24
Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá trình hòa nhập xã hội” (nghiên cứu người khuyết tật vận động từ 18-40 tuổi tại thị xã Quảng Yên- Tỉnh Quảng Ninh) Đinh Thị Thủy Trường Đại học KHXH&NV Luận văn ThS ngành: Công tác xã hội; Mã số: 60900101 Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan Năm bảo vệ: 2013 Abstract: Dùng phương pháp nghiên cứu của xã hội học và công tác xã hội để tìm hiểu thực trạng, các yếu tố dẫn đến mặc cảm, tự ti của người khuyết tật vận động trong độ tuổi từ 18- 40 tuổi tại thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Trình bày các lý thuyết và phương pháp của công tác xã hội trong việc trợ giúp thân chủ và nhóm thân chủ là người khuyết tật từ 18 - 40 tuổi. Thông qua những lý thuyết đó, NVXH có thể phân tích được kỹ hơn, rõ ràng hơn vấn đề thân chủ đang gặp phải và lập được một kế hoạch trợ giúp thân chủ hợp lý và hiệu quả. Đề xuất các giải pháp có tính khả thi của công tác xã hội nhằm hỗ trợ cho người khuyết tật có mặc cảm, tự ti. Keywords: Công tác xã hội; Người khuyết tật; Mặc cảm tự ti; Hòa nhập xã hội Content:

Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

  • Upload
    buianh

  • View
    234

  • Download
    12

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá

trình hòa nhập xã hội” (nghiên cứu người

khuyết tật vận động từ 18-40 tuổi tại thị xã

Quảng Yên- Tỉnh Quảng Ninh)

Đinh Thị Thủy

Trường Đại học KHXH&NV

Luận văn ThS ngành: Công tác xã hội; Mã số: 60900101

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Hồi Loan

Năm bảo vệ: 2013

Abstract: Dùng phương pháp nghiên cứu của xã hội học và công tác xã hội để tìm hiểu thực

trạng, các yếu tố dẫn đến mặc cảm, tự ti của người khuyết tật vận động trong độ tuổi từ 18-

40 tuổi tại thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Trình bày các lý thuyết và phương pháp của

công tác xã hội trong việc trợ giúp thân chủ và nhóm thân chủ là người khuyết tật từ 18- 40

tuổi. Thông qua những lý thuyết đó, NVXH có thể phân tích được kỹ hơn, rõ ràng hơn vấn đề

thân chủ đang gặp phải và lập được một kế hoạch trợ giúp thân chủ hợp lý và hiệu quả. Đề

xuất các giải pháp có tính khả thi của công tác xã hội nhằm hỗ trợ cho người khuyết tật có

mặc cảm, tự ti.

Keywords: Công tác xã hội; Người khuyết tật; Mặc cảm tự ti; Hòa nhập xã hội

Content:

Page 2: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

MỤC LỤC

Lời cảm ơn .................................................................................................................. 2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................ 6

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................. 7

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 8

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 8

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .............................................................................. 9

3. Ý nghĩa của nghiên cứu ...................................................................................... 16

4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu ................................................................... 16

5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 17

6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu .................................................. 17

7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 18

8. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................... 19

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH.................................................................................... 21

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ........ 21

1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu............................................................ 21

1.1.1. Lý thuyết phân tâm của Freud......................................................................19

1.1.2. Lý thuyết về nhận thức- hành vi....................................................................20

1.1.3. Lý thuyết dán nhãn........................................................................................21

1.2. Các khái niệm công cụ ..................................................................................... 24

1.2.1. Khái niệm người khuyết tật ........................................................................... 24

1.2.2. Mặc cảm tự ti .................................................................................................. 27

1.2.3. Mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động .............................................. 29

1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ......................................................................... 31

CHƢƠNG 2: MẶC CẢM TỰ TI CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG Ở

THỊ XÃ QUẢNG YÊN- TỈNH QUẢNG NINH ................................................... 32

2.1. Thực trạng mặc cảm tự ti của NKT vận động ở thị xã Quảng Yên- Quảng

Ninh..........................................................................................................................32

Page 3: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

2.2. Mặc cảm tự ti của ngƣời khuyết tật vận động và ảnh hƣởng của mặc cảm

tự ti lên cuộc sống của họ ........................................................................................ 38

2.2.1. Mặc cảm tự ti của ngƣời khuyết tật vận động hiện nay ............................ 38

2.2.1.1. Các biểu hiện của mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động ........... 38

2.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý mặc cảm tự ti của người khuyết tật

vận động .................................................................................................................... 43

2.2.2. Ảnh hƣởng của mặc cảm tự ti lên cuộc sống của ngƣời khuyết tật vận

động .................................................................................................................... 49

CHƢƠNG 3: CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG TRỢ GIÚP NGƢỜI KHUYẾT

TẬT VẬN ĐỘNG VƢỢT QUA MẶC CẢM TỰ TI HÒA NHẬP XÃ HỘI ...... 63

3.1. Đánh giá dịch vụ hỗ trợ ngƣời khuyết tật về tâm lý cũng nhƣ hỗ trợ vƣợt

qua mặc cảm tự ti tại địa phƣơng .......................................................................... 63

3.2. Xây dựng chƣơng trình hỗ trợ cho ngƣời khuyết tật vƣợt qua mặc cảm tự

ti hòa nhập xã hội .................................................................................................... 68

3.2.1. CTXH với cá nhân là người khuyết tật vận động ........................................ 68

3.2.2. CTXH với nhóm khuyết tật vận động từ 18-40 tuổi ..................................... 91

3.2.3. Xây dựng chương trình can thiệp hiệu quả với người khuyết tật có mặc

cảm tự ti .................................................................................................................. 100

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 105

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 107

PHỤ LỤC ............................................................................................................... 109

Page 4: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết

- Hiện nay số lượng NKT (người khuyết tật) trên cả nước chiếm tỉ lệ khá cao chính vì vậy có

thể thấy rằng việc quan tâm tới NKT là cần thiết thể hiện tính nhân văn cũng như cái nhìn

công bằng đối với NKT

- Ở nước ta có nhiều hoạt động trợ giúp NKT, tuy nhiên những hoạt động đó còn mang nặng

tính từ thiện. Thực tế cũng có nhiều trung tâm, tổ chức, hiệp hội dành cho NKT nhưng còn

nhiều hạn chế trong đó có hạn chế về việc trợ giúp NKT đương đầu với tâm lý mặc cảm tự ti.

- Mặc cảm tự ti của NKT ảnh hưởng lớn đến đời sống của NKT đặc biệt là giai đoạn 18-40:

ảnh hưởng đến tiếp cận giáo dục, việc làm, vui chơi- giải trí...

- Trước thực trạng NKT hiện nay cùng những lý do kể trên đã thôi thúc người nghiên cứu

thực hiện đề tài luận văn: “Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá trình hội nhập xã

hội”

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Các nghiên cứu nước ngoài

- “Disability in NewZealand: an historical survey” (Người khuyết tật ở NewZealand- một cuộc

khảo sát lịch sử), Marganet Tennat, NewZealand Journal of Disability studies, number 2, 1996.

Nghiên cứu này khảo sát về nhu cầu của người khuyết tật và đáp ứng nhu cầu của họ trong đó có

nhu cầu tham vấn tâm lý cho người khuyết tật.

- Báo cáo “National Disability Strategy” (chiến lược quốc gia NKT), Hội đồng Chính phủ

Australia (COAG) vào ngày 13 tháng 2 năm 2011 và đưa ra bởi Chính phủ Úc vào ngày 18 tháng

3 năm 2011. Chiến lược người khuyết tật quốc gia đưa ra một kế hoạch mười năm quốc gia để cải

thiện đời sống cho người Úc bị khuyết tật, gia đình và người chăm sóc họ từ đó cho phép người

khuyết tật thực hiện đầy đủ tiềm năng của họ như những công dân bình đẳng.

- “Disability and social inclusion in Ireland ” (khuyết tật và hòa nhập xã hội ở Ireland), Brenda

Gannon and Brian Nolan. Nghiên cứu này xem xét NKT có hoàn cảnh khó khăn hòa nhập xã hội

trong đó có nghiên cứu về : trình độ, học vấn, thu nhập, tham gia xã hội... và mặc cảm tự ti cũng

là yếu tố đang cản trở cuộc sống hàng ngày của người khuyết tật

Các nghiên cứu trong nước

- “Giảm thiểu kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật ở Việt Nam”- Viện

nghiên cứu phát triển xã hội, ban tuyên giáo TW và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nghiên cứu này

chỉ ra rằng có 14 khó khăn mà người khuyết tật đang phải đối mặt trong đó có mặc cảm tự ti.

- “Hướng dẫn giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật”, Khuất Thu Hồng,

ThS.Nguyễn Thị Vân Anh cùng nhóm biên tập ISPS- 2011. Tài liệu này nhằm mục đích tăng hiểu

Page 5: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

biết và nhận thức về NKT và sự kỳ thị phân biệt đối xử với người khuyết tật, ngoài ra cung cấp

các kỹ năng để người khuyết tật hòa nhập cuộc sống.

- “NKT ở Việt Nam”, Khuất Thu Hồng, Lê Bạch Dương, Nguyễn Đức Vinh- Kết quả

điều tra XHH tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đồng Nai- 2008, NXB chính trị quốc gia.

Điều tra này nêu ra những đặc điểm kinh tế xã hội của người khuyết tật, khả năng tiếp cận dịch vụ

y tế, việc làm, hôn nhân, kỳ thị và phân biệt đối xử...

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.

- Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu giúp hiểu rõ hơn về việc áp dụng các lý thuyết, phương

pháp của CTXH vào thực hành như thế nào và hiệu quả của những lý thuyết đó đối với việc trợ

giúp một cá nhân, một nhóm người.

- Ý nghĩa thực tiễn: qua nghiên cứu, có thể đánh giá được những yếu tố tác động và ảnh

hưởng của mặc cảm tự ti đến cuộc sống của người khuyết tật vận động hiện nay tại thị xã Quảng

Yên- Quảng Ninh. Từ đó đưa ra những khuyến nghị và đề xuất để góp phần trợ giúp cho người

khuyết tật trong đó có người khuyết tật vận động vượt qua mặc cảm tự ti để hòa nhập xã hội.

4. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết 1: hiện nay có rất nhiều người khuyết tật có tâm lý mặc cảm tự ti. Tâm lý mặc

cảm tự ti có nhiều yếu tố tác động khác nhau và gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người

khuyết tật trong đó có người khuyết tật vận động.

Giả thuyết 2: những dịch vụ cần thiết hỗ trợ người khuyết tật về tâm lý trong đó có tâm

lý mặc cảm tự ti chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều hạn chế.

Giả thuyết 3: nhân viên công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong quá trình trợ giúp

người khuyết tật vượt qua mặc cảm tự ti để hòa nhập xã hội nhưng chưa được phát huy vai trò tại

các địa phương.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp CTXH cá nhân

- Phương pháp CTXH nhóm

- Phương pháp phỏng vấn sâu

- Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi

- Phương pháp quan sát

NỘI DUNG CHÍNH

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu

1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu

- Thuyết phân tâm của Freud

Page 6: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

- Thuyết tiếp cận nhận thức- hành vi dưới góc nhìn của các nhà tâm lý học như Ellis, Aaron Beck,

Maxie C.Maultsby...

- Lý thuyết dán nhãn

1.2. Các khái niệm công cụ

- Khái niệm NKT(khái niệm, phân loại, đặc điểm)

- Mặc cảm tự ti:

+ Khái niệm mặc cảm, tự ti

+ Đặc điểm mặc cảm, tự ti

+ Biểu hiện mặc cảm tự ti: qua nhận thức, qua xúc cảm- tình cảm, qua hành vi

- Mặc cảm tự ti của NKT vận động (đặc điểm, biểu hiện)

Dựa vào các đặc điểm, biểu hiện của mặc cảm tự ti và các đặc điểm, biểu hiện của người

khuyết tật vận động, có thể đưa ra các đặc điểm, biểu hiện về mặc cảm tự ti của người khuyết tật

vận động như sau:

Đặc điểm:

Hầu hết những người khuyết tật dù là khuyết tật ở loại nào cũng có mặc cảm về khuyết tật

mà họ có. Với người khuyết tật vận động thì mức độ mặc cảm tự ti của họ chủ yếu về ngoại hình,

về khả năng đi lại, về khả năng lao động, về sự tham gia xã hội...

Khuyết tật vận động ảnh hưởng lớn đến tâm lý của người khuyết tật từ khi họ mang khuyết

tật, đặc biệt là dạng khuyết tật không phải do bẩm sinh.

Biểu hiện:

Biểu hiện qua nhận thức:

Người khuyết tật vận động cho rằng mình mình bị người khác coi thường, thiếu tôn trọng,

không thừa nhận họ, nhận thức bị bóp méo, xuyên tạc, không phản ánh hiện thực khách quan.

Người khuyết tật vận động thấy mình là nạn nhân của các dịch vụ không thể tiếp cận được,

của sự phân biệt hơn là làm chủ bản thân và ít khi quyết định được vận mệnh của mình.

Người khuyết tật vận động có mặc cảm không nhận thức được nhu cầu đích thực của mình

là gì, không biết mình thực sự là ai, nhìn mình và người khác có chiều hướng tiêu cực.

Mọi tình huống trong xã hội, họ bị cản trở về đi lại nên cảm thấy mình thua thiệt, bất hạnh

và cô đơn.

Biểu hiện qua xúc cảm- tình cảm

Luôn cảm thấy mình thua thiệt và bất hạnh

Luôn cảm giác mình là gánh nặng của gia đình và xã hội

Có những dự đoán bi quan và luôn sống trong sợ hãi

Page 7: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Khi có những khó khăn trong việc đi lại, tiếp cận giao thông hay công trình công cộng đều

có tư tưởng đổ lỗi hoặc đi từ cảm xúc oán trách này đến oán trách khác

Biểu hiện qua hành vi

Không phát huy khả năng của bản thân, có thể dẫn đến hủy hoại bản thân

Ngại giao tiếp, chỉ thích ngồi, ngại đi lại, sợ đám đông, trong mối quan hệ xã hội thấy rõ sự

thua kém

- Các yếu tố ảnh hưởng đến mặc cảm- tự ti của NKT vận động

+ Yếu tố khách quan: định kiến xã hội, tổ chức xã hội

+ Yếu tố chủ quan: tự ý thức, tự nhận thức

Chương 2. Mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động ở thị xã Quảng Yên- Tỉnh Quảng

Ninh

2.1. Thực trạng mặc cảm tự ti của NKT vận động ở thị xã Quảng Yên- Quảng Ninh.

Theo tổng cục dân số và kế hoạch hóa gia đình, hiện nay ước tính cả nước có khoảng 5,1

triệu người khuyết tật (NKT), chiếm khoảng 6% dân số, trong đó có 1,1 triệu khuyết tật nặng,

chiếm 21,5% tổng số người khuyết tật. Bao gồm 29% khuyết tật vận động, 17% tâm thần, 14%

tật thị giác, 9% tật thính giác, 7% tật ngôn ngữ, 7% trí tuệ và 17% các dạng tật khác

Theo điều tra mới nhất của phòng Lao động, Thương binh và Xã hội thị xã, cả thị xã có

2063 hộ dân có người khuyết tật, và số người khuyết tật là 3923. Cũng theo thống kê, người

khuyết tật vận động chiếm 20% còn lại là các dạng khuyết tật khác, về độ tuổi, độ tuổi từ 18-25

chiếm số lượng chủ yếu.

Trong đó xã Liên Hòa có đông người khuyết tật nhất với 461 người và 121 người là

người khuyết tật vận động chiếm 26%. Phường Nam Hòa có ít người khuyết tật nhất trong toàn

thị xã với 124 người khuyết tật trong đó có 22 người khuyết tật vận động, chiếm 18%.

Mức độ mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động trên địa bàn thị xã Quảng Yên

chiếm tỷ lệ khá cao. Hầu hết những người khuyết tật này đều có tâm lý mặc cảm chiếm 30% hầu

hết mặc cảm, 28,26 % đôi khi mặc cảm, 22,12% luôn luôn, 14,36% hiếm khi và tỷ lệ ít nhất là

không bao giờ với 5,36 %.

Qua số liệu trên có thể thấy rằng không phải người khuyết tật trong bất kì điều gì cũng

cảm thấy luôn luôn tự ti mà chỉ là hầu hết. Nhưng không ai là không có mặc cảm, phần trăm

những người trả lời “không bao giờ” trong tất cả các câu hỏi chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 5.36%. Vì

vậy, việc hỗ trợ người có tâm lý mặc cảm là cần thiết để trợ giúp cho người khuyết tật nói chung

và người khuyết tật vận động nói riêng vượt qua những rào cản đó để hòa nhập với xã hội.

Page 8: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Theo như kết quả nghiên cứu với 100 người khuyết tật vận động trên địa bàn thị xã

Quảng Yên với độ tuổi từ 18-40, số người khuyết tật vận động chủ yếu là nam chiếm 60% và nữ

chiếm 40% trong đó 48% khuyết tật vận động do bẩm sinh và 52% khuyết tật vận động do tai

nạn. Như thế có thể thấy rằng tỷ lệ người khuyết tật do tai nạn chiếm số lượng đông hơn số người

khuyết tật bẩm sinh.

Số người khuyết tật không làm gì chiếm tỷ lệ khá cao với 59%, sau đó là 33% những người

khuyết tật có việc làm tại nhà. Số người đang làm việc trong các cơ quan nhà nước chiếm 7% và

làm các công việc khác chiếm 1%.

Số người khuyết tật do tai nạn không làm gì chiếm tỷ lệ cao nhất với 36 người chiếm 36%.

Ngoài ra, có 3% những người khuyết tật bẩm sinh đang làm trong các doanh nghiệp và 4% người

khuyết tật do tai nạn đang làm trong các cơ quan Nhà nước. Điều này có thể cho thấy rằng những

người khuyết tật bẩm sinh có thể dễ thích nghi với bẩm sinh của họ hơn những người khuyết tật

do tai nạn. Hầu hết những người khuyết tật bẩm sinh ít có mặc cảm hơn so với những người

khuyết tật do tai nạn hay do các sự tác động khác.

2.2. Mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động và ảnh hưởng của mặc cảm tự ti lên

cuộc sống của họ

2.2.1 Mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động hiện nay

2.2.1.1. Các biểu hiện của mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động

Biệu hiện qua nhận thức

Mức độ mặc cảm thông qua nhận thức được biểu hiện khá rõ nét với 30,5% chọn “đôi khi

” cảm thấy, “hầu hết” chiếm 29,1%, “luôn luôn” chiếm 21,1%, 5,5% “không bao giờ” cảm thấy,

“hiếm khi” chiếm 13,5.

Nhận thức là một phần quan trọng trong cuộc sống của con người. Nếu như nhận thức sai

lệch sẽ dẫn đến những hành vi sai lệch. Theo cách tiếp cận nhận thức- hành vi, các nhà tâm lý học

đã giải thích rất rõ điều này. Vận dụng những lý thuyết đó có thể lý giải rằng khi nhận thức của

người khuyết tật vận động có những méo mó sẽ dẫn đến những tư duy sai lệch và kéo theo những

hành vi sai lệch. Như trên đã nói, nhận thức hình thành trong quá trình người khuyết tật nhìn

nhận sự vật hiện tượng xảy ra với họ trong cuộc sống. Khi họ bị gán nhãn khuyết tật, một loạt

những điều kèm theo với cái nhãn ấy và họ cảm thấy mình là nạn nhân như nạn nhân của các dịch

vụ không thể tiếp cận được, từ đó sinh ra những nhận thức như: mọi người không coi trọng họ, họ

là gánh nặng... Từ những nhận thức này, người khuyết tật sẽ gặp những khó trong học những điều

mới, tổng hợp từ những gì cụ thể, và sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt bằng cả lời và qua văn bản.

Ngoài ra khi nhận thức bị méo mó, sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của họ, những trải

nghiệm của bản thân và cả tương lai của họ.Tiếp đó, nó ảnh hưởng đến cảm giác và hành động

Page 9: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

ngăn cản người khuyết tật hoàn thành mục tiêu hay giải tỏa các vấn đề và những mối quan tâm.

Và như thế, càng ngày họ càng thu mình trong cái vỏ bọc về những nhận thức đó và sinh ra mặc

cảm tự ti về chính bản thân mình.

Biểu hiện qua hành vi

30,1% người NKT “hầu hết” có những biểu hiện mặc cảm thông qua hành vi, “không

bao giờ” chiếm 4,1%, “hiếm khi” 17,1% , và 23,8% “luôn luôn” có những biểu hiện trên tức là

mức độ mặc cảm thể hiện qua hành vi ở mức độ 3.

Những niềm tin phi lí về nhận thức đã gây nên những ứng xử không thích hợp như sau:

suy nghĩ tuyệt đối hóa theo kiểu hoặc tất cả, hoặc là không có gì; trầm trọng hóa, quan trọng vấn

đề trước một thất bại không đáng kể, dẫn đến mất niềm tin vào bản thân, người khác và xã hội; tự

ám thị là mình không có khả năng chịu đựng thất bại; khái quát hóa một cách vội vã, thái quá do

chỉ dựa vào một, hai biểu hiện của sự kiện, hoàn cảnh xảy ra với mình, và cuối cùng là có cảm

giác sự vô tích sự, vô giá trị của bản thân do tin rằng mình là kẻ không có khả năng gì. Chính vì

thế những mặc cảm dễ dẫn đến những hành vi sai lệch và ảnh hưởng tới cuộc sống của người

khuyết tật.

Biểu hiện qua xúc cảm, tình cảm

Người khuyết tật vận động “luôn luôn” có những xúc cảm trên, với 22% trong quá trình

điều tra, những người chọn câu trả lời “hầu hết” chiếm 31,5% và 27,5% “đôi khi” mặc cảm,

hiếm khi 12,717,1%, không bao giờ 6,3%

Xúc cảm- tình cảm của con người yếu tố khó nhìn nhận nhất. Ở mỗi người có đời sống

tình cảm khác nhau, có người thể hiện ra bên ngoài nhưng có người giữ kín trong lòng. Đời sống

tình cảm phục thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chịu nhiều tác động từ môi trường sống, gia

đình, bạn bè... Để hỗ trợ về mặc xúc cảm- tình cảm cho người khuyết tật, cần đi sâu vào tham vấn

cá nhân và nhóm, để hiểu hết những xúc động của họ mới có thể trợ giúp một cách tốt nhất, có

hiệu quả nhất.

2.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý mặc cảm tự ti của người khuyết tật vận động

Yếu tố chủ quan

Từ những nhìn nhận của thuyết phân tâm như thấy ở trên, có thể thấy rằng mặc cảm tự ti

bị ảnh hưởng trước hết từ chính bản thân người khuyết tật. “Tôi cảm thấy mặc cảm và tủi thân khi

sinh ra không được lành lặn như bao người khác” ((PVS số 1, nữ, 35 tuổi, người khuyết tật vận

động do tai nạn). Chỉ có 4.4 % người khuyết tật coi khuyết tật là một phần cuộc sống của mình,

38,9% nói rằng “tôi xấu xí”, 25,1% nói rằng “tôi sợ khuyết tật mình đang có”

Khó khăn trong tiếp cận thông tin, trong giao tiếp nên cảm thấy mình thua kém người

khác, thiếu kỹ năng sống nên không có kỹ năng để ứng phó với các vấn đề trong cuộc sống. họ

Page 10: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

còn cảm thấy mình không có giá trị, không có tiếng nói và không có quyền phát biểu ý kiến trong

các nhóm và các mối quan hệ xã hội. Họ cho rằng: “tôi không có tài năng và khả năng làm gì”;

“tôi không đủ sức khỏe”, “tôi không muốn đi học vì sợ bạn bè chê cười”(PVS số 3, nam, 32 tuổi,

NKT vận động do tai nạn).

Trong thuyết gán nhãn, Erving Goffman lý giải rất rõ nguyên nhân tại sao con người lại

tự mình cảm thấy mặc cảm: khởi đầu sự lệch lạc chuyên nghiệp là bị vết nhơ. Vết nhơ là tình

trạng mà tên gọi xã hội tiêu cực tác động mạnh làm thay đổi cơ bản nhận dạng xã hội và sự tự

nhận thức của một người. Nếu những biểu hiện này kéo dài sẽ có thể dẫn đến nhiều nguy cơ như:

thờ ơ, trầm cảm, tự tử...

Trong phần thực trạng về mặc cảm tự ti của người khuyết tật ở trên đã nêu rõ rằng, hầu

hết những người khuyết tật do tai nạn thường tự ti hơn so với những người khuyết tật bẩm sinh.

Có thể lý giải điều này dựa trên những quan sát trong quá trình điều tra cũng như việc tìm hiểu

tâm sinh lý của người khuyết tật và thuyết gán nhãn. Qua quan sát hầu hết những người khuyết tật

bẩm sinh dễ dàng chấp nhận khuyết tật của họ hơn những người khuyết tật do tai nạn. Đối với

NKT bẩm sinh, khi sinh ra khuyết tật gắn liền với cuộc sống của họ, họ coi đó là một phần cơ thể

của mình, họ thích nghi với khuyết tật từ nhỏ tới lớn và họ thường có xu thế chấp nhận nó. Những

người khuyết tật do tai nạn hay bất kì sự tác động nào khác khiến họ khuyết tật phải trải qua một

thời kỳ rất dài để có thể chấp nhận khuyết tật đang có. Trong thời kì này, NKT sẽ phải trải qua

những khủng hoảng tâm lý, những ám ảnh về khuyết tật, những dằn vặt trách mình và người

khác, những gán nhãn không thể làm gì, những suy nghĩ bất công cho bản thân... (Morris, J, “

Pride against prejudice: transforming attitudes to disability”, [26, tr. 135], 1991, Philadelphia:

New Society Publishers). Chính vì những tâm lý thường thấy này (tất nhiên không chỉ có người

khuyết tật do tai nạn mà thậm chí cả những người khuyết tật do bẩm sinh cũng có, họ chỉ dễ chấp

nhận hơn mà thôi) nếu họ không vượt qua được sẽ kéo theo những hậu quả về tổn thương tâm lý

và phó mặc buông xuôi cho số phận, không còn muốn phấn đấu, không còn muốn làm việc, nhất

là khi họ bị xã hội từ bỏ, bị gia đình không chấp nhận.

Qua tất cả những yếu tố trên có thể thấy rằng: yếu tố chủ quan từ chính bản thân người

khuyết tật là yếu tố dễ dàng mang đến tâm lý mặc cảm tự ti nhất cho chính bản thân họ. Yếu tố

này cũng ảnh hưởng nhiều nhất đến một loạt các vấn đề khó khăn trong cuộc sống của NKT khi

họ không vượt qua được chính mình. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người khuyết tật

như: khả năng vui chơi- giải trí, học tập, lao động sản xuất...

Yếu tố khách quan

- Đối với người khuyết tật, định kiến xã hội về mặt nhận thức được thể hiện ở những khía

cạnh như: cho rằng nguồn gốc của khuyết tật là do những nguyên nhân của rối loạn sinh học; coi

Page 11: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

khuyết tật như là một vấn nạn xã hội mà mọi người phải đối mặt; nghĩ rằng người khuyết tật

không bao giờ có cuộc sống giàu sang, họ là nạn nhân của các bi kịch bao quanh; người ta cho

rằng thuật ngữ “người khuyết tật” và cụm từ “tôi cần sự giúp đỡ” là những từ đồng nghĩa. Ngoài

ra, trong định kiến nhận thức, người ta cho rằng khuyết tật nghĩa là không tự lực được, mọi người

sợ tiếp xúc với họ

- Định kiến về mặt xúc cảm: thể hiện ở tình cảm không hài lòng mà cá nhân mang định kiến

hoặc khi nhìn thấy hoặc nghĩ tới những người mà mình có định kiến. Đối với người khuyết tật

thường bị coi thường, bị ghê sợ, bị rè bỉu, bị xúc phạm với những từ như: “thằng què”, “con

cụt”...

- Định kiến trong hành vi thể hiện ở xu hướng hành động tiêu cực hoặc dự định hành động

tiêu cực đối với những người là đối tượng của định kiến. Đối với người khuyết tật ít có cơ hội

tuyển dụng để làm việc trong các doanh nghiệp; không có nhiều việc làm phù hợp; một số nơi có

những hỗ trợ cho người khuyết tật nhưng nhiều người khuyết tật không được tiếp cận.

- Đối với các tổ chức xã hội:

+ Các tổ chức xã hội dành cho người khuyết tật có nhưng khó tiếp cận; đôi khi không lôi kéo

được người khuyết tật tham gia

+ Không chỉ có thế những người khuyết tật được làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan

nhưng lại không được nhìn nhận đúng năng lực, bị phân biệt đối xử, không có cơ hội thăng tiến

+ Hiện nay nhiều nơi trên cảc nước trong đó có thị xã Quảng Yên còn thiếu các tổ chức để

gắn kết người khuyết tật với nhau và với cộng đồng

2.2.2. Ảnh hưởng của mặc cảm tự ti lên cuộc sống của người khuyết tật vận động

Ảnh hưởng đến khả năng vui chơi, giải trí

Khi được hỏi: “Anh/chị nghĩ như thế nào khi tham gia các hoạt động vui chơi- giải trí”,

81% nói rằng họ “lo sợ những hoạt động đó không phù hợp với mình” trong tổng số 100 người

được hỏi trả lời đúng về điều này. Ngoài ra, không ít tỷ lệ trả lời có nhu cầu này nhưng lo sợ

nhiều vấn đề như: “Tôi không đủ sức khỏe và khả năng để tham gia”; “ tôi sợ bị lạc lõng khi

tham gia bất kì hoạt động này 63%”; “tôi không thích tham gia những chỗ có quá nhiều người”;

Hầu hết những người khuyết tật khi được phỏng vấn sâu rằng có hay không có nhu cầu

vui chơi giải trí, đến 80% những người phỏng vấn sâu nói rằng: “tham gia các hoạt động vui

chơi- giải trí là không phù hợp với tôi, tôi không đủ khả năng và sức khỏe để tham gia”. Có lẽ

yếu tố tự nhận thức về khả năng của bản thân này là yếu tố tác động nhiều hơn đến việc tham gia

các hoạt động giải trí cho người khuyết tật.

Nhu cầu giải trí thuộc các bậc cao của thang nhu cầu con người do không gắn liền với sự

tồn tại sinh học mà là sự vươn cao, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tự hoàn thiện và tự khẳng

Page 12: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

định mình. Nhu cầu giải trí cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành các nhu cầu tinh thần. Khi

nhu cầu tinh thần này không được đáp ứng, những ức chế của bản thân người khuyết tật càng

được lên cao. Những điều này ngày càng tích tụ và ngày càng làm họ trầm cảm và mặc cảm hơn.

Đến một lúc nào đó họ không còn biết đâu là nhu cầu đích thực từ bản thân mình và dần dần nhu

cầu đó cũng trở nên không cần thiết, gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người khuyết tật.

Ảnh hưởng đến học tập

“Không muốn đi học vì sợ bạn bè chê cười” với 78% nói đúng trong tổng số 100 người

nói đúng về điều này. Rất ít người cho rằng: học tập là hữu ích đối với họ, chỉ có 31% trong tổng

số 100 người nói đúng về điều này. Rất nhiều người khuyết tật do mặc cảm mà từ bỏ việc học

hành hoặc có những tự ti, những suy nghĩ tiêu cực.

Do những nhận thức từ chính bản thân mà họ không muốn đi học hoặc không muốn tham

gia bất kì các hình thức học tập nào. Tuy nhiên bên cạnh yếu tố chủ quan thì cũng có những yếu

tố khách quan tác động. Nhiều gia đình đã nghĩ rằng: “không phải người bình thường nào cũng

có tư duy tốt, người khuyết tật lại càng có tư duy khó khăn nên khó cho họ để học tập”(PVS1,

N.T.A, 14h xã Liên Hòa, người dân xung quanh gia đình NKT). Chính những người trong gia

đình cũng cảm thấy họ hạn chế trong học tập thì việc động viên, thúc đẩy người khuyết tật tham

gia học tập lại càng khó khăn hơn. Từ việc không được động viên, khuyến khích cùng với những

tự ti, người khuyết tật càng ngày càng sống trong vỏ mặc cảm và thu mình, không muốn tham gia

bất kì hình thức học tập nào mặc dù nhiều người cho rằng: “học tập là ước mơ của người khuyết

tật, họ cũng là con người nên cũng nên được tham gia học tập như những người bình thường

khác”(PVS số 2, L.V.L, nữ, 29 tuổi, khuyết tật bẩm sinh)

Ảnh hưởng đến lao động sản xuất, kinh tế

Khi được hỏi: “Anh/chị nghĩ thế nào về việc tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế nuôi

sống bản thân và gia đình?” thì tỷ lệ người khuyết tật trả lời nhiều nhất đó là: “ việc làm đối với

tôi là xa vời” với 85% trong tổng số 100 người trả lời đúng về điều này, Ngoài ra có nhiều người

khuyết tật nói rằng: “Tôi không đủ sức khỏe và năng lực để làm việc” chiếm 50%. Họ còn “lo sợ

làm việc gì cũng thất bại” chiếm 65%.

Hiện nay, có rất nhiều tấm gương người khuyết tật bằng ý chí, nghị lực lớn lao, có rất

nhiều người khuyết tật đã vững vàng vượt qua mọi khó khăn để vươn lên trong cuộc sống và hoà

nhập cộng đồng. Trong Chương trình hành động trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020,

Chính phủ Việt Nam tiếp tục ưu tiên mục tiêu tạo việc làm cho người khuyết tật, phấn đấu đến

năm 2015, 250 nghìn người khuyết tật còn khả năng lao động sẽ được học nghề và có việc làm

phù hợp. Trong nỗ lực này, Việt Nam đang thí điểm xây dựng mô hình sinh kế cho người khuyết

tật, tạo điều kiện để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình như những công dân khác, tạo sự tự

Page 13: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

tin hoà nhập xã hội cho người khuyết tật. Chính vì thế hiện nay người khuyết tật đang được quan

tâm và hỗ trợ rất nhiều, họ cần được tư vấn để tiếp cận các hỗ trợ đố, đồng thời cũng cần trợ giúp

họ vượt qua những mặc cảm của bản thân để có thể có cơ hội làm việc và nếu có công việc sẽ

hoàn thành nó một cách tốt nhất.

Ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận việc làm, cơ hội thăng tiến

Khi được điều tra về “cơ hội thăng tiến trong công việc của người khuyết tật?” rất nhiều

người nói rằng “Dù tôi có thành công trong công việc cũng không được chấp nhận” chiếm 67%

trong tổng số 100 người

Không chỉ có thế, khi được làm việc tại một nơi nào đó thì cơ hội thăng tiến trong công

việc đối với người khuyết tật cũng gặp nhiều khó khăn. Chính bản thân người khuyết tật cũng nói

rằng: “nếu tôi có khả năng và được tạo điều kiện tốt thì chúng tôi có thể thăng tiến trong công

việc nhưng tôi nghĩ người khuyết tật ít có cơ hội thăng tiến” (PVS số 1, nam, 32 tuổi, khuyết tật

do tai nạn).

Tuy nhiên nếu như người khuyết tật có khả năng và có ý chí, nghị lực, họ hoàn toàn có

thể làm chủ, làm giám đốc, hoặc giữ những vai trò quan trọng trong công ty hay doanh nghiệp.

Ảnh hưởng đến việc xây dựng gia đình

Khi được hỏi về việc lập gia đình, đến 93% người khuyết tật được điều tra nói rằng: “tôi

không biết có nên lập gia đình hay không”. Một số người nói rằng: “Tôi không thể làm vợ/chồng

hoặc làm cha/mẹ” chiếm 62%; và họ “lo sợ không ai chấp nhận để lập gia đình với mình” chiếm

67%; Nhưng bên cạnh đó cũng có những người cho rằng: “tôi có quyền được lập gia đình và đảm

nhiệm các vai trò trong gia đình”

Bản thân người khuyết tật họ cũng có nhiều cái nhìn tiêu cực về vấn đề này. Họ nói rằng:

“tôi không thể làm chồng, làm bố, tôi không thể chăm sóc gia đình mình”(PVS số 1,nam, 32 tuôi,

khuyết tật do tai nạn ). Bản thân người khuyết tật đã có những nhìn nhận như thế nên việc người

khuyết tật lập được gia đình là điều hết sức khó khăn. Hiện nay có nhiều tấm gương những gia

đình cả bố lẫn mẹ đều là người khuyết tật, hoặc bố hoặc mẹ là người khuyết tật và họ đã sinh ra

những đứa con xinh xắn. Tuy nhiên những tấm gương này không phải nhiều. Đa số người khuyết

tật sẽ gắn bó cả đời với gia đình sinh ra mình và họ không có mong muốn lập gia đình. Chính vì

thế cần để họ tham gia các câu lạc bộ, các nhóm đồng đẳng để giúp họ hiểu nhau nhiều hơn trong

cuộc sống, chia sẻ cùng nhau. Và rất có thể họ đồng cảm với nhau nên vợ nên chồng để cùng

nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

Ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần

Khi được hỏi: “Anh/chị nghĩ như thế nào về việc được chăm sóc sức khỏe?” 91% người

khuyết tật nói rằng: “Tôi không biết mình nên đi thăm khám sức khỏe để làm gì”. Ngoài ra, một

Page 14: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

số người nói rằng: “Tôi không nghĩ mình có vấn đề gì về sức khỏe” 52%. Người khuyết tật nhiều

khi không nhận thấy mình có vấn đề gì về sức khỏe hoặc cố tình che giấu các vấn đề. Họ “lo sợ

các cơ sở y tế không tiếp nhận” (chiếm 69% trong tổng số 100 người nói đúng về điều này) và rất

ít người cho rằng “tôi cần thăm khám sức khỏe để học tập, vui chơi” (chiếm 28% trong tổng số

100 người nói đúng về điều này)

Ảnh hưởng đến giao tiếp và các mối quan hệ xã hội

Đối với người khuyết tật đặc biệt là khuyết tật vận động, do yếu tố đi lại nên các mối

quan hệ xã hội của họ sẽ bị thu hẹp rất nhiều. Trong quá trình điều tra, 63% nói rằng: “tôi sợ phải

giao tiếp với người khác” và 56% nghĩ rằng: “không nên mở rộng mối quan hệ”.

Khi người khuyết tật nhận thức rằng: “tôi sợ phải giao tiếp với người khác, tôi sợ đám

đông, tôi sợ ánh mắt mọi người nhìn tôi”(PVS số 1, nam, 32 tuổi, khuyết tật do tai nạn) thì việc

giao tiếp với họ trở nên khó khăn hơn và khó hòa nhập hơn với cộng đồng mà họ đang sống.

Giao tiếp là một quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe

nhằm đạt được một mục đích nào đó. Thông thường, giao tiếp trải qua ba trạng thái: 1. Trao đổi

thông tin, tiếp xúc tâm lý; 2. Hiểu biết lẫn nhau; 3. Tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu như

không giao tiếp nhiều các mối quan hệ sẽ bị thu hẹp và dần dần dẫn tới trầm cảm. Đặc biệt ngay

những người trong gia đình người khuyết tật cũng không có sự chia sẻ thì người khuyết tật chỉ

biết sống trong những lo âu, lo sợ mà thôi. Người khuyết tật nếu thường xuyên trò chuyện với

người thân, chia sẻ những cảm xúc của mình sẽ tránh được nhiều cảm xúc bi quan và sẽ vượt qua

mặc cảm để tự tin hơn trong cuộc sống.

Chương 3: Công tác xã hội trong việc trợ giúp người khuyết tật vượt qua mặc cảm tự ti hòa

nhập xã hội

3.2. Đánh giá dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật về tâm lý cũng như hỗ trợ vượt qua mặc cảm

tự ti tại địa phương

Khái quát một số dịch vụ đang tiến hành trên cả nước

Hiện nay ở nước ta cũng đã có nhiều các cơ quan, tổ chức dành cho người khuyết tật.

Một trong số đó là: Cuộc sống vẫn tươi đẹp. Ngoài ra, một số tổ chức khác cũng hành động vì

người khuyết tật như: hội người khuyết tật Hà Nội, tổ chức hành động sáng tạo vì người khuyết

tật Ideal, tổ chức nghị lực sống... Tất cả các hoạt động của các tổ chức đều hướng đến hành động

vì người khuyết tật. Các hoạt động được tổ chức như tư vấn luật, hỗ trợ việc làm, hỗ trợ kinh tế...

Gần đây, hội người khuyết tật Hà Nội cũng có những hoạt động cho người khuyết tật như: giúp

người khuyết tật ứng phó với thiên tai; tổ chức ngày người khuyết tật Việt Nam 18-4; tập huấn kỹ

năng giao tiếp...

Page 15: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Các dịch vụ đang hoạt động tại Quảng Yên có liên quan tới người khuyết tật đó là: Quỹ

Việc làm dành cho người tàn tật; Quỹ Bảo trợ NTT và trẻ mồ côi; Quỹ Hội Nạn nhân chất độc da

cam/dioxin; Quỹ Bảo trợ trẻ em... Những tổ chức, quỹ này mỗi năm huy động, xã hội hoá được

hàng tỷ đồng trợ giúp cho NKT thông qua các hoạt động như: Chỉnh hình phục hồi chức năng,

làm chân tay giả và dụng cụ chỉnh hình; nhận nuôi dưỡng; cấp xe lăn, xe đạp; trao học bổng, góc

học tập; trợ giúp xây, sửa nhà ở, trợ cấp khó khăn v.v...

Hiện nay, còn có văn phòng công tác xã hội, hoặc các hội phụ nữ tại địa phương, đoàn

thanh niên thị xã... Tại đây nhân viên xã hội, các cán bộ phụ nữ, đoàn... cũng có những hoạt động

để hỗ trợ người khuyết tật theo nhu cầu về tâm lý, cung cấp dịch vụ, tư vấn luật...

Đánh giá các dịch vụ đang hoạt động ở địa phương

Ở Quảng Yên hiện cũng đã thành lập các cơ sở vì cộng đồng trong đó chú ý đến người

khuyết tật. Cụ thể các dịch vụ đang hoạt động tại Quảng Yên có liên quan tới người khuyết tật đó

là: Quỹ Việc làm dành cho người tàn tật; Quỹ Bảo trợ NTT và trẻ mồ côi; Quỹ Hội Nạn nhân

chất độc da cam/dioxin; Quỹ Bảo trợ trẻ em; Trung tâm điều dưỡng Thương binh và Người có

công; Trung tâm Bảo trợ trẻ em có HCĐB; Trung tâm chỉnh hình và phục hồi chức năng; Trung

tâm Bảo trợ xã hội. Những tổ chức, quỹ này mỗi năm huy động, xã hội hoá được hàng tỷ đồng trợ

giúp cho NKT thông qua các hoạt động như: Chỉnh hình phục hồi chức năng, làm chân tay giả và

dụng cụ chỉnh hình; nhận nuôi dưỡng; cấp xe lăn, xe đạp; trao học bổng, góc học tập; trợ giúp

xây, sửa nhà ở, trợ cấp khó khăn v.v...

Tất cả các hoạt động trên đều được thực hiện tại thị xã thông qua phòng Lao động

Thương binh và Xã hội. Ngoài ra, thị xã đã có văn phòng công tác xã hội, hoặc các hội phụ nữ tại

địa phương, đoàn thanh niên thị xã... Tại đây nhân viên xã hội, các cán bộ phụ nữ, đoàn... cũng có

những hoạt động để hỗ trợ người khuyết tật theo nhu cầu về tâm lý, cung cấp dịch vụ, tư vấn

luật... với mạng lưới cộng tác viên công tác xã hội tại khắp các phường, các thôn, xóm.

Khi hỏi một cán bộ tại hội phụ nữ, chị nói rằng: “công việc chính của chị là tuyên truyền

động viên giúp đỡ người khuyết tật” (PVS số 1, N.T.L, 9h, phường Yên Giang, nhân viên đang

làm việc trong lĩnh vực trợ giúp NKT); một nhân viên khác nói rằng: “chị đang làm công việc

hướng dẫn các công việc hằng ngày cho người khuyết tật” (PVS số 2, Đ.T.M, 13h, phường Yên

Hải, nhân viên đang làm việc trong lĩnh vực trợ giúp NKT).

Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng, hầu hết những hỗ trợ tại địa phương còn chưa thực sự

đáp ứng được nhu cầu của người khuyết tật đặc biệt là trợ giúp họ trong vấn đề mặc cảm tự ti.

Hầu hết những nhân viên làm việc với trong lĩnh vực này đề không được học những chuyên

ngành trong lĩnh vực liên quan tới người khuyết tật. Khi có người khuyết tật cần hỗ trợ, họ hầu

Page 16: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

như chỉ cung cấp được những vấn đề về mặt việc làm, dịch vụ chứ ít khi có thể trợ giúp tâm lý

đặc biệt là vấn đề mặc cảm tự ti họ có rất ít kinh nghiệm để trợ giúp cho NKT

Đề xuất cần có sự tham gia của công tác xã hội chuyên nghiệp với những vai trò cơ

bản để trợ giúp cho người khuyết tật vượt qua tâm lý mặc cảm tự ti

Từ thực trạng dịch vụ ở trên có thể thấy rằng nhân viên xã hội đóng vai trò quan trọng

trong trợ giúp người khuyết tật vượt qua tâm lý mặc cảm tự ti. Một nhân viên xã hội tại văn

phòng công tác xã hội nói rằng: cần có những hỗ trợ chuyên nghiệp cho người khuyết tật như:

“mở các mô hình và hỗ trợ họ một cách thường xuyên thì mới giúp họ vượt qua được tâm lý mặc

cảm, tự ti trong cuộc sống “(PVS số 3,L.H.L, 10h, thị xã Quảng Yên ). Chính vì vậy cần có nhân

viên công tác xã hội một cách chuyên nghiệp hoạt động để trợ giúp người khuyết tật tại thị xã

Quảng Yên.

Với việc định hướng vai trò của nhân viên xã hội trong quá trình trợ giúp cho người

khuyết tật, nhân viên công tác xã hội có thể đảm nhiệm các vai trò như: vai trò tham vấn, vai trò

điều phối, cung cấp dịch vụ

khuyết tật, nhân viên công tác xã hội có thể đảm nhiệm các vai trò sau:

Vai trò tham vấn

Đây là một trong những vai trò quan trọng trong trợ giúp người khuyết tật vượt qua mặc

cảm tự ti. Để có thể tham vấn và hỗ trợ tâm lý một cách tốt nhất, nhân viên xã hội cần có nhiều

các kiến thức về tâm lý học mới có thể hiểu được một cách sâu sắc về người khuyết tật và có thể

hiểu được lý do tại sao họ mặc cảm, họ cần hỗ trợ những gì và bắt đầu tham vấn tâm lý như thế

nào?

Tham vấn là hoạt động mà cán sự xã hội giúp đối tượng tăng cường khả năng của mình

trong giải quyết các vấn đề của họ. Các hoạt động như: công tác xã hội với cá nhân, công tác xã

hội nhóm, giải quyết trường hợp… Quá trình tư vấn bao gồm việc xây dựng mối quan hệ với đối

tượng, đánh giá hoàn cảnh và các nguyên nhân của vấn đề, giúp đỡ đối tượng đưa ra các giải

pháp, giúp họ thấy được mặt mạnh, mặt yếu của mỗi giải pháp, giúp họ lựa chọn giải pháp tốt

nhất, khuyến khích họ thực hiện kế hoạch hành động, đánh giá kết quả thực hiện cũng như theo

dõi sau khi kết thúc.

Vì vậy, với vai trò tham vấn, nhân viên công tác xã hội sẽ làm việc trực tiếp với bản thân

người khuyết tật để tìm hiểu về bệnh tật của họ, đời sống tình cảm của họ, mối quan hệ trong gia

đình, xã hội, cảm xúc của họ... Sau khi tìm hiểu rõ về các vấn đề này, nhân viên xã hội sẽ tiếp tục

tìm hiểu nhu cầu của thân chủ hiện tại và giúp họ có thể vượt qua được những tự ti về khuyết tật

và bản thân. Bản thân người khuyết tật cũng nói rằng: “tôi nghĩ người khuyết tật thường sự ti

Page 17: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

không muốn gia tiếp nên cần được hỗ trợ tâm lý” (PVS số 1,nam, 32 tuổi, khuyết tật do tai nạn,

người khuyết tật vận động )

Với vai trò tham vấn, nhân viên xã hội cần có những kỹ năng nhất định mới có thể trợ

giúp người khuyết tật một cách hiệu quả như: kỹ năng lắng nghe, kỹ năng vấn đàm, qua sát, thấu

cảm...

Vai trò điều phối

Được tham gia hoạt động nhóm là một việc rất tốt đối với người khuyết tật, trong đó có

người khuyết tật vận động. Tham gia nhóm, người khuyết tật có thể học hỏi lẫn nhau, chia sẻ

những khó khăn cho nhau và cùng nhau vượt qua rào cản của bản thân và xã hội. Hầu hết những

người khuyết tật khi được phỏng vấn đều mong muốn có thể tham gia một câu lạc bộ hay tham

gia một nhóm nào đó: “tôi muốn tham gia nhóm nào đó để cho đỡ buồn, đỡ cô đơn, và đó cũng

là chỗ dựa tinh thần cho mình nữa”(PVS, nữ, 40 tuổi, khuyết tật bẩm sinh, người khuyết tật vận

động).

Hiện nay, cũng có một số nhân viên đang làm việc trong lĩnh vực người khuyết tật đã có

những hoạt động với vai trò này: “công việc của chị đó là lên các chương trình hoạt động cho

các câu lạc bộ, nhóm trực thuộc hội và tham gia tổ chức các chương trình đó… ngoài ra chị còn

giúp thành lập các câu lạc bộ, nhóm tự giúp tại các địa phương cho người khuyết tật tham gia…”

(PVS số 2, Đ.T.M, 13h, phường Yên Hải, nhân viên đang làm việc trong lĩnh vực NKT). Có những

nhóm hiện đang hoạt động rất hiệu quả tuy nhiên nhiều nhóm của người khuyết tât khi thành lập

ra không hoạt động hoặc rất ít hoạt động. Đó một phần là do người lãnh đạo nhóm chưa có kế

hoạch hoạt động tốt, một phần do người điều phối chưa cung cấp nhiều kỹ năng, nhiều phương

thức hoạt động để duy trì nhóm dẫn tới nhóm tan vỡ.

Giống như một nhân viên đã nói rằng: “nhân viên xã hội hiện nay đã có nhưng còn ít và

không được đào tạo chuyên nghiệp. Chị nghĩ rằng trước hết cần nhận thức rõ về vai trò của đối

tượng này trong xã hội từ đó đưa họ vào các tổ chức để từ đó trợ giúp những nhóm người yếu thế

trong xã hội. Ngoài ra, với những người như chị- đang hoạt động như một nhân viên công tác xã

hội thì cần phải được trang bị kiến thức, kỹ năng nhiều hơn nữa liên quan tới người khuyết tật

nói chung và người khuyết tật vận động nói riêng để đáp ứng nhu cầu mà họ cần” (PVS số 3,

L.H.L, 10h, thị xã Quảng Yên, nhân viên trong lĩnh vực NKT). Vì vậy, khi thành lập được các

nhóm này, nhân viên xã hội cần tiếp tục là người trợ giúp nhóm hoạt động bằng việc điều phối

các chương trình liên quan hoặc kết nối nhóm với các tổ chức để các tổ chức thực hiện các dự án,

các hoạt động hỗ trợ một cách thường xuyên cho người khuyết tật tham gia. Khi các vấn đề nhóm

được giải quyết hoặc vấn đề cá nhân như mặc cảm được giải quyết trong nhóm, cần có hoạt động

chuyển giao nhóm về với cộng đồng để họ tiếp tục sinh hoạt.

Page 18: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Khi tham gia với vai trò là người điều phối, nhân viên xã hội cũng cần trang bị cho mình

những kỹ năng điều hành nhóm, thành lập nhóm và duy trì nhóm. Trước khi tiến hành thành lập

nhóm nào đó, nhân viên xã hội cần tiến hành đánh giá nhu cầu của nhóm, xác định vấn đề và

nguồn lực của nhóm, lên kế hoạch cho nhóm. Hơn nữa, khi nhóm đi vào hoạt động cần thường

xuyên lượng giá các kết quả đạt được, hỗ trợ nhóm, liên kết nhóm với các nguồn lực khác…

Ngoài ra cũng cần những kỹ năng đặc thù của công tác xã hội như: kỹ năng lắng nghe, thấu cảm,

vấn đàm, giải quyết mâu thuẫn… để nhóm được duy trì một cách hiệu quả nhất.

Cung cấp dịch vụ

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhân viên xã hội là cung cấp các dịch vụ cho

thân chủ. Với vai trò này, nhân viên xã hội sẽ là người kết nối người khuyết tật các địa điểm mà

họ cần như: y tế, bệnh viện, cơ sở vui chơi- giải trí, tư vấn việc làm, tư vấn luật pháp hoặc đối với

người khuyết tật vận động sử dụng xe lăn cần giúp họ tìm kiếm các cửa hàng xe lăn, cơ sở sản

xuất xe lăn, thông tin cần biết về xe lăn, sửa chữa xe lăn… Bằng cách này, nhân viên xã hội sẽ

giúp người khuyết tật vận động đáp ứng được nhu cầu của họ.

Trong trường hợp nếu nhân viên xã hội không thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại

của thân chủ, có thể giới thiệu họ tới các tổ chức khác, nơi mà nhu cầu của người khuyết tật vận

động được đáp ứng một cách đầy đủ nhất. Cũng như vậy, khi cung cấp một dịch vụ nào đó cho

người khuyết tật mà họ cảm thấy không hài lòng hoặc không phù hợp, nhân viên xã hội có thể

tiếp tục hỗ trợ họ bằng cách tìm nguồn hỗ trợ khác: đó có thể là một tổ chức, một cơ quan, một

công ty, một trung tâm… có thể thực hiện các công việc đáp ứng mong muốn hiện có của người

khuyết tật. Để làm tốt được điều này, nhân viên xã hội cần huy động ở mức tối đa các nguồn hỗ

trợ có thể có trong cộng đồng nhằm phục vụ lợi ích của đối tượng; cần hợp tác một cách chặt chẽ

với các viện, cơ quan, văn phòng chính phủ và tổ chức phi chính phủ khác nhau nhằm tăng các

nguồn dịch vụ hỗ trợ cần thiết cho thân chủ.

Tuy nhiên, ở bất cứ vai trò nào thì các nhân viên xã hội trong mỗi lĩnh vực cần liên kết

chặt chẽ với nhau để trợ giúp cho người khuyết tật vận động một cách đồng bộ, đầy đủ và hiệu

quả nhất. Và để làm được điều này, nhân viên xã hội cũng cần có những kỹ năng đặc thù như: kỹ

lắng nghe, kỹ năng vấn đàm, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng thu thập thông tin… Hơn nữa,

để làm tốt lĩnh vực này, nhân viên xã hội cần có những kiến thức cơ bản về người khuyết tật nói

chung và người khuyết tật vận động nói riêng.

3.2. Xây dựng chương trình hỗ trợ cho người khuyết tật vượt qua mặc cảm tự ti hòa nhập

xã hội

3.2.1. CTXH với cá nhân là người khuyết tật vận động

Page 19: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Sử dụng phương pháp công tác xã hội với cá nhân để làm việc với đối tượng là người

khuyết tật có tâm lý mặc cảm, tự ti.

Áp dụng tiến trình 7 bước trong Công tác xã hội để tìm hiểu, đánh giá vấn đề của thân

chủ từ đó có những hoạt động cụ thể để giúp thân chủ vượt qua vấn đề của mình. Nền tảng của

việc trợ giúp là quá trình tham vấn, sử dụng các lý thuyết để thay đổi nhận thức cũng như hành vi

của thân chủ.

Can thiệp với năm trường hợp cụ thể. Từ năm trường hợp can thiệp nêu trên của CTXH

có thể thấy rằng, hầu hết những người khuyết tật đều có những mặc cảm nhất định về khuyết tật

của mình. Chính vì thế mà khi can thiệp để trợ giúp cho họ, nhân viên xã hội cần có những kỹ

năng nhất định về tham vấn để giúp họ vượt qua mặc cảm tự ti và chấp nhận khuyết tật của mình.

Để thực hiện được điều này, việc can thiệp cá nhân cần khá nhiều thời gian vì tâm lý mặc cảm đối

với NKT đặc biệt là NKT do tai nạn hoặc các yếu tố khác tác động bị khuyết tật. Tuy nhiên, qua

những trường hợp trên có thể thấy tuy khó nhưng không phải là không làm được nếu nhân viên

xã hội biết vận dụng các kỹ năng và kỹ thuật tham vấn hiệu quả. Đặc biệt trong quá trình trợ giúp

cần tìm hiểu kỹ các nhu cầu của thân chủ cũng như đặc điểm tâm lý, thu thập thông tin của thân

chủ. Những can thiệp trên đây của người nghiên cứu mới chỉ là những can thiệp bước đầu vì

không có nhiều thời gian và kinh nghiệm trong trợ giúp còn hạn chế. Tuy nhiên cũng có những

kết quả ban đầu hỗ trợ phần nào giúp NKT tự tin hơn và bớt mặc cảm hơn về khuyết tật mà họ

đang có

3.2.2. CTXH với nhóm khuyết tật vận động từ 18-40 tuổi

Các thành viên nhóm dưới 30 tuổi là tiêu chí để lựa chọn thành viên. Với những kế hoạch

cụ thể đã được xây dựng sẵn, người nghiên cứu đã nhanh chóng thành lập được một nhóm phù

hợp với mục tiêu: “Nâng cao sự tự tin cho người khuyết tật”. Mục đích chung mà người nghiên

cứu và các nhóm viên đặt ra ban đầu là nâng cao sự tự tin cho các thành viên (trong đó bao gồm 3

mục tiêu nhỏ là: nâng cao sự tự tin đứng trước đám đông, nâng cao sự tự tin trong sáng tạo để thể

hiện bản thân, nâng cao sự tự tin trong giao tiếp với những người xung quanh) đã đạt được.

Có thể nói với thời gian sinh hoạt ngắn ngủi như vậy nhưng kết quả thu được khá ý

nghĩa: giúp các thành viên nâng cao được sự tự tin trong cuộc sống và có thêm niềm tin để bước

tiếp trên con đường khẳng định bản thân và hòa nhập cộng đồng

Không chỉ dừng lại ở đó, trong buổi tổng kết, người nghiên cứu cũng đã chuyển giao

được nhóm cho trưởng xóm để các thành viên có thể tiếp tục được sinh hoạt nhóm dưới sự tổ

chức của trưởng thôn, từ đó tiếp tục hoàn thiện những mục đích và những mục tiêu mà nhóm đặt

ra.

Page 20: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Từ những kết quả trong can thiệp nhóm có thể thấy rằng nếu NKT có tâm lý mặc cảm tự

ti có thể tham gia vào các nhóm sẽ giúp ích cho họ rất nhiều. Ở đó họ có thể chia sẻ các vấn đề

trong cuộc sống, chia sẻ kinh nghiệm sống và cùng nhau đối mặt với những khó khăn mà họ gặp

phải. Tuy nhiên việc tham gia nhóm cũng cần có người dẫn dắt và duy trì thì hoạt động mới được

duy trì lây dài và đạt được những hiệu quả như mong đợi.

3.2.3. Xây dựng chương trình can thiệp hiệu quả với người khuyết tật có mặc cảm tự ti

Hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình khuyết tật, dưới đây chỉ trình bày hai mô hình

chính đó là:

- Mô hình y học của khuyết tật: theo đó khuyết tật là tình trạng suy giảm thể chất, tinh thần của

một cá nhân ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống của cá nhân đó. Như vậy việc chữa trị hoặc

kiểm soát khuyết tật đồng nghĩa với việc xác định, tìm hiểu, cũng như tác động lên khuyết tật. Do

đó nếu chính phủ, khu vực tư nhân và toàn xã hội đầu tư cho việc chăm sóc sức khoẻ và các dịch

vụ có liên quan để chữa trị các khuyết tật về mặt y học sẽ giúp người khuyết tật có một cuộc sống

bình thường. Mô hình này nhấn mạnh đến bản chất của chính khuyết tật.

- Mô hình xã hội của khuyết tật: theo đó những rào cản và định kiến của xã hội dù là có chủ ý hay

vô ý là những nguyên nhân chính xác định ai là người khuyết tật và ai không là người khuyết tật.

Mô hình này cho rằng một số người có những khác biệt về mặt tâm lý, trí tuệ hoặc thể chất

(những khác biệt mà đôi khi có thể coi là những khiếm khuyết) so với chuẩn mực chung, nhưng

những khác biệt này sẽ không dẫn đến các khó khăn nghiêm trọng trong cuộc sống nếu xã hội có

thể giúp đỡ và có suy nghĩ, ứng xử tích cực. Mô hình xã hội nhấn mạnh tới sự bình đẳng và chú

trọng đến những thay đổi cần thiết của xã hội.

Các mô hình thực hành cũng tạo được một định hướng chung về thân chủ và công tác xã

hội và gắn kết tất cả trong các tiến trình công tác xã hội. Nhân viên xã hội được đào tạo để sử

dụng các mô hình và mô hình được chọn lựa.

Trong khuôn khổ luận văn này, người nghiên cứu đưa ra mô hình thực hành với vai trò

chính của nhân viên công tác xã hội kết hợp với các dịch vụ của địa phương để trợ giúp cho

người khuyết tật vượt qua mặc cảm tự ti và hòa nhập cộng đồng.

Mô hình giúp người khuyết tật vượt qua mặc cảm tự ti như trên sẽ đáp ứng được những

nhu cầu về việc giải tỏa những vấn đề trong cuộc sống của người khuyết tật, những sợ hãi về

khuyết tật của bản thân, những tự ti mặc cảm... Từ đó, giúp họ nhận thấy mình hòan toàn làm việc

và vui chơi như những người bình thường. Đó là động lực lớn nhất khiến họ vượt qua để hòa

nhập với cộng đồng.

Page 21: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Dựa vào những đánh giá trên đây, mục đích của nhân viên xã hội khi trợ giúp cho người

khuyết tật đó là giúp họ vựơt qua mặc cảm tự ti để hòa nhập cộng đồng. Theo đó, mục tiêu đặt ra

đó là: Hỗ trợ tâm lý để người khuyết tật nhận thức đúng về khuyết tật mình đang có; Giúp người

khuyết tật tham gia vào sinh hoạt nhóm đồng đẳng; Giúp họ được học hành, vui chơi, giải trí ; Hỗ

trợ việc làm, tiếp cận các nguồn trợ giúp...

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Kết luận

Từ kết quả nghiên cứu có thể khẳng định rằng những giả thuyết mà nghiên cứu đưa ra là

đúng.

Hiện nay có rất nhiều người khuyết tật có tâm lý mặc cảm tự ti. Tâm lý mặc cảm tự ti có

nhiều yếu tố tác động khác nhau và gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người khuyết tật trong

đó có người khuyết tật vận động. Mặc cảm tự ti là một trạng thái cảm xúc ai cũng có thể có

nhưng đối với người khuyết tật, cảm xúc đó là thường xuyên hơn và dễ thấy. Đây là một trạng

thái cảm xúc bình thường nhưng đối với người khuyết tật, nếu như không có những hỗ trợ giúp

đỡ họ vượt qua những mặc cảm tự ti dễ dẫn đến những ảnh hưởng tới chính bản thân người

khuyết tật như: học tập, vui chơi- giải trí, tìm kiếm việc làm, giao tiếp...

Đánh giá mức độ mặc cảm của NKT có thể thấy NKT vận động do tai nạn dễ dàng mặc

cảm hơn so với NKT vận động bẩm sinh từ đó NKT vận động do tai nạn khó hòa nhập hơn với

cộng đồng.

Những yếu tố mặc cảm, tự ti của người khuyết tật có nhiều yếu tố tác động nhưng quan

trọng nhất chính là yếu tố từ chính bản thân người khuyết tật. Chính bản thân họ không vượt qua

được những rào cản của chính mình, không vượt qua được khuyết tật mình đang có và không

chấp nhận đó. Tất cả các yếu tố tự nhận thức đó cộng với các yếu tố tác động từ môi trường (gia

đình, làng xóm, bạn bè...) khiến cho họ ngày càng khép mình, càng ngày càng tự ti và chui vào vỏ

bọc của bản thân và phó mặc số phận.

Những dịch vụ cần thiết hỗ trợ người khuyết tật về tâm lý trong đó có tâm lý mặc cảm tự

ti chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều hạn chế. Công tác hỗ trợ người khuyết tật tại địa phương

còn lỏng lẻo, không mang tính lâu dài và chưa đồng bộ. Những người hỗ trợ còn thiếu các kỹ

năng, kiến thức liên quan tới người khuyết tật nói chung và NKT vận động nói riêng nên chưa

đáp ứng được nhu cầu của họ.

Nhân viên công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong quá trình trợ giúp người khuyết

tật vượt qua mặc cảm tự ti để hòa nhập xã hội nhưng chưa được phát huy vai trò tại các địa

phương. Chưa có một đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp làm công việc này để trợ

giúp người khuyết tật vượt qua mặc cảm tự ti để hòa nhập cộng đồng.

Page 22: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

Khuyến nghị

Trước thực trạng mặc cảm tự ti chiếm phần lớn trong đại đa số những người khuyết tật

được điều tra, Nhà nước cần có những thống kê cụ thể về mặc cảm tự ti của người khuyết tật trên

cả nước từ đó có những hoạt động hỗ trợ cho họ vượt qua mặc cảm tự ti để hòa nhập xã hội.

Từ các hoạt động công tác xã hội cá nhân và hoạt động nhóm có thể thấy rằng, Nhà nước

cần hỗ trợ địa phương để có những nhân viên xã hội chuyên nghiệp làm việc trong lĩnh vực trợ

giúp NKT để giúp chính bản thân người khuyết tật hiểu được rằng, bản thân họ cũng cần chấp

nhận khuyết tật mình đang có, coi nó là một phần của cuộc sống và có nghị lực vươn lên.

Với các nhân viên xã hội đang hoạt động trong lĩnh vực người khuyết tật, bản thân họ cần

được cơ quan công tác xã chính quyền địa phương nâng cao chất lượng bằng cách tổ chức những

lớp tập huấn, lớp đào tạo ngắn hạn về công tác xã hội để nâng cao kiến thức cùng với các kỹ năng

làm việc cho họ, giúp họ hiểu hơn về tâm lý, nhu cầu, mặc cảm, tư ti của người khuyết tật.

Ngoài ra, để trợ giúp người khuyết tật có mặc cảm tự ti một cách hiệu quả, các tổ chức có

thẩm quyền cần chỉ đạo địa phương đi theo một mô hình nhất định, tiến hành đồng bộ với cả cá

nhân và nhóm cùng các vai trò của nhân viên xã hội kết hợp với sự trợ giúp của chính quyền địa

phương. Có như thế việc trợ giúp mới thực sự đáp ứng được nhu cầu và đạt hiệu quả.

Page 23: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

References:

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ tài chính, Dự thảo thông tư liên tịch chính sách ưu tiên về giáo dục đối với

người khuyết tật, 2008

2. David Stafford-Clark, Lê Văn Luyện & Huyền Giang dịch, Freud đã thực sự nói

gì , NXB Thế giới, 1998.

1. GS.TS Phạm Huy Dũng (chủ biên), Bài giảng CTXH/lý thuyết và thực hành

công tác xã hội trực tiếp, 2007, NXB đại học sư phạm.

2. GS.TS Vũ Dũng, Từ điển tâm lý học, 1998-2008, Nhà xuất bản từ điển Bách

Khoa.

3. GS.TS.Phạm Tất Dong- Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên), Xã hội học, 2001,

NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

4. PGS.TS.Trần Thị Minh Đức, Các thực nghiệm trong tâm lí học xã hội. NXB

ĐHQGHN, 2008

5. GS.TS. Trần Thị Minh Đức, Giáo trình tham vấn tâm lý, 2009, Đại học Quốc

gia Hà Nội.

6. Trần Thị Minh Đức (Chủ biên), Giáo trình Tâm lý học đại cương, 1996, NXB

Giáo dục.

7. Đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, 2008.

8. Giáo trình triết học Mác- Lênin, 2004, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

9. Grace Mathew, Lê Chí An (dịch); Nhập môn Công tác xã hội cá nhân, 1999,

Khoa Phụ nữ học- Đại học Mở Bán công Thành phố Hồ Chí Minh

10. Bùi Xuân Mai, Nguyễn Thị Thái Lan, Lim Shaw Hui, Giáo trình tham vấn,

2008, NXB Lao động Xã hội.

11. Khuất Thu Hồng, Lê Bạch Dương, Nguyễn Đức Vinh, NKT ở Việt Nam, Kết

quả điều tra XHH tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đồng Nai, 2008, NXB

chính trị quốc gia.

Page 24: Mặc cảm tự ti của người khuyết tật trong quá Quảng Yên ...repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/12310/1/02050001833.pdf · Mặc cảm tự ti của người

12. Phòng nghiên cứu CTXH Thực hành công tác xã hội chuyên nghiệp, Phát triển

và tổ chức cộng đồng, 2009, NXB Thành phố Hồ Chí Minh

13. Tổng cục dân số và kế hoạch hóa gia đình, 2010.

14. Tổ chức quốc tế phục vụ cộng đồng và gia đình& trường cán bộ Lao động và Xã

hội, Hỗ trợ tâm lý xã hội cho người dễ bị tổn thương, 1996.

15. Ủy ban thường vụ quốc hội, Pháp lệnh về người tàn tật, 1998

16. Nguyễn Khắc Việt (chủ biên), Từ điển tâm lý học, 1991, Nhà xuất bản Ngoại

Văn, Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em Hà Nội.

B. Tài liệu tiếng Anh

17. Andrews, B., & Wilding, JM (2004). The relation of depression, and anxiety to

life-stress and achievement in students. British Journal of Psychology, 509–521.

18. Beck, Rush Shaw và Emery, “The Enchiridion”, 1979

19. CEDAC, Evaluation Study on the Quality of life of Wheelchair Users. At the

request of Cambodian Wheelchair Working group (nghiên cứu đánh giá về chất

lượng cuộc sống của những người sử dụng xe lăn. Theo yêu cầu của nhóm làm việc

xe lăn Cam-pu-chia), 1999

20. David Werner cùng với nhóm Projimo và nhiều người bạn khác, Người khuyết

tật và cộng đồng (phát triển những công nghệ cải tiến dành cho, làm bởi và cùng với

những người khuyết tật)- 2001, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.

21. Davis, L. J, “The Disability Studies reader”, New York, 1997, Routledge

22. Faterson, H. F, “Organic inferiority and the inferiority attitude” The Journal of

Social Psychology, Vol 2, 1931, 87-101.

23. Garfinkel, Harold ed. 1986, Ethnomethodological Studies of Work, Routledge

24. Marganet Tennat, Disability in NewZealand: an historical survey (Người

khuyết tật ở NewZealand- một cuộc khảo sát lịch sử), number 2, 1996, NewZealand

Journal of Disability studies

25. Marieke Engel , Wheelchair users on floor- an evaluation of wheelchair in

Thailand (người sử dụng xe lăn trên tầng gác- một đánh giá về xe lăn ở Thái Lan),

1990