Upload
vanhuong
View
232
Download
8
Embed Size (px)
Citation preview
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN - TRÃI
Văn-Học-Sử
[ Ghi-chú : Toàn bộ chữ Nho in trong sách
là thủ bút của tác-giả ghi trong di cảo ]
*
Phụ-Trách Ấn-Loát : Nguyễn-Kim-Ánh _ PARIS
Copyright © Nguyễn-Kim-Ánh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
MỤC - LỤC
A./ Tiểu-Sử NGUYỄN-TRÃI ..................................1
B./ NGUYỄN-TRÃI
Qua Sự-Trạng Của Dương-Bá-Cung...................17
1_ Thế-Giới-Quan Nhân Nghĩa ..................103
2_ Nguyễn-Trãi Hợp Sáng...........................127
3_ Chính-Trị Nhân Nghĩa...........................131
4_Triết-Lý Chính-Trị Quốc-Gia Xã-Hội.......175
C./ NGUYỄN-TRÃI
Với Phật-Giáo...................................................231
1_ Tâm-Lý Văn-Nghệ..................................281
2_ Văn-Chương Khai-Quốc.........................323
3_ Văn-Hoá Chính-Trị Từ Hưng-Đạo Đến
Nguyễn-Trãi Và Lê-Lợi..........................405
4_ Bài Học Văn-hóa Chính-Trị Nhân Nghĩa
Của Vua Lê-Thái-Tổ Và Nguyễn-Trãi.....437
D./ KẾT - LUẬN....................................................447
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
NGUYỄN - TRÃI
( 1380 - 1442 )
Trong hàng danh-nhân lịch-sử Việt-
Nam, Nguyễn-Trãi là tiêu-biểu bậc nhất cho
kẻ-sĩ, lý-tưởng của phần-tử trí-thức, là thế-lực
thứ ba thiết-yếu cho sự an-bình của cái xã-hội
Làng Nước, nửa Phân-quyền Dân-chủ, nửa
Tập-quyền Quân-chủ, kẻ-sĩ mà Nguyễn-Công-
Trứ đã ca-tụng sứ-mệnh lịch-sử quốc-gia :
" Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Có giang-san thì sĩ đã có tên?
Từ Chu Hán vốn sĩ này là quý ".
NGUYỄN-TRÃI
2
Kẻ-sĩ Nguyễn-Trãi đã xuất-hiện vào giai-
đoạn hết sức gian-nan của lịch-sử dân-tộc, giai-
đoạn suy-nhược của nhà Trần, cách-mệnh thất-
bại của nhà Hồ, kháng-chiến tuyệt-vọng chống
quân Minh của nhà Hậu-Trần, bị nội-thuộc
dưới chế-độ quận-huyện của nhà Minh cho đến
khi khôi-phục lại đất nước, tổ-chức lại quốc-gia
độc-lập, để rồi bị tru-di tam-tộc không kịp
" công thành thân thoái ", đủ thấy cuộc đời kẻ-
sĩ Nguyễn-Trãi giầu bài học kinh-nghiệm lịch-
sử biết bao và phản-chiếu tâm-hồn dân-tộc sâu
rộng là nhường nào. Nguyễn-Trãi cho ta biết
cái học kinh-luân của kẻ-sĩ, con người toàn-
diện hợp-nhất Tri-Hành. Nguyễn-Trãi cho ta
biết thái-độ của kẻ-sĩ trong thời loạn và trong
thời bình, đối với nhân-dân và đối với nhà
nước .
Nguyễn-Trãi cho chúng ta bài-học về
Nhân Nghĩa, chiến-tranh vì nhân-dân, hòa-bình
vì nhân-dân, dân là nước và nước là dân.
Nguyễn-Trãi cho chúng ta bài-học về Hiếu và
Trung, lời của Nguyễn-Phi-Khanh bảo con,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
3
Nguyễn-Trãi và Nguyễn-Phi-Hùng, trên đường
tù-binh bắt giải về Tầu : " Thôi các con theo
cha khóc-lóc mà làm chi ? Các con hãy về tìm
cách trả thù nhà nợ nước, ấy là chí hiếu ! " .
Nhưng quan-trọng hơn hết là Nguyễn-
Trãi đại-diện cho sự chuyển-tiếp giữa hai thời-
đại tư-tưởng truyền-thống Việt-Nam, từ truyền-
thống Tam-giáo Nho-Thích-Đạo thời Lý, Trần
sang truyền-thống Nho-giáo chính-thống, từ
mô-thức xã-hội khai-phóng sang xã-hội bế-
quan. Sự chuyển-tiếp ấy đánh dấu bằng cái án
khốc-liệt mà cả dòng họ bị tru-di oan-uổng, cái
án tru-di tam-tộc đặc-trưng của chế-độ Quân-
chủ chuyên-chế khi Nho-giáo thống-trị độc-
tôn, mặc dầu những chuyện " Rắn báo oán "
với chiếu " Tuyết hận " của Lê-Thánh-Tông
về sau cũng không làm sao rửa sạch nỗi oán-
hận của người đời đối với chế-độ chuyên-chế,
mà thương xót thay cho số-phận bậc đại công-
thần vì dân vì nước, của một kẻ-sĩ Việt-Nam
vĩ-nhân gương-mẫu muôn đời .
NGUYỄN-TRÃI
4
Hai mươi năm sau, Vua Lê-Thánh-Tông
nối chí Nguyễn-Trãi để thực-hiện chủ-nghĩa
chính-trị Nhân Nghĩa của ông đã xướng xuất,
có bài thơ Tuyết-hận. Nhà Vua viết : " Ta ngồi
tĩnh tọa suy-tư ở Pháp-cung, nghĩ lại ngày nay
Vua sáng, tôi hiền cùng sự-nghiệp thịnh-vượng
hiện-thời, chợt cảm-hứng nên bài thơ thất-
ngôn :
( )
" Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo "
( Tấm lòng của Ức-Trai sáng tỏ như sao Khuê )
Và nhà Vua đã thân chú-giải rằng :
" Thừa-Chỉ Quán-Phục-Hầu
Nguyễn-Trãi hiệu Ức-Trai, Tiên-sinh
khoa-bảng triều nhà Hồ, khi đầu Vua
Thánh-tổ mở nước có đến Lôi-Giang qui-
phục, bên trong thì giúp mưu-lược trong
Bộ Tham-Mưu, bên ngoài thì giao-dịch
bằng văn thơ dụ hàng với các thành giặc,
đặc-biệt được tin dùng vào thư từ vẻ vang
cho nước ".
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
5
Đấy là ca-tụng tán-dương hết sức ! Nhà
Vua lại có Chế truy-tặng Thái-sư Tuệ-Quốc-
Công, trong lời Chế có câu :
" Phong hổ long vân chi hội, do ức tiền
duyên
Công danh sự nghiệp chi truyền, vĩnh
thùy lai thế " .
( Rồng mây gặp hội, còn nhớ duyên xưa
Công danh sự-nghiệp đời đời truyền-tụng )
Khảo xét Nguyễn-Trãi phò Vua Lê-Thái-
Tổ khởi-nghĩa Lam-Sơn khôi-phục giang-sơn,
đất nước, giải-phóng dân-tộc khỏi thế-lực đô-
hộ nhà Minh, bình-định thiên-hạ, ngoài thì
giao-thiệp bút-chiến với quốc-gia hùng-mạnh,
trong thì kế-hoạch mưu-lược, công-nghiệp
hiển-hách, thực là một vị hào-kiệt từ xưa đến
nay. Có thể nói không có Nguyễn-Trãi vi Thần,
Lê-Lợi vi Quân thì không có được triều nhà Lê,
điều ấy không phải nói ngoa vậy. Sự-nghiệp
NGUYỄN-TRÃI
6
của Nguyễn-Trãi không những quán cổ kim,
mà văn-chương của Nguyễn-Trãi cũng lại sâu
rộng về khí-lực, đủ chứng-minh " Văn tức là
người " ( Le style c'est l'homme ) như Trần-
Bích-San thời Tự-Đức sau này đã bộc-lộ :
" Văn phi sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài "
( Văn không non nước không hồn khí
Người chẳng dãi dầu chửa thực tài )
Câu ấy thật thích-ứng vào Nguyễn-Trãi,
với văn-chương " Bình Ngô Đại Cáo " " Quân
Trung Từ Mệnh " nói lên cái ý-thức dân-tộc,
cái tư-tưởng đồng-nhất với Dân với Nước, cái
tinh-thần Nhân Nghĩa lấy làm cứu-cánh,
quyền-mưu là phương-tiện :
" Nhân Nghĩa chi cử yếu tại yên dân
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo "
( Việc Nhân Nghĩa cốt làm dân yên
Cất quân đánh dẹp trước lo trừ bạo.)
_ ( Bình Ngô đại cáo )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
7
Và thư gửi cho Phương-Chính, nói :
" Phàm mưu-đồ việc lớn phải lấy
Nhân Nghĩa làm gốc, thành-tựu việc lớn
phải lấy Nhân Nghĩa làm đầu. Chữ
Nhân Nghĩa đầy đủ thì công việc mới
xong xuôi " .
_ ( Quân-Trung Từ-mệnh )
" Việc quyền-mưu dùng để trừ gian
Nhân Nghĩa mới duy trì nước ổn ".
_ ( Thơ mừng về Lam-Sơn )
Và nhân-dân được đề-cao, là sức mạnh
của thời chiến cũng như thời bình :
" Phúc chu thủy tín dân do thủy "
( Đắm thuyền mới biết dân như nước )
_ ( Quan Hải )
Hay là :
" Dân không theo hẳn về ai, chỉ theo
về người nhân-đức. Dân như nước, chở
được thuyền mà cũng đánh đắm được
thuyền "
_ ( Hậu Tự Huấn )
NGUYỄN-TRÃI
8
Và lời Gia-Huấn như tràn ngập một tình
thương Nhân Nghĩa vô bờ bến, bất phân giai-
cấp :
Ở cho có đức có nhân ,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời .
Thương người tất tả ngược xuôi ,
Thương người lỡ bước thương người bơ vơ ,
Thương người ôm dắt trẻ thơ ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn ,
Thương người quan quả cô-đơn ,
Thương người lỡ bước lầm than kêu đường .
Thấy ai đói rách thì thương ,
Rách thời cho mặc, đói thời cho ăn .
Thương người như thể thương thân ,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà .
Đồng tiền bát gạo mang ra ,
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên .
May ta ở chốn bình yên ,
Còn người tàn phế, chẳng nên cầm lòng .
Tiếng rằng ngày đói tháng đông .
Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho ,
Miếng khi đói, gói khi no .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
9
Của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn trùng ,
Của là muôn sự của chung .
Sống không thác lại tay không có gì ,
Ở sao cho có nhân nghì .
_ ( Gia Huấn Ca )
Đấy là con người sĩ Nguyễn-Trãi từ giọng
văn chiến-tranh Nhân Nghĩa đi sang giọng văn
giáo-huấn Nhân Nghĩa, trước sau vẫn chất-
phác thành-thật mà cảm-động chinh-phục lòng
người nhờ có cảm-hứng sâu rộng, khí-lực
hùng-hồn, tình-cảm thâm-trầm nên văn-chương
sáng tỏ vậy .
Con người Nguyễn-Trãi phong-phú, giầu
kinh-nghiệm sinh-tồn, từng-trải bao nhiêu
cảnh-ngộ biến-đổi thời-thế mà tâm-hồn vẫn
trong sáng, một lòng nhiệt-thành tìm thực-hiện
đạo-lý trong đời, cái đạo-lý Nho-Thiền của kẻ-
sĩ chân-chính Bất-Nhị-Pháp. Đạo là Đời, Đời
có Đạo, Đạo tại sự-vật, Sự-vật có Đạo. Đời ấy
là Dân, là Nước, là Thiên-nhiên, Sông Núi mà
hình-ảnh luôn luôn được ông ấp-ủ hàm-dưỡng
NGUYỄN-TRÃI
10
trong lòng cho nên phát-biểu ra lời thơ văn,
hoặc Hán hoặc Nôm, hoặc vần hoặc xuôi, thảy
đều một khí sinh-động phản-chiếu tâm-hồn
" Đạo-tâm duy tinh, duy nhất " .
( Thông thường, người nào có ấp-ủ
tài đức trong mình khi biểu-hiện ra hành-
động là sự-nghiệp, khi phát-biểu ra lời nói
là văn-chương. Bởi vì trời giáng người ấy
xuống thành người hữu-dụng thì ắt trời
ban cho y đầy đủ. Xét thời cổ xưa như Y-
Doãn với đức thuần nhất. Thái-Công
" Lã-Vọng " với sách binh-pháp lại chẳng
phải là văn-chương đấy ư ?
( Nước Việt ta trải qua thời Đinh,
Lý, Trần, Lê mỗi triều-đại có được Vua
làm hưng-thịnh, nhưng tìm lấy được một
vị hoàn-toàn tài đức như Ức-Trai thì thật
là ít có .
( Công có cái học tự trong gia-đình
mà tinh thâm sâu rộng, ngay thẳng qui mô
thì lại do nơi tự mình đạt tới. Vốn không
để tâm vào văn-chương mà khi phát ra lời
nói thì sáng lạn hùng mạnh cổ kính như
thời Ngu, Hạ.
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
11
( Bình sinh ngâm vịnh càng đến
bước cùng càng thêm kiên-cố, càng già
càng khỏe. Các bậc tiền-bối đều khen,
không từng quên đạo Hiếu với nhà, Trung
với nước, có thể thấy rõ trong văn thơ còn
lại. Ôi, khi ẩn-náu thì hàm-dưỡng, khi
xuất-hiện thì ích-dụng. Khi ẩn như không
thấy, khi hành-động thì thành-công lớn.
Như thế nào phải cóp nhặt phỏng theo vết
cũ để thi-thố, cầu may mà thành-công
được đâu. Trong vũ-trụ còn gì lớn hơn là
văn-chương, mà chẳng phải của riêng
môn-phái nào. Nhưng cái loại văn-
chương kinh-bang tế-thế của Ông, thì thật
là hiếm vậy ....
( Than ôi ! Công-nghiệp của Ức-
Trai còn mãi trường-tồn với sông Lô, núi
Tản, không đợi vào văn-chương mới lưu-
truyền lại đời sau .
( Văn-chương của Ức-Trai đạt tới
nguồn đạo-lý, không đợi vào sự tán-tụng
mới được hiển-dương vậy.....)
_ ( Tựa của Ngô-Thế-Vinh )
NGUYỄN-TRÃI
12
" Đại phàm hoài đức bão tài giả,
kiến ư hành vi sự nghiệp, phát ư ngôn văn
chương. Cái thiên giáng dụng ư thị nhân,
tất toàn dĩ dữ chi dã. Quân chư cổ như Y
Doãn chi nhất đức Thái Công chi binh
thư hữu phi sở vi văn chương dã da ?
" Ngã Việt Đinh, Lý, Trần, Lê nhất
đại hưng vượng chi quân, tất hữu nhất
đại hưng vượng chi tả, cầu kỳ toàn như
Ức-Trai tiên sinh mạc nhiên hỷ .....
" Tiên sinh chi học xuất ư gia đình,
nhi tinh thâm không khoát chính đại
cường phương nãi kỳ độc đắc. Cố vô tâm
ư văn chương nhi phát chi ngôn tất hoa
anh hùng bất kiếu kỳ trước tác, trực mô
phỏng Ngu Hạ. Kỳ bình sinh ngâm vịnh
cùng nhi kiên, lão nhi tráng, tiền bối
xưng, bất vong quân thân giả, nhất nhất ư
tập trung kiến chi. Phù, kỳ hối hữu sở
dưỡng, hiền hữu sở dụng, tàng yên túc dĩ
tương ứng, hành yên túc dĩ đại đắc, thử
khởi phiêu thiết trần tích nhi thí kỳ hoặc
thành giả tai ? Ô hô, vũ trụ mạc đại hồ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
13
văn chương, phi độc nhất gia chi ngôn
dã. Nhiên kinh thế chi văn mỗi bất đa
đắc .
" Ô hô ! Tiên sinh công tồn hồ Lô,
Tản bất đắc văn nhi hậu truyền. Văn đắc
hồ tính học, bất đắc tán nhi hậu tiến " .
_ ( Ngô Thế Vinh tự )
NGUYỄN-TRÃI
14
Đấy là sự-nghiệp, là văn-chương của con
người sĩ Nguyễn-Trãi mà đời sau ca-tụng.
Nhưng Ông hành-động vì dân, vì nước, vì non
sông vũ-trụ, hình như với đạo tâm không màng
đến chức tước, danh tiếng ở đời, nên tâm-hồn
lúc nào cũng thản-nhiên như có hai con người :
con người khán-giả với con người diễn-giả, mà
Nguyễn-Công-Trứ sau này cũng đã trực-giác :
" Ai hay hát mà ai hay nghe hát "
" Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay ?
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.
Đã buồn vì trận mưa rào,
Lại đau vì nỗi ào ào gió đông.
Mây trôi nước chảy xuôi giòng,
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông một mình"
_ ( Tự Thán )
Đấy là Văn với Người của kẻ-sĩ Nguyễn-
Trãi, cô-đơn cho đến lúc chết, một mình tranh-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
15
đấu vì Dân, vì Nước, vì Núi Sông với mục-đích
Nhân Nghĩa, hành-động với đạo-tâm chí công
vô tư của Thánh-nhân cùng với Trời Đất sinh-
thành hóa-dục :
" Thế thượng hoàng lương nhất mộng du
Giác lai vạn sự tổng thành hư
Như kim chỉ ái sơn trung trụ
Kết ốc hoa biên độc phụ thư "
Tạm dịch :
( Cuộc đời như thể mộng hoàng lương,
Tỉnh giấc hư không sự sự xuông.
Nước biếc non xanh tình luyến ái,
Lều hoa sách Tổ mở kho tàng .)
Cái lý-tưởng kẻ-sĩ thường ấp-ủ là trả sạch
nợ Nam nhi đối với nhân-quần xã-hội để hoàn-
thành con người vũ-trụ-hóa trong cuộc sống
thiên-nhiên như kẻ-sĩ sau này đã từng hát ;
NGUYỄN-TRÃI
16
" Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu ".
_ ( Nguyễn-Công-Trứ )
Nhưng kẻ-sĩ Nguyễn-Trãi còn nặng nợ
với nhân-dân, với Dân-tộc, mặc dầu đã thành-
công khai-phóng ra nhà Lê, cho nên tuy đã lui
về ở ẩn ở Côn-Sơn mà còn phải chịu cái chết
oan-uổng, chết đi ở thể-xác như hạt thóc để cho
bông lúa đạo-lý nẩy-nở sống lại ở thời Lê-
Thánh-Tông vậy .
*****
*
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
17
NGUYỄN-TRÃI QUA SỰ-TRẠNG
CỦA DƯƠNG-BÁ-CUNG BIÊN-TẬP
Mùa thu tháng tám năm Kiến-Tân thứ III
( 1400 ) Hồ-Quý-Ly mở khoa thi Thái-Học-
Sinh, đề-tài thi ấy là " Linh Kim Tạng " . Lấy
đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn-Trãi, Vũ-
Mộng-Nguyên.
Căn-cứ theo " Đăng-khoa " chú-thích
rằng : Ông người làng Nhị-Khê, huyện
Thượng-Phúc, 21 tuổi đỗ. Nay tính ngược lên
thì Ông sinh vào thời nhà Trần-Phế-Đế, năm
Xương-Phù thứ IV (1380). Thượng-Phúc,
Thanh-Uy, xưa thuộc Quốc-Uy.
Theo Quần-hiền phủ-tập-biên rằng :
( Tiên-Tổ của Trãi ở huyện Thượng-Sơn
tức nay là Nhãn, xã Chi-Ngại, có âm-trạch ở
NGUYỄN-TRÃI
18
Nhụy-Khê. Cha là Ứng-Long, hiệu là Phi-
Khanh, đỗ Tiến-sĩ thứ 2, làm quan triều nhà
Hồ, lấy vợ là con gái Quan Tư-đồ Trần-
Nguyên-Đán. Sinh ra Trãi, Bảo, Phi-Hùng,
Hoan, bốn người. Năm 73, gặp loạn quân Minh
xâm-lược, bắt giữ cha con ba người đem về
Văn-Sơn-Điếm ( Bắc-Ninh ), về sau mất ở đấy,
con thứ Phi-Hùng đem chôn ở Bái-Vọng-Sơn
nơi quê-hương .
( Cha khuyên con nói : _" Ta già rồi, để
em mày đi theo, bình sinh ta rất thích núi sông
Bái-Vọng-Sơn. Đem hài-cốt của cha về chôn ở
đấy là đủ. Ta xem thiên-văn thì sau đây 20
năm, phiá Tây ắt có chân-chúa nổi lên. Con nên
quyết-chí về đấy, rửa sạch cái nhục của nước,
trả cái thù cho cha, chính đấy là đạo hiếu lớn,
phải chăng lấy sự bo bo dưới gối là đạo hiếu
hay sao ? "
( Nguyễn-Trãi bèn từ-giã trở về cầu mộng
ở đền Dạ-Trạch, có người nói ở đền Chấn-Vũ-
Quan. Ông mộng thấy Thần-linh bảo rằng :
_" Trong núi Lam có Lê-Lợi là Thiên-Tử ".
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
19
Ông bèn tìm đến Lỗi-Giang, gặp Lê-Lợi để
theo thờ. Đời tương-truyền rằng Tiên-sinh tinh-
thông thuật-số, biết trước rằng nước ta có
vượng-khí ở tại Thanh-Hóa, nhân thế mới tìm
đến, khi đến Lam-Sơn, cùng với Thái-Tổ gặp
nhau, Tiên-sinh tình-nguyện xin làm người ở,
Thái-Tổ bèn thu dùng. Ở đấy được một năm,
hàng ngày làm việc cày ruộng, ngủ ở nhà
ngoài, không có thấy được gì. Một bữa kia gặp
ngày giỗ của thân-sinh Thái-Tổ, thấy Thái-Tổ
ngồi ở ghế thái thịt ăn Tiên-sinh khinh là man
mọi, bèn từ-giã ra đi. Đi đến bến đò Dương-Xá
dừng nghỉ, thấy ba bốn người Minh ở căn nhà
riêng nhòm hỏi người này là người nào ?
Trong đám có một người bảo Tiên-sinh là bậc
trí-sĩ đi tìm Vua, đã thấy được Vua mình lại
hoài-nghi chưa quyết-định nên bỏ đi. Tiên-sinh
nghe nói thế, không lấy làm vừa lòng, lại đi
nữa đến bến đò Gián-Khâu. Bên kia vách nhà
trọ của Tiên-sinh có người Minh, đêm đến ra
xem Thiên-tượng, thường gọi gấp bạn đồng-
hành mà chỉ chỏ nói : _" Tượng của tướng tinh
An-Nam đã xuất-hiện rõ ràng, chúng ta nên
NGUYỄN-TRÃI
20
sớm bỏ đi nơi khác, không thể ở lâu tại đây !"
Đồng bạn hỏi lại rằng : _" Tượng ấy hình-dáng
ý-tứ thế nào ?" Người kia đáp : _" Người này
có tướng hổ, giết nhiều người, và lại ăn uống
thô-lỗ ". Tiên-sinh lại quay về chỗ cũ là Lam-
Sơn, mới bắt đầu xét tỉ-mỉ cử-chỉ động-tĩnh,
thấy Thái-Tổ gặp mỗi phiên chợ thường mua
dầu và rượu đem về. Trước đấy thì rượu nhiều
hơn dầu, kỳ này thì dầu nhiều hơn rượu. Tiên-
sinh mới hiểu ra. Một đêm tìm Thái-Tổ ở chỗ
ngủ không thấy, Tiên-sinh bèn lần vào trong
rừng, lên chỗ cao để nhìn ra đàng xa, thấy có
tia sáng trong khe núi, đoán rằng Thái-Tổ ở tại
đấy. Tiên-sinh bèn leo thang nhòm, thấy Thái-
Tổ cùng Lê-Thụ đang tính số Thái-ất, bảo nhau
đến năm Hợi có thể được. Tiên-sinh bèn nói to
lên rằng : _" Chúa Thượng tính sai rồi !" Thái-
Tổ giật mình đứng lên muốn chém, Tiên-sinh
liền tâu : _ " Tôi đây trông cậy Chúa-Công chỉ
vì điều ấy ! Sao lại bỏ mất đi !" Thái-Tổ ném
kiếm xuống nói :_ " Kẻ làm công cũng có hiểu-
biết sao ?" Đáp : _" Tôi đây trước đã được
giảng rõ !" Thái-Tổ mở cửa phên cho vào ngồi,
bảo tính xem. Tiên-sinh bày con toán nói :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
21
_" Năm Dậu chính là vận số vậy ". Từ đấy hễ
có việc bàn tính gì ắt cùng bàn-tính với Tiên-
sinh. Trước đấy Thái-Tổ cùng Lê-Thụ mưu nổi
quân đánh nhưng chưa dám quyết. Đến khi gặp
được Tiên-sinh mới quyết-định .)
( Theo Thông-Sử, Lê-Thái-Tổ buổi đầu
làm chức Phụ-Đạo ở Khả-Lam, đến khi Nhuận-
Hồ cướp ngôi nhà Trần, Vua ở làng đọc kinh-
sử, nghiên-cứu binh-pháp, giữ mình đợi thời.
Đến khi quân Minh phương Bắc bắt giữ họ
Trần, điệu về Kim-Lăng, chia nước ta làm
quận, huyện của Tầu, Vua nuôi cái chí muốn
khôi-phục. Vua nhún mình, vô-tư cầu người
Hiền, bỏ của nuôi quân-sĩ. Lê-Văn-An, Lê-
Văn-Linh, Bùi-Quốc-Hưng, Nguyễn-Trãi, Lưu-
Nhân-Phú, Trịnh-Vô, Vũ-Uy, Lê-Liễu, Lê-Xa-
Lôi v.v... đều là hào-kiệt một thời, đều đến
qui-phục. Vua cúi mình lấy lễ tiếp-đãi, ngầm
tính kế khởi-nghĩa. Bấy giờ có Đỗ-Phú, người
làng Hào-Lương, nối dõi quan nhà Minh đem
quần-chúng bức hiếp, Vua phải chạy về Cần-
Thủy ( Lạc-Thủy ). Tháng giêng năm Mậu-
NGUYỄN-TRÃI
22
Tuất ( 1418 ) Vua dựng nghĩa ở Lam-Sơn,
xưng là Bình-Định-Vương, sai Lê-Khang, Lê-
Luân, Lê-Sao, Lê-Lễ, Lê-Hiệu, Lê-Nhữ-Tì, Lê-
Lộng, Lê-Cố, Trịnh-Lỗ, Trịnh-Hối, Lê-Thỏ,
Lê-Lý, Lê-Xa-Lôi, Lê-Khắc-Phục, Lê-Định,
Lê-Lương, Lê-Vấn, Lê-Cuống, Lê-Niêm, Lê-
Độ, Lê-Khiêm, Lê-Trinh, Lưu-Đàm, Lê-Lâm,
Lê-Nghiệm, Lê-Văn-Giáo, Trần-Vi, Trần-Khai,
Lê-Cảnh-Thọ, Phạm-Lũng, Phạm-Quỳ, Lê-Sát,
Trương-Lôi, Trịnh-Khả, Bùi-Quốc-Hưng, Lê-
Nỗ, Lê-Liễu, Lê-Nhữ-Lãm, Lê-Khả-Lương,
Vũ-Úy, Trịnh-Vô, Lưu-Hoạn, Trần-Hốt, Đỗ-
Bí, Nguyễn-Trãi, Lê-Văn-Linh, Lê-Thận, Lê-
Văn-An v.v.... làm tướng Văn, Tướng Võ phân
phối chỉ-huy dũng-sĩ xung-phong cùng quân
Minh đánh nhau .
( Bấy giờ, Tướng còn thưa, quân ít mà
quân Minh có hơn 45.000 người, ngựa, voi có
trăm con. Vua đánh không lại, chạy vào Mang-
Một, nay là Mang-Chính, nhân đến Trịnh-Cao
giáp giới Ai-Lao, người thưa dân ít, đường lối
không có để đi lại được. Đóng ở núi Linh-Sơn,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
23
Mang-Cốc hơn mười ngày, ăn lương khô và
mật-ong, quân và ngựa cùng quẫn. Vua hỏi
các tướng sĩ ai là người có thể làm được như
Kỷ-Tín thủa xưa ? Lê-Lai khẳng-khái vâng
mệnh, tự-nguyện đổi áo bào của Vua, đem
quân ra ngoài vòng vây hô to lên là Vua Lê núi
Lam. Tướng Minh mừng rỡ họp quân bắt được
Lê-Lai, bấy giờ đã kiệt sức, đem về Đông-
Quan, Lê-Lai bị giết, quân Minh mới rút đi, mà
quân của Vua mới được thư-thả. Vua nhận
được tiếp-viện của Ai-Lao, quân thế lại phấn-
khởi, bèn trở về đóng ở Lam-Sơn .
( Năm Đinh-Tỵ ( 1427 ) mùa xuân, tháng
giêng, Bình-Định-Vương phong cho Nguyễn-
Trãi, Hàn-Lâm Thừa-Chỉ Học-Sĩ làm Lại-Bộ
Thượng-Thư hàng Đại-phu triều-đình, Nhập-
nội Hành-khiển, kiêm Khu-mật-viện. Bấy giờ
Vua tiến quân lên phiá Bắc sông Lam-giang,
sai tướng phân đóng Đông-Đô vây hãm gấp,
làm lầu cao ngang với Tháp Báo-Thiên tại bến
Bồ-đề để nhòm vào trong thành Thăng-Long
xem xét động-tĩnh, Vua ở trên tầng trên, Trãi ở
NGUYỄN-TRÃI
24
tầng dưới lĩnh chỉ-thị, thảo thư trát qua lại với
giặc. Lại sai kẻ đầu hàng từng chỉ-huy, theo
Nguyễn-Trãi chiếu-dụ thành Tam-Giang, người
giữ thành là tướng Lưu-Thanh đem quân xin
hàng. Đến khi Liễu-Thăng bị bại, Vương-
Thông trong thành quẫn-bách, đưa thư xin hòa.
Phần nhiều các tướng xin Vua tiêu diệt. Chỉ có
quan Hành-khiển Nguyễn-Trãi, ngồi trong
trướng thấy trong thơ gắn sáp của Vương-
Thông nói rằng : _ " Không lấy miếng đất một
góc làm nhọc quân muôn dặm, khiến dụng binh
như số nguyên chinh, được sáu bảy đại-tướng
như bọn Tướng-Phụ là có thể tính được. Giả
thử lấy được rồi, không có thể giữ được ". Cho
nên Nguyễn-Trãi xét biết thực hư, chuyển vào
việc giảng hòa. Vua theo lời đề-nghị của Ông,
sai các tướng giải-vây. Vương-Thông không
chờ có mệnh của Vua Minh mà đem quân về,
lấy thư từ qua lại dặn dò thân-thiết đều do
Nguyễn-Trãi theo lời chỉ-dẫn mà soạn ra vậy.
Bấy giờ Vua bắt được con Hồ-Ông là Trần-
Cao, sai Trãi soạn thư xin phong, sai người
dâng biểu lên Vua Minh xin lập Trần-Cao làm
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
25
nối-nghiệp nhà Trần. Mộc-Thanh, là Đại-tướng
Minh, liền cho chạy ngựa về tâu. Vua Minh
nhận được biểu, hiếu-dụ cho quần-thần của
mình rằng : _" Người luận không đạt ý-nghĩa
của sự chấm-dứt chiến-tranh, tất nhiên cho là
theo đấy thì không uy-lực. Nếu được dân yên
thì Trẫm có đoái gì đến lời người ta nói ! "
Bèn sai sứ phong cho Cao làm An-Nam Quốc-
Vương, Sắc bãi quân Nam chinh .)
Xem thấy ở sách tiểu-lục rằng :
" Không đánh mà lấy được thành
Đông-Quan ( Thăng-Long ) lấy chính-
sách của Nguyễn-Trãi, kết-cục hòa-hiếu".
Sử-ký viết :
" Sự dụng binh của Vua có thể lấy
mềm chống cứng, lấy yếu chống khỏe,
phần lớn được thắng trận, như các thành
Đông-Đô, Tây-Đô, Thuận-Hóa, Nghệ-An
đều sai Văn thần Nguyễn-Trãi làm thư
hiếu-dụ cả, không đánh mà giặc hàng
phục " .
NGUYỄN-TRÃI
26
Thuận-Thiên, năm đầu ( 1428 ) Bình-
Định-Vương lên ngôi Hoàng-Đế, sai Nguyễn-
Trãi làm " Bình Ngô Đại Cáo " .
Theo Thông-Sử của Lê-Quý-Đôn viết :
" Năm Mậu-Tuất ( 1418 ) Vua bị
quân Minh đánh gấp, đóng quân ở Trịnh-
Cao, hỏi trong hàng các tướng sĩ có ai
bằng lòng đổi lấy áo bào để thay. Không
ai dám đáp-ứng. Lê-Lai người làng Đức-
Giang, hăng-hái xin thay. Vua ngẩng lên
trời thề rằng : _ Ngày sau được thiên-hạ,
Trẫm và con cháu không quên công này,
nếu sai xin quét cung-điện thành núi
rừng, bảo ấn thành đồng, thần kiếm thành
dao của lính ”. Lê-Lai bèn phi ngựa ra
trận để cho giặc bắt, chịu cực hình. Bấy
giờ quân giặc mới tạm lui. Đến năm
Thuận-Thiên thứ I (1428) Vua tuyên-
dương Lê-Lai là Công-thần bậc nhất, sai
Nguyễn-Trãi ghi lời thề để vào hộp
vàng " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
27
( Mùa thu, tháng 8, Vua định công phong
thưởng, lấy công-lao cao thấp để định đẳng
cấp, phong cho Thừa-chỉ Nguyễn-Trãi làm
Quán-Phục-Hầu, ban cho Quốc-tính .
( Năm thứ II Kỷ-Dậu ( 1429 ) Chiếu cho
các người trong ngoài hàng Văn-Vũ tinh-thông
kinh-sử, họp lại để thi. Sai cho các Phủ, Lộ
quân nhân, ẩn-dật núi rừng thông kinh-sử, giỏi
văn-nghệ đến tỉnh-đường vào trường thi ngõ
hầu tuyển-dụng. Đề-Điệu là Thương-Thư Lê-
Văn-Linh, Giám-Thị là Ngự-Sử kiêm Thừa-Chỉ
Nguyễn-Trãi. Bấy giờ Vua ngự ra trại Bồ-Đề
để khảo-thi khoa Hoành-từ, đầu đề dùng
" Chân Nho Chính trực " làm thơ .
( Khảo-thi các nhà Sư Phật và Đạo-sĩ
bằng khoa Minh Kinh .
( Năm thứ VI Quý-Sửu ( 1433 ) Thái-Tổ
mất, táng ở Lam-Sơn, Vĩnh-Lăng, Nguyễn-Trãi
làm bia ký Thần-đạo .
NGUYỄN-TRÃI
28
( Năm Thiệu-Bình thứ I, Lê-Thái-Tông
( 1434 ), Giáp-Dần, tháng 5, sai sứ sang Minh
cầu phong, quan Hành-Khiển Nguyễn-Trãi làm
xong bài tấu, quan Nội-Mật-Viện là Thúc-Huệ
muốn đổi một số chữ, Nguyễn-Trãi nổi giận.
Huệ đem việc nói với Lê-Sát, Sát trách Trãi.
Trãi tạ lỗi :
" Thúc-Huệ lấy sự bóp nặn tài mọn,
ngồi vào chỗ trọng-yếu của nước, mỗi khi
có việc tâu bầy đều chỉ muốn làm hại dân,
lợi về nhà quan để cầu lấy vừa lòng người
trên, cho nên làm hỏng mầm hạt công
việc mà bỏ người xứng-đáng, chẳng phải
có ý chê sửa quân tướng ".
( Tấu cáo Thái Miếu, rước thần-chủ Thái-
Tổ, sai văn vũ bàn về việc để tang. Nguyễn-
Trãi xin mặc trắng 27 ngày, rồi sau mới bỏ đi.
( Năm thứ hai Ất-Mão ( 1435 ), phạm tội,
chém đầu có đến 7 người. Lê-Sát thấy hơi
nhiều, lòng áy-náy. Vua hỏi quan Thừa-Chỉ
Nguyễn-Trãi. Ông tâu rằng : _" Pháp-lệnh
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
29
không bằng nhân-đức, nghĩa ấy cũng sáng rồi.
Nay một sớm giết 7 người, e rằng không phải
hành-động có đức thịnh vậy. Kinh-Thư nói :
“ An nhi chi ”, Bách-Truyện ( Đại-Học ) nói :
“ Biết thôi thì sau mới yên định ”. Bầy tôi xin
nhắc lại cái ý-nghĩa của sự thôi, đừng, để Bệ-
Hạ nghe. Kià thôi, đừng ấy gọi là yên nơi đậu
như trong cung-điện Bệ-Hạ được nơi yên vậy.
Có lúc Bệ-Hạ đi ra nơi khác không có thể được
luôn luôn yên-ổn, trở về trong cung rồi sau
mới được yên nơi đậu. Người Vua đối với đức
Nhân Nghĩa cũng thế, lấy mà giữ trong lòng để
yên chỗ đậu. Có lúc giận-dữ ra oai, sau cùng
không thể lâu. Nguyện xin Bệ-Hạ để tâm đến
lời của bầy tôi " .
( Bấy giờ Ngân, Sát cùng bọn nói :
_" Ông có đức Nhân Nghĩa có thể hóa ác làm
thiện, phiền xin giao cho Ông. Mới bảo
Nguyễn-Trãi và Thiên-Tước mỗi người giữ lấy
tù-nhân ."
NGUYỄN-TRÃI
30
( Nguyễn-Trãi nói : _" Chúng là bọn
ngoan cố giảo-hoạt, pháp-luật triều-đình còn
không trừng-trị được, huống chi bọn Trãi tôi,
đức mỏng, làm sao mà hóa được ? " Lâu rồi
mới quyết chém 2 tên còn để lại bàn sau .
( Vua hàng ngày cùng với lân cận quen
vui chơi, quan Đại-thần muốn khuyên học-tập,
mới đề-nghị lấy bọn Ông Nguyễn-Trãi, Trình-
Thuấn-Du, trong văn-thần sáu người, vào giảng
kinh sách hầu Vua .
( Mùa xuân, năm Đinh-Tỵ thứ III ( 1437).
Vua sai Nguyễn-Trãi cùng Lương-Đăng soạn
nhạc-khí loan-linh, giảng tập múa nhạc.
Nguyễn-Trãi tiến dâng bản-đồ Thạch-Khánh,
nhân dịp tâu rằng : _" Thời loạn dùng võ, thời
bình chuộng văn, nay chấn-hưng Lễ-Nhạc,
đúng là hợp thời vậy. Tuy nhiên không có gốc
thì đứng không được, không có văn thì
không thi-hành được. Hòa-bình là gốc của
Nhạc, âm-thanh là văn-vẻ của Nhạc. Bầy tôi
phụng chiếu làm ra Nhạc, chính dám xin hết
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
31
tâm-lực, nhưng vì sức học-thuật nông cạn, e
rằng trong phạm-vi thành luật khó được hòa
hài, xin Bệ-Hạ yêu nuôi trăm họ, khiến cho nơi
làng xóm không còn tiếng ghét, giận, sầu, than,
đấy là không mất gốc của Nhạc vậy. Vua thâu
nhận và khen ! "
( Mùa hạ, Vua muốn xem thư chiếu và
thơ văn của họ Hồ. Nguyễn-Trãi thu nhặt được
vài chục bài thơ Quốc-ngữ dâng lên. Nguyễn-
Trãi tâu rằng : _" Bầy tôi cùng Lương-Đăng
hiệu đính Nhã-Nhạc mà chỗ hiểu-biết của bầy
tôi không giống với họ Lương, vậy xin Vua thu
hồi mệnh, chước cho ! ".
( Buổi đầu thời Lê-Thái-Tổ có sai
Nguyễn-Trãi định lại chế-độ mũ, áo triều-đình,
chưa kịp thi-hành. Đến đây Lương-Đăng dâng
biểu lược bày về lễ-phục triều-đình, cùng nhạc-
khí, đại-khái không giống chỗ Nguyễn-
Trãi đã quy-định, về đề-nghị nhạc-khí lớn, nhỏ,
khinh, trọng phần lớn trái nghịch đề-nghị của
Nguyễn-Trãi. Vì lời tâu khác nhau nên
NGUYỄN-TRÃI
32
Nguyễn-Trãi xin từ-chối việc ấy. Sách
" Nhân Vật Chí " viết là Ông từ-chối không
cùng làm, về dựng nhà ở Chí-Linh Côn-Sơn,
thỉnh-thoảng mới đến thăm triều ( khoảng 57
tuổi ).
( Trước đấy Vua sai Lương-Đăng quy-
định các nghi-lễ đại-triều, đến đấy làm xong
tiến lên, Vua mới sai Nguyễn-Trãi chú-giải các
nghi-lễ mà treo lên ở ngoài cửa Vĩnh-Thiên.
Vua đến yết Thái-miếu, trăm quan mặc triều-
phục, bắt đầu từ đấy thi-hành lễ-nghi mới.
Quan Hành-khiển, Tham-tri Bộ-tịch Nguyễn-
Trãi, Đào-Công-Soan, Nguyễn-Văn-Huyền,
Tham-nghị Nguyễn-Liễu dâng sớ rằng :
_" Sáng-chế ra lễ-nghi, làm ra âm-nhạc ắt phải
chờ có người rồi sau mới làm, như Chu-Công
mà sau không còn lời can gián. Nay sai quan
Giám nhỏ là Lương-Đăng chuyển định ra Lễ
Nhạc, Quốc-gia không lấy làm nhục sao ? Vả
những điều kẻ kia làm ra, khinh Vua, dối dân,
không có chi làm căn-cứ cả v.v.... "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
33
( Năm Đại-Bảo thứ III, Nhâm-Tuất
(1442) thi Hội, Vua ngự ra Điện-Hội-Anh xem
và cho đề-thi sách vấn. Hôm sau quan Hàn-
lâm-viện Thừa-chỉ kiêm Quốc-tử-giám là
Nguyễn-Trãi, cùng với Trung-thư Thị-lang
Hoàng-Mộng-Tuấn, Nội Mật-viện, Đồng-tri-
viện-sự Trình-Thuấn-Du, Quốc-tử-giám Bác-sĩ
Nguyễn-Tử-Tấn dâng quyển tiến đọc, tuyên-bố
thứ bậc trên dưới, ban cho Nguyễn-Trực đỗ
Trạng-nguyên, Nguyễn-Như-Đồ Bảng-nhãn,
Lương-Như-Hộc Thám-hoa-lang, Trần-Văn-
Huy tất cả bảy người Tiến-sĩ, bọn Ngô-Sĩ-Liên
hai mươi ba người Phó-bảng .
( Tháng bẩy năm ấy Vua đi tuần miền
Đông đến duyệt Võ tại thành Chí-Linh,
Nguyễn-Trãi nghênh đón Vua về quê của mình
ở Côn-Sơn-Tự, Vua trở về sông Thiên-Đức.
Đến tháng tám trở về đến Gia-Định, Đại-
Lai, vuờn Lệ-Chi, cùng với Thị-Lộ vui suốt
đêm rồi mất .
NGUYỄN-TRÃI
34
( Buổi đầu Vua yêu người thiếp của
Nguyễn-Trãi là Thị-Lộ, có dáng đẹp và có tài
văn-chương cho triệu vào cung, phong làm Lễ-
nghi Học-sĩ, ngày đêm hầu bên Vua. Ai nấy
đều bảo Thị-Lộ giết Vua, triều-đình luận tội
Nguyễn-Trãi tử-hình, ( ngày 16 tháng 8, thọ 63
tuổi, học-trò đem thi-hài về núi Tam-Hiệp
Phượng-Sơn ) cả ba họ bị tru-di cùng với Thị-
Lộ. Nhân cái án này, trong nước đã thêu-dệt
lên nhiều huyền-thoại rất phức-tạp, hình như có
mục-đích che giấu những sự ám-muội và dẹp
sự công-phẫn của dư-luận đối với triều-đình .
( Triều Thánh-Tông, niên hiệu Quang-
Thuận thứ V ( 1464 ), có Sắc ban con Nguyễn-
Trãi, Anh-Vũ ( con bà vợ lẽ đã trốn thoát nạn )
chức Huyện. Theo gia-phả họ Phạm, ( họ mẹ
Anh-Vũ ) viết : " Buổi đầu lập Vua Thái-Tông,
Nguyễn-Trãi lại tham-dự triều-chính. Ông
thường lấy nghĩa " Công thành thân thoái "
( Sự-nghiệp nên rồi thân mình rút lui ) làm ý-
niệm. Vua sai cho lấy Côn-Sơn, cấp làm Quốc-
tự. Năm Ông 60 tuổi, xin nghỉ việc về đấy. Về
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
35
sau lại gắng theo mệnh Vua ở chức cũ, kiêm
chức Trung-thư Tam-quán-sự. Bấy giờ có Lê-
Sát và Thúc-Huệ làm việc hay ghen ghét . )
Theo Cương-Mục chép :
" Tháng 7 năm Kỷ-Mùi thứ VI. Nhà
Vua đi tuần phiá Đông, vào chơi chùa núi
Côn-Sơn, nơi Nguyễn-Trãi ở. Trước
kia, Nguyên-Đán Tư-đồ đời Trần về hưu
ở núi Côn-Sơn. Núi này có chùa gọi là
Tú-Quốc, phong-cảnh rất đẹp và u-tĩnh.
Trãi là cháu ngoại Nguyên-Đán. Năm 60
tuổi Trãi về nghỉ ở tại Côn-Sơn .
" Tháng 8, nhà Vua về đến Huyện
Gia-Định, mất .
" Nhà Vua ở ngôi 9 năm, thọ 20
tuổi. Trước kia Nguyễn-Thị-Lộ, vợ lẽ
Nguyễn-Trãi, người đẹp và hay chữ.
Nhà Vua nghe tiếng, vời đến, phong làm
Lễ-nghi Học-sĩ, ngày đêm cho hầu ở bên,
nhân đó xàm-xỡ với Thị-Lộ. Đến đây, đi
tuần phiá Đông, xa-giá quay về đến trại
Vải làng Đại-Lại, huyện Gia-Định thì
mắc chứng sốt rét. Thị-Lộ vào hầu suốt
NGUYỄN-TRÃI
36
đêm, nhà Vua mất. Trăm quan giấu kín
lặng-lẽ rước về kinh-đô. Nửa đêm vào
đến trong cung mới phát tang. Người ta
đều nói Thị-Lộ giết Vua, bèn bắt giết Thị-
Lộ ".
_ ( Chb. XVII, 23 )
Trãi phải tội liên-lụy vì người vợ lẽ là
Thị-Lộ. Người ta đều cho là oan .
( Đến đời Vua Thánh-Tông, năm Quang-
Thuận X ( 1468 ) ban Chiếu tẩy oan cho
Nguyễn-Trãi, tìm con cháu để dùng. Bấy giờ
Anh-Vũ trở về ứng mệnh, được cất lên chức
Tri-châu, truy tặng công Nguyễn-Trãi là Tán-
trù-bá, trả lại trăm mẫu ruộng để thờ cúng .
( Vào năm Quang-Thuận thứ VIII (1467)
Vua Lê-Thánh-Tông sai tìm thơ văn còn lại của
Hàn-lâm Thừa-chỉ Học-sĩ Nguyễn-Trãi. Đến
năm Hồng-Thuận thứ IV ( 1512 ) triều Tương-
Dực, truy tặng Tế-Văn-Hầu, bài chế-văn sau
đây :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
37
" Thuận-Thiên Thừa-vận, Hoàng-Đế
Chế rằng : Việc Chế trị theo từ ân trước,
mong rộng mưu Tiên-Tổ di-truyền. Lễ
thưởng công nối nghiệp đời Chu, chút để
tỏ an bang triết-lý. Ban ra cáo-phượng.
Để rạng suối vàng ; Nhớ xưa : Bình-Ngô
Khai-quốc Công-thần, Đặc tiến Kim-tự
Vinh-Lộc Đại-phu Tán-trù-Bá, Trụ-quốc
Nguyễn-Trãi. Thể dụng vốn bậc chân
Nho, kinh- luân đã lên tài lớn ; Thái-Tổ
Vua ta khởi-nghĩa Lam-Sơn dựng cơ-đồ
hưng Việt. Nguyễn công khi Lỗi-Thủy
theo quân, mới bày tỏ Bình Ngô sách
lược ; Danh tiếng từng vang ra bốn bể,
mưu-kế càng tỏ sáng hai triều. Dù
mệnh-vận có gặp chẳng may, khó dò
huyền lý, nhưng huân công thì đã rõ rệt,
ghi dấu sử xanh. Trước kia đã được hậu-
phong, ngày nay càng nên đặc thưởng. Vì
vậy mới thay tước Bá, đổi làm phong
Hầu. Ngõ hầu nêu rõ công cao vì nước ;
Để biểu-dương cái thực học giúp đời ;
Hỡi ơi ! Hội Rồng Mây Long Hổ, còn
NGUYỄN-TRÃI
38
tưởng duyên xưa. Truyền về sự-nghiệp
văn-chương vẫn còn muôn thủa .
" Vậy gia phong đời đời Công thần,
đặc tiến Kim-tử Vĩnh-Lộc Đại-phu Tế-
Văn-Hầu " .
" Thuận-Thiên thừa vận Hoàng-Đế
chế viết : Trẫm duy pháp an trung nhi chế
trị, tú hoằng suất tố chi đồ kê chu tái, dĩ
mị công, thức biểu an bang chi, tứ ban
như phất, tăng hoan nhược đường. Bình
Ngô khai quốc Công-thần, tặng tiến kim
tử Vĩnh-lộc Đại-phu, Tán-trù Bá Trụ quốc
Nguyễn-Trãi, thể dụng chân Nho,
kinh-luân thạc hoạch. Ngã Cao-hậu
Lam-Sơn khởi-nghĩa, triệu thành hung
diệt chi cơ. Thời Ninh-nhân Lỗi-thủy tồng
nhung, mậu diện Bình -Ngô chi tích. Văn
vọng đặc cao ư tứ hải, hu mô bị kiến ư
lương triều. Tuy thời vận chi bất tề, nan
khuy huyền lý. Nhiên huân dung chi cửu
trứ, cụ tại đan thư.Tích thời ký di ư hậu
ân, kim nhật nghi gia ư dị số. Thị dụng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
39
dịch kỳ Bá tước, sủng dĩ Hầu phong. Vu
dĩ tinh vệ quốc chi anh du, vu dĩ hiếu tế
thời chi thực học. Ô hy, long hổ phong
vân chi hội, do ức tiền duyên, văn chương
sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế.
Khả gia phong huy Đại công thần, đặc
tiến Vĩnh-lộc Đại-phu Tế-Văn-Hầu Trụ-
quốc " .
( Đến thời Vua Dụ-Tông Vĩnh-Thịnh VI
( 1710 ) Chúa Trịnh có ban Giáo-lệnh như sau:
" Đại Nguyên-Súy, Tổng-quốc-
Chính, An-đô-Vương ra lệnh cho thuộc
Thượng-Phúc, xã Nhụy-Khê, các cháu
chắt của Công-thần là Đoàn-Tự, Vĩnh-
Thành, Liêm-Lựu, cháu ngoại là Nguyễn-
Giản, Lê-Chính cùng tất cả họ để biết :
_ Tiên-Tổ các người là : Bình-Ngô
Khai-quốc Công-thần, Đặc-tiến Kim-tử
Vĩnh-lộc Đại-phu, Nhập-nội Hành-khiển,
Mô-hạ-tỉnh, Gián-nghị Đại-phu, Hàn-
NGUYỄN-TRÃI
40
lâm-viện Thừa-chỉ Đại-Học-sĩ kiêm
Trung-thư Hàn-lâm Chưởng-lục-bộ
Thượng-thư Quốc-tử Tam-quán-sự, A-trí-
tự, Tứ Kim-ngự đại, Tế-văn-Hầu Trụ-
quốc Nguyễn-Trãi, Tự tính Lê Nguyễn-
Trãi .
_ Trước có nhiều công-lao, có ruộng
miễn thuế tại xã Cổ-Hiền 9 mẫu, 1 sào ở
các xã La-Phù, Phác-Động 30 mẫu, 9 sào,
cộng 40 mẫu. Từng được để đời đời con
cháu giữ làm ruộng thờ. Nay đã xét thực,
nên giao cho bọn con, cháu là Nguyễn-
Đình-Quang ruộng thượng hạng để trông
nom giữ lấy, phân chia cầy-cấy mà cung
vào việc tế-tự, tỏ lòng ghi công về trước.
Hết thảy ai nấy trong dân xã không được
lầm lẫn tranh giành. Trái lệnh ấy sẽ có
Quốc-pháp trừng-trị " .
( Về thời Vua Lê-Hiển-Tông, năm Cảnh-
Hưng 28 (1767), tấn phong Nguyễn-Trãi là
Đại-Vương, sắc phong như sau :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
41
" Sắc Bình Ngô Khai-quốc, Thôi-
trung Tán-trị Hợp mưu, Bảo chính, Húy
Đại Công-thần, Đặc-tiến Kim-tử Vĩnh-lộc
Đại-phu, Nhập-thị Hành-khiển, Môn-hạ-
tính Hữu-Gián-nghị Đại-phu, Lại-bộ
Thượng-thư, Chưởng-lục Bộ-sự, Hàn-
lâm-viện Thừa-chỉ, Đại-học-sĩ kiêm
Trung-thư-tịch, kiêm Hàn-lâm-viện-sự,
Tri-kinh-diên Tam-quán-sự, Á Trí-tự, tứ
Kim-đại, Tế-Văn-Hầu, phong tặng Thái-
bảo Khê Quận-công gia-phong .
" Ưng nghĩa, kiến mưu, tế gian, định
nạn, tuyên du, dịch đức, khuông thời, bật
tịch, tán thánh, dực vận, hiển công, dương
liệt .
" Đại-Vương.
" Huân lao cái thế,
" Công liệt lừng trời ;
" Giúp đỡ tỏ bầy đức sáng,
" Vì nước phơi bất tử lòng son
" Vĩnh cửu ngẫm phù nghiệp lớn,
" Giúp Vua tiết trắng còn nguyên .
" Thờ tự nơi đây nhớ mãi
" Vẻ vang nay lại gia phong
NGUYỄN-TRÃI
42
" Nối Vua tiền phong Vương vị .
" Tuyên linh Diên khánh Đại-Vương nay
Sắc " .
( Cho đến triều Nguyễn, thời Gia-Long,
Minh-Mệnh, Tự-Đức, vẫn tiếp-tục có Sắc
phong Nguyễn-Trãi, như Sắc phong thần thời
Tự-Đức :
" Tuyên linh Diên khánh chi thần,
hộ quốc ti dân, nẫm trứ linh ứng, tứ-kim
phỉ ưng cảnh mệnh, miên niệm thần hưu.
Khả gia phong tặng tuấn mại cương
trung trung đẳng thần. Nhưng chuẩn
Thượng-Phúc huyện, Cổ-Hiền tổng,
Nhụy-Khê xã, hạ thôn dữ thần hậu duệ y
cựu phụng sự, Thần kỳ tương hựu, bảo
ngã lê dân. Khâm tại ! " )
Xem như thế đủ chứng-tỏ nhân-cách
Nguyễn-Trãi về tư-tưởng văn-chương cũng
như sự-nghiệp kinh-bang tế-thế, không chút lu
mờ, vẫn được quốc-dân về sau tưởng nhớ tôn
thờ làm tinh hoa của dân-tộc .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
43
Các Lời Bình - Luận ._
Vua Thánh-Tông làm thơ " Quỳnh Uyển
Ca " có viết :
" Ức-Trai tâm thượng quang Khuê-tảo!"
(Tấm lòng của Nguyễn-Trãi trong sáng như
sao Khuê !)
Và có chú-thích thêm rằng :
" Quan Thừa-chỉ quán Phục-hầu
Nguyễn-Trãi hiệu là Ức-Trai đỗ đạt
vào thời Nhuận-Hồ. Buổi đầu Thánh-Tổ
ta mới khai sáng sự-nghiệp, Ông theo vào
ở Lỗi-Giang. Bên trong Ông giúp công
việc bàn mưu lập kế trong ban tham-mưu,
bên ngoài thì lo viết văn thư để dụ hàng
các thành giặc, đem văn-chương làm vẻ-
vang cho nước, rất được tin trọng dụng " .
( Triều Lê-Hy-Tông, năm Chính-Hòa có
sứ nhà Thanh sang phong, tên là Chu-Sán,
trong bài Giao ngâm có câu : " Y quan nhân vật
trọng Nam cương " ( Nhân vật làm quan trong
NGUYỄN-TRÃI
44
triều-đình kính-trọng cõi Nam ) và tác-giả tự
chú-thích rằng :
( Lý-Học tức Triết-học Siêu-hình có
Trạng-Trình, Vũ-Tuệ ; Kinh-tế Chính-trị
thì có Mạc-Đĩnh-Chi, Nguyễn-Trung-
Ngạn, Nguyễn-Trãi, Lương-Thế-Vinh,
nổi tiếng văn-học khá đông ) .
" Lý-học tắc Trình-Tuyền, Vũ-Tuệ ;
Kinh-tế tắc Mạc-Đĩnh-Chi, Nguyễn-
Trung-Ngạn, Nguyễn-Trãi, Lương-Thế-
Vinh xưng văn học giả phả da ".
( Họ Nguyễn Hậu-Trai viết :
" Cái học của Nguyễn-Trãi chuyên
về đường chính-trị, là bậc cao hiền thực-
hành văn-chương triều Lê vậy. Xét như
Ông lấy Nhân Nghĩa làm nơi yên đậu, lấy
hòa-bình làm gốc của âm-nhạc, Vua Lê-
Thái-Tông khen nhận, đều được thi-hành.
Chế-độ và văn-chương sáng-lạn có chế
ghi. Vào khoảng niên-hiệu Thiệu-Bình
Đại-Bảo ( 1434 - 1442 ) trong nước
đương cường-thịnh, các nước ngoài xa nể
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
45
sợ, mộ đức, thẩy đều thành tâm đến cống
để ngắm cảnh thái-bình. Nguyễn-Trãi có
thể gọi là người không phụ trách-vọng
của đương thời vậy ".
( Đỗ-Nghi viết :
" Đức nghiệp và văn-chương của
Tế-Văn-Hầu ngoài Chu-Văn-Trinh ( An )
ra, có thể so-sánh với Trần-Hưng-Đạo-
Vương và Chiêu-Minh-Vương. Hầu, còn
nhà Trần, đỗ Tiến-sĩ. Đến khi quân Minh
chiếm nước ta, Hầu chỉ có một ý-niệm
phục-quốc. Tuy người Minh có lấy chức-
tước quan cao để chiêu-dụ mà Hầu không
màng. Mái Tây nằm nghỉ, bảo cho rằng :
Bồ-Đề nước thấm-nhuần thiên-hạ thái-
bình, lại ở Lạng-Giang, nằm mộng cũng
hỏi Trưng-Vương bảo cho biết thanh-sơn
bích-thủy xuất-hiện chân-nhân. Nhân đấy
mới biết trong bụi trần có vì Thiên-Tử.
Đợi đến khi đem sách-lược Bình Ngô
dâng cho họ Lê, mà lời đồng giao " Lợi
Vương Trãi Tướng ". Bấy giờ Ông đã có
hoài-vọng phụ-bật. Minh-quân Lương-tể
NGUYỄN-TRÃI
46
gặp nhau hội ý, cả nước cùng nhau. Thái-
Tổ rèn kiếm ý-thiên, họp người cùng đức,
mà những Sắc, Dụ, Chế, Cáo của Ông
làm phấn-khởi ý-chí người trong nước,
những bài biểu, thư đi lại đã khuất-phục
được lòng quân Minh, rút cục dẹp được
chiến-tranh Nam Bắc. Tổ-quốc giang-sơn
lại y như cũ. Nhà Lê mà được thiên-hạ,
đều do cái sức của Hầu. Đến khi phụng-
sự Vua Thái-Tông, mưu hay kế lạ ra
ngoài tưởng-tượng của người đời. Sách
" An-Nam Địa-Chí " của Hầu làm ra thì
ranh-giới của nước mới rõ ràng. Xem bài
Giao-tự Đại-lễ-ký thì đạo hiếu thờ Trời
mới sáng tỏ. Mở mang tâm-trí cho Vua
thì có lời nhân-nghĩa, dâng bản-đồ
" Khánh-đá ". Để cho nhân-dân sinh sống
đầy đủ thì có sách dạy dẫn những phép
kho chứa thóc " tống thương ". " Nếu
Trời kia không sinh bọn Lê-Sát đồng thời
thì Hầu được cùng với Lý-Tử-Tấn,
Nguyễn-Thiên-Hựu, Nguyễn-Hữu-Tích,
Phan-Thiên-Tước, các bậc quân-tử Nho
ấy cùng đem đạo-học chỉ giúp nhà Vua,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
47
thì cảnh-tượng thịnh-trị thời Đường-Ngu
có thể lại thấy được ở thời bấy giờ vậy.
Tiếc thay Trời còn chưa muốn cho
thiên-hạ thái-bình, cho nên Hầu chỉ làm
đến chức Đông-đạo Hành-khiển, không
thi triển được hết tài-năng, đấy chẳng
phải là điều không may cho Hầu, mà còn
là điều bất-hạnh cho cả nhân-dân triều Lê
nữa " .
( Họ Đỗ nói :
" Từ niên-hiệu Thiệu-Bình thứ I
( 1434 ) về sau, Lê-Sát cầm quyền chính-
trị trong nước, đem người cùng cánh với
mình vây đặt đầy triều-đình, mở đường
cho lòng tài lợi, tinh-thần pháp-chế. Bấy
giờ Nguyễn-Trãi được mời đến yết-
kiến Vua. Nào cái học " Nhân Nghĩa an-
chỉ " nghĩa là ( lấy Nhân Nghĩa làm mục-
đích ổn-định ) lấy sách Lễ-Nhạc để giáo-
hóa, hết thảy đều lấy ra hướng đạo nhà
Vua, mà cái tâm mơ-tưởng Nghiêu-Thuấn
của Thái-Tông mới chợt nẩy sinh. Sự bàn
bạc phép thi-hành sử kiện rộng-rãi, sách
NGUYỄN-TRÃI
48
dạy khen vẻ đẹp, mệnh Vua định về Nhạc
trong khoảng niên-hiệu Thiệu-Bình, đều
dùng cho việc bình-trị lớn, nếu Trãi mà
được ở vào địa-vị Tướng-quốc thì gặp
cảnh đại-hạn không tụng kinh, sấm sét
không bày tế lễ mà sự biến-đổi của Trời
có thể vãn-hồi vậy. Tiếc thay cái học của
Nguyễn-Trãi không được thi-triển hết ở
triều Vua Lê-Thái-Tông, mà lời nói của
Ông không mai một ở sử sách, đều có thể
là phép thường của Quốc-gia. Cho nên
bài ký Tế Giao, Tế Sơn-Lăng, cùng là Dư
Địa-Chí, đã không hủy bỏ ở niên-hiệu
Diên-Ninh triều Thái-Tông ( 1454 - 59 )
mà lại mộng tưởng ở niên-hiệu Quang-
Thuận triều Vua Lê-Thánh-Tông ( 1416 -
69 ) vậy " .
( Tô-Thế-Huy tựa sách " Quần-Hiền Phú "
rằng :
" Từ triều Trần đến nay, người Sĩ
làm quan gồm kể hàng ngàn trăm, mà
văn-chương sáng-tỏ ở đời có được một số
vậy. Nguyễn-Công Nhĩ-Bật khơi nguồn,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
49
Đào-Công Sự-Tích dẫn mạch, Lý-
Chuyết-Am, Nguyễn-Cúc-Pha một số làm
nổi sóng, Trần-Mật-Liêu, Nguyễn-Ức-
Trai các vị hiền giúp cho lớn mạnh, nền
văn-học trong nước được hùng mạnh
không gì hơn bấy giờ. Cho nên bảo đấy là
nước sông Giang, sông Hán, sao như sao
Đẩu, sao Ngưu vậy. _ Thời Bảo-Thái
( 1720 - 28 ) " .
( Ngọ-Phong họ Ngô viết :
" Người Nho-sĩ thời Trần, thời Lý
đến Nguyễn-Ức-Trai là bậc cao nhất.
Ngoài ra như Nguyễn-Tử-Tấn, Vũ-Mộng-
Nguyên, Phan-Phụ-Tiên, Nguyễn-Thiên-
Túng các vị cũng kể vào bậc văn-chương
cự-phách một thời vậy ".
( Kiến-Văn-Lục viết :
" Nguyễn-Trãi là cháu ngoại
Trương-Túc-Hầu ( Trần-Nguyên-Đán ),
con của Nguyễn-Phi-Khanh, đỗ Tiến-sĩ
triều nhà Hồ, danh tiếng đã lừng lẫy. Đến
Lỗi-Giang ra mắt Lê-Thái-Tổ mới chịu
NGUYỄN-TRÃI
50
ơn tri-ngộ. Viết thơ, thảo tờ hịch một đời
một mình. Ở địa-vị Thượng-thư hạng
Công-thần. Xét công việc phụ-chính hai
triều của Ông, hết lòng trung dâng lời
dạy, thường gặp trở-ngại chèn-ép mà
không chịu khuất. Ở vào đám vũ-phu như
Quán ( Chu-Bột ), Giáng ( A-Phu ) hết
sức giữ-gìn mà không biết dừng đúng lúc,
lại không được trọn đời, thương thay !
" Người cháu xa của Ông từng đưa
xem bài Chế truy tặng của Vua có câu :
" Phong hổ long vân chi hội, do ức
tiền duyên ; văn-chương sự-nghiệp chi
truyền, vĩnh thùy lai thế "
Nghĩa là :
( Rồng mây gió hổ gặp thời, còn
nhớ duyên trước, sự-nghiệp văn-chương
truyền lại, mãi mãi đời sau ) . Bởi vì giúp
Vua có công-lao lớn, ngàn năm không
mất được vậy " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
51
( Thông-Sử tựa thiên Nghệ-Văn-Chí viết :
" Nước ta xưng hiệu là nước Văn-
Hiến, trên thì Vua, Chúa, dưới thì thường
dân, hết thảy đều có làm sách, tổng-cộng
lại mà nói chẳng qua được hơn một trăm
tập. Đời thời thịnh-vượng nhà Trần, văn-
vẻ rực-rỡ, hiến-chương đầy đủ. Buổi đầu
triều Vua Trần-Nghệ-Tông, Chiêm-Thành
vào cướp, đốt phá hầu hết sạch. Về sau
đấy dần dần thu-thập lại, đến thời Nhuận-
Hồ mất nước cho quân Minh, Trương-
Phụ lấy hết sách vở xưa nay chở về Kim-
Lăng. Đến triều Lê, ta dẹp loạn sửa trị,
các danh Nho như Nguyễn-Ức-Trai,
Lý-Tử-Tấn, Phan-Phụ-Tiên, cùng nhau
sưu-tầm sách vở, lượm nhặt văn-chương
còn sót sau cơn binh-lửa, mười phần được
bốn, năm . "
( Bùi-Tồn-Am trong sách Tập-Thuyết nói:
" Phàm xem văn-tự, nên biện-biệt
lời nói thuần-hậu hay có vết, xét người có
khả-năng hay không, như Trương-Hán-
Siêu, Lê-Quát là có ý văn-chương, bài-
NGUYỄN-TRÃI
52
bác dị-đoan để chấn-hưng phong-tục đồi-
bại;Trần-Đình-Thám, Lê-Công Nguyễn-
Trãi có tiếng là có khả-năng văn thơ.
Hoặc hàn-vi có liêm-sỉ không làm nhục
mệnh-lệnh của Vua, hoặc cao-cả về sự-
nghiệp kinh-tế ; Mạc-Đĩnh-Chi nổi tiếng
về phú cũng có khí-tiết trong sạch;
Nguyễn-Trực giỏi về thơ " Tứ-Lục " mà
gặp thời-thế biến-đổi, nhún-nhường cung-
kính để tự giữ lấy mình. Người quân-tử
mà vui với đạo làm như thế đấy. Còn như
văn từ phù-phiếm vô-vị, lấy văn-vẻ thắng
cả hành-vi, thì không xứng-đáng là văn-
chương vậy " .
( Lại nói :
" Đời Hồng-Đức ( 1470 - 1496 ) và
Thuận-Thiên ( 1428 - 1433 ) lấy mươi
nhà thơ danh-tiếng, lời văn răn giới, ý-tứ
mạnh-mẽ, không quên Vua Tôi, Cha Con
thì có Lê-Công Nguyễn-Trãi ; Có khí-
khái mới lạ thì như Lý-Tử-Cấu ; văn dễ
trao đổi, thù phụng có thế cách thì như
Thân-Công Nhân-Trung ; thanh-tao, cao-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
53
xa thì có Sái-Công-Nhuận ; tình-cảm sâu-
sắc thì như Hồng-Công Đức-Lương, đều
là các nhà được người ta cạ-tụng hơn cả ".
( Phạm-Lập-Trai tức Quý-Thích soạn văn-bia
Từ-Đường viết :
" Sự-nghiệp văn-chương khai quốc thủ
Cân thường đái lệ cố gia thanh "
( Sự-nghiệp văn-chương đầu mở nước
Cân thường, đái lệ nức danh nhà ).
" Công tồn khai quốc Lam-Sơn lục
Khánh diễn truyền la cố ấp từ "
( Công-lao mở nước Lam-Sơn sử
Phúc-đức gia-truyền diện ấp xưa ).
" Anh hùng khí phách y cao miếu
Đức tế huân lao cảm thánh triều "
( Khí-phách anh-hùng đều cao tựa
Công-lao cứu giúp cảm thánh triều ) .
NGUYỄN-TRÃI
54
" Công tề âm nhạc thiên phong trị
Khánh cống Tô-giang nhất đới lưu "
( Công sánh núi Lam ngàn ngọn xứng
Phúc cùng sông Lịch ( Tô-Lịch ) một
giòng suôi ) .
( Nhân-Vật-Chí chép :
" Công lấy văn-chương mưu-lược,
gặp được Vua sửa-sang giúp đời, bậc
khai-quốc công-thần đệ-nhất. Về già chỉ
muốn được an-nhàn thoái lui việc đời,
càng không có lòng tham luyến công-
danh. Chỉ vì yêu-nữ nghiệp-báo làm lụy
đến công-danh. Người đương thời lấy làm
oán tiếc. Nhưng việc lâu luận-định ra,
phải trái tự rõ. Vua Lê-Thánh-Tông viết :
_“ Ức-Trai lòng sáng tựa sao Khuê !
Chính là rất khen-ngợi mà than tiếc
vậy ” " .
( Thiên-Nam Thực-Lục viết :
" Ức-Trai giúp Vua Lê-Thái-Tổ ổn-
định lại thiên-hạ, một thời tất cả mệnh-
lệnh văn-thư phần lớn là ngọn bút của
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
55
Công ; Công viết bài văn ‹ Bình Ngô Đại
Cáo › có câu : “ Bèn khiến Tuyên-Đức
nhãi ranh ham chính-chiến không chán ”.
Bởi vì Công ghét cay người Minh quấy
hại nước ta cho nên bác tên hiệu Vua
Minh. Người Tầu đọc thấy câu ấy, phê
rằng : _“ Người làm bài văn này, con
cháu ắt không được toàn-vẹn ”. Về sau,
nhân việc Thị-Lộ gây họa, người ta cho
lời phê trên là có nghiệm. Công lấy Thị-
Lộ, tục-truyền là hóa-thân của rắn yêu-
nghiệt. Thủa nhỏ văn-chương rất hay, lại
giỏi về văn Quốc-âm, về Đường-luật, làm
thơ họa với Công có tới hơn một trăm bài,
lâu đời không còn truyền lại, thơ họa với
Công thuộc về loại tình-tự. Về sau lại gây
vạ cho Công, ảnh-hưởng thần-uy của nó
đại-khái thấy được ở đấy " .
( Tựa tập thơ của Văn-thần Lê-Trãi viết :
" Trãi người Thượng-Phúc, Nhị-
Khê, cha là Nguyễn-Phi-Khanh, đỗ Tiến-
sĩ thời Trần sinh ra Trãi. Trãi năm 21
tuổi đỗ Tiến-sĩ triều nhà Hồ, xếp hạng 4.
NGUYỄN-TRÃI
56
Bấy giờ Ông thấy nhà Hồ thất-bại, giặc
Tầu xâm-chiếm nước Nam, Ông có chí
cứu dân, mới đến trước đền thờ Công-
chúa Tiên-Dung, tha-thiết khẩn-cầu điềm
lành, làm sớ dâng lên. Đêm mộng thấy
Công-Chúa bảo rằng : _“ Thượng-Đế đã
chọn Lê-Lợi, người Lam-Sơn làm Vua !”
Ông bèn tìm vào Lam-Sơn. Bấy giờ quân
Tầu đóng trong thành Khả-Lam. Thái-Tổ,
đêm mộng Thần-linh ban cho một người
giúp giỏi. Đến khi Nguyễn-Trãi yết-
kiến Thái-Tổ ở Lỗi-Giang, Vua thấy như
lời trong mộng, lại nhân thấy Trãi dâng
chính-sách Bình Ngô. Đến khi Lê-Thái-
Tổ ở trại Bồ-Đề, xây lầu mấy tầng, cho
Trãi ngồi hầu để thảo văn thư hịch để gửi
đi các thành, cùng là đi lại với quân Ngô,
năm lần Trãi đứng lên vào thành. Bấy giờ
tất cả hiến-chương, phép-độ, lễ-nhạc,
hình-chính đều do Trãi quyết-định. Ông
làm quan đến Bộ-lại Thượng-thư, vào
cung làm chức Hành-khiển, Hàn-lâm Đại-
học-sĩ, hầu Vua giảng sách trong Viện
Khu-mật, chuyên giữ chức Bác-sĩ Ngũ-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
57
Kinh, kiêm Trung-Thư Quốc-sử Tam-
viện-sự, hiệu là Ức-Trai. Có Ức-Trai Thi-
Tập, Ngọc-Dương Di-Cảo, cùng là Bình
Ngô Đại Cáo, Hoàng-triều Chương-biểu
lưu-hành ở đời. Về già, lấy Thị-Lộ làm vợ
nhỏ, Thị-Lộ thâm thông văn-học, vào
chầu Vua Thái-Tông. Vua tôn làm Lễ-
nghi Học-sĩ, ngày đêm hầu bên. Đến khi
Vua đi tuần về miền Đông, đến vườn Lệ-
Chi hạt Gia-Định, cùng với Thị-Lộ thông
với nhau suốt đêm mà chết. Quan Đại-
thần là Trịnh-Khả, Nguyễn-Sí giết đi. Án
ấy liên-quan đến Nguyễn-Trãi ( ? ) phải
tội tru-di tam-tộc, tịch-thu điền-sản. Mãi
đến khoảng niên-hiệu Hồng-Đức, điền-
sản mới được trả lại và lại lục dụng con
cháu, phong Nguyễn-Trãi chức Tế-Văn-
Hầu " .
( Đời truyền-tụng rằng ở làng Nguyễn-
Trãi có cái gò lớn, trong gò có con rắn lớn
thường làm hại người. Ông Tổ dạy học tính
giết đi. Đến khi Thị-Lộ làm vợ nhỏ Nguyễn-
Trãi, thì ở bụng dưới có ba vẩy. Đến khi
NGUYỄN-TRÃI
58
Nguyễn-Trãi bị họa, người ta bảo rằng do rắn
báo oán. Cháu của Trãi về sau đi sứ qua Động-
Đình-Hồ lại gặp rắn, đến con cháu về sau còn
kiêng sợ .
( Truyện Quần-Hiền Nguyễn-Trãi viết :
[ Lịch Triều Hiến Chương " Nhân-Vật
Chí " ]
" Nguyễn-Trãi hiệu là Ức-Trai,
thủa nhỏ đã có tiếng văn hay ở đời, sách
Kinh-sử cùng Bách-gia Binh-thư Thao-
lược không gì là không quán thông. Năm
21 tuổi, thời Nhuận-Hồ đỗ Thái-học-sinh
khoa Canh-Thìn ( 1400 ), cha con cùng
thời làm quan, đến chức " Ngự-sử Đài
Chính-Chưởng ". Chẳng bao lâu quân
Minh xâm-lược nước ta, Hai-Hồ bị bắt.
Cha Nguyễn-Trãi là Nguyễn-Phi-
Khanh cũng bị bắt luôn. Trãi được thoát
thân. Tổng-binh quân Minh là Trương-
Phụ ép Phi-Khanh phải viết thư gọi Trãi
đến. Trãi bất-đắc-dĩ phải ra hàng thú.
Trương-Phụ biết không thể dùng được
muốn giết đi. Thượng-Thư Minh là
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
59
Hoàng-Phúc thấy tướng lạ mới tha cho,
giữ lại ở thành Đông-Quan. Bấy giờ có
triều-thần cũ cầm quân miền Hưng-Hòa
đón lập Vua Trùng-Quang để mưu-đồ
khôi-phục. Vua Lê-Thái-Tổ cũng hưởng-
ứng thúc hiệu-triệu khởi-nghĩa ở làng
Lam- Sơn, luôn luôn đánh quân Minh
thua, tiếng vang đã rung-động. Công giận
quân Minh tham bạo, lo vớt nhân-dân,
muốn tìm chân chúa để thờ mà chưa biết
ở đâu. Công bèn trốn đi đến ngủ ở đền
Chấn-Vũ-Quan, khấn xin điềm mộng cho
biết đi về đâu. Nửa đêm nghe Thần nói
cho biết tên họ của Lê-Thái-Tổ. Công
mới quyết-chí đi tìm về phương Tây, lần
tìm vào từ Thanh-Hóa đến Lỗi-Giang nơi
Tham-mưu, dâng kế-hoạch Bình-Ngô.
Vua Lê-Thái-Tổ dùng Công ở bên cạnh,
tại Bộ Tham-mưu, dần dần tiến lên chức
Hàn-Lâm-Viện Thừa-Chỉ Đại-Học-Sĩ.
Mùa xuân năm Đinh-Mùi ( 1427 ) thăng
làm Triều-liệt Đại-phu, Lại-bộ Thượng-
thư, Nhập-nội Hành-khiển, kiêm Hàng-
khu Mật-viện-sự. Các văn thư đi lại với
NGUYỄN-TRÃI
60
người Minh cùng các bài hiếu-dụ cho các
thành đầu-hàng, đều do tay Công soạn-
thảo. Vua đã giải-phóng đất nước khỏi
ách quân Minh rồi, Công lại soạn bài
Bình Ngô Đại Cáo .
" Năm Mậu-Thân, mùa xuân (1428)
khi Vua định công ban thưởng, có tiến
Công tước Quán-Phục-Hầu cùng với
Quốc-tính ( họ Vua ) .
" Năm Quý-Sửu, mùa xuân ( 1433 )
Công soạn bài văn bia Vĩnh-Lăng. Vua
Thái-Tông mới lên ngôi buổi đầu, niên-
hiệu Thiệu-Bình ( 1434 ). Triều-đình bàn
với Công, với Trình-Huấn-Du vào hầu
Vua đọc sách, giúp nên đức-tính nhà Vua.
" Lời tâu không được Vua nhận, lại
theo mệnh Vua soạn nhạc, cùng với
hoạn-quan Lương-Đăng không hợp ý.
Công bèn từ-chức về ở Chí-Linh Côn-
Sơn, thỉnh-thoảng mới vào triều tham-dự.
" Niên-hiệu Đại-Bảo, năm Nhâm-
Tuất ( 1442 ). Công 63 tuổi. Vì Thị-Lộ là
thiếp của Công vào hầu Vua Thái-Tông,
giết Vua bằng chất độc. Triều luận tội đến
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
61
Công, phải giết ba họ. Công có người vợ
lẽ đang có mang, trốn thoát rồi sinh ra
được con trai là Anh-Vũ. Thời Vua Lê-
Thánh-Tông xét lại sự oan-uổng của
Công, cho Anh-Vũ chức Huyện-quan và
tặng cho Công chức Tế-Văn-Hầu. Công
có làm ra tập " Ngọc Đường Thi " .
" Đời truyền rằng ở làng của Công
có cái gò, trong gò có con rắn lớn, cây cỏ
rậm-rạp, người trong làng không dám làm
cỏ. Ông Tổ của Công ưa phong-thủy ở
đấy, làm nhà học trên gò. Học trò phát cỏ
vô tình giết mất con rắn ấy. Tinh-anh rắn
nuôi oán thác sinh ra Thị-Lộ, dưới bụng
có vẩy. Buổi đầu, thiếu-niên Công gặp
nàng ở gò Vũ-Lăng, thấy tài sắc vừa lòng
lấy làm vợ nhỏ. Đến khi ra làm việc nước,
phàm văn-thư từ-mệnh đều cùng nàng
xem lại. Khi Vua Thái-Tông lên ngôi,
nghe tiếng, cho đòi vào, phong cho làm
Lễ-bộ Học-sĩ. Công bấy giờ tuổi đã già
muốn về nghỉ dưỡng nhàn ở Côn-Sơn,
nhiều lần Vua mời mà không vào triều.
Công mới để Thị-Lộ ở lại hầu bên Vua.
NGUYỄN-TRÃI
62
Vua ưng-thuận. Khi đi tuần về miền
Đông, Thị-Lộ hầu Vua suốt đêm, Vua
mất, Thị-Lộ bị tội. Đến khi hành-hình,
Thị-Lộ chạy xuống nước mất, người ta
đều cho là rắn độc báo oán " .
( Tang Thương Ngẫu Lục " viết :
" Triều trước có Ông Trãi, hiệu là
Ức-Trai tiên-sinh, tước Công Tế-Văn-
Hầu, nguyên họ Nguyễn, cha là Phi-
Khanh hàm Tự-Khanh, người huyện
Phương-Nhỡi. Thủa nhỏ thích môn địa-lý
phong-thủy mới dời mộ Tổ đến làng Nhị-
Khê, huyện Thượng-Phúc, nhân thế làm
nhà ở đấy. Ông đỗ Tiến-sĩ triều nhà Hồ,
làm quan đến Chính-chưởng Ngự-sử-đài.
Nhà Hồ mất, theo Phi-Khanh lánh loạn về
Côn-Sơn, có câu thơ “ Dạ ỷ Ngưu Đầu
vọng trung nguyên ” nghĩa là ( Đêm theo
sao Ngưu, sao Đẩu nhìn về đất kinh-đô
Việt-Nam ). Ở đây thấy lòng buồn cho
thời-thế, lo cho đời của Ông luôn luôn
bộc-lộ ra thi-ca .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
63
" Bấy giờ có người làng Hoắc-Sa,
tỉnh Sơn-Tây, là Trần-Nguyên-Hãn làm
nghề bán dầu, buổi tối đi qua làng Thủy-
Hương, ngủ đỗ ở đền Hỷ-Khang Đại-
Vương Lý-Ông-Trọng. Đêm khuya thấy
vị Thần ở làng bên mời Vương cùng lên
chầu Thượng-Đế. Vương từ chối, lấy cớ
là hiện có vị Quốc-công ngủ trọ trong
đền. Đến gà gáy Thần kia đi chầu về.
Vương hỏi hôm nay có bàn hiệu-lệnh gì ở
Thiên-đình ? Thần ấy nói : Thượng-Đế
thấy nước Nam không có Chúa, sai Lê-
Lợi làm Vua, Lê-Trãi làm tôi .
" Hãn tỉnh dậy, đi thăm dò tìm kiếm,
gặp được Ông Trãi bảo cho biết. Ông
đến hỏi mộng thấy Vương bảo : “ Việc
bí-mật trên Thiên-đình không dám nói ra.
Bà chị là Chúa Tiên-Dung biết rõ việc ấy,
và là lời nói của đàn-bà, Thượng-Đế
không trách phạt. Bởi vậy nên đem một
lạng vàng và đủ lễ đến đấy mà nghe dạy
bảo ”. Ông làm theo ý ấy, đến nằm mộng
ở đền Chúa Tiên-Dung. Chúa bảo : _“ Lê-
Lợi làm Vua, Lê-Trãi làm tôi không biết
NGUYỄN-TRÃI
64
sao ? ” Hỏi lại chi-tiết Chúa bảo :
“ Người Lam-Sơn ở Thanh-Hóa ”. Ông
cùng Trần- Nguyên-Hãn tìm đến, thấy
Thái-Tổ đang mặc áo vải ngắn, vác bừa,
dắt bò từ ngoài ruộng về. Các ông xin ở
lại đêm, gặp ngày giỗ Tổ có giết lợn làm
cỗ. Ông xuống bếp đun nấu làm giúp,
thấy Lê-Lợi cầm dao thái thịt, vừa thái
vừa ăn, liền bảo Hãn rằng: “ Công-chúa
Tiên-Dung đánh lừa ta rồi ”. Bèn bỏ đi
đến đòi vàng lại. Chúa nói : _ “ Lê-Lợi
làm Vua, mệnh Trời đã có rồi, nhưng
Thiên-tinh chưa giáng đấy, sao không trở
lại mà đợi ? ”
" Bấy giờ Thái-Tổ mới bắt được
Thần-kiếm và sách binh-thư, đêm đêm
đóng cửa xem sách. Ông nhòm trộm,
cùng với Hãn đẩy cửa vào, hai Ông phục
xuống đất lễ và thưa : “ Chúng tôi từ xa
lặn-lội đến, vì Minh-Công có thể làm chủ
được thiên-hạ !” Thái-Tổ cười mà giữ lại
tính chuyện nổi quân. Ông bảo chưa
được. Bèn làm nhà dạy học, thường chế
ra trống bỏi, cùng nấu mật nặn hình
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
65
con gà, con chó, làm cho trẻ con chơi đùa.
Chúng thấy thế đua nhau xin cha mẹ đến
theo học. Lại thường lấy mỡ viết chữ lên
lá cây trong núi, “ Lê-Lợi vi quân, Lê-
Trãi vi thần ”. Kiến đến ăn mỡ, đục thành
nét chữ. Những người đi kiếm củi thấy
cho là điềm Thần, bảo với nhau cho nên
đến xin theo càng ngày càng đông .
" Năm Mậu-Tuất ( 1418 ) dấy binh,
trước sau hơn hai mươi trận đánh quân
Minh, Ông Trãi luôn luôn tham-dự
mưu-lược trong quân-tướng .
" Năm Bính-Ngọ ( 1426 ) đánh ở
trận Tuy-Động thắng lớn, tiến quân hãm
thành Đông-Đô (Thăng-Long). Thành-
Sơn-Hầu Vương-Thông, tướng Minh
đóng thành cố giữ .
" Năm Đinh-Mùi ( 1427 ), nhà Minh
sai An-Viễn-Hầu, Liễu-Thăng kiêm
Quốc-Công Mộc-Thạnh chia đường cùng
tiến xuống cứu-viện Đông-Đô. Vua Lê-
Lợi đánh nhau với giặc ở núi Mã-Yên,
chém đầu Liễu-Thăng, bắt sống Hoàng-
Phúc, Thôi-Tụ với hơn ba trăm quân.
NGUYỄN-TRÃI
66
Mộc-Thạnh đương đêm chạy trốn.
Vương-Thông mở thành xin hàng, được
tha cho trở về Tầu. Từ đấy hai nước lại
thông-hiếu. Bao nhiêu văn thư trao đổi
đều do Trãi soạn-thảo. Năm Thiệu-Bình
( 1431 - 1439 ) bài biểu tạ việc thăng
quan nói :
_( Cầm roi ngựa đến cửa quân, gặp
việc lớn mà nửa đời tự biết trung-nghĩa.
_( Giấn thân trước miệng hổ, quyết
giảng-hòa cho hai nước khỏi chiến-tranh).
" Viên môn trượng sách, lâm đại tiết
nhi bán sinh trung nghĩa tự tri.
" Hổ khấu điền quân, quyết hòa
nghị nhi lưỡng quốc can qua dĩ tức "
" Đây là những lời nói thực vậy. Vì
công-lao được ban Quốc-tính (họ Vua),
phong tước Vĩnh-lộc Đại-phu, Nhập-nội
Hành-khiển, Tri-Tam-Quán-Sự .
" Ông Trần-Nguyên-Hãn được
phong tước đến Quốc-công, vì Lê-Thánh-
Tông có ý ngờ nên cả nhà nhẩy xuống
sông, nay có đền thờ ở làng Hoắc-Sa .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
67
" Văn-chương của Công-Trãi có
khí-lực dồi-dào hồn-hậu. Khoảng năm
Thuận-Thiên ( 1428 - 1433 ) có làm các
bài văn " Bình Ngô Đại Cáo ", Bia Thần-
đạo Vĩnh-Lăng ; Khoảng năm Thiệu-Bình
( 1434 - 39 ), nhà Vua tặng Chiêu-Nghi
làm Hoàng-Thái-Phi, Công phụng-mệnh
thảo bài Chế. Đấy đều là những bài văn
hay, làm cho người đọc thích-thú. Có lần
bị lỗi phải vào ngục, nhưng rồi lại được
thả ra. Dần dần Công được thăng lên
chức Môn-hạ Tả-giám-nghị Đại-phu kiêm
Hàn-lâm Thừa-chỉ Học-sĩ, tước Tế-Văn-
Hầu .
" Tính Công điềm-đạm, có chí ẩn-
dật, thơ tặng bạn có câu :
( Thân ở ngoài danh-vọng ngồi trên
lầu cao mây khói.
( Lòng vẫn mộng-tưởng cảnh rừng
núi chim hoa cũ ) .
" Công có cái biệt-thự ở Kinh Bắc
gọi là Tiêu-Viên. Cuối năm Thiệu-Bình,
NGUYỄN-TRÃI
68
Công đợi mệnh triều nhà Minh ở Nam-
Quan. Bấy giờ Vua Lê-Thái-Tông đi tuần
về miền Bắc, ngự đến Tiêu-Viên rồi mất
đêm hôm ấy ở đấy. Người ta bảo là do vợ
nhỏ của Công là Thị-Lộ đã giết. Công vì
thế mà bị họa ( Tru-di tam-tộc ).
" Khi xưa đánh nhau ở núi Mã-Yên,
bắt được Thượng-thư quân Minh là
Hoàng-Phúc. Hoàng-Phúc giỏi về khoa
Địa-lý, đã từng đi xem đất ở nước ta và
ghi nhớ. Đến lúc ấy bị bắt, Công xem
như tù-binh, không vì nể. Hoàng-Phúc
cười bảo : “ Mả Tổ nhà tôi có Xá-văn-
tinh, chỉ mắc nạn trăm ngày thôi, không
như mả nhà ông có họa tru-diệt ”.
" Công không tin. Sau Hoàng-
Phúc được thả về mà Công thì vì vợ
nhỏ bị họa lây. Người ta cho là nghiệm.
Nay xét mả Tổ của Công ở Nhị-Khê,
huyện táng ở ruộng bằng, có kẻ cho vào
cách :“ Tướng quân mở cờ ”, có kẻ cho là
hình: “ Tướng quân cụt đầu ”. Vì hướng
Nam có cái gò hình con rùa quay đuôi
lại . "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
69
( Trong Niêm-ký của Hoàng-Phúc có
đoán: " Nhị-Khê mạch đoản, họa thảm tru di ",
dáng như trỏ vào đấy vậy .
( Người đời truyền rằng, khi Công chưa
gặp hội, ở làng Nhị-Khê dạy học, thường trỏ
vào cái gò ngoài đồng bảo học-trò rằng :
_ " Ngày mai các anh họp nhau rẫy
cỏ ở cái gò kia để làm nhà học " .
_ " Học-trò vâng lời.
" Tảng sáng Công mộng thấy một
người đàn-bà đến nói :
_ " Tôi trong người còn yếu, con
còn nhỏ, xin hãy thư-thả cho ba
ngày để dời đi mới được " .
" Tỉnh dậy Công ra đồng xem thấy
bọn học-trò đã dọn xong rồi. Họ bắt được
hai quả trứng, hỏi lý-do thì họ nói vừa
thấy con rắn, đánh đứt đuôi bỏ đi .
" Công cầm hai quả trứng về nuôi.
Đêm ấy giong đèn đọc sách. Công thấy
NGUYỄN-TRÃI
70
một người đàn-bà mặc trắng leo lên xà
nhà, rỏ máu xuống sách ướt chữ Đại, qua
ba tờ. Công tự hiểu mà nói : " Báo đến
ba đời ". Về sau trứng rắn nở ra con mà
đi, một dài một ngắn. Công sai đem thả
xuống sông Tô-Lịch ở làng bên, nay là
thần sông .
" Khi Công hiển-đạt, thường mỗi
ngày ở triều về qua phố Hàng-Chiếu, gặp
người con gái nhan-sắc khá đẹp, hai bên
dùng thơ bỡn-cợt, vừa lòng mà lấy làm
vợ. Khoảng năm Thiệu-Bình, người ấy
thường đi lại trong cung Vua. Vua Thái-
Tông phong cho chức Nữ-học-sĩ. Đến khi
Vua mất. Triều-đình hỏi, nàng bảo do
Công xui. Vì thế nên Công bị tội. Khi bị
hành-hình, người con gái ấy hóa làm
con rắn, bò xuống nước đi mất .
" Công có một người thiếp chạy
trốn xuống miền Sơn-Nam, ẩn-náu nhà
người, sinh được một người con trai là
Anh-Vũ. Lâu về sau người chủ nhà mới
biết đấy là vợ-lẽ của Công .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
71
" Khoảng năm Quảng-Thuận ( 1460
- 69 ) Vua Thánh-Tông nối ngôi, thương
Công mắc tội oan, xuống chiếu rửa tội,
truy tặng là Thái-sư Tế-Văn-Hầu. Dò hỏi
về con cháu mới biết được người con trai
của bà vợ lẽ đem về, cho làm chức Tri-
Phủ, Châu. Về sau phụng mệnh đi sứ qua
hồ Động-Đình, thấy một con rắn xuất-
hiện trên mặt sóng, rồi sóng gió nổi lên
dữ dội, Ông Tri-Châu xin làm xong việc
nước, sóng gió mới êm. Sau khi ở triều
Vua Tầu về, đến hồ Động-Đình thuyền bị
lật úp mà chết đuối .
" Con cháu được phong đời đời làm
Công-thần, cùng truyền thần đồ hình, đến
nay vẫn còn. Lại dùng giấy lụa làm bài
Chế rằng :
" Phong hổ long vân chi hội do ức
tiền duyên
Văn chương sự nghiệp chi truyền
vĩnh thùy lai thế".
NGUYỄN-TRÃI
72
( Lời văn hồn-hậu có khí, phảng
phất văn Chế tặng Thái-sư nhà
Minh Văn-Thành-Hầu .
" Bức đồ-họa biểu-lộ hình-dung có
thể nhận thấy đại-khái thế mạo phong
hậu, trán hơi ngắn hẹp, đội khăn đuôi
ngựa ( mã vĩ ), mặc áo bào gấm lam, tinh-
thần thái-độ còn có thể thấy được .
" Năm Cảnh-Hưng ( 1740 - 1786 ),
nhân làm sổ nhân-chính, Triều-đình bàn
rút ân-trạch đối với các vị Công-thần mở
nước. Khi xem đến Đạo-sắc của Công
Lê-Trãi, quan Thị-Lang Bộ-Hộ là
Bảng-nhỡn Lê-Quý-Đôn xé đi nói :
" Loạn-thần tặc-tử còn cáo sắc làm chi ? "
Nói chưa khỏi miệng chợt thiếp đi, thấy
hai tên lính bắt lôi đến một nơi, chung-
quanh có tường bao-bọc, có cây cổ thụ
lớn bằng mười vòng tay người, trên điện
có độ mươi chiếc ghế chạm rồng, bên
hành-lang tay trái đặt một cái sập, có một
vị quan văn ngồi, đội mũ phốc-đẩu, mặc
áo bổ-phục, hai bên tả hữu có đông người
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
73
đứng. Lính dẫn ông Bảng-nhỡn vào quỳ
dưới thềm. Trên sập có tiếng quát xuống :
_“ Ta là Tế-Văn-Hầu, ngươi là kẻ
thiếu-sinh mới học, sao dám xúc-
phạm đến Ta là bề tôi cũ có công-
lao triều trước, tội đáng chết không
tha ” .
" Ông Bảng-nhỡn nín hơi không
dám ngẩng trông. Bên cạnh có một viên
quan khăn mỏng, áo tấc xanh, đại-diện
xin hộ. Lâu sau mới nguôi mà nói :
_ “ Công-danh thường nhà người
hay tự kiêu là tay giáp-bảng hay
chữ, hãy về đọc bài Bình Ngô Đại
Cáo, nếu có thể làm được như thế
thì mới khỏi lỗi xé Sắc của Ta ” .
" Ông Bảng-nhỡn tỉnh dậy vội viết
trả đạo Sắc như cũ. Các Công-thần nhân
thế mới không bị rút ân-trạch .
NGUYỄN-TRÃI
74
" Ôi ! Nguyễn-Trãi là người có
công-lao lớn như thế, mà không thể giữ
được thân vẹn-toàn, con cháu bị tru-di
gần hết. Chó cỏ, rồng đất, lời than chung
từ xưa đến nay, đáng buồn cảm khái
thay!"
_ ( Thuật theo " Sự-Trạng-Khảo " của
Cẩn-Trai Dương-Bá-Cung biên-tập.
Trọng-phu Ngô-Thế-Vinh khảo-chính._
Ức-Trai Thi-tập di-cảo quyển V ) .
Thời nhà Mạc, Hà-Niệm-Đại ( 1566 -
1572 ) có thơ vịnh Nguyễn-Trãi :
Giấc mộng hai nơi khéo tỏ-tường.
Tới non Lam gặp đức Cao-hoàng,
Hịch, thư nhiều thủa tài may-mắn,
Pháp độ trăm đường sức sửa-sang.
Công giáp Hồng đồ cao nửa núi,
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương
Họa kia gây bởi Văn-Hoàng lỗi,
Xà nọ lời đâu chỉn lạ thường .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
75
TÔNG-LUẬN :_
Trên đây là tài-liệu lịch-sử liên-quan
đến Nguyễn-Trãi, trải qua mấy trăm năm sau,
từ Lê đến Nguyễn, tựu-trung có điều thật, điều
giả, nhưng là phản-chiếu tâm-lý xã-hội Việt-
Nam thời trước. Nay hãy toát-yếu lấy sự có thể
tin được về cuộc đời của một đại danh-nhân .
Ông vốn người làng Nhị-Khê thuộc
huyện Thường-Tín, tỉnh Hà-Đông bây giờ.
Sinh vào năm 1380, mất bất-đắc kỳ-tử vào năm
1442, thọ 62 tuổi .
Ông là con Nguyễn-Phi-Khanh người
làng Chí-Ngại huyện Phượng-Sơn nay thuộc
Hải-Dương, là cháu ngoại của Trần-Nguyên-
Đán. Phi-Khanh đậu Thái-học-sinh ( Tiến-sĩ )
năm 1374 triều Trần-Duệ-Tông. Nguyễn-Trãi
năm 21 tuổi triều nhà Hồ cũng đỗ Thái-học-
sinh cùng với Lý-Tử-Tấn, Vũ-Mộng-Nguyên,
năm 1400. Vậy Nguyễn-Trãi, Nguyễn-Phi-
Khanh, Trần-Nguyên-Đán, cả ba người đều là
NGUYỄN-TRÃI
76
nhân-vật lịch-sử lỗi-lạc về văn-chương, tư-
tưởng cũng như hành-động .
Từ 1400 triều Hồ, Nguyễn-Trãi tỏ ra
không cố-chấp là con cháu nhà Trần để ra làm
quan với nhà Hồ, mang tiếng là ngụy triều. Tuy
nhiên nhà Trần, triều Duệ-Tông đã có thành-
kiến giai-cấp mà không dùng Phi-Khanh, mặc
dầu đỗ-đạt nhưng thuộc giai-cấp bình-dân lại
lấy vợ quý-tộc là con gái Trần-Nguyên-Đán.
Mãi đến khi nhà Hồ tiếm quyền rồi thì Phi-
Khanh mới được đắc dụng. Như thế thì làm sao
Nguyễn-Trãi lại không ra làm quan với nhà
Hồ ? Cha con đồng triều. Cho đến khi quân
Minh cậy lớn, có mộng đế-quốc thôn-tính Việt-
Nam, viện cớ bất-chính phù Trần dẹp Hồ, bắt
cha con họ Hồ về Kim-Lăng bên Tầu, cha con
Nguyễn-Trãi cũng bị bắt, duy Nguyễn-Trãi trốn
thoát vì lời dạy chính-nghĩa của cha : “ Làm
trai phải trả thù nhà, đền nợ nước mới là hiếu
nghĩa ” .
Thời-gian này là thời-gian náu thân suy-
tư của Nguyễn-Trãi mặc dầu trong nước đang
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
77
có dòng-dõi nhà Trần với nghĩa-sĩ nổi lên đánh
nhau với quân Minh như Vua Trùng-Quang với
Nguyễn-Biểu, Đặng-Dung. Mãi đến năm 1418
nghe tin Lê-Lợi khởi-nghĩa ở Lam-Sơn,
Nguyễn-Trãi còn suy-nghĩ, cầu mộng Thần-
linh, để rồi đến năm 1420 mới quyết-chí tìm
vào Lỗi-Giang để dâng sách-lược Bình Ngô
gồm ba mục cho Vua bình-định .
Từ đấy, 1420 - 1428 Nguyễn-Trãi giúp
Lê-Lợi trong Bộ Tham-mưu để đánh dẹp quân
Minh, khôi-phục đất nước, tổ-chức lại quốc-
gia, nào mưu-kế sách-lược, nào ngoại-giao nội-
trị, hết thảy đều được Lê-Lợi giao-phó. Đấy
thực là thời rồng mây cá nước gặp hội của
Nguyễn-Trãi vậy .
Từ 1428 đến lúc Lê-Thái-Tổ băng-hà vào
năm 1433, Nguyễn-Trãi đắc-dụng ở triều-đình,
giúp Vua sửa-sang chế-độ, xây-dựng một
" Văn hiến chi bang ", nào chính-danh định-
phận, nào đường lối giáo-dục, chế-định pháp-
luật, soạn diễn-tịch hộ-tịch, hết thảy đều do tay
Nguyễn-Trãi cả .
NGUYỄN-TRÃI
78
Từ 1433 Vua Thái-Tông nối ngôi, mới
hơn mười tuổi. Đấy là thời-kỳ Nguyễn-Trãi
bất-mãn với triều-đình, một đàng cố giữ chính-
nghĩa vì dân vì nước là Nguyễn-Trãi, một đàng
là Công-thần muốn hưởng-thụ. Thực-trạng này
đã phản-chiếu rõ-rệt vào lời trách mắng Thúc-
Huệ của Ông, cũng như lời tâu về Lễ Nhạc, và
sự xung-đột tư-tưởng với Lương-Đăng, lời can
nhân-nghĩa với cái án bẩy tử-hình một
lúc..........
Kể từ năm 1437 trở đi, Nguyễn-Trãi sau
khi xung-đột với Lương-Đăng, lời tâu của mình
không được nghe theo, bèn rút lui về đời sống
thiên-nhiên dật-sĩ. Thơ ca chữ Nôm cũng như
chữ Hán của Ông phần lớn trước-tác vào thời-
kỳ này vậy .
Cái án bất-công độc-ác " Tru-di tam-tộc "
của Ông đánh dấu một giai-đoạn lịch-sử tư-
tưởng Việt-Nam. Nó phản-chiếu hai khuynh-
hướng tư-tưởng lúc bấy giờ trong giới lãnh-đạo
là khuynh-hướng khai-phóng của Tam-giáo
thời Trần mà Nguyễn-Trãi là một đại-biểu cuối
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
79
cùng với khuynh-hướng Nho-giáo độc-tôn và
thực-tiễn của thời Lê sau này vậy .
Mặc dầu Vua Lê-Thánh-Tông, khi hai
mươi năm sau đã tẩy oan cho Nguyễn-Trãi với
lời phê lịch-sử :
" Ức-Trai tâm thượng quang Khuê tảo "
( Tấm lòng của Nguyễn-Trãi trong sáng
tựa sao Khuê )
Nhưng việc độc-tôn chính-thống-hóa theo
gương Tầu là việc dĩ-nhiên, tư-tưởng chính-
thống thuộc về tay Nho-sĩ lãnh-đạo quốc-gia
với tất cả hậu-quả của một hệ-thống thống-trị
bế-quan. Đấy là tinh-thần nô-lệ Tống-Nho
" tịch Phật Lão " trái ngược hẳn với tư-tưởng
Tam-giáo khai-phóng thời Trần. Do đấy mà
trong triều-đình nẩy sinh thói tranh-chấp
quyền-lợi, đứng tách rời hẳn với nhân-tâm,
quên mất quyền-lợi tối-cao dân-tộc, như chúng
ta đã thấy ở thời Hậu-Trần, phái Nho-sĩ " Bạch
diện thư sinh " theo lời Vua Minh-Tông, Nghệ-
Tông, cái gì cũng phỏng theo phương Bắc, đến
NGUYỄN-TRÃI
80
nỗi đi cầu-viện quân Minh để đánh đổ hộ nhà
Hồ. Cái hậu-quả của Nho-giáo vốn là tư-tưởng
chỉ biết có Hữu-vi không biết có Vô-vi, cho
nên dễ thiên-chấp tranh-dành bè đảng. Điều
này Hoàng-Xuân-Hãn cũng nhận thấy trong
tác-phẩm " Lý-Thường-Kiệt " khi ông viết :
" Mà thực, mỗi lúc nước ta có Nho-
gia bài xích Phật-giáo thì ta biết rằng
trong nước sẽ có cuộc tranh quyền-lợi mà
giết lẫn nhau. Sau khi Đàm-Sĩ-Mông sa-
thải Tăng-già, thì có Trần-Thủ-Độ liền
sau tàn-sát họ Lý. Cuối đời Trần Nho-học
nên thịnh, có Trương-Hán-Siêu, Lê-Quát
chỉ-trích đạo Phật, thì sau lại có Hồ-Quý-
Ly sát hại họ Trần. Trần-Thủ-Độ và Hồ-
Quý-Ly làm những việc kia, ấy cũng vì
muốn thi-hành chính-trị vị-danh, xa hẳn
lòng bác-ái từ-bi của Phật " .
_ ( Hoàng-Xuân-Hãn " Lý-Thường-Kiệt"
ch. XIX )
Vậy cái thảm-án " Tru-di tam-tộc "
Nguyễn-Trãi há chẳng phải là hậu-quả của sự
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
81
chính-thống độc-tôn Nho-giáo của phái
" Bạch diện thư sinh " mà sinh ra đấy ư ?
Sự Phân-Tranh Trong Giới Lãnh-Đạo Thời
Đầu Nhà Lê Với Nguyễn-Trãi ._
Trong thời-kỳ xếp-đặt lại chế-độ văn-hiến
của nước đã khôi-phục, Nguyễn-Trãi được Lê-
Thái-Tổ tin dùng đắc-lực. Tất cả công-việc
thuộc về văn-trị có lẽ đều do tay Nguyễn-
Trãi đảm-trách, nào " Bình Ngô Đại Cáo ";
nào " Lam-Sơn Thực-Lục "; nào " Chiếu cầu
hiền, Chiếu khuyên-răn các quan, Chiếu lập
Thái-tử " ; " Hậu-Tự-Huấn " dạy Thái-tử ; văn
Bia Vĩnh-Lăng... đủ tỏ trong triều-đình bấy giờ
Nguyễn-Trãi đã có một địa-vị chính-yếu trong
việc xây-dựng nền văn-trị .
Từ sau khi Vua Lê-Thái-Tổ băng-hà
( 1433 ) Thái-tử lên nối ngôi mới có 11 tuổi,
Lê-Sát là võ-tướng Công-thần khai-quốc làm
phụ-chính, kéo vây cánh, bè đảng cùng loại
NGUYỄN-TRÃI
82
kiêu-hãnh, ít học, cho nên triều-đình trở nên
nơi tranh-dành nghi-kỵ, hạng người có tài, có
đức e-dè trốn ẩn mặc dầu nhà Vua có nhiều
phen ban Chiếu cầu hiền. Theo chính-sử chép,
vào năm 1434 có Sắc sai trăm quan tiến-cử
người hiền. Nhà Vua dụ rằng : " Các ngươi là
quan-liêu đã được trẫm tin dùng. Trước đây vì
lòng cầu hiền để lo trị nước, đã ra lệnh cho ai
nấy được tiến-cử một người ; đến nay vẫn chưa
thấy đáp-ứng mệnh-lệnh, là cớ sao ? "
Lại dụ :
" Những người được tiến-cử mới
đây đều là hạng tầm-thường cả. Từ nay
về sau các ngươi nên lưu tâm xem xét dò
tìm : hoặc giả còn có những người ẩn-tích
ở nơi đồng-nội, rừng-rú, nếu quả thực là
bậc tài đức đều trội thì các ngươi nên
cùng nhau đứng lên đề cử chung để làm
thỏa ý thiết-tha cầu hiền của Trẫm ".
_ ( Chb. XVI - 2 )
Xem thế đủ thấy trong triều-đình phần
lớn là hạng Công-thần theo Thái-Tổ khởi-nghĩa
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
83
lập công trong thời loạn chứ không phải các
nhà học-thức thời bình, có tài văn-trị. Nguyễn-
Trãi chẳng khác gì con công lạc-lõng trong đàn
gà, tránh sao sự đố-kỵ, xung-đột về tư-tưởng.
Sự xung-đột ấy bắt đầu với bài Biểu-văn sang
Minh cầu phong do Đại-hành-khiển Lê-Trãi
soạn ; Nội-mật-viện Nguyễn-Thúc-Huệ và
Học-sĩ Lê-Cảnh-Sước muốn sửa-đổi vài chữ.
Trãi nổi giận nói : " Bọn các người là bầy tôi tụ
liệm (đánh thuế nặng để làm giầu cho bề trên).
Nạn hạn-hán ngày nay đều do các người gây ra
cả ! " Thúc-Huệ đem chuyện này mách Lê-Sát
và Lê-Vấn. Lê-Vấn nổi giận, trách Lê-Trãi
rằng: " Những cớ gây nên tai-nạn và hạn-hán là
do nhà Vua và Thủ-Tướng đó thôi, chứ không
phải lỗi tại bọn này, sao ông trách nhau quá
lắm thế ? "
Lê-Trãi xin-lỗi nói : " Thúc-Huệ là hạng
tài mọn, chỉ chăm đục khoét vơ vét, thế mà hắn
giữ chức then-chốt trong nước, hễ có tâu bày
điều gì, hắn chỉ muốn làm thiệt dân, đem lợi về
nhà quan để dua nịnh bề trên ; cho nên tôi mới
nhân việc này mà nói ra đó thôi, chứ không
NGUYỄN-TRÃI
84
phải có ý phúng thứ và dị nghị nhà Vua và
Thủ-tướng đâu ". Lê-Sát vẫn không nguôi
giận, cuối cùng bài tấu văn vẫn không sửa đổi
". _ ( Chb. XVI, 11 )
Lời nói trên đây chứng-tỏ bấy giờ có sự
xung-đột giữa hai khuynh-hướng, hai thái-độ
trong giới triều-thần, ấy là phái Công-thần kể
từ Lê-Sát Phụ-chính trở xuống bọn su-thời luồn
lọt muốn hưởng-thụ, chống với một thiểu-số
mà đứng đầu có Nguyễn-Trãi giữ chính-nghĩa
thủy-chung, vì đức vì dân. Đấy là sự tình
thông-thường, sau một thời-gian phò Lê-Lợi
tranh-đấu hy-sinh, đến khi thành-công lẽ dĩ-
nhiên phần đông đòi hưởng-thụ, không giữ
chính-nghĩa. Lại thấy Lê-Thái-Tổ, sau khi lên
ngôi hết sức dựng nhà học, gây nhân-tài, bọn
Công-thần thời chiến trông thấy mất thế dần
nên cũng vội-vàng trừ phái Nho-sĩ nhân-sĩ học-
thức, như việc Lê-Sát biếm truất Nam-đạo
Hành-khiển Lê-Khắc-Phục, đầy Nguyễn-Đức-
Minh, đến nỗi có bức thư nặc-danh rằng : " Đại
Tư-đồ Sát đồng mưu với Đô-đốc Vấn giết chết
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
85
Ông-Sĩ ". " Ông-Sĩ " là tên tự Nhân-Chú không
ăn cánh với Lê-Sát .
Sự xung-đột giữa tinh-thần chính-nghĩa
với chủ-trương phương-tiện hay là vương-đạo
và bá-đạo bấy giờ được biểu-hiện rõ rệt trong
sự-kiện sau đây vào năm 1434 Thái-Tông
nguyên-niên :
" Có bẩy tên trộm đều là tái phạm,
đáng bị tử-hình. Bọn Lê-Sát và Lê-Ngân
lấy làm khó nghĩ, vì e phải giết nhiều
quá ! Nhà Vua đem việc này hỏi Thừa-chỉ
Lê-Trãi. Trãi thưa : “ Hành phạt không
bằng nhân nghĩa là rõ-ràng rồi. Bây giờ
một chốc giết bẩy mạng người thì e
không phải là việc làm có đức cao-cả.
Kinh Thư có nói : " An nhữ chỉ " nghĩa là
phải làm cho được đúng chỗ. Thí-dụ như
trong cung là đúng chỗ của Bệ-hạ, thỉnh-
thoảng có đi tuần-du chỗ khác, thì không
thể thường được thoải-mái ; đến khi trở
về cung mới thật được đúng chỗ. Ông
Vua đối với nhân nghĩa cũng vậy !”
NGUYỄN-TRÃI
86
" Bọn Sát bèn bảo Lê-Trãi : “ Ông
là người nhân nghĩa, có thể cảm-hóa
được kẻ khác trở nên thiện, thì đây xin
giao cho ông bọn trộm này .” Rồi bọn Sát
đem bẩy tên tù phạm giao cho Trãi
đứng bảo-quản. Trãi nói : “ Bọn chúng
là đồ hung-ác gian-giảo. Pháp-luật và
triều-đình còn không răn chữa được
chúng nữa là Trãi này có đức-độ gì mà
cảm-hóa nổi ” .
" Do đấy chỉ chém hai tên cầm đầu,
còn thì khép vào tội lưu ".
_ ( Chương b. XVI , 11 )
Như thế đủ thấy tư-tưởng Nhân Nghĩa
" chí công vô tư " của Nguyễn-Trãi bấy giờ đã
làm cho triều-đình khó chịu như cái gai trước
mắt vậy .
Vua còn ít tuổi, trong triều-đình quyền-
hành vào tay bọn võ-quan có công thời chiến,
sau khi Thái-Tổ mất rồi dĩ-nhiên bị phe văn-
quan thời bình bất phục mà phản-đối. Thế là
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
87
tha hồ mạnh ai người ấy kéo bè kéo cánh, trái
hẳn với tinh-thần " quân-tử Nho " " Quân nhi
bất tranh " " Hòa nhi bất đồng ". Chúng ta
thấy sự thể này qua bài Ư-Đài vì tờ Sớ mà bị
đầy. Tờ Sớ ấy có bốn điều, trong có :
" 1 _ Ở trong nên lựa lấy những chỗ
hoàng huynh, quốc cửu mà là bậc am-
tường thông thuộc các điều-lệ và việc cũ,
khiến cho ở bên tả hữu để dạy nhà Vua. Ở
ngoài nên cắt đặt người hiền giữ chức Sư-
phó để làm cột-trụ cho nhà nước, gương-
mẫu cho trăm quan.
" 2 _ Đầu quốc-triều ta, những quan
văn, võ can phạm tội-lỗi đều phải phạt
tội, tội lưu, thế là Tiên-Đế (Lê-Lợi) có ý
răn dạy những kẻ gian tà. Nay lại cho
được khai-phục, làm việc cai-quản quân
và dân. Như vậy là làm trái với ý Tiên-
Đế, không hợp với đạo Trời Đất "
_ ( Chb. XVI , 13 )
NGUYỄN-TRÃI
88
" Thấy tờ Sớ này Lê-Sát giận lắm,
sai chép ra hai điều trên đây để dâng lên
Vua và tâu : “ Tiên-Đế cho rằng bọn thần
đều là chỗ tôi con lâu đời, theo hầu trận
mạc, vạn tử nhất sinh để lập được triều-
đình, lại xét rõ rằng thần là người mộc-
mạc và lành, cho nên khi sắp thăng-hà,
mới phó-thác Bệ-hạ cho bọn thần. Nay
những lời Ư-Đài nói có ý ngờ-vực bọn
thần lừa-dối, che giấu Bệ-hạ điều gì, nên
mới khuyên Bệ-hạ tìm chỗ họ-hàng mà có
công-lao để phòng ngừa bọn thần. Vậy
xin giao Ư-Đài xuống cho Pháp-ti xét xử.
Nếu Ư-Đài quả có ý ly-gián Vua và tôi thì
nên theo pháp-luật nhà nước mà trị tội,
không nên tha ” .
" Nhà Vua ngẫm nghĩ hồi lâu nói :
“ Những lời Ư-Đài nói đâu đến nỗi như
vậy ? ” Lê-Sát vẫn cứ cố-chấp tâu mãi
đến vài bốn lần, nhưng nhà Vua không
nghe .
" Bọn Nguyễn-Thiên-Hựu và Bùi-
Cẩm-Hổ tâu rằng : “ Ư-Đài khuyên Bệ-hạ
không nên ủy-nhiệm Đại-thần, thế là trái
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
89
với lời Chiếu để lại của Tiên-Đế. Việc
này không thể không xét hỏi được ” . Nhà
Vua bèn đầy Ư-Đài đi Châu xa " .
_ ( Chb. XVI, 14 )
Đấy là thực-trạng trong giới lãnh-đạo sau
khi Thái-Tổ mất. Vua còn nhỏ, phụ-chính là
võ-tướng cậy công khai-quốc, văn-thần thì ít
học, su thời, hoạn-quan a-dua lên mặt ; ở trong
triều thì bè cánh cạnh-tranh, ở ngoài thì tham-
quan vô trách-nhiệm, đúng như trong lời Sắc :
" Gần đây ít kẻ biết phép công tuân
theo pháp-luật. Người giữ tiền-bạc để
bề-trễ đọng lại, cố ý làm khó-khăn ; kẻ
coi quân-đội không thương sót binh-lính.
Còn cai-trị dân thì không lo chăn dắt nuôi
dạy, chỉ buông tha cho bọn giầu-có, riêng
trút sai dịch vào bọn bần-cùng ; xử kiện
thì không giữ công-bằng, chỉ nghĩ đến bè-
đảng và ăn hối-lộ ; làm việc thì không
cần-mẫn, chỉ chè chén và tiệc-tùng.
Những kẻ canh giữ quan-ải, không nghĩ
NGUYỄN-TRÃI
90
đến việc kiểm-tra xét hỏi, chỉ mưu tính
buôn bán để làm giầu " .
_ ( Chb. XVI , 30 )
Thậm chí một lời nói thật cũng bị tử-hình
như trường-hợp người thợ nhọc-nhằn làm việc,
Sư-Đăng nói vụng trong khi tu-bổ chùa Báo-
Thiên :
" Thiên-tử thì kém đức để đến nỗi
có nạn hạn-hán ; Đại-thần thì ăn hối-lộ,
cất dùng kẻ nọ người kia chẳng làm được
công-trạng gì cả. Có hay gì mà còn nịệm
Phật !
" Có người đem chuyện này cáo-tố
với Lê-Sát ( Tể-tướng ), Sát nổi-giận sai
bắt Sư-Đăng giao cho quan coi hình-ngục
xét xử. Thẩm-hình là Nguyễn-Đình-Lịch
khép Sư-Đăng vào tội thả lời yêu-quái
càn bậy, đáng phải chết chém. Nguyễn-
Thiên-Hựu và Bùi-Cẩm-Hồ tâu xin giảm
tội tử-hình cho Sư-Đăng. Nhà Vua toan
nghe theo. Lê-Sát nói : " Trước kia
Nguyễn-Đức-Minh làm thư nặc-danh,
đáng phải giết chết để rao cho mọi người
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
91
biết, trở đi nghe lời Thiên-Hựu giảm nhẹ
tội cho Đức-Minh. Nay nếu lại tha cho
Sư-Đăng thì răn kẻ khác thế nào được ? "
Bèn sai chém Sư-Đăng .
_ ( Chb. XVI, 12 )
Trong cái hoàn-cảnh nhân-sự lãnh-đạo
như thế mà Nguyễn-Trãi vẫn ôm-ấp lý-tưởng
vương-đạo để thi-hành ra chính-trị, như chúng
ta thấy ở đoạn sử sau đây, nhân việc triều-đình
sai Nhập-nội Hành-khiển Lê-Trãi và hoạn-quan
Lương-Đăng cùng trông coi việc thẩm-định Lễ-
Nhạc .
Trãi dâng bản-đồ " Thạch khánh " và
nhân đó tâu rằng :
" Dẹp loạn dùng võ ; thái-bình dùng
văn. Ngày nay chế-định Lễ-Nhạc chính là
đúng lúc. Nhưng cội gốc nếu không vững
thì Lễ-Nhạc không dựa vào đâu mà đứng
được ; văn-hiến nếu không có thì Lễ-
Nhạc không bởi đâu mà thực-hành được.
Hòa-bình là gốc của Nhạc, thanh-âm là
NGUYỄN-TRÃI
92
văn của Nhạc. Tôi vâng theo Chiếu-chỉ,
thẩm-định Lễ-Nhạc, không dám không
hết lòng ; ngặt vì học-thức kém cỏi, khó
lòng điều-hòa được luận-điệu âm-nhạc là
món thần-diệu tinh-vi. Nguyện xin Bệ-hạ
yêu thương nuôi dưỡng dân đen để nơi
làng xóm quê thôn không còn có tiếng
sầu than oán giận. Thế là không lỗi mất
căn-bản của Lễ-Nhạc " .
_ ( Chb. XVII, 3 )
" Nhưng rồi nhà Vua ưng theo kiến-
nghị của Lương-Đăng, rồi cuối cùng cho
thi-hành .
" Thế rồi bọn Lê-Trãi, Nguyễn-
Truyền, Đoàn-Công-Soạn, Nguyễn-Văn-
Huyến và Nguyễn-Liễu cùng tâu rằng :
_ “ Lễ-Nhạc là cốt ở người mới đặt
ra được. Phải là người tài đức như Chu-
Công rồi sau mới không có thể ai chê
trách về việc đặt Lễ, chế Nhạc. Nay nhà
Vua để cho hạng bầy tôi nhỏ mọn ở trong
cung chuyên việc xếp đặt Lễ-Nhạc, như
vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
93
sao ? Vả lại việc làm của Đăng đều là dối
Vua, lừa dưới, không căn-cứ vào đâu
cả................................................................
“ Lương-Đăng là bầy tôi nhỏ mọn,
ra vào nơi cung cấm, hầu hạ ở bên Vua.
Như vậy chúng tôi trộm lấy làm ngờ
lắm ! ”
" Nguyễn-Liễu còn tâu : “ Từ xưa
đến nay, chưa có bao giờ hoạn-quan lại
được tự chuyên, làm nát thiên-hạ như
vậy ! ”
" Đinh-Thắng từ trong nội đi ra
mắng rằng : “ Hoạn-quan làm gì mà nát
thiên-hạ ? Nếu có nát thiên-hạ thì phải
chém đầu này ! ”
" Thế là nhà Vua bèn nghe hoạn-
quan mà bắt Nguyễn-Liễu đầy đi Châu
xa . "
_ ( Chb. XVII, 14 )
" Sau đấy không lâu, Nguyễn-
Trãi, vào năm ( 1437 ), xin về hưu-trí ở
Côn-Sơn, và cách vài năm nữa ( 1440 ),
NGUYỄN-TRÃI
94
Vua Thái-Tông đi tuần, qua nhà thăm
ông, trở về liền băng-hà ở Gia-Lâm, rồi
xẩy ra cái án Thị-Lộ và Ông bị liên-lụy
đến " Tru-di tam-tộc ". Xem thế đủ biết
Nguyễn-Trãi đã sớm liệu thoái lui
" công thành thân thoái ", đâu phải ham
tiếc công-danh, quyền-thế như lời Vua
Tự-Đức đã lạm phê :
_ " Cái vạ chu-di cũng là tự Trãi
chuốc lấy, như thế sao gọi được là người
hiền ? "
_ ( Chb. XVII, 23 )
Cái án oan-uổng ấy đâu phải Trãi chuốc
lấy, chẳng qua vì bè cánh trong triều, bọn tiểu-
nhân Nho và võ-tướng muốn chuyên quyền để
hưởng-thụ, thống-trị nhân-dân, thấy TRÃI một
mực đòi chính-nghĩa vương-đạo, lại có uy-tín
cả trong nước, ai cũng biết về tài đức danh-
vọng, đúng như lời tuyết-sỉ cho cả một triều-
đình :" Ức-Trai tâm thượng quang Khuê tảo"
của Lê-Thánh-Tông vậy. Giết Nguyễn-Trãi
mặc dầu Ông đã rút-lui khỏi triều-đình, bọn
công-thần võ-tướng với bọn hoạn-quan tiểu-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
95
nhân Nho không những nhổ được cái gai
chính-nghĩa vương-đạo của một quân-tử Nho,
mà còn trừ được ảnh-hưởng của Ông đối với
Vua qua Thị-Lộ được sủng-ái nữa .
Cái chết bi-thảm của Nguyễn-Trãi, mà
chính sử chép, trước khi lập Vua mới,
Nhân-Tông lên 2 tuổi :
" Giết Thừa-chỉ Nhập-nội Đại
hành-khiển, trí-sĩ Lê-Trãi chu-di cả họ.
" Trãi phải liên-lụy vì người vợ lẽ
là Thị-Lộ. Người ta đều cho là oan " .
_ ( Chb. XVII, 23 )
Nguyễn-Trãi mất ngày 16 tháng 8 năm
Nhâm-Tuất Đại-Bảo thứ III, theo Dương-lịch
là 19 - 9 - 1442. Vì người ta đều cho là oan,
nên triều-đình muốn che-lấp dư-luận mà có
những giải-thích bằng truyện hoang-đường
“ Thần rắn báo oán, và đổ cho đất cát vậy ”.
Nhưng cái chết ấy còn đánh dấu một khúc ngọe
trong lịch-sử tư-tưởng Việt-Nam hết sức trọng-
đại, đấy là truyền-thống Tam-giáo thời Lý Trần
đã nhường chỗ cho tư-tưởng Tống-Nho “ tịch
NGUYỄN-TRÃI
96
Phật ”, một thứ Nho-giáo bế-quan, độc-tôn, đố-
kỵ với thứ Nho-giáo tâm-linh của Chu-Văn-An
mà Nguyễn-Trãi là đại-biểu, như phản-chiếu ở
lời tâu của Ông về Lễ-Nhạc, cũng như về cái
án bẩy tử-hình trên kia. Khuynh-hướng độc-tôn
Nho-giáo bấy giờ còn thấy phản-chiếu ở lời tâu
của Nguyễn-Thiên-Hựu, nhân việc rước tượng
Phật ở chùa Pháp-Vân đến Đông-Kinh để đảo-
vũ :
" Xin Bệ-hạ tu đức, xét tù oan ức,
thải bớt cung-nữ, nếu mà Trời còn không
mưa thì xin chém tôi để tạ tội với thiên-
hạ " .
_ ( Chb. XVI , 7 )
Và nhất là việc giết Nhập-nội Đại Đô-đốc
Lê-Ngân về việc thờ Phật Quan-Âm ở nhà. Sử
chép :
" Tháng 12, giết Nhập-nội Đại Đô-
đốc Lê-Ngân ; tịch-thu cả nhà. Giáng
truất Huệ-phi Lê-Thị, con gái Lê-Ngân
xuống làm tu-dung. Có người cáo tố rằng
nhà Lê-Ngân thờ Phật Quan-Âm để cầu-
khẩn cho con gái là Huệ-phi được Vua
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
97
yêu chiều. Bấy giờ nhà Vua đang ngự ở
cửa Đông trong thành, bèn sai Thái-giám
Đỗ-Đại đem 50 võ-sĩ đến khám nhà Lê-
Ngân, soát thấy có pho tượng Phật để thờ,
vàng bạc và lụa mầu. Nhà Vua sai bắt nô-
tì của Lê-Ngân để xét hỏi .
" Hôm sau Lê-Ngân vào chầu, bỏ
mũ ra, tạ tội rằng : _ Tôi từ trẻ theo đi
khởi-nghĩa Lam-Sơn may được trông
thấy cảnh thanh-bình ; về già, vì dồn chứa
nhọc-nhằn vất-vả đã lâu nên sinh lắm
bệnh. Thầy bói đoán rằng chỗ đất nhà tôi
ở là ngôi chùa cổ để hoang-phế, nay
sinh yêu ma làm cho động trệ, không yên,
nên sùng mộ đạo Phật để cầu âm-phúc.
Chẳng ngờ nay bị vợ lẽ mà tôi đã bỏ,
cùng với Trần-Thị là vợ lẽ của Lê-Sát
ngày trước mà nhà Vua ban cho tôi, xui
xiểm, kết hợp với tên đầy-tớ gian-ngoan,
nhân-dịp thêu-dệt cho thành tội-lỗi. Nếu
được nhà Vua soi xét định-đoạt thì buông
tha cho tôi về điền-viên để được trót đời
tàn tạ này .
NGUYỄN-TRÃI
98
" Nhà Vua chưa nguôi giận, giao
Lê-Ngân cho tòa Pháp-ti luận tội. Khi án
đã thành, nhà Vua cho phép Lê-Ngân
được chết, tịch-thu cả nhà, phế Huệ-phi
Nhật-Lệ ( con gái Lê-Ngân ) xuống làm
tu-dung. Bà đồng cũng bị đày đi Châu
xa . "
_ ( Chb. XVII , 15 )
Cái án oan ấy mà chính sử đã chép và
mấy năm sau cũng công-nhận là oan-uổng đã
chứng-minh rõ-ràng khuynh-hướng bài-trừ
Phật-đạo ra ngoài tư-tưởng chính-thống của
Nho-sĩ thống-trị :
" Coi sự “ tin dùng thầy chùa ” như
ngang tội với sự “ ăn hối lộ ” ."
_ ( Chb. XVIII , 3 )
" Mặc dầu năm Kỷ-Dậu ( 1429 )
tháng 6 có mở kỳ thi Tăng đạo, Sắc sai
các Tăng đạo, hễ ai thông kinh-điển, cẩn-
thận giữ được giới-hạnh thì đến sảnh-
đường để xét hạch, nếu trúng tuyển sẽ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
99
được cấp cho tờ thiếp chứng-nhận làm
Sư, còn thì phải hoàn tục " .
_ ( Chb. 25 )
Đấy là thi để kiểm-soát giới Tăng đạo chứ
không còn lệ thi Tam-giáo cho xuất thân thời
Trần nữa .
Và năm Ất-Mão thứ II ( 1435 ), triều-đình
còn ban cho Sư Huệ-Hồng áo phẩm-phục mầu
lục pha đỏ, là lễ-phục ngang hàng với quan-
chức triều-đình từ ngũ-phẩm trở lên, nhưng
không phải là có quyền tham-dự triều-đình như
xưa nữa .
Càng ngày triều-đình càng hướng về tín-
ngưỡng Thần-linh thiên-nhiên để cầu đảo mưa,
nắng, còn Nho-sĩ thì độc-quyền lãnh-đạo
chính-sự, cùng hệ-thống giá-trị tiêu-chuẩn
nhân-sinh .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
THẾ-GIỚI-QUAN NHÂN - NGHĨA
CỦA NGUYỄN-TRÃI
Tất cả tư-tưởng và hành-động của
Nguyễn-Trãi, tất cả con người của Nguyễn-
Trãi thu vào hai chữ Nhân Nghĩa là tất cả vũ-
trụ-quan thực-hiện của Ông vậy .
( Ôi muốn mưu-đồ việc lớn lấy
Nhân Nghĩa làm gốc, muốn nên công
việc lớn lấy Nhân Nghĩa là trước tiên.
Chỉ có bao-hàm đầy đủ Nhân Nghĩa cho
nên sự-nghiệp ắt là phải thành ) .
" Phù đồ đại sự giả dĩ Nhân Nghĩa
vi bản, thành đại công giả dĩ Nhân Nghĩa
NGUYỄN-TRÃI
104
vi tiên. Duy Nhân Nghĩa chi kiêm toàn, cố
sự công chi tất tế ".
_ ( Tái phúc Phương-Chính thư )
Bởi thế Nguyễn-Trãi về chính-trị có
chính-sách : " Nhân Nghĩa chi cử yếu tại an
dân" ( ). Về quân-sự có :
( Đạo làm tướng lấy Nhân Nghĩa làm gốc, trí
dũng làm cành )
" Vi tướng chi đạo dĩ Nhân Nghĩa vi bản trí
dũng vi tư " .Về binh-pháp có : ( Bậc nhân-giả
lấy yếu chế-ngự khỏe, bậc nghĩa lấy ít đánh
đông ) ( ) " Nhân giả
dĩ nhược chế cương, Nghĩa giả dĩ quả địch
chúng ". Nên mới có " Đạo quân Nhân Nghĩa,
chỉ có một vài trăm quân phụ-tử, thế mà cũng
đủ nghiêng gươm mà chém để thành cái thế
" chẻ tre " _ ( Thư gửi Vương-Thông )
Đối với nhân-dân trong khi lãnh-đạo trị-
vì, có lòng thông-cảm với dân-ý :
" Nhân dân chỉ nguyện về với bậc có
nhân đức " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
105
Và Nhân Nghĩa đối với Nguyễn-Trãi là
tất cả Trời Đất, tất cả Vũ-trụ vậy :
" Trái Nghĩa, hại Nhân, lẽ Trời Đất
tưởng như tắt ngấm . "
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Nhưng vũ-trụ kiền-khôn Nhân Nghĩa của
Nguyễn-Trãi không phải một hệ-thống bế-
quan, nhất-nguyên hay nhị-nguyên của trí-thức.
Đấy là cái đạo đại-đồng sáng-hóa, không có
biên-giới của tình-yêu :
" Ta nghe nói người, có người
phương Nam phương Bắc, đạo thì không
có cái này cái kia. Người Nhân, Quân-tử
thì không xứ nào không có ".
_ ( Dục Bắc-Giang Thành thư )
Bởi vì :
" Trời không che riêng ai, Đất
không chở riêng ai, mặt-trời mặt-trăng
không chiếu sáng riêng nơi nào, cho nên
người vương-giả lấy bốn biển làm nhà
NGUYỄN-TRÃI
106
mình, vốn không phân-gián cách-biệt xa
hay gần ".
_ ( Lại thư đến cho Vương-Thông )
" Thiên vô tư phúc, Địa vô tư tái,
Nhật, Nguyệt vô tư chiếu lâm. Cố vương-
giả dĩ tứ hải vi gia, sơ vô nhĩ hà chi gian
dã ".
_ ( Tái đạt Vương-Thông thư )
Trời Đất đây đối với Nguyễn-Trãi, có cái
nhọc tâm-linh như Chu-Văn-Trinh, thì không
phải là Trời Đất vật-lý như Nature = Thiên-
nhiên của Âu-Tây. Trời Đất đây là ngụ-ý Kiền-
Khôn, Cha Mẹ, có cái tâm sinh-thành hóa-dục
bất-tuyệt và vô-tư, tạo ra cuộc vận-hành, tuần-
hoàn, đi rồi trở lại :
" Thiên vận tuần hoàn vô vãng bất phục".
_ ( Tái dụ Vương-Thông )
Cái ý-chí sinh-hóa bất-tuyệt ấy là do
động-cơ tình-yêu hoạt-động, tức cũng là cái
đức Nhân, như Cao-Bá-Quát sau này đã hiểu là
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
107
" Kiền khôn nhất sinh ý " ( Cái ý-chí sáng-tạo
duy-nhất của Trời Đất ) .
Và Nguyễn-Trãi đã đặt trọng-tâm vào cái
tình-yêu hay cái " Thiên địa chi tâm " ( Tâm
Thiên Địa ), cái Tâm hoạt-động tác-dụng ấy
nhất-trí ở chỗ Thành :
( Thành thật ở chỗ yêu vật là tâm
Trời Đất, thành thật ở chỗ yêu con ấy là
tâm cha mẹ. Yêu vật không thật thì nguồn
sống liên-tục có lúc tắt. Yêu con không
thật thì lòng từ-ái có lúc suy. Thế nên
Trời Đất đối với muôn vật, cha mẹ đối
với con đỏ chẳng qua chỉ một sự thành-
thật mà thôi ) .
" Thành ư ái vật giả thiên địa chi
tâm. Thành ư ái tử giả phụ mẫu chi tâm.
Ái vật bất thành tắc sinh-sinh hữu thời
nhi tức. Ái tử bất thành tắc từ ái nhĩ thời
nhi khuy. Thị dĩ thiên địa chi ư vạn vật,
phụ mẫu chi ư xích tử bất quá nhất thành
nhi dĩ "
_ ( Tái dữ Vương-Thông )
NGUYỄN-TRÃI
108
Và ở lời " Dạy con cho có đức ",
Nguyễn-Trãi càng đề-cao Nhân Nghĩa là tình
thương yêu :
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc Trời .
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ-vơ.
Thương người ôm-ấp trẻ thơ,
Thương người tuổi-tác già-nua bần-hàn .
Thương người quan-quả cô-đơn,
Thương người đói rét nằm than kêu đường .
Thấy ai đói rét thì thương,
Rét thì cho mặc, đói thường cho ăn .
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó-khăn đến nhà .
Đồng tiền, bát gạo đưa ra,
Rằng : " Đây cần-kiệm gọi là làm duyên ".
May ta ở chốn bình-yên,
Nhà người tàn-phá chẳng nên cầm lòng .
Tiếng rằng : " Ngày đói tháng đông ".
Thương người bớt miệng, bớt lòng mà cho .
" Miếng khi đói, gói khi no ",
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
109
Của tuy tơ-tóc ,nghĩa so ngàn trùng .
" Của là muôn sự của chung ",
Sinh không thác lại tay không có gì !
Ở cho phải có Nhân Nghì ( Nghĩa ) .
_ ( Gia Huấn Ca )
Tình-yêu là cái lực hấp-dẫn đại-đồng, nhờ
đấy mà vũ-trụ này mới là vũ-trụ, nghĩa là một
đại hòa-điệu như bản hòa-tấu của âm-nhạc chứ
không hỗn-độn. Nhưng tình-yêu phải xuất tự
tâm thành-thật hết sức mới có hiệu-lực, ví như
chiếc tên đặt trên dây cung, dây có căng thẳng
nhằm vào một mục-đích duy-nhất mà phát ra
mới trúng đích. Cái sức căng thẳng của dây
cung chính là cái sức của tâm thành vậy. Vì
" Thành " không phải một danh-từ, một khái-
niệm trừu-tượng, mà là một thái-độ tâm-lý
trong đó ba tác-dụng căn-bản của tâm là tình-
cảm, ý-chí và lý-trí đã tập-trung vào một điểm
Nhất-Tâm. Đấy là tâm-trạng mô-tả hình-tượng
ra ở chữ Hán : ( ) Thành, gồm chữ ( )
Ngôn, đại-diện cho trí-thức, Ngôn-ngữ, với chữ
( ) Thành, gồm chữ ( ) Lực với chữ
NGUYỄN-TRÃI
110
( ) Qua, là cái cung bắn. Người tập bắn cung
phải đem hết cả năng-lực của thân-tâm, sinh-lý
tâm-lý, dùng cả trí, tình, ý tập-trung vào đích
thì mới có hiệu-quả. Sự có thật hay không có
thật của đối-tượng tùy theo cái tâm ý-thức có
chú-ý hay không vào đối-tượng. Cho nên
Nguyễn-Trãi theo sách Trung-Dung của Nhọ-
học mà bảo : ( Không thành-thật thì không có
vật chi hết ) " Bất thành vô vật ". bởi vì
( Thành là khởi-điểm và chung-cực của sự-vật )
" Thành giả vật chi chung thủy " _ ( Trung-
Dung ) .
Và Nguyễn-Trãi trong hành-động tích-
cực phấn-đấu đã đặt hết tín-tưởng vào đạo
Thành, nên Ông cực tả hiệu-năng của lòng
thành-thật trong hành-vi cũng như trí-thức :
( Lấy sự thành-thật chinh-phục
người ta, người ta cũng lấy sự thành-thực
để báo đáp lại. Đạo chí-thành có thể rung
động Trời Đất, thông suốt đến quỷ thần,
huống chi là đối với người ) .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
111
" Dĩ thành phục nhân giả, nhân diệc
dĩ thành phục chi. Phù chi thành chi đạo
khả dĩ động thiên địa, thông quỷ thần nhi
huống ư nhân hồ ".
_ ( Dụ Vương-Thông thư )
Vậy " Thành " là một trình-độ của tâm
ý-thức chưa phân-hóa mà Trung-Dung của
Nho-giáo đã siêu-hóa lên địa-vị thực-tại tối-
cao, là Thiên-đạo :
( Thật tại là đạo Trời, làm cho thật
là đạo Người )
" Thành giả thiên chi đạo dã, Thành
chi giả nhân chi đạo dã "
_ ( Trung-Dung )
Đạo Trời đại-đồng với đạo Người nhân-
quần xã-hội đồng-nhất ở tâm-lý " Thành " .
Là Nho-sĩ xuất thân hẳn Nguyễn-Trãi tin-
tưởng vào Trung-Dung lắm :
" Bổn đạo Trung Dung chẳng thửa tàng "
_ ( Bảo kính cảnh-giới )
NGUYỄN-TRÃI
112
Hay là :
" Làm người thì giữ đạo Trung Dung "
_ ( Tự giới )
Nhưng Nguyễn-Trãi sớm vượt qua giới-
hạn của hữu-vi để vươn lên cái tâm vô-niệm
của đạo Thiền trong đời sống cá-nhân .
Nghệ-sĩ :
Người ảo-hóa khoe thân ảo-hóa,
Chưa chiêm-bao thốt sự chiêm-bao .
Rừng Thiền ắt thấy nên đầm-ấm,
Đường thế nào nơi chẳng thấp cao .
_ ( Thuật Hứng )
Hay là :
Chiếm tự nhiên một thảo-am,
Dầu lòng đi Bắc mấy về Nam .
Trường Thiền-định, hùm nằm chực,
Trái thì trai vượn nhọc đem .
Núi láng giềng, chim bầu bạn,
Mây khách khứa, nguyệt anh tam .
Tào-Khê rửa ngàn tầm suối,
Sạch chẳng còn một chút phàm .
_ ( Thuật Hứng )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
113
Với Thiền-học Nguyễn-Trãi đã bổ-túc
vào trí-thức-luận của đạo " Thành " ở Nho-học
hữu-vi bằng cái quan-điểm vô-vi của tâm vô-
niệm :
" Nhất niệm tức lai thiên niệm tức "
_ ( Thu dạ khách cảm )
( Một niệm tắt đi thì ngàn niệm cũng tắt )
Và theo nhà Phật thì :
" Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức "
( Ba giới là dục-giới, sắc-giới và vô-
sắc-giới đều do nơi tâm mà ra, muôn
hiện-tượng trong thế-giới chỉ là ý-thức ) .
Như vậy ý-niệm tắt thì thế-giới hiện-
tượng hình-danh sắc-tướng cũng biến mất hết.
Đấy là trạng-thái tâm không đối-tượng của nhà
Thiền-định đạt tới giác-ngộ tam-muội
(Samadhi). Đấy là cái Tâm vô-tâm mà Nguyễn-
Trãi hoài-bão :
( Ngày dài tựa kỷ quên ăn nói,
Người với mây trắng ai là kẻ có tâm ? )
NGUYỄN-TRÃI
114
" Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm "
_ (Đề trình Xử sĩ vân thiết đồ )
Chính cái Tâm vô-tâm mà sinh-thành vô-
tư ấy " vô sở vi nhi vi " là tâm Bụt mà
Nguyễn-Trãi thường ấp-ủ :
" Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng, Bụt khá cầu " .
_ ( Mạn Thuật )
Hay là :
" Vẩn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng "
_ ( Hoa Mộc Cận )
Đủ biết trong tư-tưởng Nho-học tâm-linh
của Nguyễn-Trãi có đậm mầu sắc Thiền-tông
thời Trần :
Thần tích phi lai kỷ bách xuân,
Bảo lâm hương hỏa khế tiền nhân .
Giáng long phục hổ cơ hà diệu,
Vô thụ, phi đài ngữ nhược tân .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
115
Điện trắc khởi lâu tàng Phật thể,
Khán trung di tích thuế chân nhân .
Môn tiền nhất phái Tào-khê thủy ,
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần .
_ ( Du Nam-Hoa Tự )
( Gậy nhà chùa gọi là Thần tích bay đến
đã có mấy trăm năm.
Lửa hương rừng báu còn lại hợp với nhân
duyên trước.
Thần cơ giáng long phục hổ sao mà
huyền-diệu thế.
Chẳng phải có cây Bồ-Đề, chẳng phải có
đài gương sáng, lời nói như là mới lạ.
Bên cạnh điện dựng lầu để chứa thể
tướng Phật.
Trong khám dấu vết để lại che cái chân-
thật.
Trước cửa chùa một giòng nước Tào-Khê
nơi phát-xuất Thiền-Tông của Tổ Huệ-
Năng.
Rửa hết bụi trần các kiếp của người đời
vậy .)
NGUYỄN-TRÃI
116
Như thế đủ thấy Nguyễn-Trãi bắt đầu
cuộc đời Nho-sĩ với vũ-trụ-quan Nhân Nghĩa,
khi ra hành-động cứu dân, giải-phóng dân-tộc,
cái vũ-trụ Nhân Nghĩa ấy đã tập-trung vào đạo
Thành để hành-động. Đánh giặc cốt chinh-phục
nhân-tâm, phò Vua, giúp nước cốt xây-dựng
một xã-hội Nhân Nghĩa như Đường - Ngu :
" Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Đường ấy ta đà phỉ sở nguyền "
_ ( Tự Thán )
Nhưng trong lòng của Ông vẫn ôm ấp
hoài-bão cái mộng " Nhàn " :
Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả áng công danh .
Vô tâm, trì có trăng bạc,
Đắc ý kho đầy gió thanh .
Trẻ, dầu chơi con Tạo-hóa,
Già, nọ phục thuốc trường-sinh .
Dưỡng nhàn miễn được qua ngày tháng,
Non nước còn ghi chốn hữu tình .
_ ( Tự Thán )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
117
Dù lúc đắc ý gặp thời, " Minh quân lương
tể ", dù khi thất-vọng ngồi tù, Nguyễn-Trãi vẫn
không bao giờ nguôi nỗi buồn man-mác, một
thứ buồn nhớ-nhung " Thiên-thai lạc lối trần-
gian ". Một cái buồn siêu-hình, ra ngoài mực-
thước của Nho-sĩ điển-hình, để chìm vào mạch
nước Tào-Khê với cái mộng :
" Pha lão chơi thu, khách nổi thuyền ".
của Tô-Đông-Pha trên sông Xích-Bích :
" Vời trông người đẹp tận phương trời "
Bởi vì Nguyễn-Trãi không rời đạo-tâm để
nhìn cuộc đời nhân-thế, cho nên mới có cái
luận-điệu :
Tự Thán
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm-sự ngỏ cùng ai đây ?
Chắc chi thiên-hạ đời nay,
Mà đem thân-thế làm rầy chiêm-bao !
Đã buồn vì trận mưa rào,
Lại đau vì nỗi ào ào gió đông .
NGUYỄN-TRÃI
118
Mây trôi, nước chảy xuôi giòng,
Chiếc thuyền hờ-hững bên sông một
mình !
Ông Ngô-Tất-Tố sau khi trích-dẫn bài thơ
trên trong " Thi Văn Bình Chú ", có giải-thích
rằng :
" Bài này không có câu nào hiểm-
hóc, ý-nghĩa mạch-lạc, đều rất óng-chuốt,
vậy mà cực kỳ khó hiểu. Vì suốt trong bài
không thấy một dấu-vết nào có thể nhận
được tác-giả muốn nói việc gì.
" Ông Nguyễn-Khắc-Hiếu chịu rằng
“ Tâm-sự anh-hùng khó có thể người
ngoài biết được sự đau-đớn ”. Thật là một
người sành thơ .
" Xét tác-giả trong khi chưa gặp
Vua Lê, đã quyết phải diệt quân Minh,
chắc không khi nào lại nghĩ đến câu
“ Chắc chi thiên-hạ đời nay, mà đem
thân-thế nước làm rầy chiêm-bao ”. Đến
khi đuổi được giặc Minh, tức là thù nhà
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
119
trả, nợ nước xong, cái gánh trên vai đã
nhẹ thì có việc gì mà buồn và đau ? "
_ ( Ngô-Tất-Tố " Thi Văn Bình Chú "
x.b. Thế-Giới _ tr. 14 , in lần thứ ba )
Chính lòng buồn và đau ấy là lòng đau
buồn của Bụt " Bụt ấy là lòng ", tràn-ngập tình
yêu thương vô-hạn, thương " Người ảo-hóa
khoe thân ảo-hóa. Chưa chiêm-bao thốt sự
chiêm-bao ", mà không tự biết. Cái nỗi buồn
man-mác ấy chỉ có người " Chí Thành " với
Đạo-Tâm mới có thể cảm-thông được. Đấy là
từ Nhân-Nghĩa qua tình thương đến tâm-lý
nghệ-thuật của Tâm Thiền để nối cá-nhân với
vũ-trụ, nhân thân với Thiên Địa phụ mẫu vậy.
Bởi có đạt tới cái Tâm vô-tâm vô-niệm mà
sinh-thành như thế, nên tư-tưởng của Nguyễn-
Trãi mới không thành bế-quan độc-tôn, lấy
" tịch dị-đoan " làm mục-tiêu theo Tống Nho
của " vu nho tục sĩ ". Đấy là nhờ có Tâm-
Thiền của truyền-thống Tam-giáo thời Lý Trần,
nên văn-chương của Nguyễn-Trãi mới phản-
chiếu tinh-thần đạo-học cao-siêu thâm-thúy,
NGUYỄN-TRÃI
120
xứng đáng là văn-chương với nghĩa " Tình
thâm nhi văn minh ", " Văn dĩ tái đạo " vậy .
Đấy là tâm-lý văn-nghệ giải-thoát như
trong " Côn-Sơn Ca " :
Côn-Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên .
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn-Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích.
Ngô dĩ vi đạm tịch
Nham trung hữu tùng
Vạn lý thúy đồng đồng.
Ngô ư thị yểu tức kỳ trung
Lâm trung hữu trúc
Thiên mẫu ấu hàn lục.
Ngô ư thị hổ ngâm khiếu kỳ trắc.
Vấn quân hà bất quy khứ lai ?
Bán sinh trần thổ trương giao cốc.
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiêu
Ẩm thủy, phạn sơ tùy phận túc.
Quân bất kiến, Đổng-Trác hoàng kim doanh
nhất ổ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
121
Nguyên-Tái hồ tiêu bát bách hộc ?
Hựu bất kiến Bá-Di Thúc-Tề
Thủ-Dương ngạ tử bất thực túc ?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu.
Diệc các tự cầu kỳ sở dục
Nhân sinh bách tuế nội.
Tất cánh đồng thảo mộc.
Hoan bi, ưu lạc, diệc vãng lai
Nhất sinh, nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên
Tử hậu, thùy vinh cánh thùy nhục ?
Nhân gian nhược hữu Sào-Do đồ
Khuyến cừ thính ngã Sơn-Trung khúc .
Dịch nghĩa :
Côn-Sơn có suối chảy,
Tiếng róc-rách nghe hay,
Ta nghe như đàn vậy.
Côn-Sơn có đá,
Mưa dội rêu xanh biếc,
Ta lấy làm êm tịch.
Trong núi có thông,
NGUYỄN-TRÃI
122
Muôn dặm xanh trùng trùng .
Ta ngày ngày yên nghỉ bên trong .
Trong rừng có trúc,
Ngàn mẫu in mầu lục .
Ngày ngày ta ngâm-nga ở bên gốc,
Hỏi ai kia, sao không về thôi .
Nửa đời gió bụi dài lăn-lóc,
Muôn chung chín vạc sao phải thế ?
Nước lã cơm rau tùy phận túc .
Người chẳng thấy :
Đổng-Trác hoàng kim đầy một kho,
Nguyên-Tái hồ-tiêu tám trăm hộc .
Lại chẳng thấy :
Bá-Di với Thúc-Tề
Chết đói không ăn thóc.
Hiền, ngu hai đường chẳng nhìn nhau
Chẳng qua cũng chỉ cầu như sở dục .
Đời người khoảng trăm năm
Rút lại cùng thảo-mộc .
Hoan, bi, lo vui theo nhau đổi
Hết tươi lại tàn còn tiếp-tục .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
123
Nhà cao rừng rậm ngẫu nhiên thôi
Chết đi ai vinh và ai nhục ?
Nhân-gian nếu có bọn Sào-Do
Xin hãy nghe ta " Sơn Trung Khúc "
Tâm-lý trong " Côn-Sơn Ca " trên đây
chính là để đáp-ứng cho hoài-bão đã biểu-lộ ở
câu hỏi :
" Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm ? "
Cái hoài-bão " vô-tâm " ấy :
" Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm "
_ ( Ngôn Chí )
Hay là :
" Bụt ấy là lòng, Bụt khá cầu "
Nguyễn-Trãi từ sớm đã nuôi dưỡng trong
tính tình, nên chi bất cứ ở trường-hợp nào,
danh-lợi không thể làm Ông quên được cái thú
thanh-nhàn, cái thú :
" Ít nhiều tiêu sái lòng ngoại thể "
_ ( Ngôn Chí )
NGUYỄN-TRÃI
124
Cho nên tư-tưởng Nhân Nghĩa của Ông,
vốn là giáo-lý Nho mà dễ đi với giáo-lý Phật và
Lão :
" Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng, Bụt khá cầu.
Vui một quân thần ơn cực nặng
Tơ hào chưa báo, hãy còn xâu ".
_ ( Mạn Thuật )
Nhân Nghĩa ấy là Nhân Nghĩa cởi mở,
không bế-quan, để triển-khai từ chủ-nghĩa
Quốc-gia Dân-tộc :
( Đạo Nhân Nghĩa duy trì cho thế nước
vững yên )
" Nhân Nghĩa duy trì Quốc-thể an "
_ ( Hạ Quy Lam-Sơn )
qua ý dân tuy " ngu nhi thần " :
( lật đổ thuyền bè mới tin rằng sức dân ví
như sức mạnh của nước ).
" Phúc chu thủy tín dân do thủy "
_ Quan Hải )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
125
Đến tình thương vô-hạn chí-thành vô-tư
của " Thiên Địa phụ mẫu " ( Trời Đất là cha
mẹ ) để rồi nhập vào Tâm-Thiền, nghệ-thuật
giải-thoát tiêu-dao :
" Đàn cầm suối trong lai dõi
Còn một non xanh là cố-nhân "
_ ( Thuật Hứng )
Lấy non xanh làm cố-nhân, vì trong tư-
tưởng Đông-phương, cũng như trong tín-
ngưỡng cổ-truyền Việt-Nam, Sông - Núi không
phải là Thiên-nhiên vật-lý .
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
NGUYỄN - TRÃI HỢP SÁNG
TƯ-TƯỞNG NGUYỄN-TRÃI
TRONG TRUYỀN-THỐNG DÂN-TỘC
Tư-tưởng Nhân Nghĩa của Nguyễn-
Trãi tuy thâu-nhận của Mạnh-Tử, nhưng Mạnh-
Tử độc-tôn Nho-học chống với Dương-Chu và
Mặc-Địch, còn Nguyễn-Trãi mở rộng Nho-học
để tổng-hợp biện-chứng với Lão-học và Phật-
học. Đấy là truyền-thống dân-tộc đối-địch với
đế-quốc Tần, Hán, đòi đồng-hóa Việt-tộc vào
Hán-tộc. Sự chống-đối ấy đã sớm phản-chiếu
vào cuộc khởi-nghĩa của Liệt-nữ Trưng-
Vương, đồng thời cũng biểu-thị ở Tư-tưởng
Đồng-nguyên Tam-giáo Nho, Lão, Phật, ở Lý-
Hoặc-Luận của Mâu-Bác đầu Công-nguyên, và
ở Thiền-học Đại-thừa Hoa Sen của Khang-
Tăng-Hội. Truyền-thống Triết-học Biện-chứng
NGUYỄN-TRÃI
128
Tam-giáo đã đem lại cho các Thiền-sư thời
Đinh, Lê, Lý cái ý-thức-hệ dân-tộc, giải-thoát
khỏi ách đô-hộ chính-trị của Tầu, đồng thời
vượt xa ra ngoài cái học của Bách-Gia Chư-Tử
ở Văn-hóa phương Bắc, như Thiền-sư Cửu-Chỉ
thời Lý đã tuyên-bố :
" Khổng, Mặc chấp vào Có Hình,
Trang, Lão chủ-trương Không, kinh sách
thế-học không phải đường giải-thoát. Chỉ
có Phật-giáo, không chấp vào Có lẫn
Không, hiểu thấu lẽ sống chết "
Đồng thời có nhà tướng họ Lý nêu cao
tinh-thần độc-lập của dân Việt với lời tuyên-
ngôn lịch-sử :
" Nam quốc Sơn-hà Nam Đế cư ! "
Nguyễn-Trãi thừa-kế cái truyền-thống
thời Lý, Trần, không mãn-nguyện với Nho-học
độc-tôn, bế-quan của phương Bắc, nên đã đem
Nhân Nghĩa tổng-hợp biện-chứng với Tâm
Phật, qua tâm-lý nghệ-thuật thiên-nhiên của
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
129
Đạo-gia, vào Thiền-học Thượng-thừa của nhà
Ẩn-cả hay là " Đại-ẩn ẩn triều thị ".
Bởi thế Ông đã đem Nhân Nghĩa ứng-
dụng vào hành-động chính-trị vương-đạo với
cái Tâm vô-tâm hay là vô-tư, cho nên Ông đã
hợp-nhất hai phương-diện mâu-thuẫn ở Triết-
học nhân-sinh của Ông là Nhập-thế và Xuất-
thế, Xã-hội và Thiên-nhiên, Quốc-gia và Quốc-
tế, Cá-nhân và Vũ-trụ Đại-đồng .
Do đấy mà Ông biểu-dương rõ rệt tinh-
thần văn-hóa dân-tộc phương Nam khai-phóng,
chống với tinh-thần văn-hóa Trung-Hoa
phương Bắc bế-quan và độc-tôn, như lịch-sử
Việt - Hoa đã chứng-minh qua các thời-đại .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
NGUYỄN - TRÃI
VỚI CHÍNH-TRỊ NHÂN - NGHĨA
( Lê-Lợi vi quân, NGUYỄN-TRÃI vi thần )
Theo Nghệ-Văn-Chí, một tập Quân-
trung Từ-mệnh, do Nguyễn-Trãi thảo cùng với
các tướng nhà Minh, triều-đình phương Bắc
thư-từ qua lại, văn ba phen răn khuyên tướng-
sĩ. Khoảng năm Hồng-Đức, Trần-Đình-Kiểm
đã biên xếp thứ-tự, còn ghi chép Vua Lam-Sơn
từ thời thuộc Ngô đến lúc lấy lại nước, gồm
nhiều văn thư trao-đổi trong quân-sự đều sai
Văn-thần Nguyễn-Trãi làm ra cả .
***
Thư cho Vương-Thông cùng Sơn-Thọ :
Tháng hai phá thành Đông-Quan. Thông,
Thọ sai Nguyễn-Nhậm đem thư xin hòa. Cho
nên có thư đáp sau :
NGUYỄN-TRÃI
132
" Tôi nghe nói : Trời Đất đối với
muôn vật, giận-dữ sấm-sét mà trong ấy
cái ý-chí sinh-sống vẫn hành-động. Cha,
mẹ đối với đàn con, mắng chửi đánh đập
mà cái ơn nuôi nấng sẵn-sàng vẫn có "
***
" Chẳng những tránh sinh-linh nước
tôi lầm-than, mà cũng lại tránh cho quân-
lính Trung-Quốc khỏi cái khổ mũi kiếm ".
***
Lại gửi Vương-Thông ( II )
Tháng hai Vương-thông ở thành Đông-
Quan gửi thư trách vì phụ-ước, nên có thư trả
lời :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
133
" Tôi nghe nói : Người Việt kiêu
bạc, người Tề dối-trá, dáng vì khí đất
sinh-sản ra tính người nhiễm lấy, điều ấy
là cái lý thông-thường xưa nay " .
***
Lại gửi cho Vương-Thông ( III )
" Nghe nói đức tin là của báu của
nước. Làm người mà không có đức tin,
thì còn làm chi được vậy thay ?
" Sách nói không thành-thực không
có vật gì hết. Tâm không thành-thực thì
công việc đều sai-lầm không có thể thực-
hiện được, dân hèn-mọn, tuy ngu-muội
mà là thần-lực. Tuy cho tôi ngu-muội
không biết gì, nhưng ắt cũng như lời
Khổng-Tử bảo rằng : “ Nhìn cái chỗ tại
sao thế, xét cái chỗ do đâu đến, nghiệm
xem chỗ ổn-định, thì sự thực, sự sai, tơ
tóc không có thể giấu kín được vậy ”.
NGUYỄN-TRÃI
134
***
Lại gửi cho Vương-Thông ( IV ).
Lại gửi cho Vương-Thông ( V ) .
" Ta nghe nói : Trời không riêng
che, Đất không riêng chở, mặt-trăng mặt-
trời không riêng chiếu, cho nên bậc
vương-giả lấy bốn bể làm một nhà, dầu
không có kẻ xa gần phân-biệt ...................
" Ơn-huệ của triều-đình đã cùng với
Trời Đất cùng che-chở, mặt-trăng mặt-
trời cùng chiếu xuống, bậc người lớn có
sứ-mệnh, nước hủ-bại của chúng tôi đâu
dám trái ngược thay ! "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
135
***
Thư gửi Vương-Thông ( VI )
" Tôi nghe nói : lòng thành-thật đối
với vật là tâm Trời Đất, thành-thật đối với
sự yêu con là tâm cha mẹ. Yêu vật không
thành-thật thì nguồn sống liên-tục có lúc
tắt. Yêu con cái không thành-thật thì lòng
từ-ái có lúc giảm thiểu. Thế nên Trời Đất
đối với muôn vật, cha mẹ đối với con đỏ,
chẳng qua chỉ một lòng thành-thật mà
thôi. Bữa trước được thư của Ngài trách
rằng : “ Không hay tôn kính Trời Đất,
cha mẹ ”. Nhưng tôi xem hành-động của
người lớn bữa trước chẳng phải cái đạo
Trời Đất, cha mẹ, ắt như Tử-Trương lấy
cái tinh-thần trách người để trách mình
thì mới có thể hết đạo vậy " .
NGUYỄN-TRÃI
136
***
" Chỗ hành-vi bất nghĩa mà nặng vu
cho người, như thế không phải điều mà
người quân-tử nuôi trong lòng !
" Trước Ngài lại lấy việc họ Hồ mất
thân, mất nước làm thí-dụ với tôi. Ôi họ
Hồ không có đạo thì việc đem quân hỏi
tội vốn không thể chậm-trễ được. Nhưng
không hay làm cho kẻ mất được phục-
hưng, chỗ đứt được nối mà trái lại muốn
làm cho quân khốn cùng với vũ-lực,
khiến cho dân vô tội liều nằm chết ở mũi
dáo, dân ngu dại liều nằm phơi gan ruột ở
đồng hoang, há rằng thế là điều nhân-đức
của người quân-tử mang ở trong lòng đấy
ư ? Như thế gọi là lấy dân Yên đánh nước
Yên, lấy dân Tần đánh nước Tần vậy " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
137
***
Thư cho Vương-Thông ( IX )
" Tôi cho rằng cái đạo nước nhỏ thờ
nước lớn nên kính sợ. Nước thịnh hay suy
nhất là có quan-hệ đến Trời. Quân mạnh
hay yếu không ở số nhiều. Ngài thường
lấy việc nhà Hồ ngày trước làm thí-dụ
cho tôi. Tôi cho rằng việc ngày nay không
giống với việc ngày trước. Ôi họ Hồ
khinh Trời, ngược đãi dân, mà tôi thì giúp
Trời mà thuận với dân, cái lý thuận hay
ngược không giống nhau vậy. Đấy là điều
không giống nhau thứ nhất. Quân của họ
Hồ trăm vạn là trăm vạn lòng, quân của
tôi chẳng qua độ vài mươi vạn mà mọi
người đều một lòng, đấy là điều thứ hai
không giống nhau " .
NGUYỄN-TRÃI
138
***
Lại viết cho Vương-Thông ( X )
" Kinh Dịch 384 hào mà chỗ thiết
yếu chỉ một chữ Thời, cho nên người
quân-tử tùy thời đạt lẽ biến-đổi, cái
nghĩa thời lớn lắm thay !
" Kinh Thư nói : Trước thời giết
không tha, sau thời giết không tha. Thế
nên người quân-tử quý ở chỗ tùy theo
thời-thế mà ăn ở cho trúng. Nhưng từ xưa
đến nay Nho-sĩ vu-khoát, thô-tục không
biết thời-vụ. Biết thời-vụ là ở người tuấn-
kiệt. Như bậc người lớn gọi là tuấn-kiệt
biết thời-vụ .
***
" Bậc kẻ cả có lòng Trời Đất, cha
mẹ mới toàn vẹn lẽ trước sao sau vậy "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
139
***
Lại viết cho Vương-Thông ( XI )
" Khéo dùng binh ở chỗ biết xét-
đoán thời-thế mà thôi. Được thời, có thế
thì biến mất ra còn, hóa nhỏ ra lớn. Mất
thời, không có thế thì đổi mạnh ra yếu,
chuyển yếu ra nguy chỉ trong khoảnh-
khắc lật bàn tay mà thôi." Người xưa nói :
Kẻ kia có bụng ta đo thấy đi vào ruột, đi
guốc trong óc " .
Rồi kể 6 điều thua của địch .
***
Lại viết cho Vương-Thông ( XII )
Giải-thích không vì một sự thất-bại của
Lê-Lễ mà quân giặc có thể thắng được .
NGUYỄN-TRÃI
140
" Tôi nghe nói kià bể lớn không vì
một muỗng nước mà cạn, không đầy vì có
thêm một muỗng nước, cho nên giỏi dùng
binh không lấy việc thắng nhỏ làm mừng,
việc thua lớn mà sợ .
" Người lớn làm việc nên lỗi lỗi lạc
lạc. Không được náu ẩn như chuột trong
xó thành, chợt ra, chợt vào, cướp lấy củi
cỏ để lấy làm kế cao. Như thế là cách làm
của đàn-bà con-gái, không phải hành-vi
của bậc người lớn vậy " .
***
Lại viết cho Vương-Thông ( XIII )
" Ta nghe nói : điều đáng quý của
người tuấn-kiệt ở chỗ đạt thời-thế, xét-
đoán sự việc biến-đổi mà thôi .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
141
" Ngạn-ngữ nói : Một sớm không
ăn, cha con hết tình nghĩa ".
***
Lại viết cho Vương-Thông ( XIV )
Trình-bày rõ cho giặc biết cái thế giữ
thành không được mà sớm hàng đi, không
muốn dồn vào đường cùng .
" Người xưa nói : quân cướp đến lúc
cùng-quẫn thì chớ nên dồn-ép. Nay ta
muốn cất ba bốn mươi vạn quân vây bốn
cửa thành của ngươi, chỉ sợ chim đến lúc
quẫn thì mổ, thú đến lúc cùng thì cắn,
điều ấy ta không lấy quân toàn thắng để
đối với quân tất phải chết, để mà tranh
thắng với bọn nhỏ. Tuy nhiên kẻ địch nhỏ
bền giữ, kẻ địch lớn vây giữ. Kià lấy sức
ngàn cân đè ép lên trứng chim thì chưa
bao giờ thấy không nát vụn vậy " .
NGUYỄN-TRÃI
142
***
Thơ cuối cùng cho Vương-Thông ( XV )
Vương-Thông nghe tiếng gọi Nhân Nghĩa
và thấy không còn cách gì hơn là ra đầu-hàng.
Nguyễn-Trãi lại thay mặt Lê-Lợi mà dùng
luận-điệu mềm-dẻo thay vào lý-lẽ cứng rắn.
Cho nên :
" Ngày trước đây công việc đã qua
rồi khó mà vớt kịp .
" Từ nay về sau hối không trở lại
việc đã đi xa. Người lớn nếu hay nghĩ đến
dân An-Nam một phương, bé mọn không
biết gì mà không nỡ khiến kẻ vô tội chịu
chết-chóc thì lời nói ngày trước có thể
không phụ lòng vậy .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
143
Trên đây là tinh-thần chiến-lược vương-
đạo .
" Nhân Nghĩa chi cử " tức là chiến-tranh
Nhân Nghĩa của một nước yếu, nhược-tiểu đối-
phó với hành-vi bất-chính của một đại cường-
quốc. Qua 15 bức thư trên đây gửi cho Vương-
Thông, đại-diện quân-đội nhà Minh sang chiếm
đóng nước Nam, lấy danh-nghĩa là trừ kẻ bất-
chính là họ Hồ để phục-hưng nhà Trần, chúng
ta thấy được thế-lực của Lê-Lợi đi từ thế yếu
về binh-bị, về mọi mặt vật-chất, nhưng có
chính-nghĩa được nhân-dân hưởng-ứng, đến
một thế mạnh, làm chủ tình-thế trong nước .
Bởi thế, bắt đầu bằng :
Bức thư kêu oan, xin hàng vào năm thứ
VI, Lê Bình-Định-Vương ( 1423 ), theo chính
sử, tháng 5 ngày 6 Vương sai Lê-Vận, Lê-Trí
đem 5 đôi ngà voi với bức thư thỉnh hàng sau
NGUYỄN-TRÃI
144
đây. Bấy giờ vào năm Nhâm-Dần 1422 Vương
về núi Chí-Linh, tháng 2 hết lương, ăn măng,
ăn sắn, ăn củ trong rừng, quân-sĩ đói, mệt,
khuyên Vua tìm cách cầu hòa với giặc để được
nghỉ-ngơi dưỡng sức. Do đấy Vua sai Nguyễn-
Trãi thảo bức thư này cho Sơn-Thọ, Mã-Kỳ.
"Lam Sơn Thực Lục" viết rằng :
" Khi ấy gặp luôn-luôn những việc
gian-nan, quân-sĩ mỏi mệt, muốn được
nghỉ-ngơi, đều khuyên nhà Vua nên hòa
với giặc. Nhà Vua cực chẳng đã bèn giả
vờ hòa-hảo, cho sứ đi lại với tướng giặc
là bọn Sơn-Thọ, Mã-Kỳ. Mà giặc bị ta
đánh thua luôn luôn, ý cũng muốn lấy
mưu dụ nhà Vua. Nhà Vua cũng nhân nó
muốn dụ mình, định hãy cho quân-sĩ
nghỉ-ngơi, đặng đợi thời mà làm việc ".
Vậy nên có thư xin hàng .
***
Thư ( I ) cho Sơn-Thọ, Mã-Kỳ rằng :
" Tôi nghe nói sinh ra vào thời thái-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
145
bình, ai nấy đều được chỗ của mình, gặp
thời Thánh sáng, người nào mà chẳng
thỏa-mãn sự sống ? Nay tôi sinh lớn vào
thời Sáng ( Minh ) gặp thời thịnh-vượng
mà lại thường than-vãn mất chỗ sinh-sống
của mình là tại sao ?
***
" Nay nghe quan Tổng-binh là
người hào-hiệp có đức lớn, thừa ân đến
vật, lấy cái tâm Đặng-Vũ dụ địch làm
tâm, lấy chính-trị Hoàng-Bá hóa dân làm
chính-sách, thật là ngày đổi lỗi làm mới
của tôi vậy " .
NGUYỄN-TRÃI
146
***
Gởi cho quan Tổng-binh và các quan
Phủ-vệ Thanh-Hóa :
" Ôi ! vật không được an thì kêu,
cho nên kẻ chịu oan khốc thì lành dữ
không tỏ, chân ngụy không phân mà ra
vậy " .
***
Lại viết cho Sơn-Thọ ( II )
" Ôi ! đạo trong thiên-hạ không gì
trọng yếu hơn là đạo trung-nghĩa, tôn quý
không gì tôn quý hơn là danh tiết. Ghét
chết, ham sống, tìm đến chỗ vinh, tránh
xa nơi nhục, đấy là thường tình của người
ta vậy " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
147
Thế là tin-tưởng vào Nhân-Nghĩa lấy làm
chính-nghĩa Quốc-gia dân-tộc làm lợi khí
chiến-tranh, tức là pháp-thuật tâm-lý-chiến thời
Nguyễn-Trãi, vừa chinh-phục về võ-lực, vừa
chinh-phục nhân-tâm, tức là phép địch-vận
ngày nay vậy .
Địch - Vận Của NGUYỄN-TRÃI ._
Có thể nói đường lối địch-vận của
Nguyễn-Trãi cũng tức là của nghĩa-quân Lam-
Sơn, đã được vạch ra trong Bình Ngô sách do
Ông trao cho Lê-Lợi năm 1420, khi Ông gặp vị
thủ-lĩnh số 1 của nghĩa-quân ở Lỗi-Giang .
Đường lối địch-vận của Nguyễn-Trãi
cũng như toàn bộ chiến-lược đánh giặc cứu
nước của Ông đã được xây-dựng trên cơ-sở tư-
tưởng Nhân Nghĩa. Nhân Nghĩa nói đây không
phải đơn-thuần là đạo-đức chính-trị của Nho-
giáo, mà trước hết chính là chính-nghĩa hay nói
NGUYỄN-TRÃI
148
cụ-thể hơn là lý-tưởng cao-cả của những người
đấu-tranh vì độc-lập của dân-tộc, vì lợi ích của
nhân-dân .
Phân-biệt Giai-cấp Thống-trị Nhà Minh Với
Nhân-dân Trung-Quốc ._
Quân-trung Từ-mệnh số 28, trang 40 :
" Những dân vô tội, liền năm phải
thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ
lưu-ly, luôn năm phải nát gan ở nơi đồng
cỏ "
Trong " Bình Ngô Đại Cáo " Nguyễn-
Trãi trỏ vào quân Minh là : " Trẻ ranh Tuyên-
Đức độc-vũ quá chừng ". " Để thoát cho hai
nước cái khổ can qua, để khỏi cho hai nước cái
họa độc-vũ, cùng bình " _ ( Thư số 33 ).
Do tin-tức tình-báo, Nguyễn-Trãi biết
rằng năm Bính-Ngọ, tức năm Tuyên-Đức thứ I
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
149
( 1426 ), nhân-dân Trung-Quốc ở các miền
Tầm-Châu, Bình-Lạc, Tư-Âu, Nghi-Sơn, thuộc
tỉnh Quảng-Tây nổi lên chống lại triều-đình.
Vua Tuyên-Đức nhiều lần phải cho quân-đội đi
đàn-áp. " Quang-Trung Từ-Mệnh Tập ". Thư
cho Vương-Thông, Nguyễn-Trãi viết :
" Hiện nay ...... trong nước Tầu có
mối lo các xứ Tầm-Châu ..... "
" Ở nước các ông, quân mạnh, ngựa
tốt nay đánh cả ở miền Bắc để phòng-bị
quân Nguyên, không rõi nhìn đến miền
Nam ........ "
" Động dụng, can qua, hàng năm
đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao
thất-vọng .............. "
" Gian-thần chuyên-chính, chúa yếu
giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia-đình
sinh biến . ........"
" Quân Trung Từ Mệnh Tập " _ Thư cho
Vương-Thông .
Thư viết cho Đô-đốc Thái-Thúc Trấn-thủ
Nghệ-An :
NGUYỄN-TRÃI
150
" ..............hiện nay ở nước Minh,
bên trong có cái vạ tiểu-tương, bên ngoài
có cái lo Bắc khấu, nắng lụt tiếp nhau,
yêu nghiệt đến mãi, đại-thần lấn-át, cả
nước chia-lià, Trời làm táng vong chẳng
sớm thì muộn............"
Đấy là đòn tâm-lý, chiến-tranh cân-não .
Tháng 2 năm 1427 Đô-đốc Thái-Thúc
hàng cùng với quân Minh ở Diễn-Châu với
Thủ-lĩnh là Tiết-Tụ .
Nguyễn-Trãi làm công-tác địch-vận, có
tinh-thần thủ-tín, nghĩa là nói làm sao thì làm
đúng thế. Sau khi Thái-Thúc ra hàng từ thành
Đông-Quan, Nguyễn-Trãi cho người đem 15
chiếc thuyền vào Nghệ-An. Một mặt khác Ông
viết cho họ Thúc một bức thư đầy tình-cảm :
Thư gửi hiền-huynh Thái-công ._
" Đệ ngụ ở Đông-Quan, nghe tin
hiền huynh đã ra cửa thành bái yết Trần-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
151
Chúa chúng tôi, thật là đáng vui mừng
lắm lắm. Từ đây giải binh khiến cho nước
Nam được thoát khỏi cái khổ can qua,
thật may làm sao ! Có thể bảo Ngài là bậc
quân-tử hiểu thời-cơ đó. Như thế ân-tình
rất hậu, trăm năm không thể quên được .
" Nay tôi sai người đem 15 chiếc
thuyền đến đón Ngài cùng các quan và
quý-quyến có thể tùy tiện thu xếp hành-
trang lên đường. Còn quân-nhân thì có
thể đi đường bộ được. Hiện nay cầu
đường các nơi, tôi đã bảo sửa-sang, đi
đường không có lo ngại chi cả. Vậy xin
báo Ngài biết " .
Nguyễn-Trãi còn mời họ Thái ra làm
quan với Vua Lê :
" Nay Quốc-chúa tôi vốn biết ông là
hiền, muốn đặt ông vào địa-vị đại-thần
để được nghe dạy bảo, không biết ý ông
thế nào ?
" Nhờ có sự mách bảo của Thái-
Thúc. Lê-Lợi biết được âm-mưu của quân
NGUYỄN-TRÃI
152
Minh trong thành Đông-Quan. Ông đã
đánh bại quân địch và diệt được 9.000
tên .
" Còn ngụy-quân do tướng Minh tổ-
chức ở Việt-Nam, từ 1417 đến 1427 đã
có trên mười vạn là ít. Theo" Việt-Sử
Thông-Giám Cương-Mục " cho biết, các
hộ ở dân-gian, cứ 3 hộ lấy 1, mỗi hộ tính
theo tiêu-chuẩn 3 xuất đinh, duy từ
Thanh-Hóa trở vào, số nhân đinh ít, mỗi
hộ tính theo tiêu-chuẩn 2 xuất, số lính này
đem chia ra cho phụ-thuộc vào các vệ, sở,
nhưng là chỗ suy yếu lập thành đồn lũy,
lấy lính ở dân sung vào việc canh giữ " .
Để thu-phục ngụy-quân, Nguyễn-Trãi đã
thức-tỉnh lòng ái-quốc của chúng như sau :
" Người xưa có nói : Quạ đi về quê
cũ, cáo chết quay đầu về núi, cầm-thú còn
thế nữa huống là người. Các ngươi vốn
đều là người Tây-Việt, dòng-dõi nhà
quan. Trước đây nhân giặc Ngô lăng
loàn, các ngươi có người thân bị hãm
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
153
tặc-đinh ( Minh ), có người thì danh bị
buộc ở ngụy-chức, đó là không thể đừng
được, nào phải do bản tâm đâu. Đấng
Thượng-Đế nghĩ thương dân ta, đã
mượn tay ta cứu dân đánh đuổi kẻ có tội
để khôi-phục cơ đồ. Quân ta đến đâu,
nghĩa thanh vang dậy, dân-chúng bốn
phương cõng địu nhau mà đến theo ta.
Bọn các ngươi nếu biết sửa lòng đổi dạ,
bỏ nghịch theo thuận, hoặc ở làm nội-
ứng, hoặc ra để đầu-hàng, thì không
những rửa nổi hổ-thẹn ngày trước, mà
cũng được phần soi xét về sau " .
_ Quân-Trung Từ-Mệnh Tập )
Đấy lòng tha-thứ của bậc chính-nhân
quân-tử, vì chính-nghĩa dân-tộc không vì thù-
oán riêng tư vậy.
Bởi thế mà trận đánh Trà-Long, quân-đội
của Việt-gian Cầm-Bành ra hàng, buộc Cầm-
Bành phải mở cửa thành ra đầu-hàng, Lê-Lợi ra
lệnh cho Nguyễn-Trãi thảo :
NGUYỄN-TRÃI
154
" Tướng giặc đã ra hàng, mảy may
không được xâm-phạm. Bất cứ tội to, tội
nhỏ đều tha cho hết " .
_ ( Lam-Sơn Thực-Lục )
Cũng như trận đánh năm Giáp-Ngọ
( 1424 ), vây đánh Tây-đô tha cho tất cả vợ con
địch ra về không giết hại một người nào .
Lại ngày 25 tháng Giêng, năm Ất-Tỵ
( 1425 ). Lê-Lợi và Nguyễn-Trãi đem quân đến
Nghệ-An, ra lệnh cho quân-đội :
" Dân ta khổ-sở với giặc đã lâu.
Phàm đến Châu, Huyện nào, mảy may
không được xâm-phạm "
_ ( Lam-Sơn Thực-Lục )
Cử-chỉ ấy đã cảm-phục lòng người, nên
nhân-dân nô-nức khao-lạo nghĩa-quân, tự động
cùng với nghĩa-quân vây đánh đồn giặc. Kết-
quả là :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
155
" Trước kia quân-lính đói thiếu, bây
giờ nhờ lương-thực của giặc mà số trữ
súc của ta càng có sẵn. Trước kia quân-
lính lẩn trốn, bây giờ mượn lính của giặc
quay dáo lại để chúng đánh lẫn nhau.
Giặc có bao nhiêu mác, mộc, cung, tên
đều giúp cho ta làm chiến-cụ. Giặc có bao
nhiêu bạc, vàng, của báu là cung cho ta
làm quân-lương. Cái mà chúng muốn
dùng để hại ta, lại trở lại làm hại chúng.
Cái mà chúng muốn dùng để đánh ta, lại
trở lại để đánh chúng " .
_( Lam-Sơn Thực-Lục )
Đấy là chính-sách phổ-thông của người
Việt " Gậy ông đập lưng ông ". Lòng tha-thứ
của lãnh-tụ Lê-Lợi và Nguyễn-Trãi không phải
là cái tình-cảm mềm yếu. Đấy là cả một
phương-pháp " Nhu được, cương được ". Như
lời cảnh-cáo ngụy-quân sau đây của Nguyễn-
Trãi :
" Nếu các người lại còn tham tiếc
ngụy-chức, chống lại Vương-sư, thì khi
NGUYỄN-TRÃI
156
hãm thành, tội các ngươi tất nặng hơn tội
giặc Ngô đấy " .
_ ( Quân-Trung Từ-Mệnh Tập )
Chính-sách địch-vận vừa hợp tình vừa
hợp lý, đủ uyển-chuyển để mở lối thoát cho kẻ
đường cùng là ngụy-quân, vừa cứng-dắn đanh-
thép để ngụy-quân e-sợ. Kết-quả là tháng 2
năm 1427, sau khi Thái-Thúc ở Nghệ-An, Tiết-
Tụ ở Diễn-Châu mở cửa thành ra hàng, bọn
ngụy-quân ở thành Điêu-Diêu là Trương-Lân
và Tri-phủ Trần-Vân cũng theo về nghĩa-quân .
Nguyễn-Trãi tin-tưởng vào chính-nghĩa
của mình cho nên vào tận trong thành giặc để
thuyết-phục, như ở thành Tam-Giang ngày 2
tháng 4 năm 1427 chẳng hạn. Theo Dương-Bá-
Cung trong " Bình-luận Chú-thuyết ", trước
sau Nguyễn-Trãi vào thành địch thuyết-phục
tất cả có 5 lần, mà lần nào cũng thành-công .
Trong " Kiến-văn Tiểu-lục " của Lê-
Quý-Đôn, đã viết về sách-lược địch-vận của
Nguyễn-Trãi như sau :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
157
" Không phải đánh mà hạ được
thành Đông-Đô, cuối cùng hai bên thành
cuộc hòa-hiếu, đều là do mưu-chước của
Nguyễn-Trãi " .
Ngô-Sĩ-Liên trong "Đại-Việt Sử-ký Toàn-
thư" cũng viết rõ hơn :
" Vua Lê-Lợi dùng quân thường lấy
mềm chống cứng, lấy yếu chống lại
mạnh, cho nên nhiều phen thắng trận. Các
thành Nghệ-An, Thuận-Hóa, Tây-Đô và
Đông-Đô đều sai Văn-thần là Nguyễn-
Trãi làm thư Chiêu-Dụ, nên không phải
đánh mà giặc hàng cả " .
" Từ năm 1418 đến năm 1428 quân
Lam-Sơn dùng vũ-công đánh thành chỉ
có 2 lần : Thành Khâu-Ôn tháng 2 -
1427, khiến Từ-Lân, Thái-Ngung phải tự-
vẫn, Tôn-Tụ bỏ chạy. Thành Xương-
Giang hạ ngày 28 tháng 9 năm 1427,
tướng Lý-Nhậm phải tự-sát.
" Còn tất cả các thành khác như
Điêu-Diêu, Nghệ-An, Diễn-Châu, Tam-
NGUYỄN-TRÃI
158
Quang, Thị-Cầu, Thuận-Hóa, Tây-Đô,
Chí-Linh, Đông-Quan v.v...... đều hạ
bằng chiến-lược địch-vận của Nguyễn-
Trãi cả .
" Tiêu-biểu nhất là việc hạ thành
Đông-Quan tức Thăng-Long. Tháng 2
năm 1427 Vương-Thông thấy viện-binh
Liễu-Thăng và Mộc-Thạch bị bại, mới
chịu đầu-hàng, xin rút quân về nước .
" Khi ấy các tướng-sĩ và người nước
ta bị khổ vì sự tàn ngược của giặc từ lâu,
rủ nhau đều cố xin với Vua rằng giặc
nhiều mưu-mô xảo-trá, nên lấy binh mà
đánh thắng, khuyên Vua giết hết quân
Minh đi. Duy có Hành-khiển Nguyễn-
Trãi ở nơi màn-trướng, được xem bức thư
bọc sáp của Vương-Thông gửi về nước
như sau :
“ Chớ tham chỗ đất một góc
mà làm nhọc quân đi muôn dặm ;
giả sử dùng được quân như quân đi
đánh giặc hồi trước, lại được 6, 7, 8
Đại-tướng như bọn Trương-Phụ thì
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
159
mới có thể đánh được ; tuy nhiên có
đánh được cũng không thể giữ
được ” .
" Nguyễn-Trãi mới biết rõ thế
mạnh yếu của giặc, bèn chuyên chú mặt
hòa " .
_ (Đại-Việt Sử-ký Toàn-thư )
Nguyễn-Trãi bàn với Lê-Lợi :
" Tình-hình quân giặc lúc này, mình
muốn phá sào-huyệt, ăn gan uống máu để
rửa mối thâm-thù không phải là việc khó-
khăn. Nhưng thần trộm e như vậy sẽ kết
mối thù với triều-đình nhà Minh quá sâu.
Về sự trả-thù vì sự cứu-vớt lấy thể-diện
một nước lớn, binh đao biết đến bao giờ
cho dứt được. Chi bằng ta nên thừa lúc
này kẻ kia lâm vào thế cùng mà cùng họ
hòa-hiếu để tạo phúc cho cả sinh-linh hai
nước " .
Đấy cũng tỏ ra sách-lược " mềm được,
cứng được " của Nguyễn-Trãi, cũng phải biết
NGUYỄN-TRÃI
160
mình biết người nữa mới được vậy. Biết mình
là nước nhỏ, biết người nước lớn gấp 10 lần,
nên phải hành-động sao cho đúng mức .
NGUYỄN-TRÃI Với Chiến-Tranh Và Hòa-
Bình._
Nguyễn-Trãi tha-thiết muốn hòa-bình,
nặng lòng Nhân Nghĩa :
" Mọi sự đã chăng còn ước nữa
Nguyện xin một thẩy thủa thanh-bình ".
_ ( Tự-Thán, 29 _ Quốc-Âm Thi-tập )
Mừng khi chiến-tranh kết-thúc :
" Áo nhung đại định chóng sao
Treo cung rửa giáp reo vui thái-bình ".
_ ( Hạ quy Lam-Sơn II _ Thơ chữ Hán )
" Mừng thủa thái-bình yêu hết tấc " .
_ ( Trần-Tình 3 _ Quốc-Âm Thi-tập )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
161
" Phúc thay sinh gặp thủa thăng-bình "
_ ( Tự-Thán 28 _ Quốc-Âm Thi-tập )
" Năm kia giết Kình-nghê biển Bắc;
Yên vui còn mãi sắc nhung binh;
..................................
Muôn dân yên nghỉ vui vầy;
Dùng văn trị nước đắp xây thái-bình " .
_ ( Quan-duyệt Thủy-trận _ Thơ chữ Hán)
" Đất Thiên-tử dưỡng tôi Thiên-tử
Đời thái-bình ca khúc thái-bình " .
_ ( Thuật-Hứng 20 _ Quốc-Âm Thi )
Căm ghét bọn hiếu-chiến :
" Độc vũ cùng binh "
_ ( Thư dụ _ Quân-Trung Từ-Mệnh )
Trong " Quân-Trung Từ-Mệnh " luôn
luôn gọi đến lý-tưởng an-cư lạc-nghiệp của dân
mà ghét bọn hiếu-chiến .
NGUYỄN-TRÃI
162
" Nay giặc Minh cường-bạo, làm
điều bất đạo, trái với lòng Trời, độc vũ
cùng binh, cốt rộng thêm đất, sinh dân
khổ-sở hơn hai mươi năm " .
_ (Thư dụ _ Thanh-Hóa, Nghệ-An, số 40)
" Song không những làm cho nước
đã diệt, được phục-hưng, dòng-dõi tuyệt,
có thừa-kế mà lại muốn cùng binh độc vũ,
khiến những dân vô tội, liền năm phải
thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ
lưu-ly, luôn năm phải nát gan ở nơi đồng
cỏ, có lẽ nào bụng dạ người Nhân quân-tử
lại như thế ư ? "
_ ( Thư 28 cho Vương-Thông )
" Dân-chúng lưu-ly, những nỗi lià-
tan không kể xiết; binh-sĩ đánh chác, luôn
năm chết-chóc đáng thương thay ! "
_ ( Biểu cầu phong, " Quân-Trung Từ-
Mệnh " )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
163
" Động dụng can qua, hàng năm
đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao
thất-vọng. Đó là điều phải thua thứ tư " .
_ ( Thư dụ Vương-Thông 35 )
" Thành tâm dục dữ dân hưu túc
Văn trị chung tu trí thái-bình " .
_ ( Thơ chữ Hán )
" Sau loạn gặp người xem cũng lạ
Đưa mắt sầu gửi cả kiền-khôn
Bàn chi Phạm mất Sở còn
Ngẫm hay muôn sự vẫn hoàn như
không ".
_ (Thu Dạ Khánh-Cảm 1 _chữ Hán)
" Một đời sự-nghiệp buồn cười bấy
Còn chút hư danh miệng thế đồn ".
Trong tấu cáo ( liệt Thánh nhà Trần )
Nguyễn-Trãi nói :
" Cúi nhờ liệt-thánh Hoàng-đế rũ
lòng giúp-đỡ, tiêu-diệt quân Minh, để
NGUYỄN-TRÃI
164
đem lại cái phúc thái-bình muôn thủa " .
_ ( Quân-Trung từ-Mệnh tập )
Nhưng không thể có hòa-bình giữa kẻ
xâm-lược với kẻ bị xâm-lược :
" Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống
.........................................
Một cỗ nhung-y chiến-thắng nên
công oanh-liệt ngàn năm " .
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Hòa-bình đầu-hàng của kẻ ra làm quan
với giặc thì chỉ có :
" Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ .
...........................................
Bại Nhân Nghĩa nát cả Đất Trời,
Nặng thuế-khóa sạch không đầm núi .
Người bị ép xuống biển gồng lưng mò
ngọc, ngán thay cá mập thuồng-luồng .
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn
nỗi rừng sâu nước độc .
.......................................
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
165
Nặng-nề những nỗi phu-phen
Tan-tác cả nghề canh cửi " .
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Nguyễn-Trãi không thừa-nhận loại hòa-
bình đó :
" Có đau phải kêu, ấy thật tình người tất
thế.
Chim cùng thì mổ, hổ cùng thì vồ ".
_ ( Biểu cầu phong )
Hòa-bình phải đi liền với tự-do độc-lập :
" Mừng thủa thái-bình yên hết tấc
No lòng tự tại quản chi là " .
_ Trần-tình 3 _ Quốc-Âm Thi-tập )
Muốn yên hưởng hòa-bình, phải nghĩ đến
chiến-tranh :
" Ở yên thì nhớ lòng xung-đột
Ăn lộc đền ơn kẻ cấy-cầy ".
_ (Bảo-Kính-Giới 19 _Quốc-Âm Thi-tập)
NGUYỄN-TRÃI
166
Dụ hàng không phải là một thủ-đoạn
địch-vận thông-thường, mà cả một chính-sách
thể-hiện tư-tưởng Nhân Nghĩa và ý-chí hòa-
bình, muốn cho cả hai bên :
" Sinh-linh nước tôi được khỏi lầm-
than mà quân-sĩ Trung-Quốc cũng khỏi
nỗi gươm đao vậy ".
_ ( Thư số IX cho Vương-Thông và Thái-
giám Sơn-Thọ )
Thái-độ Nhân Nghĩa đối với kẻ đầu-hàng
ở thành Đông-Quan :
" Các tướng-sĩ cùng nhân-dân kéo
nhau đến cố xin nhà Vua ( Lê-Lợi ) giết
cho hết bọn chúng ( quân Minh ) để bõ
giận cho Trời, Đất, Thần, Dân, để hài
lòng các trung-thần nghĩa-sĩ, để an-cư
các hồn vô tội chịu oan-khuất, và để gột
rửa nỗi nhục vô cùng cho nước nhà. Lê-
Lợi đang phân-vân chừa biết xử-trí ra sao
thì Nguyễn-Trãi đã tâu : “ Tình-hình quân
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
167
giặc trong lúc này, mình muốn phá sào-
huyệt, ăn gan, uống máu để rửa mối
thâm-thù không phải là việc khó. Nhưng
thần trộm e như vậy sẽ kết mối thù với
triều Minh quá sâu. Rồi vì sự trả thù, vì
sự cứu-vớt lấy thể-diện của một nước lớn,
Vua Minh tất lại phái binh sang, như thế
cái vạ binh đao đến bao giờ cho hết được.
Chi bằng ta nên thừa lúc này, kẻ kia lâm
vào thế cùng mà cùng họ hòa-hiếu để tạo
phúc cho sinh-linh cả hai nước.
“ Phục thù báo oán là thường tình
của con người. Nhưng không thích giết
người là bản-tâm của bậc nhân-giả. Vả
chăng, người ta đã ra hàng mà mình lại
giết đi thì thật không gì bất-lương hơn
nữa. Muốn hả cái giận trong một lúc mà
chịu mang tiếng giết kẻ hàng trong muôn
đời, thì sao bằng để sống ức vạn người
mà dứt chiến-tranh về sau cho hai nước.
Sử xanh chép lại, ngàn thủa lưu thơm, há
chẳng vẻ-vang sao ? ” "
_ ( Lam-Sơn Thực-lục )
NGUYỄN-TRÃI
168
Đối với Nguyễn-Trãi, mục-đích của
chiến-tranh là an-dân :
" Nhân Nghĩa chi cử, yếu tại an dân
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo ".
Kính dân và sợ dân :
" Sức dân như nước lật thuyền "
_ ( Quan Hải, thơ chữ Hán )
" Mến người có đức Nhân là dân,
mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân."
_(Chiếu về việc làm bài " Hậu Tự Huấn")
Tư-tưởng hòa-bình của Nguyễn-Trãi là do
tin-tưởng vào Nhân Nghĩa vương-đạo :
" Quyền mưu dùng để trừ gian,
Lấy điều Nhân Nghĩa lo toan trị bình.
Nho thần đài các hiển vinh,
Cõi ngoài vô sự liễu danh thanh nhàn ".
_ ( Hạ quy Lam-Sơn _ Thơ chữ Hán )
Muốn dân an, dân thời Nghiêu - Thuấn
thì phải có Vua Nghiêu - Thuấn :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
169
" Tể-tướng hiền tài chúa thánh minh " .
Ở lúc chiến thì :
" Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
...........
Nhân-dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc
ngọn cờ phất-phới.
Tướng-sĩ một lòng phụ-tử, hòa nước sông
chén rượu ngọt-ngào .
.....................
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn
Lấy chí nhân để thay cường-bạo " .
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Sau khi chiến-thắng :
" Nghĩ kế Quốc-gia trường-cửu tha
ngay mười vạn hàng binh.
Hai nước dốc lòng hòa-hiếu, muôn
đời dập mối chiến-tranh.
“ Toàn-quốc ” trên hết lo sự yên
lành " .
_ ( Chí-Linh Sơn phú )
NGUYỄN-TRÃI
170
Đối với quân và dân, Tể-tướng, Hiền-tài
phải :
" Coi quân, trị dân đều phải dùng
phép công-bằng, làm việc cần-mẫn, thờ
Vua hết trung, đối dân hết hòa, bỏ thói
tham-ô, trừ lệ lười-biếng, bè-đảng riêng
tây phải bỏ, thái-độ cô-phạm phải chừa.
Coi công-việc của Quốc-gia làm công-
việc của mình, lấy điều lo của sinh-
dân làm điều lo thiết-kỷ, hết lòng, hết sức
giúp-đỡ nhà Vua khiến cho xã-tắc yên
như Thái-sơn, cơ-đồ vững như bàn-
thạch".
_ ( Chiếu cấm các Đại-thần, Tổng-
quan cùng các quan ở Viện, Sảnh, Cục,
tham-lam lười-biếng ).
Chúa Thánh-minh phải biết hổ-thẹn :
" Đẹp cung thất, cao đài tạ, tất gây
thói tục xa hoa ; Theo ý mình, ức lòng
người, tất đến trăm năm oán-giận .
" Thường nghĩ những qui-mô lớn
lao, lộng-lẫy đều là sức lao khổ của quân
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
171
dân, cứ để yên thế mà còn e không đáng".
_ ( Chiếu truyền bách quan không được
làm lễ-nghi khánh hạ ) .
Chúa Thánh-minh còn phải :
" Hòa-thuận tôn thân, nhớ giữ một
lòng hữu ái, thương yêu dân-chúng, nghĩ
làm những việc khoan nhân. Chớ thưởng
bậy vì tư ân. Chớ phạt bừa vì tư nộ. Đừng
thích bạc tiền mà luông-tuồng xa-xỉ ;
đừng gần thanh sắc mà bừa-bãi hoang-
dâm. Cho đến những việc dùng nhân-tài,
nghe can-gián, ra một chính-sách, một
mệnh-lệnh, phát một lời nói, một việc
làm, đều giữ chính-trung, dùng theo
thường điển, ngõ hầu trên có thể đáp
thiên-tâm, dưới có thể thỏa nhân-vọng, thì
quốc-gia mới có thể yên vững lâu dài ".
_ ( Hậu Tự Huấn )
Lê-Thái-Tông cũng biết chuộng hòa-bình,
coi chiến-tranh chỉ là bất-đắc-dĩ, " Vì dân trừ
bạo " :
NGUYỄN-TRÃI
172
" Vị dân bản dục trừ tàn bạo
Yến võ trung dân tẩy giáp binh ;
Biên ải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh
Tòng kim cửu ngụ thuộc long bình "
Dịch :
( Vì dân nên phải trừ tàn-bạo
Xếp võ rồi đây rửa kiếm thương
Bờ cõi đã yên cơn gió bụi
Từ nay bốn bể được an thường ).
_ ( Thân chinh Võ-Linh-Hương )
Lê-Thánh-Tông càng ca-ngợi hòa-bình :
An bang phong thổ
Hải thượng vạn phong quần ngọc lập
Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh
Ngư diêm như thổ dân xu tiện
Hòa đạo vô điền phú bạc chinh
Ba hướng sơn bình đê xứ dũng
Chu xuyên thạch bích khích trung hành
Biên manh cửu lạc thừa binh hỏa
Tứ thập niên dư bất thức binh .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
173
D ịch :
( Bờ biển chen ven núi mấy hàng
Chập chồng chiều dọc lại chiều ngang
Đất nhiều có muối dân no đủ
Ruộng thiếu hoa mầu thuế nhẹ-nhàng
Sóng vỗ sườn non dồn chỗ thấp
Thuyền theo vách đá dọc đường hang
Hòa-bình hưởng mãi dân vui-vẻ
Hơn bốn mươi năm sống dễ-dàng ) .
_ ( Hợp Tuyển Thơ văn Việt-Nam )
Từ Lê-Lợi đến Thánh-Tông, triều Lê vẫn
tỏ ra yêu hòa-bình, tuy cũng có lúc tiến-hành
chiến-tranh Nam-tiến để tìm thế tự-vệ với Bắc-
phương, bảo-tồn độc-lập cho dân-tộc .
Nguyễn-Trãi cũng như từng lớp Nho-sĩ
tiến-bộ thời bấy giờ đã thấy chế-độ nhà Trần
suy-sụp, và chờ-đợi ủng-hộ một lớp người mới.
Là cháu ngoại vị Tư-đồ Hoàng-tộc nhà Trần,
Nguyễn-Trãi đã không chấp vào nghĩa trung-
quân nghĩa-bộc để theo triều thoán-nghịch
Nhuận-Hồ. Nhưng Hồ không đáp-ứng nhu-cầu
NGUYỄN-TRÃI
174
của thời-đại, vì bọn Nho-sĩ " Bạch diện thư
sinh " tranh-dành .
....... Họ Hồ chính sự phiên hà
Để trong nước lòng dân oán-hận .
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Sau lúc quân Minh xâm-lược, có cuộc
khởi-nghĩa khôi-phục nhà Trần khá mạnh, mà
Nguyễn-Trãi vẫn không tham-gia, đợi thời.
Người trí-giả thấy việc từ lúc việc chưa
phát .
Mãi đến Chúa Bình-định nổi lên ở Lam-
Sơn, Trãi mới hưởng-ứng. Và trong chiến-tranh
hay hòa-bình, Nguyễn-Trãi trước sau vẫn một
lòng vì dân, vì nước thật sự, cho nên dù đến lúc
bị phụ-bạc, Ông vẫn ngâm câu Ái-quốc Trung-
quân .
" Nhân gian mọi sự đều nguôi cả
Một sự quân thần chẳng khứng nguôi ".
_ ( Tự Thán, 36 - Quốc-âm Thi-tập )
***
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
175
TRIẾT-LÝ CHÍNH-TRỊ QUỐC-GIA
XÃ-HỘI CỦA NGUYỄN-TRÃI
Ông Hải-Thu trong Tạp-chí " Nghiên-
Cứu Lịch-Sử " ( Số 85 - Viện Sử-học Hà-Nội )
có viết :
" Tư-tưởng của Nguyễn-Trãi xét
cho cùng cũng là tư-tưởng yêu nước
thương dân. Lý-tưởng của Nguyễn-Trãi là
xây-dựng một quốc-gia thái-bình, nhưng
không phải là một quốc-gia thái-bình mà
trong đó nhân-dân phải làm nô-lệ cho bọn
xâm-lược, phải chịu mọi điều cực nhọc
của kẻ mất nước, mà là một quốc-gia
thái-bình thịnh-trị như thời Nghiêu -
Thuấn. Một quốc-gia mà trong đó mọi
người đều được bình-đẳng hạnh-phúc,
NGUYỄN-TRÃI
176
mọi người đều ấm no sung-sướng, thương
yêu lẫn nhau " .
" Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền " .
_ ( Tự Thánh - Quốc-âm thi tập )
Lời nói có chỗ mâu-thuẫn, nhưng ý chính
thì cũng khá đúng. Tác-giả có lẽ vô tình mà
công-nhận quan-điểm Nho-học về lịch-sử
nhân-loại, không phải bắt đầu là lịch-sử giai-
cấp đấu-tranh mà là xã-hội phân-công hợp-tác,
thời công-cộng sơ-thủy. Chủ-nghĩa dân-tộc hay
là quốc-gia xã-hội của Nguyễn-Trãi tiêu-biểu
cho chủ-nghĩa dân-tộc Việt-Nam truyền-thống
là vì dân vì nước, chứ không phải vì quyền-lợi
giai-cấp, cũng như tư-tưởng của Nho-sĩ
Nguyễn-Công-Trứ sau này :
" So lao tâm lao lực cũng một đoàn
Người nhân thế muốn nhàn sao được " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
177
Và có thể nói là tư-tưởng chính-trị của
Nho-sĩ Nguyễn-Trãi thuộc về truyền-thống
Nho-học vương-đạo, lập-cước trên cơ-sở biện-
chứng Dịch của vũ-trụ sinh-thành " Âm dương
tương thôi nhi sinh biến hóa " ( Khí âm khí
dương mâu-thuẫn thúc đẩy mà sinh biến-hóa ) .
Theo định-luật ấy thì :
Hữu thiên địa nhiên hậu hữu vạn vật ;
Hữu vạn vật nhiên hậu hữu nam nữ ;
Hữu nam nữ nhiên hậu hữu phu phụ ;
Hữu phu phụ nhiên hậu hữu phụ tử ;
Hữu phụ tử nhiên hậu hữu quân thần ;
Hữu quân thần nhiên hậu hữu thượng hạ;
Hữu thượng hạ nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở
thố .
_ ( Dịch. -- Tự Quải truyện )
Dịch nghĩa :
( Có lưỡng-nguyên Trời Đất phân hóa rồi
mới có tất cả tạo-vật hiện-tượng ;
NGUYỄN-TRÃI
178
Có tất cả tạo-vật xuất-hiện rồi mới có
giống trống và mái, nam và nữ ;
Từ có nam nữ mới có quan-hệ vợ chồng ;
Từ có quan-hệ vợ chồng sau mới có
quan-hệ cha con ;
Từ có quan-hệ gia-tộc cha con rồi sau
mới đến quan-hệ vua tôi trong quốc-gia ;
Từ có quan-hệ vua tôi mới đến sự phân ra
trong xã-hội có trật-tự trên dưới ;
Một khi đã phân-biệt trên dưới trong xã-
hội thì mới có chỗ thi-thố lễ nghĩa, phải
nên và thích đáng ).
Quốc-gia xã-hội chỉ là những quá-trình
tiến-hóa và là một thực-kiện lịch-sử xuất-hiện
sau khi có tạo-vật, có loài người, có nam nữ, vợ
chồng, cha con trong gia-đình, vua tôi trong
quốc-gia, giai-cấp trên dưới trong xã-hội .
Nhân-loại đã trải qua thời chưa có xã-hội,
sống thiên-nhiên hoàn-toàn tự-do không có gì
câu-thúc trói buộc như J.J. Rousseau viết :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
179
" L'Homme est né libre et partout il se
trouve dans les fers "
_ (Discours sur l'origine et les fondements
de l'inégalité parmi les hommes )
Cổ-điển Trung-Hoa gọi là thời " Sào cư
huyệt xứ ", ( làm tổ trên cây, ở hang-động ). Kế
đến thời-kỳ du-mục hay định-cư ở các xã-hội
sơ-thủy cộng-sản của thị-tộc mẫu-hệ " Tri mẫu
bất tri phụ " ( Biết có mẹ không biết ai là cha ),
vì tất cả người đàn-ông đều là cha và tất cả
người đàn-bà đều là vợ, trừ chị em hay là anh
em ruột thịt .
Từ chế-độ thị-tộc tiến lên chế-độ quốc-
gia xã-hội, bắt đầu là giai-đoạn lý-tưởng đại-
đồng, mà sách Lễ-Ký của Nho-học tả dưới
danh-từ Đại-Học :
" Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi
công. Tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu
mục. Cố nhân bất độc thân kỳ thân, bất
độc tử kỳ tử. Sử lão hữu sở chung, tráng
NGUYỄN-TRÃI
180
hữu sở dụng, ấu hữu sở trưởng, canh quả
cô độc, phế tật giả, giai hữu sở dưỡng,
nam hữu phận, nữ hữu quy. Hóa ố kỳ khí
ư địa dã, bất tất tàng ư kỷ. Lực ố kỳ bất
xuất ư thân dã, bất tất vị kỷ. Thị cố mưu
bế nhi tất hưng, đạo thiết loạn tặc nhi bất
tác. Cố ngoại hộ nhi bất bế, thị vị đại
đồng .
" Kim đại đạo ký ẩn, thiên hạ vi gia,
các thân kỳ thân, các tử kỳ tử. Hóa lực vị
kỷ, đại nhân thế cập dĩ vi lễ, thành quách
cấu trì dĩ vi cố. Lễ nghĩa dĩ vi kỷ, dĩ chính
quân thần, dĩ đốc phụ tử, dĩ mục huynh
đệ, dĩ hòa phu phụ, dĩ thiết chế độ, dĩ lập
điều-lý, dĩ hiền dũng trí, dĩ công vi kỷ. Cố
mưu dụng thị tác nhi binh do thử khởi,
Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công do thử kỳ
tuyển dã. Thử lục quân tử giả, vị hữu bất
cầu ư lễ giả dã, dĩ trứ kỳ nghĩa, dĩ khảo
kỳ tín trứ hữu quá, hình nhân giảng
nhượng, thị dân hữu thường. Như hữu bất
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
181
do thử, tại thế tất khử, chúng dĩ vi ương,
thị vị Tiểu Khang " .
_ ( Lễ-Vận - Tiểu Đại , Lễ-Ký )
Dịch nghĩa :
( Đạo lớn mà được thi-hành thì
thiên-hạ là của chung, tuyển-cử người có
đức và tài, giảng dạy đức tin và hòa mục.
Cho nên người ta không riêng thương yêu
cha mẹ mình, không riêng coi con mình
làm con, khiến sao cho người già có chỗ
sống hết tuổi già, người mạnh-khỏe có
chỗ sử-dụng, người trẻ-thơ có chỗ trưởng-
thành, người vợ góa, người cô-đơn, tàn-
tật có chỗ để nuôi-dưỡng. Con trai có vợ,
con gái có chồng. Tài-sản ghét bỏ ở đất
nhưng không tất nhiên giấu nơi mình. Sức
làm việc ghét không xuất tự nơi mình,
nhưng không tất nhiên để vì mình. Thế
nên mưu-trí bị lấp không có đường phát-
triển, trộm cướp giặc loạn không nổi lên
được. Cho nên cổng ngoài không cần phải
NGUYỄN-TRÃI
182
đóng, thế gọi là xã-hội Đại-đồng .
( Ngày nay đạo lớn chìm lặn, thiên-
hạ là của các nhà, ai nấy thân yêu riêng
cha mẹ thân-thuộc mình, ai nấy riêng báu
con mình. Tài-sản sức-lực để vì mình.
Người quyền-thế đời nọ đến đời kia lấy
làm phép-tắc, xây thành lũy rạch hào để
củng-cố, lấy lễ-nghĩa phép-tắc làm kỷ-
cương, để chỉnh-đốn quan-hệ vua tôi, để
thúc đẩy quan-hệ cha con, để làm cho anh
em được kính yêu, để hòa-thuận vợ
chồng, để lập nên chế-độ, để hoạch-định
ruộng đất, để cho người dũng và trí nên
hiền lành, để lấy công về mình. Cho nên
việc dùng mưu-trí do đấy mà sinh ra, mà
binh cánh do đấy mà nổi lên. Vua Vũ,
Thang, Văn, Võ, Chu Công do đấy mà có
sự tuyển-lựa ra vậy. Đấy là sáu bậc quân-
tử, chưa từng không chăm-chú vào phép-
tắc để làm tỏ điều nên, để xét điều tín,
làm tỏ sự có lỗi, lấy điều nhân-đức làm
khuôn-phép mà giảng dạy điều nhún-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
183
nhường, chỉ-thị cho dân có phép thường.
Như có kẻ không theo con đường ấy mà
đi sẽ bị khử-trừ khỏi vị-thế, quần-chúng
lấy làm tai-vạ. Đấy là thời-đại Tiều-
Khang ) .
Từ xã-hội Đại-đồng lý-tưởng mà Nho-sĩ
Hoa, Việt đặt vào quá-khứ lịch-sử đi đến xã-
hội Tiểu-khang của các quốc-gia, chúng ta thấy
bản-năng tư-hữu của loài người biểu-lộ, tức là
từ xã-hội không có hay là chưa phân-hóa có
trên dưới, có giai-cấp phân-công, bắt đầu là
" Nam ngoại, nữ nội ", nghĩa là trai-tráng ở
ngoài đi săn hay làm ruộng, phụ-nữ ở trong nhà
giữ lửa và làm việc nội-trợ. Sự phân-công ấy là
tùy theo thiên-tính, ngõ hầu tăng-gia sản-xuất,
tức là ngụ ý-nghĩa phân-công hợp-tác, chứ
không phải để đấu-tranh với nhau đến một mất
một còn vậy. Nhưng bản-năng vị-kỷ của con
người đi đến quá độ mới có phép-tắc, lễ-nghĩa
để chế-ngự. Và từ đấy lịch-sử mới là lịch-sử
giai-cấp đấu-tranh, nhất là ở các xã-hội công-
NGUYỄN-TRÃI
184
nghiệp phát-triển, song phép-tắc, lễ-nghĩa đặt
ra để chế-ngự lòng vị-kỷ quá độ của con người,
mục-đích là để gọi trở về ý-nghĩa nguyên-lai
phân-công hợp-tác của giai-cấp xã-hội mà
phục-vụ quyền-lợi cùng hạnh-phúc chung với
tinh-thần chí công vô tư vậy .
Do đấy mà Nho-học chú-trọng đến vấn-
đề chính-trị với ý-nghĩa " Chính giả chính dã "
( Chính-trị là làm cho ngay chính hành-vi của
người ), nhất là hạng người ở chức-vụ phân-
công, chuyên quản-lý công việc quốc-gia xã-
hội, tức là công việc chung của đoàn-thể lớn
nhỏ. Đề-cập đến khoa chính-trị ấy của Nho-học
là thiên sách căn-bản trong Lễ-Ký là " Đại-
Học " mà Phan-Văn-Trường gần đây đã giới-
thiệu cho Tây-phương, rất gọn :
" C'est la sociologie résumée en
quelques propositions qui enchaînent
vigoureusement le processus de l'évo-
lution sociale en montrant comment
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
185
l'homme doit rejoindre l'humanité par la
famille et par l'Etat. Ces propositions
renferment les principes fondamentaux
sur lesquels reposent les institutions
politiques et sociales de la Chine qui a
pour devise : " Science et Vertu " .
_ ( Le droit pénal à travers l'ancienne
législation chinoise _ Etude Comparée
sur le code Gia-Long -- Phan-Văn-
Trường, Docteur en Droit, ed. Ernest
Sagot et Cie. Paris 1922 )
( Đấy là Xã-hội-học toát-yếu vào
vài mệnh-đề liên-hệ chặt-chẽ quá-trình
tiến-hóa xã-hội, tỏ rõ cá-nhân người ta
phải trở về với nhân-loại qua gia-tộc và
quốc-gia. Những mệnh-đề ấy bao-hàm
những nguyên-lý cơ-bản làm nền-tảng
cho những định-chế chính-trị và xã-hội
của Trung-Hoa, lấy tiểu-đề là : " Khoa-
học và Đạo-đức " )
NGUYỄN-TRÃI
186
Nội-dung khoa chính-trị-học này cốt để
dạy người lãnh-đạo nhân-dân, tự mình phải làm
mẫu-mực cho mọi phần-tử trong nước, ai nấy
đều phải lấy sự tu sửa cá-nhân mình làm bổn-
phận, bất phân giai-cấp : " Tự thiên tử dĩ chí ư
thứ nhân nhất thị giai dĩ tu thân vi bản " ( Từ
Vua đứng đầu cho đến người bình-thường hết
thảy đều lấy việc tu sửa thân mình làm gốc ) .
Chương-trình tu thân này gồm có ba đầu
mối chính và tám điều-mục đối nội và đối
ngoại. Ba đầu mối chính là :
" Đại-Học chi đạo
_tại minh minh đức
_tại thân dân
_tại chỉ ư chí thiện "
( Đường lối của cái học chân-chính ở tại
làm cho sáng cái đức-sáng vốn sẵn có ; ở
tại gần, yêu nhân-dân ; ở tại hướng lên
mục-đích chí-thiện ).
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
187
Ba cương-lĩnh : Minh, Thân, Thiện. Minh
thuộc về mặt " Tri = biết " hay là Tri-thức-
luận. Thân thuộc về mặt " Hành = làm " hay là
Hành-vi-luận. Thiện là mục-tiêu tối cao của Tri
và Hành, nghĩa là của sinh-tồn nhân-loại hay là
Triết-lý nhân-sinh .
Theo tư-tưởng tín-ngưỡng truyền-thống
Đông-phương, nhân-loại bẩm-thụ Thiên-lý là
Đức-sáng ( Minh-đức ) bản-lai " Thiên mệnh
chi vị tính " ( Bản-tính của người và vật là
mệnh trời ), vì vật-dục che-lấp, ngăn-cách mất
cái Đức-sáng Thiên-lý ấy nên mới có sự gián-
đoạn ta với người, tâm với vật. Cho nên xưa
kia, muốn làm sáng cái Đức-sáng ra khắp
thiên-hạ thì trước hết phải khôi-phục lại Đức-
sáng bản-lai, do đấy mà phải : " Cách vật ", gạt
bỏ cái màn vật-dục tư kỷ đi, ngõ hầu " Trí tri,
Thành ý, Chính tâm ", đối với tâm-lý một mặt.
Mặt khác là phải tập quên mình cho người thân
trong nhà, tức Tề-gia, để rồi quên mình cho
người trong nước, tức là Trị-quốc và cuối cùng
NGUYỄN-TRÃI
188
quên mình cho thiên-hạ, tức là " Minh đức ư
thiên hạ ". Trước sau đều quyết-định phải là
" Cách vật ", như thiên Đại-Học viết về tám
điều-mục :
1/ Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả
2/ Tất tiên trị kỳ quốc ;
3/ Dục trị kỳ quốc giả, tất tiên tề kỳ gia ;
4/ Dục tề kỳ gia giả, tất tiên tu kỳ thân ;
5/ Dục tu kỳ thân giả, tất tiên chính kỳ tâm ;
6/ Dục chính kỳ tâm giả, tất tiên thành kỳ ý ;
7/ Dục thành kỳ ý giả, tất tiên trí kỳ tri ;
8/ Trí tri tại cách vật .
1/ _ Vật cách nhi hậu tri trí ;
2/ _ Tri trí nhi hậu ý thành ;
3/ _ Ý thành nhi hậu tâm chính ;
4/ _ Tâm chính nhi hậu thân tu ;
5/ _ Thân tu nhi hậu gia tề ;
6/ _ Gia tề nhi hậu quốc trị ;
7/ và 8 / _ Quốc trị nhi hậu thiên hạ bình .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
189
Tư-Tưởng Dân-Chủ Xã-Hội Ở NGUYỄN-
TRÃI._
Thiên Đại-Học về chính-trị xã-hội trên
đây hợp với thiên Lễ-Vận về kinh-tế xã-hội
trong quá-trình tiến-hóa trên kia, đại-khái toát-
yếu hệ-thống chính-trị của Nho-học cổ-điển mà
Nguyêễ-Trãi đã thụ-giáo được ở thân-phụ
Nguyễn-Phi-Khanh để rồi cả hai cha con đều
thi đỗ cao mà đem thi-thố sở học với triều-đại
nhà Hồ .
Sau khi triều nhà Hồ bị quân đế-quốc nhà
Minh đánh đổ và thôn-tính nước Việt vào bản-
đồ Trung-Quốc, sau các cuộc chống-cự tuyệt-
vọng của dòng-dõi và tướng-sĩ nhà Trần,
Nguyễn-Trãi đã ứng-dụng hệ-thống chính-trị
xã-hội Đại-Học Lễ-Vận trên đây vào chủ-
thuyết Nhân Nghĩa, để phục-vụ dân-tộc thời
chiến cũng như thời bình :
" Quyền mưu bản thị dụng trừ gian
Nhân Nghĩa duy-trì quốc thế an.
................
NGUYỄN-TRÃI
190
Sóc tẩm dĩ thanh kình lãng tức
Nam châu vạn cổ cựu giang san "
_ ( Hạ Qui Lam-Sơn )
Dicị :
( Quyền mưu vốn dụng để trừ gian ,
Nhân Nghĩa giữ-gìn thế nước an .
Giặc Bắc sạch trừ yên sóng dữ,
Nước Nam muôn thủa vững giang-san )
Đem thuyết Nhân Nghĩa ứng-dụng vào
chủ-nghĩa dân-tộc thì dân-tộc ở trên quyền-lợi
giai-cấp xã-hội, ý-thức dân-tộc là ý-thức của
toàn dân bất phân giai-cấp, như Cách-ngôn nói:
" Quốc gia hữu sự thất phu hữu trách " ( Nhà
nước có việc, mỗi kẻ thường dân có trách-
nhiệm ). Hoặc như Phương-ngôn bình-dân nói :
" Giặc đến nhà đàn-bà phải đánh ". Vả lại hai
chữ Nhân Nghĩa đi liền nhau, hợp vào làm một
là ngụ ý biện-pháp giải-quyết mâu-thuẫn giữa
cá-nhân và đoàn-thể, giải-quyết một cách biện-
chứng nghĩa là tổng-hợp mà vượt lên, phong-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
191
phú hơn chứ không phải tổng-cộng máy móc
hay là lấy cái nọ tiêu-diệt cái kia, vì đoàn-thể là
hợp nhiều thành-phần cá-nhân, mất cá-nhân thì
đoàn-thể cũng không còn nữa vậy .
Tư-tưởng dân-chủ của Nguyễn-Trãi là vì
dân, đề-cao nhân-dân chống với giai-cấp, như
lời thống trách Thúc-Huệ trong giới lãnh-đạo
vị-kỷ : " Thúc-Huệ là hạng tài mọn, chỉ chăm
đục khoét vơ vét thế mà y giữ chức then-chốt
trong nước, hễ có tâu bày điều gì, y chỉ muốn
làm thiệt dân, đem lợi về nhà quan để dua nịch
bề trên " _ ( Cương-Mục, ch. B XVI )
Tuy Ông cũng là thành-phần trí-thức
lãnh-đạo đang tại chức trong triều, nhưng Ông
không vì thế mà ngớt lời chống đối giới trí-
thức cậy quyền-thế đàn-áp nhân-dân :
" Làm người mựa cậy khi quyền thế
Có thủa bàn cờ tốt đuổi xe " .
_ ( Mạn Thuật )
NGUYỄN-TRÃI
192
Ý-thức của giai-cấp kẻ-sĩ là lo trước cái
lo của thiên-hạ, vui sau cái vui của thiên-hạ :
" Tứ hải chỉ kim câu thiếp tĩnh
Dự tri lạc hậu bản tiên lao "
( Bốn bể từ nay yên ổn cả
Biết trước rằng muốn vui sau thì trước
phải nhọc )
Hay là :
" Bình sinh độc bão tiên ưu chí
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên "
_ ( Hạ-khẩu Dạ-bạc Hữu-cảm )
( Lo trước bình sinh ôm một ý-chí
Ngồi ôm chăn lạnh suốt đêm không ngủ )
Hay là :
" Còn một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung "
_ ( Thuật Hứng )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
193
Đấy là ý-thức giai-cấp sĩ-phu, trí-thức
lãnh-đạo do lòng yêu nước thương dân của
Nguyễn-Trãi đã thốt ra trong hành-động cứu
quốc, phò Vua Lê giải-phóng dân-tộc. Công-
cuộc lãnh-đạo ấy đã thành-công vẻ-vang, sau
sự thất-bại liên-tiếp của họ Hồ cũng như
Trần-Trùng-Quang, không phải vì khả-năng
chiến-thuật của họ Hồ hay họ Trần kém thua họ
Lê mà là vì " Lê-Lợi vi quân, Nguyễn-Trãi vi
thần " đã nhất tâm thi-hành chính-sách " hợp ý
chúng, thuận tình dân ", đã đoàn-kết được nhân
tâm, trên dưới một lòng. Nhưng ở thời Hồ và
Hậu-Trần giới Nho-sĩ " Bạch diện thư sinh " vì
cái học mô-phỏng Tống-Nho " không đạt cái ý
sâu sắc lập-quốc của Tổ-tiên đem phép cũ của
tiền-nhân hướng theo tục-lệ phương Bắc
( Tầu ) mà xếp đặt " _ (Trần-Nghệ-Tông -
1370). Ấy là vì cái tinh-thần tự-ti mặc-cảm đối
với Trung-Hoa, thêm lòng ghen-tị tranh-chấp
bè đảng của Nho-học giáo-điều đời họ Hồ, nên
đã vọng ngoại, ỷ-lại vào nhà Minh giúp dựng
lại chính triều nhà Trần. Do đấy mà trong giới
NGUYỄN-TRÃI
194
trí-thức Nho-sĩ chia-rẽ, kẻ xuất-chính với nhà
Hồ, kẻ đi ở ẩn, kẻ sang cầu-viện quân Minh để
chống-đối. Bởi thế mà trong nước nhân-tâm
phân lìa, mất sự đoàn-kết nhất-trí .
Sở dĩ đến thời Lê-Lợi và Nguyễn-Trãi,
nghĩa-quân Lam-Sơn nhờ chính-sách Nhân
Nghĩa Bình Ngô, toàn dân mới lại đoàn-kết,
trên dưới một lòng, vì nhân-dân thực đã trải
mùi đô-hộ nô-lệ ngoại-lai, thành-phần trí-thức
như Nho-sĩ Bùi-Bá-Kỳ, Lê-Cảnh-Tuân là tiêu-
biểu thất-vọng với chính-nghĩa vọng-ngoại, đã
cảnh-giác bằng câu đồng-giao đương thời :
" Dục hoạt nhập ẩn lâm san, dục tử Ngô
triều tố quan "
( Muốn sống vào ẩn rừng xanh, muốn
chết làm quan cho Minh ).
Cảnh-tình xã-hội vong-quốc trong thời
Minh-thuộc đã được Nguyễn-Trãi cực-tả trong
" Bình Ngô Đại Cáo " như sau :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
195
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
Trí sử nhân tâm chi oán hận .
Cuồng Minh tự khích, nhân dĩ độc ngã dân .
Ngụy đảng hoài gian, cách dĩ mãi ngã quốc .
Phiến thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư họa khanh .
Khi Thiên võng dân quỷ kế cái thiên vạn trạng
Liên binh kết hận nẫm ác đãi nhị thập niên .
Bại nghĩa thương nhân,
Kiền khôn cơ hồ dục tức .
Trọng khoa hậu liễm, sơ trạch mĩ hữu kiết di.
Khai kim trường tác mạo lam chướng nhi phủ
sơn đào sa.
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu
xâm hại .
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hạm tịnh .
Diễn vật chức thúy cạm chi võng la .
Côn trùng thảo mộc hàm bất đắc dĩ toại kỳ sinh
Quan quả điên liên, câu bất đắc dĩ an kỳ sở .
Tuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt hiệt chi
vẫn nha .
NGUYỄN-TRÃI
196
Cực thổ mộc chi công, dĩ sùng công tư chi giải
vũ .
Châu lý chi trinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ, trục giai không !
Quyết Đông Hải chi ba, bất túc dĩ trạc kỳ ô .
Khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác .
Thần, nhân chi sở cộng phẫn,
Thiên Địa chi sở bất dung !
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Nghĩa :
( Vừa đây họ Hồ chính-sự phiền-hà,
Đến nỗi nhân tâm oán phản .
Giặc Minh thừa dịp làm hại dân ta .
Đảng ngụy gian ác mưu mô bán nước .
Thui dân đen trên lò bạo-ngược,
Hãm con đỏ dưới hố tai-ương .
Dối trời lừa người kế gian nghìn khóe, cậy binh
gây hấn ác chứa gần hai chục năm .
Bại nghĩa thương nhân Trời Đất tưởng chừng
muốn tắt .
Vơ vét thuế má, chấm mút chẳng xót mảy may,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
197
Khai mỏ vàng thì xông-pha lam-chướng, phá
núi đãi cát .
Kiếm minh-châu thì lặn biển, dấn thân giao-
long chẳng quản .
Giết hại vật thì dệt lưới bẫy chim trả.
Quấy nhiễu dân, đặt ra bẫy hươu đen .
Cỏ cây sâu bọ không loài nào được thỏa sống
còn .
Quan quả khốn cùng chẳng một ai được nơi
yên ổn .
Béo nanh miệng bao phường gian ác, hút máu
sinh linh .
Đẹp đền đài khắp ngả công tư, phí công xây-
dựng .
Nơi châu quận sưu cao thuế nặng,
Miền thôn quê khung cửi sạch trơn .
Tát biển Đông cho cạn, không đủ gột rửa sạch
hết nhơ !
Chặt núi Nam trụi tre, không đủ chép hết tội !
Thần dân đều căm giận,
Trời Đất nào có dung ! )
NGUYỄN-TRÃI
198
Trong tình-cảnh ấy, tiếng gọi Nhân Nghĩa
của người anh-hùng áo vải Lam-Sơn, " Lê-Lợi
vi quân, Nguyễn-Trãi vi thần " hẳn được nồng-
nhiệt hưởng-ứng :
" Yết can vi kỳ, mạnh lệ chi đồ tứ tập.
Đầu dao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất
tâm ".
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
( Dựng tre làm cờ, nông-dân nô-tì bốn
phương tụ lại,
Rót rượu khao sĩ, quân binh cha con một
lòng ).
Đấy là tinh-thần chính-trị vương-đạo của
Nho-sĩ Việt-Nam, tinh-thần dân-chủ xã-hội lý-
tưởng "Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn"
như mô-tả trong Lễ-Vận thời-kỳ " Đại-đồng "
vậy. Tinh-thần vương-đạo, Nguyễn-Trãi hẳn
thừa-kế " Hịch Trần-Hưng-Đạo-Vương ". Tư-
tưởng Nho-học thực-hiện hẳn nối-tiếp Lý-học
của Chu-Văn-An " Cùng lý chính tâm "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
199
( ) nghĩa là ( thực-hiện nguyên-lý
cùng tột ở trong cái ý-thức ngay chính ), khác
với chủ-trương Tống-Nho Lý-học " Cách vật
trí tri " ( ) (Đến sự-vật giác-quan
tìm cái biết kiến-văn cát vụn ) :
" Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách
Đem dân mựa nỡ mất lòng dân "
_ ( Bảo Kính Cảnh Giới )
Ở chức-vụ lãnh-đạo Nguyễn-Trãi sợ nhất
là làm mất lòng dân, thời chiến cũng như thời
bình, vì Ông tin vào sức mạnh tiềm-năng của
dân mà Ông ví với sức mạnh của nước :
" Công kiên mạc chi năng thắng "
_ Lão-Tử )
( Đánh cái dắn không vì chẳng thắng )
" Ghê thay thế nước vị quá mềm "
_ ( Tự Thuật )
NGUYỄN-TRÃI
200
Ông tin-tưởng vào " ý dân " ngang với
" Thiên mệnh ":
" Phúc chu thủy tín dân do thủy
Thị hiếm nan bằng mệnh tại thiên "
( Thuyền lật mới tin sức dân như nước
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh vận ở
trời )
_ ( Quan Hải )
Chủ-nghĩa quốc-gia xã-hội của Nguyễn-
Trãi lấy dân làm gốc nước, quyền-lợi nhân-dân
ở trên quyền-lợi giai-cấp, ý-thức dân-tộc tuy
bàng-bạc tiềm-tàng nhưng bao-hàm ý-thức
giai-cấp xã-hội, sứ-mệnh lịch-sử của giai-cấp
trí-thức ở thời phong-kiến là kẻ-sĩ, sĩ-phu có
nhiệm-vụ " đem dân ", nghĩa là hướng dẫn,
dẫn-dắt nhân-dân đến cảnh thanh-bình, an-cư
lạc-nghiệp, là hạnh-phúc chung trong xã-hội
nông-nghiệp thời Lý, Trần. Trong cái xã-hội
mà cơ-sở kinh-tế là nông-nghiệp, Ông quan-
niệm sự phân-công chuyên-nghiệp qui vào bốn
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
201
nghề chính, tuy có cao thấp khác nhau : Sĩ,
Nông, Công, Thương, nhưng đều bình-đẳng
hợp-tác với nhau như công-dân của một nước :
" Bốn dân, nghiệp có cao cùng thấp
Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng "
_ ( Tức sự )
Xã-hội nông-nghiệp phong-kiến hẳn là
phải có tổ-chức trật-tự vì đã phân-công thành
bốn nghiệp chuyên-môn để tăng-gia sản-xuất.
Tuy " Bốn nghiệp có cao cùng thấp ", có hạng
là thầy có hạng làm thợ : " Nên thợ nên thầy vì
có học " _ ( Bảo Kính Cảnh Giới ). Có hạng
quân-tử có tiểu-nhân " kẻ lao tâm trị người, kẻ
lao lực bị người trị " _ ( Mạnh Tử )
" Nếu khỏi tiểu nhân quân tử nhọc
Dẫu chăng quân tử tiểu nhân loàn "
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
NGUYỄN-TRÃI
202
" Quân tử " ở Việt-Nam thời bấy giờ là
" Kẻ-sĩ " thành-phần trí-thức. " Tiểu nhân " là
nông-dân, công-nhân, thành-phần lao-động
chân tay. Cũng ví như trong một thân-thể, đầu
óc trí-não điều-khiển chân tay đấy là lý đương
nhiên, trái lại thì cả tổ-chức sẽ rối-loạn xụp đổ,
vì không thể đem đầu óc trí não làm việc lao-
động chân tay, đem chân tay để làm việc suy
nghĩ của đầu óc. Song, đấy là một sự đòi-hỏi
tất yếu của tổ-chức xã-hội phải có phân-công
" nghiệp vụ ", có cao cùng thấp nhưng không
phải ngụ ý về nhân-phẩm con người, theo
quan-điểm của Nguyễn-Trãi, như lời thơ Ông
nhân-danh một kẻ-sĩ viết cho bạn đồng-nghiệp:
" Tha niên Nhị-Khê ước
Đoản lạp hà xuân sừ "
_ ( Tặng Hữu Nhân )
( Hẹn nhau năm khác về Nhị-Khê
Đội nón lá vác cuốc bừa mùa xuân
làm nông-dân )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
203
Và trong giới Nho cũng có " quân tử "
và " tiểu nhân " như lời Khổng-Tử từng
khuyên học-trò : " Nên học làm quân-tử Nho,
không nên học làm kẻ tiểu-nhân Nho "_ ( Luận
Ngữ ). Vậy " tiểu nhân " hay " quân tử " là nói
về nhân-cách bất cứ ở giai-cấp nào cũng có.
Trong tầng-lớp lãnh-đạo nghĩa-quân Lam-Sơn
thì Lê-Lợi là dòng phú-ông nông-thôn,
Nguyễn-Trãi là thành-phần Nho-sĩ từng làm
quan to trong triều nhà Hồ, Lê-Ngãi là gia-nô
của Trần-Thiên-Lại, Nguyễn-Chính vốn là
nông-dân nghèo, Nguyễn-Xí là dân làm muối,
Trịnh-Khả thủa nhỏ chăn trâu và cầy ruộng,
Lưu-Nhẫn, chú Thượng-Nhân, Trần-Nguyên-
Hãn dòng tôn-thất của Trần-Nguyên-Đán...
Vậy ai là tiểu nhân, ai là quân tử ? Không vì
quyền-lợi " có cao cùng thấp ", họ đã nhất-tâm
đoàn-kết để cùng nhau giải-phóng dân-tộc chứ
không đấu-tranh lẫn nhau một mất một còn, đủ
tỏ rằng trong xã-hội nông-nghiệp đương thời,
ý-thức phân-công hợp-tác chưa bị lu-mờ sa-đọa
như ở các xã-hội kỹ-nghệ quá độ, giao-tranh
NGUYỄN-TRÃI
204
lợi, đấu-tranh vì quyền-lợi kinh-tế. Cho nên
Nguyễn-Trãi mới có thể kêu gọi đoàn-kết, bảo-
vệ nhân-luân, trở về ý-thức giai-cấp chân-
chính, toàn dân là đồng-bào cùng một Tổ :
" Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền,
Cành Bắc cành Nam một cội nên .
Điền địa chớ tham hơn bỏ sỉ,
Nhân luân mựa lấy dưới làm trên " .
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
Tuy đặt quyền-lợi của nhân-dân một nước
lên trên quyền-lợi giai-cấp xã-hội và coi ý dân
như ý Trời, nhưng dân sống theo bản-năng
sức-mạnh của tiềm-thức như Cách-ngôn nói :
" Dân ngu nhi thần " ( Dân ngu dại mà có sức
mạnh như Thần ). Vậy nên cần phải có học mới
" nên thợ nên thày ", mới không hành-động vô
chính-phủ, trong nước ai nấy ý-thức phận-sự
của mình. Nhân-dân nông-nghiệp sống gần với
thiên-nhiên, sẵn có khuynh-hướng chất-phác
hồn-hậu, hướng theo về người thật có lòng
nhân-ái :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
205
" Hoài vu hữu nhân giả dân dã .
Tái chu phúc chu giả diệc dân dã "
_ Hậu Tự Huấn )
( Nguyện theo về người nhân-đức ấy là
dân vậy .
Chở thuyền lật đắm thuyền cũng là dân
vậy ) .
Vậy thì muốn có một nước thịnh-trị có
văn-hiến, điều thiết-yếu là ai nấy phải tu thân,
toàn quốc phải được giáo-hóa. Sứ-mệnh lịch-sử
của giới lãnh-đạo là " Tiên giác giác hậu giác"
( Người giác-ngộ trước làm cho người đi sau
được giác-ngộ ). " Kỷ dục đạt nhi đạt nhân, kỷ
dục lập nhi lập nhân " _ ( Luận Ngữ ) ( Mình
muốn đạt lý thời làm cho người khác đạt lý,
mình muốn lập thân thời cũng giúp cho người
được thành-lập. Muốn có xã-hội Nghiêu Thuấn
" dân Nghiêu Thuấn thời Vua phải Nghiêu
Thuấn " ). Bởi thế nên Nguyễn-Trãi mới làm
lời dạy Vua kế-vị để cảnh-giác, răn Thái-tử, có
đoạn :
NGUYỄN-TRÃI
206
" Phàm kỳ giám quốc phủ quân chi
yếu, tồn tâm xuất trị chi phương, miễn lực
nhi hành, vô thời dự đãi ; đôn mục thân
thuộc, tư tồn hữu ái chi tâm, tử huệ thứ
dân, tư bố khoan nhân chi chính, vật dĩ tư
ân nhi lạm thưởng, vật dĩ tư nộ dĩ lạm
hình, vật thực hóa tài nhi xỉ mị, vật dĩ
thanh sắc nhi túng hoang dâm. Chí ư suy
kỷ dụng nhân thụ ngôn nạp gián, nhất
chính nhất lệnh chi thi, nhất ngôn động
chi phát tất do trung chính, dụng tắc điển
thường, thứ sử thượng hữu dĩ đáp thiên
tâm, hạ hữu dĩ phù nhân vọng, tắc quốc
gia vĩnh an .
" Thả hoài vu hữu nhân giả dân dã,
tái chu phúc chu giả diệc dân dã. Hựu vũ
hữu đức giả thiên dã, nan kham mĩ
thường giả diệc thiên dã. Tuy dĩ Thuấn
Vũ Thang Văn chi Thánh, nhiên do cách
cách, nghiệp nghiệp, khắc cần khắc kiệm,
lật lật nguy cụ, dục dục tiểu tâm, kính
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
207
thiên cần dân, bất cảm thiểu hốt, huống ư
kỳ hạ giả hồ " .
_ ( Tác Hậu-tự-huấn Dĩ-giới Thái-Tử
Chiếu )
Dịch nghĩa :
( Bao nhiêu điều thiết-yếu trông coi
việc nước, vỗ về quân-đội, phép đem ra
cai-trị phải ghi trong lòng, cố-gắng thi-
hành không một lúc nào biếng-nhác. Đối
với thân-thuộc phải có lòng yêu thương,
đối với nhân-dân có ân-huệ như cha con.
Phải có chính-sách khoan nhân rộng
khắp, không được vì ân riêng mà ban
thưởng bừa bãi, không được vì giận riêng
mà bắt tội oan. Đừng sính của-cải mà
phóng-túng xa-hoa, đừng đam-mê sắc đẹp
mà đàn hát hoang dâm. Đến như việc suy
ở mình ra để dùng người, thì phải chịu
nghe lời can ngăn. Thi-hành một chính-
sách, ban ra một chính lệnh, một cử-chỉ,
một hành-động, đều phải căn-cứ vào
NGUYỄN-TRÃI
208
phép-tắc điển hình trung chính ngõ hầu
thuận lòng Trời ở trên, đáp-ứng nguyên-
vọng nhân-dân ở dưới. Được như thế thì
nước mới yên-ổn lâu bền ...
( Vả lại nhân-dân chỉ nguyện về với
đức nhân. Dân như nước, chở được
thuyền mà cũng lật đắm được thuyền.
Mệnh Trời giúp người có đức, khó tin còn
mãi mãi. Dù là bậc Vua Thánh như
Thuấn, Vũ, Thang, Văn cũng còn luôn
luôn lo-lắng, sợ-hãi, chuyên-cần, cần-
kiệm, chăm-chỉ, ưu-tư, trong lòng kính
Trời, chăm dân không dám sơ-suất,
huống chi là hạng Vua thường ) .
Trên đây, Nguyễn-Trãi đã quan-niệm một
người lãnh-đạo quốc-dân như ông Vua lý-
tưởng của truyền-thống Nho-học .
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
trong một xã-hội đại-đồng. Người lãnh-đạo lý-
tưởng ấy bất cứ mệnh-danh là gì, đứng trung-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
209
gian giữa Thiên-mệnh và Nhân-tâm, lấy hành-
động vô-cầu để phục-vụ nhân-dân, ngõ hầu
thực-hiện " Thiên lý tại nhân tâm ", luôn luôn
quên mình để mở rộng ý-thức cá-nhân đến hòa-
đồng vào ý-thức tập-thể xã-hội. Tuy tin vào
thiên-lý, nhưng không ỷ-lại vào đấy như một
thế-lực khách-quan ở ngoài ý-thức nhân-loại,
cho nên tự mình luôn luôn cố-gắng nỗ-lực để
khỏi " phụ nhân vọng ở dưới và đáp-ứng thiên-
tâm ở trên ". Cho nên bảo :
" Hoài vu hữu nhân giả dân dã
Tái chu phúc chu giả diệc dân dã !"
Đấy là cái tín-ngưỡng truyền-thống
Đông-phương, tín-ngưỡng ( Trời, Người hợp
một ) " Thiên Nhân hợp nhất, Thiên-mệnh chi
vị tính, Phật tức tâm."... Đấy là tín-ngưỡng
thực-hiện, không phải tín-ngưỡng giáo-điều
hình-thức mà là tin vào ý dân tức ý Trời .
" Thiên thông minh tự ngã dân thông minh "
_ ( Thượng Thư Cao Dao Mô )
NGUYỄN-TRÃI
210
( Trời thông sáng là tự dân ta thông sáng )
" Thiên thị tự ngã dân thị,
Thiên thính tự ngã dân thính
Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi "
_ ( Tần Thệ )
( Trời nhìn tự dân ta nhìn
Trời nghe tự dân ta nghe
Ý muốn của nhân-dân Trời tất y theo .)
Đấy là đề cao giá-trị tuyệt-đối ý-thức tập-
thể tiềm-tàng của nhân-dân, của đoàn-thể xã-
hội nông-nghiệp. Cho nên Mạnh-Tử về sau đã
có chủ-trương cách-mạng dân-chủ :
" Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh".
_ ( Tận Tâm )
( Trong nước nhân-dân là trọng nhất, rồi
mới đến nhà nước, sau rốt mới đến Vua )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
211
Nguyễn-Trãi hẳn cũng quan-niệm như thế
cho nên mới đề cao sức mạnh của dân ngang
với Thiên :
" Hựu vu hữu đức giả Thiên dã .
Nan kham mĩ thường giả diệc Thiên dã " .
Nhưng Ông cũng đề cao vai-trò lãnh-đạo
" minh quân lương tể " :
" Rầy mừng thiên hạ hai của .
Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh " .
Ấy là hai điều-kiện xây-dựng một nước
thái-bình thịnh-trị thời Nghiêu Thuấn :
" Đất thiên tử đương tôi thiên tử .
Đời thái-bình ca khúc thái bình .
Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị .
Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh " .
_ ( Thuật Hứng )
NGUYỄN-TRÃI
212
Nhất là với Chúa Lam-Sơn mà Ông đã
phò-tá từ lúc nằm gai nếm mật, cùng nhau sát
cánh chia sẻ bao nỗi gian nguy trong mười năm
tranh-đấu, bầy mưu dựng kế để đánh đuổi quân
giặc đàn áp đồng-bào dầy xéo đất nước, đến
thành-công oanh-liệt chỉ bằng tự lực của một
nước nhỏ chống với đại đế-quốc nhà Minh.
Cho nên Ông tin-tưởng vào vai-trò nhà Vua
lãnh-đạo như Lê-Thái-Tổ :
Thần vũ bất sát,
Đại đức hiếu sinh.
Niệm quốc-gia trường-cửu chi kế,
Phóng thập vạn nhất hàng chi binh.
Tu lưỡng quốc chi hòa hiếu,
Tức vạn thế chi chiến tranh.
Toàn quốc vi thượng,
Duy đồ tập minh !
Thị tức ngã hoàng chi thịnh đức, hựu khởi
Hán Cao đồng nhật khả câu ngữ ?
Tương dữ Nhị Đế, Tam Vương chi tịnh
xưng giả da .
_ ( Chí Linh phú )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
213
Nghĩa :
( Oai võ như Thần không giết .
Có đức hiếu sinh như Trời Đất .
Tính kế trường-cửu cho nhà cho nước,
Mà tha cho mười vạn hàng binh .
Xếp đặt hai nước hòa hiếu,
Dẹp yên muôn đời chiến-tranh .
Những muốn giữ nước mãi mãi an-ninh,
Đấy là tại đức lớn của Vua ta mà Hán
Cao không thể ví,
Mà cùng với Nhị Đế, Tam Vương cùng
lưu danh ) .
Với một ông Vua khai sáng lý-tưởng như
thế thì chỉ cần một lớp công-chức trí-thức có
ý-thức trách-nhiệm, hết lòng vì nước vì dân là
nước nhà sẽ thành nước " Văn hiến chi bang ",
thái-bình thịnh-trị. Một xã-hội khai-phóng, tự-
do tư-tưởng và tín-ngưỡng, nào Nho-giáo, nào
Phật-giáo, nào Lão-giáo, nào Thần-đạo, hợp
sáng dung thông giữa đặc-thù và đại-đồng,
quốc-gia và thế-giới, dân-tộc và nhân-loại .
NGUYỄN-TRÃI
214
Về tổ-chức chính-trị và xã-hội thì cơ-sở
xã-thôn cố hữu dân-chủ tự trị về hành-chính,
kinh-tế điền-địa bán công, bán tư trong một
quốc-gia trung-ương tập quyền từ quận, huyện
trở lên tỉnh-thành và kinh-đô, phân tập dung-
hòa, công tư bình-đẳng. Tư-tưởng chính-trị của
Nguyễn-Trãi là chính-trị vương-đạo của Nho-
giáo, tin-tưởng vào một vị Vua lãnh-đạo tối
cao, tượng-trưng quốc-gia lý-tưởng, lấy tâm
thiên-hạ làm tâm, lấy ý muốn của thiên-hạ làm
ý muốn, tự mình không có ý muốn riêng. Còn
giới quan-chức là phần-tử Nho-sĩ trí-thức,
trong nước có sứ-mệnh lịch-sử giáo-hóa nhân-
dân, trong việc cai-trị khiến sao cho từ Vua cho
đến người thường dân, nhất thiết lấy " tu thân
làm gốc ". Như vậy thì tiêu-chuẩn giá-trị nhân-
sinh không phải là giới-hạn vào ý-thức giai-cấp
kinh-tế mà là ý-thức phẩm-tính con người, có
khả-năng khai-triển vượt qua biên-giới xã-hội,
qua ý-thức dân-tộc, quốc-gia đến ý-thức nhân-
loại, thế-giới đại-đồng .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
215
Bởi cái quan-niệm chính-nghĩa lý-tưởng
ấy mà Nguyễn-Trãi đã trách Thúc-Huệ giữa
triều-đình là " bồi khác " bóp nặn nhân-dân.
Cái tinh-thần đạo-học chân-chính ấy đã phản-
chiếu ở các bài Chiếu Ông viết thay lời Vua
như " Dụ hào-kiệt Chiếu ", " Cầu hiền Chiếu",
" Lệnh bách-quan vô tác khánh-hạ lễ-nghi
Chiếu " .
Đại khái trong các Chiếu, Dụ, Nguyễn-
Trãi đều đề cao cảnh-giác các quan chức lớn
nhỏ về nhiệm-vụ lịch-sử của mình là phục-vụ
vô-tư quốc-gia dân-tộc trên bè đảng, như đoạn
văn sau đây chứng-minh :
" Dữ trị đồng đạo võng bất hưng, dữ
loạn đồng sự võng bất vong
" Thị dĩ thiện vi trị giả, trạch kỳ
thiện nhi tòng chi.
" Truyện viết :_ Thiện nhân bất
thiện nhân chi sư, bất thiện nhân thiện
nhân chi tư.
NGUYỄN-TRÃI
216
" Thi vân :_ Quyết giám bất viễn, tại
Hạ hậu chi thế.
" Ngã chi chư thần khả thủ pháp ư
thử hỹ..............................
" Phàm hữu quản quân, trị dân chi
chức, giai nghi công bình dụng pháp cần
mẫn vi chính, sự quân tắc tận kỳ trung,
dữ chúng tắc tận kỳ hòa. Cách tham ô chi
phong, trừ đãi mạn chi tệ, tuyệt kỳ bằng
đảng chi tư, trừng kỳ cố phạm chi thái. Dĩ
quốc-gia chi nhiệm vi kỷ nhiệm, dĩ sinh
dân chi ưu vi kỷ ưu. Kiệt lực tận trung,
phù trì vương thất, sử xã tắc an như Thái
Sơn, cơ đồ cố như bàn thạch, dĩ dữ trẫm
cộng hưởng lộc vị ư đương kim, cộng
truyền thanh danh ư hậu thế. Quân thần
đại nghĩa thủy chung bảo toàn, thị khởi
bất thậm mỹ tai ? "
_ ( Cấm tham đãi Chiếu )
( Chính-trị có đạo cùng theo mà làm
thì ắt là thịnh-vượng, theo cùng loạn-pháp
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
217
thì hẳn là bại-vong.
( Thế nên kẻ biết làm chính-trị giỏi
chọn đường thiện mà theo.
( Sách Truyện nói : _ Người thiện
làm thày kẻ bất thiện, kẻ bất thiện giúp
ích cho người lương thiện.
( Kinh Thi rằng : _ Không phải xem
ở đâu xa, chỉ xem gương nhà Hạ Hậu .
( Các quan-chức của Trẫm có thể
lấy đấy mà bắt-chước vậy.......
( Phàm ai có nhiệm-vụ cầm quân, trị
dân đều nên dùng chính-sách công-bình
chăm-chỉ chính-sự, thờ Vua hết lòng, đối
với dân hết sức hòa-nhã. Trừ bỏ hết thói
tham-lam, lười-biếng, sửa đổi thói xấu,
dứt hẳn kết bè đảng riêng tư, răn bỏ thái-
độ đã phạm trước. Lấy nhiệm-vụ quốc-
gia dân-tộc làm nhiệm-vụ của mình, lấy
nỗi lo sợ của dân làm nỗi lo của mình.
Hết sức hết lòng để bảo-vệ cho nhà nước
được yên-ổn như núi Thái, cơ-đồ vững
như tảng đá, ngõ hầu cùng với Trẫm cùng
NGUYỄN-TRÃI
218
hưởng-thụ chức-vị lợi-lộc ngay trước mắt
và cùng truyền lại tiếng thơm về sau...
Vua tôi nghĩa lớn trước sau toàn-vẹn.
Như thế chẳng đẹp lắm sao ? )
Đấy là Nguyễn-Trãi quan-niệm về một
hệ-thống chính-trị lý-tưởng của " Đại-Học Đại-
đồng " trong " Lễ-Vận " trên kia, " Thiên hạ vi
công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục "
thời các Vua Thần-thoại Trung-Hoa " Vua
Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn ", vì sau khi
phò Vua Lê-Lợi đánh đuổi giặc Minh, khôi-
phục lại giang-sơn, độc-lập của quốc-gia dân-
tộc, Ông mơ tưởng dựng lại một nước kể từ
bước đầu như Nghiêu-Thuấn :
" Nghiêu từ Đường hậu, Thuấn từ hàn vi
Thành Thang mở đầu từ núi Bạc
Thái Vương dời sang đất Kỳ ".
Với Lê-Thái-Tổ cùng sánh với " Nhị-Đế
Tam-Hoàng " và một xã-hội mà từ " trong thôn
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
219
cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận
oán sầu " .
Chủ-Nghĩa Dân-Tộc Ở NGUYỄN-TRÃI
Và LÊ-LỢI._
Khác với nước Tầu, theo như Tôn-Trung-
Sơn đã nhận-thức : chỉ có chủ-nghĩa gia-tộc và
chủ-nghĩa tông-tộc, nhưng thiếu hẳn chủ-nghĩa
dân-tộc ( Tam dân chủ-nghĩa ). Việt-Nam vốn
có chủ-nghĩa dân-tộc truyền-thống từ cuộc
khởi-nghĩa của Hai Bà Trưng đến Lý-Thường-
Kiệt thì minh xác với câu thơ hùng-hồn :
" Nam quốc sơn hà Nam-Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư " .
Ở đấy người anh-hùng họ Lý đề cao cả
yếu-tố chủ-quan lẫn yếu-tố khách-quan cấu-tạo
nên chủ-nghĩa dân-tộc. Dân-tộc là do một số
yếu-tố chính tạo nên, nào địa-lý thiên-nhiên
NGUYỄN-TRÃI
220
của lãnh-thổ quốc gia, nó ảnh-hưởng quyết-
định vào ý-thức độc-lập, vào sinh-hoạt kinh-tế
chính-trị của một đoàn-thể, nào yếu-tố chủng-
tộc và ngôn-ngữ, chúng ảnh-hưởng quyết-định
vào ý-thức đoàn-thể về một truyền-thống văn-
hóa riêng của dân-tộc, một quốc-hồn quốc-túy
biểu-thị ở các vị anh-hùng, liệt-nữ trải qua lịch-
sử đã hy-sinh tính-mạng cho tự-do độc-lập của
đoàn-thể, khiến cho tổ-quốc trở nên thiêng-
liêng, tiếp-nối với tôn-giáo Tổ-tiên " Địa linh
nhân kiệt " :
" Dấu địa linh con Lạc cháu Hồng "
_ ( Phan-Bội-Châu )
Nguyễn-Trãi thừa-kế chủ-nghĩa dân-tộc
của họ Lý, họ Trưng nên mở đầu " Bình Ngô
Đại Cáo " :
" Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
221
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam Bắc chi phong tục diệc dị " .
Việt Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo
ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên, nhi các
đế nhất phương.
Tuy cường nhược thời hoặc bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vi thường pháp ."
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
Trên đây ta thấy Nguyễn-Trãi nêu lên hầu
hết các yếu-tố căn-bản chủ-nghĩa dân-tộc
của Ông, nào văn-hiến tức yếu-tố ý-thức tâm-lý
chung của đoàn-thể quốc-gia Đại Việt, nào là
địa-lý khu-vực thiên-nhiên khác nhau giữa
Trung-Hoa và Việt-Nam, nào phong-tục chế-độ
sinh-hoạt chung giữa Nam, Bắc khác nhau,
lịch-sử truyền-thống chủ-quyền độc-lập lâu
đời, nào anh-hùng hào-kiệt không thời nào
thiếu. Về yếu-tố chủng-tộc và ngôn-ngữ khác
nhau, thì chúng ta biết rằng, Nguyễn-Trãi là
một trong hàng tiên-phong làm rất nhiều thơ
NGUYỄN-TRÃI
222
Luật bằng quốc-âm. Và ở trong thơ quốc-âm ấy
ta thấy Ông hay nhắc đến yếu-tố chủng-tộc,
nguồn gốc chung của nói-giống như sau :
" Có tông có tộc mựa sợ thay
Vạn diệp thiên chi bởi một cây ! "
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
Hay là như trên đã dẫn :
" Đồng-bào cốt-nhục nghĩa càng bền
Cành Bắc cành Nam một cội nên "
Và Lê-Lợi càng đề cao yếu-tố Tổ-tông,
quốc-tổ ở lời tựa cho Lam-Sơn Thực-lục :
" Vật bản hồ Thiên, Nhân bản hồ tổ
" Thí như mộc, thủy tất hữu căn nguyên
" Cái kỳ bản thịnh tắc diệp mậu, nguyên
thâm tắc lưu trường.
" Phi tiên thế chi nhân ân chi sở bồi giả
hậu, khánh trạch chi sở chung giả hồng,
an năng nhược thị tai ?
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
223
" Trẫm tao thời đa nạn, khai sáng vưu
nan.
" Hạnh nhi Thiên dữ Nhân qui, công
nghiệp hữu thành giả thực do tổ-tông tích
đức lũy nhân chi sở trí dã " .
_( Tựa Lam-Sơn Thực-lục )
( Vật gốc tự Trời, Người gốc tự Tổ,
( Ví như cây với nước tất có nguồn
gốc ......
( Vì rằng gốc thịnh thì lá tốt, nguồn
sâu thì giòng dài.
( Nếu không phải nhờ ở ân-nhân
bồi-đắp được dầy, phúc-đức chung đúc
được lớn của các đời trước thì đâu có
được như thế ?
( Trẫm gặp buổi hoạn-nạn, mở nước
dựng nền càng khó-khăn.
( May mà Trời cho, Dân theo gây
nên được công-nghiệp, ấy là nhờ ở Tổ-
tông tích chứa nhân-đức mà thành trọn-
vẹn vậy ) .
NGUYỄN-TRÃI
224
Đấy là đem Tổ-tiên, phối với Tổ-quốc,
phối-hợp với Trời Đất thành một tín-ngưỡng
tôn-giáo Dân-tộc vậy. Các tín-ngưỡng ấy phản-
chiếu rõ rệt ở các bài Phú Chí-Linh của
Nguyễn-Trãi, như đoạn sau đây :
" Thần long khởi hề, phi Lam kinh .
Thiên qua chỉ hề, sóc tái thanh .
Sáng nghiệp chi công thành bì bị .
Tây thổ chi sơn xuyên hữu linh ;
Ế ngã hoàng chi thánh vũ,
Đường tứ phương chi kinh doanh .
Quốc bộ phương truân,
Tâm khốc lự hành .
Ký ư thiên nhi thủ tất,
Nãi lệ chí dĩ cánh thành .
Thử kim nhật sở dĩ hóa Hồ Việt vi nhất
gia .
Nhi ti sơn đắc dĩ thiên cổ thùy danh dã " .
( Rồng thiêng bay chừ trên Lam Kinh .
Cung Trời thẳng trỏ bờ cõi bình .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
225
Sáng nghiệp thành công bao khó nhọc .
Núi sông miền Tây quả địa linh .
Ôi Vua ta thánh võ,
Bốn phương chịu kinh doanh .
Vận nước đang bí,
Đã với Trời mà quyết thề .
Người có chí việc phải thành,
Bởi thế ngày nay hóa nên Hồ Việt một
nhà,
Mà núi này muôn thủa lưu danh ) .
Đấy là cái ý-thức dân-tộc của Nguyễn-
Trãi, từ núi sông siêu-hóa vào vật-tổ Rồng tiên
mà thể-hiện vào người anh-hùng Lam-Sơn, đại-
diện cho đoàn-thể khai sáng sự-nghiệp, xây-
dựng quốc-gia, bảo-vệ chủ-quyền của lãnh-thổ,
khiến cho :
" Xã tắc dĩ chi diện an
Sơn xuyên dĩ chi cải quan
Kiền khôn bỉ nhi phục thái
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh
NGUYỄN-TRÃI
226
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ
Vu dĩ thuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ
Cái do Thiên, Địa, Tổ tông chi linh hữu dĩ
âm tương mặc hựu nhi trí nhiên dã " .
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
( Xã-tắc do đấy yên vững .
Nhật nguyệt tối rồi lại sáng .
Kiền khôn cùng mãi phải thông .
Để dựng nền thái-bình cho muôn đời .
Để rửa nhục vô cùng muôn thủa .
Ấy là do Trời, Đất, Tổ-tông linh-thiêng .
Ngầm phù-hộ mà được trọn-vẹn như thế,
vậy ) .
Xem thế đủ thấy chủ-nghĩa dân-tộc của
Lê-Lợi và Nguyễn-Trãi cũng là chủ-nghĩa
truyền-thống Việt-Nam, có tính-cách tôn-giáo
tâm-linh, đồng-nhất dân-tộc với Tổ-quốc,
quan-niệm dân-tộc như một cơ-thể có hồn. Hồn
nước, nó thuộc về quá-khứ và hiện-tại. Quá-
khứ là cả một gia-tài kỷ-niệm vinh-quang hay
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
227
tủi-nhục. Hiện-tại là nguyện-vọng chung đồng
tâm cùng nhau sinh tử cộng tồn, một ý-chí
chung để kế-tiếp làm vẻ-vang rạng tỏ cái
hương-hỏa bất-phân Tổ-tiên để lại. Sùng bái
Tổ-tiên là một trong các hành-vi chính-đáng để
ghi nhớ công ơn người đã tạo-tác cho ta, một
quá-khứ vẻ-vang. Những danh-nhân lịch-sử,
những anh-hùng, liệt-nữ, một vinh-quang chân-
chính, đấy là tất cả vốn-liếng xã-hội làm cơ-sở
cho cái ý-tưởng quốc-gia dân-tộc vậy .
Nhưng tư-tưởng dân-tộc của Nguyễn-Trãi
không phải là một cuồng-tín ( racisme ), mặc
dầu nó có tính-chất tôn-giáo, vì mục-tiêu đánh
quân Minh là để bảo-vệ chủ-quyền độc-lập của
nhà, của nước trên bờ-cõi lãnh-thổ thiên-nhiên
của mình, chứ không nhằm xâm-chiếm đất
nước người. Một khi phường tàn-bạo dẹp rồi
thì " Hồ Việt lại một nhà " " dứt chiến-tranh
cho hai nước " :
NGUYỄN-TRÃI
228
" Nghĩ kế quốc-gia trường-cửu, tha ngay
mười vạn hàng binh.
Hai nước dốc lòng hòa hiếu, muôn đời
dập mối chiến-tranh.
Toàn quốc trên hết lo sự yên lành " .
_ ( Chí Linh phú )
Tuy ôm mối thù nhà nợ nước trong lòng,
nhưng " Lấy thù trả thù, tai vạ không thôi "
_( Thư cho Sơn-Thọ )
Sau khi đánh đuổi quân Minh, giặc Hồ ra
khỏi bờ cõi, Nguyễn-Trãi liền giúp Vua Lê
hòa-hiếu với Trung-Quốc :
" Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ
Tứ minh tòng thử tức kình ba "
_ ( Quá Thần-phù Hải khẩu )
( Nam Bắc một nhà may được thấy,
Từ nay bốn bể lặng phong ba )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
229
Quan-niệm dân-tộc ở đây không phải
giới-hạn vào tổ-chức thế-lực kinh-tế, chính-trị
thế-tục mà lập cơ-sở trên một ý-thức khai-
phóng của Tam-giáo Nho-Đạo-Thích quán-
thông. Thần-đạo và Phật-đạo nhất trí vào
" Tâm Thiên Địa " như lời Ca Dân-gian cho
thấy :
" Nghiêng vai khấn vái Phật Trời
Xin cho cha mẹ sống đời nuôi con ".
Cho nên tài-sản kinh-tế chỉ là phương-
tiện :
" Điền địa chớ tham hơn bỏ sỉ
Nhân luân mựa lấy dưới làm trên "
Hay là :
" Ở đời muôn sự của chung
Sinh không chết lại tay không có gì
Ở sao cho phải Nhân Nghì ! "
_ ( Gia Huấn Ca )
NGUYỄN-TRÃI
230
Dân-tộc cũng như xã-hội, tự chúng không
phải là cứu-cánh của nhân-sinh, mà chỉ là
những giai-đoạn để thực-hiện nhân-bản toàn-
diện :_ Trời - Đất - Người _ :
" Phù đại nhân giả, dữ Thiên Địa
hợp kỳ đức, dữ Nhật Nguyệt hợp kỳ minh,
dữ tứ thời hợp kỳ tự, dữ Quỷ-Thần hợp kỳ
cát hung "
_ ( Kinh Dịch Kiền-văn Ngôn )
( Con người toàn-diện hợp tính-cách
với Trời Đất Vũ-trụ, hợp đức-sáng với
Mặt-Trời, Mặt-Trăng, hợp tính bền-vững
với bốn mùa thời-tiết, hợp hành-vi lành
dữ với Quỷ Thần ) .
Đấy là cứu-cánh chính-trị " Nội thánh
ngoại vương chi đạo " của Nguyễn-Trãi vậy .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
231
NGUYỄN-TRÃI VỚI PHẬT - GIÁO
Hán-văn có ý- vị Thiền Thượng-thừa :
Tặng Tăng Đạo Khiêm quy sơn .
" Ký tàng giảng học thập dư niên
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự
Minh triều Linh phố hoàn phi tích
Hà nhật Côn Sơn cộng thính tuyền ?
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
( )
Lâm kỳ ngã diệc Thượng Thừa Thiền
( )
Vị xuất gia thì thả trú gia " .
( Hiện nay thì còn tại-gia chờ dịp xuất-gia )
_ ( Họa bài Yên-Hà Ngẫu Hứng của bạn,
bài ; II )
NGUYỄN-TRÃI
232
Trong lòng hoài-bão lý-tưởng xuất-thế
mà chán ghét cuộc đời ảo-mộng :
Đề Động Sơn Tự
Quân thân nhất niệm cửu anh hoài
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai
Tam thập dư niên trần cảnh mộng
Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi .
Xuất, xử giống nhau :
" Luân lạc thiên nhai câu thị khách
Niên lai xuất xứ lược tương đồng "
_ ( Họa hương tiên-sinh Vận-giản Đồng-
chí, 55 )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
233
Là vì cứu-cánh của sinh-tồn, ý-nghĩa đời
người không ở tại hình-thức, phương-tiện mà ở
tại cái Tâm, Vô-tâm ( ) :
" Nhật trưởng ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm " .
( Ngày dài tựa ghế dường quên nói
Mây trắng cùng ta, ai có tâm hay ai vô
tâm ? )
" Trì thanh dạ quyến nguyệt vô tâm ".
Vô tâm mà lời nói bất-lực không tả được
hết ý như trường-hợp vãn cảnh chùa Niêu " Du
Sơn tự " :
NGUYỄN-TRÃI
234
" Đoản trạo hệ tà dương
Thông thông yết thượng phương
Vân quy thiền thấp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương " .
Đấy là trạng-thái Vô-tâm của Thiền, một
trạng-thái thực-nghiệm siêu ý-thức ( supra
conscience ) vượt quá bình-diện lưỡng-luận
bội-phản Năng và Sở, cho nên đã quên cả lời
nói vì tương-đối nối với tuyệt-đối, trong cái
" Tâm không " :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
235
" Ngọ song tiêu sái vô trần lụy
Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư "
Qua núi Dục-Thúy, Ông nghĩ đến hình-
ảnh Hoa Sen :
An sơn sơn thượng tối cao phong,
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng.
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại,
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.
Ủng ngôn ngọc sáo sâm thiên mẫu,
Quải thạch châu lưu lạc bán không.
Nhân miếu dương niên di tích tại,
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng .
Và Ông lại nghĩ đến lai nguyên của phái
Thiền-học Nam-Tông đất Lĩnh-Nam với Huệ-
Năng ở Tào-Khê, khi Ông vãn chùa Nam-Hoa :
NGUYỄN-TRÃI
236
Thần tích phi lai kỷ bách xuân
Bảo lâm hương hỏa khế tiền nhân
Hàng long phục hổ cơ hà diện
Vô thụ phi đài ngữ nhược tân
Điện trắc khởi lâu tàng Phật bát
Khán trung di tích thuế chân thôn
Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy
Tây tận nhân gian kiếp kiếp trần .
Ở đây Nguyễn-Trãi đề cao Thiền
Thượng-Thừa " Bất Nhị Pháp " phủ phủ-định
của Huệ-Năng, đối-lập với khuynh-hướng trí-
thức của Thần-Tú. Thần-Tú còn chấp vào hình-
danh sắc-tướng, khi viết :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
237
" Thân thị Bồ Đề thụ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Mạc sử nhạ trần ai " .
Huệ-Năng triệt-để phủ-định để thẳng vào
tánh Bát Nhã là tuệ-thể tự chiếu :
" Bồ Đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai ? "
Vậy Thiền Thượng-Thừa của Nguyễn-
Trãi muốn noi theo là khuynh-hướng Thiền của
Huệ-Năng phủ phủ-định "Bản lai vô nhất vật",
NGUYỄN-TRÃI
238
duy Chân Không Bát Nhã ở trên cả hình-danh
sắc-tướng ( mana rupa ) Có và Không, mà
người tu Thiền phải thể-hiện bằng cái Tâm Vô-
niệm, Vô-tâm mà Nguyễn-Trãi mô-tả qua giấc-
mộng Thanh Hư :
" Thanh Hư động lý trúc thanh can,
Phi bộc phi phi lạc kính hàn.
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy,
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn ".
Sống Thiền của Nguyễn-Trãi luôn luôn ra
vào giữa Thực và Mộng, ý-thức " Vật Ngã " và
" Vật Ngã Câu Vong ". Trong 99 bài thơ Hán-
văn trong " Nguyễn-Trãi Toàn-tập " ta thấy có
đến 29 bài đề-cập đến chữ Mộng :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
239
1 bài nói đến Miên
1 bài nói đến Thụy Ngủ say
Có khi dùng chữ Mộng hoàng-lương hay là
Mộng Nam-Kha, nhưng thường thường là
Thanh-mộng hoặc Mộng hồn :
1 ) 1
Hòa chung nhập Mộng thanh
2 ) 4
Hội đầu vạn sự phó Nam Kha
3 ) 5
Vãng sự không thành Hòe quốc
Mộng
5 ) 9
Phù thế bách niên nhân tự Mộng
6 ) 10
Đằng đằng thanh Mộng nhiễu yêu ba
NGUYỄN-TRÃI
240
7 ) 11
Ký thác Mộng hồn tầm cố lý
8 ) 12
Hướng lý tài qua như Mộng đáo
9 ) 18
Ngũ dạ bồng song thanh Mộng giác
10 ) 29
Kim môn Mộng giác lậu thanh tàn
11 ) 33
Quan lãnh thân nhàn Mộng diệc
thanh
12 ) 40
Vãng sự trùng tầm chỉ Mộng hồn .
13 ) 14
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
241
Mạc ngoại hư danh thân thị huyễn
Mộng trung thù tục sự kham phao
14 ) 42
Hoàng lương Mộng giác sự nan tầm
15 ) 49
Thế thượng hoàng lương nhất Mộng
du
Giác lai vạn sự tổng thành hư
16 ) 52
Tam thập dư niên trần cảnh Mộng
Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi
17 ) 54
Cổ sơn tạc dạ triều thanh Mộng
Nguyệt mãn Bình than tửu mãn
thuyền
NGUYỄN-TRÃI
242
18 ) 56
Bán sinh khâu hác phế đăng lâu
Loạn hậu gia hương phí Mộng tầm
19 ) 57
Tẩy tận trần khâm hoa ngoại mính
Hoán hồi ngọ Mộng chẩm biên cầm
20 ) 60
Miên tưởng cố viên tam kính cúc
Mộng hồn dạ dạ thượng quy dao
21 ) 63
Mộng giác cố viên tam kính cúc
22 ) 66
Mộng trung hoa điểu cố sơn u
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
243
23 ) 67
Nguyệt trung thanh Mộng nhiễu sơn
gia
24 ) 69
Thả hỷ Mộng trung phao tục sự
25 ) 70
Nhãn biên xuân sắc huân nhân túy
Chẩm thượng trào thanh nhập
Mộng hàn
26 ) 71
Hồi thủ Đông hoa địa
Trần ai giác dĩ vô
27 ) 73
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn
NGUYỄN-TRÃI
244
Miên 75
Dã kính hoàng lương hành
khách thiểu
Cô châu trấn nhật các sa miên
Thụy 77
Ngọ song thụy tỉnh hồn vô mỵ
Ẩn kỷ phần hương lý ngọc
cầm
28 ) 79
Thanh niên phương dự ái nho
lâm
Lão khứ hư danh phó Mộng
tầm
29 ) 84
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
245
Hồi đầu tam thập niên tiền sự
Mộng lý du du cách mạc tầm
30 ) 90
Đăng ảnh chiếu nhân hòa nguyệt
ảnh
Thụ thanh xao Mộng tính than
thanh
31 ) 97
Mộng trung thủy viễn sơn hoàn viễn
Biệt hậu thư vô nhạn diệc vô
32 ) 98
Cố viên quy Mộng tam canh vũ
Lữ xá ngâm hoài tứ bích trùng
Qua những bài thơ Hán-văn trên đây, tư-
tưởng thực-hiện Thiền Thượng-thừa của
NGUYỄN-TRÃI
246
Nguyễn-Trãi bao-hàm toàn-thể thực-nghiệm
sinh-tồn : Thức, Mộng, Ngủ-say.
Ở bình-diện Thức là ý-thức luân-lý xã-hội
do Nho-giáo chi-phối.
Ở bình-diện Mộng là ý-thức nghệ-thuật
thiên-nhiên do Đạo-giáo chi-phối.
Ở bình-diện Thụy-miên ( Ngủ-say ) là ý-
thức tâm-linh do Phật-giáo chi-phối.
Ba bình-diện ấy đã được Nguyễn-Trãi
nhất-quán vào một cái Tâm Vô-tâm :
" Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm ? "
Cái Tâm Vô-tâm ấy là cái ý-thức thuần-
túy vô-ngã của giấc Ngủ-say mà Nguyễn-Trãi
đã linh-động-hóa bằng hình-ảnh :
" Trì thanh nguyệt vô tâm "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
247
Cái ý-thức thuần-túy kinh-nghiệm ấy đã
khiến Ông không chấp vào ngoại cảnh, cho nên
" Xuất " cũng được " Xử " cũng được :
" Luân lạc thiên nhai câu thị khách
Niên lai xuất xử lược tương đồng " .
_ ( 53 )
Cho nên :
" Đắc an phận xử nhưng an phận
Vị xuất gia thì thả trú gia " .
Cốt-yếu là làm sao có được tâm nhàn :
" Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư "
Một tấm lòng nhàn là cái tâm hết hệ-lụy
phiền-não, tự-do giải-thoát như trong giấc Ngủ-
say, làm nguồn cho cả ba bình-diện ý-thức
Nho-Đạo-Thích, tức là " Tam giáo đồng
nguyên " vậy. Thơ quốc-âm có tinh-thần Thiền
Tam-giáo Đồng-nguyên :
NGUYỄN-TRÃI
248
Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm
Rừng nhiều cây rợp hoa chầy động
Đường ít người đi cỏ kíp xâm
Thi đối tục hiềm câu đối tục
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Năng mấy sơn tăng làm bạn ngâm
_ ( Ngôn chí - 4 )
Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt ấy làm lòng Bụt khá cầu
_ ( Mạn Thuật - 8 )
Người ảo hóa khoe thân ảo hóa
Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao
Rừng Thiền ắt thấy nên đầm ấm
_ ( Thuật hứng - 2 )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
249
Sống Thiền
Chụm tự nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc liễu về Nam
Rừng Thiền định hùm nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc đem
Núi láng-giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm .
_ ( Thuật Hứng - 19 )
" Đàn cầm suối trong tai dội
Còn một non xanh là cố-nhân ".
_ ( Thuật Hứng - 15 )
Đấy là chiêm-ngưỡng thiên-nhiên như
một linh-hồn để cảm-thông với cái ý-thức
thuần-túy, ý-thức vũ-trụ lấy làm tri-kỷ. Với
" Một lòng thơm " Nguyễn-Trãi dung-thông
Nho và Phật :
NGUYỄN-TRÃI
250
Thiêu hương đọc sách quét con am,
Chẳng Bụt chẳng Tiên ắt chẳng phàm.
Ánh cửa trăng mai thấp thấp,
Cài song gió trúc nhàm nhàm.
Đầu non thiếu thất đen bằng mực,
Giòng nước Liêm Khê lục nửa châm.
Tiêu sái mấy lòng đà mạc được,
Bảo chăng khúng mạc một lòng thơm .
_ ( Tự Thán - 27 )
" Lòng thơm " của Nguyễn-Trãi nói đây
phải chăng là " Lòng đỏ ", nó giải-quyết được
cả vấn-đề của Nho về luân-lý xã-hội lẫn vấn-đề
Phật-giáo về nghiệp-báo luân-hồi :
" Trung hiếu cương thường lòng đỏ
Tự nhiên lọn nghiệp ba thân ".
_ ( Bảo Kính - 60 )
Lòng thơm, lòng đỏ cũng là lòng thiêng
hay thành ( ) của Nho-giáo :
" Bất thành vô vật "
_ ( Trung-Dung ).
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
251
Và Nguyễn-Trãi đã thực-hiện vào chiến-tranh
Nhân Nghĩa để thắng quân Minh :
" Lấy thành-thực đãi người thì
người cũng lấy thành-thật đáp lại. Cái đạo
chí-thành có thể động đến Trời Đất, cảm
được Quỷ Thần huống chi là người "
_ ( Thư cho Vương-Thông - 23 )
" Lòng thơm " không vẽ ( mạc ) được của
Nguyễn-Trãi cũng là cái tâm nhàn nối vào vô-
biên của Lão-Trang Đạo-gia :
_
" Ngọ song tiêu sái vô trần lụy
Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư ".
_ ( Tức Sự - 34 )
( Buổi trưa tựa cửa sổ lâng lâng không
vương chút bụi trần.
Một tấm lòng tự-do nhập vào ý-thức vũ-
trụ vô-biên ) .
NGUYỄN-TRÃI
252
Lòng thơm ấy cũng là lòng Bụt :
" Thân đà hết lụy thân nên nhẹ
Bụt lấy làm lòng, Bụt khá cầu "
_ ( Mạn Thuật - 9 )
Hay là :
" Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén Bụt làm lòng
Chiều mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không " .
_(Vịnh hoa Mộc-Cận, tức Râm-bụt)
Lòng Bụt thơm tho trong trắng như Hoa
Sen ở bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn :
" Lầm nhơ chẳng bén tốt hòa thanh
Quân tử kham khuôn được thửa danh
Gió hương đêm nguyệt tĩnh
Trinh làm của có ai tranh " .
_ ( Hoa Sen )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
253
Xem thế đủ biết trước sau Nguyễn-Trãi
không cần làm Bụt, làm Tiên, làm quân-tử,
Thánh-hiền về hình-thức mà luôn luôn nhằm
thực-hiện cái tâm-không, hay là vô-tâm, một
tâm-hồn thanh-cao thoát tục :
" Lọ chi Tiên Bụt nhọc tầm phương
Được thú an nhàn ngày tháng trường ".
_ ( Tự Thán - 82 )
Hay là :
" Thiêu hương đọc sách quét con am
Chẳng Bụt chẳng Tiên ắt chẳng phàm " .
_ ( Tự Thán - 97 )
Chẳng phàm là nhờ cái tinh-thần Thượng
Thừa Thiền "Vô thụ phi đài", "Tâm Vô niệm"
của Huệ-Năng đã chủ-trương ở Tào Khê :
" Tào Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm "
_ ( Thuật Hứng - 19 )
NGUYỄN-TRÃI
254
Thiền Thượng Thừa không thấy ở kinh
sách hay là ngẫu tượng cái chân-lý tối cao, cái
thực-tại tuyệt-đối làm cứu-cánh sinh-tồn, mà
chỉ phải thực-hiện ở tại tâm mình, rửa sạch tâm
cá-nhân, hết Tham, Sân, Si, bụi trần danh-lợi,
vượt qua giới-hạn của ý-thức xã-hội Nho-giáo,
ý-thức thiên-nhiên đến cái ý-thức vũ-trụ, cái ý-
thức " Bản lai vô nhất vật " ( vốn chưa có vật
của Huệ-Năng ) mà Nguyễn-Trãi đã nhắc lại :
" Vô thụ phi đài ngữ nhược tân ".
Đấy là Thiền Thượng Thừa mà Nguyễn-
Trãi theo đuổi, khác với Tiểu Thừa phủ-định
cái ý-thức cá-nhân, khẳng-định các pháp ( hiện
tượng ), khác với Đại-Thừa phủ-định cả Ngã và
Pháp tổng-hợp vào cái ý-thức thuần-túy vũ-
trụ :
" Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư "
Đấy là trạng-thái vô-tâm lý-tưởng của
Nguyễn-Trãi, trạng-thái trong sáng như trăng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
255
chiếu ao trong, cao-siêu như chim hồng hộc,
tinh-khiết không nhiễm-ố như Bông Sen :
Lánh trần náu thú sơn lâm,
Lá thông đàn tiếng trúc cầm .
Sách cũ ngày tìm người hữu đạo,
Trì thanh đêm quyến nguyệt vô tâm.
Say hết tấc lòng hồng hộc,
Hỏi làm chi sự cổ kim .
Thế sự dầu ai hay buộc bện,
Sen nào có bén trong lầm .
_ ( Thuật hứng - 25 )
Với Thượng-Thừa Thiền ấy, Nguyễn-Trãi
trở về tiếp nối tinh-thần Thiền-Tông Trúc-Lâm
An-Tử, như Trần-Nhân-Tông đã để lại bài kệ :
" Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc sôn hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền ."
_ ( Cư Trần Lạc Đạo phú )
NGUYỄN-TRÃI
256
Cái tinh-thần ấy là " Đại ẩn ẩn triều thị "
(Ẩn-sĩ lớn thì ở trong triều-đình hay ở giữa xã-
hội cũng vẫn ẩn, vì vô-tâm ) mà Nguyễn-Trãi
hay nhắc đến Nôm-na là Ẩn-cả :
" Ẩn cả lo chi thành thị nữa
Nào đâu chẳng là đất nhà quan ".
_ ( Ngôn Chí - 16 )
Hay là :
Kẻ thì nên Bụt kẻ nên Tiên,
Tượng thấy ba thân đã có duyên.
Bành được thương thua con Tạo-hóa,
Diều bay cá nhảy đạo tự-nhiên.
Có thân mựa lệ phen bằng hữu,
Đọc sách thì xem thấy thánh hiền.
Ta nếu ở đâu vui thú đấy,
Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền .
_ ( Tự Thán - 33 )
Bởi vì mục-tiêu thực-hiện của Thiền
Thượng-Thừa là cái Tâm vô-tâm, hay ý-thức
tuyệt Sắc, Không :
" Hoa Râm bụt "
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
257
Cái trạng-thái vô-tâm tuyệt Sắc, Không
của nhà Thiền-học Thượng-Thừa là cái ý-thức
vô-ngã như trong trạng-thái Ngủ-say nói trong
" Duy Thức " ( Vijinana-Matravada-
Vasubandhu ), Huyền-Trang dịch sang Hán-
văn :
( )
Duy Thức Tam Thập Luận
( Ý-thức thường luôn luôn khởi lên
Trừ khi nào sinh lên cõi trời vô-tâm
Và khi vào hai bậc Thiền-định
Khi Ngủ-say cùng khi ngất đi ) .
" Ý thức thường hiện khởi
Trừ sinh vô tưởng Thiền
Cập tâm vô nhị định
Thụy miên dữ muộn tuyệt "
Trong trạng-thái Thiền-định và khi Ngủ-
say ý-thức cá-nhân về Ngã mất và ý-thức về
ngoại-vật cũng mất theo, tức như Trang-Tử bảo
là Tọa vong ( ) mà vật ngã câu vong
( ), Năng-tri ( sujet connaissant )
NGUYỄN-TRÃI
258
và Sở-tri ( objet de connaissance ) hợp làm một
trong cái vô-tâm .
" Chủ vô tâm ấy khách vô tâm "
_ ( Ngôn Chí - 4 )
Vì ý-thức không nổi hiện mà tâm vô-tâm
tuyệt Sắc Không :
" Nhất niệm tức lai thiên niệm tức "
_ ( Thu dạ Khánh cảm )
Vua Trần-Thái-Tông đã dùng cái quá-
trình biện-chứng của ý-thức siêu-nhiên ấy, gọi
là vô-tâm trong câu kệ linh-động :
" Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan "
_ ( Khóa Hư Lục )
Phủ-định cả ý muốn cá-nhân, phủ-định
nước chảy xuống núi, phủ-định tình-cảm riêng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
259
tư như mây từ hang núi bốc lên, phủ-định ngã,
phủ-định pháp, cả tâm lẫn vật để tiến lên nữa,
đạt tới ý-thức Bát-Nhã là Đạo :
" Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh
vạn vật chi mẫu "
Nguyễn-Trãi cũng nhìn mây bay mà tự
hỏi :
( Suốt ngày tựa ghế như Tử-Kỷ của
Trang-Tử tọa vong quên mất cả lời nói.
Người với mây trắng ai có tâm, ai vô
tâm ? )
" Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm ?"
Nguyễn-Trãi hay lấy hình-ảnh Trăng,
Nước làm nguồn linh-cảm sáng-tạo văn-nghệ,
vì nó là hình-ảnh biểu-tượng điển-hình cho tâm
Thiền, ngụ cái triết-lý " Nguyệt chiếu vạn
xuyên " ( ) ( Một vừng trăng phản-chiếu
NGUYỄN-TRÃI
260
xuống muôn vàn giòng nước, có muôn vàn
bóng trăng ). Một mà nhiều, nhiều mà một
( L ' Unité dans la pluralité ) :
" Đồng qui nhi thù đồ "
" Vạn pháp nhất lý "
Mặt Trăng Trong Nước.
Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên
không,
Xem ắt lắm một thức cùng.
Hải nhược chiết nên cành quế tử,
Giang phi chiếm được chức Thiềm cung.
Thụ cao thỏ ướm thăm lòng bể,
Vực lạnh châu mừng thoát miệng rồng.
Đan khiếp thiên nhan chăng nỡ tịn ( tận ),
Lui thuyền lãng đãng ở trên giòng .
_ ( Quốc-Âm Thi tập )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
261
Nước Trời Một Sắc
Trời nghi ngút nước mênh mông,
Hai ấy cùng xem một thức cùng.
Hương thỏ chìm tăm Hải-Nhược,
Nhà giao giải bóng Thiềm cung.
Bút thiêng Ma Cật tay khôn mạc,
Câu khéo Huyền-Huy ý chửa đông.
Lẽ có chim bay cùng cá nhẩy,
Mới hay kià nước nọ hư không .
_ ( Quốc-Âm Thi-tập )
Hai bài thơ tuyệt-tác trên, Nguyễn-Trãi,
trong tinh-thần Thiền Thượng-Thừa, đã giải-
đáp hết sức nghệ-thuật cho vấn-đề then-chốt
ách-yếu của Tư-tưởng Tôn-giáo, và Triềt-học
cổ kim Đông, Tây : Quan-hệ giữa Tuyệt-đối và
Tương-đối, Vô-hạn và Hữu-hạn, Tự-do và Hệ-
lụy. Nguyên-lý đồng-nhất đã biến thành thiên-
hình vạn-trạng như thế nào ? Qua bài " Mặt
Trăng Trong Nước ", tác-giả đã lấy mặt trăng
tượng-trưng cho nguyên-lý hữu-danh là Mẹ của
Tạo-vật, vì mặt trăng là biểu-tượng điển-hình
NGUYỄN-TRÃI
262
của tình-yêu, và tình yêu đi tìm đối-tượng để
yêu mà tự đối-tượng-hóa ra thiên-hình vạn-
tượng. Một mặt trăng trên không phản-chiếu
bóng trăng dưới giòng nước chảy khiến cho ở
đâu cũng có bóng trăng như là có lắm mặt
trăng : " Nguyệt chiếu vạn xuyên " soi muôn
ngàn giòng nước kỳ thực chỉ có một mặt trăng :
" Xem ắt lắm, một thức cùng "
Một mặt trăng ở các quan-điểm khác
nhau mang một tên gọi khác. Thần bể Hải-
Nhược gọi là cành quế. Thần sông thì gọi là
Cung-Thiềm, chỗ thì cho là thỏ, chỗ thì tưởng
là hạt châu... Tác-giả đã lý-tưởng-hóa cái tình
yêu Trăng của mình ra nhiều phương-diện đẹp,
tựu-trung cũng chỉ là cái vô-tâm tự đối-tượng-
hóa :
" Vô tâm trì có trăng bạc "
_ ( Tự Thán - 8 )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
263
Và chỉ có Trăng là bạn tri-kỷ :
" Nọ nào biết được lòng tri kỷ
Vẳng non Tây nguyệt một vầng ".
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
Rồi tác-giả kết-thúc bài thơ Trăng Nước,
minh họa cái nguyên-lý tình yêu sáng-tạo của
đức Mẹ Tạo-hóa : " Hữu danh vạn vật chi
mẫu " bằng thái-độ kính sợ mặt trăng không
dám đến tận nơi bóng trăng để tận hưởng :
" Đạn khiếp thiên nhan chăng nỡ tịn . "
Thiên nhan ở đây chẳng phải nguyên-lý
" Vô danh thiên địa chi thủy " đấy sao ? Cái
nguyên-lý khởi-thủy như vua cha Vô danh hay
là Vô phải cần có nguyên-lý mẹ để sinh-thành
hiện-hữu, tức là thế-giới biểu-hiện Hữu-danh.
Song cả hai như Trời Nước một mầu vô-hạn
vô-biên vậy. Đấy là đề-tài bài thơ :
" Nước Trời Một Sắc "
NGUYỄN-TRÃI
264
Ngồi trên mặt nước phẳng-lặng mênh-
mông, dưới bầu trời sáng trăng bát-ngát, trông
lên cao ngất mịt-mù không còn biết đâu là bờ-
bến, đâu là chân trời, đâu là bờ nước, nhưng bờ
nước còn sờ thấy hữu-hình, mà trời thì nghi-
ngút vô-hình, mà cả hai không sao phân-biệt
được giới-hạn của nhau :
" Trời nghi ngút, nước mênh mông
Hai ấy cùng xem một thức cùng " .
Nguyễn-Trãi đặc-biệt ưa hình-ảnh " Trời
Nước một mầu ", nói lên cái trực-giác về trạng-
thái Vô-hạn và Hữu-hạn nối lại hợp-nhất với
nhau :
" Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy "
(Đêm qua trăng sáng trời tựa như nước )
_ ( Thanh Hư động )
" Đại An triều trướng thủy như thiên "
( Nước triều lớn của bể Đại-An trời như
nước liền với nhau )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
265
Đủ thấy hình-ảnh Trời Nước nối liền đã
ám-ảnh Nguyễn-Trãi suốt đời, tức là cái lý-
tưởng sống trong đời với tinh-thần đạo .
Ở Ông Đời và Đạo, Hữu-hạn và Vô-hạn
là một quá-trình biện-chứng sống Thiền, khai-
phóng tâm-hồn đến quên mình, vô-tâm như
hình Trăng Nước :
" Trì thanh đêm quyến nguyệt vô tâm "
Qua hình-ảnh Trăng Nước, Nguyễn-Trãi
biểu-lộ tình yêu thiên-nhiên một cách thâm-
trầm. Ở đấy Ông nhìn thấy đầy những Thần
Tiên mỹ-lệ và kỳ-lạ :
" Hương thỏ chìm tăm Hải nhược
Nhà giao giãi bóng Thiềm cung "
Cảnh Trăng Nước thiên-hình vạn-trạng,
thiên-biến vạn-hóa không bút nào tả xiết, đến
tài họa Vương-Duy cũng phải chịu thua, mà là
nguồn cảm-hứng bất-tận bàng-bạc mung-lung
NGUYỄN-TRÃI
266
đến Thánh-thi như Huyền-Huy cũng không
vịnh nổi .
Nhưng mặc dầu Trăng Nước có nhiều vẻ,
chúng vẫn còn mơ-màng nửa thực nửa hư,
không cho ta phân-biệt được giới-hạn của Trời
với Nước, như khi giác-quan bị khua động bởi
tiếng cá nhảy trên mặt nước hay cánh chim bay
trên không, bấy giờ thế-giới tương-đối mới
thấy phân-biệt với thế-giới siêu-nhiên, " Trời
nghi ngút, nước mênh mông " tách rời làm hai :
" Lẽ có chim bay cùng cá nhảy
Mới hay kìa nước nọ hư không " .
Đủ thấy Nguyễn-Trãi vẫn yêu đời, thế-
giới biểu-hiện thiên-hình vạn-trạng tương-đối
hữu-hạn, đa nguyên của Đạo mà Ông thường
ấp-ủ trong mộng, mộng hợp Đời với Đạo, nhất-
quán :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
267
" Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn ".
_( Thanh Hư động )
Hợp-nhất bằng biện-chứng toàn-diện của
cái Tâm Sen, Thiền Thượng-Thừa :
" Liên hoa phù thủy thượng
Tiên cảnh trụy trần gian " .
_ ( Dục Thúy sơn )
Dung thông ý-thức cá-nhân sạch lụy vào
ý-thức vũ-trụ, Thiên Địa Tâm :
" Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư "
Vậy Đức Nhân là yêu người của Nho-
giáo ở Nguyễn-Trãi đã mở rộng đến lòng Bụt
để thương tất cả chúng-sinh, trở nên tình yêu
từ-bi bác-ái, phổ-biến đại-đồng, vô-lượng vô-
biên. Cho nên :
NGUYỄN-TRÃI
268
" Trì tham nguyệt hiện chẳng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây "
Vì Đức hiếu sinh như Trời Bụt :
" Lòng hiếu sinh nhiều cá ngại câu "
_ ( Tự Thuật - 10 )
Hay là :
" Mai chẳng bẻ thương cành ngọc
Trúc nhật vun tiếc cháu rồng "
_ ( Thuật Hứng - 5 )
Với tinh-thần từ-bi bác-ái " Lấy Bụt làm
lòng ", Nguyễn-Trãi chỉ chuyên cái
( " lòng đỏ " _ B.K. 60 ), ( " tấc son " _ Tự
Thán 17 ), tức tâm Thành là dễ dàng vượt hết
giáo-điều Nhập-thế hay Xuất-thế, Nho hay
Phật ...
" Cõi phàm tục khỏi lòng phàm tục
Học thánh nhân chuyên thói thánh nhân
Trung hiếu cường thường lòng đỏ
Tự nhiên lọn nghiệp ba thân ".
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
269
Với tư-tưởng tổng-hợp của Nguyễn-Trãi
là đem luân-lý công-lợi của Nho-giáo thuộc về
nhân-sinh xã-hội hợp với luân-lý động-cơ của
Phật-giáo thuộc về tâm-linh vũ-trụ, chủ-nghĩa
công-lợi ( Utilitarisme ) và chủ-nghĩa động-cơ
( Motivisme ) của tâm đã được Ông quy-
nguyên vào cái Tâm " Thành " hay là " Lòng
đỏ ", tức là cái Tâm Hoa Sen " Lầm nhơ chẳng
bén ", cái ý-thức thuần-túy " Tuyệt Sắc Không
" vừa vô-tư chí-công, vừa sạch nghiệp ba thân
" không sát sinh, thâu đạo, tà dâm. Đấy là tư-
tưởng Thiền Thượng-Thừa của Nguyễn-Trãi
vậy .
TỔNG KẾT ._
Nguyễn-Trãi là cháu ngoại Trần-
Nguyên-Đán, động-chủ Thanh-Hư, dòng dân-
tộc nhà Trần, một triều-đại hiển-hách không
những về chiến-công anh-hùng mà còn là triều
của các Vua Thánh Chúa Hiền, sáng-lập Thiền-
học Trúc-Lâm An-Tử, kể từ Trần-Thái-Tông,
NGUYỄN-TRÃI
270
Thánh-Tông, Nhân-Tông, Anh-Tông, Minh-
Tông, đều là Thiền-sư danh-tiếng và độc-đáo,
làm việc đời với tâm Đạo .
Vua Trần-Thái-Tông đã tuyên-bố tôn-chỉ
Thiền-tông :
( Các bậc Thánh Nho lớn với các vị
Sư Phật lớn không khác nhau, đủ biết
giáo-lý của Phật ta lại mượn tay Thánh
nhân đi trước để truyền Đạo vào đời vậy).
" Tiên đại Thánh nhân dữ đại sư vô
biệt tắc tri ngã Phật chi giáo hựu giả
Tiên Thánh nhân dĩ truyền ư thế dã " .
_ ( Thiền-tông Chỉ-nam Tự ) ( )
Bởi vì theo nhà Vua thì :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
271
" Phật vô Nam Bắc, quân khả tu
cầu, tính hữu trí ngu đồng tư giác ngộ.
Thị dĩ dụ quần mê chi phương tiện, minh
sinh tử chi tiệp kính giả, ngã Phật chi đại
giáo dã, nhiệm thùy thế chi quyền hành,
tác tương lai chi quy phạm giả, tiên thánh
chi trọng trách dã "
_ ( Thiền Tông Chỉ-Nam )
( Chân-lý Phật dạy không giới-hạn
vào phương Nam hay phương Bắc. Tính
người có kẻ khôn người ngu đều được tư
bẩm sự giác-ngộ. Thế nên dạy đám ngu
mê phương tiện, soi sáng đường tắt về
sống chết, ấy là giáo-lý chính-yếu của
Phật, đảm nhiệm cầm cân nẩy mực cho
đời, vạch mẫu mực cho tương-lai, ấy là
các Thánh Nho dẫn đầu làm trách-nhiệm
trọng đại ) .
Tác-giả Khoá-Hư ( ) nghĩa là môn
học về Không Hư đã lấy trực-giác siêu-hình
giác-ngộ của Phật-học để bổ-túc cho luân-lý
NGUYỄN-TRÃI
272
xã-hội chính-trị của Nho là Dụng. Thể Dụng
hỗ-tương cứu-cánh và phương-tiện tương-quan
như là hai phương-diện của một tính Hư
( Sunnyata ) vượt quá Nhị-biên Sinh tử, Sắc
Không .
Thực-hiện cái tính Hư ấy là lý-tưởng của
Thiền-tông Trúc-Lâm An-Tử, không chấp vào
ngoại cảnh hay là ngôn-ngữ danh-hiệu như bài
phú " Cư Trần Lạc Đạo " của vị Tổ thứ nhất,
Vua Trần-Nhân-Tông, đã nói lên cái tinh-thần
ấy. Và Vua Duệ-Tông và Nghệ-Tông cũng noi
theo để tặng cho Trần-Nguyên-Đán hai chữ
" Thanh Hư ", đặt tên cho cái động trong núi
Côn-Sơn, nơi ông lui về hưu-trí .
Nguyễn-Trãi đã viết về ông ngoại mình :
" Băng Hồ tướng công Trần thị chi
thân tộc .
" Phụ nhập nội Thái Bảo Uy Túc
Công, húy Văn Bích, phụ Minh miếu chi
Thái-Bình. Tổ Văn Túc Vương, húy Đạo
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
273
Tái, thập tứ tuế thí trúng Bảng-Nhỡn,
Thánh miếu đặc tứ Văn phục dĩ sủng di
chi, sưng kỳ hữu Quản Cát chi tài, hữu ý
đại dụng, vị cập trắc tướng nhi vương tảo
hoàng. Tằng tổ thượng tướng Thái sư
Chiêu Minh Đại Vưong, húy Quang Khải,
Thái Tông chi thứ tử, Trùng Hưng niên
gian, công cư đệ nhất, thường xuất
chinh, Thánh miếu tứ nhị kỳ, thời hàn đề
vấn :
" Nhất đại công thần thiên hạ hữu
Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô. "
" Khả kiến phi thường chi nhân hỹ,
thọ ngũ thập tuế, hữu lạc đạo tập hành
vu thế .
" Công húy Nguyên-Đán, gia truyền
thi lễ, trụ nhất thần minh .
" Tề nguyệt quang phong, nhã hữu
xuất trần chi tưởng .
" Thanh thiên bạch nhật, minh kỳ
hữu quốc chi trung .
NGUYỄN-TRÃI
274
" Tích đương Hôn đức bội loạn chi
thời, tòng Duệ Nghệ nhị đế xuất bôn du
ngoại, sự bình chi nhật viên lập tác
tường, định xung chàng ư chấn hạm chi
tế, giải phần kết ư thác loạn chi dư, sổ
niên chi gian, hải nội bình trị quốc, nhân
xưng viết hiền tướng, tuy nhi đồng tẩu tốt
mạc bất tri danh .
" Từ Hồ thi hán dụng, ẩm băng thủy
ngưng Công viết : " Quân tử kiến cơ chi
tác bất dĩ trung nhật ", ư thị sáng Thanh
Hư động vu, Phượng-Sơn huyện chi Côn
Sơn, dĩ vi thoái hữu chi xứ. Động thành
Duệ miếu tứ ngự thư " Thanh Hư
Động".
" Tam đại tự yết chi bi ngạch
Nghệ miếu thân chế bi minh lạc chí nhan
âm.
" Công tuy tịch ngụ lâm tuyền, chí
tôn tôn xã, ưu ái chi niệm quyển quyển vị
thường nhất nhật tam vong vu hoài, mỗi
thác chi ca thi ngụ kỳ trung phẫn, hoặc
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
275
khứ hoặc lưu, nhất động nhất tĩnh mạc
phi gián thuyết dã "......
_ ( Băng Hồ Di Sự lục ).
Dịch nghĩa :
( Tướng-công Băng-Hồ là thân-tộc
nhà Trần, cha là Nhập-nội Thái-Bảo Uy-
Túc-Công, húy là Văn-Bích giúp triều
Minh-Tông nên nghiệp thái-bình. Tổ là
Văn-Túc-Vương, húy là Đạo-Tái, 14 tuổi
thi đậu Bảng-Nhãn, triều Thánh-Tông
đặc-ân ban cho Văn phục để tỏ ý yêu quý
đặc-biệt, khen là có tài Quản-Trọng,
Khổng-Minh, có ý muốn dùng vào việc
lớn. Chưa kịp lên làm Tướng-vương đã
sớm nghỉ .
( Tằng-Tổ là Thượng-tướng Thái-sư
Chiêu-Minh Đại-Vương, húy là Quang-
Khải con thứ của Thái-Tông, đời Trùng-
Hưng công to bậc nhất. Từng xuất chinh,
Thánh-Tông tặng hai lá cờ, ngự đề :
NGUYỄN-TRÃI
276
" Nhất đại công thần thiên hạ hữu
Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô "
( Một thời công-thần trong thiên-hạ còn
có được
Hai triều trung hiếu trên đời thì không thể
có ).
( Công húy là Nguyên-Đán, nếp nhà
thi lễ, nòi giống thần minh. Trăng trong
gió mát có nhã thú xa lánh cõi trần. Ngày
trắng tuổi xanh, có hoài-bão một lòng vì
nước. Xưa trong buổi Hôn-đức Nhật-Lệ
phản loạn, đi theo hai Vua Duệ-Tông và
Nghệ-Tông chạy ra ngoài, đến khi dẹp
yên, được lập làm tướng giữ vững cơn lay
động, gỡ mối sau buổi rối ren, trong
khoảng mấy năm được an-định, người ta
khen là hiền-tướng. Dù là con trẻ, lính-
tráng chẳng ai không biết tiếng .
( Từ khi họ Hồ được tiến dùng, giá
ngầm bắt đầu đông. Công nói người
quân-tử thấy thời-thế thì làm, không chờ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
277
đến cuối ngày. Bấy giờ bèn dựng Động
Thanh-Hư ở núi Côn-Sơn huyện Phượng-
Sơn để làm chỗ lui nghỉ. Động làm xong
Duệ-Tông tặng ba chữ ngự bút lớn
Thanh-Hư Động nêu ở mặt bia. Nghệ-
Tông tự chế bài minh khắc vào lưng bia.
Công tuy thân gửi suối rừng mà chí thì lo
cho thôn xã, tấm lòng ưu ái chưa từng
một ngày quên hoặc đi hoặc ở, khi động
khi tĩnh, đều có ý can-gián gửi gấm ở thi
ca ) .
Qua những lời ca-tụng ông ngoại, ta có
thể thấy được chí-hướng của Nguyễn-Trãi
đồng-nhất với chí-hướng của Băng-Hồ vậy.
Băng-Hồ tặng thơ Chu-Văn-An có câu :
( Tôn kính tinh-thần xuất-thế-gian
của Lão-Trang, sùng bái tinh-thần nhập-
thế của Khổng Mạnh, chính-trị được tiến-
bộ ) .
" Kính Lão sùng Nho chính đắc tâm "
NGUYỄN-TRÃI
278
Đủ thấy Nguyên-Đán vẫn trung-thành với
truyền-thống Thiền-học của Trần-Thái-Tông,
thực-hiện tính Hư bao-hàm cả khuynh-hướng
khẳng-định lẫn phủ-định thực-tại sinh-tồn.
Nguyễn-Trãi thừa-kế cái tinh-thần Thiền-Tông
ấy nên đã có trực-giác Chân Không (Sunnyata)
hay là Không Hư mà Ông đã linh-động-hóa
vào bài thơ " Mộng Sơn Trung " :
Mộng Sơn Trung
Thanh Hư động lý trúc thiên can
Phi bộc phi phi lạc kính hàn
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn .
( Trong động Thanh-Hư trúc có
ngàn cây, tượng-trưng quân-tử tiết trực
tâm hư .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
279
( Thác đổ như tấm vải trắng bay
phơi phới rơi xuống mặt suối lạnh trong,
ngụ ý tượng-trưng cho " Tâm như minh
kính " .
( Đêm qua trăng sáng tượng-trưng
cho tình yêu sáng-tạo, nước như trời một
mầu ngụ ý vô-hạn .
( Mộng cưỡi hạc vàng bay lên cung
Tiên )
Đấy là cực tả tinh-thần của động-chủ
động Thanh-Hư là Băng-hồ Trần-Nguyên-Đán.
Về phần mình thì tuy cùng một khuynh-hướng
nhưng với tín-ngưỡng Phật-giáo sâu xa " Lấy
Bụt làm lòng ". Nguyễn-Trãi có tinh-thần Ẩn
Cả ( Đại ẩn, ẩn triều thị ) của Thiền Thượng-
Thừa :
" Ta nếu ở đâu vui thú đấy
Người xưa ẩn cả, lọ lâm tuyền "
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
281
TÂM - LÝ VĂN - NGHỆ
CỦA NGUYỄN-TRÃI
Nguyễn-Trãi là một hiền-triết Việt-
Nam đầu thế-kỷ XV theo ý-nghĩa Đông-
phương. Ông vừa là một chính-trị-gia đại tài,
một nhà ngoại-giao có uy-tín, đồng thời là một
nhà văn-chương lỗi-lạc. Nghiên-cứu tâm-lý
văn-nghệ của Ông tức là tìm-hiểu con người
thân-mật nội-tại của Ông qua thi văn chữ Hán
cũng như chữ Quốc-âm vậy. Ở Ông thi-ca thật
là tái đạo, thật đã nói lên cái ý-chí như cổ-điển
định-nghĩa :
" Thi ngôn kỳ chí dã, ca vịnh kỳ
thanh dã, vũ động kỳ dung dã. Tam giả
bản ư tâm, nhiên hậu nhạc khí tòng chi.
Thị cố tình thâm nhi văn minh khí thịnh
NGUYỄN-TRÃI
282
nhi hóa thần, hòa thuận tích trung nhi
anh hoa phát ngoại " .
_ ( Nhạc Ký )
( Thơ nói lên ý-chí của người, ca hát
vịnh âm-thanh, múa nhảy vận-động hình-
dáng. Cả ba cách ấy vốn gốc ở lòng người
rồi sau nhạc-cụ tuân theo đấy. Thế nên
tình-cảm thâm sâu mà văn-chương sáng-
tỏ, vận khí phong-phú mà hóa thành tinh-
thần, hòa-thuận tích chứa bên trong mà vẻ
đẹp phát-xuất ra ngoài ) .
Văn-chương Nguyễn-Trãi là đúng theo
những nguyên-tắc trên, cổ kính điển hình như
lời Chế truy tặng của Vua :
" Phong hổ long vân chi hội do ức
tiền duyên, văn chương sự nghiệp chi
truyền vĩnh thùy lai thế "
( Rồng Mây Gió Hổ gặp thời còn
nhớ duyên trước, sự-nghiệp văn-chương
truyền lại mãi mãi đời sau )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
283
Văn tức là Người. Người chính-trực thì
văn có khí-phách, người có tâm đạo thì văn có
sức cảm-hóa mạnh. Văn " Bình Ngô Đại Cáo "
của Nguyễn-Trãi thì hùng-hồn cảm-động, văn
" Quân Trung Từ Mệnh " thì uyển-chuyển và
sắc bén, đanh thép, gẫy gọn, không rườm rà,
văn Chiếu, Biểu thì nghiêm chỉnh có khuôn
phép, văn " Địa Dư Chí " và " Lam Sơn Thực
Lục " thì chính-xác, khoa-học .
Nhưng còn cái " Tâm quang Khuê Tảo "
của Ông đã biểu-lộ ra qua những bài thơ chữ
Hán và Quốc-âm. Thực vậy, nhà thẩm-mỹ thi-
ca Tây-phương có xác-nhận về thi-hứng linh-
cảm như sau :
" Tất cả thi văn đều bắt-nguồn ở con
người, từ Ta đến Vũ-trụ tất cả đều có thể
là tài-liệu của trữ-tình, phản hướng hay là
tấm gương mà tâm-hồn phóng-đại ra,
biến dạng hay là phản ảnh sự thật, tâm-
hồn chịu ảnh-hưởng của động-tác thế-giới
và phản-ứng lại thế-giới. Lý-trí, tình-cảm,
NGUYỄN-TRÃI
284
trí tưởng-tượng, chỉ là những hình-thức
khác nhau của cái động-tác hay là phản-
động ấy, trong đó bản-ngã hợp hóa với
những yếu-tố bên ngoài. Sự cấu-tạo của
tất cả tác-phẩm nghệ-thuật là sự biểu-diễn
của những hoạt-động và thụ-động của
nhân-loại trong khi tiếp-xúc với tất cả cái
gì có thể rung-động chúng. Tùy theo tình-
cảm của mình mà thi-sĩ lựa chọn, tùy theo
những khuynh-hướng của y mà y giải-
thích, tùy theo những thích-thú của y mà
y tạo tác, tùy theo những khả-năng của y
mà y diễn-tả. Tính độc-đáo của y là nội-
tại, nó không đạt được bằng sự cầu tìm
điều mới lạ mà bằng sự hiểu-biết cái tư-
ngã của y. Không một nhân-vật nào giống
hệt với một nhân-vật khác, không một
tâm-hồn nào cảm-xúc như nhau trong khi
tiếp-xúc với những người và vật bên
ngoài.
" Nghiên-cứu những nguồn linh-
cảm của một thi-sĩ, theo dõi lịch-trình của
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
285
chúng trong tâm-hồn thi-sĩ và trong tác-
phẩm của y, theo tôi hiểu đấy là mục-tiêu
mà nhà thẩm-mỹ phải cố-gắng đạt tới,
nếu muốn trình-bày sống-động do lai của
thi-ca.
" Này thi-sĩ ! hãy cho ta biết cái gì
làm cho ngươi cảm-hứng, ngươi đã cảm-
hứng như thế nào và ngươi đã diễn-tả
những cảm-hứng của ngươi ra sao, bấy
giờ ta sẽ có thể biết ngươi là ai. Với
ngươi ta sẽ nói lên đặc-tính hoàn-cảnh
của ngươi, dân-tộc của ngươi và cả đến
con người của ngươi nữa. Ta sẽ lần mối
ra tất cả cái gì ở trong ngươi, hoặc có
tính-chất đại-đồng, hoặc chỉ là phổ-quát,
chỉ giới-hạn vào cá-nhân " .
_ ( Chatelain )
Quan-niệm thi-ca trên đây của Chatelain
cũng phù-hợp với những nguyên-tắc trên kia
của Nhạc-Ký, có thể hướng-dẫn ta trong sự
nghiên-cứu, tìm-hiểu tâm-hồn sâu xa của
NGUYỄN-TRÃI
286
Nguyễn-Trãi, qua thơ văn chữ Hán và chữ
Nôm của Ông. Đối với Ông thơ là đạo-lý mà
đạo-lý là thi-ca. Ông không làm thơ để tiêu-
khiển, thù-tạc, chơi đùa, vì tâm-hồn Ông luôn
luôn thực-hiện, luôn luôn khao-khát sống
Thiền, khao-khát thực-hành lý-tưởng đạo
Trung-Dung :
" Làm người thì giữ đạo Trung Dung
Khăn khắn dặn dò thửa lòng "
_ ( Tự Giới )
Đạo Trung-Dung ấy là tín-ngưỡng sự
đồng-nhất-thể giữa Người với Trời, tính người
cũng là tính Trời bị tư-dục che-lấp " Thiên
mệnh chi vị tính " noi theo tính ấy là đạo-lý
" Suất tính chi vị đạo ", trau-giồi con đường ấy
là giáo-dục " Tu đạo chi vị giáo " _ ( Trung-
Dung _ Lễ-Ký )
Và suốt đời Ông không bỏ qua một phút
con đường tu-luyện ấy, không để cho nó bị lu
mờ lãng quên :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
287
" Bền đạo Trung Dung chẳng thuở tàng
Màng chi phú quý nhọc khoe khoang ?"
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
Đạo Trung-Dung của Nho-học cũng như
Trung-Quán ở Phật-học, không phải là hệ-
thống triết-học tri-thức ở Tây-phương cận-đại
mà là triết-lý truyền-thống Đông-phương, như
Comaraswamy ở Ấn-Độ, René-Guénon ở Pháp
và Aldous-Huxley ở Anh gần đây đã giới-
thuyết cho thế-giới biết cái loại triết-lý vĩnh-
cửu truyền-tục ( Philosophia Perennis ) vừa là
triết-học vừa là tôn-giáo thực-hiện. Nó tin vào
một thực-tại sinh-tồn trước khi nhân-loại ý-
thức :
( Cái đạo-lý có thể bảo là đạo-lý thì chẳng
là đạo-lý thường còn vĩnh-cửu ).
_ (Đạo Đức Kinh )
" Đạo khả đạo phi thường đạo "
NGUYỄN-TRÃI
288
Cái thực-tại ấy là bản-thể siêu-hình của
thế-giới hiện-tượng, chúng-sinh và tinh-thần,
nó là cái đồng-nhất-tính giữa Thiên, Địa, Nhân
trong vũ-trụ-quan sinh-thành của Dịch
" Sinh sinh chi vị dịch ". Bởi thế nên tâm-lý-
học thấy trong tâm-hồn nhân-loại, trong ý-thức
thuần-túy, cái bản-tính tương-tự với Thiên
Mệnh, hay là ý-chí đại-đồng mà NGUYỄN-
TRÃI hay nhắc đến :
" Được thua phú quý dầu Thiên Mệnh "
_ ( Mạn Thuật )
Hay là :
" Cùng đạt xem hay này có mệnh
Đòi cơ tạo-hóa mặc tự nhiên " .
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới )
Tự nhiên là đạo Trời, là Thiên-công chí-
công vô-tư :
" Tự nhiên đáp đối đạo Trời
Tiêu trưởng doanh hư một phút dời " .
_ ( Tự Thán - 34 )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
289
" Thiên công nào có thuở tư cho "
_ ( Tự Thán - 3 )
Tự-nhiên, Thiên-mệnh, không phải một
thế-lực ở ngoài ý-thức nhân-loại, mà qua cái
Tính, người ta có khả-năng thông-cảm với
Thiên-Tính như sách Trung-Dung đã trình-bày
biện-chứng-pháp thực-hiện :
" Thành giả thiên chi đạo, thành chi
giả nhân chi đạo.........."
" Duy thiên hạ chí thành vi năng tận
kỳ tính
Năng tận kỳ tính, tắc năng tận nhân
tính
Năng tận nhân chi tính, tắc khả dĩ
tán Thiên Địa chi hóa dục.
Khả dĩ tán Thiên Địa chi hóa dục,
tắc khả dĩ dữ Thiên Địa tham hỹ "
_ ( Trung Dung )
NGUYỄN-TRÃI
290
( Chân-thực là đạo Trời, thực-hiện
điều ấy là đạo người, là đường sinh-tồn
của người ..............)
( Chỉ có hết mức thành-thật trong
thế-giới mới có thể làm hết tính mình,
Có thể làm hết tính mình, thì có thể
làm trọn tính người,
Có thể làm trọn tính của người, thì
có thể làm trọn tính của vật,
Có thể làm trọn vật tính thì có thể
giúp vào công việc sinh-thành nuôi dưỡng
của Trời Đất .
Có thể giúp việc sinh-thành nuôi
dưỡng của Trời Đất thì nó đứng vào ngôi
thứ ba trong đại hòa điệuTam Tài : Thiên
Địa Nhân ) .
Đấy là quá-trình biện-chứng của ý-thức
sinh sinh đại-đồng hay là Tính theo Nho-học
mà Nguyễn-Trãi đã thực-hiện trong cuộc đời
vừa nhập-thế vừa xuất-thế của Ông. Ở giai-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
291
đoạn nhập-thế Ông thi-hành Nhân-Nghĩa vào
việc kinh-bang tế-thế để " Tận kỳ tính " và
" Tận nhân chi tính " thuộc về con người Quốc-
gia xã-hội :
" Quyền mưu bản thị dụng trừ gian
Nhân Nghĩa duy trì quốc thế an " .
_ ( Hạ Qui Lam-Sơn )
như đã trình-bày ở mục " Triết-lý Chính-trị
Của Nguyễn-Trãi " trên kia .
Nay hãy tìm-hiểu tâm-hồn Ức-Trai trong
cuộc đời xuất-thế nhàn-dật, thực-hiện " Tận
vật tính, dữ thiên địa tham " tức là đời sống
chiêm-ngưỡng cảnh-vật thiên-nhiên và cảm-
hứng thơ văn, nghệ-thuật với ý-thức Vật-hóa
như " Trang-Chu mộng hóa thành bướm, phất-
phới như bướm, tự thấy thích-chí chẳng biết
đến Chu nữa. Tỉnh mộng không biết Chu mộng
hóa làm bướm hay là bướm mộng làm Chu "
_ ( Tề Vật Luận )
NGUYỄN-TRÃI
292
" Thế thượng hoàng lương nhất mộng du
Giác lai vạn sự tổng thành hư
Như kim chỉ ái sơn trung trú
Kết ốc hoa biên độc cựu thư " .
_ ( Ngẫu Thành )
Dịch :
( Cuộc đời nào khác mộng kê vàng
Muôn việc tỉnh rồi thấy hoang đường
Chỉ thú ngày nay lều góc núi
Bên hoa sách cũ đọc vài chương ).
Thời thơ-ấu được nuôi dưỡng trong
không khí tinh-thần của ông ngoại, một nhà
đạo-học danh tiếng, dòng-dõi nhà Trần, Động-
chủ động Thanh-Hư, trong cảnh suối rừng núi
Côn-Sơn, Nguyễn-Trãi suốt đời mang cái ấn-
tượng thanh-tao của thiên-nhiên, Bồng-lai
mộng cảnh. Lớn lên về nhà học Nho của cha là
Nguyễn-Phi-Khanh, rồi thi đỗ làm quan tại
triều nhà Hồ. Nhà Hồ kháng quân Minh, bị bại
vong, bị bắt làm tù-binh cùng với cha bị đày về
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
293
Kim-Lăng. Trong nước loạn-ly, Nguyễn-Trãi
lẩn trốn không nhận ngụy-quyền. Thật là một
" tuồng ảo-hóa đã bầy ra đấy " . Như thế làm
sao Ông không nhìn cuộc đời như một giấc
mộng hoàng lương mà hoài-bão cuộc đời ẩn-
dật trong núi Côn-Sơn với bao kỷ-niệm mỹ-
miều :
Loạn Hậu Đáo Côn-Sơn
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Qui lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lý tải qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thì kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà, trẩm thạch miên .
Dịch : Sau Loạn Đến Côn-Sơn
Xa cách non nhà chẵn mười năm
Quay về thông cúc nửa u âm
Suối rừng hò hẹn sao nỡ phụ
Bụi tục vùi đầu tự thương thầm
NGUYỄN-TRÃI
294
Quê quán hiện ra như giấc mộng
Thân còn chịu cực giặc còn xâm
Bao giờ dưới núi mây lều dựng
Nước suối pha trà trên đá nằm .
Đủ thấy Nguyễn-Trãi vốn tha-thiết với
Côn-Sơn, với suối rừng quê mẹ, từ lâu sớm ấp-
ủ cái nhãn-quan coi cuộc đời là mộng-ảo mà
khao-khát đời sống nhàn-dật với thiên-nhiên.
Phải chăng hoàn-cảnh thời-thế sui nên hay là vì
chịu ảnh-hưởng của Thiền-học gia-truyền. Phải
là sớm có Thiền-tâm mới có con mắt nhìn thế-
giới, cảnh-vật như là nửa có nửa không, tương-
đối :
Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ
Thủy sắc thiên quang bán hữu vô
Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí
Hải sơn vị ngã xuất tân đồ .
_ ( Tĩnh-yên Vãn-lập )
Dịch :
( Sương khói lạt mưa phùn bay cảnh
chiều mơ-hồ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
295
Màu nước lẫn với mầu trời nửa có nửa
không
Vũ-trụ từ muôn thủơ cảnh hết sức trong
thanh
Bể và núi vì ta mới hiện ra bức họa mới
mẻ .)
Đấy là qua ngoại-cảnh tác-giả mượn để
vươn lên từ thế-giới hiện-tượng sai khác đến
cái nguyên-lý đồng-nhất vô-hạn, cái thể đồng-
nhất tuyệt-đối không vì thời-gian mà biến-đổi,
bao giờ cũng vẫn thế, nhưng sở dĩ có bể, núi
khác nhau, hiện-tượng thiên-biến vạn-hóa sai-
thù là vì có ta tự khẳng-định nên mới có cái
thế-giới không phải ta hiện ra vậy. Vì có ta nên
mới có biển, núi, bằng không thì vũ-trụ kiền
khôn vẫn y nhiên trong cảnh-trí trong thanh tự
tại :
" Thiên Địa dữ ngã tịnh sinh
Vạn vật dữ ngã vi nhất ".
_ ( Trang Tử )
NGUYỄN-TRÃI
296
( Trời Đất cùng với ta cùng sinh ra
Muôn vật cùng với ta là một thể ).
Ông thực-nghiệm nơi tâm Thiền cái
tuyệt-đối trong tương-đối, cái vô-hạn trong
hữu-hạn, như Ông đã làm sống-động cụ-thể cái
trạng-thái ý-thức " Nguyệt chiếu vạn xuyên "
hết sức nghệ-thuật :
Mặt Trăng Trong Nước
Nguyệt trong đáy nước nguyệt trên không
Xem ắt lắm một thức cùng
Hải nhược chiết nên cành quế tử
Giang phi chiếm được chức Thiềm cung
Thụ cao thỏ ướm thăm lòng bể
Vực lạnh châu mừng thoát miệng rồng
Đan khiếp thiên nhan chăng nỡ tịn
Lùi thuyền lãng đãng ở trên giòng .
Nhìn ngắm vầng trăng thu sáng trên trời
quang, rồi lại nhìn xuống bóng trăng in dưới
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
297
làn nước thu trong, bóng trăng tùy theo giòng
nước mà biến-đổi thiên-hình vạn-trạng, còn
vầng trăng trên không-trung vẫn chỉ là Một, y-
nhiên, như-như bất-định. Đấy là ý-nghĩa linh-
động của triết-lý " Đồng qui nhi thù đồ "
( L'Unité dans la Pluralité ) ( L'Un et le
Multiple ). Cái Một trong cái Nhiều, Một mà
Nhiều là thế-giới hiện-tượng phồn đa, phiền-
toái với bản-tính siêu-nhiên tối cao, thế-giới
tương-đối lưỡng-nguyên của kinh-nghiệm giác-
quan với bản-thể tuyệt-đối siêu giác-quan. Ngụ
ý bài thơ là mô-tả cái Một thực-tại, nội-tại siêu-
nhiên của vũ-trụ-quan Dịch-truyện Lý-luận :
" Dịch hữu thái cực, thị sinh lưởng
nghi, tứ tượng bát quái ...... "
_ ( Hệ Từ )
( Thế-giới biến-động có cái khởi-
nguyên chính đại. Nó tự phân-hóa ra hai
năng-lực đầu tiên. Hai năng-lực đầu lại tự
phân-hóa thành bốn hình-ảnh. Bốn
hình-ảnh đẻ ra tám quẻ ba hào ....... )
NGUYỄN-TRÃI
298
Và Lão-Tử cũng viết :
" Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhị, Nhị sinh
tam, Tam sinh vạn vật ".
( Đạo sinh ra một, Một sinh ra hai, Hai
sinh ra ba, Ba sinh ra muôn ngàn vật ).
" Vạn vật phụ Âm nhi bão Dương, sung
khí dĩ vi hòa" .
_ (Đạo Đức Kinh )
( Muôn vật cõng khí Âm, ôm khí Dương,
hai khí tràn đầy mà làm ra hòa-điệu ) .
Đấy là cả một tuồng ảo-hóa giữa tuyệt-
đối Một với tương-đối Nhiều, tuy hình-thức
mâu-thuẫn mà bản-tính lại cùng, vì là vận-động
biện-chứng của hữu thể sinh-tồn, dịch như bất-
dịch :
" Có Âm Dương có vợ chồng
Dẫu cùng Thiên Địa cũng vòng phu thê ".
_(Ôn-Như-Hầu " Cung Oán Ngâm Khúc")
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
299
Bởi thế mà Tương-đối không bao giờ dời
được Tuyệt-đối, luôn luôn vươn lên Tuyệt-đối
như Thần bể tưởng đã chiết được cành quế
trong cung-trăng để trồng dưới nước, tức là
bóng trăng in đáy nước vậy. Vì nàng Tiên của
Ông cũng tưởng chiếm được địa-vị của Hằng-
Nga ở Thiềm cung. Bóng trăng in trong nước
kia phải là viên ngọc châu ở miệng rồng mới
nhả ra, hay là con ngọc thỏ ở cung-trăng thu
cao tít trên trời đã lặn xuống biển để thăm dò
nông sâu của đáy biển. Với những hình-ảnh
liên-tưởng phong-phú, tác-giả đã do chiêm
ngắm trăng trên trời và trăng dưới nước mà có
linh-cảm sáng-tạo .
Vì cảnh đẹp thần tiên quá mà tác-giả sợ
nó tan vỡ mất nên không dám đến tận nơi, chỉ
lãng-đãng đàng xa mà chiêm-ngưỡng, kính mộ
cái thiên-nhiên tuyệt đẹp kia thôi .
NGUYỄN-TRÃI
300
Nước Trời Một Sắc
Trời nghi ngút, nước mênh mông
Hai ấy cùng xem một thức cùng
Hương thỏ chìm tăm Hải Nhược
Nhà giao giải bóng Thiềm cung
Bút thiêng Ma-cật tay khôn mạc
Câu khéo Huyền Huy ý chửa đông
Lẽ có chim bay cùng cá nhảy
Mới hay kià nước nọ hư không .
_ ( Quốc Âm Thi Tập )
Vẫn cái trực-giác nghệ-thuật về vô-biên
của vũ-trụ biểu-hiện qua cảnh thiên-nhiên, trời
cao nghi ngút, nước rộng mênh mông, cùng
chung mầu sắc xanh biếc, khó mà phân-biệt
ranh-giới .
Bóng trăng chìm sâu đáy bể, nước biếc
của Thần bể Hải Nhược .
Nhà Rồng hay là Thủy-cung được bóng
trăng in trong đáy nước soi chiếu .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
301
Cảnh-tượng Một mà Hai, Hai mà Một của
cái tâm-trạng thuần-túy kinh-nghiệm do ngoại
cảnh gọi lên những liên-tưởng phong-phú để cố
mô-tả cái nguồn sáng của trăng, tượng-trưng
của Nguyễn-Trãi cho cái Tâm Vô-tâm :
" Vô tâm trì có trăng bạc "
_ ( Tự Thán )
" Trì thanh đêm quyến nguyệt vô tâm "
_ Thuật Hứng )
Vì trăng soi chiếu khắp cả trên trời, dưới
đáy nước không tính toán, hoàn-toàn vô-tư, soi
sáng vì soi sáng mà bao nhiêu cảnh đẹp tự-
nhiên hiện ra cho người nhìn ngắm, tưởng-
tượng. Nhà họa-sĩ Vương-Duy vẽ nên tranh
" Nhà giao ", " Hương thỏ ", " Hải Nhược ",
" Thiềm cung " cũng như thi-sĩ Huyền-Huy tha
hồ ngâm vịnh, không nói hết được cái vẻ đẹp
của Thiên-công, Tạo-hóa. Vì đạo vốn vô-hình,
bất khả tư nghị " Vô danh thiên địa chi thủy,
NGUYỄN-TRÃI
302
hữu danh vạn vật chi mẫu " _ ( Lão-Tử ) nghĩa
là khởi kỳ thủy không có tên gọi là Trời Đất, có
tên gọi là mẹ đẻ ra muôn vật .
" Lẽ có chim bay cùng cá nhảy
Mới hay kià nước nọ hư không "
Với hai bài thơ tuyệt-tác trên đây,
Nguyễn-Trãi đã cực tả quan-hệ biện-chứng
giữa Tuyệt-đối và Tương-đối, Vô-hạn và Hữu-
hạn. Bằng những hình-ảnh linh-động sinh-hoạt
cụ-thể, Ông vẽ nên bức họa của Tạo-hóa, của
đạo, sự Vô-hạn biến vào Hữu-hạn, qua kinh-
nghiệm mỹ-cảm cũng như Lão-Tử đã mô-tả :
" Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt,
hốt hề hoảng hề kỳ trung hữu tượng.
Hoảng hề hốt hề kỳ trung hữu vật. Yếu hề
minh hề kỳ trung hữu tinh. Kỳ tinh thật
chân, kỳ trung hữu tín " .
_ (Đạo Đức Kinh - Ch. 21 )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
303
( Cái vật gọi là Đạo thì mơ hồ hốt
hoảng. Mơ hồ hốt hoảng bên trong có
hình tượng. Hốt hoảng mơ hồ bên trong
có sự vật. Tối tăm mù mịt bên trong có
sinh-lực. Sinh khí tinh lực rất thật, bên
trong có đức tin ) .
Nguyễn-Trãi nuôi tinh-thần Thiền trong
mạch máu của ông ngoại Băng-Hồ và của bà
mẹ thuộc tông-tộc nhà Trần, lại từng tha-thiết
với cảnh-vật thiên-nhiên của động Thanh-Hư
trên núi Côn-Sơn. Ông từng tỏ ý muốn theo
" Thượng Thừa Thiền " như lời thơ tặng bạn
học là nhà Sư Đạo-Khiêm :
Ký tằng giảng học thập dư niên
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên
Thả hỷ mộng trung phao tục sự
Cánh tầm thạch thượng, thoại tiền duyên
Minh triều Linh Phổ hoàn phi tích
Hà nhật Côn Sơn cộng thích tuyền
Lão khứ cuồng ngôn lưu quái ngã
Lâm kỳ ngã diệc Thượng Thừa Thiền .
_ ( Tống Tăng Đạo Khiêm qui sơn )
NGUYỄN-TRÃI
304
Dịch vận :
Đã từng giảng học quá mười năm
Nay gặp nhau đây ngủ một đêm
Mừng thấy trong mơ xa tục lụy
Tiền duyên thảo luận bàn đá tìm
Mai đây Linh Phổ bạn về núi
Nghe suối Côn Sơn mắt đăm đăm
Tuổi tác lời ngông xin miễn chấp
Chia tay hẹn sẽ nối Thiền tâm .
Chính hình-ảnh thiên-nhiên, bàn đá Chí-
Linh, giòng suối Côn-Sơn, nhất là động Thanh-
Hư mà Nguyễn-Trãi đã thừa-hưởng cái nghiệp
của Nguyên-Đán ông ngoại, tất cả tình yêu
nhiệt-thành cảnh-vật thiên-nhiên đã dẫn Ông
vào con đường Thiền-tông Thượng-thừa như
biểu-thị ở bài kệ của Trần-Nhân-Tông Tổ
thứ nhất của Tam-Tổ Thánh Hiền dòng Thiền
Trúc-Lâm An-Tử :
" Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xôn hề, khốn tắc miên
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
305
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền " .
_ ( Cư Trần Lạc Đạo phú )
( Trong đời vui đạo sống tùy duyên
Đói thì ăn, mệt ngủ liền
Nơi mình sẵn báu tìm đâu nữa
Trước cảnh vô tâm chẳng hỏi thiền ).
Chiêm-ngưỡng cảnh thiên-nhiên, thân
yêu tạo-vật thiên-nhiên, để tẩy sạch lòng trần-
tục, đấy cũng là lý-tưởng của NGUYỄN-TRÃI
sống Thiền :
Chiếm tự nhiên một thảo am
Dầu lòng đi Bắc liễn về Nam
Rừng Thiền-định ( Dhyana ) hùm
nằm chực
Trái thì trai vượn nhọc đem
Núi láng-giềng chim bầu-bạn
Mây khách-khứa nguyệt anh tam
Tào-Khê rửa ngàn tầm suối
Sạch chẳng còn một chút phàm .
NGUYỄN-TRÃI
306
Một Thiền-Sư Nhật-Bản có nói :
" Lá rụng hoa rơi và cuộc đâm bông
trổ trái giãi bầy với ta đạo lành của Phật.
Anh muốn được trong sạch và yên-tĩnh
chăng ? Hãy tìm đến cảnh-vật thiên-
nhiên. Trăng hoa chẳng hẹp gì với anh,
anh muốn ít mà được nhiều. Anh muốn
có khí-lực và lòng kiên-nhẫn chăng ?
Hãy tìm đến cảnh-vật thiên-nhiên. Nước
non sẽ tập-luyện và hun-đúc cho anh.
Anh muốn có cái cao vọng chẳng ? Hãy
tìm đến cảnh-vật thiên-nhiên, rừng sâu
sông rộng sẽ giúp anh làm cho được thỏa
nguyện. Anh muốn được " Minh tâm kiến
tính ", được giác-ngộ chăng ? Hãy tìm
đến cảnh-vật thiên-nhiên. Nước mây sẽ
đưa tay ra đón tiếp anh và độ anh tới
đích " .
_( theo " Các Tông Phái Đạo Phật " -
Đoàn-Trung-Còn )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
307
Vì tiếng gọi của thiên-nhiên, nhất là cảnh-
vật Côn-Sơn, tiếng gọi thiết-tha réo rắt nên
Nguyễn-Trãi mới có bài Côn-Sơn Ca du-dương
thánh-thót :
Côn Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch
Nham trung hữu tùng
Vạn lý thúy đồng đồng
Ngô ư thị hồ yên tức kỳ trung
Nham trung hữu trúc
Thiên mẫu ấn nan lục
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc ...
Dịch :
Côn-Sơn có suối trong veo
Ta nghe thánh-thót thanh-tao tiếng đàn
Côn-Sơn có đá thạch-bàn
Rêu phong mưa rửa rờn rờn thảm xanh
NGUYỄN-TRÃI
308
Trong khe bát-ngát tùng thanh
Nghỉ-ngơi dưới tán một mình tiêu-dao
Rừng sâu có trúc muôn sào
Ta ngồi ngâm vịnh cười phào thế-gian ...
Cảnh-vật thiên-nhiên đối với Hiền-triết
Đông-phương nói chung và đối với Nguyễn-
Trãi nói riêng là những tượng-trưng cho ý-
nghĩa siêu-nhiên sinh-hoạt, có tình có ý chứ
không hoàn-toàn vật-lý vô-hồn như chữ
" Nature " ở Tây-phương :
" Non nước còn ghê chốn hữu tình "
_ ( Tự Thán - 8 )
Vậy nên Nguyễn-Trãi tin-tưởng :
" Non nước cùng ta đã có duyên "
_ ( Tự Thán )
Non nước là một tâm-hồn, cũng như Trời
Đất có tâm, có ý-thức vũ-trụ, cho nên Nguyễn-
Trãi sau khi đã trãi mùi đời, trải qua các cảnh-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
309
ngộ, thấy nhân-tình đổi trắng thay đen, ham
danh trục lợi, Ông có khi chán-nản chỉ còn biết
quay về với cố-nhân là cảnh-vật thiên-nhiên,
biến-đổi theo thời-tiết, đi rồi lại trở về với
trong sạch :
" Đàn cầm suối trong tai dội
Còn một non xanh là cố nhân "
_ ( Thuật Hứng - 46 )
" Đành hay thương hải đòi thì biến
Đã biết nhân gian mọi sự không
Chẳng phải giang hồ nơi vắng vẻ
Cảnh thành lọ ước cảnh non bồng ".
_ ( Thuật Hứng - 62 )
Bồng-lai tiên cảnh đối với Ông không ở
đâu xa trong trừu-tượng mà cụ-thể trước mắt
chung-quanh nơi Ông ở, nào đá, nào suối nước
trong, nào ao trăng chiếu, nào thông reo, nào
mây bạc, nào trúc xanh và nhất là động Thanh-
Hư nơi ông ngoại về hưu nhàn-tản :
NGUYỄN-TRÃI
310
" Thanh Hư động lý trúc thiên can
Phi bộc phi phi lạc kính hàn
Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn " .
_ ( Mộng Sơn Trung )
Dịch :
( Trong động Thanh-Hư trúc ngàn cây
Thác bay phơi phới gương lạnh rơi
Đêm qua trăng sáng trời như nước
Mộng cưỡi hạc vàng lên Tiên chơi ) .
Trong bài thơ trên cái gì đã làm nguồn
cảm-hứng của tác-giả ? Và tác-giả đã diễn-tả
cảm-hứng ấy như thế nào ?
Nhan-đề bài thơ là " Mộng Trong Núi ",
vậy núi non vẫn là nguồn linh-cảm sáng-tạo
của Nguyễn-Trãi luôn luôn mơ tưởng cảnh-vật
thiên-nhiên mà Ông cho là mộng, là thế-giới
siêu-giác-quan, đại-biểu cho ý-thức nghệ-thuật,
tượng-trưng cho cái đẹp kinh-nghiệm. Đẹp như
mộng .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
311
Nghĩ đến thiên-nhiên là nghĩ đến Côn-
Sơn, đến động Thanh-Hư với tất cả kỷ-niệm
thời thơ-ấu đã in sâu trong tiềm-thức, trong ký-
ức, thường hiện lên ở ý-thức trong khi làm việc
nước. Vì thế nên Ông đã quên mình trong
hành-động vô-cầu vô-tâm, tâm " Thanh Hư "
như hang động, như trúc " Tiết trực tâm hư "
(Đốt thẳng lòng rỗng ). Ông muốn có cái tâm
trong như nước suối, như tấm gương lạnh :
" Phi bộc phi phi lạc kính hàn "
( Thác bay phơi phới như tấm gương lạnh rơi )
Vì Ông muốn làm một " quân-tử Nho "
không làm " tiểu-nhân Nho " nên lấy nước
trong làm lòng :
" Quân-tử Thánh-hiền lòng tựa nước " .
_ ( Bảo-kính Cảnh-giới - 55 )
Vì không tham danh-lợi :
" Phú quý chẳng tham thanh tựa nước " .
_ ( Ngôn Chí - 21 )
NGUYỄN-TRÃI
312
Động đá rừng trúc biếc, suối trong như
gương lạnh dẫn tác-giả đến trăng sáng vô-tâm :
" Vô tâm trì có trăng bạc " .
_ ( Tự Thán - 8 )
Vì chỉ có trăng họa may mới biết được
lòng người quân-tử bao giờ cũng trong sáng
như nước, như trăng :
" Nọ nào biết được lòng tri-kỷ
Vẳng non Tây nguyệt một vừng ".
Cho nên Ông đã ảo-tưởng ra một bầu trời
thanh quang, trăng sáng vằng-vặc, trời nước
một mầu vô-hạn vô-biên, bất-giác Ông cảm
thấy lâng lâng rời trần-tục mà cưỡi hạc lên
Tiên :
" Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thủy
Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn "
( Đêm qua trăng sáng trời nước một mầu
Mộng thấy mình cưỡi hạc vàng lên cung
Tiên ).
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
313
Đấy là Nguyễn-Trãi nhân nhớ hình-ảnh
động Thanh-Hư với cảnh-vật Côn-Sơn còn in
sâu trong tiềm-thức mà nói lên cái lý-tưởng
sống Thiền, lấy thiên-nhiên làm đối-tượng cho
cái Đẹp tuyệt-đối, cho tự-do tinh-thần trong ý-
thức đại-đồng của trời nước một mầu, vô-hạn
vô-biên vậy .
Qua tâm-lý nghệ-thuật ta thấy kinh-
nghiệm sống Thiền của Nguyễn-Trãi thật
phong-phú, hình-ảnh linh-động mới lạ, biểu-lộ
một Tâm Thiền rất cao-siêu thâm-thúy, hợp-
nhất dung-thông Tâm Cá-nhân với Tâm Thiên
Địa, Tương-đối với Tuyệt-đối :
Đề Trình Xử Sĩ Vân Oa Đồ
Gia khách tương phùng nhật bão cầm
Côn Sơn qui khứ hứng hà thâm
Hương phù ngôn đỉnh phong sinh thụ
Nguyệt chiếu đài ky trúc mãn lâm
NGUYỄN-TRÃI
314
Tẩy tận trần khâm hoa ngoại mính
Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm
Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm .
Nghĩa :
Đề Tranh Vân-Oa của nhà Xử Sĩ họ Trình
Bạn quí gặp nhau ngày ngày ôm đàn
Trở về núi cũ hứng thú biết bao thâm sâu
Khói hương tỏa trên đỉnh sành, gió sinh
ngọn cây
Trăng chiếu ghềnh rêu tràn ngập rừng
trúc
Tẩy sạch lòng trần có trà ngoài hoa
Gọi tỉnh mộng trưa có chim bên gối
Suốt ngày ngồi ghế quên cả nói năng
Người với mây trắng ai là kẻ có tâm ?
Từ bức họa Vân-Oa của người Xử-sĩ, tác-
giả nghĩ đến cùng bạn tri-âm thông-cảm qua
tiếng đàn nỗi nhớ " núi nhà " tức là Côn-Sơn
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
315
với động Thanh-Hư với bao hứng-thú dồn ép
trong lòng. Rồi tác-giả hình-dung cụ-thể linh-
động cảnh sống Thiền của một nhà ẩn-dật, nào
đỉnh trầm ngào-ngạt, gió mát thông reo, nào
ghềnh đá suối trong, trăng soi rừng trúc. Ngày
ngày thong-thả sống Thiền, lấy chén trà gột rửa
lòng trần, làm bạn với chim muông bên gối, gọi
tỉnh giấc ngủ trưa lấy hoa trà mà tẩy sạch lòng
trần-tục. Cứ thế mà dần dần quên cả ngôn-ngữ
lời nói, cùng với tạo-vật hồn-nhiên qua lại,
không còn biết mình với tạo-vật là một hay là
hai, vô-hình-trung cùng với Trời Đất Người
thực-hiện cái hòa-điệu Tam Tài vậy :
" Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm ? "
Đấy là tác-giả đã đi đến cái trạng-thái ý-
thức Thiền ( Dhyana ), vì quên cả ngôn-ngữ, ở
trên bình-diện trí-thức đối-đãi năng-tri và sở-
tri, vật ngã câu vong, như Trang-Chu :
NGUYỄN-TRÃI
316
" Mộng hóa làm bướm vù vù như
bướm thật, tự thấy thích-chí chẳng biết
đến Chu nữa. Tỉnh dậy thì lù lù là Chu,
chẳng biết Chu mộng làm bướm hay
bướm mộng làm Chu. Chu với bướm thì
ắt có phân-biệt vậy. Thế gọi là Vật hóa "
_ ( Tề Vật Luận )
Tác-giả nhân ngắm bức họa Vân-Oa đi
đến mê-ly thần-hóa, hóa vào đối-tượng mà
quên mình, tự hỏi mây trắng với mình ai có
tâm, ta còn ý-thức cái ta nữa không. Đấy là
kinh-nghiệm trạng-thái Vô-tâm của Nguyễn-
Trãi .
Ở một bài khác, Ông mô-tả cái kinh-
nghiệm Vô-tâm như là cụ-thể, không phải
hoàn-toàn Không, mà là cái ý-thức cá-nhân
chìm vào ý-thức vũ-trụ đại-đồng, vô-biên :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
317
Tức Sự
Tiểu tiểu hiện song nụy nụy lư
Quan cư đốn giác loại u cừ
Thương ba giang thượng nhàn thùy điếu
Lục thụ âm trung tĩnh khán thư
Vũ quá tình lam khuy hộ dũ
Phong lai tuyết lãng vũ đình trừ
Ngọ song tiêu sái vô trần lụy
Nhất phiến nhàn tâm nhiếp thái hư .
Dịch : Cảm về Tâm-sự
Cửa sổ và mái hiên nho nhỏ, nhà tranh
thấp thấp
Nhà quan chợt thấy như nhà ẩn-dật
Trên sông sóng biếc thong-thả buông câu
Dưới bóng cây xanh yên-tĩnh đọc sách
Mưa tạnh hơi lam bốc luồn vào cửa sổ
Gió thổi tuyết bay múa trước sân thềm
Nằm ở cửa sổ hướng Nam lâng lâng sạch
bụi trần lụy
Một tấm lòng nhàn theo vào với thái hư .
NGUYỄN-TRÃI
318
Ở đây lòng ham sống Thiền với thiên-
nhiên khiến Nguyễn-Trãi, dầu đương làm quan
mà tưởng mình ở trong lều tranh nhà dật-sĩ
ngồi nhàn trên bờ sông gợn làn sóng biếc thả
câu, hay là ngồi dưới bóng cây thong-thả xem
sách. Có lẽ đấy cũng là cái mộng làm quan
trong một xã-hội " Vua Nghiêu Thuấn, dân
Nghiêu Thuấn " nhân-dân an-cư lạc-nghiệp mà
việc cai-trị quá đơn-giản hầu như thư-thả :
" Cầm đường ngày tháng thanh nhàn "
_ ( Nguyễn-Du " Truyện Kiều " )
Sự thực vẫn là tâm-sự nhà Thiền-học
Việt-Nam " Cư trần lạc đạo " của Trần-Nhân-
Tông, mà Nguyễn-Trãi tiếp-tục thực-hiện, làm
việc đời với tâm đạo :
" Ta nếu ở đâu vui thú đấy
Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền ".
Ẩn-cả hay là " Đại ẩn, ẩn triều thị "
người ẩn-sĩ lớn thì ở giữa triều-đình và đô-thị
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
319
vẫn khai-phóng ý-thức " Dĩ thiên hạ tâm vi
tâm " ( lấy tâm thế giới làm tâm ) :
" Đọc sách thì xem thấy Thánh Hiền "
_ ( Tự Thán - 33 )
Cũng như chiêm-ngưỡng cảnh-vật thiên-
nhiên mà thấy hiện thân cái Đẹp lý-tưởng, cái
điệu nhạc thái-hòa để rồi hòa mình vào vũ-trụ,
nối ý-thức cá-nhân với cái Tâm Thiên Địa vì đã
sạch trần-lụy :
" Ngọ song tiêu sái vô trần lụy
Nhất phiến nhàn tâm nhiếp Thái Hư ".
Đấy là cái Tâm Hoa Sen :
Lầm nhơ chẳng bén tốt hòa thanh
Quân tử ham khuôn được thửa danh
Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh
Trinh làm của có ai tranh .
_ ( Quốc-Âm thi-tập " Hoa Sen " )
NGUYỄN-TRÃI
320
Và đấy là Tâm Bụt :
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén Bụt làm lòng
Sớm mai nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không .
Thế-giới biểu-hiện là Sắc Không, vô-
thường, vô-ngã như lời Phật dạy. Một tuồng
ảo-hóa tương-đối có nhưng không thật :
" Phù thế bạch niên chân tự mộng
Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên "
( Cuộc đời trăm năm thật giấc mộng
Nhân sinh muôn việc thảy lòng Trời ).
Tất cả đều tương-đối với cái tâm ý-thức
của người ta mà có, cho nên chỉ phải khai-
phóng ý-thức, tẩy sạch cái tâm, trở nên Bụt mới
có thể giải-thoát, tin vào " Thiên lý tại nhân
tâm " .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
321
Thiên lý ấy là Thành, vì :
" Thành giả thiên chi đạo
Thành chi giả nhân chi đạo . "
_ ( Trung-Dung )
Nghiã là :
( Chân thật là đạo Trời
Thực hiện cái đạo ấy là đạo của người .)
Và Mạnh-Tử nói :
" Vạn vật giai bị ư ngã giả,
Phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên "
_ ( Tận Tâm )
Nghĩa là :
( Tạo-vật đều đủ cả nơi ta,
Quay về bản thân mà thực-hiện, đấy là
nguồn lạc thú mỹ-cảm vô-hạn vậy ) .
Do đấy mà biết rằng Nguyễn-Trãi đề-cao
cái tâm Thành :
NGUYỄN-TRÃI
322
" Trời Đất đối với muôn vật, cha mẹ
đối với con cái, chẳng qua chỉ một chữ
Thành mà thôi ."
_ ( Thư cho Vương-Thông )
Thành cũng là " Tâm Đan " ( Hải khẩu
dạ bạc hữu cảm ) cững là " Tấc son " _ ( Tự-
Thán ) . Và cũng là " Lòng đỏ " :
" Trung hiếu cương thường lòng đỏ
Tự nhiên lọn nghiệp ba thân ."
_ ( Bảo Kính cảnh giới )
Vậy chỉ một chữ " Thành " Nguyễn-Trãi
đã đạt tới cái ý-thức nhất quán ba phương-diện
của thực-tại Tuyệt-Đối : Siêu-hình ; Đạo-đức
và Nghệ-thuật, tức là Chân, Thiện, Mỹ. Và
đồng thời chỉ một " lòng đỏ " ấy đủ nhất quán
Nho-học và Phật-học, hay là luân-lý Cương
thường xã-hội và vũ-trụ-quan Nghiệp (Karma)
của Phật-học vậy .
***
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
323
VĂN - CHƯƠNG KHAI QUỐC
Qua danh-từ " Văn-chương Khai
quốc ", đặc-biệt xưng-tụng văn-chương của
Nguyễn-Trãi, chúng ta phải hiểu văn-chương
ấy không những có khả-năng di-dưỡng tinh-
thần, mà còn có sức mạnh cảm-hóa người đời
về những giá-trị cao-cả tốt đẹp. Cái cao-cả tốt
đẹp nhất là Thiên-nhiên, Sông Núi, và đối với
Nguyễn-Trãi thì Sông Núi tốt đẹp nhất, thiêng-
liêng nhất là Đất Nước, là Giang-sơn Tổ-quốc
từng ấp-ủ trong lòng trải qua lịch-sử xương
máu của Tổ-tiên, của bao nhiêu anh-hùng, liệt-
nữ hữu-danh hay vô-danh, của bao nhiêu người
thân yêu tôn kính, cho nên Đất Nước ấy là Địa-
linh, như biểu-lộ trong lời văn phú " Chí Linh
Sơn " đây :
NGUYỄN-TRÃI
324
Thần linh long khởi hề phi Lam kinh
Thiên qua chi hề sóc tái thanh
Sáng nghiệp chi công thành bị bì
Tây thổ chi sơn xuyên hữu linh
Ế ngã hoàng phi thánh vũ
Đương tứ phương chi kinh doanh
Quốc bộ phương truân
Tâm khốn lư hoành
Ký ư thiên nhi thủ thủ tất
Nãi lệ chí dĩ cánh thành
Thử kim nhật chi sở dĩ hóa Hoa-Việt vi nhất
gia
Nhi ái sơn đắc dĩ thiên cổ thùy danh dã
Đương kỳ nghĩa binh sơ khởi
Tặc thế chi trương
Nhất quốc anh hào
Thu thụ vẫn xướng
Chí thôn Ngô hề, thục Chủng, thục Lãi ?
Đồ hưng Hán hề, thục Bình, thục Lương ?
Ngã hoàng phương độn tích vu ti sơn
Duy sạn thái dĩ mai quang
Thê tử lưu ly
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
325
Sĩ tốt tán vong
Tuy xứ khốn nhi ích hanh
Tù tướng hưng chi hữu tường
Cung giới trụ dĩ vi y
Thực thái căn nhi vi lương
Chí cấp cấp ư đồ hồi
Tâm uất uất nhi bất vương
Tưởng thử sơn ư thử thời hề, khởi bất tự
Hán-Hoàng chi tại Mang-Dương giả da ?
Do kỳ tri bỉ, tri kỷ
Năng nhược, năng cường
Đãi thời thư tệ
Thu phong liễm mang
Chẩm tân nhi ngọa
Huyền phủ nhi thường
Tư tuyết tiền sỉ
Dĩ phục cố cương
Tưởng thử sơn ư tư thời hề, khởi bất tự
Cối Kê chi thê Việt-Vương giả da ?
Ký nãi, thu kỳ tàn tốt
Phù dưỡng ích cần
Nội tụ chiến cụ
NGUYỄN-TRÃI
326
Ngoại thác hòa thân
Quyên kim mộ sĩ
Sát tượng hưởng quân
Nhân hoài thân thượng dĩ tử trường
Tư dục hiệu lực dĩ thủ công
Ư thị luyện binh, tuyển tướng
Chế thắng xuất kỳ
Sinh nhục, tử vinh, tri ngã quân chi khả dụng
Hầu lương, khí giới, giai nhân dịch dĩ vi tư
Vạn toàn dĩ thủ
Nhất thốc bất di
Cầm Bành khổ tảng dĩ hiến địa
Phương Chính hư nát dĩ đông nghi
Nãi cứ hiềm nhi lập công
Hựu đa phương dĩ ngộ chi
Dạ tắc cử hỏa
Trú tắc trương kỳ
Đỗ-Gia chi xâm địa tranh tiện
Khả-Lưu chi độ giang trầm sư
Lôi khu, điện xiết
Trúc phá, hôi phi
Chu-Kiệt hạm xa
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
327
Hoàng-Thành bộc thí
Nghệ-An chi địa, dĩ vi ngã hữu
Tây-đô chi tiệp, tật ư chiểm trì .
Giáp đạo hổ tượng
Lai giả như quy
Hào-kiệt hàm phận dĩ thiết xỉ
Phụ lão cảm khấp nhi hư hy
Ngã chi quân thanh, nhật dĩ ích chấn
Tặc chi bôn mệnh, nhật dĩ ích bì
Thị-Kiều chi băng đê, hội nghị
Tuy-Động chi cảnh phong tồi nụy
Trần-Hạp, Lý-Lượng chi thâm khanh trụy hổ
Vương-Thông, Mã-Kỳ chi phí đỉnh ngư nhi
Vạn lý chi sơn hà khắc phục
Đông đô chi thị tứ bất di
Đương thử chi thời, khởi bất tự Hán-Cao
Cai Hạ tứ điện chi vi, giả da ?
Nại hà cuồng lỗ chi tham tâm bất tập
Cử quốc chi viện binh hựu lai
Dĩ du cứu phần
Lạc họa hạnh tai
Liễu-Thăng tổng tử nhi Chi-Lăng lưu huyết
NGUYỄN-TRÃI
328
Mộc-Thanh tiêu độ nhi Lãnh-Kinh tích hài
Lưỡng lộ cứu binh bất toàn chủng nhi câu bại
Các xứ tặc thành bất huyết nhận nhi tự khai
Trạo vĩ khất lân
Thành thiết kham ai
Đương thử chi thời khởi bất tự Câu-Tiễn
Khốn Ngô-vương ư Cô-Tô chi đài giả da?
Tuy nhiên nhi Hán-Cao chi qui mô hoằng viễn
Chính tự Ngô-hoàng kim nhật chi thạnh
Câu-Tiễn đặc thủ kỳ phục thù chi chí nhi dĩ
Khởi túc dĩ nghĩ nghị kỳ vạn nhất tai ?
Chí nhược thần vũ bất sát
Đại đức hiếu sinh
Niệm quốc gia trường cửu chi kế
Phóng thập vạn khất hàng chi binh
Tu lưỡng quốc chi hòa hiếu
Tức vạn thế chi chiến tranh
Toàn quốc vi thượng
Duy đồ tập ninh
Thị tắc ngã Hoàng chi thịnh đức, hựu khởi
Cao-Tổ đồng nhật khả cầu ngữ ?
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
329
Tương dữ Nhị Đế, Tam-Hoàng nhị tịnh xưng
giả dã ?
Ta hồ ! cổ vãng, kim lai
Bách thế khả suy
Nghiêu hưng Đường hậu
Thuấn khởi trắc vi
Thành Thang chi tái tự bạc
Thái-vương chi thiên vu Kỳ
Cái đa nạn nãi hưng bang chi bản
Nhi ân ưu thúc khải thánh chi cơ
Lịch biến đa tắc tư lự thâm
Kế sự viễn tắc thành công kỳ
Đế-vương chi hưng, mạc bất do ty !
Nhiên tắc ngã Hoàng chi nghiệp, thực do thử
sơn nhi sáng thủy
Nhi ngã Hoàng chi long công, thịnh đức,
trường dữ thử sơn nhi nguy nguy giả hồ .
Nãi bái thủ, khổ thủ nhi hiến ca viết :
Thiên khải thánh hề
Địa hưng vương
Kiền khôn thảo muội hề
Vạn tế phi thường
NGUYỄN-TRÃI
330
Đồ tư san chi nga nga hề
Niệm tích nhật chi gian khổ
Phủ vương nghiệp chi du cơ hề
Hà nhật năng vương
Nguyện kỷ thịnh đức dĩ lạc trinh dân hề
Vĩnh thùy bất hủ
Cáng thiên cổ dữ vạn cổ hề
Đồng thiên địa nhi trường cửu .
_ ( Rút trong " Quần Hiền Phú Tập " )
Nghĩa :
Phú Núi Chí-Linh (ở Thanh-Hóa )
Rồng thiêng nổi dậy đất Lam-Sơn,
Giáo trời chỉ ải Bắc sạch trơn .
Nghiệp mở thành-công từ ẩn-náu?
Linh-thiêng thay, miền Tây núi non .
Ấy võ-công thần-thánh Vua ta .
Kinh-doanh khi bốn phương còn,
Gian-nan vận nước .
Lo-lắng bồn-chồn,
Cậy vào Trời mà tin chắc .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
331
Có chí thì việc ắt tròn,
Do đấy mà nay Hồ,Việt hóa nên một nhà .
Danh núi muôn thủơ nét son,
Đương lúc : nghĩa-binh mới nổi .
Thế giặc như cồn,
Anh-hùng trong nước,
Lá thu gặp sương .
Chí muốn nuốt Ngô, ai là Chủng, ai là Phạm-
Lãi ?
Mưu-đồ nghiệp Hán, ai là Bình, ai Trương-
Lương ?
Đương khi ấy, Vua ta còn ẩn tiếng tại núi này,
chỉ cắt cỏ để náu nương .
Vợ con chia lià,
Quân sĩ bốn phương .
Tuy cùng khốn lại càng vững,
Biết nổi lên, điềm cát tường .
Mang khí-giới thay làm áo,
Lấy rau củ để làm lương .
Chí miệt-mài việc khôi phục,
Lòng đau đáu luôn tư lường,
Tưởng lúc ấy nước non này có khác gì,
NGUYỄN-TRÃI
332
Mang-Dương với Hán-Hoàng đó chăng ?
Bởi vì Ngài :
Biết mình, biết người,
Năng nhược, năng cường .
Đợi thời rình cơ,
Che giấu gươm mác .
Gối củi nằm sương,
Treo mật mà nếm .
Để nhớ rửa nhục,
Phục hồi Quốc cương .
Tưởng khi ấy núi non này chẳng khác gì,
Cối-Kê với Việt-Vương đó chăng ?
Rồi mà :
Thu hồi quân tàn,
Chăm lo nuôi dạy .
Trong sửa khí giới,
Ngoài giả hòa thân .
Quyên tiền mộ lính,
Giết tượng khao quân,
Đua tài-lực, lập công-trạng,
Liều một chết báo tình thân .
Thế rồi :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
333
Luyện binh, chọn tướng,
Phép thắng, mưu lạ .
Sống nhục, chết vinh,
Biết quân ta có thể dùng .
Lương-thực, khí-giới,
Nhận của giặc làm của chung .
Một mũi tên không bỏ phí,
Cốt giữ toàn vẹn để thành-công .
Cầm-Bành rập đầu xin trả đất,
Phương-Chính hốt-hoảng mà nản lòng .
Ta đóng nơi hiểm để thủ thắng,
Nhiều mưu lừa giặc vào tròng .
Đêm nơi nơi đốt lửa,
Ngày cờ phất-phới trên không .
Tranh lấy đất Đỗ-Gia để tiện lợi,
Khả-Lưu thây giặc đầy sông .
Quân ta tiến như điện chớp,
Giặc tan như trúc chẻ .
Tro bay tứ tung,
Chu-Kiệt bị đóng cũi .
Hoàng thành thây phơi đồng,
Đất Nghệ-An đã lấy được .
NGUYỄN-TRÃI
334
Trận Tây-đô thắng như không,
Bên đường người bày rượu .
Hùa theo về càng đông,
Hào-kiệt nghiến răng phẫn nộ .
Lão phụ nức nở mủi lòng,
Quân ta tiếng vang ngày một dậy .
Mệnh của giặc ngày diệt vong,
Trận Thị-Kiều giặc tan như đàn kiến vỡ
tổ .
Trận Tuy-Động giặc như cây cỏ trước
cuồng-phong .
Trần-Hạp, Lý-Lượng như hùm thiêng sa
hố .
Cá gặp nước sôi là Mã-Kỳ, Vương-Thông
Muôn dặm Núi Sông khôi phục .
Chợ búa Đông-đô vẫn đông,
Đương lúc ấy, khác gì Cao-Tổ bốn mặt
bao vây Cai-Hạ đấy ư ?
Khốn nỗi quân giặc lòng tham không đáy
Kéo viện binh nước chúng thị hùng .
Lấy dầu chữa cháy,
Tai họa vui mừng .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
335
Liễu-Thăng tử trận mà Chi-Lăng đẫm
máu,
Mộc-Thạch sợ trốn mà Khe-Lãnh xương
tầng .
Hai đường binh viện chưa trở gót đã thất-
bại,
Các nơi thành giặc không phải đánh tự ra
hàng .
Cúp đuôi lạy-lục,
Thảm-thiết kêu thương .
Đương lúc ấy há chẳng như Câu-Tiễn vây hãm
Ngô-Vương ở Cô-Tô đấy ư ?
Tuy nhiên quy mô của Hán-Cao có sâu rộng,
chính như nền thịnh-trị của Vua ta ngày nay,
nhưng Câu-Tiễn chỉ là nuôi ý-chí phục thù .
Phải chăng đủ so-sánh để luận-bình trong
muôn phần một ?
Đến như :
Thần-Vũ không giết,
Đức lớn hiếu sinh.
Nghĩ kế lâu dài cho dân-tộc,
Tha cho về mười vạn hàng binh .
NGUYỄN-TRÃI
336
Nối tình hòa-hiếu của hai nước,
Dứt muôn đời tai vạ chiến-tranh .
Bảo-toàn lấy nước trên hết,
Chỉ lo xây-dựng hòa-bình .
Cái đức ấy của Vua ta lại chẳng cùng sánh với
Hán-Đế mà còn ngang với Nhị-Đế, Tam-
Vương hay sao ?
Than ôi !
Xưa đi nay lại,
Trăm đời khá suy .
Vua Nghiêu hưng khởi Ngu-Đường,
Vua Thuấn xuất thân hàn-vi .
Thành Thang mở nước tự-hào,
Thái-Vương lui về đất Kỳ .
Có trải gian-nan mới mở nên gốc nước,
Mà ân-cần lo-lắng mới xây được Thánh-
cơ .
Qua nhiều biến tư-tưởng càng sâu,
Tính toán xa thành-công lạ kỳ,
Đế-vương hưng-thịnh .
Đều do từ đây .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
337
Vậy thì sự-nghiệp Vua ta, thực bắt đầu từ
Núi này,
Và công-đức Vua ta thịnh-vượng cũng
với Núi này vòi vọi .
Bèn cúi đầu vái lạy mà dâng bài ca :
Ca rằng :
Trời giáng Thánh chừ, Đất xuất Vương,
Vũ-trụ mộng muội chừ, vận-mệnh phi-thường .
Ngắm núi chót-vót chừ, nghĩ ngày trước gian
khổ,
Trong nghiệp Vua lâu chừ, quên đi được
chăng ?
Nguyện ghi đức lớn vào đá núi chừ, truyền mãi
mãi đời đời,
Muôn đời, vạn đời chừ, cùng vũ-trụ miên
trường .
Trên đây là một trong những tác-phẩm
văn-chương của Nguyễn-Trãi, thể-hiện đúng
như nguyên-lý văn-chương diện hiển-hình
" Tình thâm nhi văn minh " nghĩa là tình-cảm
thâm-trầm thì văn-chương sáng-tỏ. Sự sáng-tỏ
NGUYỄN-TRÃI
338
ấy chỉ là biểu-lộ cái tâm-hồn trong sáng như
sao " Khuê " như lời ca-tụng của Lê-Thánh-
Tông : " Ức-Trai tâm thượng quang Khuê-tảo "
( Tấm lòng của Nguyễn-Trãi sáng như sao
Khuê ), cho nên nhà Vua đã phê vào bài phú
Chí-Linh rằng : " Phép-tắc nghiêm-chỉnh,
chứng-cớ khăng khít chỉ lấy sự thực tả ra ; lời
xưng-tán rất gắn-bó "
_ ( Quần Hiền phú tập )
Chính thế, văn-chương của Nguyễn-Trãi
vốn là văn-chương "Tri hành hợp nhất" do sự
thành-thật bên trong mà hình hiện ra bên ngoài,
đúng là văn-chương đạo-học điển-hình, cho
nên có sức mạnh cảm-hóa rất lớn .
Ở đây tác-giả đã lấy nguồn cảm-hứng ở
thiên-nhiên, một thứ thiên-nhiên giầu ý-nghĩa
tượng-trưng tín-ngưỡng tâm-linh. Thiên-nhiên
ở đây là Núi-linh theo tín-ngưỡng Thần-linh
cố-hữu của dân-tộc là " Địa-linh Nhân-kiệt "
Nghĩa là Người, Nhân-loại, Xã-hội mật-thiết
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
339
quan-hệ với Thiên-nhiên, không phải bằng
liên-hệ sinh-lý vật-chất mà còn bằng Thần-linh:
" Tây thổ chi sơn xuyên hữu linh
Ê ngã hoàng phi Thánh-vũ ! "
Thần-linh ấy bàng-bạc khắp nơi, và kết-
tinh vào Núi, vào Sông, vào Người, vào Sơn-hà
Xã-tắc, Quốc-gia Dân-tộc để qua nhân-dân mà
nối vào Nguồn-sống Vũ-trụ, Tình yêu Kiền-
Khôn, Cha Mẹ, Tạo-hóa. Do đấy mà tác-giả đã
hết lời xưng-tụng cái đức tính hiếu-sinh, nhân-
nghĩa của Thái-Tổ chỉ nghĩ bảo-vệ quốc-gia
trường-cửu, cho nên :
" Thần-vũ bất sát
Đại-đức hiếu sinh
Niệm quốc-gia trường cửu chi kế
Phóng thập vạn khất hàng chi binh
Tu lưỡng quốc chi hòa-hiếu
Tức vạn thế chi chiến tranh
Toàn quốc vi thượng
Duy đồ tập ninh ".
NGUYỄN-TRÃI
340
Nghĩa :
( Thần-vũ không giết
Đức lớn hiếu sinh
Nghĩ kế lâu dài cho dân-tộc
Tha cho về mười vạn hàng binh
Nối tình hòa-hiếu của hai nước
Dứt muôn đời tai vạ chiến-tranh
Bảo-toàn lấy nước trên hết
Chỉ lo xây-dựng an-ninh ) .
Đấy là từ Thiên-nhiên là Núi-linh, là
Non-sông, là Sơn-hà xã-tắc, là an-ninh dân-tộc
đi đến Nguồn-sống vũ-trụ, " Thiên Địa chi đại
đức viết sinh " ( Đức lớn của Trời Đất là
Nguồn-sống ). Nguồn-sống ấy vượt giới-hạn
cá-nhân, biên-giới dân-tộc, quốc-gia để đồng-
nhất với bản-thể đại-đồng :
" Thượng Đế hiếu sinh chi tâm "
_ ( Bình Ngô Đại Cáo )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
341
" Nguyện ký thịnh đức dĩ lặc trinh dân hề
vĩnh thùy bất hủ
Cáng thiên cổ dữ vạn cổ hề
Đồng thiên địa nhi trường cửu " .
( Xin ghi đức lớn vào núi đá
Truyền mãi đời đời
Muôn đời, vạn đời
Cùng vũ-trụ miên trường ) .
Lấy Thiên-nhiên Sơn-thủy để tượng-trưng
cho vĩnh-cửu, lâu dài về hành-động vô-tư :
" Thiên vô tư phúc, Điạ vô tư tai, mặt-
trời, mặt-trăng không riêng chiếu xuống "
_ ( Lại thư cho Vương-Thông ) .
Vậy Thiên-nhiên, Tạo-hóa mới hành-
động hoàn-toàn vô-tư " Vô vi nhi vô bất vi "
_ ( Trang-Tử ) ( Không làm mà làm hết cả ).
Bởi thế mà đại-đồng, vô-tâm, vì chủ-động với
siêu-nhiên .
NGUYỄN-TRÃI
342
Cũng một luận-điệu như bài phú " Núi
Chí-Linh " trên, Nguyễn-Trãi cũng thần-linh-
hóa Non-nước Bạch-Đằng :
Sóc phong suy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng .
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm, kích chiết, ngạn tằng tằng .
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng .
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hỷ,
Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng .
Dịch :
Cửa Bể Bạch Đằng
Gió Bắc mù khơi khí bể dâng
Buồm lan reo gió tới Bạch-Đằng
Ngạc kình phanh đứt, non đợt-đợt
Khí giới chìm tan, bến tầng-tầng
Hiểm yếu Sơn-hà bao thế-hệ
Anh-hùng sự-nghiệp đất này từng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
343
Việc xưa ngoảnh lại tan vang bóng
Ngắm cảnh trên sông dạ khốn đừng.
Vẫn cái nguồn cảm-hứng văn-nghệ
" Thiên nhân hợp nhất ", mà người đây là anh-
hùng dân-tộc đã xông-pha vào sinh ra tử vì
chính-nghĩa bảo-vệ cho Sơn-hà xã-tắc. Sông
Bạch-Đằng kể từ thời Ngô-Tiên-Chúa phá quân
Lưu-Hoằng-Thao, đến thời Trần, Hưng-Đạo-
Vương bắt tướng Ô-Mã-Nhi đều ở đây cả.
Quân Hán, quân Nguyên hùng mạnh biết mấy
mà đều thảm-bại với nước-non này do anh-
hùng hào-kiệt đã lập nên chiến-công hiển-hách
cùng với núi sông lưu-danh sử-sách truyền-
tụng. Trương-Hán-Siêu cũng có bài phú Bạch-
Đằng để ca-tụng sự-nghiệp của Đại-Vương
Trần-Hưng-Đạo, có câu :
" Binh khí chôn vùi trong đáy cát
Xương khô chất đống thành non cao" .
NGUYỄN-TRÃI
344
Lời văn với ý-tứ để mô-tả sự thảm-bại
của giặc Hán, Nguyên, đều rất thiết-thực như ở
bài thơ cảm-tác của Nguyễn-Trãi trên đây vậy .
Thiên-nhiên đã gợi lên ở Nguyễn-Trãi cả
một tín-ngưỡng tâm-linh vũ-trụ, để mô-tả ra
hành-động phụng-sự và văn-chương địa-lý của
Ông, lấy Nhân-Nghĩa làm trọng tâm để bộc-lộ
ra khí-phách hùng-hồn như " Bình Ngô Đại
Cáo " ( Mậu-Thân ) :
Đại thiên hành hóa, Hoàng-Thượng nhược
viết :
Nhân nghĩa chi cử, vụ tại an dân
Điếu phạt chi sư, tất tiên khử bạo
Duy ngã Đại Việt chi quốc
Thực vi văn hiến chi bang
Sơn xuyên chi phong tục ký thù
Nam Bắc chi phong tục diệc dị
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
345
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất
phương
Tuy cường nhược thời hoặc bất đồng
Nhi hào kiệt thế vi thường phạp
Cố, Lưu-Cung tham công nhi thủ bại
Triệu Tiết hiếu đại nhi xúng vong
Toa-Đô ký cầm ư Hàm-Tử quan
Ô-Mã hựu ố ư Bạch-Đằng hải
Kê chú vãng cổ
Quyết hữu minh trưng
Khoảnh nhân Hồ-chính chi phiền hà
Trí sử nhân tâm chi oán hận
Cuồng Minh tứ khinh, nhân dĩ độc ngã dân
Ngụy đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc
Hân thương sinh ư ngược diễm
Hãm xích tử ư ngọa khanh
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng
Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên
Bại nghĩa thương nhân, Kiền-Khôn cơ hồ dục
tức
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di
NGUYỄN-TRÃI
346
Khai kim trường tắc mạo lam chướng nhi phủ
sơn đào sa
Thái minh châu tác xúc giao bang, nhi hằng
yêu tù hải
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hạm tịnh
Diễm vật chúc thúy cầm chi võng la
Côn trùng thảo mộc, giai bất đắc dĩ toại kỳ
sinh
Quan quả điên liên, câu bất hoạch dĩ an kỳ sở
Tuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt liệt chi
vận nha
Cực thổ mộc chi công, dĩ sùng chi công tư sảnh
vũ
Châu lý chi trinh dao trọng khốn
Lư diêm chi chử chục giai không
Quyết Đông-hải chi ba, bất túc dĩ trạc kỳ ô
Khánh Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác
Thần nhân chi sở công phẫn
Thiên Địa chi sở bất dung
Dư, phản tích Lam-Sơn
Thê thân hoang dã
Niệm thế thù khởi khả cộng đái ?
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
347
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh
Thống tâm tật thủ giả, thùy thập dư niên
Thường phủ ngọa tân giả, cái phi nhất nhật
Phát phần vong thực, mỗi nghiên đàm thao
lược chi thư
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý
Đồ hồi chi chí, ngụ mỵ bất vong
Đương nghĩa bình sơ khởi chi thời
Chính tặc thế phương trướng chi nhật
Nại dĩ nhân tài thu diệp
Tuấn kiệt thần linh
Bôn tẩu hậu tiên giả, ký phạm kỳ nhân
Mưu mô duy ác giả, hựu quả kỳ trợ
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗ uất uất nhi dục
đông
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp nhi hư tả
Nhiên kỳ, đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng
dương
Do kỷ chi tâm, thậm ư chửng nịch
Phẫn hung đồ chi vị diễn
Niệm quốc bộ chi do truân
Linh sơn chi thực tận kiêm tuần
NGUYỄN-TRÃI
348
Côi huyện chi chúng vô nhất lữ
Cái thiên dục khốn ngả dĩ giáng quyết nhậm
Cố dư ích lệ chí dĩ tế vu gian
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập
Đầu dao hưởng sĩ, phủ tử chi binh nhất tâm
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị
Dĩ quả địch chúng, Thường thiết phục dĩ xuất
kỳ
Tốt năng dĩ đại nghĩa dĩ thắng hung tàn
Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo
Bồ-đằng chi lôi khu diện xế
Trà-lân chi trúc phá hôi chi
Sĩ khí dĩ chi ích tăng
Quân Thanh dĩ chi đại chấn
Trần-Trí, Sơn-Thọ chi đồ văn phong nhi sĩ
phách
Phương-Chính, Lý-An chi bối, xuyên tức dĩ
thâu sinh
Thừa thắng trường khu, Tây kinh ký vi ngã hữu
Tuyển phong tiến thủ, Đông đô tận phục cựu
cương
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
349
Ninh-Kiều chi huyết thành xuyên, lưu sinh vạn
lý
Tuy-Động chi thi mãn dã, di xú thiên niên
Trần-Hạp tạc chi phúc tâm ký kiêu kỳ thủ
Lý-Lượng tặc chi gian đồ, hựu điển quyết thân
Vương-Thông lý loạn nhi phần giả ích phần
Mã-Anh cứu dấu nhi nộ giả ích nộ
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất
Vị bỉ tất cải tâm nhi dịch lự
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô
Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân
Tham nhất thời chi công, nhi di tiếu ư thiên hạ
Toại sử Tuyên-Đức chi giảo đồng, độc binh vô
yếm
Viên mệnh Liễu-Thăng chi nhu tướng, dĩ du
cựu phần
Đinh-Mùi cửu nguyệt Liễu-Thăng dẫn binh do
Ôn-Châu nhi tiến
Bản niên, thập nguyệt Mộc-Thạch diệc phần đồ
tự Vân-Nam nhi lai
Dư ký tuyển binh, tắc hiểm dĩ tồi kỳ phong
NGUYỄN-TRÃI
350
Hậu hựu điều kỳ binh tuyệt lộ dĩ đoạn kỳ thực
Thập bát nhật Liễu-Thăng ký vi ngã sở công
Kế trụy ư Chi-Lăng chi dã
Nhị thập nhật Liễu-Thăng hựu vi ngã sở bại,
thân tử ư Mã-Yên chi sơn
Nhị thập ngũ nhật Bảo-Định, Lương-Minh trận
hãm nhi táng khu
Nhị thập bát nhật, Thượng-thư Lý-Khánh kế
cùng nhi vận cảnh
Ngã tự nghinh nhận nhi giải
Bỉ tức đảo qua tướng công
Kế nhi tứ diện thiên binh dĩ bao vi
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi diễn diệt
Viên tuyển kỳ hưu chi sĩ
Thân mệnh trảo nha chi thần
Tượng ẩm nhi giang hà kiền
Đao ma nhi thạch sơn khuyết
Nhất cổ, nhi kình khoa, ngạc đoạn
Tái cổ, nhi điểu tán, huân kinh
Quyết hội nghị ư băng đế
Chấn cương phong ứ khô diệp
Đô đốc Thôi-Tụ tất hành nhi tống khoản
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
351
Thượng-thư Hoàng-Phúc, diện phọc nhi tựu
cầm
Cương thi tắc ư Lương-Sơn, Lạng-Giang chi
đồ
Tiển huyết xính ư Xương-Giang, Bình- Than chi
thủy
Phong vân vi chi biến sắc
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang
Vân-Nam binh vi ngã quân sở ách ư Lê-hoa
Tự đổng nghi hư hát nhi tiên dĩ phá phủ
Kỳ Mộc-Thạch chúng vi ngã quân sở bại ư
Cần-trạm,toại lan tịch bôn hội nhi cân đắc
thoát thân
Lãnh câu chi huyết chỉ lưu, giang thủy vị chi
minh yết
Đan xá chi thị sơn xích, dã thảo vi chi ân hồng
Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu
bại
Các thành cùng khấu suất tương giải giáp dĩ
xuất hàng
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo tàn tốt khất lân
chi vĩ
NGUYỄN-TRÃI
352
Thần-vũ bất sát, ngã diệc thể Thượng-đế hiếu
sinh chi tâm
Tham-Chính Phương-Chính, nội-quan Mã-Kỳ
Đẳng tiên cấp thuyền ngũ bách sưu, ký độ hải
nhi do thả hồn kinh phách tán
Tổng binh Vương-Thông, Tham-chính Mã-Anh
đẳng, hựu cấp mã sổ thiên sát dĩ hoàn quốc nhi
ích tự cổ lật tâm kinh
Bỉ ký úy tử nhi tham sinh, nhi tu hiếu hữu thành
Dư dĩ toàn quân vi thượng nhi dữ dân đắc tức
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn
Ức diệc cổ kim chi sở vị kiến văn
Xã-tắc dĩ chi điện an
Sơn xuyên dĩ chi cải quán
Kiền-Khôn ký bỉ nhi phục thái
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh
Vu dĩ khai vạn thế thái-bình chi cơ
Vu dĩ tuyệt thiên cổ vô cùng chi sỉ
Cái do Thiên Địa, Tổ-tông chi linh hữu dĩ âm
tương mạc hựu nhi trí nhiên dã
Ô hô ! Nhất nhung đại định, bất thành vô cánh
chi công
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
353
Tứ hải vĩnh thanh, đản bá duy tân chi cáo
Bá-cáo thiên hạ
Hàm sử văn trí
Dịch nghĩa :
Bố Cáo Cuộc Dẹp Xong Giặc Minh
Thay Trời hành đạo ! Hoàng-Thượng tuyên-
bố,
Hành-động nhân-nghĩa cốt để an dân .
Cất quân trừng-trị, trước hết trừ bạo,
Nước nhà Đại-Việt, thực nước văn-hiến .
Lâm vực, núi sông khác nhau,
Phong-tục Bắc, Nam chẳng giống .
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần dựng nước độc-lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi chủ một
phương .
Tuy có khi mạnh yếu không đều,
Nhưng hào-kiệt đời đời chẳng thiếu .
Vậy nên:
Lưu-Cung tham công mà thất-bại,
Triệu-Tiết ham lớn đã mất hồn .
NGUYỄN-TRÃI
354
Toa-Đô bỏ mình cửa Hàm-Tử,
Ô-Mã bị bắt sống tại Bạch-Đằng .
Xét lại việc xưa,
Chứng-minh chắc chắn .
Vậy đây :
Vì chính-sách nhà Hồ nhũng nhiễu,
Để trong nước lòng người oán phẫn .
Quân Minh điên cuồng thừa cơ,
Nhân sơ hở hãm hại dân khổ .
Đảng ngụy lòng gian,
Đua nhau bán nước .
Nướng dân đen trên lửa đỏ,
Giam con đỏ trong vực sâu .
Dối Trời, lừa người,
Mưu ác kế thâm nhiều vô kể .
Binh lính kết oán,
Chứa ác độc ngót hai mươi năm .
Thương nhân bại nghĩa,
Trời Đất muốn chừng sụp đổ .
Thuế sưu vơ vét,
Núi rừng chẳng sót vật chi .
Khai mỏ đào vàng,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
355
Moi núi, đãi cát .
Bắt dân xông-pha chướng khí,
Lặn bể, mò châu .
Bắt dân mạo hiểm,
Đặt bẫy bắt hươu .
Lưới giăng chim trả,
Thảo-mộc côn-trùng hết đường sinh sống .
Cô quả cùng khốn thảy không yên thân,
Đổ máu muôn loài để thỏa phường thâm độc .
Xây nền đẽo gỗ để tô-điểm cung đài,
Làng xóm phu pheng càng nặng .
Bắt bớ khung cửi bỏ dài,
Tội ác của chúng nước bể Đông khôn rửa hết .
Nhơ bẩn của chúng tre núi Nam làm giấy khôn
ghi suể,
Thần và người đều giận .
Trời Đất có thể nào dung,
Ta nổi lên từ Lam-Sơn .
Nương thân nơi hoang dã,
Nghĩ quân thù muôn đời há đội trời chung .
Giặc cướp nước, thề sống chết phải tiêu-diệt,
Đau lòng, nhức óc, mười mấy năm trời .
NGUYỄN-TRÃI
356
Nếm mật, nằm gai phải đâu một sớm,
Quên ăn vì giận, lo nghiền ngẫm binh- pháp
lược thao .
Ngẫm xưa xét nay, nguyên lý mất còn càng suy
nghĩ,
Những trằn trọc trong cơn mơ ngủ không quên
Đương lúc nghĩa quân mới nổi,
Là lúc thế giặc đang hăng .
Ngặt vì : Nhân-tài thưa như lá mùa thu,
Tuấn kiệt vắng như sao buổi sớm .
Chạy ngược, chạy xuôi ai người gánh-vác,
Bàn mưu, tính kế thiếu Bộ Tham-mưu .
Muốn về Đông-đô lòng thường đau đáu,
Ngóng chờ phò-tá, bên trái để trống không .
Đợi người hiệu-lực, vắng lặng mịt mùng,
Lòng như tơ vò, khác gì chết đuối .
Giận giặc hung tàn chưa diệt,
Lo vận nước ngày gian-truân .
Khi Linh-Sơn lương hết hàng tuần,
Khi Côi huyện quân không một đội .
Bởi Trời trao sứ-mệnh, nên bắt ta khốn cùng,
Ta càng nỗ-lực gắng công gian-nan tương xứng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
357
Gậy cán cờ giương, dân bốn phương tập hợp,
Pha rượu đãi sĩ, quân-đội cha con một lòng .
Lấy yếu chống mạnh, lừa đánh lúc không ngờ,
Lấy ít địch nhiều, thường mai phục chờ đột-
kích .
Rút lại :
Lấy nghĩa lớn để thắng hung-tàn,
Lấy nhân-đức mà chuyển cường-bạo .
Trận Bồ-Đằng nhanh như sấm chớp,
Trận Trà-Lân tre chẻ, tro bay .
Sĩ khí vì thế cùng cao,
Tiếng tăm nhờ đấy vang dậy .
Trần-Trí, Sơn-Thọ nghe gió mà mất hồn,
Phương-Chính, Lý-An nín hơi cầu thoát sống .
Thừa thắng đuổi dài, Tây kinh ta lấy lại,
Thuận đường thẳng tiến, Đông-đô đất cũ thu về
Máu Ninh-Kiều tanh trôi muôn dặm lênh láng
thành sông,
Xác Tụy-Động ngàn năm hôi thối, ngổn ngang
đầy đồng .
Trần-Hiệp Tân-Phúc giặc dã phải bêu đầu,
Giặc Lý-Lượng sâu mọt cũng lại bỏ mạng .
NGUYỄN-TRÃI
358
Vương-Thông dẹp loạn cháy lại càng cháy,
Mã-Anh cứu trận nguy, trận nguy thêm nguy .
Chúng chí cùng mà sức kiệt, bó tay diệt vong,
Ta không đánh mà chúng thua, thua vì tâm
công .
Tưởng chúng đổi tâm, chuyển ý,
Không ngờ còn tác nghiệt đến cùng .
Chấp vào ý-kiến một mình, gieo vạ bao nhiêu
người khác,
Để tiếng cười cho thiên hạ, nhất thời tham lập
công .
Cho nên nhãi con Tuyên-Đức hiếu chiến không
hả,
Sai Liễu-Thăng hèn nhát đổ dầu vào lửa .
Năm Đinh-Mùi tháng chín, Liễu-Thăng từ Ôn-
Châu dẫn sang,
Mộc-Thạch tháng mười cũng từ Vân-Nam đi
xuống .
Ta đã phục quân thủ hiểm, bẻ gẫy mũi nhọn,
Sau lại dùng kỵ binh cắt lối chặn quân lương .
Ngày mười tám, Liễu-Thăng bi đánh mắc kế ở
đồng Chi-Lăng,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
359
Ngày hai mươi Liễu-Thăng thất bại tự ải dưới
núi Mã-Yên .
Ngày hai mươi lăm Bá-tước Lương-Minh hãm
trận bỏ mình,
Ngày hai mươi tám Thượng-thư Lý-Khánh kế
cùng phải quyên sinh .
Mũi dao ta rạch ngược,
Chúng trở giáo đánh lại mình .
Thế rồi bốn mặt thêm quân bao vây,
Hẹn giữa tháng mười ta giết hết .
Bèn tuyển những quân hăng hái,
Sai cho bầy tôi nanh vuốt .
Voi trận uống nước sông cũng kiệt,
Dao trận mài núi đá cũng khuyết .
Một tiếng trống kình ngạc phanh thây,
Hai tiếng trống chim muông chết khiếp .
Giặc tan như lũ kiến vỡ đê,
Như lá khô gặp cơn bão táp .
Đô-đốc Thôi-Tụ quỳ gối xin hàng,
Thượng-thư Hoàng-Phúc trói tay xin nạp .
Thây phơi nghẽn cả đường Lương-Sơn, Lạng-
Giang,
NGUYỄN-TRÃI
360
Xương-giang, Bình-Than nước sông nhuộm đỏ
Mây gió vì thế âu sầu .
Nhật nguyệt có vẻ ảm-đạm,
Binh Vân-Nam bị quân ta chặn tại Lê-Hoa nghi
ngờ sợ bóng mà vỡ mật .
Quân Mộc-Thạch bị quân ta đánh bại ở Cần-
Trạm, giầy xéo lên nhau để thoát thân,
Lãnh-Cầu máu chảy thành sông, nước sông nức
nở .
Đan-Xá núi thây, đồng máu, cỏ nhuộm đỏ lòm,
Cứu binh hai ngả không kịp trở gót đã tan tành
Các thành giặc khốn nối nhau cởi giáp đầu
hàng,
Tướng giặc, cầm tù rập đầu xin tha chết,
Thần-vũ không giết, ta cũng thể lòng Thượng-
Đế rủ thương .
Bọn Tham-Chính Phương-Chính, Nội-quan
Mã-Kỳ,
Trước được cấp năm trăm thuyền, vượt qua bể
còn hồn kinh phách tán .
Tổng binh Vương-Thông, Tham-Chính Mã-
Anh cũng được cấp mấy ngàn ngựa để về nước,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
361
mà còn tâm hoảng, mình run,
Chúng đã tham sống sợ chết mà thành-thực cầu
hòa .
Ta giữ toàn quân làm trọng để cho dân yên
nghỉ,
Không những mưu kế rất sâu xa .
Mà xưa nay hành vi chưa từng thấy,
Xã-tắc từ nay vững yên .
Giang-sơn từ nay đổi mới,
Nhật Nguyệt hết tối lại sáng .
Trời Đất đã bỉ lai thái .
Đặng mở nền thái-bình muôn thuở,
Rửa sạch thẹn vô cùng nghìn thu .
Âu cũng do Trời, Đất, Tổ-tông linh-thiêng âm-
thầm phù-hộ mới được ngày nay .
Than ôi !
Vẫy vùng một mảnh áo nhung, nên công bình-
định,
Bốn bể sạch trong băng giá, vĩnh-viễn thái-bình
Duy tân khắp cả .
Bá-cáo Quốc-dân .
Ai nấy được biết !
NGUYỄN-TRÃI
362
Một bài cáo " Bình Ngô " trên đây đủ là
" Văn-chương khai quốc " như lời sau đã xưng-
tụng. Mở đầu với mấy lời đanh-thép như chém
đá, tác-giả tuyên-bố cái chủ-nghĩa quốc-gia
dân-tộc căn-cứ vào Nhân-Nghĩa, làm động-cơ
cho hành-vi nhân-sinh, vì dân, vì nước, căn-cứ
vào địa-lý thiên-nhiên, vào lịch-sử nhân-văn,
hết sức chính-xác để chứng-minh sự chính-
đáng của độc-lập dân-tộc .
Kế đấy là hành-vi bất-chính của quân
xâm-lăng khiến cho " Thần nhân chi sở công
phẫn, Thiên Địa chi sở bất dung ". Những lý lẽ
trên đủ củng cố cho tin-tưởng mạnh mẽ,
vững bền về sự chiến-thắng của Chánh-nghĩa
đại-đồng, chẳng phải quyền-lợi hẹp-hòi của cá-
nhân hay gia-tộc. Chắc hẳn NGUYỄN-TRÃI
muốn chứng-minh sự thành-công của Lê-Lợi
nhờ đã hội đủ ba yếu-tố điển-hình của tín-
ngưỡng truyền-thống Á-Đông : Thời, Thế và
Người .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
363
Rồi tác-giả đề-cao con người Lê-Lợi với
đức tin đặc-biệt, đã chịu-đựng biết bao gian
khổ, bao nhiêu thử-thách mà không từng nhụt-
chí : Nào khi thất-bại phải nhịn đói, nhịn khát
trong rừng Linh-Sơn, nào quân-đội tan-nát ở
huyện Côi, nhưng trước sau vẫn tự tin vào sứ-
mệnh lịch-sử thiêng-liêng nơi mình : " Cái
Thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm cố dư
ích lệ chí dĩ tế vu gian " . Như thế là bậc anh-
hùng thất-bại không nản lòng .
Đến khi giặc bị phá như chẻ tre, tan tác
như bầy kiến gặp đê vỡ, người quân-tử đắc-
thắng cũng không kiêu-căng, không trả thù,
nuôi hận, trước sau vẫn nhớ mục-đích tối cao
vì Nhân vì Nghĩa " Ngã mưu phạt nhi tâm
công, bất chiến tự khuất ". Mặc dầu giặc có cậy
mạnh, một đại cường-quốc, hết sức ương-
ngạnh, rút cục càng bị thảm-bại, nhưng nhà
Vua vẫn một niềm nhún-nhường, bình-tĩnh để
khỏi hiếu-chiến mà quên mất đạo lớn hiếu-sinh
NGUYỄN-TRÃI
364
của Trời Đất : " Thần vũ bất sát, ngã diệc thể
Thượng-Đế hiếu sinh chi tâm ".
Kết luận tác-giả đề cao gương sáng của
anh-hùng dân-tộc, mưu sâu lo xa cho nhân-dân,
cho tiền đồ vận nước, để quy công cho Trời,
Đất, Tổ-tông nòi-giống : " Cái do Thiên, Địa,
Tổ-tông chi linh hữu dĩ âm tương, mạc hựu nhi
chí nhiên dã !"
Đấy là một áng văn-chương hùng-hồn,
mà xác-thực, khúc-triết, không rườm-rà, vừa
thống-thiết mà cao-siêu, khiến người đọc sau
hàng trăm năm vẫn còn như thấy cả một cuộc
chiến sống lại, tình quân-dân nhất tâm với
nghĩa " Phụ tử chi binh ". Thật là hào-hứng,
thật là cảm-động .
Sở dĩ Nguyễn-Trãi đã rung-động được
độc-giả như thế là vì khí văn mạnh mẽ, tuy viết
thay Lê-Lợi mà như chính tâm-hồn mình, nhờ
có sự đồng-nhất giữa Vua-Tôi " Lê-Lợi vi
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
365
quân, Nguyễn-trãi vi thần ", hai người như
một .
Trên đây là văn-chương tuyên-truyền,
nhưng là tuyên-truyền sự thực, có dụng ý cảm-
hóa, để lại cho hậu-thế bài học Chính-nghĩa.
Nhưng Nguyễn-Trãi không phải chỉ là một nhà
chính-trị đại-tài về " Pháp trị " nghĩa là chuyên
dùng lý-trí mưu-mô, mà chính Ông còn là một
nhà chính-trị " Nhân trị " nghĩa là lấy người
làm kiểu-mẫu để dạy người. Về văn-chương
giáo-hóa của Nguyễn-Trãi, nhất là giáo-hóa
vương-đạo, chúng ta hãy đọc bài " Hậu-Tự
Huấn " sau đây để thấy quan-niệm của Ông về
người kiểu-mẫu lãnh-đạo nhân-dân :
Tác Hậu Dĩ Giới Thái Tử Chiếu
Đế Tác hậu huấn, dĩ giới Quốc-vương
Thái-tử viết :
Ngã văn Đế-vương thiên nhược, tất
dĩ tâm pháp, trị-pháp nhi tính truyền. Thế
NGUYỄN-TRÃI
366
đại kế thừa, mỗi thuật huấn ngôn, giới
ngôn nhi tùy phạm. Tuy sở ngộ chi thời
hoặc dị, nhi sở vi chi sự tắc đồng. Ngã
nhân tiếu kình cức, thủ sử cường bạo, dĩ
giới trụ vi y bị, dĩ thảo dã vi thất gia. Lý
hiểm thừa nguy, đạo xướng mạo điều.
Nhiên hậu thảo đẳng phong trần, sáng
thành cơ nghiệp. Kinh doanh đế cấu,
quyết duy gian tác. Kim nhữ vô ngã chi
công lao, thừa ngã chi cơ tự. Phàm kỳ
giám quốc phủ quân chi yếu, tồn tâm xuất
trị chi phương, miễn lực chi hành, vô thời
dự đãi. Đôn mục thân thuộc, tử tồn hữu ái
chi tâm. Tử huệ thứ dân, tứ bố khoan
nhân chi chính. Vật dĩ tư ân chi lạm
thưởng. Vật dĩ tư nộ chi lạm hình. Vật
thực hóa tài nhi tứ sỉ mỹ. Vật xứng thanh
sắc nhi túng hoang dâm.
" Chí ư suy kỷ dụng nhân, thụ ngôn
nạp gián, nhất chính, nhất niệm chi thí,
nhất ngôn, nhất động chi phát, tất do
trung chính, dụng tác diễn thường, thứ sử
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
367
thượng hữu dĩ đáp Thiên tâm, hạ hữu dĩ
phù nhân vọng, tắc Quốc-gia vĩnh an.
Nhược kỳ tự dụng thông minh dụng nhi
xưng tư đam phế ngã chi thần, cải ngã
chi chính, biến canh gia pháp, di khí ý
thân, sơ viễn trung trực chi nhân, thân
cận xiểm du chi bối. Duy khoái ý chi sự
thị tác, duy ngoạn mục chi sự thị cầu. Bất
tôn cần kiệm chi tiết, bất niệm gian nan
chi công, như cổ nhân sở vị : “ Quyết phụ
ký để tác thất nhi tử phất khẳng đường
khẳng cẩu, quyết phụ ký cần phu chuy nhi
tử phất khẳng bá khẳng hoạch ”, an năng
thành ngã chi chí, thừa ngã chi nghiệp,
nhi truyền tộ ư vô cùng hồ ?
" Thả hoài vu hữu nhân giả dân dã.
Tải chu, phúc chu giả diệc dân dã. Tuy dĩ
Thuấn, Vũ, Thang, Văn chi thánh, nhiên
do cách cách, nghiệp nghiệp, khắc cần,
khắc kiệm, lật lật nguy cụ, dực dực tiểu
tâm, kính Thiên cầu dân, bất cảm dĩ hốt.
Huống ư kỳ hạ giả hồ ?
NGUYỄN-TRÃI
368
" Phù kế thể chi quân, xuất ư hoan
dưỡng, nịch ư yến an, thường vô lập chí.
Cẩu bất thuấn chi ư thủy, giới chi ư sơ,
sử kỳ cảnh cụ thác tồn, cảm khích phấn
phát tắc an năng tận kế thuật chi đạo, dĩ
phúc thiên hạ chi dân tai ?
" Thử giới dụ chi từ bất năng dĩ ư
hữu ngôn dã. Ô hô ! Khải năng kính thừa
khắc hưởng lịch niên chi tộ, Vũ năng kế
thuật khắc chiếu đạt hiếu chi danh, nãi kỳ
chi bội dư ngôn, miễn hy tiền triết. Cố
huấn ."
Dịch nghĩa :
Lời Giáo-Huấn Nối Ngôi Cho Thái-Tử
Vua làm bài dạy nối ngôi để răn Quốc-
vương Thái-tử rằng :
( Ta nghe dạy các vị Đế-vương
nhường ngôi tất phải đem " phép tâm ",
" phép trị " để cùng truyền lại, đời đời nối
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
369
tiếp nhau thường nhắc lại " lời huấn "
" lời giới " làm khuôn phép .
( Tuy cảnh-ngộ mỗi thời có khác
nhau, mà mục-đích của việc làm thì giống
nhau.
( Ta tự tay cắt chông gai, bừa cỏ dại,
mặc áo giáp, lấy bãi cỏ làm nhà ở. Trải
qua gian nguy, xông pha gươm dáo, dãi
gió dầm sương, rồi sau mới quyét sạch
được gió bụi, mà sáng-lập nên cơ-nghiệp,
kinh-doanh nối kết biết bao vất-vả .
( Nay mi, công-lao không có, thừa
hưởng cơ-đồ. Bao nhiêu điều thiết-yếu
trong việc coi nước, vỗ về quân dân,
phương-pháp để tâm vào trị-vì, hết sức
thi-hành không một lúc nào được trễ nải.
Đối với thân-thuộc phải hòa-mục, giữ
lòng hữu-ái. Đối với dân, phải có lòng ân-
huệ như cha con, mà thi-hành chính-sách
bao-dung nhân-từ. Chớ lấy ân riêng làm
khen thưởng, chớ lấy oán riêng để lạm
phạt tội. Chớ ham của cải để sa sỉ bừa bãi,
NGUYỄN-TRÃI
370
chớ mê đàn hát, sắc đẹp mà hoang dâm.
Đến như suy tự mình ra người để sử-
dụng thì phải chịu nghe lời can-gián. Thi-
hành ra một việc, ban bố một mệnh-lệnh,
một lời nói, một cử-động đều phải giữ
cho trung chính có thể làm thành điều-lệ
thông-thường. Có thế mới khiến cho trên
ứng với lòng Trời, dưới hợp với sự mong
đợi của người, mà nước nhà được an ổn
bền lâu. Bằng không mà cậy vào cái
thông-minh của mình mà làm, dùng cái
đam mê riêng của mày, truất bỏ mất bầy
tôi của ta, đổi thay chính sách của ta, biến
cải phép nhà, xa dời người thân-thích tốt,
lạt lẽo với người ngay-thẳng, gần gũi với
bọn nịnh-hót, chỉ làm những việc thích ý,
chỉ tìm những điều đẹp mắt, chẳng theo
thói cần-kiệm, chẳng nghĩ đến công-
nghiệp gian-nan. Đấy như người xưa nói
là : " Cha ta làm nên nhà, con không nối
nghiệp xây tường dựng mái, cha đã cầy
bừa sâu, mà con không gieo không gặt ".
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
371
Như thế làm sao nối được chí lớn của ta,
thừa hưởng được sự-nghiệp của ta để
truyền lại đời sau vô cùng tận ?
( Vả lại nhân-dân trông mong vào
người có nhân-đức, nhân-dân ví như
nước, chở được thuyền mà cũng lật được
thuyền vậy. Trời tựa người có đức, mệnh
của Trời cũng không nhất-định mãi mãi.
Tuy là bậc Thánh như Thuấn, Vũ, Thang,
Văn mà còn canh-cách đau-đáu, chuyên
bề cần-kiệm, lo lo, sợ sợ, để tâm cung
kính thờ Trời, chăm dân không dám sơ-
suất, huống chi là hạng Vua ở dưới bậc
Thánh .
( Kià những vị Vua kế nghiệp từ
trong no ấm xuất thân, đắm chìm trong
yến tiệc, an vui, ít khi biết lập chí. Nếu từ
đầu không dạy bảo, từ sớm không răn
giới để cho biết cảnh-tỉnh, lo sợ mà giữ
gìn tiết-tháo, mà cảm-khích phấn-khởi,
thì làm sao có thể trọn được cái đạo kế-
nghiệp nối ngôi, mà đem lại hạnh-phúc
NGUYỄN-TRÃI
372
cho nhân-dân trong nước. Đấy là lời răn
dạy không có thể hết ở chỗ có thể nói lên
vậy .
( Than ôi ! Khải hay tôn kính thừa-
kế đời đời, Vũ hay nối tiếp được thắng
đạt hiếu, mày mà không quên lời ta, hãy
trông lên các bậc hiền-triết đời trước, bởi
vậy có lời dạy .)
Trên đây là bài dạy Thái-tử, lời văn đanh
thép, vẽ ra một người lãnh-đạo kiểu-mẫu, để
nối ngôi Vua Lê-Thái-Tổ với chính-sách
vương-đạo điển-hình, theo gương các Vua
Thánh lý-tưởng của Nho-giáo Á-Đông : Thuấn,
Vũ, Thang, Văn. Cái quan-niệm vương-đạo
chính-trị của Nguyễn-Trãi ở đây thu vào bốn
chữ là " Tâm pháp, Trị pháp ". Đấy là quan-
niệm chính-trị Nhân-Nghĩa mà Nguyễn-Trãi
từng ấp ủ .
Dạy Thái-tử cái học nối ngôi cho Lê-Lợi,
thực là một vấn-đề khó-khăn vô cùng, vì
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
373
Nguyễn-Trãi thừa biết rằng con người kế vị
hưởng-thụ, thiếu hẳn cái kinh-nghiệm bản thân
gian-nan của người khai sơn phá thạch như Lê-
Thái-Tổ. Bởi thế nên tác-giả bắt đầu nhấn
mạnh vào cái điểm " Sở ngộ chi thời hoặc dị
nhi sở vi chi sự tắc đồng " để rồi tác-giả nhắc
lại nỗi gian-lao, hàn vi, trải sương nằm gió, của
bước khởi-nghiã Lam-Sơn. Và tác-giả sau cùng
lại nhắc lại cái hoàn-cảnh của Thái-tử là " Xuất
ư hoạn dưỡng, nịch ư yến an, thường vô lập
chí ". Do đấy mới có lời huấn cáo để dạy bảo
của Vua cha .
Một điều mà Nguyễn-Trãi lấy làm
trọng-tâm của vương-chính là " tâm pháp " đi
liền mật-thiết với " trị pháp ". Đấy là cái triết-
lý chính-trị " nội thánh ngoại vương " cổ-điển
mà Ông gọi là cái phép " Tồn tâm xuất trị "
nghĩa là (để giữ bên trong lòng ra trị ), cái phép
ấy Ông gọi là " Nhân chính " cốt ở một lời nói,
một cử-động phát ra, đều do lòng trung-chính,
có thể nêu lên làm mẫu-mực điển-hình như
luật-pháp, vì nhà Vua là trung-gian giữa Người
NGUYỄN-TRÃI
374
và Trời cho nên " Thượng hữu dĩ đáp thiên
tâm, hà hữu dĩ phù nhân vọng ". Tuy vậy mà
người lãnh-đạo nhân-dân không ỷ lại vào Trời,
không hùa theo nịnh dân, chỉ chuyên tu sửa
đức-nhân thôi. Một chính-sách, một mệnh-
lệnh, một lời nói, một cử-động đều phải trùng-
hợp với đức-nhân, vì " Hoài vu hữu nhân giả
dân dã " ( Trông mong vào người có đức-nhân
ấy là dân vậy ). Nhưng nhân-dân tuy ngu-muội,
không biết gì, chính người lãnh-đạo phải
thông-cảm với ý-nguyện tiềm-tàng, âm-thầm
của dân-chúng, đừng để cho nhân-dân thất
vọng mà phẫn-nộ, thì sức mạnh sẽ như Thần-
lực, như Tục-ngữ : " Dân ngu nhi Thần ", cho
nên Nguyễn-Trãi mới ví sức mạnh của nhân-
dân như nước, có thể " Tái chu phúc chu giả
diệc dân dã " . Bởi thế mà làm Vua, tuy đứng
đầu dân mà luôn luôn phải biết sợ ý dân. Vì "
Dân ý tức Thiên ý " ( Ý dân như ý Trời ).
Thiên đây với Nguyễn-Trãi không phải là
thiên-nhiên vật-lý, mà là " thiên tâm ", một ý-
thức vũ-trụ đại-đồng, một Thượng-đế hữu ngã,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
375
tuy nhiên chỉ tựa người có đức-nhân thôi,
không phải chỉ ỷ lại vào Trời giúp mà không
biết tự-lực tiến thủ, tự tu để phát-triển đức tin ở
nội-tâm, không nghĩ riêng-tư, không giận
riêng-tư. Bởi vì ( phù-hộ người có đức là Trời,
khó tin, mệnh không còn thường mãi cũng là
Trời ) " Hựu vu hữu đức giả thiên dã, nan
kham, mỹ thường giả diệc thiên dã ".
Đấy là cả một quan-niệm chính-trị
vương-đạo Nhân-Nghĩa cao-siêu được làm
sống lại bằng văn-chương hàm-súc nơi bản
thân sống thực đã kết-tinh nên vậy .
Cầu Hiền Tài Chiếu._
( Năm hiệu Thuận-Thiên thứ II Ất-Dậu 1429 )
" Trẫm duy : Trí lý tất tại ư cử hiền,
đắc hiền tất do ư tiến cử. Thị dĩ hữu thiên
hạ giả tất dĩ thị vi tiên vụ dã. Cổ giả thịnh
thời, quần hiền tại triều, tế tế tương
nhượng. Cố hạ vô di tài, thượng vô phế
NGUYỄN-TRÃI
376
sự nhi hành ung hi chi trị. Chí như Hán,
Đường chi thần, mạc bất suy hiền nhưỡng
năng, cánh tương cấp dẫn. Tiêu-Hà chi
tiến Tào-Tham, Ngụy-Vô-Trí chi tiến
Trần-Bình, Địch-Nhân-Kiệt chi tiến
Trương-Cửu-Linh. Tiêu-Trung chi tiến
Hàn-Hưu, tùy kỳ tài phẩm hữu cao hạ chi
bất đồng, nhiên mạc bất các đắc kỳ nhân ,
dĩ đương kỳ nhiệm dã .
" Kim Trẫm ưng trọng trách, túc dã
chi cự, nhược lâm thâm uyên, chính dĩ
sưu hiền bật trị chi vị đắc kỳ nhân dã. Kỳ
linh văn vũ đại thần, công hầu đại phu, tự
tam phẩm dĩ thượng, các cử nhất nhân,
hoặc tại triều, hoặc tại dã, bất câu vị sĩ,
dĩ sĩ. Cẩu hữu văn vũ chi tài, khan lâm
dân, ngự chúng giả, Trẫm tương tùy nhi
thụ nhiệm yêu. Thả tiến hiền thụ thượng
thưởng, cổ đạo nhiên dã. Nhược cử đắc
chúng tài, tắc thăng tước chi đẳng.
Nhược cử đắc tài đức câu ưu siêu tuyệt
luân đẳng, tất mông trọng thưởng. Tuy
nhiên tài chi ư thế, cố vị bất thiểu nhi cầu
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
377
tài chi đạo diệc phi nhất phương. Kỳ hoặc
uẩn kinh luân chi tài nhi khuất cư hạ liêu,
vô nhân tiến cử, dữ phù hào kiệt chi sĩ,
phục ư thảo mãng, hỗ ư tốt ngũ. Nhược
bất tự đạt, Trẫm hà do thức chi ?
" Kim hậu quân tử hữu dục tòng ngã
du giả, các thính tự tiến. Tích Mao-Toại
thoát đĩnh nhi tòng Bình-Nguyên-Quân,
Ninh-Thích khấu giốc nhi cảm ngộ Hoàn-
Công. Hà tằng dĩ tiểu tiết tự câu tai ?
" Chiếu xuất chi nhật phàm tại cụ
liêu, các tận nãi chức, đôn thỉnh tiến bạt.
Chí vu lư diễm trắc lậu chi sĩ, vật dĩ
huyền ngọc cầu thụ vi sỉ, nhi sử Trẫm hữu
pháp tài chi thán yêu ! "
Dịch nghĩa :
Chiếu Cầu Hiền-Tài Của Nhà Vua
( Trẫm xét trọn vẹn nghĩa-lý ắt ở tại
chỗ cất lên người hiền-tài, có được người
hiền tất do ở sự tiến-cử. Thế nên kẻ có
NGUYỄN-TRÃI
378
được nước tất phải lấy việc ấy làm nhiệm-
vụ trước tiên vậy. Xưa kia, thời thịnh-
vượng, ở triều-đình đầy đủ bầy tôi hiền-
tài, cùng nhau giúp đỡ nhún-nhường, cho
nên không bỏ sót người tài-năng ở dưới, ở
trên công vụ không bỏ hỏng, mà nên
được cảnh thịnh-trị hòa-bình .
( Đến như bầy tôi thời Hán, thời
Đường, hết thảy đều đẩy người hiền lên,
nhường chỗ cho người có tài-năng, đua
nhau lôi kéo đun đẩy. Đấy là Tiêu-Hà
tiến-cử Tào-Tham, Ngụy-Vô-Trí tiến-cử
Trần-Bình, Địch-Nhân-Kiệt tiến-cử
Trương-Cửu-Linh, Tiêu-Trung tiến-cử
Hàn-Hưu. Tuy tài-năng và phẩm-giá có
cao thấp không giống nhau, nhưng ai nấy
đều cử được người xứng-đáng để đảm-
đang nhiệm-vụ mình .
( Nay Trẫm ôm trách-nhiệm nặng-
nề, ngày đêm kinh sợ, như đi xuống vực
sâu. Chính vì cầu tìm người hiền để giúp
đỡ mà chưa được vậy .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
379
( Nay các hàng văn vũ Đại-thần,
Công, Hầu, Đại- phu, từ Tam-phẩm trở
lên, ai nấy cử lên một người. Hoặc người
ấy hiện ở tại triều-đình hay ở tại ngoài
thôn dã, không cứ đã làm quan hay chưa,
nếu có tài văn, võ, có thể trị dân, cầm
quân, Trẫm sẽ tùy tài mà giao-phó nhiệm-
vụ .
( Vả lại việc tiến-cử người hiền
được Bề trên thưởng, ấy là đường lối xưa
vốn thế. Ai cử được người tài-năng trung-
bình thì được thăng lên chức hạng hai, ai
cử được người tài đức hơn người, tốt với
quần-chúng, ắt được trọng thưởng .
( Tuy nhiên, người tài trên đời, vốn
không phải ít có, nhưng cái đạo cầu tìm
bậc hiền tài cũng không phải chỉ có một
lối. Hoặc có người ôm cái tài kinh-luân
mà bị ở địa-vị dưới, không ai tiến-cử.
Cũng có người hào-kiệt còn chìm nơi cỏ
rác, lẫn lộn trong hàng ngũ tốt, quân-lính,
nếu không tự mình đạt-cử lên thì Trẫm
NGUYỄN-TRÃI
380
làm sao biết được ? Từ nay trở đi, các vị
quân-tử, ai muốn cùng Trẫm chung việc
nước, xin hãy tự tiến lên. Xưa kia Mao-
Toại lộ tài sắc bén mà theo Bình-Nguyên-
Quân, Ninh-Thích gõ sừng trâu mà cảm-
động Vua Hàn-Công được biết tài. Họ
chưa từng tự nệ vào chi-tiết nhỏ vậy .
( Ngày ban chiếu này ra, trong hàng
quan-liêu ai nấy trọn vẹn chức-vụ mình
mà chăm lo tiến-cử. Đến như kẻ-sĩ nơi
xóm làng không ai biết đến, cũng chớ lấy
sự " rao ngạo đem bàn " làm xấu-hổ,
khiến cho Trẫm phải than rằng nước
thiếu hiền-tài vậy . )
Qua văn Chiếu cầu hiền trên đây, chúng
ta thấy được trong tư-tưởng chính-trị vương-
đạo của Nguyễn-Trãi, ngoài vấn-đề nhà Vua
lấy mình làm con người kiểu-mẫu theo nguyên-
lý " dĩ nhân trị nhân " với tinh-thần vô-tư cởi-
mở, luôn luôn lấy tâm nhân-dân làm tâm, lấy ý
muốn của nhân-dân làm ý muốn, " dĩ thiên hạ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
381
tâm vi tâm, dĩ thiên hạ dục vi dục " như Trần-
thái-Tông đã nói, ngõ hầu đi trước thiên-hạ mà
lãnh-đạo. Nhưng Vua không phải một mình trị
bình được một nước, phải có quần-thần cùng
hợp-tác xây-dựng. Cho nên trong vương-đạo
chính-trị, cái nguyên-lý " tri nhân thiện
nhiệm" ( biết người mà khéo giao-phó nhiệm-
vụ ) cũng chẳng kém phần quan-trọng. Sách
Nho tuy có nói " Nhất nhân định quốc " ( Một
người quyết-định được một nước) ấy là biết
người và khéo sử-dụng, ví như Lê-Lợi biết
dùng Nguyễn-Trãi nên mới thành-công lớn
vậy. Một khi đã thành-công khôi-phục được
nước rồi, vừa lên ngôi được hai năm, đã vội sai
Nguyễn-Trãi viết Chiếu cầu hiền, lời văn nhún-
nhường, kín-đáo, tha-thiết với quyền-lợi,
chứng-tỏ ra bậc vương-giả chính-nhân quân-tử
vậy .
*
NGUYỄN-TRÃI
382
Cấm Đại-Thần, Tổng-Quản, Cập Chi Viện,
Tỉnh, Cục, Đẳng, Quan Tham Đãi Chiếu ._
( Canh-Tuất tam niên thất nguyệt )
" Thất nguyệt Chiếu viết : “ Dữ trị đồng
đạo võng bất hưng ! Dữ loạn đồng sự võng bất
vong ! Thị dĩ thiện vi trị giả, trạch kỳ thiện nhi
tòng chi ”. Truyện viết : “ Thiện nhân bất thiện
nhân chi sư, bất thiện nhân thiện nhân chi tư ”.
Thi vân : “ Quyết giám bất viện, tại Hạ Hậu
chi thế ”, Ngã chi chư thần, bất khả dĩ thủ
pháp ư thử hỹ .
" Tại tích Trần-Thị, thị kỳ phú cường, bất
tuất, dân khốn, duy ngoạn hiếu thị đam, tửu sắc
thị lạc. Vô ích chi sự, nhật giao ư tiền, đồ bác,
đấu kỳ, đấu kê, phóng cáp, bồn súc hoa kim chi
ngư, hạm dưỡng sơn lâm chi điểu. Khoa trân
tiểu tiểu chi khí năng, dĩ giác thắng hạ, vong
khước đường đường chi thiên hạ, tằng bất cố
hoài. Oan uổng câu ư tổn hại chi thủ, hoặc
nhất tam niên nhi bất đối. Thân sơ khuất ư nội
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
383
thụ chi thủ, hoặc nhị tam nguyệt nhi bất hành.
Tướng tướng thực bằng đảng chi tư, triều đình
phạm gián tránh chi sĩ. Dĩ chí thân tử thân tôn,
hãm hại ư gian thần chi xảo kế. Đại quyền, đại
kế chuyển di ư thân thích chi nịnh nhân. Dân
tâm oán báng nhi bất tri, thiên tâm khiển trách
nhi bất cụ. Chính giáo dĩ chi nhi lăng di, cương
kỷ nhĩ chi nhi vẫn loạn. Tuy vân Hồ thị chi chi
bất trung, diệc do Thiên yếm kỳ đức nhi giả chi
tha nhân dã .
" Hồ thị ký dĩ gian trí nhi đoạt nhân quốc,
hựu dĩ gian trí nhi hiếp nhân tình. Bảo sao chi
lệnh nhất hành nhi nhân hân oán ư thương
sinh, thiên dân chi pháp nhất thi nhi nhân nhân
oán kỳ nhất sở. Gia dĩ phú phiền dịch trọng,
pháp tuấn hình nghiêm. Duy vụ ích kỷ dĩ phì
gia, bất niệm phường dân nhi hại quốc. Ái nạp
thiên tư tông tộc, ti giả tôn hiển chi, hiểm tiểu,
siểm du giả sủng dụng chi. Nhân hỷ nhi
thưởng, nhân nộ nhi hình. Trung trực kiêm
khẩu, lương thiện hàm oan, nhi do kiêu ngạo dĩ
tự tôn, bất uý thiên mệnh nhi duy độc đồ. Tuy
NGUYỄN-TRÃI
384
vân Ngô tặc tham tàn, diệc do Thiên yếm kỳ
nghịch nhi giả chi tha nhân dã .
" Cập Ngô chi đắc quốc, bất năng đại
ngược dĩ khoan, ích gia tàn bạo. Chuyên sát
lục dĩ vi uy, thị nhân mệnh như thảo giới. Phu
hệ ngã dân chi thê tử, phát quật ngã quốc chi
viên lăng. Cấm hàm ngự dĩ khốn dân chi thực,
sách cẩm bạch dĩ tranh dân chi y. Kim ngọc
tận ư sưu cầu, tê tượng lao ư cung cống. Chính
hà hình thảm, dân bất liệu sinh. Vô cô man
thiên, trung nghĩa thiết xỉ. Hàm nguyện hiệu tử,
dĩ diệt tặc thù. Thị dĩ nghĩa kỳ nhất huy, tứ
phương phong khởi, nhi Ngô chúng toại dĩ bại
diệt. Cái đồ tri thủ chi dĩ bạo nhi bất tri phủ
chi dĩ ân dã. Tuy ngã dĩ đại nghĩa nhi đắc nhân
tâm, diệc do thiên yếm kỳ nại nhi thác chi ư
ngã dã .
" Lương do cư quan nhậm chức giả,
thượng bất năng thố nhân chủ chi tâm, hạ bất
năng thi cần tuất chi chín. Nội tắc tế ác ư quân,
ngoại tắc bằng đảng ư chúng. Tằng vô tuấn
quốc chi trung, duy vụ ích thân chi kế. Chí sử
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
385
quốc bại gia vong, quân thần câu nhục, khả bất
giám tai ?
" Trẫm túc hưng dạ mỵ, vị thường khoảnh
khắc nhi vong vụ hoài giả. Thâm khủng tiền xa
ký phúc nhi hậu xa diệc đạo chi dã. Cố cửu
giới khanh đẳng giai trân truân phản đẳng
phúc, bất khẳng thiên ngôn vạn ngôn, cửu dụ,
thập dụ, nhi khanh đẳng thị vi hư văn, bất đẳng
cải tiền nhật chi quá, bất tằng tôn khuyển trừng
chi ngôn. Vãng vãng lũ vi bất pháp, mạn
thượng, nghịch hạ. Phù cựu hữu huân lao, thị
công kiêu tứ nhi sở phạm sự hoặc quá ngộ, do
tùy kỳ sự chi khinh trọng nhi châm chước chi.
Hoặc khả thứ, hoặc bất khả thứ. Hoặc tân tiến
chi nhân, kiến kỳ quân thế dĩ thịnh, quốc sự dĩ
thành nhi di duyên hạnh ngộ, đồ thủ công
danh. Nãi thị nhân nhân thành sự chi nhân nhi
sở phạm sự phi quá ngộ, kỳ khả khúc pháp nhi
xá chi hồ ?
" Kim dĩ cấm ước giới trừng như thử nhi
do bất thính bất thuận, thị nãi tự diệt vong, phi
Trẫm chi quá dã. Kim nhật Đại-thần, Tổng
NGUYỄN-TRÃI
386
quản, hạ chí Đội trưởng, cập chư Viện Tỉnh
đẳng quan, phàm hữu quản quân, trị dân chi
chức, giai nhi công bình dụng pháp, cần mẫn vi
chính. Sự quân tắc tận kỳ trung, dữ chúng tắc
tận kỳ hòa. Cách tham ô chi phong, trừ đãi
mạn chi tệ, tuyệt kỳ bằng đảng chi tư, trừng kỳ
cố phạm chi thái. Dĩ quốc gia chi nhiệm vị kỷ
nhiệm, dĩ sinh nhân chi ưu vị kỷ ưu. Kiệt lực
tận trung, phù trì vương thất. Sử xã tắc an như
Thái-sơn, cơ đồ cố như bàn thạch. Dĩ dữ Trẫm
cộng hưởng lộc vị ư lương kim, cộng truyền
thanh danh ư hậu thế. Quân-thần Đại-nghĩa,
thủy chung bảo toàn. Thị khởi bất thậm mỹ
tai?
" Ô hy ! Cẩm sắt bất điều, tắc đương
dịch huyền cải điệu dĩ cầu chính thanh. Tiền xa
ký phúc, tắc đương cải triết dịch hành dĩ tôn
chính đạo. Hàm ngã hữu quan, quân tử,
thượng giám vu ti, bố cáo trung ngoại thần
liễu, kim hàm tri tất."
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
387
Dịch nghĩa :
Chiếu Cấm Các Đại-Thần, Tổng-Quan
Và Các Quan-Chức Ở Viện, Tỉnh Và Cục
Không Được Tham-Lam Lười-Biếng ._
( Năm Canh-Tuất thứ ba tháng bẩy (1330)
( Tháng bẩy chiếu :
( Theo đạo chính-trị thì hết thảy đều
hưng-thịnh, theo đạo làm loạn ắt là suy-vong.
Bởi thế nên người biết khoa chính-trị đều chọn
lấy con đường hay để theo. Sách Truyện có
nói : " Người thiện là thày người không thiện,
người bất-thiện giúp cho người thiện ". Kinh
Thi cũng nói : " Không phải xem đâu xa, xem ở
đời Vua Hạ ". Bầy-tôi của Ta có thể lấy đấy
làm khuôn phép vậy .
( Xưa kia nhà Trần cậy giầu mạnh không
thương dân khốn khổ chỉ đam mê chơi ngắm,
rượu, gái, vui vầy. Những việc vô ích hàng
ngày bầy trước mắt, nào cờ-bạc, chọi gà, thả
chim. Trong bồn cảnh nuôi cá vàng, trong lồng
nuôi chim hót. Khoe-khoang tài-năng nhỏ-mọn
NGUYỄN-TRÃI
388
để tranh được thua hơn kém, quên lãng việc lớn
quốc-gia chẳng buồn đoái-hoài. Kẻ oan-uổng
để tổn-hại, một hai năm không được xét hỏi,
việc thân sơ trong tay kẻ dưới, hai ba tháng
không thi-hành. Tướng văn, tướng võ kết bè-
đảng riêng-tư, trong triều-đình thiếu kẻ-sĩ dám
nói thẳng, can ngăn. Thậm chí con cháu thân
tình để mắc vào mưu-mô của gian-thần. Các
quyền thế lớn chuyển vào tay kẻ thân-thích
gian-nịnh. Nhân-dân chê oán mà không bớt,
lòng Trời giận trách mà không sợ. Chính-trị
giáo-hóa vì thế mà đổ nát, trật-tự kỷ-cương vì
thế mà rối-ren. Tuy đổ cho họ Hồ không trung-
thành, nhưng cũng bởi Trời ghét kẻ không có
đức để mượn tay người khác.
( Họ Hồ đã dùng mưu trí gian-tà để cướp
nước của người, lại cũng dùng mưu-trí gian-
trá đề đè nén dân-tình. Sắc lệnh làm bạc giấy
một khi thi-hành, mà ai nấy đều oán vì hại sự
sống. Chính-sách di dân một khi thực-hiện, ai
nấy đều oán vì mất nơi mất chốn. Thêm nữa,
thuế phu nhiều nặng, hình phạt khắt khe, chỉ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
389
nghĩ ích-kỷ béo nhà, chẳng nghĩ đến sự làm hại
dân mà nước mất. Yêu thích người nào thì kẻ
thân-thuộc thấp hèn cũng đề cao cho vinh-hiển,
thiên dùng kẻ nịnh-hót nhỏ-nhen. Vì vui mừng
mà khen-thưởng, vì giận-dữ mà trừng-phạt.
Người trung-trực ngậm miệng, người lương-
thiện hàm oan, mà còn kiêu-ngạo để tự cao,
chẳng sợ mệnh Trời mà làm hại sinh linh. Tuy
bảo là giặc Ngô tham tàn, nhưng cũng là vì
Trời ghét kẻ nghịch đạo mà mượn tay người
khác trừng-trị vậy .
( Đến khi quân Ngô ( Minh ) cướp được
nước, không hay lấy đức khoan nhân để thay
cho bạo ngược, lại còn tỏ ra tàn-bạo hơn. Chỉ
biết giết chém làm oai, coi tính-mệnh con
người như cỏ rác. Chúng cùm trói vợ con ta,
đào sới lăng vườn của nước ta. Cấm muối cá để
làm cho dân không có ăn, vét gấm lục để cướp
áo của dân. Thu lượm hết vàng, ngọc, ngà voi,
sừng tê, nhọc bề cung-cấp. Chính-sách nặng-
nề, hình phạt thảm-khốc, dân hết đất sống. Vô
tội kêu Trời, người trung-nghĩa nghiến răng,
NGUYỄN-TRÃI
390
thảy đều thề hết sức sống chết để diệt giặc thù.
Bởi thế nên cờ nghĩa một khi phất, bốn phương
hùa theo như ong mà giặc Ngô mới thua chết.
Ấy là vì chúng chỉ biết lấy bạo-tàn để cố giữ
mà không biết lấy ơn đức mà vỗ về. Tuy rằng
ta có lấy nghĩa cả để thu được lòng người,
nhưng cũng do Trời ghét kẻ làm hại mà giao
cho tay ta vậy .
( Xét kỹ cũng do người ở địa-vị quan-
chức, trên không hay thể theo lòng Vua, dưới
không hay làm chính-sách chăm lo cho dân. Ở
trong thì che dấu điều ác với chúa, ở ngoài thì
kết bè đảng với dân-chúng. Không từng hết
lòng vì nước, chỉ tính ích-lợi riêng mình, đến
nỗi tan nhà mất nước, Vua tôi đều bị nhục, há
chẳng lấy đấy mà soi ?
( Trẫm đêm ngày lo nghĩ, chưa một phút
nào quên được trong lòng. Những sợ xe đi
trước đổ mà xe sau còn nối theo. Cho nên răn
giới các khanh, dặn đi dặn lại, ngàn lời vạn lời
không hết, chín dụ, mười dụ chưa xong, mà các
khanh coi như lời văn xuông, không ai chịu đổi
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
391
lỗi trước, để tuân theo lời khuyên răn. Việc
phạm-pháp xẩy ra luôn, lờn với người trên,
ngược đãi người dưới. Kià như kẻ có công-lao
trước, cậy công kiêu-căng lộng quyền, mà điều
lỗi phạm hoặc vì lầm lỡ, thì còn có thể tùy theo
nặng nhẹ để châm-chước đi được, có khi có thể
dung tha hay không có thể tha-thứ được. Đến
như những người mới tiến lên, trông thấy quân
thế đã mạnh, vận nước đã thành, bấy giờ mới
luồn lọt cầu may, mưu-đồ công-danh. Đấy là
hạng người nhân việc của người đã thành, mà
phạm lỗi không phải vì lầm-lỡ sơ-xuất, thì làm
sao có thể dung tha được ?
( Nay đã giới cấm như thế rồi, mà còn có
kẻ không nghe, không chừa, ấy là tự mình nhận
lấy sự diệt vong, không phải lỗi tại Trẫm vậy.
Phàm các quan Đại-thần, từ chức Tổng-quan
xuống đến Đội-trưởng cho chí các Viện, Tỉnh,
Cục, ai có chức-vụ cầm quân, trị dân đều nên
dùng phép công-bình, chính-sách chăm-chỉ
chuyên-cần. Làm việc Vua thì hết lòng trung,
đối với dân-chúng phải ôn-hòa. Bỏ thói tham-
NGUYỄN-TRÃI
392
nhũng, trừ cái tệ lười-biếng, không được bè-
đảng riêng-tư, hết điều phạm cũ. Lấy Quốc-gia
làm nhiệm-vụ của mình, lấy cái lo-lắng của
nhân-dân làm sự lo-lắng của mình. Hết sức
trung-thành, chống giữ nhà Vua, khiến cho xã-
tắc yên-ổn như núi Thái, cơ-đồ vững bền như
bàn đá. Để cùng với Trẫm chung hưởng tước
lộc lúc này, cùng truyền lại tiếng thơm cho đời
sau. Nghĩa lớn Vua Tôi, trước sau toàn-vẹn,
như vậy chẳng cũng rất đẹp, rất tốt hay sao ?
( Ôi ! Điệu đàn cầm sắt không hòa thì
nên đổi giây, đổi điệu để tìm lấy chính thanh.
Xe trước đổ nên đổi bánh, đổi đường để theo
chính-đạo. Phàm các quan, quân-tử, ta có, hãy
coi đây. Bố-cáo trong giới thần-liêu, quan-chức
thẩy hãy biết nghe ! )
Sau bài Hậu Tự Huấn đến bài Chiếu Cầu
Hiền, lại đến bài Chiếu trên đây giới-dụ quan-
liêu, chúng ta thấy cả hệ-thống chính-trị lý-
tưởng của Nguyễn-Trãi thời phong-kiến. Trên
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
393
hết quốc-gia xã-hội là ngôi Thiên-tử, nhà Vua
lãnh-tụ nhân-dân, đứng làm môi-giới
trung-gian giữa ý-thức vũ-trụ với ý-thức xã-
hội, ý Trời với ý dân, vì dân-ý tức là Thiên-ý,
theo truyền-thống tín-ngưỡng Nho-giáo Á-
Đông. Bởi thế mà Vua luôn luôn phải " Lấy
lòng dân làm lòng mình ", như Vua Trần-Thái-
Tông đã viết trong " Thiền tông chỉ nam tự ",
Nguyễn-Trãi vẫn trung-thành với tinh-thần
vương-đạo ấy, để đem ra huấn-luyện Thái-tử
và hiếu-dụ giới quan-chức .
Trong chế-độ phong-kiến, quan-liêu
thuộc về giới trung-gian giữa hai thế-lực thống-
trị cầm quyền và thế-lực nhân-dân bị-trị. Xã-
hội có được quân-bình là ở tại giới trung-gian
thứ ba ấy làm tròn nhiệm-vụ của mình vậy. Mở
đầu tác-giả nhân-danh nhà Vua mà tuyên-
bố ngay về đạo chính-trị với con đường loạn-
trị, theo nghĩa điển-hình của hai chữ chính-trị
là làm cho chính, ngay thẳng, tức là không
được bè đảng. Nếu Vua phải đi trước cái lo của
NGUYỄN-TRÃI
394
dân, thì các quan có bổn-phận làm cho Vua biết
được những mối lo ấy, vì các quan-chức sống
gần dân hơn triều-đình. Ở đây Nguyễn-Trãi đã
khéo đem bài-học kinh-nghiệm lịch-sử nhà
Trần, nhà Hồ, nhà Minh ra để cảnh-tỉnh giới
công-chức đầu nhà Lê, sau khi vừa khôi-
phục được nước một cách gian-nan khó-nhọc,
đến lúc xây-dựng lại cả một quốc-gia mới. Tất
cả những kinh-nghiệm trên Nguyễn-Trãi đều
qui-mô về một điểm, theo Ông là trọng-đại
nhất để tránh vết xe trước đổ, ấy là làm mất
lòng dân. Trước sau Nguyễn-Trãi chỉ nghĩ đến
dân, đồng-nhất dân với nước. Lời văn Chiếu
giản-dị và thống-thiết. Nhưng trong mấy lời
Chiếu ấy, chúng ta cũng nhận thấy Nguyễn-
Trãi quá lý-tưởng, quá thuần-túy quân-tử Nho
đến nỗi bị họa với bọn tiều-nhân dốt nát muốn
hưởng-thụ nên đã coi Ông như gai trước mắt.
Thực vậy, cái lý-tưởng vương-đạo thuần-túy đã
vấp phải hoàn-cảnh thực-tế làm cho thất-vọng,
như còn thấy phản-chiếu trong bài Biểu tạ ân
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
395
( 1434 ) sau đây, lời văn tha-thiết, chua-chát và
cảm-động :
" Giám nghị đại-phu kiêm Tri-tam-quán-
sự tạ biểu :
" Vĩnh-lộc, Đại-phu Nhập-nội Hành-
khiển môn hạ, tỉnh tả-tư hữu-gián-nghị Đại-
phu kiêm Hàn-lâm-viện Thừa-chỉ Học-sĩ Tri-
tam Quán-sự, đề cử Côn Sơn Tư-Phúc Tự, A-
đại Trí-tự, tứ Quốc-tính Lê-Trãi .
" Thành hoàng thành khủng, khổ thủ đốn
thủ thượng ngôn :
" Bản niêm nhị thập nhật, khâm mông
Thánh ân trừ thần tiền chức. Thần dĩ chi thụ
bái cật, cẩn phụng biểu xưng tạ giả. Phục dĩ,
lục thập tàn khu, thủ chức dĩ an ư bản phận.
Cửu trùng sủng ác, tự Thiên phục hạ ư tân
mông.
" Phủ kỷ tri vinh.
" Môn tam ích quí .
NGUYỄN-TRÃI
396
" Thần : _ Tấn thân mạt duệ
_ Chương cú tiểu Nho
" Phần điển lưu tâm, mỗi dục chi cổ nhân
chi chí, sinh linh vi niệm, thường tiên ưu thiên
hạ chi ưu. Phương quốc gia thảo muội chi sơ,
tế chân chủ phong vân chi hội. Viên môn
trượng sách, lâm đại tiết nhi bán sinh trung
nghĩa tự tri.
" Hổ khẩu điền thân, quyết hòa nghị nhi
lưỡng quốc can qua dĩ tức.
" Toại mông thù tưởng, tỉ nhập chính đồ,
ngôn tất thính nhi kế tất tòng, công dĩ thành
nhi danh dĩ toại.
" Phận phù tích nhưỡng, hành đồng bạch
mã chi minh.
" Tụ báng chiêu sàm, ngẫu ô thanh đăng
chi điếm
" Tín tri lạc lạc nan hợp, chung linh hạo
hạo giả dị ô. Phi tiên đế chi minh kiến dĩ chúc
vị, tắc tiểu thần cơ hàm tiếu nhi nhập địa.
" Tiền sự ký dĩ vãng hỷ, thốn tâm hựu hà
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
397
quý yên. Kim mã ngọc đường cánh phục thu ư
cựu vật. Thanh thiên bạch nhật, đắc thiểu lộ kỳ
trung can.
" Nãi vãn cảnh dĩ bách ư tang du, nhi
thanh mộng do triều ư thần cực.
" Tài sơ lực bạc, phát bạch tâm đan, khởi
kỳ khất hài cốt chi niên khước hữu bái vân tiêu
chi mệnh.
" Phục dĩ : minh minh tại thượng, đẳng
đẳng nan danh. Đế Nghiêu nãi Thánh, nãi
Thần, tri nhân tắc triết. Đại Thuấn hiểu vấn
hiếu sát, ngự chúng dĩ khoan. Lập hiền vô
phương, dụng nhân duy kỷ. Trạch quần tài tắc
phong phỉ giai thái. Đào chúng khí tắc khổ dũ
bất di.
" Linh thần vị lộ chi bì noa, thường kham
khu sách.
" Vị thần kính thu chi tùng bách, khả nại
tuyết sương.
" Thần bài bất hoặc ư quần ngôn, tín
nhiệm mộc kiên ư Thánh đoạn.
NGUYỄN-TRÃI
398
" Chi lịnh suy hủ, cánh chuyển quang
hoa.
" Đông đài chi ti, thực nãi triều đinh chi
trọng tuyển.
" Tam quán chi chức, tự vi Nho giả chi
chỉ vinh. Huống tứ quốc-tính dĩ hoa tông, đắc
dữ công thần nhi tịnh liệt.
" Cảm tùy thê xuất, hỷ dữ cụ tinh.
" Tự cố vu ngu, hề dĩ xưng tắc.
" Thần : Cảm bất ích kiên tố tiết, ngưỡng
sí tiền tu.
" Hải nhạc cao thâm, mạc hiệu quyên
trần chi báo.
" Kiền khôn khoan đại, ninh vọng phúc
trù chi ân ."
Dịch nghĩa :
( Đại-phu Vĩnh-lộc, Hành-khiển trong
cung Vua, Tả-ty tỉnh Môn-hạ, Đại-phu hữu
gián nghị kiêm chức Học-sĩ Thừa-chỉ Hàn-lâm-
viện Tri-tam-quán-sự, Đề-cử Côn-Sơn Tư-Phúc
Tự, Tự A-Đại-Trí được ban Quốc-tính Lê-Trãi.
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
399
( Thật sợ, thật hãi rập đầu cúi tâu lên:
( Năm nay, ngày hai mươi, kính đội ơn
Thánh phong cho Thần chức trên. Thần xin vái
lĩnh và kính dâng biểu tạ .
( Thần nghĩ : thân già sáu mươi, giữ chức
đã yên với bản phận. Bề trên yêu thương như
tự Trời lại giáng xuống ơn mới, tự xét lấy làm
vinh-hạnh, riêng nghĩ càng thấy hổ-thẹn.
( Thần, kẻ-sĩ cuối dòng Nho hèn, câu văn
sách vở làm lòng, những muốn noi cái chí của
người xưa, sinh dân để bụng, thường lo trước
cái lo của thiên-hạ.
( Đương lúc nước nhà giữa cơn mờ tối.
( Gặp được chân chúa là lúc rồng mây.
( Dâng kế cửa quân, lòng trung nghĩa nửa
đời riêng tự biết.
( Dấn thân miệng cọp, quyết nghị-hòa hai
nước dẹp binh-đao.
( Bèn được khen thưởng, vào đường
chính-trị.
( Nói hẳn được nghe, mưu hẳn được theo.
NGUYỄN-TRÃI
400
( Công đã thành mà danh đã toại. San sẻ
tước lộc may được cùng thề " ngựa trắng " lâu
dài .
( Kẻ chê, người gièm, từng đàn nhặng
xanh nhem-nhuốc.
( Vẫn biết không a-dua thì khó hợp, rút
cục khiến trong-trắng dễ bị nhơ.
( Nếu Tiên-đế không sáng-suốt, soi thấu
tế vi, thì bầy tôi này đã cam ngậm cười chín
suối.
( Việc trước đã qua rồi, tấc lòng không
còn hổ-thẹn.
( Từ mệnh hậu Vua lại phục-hồi như chức
cũ.
( Công nhiên như ban ngày, nay được bày
tỏ lòng trung.
( Hiềm vì tuổi đã xế chiều, mà tâm-hồn
còn quanh-quẩn nơi vương chính.
( Tài hèn, sức yếu, tóc bạc lòng son,
không ngờ đến tuổi về hưu, lại được bái lĩnh
mệnh Vua ban tước cao-quí.
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
401
( Cúi biết : Bề trên sáng lạn, mông-lung
khó gọi được tên. Đế Nghiêu là bậc Thánh-
thần, biết người thì thấu suốt. Vua Đại Thuấn
thích hỏi, thích xét, trị-vì dân-chúng khoan-
dung. Lập người hiền không sai, dùng người
duy nơi mình. Lựa đám người tài thi cỏ dại đều
được chọn lựa, nặn đồ dùng thì đồ xấu cũng
không bỏ đi. Thương bầy tôi này tài hèn chưa
có địa-vị, có thể được sai-khiến, cho bấy-tôi
này như cây tùng, cây bách chịu được tuyết
sương. Không vì dư-luận mà ngờ-vực đuổi đi,
tin-nhiệm một mình bền vững ở sự phán-đoán
của Thánh-trí. Đến nỗi khiến cho kẻ này lại
như cây mục nở hoa rực-rỡ, đài mặt đông, nhà
Vua vốn thực là chức được chọn-lựa quan-
trọng, chức Tam-quán là vinh-dự cao nhất của
nhà Nho. Huống chi lại ban cho Quốc-tính làm
vẻ-vang cả họ, được đứng vào hàng công-thần.
Thần lấy làm cảm-động mà sa lệ, nửa mừng,
nửa sợ, tự nghĩ quá ngu lấy gì xứng-đáng ?
( Thần dám không càng bền giữ tiết trắng
ngưỡng lên noi sửa trước đây. Biển sâu, núi
NGUYỄN-TRÃI
402
cao, cố sức báo đền muôn một. Trời đất mênh
mông, quên sao được ơn che chở . )
Lời văn của bài Biểu tạ ơn trên đây, tuy
có theo khuôn sáo, nhưng chúng ta thấy ở
Nguyễn-Trãi là cả một lý-tưởng sống chân-
thành, trung-thực, không quên thổ-lộ nỗi lòng
u-uất khi ở triều-đình bị bè cánh chèn ép, gièm
pha như câu : " Tụ đảng chiêu sàm, ngẫu ô
thanh đăng chi điếm. Tín tri lạc lạc giả nan
hợp, chung linh hạo hạo giả dị ô ". Những lời
ấy là những lời thành-thật từ đáy lòng u-uất
thốt ra, chúng phản-chiếu thực-trạng triều-đình
phong- kiến bấy giờ, chia bè đảng chung quanh
nhà Vua, để tranh-dành hưởng-thụ thời bình.
Cho nên với cái lý-tưởng Vua Nghiêu Thuấn,
dân Nghiêu Thuấn của Nguyễn-Trãi phải là
trường-hợp hiếm có : " Minh quân lương tể "
thì mới thực-hiện được phần nào. Một khi
" Vua sáng " mất rồi thì hiền-thần cũng đành
ôm lý-tưởng rút lui. Nhưng Nguyễn-Trãi vì yêu
nước, thương dân, nên tuy có về hưu mà lòng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
403
vẫn đau-đáu về triều-chính " Nại vãn cảnh dĩ
bách ư tang du, nhi thanh mộng do triều ư thần
cực " .
Với tấm lòng thành-khẩn với chúa, với
dân, công-lao Nguyễn-Trãi quá sáng-lạn
nên nỗi oan-uổng đã được chính minh tấc lòng,
được ở trên soi tỏ. Cho nên Tướng công, sinh
thời một phen, đã được thăng thưởng phong
tước .
" Kim mã ngọc đường cánh phục thu ư
cựu vật.
Thanh thiên bạch nhật đắc thiểu lộ kỳ
trung can ".
Như thế kể cũng đã được gọi là có phúc
lắm đối với chế-độ phong-kiến vậy .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
405
VĂN-HÓA CHÍNH-TRỊ
TỪ HƯNG-ĐẠO
ĐẾN NGUYỄN-TRÃI VÀ LÊ-LỢI
Lịch-sử Việt-Nam đầu thế-kỷ XII và
đầu thế-kỷ XV đã ghi dấu son rực-rỡ hai sự-
kiện trọng-đại quyết-định vận-mệnh không
những của dân-tộc Việt-Nam mà còn của các
dân-tộc trên bán-đảo Đông-Dương cho chí
Đông-Nam-Á nữa. Sự-kiện ấy đã được hai
Nhân-Vật, hai Tinh-Thần làm tiêu-biểu hiển-
hách mà danh-tiếng còn in sâu vào Núi Sông
Nam-Quốc, vào tâm-khảm Dân-Việt, tức là vào
Dân-Tộc-Tính Việt-Nam vậy. Hai Tinh-Thần
Nhân-Vật ấy là Đức Thánh Trần-Hưng-Đạo
Đại-Vương với Đức Vua Lê-Thái-Tổ. Cả hai
NGUYỄN-TRÃI
406
đã chặn đứng đà bành-trướng của quân Mông-
Cổ và quân Minh, đòi thôn-tính tất cả khu-vực
Đông-Nam-Á-Châu vào trong thế-lực chính-trị
của mình .
Sử-gia về Á-Đông viết :
" Đông-Dương bấy giờ chia làm bốn
nước : Việt-Nam, Chiêm-Thành, Cao-
Miên và Miến-Điện. Năm 1280 Chiêm-
Thành bị Sứ-thần của Hốt-Tất-Liệt
( Kubilai ) đe dọa đã chịu quyền bảo-hộ
của Mông-Cổ. Các Đại-biểu Mông-Cổ
đến nhậm-chức, nhưng gặp sự nội-loạn
của dân-chúng phải bỏ đi năm 1281 -
1282. Tướng Mông-Cổ là Toa-Đô
( Sogatu ) đem hạm-đội nhỏ từ Quảng-
Đông đổ-bộ lên Chiêm-Thành, chiếm
đóng kinh-đô Trà-Bàn, gần Bình-Định
năm 1283, nhưng rồi không giữ được vì
sự chống-cự của dân-chúng và bệnh dịch
làm hao mòn quân-sĩ nên phải rút lui .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
407
" Sự thất-bại ấy một phần vì sự từ-
chối của dân Việt không cho quân Mông-
Cổ mượn đường giao-thông. Một lần nữa,
năm 1285 Hốt-Tất-Liệt lại phái một đội
quân do Thoát-Hoan chỉ-huy đi đường bộ
từ Vân-Nam xuống Bắc-Việt, chiếm đóng
Hà-Nội, còn Toa-Đô đổ-bộ lên bờ biển
Chiêm-Thành với một hạm-đội hùng
mạnh, đánh ngược lên Nghệ-An và
Thanh-Hóa vào sau lưng quân Việt-Nam.
Nhưng Thoát-Hoan không tiếp tay được
với Toa-Đô. Toa-Đô cô-lập bị đánh ở trận
Tây-Kết và bị giết với tất cả quân-sĩ. Năm
1287 Hốt-Tất-Liệt lại sai Thoát-Hoan
đánh xuống Bắc-Việt với một đội-quân
hùng mạnh hơn. Thoát-Hoan lại chiếm
đóng Hà-Nội nhưng cũng lại bị quân Việt
đánh bại phải bỏ chạy về Tầu .
" Ở Miến-Điện, quân Mông-Cổ,
năm 1277 chiếm Bhamo, thẳng đường đổ
xuống lưu-vực Jrawaddy. Năm 1287
chúng suôi theo giòng sông ấy đến Kinh-
NGUYỄN-TRÃI
408
đô Miến-Điện là Bồ-Cam ( Pagan ) phá
hủy. Năm 1297 Vua Pagan xin làm Chư-
hầu Hốt-Tất-Liệt. Năm 1300 Mông-Cổ
lại vào Miến-Điện đặt Chư-hầu Thái-
Shan thay triều-đại Pagan. Đế-quốc
Mông-Cổ bành-trướng đến Cao-Miên.
Năm 1294 hai nước Siêm-Thái là Xiêng-
Mai và Sukhotai đều chịu nhận làm Chư-
hầu của Mông-Cổ. Năm 1292 - 93 Vua
Mông-Cổ Hốt-Tất-Liệt phái một đạo tử-
quân từ Quảng-Đông thẳng xuống Qua-
Oa ( Java ), Vua Java bấy giờ là Kederi.
Quân Mông-Cổ đánh bại Java ở
Majapahit và chiếm đóng Kinh-đô của
Kederi. Nhưng rồi quân Mông-Cổ không
được tiếp-viện, bị đánh đuổi ra ngoài
biển" .
_ ( Theo René Grousset trong " Histoire
de L'Extrême Orient " - Paris 1929
tr. 453 - 455 do nhà sách Paul Geuthner
xuất-bản )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
409
Từ đấy trên bán-đảo Ấn-Độ Chi-na này
chỉ còn hai thế-lực chính-trị với hai khuynh-
hướng văn-hóa đang thi đua trên đường Nam
tiến. Ấy là Việt-tộc theo dọc phiá Đông dẫy núi
Trường-Sơn và Thái-tộc phiá Tây dẫy núi
Trường-Sơn, cả hai dân-tộc sau thế-kỷ XIII đều
di-chuyển xuống phương Nam tìm đất sống :
Thái-tộc lập ra nước Miến-Điện, Thái-Lan và
Lào. Việt-tộc thay-thế Chiêm-Thành, Chân-
Lạp đến tận vịnh Xiêm-La. Việt-tộc chịu ảnh-
hưởng văn-hóa Trung-Hoa, Thái-tộc tiếp-thụ
văn-hóa Ấn-Độ :
" Vào thế-kỷ XIV văn-hóa tiếng
Phạn ( Sanscrit ) thấy suy-vi : Bia khắc
Phạn-ngữ cuối cùng vào năm 1253 ở
Chiêm-Thành, 1330 ở Cao-Miên, 1378 ở
Sumatra. Trong lưu-vực sông Mekong và
Menam, di-tích Ấn-độ-giáo và Phật-giáo
Đại-thừa còn lại vào thế-kỷ thứ XIII -
XIV, nhường chỗ cho Phật-giáo Tích-Lan
cải-cách do người Môn Miến-Điện đem
NGUYỄN-TRÃI
410
vào từ thế-kỷ XII, và đã được người Thái
về sau truyền-bá. Ở hải-đảo Sumatra,
Hồi-giáo bắt đầu xuất-hiện từ năm 1281
mà Marco-Polo đã được chứng-kiến sự
hiện-diện của nó. Ở Java chỉ từ thế-kỷ
XV về sau Hồi-giáo mới đủ sức-mạnh để
dồn Ấn-Độ-giáo lên Cao-nguyên, trước
khi đi xuống đảo Bali lần chót ".
_ ( theo G. Coedes " Une Période
Critique dans l'Asie du Sud-Est " Bul.
Etudes Endochinoises, t. XXXIII n° 4 --
Saigon 1958 )
Đấy là đại-quan cục-diện Đông-Nam-Á
về văn-hóa chính-trị, trước cuộc Nam tiến của
Việt-tộc vào thế-kỷ XV ( 1471 ) đến thế-kỷ
XVIII ( 1756 ), sau khi chiến-thắng quân
Mông-Cổ, đánh đuổi quân Minh về phương
Bắc .
Cuộc chiến-thắng Mông-Cổ của dân Việt
thời Trần trên đất Bắc-Việt quả-nhiên đã ảnh-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
411
hưởng quyết-định vào chiều-hướng tiến-hóa,
văn-hóa chính-trị của Đông-Nam-Á như các
học-giả Pháp trên đây đã nhận-thức. Nhưng
theo sử-gia Việt-Nam thì việc chặn đứng
mãnh-lực xâm-lăng của quân Mông-Cổ tại cửa
ngõ Đông-Nam-Á này là cả một công-trình
gian-nan sinh-tử của toàn dân :
" Cảnh thanh u vật diệc thanh u,
Thập nhị thần chu thử nhất chu.
Bách bộ sinh ca cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc quất thiên đầu.
Nguyệt vô sự chiếu tâm vô sự,
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh,
Kim niên du thắng tích niên du ".
_ ( Trần-Thánh-Tông )
Ngô-Thời-Sĩ thẩm mỹ bài thơ " Hạnh
Thiên Trường Hành Cung " này của Vua Trần-
Thánh-Tông, có viết :
NGUYỄN-TRÃI
412
" Từ năm Thiệu-Bảo ( 1279 ) nổi
việc binh-đao hai lần đánh quân Nguyên,
may mà xã-tắc lại yên giang-sơn như cũ,
tuy rằng lòng Trời giúp cho, nhưng nhân-
sự cũng rất gian-nan. Họp Vương-hầu ở
Bình-Than, đãi phụ-lão ở Diên-Hồng,
không một hạng người nào là không hỏi
đến. Khi vào Thanh-Hóa, khi ra Hải-
Đông, lúc đi Đại-Bàng, lúc về Thiên-
Trường, không đâu không bước chân tới.
Nhất đán rửa sạch bụi Hồ, lại yên thế
nước, về thăm cố-hương mắt trông thấy
cảnh đẹp, tai nghe tiếng chim ca, chén
rượu dưới trăng, lúc đàn trên suối, nghĩ
lại khi đi Chí-Linh, Vạn-Kiếp, trận đánh
Đại-Than, Bạch-Đằng, những lúc con
thuyền lênh-đênh dùng bát cơm hẩm với
nông-dân, Vua-tôi, Cha-con vẫn nhất
tâm lo sao qua cơn sóng gió. Sở dĩ vì có
hoài cảnh ấy mà làm ra bài thơ trên vậy ".
_ ( Việt Sử Tiêu Án )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
413
Lại như Vua Trần-Nhân-Tông cùng với
Thánh-Tông, hai cha-con điêu-linh trong chiến-
cuộc, đồng tâm hiệp lực bôn-ba trong dân-
chúng bảo-vệ giang-sơn. Càng được trường đời
mài rũa, tinh-thần quốc-gia càng cao, có khi
ngắm cảnh non nước tan-tành, bị quân giặc dầy
xéo mà lòng thương xót, nhưng sức tin-tưởng
vào dân-tộc sống còn càng mạnh-mẽ vững-
vàng không chút nao-núng :
" Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu " .
( Tổ quốc đòi phen sờn ngựa đá
Non sông muôn thủa vững ngôi vàng ! "
_ ( Trần-Nhân-Tông )
Đủ thấy đem vận-mệnh một dân-tộc
thiểu-số với một nước nhỏ bé để làm bức tường
ngăn chặn sức mạnh xâm-lăng vĩ-đại như Đế-
quốc Mông-Cổ, ba phen tràn xuống Đông-
Nam-Á-Châu, thì tất nhiên phải là một kỳ-tích
lịch-sử thế-giới. Cái kỳ-tích Việt-Nam ấy xác-
NGUYỄN-TRÃI
414
chứng hiển-nhiên cái thực-tại huyền-nhiệm của
dân-tộc-tính trải qua hàng ngàn năm lịch-sử đã
biểu-hiện ra những vị anh-hùng dân-tộc xuất-
chúng, phi-thường để lãnh-đạo quốc-dân, như
Trưng-Nữ-Vương, Lý-Thường-Kiệt, Trần-
Hưng-Đạo, Lê-Thái-Tổ, Nguyễn-Quang-Trung.
Nay hãy xin ôn lại bài học văn-hóa chính-
trị thời Trần, đã kết-tinh ra Đức Thánh Trần và
Vua Lê-Lợi, cách xa nhau khoảng hai trăm
năm, từ thế-kỷ XIII đến thế-kỷ XV, dân-tộc
Việt-Nam phải đương đầu với Bắc địch hùng-
cường gấp muôn lần để bảo-vệ chủ-quyền ở
miền Đông-Nam-Á .
Bài - Học Trí - Dũng Của Thánh Trần ._
Năm 1283, đại quân Mông-Cổ do Thoát-
Hoan, con Vua Nguyên, thống-lĩnh, cùng với
các đại-tướng như Toa-Đô, Ô-Mã-Nhi đem 50
vạn quân đòi mượn đường đi qua Việt-Nam để
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
415
chinh-phục Chiêm-Thành và Chà-Và ( Java ),
đồng thời để trừng-trị Việt-Nam đặng rửa cái
nhục thất-bại lần trước, năm 1257 .
Sử chép :
" Nguyên-Đế sai Thái-tử Vân-Nam-
Vương là Thoát-Hoan, cùng Bình-chướng
A-Thích và A-Lý Hải-Nha thống-lãnh
quân, nói là mượn đường đi đánh Chiêm-
Thành, chia quân ra ba đường xâm-nhập
nước ta. Thượng-hoàng Trần-Thánh-Tông
hiệu-triệu phụ-lão trong nước, họp hội-
nghị tại Diên-Hồng (tháng 12 năm 1284).
Vua Thết tiệc khoản đãi phụ-lão xong,
hỏi kế đối với giặc Nguyên nên hàng hay
chiến ? Toàn-thể đồng thanh : Chiến !
muôn người cùng một lời như ở một
miệng thốt ra vậy ".
_ ( Quốc-Sử Toàn-Thư , tờ 44 )
Trong hàng các danh-tướng Văn, Võ
kiêm-toàn thời ấy, thì tiêu-biểu nhất là Trần-
NGUYỄN-TRÃI
416
Hưng-Đạo, người kết-tinh được tất cả đức-tính
của một vị anh-hùng dân-tộc : lòng tự-tín, tài
thao-lược, tinh-thần vì nước quên nhà, chí công
vô-tư, đức-độ đối với quân-sĩ, tình hữu-ái đối
với anh em, tình cha-con trong quân-đội. Thực
là một bậc Thiên-tài " Kinh bang tế thế ". Ngài
là họ tôn-thất, thân-thích của nhà Trần, được
phong làm Quốc-công, đến khi có giặc Mông-
Cổ đến xâm-lược. Vua Thánh-Tông thấy thế
giặc đang mạnh như nước lũ đổ xuống lãnh-thổ
Việt-Nam biển thiểu, bèn hỏi Quốc-Công
Hưng-Đạo rằng : " Thế giặc như thế này, hay là
ta hãy hàng ? " Hưng-Đạo nhắc lại lời nói với
Thái-Tông trước kia của Trần-Thủ-Độ : " Xin
chặt đầu thần trước rồi hãy nói đầu hàng ! "
Sử chép :
" Quốc-Tuấn ( Trần-Hưng-Đạo ) là
con An-Sinh-Vương ( anh ruột Trần-
Thái-Tông. ) Khi mới sinh, thầy tướng
đoán ngày sau có tài kinh bang tế thế.
Đến khi lớn, dung mạo khôi-ngô, thông-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
417
minh hơn người, học rộng các sách, tài
kiêm Văn, Võ. An-Sinh-Vương vẫn ấp-ủ
mối hiềm-khích đối với Trần-Thái-Tông,
cầu tìm võ-sư giỏi để dạy cho Quốc-
Tuấn. Khi An-Sinh sắp chết, cầm tay
Quốc-Tuấn di-chúc rằng : " Con không vì
ta lấy được thiên-hạ, thì ta chết đi mà
không nhắm được mắt ở dưới âm-phủ.
Quốc-tuấn để bụng câu dặn-dò ấy, nhưng
không cho là phải. Đến khi nước bị giặc
xâm-lược, trong tay có cả binh-quyền
thống-chế, mới đem lời di-chúc kia ra hỏi
gia-nô tâm-phúc là Dã-Tượng và Yết-
Kiều. Cả hai đều nói : " Đại-Vương đã
giầu-sang rồi, còn chúng tôi đến già thề
vẫn làm nghĩa-bộc, không muốn làm một
người quan-chức không trung hiếu. Đại-
Vương mà làm theo lời di-chúc thì chỉ
được phú-quý một thời mà tên tuổi xấu-
xa để lại đến muôn đời ! " Quốc-Tuấn
nghe mà cảm-động đến ứa nước mắt. Một
hôm cũng đem di-chúc đến hỏi con mình
NGUYỄN-TRÃI
418
là Hưng-Võ-Vương rằng : " Người xưa
giầu-có cả thiên-hạ dễ để lại cho con
cháu, con nghĩ sao ? " Võ-Vương liền
thưa : " Nếu như thiên-hạ ở tay họ khác
cũng còn không nên, huống chi là cùng
một họ, lại làm thế ư ? " Quốc-Tuấn bụng
lấy làm phải lắm. Lại bữa khác cũng đem
lời di-chúc ra hỏi thử con thứ là Hưng-
Nhượng-Vương Quốc-Tảng. Quốc-Tảng
vội thưa : Vua Tống-Thái-Tổ là một
người làm ruộng mà thừa cơ-hội lấy được
thiên-hạ ! " Quốc-Tuấn liền rút kiếm ra
hỏi tội : " Kẻ loạn thần là do đứa con bất-
hiếu này ra " toan giết đi, Hưng-Võ vội
sấn lên can khóc chịu tội thay, Quốc-
Tuấn mới nguôi. Đến lúc sắp chết, gọi
Hưng- Võ đến dặn : " Sau khi ta chết, đậy
nắp áo quan xong rồi mới cho Quốc-Tảng
vào lễ ! ".
Mùa thu tháng tám năm Canh-Tý ( 1300 )
Hưng-Đạo-Vương Trần-Quốc-Tuấn mất ở
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
419
Vạn-Kiếp, đề tặng chức Thái-sư Thượng-phụ
Thượng Quốc-công Nhân-Võ Hưng-Đạo Đại-
Vương. Vua Thánh-Tông tự tay làm văn bia
thờ sống Ngài, coi Ngài như Thượng-phụ, lại
thêm chức Thượng Quốc-công, vì công-huân
lớn lao, được tự ý muốn cho ai chức tước gì
cũng được, trước khi tâu lên Vua. Nhưng trước
sau Ngài giữ phận bầy-tôi, không từng cho một
ai chức tước. Khi giặc Nguyên xâm-lăng,
Quốc-Tuấn bảo nhà giầu ban thóc cho quân-sĩ
mà chỉ ban cho tước Lang-tướng tạm chứ
không dám cho tước Lang-tướng chính-thức,
còn để đợi tâu lên Vua. Đủ tỏ Ngài thận-trọng
giữ tiết bầy-tôi như thế đấy. Ngài có viết Hịch
để khuyến-khích bộ-hạ, lấy gương Kỷ-Tín thay
chết cho Hán-Cao-Tổ, Do-Vu lấy lưng đỡ dáo
cho Vua Sở, mục-đích để dạy đạo trung-tín
vậy. Khi Ngài sắp mất, dặn lại con hỏa-táng rồi
đem tro chôn ở trong vườn An-Lạc, lấp đất
bằng, trồng cây lên trên như cũ để không ai biết
ở đâu, chỉ mong sớm tiêu-hủy hài-cốt. Bởi vì
hai phen quân Nguyên bị Ngài đánh bại, nên lo
NGUYỄN-TRÃI
420
về sau có cái họa phát quật. Đấy là sự lo xa đến
thế. Ngài còn có công vì nước tiến cử những
bậc hiền-năng như Dã-Tượng, Yết-Kiêu đều là
gia-thần tâm-phúc của mình từng bắt được
Toa-Đô, Ô-Mã-Nhi. Những danh-tướng, danh-
thần như Phạm-Ngũ-Lão, Trần-Thời-Kiên,
Trương-Hán-Siêu, Phạm-Lãm, Trịnh-Dũ, Ngô-
Sĩ-Thường, Nguyễn-Thế-Trực, hết thảy đều là
môn khách của Ngài, nổi tiếng về văn-hóa
chính-trị đương thời. Bởi vì Ngài tu-bẩm về
thao-lược, vũ-dũng mà một lòng trung-nghĩa
vậy. Xem như khi Thánh-Tông hỏi Quốc-Tuấn:
" Thế giặc mạnh thế này, ta hãy nên hàng
vậy !", Ngài liền thưa : _" Trước hãy chém đầu
thần đã rồi sau hãy hàng ! " Thế nên khoảng
những năm Trùng-Hưng ( 1285 - 1293 ) mới có
chiến-công lừng-lẫy, tiếng vang sang nước
giặc, mỗi lần nói đến Ngài, chúng không dám
gọi tên, chỉ xưng là An-Nam Hưng-Đạo-Vương
mà thôi. Sau Ngài mất rồi dân châu, huyện
Lạng-Giang ( tại biên-giới Hoa-Việt ) còn cầu
đảo Ngài để chữa bệnh, cho tới nay mỗi khi
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
421
trong nước có giặc, người ta đến tế-lễ ở đền thờ
Ngài, nghe trong từ-đường " có tiếng kiếm kêu
thì sẽ đại-thắng " .
Và uy-linh Trần-Hưng-Đạo đã sớm hiển-
thánh để đáp-ứng lòng sùng-bái của dân-chúng,
tín-ngưỡng vào một vị Thần-linh tối cao của
trường Đạo-Nội hay là Quốc-giáo .
Khi Ngài phụng chức Thống-lĩnh Tiết-
chế toàn-quân chống giặc, Ngài liền truyền
Hịch cho các Vương-hầu hội hết quân-sĩ tại
bến Đông-Bộ-Đầu, quân thủy, quân bộ cả thảy
20 vạn, lời Hịch nghiêm-trang với tinh-thần
binh-pháp vương-đạo :
" Bản chức phụng mệnh Thống-đốc
quân-sĩ ra phá giặc. Các vương-hầu và
tướng-sĩ, ai nấy phải cần giữ phép-tắc, đi
đâu không được nhiễu dân và phải đồng
lòng hết sức. Đánh giặc chớ thấy thua mà
ngã lòng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc
NGUYỄN-TRÃI
422
quân có luật, phép nước không thân, các
người phải giữ " .
Với lời Hịch nghiêm-nghị như thế, nhưng
quân-sĩ dưới sự lãnh-đạo của Hưng-Đạo-
Vương rất thân yêu cấp lãnh-đạo chỉ-huy, bởi
vì người lãnh-đạo chỉ-huy tôn-trọng quyền-lợi
chung, đặt việc công lên trên việc tư, như chính
Ngài đã đặt việc nước lên trên việc nhà, tình
dân-tộc lên trên tình cha-con, và thương yêu
quân-sĩ như cha-con ruột-thịt, như mối tình của
Ngài với hai gia-tướng Dã-Tượng và Yết-Kiêu
sau đây đã chứng-minh .
Sử chép :
" Quốc-Tuấn có gia-nô là Dã-Tượng
và Yết-Kiêu. Kiêu giữ thuyền cho Ngài ở
bến đò Bãi, chỉ một mình Tướng theo bên
Ngài. Vào lúc quân ta đang bị thất-bại
thủy-chiến, Quốc-Tuấn muốn men theo
núi để tiến quân. Dã-Tượng nói : " Yết-
Kiêu chưa gặp Vương tất không nhổ
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
423
thuyền đi nơi khác ". Ngài bèn đến bến
đò Bãi, thì quả nhiên còn độc một thuyền
của Yết-Kiêu vẫn còn đó. Quốc-Tuấn
mừng lắm nói : " Chim Hồng và chim
Hộc bay được cao ắt phải nhờ có lông
cánh mạnh, nếu không thì chẳng khác chi
chim thường " .
_ ( Việt-Sử Tiêu-Án )
Đấy là tinh-thần chí-công vô-tư của Trần-
Hưng-Đạo-Vương, thành-công mà không cậy
mình, biết công cho người xây-dựng, thần
thiêng là nhờ có bộ-hạ vậy. Với cái tinh-thần
ấy, Hưng-Đạo-Vương còn cả bài Hịch dài để
huấn-luyện quân-sĩ thấm-nhuần tư-tưởng quốc-
gia, nhân-cách của một người dân tự-do độc-
lập, ý-nghĩa cao-cả của sự sống, thà thác vinh
còn hơn sống nhục, như Trần-Bình-Trọng đã
quát vào mặt tướng giặc :
" Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm
Vương đất Bắc !"
NGUYỄN-TRÃI
424
Mở đầu bài Hịch này, Hưng-Đạo nêu lên
ý-nghĩa tối cao của sự sống cho đoàn-thể tha-
nhân, lấy tiêu-chuẩn giá-trị của đời người mà
phối-hợp với nguồn sống vô-biên của Trời Đất.
Và để chứng-minh lời nói ấy, Ngài nêu lên tên
tuổi lịch-sử của các danh-nhân đã hy-sinh tính-
mệnh cho lý-tưởng của mình :
" Ta thường nghe nói : _ Kỷ-Tín
đem mình chết thay mà cứu thoát cho
Vua Cao-Đế, Do-Vu lấy lưng đỡ dáo cho
Vua Chiêu-Vương, Dự-Nhượng nuốt than
hồng để trả-thù cho Chúa, Thân-Khoái
chặt tay để gánh nạn cho nước, Uất-Trì-
Cung, một viên tướng nhỏ đã phò Đường-
Thái-Tông thoát khỏi vòng vây của Thế-
Sung. Nhân-Cao-Khanh, một bầy-tôi xa,
miệng mắng An-Lộc-Sơn mà từ-chối mưu
kế của kẻ phản-nghịch. Từ xưa nghĩa-sĩ
trung-thần đem tính-mệnh hy-sinh cho
nước, đời nào chẳng có ? Ví phỏng
những vị ấy bo bo giữ thói sống đàn-bà,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
425
lo chết dưới cửa-sổ thì đâu có tên tuổi ghi
vào sử-xanh lụa-trắng, thẻ-xanh cùng với
Trời Đất vĩnh-cửu trường-tồn ?
" Các người đời dòng võ-tướng,
không hiểu nghĩa lý văn-chương, nghe ta
nói thế thì nửa tin nửa nghi. Việc đời xưa
hãy tạm gác không bàn. Nay ta lại lấy
việc nhà Tống, nhà Nguyên mà nói,
Vương-Công-Kiên là ai, Tể-tưóng
Nguyễn-Văn-Lập lại nữa là ai ? Chỉ còn
vòng thành Điếu-Ngư nhỏ bằng cái đấu
mà chống nổi toán quân trăm vạn của
Mông-Kha khiến cho nhân-dân nước
Tống đến nay còn ghi nhớ. Cốt Ngải Ngột
Lang là người nào ? Xông pha lam
chướng muôn dặm đường trường, đánh
quân Nam-Chiếu trong khoảng vài tuần,
đem cho Vua dòng Thát đến nay còn
danh tiếng ? "
Rồi Hưng-Đạo thống-thiết nói đến Quốc-
sỉ trước mắt, gọi đến tinh-thần liêm-sỉ của con
NGUYỄN-TRÃI
426
người khác loài cầm-thú, biết lo xa đến cái họa
sắp tới mà bỏ thói sống cầu an hiện tại. Nước
đã mất thì nhà cũng tan, cái thân chó, ngựa còn
sung-sướng nỗi gì, còn gì mà danh với giá. Thà
chết trong còn hơn chết đục, theo gương cái
" Cò " :
" Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng Cò con ! "
Và Hưng-Đạo nói tiếp đến cái nhục mất
Quốc-thể đối với ngoại-bang mà chính bản-
thân Ngài đã chứng-kiến và chịu-đụng các Sứ-
giả của giặc
" Huống chi ta với các người sinh
vào buổi loạn-ly, trưởng-thành trong cảnh
gian-nan, chính mắt nhìn thấy Sứ-thần
của giặc đi lại nghênh-ngang trên đất
nước, múa lưỡi diều-hâu làm nhục triều-
đình, đem cái thân chó, dê mà kiêu ngạo
với quan Tể-tướng. Chúng mượn lệnh
Vua Mông-Cổ Hốt-Tất-Liệt để hạch-sách
lụa, ngọc của ta, ta cung-cấp mãi không
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
427
cùng. Chúng nhân-danh Vân-Nam Vương
Thoát-Hoan, Thái-Tử của chúng, để đòi-
hỏi vàng bạc làm cạn kho-tàng có hạn của
ta. Thực là lấy thịt ném cho hổ đói, làm
sao có thể tránh được nỗi lo về sau ?
" Ta đến bữa quên ăn, đêm khuya vỗ
gối, nước mắt tràn đầy, lòng đau như
đâm, như cắt, ôm cái hận ăn gan uống
máu quân thù, nhai thịt băm da kẻ địch,
thì có trăm chiếc thân này đem đốt nơi
đồng cỏ, ngàn cái thân này đem bó vào da
ngựa, ta cũng vui lòng " .
Rồi Hưng-Đạo kêu gọi đến cái tình trong
quân-đội như một gia-đình, tình cha con giữa
tướng sĩ, tình thày trò anh em ruột-thịt, tình
đồng-chí sinh tử cộng-tồn. Lời nói hết sức
thống-thiết :
" Các người lâu nay ở dưới trướng
ta, cầm giữ binh quyền, kẻ thiếu áo có áo
mặc, kẻ thiếu ăn ta sẻ cơm ăn, chức nhỏ
ta cất lên, lương ít ta tăng thêm, đường
NGUYỄN-TRÃI
428
thủy có thuyền, đường bộ ta cấp ngựa.
Trong trận mạc sống chết thày trò có
nhau, khi thắng lợi mừng khao cùng nhau
vui cười, so với Công-Kiên đãi Tì-Tướng,
Ngột-Lang ở với người cộng-sự cũng
chẳng khác chi. Các người, nay ngồi nhìn
Chúa bị nhục mà không lo, thân chịu
Quốc-sỉ mà không hổ-thẹn, làm tướng
trong nước văn-hiến mà đứng hầu kẻ
man-di không thấy tức-giận. Tai nghe
Quốc-nhạc Thái-thường đãi tên Sứ-thần
của giặc mà lòng chẳng tức-tối ! Kẻ vui
chọi gà, kẻ thú đánh bạc, kẻ chăm ruộng
vườn để nuôi nhà, kẻ luyến vợ con riêng
lấy mình. Hết thảy chỉ lo việc sinh-nhai
mà quên nghĩa-vụ quân-quốc. Ham rong
ruổi săn bắn mà nhãng tập-luyện đánh
giữ. Hoặc mê rượu ngon, hoặc ham hát
ngọt. Một khi giặc Mông-Thát đến thì cựa
gà nòi không thể đâm thủng áo giáp của
giặc, thuật đánh bạc không thể dùng vào
mưu-lược trong quân. Vườn ruộng phì-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
429
nhiêu mà tấm thân ngàn vàng khôn
chuộc. Vợ con đông đủ không dùng được
vào việc Quốc-quân. Tài-sản có thừa
nhưng không mua được đầu giặc. Chó săn
có sức không thể đuổi được kẻ thù đông.
Rượu ngon không đủ làm cho giặc say
mê. Hát ngọt không đủ làm cho tai giặc
điếc .
" Đến khi ấy, thày trò ta sẽ bị bắt
trói, Vua tôi bị gông cùm, đau thương lắm
thay ! Chẳng những thái-ấp của ta không
còn, mà bổng lộc của các người cũng bị
kẻ khác chiếm mất. Chẳng những gia-
quyến của ta bị đuổi, mà vợ con các
người cũng bị giặc bắt đi. Chẳng những
xã-tắc Tổ-Tiên ta bị người ngoài dầy xéo,
mà mồ mả cha mẹ các người cũng bị kẻ
khác sới đào. Chẳng những thân ta bị
nhục đời này, tiếng xấu trăm năm đời sau
còn khó rửa, đến gia-thanh các người
cũng chẳng tránh khỏi tiếng con nhà bại-
NGUYỄN-TRÃI
430
tướng. Đến lúc ấy các người muốn chơi
bời cho thích-thú liệu có được không ? "
Đấy là Hưng-Đạo bày tỏ không những
cho ba-quân mà là cho cả quốc-dân sự lợi hại
thực-tế về thảm-trạng nước mất nhà tan, như
cảnh-ngộ của Tiên-Tổ xa xưa, Vua Việt-Câu-
Tiễn đã phải nếm phân kẻ thù nuôi hận :
" Cối Kê cựu sự quân tu ký ! "
Ngày nay thì sự đe-dọa ấy bày trước mắt,
cái họa Bắc-địch truyền-thống của dân-tộc
không thời nào dứt, nhất là đối với Đế-quốc
Mông-Cổ. Cho nên Hưng-Đạo đã luôn luôn
cảnh-tỉnh quốc-dân và quân-sĩ về cái ý-thức
làm người dân một nước độc-lập tự-do, về tinh-
thần dân-tộc tự-cường, tự-lập, cần phải liệu
trước lo xa .
" Nay ta bảo rõ các người, nếu biết
nằm trên đống củi dâm lửa là nguy-hiểm,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
431
theo gương người sợ bỏng mà thổi rau
canh. Vậy phải huấn-luyện sĩ-tốt, rèn tập
cung tên, khiến cho ai nấy đều bắn giỏi
như Bàng-Mông, nhà nào cũng có tài như
Hậu-Nghệ. Làm sao có thể bêu được đầu
Hốt-Tất-Liệt trước cửa khuyết, ướp được
thịt Thoát-Hoan trong trại rơm ? Có như
thế, thì chẳng những thái-ấp của ta mãi
mãi vững bền, mà bổng lộc của các người
cũng suốt đời được hưởng-thụ. Chẳng
những gia-quyến của ta được luôn luôn
êm-ấm, mà vợ con các người cũng được
xum-họp đến già. Chẳng những tông
miếu của ta được muôn đời tế-lễ, mà Tổ-
tiên các người cũng được hương khói
quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này
đắc-chí, mà các người trăm đời tiếng
thơm không mờ phai. Chẳng những tên
tuổi ta không mai một, mà tên tuổi các
người cũng ghi lại sử-xanh. Bấy giờ thì
các người muốn không vui sướng cũng
không được ! "
NGUYỄN-TRÃI
432
Sau khi đã so-sánh hai cảnh xã-hội sinh-
hoạt của nhân-dân một nước mất chủ-quyền bị
đô-hộ với một nước độc-lập tự-chủ rồi, Hưng-
Đạo mới kết-thúc vào lời kêu gọi quân-sĩ gắng
sức học-tập vũ-công, trau-giồi binh-pháp, nêu
cao tinh-thần, tu-sửa nhân-cách, để sống hiên-
ngang làm người chiến-sĩ .
Một bài Hịch trên đây đủ tỏ tài văn-
chương hùng-biện của một vị cái-thế anh-hùng,
mà mỗi lời là một sức-mạnh xuất tự trong tín-
ngưỡng tâm-linh, lòng ái-quốc nhiệt-thành,
thực là những tiếng sấm rung-động khắp ba-
quân trên bầu trời Bắc-Việt thời bấy giờ vậy .
Ngoài bài-học về tinh-thần dân-tộc của
bài đại văn-chương Hịch trên đây, Hưng-Đạo-
Vương còn làm sách Binh-gia Yếu-lược mà
yếu-lý binh-pháp đã phản-chiếu qua lời di-chúc
cho Vua Trần-Anh-Tông đến viếng hỏi tại
Vạn-Kiếp, khi Ngài hấp-hối :
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
433
_ " Nếu quân Tầu lại sang xâm-lấn
thì dùng kế sách gì ?
_ " Xưa kia Triệu-Vũ-Đế dựng nước
Nam-Việt, Vua Hán cho quân sang đánh.
Triệu-Vũ bảo dân đốt sạch quang đồng
nội, không để cho quân-địch cướp được
lương thảo, rồi đem đại quân Châu-Liêm,
Châu-Khâm đánh vào Trường-Sa, dùng
đoản binh đánh úp sau lưng, đấy là một
thời .
_ " Thời Đinh, thời Lê lựa dùng
được người hiền-lương. Bấy giờ phương
Bắc đang suy yếu, còn phương Nam đang
mới mẻ hăng-hái, trên dưới một lòng một
ý, lòng dân không chia-lìa, đắp thành
Bình-Lỗ mà phá tan quân Tống, đấy lại
là một thời .
_ " Nhà Lý mở nghiệp, quân Tống sang
xâm-lăng bờ-cõi, Vua Lý dùng Lý-
Thường-Kiệt đánh vào Châu-Khâm,
Châu-Liêm, tiến quân đến tận núi Ngũ-
NGUYỄN-TRÃI
434
Lĩnh, đấy là có thể làm được .
_ " Trước đây Ô-Mã-Nhi bốn mặt
bao-vây. Phiá ta Vua tôi đồng tâm, anh
em hòa-thuận, cả nước cùng hiệp-lực,
chúng mới bị bắt. Đó là lòng Trời sui nên
_ " Đại khái kẻ kia cậy trường trận,
ta dùng đoản binh, lấy đoản chiến trường.
Đó là lối thông-thường của binh-pháp. Hễ
thấy quân kia tràn đến, ầm ầm như lửa
như gió thì như thế dễ trị. Nếu nó dùng
tước tầm ăn dâu, ung-dung thủng-thẳng,
không cướp của dân, không cần mau
thắng, thì ta phải dùng lương tướng xem
tình-hình mà quyền biến như thế cờ vậy.
Nhưng phải tùy từng lúc mà hành-động,
cốt sao cho quân-sĩ thân-tín như cha con
thì mới được. Vả phải rộng nuôi sức dân,
áp-dụng cái phép " Thâm căn cố đế ",
" Rễ sâu gốc vững ". Đó là phương-sách
giữ nước " hay hơn cả " .
_ ( theo Toàn-Thư , q. 6, tờ 80 )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
435
Đại khái Hưng-Đạo-Vương đã đại thắng
quân Mông-Cổ là nhờ Ngài không bao giờ
quên tinh-thần quân dân nhất-trí, đồng lòng
hiệp sức, trên dưới như một " phụ tử chi binh ".
Tuy thế mà kỷ-luật rất nghiêm, trong tình vẫn
có lý. Đấy là tinh-thần đại-biểu cho tướng-sĩ
thời Trần, văn, võ đủ cả, nhà võ có khí-phách,
nhà văn có đạo-đức, đối với triều-đình thì
trung-quân ái-quốc, đối với quân-nhân thì tình
cha con, đối với nhân-dân thì lấy " dân vi quý".
Đấy là bài-học trí dũng của giới lãnh-đạo
thời Trần, bài-học văn-hóa chính-trị của
chương-trình Quốc-học Tam-giáo, quân-bình
Nho-giáo, Phật-giáo và Đạo-giáo vậy .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
437
BÀI-HỌC VĂN-HÓA CHÍNH-TRỊ
NHÂN-NGHĨA CỦA
VUA LÊ-THÁI-TỔ VÀ NGUYỄN-TRÃI
Từ bài-học Trí Dũng của Hưng-
Đạo-Vương trong cuộc bảo-vệ nước nhà chống
đế-quốc xâm-lăng Mông-Cổ đến bài-học Nhân-
Nghĩa của Vua Lê-Thái-Tổ và Nguyễn-Trãi,
dân-tộc Việt-Nam trải qua hai trăm năm thịnh-
vượng trong một xã-hội khai-phóng với một ý-
thức-hệ văn-hóa chính-trị nhân-bản đầy đủ của
Tam-giáo, tức là tinh-thần thông-cảm giữa các
khuynh-hướng tín-ngưỡng khác nhau, vốn là
tinh-thần truyền-thống của Đông-Nam-Á
( L'Unité dans la Diversité ) " Đồng qui nhi thù
đồ " .
NGUYỄN-TRÃI
438
Cái tinh-thần văn-hóa chính-trị khai-
phóng ấy bị nhà Hồ thay-thế bằng khuynh-
hướng thực-dụng, chiếm ngôi nhà Trần năm
1400, gây nên chia rẽ trong nước để cho quân
Minh có cớ xâm-chiếm nước ta, biến thành
quận, huyện của Trung-Quốc, từ Nam-Quan
cho tới Hóa-Châu ( Huế ngày nay ) .
Nhưng nhân-dân Việt-Nam bấy giờ chưa
hẳn mất gốc, hình-ảnh tiền-nhân anh-dũng bất-
khuất chưa phút phai mờ trong tâm trí,
" truyền-thống của người chết còn đè nặng trên
đầu kẻ sống ". Bởi thế cho nên sau những cuộc
kháng-chiến thất-bại của nhà Hồ và Hậu-Trần
vì nội-bộ chia-rẽ trong cấp lãnh-đạo, quân nhà
Minh đặt nền đô-hộ được 6 năm thì người anh-
hùng áo vải đất Lam-Sơn nổi dậy, thu-phục
được nhân-tâm trong nước, đánh đuổi quân
Minh, khôi-phục đất đai tổ-quốc. Đấy là sự-
nghiệp vĩ-đại của " Lê-Lợi vi quân, Nguyễn-
Trãi vi thần " vì sự-nghiệp của Lê-Lợi là sự-
nghiệp của Nguyễn-Trãi, hai người như một
vậy .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
439
Ngày nay đọc lại lời di-huấn của một vị
anh-hùng xuất thân nơi nông-dân đồng ruộng
núi Lam, cùng với kẻ-sĩ hàn nho Nguyễn-Trãi
san-sẻ gánh giang-sơn khi nước mất nhà tan,
chúng ta nhận thấy một lòng yêu nước, thương
nòi với một bụng chân-thành thì chẳng còn
phân-biệt thời-gian với không-gian, Đông-Tây-
Nam-Bắc, giai-cấp kẻ quý, kẻ hèn, thảy đều
quay về dĩ-vãng mong tìm thấy chút linh-đan
cho cơn đau đớn hiểm-nghèo hiện-tại. Bởi thế
mở đầu Lam-Sơn Thực-Lục :
" Trẫm nghĩ : _ Vật gốc tự Trời,
người gốc ở Tổ-tiên ! Kià như cây cỏ,
như giòng nước đều phải có gốc có
nguồn. Gốc sâu dầy thì cây xanh tốt,
nguồn càng thâm thì giòng dài xa. Nếu
chẳng phải nhờ có ân-nhân bồi đắp đã dầy
công, phúc-đức chung đúc được vĩ-đại từ
đời trước thì đâu có được như ngày nay ".
Đấy là tư-tưởng quốc-gia dân-tộc thực-tế
thân-tình của Vua Lê-Thái-Tổ, người lãnh-tụ
NGUYỄN-TRÃI
440
nông-dân đã thông-cảm nguyện-vọng âm-thầm
của đại-chúng, viết ra những lời mạnh-mẽ, tuy
giản-dị mà thiết-thực làm rung-động đến khí
thiêng sông núi. Ngài nhớ công-ơn Tiên-Tổ
tiền-nhân, không quên thực-tại của cái ý-chí
sống chết cùng còn cùng mất của toàn dân
muốn nối-tiếp nghiệp xưa. Ngài cảm-thông và
tôn kính ý-dân như ý-Trời, nên mới hòa-đồng
với tâm-hồn đại-chúng mà tạo nên tinh-thần đại
đoàn-kết toàn-dân, như Nguyễn-Trãi đã thay
lời :
" Hoài vu hựu nhân giả dân dã
Tái chu phúc chu giả diệc dân dã ! "
( Nhớ về người có đức nhân là dân
Chở thuyền, lật thuyền cũng là dân!)
Vì sức mạnh của nhân-dân như nước,
" tuy ngu nhi thần" ( tuy ngu muội mà sức
tiềm-năng như thần-lực ).
" Trẫm gặp buổi gian-nan, mở mang
khốn khó. May Trời với Người đồng
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
441
lòng giúp sức mới dựng lại nổi cơ-đồ,
thực nhờ Tổ-tiên đã tích đức, lũy nhân
mới có thể đạt được, Trẫm niệm nhớ mãi
mãi không quên " .
_ ( Lam-Sơn Thực-Lục )
Đấy là những lời tâm huyết, chất-phác,
trung thực của bậc chính nhân quân-tử, của bậc
Vương-giả từng nằm gai nếm mật, gối đất phơi
sương để sáng-lập sơn-hà xã-tắc, dành lại một
quốc-gia đã mất vào tay thống-trị của cường-
quốc láng-giềng. Cái lý-tưởng quốc-gia dân-tộc
ấy, nguồn gốc ở tình yêu thâm sâu của nông-
dân Việt, đã hun-đúc nên cái ý-chí quật-cường
của một dân-tộc nghèo-nàn nhưng dẻo dai
nhẫn-nại chịu-đựng. Gặp lúc cùng-quẫn như
khi trong núi Chí-Linh, " quân lính thiếu lương
ăn đến hơn hai tháng, chỉ đào củ, đẵn măng để
lót lòng cầm cự. " Nhưng dân-tộc ấy không bao
giờ mất tình đoàn-kết, nghĩa bao dung khi bỉ
cũng như thái, tinh-thần nghĩa-hiệp vẫn cao.
Cho nên Vua dụ quân-sĩ :
NGUYỄN-TRÃI
442
" Dân ta khổ với giặc đã lâu, phàm
đến đâu tơ hào không được xâm-phạm ....
" Một lòng báo oán là thường tình
của con người nhưng không nên giết
người lại là bản tâm của bậc nhân-đức.
Vả chăng người ta đã hàng mà ta lại giết
thì không còn gì là bất thiện hơn nữa.
Muốn hả giận trong một sớm mà chịu
mang tiếng giết kẻ đầu hàng đến muôn
đời, sao bằng để sống hàng muôn ngàn
mạng người mà dứt mối chiến-tranh về
sau cho hai nước, sử-xanh ghi lại, nghìn
thủa còn thơm, như thế chẳng tốt đẹp lắm
sao ? "
Ở đây biểu-lộ chính-sách Nhân-Nghĩa là
cả một ý-thức-hệ mà Nguyễn-Trãi đã dâng lên
cho Lê-Thái-Tổ, vừa là chiến-lược để đánh
đuổi quân Minh, vừa là chủ-nghĩa dân-tộc
khai-phóng để đoàn-kết nhân-dân bất phân
giai-cấp, lấy dân làm gốc. Mở đầu bài Anh-
hùng Ca " Bình Ngô Đại Cáo " Nguyễn-Trãi
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
443
đã vạch ra cả một sứ-mệnh lịch-sử thiêng-liêng
của dân-tộc, căn-cứ vào Nhân Nghĩa, cá-nhân
với đoàn-thể quân-bình .
" Làm việc Nhân, việc Nghĩa, mục-đích
là để an dân .
Xuất quân cứu đời, phạt tội, trước hết là
trừ kẻ tàn-bạo .
" Như nước Đại-Việt ,
Là nước văn minh.
Núi sông địa-lý đã riêng biệt,
Phong-tục Nam Bắc lại khác nhau .
" Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần tạo nên một
nước, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,
mỗi chúa một phương.
Dù có lúc mạnh yếu không đều, nhưng
hào-kiệt, anh-hùng nào có thiếu ! "
Nhưng đến bài Phú Núi Chí-Linh sau đây
thì chủ-trương chiến-tranh Nhân-Nghĩa của Lê-
NGUYỄN-TRÃI
444
Thái-Tổ, qua ngọn bút của Nguyễn-Trãi, mới
thực sáng-sủa và linh-động :
" Rồng thiêng nổi lên đất Lam-Sơn,
Giáo Trời chỏ Ải-Bắc sạch trơn.
Nghiệp mở thành-công từ ẩn-náu,
Linh-thiêng thay ! Miền Tây núi sông.
Ấy võ-công thần-thánh của Vua ta,
Kinh-doanh khi bốn phương còn là.
" Gian-nan vận nước,
Lo lắng bôn ba.
Cậy vào Trời mà tự-tín,
Có chí mới nổi cơ-đồ.
Do đấy mà nay Hồ Việt một nhà,
Danh núi muôn thủa khôn mờ.
" Đương lúc nghĩa binh mới khởi,
Thế giặc cường cường.
Anh hùng trong nước,
Lác đác như lá thu gặp sương.
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
445
Chí muốn nuốt Ngô, ai Văn-Chủng, ai
Phạm-Lãi ?
Mưu tính nghiệp Hán, ai Trần-Bình, ai
Trương-Lương ?
Đương lúc ấy, Vua ta còn ẩn tiếng núi
này, cắt cỏ để náu nương .
" Vợ con lưu ly,
Quân-sĩ bốn phương.
Tuy cùng khốn mà càng vững,
Biết đứng lên mà cát tường.
Mang khí-giới thay làm áo,
Lấy rau củ để làm lương.
Chí miệt mài việc khôi phục,
Lòng đau đáu những lo lường.
Tưởng lúc ấy, nước non này có khác chi
Mang-Dương đối với Hán-hoàng ?
Bởi vì Vua,
Biết mình, biết người.
Năng nhược, năng cường,
Đợi thời, chờ thời.
Che dấu dáo gươm,
NGUYỄN-TRÃI
446
Treo mật để nếm.
Gối đất nằm sương,
Nuôi hận rửa nhục.
Phục-hồi Quốc-cương.
........................................... "
*****
*
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
447
KẾT - LUẬN
Cái đại án tru di tam tộc của
Nguyễn-Trãi đã không phải là cái chết oan-
uổng của một dòng họ mà thôi. Nó là cả một
khúc quanh của lịch-sử dân-tộc, một sự đứt
đoạn trong truyền-thống tinh-thần dân-tộc mà
những lời xưng-tụng đặc-biệt của Vua Lê-
Thánh-Tông có thể tẩy oan tuyết-hận cho một
linh-hồn, nhưng không thể vãn-hồi được vận-
hội .
" Ức-Trai tâm thượng quang Khuê tảo !"
( Tâm-hồn của Ức-Trai sáng như sao
Khuê ! )
_ ( " Quỳnh Uyển Cửu ca "_ Lê-Thánh-
Tông )
NGUYỄN-TRÃI
448
Thực vậy, với cái chết của Nguyễn-Trãi,
cái truyền-thống tư-tưởng tâm-linh thực-
nghiệm khai-phóng của Thiền-tông Đồng-
nguyên Tam-giáo mà Ông là người đại-biểu
cuối cùng của nhà Trần cũng tắt theo, bị đoạn-
tuyệt bởi cuộc tiêu-hủy sách sử Việt-Nam của
quân Minh với chính-sách đồng-hóa triệt-để.
Không những chúng tiêu-hủy hoặc lấy điển-
tích của tác-giả thời Lý, Trần, chúng còn bắt
nhân-tài Việt-Nam sang làm tù-binh, hoặc giết
đi, hoặc cho làm quan bên triều nhà Minh, như
trường-hợp Hồ-Nguyên-Trừng, người đã phát-
minh ra súng thần-công, bị nhà Minh bắt với
cha đưa về Trung-Quốc để lợi-dụng khai-thác
những phát-minh của ông. Hay là như Nguyễn-
An làm quan triều Minh đến chức Thái-giám.
Theo sách " Hoàng Minh Thông Kỷ " của Tầu
chép về sự-tích của ông, " Rất sở-trường về
kiến-trúc. Phàm những việc xây-dựng hay sửa
chữa thành-trì ở Bắc-Kinh, 9 cửa, 2 cung và 3
điện, các công-thự ở 5 phủ, 6 bộ, cùng những
đồn trại ở biên-ải, nhà trạm ở thôn quê đều
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
449
chính mình ông trông coi chỉ bảo, công-lao rất
to, ai cũng biết các Tòa, Sở coi về việc thợ-
thuyền chỉ việc theo mực-thước sẵn của ông
mà thôi . "
Sau khi Nguyễn-Trãi bị tru-di rồi, thì nhà
Lê đoạn-tuyệt với truyền-thống khai-phóng của
Tam-giáo Thiền thời Trần để độc-tôn Nho-giáo
Lý-học của nhà Tống, với khuynh-hướng bế-
quan và từ-chương, bỏ cái tinh-thần Nhân-
Nghĩa tâm-linh quân-bình cá-nhân và xã-hội
lấy làm lòng đi :
" Thân đà hết lụy thân nên nhẹ,
Bụt ấy là lòng Bụt khá cầu " .
_ ( Quốc-âm Thi-tập -- Mạn-Thuật )
Lấy Thiền-định để thực-hiện Đồng-
nguyên Tam-giáo :
" Chiếm tự nhiên một thảo am,
Dầu lòng đi Bắc mấy về Nam.
NGUYỄN-TRÃI
450
Trường Thiền-định, hùm nằm chực,
Trái thời trai, vượn nhọc đem.
Núi láng giềng, chim bầu bạn,
Mây khách khứa, nguyệt anh tam ( em ).
Tào-Khê rửa ngàn tầm suối,
Sạch chẳng còn một chút phàm ".
_ ( Quốc-âm Thi-tập _ Thuật Hứng )
Đấy là cái tinh-thần Nho-học khai-phóng
" Cùng lý chính tâm " từ Chu-văn-An, theo
tôn-chỉ " Tri Hành hợp nhất " trên cơ-bản
tâm-linh thực-nghiệm của Thiền-tông, đã bị
nhà Lê đoạn-tuyệt với cái án của Nguyễn-Trãi
vậy .
Xét tư-tưởng Việt-Nam trong vòng một
ngàn năm gần đây, bắt đầu dân-tộc thực sự
giải-thoát ách đô-hộ của nước Tầu để ý-thức
" Nam quốc sơn hà Nam Đế cư " mà xây đời
sống chung của một quốc-gia độc-lập, nghĩa là
trải qua các triều-đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê,
Nguyễn cho tới ngày nay, chúng ta nhận thấy
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
451
rõ rệt có hai ý-thức-hệ kế-tiếp chi-phối xã-hội
Việt-Nam, một ý-thức-hệ xã-hội khai-phóng,
và một ý-thức-hệ xã-hội bế-quan, theo như
giới-thuyết trên đây .
Sự thực, nói một cách tổng-quát thì lịch-
sử tư-tưởng Việt-Nam có thể chia làm 3 thời-
kỳ : Bắt đầu từ thời nhà Đinh và Tiền-Lê, Lý,
chúng ta thấy Phật-giáo Đại-thừa lãnh-đạo ý-
thức-hệ quốc-gia dân-tộc. Ở thời nhà Đinh
( 968 - 980 ) và Tiền-Lê ( 980 - 1009 ) các
Thiền-Sư có tinh-thần thực-tiễn và quốc-gia
dân-tộc đã sốt-sắng ra tay phò Vua giúp nước,
khuôn phò xã-tắc sơn-hà như Khuông-Việt
Thái-Sư hay Thiền-Sư Đỗ-Thận từng giúp nhà
Vua về đường ngoại-giao để đối ngoại, về
đường nội-trị thì bàn mưu quốc-kế dân-sinh.
Như thế đủ chứng-tỏ tiền-đồ Phật-giáo, tuy có
khuynh-hướng lạnh-nhạt với thế-gian, mà riêng
các nhà Thiền-Sư Việt-Nam lại có chí-nguyện
nhiệt-thành với quốc-gia dân-tộc. Các Ngài
ngay từ buổi đầu đã đem cái triết-lý cao-siêu
NGUYỄN-TRÃI
452
xuất-thế, bác-ái, từ-bi để nhập-thế cộng-tác với
các nhà chính-trị, võ-bị, khai-quốc, công-thần.
Đấy là chủ-trương hợp-sáng Đạo và Đời. Kịp
đến triều Lý ( 1010 - 1225 ) với Thiền-Sư
Vạn-Hạnh và đệ-tử là Lý-Công-Uẩn, chủ-
trương dung-hòa hợp-sáng Tam-giáo trên cơ-
bản Thiền, hành-động suốt hơn hai trăm năm,
ảnh-hưởng Phật-giáo vẫn ưu-tiên và sâu rộng,
nhưng là một triều-đại oai-dũng nhất, một mình
dám đường đường chính chính đem quân vào
nước ngoài, khi đánh không ai địch nổi, khi
kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận
đánh Ung-Liêm thật là đệ nhất võ-công, từ đấy
nước Tầu không dám coi thường chúng ta .
Ca-dao hát :
" Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng ".
Là ám chỉ vào việc võ-công triều Lý trên
đây chăng ? Ngoài ra lại còn phải đối-địch với
cường-quốc Đại-Lịch ở phiá Tây-Bắc, tranh-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
453
hùng với lực-lượng Chiêm-Thành ở phiá
Nam... Ở đâu Việt-Nam đã có được cái nhuệ-
khí tích-cực để sống-còn bền-bỉ ấy ? Phải
chăng triều-đình đã bắt đầu xây nền Quốc-học
trên ý-thức-hệ Tam-giáo Phật-Nho-Đạo cho
nên trong nước mới kết-tinh được cái tinh-thần
nhân-bản toàn-diện Nhân - Trí - Dũng như Lý-
Thường-Kiệt với Tô-Hiến-Thành .
Đến triều Trần ( 1225 - 1400 ) thì cái
tinh-thần Tam-giáo truyền-thống ấy phát-triển
đến điểm tuyệt-đỉnh vào tổng-hợp tâm-linh
thực-hiện của Trúc-Lâm Tam-Tổ là Điều-Ngự
Giác-Hoàng, Pháp-Hoa và Huyền-Quang. Và
nếu không có sức mạnh kỳ lạ của tín-ngưỡng
Tam-giáo ấy để đoàn-kết quốc-dân, trên dưới
như một, thì liệu cái nhóm Việt-Nam nhỏ bé ở
cửa ngõ Đông-Nam-Á-Châu này có sức gì mà
chặn đứng đường Nam-tiến của quân Mông-
Cổ ?
NGUYỄN-TRÃI
454
Cho tới đây, trải qua bốn triều-đại Đinh,
Lê, Lý, Trần, gồm trên bốn trăm năm ( 432
năm ), cái tín-ngưỡng vào ý-thức-hệ Tam-giáo
ấy đã làm nguồn sinh-lực phong-phú hùng-hậu
cho toàn dân, trên từ Vua, quan triều-đình,
dưới đến nông-dân, sĩ-thứ, bất phân nam nữ
hay tuổi-tác, giai-cấp quý tiện, hết thảy đều
nhất-trí một lòng cảm-thông cởi-mở, nhờ có sự
thống-nhất tinh-thần của toàn dân vào một ý-
thức-hệ phong-phú, vừa thực-tiễn, vừa lý-
tưởng, hết sức khai-phóng cởi-mở như quan-
điểm Tam-giáo mà triều-đại Lý, Trần là triều-
đại oanh-liệt nhất của ngàn năm lịch-sử dân-
tộc. Cho hay, muốn quốc-gia thịnh-cường, dân-
tộc hùng-mạnh thì điều-kiện tối căn-bản, tối
tiên-quyết và tối trọng-yếu ấy là điều-kiện
thống-nhất nhân-tâm, thống-nhất ý-chí .
Kịp đến triều-đại nhà Lê ( 1428 - 1788 ),
tín-ngưỡng Tam-giáo bắt đầu suy-nhược, triều-
đình và sĩ-phu nâng Nho-giáo lên địa-vị chính-
thống độc-tôn, bỏ thi Tam-giáo ở các triều-đại
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
455
trước. Còn nhân-dân ở dưới, tuy vẫn trung-
thành với tín-ngưỡng truyền-thống của dân-tộc,
nhưng bắt đầu xung-đột với giới trí-thức thống-
trị. Bước đầu nhà Lê, nhờ dư-hưởng của nền
tâm-linh Tam-giáo thời Lý, Trần nên quốc-gia
còn sức đoàn-kết mới đủ hùng-mạnh để đánh
đuổi quân Minh ra khỏi bờ-cõi mà xây-dựng lại
cơ-đồ với lương-thần danh-tướng như Nguyễn-
Trãi. Nhưng bước xuống Trung và Hậu Lê thì
quả thực tinh-thần đoàn-kết đã mất, trí-thức với
nông-dân, thống-trị với bị-trị xung-đột, sĩ-phu
lãnh-đạo bất-lực và yếu hèn, dân-chúng lầm
than, quốc-gia phân-ly, biến thành cục-diện
Nam Bắc phân-tranh, Nguyễn, Trịnh tranh bá,
ở giữa Vua chỉ còn lại là một tượng-trưng lu-
mờ cho cái ý-thức dân-tộc thống-nhất. Lê-Quý-
Đôn là một học-giả uyên-thâm lỗi-lạc đời Hậu-
Lê, am-tường thời-cuộc cả Nam lẫn Bắc, nhận-
thức thời-bệnh hiểm-nghèo, dân-tộc thiếu ý-
thức thống-nhất, nên đã từng lên tiếng kêu gọi
sĩ-phu trở về phục-hưng lại cái triết-lý Tam
NGUYỄN-TRÃI
456
giáo truyền-thống mà cơ-bản là tinh-thần
" Đồng qui nhi thù đồ " ( ).
Lê-Quý-Đôn viết ở "Kiến Văn Tiểu Lục"
( q. V - mục " Tài Phẩm " ):
" Tôi đã từng Tổng-luận cả một đời
Tiền-Lê, đại để sĩ-phong ba lần biến-đổi,
lúc ban đầu, sau giai-đoạn nhiễu nhương,
trong nước thì dòng Nho-sĩ còn thưa-thớt,
kẻ đem thân ra theo đuổi việc nước như
Nguyễn - Thiên - Tích, Bùi - Cẩm - Hổ,
Nguyễn-Thời-Trung có khí-phách anh-
hùng dám nói. Người ưu du trong chốn
lâm-tuyền như Lý-Tử-Cấu, Nguyễn-Thời-
Trung, ấp-ủ tinh-thần trong trắng, không
có lòng nghĩ đến giầu sang, đấy là một
thời vậy. Về thời Hồng-Đức ( 1470 -
1497 ) trong nước mở rộng khoa-mục,
kén nhiều văn-tài, sĩ-tập chỉ theo về văn-
từ, thêu vẽ từ-chương để mong chức cao
quyền trọng, cái khí-tiết khẳng-khái đã
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
457
thấy có phần suy-kém. Nhưng mà đường
sủng lộc đã rộng mở, cách thức dạy dỗ
cũng cần mật, người điềm-tĩnh thì được
thăng dùng, kẻ kiêu-hãnh thì bị ruồng bỏ,
cho nên người tại vị còn ít cầu-cạnh mà
thiên-hạ còn biết quý đường danh-nghĩa,
đấy lại là một thời. Từ năm Đoan-Khánh
( 1505 - 1509 ) trở về sau, thanh-nghị quá
đồi-bại, những người làm quan ít biết giữ
thói khiêm-nhường, trong triều-đình
không nghe thấy câu can-gián, gặp việc gì
thời mềm nhũn để tránh khỏi tai-vạ, thấy
nguy thì bán nước cầu lấy toàn thân,
những người gọi là danh Nho đều là hạng
ngồi yên mà nhận lấy cái vinh-sủng bất-
nghĩa, thơ ca đi lại tâng-bốc lẫn nhau, sĩ
tập bại-hoại không lúc nào quá tệ hơn lúc
này. Cái tệ lần biến đổi này không thể nói
hết được. Xét quốc-sử trên dưới hơn một
trăm năm mà tìm thấy người đáng gọi
được là cao-sĩ chỉ được có Lý-Tử-Cấu với
NGUYỄN-TRÃI
458
vài người nữa, thật đáng thương cho khí-
tiết hiếm thấy vậy . "
Nhận thấy cái hại của triều Lê tôn-sùng
riêng Nho-giáo, có khuynh-hướng đóng cửa
bế-quan, cho nên Lê-Quý-Đôn, mở đầu chương
Thiền-Dật trong " Kiến Văn Tiểu Lục "
( )trên đây mới lên tiếng phản-đối
Nho-sĩ cố-chấp hay biện-bác đạo khác mà độc-
tôn đạo mình. Ông viết :
" Lời dạy của Thánh-hiền gốc ở
nghĩa Trung-dung, giềng mối trật-tự
cường-thường, chế-độ Lễ Nhạc, hình-
pháp chính-trị là Trời Đất thiết-lập ra,
Vua chúa làm sáng-tỏ. Noi theo tính Trời
để tu-sửa đạo-lý thì cổ kim đều nhất-trí.
Thánh-nhân giảng-học để làm sáng-tỏ
nguyên-lý Trời Đất, để làm ngay-thẳng
lòng người. Còn như tìm-tòi điều lạ mà
thuyết-lý điều quái thì chẳng phải công
việc thường-xuyên vậy. Cho nên chỉ bàn-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
459
luận đến đạo-lý phổ-thông, không làm
cho kẻ đi học thêm ngờ-vực. Giáo-lý của
đạo Phật, đạo Lão thanh-tĩnh, hư-vô, siêu-
nhiên, lặng-lẽ, không lệ-thuộc vào sự-vật
biểu-hiện cũng là giáo-lý cao-minh, mà
bàn đến đạo-đức cao-siêu, luận về tinh
thần thì chỗ nào cũng có nghĩa thâm-trầm
huyền-diệu. Các nhà Nho ta cứ chấp vào
ý-kiến bỉ-thử thiên-lệch mà điều gì cũng
đem ra biện-bác thì có nên không ?......
" Trang-Chu bảo rằng trong phạm-
vi thế-gian thì có bàn-luận mà không
quyết nghị, ngoài giới-hạn thế-gian thì
giữ lấy mà không bàn-luận, lời nói ấy thật
chính-xác vậy ."
Bởi thế mà Lê-Quý-Đôn ở sách " Vân
Đài Loại Ngữ " ( ) mới thẳng-thắn
trở về tín-ngưỡng Tam-giáo Đồng-nguyên của
triết-lý truyền-thống Á-Châu " Đồng qui nhi
thù đồ " từng thống-nhất tinh-thần dân-tộc
Việt-Nam thời-kỳ Lý, Trần vậy.
NGUYỄN-TRÃI
460
Họ Lê đã toát-yếu triết-lý " Đồng qui nhi
thù đồ " vào bài đại-luận mở đầu cho bộ sách
" Vân Đài Loại Ngữ " như sau :
" Người xưa xưng-tụng cái học
" Cách vật trí tri " suy hiệu-quả đến " Tu,
Tề, Trị, Bình " thì có thể gọi được là sâu
rộng vậy .
" Đạo-lý ở tại sự-vật, sự-vật tất có
đạo-lý. Xa như cùng Trời khắp Đất, gần
như luân-lý nhân-sinh hàng ngày, chẳng
chi không có cái lý dĩ-nhiên, cái nghĩa
đương-nhiên. Làm người quân-tử không
thể không biết mà được .
" Học để thâu góp kiến-thức, hỏi để
phân-biệt manh-mối, nhớ lại kinh-nghiệm
đã qua để tìm-hiểu những điều sắp tới.
Thành-thật tin sùng đạo-lý, ngày tháng
tích-chứa tự-nhiên thông suốt. Tìm
nguyên-lý đến cùng mà toàn-vẹn lấy bản-
tính cho đến mệnh Trời. Tinh vi ý-nghĩa
đến Thần-hóa để có ích-dụng cho đời, hết
thảy đều do đấy mà xuất ra cả .
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
461
" Kinh Dịch nói : “ Người quân-tử
nhớ nhiều những điều về trước với việc
đã qua là để nuôi đức hạnh của mình”
( )
" Kinh Thư nói : “ Người ta cầu tìm
biết nhiều là chỉ để xây dựng công nghiệp
với đời ”
( )
" Khổng-Tử nói : “ Đệ-tử sao chẳng
đọc Kinh Thi, gần thì để phụng-sự cha
mẹ, xa để phụng-sự Nước, Vua, lại biết
nhiều về chim muông cây cỏ .”
( )
" Hết thảy đều là công-phu Cách vật
vậy. Tuy nhiên nếu có thể giữ lại điểm
thiết-yếu, chọn lấy điểm tinh-vi thì dù sự-
sự vật-vật có rối bời trước mắt mà tự
mình châm-chước điều gốc, điều ngọn,
dung hợp điều thủy, điều chung thì càng
thấy rõ-ràng dù đường lối có khác nhau
vô kể mà tựu-trung cùng đi đến một đích
NGUYỄN-TRÃI
462
chung, suy tưởng có trăm lối mà chân-lý
chỉ có một. Đâu đến nỗi học rộng mà
không thấy được chỗ cốt-yếu, mệt sức,
mất công mà chẳng có hiệu-quả gì ?
" Thử bàn-luận những điều thường-
thức. Mặt-Trời, Mặt-Trăng, Tinh-tú ấy là
văn-vẻ của Trời. Khí-hậu, Vị-trí thuận
nghịch, mau chậm, phải chăng không có
định-luật vĩnh-cửu ?
" Núi sông, cỏ cây ấy là văn vẻ của
Trời Đất. Hình-thể chủng-loại tuy khác
nhau, nhưng mạch-lạc, nguyên-ủy, cao
thấp, béo gầy, phải chăng không có định-
luật phổ-biến ?
" Lễ Nhạc, pháp-luật là văn vẻ của
loài người. Đời xưa, đời nay. Khi theo khi
đổi, chỗ này chỗ kia không thích đều khác
nhau lắm. Nhưng tùy thời-thế mà thiết-
lập giáo-lý, thuận lòng dân mà cải-cách
biến-đổi, thì chung-quy cũng có cái
nguyên-lý chung vậy. Trong nhân-sự nhỏ
như ăn mặc, đồ dùng, cư xử, thù-tạc, tính-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
463
tình, tập-tục, cái gì cũng khác nhau.
Nhưng mục-đích để cùng nhau tìm sự
yên-ổn, bảo-vệ lấy nhau, nuôi-dưỡng cho
nhau, cùng nhau làm khuôn phép chung,
điều ấy thì có sự giống nhau cả .
" Nhân đấy mà xét Thánh-nhân sở
dĩ có phép-tắc nhiệm-mầu, bao-quát
thông-quan và tinh-vi khúc-triết, nghĩa là
vừa nhìn sâu và rộng thì đại-khái đều
thuận với cái nguyên-lý tự-nhiên mà có
tu-sửa ít nhiều để thích-ứng. Người xưa
sáng-tạo ra, người sau noi theo, như thế
gọi là Cách vật, gọi là Trí tri. Bảo rằng
đầy đủ đầu mối của muôn lý mà thích-
ứng ra muôn sự việc là như thế. Chẳng
phải cái học cầu tìm phiếm tán ở những
kinh-nghiệm ngoại-giới mà không nghĩ
trở vào cầu tìm ở nơi tâm-hồn vậy. Bằng
như không thế mà lại phân-biệt vật nọ,
vật kia mà tìm xét từng vật một chi-li thì
chẳng hóa ra chịu sự thất-bại vì đường lối
NGUYỄN-TRÃI
464
ngoắt-ngoéo dễ lạc mất dê, một cây che
lấp mất cả rừng hay sao ? "
_ ( Lê-Quý-ôn " Vân Đài Loại Ngữ " tựa)
Trên đây, Lê-Quý-Đôn mà danh Nho
Trung-Hoa Chu-Bội-Liên xưng tụng
là " không thẹn với ông tổ hiền-triết miền
Nam " ( ) " Thánh mô
hiền phạm tự " ( ) đã cho
chúng ta thấy cái tinh-thần " Đồng qui nhi thù
đồ " của triết-lý truyền-thống :
" Tam giáo đông nguyên vạn pháp nhất lý "
( )
Cái triết-lý truyền-thống ấy có thể hiểu
một cách phổ-thông khái-yếu như sau :
Điều trọng-đại nhất của nhân-loại là điều
tiên-quyết sống còn. Vì sống còn nên mới có
những nhu-cầu thúc-đẩy tự trong tâm người ta,
trả lời cho những tác-dụng căn-bản của tâm-lý.
Như nhà Phật nói : " Tâm người ta có ba tác-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
465
dụng là Trí-thức, Tình-cảm và Ý-chí "
( ). Tác-dụng nào
cũng đòi hỏi thỏa-mãn nhu-cầu của mình, Trí-
thức thì cầu biết đến cùng, đấy là cầu chân-lý,
Tình-cảm thì cầu yêu cái đẹp đến tuyệt đẹp,
đấy là cầu Mỹ, Ý-chí thì cầu hành-vi lương-
thiện, đấy là cầu Thiện. Chân, Mỹ, Thiện là ba
đối-tượng của ba tác-dụng căn-bản bản-nhiên
của một sinh-tồn. Nhưng trước khi phân-hóa ra
ba tác-dụng, mỗi tác-dụng đi về một hướng tìm
cầu thỏa-mãn, thì Tâm vốn chỉ là một Tâm
thuần-nhất, một bản-thể chưa phân-biệt, hồn-
nhiên cùng với Trời Đất là một thể cho nên gọi
là cái Tâm Thiên Địa, hay là Tâm Chi Thể, như
Vương-Dương-Minh viết :
" Không thiện không ác là bản-thể của tâm
Có thiện có ác là hoạt-động của ý-chí
Biết thiện biết ác là cái biết có lương-tri
Làm thiện trừ ác là Cách vật " .
NGUYỄN-TRÃI
466
Chính cái Tâm Thể ấy là thực-tại tâm-linh
tuyệt-đối làm bản-thể chung cho thế-giới sự-
vật, cho đời sống hiện-sinh và cho tinh-thần
nhân-loại mà Siêu-hình-học truyền-thống lấy
làm thực-tại tối cao để thực-hiện, Luân-lý-học
và Mỹ-học truyền-thống lấy làm giá-trị tối cao.
Cái Tâm Thể ấy là bản-thể đại-đồng vừa tiềm-
tại trong không-gian và thời-gian, vừa siêu-việt
quá thời-gian, không-gian, cho nên Lê-Quý-
Đôn bảo là " Đồng qui nhi thù đồ " bao-quát
thống-quan và tinh-vi khúc-triết, tức là cái
" Đại phân số chung " ( Plus Grand Commun
Diviseur ) theo Aldous Huxley, của tất cả các
nền Thần-học :
" Người ta thấy manh-nha triết-lý
truyền-thống ấy ở trong sự hiểu-biết cổ-
truyền của các dân-tộc sơ-khai, và trình-
độ hoàn-bị trưởng-thành của nó ở tại các
tôn-giáo cao-đẳng. Một bản diễn-dịch cái
" Đại phân số chung " của tất cả các nền
Thần-học trước kia và về sau, thì lần đầu
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
467
tiên được thấy ghi chú cách nay hai mươi
lăm thế-kỷ ( 2.500 ). Và từ đấy về sau đề-
tài vô cùng phong-phú đã được nhắc đi
nhắc lại theo quan-điểm của mỗi truyền-
thống tín-ngưỡng và của tất cả nền ngôn-
ngữ chính-yếu của Châu-Á và Châu-Âu ".
_ ( La Philosophie Eternelle - ed. Plon
Paris 1949 )
Cái " Đại phân số chung " ấy chính là
nguồn chung hay đồng-nguyên của tất cả các
con đường cầu tìm chân-lý hay đạo-lý, cũng ví
như trăm ngàn giòng sông tự một nguồn chảy
ra, giòng thì chảy thẳng, giòng chảy quanh-co,
kết-cục đều chảy vào biển cả mà còn hòa-đồng
nước của nhau vào nước mặn của biển. Chân-lý
hay đạo-lý thật chỉ có một như nước biển, mà
các tôn-giáo, các tín-ngưỡng cũng ví như các
giòng nước từ nguồn chảy ra biển rồi lại từ
biển chảy về nguồn, như Thi-sĩ Tản-Đà đã hát :
" Nước đi ra biển lại mưa về nguồn " .
NGUYỄN-TRÃI
468
Hay là như vị Thánh sống Ấn-Độ-Giáo
Ramakrishna cuối thế-kỷ XIX đã truyền dạy
cho đệ-tử danh tiếng thế-giới Vivekananda cái
chân-lý huyền-diệu này là :
" Giữa các tôn-giáo của thế-giới
không có sự mâu-thuẫn hay chống-đối,
chúng chỉ là các phương-tiện khác nhau
của một tôn-giáo duy-nhất vĩnh-cửu. Cái
tôn-giáo duy-nhất vĩnh-cửu ấy ứng-dụng
vào các bình-diện hiện-sinh, nó ứng-dụng
vào ý-kiến của những tính-tình khác nhau
và chủng-tộc khác nhau. Không bao giờ
đã có " Tôn-giáo của tôi ", " Tôn-giáo của
anh ", " Quốc-giáo của tôi " hay " Quốc-
giáo của anh ", không bao giờ có nhiều
tôn-giáo, chỉ có một duy-nhất mà thôi.
Tôn-giáo vô-biên từ cổ lai đã có và sẽ còn
có mãi mãi, và cái tôn-giáo ấy biểu-diễn ở
các địa-phương khác nhau với cách-thức
khác nhau. Vậy nên chúng ta phải tôn-
trọng tất cả tôn-giáo và chúng ta phải cố-
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
469
gắng công-nhận lấy tất cả, được bao
nhiêu hay bấy nhiêu. Các tôn-giáo biểu-
diễn khác nhau không những tùy theo
chủng-tộc và vị-trí địa-lý, mà còn tùy
theo năng-khiếu của cá-nhân nữa. Ở
người này tôn-giáo biểu-diễn bằng hoạt-
động nồng-nhiệt, bằng việc làm. Ở người
khác, tôn-giáo biểu-diễn bằng một sự
sùng-tín nồng-nhiệt, ở một người khác
nữa bằng tinh-thần thần bí, ở chỗ khác
bằng triết-học v.v......"
_ ( Swami Vivekananda " Mon Maître "
Sư-phụ tôi )
_ ( Bản dịch ra tiếng Pháp của Jean
Herbert - 1942 )
Nhưng xét kỹ cái tín-ngưỡng nguyên-lai
ấy là một sự dung-thông hai dòng tín-ngưỡng
tối cổ của nhân-loại là khuynh-hướng sùng-bái
Tổ-tiên với khuynh-hướng sùng-bái Thiên-
nhiên. Hai khuynh-hướng ấy sở dĩ dung thông
được là vì cả hai đều có ý-nghĩa đáp-ứng nhu-
NGUYỄN-TRÃI
470
cầu của nhân-loại, muốn vượt quá giới-hạn của
thể-xác, đàng sau Thiên-nhiên còn Thần-linh
siêu-nhiên. Cái tin-ngưỡng siêu-nhiên ấy bắt
nguồn từ tục thờ Thần Đồng Cổ ở di-tích văn-
minh Đông-Sơn với tục sùng-bái Thiên-động ở
di-tích Cổ Mộ trên đất Thanh-Hóa và Bắc-
Ninh, trước thời-kỳ có Phật-giáo, Bà-La-Môn-
giáo, Khổng-giáo, Lão-giáo du-nhập vào đất
Giao-Châu, nơi chôn nhau cắt rốn của nòi Lạc
Việt. Các nhà Bác-học Âu-Tây có óc cảm-
thông với dân Việt-Nam như Linh-mục
Léopold Cadière hay như Alfred Meynard,
trường Viễn-Đông Bác Cổ, từng viết ở
" Đông-Dương Tạp-chí " ( Revue Indochinoise
- Mai 1928 ) :
" Ở dân-tộc Việt-Nam, mà tục-lệ
tôn-giáo đã pha-trộn và thâu-hóa Thần-bí
tâm-linh của Phật-giáo với chủ-nghĩa
Vật-linh ( magique ) của Lão-giáo vào
trình-độ chất-phác cố-hữu, thì một phần
hoạt-động và tư-tưởng đáng kể đã dành
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
471
cho phương-tiện vô-hình của Thiên-
nhiên. Đời sống hàng ngày của họ đã thêu
dệt bằng những đề-tài bí nhiệm là những
đề-tài chính-yếu. Vào dịp mùa xuân có rất
nhiều Hội-hè tượng-trưng cho những
quyền-năng Thần-linh hành-động trong
thế-giới ".
Và Linh-mục Léopold Cadière kết-luận
về tín-ngưỡng Việt-Nam :
" Có thể nói rằng người Việt-Nam
sống trong siêu-nhiên ..........
" Không có gì trong đời sống của
dân Việt-Nam thoát được ảnh-hưởng tôn-
giáo, tôn-giáo gặp người Việt-Nam ngay
từ lúc lọt lòng, dẫn đưa nó đến tận nhà
mồ và cả sau khi nó đã chết đi rồi vẫn còn
giữ nó trong vòng ảnh-hưởng. Khi người
ta nhìn thấy gốc rễ thâm sâu của Thần-
linh trong cõi siêu-nhiên ăn sâu vào tâm-
NGUYỄN-TRÃI
472
hồn người dân Việt như thế thì người ta
không thể không công-nhận dân-tộc này
có tín-ngưỡng thâm-trầm " .
_ ( Croyance et Pratique Religieuse des
Vietnamiens )
Cái tín-ngưỡng ấy là tín-ngưỡng siêu-
nhiên. Và trên nền-tảng siêu-nhiên cố-hữu ấy
đã kết-hợp ba đường-lối cầu tìm giải-đáp nhu-
cầu bản-nhiên của nhân-tính, ba tác-dụng
nguyên-thủy của cái tâm đồng-nguyên, do ba
giáo-lý chính của Á-Đông đại-diện. Ba giáo-lý
ấy đều là những đường cận-đạo, mỗi giáo-lý
cận-đạo một cách tùy theo ý-hướng sở-trường.
Đạo Phật sở-trường về tâm-lý tri-thức cho nên
hướng đến Chân như tuyệt-đối. Đạo Lão sở-
trường về tâm-lý nghệ-thuật cho nên hướng lên
Mỹ-cảm siêu-nhiên. Đạo Khổng Nho sở-trường
về hành-vi nhân-sinh cho nên hướng lên Chí-
thiện. Chân, Thiện, Mỹ nhìn ở quan-điểm
danh-lý cố-định thì khác biệt nhưng nhìn ở
quan-điểm tâm-lý thực-nghiệm thì bổ-túc cho
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
473
nhau vì chúng là ba quá-trình biện-chứng của
một Tâm Thể phát-hiện ra. Một nhân-bản toàn-
diện phải có cái tâm quân-bình, như Nguyễn-
Cư-Trinh đã cực tả bằng hai câu thơ trong vở
tuồng Sãi Vãi :
" Thành ư trung vị đắc hòa bình
Hình tại ngoại bất năng trung tiết " .
( Lòng thành-thực ở bên trong chưa đạt
được quân-bình .
Hình tướng ở bên ngoài không có thể
trúng tiết điệu ).
Cái Tâm quân-bình chỉ viên-mãn chừng
nào nó hợp được cả Thể ( Essence ) lẫn Dụng
( Existence ), hơp cả " trong " lẫn " ngoài ".
" Ngoài là lý song trong là tình "
_ ( Nguyễn-Du - Kiều )
NGUYỄN-TRÃI
474
Tức là đạo Trung Dung của Nguyễn-Trãi
thường nhắc nhở trong văn thơ :
" Làm người thì giữ đạo trung dung " .
Hay là :
" Bền đạo trung-dung chẳng thửa tàng
Màng chi phú quý nhọc khoe khoang ".
_ ( Quốc-Âm Thi-tập - Tự-Giới )
Vì Trung Dung nên hai chữ Nhân Nghĩa
ở Nguyễn-Trãi không rời nhau, mật-thiết với
nhau như đoàn-thể với cá-nhân, có đoàn-thể
chỉ-huy ắt phải có cá-nhân tự-do, bổn-phận xã-
hội với ý-chí tự-do như bóng với hình trong
quan-niệm Nhân Nghĩa của Nguyễn-Trãi, vì
chúng cũng như Tri và Hành biểu-hiện cho cái
Tâm Vô-tâm của nhà Thiền :
" Thơ đái tục hiềm câu đái tục,
Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm .
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy,
Năng mõ sơn tăng làm bạn ngâm " .
_ ( Quốc-Âm Thi-tập - Ngôn Chí )
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
475
Đấy là tinh-thần Tam-giáo của Nguyễn-
Trãi, lấy tâm Thiền là cái tâm Vô-tâm để cảm-
thông, để thương yêu cởi mở như Ông đã dạy
con :
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc Trời .
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ .
Thương người ôm dắt trẻ thơ;
Thương người tuổi tác già nua bần hàn .
Thương người quan quả cô đơn,
Thương người lỡ bước lầm than kêu đường .
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn .
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà .
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên .
May ta ở chốn bình yên,
Còn người tàn phế chẳng nên cầm lòng .
Tiếng rằng ngày đói tháng đông,
NGUYỄN-TRÃI
476
Thương người bớt miệng, bớt lòng mà cho .
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng .
Của là muôn sự của chung,
Sống không thác lại tay không có gì .
Ở sao cho có nhân nghì ."
_ ( Gia Huấn Ca )
Đấy là Nhân Nghĩa tâm-linh khai-phóng
của xã-hội mở cửa mà cận-đại ở miền cực Nam
Việt-Nam, một lớp người Sĩ từ Võ-Trường-
Toản, Võ-Tánh, Ngô-Tùng-Châu, Phan-Thanh-
Giản đến ông thày học điển-hình Đồ-Chiểu đã
tiếp-nối sợi dây truyền-thống của dân-tộc,
phối-hợp Đời với Đạo, Nhân-tước với Thiên-
tước, giá-trị thiên-nhiên với siêu-nhiên :
" Đạo Tiên cũng ở trong hàng đạo Nho,
Đạo Tiên theo việc nhàn du .
Dạo chơi non nước chẳng cần công danh,
Đạo Nho lo việc kinh dinh .
Giúp trong nhà nước được minh cương thường,
NGUYÊN-ĐĂNG-THỤC
477
Tiên xưa ở chốn thi đường .
Một câu Nho-giáo lòng càng chẳng quên,
Muốn theo Tiên đạo cho bền .
Phải tùng Nho đạo mới nên phận mình,
Hai người đều khá hồi trình .
Đạo nào làm phải mặc tình rắp theo ."
_ ( Nguyễn-Đình-Chiểu - Dương Từ Hà Mậu )
Dân-tộc Việt-Nam ngày nay ở giữa
Đông-Nam-Á là khu-vực văn-hóa giao-lưu sẵn
có trong truyền-thống cái tư-tưởng Nhân Nghĩa
khai-phóng của Nguyễn-Trãi tưởng rất bổ-ích
cho giới trí-thức lãnh-đạo phản tỉnh vậy .
%%%%%%%%%%%%%