cống hiến và nâng cao nhận thức cho đoàn viên thanh niên về lối sống, về lý tưởng và đạo đức cách mạng.

Việc triển khai thực hiện hai phong trào “Xung Việc triển khai thực hiện hai phong trào “Xung Việc triển khai thực hiện hai phong trào “kích, tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệpnghiệp” đã và đang thu được nhiều kết quả tích cực. ” đã và đang thu được nhiều kết quả tích cực. Ở từng đối tượng, các phong trào được cụ thể hoá với nội dung, chương trình hành động phù hợp như: Thanh niên nông thôn với chương trình “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới”; thanh niên đô thị tham gia thực hiện cuộc vận động “Xây dựng văn thị tham gia thực hiện cuộc vận động “Xây dựng văn thị tham gia thực hiện cuộc vận động “minh đô thị”; Thanh niên công chức, viên chức với phong trào Sáng tạo trẻ, Ba trách nhiệm; Thanh niên sinh viên với cuộc vận động Sinh viên 5 tốt;“Sinh viên 5 tốt;“Sinh viên 5 tốt Thanh niên Công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”; “Hồ dạy”; “Hồ dạy Thanh niên Quân đội thi đua rèn đức luyện tài, xung kích, sáng tạo, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.

Thực hiện Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa”, Đoàn đã cụ thể hóa thành chương trình hành động, thực hiện tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ để phân công cấp ủy viên theo dõi, giúp Đoàn thực hiện nhiệm vụ; Tiến hành rà soát đội ngũ ĐVTN để bồi dưỡng kết nạp Đảng; xây dựng và đề xuất chỉ tiêu phát triển Đảng từng năm; chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy

LÀ NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

THái BìNHTUV, Bí thư Tỉnh đoàn

LÀ NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG TÍCH CỰC THAM GIA XÂY DỰNG ĐẢNG

Page 41: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 41

Đảng thực hiện quy hoạch, kế hoạch tạo nguồn kết nạp ở mỗi cấp ủy Đảng, chú trọng phát triển đảng viên trong thanh niên, phân công, giao nhiệm vụ cho đảng viên, nhất là đảng viên trẻ trong công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng, giúp đỡ đoàn viên ưu tú phấn đấu trở thành đảng viên.

Cuộc vận động “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam” thông qua việc lựa chọn, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng được các cấp bộ Đoàn tiến hành nghiêm túc, việc trao danh sách đoàn viên ưu tú cho cấp ủy Đảng được thực hiện thường xuyên hằng năm. Công tác phân loại đoàn viên kết hợp với phát hiện, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú xuất sắc góp phần nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú và tỷ lệ đoàn viên ưu tú kết nạp Đảng. Số lượng đoàn viên ưu tú được đứng vào hàng ngũ của Đảng năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 2010, số đảng viên mới được kết nạp trong độ tuổi thanh niên là 1669/2431 đảng viên mới kết nạp của toàn Đảng bộ tỉnh, năm 2011 là 2059/2924 đảng viên, năm 2012 là 2209/3046, năm 2013 là 2273/3208, thì đến năm 2014 là 2503/3419 đảng viên.

Từ những kết quả trên có thể thấy rằng, thanh niên ngày càng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu trở thành đảng viên luôn là nguyện vọng thiết tha của thế hệ trẻ. Nhiều cán bộ Đoàn trưởng thành được Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ, giữ cương vị quan trọng trong tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Đây là nguồn lực có chất lượng làm cho tổ chức đảng thêm vững mạnh, vừa trẻ hóa đội ngũ của Đảng, tăng cường sức chiến đấu, bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế nhất định. Vai trò tham mưu của Đoàn ở một số địa phương, đơn vị trong công tác phát triển Đảng, việc xây dựng quy trình giới thiệu đoàn viên ưu tú kết nạp Đảng chưa hiệu quả; công tác tuyên truyền giáo dục nhận thức về Đảng ở một số địa phương còn mang tính thời vụ, nên rất khó để tác động sâu, rộng tới các đối tượng thanh niên; một số nơi chưa phát huy được vai trò của đảng viên trẻ trong công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đoàn viên; công tác phát triển Đảng trong thanh niên không đồng đều ở các đối tượng trên các lĩnh vực. Nếu như trong các cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang, số đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng và tỷ lệ được kết nạp cao thì trên địa bàn dân cư, nhất là công nhân trực tiếp lao động, học sinh-sinh viên, số đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng và được kết

nạp còn thấp. Ở một số nơi, phong trào thanh niên, chất lượng sinh hoạt Đoàn, Hội còn thấp, chưa tạo ra được những điều kiện, môi trường thuận lợi cho thanh niên phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Bên cạnh đó, sự nỗ lực học tập, rèn luyện, phấn đấu và cống hiến của đoàn viên thanh niên chưa cao, việc xác định mục tiêu, động cơ và ý chí phấn đấu vào đảng chưa rõ ràng.

Thực tế cho thấy, để làm tốt công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng cần sự lãnh đạo và phát huy trách nhiệm cả từ tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức Đoàn và bản thân mỗi ĐVTN. Sự quan tâm, lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn và ý thức tự giác của mỗi ĐVTN là những yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả công tác Đoàn tham gia xây dựng Đảng và nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng vừa là tất yếu khách quan, vừa là nhiệm vụ tự thân của Đoàn. Để làm tốt nhiệm vụ này trong thời gian đến, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh sẽ tập trung vào những vấn đề trọng tâm như sau:

Một là, tập trung xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, để Đoàn thực sự là người bạn tin cậy, đồng hành cùng thanh niên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là nhận thức về Đảng, giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho đoàn viên thanh niên. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chính trị thường xuyên cho lực lượng đoàn viên ưu tú; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”gắn với việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó hướng trọng gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trong đó hướng trọng gương đạo đức Hồ Chí Minh”tâm là “làm theo lời Bác”, nhân rộng các điển hình thanh niên tiên tiến, làm cho cuộc vận động này trở thành phong trào hành động cách mạng sinh động, thường xuyên trong cuộc sống, sinh hoạt, học tập, lao động hàng ngày.

Hai là, chăm lo, đào tạo bồi dưỡng đoàn viên thanh niên thông qua thực tiễn các phong trào hành động của Đoàn; tạo bước đột phá về công tác tổ chức cán bộ, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các loại hình đoàn kết, tập hợp thanh niên. Các chương trình hoạt động của Đoàn một mặt phải phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện của thanh niên, đồng thời phải hỗ trợ, đồng hành cùng thanh niên trong lập thân, lập nghiệp. Từ thực tiễn phong trào sẽ tạo ra môi trường thu hút người trẻ và tập hợp, giáo dục thanh niên, xây dựng lớp thanh niên “vừa hồng, vừa

Page 42: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201542

kiến thức KH&CN phục vụ phát triển KT-XH; xây dựng, thực hiện các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường KH&CN.

Thứ tư, tăng cường đầu tư tài chính cho KH&CN. Bố trí ngân sách sự nghiệp, đầu tư phát triển KH&CN đảm bảo tỷ lệ chi theo quy định và tăng dần theo yêu cầu phát triển KT-XH; khuyến khích phát triển xã hội hoá, đa dạng hoá,huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, phục vụ sản xuất và đời sống;khuyến khích các doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp.

Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ: “Đưa KH&CN gần hơn với doanh nghiệp”thành nhiệm vụ chủ yếu của KH&CN trong thời gian tới. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án “Nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2012-2020”. Triển khai mạnh cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng các công cụ, hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; khai thác, bảo vệ, phát triển tài sản trí tuệ và quảng bá thương hiệu; tạo chuyển biến về năng suất và chất lượng của sản phẩm, hàng hóa và hiệu quả sản xuất kinh doanh tại các doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất, làng nghề truyền thống, kể cả trang trại, gia trại; tập trung hỗ trợ phát triển các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của tỉnh như: cơ khí ô tô, dệt may, da giày, sâm Ngọc Linh, quế Trà My, các loại dược liệu quý, các sản phẩm du lịch, thủ công mỹ nghệ, làng nghề truyền thống…

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, cần tiến hành đổi mới mạnh mẽ về cơ chế quản lý, cơ chế đầu tư và cơ chế tài chính cho KH&CN, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao tiềm lực KH&CN với hai thành tố cơ bản của nó là nguồn nhân lực và phương tiện, thiết bị kỹ thuật. Đó là những điều kiện tiên quyết cho KH&CN phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu KT-XH của tỉnh, chào mừng thành công Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI ./.

chuyên” để thực hiện mục tiêu lý tưởng cao cả của Đảng, đóng góp tài năng, sức trẻ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Ba là, chủ động, tích cực trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ trẻ cho Đảng, tạo môi trường thuận lợi để đoàn viên, thanh niên rèn luyện, phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn là nguồn trực tiếp tham gia công tác phát triển đảng viên, giới thiệu đoàn viên ưu tú, giáo dục và rèn luyện đảng viên trẻ, cung cấp cán bộ cho Đảng, góp phần xây dựng Đảng về tổ chức; tiến hành chặt chẽ quy trình phân loại đoàn viên, coi trọng chất lượng và tiêu chuẩn chính trị của đoàn viên ưu tú. Hằng năm xây dựng kế hoạch, đề ra chỉ tiêu để lựa chọn, bồi dưỡng đoàn viên ưu tú và trao danh sách cho Đảng xem xét, bồi dưỡng và kết nạp.

Thực hiện tốt công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ đoàn, tích cực, chủ động tham mưu và triển khai thực hiện có hiệu quả Quy chế cán bộ đoàn. Tham mưu với cấp ủy Đảng quan tâm đến công tác tạo nguồn phát triển đảng viên mới trong thanh niên sinh viên, dân tộc thiểu số, thanh niên công nhân…

Bốn là, tích cực tham mưu cho Đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm hơn nữa đến quyền và lợi ích của thanh niên, tin tưởng, cổ vũ, động viên thanh niên ra sức tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu thông qua việc thường xuyên gặp gỡ, đối thoại, giao việc cho Đoàn và tuổi trẻ để họ thực sự luôn có niềm tin, bản lĩnh vững vàng. Bên cạnh đó, Đoàn cần thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia góp ý xây dựng Đảng. Chú trọng công tác phản biện, giám sát của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Chăm lo phát triển các tổ chức thanh niên do Đoàn làm nòng cốt nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên, tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền tại các địa phương; Mỗi đoàn viên, thanh niên và tổ chức Đoàn phải nâng cao năng lực nhận thức, hiểu biết của mình về Đảng, về các mặt đời sống xã hội, nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của thanh niên, quá trình đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hướng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015- 2020, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Quảng Nam luôn khẳng định niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẽ ra sức phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện, xung phong, tình nguyện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước để luôn xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

(Tiếp theo trang 39)Một số giải pháp...

Page 43: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 43

Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, tư duy đối ngoại đã được thay đổi về căn bản, phản ánh yêu cầu phát triển của đất nước và

phù hợp với các xu thế lớn của thời đại. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần “Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong công tác đối ngoại, trong 5 năm qua, công tác đối ngoại của tỉnh Quảng Nam đã có những bước chuyển biến tích cực và ngày càng góp phần thiết thực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của tỉnh theo tinh thần Nghị

CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XX CỦA ĐẢNG BỘ QUẢNG NAM

THs. NguyễN THaNH HồNgGiám đốc Sở Ngoại vụ

quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX đề ra.

Ngay sau Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX, Sở Ngoại vụ với vai trò tham mưu công tác đối ngoại của tỉnh đã tổ chức quán triệt và nỗ lực triển khai thực hiện đường lối, chính sách, chủ trương đối ngoại mà Đại hội đã đề ra, trong đó xác định đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế, thúc đẩy phát triển thương mại - đầu tư, thu hút các nguồn lực, bảo đảm an ninh biên giới, tăng cường quảng bá hình ảnh và các giá trị văn hóa địa phương, mở rộng đối

ngoại Nhân dân nhằm huy động tối đa các nguồn ngoại lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao vị thế đối ngoại của tỉnh, góp phần quan trọng vào thành công sự nghiệp đối ngoại và sự nghiệp đổi mới của đất nước. Các nội dung lớn được xác định đó là:

- Vai trò tiên phong: phát huy sức mạnh của ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa để khai thông, mở rộng và thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác giữa các địa phương của tỉnh Quảng Nam với các địa phương thuộc các tỉnh, thành phố, vùng của các nước và tăng cường quan hệ các tổ chức quốc tế.

- Vai trò tham mưu: Sở Ngoại vụ đã chủ động

Chủ tịch UBND tỉnh Đinh Văn Thu và ông Nakamura HouDou - Tỉnh trưởng tỉnh Nagasaki ký kết biên bản làm việc

Page 44: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201544

tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và hỗ trợ các sở, ngành, địa phương trong việc nắm bắt tình hình, tiếp cận các đối tác và tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư, thương mại, quảng bá thu hút khách du lịch nhằm tranh thủ tối đa các nguồn vốn FDI, ODA và NGO.

- Vai trò hỗ trợ: song hành cùng các sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế đối ngoại trên tinh thần các sở, ngành, địa phương, doanh nghiệp là chủ đạo, Sở Ngoại vụ làm cầu nối để kết nối với các đối tác nước ngoài, giúp hỗ trợ, giải quyết những vấn đề vướng mắc trong triển khai các chương trình, dự án hợp tác cũng như tìm hiểu thông tin, giới thiệu và thẩm định các đối tác.

- Vai trò đôn đốc thực hiện: kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các cam kết, chương trình, dự án và thỏa thuận đã ký với các địa phương, đối tác nước ngoài.

Nhờ bám sát 4 nội dung nêu trên, công tác đối ngoại được cụ thể hóa thành các mục tiêu, chương trình, hoạt động đa dạng, trong đó nhấn mạnh đến sự gắn kết giữa ba trụ cột đối ngoại là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa kết hợp với đối ngoại Nhân dân. Chính sự gắn kết đó đã đạt được những kết quả quan trọng về đối ngoại trong nhiệm kỳ qua, góp phần tích cực vào

sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX.

Kết quả nổi bật của công tác đối ngoại đã góp phần tạo chuyển biến trong hợp tác, đầu tư và thúc đẩy các dự án hợp tác lớn vào tỉnh Quảng Nam, cụ thể:

Về hợp tác quốc tế: Song song với việc tập trung phát triển sâu sắc mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các địa phương của Lào, đặc biệt là mối quan hệ hợp tác kết nghĩa toàn diện với tỉnh Sê Koong, tỉnh Quảng Nam chủ động tổ chức các đoàn cấp cao xúc tiến thiết lập quan hệ hợp tác với các tỉnh Battambang, Siêm Riệp (Campuchia), tỉnh Ubon Ratchathani (Thái Lan); thiết lập quan hệ hợp tác tỉnh Côtes d’Amor (Pháp), các thành phố Osan, Yong-in (Hàn Quốc), tỉnh Mô-ghi-lốp (Belarus); tỉnh Nagasaki (Nhật Bản); thiết lập quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế lớn có uy tín như Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA); hỗ trợ thiết lập và thúc đẩy phát triển quan hệ hợp tác giữa các địa phương trong tỉnh với các địa phương tương ứng của các nước và các tổ chức quốc tế như thành phố Hội An với thành phố Kiama (Úc), thành phố Matsusaka (Nhật Bản), thành phố Wernigerode (Đức), thành phố Szen-ten-

Lễ cắt băng khánh thành Trường THCS Phan Châu Trinh, huyện Duy Xuyên

Page 45: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 45

dre (Hung-ga-ry), Xan-phờ-ran-sic-cô (Hoa Kỳ); thành phố Tam Kỳ với huyện Lạ Màm (Sê Koong-Lào), quận Dalseo gu (Hàn Quốc), Viện quản lý đô thị Han a, Tổ chức Làng Hoa Sen quốc tế; huyện Duy Xuyên với huyện Chăm pa sắc (Chăm-pa-sắc, Lào), huyện Phú Ninh với huyện Thà Tèng (Sê Koong-Lào); Trung tâm Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tỉnh Quảng Nam với Đại học Portland (Hoa Kỳ)..v.v.

Tổ chức đón tiếp chu đáo, trọng thị nhiều đoàn khách quốc tế quan trọng đến thăm, làm việc tại tỉnh như: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước; Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch; Thủ tướng Chính phủ nước CHDCND Lào; Chủ tịch Thượng viện Hoa Kỳ; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Cuba; Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông (Trung Quốc); Chủ nhiệm Ủy ban chống tham nhũng Thái Lan; Chủ tịch Hiệp hội Phụ nữ Lào, Thứ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN; Thủ hiến Vùng Walonie Vương quốc Bỉ; Chủ tịch Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và nhiều đoàn Đại sứ, Tổng lãnh sự các nước. Tham mưu tổ chức nhiều hoạt động đối ngoại sôi nổi, thiết thực chào mừng nhân kỷ niệm Năm Hữu nghị và Năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước ta với các nước: Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Pháp, Nhật Bản, Singapore; phối hợp tổ chức Hội nghị gặp gỡ giữa Ngoại giao đoàn các nước và lãnh đạo các tỉnh duyên hải miền Trung tại tỉnh Quảng Nam.

Phối hợp với tỉnh giáp biên Sê Koong (Lào) triển khai thực hiện hiệu quả các nội dung của Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới giữa hai nước Việt Nam và Lào: tổ chức triển khai xây dựng hoàn thành trước kế hoạch Dự án tôn tạo và tăng dày hệ thống mốc quốc giới đoạn Quảng Nam - Sê Koong dài 142 km với 60 cột mốc; triển khai thực hiện các nội dung liên quan về vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú khu vực biên giới Việt Nam - Lào theo Đề án của Chính phủ; tổ chức quán triệt nghiêm túc Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về đường lối đối ngoại, Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức và quần chúng Nhân dân về vai trò đối ngoại trong tình hình mới; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biển đảo trong tình hình mới (Luật biển Việt Nam, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, tinh thần tuyên bố chung DOC giữa ASEAN và Trung Quốc, chủ trương hướng tới ký kết COC giữa ASEAN và Trung Quốc).

- Về kinh tế đối ngoại: Với quyết tâm cao, nhằm tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị 41 của Ban Bí thư về đẩy mạnh ngoại giao kinh tế trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Tỉnh đã chủ động tổ chức triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp về cải thiện môi trường đầu tư (cải cách thủ tục hành chính; ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi; tăng cường cung cấp thông tin; đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng; đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực) và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài (tổ chức hơn 45 đợt xúc tiến đầu tư ở trong nước và nước ngoài), nhờ đó, đã thu hút đáng kể nguồn vốn FDI, ODA đầu tư trên địa bàn tỉnh, góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu ngân sách nhà nước. Tính đến nay, số dự án FDI còn hiệu lực trên địa bàn tỉnh trên 90 dự án, với tổng vốn đăng ký đầu tư trên 5 tỷ USD. Tăng cường các hoạt động xúc tiến viện trợ phi chính phủ nước ngoài, chủ động tiếp cận cơ quan đại diện ngoại giao các nước, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài để giới thiệu các nhu cầu của địa phương và kêu gọi, vận động các tổ chức tài trợ trên 250 chương trình, dự án, phi dự án, với tổng giá trị viện trợ hơn 700 tỷ đồng (bình quân mỗi năm giá trị vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài đạt trên 200 tỷ đồng).

- Về văn hoá đối ngoại: Tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa đối ngoại nổi bật, giới thiệu và quảng bá các giá trị văn hóa của tỉnh đến bạn bè quốc tế, như: Festival Di sản Quảng Nam, Lễ hội giao lưu văn hóa Hội An - Nhật Bản, Ngày hội đèn lồng Hội An tại thành phố Wernigerode (Đức); đồng thời cử các đoàn nghệ thuật của tỉnh sang biểu diễn giao lưu tại tỉnh Chămpasắc (Lào), thành phố Osan (Hàn Quốc), thành phố Sakai, tỉnh Osaka (Nhật Bản).

- Về đối ngoại Nhân dân: Công tác đối ngoại Nhân dân có những bước chuyển biến tích cực và được đổi mới theo tinh thần Chỉ thị 04 - CT/TW ngày 06/7/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI). Lực lượng tham gia đối ngoại Nhân dân ngày càng mở rộng. Các Hội hữu nghị của tỉnh hoạt động hiệu quả, tạo được mối quan hệ bền vững và ngày càng lớn mạnh với các Hội hữu nghị thuộc các địa phương của các nước: Lào, Hàn Quốc, Nhật Bản, New Zealand, Úc, … góp phần xây dựng lòng tin và hiểu biết lẫn nhau giữa Nhân dân Việt Nam nói chung và Nhân dân tỉnh Quảng Nam nói riêng với

Page 46: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201546

bạn bè quốc tế. - Về công tác đối với người Việt Nam ở nước

ngoài: Công tác về NVNONN được quan tâm, tổ chức bộ máy của Ban về NVNONN được củng cố. Ban đã tích cực tiếp cận, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tạo diễn đàn để bà con kết nối với quê hương; đồng thời gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng và mong muốn được tham gia đóng góp xây dựng quê hương ngày càng nhiều; qua đó nắm bắt tình hình sinh sống, làm ăn tại nước sở tại cũng như nhu cầu về quê tìm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư để tư vấn, hướng dẫn các thủ tục giúp bà con.

- Về công tác quản lý các hoạt động đối ngoại: Trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương và tình hình thực tế của địa phương, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực đối ngoại: Quy chế quản lý công tác đối ngoại, Quy chế phối hợp quản lý và vận động người Việt Nam ở nước ngoài, Quy chế quản lý hoạt động các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Đề án đẩy mạnh hội nhập quốc tế giai đoạn 2013-2015, tầm nhìn đến năm 2020, Quy chế quản lý hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ của cán bộ, công chức thuộc tỉnh và Kế hoạch triển khai chiến lược ngoại giao văn hóa của tỉnh giai đoạn 2014 – 2020.

Từ những kết quả đạt được nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng công tác đối ngoại của tỉnh trong nhiệm kỳ qua đã được định hình rõ nét và ngày càng phát triển, thể hiện trên những khía cạnh sau:

- Nắm vững nguyên tắc và vận dụng hợp lý mối liên kết giữa ba trụ cột ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa.

- Hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng và đã có nhiều tỉnh, thành phố, vùng của các nước cũng như các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài ký kết thỏa thuận hợp, quan hệ hợp tác với tỉnh.

- Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế ngày càng được chú trọng và đã có nhiều đóng góp thiết thực đối với phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.

- Sự phối hợp giữa các sở, ngành và địa phương trong việc triển khai các hoạt động kinh tế đối ngoại đã được thực hiện tốt hơn, tạo ra sức mạnh tổng lực.

Những kết quả trên tuy còn khiêm tốn so với tiềm năng và lợi thế so sánh của tỉnh, nhưng bước đầu đã tạo tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục triển khai mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, góp phần tích cực vào việc triển khai thắng lợi các Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh. Trên cơ sở đó, công tác đối ngoại trong thời gian tới sẽ tập trung vào những định hướng lớn sau đây:

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng và Chính quyền tiếp tục quan tâm chỉ đạo triển khai hiệu quả Đề án Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và các chương trình, kế hoạch về hội nhập quốc tế của tỉnh.

Thứ hai, cần tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tham mưu công tác đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng và giỏi về chuyên môn đối ngoại, ngoại ngữ và kỹ năng đàm phán nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Thứ ba, tiếp tục kết hợp chặt chẽ ba nhiệm vụ chính trị đối ngoại, kinh tế đối ngoại và văn hóa đối ngoại với đối ngoại Nhân dân và công tác về người Việt Nam ở nước ngoài để góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.

Thứ tư, duy trì và đẩy mạnh phát triển quan hệ hợp tác với các đối tác tiềm năng về kinh tế, khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, chú trọng các đối tác Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ.

Thứ năm, nâng cao chất lượng công tác thông tin đối ngoại, công tác dự báo tình hình, tham mưu các chính sách phù hợp để hỗ trợ các ngành, địa phương và doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế đối ngoại.

Thứ sáu, cần tăng cường phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với các cơ quan của Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương và các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài trong công tác quản lý và mở rộng hoạt động ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa.

Công tác quản lý và tổ chức triển khai các hoạt động đối ngoại đa dạng và cũng phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp tham gia của các ngành, các cấp trong đó Sở Ngoại vụ giữ vai trò chủ đạo trong công tác tham mưu, đề xuất với Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân và UBND tỉnh về công tác đối ngoại nhằm tạo lập cho Quảng Nam có vị thế mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.,.

Page 47: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 47

Tổ chức, cá nhân là cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị các cấp cần quán triệt, thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc. Thi đua phải trở thành phong trào sâu rộng và thực hành chu đáo, có phát động, theo dõi, tổng kết, khen thưởng là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng để tập hợp, phát huy tối đa nguồn lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Từ năm 2011 đến cuối 2014, tỉnh đề nghị và được khen cao 336 tập thể, 661 cá nhân; UBND Tđược khen cao 336 tập thể, 661 cá nhân; UBND Ttỉnh tặng bằng khen và danh hiệu thi đua cho Ttỉnh tặng bằng khen và danh hiệu thi đua cho T

3966 tập thể và 9189 cá nhân. Thực hiện nghiêm túc Quy chế công tác thi đua, khen thưởng của tỉnh nên xét khen, thưởng chặt chẽ, số lượng khen cao có giảm hơn trước và đối tượng tỉnh khen có quan tâm đến chuyên viên, nhân viên và người lao động nên phong trào thi đua ngày càng sôi nổi, hiệu quả. (Số liệu từ Ban Thi đua - khen thưởng tỉnh)

Thi đua là yêu nước.Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Thi đua là yêu

nước, yêu nước thì phải thi đua”, “công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua” nên Đảng rất coi trọng tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm về tổ chức, thực hiện công tác thi đua ở mọi nơi, một cách thường xuyên, chất lượng. Đảng, chính quyền, đoàn thể có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích, động viên cho mọi người tự nguyện tham gia phong trào thi đua và đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, tổng kết đảm bảo yêu cầu. Thi đua gắn với động viên, khen thưởng, nên Bác chỉ rõ: “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”; vì vậy, tổ chức thi đua thật chu đáo mới có nhân tố tích cực và khen thưởng đúng người, đúng việc mới thúc đẩy phong trào cách mạng, tạo động lực phát triển.

ĐảngDĩ Hảo

với công tác thi đua- khen thưởng!

Đất nước đang trên đà đổi mới, cần nguồn lực để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc nên Đảng phải lãnh đạo, thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng là yêu cầu quan trọng để xây dựng con người phát triển toàn diện, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Công tác thi đua, khen thưởng có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn hạn chế, khó khăn.

Những năm qua, phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng trong phạm vi tỉnh nhà thực hiện nền nếp, chất lượng. Tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều phong trào thi đua thiết thực, đông đảo đoàn viên, hội viên và Nhân dân hưởng ứng nhiệt thành. Ban Thi đua - Khen thưởng Tỉnh thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước về nhiệm vụ được giao; tích cực tuyên truyền, hướng dẫn chủ trương của Đảng, chính sách Nhà nước về thi đua, khen thưởng và động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho cơ sở tham gia các phong trào thi đua và tổ chức tuyên

Page 48: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

NGHIEÂN CÖÙU - TRAO ÑOÅI

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201548

dương, khen thưởng kịp thời. Tuy nhiên, một số cơ sở chưa coi trọng công

tác thi đua, còn đơn giản và có khi hình thức, chưa gắn với công việc thường nhật. Nội dung, tiêu chí thi đua ở một số sở, ban, ngành thiếu cụ thể. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác này nhiều nơi chưa sát với lợi ích của người lao động; cá nhân được khen thưởng, nhất là khen cao chủ yếu là cán bộ lãnh đạo các cấp nên chưa tập hợp lực lượng mạnh mẽ để thúc đẩy phong trào thi đua từ cơ sở. Tổ chức thi đua có khi còn pha đợt, chưa thường xuyên, rộng khắp. Cách phát động, theo dõi phong trào và xét chọn điển hình tiên tiến có trường hợp chưa đạt yêu cầu, còn chạy theo thành tích. Công tác thanh tra, kiểm tra thiếu chủ động nên hiệu quả thi đua, khen thưởng có khi chưa tương xứng yêu cầu, tiêu chí đề ra.

Vài giải pháp về thi đua, khen thưởng.Về công tác thi đua, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn

nhắc nhở: “Càng khó khăn thì càng phải thi đua”. Công cuộc đổi mới còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Để đạt mục tiêu, yêu cầu thi đua trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tổ chức đảng tiếp tục nâng nhận thức cán bộ, đảng viên và nhân dân về thi đua, khen thưởng đáp ứng điều kiện, tình hình hiện nay. Thông qua các phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. Cấp uỷ cơ sở tập trung quán triệt Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 21-5-2004 của Bộ Chính trị và Kết luận số 83-KL/TW của Ban Bí thư khóa X “về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến”; Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 07-4-2014 của Bộ Chính trị ‘‘về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”; Quy chế “về công tác thi đua, khen thưởng” của UBND tỉnh (Ban hành kèm theo Quyết định số 49/2014/QĐ-UBND, ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Uỷ ban nhân dân tỉnh) các văn bản pháp quy khác về thi đua, khen thưởng.

Hai là, chi, đảng uỷ cơ sở phối hợp với thủ trưởng đơn vị gắn các phong trào thi đua với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phát hiện, xây dựng, biểu dương, tôn vinh điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách của Người, tạo sức lan toả sâu rộng trong toàn xã hội. Lấy kết quả học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh làm một trong những tiêu chí đánh giá, bình xét thi đua, khen thưởng định

kỳ. Đảng viên phải học tập làm theo tư tưởng và đạo đức Bác Hồ là tình cảm, trách nhiệm; trong đó, cán bộ lãnh đạo luôn gương mẫu về lối sống, biểu thị hình ảnh đẹp về nhân cách con người mới để cấp dưới noi theo, góp phần nâng cao chất lượng thi đua ở cơ sở.

Ba là, Cấp uỷ đề ra nội dung thi đua sát nhiệm vụ chính trị và các chỉ tiêu theo chương trình, kế hoạch đề ra. Phát động thi đua phải xác định rõ mục tiêu, phù hợp đặc điểm tình hình từng đơn vị và hình thức phong phú, hấp dẫn, cuốn hút đông đảo lực lượng tham gia. Quá trình thi đua phải đôn đốc, nhắc nhở, sơ kết, tổng kết biểu dương, rút kinh nghiệm kịp thời và thực hiện đồng bộ, chặc chẽ các khâu: Phát hiện - bồi dưỡng - tổng kết - nhân điển hình; phát hiện cần tiến hành thường xuyên, công tâm và khách quan; bồi dưỡng đảm bảo tinh thần vì yêu cầu chung “thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua”; tổng kết, đánh giá sát tình hình, đảm bảo tiêu chí để phong trào thi đua phát triển và khen đúng việc, thưởng đúng người mới tạo động lực, đẩy mạnh hơn nữa chất lượng công tác thi đua.

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công tác thi đua theo luật định, tổ chức khen thưởng đảm bảo tinh thần gọn nhẹ, hiệu quả, đáp ứng sự phát triển của xã hội. Nghiên cứu xây dựng tiêu chí khen cao cho từng chức danh cụ thể hạn chế tình trạng khen theo thứ bậc. Mặt khác, cần có sự thống nhất tương đối về tiêu chí, cách đánh giá xét chọn đối tượng được khen thưởng trong hệ thống chính trị nhằm đảm bảo tính công bằng, thúc đẩy phong trào thi đua tiến triển. Tổ chức đảng có trách nhiệm lãnh đạo, bồi dưỡng chủ trương của Đảng, chính sách Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ chuyên trách và kiêm chức ở các cơ quan, đơn vị về tham mưu, thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Đảng lãnh đạo công tác thi đua của cả hệ thống chính trị, định kỳ tổng kết đánh giá chi, đảng bộ cơ sở cần xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng, bí thư cấp uỷ và thủ trưởng đơn vị về nhiệm vụ này.

Tuyên truyền, thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng theo Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng là trọng trách của cấp uỷ các cấp, là một trong những nội dung quan trọng về xây dựng Đảng nhằm tạo bước chuyển tích cực về tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới xây dựng quê hương, đất nước./.

Page 49: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 49Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 49

Đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong từng

đơn vị kinh doanh là rất cần thiết, nhằm giúp cho doanh nghiệp nắm bắt kỹ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước để hoạch định chiến lược và triển khai các giải pháp sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay với sự xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp với đa hình thức sở hữu, vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong từng loại hình doanh nghiệp là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có những quy định, xác định với mỗi loại hình doanh nghiệp, vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong mối quan hệ với chủ doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ chính trị có khác nhau. Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, doanh nghiệp cổ phần Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, cấp ủy cơ sở đảng sở hữu trên 50% vốn điều lệ, cấp ủy cơ sở đảng có vai trò lãnh đạo toàn

diện các mặt

công tác trong doanh nghiệp; nhưng với doanh nghiệp Nhà nước sở hữu từ 50% vốn điều lệ trở xuống và doanh nghiệp tư nhân, vai trò của cấp ủy đảng cơ sở là tham gia lãnh đạo và tham gia ý kiến với chủ doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; đối với doanh nghiệp có vốn nước ngoài, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là tuyên truyền, vận động nhà đầu tư nước ngoài, các thành viên quản lý doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chấp hành ðúng pháp luật.

Từ cơ sở quy định của Trung ương, trong những năm qua Đảng ủy Khối doanh nghiệp đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn doanh nghiệp Quảng Nam, bước đầu có kết quả quan trọng trong việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp; tỉ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh hàng năm được tăng lên, nhiều tổ chức cơ sở đảng phát huy được vai trò hạt nhân chính trị trong doanh nghiệp, tham gia lãnh đạo có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất kinh doanh; chất lượng hoạt động của cấp ủy, tổ chức Đảng được nâng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số tổ chức cơ sở đảng, nhất là trong doanh nghiệp tư nhân vai trò còn mờ nhạt, chất lượng hoạt động của cấp ủy, tổ chức Đảng còn những hạn chế nhất định; việc phát triển tổ chức Đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước còn ít, chưa kết nạp được chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng.

Qua thực tiễn hoạt động của Đảng bộ Khối, có thể rút ra một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng trong doanh nghiệp như sau:

CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG ĐẢNG BỘ KHỐI DOANH NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM

PHaN XuâN THáNHTrưởng BTG Đảng ủy Khối Doanh nghiệp

Page 50: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201550

Một là, các cấp ủy Đảng phải quán triệt sâu sắc quan điểm “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” để vận tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” để vận tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”dụng sáng tạo vào doanh nghiệp. Mọi hoạt động trong doanh nghiệp phải hướng tập trung vào hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, phải thực sự xem kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu, là cơ sở đảm bảo cho hoạt động của cả hệ thống chính trị tại doanh nghiệp; đồng thời cần xác định xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh là yêu cầu và điều kiện quan trọng tạo sức mạnh tổng hợp cả về ý chí và hành động để thực hiện hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp. Hướng doanh nghiệp hoạt động lành mạnh, bền vững; gắn hiệu quả kinh doanh với giải quyết hài hòa các lợi ích và công tác an sinh xã hội.

Hai là, các tổ chức cơ sở đảng phải tăng cường và thường xuyên chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và người lao động để mọi thành viên đều nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp. Phối hợp với lãnh đạo chuyên môn xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong từng đơn vị; thường xuyên nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị chính đáng của người lao động; xây dựng tinh thần đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm cao vì sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp.

Ba là, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức cơ sở đảngxây dựng Quy chế phối hợp hoạt động giữa cấp ủy và chủ doanh nghiệp theo từng loại hình doanh nghiệp, qua đó xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi cơ quan trong mối quan hệ đó, trên cơ sở mục tiêu vì sự phát triển và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tập trung chỉ đạo, xây dựng đội ngũ cấp ủy cơ sở đủ mạnh, có phẩm chất chính trị, năng lực quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh; kiên trì chỉ đạo thực hiện “nhất thể hóa” chức danh giữa lãnh đạo cấp ủy với lãnh đạo chuyên môn theo mô hình “3 trong 1” hoặc “2 trong 1”. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên cả về chuyên môn và lý luận chính trị để chủ động giới thiệu với lãnh đạo

chuyên môn đề bạt, bổ nhiệm khi có nhu cầu.

Bốn là, các tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động, tham gia xây dựng và lãnh đạo đảng viên thực hiện nghiêm túc điều lệ và hệ thống quy chế nội bộ doanh nghiệp; phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giữ nghiêm kỷ luật Đảng; lãnh đạo xây dựng các đoàn thể chính trị vững mạnh, tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước.

Năm là, đánh giá đúng thực chất chất lượng tổ chức cơ sở đảng trên cơ sở ban hành bộ tiêu chí cho từng loại hình tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ quy định của Trung ương; gắn đánh giá xếp loại tổ chức Đảng với đánh giá xếp loại bí thư cấp ủy, chi bộ. Tiêu chí đánh giá phải lấy kết quả cụ thể làm thước đo, kết hợp với đánh giá của các đoàn thể và ngành cấp trên.

Sáu là, các cấp ủy phải xác định vai trò đồng hành cùng doanh nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Đảng ủy Khối cần làm tốt vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp với Lãnh đạo tỉnh và các sở, ban, ngành của tỉnh nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Đồng thời là cầu nối giữa các doanh nghiệp với nhau tạo điều kiện liên doanh, liên kết, hợp tác cùng phát triển.

Bảy là, Đảng ủy Khối phối hợp với các cấp, các ngành tham mưu Lãnh đạo tỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp, phát triển tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, quản lý tốt đảng viên trong các khu, cụm công nghiệp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động làm cho chủ doanh nghiệp (nơi chưa có tổ chức Đảng) hiểu đúng về vị trị, vai trò và tầm quan trọng của tổ chức Đảng trong xây dựng và phát triển doanh nghiệp để doanh nghiệp ủng hộ và tạo điều kiện cho tổ chức cơ sở đảng hoạt động; đồng thời vận động phát triển các chủ doanh nghiệp tư nhân đủ điều kiện vào Đảng./.

Page 51: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 51

Cùng với sự phát triển tích cực của các địa phương trong tỉnh, 5 năm qua thành phố Tam Kỳ đã có sự phát triển tương đối toàn

diện. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tốt. Thương mại dịch vụ chiếm tỉ lệ 72,8%, công nghiệp xây dựng 24,5%, nông nghiệp còn 2,7 %; tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trên 85%; công tác xúc tiến, thu hút đầu tư đạt kết quả khá, nhất là các dự án lớn đầu tư vào khu công nghiệp Tam Thăng, như tập đoàn PanKo-Hàn Quốc, tập đoàn Mường Thanh,... Công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng; hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của chính hiệu lực, hiệu quả quản lý và điều hành của chính quyền các cấp được tăng cường; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Nhờ đó nguồn thu ngân sách, nguồn vốn đầu tư cho đầu tư phát triển được tăng cường đã tạo điều kiện cho văn hoá - xã hội phát triển, đảm bảo được công tác quốc phòng an ninh. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên. Tỉ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,02% (cuối năm 2014) và không còn hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách giảm nghèo vào cuối năm 2015. Đặc biệt, kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ, nhiều công trình dự án lớn như mở rộng quốc lộ1A, cầu Kỳ Phú 1,2, tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng, Quảng trường, Bảo tàng, Trung tâm dịch vụ tổng hợp Mường Thanh, Khách sạn ven sông Bàn Thạch, chợ Tam Kỳ... cùng với hệ thống giao thông, cấp thoát nước, vỉa hè, cây xanh, hạ tầng các khu công nghiệp được đầu tư làm cho bộ mặt đô thị ngày càng khang trang, xanh-sạch-đẹp hơn. Thành phố đã hoàn thành Đồ án Quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được UBND tỉnh phê duyệt và đang hoàn thiện Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị; Chiến lược phát triển đô thị đến năm 2030. Căn cứ và đối chiếu với các tiêu chuẩn của Nghị định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ về phân loại đô thị và Thông tư số 34/TT-BXD

của Bộ Xây dựng thành phố đang phối hợp với Sở Xây dựng xây dựng Đề án đề nghị công nhận thành phố đạt tiêu chuẩn đô thị loại 2 trình UBND tỉnh đề nghị Chính phủ công nhận để chào mừng kỷ niệm 110 năm thành lập phủ lỵ Tam Kỳ (1906- 2016) và 10 năm thành lập thành phố (2006- 2016).

Những kết quả đạt được là minh chứng sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố; của công tác xây dựng hệ thống chính trị; sự đoàn kết, tinh thần quyết tâm của Ban chấp hành Đảng bộ trong tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIX. Nhưng cũng cần phải khẳng định rằng nếu không có sự tái lập tỉnh, theo đó Tam Kỳ được tái lập vai trò tỉnh lỵ; nếu không có sự đầu tư của trung ương, của tỉnh; sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và trách nhiệm của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, UBMT TQVN tỉnh; sự phối hợp, hỗ trợ, chia sẻ của các ban ngành và các địa phương, các doanh nghiệp... thì Tam Kỳ không thể đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện; quy mô, chất lượng và diện mạo cảnh quan đô thị không thể bề thế, khang trang như ngày hôm nay. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thành phố luôn ý thức, trân trọng biết ơn và cố gắng để xứng đáng với sự quan tâm đầy tình cảm và trách nhiệm cao quý đó.

Phấn khởi với những thành tựu đã đạt được nhưng so với yêu cầu phát triển, vị thế,vai trò của một thành phố tỉnh lỵ và mong ước của Nhân dân thì vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại, bất cập phải trăn trở suy nghĩ; đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và từng người dân bằng tình yêu quê hương, ý thức, tâm huyết và trách nhiệm đóng góp công sức, trí tuệ để xây dựng thành phố. Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX nhiệm kỳ 2015- 2020 đã đề ra những nhiệm vụ và giải pháp toàn diện, cụ thể để xây dựng thành phố phát triển xứng đáng với vai trò, vị trí của thành phố tỉnh lỵ. Theo đó, trong thời gian đến, cần tập

Phấn đấu xây dựng Tam Kỳ xứng tầm

NguyễN VăN LúaUVBTV, Bí thư Thành ủy Tam Kỳ

Phấn đấu xây dựng Tam Kỳ xứng tầmThành phố tỉnh lỵ

Page 52: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201552

trung một số nhiệm vụ chủ yếu sau:- Về kinh tế: phải tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng,

thực hiện có hiệu quả công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư để nâng cao chất lượng các ngành, lĩnh vực kinh tế. Xác định thương mại, dịch vụ là thế mạnh và là trọng tâm của kinh tế thành phố. Vì vậy, bên cạnh những loại hình dịch vụ như tài chính ngân hàng, bưu chính, viễn thông, thông tin, vận tải, chăm sóc sức khoẻ... phải đẩy mạnh phát triển du lịch gắn liền với dịch vụ lưu trú, nghỉ dưỡng. Bãi biển Tam Thanh, địa đạo Kỳ Anh, tượng đài Mẹ VNAH cùng với các di tích văn hoá, lịch sử, các thắng cảnh của khu vực phía Nam của tỉnh sẽ là những điểm đến, dừng chân của du khách. Cùng với các siêu thị, trung tâm thương mại, chợ hiện có phải tiếp tục đầu tư các chợ đầu mối, chợ khu vực để thúc đẩy giao lưu hàng hoá. Công nghiệp không phải là thế mạnh nhưng không thể phát triển kinh tế nếu thiếu công nghiệp. Công nghiệp đầu tư vào thành phố phải lựa chọn những ngành có hàm lượng công nghệ cao, hạn chế ảnh hưởng môi trường. Cụm công nghiệp Trường Xuân, Khu công nghiệp Thuận Yên, đặc biệt Khu công nghiệp Tam Thăng sẽ tiếp tục được đầu tư về cơ sở hạ tầng; sàng lọc, lựa chọn nhà đầu tư để nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế của thành phố. Nông nghiệp tiếp tục được đầu tư phát triển đúng định hướng nông nghiệp đô thị. Tạo mối quan hệ liên kết giữa người sản xuất với các cơ sở thương mại, dịch vụ để tiêu thụ sản phẩm. Có giải pháp giải quyết tình hình thiếu nước, nhiễm mặn, ô nhiễm môi trường để phục vụ sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản ở các xã vùng Đông thành phố.

- Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội: phấn đấu xây dựng Tam Kỳ là thành phố có chất lượng giáo dục cao. Quy hoạch và đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu học tập nhất là hệ thống trường Mầm non, tiểu học bán trú. Phấn đấu đạt chuẩn, nâng chuẩn tất cả các cơ sở giáo dục trên địa bàn. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Tích cực đầu tư để phát triển chất lượng dạy học tin học, ngoại ngữ. Tập trung nâng cao chất lượng đời sống văn hoá; nội dung xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư gắn liền với xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh. Tạo chuyển biến tích cực về giao tiếp ứng xử trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ.

Phát huy những giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể để gìn giữ, lưu truyền bản sắc văn hoá của Tam Kỳ và của quê hương Quảng Nam “chưa mưa đà thấm”, nồng say tình người. Tạo mọi điều kiện thuận

lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ gắn bó, sáng tác những tác phẩm nghệ thuật về quê hương và con người Tam Kỳ. Bên cạnh yếu tố văn minh đô thị phải phấn đấu xây dựng hồn quê, hồn phố Tam Kỳ để mỗi người khi đến và rời xa chợt nhớ một câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở; Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”.

- Tập trung nhiều nguồn lực, đặc biệt phát huy vai trò tự quản của Nhân dân để đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phấn đấu xây dựng Tam Kỳ trở thành thành phố thân thiện, bình yên.

- Trên cơ sở Đồ án Quy hoạch chung thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt, tiến hành hoàn thiện các quy hoạch chi tiết, từng bước đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị đảm bảo chất lượng của đô thị loại 2. Đặc biệt, chú trọng quản lý quy hoạch và kiến trúc đô thị theo đúng định hướng thủ phủ xanh. Phối hợp để thực hiện hoàn thành các dự án cấp thoát nước, kè ven sông Bàn Thạch, đường Điện Biên Phủ từ Nguyễn Hoàng đến đường cứu nạn ven biển, nâng cấp đường Tam Kỳ - Tam Thanh.... Chỉnh trang các khu đô thị cũ đồng thời với xây dựng các khu phố mới. Đầu tư hoàn thiện vỉa hè, cây xanh, các tiểu hoa viên, điện chiếu sáng đô thị. Hoàn thiện hạ tầng và thúc đẩy các dự án dịch vụ ở xã biển Tam Thanh. Xúc tiến quy hoạch trung tâm hành chính thành phố ở phường An Phú. Từng bước phát triển đô thị về phía Đông. Phát huy lợi thế của một thành phố có núi đồi, ruộng vườn, ao hồ, sông, biển để xây dựng thành phố có bản sắc, xanh, thân thiện với môi trường.

- Để xây dựng và phát triển thành phố đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác xây dựng hệ thống chính trị. Năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền; vai trò tập hợp và vận động Nhân dân gắn với phát huy dân chủ, giám sát xã hội của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp... phải thật sự có chất lượng. Phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tâm huyết và trách nhiệm để từng người dân đóng góp trí tuệ, công sức, của cải để xây dựng thành phố là nhân tố quyết định thành công.

Để thực hiện được điều đó, thành phố chú trọng xây dựng, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ. Cán bộ, công chức, viên chức phải có năng lực, phẩm chất, tư cách để được Nhân dân tin tưởng, tôn trọng. Từng người và từng tổ chức hình thành thường xuyên tư duy phục vụ; ý thức sự hài lòng của mọi công dân,

(Xem tiếp trang 58)

Page 53: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 53

Trong những năm qua, cùng với việc phát huy tiềm năng, thế mạnh, nội lực của địa phương, tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ của tỉnh, của các bộ ngành Trung ương, sự hợp tác, tài trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế để tăng cường nguồn lực đầu tư xây dựng, phát triển, thành phố Hội An đã đạt được những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong những năm đến, toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân thành phố nêu cao tinh thần đoàn kết, trân trọng gìn giữ, phát huy di sản văn hóa và phẩm chất anh hùng, tiếp tục kế thừa những kinh nghiệm, ra sức phấn đấu xây dựng Hội An phát triển bền vững theo định hướng thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch.

Một vấn đề đặt ra trong suốt tiến trình phát triển của Hội An là cố gắng vươn lên trở thành một trung tâm du lịch, trong xu

thế tất yếu sẽ có nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội hội nhập sâu rộng, những cạnh tranh mạnh mẽ về thị trường, những yêu cầu khắt khe về sản xuất- kinh doanh và tiêu dùng, những biến động phức tạp về tài chính, rủi ro về thời tiết, thiên tai… Bên cạnh đó, chiều hướng phát triển của một xã hội hiện đại, xu thế đô thị hóa sẽ kéo theo nhu cầu cuộc sống ngày càng đầy đủ và tiện nghi, cùng với những biến động về cơ cấu dân cư, mật độ dân số, nghề nghiệp, môi trường sống, tâm lý xã hội... Quá trình đó sẽ tác động mạnh mẽ, liên tục cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực đến những giá trị nhân văn, sinh thái,

cảnh quan, môi trường. Sức ép từ những yêu cầu về nâng cao năng lực và hiệu qủa lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện của hệ thống chính lý, điều hành, tổ chức thực hiện của hệ thống chính trị, cùng những áp lực từ bảo tồn di tích, bảo vệ trị, cùng những áp lực từ bảo tồn di tích, bảo vệ môi trường, nhu cầu về đất đai, nhà cửa, đi lại, chữa bệnh, học hành... đang đặt ra rất nhiều thách thức gay gắt.

Do vậy, Hội An cần nhận diện và biết dựa vào những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” từ bề dày và chiều sâu của “vùng đất mở” Quảng Nam. Ưu thế của Hội An là có Khu phố cổ - Di sản văn hóa thế giới với hơn 1.360 di tích kiến trúc nghệ thuật được bảo tồn tốt và kho tàng di sản văn hóa phi vật thể rất phong phú, đa dạng; đó là Cù Lao Chàm - Hội An, khu dự trữ sinh quyển thế giới không chỉ khẳng định được những ưu trội về môi trường sinh thái mà còn là điển hình về sự kết nối giữa Khu Di sản văn hóa thế giới với Khu dự trữ sinh quyển thế giới; đó là bãi biển dài hơn 7km với những bãi tắm đẹp, bờ cát trắng; đó là một “đô thị văn hóa” tiêu biểu của cả nước; là nơi có môi trường tự nhiên hết sức đa dạng, phong phú và chưa bị tác động nhiều bởi quá trình đô thị hóa với hệ thống các nhánh sông, mương, lạch, đầm, hồ dày đặc; là hệ sinh thái rừng dừa nước Cẩm Thanh với diện tích gần 30 ha và hệ thống cồn, bàu đa dạng với những dải cát dài; đó là nếp sống giản dị, hiếu khách của mỗi người dân Hội An và những món ăn mang đậm nét truyền thống đã trở thành thương hiệu của vùng đất này.

Một yêu cầu có tính nguyên tắc là phải nhất quán trong nhận thức và hành động, xác định văn

phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết sinh thái - văn hóa - du lịch

Kiều cư Bí thư Thành ủy Hội An

phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết phát triển bền vững trên nền tảng gắn kết Thành phố Hội An

Page 54: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201554

hóa và sinh thái là hai nền tảng cơ bản trong tiến trình phát triển của thành phố, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên nền tảng và động lực của văn hóa, đồng thời nhằm mục tiêu phát triển văn hóa và bồi đắp sinh thái. Mục tiêu mà Hội An đã, đang và sẽ hướng đến là xây dựng thành phố sinh thái - văn hóa - du lịch theo định hướng chiến lược: “Bảo tồn di sản vững chắc gắn với xây dựng, phát triển đô thị sinh thái và phát huy du lịch bền vững”. Nghĩa là vừa bảo tồn tối đa các yếu tố nguyên gốc trong văn hóa truyền thống, gắn với bảo tồn môi trường sinh thái - nhân văn, môi trường xã hội, sinh hoạt văn hóa truyền thống; vừa đáp ứng tối ưu các nhu cầu dân sinh của cư dân đương đại, phát huy giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể để phục vụ, phát triển kinh tế du lịch, cải thiện, nâng cao thu nhập của nhân dân, vừa bảo vệ và ngày càng làm giàu thêm văn hóa địa phương, văn hóa dân tộc; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa trách nhiệm bảo tồn di sản với lợi ích mang lại từ việc khai thác, phát huy giá trị của nó thông qua du lịch- dịch vụ; xem “văn hóa là động lực, là mục tiêu” cho phát triển kinh tế, và ngược lại xem phát triển kinh tế du lịch phải nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế bền vững, nâng cao đời sống Nhân dân và bảo tồn vững chắc di sản văn hóa ông cha tạo dựng, truyền lưu.

Trên cơ sở nắm vững và vận hành đúng đắn mối quan hệ kinh tế - văn hóa - sinh thái, tiếp tục chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế với nhóm ngành Du Lịch - Dịch vụ - Thương mại giữ vai trò là ngành kinh tế chủ đạo; là lĩnh vực kinh tế tổng hợp đa ngành, phát triển nhanh, năng động, rộng khắp các tiểu vùng của thành phố, có trọng điểm và có lan tỏa. Phát huy tối đa các ưu thế về di sản văn hóa và sinh quyển để đa dạng hóa các loại hình du lịch và quy mô kinh doanh gắn liền với yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng dịch vụ, tạo ra những sản phẩm độc đáo, đặc trưng của Hội An. Bên cạnh đó, các ngành nghề tiểu thủ công phát triển đa dạng, một số ngành công nghiệp sạch được lựa chọn kỹ, nông nghiệp chuyển dần theo hướng một nền nông nghiệp sinh thái hiện đại, từng bước phát triển kinh tế biển phù hợp với trình độ và năng lực của các thành phần kinh tế. Xây dựng và phát triển thành phố đảm bảo cân đối giữa các lĩnh vực và các khu vực, giữa tốc độ tăng trưởng với chất lượng phát triển, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã

hội; chăm lo giáo dục, y tế, an sinh xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương pháp luật; tiếp tục cải thiện, nâng cao đời sống của Nhân dân - nhất là ở những khu vực còn khó khăn.

Một trong những giải pháp hàng đầu để phát triển du lịch bền vững trên nền tảng gắn kết văn hóa và sinh thái là phải hết sức chú ý yếu tố cộng đồng, tức là nhấn mạnh và khẳng định vai trò chủ thể của người dân cả trong sáng tạo, tự nguyện tham gia và trực tiếp hay gián tiếp được hưởng lợi từ các hoạt động văn hóa, du lịch mang lại.

Nhiều năm qua, Hội An đã phát huy những tiềm năng, khai thác một cách hợp lý, đúng mực và có trách nhiệm để không làm tổn hại đến nguồn tài nguyên tự nhiên cũng như tài nguyên văn hóa. Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở Hội An đã trở thành một sản phẩm du lịch mới lạ và hấp dẫn. Với loại hình du lịch này, du khách được tham quan, tìm hiểu văn hóa, phong tục tập quán của người địa phương, đặc biệt sẽ được trực tiếp trải nghiệm, hòa vào thực tế cuộc sống của người dân, cùng sản xuất với nông dân ở Trà Quế, Cẩm Châu, cùng đánh bắt với ngư dân ở Cửa Đại, cùng chăm sóc san hô với Nhân dân ở Cù Lao Chàm, cùng chế tác thủ công mỹ nghệ với thợ thủ công ở Thanh Hà, làm sạch và chăm lo môi trường sinh thái ở vùng ngập mặn Rừng Dừa 7 mẫu, chế biến thức ăn cùng các bà nội trợ bình dân cho đến những nhà bếp nổi tiếng nhất của địa phương.

Du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng đã góp phần làm đa dạng thêm các sản phẩm du lịch của Hội An, mở rộng không gian phát triển của di sản đến các vùng lân cận, góp phần khôi phục, tạo điều kiện bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống, nâng cao mức sống người dân, giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế của địa phương một cách tích cực, hiệu quả. Có thể dẫn chứng một ví dụ điển hình: Xã Cẩm Thanh- nơi có nhiều lợi thế về môi trường sinh thái đã được Hội An chọn xây dựng thành một làng quê sinh thái tiêu biểu. Phường Minh An, trung tâm khu phố cổ - Di sản văn hóa thế giới - xây dựng thành một đơn vị hành chính toàn diện, chuẩn mực, phát triển theo hướng đầu tư tăng trưởng xanh, tạo nên sự cân đối, hài hòa về kinh tế, văn hóa, xã hội, hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm du lịch văn hóa của Quảng Nam, miền Trung và của quốc gia. Xã Tân Hiệp - Cù Lao Chàm được xác định là một

Page 55: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 55

điểm du lịch biển đảo điển hình xanh - sạch - đẹp.Ngoài ra, Hội An còn lập qui hoạch, khuyến

khích cộng đồng dân cư xây dựng mô hình biệt thự nhà vườn, homestay và các cụm lưu trú homestay (khách lưu trú trong nhà dân, cùng ăn ở, sinh hoạt, lao động, vui chơi với gia đình chủ nhà). Đặc biệt phát triển và mở rộng các loại hình dịch vụ du lịch tại các khu vực làng nghề để nâng cao thu nhập của cộng đồng, phát huy và phát triển tốt các làng nghề: mộc Kim Bồng, tranh tre - dừa nước Cẩm Thanh, gốm Thanh Hà, rau Trà Quế. Đồng thời gìn giữ không gian cảnh quan làng quê và phát triển các nghề truyền thống ở nông thôn kết hợp với hoạt động du lịch, nhằm động viên nguồn lực đầu tư tiện nghi dịch vụ, tạo việc làm thu hút lao động và cải thiện thu nhập, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa vùng đô thị với vùng nông thôn ngoại vi, tạo điều kiện công bằng hơn cho mọi thành viên trong cộng đồng được hưởng lợi từ du lịch.

Từ sự đúng đắn trong định hướng, nhận thức và hành động phát triển của du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng, đầu tư cho tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, Hội An đã nhận được nhiều thiện cảm của bạn bè xa gần, nhận được những đánh giá tích cực và sự hỗ trợ của tỉnh, Trung ương, những tổ chức quốc tế, kể cả chính phủ của một số quốc gia. Hội An thường xuyên xuất hiện trong các cuộc bình chọn của khách nước ngoài như một điểm đến hấp dẫn và nổi tiếng thế giới, tiếp tục được những trang web du lịch quốc tế vinh danh là điểm đến thú vị và thơ mộng, thành phố lãng mạn nhất thế giới, thành phố du lịch bụi rẻ nhất châu Á, thành phố có khung cảnh chụp ảnh đẹp nhất thế giới, điểm đến níu chân du khách ở Việt Nam, một trong những thành phố trên thế giới phải đến một lần trong đời… Điều đó cho thấy tình cảm trìu mến, thủy chung của bạn bè gần xa trên khắp hoàn cầu dành cho Hội An. Và con người Hội An biết tự hào và ý thức được trách nhiệm đối với thành phố thân yêu của mình.

Suy cho cùng, mấu chốt của vấn đề là phải xây dựng hình ảnh một Hội An thật sự là một điểm đến hấp dẫn uy tín và an toàn. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng, nhưng cách quảng bá hiệu quả nhất vẫn là quảng bá tại chỗ thông qua việc tập trung xây dựng môi trường du lịch văn minh - an toàn - thân thiện, từ cơ sở hạ tầng, phương tiện, chất

lượng các sản phẩm du lịch đến công tác an ninh trật tự, vệ sinh cảnh quan môi trường, nếp sống và cách ứng xử. Triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, tấn công, trấn áp các loại tội phạm và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giảm thiểu tai nạn giao thông. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động hưởng ứng thực hiện xây dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn minh - mỹ quan đô thị; chuyển hướng tập trung mạnh mẽ việc triển khai các nội dung cụ thể về xây dựng văn hóa - văn minh trong kinh doanh, dịch vụ, giao tiếp ứng xử, nơi công cộng.

Thật tai hại và nguy cơ sẽ trầm trọng nếu con người Hội An lơ đãng hoặc bỏ đi vai trò chủ thể của mình, rơi vào những biến thái quá đáng trong các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, giao tiếp ứng xử, trở thành những kẻ “ăn xổi, ở thì”, xa lạ ngay với bản thân mình, xa lạ với cộng đồng của mình, xa lạ với di sản ông cha mình. Bởi vậy, nhiệm vụ trọng tâm và điều cốt yếu là phải xây dựng mỗi con người Hội An thật sự là con người văn hóa, có đầy đủ những tố chất tốt đẹp về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, tình cảm và năng lực trí tuệ để xứng đáng là chủ nhân, là khối óc và trái tim của văn hoá Hội An; trước hết thể hiện trong nhận thức và hành vi ứng xử tốt đẹp đối với các di sản văn hóa ông cha để lại, đối với tài nguyên sinh thái, đối với cộng đồng xã hội, đối với du khách và đối với bản thân mình.

Trước mắt cũng như lâu dài, Đảng bộ và Nhân dân thành phố xác lập mục tiêu vì sự tiến bộ của con người Hội An trong thời kỳ mới, xây dựng con người phát triển toàn diện, đặt con người ở vào vị trí trung tâm và vai trò chủ thể trong toàn bộ quá trình phát triển. Tạo dựng môi trường tốt nhất để khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng, động viên mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân thành phố phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vừa huy động và sử dụng tốt nội lực nhưng Hội An phải ra sức tranh thủ ngoại lực, tăng cường quan hệ hợp tác, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của tỉnh và trung ương, tiếp tục chủ động hội nhập trong khu vực và quốc tế để tạo sức mạnh tổng hợp cho quá trình phát triển. Sự cộng hưởng của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, doanh nhân và cộng đồng dân cư có chất lượng đã và sẽ góp phần xây dựng thương hiệu Hội An ngày càng nâng cao uy tín.

Page 56: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201556

Sau khi thành lập huyện trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Tam Kỳ vào ngày 05/01/2005, Phú Ninh vẫn là vùng đất còn

nhiều khó khăn. Làm gì để phát triển đi lên theo kịp đà phát triển chung? làm gì để Nhân dân có đời sống khá hơn? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền của huyện. Sau những ngày trăn trở, tìm tòi, suy tính, lãnh đạo huyện đã đề xuất và được sự thống nhất cao của tỉnh là Phú Ninh phải đi lên bằng con đường xây dựng huyện nông thôn mới. Chọn được hướng phát triển, song xây dựng nông thôn mới như thế nào lại là vấn đề không đơn giản, bởi vì lúc ấy chưa có định hướng cụ thể của cấp trên về nông thôn mới, chưa có tiêu chí, chưa có cơ chế, chính sách cụ thể. Mặc dù khó khăn như vậy nhưng huyện vẫn mạnh dạn xúc tiến lập dự án xây dựng huyện nông thôn mới giai đoạn 2007-2020 và trình UBND Tỉnh Quảng Nam thống nhất phê duyệt tại Quyết định số 4212/QĐ-UBND ngày 24/12/2007. Trên cơ sở đó, Ban Chỉ đạo Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới Trung ương chọn Phú Ninh là một trong 5 huyện trên toàn quốc để chỉ đạo điểm

xây dựng nông thôn mới tại Kế hoạch 435/KH-BCĐ ngày 20/9/2010.

Qua hơn 4 năm phát động và xây dựng, chương trình xây dựng nông thôn mới luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể từ huyện đến cơ sở xác định là nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ và tập trung lãnh đạo thực hiện đạt nhiều kết quả. Đến cuối năm 2014, xã điểm xây dựng nông thôn mới Tam Phước và hai xã Tam An, Tam Thành là 3/10 xã đầu tiên trên toàn Tỉnh được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. 05 xã Tam Dân, Tam Thái, Tam Đàn, Tam Vinh, Tam Đại đạt 16 tiêu chí, khả năng cuối năm 2015 sẽ đạt 19/19 tiêu chí. 02 xã còn lại phấn đấu hoàn thành xã nông thôn mới trong năm 2016. Huyện Phú Ninh phấn đấu đạt tiêu chí huyện NTM vào cuối năm 2015 (theo tiêu chí huyện nông thôn mới hiện nay).

Qua xây dựng nông thôn mới, bộ mặt nông thôn của huyện có nhiều khởi sắc; đời sống, thu nhập của nhân dân được nâng lên; kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, dân sinh tiếp tục được tăng cường; đã xuất

Một số kinh nghiệmtrong xây dựng nông thôn mới ở huyện Phú Ninh

NguyễN cảNHTUV, Bí thư Huyện ủy Phú Ninh

Huyện Phú Ninh được Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới trung ương chọn là một trong 6 huyện trên toàn quốc để chỉ đạo điểm xây dựng nông thôn mới. Sau hơn 4 năm thực hiện, chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện đã đạt được nhiều kết quả; huyện đã kịp thời tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng để tiếp tục lãnh đạo thực hiện tốt hơn công tác này trong giai đoạn đến.

Đồng chí Trương Tấn Sang thăm các mô hình kinh tế hộ trên địa bàn huyện.

Page 57: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 57

hiện một số mô hình sản xuất mới đem lại hiệu quả cao; các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đa dạng hơn; công tác bảo vệ môi trường được quan tâm thực hiện; văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; hệ thống chính trị được xây dựng trong sạch, vững mạnh; việc huy động nguồn lực của xã hội để đầu tư phát triển đạt nhiều kết quả; vai trò chủ thể của nhân dân ngày càng được phát huy.

Từ thực tiễn 4 năm qua, huyện Phú Ninh đã kịp thời tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng để tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới thời gian đến.

Thứ nhất, Đổi mới tư duy, cách làm, chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện là yêu cầu, tiền đề quan trọng để xây dựng nông thôn mới.

Xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ mới mẻ, là chương trình mang tính tổng hợp để phát triển, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ mới. Quá trình xây dựng vừa thực hiện điểm, vừa đánh giá rút kinh nghiệm để hoàn thiện giải pháp tiếp tục đẩy mạnh chương trình. Không có mô hình, phương thức, cách làm chung cho các xã.

Các nội dung trong chương trình nông thôn mới đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền trước hết phải đổi mới tư duy, cách làm, phải nghiên cứu, đề ra được những định hướng, giải pháp mới phù hợp với thực tiễn để lãnh đạo thực hiện. “Làm” nông thôn mới, trước hết là phải nắm chắc các chủ trương, chính sách và các quy định của trung ương, của tỉnh; sau đó, là phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, tránh những tư duy cứng nhắc và cách làm máy móc, hình thức. Mỗi địa phương phải căn cứ vào đặc điểm, lợi thế và nhu cầu thiết thực của người dân để lựa chọn nội dung nào làm trước, nội dung nào làm sau, mức độ đến đâu cho phù hợp. Trong đó cần tập trung ưu tiên cho phát triển sản xuất, nâng cao đời sống Nhân dân; xem đây là nhiệm vụ hàng đầu, phải xác định tiêu chí thu nhập và tiêu chí giảm nghèo là các tiêu chí quyết định thành, bại của Chương trình. Khi đề án, kế hoạch thực hiện sát hợp với yêu cầu tình hình và tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, sẽ là tiền đề, điều kiện tiên quyết để đảm bảo việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, nội dung công việc đề ra. Do vậy, trong lĩnh vực xây dựng nông thôn mới, Huyện ủy Phú Ninh đã tập trung nghiên cứu, tổng kết đánh giá thực tiễn và ban hành hơn 40 nghị quyết, kết luận chuyên đề để lãnh đạo trên các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy công tác xây dựng nông thôn mới trên địa

bàn huyện đảm bảo kế hoạch, yêu cầu đề ra. Thứ hai, Nâng cao nhận thức gắn với phát huy

hiệu quả vai trò chủ thể của người dân để xây dựng nông thôn mới.

Tiến hành xây dựng nông thôn mới, trước tiên phải làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng để nâng cao nhận thức trong cộng đồng dân cư về nội dung, phương pháp, cách làm, cơ chế chính sách của Nhà nước về xây dựng NTM... để cả hệ thống chính trị ở cơ sở và người dân hiểu rõ: đây là chương trình phát triển kinh tế - xã hội tổng thể, toàn diện, lâu dài trong nông thôn, không phải là một dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; xây dựng NTM phải do cộng đồng dân cư làm chủ, người dân phải là chủ, làm chủ; huy động nội lực là chính với sự hỗ trợ một phần của Nhà nước thì công cuộc xây dựng NTM mới thành công và bền vững; mỗi người dân phải ý thức được rằng, xây dựng NTM là việc làm để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chính gia đình, làng xã mình, từ đó, mỗi nhà tuỳ điều kiện, hoàn cảnh sẽ chủ động tính toán những việc làm cụ thể, vươn lên thoát nghèo, làm giàu và tham gia những công việc của cộng đồng. Việc tuyên truyền phải thường xuyên và bằng nhiều hình thức đa dạng; lựa chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng, sát với thực tế để tạo được sự chuyển biến về nhận thức trong Nhân dân. Sẽ không có làng, xã nông thôn mới, nếu như từng hộ gia đình nông thôn không phải là những hộ gia đình nông thôn mới. Thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” trong tất cả các khâu, các việc của chương trình.

Thứ ba, Sự vào cuộc đồng bộ, hiệu quả của cả hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp là yếu tố quyết định cho sự thành công của Chương trình.

Hệ thống chính trị vừa là nhân tố lãnh đạo, điều hành, tiền đề quan trọng đảm bảo cho sự thành công của xây dựng nông thôn mới, đồng thời việc xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT cũng chính là một trong những mục tiêu của chương trình xây dựng nông thôn mới. Do vậy, Huyện ủy Phú Ninh đã đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết, giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền, phát huy vai trò tham gia phối hợp của Mặt trận, các đoàn thể trong xây dựng NTM, như: Nghị quyết về “tăng cường trách nhiệm của hệ thống chính trị trong xây dựng Nông thôn mới”, về “công tác vận động Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Phú Ninh thành huyện nông thôn mới”, Kết luận về“tiếp tục thi

Page 58: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TÖ LIEÄU - THOÂNG TIN

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201558

đua xây dựng mô hình, điển hình dân vận khéo trên địa bàn huyện”, về “xây dựng, quản lý và phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt trong Mặt trận, các đoàn thể CT-XH trên địa bàn huyện”, về “xây dựng đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở thôn, khối phố”...

Muốn xây dựng nông thôn mới thành công, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thường xuyên của các cấp, các ngành từ huyện đến cơ sở. Cả hệ thống chính trị từ huyện, xã đến thôn phải vào cuộc một cách thật sự; trong đó, vai trò của Ban chỉ đạo, Ban quản lý, Bộ phận giúp việc và sự nỗ lực của Chi ủy, Ban phát triển thôn là rất quan trọng. Đồng thời, Mặt trận, đoàn thể cần xây dựng kế hoạch, lựa chọn công việc cụ thể để phối hợp tham gia xây dựng nông thôn mới phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.

Thứ tư, Đa dạng hoá và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để xây dựng nông thôn mới.

Nhu cầu vốn để xây dựng NTM là rất lớn, do đó phải đa dạng hóa các nguồn lực để đầu tư, huy động nguồn lực phải theo phương châm: “Vận động nguồn lực từ cộng đồng và người dân là quyết định, sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là cần thiết”, tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Việc triển khai Chương trình phải mạnh mẽ, quyết liệt, nhưng phải kiên trì, tránh bệnh nóng vội, chạy theo thành tích. Việc sử dụng nguồn lực vào các công trình công cộng phải được người dân bàn bạc dân chủ và thống nhất, có giám sát cộng đồng, đảm bảo công khai, minh bạch. Việc huy động nguồn lực trong dân theo nhiều hình thức: đóng góp trực tiếp bằng công sức, tiền của vào các công trình cộng đồng, cải tạo nâng cấp nơi ở, công trình vệ sinh, cải tạo vườn, ao, sửa sang cổng ngõ…phù hợp với mức sống và thu nhập của từng vùng. Tập trung phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn lực tại chỗ để đầu tư cơ sở hạ tầng và đảm bảo nguồn vốn đối ứng thực hiện các chương trình, dự án đầu tư tại địa phương theo Nghị quyết của HĐND tỉnh. Lồng ghép và tổ chức thực hiện có hiệu quả nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn hỗ trợ có mục tiêu của Trung ương, tỉnh, vốn từ ngân sách nhà nước và các nguồn huy động hợp pháp khác; ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, công trình trực tiếp phục vụ phát triển sản xuất, có tính bức thiết trên địa bàn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Tranh thủ hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp thông qua liên doanh, liên kết trong sản xuất, vốn tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và các tổ chức tín

dụng khác trong triển khai thực hiện. Phát huy những kết quả đạt được và trên cơ sở

những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn xây dựng nông thôn mới 4 năm qua, trong giai đoạn 2015-2020, Huyện Phú Ninh tiếp tục xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, cần thiết để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng, tính bền vững của chương trình xây dựng nông thôn mới, góp phần cùng cả tỉnh và cả nước thực hiện thắng lợi NQTW7 (khóa X) về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trong thời kỳ mới./.

(Tiếp theo trang 52)Phấn đấu...tổ chức khi quan hệ giao tiếp với cơ quan công quyền là bổn phận của chính mình.

- Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính nhất là thủ tục hành chính gắn với bài trừ phiền hà, nhũng nhiễu, quan liêu, lãng phí, tham nhũng ở mọi cơ quan, đơn vị. Ở một góc độ khác, phải thẳng thắn thừa nhận năng lực, tư duy quản lý và xây dựng đô thị của đội ngũ cán bộ thành phố chưa đáp ứng kịp yêu cầu. So với lịch sử các đô thị trong nước và thế giới thì Tam Kỳ là đô thị quá non trẻ vì vậy đây là hạn chế tất yếu. Do đó thành phố phải tập trung đào tạo về quản lý đô thị, tin học, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ trẻ. Mở rộng quan hệ với các trường đại học, các tổ chức trong nước và quốc tế để đào tạo cán bộ đồng thời phát hiện, thu hút những sinh viên giỏi, cán bộ giỏi về công tác tại thành phố là một giải pháp trước mắt và lâu dài phải tập trung thực hiện.

Đảm nhận vị trí, vai trò của một thành phố tỉnh lỵ là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm lớn, khó khăn của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Tam Kỳ nhất là trong điều kiện nguồn lực về con người và vật chất còn hạn chế. Để xây dựng Tam Kỳ xứng tầm tỉnh lỵ bên cạnh sự nỗ lực của cán bộ và Nhân dân Tam Kỳ cần có sự quan tâm đầu tư của trung ương và của tỉnh; sự hỗ trợ giúp đỡ động viên của các sở, ban ngành và các địa phương trong tỉnh. Tam Kỳ cần sự hỗ trợ đầu tư về kinh phí, về cơ chế và cũng cần những chia sẻ, động viên, góp ý trách nhiệm và chân thành trên từng chặng đường phát triển để xứng danh là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam giàu truyền thống văn hoá và cách mạng./.

Page 59: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 59

Bệnh nhân không còn phải lặn lội, vượt đường sá xa xôi cả trăm cây số ra Huế hoặc

vào tận thành phố Hồ Chí Minh để khám chữa bệnh trong sự vất vả, mệt mỏi và tốn kém. Giờ đây những bệnh nhân mắc bệnh tim đã có thể được tiếp cận kỹ thuật y tế chất lượng cao ngay tại địa phương mình, tiết kiệm được chi phí, thời gian cho bản thân và gia đình. Hiệu quả tích cực và hữu ích mà người dân Quảng Nam các tỉnh lân cận đang được thụ hưởng đó là kể từ khi Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam triển khai Đơn vị can thiệp tim mạch vào ngày 27 tháng 2 năm 2013, với sự hỗ trợ, giúp đỡ kỹ thuật của các Giáo sư, Tiến sĩ, chuyên gia đến từ Trung tâm Tim mạch đầu ngành, các chuyên gia nước ngoài,… Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam là bệnh viện tuyến tỉnh hạng II đầu tiên trong cả nước triển khai kỹ thuật cao này.

Theo các chuyên gia tim mạch cho biết: Bệnh động mạch vành, đặc biệt là nhồi máu cơ tim ngày càng gặp phổ biến, là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu nếu không được chẩn đoán và điều trị tích cực với những phương pháp khác nhau. Bệnh nhân bị bệnh động mạch vành, ngoài việc điều chỉnh thay đổi lối sống như ngưng hút thuốc lá, giảm cân, tập luyện thể dục, kiểm soát huyết áp, đường máu, mỡ máu trong giới hạn bình thường, ăn nhiều trái cây, rau quả, cá, uống thuốc đều đặn theo hướng dẫn, mà còn phải được chụp và can thiệp động mạch vành. Đây là một phương pháp điều trị hiệu quả nhất hiện nay. So với bệnh nhân không được can thiệp động mạch vành như nong và đặt stent, bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật cao này sẽ nhanh chóng cải thiện triệu chứng, giảm biến chứng, giảm thời gian nằm viện,

Cứu sống nhiều bệnh nhân nhờ can thiệp tim mạch

TrưởNg Hoa

Phẫu thuật tim mạch.

giảm tử vong. Sau hai năm triển khai Dự án

Bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện trung ương Huế, với nhiều nội dung trong đó có hỗ trợ, chuyển giao các kỹ thuật tim mạch can thiệp, đến nay các bác sỹ BVĐK Quảng Nam đã có thể tự thực hiện được các kỹ thuật như: Cấp cứu thành công cứu sống hàng chục bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, trong đó, có những bệnh nhân lớn tuổi, choáng tim, rối loạn nhịp đe dọa tính mạng không thể chuyển tuyến trên kịp; Trên cơ sở nắm vững kỹ thuật chụp và can thiệp ĐMV, đến nay ekip can thiệp tim mạch đã triển khai thêm nhiều kỹ thuật mới như can thiệp mạch máu ngoại biên, tắc mạch điều trị ung thư gan (TACE), tắc mạch trong chảy máu mũi, chụp và can thiệp mạch não (phình ĐM, thông động tĩnh mạch não), đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn,…

Khoảng 2 giờ đồng hồ sau

khi được các bác sỹ khoa Nội tim mạch, Bệnh viện ĐKQN đặt sten động mạch vành, bệnh nhân Nguyễn Thị Lan, 58 tuổi, ở xã tam thái, huyện Phú Ninh đã tỉnh táo và có thể trò chuyện được với chúng tôi. Không giấu được niềm vui, bệnh nhân Lan chia sẻ: “Tôi bị hẹp động mạch, thường xuyên xâm xoàng, chóng mặt, đau ngực và khó thở. Trước đây, mỗi lần đi khám bệnh, tôi đều phải ra Bệnh viện Trung ương Huế để khám chữa bệnh, mất thời gian, mệt mỏi và tốn kém. Nhưng kể từ khi BVĐK Quảng Nam có phòng can thiệp Tim mạch tôi đã yên tâm rất nhiều khi chữa bệnh ở đây bởi các bác sỹ rất chu đáo, tận tình và tôi cũng không phải đi xa vất vả như trước đây,…”

Bệnh nhân Nguyễn Thị D., 79 tuổi, địa chỉ xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, nhập viện trong tình trạng chóng mặt, tiền ngất, mạch và nhịp tim chậm đều, điện tâm

Page 60: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201560

đồ thể hiện blốc nhĩ-thất hoàn toàn với tần số thất 35 lần/phút. Các bác sĩ đã nhanh chóng đặt máy tạo nhịp tạm thời một buồng thất để ổn định huyết động cho bệnh nhân, sau đó cùng với sự hỗ trợ của các chuyên gia đến từ tuyến trung ương, êkip tim mạch can thiệp của bệnh viện đã tiến hành cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn cho bệnh nhân D. Thoát khỏi lưỡi hái tử thần, ổn định sức khỏe và xuất viện sau 10 ngày cấy máy, bệnh nhân D phấn khởi cho biết: “Rất may là Bệnh viện tỉnh đã có Can thiệp tim mạch nên tôi được cứu chữa kịp thời chứ phải đi xa hơn thì chắc tôi đã không còn sống mà nói chuyện như bây giờ. Hơn nữa, chi phí điều trị ở đây cũng thấp hơn ở các thành phố lớn nên tôi thấy mình đã rất may mắn”.

Là bác sỹ trẻ được đưa đi đào tạo và trực tiếp tham gia vào hoạt động can thiệp tim mạch, bác sỹ Nguyễn Lương Quang, Khoa Nội Tim mạch, BVĐK Quảng Nam chia sẻ: “Mặc dù đã được Lãnh đạo đơn vị quan tâm, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt nhưng ban đầu triển khai chúng tôi vẫn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong tiếp cận kỹ thuật mới, làm sao để tạo dựng niềm tin đối với nhân dân tỉnh nhà nói chung và bệnh nhân nói riêng,… Theo Hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới thì đơn vị can thiệp tim mạch phải thực hiện can thiệp tối thiểu 75 trường hợp/1 năm thì mới tiếp tục hoạt động được. Đó cũng là áp lực lớn đối với chúng tôi. Nhưng với sự quyết tâm cao từ lãnh đạo đến nhân viên, chúng tôi đã nỗ lực, cố gắng hoàn thiện các kỹ năng, phát huy năng lực của mỗi cá nhân, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn,…”. Tính ưu việt của CTTM là coi trọng kết quả điều trị, là phương pháp tối ưu trong điều trị nội khoa, thay thế dần cho mổ bắc cầu, giải quyết được rất nhiều bệnh, giảm đi những khó khăn trong phẫu thuật nhưng mang lại hiệu quả cao. Anh cũng mong muốn lãnh đạo đơn vị sẽ tổ chức cho cán bộ đi đào tạo phát triển thêm các kỹ thuật mới, chuyên sâu như: Can thiệp tim bẩm sinh, bệnh tim cấu trúc, thăm dò điện sinh lý tim,…

Từ lúc bắt đầu chỉ là chụp chẩn đoán bệnh mạch vành, thì nay đã làm chủ được kỹ thuật can thiệp kể cả các ca khó và các trường hợp cấp cứu, cứu sống hàng chục bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp qua khỏi cơn nguy kịch. Tính đến thời điểm hiện tại đơn vị đã can thiệp tim mạch và thực hiện thủ thuật cho gần 1000 trường hợp trong đó chụp động mạch vành 565 ca, can thiệp động mạch vành 236 ca, chụp và can thiệp ĐM ngoại biên 76 ca, cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn 66 ca. Từ lúc chỉ mong muốn giải quyết các bệnh mạch vành để giúp bệnh nhân khỏi phải chịu gánh nặng chuyển viện đầy nguy hiểm và tốn kém thì đến nay đơn vị đã thực hiện thường quy

kỹ thuật tạo nhịp tim 01 buồng và 02 buồng, chẩn đoán và can thiệp các trường hợp bệnh động mạch ngoại biên, tránh phải thực hiện phẫu thuật đoạn chi cho bệnh nhân. Đồng thời, nhờ có sư hỗ trợ của máy MSCT 64 dãy giúp sàng lọc bệnh nhân, chọn lọc bệnh chính xác và nhờ đó hiệu quả điều trị cao hơn. Chính những kết quả này đã tạo được niềm tin của bệnh nhân đối với khoa Nội Tim mạch nói riêng và Bệnh viện nói chung. Vì thế mà hiện tại khoa Nội Tim mạch bệnh viện đa khoa Quảng Nam luôn trong tình trạng quá tải không chỉ về bệnh cần phải can thiệp mà tất cả các bệnh khác, điều này cho thấy niềm tin của bệnh nhân dành cho bệnh viện đang được nâng lên rõ rệt.

Chia sẻ về những thành công đáng khích lệ của khoa, Bs CKII Trần Lâm, Trưởng khoa Nội tim mạch, BVĐK Quảng Nam cho biết: Chúng tôi đã tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo của các cấp, sự hỗ trợ giúp đỡ về kỹ thuật của Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Đại học y dược Huế, các chuyên gia tim mạch đầu ngành trong nước và quốc tế để có thể giải quyết được những bệnh khó, sẵn sàng hỗ trợ, đào tạo tại chỗ cho chúng tôi theo phương pháp “cầm tay chỉ việc”. Bên cạnh đó, chúng tôi có đội ngũ bác sỹ trẻ, đầy đam mê, nhiệt huyết với nghề, đoàn kết giúp đỡ nhau trong công việc, có mục tiêu phấn đấu, ham học hỏi và có ý chí cầu tiến được đào tạo cơ bản và nâng cao về can thiệp tim mạch. Chúng tôi cũng thường xuyên đưa bác sỹ đi đào tạo, đào tạo lại và đào tạo liên tục để nâng cao trình độ chuyên môn. Đồng thời Khoa cũng quán triệt trong tất cả cán bộ viên chức là phải hết lòng với bệnh nhân, không vòi vĩnh, không nhận phong bì bệnh nhân,… Nhiều trường hợp bệnh nhân được cứu sống là nhờ sự kêu gọi hỗ trợ từ các mạnh thường quân,… Vậy nên trong 2 năm, chúng tôi đã phát triển tương đối nhanh, đã thực hiện chụp can thiệp mạch vành, mạch não, ngoại biên, đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn,… và chúng tôi phấn đấu sẽ thực hiện các kỹ thuật cao cấp của bệnh viện hạng 1 vào năm 2016 - 2017,…”

Các trường hợp can thiệp tim mạch thường được thực hiện trong vòng 1 giờ, phần lớn bệnh nhân được xuất viện sau 1 đến 2 ngày kể từ khi kết thúc can thiệp. Như vậy, có thể thấy việc triển khai thành công đơn vị can thiệp tim mạch của Bệnh viện đa khoa Quảng Nam đã đánh dấu bước tiến mới trong điều trị các bệnh lý tim mạch của một bệnh viện tuyến tỉnh, tạo điều kiện cho người dân được sử dụng kỹ thuật y tế chất lượng cao ngay tại tỉnh nhà, tiết kiệm chi phí, thời gian điều trị của bệnh nhân và người nhà, đồng thời giảm quá tải cho tuyến trên.

Page 61: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 61

Là người sinh ra và lớn lên trên vùng biển bãi ngang, cũng như bao thanh niên khác, anh đã sớm vật lộn với nghề đi biển. Cuộc sống

nơi vùng bãi ngang đầy khó khăn khắc nghiệt, lại bị bão gió triền miên, thuyền nhỏ, sóng lớn nên cái đói, cái nghèo vẫn đeo bám dai dẳng, gia đình anh cũng không ngoại lệ. Không chịu cam phận với cái nghèo cứ đeo riết bà con ngư dân, với trăn trở làm sao phải vươn ra khỏi vùng lộng mới mong có được cuộc sống khá hơn, cứ mãi quẩn quanh ven bờ tối đi, sáng về thì không biết khi nào mới thoát được nghèo chứ chưa nói việc làm giàu từ biển.

Với những trải nghiệm có được trong nhiều năm đi biển, nghĩ là làm, anh đã mạnh dạn vay vốn, đầu tư đóng mới thuyền có công suất lớn để vươn ra khơi. Chiếc thuyền đầu tiên có công suất 45CV do anh làm chủ đã đi tiên phong tìm ngư trường mới, đó là vùng biển Cát Hải, Cát Bà. Chuyến đi hơn một tháng đã thu về kết quả ngoài sức tưởng tượng, sau mấy chuyến ra khơi với phương tiện mới, thuyền của anh đã dần dần trả được nợ, kinh tế của các thuyền viên khá giả. Anh đã vận động ngư dân trong thôn mạnh dạn đầu tư, mua sắm phương tiện để cùng nhau ra khơi, nhờ sự vận động tích cực cùng với sự trợ giúp với nhau, hàng loạt chiếc thuyền có công suất lớn được ngư dân Bình Minh đóng mới. Nhiều ngư trường đã được ngư dân Bình Minh chinh phục như Hoàng Sa, Trường Sa… Sản lượng hải sản toàn xã không ngừng được tăng lên, đời sống của Nhân

dân được cải thiện rõ rệt. Đến nay, toàn xã Bình Minh đã có hơn 200 chiếc tàu, thuyền có công suất từ 90CV đến gần 1000CV. Sản lượng khai thác hải sản mỗi năm từ 7000 đến 9000 tấn.

Được đảng viên và Nhân dân trong thôn tín nhiệm, nhiều năm liền anh giữ chức Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn. Từ đó, anh Thuấn không đi biển nữa mà cùng với vợ chuyển sang nghề buôn hải sản, đồng thời để dành nhiều thời gian cho công việc mà đảng viên và Nhân dân trong thôn tín nhiệm giao cho.

Hiện nay, thôn Hà Bình có 700 hộ với gần 3000 khẩu, là thôn có số dân đông nhất xã, chi bộ có 42 đảng viên, 90% lao động làm nghề khai thác và chế biến hải sản. Mặc dù cuộc sống đã khá hơn trước, song chưa bền vững và người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Với trọng trách là Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn, anh luôn trăn trở tìm mọi cách để gia đình mình cũng như các gia đình khác trong thôn có thể vươn lên thoát nghèo. Dám nghĩ dám làm, anh cùng với nhóm hộ đã vay vốn ngân hàng chính sách về đầu tư thành lập Hợp tác xã Hải Minh, chủ yếu may công nghiệp để giải quyết lao động tại chỗ. Hơn 50 công nhân được trả lương cao, thu nhập bình quân 3triệu đến 3,5 triệu/ tháng/ người. Hiện nay, hợp tác xã đã chuyển thành doanh nghiệp may “Hoa Trí” cùng với ba tổ hợp may khác giải quyết cho hơn 300 lao động tại chỗ. Riêng anh không tiếp tục nghề may mà quyết định chuyển sang nghề kinh

côNg HùNg

Trưởng thôn gương mẫu đi đầu trong học tập,làm theo tấm gương của Bác

Với cương vị là Bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn Hà Bình, xã Bình Minh, trong những năm qua anh Trương Công Thuấn luôn được nhiều người biết tới là người giỏi về công tác dân vận, sống mẫu mực và là tấm gương điển hình trong học tập và làm theo tấm gương của Bác.

Page 62: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

GÖÔNG NGÖÔØI TOÁT - VIEÄC TOÁT

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201562

doanh hàng hải sản. Anh nghĩ, sản phẩm mà ngư dân làm ra thường theo điệp khúc “được mùa mất giá”, nếu biết cách giữ lại sản phẩm thì sẽ giải quyết tốt đầu ra, giúp ngư dân yên tâm đánh bắt, thu nhập sẽ ổn định. Nghĩ là làm, anh bàn với vợ vay vốn để xây dựng kho đông lạnh tại nhà, trữ lượng kho đông chứa khoảng 10 đến 15 tấn, cá mực của ngư dân vào mùa rất rẻ, thậm chí có lúc bán không có người mua vì lượng hải sản quá nhiều. Thế là vợ chồng anh thu mua gom hết vào kho đông, đến khi biển động thì bán ra, thu nhập từ nguồn hải sản đông lạnh mỗi năm khoảng 200 đến 300 triệu đồng. Mô hình này được nhân rộng, giúp cho ngư dân ổn định được sản xuất, không sợ bị ép giá hay phải bán tháo, bán đổ.

Những hộ gia đình xây dựng kho đông lạnh trên địa bàn xã hiện nay đều đã trở nên khá giả, thu nhập có năm hàng tỷ đồng. Ngoài việc giải quyết đầu ra cho sản phẩm của ngư dân, mô hình này còn cung cấp hàng hải sản thường xuyên cho phụ nữ trong mùa đông để đi bán khắp nơi, tạo việc làm và tăng thu nhập cho rất nhiều hộ gia đình. Anh Thuấn cho biết: “Trước đây bà con trong thôn gia đình nào cũng khó khăn, từ khi mạnh dạn đầu tư tàu thuyền để vươn ra khơi mới có cái ăn. Có cái ăn phải tìm cách vươn lên làm giàu. Nhờ chuyển đổi cách làm mà hiện nay gia đình tôi cũng như nhiều hộ khác trong thôn đã trở nên khá giả. Người làm biển cũng khá, người đi buôn cũng khá và cơ bản không ai thất nghiệp hết...”

Thôn Hà Bình đang từng bước đổi thay.Ngoài việc vận động bà con trong thôn cách làm

ăn, chuyển đổi mô hình sản xuất, anh Thuấn còn vận động nhân dân trong thôn giúp nhau về vốn để đầu tư sản xuất, nhiều phương tiện đánh bắt hải sản trong thôn được đóng mới, cải hoán hiện đại nhờ một phần lớn vốn huy động từ nguồn tại chỗ. Mặt khác, anh cùng với các chi hội đoàn thể tích cực vận động thanh niên đi xuất khẩu lao động, hiện nay trong thôn có khoảng 30 người đi lao động ở Hàn Quốc và Nhật Bản, mỗi năm tích góp gởi về hàng trăm triệu đồng. Đời sống người dân trong thôn ngày càng phát triển, nhà nào cũng mua sắm được xe máy, tivi, tủ lạnh, máy giặt, đói nghèo được đẩy lùi, không còn nhà tạm. Nhiều nhà cao tầng được xây dựng làm cho bộ mặt nông thôn khởi sắc.Toàn thôn có hơn 20 chiếc ô tô khách và tải. Đường làng, ngõ xóm được bê tông hóa. Đêm đến rực rỡ ánh điện đường từ phong trào “thắp sáng đường quê” mà người tích cực vận động nhất không ai khác là Bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn... Anh nghĩ thoát nghèo thôi chưa đủ, phải xây dựng thôn xóm ngày càng khang

trang, giàu đẹp hơn. Anh Thuấn cùng với các đảng viên trong Chi bộ thôn đã họp bàn, giao cho mỗi gia đình đăng ký xây dựng nông thôn mới, hướng dẫn các gia đình trong thôn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo vệ môi trường, không sinh con thứ 3, thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”… Sự tâm huyết của anh đã tạo ra sức lan tỏa rộng rãi tới người dân trong thôn, hiện nay đời sống của người dân trong thôn được cải thiện và nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ khá giàu tăng 15 đến 20%, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ trên 20% năm 2012 xuống còn khoảng hơn 10% cuối năm 2014, trong đó có 7 hộ phấn đấu xóa nghèo trong năm 2015.

Học Bác, làm theo lời Bác dạy “Một tấm gương sống còn hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, anh Thuấn không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, vận động mà còn chính là một tấm gương để bà con trong thôn noi theo, vừa hoàn thành xuất sắc công tác xã hội, vừa là gia đình có kinh tế khá giả nhất thôn, anh đã mua được nhà ở Đà Nẵng để cho 2 người con của anh có chỗ ăn học tốt hơn. Gia đình luôn gương mẫu đi đầu trong thực hiện chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước.

Từ những việc làm và sự cống hiến của mình, cùng với những thành tích trong phát triển kinh tế, anh đã nhận được rất nhiều bằng khen, giấy khen của các cấp; 6 năm liền là đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, là một trong những bí thư chi bộ xuất sắc được khen thưởng tấm gương điển hình tiên tiến trong học làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của huyện. Gia đình anh được công nhận là gia đình nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh nhiều năm qua. Anh là một tấm gương tiêu biểu của xã Bình Minh. Ông Trần Công Minh - Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Bình Minh cho biết: “Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn Hà Bình là người luôn luôn đi đầu, dám nghĩ, dám làm để cho bà con Nhân dân noi theo. Hiện nay thôn Hà Bình tuy dân số đông nhất xã nhưng có phong trào mạnh nhất xã, công của đồng chí Thuấn đối với thôn và xã lớn lắm...”

Hiện nay, anh vẫn tiếp tục cố gắng, nỗ lực học tập và làm theo những điều Bác Hồ dạy, đóng góp nhiều cho thôn trong việc xây dựng nông thôn mới. Công việc của anh có nhiều thuận lợi vì được đảng viên và Nhân dân thôn nhà ủng hộ mạnh mẽ. Đó chính là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn Hà Bình để anh quyết tâm phải làm được nhiều việc tốt hơn nữa giúp bà con trong thôn, giúp bộ mặt của thôn Hà Bình ngày càng giàu, đẹp, văn minh hơn./.

Page 63: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TIN HOAÏT ÑOÄNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/2015 63

Hội tHảo kHoa Học “Hà ĐìnH nguyễn tHuật- DanH nHân văn Hóa”

Ngày 15/9/2015, UBND huyện Thăng Bình và Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch Quảng Nam phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học “Hà Đình Nguyễn Thuật- Danh nhân văn hóa”. Tham dự Hội thảo có giáo sư - nhà sử học Dương Trung Quốc và nhiều giáo sư, nhà khoa học trong cả nước; các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy; các đồng chí lãnh đạo chủ chốt tiền nhiệm; đại diện lãnh đạo các cơ quan, ban ngành của huyện và thị trấn Hà Lam.

Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhà khoa học, nhà văn, giảng viên các trường đại học trong cả nước với 51 tham luận, tập trung phân tích làm rõ thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân Hà Đình Nguyễn Thuật với những vấn đề liên quan đến truyền thống quê hương Hà Lam, Thăng Bình của ông với tư cách là một nhân vật lịch sử; sự nghiệp trước tác văn học của Hà Đình Nguyễn Thuật với tư cách một tác gia; tấm gương của Hà Đình Nguyễn Thuật và các danh nhân khác của Quảng Nam, góp phần khơi dậy niềm tự hào về truyền thống của vùng đất và con người Thăng Bình, tạo động lực tinh thần mới trong công cuộc xây dựng quê hương.

Nguyễn Thuật hiệu Hà Đình, tên thật là Nguyễn Công Nghệ, sau đổi là Nguyễn Thuật, tự là Hiếu Sinh, hiệu Hà Đình. Ông sinh năm Nhâm Dần (1842) trong một gia đình có truyền thống hiếu học và khoa bảng tại làng Hà Lam, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, trấn Quảng Nam (nay là thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình). Nguyễn Thuật thi đỗ Cử nhân; năm sau, đỗ Phó bảng; làm quan trong triều Nguyễn. Ông được triều đình truy tặng “Đặc tiến Vinh lộc Đại phu Đông Các Đại học sỹ” và ban tên thụy “Văn Ý”. Ông qua đời năm Tân Hợi (1912), thọ 69 tuổi.

Một số tham luận của các nhà khoa học cũng đã đưa ra một số giải pháp tôn vinh, quảng bá các giá

trị vật chất, tinh thần danh nhân Hà Đình Nguyễn Thuật đóng góp cho sự nghiệp xây dựng phát triển quê hương, đất nước. Đề xuất các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy những đóng góp về mặt văn hóa, văn học của Hà Đình Nguyễn Thuật; phục hồi và công bố các tác phẩm của ông trên lĩnh vực văn học, văn hóa và giáo dục; bảo tồn và khai thác giá trị của các di tích, di sản liên quan đến ông như: Lăng mộ Hà Đình Nguyễn Thuật, Văn Thánh Hà Lam, Đình làng Hà Lam, Nhà thờ tộc Nguyễn ở Hà Lam, Thăng Bình và một số công trình văn hóa liên quan nhằm phát huy truyền thống văn hóa và con người Quảng Nam.

Theo ông Đinh Hài - Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng Nam, Hội thảo nhằm mục đích tổng hợp các kết quả nghiên cứu và xác định rõ nội hàm khoa học về lịch sử văn hóa, thân thế, sự nghiệp và đóng góp của danh nhân Hà Đình Nguyễn Thuật trong quá trình hình thành và phát triển vùng đất Hà Lam, Thăng Bình nói riêng và Quảng Nam nói chung, qua đó giáo dục những truyền thống tốt đẹp của quê hương, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, phát huy các giá trị tốt đẹp, xây dựng quê hương phát triển giàu mạnh.

Đông Anh

Hội Liên Hiệp tHanH niên việt nam Huyện pHú ninH tổ cHức ngày Hội “tôi yêu tổ quốc tôi”

Hòa chung trong không khí của những ngày tháng Tám lịch sử, Ủy ban Hội LHTN huyện Phú Ninh tổ chức chuỗi hoạt động ngày hội “Tôi yêu Tổ quốc tôi” năm 2015 như: Hội thi Rung chuông vàng; thi vẽ tranh bằng lá với chủ đề về biển đảo; thi kéo co, đi xe máy chậm và đồng diễn dân vũ…

Về dự các hoạt động của ngày hội có đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo Huyện ủy; các đoàn thể huyện; lãnh đạo Huyện đoàn, Ủy ban Hội LHTN huyện; Bí thư, Phó Bí thư Đoàn, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UB Hội các xã, thị trấn thuộc huyện và gần 300 đoàn viên, hội viên ở 10 xã, thị trấn trên địa bàn huyện.

Quang cảnh Hội thảo

Page 64: ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

TIN HOAÏT ÑOÄNG

Thoâng tin TUYEÂN GIAÙO Soá 9+10/201564

Tại buổi khai mạc, khởi đầu cho các hoạt động, Ủy ban Hội LHTN huyện đã trao 5 phần quà cho 5 bạn hội viên khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn với tổng số tiền 1,5 triệu đồng.

Thông qua các hoạt động của ngày hội, UB Hội LHTN huyện đã phát động phong trào hưởng ứng cuộc vận động Thanh niên với văn hóa giao thông bằng việc ký cam kết thực hiện 6 tiêu chí khi tham gia giao thông đó là: sẵn sàng cống hiến cho quê hương, đất nước; xung kích, tình nguyện, sáng tạo trong công việc; tích cực tham gia xây dựng Hội LHTN Việt Nam vững mạnh; sống trách nhiệm với bản thân, gia ðình và xã hội; sống trung thực, trách nhiệm và nghị lực; tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng. Phát động ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Bắc với tổng số tiền hơn 2 triệu đồng.

Các đơn vị tham gia các phần thi sôi nổi, cạnh tranh quyết liệt, thể hiện ý chí, quyết tâm giành chiến thắng. Kết quả chung cuộc: giải nhất toàn đoàn thuộc về Ủy ban Hội LHTN xã Tam Lộc; giải nhì đơn vị Tam Vinh và giải ba thuộc về đơn vị Tam An.

Văn Trường

BẮc tRà my tổ cHức Hội ngHỊ tRiỂn kHai ngHỊ quyẾt ĐẠi Hội Đảng Bộ Huyện LẦn tHứ Xviii, nHiệm kỲ 2015-2020

Sáng ngày 22/9/2015, Huyện ủy Bắc Trà My tổ chức Hội nghị triển khai, quán triệt, học tập Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Trà My lần thứ XVIII, nhiệm kỳ (2015-2020). Tham dự Hội nghị có đồng chí Huỳnh Thị Thùy Dung - Bí thư Huyện ủy, các đồng chí trong Ban Thường vụ, Ban Chấp hành đảng bộ huyện khóa XVIII, lãnh đạo các Ban xây dựng Đảng, Văn phòng Huyện ủy, trưởng phó các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể huyện, Bí thư, Phó bí thư các chi, đảng bộ trực thuộc Huyện ủy; chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND, UBMTTQVN các xã, thị trấn trên địa bàn huyện.

Hội nghị đã nghe đồng chí Bí Thư Huyện ủy quán triệt những nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII. Đồng thời nghe báo cáo về chương trình thực hiện Nghị quyết. Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết về công tác Dân vận của Đảng. Cũng tại Hội nghị, đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy đã thông tin về chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và tình hình phân giới cắm mốc trên đất liền Việt Nam - Campuchia.

Qua Hội nghị, các đồng chí cán bộ chủ chốt các cấp của huyện đã nắm vững những nội dung của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đề ra, từ đó vận dụng có hiệu quả, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của địa phương và đơn vị mình, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra.

Sau hội nghị, các chi, Đảng bộ cơ sở trực thuộc Đảng bộ huyện tiếp tục tổ chức các hội nghị học tập, quán triệt triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII ở cơ sở nhằm giúp cán bộ, đảng viên, các tầng lớp Nhân dân nắm vững, hiểu rõ và đồng thuận hưởng ứng.

Trần Thị Phượng

Trong tháng qua, Bản tin “Thông tin Tuyên giáo” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã nhận được nhiều tin, bài, ảnh của các cộng tác viên: Đoàn Xuân Quang, Bùi Văn Ba, Trần Thiệt, Trần Văn Anh, Trần Duy Độ, Lê Thanh Tuấn, Thanh Vân, Hoàng Việt, Trần Trưởng Hoa, Ngân Ánh, Lê Văn Thanh, Lê Văn Hải,... nhưng do số lượng trang in có hạn nên chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng và đăng tải vào các số sau

Ban biên tập rất mong nhận được sự tham gia, cộng tác nhiệt tình và đóng góp ý kiến của các cộng tác viên trong thời gian đến.

Các tin, bài viết cũng như mọi ý kiến góp ý xin gửi về hộp thư điện tử: [email protected], địa chỉ: phòng Thông tin, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, số 16 - Trần Quý Cáp, tp. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam

Kính chúc quý cộng tác viên hạnh phúc, thành đạt.Chân thành cảm ơn!

HỘP THƯ

Quang cảnh Hội nghị