Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
TRUYỀN - THỐNG
THIỀN
TỪ HUỆ - NĂNG
ĐẾN TRẦN-THÁI-TÔNG
&
TỪ VÔ - NIỆM
ĐẾN VÔ - TÂM
[ Ghi-chú : Toàn bộ chữ Nho in trong sách
là thủ bút của tác-giả ghi trong di cảo ]
Phụ-trách Ấn-loát : Nguyễn-Kim-Ánh
Copyright © Nguyễn-Kim-Ánh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
MỤC - LỤC
A/_ TÍN-NGƯỠNG THỰC-NGHIỆM TÂM-LINH …….1
B/_ TRIẾT-LÝ BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT………………...9
C/_ THIỀN-HỌC TÂM VÔ-NIỆM
* Huệ-Năng Phản-Đối Thái-Độ Tịch - Tĩnh ……...39
* Vô-Niệm Và Niệm - Niệm ……………………….69
* Thực-Hiện Tự-Tính Vô-Niệm …………………..105
D/_ TỪ VÔ-NIỆM CỦA HUỆ-NĂNG
ĐẾN VÔ-TÂM CỦA TRẦN-THÁI-TÔNG …...141
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
TÍN-NGƯỠNG
THỰC-NGHIỆM TÂM-LINH
Kể lại cuộc đời hành đạo của một Đạo-sĩ
Ấn trứ-danh ở nước Pháp gần đây, Jacques
Linde trong bài nhan-đề " Un Maître de
Sagesse en Occident " _ ( N. Asie, n° 137
tháng 10 năm 1957 ) có đoạn :
" S'entretenant un jour avec un jeune
Vietnamien, ce dernier déplora la dé-
cadence spirituelle de son pays.
“ Comment, repartit le Swami, vous avez
dans votre tradition les stances de Hui-
Neng et vous cherchez la Vérité
ailleurs ! ” "
_ p. 317
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
2
( Một hôm tiếp chuyện một thanh-
niên Việt-Nam, người thanh-niên Việt ấy
than phiền về sự suy-đồi tinh-thần của xứ
sở. Đạo-sĩ đáp : " Sao, các anh có trong
truyền-thống của các anh những câu thơ
của Huệ-Năng mà các anh lại đi tìm
Chân-lý ở đâu xa ! " ) .
Đạo-sĩ ấy là Swami Siddheswarânanda
thuộc dòng Ramakrishna-Vivekananda là hai
tinh-thần cách-mệnh tôn-giáo ở Ấn-Độ hiện-
đại, đã thực-nghiệm lại những chân-lý truyền-
thống Veda, phục-hưng lại nguồn tâm-linh cổ-
truyền để tìm lấy năng-lực sáng-tạo trong việc
thâu-hóa các giá-trị văn-hóa Âu-Tây khoa-học
cũng như tôn-giáo .
Đạo-sĩ được mời sang Pháp để giảng về
triết-học Ấn-Độ theo truyền-thống Vedanta, và
đã mất ở trên đất Pháp, tại tỉnh Gretz _
Armainvilliers, (77220) ngày 2 - 4 - 1957, đúng
như lời giới-thiệu của Jacques Linde : " Đạo-sĩ
đã tận-tụy suốt đời để khai mở cho người ta
bản-tính chân-thật của họ, cố-gắng phá bỏ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
những thành-trì phân-chia họ với nhau, và cầu
chỉ cho họ những bước đường để họ vươn lên
hiểu-biết. Đúng như lời tiên-tri của Đạo-sĩ
Vivekananda, Đạo-sĩ đặt cơ-sở cho " Đại-học
Nhân-loại " ( l'Université de l'Homme ), nó sẽ
tập-hợp các bác-học của tất cả các bộ-môn.
Không có sự ganh-tị lẫn nhau, một lòng theo
đuổi một mục-đích chung sẽ làm cho Đại-học
ấy là nơi " gập-gỡ giữa người với người " .
Câu trả lời cho thanh-niên Việt trên đây
quả đã phản-chiếu cái tinh-thần tôn-giáo đại-
đồng của Đạo-sĩ, không tìm truyền-bá tín-
ngưỡng của mình, không tìm mua linh-hồn của
người đến học-hỏi mà cố trả tâm-hồn ấy về
truyền-thống của họ, đấy mới thực là tinh-thần
Tam-giáo như ở Việt-Nam đã biểu-hiện, đứng
hẳn ra ngoài các hệ-thống, các Đạo để mà
thông-cảm với Chân-lý duy-nhất không có
giới-hạn thời-gian hay không-gian. Đạo-sĩ đã
bảo cho thanh-niên Việt-Nam nào trên kia cái
sự thật phũ-phàng : " Bụt chùa nhà không
thiêng, cầu Thích-Ca ngoài đường " của
phương-ngôn Việt-Nam đã nói. Đạo-sĩ đã bảo
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
4
cho thanh-niên Việt-Nam hãy trở về phục-hưng
lại truyền-thống của mình đi, ôn lại bài học của
tiền-nhân, trước khi vội tìm thâu-hóa, bắt-
chước người. Và trong cái tư-tưởng truyền-
thống Việt-Nam, có cái tín-ngưỡng thực-
nghiệm của Thiền-tông mà Huệ-Năng là vị Tổ
của Nam-phương Thiền-học vậy .
Mở đầu bài " Tựa Thiền-Tông Chỉ Nam "
Trần-Thái-Tông chẳng đã viết :
" Trẫm thiết vị Phật vô Nam Bắc
quân khả tú cầu, tính hữu trí ngu đồng tư
giác ngộ. Thị dĩ dụ quần mê chi phương
tiện, minh sinh tử chi tiệp kính giả, ngã
Phật chi đại giáo dã. Nhậm thùy thế chi
quyền hành, tác tương lai chi quĩ phạm
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
giả, tiên Thánh chi trọng trách dã. Cố
Lục Tổ hữu ngôn vân :“ Tiên đại Thánh
nhân dữ đại sư vô biệt, tắc tri ngã Phật
chi giáo hựu giả tiên thánh nhân dĩ
truyền ư thế dã ” " .
_ ( " Thiền-Tông Chỉ-Nam ", Trần-Thái-
Tông )
( Ta trộm bảo rằng Phật là Chân-lý
tuyệt-đối không có chia ra phương Nam,
phương Bắc, ai nấy đều có thể tu sửa để
cầu tìm thấy được. Tính người ta sinh ra
có người thông-minh, có người ngu-độn,
nhưng hết thảy đều tư-bẩm cái khả-năng
giác-ngộ. Bởi thế cho nên giáo-lý chính-
đại của Đức Phật ta là phương-tiện để dạy
bảo quần-chúng u-mê, con đường tắt để
soi tỏ việc sống, chết. Trách-nhiệm trọng-
yếu của Thánh-nhân là đi trước cầm mực-
thước cho đời, vạch lối gương-mẫu cho
tương-lai. Cho nên Lục-Tổ Thiền-tông
Huệ-Năng mới nói : " Bậc Thánh lớn đi
trước với các Thiền-sư lớn không khác
nhau, thì biết rằng giáo-lý của Phật ta lại
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
6
phải mượn tay Thánh-nhân tiên-phong để
truyền vào đời vậy " ) .
Đấy là Trần-Thái-Tông đã hiểu Thiền-học
của Lục-Tổ Huệ-Năng như là một Tín-ngưỡng
Tâm-linh Thực-nghiệm dùng làm nguyên-lý
cơ-bản sâu rộng để tập-đại-thành hay là tổng-
hợp các tôn-giáo và triết-học, như là truyền-
thống hành-động nhân-sinh nhập-thế của Nho-
giáo bên Á-Đông với truyền-thống trí-thức
siêu-hình xuất-thế của Phật-giáo và Đạo-giáo,
đúng như lý-tưởng của Nguyễn-Công-Trứ sau
này đã tuyên-bố :
" Hành tàng bất nhị kỳ quan "
( Con đường hành-động vào đời với
con đường tiềm-tàng xuất-thế không phải
hai quan-điểm ).
Không phải là hai quan-điểm vì Hành và
Tàng, Nhập-thế vào đời và Xuất-thế về đạo
không phải là hai hệ-thống trí-thức danh-lý
đóng cửa mà chỉ là hai con đường thực-hiện,
hai thái-độ sống luôn luôn khai-triển đến cái ý-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
thức toàn-diện đại-đồng, tức là cái " Tâm vô
niệm " ( ) của Huệ-Năng hay là như
Trần-Thái-Tông viết :
" Nhân vị minh vọng phân tam giáo, liễu
đắc để đồng ngộ nhất tâm "
( Người chưa sáng-tỏ thì lầm phân-biệt có
ba giáo Nho, Lão, Phật, hễ hiểu thấu
nguồn-gốc thì cùng giác-ngộ một tâm ) .
Đấy là nguyên-lý tổng-hợp tập-đại-thành
của triết-học Huệ-Năng hay Trần-Thái-Tông
vậy. Cả hai đều lấy Kinh Kim-Cương làm
khởi-điểm hay trọng-tâm. Huệ-Năng nghe thấy
câu : ( ) " Ứng vô sở trụ
nhi sinh kỳ tâm " thì bừng tỉnh, bỏ Đời để
xuất-gia tìm Đạo. Thái-Tông cũng đọc đến câu
ấy mà khoát nhiên tự ngộ. Vậy trước hết chúng
ta hãy tìm hiểu cái triết-lý trong Kinh " Kim-
Cương " " Bát-Nhã Ba-La-Mật " ( Vajra -
Prajña - Paramita ) .
*************
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
TRIẾT - LÝ
BÁT - NHÃ BA - LA - MẬT
( Prajña - Paramita )
Sách Bát-nhã Ba-la-mật gán cho Long-
Thọ ( Nagarjuna ) một triết-gia, hơn nữa một
hiền-triết Ấn sinh-trưởng khoảng thế-kỷ thứ II
sau T.C. Đây là một bộ sách căn-bản về triết-
lý Đại-thừa, gồm những lời vấn-đáp giữa Đức
Phật và Cao-đệ Sá-Lị-Tử ( Sariputra ). Lời chú
coi như linh-thiêng " Gaté, gaté, paramgaté,
parasamgaté Bodhi Swha " liên-hệ mật-thiết
với Prajñapâramitâ, được coi như toát-yếu đề-
tài của bộ Kinh, có nghĩa là : " Cái Biết ( Bồ-
Đề ) đã vượt, vượt lên trên, và lên trên cái bên
trên ; kính bái ! " Người Tầu dịch âm là :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
10
" Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, Bồ Đề Tát Bà Ha ! "
A.David-Neel và Lama Yonden dịch và
bình-luận lời chú theo tinh-thần Phật-giáo Tây-
Tạng như sau :
" Connaissance ( Bodhi ) qui est allée,
allée par-delà et au-delà du par-delà ; A
toi salut ! "
_ ( La Connaissance Transcendante _
Adyar -- Paris )
Tuy nhiên bản dịch của Tây-Tạng về
danh-từ Prâjña-paramita ngụ một ý-nghĩa rất
khác là " không phải một cái Biết đi vào một
cõi siêu-việt mà là một sự vượt lên trên cái
Biết " .
Câu phù-chú ấy là kết-luận cho cả một
bài Kinh khúc-triết đến tối nghĩa mà Tầu dịch
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
là Tâm Kinh của Phật-giáo Đại-thừa " Prajñâ-
pâramitâ-hidaya-sutra " nghĩa đen là " Kinh về
bí-quyết của trí-tuệ hoàn-toàn ở Bến bên kia ".
Theo bản Tây-Tạng Kinh này mở đầu có thêm
đoạn sau đây :
" Bái lạy Prajñapâramitâ, ở trên lời
nói, ý-nghĩ, khen-ngợi, mà tự-tính ví như
hư-không, không sinh, không diệt. Đấy là
trạng-thái của Tuệ và Đức hiển-nhiên
cho ý-thức nội-tại của chúng ta và là Đức
Mẹ của tất cả chư Phật quá-khứ, hiện-tại
và vị-lai ".
Đoạn chính của đoạn Kinh toát-yếu rất
phổ-thông để tụng-niệm như sau :
" Quán Tự Tại Bồ-Tát, hành thâm
Bát-Nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến
ngũ uẩn giai không(độ nhất thiết khổ ách)
" Xá-Lỵ-Tử ! Sắc bất dị không,
không bất dị sắc ; Sắc tức thị không,
không tức thị sắc. Thụ, tưởng, hành, thức,
diệc, phục như thị .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
12
" Xá-Lỵ-Tử ! Thị chư pháp không
tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh,
bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô
sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn,
nhĩ, tị, thiệt, thân, ý. Vô sắc, thanh,
hương, vị, súc, pháp. Vô nhãn-giới, nãi
chí, vô ý-thức giới. Vô vô minh, diệc vô
vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão
tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc
vô đắc, dĩ vô sở đắc cố !
" Bồ đề tát đóa y Bát-Nhã Ba-la-
mật-đa cố. Tâm vô quải ngại, vô quải
ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-Bàn.
Tam-thế chư Phật y Bát-Nha Ba-la-mật-
đa cố. Đắc A-nậu đa-la tam-diểu tam Bồ-
đề .
" Cố tri Bát-Nhã Ba-la-mật-đa, thị
đại Thần chú, thị đại minh chú, thị vô
thường chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng
trừ nhất thiết khổ, chân thiệt bất hư .
" Cố thuyết Bát-Nhã Ba-la-mật-đa
chú, tức thuyết chú viết :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
" Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la
tăng yết đế, Bồ Đề Tát bà ha ! "
( Khi Bồ-Đề Quán-Tự-Tại
( Avalokitesvara = Quan-Âm ) đang
thực-nghiệm trong cái ý-thức Bát-Nhã
thâm sâu, Ngài thấy tỏ rõ năm Uẩn
( Sắc : hình, tướng ; Thụ : cảm-giác ;
Tưởng : ý-nghĩ ; Hành : tạo tác ; Thức :
ý-thức ) đều không có tự-thể mà là hư-
không .
( Này Xá-Lị-Tử, ở đây hình-tướng
đều hư-không mà hư-không cũng là sắc-
tướng. Sắc-tướng không khác gì hư-
không, hư-không không khác gì hình-
tướng. Cái gì là sắc-tướng cái ấy là hư-
không, cái gì là hư-không, cái ấy là sắc-
tướng. Cảm-thụ, suy-tưởng, tạo-tác, ý-
thức cũng thế cả .
( Này Xá-Lị-Tử, đấy là cái tướng
hư-không của mọi vật, không có sinh ra
không bị diệt đi, không có nhiễm dơ
không có tinh khiết, không tăng tiến
không suy giảm .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
14
( Vậy nên, trong hư-không thì
không có hình-tướng, cảm-thụ, suy-
tưởng, tạo-tác, ý-thức ; không có mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân-thể, ý-tưởng ; không có
mầu, tiếng, hương, vị, cảm-xúc, vật-thể ;
không có giới-hạn của mắt cho đến không
có giới-hạn của ý-thức ; không có vô-
minh cũng không có hết vô-minh, cho
đến không có già chết cũng không có hết
già chết, không có khổ-đế, tập-đế, diệt-đế,
đạo-đế ; không có tri-thức, không có
được cái chi, vì cớ không có cái chi để
được. Trong tinh-thần của Bồ-Tát nhập
vào sâu thực-nghiệm Bát-Nhã Ba-la-mật-
đa, thì không còn trở-ngại vì hết trở-ngại,
không còn sợ-hãi, xa lánh nghiêng-ngả,
mộng-tưởng, đến cứu-cánh viên-mãn
Niết-bàn. Các Phật ở quá-khứ, hiện-tại,
vị-lai suốt ba thế nương vào Bát-Nhã Ba-
la-mật-đa ấy đều đạt tới chính-giác, tối
cao, hoàn-toàn .
( Cho nên nói chú Bát-Nhã Ba-la-
mật-đa tức là đọc :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
( " Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-
la-tăng yết-đế, Bồ-Đề tát-bà-ha ! " = Bồ-
Đề ! Đi, đi, đi sang bến kia, lên đến bến
kia, Svaha ! )
Trên đây là bài tụng toát-yếu cả một
giáo-lý Đại-thừa trình-bày trong một vạn câu
thơ của bộ Đại-Bát-Nhã ( Maha-Prajña-
pâramitâ ) của ( Nagarjuna ) Long-Thọ Bồ-
Tát. Hay là đúng hơn thì bài tụng trên đây là
kết-luận của một vị Bồ-Tát đã rút ra sau khi
nghiên-cứu học-tập bộ Đại-Bát-Nhã .
Nó là một tràng những lời khẳng-định vũ-
đoán chẳng có lý-luận chi hết. Đấy là những lời
tuyên-bố của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm về thực-
nghiệm thâm-sâu với ý-thức giác-ngộ hay là
Bát-Nhã, có vẻ hết sức phi-lý của thế-giới bên
kia mà trí-thức phổ-thông của thế-giới bên này
không thể hiểu được. Thực-chất, chân diện-
mục của cái Chân-lý mà Bồ-Tát Quán-thế-Âm
đã thấy trong khi " hành thâm Bát-Nhã Ba-la-
mật-đa " thì có thể là, khi vừa mới xuất ra, như
người mới ngủ dạy, lấy ngôn-ngữ danh-từ khéo
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
16
gợi ra được, nhưng nó không cho phép phân-
tích biện-biệt. Đấy là con đường " diệu hạnh ",
con đường hành-động của Bồ-Tát, không phải
con đường trí-thức tư-biện của triết-gia .
" Bồ-Đề tát-đóa y Bát-Nhã Ba-la-
mật-đa cố. Tâm vô quải ngại, vô quải
ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo, mộng tưởng, cứu cánh, Niết-bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát-Nhã Ba-la-mật-
đa cố, đắc A-nậu đa-la tam diểu tam Bồ-
Đề ! "
( Bồ-Tát vì nương vào " Trí-
tuệ bên kia " nên tâm hết trở-ngại về tư-
tưởng. Đã không có trở-ngại về tư-tưởng
thì cũng hết cả sợ-hãi, y đã xa rời tinh-
thần nghiêng-ngả, mơ-mộng hão-huyền,
nhập vào cảnh-giới Niết-bàn vĩnh-cửu.
Tất cả các Phật quá-khứ, hiện-tại, vị-lai
nương-tựa vào " Trí-tuệ bên kia ", đều
giác-ngộ chính-giác, toàn-diện, hoàn-hảo,
tuyệt-đối ) .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
Tín-đồ Bát-Nhã phải vượt lên trên cái
Biết năng-tri ( sujet connaissant ) và sở-đắc
( objet de connaissance ) tìm biến-đổi, siêu-hóa
thân tâm không ngừng để đến được giác-ngộ "
Trí-tuệ bên kia " ( Prajñapâramitâ ) nghĩa là
vượt lên trên cái Biết của trí-thức danh-lý. Nó
phải đi vào quá-trình tiến-hóa cho chí một
trình-độ tinh-thần có thể hiểu được ý-nghĩa bí-
mật của bài tụng Tâm Kinh trên đây. Cái quá-
trình siêu-hóa ấy nhờ vào sự tụng-niệm bài chú
huyền-nhiệm, hình như gọi đến một năng-lực
ma-thuật vậy. Mục-đích sự tụng-niệm ấy chỉ là
để tập-trung tinh-thần, tăng sức tín-ngưỡng.
Bởi thế mà Bồ-đề, vốn là một ý-thức siêu-việt,
đã trở nên một cá-thể để cầu-nguyện. Lời cầu-
nguyện ấy lại là một tràng phủ-định tất cả thế-
giới hình-danh sắc-tướng ( nama - rupa ) mà
trọng-tâm là phủ-định cái Ngã ở thân, ở khẩu, ở
ý. Do đấy mà dần dần nó phá chấp ở ba bình-
diện với tất cả lòng nhiệt-thành tin-tưởng, nhờ
đấy mà tâm thân tín-đồ biến-đổi, siêu-hóa. Sự
biến-đổi, siêu-hóa tâm thân chính là lý-do tồn-
tại và là bản-thể của " Trí-tuệ bên kia "
( Prajñapâramitâ ). Cái " Trí-tuệ bên kia "
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
18
( Prajñapâramitâ ) hay là Trí-tuệ siêu-nhiên,
đức Mẫu Bồ-Đề ấy phải thực-hiện bằng cả một
quá-trình biện-chứng phủ-định, không phải ở
danh-lý mà là ở ý-thức, cho nên gọi là
" Không " ( Sunyata ) .
Danh-từ " Không " tạm dùng để chỉ-định
cho một thực-nghiệm thuần-túy về cái Thực-tại
tối-cao mà Đức Phật Thích-Ca cho là bất-khả
tư-nghị vì ở trên cả khẳng-định có và phủ-định
không có. Theo Long-Thọ Bồ-tát ( Nagarjuna )
ở Trung-quán-luận ( Madhyamika Castra ) ch.
14, viết : " Giáo-lý của Buddha thuộc về hai
loại Chân-lý, Chân-lý tương-đối ( Tục-đế ) và
Chân-lý tuyệt-đối siêu-đẳng ( Chân-đế ) " . Và
Nagarjuna giải-thích về cái thực-nghiệm thuần-
túy bất-khả tư-nghị của Phật, gọi là Chân-đế
ấy, so với cái thực-nghiệm thông-thường gọi là
Tục-đế như sau :
" Mắt không thấy, tinh-thần không
nghĩ tới, đấy là Chân-lý tối-cao, cái Chân-
lý mà người ta không vào được. Đấy là
cảnh-giới người ta " khoát nhiên đại ngộ "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
thấy toàn-diện tất cả vật-thể, thì Phật
mệnh danh là cứu-cánh ( Paramartha ),
tuyệt-đối, Chân-lý không thể lấy lời nói
bảo cho biết được " .
Và Nagarjuna đã dùng biện-chứng Bát-
Nhã để thực-hiện, gọi là " Không " :
" Çûnyam iti na vaktavyam
Açûnyam iti vâ bhavet,
Ubhayam nobhayam ceti,
Prajñâptyartham tu kathyate " .
( Không thể gọi cái ấy là Không hay
không phải Không,
Không phải cái này cái kia đồng
thời,
Không phải một trong hai cái,
Nhưng để cho biết cái ấy, thì gọi là
Không ) .
Đấy là cách chỉ-định tiêu-cực về " cứu-
cánh, mục-đích tối-cao " siêu-nhiên, trái với
cách chỉ-định tích-cực của Nagarjuna. Cái
luận-lý biện-chứng táo-bạo ở suốt trong các
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
20
câu Kinh " Bát-Nhã Ba-la-mật-đa " ( Prajñâ-
pâramitâ ) hay Kim-Cương ( Vajracchedikâ )
đã đem vào một không-khí hỷ-sả lạ-lùng, thực
cao-siêu .
" Bồ-Tát ư pháp ưng vô sở trụ, hành
ư bố thí .
" Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ
thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.
" Tu Bồ-Đề ! Bồ-Tát ưng như thị bố
thí, bất trụ ư tướng !
" Hà dĩ cố ?
" Nhược Bồ-Tát bất trụ tướng bố
thí, kỳ phúc đức bất khả tư lượng " .
_ ( Kinh Bát-Nhã Kim-Cương )
( Bồ-tát theo tinh-thần của đạo-pháp
làm việc bố-thí không có chấp vào chỗ
nào.
( Là nói : chẳng chấp vào hình-
tướng mà bố-thí, không chấp vào âm-
thanh, hương-vị, cảm-xúc, giáo-lý mà bố-
thí .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
( Bởi vì nếu Bồ-Tát không chấp vào
hình-tướng mà bố-thí thì phúc-đức lớn
không sao lường được ) .
Bởi vì thực-thể tối-cao tuyệt-đối đã là
" Không ", tức là không phải hiện-tượng lệ-
thuộc, nhân-duyên có, cho nên còn chấp vào
cái gì tương-đối có, tức là không hoàn-toàn
giải-thoát. Huệ-Năng giải rằng : " Bố-thí mà
cái tâm không trụ tướng, chẳng chấp là có bố-
thí, chẳng thấy có vật bố-thí, chẳng phân-biệt
có người được bố-thí, cho nên nói bố-thí không
chấp tướng " .
Trong " Không " ( Sunyata ) đã không
có chi là hình-danh sắc-tướng, không hiện-
tượng, không nhân-duyên, không năng-tri,
không sở-tri, vốn là thực-tại siêu-nhiên tuyệt-
đối vô-hạn. Cái gì vô-hạn thì không thể diễn-tả
bằng cái gì thuộc về hữu-hạn, cho nên chỉ phải
phủ-định, phủ-định hoài bằng cả một thái-độ
sống, bằng hành-động phủ-định cũng như bằng
lý-thuyết, bằng cả thân, khẩu, ý . Đấy là biện-
chứng Trung-Quán của triết-lý " Không ", biện-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
22
chứng thực-hiện hơn là biện-chứng danh-lý
như ở Hégel : " Trung-Quán ( Madhyamika )
có một biện-chứng-pháp ( Dialectic ) khác để
giải-quyết mâu-thuẫn của lý-tính. Nó vượt lên
trên tất cả mâu-thuẫn vì nó từ-chối hết cả hệ-
thống trí-thức về thực-tại sinh-thành linh-động,
nó không thừa-nhận cho lý-tính ( raison ) có
khả-năng bao-hàm toàn-thể thực-tại vì thực-tại
toàn-diện, tuyệt-đối, siêu-nhiên, siêu-việt cả tư-
tưởng duy-lý. Phản-đối tất cả quan-điểm triết-
học, Trung-Quán không dựa vào một lập-
trường nào khác tích-cực, hay thừa-nhận một
quan-điểm nào khác về vũ-trụ. Nó chỉ căn-cứ
vào mâu-thuẫn nội-tại ngụ ở mỗi quan-điểm.
Tác-dụng của biện-chứng-pháp Trung-Quán,
trên bình-diện luận-lý, thì hoàn-toàn tiêu-cực,
hoàn-toàn phủ-định .
Người ta có thể nhìn vấn-đề ở bốn quan-
điểm khác nhau, hai quan-điểm căn-bản là
khẳng-định và phủ-định, có và không, phải và
trái, thị và phi. Rồi đến hai quan-điểm phụ là
vừa khẳng-định vừa phủ-định, vừa có vừa
không, vừa thị vừa phi và vừa không khẳng-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
định chẳng phải phủ-định vừa chẳng thị chẳng
phi. Lấy dấu-hiệu thì :
1/ + Cộng
2/ Trừ
3/ + và Vừa Cộng - Trừ
4/ (+ và ) Không Cộng - Trừ
+ Cộng khẳng-định, hay Trừ phủ-định không
thể thu vào một mối được vì là hai mặt phải và
trái của một cái thuẫn vốn trái nghịch nhau.
Nếu phải cũng là trái và trái cũng là phải thì
không còn là cái thuẫn nữa mà mệnh-đề khởi-
điểm không còn có vấn-đề nữa vậy. Ví như
thái-độ của Phật trả lời câu hỏi thế-giới này có
thật hay không có thật, thì Ngài không khẳng-
định cũng không phủ-định, vì thế-giới này chỉ
tương-đối có thật mà thôi. Không có gì tự tại
có, tất cả đều liên-hệ với nhau mà có, và cuối
cùng là liên-hệ với cái ý-thức của người nhận-
thức mà có hay không .
Lại ví dụ như lý nhân-quả, chúng ta phải
phân-biệt ra nhân khác với quả, đồng thời cũng
có liên-hệ giữa chúng với nhau. Liên-hệ ấy
không thể là đồng-nhất hoàn-toàn, vì như thế
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
24
thì hết nhân và quả. Nhưng chúng cũng không
thể hoàn-toàn khác nhau, độc-lập vì như thế thì
không có liên-hệ chi nữa. Nagarjuna bảo không
có vật nào có thể thành-lập như có thật mà
người ta không thể quan-niệm vừa là đồng-nhất
vừa là sai-biệt. Ngài biện-luận về liên-hệ giữa
một người với xúc-động của y, nhận thấy rằng
chúng chẳng là cái gì về toàn-thể hay đặc-thù.
Không có thể chứng-minh cá-thể có một, riêng-
biệt hay cả Thể lẫn Dụng được. Không có tư-
ngã ngoài tác-dụng của tâm-trạng, hay tâm-
trạng ngoài tư-ngã để thống-nhất. Chúng cũng
chẳng là cái gì về toàn-thể cả. Lửa không phải
dầu, sự cháy không phải chất cháy, nhưng dầu
cũng không rời được khỏi lửa vì không dầu thì
không lửa, không chất cháy thì hết sự cháy.
Tóm lại, bản-thể hay Thể ( = essence ) lệ-
thuộc vào tác-dụng hay Dụng ( = existence ),
Dụng cũng lệ-thuộc vào Thể, Thể, Dụng hỗ-
tương mà có. Mọi vật đều phải hiểu như là vừa
Thể vừa Dụng, không sao tách Thể khỏi Dụng
được, cũng như bộ-phận với toàn-thể. Chúng
đã tương-quan với nhau mà có thì chúng không
phải có thật tuyệt-đối .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
Liên-hệ hay tương-quan, nhân-duyên,
phải là hỗ-tương giữa tác-dụng khác nhau, trái-
nghịch với nhau. Coi như tương-quan tức là cái
nọ lệ-thuộc vào cái kia, thì phải đi đến sự đồng-
nhất cái nọ với cái kia. Nhưng đã tương-quan,
tương-liên giữa hai vật thì lại phải phân-biệt
chúng với nhau. Như thế thì người ta không thể
có được liên-hệ tương-quan giữa những cá-thể
đồng-nhất với nhau, hay cái nọ khác hẳn với
cái kia. Vậy nhân và quả, thể và dụng, bộ-phận
và toàn-thể, chủ và khách, tâm và vật… đều chỉ
là tương-đối mà có chứ không có như vật tự-
thân được. Cái gì đã tưong-đối có thì không
phải có thật. Những phạm-trù ( catégorie ) đều
là những phương-tiện vô kể mà lý-trí dùng để
thâu tóm thực-tại, vốn tuyệt-đối, có thật, không
thể thu vào phạm-trù danh-lý để biến thành vật
tương-đối. Lý-trí như thế đã giả-tạo. Sự thực
không một hiện-tượng, một đối-tượng
( objet ) của trí-thức nào có thể vượt khỏi vòng
tương-đối đại-đồng .
Tương-đối hay hỗ-tương quan-hệ, nhân
duyên sinh khởi là dấu-hiệu của tuồng ảo-hóa
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
26
nửa thực nửa hư. Đối với Hégel thì tương-đối-
tính bản-nhiên của sự-vật luôn luôn biến-động,
vô-thường, là yếu-tính biện-chứng của lý-trí
( Raison ) hành-động với tính-chất mâu-thuẫn
trái-nghịch. Đấy là dấu-hiệu của Thực-tại theo
Hégel, vì Hégel không ra khỏi phạm-vi của lý-
tính. Quan-niệm về Thực-tại của ông chẳng đã
ngụ cả trong câu nói :
( Tout ce qui est Réel est rationnel, et
tout ce qui est Rationnel est réel )
= " Tất cả cái gì có thật đều hợp-lý, và tất
cả cái gì hợp-lý đều là thật tại " .
Đối với Đại-thừa Trung-quán-luận
( Madhyamita ) thì tương-quan, lệ-thuộc vào
điều-kiện là thiếu thể-tính nội-tại. Tattva =
Réel = Thật-tại = Chân-như là cái gì tự nó có
thật, tự-tại, tự-tồn, độc-lập. Lý-trí hiểu sự-vật
qua sự phân-biệt và liên-hệ là một nguyên-lý
giả-tạo vì nó bóp méo sự thật, che phủ Chân-
diện-mục của thực-tại. Chỉ có tuyệt-đối là thật
vì không lệ-thuộc, vô điều-kiện mà có, bởi thế
mà không có thể quan-niệm là Hữu ( Bhava )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
hay Vô ( Abhava ) hay vừa Hữu vừa Vô, nghĩa
là không thể đối-tượng-hóa với tâm-thức được .
Trên đây là đại-khái biện-chứng-pháp của
Kinh Kim-Cương Bát-Nhã, cũng như ở Tâm-
Kinh, nó là biện-chứng-pháp thực-hiện chứ
không phải biện-chứng-pháp danh-lý ( Concept
logique ). Cho nên chúng ta thấy cái luận-điệu
ấy được nhắc đi nhắc lại như nói :
" Thị cố bất ứng thư pháp, bất ứng
thư phi pháp.
" Dĩ thị nghĩa cố, Như-Lai thường
thuyết như đẳng tỳ-khưu tri ngã thuyết
pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng
xả, hà huống phi pháp " .
_ ( Kim-Cương )
( Như thế thì chẳng nên chấp vào
pháp, cũng chẳng nên chấp vào phi-pháp.
( Bởi cái nghĩa ấy nên Như-Lai
thường dạy các thày tỳ-khưu phải biết :
"Ta nói về pháp ví như cái bè để chở sang
sông, đến bến thì bỏ lại bè ". Pháp còn
phải bỏ đi huống chi là phi-pháp ) .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
28
Bởi vì Prâjñapâramita không phải lý-
thuyết của các hệ-thống trí-thức, mà là những
độ đường dẫn đến bên trên cái biết thông-
thường năng-tri và sở-tri. Nó chỉ cho ta một
chiều-hướng của tư-tưởng, chiều-hướng vượt
lên trên cả khẳng-định và phủ-định của tư-
tưởng la-tập ( logique ) duy-lý .
" Tu-Bồ-Đề ! Phật thuyết Bát-Nhã
Ba-la-mật tức phi Bá-Nhã Ba-la-mật, thị
danh Bát-Nhã Ba-la-mật " .
( Này Tu-Bồ-Đề ! Phật nói Bát-Nhã
Ba-la-mật chẳng phải Bát Nhã Ba-la-mật,
ấy gọi tên là Bát-Nhã Ba-la-mật ) .
Cũng như Lão-Tử nói về cái Đạo Vĩnh-
cửu thường còn ( permanent):
" Danh khả danh phi thường Danh
Đạo khả đạo phi thường Đạo " .
_ ( Lão-Tử )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
( Cái tên thật đã có thể gọi ra được
thì không còn là cái tên còn mãi.
Cái Đạo thật đã thuyết ra rồi thì
không phải cái Đạo không thay đổi, bất-
biến vĩnh-cửu ) .
Bởi thế mà Đức Phật đối với vấn-đề lý-
thuyết Có hay Không đã giữ thái-độ yên-lặng,
cũng như Lão-Tử chủ-trương ( )
" Bất ngôn chi giáo " nghĩa là giáo-lý không
nói .
Tuy nhiên không nói, nhưng không phải
là bảo " Bất khả tri " ( Agnostique ) mà bảo là
có cái Biết cao hơn cái Biết của lý-trí đối-đãi
năng-tri và sở-tri, đấy là vượt lên đến nguồn-
gốc bản-thể của cái Biết, tức là đến Giác-ngộ .
" Tu-Bồ-đề ! Như vật vị Như-Lai tác
thị niệm :“ Ngã dương hữu sở thuyết-
pháp !” Mạc tác thị niệm, Hà dĩ cố ?
Nhược nhân ngôn Như-Lai hữu sở thuyết
pháp, tức vi báng Phật, bất năng giải Ngã
sở thuyết cố.
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
30
" Tu-Bồ-Đề ! Thuyết pháp giả vô
pháp khả thuyết thị danh thuyết pháp ! "
_ ( Kim-Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh )
(Này Tu-Bồ-Đề ! Anh chớ bảo Như-
Lai có cái ý-niệm này : " Ta nên thuyết-
pháp ! " Chớ tưởng như thế. Vì sao ?
Nếu có người nói Như-Lai có thuyết-pháp
ấy là nói xấu Phật, không có thể hiểu ý-
nghĩa ta nói.
( Này Tu-Bồ-Đề ! Thuyết pháp đấy,
không có pháp có thể thuyết, thế gọi là
thuyết-pháp ) .
Vì cái Pháp của Phật là Không (Sunyata)
nghĩa là không phải hiện-tượng nhân-duyên mà
là tuyệt-đối siêu lên trên, cho nên phải đi, đi, đi
lên, tiến tới bên kia mà sang bến giác chứ
không phải bên này trong phạm-vi hình-danh
sắc-tướng. Tuy không phải hình-danh sắc-
tướng nhưng hình-danh sắc-tướng cũng do đấy
mà ra cho nên khẳng-định cũng không phải
hẳn, phủ-định cũng không sai hẳn, nhưng là
vừa khẳng-định vừa phủ-định, vừa Có vừa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
Không để vượt lên, tiến tới giác-ngộ, một cảnh-
giới sáng chiếu của ý-thức tổng-hợp toàn-diện
viên-dung, hợp-nhất cả năng sở, chủ khách, nội
ngoại, mà sách " Trung-Dung " của Nho-gia
viết :
" Hợp ngoại nội chi đạo thời thố chi nghi"
( Hợp cả chân-lý khách-quan và chủ-
quan, lúc nào thái-độ cũng thích-đáng ) .
Đấy cũng chính là mô-tả cái tâm-trạng
không còn hình ảnh đối-tượng mà Lục-Tổ Huệ-
Năng gọi là ( ) " Tâm vô niệm ", và
Kinh Kim-Cương đã toát-yếu tất cả triết-lý
hành-động của Bồ-Tát :
" Ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm "
( Nẩy sinh ra cái ý-thức không hạn-
định vào đâu ).
Như thế là đến cái tâm không chấp, vì
không còn ảo-vọng nữa, không cầu mà hành-
động, không vì phúc-đức mà bố-thí .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
32
" Bồ-Tát sở tác phúc đức bất ưng
tham trước, thị cố thuyết bất thụ
phúc đức " .
( Bồ-Tát làm phúc đức chẳng nên
tham chấp cho nên mới nói là chẳng chịu
nhận lấy phúc đức ) .
_ ( Kinh Kim-Cương )
Đấy là làm việc với cái tâm Vô-cầu, Vô-
sở-trụ hay là Vô-Niệm. Nhưng như thế thì có
cái gì làm động-cơ cho hành-động ?
Hành-động ấy là bản-nhiên của Như-Lai,
cho nên Bồ-Tát lấy làm lý-tưởng, vì tâm của
Bồ-Tát đồng-nhất với Như-Lai, không có lai,
có khứ, theo quan-điểm của chúng-sinh. Cho
nên Thế-Tôn định-nghĩa hai chữ Như-Lai trong
" Bát-Nhã Kim-Cương " như sau :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
" Nhược hữu nhân ngôn Như-Lai, nhược
lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa,
thị nhân bất giả ngã sở thuyết nghĩa.
" Hà dĩ cố ? Như-Lai giả vô sở tòng lai,
diệc vô sở khứ, cố danh Như-Lai " .
( Nếu có người nói : Như-Lai hoặc tới,
hoặc lui, hoặc ngồi, hoặc nằm, thì người
ấy chẳng rõ cái nghĩa của ta nói.
( Vì cớ sao ? Như-Lai ấy là không phải
từ đâu mà tới, cũng không phải từ đâu mà
lui, nên gọi là Như-Lai ) .
Vì " Như-Lai " là bản-thể vũ-trụ vừa
nội-tại vừa siêu-nhiên, " Phật tức tâm "
( ) chính là cái tâm sinh-thành ở bình-
diện siêu-nhiên là bình-diện không có ngưng
định vào đâu, trên điều-kiện thời-gian và
không-gian, cho nên vô-cầu mà hành-động
sinh-thành, nghĩa là không có động-cơ theo
bình-diện tương-đối chúng-sinh. Đấy là quan-
điểm siêu-nhiên, không còn chấp trước vào
hiện-tượng hữu-hạn, bản-nhiên sáng-hóa sinh-
thành .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
34
" Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyền
bào ảnh.
Như lộ diệc như diện, ưng tác như thị
quan " .
( Những hiện-tượng tương-đối, như
chiêm-bao, bọt nước.
Như sương sa, như chớp, nên nhìn thế
giới sự-vật như thế ) .
Đấy là sau khi đã đạt tới cái ý-thức Như-
Lai, đã khai-phóng tự-tính Bồ-Đề theo biện-
chứng Bát-Nhã trực-giác, " đi sang bên kia tri-
thức " ( Prâjñâpâramitâ = trí tuệ đáo bỉ ngạn =
cái Biết sáng-lạn đến bờ bên kia ).
Tóm lại triết-lý bao-trùm trong Kinh
Kim-Cương Bát-Nhã là cái biện-chứng-pháp
thực-hiện tâm-không : Vô-Ngã, vô-nhân, vô-
chúng-sinh, vô-thọ-giả của " Tứ cú kệ "
( ) ( Có, Không, vừa Có vừa Không, vừa
chẳng Có chẳng Không ).Tức như Lục-Tổ giải:
" Ngã nhân chóng dứt, vọng tưởng mau trừ ".
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
Đấy là cốt-tủy của Kinh Kim-Cương vậy.
Hành-động vô-cầu " không động-cơ hay là đi
lên, đi sang bên kia " ; " Ứng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm " ( ) hay là " Bát-Nhã
Ba-la-mật-đa " ( Prâjñaparamitâ ) , không phải
không có định-hướng chắc-chắn mà phiêu-lưu
sờ-soạng trong đêm tối đâu. Lúc nào hình-ảnh
Hoa Sen cũng hiện-diện trong tinh-thần nhà
Phật-học với ý-nghĩa tượng-trưng cho cái thực-
thể Phật-tính vừa siêu-nhiên vừa hiện-sinh, tự
nó linh-động đàng sau hai phương-diện biểu-
hiện là luân-hồi và tịch-diệt " Samsara và
Nirvana ", Vô-minh ( Avidya ) và Minh
( Vidya ), như Nagarjuna ( Long-Thọ ) viết :
" L'Illuminé n'est prisonnier ni de
l'être ni du non-être.
" La Saint est soustrait à tous les
contraires " . _ ( Nagarjuna )
( Người giác-ngộ không chấp-trước
vào " Sắc " ( Hữu-thể ) hay " Không "
( Vô-hữu ).
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
36
( Bậc Thánh vượt khỏi tất cả mâu-
thuẫn tương-phản ) .
" Nếu sự khích-động về ánh-sáng
không tiềm-tàng ở tại cái mầm chìm sâu
vào trong bùn đất đen tối thì không bao
giờ Hoa Sen hướng ra ánh-sáng được.
Nếu ngay trong Vô-minh hoàn-toàn,
trong đáy sâu thẳm nhất của mê-vọng
không có dục-cầu ý-thức, tri-giác mãnh-
liệt tiềm-tàng thì bao giờ mà Giác-ngộ có
thể từ trong đêm tối luân-hồi xuất-hiện ra
được ?
" Mầm Giác-ngộ từ vô-thủy, vô-
chung đã sẵn chứa trong thế-giới và theo
truyền-thống được các Tông Phật-giáo và
chính lời Phật dạy công-nhận, thì cũng
như các bậc Chính-giác đã xuất-hiện ở
quá-khứ, cũng thế mà hiện-tại các bậc
Chính-giác xuất-hiện, và tương-lai cũng
sẽ có các bậc Chính-giác xuất-hiện, một
khi có điều-kiện thiết-yếu và đầy đủ. Vì
thế mà Phật lịch-sử chỉ là một đốt trong
vòng liên-tục vô-hạn các đấng Chính-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
giác, chứ không phải là một xuất-hiện
độc-nhất và đặc-biệt " .
_ ( theo Lama Anagaika Gonda trong
" Mystique Tibétaine "_ ed.Albin Michel)
Đấy là ý-nghĩa Phật-giáo Đại-thừa theo
triết-lý " Kim-Cương " mà bình-dân Việt-Nam
đã phổ-biến bằng hình-ảnh tượng-trưng Hoa-
Sen : " gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn "
của Bồ-Tát " không chấp mà bố-thí ", " hành-
động vô-cầu ", " giác ngộ sang bến kia " vậy .
Đấy là một hình-thức, một đường lối
thực-hiện cái cơ-bản " đồng-nhất-thể " đại-
đồng chung của " truyền-thống " ( tradition )
Đông-Phương, tức là Tự-Tính " Nguyên thủy
phản chung " ( ) hay là " Vô thủy vô
chung " ( ) là thực-tại tuyệt-đối vừa
nôi-tại vừa siêu-nhiên " Phật tức tâm tâm tức
Phật " ( ).
********
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
THIỀN-HỌC
TÂM VÔ-NIỆM
* HUỆ-NĂNG Phản-Đối Thái-Độ Tịch -Tĩnh._
Khuynh-hướng Thiền-học của Huệ-Năng
tỏ ngay ở bài kệ của mình đối với bài của
Thần-Tú. Thần-Tú trình công-phu tu-luyện của
mình lên cho Sư-phụ Hoằng-Nhẫn :
" Thân thị Bồ-Đề thụ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai ."
_ ( Thần-Tú )
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
40
( Thân-thể là cây Bồ-Đề
Tâm-thức như đài gương sáng
Luôn luôn chuyên-cần lau chùi
Chớ để cho bụi trần bám ) .
Huệ-Năng cũng muốn trình lên Sư-phụ
Hoằng-Nhẫn bài kệ :
" Bồ-Đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai ".
_ ( Huệ-Năng )
( Bồ-Đề vốn không có cây
Gương sáng cũng chẳng phải đài
Bản lai vốn không có vật
Vào đâu để bụi trần bám ? )
Ở đây trọng-tâm của câu : " Bản lai vô
nhất vật " đã biểu-lộ tinh-thần Thiền phương
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
Nam của Huệ-Năng đối-lập với tinh-thần Thiền
phương Bắc của Thần-Tú. Cả hai đều là cao-đệ
của một Thày là Hoằng-Nhẫn. Giáo-lý của
Hoằng-Nhẫn có thể hàm-ngụ cả hai khuynh-
hướng mâu-thuẫn trên đây. Theo lời kệ trên
đây thì Thần-Tú tin có Bồ-Đề và cái Tâm như
một đối-tượng để quan-sát và giữ-gìn khỏi mờ
bụi, luôn luôn lau chùi. Nhưng nếu Tâm bản-lai
vốn sáng thì làm sao phải lau chùi, và ai lau
chùi ? Đấy là quan-điểm trí-thức của Nhị-
Nguyên, ví như sau này thời nhà Tống khuynh-
hướng Lý-học của Chu-Hy giải-thích chữ
" Cách Vật " ( ) ở sách Đại-Học là ( Đến
Vật ), đem Tâm ý-thức đến sự-vật bên ngoài.
Như thế là Thần-Tú coi Phật-tính như cây Bồ-
Đề, như một đối-tượng, để quán-tưởng, thành
ra có hai Tâm, Tâm Phật bản-lai thanh-tĩnh với
Tâm mình nhiễm-ố phải luôn luôn lau chùi,
luôn luôn phải " Tĩnh-tâm " ( ) để " Kiến
tính " ( ) thành Phật .
Như Huệ-Năng với lời tuyên-bố quả-
quyết rằng : " Bản lai vô nhất vật " ( Khởi kỳ
thùy vốn không có vật ). Như thế cũng tương-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
42
tự như Lục-Tượng-Sơn và Vương-Dương-
Minh sau này phản-đối " Cách vật " là
" Chí vật ", mà hiểu là " Chính vật ", nghĩa là
( làm cho vật ngay chính ), vì trước sau phái
Tâm-học tin chỉ có một Tâm, không có hai
Tâm như phái Lý-học tin có Đạo-tâm và Nhân-
tâm riêng biệt. Với Huệ-Năng đây cũng thế,
chủ-trương " Bất nhị pháp " ( Không hai pháp )
vì " Bản lai vô nhất vật " thì khởi thủy vốn là
Không ( Sunnyata ). Nhưng " Không " chẳng
phải một đối-tượng như kẻ " chấp không " hay
chấp vào cái ý-niệm " tĩnh ", như nói " khán
tĩnh " ( ) hay thấy tính , " kiến tính "
( ). Sự thực " tĩnh " hay " tính " không
phải là một đối-tượng để người ta thấy, mà là
" tự kiến " ( ), có nghĩa là ( Sunnyata ),
vô-vật, vô-niệm, phá chấp, phá đến không còn
cái chi là " tĩnh ", là " tính ", là " không ",
nghĩa là không còn gì là đối-tượng cho Tâm
quán-tưởng. Tuy Huệ-Năng có nói " tĩnh tâm "
( ) " tọa thiền " ( ) nhưng không
phải chấp tâm, chấp tĩnh mà bất-động :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
" Thủ môn tọa thiền, nguyên bất
khán tâm, diệc bất khán tịnh, diệc bất thị
bất động . _ Diệu Hạnh phẩm, đệ ngũ " .
( Môn ngồi Thiền này, vốn không
coi vào tâm, cũng không để ý vào tịnh,
cũng không phải là không hoạt-động ) .
Và Thiền-sư giảng tại sao :
" Nhược ngôn khán Tâm. Tâm
nguyên thị vọng, tri Tâm như huyễn, cố
vô sở khán dã. Nhược ngôn khán Tịnh,
nhân Tính bổn Tịnh, do vọng niệm cố,
phú cái Chân Như. Dãn vô vọng tưởng,
Tánh tự thanh tịnh. Khởi Tâm khán Tịnh,
khước sinh Tịnh vọng. Vọng vô xứ sở,
khán giả thị vọng. Tịnh vô hình tướng,
khước lập Tịnh tướng ngôn thị công phu.
Tác thử kiến giả, chương tự bản Tính,
khước bị Tịnh phọc " .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
44
( Nếu nói là coi xem Tâm, thì Tâm
nguyên là vọng, biết Tâm như trò giả-dối,
cho nên không có gì mà coi xem vậy. Nếu
nói là coi xét Tịnh, thì Tính người ta vốn
Tịnh, chỉ bởi vọng niệm che lấp Chân-
như. Vậy chỉ cứ không vọng tưởng thì
Tánh tự nhiên thanh tịnh. Khởi Tâm coi
xem Tịnh liền sinh ra Tính mê-vọng vào
Tịnh. Điều vọng thì không có xứ sở, kẻ
coi xem cũng là vọng. Tịnh thì không có
hình tướng lại đi lập ra hình tướng Tịnh
mà bảo là công-phu. Sự thấy biết như thế,
che lấp mất cái bản Tính của mình, bị cái
tướng Tịnh kia nó trói buộc ) .
Đấy quan-điểm " Thiền " của Huệ-Năng,
phá chấp đến triệt-để để thực-nghiệm " Tự
kiến bản tính " ( ), cái bản tính ấy
" Bản lai vô nhất vật " ( ), thì chỉ là
" Kiến " ở trong cái Không, tức là cái Sunnyata.
Và cái " Kiến " ấy là sự minh chiếu thế-giới
sự-vật đa nguyên với ánh-sáng Bát-Nhã
( Prajna ). Và Bát-Nhã đã trở nên đề-tài chính
trong Đàn Kinh của Lục-Tổ Huệ-Năng, bắt đầu
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
một khuynh-hướng mới trong lịch-sử tư-tưởng
Thiền kể từ thời Bồ-Đề Đạt-Ma. Kể từ đầu
lịch-sử Thiền-học, trọng-tâm đặt vào Phật-tính
hay là Tự-tính bản-nhiên ở chúng-sinh và
hoàn-toàn thanh-tịnh. Đấy là giáo-lý của Kinh
Niết-Bàn ( Nirvana-Sutra ) và các tín-đồ Thiền-
Tông từ Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma vẫn tin theo. Huệ-
Năng dĩ-nhiên cũng là một trong những tín-đồ
ấy, vì theo lời của Sư thưa lại Ngũ-Tổ Hoằng-
Nhẫn thì Sư tin có sự đồng-nhất giữa Phật-tính
với bản-tính chúng-sinh, không phân-biệt
chủng-tộc là Mán hay Hoa. Như thế thì không
phải Sư chỉ mới biết có Kinh Kim-Cương
( Vajracchedika ), Bát-Nhã ( Tuệ ) là một trong
ba đạo-lý Phật : Giới ( Sila ), Định ( Dhyana )
và Tuệ ( Prajna ) :
Giới là thi-hành lời Phật dạy đệ-tử để
bảo-vệ lấy tinh-thần ; Định là định-niệm để
tập-luyện cho tinh-thần mỗi người giữ được
yên-tĩnh không vọng động, vì chừng nào tinh-
thần chưa kiểm-soát tự-chủ bằng định-niệm thì
trì giới một cách máy móc không ích lợi gì hết,
bởi thế mà Giới thực-tế có nghĩa là để giữ được
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
46
bình-tĩnh trong tinh-thần ; Tuệ là năng-lực
tham-thấu vào bản-tính của mỗi người cũng
như chính Chân-lý đã trực-giác thấy. Một Phật-
tử cần tuân theo thực-hành cả ba điều trên đây.
Nhưng sau khi Đức Phật nhập-tịch rồi, ba giáo-
lý trên tách rời thành ba môn học-tập. Hạng
người chuyên trì-giới trở nên Giáo Luật
( Vinaya ) ; Đạo-sĩ Yoga về Thiền-định thì
chuyên về nhập-định Tam-muội ( Samadhi ),
và cũng đạt được những quyền-năng thần-
thông như tiên-tri, thấu-thị v.v… Hạng chuyên
về đường Bát-Nhã ( Tuệ ) trở nên Trí-giả, biện-
thuyết. Cái học phiến-diện ấy về Tam-Tạng
( Kinh Luật Luận --- Giới - Định - Tuệ ) đã
phân giới Phật-học ra hai khuynh-hướng, đàng
đi về Định, đàng đi về Tuệ (Dhyana và Prajna).
Sự chia rẽ ấy càng ngày càng trầm-trọng
và con đường Bát-Nhã được quan-niệm như là
thực-hiện linh-động về Chân-lý, con đường
Dhyana trở nên tĩnh-tọa. Thế rồi từ tĩnh-tọa,
Dhyana biến thành xuất-thế, quên đời, ra hẳn
ngoài nhân-quần xã-hội, và Bát-Nhã biến thành
trí-thức biện-thuyết với những khái-niệm trừu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
tượng. Kịp đến Huệ-Năng, mới lại nêu lên vấn-
đề hỏi xem Bát-Nhã ( Tuệ ) có thể dời Dhyana
( Định ) được không ? Xem bài kệ của Thần-Tú
trên kia, thì Thần-Tú có khuynh-hướng tĩnh-tọa
để luôn luôn quét bụi trên tấm gương sáng của
Tâm, còn Huệ-Năng có khuynh-hướng nối liền
Định với Tuệ :
" Định Tuệ nhất-thể, bất thị nhị.
Định thị Tuệ thể, Tuệ thị Định dụng, tức
Tuệ chi thời Định tại Tuệ, tức Định chi
thời Tuệ tại Định. Nhược thức thử nghĩa
tức thị Định Tuệ đẳng học, mạc ngôn tiên
Định phát Tuệ, tiên Tuệ phát Định các
biệt. Tác thử kiến giả, pháp hữu nhị
tướng " .
_ (Định Tuệ phẩm )
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
48
( Định với Tuệ là một thể, chẳng
phải hai. Định là bản-thể của Tuệ, Tuệ là
công-dụng của Định. Đang lúc Tuệ thì
Định ở Tuệ, đang lúc Định thì Tuệ ở tại
Định. Nếu biết nghĩa ấy thì cái học Định,
Tuệ ngang nhau, đồng đều. Các người
học Đạo chớ nói trước là Định rồi mới
phát ra Tuệ hay là Tuệ trước rồi mới phát
ra Định, cái nọ khác cái kia. Kiến giải
như thế là cho pháp có hai tướng ) .
Có thể nói rằng đối với Huệ-Năng thì
Thiền-học là để thực-nghiệm cái ý-thức nhất-trí
từ tiềm-thức qua ý-thức cảm-nghĩ đến siêu-
thức hay thần-thức đồng-nhất-thể với Phật-tính
Giác. Ở mỗi bình-diện đều có cả Giới, Định,
Tuệ ở trình-độ khai-triển khác nhau. Tâm-thể
với Tâm-dụng không rời được nhau, đều là hai
phương-diện hỗ-tương của một Tự-tính bất-khả
tư-nghị tức là Chân-Không ( Sunyata ). Bởi thế
nên Tọa-Thiền là để thực-hiện cái ý-thức nhất-
quán Thể và Dụng. Sư viết về Tọa-Thiền :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
" Thế nào là Tọa Thiền ? Trong
pháp-môn này không chướng, không
ngại, bề ngoài đối với hết thảy cảnh-giới
thiện, ác, không nổi lên tâm niệm, ý-nghĩ
thì gọi là Tọa ( ngồi ). Bề trong thấy Tự
tánh không vọng-động, rối-loạn thì gọi là
Thiền .
" Thế nào là Thiền-Định ? Ở ngoài
dời khỏi hình tướng là Thiền. Ở trong
không rối-loạn là Định. Ở ngoài nếu chấp
vào hình tướng, trong tâm liền loạn. Ở
ngoài mà dời hết hình tướng, tâm liền hết
loạn. Bản-tính tự nó tịnh, tự nó Định, chỉ
vì thấy cảnh mà nghĩ về cảnh thì liền
loạn. Nếu thấy các cảnh mà tâm không
loạn, đấy mới thực là Định vậy .
" Ngoài dời hình tướng tức là Thiền.
Trong không rối-loạn tức là Định. Ngoài
Thiền, trong Định ấy là Thiền Định " .
_ (Tọa-Thiền )
Quan-niệm Thiền trên đây của Huệ-Năng
như thế đủ thấy khác với quan-niệm truyền-
thống của Tiểu-Thừa hay Đại-Thừa. Thiền
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
50
( Dhyana ) không còn là nghê-thuật làm cho
tinh-thần yên-lặng, ngõ hầu bản-thể nội-tại của
nó trong sáng có thể xuất-hiện. Thiền của Huệ-
Năng không phải sản-phẩm của tinh-thần hay
Tâm lưỡng-nguyên. Công-phu cầu tới ánh-sáng
bằng cách đánh tan bóng tối, lau chùi Tâm như
lau chùi gương cho sạch bụi mờ, đấy là quan-
niệm lưỡng-nguyên, thì không cho người ta
hiểu chính-xác Tâm là gì. Cũng chẳng phải
tiêu-diệt Tâm đi là Thiền. Bởi thế mà Huệ-
Năng đồng-nhất Định với Tuệ như trên đây, hai
vật hỗ-tương quan-hệ nhau mà có. Nhìn Định
một cách phiến-diện như các Thiền-Sư trước
đây chỉ đưa đến tịch tĩnh và tiêu-diệt .
" Thiền Sư Trí-Hoàng, khi mới tham
lễ Ngũ-Tổ, tự cho mình đã đạt được chính
thụ Thiền-học, ngồi hoài ở trong am luôn
hai chục năm, đệ-tử của Sư-Tổ là Huyền-
Sách đi du-hành đến đất Hà-Bắc, nghe
danh Hoàng, bèn tới am hỏi rằng :
_ Người ở đây làm gì ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
" Hoàng đáp :
_ Nhập định !
" Sách nói :
_ Người nói nhập-định là có cái
Tâm nhập hay là không có Tâm nhập.
Nếu là không có Tâm nhập thì hết thảy
các vật vô tình như cỏ, cây, gạch, đá nên
được nhập-định. Nếu có Tâm nhập, thì
hết thảy các giống hữu tình có tâm-thức
cũng nên được nhập-định .
" Hoàng nói :
_ Đang lúc ta nhập-định chẳng
thấy có Tâm có hay không có nữa !
" Sách nói :
_ Chẳng thấy Tâm Hữu, Vô tức là
thường-định, còn làm gì có xuất với nhập
nữa ? Nếu còn có xuất, nhập thì không
phải đại-định .
" Hoàng không trả lời được. Hồi lâu
Hoàng hỏi :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
52
_ Thầy nói Đạo của ai thế ?
" Sách nói :
_ Thày tôi là Lục-Tổ ở Tào-Khê .
" Hoàng hỏi :
_ Lục-Tổ cho thế nào là Thiền-
định ?
" Sách nói :
_ Thày tôi dạy thuyết mầu-nhiệm,
sâu lặng, viên mãn, im bặt, bản-thể và
tác-dụng như như. Năm âm vốn không,
sáu trần chẳng có, không xuất không
nhập, chẳng định chẳng loạn. Tính Thiền
không trụ, phải lìa cái ý trụ vào cảnh
Thiền Tịch. Tính Thiền không sinh, phải
lìa ý-tưởng sinh vào Thiền Tâm ví như
Hư-Không, cũng không có độ-lượng Hư-
Không .
" Hoàng nghe được thuyết ấy, đi
liền ngay tới tham yết Tổ. Tổ hỏi :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
_ Nhân giả ở đâu lại ?
" Hoàng thuật lại nhân-duyên trên.
Tổ nói :
_ Đúng như lời nói. ( Người cứ để
cái Tâm như Hư-Không mà không chấp
vào chỗ thấy như Hư-Không, thì ứng-
dụng không trở-ngại, động tĩnh vô-tâm,
quên tính phàm, thánh đi, năng sở đều
mất, tính tướng như như, không lúc nào là
chẳng định vậy )
" Hoàng từ đấy đại-ngộ, thở dài :
_ Hai mươi năm ngồi không ý-
nghĩa ! "
_ ( Pháp Bảo Đàn Kinh )
Đấy là Huệ-Năng phản-đối khuynh-
hướng Thiền-học từ trước đến nay chỉ ham
" tĩnh tọa ", ngồi một chỗ để quan-tâm, lo lau
chùi " minh kính ", phân-biệt " Thể " với
" Dụng ", " Tính " với " Tâm ", Định " với
" Tuệ ", tĩnh với động lưỡng-nguyên đối-đãi.
Thực ra Tính với Tâm, Thể với Dụng nhất-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
54
quán một khí lưu-thông, đấy là Tự-tính, như
Huệ-Năng bảo cho học-trò của Thần-Tú là Chí-
Thành :
Huệ-Năng hỏi :
_ Thày của anh ( Thần-Tú ) dạy bảo
thế nào ?
_Thày tôi thường dạy chúng tôi rằng :
" Trụ tâm quán tĩnh, trường tọa bất
ngọa "
( Ngưng Tâm xem tĩnh, ngồi hoài
không nằm )
Huệ-Năng nói :
_ Ngưng Tâm xem Tĩnh, đó là bệnh
chẳng phải là Thiền. Ngồi mãi buộc mình
đối với nguyên-lý có ích gì. Hãy nghe bài
kệ của ta :
" Sinh lại tọa bất ngọa
Tử khứ ngọa bất tọa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
Nguyên thị xú cốt đầu
Hà vi lập công khóa ?"
( Lúc sống ngồi không nằm
Lúc chết nằm chẳng ngồi
Vốn là bộ xương thối
Lập công khóa gì thôi .)
Huệ-Năng lại hỏi :
_ Ta nghe nói thày anh dạy đệ-tử
phép Giới, Định, Tuệ, chẳng hay thày anh
nói về hành tướng Giới, Định, Tuệ thế
nào, anh nói ta nghe .
Chí-Thành bạch :
_ Đại-sư Thần-Tú nói : " Đừng làm
mọi việc ác đó là Giới, tuân theo mọi điều
thiện là Tuệ, tự giữ cái ý cho thanh-tĩnh
đó là Định .
Huệ-Năng nói :
_ Giới, Định, Tuệ của thày anh là
Pháp để tiếp-dẫn người tới Đại-Thừa, còn
Giới, Định, Tuệ của ta là Pháp để tiếp-dẫn
người ta tới Thượng-Thừa cao nhất. Tỏ
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
56
ngộ không giống nhau, sự thấy có mau
chậm Pháp của ta nói không dời Tự-Tính.
Dời Thể thuyết-pháp thì gọi là
thuyết về tướng mà thường mê Tự-Tính.
Nên biết hết thảy muôn Pháp đều theo
Tự-Tính mà nổi lên động-tác, ấy là pháp
Giới, Định, Tuệ chân-thật. Nghe bài kệ :
" Tâm địa vô phi Tự Tính Giới
Tâm địa vô si Tự Tính Tuệ
Tâm địa vô loạn Tự Tính Định
Bất tăng bất giảm Tự Kim Cương
Thân khứ thân lai bản Tam Muội ".
( Tâm địa không sai, Tự-Tính Giới
Tâm địa không mê, Tự-Tính Tuệ
Tâm địa không loạn, Tự tính Định
Không thêm không bớt, tự Kim-
Cương
Thân đi thân đến, vốn Tam-Muội ) .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
Lục-Tổ lại nói :
" Nếu giác-ngộ Tự-Tính cũng chẳng
đặt ra Bồ-Đề, Niết-bàn cũng chẳng đặt ra
Giải-thoát tri-kiến. Không một Pháp nào
có thể lấy được, mới hay xây-dựng được
muôn Pháp. Nếu hiểu rõ ý ấy cũng gọi là
Pháp-Thân, cũng gọi là Bồ-Đề, Niết-bàn,
cũng gọi là Giải-thoát tri-kiến. Người
thấy Tự-Tánh đứng một chỗ cũng đạt
được, chẳng đứng một chỗ cũng đạt được,
đi lại tự-do, không mắc không vướng.
Thích-ứng với công-dụng mà làm, ứng
theo lời hỏi mà đáp, thấy khắp cả hóa-
thân, chẳng dời Tự-Tính, liền được Tự-
Tại Thần-thông, Từ-bi Tam-muội, thế gọi
là thấy Tự-Tính " .
_ ( Phẩm Đốn Tiệm )
Trên đây là những mẩu vấn-đáp cho ta
hiểu rõ hơn quan-điểm Thiền tối Thượng-thừa
của Lục-Tổ Huệ-Năng, là quan-điểm Tâm-linh
Tuyệt-đối. Cái Tuyệt-đối ấy là Tự-Tính luôn
luôn biến-hóa thần-thông như mặt-trời với ánh-
nắng, ánh-nắng không dời với mặt-trời, có mặt-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
58
trời là có ánh-nắng. Ánh-nắng với mặt-trời
không phải là hai vật, mặc dầu sức nóng có
khác nhau. Chữ Tính ở lối diễn-tả tượng-hình
thì hội ý chữ Tâm ( ) với chữ Sinh ( ) .
Tâm là ý-thức, là biết và Sinh là sống, hoạt-
động, sáng-tạo. Ở đâu có sống là có biết, như
ngọn cây tự biết hướng ra ánh mặt-trời chứ
không chịu tự giam trong bóng tối. Vậy Tính là
một năng-lực bao-trùm tất cả tạo-vật, là
nguyên-lý sinh-hoạt vật-lý cũng như sinh-lý và
tinh-thần. Thân-thể, vật-thể cũng như tinh-thần
( tình-cảm, lý-trí và ý-chí ) hoạt-động có Tính
làm bản-thể bên trong tất cả. Tính là một thực-
tại linh-động làm bản-thể cho thế-giới hiện-
tượng của siêu-hình-học công-nhận, làm cái
đồng-nhất-thể với vũ-trụ ở trong tâm-hồn cá-
nhân của tâm-lý-học, làm tiêu-chuẩn giá-trị lý-
tưởng, ý-nghĩa cứu-cánh của nhân-sinh hành-vi
ở chỗ giác-ngộ hiểu-biết cái cơ-bản nội-tại
siêu-nhiên của tất cả hiện-hữu. Chính nó là cái
nguồn sống tuần-hoàn của nhân-dân nông-
nghiệp đã cảm-thông ở các Hội-Mùa, trước khi
được giới trí-thức mệnh-danh cho là Tính. Cho
nên Tính ấy không phải là một khái-niệm danh-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
lý tiên-nghiệm, mà là một hiện-thực có thể
thực-nghiệm được. Chính cái ấy mà Huệ-Năng
trong Đàn Kinh gọi là Tự-Tính, Tự-Tâm .
Tự-Tính là tự biết, vừa Thể vừa Dụng,
vừa có vừa biết, vì tự-biết nên có :
" Thế nhân chung nhật khẩu niệm
Bát-Nhã, bất thức Tự-Tính Bát-Nhã " .
( Người đời suốt ngày miệng niệm
Bát-Nhã, chẳng biết Tự-Tính là Bát-Nhã )
" Bản tính tự hữu Bát-Nhã chi trí, tự
dụng trí tuệ thường quan chiếu cố, bất
giả văn tự " .
( Bản-tính tự có cái biết Bát-Nhã.
Bởi vì tự mình dùng trí-tuệ quán-tưởng
soi xét luôn luôn, cho nên không mượn
đến văn-tự ngôn-ngữ danh-lý ) .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
60
Về trí-thức danh-lý khái-niệm ( concept
logique ) thì ở triết-học Đại-Thừa vốn có ba
khái-niệm của các học-giả dùng để giải-thích
quan-hệ giữa bản-thể và tác-dụng của nó : Thể
( ) , Tướng ( ) , Dụng ( ) như ở Đại-
Thừa Khởi-Tín-Luận của Mã-Minh ( Asva-
ghosha ). Thể là thực-tính của một vật, Tướng
là hình-trạng thuộc về thế-giới cảm-giác, Dụng
là tất cả công-dụng, giá-trị, tác-dụng. Một vật
thật phải đủ cả ba khái-niệm : Thể, Tướng,
Dụng. Đem những khái-niệm danh-lý áp-dụng
vào Thiền " Tối Thượng-Thừa " của Huệ-Năng
thì Tự-Tính là Thể mà Bát-Nhã ( trí-tuệ ) là
Dụng. Tự-Tính ở đây không thuộc về thế-giới
hình-tướng nên không có Tướng, chỉ có Thể,
Dụng trực-tiếp quan-hệ. Vì có Phật-tính để
đem lại cho thế-giới Phật, và Phật-tính hiện tại
ở tất cả chúng-sinh làm Tự-Tính của chúng.
Mục-tiêu của Thiền-học là giác-ngộ điều ấy,
nhận biết Tự-Tính, bản-lai diện-mục là Chân-
tính để giải-thoát khỏi mê-vọng sai lầm của
tham-dục. Sở dĩ có Thể được là vì Tự-Tính là
tư-giác. Thể không còn là Thể nếu không có
Dụng, Thể là Dụng. Biết mình là có mình, tự
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
tác-dụng chứng-minh sự có thật. Và tác-dụng,
theo Huệ-Năng là " Tự kiến Tánh "
( ). " Kiến Tính thành Phật " ở đây là
một động-tác biến-hóa khí-chất, khai-triển tác-
dụng đến toàn-thể. Dụng tức là đồng-hóa với
Thể. Vén sạch mây, mặt-trời toàn chiếu. Có
ngọn đèn là có sáng, toàn-thể sáng là ngọn đèn.
Theo đấy thì kiến-tính ở Huệ-Năng không phải
là thụ-động như ở Thần-Tú, chú-ý vào phương-
diện Thể của Tự-Tính, chăm lau chùi bụi bám
để cho Tâm như minh kính sáng-tỏ ngõ hầu
nhìn thấy Tự-Tính phản-chiếu vào đấy. Như
thế là nhìn Thể với Dụng là hai vật biệt-lập.
Đối với Huệ-Năng thì ngoài Dụng không có
Thể, Thể ở trong Dụng, toàn Dụng là Thể, cho
nên khai-triển Tuệ ( Prajna ) thì có thể biết Tự-
Tính ( Self ) .
Biết Tự-Tính là thế nào ?
Theo phép Thiền của Huệ-Năng, trung-
thành với truyền-thống Tâm-linh " Vạn vật
nhất thể " thì :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
62
" Vạn pháp tận tại Tự Tâm trung.
Đốn Kiến Chân Như Bản Tính. Bồ Tát
giới Kinh vân : Ngã bản nguyên Tự Tính
thanh tĩnh, nhược thức Tự Tâm Kiến
Tính, giai thành Phật Đạo " .
( Muôn Pháp đều ở cả Tâm mình,
thình-lình thấy Bản Tính Chân-Như liền.
Bồ-Tát giới Kinh nói : Bản nguyên Tự-
Tính vốn thanh-tĩnh trong sạch, nếu biết
Tự Tâm thấy Tính, thẩy đều thành Đạo
Phật ) .
Vậy biết thấy Tự-Tính là biết Tự Tâm
mình. Bởi vì " trong Tâm mình tự có tri-thức
Tự-ngộ. Nếu nổi lòng tà mê, nghĩ lầm điên đảo
thì dù có thiện trí-thức bên ngoài dạy truyền
cũng cứu chẳng được. Nếu trí-tuệ ( Bát-Nhã )
chân-chính bừng dậy chiếu xét, trong khoảng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
chớp mắt (sát-na) vọng niệm đều tắt. Nếu biết
Tự-Tính, một tỉnh-ngộ là tới cõi Phật " .
Và " biết được Tự-Tính là biết bản Tâm,
là Giải-thoát, là Bát-Nhã Tam-muội ( Prajna
Samadhi ). " Bát-Nhã Tam-muội " theo Huệ-
Năng là " Vô-Niệm " ( ) .
Sao gọi là Vô-Niệm ?
" Nếu thấy hết thảy pháp ( hiện-
tượng, sự vật ), Tâm không tiêm-nhiễm,
chấp-nê, ấy là Vô-Niệm. Tác-dụng liền
khắp cả mọi nơi, cũng chẳng chấp-nê vào
một nơi nào hết. Chỉ trong sạch bản tâm,
khiến cho sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu
trần mà không nhiễm, không tạp loạn, đi
đến tự-do, thông-dụng, không vướng
mắc, tức là Bát-Nhã Tam-muội, Tự-tại
Giải-thoát, gọi là Hạnh Vô-Niệm. Nếu
mà đối với trăm vật chẳng nghĩ tới, rồi
khiến tắt hết ý-niệm, tức là phép trói
buộc, tức gọi là thiên-kiến " .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
64
Như thế thì " Tâm Vô-Niệm " không phải
là không có Tâm. Vẫn có Tâm hoạt-động tác-
dụng một cách liên-tục không bị đứt-đoạn vào
từng hình-ảnh khác nhau, ví như mặt nước
không gợn sóng mà giòng nước vẫn chảy. Lão-
Tử viết : ( )" Vô danh thiên
địa chi thủy " ( Chưa có tên gọi là khởi đầu của
trời đất ). Danh đây cũng tức là Niệm vậy. Tới
được cái Tâm Vô-Niệm là tới cái trạng-thái
" Vật ngã câu vong " ( ) năng-tri và
sở-tri hợp làm một, tức là cùng với cái Ý-thức
Vũ-trụ, cái " Thiên địa chi tâm "
( ) làm một Thể. Đấy là cái Thiền
Đốn-Ngộ của Huệ-Năng, đòi phải nhẩy vượt
bực vừa tâm-lý vừa biện-chứng, bỏ con đường
suy-luận hợp-lý, tiến-hóa dần dần. Cái phút mà
ý-chí cá-nhân ở trong tâm người ta chấm-dứt là
phút cách-mệnh, ý-thức về thế-giới lưỡng-
nguyên biến đi nhường chỗ cho cái Nguồn
Sống Ý-thức đại-đồng là Tam-muội thì phải
vượt bực như nhảy vào vực-thẳm ( Sunnyata )
mà các nhà Tâm-linh-học đã thực-nghiệm .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
" Vũ-trụ tắt, không-gian cũng không
còn. Bắt đầu những ý-niệm lờ mờ còn
thấp-thoáng trên nền tối của tinh-thần.
Một mình ý-thức yếu-ớt về Ngã nhắc đi
nhắc lại buồn tẻ, rồi cả đến cái ấy cũng
tắt. Còn lại một mình Sinh-tồn. Linh-hồn
biến vào trong Tự-Tại. Tất cả lưỡng-tính
tan mờ. Không-gian hữu-hạn và không-
gian vô-hạn chỉ là Một. Ngoài ngôn-ngữ,
ngoài tư-tưởng, Y thể-hiện Đại-Ngã " .
_ ( " La Vie de Ramakrishna " ---Romain
Rolland )
Cái trạng-thái ấy, danh-từ Thiền-học gọi
là " Vô tướng " " Vô trụ " sinh-động mãi mãi,
không bị cắt vụn thành ý-nghĩ, về tâm-lý-học
gọi là " Vô-Niệm " ( Unconscious ) do đấy
xuất-hiện tất cả tư-tưởng ý-thức và tình-tự, cái
Ấy là Tâm hay Tự-Tính vậy. Cái Ấy cũng là
" Vô-Tâm ", Chân Không ( Sunyata ), không
phải là không có Tâm, không có Niệm, hoàn-
toàn trống-rỗng hư-vô. Cái " Vô-Tâm ", " Vô-
Niệm ", " Vô-Danh " ấy chính là Đạo, Thực-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
66
tại sinh-thành nội-tại siêu-nhiên ( immanent-
transcendant ) .
" Hỡi Thiện Trí-thức ! Hễ ai tỉnh-
ngộ được Pháp Vô-niệm thì muôn Pháp
đều thông tỏ hết. Tỉnh-ngộ được Pháp
Vô-niệm thì thấy các cảnh-giới Phật.
Tỉnh-ngộ Pháp Vô-niệm thì đạt tới địa-vị
Phật ! "
_ ( Phẩm Bát-nhã )
Giáo-sư Thiền-học có uy-tín quốc-tế
hiện-đại là D.T.Suzuki, trong " Zen Buddhism"
có nhận thấy sự khó-khăn, đem áp-dụng các tư-
tưởng trí-thức hiện-đại chuyên giải-thích qua
khái-niệm danh-lý trừu-tượng cố-định, để giải-
thích Thực-nghiệm Thiền. Ông viết :
" Về một vật chúng ta thấy Huệ-
Năng gọi là Tự-Tính, nó là Phật-tính
trong Kinh Nirvana và các tác-phẩm Đại-
Thừa khác. Cái Tự-Tính ấy ở Bát-Nhã
Ba-la-mật ( Prajna-paramita ) là Như Như
( Tathata ), và Không-Hư ( Sunyata ).
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
Như Như có nghĩa là Tuyệt-đối, cái gì
không lệ-thuộc vào định-luật của tương-
đối, và vì thế nên không có thể đắc bằng
các hình-tướng. Như Như là Vô-tướng
( Arupa ). Trong Phật-giáo, Hình-tướng
( Rupa ) đối-lập với Vô-tướng ( Arupa ),
nó là Vô-điều-kiện. Cái Vô-điều-kiện,
Vô-hình-tướng ấy là nhân-thế mà Vô-đắc
ấy là Không-Hư ( Sunyata ). Không-Hư
không phải là ý- tưởng tiêu-cực phủ-định,
và không có nghĩa, chỉ là không có.
Nhưng vì nó không ở trong thế-giới hình-
danh sắc-tướng thì gọi là Hư-Không, hay
là không vật gì, hay là Không .
" Như thế Hư-Không thì không có
thể đắc, không có thể với tới. Cái " Vô
đắc " có nghĩa là ngoài tri-giác, ngoài sự
bắt lấy, vì Hư-Không thì ở bên kia sự có
và không có. Tất cả trí-thức đều quan-hệ
với lưỡng-tính. Nhưng nếu Không-Hư
hoàn-toàn ngoài giới-hạn của công-phu
nhân-loại để nắm được bất cứ theo nghĩa
nào, thì nó không có giá-trị đối với chúng
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
68
ta. Nó không còn thuộc phạm-vi ích-dụng
nhân-loại. Nó thực sự là không có, và
chúng ta cũng chẳng có gì để để ý đến nó.
Nhưng sự thực lại khác. Không-Hư luôn
luôn ở trong tầm thấy của chúng ta. Nó
luôn luôn có với chúng ta, ở trong chúng
ta và chi-phối tất cả tri-thức, tất cả động-
tác và chính là sinh-mệnh của chúng ta.
Chỉ có điều là khi chúng ta cố nhặt nó ra
và giơ nó lên trước mắt như một vật gì thì
nó chuồn mất, nó lừa dối tất cả cố-gắng
của chúng ta và biến đi như hơi khói.
Chúng ta luôn luôn bị nó đánh lừa, nhưng
nó chứng thực là một con ma-trơi " .
_ ( " The Zen Doctrine of No-Mind "
( Học Thuyết Vô-Niệm ) )
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
VÔ-NIỆM VÀ NIỆM - NIỆM ._
Căn-bản Thiền-học của Huệ-Năng là
thực-hiện cái Tâm Vô-Niệm, như Tổ đã nói
trên đây, và còn giải-thích rõ như sau ở Phẩm
Định-Tuệ :
" Pháp-môn này của ta, từ trước đến
nay, trước hết lập Vô- Niệm làm đầu mối,
Vô-tướng làm thực-thể, Vô-trụ làm gốc.
Vô-tướng là ở nơi hình-tướng. Vô-niệm
là ở ý-niệm mà không niệm, không nghĩ.
Vô-Trụ là bản Tính của người ta. Đối với
những điều lành, dữ, tốt, xấu ở thế-gian,
cho chí đối với kẻ oán thù, người thân-
thích, và trong nói năng, tiếp-xúc, chỉ-
trích, khinh-khi, tranh-dành, hết thẩy đều
coi làm không có, chẳng nghĩ báo-thù làm
hại .
" Trong mỗi ý-niệm không nghĩ đến
cảnh trước. Nếu ý-niệm trước, ý-niệm bây
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
70
giờ, ý-niệm tới sau, hết ý-niệm này đến ý-
niệm kia nối tiếp không dứt, thế gọi là
trói buộc. Đối với các Pháp, không để ý-
niệm dừng lại đấy, ấy là không bị trói
buộc. Bởi thế mới lấy Vô-Trụ làm gốc .
" Ngoài thì dời hết thảy hình-tướng,
gọi là Vô-tướng. Dời khỏi hình-tướng thì
thực-thể của Pháp thanh-tịnh, trong-sạch.
Thế nên lấy Vô-tướng làm Thể .
" Đối trước mọi cảnh, tâm không
tiêm-nhiễm, cho nên nói là Vô-niệm. Ở
chỗ mình ý-niệm thường dời hết cảnh
đối-tượng, không nẩy ra cái tâm với cảnh.
Nếu đối với trăm sự-vật mà chẳng nghĩ
gì, trừ sạch hết thảy ý-niệm, thì một ý-
niệm tắt rồi tức là chết. Rồi lại thụ-sinh ra
ở nơi khác, ấy là lầm lớn. Người học Đạo
hãy suy-nghĩ chỗ ấy. Nếu chẳng hiểu biết
ý-nghĩa của Pháp, tự mình lầm còn được,
lại còn khuyên nhủ người khác nữa kia !
Tự mình mê không thấy lại đi nói xấu
Kinh Phật ! Bởi vậy cho nên mới lấy Vô-
niệm làm đầu mối .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
" Hỏi sao dựng Vô-niệm làm đầu
mối ? Chỉ vì miệng nói thấy Tính, người
mê lầm đối với cảnh có ý-niệm, trong ý-
niệm liền nổi lên ý-kiến bậy-bạ. Rồi thì,
hết thảy vọng tưởng tục trần đều do đấy
mà nẩy sinh. Tự-Tính vốn không có thể
đắc một Pháp nào cả. Nếu có chỗ đắc thì
nói bậy về họa, phúc, tức là ý-kiến bậy-bạ
trần-tục. Bởi vậy cho nên môn Pháp này
dựng Vô-niệm làm đầu mối .
" ( Vô ) là không có sự việc gì ?
" ( Niệm ) là ý-niệm về sự vật gì ?
" Vô là không có hai hình-tướng,
không có các tâm trần lạc .
" Niệm là niệm về Bản-Tính Chân-
Như. Chân-như là thực-thể của ý-niệm, ý-
niệm là tác-dụng của Chân-như. Tự-Tính
Chân-như nổi lên ý-niệm, chẳng phải
mắt, tai, mũi, lưỡi có thể ý-niệm được.
Chân-như có Tính cho nên mới nổi lên ý-
niệm. Nếu không có Chân-như thì mắt,
tai, mũi, tiếng cùng lúc liền hủy .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
72
" Tự-Tính Chân-như nổi lên ý-niệm,
sáu căn tuy có thấy, nghe, suy, biết, chẳng
tiêm-nhiễm muôn cảnh, mà Chân Tính
vẫn luôn tự-tại " .
_ (Định Tuệ Phẩm )
Đoạn văn giáo-lý căn-bản trên đây giải-
thích rõ quan-điểm của Lục-Tổ Huệ-Năng về
yếu lý Thiền Vô-Niệm. Vô-Niệm theo đấy là
trạng-thái " Ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm "
( ) ( Nên nẩy sinh cái
tâm mình không ngưng chấp vào chỗ nào ).
Như thế là vừa có tâm vừa không có tâm, vẫn
ý-niệm mà không niệm vào cảnh nào. Ở Tâm-
lý-học khoa-học Âu-Tây hiện nay, nhất là ở
Phân-tâm-học người ta gọi trạng-thái Vô-niệm
là Vô-ý-thức ( Unconscious ). Và Suzuki bảo
Thiền của Huệ-Năng là " Nhìn thấy Vô-niệm "
( To see the Unconscious ). Và ông đã dịch
đoạn văn của Thần-Hội, một cao-đệ của Huệ-
Năng như sau :
" To see into the Unconscious is to
understand self-nature ; to understand
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
self-nature is not to take hold of anything;
not to take hold of anything is the
Tathagatha 's Dhyana " .
( Nhìn được vào bên trong Vô-Niệm
là hiểu Tự-Tính ; hiểu Tự-Tính là không
bám giữ vào cái gì cả ; không bám giữ cái
gì hết là Thiền Chân-Như ) .
Nay thử xem Phân-tâm-lý-học và Tâm-lý-
học thực-nghiệm hiện-đại hiểu cái " Uncons-
cious " như thế nào ?
Phân-tâm-học tìm làm cho cái Vô-thức
( the Unconscious ) thành Ý-thức ( Conscious )
hay là theo luận-điệu của Freud là biến-hóa
xung-động Bản-năng ( Id ) vào trong cái Ngã
( Ego ). Vậy thì Vô-thức là gì ? và Ý-thức là
gì ? Làm thế nào mà Vô-thức trở nên Ý-thức ?
Nghĩa đầu tiên của Ý-thức và Vô-thức là
biết và không biết về một trạng-thái chủ-quan
trong cá-nhân. Biết về nội-dung tinh-thần là Ý-
thức về sự buồn, vui, về kinh-nghiệm nội-tâm.
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
74
Còn Vô-thức là không giác tỉnh về chúng, về
tình-tự, dục-vọng, sợ-hãi của mình .
Nghĩa thứ hai là coi Ý-thức và Vô-thức
như các vị-trí và nội-dung liên-quan đến vị-trí
ấy ở trong một nhân-vật. Vậy ở đây Ý-thức và
Vô-thức là những thành-phần khác nhau của
một bản-ngã. Ở Freud thì Vô-thức là cơ-sở của
phí-lý, còn ở Jung thì đấy là nguồn thâm sâu
của hiền-năng, và Ý-thức là thành-phần trí-
thức.
Nghĩa thứ ba là phổ-thông người ta cho
Ý-thức ( Conscious ) đồng-nhất với lý-trí phản-
tỉnh, và Vô-thức ( Unconscious ) là kinh-
nghiệm không có phản-tỉnh suy-tư. Song, ý-
nghĩa thứ ba này rất hàm-hồ, vì tất cả cái gì
mình Ý-thức, mình tỉnh-giác không tất nhiên
đều là phản-tỉnh suy-tư trí-thức. Tôi suy-tư
phản-tỉnh trí-thức là sau khi tỉnh-giác về một
vật tôi phân-biệt ra năng-tri và sở-tri, cũng như
tôi ý-thức về hơi-thở của tôi với tôi suy-tư về
nó là hai việc .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
Đối với tư-tưởng Thiền, ý-nghĩa cơ-năng
đầu tiên của Ý-thức ( Conscious ) với Vô-thức
( Unconscious ) ở Tân tâm-lý-học có lẽ gần với
ý-nghĩa giác với bất-giác. Thử hỏi cái gì đã
cản-trở một kinh-nghiệm được người ta giác
trở nên Ý-thức ? Phần lớn người ta, thông-
thường sống với giả-tạo, huyễn-tưởng hơn là
với sự thật, phần lớn trong Ý-thức chúng ta là
Ý-thức giả hơn là thật, vì xã-hội đã uốn-nắn, in
sâu vào Ý-thức chúng ta những ước-lệ, những
giá-trị giả-tạo qua tập-tục thói-quen trở nên
thành-kiến, xa với sự thật. Những thành-kiến
cản-trở sự giác tỉnh sự thật .
Động-vật có một Ý-thức về sự-vật chung-
quanh, cái Ý-thức ấy rất giản-đơn thô-phác. Cơ
cấu trí não của loài người phức-tạp hơn và là
cơ-sở cho sự tự-giác, tự ý-thức như là chủ-thể
của kinh-nghiệm. Kinh-nghiệm nhân-loại chỉ
có thể đi vào Ý-thức trong điều-kiện để nó
được tri-giác, liên-hệ và xếp đặt thành hệ-thống
danh-lý và phạm-trù. Cái hệ-thống ấy là kết-
quả của sự tiến-hóa xã-hội. Mỗi xã-hội theo
tập-tục sinh-hoạt và cách-thức liên-hệ, cảm-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
76
tình và tri-giác, tạo nên một hệ-thống phạm-trù,
nó quyết-định hình-thức của tỉnh-giác. Bởi thế
mà kinh-nghiệm đi vào Ý-thức phải được lọc
qua cái hệ-thống phạm-trù do xã-hội điều-kiện-
hóa. Các hệ-thống phạm-trù lệ-thuộc xã-hội
gồm có ngôn-ngữ cùng ngữ-pháp, luân-lý,
hướng-dẫn cho tư-tưởng trong một khu-vực
văn-hóa nhất-định. Chẳng hạn ngôn-ngữ và
luân-lý Á-Đông khác với ngôn-ngữ và luân-lý
Âu-Tây. Ngoài ngôn-ngữ và luân-lý lại còn
những hệ-thống cấm-đoán của từng xã-hội,
chúng cản-trở kinh-nghiệm của con người sống
tập-thể không cho nó giác-tỉnh Ý-thức. Sống
trong đoàn-thể phải tuân theo luật-lệ của đoàn-
thể .
Vậy Ý-thức và Vô-thức ( Conscious -
Unconscious ), Ý-niệm và Vô-niệm đều lệ-
thuộc vào xã-hội. Tôi ý-thức, tỉnh-giác về tất cả
tình-tự và ý-nghĩ, tư-tưởng của tôi chừng nào
chúng được phép nhập vào tâm tôi qua cái lọc
lệ-thuộc xã-hội của ngôn-ngữ, luân-lý và tục-
lệ. Những kinh-nghiệm không được lọc qua thì
tích chứa lại trong tiềm-thức mà Phân-tâm-học
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
gọi là Vô-thức ( Unconscious ). Cái Vô-thức
( Unconscious ) này của Phân-tâm-học hẳn là
không phải cái Vô-Niệm của Huệ-Năng vì nó
chỉ giới-hạn vào kinh-nghiệm bị điều-kiện xã-
hội không cho phép được ý-thức mà bị ẩn-ức
trong đáy lòng người. Tuy nhiên Phân-tâm-học
cũng công-nhận là Ý-thức không phải là tất cả,
ngoài Ý-thức còn cả một phạm-vi ẩn-ức gọi là
( Unconscious = Vô-thức ) mà nó muốn làm
thành Ý-thức ( Conscious ). Erich Fromm viết
trong " Phân-tâm-học Và Phật-giáo Thiền "
( Psycho-analysis And Zen Buddhism ) :
" Cái Vô-thức là con người toàn-thể,
--- trừ cái thành-phần của con người
tương-đương với xã-hội. Ý-thức đại-biểu
con người xã-hội, những giới-hạn ngẫu-
nhiên dựng lên bởi tình-thế lịch-sử trong
đó một cá-nhân đã bị ném vào. Vô-thức
đại-biểu con người đại-đồng, con người
toàn-thể bắt-nguồn trong vũ-trụ, nó đại-
biểu cho cây cỏ ở nó, động-vật ở nó, tinh-
thần ở nó, nó đại-biểu quá-khứ của nó kể
từ sơ-khai của sinh-tồn nhân-loại, và nó
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
78
đại-biểu cho tương-lai của nó đến ngày
con người đã trở nên đầy đủ nhân-loại-
tính và đến ngày thiên-nhiên sẽ được
nhân-bản-hóa cũng như con người sẽ
thiên-nhiên-hóa " .
( The Unconscious is the whole man
--- minus that part of man which
corresponds to his society. Consciousness
represents social man, the accidental
limitations set by the historical situation
into which an individual is thrown.
Unconsciousness represents the plant in
him, the animal in him, the spirit in him ;
it represents his past down to the down of
human existence, and it represents his
future to the day when man will have
become fully human, and when nature
will be humanized as man will be
" naturalized " ) .
Trên đây con người ( Unconscious = Vô-
thức ) của Phân-tâm-học là con người thiên-
nhiên và con người ( Conscious = Ý-thức ) là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
con người xã-hội, làm cho con người thiên-
nhiên trở nên con người xã-hội đấy là lý-tưởng
nhân-bản-hóa thiên-nhiên đồng thời thiên-
nhiên-hóa xã-hội. Một khi công việc ấy thành-
tựu, theo biện-chứng vận-động mà nói, thì cả
con người xã-hội lẫn con người thiên-nhiên đều
biến-hóa vào trong con người Siêu-thức, như
William James đã nhận-thức :
" Ở Ấn-Độ, sự tu-luyện môn nội-
quan thần-bí đã được biết từ thời tối cổ ở
danh-từ Yoga. Yoga có nghĩa là sự hợp-
nhất thực-nghiệm giữa cá-nhân với thần-
linh. Nó căn-cứ vào sự tập-luyện chuyên-
bền. Và sự ăn chay ngồi Thiền, điều khí,
tập-trung tinh-thần và giới-luật không
mấy khác nhau ở các hệ-thống giáo-lý ấy.
Người Yogi hay đệ-tử nhờ những
phương-tiện ấy thắng-phục được sự che
tối của bản-tính thấp hèn tạm đủ rồi, y
nhập vào trong điều-kiện gọi là " Tam
muội " ( Samadhi ), đến đối-diện với
những thực-kiện mà bản-năng cùng lý-trí
không bao giờ có thể biết được " .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
80
" Y nhận-thức _
" Rằng chính tinh-thần có một trình-
độ sinh-tồn cao hơn, vượt quá lý-trí, một
trình-độ siêu-thức, và khi nào tinh-thần
đạt tới trình-độ cao hơn ấy bấy giờ cái tri-
thức siêu-lý mới đến …. Tất cả các giai-
đoạn khác nhau trong khoa Yoga đều
nhằm mục-đích dẫn chúng ta đến trình-độ
siêu-thức hay " Tam muội " một khoa-
học …. Chính như Vô-thức ( Uncon-
scious ) hành-động bên dưới Ý-thức
( Consciousness ) thì cũng có hành-động
khác bên trên Ý-thức, và nó cũng không
có kèm theo cảm-tưởng vị-ngã …. Ở đấy
không có cảm-tưởng về Ta, và tinh-thần
vẫn hành-động, vô-dục, vượt khỏi vọng-
động, không đối-tượng, không vật-thể.
Bấy giờ Chân-thật chiếu sáng đầy đủ hào-
quang, và chúng ta tự biết mình --- bởi vì
Tam muội tiềm-tàng ở tại tất cả chúng ta
--- Bởi vì chúng ta thực là chúng ta, tự-
do, bất tử, toàn-năng, dời khỏi hữu-hạn
với những mâu-thuẫn của nó về thiện và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
ác và đồng-hóa vào Atman hay Hồn Vũ-
trụ " . _ ( Vivekananda )
_ ( William James trong " Tâm-linh-học -
- Các Loại Thực-nghiệm Tôn-giáo " ) _
( Mysticism -- The Varieties of Religious
Experience )
Với Huệ-Năng cái Vô-Niệm không phải
là cái Unconscious của Phân-tâm-học hiện-đại,
mà là cái Tam-muội ( Samadhi ) như
Vivekananda đã nói trên đây, vì cái Vô-Niệm
của Huệ-Năng chính là cái Tâm Sinh Sinh
không ngừng định vào hình tướng nào cả. Vô-
Niệm là ( Tự-Tính Chân-như khởi-niệm, sáu
căn tuy có, thấy, nghe, giác, biết, không nhiễm
bởi các loại điều-kiện khách-quan, mà Chân-
Tính thường tự-tại ) " Chân như Tự-Tính khởi
niệm, lục căn tuy hữu, kiến văn giác tri bất
nhiếm vạn cảnh, nhi Chân-Tính thường tự tại "
Như thế thì " Vô-Niệm " là Chân Không
( Sunyata ) là cái Tâm Chân-như trong đó Thể
với Dụng là một, không có hai tướng, không có
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
82
Năng và Sở đối đãi mà hợp làm một, Định với
Tuệ dung thông .
Giải-thích của Thần-Hội, cao-đệ của Huệ-
Năng còn làm sáng-tỏ hơn về cái Vô-Niệm ấy
như sau :
Có người hỏi Thiền-sư Thần-Hội :
_ Sư luôn luôn nói Vô-Niệm,
khuyến-khích người ta tu-luyện và học-
tập. Tôi không biết cái Vô-Niệm ấy có
hay không ?
_ Ta không nói nó có hay không có.
Bởi vì nếu ta nói nó có thì sẽ là có theo
tục-thế, và nếu ta nói nó không có thì sẽ
là không có theo thế-tục. Cho nên Vô-
Niệm chẳng phải có ( sat ) chẳng phải
không ( asat ) ( theo nghĩa tục-thế ) .
_ Sư đặt cho nó tên gì ?
_ Ta không cho nó có tên .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
_ Vậy thì nó là cái gì ?
_ Cũng không là cái gì (đặc-thù )
nữa. Bởi thế mà Vô-Niệm thì không nói
lên được ( Avaktavya ). Nếu người ta nói
là để trả lời cho câu hỏi. Nếu không có
câu hỏi đặt ra thì không khi nào người ta
nói về nó. Nó cũng ví như tấm gương
sáng không có một hình ảnh nào hiện ra ở
trong nếu không có vật gì để ở trước mặt.
Nếu người ta bảo có một hình ảnh hiện ra
trong gương là vì có một vật ở trước mặt
nó làm nguyên-nhân có sự biểu-hiện .
_ Nếu không có vật đối-tượng gì thì
gương có soi chiếu sáng không ?
_ Nếu là vấn-đề sáng chiếu, thì dù
có hay không có vật trước mặt gương,
gương vẫn thường chiếu .
_ Cứ như Sư nói Vô-Niệm là không
có đặc-tính kinh-nghiệm và một mặt nó
không thể nói ra được, vậy thì nó chẳng là
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
84
gì hết, về mặt có ( nhất định ) và không
có ( bất định ) để có thể xây-dựng về nó.
Nếu nói về chiếu sáng thì bấy giờ là cái
chiếu sáng gì ?
_ Nếu nói về chiếu sáng là vì cái
gương tự nó có cái tính bản nhiên chiếu
sáng. Cũng như thế, vì bản-tính thanh-
tĩnh của tinh-thần chúng-sinh mà tự-nhiên
chúng có ngọn đuốc Tuệ soi chiếu sáng
khắp tất cả các cõi .
_ Làm thế nào để có thể thấy được
Vô-vật ? Sự thấy Vô-vật nhất-định gọi là
thế nào ?
_ Cái ấy không có tên gọi .
_ Nếu nó không có tên gọi thì Phật-
tính ra sao ?
_ Thấy rằng người ta không thấy
Vô-vật ( Vắng vật nhất-định ), đấy là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
Chính-kiến, đấy là Thường-kiến ( thấy
Chân, thấy Thường ) .
_ ( " Entretiens du Maître Dhyana " --
Chen-Houei du Ho-Tső _ 608 - 760 ) _
( Bản dịch Pháp-văn của Jacques Grenet
-- E.F.E.O -- vol. XXXII )
Ví Tuệ ( Prajna ) như tấm gương, hình-
ảnh này đã thấy ở các Đạo-sĩ Lão-Trang.
Trang-Tử viết :
" Thủy tĩnh do minh, nhi huống tinh
thần, Thánh nhân chi tâm tĩnh hồ. Thiên
địa chi giám dã, vạn vật chi kính dã. Phù
hư tĩnh điềm đạm, tịch mịch vô vi giả,
thiên địa chi bình nhi đạo đức chi chí " .
_ ( Thiên Đạo )
( Nước trong còn sáng, huống chi là
tinh-thần, cái tâm trong suốt của Thánh-
nhân ? Trời đất soi xét như tấm gương
của muôn vật. Ôi, trong suốt, điềm-đạm,
yên-lặng, không tác vi, trời đất bình-
thản mà đạo-đức cùng cực ) .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
86
Ở đoạn khác Thần-Hội cũng viết :
" Tri-giác thụ-động của những Xúc
( Sparça ) có nghĩa là hoàn-toàn không
vận-động của tinh-thần riêng. Cũng
tương-tự như thế mà trong một tấm
gương những hình-ảnh phản-chiếu toàn-
thể : bởi vì tấm gương tự nó không vận-
động ( acala ) mà hình-ảnh của tất cả các
loại hành-động ở đấy. Tri-giác của Xúc
( ) bởi tinh-thần giống như một tấm
gương sáng thì như kinh-nghiệm của Tuệ
( Prajnâ ), trí-tuệ chính-giác " .
Như thế có nghĩa là gương phản-ảnh
toàn-thể thực-tại, đồng thời nó phản-chiếu
thực-tại ấy : Vô-Niệm ấy là toàn-tri vậy .
" Vô-Niệm là ý-nghĩ chớp-nhoáng ;
ý-nghĩ chớp-nhoáng, ấy là toàn-tri
( Sarvajnata ), toàn-tri ấy, là Prajna-
paramita sâu thẳm và Bát-Nhã Ba-la-mật-
đa sâu thẳm, ấy là Thiền ( Dhyana ) của
Tathagata " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
( L'Absence de pensée, c'est la
pensée instantanée; là pensée instantanée,
c'est l'omniscience (Sarvajnata), l'omni-
science, c'est la très profonde Prajnâpâra-
mitâ et la très profonde Prajnâpâramitâ,
c'est le Dhyana du Tathâgata ) .
_ ( Jacques Grenet -- " Entretiens du
Maître de Dhyana Chen-Houei "_
Traduction p. 74 - Publications de l'Ecole
F.E.O. )
Ở đoạn khác, Thiền-sư Thần-Hội nói :
" Kiến ( thấy ) Vô-Niệm, là giữ lục-
thức ( nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý ) không
nhiễm-ố. Kiến Vô-Niệm, là đạt được cái
biết hướng về Phật. Kiến Vô-Niệm có tên
là Chân-tướng. Kiến Vô-Niệm ấy, là
chân-lý theo nghĩa cùng-tột ( Para-
mârthasatya ) của Trung-đạo ( Madhya-
mâpratipad ). Kiến Vô-Niệm ấy, là thấy
nhiều đức tốt như hạt cát sông Hằng cùng
một lúc hiện-diện đầy đủ. Kiến Vô-Niệm,
ấy là có thể làm chủ được tất cả các pháp
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
88
( Dharma ). Kiến Vô-Niệm, ấy là bao-
quát tất cả các Pháp ( Dharma ) " .
( Le Maître dit : " Voir l'Absence de
pensée, c'est avoir les six organes des
sens sans souillure. Voir l'Absence de
pensée, c'est obtenir une connaissance
orientée vers le Buddha . Voir l'Absence
de pensée a pour nom aspect véritable.
Voir l'Absence de pensée, c'est la vérité
de sens ultime ( Paramârthasatya ) du
Chemin du milieu ( Madhyamâpratipad ).
Voir l'Absence de pensée, c'est voir des
mérites, nombreux comme des grains de
sable du Gange au même instant présent
au complet. Voir l'Absence de pensée,
c'est être capable de maîtriser tous les
Dharmas. Voir l'Absence de pensée, c'est
embrasser tous les Dharmas ) .
Đấy cũng chính là quan-niệm của Lục-Tổ
Huệ-Năng nói ở trên kia :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
" Ngộ Vô-niệm pháp giả, vạn pháp
tận thông
Ngộ Vô-niệm pháp giả, kiến chư
Phật cảnh giới
Ngộ Vô-niệm pháp giả, Chí Phật địa
vị ."
_ ( Phẩm Bát Nhã )
( Hiểu phép Vô-niệm thì muôn Pháp
thông hiểu hết
Hiểu phép Vô-niệm thì thấy cảnh-
giới các Phật
Hiểu phép Vô-niệm thì đến được
địa-vị Phật ) .
Trở lại mỹ dụ " Tâm Vô-Niệm " với
" Minh kính " trên, không những hình-ảnh
Gương trong đã được Trang-Tử với các Đạo-sĩ
thường nói đến, mà ở trong văn-nghệ cũng là
hình-ảnh thông-dụng như Giáo-sư Golf Stein
đã nghiên-cứu :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
90
" La grotte ( động ) est dans
l'homme le siège de la méditation
mystique
" Un poème de l'Empereur Vũ-Đế
( ) des Leang rattache cette pureté
particulière du vide ( thanh-hư ) au
miroir ( phương-chư ) ….. La grotte
de la Pureté du vide, pureté particulière
au miroir ( phương-chư ) est
associée à une pièce d'eau appelée Puits --
- Œil de Dragon. Mais cette Pureté du
Vide qui désigne le premier des sites
paradisiaques célèbres est aussi l'expres-
sion qui caractérise l'état d'esprit de la
méditation mystique accomplie. Cet état
d'esprit de ravissement suprême dans un
monde incréé est exprimé dans l'art
extrême-Oriental et dans les métaphores
des mystiques, par l'image de la pleine
lune se reflétant dans une surface d'eau
parfaitement tranquille " .
_ ( Rolf Stein " Jardins en Miniature
d'Extrême-Orient"--B.F.E.O.TXLII-1942)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
( Động ở người là vị-trí thần-bí ….
( Một bài thơ của Lương-Võ-Đế
liên-hệ cái tinh-khiết đặc-biệt của Thanh-
hư ( ) với gương Phương-Chư ( )
Động Thanh-Hư, sự tinh-khiết đặc-biệt
của gương Phương-Chư liên-hiệp với mặt
nước gọi là Giếng - Long-Nhãn. Nhưng
cái Thanh-Hư chỉ vào cảnh Thiên-thai đệ
nhất danh-tiếng cũng là biểu-thị đặc-biệt
cho trạng-thái tinh-thần của định-niệm
thần-bí thành-tựu. Cái trạng-thái tinh-thần
hoan-lạc tối cao trong thế-giới tự-tồn hồn-
nhiên được mô-tả trong nghệ-thuật Á-
Đông và trong mỹ-dụ của nhà thần-bí-học
bằng hình-ảnh vầng-trăng đầy phản-chiếu
vào mặt nước hoàn-toàn phẳng-lặng ) .
_ ( Rolf Stein -- " Bồn Cảnh Á-Đông " )
Xem thế đủ biết mỹ-dụ Gương sáng của
Thần-Hội hay dùng để ví với cái Tâm Vô-
Niệm vốn có từ lâu trong tư-tưởng truyền-
thống Á-Đông, căn-cứ vào những quan-niệm
không những thuộc vào phạm-vi triết-học bác-
học mà còn thuộc phạm-vi tín-ngưỡng tôn-giáo
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
92
nữa. Bởi vì vũ-trụ-quan Dịch vốn cố hữu ở Á-
Đông, và tín-ngưỡng của văn-hóa thảo-mộc là
tín-ngưỡng Nguồn-Sống vĩnh-cửu đại-đồng
( ) " Sinh Sinh chi vị Dịch " . Và
Nguồn-Sống ấy đi đi lại lại tuần-hoàn theo
thời-tiết bốn mùa của một năm. Nguồn-Sống
ấy vô-hạn, vô-biên, tràn-ngập không-gian thời-
gian ( ) " Chu lưu lục hư ", ( )
" Biến động bất cư " = ( Tràn ngập sáu cõi,
Biến động không ngừng ), không đầu không
cuối, ( ) " nguyên thủy phản chung ".
Và ở đâu có sự sống là có biết, cho nên Nguồn-
Sống tự ý-thức là ( ) " Thiên địa chi
tâm " tức là " Ý-thức vũ-trụ ", là Tính ( ),
hội ý Tâm với Sinh ( ). Cho nên ở
cổ-điển Ấn-Độ Prajna = Sinh-khí cũng là
Prajna = Tuệ, như Swami Abhedananda viết :
" Prajna là sự sống, sống là bất tử,
chừng nào Prajna còn ở tại thân-thể
chừng ấy còn sự sống. Bằng Prajna người
ta đạt sự bất tử ở thế-giới bên kia .
" Nếu chúng ta hiểu sự sống chân
thật là gì và cảm thấy chúng ta là một với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
sự sống và không dời khỏi nó, bấy giờ
chúng ta có thể thực-hiện sự bất tử của
chúng ta, vì sống thì không chết được, nó
không từ cái không-sống xuất ra. Nếu
chúng ta truy-nguyên sự sống, hồi-hướng
trong tưởng-tượng xa đến mấy đi nữa,
chúng ta cũng sẽ không bao giờ có thể
khám-phá thấy được nguyên-nhân của sự
sống, là cái gì không sống hay là sự chết.
Sự sống luôn luôn từ sự sống phát ra. Nó
đã có từ quá-khứ vô-thủy, và chúng ta
không thể nghĩ về nó như là lệ-thuộc vào
sự chết hay hủy-hoại. Bởi thế mà nó vĩnh-
cửu. Nhưng chừng nào cái sinh-khí tự
biểu-hiện qua một thân-thể, cái thể ấy
hiện ra sinh sống, đấy là biểu-hiện thứ hai
của sinh-khí chân-thật. Ở đây chúng ta
không được nghĩ về Sinh-khí hay là
Prajna mà là hình-thức nó vận-động và
làm một số hành-động. Chúng ta nói :
" Ông ấy sống lâu thế "," Đời sống của
ông ta trải nhiều năm thế, ba bốn chục
năm ". Tuy nhiên tất cả những biểu-thị ấy
ngụ ý sự biểu-hiện lần thứ của Prajna
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
94
Sinh-khí. Ở ý-nghĩa thứ nhất, sự Sống là
bất-tử. Khi nào Prajna hay Sinh-khí tự
biểu-hiện, bấy giờ các cơ-quan mới sống,
giác-quan làm tác-dụng của chúng, tinh-
thần suy-nghĩ và trí-tuệ động-tác .
" Hơn nữa cái Prajna hay Sinh-khí,
sinh-lực ấy không ly dời với trí-tuệ ;
chúng ta không có thể phân-cách trí-tuệ
với cái năng-lực làm cho mọi vật trong
vũ-trụ vận-động. Cái Tự-Tính có hai
năng-lực tự biểu-thị ra như là trí-tuệ và
như là hoạt-động của Prajna hay Sinh-lực.
Trí-tuệ là cái làm nguồn của ý-thức. Nó
được gọi ở tiếng Sanscrit là Prajna = Bát-
nhã = Tuệ. Không thể dịch nó sang tiếng
Anh là " Knowledge " vì Knowledge có
nghĩa là hiểu-biết, một tác-dụng của lý-
trí. Nhưng Prajna là nói về nguồn của tất
cả hiểu-biết và ý-thức " .
_ ( Self - Knowledge -- Swami
Abhedananda )
Cái nghĩa thứ nhất của sự Sống Prajna
theo Abhedananda giảng trên đây chính cũng là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
cái nghĩa ( ) "Sinh sinh chi vị Dịch"
tức là Nguồn-Sống vũ-trụ Tự-Sinh, trước khi
biểu-hiện vào vật-thể. Sự tương-quan giữa
Nguồn-Sống " Sinh Sinh " bất-tử ấy với sự
biểu-hiện ở ý-nghĩa thứ hai của nó vào cá-thể
đã được Trần-Thái-Tông ở Việt-Nam trình-bày
rõ ràng :
" Nguyên phù tứ Đại bản vô, ngũ
Uẩn phi hữu. Do Không khởi vọng, vọng
thành Sắc, Sắc tự Chân Không. Thị vọng
tòng Không, Không hiện vọng, vọng sinh
chúng Sắc. Kỳ bội vô sinh vô hóa, vĩnh vi
hữu hóa, hữu sinh. Vô sinh hóa tắc vô
hóa vô sinh, hữu hóa sinh, cố hữu sinh
hữu hóa " .
( Nguyên-lai bốn yếu-tố cấu-tạo thế-
giới không có, năm yếu-tố cấu-tạo thân-
thể con người cũng không. Tự cái không
điều-kiện nhân-duyên nổi lên vọng-niệm,
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
96
vọng-niệm trở nên hình sắc, hình-danh
sắc-tướng từ ở cái không có hình-danh
sắc-tướng. Thế là vọng-niệm theo cái
không có vọng-niệm mà ra, từ cái không
vọng-niệm hiện ra có vọng-niệm, vọng-
niệm sinh ra tất cả bao nhiêu hình sắc. Đã
phản-bội với cái không sinh, không hóa
thì mãi mãi là có hóa, có sinh. Không sinh
hóa thì không hóa, không sinh, có hóa
sinh cho nên có sinh, có hóa " .
_ ( Trần-Thái-Tông -- Khoá-Hư-Lục )
Và quan-hệ giữa cái nghĩa Sinh Sinh thứ
nhất với cái nghĩa Sinh-hóa thứ hai là chỉ do
( ) " Hữu sai nhất niệm, cố hiện đa đoan " ( Một niệm sai lầm, nhiều mối
nổi lên ). Vậy trạng-thái Vô-Niệm chính là
trạng-thái " Sinh Sinh " chưa biểu-hiện vào
các vật-thể vậy. Cái nguồn Sinh Sinh ấy chính
là cái Tâm Thiên Địa hay là Đạo-Tâm mà Thái-
Tông gọi là Vô-Tâm như ở câu :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
" Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm " .
Nước chảy xuống khe không dụng ý
Mây trắng đầu non vốn vô-tâm .
Nhưng cái Vô-tâm ấy chỉ là đối với ta ở
trong giới-hạn vật-thể tương-đối mà thôi, kỳ
thực thì :
" Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan " .
( Chớ bảo vô tâm rằng là đạo
Vô tâm còn cách một trùng quan ).
Nghĩa là đối với bình-diện vũ-trụ của
Nguồn-Sống Sinh Sinh ở ý-nghĩa thứ nhất của
sự sống thì vẫn là cái Tâm Thiên Địa hay là
Đạo-Tâm vậy .
Nay hãy trình-bày bằng một Đồ-Biểu
Nguồn-Sống qua các bình-diện từ Tâm Thiên
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
98
Địa hay Đạo Tâm theo Tâm-lý-học Yoga hay
Thiền :
9/_ Ý-thức vũ-trụ ( ) Tự-Tính ( )
8/_ Vô-niệm = Tuệ ( ) - Prajna - (Trực-giác)
7/_ Niệm-niệm = Ý-thức Thần-thức
6/_ nghĩa ( ) Lý-trí hay
Lý-tính
5/_ Tập-quán
4/_ Di-truyền Bản-năng
3/_ tri ( ) Cầm-thú
2/_ sinh ( ) - Thảo-mộc
1/_ khí ( ) - Kim-thạch
Sinh Sinh -- -- Prajna
Giải-thích :
1/_ Ngay ở trên bình-diện Sinh-Sinh là
Nguồn-Sống Prajna hiện ra động-tác đầu tiên
của tinh-thần vọng-niệm như gợn sóng trên mặt
nước, ấy là định-luật hấp-dẫn nguyên-tử thuộc
về khí Âm, Dương, thanh-khí " Đồng thanh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
tương ứng đồng khí tương cầu "
( ) .
2/_ Kế đến là ý-thức thảo-mộc, cái biết
sơ-khai nó phối-hợp nguyên-tử thành tế-bào,
đem vận-động sinh-mệnh vào kim thạch. Trong
cách tuyển-lựa ở đấy có ngụ cứu-cánh của Tâm
Thiên Địa .
3/_ Ý-thức cầm-thú và bản-năng để bảo-
tồn và tái-tạo cơ-thể nhân-loại : đói khát, trống
mái, sinh dục .
4/_ Bản-năng chính-thức nơi chứa đựng
tiềm-tàng những dục-vọng, thù-hận, oán hờn,
ghen ghét, tất cả năng-lực tiềm-tàng có thể xấu,
có thể tốt tùy cách sử-dụng. Đấy là cái cõi hạ-
tầng ( ça ) của Phân-tâm-học Freud.
5/_ Đây là bình-diện " dưới cái ta "
( Sur-moi ) của Phân-tâm-học thuộc về tiềm-
thức tập-thể, vì thói quen trở nên bản-tính thứ
hai, cha truyền con nối, từ đời nọ sang đời kia .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
100
6/_ Đây là bình-diện chính-thức của ý-
thức nhân-loại, địa-bàn của lý-trí và lý-tính.
Ngày nay thì từ Tâm-lý thực-nghiệm Âu-Tây,
cùng Phân-tâm-học và Triết-học Trực-giác đều
công-nhận với Tâm-lý-học Đông-phương là
phạm-vi ý-thức đối với toàn-thể tinh-thần chỉ là
một cù-lao giữa bể, một mẩu của tâm lúc thức,
ngoài ra còn cả sa-mạc hoang-vu của mộng và
ngủ-say .
7/_ Thần-thức bình-diện này cao hơn lý-
trí " Thần dĩ tri lai, trí dĩ tàng vãng "
( ) Cái biết sắp tới là
tiên-tri tiên-liệu, không do suy-luận đẻ ra mà
" như từ trên trời xuống ", như Berthelot kể lại
kết-luận phát-minh Hóa-học, sau khi tìm mãi,
đi đến thất-vọng về giải-đáp, thế rồi tự-nhiên
" C'est comme si elles étaient tombée du ciel ".
Nhà tập khoa Đạo-dẫn, thở thâm sâu, quét sạch
ý-nghĩ và sinh-khí, rồi một khi thanh-hư tâm-
hồn, mới tập-trung vào vấn-đề. Ví như Henri
Poincaré kể trong " Science et Méthode " rằng
trước hết ông gỡ rối vấn-đề, sau cùng một khi
đã thu lượm được đủ dự-kiện rồi ông phác-họa
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
trong tinh-thần như sau : Tất cả những ý-tưởng
ấy, những dự-kiện ấy, những yếu-tố đã biết ấy,
ông tưởng-tượng liên-hệ với nhau thành một
bó, ông đẩy cái bó ấy vào trong tầng dưới ý-
thức, rồi ông bảo với Thần-thức : " Ta muốn
thấy những tài-liệu của vấn-đề được xếp đặt,
phân-tích, lựa-chọn, xếp-loại, và sáng mai ta có
kết-quả. Hãy lo việc ấy cho ta ."
Đấy là Thần-thức ở nhà Khoa-học hiện-
đại cũng tương-tự như cái biết do " Thần báo
mộng " trong các truyện xưa. Lang-Liêu được
Thần báo mộng cho cái hình " Bánh dầy bánh
chưng ", Vua Lý-Thái-Tông được Thần Đồng-
cổ báo mộng có nội-biến trong triều v.v…
8/_ Bình-diện ý-thức thứ tám vượt bậc
lên khỏi ý-thức tương-đối của lý-trí và Thần-
thức, đây là siêu-thức chính-thức của ý-thức
toàn-diện, có thể ví với cái Tự-Tính của Phân-
tâm-học Jung, là " Soi ". Chỉ một thiểu-số tu-
luyện đạt tới từng lúc bình-diện Ngộ ( ) như
chớp-nhoáng. Đây là Trực-giác hay Tuệ, Prajna
của nhà Thiền trong đó năng-tri và sở-tri hợp
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
102
làm một, là cơ-bản cho sáng-tạo nghệ-thuật ở
trạng-thái Mỹ-cảm kinh-nghiệm. Đây là
Daimon ( Saiyov ) của Socrate như Plutarque
đã giải-thích " La partie de l'esprit qui
s'immerge dans le corps, lui expliqua l'oracle,
s'appelle l'âme, et la partie extérieure et
flottante le Daimon " ( Thành-phần tinh-thần
chìm trong thân-thể, giải-thích lời Sấm, gọi là
linh-hồn, và thành-phần bên ngoài bay nổi là
Daimon ).
Nhưng siêu-thức với tiềm-thức đều là
những hoạt-động tinh-thần chúng ta không ý-
thức được, vậy lấy gì làm tiêu-chuẩn để phân-
biệt thế nào là một linh-cảm chân-xác, thế nào
là linh-cảm " đồng-cốt quàng-xiên " ?
Theo Vivekananda thì " trước hết linh-
cảm không được trái nghịch với lý-trí. Ông già
không trái-nghịch với đứa trẻ, nó là tiếp nối với
nhau. Cái mà chúng ta gọi là linh-cảm thì tiếp-
tục lý-trí " .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
Cũng như Bergson giới-thuyết trực-giác
là " tiếp-tục đời sống nội-tâm của chúng ta " .
Và Vivekananda còn viết tiếp :
" Một linh-cảm thuần-túy đi qua con
đường lý-trí. Thứ đến là linh-cảm thuần-
túy phải vì hạnh-phúc cho tất cả chứ
không phải vì vinh-quang hay lợi lộc cá-
nhân mình. Khi nào những điều-kiện ấy
đầy đủ thì người ta có thể chắc dạ tin vào
linh-cảm. Hiện này chúng ta chỉ là đùa-
cợt với tôn-giáo. Với linh-cảm chúng ta
bắt đầu có tôn-giáo " .
Rồi Vivekananda dẫn sách lời Thánh
Paul :
" Ngày nay thì chúng nhìn như vào
trong gương, cách mơ-hồ. Đến bấy giờ
chúng ta sẽ thấy diện đối diện "
_ ( Maryse Choisy -- " La Métaphysique
des Yogas " -- ed. Mont Blanc -- p. 157 )
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
104
" Diện đối diện " với cái thực-nghiệm
tâm-linh trong ấy Niệm-Niệm gián-đoạn biến
vào Vô-Niệm, hữu-hạn với vô-hạn không còn,
ví như trên mặt nước vô-biên không còn gợn
sóng, phẳng-lặng trong-suốt như mặt gương
sáng, Gương Tuệ = Prajna. Đấy là " Thiên Địa
chi tâm " " Ý-thức Vũ-trụ " " Tự-Tính Chân-
Như " nghĩa là tự ý-thức Nguồn Sống Sinh-
Sinh vậy .
****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
THỰC-HIỆN TỰ-TÍNH VÔ-NIỆM
Huệ-Năng viết ở Phẩm Bát-Nhã :
" Bản tính tự hữu Bát Nhã ( Prajna )
chi trí, tự dụng trí tuệ, thường quan chiếu
cố, bất giả văn tự " .
( Bản-tính tự có cái biết của Tuệ
( Prajna ), tự tác-dụng trí-tuệ. Vì luôn
luôn chiếu soi, không mượn trung-gian
văn-tự ) .
Cái bản-tính ấy chính là bản-lai Tự-Tính,
nguyên-lai của cái biết thật biết, tức là cái biết
chân-tri, vì tác-dụng của nó là Trí-tuệ Bát-Nhã:
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
106
" Ngã bản nguyên Tự-Tính thanh
tịnh, nhược thức tự tâm kiến tính giai
thành Phật đạo "
( Vốn nguyên xưa Tự-Tính của ta
trong suốt. Nếu nay biết được cái Tự Tâm
thấy Tính ấy thì đều thành đạo Phật ) .
Rồi Huệ-Năng kể lại lúc Tổ thình-lình
thấy cái Tự-Tính ấy thế nào :
" Ta ở nơi Hòa-thượng Hoằng-
Nhẫn, nghe giảng một lần, nghe dứt lời
liền tỉnh-ngộ, sực thấy bổn Tính Chân-
như .
" Chư Phật ba cõi, mười hai bộ
Kinh, ở trong Tính vốn tự có đủ. Chẳng
may tự mình không tỉnh-ngộ được thì nên
tìm người thiện trí-thức chỉ bảo mới thấy.
Nếu tự mình tỉnh-ngộ thì khỏi phải cầu
tìm ở ngoài. Nếu nhất-định chấp-nê bảo
phải nhờ thiện trí-thức khác mới mong
được giải-thoát, thì không có điều ấy
được. Vì sao ? Tự trong tâm có tri-thức
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
tự mình tỉnh-ngộ lấy. Nếu ở tâm nổi lên
mê lầm đảo điên, thì thiện trí-thức tuy có
dạy bảo, cũng không thể cứu vớt được.
Nếu trong tâm nổi lên trí Bát-Nhã Chân-
chính chiếu soi thì trong chớp-nhoáng
( Sát-na ), ý-niệm sai lầm đều mất. Nếu
biết Tự-Tính, một khi tỉnh-ngộ liền đến
đất Phật " .
_ ( Phẩm Bát-Nhã )
Đến đất Phật đây chẳng phải đến đâu ở
không-gian và thời-gian cả, mà là thực-hiện
trong tâm một trạng-thái " Tam muội ", vượt
bậc ở trên bình-diện ý-thức cảm-nghĩ tương-
đối lưỡng-nguyên ở một bình-diện siêu-nhiên
vũ-trụ-hóa, cho nên Tổ nói với Đại-chúng :
" Người ở đời sắc thân mình là cái
thành ; mắt, tai, mũi, lưỡi là cửa ngõ, ở
trong có cửa của Ý. Tâm là đất ; Tính là
Vua. Vua ở trên đất Tâm. Tính ở đâu thì
Vua ở đấy, Tính trụ thì Vua còn tại đấy,
Tính đi khỏi thì Vua cũng mất. Tính ở thì
Thân-Tâm còn, Tính đi thì Thân Tâm
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
108
hủy. Phật do trong Tính ra, chẳng do ở
bên ngoài Thân tìm thấy được .
" Tự-Tính mình mê tức là chúng-
sinh ; Tự-Tính tỉnh giác tức là Phật " .
Theo Tâm-lý trí-thức trên đây thì đàng
sau cái biết của giác-quan còn có cái biết của
Ý. Ý đây là ý-thức nó phản-ứng lại xúc-giác
cùng những ấn-tượng của ngoại-vật tạo ra ở
cửa thành như mắt, tai, mũi, lưỡi để cho ta
những tri-giác về sự-vật ( percept ). Ở một
thân-thể chết, các cơ-quan trên đây tuy nguyên
vẹn, nhưng tri-giác về hình-tướng hay cảm-giác
về mầu sắc không thể có được cho thân-thể.
Phân-tích tri-giác chúng ta thấy rằng những
hoạt-động của giác-quan đều vô-thức tự bản-
tính của chúng. Ngoài giác-quan còn phải có
chủ-động cho quan-năng tác-dụng, người nhìn
cái thấy, người nghe âm-thanh v.v… Sách Đại-
Học của Nho-gia đã sớm viết :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
" Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến,
thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị " .
( Cái tâm không có ở đấy, thì nhìn
mà chẳng thấy, nghe mà chẳng hay, ăn
mà không biết ý-vị ) .
Ấy là nói hoạt-động của quan-năng là vô-
ý-thức vậy. Theo Tâm-lý-học Đông-phương
càng ngày càng được Khoa-học thực-nghiệm
Âu-Tây xác-nhận, thì tinh-thần hay là tác-dụng
của tâm chỉ là "chất tinh rung-động " ( finer
matter in vibration ). Nhưng ba-động chất-tinh
ấy không có thể tạo ra được ý-thức hay trí-tuệ.
Tâm-Thức hay Thân-Tâm chỉ là Đất mà Vua là
Tư-Tánh làm chủ-động .
Trong cổ-điển Ấn-Độ, có câu truyện
Thần-thoại giữa Sư-phụ và đệ-tử về vấn-đề
thực-hiện Tự-Tính tự-minh như sau :
Đệ-tử hỏi :
_ Bạch Sư-phụ, làm thế nào mà cái
thân hình của con lại có thể là Tự-Tính
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
110
được vì nó luôn luôn biến-đổi ? Xin Sư-
phụ giải-thích điều khó-khăn của con và
làm cho con hiểu-biết cái Tự-Tính chân-
thật .
Sư-phụ đáp :
_ Phải, thực có như thế, cái gì biến-
đổi thì không có thể là Tự-Tính được. Ta
sẽ giải-thích cho con thế nào là Tự-Tính
thật, nhưng hãy sống ở đây với ta như là
đệ-tử 32 năm .
Sau thời-kỳ thử-thách ấy, một bữa kia Sư-
phụ bảo đệ-tử rằng :
_ Cái gì nó thưởng-thức tất cả các
giấc mộng trong khi mình ngủ ấy là Tự-
Tính. Nó bất-tử và là Tuyệt-đối không có
sợ-hãi !
Người đệ-tử, sau khi suy-tư, mới hỏi lại
Sư-phụ :
_ Làm sao cái người khán-giả biến-
đổi của các giấc mộng lại có thể là cái
Tự-Tính chân-thật được vì Tự-Tính bất-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
dịch, bất tử, giải-thoát khỏi tội-lỗi, đói
khát, sầu khổ, phiền não, sống và chết ?
Sư-phụ thấy đệ-tử hỏi lại thế, bèn đáp :
_ Con nói có lý. Ta sẽ giảng lại
cho con, nhưng phải ở đây với ta 32 năm
nữa .
Hết thời-gian này, Sư-phụ gọi đệ-tử lại
bảo :
_ Cái gì trong lúc ngủ-say hưởng-
thụ sự yên-tĩnh hoàn-toàn và không thấy
có mộng nữa, cái ấy là Tự-Tính thật hay
là Linh-hồn bất-tử !
Người đệ-tử lại suy-tư rất lâu về lời nói
trên của Sư-phụ, và không hiểu được làm sao
mà trạng-thái hư-vô tất cả ý-nghĩ, tình-cảm,
mộng mị, cảm-giác và ý-thức về thân-thể hay
ngoại-giới lại có thể là Tự-Tính được. Y bèn lại
đến trước Sư-phụ mà thưa rằng :
_ Bạch Sư-phụ, có phải Sư-phụ bảo
cái Tự-Tính chân-thật là trạng-thái tuyệt-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
112
đối hư-vô về ý-thức, trí-thức, cảm-giác và
tình-tự ?
Sư-phụ đáp :
_ Không, đấy không phải là Tự-
Tính chân-thật. Ta xem con hiểu-biết sâu
xa, Ta sẽ giảng cho con cái chân Tự-Tính
là gì. Hãy ở đây hầu-hạ ta 5 năm nữa thôi.
Hết hạn 5 năm, Sư-phụ mới thực truyền
cho đệ-tử cái biết tối cao :
_ Cái sắc-thân thô này không có thể
là Tự-Tính được, vì nó lệ-thuộc vào sự
chết, nó luôn luôn bị cái chết đe dọa. Sắc-
thân là đất hay là dụng-cụ của Tự-Tính
vốn bất-tử và không có thân-thể. Tự-Tính
không có hình-tướng đặc-thù, bởi thế mà
tuy nó tạm thời nhập vào sắc-thân để
biểu-hiện ra người biết của thân-thể,
người hưởng-thụ những cảm-giác, người
chủ-động của tất cả hành-động mà không
biến-đổi với giác-quan, với cảm-giác, với
tất cả cái gì quan-hệ với thân-thể .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
_ Chừng nào Tự-Tính ngự tại trong
thân-thể và bị đồng-nhất với nó, thì nó
không thoát khỏi sự vui buồn sướng khổ.
Nhưng ai biết Tự-Tính như phân-biệt với
thân-thể vật-lý thì không bị đụng chạm
với vui buồn sướng khổ " .
Nhưng sao ta biết có cái gì đàng sau tâm-
thức ( mind ) ? Bởi vì trí-thức là tự-minh, và là
cơ-bản của trí-tuệ, thì không có thể thuộc về
vật chết được. Chính trí-tuệ chiếu sáng tất cả
vật khác. Sắc-thân không tự sáng, vì đức tự-
sáng không thuộc về cái gì biến-đổi, cho nên
cái đức sáng nó chiếu qua tinh-thần thì không
phải của chính nó. Đức sáng tự-minh thuộc về
cái gì tự nó có, là bản-tính của nó. Không thể
nói linh-hồn biết, mà chính nó là biết, chính nó
là sinh-tồn .
Vậy Tự-Tính Chân-như theo Huệ-Năng là
Tuệ ( Prajna ) với hoạt-động quán-chiếu của nó
là Sinh Sinh ( Prana ). Không thấy ở đâu có tri-
thức mà không tự ý-thức. Chúng ta phải biết
mình, " Tri ngã tự thân " ( Connais-toi toi-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
114
même _ Socrate ) trước khi có thể biết vật gì
khác. Chúng ta có thể không biết Tự-Tính
chân-thật của ta vì khuyết-điểm trong sự hiểu-
biết, tuy vậy chúng vẫn có một loại tự-ý-thức,
cái tia sáng Linh-tính phú-bẩm ở trình-độ
" linh hơn muôn vật " ( ) trong trời
đất, do cái đồng-nhất-thể của nguồn-sống
" Sinh sinh chi vị Dịch ". Chỉ vì cái Ngã-ác,
Ngã-si khiến cho ý-niệm mê-vọng nổi lên trên
mặt nước trong sáng bình-lặng của Tự-Tính
nên Tự-Tính ở ta bị vô-minh che lấp, nhìn
" cái thừng ra con rắn ". Bởi thế nên Huệ-Năng
mới quả-quyết :
" Tự-Tính Mê tức thị chúng-sinh,
Tự-Tinh Giác tức thị Phật " .
Mê với Giác, Vô-niệm với Vọng-niệm
không phải là hai Vật, hai thế-giới riêng-biệt,
hai con người. Trước sau vẫn chỉ có Một Phật-
Tính, một Tự-Tính, " chuyển mê mở ra ngộ "
( ) .
Nhưng ở đây có vấn-đề khó-khăn nan-
giải nhất trong lịch-sử tư-tưởng tôn-giáo cũng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
như triết-học ấy là vấn-đề quan-hệ giữa Tự-
Tính tuyệt-đối với Mê-vọng tương-đối, giữa
Giải-thoát với Hệ-lụy, giữa Thiên-Địa-Tâm với
Nhân-Tâm vậy. Đấy là vấn-đề trọng-tâm của
truyền-thống " Bất Nhị Pháp " ở Huệ-Năng
cũng như Trần-Thái-Tông .
Mở đầu " Pháp Bảo Đàn Kinh " Huệ-
Năng kể lại :
" Thời hữu nhị tăng luận phong
phan nghĩa .
" Nhất tăng viết : _ Phong động !
" Nhất tăng viết : _ Phan động !
" Nghị luận bất dĩ. Huệ-Năng tiến
viết :
_ Bất thị phong động, bất thị phan
động, nhân giả tâm động !
" Nhất chúng hải nhiên. Ấn Tông
diên chí thượng tịch, trưng cật áo nghĩa,
kiến Huệ-Năng ngôn giản, lý đáng bất do
văn tự.
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
116
" Tông vấn :
_ Hành giả định phi thường nhân.
Cửu vãn Hoàng Mai y pháp Nam lai, mạc
thị hành giả phủ ?
" Huệ-Năng viết :
_ Bất cảm !
" Tông y thị tác lễ, cáo thỉnh truyền
lại Y, Bát xuất thị đại chúng. Tông phục
vấn viết :
_ Hoàng Mai phó chúc, như hà chỉ
thụ ?
" Huệ-Năng viết :
_ Chỉ thụ tức vô, duy luận kiến
Tính, bất luận Thiền định giải thoát !
" Tông viết :
_ Hà bất luận Thiền định giải thoát?
" Huệ-Năng viết :
_ Vị thị nhị pháp, bất thị Phật pháp,
Phật pháp thị bất nhi chi pháp .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
" Tông hựu vấn :
_ Như hà thị Phật pháp, bất nhị chi
pháp ?
" Huệ-Năng viết :
_ Pháp-sư giảng Niết-Bàn Kinh,
minh Phật-Tính thị Phật-pháp bất nhi chi
pháp. Như Cao-Quí Đước-vương Bồ-Tát
bạch Phật ngôn :" Phạm Tứ trọng cấm,
tác Ngũ nghịch tội cập Nhứt xiển đề
đẳng, đương đoạn thiện căn, Phật Tính
phủ ? "
" Phật ngôn :
_ Thiện căn hữu nhị : Nhứt giả
thường, nhị giả vô thường.Phật-Tính phi
thường, phi vô thường, thị cố bất đoạn,
danh chi bất nhị. Nhất giả thiện, nhị giả
bất thiện. Phật-Tính phi thiện, phi bất
thiện, thị danh bất nhị. Uẩn chi dữ giới
phàm phu kiến nhị, trí giả liễu đạt kỳ Tính
vô nhị. Vô nhị chi Tính, tức thị Phật Tính
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
118
" Ấn-Tông văn thuyết, hoan hỷ hiệp
chưởng ngôn :
_ Mỗ Giáp giảng Kinh do như ngõa
lịch : Nhân giả luận nghĩa do như chân
kim " .
_ ( Tự Tự Phẩm đệ nhất )
( Bấy giờ có hai nhà tu đang bàn cãi
về gió và phướn .
( Một thày nói : _ Gió động !
( Một thày nói : _ Phướn động !
( Bàn cãi mãi không thôi, Huệ-Năng
bước lên nói :
_ Chẳng phải gió động, chẳng phải
phướn động, ấy là lòng người động !
( Cả bọn tỏ ra kinh hãi. Ấn-Tông
mời ta lên chiếu trên, xin hỏi nghĩa lý
thâm sâu. Thấy Tuệ-Năng này lời giản-dị
mà lý chính-đáng, chẳng do nơi văn tự .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
( Tông hỏi :
_ Hành-giả chắc không phải người
thường. Từ lâu vẫn nghe nói Y, Pháp của
Hoàng-Mai dời xuống phương Nam, chắc
là Hành-giả phải chăng ?
( Huệ-Năng nói :
_ Không dám !
( Rồi đấy, Tông làm lễ, xin đem Y,
Bát truyền lại ra cho đại chúng thấy .
( Tông lại hỏi :
_ Trong khi phó chức, ngài Hoàng-
Mai chỉ dạy thế nào ?
( Huệ-Năng nói :
_ Chỉ dạy tức là Không, duy có bàn
về thấy Tính, không bàn về Thiền-định
giải-thoát .
( Tông hỏi :
_ Sao chẳng bàn về Thiền-định
giải-thoát ?
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
120
( Huệ-Năng đáp :
_ Vì là hai pháp không phải là Phật-
Pháp, Phật-Pháp là Pháp Không-Hai .
( Tông lại hỏi :
_ Như thế nào là Phật-Pháp, là
Pháp Không-Hai ?
( Huệ-Năng nói :
_ Pháp-sư giảng Kinh Niết-Bàn, tỏ
sáng Phật-Tính đấy là Phật-Pháp là Pháp
Không-Hai. Như Cao-quí Đức-Vương
Bồ-Tát bạch Phật rằng :
_ Những kẻ phạm Bốn giới cấm
nặng, Năm tội nghịch và bọn Nhứt-xiển-
đề đáng dứt thiện-căn Phật-Tính chăng ?
( Phật đáp rằng :
_ Thiện-căn có hai, một là thường,
hai là vô-thường. Phật-Tính chẳng phải
thường chẳng phải vô-thường, cho nên
không dứt được. Gọi là Không-Hai, một
là thiện, hai là không thiện, Phật-Tính
chẳng phải thiện, chẳng phải không thiện,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
như thế gọi là Không-Hai. Ngũ-uẩn ( sắc,
thụ, tưởng, hành, thức hợp nên sắc-thân )
với Mười tám giới ( 6 căn, 6 trần, 6 thức )
kẻ phàm-phu thấy là Hai, người trí đạt
thấu-triệt cái Tính nó không Hai. Cái
Tính Không-Hai tức là Phật-Tính !
( Ấn-Tông nghe nói, vui mừng, chắp
tay mà thưa :
_ Người Giáp kia giảng Kinh dường
như ngói vụn, bậc Nhân luận nghĩa dường
như vàng thật ! )
Trên đây Huệ-Năng trình-bày quan-điểm
Thiền-Tông phương Nam Tối-Thượng-Thừa về
thực-tại tuyệt-đối của Phật-Tính là Không-Hai,
mà khởi-điểm đi từ quan-điểm dịch-động là
khởi-điểm chung của tư-tưởng Đông, Tây. Ở
đây Huệ-Năng trung-thành với truyền-thống Á-
Đông chủ-trương : ( ) " Dịch hữu
thái cực " biến-dịch hay dịch-động ắt phải có
nguyên-lý tối cao cùng cực là cái Một Tuyệt-
đối. Đứng trước thế-giới sự-vật luôn luôn dịch-
động thì tìm đến cái Một là lý dĩ-nhiên, vì có
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
122
thế thế-giới mới không phải là hỗn-độn, trôi
chảy không có thể cho người ta biết được.
Khổng-Tử đứng trên bờ sông, nhìn xuống
giòng nước chảy mà than : " Thệ giả như tư
phù bất sả trú dạ " ( )
( Trôi chảy hoài ngày đêm không thôi ! ) Thế
rồi Khổng-Tử trực-giác thấy có cái nhất-quán
bên trong thế-giới trôi chảy, nên hai phen bảo
học-trò ( ) " Ngô đạo nhất dĩ
quán chi " (Đạo của ta lấy cái Một quán-thông
tất cả ) .
Cái Một, Toàn-Nhất biến thành Vũ-trụ
với ý-nghĩa Thời-Không là một. ( ) " Vũ " là
bốn phương, trên, dưới, tức không-gian, ( )
" Trụ " là xưa qua, nay lại, tức thời-gian, theo
quan-điểm Dịch. Nhưng ngoại-giới sắc-thân
cùng nội-giới tinh-thần là những trào-lưu dịch-
động. Sự-vật bên ngoài có là tương-quan với
tinh-thần nhận-thức của ta, ta biết cái sự-vật
bên ngoài là qua cái tâm tri-giác của ta, vậy sự-
vật động trước hết là vì tinh-thần mình động.
Thế-giới ảo-hóa là vì tâm mình mê-vọng, vô-
minh. Có là quan-hệ với nhau mà có. Cái
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
nguyên-lý Một ngụ cái thực-tại hỗ-tương quan-
hệ trước hết. Huệ-Năng ở đây bảo hai nhà Sư
kia rằng tâm người động không phải gió động
hay phướn động là nói cái tâm người ta mê-
vọng nên nhìn thấy ảo-hóa, " cái thừng ra con
rắn " .
Vậy dịch-động hay ảo-hóa ở ngoại-giới là
do nội-giới dịch-động hay là Vô-minh,
" Người làm sao chiêm bao làm vậy ". Nhưng
động hay bất-động là nhận-thức của người ta,
còn ở tại bản thân của sự-vật, trước khi có
người đến nhận-thức thế này, thế nọ, thì không
biết sự-vật thế nào, cho nên Huệ-Năng đã đáp
Thần-Tú là : ( ) " Bản lai vô nhất
vật " ( Thủa đầu không có vật chi hết ), cũng
như Lão-Tử bảo :" Vô danh thiên địa chi thủy "
( ) ( Không có tên là khởi đầu
của trời đất ). Bởi vì như trong kinh-nghiệm
ngủ-say, ý-thức tri-giác của ta chưa biết có thế-
giới phi-ngã ngoại-vật với thế-giới ngã nội-
tâm. Trời đất, vật này, vật kia chưa có với
nhân-loại, chưa bị cái ý-thức nhân-loại phân-
biệt ra trời cao, đất dầy, hãy còn hồn-nhiên
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
124
cùng với nhân-loại đồng-nhất-thể, bất-khả tư-
nghị. Cái đồng-nhất-thể ấy chính là Tự-Tính,
chính là Phật-Tính cũng là Ngã-Tính, như bảo
khi Phật mới giáng-sinh, chân bước bẩy ( 7 )
bước, ngón tay trỏ lên trời, ngón tay trỏ xuống
đất, miệng tuyên-bố : ( )
" Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn "
( Trên trời dưới đất chỉ có cái Ngã là tối cao ).
Cái Ngã ấy là Atman và cũng là Brahman vì
" Cái Ấy là Mi " ( Tat twam Asi ) " Bỉ chi sinh
đẳng ư tồn " ( ). Cái Đồng-nhất
ấy không cho phép ta đối-tượng-hóa với ý-thức
của ta, nhất là ý-thức cảm nghĩ của trí-thức
danh-lý bởi vì cái ý-thức cá-nhân ấy tự trong
cái đồng-nhất-thể ấy xuất-hiện ra như từ trong
cái " Trung chưa phát " nói ở sách Trung-
Dung ( ) : ( )" Hỷ nộ ai lạc chi vị phát chi trung " ( Những tác
dụng của tâm như mừng, giận, thương, vui
chưa phát-hiện thì gọi là " Trung " ). Trạng-
thái " Trung " ở tâm-lý nhân-loại là trạng-thái
chưa có hình-ảnh gì nổi-hiện, hãy còn yên-
lặng, trong suốt như mặt nước không gợn sóng,
đấy là trạng-thái Tâm Vô-Niệm. Có Niệm là có
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
ý-thức vì Niệm là động-tác của ý-thức, vì nói
ý-thức là nói ý-thức về cái gì, và đàng sau cái
ý-thức về " cái gì " ấy còn cái ý-thức chứng-
kiến nó, tức là ý-thức của ý-thức, ý-thức về cái
Ta .
Khi Huệ-Năng nói : " Tâm của người
động " là nói cái " ý-thức " động-tác nó ý-thức
về phướn động và gió động. Rồi Lục-Tổ đi
thẳng đến vấn-đề trọng-tâm của Phật-Pháp, là
Pháp " Không-Hai ". Không-Hai có nghĩa là
không lưỡng-tính, chỉ có một và không có hai.
Một ấy là Phật-Tính, tức là Tự-Tính tuyệt-đối,
tự biểu-hiện ra thế-giới hình-danh sắc-tướng,
thiên-hình vạn-trạng như làn sóng trên mặt
nước, qua cái màng Ảo-hóa của Thời-gian
Không-gian và lý Nhân-quả, làm như có hai
thế-giới, có hai vật : Phật-Tính và Ngã-Tính,
Nước và Sóng. Kỳ thực theo quan-điểm Bất-
Nhị-Pháp thì không có hai vật, hai tính vì như
thế thì phải có sự độc-lập với nhau. Tất cả sự-
vật ta thấy đều thấy qua Không-gian, Thời-gian
và liên-hệ Nhân-quả. Đặc-trưng của thời-gian
không-gian nhân-quả là chúng có với những
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
126
vật khác. Nói đến thời-gian là phải nghĩ ngay
đến hai sự việc xẩy ra kế-tiếp nhau, và nói đến
không-gian là phải nghĩ ngay đến hai vật liên-
hệ với nhau về vị-trí, thứ-tự, hàng liệt. Không-
gian đi đôi với ý-niệm hàng liệt (juxtaposition),
và thời-gian đi liền với ý-niệm kế-tiếp
( succession ). Còn ý-niệm nhân-quả thì không
rời được với ý-niệm thời-gian và không-gian.
Sách Đại-Học đã cụ-thể-hóa bằng cái nguyên-
tắc :
" Vật hữu bản mạt, sự hữu chung
thủy, tri sở tiên hậu tắc cận đạo hỹ " .
_ (Đại-Học )
( Vật-thể trong thế-giới đều có gốc
và ngọn như cây cỏ, sự việc thì có đầu
cuối, biết chỗ trước sau thì gần với đạo-lý
rồi vậy ) .
Gốc ngọn, đầu cuối, trước sau, đấy là
cách nói cụ-thể về những phạm-trù không-gian,
thời-gian, nhân-quả, trong đó Tự-Tính biểu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
hiện ra thế-giới hình-danh sắc-tướng mà chúng
ta tri-giác. Tự-Tính như biển nước, các sự-vật
biểu-hiện như sóng biển .
" Như ba vi thủy sở hiện, hiện tướng
chi ngã dữ bản thể chi Phật do chi thủy
dữ ba. Thử bản thể vi Chân như, diệc vị
chi Phật " . _ ( Thiên-Thai )
( Thế-giới hiện-tượng như sóng hiện
trên mặt nước. Cái ngã hiện-tượng với
bản-thể Phật tương-quan với nhau như
sóng với nước. Cái bản-thể ấy là Chân-
như, cũng gọi là Phật-Tính ) .
Huệ-Năng cũng quan-niệm Phật-Pháp là
Pháp Không-Hai vì không phân-biệt Thể với
Dụng thành hai vật ví như Nước với Sóng
không rời được nhau, hay là :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
128
" Do như đăng quang, hữu đăng tức
quang, vô đăng tức ám. Đăng thị quang
chi thể, quang thị đăng chi dụng. Danh
tuy hữu nhị, thể bản đồng nhất " .
( Ví như đèn với sáng, có đèn tức thì
sáng, không đèn tức thì tối. Đèn là thể của
sáng, sáng là dụng của đèn. Tên gọi tuy
có hai, thể vốn đồng-nhất ) .
Bởi thế nên Huệ-Năng chỉ nói " Kiến
tính " ( ) chứ không nói Thiền-định giải-
thoát. Cũng không nói Thường với Vô-thường,
Thiện với Bất-thiện, cùng tất cả các lưới lưỡng-
luận bội-phản, Có Không đối-đãi của trí-thức
danh-lý. Phật-Tính là cái Tự-Tính đồng-nhất-
thể, siêu-việt và bao-hàm tất cả biểu-hiện của
chính nó, như mặt-trời với ánh-nắng, như ngọn
đèn với ánh-sáng, như nước biển với sóng biển,
tuy không phải là hai, những cũng không hẳn là
một vì đứng ở quan-điểm sóng mà nhìn thì biển
với sóng ở hình-tướng vẫn là hai, ở quan-điểm
nước thì là một thể Tính. Bởi thế mà ý-thức
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
129
nhân-loại không có thể đối-tượng-hóa được
Tự-Tính hay Phật-Tính đồng-nhất-thể .
Sóng nằm ở trong nước, ánh-sáng nằm
trong ngọn đèn, bóng nắng nằm trong mặt-trời,
cho nên phủ-nhận sóng để là nước, phủ-nhận
ánh-sáng để được ngọn đèn thì không có thể
được, vì đã phân-biệt có hai vật. Chỉ phải như
sóng lặn chìm vào nước, ánh-sáng lặn chìm vào
đèn :
" Chân như Tự-Tính khởi niệm, lục
căn tuy hữu, kiến văn giác tri bất nhiếm
vạn cảnh, nhi Chân Tính thường Tự Tại "
_ ( Định Tuệ Phẩm )
( Tự-Tính Chân-như khởi ra Niệm ;
sáu căn ( tức tri-giác ) tuy có thấy, nghe,
suy, biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh thì
Chân-Tính vẫn thường Tự-Tại ) .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
130
Vậy " Kiến Tính " ( ) là nối liền
Thể với Dụng, thấy cả hai phương-diện ảo-hóa
đối-lập cách biệt mà tự thể-hiện cái
( . _ ) " Thành tính
tồn tồn đạo nghĩa chi môn. " ( Bản-tính vĩnh-
cửu là cửa ngõ của đạo-lý vũ-trụ và luân-lý
nhân-sinh . _ Dịch Truyện ) .
" Thế nhân Tính bản thanh tĩnh, vạn
pháp tòng Tự-Tính sinh. Tư lượng nhất
thiết ác sự, tức sinh ác hành ; tư lượng
nhất thiết thiện sự, tức sinh thiện hành.
Như thị chư pháp, tại Tự-Tính trung, như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
thiên thường thanh, nhật nguyệt thường
minh. Vi phù vân cái phúc, thượng minh
hạ ám. Hốt ngộ phong súy vân tán,
thượng hạ câu minh vạn tượng giai hiện.
Thế nhân tính thường phù du, như bỉ
thiên vân. " Thiện trí thức ! Trí như nhật,
Tuệ như nguyệt, Trí - Tuệ thường minh, ư
ngoại trước cảnh, bị vọng niệm phù vân
cái phúc, Tự-Tính bất đắc minh lãng.
Nhược ngộ thiện tri thức, văn chân chính
pháp, tự trừ mê vọng, nội ngoại minh
triệt, ư Tự-Tính trung vạn pháp giai hiện.
Kiến Tính chi nhân diệc phục như thị ! " .
_ ( Sám Hối Phẩm )
( Người đời vốn có Tính thanh-tịnh,
muôn hiện-tượng pháp tướng đều do nơi
Tính sinh ra. Hễ suy-nghĩ các việc dữ,
liền sinh hành-vi dữ, hễ suy-nghĩ các sự
lành, liền sinh hành-vi lành. Như thế các
pháp đều ở trong Tự-Tính. Như trời
thường trong, mặt-trời mặt-trăng thường
sáng, bị đám mây nổi che thành ra trên
sáng dưới tối. Xẩy ra gió thổi mây tan,
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
132
trên dưới đều sáng, muôn cảnh đều hiện
ra. Người đời có tính thường trôi nổi như
đám mây trên trời kia vậy.
( Hỡi các vị thiện trí-thức ! Trí như
mặt-trời, Tuệ như mặt-trăng. Trí - Tuệ
thường sáng, bên ngoài bám vào cảnh
đối-tượng, vọng-niệm như mây nổi che
lấp Tự-Tính, không được sáng suốt. Nếu
gặp bậc hiền-trí, nghe được nói cái Pháp
chân-chính, tự mình trừ bỏ mê-vọng,
trong ngoài sáng suốt, thì ở trong Tự-Tính
muôn Pháp đều hiện lên. Người thấy Tính
( Kiến Tính ) cũng như thế ! )
Kiến-Tính nghĩa đen là " thấy cái bản-
tính " nhưng không phải có Người thấy và Vật
để thấy mà là tự thấy ( ) " Vật ngã
câu vong ", chỉ như chìm vào bể ánh-sáng vô-
biên .
D.T. Suzuky viết :
" Huệ-Năng và đệ-tử nay mới dùng
đến danh-từ Kiến-Tính ( ) thay cho
chữ cũ Khán-Tính ( ) có nghĩa là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
133
" nhìn vào trong bản-tính ( của tâm ) ".
Khán và Kiến cả hai đều liên-quan đến
thị-giác, như chữ Khán ( ) hội hợp chữ
Thủ ( ) và chữ Mục ( ) có nghĩa là
xem một vật như độc-lập với khán-giả ;
vật nhìn và động-tác nhìn là hai cá-thể
riêng biệt. Chữ Kiến gồm có cái Mục ( )
một mình trên hai cẳng ( ) có nghĩa là
động-tác thuần nhìn. Khi nó đi đôi với
chữ Tính ( ) là Bản-Tính, Bản-Thể,
Tâm thì nó có nghĩa là nhìn vào trong
bản-tính cùng tột của sự-vật chứ không
phải là đứng xem như ở hệ-thống Tăng-
Khư ( Samkhya ), Thần-Nhân ( Purusha )
ngắm nhìn Tự-nhiên ( Prakriti ) múa
nhảy. Sự nhìn không phản-chiếu vào vật
đối-tượng ví như là khán-giả không có
can hệ gì với nó cả. Sự nhìn, trái lại, đặt
người nhìn vào vật bị nhìn, cả hai không
vào chỗ đồng-nhất giản-đơn mà là trở nên
ý-thức về tự nó, hay đúng hơn về hành-
động của nó. Sự nhìn là một hoạt-động
ngụ quan-niệm động đích của Tự-Tính,
nghĩa là của Tâm. Sự phân-biệt của Huệ-
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
134
Năng về hai chữ Khán và Kiến như thế có
thể coi như là cách-mệnh trong lịch-sử tư-
tưởng Thiền vây " .
_ ( trong " Zen and the Unconscious " )
Cuộc cách-mệnh ấy đã khai sáng một
Thừa thứ ba trong Phật-giáo Á-Đông, ấy là
Tối-Thượng-Thừa :
" Một ngày kia Sãi Trí-Thường hỏi
Sư rằng :
_ Phật thuyết " Pháp Ba Thừa " lại
nói " Tối Thượng Thừa ", đệ-tử này chưa
hiểu, xin thày truyền dạy cho :
( )
" Sư nói :
_ " Nhà người quán tưởng tự bản
Tâm, đừng chấp vào hình tướng của Pháp
ở ngoài, Pháp không có bốn thừa, Tâm
người ta tự có cấp bậc khác nhau. Thấy,
nghe, truyền tụng ấy là Tiểu-Thừa. Giác-
ngộ Pháp, hiểu nghĩa, ấy là Trung-Thừa.
Nương vào Pháp mà tu-hành, ấy là Đại-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
135
Thừa. Muôn Pháp đều thông hết, muôn
Pháp đều đầy đủ, đối với hết thảy không
nhiếm, dời khỏi các hình tướng Pháp,
không được có một cái gì, thì gọi là Tối-
Thượng-Thừa. Thừa nghĩa là thực-hành,
không phải tranh-luận ở miệng. Nhà
người tự tu lấy mình, đừng hỏi ta vậy. Ở
trong mỗi lúc Tự-Tính tự như " .
_ ( Phẩm Cơ Duyên )
" Nhất thiết thời trung Tự-Tính tự như "
( ) đấy là Kiến-Tính ( )
theo Huệ-Năng, không phải thấy một đối-tượng
nào mà là " tự thấy " vậy .
Và cái Thừa tối-thượng ấy cũng chẳng
phải Thừa nữa, tuy Huệ-Năng cũng có khi gọi
là Nhất Thừa, mà kỳ thực là cái Thừa Vô-danh:
" Chỉ có một Phật-Thừa ( ).
Không có Thừa nữa, như hai, như ba, cho
đến vô số. Phương-tiện các loại là lời nói
thí-dụ vì Pháp này là Nhất Phật Thừa vậy.
Sao nhà người chẳng tỉnh, ba thứ xe là
tạm giả-định vì thời trước kia. Nhất-Thừa
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
136
là chân-thật vì thời bây giờ vậy. Chỉ dạy
người bỏ giả tạm đi mà trở về thực-hiện.
Sau khi đã về thực-hiện rồi thì thực-hiện
không có tên " .
_ ( Phẩm Cơ Duyên )
Thực-hiện ( Réalisation ) là tự bên trong
hiện ra, cái Ý-thức tự ý-thức lại nó như từ trong
giấc ngủ mà tỉnh dạy, tự giác " Bản lai diện
mục " ( ) của mình vậy. Bởi thế mà
Kiến-Tính thành Phật đối với Huệ-Năng không
có trình-độ Đốn ( ) hay Tiệm ( ) chi hết,
vì là Tự-Tính không phải là Hai : Giác với Mê,
Minh với Vô-minh, như Huệ-Năng nói với
Tiết-Giản :
" Phiền não tức thị Bồ-Đề, vô nhị vô
biệt. Nhược dĩ trí tuệ chiếu phá phiền não
giả, thử thị nhi thừa kiến giải, dương lộc
đẳng cơ. Thượng trí đại căn tất bất như
thị .
" Minh dữ vô minh, phàm phu kiến
nhị, trí giả liễu đạt, kỳ Tính vô nhị. Vô nhị
chi Tính tức thị Thực Tính. Thực Tính giả,
xứ phàm ngu nhi bất giảm, tại hiền thánh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
137
nhi bất tăng, trụ phiền não nhi bất
loạn, cư thiền định nhi bất tịch. Bất đoạn
bất thường, bất lai bất khứ, bất tại trung
gian, cập kỳ nội ngoại, bất sinh bất diệt.
Tính, Tướng Như Như, thường trụ bất
thiên, danh chi viết Đạo " .
_ ( Hộ Pháp Phẩm )
" Phiền não tức thị Bồ-Đề, vô nhị vô
biệt. Nhược dĩ trí tuệ chiếu phá phiền não
giả, thử thị nhi thừa kiến giải, dương lộc
đẳng cơ. Thượng trí đại căn tất bất như
thị .
" Minh dữ vô minh, phàm phu kiến
nhị, trí giả liễu đạt, kỳ Tính vô nhị. Vô nhị
chi Tính tức thị Thực Tính. Thực Tính giả,
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
138
xứ phàm ngu nhi bất giảm, tại hiền thánh
nhi bất tăng, trụ phiền não nhi bất
loạn, cư thiền định nhi bất tịch. Bất đoạn
bất thường, bất lai bất khứ, bất tại trung
gian, cập kỳ nội ngoại, bất sinh bất diệt.
Tính, Tướng Như Như, thường trụ bất
thiên, danh chi viết Đạo " .
_ ( Hộ Pháp Phẩm )
( Phiền não tức là Bồ-Đề, không hai
không khác. Nếu đem trí tuệ chiếu phá
phiền não, đó là kiến giải của Hai Thừa,
như các xe dê, xe hươu. Bậc đại-căn
thượng-trí thẩy chẳng như thế ….
( Sáng với không sáng, kẻ phàm-
phu thấy là hai. Bậc trí-giả đạt rồi thấy
Tính ấy không hai. Cái Tính không có hai
ấy tức là Tính thật. Cái Tính thật ấy ở nơi
phàm-phu không giảm bớt, ở với hiền
thánh chẳng tăng thêm. Đứng trong
phiền-não mà không loạn, ở trong Thiền-
định mà không chìm lặng, chẳng đứt
đoạn, chẳng thường mãi, chẳng qua chẳng
lại, chẳng ở giữa cùng là trong hay ngoài,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
139
chẳng sinh chẳng diệt, Tính với Tướng
như như, thường trụ chẳng dời, gọi tên là
Đạo vậy ) .
Cái Đạo ấy là đường lối tu-hành thích-
hợp cho cả thượng-lưu trí-thức cũng như đại-
chúng bình-dân vì là cái Đạo Vô-tướng, Bất
Nhị Pháp :
" Tâm bình, hà lao tri Giới ?
Hành trực, hà dụng tu Thiền ?
Ân tắc dưỡng phụ mẫu .
Nghĩa tắc thượng hạ tương liên,
Nhượng tắc tôn ti hòa mục
Nhẫn tắc chúng ác vô huyễn
Nhược năng toàn mộc thủ hỏa
Ứ nê định sinh hồng liên
Khổ khẩu đích thị lương dược,
Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn .
Cải quá, tất sinh trí tuệ
Hộ đoản, tâm nội phi hiền .
Nhật dụng thường hành nhiêu ích,
Thành đạo phi do thí tiền .
Bồ Đề chi hướng tâm mịch,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền ?
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
140
Thính thuyết y thử tu hành,
Thiên đường chỉ tại mục tiền " .
_ ( Nghi Vấn Phẩm )
( Tâm bình còn giữ Giới gì ?
Làm ngay còn ích lợi chi tu Thiền ?
An thì hiếu dưỡng Tổ-tiên ,
Nghĩa thì yêu dấu dưới trên một nhà .
Nhượng thì hòa mục gần xa,
Nhẫn thì mọi ác đâu mà phân tranh .
Khoan gỗ, lấy lửa công trình,
Bùn lầy nhất-định nẩy cành Hoa Sen .
Thuốc đắng, dã tật tự-nhiên .
Trái tai, ngược ý, lời hiền lời ngay .
Đổi lỗi, Trí-Tuệ sáng ngời,
Giấu diếm che đậy lòng thời mất an .
Ngày ngày làm ích nhân-dân
Bạc tiền bố-thí chẳng nên Đạo gì .
Bồ-Đề trong tâm hướng về,
Uổng công tìm lý huyền-vi bên ngoài .
Tu-hành thuyết ấy chẳng sai,
Thiên-đường trước mắt, Thiên-thai hiện tiền )
*****
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
141
TỪ VÔ-NIỆM CỦA HUỆ-NĂNG
ĐẾN VÔ-TÂM CỦA TRẦN-THÁI-TÔNG
Huệ-Năng với Trần-Thái-Tông xa cách
nhau hàng sáu trăm ( 600 ) năm, nhưng cùng
tuyến-bố đã giác-ngộ với câu Kinh Kim-Cương
Bát-Nhã ( ) " Ứng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm " ( Nên nẩy sinh cái tâm
không chấp vào đâu, không dừng lại ở nơi
nào ). Rồi Huệ-Năng, như đã trình-bày ở trên,
liền đi đến kết-luận về Thiền-học vào cái Tâm
Vô-Niệm ( ) sau khi đã được Hoằng-
Nhẫn truyền Y-Bát cho và suốt đời sống trong
rừng núi, ngoài xã-hội .
Trái lại, Thái-Tông, sống đời hoạt-động
hết sức, ở địa-vị một người lãnh-đạo nhân-dân,
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
142
bảo-vệ dân-tộc và khai-sáng xây-dựng cả một
quốc-gia trong lúc giặc-dã như giặc Mông-Cổ
xâm-lăng. Và tác-giả " Khoá-Hư-Lục " đã kết-
luận Thiền-học của mình vào cái Tâm Vô-Tâm
( ) như Ngài đã giới-thuyết bằng câu thơ
khẩu chiếm :
" Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan " .
( Nước chảy xuống khe không dụng ý
Mây bay đỉnh núi vốn vô tâm
Chớ bảo vô tâm là đạo ấy
Vô tâm còn cách ải mấy tầm ) .
Đấy là trình-bày biện-chứng-pháp Tâm-
linh Vũ-trụ, hay là cái Ý-thức Chân-không
vượt lên cả thái-độ trí-thức khẳng-định và phủ-
định, chỉ còn là Nguồn Sống sinh-thành như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
143
thiên-nhiên, hành-động " Vô sở vi nhi vi "
( ), như nghệ-sĩ Tạo-hóa :
" Hóa nhi đa hý lộng "
( Trẻ Tạo-hóa hay đùa chơi )
Chơi đùa là tâm-lý mê say không tính-
toán lợi hại nữa, hành-động như Vô-tâm, như
ngủ quên " Dormir c'est se désintéresser _
Bergson " ( Ngủ là vô-tư hóa ). Vậy Vô-tâm là
cái Tâm vô-tư-hóa, nó tác-dụng ở một bình-
diện khác với bình-diện của ý-thức lúc thức, là
bình-diện cảm-nghĩ ( sensori - intellectuel ),
bình-diện tạo-tác những ý-niệm với những dự-
kiến của giác-quan phản-ứng với ngoại-giới sự-
vật như thực-tại khách-quan đối-lập với ý-thức
chủ-quan. Ở bình-diện này ta bắt đầu ý-thức về
ta như là chủ-động, ta là cái này, ta không là
cái kia, nghĩa là ý-thức tự giới-hạn vào cá-
nhân. Mỗi ý-niệm là một cá-nhân, dù rằng
xuất-hiện chớp-nhoáng để lại biến đi như làn
sóng trên mặt nước. Đấy là bình-diện mà Thái-
Tông gọi là " Niệm niệm diệt chi " ( ).
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
144
Và cái lý-tưởng của Ngài khi niệm Phật là cốt
sao đến được chỗ dẹp tắt hết niệm, như nói ở
mục " Niệm Phật luận " ( ) :
" Dĩ niệm ý niệm, niệm niệm diệt
chi, niệm diệt chi thời, tất qui chính đạo "
( Lấy ý-niệm để ý-thức ý-niệm thì
ý-niệm với ý-niệm không có đối-tượng
nữa mà biến đi. Khi ý-niệm tác-dụng đã
tắt rồi thì hẳn là trở về với đạo chính là
Giác-ngộ hay là Vô-niệm ) .
Vậy Tâm Vô-Niệm của Huệ-Năng cũng
chính là cái Tâm-đạo của Trần-Thái-Tông hay
là Vô-Tâm. Vậy Vô-Tâm không phải là không
có Tâm mà là không có cái Tâm tác-dụng ở
bình-diện cá-nhân cảm-nghĩ. Tuy nhiên, ở chữ
" Vô-Tâm " người ta nghĩ ngay đến kinh-
nghiệm ngủ-say, thụy-miên ( ), cá-nhân
không còn ý-thức được mình nữa, không còn
chủ-động trong hành-vi, Vô-Tâm mà làm. Còn
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
145
Vô-Niệm thì người ta không nghĩ vật gì hết
( ) " Bách vật bất tư " _ ( " Định Tuệ
Phẩm " Huệ-Năng ). Tư duy là khi người ta
thức thì mới không suy-tư, nhưng còn trong khi
mộng, trong Tâm vẫn có Niệm của cái ý-thức
mộng, vẫn còn chủ-thể và đối-tượng. Và theo
Huệ-Năng thì " Chân như Tự-tính khởi niệm,
lục căn tuy hữu, kiến văn giác tri bất nhiếm vạn
cảnh, nhi Chân-tính thường tự tại " ( Tự-tính
Chân-như nổi lên niệm, sáu căn tuy có thấy
( tức là quan-năng tri-giác ) nghe, suy, biết mà
chẳng bị muôn cảnh ảnh-hưởng, thì Chân-Tính
vẫn thường tự-tại ). Như thế thì Vô-Niệm là cái
niệm Chân-như tại nguồn của Tính, chẳng khác
gì trạng-thái Vô-Tâm của Trần-Thái-Tông vậy .
Nhưng ở Trần-Thái-Tông, cái Vô-Tâm
còn có nghĩa là Nhất-Tâm, là ý-thức vũ-trụ
tuyệt-đối, bao-hàm tất cả hiện-hữu như là cái
" Thiên địa chi tâm " ( ) nói ở Kinh
Dịch :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
146
" Bỉ vật thượng năng lĩnh ngộ,
huống nhân hà bất hồi tâm ? Hoặc hữu
mai đầu khiết phạn nhi không qua nhất
sinh, hoặc hữu thố lộ tu hành nhi bất tỉnh
giá ý. Khởi thức Bồ-đề Giác-tính cá cá
viên thành. Tranh tri Bát-nhã Thiện căn
nhân nhân cụ túc. Mạc vấn Đại ẩn, Tiểu
ẩn. Hưu biệt tại gia, xuất gia. Bất câu
tăng tục nhi chỉ yếu biện tâm, bản vô nam
nữ nhi hà tu trước tướng ? Vị minh nhân
vọng phân tam giáo, Liễu đắc để đồng,
ngộ nhất tâm. Nhược năng phản chiếu hồi
quang, giai đắc kiến Tính thành Phật " .
_ ( Khuyến phát tâm Bồ-Đề )
( Các giống-vật kia còn có thể thấu
hiểu giác-ngộ huống chi loài người, sao
chẳng chú-ý vào trong Tâm ? Có kẻ vùi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
147
đầu ăn uống mà sống uổng một đời, có kẻ
tu-hành sai đường mà chẳng thức-tỉnh ý
kia. Há chẳng biết Tính-Giác Bồ-Đề ai
nấy đều toàn vẹn ? Nào có hay Căn
Thiện " Bát-nhã " người người đầy đủ.
Chớ hỏi ẩn-sĩ nhỏ, ẩn-sĩ lớn, đừng phân-
biệt người tại-gia, người xuất-gia. Chẳng
nệ vào tăng hay tục mà chỉ cốt biện biệt
lấy Tâm, vốn nó không có Tâm trai, Tâm
gái thì tại sao còn chấp vào hình-tướng.
Người chưa sáng lầm phân-biệt có ba
giáo, kẻ thấy hết đến nguồn-gốc thì cùng
giác-ngộ Một Tâm. Nếu có thể quay lại
soi xét, chiếu sáng trở về thì đều thấy
Tính mà thành Phật ) .
Trên đây Trần-Thái-Tông đồng-nhất-hóa
chữ Ngộ ( ) với chữ Minh ( ), tỏ rằng
Ngài quan-niệm cái biết thật biết không phải là
cái biết của trí-thức có năng-tri đối với sở-tri,
mà là cái biết tự biết hay là " Kiến Tự-Tính "
( ), " Ngộ Tự Tâm " ( ) để nói về
cái trạng-thái nguồn sáng của ý-thức ở trong
lúc Đức Phật đạt Chính-giác dưới gốc Bồ-Đề.
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
148
Bồ-Đề Tâm là cơ-bản của Phật-giáo Đại-Thừa,
người phát được Bồ-Đề Tâm là Bồ-Tát, tức là
có cái Tâm muốn cho tất cả chúng-sinh giải-
thoát hết đau khổ, đạt tới cảnh-giới an-lạc. Đấy
là Bồ-Đề-Tâm và là căn-bản của Phật-pháp .
Cơ-cấu của Tâm-thức theo Phật-giáo có
ba tầng-lớp hay phương-diện. Phương-diện thứ
nhất hay là ở ngoài nhất là mặt biểu-hiện và
hoạt-động tác-dụng hay là Dụng ( ), bao-hàm
tác-dụng tinh-thần về trí-thức, tình-cảm lẫn ý-
chí .
Phương-diện thứ hai hay nội-giới ở chữ
Hán gọi là Tướng ( ) mà đặc-tính của cái
Tâm ấy là tự-giác, có nghĩa là tự ý-thức về kết-
quả của ý-thức tác-dụng hay là hình-ảnh và ấn-
tượng của ý-thức thu-hoạch. Đấy là thuần-túy
kinh-nghiệm của Tâm, trong đó không có
năng-tri và sở-tri, cả hai dung-hợp làm một cá-
thể thuần-túy tri-giác. Đấy là thuần-túy tự-giác,
nội-quan và thực-nghiệm bất nhị, không hai,
nghĩa là không lưỡng-nguyên. Tự-giác là bản-
tính của Tâm không phải là tác-dụng biết, mà
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
149
chính tự nó là cái Biết. Khi người ta Tự-giác,
Tự-tri thì người ta cảm thấy toàn-thể con người
biến-hóa. Lão-Tử nói :( )
" Tri nhân giả trí, tự tri giả minh " ( Biết
người hay vật đối-tượng với mình làm sở-tri là
lý-trí, tự biết mình vừa năng-tri vừa sở-tri ấy là
sáng ). Sáng ấy cũng là hết Vô-minh ( avidya )
tới Minh ( vidya ) hay là Giác-ngộ vậy. Và theo
sách Đại-Học của Nho-giác thì người đã làm
sáng được cái Đức Sáng khắp trong nhân-quần
xã-hội, ( ) " Minh minh đức ư thiên hạ ", thì người ấy có thể đã hoàn-thành
chương-trình tu-thân, tề-gia, trị-quốc, bình
thiên hạ .
Cả ba truyền-thống chính ở Á-Đông là
Nho, Lão, Phật đều đặt cơ-bản ở tại cái Tính
Sáng bản-lai là nguồn của tác-dụng tâm-linh :
lý-trí, tình-cảm và ý-chí. Ở người nào mà tất cả
tác-dụng tâm-lý đã tập-trung cả vào một điểm
tức là đạt tới trạng-thái " Nhất-tâm ", cũng là
trình-độ hoạt-động tối cao của Tâm đến mức
sáng cực độ ( ) " Tổng trì
chúng pháp, hiển thị nhất tâm " ( Tổng-hợp tất
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
150
cả các Pháp đến chỗ nhất-quán mà biểu-hiện
sáng-tỏ một Tâm ) .
Cái Nhất-quán mà Trần-Thái-Tông nói ở
đây chưa hẳn là cái Tâm Phật, nhưng là cái ý-
thức cùng-cực của luân-hồi, bao-hàm toàn-thể
thế-giới Hình-danh Sắc-tướng ( Nama-rupa ).
Nhà Thiền-sư hiện-đại từng thực-nghiệm ở
Tây-Tạng về môn Thiền-học là Trương-
Chừng-Cơ ( ), tác-giả ( )
" Thiền Đạo Tu Tập " viết :
" Nếu cái trạng-thái Tâm-Ngộ
( ), Tự-tri ( ), Tự-giác ( )
( self - awareness ) ấy có thể giữ được và
tu-luyện thì người ta sẽ thực-nghiệm
trạng-thái sáng-tỏ của Tâm mà có nhiều
nhà Tâm-linh-học ( Mystic ) gọi là Ý-
thức thuần-túy ( Pure Consciousness ).
Khi cái ý-thức sáng chiếu ấy được tu-
luyện đến hết mức của nó, thì toàn-thể
vũ-trụ được thấy minh-bạch trong nhất-
quán của nó. Nhiều nhà Tâm-linh-học và
Phật-học đã lầm coi cái ý-thức ấy như là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
151
bình-diện tối cao, cảnh-giới Niết-bàn hay
là điểm cuối cùng của sự hợp-nhất với Ý-
thức Đại-đồng hay là Vũ-trụ ( )
" Dữ thiên địa tham ". Nhưng theo Thiền-
học bình-diện ý-thức ấy còn ở biên-giới
của ( Samsara ) = " Sinh tử luân hồi ".
Đạo-sĩ một khi đạt tới đấy hãy còn lệ-
thuộc vào ý-niệm Nhất-nguyên thăm-căn
cố-đế, không có khả-năng cắt đứt hệ-lụy
của chấp-tính tế-nhị để tự giải-thoát sang
bờ bên kia của tự-do hoàn-toàn. Bởi vậy
mà sự Tự-giác hay là hình-thức tu-luyện
của nó là ý-thức sáng chiếu tỏ ngộ, là chìa
khoá cho những thực-hiện nội-tâm về
phẩm-tính và bản-chất còn chấp-trước hệ-
lụy .
" Giác-ngộ Phật-giáo không đạt
được trong sự ngưng trụ vào tự-giác của
mình hay chú-trọng vào đấy. Trái lại sự
giác-ngộ Chính-giác ấy phải đạt tới bằng
sự diệt-trừ hay phá hủy tất cả cố-chấp vào
cái ý-thức sáng chiếu ấy ; người ta chỉ có
thể vào được nội-tâm của Tinh-thần, vào
tới cái Không-Hư sáng chiếu, hoàn-toàn
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
152
tự-do không bản-chất, bằng sự siêu-việt
khỏi cái ý-thức sáng chiếu trên đây. Cái
Tính Không-Hư Sáng-chiếu, tuy không
mà năng-động ấy gọi là Thể ( ) của
Tâm " .
_ ( Chang-Chen-Chi " The Practice of
Zen " -- Harper & Brothers, H.B. New-
York )
Theo giải-thích trên đây của Thiển-sư họ
Trương, chúng ta có thể nhận thấy cái " Nhất-
tâm " của Trần-Thái-Tông chính giống như cái
" Ý-thức Sáng-chiếu được luyện đến hết mức,
toàn-thể vũ-trụ được thấy trong nhất-quán của
nó ". Bởi vậy mới bảo : " Tổng trì chúng pháp,
hiển thị nhất tâm " nghĩa là ( Tập-trung tất cả
tác-dụng để tỏ rõ Một Tâm ). Cái Nhất-Tâm ấy
cũng chính là cái " Tâm chí thành " như nói ở
( ) " Lục thi sám hối khoá
nghi tự ":
" Thứ cơ hữu tín chi đồ, năng ư nhật
dạ phát chí thành tâm "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
153
( May ra có tín-đồ có đức tin, có thể
ngày đêm phát-động cái Tâm chí thành,
hết sức thật ).
Theo sách Trung Dung của Nho-gia, thì
chữ Thành ( ) là hội ý chữ Ngôn ( ) đại-
biểu cho tác-dụng trí-thức và chữ Thành ( )
là đại-biểu cho hành-động, hợp làm một là Tri
và Hành hợp-nhất cho nên bảo : " Thành tắc
minh, minh tắc thành " ( )
nghĩa là ( lòng thành thật thì sáng tỏ, tâm sáng
tỏ thì thành thật ). Và Tâm thành-thật đến cực
độ thì người ta cảm-thông với Thần-linh : " Chí
thành như thần " ( ) tức là phát-
triển cái đức sáng bản-lai của Tự-Tính đến hết
mức. Vậy Tâm Thành là trạng-thái tinh-thần
hết sức tập-trung vào một điểm vì " Tinh-thần
tập-trung là nguồn của tất cả trí-thức " như
Swami Vivekananda dạy trong khoa Raja -
Yoga :
" Concentration of the mind is the
source of all knowledge "
_ ( " Six Lessons of Raja - Yoga " --
Udbodhan Office, Calcutta 1928 )
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
154
Trần-Thái-Tông sở dĩ đồng-nhất-hóa cái
Nhất-Tâm của nhà Phật với Tâm-Thành của
nhà Nho là để theo lời dạy của Quốc-sư Phù-
Vân bảo ( Trong núi không có Phật, Phật ở tại
trong tâm, tâm bình lặng mà biết, ấy là chân
Phật )
( )
" Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm, tâm
tịch nhi tri, thị danh chân Phật "
Do đấy mà nhà Vua trở về xã-hội, trước
hết là để hy-sinh sở-thích cá-nhân cho gia-tộc
nhà Trần, thứ đến lãnh-đạo nhân-dân, bảo-vệ
dân-tộc và xây-dựng quốc-gia, để hy-sinh cho
đoàn-thể, trước sau thành tâm phụng-sự, ( lấy
ý muốn của dân làm ý muốn của mình, lấy tâm
thiên hạ làm tâm mình ) " Dĩ thiên hạ dục vi
dục, dĩ thiên hạ tâm vi tâm ".
( ) Đấy là ở
trong đời hành-động để thực-hiện cái tâm đạo,
để rồi cùng đi đến chỗ giác-ngộ như Huệ-Năng
về chân-lý Bát-nhã Kim-Cương : " Ứng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm " ( )
khác nhau ở chỗ một đàng xuất-thế sống với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
155
thiên-nhiên ngoài xã-hội, nhân-quần, một đàng
nhập-thế với nhiệm-vụ lãnh-đạo dân-tộc, quốc-
gia. Chính trong hành-động nhân-sinh thực-tế
mà Trần-Thái-Tông đã tỉnh-ngộ chân-lý " Nên
nẩy sinh cái tâm không vướng mắc vào đâu "
tức là tiêu-trừ cái tâm cá-nhân đến điểm Không
ngõ hầu cảm-thông với nhân-dân, rồi từ nhân-
dân cảm-thông hòa-hợp với nhịp điệu vận-hành
của thiên-nhiên qua cảm-hứng văn-nghệ " Vô
sở vi nhi vi " ( ) ( Không vì cái gì
mà làm ) .
" Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ bản vô tâm "
( Nước chảy xuống khe không dụng ý
Mây bay đỉnh núi vốn vô tâm ) .
Đấy là cái " Nhât-Tâm = Vô-Tâm " cũng
lại là cái Tâm-Thành của Trần-Thái-Tông,
giống với cái Ngã-Thành của Tâm-học Mạnh-
Tử :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
156
" Vạn vật giai bỉ ư ngã giả, phản
than nhi thành lạc mạc đại yên "
_ ( Mạnh-Tử )
( Tạo vật đều đủ cả nơi ta, trở vào
bản thân mà thành-thật thì không còn
nguồn vui thú nào lớn hơn vậy ) .
Nguồn lạc cảm vô-biên của cái Tâm
Thành mà Mạnh-Tử nói đây đã đem lại cho nhà
Vua cái mỹ-cảm kinh-nghiệm lấy thiên-nhiên
làm nguồn cảm-hứng văn-nghệ để khai-phóng
cho tâm-hồn, giải-thoát cho nhân-sinh mà từ
giã hẳn cuộc đời hệ-lụy của quốc-gia để xuất-
thế, ngõ hầu tiêu-trừ nốt cái ý-thức cá-nhân
đặng thưởng-thức ý-vị tự-do giải-thoát như
Ngài đã biểu-lộ ở bài thơ gửi cho Thiền-sư
Đức-Sơn tại Am Thanh-Phong :
" Phong đả tùng quan nguyệt chiếu
đình
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
157
Cá trung tì vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng thưởng đáo minh "
( Sân chùa trăng tỏ gió thông reo
Cảnh tình thanh khí đã từ lâu
Thú vị thiên tâm ai biết đấy
Dành riêng sư núi sáng canh thâu ) .
Đấy là thanh khí giữa hai tâm-hồn, hai
thái-độ sống, của nhà Vua nhập-thế với nhà Sư
xuất-thế, có vẻ trái-nghịch mâu-thuẫn với nhau
ở quan-điểm trí-thức danh-lý, nhưng ở quan-
điểm thực-nghiệm tâm-linh thì chỉ là hai hướng
biện-chứng thực-hiện của Một Tâm Bát-Nhã,
của một cái Tâm Vô-Tâm, giải-thoát. Bởi vì ở
tâm-lý thực-nghiệm, thái-độ nhập-thế là nói về
hạng người đem hết sức chú-ý hướng ra cuộc
đời sống thế-gian, tức là tâm-lý ngoại-hướng
( extraverti ). Còn thái-độ xuất-thế là đem sức
chú-ý hướng vào trong bản-thân mình, tức là
nội-hướng ( introverti ).
Ngoại-hướng là tìm quên mình cho tha-
nhân, từ gần đến xa, gia-tộc, quốc-tộc, thiên-
hạ, tình-yêu hoạt-động đi tìm đối-tượng cho nó,
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
158
cho đến khi tìm thấy đối-tượng bất-biến, vĩnh-
cửu ở cái đức sinh-thành vô-hạn của trời đất.
Cái ấy là cái Tâm " Bình đẳng nhất chân chi
tâm " ( ) cái đối-tượng " Pháp
thân vô tướng chi thể " ( )
_" Bình đẳng lễ nghi văn " _ Cái ấy cũng
chính là cái " Đức Duy-nhất " của Nho-gia, cái
" Đức Hiếu-sinh " chung của ba truyền-thống
giáo-lý Á-Đông :
" Nho điển thi nhân bố tức, đại kinh
ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát thị trì "
_ ( Giới Sát Sinh Văn )
( Sánh Nho thi-hành đức nhân-ái
phổ-cập, sách Đạo dạy yêu vật hiếu sống,
Phật gia chỉ giữ điều cấm giết từ-bi ) .
Ngoại-hướng cần phải có đối-tượng cho
tình-yêu để quên mình cho đối-tượng. Yêu từ
gần đến xa, từ hẹp đến rộng cho đến khi nào
chỉ còn tình yêu, vì tình-yêu hoàn-toàn vô-tư
cũng như đối-tượng nên vô-hạn, đồng-hóa với
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
159
hòa-điệu đại-đồng của năng-lực sinh-thành
sáng-hóa của vũ-trụ. Đấy là :
" Tâm kỳ phong cảnh cộng thế
thanh ! "
Cái hòa-điệu giữa tình với cảnh ấy, giữa
năng và sở như thế thì không còn người biết
với vật để biết nữa, mà chỉ còn lạc-cảm vô-
cùng .
" Cá trung ti vị vô nhân thức "
Bởi vì cả chủ lẫn khách đã hợp làm một
trong cái tâm-trạng " Trang-Chu mộng làm
Hồ-điệp " của nghệ-sĩ mà thi-hào Tagore ngày
nay đã gọi là cái " Duy nhất sáng tạo "
( L'Unité créatrice ) theo quá-trình biện-chứng
của tình-yêu :
" Toujours un et toujours deux, c'est
le chant de l'amour ! "
( Luôn luôn một và luôn luôn hai, ấy
là điệu hát của tình-yêu )
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
160
Ở đây nhà Vua cũng đi đến cái ý-thức
mộng ấy, hợp-nhất chủ-thể với đối-tượng,
nhưng đối-tượng của Thái-Tông là Đức Phật
từ-bi, chính lại là cái Tâm Thành của mình tự
đối-tượng-hóa ra, cho nên mới :
" Lễ pháp thân vô tướng chi thể !
( Lễ Đức Phật là đạo-lý cụ-thể
không có thực-thể ! )
Còn thái-độ nội-hướng của Thiền-sư
Đức-Sơn ở trong núi, lại hướng vào trong, vào
trong mãi, vượt cả tri-giác của " lục thức ", của
" ngũ uẩn " để nhập vào cảnh-giới thường-
định, thường sáng :
" Phó dữ sơn tăng thưởng đáo minh "
Nhà nội-hướng từ ngoại-cảnh quay sức
chú-ý trở vào với ý-vị bên trong tâm-hồn riêng
mình mình biết, riêng ta ta hay, như thi-hào
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
161
Nguyễn-Du, ngắm cảnh Tam-Thanh Động đã
đi đến tâm Thiền-định :
" Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly thiền " .
Trước khi đi đến cái " Tâm Không " ấy
của nhà tu Thiền với thiên-nhiên, Trần-Thái-
Tông đã hành-động phụng-sự với Tâm Thành
mà cúng dâng kết-quả của hành-động lên đấng
Từ Tôn qua chúng-sinh và chúng Thánh :
" Ngã đảng hồi tâm qui thánh chúng
Ân cần đầu địa lễ Từ Tôn
Nguyện tương công đức cập chúng
sinh
Bằng thử thắng nhân thành Chính
giác " .
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
162
( Chúng con hồi tâm về với Thánh
Dập đầu kính cẩn lễ Từ Bi
Nguyện đem công đức cho quần
sinh
Nhờ nhân tốt ấy nên Chính-giác ) .
_ ( Khóa-Hư-Lục, q. II )
Vậy Đức Từ Tôn ấy cũng là Chính-Giác,
không ở đâu xa mà ở tại nơi Tâm mình .
" Nhiệt hướng tâm lô trường cúng
dưỡng "
( Nhiệt-thành hướng vào lò tâm để
mãi mãi cúng dường )
Cứ như thế mà sức hành-động vô-tư sẽ
biến-hóa ý-thức cá-nhân thành cái ý-thức Vô-
Tâm, Vô-Niệm vậy. Bởi vì đối-tượng của sám-
hối là Đức Từ-Bi tức là đối-tượng của tình-yêu.
Hiệu-lực của tình-yêu là khi nào chủ-thể tự
đồng-nhất-hóa hoàn-toàn với khách-thể, năng-
ái với sở-ái hợp vào làm một theo biện-chứng-
pháp của tình-yêu là tuy hai mà một :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
163
" Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình dẫu một mà hai "
_ ( Tản-Đà )
hay là như R. Tagore viết :
" Toujours un et toujours deux, c'est
le chant de l'amour "
( Luôn luôn một và luôn luôn hai,
đấy là điệu hát của tình-yêu )
Huống chi đối-tượng của Sùng-bái, của
tôn-giáo tình-yêu ở đây lại là cái Tâm mình tự
đối-tượng-hóa ra, vì ( )
" Phật tức tâm, tâm tức Phật " , cho nên khi
mình tự quên mình vào Đức Từ-Bi thì chính
mình tự quên vào chính Bản-lai diện-mục của
mình vậy. Đấy là cứu-cánh của lễ sám-hối, lễ
" Pháp thân vô tướng chi thể " tức là khai-
phóng được cái Tâm cá-nhân mê-vọng đến
điểm Tâm Vô-Niệm, không chấp vào cái gì mà
sinh-thành, như Trần-Thái-Tông đã khéo mỹ-
dụ :
TRUYỀN-THỐNG-THIỀN
164
" Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý
Bản lai xuất tụ bản vô tâm "
( Nước chảy xuống núi không cố ý
Mây trắng khỏi hang vốn vô-tâm )
Đấy là hoạt-động vô-tư vô-cầu, dâng kết-
quả của hành-động lên Đức Từ Tôn vậy .
Cái Tâm Vô-Tâm đấy chính là cái Tâm ở
câu Kinh Kim-Cương :
" Ứng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm "
_ ( Kim-Cương )
( Nên có cái tâm mình không chấp
vào đâu cả ) .
Chính câu Kinh ấy đã làm cho Tổ HUỆ-
NĂNG cũng như TRẦN-THÁI-TÔNG bừng
giác-ngộ vậy .
%%%%%%%%%%%%%%%