114
DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014 Từ Chương trình tới Hành động CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI Hà Nội, 05/06/2014 MPI MINISTRY OF PLANNING & INVESTMENT

MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014

Từ Chương trình tới Hành động

CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI

Hà Nội, 05/06/2014

MPI MINISTRY OF PLANNING

& INVESTMENT

Page 2: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Khuyến cáo Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) là một cơ chế đối thoại liên tục và chặt chẽ giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, nhằm cải thiện các điều kiện kinh doanh cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân, thuận lợi hóa môi trường đầu tư, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam. Tài liệu này được phát hành để phục vụ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 tổ chức vào ngày 05/06/2014. Các kết luận và nhận định đưa ra trong tài liệu này, cũng như trong các bài thuyết trình của đại diện các doanh nghiệp tại Diễn đàn, không thể hiện quan điểm của Hội đồng Quản trị Liên minh VBF, của Ban Thư ký VBF, cũng như của các tổ chức đồng chủ tọa VBF bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) - thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới. Hội đồng Quản trị VBF, Ban Thư ký VBF, và các tổ chức đồng chủ tọa VBF không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu được sử dụng trong tài liệu này, cũng như trong các bài thuyết trình nói trên, và không chịu trách nhiệm đối với các hậu quả do việc sử dụng các dữ liệu này gây ra. Tài liệu này không được cho thuê, bán lại hoặc phát hành cho mục đích thương mại.

Page 3: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Hà Nội, 05/06/2014

MỤC LỤC CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ Chương I: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ 1.1. Cảm nhận của Hiệp hội Doanh nghiệp Trong nước & Nước ngoài Chương II: ĐẦU TƯ & THƯƠNG MẠI 2.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại

2.2. Thuế 2.2.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với quy định miễn thuế theo Hiệp định tránh

đánh thuế hai lần 2.2.2. Báo cáo của Tiểu nhóm Thuế 2.2.3. Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Thuế Tiêu thụ

Đặc biệt

2.3. Khoáng sản 2.3.1. Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản 2.3.2. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận các vấn đề liên quan tới vấn đề Thuế, phí và lệ phí trong

lĩnh vực Khoáng sản ngày 30/12/2013

2.4. Lao động/Nguồn nhân lực 2.4.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự 2.4.2. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP ngày

5/9/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

2.4.3. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP ngày 5/9/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ngày 13/1/2014

2.5. Luật Doanh nghiệp 2.5.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

2.6. Luật Đầu tư 2.6.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi)

2.7. Luật Phá sản 2.7.1. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) ngày 17/12/2013

Page 4: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

2.8. Đất đai và Bất Động sản 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VỐN 3.1. Ngân hàng 3.1.1. Nội dung Chương trinh thảo luận dự kiến giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và

Nhóm Công tác Ngân hàng

3.2. Thị trường vốn 3.2.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn

Chương IV: CƠ SỞ HẠ TẦNG 4.1. Mô hình đối tác Công tư (PPP) 4.1.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng về PPP 4.1.2. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Nghị định PPP 4.1.3. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về Nghị định PPP ngày 4/4/2014 4.2. Năng lượng 4.2.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Năng lượng

4.3. Hạ tầng cảng và Vận tải biển 4.3.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển Chương V: NÔNG NGHIỆP 5.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Nông nghiệp Chương VI: TOURISM 6.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Du lịch

Chương VII: CÁC BÁO CÁO KHÁC 7.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô – Xe máy 7.2. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận các vấn đề liên quan tới Công nghiệp ô tô, xe máy ngày

17/2/2014 Chương VIII: PHỤ LỤC 8.1. Tóm tắt Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Thường niên – Tháng 12/2013

Page 5: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014

Từ Chương trình tới Hành động – Chuẩn bị cho các Hiệp định Thương mại mới

Thời gian: 7:30 – 13:30, Ngày 5 tháng 6, 2014 Địa điểm: Khách sạn Sheraton, K5 Nghi Tàm, 11 Xuân Diệu, Hà Nội

CHƯƠNG TRÌNH DỰ KIẾN

7:00 – 8:00 Đăng ký

8:00 – 8:05

Khai mạc

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ trưởng Bùi Quang Vinh

Phần 1: Tổng quan môi trường đầu tư

8:05 – 9:00

1. Tổ chức Tài chính Quốc tế – Ông Simon Andrews, Giám đốc khu vực 2. Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Bà Virginia Foote, Đồng Chủ tịch 3. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch 4. Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam – Ông Marc Townsend, Chủ tịch 5. Hiệp hội Thương mại Châu Âu tại Việt Nam – Ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch 6. Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam – Ông Kim Jung In, Chủ tịch 7. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam – Ông Yoshihisa Maruta, Chủ tịch

Phát biểu chỉ đạo của Ngài Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ.

Phần 2: Các vấn đề thảo luận với Chính phủ

9:00 – 9:45

1. Đầu tư & Thương mại

• Thương mại và Đầu tư – Ông Fred Burke và Ông Trần Anh Đức, Đồng Trưởng nhóm Thương mại và Đầu tư

• Thuế và Hải quan – Ông Fred Burke, Trưởng nhóm Thương mại và Đầu tư, Bà

Hương Vũ, Trưởng tiểu Nhóm công tác Thuế và Ông Bill Howell, Trưởng nhóm công tác Khoáng sản

• Lao động và Việc làm – Ông Collin Blackwell, Trưởng nhóm

Phản hồi từ Chính phủ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tài chính - Tổng cục Hải quan - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

Page 6: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

9:45 – 10:00 Nghỉ giải lao

10:00 – 10:40

2. Ngân hàng và Thị trường Vốn

• Ngân hàng - Ông Sumit Dutta, Trưởng nhóm công tác Ngân hàng

• Thị trường Vốn – Ông Kiên Nguyễn, Nhóm công tác Thị trường vốn

Phản hồi từ Chính phủ - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

10:40 – 11:05

3. Cơ sở hạ tầng

• PPP – Ông Tony Foster, Trưởng nhóm công tác Cơ sở hạ tầng

• Năng lượng – Ông John Rockhold, Tiểu nhóm công tác Năng lượng Phản hồi từ Chính phủ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Công thương - Bộ Tài chính

Phần 3: Báo cáo từ các Nhóm công tác khác

11:05 – 11:45

4. Nông nghiệp – Ông David Whitehead, Trưởng nhóm công tác Nông nghiệp

5. Du lịch – Ông Ken Atkinson, Trưởng nhóm công tác Du lịch

Phản hồi từ Chính phủ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Bộ Công thương - Bộ Khoa học Công nghệ - Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

11:45 – 12:00

Bế mạc 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ trưởng Bùi Quang Vinh 2. Ngân hàng Thế giới – Giám đốc Quốc gia Bà Victoria Kwakwa 3. Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Đồng Chủ tịch Ông Vũ Tiến Lộc

12:00 – 13:30

Tiệc trưa

Page 7: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Chương I

TỔNG QUAN VỀ

MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ

Page 8: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Trang 1/4

PHÁT BIỂU CỦA BÀ VIRGINIA FOOTE, ĐỒNG CHỦ TỊCH Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Hà Nội, ngày 5 Tháng 6 năm 2014

Kính thưa toàn thể quý vị, thưa Bộ trưởng Vinh, và đặc biệt kính thưa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chúng tôi vô cùng hân hạnh được tiếp đón Ngài Thủ tướng Chính phủ tại Diễn đàn ngày hôm nay tại một thời điểm vô cùng quan trọng đối với cộng đồng doanh nghiệp. Tôi tin tưởng rằng tất cả mọi người tại Diễn đàn ngày hôm nay đều thể hiện sự tôn trọng và niềm tự hào đối với những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong 20 năm trở lại đây. Chúng tôi hi vọng rằng thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam và các thành viên của Diễn đàn là các phòng thương mại, hiệp hội doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cùng 11 nhóm công tác trực thuộc Diễn đàn, những cuộc đối thoại mang tính xây dựng và liên tục đã được thiết lập để thảo luận những lĩnh vực và các giải pháp cần làm để đem đến thành công trong tương lai của Việt Nam. Tất cả chúng ta đều vô cùng đau buồn bởi các sự kiện đáng tiếc xảy ra giữa tháng Năm vừa qua; vì vậy, sự hiện diện của Ngài Thủ tướng Chính phủ cùng các đại diện của các bộ ngành liên quan tại Diễn đàn ngày hôm nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Hôm nay chúng ta hy vọng sẽ làm nổi bật một số vấn đề phát sinh sau sự kiện đáng tiếc tháng Năm vừa qua và các đồng nghiệp của tôi đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan sẽ bày tỏ những ý kiến và đề xuất cụ thể liên quan đến vấn đề này. Xin thay mặt đại biểu trong khán phòng ngày hôm nay, tôi xin được khẳng định rằng chúng tôi luôn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và vai trò của tăng trưởng kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu với mức độ phức tạp ngày càng cao - tất cả chúng ta đang làm việc và cùng tin tưởng vào con người cũng như công nghệ từ Việt Nam và nhiều quốc gia để góp phần phát triển hoạt động kinh doanh, du lịch, và chuỗi cung ứng hiệu quả.

Chúng tôi hoan nghênh các hành động của Chính phủ sau sự kiện đáng tiếc vừa qua và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ có các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả một cách minh bạch, hợp lý và chuyên nghiệp. Một ủy ban thực hiện các biện pháp bồi thường, khắc phục sự cố với sự góp mặt của quốc tế và tuân theo các tiêu chuẩn toàn cầu sẽ có thể có tác động tích cực to lớn và nâng cao đến hình ảnh và danh tiếng của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ Chính phủ khi có yêu cầu.

Page 9: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Trang 2/4

Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc quyết định có đặt cơ quan thường trực, tiến hành hoạt động kinh doanh hay không thường được thực hiện bởi trụ sở chính ở nước ngoài sau khi xem xét các yếu tố, vấn đề cơ bản như tính ổn định, môi trường kinh doanh thân thiện, nguồn nhân lực tại địa phương, khung pháp lý, các hệ thống cơ sở hạ tầng cứng và mềm và chi phí tổng thể. Một số vấn đề Việt Nam làm tốt hơn so với những quốc gia khác - nhưng tất cả những vấn đề này gộp lại chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tương lai của tất cả chúng ta. VBF hy vọng có thể tập trung vào việc Việt Nam cần tiến hành các bước từ đâu để đảm bảo sẵn sàng cho một số Hiệp định thương mại hiện đang được đàm phán. Trong khi tôi đang tham gia vào đàm phán Hiệp định TPP, một số hiệp định khác như EU-FTA, RCEP và việc thực hiện các hiệp định thương mại dự do ASEAN cũng mang lại cho nền kinh tế cũng như người dân Việt Nam rất nhiều cơ hội tiềm năng. Những hiệp định này có thể hỗ trợ việc giảm hàng rào thuế quan khi tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực may mặc, giày dép, nông nghiệp và các mặt hàng xuất khẩu khác của Việt Nam. Và các hiệp định này cũng kêu gọi việc tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực khác như mua sắm và các dịch vụ chính phủ đồng thời đưa ra những tiêu chuẩn mới cho việc liên kết các quy định, khung pháp luật cho các doanh nghiệp nhà nước, NCMs, quyền công nhân, bảo vệ một trường và quyền sở hữu trí tuệ. Những hiệp định này sẽ đòi hỏi các quy định của pháp luật phải ở mức độ tiêu chuẩn cao. Tuy nhiên, một số cơ sở hạ tầng cơ bản vẫn chưa sẵn sàng. Chúng ta đều có mối lo ngại về bẫy thu nhập trung bình có thể xảy ra cho Việt Nam – nơi mà mặc dù việc cải tổ có thể được thực hiện một cách dễ dàng nhưng một số thành phần cơ bản của nền kinh tế thị trường thì không. Đối với Việt Nam, những lĩnh vực gặp phải khó khăn này rất rõ ràng: Đối với cơ sở hạ tầng mềm, chúng tôi lo ngại tham nhũng hiện đang là một vấn đề nan giải mà các hiệp định thương mại không thể khắc phục được nhưng lại là một cái nhìn khái quát ảnh hướng đến nền kinh tế và danh tiếng của Việt Nam. Nền kinh tế hiện tại vẫn phụ thuộc quá nhiều vào tiền mặt. Một nền kinh tế mà một số lượng lớn các giao dịch được thực hiện bằng tiền mặt, các khoản phí và tiền phạt nộp cho chính phủ được thu bằng tiền mặt chính tạo điều kiện cho tham nhũng hoặc trì trệ và đôi khi là cả hai. Cần có một hệ thống để thực hiện các công việc thu phí hạ tầng, các khoản thuế và phí hải quan theo luật để từ đó các khoản tiền phải nộp và việc thanh toán được thực hiện một cách minh bạch và được đánh giá thống nhất. Nhiều quốc gia hiện đang phải đối mặt với các vấn đề này và Dự án VBF 12 mới được thành lập hi vọng sẽ phối hợp tích cực với VCCI và các cơ quan chính phủ nhằm hỗ trợ việc triển khai hệ thống chống tham nhũng đã được thực hiện hiệu quả trên toàn cầu này.

Page 10: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Trang 3/4

Một vài khó khăn cơ sở khác mà VBF đang làm cùng với chính phủ - nói chung – là các quyết định của chính phủ thường rất chậm, thủ tục rất phức tạp và thường nặng nề với số lượng các văn phòng liên quan, các quy định và pháp luật không được thực thi thống nhất, và các tòa án yếu kém. Chúng tôi đang tìm cách để giải quyết những vấn đề này để cho phép tất cả các công ty cạnh tranh trên giá trị của họ - bao gồm cả tiếp cận nguồn vốn, đất đai và các cơ hội khác. Một khó khăn khác liên quan đến cơ sở hạ tầng mềm mà VBF đang phối hợp với các cơ quan của Chính phủ, nhìn chung, là việc các quyết định của Chính phủ thường được đưa ra chưa kịp thời, các thủ tục thường phức tạp, nặng nề với sự tham gia của nhiều cán bộ, các quy định pháp luật không thống nhất với nhau và tính thực thi của tòa án còn chưa hiệu quả. Chúng tôi hi vọng rằng các giải pháp để giải quyết các vấn đề này là cho phép tất cả các doanh nghiệp được cạnh tranh dựa trên năng lực của mình – bao gồm cả khả năng tiếp cận vốn, đất đai và các cơ hội khác. Số lượng quy định trong một số lĩnh vực đã có sự gia tăng dẫn tới một số khó khăn cho khu vực tư nhân và các thị trường trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin và thương mại điện tử, kiểm soát giá cả, giấy phép lao động, và về các rào cản nói chung. Chúng tôi hy vọng rằng những giải pháp để cho phép và tạo điều kiện sẽ được tập trung trong các chính sách của chính phủ, hơn là áp dung các biện pháp hạn chế. Điều này có thể giúp chuẩn bị sẵn sàng cho các Hiệp định Thương mại mới, và đưa khuôn khổ pháp lý của Việt Nam tiệm cận hơn với khung quy định của các quốc gia thành công khác. Chúng tôi cũng xin nhấn mạnh cải cách hệ thống giáo dục là một trong những ưu tiên trọng tâm hàng đầu. Nhóm Công tác Giáo dục của chúng tôi xin được đề xuất thời gian phê duyệt các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc vốn đầu tư tư nhân trong lĩnh vực giáo dục được nhanh chóng hơn để Việt Nam có thể phát triển một đội ngũ chất lượng cao các doanh nhân, nhà quản lý, kỹ sư, kỹ thuật viên và các lao động ở các ngành nghề cần thiết khác. Chúng tôi kính đề nghị các đơn vị công đoàn tăng cường các chương trình giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng của lao động đang được tuyển dụng. Đối với cơ sở hạ tầng cứng quan trọng, chúng tôi đang quan tâm đến thời gian cần để phê duyệt các dự án cơ sở hạ tầng. Như trong lĩnh vực năng lượng, với trọng tâm dường như thiên về tập trung vào kế hoạch tổng thể dài hạn trong khi nhiều nguồn nhiên liệu trong nước chưa được khai thác. Chúng tôi hy vọng rằng sau khi các cuộc thảo luận, một hệ thống PPP hiệu quả sẽ được thông qua sớm. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng hiệu quả hơn trong giao thông vận tải sẽ góp phần khuyến khích lĩnh vực kinh doanh và du lịch. VBF tiếp tục cam kết hợp tác với các đối tác của chúng tôi từ phía Chính phủ để giúp giải quyết các vấn đề tồn tại, và tạo dựng một môi trường kinh doanh hấp dẫn, minh bạch và ổn định hơn. Các hiệp định thương mại mới đem lại những cơ

Page 11: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Trang 4/4

hội, nhưng sự chuẩn bị thực sự phụ thuộc vào chúng ta để có thể chuẩn bị tốt nhằm phát huy tối đa các tiềm năng.

Chúng tôi một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thứ trưởng và đại diện các Bộ, ngành liên quan, đại diện của các phái đoàn ngoại giao và cộng đồng các nhà tài trợ, và các doanh nghiệp tham dự hôm nay. Chúng tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới sự hỗ trợ tích cực của Bộ trưởng Vinh đối với Diễn đàn, sự hỗ trợ của Tiến sĩ Lộc trong tăng cường quan hệ đối tác của chúng tôi với VCCI , và chúng tôi xin được gửi lời chúc tốt đẹp đến tất cả các đại biểu tham dự đã góp phần thành công cho Diễn đàn ngày hôm nay.

Phụ lục

I. Các Phòng Thương mại và Hiệp hội Doanh nghiệp tham gia Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam:

Thành viên Liên minh:

1. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) 2. Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Vietnam) 3. Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham Vietnam) 4. Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KorCham Vietnam)

Thành viên Liên kết:

5. Hiệp hội Doanh nghiệp Úc tại Việt Nam (AusCham Vietnam) 6. Hiệp hội các Doanh nghiệp Anh Quốc tại Việt Nam (BBGV) 7. Hiệp hội Doanh nghiệp Canada tại Việt Nam (CanCham) 8. Hiệp hội Doanh Nghiệp Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh (CBAH) 9. Hiệp hội Doanh nghiệp HongKong tại Việt Nam (HKBAV) 10. Hiệp hội Doanh nghiệp Ấn Độ tại Việt Nam (InCham Vietnam) 11. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JBAV) 12. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh (JBAH) 13. Hiệp hội Doanh nghiệp Bắc Âu tại Việt Nam (NordCham Vietnam) 14. Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore (SBG) 15. Hiệp hội Doanh nghiệp Thụy Sĩ (SBA) 16. Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan (TCC)

II. Các nhóm công tác của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam:

- Nhóm Công tác Nông nghiệp - Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô & Xe máy - Nhóm Công tác Ngân hàng - Nhóm Công tác Thị trường Vốn - Nhóm Công tác Hải quan - Nhóm Công tác Giáo dục & Đào tạo - Nhóm Công tác Quản trị Doanh nghiệp & Minh bạch - Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại - Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng - Nhóm Công tác Khoáng sản - Nhóm Công tác Du lịch

Page 12: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM (VCCI)

ĐỀ CƯƠNG PHÁT BIỂU

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 Hà Nội, Ngày 05/06/2014

Trình bày Ông Vũ Tiến Lộc

Chủ tịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ năm nay diễn ra trong bối cảnh tương đối đặc biệt. Thứ nhất,Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa của nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng (FTA), trong đó đặc biệt là hai FTA với các đối tác lớn nhất thế giới là Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang đi vào giai đoạn cuối và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) dự kiến kết thúc đàm phán trong tháng 10/2014. Việc Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận các cơ hội cũng như vượt qua các thách thức từ các FTAs này được đặt ra ở thời điểm này cấp bách hơn bao giờ hết. Thứ hai, sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, đồng thời đe dọa trực tiếp tới hoạt động hàng hải, thương mại quốc tế và gây mất an ninh, phá vỡ sự ổn định tại Biển Đông và trong khu vực. Hành động phi pháp này của Trung Quốc có tác động đáng kể tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do vậy từ góc độ kinh tế, Việt Nam đang đứng trước những đòi hỏi mới trong việc duy trì quan hệ thương mại ổn định với Trung Quốc, đồng thời tăng cường các biện pháp hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường này. Tận dụng cơ hội từ các hiệp định FTAs đầy triển vọng nói trên có thể là một cách thức hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu này. Sự kiện Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam cũng dẫn tới một sự việc đáng tiếc: lợi dụng các hoạt động tuần hành biểu thị lòng yêu nước của người dân trước hành động trái pháp luật của Trung Quốc, trong hai ngày 13 và 14/5/2014, tại Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh, một số đối tượng quá khích đã có những hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới trật tự an ninh xã hội, gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đặc biệt các doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan… Sự việc đáng tiếc này ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh đất nước và môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế và vì vậy đòi hỏi Chính phủ cần nhanh chóng có hành động khôi phục niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Trong bối cảnh này,để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới, chúng tôi đề nghị Chính phủ cần tiến hành các giải pháp sau đây: Thứ nhất về giải pháp để các FTAs đang đàm phán, đặc biệt là TPP và EVFTA, có thể mang lại lợi ích tốt nhất cho doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt là trong hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thương mại với Trung Quốc.

Trang 1/3

Page 13: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Lợi ích mà các FTAs Chính phủ đang đàm phán có thể mang lại cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào ít nhất hai yếu tố: (i) kết quả đàm phán có lợi cho doanh nghiệp hay không (doanh nghiệp có cơ hội để tiếp cận thị trường đối tác ở điều kiện ưu tiên nhất có thể không, đồng thời việc mở cửa nền kinh tế có tạo ra cho doanh nghiệp cơ hội tiếp nhận tốt nhất nguồn nguyên vật liệu, máy móc công nghệ, vốn đầu tư tốt nhất không) và (ii) doanh nghiệp có được điều kiện tốt nhất trong thực thi các FTAs để tận dụng tốt nhất các lợi ích hay không (điều kiện để tận dụng các cơ hội mà các FTAs tạo ra cũng như vượt qua/khắc phục các thách thức mà các FTAs này mang lại). Do đó, chúng tôi mong muốn Chính phủ tập trung chú ý tới các vấn đề sau: Liên quan tới quá trình đàm phán các FTAs: Một là có phương án đàm phán mềm dẻo nhưng kiên quyết về các lợi ích xuất khẩu của doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề về ưu đãi thuế quan, quy tắc xuất xứ phù hợp với cơ cấu, phương thức sản xuất trong tương lai gần của Việt Nam; các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), vệ sinh dịch tễ (SPS) hợp lý, khoa học và không bị lạm dụng…; trong đó đặc biệt chú trọng đàm phán các cơ chế tiếp cận thị trường cho nông sản, nhằm đa dạng hóa thị trường đối với sản phẩm nhạy cảm và hiện đang phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc. Hai là có phương án đàm phán tích cực và mạnh dạn hơn trong mở cửa thị trường Việt Nam cho hàng hóa là máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu, phương tiện và các sản phẩm tương tự khác mà Việt Nam đã bảo hộ lâu nay nhưng không đạt hiệu quả hoặc hiện đang phụ thuộc lớn vào nguồn cung từ các nước không tham gia đàm phán. Ba là có cách tiếp cận mở trong các nội dung đàm phán về mua sắm Chính phủ, quy tắc cạnh tranh, từ đó tạo điều kiện cho việc tăng cường cạnh tranh, minh bạch hóa và thay đổi thị phần giữa các nhà thầu quốc tế ở thị trường Việt Nam. Bốn là có quan điểm đàm phán thận trọng và cứng rắn trong các vấn đề có thể có ảnh hưởng lớn tới người lao động, nông dân và sản xuất nông nghiệp như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuốc, nông hóa phẩm, lao động. Năm là chú trọng bảo lưu các không gian chính sách cần thiết để Chính phủ có thể hành động vì các lợi ích công cộng hoặc định hướng cơ cấu kinh tế trong các đàm phán về đầu tư, giải quyết tranh chấp. Liên quan tới việc chuẩn bị cho thực thi các FTAs: Một là xây dựng cơ chế để tư vấn, hướng dẫn doanh nghiệp về các nội dung cam kết thương mại thông qua (i) một đầu mối cụ thể cung cấp các thông tin cơ bản, cập nhật về tất cả các nội dung liên quan tới các FTAs; (ii) một đơn vị có chức năng hướng dẫn, diễn giải và tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi các FTAs tránh trường hợp doanh nghiệp không biết tiếp cận cơ quan nào để biết một cam kết có ý nghĩa gì, thực hiện như thế nào hoặc nếu có cách hiểu khác biệt giữa các cơ quan thực thi thì làm như thế nào; (iii) Cử các cán bộ có hiểu biết sâu sắc về các cam kết trong từng lĩnh vực phối hợp với VCCI và các hiệp hội tổ chức tuyên truyền, đào tạo phổ biến với các nội dung chi tiết, thực chất cho những nhóm doanh nghiệp cụ thể về những tác động cụ thể của cam kết tới hoạt động của họ và hướng dẫn cách thức thực hiện hiệu quả nhất. Hai là có các biện pháp nhằm tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp, hiệp hội vào các quá trình thực thi FTAs của các cơ quan Chính phủ, đặc biệt là quá trình nội luật hóa các cam kết trong FTAs. Ba là đẩy mạnh chuyển giao các dịch vụ công từ Nhà nước sang các hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt liên quan tới các dịch vụ nhằm kiểm soát, đáp ứng các rào cản TBT, SPS ở thị trường xuất khẩu (cấp chứng chỉ, kiểm soát chất lượng...). Bốn là hiện thực hóa các cơ chế mà qua đó Chính phủ có thể bảo vệ các lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp ở nước ngoài theo các phương thức được dự liệu trong các FTAs. Thứ hai, về giải pháp để giải quyết nhanh chóng, hiệu quả sự việc đáng tiếc ngày 13-14/5/2014, khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư Việt Nam.

Trang 2/3

Page 14: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Sự việc đáng tiếc ngày 13-14/5/2014 vừa qua đã gây thiệt hại cho một số doanh nghiệp FDI cả về cơ sở vật chất và tinh thần, ảnh hưởng đáng kể tới hình ảnh một điểm đến thân thiện, ổn định và an toàn cho đầu tư mà Việt Nam đã tạo dựng thành công trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài nhiều năm qua. Các doanh nghiệp bị thiệt hại đều mong muốn mau chóng vượt qua hậu quả sự cố, ổn định lại sản xuất, tiếp tục gắn bó với Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư ổn định, an toàn tại Việt Nam. Chúng tôi cũng đánh giá cao sự vào cuộc nhanh chóng, quyết liệt của Chính phủ trong việc xử lý hậu quả của sự việc đáng tiếc trên, đặc biệt là việc tiếp thu các đề xuất của chúng tôi về việc thành lập một Tổ chuyên trách tại mỗi tỉnh, Khu công nghiệp/kinh tế nơi xảy ra sự cố cũng như tập trung khảo sát và giải quyết các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp phát sinh từ sự việc này, nhất là các vấn đề liên quan tới lao động (lương, giấy phép lao động...), bảo hiểm (thủ tục xác nhận tổn thất, tạm ứng bồi thường...), thuế, thủ tục hải quan (xuất khẩu các lô hàng bị ảnh hưởng, nhập khẩu máy móc thiết bị thay thế...), an ninh trật tự (xử lý các đối tượng phá hoại, tìm kiếm tài sản bị mất của doanh nghiệp...). Chúng tôi đề nghị Chính phủ (i) Một là tiếp tục xử lý dứt điểm, triệt để các vấn đề phát sinh từ sự cố, đặc biệt là những vấn đề có thể chỉ phát sinh/nhận thấy sau này (ví dụ từ các thiệt hại về cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp); (ii) Hai là có biện pháp rút kinh nghiệm để các sự việc tương tự không xảy ra trong tương lai đồng thời có kế hoạch phòng ngừa, ứng phó nhanh chóng và hiệu quả hơn trước các sự việc có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Thứ ba, về việc triển khai mạnh mẽ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiếp tục khẳng định sự ổn định, thân thiện và hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ trong việc ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Chỉ thị số 11/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/5/2014 về giải quyết khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị quyết 19 và Chỉ thị 11 đã xác định mục tiêu rõ ràng trong từng giai đoạn, gắn với các chuẩn mực quốc tế, đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể gắn với trách nhiệm của từng bộ ngành, địa phương, nhấn mạnh các biện pháp giải quyết các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp cũng như chuyển giao một số dịch vụ công cho hiệp hội. Để Nghị quyết và Chỉ thị quan trọng này có thể phát huy hiệu quả trên thực tiễn, chúng tôi đề nghị Chính phủ: (i) thường xuyên chỉ đạo các bộ ngành, địa phương kiểm tra, giám sát tiến độ và kết quả thực hiện Chương trình hành động, chương trình công tác đã đề ra của các bộ, cơ quan, địa phương về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, chuyển giao một số dịch vụ công cho VCCI...; (ii) Công bố công khai các kết quả thực hiện Chương trình hành động, Chương trình công tác này của Chính phủ, của Bộ, cơ quan, địa phương; (iii) Huy động sự tham gia và đề xuất sáng kiến của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc giám sát, phối hợp và đánh giá hiệu quả việc thực hiện các Chương trình hành động, Chương trình công tác này của Chính phủ, của Bộ, cơ quan, địa phương./

Trang 3/3

Page 15: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

PHÁT BIỂU CỦA HIỆP HỘI THƯƠNG MẠI MỸ TẠI VIỆT NAM Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Thứ Năm, Ngày 05 Tháng 06 năm 2014 Trình bày bởi

Ông Marc Townsend Chủ tịch

Kính thưa Thủ tướng Chính phủ, Các vị Bộ trưởng Lãnh đạo Doanh nghiệp Các vị Đại biểu Cùng toàn thể Quý vị, Tôi rất vui mừng được tham dự cuộc họp quan trọng của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam với chủ đề “Từ Chương trình tới Hành động – Chuẩn bị cho các Hiệp định Thương mại mới.” Như những gì diễn ra tại Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ đối thoại với Cộng đồng Doanh nghiệp được Văn phòng Chính phủ tổ chức vào ngày 28 tháng 04, có một sự tách biệt trong nền kinh tế của Việt Nam giữa khu vực nội địa và khu vực nước ngoài: tuy nhiên những vấn đề của nền kinh tế tác động tới tất cả các khu vực. Chúng tôi hy vọng là trong quá trình chuẩn bị tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do mới, các vấn đề này sẽ được giải quyết hiệu quả. Năm 2013, các công ty hội viên AmCham rất vui với tình hình giao thương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng khoảng 20%, đạt 29.7 tỷ đô la Mỹ. Thương mại song phương trong ba tháng đầu năm nay đã tăng 14%. Nếu xu hướng hiện nay được tiếp tục duy trì, thương mại song phương về hàng hóa có thể đạt 60.2 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020, và có thể lên đến gần 70 tỷ đô la Mỹ năm 2020 nếu có TPP. Đồng thời, doanh thu của các công ty hội viên AmCham và đối tác trong thị trường nội địa cũng tiếp tục tăng trưởng 2004 208 2012 2013 2014 2016 2020

VN nhập khẩu từ Hoa Kỳ $1.2 $2.8 $4.6 $5.0 $5.4 $6.1 $7.7 VN xuất khẩu vào Hoa Kỳ $5.3 $12.9 $20.3 $24.6 $28.4 $36.4 $52.5 Tổng cộng $6.4 $15.7 $24.9 $29.7 $33.8 $42.6 $60.2 VN Dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ $2.7 $5.4 $7.7 $8.8 $9.4 $11.0 $14.0 Nguồn: BộThương mại Hoa Kỳ

Tầm quan trọng của TPP: Hiệp định Đối tác Chiến lược Xuyên Thái BìnhDương (TPP) đem đến một cơ hội mới cho Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội.

Trang 1/4

Page 16: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

TPP sẽ mang đến một hướng phát triển tốt cho nền kinh tếViệt Nam: TPP sẽ giúp tăng 28,4% GDP của Việt Nam trong năm 2025 so với mức tăng khi không có sự hỗ trợ từTPP, đồng thời gia tăng 35,7% xuất khẩu của Việt Nam. 1 AmCham tin tưởng rằng TPP và các Hiệp định Thương mại khác sẽ đem lại nhiều cơ hội mới hỗ trợ chiến lược phát triển của Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Các Hiệp định này có thể hỗ trợ quá trình gỡ bỏ các rào cản thương mại trong các lĩnh vực như tiếp cận thị trưởng và mua sắm chính phủ. Đồng thời quá trình này cũng giúp phát triển các chuẩn mực mới trong hệ thống quy định chặt chẽ, quyền của người lao động, bảo vệ môi trường và quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho TPP và các hiệp định thương mại khác, chúng ta cần lưu ý đến một số yếu tố sau: Vấn đề tham nhũng Vấn đề tham nhũng là vấn đề làm ăn mòn và phổ biến ở Việt Nam và có tác động tiêu cực tới nền kinh tế và xã hội nói chung. Trong khi Chính phủ đã có một số hành động cụ thể, đây là thời điểm thích hợp để triển khai việc phòng chống tham nhũng trên quy mô rộng hơn thông qua việc áp dụng các hệ thống giảm thiểu các cơ hội cho các khoản chi trả không hợp pháp gắn với thực hiện một đạo luật tương tự như Đạo Luật Chống Tham Nhũng Tại Nước Ngoài của Hoa Kỳ (FCPA) hoặc Đạo Luật Chống Hối Lộ của Anh Quốc. Một bước tiến đáng kể là thực hiện các hành động hạn chế tối đa việc sử dụng phương thức thanh toán tiền mặt và tăng cường sử dụng thương mại điện tử. Thực hiện thiếu mạnh mẽ các cam kết WTO, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ, đã gây khó khăn trong việc đạt được lợi ích từ những hiệu quả của các lĩnh vực then chốt. Đây là thời điểm cần đảm bảo các cam kết WTO được thực hiện đúng thời hạn, và với tinh thần tạo dựng một môi trường kinh tế cạnh tranh và hiệu quả - đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng, cụ thể là năng lượng và giao thông vận tải, đã cản trở dòng vốn FDI. Đây là, hoặc nên là vấn đề quốc gia và cần được giải quyết ở tầm quốc gia với mô hình đối tác công – tư và các mô hình đối tác khác được thực hiện nhanh chóng. Việc thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao đã cản trở việc phát triển dây chuyền sản xuất ngay cả khi chi phí lao động đang trên đà tăng cao. Các công ty hội viên AmCham đã đi đầu phát triển một lực lượng lao động có tay nghề gồm những kỹ sư và kỹ thuật sản xuất. Các công ty trong và ngoài nước đã cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo nhưng vấn đề cấp bách là Việt Nam đổi mới và nâng cấp chương trình giảng dạy quốc gia, đặc biệt là ở cấp giáo dục đại học và dạy nghề. Một ví dụ thành công và sự phát triển của Chương Trình Hợp Tác Đào Tạo Kỹ Sư (HEEAP). Hợp tác với các trường đại học và cao đẳng dạy nghề hàng đầu Việt Nam, cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hợp tác công tư đã được thiết lập, Chương trình Hợp tác Đào tạo Kỹ Sư trong ba năm qua, 2010-2012.Giờ đây,với những chương trình như HEEAP2.0 trong năm năm từ 2013 - 2017, một quỹ PPP 40 triệu đô la Mỹ được đồng tài trợ của chính phủ,với ngành công nghiệp và các học viện,sẽ đảm bảo rằng vào năm 2017, "Việt Nam sẽ đào tạo được kỹ sư giỏi có thể cạnh tranh với bất kỳ khu vực nào trên thế giới.” 2 Thiếu hụt sự phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp trong việc cải tiến khu vực nội địa, chúng tôi kiến nghị Doanh nghiệp nhà nước cần được tái cơ cấu và được quản lý với tính minh bạch và trách nhiệm. Họ phải hoạt động trên một "sân chơi bình đẳng" với các doanh nghiệp khu vực tư nhân, cả doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Cần phải có sự đối xử công bằng trong việc tiếp cận vốn, đất đai, v.v.

1 http://www.amchamvietnam.com/wp-content/uploads/2013/05/130328-2.2.e.-Petri-TPP-Vietnam-24mar13-v2-web.pdf, pg 13 2 What will HEEAP 2.0 achieve in 5 years?” Presentation by Intel Products Vietnam at the “Higher Engineering Education Conference,” in Can Tho, Mar 19-20, 2013, pg 15

Trang 2/4

Page 17: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Đã có một số tiến triển trong việc triển khai các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính; tuy nhiên cần có nhiều hành động nhanh chóng để giúp phát triển hệ thống kinh tế hiệu quả. Những vấn đề trên không thể giải quyết một cách dễ dàng, nhanh chóng và ít tốn kém. Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp sẽ giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, giúp Việt Nam duy trì hình ảnh của một điểm đến cạnh tranh và hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, và sẽ giúp đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước. Kết luận Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa năm 2013, AmCham đã đề nghị "một bước mới của quá trình cải cách, mang tên Đổi Mới 2, để khuyến khích hơn nữa các doanh nghiệp tư nhân; thúc đẩy thương mại và đầu tư thông qua các sáng kiến nhưTPP; thúc đẩy tuân thủ pháp lý và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước," và cho phép và tạo điều kiện chứ không phải là “hạn chế” kinh doanh. Chúng tôi rất vui mừng với thông điệp năm mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 20143 và Nghị quyết 19 của Chính phủ được công bố vào ngày18 tháng 3 năm 20144 cho thấy sự cần thiết của việc thay đổi. Chúng tôi mong muốn môi trường kinh doanh minh bạch nơi sự tương tác giữa cơ quan nhà nước, giữa bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội phải được tăng cường. Đối thoại với người dân và doanh nghiệp phải được mở rộng dưới nhiều hình thức để thúc đẩy mối quan hệ gần gũi hơn giữa Nhà nước, cán bộ, công chức, người dân và chính sách và pháp luật phù hợp hơn với thực tế.5 Và cơ quan chính phủ cần có chỉ số đo lường hiệu quả công việc (KPIs), chẳng hạn số ngày cấp giấy phép, số giờ để hoàn thành quyết toán thuế, số ngày để thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu, để đo lường và tăng cường hiệu quả tương tác với nhân dân và doanh nghiệp. Một số vấn đề trước mắt sẽ được đề cập bởi các nhóm công tác khác và chúng tôi hy vọng được thấy các hành động thành công và tích cực để giải quyết các vấn đề này. AmCham sẽ tiếp tục đóng vai trò đóng góp hiệu quả, phối hợp xác định và thực hiện các giải pháp, và là một chủ thể ủng hộ tích cực cho một môi trường kinh doanh tốt hơn tại Việt Nam. Rất nhiều công việc cần được triển khai. Chúng tôi muốn Việt Nam thành công và AmCham giữ vững cam kết phối hợp với các đối tác Chính phủ để giải quyết các vấn đề, triển khai hoạt động chuẩn bị cho Việt Nam trở thành thành viên của các Hiệp định Thương mại mới, và tạo dựng một môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và hấp dẫn. Một lần nữa, chúng tôi xin được bày tỏ sự ủng hộ đối với hướng dẫn trong Nghị quyết 19 và thông điệp năm mới của Thủ tướng Chính phủ, và cảm kích trước cơ hội đối thoại hôm nay hướng tới “…sự tương tác giữa cơ quan nhà nước, giữa bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội… Đối thoại với người dân và doanh nghiệp phải được mở rộng… để thúc đẩy mối quan hệ gần gũi hơn giữa Nhà nước, cán bộ, công chức, người dân và chính sách và pháp luật phù hợp hơn với thực tế." 6 Tôi xin chúc tất cả mọi người sức khỏe, hạnh phúc, thành công và xin chúc buổi họp hôm nay thành công mỹ mãn.

3 http://www.amchamvietnam.com/30443555/thinking-about-the-prime-ministers-new-year-message/ 4 http://www.amchamvietnam.com/30443758/government-sets-metrics-to-improve-business-conditions-and-national-competitiveness/No. 19/NQ-CP, Ha Noi, Mar 18, 2014 5 http://www.amchamvietnam.com/30443555/thinking-about-the-prime-ministers-new-year-message/ 6 http://www.amchamvietnam.com/30443555/thinking-about-the-prime-ministers-new-year-message/

Trang 3/4

Page 18: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Phụ lục: 1. Thay đổi nhận thức trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam, 2008 – 2013 (5 năm) So sánh với những quốc gia trong khu vực ASEAN

Trang 4/4

Page 19: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

KIẾN NGHỊ CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CHÂU ÂU TẠI VIỆT NAM Diễn Đàn Doanh Nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Hà Nội, Ngày 05/06/2014 Trình bày

Ông Tomaso Andreatta Phó Chủ tịch

Kính thưa các Bộ trưởng, các Đại sứ, các vị khách quý! Thưa các quý ông và quý bà! Thay mặt cho Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam và đối tác của các Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu, tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan đã có mặt tại đây ngày hôm nay trong cuộc đối thoại đầy tính xây dựng với khu vực kinh tế tư nhân thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam đang trong tiến trình đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do với tiềm năng thúc đẩy nền kinh tế đáng kể. Cụ thể là Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Liên minh Châu Âu (EU) và Việt Nam đang có những bước tiến thuận lợi, và hy vọng sẽ được ký kết trong năm nay. Liên minh Châu Âu là một trong những nhà đầu tư lớn nhất Việt Nam với 1.810 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký là 723 nghìn tỉ đồng (34,28 tỉ đô la Mỹ) tính đến tháng 1 năm 2013. Mối quan hệ giữa Châu Âu và Việt Nam ngày càng lớn mạnh, không chỉ về chính trị, mà còn về phát triển và hội nhập kinh tế. Hai khía cạnh này đã gia cố niềm tin của các nhà đầu tư châu Âu về thị trường Việt Nam, được phản ánh qua Chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) quýI/2014 tăng vọt từ 50 lên 59 điểm - vượt qua mức trung bình lần đầu tiên kể từ năm 2012. Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy niềm tin ngày càng mạnh mẽ của các doanh nghiệp Châu Âu vào thị trường Việt Nam. Sau khi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Việt Nam và EU được ký kết, ước tính GDP của Việt Nam có thể tăng hơn 15%, tiền lương thực tế của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng 12%, tiền lương thực tế của lao động phổ thông có thể tăng khoảng 13% và giá trị xuất khẩu có thể tăng lên gần 35%.1 Tuy nhiên, các lợi ích tiềm năng này có thể bị suy yếu nếu Việt Nam không cam kết thực hiện toàn diện các điều khoản thương mại quốc tế và đảm bảo việc thi hành hiệu quả các điều khoản này. Điều quan trọng là Việt Nam phải đảm bảo việc ký kết và thi hành các Hiệp định thương mại tự do, trong bối cảnh Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2015. Trong khuôn khổ đó, Việt Nam cần đảm bảo các doanh nghiệp của mình có sức cạnh tranh không chỉ ở thị trường nội địa mà cả thị trường quốc tế. Do đó, các chính sách bảo hộ cần được lược bỏ nhanh chóng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, giá cả, thương hiệu, v/v. Việt Nam đang bước vào một giai đoạn vô cùng quan trọng, bởi lẽ những thành tựu của các năm tới sẽ có ảnh hưởng đáng kể trong sự thành công lâu dài của Việt Nam.

1Phụ lục về Các dịch vụ uỷ thác trong thư khuyến nghị “Đánh giá tác động của thương mại bền vững từ Hiệp định Thương mại ựT do giữa EU và ASEAN”, http://trade.ec.europa.eu/doclib/docs/2013/may/tradoc_151230.pdf, 22 tháng 5 năm 2013

Trang 1/5

Page 20: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Với hy vọng các Hiệp định này sẽ đạt được kết quả như mong đợi, chúng tôi – Cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu mong muốn tiếp cận sâu rộng hơn vào thị trường Việt Nam với nhiều điều kiện ưu đãi hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Điều này sẽ góp phần đẩy mạnhquá trình chuyển giao tri thức mà Việt Nam đang rất cần để thoát khỏi bẫy lao động giá rẻ. Bên cạnh đó, nếu Việt Nam cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu, chắc chắn điều này tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho tiến trình chuyển giao. Qua đó, việc nhanh chóng loại bỏ các rào cản thương mại cũng sẽ khuyến khíchcác doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với môi trường mới và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu đưa ra 5 luận điểm chính mà Việt Nam cần chú trọng: Tôn trọng và thi hành các cam kết của WTO trước khi ký kết Hiệp định Thương mại Tự do (FTA); Việc cấp phép phân phối cho các doanh nghiệp nước ngoài; Vấn đề cấp thị thực nhằm thu hút khách du lịch và công tác; Gỡ bỏ giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là tại các ngân hàng; và Thủ tục hòa giải tranh chấp từ Doanh nghiệp tới Chính phủ. I. Tôn trọng và thi hành các cam kết của WTO Điều quan trọng là Việt Nam đưa ra những thông điệp mạnh mẽ về việc tuân thủ các điều khoản quy định trong Hiệp định Tương mại Tự do – và cách tốt nhất để thực hiện việc này là tuyệt đối thi hành và tôn trọng những thỏa thuận đã có, ví dụ như những cam kết của Việt Nam với WTO, đây là cơ sở đầu tiên để Việt Nam bước vào một nền kinh tế cởi mở và hội nhập sâu rộng. Điều này sẽ tăng cường niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. II. Du lịch Mặc dù có nhiều giải thích chi tiết được đề ra trong báo cáocủa nhóm công tác về Du lịch, EuroCham vẫn mong muốn được nhấn mạnh hai điểm, đó là vấn đề thị thực và quảng bá du lịch. Thị thực Chúng tôi đề xuất việc miễn thị thực nên được mở rộng cho các nước có tiềm năng đóng góp đáng kể cho doanh thu ngành du lịch, ví dụ các nước thành viên của Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Ca-na-da, Úc, Hồng Kông và Đài Loan. Miễn thị thực cho các nước này nên được cấp với thời gian lưu trú lên đến 90 ngày. Chúng tôi cũng kiến nghị Việt Nam áp dụng biện pháp cấp thị thực tại sân bay (visa on arrival) hiệu quả và có tính thực tiễn cao. Theo đó, khách nhập cảnh không nhất thiết phải hoàn thiện các thủ tục xin thị thực trước khi hạ cánh. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Lào hoặc Cam-pu-chia, nơi mà việc cấp và thu phí xin thị thực được tiến hành ngay tại cửa khẩu. Các thủ tục và chính sách cấp thị thực tại sân bay phải được tiến hành minh bạch, thống nhất và có kèm chỉ dẫn, các mức phí cụ thể và được thực thi nhất quán tại các sân bay khác nhau. Quảng bá du lịch Hiện tại, vẫn chưa rõ thu nhập từ việc cấp thị thực đang được sử dụng ra sao. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng một trong những cách hiệu quả nhất để hạn chế những nhận thức tiêu cực về tiêu chuẩn dịch vụ du lịch tại Việt Nam là tiếp tục thực hiện những chiến dịch quảng cáo ở cấp quốc gia lẫn quốc tế. Những chiến dịch này phải tiếp tục làm nổi bật những vẻ đẹp hấp dẫn của Việt Nam như di sản văn hóa đầy màu sắc, phong cảnh thiên nhiên hữu tình, những bãi biển tuyệt đẹp và con người hiếu khách. Để thực hiện những đề xuất trên, Việt Nam cần có một ngân sách đáng kể, đặc biệt là khi ngành du lịch chiếm 7% GDP. Vì thế, chúng tôi đề xuất Việt Nam tái đầu

Trang 2/5

Page 21: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

tư ít nhất 20,000 đồng trên một thị thực vào ngân quỹ để thực hiện các chiến dịch quảng bá du lịch. III. Cấp phép phân phối Việc các doanh nghiệp theo sát và chăm sóc sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng là yếu tố cần thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn như trong trường hợp về nước uống có cồn, vào ngày 12 tháng 11 năm 2012, Việt Nam đã thông qua Nghị định 94/2012/ND-CP về điều chỉnh việc sản xuất và kinh doanh rượu. Nghị định 94 cho phép các doanh nghiệp chỉ được phép sở hữu một trong các loại giấy phép: phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ. Điều này đã hạn chế phạm vi các dịch vụ mà các nhà khai thác nước ngoài có thể cung cấp, trong khi không đặt giới hạn cho các nhà sản xuất trong nước. Cũng theo đó, quyền nhập khẩu chỉ được trao cho người có giấy phép phân phối. Với việc chỉ được phép sở hữu một loại giấy phép, các nhà nhập khẩu thực tế bị cấm tham gia vào bất kỳ hoạt động nào khác ngoài phân phối. Về lý thuyết, một thực thể đa quốc gia có thể sẽ phải thành lập một công ty thứ hai (cùng chủ sở hữu) để thực hiện các hoạt động bán buôn, chẳng hạn như bán cho các siêu thị, cửa hàng, quán bar, nhà hàng, v/v. Điều này đã tạo nên những gián đoạn đáng kể cho chuỗi cung ứng hiện nay, đặc biệt là đối với các kênh phân phối hiện đại không hoạt động một cách tập trung. Hiện nay, các cửa hàng đều có thể hoạt động theo mô hình bán buôn và bán lẻ các sản phẩm, đồng thời có mối quan hệ trực tiếp với nhà sản xuất và nhập khẩu. Theo quy định mới, các cửa hàng cần có giấy phép bán lẻ để bán trực tiếp cho người tiêu dùng, nhưng sẽ bị hạn chế thâm nhập vào các mối quan hệ thương mại trực tiếp với các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu trên cơ sở hợp tác kinh doanh. Những khó khăn này có thể sẽ kìm hãm đầu tư và thương mại tại Việt Nam. Nghị định 94 cũng đặt ra giới hạn về số lượng giấy phép phân phối, giấy phép bán buôn và bán lẻ dựa trên dân số. Điều này sẽ tạo điều kiện để hình thànhmột thị trường thứ cấp nhằm buôn bán các loại giấy phép, đồng thờigiới hạn lựa chọn phân phối cho các doanh nghiệp, đặc biệt là ở cáckhu vực ít dân cư và vùng nông thôn. Vấn đề này cũng gây những tác động nhất định tới nhiều ngành nghề khác, trong đó có ngànhdược phẩm. Ngoài ra, kiểm tra về nhu cầu kinh tế (Economic Need Test) là một trở ngại lớn cho kênh phân phối hiện đại tại Việt Nam.Trong khi chúng tôi đề xuất chấm dứt hoàn toàn động thái này, thực tế là thuật ngữ này đang được định nghĩa khá mơ hồ trong các quy định hiện hành. Vì vậy, chúng tôi hi vọng Việt Nam có thể điều chỉnh thuật ngữ này theo hướng khách quan và dễ thực hiện hơn trong tương lai gần. IV. Sở hữu nước ngoài –đặc biệt trong ngành ngân hàng Theo cam kết WTO, đến năm 2012, các nhà đầu tư nước ngoài có quyền thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, Nghị định 58/2012/ND-CP ngày 20/07/2012 cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn điều lệ của công ty chứng khoán đang hoạt động, hoặc thành lập công ty môi giới có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam (trừ công ty chứng khoán) vẫn còn giới hạn ở mức 49% theo quy định hiện hành. Do đó, chúng tôi rất hoan nghênh việc Bộ Tài chính đưa ra các đề xuất nâng hoặc gỡ bỏ hoàn toàn giới hạn này.

Trang 3/5

Page 22: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, giới hạn về sở hữu nước ngoài vẫn không rõ ràng.(theo Nghị định 01/2014/ND-CP). Do đó, có hai trở ngại chính để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài thuộc lĩnh vực ngân hàng tham gia: đó là việc tham gia vào các hoạt động của ngân hàng địa phương và thiếu tiếng nói tại Hội đồng quản trị. Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm tới giới hạn sở hữu mà còn lo ngại về quyền kiểm soát thực tế tại các tổ chức tín dụng Việt Nam. Các ngân hàng được hợp nhất bởi các tổ chức tài chính quốc tế luôn được hỗ trợ về mọi nhu cầu, bao gồm hỗ trợ vốn, ngay cả trong những tình huống áp lực, khi hình ảnh của họ bị ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, những hỗ trợ như vậy không thể được hiện thực hoá nếu nhà đầu tư nước ngoài không được kiểm soát hoạt động của ngân hàng. Do đó, chúng tôi kêu gọi việc loại bỏ giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước, đồng thời tăng thêm mức độ hoạt động/ sự hiện diện/ tầm kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài trong sự chỉ đạo của tổ chức tín dụng. V. Thủ tục giải quyết tranh chấp từ Doanh nghiệp tới Chính phủ Điều vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp là quyền truy đòi hợp pháp trong trường hợp tranh chấp về các bất đồng trong thương mại. Lập luận này tất nhiên đi theo cả hai hướng, bởi nó sẽ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ các khoản đầu tư của họ ở châu Âu và ngược lại. Theo kinh nghiệm từ các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện nay, rất cần có một cơ chế rõ ràng để giải quyết tranh chấp - nhưng không chỉ hạn chế giữa Chính phủ với Chính phủ như trường hợp ví dụ tại WTO. Một điểm tương tự đã được MUTRAP ghi rõ trong Bản phân tích Tác động Định lượng và Định tính của FTA EU-Việt Nam năm 2011. Nếu một công ty bị đối xử bất công, công ty đó phải được quyền thực thi cơ chế truy đòi, vốn không đòi hỏi quá nhiều thời gian và đầu tư nguồn lực. Bởi lẽ, hầu hết các công ty không thể đầu tư mức độ nguồn lực và do đó sẽ hạn chế giá trị của thủ tục giải quyết tranh chấp, tiếp đến là hạn chế giá trị của các thỏa thuận thương mại tự do. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp, cần có sự công nhận của trọng tài quốc tế và thi hành tại Việt Nam. Điều này sẽ góp phần nâng cao đáng kể sức hấp dẫn của Việt Nam như một điểm đến đầu tư và là một đối tác kinh doanh. VI. Kết luận Những động thái kinh tế trong vài năm tới sẽ là nhân tố quyết định chủ yếu với tương lai của Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn theo đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế cạnh tranh toàn cầuvàbền vững, cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài với số lượng và chất lượng tốt hơn. Để làm được điều này, Chính phủ Việt Nam nên tập trung nỗ lực của mình vào năm 2014 để giải quyết các vấn đề nêu trên và đảm bảo một Hiệp định Thương mại Tự do hiệu quả, khả thi,với thủ tục giải quyết tranh chấp từ doanh nghiệp tới Chính phủ. Nếu điều này không được thực hiện, nó sẽ tạo ra sự hoài nghi cho nhà đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Namsẽ vẫn hạn chế so với tiềm năng của nó. Ngoài ra, nhiều vấn đềcòn tồn tại trong các lĩnh vực cụ thể cũng được trình bày trong Sách Trắng (Whitebook) của EuroCham năm 2014.Những vấn đề này cần được giải quyết hài hoà giữa các bộ ngành và doanh nghiệpliên quan, và EuroCham rất sẵn sàng thúc đẩy quá trình này. Chúng tôi đưa ra nhiều đề xuất khác nhau trong bản khuyến nghị này, đại diện cho tiếng nói và vì lợi ích của Cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam.Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, những khuyến nghị của chúng tôi nhằm hướng đến lợi ích lâu dài của Chính phủ và

Trang 4/5

Page 23: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

người dân Việt Nam.Nền kinh tế chỉ có thể phát triển một cách bền vững nếu môi trường kinh doanh thuận lợi, nếu Việt Nam tạo được một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp; nếu quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ; nếu tình trạng tham nhũng và đầu tư không hiệu quả bị xoá bỏ; nếu việc giám sát Chính phủ hoạt động hợp lý. Chúng tôi chân thành hy vọng đề xuất của chúng tôi sẽ giúp Chính phủ đạt được nhữngthành quảnhư vậy và EuroCham sẽ tiếp tục hỗ trợ, nếu có thể, để hướng tới đạt được mục tiêu này. Cuối cùng, tôi xin phép kết thúc bản khuyến nghị này bằng cách nhấn mạnh rằng tại EuroCham chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc chăm chỉ để đảm bảo việc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) kết thúc với kết quả tốt nhất, có thểtrong năm nay. Chúng tôi mong muốn được làm việc với Chính phủ Việt Nam, với tất cả các doanh nghiệp thành viên và các đối tác của EuroCham, cả Việt Nam và châu Âu, nhằm tối đa hoá thành công của họ tại một Việt Nam sôi động hơn bao giờ hết!

Trang 5/5

Page 24: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM(KORCHA

ĐỀ XUẤT CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014

Hà Nội, Ngày 05/06/2014 Trình bày

Ông Kim Jung In Chủ tịch

I. GIỚI THIỆU Trước hết, chúng tôi xin được bày tỏ sự cảm thông sâu sắc tới Chính phủ Việt Nam và những công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do biến động tại khu vực Nam Trung Bộ của Việt Nam. Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới ngài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chính phủ Việt Nam vì những nỗ lực to lớn trong việc giải quyết tình hình khó khăn này. Chúng tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này bằng việc chung tay giải quyết khủng khoảng với sự cảm thông lẫn nhau và đánh giá tình hình một cách sáng suốt. Liên quan đến tình hình khó khăn này, chúng tôi xin được mạn phép đưa ra một vài đề xuất như sau: Thứ nhất, chúng tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam nên có một công bố chính thức cho các nhà đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới rằng Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đưa ra những giải pháp cụ thể để ổn định môi trường kinh doanh cho các công ty đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thứ hai, chúng tôi có ý kiến rằng Chính phủ Việt Nam nên đề xuất và xem xét bù đắp thiệt hại kịp thời hoặc một kế hoạch bồi thường cụ thể. Thứ ba, chúng tôi cũng xin kính đề nghị Chính phủ Việt Nam đưa ra những khoản vay với lãi suất thấp bằng những quy định pháp lý cụ thể như là một cách kiểm soát khủng hoảng để những công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể phục hồi trong thời gian sớm nhất và ổn định lại hoạt động kinh doanh của họ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi kính đề nghị Chính phủ Việt Nam miễn thuế cho các công ty bị thiệt hại để đẩy nhanh các thủ tục hải quan nhập khẩu nguyên vật liệu nhằm khôi phục mạng lưới cung ứng bị thiệt hại. Thứ tư, chúng tôi xin đề nghị Chính phủ Việt Nam thực hiện các giải pháp phù hợp dành cho người lao động bị mất việc bởi sự cố này. Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (“KorCham”) vô cùng hoan nghênh và ủng hộ nhiệt thành những thiện chí và nỗ lực mà Chính phủ Việt Nam đã thể hiện trong việc xử lý khủng hoảng. Như một người đồng hành với nền kinh tế của Việt Nam, Korcham sẽ luôn cố gắng hết sức để biến tình trạng khủng hoảng này thành cơ hội dành cho đầu tư nước ngoài bền vững ở Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định Thương mại Tự do FTA với EU và Hàn Quốc. Chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ có những đóng góp lớn cho nên kinh tế thế giới. Hàn Quốc cũng đang cố gắng kết thúc đàm phán và ký kết FTA

Trang 1/5

Page 25: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

với Việt Nam trong năm tới. Hơn nữa, đối với ngành dệt may và giầy dép mà các công ty Hàn Quốc đang tập trung đầu tư, quy tắc xuất xứ trong đàm phán FTA là một vấn đề hết sức nhạy cảm. Chúng tôi hy vọng Chính phủ Việt Nam cung cấp những thông tin về tình hình đàm phán FTA cho không chỉ những bên của hiệp định mà còn cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài để họ có thể hoạch định kế hoạch kinh doanh tổng thể cho tương lai và tiến hành đầu tư đúng thời điểm. Chúng ta đều đồng ý rằng, khối kinh tế tư nhân luôn mong có được một mô hình đối thoại cởi mở và mang tính xây dựng với Chính phủ Việt Nam. Tôi nghĩ rằng hỗ trợ phát triển tự bản thân nó không thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mà thay vào đó, đầu tư và giao thương trực tiếp nước ngoài mới thúc đẩy sự tăng trưởng đó. Các quốc gia, các khu kinh tế, các tỉnh, thành phố cần phải có những chính sách kinh tế tốt và một khuôn khổ pháp lý lành mạnh để thu hút đầu tư quốc tế, thúc đẩy giao thương và tăng cường phát triển kinh tế, xã hội. Xin được nói trước rằng, KorCham luôn có cách nhìn tích cực về các chính sách đầu tư của Việt Nam, nhưng những chính sách đó vẫn có một số vấn đề cần được cải thiện hơn nữa. Thông qua sự cải thiện pháp luật này, chúng tôi tin rằng Việt Nam là quốc gia được nhiều kỳ vọng và đầy tiềm năng. II. NHỮNG KIẾN NGHỊ CỦA CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC Tại hội nghị hôm nay, bốn (4) đề xuất do các thành viên của cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam kiến nghị xin được trình bày như sau. 1. Bền vững trong đầu tư nước ngoài Điều 32 Luật Đầu tư quy định rằng: “1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Điều 27 và Điều 28 của Luật này được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc ưu đãi đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.” Tuy nhiên, hướng dẫn thi hành của một số thông tư, như Phần I mục 6 của thông tư 130/2008/TT-BTC và Điều 23.5 của Thông tư 123/2012/TT-BTC năm 2008 đã gây ra một số vấn đề cho các công ty Hàn Quốc khi hưởng ưu đãi thuế theo như quy định tại Điều 32 của Luật Đầu tư, cụ thể như sau:

HƯỞNG ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (TNDN)

Từ 2004 - 2008 (Luật Thuế TNDN 2003)

Hình thức đầu tư mở rộng sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN (tại Điều 18, Luật Thuế TNDN 2003)

Từ 2009 – 2013 (Luật Thuế TNDN 2008)

Hình thức đầu tư mở rộng sẽ không được hưởng ưu đãi thuế TNDN, ngoại trừ việc mở rộng đầu tư kéo theo việc thành lập pháp nhân mới (tại Điều 23.5 Thông tư 123/2012/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Luật

Thuế TNDN 2008) Từ 2014 – nay

(Luật Thuế TNDN 2013)

Trang 2/5

Page 26: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Hình thức đầu tư mở rộng sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN (tại Điều 14.4, Luật Thuế TNDN 2013)

Theo bảng trên, việc thi hành các quy định đó đã tác động bất lợi tới các công ty Hàn Quốc mà mở rộng việc đầu tư và kinh doanh của họ từ năm 2009. Điều này thật không công bằng cho các công ty phải chịu những bất lợi rõ ràng về thuế so với những công ty khác đầu tư trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2008 và sau 2014, chỉ vì họ đã đầu tư vào khoảng thời gian từ năm 2009 tới 2013 mà chẳng vì thay đổi hợp lý nào khác. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị rằng, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư cần phải được đảm bảo đầy đủ theo như quy định tại Luật Đầu tư. 2. Hệ thống thanh tra đầu tư nươc ngoài Hơn nữa, nhằm tạo môi trường bền vững cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng tôi đề xuất Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài. Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài được giới thiệu lần đầu ngày 26/10/1999 tại Luật Khuyến khích Đầu tư Nước Hàn Quốc ngoài nhằm mục đích hỗ trợ công tác giải quyết khiếu nại ở các công ty đầu tư nước ngoài hoạt động tại Hàn Quốc. Thanh tra Đầu tư Nước ngoài được Tổng thống bổ nhiệm theo đề cử của Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng thông qua đánh giá của Ủy ban Đầu tư Nước ngoài. Thanh tra còn lãnh đạo cơ quan giải quyết khiếu nại, mà cơ quan này hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ của Thanh tra. Thanh tra Đầu tư Nước ngoài và cơ quan giải quyết khiếu nại thu thập và phân tích các thông tin liên quan đến các vấn đề mà các công ty nước ngoài gặp phải, yêu cầu hợp tác và đề xuất thực hiện hợp tác của các cơ quan quản lý có thẩm quyền, đề ra những chính sách mới nhằm cải thiện cơ chế khuyến khích đầu tư nước ngoài, và thực hiện các nhiệm vụ cần thiết khác nhằm hỗ trợ những công ty đầu tư nước ngoài giải quyết khiếu nại của họ. Cụ thể, Luật Khuyến khích Đầu tư Nước ngoài, được sửa đổi một phần vào ngày 11/12/2012, đã đưa ra những quy định mới liên quan đến việc khiếu nại mà nhà đầu tư nước ngoài gặp phải. Theo những quy định mới này, Thanh tra Đầu tư Nước ngoài có thể yêu cầu lãnh đạo của các cơ quan hữu quan báo cáo về việc giải quyết khiếu nại của họ và các biện pháp khắc phục. Ngoài ra, Thanh tra cũng có thể báo cáo việc những cơ quan không thực hiện đề xuất của Thanh tra ra Ủy ban Đầu tư Nước ngoài, để mở một vụ việc xem xét. Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài được đánh giá rất cao, như là một thiết chế quan trọng để thúc đẩy đầu tư quốc tế. Hệ thống này đã được giới thiệu và thảo luận tại rất nhiều diễn đàn quốc tế, bao gồm UNCTAD và APEC. Vào tháng 4 năm 2012, Hội nghị Đầu tư Thế giới lần thứ 3 được tổ chức bởi UNCTAD tại Doha, Qatar, Nga đã tuyên bố về việc thông qua thành lập hệ thống Thanh tra, trong khi đó chính phủ Brazil đã qua Hàn Quốc để tìm hiểu về mô hình này. Gần đây nhất, phái đoàn Kaznex Invest của Kazakhstan cũng công bố kế hoạch sang Hàn Quốc để tham khảo mô hình này. Hệ thống Thanh tra Đầu tư Nước ngoài đã thu hút sự quan tâm toàn cầu vì những thành quả tiêu biểu trong giải quyết khiếu nại cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Hàn Quốc: gần 350 vụ việc, trong đó gần 90 vụ về can thiệp hành chính, đã được giải quyết trong năm 2013 bằng cách sửa đổi quy định pháp luật hoặc yêu cầu sự phối hợp quản lý của các bộ ngành liên quan. Các chuyên gia từ World Bank, cơ quan chủ quản của Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (ICSID), đã tiến hành các nghiên cứu kỹ lưỡng về hệ thống Thanh tra của Hàn Quốc. Vào tháng 8 năm 2012, Văn phòng Thanh tra đã nhận được khen ngợi từ Bộ Ngoại Giao Nhật Bản vì những đóng góp trong việc giải quyết những khó khăn mà những nhà đầu tư Nhật Bản ở Hàn Quốc gặp phải.

Trang 3/5

Page 27: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Các nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và các nhà đầu tư nước ngoài khác đang gặp rất nhiều vấn đề muốn khiếu nại. Khi có những người giàu kinh nghiệm và kiến thức về đầu tư nước ngoài được chỉ định làm Thanh tra đầu tư nước ngoài để giải quyết các vấn đề đó, Korcham tin chắc rằng các nhà đầu tư nước ngoài cũng như những nhà đầu tư mới sẽ có thể nhận được nhiều hơn nữa sự hỗ trợ hiệu quả và đáng tin cậy từ Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi rất mong Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét một cách tích cực để thành lập nên cơ quan Thanh Tra Đầu tư Nước Ngoài 3. Vấn đề liên quan tới việc Làm thêm giờ của Người lao động Bộ luật Lao động Việt Nam được sửa đổi ngày 18/06/2012 và có hiệu lực kể từ ngày 1/5/2013. Luật Lao động Sửa đổi (số 10/2012/QH13, ngày 18/6/2012) nghiêm cấm giờ làm thêm tối đa của người lao động quá 4 giờ trong một ngày, 30 giờ trong một tháng và 200 giờ trong một năm. Vì vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, số giờ làm thêm tối đa của người lao động bị giới hạn là 200 giờ một năm, ngoại trừ các trường hợp được cho phép bởi Chính phủ Việt Nam. Trong trường hợp vi phạm quy định này, công ty sẽ phải tạm ngừng kinh doanh từ 1 tới 3 tháng và bị phạt tiền từ 25.000.000 Đồng đến 30.000.000 Đồng. Tuy nhiên, Korcham cho rằng hình phạt như vậy là quá khắt khe. Chúng tôi mong rằng Chính phủ Việt Nam giảm nhẹ hình phạt theo quy định hiện nay và thay bằng cảnh cáo và cho thời gian để các Công ty có vốn Đầu tư Nước ngoài (“CTĐTNN”) điều chỉnh theo quy định. Hơn nữa, hầu hết các CTĐTNN đều gặp phải những vấn đề trong việc đáp ứng nhu cầu của khách mua ở nước ngoài bởi vì rất khó để đáp ứng các đơn đặt hàng với những quy định hạn chế giờ làm thêm của người lao động như hiện nay. Thêm vào đó, các nhà máy cần phải vận hành 3 ca, điều đó có nghĩa là công ty đó phải thuê thêm lao động, từ đó làm tăng gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp. Thậm trí, việc vận hành 3 ca như vậy sẽ gây ra những vấn đề về quản lý cho các công ty, đặc biệt là trong những khoảng thời gian ngoài đợt sản xuất cao điểm. Đối với người lao động, sẽ không có cơ hội để nhận tiền làm thêm vì những quy định này. Việc hạn chế giờ làm thêm như vậy cấm người lao động tự nguyện làm thêm để hưởng tiền làm thêm giờ. Bên cạnh đó, việc hạn chế này sẽ không cho CTĐTNN được phép để người lao làm thêm ngay cả khi người lao động muốn như vậy. Nói cách khác, Luật Lao động cấm những điều mà cả CTĐTNN và người lao động cùng mong muốn. Chúng tôi lo ngại rằng loại mâu thuẫn này sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường pháp lý thân thiện về đầu tư cho CTĐTNN ở Việt Nam. Do vậy: i) như số giờ làm thêm tối đa của các quốc gia khác là hơn 300 giờ, và ii) như Hoa Kỳ không hề đưa ra bất cứ giới hạn nào về việc làm thêm giờ của người lao động, chúng tôi nghĩ rằng quy định pháp luật hiện tại về việc giới hạn số giờ làm thêm cần được sửa đổi, từ 200 giờ/năm lên ít nhất hơn 300 giờ/năm; hoặc sẽ bỏ hẳn quy định đó miễn là có sự đồng thuận giữa công ty và người lao động về việc làm thêm giờ. Chúng tôi thấy rằng điều này sẽ khiến các CTĐTNN ở Việt Nam quản lý hiệu quả và bảo đảm thu nhập cho người lao động. 4. Chuyển giá – Thỏa thuận Xác định Giá trước Chính phủ Việt Nam đã ban hành Thông tư số 201/2013/TT-BTC (“Thông tư 201”) liên quan tới Thỏa thuận Xác định Giá trước (“APA”). Korcham xin được chỉ ra một số điểm đặc biệt về APA của Việt Nam so với APA của các nước khác, từ đó đưa ra một vài kiến nghị để việc thực hiện APA sẽ trở nên tích cực hơn cho Chính phủ Việt Nam và các công ty hoạt động tại Việt Nam.

Trang 4/5

Page 28: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Vấn đề quan trọng nhất liên quan APA tại Việt Nam là Thông tư 201 không đưa ra cơ chế hồi tố. Một trong những lợi ích hấp dẫn nhất mà người nộp thuế kiếm tìm ở APA là áp dụng hồi tố APA để điều chỉnh những năm tính thuế trước đó (giai đoạn hồi tố). Việc áp dụng hồi tố có thể mang lại một phương thức hiệu quả để giải quyết các tranh chấp chuyển giá đang diễn ra. Vì vậy, ngay cả trước khi Thông tư 201 được ban hành, đã có nhiều ý kiến từ nhiều bên khác nhau yêu cầu áp dụng cơ chế hồi tố trong APA. Tuy nhiên, cơ chế hồi tố dù xuất hiện trong hầu hết các APA của các quốc gia khác thì lại không được quy định và điều này có thể là một vấn đề lớn cho các công ty. Bên cạnh đó, thủ tục tham vấn trước khi nộp hồ sơ là một thủ tục bắt buộc khi thực hiện APA theo như quy định tại Thông tư 201, các hồ sơ yêu cầu cho thủ tục tham vấn trước khi nộp hết sức phức tạp và doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian để chuẩn bị. Một vài hồ sơ còn bị trùng với các hồ sơ đã được yêu cầu trong thủ tục nộp đơn chính thức. Các công ty tại Việt Nam hiện đang phải giải quyết rất nhiều khó khăn bởi thủ tục tham vấn trước khi nộp đòi hỏi việc chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ khi bắt đầu. Để việc thực hiện APA trở nên có hiệu quả, Korcham xin kiến nghị với Chính phủ sửa đổi Thông tư 201 và cơ chế hồi tố và giảm thời gian cũng như số lượng hồ sơ phải nộp trong thủ tục tham vấn trước khi nộp. III. KẾT LUẬN Cuối cùng, chúng tôi mong rằng Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét những kiến nghị của chúng tôi và mong rằng các giải pháp thích hợp sẽ nhanh chóng được đưa ra. Chừng nào Việt Nam vẫn tiếp tục con đường cải cách kinh tế và pháp luật, các doanh nghiệp Hàn Quốc chúng tôi sẽ vẫn tự tin đầu tư và mở rộng hoạt động của chúng tôi tại Việt Nam trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để kết thúc bản ý kiến này, Korcham, hơn bao giờ hết, luôn cam kết hợp tác với Chính phủ Việt Nam để phát triển môi trường đầu tư thuận lợi hơn nữa để tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế

Trang 5/5

Page 29: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JBAV)

PHÁT BIỂU CỦA JBAV

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 Hà Nội, Ngày 05/06/2014

Trình bày

Ông Yoshihisa Maruta Chủ tịch

Kính thưa các Bộ trưởng và quý vị đại biểu: Trước tiên, tôi xin được bày tỏ sự biết ơn chân thành với Bộ Kế hoạch Đầu tư (BKHĐT) và đại diện của các Hội doanh nghiệp đã cho tôi có được cơ hội để phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam ngày hôm nay. 1. Mối quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản Với lễ kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Nhật cũng như chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới Nhật Bản vào tháng ba vừa qua, mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được tăng cường thêm một bước. Đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam liên tục tăng trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư mới và đầu tư mở rộng năm 2013 đạt 5,88 tỉ USD, đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, đóng góp lớn cho sự phát triển công nghiệp của Việt Nam. Tuy vậy, dù các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn rất quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam nhưng việc chính phủ thiếu những giải pháp phù hợp (nêu dưới đây) khiến hoạt động đầu tư của Nhật Bản đang đứng trước nguy cơ chững lại. 2. Môi trường đầu tư tại Việt Nam đối với doanh nghiệp Nhật Tính đến tháng 5/2014, số lượng các doanh nghiệp thành viên của JBAV đã đạt mốc 1.319 doanh nghiệp, khiến Việt Nam trở thành nước có Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản quy mô lớn thứ hai trong các nước ASEAN, chỉ sau Thái Lan. Con số này đã tăng gấp hơn hai lần so với 604 doanh nghiệp năm 2007. Theo “Khảo sát thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhật Bản ở khu vực Châu Á và Châu Đại dương” thường niên của JETRO, 70% doanh nghiệp Nhật đầu tư vào Việt Nam năm 2013 tiếp tục coi Việt Nam là một thị trường quan trọng cũng như duy trì chiến lược “mở rộng hoạt động” trong năm 2014 (một tỉ lệ cao so với phần lớn các quốc gia khác). Tuy vậy, các doanh nghiệp cũng ngày càng cảm thấy không hài lòng với môi trường kinh doanh tại đây. Đặc biệt, hơn 60% các doanh nghiệp được hỏi cho rằng những vấn đề nêu dưới đây đang cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh, đó là: chi phí lao động tăng nhanh, thủ tục hành chính phức tạp, chính sách nhà nước thiếu minh bạch, thủ tục thuế rườm rà, hệ thống pháp luật thiếu hoàn thiện, thiếu minh bạch trong thực thi luật. Kết quả điều tra tỏ ra thiếu tích cực hơn so với các nước ASEAN láng giềng khác. Tuy các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn đánh giá rất cao cơ hội kinh doanh tại Việt Nam nhưng

Trang 1/4

Page 30: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

những vấn đề nêu trên đang ngày càng ảnh hưởng nhiều đến cảm nhận của nhà đầu tư và về lâu dài sẽ có ảnh hưởng xấu đến cả hoạt động đầu tư FDI nói chung. Cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp hiện nay là một đòi hỏi cấp bách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội sau này của Việt Nam. Chính phủ hai nước đã có những hoạt động hợp tác nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư trong chương trình có tên gọi “Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản” trong hơn 10 năm qua (hiện Sáng kiến này đã đi đến giai đoạn 5). Hôm nay, chúng tôi xin được trình bày về một số vấn đề mà các doanh nghiệp thành viên của JBAV đang gặp phải cả trong ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn, kính xin các quý vị Bộ trưởng xem xét, cho hướng giải quyết.

3. Các vấn đề trong ngắn hạn về môi trường đầu tư 3.1. Giấy phép lao động Kể từ khi Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH (ngày 20/1/2014) của BLĐTBXH có hiệu lực từ tháng 3/2014, một số doanh nghiệp Nhật Bản đã được các cơ quan chức năng thông báo rằng những lao động đã từng đến Việt Nam nếu lưu trú dù chỉ 1 ngày cũng đều phải xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp, do vậy cần phải xin giấy Xác nhận tạm trú tại khách sạn đã từng ở. Nếu xin Phiếu lý lịch tư pháp chỉ cho thời gian lưu trú 1 ngày thì nhiều khi cũng sẽ bị cơ quan chức năng từ chối cấp. Chúng tôi đề nghị điều chỉnh quy định này theo hướng thực tế hơn và chỉ nên áp dụng cho những người trước đây đã lưu trú tại Việt Nam trong một thời gian nhất định. 3.2. Tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm sắt thép Kể từ ngày 1/6/2014, Thông tư liên tịch số 44/2013/TTLT-BCT-BKHCN (ngày 31/12/2013) của BCT và BKHCN sẽ có hiệu lực, theo đó phần lớn các sản phẩm sắt thép nhập khẩu mã hải quan HS 72 sẽ phải thực hiện kiểm tra hành chính về vấn đề phân phối nội địa. Theo Liên đoàn Sắt thép Nhật Bản ước tính, khoảng 80% các sản phẩm sắt thép nhập khẩu từ Nhật sẽ phải áp dụng quy định kiểm tra này. Tuy vậy, ngày bắt đầu áp dụng Thông tư và chi tiết các thủ tục hành chính lại chưa rõ ràng, vì vậy có thể dẫn đến lúng túng đối với những doanh nghiệp Nhật Bản có sử dụng sản phẩm sắt thép nhập khẩu nói riêng, và cả thị trường Việt Nam nói chung. Do đó, chúng tôi đề nghị làm rõ các thủ tục cần thực hiện. 3.3. Làm rõ về các điều kiện ưu đãi đầu tư Nghị định số 218/2013/NĐ-CP (ngày 26/12/2013), có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, là một bước tiến lớn trong việc khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, dù vậy, các điều kiện để được nhận ưu đãi đầu tư vẫn chưa được rõ ràng, chi tiết. Đề nghị BTC làm rõ những điều kiện này và có biện pháp phù hợp để bảo đảm quyền được hưởng ưu đãi cho từng dự án đầu tư (cụ thể bằng cách gửi công văn đến từng dự án đầu tư) nhằm nâng cao mức độ ổn định, tin cậy của khung pháp lý. 3.4. Bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ đối với những dự án lớn Các dự án cơ sở hạ tầng lớn thường được đầu tư bằng các ngoại tệ mạnh như đồng USD. Trong khi đó, doanh nghiệp lại phải thanh quyết toán bằng đồng Việt Nam, vì thế khi trả nợ cần phải chuyển đổi doanh thu VND sang một đồng tiền mạnh khác. Hiện nay, chính phủ Việt Nam chỉ bảo lãnh cho chuyển đổi thành USD đối với 30% doanh thu VND (Công văn số 1604/2011/TTG-TN), tuy nhiên mức này là chưa đủ để thanh toán nợ cho các tổ chức cho vay nước ngoài. Nếu Việt Nam muốn thu hút những khoản vốn đầu tư lớn, trong đó có lĩnh vực điện năng, thì việc bảo lãnh chuyển đổi 100% thu nhập là cần thiết.

Trang 2/4

Page 31: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

4. Chiến lược Công nghiệp hóa 4.1. Đẩy mạnh Chiến lược Công nghiệp hóa và xây dựng chương trình hành động Sau hai năm thảo luận về Chiến lược công nghiệp hóa giữa hai nước, Quyết định số 1043/QĐ-Ttg (ngày 1/7/2013) của Thủ tướng Chính phủ đã quy định 6 ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện tử, chế biến thực phẩm, máy nông nghiệp, môi trường-tiết kiệm năng lượng; ô tô và phụ tùng ô tô; đóng tàu. Để xây dựng được những ngành công nghiệp mới này sẽ cần rất nhiều thời gian cũng như nhà nước phải có các chính sách nhất quán, thiết thực. Trước hết, cần xây dựng kế hoạch thực hiện khả thi trong đó thể hiện được những nội dung đã thảo luận giữa hai nước và công bố kế hoạch một cách sớm nhất. Các doanh nghiệp Nhật sẵn sàng ủng hộ kế hoạch này cũng như đóng góp tích cực vào sự phát triển của Việt Nam. 4.2. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ là yêu cầu quan trọng để triển khai Chiến lược công nghiệp hóa. Sau đây, tôi xin được trích dẫn số liệu khảo sát của JETRO về tỉ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp Nhật Bản. Theo đó, tỉ lệ của Việt Nam là 32,2%. Dù tỉ lệ này đã tăng được 4,3 điểm so với năm ngoái nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (64%), Thái Lan (53%), Malaixia (42%), Inđônêxia (41%). Điều này cho thấy các hãng chế tạo Nhật Bản phải bỏ ra chi phí cao đến mức nào khi chọn Việt Nam. Có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Nhật Bản có khả năng cạnh tranh cao mà Việt Nam có thể thu hút đầu tư nhằm đẩy mạnh công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, tôi cũng xin lưu ý rằng Việt Nam cần phải tạo được một môi trường kinh doanh thuận lợi, trong đó có sự hỗ trợ sát sao của nhà nước để có thể thu hút được những DNVVN này, vì những doanh nghiệp này thường có nguồn lực quản lý hạn chế (nhân lực, tài chính …). 4.3. Phát triển nguồn nhân lực Vào ngày 14/8/2013, JBAV đã ký kết bản MOU về phát triển nguồn nhân lực với BLĐTBXH, BGDĐT và BCT, với các nội dung sau: - Tạo điều kiện để lao động tiếp thu tay nghề, kỹ năng sản xuất của Nhật - Tạo thêm nhiều cơ hội việc làm tại các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam - Hỗ trợ nâng cao kỹ năng của công nhân - Tạo điều kiện cho lao động học hỏi phương thức quản lý doanh nghiệp của Nhật Bản. Bốn nội dung này hiện đang được thảo luận trong khuôn khổ Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản Giai đoạn V. JBAV mong muốn giữ liên hệ chặt chẽ với các bộ ngành liên quan về vấn đề này. 1. Kết luận Việt Nam là nước đông dân thứ ba trong khối ASEAN và có một lực lượng lao động trẻ, cần cù. Hơn nữa, Việt Nam còn có lợi thế về vị trí địa lý, giàu tài nguyên, nhờ đó có nhiều cơ hội để phát triển kinh tế và công nghiệp. Mặt khác, nếu không có sự quản lý tốt thì nền kinh tế sẽ khó có thể tạo dựng được một thế hệ người lao động trẻ có tốc độ tăng trưởng nhanh cũng như tạo đủ việc làm. Chính phủ Việt nam đang đứng trước thử thách phải chứng tỏ sự chín chắn và bảo đảm duy trì được chính sách phát triển công nghiệp về lâu dài. Trở lại những vấn đề trước mắt, Việt Nam hiện đang ở vào một giai đoạn rất quan trọng khi AEC (Cộng đồng Kinh tế ASEAN) sẽ được thông qua vào năm 2015, cũng như hiệp định TPP hiện

Trang 3/4

Page 32: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

đang đi vào những vòng đàm phán cuối cùng. Đặc biệt, kể từ năm 2015 trở đi, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh toàn cầu gay gắt khi phần lớn các loại thuế nhập khẩu sẽ được dỡ bỏ từ năm 2015 theo hiệp định ATIGA (dù một số mặt hàng vẫn áp dụng thuế nhập khẩu cho đến năm 2018). Thái Lan hiện đang chuyển hướng chính sách sang giai đoạn công nghiệp hóa cao hơn, đồng thời giảm dần chế độ ưu đãi dành cho những ngành có hàm lượng lao động cao để thay vào đó khuyến khích những ngành có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Các quốc gia lân cận (Campuchia, Lào, Myanma) đang tập trung thực hiện chiến lược kinh doanh có tên gọi “Thái Lan cộng 1” nhằm thu hút đầu tư vào những ngành có hàm lượng lao động cao như Việt Nam từng làm trước đây. Trước tình hình đó, nếu chính phủ không có định hướng rõ ràng về phát triển công nghiệp cũng như xử lý triệt để vấn đề mức tiền lương tăng nhanh và quy định về làm ngoài giờ chặt chẽ hơn các nước phát triển thì lợi thế cạnh tranh của Việt Nam về những ngành có hàm lượng lao động cao có thể sẽ không còn, và khi đó Việt Nam sẽ không thể thu hút vốn đầu tư cho công nghiệp và thay vào đó trở thành nơi tiêu thụ sản phẩm cho các nước láng giềng. Đề nghị cuối cùng chúng tôi muốn gửi tới các quý vị Bộ trưởng có mặt ngày hôm nay là Việt Nam nên lắng nghe tiếng nói của những doanh nghiệp hiện đang có mặt tại Việt Nam, đối xử với doanh nghiệp theo hướng tạo thuận lợi nhưng vẫn bảo đảm bình đẳng để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Những doanh nghiệp đang cân nhắc đầu tư vào Việt Nam hiện đang theo dõi sát sao những gì đang diễn ra với những doanh nghiệp đi trước. Chúng tôi, các doanh nghiệp Nhật Bản, tự hào về nguyên tắc chung của các doanh nghiệp chúng tôi là đóng góp cho xã hội, và luôn mong muốn được đưa nguyên tắc này áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam với sự ủng hộ của các quý vị Bộ trưởng. Xin cảm ơn.

Trang 4/4

Page 33: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Chương II

ĐẦU TƯ & THƯƠNG MẠI

Page 34: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

TỪ CHƯƠNG TRÌNH ĐẾN HÀNH ĐỘNG: CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI

Trình bày

Ông Fred Burke Đồng Trưởng Nhóm Công tác Đầu tư & Thương mại

Kính thưa Ngài Thủ tướng Chính phủ, thưa Ngài Bộ trưởng Vinh, thưa các Ngài Thứ trưởng và các vị quan khách, Tôi rất vinh dự được có cơ hội đại diện cho Nhóm Công tác Đầu tư & Thương mại phát biểu tại hội nghị ngày hôm nay. Bản ý kiến đóng góp chi tiết hơn có kèm theo tài liệu hỗ trợ của chúng tôi đã được đưa vào tập các tài liệu liên quan, tuy nhiên tôi xin phép được tóm tắt một cách ngắn gọn các điểm kiến nghị chính của chúng tôi liên quan đến vấn đề làm thế nào để chuẩn bị một cách hiệu quả nhất cho việc tham gia các hiệp định thương mại tự do mới. Các hiệp định đó bao gồm Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam ("EU FTA"), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương ("TPP"), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực ("RCEP") và Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015 ("AEC 2015"), và một số hiệp định khác. Việt Nam chắc chắn đạt được nhiều lợi ích và thậm chí rất nhiều lợi ích to lớn về nhiều phương diện nếu Việt Nam có thể thực hiện một số điều chỉnh đối với môi trường đầu tư và thương mại của mình. Về vấn đề này chúng tôi đã được đề nghị đưa ra câu trả lời cụ thể cho ba câu hỏi sau đây:

1. Một là, nhóm công tác có những kiến nghị gì để khắc phục những vấn đề hiện tại trong môi trường đầu tư và thương mại?

2. Hai là, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức nào khi tham gia các hiệp định thương mại mới?

3. Ba là, Việt Nam cần làm gì để chuẩn bị cho các cơ hội mới do các hiệp định thương mại này mang lại?

Chúng tôi xin trình bày các ý kiến và kiến nghị của Nhóm Công tác như sau. I. CẦN CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ ĐỂ "KHẮC PHỤC CÁC VẤN ĐỀ" Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi xin nêu ra năm điểm cơ bản như sau. 1. Phản ứng đối với các sự kiện đáng tiếc xảy ra trong tuần ngày 12 tháng 5 a. Phản ứng tức thời và các biện pháp hỗ trợ Trước tiên, chúng ta cần giải quyết hậu quả của các sự kiện đáng tiếc xảy ra tại một số khu công nghiệp trong tuần ngày 12 tháng 5. Đến nay vẫn chưa thể thấy hết toàn bộ ảnh hưởng của các sự kiện này đối với chuỗi cung ứng của Việt Nam. Chúng ta vẫn đang nhận được các báo cáo về tình trạng gián đoạn nghiêm trọng trong một số ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là một số ngành liên quan đến xuất khẩu mà từ trước đến nay vẫn đóng vai trò then chốt đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp trong việc phục hồi sản xuất ổn định và giảm thiểu ảnh hưởng đối với đội ngũ lao động đã được nêu lên tại cuộc họp mang tính xây dựng vào ngày 20

Trang 1/11

Page 35: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 tháng 5 tại Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra một số biện pháp mới nhằm giảm nhẹ tác động đến các doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Mặc dù các biện pháp này được hoan nghênh nhưng chúng vẫn chưa đủ để giải quyết các thiệt hại cũng như phục hồi khả năng cạnh tranh trước kia của ngành kinh tế. Hơn nữa các câu hỏi về lâu dài liên quan đến chuỗi cung ứng và nguồn nguyên vật liệu quốc tế cũng cần được giải quyết. Về ngắn hạn, vấn đề bức thiết nhất là giảm nhẹ ảnh hưởng đến bản thân những người công nhân. Về vấn đề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, v.v…, sự trợ giúp là vô cùng cần thiết. Các sổ sách hồ sơ đã bị phá hủy tại thời điểm diễn ra các sự kiện đáng tiếc này và những người sử dụng lao động bị ảnh hưởng rất cần được các cơ quan nhà nước hỗ trợ thay thế hoặc xử lý mà không cần đến các sổ sách hồ sơ đó. Hỗ trợ của Chính phủ trong việc trả bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp cho các công nhân bị ảnh hưởng cần được xúc tiến nhanh để đảm bảo rằng tất cả các công nhân được nhận những gì mà họ được quyền nhận một cách kịp thời. Giấy phép lao động cần được cấp cho những trường hợp đặc biệt để cho phép các cơ sở sản xuất có nhân viên đã về nước được trở lại làm việc ngay lập tức. Các biện pháp này đã được nêu trong Thông báo ngày 20 tháng 5 của Thủ tướng Chính phủ phần nào giải quyết các vấn đề này, nhưng các cơ quan hữu quan vẫn phải triển khai trên thực tế. Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày thêm về các biện pháp giảm nhẹ tác động của các sự kiện đáng tiếc này trong thời gian tới đây nhưng những biện pháp tài chính khẩn cấp để đảm bảo đời sống của các công nhân chính là vấn đề quan trọng nhất nếu chưa được giải quyết vào cuối tháng Năm trong kỳ trả lương thông thường. b. Phạm vi của chương trình hỗ trợ Về vấn đề bồi thường, vấn đề được nêu ra là phạm vi bồi thường này sẽ mở rộng như thế nào. Nhiều doanh nghiệp chỉ ra rằng mặc dù nhà xưởng của họ không bị cháy, họ vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì lý do này hay lý do khác. Trong một số trường hợp thì nhân viên chủ chốt người Đài Loan hoặc người Trung Quốc lục địa của họ đã rời Việt Nam, trong một số trường hợp khác thì dự án đầu tư bị ngưng trệ hoặc hủy bỏ vì nhà đầu tư lo ngại, hoặc các nhóm khách du lịch sẽ không đến Việt Nam để nghỉ tại các khu nghỉ dưỡng xinh đẹp. Chúng ta cũng cần có các biện pháp để tạo điều kiện cho sự phục hồi của các doanh nghiệp này cho đến khi thị trường hoạt động bình thường trở lại, do đó chúng tôi trân trọng kiến nghị rằng một số biện pháp nêu ra trong Thông báo ngày 20 tháng 5 cần được áp dụng rộng rãi cho toàn bộ các doanh nghiệp cho dù họ bị ảnh hưởng theo cách nào, trực tiếp hay gián tiếp? c. Cải thiện đời sống của công nhân Ba là, để giảm nguy cơ các vụ gây rối tương tự lại xảy ra trong tương lai, một số thành viên đã đưa ra các kiến nghị mang tính xây dựng để Chính phủ xem xét. Trong khi chúng tôi ghi nhận rằng nguyên nhân ban đầu gây ra các cuộc biểu tình dẫn đến các sự kiện đáng tiếc là nguyên nhân bên ngoài, nhưng cũng cần ghi nhận rằng đã có những vấn đề bất mãn trong nội bộ làm bùng phát tình trạng bạo lực và phá hoại xảy ra trong các đêm Thứ ba và Thứ tư, ngày 13 và 14 tháng 5. Nhiều nhà sản xuất tại khu vực bị ảnh hưởng đã cho biết, có vẻ như chỉ có số ít công nhân bị xúi giục bởi một số đối tượng chưa được xác định đứng đằng sau các sự kiện này. Chúng tôi mong muốn được biết Chính phủ đã có những thông tin gì về các sự kiện dẫn tới các hành động này. Trong hiện tại, chúng tôi ghi nhận rằng trong khi các cuộc biểu tình hòa bình được tổ chức theo quy định của pháp luật là một phần bình thường của hoạt động dân chủ diễn ra tại tất cả các quốc gia hiện đại, thì hành động phá hoại, gây rối, và trộm cắp trái pháp luật cần được xử lý nhanh chóng theo quy định của pháp luật. Sự chậm trễ vào đêm ngày 13 tháng

Trang 2/11

Page 36: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 5 chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá hoại tài sản nghiêm trọng nhất tại một số khu công nghiệp chủ chốt, do đó các biện pháp kiểm soát nhằm chấm dứt bạo lực trái pháp luật cần được triển khai nhanh chóng hơn nữa trong tương lai. Về lâu dài hơn, một số thành viên của chúng tôi đã kiến nghị một số biện pháp mà các khu công nghiệp có thể áp dụng để giúp cải thiện cuộc sống của công nhân với các cơ sở giải trí và cộng đồng. Các cơ sở này có thể bao gồm không chỉ là các văn phòng giới thiệu việc làm, mà còn là các cơ sở y tế và giải trí như hồ bơi, công viên và các cơ sở thể thao để công nhân có thể thư giãn và có một mức sống tốt hơn. Các cơ sở đó không cần phải đắt tiền, nếu các ưu đãi thích hợp được trao cho các khu công nghiệp, và các ưu đãi này không vi phạm bất kỳ quy định nào về trợ cấp cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu. Để bổ sung cho sự hỗ trợ của các khu công nghiệp và Chính phủ đối với ý tưởng này, có lẽ một phần trong 2% quỹ lương được phân bổ cho phí công đoàn có thể được huy động cho mục đích này? Điều này có vẻ như là một động thái nhỏ đối với nhiều người, nhưng nếu được thực hiện đúng cách, thì việc làm này có thể tăng cường sự ủng hộ mạnh mẽ của công nhân dành cho phần lớn những người sử dụng lao động trong các khu công nghiệp này. 2. Mở cửa thị trường còn quá dè dặt và những yêu cầu cạnh tranh toàn cầu Chuyển sang những lĩnh vực có vấn đề cần "sửa chữa" để Việt Nam tận dụng đầy đủ hơn các hiệp định thương mại quốc tế, chúng tôi tin rằng trong nhiều trường hợp, Việt Nam đã mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nước ngoài hỗ trợ nền kinh tế xuất khẩu, nhưng theo nhiều phương thức, cách tiếp cận thị trường còn lại và những giới hạn của chế độ đối xử quốc gia cản trở các nhà xuất khẩu trong việc cạnh tranh trên thị trường quốc tế do việc hạn chế các dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế và các nguồn đầu vào mà họ cần để cạnh tranh. Có rất nhiều ví dụ về vấn đề này, và mỗi ví dụ có vẻ chỉ là một chi tiết nhỏ đối với các nhà hoạch định chính sách cấp cao. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp, bất kỳ biện pháp đơn lẻ nào cũng có thể có ý nghĩa là sự sống còn trong thị trường cạnh tranh toàn cầu. Ví dụ 1: Yêu cầu về mã H.S. đối với các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài Lấy trường hợp sau làm một ví dụ: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép tham gia hoạt động thương mại phải liệt kê mã HS cụ thể cho mỗi sản phẩm mà mình kinh doanh trong Giấy chứng nhận đầu tư của mình. Trừ khi mã H.S. của sản phẩm có trong Giấy chứng nhận đầu tư, công ty không thể kinh doanh sản phẩm đó. Điều này chỉ áp dụng đối với các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài. Thường là sẽ mất 6 tháng hoặc lâu hơn để xin điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư để bổ sung thêm hàng hóa mới, ngay cả khi hàng hóa đó không nằm trong bất cứ danh mục hàng hóa bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Điều này rõ ràng cản trở thương nhân về thời gian đáp ứng cho các dự án tại nước sở tại và các nhà xuất khẩu khi họ cần các nguồn đầu vào mới cụ thể cho các sản phẩm xuất khẩu của họ, hoặc để đáp ứng yêu cầu thị trường tại nước sở tại. Đây cũng là một hình thức phân biệt đối xử trên thực tế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với các doanh nghiệp trong nước là những doanh nghiệp không cần phải liệt kê mã H.S. trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của họ (công ty trong nước không cần Giấy chứng nhận đầu tư để tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng vấn đề này sẽ được bàn chi tiết hơn sau này).

Trang 3/11

Page 37: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Hơn nữa, ngay cả đối với các doanh nghiệp trong nước, như nêu dưới đây, vẫn còn có vấn đề về việc là chuyện gì xảy ra khi các doanh nghiệp trong nước này huy động một số vốn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu tài trợ của họ? Họ có trở thành "doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài" hay không, có phải tuân thủ yêu cầu về mã H.S. tương tự như một số quan chức đầu tư trong nước vẫn yêu cầu hay không? Có các báo cáo rằng Luật Đầu tư có thể được sửa đổi để loại bỏ yêu cầu này và điều đó sẽ rất được hoan nghênh. Ví dụ 2: Giáo dục và đào tạo nghề Mặc dù các dịch vụ giáo dục và đào tạo nghề là các lĩnh vực được cam kết theo các cam kết gia nhập WTO năm 2007 của Việt Nam, nhưng đến nay vẫn chưa thấy được sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động mà lẽ ra đã có thể phát triển với sự hỗ trợ rõ nét hơn từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như các cơ quan hữu quan khác. Rõ ràng là có một nhu cầu mạnh mẽ cần những người tốt nghiệp có kiến thức và sẵn sàng làm việc tại Việt Nam, và nhiều tổ chức giáo dục nước ngoài sẵn sàng tham gia. Một số trường đại học và trường dạy nghề, sau khi đã tốn nhiều thời gian, đã từ từ bắt đầu triển khai các chương trình được giới hạn, và đã có một vài chương trình đào tạo của doanh nghiệp như chương trình mà Intel đã đầu tư để có được các công nhân có tay nghề mà Intel cần. Nhưng còn có rất nhiều điều có thể làm để huy động nguồn vốn và kiến thức bí quyết quốc tế để hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam. Điều này không chỉ là đối với chương trình học, quy trình đánh giá đầu tư mà thậm chí ở các vấn đề chẳng hạn như giấy phép lao động cho giáo viên và thị thực cho sinh viên quốc tế. Do vậy, đây là lĩnh vực cần tiếp tục thực hiện mạnh mẽ hơn nữa các cam kết WTO để phát triển nguồn nhân lực mà Việt Nam cần nhằm đạt được vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị. 3. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài Một số thành viên đã phản ánh rằng thực trạng của việc công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn rất kém, mặc dù Việt Nam đã là thành viên của Công ước Công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài năm 1959 trong gần hai thập kỷ qua. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ("VIAC") đang phát triển đồng thời cũng là một giải pháp trọng tài thay thế khả thi so với các trung tâm có tiếng tăm hơn trong khu vực và quốc tế, nhưng danh tiếng của Việt Nam như một điểm đến đầu tư bị làm giảm sút khi các nhà đầu tư đã nhận thấy rằng các đơn yêu cầu công nhận và thi hành thường bị bác bỏ dựa trên các chi tiết chuyên môn không xác thực. Đây là một vấn đề khác cần phải được "khắc phục" để trấn an các nhà đầu tư nước ngoài. II. CÁC THỬ THÁCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM Rõ ràng Việt Nam được nhiều hơn mất khi tham gia vào các hiệp định thương mại mới đang được xúc tiến. Nếu 20 năm qua cho thấy có một điều gì đó, thì đó chính là việc Việt Nam đã đạt được nhiều hơn những lợi ích thực đối với đất nước từ kết quả của việc tham gia một số hiệp định thương mại quan trọng mà Việt Nam đã tham gia ký kết, quan trọng nhất phải kể đến là các Hiệp định WTO. Mặc dù lợi ích của việc gia nhập WTO có phần bị lu mờ bởi cuộc Khủng hoảng tài chính toàn cầu sau khi Việt Nam tham gia vào năm 2007, tuy nhiên các lợi ích xét về tăng trưởng GDP, xuất khẩu tăng vọt, nhiều công ăn việc làm được tạo ra và nguồn thu thuế là những điều rất rõ ràng. Hiển nhiên là vẫn còn tồn tại những thiếu sót trong quá trình thực hiện WTO. Vậy đâu là những thiếu sót và có thể giải quyết chúng như thế nào?

Trang 4/11

Page 38: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Tại đây có nhiều cuộc thảo luận diễn ra bàn về nhu cầu cần có cơ sở hạ tầng tốt hơn và rõ ràng điều đó là quan trọng. Tuy nhiên có một phần nội dung quan trọng không kém chưa bao giờ được bàn đến mà tôi sẽ tạm gọi nó là "kiến trúc thượng tầng" vì không có từ nào mô tả đúng hơn nội dung này. Với nội dung này, tôi muốn nói đến cách suy nghĩ của một số viên chức và những người làm kinh doanh khi họ thực hiện nhiệm vụ, công việc của họ và cố gắng tồn tại trong một nền kinh tế mới. Nếu cách suy nghĩ này không thay đổi theo hướng làm thế nào để cung cấp dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế trong nhiều lĩnh vực như hải quan, đăng ký kinh doanh, đăng ký sản phẩm, v.v. thì Việt Nam sẽ cảm thấy nản chí trong việc đạt được những ý định của mình trong các hiệp định nêu trên. Kiến trúc thượng tầng sẽ rất yếu, ngay cả khi có sẵn cơ sở hạ tầng. 1. Các vấn đề về "Kiến trúc thượng tầng: Cần phải cải cách hành chính nhiều hơn nữa, trí lực

tốt hơn Chương trình Cải cách hành chính quan trọng mà chúng ta biết đến là Đề án 30 đã đạt được những lợi ích hữu hình nhất định, nhưng cũng còn có nhiều việc cần phải làm và đây là một nỗ lực lớn liên tục. Đôi khi, các giới hạn trong việc cung cấp các dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế trên thị trường trong nước làm cản trở khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường toàn cầu. Như đã lưu ý ở trên, đây là chủ đề đòi hỏi cần phải có thay đổi toàn diện về cách suy nghĩ từ "quản lý" sang "hỗ trợ" cho các hoạt động kinh doanh chính đáng. Ví dụ 1: Miễn thuế hàng hóa vận chuyển theo các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Ví dụ, mục tiêu của Đề án 30 là nỗ lực đơn giản hóa thủ tục cho các công ty vận chuyển hàng hóa xin miễn hợp pháp 2% thuế hàng hóa đối với hàng hóa quốc tế được áp dụng theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Tuy nhiên khả năng giảm 2% chi phí sản phẩm xuất khẩu đã gặp phải nhiều cản trở khi trên thực tế việc xin miễn vẫn còn rất khó khăn. Chúng tôi đã gửi bản đệ trình khá dài trình bày về những thông lệ tốt nhất trên thị trường quốc tế và những kiến nghị của chúng tôi để Việt Nam tiếp tục tinh giản các thủ tục trong nước. Chúng tôi hy vọng rằng điều này sẽ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu của mình như đã nêu trong Đề án 30 và các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam ký kết. Ví dụ 2: Các công ty thương mại - Các giới hạn trong việc trung chuyển Thứ hai, điển hình là các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài muốn thực hiện hoạt động trung chuyển hàng hóa từ các quốc gia khác vào các thị trường mục tiêu trong khu vực chẳng hạn như Cam-pu-chia, Lào và Thái Lan. Việc cho phép các công ty thương mại có vốn đầu tư nước ngoài bán các sản phẩm của họ không chỉ ở Việt Nam mà còn vào các thị trường khác này theo các quy tắc điều chỉnh hoạt động trung chuyển sẽ có lợi cho Việt Nam xét về mặt tạo công ăn việc làm, thuế và bí quyết kinh doanh. Hoạt động này cần được cho phép theo Nghị định số 187 năm 2003, tuy nhiên chúng tôi không hiểu tại sao Bộ Công thương vẫn không ủng hộ loại hình hoạt động kinh doanh này. Chúng tôi hy vọng rằng các quan ngại của Bộ có thể được nêu ra và giải quyết để Việt Nam có thể nắm bắt được hoạt động kinh doanh tiềm năng này và không để nó lọt vào tay của quốc gia đối thủ khác trong khu vực. Ví dụ 3: Thiếu môi trường hỗ trợ cho Chính phủ điện tử Thứ ba, mặc dù các nước trên thế giới đang phát triển nhanh chóng các giải pháp Chính phủ điện tử để tạo thuận lợi cho "nền kinh tế điện tử" đang nổi lên, Việt Nam vẫn còn đang bị mắc kẹt trong hệ thống giấy tờ lỗi thời. Lấy một vài ví dụ ngẫu nhiên. Ví dụ thứ nhất, một công dân Đan Mạch xin giấy phép lao động không thể đáp ứng yêu cầu về "Giấy chứng nhận lý lịch tư pháp không phạm tội" từ Đan Mạch bởi vì các giấy chứng nhận đó chỉ có trực tuyến và các bản

Trang 5/11

Page 39: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 in trực tuyến không có chữ ký của con người, vì thế các giấy chứng nhận này không thể được hợp pháp hóa và do đó không được chấp nhận ở Việt Nam. Tương tự, các công ty ở một số bang của Hoa Kỳ không thể đáp ứng được yêu cầu trình bản sao đã được hợp pháp hóa của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của họ bởi vì các báo cáo này được nộp trực tuyến và chính quyền của một số bang không ký chúng hoặc chứng nhận các bản sao của chúng. Việt Nam đã từng bước tiến đến Công ước miễn hợp pháp hóa giấy tờ và đây là một bước đi đúng hướng, nhưng xin lưu ý rằng bản thân khái niệm hợp pháp hóa giấy tờ đang trở nên lỗi thời trong một thế giới hiện đại và đúng hơn là cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp "điện tử thân thiện". Ví dụ 4: Thiếu các nhà cung cấp dịch vụ đăng kiểm giàn khoan/tàu biển quốc tế được cấp phép hợp pháp Ví dụ thứ tư là về việc thiếu các tổ chức đăng kiểm sửa chữa và đóng tàu biển quốc tế được cấp phép đầy đủ, kể cả các giàn khoan dầu ngoài khơi. Mặc dù có một vài công ty quốc tế cung cấp dịch vụ quan trọng này đang hoạt động tại Việt Nam trên cơ sở đặc biệt, không chính thức dưới sự chi phối của Cục Đăng kiểm Việt Nam, hoạt động của họ chưa được bình thường hóa theo hình thức các hiện diện thương mại được cấp phép hợp pháp với ngành nghề kinh doanh có liên quan trong các Giấy chứng nhận đầu tư của họ. Họ muốn thiết lập các hoạt động kinh doanh bình thường tại đây đễ hỗ trợ ngành công nghiệp sửa chữa và đóng tàu của Việt Nam. Trường hợp của VINASHIN cho thấy tầm quan trọng của các dịch vụ vô hình này trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam khi họ cố cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp của VINASHIN, do thiếu các nhà cung cấp dịch vụ đăng kiểm quốc tế, doanh nghiệp đóng tàu này không bao giờ có thể bán các dịch vụ đóng tàu hoặc sửa chữa tàu cho khách hàng nước ngoài vì Việt Nam thiếu các thỏa thuận công nhận chung giữa Cục Đăng kiểm Việt Nam và các thị trường mục tiêu. Ví dụ 5: Giải thể doanh nghiệp Thứ năm, và là cuối cùng trong thời điểm hiện tại, thủ tục giải thể doanh nghiệp vẫn còn quá nhiêu khê, có các ý kiến đáng lưu ý rằng có hàng trăm doanh nghiệp muốn "chết" mà không xin được giấy chứng tử. Việc chậm hoàn tất kiểm tra thuế là nguyên nhân chính được đưa ra mà các cơ quan thuế cho rằng họ thường không có đủ nhân viên để thực hiện kiểm tra thuế. Để tìm giải pháp cho vấn đề này, cơ quan thuế và Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh gần đây đã kiến nghị Ủy ban Nhân dân thành phố rằng các doanh nghiệp cần được cho phép giải thể dựa trên kết quả kiểm toán của công ty kiểm toán, tuy nhiên công ty kiểm toán sẽ phải chịu trách nhiệm cho các báo cáo kiểm toán của mình. Để tinh giản hơn nữa quy trình, doanh nghiệp cần được phép trả lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và con dấu tại cơ quan thuế thay vì phải quay trở lại Sở Kế hoạch và Đầu tư. Vẫn cần phải xem liệu Ủy ban Nhân dân sẽ đồng ý với kiến nghị này hay không, và liệu các công ty kiểm toán sẽ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm pháp lý này hay không, nhưng điều này chắc chắn là sẽ đưa ra một quy trình tốt hơn quy trình hiện tại. Ví dụ 6: Cấp phép sản xuất thiết bị y tế xuất khẩu và thử nghiệm lâm sàn Chính phủ cần vận dụng các lẽ thường khi áp dụng quy định trong nước đối với hàng hóa xuất khẩu. Ví dụ, không cần phải thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam đối với thuốc và dụng cụ y tế đang được sản xuất theo li-xăng hoàn toàn dành cho thị trường xuất khẩu nước ngoài. Thử nghiệm lâm sàng, được yêu cầu đối với các sản phẩm y tế được bán trong thị trường trong nước, rất tốn kém và mất nhiều thời gian và vì thế chỉ nên yêu cầu phải có thử nghiệm lâm sàng đối với hàng hóa được bán trên thị trường trong nước, và chỉ trong trường hợp không có các

Trang 6/11

Page 40: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 thử nghiệm lâm sàng quốc tế đáng tin cậy. Tuy nhiên, dự thảo Nghị định về Quản lý thiết bị y tế đã được đưa ra ngày 11 tháng 3 năm 2014 có quy định về thử nghiệm lâm sàng ngay cả trong trường hợp để xuất khẩu thuần túy. Thật may mắn là quy định này đã được bỏ đi trong bản dự thảo Nghị định gần đây nhất nhờ vào những nỗ lực đáng khích lệ của những người làm công tác soạn thảo đã tiếp nhận ý kiến đóng góp và phản hồi kịp thời của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề xoay quanh các quy định về hồ sơ đăng ký và quy trình đăng ký xác nhận đáp ứng đủ điều kiện sản xuất các thiết bị y tế mà có thể làm cản trở sự phát triển của ngành sản xuất này tại Việt Nam. Những tồn tại này đã được trình bày trong văn bản gửi đến Bộ Y tế ngày 28 tháng 3. 2. Cơ sở hạ tầng và chương trình PPP Thách thức lớn tiếp theo đối với Việt Nam là cơ sở hạ tầng. Đây là lĩnh vực mà trong vài năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là về cảng biển và đường bộ, do đó cung đáp ứng được cầu một cách thường xuyên hơn. Tuy nhiên, có những quan ngại về chương trình PPP mới được đề xuất và đặc biệt là quan điểm cho rằng chương trình mới này có thể thay thế chương trình BOT và thậm chí là các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng tư nhân. Chắc hẳn quý vị sẽ nghe nhiều hơn từ Nhóm Công tác Cơ sở hạ tầng về điểm này, nhưng đối với các nhà đầu tư và các nhà sản xuất thì đây là một vấn đề chủ chốt do quan ngại rằng các quy định PPP sẽ chỉ làm chậm sự phát triển cơ sở hạ tầng, vốn đã bị thách thức với vai trò quan trọng của các công ty xây dựng và nhà cung cấp chính của Trung Quốc trong thời gian gần đây. III. NẮM BẮT NHỮNG CƠ HỘI MỚI Có nhiều biện pháp và chính sách công nghiệp thực sự mà Việt Nam có thể áp dụng để tận dụng tốt hơn các cơ hội có được theo các hiệp định thương mại Việt Nam đang đàm phán. Ngoài những điểm đã nêu ra ở trên, những điểm sau đây cũng rất đáng đề cập đến. 1. Thu hút nhà đầu tư vào ngành công nghiệp dệt mới để cung ứng cho ngành may mặc Điều quan trọng nhất trong số những điều này, có lẽ là chính sách công nghiệp để thu hút đầu tư sản xuất nguyên liệu dệt, tốt nhất là tại các khu công nghiệp tập trung với các dịch vụ môi trường có liên quan và các nguồn cung cấp năng lượng. Để Việt Nam được hưởng mức thuế suất TPP cho hàng may mặc mà Việt Nam xuất khẩu, nguyên vật liệu phải có nguồn gốc từ quốc gia TPP, hoặc ít nhất nguyên vật liệu phải được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm ở quốc gia đó. Điều này có nghĩa là không nhất thiết phải trồng cây bông hoặc nuôi cừu tại quốc gia TPP để được hưởng mức thuế suất TPP cho quần áo bằng bông và len. Tuy nhiên, bông hoặc len cần phải đã được kéo thành sợi, dệt hoặc nhuộm tại Việt Nam. Như chúng tôi đã trình bày trong bản đệ trình chi tiết của chúng tôi, ngành công nghiệp này đòi hỏi đầu tư nhiều vốn và điều này sẽ là một thách thức lớn hơn trong môi trường sau khi bị gián đoạn hiện nay. Các chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng đối với nước thải từ các hoạt động nhuộm sẽ rất quan trọng, chẳng hạn như việc tiếp cận được nguồn cung cấp điện ổn định chắc chắn. Bản đệ trình của chúng tôi có nêu ra nhiều chi tiết và các vấn đề cụ thể hơn. 2. Hải quan Có một số vấn đề phát sinh trong lĩnh vực hải quan mà Việt Nam cần phải giải quyết để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. a. Quy tắc xác nhận trước được áp dụng quá hẹp

Trang 7/11

Page 41: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Trước hết, thủ tục thực hiện quy tắc xác nhận trước mà luật hải quan mới đã giới thiệu vào năm ngoái, đã không được áp dụng đủ rộng rãi cho hầu hết các thương nhân. Rõ ràng, các yêu cầu về giấy tờ phiền hà, bao gồm cả hợp đồng đã ký cho hàng hóa có liên quan, thậm chí trước khi có quy tắc xác nhận hải quan, chúng tôi đã dự định tập trung cơ chế đối với các nhà sản xuất quy mô lớn hiện có và thương nhân nói chung. Tuy nhiên, nếu có quy tắc xác nhận trước thì cần phải áp dụng cho tất cả các thương nhân thương mại. Chúng tôi hy vọng rằng cơ chế này có thể được sắp xếp hợp lý và hoàn thiện hơn để loại bỏ yêu cầu chứng từ không cần thiết và làm cho đáng tin cậy hơn. b. Thỏa thuận xác định giá trước Tương tự, các Thỏa thuận xác định giá trước dùng để quản lý việc xác định giá chuyển nhượng cần phải có thẩm quyền hợp pháp hơn. Sẽ không có lợi ích gì khi đàm phán Thỏa thuận xác định giá trước với cơ quan hải quan khi mà Thỏa thuận xác định giá trước không có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý. c. Hệ thống phần mềm hải quan mới Như đã nêu trong phần trình bày của Am Cham, và thảo luận tại diễn đàn vào tháng 3 tại Thành phố Hồ Chí Minh, việc giới thiệu phần mềm mới để quản lý việc thông quan đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng. Chúng tôi rất lấy làm vui mừng khi Tổng cục hải quan đồng ý chậm triển khai hệ thống mới và chỉ thí điểm ở một vài tỉnh thành và chúng tôi hy vọng rằng những bài học từ những tỉnh thành đó sẽ giúp cho việc triển khai một hệ thống đã được cái tiến trên phạm vi toàn quốc về sau này. Chúng tôi mong đợi được tiếp tục hợp tác và trao đổi với Tổng cục hải quan để sự chuyển tiếp này càng suôn sẻ càng tốt. d. Theo dõi và minh bạch Một số cơ quan nhà nước gần đây đã giới thiệu thủ tục mới rất tốt nhằm nâng cao tính minh bạch và cải thiện mức độ dịch vụ. Ví dụ, bây giờ Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh gửi thông tin cập nhật bằng e-mail cho người nộp đơn xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư để cập nhật cho họ một cách thường xuyên về tình hình hồ sơ của họ. Đây là một sự đổi mới đáng khích lệ và cần được hoan nghênh. Hải quan có thể áp dụng biện pháp tương tự để theo dõi và báo cáo về thời gian cần thiết để thông quan, cung cấp tiêu chuẩn đánh giá về thành tích dịch vụ của mình so với các cơ quan hải quan khác trong khu vực (các cơ quan hải quan trong khu vực đã báo cáo dữ liệu này). 3. Cấp phép đầu tư Nhiều công việc đã được thực hiện để đưa ra những đề xuất mới nhằm tinh giản quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thậm chí còn có đề xuất loại bỏ giấy chứng nhận đầu tư hoàn toàn, ngoại trừ đối với khu vực "có điều kiện". Đây là một định hướng rất mang tính xây dựng, nhưng có thể không đi đủ xa. a. Loại bỏ "Giấy chứng nhận đầu tư" Nếu tất cả các doanh nghiệp, cả trong và ngoài nước, có thể dựa vào một giấy tờ thống nhất duy nhất, là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, để chứng minh sự thành lập và thông tin nhận dạng hợp pháp của mình với tư cách là một pháp nhân, thì Giấy chứng nhận đầu tư có lẽ là hoàn toàn không cần thiết. Đề xuất giữ lại Giấy chứng nhận đầu tư đối với khu vực "có điều kiện" có thể không liên quan bởi vì tất cả những khu vực đó đều đã được điều chỉnh bởi những quy định chuyên ngành cụ thể trong từng lĩnh vực được quy định. Cho dù đó là phát triển bất

Trang 8/11

Page 42: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 động sản, cơ sở hạ tầng, tiếp thị đa cấp, bảo hiểm, dịch vụ pháp lý, chứng khoán, tài chính ngân hàng, xây dựng, dịch vụ y tế, viễn thông, v.v. - tất cả các lĩnh vực đầu tư này đều đã chịu sự điều chỉnh của các thủ tục cấp phép cụ thể trong đó loại bỏ sự cần thiết đối với Giấy chứng nhận đầu tư. Hơn nữa, chúng tôi lo ngại rằng việc này sẽ tạo ra sự nhầm lẫn trên thị trường, đặc biệt là về vấn đề huy động vốn và các yếu tố quản lý khác, nếu hệ thống bị thay đổi theo hướng không rõ ràng là chính xác khi nào thì cần Giấy chứng nhận đầu tư. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn về mặt kỹ thuật để giảm thiểu khả năng gây nhầm lẫn. b. Huy động vốn từ nước ngoài Các công ty tư nhân Việt Nam, chưa kể đến doanh nghiệp nhà nước, cần đầu tư nước ngoài để tận dụng những cơ hội mà sẽ phát sinh trên thị trường quốc tế. Có được nguồn vốn đó, và chuyên môn đi cùng với nguồn vốn đó, vẫn còn là một trở ngại rất lớn để các doanh nghiệp tận dụng đầy đủ các hiệp định thương mại quốc tế. Vấn đề này vẫn còn là một cản trở lớn để các công ty Việt Nam huy động vốn. Ví dụ, nếu công ty Việt Nam muốn huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới cho nhà đầu tư nước ngoài, thì một số cơ quan có thẩm quyền địa phương sẽ yêu cầu cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước phải nộp đơn xin cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Điều này có thể bị loại bỏ nếu đề xuất loại bỏ Giấy chứng nhận đầu tư được thông qua trong đợt sửa đổi Luật Đầu tư tới đây. 4. Giấy phép lao động Chuyển sang chủ đề giấy phép lao động, đây vẫn là một trong những mối quan ngại phổ biến nhất của các nhà đầu tư nước ngoài, chưa kể đến ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ nhất, cần làm rõ khi nào thì cần phải có giấy phép lao động. Ví dụ, công nhân có mặt tại Việt Nam trong một thời gian giới hạn theo hợp đồng dịch vụ xuyên biên giới không nên bị yêu cầu phải xin giấy phép nếu họ không được trả tiền bởi doanh nghiệp trong nước và họ không thuộc biên chế trong nước. Các biện pháp do Thủ tướng Chính phủ công bố vào ngày 19 tháng 5, trong đó có việc quay trở lại hệ thống cũ là năm năm kinh nghiệm hoặc bốn năm trình độ đại học, chứ không phải cả hai điều kiện này, sẽ được hoan nghênh nếu áp dụng trên diện rộng cho tất cả các doanh nghiệp bởi vì, như đã nói ở trên, thực tế tất cả các doanh nghiệp đều đang bị ảnh hưởng bởi những gián đoạn chuỗi cung ứng hiện nay. Cần tiến hành xem xét lại triệt để các quy định hiện hành, đặc biệt là cho phù hợp với tình hình đặc biệt mà chúng ta đang phải đối mặt. 5. Tránh những quy định mới không thực tế – Đánh giá tác động quản lý nhà nước Điểm này là nhằm tránh việc thông qua các quy định mới không thực tế và tuân thủ nghiêm ngặt hơn các yêu cầu về đánh giá tác động quản lý nhà nước đối với các biện pháp pháp lý mới. a. Thời hạn 90 ngày để góp vốn điều lệ Ví dụ, trong dự thảo sửa đổi Luật Doanh nghiệp, có đề xuất là các nhà đầu tư phải góp toàn bộ các khoản đóng góp vốn điều lệ của mình trong vòng 90 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc có lẽ là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đây là yêu cầu bất khả thi nếu được áp dụng trên diện rộng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, chẳng hạn như các công ty bất động sản cũng như các doanh nghiệp dịch vụ nhỏ hơn. Điều này sẽ chỉ làm tăng chi phí vốn cho Việt Nam khi yêu cầu rằng tiền mặt phải được chuyển vào và giữ yên trong tài khoản ngân hàng chờ thanh toán tiến độ hợp đồng xây dựng mà có thể không đến hạn phải thanh toán cho đến nhiều năm tới. Hơn nữa, yêu cầu có phần mang tính phân biệt, nếu được áp dụng trong khuôn

Trang 9/11

Page 43: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 khổ pháp luật hiện hành trong đó phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, bởi vì doanh nghiệp trong nước có thể dễ dàng tăng vốn điều lệ của mình vào bất cứ lúc nào trong hầu hết các lĩnh vực, trong khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài phải xin các chấp thuận theo quyền tùy nghi quyết định (tức là không thể đoán trước). Chúng tôi chỉ kiến nghị xem xét lại đề xuất này. Cũng là hợp lý khi ấn định trách nhiệm của nhà đầu tư nước ngoài ở số tiền được quy định là vốn điều lệ để nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi toàn bộ số vốn điều lệ theo quy định. Nhưng trách nhiệm của nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn điều lệ trong trường hợp công ty cần tiền khác với việc yêu cầu công ty phải góp các khoản tiền này trong thời hạn 90 ngày. 6. Tiếp cận các Hiệp định thương mại mới Các hiệp định thương mại mới mà Việt Nam hiện đang đàm phán có phạm vi rộng hơn và sâu hơn và không như những gì Việt Nam đã từng đàm phán trước đây. Sẽ cần phải có nền tảng trong nước có tính cạnh tranh toàn cầu đối với các dịch vụ, cơ sở hạ tầng, hàng hóa trung gian, v.v. Để phát huy hết tiềm năng của Việt Nam, thị trường trong nước nên bao hàm toàn bộ, bền vững, công bằng và "xanh" để đáp ứng nhu cầu của thị trường thế kỷ 21. Các hiệp định thương mại tự do không còn chỉ là vấn đề về mức thuế suất; mà các hiệp định này đã tiến đến những vấn đề "đằng sau biên giới" tác động đến thương mại. Cũng cần thiết phải phát triển các kiến trúc thượng tầng hoặc tư duy để tận dụng đầy đủ nhất các cơ hội này. “Gói Bali" đã được đồng ý gần đây bao gồm các biện pháp thúc đẩy thương mại liên quan đến WTO là một bước tiến tốt cho tất cả các thành viên WTO về các vấn đề thúc đẩy thương mại, an ninh lương thực và nước kém phát triển, nhưng không đủ để thúc đẩy một quốc gia như Việt Nam lên mức cao hơn trong chuỗi giá trị. Việt Nam phải cẩn thận không bỏ lỡ chuyến tàu khi nó rời ga, vì một khi chuyến tàu đã đi khỏi thì rất khó để bắt kịp. Việt Nam đã trải qua những thách thức khi muốn gia nhập WTO - một "câu lạc bộ" đã được thiết lập bởi các thành viên nhiều năm trước, và đã phải khó khăn hơn khi tham gia với tư cách là thành viên mới. Để duy trì khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, điều quan trọng là không can thiệp một cách không cần thiết vào thị trường và làm méo mó giá cả thị trường. Công việc khó khăn của Việt Nam trong việc thị trường hóa giá nhiên liệu và năng lượng trong những năm gần đây là một ví dụ. Mặt khác, vấn đề sữa bột và sữa bột cho trẻ em đã và đang là một vấn đề tranh cãi tại Việt Nam. Cá nhân tôi biết hai dự án sản xuất sữa bột cho trẻ em đã bị đặt sang một bên đơn giản chỉ vì tính chất không thể tiên đoán được của hệ thống kiểm soát giá. Điều này có nghĩa là chẳng những không giữ cho giá sữa thấp, những người cổ xúy cho hệ thống kiểm soát giá đang vô tình hạn chế nhu cầu và qua đó làm tăng giá sữa. Nếu thực sự giá cả là vấn đề mà quý vị quan tâm, thì theo quan điểm của chúng tôi tốt hơn là giải quyết điều đó bằng các biện pháp từ phía cung. Điều này giúp giữ cho toàn bộ nền kinh tế được vận hành trên một nền tảng vững chắc hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Tránh kiểm soát giá cả cũng giúp bảo vệ chống lại những cáo buộc về "Nền kinh tế phi thị trường" từ các đối tác thương mại rằng hàng xuất khẩu của Việt Nam được trợ giá hoặc bán với giá thấp hơn giá thị trường hợp lý.

Trang 10/11

Page 44: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại đã có nhiều ý kiến đóng góp trực tiếp đối với các đề xuất sửa đổi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Một số tài liệu về những ý kiến đóng góp này được bao gồm trong tập các tài liệu liên quan. Đã nảy sinh một số xu hướng bảo hộ mà sẽ hạn chế cạnh tranh và cản trở các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế, nhưng nói chung, trong những cuộc thảo luận này đã có nhiều tư duy, chuyên môn và kinh nghiệm rất hay. Nhưng rõ ràng là bản thân luật không thể tạo ra môi trường nơi mà các doanh nghiệp Việt Nam được hỗ trợ để cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tiếp cận các dịch vụ đẳng cấp thế giới như các báo cáo của Dun & Bradstreet về các đối tác, các tiêu chuẩn và các dịch vụ phân loại cho hàng hóa và dịch vụ của họ, bao gồm cả đào tạo kỹ thuật về cách thức làm thế nào đáp ứng những tiêu chuẩn đó, cơ chế giảm thiểu rủi ro như bảo hiểm, các công cụ phái sinh và thị trường mua bán hợp đồng tương lai. Cuối cùng, con đại tượng trong khu vực hiện nay là Trung Quốc. Đã có rất nhiều cuộc đối thoại gần đây của những chuyên gia tại Việt Nam về việc không dùng nguyên vật liệu và dịch vụ của Trung Quốc vì lý do an ninh quốc gia. Mặc dù tự cung tự cấp là một giấc mơ đẹp nhưng là một viễn cảnh bất khả thi trong nền kinh tế toàn cầu thực sự mà chúng ta đang sống ngày nay và chiến lược "hội nhập" thực tế của Việt Nam đã thành công nhờ việc thừa nhận thực tế đó cho đến nay. Việt Nam đã hội nhập ở một mức độ nào đó với nền kinh tế Trung Quốc, cũng như sự hội nhập của chúng ta với phần còn lại của nền kinh tế toàn cầu, và Việt Nam đã đạt được một số thành công trong chuỗi cung ứng thành công của Trung Quốc. Nhìn vấn đề này một cách khách quan và hợp lý, chúng ta phải tự hỏi mình việc tránh tìm nguồn cung ứng từ nước láng giềng phương bắc của chúng ta có tính thực tế như thế nào. Dù đó là thép cho các dự án cơ sở hạ tầng, hay các ngành dịch vụ xây dựng hay các nguyên vật liệu và nguồn đầu vào khác, Việt Nam cạnh tranh được hiệu quả hơn trên thị trường quốc tế trong chừng mực mà Việt Nam có thể dựa vào các nguồn đầu vào giá rẻ từ Trung Quốc. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào để cùng tồn tại một cách hòa bình, và ở đây chúng tôi chỉ có thể hy vọng rằng các nhà lãnh đạo của cả hai nước có thể tìm ra cách để cùng tồn tại và hợp tác trong tương lai.

* * *

Trang 11/11

Page 45: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Sửa đổi luật đầu tư và luật doanh nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

SỬA ĐỔI LUẬT ĐẦU TƯ VÀ LUẬT DOANH NGHIỆP

Trình bày Ông Trần Anh Đức

Đồng trưởng Nhóm Công tác Đầu tư & Thương mại Kính thưa Thủ tướng Chính phủ và các đại biểu, Trong các cuộc họp trước đây, chúng tôi đã phản ánh những vướng mắc khi nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam: (i) doanh nghiệp Việt Nam phải làm thủ tục xin Giấy chứng nhận đầu tư khi bán cổ phần cho

nước ngoài; (ii) doanh nghiệp Việt Nam bị coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phải tuân theo

nhiều qui định làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường. Các qui định nói trên đã cản trở các doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Luật Doanh Nghiệp bảo đảm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Trên thực tế, việc yêu cầu đăng ký các hoạt động kinh doanh cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cản trở quyền tự do kinh doanh theo qui định của Luật Doanh Nghiệp. Chúng tôi được biết Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì sửa đổi nhiều điều khoản Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. Các sửa đổi mang tính đột phá bao gồm: (i) doanh nghiệp được tự do kinh doanh trừ các lĩnh vực cấm đầu tư; (ii) không ghi ngành nghề cụ thể trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng

nhận đầu tư; (iii) doanh nghiệp Việt Nam được xem là nhà đầu tư nước ngoài khi có từ 51% Vốn điều lệ được

sở hữu bởi nhà đầu tư nước ngoài. Theo thống kê, hiện nay có tới hơn 330 ngành nghề bị hạn chế kinh doanh qui định trong hơn 200 văn bản khác nhau, được ban hành bởi các cơ quan trung ương và địa phương. Đã đến lúc Chính phủ cần phải rà soát, thu hẹp lại các ngành nghề hạn chế kinh doanh. Việc bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư không có ý nghĩa nếu vẫn tiếp tục duy trì 330 ngành nghề bị hạn chế kinh doanh. Các ngành nghề hạn chế kinh doanh cần phải qui định rõ trong luật và không cho phép các bộ và Ủy ban nhân dân được bổ sung các ngành bị hạn chế kinh doanh. Chúng tôi cũng thấy còn nhiều quan điểm khác nhau từ phía cơ quan nhà nước nên chưa thể chắc chắn là các sửa đổi này có được Chính phủ và Quốc hội chấp thuận hay không. Với sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ trong phiên họp hôm nay, chúng tôi rất hy vọng Thủ tướng Chính phủ sẽ có biện pháp chỉ đạo kịp thời để thuyết phục Quốc hội thông qua các đề xuất sửa đổi nói trên đối với Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp.

Trang 1/1

Page 46: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Thuế

Page 47: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

ĐƠN GIẢN HÓA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI QUY ĐỊNH MIỄN THUẾ THEO HIỆP ĐỊNH TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN

Chuẩn bị bởi

Nhóm công tác Đầu tư và Thương mại Xin thay mặt cho các công ty TNHHMaersk Việt Nam, TNHH APL-NOL Việt Nam, TNHHMSC Việt Nam, và Cổ phần CMA CGM Việt Nam là các hãng vận tải biển đang hoạt động tại Việt Nam, Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư xin trình bày và kính đề nghị Tổng Cục Thuế, các Vụ cục liên quan của Bộ Tài chính, Bộ Giao Thông Vận tải và cơ quan khác của Chính phủ xem xét quan ngại của chúng tôi về quy trình thủ tục hành chính hiện hành áp dụng cho quy định miễn thuế trong các Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần của Việt Nam (“Hiệp định Thuế”). Chúng tôi cho rằng quy định hiện hành đang làm vô hiệu tinh thần của các Hiệp định Thuế, do vậy cần được sửa đổi, đặc biệt sau quá trình thảo luận chuyên sâu và kéo dài dưới nhiều hình thức khác nhau với Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế trong suốt 10 năm qua bao gồm việc đệ trình Đề án 30 dưới sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam năm 2010 và các đề xuất về đơn giản hóa thủ tục Hiệp định Thuế. Hoan nghênh chủ trương cải cách hành chính Trước hết, chúng tôi xin đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chúng tôi được hưởng một số lợi ích có được từ việc ban hành Nghị quyết 25/NQ-CP của Chính phủ năm 2010, và việc triển khai Đề án 30, qua đó quá trình cải cách đã được triển khai một cách hiệu quả. Đối với thủ tục hành chính trong lĩnh vực miễn thuế theo các Hiệp định Thuế, chúng tôi ghi nhận những cải cách nhất định như bãi bỏ yêu cầu công chứng, chứng thực, hạn chế các trường hợp cần hợp pháp hóa lãnh sự, bãi bỏ việc nộp các giấy chứng nhận của cảng vụ… Những tồn tại Những nỗ lực trên sẽ tăng cường khả năng đưa Việt Nam trở thành cửa ngõ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu của khu vực chỉ khi nào Chính phủ Việt Nam thực hiện một cách đầy đủ và quyết liệt các nỗ lực về mặt chủ trương, cũng như trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, chúng tôi quan ngại rằng một số nỗ lực cụ thể đang được thực hiện trong lĩnh vực cải cách thuế, cụ thể là các yêu cầu về hồ sơ miễn thuế theo Hiệp định Thuế áp dụng cho các công ty vận tải biển quốc tế tại Thông tư 156/2013/TT-BTC (“Thông tư 156”), sau đây gọi là “Quy định”, đã không thể hiện được tinh thần của Chính phủ trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính. Mặc dù Thông tư 156 được coi là một bước tiến về cải cách thủ tục hành chính trong một vài khía cạnh miễn thuế theo Hiệp định Thuế, các yêu cầu hiện hành buộc các công ty vận tải biển xuất trình nhiều giấy tờ để chứng minh việc điều hành trực tiếp con tàu thể hiện bước thụt lùi, làm vô hiệu việc thực thi các lợi ích thuế chính đáng của chúng tôi theo quy định tại các Hiệp định Thuế giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Cụ thể, Điều 20.3.d.2 của Thông tư 156 yêu cầu công ty vận tải biển lưu giữ các giấy tờ sau để chứng minh việc điều hành trực tiếp con tàu: • Giấy chứng nhận đănh ký tàu biển, hoặc hợp đồng thuê tàu, hoặc hợp đồng hoán đổi tàu

(“Chứng từ Sở hữu”) tương ứng với các hình thức điều hành tàu lần lượt như sau: sở hữu tàu, thuê tàu, hoặc hoán đổi tàu;

• Hợp đồng vận tải hàng hóa;

Trang 1/5

Page 48: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

• Một trong các chứng từ vận tải theo quy định tại Điều 73 Luật Hàng hải Việt Nam như sau: Vận đơn, Vận đơn suốt đường biển, giấy gửi hàng đường biển, hoặc các chứng từ khác (chứng từ do người vận chuyển và người thuê vận chuyển thoả thuận về nội dung, giá trị)

Sau đây các chứng từ này được gọi là “Chứng từ Bắt buộc” Yêu cầu nộp chứng từ gây phiền hà • Chứng từ Sở hữu Xét đến số lượng Vận đơn phát sinh từ các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng tại Việt Nam, có thể lên tới 100.000 bản mỗi năm, và thực tế rằng thường có nhiều con tàu tham gia vào quá trình chuyên chở hàng hóa từ Việt Nam đến nước đến cuối cùng, càng nhiều con tàu tham gia vào quá trình này, càng nhiều giấy tờ phải cung cấp. Các công ty vận tải biển phải liên hệ với các văn phòng nước ngoài, truy dấu con tàu, và thu thập đúng các chứng từ cho mục đích kê khai thuế tại Việt Nam. Thông thường chúng tôi phải mất từ 60 đến 90 ngày mỗi năm chỉ để thu thập các Chứng từ Sở hữu cho mỗi bộ hồ sơ xin miễn thuế theo Hiệp định Thuế.

Với hàng ngàn bản sao Chứng từ Sở hữu mà chúng tôi phải lưu giữ, có thể thấy rằng cơ quan thuế Việt Nam đang tạo ra một gánh nặng quá sức và phiền hà đối với hoạt động kinh doanh của các công ty vận tải biển tại Việt Nam chỉ nhằm một mục đích vốn không đủ cơ sở về mặt khuôn khổ pháp lý theo các Hiệp định Thuế.

Cụ thể, chúng tôi đề cập đến trường hợp của các hãng hàng không quốc tế, là đối tượng có thu nhập được điều chỉnh bởi chính những quy định trong Hiệp định Thuế áp dụng cho thu nhập của các hãng vận tải biển quốc tế1. Trong khi vận tải biển và vận tải hàng không có cùng bản chất hoạt động kinh doanh, vận tải hàng không được miễn nghĩa vụ cung cấp các chứng từ tương tự như Chứng từ Sở hữu mà các công ty vận tải biển phải cung cấp. Khác biệt này tạo ra sự thiếu nhất quán về mặt chủ trương chính sách, tạo ra sự phân biệt đối xử thiếu cơ sở giữa các công ty vận tải biển quốc tế và các hãng hàng không quốc tế.

Thêm nữa, với mỗi con tàu đến (và khởi hàng từ) Việt Nam, chúng tôi cũng phải cung cấp các giấy tờ về con tàu bao gồm Giấy chứng nhận đăng ký tàu biển cho Cục Hàng hải Việt Nam.2

Trong nhiều trường hợp, vấn đề còn trở nên nghiêm trọng hơn khi bất kể mọi nỗ lực bỏ ra, các công ty tàu biển vẫn không thể truy dấu và thu thập đúng các Chứng từ Bắt buộc từ các bên thuê tàu liên quan để đáp ứng được Quy định này.

• Hợp đồng Vận tải Hàng hóa Chúng tôi nhận thấy khía cạnh chứng từ của Quy định này là một sự rườm rà do có sự chồng chéo giữa các Chứng từ Bắt buộc. Trong hoạt động vận tải quốc tế, vận đơn là chứng từ do công ty vận tải biển phát hành nhằm ba mục đích: (i) bằng chứng nhận hàng chuyên chở; (ii) bằng chứng hợp đồng chuyên chở; (iii) chứng từ xác lập quyền sở hữu. Do vậy, quy định về hợp đồng vận tải hàng hóa là không cần thiết do Vận đơn trên thực tế đã giữ vai trò này.

Luật Hàng hải Việt Nam cũng đã công nhận ba vai trò này của Vận đơn.3

1 Điều khoản về Vận tải biển và Hàng không trong các Hiệp định Thuế 2 Khoản 2d. Điều 54. Nghị định 21/2012/ND-CP ngày 21/3/2012 về Quản lý Cảng biển và luồng hàng hải 3 Điều 73.2 Luật Hàng hải Việt Nam

Trang 2/5

Page 49: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

• Một trong các chứng từ vận tải theo quy định tại Điều 73 Luật Hàng hải Việt Nam như sau: Vận đơn, Vận đơn suốt đường biển, giấy gửi hàng đường biển, hoặc các chứng từ khác (chứng từ do người vận chuyển và người thuê vận chuyển thoả thuận về nội dung, giá trị)

Xét đến số lượng Vận đơn có thể lên tới 100.000 bản mỗi năm, và thời gian trung bình một phút cho việc truy xuất thông tin từ hệ thống và in ấn mỗi bản Vận đơn, chúng tôi mất 100.000 phút hoặc 1.667 giờ hoặc 208 ngày làm việc mỗi năm để cung cấp đầy đủ các Vận đơn.

Bên cạnh đó, với mỗi chuyến hàng xuất khẩu, chúng tôi đã nộp Bản khai hàng hóa điện tử (E-Manifest) cho cơ quan hải quan với các thông tin đầy đủ như thể hiện trong Vận đơn. Sau cùng, do Việt Nam đã và đang thực thi mạnh mẽ chính sách ký kết Hiệp định Thuế với các đối tác thương mại quan trọng, mà phần lớn các công ty vận tải biển quốc tế đều là đối tượng cư trú của các đối tác này, việc chứng minh điều hành trực tiếp tàu không cấu thành ý nghĩa cơ sở thực thi pháp lý do tất cả hàng hóa cuối cùng đều phải được vận chuyển bởi một hãng tàu, bất kể sự liên quan phức tạp của nhiều pháp nhân khác nhau bao gồm các đại lý tàu biển trong quá trình vận chuyển hàng. Do đó, bằng chứng điều hành trực tiếp tàu cho thấy sự thiếu cơ sở và không phù hợp với xu hướng phát triển hoạt động kinh doanh thực tế, cũng như chính sách đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ Việt Nam. Tác động của các yêu cầu này Sự trùng lặp như nêu trên đã biến Quy định mới này từ một giải pháp cải cách thành một trở ngại nữa cho hoạt động kinh doanh của các công ty vận tải biển quốc tế với một số hạn chế đến môi trường thương mại và đầu tư của Việt Nam như sau: (i) Quy định này ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Việt Nam do làm tăng giá thành Trên thực tế, việc đáp ứng Quy định này là một quá trình tốn kém về thời gian và chi phí do phải bố trí nhân lực và tài chính để tìm và lưu trữ các Chứng từ Bắt buộc. Với khối lượng hàng hóa thương mại quốc tế ngày càng tăng, các quy định này đã tạo ra khối lượng công việc lớn, tạo nên một rào cản chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam xuất khẩu do làm tăng giá cước vận chuyển từ Việt Nam. Thực tế này rõ ràng đang làm giảm đi các nỗ lực thực sự của Chính phủ Việt Nam dành cho việc đàm phán và ký kết các hiệp định tự do thương mại nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế. (ii) Quy định này tạo ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế của Việt Nam Như đã giải thích ở trên, sự trùng lặp giữa các Chứng từ Bắt buộc khiến cho Quy định này trở thành một yêu cầu thiếu cơ sở do đặt ra yêu cầu cung cấp chứng từ trên mức cần thiết để đáp ứng các quy định pháp lý. Theo Điều VI.1 Các quy định Nội địa trong Hiệp định về Thương mại Dịch vụ của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, mỗi Thành viên sẽ đảm bảo các quy định áp dụng chung có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ phải được quản lý một cách có cơ sở, khách quan, và công bằng. Với những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng yêu cầu về Chứng từ Bắt buộc là không có cơ sở, do đó vi phạm các cam kết của Việt Nam trong WTO.

Trang 3/5

Page 50: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Hơn thế nữa, Việt Nam, cùng các nước thành viên khác của WTO, đã ký kết Hiệp định về Thuận lợi hóa Thương mại năm 2013. Mặc dù không trực tiếp điều chỉnh các khía cạnh thuế trong khuôn khổ Hiệp định Thuế, Hiệp định này có thể được hiểu là cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc tạo điều kiện cho quá trình di chuyển của các dòng hàng hóa thương mại. Các công ty vận tải biển đóng vai trò là sự kết nối không thể thiếu trong thương mại quốc tế, do đó họ nên được hưởng lợi từ những cam kết như vậy để có thể đóng góp một cách hiệu quả hơn vào quá trình phát triển thương mại quốc tế tại Việt Nam. Hơn nữa, tại văn bản Hiệp định Thuế cụ thể được ký riêng biệt giữa Việt Nam với Singapore, hoặc với Đan Mạch, đều có nội dung “Không Phân Biệt Đối Xử” (Khoản 1, Điều 25; hoặc Điều 26, tương ứng với mỗi Hiệp định Thuế đã nêu), cụ thể như sau: “ĐIỀU 25: KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ 1/ Những đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hay bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hay nặng hơn hình thức đánh thuế và các yêu cầu liên quan đang có thể áp dụng cho các đối tượng mang quốc tịch của Nước ký kết kia trong cùng những hoàn cảnh như nhau.” Như vậy, Quy định này áp dụng chưa phù hợp với điều khoản quy định tại Hiệp định Thuế khi các nước tham gia Hiệp định Thuế với Việt Nam không áp dụng như Quy định của Việt Nam như đã nêu tại Đề án 30 trước đây. (iii) Quy định này ảnh hưởng đến hình ảnh môi trường đầu tư tại Việt Nam Là các công ty vận tải biển quốc tế, chúng tôi có hoạt động kinh doanh trên toàn thế giới. Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy Quy định này là rất khác biệt. Đối với mục đích miễn thuế theo Hiệp định Thuế, hầu hết các quốc gia trên thế giới chỉ yêu cầu giấy chứng nhận cư trú thuế. Tại một số nước trong khối ASEAN, như Thái Lan, Malaysia, và Singapore, các công ty vận tải biển không buộc phải nộp bất kỳ giấy tờ nào trong số các Chứng từ Bắt buộc, hoặc bất kỳ chứng từ vận chuyển nào bao gồm Vận đơn / Bản khai hàng hóa. Thay vào đó, các công ty vận tải biển chỉ phải nộp bản tự khai về hàng hóa vận chuyển thuộc đối tượng được miễn thuế theo Hiệp định Thuế, và giấy phép kinh doanh. Trong văn bản đề xuất của Đề án 30 trước đây và các đề xuất nhằm đơn giản hóa thủ tục miễn thuế theo Hiệp định Thuế trong năm 2013, chúng tôi đã cung cấp các quy trình áp dụng tại các nước khác khi áp dụng Hiệp định Thuế. Các quy trình này đơn giản hơn nhiều và hỗ trợ rõ rệt cho các công ty vận tải biển chứng minh tư cách của mình nếu họ là đối tượng được hưởng lợi ích thuế từ Hiệp định Thuế. Đánh giá vấn đề này dưới góc độ thủ tục hành chính cho thấy những bất lợi về tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh nếu các nội dung đã nêu trên không được đáp ứng tương thích. Một khi loại bỏ được Quy định này, Việt Nam sẽ có thể tăng cường năng lực quản lý thuế và củng cố khả năng cạnh tranh của mình. Đề xuất Cải cách Với mục đích trên, chúng tôi trân trọng đề nghị quý Cơ quan, với tư cách là đơn vị hỗ trợ quá trình thuận lợi hóa kinh doanh, đề cập đến vấn đề này với các cơ quan liên quan của Chính phủ Việt Nam nhằm cải cách thủ tục hành chính đối với việc thực thi các cam kết miễn thuế cước vận chuyển trong các Hiệp định Thuế. Cụ thể, với mục đích xác minh việc điều hành tàu, chúng

Trang 4/5

Page 51: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm công tác Thương mại và Đầu tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

tôi kính đề nghị sửa đổi danh mục Chứng từ Bắt buộc để cân bằng giữa nhiệm vụ quản lý nhà nước và sự thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các công ty vận tải biển như sau: • Chứng từ chứng minh doanh nghiệp là công ty vận tải biển quốc tế (Giấy chứng nhận đăng

ký kinh doanh / Giấy phép kinh doanh của công ty vận tải biển); và • Chứng từ chứng minh doanh nghiệp là đối tượng cư trú thuế của nước ký kết Hiệp định

Thuế với Việt Nam (Chứng nhận cư trú thuế); Các bước tiếp theo Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực Việt Nam đã thực hiện trong quá trình cải cách hành chính và trân trọng đề nghị các bộ ngành liên quan của Chính phủ xem xét và đánh giá kỹ lượng các đề xuất nêu trên. Chúng tôi tin tưởng rằng những cải cách này sẽ có tác dụng tái khẳng định với cộng đồng doanh nghiệp về cam kết của Việt nam trong việc thực thi có hiệu quả các cam kết trong các Hiệp định Thuế, theo hướng phù hợp với việc tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh cho các công ty vận tải biển quốc tế, và các nhà sản xuất và thương nhân có trụ sở tại Việt Nam.

Trang 5/5

Page 52: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THUẾ

Trình bày Bà Hương Vũ

Trưởng Tiểu Nhóm Thuế

1. Điều khoản về bảo hành trong hợp đồng cung cấp hàng hóa của Nhà thầu nước ngoài Vấn đề: Thông tư 60/2012/TT-BTC quy định trường hợp Nhà thầu nước ngoài cung cấp hàng hóa, máy móc thiết bị có kèm theo các dịch vụ tiến hành tại Việt Nam như lắp đặt, chạy thử, bảo hành, .. (bao gồm cả trường hợp dịch vụ kèm theo miễn phí), kể cả trường hợp việc cung cấp các dịch vụ nêu trên có hoặc không nằm trong giá trị của hợp đồng cung cấp hàng hóa thì thu nhập chịu thuế Nhà thầu là toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ. Theo đó, hiện nay các cơ quan thuế đang xử lý tính thuế nhà thầu đối với các hợp đồng cung cấp hàng hóa, máy móc thiết bị có kèm điều khoản bảo hành. Bất cập: Quy định này cần được xem xét lại bởi những bất cập sau: • Việc đánh thuế nhà thầu vào hàng hóa, máy móc thiết bị cung cấp có kèm theo điều kiện

bảo hành là lạm thu bởi thực tế bảo hành là điều khoản hầu như bắt buộc đối với bất kỳ hợp đồng cung cấp hàng hóa nào theo thông lệ quốc tế nhằm bảo về quyền lợi của bên mua, cũng là khẳng định chất lượng sản phẩm của bên bán không phải là dịch vụ cung cấp bổ sung và không thể tách riêng được giá trị bảo hành.

• Nếu đánh thuế nhà thầu với tất cả các hợp đồng thương mại có kèm điều kiện bảo hành thì sẽ đi ngược với thông lệ quốc tế, không đảm bảo quyền lợi cho người mua là các doanh nghiệp trong nước, và có thể nói là Việt Nam đã có ý định đánh thuế nhà thầu đối với tất cả các trường hợp cung cấp hàng hóa, máy móc thiết bị vào Việt Nam, trong đó sẽ có rất nhiều máy móc thiết bị Việt Nam chưa thể sản xuất được, theo đó không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện đại hóa nền công nghiệp Việt Nam, không nâng cao tính hiệu quả dẫn đến kém cạnh tranh trong khu vực..

Kiến nghị: Bộ Tài chính nên thảo luận cùng các cục thuế địa phương/tổng cục thuế để nhìn nhận đúng nghĩa của “dịch vụ”; phân biệt giữa quy định về điều khoản cam kết bảo hành miễn phí trong hợp đồng và dịch vụ bảo hành có thu phí được cung cấp theo hợp đồng, theo đó quy định trường hợp cung cấp máy móc thiết bị có kèm theo điều khoản bảo hành nhưng không đi kèm dịch vụ nào khác tiến hành tại Việt Nam thì không thuộc đối tượng chịu thuế nhà thầu. 2. Chi phí liên quan đến hợp đồng dịch vụ ký với công ty mẹ Vấn đề: Quy định hiện hành không có hướng dẫn cụ thể cho việc xử lý các chi phí liên quan đến hợp đồng dịch vụ ký với công ty mẹ của các công ty trong tập đoàn đa quốc gia, dẫn đến thực tế là khi cơ quan thuế kiểm tra thường có cách xử lý không nhất quán và có những đòi hỏi vô lý đối với doanh nghiệp. Đơn cử đối với mỗi lần được cung cấp dịch vụ, cơ quan thuế yêu cầu công ty phải lưu trữ văn bản nghiệm thu trong đó phải thể hiện đã cung cấp dịch vụ gì, vào ngày, giờ nào, dịch vụ này đóng góp vào doanh thu của công ty như thế nào mặc dù trong bản hợp đồng

Trang 1/4

Page 53: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

đã quy định rõ bên cung cấp sẽ cung cấp những dịch vụ gì, và bản thân những dịch vụ đó thực sự cần thiết cho hoạt động kinh doanh của Công ty Việt Nam, dịch vụ đó có thể cung cấp qua điện thoại, email,.. thậm chí doanh nghiệp có chụp hình ảnh đối với một số dịch vụ như dịch vụ đào tạo có kèm chi tiết chương trình nhưng cũng đã không được cơ quan thuế chấp nhận. Bất cập: Chúng tôi cho rằng, các công ty con của Việt Nam chỉ là một phần của chuỗi kinh doanh trong Tập đoàn, vì thế dù muốn hay không, các công ty con cũng không thể tự lập trong tất cả quy trình quản lý, kinh doanh mà phải tuân thủ những quy chuẩn đã được xác lập và thực hiện hàng chục, thậm chí hàng trăm năm của Tập đoàn. Là một doanh nghiệp hoạt động độc lập tại Việt Nam, bản thân các công ty con khi sử dụng các hệ thống quản lý, các dịch vụ được đầu tư bởi Tập đoàn để sử dụng chung cho toàn hệ thống thì phải chịu phần chi phí tương ứng với mức độ/giá trị được sử dụng cho Công ty con tại Việt Nam là hết sức phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo công bằng, cũng là theo nguyên tắc khi ghi nhận doanh thu phải ghi nhận đầy đủ chi phí tương ứng, trên thực tế, có thể nói là những chi phí của công ty con trả cho những dịch vụ mà Tập đoàn cung cấp thưc sự mang lại lợi ích kinh tế và phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Tuy nhiên dường như cơ quan thuế đang có cái nhìn khắt khe đối với những chi phí này và luôn nghi ngờ đây chỉ là hình thức chuyển giá. Kiến nghị: Để phản ánh và có sự nhìn nhận đúng đắn đối với những chi phí của công ty con trả cho những dịch vụ mà Tập đoàn cung cấp, đề nghị Chính phủ, Bộ Tài chính cần đưa ra những hướng dẫn cụ thể hơn đối với việc quản lý chi phí này, đặc biệt là những chuẩn mực về tài liệu, chứng từ cần thiết mà doanh nghiệp phải có để thể hiện những chi phí này thực sự là chi phí được trừ của doanh nghiệp. 3. Xác định trước trị giá hải quan cho hàng hóa nhập khẩu

Vấn đề: Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2012 bổ sung khoản 12 Điều 5 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 về xác định trước mã số hàng hóa, trị giá hải quan và xuất xứ hàng hóa xuất, nhập khẩu, Thông tư 128/2013/TT-BTC ngày 10 tháng 9 năm 2013 đã quy định chi tiết các nội dung này tại các Điều 7 (xác định trước mã số hàng hóa), Điều 8 (xác định trước trị giá hải quan), và Điều 9 (xác định trước xuất xứ hàng hóa xuất, nhập khẩu). Mặc dù được hiểu rằng các quy định này là một trong những biện pháp nhằm thúc đẩy thương mại, bên cạnh những quy định rõ ràng và có thể thực hiện được liên quan đến việc xác định trước mã số và xuất xứ hàng hóa, những hướng dẫn về xác định trước trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu, trái lại, gây khó khăn cho quá trình thực hiện. Xác định trước trị giá hải quan gồm hai trường hợp: (i) xác định trước phương pháp xác định trị giá và (ii) xác định trước mức giá. Bất cập: • Về điều kiện áp dụng:

- Trường hợp (i), chỉ được đề nghị xác định trị giá trước đối với hàng hóa mà doanh nghiệp chưa từng nhập khẩu hàng hóa giống hệt với hàng hóa đó. Quy định này không

Trang 2/4

Page 54: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

hợp lý ở chỗ, cùng một loại hàng nhập khẩu, thậm chí là giao dịch giữa cùng người mua và người bán nhưng trong những điều kiện mua bán khác nhau (ví dụ, các yếu tố điều chỉnh về quãng đường vận chuyển, về các khoản điều chỉnh cộng, các yếu tố là điều kiện của giao dịch) có thể dẫn đến phương pháp xác định trị giá hải quan khác nhau.

- Trường hợp (ii), ngoài điều kiện về tuân thủ pháp luật tốt, doanh nghiệp chỉ được đề nghị xác định trước mức giá cho từng lô hàng (giao hàng một lần cho toàn bộ hàng hóa thuộc hợp đồng mua bán đang xem xét) đã được thanh toán theo phương thức LC. Giới hạn về việc giao hàng và điều kiện thanh toán xong cho toàn bộ lô hàng đang đề nghị xác định trước mức giá không chỉ không phù hợp với thực tiễn thương mại vốn sẵn tính đa dạng mà còn mâu thuẫn với Luật Thương mại cho phép doanh nghiệp được tự do thỏa thuận về giao hàng và phương thức thanh toán. Ngoài ra, quy định này vô hình trung còn tạo ra sự phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu theo các phương thức thanh toán và giao hàng khác nhau.

• Về hồ sơ: Trường hợp (i) chỉ nêu ra yêu cầu chung về hồ sơ (vd. chứng từ, tài liệu chứng minh mối quan hệ đặc biệt không ảnh hưởng đến trị giá giao dịch; chứng từ, tài liệu liên quan đến các khoản điều chỉnh cộng/ điều chỉnh trừ; v.v) mà không quy định rõ loại chứng từ, tài liệu nào cần nộp cho cơ quan hải quan. Trường hợp (ii) đòi hỏi doanh nghiệp phải xuất trình được chứng từ thanh toán theo phương thức LC. Quy định không rõ ràng hoặc hạn chế về mặt hồ sơ có thể gây nên những cách hiểu khác nhau giữa hải quan và doanh nghiệp, dẫn đến việc chậm hoàn thiện hồ sơ và câu trả lời chính thức từ phía cơ quan hải quan.

• Xử lý tại khâu thông quan: Mục đích cũng như lợi ích của việc xác định trước trị giá hải quan không được làm rõ nên việc sử dụng Thông báo kết quả xác định trước trị giá (mặc dù được quy định tại khoản 5 Điều 8 thông tư 128 là “cơ sở để khai báo Tờ khai trị giá tính thuế và được nộp cùng với hồ sơ hải quan khi làm thủ tục hải quan”) không mang lại hiệu quả mong muốn. Với văn bản thông báo này, doanh nghiệp vẫn có nguy cơ bị cơ quan hải quan kiểm tra, chất vấn về mức giá kê khai tại giai đoạn thông quan và có thể phải yêu cầu thực hiện tham vấn về trị giá để bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Như vậy, quy trình thông quan không hề được rút ngắn hay đơn giản hơn so với việc không có Thông báo kết quả xác định giá trước.

Kiến nghị: • Quy định rõ việc xác định trước trị giá có thể áp dụng cho một hợp đồng khung bao gồm

hàng hóa được giao thành nhiều chuyến và thực hiện thanh toán qua ngân hàng/ không bằng tiền mặt.

• Quy định về tài liệu cần nộp ở mức độ chi tiết nhất có thể để tránh cách hiểu và thực hiện không thống nhất.

• Quy định rõ Thông báo kết quả xác định trước trị giá sẽ được sử dụng để kê khai và xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại khâu thông quan, tránh làm mất thời gian của cả hai phía. Doanh nghiệp sẽ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có bất kỳ thay đổi nào đối với giao dịch đề nghị xác định trước trị giá mà không thông báo với cơ quan hải quan kịp thời.

Trang 3/4

Page 55: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề về thuế Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

4. Giá tính thuế đơn vị sản phẩm tài nguyên đổi với tài nguyên xuất khẩu

Vấn đề: Căn cứ quy định tại Thông tư số 105/2010/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật thuế tài nguyên, giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên thể hiện trên chứng từ bán hàng. Bất cập: • Về nguyên lý, giá tính thuế tài nguyên phải là giá của tài nguyên nguyên khai. • Trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng bán tài nguyên nguyên khai ngay sau khi

khai thác. Rất nhiều các doanh nghiệp khai thác tài nguyên phải đầu tưrất lớn các loại dây chuyền máy móc thiết bị để sản xuất sản phẩm mới/tăng hàm lượng của sản phẩm

• Theo đó, việc xác định giá tính thuế tài nguyên theo giá bán ra thị trường là không hợp lý và bất cập, cũng không phù hợp với đạo lý thuế tài nguyên.

Kiến nghị: Đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc đề xuất hướng dẫn giá tính thuế tài nguyên đảm bảo theo nguyên tắc giá bán đơn vị sản phẩm khai thác, nghĩa là không bao gồm các chi phí doanh nghiệp phải bỏ thêm trong quá trình sản xuất, chế biến sâu, bán hàng. Hoặc cân nhắc quy định chi tiết giá tính thuế tài nguyên của từng đơn vị sản phẩm tương tự như đối với Thuế bảo vệ tài nguyên môi trường.

Trang 4/4

Page 56: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Khoáng sản

Page 57: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

XÂY DỰNG NỀN CÔNG NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN VỮNG MẠNH, HIỆN ĐẠI – TĂNG ĐẦU TƯ BẰNG CÁCH GIẢM THUẾ TÀI NGUYÊN

Chuẩn bị bởi

Ông Bill Howell Nhóm Công tác Khoáng sản

Xin thay mặt cho Nhóm công tác Khoáng sản và dựa trên những kinh nghiệm của bản thân hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản ở rất nhiều quốc gia đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam, trong vòng hơn 45 năm qua, tin tốt lành là trữ lượng tài nguyên của Việt Nam được biết đến đang giảm dần; tuy nhiên, những lượng khoán sản được khai thác chỉ là một phần nhỏ trong nguồn tài nguyên của quốc gia. Điều này là do việc khám phá và khai thác tài nguyên khoáng sản từ trước tới nay, trừ một số dự án khai thác than và than-ga, chủ yếu bị giới hạn ở độ sâu 100-200m bằng việc sử dụng nhiều công nghệ và biện pháp đã lỗi thời và gây lãng phí. Dưới độ sâu này còn rất nhiều các nguồn tài nguyên có giá trị mà đang chờ được khám phá. Việc khai thác các tài nguyền còn nằm sâu trong lòng đất này phải cần đến các thiết bị và công nghệ kỹ thuật hiện đại, tiên tiến mà đang chưa có ở Việt Nam. Thật đáng tiếc là những khoản đầu tư lớn và cần thiết để đưa các bí kíp và công nghệ hiện đại này chưa được đưa vào thị trường Việt Nam là bởi nhiều lí do, phần lớn do các khoản thuế và phí khoáng sản cao hơn từ 2-5 lần mức trung bình của thế giới. Thuế suất thuế tài nguyên được tính trên giá trị tổng doanh thu của các khoáng sản được sản xuất, như cách tính ở các quốc gia khác, vì vậy nó sẽ gây ảnh hưởng lớn đến khả năng kinh tế của hoạt động khai thác khoáng sản nếu như thuế suất quá cao, bởi chi phí sản xuất không được tính trong thuế. Ngoài ra, việc các loại thuế và phí chồng chéo đã góp phần đưa Việt Nam đứng vị trí thứ 95 trên tổng số 96 nước/vùng lãnh thổ được khảo sát vòng quanh thế giới bởi Viện Fraser uy tín của Canada. Điều này đã khiến Việt Nam trở thành một trong những quốc gia kém hấp dẫn nhất trên thế giới để đầu tư kinh phí thăm dò và khai thác khoáng sản vốn đầy rủi ro. Không giống như các quốc gia ASEAN khác, ở Việt Nam hiện tại không có các công ty nước ngoài lớn đầu tư trong lĩnh vực khai khoáng và chỉ có một số lượng nhỏ các công ty Việt Nam có thẩm quyền khai thác. Thay vào đó, những gì chúng tôi đang nhìn thấy là hầu hết các hoạt động khai khoáng hiện tại đang bị buộc phải giảm quy mô hoạt động, đóng cửa hoặc phải chấp nhận sử dụng các biện pháp thiếu an toàn và không thân thiện với môi trường để cắt giảm chi phí và thậm chí đang phải báo cáo thấp hơn sản lượng thực tế để có thể duy trì hoạt động. Hơn nữa, thuế cao đánh trên các sản phẩm tài nguyên khuyến khích và làm gia tăng tình trạng khai thác bất hợp pháp và làm thoái hóa nguồn khoáng sản hàm lượng cao hiện có của Việt Nam do hoạt động khai thác chọn lọc tập trung vào các khu vực có hàm lượng cao. Hậu quả sẽ là một tỷ lệ đáng kể nguồn tài nguyên khoáng sản của Việt Nam sẽ không thể được khôi phục do:

Trang 1/2

Page 58: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2013

a) có thể biến mất do phương pháp khai thác lạc hậu hoặc b) bị bỏ lại trong lòng đất vĩnh viễn bởi việc quay lại chỉ để khai thác lượng khoáng sản hàm

lượng thấp còn lại là không khả thi về mặt kinh tế Việc áp các loại thuế và phí cao lên ngành khai khoáng đang có ảnh hưởng tiêu cực và đi ngược lại kế hoạch của Bộ Tài chính trong việc cố gắng tăng nguồn thu cho ngân sách của Chính phủ. Thay vì tăng nguồn thu ngân sách, các chính sách không thực tế và thiếu tính khả thi về mặt kinh tế này sẽ làm giảm các hoạt động đầu tư hợp pháp vào ngành khai khoáng và vì vậy giảm doanh thu cho Chính phủ và các cộng đồng tại địa phương từ hoạt động khai thác khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam thuộc sở hữu của Việt Nam. Tuy nhiên trong bối cảnh Việt Nam đang chuẩn bị để tham gia và các Hiệp định thương mại thế hệ mới, chúng tôi xin khẩn thiết đề nghị Chính phủ có các biện pháp để cải thiện niềm tin của nhà đầu tư vào ngành công nghiệp khoáng sản của Việt Nam bằng cách giới thiệu một cơ chế liên quan đến tài chính thân thiện với nhà đầu tư và có tính cạnh tranh so với các nước khác. Điều này sẽ thu hút đầu tư vào các phương pháp thăm dò, khai thác, và chế biến khoáng sản tốt nhất trên thế giới để tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư, Chính phủ và các cộng đồng có liên quan đồng thời tối đa hóa hiệu quả khai thác trong khi giảm thiểu tối đa các vấn đề liên quan đến sức khỏe, an toàn và tổn hại môi trường mà thực tế đang diễn ra. Điều này sẽ giúp Việt Nam quản lý tốt hơn và xây dựng nguồn dự trữ tài nguyên có giá trị bằng cách thu hút đầu tư vào các phương pháp thăm dò, khai thác, và chế biến khoáng sản tốt nhất trên thế giới nhằm:

a) tối đa hóa hiệu quả khai thác; b) tối đa hóa lợi nhuận cho , Chính phủ, nhà đầu tư và các cộng đồng có liên quan; c) giảm thiểu tối đa các vấn đề liên quan đến sức khỏe, an toàn và tổn hại môi trường mà

thực tế đang diễn ra tại nhiều cơ sở khai thác mỏ công nghệ thấp. Các biện pháp khai thác khoáng sản hiện đại cũng là một trong những nhân tố tiên phong đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng ở các khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa là nơi mà các mỏ khoáng sản được khám phá, thăm dò, đây là một thực tế đã được chứng minh ở các quốc gia khác. Do đó, Việt Nam hiện tại có thể đạt được rất nhiều mục tiêu bằng cách đưa ra các ưu đãi, khuyến khích đầu tư và xin đảm bảo rằng hoạt động khai khoáng tuân theo các tiêu quẩn quốc tế với công nghệ cao sẽ trở thành một bộ phận chủ chốt của nền kinh tế, và đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng của Việt Nam.

Trang 2/2

Page 59: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Lao động

Page 60: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO CỦA TIỂU NHÓM NHÂN SỰ

Trình bày Ông Colin Blackwell Tiểu nhóm Nhân Sự

Trước tiên Tiểu nhóm Nhân sự xin chân thành cảm ơn Bộ Lao động và Thương Binh Xã Hội vì những sự hợp tác quý báu mà Quý Bộ đã dành cho Tiểu nhóm và cộng đồng doanh nghiệp nói chung. Chúng tôi cũng xin phép đưa ra và đi sâu vào một số vấn đề mà đang nhận được sự quan tâm và xem xét hỗ trợ giải quyết của Qúy Bộ. 1. Vấn đề Giấy phép lao động Về việc thực hiện Thông tư số 03/2013/TT-BLĐTBXH, chúng tôi xin được đưa ra một số thông tin phản hồi cũng như nhấn mạnh các vấn đề thường xuyên diễn ra khác mà các thành viên của Nhóm đã gặp phải: Nhóm xin kiến nghị yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với chuyên gia là bằng đại học (hoặc cao hơn), hoặc chứng chỉ nghề chứng nhận chuyên gia, hoặc có 5 năm kinh nghiệm làm việc. Ví dụ, một kỹ sư Hàn Quốc có thể là một chuyên gia quan trọng trong quá trình sản xuất thiết bị, nhưng có dưới 5 năm kinh nghiệm. Định nghĩa hiện nay không thực sự rõ ràng và dẫn đến nhiều hồ sơ của các chuyên gia có trình độ và kỹ năng mà hiện chưa có tại Việt Nam đã bị từ chối. Một mối quan tâm khác liên quan đến trường hợp đặc biệt của các giáo viên giảng dậy tiếng Anh. Đối với ngành mang tính đặc thù này, chứng chỉ được quốc tế công nhận cần được chấp nhận thay cho bằng cấp hoặc 5 năm kinh nghiệm làm việc. Cần phải chú ý rằng việc các giáo viên giảng dậy Tiếng Anh gia nhập thị trường lao động tại Việt Nam là do nhu cầu của thị trường đối với sự thành thạo và trình độ ngôn ngữ tương đương/hoặc bản xứ của họ mà không một giáo viên trong nước nào có thể làm được. Việc có một đội ngũ giáo viên ngoại ngữ lớn tại Việt Nam sẽ đem lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế, và khuyến khích đầu tư nước ngoài. Vì vậy, kính mong Quý Bộ xem xét đến thực tế này và đưa ra quy định phù hợp. Từ khi thông tư mới có hiệu lực, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tại Hà Nội và Bắc Ninh yêu cầu các cá nhân đăng ký giấy phép lao động, mà có mặt tại Việt Nam chỉ một vài ngày trước khi nộp hồ sơ xin cấp giấy phép lao động, phải có Phiếu lý lịch tư pháp tại địa phương ngoài Phiếu lý lịch tư pháp tại nước ngoài. Quy định này không áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khác. Việc yêu cầu phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài mới đến Việt Nam chỉ trong vòng một vài ngày dường như không hợp lý và nguyên nhân có thể do một vài Sở Lao động diễn giải không chính xác về Thông tư 03. Hơn nữa, chúng tôi muốn nhấn mạnh vấn đề không phù hợp mà các công ty đa quốc gia phải đối mặt khi gửi nhân viên nước ngoài đến Việt Nam trong một thời gian ngắn để thực hiện các công việc như cung cấp đào tạo cho các pháp nhân trong nước hoặc nhà thầu, thực hiện kiểm toán nội bộ tại công ty hoặc tại trụ sở của nhà thầu, lắp đặt thiết bị cụ thể, v..v.. Rất không thực tế khi yêu cầu người nước ngoài phải nộp hồ sơ xin giấy phép lao động trong khi thủ tục hành chính rườm rà, thời hạn xử lý hồ sơ lâu trong khi thời gian công tác tại Việt Nam của họ ngắn, thậm chí chỉ một vài ngày. Vì vậy, chúng tôi kính đề nghị bổ sung lao động nước ngoài thực hiện “công việc diễn ra trong thời gian ngắn” như trên vào danh mục người nước ngoài không thuộc diện cấp phép lao động và không phải báo cáo với Sở Lao động địa phương.

Trang 1/3

Page 61: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

2. Làm thêm giờ Việt Nam cần phải đảm báo tính cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế đối với các hoạt động kinh doanh và sản xuất mới. Tuy nhiên, giới hạn làm thêm giờ hiện nay tại Việt Nam là dưới mức trung bình của thế giới và điều này góp phần làm giảm bớt tính cạnh tranh của Việt Nam. Dưới đây là bảng tóm tắt giờ làm thêm tối đa được pháp luật cho phép tại các quốc gia:

Quốc gia Giờ làm thêm theo năm Trung Quốc 1872 Thái Lan 1872 Malaysia 1248 Singapore 864 Đức 624 Pháp 468 Việt Nam 300

Trong thực tế, hầu hết các công ty đang cần thêm giờ làm để thích ứng linh hoạt với những kế hoạch kinh doanh và khối lượng công việc trong những hoàn cảnh cụ thể. Quy định này mặt khác cũng gây bất lợi cho những nhân viên tự nguyện làm thêm giờ để có thêm thu nhập. Vì vậy, chúng tôi xin đề nghị giới hạn giờ làm thêm ở mức 800 giờ cho tất cả các ngành công nghiệp và có thể lên đến 1200 giờ đối với một số ngành cụ thể. Một giải pháp, phương án thay thế cho quy định này được đề xuất bởi Phòng Thương mại Nhật Bản và được chứng minh rất thành công tại Nhật Bản là "Thỏa thuận Điều số 36” (Article 36 Agreement). Theo đó, các công ty, nhân viên và công đoàn thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện về một cơ chế làm thêm giờ khi cần thiết. Chúng tôi sẵn sàng cung cấp thêm thông tin cho Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về Thỏa thuận này nếu được yêu cầu. 3. Công đoàn Chúng tôi xin đề xuất về một khoản phí công đoàn rõ ràng và đơn giản hơn được thanh toán bởi các doanh nghiệp như sau: - Luật Công đoàn quy định: doanh nghiệp phải nộp 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo

hiểm xã hội cho người lao động. Điều này là trái với thông lệ quốc tế tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan v..v… Lý do, Công đoàn sẽ được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động và điều này là không hợp lý nếu buộc doanh nghiệp phải đóng kinh phí cho hoạt động của Công đoàn.

- Hiện nay, Tổng Liên đoàn Lao động quy định rằng: Công đoàn cơ sở phải trích nộp 35% phí công đoàn đóng bởi doanh nghiệp cho Công đoàn cấp trên. Điều này là không hợp lý vì: o Nếu phải trích nộp phí Công đoàn lên Công đoàn cấp trên thì khoản kinh phí này nên

được dùng cho việc tổ chức các hoạt động công đoàn cho người lao động. o Công đoàn cấp trên không có đủ nhân lực để thực hiện các hoạt động cho tất cả các

doanh nghiệp.

- Quy định 2% của các quỹ tiền lương là không hợp lý vì không có sự thống nhất về định nghĩa quỹ tiền lương giữa các doanh nghiệp.

- Hiện nay, các doanh nghiệp chưa thành lập Công đoàn đã nhận được yêu cầu nộp 2% quỹ

tiền lương cho Công đoàn cấp trên để thành lập Công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp này.

Trang 2/3

Page 62: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Điều này không hợp lý bởi vì Công đoàn cơ sở được thành lập dựa trên cơ sở tự nguyện của người lao động cho nên Công đoàn cấp trên không thể yêu cầu việc thành lập Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp.

4. Giáo dục và Đào tạo Đội ngũ lao động Việt Nam đã trở nên chuyên nghiệp hơn; tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách giữa các tiêu chuẩn giáo dục của Việt Nam với các nước phát triển. Tiêu chuẩn vàng của ngành giáo dục hiện nay là tập trung vào việc giảng dạy cá nhân để chấp nhận những sự khác biệt của sinh viên, ví dụ như tốc độ và phong cách học tập của họ. Viếc tiếp nhận những phương pháp giảng dạy để đáp ứng sự khác biệt của sinh viên sẽ đưa đến những kết quả tốt nhất trong học tập của sinh viên. Sinh viên Việt Nam hiện đang được yêu cầu phải thực hiện các chương trình học lặp đi lặp lại ở cùng một tốc độ như nhau bất kể năng lực hoặc khả năng của mỗi sinh viên. Vì vậy, nhiều học sinh đã không theo kịp chương trình học và những học sinh giỏi cũng không được thử thách và được hưởng nền giáo dục một cách phù hợp. Một phong cách giáo dục đã ăn sâu vào văn hóa dẫn đến một chuỗi các sự kiện mang tính chu kỳ là các thế hệ trước giảng dậy các thế hệ sau theo một cách giống nhau, không có sự cải tiến và cải thiện chất lượng. Phong cách giảng dạy này cũng ảnh hưởng đến hành vi của các cá nhân và dẫn đến một lực lượng lao động không có khả năng chủ động hoặc làm việc tích cực trong công việc. Một ví dụ đó là việc Phú Quốc đang nhanh chóng phát triển du lịch tại địa phương mình. Điều này là rất tốt cho nền kinh tế địa phương, nhưng đây cũng là thách thức đối với các khách sạn mới về việc tuyển dụng và đào tạo nhân viên (là những người mà trước đây là nông dân và ngư dân) để trở thành nhân viên chuyên nghiệp đẳng cấp quốc tế phù hợp với các khách sạn năm sao. Một ví dụ tương tự khác tại Đà Nẵng là việc tất cả các khách sạn đã đồng ý thực hiện theo một hệ thống đào tạo tiêu chuẩn chung. Những sáng kiến như thế này có thể được giới thiệu ở nhiều nơi hơn và sự đóng góp của chính phủ sẽ được hoan nghênh nhiều hơn. Một lần nữa chúng tôi xin cảm ơn Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tiếp thu rất nhiều những đề nghị từ Diễn đàn Doanh Nghiệp Việt Nam. Chúng tôi hi vọng Quý Bộ sẽ dành thời gian cho những buổi họp thảo luận về những vấn đề này một cách chi tiết hơn đồng thời tạo cơ hội cho các thành viên của Tiểu nhóm có thể đưa ra những vấn đề trọng yếu khác.

Trang 3/3

Page 63: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Chương III

NGÂN HÀNG & THỊ TRƯỜNG VỐN

Page 64: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Ngân hàng

Page 65: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

CHƯƠNG TRÌNH THẢO LUẬN DỰ KIẾN GIỮA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHÓM CÔNG TÁC NGÂN HÀNG – DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Chuẩn bị bởi

Nhóm Công tác Ngân hàng 1. Thông tư 05/2014/TT-NHNN, hướng dẫn mở, sử dụng tài khoản vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam Thông tư 05/2014/TT-NHNN ban hành ngày 12/3/2014 và có hiệu lực từ 28/4/2014. Trong quá trình chuẩn bị triển khai, chúng tôi đã gặp phải một số vướng mắc và xin trình bày như sau. Điều 5 quy định về hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các khoản 1 và 2 quy định điều kiện bổ sung là nhà đầu tư nước ngoài là người không cư trú, có hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam (gọi tắt là ‘nhà đầu tư nước ngoài’) không được tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, các ngân hàng hiện tại đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định thế nào là tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp và trong việc xác định liệu nhà đầu tư nước ngoài có tham gia trực tiếp vào việc quản lý, điều hành doanh nghiệp hay không, vì vậy kính đề nghị NHNN có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Khoản 1, Điều 7, Thông tư 05 không quy định tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài được sử dụng để nhận tiền lương, thưởng và các khoản thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, điểm b, Điều 14.2 Nghị định 160 lại có quy định này. Do Nghị định 160 hiện vẫn còn hiệu lực nên chúng tôi hiểu rằng tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài được ghi có những khoản nêu trên. Điểm a, Điều 9.2, Thông tư 05 quy định phải đóng tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài nếu nhà đầu tư nước ngoài không tiếp tục hoạt động đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, đồng thời số dư của tài khoản này phải chuyển sang tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng VND được mở theo đó. Tuy vậy, hiện chưa có quy định nào về nhận chuyển khoản, thanh toán trên tài khoản đầu tư trực tiếp bằng tiền đồng để ngân hàng thực hiện. Ngoài ra cũng chưa có quy định về việc doanh nghiệp có phải mở tài khoản vốn bằng ngoại tệ theo quy định tại Điều 11, Nghị định 160, cũng như liệu nhà đầu tư nước ngoài có được bán tiền đồng trong tài khoản đầu tư trực tiếp bằng tiền đồng để mua ngoại tệ nhằm góp vốn bằng ngoại tệ vào tài khoản vốn trên. Điểm b, Điều 9.2, Thông tư 05 quy định ngoài tài khoản đầu tư gián tiếp nước ngoài sử dụng cho hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được mở, sử dụng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo các quy định về quản lý ngoại hối trong đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và các quy định liên quan. Tuy nhiên, các quy định hiện nay về quản lý ngoại hối lại không đề cập gì về loại tài khoản này (mà chỉ có một số điều khoản về tài khoản vốn của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quy định của Nghị định 160). Kính đề nghị NHNN làm rõ điểm này. 2. Quy định về công khai báo cáo tài chính Theo Điều 14 Quyết định 16/2007/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng (“Quyết định 16”), các TCTD phải thực hiện công khai báo cáo tài chính tại nơi đặt trụ sở chính và các địa điểm hoạt động ; trên báo trung ương

Trang 1/5

Page 66: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 và địa phương ; trên website hoặc thô ng cáo báo chí , vv. Tuy nhiên, quy định chưa nêu rõ việc công khai này cần phải thực hiện dưới tất cả các hình thức công khai như đã đề cập ở trên , hay chỉ cần công khai bằng một trong các phương th ức này. Do việc công khai các báo cáo tài chính đôi khi là một vấn đề nhạy cảm , đặc biệt là đối với các ngân hàng không ph ải là ngân hàng cổ phần, BWG kính đề nghị NHNN có hư ớng dẫn cụ thể liên quan đến vấn đề trên nhằm đảm bảo tính tuân thủ trong thực hiện quy định trên của các thành viên trong Nhóm. Trừ các ngân hàng đang niêm yết trên sàn giao d ịch chứng khoán do phải tuân thủ quy định riêng về công khai thông tin theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán và các cơ quan quản lý khác, Nhóm công tác Ngân hàng cho r ằng việc nộp các báo cáo tài chính cho NHNN và công khai báo cáo tài chính trên báo chí đã đủ để đáp ứng mục đích công bố thông tin cho các ngân hàng hoạt động trong ngành. Đăc biệt đối với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài (“NHNNg”) Nhóm công tác Ngân hàng tán thành m ục đích của quy định trên là nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch về tình hình tài chính của các TCTD. Tuy nhiên, BWG đề nghị NHNN xem xét miễn áp dụng quy định này với các chi nhánh NHNNg vì những lý do sau:

1. Các chi nhánh NHNNg không có tư cách pháp nhân mà chỉ đóng vai trò là một chi nhánh

đại diện tại nước ngoài của Ngân hàng mẹ; 2. Các chi nhánh NHNNg được thành lập dưới sự bảo lãnh của ngân hàng mẹ theo đó ngân

hàng mẹ cam kết chịu mọi trách nhiệm với các nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh NHNNg hoạt động tại Việt Nam, điều này chắc chắn đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các khách hàng của chi nhánh;

3. Theo quy định, các chi nhánh NHNNg phải thực hiện nộp báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm cho NHNN, do vậy đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin về tình hình tài chính của các chi nhánh NHNNg một cách minh bạch cho cơ quan quản lý;

4. Các chi nhánh NHNNg có cơ chế hoạt động khác với các TCTD khác (ví dụ: Ngân hàng cổ phần trong nước, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài thành lập tại Việt Nam), do chi nhánh NHNNg được hỗ trợ phần lớn bởi ngân hàng mẹ trên mọi khía cạnh, kể cả vấn đề tài chính; do đó, các báo cáo tài chính riêng lẻ của từng chi nhánh NHNNg không thể hiện đầy đủ tình hình tài chính của những tổ chức này, từ đó có thể dẫn tới cách hiểu sai của công chúng, khách hàng về một số nội dung liên quan.

5. Các chi nhánh NHNNg được thành lập và hoạt động theo nhiều mô hình khác nhau như: hai chi nhánh NHNNg hoạt động độc lập ở hai địa phương khác nhau nhưng thuộc cùng một ngân hàng mẹ, hay ngân hàng 100% vốn nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam trong khi vẫn duy trì hoạt động của chi nhánh NHNNg thuộc cùng ngân hàng mẹ. Vì vậy, việc công khai báo cáo tài chính riêng lẻ của từng chi nhánh NHNNg dễ gây ra những sự hiểu lầm cho công chúng.

Đê xuât: Để bảo đảm tính minh bạch và tình hình tài chính “lành mạnh” của các chi nhánh NHNNg hoạt động tại Việt Nam, BWG đề nghị NHNN xem xét áp dụng những giải pháp sau thay cho quy định của Quyết định 16: Quy định các chi nhánh NHNNg công bố báo cáo thường niên hay báo cáo tài chính đã

kiểm toán của ngân hàng mẹ (tức báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn, trong đó có báo cáo của chi nhánh NHNNg) tại địa phương nơi chi nhánh NHNNg hoạt động và/hoặc trên trang web của chi nhánh (nếu có); và

Trang 2/5

Page 67: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Quy định chi nhánh NHNNg phải nộp báo cáo thường niên hay báo cáo tài chính đã kiểm

toán của ngân hàng mẹ cho NHNN làm cơ sở giúp NHNN giám sát, đánh giá việc duy trì tình hình tài chính đủ mạnh của ngân hàng mẹ nhằm đảm bảo cho hoạt động của chi nhánh NHNNg tại Việt Nam theo quy định.

3. Các quy định về phòng chống rửa tiền, Nghị định 116 và Thông tư 35 Nhóm Công tác đã có buổi họp với NHNN để thảo luận một số vấn đề liên quan đến các quy định về phòng chống rửa tiền được ban hành trong thời gian gần đây. Các ngân hàng thành viên của Nhóm đã nhận được giải thích của NHNN đối với nhiều vấn đề, đồng thời được biết rằng một Thông tư mới giải quyết các khó khăn hiện tại của các ngân hàng trong việc thực thi các quy định về phòng chống rửa tiền sẽ sớm được ban hành. Tuy nhiên, hiện tại Thông tư này vẫn chưa được dự thảo và các ngân hàng hiện tại vẫn thực thi các quy định về phòng chống rửa tiền dựa theo các câu trả lời của NHNN tại cuộc họp mà không có giá trị về mặt pháp lý. Kính đề nghị NHNN sớm ban hành Thông tư này để giảm thiểu rủi ro về mặt pháp lý của các ngân hàng. Ngoài ra, chúng tôi xin nêu lên một vấn đề cụ thể về việc yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin cá nhân như số/ngày cấp/nơi cấp CMTND, địa chỉ nhà riêng hay số điện thoại cá nhân để xác minh thông tin nhận dạng của chủ sở hữu hưởng lợi hoặc thông tin bổ sung cho biện pháp tăng cường tìm hiểu thông tin khách hàng như báo cáo tài chính. Việc thu thập các thông tin này hiện gặp rất nhiều phản hồi không tích cực từ phía khách hàng do khách hàng từ chối cung cấp; ngoài ra, hiện tại không có nguồn cơ sở dữ liệu công khai nào mà ngân hàng có thể tiếp cận cũng như chưa có công ty nào có thể cung cấp dịch vụ xác minh thông tin tại Việt Nam, đồng thời các quy định về bảo mật thông tin ở các quốc gia khác chưa cho phép. Chúng tôi cũng hiểu rằng việc rà soát đối chiếu với danh sách cấm vận hay cảnh báo chỉ áp dụng đối với những thông tin xác minh nhận dạng khách hàng và không áp dụng đối với thông tin bổ sung về khách hàng do những thông tin bổ sung này không nhằm mục đích xác minh nhận dạng khách. Chúng tôi cũng đề nghị được tự xác định các đối tượng thuộc phạm vi phải cập nhật thông tin định kỳ 6 tháng một lần là đối tượng khách hàng có rủi ro đặc biệt cao do có thông tin không tích cực vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật, có biến động, bất thường về tình hình tài chính, có giao dịch đáng ngờ. 4. Thanh toán ra nước ngoài (đơn giản hóa hồ sơ)

Thanh toán sau khi hàng đến, cấp tờ khai hải quan Nghị định 160/NĐ-CP ngày 28/12/2006 và Thông tư 01/1999/TT-NHNN ngày 16/4/1999 quy định ngân hàng phải nộp chứng từ thanh toán ngoại tệ ra nước ngoài và mua ngoại tệ bằng Đồng Việt Nam (“VND”). Đồng thời, ngân hàng được tự xem xét, quy định về những chứng từ này do NHNN không đưa ra quy định cụ thể về chứng từ.

Các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay quy định khách hàng phải có những chứng từ sau khi thực hiện chuyển khoản ra nước ngoài liên quan đến hàng nhập khẩu: tờ khai hải quan, hợp đồng mua bán/đơn đặt hàng (hay Hợp đồng), hóa đơn.

Những khách hàng thực hiện khai hải quan điện tử đã cung cấp đầy đủ mọi thông tin liên quan đến hàng nhập khẩu như đơn đặt hàng/hợp đồng mua bán/hóa đơn v.v trên hệ thống hải quan điện tử để hải quan kiểm tra, xác nhận những thông tin này.

Trang 3/5

Page 68: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Vì vậy, chúng tôi đề nghị chỉ yêu cầu xuất trình tờ khai hải quan điện tử hợp lệ theo quy định về hải quan của hải quan với các nội dung ngày tháng, số tiền, loại tiền tệ, số đơn hàng, số hóa đơn, tên người thụ hưởng v.v. và về phía ngân hàng sẽ kiểm tra xem số tiền thanh toán có khớp với số tiền ghi trong tờ khai hải quan điện tử hay không. Vì vậy, việc quy định phải nộp hóa đơn/đơn hàng/hợp đồng trên từng giao dịch là không cần thiết.

Thanh toán trước khi hàng đến trong trường hợp nhập khẩu theo LC Đối với hoạt động nhập khẩu theo tín dụng thư, thường là theo quy chế UCP, ngân hàng cam kết thanh toán khi các điều kiện trên LC được đáp ứng và thậm chí phải thanh toán trước khi hàng đến. Vì những khách hàng này không thể có được tờ khai hải quan khi thanh toán nên ngân hàng chỉ có thể căn cứ vào những chứng từ thương mại khác như hợp đồng, hóa đơn, vận đơn … để thực hiện thanh toán. Ngân hàng chỉ có thể có được tờ khai hải quan sau khi đã thực hiện thanh toán. Tình trạng này kéo theo gánh nặng công việc và chi phí hành chính lớn cho ngân hàng khi phải chạy theo khách hàng để yêu cầu nộp tờ khai hải quan, trong khi đa số khách hàng không muốn thực hiện yêu cầu này vì thanh toán đã thực hiện xong. Vì vậy, đề nghị NHNN có hướng dẫn không yêu cầu khách hàng nộp tờ khai hải quan khi nhập khẩu theo LC vì lý do trên, mà thay vào đó yêu cầu khách hàng cam kết nộp tờ khai hải quan khi có yêu cầu của ngân hàng hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 5. Cho vay lẫn nhau trong nội bộ tập đoàn (giải quyết vướng mắc trong quản lý thanh khoản) Nhiều doanh nghiệp trong nước và công ty đa quốc gia có mạng lưới gồm nhiều công ty con, chi nhánh và đơn vị trực thuộc. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp này muốn quản lý các khoản thanh toán đi và đến trên tài khoản riêng, nhưng nếu gộp chung các khoản vốn trên những tài khoản này thì cũng không có vấn đề gì. Để thực hiện việc này có thể sử dụng các cơ chế gom, dồn vốn, trong đó các nguồn tiền được thu gom từ từng tài khoản của doanh nghiệp lẻ vào một tài khoản tập trung. Cơ chế này cho phép sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn lưu động, giúp giảm được chi phí vốn, tối đa hóa lợi ích từ các khoản vốn chưa sử dụng đến, tăng sự chủ động, quản lý nhu cầu về vốn thông qua các khoản vay trong nội bộ doanh nghiệp. Tại Việt Nam, nghiệp vụ cho vay ủy thác được quy định trong Thông tư 04 nhưng vẫn đề này vẫn chưa được đề cập tới. Kính đề nghị Quý NHNN cho hướng dẫn về vấn đề này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tạo nguồn vốn bổ sung. 6. Một số điểm chưa rõ trong hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam Thông tư 32/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam có một số quy định, hướng dẫn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho ngân hàng trong triển khai, như sau: - Trong thanh toán liên quan đến hợp đồng ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu sẽ căn cứ vào số

tiền thực tế hay số tiền ghi trên hợp đồng vì hai con số này thường không khớp nhau (khoản 6, Điều 4)? Kính đề nghị NHNN làm rõ điểm này.

- Kính đề nghị NHNN cho biết ngân hàng cần căn cứ vào đâu để kiểm tra các khoản thanh toán liên quan đến gói thầu thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế theo quy định của Luật Đấu thầu (khoản 7, Điều 4)? Ngoài ra, Điều 7.4 Thông tư cũng coi các nhà thầu nước ngoài là người cư trú. Tuy nhiên, nhà thầu nước ngoài lại không được định nghĩa là người cư trú

Trang 4/5

Page 69: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nội dung thảo luận dự kiến Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

theo quy định tại Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối. Kính đề nghị NHNN làm rõ điểm này.

- Kính đề nghị NHNN cho biết phương thức ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ của các khoản thanh toán mua hàng hóa, dịch vụ tại các cảng biển quốc tế (khoản b, khoản 11, Điều 4)?

- Kính đề nghị NHNN cho biết doanh nghiệp chế xuất có được thanh toán bằng chuyển khoản ngoại tệ khi mua hàng hóa, dịch vụ từ thị trường trong nước để xuất khẩu không? Ngoài ra, đề nghị NHNN cho biết các hướng dẫn liên quan để ngân hàng áp dụng trong việc kiểm tra liệu những hàng hóa doanh nghiệp chế xuất mua trong nước có được sử dụng cho hoạt động sản xuất, chế biến, tái chế, lắp ráp hàng xuất khẩu hay để xuất khẩu hay không? (Điểm a, khoản 12, Điều 4).

Theo khoản 14, điều 4, Thông tư 32 thì người cư trú, người không cư trú là tổ chức được thỏa thuận và trả lương, thưởng, phụ cấp trong hợp đồng lao động bằng ngoại tệ chuyển khoản hoặc tiền mặt cho người cư trú và người không cư trú là người nước ngoài làm việc cho chính tổ chức đó. Với quy định này, các công ty làm dịch vụ thanh toán lương hộ có thể, thay mặt cho các khách hàng của họ là công ty, thực hiện thanh toán lương cho các nhân viên là người nước ngoài làm việc cho chính các công ty này không?

Trang 5/5

Page 70: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Thị trường Vốn

Page 71: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO CỦA NHÓM CÔNG TÁC THỊ TRƯỜNG VỐN

Chuẩn bị bởi Nhóm Công tác Thị trường Vốn

I. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và giảm tỉ lệ sở hữu nhà nước ở các ngành không

nhạy cảm đối với an ninh quốc gia - Ngân sách nhà nước có hạn trong khi nhu cầu chi tiêu, đầu tư công vẫn còn lớn. Nguồn thu

từ thuế có giảm do kinh tế khó khăn và các lộ trình giảm thuế nhập khẩu khi tham gia WTO. Gần đây nhất (quý 4 năm 2013), Chính phủ đã đề xuất tăng bội chi ngân sách từ 4.8% lên 5.3% GDP.

- Theo hiểu biết của chúng tôi (vào ngày 23/05/2014), tổng giá trị vốn hóa của phần vốn nhà nước tại 12 công ty trong nhóm 20 công ty lớn nhất niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh là 18.5 tỉ đô la Mỹ, chiếm 41% giá trị của cả Sàn Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Riêng phần sở hữu trên 50% của nhóm 12 công ty này có giá trị 6.3 tỉ đô la Mỹ. Việc bán một phần cổ phần của các doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bù đắp được thâm hụt ngân sách của nhà nước trong giai đoạn khó khăn này, thay vì giảm lương tối thiểu hay tận thu những nguồn khác. Doanh nghiệp sau khi bán vẫn chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, vẫn đóng thuế, vẫn sử dụng nguồn nhân lực Việt Nam.

- Nhiều công ty hiện do nhà nước nắm giữ tỉ lệ lớn không hoạt động hoặc kinh doanh trong các lĩnh vực được xác định là “nhạy cảm” hoặc “hạn chế”, ví dụ như ngành hàng tiêu dùng, sản xuất phân bón.

- Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn về chính sách và vốn vay so với các doanh nghiệp khối tư nhân. Điều này dẫn đến sân chơi không bình đẳng giữa 2 khối doanh nghiệp, hạn chế khả năng phát triển của khối tư nhân trong khi khối nhà nước hoạt động thiếu hiệu quả và không có sản phẩm/ dịch vụ tốt. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa/dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam nói chung khi gia nhập thị trường khu vực cũng như quốc tế.

Kiến nghị: Với kinh nghiệm của các nước trong khu vực, chúng tôi xin kiến nghị: - Tăng tỉ lệ sở hữu nước ngoài, giảm tỉ lệ sở hữu Nhà nước bằng việc bán cổ phần Nhà nước

trong các công ty không thuộc diện ”nhạy cảm” và “hạn chế” - Trước mắt có thể giảm bớt sở hữu Nhà nước tại các công ty niêm yết khoảng 35%. Thời gian

sau có thể giảm xuống thêm. - Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các công ty 100% vốn Nhà nước. - Rà soát để giảm bớt danh sách ngành nhạy cảm.

II. Dự thảo Luật Đầu tư 1. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh

1.1 Nhận xét

Trang 1/7

Page 72: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Dự thảo luật chưa định hướng và phân định rõ rằng các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty không phải là đại chúng, còn việc đầu tư vào các công ty đại chúng thì áp dụng Luật Chứng khoán.

1.1.1 Điểm a khoản 2 Điều 5 Dự thảo luật quy định:

Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán thực hiện theo quy định của Luật Chứng khoán.

1.1.2 Chúng tôi hiểu rằng Dự thảo luật đề xuất phương án rằng:

(a) lĩnh vực và đối tượng liên quan đến chứng khoán sẽ do Luật Chứng khoán điều chỉnh; và (b) lĩnh vực và đối tượng liên quan đến đầu tư khác, đặc biệt là đầu tư trực tiếp sẽ do Luật

Đầu tư điều chỉnh.

1.1.3 Chúng tôi cũng hiểu rằng:

(a) Luật Đầu tư hiện hành được Quốc hội thông qua năm 2005; (b) Luật Chứng khoán được Quốc hội thông qua lần đầu tiên 1 năm sau đó, 2006; (c) Luật Chứng khoán lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Công ty đại chúng” (bao gồm cả “Công

ty đại chúng chưa niêm yết” và “Công ty đại chúng niêm yết”).

1.1.4 Chúng tôi thấy rằng được ban hành trước Luật Chứng khoán, dường như Luật Đầu tư chưa thật sự phân định giữa khái niệm doanh nghiệp bình thường và công ty đại chúng. Do đó, mặc dù Dự thảo luật đã đề xuất Luật Chứng khoán sẽ điều chỉnh hoạt động đầu tư liên quan đến chứng khoán, nhưng Dự thảo luật chưa quy định cụ thể là Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty không phải là đại chúng (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần chưa phải là đại chúng, công ty hợp danh).

1.1.5 Do không định hướng và phân định rõ rằng Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty

không phải là đại chúng nên Dự thảo luật còn đưa ra những điều khoản không rõ ràng như trình bày cụ thể các mục 2, 3 và 4 trong bản góp ý này.

1.2 Kiến nghị

Dự thảo luật định hướng và phân định rõ rằng các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư chỉ áp dụng cho các công ty không phải là đại chúng, còn việc đầu tư vào các công ty đại chúng thì áp dụng Luật Chứng khoán.

2. Điều 21 Dự thảo luật

2.1 Nhận xét:

2.1.1 Điều 21(1) Dự thảo luật quy định:

Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.

Trang 2/7

Page 73: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

2.1.2 Một trong những hoạt quan trọng nhất mà Luật Chứng khoán điều chỉnh là hoạt động mua bán cổ phần của các của doanh nghiệp niêm yết.

2.1.3 Điều 21(1) Dự thảo luật chưa quy định rõ việc “mua bán cổ phần của doanh nghiệp

hoạt động tại Việt Nam” theo Luật Đầu tư có bao gồm việc mua bán cổ phần của các doanh nghiệp đại chúng (bao gồm công ty đại chúng chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết) hay không?

2.1.4 Hiện tại, việc mua bán cổ phần của công ty đại chúng (bao gồm cả công ty đại chúng

chưa niêm yết và công ty đại chúng niêm yết) phần lớn do Luật Chứng khoán điều chỉnh.

2.1.5 Một số câu hỏi đặt ra là việc mua bán cổ phần tại công ty đại chúng sẽ do:

(a) Luật Đầu tư hay Luật Chứng khoán điều chỉnh? (b) cả hai Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán cùng điều chỉnh? (c) Luật Chứng khoán điều chỉnh mà thôi?

2.2 Kiến nghị:

Chúng tôi kiến nghị rằng:

2.2.1 Phương án 1: Quy định về đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Dự thảo luật cần phân

định rõ rằng mọi hoạt động đầu tư đối với công ty đại chúng bao gồm việc giao dịch, đầu tư, kinh doanh cổ phần của các công ty đại chúng sẽ do Luật Chứng khoán điều chỉnh.

2.2.2 Phương án 2: Sửa đổi điều 21(1) Dự thảo luật như sau:

Nhà đầu tư được quyền thực hiện hoạt động đầu tư theo hình thức góp vốn, mua lại phần vốn góp, mua cổ phần của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Việc mua cổ phần tại công ty đại chúng sẽ điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán.

3. Định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài”

3.1 Nhận xét

3.1.1 Định nghĩa về “Nhà đầu tư nước ngoài” được quy định tại Điều 3(3) Dự thảo luật.

3.1.2 Theo Dự thảo luật thì chúng tôi có thể hiểu là định nghĩa này sẽ được áp dụng với các

loại hình doanh nghiệp, kể cả công ty đại chúng (bao gồm công ty đại chúng niêm yết và đại chúng chưa niêm yết).

3.1.3 Tuy nhiên có một câu hỏi đặt ra là định nghĩa này có được áp dụng cho Luật Chứng khoán (và cả các luật và văn bản quy phạm pháp luật khác) hay không?

3.1.4 Nếu định nghĩa này được áp dụng cho công ty đại chúng niêm yết thuộc diện được Chính phủ cho phép tăng sở hữu nước ngoài lên quá 51% thì sẽ dẫn đến một số hệ quả như sau:

Trang 3/7

Page 74: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

(a) một công ty đại chúng niêm yết, ví dụ như Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk), hôm nay có thể là công ty trong nước (tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhỏ hơn 51%), nhưng ngày mai có thể là “Nhà đầu tư nước ngoài” nếu nhà đầu tư ngoại mua quá 51% cổ phần niêm yết của Vinamilk;

(b) cũng theo định nghĩa về “Nhà đầu tư nước ngoài” tại Điều 3(3) Dự thảo luật, khi Vinamilk trở thành nhà đầu tư nước ngoài, tất cả các công con mà Vinamilk sở hữu trên 51% cũng sẽ là “Nhà đầu tư nước ngoài”. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền của Vinamilk và các công ty con, đặc biệt là quyền sử dụng đất;

(c) tương tự vậy, Vinamilk hôm nay có thể là nhà đầu tư nước ngoài (có tỷ lệ sở hữu của nước ngoài trên 51%), nhưng ngày mai lại có thể thành nhà đầu tư trong nước khi cổ đông nước ngoài bán bớt cổ phần niêm yết của Vinamilk xuống dưới 51%.

3.1.5 Chúng tôi, các nhà đầu tư nước ngoài, thật sự không hiểu lý do tại sao Chính phủ Việt

Nam lại cần phân biệt nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước đối với những lĩnh vực không hạn chế đầu tư, không cấm đầu tư và không phải là lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Đối với những lĩnh vực không hạn chế đầu tư, không cấm đầu tư và không phải là lĩnh vực đầu tư có điều kiện, theo ý kiến của chúng tôi, việc áp dụng định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” là không cần thiết.

3.1.6 Việc phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực không nằm trong lĩnh vực đầu tư có điều kiện, hạn chế đầu tư và cấm đầu tư, đã đi ngược lại nguyên tắc đối xử quốc gia của WTO.

3.1.7 Ngoài ra Điều 8(1) Dự thảo luật quy định rằng “nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài các khoản vốn và tài sản hợp pháp”. Câu hỏi của chúng tôi là:

(a) Chính phủ Việt Nam đã sẵn sàng cho phép một công ty niêm yết trong nước, ví dụ như

Vinamilk, sau khi trở thành nhà đầu tư nước ngoài như đề cập tại mục 3.1.4(a) trên đây, được chuyển ra nước ngoài các khoản vốn và tài sản hợp pháp khác của họ theo Điều 8(1) Dự thảo luật mà không cần xin bất kỳ một giấy phép gì hay không?

(b) nếu đúng vậy, Vinamilk có cần xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài để chuyển vốn và tài sản này ra nước ngoài không?

3.2 Kiến nghị

Chúng tôi kiến nghị Dự thảo luật sửa đổi định nghĩa “Nhà đầu tư nước ngoài” theo hướng định nghĩa này chỉ áp dụng:

3.2.1 cho công ty không phải là đại chúng; và

3.2.2 chỉ cho công ty hoạt động, kinh doanh ngành nghề bị hạn chế đầu tư hoặc thuộc lĩnh

vực đầu tư có điều kiện.

4. Điểm a Khoản 2 Điều 5 Dự thảo luật

4.1 Nhận xét

4.1.1 Điểm a khoản 2 Điều 5 Dự thảo luật quy định:

Trang 4/7

Page 75: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán thực hiện theo quy định của Luật Chứng khoán.

4.1.2 Việc liệt kê những lĩnh vực do Luật Chứng khoán điều chỉnh tại Điều 5(2)(a) Dự thảo luật

đặt ra một số câu hỏi và vấn đề như sau:

(a) việc chào bán cổ phần riêng lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ do Luật Đầu tư hay Luật Chứng khoán điều chỉnh?

(b) hiện nay việc chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty đại chúng cho nhà đầu tư (bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài) đang được điểu chỉnh bởi Luật Chứng khoán. Vậy việc chào bán cổ phần riêng lẻ của công ty không phải đại chúng cho nhà đầu tư nước ngoài có phải do Luật Đầu tư điều chỉnh hay không?

(c) Luật Đầu tư có điều chỉnh việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán (quỹ đóng, quỹ mở, quỹ hoán đổi danh mục) hay không? (Hiện nay việc đầu tư vào các quỹ này đang do Luật Chứng khoán điều chỉnh)

(d) Luật Chứng khoán chưa có định nghĩa “giao dịch chứng khoán”, “kinh doanh chứng khoán”, “đầu tư chứng khoán” và “dịch vụ về chứng khoán” như được đề cập đến tại Điều 5(2)(a) Dự thảo luật.

4.2 Kiến nghị

Chúng tôi kiến nghị Điều 5(2)(a) Dự thảo luật được sửa đổi như sau:

“Các hoạt động đầu tư vào các công ty đại chúng, vào các quỹ đầu tư chứng khoán, hoặc các hoạt động đầu tư liên quan đến chứng khoán sẽ áp dụng Luật Chứng khoán.” III. Hỗ trợ hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam Thị trường Việt Nam đang ngày càng trở nên hấp dẫn trong mắt cộng đồng đầu tư nước trên toàn thế giới. Các nhà đầu tư nước ngoài đang tăng cường tìm kiếm thông tin về thị trường Việt Nam nhằm chuẩn bị cho hoạt động đầu tư của mình. Trong quá trình nghiên cứu trước khi thâm nhập thị trường, một trong những kênh thông tin chính được họ sử dụng tham khảo là bảng xếp hạng thị trường được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế dựa trên đánh giá của mình về khả năng tiếp cận thị trường đó. Với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, Việt Nam cũng đang mong muốn thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp ổn định và dài hạn từ những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trên thế giới. Vì thế, những hành động thiết thực nhằm giải quyết các vấn đề nhà đầu tư nước ngoài còn đang e ngại về thị trường Việt Nam và việc cải thiện xếp hạng thị trường Việt Nam trong bảng xếp hạng MSCI đóng vai trò rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã vạch ra kế hoạch và mục tiêu cụ thể nhằm đưa Việt Nam từ hạng Frontier Market như hiện tại lên Emerging Market trong bảng xếp hạng MSCI. Trong số những vấn đề cần chú ý, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh đang cần sự phối hợp giải quyết từ nhiều Bộ, Ban, Ngành có liên quan: Vấn đề tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài Thực tế

Trang 5/7

Page 76: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Khi đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ biết tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư của mình trong thị trường. Tuy nhiên, vấn đề tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài đang cần giải quyết ở nhiều khía cạnh, bao gồm việc công bố thông tin, khả năng tiếp cận các thông tin đó và chi phí cho việc tiếp cận thông tin. Khi tìm hiểu về thị trường, nhà đầu tư nước ngoài đang gặp nhiều khó khăn khi tìm đến các thông tin và kiến thức về thị trường, dù những thông tin này hiện đang được công bố hoàn toàn miễn phí trên các website trong nước. Hiện nay, hầu hết các cơ quan quản lý trong nước đều tải lên website của mình chi tiết các văn bản pháp luật một cách đầy đủ và sắp xếp có hệ thống, tuy nhiên, chỉ có bản Tiếng Việt. Những tin tức mới về pháp luật cũng được công bố nhanh chóng trên các website này, trong khi các bản tin bằng Tiếng Anh phải mất vài ngày sau mới được đăng tải. Các thông tin về thực hiện quyền, họp đại hội cổ đông và các tài liệu họp do công ty cổ phần đăng tải trên website của mình cũng chỉ có bản Tiếng Việt. Trong một số trường hợp, thư mời họp và mẫu phiếu biểu quyết bằng tiếng Việt còn được gửi đến địa chỉ ở nước ngoài cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do những rào cản ngôn ngữ như đã nêu trên, nhà đầu tư nước ngoài không thể có đầy đủ thông tin để chuẩn bị cho hoạt động đầu tư của mình tại Việt Nam. Thực tế này thậm chí còn dẫn đến việc nhà đầu tư nước ngoài hiểu không đầy đủ hoặc hiểu nhầm chính sách của chính phủ Việt Nam đối với đầu tư nước ngoài. Mặt khác, những vấn đề thực tiễn này đang được nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận như một sự phân biệt đối xử, bởi họ không thể tiếp cận thông tin kịp thời và đầy đủ như những nhà đầu tư trong nước. Hiện nay, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước công bố một kế hoạch cụ thể về việc công bố bản dịch Tiếng Anh của tất cả các văn bản pháp luật mình trên website, dự kiến hoàn thành trong năm 2014. Đây là một nỗ lực của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhằm hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài hiểu hơn về khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng, nhà đầu tư nước ngoài còn cần sử dụng, tham khảo các văn bản pháp luật do các cơ quan quản lý khác ban hành (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, v.v.) và các bản tin, thông báo, tài liệu… cung cấp bởi công ty cổ phần. Do đó, sự phối hợp hành động của các Bộ, Ban, Ngành liên quan và các thành viên thị trường là rất cần thiết để giải quyết vấn đề này. Đề xuất Để giải quyết những khó khăn trong việc tiếp cận thông tin của nhà đầu tư nước ngoài, chúng tôi xin đề xuất như sau: Đối với cơ quan quản lý: - Những tin mới về luật pháp hoặc thông báo về những văn bản luật mới được công bố cần

được tải lên website của cơ quan quản lý bằng cả Tiếng Anh và Tiếng Việt và trong cùng một ngày. Bản tin bằng Tiếng Anh phải đảm bảo tóm tắt được những điểm chính của bản tin để đảm bảo nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận cùng một lượng thông tin như nhau vào cùng một thời điểm.

- Bản dịch toàn văn bằng Tiếng Anh của các văn bản luật mới ban hành được tải lên website của cơ quan quản lý trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày ban hành (Bản Tiếng Anh này có thể mới chỉ là bản dịch tham khảo).

Trang 6/7

Page 77: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

- Cần có kế hoạch cụ thể nhằm đảm bảo bản Tiếng Anh của tất cả các văn bản luật đang có hiệu lực trong thị trường được tải lên website của các cơ quan quản lý trong thời gian sớm nhất.

Đối với công ty cổ phần: - Bản tin, thông báo về thực hiện quyền, họp đại hội cổ đông hay các sự kiện của công ty cổ

phần cần được tải lên website của công ty bằng cả Tiếng Anh và Tiếng Việt và trong cùng một ngày, ít nhất áp dụng cho công ty đại chúng và công ty không phải công ty đại chúng nhưng có vốn điều lệ từ 100 tỉ trở lên.

- Thư mời họp, mẫu phiếu biểu quyết và tại liệu họp (bao gồm dự thảo nghị quyết) gửi cho nhà đầu tư nước ngoài bằng Tiếng Anh hoặc song ngữ.

- Biên bản cuộc họp đại hội cổ đông cần được tải lên website của công ty bằng cả Tiếng Anh

và Tiếng Việt và trong cùng một ngày, ít nhất áp dụng cho công ty đại chúng và công ty không phải công ty đại chúng nhưng có vốn điều lệ từ 100 tỉ trở lên.

Trang 7/7

Page 78: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Chương IV

CƠ SỞ HẠ TẦNG

Page 79: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Quy định PPP

Page 80: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ HỢP TÁC CÔNG TƯ (PPP) CÓ LÀM NẢN LÒNG ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO CƠ SỞ HẠ TẦNG?

Chuẩn bị bởi

Ông Tony Foster Ông Trần Tuấn Phong

Nhóm Công tác Cơ sở hạ tầng 1. Sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng của Việt

Nam có ý nghĩa quan trọng. Nếu không có đầu tư tư nhân, nợ công sẽ còn tăng cao hơn mức đáng báo động như hiện nay, hoặc cơ sở hạ tầng sẽ không thể bắt nhịp được với tiềm năng của đất nước.

2. Bộ Kế hoạch Đầu tư hiện đang soạn thảo một Nghị định thay thế cho cả hai Nghị định số 71 ngày 9/11/2010 quy định về thí điểm PPP và Nghị định số 108 ngày 27/11/2009 quy định về BOT như đã được sửa đổi (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định). Dự thảo Nghị định này hiện vẫn đang tiếp tục được chỉnh sửa dựa trên cơ sở tham vấn rộng rãi.

3. Tuy nhiên, trong dự thảo Nghị định về PPP này (dự thảo Nghị định) hiện đang tồn tại nhiều

vấn đề có thể gây ra những trở ngại đáng kể đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân nước ngoài.

4. Nhóm cơ sở hạ tầng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam xin được tập trung vào một số vấn đề

chính yếu, trong đó có những vấn đề nếu không được giải quyết kịp thời sẽ có thể dẫn tới một số khó khăn trong quá trình huy động vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng hoặc một số gián đoạn không mong muốn.

Phạm vi điều chỉnh 5. Có một vấn đề tồn tại cơ bản trong Dự thảo Nghị định này. Đó là chưa quy định rõ Nhà

nước sẽ chỉ hỗ trợ dự án thông qua cơ chế PPP hay một số hỗ trợ của Nhà nước vẫn được thực hiện như hình thức liên doanh thông thường (ví dụ: miễn tiền thuê đất). a) Nếu chỉ được thực hiện qua cơ chế PPP thì nhiều dự án sẽ phải chuyển sang mô hình

PPP, dẫn đến việc bộ máy thực hiện dự án PPP sẽ nhanh chóng bị quá tải. b) Nếu vẫn được thực hiện như bình thường thì chính xác trường hợp nào sẽ phải thực

hiện dự án qua cơ chế PPP?

Đề xuất: Dự thảo Nghị định cần làm rõ điều kiện để xác định những dự án phải thực hiện qua cơ chế PPP.

Xóa bỏ các quy định về BOT 6. Dự thảo Nghị định này sẽ thay thế Nghị định số 108 về BOT. Dù ở Việt Nam hiện chưa có

nhiều dự án BOT (thậm chí số dự án đã huy động được vốn còn ít hơn nữa, dù đây mới là mục đích chính của mô hình này), nhưng dù sao các nhà đầu tư cũng đã biết một số các dự án BOT cụ thể và có hình dung về khung khổ và các bước thực hiện ngay từ khi khởi động đầu tư một dự án BOT. Nhưng Dự thảo Nghị định sẽ triệt tiêu khả năng này trước khi có sự kiểm nghiệm rõ ràng liệu cơ chế PPP có khả thi trên thực tế. Đây dường như là một bước đi hơi vội vàng. Sẽ hợp lý hơn nếu xóa bỏ cơ chế BOT khi PPP đạt hiệu quả tốt (có thể sau một số năm triển khai).

Trang 1/4

Page 81: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề xuất: Bổ sung trong dự thảo một điều khoản chuyển tiếp để bãi bỏ các quy định về BOT tại thời điểm thỏa mãn 2 điều kiện sau: (i) khi một ủy ban gồm các chuyên gia của chính phủ nhất trí rằng cơ chế PPP đã phát huy tác dụng và (ii) sau một thời gian nhất định là x năm (để nhà đầu tư có đủ thời gian lên kế hoạch).

Chuyển đổi các dự án BOT hiện nay sang cơ chế PPP mới 7. Hiện nay đang có khá nhiều dự án lớn được đề xuất và thực hiện theo hình thức BOT. Chỉ

tính riêng trong ngành điện đã có những dự án BOT tại Vân Phong, Vinh Tân, Vũng Áng, Quảng Ngãi, Long Phú, Duyên Hải, Nam Định v.v. Số phận của những dự án này sẽ ra sao, nếu bãi bỏ các quy định về BOT, là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng sau khi nhà đầu tư đã bỏ ra không biết bao nhiêu triệu đô la vào dự án. Những đề xuất hiện nay như nêu dưới đây sẽ gặp phải vô số các câu hỏi cần trả lời: (a) Những dự án án được đề xuất trước ngày Nghị định có hiệu lực sẽ phải thực hiện lại thủ

tục lựa chọn nhà đầu tư và xin phê duyệt theo quy chế PPP, trừ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khác.

(b) Nếu nghiên cứu khả thi đã được phê duyệt trước ngày có hiệu lực của Nghị định thì sẽ không phải phê duyệt lại theo quy chế PPP.

(c) Những đề án được lập theo thỏa thuận với các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (CQCTQ) trước ngày có hiệu lực của Nghị định sẽ thực hiện theo những thỏa thuận đó với CQCTQ.

(d) Những dự án đã có “quyết định lựa chọn nhà đầu tư” trước ngày Nghị định có hiệu lực không cần tiến hành lại thủ tục lựa chọn nhà đầu tư.

(e) Những dự án có Hợp đồng Dự án được ký tắt trước ngày Nghị định có hiệu lực không cần đàm phán lại Hợp đồng Dự án.

(f) Nếu Hợp đồng Dự án chưa được ký tắt nhưng đã thống nhất một số nội dung thì những nội dung đó không cần đàm phán lại.

(g) Những dự án có Hợp đồng Dự án đã chính thức được ký kết trước ngày Nghị định có hiệu lực sẽ được triển khai theo Hợp đồng Dự án và giấy chứng nhận đầu tư.

8. Tất cả những dự án BOT chưa cam kết vốn (tức là tất cả các dự án trừ dự án Phú Mỹ 2-2, Phú Mỹ 3, Mông Dương 2) sẽ bị ảnh hưởng bởi quy định này, trong đó một số sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Đề xuất: Bổ sung trong dự thảo một điều khoản chuyển tiếp để bãi bỏ các quy định về BOT tại thời điểm thỏa mãn 2 điều kiện sau: (i) khi ủy ban gồm các chuyên gia của chính phủ nhất trí rằng cơ chế PPP đã phát huy tác dụng và (ii) sau một thời gian nhất định là x năm (để nhà đầu tư có đủ thời gian lên kế hoạch).

Bảo lãnh ngoại tệ 9. Một trong những vướng mắc chính về khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của hầu hết các

dự án cơ sở hạ tầng là dự án phải bán sản phẩm đầu ra bằng đồng Việt Nam trong khi dự án chỉ vay được nguồn vốn dài hạn bằng đồng đô-la. Nếu nhà nước không bảo lãnh khả năng chuyển đổi tiền tệ (theo cùng tỉ giá) giữa tiền đồng và đô-la, cũng như khả năng cung cấp và chuyển khoản đồng đô-la, thì trên thực tế sẽ không thể huy động vốn theo hình thức tài trợ dự án cho dự án có nguồn thu bằng tiền đồng tại thời điểm hiện nay.

Trang 2/4

Page 82: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

10. Vai trò hiện nay của nhà nước trong dự thảo Nghị định dường như chỉ là đối phó trực tiếp với vấn đề này bằng cách hạn chế mức độ bảo lãnh ngoại hối của nhà nước.

Đề xuất: Điều khoản về bảo lãnh ngoại hối phải khẳng định được khả năng được bảo lãnh về chuyển đổi, cung cấp và chuyển khoản ngoại tệ. Ví dụ: “Mọi cam kết bảo lãnh về khả năng chuyển đổi, cung cấp, chuyển khoản phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”. Chúng tôi hiểu rằng vấn đề này liên quan đến một số yếu tố kinh tế, chính trị nhưng nếu quá thận trọng bằng cách khước từ hoàn toàn việc bảo lãnh thì sẽ tạo ra cảm nhận tiêu cực rằng Nhà nước không khuyến khích đầu tư. Vậy nếu không đem lại được kết quả tích cực thì Nghị định cũng không nên đề cập đến vấn đề này.

Luật áp dụng 11. Một vấn đề thường trực nữa về khả năng đáp ứng yêu cầu vay vốn là trở ngại trong việc áp

dụng một hệ thống luật pháp phổ biến đối với các tài liệu dự án. Luật pháp Việt Nam, tất nhiên được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa đạt đến trình độ cao như luật Anh Mỹ, và không bảo đảm cho bên cho vay mức độ an toàn cần thiết khi thực hiện cho vay căn cứ trên tài sản và dòng tiền của dự án. Để giải quyết vấn đề này, Dự thảo Nghị định có thể sử dụng những phương án thay thế như cho phép áp dụng luật nước ngoài nếu không mâu thuẫn với luật pháp Việt Nam (phương án 1) hay Luật Đầu tư (phương án 2).

12. Nhưng nếu đưa những phương án này vào Nghị định chính thức thì sẽ nảy sinh một vấn đề

quan trọng về huy động vốn vì sẽ khó có thể chứng minh được các điều kiện vay vốn nếu chưa có ý kiến pháp lý của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, trong Dự thảo Nghị định còn có một điều khoản về điều kiện đưa ra ý kiến pháp lý của Bộ Tư pháp nhưng điều khoản này lại không đề cập đến một số văn bản cần có ý kiến pháp lý này.

Đề xuất: a) Các bên cần được quyền quyết định áp dụng luật nào đối với hợp đồng. b) Nếu không thì không nên hạn chế phạm vi các ý kiến mà Bộ Tư pháp có thể đưa ra.

Giải quyết tranh chấp 13. Nghị định quy định giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa CQCTQ và nhà đầu tư nước

ngoài trong quá trình thực hiện Hợp đồng Dự án và các thỏa thuận bảo lãnh thông qua trọng tài hay tòa án Việt Nam hay cơ quan trọng tài nước ngoài theo nhất trí của các bên. Công ty dự án không phải là nhà đầu tư nước ngoài.

Đề xuất: a) Những Hợp đồng liên quan đến Công ty dự án, như Hợp đồng mua bán điện, cần được

tự quyết định trong việc chọn trọng tài nước ngoài. b) Trong điều khoản này cũng cần làm rõ thêm nội dung về xử lý những vấn đề còn tồn tại

trong việc thực thi phán quyết của trọng tài ở Việt Nam. Nghiên cứu khả thi 14. Các quy định về báo cáo nghiên cứu khả thi có thể nói vẫn căn cứ trên các yếu tố đầu vào

(như tiêu chuẩn kỹ thuật, cấu thành dự án v.v.).

15. Trong Dự thảo Nghị định vẫn có điều khoản chung chung rằng có thể sẽ có những nội dung khác theo quy định của pháp luật.

Trang 3/4

Page 83: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Một số vấn đề liên quan đến Dự thảo Nghị định về Hợp tác Công tư Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Đề xuất: Dự thảo Nghị định cần có những điều khoản linh hoạt hơn về nội dung chi tiết của nghiên cứu khả thi. Nghiên cứu khả thi cần lập theo hướng căn cứ trên đầu ra tới mức tối đa có thể.

Các điều khoản Hợp đồng Dự án 16. Dự thảo Nghị định quy định quá máy móc về số lượng nội dung chi tiết cần có trong Hợp

đồng Dự án. Trong khi đó, mỗi ngành đều có những đặc trưng khác nhau, cũng như có sự khác biệt lớn giữa những dự án xây dựng mới và cải tạo.

Đề xuất: Dự thảo Nghị định nên đề ra những nguyên tắc chung và cho các bên quyền thỏa thuận về nội dung chi tiết của Hợp đồng Dự án.

Đất đai 17. Dự thảo Nghị định quy định rằng nhà đầu tư sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các thủ tục giải

phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư.

18. Nhà đầu tư được miễn tiền sử dụng đất/thuê đất theo quy định của Luật Đất đai. Nhưng Luật Đất đai không cho phép thế chấp đất nếu chưa thanh toán đầy đủ tiền sử dụng đất. Do dó, quy định được diễn giải là đất được miễn tiền sử dụng đất không được đem thế chấp. Nhưng như vậy sẽ nảy sinh một vấn đề quan trọng đối với các ngân hàng.

19. Dự thảo Nghị định cũng không quy định quyền thế chấp quyền sử dụng đất của bên cho

vay. Như vậy có thể nói Dự thảo Nghị định chưa giải quyết được dứt điểm vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất.

Đề xuất: a) Cần nâng cao khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của Dự án bằng cách quy định rõ

quyền thế chấp quyền sử dụng đất cho bên cho vay. b) Dự thảo Nghị định nên tạo thuận lợi bằng cách quy định rằng CQCTQ có trách nhiệm

thực hiện các thủ tục giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư. Chứng nhận đầu tư 20. Theo dự thảo Nghị định, để cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty dự án sẽ cần phải có

quy trình thẩm định bổ sung. Quy định này làm nảy sinh một vấn đề là cơ quan cấp phép sẽ rà soát lại những nội dung thương mại chi tiết của Dự án, từ đó dẫn đến nhiều trì hoãn trong khi quy trình cấp phép hiện nay vốn đã khá rườm rà.

Đề xuất: Dự thảo Nghị định nên đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án PPP.

Kết luận 21. Trong Dự thảo Nghị định hiện nay còn nhiều vấn đề cần làm rõ. Những nội dung chưa bảo

đảm đáp ứng điều kiện vay vốn cần được tiếp tục chỉnh sửa trước khi hoàn thiện dự thảo và ban hành Nghị định. Nếu không, đầu tư của tư nhân nước ngoài vào cơ sở hạ tầng có thể sẽ bị đình trệ, dù trong bối cảnh vẫn còn quá ít dự án đầu tư loại này hiện nay. Đình trệ có thể không có nghĩa là dừng hoàn toàn và khó có thể cảm nhận được hết.

Trang 4/4

Page 84: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Năng lượng

Page 85: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Tiểu Nhóm Năng lượng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO CỦA TIỂU NHÓM NĂNG LƯỢNG

Chuẩn bị bởi Tiểu Nhóm Năng lượng

Tái khởi động Tiểu Nhóm Năng lượng Việc tái khởi động Tiểu Nhóm Năng lượng trực thuộc Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng trong khuôn khổ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), bao gồm các đơn vị cung cấp công nghệ nước ngoài; các công ty tại Việt Nam đang hoạt động một phần dựa trên cơ sở năng lượng tái tạo; và các đối tác công nghiệp chiến lược đang quan tâm đến việc hỗ trợ Chính phủ trong quá trình khai thác năng lượng và nguồn năng lượng tái tạo. Quá trinh tái khởi động hoạt động của Tiểu Nhóm nhận được sự hưởng ứng của các tổ chức thành viên như Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), Phòng Thương mại Bắc Âu (Nordcham), Phòng Thương mại Canada tại Việt Nam (CanCham), Phòng Thương mại Úc tại Việt Nam (AusCham), Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), và BBGV Hỗ trợ hiện thực hóa các mục tiêu của Chính phủ và triển khai các Hiệp định thương mại Tiểu Nhóm sẽ hợp tác để triển khai Quy hoạch Điện VII của Việt Nam, với mục tiêu đưa EVN đóng vai trò tiên phong khởi động quá trình cổ phần hóa thị trường bán buôn điện, và mục tiêu sản lượng năng lượng tái tạo đạt 4,5% tổng sản lượng điện vào năm 2020. Kế hoạch bao gồm mục tiêu phát triển điện gió đạt mức công suất 1000MW, năng lượng sinh học đạt mức 500MW and những công nghệ năng lượng tái tạo khác đạt công suất khoảng 2700MW vào năm 2020. Sự phát triển của năng lượng tái tạo phù hợp với Chiến lược Phát triển Xanh Việt Nam. Chiến lược tập trung vào tiến trình cắt giảm khí thải nhà kính từ 8-10% so với năm 2010 vào năm 2020. Tuy nhiên, hiện nay, thị trường năng lượng tái tạo có quy mô không đáng kể. Các tổ chức quốc tế thành viên của các Phòng Thương mại tại Việt Nam có kinh nghiệm chuyên sâu trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo ở quy mô khu vực và phương thức tận dụng các hiệp định thương mại để thúc đẩy sự phát triển. Thời điểm chín muồi để tái khởi động Tiểu Nhóm Năng lượng Việt Nam đang có nhu cầu ngày càng cao về năng lượng với mức tăng trưởng trung bình 14,5% trong thập kỉ qua tính tới năm 2010 và trên 10% trong những năm gần đây. Trong khi đó các nguồn cung điện cũng đang gặp rất nhiều khó khăn bao gồm sự phụ thuộc sụt giảm vào nguồn năng lượng thuỷ điện, sự trì hoãn trong quá trình mở rộng các nhà máy nhiệt điện, mức giá nhập khẩu than trên thị trường và các khó khăn trong phát triển năng lượng hạt nhân. Trong khi đó, năng lượng tái tạo lại có khả năng bắt kịp nhanh với thị trường, có thể mở rộng và một khi đã đưa vào lắp đặt và sử dụng sẽ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước để cung cấp năng lượng trong tương lai. Thị trường bán buôn cạnh tranh - cơ hội phát triển nguồn năng lượng Theo quyết định số 26/2006/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam đặt mục tiêu hình thành Thị trường bán buôn cạnh tranh (CWM) từ năm 2015 đến 2022. CWM có liên hệ mật thiết với nguồn năng lượng và năng lượng tái tạo. Những lĩnh vực này hiện chưa nhận được chính sách hỗ trợ phù hợp từ Chính phủ. Một thị trường bán buôn cạnh tranh hiệu quả, phù hợp với hiệp định thương mại tự do sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của năng lượng tái tạo trong khoảng thời gian ngắn.

Trang 1/3

Page 86: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Tiểu Nhóm Năng lượng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

Mục tiêu của Tiểu Nhóm Năng lượng Mục tiêu chính của Tiểu Nhóm là hỗ trợ chính phủ và các doanh nghiệp tư nhân trong việc phát triển các hướng dẫn và chính sách liên quan đến năng lượng, và đặc biệt là khai thác năng lượng tái tạo thông qua tư vấn, nghiên cứu, chia sẻ thông lệ tốt và phổ biến bí quyết công nghệ cũng như hỗ trợ công nghệ. Một số hoạt động chủ yếu như là:

- Cung cấp các chuyên gia tư vấn cho chính sách và hướng dẫn mới - Xây dựng nền tảng cho quá trình chuyển giao kiến thức và hỗ trợ kỹ thuật về công nghệ

xanh - Đề xuất các phương án tháo gỡ cho các rào cản thị trường - Tiến thành khảo sát và nghiên cứu thị trường. - Tổ chức các buổi toạ đàm và tập huấn hướng tới các đối tác hoạt động trong lĩnh vực

năng lượng và năng lượng tái tạo, bao gồm các nhà hoạch định chính sách, các nhà khái thác lưới điện, các đơn vị phát triển dự án địa phương và các nhà tài trợ.

Nhóm sẽ hỗ trợ các hoạt động sau đây: 1. Yêu cầu của Bộ Công thương đối với các tỉnh thành trong việc thực hiện các nghiên cứu về

Kế hoạch Phát triển Năng lượng tái tạo. 2. Sửa đổi của Bộ Công thương đối với giá bán ưu đãi của điện gió và năng lượng sinh học. 3. Bộ Công thương triển khai thực hiện Thị trường Bán buôn cạnh tranh với việc không can

thiệp vào giá cả, các thành viên thị trường, với một mức phí xoay vòng hợp lý. Nếu triển khai được như trên thì CWM có thể giúp mở rộng đáng kể các dự án năng lượng tái tạo.

4. 13 tỉnh, thành phố thuộc tiểu vùng sông Mê Kông đang thử nghiệm các dự án năng lượng mặt trời với 31 cộng đồng và khối tư nhân, thu hút khoảng 10 triệu USD vốn đầu tư tư nhân để cung cấp nguồn năng lượng mặt trời với giá cả hợp lý cho khu vực nông thôn. Hơn 2000 khu vực dân cư đã thể hiện sự quan tâm đối với việc sử dụng năng lượng mặt trời với các khoản vay phù hợp, hoàn trả trong vòng 3 năm và đảm bảo năng lượng mặt trời trong vòng 25 năm.

5. Quá trình áp dụng rõ ràng và dứt khoát với những tiêu chí đạt yêu cầu/không đạt yêu cầu trong việc tiếp cận giá ưu đãi, thỏa thuận mua bán năng lượng và các phê duyệt liên quan của Chính phủ. Quy trình này sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư xác định xem nguồn năng lượng tái tạo tiềm năng có phù hợp với các quy định địa phương hay không và giúp giảm thiểu sự không chắc chắn và hỗ trợ thực hiện các quyết định quản lý.

Những quan ngại hiện nay 1. Mức giá mà EVN chấp nhận trả cho các nhà sản xuất điện độc lập, dựa trên các thỏa thuận

mua điện có trợ cấp chính phủ (Feed-in-tariff), là quá thấp để tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư cũng như không đủ để đảm bảo cho các khoản vay ngân hàng (7,8 cents USD/kWh).

2. Vì EVN đang phải chịu lỗ, nên chỉ có nguồn vốn ODA là đang được đầu tư, không có nhà đầu tư tư nhân nước ngoài hay ngân hàng nào chấp nhận kế hoạch của EVN để mua điên từ các nhà máy điện gió, trừ phi có sự đảm bảo của chính phủ Việt Nam

3. Nhà sản xuất điện gió chuyên nghiệp với độ tin cậy cao và khả năng tài chính vững vàng chưa có cơ hội để thâm nhập thị trường Việt Nam

Các đề xuất và những lợi ích 1. Cho phép thử nghiệm một số dự án năng lượng gió, mặt trời và khí sinh học để tạo điều

kiện cho các nhà sản xuất năng lượng độc lập có thể bán trực tiếp cho người dùng thông qua hợp đồng mua bán năng lượng; và khi cần thiết các nhà sản xuất đó sẽ trả lệ phí phân

Trang 2/3

Page 87: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo của Tiểu Nhóm Năng lượng Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

phối và truyền phát cho EVN. Những khoản phí đó phải được chấp nhận như một phần của CWM.

2. Một hợp đồng mua bán năng lượng trực tiếp giữa nhà sản xuất điện gió độc lập và người tiêu dùng là một ví dụ cho việc các nhà phát triển năng lượng tái tạo có thể sử dụng một công ty đa quốc gia như một sự bảo đảm cho các khoản vay ngân hàng quốc tế, cùng với nguồn tài chính sẵn có của mình, để đầu tư vào mảng năng lượng của Việt Nam trong tương lai

3. Bộ Công Thương đưa ra mức giá ưu đãi cho năng lượng mặt trời Mục tiêu của năng lượng tái tạo có thể đạt được nếu các thử nghiệm bán điện trực tiếp thành công mà không cần có sự bảo đảm của chính phủ hay bất kì khoản bù đắp nào của EVN. Mua bán năng lượng trực tiếp đang được triển khai tốt ở các thị trường mới nổi khác như Ấn Độ, Mexico, Brazil.

Trang 3/3

Page 88: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Chương V

NÔNG NGHIỆP

Page 89: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

NHÓM CÔNG TÁC NÔNG NGHIỆP BÁO CÁO TẠI DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ

TÓM TẮT BÁO CÁO

Nhận thức được tầm quan trọng ngày càng tăng của ngành nông nghiệp đến phát triển kinh tế bền vững và ổn định xã hội của Việt Nam, Nhóm Công tác Nông nghiệp - Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam ra đời vào tháng 2, 2014 sau cuộc hội thảo bàn tròn tại Tp. Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã có cuộc họp đầu tiên qua cầu truyền hình kết nối thành viên tại Hà Nội và Hồ Chí Minh vào ngày 4 tháng 4. Tiếp sau đó, Nhóm công tác đã có buổi làm việc trực tiếp với các đại diện của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và Bộ Công thương vào ngày 20/5/2014 để thảo luận chi tiết các vấn đề được đề cập đến trong bản Báo cáo này. Chúng tôi rất vui mừng khi được biết hầu hết các đề xuất trong bảo Báo cáo được tiếp thu và ghi nhận để xem xét. Nhóm Công tác xin được gửi lời cảm ơn tới Tổ chức Tài chính Quốc tế (“IFC”) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (“VCCI”) vì những hỗ trợ quý báu và các cơ quan đã dành cho các thành viên của nhóm. Mục đích của Nhóm Công tác là thảo luận và đề xuất các giải pháp hiệu quả cho các vấn đề nổi cộm của ngành nông nghiệp với mục tiêu chính là thiết lập một diễn đàn, một kênh đối thoại để tiếp nhận và thông báo các thông tin về định hướng chính sách đồng thời trình bày các ý kiến, quan điểm của Nhóm nhằm tối đa hóa đóng góp của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đối với mục tiêu của Chính phủ trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân trong nông nghiệp để đẩy mạnh giá trị và duy trì sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Tất cả những điểm này là rất cần thiết cho sự chuẩn bị của Việt Nam khi tham gia vào các Hiệp định Thương mại Thế hệ mới – chủ để của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ lần này. Nhóm Công tác bao gồm đại diện của các công ty trong và ngoài nước, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Với mục đích làm việc hiệu quả, chúng tôi xin đưa ra báo cáo cho bốn lĩnh vực được quan tâm nhất:

I. Tiếp cận thị trường II. Công nghệ

III. Quy chuẩn chất lượng, và IV. Thực thi chính sách

Các vấn đề chính sẽ được trình bày theo thứ tự nêu trên trong báo cáo này. Tiếp đó, Nhóm Công tác sẽ tiến hành thành lập các tiểu nhóm để xem xét các vấn đề quan trọng chính đã được vạch ra. Đầu tiên, vấn đề Tiếp cận thị trường Hạn chế trong tiếp cận thị trường có liên quan tới nhiều vấn đề và chúng tôi nhận thấy ba thị trường riêng biệt:

1. Tiếp cận thị trường trong nước đối với doanh nghiệp Việt Nam 2. Tiếp cận thị trường trong nước (Việt Nam) với doanh nghiệp nước ngoài, và 3. Tiếp cận thị trường nước ngoài cho các công ty trong nước

Trang 1/14

Page 90: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Mỗi thị trường này lại đối mặt với những khó khăn khác nhau từ tính đồng đều của sản phẩm và quản lý chất lượng, chuỗi cung ứng và nghiên cứu phát triển các công nghệ, cấp phép và hạn chế quyền lợi cho doanh nghiệp nước ngoài, thuế quan, thiếu quản lý chiến lược và kế hoạch sản xuất và cunng cấp, thiếu sự rõ ràng trong chính sách, và chiến lược thực hiện không thống nhất. Giải pháp thực hiện cần một chiến lược tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài rõ ràng và cởi mở hơn dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. Thứ hai, vấn đề Công nghệ Chúng tôi đã xác định được 4 khó khăn trong lĩnh vực công nghệ phát triển nông nghiệp:

1. Thay đổi trong thủ tục đăng ký. 2. Khó khăn trong giới thiệu công nghệ mới. 3. Khả năng cạnh tranh và lựa chọn nguyên liệu nông nghiệp chất lượng cao. 4. Lựa chọn và áp dụng các công nghệ phù hợp với thị trường Việt Nam.

Các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực Công nghệ bao gồm lệnh cấm tạm thời về việc đăng ký các sản phẩm bảo vệ thực vật trong khi chờ Cục Bảo vệ Thực vật xem xét lại qui trình đăng ký, việc chuyển giao trách nhiệm và kiểm soát phân bón từ một Bộ sang Bộ khác, và việc tiếp tục xem xét lại thủ tục đăng ký hạt giống của Cục trồng trọt. Điều này làm giảm sự tự tin, tính minh bạch và khả năng dự đoán sự ra đời của các công nghệ mới trên thị trường. Có sự chậm trễ bất bình thường trong việc hoàn thiện khuôn khổ giới thiệu công nghệ mới do các vấn đề quan liêu trong quá trình phối hợp giữa các bộ ban ngành Chính phủ. Công nghệ được cải thiện và đăng ký bản quyền có thể cải thiện an toàn thực phẩm, giảm thiểu các sản phẩm giả trên thị trường, tăng năng suất và lợi nhuận trong khi giảm lượng khí thải carbon. Áp dụng các công nghệ nông nghiệp phù hợp với người nông dân Việt Nam, chủ yếu là các hộ gia đình, là thiết yếu để đẩy mạnh sản xuất. Trọng tâm quốc gia về các công nghệ phù hợp khả năng tài chính cho các hộ gia đình là rất quan trọng cho sự thay đổi trong sản xuất nông nghiệp. Thứ Ba, Vấn đề Quy chuẩn Chất lượng Các khó khăn, mối quan ngại chính:

1. Hạt giống cây trồng và gieo hạt, và 2. Hàng giả/sản phẩm nhái

Việt Nam là một trong những nước đi đầu trên thị trường xuất khẩu lúa gạo thế giới và có khối lượng gạo xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, nhận định và quan niệm của quốc tế về gạo Việt Nam là chất lượng thấp và không đồng đều, dẫn đến giá trị xuất khẩu gạo bị hạ thấp. Một trong những lý do chính là tình hình ngành công nghiệp hạt giống ở Việt Nam, với hơn 300 loại hạt giống lưu thông, trong đó phần lớn là hạt giống chất lượng thấp. Hiện có hơn 200 công ty cung cấp hạt giống trong nước, nhưng rất ít đơn vị trong đó có đủ nguồn lực để đầu tư nghiêm túc trong lĩnh vực này.

Trang 2/14

Page 91: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Liên quan đến vấn đề hàng giả/sản phẩm nhái, hiện tại có rất nhiều các nhãn hiệu dễ gây nhầm lẫn tại các cửa hàng bán lẻ, các sản phẩm có tên tương tự nhau (chỉ khác một chữ cái) khiến nông dân bị nhầm lẫn và mua các loại hàng hóa không đúng. Ngoài ra, việc hiện tại có một số lượng lớn các công ty trên thị trường dẫn tới việc kiểm soát lỏng lẻo trong quá trình đăng ký các sản phẩm mà không hợp lệ hoặc có chất lượng phù hợp. Hơn nữa, hiện tại chưa có chế tài xử lý hành vi xâm phạm sáng chế nên khi các công ty đăng ký được sản phẩm, họ thường mặc định là sáng chế sẽ không bị xâm phạm, nhưng thực tế Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thường không kiểm tra bản quyền (IP) của sản phẩm trước khi đăng ký.

Thứ tư và cuối cùng, vấn đề Thực thi Chính sách Nhóm Công tác đã xác định 7 vấn đề chính trong lĩnh vực này, đó là:

1. Vai trò của chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề 2. Tính tuân thủ 3. Các vướng mắc trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính 4. Nhiều quy định rải rác ở các văn bản 5. Mâu thuẫn giữa các văn bản 6. Hướng dẫn thi hành Luật và quy định 7. Các quy định pháp lý thiếu sự hợp lý (cụ thể cho các hàng tái nhập khẩu)

Nông nghiệp Việt Nam bị phân tán theo khu vực với các đặc tính khác nhau. Các chính sách của Chính phủ không phản ánh và giải quyết được thực sự các vấn đề chung và riêng của từng địa phương. Các hiệp hội ngành nghề không hiệu quả trong vai trò của mình là kết nối chặt chẽ các đơn vị, tổ chức hoạt động trong ngành. Các chính quyền địa phương nên có quyền tự chủ hơn trong việc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với thực tế tại địa phương mình. Hơn nữa, rất nhiều các chính sách nông nghiệp còn mơ hồ, không có sự rõ ràng tạo cơ hội cho tham nhũng trong ngành. Kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm còn cồng kềnh và không hiệu quả. Mặt khác, có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật về các loại chất cấm sử dụng gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp trong việc tuân thủ. Vì vậy, đề nghị cần phải có những văn bản tập trung và quy định rõ ràng, ví dụ như văn bản chung cấm sử dụng các hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong chăn nuôi, vv. Ngoài ra, không có các quy định hoặc quy chuẩn rõ ràng về chế biến thực phẩm, do đó kết quả là vấn đề an toàn thực phẩm không được đảm bảo. Cuối cùng, rất nhiều quy định pháp luật không hợp lý đang được thực thi gây khó khăn cho các doanh nghiệp, đồng thời dẫn đến việc hàng hóa xuất khẩu bị ách tắc, không giao hàng đúng hẹn hoặc các doanh nghiệp phải tốn nh iều chi phí lưu kho, vv.

Trang 3/14

Page 92: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Kết luận Nhóm Công tác Nông nghiệp, thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, mong muốn được làm việc chặt chẽ với các bộ ngành liên quan, đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phái triển Nông thôn, Bộ Công thương và các cơ quan nhà nước khác để hỗ trợ Chính phủ trong việc xác định và triển khai các biện pháp hiệu quả nhằm giải quyết các vấn đề, khó khăn vướng mắc trong lĩnh vực nông nghiệp để giúp Việt Nam giải phóng tiềm năng trong lĩnh vực nông nghiệp. ___________________________________________________________________ Sau đây, Nhóm Công tác Nông nghiệp xin đưa ra các thông tin chi tiết cùng các đề xuất cho bốn vấn đề nêu trên. Thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, các thành viên của Nhóm kính mong Chính phủ sẽ tạo cơ hội cho Nhóm được nêu lên các cơ hội và thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp, một ngành công nghiệp quan trọng và lớn nhất của Việt Nam.

Trang 4/14

Page 93: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 I. Tiếp cận Thị trường Tiếp cận thị trường là khả năng tiếp cận thị trường của các sản phẩm của các công ty nông nghiệp và thực phẩm. Những sản phẩm này có thể là sản phẩm tươi hoặc chế biến sẵn. Các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc nước ngoài. Tiếp cận đề cập đến khả năng tiếp cận thị trường Việt Nam của các công ty nông nghiệp nước ngoài cũng như khả năng tiếp cập của doanh nghiệp Việt Nam tới thị trường trong và ngoài nước. Nhóm Công tác Nông nghiệp sẽ tập trung nói về chính sách hỗ trợ tiếp cận thị trường. Các vấn đề chính Hạn chế trong tiếp cận thị trường có liên quan tới nhiều vấn đề - đa số các vấn đề này là liên quan tới nhiều ban ngành, lĩnh vực Tiếp cận thị trường trong nước với doanh nghiệp Việt Nam

1. Chất lượng và tính đồng đều của sản phẩm 2. Nguyên liệu đầu vào, Công nghệ trong Quy trình chế biến và chuỗi cung ứng công nghệ

để cải thiện chất lượng và đồng đều về chất lượng. 3. Nghiên cứu phát triển các công nghệ “in-house” để phát triển sản phẩm công ty 4. Năng lực quản trị để giám sát và phát triển đội ngũ cũng như chất lượng sản phẩm 5. Không nhất quán trong phát triển và triển khai các chính sách của chính phủ

Tiếp cận thị trường trong nước (Việt Nam) với doanh nghiệp nước ngoài

1. Những giới hạn trong cấp phép và hạn chế quyền lợi đối với doanh nghiệp nước ngoài là rào cản gia nhập chính

2. Rào cản thuế quan, phi thuế quan và kiểm soát hải quan 3. Phát triển, áp dụng chính sách không nhất quán/rõ ràng

Tiếp cận thị trường nước ngoài cho các công ty trong nước

1. Nhu cầu thị trường là gì: hiểu biết còn hạn chế - yếu tố quyết định nguồn cungtrên thị trường.

2. Dự đoán các thị trường. 3. Thông tin thị trường và thông tin tình báo/nội bộ trên thị trường 4. Làm thế nào để thu hút nhiều khách hàng hơn và đa dạng hóa sản phẩm? 5. 5 vấn đề chính là làm thế nào để thay đổi phong cách quản lý/thông qua và áp dụng

công nghệ mới/nắm bắt chiến lược tiếp thị hiệu quả 6. Quản lý chất lượng đồng đều trong sản xuất và chế biến 7. Sự không đồng đều dẫn đến suy giảm chất lượng theo thời gian 8. Ví dụ: nuôi trồng thủy sản- sản xuất thịt phile đồng đều nhưng không tính đến giá trị gia

tăng trong quá trình sản xuất thêm, tiếp cận thị trường bị hạn chế. 9. Sản xuất quá nhiều sản phẩm giống nhau – nhiều ví dụ như 'chạy đua sản xuất cùng một

sản phẩm ", tất cả đều là sản phẩm ở cuối chuỗi giá trị - thanh long/cà phê Robusta/cá ba sa/

10. Cầu quyết định thị trường - Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp địa phương Kết quả là xảy ra cuộc cạnh tranh ở cuối đáy của thị trường - và không ngừng tự hạn chế cơ hội tiếp cận thị trường của mình. Lợi thế trở thành một bất lợi vĩnh viễn. Giải pháp bao gồm một chiến lược tiếp cận thị trường trong nước và quốc tếrõ ràng hơn dựa trên chuẩn mực quốc tế, được hỗ trợ bởi:

Trang 5/14

Page 94: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

1. Chính sách được giảm thiểu và hợp lý hơn, giảm bớt những rào cản tiếp cận thị trường trong các quy định của chính phủ; thực sự mở cửa với công nghệ và đầu tư nước ngoài để khôi phục ngành nông nghiệp và đảm bảo được chuẩn hoá với chuẩn quốc tế; và

2. Thực hiện đồng đều các chính sách tiến bộ, hợp lý – dự đoán lợi ích lâu dài cho hàng triệu nhà sản xuất. Nền kinh tế nông thôn lành mạnh hơn; Doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh hơn; và công nghệ và quy tắc thực hiện theo chuẩn thế giới ở Việt Nam.

II. Công nghệ trong phát triển Nông nghiệp

1. Thay đổi trong thủ tục đăng ký

Bối cảnh - Việc đăng ký các sản phẩm bảo vệ thực vật hiện bị cấm tạm thời cho đến quý 1 năm 2015

do thủ tục đăng ký đang được Cục Bảo vệ Thực vật xem xét lại. - Việc đăng ký và kiểm soát phân bón đã được chuyển giao cho Bộ Công thương (MOIT) từ Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) theo Nghị định 202/2013/NĐ-CP tháng 11 năm 2013. Kết quả là các thủ tục đã được thay đổi. Hiện tại Công ty muốn đăng ký công thức phân bón mới không chịu hướng dẫn điều chỉnh nào.

- Việc đăng ký hạt giống đang được Cục Trồng trọt (CPD) xem xét, những thay đối khả thi trong thủ tục đăng ký hiện chưa rõ.

Vấn đề - Việc giới thiệu công nghệ / sản phẩm mới cho kịp thời gian là không khả thi và sẽ mất một

năm - Các công ty giảm đầu tư là do tình hình khó nhìn nhận và dự đoán

Đề xuất - Hướng dẫn cùng quy trình thực hiện mới nên được phát hành cùng thời gian với lúc công bố

thay đổi/nghị định - Giới thiệu quá trình tham vấn chính thức, khi thay đổi lớn được lên kế hoạch, giữa các công

ty và nhà chức trách để đảm bảo quá trình chuyển đổi diễn ra thuận lợi. - Đảm bảo khung đăng ký mới sẽ tạo thuận lợi và đẩy nhanh quá trình giới thiệu công nghệ

mới

2. Khó khăn trong giới thiệu công nghệ mới Bối cảnh - Giới thiệu công nghệ mới ví dụ như hạt giống GM, sinh phẩm y tế và các sản phẩm liên quan

cần phải có sự phát triển của khung pháp lý và quản trị thích hợp. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ trong và liên Bộ ngành, Cơ quan chính phủ có liên quan và thường tốn nhiều thời gian.

Vấn đề - Sự chậm trễ trong việc hoàn thiện khung pháp lý để giới thiệu công nghệ mới là do các vấn

đề quan liêu trong phối hợp giữa các cơ quan chức năng của chính phủ. Thời hạn hoàn thiện bị hoãn lại.

- Công ty không có ý tưởng rõ ràng về kế hoạch giới thiệu sản phẩm mới, cũng như đánh giá khả năng thương mại và kỹ thuật tại Việt Nam

Trang 6/14

Page 95: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Đề xuất - Tiến hành rà soát và hoàn thiện các thủ tục để giới thiệu công nghệ mới qua sự phối hợp kịp

thời giữa các cơ quan chức năng và hợp tác với các nhà công nghiệp chủ chốt trong việc phát triển các quy định để giới thiệu công nghệ mới.

3. Khả năng cạnh tranh và lựa chọn nguyên liệu nông nghiệp chất lượng cao Bối cảnh Một báo cáo gần đây đã chỉ ra rằng 50% phân bón thử được thử nghiệm ngẫu nhiên bởi các cơ quan có thẩm quyền không đủ tiêu chuẩn và tổn thất gây ra cho nên kinh tế ước tính khoảng 800 triệu đô. Ngoài ra chúng ta còn thấy sự gia tăng đáng kể của các sản phẩm giả mạo, gây hiểu lầm cho người trồng trọt và dẫn đến phát triển sản xuất hàng giả. Đồng thời, nhận thức và yêu cầu người dùng về nguồn gốc hàng hoá và an toàn thực phẩm ngày càng tăng. Báo cáo mới nhất của Uỷ ban chuyên trách về Cà phê Việt Nam chỉ ra rằng nguyên liệu nhập khẩu chất lượng cao kết hợp với một vài yếu tố khác có thể tăng năng suất và lợi nhuận tới 10% đồng thời giảm lượng khí thải carbon 50%. Thiếu hụt cơ sở hạ tầng đầy đủ chất lượng gây cản trở áp dụng công nghệ tiên tiến hơn để sản xuất sản phẩm tốt hơn, kìm hãm khả năng cạnh tranh xuất khẩu. Vấn đề - Thiếu các hoạt động quản lý đảm bảo việc sử dụng an toàn, thích hợp của nguyên liệu đầu

vào. Nguyên liệu đầu vào có chất lượng kém được phân phối cho nông dân dẫn đến vấn đề về môi trường và an toàn.

- Nguyên liệu đầu vào có chất lượng tốt nhưng với giá cả không phù hợp khiến người nông dân không thể cạnh tranh với các công ty gian lận công thức và/hoặc không áp dụng thuế GTGT

- Nguyên liệu đầu vào cho phân phức hợp NPK có chất lượng tốt /thân thiện với môi trường chịu thuế 6% khiến sản phẩm có giá quá cao với nông dân và khiến nông dân phải sử dụng các sản phẩm giả mạo. Điều này dẫn đến việc giảm năng suất của nông dân theo thời gian và quá trình axit hóa đất.

- Sử dụng tăng cường các sản phẩm bảo vệ thực vật kém chất lượng gây ảnh hưởng xấu đến cây trồng, đất và sức khỏe con người. Dẫn đến khả năng phải sử dụng lượng phân bón nhiều hơn trong khi Việt Nam đã là một trong những nước tiêu dùng phân bón cao nhất tính theo đơn vị trên mỗi hecta.

- Thiếu cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm thử nghiệm đủ chất lượng và đầu tư từ bên ngoài khiến chúng ta không nhận ra lợi ích của việc sử dụng công nghệ tiên tiến hơn.

Đề xuất - Tăng cường biện pháp bảo vệ IP bằng việc ban hành các biện pháp xử pháp nghiêm khắc đối

với hàng giả và thực thi trên thị trường. Giảm tham nhũng ở cấp địa phương và quản lý chặt hơn việc mở cửa và giải thể những doanh nghiệp nhỏ.

- Yêu cầu về IP phải được đưa vào khung đăng ký để đảm bảo bảo vệ IP ngay từ thời điểm đăng ký

Trang 7/14

Page 96: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Tiến hành các chương trình giáo dục để thúc đẩy việc cân bằng dinh dưỡng, giao thức sử

dụng sản phẩm thích hợp để hạn chế sử dụng nguyên liệu đầu vào quá nhiều. - Tận dụng các phương tiện thông tin đại chúng của chính phủ để cảnh báo rủi ro cho nền

kinh tế, nông dân và công chúng nếu nông dân sử dụng các ngyên liệu đầu vào giả hoặc kém chất lượng.

- Đảm bảo thực hiện các chương trình quản lý bắt buộc trong tất cả các công ty để đào tạo sử dụng sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn và xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ công tác quản lý.

- Mã HS cho sản phẩm phân bón NPK nên được quy định khác nhau dựa trên công nghệ sử dụng (pha trộn nitrat với phân bón nitrat)

- Thực hiện rà soát chặt chẽ việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, và thi hành loại bỏ các thương hiệu, biểu tượng, hình ảnh nhái theo.

- Chính sách khuyến khích đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng đủ chất lượng để kiểm tra, giám sát chất lượng và sản lượng nông nghiệp.

4. Lựa chọn và áp dụng các công nghệ phù hợp với thị trường Việt Nam Bối cảnh - Việc áp dụng công nghệ nông nghiệp phải phù hợp với nông dân Việt Nam (chủ yếu là hộ gia

đình) là yếu tố quan trọng quyết định năng suất. Tập trung vào phát triển công nghệ với giá cả phải chăng cho các hộ tiểu nông là một bước quan trọng cho thay đổi trong sản xuất nông nghiệp.

Vấn đề - Sẽ là không hiệu quả nếu công nghệ không phù hợp với hình thức chăn nuôi nông hộ đang

được áp dụng. - Đầu tư lớn cho các công nghệ không phù hợp sẽ dẫn đến thực hiện kém. Đề xuất - Tham vấn và hợp tác hiệu quả để giúp lựa chọn và sử dụng các công nghệ thích hợp - Biện pháp chính sách để khuyến khích tập trung vào các công nghệ phù hợp với địa phương. III. Tiêu chuẩn chất lượng

1. Giống cây trồng/Gieo hạt Bối cảnh Việt Nam là một trong những nước đi đầu trên thị trường xuất khẩu lúa gạo thế giới và có khối lượng gạo xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, khối lượng lớn lại không đảm bảo giá trị xuất khẩu cao do quan niệm về chất lượng thấp và không đồng đều của thị trường toàn cầu về gạo Việt Nam. Một trong những lý do chính là do tình hình ngành công nghiệp hạt giống ở Việt Nam, với hơn 300 loại hạt giống lưu thông, trong đó phần lớn là hạt giống chất lượng thấp. Hiện có hơn 200 công ty hạt giống trong nước, nhưng rất ít đơn vị trong đó có đủ nguồn lực để đầu tư nghiêm túc trong lĩnh vực này.

Trang 8/14

Page 97: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Biểu đồ 1: Tỷ lệ các loại gạo Việt Nam xuất khẩu Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa là do không có quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu. Để có quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu, cần phải có sự phối hợp giữa Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp. Theo đó, Bộ Công thương cần tiến hành nghiên cứu thị trường, đánh giá nhu cầu trong nước và quốc tế để lên kế hoạch đặt hàng Bộ Nông nghiệp loại gạo (dài, ngắn, thơm,vv), sản lượng bao nhiêu tấn/vụ hoặc năm (không cần thiết phải đặt hàng cụ thể Giống lúa nào do có vài trăm giống). Trên cơ sở này, Bộ Nông nghiệp có thể dễ dàng quản lý, lên kế hoạch quy vùng, tổ chức sản xuất các giống có cùng tiêu chuẩn LOAI GẠO. Tuy nhiên hiện tại, Bộ Nông nghiệp chưa có quy hoạch vùng để sản xuất nguyên liệu cho xuất khẩu do đang thiếu các thông tin về nhu cầu thị trường. Vấn đề - Tỷ lệ sử dụng hạt giống cho mục đích thương mại thấp (~ 30% đối với hạt giống lúa thông

thường, ~ 40-50% đối với các loại rau và trái cây); phần lớn nông dân tái sử dụng hạt giống họ tiết kiệm được từ vụ trước, dẫn đến năng suất thấp, sức đề kháng chống bệnh thấp, dẫn đến giá trị kinh tế thấp.

- Những hạn chế và thiếu sự đầu tư cho hoạt động Nghiên cứu và Phát triển dẫn đến chỉ có một số lượng giới hạn loại hạt giống có thể thích ứng với khí hậu khác nhau trên đất nước và các loại hạt giống này thường bị phân huỷ nhanh. Ngoài ra, tình hình hiện nay là có quá nhiều hạt giống được công nhận và sử dụng, dẫn đến sự không thống nhất về chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Ví dụ, Thái Lan chỉ sử dụng 5-6 giống, trong khi Việt Nam có tới 300, với hơn hàng chục loại hạt giống mới được công nhận mỗi năm.

- Sự kém hiệu quả trong cơ chế thị trường hạt giống do chính sách trợ cấp. Chính quyền địa phương tận dụng các chương trình trợ cấp để hỗ trợ phát triển các loại hạt giống chất lượng và hiệu quả thấp đồng thời không phù hợp với điều kiện thời tiết địa phương. Nông dân, do phải chịu áp lực về tài chính, hoặc bị ảnh hưởng bởi cấu trúc và quy hoạch cây trồng và giống cây trồng của chính quyền địa phương, nên cuối cùng vẫn phải sử dụng hạt giống chất lượng thấp.

- Thiếu sự phối hợp và liên kết trong chuỗi giá trị. Đối với nhiều sản phẩm, cung không đáp ứng đủ cầu; trong khi đối với những sản phẩm khác lại không có thị trường cho các sản phẩm chất lượng cao. Các nhân tố tham gia chuỗi sản xuất như HẠT GIỐNG - SẢN XUẤT - CHẾ BIẾN - TIÊU THỤ không được liên kết với nhau. Kết quả là tồn tại nhiều loại hạt giống không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

- Tình trạng quan liêu trong thủ tục công nhận các hạt giống mới tốn rất nhiều thời gian cho thủ tục hành chính và thiếu sự giám sát của các tổ chức khoa học. Hậu quả là khi hạt giống được công nhận cho việc sử dụng thương mại thì không còn bắt kịp với nhu cầu thị trường nữa.

Trang 9/14

Page 98: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Trồng trọt không tập trung và bị phân tán (do chính sách sở hữu đất đai hiện hành) dẫn

đến khó khăn trong việc áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp và ngành công nghiệp hạt giống.

- Nguồn nhân lực - chất lượng của nguồn nhân lực trong nông nghiệp không cao do thiếu chính sách đãi ngộ tốt. Chưa có cơ chế để thu hút nhân tài và có sự thiếu hụt về các chuyên gia hàng đầu.

Đề xuất - Cải cách thủ tục hành chính trong quá trình công nhận hạt giống mới; và nâng cao năng lực

của các tổ chức giám sát khoa học, để đảm bảo các giống mới vượt trội hơn so với những hạt giống hiện có, và tránh hạt giống chất lượng thấp được sử dụng rộng rãi.

- Loại bỏ thực trạng hối lộ ở cấp chính quyền địa phương, cho phép nông dân sử dụng giống theo nhu cầu nông nghiệp và nhu cầu thị trường, thay vì sử dụng các giống được lựa chọn theo cơ cấu cây trồng của chính quyền địa phương nhưng không phải theo định hướng thị trường.

- Tăng cường đầu tư vào hoạt động Nghiên cứu và Phát triển để áp dụng công nghệ, hạn chế việc giới thiệu và lưu thông hạt giống chất lượng kém và không phù hợp với nhu cầu thị trường.

- Thiết lập một cơ chế trao đổi thông tin chặt chẽ giữa các phân đoạn khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất để nông dân hiểu và đáp ứng nhu cầu thị trường một cách hiệu quả, giảm vai trò của các bên trung gian/thương lái (những người tận dụng sự thiếu thông tin của nông dân nhằm mục đích trục lợi)

- Phát triển các chính sách đất nông nghiệp để khuyến khích tập hợp đất; từ đó khuyến khích đầu tư dài hạn trong đất canh tác và ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất.

- Tập trung hơn vào hợp tác và chuyển giao công nghệ quốc tế, cùng tăng cường đầu tư trong chính sách nguồn nhân lực, có thể ngay từ giai đoạn dạy nghề.

2. Hàng nhái/Hàng giả

Bối cảnh Đối với Chính phủ Việt Nam, việc đảm bảo đời sống cho người nông dân là vấn đề thiết yếu. Để đảm bảo điều này, vấn đề quan trọng là các quy tắc và quy định được ban hành và thi hành nhằm bảo vệ người tiêu dùng/đối tượng áp dụng và tạo điều kiện cho người nông dân xuất khẩu sản phẩm của họ.

Vấn đề - Các nhãn hiệu gây nhầm lẫn tại các cửa hàng bán lẻ, các sản phẩm có tên tương tự nhau (chỉ

khác một chữ cái) làm người nông dân cho rằng đó là sản phẩm khác, dẫn tới việc lạm dụng hàng nhái và gây nên các vấn đề về kháng thuốc.

- Hiện tại có một số lượng lớn các công ty trên thị trường dẫn tới việc kiểm soát lỏng lẻo trong quá trình đăng ký các sản phẩm.

- Chưa có chế tài xử lý hành vi xâm phạm sáng chế nên khi các công ty đăng ký được sản phẩm, họ thường mặc định là sáng chế sẽ không bị xâm phạm, nhưng thực tế Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn không kiểm tra bản quyền (IP) của sản phẩm.

Đề xuất - Cần có sự phối hợp giữa quá trình đăng ký và kiểm tra sở hữu trí tuệ để đảm bảo ngay từ

đầu rằng các sản phẩm được đăng ký không vi phạm sở hữu trí tuệ. - Đảm bảo dấu hiệu phân biệt phù hợp của các thương hiệu.

Trang 10/14

Page 99: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Cương quyết xử lý vi phạm hàng nhái và các sản phẩm vi phạm sở hữu trí tuệ ở cấp tỉnh. - Kiểm soát hồ sơ chặt chẽ hơn. - Bộ Nông nghiệp không cho đăng ký các sản phẩm hàng GENERIC (thuốc được sản xuất khi

quyền sở hữu công nghiệp của biệt dược đã hết hạn) có ít nhất 2 CHỮ CÁI ĐẦU CỦA TÊN SẢN PHẨM trùng với tên sản phẩm của cơ quan tác giả vì dễ gây cho người tiêu dùng nhầm lẫn tổn hại đến uy tin của Cơ quan tác giả và thiệt hại cho người dân.

IV. Thực hiện chính sách 1. Vai trò của chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề

Bối cảnh - Nông nghiệp Việt Nam bị phân tán theo khu vực với các đặc tính khác nhau. Các chính sách

của Chính phủ không phản ánh và giải quyết được thực sự các vấn đề chung và riêng của từng địa phương.

- Sự hoạt động của các hiệp hội ngành trong vai trò duy trì cầu nối giữa các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức trong ngành vẫn còn thiếu hiệu quả.

Vấn đề - Có nhiều khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện các chính sách trên thực tế, nên gốc

rễ của các vấn đề không được giải quyết một cách toàn diện. - Xung đột lợi ích xảy ra do sự thiếu hợp tác giữa các bên. - Phát triển tự phát trong ngành dẫn đến cung và cầu không cân bằng, gây mất ổn định và

thiệt hại cho cho tài sản của các bên liên quan. - Ngành nông nghiệp trong nước không được bảo hộ một cách đầy đủ trước sức ép từ cạnh

tranh quốc tế. Đề xuất - Chính quyền địa phương nên có quyền tự chủ hơn trong việc điều chỉnh các chính sách cho

phù hợp với thực tế tại địa phương mình. - Nên có quy định là trong bao nhiêu ngày thì chính quyền địa phương phải có hướng dẫn

chính thức để thực hiện các chính sách do cấp cao hơn của chính quyền đề ra. - Các hiệp hội ngành nghề nên được phân công trách nhiệm cụ thể để giúp trong việc thực

thi.

2. Tuân thủ Bối cảnh - Thực tế, nhiều chính sách trong nông nghiệp còn mơ hồ trong cách hiểu, diễn giải và triển

khai thực hiện. - Nhiều chính sách được thực hiện trên cơ sở chỉ khuyến khích mà không có bất kỳ nghĩa vụ

cụ thể nào. Vấn đề - Các bên thực hiện chính sách có thể lợi dụng lợi thế của những điểm mơ hồ, không rõ ràng

của các chính sách này để được hưởng lợi, từ đó có thể dẫn đến tham nhũng. - Do thiếu minh bạch, lợi ích từ các chính sách khuyến khích này có thể chuyển sang cho các

đối tượng mà các chính sách không hướng tới, khiến lãng phí nguồn lực và không hiệu quả.

Trang 11/14

Page 100: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Đề xuất - Các chính quyền địa phương có trách nhiệm hướng dẫn về cụ thể các chính sách để tránh sự

mơ hồ, không rõ ràng và thiếu minh bạch. 3. Các vướng mắc trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính Bối cảnh - Thông tư 128/2013/TT-BTC quy định việc kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với sản

phẩm (có nguồn gốc) thực vật, động vật phải thực hiện tại cửa khẩu theo các thủ tục nhất định.

Vấn đề - Các địa điểm kiểm tra quy định bất hợp lý, gây ách tắc hàng hóa, mất nhiều thời gian.

Đề xuất - Kính đề nghị xem xét sửa đổi Thông tư 128/2013/TT-BTC để cho phép các doanh nghiệp

được đưa thực phẩm đông lạnh nhập khẩu về kho bảo quản của doanh nghiệp để thực hiện việc kiểm dịch, kiểm tra an toàn thực phẩm theo quy định hiện hành thay vì kiểm tra tại cảng/cửa khẩu.

4. Nhiều quy định rải rác ở các văn bản

Bối cảnh Quy định về các loại hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong thức ăn chăn nuôi hiện được nêu ở rất nhiều văn bản, ví dụ: - Điều 7 Thông tư số 57/2012/TT-BNNPTNT ngày 7/11/2012 quy định việc kiểm tra, giám sát

và xử lý vi phạm các chất cấm thuộc nhóm Beta-agonist trong chăn nuôi - Thông tư số 61 /2011/TT-BNNPTNT ngày 12/9/2011 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia cơ

sở sản xuất Thức ăn chăn nuôi. - Thông tư số 81 /2009/TT-BNNPTNT ngày 25/12/2009 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia

lĩnh vực Thức ăn chăn nuôi (4 quy chuẩn kỹ thuật), Quyết định 3762/QĐ-BNN-CN ngày 28/11/2008 về việc quản lý chất Melamine trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản, vv;

Vấn đề - Hiện tại có quá nhiều văn bản quy định chất cấm khiến các cơ quan quản lý và các doanh

nghiệp khó tra cứu, cập nhật và nắm được thông tin một cách đầy đủ.

Đề xuất - Kính đề nghị có một quy định tập trung, thống nhất tất cả các loại hóa chất, kháng sinh cấm

sử dụng trong thức ăn chăn nuôi để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng.

5. Mâu thuẫn giữa các văn bản

Bối cảnh Theo quy định tại Quyết định số 45/2005/QĐ-BNN Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có chức năng kiểm dịch đối với "Sữa tươi, sữa chua, bơ, pho mát, sữa hộp, sữa bánh và các sản phẩm từ sữa".

Trang 12/14

Page 101: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Theo Điều 63, 64 Luật An toàn thực phẩm thì Bộ Nông nghiệp chỉ quản lý an toàn thực phẩm đối với sữa tươi nguyên liệu; Bộ Công thương quản lý về sữa chế biến. Vấn đề Hiện nay không rõ đơn vị nào kiểm dịch về sữa chế biến, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi xuất khẩu (vì không có chứng nhận kiểm dịch đúng thẩm quyền thì không thể xuất khẩu).

Đề xuất - Kính đề nghị có văn bản hướng dẫn cụ thể, phân định rõ trách nhiệm kiểm dịch trong

trường hợp này. - Đề nghị các sản phẩm gần giống nhau nên nằm dưới sự chủ quản của một bộ để tạo điều

kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. 6. Hướng dẫn thi hành Luật và quy định (Luật và quy đinh chỉ đề cập tới khung quy định,

thiếu hướng dẫn cho quá trình thực thi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp)

Bối cảnh - Luật An toàn thực phẩm (Điều 19) quy định cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm phải đáp

ứng các điều kiện kinh doanh theo quy chuẩn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định.

- Tuy nhiên, hiện tại chưa có quy định nào của Bộ về các quy chuẩn này. Vấn đề - Các cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm rất dễ bị coi là không đạt điều kiện (do không có quy

chuẩn/tiêu chuẩn rõ ràng)

Đề xuất - Kính đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành văn bản quy định cụ thể về

quy chuẩn điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với từng loại cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm làm căn cứ cho việc áp dụng

7. Các quy định pháp lý thiếu sự hợp lý

Bối cảnh - Thông tư 219/2013/TT-BTC hướng dẫn Luật Thuế giá trị gia tăng (“GTGT”), Nghị định

209/2013/NĐ-CP không xếp hàng tái nhập do bị trả lại vào diện miễn thuế GTGT Vấn đề - Đối với hàng xuất khẩu bị trả về (với nhiều nguyên nhân: có thể do khách hàng không thanh

toán nên doanh nghiệp phải thu hồi hàng, hoặc do những rào cản phát sinh khiến doanh nghiệp phải thu hồi hàng về, có thể do một số lỗi về kỹ thuật bao bì, chất lượng, vv), rất nhiều doanh nghiệp phải chịu nhiều tổn thất về chi phí vận chuyển hai chiều rất lớn, cộng với việc tồn đọng vốn, nếu không tái xuất được thì doanh nghiệp càng tổn thất nặng hơn.

- Do đó, khi hàng hóa bị trả về, nếu doanh nghiệp còn phải đóng thuế GTGT thì càng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp về vốn.

- Đây là vấn đề mà ngành thủy sản của Việt Nam thường xuyên gặp phải; do đó, việc quy định như hiện tại gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành.

- Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT quy định về kiểm tra, chứng nhận an toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu.

Trang 13/14

Page 102: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Nhóm Công tác Nông nghiệp Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 - Chính phủ đã áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn sự gian lận trong thuế VAT và nhận

được sự hoan nghênh của các công ty xuất khẩu tại Việt Nam. Tuy nhiên cần làm rõ các qui định về sản phẩm nông sản mới qua sơ chế thông thường không phải đối tượng kê khai và nộp thuế VAT.

Đề xuất - Bổ sung “hàng xuất khẩu bị trả về” vào danh mục các loại hàng hóa không phải chịu thuế

GTGT vào Thông tư 219/2013/TT-BTC. - Sửa đổi Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT (đặc biệt về checklist, tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra, trách

nhiệm trả phí…) - Ban hành các hướng dẫn cụ thể để phân loại các sản phẩm nông sản không thuộc đối tượng

kê khai và nộp thuế VAT, bằng việc ban hành danh mục các mặt hàng nông sản mới qua sơ chế thông thường.

Trang 14/14

Page 103: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Chương VI

DU LỊCH

Page 104: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

BÁO CÁO LĨNH VỰC DU LỊCH, KHÁCH SẠN VÀ NHÀ HÀNG

Chuẩn bị bởi Nhóm Công tác Du lịch

Tổng quan Trong năm 2013, ngành Du lịch và Lữ hành Việt Nam đã đóng góp trực tiếp 149.754 tỷ đồng vào tổng GDP của cả nước (tương đương 4,6% GDP) và dự đoán sẽ tăng lên khoảng 8,9% tức là lên đến 163.034 tỷ đồng vào năm 2014. Đóng góp trực tiếp của ngành được hy vọng sẽ tăng khoảng 6,3%/năm đạt mức 299.846 tỷ đồng (tương đương 4,7% GDP) vào năm 2024.1 Tổng giá trị đóng góp vào GDP của ngành Du lịch & Lữ hành là 311.117 tỷ đồng (tương đương 9,6% GDP) trong năm 2013 và hy vọng sẽ đạt được mức tăng trưởng 8,9% lên mức 338.660 tỉ đồng (tương đương 9,9% GDP) vào năm 2014. Dự kiến đến năm 2024, tổng giá trị đóng góp sẽ tăng 6%/năm đạt mức 607.858 tỉ đồng (tương đương 9,6% GDP). Cũng trong năm 2013, ngành này đã tạo ra 1.899.000 việc làm (chiếm 3,7% tổng số lao động) và thu hút khoảng 81.987 tỷ đồng nguồn vốn đầu tư trực tiếp. Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã thông qua việc thành lập Hội đồng Tư vấn Du lịch nhờ một phần nguồn vốn tài trợ của Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (“ESRT”). Hội đồng đã đi vào hoạt động và có những buổi họp mặt thường xuyên. Trong 4 tháng đầu năm 2014, số lượng khách du lịch đến Việt Nam đã tăng 27% so với cùng kì năm ngoái, đặc biệt là khách du lịch từ Trung Quốc, HongKong (tăng 47% lên 804,134 khách) thường đến những bãi biển miền Trung; khách du lịch Nga thì thường đến Cam Ranh hoặc Phú Quốc; và các khách du lịch đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc. Mặc dù chưa có bằng chứng xác thực nào nhưng chúng tôi tin rằng sự gia tăng này một phần vì lượng khách du lịch đến Thái Lan giảm mạnh do khủng hoảng chính trị ở đất nước này. Tuy nhiên, sự kiện đáng tiếc gần đây liên quan đến vấn đề Biển Đông đã gây tác động tiêu cực đến lượng du khách bao gồm cả khách du lịch và doanh nghiệp, khách sạn trên khắp đất nước bị hủy đặt phòng nhiều từ các nhóm du lịch, khách du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị và khách du lịch đơn lẻ vì lý do an toàn. Kết quả khảo sát nhanh trong các thành viên Nhóm Công tác sẽ được chia sẻ tại phần đầu tiên của Báo cáo như dưới đây. Phú Quốc hiện giờ là cửa ngõ quốc tế và có chính sách cấp thị thực ngay tại cửa khẩu mà hoạt động hiệu quả và thành công thực sự. Các cơ quan chức năng cũng đã bắt đầu giải quyết các vấn đề an toàn mà đã được Nhóm kiến nghị trước đây với sự ra đời của Lực lượng Cảnh sát Du lịch ở rất nhiều địa điểm du lịch lớn và đường dây nóng để giúp đỡ và tiếp nhận ý kiến của khách du lịch. Nạn taxi lừa đảo giờ cũng được điều tra, đưa vào hệ thống và đồng thời hàng loạt các văn phòng du lịch được xây dựng ở các thành phố lớn.

1 Nguồn: http://www.wttc.org/site_media/uploads/downloads/vietnam2014.pdf

Trang 1/11

Page 105: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Mặc dù đã có những tiến triển rõ ràng, Nhóm Công tác tin rằng Việt Nam đang đánh mất các cơ hội để tăng lượng khách du lịch một cách đáng kể và để đạt được điều này, dưới đây Nhóm công tác xin thảo luận một số vấn đề đồng thời đưa ra các kiện nghị và giải pháp đề xuất: 1. Ảnh hưởng của các sự kiện đáng tiếc gần đây lên ngành du lịch và khách sạn Như đã đề cập ở trên, các sự kiện đáng tiếc gần đây đã nhận được sự chú ý không chỉ tại Việt Nam mà cả trên thế giới, vì vậy, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên số lượng khách du lịch đến Việt Nam từ tháng 5 và các tháng tiếp theo. Nhiều công ty đa quốc gia đã khuyến cáo hạn chế du lịch Việt Nam và đến nay phần lớn các khuyến cáo trên vẫn được duy trì. Trong khi lượng du khách Nga phần lớn không bị ảnh hưởng, lượng du khách đến từ Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Sigapore và Úc bị ảnh hưởng mạnh. Để định lượng các tác động của các sự kiện gần đây là rất khó, vì vậy chúng tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát trong các thành viên trong Nhóm công tác và những tổ chức/doanh nghiệp tham gia trong cuộc khảo sát khách sạn của Grant Thornton và kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các khách sạn và công ty lữ hành chúng tôi liên lạc đang phải chịu ảnh hưởng của việc hủy đặt phòng dự kiến kéo dài từ thời điểm hiện tại đến đến tháng 9. Phản hồi từ 18 khách sạn cho thấy:

Miền Bắc Miền Trung và Cao nguyên Miền Nam Tổng cộng

Tổng số đêm nghỉ khách sạn bị hủy 4,216 4,805 5,924 14,945

Phần trăm tổng số đêm khách sạn bị hủy 28% 32% 40% 100%

Tổng số tiền bị tổn thất $ 583,700 524,500 697,060 1,805,260 Tổng số phần trăm bị tổn thất % 32% 29% 39% 100%

(*)Số liệu được lấy từ các thành viên Nhóm công tác Du lịch của VBF và tổ chức/doanh nghiệp tham gia trong cuộc khảo sát khách sạn của Grant Thornton Thực tế, tổng số thiệt hại vượt quá 1.8 triệu đô la Mỹ từ 18 khách sạn trong tổng số 640 khách sạn 3, 4 và 5 sao và tổng số đêm nghỉ khách sạn bị hủy trong tháng 7 lên đến 14.945 đêm, trong số đó, một khách sạn có báo cáo rằng số lượng đặt phòng tiếp tục bị hủy đến tận tháng 9. Ngoài ra, chúng tôi cũng lưu ý rằng một sân golf ở miền Trung Việt Nam đã bị hủy 500 lượt, gây ra tổn thất tới USD50,000. Về số lượng phòng nghỉ đêm bị hủy và doanh thu bị tổn thất (đối với cả doanh thu phòng nghỉ, thực phẩm và đồ uống), các khách sạn ở Miền Nam bị ảnh hưởng nhiều nhất, chiếm tới 40$ tổng số phòng bị hủy và 39% tổng doanh thu bị mất trong giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2014. Các đại lý lữ hành cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Theo báo cáo của một số công ty lữ hành, số lượng các khách du lịch đơn lẻ từ Mỹ và Úc đã giảm 20-30%. Thậm chí, tại Úc, quốc gia này có đưa ra các hướng dẫn cho các du khách khi tới Việt Nam.

Gián tiếp

Trực tiếp

Thúc đẩy

Trang 2/11

Page 106: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Tổng Cục Du lịch cần phải có những hành động nhanh chóng với các chiến dịch phạm vi quốc tế để truyền tải thông điệp rằng Việt Nam vẫn là một điểm đến an toàn cho du lịch và để thuyết phục các du khách cũng như các Đại sứ quán, là các bên mà đưa ra các khuyến cáo khi đi du lịch tại Việt Nam, rằng các sự cố gần đây là đơn lẻ và sẽ không tiếp tục xảy ra nữa. Đồng thời, Chính phủ cũng cần phải cân nhắc đưa ra các ưu đãi tương tự cho các công ty lữ hành và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch như đã đưa ra đối với các ngành khác mà bị ảnh hưởng bởi các sự kiện đáng tiếc gần đây. 2. Miễn thị thực và Thị thực quá cảnh Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) và Hội đồng Du lịch & Lữ hành Thế giới (WTTC)2, khách du lịch coi thị thực như là một hình thức áp đặt phí. Nếu chi phí xin thị thực -cho dù là một khoản chi phí trực tiếp (bằng tiền) hoặc gián tiếp mà bao gồm tổng hợp các chi phí liên quan đến khoảng cách, thời gian chờ đợi và thủ tục rắc rối – vượt qua một ngưỡng cụ thể, các khách du lịch tiềm năng sẽ đơn giản cân nhắc lại chuyến đi hoặc đổi sang một địa điểm du lịch khác ít phức tạp hơn. Báo cáo cũng nói them rằng các quốc gia mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp thị thực đồng thời chuyển sang hệ thống cấp thị thực tại cửa khẩu sẽ giúp các quốc gia ASEAN nhận được lượng du khách thêm từ 6 đến 10 triệu người vào năm 2016. Lượng du khách này sẽ mang đến 7-12 tỷ USD và tạo ra từ 333.000 đến 654.000 việc làm vào năm 2016. Bản báo cáo cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam có thể tăng lượng du khách từ 8-18% nếu Việt Nam tạo điều kiện và chuyển đổi hình thức cấp thị thực (ví dụ như hình thức cấp thị thực tại cửa khẩu). Hiện tại, chỉ những khách du lịch đơn lẻ nước ngoài (FIT) mang hộ chiếu ASEAN được miễn thị thực trong thời gian lưu trú không quá 30 ngày. Và chỉ những khách du lịch đơn lẻ mang hộ chiếu Đan Mạch, Na Uy, Phần Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga được phép nhập cảnh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày mà không cần thị thực. Chúng tôi cho rằng có nhiều luận điểm rất thuyết phục để Việt Nam mở rộng hơn nữa phạm vi miễn thị thực và chúng tôi xin đề nghị Chính phủ kéo dài chương trình thí điểm miễn thị thực đối với các nước trên. Lợi ích của chương trình miễn thị thực được thể hiện rõ qua con số khách du lịch tăng đáng kể từ những quốc gia được hưởng chính sách miễn thị thực như sau:

Mức độ tăng trưởng năm 2013 so với năm 2012

Tăng trưởng trong 4 tháng đầu năm 2014 so với năm 2013

Nhật Bản 4.8% 8.5% Hàn Quốc 6.8% 6.7% Liên Bang Nga 71.1% 37.4% Các nước Bắc Âu Giảm 15%

Trong khi đó, mức tăng trưởng lượng khách du lịch từ các quốc gia có thu nhập cao trong 2 năm 2012 và 2013 như sau: Đức -6% và -8,4%

2 Báo cáo tháng 5 năm 2012

Trang 3/11

Page 107: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Pháp +4% và -4,4% Anh +9% và +8% Du khách tăng do sự ra đời đường bay trực tiếp từ Việt Nam đến Anh Hà Lan +2% và +3% Úc 0% và +10% Mỹ 0% và -2,6% Thị thực Quá cảnh Cần lưu ý là Trung Quốc đã tự do hóa yêu cầu cấp thị thực, cho phép khách du lịch từ 51 quốc gia được quá cảnh tại nước này trong vòng 72 giờ, điều này có nghĩa là khách du lịch có thể ra khỏi sân bay và đi đến các thành phố, tỉnh thành khác xung quanh Bắc Kinh, Quảng Châu, Thượng Hải và hai thành phố khác. Điều này đã tạo nên một làn sóng khách du lịch quá cảnh tại Trung Quốc và mức chi tiêu của các du khách quá cảnh cũng tăng do sử dụng nhà hàng, khách sạn, các phương tiện giao thông vận tải và các dịch vụ khác của ngành du lịch. Nếu đã từng quá cảnh tại Trung Quốc với mục đích du lịch thì du khách hoàn toàn có thể cân nhắc quá cảnh tại Việt Nam, một đất nước an toàn với bầu không khí trong lành và là địa điểm thay thế thích hợp cho những việc quá cảnh tại Trung Quốc.3 Hiện nay với một số chuyến bay của VietnamAirline từ Úc đến Châu Âu chọn Việt Nam là điểm quá cảnh thì máy bay sẽ đáp xuống thành phố Hồ Chí Minh và chuyến bay tiếp theo đến châu Âu sẽ được khởi hành từ Hà Nội. Chuyến bay trung gian từ thành phố Hồ Chí Minh đến Hà Nội yêu cầu hành khách phải có visa du lịch trong vòng 30 ngày để hoàn tất chuyến bay chỉ diễn ra trong vòng từ 4-6 tiếng qua các sân bay ở Việt Nam. Khả năng của các khu nghỉ dưỡng của Việt Nam còn khá hạn chế, ví dụ như khả năng cung cấp đủ phòng cho lượng khách du lịch đến Việt Nam; vì thế các công ty lữ hành và khách du lịch đang tìm kiếm các địa điểm mới sẵn sàng phục vụ cho mục đích quá cảnh tại Việt Nam. Các hãng hàng không hy vọng có thể khai thác hết công suất máy bay và năng lực các điểm đến đang tìm kiếm những chuyến bay quá cảnh ở nhiều thành phố tại các quốc gia Châu Á và Việt Nam. Các hãng hàng không quốc tế đang tìm cách để khai thác «hệ thống một vé máy bay», có nghĩa là du khách có thể sử dụng một tấm vé đó để đi tham quan các địa điểm du lịch ở Châu Á. Khi sản phẩm du lịch này được định hình rõ ràng và được đưa ra thị trường, sự cạnh tranh giữa các chiến lược marketing điểm đến sẽ được thực hiện để đẩy mạnh nhu cầu. Với sự ra đời của các Hãng hàng không giá rẻ (LCC), việc bán vé du lịch đang trở thành việc bán hàng trực tiếp, không thông qua các đại lý bán vé trung gian, đồng thời việc quá cảnh diễn ra tự động và hành lý được vận chuyển đúng lộ trình do được hưởng lợi từ các thoả thuận giữa các hàng hàng không của Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (« IATA »). Để tỉ lệ khách du lịch càng ngày càng tăng, việc sử dụng hãng hàng không giá rẻ có nghĩa là các khách hàng phải được nhập cảnh và sau đó hải quan hoàn thành thủ tục kiểm tra để sẵn sàng cho chuyến bay tiếp theo của một hành trình dài đi qua nhiều nước. Hiện nay, thủ tục quá cảnh này chưa được áp dụng tại Việt Nam cho những hành khách quá cảnh mà không có ý định lưu trú tại Việt Nam, nhưng lại cần phải làm thủ tục nhập cảnh cho chuyến bay tiếp theo với tư cách là hành khách quá cảnh. Việt Nam đang đứng trước cơ hội để tạo nên sự khác biệt trong thị trường các hãng hàng không giá rẻ và những hãng vận chuyển đầy kinh nghiệm với tiềm năng trở thành một trung tâm trung chuyển hàng không phục vụ hành khách quá cảnh.

3 http://www.travelchinaguide.com/embassy/visa/free-72hour/

Trang 4/11

Page 108: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Trong khi lượng khách du lịch đến Việt Nam được chú trọng trong các cuộc thảo luận về thị thực và miễn thị thực, thì thị trường khách trong nước đi du lịch nước ngoài đang tăng, tuy nhiên lại bị hạn chế bởi hàng loạt các tiêu chuẩn, điều kiện thị thực nặng nề đối với công dân Việt Nam khi muốn đi du lịch châu Âu. Kiến nghị: Chúng tôi đề xuất phạm vi miễn thị thực được mở rộng để bao gồm các quốc gia có tiềm năng đem lại doanh thu du lịch lớn cho Việt Nam, chẳng hạn như các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Australia, Hong Kong và Đài Loan. Việc miễn thị thực nên được áp dụng cho công dân của các quốc gia trên với thời hạn lưu trú đến 30 ngày. Chúng tôi cũng đề nghị thiết lập một hệ thống cấp thị thực tại cửa khẩu hiệu quả hơn. Việt Nam có thể xem xét trường hợp của Lào và Campuchia là hai quốc gia cũng cấp và thu phí thị thực tại cửa khẩu. Hình thức xin thị thực này cũng nên cho phép các du khách có hộ chiếu đủ điều kiện miễn thị thực được lưu trú tại Việt Nam trong ít nhất 14 ngày mà không cần thêm bất kỳ một giấy tờ nào khác trừ hộ chiếu. Chính sách và thủ tục “thị thực tại cửa khẩu” nên được tiến hành một cách minh bạch và thống nhất, cần phải có hướng dẫn về thủ tục, biểu phí, và cách áp dụng như nhau ở các sân bay khác nhau. Chúng ta nên tạo ra một môi trường thuận lợi cho các hãng hàng không và khách du lịch quá cảnh tại Việt Nam và di chuyển trong nước bằng cách tạo điều kiện cấp thị thực quá cảnh, cho phép các hãng hàng không quốc tế được dừng tại nhiều điểm ở Việt Nam. Việc giảm thiểu hoặc loại bỏ các yêu cầu xin cấp thị thực cho công dân VIệt Nam khi có nhu cầu đi du lịch ở các nước trong Liên minh Châu Âu cần được xem như là một vấn đề trọng tâm cần phải được nêu lên khi bàn bạc với các đối tác trong cộng đồng châu Âu. Với mục tiêu phát triển kinh tế và công nghiệp du lịch, thương mại tự do sẽ được mở rộng cho các cộng đồng/doanh nghiệp khi cả hai bên đều áp dụng chính sách miễn thị thực. Việc công dân Việt Nam được du lịch ở châu Âu trong thời gian ngắn sẽ mở ra các cơ hội hiểu hơn về kinh tế song phương trong lĩnh vực thương mại và du lịch giữa hai bên. Một số kiến nghị khác: • Cung cấp các hướng dẫn và thông tin rõ ràng hơn tại các sảnh đến về địa điểm/nơi làm thủ

tục cấp thị thực tại cửa khẩu. (lấy thị thực ở đâu, các mẫu đơn cần thiết như thế nào, chính sách, biểu phí ra sao, thời gian chờ đợi là bao nhiêu)

• Hướng dẫn về việc xếp số thứ tự khi làm thủ tục cấp thị thực tại cửa khẩu. 3. Tiếp thị điểm đến4 Là một cơ quan quản lý nhà nước, nhìn chung, Tổng cục Du lịch Việt Nam tuân theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong nhiều lĩnh vực, trong đó có tiếp thị du lịch. Một mặt, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trong việc hướng dẫn sử dụng nguồn vốn chính phủ hiệu quả và phù hợp. Thêm vào đó, Tổng cục Du lịch còn phải chịu trách nhiệm về nhiều vấn đề khác ngoài mảng tiếp thị điểm đến, ví dụ như phát triển du lịch và định hướng phát triển du lịch. Mặc khác để tối ưu hóa chi tiêu quốc gia về tiếp thị, chúng tôi thấy rằng vai trò và trách nhiệm của Tổng cục cần được đẩy mạnh hơn nữa trong công tác tiếp thị điểm đến và vị thế của Tổng cục cần được mở rộng và thừa nhận như là một cơ quan phụ trách tiếp thị du lịch của quốc gia.

4 Thuật ngữ tiếp thị điểm đến chỉ việc tiếp thị và quản lý chiến lược một điểm đến du lịch cụ thể.

Trang 5/11

Page 109: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 Ngoài ra, sự hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ để đảm bảo chuỗi dịch vụ hoạt động liên tục và thống nhất trong toàn khu vực cũng là một yếu tố quan trọng trong hoạt động quản lý điểm đến. Sự thiếu vắng một mối quan hệ hợp tác hiệu quả trong phạm vi khu vực và các tổ chức quản lý địa điểm du lịch (DMO) tại Việt Nam đã đặt ra nhiều thách thức cả về tổ chức lẫn hoạt động cho ngành du lịch. Chúng tôi cho rằng cần phải tránh tình trạng công việc quảng bá du lịch bị chồng chéo và trùng lặp giữa các bộ ngành liên quan. Cần củng cố liên kết giữa khu vực nhà nước và các doanh nghiệp thông qua việc huy động sự tham gia của các bên liên quan một cách hiệu quả và tăng cường vai trò của các DMO. Nhóm Công tác nhận thấy Việt Nam đã có được bước tiến triển trong những lĩnh vực trên. Tháng 11 năm 2012, Hội đồng Tư vấn Du lịch (TAB) đã được thành lập trong khuôn khổ Chương trình ESRT do Liên minh châu Âu tài trợ. Hội đồng Tư vấn Du lịch đưa ra các ý kiến tư vấn trực tiếp cho Tổng cục Du lịch và đã tạo ra một cơ chế chính thức cho việc hợp tác và đối thoại trực tiếp giữa khu vực công và tư nhân của Việt Nam. Cũng trong khuôn khổ của Chương trình ESRT, Chiến lược tiếp thị du lịch quốc gia đến năm 2020 và bản Kế hoạch hành động giai đoạn 2013 – 2015 đã được xây dựng. Chiến lược và Kế hoạch hành động này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và dựa trên các thực tiễn tốt nhất trên thế giới nhằm đưa du lịch Việt Nam lên ngang tầm với các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực. Tốc độ tăng trưởng lượt khách du lịch trong 4 tháng đầu năm 2014 vào khoảng 27%, cao hơn so với cùng kì năm ngoái. Số ngày lưu trú của du khách tại Việt Nam thường khá ngắn và tỷ lệ khách du lịch quay trở lại Việt Nam cũng khá thấp, một nguyên nhân là do các lựa chọn tham quan giải trí tại các điểm du lịch chính còn hạn chế. Thái Lan là nước có tỉ lệ khách du lịch thường xuyên/quay lại rất cao. Trong khi chúng ta cũng đang đón tiếp một lượng lớn du khách đến từ Nga, Trung Quốc, HongKong, Đài Loan thì có một sự thật là du khách từ các nước này thường chi tiêu ít hơn so với các du khách đến từ Châu Âu và Bắc Mỹ. Khuyến nghị: Chúng tôi tin rằng biện pháp hiệu quả nhất để xóa đi những nhận thức tiêu cực về chất lượng dịch vụ du lịch ở Việt Nam là tiếp tục chiến dịch quảng cáo ở trong nước và quốc tế. Những chiến dịch như thế cần làm nổi bật những điểm hấp dẫn của du lịch Việt Nam với những lợi thế về di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh, những bãi biển trải dài, và người dân thân thiện. Trong khi đã có những tiến triển tích cực ở trong nước và ở một mức độ nào đó ở nước ngoài, chúng tôi nhận thấy rằng một sự đầu tư nhỏ cũng có thể tạo nên những khác biệt lớn trong nhận thức của du khách về đất nước. Ví dụ, trải nghiệm về đất nước có thể được cải thiện bằng các biện pháp như chiếu các video quảng cáo trên các chuyến bay hoặc là các trò chơi trong khu vực nhập cảnh để giải thích về thủ tục nhập cảnh, hải quan, phương tiện đi lại và dịch vụ hậu cần. Tuy nhiên để có thể làm được những khuyến nghị trên đây cần phải có một khoản kinh phí lớn hơn rất nhiều so với hiện tại. Chính phủ nên nhận ra sự đóng góp to lớn của ngành du lịch sẽ giúp tăng trưởng GDP và tạo việc làm đồng thời phân bổ đủ nguồn quỹ cho Tổng cục du lịch để có thể cạnh tranh với các nước láng giềng trong khu vực mà có mức ngân quỹ dành cho hoạt động du lịch cao hơn nhiều lần. Chúng tôi cũng khuyến nghị các biện pháp cụ thể sau: • Công nhận về mặt pháp lý thẩm quyền của Tổng cục Du lịch là Cơ quan Du lịch Quốc gia và

là cơ quan phụ trách tiếp thị du lịch duy nhất của Việt Nam. • Tăng cường vai trò và chức năng của các DMO.

Trang 6/11

Page 110: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 • Thông qua đề án Chiến lược tiếp thị du lịch Việt Nam và lập các kế hoạch hành động thường

niên trước khi năm tài khóa kết thúc và chia sẻ với các tổ chức cá nhân hoạt động trong ngành. Để cấp vốn cho sáng kiến này, chúng tôi khuyến nghị Chính phủ cấp một khoản ngân sách bổ sung với giá trị tăng dần theo năng lực dần được nâng cao của Tổng cục Du lịch.

• Theo như trả lời của Chính phủ cho Nhóm công tác Du lịch tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam trong năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang hướng dẫn Tổng cục Du lịch xây dựng một quỹ dành cho hoạt động quảng bá và tiếp thị du lịch. Các khoản quỹ này nên được sử dụng một cách hiệu quả nhất nhằm đóng góp vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động quảng bá và tiếp thị du lịch Việt Nam.

• Tiếp tục ủng hộ các sáng kiến PPP và PPD, đặc biệt trong bối cảnh Hội đồng du lịch và các DMO khu vực đã được thành lập.

• Tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch và tạo dựng các điểm thu hút khách du lịch mới. Cần tập trung phát triển các điểm đến mới như các điểm du lịch văn hóa với nhiều trò chơi trang thiết bị thể thao hay du lịch mạo hiểm.

• Phân bổ ngân sách nhiều hơn cho các chiến dịch quảng bá du lịch đề cập ở trên và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị cung cấp dịch vụ du lịch và lữ hành của nước ngoài để tận dụng tối đa nguồn ngân sách bổ sung này.

• Thiết kế các chiến dịch quảng cáo, bao gồm các đoạn quảng cáo và thước phim quảng cáo, hợp tác chặt chẽ với công ty lữ hành nước ngoài và công ty lữ hành trong nước có lượng khác nước ngoài lớn.

• Khuyến khích môi trường du lịch thân thiện và trách nhiệm. Thúc đẩy các tiêu chuẩn du lịch để tăng thêm giá trị cho ngành công nghiệp du lịch nói chung và hướng đến một kết quả công việc hiệu quả hơn và tốt hơn trong ngành công nghiệp.

• Chúng tôi đánh giá cao các cuộc thảo luận gần đây về việc mở rộng quyền sở hữu nhà ở cho người nước ngoài và khuyến nghị Chính phủ xem xét các mô hình đang được các quốc gia khác áp dụng, chẳng hạn như mô hình của Thái Lan. Các cơ quan chức năng cần xem xét các lợi ích ngày càng gia tăng của việc cho phép người nước ngoài – những người mà không sở hữu thị thực nhập cảnh nhiều lần với thời hạn ba tháng – được mua dài hạn các căn hộ và biệt thự nghỉ dưỡng.

4. Giáo dục và Đào tạo Mô tả vấn đề: Ngành du lịch và khách sạn tiếp tục phải đối mặt với tình trạng thiếu nguồn nhân lực được đào tạo đầy đủ và bài bản, trên tất cả các cấp bậc và vị trí, từ nhân viên mới cho đến vị trí giám sát, quản lý và điều hành. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực và đã đạt được một số tiến triển thông qua các hỗ trợ kỹ thuật và các chương trình can thiệp quốc tế, hệ thống giáo dục và đào tạo phần lớn vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu thực sự của ngành khách sạn và du lịch. Các vấn đề về giáo dục và đào tạo trong ngành du lịch và khách sạn mang tính hệ thống và phụ thuộc vào những bất cập cố hữu của toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Đặc biệt, sự yếu kém của giáo dục và đào tạo nghề và kỹ thuật (TVET) có ảnh hưởng nghiêm trọng cho toàn ngành du lịch và khách sạn. Thứ nhất, khung pháp lý về giáo dục và đào tạo vẫn còn phức tạp và cồng kềnh. Với sự tham gia của các Bộ và cơ quan chính phủ khác nhau, các quá trình ra quyết định diễn ra chồng chéo, không hợp lý, việc thông tin, phối hợp và cải cách hệ thống vẫn còn thiếu chậm chạp. Thứ hai, cách tiếp cận sư phạm và chiến lược mang tính toàn diện đối với giáo dục và đào tạo dựa trên những mô hình đã lỗi thời, và không bắt kịp với các nhu cầu của xã hội hiện đại, của nền kinh tế thị trường mở hoặc của ngành. Thứ ba, các cơ quan quản lý và các tổ chức đào tạo tiếp tục có những cách tiếp cận 'trừu tượng' hơn là 'thực tế' đối với các chương trình đào tạo cho ngành du lịch và khách sạn. Hiện tại có rất ít chương trình trao đổi và hợp tác giữa các doanh nghiệp

Trang 7/11

Page 111: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 tron ngành du lịch và khách sạn (cả trong nước lẫn nước ngoài). Chương trình giảng dạy, đề cương khóa học và phương pháp giảng dạy phần lớn vẫn mang tính lý thuyết về bản chất, và nhiều chương trình đào tạo được dạy bởi các giáo viên có trình độ học vấn, nhưng không có hoặc rất ít kinh nghiệm làm việc thực tế trong lĩnh vực này. Cuối cùng, toàn bộ hệ thống đào tạo thực tập sinh và huấn luyện giảng viên vẫn còn thiếu và nghèo nàn. Một số biện pháp nhất định nhằm giải quyết vấn đề đã bắt đầu được thực hiện. Kết hợp với Tổng cục Du lịch, chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESRT) do Liên minh Châu Âu tài trợ đã tiến hành đánh giá nhu cầu đào tạo trên toàn quốc với mục đích cung cấp thông tin cập nhật về các kỹ năng và nhu cầu đào tạo của các tổ chức và doanh nghiệp cả tư nhân và nhà nước trong lĩnh vực này. Hơn nữa, trong bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2015 sắp tới, Tổng cục Du lịch (với sự hỗ trợ của chương trình ESRT) đã và đang xây dựng cuốn Sổ tay hướng dẫn thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề Du lịch trong khu vực ASEAN (MRA-TP) với mục tiêu thiết lập tiêu chuẩn năng lực chung cho các chuyên gia/nhân sự làm việc trong ngành du lịch và khách sạn và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân chuyển nhân lực trong khu vực. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực đáng khen ngợi của các bên tham gia, việc thực hiện Sổ tay MRA-TP tại Việt Nam vẫn còn chậm và thiếu minh bạch. Mỗi quốc gia thành viên phải thiết lập và triển khai một cơ quan kiểm định chất lượng và bộ tiêu chuẩn năng lực cấp quốc gia. Trong tình hình hiện tại, Hội đồng cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch (“VTCB”) vẫn chưa được chính thức phê duyệt và bản cập nhật của Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam (“VTOS”) vẫn chưa được công bố. Việc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch và khách sạn tại Việt Nam vẫn chưa được chính thức tham gia vào quá trình này dẫn đến rủi ro và thách thức trong việc áp dụng các tiêu chuẩn VTOS và việc thực hiện hiệu quả Sổ tay MRA-TP tại Việt Nam. Lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Nguồn nhân lực tăng lên cả về số lượng và chất lượng ở tất cả các lĩnh vực trong ngành du lịch và khách sạn – nhà hàng sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ đang được cung cấp. Điều này ngược lại cũng giúp nâng cao hình ảnh và uy tín của Việt Nam. Các dịch vụ tốt hơn sẽ giúp tăng cường năng lực cạnh tranh, thu hút được nhiều du khách hơn, từ đó tăng tỷ lệ đóng góp tiềm năng vào GDP và nguồn thu cho Chính phủ. Du lịch là một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước, nên ngành này cũng có thể tạo ra ảnh hưởng tích cực đến các ngành khác, giúp cải thiện trình độ kỹ năng trong toàn chuỗi cung ứng. Điều này có thể sẽ giúp tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân địa phương. Kiến nghị: Các thành viên của chúng tôi có các kiến nghị cụ thể sau: • Giới thiệu chương trình chứng chỉ du lịch quốc gia nhằm đảm bảo rằng các công ty du lịch và

nhân viên của các công ty này đáp ứng được các tiêu chuẩn cốt lõi của ngành. Chẳng hạn như hỗ trợ việc triển khai Tiêu chuẩn kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam (VTOS).

• Công nhận tư cách pháp lý của Hội đồng cấp chứng chỉ nghiệp vụ Du lịch (VTCB) để thực hiện các chức năng của Hội đồng nghề du lịch quốc gia - ASEAN (NTPB) và Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch (TPCB) để MRA-TP có hiệu lực triển khai. Thành lập Hội đồng cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch với sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực du lịch và khách sạn.

• Khuyến khích các bên liên quan, các cơ sở đào tạo nghề sử dụng kết quả của chương trình Đánh giá Nhu cầu Đào tạo 2013. Báo cáo đánh giá này cung cấp các thông tin cập nhật để bổ sung cho Quy hoạch “Phát triển nguồn nhân lực du lịch đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Trang 8/11

Page 112: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 • Thành lập một Hội đồng Đào tạo Ngành Du lịch để cung cấp hướng dẫn/ý kiến đóng góp cho

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch/Tổng cục Du lịch về các yêu cầu kỹ năng của ngành. • Yêu cầu tất cả các trường đại học, cao đẳng và cơ sở đào tạo áp dụng các tài liệu đào tạo

VTOS. • Xây dựng các biện pháp chính thức xác minh ngoài và đảm bảo chất lượng nhằm đảm bảo

các nguyên tắc của Thỏa thuận MRA-TP liên quan đến tiêu chuẩn năng lực và cảnh quan địa phương được giữ gìn và bảo tồn.

• Giới thiệu chương trình thực tập nghề cho tất cả các sinh viên, bao gồm những khóa được thiết kế và phát triển bởi các chuyên gia quốc tế về các chương trình đào tạo về kỹ năng phục vụ khách hàng và hiểu biết đa văn hóa.

5. Cấp phép các dịch vụ liên quan đến du lịch Nếu Việt Nam có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng của ngành và đạt được mục tiêu về số lượng việc làm trong Quy hoạch phát triển Du lịch thì công tác quản lý ngành thông qua việc cấp phép là vô cùng quan trọng. Chỉ nên cấp các giấy phép cung cấp các dịch vụ liên quan đến du lịch cho những nhân sự được đào tạo bài bản thông qua giáo dục chính thức và có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Điều này là cực kỳ quan trọng trong xu thế luân chuyển lao động trong khu vực ASEAN từ năm 2015.

Tiềm năng đối với Việt Nam: • Tiêu chuẩn dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút đầu tư hơn nữa và tạo việc làm cho người lao động • Hạn chế được việc phát sinh các hoạt động bất hợp pháp – các hoạt động kinh doanh hợp

pháp, được pháp luật thừa nhận sẽ tăng doanh thu thuế cho Chính phủ. • Đảm bảo được các tiêu chuẩn về sức khỏe và an toàn

Kiến nghị: Các kiến nghị cụ thể của chúng tôi trong lĩnh vực này như sau: • Chỉ cấp phép cho các dịch vụ liên quan đến du lịch cho cho những nhân sự được đào tạo bài

bản một cách chính thống và có đủ năng lực chuyên môn trong lĩnh vực dịch vụ, bất kể quốc tịch

• Loại bỏ các giới hạn bổ sung đối với người nước ngoài làm điều hành tour trong ngành du lịch và cải thiện quy trình cấp phép cho các công ty du lịch.

6. Chính sách du lịch có trách nhiệm Mô tả vấn đề: Du lịch có trách nhiệm đang ngày càng được hưởng ứng và nhận được sự quan tâm và cam kết của các lãnh đạo cấp cao trong các lĩnh vực quan trọng, một trong những minh chứng đó là Chương trình Nhãn Bông sen Xanh, Chiến lược tiếp thị Du lịch mới của Việt Nam và việc xây dựng Bộ Tiêu chí Du lịch có trách nhiệm trong hệ thống VTOS. Giữa năm 2013, Chương trình ESRT do Liên minh Châu Âu tài trợ đã bắt đầu dự thảo Khung Chính sách Du lịch có trách nhiệm. Khung chính sách đã nghiên cứu kỹ lưỡng các định hướng và ưu tiên của Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch quốc gia Việt Nam; các kiến nghị của ngành và các cơ quan ngành nghề chẳng hạn như Hiệp hội Du lịch Việt Nam, kiến nghị của Nhóm công tác về Du lịch của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam và Tiểu ban Du lịch và Nhà hàng Khách sạn của EuroCham được đề cập trong Sách Trắng 2013. Khung Chính sách Du lịch có Trách nhiệm đã được phát triển thành tài liệu “Hướng dẫn Chính sách – Xây dựng Du lịch có Trách nhiệm tại Việt Nam”. Tài liệu này được thiết kế như một nguồn tài liệu thực hành để hỗ trợ xây dựng chính sách và pháp luật về du lịch cũng như hoạt động trong ngành du lịch (trực tiếp/gián tiếp) để xác định và giải quyết các vấn đề chính sách và

Trang 9/11

Page 113: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014 các biện pháp can thiệp chính nhằm tăng tính bền vững và hình thành các hành động có trách nhiệm. Nền tảng của Tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm dựa trên 6 trụ cột sau: 1. Áp dụng các biện pháp quản trị tốt trong ngành du lịch 2. Hỗ trợ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nghành đi đôi với phát triển thị trường một cách bền vững 3. Sử dụng du lịch cho mục đích phát triển kinh tế xã hội trên diện rộng 4. Nâng cao nhận thức và hiểu biết về du lịch bền vững 5. Phát triển một lực lượng lao động có kỹ năng với các điều kiện làm việc hợp lý 6. Bảo tồn và đẩy mạnh quảng bá các di sản văn hóa và tự nhiên của Việt Nam Với mỗi trụ cột, các kiến nghị đã được đưa ra cùng với các đề xuất về việc bên liên quan nào cần chịu trách nhiệm và quy trình nào cần thực hiện để tạo ra sự thay đổi thực sự. Lợi ích/quan ngại tiềm tàng đối với Việt Nam: Một cách tiếp cận toàn diện để đạt được mục tiêu về Du lịch có trách nhiệm với sự hỗ trợ của Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm sẽ đưa ngành du lịch Việt Nam đi đúng hướng để đạt được thành công về lâu dài, trở thành một điểm đến hấp dẫn, sống động và bền vững. Điều này cũng sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội cho người dân, góp phần thu hút thêm nhiều du khách trong tương lai. Báo cáo Năng lực cạnh tranh ngành Lữ hành và Du lịch của Diễn đàn Kinh tế Thế giới cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển ngành Du lịch Việt Nam theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường.5 Tuy nhiên, bên cạnh những hoạt động và thành tựu đã đạt được trong hiện tại, cũng cần lưu ý rằng Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm. Việt Nam vẫn cần tiếp tục hỗ trợ việc nâng cao nhận thức, hiểu biết, cam kết, chia sẻ trách nhiệm và thực hiện hành động với cách tiếp cận mang tính chiến lược và ở tất cả các cấp. Mặc dù các vấn đề và hành động ở cấp cao hơn thường đòi hỏi nhiều thời gian hơn nhưng đây là những việc hết sức cần thiết và quá trình giải quyết những vấn đề này cần được bắt đầu ngay từ bây giờ. Đồng thời, các kết quả và ví dụ thực tiễn cần được rút ra từ các chương trình thí điểm, chẳng hạn như các điểm đến cụ thể hay thậm chí các sáng kiến ở cấp địa điểm du lịch. Kết quả ở cấp này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, ảnh hưởng và thúc đẩy sự thay đổi cần thiết ở các cấp cao hơn. Cần lưu ý rằng sự phối hợp giữa các bên liên quan là một cấu phần quan trọng trong du lịch có trách nhiệm. Kiến nghị: • Dự kiến Tài liệu Hướng dẫn Chính sách sẽ là một tài liệu tham khảo cho việc soản thảo và

sửa đổi luật du lịch, được hỗ trợ và xác nhận bởi Chính phủ và các tổ chức đại diện cho các bên liên quan quan trọng khác.

• Hỗ trợ việc thông qua và áp dụng Tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm và các Kiến nghị. Tài liệu Hướng dãn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm đưa ra các gợi ý, đề xuất về các hành động cụ thể có thể được thực hiện bởi các bên liên quan trong ngành để tạo ra những chuyển biến thực sự và đạt được tác động một cách kịp thời.

• Khuyến khích Chính phủ Việt Nam và các bên liên quan trong lĩnh vực du lịch thực hiện tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm, giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh cần thiết

5 Báo cáo Năng lực Cạnh tranh ngành Lữ hành & Du lịch 2013, Diễn đàn Kinh tế Thế giới, http://www3.weforum.org/docs/WEF_TT_Competitiveness_Report_2013.pdf

Trang 10/11

Page 114: MPI - AmCham Vietnam · 2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG

Báo cáo về các vấn đề Du lịch Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2014

cho ngành du lịch Việt Nam phát triển và khởi sắc đồng thời tiếp tục đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội trên diện rộng trong tương lai.

• Khuyến khích chính quyền và các doanh nghiệp ở cấp khu vực/điểm đến sử dụng các nội dung trong Tài liệu Hướng dẫn Chính sách Du lịch có Trách nhiệm như một danh sách dài các khả năng và lựa chọn mà giúp họ có thể xác định một nhóm các hành động chủ yếu phù hợp với các vấn đề và thực tiễn của từng điểm đến.

Trang 11/11