Upload
others
View
16
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
GIÁO - LÝ ĐẠI -ĐÔNG
CỦA
VIVEKANANDA
VÀ
SƯ-PHỤ
RAMAKRISHNA
TRONG THẾ-GIỚI HIỆN-ĐẠI
*
Tác-Giả : ROMAIN ROLLAND
Dịch-Giả : NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
" Ta là sợi chỉ xuyên qua tất cả
những ý-tưởng khác nhau,
mỗi ý-tưởng là một hạt ngọc ".
_ Chúa Krishna nói .
( Vivekananda dẫn trong diễn-văn nhan-
đề " Ảo-hóa và Sự Tiến-hóa của Ý-tưởng
Thượng-Đế " . )
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
1
PHẦN THỨ NHẤT
*
TUỒNG ẢO-HÓA VÀ
HÀNH-TRÌNH VỀ TỰ-DO
Tôi không có ý-định bàn-luận ở đây toàn-
bộ về tư-tưởng của hai vĩ-nhân Ấn mà tôi vừa
kể tiểu-sử. Chất-liệu tư-tưởng của Vivekananda
cũng như của Ramakrishna không phải là sự
chinh-phục cá-nhân riêng. Nó thuộc về cái vốn
chung của Ấn-độ-giáo. Ramakrishna có tính
chất-phác và khiêm-tốn, không từng đòi cái
danh-dự sáng-lập ra một học-phái siêu-hình.
Và Vivekananda, cao-đệ của ông, trí-thức và ý-
thức hơn về học-thuyết của mình, thường biết
và nói, nó không phải mới mẻ. Hơn nữa, có lẽ,
ông đòi là bậc tiền-nhân tinh-thần trứ-danh của
mình. Ông tuyên-bố :
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
2
_ " Tôi là Çankara ! ( Tầu dịch là
Thương-Yết-La , một nhà Bất-
nhị-luận ( Advaïtiste ) trứ-danh thế-kỷ
VIII ở Ấn-Độ ) .
Cả hai ( Ramakrishna và Vivekananda )
có lẽ đã mỉm cười về cái ảo-tưởng chung này,
của thời-đại chúng ta là một người có thể tự-tin
sáng-tạo hay là sở-hữu một hình-thức tư-tưởng.
Chúng ta đều biết chắc rằng tất cả tư-tưởng của
loài người lưu-hành trong một cái vòng hữu-
hạn và chúng lần lượt hiện ra lại biến đi, nhưng
vẫn luôn luôn còn đấy. Và những tư-tưởng đối
với chúng ta có hiệu-quả như là những tư-
tưởng mới nhất, thì thường lại là xưa nhất : sở
dĩ như thế là vì đã lâu quá thiên-hạ không được
thấy ...
Vậy, bàn về con Hạc-Trời (Paramahamsa)
và người cao-đệ của Ngài, tôi sẽ không thảo-
luận về Ấn-độ-giáo. Nhiệm-vụ ấy sẽ hão-huyền
và ngoại khổ, quá lớn lao. Hơn nữa, nếu tôi
muốn đi vào căn-bản vấn-đề, thì không có thể
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
3
giới-hạn vào một mình Ấn-độ-giáo. Bản-chất
của những thực-nghiệm và quan-niệm tâm-linh
thần-bí của các Ngài, cũng như một phần kiến-
trúc siêu-hình mà những thực-nghiệm ấy là
nền-tảng và chìa khóa cửa tò-vò thì chẳng phải
đặc-biệt của Ấn-Độ như Ấn-Độ đã có khuynh-
hướng tin-tưởng. Chúng là của chung với các
đại hệ-thống siêu-hình tôn-giáo Tây-phương,
thuộc Hy-Lạp hay Cơ-Đốc. Vô-cực Thần-linh,
Thượng-Đế Tuyệt-đối, nội-tại siêu-nhiên, tuôn
ra trong dòng liên-tục của Natura Rerum
( nhan-đề tác-phẩm của Epicure về triết-lý
thiên-nhiên thần-bí ) và kết-tinh trong mảnh
vụn nhỏ nhất của nó _ Thiên-khải Thần-linh,
phổ-biến trong vũ-trụ và ghi dấu tại trung-tâm
linh-hồn _ các Đạo lớn về hợp-nhất với Năng-
lực vô-hạn và đặc-biệt con đường Phủ-định
toàn-diện, _ sự Thần-hóa của người giác-ngộ,
tự đồng-nhất-hóa với cái Nhất _ tất cả đã được
Plotin D'Alexandrie và các nhà sư-phụ đầu tiên
về tâm-linh-học Cơ-Đốc, phô-diễn mạnh mẽ,
có thứ-tự và mỹ-thuật chẳng kém gì những
kiến-trúc vĩ-đại của Ấn-Độ. Và các nhà tâm-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
4
linh-học Ấn-Độ, trái lại, có lẽ còn có lợi lớn để
nghiên-cứu .
Nhưng ai cũng biết rằng tôi không có thể
trong giới-hạn của tác-phẩm như thế này, trình-
bày, dù một cách đại-quan, các biến-chuyển
trong lịch-sử của quan-niệm về Vô-cực Thần-
linh và cái khoa-học lớn về sự hợp-nhất với
Tuyệt-đối. Đấy phải là một lịch-sử thế-giới.
Bởi vì những ý-tưởng như thế nhập-thể vào
nhân-loại, chúng thuộc về quá-khứ, hiện-tại và
tương-lại. Tính-chất của chúng thì đại-đồng và
vĩnh-cửu .
Và nếu giá-trị của chúng còn tranh-luận _
vấn-đề nghi vấn như giá-trị của tất cả những ý-
tưởng, không trừ một ý-tưởng nào _ nếu vấn-đề
ấy quan-hệ mật-thiết với vấn-đề khoa-học lớn
của " Nội điển " _ tôi không thể nêu cuộc thảo-
luận ở đây : vấn-đề ấy đòi cả một tập sách
riêng .
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
5
Ở đây tôi chỉ để tâm toát-yếu tư-tưởng
triết-lý Vệ-Đà ( Vedanta ) như đã được phát-
biểu, ngày nay, qua miệng Vivekananda .
Tất cả đại học-thuyết, trải qua các vận-hội
tuần-hoàn của nó, nó phản-ánh thời-đại nó tái-
hiện ; và nó ghi nhận dấu vết của tâm-hồn cá-
nhân mà nó đã truyền vào. Chính qua đấy, nó
ảnh-hưởng vào nhân-dân một thời. Tất cả ý-
tưởng coi như ý-tưởng thuần-túy thì còn ở
trạng-thái nguyên-tử, ví như điện-lực tràn lan
trong không-trung nếu nó không thấy được một
bộ máy tích điện mạnh của một nhân-cách. Nó
phải tự thể-hiện cũng giống như chư-vị Thần-
linh. " Và Lời nhập vào xác thịt " ( Et carofacta
est ) .
Chính cái xác thịt hữu-tử của cái ý-tưởng
bất-tử nó đem lại bộ mặt một ngày hay một
thế-kỷ của nó, và khiến nó thông-cảm với
chúng ta .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
6
Tôi muốn thử chứng-minh bộ mặt tư-
tưởng của Vivekananda bà con với bộ mặt tư-
tưởng của chúng ta là nhường nào, thân-mật
với những nhu-cầu của chúng ta, với những nỗi
lòng của chúng ta, với những khát-vọng và
hoài-nghi của chúng ta, như con chuột chũi,
đào chui theo bản-năng, tìm con đường đi ra
ánh-sáng. Người ta sẽ hiểu rằng tôi mong mỏi
chia sẻ với những ai ở Tây-phương giống với
tôi _ ( họ không ít, những ai theo tôi từ Thời
Niên-thiếu của Jean Christophe ! ) _ cái sức
hấp-dẫn mà tôi đã cảm thấy đối với người anh
cả, con đẻ sông Hằng ( Gange ), người đã thục-
hiện được thế quân-bình tối-cao của con người
cận-đại giữa những năng-lực tư-tưởng của
mình, và là một trong những người đầu tiên đã
ký hòa-giải hai thế-lực mà chúng ta là bãi
chiến-trường : Lý-trí và Tín-ngưỡng .
***
Nếu có một ý-niệm nào thật cốt-yếu đối
với tôi, _ ( và cái tôi xen vào đây chỉ như là
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
7
đại-diện cho hàng ngàn người Ấu ) _ ấy là cái
ý-niệm về Tự-do. Thiếu nó, không còn gì đáng
giá... " Das Wesen des Geites ist die Freiheit..."
( Bản-thể của tinh-thần là tự-do. ) _ ( Hegel ).
" Không gì quý hơn độc-lập _ tự-do "
_ ( Hồ-Chí-Minh, 1975 )
Những ai hiểu được giá-trị độc-nhất của
nó hơn cả là những người đã hiểu hơn hết sự
đau khổ của xiềng-xích. Hoặc vì trường-hợp
áp-bức đặc-biệt, hoặc vì chính bản-tính họ mà
xiêng-xích trói buộc làm chảy máu. Tôi chưa
được bẩy tuổi, thình-lình vũ-trụ hiện ra trước
mắt tôi như là một cái cạm-bẫy vĩ-đại mà chính
tôi đã bị mắc vào đấy. Từ đấy tất cả cố-gắng,
nỗ-lực của tôi là để thoát ra khỏi vòng xích _
cho tới ngày thanh-niên, do sức vươn lên
chậm-chạp và bền-bỉ, thình-lình một vòng xích
mở ra, và tôi thoát ra tự-do .
Những thực-hiện nội-tâm ấy đã để lại dấu
vết của chúng vào toàn-thể cuộc đời tôi khiến
cho tôi đặc-biệt gần-gũi với tâm-hồn Ấn-Độ,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
8
mà mãi sau này tôi mới biết. Cái tâm-hồn Ấn-
Độ ấy trải hàng ngàn năm cảm thấy bị bao vây
trong một mạng lưới khổng-lồ, và kể từ hàng
ngàn năm nó đã tìm thấy những phương-tiện để
luồn qua mắt lưới. Sự vượt ngục thường-xuyên
khỏi cái cạm luôn luôn giăng bẫy ấy đã truyền
vào cho tất cả thiên-tài Ấn-Độ, thần-linh nhập-
thể, thánh-hiền, triết-gia hay là thi-sĩ, một lòng
ham mê tự-do, thanh-tân và nhiệt-thành không
bao giờ chán mỏi _ ( vì nó luôn luôn bị đe dọa )
_ mà tôi thấy ít có mô-thức nào cảm-kích bằng
con người Vivekananda .
Con chim đà-điểu, cũng như Pascal của
chúng ta, bay từ cực này sang cực kia, khắp cả
vòm trời tư-tưởng, vỗ cánh từng hồi : từ vực
thẳm nô-lệ sang hố sâu tự-do. Có lúc thì người
ta nghe tiếng kêu bi-kịch, khi nào người ta gợi
ra cho ông cái chuỗi giây tái-sinh :
_ " Những kỷ-niệm của một đời
khác nào hàng ngàn năm tù-ngục ! Vậy
mà người ta còn muốn gọi dậy kỷ-niệm
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
9
hàng ngàn đời ! Mỗi ngày, đủ khó-nhọc
của nó ... " _ ( 1899 _ trong cuộc du-lịch
lần thứ hai sang Tây-Âu ) .
Có lúc ông ca-tụng sự vẻ-vang của đời
sống :
_ " Đừng nên quên vinh-quang của
tình nhân-loại ! Chúng ta là Thượng-Đế
lớn nhất từng đã có và sẽ có mãi. Những
đấng Cơ-Đốc và những đức Phật chỉ là
các ngọn sóng trên mặt đại-dương vô-
hạn, là Tôi Tồn-tại ." _ ( 1896 _ trong
những vấn-đáp ở vườn Ngàn Đảo bên
Mỹ-quốc ) .
Không mâu-thuẫn chút nào, vì đối với
ông cả hai tâm-trạng con người đi đôi cùng có :
_ " Trong Tự-do vũ-trụ yên-nghỉ "
_ ( 1896 _ trong bài diễn-thuyết về Maya
ở Londres ) .
Và tuy thế, ở mỗi vận-động của ông, mỗi
thực-thể làm cho những giây nô-lệ vào sâu hơn
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
10
trong da thịt của ông. Hai tính-tình pha-trộn
âm-điệu bất-hòa du-dương ấy, theo kiểu
Heraclite, thì đối-lập với khúc đồng-âm bình-
lặng và tối-thượng của đức Phật Bouddha.
Phật-giáo dạy người đời :
_ " Hãy thực-hiện tất cả cái này là
ảo-huyễn."
Và Vedanta Bất-nhị-pháp dạu :
_ " Hãy thực-hiện trong ảo-huyễn là
thực-tại ." _ ( nói chuyện giữa
Vivekananda ở Londres với đệ-tử
Nivedita vào năm 1900 ).
Không có gì của thế-giới bị phủ-nhận ; và
Maya = Ảo-huyễn có thực-tại của nó. Chúng ta
bị trói buộc trong cái mạng lưới hiện-tượng. Có
khôn-ngoan, kiêu-hãnh hơn và căn-bản hơn,
như Phật-giáo cắt đứt bằng phủ-định toàn-thể
mà nói :
_ " Chúng không có thực ."
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
11
Nhưng nhân-loại hơn và giầu lửa lạc-thú
thương-tâm của những cắt xé bi thảm, mà
người ta muốn được biết với bất cứ giá nào để
rồi nói :
_ " Chúng có thật. chúng có thật là
cái mồi giả ."
Và để rồi tự dứt khỏi nhìn vào tâm gương dạy
sáo kia mà khám phá rằng đấy là trò đùa ánh
nắng mặt-trời. Trò chơi của mặt-trời Brahman
là Maya = Ảo-hóa, nàng đi săn với cái lưới của
mình là Thiên-nhiên, Tạo-hóa .
_ " Hãy biết rằng Tạo-hóa là Maya
= Ảo-hóa, và người cai-quản Ảo-hóa ấy
là chính Chúa Tối-cao ." _ ( Çvetaçvatara
Upanisad ) .
Trước khi đi xa hơn, hãy đánh tan cái sự
hàm hồ nó làm sai lạc ý-nghĩa Maya Ảo-Hóa
đối với độc-giả Tây-phương, cả độc-giả có học
nhất, ý-nghĩa đúng như nó đã được nhà trí-thức
Vedanta vĩ-đại ngày nay quan-niệm ; và đồng
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
12
thời sự sai lạc ấy dựng lên giữa ông ta với
chúng ta một bức tường ngăn cách giả-tạo.
Chúng ta lầm gán cho Maya Ảo-hóa ý-nghĩa
toàn-thể Ảo-huyễn, thuần-túy hư-ảo, khói mù
không lửa : do đấy chúng ta giữ ý-kiến miệt-thị
người Đông-phương, cho họ là bất-lực để tóm
bắt thực-tại sinh-tồn như chúng ta, họ chỉ nhìn
thấy ở đấy chất-liệu của một giấc mộng. Và
trong trạng-thái nửa thức, nửa ngủ, im-lìm,
nằm dài, đăm đăm nhìn lên trời xanh thăm-
thẳm, họ để cho cái mộng đời trôi nổi lênh-
đênh, như trong trời thu phất-phới sợi tơ nhện
phiêu-lưu .
Nhưng, tôi tưởng trung-thực với chân tư-
tưởng Bất-nhị-pháp - Vedanta vĩ-đại cận-đại
như nó đã thể-hiện qua Vivekananda, để chứng
minh trái lại rằng quan-niệm về Tạo-hóa Thiên-
nhiên không khác xa mấy với cái quan-niệm
của khoa-học chúng ta hiện nay, Vivekananda
có dành riêng nghiên-cứu về Maya một số bốn
bài diễn-văn đọc ở Londres năm 1896 :
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
13
1/ Maya và Ảo-hóa
2/ Maya và sự tiến-hóa trong quan-niệm
Thượng-Đế
3/ Maya và Tự-do
4/ Tuyệt-đối và sự Biểu-hiện. ( Tức thế-
giới hiện-tượng ) .
_ Thường ông hay nhắc lại vấn-đề trong
những cuộc nói chuyện vấn-đáp và những tác-
phẩm triết-học và tôn-giáo khác của ông . _
Tinh-thần Bất-nhị-pháp Vedanta chân-
chính không bắt đầu từ một hệ-thống những tư-
tưởng. Nó tự-do tuyệt-đối và mạnh-bạo, không
một tôn-giáo nào bì kịp đối với những thực-
hiện quan-sát và những giả-thuyết đề-nghị để
hệ-thống-hóa chúng. Đã không có đoàn-thể
tăng-sĩ để ràng buộc, nó để cho mỗi người
hoàn-toàn tự-do cầu tìm bất cứ ở đâu tùy ý lấy
giải-thích tâm-linh cho cảnh-tượng vũ-trụ.
Cũng như Vivekananda nhắc nhở, đã có một
thời người ta có thể thấy bên cạnh nhau các nhà
tín-ngưỡng, các người vô-thần, các người duy-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
14
vật cực-đoan đều truyền-bá học-thuyết của
mình trong cùng những nhà-thờ như nhau ; và
tôi sẽ chứng tỏ sau đây Vivekananda công-
nhiên tán-dương các nhà duy-vật lớn của khoa-
học Tây-phương. Ông nói : _ " Tự-do là điều-
kiện duy-nhất cho tiến-bộ tinh-thần. " _
Âu-Châu sớm biết thực-hiện tự-do hay là
tranh-thủ tự-do rất có nghị-lực hơn Ấn-Độ
nhiều trong phạm-vi chính-trị, nhưng đã thất
bại lớn ( và còn tưởng-tượng nữa ) trên bình-
diện tâm-linh. Sự không thông-cảm với nhau
và không dung lẫn nhau của các nhà mệnh-
danh là " tự-do tư-tưởng " và của các giáo-hội
tôn-giáo không còn là vấn-đề làm chúng ta
ngạc-nhiên : tâm-trạng bình thường của người
Âu trung-bình có thể thu vào một câu :
_ " Chân-lý, ấy là tôi ! "
Bất-nhị-pháp-luận Vedanta vĩ-đại gần
như thu nhận lới nói của Whitman : " Tất cả là
Chân-lý. " Nó không từ bỏ một chút nào trong
các khái-luận giải-thích đưa ra ; nó tìm trong
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
15
tất cả để lọc ra cái hạt thực-tại bền lâu : Do đấy
nó có thái-độ tự-do đối với các khoa-học cận-
đại mà nó cho là những biểu-hiện thuần-túy
nhất của ý-thức tín-ngưỡng chân thật _ nghĩa là
sự nỗ-lực tham-thấu và thành-thực, để tóm bắt
bản-thể của Chân-lý .
Quan-niệm Maya ( Ảo-hóa ) tham-gia
vào cái tâm-trạng ấy. Vivekananda nói : _ " Nó
không phải một lý-thuyết để giải-thích vũ-trụ.
Nó là một trình-bày thuần-túy và đơn thuần
những thực-kiện," bất cứ ai quan-sát. " Nó là
cái gì chúng ta là, cái gì chúng ta nhìn thấy, "
và thực-nghiệm. Chúng ta đứng trong thế-giới
mà chúng ta chỉ có thể đạt tới bằng những
phương-tiện ( và không bảo-đảm về giá-trị,
đáng hoài-nghi ) của tinh-thần và giác-quan của
chúng ta. Thế-giới này chỉ có trong liên-hệ với
chúng. Nếu chúng biến-đổi, thế-giới sẽ biến-
đổi theo. Vậy, sự thật tồn-tại chúng ta gán cho
nó thì không có thực-tại bất-di bất-dịch, bất
biến, tuyệt-đối. Sự tồn-tại ấy xuất-phát tự một
mớ pha-trộn bất-định của thực-tại và ảo-ảnh,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
16
của sác-thực và hư-huyễn. Không có cái này
mà thiếu cái kia. Và sự mâu-thuẫn ấy _ không
có gì là lý-thuyết cả ! vì nó nắm cổ họng
chúng ta bất cứ lúc nào trong cuộc đời dục-
vọng và hành-động _ sự mâu-thuẫn ấy đã được
tất cả tinh-thần sáng suốt của thế-giới, tự cổ chí
kim, trải qua các thời-đại, đã tri-giác thấy. Đấy
chính là điều-kiện của tri-thức chúng ta, nó
luôn luôn vươn lên những vấn-đề không đáy
mà chìa khóa đối với nó cũng thiết-yếu như
tình-yêu và cơm bữa, thì tự bản-tính nó không
có thể vượt ngoài vòng không-khí bắt buộc của
phổi nó được. Và sự mâu-thuẫn thường xuyên
giữa khát-vọng của chúng ta với cái bức tường
nó ngăn chặn chúng lại, giữa hai bình-diện của
thực-tại mâu-thuẫn không cùng chung một
kích-thước, giữa sự thực phũ-phàng và có thực
của sự chết và ý-nghĩa không kém phần thực-
tại trước mắt không sao chối cãi của sự sống,
giữa mệnh-lệnh tuyệt-đối của một số định-luật
trí-thức và đạo-đức với giòng trôi chảy lên
xuống không ngừng của tất cả những quan-
niệm tinh-thần và con tim. _ Những biến-đổi
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
17
liên-tiếp về điều thiện, điều ác, về lẽ phải và
trái, bên này bên kia, giới-tuyến không-gian
hay thời-gian _ tất cả cái nút rắn quấn khúc,
trong ấy nạn-nhân Laocoon của tư-tưởng nhân-
loại ngay từ ngày đầu đã thấy bị xiết, và ngay
từ ngày đầu, nó không ngừng cởi gỡ một đầu
để lại cảm thấy xiết chặt hơn ở một đầu _ tất cả
cái ấy chính là thế-giới thực-tại. Và thế-giới
thực-tại là Ảo-hóa ( Maya ) ..
Vậy có chữ nào có thể giới-thuyết được ?
Chỉ có một chữ, và chính là chữ mà khoa-học
ngày nay mới đem vào thời thượng : chữ
Tương-đối ( Relativité ). Vào thời-đại Vive-
kananda, nó vừa mới ló lên chân-trời ; ánh-
sáng của nó còn chưa viên-mãn để tràn-ngập cả
bầu trời đêm tối của tư-tưởng khoa-học ; và
Vivekananda chỉ mới dùng lướt qua trong bài
diễn-văn thứ IV về Maya. Nhưng rõ ràng đấy là
nghĩa chính-xác quan-niệm của ông ; và đoạn
văn trích-dẫn sau đây cho ta hết nghi-ngờ :
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
18
" Điều thiện và điều ác không phải
hai mặt của sinh-tồn cách biệt. Điều thiện
một ngày có thể là điều ác ngài mai. Lửa
có thể lần lượt hay là đồng thời nuỗi
dưỡng và đốt cháy. Người ta không có thể
đình-chỉ tội ác mà không đình-chỉ việc
thiện. Người ta không có thể đình-chỉ cái
chết mà không chấm dứt sự sống... Mỗi
một trong hai thành-phần đối-lập là một
biểu-hiện khác nhau của cùng một thực-
tại... Giáo-lý Vedanta = Bất-nhị-pháp dạy
ta rằng chúng ta đi đến một lúc mà nhìn
lại đàng sau, chúng ta cười thầm về
những lý-tưởng chúng ta đã bám chặt lấy
tuyệt-vọng, trong lo sợ mất cái cá-tính
của chúng ta ."
_ ( Diễn-văn về Maya và Huyễn-ảo )
Chỉ có danh-từ biểu-thị là sai khác. Bất-
nhị-pháp, Vedanta ( nghĩa là nhất-nguyên vô-
ngã tuyệt-đối ) mà ông là đại-biểu lớn nhất cận-
đại, tuyên-bố rằng Mâyâ không có thể giới-
thuyết bằng không sinh-tồn, cũng chẳng phải
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
19
bằng sinh-tồn. Vậy nó là trạng-thái giữa Có,
Hữu, và Không, Phi-Hữu, Vi và Vô-Vi, cả hai
tuyệt-đối. Bởi thế nó là Tương-Đối _ Nó chẳng
phải sinh-tồn, vì như Bất-nhị-pháp Vedanta Ấn
nói, nó là trò chơi của Tuyệt-Đối. Nó chẳng
phải Vô-Vi, Phi-sinh-tồn, bởi vì cái trò hý-lộng
có thật, chúng ta không thể phủ-nhận. _ Và đối
với loại người phổ-thông ở Âu-Tây chúng ta,
tự mãn với trò chơi, miễn là trong ấy họ được,
thì nó là toàn-thể sinh-tồn vừa đủ : cái Bánh xe
khổng-lồ nó quay, giới-hạn chân trời của
chúng. Nhưng đối với những tâm-hồn mãnh-
liệt thì chỉ có sinh-tồn xứng đáng với danh-từ
ấy là Tuyệt-đối. Họ phải bắt được nó và thoát
khỏi Bánh xe. Đấy là tiếng kêu của nhân-loại
trải quan hàng thế-kỷ, nó thấy những ngày sống
là cát bụi lọt qua ngón tay và tất cả cái gì mà
nhân-loại đã xây-dựng, tình-yêu, hoài-bão, sự-
nghiệp, và chính cả cuộc đời .
"... Những bánh xe thế-giới là một
bộ máy ghê-gớm ; nếu chúng ta đặt tay
vào, chúng ta liền bị thu hút và đi đời.
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
20
Chúng ta, thẩy đều bị cuốn theo cái guồng
máy toàn-năng và phức-tạp của vũ-trụ . "
_ ( Karmayoga ch. VIII )
Làm thế nào và ở đâu tìm thấy con đường
tự-do ?
***
*
Bởi vì đối với một người như Viveka-
nanda hay là bất cứ ai bẩm-thụ tinh-thần anh-
dũng, thì không có vấn-đề ném khí-giới trước,
giơ tay lên hàng, nhẫn-nhục một cách tuyệt-
vọng, hay là tệ hơn ! giống như bọn bất-khả tri-
luận, bịt mắt lại để nhắc đi nhắc lại khẩu-hiệu
" Ta biết được gì ? " mà bắt lấy những lạc-thú
vụn vặt đi qua mơn trớn da thịt , như những dòi
bọ trôi theo giòng nước ! ... Tiếng kêu của tâm-
hồn, cái bụng đói lớn kia, ai sẽ làm cho nguôi ?
Chẳng phải những mảnh thịt vụn có thể bịt đầy
được miệng há hốc của nó. Và tất cả những
bông hoa hưởng lạc của Epicure không ngăn
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
21
nổi những khát-vọng chồm lên như những con
ngựa của Orcanga vẽ trên nghĩa-địa Campo
Santo ( nghĩa-địa danh-tướng của Pise thế-kỷ
XIII ) đang hít hơi xác chết hôi thối. Con người
kia phải ra khỏi nghĩa-trang, khỏi vòng các hố
chôn, bãi thiêu xác chết. Tự giải-thoát hay là
chết nếu cần để được tự-to !
_ " Thà chết trên chiến-trường còn
hơn là sống một đời thất-bại ! "
Cái tiếng nói lớn ấy của Ấn-Độ xưa mà
Vivekananda gán cho đức Phật, mới nhắc lại
cho nghe thì theo ông, nó là châm-ngôn, khẩu-
hiệu ghi trên cửa quan của tất cả các tôn-giáo,
điểm khởi đầu cuộc hành-trình muôn thủa.
Nhưng nó cũng là khẩu-hiệu và châm-ngôn của
tất cả tinh-thần khoa-học lớn : _ " Tôi muốn
vạch cho tôi một con đường đi đến Chân-lý, tôi
hiến cả cuộc đời để chinh-phục;" _ ( Diễn-văn
về Maya và Tự-do ) .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
22
Đối với cả hai đàng, khoa-học và tôn-
giáo, động-cơ đầu tiên giống nhau. Mục-đích
mong muốn cũng giống nhau : Tự-do. Bởi vì
nhà bác-học tin vào những định-luật thiên-
nhiên và cầu tìm khám-phá ra chúng, chẳng
phải là để làm chủ chúng và bắt chúng phụng-
sự tinh-thần, mà sự hiểu-biết về chúng đã giải-
phóng. Và các tôn-giáo của tất cả thời-đại đã
tìm gì ? Cái tự-do tối cao ấy, mà mỗi cá-nhân
đã bị từ-chối, các tôn-giáo đã đối-tượng-hóa
thành một Thượng-Đế, một Thực-thể tối cao,
rộng lớn hơn, quyền-năng hơn, không bị liên-
hệ chút nào _ ( bất cứ hình-thức nào hay là vô-
hình, tưởng-tượng ) _ và các tôn-giáo đã chinh-
phục tự-do qua trung-gian của người chinh-
phục : Thượng-Đế, Chư-vị Thần-linh, Tuyệt-
đối hay là ngẫu-tượng ; chúng là đại-lý do
nhân-loại chế-định để thực-hiện tại chỗ và địa-
vị những khát-vọng vĩ-đại, mà nó không có thể
nào tìm thấy mãn-nguyện trong đời sống hay là
học hỏi để vượt qua : bởi vì chúng là cơm bánh
hàng ngày trong đời sống, lý-do chính để tốn-
tại .
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
23
_ " ... Tất cả như vậy đều đi về tự-
do. Chúng ta hết thảy đều hành-trình về
tự-do ."
_ ( Diễn-văn " Maya và Tự-do " )
Và Vivekananda nhắc lại giải đáp huyền-
bí của Ảo-nghĩa-thư ( Upanisads ) cho câu hỏi
mọi người đã đặt ra :
_ " Vấn-đề là : Vũ-trụ này là gì ? Từ
đâu nó xuất-hiện ? Vào đâu nó đi đến ? _
Và lời đáp : Trong tự-do nó sinh thành.
Trong Tự-do nó tồn-tại. Trong Tự-do nó
biến đi ."
_ " Chúng ta không có thể bỏ được
cái ý-niệm Tự-do, Vivekananda nói tiếp :
Không có Tự-do ta mất hết thực-thể. " _
Và ở đấy không còn cả đến vấn-đề khoa-học
hay tôn-giáo nữa, phi lý hay hợp lý, thiện hay
ác, thù hận hay yêu thương :
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
24
_ " Tất cả chúng-sinh tạo-vật, không
trừ vật nào, đều nghe tiếng gọi về Tự-do."
Và tất cả noi theo như những trẻ con theo
người thổi sáo, Rattenfänger. Cả đến quần-
chúng thế-gian hung tợn là do tất cả phấn-đấu
lẫn nhau xem ai sẽ noi theo sát hơn thuật-sĩ và
đạt tới đích hứa hẹn. Nhưng hàng triệu nhân-
vật ấy nhắm mắt hùa theo sô đẩy như mù, và
chẳng hiểu ý-nghĩa thực của tiếng gọi. Chỉ có
ai đã đi đến hiểu biết nó, đồng thời sẽ khám
phá không những ý-nghĩa mà còn hòa-điệu của
chiến-trường, trong đó tất cả hành-tinh vận-
hành là dân-tộc huynh-đệ, trong đó tất cả người
sống thánh-hiền và phạm tội, tốt và xấu ( như
người ta mệnh danh cho chúng tùy theo chúng
tiến hành, khập-khễnh hay là thẳng-thắn,
nhưng đều đi đến cùng một đích ) tất cả sô đẩy
nhau hay đoàn kết với nhau đều đi về đối-
tượng duy-nhất là Tự-do .
Vậy không phải là mở con đường về tự-
do một Đạo mới lạ, mà là làm cho loài người
NGUYỆN-ĐĂNG-THỤC
25
đang hoang-mang biết rằng bằng ngàn đường
hơn hay kém chắc chắc, hơn hay kém thẳng
thắn, chúng hết thảy đều đi vào đấy _ và làm
sao giúp chúng ra khỏi sa-lầy chúng lặn lội, ra
khỏi bụi rậm, trong đó chúng bị xâu xé, mà chỉ
cho chúng thấy trong hàng ngàn đường lối,
những đường lối thẳng, đường La-mã, đường
cái-quan, những Đại Đạo-dẫn ( Yogas ) _ :
Hành-động ( Karmayoga : Đạo Nghiệp ) ;
Tình-yêu ( Bhaktiyoga : Đạo Sùng-bái ) ; Tri-
thức ( Jñanayoga : Đạo Giác-ngộ ) .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
PHẦN THỨ HAI
*
NHỮNG ĐẠI ĐẠO
BỐN ĐƯỜNG ĐẠO-DẪN
( YOGAS )
Danh-từ " Đạo-dẫn " ( Yogas ) đã bị tổn
hại ở Tây-phương bởi tất cả những kẻ quỷ-
thuật và chuyên môn lường gạt đem sử-dụng
đê-tiện. Những phương-pháp ấy của tinh-thần
vì căn cứ vào sinh-tâm-lý-học mà thực-nghiệm
đã được theo đuổi hàng nhiều thế-kỷ, bảo đảm
cho ai đã thâu-hóa được chúng để có một tự-
chủ tâm-linh, thì chúng tất nhiên không có gì là
thần-bí truyền vào nó những phương-tiện hành-
động hiệu-năng mạnh mẽ _ ( Một tâm-hồn lành
mạnh và đầy đủ là cái cần bẩy của Archimède :
hãy tìm cho nó lấy chỗ tựa ! nó bẩy cả thế-
giới ) _ chính những phương-tiện ấy, có thực
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
28
hay giả-thiết mà chủ-nghĩa ích-dụng vụ-lợi của
hàng ngàn kẻ bị lừa bịp đã sô vào, mà chủ-
nghĩa tâm-linh thô-tục không khác chi mấy với
một bài tính bán mua : tín-ngưỡng trở nên món
tiền mặc cả để mua được những hạnh-phúc
trần-gian : tiền-của, thế-lực, sức khoẻ, vẻ đẹp,
sức cường-tráng... ( Cả đến những quảng cáo
của thầy thuốc xấu sa và pháp-thuật đáng gnờ
trên các nhật-báo... ) Không một nhà Ấn-Độ-
giáo thành-tín nào lại không ghê-tởm cái cách
khai-thác đệ-tiện ấy ; và không ai hơn là
Vivekananda để mạnh mẽ nói lên điều ấy. Đối
với con mắt của tất cả tín-đồ vô-tư, đấy là dấu-
hiệu của một tâm-hồn trụy-lạc để chuyển-
hướng thành nô-lệ-hóa thậm-tệ con đường
người ta vạch ra cho nó đi đến giải-thoát. Và
tại khúc rẽ đầu tiên, nó vội bỏ Tiếng gọi của
Linh-hồn Vĩnh-cửu để theo dấu những dục-
vọng của xác thịt, của kiêu-hãnh hay là của
quyền-năng xuất-hiện trên đường đi .
Những Đạo-dẫn ( Yogas ) chân-chính của
Bất-nhị-pháp Vedanta cao-đẳng theo như
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
Vivekananda trình-bày trong những luận-
thuyết của ông là một qui-phạm của tinh-thần,
cũng như các triết-gia Tây-phương đã tìm kiếm
trong " Phương-pháp-luận " _ ( Descartes )
ngõ hầu đi theo con đường thẳng đến Chân-lý.
Và con đường thẳng ấy, đúng như ở Tây-
phương là con đường thực-nghiệm và lý-trí .
_ " Không một Đạo-dẫn ( Yogas )
nào đòi các anh bỏ lý-trí và giao nó vào
tay giáo-sĩ hay một sứ-giả siêu-nhân. Mỗi
khoa Đạo-dẫn đều nói với anh phải bám
chặt lấy lý-trí của mình, phải giữ vững
lập-trường với tất cả sức-lực của mình ."
_ ( Jñanayoga : " Lý-tưởng về một tôn-
giáo đại-đồng " )
Nhưng sự khác biệt chính là trước hết đối
với triết-gia Đông-phương tinh-thần không
phải tự giới-hạn vào một mình trí-tuệ ; và sau
nữa là tư-tưởng là động-tác và chỉ có động-tác
mới bảo-đảm giá-trị của tư-tưởng. Con người
của đất Ấn-Độ ấy mà người Âu-Tây sẵn có
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
30
khuynh-hướng tưởng là một tín-đồ mù-quáng
đem vào tín-ngưỡng của nó những đòi hỏi
hoài-nghi như lối Thánh Thomas, người sứ-đồ :
nó muốn sờ thấy ; bằng chứng trừu-tượng
không đủ thỏa-mãn được nó, và nó có quyền
cho người Tây-phương tự mãn với bằng-chứng
ấy tức là hão-huyền...
" Nếu Thượng-Đế có thật thì phải có
thể tới được...Tôn-giáo chẳng phải lời
nói, hay là học-thuyết. Nó là thực-hiện.
Nó không phải là nghe và nhận. Nó là
thực-thể và trở nên. Nó bắt đầu với sự
thực-hành năng-khiếu thực-hiện tôn-
giáo... "
Có lẽ độc-giả đã để ý nhận-thức trong
các trang trên đây rằng sự cầu tìm chân-lý
đồng-hóa với cầu tìm tư-do. Hai danh-từ đồng-
nhất : _ Đối với Tây-phương thì hai thế-giới
khác biệt : sự suy-luận và hành-động, lý-trí
thuần-túy và lý-trí thực-tiễn _ ( và chúng ta đã
biết quá cái hố chăng thép gai, mà dân-tộc triết-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
học nhất của Âu-châu, dân-tộc Đức, đã đào sâu
giữa hai đàng như thế nào.) _ Đối với Ấn-Độ
chúng là cùng một thế-giới như nhau : nghĩa là
_ khả-năng và ý-chí. " Ai biết là thành ". Vậy,
" khoa-học chân-chính là giải-thoát ."
Cái khoa-học chân-chính ấy phải có hiệu-
năng, nếu không thì chỉ là một trò chơi của
tinh-thần. Nó phải có khả-năng hành-động vào
tất cả loài người. Và nhân-loại căn-bản thu về
ba đại mô-thức : Hoạt-động, Cảm-súc và Suy-
tư. Khoa-học chân-chính đã đi vào ba hình-
thức : Động-tác, Yêu-thương và Tri-thức _
( Karma, Bhakti, Jñāna ) cả ba đều có chung
một cửa vào ( Propylée ) là Năng-học
( Energétique ), khoa-học về năng-lực nội-tại,
ý-thức, kiểm-soát và làm chủ những năng-lực
ấy : khoa Đạo-dẫn Đại-cương ( Rajayoga ) .
Cứ như lời các nhà Ấn-Độ do bá-tước
Keyserling phỏng-vấn và sẵn-sàng biều-đồng-
tình theo giới quí-phái của ông, thì trong ba
con đường Đạo-dẫn, con đường Động-tác
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
32
( Karmayoga ) là thấp hèn nhất. Tôi ngờ rằng
đối với cái tâm giác-ngộ của một vị như
Ramakrishna thì còn có con đường nào là " cao
quí " và con đường nào " thấp hèn ". Tất cả cái
gì đi đến Thượng-Đế là của Thượng-Đế. Và tôi
biết chắc rằng đối với một người như
Vivekananda, huynh-đệ nhiệt-thành của những
kẻ yếu-hèn và nghèo-khó, thì con đường nào
mà chân chúng đã đi qua thì đều thánh-hóa :
_ " Chỉ có những kẻ điên rồ mới bảo
là hành-động và triết-học khác nhau, chứ
không phải những nhà hiền-triết... Tất cả
các khoa Đạo-dẫn ( Yogas ) : đạo Hành-
động ; đạo Hiền-triết và đạo Nhân-ái, đều
có khả-năng dùng làm phương-tiện trực-
tiếp và độc-lập để đi đến giải-thoát
Moksha ( tự-do, cứu-độ ) ".
Và hãy xem tinh-thần độc-lập của các nhà
đại tín-ngưỡng tôn-giáo Ấn-Độ ! Nó khác xa
với lòng kiêu-hãnh giai-cấp của các nhà bác-
học và tín-ngưỡng Tây-phương của chúng ta !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
Nhà quí-phái, bác-học, khải-ngộ Vivekananda
không lưỡng-lự để viết :
" Một người có thể không từng học
một hệ-thống triết-học nào, nó có thể
không tin vào một Thượng-Đế nào và
chưa từng có tín-ngưỡng, chưa từng bao
giờ cầu-nguyện lấy một lần trong đời
mình, mà nếu chỉ có năng-lực đơn thuần
của việc thiện, đã đưa đến cái trình-độ
sẵn-sàng hiến đời mình và tất cả cái gì
mình có và tất cả cái gì mình hiện-tại cho
tha-nhân, thì như vậy là nó đã đạt tới
trình-độ tối-cao mà như nhà tín-ngưỡng
tôn-giáo có thể thành-tựu bằng cầu-
nguyện và nhà triết-gia bằng tri-thức :
nghĩa là đạt tới Vô-tâm ( Nivritti ), quên
mình ... "
_ ( Karmayoga _ Vivekananda )
Như thế là không tìm ngẫu-nhiên qua
đồng điệu của những đại tâm-hồn, hiền-triết
Ấn-Độ tiếp nối với Thánh-giáo thuần-túy của
đất Galilée .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
- I -
ĐẠO HÀNH - ĐỘNG
( Karmayoga )
Trong bốn Phúc-Âm của Vivekananda _
trong bốn Đạo-dẫn _ không một đạo nào mà
giọng thâm-trầm hơn và cảm-động hơn là
Phúc-Âm về Hành-động : _ Karmayoga .
Tôi trích-dẫn một số đoạn văn liên-hệ hóa
chúng với lời nói dẫn trên có vẻ ảm-đạm về
Bánh-xe Vũ-trụ mù-quáng, nó lôi cuốn và
nghiền nát chúng ta :
" Những xoay vần của thế-giới là
một cơ-quan ghê gớm ; nếu chúng ta thò
tay vào đấy, chúng ta liền bị bắt lấy và
tuyệt-vọng. Chúng ta thẩy đều bị trói
buộc vào cái bộ máy vũ-trụ cường mạnh
và phức-tạp. Chỉ có hai lối thoát. Lối thứ
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
36
nhất là từ bỏ tất cả lo lắng về bộ máy, để
cho nó xoay vần và đứng ra bên ngoài...
Nói thế thì dễ dàng, nhưng kỳ thực hầu
như không có khả-năng làm được như
thế. Tôi không biết có một trong hàng vài
chục triệu người có thể làm được không...
Lẽ dĩ-nhiên là một khi chúng ta từ bỏ
luyến chấp vào cái vũ-trụ nhỏ nhen này
của giác-quan hay là tinh-thần, chúng ta
sẽ được tự-do ngay tức thì. Khi nào người
ta vượt quá giới-hạn của Định-luật, ra
ngoài Luật Nhân-quả thì xích sắt của nô-
lệ rơi xuống... Nhưng có ai đạt tới thái-độ
hoàn-toàn ấy vậy ? Ít lắm ! ...
" Còn một lối thoát thứ hai, không
phải là tiêu-cực chút nào mà là tích-cực...
Nó cốt là lặn vào trong thế-gian và khám-
phá trong ấy, bí-quyết của hành-động,
động-tác. Không tìm trốn tránh vần xoay
của bộ máy, nhưng ở tại đấy để học hỏi
điều-khiển vận-hành, học làm việc. Đấy
là con đường của Đạo Nghiệp, Đạo Hành
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
( Karma yoga ) ; nó bắt đầu đi từ trong và
nó dẫn đưa ra ngoài ...
" Vạn-vật tất cả đều phải làm
việc, hành-động trong vũ-trụ này... Giòng
suối sô xuống núi chảy vào khe làm thành
thác đổ, và sau một cuộc phấn-đấu nó
thoát ra thành giòng nước chảy tự-do theo
đuổi con đường của nó, không gặp
chướng ngại. Mỗi đời sống con người
cũng như giòng nước ấy. Nó đi vào vần
xoay, bị mắc vào trong thế-giới của
Không-gian, của Thời-gian và của Nhân-
quả, nó quay cuồng một lúc, kêu gọi : _
" Cha tôi ! Anh em tôi ! Tên tuổi tôi !
Danh-tiếng tôi !... Rồi sau cùng nó trở ra
và chinh-phục tự-do của nó. Tất cả vũ-trụ
đều như thế. Biết hay không biết, chúng
ta đều làm việc để ra khỏi cuộc xoay vần
quay cuồng. Và chính để trở nên đủ khả-
năng mà người ta trải qua kinh-nghiệm ...
" Vũ-trụ toàn-thể làm việc. Để làm
gì ? Để vì tự-do. Từ nguyên-tử cho đến
tối-cao vật-thể, tất cả làm việc vì cùng
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
38
một mục-đích : tự-do thân-thể, tự-do tinh-
thần. Tất cả vạn-vật đua nhau tìm giải-
thoát nô-lệ. Mặt-trời, mặt-trăng, trái đất,
tinh-tú đều chạy trốn. Những năng-lực
thiên-nhiên chạy trốn trung-tâm hay là sô
vào trung-tâm... Đấy là Đạo Hành-động
( Karmayoga ) nó khai mở cho chúng ta
ý-nghĩa, bí-quyết, phương-pháp hành-
động, động-tác, khả-năng tổ-chức của nó.
Hành-động, làm việc là tất-yếu ; nhưng
chúng ta phải làm việc vì mục-đích tối-
cao ... "
Và cái mục-đích tối-cao ấy là gì ? Phải
chăng là bổn-phận, luân-lý hay xã-hội ? Phải
chăng là lòng ham làm việc nó đốt cháy Faust
( nhân-vật trong vở kịch của Goethe ) luôn luôn
khao khát, mắt đã mờ tắt, và cho đến ngưỡng
cửa nhà mồ còn muốn khiến nó khuấy động và
uốn nắn vũ-trụ theo như ý muốn ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
Không ! Vivekananda sẽ trả lời, gần như
luận-điệu của Méphistophélès nhìn Faust ngã
xuống :
" Nó cố theo đuổi với tình-yêu của
nó những hình-thái biến đổi. Phút cuối
cùng, khốn-nạn, rỗng không, con người
khổ sở ấy muốn nắm giữ lại ! ... "
" Đạo Karmayoga nói : Hành-động,
làm việc không ngừng, nhưng hãy từ chối
tất cả hệ-thuộc vào việc làm ! Tinh-thần
anh hãy tự-do... Đừng phóng vào nó cái
vòi vị-kỷ : Tôi ... Của Tôi ... "
Tự-do cả đối với tất cả tín-ngưỡng, đối
với tất cả Bổn-phận ! ... Và chính đối với cái
ngẫu-tượng sau ấy, nhỏ nhen và rầu rĩ của Bổn-
phận tiểu tư-sản, mà ông ta kiêu-ngạo mỉa mai
nhất :
_ " Đạo Karmayoga dạy chúng ta
rằng cái ý-niệm phổ-thông về Bổn-phận
còn ở bình-diện thấp kém. Chắc hẳn tất cả
chúng ta, ai nấy đều phải làm bổn-phận
của mình. Nhưng cái ý-thức đặc-biệt về
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
40
bổn-phận rất thường là nguyên-nhân của
khốn-nạn. Bổn-phận biến thành một
bệnh-hoạn... Đấy là tai-họa của đời
người... Hãy xem kia, những kẻ nô-lệ cho
Bổn-phận ! Bổn-phận không còn để cho
chúng thời-giờ cầu-nguyện, tắm rửa...
Bổn-phận luôn luôn đè lên chúng. Chúng
về nhà và nghĩ đến bổn-phận của ngày
mai. Bổn-phận đè trên đầu chúng ! Đời
sống của nô-lệ cuối cùng, nó ngã gục trên
đường phố và chết trong yên cương của
một con ngựa. Đấy là Bổn-phận như
người ta quan-niệm ...
" Không phải thế ! Chỉ có Bổn-phận
chân-chính là không bị lệ-thuộc và làm
việc như loại tự-do. Hãy dâng việc làm
của chúng ta lên Thượng-Đế ! Tất cả bổn-
phận của chúng là của Ngài. Hạnh-phúc
thay cho chúng ta là chúng ta đã bị chỉ-
huy dưới thế-gian này ! Chúng ta có thời-
hạn dịch-vụ của chúng ta để làm. Chúng
ta làm được tốt hay xấu, ai là người biết
cho ? Nếu chúng ta làm tốt, chúng ta
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
không được hưởng kết quả. Nếu chúng ta
làm xấu chúng ta cũng không phải lo ấu.
Hãy thuận-hòa ! Hãy tự-do ! Và hãy làm
việc ! ...
" Cái loại tự-do như thế chắc hẳn là
khó mà đạt được... Dễ dàng biết bao để
giải-thích như là bổn-phận, sự nô-lệ, sự
lệ-thuộc bệnh-hoạn vào xác thịt ! Mọi
người đi vào đời tranh-đấu cho tiền của
hay là cho dục-vọng. Hãy hỏi chúng tại
sao chúng làm thế, chúng bảo : " Ấy là
Bổn-phận ! ... " Chính là lòng tham vô lý
vì vàng và vì của mà chúng cố lấy hoa
che đậy... Khi nào một hệ-lụy đã thành
định-chế ( ví như hôn-nhân ) chúng ta gọi
là Bổn-phận. Sự thực đấy là một thời
bệnh. Nhưng chúng ta chỉ gọi là bệnh khi
nào nó là bệnh kịch ; khi nào nó kinh-niên
cố tật thì chúng ta gọi là thiên-tính và
chúng ta làm lễ đặt tên : Bổn-phận ! ...
Chúng ta khua chuông, đánh trống, thổi
kèn, dâng hoa, kéo đèn, chúng ta đọc kinh
xưng tán ; và rồi thì cả thế-giới đánh
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
42
nhau, và loài người chửi nhau hăng say vì
yêu quý cái Bổn-phận ấy ! ... Đối với loài
người thấp kém không có thể có được lý-
tưởng nào khác, thì Bổn-phận có chút ích-
dụng ; nhưng những ai nhằm vào Đạo
Hành-động ( Karmayoga ) phải vứt bỏ cái
ý-niệm Bổn-phận ấy đi. Chẳng làm gì có
bổn-phận cho các anh và cho tôi cả. Tất
cả cái gì các anh phải đem cho thế-giới
thì hãy cho đi, không tiếc rẻ, nhưng
không phải vì Bổn-phận. Không cả nghĩ
đến đấy nữa ! Không nên để bị bắt buộc !
Tại sao các anh bị bắt buộc. Tất cả cái gì
anh làm vì bắt buộc là để tạo nên hệ-lụy.
Tại sao anh có thể có bổn-phận gì ? Hãy
phó-thác cho Thượng-Đế ! Trong cái lò-
cừ vĩ-đại này, lửa bổn-phận nung nấu
toàn-thể thế-giới, hãy nhắp chén rượu
thần cam-lộ và hãy vui sướng. Chúng ta
chỉ lo thi-hành thiên-mệnh và không bận
tâm đến thưởng hay phạt. Nếu anh muốn
có thưởng thì phải chịu phạt. Chỉ có một
lối thoát khỏi hình phạt là từ bỏ ân
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
thưởng. Một cách độc-nhất tránh tai-họa
ấy là từ bỏ hạnh-phúc, bởi vì cả hai hỗ-
tương quan-hệ với nhau. Một cách độc-
nhất thoát khỏi chết là không ham sống.
Sự sống và sự chết là cái nhìn theo
quan-điểm khác nhau. Ý tưởng hạnh-phúc
không đau khổ, sống không chết, là để ru
ngủ trẻ con học sinh. Nhưng nhà tư-tưởng
nhận-thức điều nọ không điều kia là luận-
điệu tuần-hoàn, và y từ bỏ cả hai ..."
_ ( Karmayoga, ch. VII )
Người ta thấy sự say mê Tự-do vô-hạn ấy
dẫn đến điểm cực-đoan nhường nào của siêu-
thoát nhân-loại. Và rõ-ràng là một lý-tưởng
như thế không những người bình-dân không
theo được, mà vì giải-thích lầm cực-đoan của
nó, nó dễ đưa đến thái-độ vô-tình thờ-ơ đối với
tha-nhân cũng như đối với chính mình và đi
đến diệt tắt hành-động xã-hội. Nếu mất sự
kích-thích của cái chết thì sự sống cũng mất
nốt ; vậy còn cái gì để khích-động cho thuyết-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
44
lý Phụng-sự, là cốt-tủy của giáo-lý, của nhân-
cách Vivekananda ?
Nhưng luôn luôn phải ghi nhớ mỗi bài
diễn-thuyết hay luận-văn của Vivekananda là
nói và viết cho hạng người nào ? Vì tôn-giáo
của ông cốt-yếu thực-tế và thực-hiện, nó luôn
luôn nhằm vào hành-động thì sự biểu-thị của
nó tùy theo công-chúng mà nó muốn ảnh-
hưởng. Một tư-tưởng sâu rộng và phong-phú
như thế thì không có thể một lúc thâu tóm tất
cả được. Phải chọn trong những quan-điểm. Ở
đây Vivekananda nói với người Mỹ. Không có
chi nguy-hiểm để ông thuyết thái-quá về sự
quên mình và hành-động ; nhà Đạo-sĩ chú ý
vào cực-đoan trái nghịch, vào đức tính của xứ
hải-ngoại .
Khi ông nói với dân Ấn, ông lại là người
đứng đầu để tố-cáo trái lại những điên cuồng
bất-nhân mà cực-đoan tôn-giáo về siêu-thoát có
thể đưa đến. Lần ở Mỹ-quốc trở về năm 1897,
khi có một giáo-sư già ở Bengale, tín-đồ của
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
Ramakrishna trách ông rằng : " Tất cả điều ông
nói về từ-thiện, về phục-vụ về tế-độ thế-gian,
tất cả điều ấy rút cục là trong phạm-vi Ảo-hóa
( Maya ). Triết-học Vedanta chẳng đã dạy ta
rằng mục-đích của ta là cắt đứt hết cả hệ-lụy
trói buộc đấy ư ? Vậy thì tại sao còn tạo thêm
hệ-lụy khác ? "
Vivekananda mỉa mai trả lơi ông này
rằng :
_ " Nói như thế thì ý-niệm giải-thoát
( Mukti ) chẳng phải cũng trong phạm-vi
Ảo-hóa ( Maya ) đấy ư ? Triết-học Bất-
nhị-pháp chẳng dạy ta rằng Tự-Ngã
( Atman ) luôn luôn tự-do đấy ư ? Vậy thì
tại sao còn nỗ-lực tìm giải-thoát ? "
Và một mình, với đệ-tử, ông chua chát
nói rằng những ý-tưởng như thế về Veda Bất-
nhị-pháp đã làm tai hại xứ sở vô kể.
Ông quá hiểu rằng không một hình-thức
siêu-thoát nào mà chủ-nghĩa Vị-Ngã không có
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
46
cách ẩn-náu ; và đấy là một mặt-nạ đặc-biệt
ghê tởm về sự cầu tìm giải-thoát giả-dối cho
một mình mình, không nghĩ đến người khác.
Ông luôn luôn nhắc nhở đạo-sĩ Hành-khất
( Sannyasin ) rằng họ có hai điều nguyện, và
nếu điều thứ nhất là " thực-hiện chân-lý " , thì
điều thứ hai là " tế-độ thế-giới ". Sứ-mệnh
riêng của ông và sứ-mệnh của đệ-tử ông là mở
tháo những giáo-lý chính của Vedanta Bất-nhị-
pháp khỏi nơi ẩn-cư vị-kỷ của một thiểu-số
đặc-quyền ưu-đãi, để phổ-biến cho tất cả hạng
người và thích-ứng với phương-tiện của chúng.
" Trí-thức Bất-nhị-pháp ( Vedanta Advaïta ) đã
quá lâu giấu kín trong các hang động và rừng
sâu, tôi có sứ-mệnh khai-phóng nó khỏi tình-
trạng tàng-ẩn và đem nó vào giữa đời sống gia-
đình và xã-hội... Chúng ta khua trống Bất-nhị-
pháp ( Advaïta ) trong tất cả gia-đình, giữa các
chợ, trên đồi núi và chốn đồng-bằng ."
Cho tới những ngày chót mà thân-thể bị
bệnh-tật dầy-vò, tâm-hồn ba-phần-tư siêu-thoát
khỏi tất cả những lo lắng của người đời và đã
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
chinh-phục được quyền siêu-thoát bằng sự-
nghiệp thành-tựu, bằng cả một đòi hy-sinh _
vào lúc mà ông bảo rằng : " tinh-thần ông
không có thể trở về đời vì ông đi quá xa vào
cõi chết rồi." _ người ta hỏi về công việc hàng
ngày, ông còn để trừ ra một ngoại-lệ duy-nhất
cho việc làm của mình, cho sự-nghiệp của
mình .
Mỗi thời-đại của nhân-loại có việc làm
riêng của nó mà nó bị bắt buộc. Thời-đại chúng
ta là phải nâng-đỡ đại-chúng bị bóc lột, lừa dối,
trụy-lạc một cách vô-liêm-sỉ bởi chính những
hạng người đáng lẽ phải hướng-dẫn chúng và
trợ giúp chúng. Cả đến người anh-hùng chiến-
thắng và thánh-nhân, một khi đến ngưỡng-cửa
giải-thoát tối-cao cũng phải trở lại để tế-độ hay
giúp đỡ anh em ruột thịt mình đang nằm xuống
hay bò lê. Người vĩ-nhân nhất sẽ là người từ-
chối cả đến thực-hiện đại Nghiệp (Karmayoga)
riêng của mình để giúp người khác thực-hiện
đạo của họ. _ " Giúp cho mọi người đứng lên,
độc-lập một mình, và tự làm lấy đạo Nghiệp
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
48
( Karmayoga ) của chúng." _ ( Vivekananda
nói với đạo-hữu , 1897 ) .
Vậy không có chi đáng lo sợ sự-phụ đạo
Nghiệp ( Karmayoga ) từng bao giờ hy-sinh
đàn con chiên của mình cho lý-tưởng riêng, có
lẽ tuyệt-diệu nhưng bất-nhân đối với đa số
quần-chúng vì nó vượt quá bản-tính chúng.
Không một giáo-lý nào đã tỏ ra thông-cảm
những nhu-cầu tâm-linh của mỗi người, từ
người hèn hạ đến người cao quí, hơn là đạo
Nghiệp ( Karmayoga ). Trong tất cả cố-chấp,
trong tất cả cuồng-tín, giáo-lý ấy đều nhìn thấy
nguyên-lý của nô-lệ và tiêu-diệt tinh-thần .
_ " Người ta, trước hết phải biết làm
việc không lệ-thuộc như thế nào, và bấy
giờ người ta mới khỏi thành cuồng-tín...
Nếu không có chủ-nghĩa cuồng-tín trên
đời thì thế-giới sẽ tiến-bộ hơn. Chủ-nghĩa
cuồng-tín là yếu-tố chậm tiến... Khi nào
các anh gạt bỏ được nó đi, chỉ lúc ấy các
anh mới làm việc được tốt... Các anh
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
nghe thấy những kẻ cuồng-tín tuyên-bố :
" Tôi không ghét người có tội, tôi chỉ ghét
tội lỗi thôi !... " Phải không ? Này tôi sẵn
sàng đi đến tận góc bể chân trời để được
thấy mặt người nào có thể thực phân-biệt
được tội-lỗi và người có tội !... "
_ ( Karmayoga, ch. V ) .
Thái-độ duy-nhất nó bắt buộc cho sự giải-
thoát là mỗi người tự biết lý-tưởng riêng của
mình và tự nỗ-lực thành-tựu ; hay là nếu nó
không có thể tự mình khám-phá ra cái lý-tưởng
ấy, thì đấy là phận-sự của sư-phụ giúp đỡ nó,
nhưng không bao giờ thay-thế cho nó được.
Luôn luôn và bất cứ ở đâu, nguyên-lý đạo
Nghiệp ( Karmayoga ) chân-thật được nhắc đi
nhắc lại là phải " làm việc tự-do ", " làm việc
vì tự-do, làm như người chủ, chứ không phải
như một đứa nô-lệ . "
_ " Cốt-yếu của giáo-lý là anh phải
làm việc như một ông chủ chứ không phải
như một kẻ nô-lệ. Làm việc bởi tự-do !
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
50
Khi nào anh làm việc như nô-lệ, vì những
mục-tiêu thế-tục, thì đấy không phải là
thực làm việc. Làm việc vị-kỷ là một việc
làm của nô-lệ... Hãy làm việc không hệ-
lụy ! "
_ ( Karmayoga, ch. III )
Bởi thế cho nên không có vấn-đề làm việc
theo lời thày dạy. Lời của thày chỉ có thể có
hiệu-lực nếu ông thày tự quên mình vào người
ông khuyên bảo, phối hợp với bản-tính nó, giúp
nó biện-biệt bản-tính ấy và hoàn-thành luật-
pháp riêng của nó bằng những phưong-tiện cá-
nhân của nó .
Đấy là bổn-phận mà nhà tổ-chức Hành-vi
động-tác nhân-loại khôn-ngoan như Viveka-
nanda đã tự vạch ra cho mình. Nó bao-gồm và
cai-quản toàn bộ đẳng cấp đạo Nghiệp
( Karmayoga ) như là một đại công-trường xây-
dựng, trong đó những hình-thức và trình-độ
khác nhau của công-lao hợp-tác được xếp đặt
có trật-tự trong đại sự-nghiệp chung .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
Song, danh-từ " công trường ", " trình
độ", " trật-tự " không có ngụ-ý trên hay dưới
trong hàng-ngũ khác nhau của công-nhân. Đấy
là thành-kiến khoe-khoang mà nhà quí-phái
cao-đẳng không thừa-nhận. Ông không thiết-
lập cấp bậc giữa công-nhân, nhưng là sự khác
biệt giữa nhiệm-vụ gán cho chúng .
_ " Điều trọng-yếu là phải biết rằng
có những thứ bậc của đạo Nghiệp
( Karmayoga ). Bổn-phận của một trạng-
thái sống trong toàn-bộ trường hợp không
phải là không có thể là bổn-phận của một
trạng-thái sống khác... Mỗi người phải
biết lý-tưởng riêng của mình và nỗ-lực
hoàn-thành : đấy là con đường tiến-bộ
chắc chắn hơn là mượn những lý-tưởng
của một người khác mà mình không bao
giờ có thể thực-hiện được ."
_ ( Karmayoga, ch. III )
Nhiệm-vụ bề ngoài có vẻ cao quý nhất và
hào-nhoáng hơn cả, chẳng phải là danh-vị cao
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
52
cả chân-thật hơn hết. Và nếu người ta có thể
nhận-xét trong sự phán-đoán của Vivekananda
về những nhiệm-vụ ấy, thấy chút thiên-tư, thì
sự thiên-tư sẽ nghiêng về cho những người hèn
mọn, những kẻ chất-phác :
_ " Để xét về tính-cách một người,
chớ nên lấy những hành-vi lớn của y. Bất
cứ đứa ngu xuẩn nào cũng có thể trở nên
anh-hùng lúc này hay lúc khác. Nhưng
hãy quan-sát một người trong sự hoàn-
thành những hành-vi tầm thường nhất của
y. Chính là những hành-vi ấy mới cho
chúng ta biết về tính-cách xác-thật.
Những cơ-hội lớn nâng lên cả những kẻ
thấp hèn nhất. Những người thật là vĩ-
nhân thì vĩ-đại trong đời sống bình-
thường nhất ."
_ ( Karmayoga, ch. I )
Nói đến sự sắp thứ hạng trong những
người làm việc, như vậy chúng ta sẽ không lấy
làm ngạc nhiên thấy Vivekananda xếp lên hàng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
53
đầu lại không phải những người có danh tiếng,
đội hào-quang vinh-dự và được tôn thờ _
không, cả đến đấng Cơ-Đốc và đức Phật. Chính
là những bậc vô-danh, những vị âm-thầm,
những " chiến-sĩ không tên tuổi " .
Trang đại-luận nghiêm-túc. Ai được đọc
sẽ không quên :
_ " ... Những bậc vĩ-nhân nhất đã đi
qua không ai biết. Những vị Phật và Cơ-
Đốc mà đời được biết đều là bậc thứ, so
với những vĩ-nhân hơn kia mà đời chẳng
biết mảy-may. Hàng trăm những vĩ-nhân
vô-danh đã từng sống ở mỗi nước ; các
Ngài làm việc âm-thầm ; các Ngài sống
âm-thầm, và âm-thầm các Ngài chết. Với
thời-gian, tư-tưởng của các Ngài thấy
được biểu-thị ở những Phật và Cơ-Đốc ;
và các vị này mới được chúng ta biết.
Những nhân-vật vĩ-đại nhất không tìm
danh tiếng chi hết. Họ để lại tư-tưởng của
họ cho đời ; họ không đòi hỏi chút gì cho
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
54
mình cả ; họ không dựng nên học-phái
hay là hệ-thống mang tên họ. Bản tính
của họ không ưa điều ấy. Họ là những
thuần túy Sattvikas, không từng làm ồn-
ào, nhưng tự hòa vào tình thường...
Gautama Bouddha nói Ngài là đức Phật
thứ hai mươi lăm. Hai mươi bốn vị trước
Ngài thì lịch-sử không biết, mặc dù vị thứ
hai mươi lăm chúng ta được biết đã phải
xây-dựng trên nền móng của các vị trước
đã đặt. Các đại vĩ-nhân đều yên lặng. Ấy
là vì họ biết năng-lực thật của tư-tưởng.
Họ biết rằng dù họ có nhập vào trong một
hang động, đóng kín cửa lại, và suy-tư
năm tư-tưởng thật chân, năm tư-tưởng ấy
cũng thông suốt núi non, vượt qua đại-
dương du hành khắp cả thế-giới. chúng
nhập vào tận đáy lòng, vào trí óc, chúng
làm nẩy sinh các trang nam, nữ họ biểu-
thị cụ-thể ra hành-động nhân-sinh...
Những đấng Phật và những đấng Cơ-Đốc
sẽ đi khắp nơi này sang nơi khác truyền-
bá những chân-lý ấy... Những hạng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
55
Sattvikas còn gần với Thượng-Đế quá để
đi ra hành-động và để phấn-đấu, để
truyền-bá và để làm việc thiện cho nhân-
loại, như người ta nói trên mặt đất này... "
_ ( Karmayoga, ch. III )
Và Vivekananda không tự cho một chỗ
đứng trong hạng thứ nhất ấy. Ông lùi xuống
hàng hai hay là hàng thứ ba : ngôi thứ của việc
làm hoàn-toàn không chút động-cơ vị lợi .
" Kẻ làm việc hơn cả là kẻ làm việc
không chút động-cơ, không vì tiền tài,
không vì danh tiếng, không vì chi hết. Và
khi nào có người có thể làm được điều ấy,
y sẽ là Phật Bouddha. Và tự ở thân Ngài
xuất ra một năng-lực làm việc, nó sẽ biến
đổi thế-giới đi. Người ấy đại-diện cho lý-
tưởng cao nhất của đạo Nghiệp
( Karmayoga ) " .
_ ( Karmayoga_ Kết-luận của ch. VIII )
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
56
Bởi vậy nên những Chiến-sĩ hành-động
ấy ( Sattvikas ) đã vượt quá khuôn khổ của đạo
Nghiệp ( Karmayoga ) ; họ đã sang bến bên kia
rồi. Vivekananda còn ở lại bến bờ của chúng ta.
Lý-tưởng của ông về cái toàn-năng hoạt-
động nó là phóng-sạ của tư-tưởng tâm-linh, dù
có xuất thế-gian, hẳn rằng không làm ngạc
nhiên tâm-hồn tôn-giáo Tây-phương ; tất cả
giới mặc-tưởng lớn của chúng ta đã từng biết
qua .
Và tư-tưởng tục-thế cao nhất ngày nay
cũng có thể tự nhận thấy ở đấy ; vì rằng ở trong
hình-thức dân-chủ cái sự tôn-trọng nhiệt-tình
mà những hàng thiện-chí của chúng ta tỏ ra đối
với hàng ngàn kẻ thầm lặng mà đời sống cần-
lao hèn hạ và tâm niệm là cái gì khác, nếu
không phải là kho-tàng dự-trữ năng-lực anh-
hùng và thiên-tài của dân-tộc ? Người viết
những giòng sách này, tuy không có công gì
khác, có thể chứng minh việc làm của mình
suốt sáu mươi năm không ngừng nghỉ cũng là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
57
bằng chứng sống động của những thế-hệ nhân-
công âm-thầm mà y đã là tác-phẩm và y là
người đại-diện cho tiếng nói của chúng. Suốt
trong nhiệm-vụ dài của y, và y gục vào nơi
bản-thân cố nỗ-lực bắt nghe tiếng nói nội-tâm,
thì tiếng nói của những người vô-danh nổi lên
vang dậy như biển hải-triều bốc thành mây để
mưa xuống sông ngòi _ dân-tộc câm lặng mà ý-
thức không biểu-lộ chính là thực chất của tư-
tưởng tôi và điều-khiển ý-chí tôi. Hễ tiếng
động ngoại-giới tắt đi thì tôi liền nghe thấy
mạch máu dân-tộc chạy trong đêm tối .
_ " Những người có ý-chí mãnh-liệt
luôn luôn đã là những công-nhân vĩ-đại,
đã từng làm việc trải qua hàng thế-kỷ."
Những đấng Phật và những đấng Cơ-Đốc
đã có thể có được là " nhờ sự tích-lũy
năng-lực do việc làm từ các thế-kỷ ."
_ Karmayoga )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
59
- II -
ĐẠO SÙNG-BÁI
( Bhaktiyoga )
Con đường thứ hai dẫn đến Chân-lý _ đến
Tự-do _ là con đường của tâm-cảm :
Bhaktiyoga = Sùng-Bái. Và đến đây tôi nghe
thấy các nhà trí-thức của chúng ta kêu lên theo
luận-điệu quen tai : " Chỉ có chân-lý với lý-trí
còn tâm-cảm chỉ là, và chỉ có thể là nô-lệ-hóa
và lộn-xộn." _ Nhưng tôi van họ hãy ở lại tại
con đường của riêng họ, tôi sẽ gặp lại họ ở đấy
lát nữa. Nó là con đường độc-nhất thích-hợp
với họ ; họ rất có lý, cố giữ lấy ; nhưng họ đòi
tất cả các tinh-thần đều khu-khu ở đấy thì họ
rất lầm. Không những như thế là không hiểu
tính phong-phú phồn-tạp của tinh-thần nhân-
loại mà còn tính-chất căn-bản sinh động của
chân-lý nữa. Họ không lầm khi họ tố-cáo
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
60
những nguy-hiểm của sự nô-lệ và sai lạc mà
con đường tâm-cảm đem lại ; nhưng họ quá
lầm mà nghĩ rằng trên con đường lý-trí không
có những nguy-hiểm tương-tự. Đối với nhà đại
" Biện-biệt " ( Viveka ) trên tất cả các con
đường tinh-thần vươn lên qua một hàng bậc
thang sai lầm phần bộ và xác thật phần bộ, cởi
bỏ hết bộ áo nô-lệ này đến bộ áo khác cho tới
ánh-sáng toàn-diện và thuần-túy của Tự-do và
Chân-lý, mà Bất-nhị-pháp Vedanta gọi là Sat-
Chit-Ananda (sinh-tồn, Tri-thức, Cực-lạc) : nó
bao-hàm trong lãnh-vực của nó những cõi
phân-biệt của tâm-cảm và của lý-trí .
Nhưng các trí-thức Tây-phương cứ yên
tâm, không ai nghi-hoặc những cạm-bẫy trên
những lộ-trình tâm-cảm hơn là một Viveka-
nanda : vì ông hiểu-biết chúng hơn cả. Tuy đạo
Sùng-Bái Bhaktiyoga dưới các danh-hiệu khác
nhau đã được thấy các nhà hành-hương tâm-
linh Tây-phương trứ-danh đi qua. Và theo sau
có hàng ngàn tín-đồ khiêm-tốn, tinh-thần trật-
tự và chính-quyền La-Mã cổ-điển truyền lại
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
61
cho các Nhà Thờ chúng ta cũng như cho các
Quốc-gia chúng ta, đã biết duy-trì mạnh mẽ
những cuộc viễn-chinh của tình-yêu trong
chính đạo không cho phép phiêu-lưu nguy-
hiểm ngoài biên-giới. Nhân tiện, chính điều ấy
giải-thích sự sai lầm của Bá-tước Keyserling
trong phái-đoàn thiên-chấp của ông về đạo
Sùng-Bái Bhakti so-sánh giữa Đông, Tây.
Thiên-tài hoạt-bát và lanh-lợi của nhà " Triết-
gia du-lịch ", thiên-tài tình-cảm khiến ông
không tán-thưởng cái mà ông gọi là " những lý-
tưởng đàn bà cũ rích ", bởi vì bẩm sinh ông vốn
thiếu, nên đã phàn-nàn quá đáng sự nghèo tình-
cảm của cái Tây-phương kia mà ông tự tin là
người đại-biểu hoàn-hảo. Thực ra thì ông chỉ
biết rất hời-hợt đạo Sùng-Bái ( Bhakti ) của
Âu-Tây. Nếu có vẻ như ông phán-xét qua
những con hổ lớn tâm-linh-học thế-kỷ XIV bên
Hoà-Lan và bên Đức, các vị hung-bạo Meister
Eckhart và Ruysbroeek, phải chăng ông có ngờ
đến các kho báu tế-nhị về tình-cảm tinh-tế và
cảm-súc tôn-giáo của nước Pháp và các nước
La-Tinh. Đánh giá tâm-lý-học Tây-phương là
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
62
" nghèo nàn " là " nhỏ nhen ", thiếu ý-vị và tế-
nhị, ấy là không ngờ chút nào cái điểm thành-
tựu mà một hội các giáo-phụ tôn-giáo đã đạt
tới. Các vị này có thể ngang hàng hay cao hơn
về phân-tích cảm-súc huyền-bí so với các giáo-
sư tâm-lý-học thời điển-hình của chúng ta và cả
thời lãng-mạn hiện nay nữa .
Còn về nhiệt-độ của tín-ngưỡng tình-yêu,
tôi không từng nghĩ rằng ở một nhà đại tín-
ngưỡng Âu-Tây nó kém về phẩm so với một
đại tín-ngưỡng Á-châu. Lòng khao-khát cực độ
mà nhà tín-đồ Á-châu tỏ ra đối với " Thực-
hiện " thì tôi không cho là dấu-hiệu thuần-túy
của tâm-hồn tôn-giáo. Hình như Ấn-Độ không
từng phát-minh " Noli me tangère = Chớ chạm
vào ta ! "... Họ phải nhìn thấy, sờ thấy và nếm
thấy, họ mới tin. Và nếu nó không có hy-vọng
một ngày kia đạt tới đấy trong đời này thì nó sẽ
rất gần như nghi-ngờ vậy. Chính Vivekananda
đã nói về ông, những lời nói thành-thật phũ-
phàng, gần như quái-đản :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
63
" Chỉ có người nào thực đã tri-giác
thấy Thượng-Đế mới là người có tín-
ngưỡng. Chúng ta đều là hạng vô-thần,
hãy thú-nhận như thế. Một sự đồng-tình
trí-thức đơn-giản không làm cho chúng ta
trở thành tín-ngưỡng được. Tất cả tri-thức
phải căn-cứ vào tri-giác về một số thực-
kiện... Tôn-giáo là vấn-đề thực-kiện ... "
_ ( Jñānayoga, " Réalisation " )
Sự đói khát về Thượng-Đế ấy thực là
mãnh-liệt ; nhưng ở bậc Thánh-hiền xứ ta, có
một sự e-lệ của tình-yêu cao quí hơn, khi đứng
trước một kỳ-tích mà họ quay mặt đi, nói rằng :
" Hãy để tôi êm đềm tín-ngưỡng
không từng nhìn thấy ! "
Chúng ta thích tin cậy vào những lý-
tưởng của chúng ta, và chúng ta không đòi
chúng phải trả trước chúng ta. Tôi biết có
những hạng cao-quí ưa muốn cho đi tất cả,
không đòi lại, không cầu mong thấy phản-hồi .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
64
Nhưng ở đây không phải vấn-đề chúng ta
xếp thứ bậc ! Có nhiều cách yêu. Nếu mỗi
người cho đi cái gì mình có, thì quản chi đến
cái vật nó cho đi, khác với cái mà người láng-
giềng cho đi. Họ bình-đẳng .
Tuy nhiên chúng ta phải công-nhận rằng,
các Nhà Thờ Tây-phương thi-hành phép kiểm-
soát chặt-chẽ nghiêm-ngặt khoa tâm-linh, khiến
cho sự biểu-thị cảm-súc thiếu tự-do và nhất là
kém hiển-hiện như là ở Ấn-Độ, tâm-linh tràn
ngập. Một đại Ấn-Độ-gia có ý-thức như
Vivekananda, lãnh-đạo, có trách-nhiệm về ý-
thức dân-tộc ông, như vậy vốn biết ông không
cần phải khích-thích khuynh-hướng tâm-cảm ở
đồng-bào mình, trái lại còn phải coi-sóc để
chúng khỏi bồng-bột. Những khuynh-hướng ấy
rất dễ trụy-lạc thành tình-cảm bệnh-hoạn. Tôi
đã có dịp bầy tỏ trong nhiều trường-hợp
Vivekananda đã phán-ứng lại trào-lưu ấy rất
mạnh mẽ. Người ta còn nhớ cái cơn phẫn-nộ
giữa ông với đạo-hữu, mà ông mắng " sự ngu
xuẩn tình-cảm " của họ và nổi giận chống đạo
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
65
Sùng-Bái ( Bhakti ) để rồi liền ngay sau đấy
chính mình công-nhận là cái mồi của Sùng-Bái.
Chính vì thế mà ông giữ mình, đề-phòng cái
đạo Sùng-Bái ấy, ông luôn luôn cảnh-giác, ngõ
hầu bảo-vệ đoàn-thể ông đối với sự lạm-dụng
tâm-cảm. Và bổn-phận lãnh-đạo trên đường
Sùng-Bái ( Bhakti ) cốt-yếu là soi sáng những
khúc nghẹo và cạm-bẫy của tình-cảm .
" Tôn-giáo Tình-yêu " (Religion of Love)
bao-hàm một phạm-vi rộng lớn vô cùng. Cuộc
thám-hiểm đầy đủ lãnh-vực ấy là cả một
" Hành-trình đến Thánh-địa Jérusalem ". Đấy
là lộ-trình của tâm-hồn qua các giai-đoạn của
tình-yêu đi đến Tình-yêu Tối-cao. Hành-trình
dài và nguy-hiểm. Ít có ai đi tới đích .
" ... Một năng-lực nội-tại thúc-đẩy
chúng ta tiến về tình-yêu. Chúng ta không
biết tìm đối-tượng đích thật ở đâu ; nhưng
mỗi một tình-yêu thúc đẩy chúng ta tiến
bước lên cuộc tìm kiếm. Mỗi lần chúng ta
phát-hiện sự lầm lạc của chúng ta, chúng
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
66
ta nắm lấy một đối-tượng ; đối tượng tuột
khỏi tay, chúng ta bám lấy đối-tượng
khác, và cứ như thế, như thế cho chí
chừng nào thấy ánh-sáng : chúng ta đến
Thượng-Đế, tình-yêu duy-nhất, viên-mãn
và lâu bền ...
" Bất cứ ở đâu có tình-yêu nào, ở
đấy Chúa đều có mặt. Ngài ở tại cái hôn
giữa tình-nhân và tình-nhân, giữa mẹ con,
trong quà tặng của bằng-hữu, trong sự hy-
sinh của người ta cho nhân-loại ."
_ ( Jñānayoga, " Lý-tưởng một Tôn-giáo
Đại-đồng " )
" Lý-tưởng là thấy Thượng-Đế tại
tất cả mọi vật. Nhưng nếu anh không có
thể thấy được như thế, hãy thấy ở một
vật, trong vật anh sở thích, và rồi lại thấy
ở vật khác ! Anh sẽ tiến lên từng bước
một. Tâm-hồn có trước mặt mình cả đời
sống vô-hạn. Cứ tuần-tự, không vội-vàng,
anh sẽ đi tới đích ! "
_ ( " Thượng-Đế tại mọi vật " ) .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
67
Tất cả những con đường khác chỉ là
những độ đường... Nhưng con đường đi tới
Thượng-Đế qua tình-yêu Sùng-Bái là một con
đường dài ...
Nhiều kẻ dừng lại giữa đường, và
Vivekananda quay lại nói với người Ấn :
" ... Hàng ngàn tín-đồ tự lấy tôn-
giáo Tình-yêu làm chuyên-nghiệp. Thiên-
hạ đều nói về tôn-giáo Tình-yêu, nhưng
rất ít ai đạt tới đích. Một số người trong
một thế-kỷ vươn tới cái Tình-yêu
Thượng-Đế ấy và cả nước nhờ họ được
thánh-thiện-hóa. Cũng như khi mặt-trời
lên, tất cả đêm tối đều bị thu hút ..."
Rồi ông vội thêm rằng : _ " Nhưng các
anh, trước hết còn phải trải qua những tình-yêu
nhỏ-mọn kia đã ... "
Chớ vội hất-tấp ! Nhất là phải thành thực.
Đừng nên vì lòng kiêu-hãnh hão, pha với giả-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
68
dối mà tin rằng mình yêu Thượng-Đế trong khi
mình còn bám vào thế-tục. Và mặt khác _ (điều
này còn cần-thiết hơn ) _ là chớ nên miệt-thị
những đồng-hành thiện-chí tiến bước khó-
khăn ! Bổn-phận đầu tiên của anh là thông-cảm
và yêu thương những người nào không nghĩ
như mình .
" ... Không những chúng ta không
nên bảo người khác là họ sai lầm, như
bọn cuồng-tín thường làm, mà chúng ta
nên bảo họ rằng họ có lý, nếu họ theo
đuổi con đường riêng của họ, cái phương-
pháp cá-nhân ấy mà mỗi người chúng ta
tự nhiên thích-ứng... Các anh không phải
phản-đối những người không cảm thấy
như các anh... Hàng triệu tia sáng quy cả
vào một lò chung, trong một mặt trời. Xa
cách nhau đến mấy đi nữa, chúng cũng
gặp nhau cả tại trung-tâm... Mỗi người
chỉ phải luôn luôn ngược lên tất cả vào
trung-tâm ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
69
Theo đấy Vivekananda chủ-trương mạnh
mẽ chống-đối tất cả giáo-dục vũ-đoán, giáo-
điều. Không một ai hơn ông, cương-quyết đòi-
hỏi tự-do giáo-dục. Tâm-hồn ông cũng như
chân tay ông, đã thoát ra khỏi những lớp tã ấp-
ủ trẻ thơ ! Bóp nghẹt tâm-hồn đứa trẻ là tội ác
lớn nhất trong các tội ác ; vậy mà hàng ngàn
người trong chúng ta đã phạm tội ấy .
" ... Người ta không dạy được người
khác. Mỗi người phải tự dạy lấy mình.
Người ta chỉ có thể giúp đỡ người khác...
Chính tôi phải tự dạy lấy tôi về tôn-giáo.
Lấy quyền gì mà cha tôi hay là thày tôi
nhồi vào sọ tôi tất cả những điều vô lý.
Anh bảo rằng chúng là những điều tốt ?
Có lẽ. Nhưng ai bảo anh rằng đấy là đạo
của tôi ? Hãy tưởng-tượng cái hại ghê
gớm tràn ngập trong thiên-hạ bởi cách
giáo-dục sai lầm, chúng giết linh-hồn
thâm sâu hàng triệu đứa trẻ thơ vô tội !
Biết bao nhiêu mầm có thể nẩy thành
những chân-lý tâm-linh kỳ-diêu đã bị
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
70
nghẹt thở vì cái quan-niệm ghê-tởm của
một " tôn-giáo gia-tộc ", " tôn-giáo quốc-
gia ", " tôn-giáo xã-hội ..." Hãy nghĩ
xem cái mớ mê-tín đang chứa đầy đầu óc
chúng ta lúc này về " tôn-giáo của nước
ta !... " Cả núi thành-kiến và tai-hại !... "
Vậy chỉ còn cách khoanh tay hay sao ?
Sao Vivekananda còn lo giáo-hóa hăng hái như
thế ? Vai-trò của nhà giáo thành cái gì ? Là
vai-trò của một người giải-cứu. Nó giúp cho
mỗi người đi với phưong-tiện riêng biệt trên
con đường đạo-lý của chính nó, cho nó có tinh-
thần tôn-kính hiểu-biết các con đường đạo-lý
của người lân-cận :
" ... Biết bao nhiêu là lý-tưởng. Tôi
không có quyền vạch ra cho anh, ép cho
anh con đường này hay con đường kia.
Bổn-phận của tôi là trình-bày trước mặt
anh tất cả những lý-tưởng ấy và giúp đỡ
anh phán xét xem con đường nào thích-
hợp hơn cho tạng anh và vừa tầm hơn đối
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
71
với anh. Nếu con đường này vừa tầm với
anh thì hãy nhận lấy, giữ lấy và kiên-nhẫn
theo đuổi nó ! Đấy là lý-tưởng của đời
anh ."
Bởi thế cho nên Vivekananda là thù-địch
của tất cả các tôn-giáo giáo-hội có định-chế,
của tất cả tôn-giáo Nhà-Thờ .
" Các Nhà-thờ có thể tha-hồ giảng
đạo như ý họ sở-thích các giáo-lý, các
học-thuyết, các triết-lý." Điều ấy không
quan-trọng ! Nhưng đến vấn-đề tôn-giáo
" chân thật ", " tôn-giáo cao đẳng " tôn-
giáo hiền lành là cầu-nguyện " sùng-bái ",
sự tiếp-xúc thực của tâm-hồn với
Thượng-Đế thì Nhà-thờ không có quyền
chi hết. Đấy là việc của linh-hồn và
Thượng-Đế. " Công-tác thực của tôn-giáo
chỉ quan-hệ với tôi thôi. Tôi có lý-tưởng
của tôi, tôi phải giữ kín mật và linh-
thiêng. Jésus nói : Khi nào con cầu-
nguyện, hãy vào trong buồng và đóng cửa
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
72
lại, và cầu-nguyện Chúa Cha ở tại nơi
con..." Tôn-giáo thâm-thúy không thể làm
ở chỗ công-khai... Tôi không có thể sửa-
soạn tình-cảm tôn-giáo của tôi, tùy theo ý
muốn trong vòng năm phút. Một sự giả-
bộ như thế là một việc phạm-thượng
thậm-tệ ; thế là chế-nhạo tôn-giáo ! ...
Làm sao mà người ta có thể dung túng trò
dạy súc-vật tôn-giáo ấy, giống như tập
lính trong trại binh vậy ! Lên vai ! ... Quỳ
xuống !... Cầm quyển kinh !... Tất cả đều
qui-định chính-xác. Hai phút cảm-tình,
hai phút lý-trí, hai phút cầu-nguyện, tất cả
đều xếp đặt trước... Thật là khả-ố !...
Những biểu-diễn ấy đã sua đuổi tôn-giáo
và nếu người ta tiếp-tục vài thế-kỷ nữa thì
hết cả tôn-giáo ... "
Tông-giáo thực và chỉ thực là đời sống
nội-tâm .
Nhưng đời sống nội-tâm là một rừng rậm,
đầy động-vật phức-tạp : làm thế nào mà lựa
chọn trong các chúa sơn-lâm ấy ?...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
73
" Ở trong ta có bản-năng là năng-
khiếu chung giữa chúng ta và cầm-thú.
Có cái chỉ đạo cao hơn mà chúng ta gọi là
lý-tính, và nó chế-phục những thực-kiện,
phổ-quát-hóa theo chúng. Có khiếu linh-
cảm, nó không đi qua giai-đoạn lý-luận,
biết sự-vật theo cách chớp-nhoáng. Bằng
vào gì để phân-biệt nó với bản-năng ?
Đấy là một vấn-đề nguy-hiểm. Bất cứ kẻ
ngu-xuẩn nào cũng sẽ đến nói với anh nó
có linh-cảm : " Tôi có một linh-cảm thần-
hứng. Bệ của tôi đâu ? Mau, dựng lên cho
tôi, các anh lại họp chung-quanh tôi đây,
và hãy phụng-sự tôi đi ! ... " Có cách gì
để phân-biệt linh-cảm với bịp-bợm ? "
Độc-giả Tây-phương hảy chú ý lời giải
đáp đây ! Nó là một lòi giải đáp của một nhà
duy-lý Tây-phương :
_ " Điều-kiện đầu tiên là linh-cảm
không trái nghịch với lý-trí. Cũng ví như
người già không trái nghịch với người trẻ,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
74
nhưng mà là sự phát-triển của y, thì cái
mà chúng ta gọi là linh-cảm chính là sự
phát-triển của lý-trí. Con đường trực-giác
đi qua lý-trí. Nếu linh-cảm chống-đối lý-
trí thì hãy vứt tuột nó đi ! "
_ " Điều-kiện thú hai chẳng kém
khôn-ngoan và lành mạnh :
_ " Thứ đến là cái linh-cảm ấy phải
nhằm mục-đích hạnh-phúc cho mỗi người
và cho tất cả, chứ không phải danh-tiếng
hay là điều lợi cá-nhân. Lợi ích của nó
phải luôn luôn có tính-cách đại-đồng, và
sự vô-tư của người có linh-cảm phải là
tuyệt-đối ."
Chỉ sau khi đã được trắc-nghiệm theo hai
nguyên-tắc ấy rồi anh mới được công-nhận là
người có linh-cảm. Nhưng " anh nên nhớ rằng,
sự thực trong thế-giới hiện-tại, hàng triệu người
không có được lấy một người có linh-cảm
thần-giao !... Hiện này chúng ta chỉ chơi đùa
với tôn-giáo ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
75
Người ta không có thể trách Viveka-
nanda mở cửa quá dễ dàng cho mê-tín ! Ông ta
biết tín-ngưỡng của dân-tộc ông và những lạm-
dụng về sùng-bái của nó. Ông cũng biết rằng
sùng-bái của tình-cảm hay thường là mặt nạ
che giấu tính-cách nhu-nhược, và ông rất
nghiêm-nghị chống-đối nó .
" Nếu các anh cầu tìm Thượng-Đế
của Tình-Yêu, hãy không bao giờ quên
rằng nó là năng-lực tối-cao. Không có
thế-lực nào cao hơn là thế-lực của sự
tinh-khiết thuần-túy... Cái tình-yêu
Thượng-Đế ấy, những kẻ hèn yếu không
đạt được. Vậy thì không được yếu hèn, về
thân-thể cũng như về tinh-thần ! Hãy
dũng mãnh ! "
Sức-lực, lý-trí cương-cường luôn luôn lo-
âu đến hạnh-phúc đại-đồng và một lòng hoàn-
toàn vô-tư, đấy là điều-kiện để đạt tới đích. Và
lại còn một điều-kiện nữa, ấy là quyết-chí tiến
tới. Vì phần nhiều người ta tự cho là tín-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
76
ngưỡng thì không đi tới cùng ; họ quá ư lười-
biếng, sợ-sệt và thiếu thành-tín. Họ tự mãn ở
lại giữa đường và không chịu nhìn quá thẳng
vào cái gì chờ đợi chúng cuối đường. Bởi thế
họ dùng-dằng trong miền êm-đềm của sùng-bái
hình-thức. " Nhà-Thờ và Đền Chùa, Kinh sách
và Nghi-lễ... Cái vườn trẻ ( Kindergarten ) ấy
có ích dụng cho những bước đầu của con trẻ
tâm-linh ; nhưng người ta phải vượt lên, nếu
thành-thực người ta muốn đạt chân-lý . "
Và đừng bảo rằng sự dùng-dằng ấy là một
điều khôn-ngoan lành mạnh, và những kẻ tiến
bước ra ngoài cái " vườn trẻ " bảo-vệ, sẽ liều
để mất tín-ngưỡng mình, Thượng-Đế của mình
! Sự thực họ không có gì mất cả, vì họ là bọn
tín-ngưỡng giả-dối ; và những kẻ thật vô-thần
còn hơon họ. Những kẻ thật vô-thần, vô tín-
ngưỡng còn gần với Thượng-Đế hơn là những
kẻ tín-đồ giả-dối. Hãy nghe một nhà đại tín-
ngưỡng trong hàng tín-đồ tán-dương chủ-nghĩa
vô-thần lớn :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
77
" ... Đại đa số những người thực-tế
là những người vô-thần. tôi vui sướng
thấy rằng ở thời-đại chúng ta ngày nay, ở
Tây-phương, đã sinh xuất một giai-cấp
vô-thần khác, giai-cấp duy-vật. Họ là
những người vô-thần thành-thực. Họ cao
hơn nhiều so với bọn vô-thần tôn-giáo là
bọn giả-dối, nói về tôn-giáo tranh-đấu cho
tôn-giáo, và đồng thời luôn luôn nói về
tôn-giáo mà không bao giờ thử cố thực-
hiện hay là tìm hiểu tôn-giáo. Đức Cơ-
Đốc đã nói : " Hãy cầu xin thì anh sẽ
được ! Hãy cầu tìm thì anh sẽ thấy ! Hãy
gõ cửa thì người ta mở cửa cho anh ! ... "
Đấy là sự thật trăm phần trăm. Nhưng có
ai thực muốn Thượng-Đế ?... Chúng ta
ham muốn tất cả trừ Thượng-Đế ... "
Những tín-đồ sùng đạo Tây-phương cũng
như Đông-phương có thể lợi-dụng bài học
nặng-nề ấy. Người lột mặt-nạ mạo-hiểm sự
lừa-dối tín-ngưỡng tôn-giáo, vạch rõ cho chính
họ thấy mình là vô-thần che đậy .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
78
" ... Ai cũng nói : Hãy yêu Thượng-
Đế ! ... Người ta chẳng biết thế nào là yêu
cả... Đâu là tình-yêu ? Ở đâu không có
mặc-cả, mua bán, không chút sợ-hãi,
không chút lợi quyền ; ở đâu chỉ có tình-
yêu cho tình-yêu, của tình-yêu ! "
Khi nào anh đi tới độ đường cuối cùng ấy
rồi, anh sẽ không cần biết anh sẽ đi đến đâu
nữa, và phải chăng có một Thượng-Đế sáng-tạo
vũ-trụ, một Thượng-Đế toàn-năng và từ-bi, một
Thượng-Đế thưởng công nhân-loại ? Anh
không cần cả đến một Thượng-Đế ác-nghiệt
hay là một Thượng-Đế từ-thiện... " Tình-nhân
đã vượt làn mức thưởng phạt, sợ-hãi hay nghi-
ngờ, bằng-chứng khoa-học hay là chi-chi
khác... " Nó yêu, nó đã tới tuyệt-đỉnh của tình-
yêu, " mà toàn-thể vũ-trụ chỉ là một biểu-
hiện... " .
Vì rằng, đến điểm này Tình-Yêu đã mất
hết giới-hạn nhân-loại để mang ý-nghĩa Vũ-trụ
của nó :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
79
" Chính Tình-Yêu làm xoay vần thế-
giới, và những hạt đan-tử nối liền với
những đan-tử, những tinh-tú lớn vận-hành
cái nọ vào cái kia. chính Tình-Yêu là
định-luật hấp-dẫn nam, nữ, giữa các dân-
tộc, giữa cầm-thú, trong toàn-thể vũ-trụ,
thu-hút về trung-tâm... Những nguyên-tử
nhỏ nhất cho chí Thực-thể tối-cao, vô-sở
bất tại, Đấng tràn-ngập tất cả, là tình-
Yêu... Nó là năng-lực duy-nhất, Động-cơ
của vũ-trụ. Với Tình-Yêu ấy, Đức Cơ-
Đốc đã hiến tính-mệnh cho nhân-loại, và
Đức Phật làm mồi cho một con vật nhỏ-
mọn, người mẹ hy-sinh cho con mình,
người chồng cho vợ mình... với Tình-Yêu
ấy người ta hy-sinh cho tổ-quốc mình...
Và cũng với Tình-Yêu ấy _ ( thật lạ-lùng
nói đến ) kẻ ăn-trộm đi ăn-trộm, kẻ giết
người đi giết người...Vì động-lực thúc-
đẩy vẫn là một. Kẻ ăn-trộm yêu vàng,
Tình-Yêu vẫn luôn luôn tại đấy, nhưng
hướng-dẫn sai lầm... Như thế trong tất cả
tội ác cũng như trong tất cả đạo-đức hoạt-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
80
bát, cái Tình-Yêu vĩnh-cửu ấy vẫn ở bên
trong, đàng sau... Nó vận-chuyển vũ-trụ.
Không có Nó, vũ-trụ sẽ sụp đổ tan vụn
trong phút chốc... Và Tình-Yêu ấy là
Thượng-Đế ... "
Ở đây một lần nữa cũng như điểm kết-
thúc đạo Nghiệp ( Karmayoga) chúng ta đạt tới
một cực-điểm giải-thoát hay là Thần-hóa _
Sùng-bái tối-cao mà những liên-hệ có vẻ đoạn-
tuyệt với sinh-tồn phổ-thông, đến nỗi sinh-tồn
dễ bị hủy-hoại hay là mất quân-bình. Tín-đồ
Sùng-bái đã cởi bỏ hết hình-tướng, tượng-trưng
và không còn gì ràng-buộc, không còn môn-
phái, không còn Nhà-Thờ ; không môn-phái
hay Nhà-Thờ nào đủ cỡ cho nó nữa, nó đã đạt
tới cõi Tình-Yêu vô-hạn và nó trở nên làm Một
với Tình-Yêu. Hết hẳn ham muốn, hết nhẵn vị-
kỷ, hết cả Tự-Ngã, đấy là Ánh-sáng tỏa chiếu
viên-mãn. Người ta đã đi hết đường, nó đã trải
qua hệ-thống đầy đủ các giai-đoạn : nó đã là
con, là bạn, tình-nhân, chồng, cha, mẹ. Bây giờ
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
81
nó là Một với Người Yêu _ " Tôi là mình và
mình là tôi... " Và tất cả chỉ là Một...
Và sau đấy không còn chi nữa ? ...
Nó tự ý lại xuống khỏi các đỉnh Sáng chói
và trở về loài người dưới trần-thế để dơ tay cứu
vớt .
" Sau khi đã đạt tới siêu-thức, tín-đồ
Sùng-Bái ( Bhakta ) trở xuống với Tình-
Yêu và sùng-Bái _ vào tình-yêu tinh-
khiết, không bợn ham muốn, không có gì
để được ... "
_ ( Ký chú các cuộc đàm đạo, vol. VI ,
Toàn-tập _ Vivekananda )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
83
- III -
ĐẠO THIỀN
( Rajayoga )
Hay Là " Đạo-Dẫn Thiền-Định "
Chúng ta bây giờ đi đến con đường riêng
của Vivekananda _ tuy rằng ông thực-hành tất
cả và ông luôn luôn chủ-trương hòa-điệu bốn
loại Đạo-dẫn ( Yogas ) _ con đường riêng này
có thể gọi là tên ông vì nó là con đường của sự
" Biện-biệt " ( Viveka ), và nó là con đường
theo ông xét-đoán có thể và phải hợp-nhất Tây-
phương với Đông-phương : _ Đạo Chân-Tri
( Jñānayoga ) _ con đường " thực-hiện " bằng
" Tri-thức " ( nghĩa là tinh-thần thám-hiểm và
chinh-phục Thực-thể cuối cùng hay là
Brahman ) .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
84
Nhưng cuộc thám-hiểm anh-dũng ấy mà
cuộc chinh-phục Nam-cực, Bắc-cực đối với nó
chỉ như một trò chơi, và trong ấy, các tập-đoàn
khoa-học và tôn-giáo thi đua nhau, thì cần phải
có một sự sửa-soạn nghiêm-túc và tỉ-mỉ. Người
ta không lao đầu phiêu-lưu vào đấy như người
ta có thể đi vào hai con đường trên đây, con
đường Hành-Động và Sùng-Ái ( Karma và
Bhakti ). Ở đây người ta phải trang-bị đủ dụng-
cụ tập-luyện. Và đấy là công việc của Thiền-
định, Đạo-dẫn ( Rajayoga ). Tuy rằng nó có
môi-trường riêng của nó để nó tự-mãn, tự-túc,
nó có vai-trò gần như Trường Dự-bị cho bậc
Thiền tối-cao của Giác-ngộ. Bởi vậy nên tôi
dành cho nó một địa-vị ở đây. Vả lại cũng là
vị-trí mà Vivekananda gán cho nó .
Đạo-dẫn Thiền-định tối-cao ( Rajayoga )
là Vua ( Rajah ) của các Đạo-dẫn. Và thông-
thường chỉ cái tên Đạo-dẫn ( Yoga) cũng đủ
nói lên địa-vị đế-vương, không cần đến phẩm-
tính khác. nó là khoa Đạo-dẫn lý-tưởng. Nếu
Yoga có nghĩa là hợp-nhất với đối-tượng ( và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
85
chủ-thể ) tối cao của Chân-tri Giác-ngộ, thì
Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) là phương-
pháp thực-nghiệm tâm-sinh-lý để đạt đạo trực-
tiếp .
" Khoa-học Rajayoga, Đạo-dẫn
Thiền-định chủ-ý đem cho nhân-loại một
phương-pháp thực-tiễn, khoa-học để đạt
chân-lý ( hiểu theo nghĩa Ấn-Độ là thực-
hiện chân-lý cá-nhân và sinh-động ) "
_ ( Rajayoga, ch. I )
Vivekananda gọi nó là " Yoga " ( tâm-lý )
vì môi-trường hoạt-động của nó là kiểm-soát
và chủ-động tuyệt-đối về tinh-thần _ điều-kiện
tiên-quyết của tất cả tri-thức. Và nó dẫn đến
đấy bằng sự tập-trung .
" Khoa-học ngăn-ngừa thần-lực
Chitta để không cho nó phóng tán thành
vọng-động tinh-thần ( Vrittis )."
_ ( Q. VII Toàn-tập của Vivekananda )
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
86
Ở trạng-thái bình-thường chúng ta phao-
phí năng-lực của chúng ta. Không những cơn
lốc bên ngoài tung chúng ta từng mảnh-múng
ra khắp các phía. Mà cả khi chúng ta đã cố sức
đóng các cửa ngõ vào mình được rồi, chúng ta
lại thấy ở nơi ta đám đông vô số, khác nào dân-
chúng của Jules César trên công-trường La-
Mã ; hàng ngàn khách lạ, " những kẻ không
ưa " xâm chiếm và quấy rối chúng ta. Không
một hoạt-động nội-tâm nào có thể có một hiệu-
lực đứng-đắn và liên-tục, trước khi chúng ta
thu xếp trật-tự trong nhà, và thứ đến, là sau khi
chúng ta đã thu xếp, gọi về cái bầy năng-lực
phóng tán. " Những năng-lực của tinh-thần là
những tia ánh-sáng tỏa chiếu ra. Để chúng có
thể thành ngọn đuốc thì phải tập-trung chúng
lại thành thúc-tuyến. Không còn cách nào khác
của Tri-thức ."
Trong tất cả các xứ, trải qua các thời-đại,
bác-học, nghệ-sĩ, nhà hành-động mãnh-liệt và
chuyên-chú nhiệt-thành, đã từng biết điều ấy và
từng thực-hành, do bản-năng theo các phương-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
87
pháp cá-nhân riêng, có suy nghĩ hay là vô ý-
thức mà những thí-nghiệm riêng của họ đã gợi
ý. Tôi đã chứng-minh bằng tỉ-dụ của một
Beethoven, một thiên-tài Tây-phương, có thể
bất ngờ thực-hiện đến mức điểm nào một chân
Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) với sắc-thái
độc-đáo rõ rệt. Nhưng cái tỉ-dụ ấy chính nó là
một bằng-chứng không chối-cãi của những
nguy hiểm mà sự thực-hành cá-nhân, mặc cho
sức nội-tâm vươn lên mù-quáng, không đủ
hiểu-biết và không kiểm-soát, đã đưa đến.
Vivekananda viết :
_ " Tất cả những người có linh-cảm
bột hứng mù-quáng, khởi hành từ bản-
tính cảm-súc của họ, đều nhắc lại cái
trạng-thái ấy với nhiều chính-xác, những
sai lầm, những cuồng tín... họ có những
ảo-giác và dễ bị điên cuồng ... "
_ ( Rajayoga, ch. VII )
Tính-chất độc-đáo của khoa Đạo-dẫn
Thiền-định ( Rajayoga ) Ấn-Độ, ở chỗ nó là
một khoa-học được cấu-tạo và thì-nghiệm tỉ-mỉ
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
88
hàng thế-kỷ về sự chinh-phục tập-trung và làm
chủ tinh-thần. Trong danh-từ tinh-thần ấy, nhà
đạo-dẫn ( Yogin ) Ấn cũng ngụ ý cả dụng-cụ
lẫn đối-tượng của trí-thức. Và liên can đến đối
tượng thì y đi xa lắm, xa quá mức tôi có thể
theo được. Không phải tôi phủ-nhận theo
nguyên-tắc đối-lập với những quyền-năng vô-
hạn mà y gán cho khoa-học của mình, không
những về linh-hồn mà còn cả về thiên-nhiên
( vả lại trong tín-ngưỡng Ấn-Độ linh-hồn và
thiên-nhiên không phân-biệt). Thái-độ khoa-
học chân-chính là dè dặt đối với những khả-
năng tương lai của tinh-thần, mà nội-dung cũng
như hình-thức chứa đựng, nghĩa là những giới-
hạn _ chưa được xác-định theo khoa-học.
Nhưng chính đấy mà tôi trách nhà đạo-dẫn
( Yogin ) Ấn, coi như đã chứng thực điều chưa
từng có thể thực-nghiệm. Vì rằng nếu những
quyền-năng huyền-diệu ấy có thật thì người ta
không hiểu tại sao, như chính một nhà bác-học
thiên-tài và tín-ngưỡng Sir Jagadis Ch. Bose đã
nói với tôi, các vị Thấu-thị cổ-điển ( Rishis ) đã
không sử-dụng để biến-đổi thế-giới ? Và càng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
89
đáng trách nặng hơn nữa là họ đã để rơi vào
đầu nõa tham-vọng và thô-tục những hứa hẹn
điên cuồng kia, giống như những hứa hẹn của
thiên-thần huyền-thoại trong truyện Ngàn Một
Đêm (Mille et Une Nuits). Chính Vivekananda
cũng không luôn luôn giữ được cái lối truyền-
giáo ấy, nó nêm câu có mồi nguy-hiểm cho
những tâm-hồn vật-dục tham-lam nhất .
Nhưng ông luôn luôn thận-trọng, ngăn
rào đối-tượng thèm muốn bằng năm lần hàng
rào lửa, như trên mỏm núi đá Brünhild. Tránh
xa sư trưng-bày những quyền-năng siêu-nhiên
thần-thông như là phần thưởng của nỗ-lực Đạo-
dẫn ( Yoga ). Vivekananda cũng như tất cả các
nhà đại Đạo-dẫn, coi chúng như là một sự cám-
dỗ của Jésus đã gặp trên đỉnh núi, ở đấy ma-
vương dâng Ngài ngôi bá-chủ hoàn-cầu. ( Và
tôi tin chắc rằng trong thấn-thoại Cơ-Đốc, lúc
ấy tương-đương với độ đường gần chót lịch-
trình Đạo-dẫn của riêng Ngài ). Sự cám-dỗ ấy,
nếu người ta sa-ngã thì tất cả công-phu tu-
luyện mất không ... __ " Đến giai-đoạn ấy,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
90
nhiều quyền-năng sẽ đến. Nhà tu-luyện không
được nhượng-bộ, mà phải ném tuốt đi. Chỉ đến
lúc ấy, y mới tiêu diệt hoàn-toàn ba-động trong
bể tinh-thần... " Y đạt tới hợp-nhất thần-linh .
_ ( Rajayoga, ch. VII ) .
Phải là một đại anh-hùng mới lĩnh được
phần thưởng. Người ta sẽ không đạt được cả
đến độ đường thứ nhất _ yama hay chủ-động _
trước khi thực-hiện năm (5) điều-kiện tất yếu,
mà chỉ một điều-kiện cũng đủ để thành bậc
thánh .
1/ Ahimsa = Bất hại, lời đại nguyện của
phái Gandhi, mà các nhà Đạo-dẫn xưa coi như
đức tính và hạnh-phúc tối cao của nhân-loại :
" Không hại " đối với tất cả tạo-vật thiên-nhiên;
" không làm ác " ở cử-chỉ, ở lời nói, ở ý-tưởng
( thân, khẩu, ý ) đối với bất cứ chúng-sinh nào .
2/ Chân-thật tuyệt-đối, chân-thật ở hành-
động, ở ngôn-ngữ, ở tư-tưởng, vì rằng tất cả
đều lập cơ-sở trên chân-lý, qua chân-lý, tất cả
có thể đạt được .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
91
3/ Tinh-khiết hoàn-toàn (Brahmacharya).
4/ Tuyệt-đối vô tham .
5/ Tinh-khiết tâm-hồn và tuyệt-đối vô-tư,
không nhận hay mong đợi một của cho ở một
người nào, tất cả của cho được nhận là làm mất
độc-lập, và như thế là diệt tắt linh-hồn .
_ ( Rajayoga, ch. VIII )
Vậy là minh bạch cho kẻ đê-tiện cầu tìm
trong khoa Đạo-dẫn ( Yoga ) lấy phương-tiện
giả-trá để " thành công ", những kẻ muốn
" tháu cáy " lừa gạt định-mệnh, những kẻ đầu
cơ năng-lực huyền-bí và những khách hàng
Mỹ-viện đều thấy tại vòng thành đầu tiên yết
thị : " Cấm không được vượt qua ! ... " Nhưng
phần lớn không để ý đọc yết-thị ; và họ cố
quyến-rũ Sư-phụ ít nhiều chân-chính, là người
canh cửa, để cho họ vượt qua .
Bởi vậy nên dần dần Vivekananda nhận
thấy rõ hơn sự nguy-hiểm của một số lời nói
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
92
của mình đối với những tính tình què quặt và
hoàn-toàn vô-lương-tâm, ông bèn tránh không
đề-cập đến khoa Đạo-dẫn Thiền-định này nữa.
Và càng ngày ông càng thu giáo-lý ấy về
phương-pháp khoa-học nhất, để chinh-phục
công-cụ hoàn-hảo nhất của Giác-ngộ, của Chân
tri-thức, ấy là : Tập-trung .
" Trên con đường Đạo-dẫn Thiền-
định ( Rajayoga ) có nhiều trở ngại lắm.
Có lẽ tinh-thần sẽ chạy theo những
quyền-năng thần-thông ; và như thế anh
sẽ bỏ mất mục-đích đạt tới chân-tính của
mình. Con đường Sùng-bái ( Bhakti )
Thượng-Đế, tuy dễ thực-hành nhưng tiến
hành rất chậm. Chỉ có con đường Tri-thức
( Jñāna ) của trí-tuệ là mau lẹ và chắc
chắn, hợp lý và đại-đồng ."
_ ( Tập VII trong Toàn-tập )
" Hãy trừ bỏ sự bứt-rứt trí-thức...
Chọn lấy một ý-niệm, làm thành cả đời
sống của mình, nghĩ vào đấy, tơ-tưởng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
93
vào đấy, làm sao cho nó trở nên thực-chất
của tất cả thân-thể ! "
_ ( Rajayoga, ch. VI )
Tập-trung tuyệt-đối năng-lực tinh-thần,
đấy là điều đáng chú ý cho tất cả chúng ta. Bất
cứ kết-quả tinh-thần đạt được bằng dụng-cụ ấy
như thế nào, nhà khảo-cứu chân-lý ở Tây-
phương cũng như ở Đông-phương đều sử-dụng
cùng một dụng cụ ; và họ đều có lợi được nó
chính-xác hơn, hoàn-hảo hơn. Về điểm này thì
không có gì huyền-bí cả. Trí thông-minh, lành
mạnh của Vivekananda đối với tất cả cái gì che
đậy, tất cả cái gì không thẳng-thắn trong những
khảo-cứu về tinh-thần, ông có ác cảm giống hệt
với các nhà bác-học Tây-phương trung thực
nhất của chúng ta :
_ " Không có chút gì huyền-bí trong
lời tôi giảng-giải... Tất cả cái gì bí-mật và
huyền-diệu trong cái hệ-thống Đạo-dẫn
( Yoga ) phải được trừ bỏ đi. Các anh
phải vứt hết, không thương tiếc tất cả
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
94
những điều làm cho các anh nhu-nhược.
Song, những chuyện huyền-bí ấy làm cho
đầu óc nhân-loại yếu hèn. Chúng hầu như
sắp phá hủy khoa đạo-dẫn, vốn là một
khoa vĩ-đại trong các khoa học... Hãy tự
mình thí-nghiệm vào bản thân ! Không có
gì huyền-bí hay là nguy-hiểm cả... Rất hại
là tin mà mù-quáng ...
_ ( Rajayoga, ch. I )
Không ai cấm nghiêm-nghị hơn sự trao
quyền tự-kiểm, dù một phần, dù tạm thời vào
tay người ngoài. Và vì thế mà Vivekananda tỏ
ra hung bạo chống đối tất cả hình thức ám-thị,
dù ngay thật và đầy thiện-chí :
" Sự ám-thị thôi-miên chỉ có thể
hành-động vào một tinh-thần yếu-đuối và
đưa nó vào trạng-thái bệnh hoạn... Vấn-đề
cốt yếu không phải là làm cho bệnh-nhân
mất tinh-thần bằng hành-động từ bên
ngoài vào, mà là huấn-luyện tinh-thần tự-
chủ lấy mình, không làm cho nó mất đi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
95
chút năng-lực nào của nó. Tất cả nỗ-lực
kiểm-soát không tự ý muốn của mình thì
rất tai hại. Nó cột thêm một vòng xích
vào cái xích nô-lệ. Không nên để cho kẻ
khác hành-động vào mình, cả đến trong
trường-hợp chúng tạm-thời có vẻ làm lợi
cho mình !... Hãy sử-dụng chính tinh-thần
của mình ! Hãy tự chủ lấy chính mình ở
thân-thể cũng như ở tư-tưởng. Nếu anh
không bệnh-hoạn, thật lành mạnh, thì
không một ý-chí nào khác có thể hành-
động vào anh được. Hãy tránh xa những
kẻ nào, dù thế-lực mấy, dù thiện-chí mấy,
chúng đòi anh tin một cách mù-quáng !...
Tốt lành hơn, thà chịu xấu còn hơn là trở
nên tốt bề ngoài bằng một sự chịu lệ-
thuộc ngoại lai... Coi chừng tất cả cái gì
đe dọa sự tự-do của mình ! "
_ ( Rajayoga, ch. VI )
Trong mê say không đừng được về tự-do
tinh-thần, ông đi đến, như Tolstoï, gạt ra ngoài
cả thế-lực nguy-hiểm của súc-cảm nghệ-thuật,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
96
và nhất là của âm-nhạc, khỏi công việc chính-
xác của trí-tuệ, tuy ông bẩm-sinh vào nòi nghệ-
sĩ và nhạc-sĩ. Tất cả điều gì dễ làm giảm mất
độc-lập của tinh-thần quan-sát và thí-nghiệm,
cả đến khi nó có vẻ mang lại điều tốt lành hay
là một sự nâng-đỡ tạm thời, đều là một " mầm
trụy-lạc tương-lai, tội ác, điên rồ và diệt vong".
Tôi không tin rằng tinh-thần khoa-học
nghiêm-khắc nhất có thể bầy tỏ một cách mãnh
liệt hơn thế ; và lý-trí Tây-phương phải biểu-
đồng-tình về những nguyên-lý trên với Viveka-
nanda .
Người ta càng lấy làm lạ sao cái lý-trí
khoa-học ấy lại ít chú ý đến những khảo-cứu
thực-nghiệm của các khoa Đạo-dẫn Thiền-định
Ấn-Độ, và làm sao ở Tây-phương chúng ta
không thử dùng những phương-pháp kiểm-soát
và chinh-phục của chúng cống-hiến, công khai
để thêm vào cái công-cụ duy-nhất, vô cùng
mong manh và luôn luôn bị sai lạc mà chúng ta
có được để biết về thực-tại .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
97
Cho rằng _ điều này không ai có ý phủ-
nhận _ khoa sinh-lý, tâm-lý Đạo-dẫn sử dụng
những giải-thích và nhất là những tên gọi
không được nghiêm-chỉnh và lỗi-thời, thì điều
ấy dễ đính-chính lại để thích-ứng với khao-học
hiện-tại _ ( Và chính đấy là điều mà Viveka-
nanda đã cố gắng ) _ những thực-nghiệm hàng
thế-kỷ liên-tiếp. Không có những phòng thí-
nghiệm của chúng ta, các nhà quan-sát Ấn đã
có những thế-kỷ ấy của sự kiên-nhẫn và trực-
giác thần-tình. Làm thế nào mà nghi-ngờ được
điều ấy, khi người ta đọc thấy trong những bản
kinh thánh cổ xưa nhất, những câu nói sáng
suốt về tính-chất các vật-thể sinh sống, như
những câu này : " Vật thể là danh-từ chỉ-định
cho một chuỗi biến-đổi... Cũng như trong một
giòng sông, những khối nước thay đổi từng
phút không ngừng, và các khối khác đến thay
thế bằng một hình-thức tương-tự, chính như thế
là cái vật-thể này vậy ."
Cái ý-niệm căn-bản, ở đây là vũ-trụ cốt-
yếu, do một thực-thể duy-nhất tạo nên, mà tất
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
98
cả các hình-thái luôn luôn biến-đổi. " Tổng thể
tất cả những năng-lực vẫn luôn luôn là một
thể . " _ ( Rajayoga, ch. III )
Không bao giờ tín-ngưỡng tôn-giáo của
họ làm hại cho những đòi hỏi khoa học của họ ;
và sự đòi hỏi thứ nhất chẳng phải đối với họ là
một điều-kiện bắt buộc khoa học họ giảng-dạy
phải chịu ; họ còn luôn luôn thận-trọng cả đến
dành cho lý-trí thế-tục, bất khả tri luận hay là
vô-thần, những khả năng đạt chân-lý bằng
những đường lối riêng của chúng. Do đấy mà
khoa Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) thừa
nhận có hai nhóm khác nhau, nhóm Đại-thừa
Đạo-dẫn ( Mahayoga ) quan-niệm đồng-nhất-
tính giữa Tự-Ngã với Thượng-Đế, và nhóm
Vô-Tính Đạo-dẫn ( Abhâvayoga _ abhava =
không có ) nó nghiên-cứu tự-thể, " coi như
không có, sạch hết phẩm tính ", như đối-tượng
của quan-sát khoa học thuần-túy và chặt chẽ.
Các nhà tín-ngưỡng tôn-giáo Tây-phương có
thể lấy làm lạ về một sự bao dung như thế.
Nhưng nó vốn bản nhiên của tín-ngưỡng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
99
Vedanta, quan-niệm tinh-thần nhân-loại là
Thượng-Đế không tự biết, có thể và phải đi dến
tự-giác. _ Một tín điều như thế thì không xa với
nguyện-vọng thầm kín hay công-khai của
Khoa-học. Vậy ở đây, chúng ta không phải ở
trên một mảnh đất xa lạ .
Hãy nói thêm rằng, khoa sinh-lý tâm-lý
học tôn-giáo Ấn-Độ thì hoàn-toàn duy-vật cho
tới một trình-độ nào của hữu-thể đặt tại mức rất
cao vì nó vượt cả " tinh-thần ". Lai nguyên của
tri-giác nó theo dõi _ bắt đầu từ những ấn-
tượng tiếp nhận của vật-thể bên ngoài cho tới
trung khu thần-kinh vào não-bộ chứa tích
chúng, và từ đấy cho đến tinh-thần _ tất cả đều
là vật-chất : tinh-thần chỉ là một chất tế-nhị
hơn, chứ không phải khác về bản chất với thân-
thể. Chỉ đến trình-độ ở trên thì linh-hồn phi
chất hay là Purusha = Thần-ngã mới can dự, nó
tiếp nhận những tri-giác ở tinh-thần là công cụ
của nó, để cho lại mệnh-lệnh cho các trung khu
phát động. Do đấy mà khoa-học cận-đại thực-
tiễn có thể đi chung đường với tín-ngưỡng Ấn-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
100
Độ trong khoảng ba phần tư lịch-trình. Chỉ đến
độ đường áp chót nó mới có thể nói : _ " Dừng
lại ! " _ Điều tôi yêu cầu nó là hãy đi chung ba
phần tư đường. Vì có thể rằng, (và riêng tôi tin)
những nhà thám-hiểm Ấn-Độ đã thấy ở dọc
đường nhiều sự-vật mà mắt chúng ta đã không
để ý đến. Hãy lợi-dụng những phát-hiện của
họ, đồng thời không từ bỏ, lẽ dĩ nhiên thi-hành
tự-do phê phán của chúng ta đối với chúng .
***
*
Trong giới-hạn của tập sách này tôi
không thể dừng xét tỉ mỉ các phương-pháp
Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ). Nhưng tôi
xin giới-thiệu với các giáo-sư Tây-phương về
tâm-lý-học tối-tân, về phân-tâm-học và về sư-
phạm khoa học căn cứ vào sinh-lý của tinh-
thần. Chính tự tôi đã lợi dụng cho tôi những
phân-tích đáng chú ý ấy ; và nếu quá muộn để
cho tôi có thể ứng dụng những bài học ấy vào
đời sống, tôi cũng khâm-phục chúng đã soi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
101
sáng những kinh-nghiệm đã qua của tôi, giải-
thích những lầm lạc và những bản năng hướng
dẫn mù quáng của tôi .
Tôi ghi nhận nhiều nhất ở ba giai-đoạn
đầu về tâm-lý tập-trung tinh-thần :
_ Prâtyâhàra : tập-trung về hướng quan-
năng khỏi sự-vật ngoại-giới và hoàn-toàn quay
vào những ấn-tượng tinh-thần .
_ Dhâranâ : bắt tinh-thần bấu chặt vào
một điểm chỉ-định ở ngoài hay ở trong .
_ Dhyana, hay là Thiền-định chính-thức,
trong ấy tinh-thần đã được những thực-tập trên
đây đào luyện, đã có được năng-lực " chảy
thành một giòng liên-tục về điểm nó đã chọn ".
Vivekananda nói rằng chỉ bắt đầu chinh-
phục được giai-đoạn thứ nhất thì tính-cách mới
tạo nên. Nhưng " không phải dễ gì làm chủ
đưọc tinh-thần, con vượn điên cuồng ấy, luôn
luôn theo bản-tính hoạt-động, nó say-sưa dục-
vọng, đố-kỵ, khích-thích và kiêu-hãnh, dầy-
vò." _ Sư-phụ đã dạy bảo gì ? Thi-hành ý-chí
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
102
chăng ? Không, ông đã đi trước những phát-
minh chậm-chạp của các nhà y-sĩ tâm-lý của
chúng ta, nhận rằng áp dụng vụng về ý-chí đối
với khuynh-hướng tinh-thần thường gây nên
một phản-ứng mãnh-liệt hơn cho khuynh-
hướng ấy. Sư-phụ dạy chinh-phục " con vượn "
bằng cách để cho nó kiệt sức dưới con mắt nội-
tâm, nó xét đoán một cách bình-tĩnh. Và các
nhà Đạo-dẫn cổ thời không chờ đến Bác-sĩ
Freud để biết được rằng khoa trị-liệu tinh-thần
tốt nhất là để cho nó nhìn thẳng vào tận mắt
những con quỷ náu dưới đáy :
_ " Hãy để trong một thời-gian cho
tinh-thần trôi qua. Nó sôi sùng sục, nổi
bọt. Hãy để cho con vượn nhảy nhót. Hãy
chờ đợi và quan sát !... Nhiều tư-tưởng
ghê tởm các anh mang trong lòng sẽ biểu-
lộ ra cho anh... Những hiểu-biết là khả-
năng... Hãy kiên tâm. Mỗi ngày sự lêu
lồng của tinh-thần sẽ bớt đi dần... Nhưng
tôi không giấu-giếm rằng công phu thì lâu
và vất-vả ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
103
Đến giai-đoạn sau, cũng thế, nhà đạo-sĩ
biết lợi-dụng trò tưởng-tượng để phụng-sự kỷ-
luật tinh-thần, nó muốn cố định vào một điểm .
Và luôn luôn Sư-phụ để ý đến những điều
kiện sinh-lý : _ Tránh mệt nhọc... " Những
thực-tập ấy không thích-hợp để theo đuổi công
việc vất-vả của một hành-trình ." Hãy thận-
trọng về phép-tắc dưỡng-sinh. " Bước đầu
nghiêm-khắc : uống sữa và ăn ngũ-cốc " ;
kiêng tất cả cái gì kích-thích. tuyệt-đối chay
tĩnh. Không tĩnh dục thì khoa Đạo-dẫn sẽ có
những hiểm-họa tệ hại. Thực thế, theo sự quan-
sát của Ấn-Độ, mỗi cá-nhân chúng ta có một
năng-lượng tổng-cộng nhất-định ; nhưng cái
năng-lượng ấy có thể di-chuyển từ trung-tâm
nọ sang trung-tâm kia. Năng-lực dục-tính âm,
dương do trí óc sử-dụng biến hóa thành năng-
lực tinh-thần. Nhưng nếu, như phương-ngôn
nói : " người ta đốt nến cả hai đầu ", thì đấy là
bại-hoại sinh-lý và tâm-lý. Một Đạo-dẫn theo
đuổi trong những điều-kiện ấy đưa đến lầm lạc
tệ hại .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
104
Nên thêm rằng, các nhà Thiền-định Âu-
Tây rất thường lãng bỏ : vệ-sinh và hoàn-toàn
tinh-khiết. Sự tinh-khiết mà khoa Đạo-dẫn
( Yoga ) đặt làm phép-tắc thì bao-hàm cả hai
giới-điều : tinh-khiết tinh-thần và thân-thể.
" Không ai được là Đạo-sĩ ( Yogin ) nếu không
giữ cả hai giới-điều." _ ( Rajayoga, ch. VIII )
Những hiện-tượng nội-tâm được quan-sát
và mô-tả thật là tinh-vi đáng phục. bước đầu
tập-trung tinh-thần, cảm-giác rất nhỏ có thể
thành ba-động rộng lớn lạ lùng : " Một cái kim
rơi làm thành một tiếng sấm... " Có khi người
ta nghe thấy tiếng chuông rung từ đàng xa, hòa
thành một điệu liên-tục. Những điểm sáng như
đom đóm xuất hiện.... v.v. "
Vậy, rất trọng-yếu là trông coi trực-tiếp
cơ-thể, ngõ hầu gìn-giữ ở tại điểm tuyệt-đối
bình-tĩnh là mục-tiêu nhằm đến. Trong tất cả
điều này, sự chuyên tâm bền vững như người ta
thấy là tránh sự thái-quá bệnh-hoạn, tất cả sự
mất thăng-bằng thiên-lệch mà Tây-phương
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
105
vụng-về, luôn luôn vội-vàng gán thuộc tính
mô-phỏng cho nghệ-sĩ linh-cảm, theo kiểu
Beethoven hay là cho tâm-linh thần-hóa .
" Kẻ nào nhịn đói, kẻ nào ăn nhiều
quá, kẻ nào không ngủ, kẻ nào ngủ nhiều
quá, kẻ nào làm việc nhiều quá, kẻ nào
không làm việc, đều không có thể thành
Đạo-sĩ ( Yogin ) .
_ ( Rajayoga, ch. I )
" Chớ nên tập Thiền-định, khi thân-
thể đau yếu hay là quá ươn lười, hay là
khi tinh-thần rất khốn-nạn và đau buồn ."
_ ( Rajayoga, ch. VIII )
Sư-phụ Đạo-dẫn, trái lại, cho rằng sức
mạnh thân-thể cũng như tinh-thần, đều có lợi
cho khoa Đạo-dẫn ( Yoga ). Những hiệu-quả
thấy quá mau ở sự bình-tĩnh của thân-thể, ở nét
mặt thoải-mái, ở cả giọng nói nữa. Chắc hẳn
đây chính là những mục-tiêu mà các đệ-tử thế-
tục của các Đạo-sĩ chân hay giả theo đuổi. Họ
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
106
cứ việc theo đuổi. Trong một tổng bộ kinh-
nghiệm phong-phú như thế, bao gồm nhiêu
khu-vực khác nhau về thân-thể cũng như tinh-
thần, mỗi người ai nấy đều có thể hái lượm cho
lưng vốn của mình. Ở đây chúng tôi chỉ để ý
đến các nhà tâm-lý-học và bác-học thôi !
_ ( Không chút vượt ra ngoài bình-diện có
thể quan-sát và trắc-nghiệm, điều hiện này đã
được chứng-minh là một kiểm-soát chủ-động
đời sống nội-tâm, có thể mang lại một phần
hay là toàn-thể đời sống vô-thức hay là tiềm-
thức của chúng ta. " Mỗi một động-tác vô-thức
có thể gọi lên bình-diện ý-thức." _ ( Rajayoga,
ch. VII ). Người ta biết, nhà Đạo-sĩ ( Yogin )
đã lợi-dụng để ngừng định hay phát động các
động-tác sinh-lý mà chúng có vẻ ở ngoài sự
kiểm-soát của ý-chí chúng ta : ví như những
tiếng đập của trái tim. Những quan-sát khoa-
học nghiêm-chỉnh chính-xác đã xác-định thực-
tại của những thực-kiện ấy mà chính chúng tôi
đã chứng-kiến. Nhà Đạo-sĩ ( Yogin ) tin chắc
rằng " tất cả thực-thể nhỏ bé đến mấy cũng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
107
mang ở bản thân một kho năng-lực vô-hạn. Và
cái tin-tưởng ấy vô cùng cường kiện, tự nó
không có chi đáng phủ-nhận trên nguyên-tắc ;
sự tiến-bộ không ngừng của các khoa-học sẽ
cho điều ấy là có lý. _ Nhưng điều đặc-biệt của
khao Đạo-dẫn Yoga ( và điều này còn là nghi-
vấn ) ấy là nghĩ rằng y có thể bằng các phương-
pháp tập-trung chủ-định tăng-gia của nó, thúc
đẩy nhịp tiến-bộ cá-nhân và rút ngắn thời-gian
các chu-kỳ cần-thiết cho tiến-bộ đầy đủ của
nhân-loại. Đấy là cơ sở của những nghiên-cứu
mới của Aurobindo Ghose, khi ông dựa vào lời
nói của Vivekananda trong tác-phẩm của mình
" Synthèse des Yogas " ( Tổng-Hợp các Khoa
Đạo-dẫn ). Lời nói ấy là : _" Khoa Đạo-dẫn có
thể là phương-tiện để cho người ta đúc lại lịch-
trình toàn-vẹn về cuộc tiến-hóa của nó vào một
vài năm hay là một số tháng của đời sống thân-
thể độc-nhất ". Về phần tôi, tôi rất ngờ. Nhưng
sự nghi-ngờ của tôi là nghi-ngờ khoa-học. Nó
không phủ-nhận. Nó chờ đợi bằng-chứng của
thực-kiện cụ-thể ). _
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
109
- IV -
ĐẠO-DẪN TRÍ-TUỆ
HAY LÀ CHÂN-TRI
( Jñānayoga )
Đà tiến-triển của tinh-thần đi lên chân-lý
giải-thoát, như người ta đã thấy, có thể diễn ra
dưới nhiều hình-thức khác nhau : hình-thức
Tình-yêu Nhập-thể ; hay là Hành-động Vô-cầu;
hay là Trí-tuệ theo đuổi, chinh-phục những
định-luật của cơ-quan nội-tâm. Tất cả những
hình-thức ấy đều cần mượn điểm tựa ở tâm-
sinh-lý mà khoa Thiền-định Đạo-dẫn dạy cho
thủ-đoạn : vì rằng không có gì vững chắc và
lâu bền lại không phải trải qua một công-trình
dự-bị tập-trung cả .
Nhưng trong các hình-thức ấy, có một
hình-thức mà công-trình dự-bị này đặc-biệt cốt-
yếu và phải đi đến thành-thực, một hình-thức
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
110
vừa có đường chính riêng của mình lại có
thành-phần lệ-thuộc với khoa Đạo-dẫn, đấy là
hình-thức cuối cùng phải cứu-xét : khoa Đạo-
dẫn Chân-tri, đạo duy-lý và triết-lý. Vì rằng
Đạo-dẫn Thiền-định vốn đã là khoa học kiểm-
soát trạng-thái nội-tâm, thì nhà triết-học phải
đòi hỏi ở khoa học ấy lấy cách sử-dụng dụng-
cụ tư-tưởng của mình. Ngay cả đến người
" Biện-biệt " nổi tiếng là Vivekananda cũng
thừa-nhận con đường ấy là đặc-biệt của mình,
con đường biện-luận, nghĩa là phân-tích và
thực-nghiệm triết-học _ con đường Tri _ " tinh-
thần có thể mắc vào cái lưới vô-hạn của biện-
thuyết suông ", và chỉ có thực-hành tập-trung
Thiền-định Đạo-dẫn mới có thể cho nó vượt
qua mắt lưới .
Vậy trong trình-bày này, chúng tôi dành
sau cùng cho phương-pháp Trí-tuệ là điều hợp-
lý. Nó vốn là phương-pháp sở-trường hơn cả
của Vivekananda. Ông đã dành nhiều khảo-
luận và thuyết-trình cho nó hơn, mà tuy nhiên
ông chưa có thì giờ để hệ-thống thành học-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
111
thuyết như là ông đã làm cho Đạo-dẫn Thiền-
định ( Rajayoga ) và Đạo-dẫn Nghiệp-hành, do
ông đọc cho người viết .
Nét thức nhất làm chúng ta chú ý là trong
phương-pháp Đạo-dẫn Trí-tuệ này cũng như
các Đạo-dẫn khác, lấy Thực-thể tuyệt-đối làm
mục-đích, vì rằng khởi-điểm và phương-tiện
của nó rất gần với tinh-thần khoa-học hơn là
tinh-thần tôn-giáo Tây-phương. Nó khẩn-thiết
viện đến khoa-học và lý-trí. " Thực-nghiệm là
nguồn độc-nhất của trí-thức ". _ ( Lý-trí và
Tôn-giáo, ch. VI )
" Không một khoa Đạo-dẫn nào từ
chối lý-trí, không một khoa nào bảo các
anh từ bỏ lý-trí giao vào tay một giáo-sĩ
nào. Mỗi khoa Đạo-dẫn bảo các anh phải
bám chặt lấy lý-trí của mình, không chút
buông thả . "
_( Lý-tưởng của một Tôn-giáo Đại-đồng )
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
112
Và ở trình-độ cao hơn hết, Đạo-dẫn Trí-
tuệ, nó khuếch đại lý-trí ; nó hiến thân cho lý-
trí. Đối với nó tất cả là khoa-học. Và tôn-giáo
là một trong các khoa học. Vậy nó phải phục-
tòng những định-luật như nhau của tinh-thần
cũng như các khoa học khác. " Cùng những
phương-pháp khảo-sát như nhau mà chúng ta
áp-dụng trong các khoa học và tri-thức về
ngoại-giới, phải chăng phải đem ứng-dụng vào
khoa học tôn-giáo ? Tôi đáp : _ phải ! Và tôi
nói thêm : _ càng sớm ngày nào càng hay. Nếu
một tôn-giáo bị sự khảo-cứu ấy phá hủy, như
vậy thì nó là một điều mê-tín vô-dụng và
không xứng đáng ; nó biến đi càng sớm càng
hay. Tôi, tuyệt-đối tin rằng sự phá hủy nó đi là
hơn hết. Tất cả cái gì là cặn-bã sẽ phải lọc đi,
nhưng những thành-phần cốt-yếu sẽ phục-hồi
toàn thắng ." _ ( Lý-tưởng một Tôn-giáo Đại-
đồng, ch. II )
Nhân danh nghĩa gì một tôn-giáo dám
đứng ra ngoài để kiểm-soát lý-trí ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
113
" Chúng ta có quyền gì để từ chối
việc sử-dụng lý-trí, cái ân-điển tối-cao
của Thượng-Đế ?... Chẳng phải là một tội
phạm-thượng vĩ-đại để tín ngưỡng trái
với lý-trí ?... Tôi dám chắc rằng Thượng-
Đế sẽ tha thứ cho kẻ nào sử-dụng đến lý-
trí mà không tín-ngưỡng _ hơn là cho kẻ
nào tín-ngưỡng mù-quáng, không sử-
dụng đến những năng-khiếu của Thượng-
Đế đã ban cho. Kẻ này làm trụy-lạc đến
nhân-tính và rơi xuống hàng cầm-thú.
Chúng ta phải suy-nghĩ... Có thể rằng các
nhà Tiên-tri đã vượt quá giới-hạn của
giác-quan và đã có một nhỡn-quan siêu-
nhiên. Chúng ta sẽ tin như thế, chừng nào
chúng ta có thể tự mình làm được điều ấy.
Không trước đó ! ...
" ... Người ta bảo rằng lý-trí không
đủ mạnh, nó thường không đủ sức đạt
chân-lý, rằng nhiều phen nó sai lầm ; vậy
thì kết luận là chúng ta phải tin vào uy-
quyền của một Nhà-Thờ ! Đấy là một tín-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
114
đồ Da-Tô La-Mã đã nói với tôi ; nhưng
tôi không nhận suy-luận của y là có lý.
Tôi sẽ nói rằng, nếu lý-trí nhu-nhược, thì
một đoàn-thể giáo-sĩ sẽ còn yếu đuối hơn,
và tôi không thừa nhận phán xét của họ.
Nhưng tôi sẽ căn cứ vào lý-trí của tôi, bởi
vì với tất cả nhược-điểm của nó, còn có
chút may để nhờ vào nó mà tới được
chân-lý... Chúng ta phải tuân theo lý-trí.
Bởi vì, thà rằng nhân-loại trở nên vô-thần
theo đường của lý-trí còn hơn là tín-
ngưỡng mù-quáng vào hai trăm triệu
thần-linh, theo uy-quyền của bất cứ ai.
Điều chúng ta mong muốn là tiến-bộ.
Không một lý-thuyết nào đã từng bao giờ
làm cho loài người tiến lên cao hơn.
Năng-lực độc-nhất đáng kể là sự thực-
hiện cá-nhân và nó ở tại nơi chúng ta, nó
do ở tư-duy. Nhân-loại hãy tư-duy !
Vinh-quang của con người ở tại tư-
tưởng... Tôi tin vào lý-trí và tôi tuân theo
lý-trí của tôi, sau khi từng thấy những tệ
hại của uy-quyền, vì tôi đã sinh-trưởng ở
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
115
một xứ mà uy-quyền đã tới điểm cực-
đoan ! ... "
_ ( Vedanta Thực-tiễn, ch. II )
Cơ-bản vẫn thế, nghĩa là lý-trí _ về khoa-
học và về tôn-giáo ( như Vivekananda hiểu
nghĩa tôn-giáo ) không có sự khác nhau về
thực-chất giữa chúng, mà chỉ có khác nhau về
ứng-dụng ; và Vivekananda có khuynh-hướng
thu nhận chúng vào một ý-nghĩa. Có khi ông
nói : _" tất cả tri-thức nhân-loại chỉ là một bộ-
phận của tôn-giáo ". _ ( và tôn-giáo như thế có
thể là tông-thể của các tri-thức ). Có khi ông
ca-tụng với tinh-thần độc-lập kiêu-hãnh,
_ " những biểu-thị ấy của tôn-giáo mà đầu thì
có thể nói là nhập vào sâu trong những bí-quyết
của tầng trời, tuy rằng chân vẫn cắm chặt trong
mặt đất _ tôi hiểu là những khoa-học gọi là
duy-vật " _ ( trong tác-phẩm dẫn trên ).
" Khoa-học và tôn-giáo đều là hai
cuộc toan tính song hành để giúp chúng ta
thoát khỏi nô-lệ. Duy có tôn-giáo cổ xưa
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
116
hơn, và chúng ta có bão-phụ hay mê-tín
( hãy để ý chữ này ở miệng một nhà tín-
ngưỡng nhiệt-thành như Vivekananda ),
cho rằng nó thần-thánh hơn ..."
Chúng khác nhau ở chỗ nào ? Ở khu-vực
ứng-dụng của chúng .
" Tôn-giáo giải-quyết các chân-lý
của thế-giới siêu-hình, cũng chẳng khác
gì hóa-học và các khoa học thiên-nhiên
giải-quyết các chân-lý của thế-giới vật-lý
vậy ".
" Người là người, chừng nào nó
phấn-đấu để vươn lên trên thiên-nhiên ;
và cái thiên-nhiên ấy thì vừa nội-tại vừa
ngoại biểu. Không những nó bao hàm
những định-luật điều-đồng những phần-tử
vật-chất ở nơi chúng ta và ở bên ngoài,
mà còn cả cái thiên-nhiên tế nhị hơn tại
bên trong nó, thực-tế là cái động-lực cai-
quản bên ngoài. Một điều rất tốt, rất vĩ-
đại là chinh-phục ngoại-giới thiên-nhiên.
Còn vĩ-đại hơn nữa là chinh-phục thiên-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
117
nhiên nội-tại. Rất vĩ-đại, rất tốt để hiểu-
biết các định-luật cai-quản những dục-
vọng, những tình-tự, ý-chí, của nhân-loại.
Và điều này thuộc phạm-vi tôn-giáo ."
_ ( Jñānayoga, I _ " Sự Thiết-yếu của
Tôn-giáo " )
Và trường-sở khác nhau, phương-pháp
khảo sát cũng phải thay đổi. Phương-pháp của
Vivekananda đề-xướng cho khoa-học tôn-giáo,
và riêng biệt của Đạo-dẫn Trí-tuệ ( Jñānayoga )
đối-lập với phương pháp mà ông cho là khiếm
khuyết của cái khoa-học mới được thông-dụng
ở Tây-phương, là lịch-sử đối chiếu các tôn-
giáo. Không phải không biết lợi ích của những
khảo-cứu lịch-sử ấy với các thuyết thần-tình
của nó về nguyên-lai các tôn-giáo cô-truyền,
Vivekananda xét các phương-pháp ấy quá " bề
ngoài hình-thức " để có thể thấu hiểu một loại
thực-kiện căn-bản là " nội tâm ". Dĩ nhiên
" xem mặt mà bắt hình dung ", vẻ mặt và thân-
hình đối với con mắt thành thực, có thể bộc lộ
cơ-thể và trạng-thái sức khoẻ. Nhưng người ta
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
118
không bao giờ biết được rõ tính-chất của cá-thể
sinh sống, nếu người ta không thực-hành môn
giải-phẫu và sinh-lý. Muốn biết rõ cái thực-
kiện tôn-giáo, người ta phải có thực-tập quan-
sát tự bên trong, tức là nội-quan ; phương-pháp
ở đây cốt-yếu phải là phương-pháp tâm-lý, cả
đến phân-tâm-học nữa. Nó là một môn hóa-học
của tinh-thần. Hãy tìm kiếm lấy yếu-tố nguyên-
thủy, tế-bào hay là nguyên-tử !
" ... Nếu tôi biết được một yếu-tố
của cục đất sét, tôi sẽ biết toàn-thể bản-
tính nó, sự sinh, trưởng, hủy, diệt của nó.
giữa phần-tử và toàn-thể, chỉ có khác
nhau trong thời-gian. vòng tuần-hoàn tự
thành tựu mau chóng có hơn kém sớm
muộn. "
Vậy thì trước tiên phải phân-tích nội tâm
để đạt tới nguyên-tử tinh-thần. Khi nào người
ta đã chinh-phục và gạn lọc những yếu-tố
nguyên-thủy rồi, người ta sẽ tổ-hợp chúng lại
và tìm suy-diễn ra các nguyên-lý. " Bấy giờ trí-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
119
tuệ sẽ xây cất ngôi nhà ; nhưng nó không thể
xây dựng mà không có gạch vữa, và một mình
nó không có thể làm ra gạch." Khoa Đạo-dẫn
Trí-tuệ là phương-pháp chắc chắn nhất để
thâm-nhập vào các thực-kiện nguyên-thủy " .
_ ( Nhập-môn Jñānayoga, q. VI )
Và ở đây, khoa Đạo-dẫn Trí-tuệ
( Jñānayoga ) cấu-kết với các phương-pháp
thực-hành Đạo-dẫn Thiền-định ( Rajayoga ) .
Trước hết, bắt đầu là khoa sinh-lý-học tỉ-
mỉ về tinh-thần : các cơ-năng cảm-giác và vận-
động, các trung-khu thần-kinh trí-não. Rồi
phân-tích chất-liệu tinh-thần ở triết-học Tăng-
Khư ( Sankhya ) nó phân-biệt với Linh-hồn,
vốn nó là thành-phần thuộc vật-chất. Gỡ tung
cả bộ máy tri-giác và quá-trình tri-thức của tri-
giác. Cái vũ-trụ ngoại-giới là một ẩn-số không
biết x . Cái vũ-trụ chúng ta biết là cái ẩn số
x ± ấy có thêm hay bớt tinh-thẩn của ta ( hiểu
như là năng khiếu tri-giác ), nó khuôn vào cái
khuôn các điều-kiện riêng của nó. Tinh-thần
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
120
cũng chỉ tự biết qua môi-giới của tinh-thần. Nó
lại là một ẩn-số không biết là y ± có thêm hay
bớt đi những điều-kiện của tinh-thần. Sự phân-
tích của Kant đã làm ở Tây-phương thì rất
quen-thuộc với Vivekananda, mà hàng thế-kỷ
trước đây triết-học Vedanta đã làm và theo
Vivekananda thì nó đã vượt phân-tích của
Kant .
Công việc tinh-thần diễn-tiến qua hai cấp
khác nhau và bổ-túc cho nhau : Pravritti = Tiến
ra ; Nivritti = Hồi chuyển _ vận-động tuần-
hoàn phản-phục. Và phương pháp siêu-hình
cùng tôn-giáo lành mạnh bắt đầu từ cấp thứ
hai : Phủ-định hay là Giới-hạn. Cũng như
Descartes ở Tây-phương, nhà Đạo-dẫn Trí-tuệ
( Jñānin ) trước hết dọn sạch địa-bàn và tìm
điểm vững bền trước khi xây dựng. Nhu-yếu
đầu tiên là thử-thách những nền móng và trừ bỏ
tất cả các nguyên-nhân huyễn-hoặc hay mê
lầm. Đạo-dẫn Trí-tuệ ( Jñānayoga ) như vậy,
trước hết là một khoa phê-phán khắt-khe những
điều-kiện của tri-thức : Thời-gian ; Không-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
121
gian ; Lý Nhân-quả v.v... Nó nhận-định chính-
xác những biên-giới của tinh-thần trước khi
vượt qua .
***
*
Nhưng ai cho phép nó vượt qua biên-giới
ấy ? Ai bảo-đảm ở bên ngoài giới-hạn các điều-
kiện của tinh-thần có một x hay y thực-tại,
duy-nhất thực thực-tại ? Dĩ nhiên đến đây tinh-
thần tôn-giáo sắp rời con đường cùng đi với
tinh-thần khoa-học cho đến đoạn này. Nhưng ở
cả tại đây, đến chỗ nghẹo chúng còn rất gần
nhau. bởi vì cả hai đàng cùng theo đuổi, tôn-
giáo và khoa-học, giả-thiết gì ? Cầu tìm lý
Duy-nhất, bất cứ tính-chất của nó thế nào, _ và
như vậy là tín-ngưỡng tiềm-tàng _ mà tinh-thần
tạm thời đặt ra như là một giả-thuyết phong-
phú hay là trực-tiếp tri-giác và công-nhận hẳn
như là một trực-giác nồng-nhiệt và thâm-trầm
đến nỗi nó sáng chiếu tất cả khảo-sát sắp tới .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
122
" ... Các anh không thấy khoa-học
khuynh về đâu đấy ư ? Dân-tộc Ấn đã
tiến-hành bằng cứu-xét tinh-thần, luận-lý
và siêu-hình. Các dân-tộc Âu-Tây khởi-
hành từ sự quan-sát ngoại-giới thiên-
nhiên. Nhưng đến giờ này chúng đều đi
đến những kết-quả tương-tự. Trong cuộc
khảo-cứu tinh-thần chúng tôi đi đến sự
phát-hiện Duy-nhất-tính, cái Một đại-
đồng, Toàn-thể Bản-tính và Thực-tại...
Khoa-học vật-chất cũng đi đến cùng cái
Duy-nhất-tính ấy .
" Khoa-học chẳng là cái chi khác
hơn là cuộc hành-trình phát-hiện Duy-
nhất-tính. Một khi nó đạt tới cái Duy-nhất
Tuyệt-đối, nó sẽ dừng lại và không tiến-
bộ nữa vì nó đã đạt tới đích. Hóa-học
dừng lại khi nó đã khám-phá ra cái yếu-tố
duy-nhất cấu-tạo nên tất cả vật-thể khác.
Vật-lý-học sẽ dừng lại khi nào nó khám-
phá ra cái năng-lực duy-nhất nguyên-
thủy... Khoa học Tôn-giáo sẽ dừng lại khi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
123
nào nó khám-phá ra cái Bản-thể duy-nhất
của sự sống. Tôn-giáo không thể đi xa
hơn nữa _ Và đấy là mục-đích của tất cả
khoa-học ."
_ ( Toàn-tập, vol. I )
Lý Duy-nhất vậy, là giả-định bắt buộc nó
cơ-bản cho tất cả xây dựng, cái Duy-nhất ấy
giả-thiết, bắt-buộc có giá-trị của một Tuyệt-đối.
Và công việc của Đạo-dẫn Trí-tuệ (Jñānayoga)
sau khi đã thám-hiểm và hoạch-định biên-giới
của hữu-hạn, là móc nối nó vào cơ-sở vô-hạn
kia, cái nóc khung cửa tò-vò Vô-cực, mà gỡ
dần cái mạng nhện mong-manh và dầy đặc của
các vòng cung bắt chéo trong kiến-trúc Gô-
tích .
Nhưng chính trong việc đan dệt của tinh-
thần ấy, mà nhà bác-học tôn-giáo Ấn-Độ nhất
quyết rời bỏ các phương-pháp độc-nhất của nhà
duy-lý Âu-Tây công-nhận. Bởi vì ở đây, để
vượt qua khoảng rỗng ngăn cách biên-giới
giác-quan với Tuyệt-đối, nhà tôn-giáo Ấn-Độ
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
124
gọi đến trong cơ-thể nó một loại thưc-nghiệm
mới mà khoa-học Tây-phương chưa từng công-
nhận. Và chính đấy, gọi đúng danh đối với nó
là Thực-nghiệm tôn-giáo tâm-linh .
Tôi vừa nó đến những viên " gạch " mà
" trí-tuệ sẽ dùng xây nhà của nó ". Những viên
gạch mà Đạo-sĩ Ấn ( Yogin ) sắp dùng đến thì
đang để vô dụng tại trong xưởng của chúng ta .
Khoa-học Tây-phương thi-triển bằng thí-
nghiệm và suy-luận. Ở cả hai trường-hợp, nó
không thử tìm ra khỏi cái vòng tương-đối-tính,
hoặc của thiên-nhiên ngoại-giới, hoặc của
chính tinh-thần nó. Cái giả-định Duy-nhất-tính,
then chốt của hiện-tượng, còn treo lơ-lửng
trong không-trung ; nó là một giả-tưởng hơn là
một Bản-thể, tuy cần-thiết để móc lấy cái chuỗi
giây của những lý-luận và thực-kiện. Nhưng
cai đanh đóng vững mà chả ai biết hay tìm hỏi
xem nó được đóng vào cái gì ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
125
Nhà hiền-triết Vedanta kính phục sự mạo-
hiểm thần-linh mà nó không tự nhận của khoa-
học Tây-phương và việc làm vô-tư của nó ;
nhưng ông không tin phương-pháp của nó có
thể một ngày nào bắt được cái Duy-nhất-tính
kia, mà sự thực nó không có thể bỏ qua. Cũng
như các tôn-giáo Tây-phương, theo ông không
thoát khỏi quan-niệm nhân-cách về Thần-linh,
thì các khoa-học không có vẻ vượt được lên
trên một Thực-tại ngoài kích-thước tinh-thần
nhân-loại. Phải tìm thấy một vũ-trụ bao-hàm tất
cả các vũ-trụ. Giải đáp cho vấn-đề sẽ là phát-
hiện cái " nescio quid " ( cái gì không biết ) là
của chung cho tất cả các vũ-trụ, thế-giới thấp
cũng như thế-giới cao. Các nhà tư-tưởng Ấn-
Độ đã nhận xét thấy rằng họ càng đi xa trung-
tâm thì sự phân-hóa khác biệt càng rõ-rệt, và
càng đi gần vào trung-tâm, họ càng thấy tiếp-
cận với Duy-nhất-tính .
" Ngoại-giới đối với họ thì rất xa
với trung-tâm : và không phải ở đấy
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
126
người ta sẽ tìm ra mảnh đất chung để tất
cả hiện-tượng sinh-tồn có thể gặp gỡ
được ."
Có những hiện-tượng khác với những
hiện-tượng ngoại-giới : những hiện-tượng tinh-
thần, đạo-đức, trí-thức ; có nhiều bình-diện
sinh-tồn ; nếu người ta chỉ thám-hiểm có một
bình-diện thì người ta không thể giải-thích
được toàn-diện. Vậy điều-kiện tất-yếu là phải
đạt tới trung-tâm để từ đấy đi ra các ngả của tất
cả bình-diện sinh-tồn. Cái trung-tâm ấy thì ở tại
trong chúng ta. Các triết-gia Vedanta cổ-điển,
trong công-cuộc thám-hiểm của họ, đã đạt tới
việc khám-phá ra cái nhân-tố thâm sâu nhất của
tâm-hồn, là trung-tâm của tất cả vũ-trụ .
_ ( Jñā-nayoga " Thực-hiện ", 29-10-1896 ).
Chính đấy là nơi người ta phải đi đến.
Phải khoan mỏ, phải đào, phải nhìn thấy và sờ
thấy. Và chính đấy là vai-trò riêng-biệt của tôn-
giáo, theo nghĩa Ấn-Độ, vì rằng như chúng ta
đã thấy nó trước hết, nếu chẳng phải độc-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
127
chuyên là " vấn-đề thực-hiện cụ-thể ". Về điểm
này, Vivekananda đã đi xa đến nỗi ông dám
viết : _" Thà không tin còn hơn là đã không
cảm-súc," ( nghĩa là tri-giác và thí-nghiệm ) .
Người ta thấy nhu cầu khoa-học lạ lùng ở ông
luôn luôn pha trộn với tôn-giáo .
Nhưng cái khoa-học riêng biệt ấy đòi sử-
dụng thực-nghiệm riêng biệt, một hạng siêu-
đẳng, Vivekananda viết :
" Tôn-giáo căn-bản tiến-hành một
cuộc phấn-đấu để vượt lên trên giới-hạn
của giác-quan. Phải tìm ở đấy " cái mầm
chân-chính của nó ... "
_ ( Jñānayoga, " Sự cần-thiết của Tôn-
giáo "_ diễn-thuyết tại Londres ).
Vivekananda tưởng rằng khích-động đầu
tiên cho cuộc tìm-tòi ấy đã đến với nhân-loại
qua những giấc mộng ; chúng truyền cho nó ý-
niệm đầu tiên lờ-mờ về bất-tử. " Khi người ta
nhận thấy rằng giấc mộng không phải cuộc
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
128
sống mới, bấy giờ bắt đầu cuộc tìm tòi... Nó
tiếp-tục phát-hiện những trạng-thái cao hơn là
trạng-thái thức hay mộng... ". Trong tất cả các
tôn-giáo có tổ-chức, các nhà sáng-lập đều có
tuyên-bố rằng họ đã thâm-nhập vào các lãnh-
vực của tinh-thần, trong ấy họ mục-kích một
loại thực-kiện mới, có quan-hệ đến cái gọi là
cõi tâm-linh. " _ ( Jñānayoga, “ Sự Cần-thiết
của Tôn-giáo.” Ông nói thêm rằng ngoại trừ
độc-nhất có lẽ là Phật-giáo. Nhưng cả đến
Phật-giáo đã thấy một định-luật ( Pháp ) luân-
lý vĩnh-cửu ; và cái định-luật ấy không phải đã
được lý-trí suy-diễn ra theo nghĩa phổ-thông
của lý-trí. Đức Phật đã phát-hiện định-luật
(Pháp) trong một trạng-thái siêu-giác-quan . " )
Tất cả các tôn-giáo tuyên-bố rằng tinh-
thần nhân-loại có nhiều lúc siêu-việt, không
những giới-hạn của giác-quan, mà còn cả
những năng-khiếu thông-thường của lý-luận,
và bấy giờ nó đến trước những sự-kiện mà
giác-quan và lý-luận không có thể đem lại .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
129
( Kể từ Vivekananda về sau, còn có nhà
Đạo-sĩ trứ-danh Aurobindo Ghose tiến lên một
bước nữa, đã khôi-phục trực-giác vào quá-trình
bình-thường của tinh-thần khoa-học :
" Sự sai lầm của lý-trí, thực-tế là
quá phục-tòng thực-kiện ảo-ảnh mà nó có
thể thí-nghiệm ngay như là thực-tại, và
một sự thiếu can-đảm để đem những
thực-kiện tiềm-thế thâm sâu đến kết-luận
hợp-lý. Cái gì có trước mắt chỉ là sự thực-
hiện của một tiềm-thế trước cũng như
tiềm-thế hiện-tại chỉ là dấu-hiệu của một
thực-hiện về sau... "
_ (Đời Sống Thần-linh = La Vie Divine )
" Trực-giác tồn-tại như là bị che-phủ
đàng sau động-tác tinh-thần. Trực-giác
đem lại cho người ta tin-tức sáng-lạn của
Vô-tri, mà chúng chỉ là bước đầu của cái
biết cao đẳng. Lý-trí hợp-lý chỉ đến sau
để xem nó có thể lợi dụng được cái mùa
gặt hái phong-phú đó không. Trực-giác
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
130
cho chúng ta ý-niệm về cái gì ở đàng sau
và bên ngoài tất cả cái gì chúng ta biết
hay là có vẻ như thế ; cái gì ấy luôn luôn
hiện ra cho chúng ta như mâu-thuẫn trái-
nghịch với lý-trí thấp kém của chúng ta
cũng như với kinh-nghiệm bình-thường ;
và nó thúc-đẩy chúng ta mô-tả cái tri-giác
bàng bạc vào những ý-tưởng thực-tiễn về
Thượng-Đế, về Vĩnh-cửu v.v... Nhờ
chúng mà ta nỗ-lực mô-tả cho tinh-thần ."
( Như thế thì trực-giác đóng vai-trò dọn
đường và hướng-đạo của tinh-thần mà lý-trí là
đội quân đi sau. Hai bên không phân-cách nữa,
như ở Vivekananda, bằng một thứ sàn gác giữa
hai tầng lầu. Cùng một giòng liên-tục, và tất cả
các giòng đều thuộc về một con sông Tri-thức
chảy đều. Những giới-hạn của khoa-học đã
biến đi. " Còn đâu là Vạn lý trường thành... "
Cả đến những ý-niệm về Thượng-Đế, về Vĩnh-
cửu, Bất-tử v.v... và tất cả cho tới nay tạo thành
tôn-giáo chính-thức thì trong luận-trình của
Aurobindo chỉ còn là những phương-tiện biểu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
131
thị cho tinh-thần của cái viễn-tượng về Thực-
tại, nó ngày nay đi trước lý-trí luận-lý, nhưng
ngày mai lý-trí luận-lý sẽ đạt tới. Đấy là hiện
nay những tiến-bộ mà tinh-thần Ấn đã đạt đến
như thế nào, và ý-thức của nó về "sống động",
về " sống toàn-diện " nhập-thế-hóa trực-giác
tôn-giáo vào trong tinh-thần nghiêm-khắc của
khoa-học . )
Lẽ tự nhiên là những thực-kiện mà
Vivekananda nói trên đây, chúng ta không bắt
buộc phải tin trước khi trông thấy và thực
chứng. Các bạn Ấn sẽ không lấy làm ngạc-
nhiên rằng chúng ta chống đối chúng với sự
nghi ngờ lành mạnh. Làm như thế chẳng qua
chúng ta cũng chỉ tuân theo chính cái phép-tắc
nghi-ngờ khoa-học của họ thôi : _ " Nếu anh
chưa sờ thấy, chớ có tin ! " Và Vivekananda
khẳng-định một cách khoa-học rằng nếu từng
có một thực-nghiệm độc-nhất trong ngành tri-
thức nào thì nó đã có thể có trước , thì nó phải
có sau này. Nhà linh-hứng thần-cảm không có
quyền đòi ưu-đãi đặc-biệt, nó sẽ không sẩy ra
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
132
một lần nữa. Vậy thì nếu một số chân-lý và tối-
cao là kết-quả của những thực-nghiệm tâm-linh
của một số nhân-vật " thần tuyển " thì vấn-đề
là làm lại những thực-nghiệm tôn-giáo ấy. Và
khoa Thiền-định Đạo-dẫn có mục-đích là dẫn
tinh-thần đến cái cõi đất thực-nghiệm ấy .
" Tinh-thần chú-định vào một điểm
cụ-thể ( Dharana ). nó tự giới-hạn vào
một điểm ấy thôi, lấy làm cơ-bản. Các làn
sóng tinh-thần thuộc loại đặc-biệt, bấy
giờ bắt đầu nổi lên. Chúng không bị tan
chìm vào các loại sóng tư-tưởng khác.
Nhưng dần dần, chúng trở nên bao-trùm,
còn các làn sóng khác lùi lại và cuối cùng
biến mất. Kế đến, những sóng phức-tạp
ấy nhường chỗ cho một cái nhất-tính. chỉ
còn lại có một làn sóng trong tinh-thần
( Dhyana ). Khi nào không cần có cơ-bản
nữa, khi nào toàn-thể tinh-thần đã trở nên
một làn sóng duy-nhất, thì bấy giờ là
Thiền-định tối-cao Tam-ma-địa (Sama-
dhi). Lột hết vị-trí không-gian và trung-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
133
tâm, ý-thức tư-tưởng hiện-diện một mình
( nghĩa là cái phần nội tại của tri-giác mà
đối-tượng " sở-tri " lại hiệu-quả ) . Nếu
tinh-thần có thể chú-định vào trung-tâm
suốt mười hai giây đồng hồ thì có được
Dharana. Mười hai Dharana như thế là
một Dhyana và mười hai Dhyana dẫn đến
Samadhi... Và đấy là thuần-túy lạc-cảm
của tinh-thần ... "
_ ( Rajayoga, ch. VIII )
Tự-do, ai nấy tùy ý thử làm công-trình tự
giáo-dục lấy ấy. Về phần tôi, tôi tự mãn-
nguyện chỉ-dẫn ra đây kết-quả cuối cùng của
những xét-nghiệm ấy, và đấy là nhận-định mà
ở trong tất cả các tôn-giáo có tổ-chức ở hình-
thức cao đẳng, những thực-kiện tâm-linh trừu-
tượng, phát-hiện và tri-giác, kết-tinh thành một
Duy-nhất-tính " hoặc ở hình-thức của một
Hiện-diện trừu-tượng, một Thực-thể toàn-năng,
một Nhân-cách tuyệt-đối, gọi là Thượng-Đế
hay là Đạo-pháp ( luật-pháp đạo-đức ), hoặc ở
hình-thức một Bản-thể trừu-tượng tại cơ-bản
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
134
của tất cả sinh-tồn ." _ ( Jñānayoga, Sự Cần-
thiết của Tôn-giáo ) .
Và ở hình-thức sau cùng này là hình-thức
của Bất-nhị-pháp ( Vedanta - Advaïta ) chúng
ta lại thấy ở mục-đích quá gần với khoa-học
thuần-túy mà tôi khó lòng phân-biệt chúng với
nhau. Cái điểm khác nhau chính là ở trong cử-
chỉ của người chạy thi đã tới đích. _ Khoa-học
thừa-nhận và nhận-xét cái Duy-nhất-tính như là
hạn-định giả-thiết của vận-động tư-tưởng của
mình mà nó hướng-dẫn và sắp đặt. Đạo-dẫn
( Yoga ) đòi nắm chặt lấy cái Nhất-tính ấy, tự
in sâu vào nó như là cây leo cuốn. Nhưng
những kết-quả của tinh-thần đại-khái như nhau.
Khoa-học cận-đại và triết-học Bất-nhị-pháp
(Advaïta) đều kết-luận rằng " giải-thích của
sự-vật ở tại nơi bản-tính riêng của chúng, và
không sinh-tồn nào hay là nguyên-nhân bên
ngoài nào là thiết-yếu cả, để giải-thích sự việc
sẩy ra trong vũ-trụ... " Và cùng cái nguyên-lý :
" Giải-thích của tất cả vật gì là tự bên trong ",
quy-kết tất nhiên là " định-luật cận-đại về
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
135
Tiến-hóa. bởi vì tất cả ý-nghĩa của Tiến-hóa-
luận là bản-tính của một vật tái diễn trong sự
trưởng-thành của nó, rằng hiệu-quả chẳng gì
khác hơn là nguyên-nhân ở trong hình-thức
khác, rằng trong cái nguyên-nhân ấy có tiềm-
tàng ngầm-ngầm tất cả tiềm-năng của các hiệu-
quả khác nhau, tóm lại là toàn-thể của cuộc
sáng-tạo là Tiến-hóa, không phải sáng-tạo ."
_ ( Vivekananda, Toàn-tập. I )
Vivekananda thường nhấn mạnh vào
điểm bà con thân-thuộc của thuyết Tiến-hóa
cận-đại với các thuyết của siêu-hình-học và vũ-
trụ-luận Vedanta cổ xưa. Nhưng giữa giả-
thuyết Tiến-hóa và giả-thuyết Ấn-Độ có sự
khác biệt căn bản này là thuyết Tiến-hóa cận-
đại chỉ là một ngành trong toàn-bộ kiến-trúc, và
Tiến-hóa ngụ ý cái giải-thích đối xứng như là
bức tường ốp trong triết-học Vedanta, một Hồi-
toàn tương-tự với nó, có định-kỳ. Tất cả tư-
tưởng Ấn-Độ tự bản-chất đều lập cơ-sở trên
thuyết Chu-kỳ. Sự tiến-triển trình-bày ở hình-
thức các lớp sóng kế tiếp. Mỗi làn sóng vươn
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
136
lên và hạ xuống và mỗi làn sóng lại có làn sóng
nối tiếp hết lên lại xuống :
" ... Dù căn cứ vào những khảo-cứu
cận-đại, người ta cũng thấy rằng nhân-
loại không có thể là sản-phẩm của một
tiến-hóa đơn-thuần. Tất cả tiến-hóa giả-
định trước một hồi-toàn. Khoa-học cận-
đại sẽ bảo các anh rằng các anh chỉ có thể
từ trong một bộ máy rút lấy tổng-số năng-
lượng các anh đã đem vào đấy. Một vật gì
không thể từ chỗ không sản-xuất ra. Nếu
loài người từ một cơ-thể thấp tiến-hóa
lên, thì bấy giờ một người hoàn-toàn _
người Phật, người Cơ-Đốc _ như vậy đã
hồi-toàn vào trong cơ-thể thấp kém... Như
vậy chúng ta có thể điều-giải Thánh kinh
với khoa-học cận-đại. Cái năng-lực nó tự
biểu-hiện dần dần qua nhiều trình-độ cho
tới khi nó tự thực-hiện ra con người hoàn-
toàn thì không có thể từ cái không mà
xuất ra. Nó có tồn-tại ở một chỗ nào rồi ;
và nếu chất nguyên hình là chất đầu tiên
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
137
chúng ta có thể ngược trở về, thì chất
nguyên hình ấy đã phải chứa đựng cái
năng-lực ấy rồi... " Những cuộc tranh-
biện suông giữa " kẻ chủ-trương cho cái
phức-thể những chất-liệu gọi là thân-thể,
vật-thể, là nguyên-nhân cho biểu-hiện gọi
là tâm-hồn ", và " kẻ cho tâm-hồn là
nguyên-nhân của vật-thể." Những tranh-
biện ấy chẳng giải-thích được chi cả. " Vì
rằng ở đâu ra cái năng-lực làm nguồn gốc
cho những hóa-hợp kia, gọi là tâm-hồn
hay vật-thể ? có lẽ nên nói cái năng-lực
nó chi-phối vật-chất để làm thành vật-thể
cũng là cái năng-lực nó biểu-hiện thông
qua vật-thể, như vậy có lẽ hợp lý hơn...
Người ta có thể chứng minh không có
vật-chất, đấy chỉ là một trường-sở năng-
lực nào thôi. Năng-lực gì nó biều-hiện
qua vật-thể ?... Ngày xưa trong các Thánh
kinh cổ-truyền, cái thế-lực ấy với những
biểu-hiện của nó, đã được gán cho là một
chất sáng, hiện-hình vào vật-thể kia, và
tồn-tại sau khi vật-thể đã hủy-hoại... Về
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
138
sau, đến một ý-tưởng cao hơn cho rằng
cái vật-thể ấy chẳng phải là đại-biểu của
năng-lực... rằng có cái gì khác thiết yếu
cho nó... Cái vật gì khác ấy được gọi là
Linh-hồn, hay là Atman ở tiếng Phạn
( Sanscrit )... Cái Một vô sở bất tại, vô
hạn ... "
_( Jñānayoga. II, " Chân tính của Người "
_ Diễn-thuyết tại Londres ) .
Nhưng làm thế nào mà cái Vô-hạn kia đã
có thể trở nên Hữu-hạn ? Vấn-đề siêu-hình vĩ-
đại !... ( mà cả toán-học cũng không tránh được
_ Henri Poincaré : " Dernière Pensées "
" Những Tư-tưởng Cuối cùng " ). Vấn-đề trong
ấy thiên-tài các thế-kỷ đã bao công-phu không
ngừng để dựng lên những kiến-trúc từng đổ
xuống... Vì rằng không phải chỉ là đặt ra Vô-
hạn, chứng-minh Vô-hạn, sờ thấy Vô-hạn. Còn
phải nối vào đấy cái gì mà chính định-nghĩa đã
bị quy-kết không bao giờ tới được. Ở đây các
nhà siêu-hình-học Cơ-Đốc của chúng ta đã đem
thiên-tài kiến-trúc vào công-trình xây cất :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
139
thông minh ; trật-tự ; hòa-điệu, tương đương
với thiên-tài của chúng bạn đồng-nghiệp họ,
những kiến-trúc-sư các giáo-đường của chúng
ta ; và những kiến-trúc tuyệt đẹp của họ đối với
tôi cũng tuyệt đẹp ví như những phát-minh
siêu-hình-học Ấn-Độ, khác nào như Thánh-
đường Chartres hay Amiens, đối với chúng ta ở
Âu-châu có vẻ đẹp hơn cả những ngọn núi đá
trạm trổ, đục khoét thành tò-vò, tổ kiến của
Madura... ( Nhưng không nên xếp thứ hạng
những kết-quả của thiên-nhiên, chúng đều vĩ-
đại và đáp-ứng cho định-luật tự-nhiên, biểu-thị
của hai khí hậu tinh-thần ... )
Giải đáp của Ấn-Độ cho vấn-đề Vô-cực
với Hữu-cực là giải đáp tượng Nhân-sư
( Sphinx ) Ấn : _ " Maya " " Ảo-hóa ". Đấy là
vì đi qua bình-phong Maya = Ảo-hóa : những
định-luật tinh-thần mà " Vô-hạn " trở nên
" Hữu-hạn ". Maya = Ảo-hóa, bình-phong của
nó, những định-luật của nó, và tinh-thần đều là
sản-phẩm của một loại "sa-đọa của Tuyệt-đối",
nó tan loãng vào " hiện-tượng ". Ý chí ngự ở
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
140
bậc trên. Không phải Vivekananda cho Ý-chí
vào bậc danh-dự như Schopenhauer đã phong
cho nó. Ông đặt Ý-chí ở ngưỡng cửa Tuyệt-
đối, nó canh cửa. Nó vừa là biểu-hện đầu của
Tuyệt-đối, lại vừa là giới-hạn đầu. Nó là một
thể phức-hợp của cái Ngã chân thật ở trên lý
nhân-quả và của tinh-thần ở bên dưới. Song,
không một hợp-thể nào là trường-tồn. Ý-chí
sinh-tồn hàm ngụ sự tất yếu của diệt-vong.
Những danh-từ : " Đời sống bất tử " là một sự
mâu-thuẫn ngay trong từ-ngữ. Thực-thể chân
thật, vĩnh-cửu thì ở tại bên trên sống chết .
Nhưng làm sao Thực-thể tuyệt-đối lại đến
trà trộn với Ý-chí, Tinh-thần, tương-đối ? _
Vivekananda trả lời với triết-lý Vedanta rằng :
" Nó không từng bao giờ thay đổi. Anh là cái
Thực-thể tuyệt-đối ấy, anh chưa từng có bao
giờ thay đổi. Tất cả sự thay đổi là Ảo-hóa =
Maya, cái Bình-phong ngăn giữa Chân-Ngã và
anh." _ Và chính đồi-tượng của sự sống, sống
cá-nhân, sống của các thế-hệ, của tất cả cuộc
tiến-hóa nhân-loại, của sự leo thang liên-tiếp,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
141
của toàn-thể Tạo-vật thiên-nhiên, kể từ bậc
thấp nhất mà sinh-tồn mới thức dậy dần dần trừ
bỏ tấm Bình-phong. Ngay tại tia sáng đầu của
tinh-thần, có một lỗ thủng như hé mở do đấy
con mắt Tuyệt-đối lọt qua. Dần dần tinh-thần
trưởng-thành, thì cái lỗ nhỏ mở rộng. Và người
ta không có thể bảo rằng điều người ta nhìn
qua, thấy được, ngày mai thật hơn ngày hôm
nay (đều là thật cả ) ; nhưng mỗi ngày người ta
bao quát một bình-diện rộng lớn hơn, cho đến
khi Bình-phong tan biến đi hết cả. Và không
còn gì khác nữa là Tuyệt-đối .
_ ( Nhập-môn Jñānayoga. Toàn-tập, q. V )
Lặng đi ! những kêu gào của xác thịt khó
khăn,
Nguôi đi ! tiếng ồn ào của lòng kiêu-
hãnh.
Đứt tung ra những xiềng xích buộc thân,
Cởi mở ra những ràng buộc trói mình .
Ôi ! hệ lụy, ôi ! ảo-hóa sạch sanh,
Chính nơi đây văng vẳng âm thanh,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
142
Âm-thanh thuần nhất, duy-tinh !
Ấy là chân-lý gọi mình xa xa !
_ ( Toàn-tập IV, " Asong I sing to Thee ")
Đối với lời kêu gọi ấy, tinh-thần nhẩy
bổ...
" Người đời hoảng sợ khi nghe
người ta nói thế. Cái Một vô-biên ấy tràn
ngụp chúng .
" Chúng luôn luôn hỏi anh :
_ “ Nhưng rồi cá-tính của tôi ra sao ?
Liệu tôi có còn giữ được nó không ?... ”.
“ Cá tính của chúng ! Nó là cái chi vậy ?
Tôi muốn được thấy !... ”. Tất cả là một
trào-lưu, tất cả biến dịch... " Không là chi
có cá-tính cả." _ nếu chẳng phải ở tại độ
đường cùng tột. " Chúng ta chưa phải là
những cá-nhân. chúng ta nỗ-lực đi tới cá-
tính : và cái ấy là Tuyệt-đối, là bản-tính
chân-thật của chúng ta. Khi nào sống
trong tất cả, chỉ có kẻ ấy sống. Chúng ta
càng tập-trung đời sống của chúng ta vào
những giới-hạn tư-hữu bao nhiêu, thì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
143
chúng ta càng đi đến chỗ chết. Chỉ có
những lúc thật sống là những lúc chúng ta
sống trong những người khác, trong vũ-
trụ. Tự thu hẹp vào đời sống nhỏ-mọn
này, là chết, không dài dòng. Và bởi vậy
cho nên chúng ta có ý nghĩ sợ chết. Sự lo
sợ ấy chỉ có thể thắng phục được chừng
nào người ta thực-hiện được là bao lâu
còn có một sự sống trong vũ-trụ này thì
nó vẫn còn sống... Con người ảo-ảnh chỉ
là một cuộc phấn-đấu để biểu-hiện cái cá-
tính ở tại bên trên, siêu-việt... "
"Và cuộc phấn-đấu ấy thành-tựu
bằng cuộc tiến-hóa của Tạo-hóa Thiên-
nhiên, nó từng bước một dẫn đến sự biểu-
hiện của Tuyệt-đối . "
_ ( Jñānayoga, II "Chân tính của Người"
= The Real Nature of Man )
Chúng ta hãy bổ-chính thêm một điều
trọng-yếu cho học-thuyết Tiến-hóa. Viveka-
nanda lấy ở trong triết-lý của Patanjali về " Sự
Thầm-nhuần của Thiên-nhiên " ( The Infilling
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
144
of Nature ). Đối với Patanjali, " sinh-tồn cạnh-
tranh " tranh-đấu vì sinh-tồn và thiên-trạch chỉ
áp-dụng hoàn-toàn đầy đủ cho hạ cấp của tạo-
vật thiên-nhiên mà thôi, trong ấy chúng quyết-
định cuộc tiến-hóa vật-chủng. Nhưng ở giai
tầng trên là cấp trật nhân-loại, thì cuộc tranh-
đấu và cạnh-tranh lại là một sự chậm tiến hơn
là bổ-ích cho tiến-bộ. Bởi vì theo học-thuyết
thuần-túy Vedanta, thì mục-đích của tiến-bộ,
sự thành-tựu hoàn-toàn, là bản-tính chân thật
tiềm-tàng trong mọi người, chỉ vì các trướng-
ngại cản-trở nó biểu-hiện. Nếu người ta gạt bỏ
được chúng đi, tức thì bản-tính tối cao của
nhân-loại tự biểu-hiện ra lấp tức. Và người ta
có thể đạt đến cuộc chiến-thắng ấy của loài
người bằng giáo-dục, bằng tu sửa bản-thân,
bằng thiền-định và tập-trung, nhất là bằng từ bỏ
và hy-sinh. Các nhà đại hiền-triết, các con của
Thượng-Đế là những bậc chiến-thắng ấy. Như
thế là học-thuyết Ấn-Độ tôn-trọng định-luật
chung về Tiến-hóa khoa-học, cống-hiến cho
tinh-thần nhân-loại khả-năng tránh khỏi bước
tiến chậm-chạp hàng ngàn năm mà vỗ cánh bay
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
145
bổng, vượt thẳng tới đỉnh chót cầu thang tiến-
hóa .
Và bây giờ thì chúng còn cần chi phải bàn
cãi cái khả-chân triết-học của tất cả hệ-thống
và cái giả-định lạ kỳ của Ảo-hóa ( Maya ) là
cơ-bản của nó. giải-thích hẳn là hấp-dẫn thực,
và nó giải-đáp cho một bản-năng ảo-giác của
cảm-súc đại-đồng, _ nhưng đến lượt nó lại phải
được giải-thích, và chưa ai giải-thích nổi,
không có thể giải-thích được, người ta đành
kết-cục trở về cái luận cứ này : " Tôi cảm thấy
thế. Anh có cảm thấy không ? "
( Ở đây là trọng-tâm của vấn-đề : _ trong
" thực-nghiệm " về Vô-hạn với Ảo-hóa. Còn lại
là vỏ ngoài. Khoa-học về tôn-giáo sẽ lầm
đường nếu nó tự giới-hạn vào việc nghiên-cứu
đối-chiếu những tư-tưởng và nghi-lễ. Tại sao từ
một nhóm người nọ sang nhóm người kia sinh
ra những ảnh-hưởng tư-tưởng hay là hệ-thống
tôn-giáo ? Bởi vì những ảnh-hưởng này thấy
thỏa-mãn cho một số thực-nghiệm cá-nhân.
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
146
Người ta tự mãn xem xét, chẳng hạn, những
quan-hệ tri-thức giữa các học-thuyết của Plotin,
Philon và của các nhà Cơ-Đốc đầu tiên. Và
người ta quên nhấn mạnh vào cái thực-kiện
này, là Plotin, Philon và các giáo-đồ Cơ-Đốc
đầu tiên đã thực-hiện những " khải ngộ "
tương-tự. Nhưng điều chính yếu là những
" thực-nghiệm " tôn-giáo ấy đã có sẩy ra
thường-xuyên được trong cùng những hình-
thức giống nhau ở những nhân-vật, chủng-tộc
và thời-đại khác nhau. giá-trị của những thực-
nghiệm ấy, làm sao mà xem xét ? Có lẽ phải có
một khoa-học tinh-thần mới, với dụng-cụ phân-
tích uyển-chuyển hơn, tinh-vi hơn và hoàn-hảo
hơn là những phương-pháp hiện thời còn quá
khiếm-khuyết và thô-sơ của phân-tâm-học với
các ngành phụ-thuộc. Chắc hẳn là không phải
phương-pháp suy-biện của những khái-niệm.
Những hệ-thống xây dựng của Plotin hay là
Denys có một giá-trị kiến-trúc trí-thức có thể
nghị-luận ; nhưng kết cục thì cái kiến-trúc ấy
luôn luôn dẫn đến tri-giác và Vô-hạn-tính, và
những nỗ-lực do lý-trí thực-hiện ngõ hầu dựng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
147
lên cho nó một điện thờ. Phê phán của lý-trí
không đạt tới, ngoài Nhà-Thờ bên trên. Nó để
lại nguyên vẹn những nền móng và hầm giáo-
đường . )
_ Phải, tôi cũng cảm thấy, nhiều lần tôi
tri-giác với sự xác-thực trực-tiếp chớp-nhoáng
cái hư-không của thế-giới ảo-ảnh, cái mạng-
nhện nắng chiếu, trong ấy thần bão Ariel trong
kịch của Shakespears, Liluli, Lila, Maya, cười-
cợt... tôi đã thấy tấm Bình-phong ! Và đã từ lâu
tôi nhìn qua, _ kể từ thời thơ-ấu, náu ẩn, tim
đập, tôi mở rộng cái lỗ ánh-sáng với ngón tay
tôi... Nhưng đấy không phải là tôi đưa ra một
bằng-chứng. Đấy là một ảo-giác. Muốn truyền
nó cho người khác, tôi lại phải cho họ mượn
con mắt của tôi. Mỗi người có con mắt mà
Maya = Ảo-hóa, Tạo-hóa, Thiên-nhiên ( bất cứ
gọi tên là thế nào ) đã ban cho nó. Và nếu nó là
của Ảo-hóa ( Maya ) thì ai bảo được rằng mắt
tôi, mắt anh, mắt các anh, đều không hết thảy
có những tia sáng của Đức Bà Ảo-hóa ? Tôi đã
trở nên quá lãnh-đạm đối với chính tôi để tự
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
148
gán cho mình một ưu-thế gì. Tôi yêu mắt của
anh với những cái gì nó nhìn thấy cũng như tôi
yêu mắt tôi. Nó hãy tự-do như của tôi !
Vậy thì, hỡi các bạn Âu của tôi ơi, tôi
không tìm chứng-minh với các bạn chân-lý của
một hệ-thống, nó bất cứ thế nào, vì là nhân-bản
thì cũng như các hệ-thống khác, là một giả-
thuyết. Nhưng điều tôi cần bầy tỏ với các bạn
là sự vĩ-đại của giả-thuyết, và mặc dù giá-trị
của nó thế nào để giải-thích siêu-hình về vũ-
trụ, trên bình-diện thực-tế của thực-kiện nó
không chút gì trái nghịch với những dữ-kiện
tối-tân được công-nhận của khoa-học Tây-
phương hiện-đại .
*****
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
149
PHẦN THỨ BA
*
KHOA-HỌC TÔN-GIÁO
ĐẠI-ĐỒNG
Sự thực tôn-giáo như Vivekananda hiểu,
có những cánh rộng lớn để có thể ấp ủ trong tổ
nó tất cả những trứng của Tinh-thần Tự-do.
Không có gì trong tất cả những hình-thức
trung-thực và lành mạnh của Tri-thức mà nó từ
bỏ cả. Nó là đồng-hương với bất cứ người nào
có tư-tưởng. Kẻ thù duy-nhất của nó là sự cố-
chấp .
" ... Tất cả những ý-tưởng hẹp-hòi,
hạn-hẹp chống-đối tôn-giáo ( theo nghĩa
quá-khứ ) phải biến đi ... Những lý-tưởng
tôn-giáo tương-lai phải bao-hàm tất cả cái
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
150
gì có trong thế-giới, tất cả cái gì tốt lành
và lớn lao, và hơn nữa chúng phải có một
môi-trường vô-hạn của phát-triển tương-
lai. Tất cả cái gì tốt ở quá-khứ phải được
bảo-tồn và các cửa phải để mở rộng cho
những cống-hiến tương-lai vào kho báu
đã có. Các tôn-giáo _ ( và các khoa-học
đều gồm trong danh-từ ấy ) _ phải " bao
hàm " , và không được khinh-miệt lẫn
nhau, bởi vì những lý-tưởng đặc-biệt của
chúng về Thượng-Đế khác nhau. Tôi đã
gặp trong đời tôi nhiều người đầy lương-
tri và tâm-linh không tin chút nào vào
Thượng-Đế ( nghĩa là theo quan-niệm của
chúng ta về danh-từ ấy ). Có lẽ họ hiểu
Thượng-Đế hơn là chúng ta có thể hiểu...
Ý-niệm một Thượng-Đế nhân-cách-hóa,
ý-niệm Phi-nhân-cách, Vô-hạn, Đạo-
pháp, Nhân-vị, lý-tưởng, tất cả những
điều ấy phải gia-nhập vào quan-niệm tôn-
giáo... "
_ ( " The Real Nature of Man " Chân-tính
của Nhân-loại ).
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
151
" Tôn-giáo " đối với Vivekananda đồng
nghĩa với " Chủ-nghĩa đại-đồng " của tinh-
thần, và chỉ khi nào những quan-niệm " tôn
giáo " đã đạt tới cái Chủ-nghĩa đại-đồng ấy, thì
bấy giờ tôn-giáo mới thực-hiện được đầy đủ ý-
nghĩa của nó. Bởi vì, trái với điều mà tất cả
những ai không biết nó thường tin, tôn-giáo là
thuộc về tương-lai nhiều hơn là của quá-khứ.
Nó mới chỉ bắt đầu :
" ... Người ta có khi nói rằng các
tôn-giáo đang chết, rằng những tư-tưởng
tâm-linh biến đi trên thế-giới. Đối với tôi,
chúng hiện ra mới chỉ là bắt đầu nẩy nở...
Chừng nào tôn-giáo còn trong tay bọn
thượng-lưu, một đoàn-thể giáo-sĩ, thì nó
còn bị giam trong các điện-đường, các
Nhà-Thờ, các kinh sách, các giáo-điều,
các khoá-lễ, các hình-thức, các nghi-lễ.
Nhưng khi nào nó được mở rộng, thanh
lọc, khi nào chúng ta tới được quan-niệm
sác-thật, tâm-linh, đại-đồng, chỉ đến bấy
giờ tôn-giáo mới trở nên sinh động, nó
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
152
thâm nhập vào chính bản-tính chúng ta,
nó linh-động ở mỗi cử-động của chúng ta,
nó nhập vào tất cả lỗ chân lông xã-hội ta.
Khả-năng về điều thiện mạnh hơn vô
cùng, mà chưa từng bao giờ nó được như
thế ...
_ ( " Chân-tính của Người " đã dẫn trên )
Nhiệm-vụ bắt buộc ở thời-đại này là hòa-
giải hai anh em ruột thịt đang kiện-cáo, tranh-
dành một thửa đất mà sự khai-thác hoàn-hảo
đòi chúng hợp-tác nỗ-lực, ấy là tôn-giáo và
khoa-học. Điều thiết-yếu và cấp-bách là lập lại
" một tinh-thần thông-cảm giữa các mẫu biểu-
thị gọi là tôn-giáo xuất-phát từ sự khảo-cứu các
thực-nghiệm tâm-lý _ ( ngày nay chẳng may
chúng còn đòi quyền độc-chuyên về danh-hiệu
tôn-giáo ) _ và các biểu-thị khác về "tôn-giáo"
chúng soi xét những bí-quyết của Thiên-nhiên
vật-chất và tự gọi là những khoa-học ."
_ ( theo tác-phẩm đã trích-dẫn trên " The Real
Nature of Man " )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
153
Đừng mong cướp đoạt vì một trong hai
anh em ruột thịt ! Anh sẽ không tiêu trừ được
khoa-học hay tôn-giáo .
" Chủ-nghĩa Duy-vật chi-phối Âu-
Tây ngày nay. Anh có thể cầu-nguyện
càng nhiều càng hay cho hạnh-phúc của
những người duy-vật và hoài-nghi cận-
đại ! Chúng sẽ không nhượng-bộ. Chúng
đòi có lý-trí ... "
_( trong "The Absolute and Manifes-
tation" " Tuyệt-đối và Biểu-hiện ", Toàn-
bộ q. II )
Bây giờ thì giải-pháp nào ? _ Tìm cho hai
bên một " hòa-giải " _ Sự hòa-giải ấy vốn đã
thấy, và từ lâu trong lịch-sử nhân-loại. Nhưng
loài người chóng quên, mãi mãi bỏ mất đi để
lại chinh-phục với giá thật đắt, những phát-
minh quý báu của nó .
" Sự cứu thoát của Âu-Tây trông
vào một tôn-giáo hợp lý ."
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
154
Song, cái tôn-giáo ấy vẫn có, và chính là
Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) của Ấn-Độ, Phi-nhị-
nguyên-luận, cái Duy-nhất, cái ý-niệm về
Tuyệt-đối, Thượng-Đế Phi-nhân-cách-hóa, Vô-
Ngã : " cái tôn-giáo độc-nhất có thể hấp-dẫn
các đại trí-thức ."
Bất-nhị-pháp đã hai lần cứu Ấn-Độ khỏi
Chủ-nghĩa duy-vật. Lần Đức Phật Thích-Ca
đến, xuất-hiện vào thời-đại của Chủ-nghĩa duy-
vật ghê-tởm nhất và tràn-lan nhất. Lần Đức
Thánh Çankara, bấy giờ Chủ-nghĩa duy-vật lại
xâm-chiếm Ấn-Độ, hủ-hóa các giai-cấp thượng
lưu và reo rắc mê-tín vào các giai-cấp hạ-lưu,
Ngài đã làm sống lại đạo Vedanta, phát-triển
thành một triết-học duy-lý... Ngày nay, mặt trời
tri-thức chói-lọi ấy, tiếp nối với tâm-tình của
Đức Phật, cái tâm mầu-nhiện, vô-hạn, từ-bi
bác-ái. Sự phối-hợp ấy sẽ cho chúng ta một nền
triết-lý cao nhất. Khoa-học và tôn-giáo sẽ gặp
nhau và bắt tay nhau. Thi-ca và triết-học trở
nên bằng-hữu. Đấy sẽ là tôn-giáo tương-lai ; và
nếu chúng ta thành-lập nên được, chúng ta chắc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
155
chắn là nó đáp-ứng cho tất cả các dân-tộc và
cho tất cả thời-đại. Chỉ có nó khoa-học cận-đại
mới có thể thừa-nhận và khoa-học cận-đại cũng
gần đạt tới đấy. Khi nhà bác-học nhận thấy ở
tại tất cả các hiện-tượng, những biểu-hiện của
cùng một năng-lực, phải chăng y chẳng nhắc
lại chúng ta Thượng-Đế mà Ảo-nghĩa-thư
( Upanisads ) đề cập :
" Như lửa duy-nhất, thâm-nhập vũ-
trụ, biểu-thị vào hình-tướng khác nhau,
cũng thế mà cái Linh-hồn duy-nhất biểu-
thị vào tất cả tâm-hồn. Và tuy-nhiên, nó
lại còn vô cùng hơn nữa ."
_ (" Tuyệt-đối và Biểu-thị " The Absolute
and Manifestation. q. II Toàn-tập )
Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) tiếp nối thêm
vào khoa-học, không từ bỏ gì của khoa-học hay
là đòi khoa-học biến cải chút gì trong giáo-lý
của mình đi. Hãy nhắc lại một lần chót những
nguyên-lý chung của chúng :
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
156
" Nguyên-lý thứ nhất của lý-luận
khoa-học là cái đặc-thù tự giải-thích bằng
cái phổ-quát để thành-tựu vào đại-đồng .
" Nguyên-lý thứ hai là sự giải-thích
của mỗi vật thì ở tại trong bản-thân nó,
chứ không phải nhờ vào bên ngoài ...
" Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) thỏa-mãn
cho cả hai nguyên-lý ấy. ( theo " Reason
and Religion " Lý-trí và Tôn-giáo_ q. VI,
Toàn-tập ) Và Bất-nhị-pháp ( Advaïta )
theo đuổi sự ứng-dụng trong trường-sở nó
đã chọn. " Nó đi đến cùng cực phổ-quát
hóa " và đòi đạt tới Duy-nhất-tính, không
những chỉ ở lý-luận và hậu-quả của nó
suy-diễn hợp-lý hay là thí-nghiệm, mà
còn ở Duy-nhất Tự-tại, tại chính trong
tâm của nó nữa. Phần anh là kiểm-soát
những quan-sát của ông ta ! Người ta
không trốn tránh sự kiểm-tra, người ta
yêu cầu. Vì Bất-nhị-pháp ( Advaïta )
không thuộc vào hàng các tôn-giáo kia
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
157
ẩn náu đàng sau sự huyền-bí của những
thiên-khải của chúng. Các cửa lớn, cửa
nhò của tôn-giáo Bất-nhị-pháp này thì
rộng mở cho tất cả. Đến đây và nhìn đi !
Có thể rằng người ta lầm như anh, như
chúng ta cả. Nhưng lầm hay không, họ
làm việc với chúng ta trên cùng những
nền móng chung cho cùng một ngôi nhà,
như nhau ."
***
*
Tựu trung, chướng ngại vật của sự thông-
cảm lẫn nhau, cái vật chính cản-trở sự gặp gỡ
người ta với nhau, mà thực ra nó đã có sứ-
mệnh để kết-hợp, ấy là danh-từ " Thượng-Đế "
nó bao phủ tất cả những hầm hố của tư-tưởng :
nó là cái khăn bịt mắt của tất cả những áp-bức
cũng như con mắt sáng của Tự-do. Viveka-
nanda đã ý-thức rõ rệt điều ấy :
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
158
_ " Người ta hỏi tôi luôn luôn rằng :
“ Tại sao ông còn dùng đến cái danh-từ
cũ rích " Thượng-Đế " ấy ? ” _ Tôi đáp :
bởi vì nó tiện hơn cho mục-đích của
chúng ta. Bởi vì tất cả những hy-vọng và
khao-khát của nhân-loại đã được tập-
trung vào đấy. Ngày nay nó đã trở nên
không có thể thay đổi danh-từ ấy được.
Trước hết nó đã được các tâm-hồn vĩ-đại
rèn đúc và thực-hiện năng-lực cùng là
thấu hiểu ý-nghĩa của nó. Thế rồi càng
ngày nó càng được lưu-hành trong xã-hội,
những kẻ ngu-si đã cướp lấy nó và đã lột
mất tinh-thần của nó đi... Danh-từ
" Thượng-Đế " đã được ứng-dụng kể từ
thời vô-thủy cổ xưa cho sự biểu-thị cái ý-
niệm về Trí-tuệ Vũ-trụ và cho tất cả cái gì
vĩ-đại và Thánh-linh kết-hợp với nó...
Nếu chúng ta vứt bỏ nó đi, mỗi người đưa
ra một danh-từ khác... " thì sẽ là hỗn-độn
ngôn-ngữ, ngọn tháp Babel mới ... " Hãy
dùng chữ cũ trong tinh-thần chân-thật,
thanh lọc nó sạch hết mê-tín và thực-hiện
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
159
nó với đầy đủ nội-dung của nó... Người ta
hiểu rằng nó đã kết-hợp với vô số ý-tưởng
huy-hàng và hùng-vĩ, rằng hàng triệu
nhân-loại đã đồng-hóa nó với tất cả cái gì
cao-cả nhất và tốt nhất, với tất cả cái gì
hợp lý, với tất cả cái gì xứng đáng được
yêu, với tất cả cái gì anh-hùng và tuyệt-
diệu trong nhân-tính ... "
" Vivekananda sác-định cho chúng
ta rằng danh-từ Thượng-Đế “ là toàn-thể
tổng-cộng cái trí-tuệ biểu-hiện trong vũ-
trụ ” tập-trung vào trung-tâm của nó. Nó
là “ thông-minh đại-đồng ”. Và “ tất cả
những hình-thức khác nhau của năng-lực
vũ-trụ như Vật-chất, Tư-tưởng, Năng-lực
v.v. đều là những biểu-hiện của cái Trí-
tuệ Vũ-trụ .” "
_ ( Jñānayoga : " Le Cosmos, I
Macrocosme " _ New-York, 19-1-1896 )
Cái " trí-tuệ vũ-trụ " ấy, ( cái " ý-thức
vũ-trụ ", cái "Thiên Địa chi tâm " )
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
160
âm-thầm ngụ trong những lý-luận khoa-học. Sự
khác nhau chính là ở tại đấy nó là một bộ máy,
và một Vivekananda đã thối sinh-khí vào nó.
Pho-tượng của Pygmalion ( nhà điêu-khắc
thần-thoại ) tự cử-động. Nhưng nếu nhà bác-
học có thể vặn lý ở nhà tôn-giáo về một qui-
nạp không được khoa-học chứng-nghiệm, thì
qui-nạp tự nó không phải phi khoa-học. Bởi vì
không phải có lý hơn để cho ở đây pho-tượng
được Pygmalion mô-hình hơn là Pygmalion
được mô-hình bởi pho-tượng. Và bất cứ
trường-hợp nào, cả hai bên pho-tượng và
Pygmalion đều do cùng một lò mà ra : điều rất
lạ là sự sống chỉ có ở một bên này, còn ở bên
kia là máy móc vô-tri-giác. Trí-tuệ nhân-loại
hàm-ngụ ( hơn là nó có thể chứng-minh hay
phủ-định ) trí-tuệ đại-đồng. Và lý-luận của một
nhà bác-học tôn-giáo như Vivekananda đối với
tôi, không có vẻ khác nhiều về phẩm chất
khoa-học với cái " Luận-lý của Vô-hạn "
( Logique de l "Infinité ) mà khoa-học một
phần công-nhận, và Henri Poincaré tranh-biện
chống với phái Cantor .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
161
Nhưng dù khoa-học có thừa-nhận hay
không một tôn-giáo tự-do khai-phóng theo
nghĩa mà Vivekananda đã cho nó, ông cũng cứ
vượt lên với lòng bão-phụ bình-tĩnh của người
tự xét mình mạnh hơn : chính là Tôn-giáo nó
thừa-nhận Khoa-học. Và Tôn-giáo này khá
rộng lớn để có thể dành chỗ ngồi chung bàn
của nó cho tất cả các hình-thức trung-thực của
cầu tìm chân-lý. Nó có cái mộng đế-quốc,
nhưng ở đấy tất cả đều được tôn-trọng, với
điều-kiện là chúng tương kính lẫn nhau. Một
trong những viễn-tượng đẹp nhất mà Viveka-
nanda dành những khái-luận cao nhất trong
Jñānayoga của ông là sự kêu gọi một " Tôn-
giáo Đại-đồng " .
Sau khi độc-giả đã biết tất cả về ông, bây
giờ không lo sợ về một Hợp-lý-hóa tư-tưởng
theo phương-pháp Taylor hợp-lý-hóa công việc
lao-động nhà máy, muốn bắt người ta phải
nhận một mầu sắc cầu vòng của thế-giới, dù là
mầu trắng thuần-nhất nó bao-hàm tất cả các
mầu, để có ý muốn thay-thế cho tất cả. Một
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
162
Vivekananda có quá thừa tất cả âm-điệu của
tinh-thần cho phiếm đàn của Brahman. Đơn
điệu nhất là sự chết đối với ông ta. Ông hân-
hoan về sự khác nhau vô cùng của tôn-giáo và
tư-tưởng. Ông cầu mong chúng còn nẩy nở và
tăng tiến hơn nữa ! _ " Tôi không muốn sống
trên mảnh đất giống như nghĩa-địa. Tôi muốn
là một người trong một thế-giới của người ...
Sự sai khác phân-hóa là dấu hiệu của sinh
sống... Sự khác nhau là chỉ-điểm đầu của tư-
tưởng... Tôi cầu-nguyện để cho chúng có thể tự
tăng nhiều lên đến mức có bao nhiêu hình-thức
tư-tưởng là có bấy nhiêu nhân-vật... Những
cuồng lộn và nước xoay chỉ hiện ra trong một
giòng suối sinh động... chính những va chạm
tư-tưởng nó làm thức tỉnh tư-tưởng... Mong
rằng mỗi người về tôn-giáo có được đường lối
tư-tưởng riêng của mình ! ... Và thực-tế nó như
thế đấy. Mỗi người chúng ta tư-duy theo lối
của mình. Những giòng tự nhiên đã luôn luôn
bị bế tắc... " Chúng ta hãy vét sạch tâm-hồn !
Hãy phá " be bờ " như người nhà-nông, láng-
giềng tôi ở xứ Valais nói, mỗi khi họ tháo nước
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
163
cho chảy vào thửa ruộng của họ. Nhưng chẳng
phải như ở xứ Valais khô-khan phải dành dụm
nước và trao nhau tay truyền tay lần lượt với
cái gầu tát nước... Nước Linh-hồn không bao
giờ thiếu. Nó trào tuôn ở cả mọi phiá. Trong tất
cả các tôn-giáo thế-giới có chứa-đựng một khả-
năng sống vĩ-đại _ tuy những kẻ tự dối mình có
phủ-nhận nhân-danh một tôn-giáo khác, tục-thế
tự xưng là Lý-trí _ Không một trong các tôn-
giáo chính ấy, kể từ hai mươi thế-kỷ nay đã
chết cả _ trừ phi có lẽ, theo Vivekananda chỉ có
đạo Zoroastrianisme ( Bái-hỏa-giáo ) ( chưa
chắc, ông biết chi được. chắc hẳn ông lầm về
điểm này )... Và Phật-giáo, Ấn-Độ-giáo, Cơ-
Đốc-giáo không ngừng tăng tiến về phẩm và
lượng. ( Và các tôn-giáo khoa-học, tự-do và
nhân-quyền cũng tăng tiến ). Cái gì giảm đi ở
nhân-loại ấy là cái chết của tinh-thần, đen tối
tuyệt-đối, cái vô-tư-duy, vắng mặt ánh-sáng : le
lói tia sáng nhỏ là đức tin nó không tự-giác.
Mỗi một đại hệ-thống tín-ngưỡng " tôn-giáo "
hay " thế tục " " đại-diện một mẩu chân-lý
đại-đồng và hết sức nỗ-lực thực-hiện cái mẩu
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
164
ấy thành một kiểu-mẫu." Vậy chúng phải bổ-
túc lẫn nhau chứ không phải bài-trừ lẫn nhau.
Nhưng những tư-ý tiểu-khí cá-nhân căn cứ vào
ngu-si được lòng tự-ái và quyền-lợi giai-cấp
ưu-đãi của giáo-quyền hay trí-thức nuôi-dưỡng,
khiến cho phần-tử tự nhận là toàn-thể trải qua
các thời-đại và các địa-phương. " Một người đi
trong thế-giới, tay xách cái lồng như gánh xiếc
Thượng-Đế ", và ý đòi nhốt tất cả vào trong ấy!
Những thằng già, con nít !... Mặc cho chúng
nói cười lẫn nhau ! Mặc dầu những điên rồ của
chúng, mỗi nhóm đều có trái tim đập mạnh và
rung-động, sứ-mệnh của mình, giai-điệu riêng
trong cái đại hòa-điệu chung ; mỗi nhóm đã
quan-niệm lý-tưởng của mình, rực rỡ và khuyết
điểm : Cơ-Đốc-giáo với cái mộng tinh-thần
thuần khiết ; Ấn-Độ-giáo với mộng tâm-linh ;
Hồi-giáo với mộng bình-đẳng xã-hội...v.v. Và
mỗi nhóm gồm có những gia-đình tính-tình
khác nhau : duy-lý, tâm-linh, thanh-giáo, hoài-
nghi, sùng-bái giác-quan hay là trí-tuệ... Tất cả
đấy là những lực-lượng khác nhau và thứ tự
trong phép điều-hòa kinh-tế thần-linh của Bản-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
165
thể luôn luôn tiến-hành không phút nào dừng.
Vivekananda phát-biểu lời thâm-thúy mà
chúng ta tất cả phải suy-tư :
_ " Người ta không bao giờ tiến từ
sai lầm đến chân-lý, mà từ chân-lý đến
chân-lý, từ một chân-lý thấp sang một
chân-lý cao hơn ."
Nếu chúng ta thực hiểu ông, thì khẩu-hiệu
của chúng ta sẽ là : " Thừa nhận " và không
phải là : bài trừ _ " và không phải chỉ là : bao-
dung, một sự thóa-mạ và phạm-thượng..." Vì
rằng mỗi người nắm được cái chi về chân-lý
mà nó có khả-năng cũng như các anh, cũng như
tôi. Anh không có gì phải " bao-dung " người
ta cả, cũng như người ta không được phép hay
là tôi được phép bao-dung ai. Chúng ta bình-
quyền và tất cả chúng ta đều tham-gia vào
chân-lý, chúng ta là đồng-hành trong sự-
nghiệp. Hãy thân ái như anh em !
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
166
_ " Tôi thừa nhận tất cả tôn-giáo
trong quá-khứ, và tôi thờ-phụng Thượng-
Đế cùng với tất cả. Tôi mở tâm-hồn cho
tất cả tôn-giáo tương-lai. Sách Thiên-khải
chưa hoàn-tất. Đấy là quyển sách kỳ lạ.
Thánh kinh Cơ-Đốc, Vedas, Hồi-giáo, tất
cả các Thánh kinh khác mới chỉ là một
vài trang, còn vô số trang nữa chưa dở.
Tôi mong nó được mở quyển sách ấy ra
hết cả các trang !... Chúng ta đang sống
trong hiện-tại, chúng ta hưởng-thụ ánh-
sáng của hiện-tại, chúng ta hấp-thụ quá-
khứ và chúng ta mở rộng tất cả cửa sổ của
chúng ta cho cái sắp tới tương-lai. Kính
chào tất cả các nhà Tiên-tri quá-khứ, tất
cả những Đại-gia hiện-tại, và tất cả các vị
Tiên-tri tương-lai ! "
_ ( " Con Đường Thực-hiện của một tôn-
giáo Đại-Đồng " " La Voie de Réalisation
d' une Religion Universelle " )
Những ý-tưởng ấy đã là những ý-
tưởng của Ramakrishna, và cũng của Keshab
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
167
Chunder Sen có vai-trò tiên-phong. Ngay từ
năm 1866 trong một bài diễn-giảng về " Các
Vĩ-Nhân " ( Les Grands Hommes ) ông này đã
nói : " Hãy tôn-trọng những Vĩ-nhân của Cơ-
Đốc-giáo ! Và những người Cơ-Đốc, hãy tôn-
trọng những Vĩ-nhân Đông-phương ! " Năm
1869, trong bài diễn-giảng về " Nhà Thờ
Tương-lai " ( L'Eglise Future ) phác-họa đích-
xác về Tôn-giáo Đại-đồng của Vivekananda :
" Tôn-giáo tương-lai sẽ chung cho
tất cả các dân-tộc. Nhưng mỗi dân-tộc sẽ
phát-triển theo bản-xứ và mang một cá-
tính đặc-thù riêng biệt ! Mỗi dân-tộc sẽ có
tiếng nói và dụng-cụ riêng của nó. Nhưng
tất cả sẽ hất hợp-xướng một Điệu Thánh-
Ca Đại-Đồng ."
Đấy là đề-tài của những diễn-thuyết của
Keshab ở nước Anh năm 1870 :
" Bao-hàm vào một cộng-đồng tất
cả các dân-tộc và chủng-tộc. Thiết-lập
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
168
như thế một Tôn-giáo Đại-đồng. San sẻ
nhóm này với nhóm khác tất cả điều tốt
lành, người ta có thể xây dựng Nhà Thờ
tương-lai của thế-giới với thời-gian ."
Sau hết, trong bức thư gửi anh em đồng-
bào Ấn ( 1880 ), những lời này có thể là của
Vivekananda, và hẳn rằng tâm-hồn Rama-
krishna đã thấu nhập :
"_ " Mong cuộc tiến-triển vô cùng
tận là khẩu-hiệu của các anh ! Tín-
ngưỡng của các anh hãy thâu thập tất cả
chứ không phải bài trừ. Tình yêu của các
anh hãy từ-thiện đại-đồng ! ... Không nên
lập lên giáo-phái mới. Nhưng thâu-nhận
tất cả giáo-phái. Hãy hòa-hợp tất cả các
tín-ngưỡng ... "
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
169
Những tư-tưởng chủ-nghĩa đại-đồng và
bác-ái tâm-linh ngày nay phảng-phất cả trong
không-trung. Nhưng các chính-quyền và những
kẻ khôn-ngoan tìm cách lợi-dụng cho mình.
Vivekananda đã chẳng cần phải sống ở thời-dại
đáng ghi nhớ của " Chiến-tranh Nhân-quyền
và Tự-do " để nhìn thấu qua sự khai-thác chủ-
nghĩa lý-tưởng, cái trò giả-dối vĩ-đại chồng
chất ngày nay ở Genève, Paris, Londres,
Berlin, Washington và ở các bọn phụ-tùng
chúng, _ đồng-minh hay thù-địch. _ Ông nói :
" Chủ-nghĩa ái-quốc đang ở giai-đoạn phát-
biểu tín-ngưỡng, hầu như tôn-giáo." Nhưng
quá thường xuyên nó chỉ là một mặt nạ của
chủ-nghĩa vị-kỷ. " Tình yêu, Hòa-bình, Bác-ái
v.v... đều trở nên những tiếng suông đối với
chúng ta... Mỗi người kêu gào " Bác ái đại-
đồng. Chúng ta tất cả bình-đẳng !..." Và rồi liền
ngay sau đó : " Hãy hợp thành một phái..."
Nhu-cầu độc-quyền xuất-hiện vội-vàng với
dục-vọng cuồng-nhiệt vụng che giấu, nó âm-
thầm gọi đến sự độc-ác của nhân-loại. " Đấy là
một bệnh-hoạn ! " Vậy chúng ta không nên tự
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
170
dối mình với danh-từ ! " Thế-gian đã quá đầy
những đại danh-từ ! " Những người có ý-thức
chính-xác về Bác-ái, Nhân-đạo không nói
nhiều, không làm những bài diễn-thuyết ở Hội
Vạn-quốc, không tổ-chức thành những Liên-
minh : Họ làm. Những khác biệt về nghi-lễ,
thần-thoại và giáo-lý, không tạo nên tất cả tôn-
giáo lớn ( tăng hay tục ), không làm cho họ
bối-rối. Họ cảm thấy cái sợi giây xuyên qua
chúng như là tất cả những viên ngọc xâu thành
chuỗi ngọc. Ví như tất cả mọi người, họ đi múc
nước tại suối. Và mỗi người có một cái bình
chứa, mà nước uốn theo hình tướng của bình.
Nhưng họ không cãi lộn về hình tướng của
nước. Nước vẫn chỉ là một .
Bằng phương-tiện thực-tế gì để đem lại
yên-lặng và hòa-bình vào đám người lắm điều
đang tranh-biện cải-cọ ở bến nước ? Nó hãy
uống nước của nó đi và để cho những người
khác uống với. Nước thừa đủ cho mọi người.
Và điều ngu xuẩn là đòi tất cả mọi người cùng
uống nước Thượng-Đế trong một cái thùng...
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
171
Vivekananda can-thiẹt giữa đám ồn ào, và ông
gắng làm cho đám cuồng nhiệt ấy nghe theo ít
nhất là hai châm-ngôn hành-vi, hai nguyên-tắc
tạm thời :
Nguyên-tắc thứ nhất : _ " Không hủy
hoại ! " Hãy xây dựng, nếu anh có khả-năng,
hay là giúp người ta xây dựng ! Nhưng nếu anh
không có khả-năng thì đừng xen vào đâu cả !
Thà không làm gì hết còn hơn là làm hại. Đừng
bao giờ nói một điều phản-đối một tín-tưởng
thành-thực. Nếu anh có một tín-tưởng ấy, hãy
phụng-sự lấy, nhưng chớ làm hại những kẻ
phụng-sự tín-tưởng khác. Nếu anh không có
tín-tưởng, thì hãy đứng nhìn ! Hãy mãn nguyện
làm người khán-giả .
Nguyên-tắc thứ hai : _ Hãy thừa-nhận
người khác nó như thế, ở vị-trí của nó và giúp
nó vươn lên trên con đường của nó ! Anh
không có gì mà sợ rằng con đường ấy làm cho
nó xa cách với anh. Thượng-Đế là trung-tâm tất
cả tay hoa bánh xe, và mỗi người chúng ta quy
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
172
vào trung-tâm ấy, theo một tay hoa. Cũng như
Tolstoï nói : " Chúng ta sẽ gặp nhau khi nào
chúng ta đi tới nơi." Tại trung-tâm thì những
sự khác nhau biến đi, nhưng chỉ ở trung-tâm
thôi ; và sự phân-hóa là thiết-yếu của bản-tính,
không có nó thì không còn sống nữa ! Vậy hãy
nâng đỡ sự phân-hóa, nhưng chúng ta không đi
nhồi vào sọ là chúng ta có thể tạo được nó, hay
là hướng-dẫn nó. Tất cả điều chúng ta có thể
làm được là tạm thời dựng lên chung-quanh cái
cây còn non nớt, một hàng rào bao che. Hãy
gạt các trở-ngại, mở sới cho nó có đủ không-
khí và đất trống để cho nó nẩy nở, chỉ có thế
thôi, không hơn. Sự trưởng-thành của nó phải
tự bên trong ra. Hãy từ bỏ cái ý-niệm chúng ta
có thể đem tâm-linh cho người khác ! Mỗi
người không có sư-phụ nào khác hơn là tâm-
hồn mình ! Ai nấy tự tạo nên mình. Và không
còn bổn-phận nào khác là giúp cho nó tự tạo
nên nó .
Người ta thán-phục sự tôn-trọng tất cả cá-
tính và sự tự-do của nó đó. Không một tôn-giáo
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
173
nào có được sự tôn-trọng đến mức độ ấy. Và
chính đấy là tôn-giáo của Vivekananda. Bởi vì
Thượng-Đế của ông là gì, nếu chẳng phải tất cả
chúng-sinh, và mỗi chúng-sinh ấy trong phát-
triển tự-do của nó ? Một trong những lời kinh
Upanisads tối cổ nói :
_ " Tất cả hiện-hữu trong vũ-trụ này
đều phải được Chúa bao-bọc ."
Vivekananda giải-thích lời ấy như sau :
_ " Chúng ta phải che phủ tất cả
bằng hình ảnh của Chúa. Không phải với
một chủ-nghĩa lạc-quan giả-dối, nó bịt
mắt chúng ta về điều ác, nhưng mà nhìn
thấy Thượng-Đế ở khắp cả : trong tội-lỗi
và trong kẻ phạm tội, trong hạnh-phúc và
trong đau khổ, trong sự sống và trong sự
chết... Nếu anh có một người vợ, như thế
không phải có nghĩa là anh phải bỏ vợ đi,
mà là anh phải nhìn thấy Thượng-Đế ở tại
người vợ anh, Ngài ngự tại nàng, tại anh,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
174
và tại đứa con... Ngài hiện-diện tại khắp
nơi ."
Một tư-tưởng như thế không làm cho đời
sống mất phong-phú chút nào. Nó còn tạo nên
phong-phú cả với sự thống khổ của đời sống ...
" Những dục-vọng và cả điều ác nữa
cũng có ý-nghĩa của chúng. Trong đau
khổ cũng như trong hạnh-phúc đều có
vinh-quang... Tôi sung-sướng về phần tôi
là đã hoàn-thành một vài điều gì tốt,
sung-sướng đã làm nhiều điều xấu, sung-
sướng đã phạm lầm lỗi, vì mỗi điều đã là
bài học kinh-nghiệm lớn... Không phải
vấn-đề là không có tư-sản. Hãy có tất cả
điều anh mong muốn ! Nhưng hãy biết sự
thật, và thực-hiện sự thật đi !... Hãy biết
rằng tất cả đều của Chúa, rằng Thượng-
Đế ở tại mỗi mảnh nhỏ của thực-thể anh...
Bấy giờ thì cảnh-tượng biến-đổi, và thế-
gian đáng lẽ hiện ra như một địa-ngục sẽ
thành ra thiên-đường ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
175
Đấy là ý-nghĩa lời nói vĩ-đại của Jésus :
" Thiên-đường ở tại trong lòng các
con ! ". Thiền-đuờng không xa vời. Thiên-
đường ở đây và kia. Tất cả đều là Thiên-đường.
Anh chỉ cần mở mắt ra ...
_ ( Jñānayoga; " Dieu en toutes choses ",
Londres 27-10-1896 )
" Thức tỉnh ! Tỉnh dậy !... Đừng mộng mị
nữa !
" Hãy can-đảm lên ! Và đối-diện với
Chân-lý ! Đồng-nhất với Chân-lý !
" Dứt hết ảo-tưởng triền-miên .
" Hoặc nếu ngươi không có thể, hãy mơ
những giấc mơ gần gũi :
" Là Tình-yêu Vĩnh-cửu và Tự-do Phục-
vụ .
" Ông còn bình-luận thêm rằng mỗi
tâm-hồn là thần-linh tiềm-tàng. Mục-đích
là biểu-hiện thần-linh ấy ngự tại nội-tâm
chúng ta, bằng cách kiểm-soát bản-tính
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
176
bên ngoài và bên trong. Hãy làm điều ấy,
hoặc bằng hành-vi, hoặc bằng sùng-bái,
hay là bằng kiểm-soát tâm lý, hay là bằng
triết-lý, _ bằng một trong các phương-tiện
ấy thôi, hay là bằng nhiều, hay là
bằng tất cả... Hãy tự-do ! Điều này là tất
cả tôn-giáo. Các học-thuyết và các giáo-
điều, những nghi-lễ và kinh-điển, các đền
thờ và những hình-tướng chỉ là những
chi-tiết thứ yếu ."
Và luôn luôn, vốn là đại nghệ-sĩ, ông ví
vũ-trụ với một bức họa, mà chỉ người nào
ngắm nó với con mắt không có ý-định tư-hữu
bán mua, mới thực-sự thưởng-thức được :
_ " Tôi không biết một quan niệm
nào về Thượng-Đế hùng-vĩ hơn là quan-
niệm này : _ “ Ngài là Thi-sĩ Đầu-tiên,
Thi-sĩ Tối-cao. Toàn-thể vũ-trụ là bài Thơ
của Ngài, đủ vần-điệu, viết trong hoan-lạc
vô-hạn.” _ (Đieu en toutes choses : God
in everything ).
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
177
Ông nói ở Londres năm 1895 :
_ " Nghệ-sĩ là một chứng-nhân
chứng-kiến cái đẹp. Nghệ-thuật là hình-
thức hạnh-phúc ít vị-kỷ hơn cả trong thế-
giới này ."
Hay là :
_ " Nếu người ta không thể thưởng-
thức hòa-điệu trong Thiên-nhiên, thì làm
thế nào thưởng-thức được Thượng-Đế,
vốn là tổng-thể của tất cả hòa-điệu ? "
Và sau hết :
_ " Sự thực nghệ-thuật là Brahman
( Phạm-Thiên ) ."
***
*
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
178
Nhưng có điều sợ rằng, một quan-niệm
như thế có vẻ quá nghệ-thuật và chỉ thông-cảm
với một số tinh-thần nghệ-sĩ như các giòng suối
Çiva thấm-nhuần nhân-dân xứ Bengale, từng
sản-xuất dồi-dào hơn là những ánh mặt-trời bị
ám khói nhà máy của chúng ta. Và còn có một
sự nguy-hiểm khác, đối nghịch với nguy-hiểm
trên, ấy là những dân-tộc thông-cảm với lý-
tưởng thích-thú mê-ly nghệ-thuật sẽ có thái-độ
khán-giả bất động như nhà Vua La-Mã Hoàng-
đế bị trò chơi trường-đua làm cho uể-oải và lệ-
thuộc ...
Ai đã theo tôi đến đây, hẳn đã đủ biết về
tính-tình của Vivekananda, cái lòng thương bi-
đát nó buộc ông vào tất cả những đau khổ trong
vũ-trụ, và lòng hăng-hái hành-động của ông để
nhẩy sổ vào cứu-tế chúng. Như thế đủ thấy ông
có bao giờ biểu-đồng-tình với ai hay là dung
cho họ cái quyền chìm đắm vào trong tâm-lý
thần-hóa mê-ly của nghệ-thuật hay là của trầm-
tư mạc-tưởng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
179
Và biết tự bản-thân kinh-nghiệm và qua
những người chung-quanh mình cái sức hấp-
dẫn nguy-hiểm của trò chơi Lila, trò chơi của
Thượng-Đế, " Hóa nhi đa hý lộng ", ông luôn
luôn lo cảnh-giác những người ông có sứ-mệnh
hướng đạo để kéo họ về hành-động, không để
họ mơ mộng, và ông thuyết giảng cho họ như
ông nói, một thứ triết-lý Vedanta thực-tiễn
" Vedanta pratique " .
Điều rất thật đối Vivekananda là " cái
biết về Brahman ( Tuyệt-đối ) là mục-đích
cùng tột, là bản-mệnh tối cao của con người.
Nhưng người ta không có thể trầm-tư vào
Tuyệt-đối ( Brahman ) " _ ( Toàn-tập, q. VIII ).
Đấy là những khoảnh-khắc đặc-biệt thôi.
" Một khi nó ngoi lên khỏi mặt nước Biển-cả
tịch-tĩnh và vô-danh ấy " nó phải bám vào một
cái phao :
" Nếu một người đâm đầu lặn vào
trong những vui thú điên cuồng của thế-
tục, y bị diệt vong chết chìm. Và nếu một
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
180
người nguyền-rủa thế-gian, bỏ đi vào
trong rừng núi, hành xác, tự diệt dần dần,
biến trái tim thành sa-mạc, trở nên cứng
dắn khô-khan, người ấy cũng thế, đã lạc
đường ."
_ (Dieu en toutes choses = Thượng-Đế tại
mọi vật )
Khẩu-hiệu trọng-đại mà chúng ta phải
đem vào cho thế-gian, từ những giác-ngộ ấy,
chúng làm cho ta chớp-nhoáng " biết " theo
nghĩa đầy đủ và theo Thánh kinh, cái Bản-thể
đại-dương _ khẩu-hiệu sớm chầy nó phải dẫn
đường chúng ta tới Đích _ chính cũng là khẩu-
hiệu của qui-luật đạo-đức cao nhất :
_ " Không phải tôi mà là anh ! "
Cái " ta " đã là sản-phẩm của Vô-hạn
tiềm-tàng trong quá-trình biẻu-hiện ra ngoài
của nó. chúng ta phải đi lại con đường theo
chiều phản-nghịch trở về trạng-thái vô-hạn
bản-lai của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta nói :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
181
_ " Không phải tôi, người anh em
ơi, mà chính là anh ! " _ chúng ta tiến lên
một bước .
_ " Thực-hiện " .
_ " ... Người ta sợ rằng sau khi đã
đạt tới Thực-hiện, sau khi đã thực-hiện
rằng chỉ có cái Một, những nguồn suối
tình-yêu chẳng khan kiệt, rằng tất cả cái
gì người ta yêu chẳng tan biến... Những
kẻ ấy không từng bao giờ nghĩ rằng
những ai ít để ý đến chính cá-nhân mình
đã là những nhà hành-động vĩ-đại của
thế-giới. Chỉ đến bấy giờ một người mới
thực yêu, khi nó phát-hiện đối-tượng tình-
yêu của nó không phải là một vật nhỏ-
mọn, thấp hèn và hủ-bại. Chỉ bấy giờ nó
mới yêu, khi nào nó phát-hiện đối-tượng
tình-yêu của nó chính thật là Thượng-Đế.
Người vợ sẽ càng yêu chồng hơn, người
mẹ càng yêu con hơn khi nào họ nhìn
thấy Thượng-Đế ở các con, ở người
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
182
chồng họ. Người ấy sẽ yêu kẻ thù chí tử
của y. _ Y sẽ rung-động thế-giới, người
mà tiểu-ngã của mình đã mất, và thay vào
đấy là Thượng-Đế... Nếu chỉ một phần
triệu nam, nữ hiện đang sống có thể trong
vài phút tự nói và nghĩ thật sự được :
" Ôi, chư vị chúng-sinh, các vị đều là
Thượng-Đế ! Tất cả chư vị là Thần-linh
sinh-động duy-nhất ! "
_ trong một nửa giờ sau thì toàn-thể thế-
giới sẽ biến đổi .
_ ( Homme Apparent et Homme Réel =
Người Chân-thật và Người Giả-mạo )
Nhưng có một đệ-tử vị-kỷ vấn nạn Vive-
kananda, bữa ấy ông giải-đáp như một bà tiên
mà ngày thường ít có .
Đệ-tử ấy nói : _ Nhưng nếu tôi phải luôn
luôn nghĩ đến tha-nhân thì lúc nào tôi chiêm-
ngưỡng Atman ? Nếu tôi luôn luôn bận tâm
vào sự-vật đặc-thù và tương-đối thì làm thế nào
có thể thực-hiện Tuyệt-đối ?
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
183
Đạo-sĩ Swami êm ái trả lởi y : _ Con ơi,
thày đã bảo rằng nhiệt thành nghĩ điều tốt cho
tha-nhân, tự mình hiến thân phụng-sự tha-nhân,
con tinh-khiết-hóa tâm-hồn bằng việc làm ấy,
và con sẽ đạt tới cái huyền-giác về Tự-tại
thấm-nhuần tất cả chúng-sinh. Vậy con còn gì
để mong đạt tới nữa ? Có phải con muốn rằng
sự thực-hiện Tự-tại là cốt ở sinh-tồn một cách
vô-tri vô-giác như bức tường này hay là như
miếng gỗ này ?
Người đệ-tử cố nài : _ Nhưng tuy vậy,
điều mà Thánh thư mô-tả như là động-tác của
Tự-tại tự thu về bản-tính chân-thật của nó thì
cốt ở tại sự đình-chỉ tất cả tác-dụng của tinh-
thần và tất cả công-tác .
_ " Ồ ! Vivekananda đáp, đấy là một
trạng-thái hiếm lắm, rất khó mà đạt tới, và nó
không được lâu. Vậy thời-gian còn lại thì làm
gì ? Bởi thế cho nên sau khi đã thực-hiện được
trạng-thái ấy rồi, bậc thánh thấy Tự-tại ở tại tất
cả chúng-sinh hiện-hữu, và sống trong cái ý-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
184
thức ấy, ngài tự hiến thân để phụng-sự chúng-
sinh, thành-thử ngài trả hết Nghiệp ( Karma ),
có thế còn sót lại để cho thân-thể kéo dài. chính
cái trạng-thái ấy mà Kinh-văn Shastras mô-tả
như là Tự-do trong đời sống ."
_ ( Toàn-tập, q. VII _ Vivekananda )
Một truyện cổ Ba-Tư mô-tả trong thể-
thức thích-thú cái trạng-thái hoan-hỉ, trong ấy
người ta được giải-thoát bằng giác-ngộ, tự
hiến-thân cho tha-nhân một cách tự-nhiên, đến
nỗi y tự quên mình vào tất cả nơi chúng :
" Người tình-nhân đến gõ cửa nhà ý-
trung-nhân. Nàng hỏi : _ " Ai gõ cửa đấy ? "
Chàng đáp : _ " Anh đây." Cửa vẫn đóng kín.
Chàng trở lại lần thứ hai, và gọi : _ " Tôi đây,
tôi đây, tôi ở đây này ! " Cửa vẫn đóng. Lần
thứ ba, có tiếng hỏi từ trong ra : _ " Ai đấy ?"
Chàng đáp : _ " Người yêu ơi, tôi là mình
đây !... " Bấy giờ cửa liền mở ... "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
185
Những câu truyện ngụ-ngôn lý-thú ấy mà
Vivekananda thưởng-thức hơn ai hết ý-vị của
nó, còn trình-bày một lý-tưởng yêu-thương quá
thụ-động để thích-ứng với năng-lực cường-kiện
của nhà lãnh-đạo dân-tộc. Chúng ta đã thấy ở
mọi trường-hợp đã khích-động và dằn-vặt sự
khoái-lạc tham-lam của tín-đồ Sùng-bái (Bhak-
tas). Đối với ông, yêu là yêu hoạt-bát, phụng-
sự, giúp đỡ. Và người được yêu không phải là
người được ưa-thích mà là tha-nhân, bất cứ ai,
như thế nào, dù là kẻ thù nó tát mình, dù là kẻ
ác và khốn khổ _ nhất là những kẻ này vì
chúng càng nhu cầu hơn cả .
" Các anh chẳng nhớ điều nói trong
Cựu-Ước ( Bible ) ? _ Nếu anh không có
thể yêu người anh em ruột thịt của anh
thường thấy thì làm thế nào anh có thể
yêu Thượng-Đế, mà anh không từng nhìn
thấy được ? " Tôi gọi các anh là có tín-
ngưỡng tôn-giáo khi nào các anh bắt đầu
nhìn thấy Thượng-Đế ở tại tất cả mọi
người... Bấy giờ các anh sẽ hiểu được ý-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
186
nghĩa câu nói : " Dơ má trái cho người đã
tát anh ở má bên phải ? "
_ ( Vedanta Pratique, II = Triết-lý Vê-Đa
Thực-tiễn )
Vivekananda nói với một thanh-niên
Bengale đóng cửa tự giam hoài trong nhà để
tìm an-tĩnh cho tâm-hồn :
_ " Con ơi, nếu con muốn tin-tưởng
nơi ta, thì trước hết con hãy mở cửa
buồng con ra và nhìn chung-quanh mình
con... Hàng ngàn kẻ khốn-nạn ở chung-
quanh nhà con. Con hãy phục-vụ chúng
hết lòng. Kẻ này đau ốm, con hãy chữa
chạy cho nó, kẻ kia đói lả, con hãy nuôi
dưỡng nó đi, kẻ thứ ba ngu dốt, con hãy
dạy nó học. Nếu con muốn có an-tĩnh
tâm-hồn, hãy phục-vụ những kẻ khác !
Đấy là châm-ngôn của ta ! "
Khi mới ở Mỹ-quốc hồi-hương năm
1897.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
187
" Khẩu-hiệu của tôi là : _ Không
phải là tôi mà là anh ... Mặc dù có địa-
ngục hay là thiên-đường, có một linh-hồn
hay không ! v.v. Đây là thế-gian ! Nó đầy
ngập thống khổ. Hãy vào thế-gian như
Đức Phật, và nỗ-lực giảm bớt sự thống
khổ ấy đi, hay là chết giữa đường cứu
khổ. Hãy quên mình đi. Đấy là bài học
đầu tiên phải học, dù anh hữu-thần hay
vô-thần, bất khả tri luận hay triết-học
Vedanta, Thiên-chúa-giáo hay Hồi-giáo!"
_ ( Vedanta Pratique )
Chúng ta đã chú-ý nhiều về phương-diện
ấy ở học-thuyết của ông để khỏi cần nhắc lại .
Nhưng có một phương-diện khác mà
chúng ta không nên bao giờ quên. Thông
thường trong tư-tưởng Âu-châu của chúng ta
" phục-vụ " ngụ một tinh-thần tự ý tự hạ, khiêm
nhường. Cái tinh-thần ấy hoàn-toàn ở ngoài
triết-lý Vedanta của Vivekananda. Phục-vụ,
yêu-thương ấy là bình-đẳng với cái gì mình
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
188
yêu-thương và phục-vụ. Không giảm đi,
Vivekananda còn luôn luôn nhằm vào sự viên-
mãn của thực-thể. Khi chúng ta nói : " Không
phải tôi mà là anh ! " thì đấy không phải là tự
vẫn, đấy là chinh-phục một chủ-quyền rộng lớn
hơn. Và nếu chúng ta thấy Thượng-Đế ở tha-
nhân, thì đấy là vì Thượng-Đế có ở tại nơi
chúng ta, chúng ta biết thế. Đấy là giáo-lý thứ
nhất của triết-lý Vedanta. Nó không dạy chúng
ta : " Hãy quỳ xuống ! " Nó bảo : " Ngẩng đầu
lên, vì anh mang ở nơi anh Thượng-Đế. Hãy
xứng đáng ! Hãy hãnh-diện ! "
Triết-học Vedanta là bánh-mì cho người
dũng-mãnh. Và nó nói với người yếu hèn :
" Không có người nào yếu hèn cả, các anh chỉ
yếu hèn vì các anh muốn thế. " Hãy trước hết
tự tin vào chính mình ! Bằng-chứng về
Thượng-Đế, đấy là các anh. Làm sao các anh
biết rằng một quyển sách dạy được chân-lý ?
Bởi vì chính các anh là chân-lý, và hãy nhận-
thức lấy... Linh-tính là bằng-chứng về Thượng-
Đế." _ ( Vedanta Pratique ). " Anh là cái Ấy !"
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
189
Mỗi một trong những vận-hành của mạch máu
anh đều ca lên điều ấy. Và vũ-trụ với ức triệu
mặt-trời, đồng thanh họa lại tiếng nói : " Anh là
cái Ấy ! "
Uy nghiêm, Vivekananda tuyên-bố :
_ " Kẻ nào không biết tự tin nơi
mình, kẻ ấy là vô-thần ."
Nhưng ông nói thêm :
_ " Cái lòng tự tin ấy là tin vào tất
cả. Vì rằng anh là tất cả. Lòng yêu mình
là yêu tất cả. Vì rằng tất cả và mình đều là
Một, đồng-nhất-thể."_ (Vedanta Pratique)
Và cái tư-tưởng ấy làm nền móng cho tất
cả luân-thường đạo-lý .
_ " Đồng-nhất-tính là đá thử vàng
của chân-lý. Tất cả cái gì cống-hiến vào
đồng-nhất-tính đều là chân-lý. Tinh-yêu
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
190
là chân-lý còn hận-thù thì không, vì hận
thú làm phân-tán đa-thù, nó là năng-lực
làm tan rã ... "
Ở đây tình-yêu lấn bước. Nhưng tình-yêu
ở đây là sóng lòng, giòng máu chảy, thiếu nó
thì tứ chi sẽ bị tê liệt. Tình-yêu ở đây, lại là
Năng-lực .
Vậy tại căn-bản của tất cả là Năng-lực.
Năng-lực Thần-linh. Nó ở tại tất cả chúng-sinh.
Nó ở tại tất cả sự-vật. Nó ở tại trung-tâm của
thể tròn, và trên tất cả các điểm của vành tròn.
Và từ điểm này sang điểm kia, mỗi một tay hoa
phân-tán. Ai quy-nguyên lặn vào trong lò thì
toé ra thành tia lửa. Ai tự tập-trung sẽ vọt tung
ra với năng-lực bách bội. Ai thực-hiện trong
mặc-niệm trầm-tư, sẽ thực-hiện trong hoạt-
động. Trung-tâm điểm và vành tròn liên-hệ
nhau. vì Thượng-Đế là tất cả. Ai sống tại
Thượng-Đế sẽ sống cho tất cả, như Shiva-
nanda, đại Viện-trưởng hiện-tại của Tu-viện
( Math ) ở Belur đã nói trong lời chúc-từ chủ-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
191
tọa lần Quy-ước đầu của Tu-viện và Sứ-đồ
Ramakrishna ( ngày 1 tháng 4 năm 1926 ) :
_ Nếu khải-ngộ tối-cao không nhằm gì
hơn là xóa hết tất cả phân-biệt giữa linh-hồn
cá-nhân với linh-hồn vũ-trụ, nếu cái lý-tưởng
của nó là thiết-dựng đồng-nhất-tính toàn-diện
giữa cái Ngã riêng của nó với Đại-Ngã
Brahman vô sở bất tại, thì tự-nhiên có thành-
quả là cái thực-nghiệm tâm-linh tối-cao của tu-
sĩ chỉ có thể dẫn nó đến một trạng-thái dâng
mình cho hạnh-phúc tuyệt-diệu của toàn-thể.
Sau khi đã vượt giới-hạn của vũ-trụ này, vốn là
kết quả của vô-minh, nó làm một sự hy-sinh
Thần-linh cùng tột là " Dữ thiên địa tham "
( ) ( Cùng với vũ-trụ làm một ) .
Như vậy là bằng sự vãng-lai liên-tục giữa
Đại Tự-tại vô-hạn của Tri-thức viên-mãn và cái
tiểu-ngã bao-hàm trong Tuồng Ảo-hóa ( Jeu de
Maya ) chúng ta bảo-trì sự hòa-hợp của tất cả
sinh-lực. Chúng ta đã lập lại trong lòng mạc-
niệm tất cả những năng-lực thiết-yếu, của tình-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
192
yêu và làm việc, của tín-ngưỡng và lạc-thú
hành-động, trong khuôn-khổ của cuộc đời
chúng ta. Nhưng mỗi một hành-động trong
những động-tác của chúng ta từ đây đã được
nâng-lên bình-diện hay âm-giai Vĩnh-Cửu.
Giữa lòng hành-động náo-nhiệt có sự yên-tĩnh
vĩnh-cửu. Như vậy Tinh-thần tham-gia vào
trong những cuộc tranh-đấu sinh-tồn và đồng
thời lượn ở trên cuộc tranh lộn. Lý-tưởng của
Gita ( Chỉ-Tôn Ca ) với Héraclite đã được
thực-hiện trong điệu nhạc quân-thiên .
Thù đồ nhi đồng quy .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
193
PHẦN THỨ TƯ
*
THƯỢNG-GIỚI THẦN-LINH
HẠ-GIỚI NHÂN-LOẠI
Quân Bình Và Tổng Hợp : _
Hai chữ ấy đủ toát-yếu thiên-tài xây-dựng
của Vivekananda. Tất cả những con đường của
tinh-thần : bốn Đạo-dẫn ( Yogas ) phối-hợp,
hỷ-sả và phục-vụ, nghệ-thuật và khoa-học, tôn-
giáo và hành-động, kể từ con đường tâm-linh
nhất cho đến con đường thực-tiễn nhất. Mỗi
một trong những con đường ông giảng dạy đều
có giới-hạn của nó. Nhưng riêng ông thì đã trải
qua tất cả. Ông ôm-ấp tất cả. Trên xe tứ mã,
ông cầm cương cho bốn con đường chân-lý :
Tình-yêu ; Trí-tuệ ; Hành-động ; Khí-lực. Trên
cả bốn đường, ông tiến-hành cùng một thể về
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
194
lý Duy-nhất. Đấy là đại hòa-điệu của Năng-lực
nhân-loại .
Nhưng cái công-thức ấy, tinh-thần nhiệt-
thành " Biện biệt " ( Viveka ) đã không tìm
thấy, nếu nó đã không được thể-hiện trước mắt
trong con người quân-bình hài-hòa của Rama-
krishna. Nhà Sư-phụ hồn-nhiên ấy đã giải-
quyết theo bản-năng tất cả những xung-khắc
của đời sống thành một bản nhạc kiểu Mozart
phong-phú và dịu-dàng _ một " Đại Nhạc dữ
Thiên Địa thái hòa " ( ) . Và vì
thế mà tất cả hành-vi cùng sự-nghiệp của cao-
đệ đều mang dấu hiệu Ramakrishna .
" Ngày giờ đã chín mùi để giáng-
sinh con người trong cùng một thân-thể
có sự phối-hợp trí-tuệ sáng-lạn của
Çankara với tình-yêu vô-hạn của
Chaïtanya _ con người nhìn thấy trong tất
cả tôn-giáo cùng một tinh-thần hoạt-bát,
và trong tất cả chúng-sinh cùng một
Thượng-Đế _ con người mà tình-yêu bao-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
195
bọc tất cả những kẻ nghèo hèn, khốn nạn
và bị đàn-áp ở Ấn-Độ và ngoài Ấn-Độ _
mà trí óc mãnh-liệt phối-hợp tất cả tư-
tưởng cạnh-tranh ở Ấn-Độ và ngoài đất
Ấn và nuôi dưỡng một hòa-điệu đại-
đồng... Thời giờ đã điểm chín mùi. Con
người ấy đã giáng-sinh, và tôi đã có
duyên may được ngồi dưới chân... Ngài
đã đến, cái tinh-thần sống động của Ưu-
Ba-Ni-Tat ( Upanisads ), sự thành-tựu của
các hiền-triết Ấn, vì thánh-hiền của thời-
đại hiện thời đòi hỏi... Hòa điệu ..."
_ ( Các Thánh-hiền Ấn-Độ _ Diễn-văn )
Cái hòa-điệu ấy nó đã nẩy nở ở một nhân-
vật ưu-tú, và một vài người đặc-tuyển đã
hưởng-thụ, Vivekananda đã muốn phổ-biến ra
toàn cõi Ấn-Độ và cả thế-giới. Đấy là sáng-tạo
mạnh-bạo của ông. Có lẽ ông không chỉ đem
lại một ý-tưởng mới. Có ý-tưởng nào mà tử-
cung Ấn chẳng thai-nghén, mà trải qua các
thời-đại bà chúa đàn kiến chẳng đã sinh-sản
không chút mỏi mệt !... Nhưng những con kiến
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
196
ấy không hợp thành một tổ kiến. Tất cả những
tư-tưởng ấy, riêng rẽ hiện ra có vẻ không thích-
hợp với nhau. Ở Ramakrishna chúng tỏ ra hòa-
hài. Và cái bí-quyết của trật-tự thần-linh của
chúng đã biểu-lộ cho Vivekananda :
" Tôi đã có được dịp sống với một
người nhiệt-thành nhị-nguyên cũng như
nhất-nguyên, vừa Sùng-bái ( Bhakta )
nồng-nàn vừa Trí-tuệ ( Jñānayoga ). Sống
với Người khiến tôi, lần đầu tiên hiểu Ưu-
Ba-Ni-Tat ( Upanisads ) và Thánh kinh,
xếp đặt trên một cơ-sở hoàn-hảo hơn. Và
tôi đã thấy chúng không mâu-thuẫn với
nhau. Tôi đã thấy trong tất cả những kinh-
điển ấy rằng những tư-tưởng lưỡng-
nguyên kết-thúc thành nhất-nguyên viên-
mãn vĩ-đại. Tôi đã giác-ngộ cái hòa-điệu,
là bối-cảnh của tất cả những tín-ngưỡng
Ấn-Độ và sự cần-thiết của hai giải-thích,
ví như ở thiên-tượng-học có địa-trung-
tâm và nhật-trung-tâm ."
_ ( Le Vedanta et la Vie indienne )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
197
Ông chủ-trương khởi công xây dựng trên
con số vàng ấy cái Đô-thành _ Thiên-quốc _
Nước của Người .
Ông phải đồng thơi vừa xây thành lẫn
tâm-hồn của cư-dân .
Chính theo lời thú-nhận của các đại-biểu
Ấn về tư-tưởng ông, trong sự xây cất của ông,
ông cảm theo quy-tắc và nỗ-lực tổ-hợp của
Tây-phương cận-đại, cũng như tổ-chức Phật-
giáo của Ấn-Độ cổ-điển .
Ông quan-niệm kế-hoạch của một tổ-chức
mà Thánh-thất ( Math ) chính là ngôi Mẫu-điện
" sẽ đại diện " trong khoảng những thế-kỷ sắp
tới cho " thân-thể vật-lý của Ramakrishna " .
Ngôi Math ( Thánh-thất ) ấy đã thiết dựng
cho đối-tượng sinh-đôi, là đem lại cho người ta
những phương-tiện " đạt tới sự giải-thoát riêng
của chúng cũng như tự trang-bị cho sự tiến-bộ
của thế-giới và cải-thiện tất cả điều-kiện của
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
198
chúng _ tất cả theo kiểu-mẫu và theo đường lối
của Ramakrishna ". _ Một ngôi Thánh-thất thứ
hai phải thực-hiện cùng một đối-tượng ấy để
cho phụ-nữ. Và cả hai phải phân-tán đi khắp
thế-giới. vì rằng những cuộc du-lịch của Đạo-sĩ
Vivekananda với sự truyền-giáo quốc-tế của
ông đã chứng-thực cho ông cái sự nhất-trí của
khát-vọng và nhu-cầu ở nhân-loại hiện-thời.
Thời đã đến cho ông để tiếp-tục sứ-mệnh cổ
xưa của " Đại Ấn ", sứ-mệnh truyền-giáo địa-
cầu. Chỉ ở đấy, đối với Vivekananda mới là
" chính-trị đối ngoại " của dân-tộc ông. _
Nhưng khác với các "dân-tộc của Thượng-Đế"
ở quá-khứ đã hiểu cái bổn-phận ấy như một
quyền-thế của đế-quốc tinh-thần, bắt tất cả mặc
đồng-phục với cái mũ chật hẹp, nhà giáo-đồ
Vedanta ( Bất-nhị-pháp ) có tôn-chỉ tôn-trọng
bản-chất riêng của từng người và tín-ngưỡng
của nó. Nó chỉ muốn thức tỉnh Tâm-linh ở mỗi
người, " hướng-dẫn cá-nhân và dân-tộc trong
cuộc chinh-phục nội-giới của chúng bằng
những con đường riêng thích với chúng hơn
hết, bằng những phương-tiện có thể đáp ứng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
199
hơn cho những thiếu-thốn mà chúng phải chịu-
đựng hơn cả." Ở đấy không có chút gì làm cho
chủ-nghĩa dân-tộc câu-chấp nhất phải phẫn-nộ.
Người ta không đòi hỏi ở một dân-tộc nào phải
tự hy-sinh mình đi :
" Chúng ta không bao giờ được nghĩ
lột bỏ cá-tính của một dân-tộc, dù rằng
chúng ta có thể chứng-minh cái cá-tính ấy
đầy sai lầm ."
_ ( Vivekananda _ 1899 - 1900 )
Người ta đòi nó là thực nó, viên-mãn nhất
và cao-cả nhất : _ Thượng-Đế của mình .
Nhưng đồng-tình với tư-tưởng của
Tolstoi, mà ông không biết, và là biểu-thị chính
cho lẽ-phải phổ-thông và tâm-tình, Viveka-
nanda nhận thấy bổn-phận đầu tiên đối với
đồng-bào gần nhất ấy là dân-tộc ông. Suốt tập
sách này người ta đã cảm thấy sự rung-động
của Ấn-Độ thể-hiện nơi ông. Tâm-hồn đại-
đồng của ông đâm rễ sâu trong đất nhân-loại,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
200
và một đau đớn nhỏ của xác thịt câm ấy phản-
vọng vào toàn-thể thân cây .
Trong một dân-tộc gồm hàng trăm dân-
tộc khác nhau, và ở đấy mỗi dân-tộc phân chia
thành cấp lớn, cấp nhỏ, giáo-phái và tôn-giáo,
tỏ ra vẻ như một trong những bệnh-nhân mà
máu quá loãng, không có thể đông lại được,
ông là cái thống-nhất-tính sinh-động và ông
mong muốn thống-nhất. Thống-nhất các tư-
tưởng ; Thống-nhất về hành-động. Công việc
lớn nhất của ông không phải là việc chứng-
minh bằng các lý lẽ cái thống-nhất-tính Ấn-Độ
mà là in sâu nó vào tâm-hồn chúng ta với
những tia chớp. Ông có thiên-tài về những
danh-từ ánh-sáng, về những lời nói sấm sét từ
trong lò tâm-linh bắn ra và xuyên qua hàng
triệu người. Không một lời nào tạo sinh vào
Ấn-Độ một súc-động như là khẩu-hiệu trứ
danh : " Daridra - Nârâyana " = ( Thượng-Đế
Hành-khất ) "... Thượng-Đế độc-nhất có được,
Thượng-Đế duy-nhất tôi tin-tưởng... Thượng-
Đế tôi là những kẻ khốn cùng, Thượng-Đế tôi
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
201
là tất cả các kẻ nghèo của tất cả các chủng-
tộc !... " Người ta có thể bảo rằng định-mệnh
của Ấn-Độ ở đấy đã thay-đổi. Và tất cả nhân-
loại sẽ phản-vọng lâu dài tiếng gọi ấy .
Người ta nhận thấy dấu-hiệu , vết thương
bỏng cháy _ ( cái nhát dáo cảm thấy trong lòng
đứa Con Nhân-loại trên thánh-giá ) _ trong
những hành-động rất ý-nghĩa của Ấn-Độ trong
khoảng hai mươi năm gần đây. Khi đảng Tự-trị
( Swaraj ) ở Hội-nghị Quốc-dân Ấn-Độ (đoàn-
thể thuần-túy chính-trị ) chiếm Hội-đồng Đô-
sảnh Calcutta, nó lập chương-trình công-tác
cộng-đồng gọi là chương-trình Daridra
Nârâyana. Và lới nói vang-dội mà Gandhi nhắc
lại thì luôn luôn được ông sử-dụng. Tức thì,
liên-hệ đưọc nối giữa chiêm-ngưỡng tôn-giáo
và phục-vụ các giai-cấp hèn-hạ. Vivekananda
đồng-nhất-hóa cái nọ với cái kia. " Ông bao-
phủ sự phục-vụ một hào-quang thần-linh và
nâng nó lên hàng phẩm-cách tôn-giáo." Ý-
tưởng đã choán lấy tinh-thần Ấn-Độ ; và những
công-tác cứu-trợ nạn đói, lụt, hỏa-hoạn, dịch-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
202
tệ, ba mươi năm về trước hầu như hoàn-toàn
không ai biết, những nhà an-dưỡng và những
hội cứu-tế xã-hội bắt đầu mọc lên khắp trong
nước. Một bài học lớn cho chủ-nghĩa vị-kỷ của
tín-ngưỡng nó gặm nát. Câu nói nặng-nề mà tôi
đã nhắc đến, câu nói của Ramakrishna nhu-mì :
" Tôn-giáo không dành cho những bụng đói
rỗng !... " Nếu người ta muốn thức tỉnh tâm-
linh ở lòng nhân-dân, thì trước hết phải làm sao
cho chúng có ăn đã. Và mang đến cho chúng
cái ăn chưa đủ, còn phải dạy cho chúng cách tự
tìm kiếm lấy, cách làm việc. Phải đem lại cho
chúng giáo-dục và những phương-tiện. Đấy là
cả một chương-trình cải cách xã-hội, _ dù rằng
như ý muốn của Vivekananda, đứng ra bên
ngoài tất cả đảng phái chính-trị. Và mặt khác,
đấy rút cục là biện-pháp cho sự xung-đột cổ lai
ở Ấn-Độ, giữa đời sống tâm-linh và đời sống
hành-động. Không những sự phục-vụ kẻ nghèo
có lợi cho người nghèo mà nó còn có lợi cho
người phục-vụ hơn nhiều nữa. Theo một cách-
ngôn xưa : " ai cho, người ấy nhận ". Nếu
phục-vụ được hoàn-thành trong tinh-thần
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
203
phụng thờ chân-thật, thì nó là phương-tiện
hiệu-nghiệm hơn cả cho tiến-bộ tâm-linh. Bởi
vì " con người là tượng-trưng cao nhất của
Thượng-Đế, sự phụng thờ nó là hình-thức
phụng thờ cao nhất trên mặt đất ."
_ " Bắt đầu hy-sinh đời mình để cứu
vớt cuộc đời của những người đang chết :
đấy là bản-chất của tôn-giáo ."
_ ( Lời nói của Vivekananda trong nạn
dịch năm 1899. Ông trả lời một nhà Phạn-ngữ-
học đến thăm, phàn-nàn không thể cùng ông
bàn-luận về tôn-giáo :
_ " Chừng nào còn một con chó ở nước
tôi không có cái ăn, thì nuôi cho nó ăn, ấy là tất
cả tôn-giáo của tôi ." )
Như vậy là Ấn-Độ đã dứt khỏi đám cát
lầy di-động của suy-tưởng cằn-cỗi, mà từng
bao nhiêu thế-kỷ nay nó bị sa-lầy, nhờ tay một
Đạo-sĩ Hành-khất ( Sannyasin ) trứ-danh nhất ;
và làn nước tâm-linh thần-bí ứ-đọng bên dưới
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
204
tìm lối thoát, bắt đầu tuôn sùng-sục vào hành-
động. Tây-phương phải tiên-liệu những năng-
lực mà hành-động ấy sẽ rút ra ở đấy .
Thế-giới đứng trước một Ấn-Độ phục-
sinh, mà thân-hình khổng-lồ nằm gục trên bán-
đảo vĩ-đại, vươn tay chân và lấy lại quyền sở-
hữu những thế-lực phân-tán của nó. Trong cuộc
thức tỉnh ấy, bất cứ việc phân công quy về cho
ba thế-hệ cảnh-giác như thế nào, kế-tiếp nhau
trong vòng một thế-kỷ _ ( và vinh phúc thay
bậc vĩ-đại nhất ! người tiên-phong thiên-tài :
Ram Mohan Roy ) _ tiếng gọi quyết-định đã là
tiếng kèn trận của các bài diễn-thuyết ở
Colombo và Madras. Và tiếng ma-thuật là :
Duy-nhất... Duy-nhất ở mỗi nam-nhân và ở
mỗi nữ-nhân của Ấn-Độ ( và cả thế-giới ) của
tất cả năng-lực tinh-thần mơ-mộng và hành-
động, lý-trí, tình-yêu và cộng-tác. Duy-nhất ở
hàng trăm dân-tộc Ấn-Độ với hàng trăm tiếng
nói khác nhau, với hàng trăm ngàn thần-linh,
của một bàn-thờ tôn-giáo chung, mà cuộc tái-
thiết quốc-gia phải xây-dựng chung-quanh :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
205
" Ấn-Độ bất-tử nếu nó theo đuổi việc cầu
tìm Thượng-Đế. Nếu nó bỏ đi để làm chính-trị,
nó sẽ bị tiêu-diệt. " _ ( Lời nói phút cuối cùng).
Duy-nhất của hàng ngàn giáo-phái Ấn-Độ-
giáo ; Duy-nhất trong cái tư-tưởng tôn-giáo
Đại-dương, của tất cả những giòng sông quá-
khứ, hòa vào những giòng sông hiện-tại và của
những giòng sông Tây-phương vào những
giòng sông Đông-phương. Bởi vì _ và ở đấy,
tân cảnh-tỉnh của Ramakrishna và Vivekananda
đối-lập với những cảnh-tỉnh của Ram Mohan
roy và Giáo-hội Brahmosamaj _ Ấn-Độ mới
từ-chối phục-tòng văn-minh ngạo-mạn Tây-
phương, nó tranh-thủ cho những lý-tưởng riêng
của nó, nó tìm về hương-hỏa ngàn năm của nó,
và nó đòi không hy-sinh chút gì ở đấy đi, mà
còn đem nó làm lợi ích cho cả thế-giới nữa, để
rồi thâu-nhận trở về những chinh-phục của
tinh-thần Tây-phương. Sự ưu-thắng của một
văn-minh khuyết-điểm, phần-bộ thì đã hết thời.
Á-châu, Âu-châu cả hai khổng-lồ nhìn nhau,
mặt đối mặt, bình-đẳng ngang hàng lần đâu
tiên. Cùng nhau làm việc, nếu chúng khôn
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
206
ngoan ! Và kết-quả của việc làm cùng hưởng
cả .
Cái " Đại Ấn " ấy, cái Ấn-Độ mới ấy, mà
các nhà chính-khách và bác-học của chúng ta
với sự khôn ngoan của đà-điểu đã che giấu sự
phát-triển, và chúng ta hiện nay thấy hiệu-quả
thình-lình của nó _ cái Ấn-Độ ấy đã thấm-
nhuần tâm-hồn của Ramakrishna. Ngôi sao đôi:
Paramahamsa với người anh-dũng đem tư-
tưởng của Ngài vào thực-hành, ngày nay chi-
phối và hướng-dẫn vận-mệnh hiện-tại của Ấn-
Độ. Ánh-sáng nóng ấm của nó là men rượu
tác-động đất cát Ấn-Độ và đượm nhuần cho nó
nẩy nở. Các Tiên-sư Ấn-Độ ngày nay : nhà
Vua tư-tưởng, nhà Vua thi-sĩ và Thánh
Mahatma _ Aurobindo Ghose, Tagore và
Gandhi _ đã trưởng-thành, ra hoa kết trái dưới
bầu tinh-tú sinh đôi của Hạc và Phượng.
Aurobindo và Gandhi đã công-nhiên thừa-
nhận. " Tất cả đời sống tâm-linh của Aurobindo
Ghose _ như Swami Ashokananda đã viết cho
tôi _ đã chịu ảnh-hưởng đậm của đời sống và
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
207
giáo-lý của Ramakrishna và Vivekananda. Ông
không từng mỏi trình-bày sự trọng-yếu các tư-
tưởng của Vivekananda ."
Còn thế-giới ngoài Ấn-Độ, ngoại trừ
những hải-đảo nhỏ Anglo-Saxon, cho tới nay
người ta không biết đến cuộc vận-động lạ-lùng
ấy, tôi tin nó chín-mùi để khai-thác. Những ai
đã từng theo tôi đọc sách này, tôi chắc rằng họ
đã nhận thấy đến mức nào những quan-điểm
của Swami Ấn và Sư-phụ ông ta, thích-hợp với
nhiều tư-tưởng thầm kín của họ. Tôi có thể
chứng-thực điều ấy, không phải vì tự xét riêng
mình, mà là vì những thú-nhận trí-thức mà tôi
nhận được từ hai mươi năm nay của một số
tâm-hồn Âu, Mỹ mà không tìm kiếm, tự nhiên
tôi tự thấy tôi là người bạn tâm-sự của họ.
Không phải những tâm-hồn ấy với tôi vô-tình
đã chịu thấm-nhuần tinh-thần Ấn để sẵn-sàng
chịu tiêm-nhiễm _ như có một số tư-tưởng-gia
Ấn đã có khuynh-hướng lầm tưởng. Về vấn-đề
này, tôi đã có một cuộc tranh-biện nhã-nhặn
với Swami Ashokananda. Swami đặt sự tuyền-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
208
bá tư-tưởng Vedanta qua thế-giới như một sự
công-nhiên, tin chắc rằng đấy, một phần là do
Vivekananda và sứ-mệnh của ông. tôi hoàn-
toàn tin chắc là trái hẳn. Thế-giới hầu như
hoàn-toàn không biết _ ( và đấy là điều thẹn mà
tôi cố sửa chữa ở đây ) _ công-trình, tư-tưởng
và thậm-chí cả đến tên tuổi Vivekananda. Và
nếu trong hồng-thủy tư-tưởng đổ vào đất cháy
của châu Âu, châu Mỹ và bón nó chất phì-
nhiêu của chúng, mà một làn nước ấy đầy mầm
sống, có thể gọi được là " Vedanta " ( Bất-nhị-
pháp ), thì đấy là theo kiểu ông Jourdain trong
hài-kịch Molière nói tiếng nói tự-nhiên xưng là
" văn suôi " vậy : vô-tình và bởi vì đấy là tư-
duy tự nhiên của con người .
Những ý-tưởng căn-bản gọi là Vedanta
( Bất-nhị-pháp ) là gì ? _ Theo chính giới-
thuyết của các nhà phát ngôn uy-tín nhất của
giáo-phái Vedanta. Ramakrishna chung qui vào
hai ý-tưởng chính yếu :
1/_ Thần-linh tính của con người .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
209
2/_ Tâm-linh tính cốt-yếu của sự Sống. Và kết-
quả trực-tiếp xuất ra từ dấy là :
1) Tất cả xã-hội, tất cả Quốc-gia, tất cả
tôn-giáo, phải lập cơ-sở trên sự nhận-thực cái
Toàn-Năng thân-mật và tiếm-tàng của con
người .
2) Muốn nẩy nở phong-phú, tất cả lợi ích
nhân-loại phải được hướng-dẫn và kiểm-soát
theo cái ý-tưởng cứu-cánh tâm-linh của sự
Sống .
Không có gì của ý-tưởng ấy hay là của
những khát-vọng ấy là xa lạ với Tây-phương
chúng ta. Những bạn Á-châu của chúng ta xét-
đoán Âu-châu theo những cặn-bã _ các chính-
khách của chúng ta, các lái-buôn, công-chức
thiển-cận nhất, những bụng tham-lam, nhân-
viện thuộc-địa ( người và tư-tưởng ) có nhiều
lý-do để không tin được tâm-linh tính của
chúng ta. Tuy vậy mà nó có thực và thâm-thúy;
nó không bao giờ ngừng tắm gội nền móng các
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
210
đại dân-tộc Tây-phương và gốc rễ của chúng.
Nếu không có cái nhựa hùng-hậu của tâm-hồn
luôn luôn từ kho-tàng yên-lặng nó vươn lên, thì
từ lâu cây sồi sớm đã bị những trận cuồng-
phong nhổ bật rễ, rập đổ rồi. Người ta công-
nhận cho chúng ta có thiên-tài hành-động.
Nhưng cái hành-động thiên-niên ấy mà nhiệt-
độ không từng giảm xuống, chỉ có thể có được
nhờ vào nội hỏa bên trong _ không phải ngọn
đèn Vestales mà là một miệng núi-lửa của
Cyclopes, trong đó nhiên-liệu được luôn luôn
chất chứa mà tiếp mồi. Kẻ viết đây đã tố-cáo
khá nặng, và từ-chối những "Buổi chợ-phiên
công-trường " của Âu-châu, là những khói và
than của núi lửa để có quyền đòi hỏi những
nguồn cháy bỏng của tâm-linh bất-kiệt của
chúng ta. Tác-giả chưa từng bao giờ thôi nhắc-
nhở sự hiện-hữu của những nguồn tâm-linh ấy,
và sự tồn-tại lâu dài của cái " Âu-châu tốt đẹp
hơn " cho những người ở ngoài không biết đến
cũng như cho chính nó tự thu vào trong yên-
lặng .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
211
" ... Yên-lặng mà hùng-biện ! ... " Những
sự yên-lặng của nó nói lên to tiếng hơn những
gào thét của kẻ bán rong. Bên trong sự vui-thú
cuồng-nhiệt và quyền-năng tự vò xé, cuồn-
cuộn sôi-động ở trên mặt của một ngày hay
một giờ, vẫn còn cái khó báu của lòng quên
mình, của lòng hy-sinh và của tín-ngưỡng vào
Tâm-linh không suy-suyển, nó tồn-tại bất-di
bất-dịch .
Còn như Tâm-linh tính của con người, thì
có thể nói rằng, một quan-niệm như thế không
phải là kết-quả của Cơ-Đốc-giáo hay là văn-
hóa La-Hy, nếu mỗi đàng đứng riêng-rẽ cô-lập
nhau. Nhưng nó là kết-quả của cái cây chắp
của chủ-nghĩa anh-hùng La-Hy tiếp vào cây
nho mà nước vàng ửng là máu của Con Chúa
Trời. Và dù cả hai Cơ-Đốc và La-Hy, chúng có
quên hay không cái ký-ức về gốc nho Cơ-Đốc
với cối ép rượu, chủ-nghĩa lý-tưởng anh-hùng
của các nền dân-chủ của chúng vào những giờ
quyết-liệt và ở những người con vĩ-đại của
chúng còn giữa mãi ý-vị và hương thơm. Một
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
212
tôn-giáo mà Thượng-Đế từ một ngàn chín trăm
năm quen-thuộc với các dân-tộc Âu-châu dưới
danh-hiệu " Con Nhân-loại " (Fils de l'Homme)
thì không thể ngạc-nhiên rằng người ta đã hiểu
theo nghĩa đen và nó chẳng thâu-nhận Thần-
linh-tính. Cái ý-thức mới về sức mạnh của nó,
sự say-sưa về tự-do trẻ-trung của nó, còn được
kích-thích bởi những chinh-phục lạ kỳ của
khoa-học, trong vòng nửa thế-kỷ đã biến-đổi cả
mặt đất. Không cần đến Ấn-Độ để cho người ta
tự-tin là một Thượng-Đế. Nó chỉ quá sẵn lòng
để làm lễ Cầu-nguyện ! Và trạng-thái đánh-giá
quá cao về quyền-năng của mình đã kéo dài
cho tới trước ngày thảm-họa 1914, nó đã làm
giao-động nền-móng của nó. Song, chính kể từ
lúc ấy tư-tưởng Ấn-Độ đã ảnh-hưởng nó rất
mạnh. Điều ấy giải-thích thế nào ?
Rất giản-dị. con người Tây-phương bằng
đường lối riêng của nó, theo dõi lý-trí, khoa-
học và ý-chí khổng-lồ của nó, đã gặp ở ngã-tư
cái tư-tưởng Vedanta ( Bất-nhị-pháp ) xuất-
phát từ những tổ-tiên chung A-Li-An, nhân-bán
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
213
thần-tiên vào tuổi thanh-niên anh-hùng, ví như
Nã-Phá-Luân chinh-phục ở Ý-Đại-Lỵ, từ đỉnh
cao-nguyên Hy-mã-lạp-sơn họ nhìn xuống tất
cả thế-giới ở dưới chân. Ở cùng điểm quyết-liệt
mà cuộc thử-thách vĩnh-cửu của người cường-
tráng chờ-đợi cả hai, thử-thách dưới danh-hiệu
khác nhau được nhận thấy trong huyền-thoại
các nước, và Phúc-âm Cơ-Đốc của chúng ta kể
lại như là cám-dỗ của Jésus trên núi, thì con
người Tây-phương đã chọn sai đường. Nó đã
nghe theo người cám-dỗ hiến nó bá-chủ thế-
giới bầy ra dưới chân. Về Thần-linh mà nó tự
nhận lấy đức-tính, chẳng qua nó chỉ nhìn thấy
và mưu lấy những quyền-năng vật-chất :
quyền-năng mà hiền-triết Ấn-Độ mô-tả như là
những đức-tính thứ-yếu và nguy-hiểm của sức
mạnh nội-tâm, chỉ sức mạnh nội-tâm mới cốt-
yếu có thể đưa tới Đích. Kết-quả là ngày nay
con người Âu-Tây _ Cái ông " Thày phù-thủy
tập-sự " ấy ! tự thấy tràn ngập với những
quyền-năng sơ-thủy mà nó đã tung ra một cách
mù-quáng. Bởi vì về phương-thức điều-khiển
chúng, nó chỉ nắm được có mặt chữ. Về tinh-
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
214
thần nội-dung nó không hề để ý. Tinh-thần tự
trả-thù. Văn-minh của chúng ta lâm nguy, kêu
gọi hoài những khẩu-hiệu lớn của nó : Nhân-
quyền ; Tự-do ; Hợp-tác ; Hòa-bình, của
Genève hay là của Washington _ những danh-
từ rỗng hay là chứa đầy hơi ngạt giết người.
Chẳng có một ai còn tin-tưởng. Người ta ngờ-
vực những đạn nổ. Đại ngôn, đại họa ! Sự bối-
rối vì thế càng tăng. Giờ đây chỉ có hạng đần-
độn và hạng thừa-mứa mới không nhận thấy
cái tình-trạng khủng-hoảng diệt-vong của cả
một thế-hệ Tây-phương. Chỉ những hạng đần-
độn và thừa-mứa ấy mới lợi-dụng tối đa tình-
thế, " sống chết mặc bay " và thầm bảo nhau :
" Sau ta là Hồng-thủy !... " Nhưng hàng triệu
kẻ bất-mãn, tất nhiên thấy dồn vào thế cùng,
hoặc là phải chọn sự nhường bỏ chút tự-do còn
lại, tâm-hồn thất-vọng quay về vườn trật-tự cũ
xưa, nó giam-hãm nhưng bảo-vệ và giữ cho ấm
trong hơi thân-mật của đàn bầy, hoặc là mở
đường thông trong đêm tối vào đến trung-tâm
thành-trì của Tâm-hồn bị bao-vây, ngõ hầu ở
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
215
đấy tiếp nối với kho-tàng nguyên-vẹn và thiết-
lập trong Thành-trì Tâm-linh .
Và chính ở đây, chúng ta thấy bàn tay giơ
ra của đồng-minh chúng ta, là các tư-tưởng-gia
Ấn-Độ : vì họ đã biết hàng thế-kỷ đóng giữ
trong Thành-trì và bảo-vệ nó, trong khi chúng
ta, anh em ruột thịt của các cuộc Đại Chinh-
chiến, chúng ta kiệt sức để Chinh-phục mặt đất
còn lại. Hãy nghỉ chân thở đã ! Hãy liếm ráo
những vết thương. Hãy trở về tổ phượng-hoàng
Hy-mã-lạp-sơn của chúng ta ! Nó chờ đợi ! Nó
là của ta. Phượng-hoàng con Châu-Âu, chúng
ta chẳng phải bỏ mất đi chút gì cái bản-tính
chân-thật của chúng ta. Tính chân-thật của
chúng ta nó ở tại trong tổ phượng ấy, mà từ đấy
xưa kia chúng ta cất cánh bay đi ; tính chân ấy
còn ở trong tay những người biết giữ chìa khóa
Thành-trì của chúng ta _ của cái Ngã Chủ-tể.
Không phải vấn-đề chúng ta tự giam vào đấy.
Vấn-đề là nhúng chân tay mỏi rời vào trong cái
hồ nội-tâm vĩ-đại. Xong rồi, sau khi cơn sốt rét
đã nguôi, bắp thịt chân tay đã lấy lại sức mới,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
216
bấy giờ, hỡi bạn đường, chúng ta lại đi Chinh-
phục, nếu chúng ta thích. Một vận-hội mới bắt
đầu, nếu phải chăng là Định-Luật ! Nhưng giờ
đây, như Lực-sĩ thần-thoại Antée, chúng ta
phải đổ-bộ vào Đất liền trước khi tiếp-tục
tranh-đấu ! Hãy ôm lấy Mẹ, tư-tưởng hãy trở
về với Mẹ. Hãy bú Bà đi ! Sữa Bà còn đủ để
nuôi tất cả dân-tộc trên địa-cầu .
Trong những đổ nát của tinh-thần chồng-
chất trên mặt đất Âu-châu của chúng ta, " Bà
Mẹ Ấn của ta " sẽ dạy ta moi bới những nền-
móng bất-di bất-dịch ở Điện-Khải-Hoàn của
chúng ta... Đây này, những số-lượng và những
đồ-án của Thợ-Cả. Với vật-liệu riêng của ta, ta
hãy xây lại ngôi nhà của chúng ta !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
217
PHẦN THỨ NĂM
*
COI CHỪNG CHÓ DỮ !
Tôi không giấu : bài học lớn từ Ấn-Độ tới
với chúng ta không phải không có sự nguy-
hiểm, phải hiểu nó thấu-đáo. Cái ý-niệm Atman
( Linh-hồn Chủ-tể ) là một thứ rượu mạnh, đến
nỗi những đầu não bạc-nhược đều dễ bị say
ngã. Và tôi không chắc là cả một vị như
Vivekananda nữa, vào những lúc nhược khí, đã
có thể tránh khỏi những khói rượu ấy làm cho
say sửa. Chẳng hạn trong những luận-điệu
ngông thời niên-thiếu mà Durgacharan-Nag đã
ghỉ-chép là Ramakrishna đã khoan-dung và
riễu-cợt ngồi nghe mỉm cười .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
218
Người kính tín Nag trong thái-độ khiêm-
tốn, như Cơ-Đốc giáo của chúng ta, dạy :
_ " Tất cả điều xẩy ra theo ý muốn
của Mẫu Bà là Ý-chí Đại-đồng. Bà hành-
động, nhưng loài người tưởng là chính
mình làm ."
Người Naren hùng-hổ đáp lại :
_ " Tôi không thừa-nhận điều anh
nói, cái Ông hay Bà ấy. Tôi là Linh-hồn.
Ở nơi tôi là cả Vũ-trụ. Nơi tôi nó phát-
sinh, nó phất-phới, nó biến đi ."
Nag :
_ " Anh không có đủ khả-năng để
biến-đổi ngay cả chỉ một sợi tóc thôi, từ
sợi tóc đen ra sợi tóc bạc, còn nói chi đến
Vũ-trụ ! Không có ý muốn của Thượng-
Đế thì không có một ngọn cỏ nào sinh-
động ! "
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
219
Naren :
_ " Không có ý muốn của Ta, mặt-
trời và mặt-trăng không thể vận-hành
được. Theo ý muốn của Ta Vũ-trụ vận-
chuyển như một cái máy ."
Và Ramakrishna mỉm cười sự kiêu-ngạo
trẻ-trung, nói với Nag :
_ " Naren có thể nói thế. Hắn như là
một lưỡi kiếm trần... "
Và Nag kính tín, cúi đầu trước người
thanh-niên được Mẹ tuyển chọn ."
_ ( theo sách " The Saint Durgacharan Nag :
The Life Of An Ideal House, 1920 _ Madras
Ramakrishna Math )
Girish Ch. Ghose, người kịch-sĩ đã nói về
hai nhà tranh-luận trên, với giọng hài-hước
thông-thường của ông :
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
220
_ " Đại Ảo-hóa ( Mahamaya ) tự
thấy rất lúng-túng khi bắt vào lưới hai anh
chàng này. Khi nó thử bắt Naren, thì anh
chàng phình ra, phình mãi ra, lớn tướng
đến nỗi tất cả giây lưới đều ngắn quá...
Và đến khi nó thử tung lưới bắt Nag, thì
anh này thu nhỏ, nhỏ mải, nhỏ xíu đến nỗi
bị lọt ra khỏi mắt lưới. "
Chỉ thiếu có một chút như không để
cho cái ngạo khí ấy nó gợi lên ở ta sự vống đại
anh hùng rơm... Chỉ cần phải toàn-diện ! _ ấy
là cái người nói ở đây, Vivekananda, một anh-
hùng của trí-tuệ, và ông đã ước độ đúng mức ý-
nghĩa thật của những lời khẳng-định táo-bạo
của mình .
" Cái năng-lực đàng sau tôi thì
không phải là Vivekananda, nhưng là
Ngài, Chúa tối cao... "
_ (Thư của Vivekananda, ngày 9-7-1897 )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
221
Ở đây không phải vấn-đề duy-ngã ngu dại
nó múa may, _ cũng chẳng phải một siêu-nhân
điên cuồng trước ngưỡng cửa nhà điên. Cái
Linh-hồn kia, cái Atman kia, cái Ngã kia,
không phải là những gì mà vỏ thân-thể tôi và
thế-giới nhất thời của nó chứa đựng. Đấy là cái
Ngã của anh, của các anh và của tất cả mọi
người, của vũ-trụ và của bên trong và bên
ngoài thế-giới. Người ta chỉ phối-hợp với nó
chừng nào người ta rời khỏi cái tự-ngã, cái ta
nhỏ bé. Khi nào người ta bảo anh : " Tất cả
đều ở tại Linh-hồn. Nó là Thực-tại duy-nhất ",
điều ấy không có nghĩa là anh, một người, anh
là tất cả, nhưng mà tùy ở anh có ngoi lên được
từ vũng nước nặc mùi tù hãm, đến nguồn tuyết
trắng tinh mà do đấy xuất-phát tất cả không.
Nguồn ấy ở tại nơi anh, anh là nguồn suối, nếu
anh biết từ bỏ vũng nước đọng. Đấy là bài-học
hỷ-sả tối cao chứ không phải kiêu-ngạo .
Một điều chẳng kém sác thật là bài học ấy
làm phấn-khởi, và trong cái đã vươn lên, nó in
vào tâm-hồn, cái tâm-hồn này rất thường hay
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
222
bỏ quên cái điểm khiêm-tốn lúc đầu để chỉ còn
thấy cái điểm tới đích và khoác vào mình bộ
cánh Thượng-Đế. Phải thận-trọng với không-
khí đỉnh núi. Khi mà tất cả thần-linh đều đã bị
hạ bệ và chỉ còn lại có Tự-tại thôi, thì cẩn-thận
kẻo chóng mặt !
" Tự-phụ rằng : “ Ta là Ngài...”
không phải là một thái-độ lành-mạnh. Kẻ
nào nuôi cái lý-tưởng ấy, trước khi thắng
phục được ý-thức về cái ngã vật-lý, nó sẽ
gặp điều bất lợi lớn đến cho nó, sự tiến-
bộ của nó chậm lại, và dần dần nó bị kéo
tuột xuống. Nó lừa người khác và tự dối
chính mình trong vô-minh tuyệt-đối mà
nó tự giam ở trạng-thái khốn-nạn của
nó..."
_ (Evangile de Ramakrishna II, ed. 1922 )
Và bởi vậy mà Vivekananda đã giữ-gìn
không muốn huấn-luyện đại-chúng, có tâm-hồn
không đủ cứng dắn, vào con đường vươn lên
trên bậc thang leo với không-khí vực-thẳm.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
223
Ông khuyên chúng đi từng giai-đoạn ngắn,
nương-tựa vào cái gậy của các tôn-giáo riêng
của mình hay là của Tín-điều tạm thời của tinh-
thần thời-đại và xứ-sở. Nhưng thông-thường,
những kẻ thiếu kiên-nhẫn đốt giai-đoạn và
không sửa-soạn, đòi cướp lấy đỉnh núi. Không
nên ngạc-nhiên về sự sa-ngã của họ. Và nguy-
hiểm không phải chỉ có đối với họ. Thấy ở
dưới không phải là tốt ! Sự phấn-khởi do tình-
tự thình-lình về quyền-năng nội-tâm tạo ra có
thể gây nên những rối-loạn bạo-động xã-hội mà
hiệu-quả cùng phạm-vi rung-động khó có thể
lường trước được. Đấy là điều khiến cho những
nhà Cách-mệnh Ấn nhiều phen gọi đến Viveka-
nanda và hấp-thụ những lời nói khuyếch-đại về
toàn-năng của Atman, mặc dù Vivekananda với
giáo-hội do ông tổ-chức đã cương-quyết đứng
lên trên hành-động chính-trị.
Tất cả đại học-thuyết bắt buộc bị xuyên-
tạc. Mỗi người đều vơ về mình, tin rằng tìm
thấy ở đấy lợi ích riêng. Và chính Nhà-Thờ
dựng lên để bảo-vệ cũng mục nát và những
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
224
thay-đổi cũng quá thiên để bóp nghẹt nó trong
những bức tường tư-hữu. Nhưng hãy xét nó ở
trạng-thái thuần-túy : đấy là một kho dự-trữ
năng-lực tinh-thần tuyệt-diệu. Bởi vì tất cả đều
ở tại nơi ta, không có gì ở bên ngoài, chúng ta
đảm phụ tất cả trách-nhiệm về tư-tưởng và
hành-vi của chúng ta, chúng ta không có
Thượng-Đế, không có cả Định-mệnh để trút
trách-nhiệm một cách đê-hèn. Không có
Jahveh, không có Euménides, không " Yêu-
ma ! " Mỗi người chúng ta chỉ trông-cậy vào
chính mình. Mỗi người là người sáng-tạo ra
chính định-mệnh riêng của mình. Nó chỉ đè
nặng trên vai mình mà thôi. Mỗi người đủ
mạnh-khoẻ để vác nó... " Người ta chưa từng
mất chủ-quyền. Linh-hồn chưa từng bị ràng-
buộc. Bản-tính nó là tự-do. Nó vốn không có
nguyên-nhân. Không có gì hành-động được
vào nó từ bên ngoài... Hãy tin là mình tự-do
thì được tự-do ngay ! ..."_ ( " Tự-do Của Tâm-
hồn "_ 5-11-1896, Toàn tập)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
225
" Gió thổi, các thuyền buồm căng
bắt lấy và tiến lên. Các thuyền khác ở lại.
Phải chăng lỗi ở gió ?... Đừng trách
người, không oán Trời, hay là oán-trách
bất cứ cái gì trên đời ! Chỉ một mình thôi.
Và hãy cố-gắng hơn !... Tất cả trợ-lực
mình cần đều ở tại bên trong mình. Và
tương-lai vô-hạn, trước mặt mình. Hãy
làm lấy tương-lai của mình ! "
_ (Jñânayoga : " Vũ-trụ. II Microcosme ")
Anh tự bảo không có nương-tựa, không
chút tài-nguyên, bị bỏ rơi, bị lột trần ! Hèn
nhát ! Anh có tại nơi mình Toàn-năng, Toàn-
lạc và Toàn tự-do _ Sinh-tồn Vô-hạn. Anh chỉ
phải thâu lấy ở đấy .
Không những anh thâu lấy ở đấy từng
suối năng-lực, chúng tưới khắp thế-giới, anh
còn thâu được những khát-vọng của thế-giới,
nó khao-khát những giòng suối ấy, và anh sẽ
làm cho nó sinh-sôi nẩy-nở. Bởi vì : " Đấng
Thiêng ở tại nơi anh, Ngài làm việc bằng tất cả
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
226
các bàn tay, đi bằng chân, của tất cả mọi người.
Ngài là quyền-năng và tôn-nhượng, và là
Thánh-thần, và là người có tội, và là Thượng-
Đế, và là sâu-bọ ; Ngài là tất cả, và trên Ngài là
những kẻ khốn-nạn và nghèo khó, tất cả các
hạng, tất cả chủng-tộc ; bởi vì chính những kẻ
nghèo chúng làm nên công-việc vĩ-đại của thế-
giới ." _ ( Thư ngày 9-7-1897 và 11-3-1898,
Calcutta )
Nếu chúng ta chỉ thực-hiện những phần
nhỏ cái quan-niệm bao-la ấy, " nếu chỉ một
phần triệu nam, nữ đang sống, chỉ trong một
vài phút thôi có thể tự nói : _“ Các anh tất cả là
Thượng-Đế, hỡi con người, hỡi tất cả chúng-
sinh ! Các ngươi tất cả là những tia sáng của
một mặt-trời sống-động ”, thì trong một nửa
giờ cả thế-giới sẽ biến-đổi. Thay vì những trái
tạc-đạn hận-thù kinh-khủng kia ném ở khắp
nơi, thay vì những luồng tư-tưởng ghen-ghét
tung ra ở tất cả các nước... tất cả sẽ là Ngài ."
_ ( Jñânayoga " Chân-nhân và Ảo-nhân " )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
227
Có cần phải nhắc lại rằng đấy không phải
là một tư-tưởng mới chăng ? ( Và đấy chính là
cái làm ra sức mạnh của nó ! ) Vivekananda đã
không phải là người đầu tiên ( tin như thế thì sẽ
ngây thơ ) để quan-niệm cái Duy-nhất-tính của
Tinh-thần nhân-loại và để muốn thực-hiện nó.
Nhưng ông là người đầu tiên đã quan-niệm nó
với sự viên-mãn không lệ thuộc bên ngoài và
không biên-giới, và chính ông đã không có thể
làm được nếu không có gương-mẫu kỳ lạ của
Ramakrishna .
Ngày nay không hiếm thấy lác-đác trên
thế-giới những cố-gắng của Hội-nghị và Hội-xã
trong ấy có vài đại-biểu quí-phái của các tôn-
giáo lớn nói đến hợp-nhất chúng hay là làm
cho chúng thân-thiện với nhau. Cũng vậy,
những tư-tưởng-gia thế-tục đã cố tìm lại sợi
giây liên-hệ những dự-án lẻ-tẻ _ thất-bại hay
thành-công _ về lý-trí thành một tiến-hóa mù-
quáng, trăm lần bẻ gẫy, trăm lần tiếp-tục ; và
họ đã nhiều phen khẳng-định duy-nhất-tính
tiềm-tàng, hứa hẹn của Ngã - Nhân-loại .
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
228
Những bọn người này và người kia, vả
chăng ( không thể nói gì hơn ) họ làm việc lẻ-
loi, chưa đi đến chỗ bắc cầu giữa những tư-
tưởng tục-thế tín-ngưỡng nhất với những tư-
tưởng tôn-giáo tục-thế nhất. Cả đến những
hạng quảng-đại nhất cũng chưa từng lột bỏ
được hết thành-kiến của tư-tưởng để chắc là
mình thuộc về gia-đình tâm-linh cao đẳng _ dù
rộng-rãi và đại-lượng đến mấy _ và làm cho
chúng ngờ-vực đối với những tư-tưởng có
quyền đàn anh để được coi họ như những đàn
em. Tấm lòng quảng-đại của Michelet dù có
chối-cãi mấy đi nữa là " không phản-đối,
không phê-phán " khi ông viết bộ " Bible de
l'Humanité " ( Thánh-thư của Nhân-loại ), ông
cũng xếp thành hai hạng : " Những dân-tộc của
ánh-sáng và những dân-tộc của sẩm-tối, của
ban-đêm, của tranh sáng tranh tối ". Và tất-
nhiên, ông ưu-đãi dân-tộc mình, chủng-tộc
mình và vũng nước của mình, là Địa-Trung-
Hải. Nhà thiên-tài Ram-Mohun-Roy, vào năm
1807 khi ông bắt đầu sáng-lập " Chủ-nghĩa
Đại-đồng " cao cả của mình ở hoài-bão bao-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
229
hàm cả Ấn-Độ-giáo, Hồi-giáo và Cơ-Đốc-giáo,
ông cương-quyết đặt bức tường ngăn : _
" Thượng-Đế một và độc-nhất không đồng-
đẳng "_ chủ-nghĩa độc-thần bài-trừ tất cả đa-
thần-giáo. Và sự đố-kỵ ấy được giáo-hội
Brahmosamaj duy-trì, tôi lại thấy sự che dấu tế-
nhị nhưng cố-định ở các bạn tự-do nhất của tôi
trong trung-tâm Tagore, và ở các chiến-sĩ anh-
dũng của sự hòa-giải tôn-giáo _ như trong Hội
" Liên-minh Quốc-tế Thân-hữu " ( Federation
of Intrnational Fellowship ) rất đáng quý kia,
thành-lập từ bốn hay năm năm ở Madras, nó
hội-họp những đại-biểu Anh - Ấn vô-tư nhất
của Cơ-Đốc-giáo, Tin-Lành, Ấn-Độ-giáo
thanh-lọc, của Kỳ-Na-giáo, của Thông-Thiên-
học : các tôn-giáo bình-dân của Ấn-Độ không
có chỗ ở đấy. Và _ ( ngoại-lệ đặc-trưng ) _
trong những báo-cáo của các hội-đồng mấy
năm liền, tên tuổi của Ramakrishna và
Vivekananda không được nói đến. Im-lìm về
hai người. Các Ngài vướng lắm....
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
230
Tôi hiểu điều ấy ! Họ cũng sẽ vướng
chẳng kém đối với bọn sùng tín Âu-Tây chúng
ta về Lý-tính. Lý-tính và Thượng-Đế là một,
cũng như Thượng-Đế của Thánh-kinh ( Bible )
và của Hồi-kinh Coran có thể thuận-hòa với
nhau hơn là hiểu nhau ở bên này bên kia, với
các Thần-linh vô số, và tiếp-nhận chúng vào
nhà mình. Bộ-tộc người Monos, cùng lắm, có
thể chịu nhận cho người Monos là người hay là
Thượng-Đế, nhưng nó không dung cho sự nẩy-
nở của cái Một. Điều ấy là một ô-nhục và
nguy-hiểm ! _ Và tôi đọc thấy trong sự chống-
đối đau buồn của các bạn Ấn thân nhất của tôi,
từng được nuôi dưỡng như ông Roy vinh-
quang của họ với tư-tưởng Vedanta ( Bất-nhị-
pháp ) tuyệt-đối và lý-trí tối cao của Tây-
phương. Họ tin kết cục đã thành-công sau bao
nhiêu khó-nhọc và phấn-đấu để tổng-hợp lý-trí
vào tư-tưởng của phái thượng-lưu Ấn vào cuối
thế-kỷ XIX... Và này đây, sự xuất-hiện của
Ramakrishna và đệ-tử đánh cồng của ông,
Vivekananda, nhắc-nhở quần-chúng và giới
thượng-lưu sự sùng-bái và yêu-chuộng tất cả
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
231
các hình-thức lý-tưởng có ngàn bộ mặt mà họ
đã hy-vọng đuổi được vào bóng tối !... Theo
họ hiểu, đấy là một sự thoái-hóa của tinh-thần
vào quá-khứ .
Và theo tôi hiểu thì đấy là một bước tiến
lên, một bước nhẩy vọt vĩ-đại của Tề-Thiên
Hanuman qua eo-biển chia cách các lục-địa.
Tôi không thấy có gì mới hơn, mạnh-mẽ hơn là
sự ôm-ấp kia bằng tâm và trí, bằng tình-yêu
lớn-lao của Paramahamsa ( Thánh Rama-
krishna ) và bằng cánh tay dắn chắc của
Vivekananda, ôm-ấp tất cả thần-linh ở trong
con người, tất cả bộ mặt của Chân-lý, tất cả
thân-thể của Mộng-tưởng nhân-loại. Cho tất cả
những ai tín-ngưỡng, cho tất cả những ai thấy,
cho tất cả những ai không tin và không thấy
nhưng thành-thật muốn cầu tìm sự thật, cho tất
cả _ tín-đồ của lý-tính, tín-đồ của tôn-giáo, tín-
đồ của đại Kinh-Điển, tín-đồ của hình-ảnh, tín-
đồ chất-phác, những người bất-khả tri-luận, và
những người có linh-cảm, những trí-thức và
những người vô-học _ cho tất cả những người
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
232
thiện-chí cái đại Sứ-mạng : Tình Huynh-đệ !
Và không phải huynh-đệ kiểu đàn anh mà
quyền huynh-trưởng tước quyền và giám-hộ
những đàn em. Bình-đẳng quyền pháp và tương
kính lẫn nhau ...
Trên kia tôi đã nói, làm sao mà cả đến
chữ " khoan-dung " ( tolérance ), đối với Tây-
phương chúng ta ( người nông-dân chặt-chẽ
kia ) cũng có vẻ là lòng quảng-đại tốt đẹp nhất,
thì đã làm thương-tốn cho cái ý-thức về công-
lý và tinh-thần tinh-nhuệ kiêu-hãnh của Vive-
kananda, ông coi như một sự thô-tục, một sự
nhân-nhượng che-chở của người trên đối với
những kẻ yếu-hèn hơn mà nó có quyền bắt bẻ
tùy ý nó. Ông muốn người ta " công-nhận "
chứ không phải " bao-dung ". Ngang hàng, vai
bằng vai ! Bất cứ cái bình để chứa nước như
thế nào, nước vẫn là nước, Thượng-Đế là một.
Giọt nước Thánh, biển Thánh, và lời tuyên-
ngôn bình-đẳng ấy giữa hạng người hèn mọn
nhất với hạng cao quý nhất của một tinh-thần
quý-phái, tin-tưởng đỉnh cao đã đạt, tín-ngưỡng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
233
Bất-nhị ( Advaïta ) của mình là tuyệt-đỉnh của
bước tiến đại-đồng. Ông có quyền nói : bởi vì,
cũng như sư-phụ ông là Ramakrishna, ông đã
đi hết các độ đường. Chỉ có điều là Rama-
krishna, với tự-lực một mình, đã leo hết các
bậc từ dưới lên trên, còn Vivekananda đã học
hỏi nhờ Ramakrishna để xuống thang từ trên
xuống dười, ngõ hầu biết hết các độ đường và
nhận-thức trong tất cả những con mắt cái Một
đồng-nhất-thể ( L'Un Identique ) tại các con
người phản-ảnh cầu-vồng .
Các anh không phải lo sợ về sự vô-trật-tự
và hỗn-độn trong cái sai-biệt phức-tạp vô cùng
ấy. Nếu các anh đã nhớ kỹ bài học tất cả các
Đạo-dẫn ( Yogas ) của Vivekananda, các anh
sẽ nắm được tất cả cái trật-tự của kế-hoạch
chồng-chất, đường đi lên đẹp đẽ, đẳng-cấp _
không phải theo nghĩa quan-hệ của thày với
trò, chủ với tớ, mà là kiến-trúc các khối đá hay
là âm-nhạc tầng lớp : cái đại hòa-điệu do tay
mạnh-mẽ của Nhạc-sư điều-động trên mặt đàn.
Tất cả âm-điệu đều có phần trong hòa-điệu.
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
234
Vậy không nên bỏ đi một hàng lớp nào, và lấy
cớ bản-nhạc của mình thành-phần đẹp hơn cả
mà có khuynh-hướng lôi kéo đa hưởng về đồng
hưởng. Hãy chơi khúc nhạc của anh cho ăn
nhịp, cho hoàn-hảo, đồng thời trong khe lỗ tai
theo hòa-tấu ở đấy nhạc cụ của người khác
phối-hợp với nhạc cụ của anh. Nhưng kẻ nào
nhu-nhược thì thay vì đọc bản nhạc ghi trước
mặt lại vượt sang người bên cạnh, sẽ tự làm hại
mình, làm hại cho tác-phẩm và cho cả nhạc đội
nữa. Bạn nghĩ thế nào về người thổi sáo đòi bắt
chước tiếng violon dẫn đầu ? Và người này
bắt-chước : " Các người khác hãy im ! Này
người ta nhái bài học của ta, tất cả theo sau
ta !" ... Một khúc nhạc hòa-tấu không phải một
lớp học trẻ con, mà người ta nhắc đi nhắc lại
với một điệu đánh vần một bài học vỡ-lòng !
Và điều này lên án tất cả tinh-thần truyền-
thống, dù thuộc thánh-giáo hay là thế-học,
muốn uốn theo hình-ảnh mình ( hình-ảnh
Thượng-Đế mình hay là phi Thượng-Đế, cũng
là một loại Thượng-Đế trá hình ) những trí-óc
của người khác !... Đấy đủ làm đảo-lộn những
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
235
quan-niệm của chúng ta, từ lâu, thông-thường,
thâm-căn cố-đế ! Bởi vì chúng ta _ tất cả dân
Nhà-Thờ hay dân Đại-học Sorbonnes _ chúng
ta không thiếu các lý-do cứng dắn để làm giúp
những người không cầu xin chúng ta nhổ hết
cỏ dại ( cũng như cỏ tốt ) ở thửa ruộng của họ,
mà họ là những kẻ ngu dốt đáng thương sinh
sống dựa vào đấy. Chẳng phải là bổn-phận tối
thiêng-liêng mà đổ lỗi ở nhà mình và ở nhà
hàng xóm ( ở nhà hàng xóm nhiều hơn ) có cỏ
dại và gai-góc _ sự sai lầm ? Và sự sai lầm
chẳng phải là cái gì không phải là ( khác với )
chân-lý của chúng ta ?... Rất ít người biết vươn
lên trên cái lòng bác-ái ấy, vị-kỷ hồn nhiên. Tôi
hầu như chưa bao giờ gặp được hạng người ấy
trong hàng thầy và bạn của đội quân thế-học,
duy-lý và khoa-học _ và càng hiếm-hoi trong
hàng người càng sống càng mạnh và bề ngoài
có vẻ càng rộng-lượng : bởi vì hai tay họ gặt
hái đầy, họ vội lấp đầy ý tưởng của nhân-loại,
muốn hay không muốn... " Lấy đi, ăn đi, vui
lòng hay cưỡng-ép ! Cái gì tốt cho tôi phải là
tốt cho anh. Và nếu theo đơn kê của tôi, anh có
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
236
chết lăn ra đấy là lỗi tại anh, như chuyện
ngụ-ngôn về thày-thuốc trong hài-kịch của
Molière, không phải lỗi ở đơn thuốc của tôi !
Đại-học chuyên-khoa bao giờ cũng có lý ." _
Và thậm-tệ hơn, ở phiá bên kia, trong đội quân
của Nhà-Thờ, vì rằng vấn-đề ở đây là cứu vớt
linh-hồn cho đời sống vĩnh-cửu. Cái gì mà
người ta chẳng làm, biết bao Thánh-linh đã
bạo-động vì điều tốt lành cho y ? ...
Bởi vậy, tôi đã sung-sướng là rất gần đây
được nghe tiếng nói của Gandhi _ ( mà tính-
tình ông này tuy rất khác với Ramakrishna và
Vivekananda, hầu như trái nghịch với bản-
chất ) nhắc lại cho đạo-hữu của ông trong
Liên-minh Đạo-hữu Quốc-tế ( Internatinal
Fellowships ), vì lòng ngoan đạo sẵn có khynh-
hướng truyền-giáo, ông đã nhắc lại cho họ cái
nguyên-tắc đại-đồng lớn " Công nhân " tôn-
giáo vốn là của Vivekananda _ " Sau một thời-
kỳ học hỏi và kinh-nghiệm lâu dài, tôi đã đi
đến kết-luận rằng :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
237
1/ _ Tất cả tôn-giáo _ ( và trong ấy gồm
có tôi, Romain Rolland, các tôn-giáo của lý-
tính cũng như các tôn-giáo khác ) _ đều là
chân-thật ;
2/_ Tất cả tôn-giáo đều mang ở bản-thân
một vài sai-lầm ;
3/_ Tất cả tôn-giáo đối với tôi hầu như
đều đáng quí-chuộng như chính Ấn-Độ-giáo
của tôi vậy. Sự tôn thờ của tôi đối với các tín-
ngưỡng khác cũng giống như đối với chính tín-
ngưỡng của tôi . Do đấy mà không có thể có
một tư-tưởng cải đạo nào. Mục-tiêu của Hội
Đạo-hữu phải là giúp đỡ cho một tín-đồ Ấn-
Độ-giáo để trở nên một tín-đồ tốt hơn, một tín-
đồ Hồi-giáo để trở nên một tin-đồ Hồi-giáo tốt
hơn, một Cơ-Đốc-giáo để trở nên một Cơ-Đốc-
giáo tốt hơn. Thái-độ bao-dung che-chở thì trái
hăn với tinh-thần của " Hội Liên-minh Đạo-
hữu Thế-giới ". Nếu trong đáy lòng tôi nghi-
ngờ là tôn-giáo của tôi thật hơn, và tôn-giáo
của những người khác kém thật, bấy giờ, nếu
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
238
tôi có chút khả-năng thân-hữu nào chăng nữa
với những người khác thì nó là một loại hoàn-
toàn khác hăn với những điều chúng ta cần
trong Liên-minh Đạo-hữu Quốc-tế. Thái-độ
của chúng ta đối với các tín-ngưỡng khác phải
tuyệt-đối rõ-rệt và thành-thật. Lời cầu-nguyện
cho người khác không bao giờ được là : " Lạy
Chúa, hãy ban cho nó ánh-sáng mà Chúa đã
ban cho con ! " Nhưng là : " Chúa hãy ban ánh-
sáng và chân-lý mà nó cần cho sự phát-triển
cao hơn của nó ! "
Và đến khi có người bài-bác với ông về
sự thấp kém của những mê-tín linh-hồn và đa-
thần, chúng có vẻ, đối với hạng quí-phái của
các tôn-giáo hữu-thần lớn, như là trình-độ thấp
kém nhất trên cầu-thang nhân-loại, Gandhi ôn-
tồn trả lời :
_ " Về điều quan-hệ với chúng, tôi
phải khiêm-tốn và coi-chừng kẻo có khi
sự kiêu-căng có thể diễn ra cả trong tiếng
nói khiêm-tốn nhất. Một người phải để
hết thời giờ của mình để trở nên một tín-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
239
đồ Ân-Độ-giáo tốt, một tín-đồ Cơ-Đốc tốt
hay là một Hồi-giáo tốt. Tôi phải dành hết
cả thì giờ của tôi để trở thành một Ấn-Độ-
giáo tốt, và không còn thì giờ nữa để
tuyên-truyền tôn-giáo thờ linh-hồn : vì tôi
không có thể cảm thấy rằng tôn-giáo đó
thấp kém hơn tôn-giáo của tôi ."
Trả lời một đồng-nghiệp hỏi :
_ " Phải chăng tôi không có thể
mong muốn thực-nghiệm tôn-giáo của tôi
về Thượng-Đế ? "
Gandhi đáp :
_ " Một con kiến có thể mong chính
sự hiểu-biết và thực-nghiệm của mình mà
ban cho con voi chăng ? Và ngược lại ?...
Hãy cầu-nguyện Thượng-Đế ban cho bạn
anh ánh-sáng đầy đủ và hiểu-biết, chứ
không tất-nhiên cứ phải là cái mà Ngài đã
ban cho anh ."
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
240
Một người khác hỏi :
_ " Chúng ta không có thể chia-sẻ
kinh-nghiệm của ta sao ?
Gandhi :
_ " Thực-nghiệm tâm-linh của ta dĩ-
nhiên phải là để san-sẻ ( hay là truyền-
thống ) dù chúng ta có mong muốn hay
không _ nhưng bằng đời sống của ta
( bằng gương-mẫu ) chứ không phải bằng
lời nói, vì lời nói là một môi-giới rất
khuyết-điểm. Những thực-nghiệm tâm-
linh thâm-trầm hơn cả tư-tưởng... ( vì sự-
kiện chúng ta đã sống ), thực-nghiệm
tâm-linh của ta tràn-ngập ra ngoài. Nhưng
ở đâu có tri-thức về san-sẻ ( ý muốn
hành-động tâm-linh ) thì có ngay sự vị-
kỷ. Nếu các anh, tín-đồ Cơ-Đốc, các anh
muốn một người khác tiếp-thụ thực-
nghiệm Cơ-Đốc của anh, như vậy là anh
đã dựng lên một bức tường trí-thức. Chỉ
nên cầu-nguyện để cho các bạn anh trở
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
241
nên những người tốt, bất cứ hình-thức
tôn-giáo của họ thế nào."
Tựu trung, Gandhi không những chỉ lên
án tất cả tuyên-truyền tôn-giáo, công-khai hay
là che đậy, mà ông còn không ưa mọi sự cải
đạo dù là tự ý, chuyển từ một tín-ngưỡng nọ
sang một tín-ngưỡng kia. _" Nếu có một vài
người nghĩ rằng họ phải thay đổi nhãn-hiệu
tôn-giáo của họ, tôi không có thể cản-trở sự tự-
do của họ, nhưng tôi bất-bình thấy họ làm như
thế ."
Người ta không có thể nói gì hơn trái với
những thói quen tinh-thần, tôn-giáo hay thế-tục
Tây-phương. Và, không có gì Tây-phương và
thế-giới chúng ta ngày nay có thể rút lấy bài
học bổ-ích hơn. Vào giờ này của tiến-hóa
nhân-loại, mà tất cả những năng-lực tín-
ngưỡng, mù-quáng và có suy-tư, quyền-lợi và
tư-tưởng, bắt buộc tất cả các dân-tộc phải ôm
lấy nhau chặt-chẽ, để mà " hợp-tác hay diệt-
vong ", cốt yếu là cái ý-thức nhân-loại phải
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
242
thấm-nhuần như một cách-ngôn, cái nguyên-lý
căn-bản này : quyền sống bình-đẳng cho tất cả
tín-ngưỡng và bổn-phận như nhau để mỗi
người tôn-trọng cái gì mà láng-giềng tôn kính.
Tôi tưởng rằng khi nhắc lại rõ-ràng minh-bạch
điều ấy, Gandhi đã tỏ ra là người thừa-kế chân-
chính của Ramakrishna vậy .
Sứ-mệnh đặc-biết của các đệ-tử Rama-
krishna đối với tôi, có vẻ, chính là săn-sóc sao
cho cái tâm bao-la ấy cởi-mở, cho tất cả tâm-
hồn thành-thật của thế-giới, cho tất cả hình-
thức yêu-thương và tín-ngưỡng của chúng,
không bao giờ giống như các hình-thức " Tâm-
hồn Linh-thiêng " giam-hãm vào một bàn thờ,
trong một Nhà-Thờ mà người ta chỉ được phép
vào sau khi đã nói khẩu-hiệu của một tín-điều.
Ramakrishna phải là của tất cả mọi người.
Không phải tất cả mọi người là của Ngài. Ngài
không được lấy làm của tư-hữu. Ngài phải cho
đi. Vì rằng kẻ nào lấy đi sẽ rơi vào số-phận của
kẻ đã lấy, như những Alexandre !
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
243
Không một ai trong chúng ta không phải
tìm lấy ích-lợi ở đấy. Người viết những giòng
này, mặc dù y, suốt đời mình, đã âm-thầm
khao-khát sự thông-cảm ấy _ lúc này càng
cảm thấy bao phen, bất đắc dĩ, y đã thiếu sót về
điều ấy ; và y đã biết ơn về bài-học cao cả của
Gandhi, nó là bài-học của Vivekananda, và hơn
nữa của Ramakrishna, để giúp y vươn lên tới
gần đích vậy .
***
*
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
245
KẾT - LUẬN
Tuy thế, cũng có sự khác nhau giữa tư-
tưởng của Gandhi và tư-tưởng của Viveka-
nanda là ông này, một nhà đại trí-thức, _ ( còn
Gandhi không có chút gì là nhà trí-thức cả ) _
ông không có thể lãnh-đạm như Gandhi với các
hệ-thống tư-tưởng. Tuy cả hai đều công-nhận
hiệu-năng của tất cả tôn-giáo, Vivekananda lấy
sự công-nhận ấy làm đề-tài học-thuyết của
mình và làm đối-tượng cho việc truyền-giáo.
Và đấy là một trong những lý-do tồn-tại của
giáo-hội mà ông đã thành-lập. Với một lòng
chân-thành, ông muốn tránh tất cả ảnh-hưởng
tâm-linh vào bất cứ một ai. ( Tất cả những
người đã được biết ông, chứng-thực sự tôn-
trọng tuyệt-đối của ông đối với sự tư-do trí-
thức của những người đến gần ông _ trừ-phi là
họ thừa-nhận bằng một lễ mở đạo thiêng-liêng,
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
246
những mặc-ước minh-định đối với giáo-hội của
họ và đối với ông. Bản văn tuyệt-bút sau đây
đượm ý-vị lý-tưởng tự-do hòa-hài .
" Nisthâ ( Sùng-tín một lý-tưởng
độc-nhất ) là bước đầu của thực-hiện tôn-
giáo. Hãy hút lấy mật của tất cả các thứ
hoa, hãy bầu-bạn với tất cả mọi người,
hãy tôn-trọng tất cả mọi người : _ “ Đúng
thế, người anh em. Đúng thế, người anh
em ! ”... nhưng hãy giữ vững con đường
riêng của mình. _ Một trình-độ cao hơn là
tự đặt mình thực-sự vào địa-vị người
khác. Nếu tôi là tất cả thì tại sao tôi không
có thể thực-sự và hoạt-bát cảm-thông với
anh em tôi và nhìn bằng con mắt riêng
của họ. Chừng nào tôi còn yếu, tôi phải
giữ lấy một đường thôi ( Nisthâ ) ; nhưng
khi tôi đã khỏe, tôi có thể cảm-thông với
tha-nhân và phối hưởng hoàn-toàn những
tư-tưởng của y. Phương-pháp cũ là :
" Phát-triển một ý-tưởng thôi, và thay cho
tất cả." _ Phương-pháp mới là : " Điều-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
247
hòa phát-triển " _ Còn phương-pháp thứ
ba là : " Phát-triển tinh-thần và chế-ngự
nó ", rồi thì ứng-dụng nó vào nơi nào
mình muốn : kết-quả sẽ mau chóng hơn.
Như thế là tự phát-triển một cách sác thật
hơn cả. Hãy học-tập tập-trung tinh-thần,
và sử-dụng nó theo bất cứ theo chiều-
hướng nào. Như thế anh không mất gì cả.
Kẻ nào có được toàn-thể, cũng phải có
được các phần-tử ."
Nhưng không phải chỉ trông vào một mặt-
trời nhạt dịu tia nắng. Tư-tưởng cháy bỏng của
ông hành-động, chỉ một thực-kiện nó hiện-hữu.
Và nếu triết-lý Bất-nhị-pháp ( Advaïta ) của
Vivekananda có đố-kỵ với chủ-nghĩa thôn-tính
của các nhà truyền-giáo, thì ông chỉ cần tự
biểu-hiện như một ngọn lửa lớn cháy bùng để
cho các tâm-hồn lang-thang tự tụ-họp lại
chung-quanh. Không phải ai muốn bỏ vai trò
chỉ-huy là có thể bỏ được ! Cả đến lúc ông tự
nói một mình, một người như Vivekananda
cũng nói cho cả nhân-loại. Ông không biết nói
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
248
thầm. Và ông cũng không muốn thế. Một tiếng
nói lớn là để vang cả bầu trời. Cả trái đất là cái
trống của ông. _ Bởi thế cho nên, khác với
Gandhi mà lý-tưởng tự-nhiên vừa tầm với bản-
tính mình, vừa tự-do, công-bằng, trung-bình và
cân-nhắc, trong khu-vực tín-ngưỡng cũng như
chính-trị, có khuynh-hướng về một Liên-hiệp
các thiện-chí, còn Vivekananda, dù muốn hay
không, cũng tỏ bộ mặt đế-vương muốn qui-
định dưới vương-trượng của cái Một những
lãnh-vực tinh-thần, chắc hẳn là độc-lập nhưng
nghiêm-chỉnh. Và công-trình ông đã dựng nên
tuân theo chủ-định ấy .
Theo kế-hoạch của ông thì ngôi điện
chính, ngôi nhà-mẹ, ở Belur phải là một
" ngôi Điện của sự hiểu-biết " nhân-loại. Và ở
ông, " hiểu-biết " không bao giờ rời với " hành-
động ". _ " Đối với tôi đọc tụng Vedanta
không quan-trọng. Chúng ta phải thực-hiện nó
vào đời sống thực-tế."_ ( Sách Vấn-đáp của
Vivekananda ). Cái Điện trí-thức ấy lại chia ra
làm ba ngăn :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
249
1/_ Từ-thiện ( Annadana = bố-thí thực-
phẩm và nhu-yếu vật-lý ).
2/_ Hiểu-biết ( Vidyadana = hiểu-biết trí-
thức ).
3/_ Thiền-định ( Jñãnadana = hiểu-biết
tâm-linh ).
Sự hợp-nhất ba giáo-lý trên là thiết-yếu
để xây-dựng nên con người. Có sự tinh-khiết-
hóa dần dần, tiến-bộ, tất nhiên, bắt đầu từ đòi-
hỏi cấp-bách của thân-thể nhân-loại muốn được
nuôi-dưỡng và săn-sóc cho tới những chinh-
phục tối cao của tinh-thần thoát tục nó thâm-
nhậm vào cái Duy-nhất-tính .
Song, đương-nhiên là đối với một người
như Vivekananda, ánh-sáng không phải là để
giấu vào trong ống kín, tất cả những phương-
tiện để vươn lên phải được đem đến cho tất cả
mọi người. Không có gì để dành riêng cho một
ai cả !
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
250
_ " Có quan-trọng gì ở thế-giới mà
anh hay là tôi đạt được giải-thoát Mukti
( Cực-lạc ) ? Chúng ta phải dắt cả vũ-trụ
với ta đến giải-thoát, Mukti... Cực-lạc
không tầy ! Cái Ngã thực-hiện ở tại tất cả
muôn vật hô-hấp và ở tại tất cả mọi
nguyên-tử của vũ-trụ ".
Những điều-lệ đầu tiên ông đặt ra vào
tháng 5 năm 1897 cho sự thành-lập " Sứ-đồ
Ramakrishna " ( Ramakrishna Mission ) thiết-
định rõ-rệt rằng : " mục-đích của Hội là để
truyền-bá những chân-lý, đã được Ramakrishna
biểu-thị và chứng-nghiệm, vì hạnh-phúc của
nhân-loại, và để giúp sự thực-hành chúng trong
đời sống của tha-nhân, vì tiến-triển hiện-thực,
trí-thức và tâm-linh ".
Thế là tinh-thần truyền-bá trong học-
thuyết được tái-lập, mà cốt-yếu là : " thiết-lập
tình huynh-đệ giữa các tín-đồ của các tôn-giáo
khác nhau bằng sự nhận-thức rằng tất cả đều
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
251
cùng là những hình-thức phong-phú của một
Tôn-giáo Vĩnh-cửu ."
Thật khó lòng nhổ giễ khỏi tinh-thần
nhân-loại cái nhu-cầu khẳng-định cho chân-lý
và hạnh-phúc riêng của mình như chân-lý và
hạnh-phúc của người khác. Và có lẽ người ta sẽ
nói, _ " nhổ giễ là “ nhân đạo ” ? " Sự vô-tư
của Gandhi thì gần như là thoát xác. Cũng như
Ramakrishna đã thoát xác như thế bằng các con
đường ngược chiều, đại-đồng chấp-hữu của
người tình tất cả các tinh-thần... Nhưng
Vivekananda không như thế chút nào. Ông là
người có da thịt. Chỉ cần nhìn thấy ông ta. Sự
vô-tư tuyệt-đối tràn đầy trên tuyệt-đỉnh tư-
tưởng của ông. Nhưng toàn-thể thân-thể của
ông thì dấn thân vào cuộc đời, vào hành-động.
Và tất cả xây-dựng của ông mang dấu-hiệu
sinh đôi : _ Ở cơ-bản một đám đông sứ-đồ của
chân-lý và công-tác xã-hội, trà-trộn vào đời
sống của nhân-dân và vào trào-lưu của thời-đại.
Tại trên đỉnh là ngọn đèn cao soi đường, là
ngọn tên trên nóc của đại giáo-đường, Tu-viện
TÔN-GIÁO ĐẠI-ĐỒNG
252
của tất cả các Tu-viện, Bất-nhị-pháp xây trên
Hy-Mã-Lạp-Sơn, nhằm sự gặp-gỡ hai nửa địa-
cầu, Tây-phương với Đông-phương, vì ngã ba
sông của tất cả chủng-tộc nhân-loại là ở tại cái
Duy-nhất Tuyệt-đối .
Nhà kiến-trúc-sư đã hoàn-thành công-
trình của mình. Đời ông có quá ngắn-ngủi, ông
cũng đã thấy được trước khi chết bộ máy khởi-
hành, như ông nói : ông đã thâu-nhập vào trong
khối đá dầy đặc Ấn-Độ " một cái cần bẩy mà
không năng-lực nào có thể nhổ đi nổi, vì hạnh-
phúc của cả nhân-loại." _ ( Thư ngày 9 - 7 -
1897 ) .
Với các anh em Ấn-Độ của chúng ta,
chúng ta đè lên trên đấy. Và nếu chúng ta
không tự hãnh-diện để bẩy nó lên sau nhiều
thế-kỷ tới _ ( một thế-kỷ có nghĩa gì ? ) _ cái
khối nặng chĩu nõa-lực nhân-loại, nguyên-nhân
đầu tiên và cuối cùng của tội-lỗi và sai-lầm _
tuy vậy, chúng ta cũng đã lay-chuyển được
nó... Và những đội quân mới sẽ không ngừng
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
253
đến tiếp tay, thay thế cho những đội đã già-nua.
Sự-nghiệp mà hai tổ-sư Ấn đã bắt đầu, các
công-nhân tinh-thần khác cũng cộng-tác vào
đấy một cách bền-bỉ ở các nẻo đường khác trên
mặt đất. Cũng ví như ở các đường hầm kia,
trong đó khi người ta đào, người ta nghe thấy
tiếng thuổng đào ở bên kia sườn núi. .
Các bạn đường Ấn-Châu của tôi ơi, hãy
cùng tôi lắng nghe qua bên kia bức tường,
những tiếng đào của đội quân từ Á-Châu lại...
Đến chỗ gặp nhau ! ... Họ làm việc cho chúng
ta. Chúng ta làm việc cho họ. Chúng ta là hai
đội quân, hai nửa Tâm-hồn. Con Người thì
chưa có. Nó sẽ hiện ra. Thượng-Đế yên-tĩnh đã
để cho chúng ta làm ra cuộc sáng-tạo tuyệt-
diệu ấy, là cuộc sáng-tạo Ngày Thứ Bẩy : _
giải-phóng những năng-lực Tinh-thần bị nô-lệ.
Hãy cảnh-tỉnh Thượng-Đế ở trong con người...
Hãy tái tạo lấy Thực-thể !
Romain Rolland
Ngày 9 Tháng 10 Năm 1928 .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
255
MỤC LỤC
A. PHẦN THỨ NHẤT
_ Tuồng Ảo-Hóa Và
Hành-Trình Về Tự-Do.............................1
B. PHẦN THỨ HAI
_ Bốn Đường Đạo-Dẫn ( Yogas )..............27
I._ Đạo Hành-Động...............................35
II._ Đạo Sùng-Bái..................................59
III._ Đạo Thiền......................................83
IV._ Đạo-Dẫn Trí-Tuệ
Hay Chân-Tri..............................109
C. PHẦN THỨ BA
_ Khoa-Học Tôn-Giáo Đại-Đồng............149
D. PHẦN THỨ TƯ
_ Thượng-Giới Thần-Linh
Hạ-Giới Nhân-Loại..............................193
E. PHẦN THỨ NĂM
_ Coi Chừng Chó Dữ...............................217
KẾT-LUẬN..................................................245