275
LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930 - 2013)

LSDB Binh Tri Dong B_size

  • Upload
    buitram

  • View
    215

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 1

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN

PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B(1930 - 2013)

Page 2: LSDB Binh Tri Dong B_size

2 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 3: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 3

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG

CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN

PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B(1930 - 2013)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA – VĂN NGHỆTP.HỒ CHÍ MINH - 2013

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAMBAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B

QUẬN BÌNH TÂN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Page 4: LSDB Binh Tri Dong B_size

4 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 5: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 5

CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

BAN THƯỜNG VỤ QUẬN ỦY BÌNH TÂN

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

BAN TUYÊN GIÁO QUẬN ỦYĐẢNG ỦY PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

BAN BIÊN SOẠN

1. Nguyễn Thị Kim Hương Bí thư Đảng ủy phường2. Nguyễn Thanh Sơn Phó Bí thư Đảng ủy – Chủ tịch UBND phường3. Nguyễn Thị Phương Yến Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ4. Cao Phương Thảo Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ5. Phạm Thị Thanh Lệ Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ6. Trần Hồng Nhẫn Ban Tuyên giáo Quận ủy

TƯ LIỆU HÌNH ẢNH

TỔ TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

Page 6: LSDB Binh Tri Dong B_size

6 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 7: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 7

LỜI NÓI ĐẦU

Phường Bình Trị Đông B là một đơn vị hành chính trực thuộc quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm

2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2003/NĐ-CP về việc thành lập quận Bình Tân và các phường trực thuộc. Phường Bình Trị Đông B được thành lập từ sự chia tách xã Bình Trị Đông huyện Bình Chánh cũ. Tuy mới được thành lập, nhưng vùng đất này đã có bề dày lịch sử trên 300 năm, gắn liền với công cuộc khai khẩn đất hoang của người Việt ở Nam bộ.

Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân phường Bình Trị Đông B đã phát huy tinh thần yêu nước, khắc phục khó khăn, vượt qua mọi gian lao thử thách, góp phần cùng nhân dân cả nước đánh đuổi thực dân, đế quốc, cùng nhân dân cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đời sống nhân dân không ngừng phát triển, bộ mặt đô thị của phường có nhiều thay đổi, ngày càng khang trang, văn minh, sạch đẹp.

Thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Quận ủy quận Bình Tân, Đảng bộ phường Bình Trị Đông B tổ chức biên soạn “Lịch sử truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân

phường Bình Trị Đông B (1930 – 2013)”, ghi lại những sự kiện

Page 8: LSDB Binh Tri Dong B_size

8 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

lịch sử trong chặng đường phát triển của phường Bình Trị Đông B trong giai đoạn từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay (1930 – 2013), những truyền thống đấu tranh tốt đẹp, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời ghi nhận những công lao to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bình Trị Đông B đã có nhiều chiến công làm nên lịch sử, đóng góp quan trọng cho chiến thắng lịch sử đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng nêu bật những thành tựu đã đạt được của địa phương dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ phường từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến nay, nhất là từ khi thành lập phường Bình Trị Đông B, trong đó nhấn mạnh đến sự đổi mới, đột phá vượt bậc để đưa phường phát triển theo hướng đô thị hóa. Đây là nguồn tư liệu, tài liệu để giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau, nhất là lực lượng thanh, thiếu niên phường Bình Trị Đông B để học tập tấm gương của các thế hệ đi trước đã làm nên lịch sử.

Quá trình tổ chức sưu tầm, biên soạn, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ lão thành cách mạng, các nhân chứng lịch sử, nhân dân địa phương và các cán bộ nghiên cứu lịch sử thuộc Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ. Đặc biệt là sự chỉ đạo, định hướng, thẩm định phê duyệt của Ban Thường vụ Quận ủy, Ban Tuyên giáo Quận ủy Bình Tân. Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, do nguồn tư liệu thành văn đã bị thất lạc nhiều nên vẫn còn những thiếu sót, hạn chế nhất định. Đây là lần xuất bản đầu tiên nên rất mong các bạn đọc, đặc biệt là các đồng chí cán bộ, đảng viên đã từng công tác ở địa phương và nhân dân trong phường tham gia đóng

Page 9: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 9

góp ý kiến để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện, sửa chữa, bổ sung cho lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.

Nhân dịp cuốn sách “Lịch sử truyền thống cách mạng

của Đảng bộ và nhân dân phường Bình Trị Đông B (1930 –

2013)” ra mắt bạn đọc, Ban Chấp hành Đảng bộ phường Bình Trị Đông B chân thành cảm ơn tất cả các đồng chí, các cơ quan đã tham gia xây dựng cuốn sách lịch sử này.

T/M Ban Chấp hành Đảng bộ Phường Bình Trị Đông B

BÍ THƯ

NGUYỄN THỊ KIM HƯƠNG

Page 10: LSDB Binh Tri Dong B_size

10 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

Page 11: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 11

Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được phong tặng cho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Bình Trị Đông năm 1996

(hiện nay gồm 3 phường: Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B)

Quyết định trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do Chủ tịch nước ký cho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân

xã Bình Trị Đông năm 1996 (hiện nay là 3 phường: Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B)

Page 12: LSDB Binh Tri Dong B_size

12 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 13: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 13

VUØNG ÑAÁT - CON NGÖÔØIVAØ TRUYEÀN THOÁNG YEÂU NÖÔÙC CUÛA NHAÂN DAÂN BÌNH TRÒ ÑOÂNG B

MÔÛ ÑAÀU

Page 14: LSDB Binh Tri Dong B_size

14 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

1. Vị trí địa lý Bình Trị Đông B là một phườ ng thuộ c quậ n Bì nh

Tân, đượ c tá ch ra từ xã Bì nh Trị Đông củ a huyệ n Bì nh Chá nh trướ c đây theo Nghị định 130/2003/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính phủ và công bố thành lập phường ngày 3/12/2003, vớ i diệ n tí ch tự nhiên là 437,4 ha, dân số lú c mớ i chia tá ch là 23.758 nhân khẩ u. Phía Đông giáp với phường An Lạc A; Phía Tây giáp với các phường Tân Tạo, Tân Tạo A; Phía Nam giáp với phường An Lạc; Phía Bắc giáp với các phường Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông. Vùng đất nà y nằm ở phía Tây Nam Th ành phố Hồ Chí Minh đi về các tỉnh miền Tây Nam bộ, có vị trí quan trọng về mặt kinh tế, giao thông vận tải, là địa bàn đóng quân của các lực luợng cách mạng, chỗ dựa để quân ta tiến công vào trung tâm đầu não của địch ở Sài Gòn.

Qua 10 năm xây dựng và phát triển, phường có 14 khu phố, 118 tổ dân phố vớ i 6.817 hộ, 53.773 nhân khẩ u. Ngoài người Kinh, phường Bình Trị Đông B còn có một số dân tộc Hoa, Chăm, Khơme,…1

1. Phường Bình Trị Đông B được thành lập theo nghị định 130/CP của Chính phủ, có diện tích tự nhiên là 437,4 ha (trong đó có 44,6 ha đất nông nghiệp nhưng không canh tác được do nằm xen cài trong khu dân cư, dân số khi thành lập là 23.758 người, đến năm 2005 là 39.322 người, tăng 65,51% (15.564 người). (Trong đó, có 511 người dân tộc Hoa, 06 người dân tộc Khơmer. Phường có nhà thờ Phaolo lớn nhưng chỉ có 126

Page 15: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 15

2. Điều kiện tự nhiênPhường Bình Trị Đông B có địa hình tương đố i bằ ng

phẳ ng, đấ t ở đây chủ yế u là đấ t xá m và đấ t phù sa. Th à nh phầ n cơ họ c củ a đấ t xá m là đấ t pha thị t nhẹ , kế t cấ u rờ i rạ c, độ pH=4-5. Ở đây cò n có đấ t xá m pha cá t dướ i tầ ng sâu có mạ ch nướ c ngầ m. Vớ i thà nh phầ n đấ t như vậ y thí ch hợ p cho việ c là m nông nghiệ p, trồng lú a và cá c loạ i hoa mà u khác,…

Vớ i đặ c trưng chung là nóng ẩm và mưa nhiều củ a khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo cho cả khu vự c Nam bộ , do đó Bình Trị Đông B cũ ng có khí hậ u nóng, ẩm với nhiệt độ cao và mưa nhiều. Mỗi năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11; Mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ cao nhiều trong năm và ít thay đổi. Nhiệt độ trung bình là 27oC, dao động giữa các tháng trong khoảng 25 - 30oC, biên độ dao động giữa ngày và đêm 5o - 10o. Trong đó, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4 (30 oC), Th áng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 11 (26,8 oC).

Độ ẩm thườ ng thay đổ i theo mùa, độ ẩm trung bình trong năm là 76%, cao nhất là vào tháng 8 vớ i 82% và thấp nhất vào tháng 2 là 70%. Lượng mưa trung bình hà ng năm là 1.983mm/năm (trong khoảng 1.392mm ÷ 2.318mm) tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7, 8, 9 và 10 chiếm 90%

giáo dân, ngoài ra còn có 202 tín đồ Tin Lành, 375 Phật tử và 18 tín đồ Cao Đài). Trên địa bàn có 1.863 cơ sở, hộ kinh doanh sản xuất nhưng không có cụm công nghiệp tập trung trên địa bàn.

Page 16: LSDB Binh Tri Dong B_size

16 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

lượng mưa cả năm. Số ngày mưa bình quân hà ng năm là 159 ngày.

Đông Nam và Tây Nam là hướ ng gió chủ yế u, trong đó, gió thịnh hành và o mùa khô là gió Đông Nam với tần suất 30 – 40%, gió thịnh hành trong mùa mưa là gió Tây Nam với tần suất 66%. Tốc độ gió trung bình là 2 – 3m/s, gió mạnh nhất là 25 – 30 m/s, đổi chiều rõ rệt theo mùa.

Nhìn chung, ở Bì nh Trị Đông B khí hậu có tính ổn định cao, không gặp thời tiết bất thường như bão lụt, nhiệt độ không quá nóng hoặc quá lạnh.

Về giao thông: ở đây có các tuyến đường quan trọng: đường Tên Lửa, Vành Đai Trong, một đoạn Tỉnh lộ 10, Trần Văn Giàu, Bà Hom. Tỉnh lộ 10 là nú t giao thông nố i liề n với huyện Bình Chánh - Th à nh phố Hồ Chí Minh và huyện Đức Hòa - tỉnh Long An. Giao thông đườ ng bộ là loạ i hì nh giao thông chí nh củ a phườ ng, cá c loạ i hì nh giao thông khá c hầ u như không có , các kênh rạch chủ yếu đượ c dù ng cho tiêu thoát nước, không có chức năng giao thông đường thủy.

Với vị trí địa lý thuậ n lợ i và điều kiện tự nhiên phong phú như vậy, ở thời kỳ đầu, vùng đất này chỉ phá t triể n sản xuất nông nghiệp; ngày nay, do quá trình đô thị hóa, phường Bình Trị Đông B chuyển dịch kinh tế theo hướng thúc đẩy các ngành dịch vụ, thương mại, tiể u thủ công nghiệ p, tạo nguồn thu lớn cho phường, qua đó nâng cao đời sống nhân dân.

Page 17: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 17

3. Lị ch sử hì nh thà nh đơn vị hà nh chí nh phườ ng Bì nh Trị Đông B

Sự hình thành một cộng đồng dân cư trên vùng đất Bì nh Trị Đông B ngà y nay là một quá trì nh lị ch sử lâu dà i. Cũ ng như bao vùng đất Nam bộ khác, trước thế kỷ XVII, thôn Bình Trị Đông là một nơi hoang vu, sình lầy chưa được biết đến. Từ thế kỷ thứ XVII, dướ i thờ i cá c chú a Nguyễ n, ngườ i dân nghè o khổ từ Đà ng Ngoà i đã di cư và o vù ng đấ t mớ i và đị nh cư tạ i Biên Hò a – Gia Đị nh. Trong thờ i kỳ đầ u khẩ n hoang tạ i vù ng đấ t mớ i nà y, họ gặ p rấ t nhiề u khó khăn do đây là vùng rừng thiêng nước độc, nhiều thú dữ và thiế u vố n liế ng, phương tiệ n khai khẩ n. Do đó , họ chỉ có thể khai khẩ n trên nhữ ng mả nh đấ t nhỏ , theo khả năng củ a mỗ i ngườ i, đủ nuôi số ng gia đì nh. Họ khai thá c đấ t trồ ng ven sông, ven rừ ng, dầ n dầ n mớ i lấ n sâu và o cá c vù ng đấ t thấ p, sì nh lầ y, rừ ng rậ m. Cuộ c số ng củ a họ quây quầ n bên nhau gầ n sông rạ ch nướ c ngọ t, đườ ng giao thông để dự ng lề u, lậ p ấ p. Lú c nà y chưa có luậ t lệ , nhữ ng thôn ấ p cò n mang tí nh chấ t tổ chứ c tự lậ p, tự quả n. Năm 1698, Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lược xứ Đàng Trong, ông đã xây dựng hệ thống hành chánh và thiết chế xã hội của người Việt ở Nam bộ: chia đấ t lậ p ấ p, lậ p bộ dinh, bộ điề n, từ đó cá c thôn ấ p mớ i trở thà nh đơn vị hà nh chí nh, tuy vậ y vẫ n cò n mang mà u sắ c tậ p hợ p tự nhiên, chưa thậ t ổ n đị nh, nhưng không bị rà ng buộ c bở i nhữ ng thiế t chế củ a lệ là ng. Lú c nà y, thôn Bình Trị Đông nằm trong phần đất của huyện Tân Bình, thuộc

Page 18: LSDB Binh Tri Dong B_size

18 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định. Đến năm 1836 thôn Bình Trị Đông thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Huyện Tân Long có các tổng: Long Hưng Th uợng, Long Hưng Trung, Long Hưng Hạ, Huyện lỵ Tân Long ở gần dinh tỉnh trưởng Chợ Lớn. Th ôn Bình Trị Đông thuộc tổng Long Hưng Th ượng.

Đến thời thực dân Pháp xâm lược (1858), thôn Bình Trị Đông nằm trong tổng Long Hưng Th ượng thuộc hạt tham biện Chợ Lớn. Đến năm 1899, thực dân Pháp cho thành lập thành phố Chợ Lớn1, thôn Bình Trị Đông thuộc tổng Long Hưng Th ượng, quận Trung Quận (sau đó được đổi lại là Trung Huyện).2

Như vậ y, truớc năm 1956 phần đất chủ yếu của Bình

1. Năm 1899, Toàn quyền Joseph Athanase Paul Doume ra nghị định đổi tên gọi “hạt” thành “tỉnh” (province) và chia Nam kỳ thành 3 miền, với 20 tỉnh và 3 thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, thành phố tự trị Cap Saint Jacques (nay là Bà Rịa – Vũng Tàu) và Côn Đảo không thuộc tỉnh nào. 2. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức có viết: “Ngày 12 tháng giêng năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long cải làm Phiên An trấn, đem huyện làm phủ, đem tổng làm huyện, đó là xét theo phần đất rộng hẹp, số dân nhiều ít và địa thế liền lạc mà chia đều, lại đặt thêm các “Tổng, đều lập giới hạn phân minh”. Các huyện, tổng được điều chỉnh và phân bố, mở rộng các thôn, ấp”. Trong đó có sự thống nhất và sát nhập từ những phần đất của các thôn Tân Thới, Tân Khánh và Bình Trị Đông thành thôn Bình Trị Đông. Thôn Bình Trị Đông (mới thành lập) thuộc tổng Tân Phong, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Như vậy, vào cuối thế kỷ XIX, Thôn Bình Trị Đông chia ra làm 5 ấp là Tân Khai, Tân Thới, Nghi Xuân, Bình Đông và ấp Chánh. Đến đầu thế kỷ XX, làng Bình Trị Đông lập thêm ấp Nghi Hòa. Sau Cách mạng Tháng Tám, một phần đất Tân Thới tách ra để lập thêm ấp Tây Lân.

Page 19: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 19

Chánh thuộc Trung Quận tỉnh Chợ Lớn (Trung Quận thời Pháp thuộc gồm Bắc Bến Lức và một số nơi nay thuộc nội thành Th ành phố Hồ Chí Minh). Sau năm 1956, sau khi thành lập tỉnh Long An (sắc lệnh 143/NV ngày 20/05/1956 của ngụy quyền Sài Gòn), ngụy quyền Sài Gòn tách phần lớn đất Trung Quận lập thành quận Bình Chánh, tỉnh Gia Định1. Xã Bình Trị Đông thuộc quận Bình Chánh. Xã Bình Trị Đông lúc này có 7 ấp gồm: ấp Chánh, ấp Tây Lân, ấp Tân Th ới, ấp Tân Khai, ấp Nghi Hòa, ấp Nghi Xuân, ấp Bình Đông2. Sau đến thời Nguyễn Văn Th iệu thì xã Bình Trị Đông có 4 ấp Tân Sinh (1, 2, 3, 4).

Đến năm 1960 do đặc điểm, yêu cầu của tình hình mới của cách mạng, Đảng ta đã tách Bình Chánh thành hai phần Nam và Bắc Bình Chánh. Bắc Bình Chánh được

1. Ngày 29/4/1957, chính quyền Sài Gòn ban hành Nghị định số 138/BNV-HC/NĐ về ấn định các đơn vị hành chính của tỉnh Gia Định. Theo nghị định này, tỉnh Chợ Lớn bị bãi bỏ, phần lớn diện tích chuyển qua tỉnh Long An. Địa bàn Trung Quận chuyển về tỉnh Gia Định và đổi thành quận Bình Chánh. Trụ sở của quận đóng tại xã Bình Chánh. Quận Bình Chánh có 3 tổng:Tổng Long Hưng Thượng gồm các xã: Tân Kiên, An Lạc, Bình Trị Đông, Tân Tạo, Tân Nhựt.Tổng Long Hưng Trung gồm các xã: Bình Chánh, An Phú Tây, Tân Túc. Riêng 3 xã Hưng Long, Quy Đức, Tân Quý Tây của tổng Phước Điền Thượng, Cần Giuộc đưa sang năm 1948.Tổng Long Hưng Hạ gồm các xã: Chánh Hưng, Bình Đăng, Phong Đước, An Phú, Đa Phước.2. Các ấp Tây Lân, Tân Thới và một phần ấp Chánh nay thuộc phường Bình Trị Đông A; ấp Nghi Xuân và một phần ấp Chánh nay thuộc phường Bình Trị Đông, các ấp Nghi Hòa, Bình Đông và một phần ấp Chánh nay thuộc phường Bình Trị Đông B.

Page 20: LSDB Binh Tri Dong B_size

20 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nhập với Tân Bình đặt tên thành Bình Tân. Xã Bình Trị Đông nằm ở phía Bắc Bình Chánh.

Năm 1972 Bình Tân lại được Đảng ta đổi thành Bình Chánh trên cơ sở hợp nhất hai phần Nam và Bắc Bình Chánh.

Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, thành phố Sài Gòn được đổi tên là Th ành phố Hồ Chí Minh. Từ đây xã Bình Trị Đông1 thuộc huyện Bình Chánh – ngoại thành Th ành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 5 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 130/2003/NĐ-CP về thành lập các quận Bình Tân, Tân Phú và các phường trực thuộc; điều chỉnh địa giới hành chính phường thuộc quận Tân Bình; thành lập xã, thị trấn tại huyện Bình Chánh, Cần Giờ và Hóc Môn của Th ành phố Hồ Chí Minh. Th eo đó, xã Bình Trị Đông

1. Năm 1962, Mỹ - Diệm thực hiện “quốc sách ấp chiến lược” bình định, gom dân và chia xã Bình Trị Đông làm 4 ấp, từ ấp 1 đến ấp 4. Sau ngày miền Nam giải phóng, Binh Trị Đông được phân thành 6 ấp cho phù hợp với tình hình phân bố dân cư và phát triển kinh tế trong xã. Ngày 12 tháng 9 năm 1981, thực hiện Quyết định số 67-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc vạch địa giới Thị trấn An Lạc. Theo quyết định này thì giải thể xã An Lạc để thành lập thị trấn An Lạc (huyện lỵ của Bình Chánh), phần đất còn lại của xã An Lạc sáp nhập vào các xã Bình Trị Đông, Tân Kiên và Tân Tạo. Như vậy, ấp 1 của xã An Lạc sáp nhập vào ấp 5 của xã Bình Trị Đông. Cho đến năm 2003 xã Bình Trị Đông có 11 ấp. Sau khi được chia tách, 11 ấp của xã Bình Trị Đông được chia thành 3 phường bao gồm phường Bình Trị Đông (các ấp 3, 4, 8, 9, 10, 11), phường Bình Trị Đông A (một phần ấp 1, ấp 6 và ấp 7), phường Bình Trị Đông B (một phần ấp 1, ấp 2 và ấp 5).

Page 21: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 21

được chia thành 3 phường: Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B. Phường Bình Trị Đông B trở thành một phường của quận Bình Tân ngày nay1.

II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CƯ DÂN BÌNH TRỊ ĐÔNG B

Bình Trị Đông B là nơi hội tụ của cư dân rất nhiều tỉnh thành trong cả nước. Vì vậy nền văn hóa trên vùng đất này rất đa dạng, mang những sắc thái khác nhau. Ở đây ngoài người Kinh, còn có người Hoa và các dân tộc khác như Khơme, Chăm... Phần đông nhân dân thờ cúng tổ tiên, số còn lại theo đạo Công giáo, đạo Tin Lành, đạo Phật... Phường có Nhà thờ Phaolo, chùa Vạn Phước, chùa Phước Huệ, 2 tịnh thất, Hội thánh Tin Lành Trưởng Lão.

Đa số cư dân trước đây thuộc phường Bì nh Trị Đông B đều là nông dân và người lao động nghèo khổ, cùng cảnh ngộ, bị thực dân áp bức, bóc lột. Họ từ Đà ng Ngoà i và o đị nh cư tạ i vù ng đấ t mớ i, vớ i nhữ ng khó khăn thử thá ch, thiế u thố n vố n liế ng, phương tiệ n,… trong buổ i đầ u khẩ n hoang đã hì nh thà nh nên nhữ ng đứ c tí nh tố t đẹ p trở thành truyền thống của người dân Việt Nam. Đó là đức tính: cầ n cù , kiên nhẫ n, chị u đự ng khó khăn, thông minh sá ng tạ o đã vậ n dụ ng phá t huy cá c kinh

1. Quận Bình Tân có Thị trấn An Lạc và các phường An Lạc A, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B, Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B, Tân Tạo, Tân Tạo A.

Page 22: LSDB Binh Tri Dong B_size

22 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nghiệ m cổ truyề n là m lú a nướ c và có tinh thầ n tương thân tương trợ , họ c hỏ i lẫ n nhau… Bên cạnh truyền thống lao động sáng tạo với một nền văn hóa truyền thống sinh động, nhân dân xã Bì nh Trị Đông còn có truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng chống giặc ngoại xâm. Trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, nhu cầu tồn tại, làm chủ thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm đã gắn bó họ thành một khối có tinh thần yêu thương đùm bọc và đoàn kết nhất trí cao.

Trong lịch sử phát triển xã hội, người dân ở vùng đất này chủ yếu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp, trong giai đoạn đầu nông dân chiếm trên 80% dân số. Qua quá trình lao động, người dân ở đây có sự phân hóa nhưng không đáng kể; thành phần bần nông và trung nông nhỏ chiếm đa số, tầng lớp trên chủ yếu là phú nông và một số rất ít địa chủ từ nơi khác đến, nhưng họ thường bị bọn tư bản thực dân, đế quốc chèn ép.

Th ời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kẻ thù luôn tìm mọi cách lợi dụng, chia rẽ dân tộc, tôn giáo nhằm chống lại cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Nhưng với chính sách đại đoàn kết dân tộc và tự do tín ngưỡng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đại bộ phận nhân dân và các tín đồ tôn giáo trong xã Bì nh Trị Đông nói chung và phường Bình Trị Đông B ngày nay nói riêng đều đứng về phía cách mạng, tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Hiện nay phườ ng Bình Trị Đông B đang trong quá

Page 23: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 23

trình đô thị hó a, mậ t độ dân cư khá đông đú c1, đã tạo nhiều thuận lợi cho sự phát triển nhưng cũng gặp nhữ ng khó khăn như: quá tải về kết cấu hạ tầng kỹ thuật - hạ tầng xã hội; ảnh hưởng trậ t tự an toà n xã hộ i, nhiề u dự á n xây dự ng được triển khai, công tá c bồ i thườ ng giả i tỏ a ả nh hưở ng đế n hà ng trăm hộ dân. Bên cạ nh đó , trì nh độ dân trí cò n hạ n chế do đa phầ n là ngườ i dân đế n nhậ p cư và đị nh cư, lao độ ng chủ yế u là phổ thông và tự do... Vì vậy, Đả ng bộ phườ ng chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thương mại - dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp, chất lượng cuộc sống của người dân cả về vật chất lẫn tinh thần được nâng cao.

III. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN BÌNH TRỊ

ĐÔNG B TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI

Cùng hòa chung dòng chảy của lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân xã Bì nh Trị Đông đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng, kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Quá trình tạo dựng, phát triển nà y là mộ t dò ng chả y xuyên suố t và trải qua nhiề u thế hệ nối tiếp nhau. Từ cuối thế kỷ XVI,

1. Đến năm 1995 xã Bình Trị Đông đã phát triển đô thị hóa qua các dự án quy hoạch khu dân cư (từ đất nông nghiệp trở thành khu dân cư) và sau khi chia tách thì phường Bình Trị Đông B đã hình thành khu dân cư An Lạc – Bình Trị Đông và các dự án xây dựng các khu dân cư khác nên dân nhập cư đến sinh sống ngày càng đông đúc. Năm 2010, dân nhập cư ở phường đã tăng lên trên 25.000 người.

Page 24: LSDB Binh Tri Dong B_size

24 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

đầu thế kỷ XVII, các quốc gia phong kiến như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia… trong bối cảnh chung của thế giới đã không tránh khỏi sự khủng hoảng và suy yếu. Ở Việt Nam, cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627-1673) đã chia cắt đất nước thành hai xứ: Đàng Trong và Đàng Ngoài (lấy sông Gianh làm ranh giới). Điều này đã làm cho hàng vạn nông dân lâm vào thảm họa buộc phải đi tìm đất sống ở phương Nam.

Trước thực tế khách quan đó, nhữ ng ngườ i nông dân ở Đà ng Ngoà i đã quyế t đị nh di cư và o vù ng đấ t mớ i, vớ i hy vọ ng sẽ có mộ t cuộ c số ng tố t đẹ p hơn. Họ là những nông dân nghèo khổ, chỉ với những túp lều, những con dao, cái cuốc, họ không sợ hiểm nguy, khó nhọc trong công việc để biến rừng hoang thành từng mảnh ruộng mầu mỡ. Quá trình chinh phục thiên nhiên lâu dài và gian khổ ấy là hoàn cảnh lịch sử, là điều kiện để hình thành những phẩm chất tốt đẹp như đoàn kết, khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo và tôi luyện một ý chí kiên cường. Những tính cách, năng lực, phẩm chất ấy của người dân được hình thành, được thử thách mang tính bền vững để trở thành truyền thống tốt đẹp nhất của con người Nam Bộ. Đó là sản phẩm văn hóa của hàng thế kỷ lao động dựng xây cuộc sống trên vùng đất mới.

Cư dân Bì nh Trị Đông số ng trong cả nh thanh bì nh củ a đấ t nướ c cho đế n nử a cuố i thế kỷ thứ XIX. Với sự kiện gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nam kỳ của quân xâm lược Pháp vào mờ sáng ngày 01 tháng 09 năm 1858, buộc quan

Page 25: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 25

quân nhà Nguyễn phải đầu hàng. Liền đó là tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đã mở đầu cho quá trình đánh chiếm Việt Nam của Pháp. Lúc này, nền độc lập của dân tộc đang phải đối diện với những thử thách hết sức to lớn.

Đầu thế kỷ XX, thự c dân Phá p á p đặ t chí nh sá ch thuộ c đị a lên đấ t Nam kỳ . Ở cấ p cơ sở chú ng đặ t bộ má y Hộ i tề , Hương chứ c. Để thự c hiệ n mụ c đí ch bó c lộ t kinh tế và khai thá c tà i nguyên, thự c dân Phá p đã rà ng buộ c kinh tế Việ t Nam và o nề n kinh tế Phá p. Nhân dân ta đã phả i đó ng đủ mọ i thứ thuế : thuế ngườ i, thuế đấ t, thuế rượ u, thuế thuố c phiệ n… cù ng nhiề u loạ i công trá i và thuế khá c. Trong văn hó a, thự c dân Phá p thi hà nh chí nh sá ch ngu dân. Dướ i sự thố ng trị củ a thự c dân Phá p, mọ i quyề n tự do dân chủ đề u bị bó p nghẹ t, cá c phong trà o yêu nướ c đề u bị nghiêm cấ m. Nhữ ng trà o lưu tư tưở ng, tiế n bộ bị ngăn chặ n không đượ c du nhậ p và o Việ t Nam. Nhữ ng chính sách khai thác thuộc địa nà y của thực dân Pháp, đã làm cho xã hội ta có những biến chuyển mới trên nhiều lĩnh vực: Trong xã hộ i thuộ c đị a nử a phong kiế n nà y xuấ t hiệ n cá c mâu thuẫ n, mà muố n giả i quyế t cá c mâu thuẫ n đó phả i vùng lên đấ u tranh già nh độ c lậ p dân tộ c. Đó cũ ng là nguyệ n vọ ng vô cù ng cấ p thiế t củ a nhân dân. Vớ i chí nh sá ch độ c quyề n bó c lộ t về kinh tế , chuyên chế về chí nh trị củ a đế quố c Phá p và tay sai, là m cho cá c mâu thuẫ n vố n có trong xã hộ i thuộ c đị a nử a phong kiế n cà ng trở nên sâu sắ c và gay gắ t. Đây là những nhân tố thuận lợi cho sự phát triển phong trào dân tộc,

Page 26: LSDB Binh Tri Dong B_size

26 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

với nhiều hình thức, nội dung mới rất phong phú, tất cả đều lôi cuốn, tác động đến mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều thanh niên Bình Trị Đông đã bước đầu được giác ngộ cách mạng, được rèn luyện và tổ chức để dần trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào cách mạng ở địa phương sau này.

Như vậ y, sự hì nh thà nh nhữ ng truyề n thố ng tố t đẹ p củ a cư dân Bì nh Trị Đông nói chung và Bình Trị Đông B ngày nay nói riêng là cả mộ t quá trì nh lâu dà i và xuyên suố t gắn liền với lị ch sử dân tộ c Việ t Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những truyền thống tốt đẹp của mảnh đất này luôn được giữ gìn và phát huy. Với tinh thần hiếu học; cần cù, sáng tạo trong lao động; kiên cường, bất khuất trong chiến đấu; thủy chung trong cuộc sống... nhân dân Bì nh Trị Đông B đã vượt qua bao gian nan, thử thách, lập nên nhiều chiến công oanh liệt, góp phần cùng với quận Bình Tân và Th ành phố Hồ Chí Minh làm rạng rỡ trang sử vàng của dân tộc Việt Nam.

Page 27: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 27

BÌNH TRÒ ÑOÂNG TRONG SÖÏ NGHIEÄPÑAÁU TRANH GIAØNH ÑOÄC LAÄP DAÂN TOÄC

(1930-1975)

Phần thứ nhất

Page 28: LSDB Binh Tri Dong B_size

28 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 29: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 29

PHONG TRAØO ÑAÁU TRANH CUÛA NHAÂN DAÂN BÌNH TRÒ ÑOÂNGTÖØ KHI COÙ ÑAÛNG ÑEÁN THAÉNG LÔÏICUÛA CUOÄC KHAÙNG CHIEÁN CHOÁNGTHÖÏC DAÂN PHAÙP XAÂM LÖÔÏC (1930-1954)

CHÖÔNG MOÄT

Page 30: LSDB Binh Tri Dong B_size

30 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

I. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN

DÂN BÌNH TRỊ ĐÔNG TỪ KHI CÓ ĐẢNG ĐẾN CÁCH MẠNG

THÁNG TÁM THÀNH CÔNG (1930 – 1945)

1. Bình Trị Đông đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng

1.1 Sự ra đời của Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bình Trị Đông

Ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, khẳng định Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta đó là giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ đầu năm 1930, đồng chí Hồ Văn Long với vai trò Bí thư liên xã đã đến ấp Tân Khai tuyên truyền tinh thần yêu nước và chủ nghĩa cộng sản, từng bước vận động quần chúng tích cực, nòng cốt. Đây chính là sự chuẩn bị nhân sự, tổ chức và tư tưởng để tiến tới việc thành lập chi bộ Đảng tại xã Bình Trị Đông.

Hưởng ứng chủ trương của Đảng Cộng sản kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, ngày 1 tháng 5 năm 1930 nhân dân xã Bình Trị Đông cùng nhân dân các xã Tân Hòa

Page 31: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 31

Đông1, Tân Tạo đòi giảm thuế thân và bán hộp quẹt cho dân. Trước cuộc đấu tranh mạnh của quần chúng kéo dài suốt ngày, chúng buộc phải chở hộp quẹt đến các làng trên bán cho dân.

Ngày 8 tháng 5 năm 1930, hiệu lệnh pháo tre được bắn ra, khoảng 200 người ở xã Bình Trị Đông có mặt tại Mả Lò. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Hồ Văn Long, đoàn biểu tình giương khẩu hiệu, truyền đơn trong tiếng trống, tiếng mõ ngân vang đã lôi kéo nhân dân các làng Tân Tạo, Tân Kiên, An Lạc thành đoàn hơn 1.000 người kéo đến nhà Hội (gần chợ Bà Hom ngày nay) hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp”, “Giảm thuế thân”. Th ực dân Pháp cho lính đàn áp làm 2 người bị chết, 6 người bị thương và một số khác bị bắt.

Ngày 4 tháng 6 năm 1930, người dân Bình Trị Đông phối hợp với nhân dân các xã An Lạc, Tân Túc, Tân Kiên, Tân Nhựt, Chợ Đệm, Bình Hưng Hòa, Vĩnh Lộc thực hiện cuộc biểu tình ở Bà Hom dưới sự lãnh đạo của đồng chí Châu Văn Liêm (Bí thư Liên Tỉnh ủy Gia Định - Chợ Lớn). Khẩu hiệu được đề ra là: giảm thuế thân; tăng giá công cắt, công cấy, công đập lúa; giảm tô, giảm tức, giảm giờ làm công; chống bắt phu đi làm đồn điền cao su. Trước khí thế của đoàn biểu tình, tên Phủ Bắc phải đứng ra trực tiếp hứa hẹn sẽ giải quyết những yêu cầu của nhân dân để xoa dịu tình hình. Tuy nhiên về sau cuộc biểu tình ở Bà

1. Theo Truyền thống đấu tranh cách mạng xã Bình Trị Đông (1930 - 1975).

Page 32: LSDB Binh Tri Dong B_size

32 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Hom đã bị kẻ thù đàn áp dã man, đoàn biểu tình bị lính làng nổ súng trấn áp, một số người bị bắn, bị bắt.

Đến tháng 8 năm 1930, các đồng chí đảng viên ở Bình Trị Đông kết hợp với đảng viên ở Bình Hưng Hòa đã tập hợp quần chúng tổ chức mít tinh ở Đồng Mã (Nhị Hòa) để nghe đồng chí Nguyễn Chí Diểu diễn thuyết. Sau đó, các đồng chí đảng viên đã vận động nhân dân đánh mõ dồn dập suốt mấy đêm liền làm bọn làng lính hoang mang lo sợ, khí thế quần chúng dâng lên cao1.

Trước phong trào đấu tranh của quần chúng đang dâng lên đòi hỏi phải có một tổ chức Đảng tại làng Bình Trị Đông để lãnh đạo. Chính vì vậy ngày 1 tháng 9 năm 1930 đồng chí Hồ Văn Long, Bí thư Liên xã, thay mặt Tỉnh ủy Chợ Lớn đã về đình Tân Khai thành lập chi bộ đảng xã Bình Trị Đông. Chi bộ gồm có 5 đảng viên gồm: Nguyễn Văn Nhung, Trần Văn Cửu, Nguyễn Văn Hoàng, Nguyễn Văn Lễ, Lê Văn Trảng do đồng chí Nguyễn Văn Nhung làm Bí thư chi bộ2.

1.2. Chi bộ Đảng Bình Trị Đông lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ

1. Theo Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản năm 2012, trang 33.2. Theo Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản năm 2012, trang 28 thì Chi bộ Bình Trị Đông (thành lập tháng 9 năm 1930) do đồng chí Nguyễn Văn Nhung làm Bí thư, và các đảng viên là Nguyễn Văn Lễ, Nguyễn Văn Lăng, Huỳnh Văn Lượng, Nguyễn Văn Trâm.

Page 33: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 33

Sau khi Chi bộ Bình Trị Đông được thành lập, đảng viên chi bộ đã đi đến Vĩnh Lộc, Bình Hưng Hòa, Tân Hòa Đông, Bình Chánh, Bình Trị Đông vào tận làng xóm, nhà máy để giác ngộ cách mạng cho quần chúng và phát động phong trào. Chi bộ đã lập ra các tổ chức bí mật của Đảng như: Nông hội, Công hội, Đoàn Th anh niên, Phụ nữ và các tổ chức công khai theo nghề nghiệp như Hội xe ngựa, Hội giáo giới… Phong trào đấu tranh của nông dân từ khi có Đảng lãnh đạo đã có những nét mới cả về lượng và chất, có sự hỗ trợ của giai cấp công nhân một cách chặt chẽ ở vùng Trung Quận và được cả công nhân, trí thức, nhân sĩ yêu nước, báo chí Th ành phố Sài Gòn - Chợ Lớn ủng hộ.

Th áng 10 năm 1930, một cuộc biểu tình gần 2.000 người dân các xã Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa, Phú Th ọ Hòa, Tân Sơn Nhì, Vĩnh Lộc kéo về cầu Xéo (Tân Sơn Nhì) nhằm ủng hộ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh và kỷ niệm Cách mạng Th áng Mười Nga. Quần chúng giương cao khẩu hiệu ủng hộ phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh và đả đảo địa chủ cường hào ở địa phương. Tên cả Ngàn và tên quản Miên cho lính đàn áp, bắt đi nhiều người, trong đó có các đồng chí Tư Chí, Mười Tăng và Ba An.

Th áng 11 năm 1930, trong lúc các nơi bị địch đàn áp dữ dội, phong trào tạm lắng xuống thì ở Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa, Phú Th ọ Hòa, Vĩnh Lộc, 18 thôn Vườn Trầu phong trào đấu tranh của quần chúng đang lớn mạnh. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ, hàng ngàn nông dân kéo về ấp Tây Lân của Bình Trị Đông nghe diễn thuyết

Page 34: LSDB Binh Tri Dong B_size

34 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

kêu gọi công, nông, binh, dân nghèo đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản làm cách mạng đánh đổ quan làng, phong kiến tay sai và thực dân Pháp xâm lược. Sau đó thực dân Pháp ngày càng khủng bố ác liệt, tại Bình Trị Đông, đồng chí Nguyễn Văn Nhung, Bí thư chi bộ bị bắt.

Cũng trong tháng 11 năm 1930, Đại hội Đảng bộ tỉnh Chợ Lớn được tổ chức tại làng Long Hiệp. Đại hội đã bầu đồng chí Lê Quang Sung làm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn. Những tháng cuối năm 1930, địch càng khủng bố mạnh, tiếp theo những năm 1930 - 1931 là thời kỳ địch tăng cường khủng bố trắng, nhiều đồng chí lãnh đạo từ Trung ương, Xứ ủy, tỉnh, thành phố và đảng viên cơ sở bị thực dân Pháp bắt, các cơ sở đảng ở nhiều nơi bị tan rã. Đến tháng 5 năm 1931, đồng chí Lê Quang Sung bị mật thám bắt trên đường từ Sài Gòn về Đức Hòa, đồng chí Hồ Văn Long lên làm Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn thay đồng chí Lê Quang Sung. Đến tháng 4 năm 1932, đồng chí Hồ Văn Long đứng ra khôi phục lại Xứ ủy Nam kỳ (bị vỡ vào cuối năm 1931 do đồng chí Phước, Bí thư Xứ ủy lâm thời bị bắt), sau đó đồng chí Hồ Văn Long bị bắt đày đi Côn Đảo. Ở Bình Trị Đông, sau khi đồng chí Nguyễn Văn Nhung - Bí thư chi bộ bị bắt thì các đảng viên khác cũng lần lượt bị địch bắt trong năm 1931, do đó các phong trào đấu tranh cách mạng tạm lắng xuống.

Trong giai đoạn 1931 đến 1935, dù bị Pháp khủng bố, đàn áp nhưng những đảng viên còn lại tại xã Bình Trị Đông vẫn kiên trì một lòng theo Đảng. Quần chúng nhân dân không ngại hy sinh, gian khổ tiếp tục nuôi giấu cán

Page 35: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 35

bộ, đảng viên thì tìm mọi cách móc nối liên lạc để tiếp tục phong trào. Dù bị theo dõi gắt gao, đồng chí Nguyễn Văn Đương vẫn tổ chức tuyên truyền kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động vào ngày 1 tháng 5 năm 1932, treo biểu ngữ, rải truyền đơn, phổ biến sách báo như Cờ Đỏ, Búa Liềm, Dân Cày… nhằm không ngừng nâng cao ý thức cách mạng cho quần chúng. Xu hướng đòi tự do dân chủ trong tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển. Từ năm 1933 trở đi, cơ sở Đảng ở Trung Quận dần dần được khôi phục, trong hàng ngũ của Đảng có thêm nhiều cán bộ mới tiếp tục dẫn dắt quần chúng đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp.

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã để lại những hậu quả nặng nề về kinh tế kéo theo mâu thuẫn xã hội gay gắt trong lòng các nước đế quốc. Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít đã đe doạ nền hòa bình thế giới. Chính vì vậy Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII (tháng 7 năm 1935) chỉ rõ nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân lúc này chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản mà là chống chủ nghĩa phát xít và bảo vệ hoà bình thế giới. Các Đảng Cộng sản các nước phải thống nhất lực lượng công nhân, lực lượng yêu nước và dân chủ vào Mặt trận nhân dân rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít.

Trước nguy cơ phát xít, tại Pháp, Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Xã hội cấp tiến lập “Mặt trận nhân dân Pháp” giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Th áng 6 năm 1936, Chính phủ của Mặt trận nhân dân Pháp được

Page 36: LSDB Binh Tri Dong B_size

36 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

thành lập đã ban hành một số quyết định quan trọng đối với các nước thuộc địa như thả chính trị phạm, thành lập Ủy ban điều tra tình hình thuộc địa ở Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho người lao động... Những sự kiện chính trị tại Pháp đã tác động trực tiếp đến tình hình nước ta.

Th áng 7 năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế (sau đổi là Mặt trận Dân chủ Đông Dương), nhằm tập hợp mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ chống phát xít, bọn phản động thuộc địa, giành tự do dân chủ, cải thiện dân sinh. Trung ương Đảng chủ trương lợi dụng triệt để mọi khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp, đồng thời coi trọng công tác bí mật để phát triển tổ chức Đảng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.

Sau khi Mặt trận Dân chủ Đông Dương được thành lập, tại làng Bình Trị Đông được sự chỉ đạo của các đồng chí Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai đã hình thành Ủy ban hành động ở 4 ấp: Tân Khai, Tân Th ới, Nghi Xuân, Nghi Hòa. Ủy ban hành động ấp Tân Khai có Nguyễn Th ị Hiển, Lý Văn Hiền, Tăng Văn Móc, Huỳnh Th ị Nữ; ấp Tân Th ới có Nguyễn Văn Dưỡng, Võ Văn Lành, Phạm Văn Hòa, Huỳnh Th ị Th ơm; ấp Nghi Xuân có Lê Văn Trảng, Nguyễn Văn Th ẹo, Lê Văn Hố, Nguyễn Văn Hủ; ấp Nghi Hòa có Nguyễn Văn Dậu, Nguyễn Văn Luông… Cơ cấu Ủy ban hành động của ấp gồm có tổ trưởng, tổ phó, thư ký, thủ quỹ và ủy viên.

Page 37: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 37

Ủy ban hành động đặt trụ sở tại ấp Tân Khai do các đồng chí Tám Ân, Bảy Điểm, Nguyễn Văn Đương, Ba Hạnh, Chín Hưng, Tô Văn Mười lãnh đạo. Ủy ban hành động chủ trương đấu tranh chính trị, ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, giảm thuế, cải thiện dân sinh và dân chủ, tập hợp Đại hội Đông Dương.

Các tổ chức hợp pháp được khuyến khích ra đời như Hội đám cưới, Hội đá banh, Hội tương tế ái hữu, Hội âm công. Bốn hội này có khoảng 60 thành viên và cử đồng chí Nguyễn Văn Dưỡng chịu trách nhiệm chung, trụ sở đặt tại ấp Nghi Xuân. Chủ trương của các Hội là hoạt động công khai, tuyên truyền chính sách của Đảng, vận động nhân dân chống sưu cao thuế nặng. Hàng tháng, hội viên đóng nguyệt phí, một phần được dùng để in truyền đơn tại báo Bảo Tồn. Nội dung của truyền đơn chủ yếu là kêu gọi người dân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, giải tán các Hội đồng hành hình, các Ban thầy kiện nhất là đòi triệu tập Đại hội Đông Dương. Những người rải truyền đơn là Nguyễn Văn Tài, Huỳnh Văn Sở, Huỳnh Văn Gạch, Huỳnh Văn Sách, Huỳnh Văn Mai. Một phần nguyệt phí còn lại của các hội dùng để may cờ, làm khẩu hiệu chuẩn bị cho các cuộc mít tinh, biểu tình. Ngoài ra chi bộ còn thành lập các tổ chức khác như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Th anh niên, Hội Lão thành, Hội Cứu tế đỏ. Riêng Đội Th iếu niên do đồng chí Lê Văn Nhung (Ba Xiển) thành lập được tổ chức sinh hoạt, giáo dục và giao nhiệm vụ làm liên lạc cho các cán bộ cách mạng.

Page 38: LSDB Binh Tri Dong B_size

38 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Sự phát triển của phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương khắp nơi buộc thực dân Pháp phải thả tù chính trị, trong thời gian này đồng chí Nguyễn Văn Nhung (Mười Nhung) và một số đồng chí khác của Bình Trị Đông cũng được thả ra. Đến cuối năm 1936, chi bộ Bình Trị Đông có khoảng 11 đảng viên do đồng chí Trần Văn Cửu làm bí thư, cơ sở đặt tại ấp Tân Khai. Lúc này, một chi bộ khác cũng được thành lập ở Cây Da Sà gồm các đồng chí Sáu Luông, Năm Hải, Năm Dần, Triều do đồng chí Sáu Luông làm Bí thư. Đầu năm 1937, đồng chí Nguyễn Th ị Minh Khai (Năm Bắc), Xứ ủy viên Xứ ủy Nam kỳ, đến chi bộ Cây Da Sà phổ biến cho cán bộ đảng viên về đường lối của Đảng và trao lại một số tài liệu quan trọng cần thiết cho phong trào đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới. Chi bộ Bình Trị Đông cũng nhận được những tài liệu này và tổ chức học tập cho đảng viên. Hai chi bộ Bình Trị Đông và Cây Da Sà lúc này có những chủ trương và biện pháp chỉ đạo, lãnh đạo phong trào ở địa phương được rõ ràng hơn, cụ thể hơn nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh phát triển mạnh trên phạm vi hoạt động nửa bí mật và công khai.

Đầu năm 1937, dưới sự lãnh đạo của các đồng chí Nguyễn Văn Dưỡng, Võ Tâm Th ành (Sáu Th ành) và Tám Bụi, hơn 30 quần chúng biểu tình kéo đến Nhà Hội Bình Trị Đông. Bọn tề gian hoảng sợ chạy trốn. Khẩu hiệu “Chống thuế thân”, “Tự do lập nghiệp đoàn” được giương cao trước Nhà Hội.

Page 39: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 39

Một cuộc biểu tình công khai khác cũng nổ ra sau đó. Hơn 1.000 người làng Bình Trị Đông kết hợp với Tân Hòa Đông do đồng chí Sáu Th ành và Nguyễn Văn Hoành (Tư Hoành) trực tiếp lãnh đạo, nêu khẩu hiệu, biểu ngữ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Bọn lính của huyện và làng bao vây đàn áp, bắt bớ một số quần chúng và đảng viên của ta như các đồng chí Hiền, Miến, Th ảo, Năm Dưỡng, Sáu Th ành, Sáu Cầu.

Th áng 4 năm 1937, bọn Việt gian theo lệnh của Tỉnh trưởng Chợ Lớn đưa bài vị của Hương trưởng Quợt, vốn là người tàn ác và bóc lột nhân dân, về đình Bình Trị Đông bắt nhân dân trong xã phải tôn thờ. Bà con trong xã vô cùng phẫn nộ kéo lên đình với khoảng 1.500 người để phản đối. Để làm lễ phong “thần” này, Tỉnh trưởng Chợ Lớn đã đến Bình Trị Đông, đồng chí Nguyễn Văn Hoành (Tư Hoành) và Tăng Văn Móc dẫn đoàn biểu tình đến phản đối đồng thời đòi quyền dân sinh, dân chủ và giương cao khẩu hiệu: “Ủng hộ phòng thủ Đông Dương”, “Ban bố các quyền tự do dân chủ”. Đoàn biểu tình bị đàn áp, đồng chí Nguyễn Văn Hoành và Tăng Văn Móc bị bắt đi. Nhưng trước sức mạnh của quần chúng, tên Tỉnh trưởng buộc phải hủy bỏ việc phong “thần” cho Hương trưởng Quợt.

Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, ngày 1 tháng 5 năm 1937, hơn 5.000 người gồm nhân dân ở Bình Trị Đông cùng với nhân dân tỉnh Gia Định và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đã đến rạp Th ành Xương (Sài Gòn) dự họp mít tinh. Sau khi hát bài Quốc tế ca và nghe các diễn

Page 40: LSDB Binh Tri Dong B_size

40 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

giả diễn thuyết, những người dự mít tinh đã nhất trí thông qua kiến nghị đòi chính phủ Pháp ban hành gấp luật tự do nghiệp đoàn cho lao động ở Đông Dương. Ngoài ra, nhân dân Bình Trị Đông còn đấu tranh đòi giảm giờ làm, tăng công cấy lúa mỗi mùa lên một giạ và được ăn cơm hai buổi, đòi giảm thuế thân…

Đầu năm 1938, đồng chí Nguyễn Văn Nhung vận động, tổ chức cho công nhân xây dựng gần hãng rượu Bình Tây, trong đó có một số công nhân là người làng Bình Trị Đông xuống đường đấu tranh đòi chủ thầu xây dựng tăng lương từ 8 xu lên 1,2 đồng. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi. Nhưng về sau chủ thầu chỉ điểm cho giặc bắt đồng chí Nguyễn Văn Nhung đem đi đày ở Vũng Tàu.

Ngày 1 tháng 5 năm 1938, cùng với khí thế đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động của nhân dân Sài Gòn - Gia Định, nhân dân Bình Trị Đông tham gia biểu tình đòi giảm thuế, thực hiện các quyền tự do dân chủ. Cuộc đình công đầy khí thế của anh em đánh xe ngựa Sài Gòn, với nòng cốt là Liên đoàn xe ngựa Bình Trị Đông, đã gây một tiếng vang lớn, trở thành một vấn đề gây tranh cãi trong Quốc hội Pháp. Ủy ban hành động ở mỗi ấp của Bình Trị Đông còn tổ chức vận động thanh niên không đi lính cho Pháp và không để Pháp bắt nhân dân đi làm phu.

Đến đầu năm 1939, đồng chí Lê Văn Nhung (Ba Xiển) lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Trị Đông kéo đến Tà Bố (tỉnh Chợ Lớn) và nhiều nơi khác trong tỉnh cùng tham gia biểu tình chống thực dân Pháp bắt làm phu, đi lính.

Page 41: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 41

Phong trào vận động của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 – 1939) dưới sự lãnh đạo của Đảng tại cơ sở, trực tiếp là chi bộ Bình Trị Đông đã không ngừng tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chính trị bằng những yêu sách phù hợp với quyền lợi của nhân dân. Qua phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ cải thiện đời sống nhân dân, Đảng đã tập hợp, động viên, giáo dục và xây dựng được một lực lượng đông đảo quần chúng gồm đủ thành phần xã hội ở nông thôn và thành thị, đồng thời Đảng đã bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ đông đảo, phát triển thêm được nhiều đảng viên mới.1 Qua đó, quần chúng càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ngày 3 tháng 9 năm 1939, thực dân Pháp tuyên chiến với phát xít Đức. Sau khi Mặt trận nhân dân Pháp bị lật đổ, phe phát xít Dalalier lên cầm quyền, sự nới rộng quyền tự do, dân chủ ở thuộc địa trong giai đoạn 1936 - 1939 đều bị xóa bỏ, ảnh hưởng đến sự hoạt động của phong trào Đông Dương Đại hội nói riêng và phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam nói chung. Ở xã Bình Trị Đông, lính Pháp đóng cửa văn phòng Ủy ban hành động, nghiêm cấm dân chúng tụ họp trên ba người, gia đình nào có ma chay, đám giỗ phải làm đơn xin phép, nếu ai làm trái sẽ bị chúng khép vào tội thân cộng sản.

1. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản năm 2012, trang 46.

Page 42: LSDB Binh Tri Dong B_size

42 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Th ực dân Pháp và chính quyền tay sai ở địa phương tăng cường khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, bắt giết những chiến sĩ cộng sản, bắt bớ những quần chúng có cảm tình với Đảng. Th ực dân Pháp ban hành lệnh tổng động viên, đem sức người, sức của thuộc địa cung cấp cho chiến tranh của chính quốc Pháp. Chúng tìm mọi cách vơ vét tài sản, tài nguyên, tăng thuế làm cho đời sống của nhân dân ngày càng túng quẫn. Trước tình hình khó khăn, tháng 11 năm 1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6, chủ trương thành lập Mặt trận Th ống nhất Dân tộc phản đế Đông Dương. Cũng thời gian này, Xứ ủy Nam kỳ quyết định rút cơ sở Đảng vào hoạt động bí mật. Ở Bình Trị Đông, Ủy ban hành động bị giải tán, các tổ chức “tương tế”, “ái hữu” phải chuyển vào hoạt động bí mật. Nhiều cán bộ cách mạng tại Bình Trị Đông bị chúng bắt đi đày tại Tà Lài, Bà Rá. Phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Trị Đông tạm lắng xuống. Trong giai đoạn này, đời sống của nhân dân Bình Trị Đông gặp rất nhiều khó khăn. Giá cả sinh hoạt ngày càng tăng, người lao động mất việc làm, nông dân bị sưu cao thuế nặng, trưng thu xe ngựa, bị bắt đi phu, đi lính… tạo nên sự câm phẫn trong nhân dân.

2. Nhân dân Bình Trị Đông từ khởi nghĩa Nam kỳ tiến đến Cách mạng Th áng Tám (1940-1945)

2.1 Đẩy mạnh quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhân dân Bình Trị Đông tích cực chuẩn bị tham gia cùng Nam kỳ khởi nghĩa

Th áng 3 năm 1940, Xứ ủy Nam kỳ thảo “Đề cương

Page 43: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 43

về cách mạng ở Nam kỳ” chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Sau đó vào tháng 7 năm 1940, Xứ ủy họp Hội nghị mở rộng tại xã Tân Hương, quận Châu Th ành, tỉnh Mỹ Th o. Hội nghị đã chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền. Để khẩn trương chuẩn bị khởi nghĩa, Xứ ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa và thành lập Ban quân sự các cấp. Xứ ủy đề ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt cần thực hiện là: kiện toàn cơ quan lãnh đạo Đảng ở các cấp, phát triển mạnh mẽ các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận phản đế, tổ chức lực lượng du kích, chuẩn bị vũ khí và tập luyện quân sự, đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch.

Chấp hành chỉ thị của Xứ ủy và Tỉnh ủy, đến ngày 15 tháng 10 năm 1940, đồng chí Trần Văn Cửu, Bí thư chi bộ làng Bình Trị Đông họp Hội nghị mở rộng tại Mả Hỏa Lò1. Th am dự có các đồng chí Nguyễn Văn Cầu, Nguyễn Văn Th ung, Nguyễn Văn Lệ, Nguyễn Văn Luân, Huỳnh Văn Lò, Nguyễn Văn Lộ, Nguyễn Văn Cây, Võ Văn Man và đồng chí Tám Oanh. Hội nghị nêu rõ tình hình cách mạng lúc này và đề ra kế hoạch tích cực chuẩn bị lực lượng, vũ khí… Đồng thời quyết định duy trì Hội Ái hữu làm cơ sở hoạt động để dễ bề che mắt địch và lôi cuốn quần chúng vào quỹ đạo cách mạng. Sau khi Hội nghị họp xong, một số đồng chí ra về thì bị địch bắt.

Cuối tháng 10 năm 1940, đồng chí Nguyễn Văn Hoành lãnh đạo quần chúng nổi dậy cướp súng của lính

1. Theo Truyền thống đấu tranh cách mạng xã Bình Trị Đông (1930 - 1975).

Page 44: LSDB Binh Tri Dong B_size

44 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

tại đồn Tân Th ới và lấy được 1 cây súng trường. Sau đó, bọn lính đàn áp nhân dân để trả thù. Trong thời gian này, đội tự vệ của nhân dân Bình Trị Đông được trang bị gậy, tầm vông, giáo mác và một vài cây súng lấy được của Pháp để luyện tập quân sự. Nhân dân Bình Trị Đông cũng như Trung Quận và tỉnh Chợ Lớn gấp rút chuẩn bị mong đợi ngày khởi nghĩa.

Th áng 11 năm 1940, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 7 xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng và chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa Nam kỳ. Lệnh hoãn khởi nghĩa về đến Nam kỳ đã trễ, cuộc khởi nghĩa vẫn diễn ra theo kế hoạch. Tại Bình Trị Đông vào đêm 22 tháng 11 năm 1940, đồng chí Đào Văn Tròn và đồng chí Năm Hoạt đã vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng mang theo gậy, tầm vông, giáo mác ở các ấp Tân Khai, Nghi Xuân…cùng đội tự vệ tập trung tại đồng ruộng của ấp Tân Khai để chờ pháo lệnh. Nhưng đến 12 giờ đêm, rồi 3 giờ sáng ngày 23 tháng 11 năm 1940 vẫn chưa nghe pháo lệnh vì vậy cuộc khởi nghĩa không nổ ra tại làng Bình Trị Đông.

Địch ra sức càn quét từ ngày 25 tháng 11 năm 1940 kéo dài sang năm 1941 trên khắp các vùng của Nam bộ, lực lượng đảng viên của Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn bị hy sinh rất nhiều. Tại Bình Trị Đông, tên cò Bê ra lệnh cho lính lê dương bắn chết những người bị tình nghi là cộng sản và cắt tai đem về đồn, chúng đốt nhà, giết dân. Cảnh bắt bớ xảy ra liên tục, những người bị bắt bị xâu tay lại với nhau bằng dây kẽm, bị đưa đi đày, giam cầm, một số bị mất tích. Đồng chí Trần Văn Cửu bị bắt đày đi Côn Đảo

Page 45: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 45

và chết tại đây. Những đảng viên còn lại phải lui vào hoạt động bí mật, chỉ có các tổ chức quần chúng như Hội Âm công, Hội Ái hữu là còn hoạt động. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ tuy không diễn ra được ở Bình Trị Đông cũng như ở Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn nói riêng và cả Nam kỳ nói chung.

Bài học của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ để lại cho Đảng ta và nhân dân ta đó là vì diễn ra không đúng thời cơ do điều kiện cách mạng chưa chín muồi trong cả nước nên đã bị địch dìm trong biển máu. Nhưng cuộc khởi nghĩa Nam kỳ đã nêu cao tinh thần quyết tâm chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, nêu cao khí thế cách mạng của quần chúng nhân dân tại đây dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tinh thần quật khởi, ý chí chiến đấu và lòng dũng cảm hy sinh của nhân dân Trung Quận nói chung và Bình Trị Đông nói riêng trong cuộc khởi nghĩa này là bất diệt. Cuộc khởi nghĩa đã để lại nhiều bài học có ý nghĩa về thực tiễn và lý luận cho Đảng bộ và nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.1

2.2 Khởi nghĩa giành chính quyền, xóa bỏ ách đô hộ trong Cách mạng Th áng Tám 1945

Năm 1941, Nhật đưa quân vào Đông Dương, người dân Việt Nam sống trong cảnh “một cổ hai tròng”, bị áp bức, đàn áp bởi thực dân Pháp và phát xít Nhật. Nhân dân

1. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930-1975), Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bình Chánh xuất bản, 2012, trang 60.

Page 46: LSDB Binh Tri Dong B_size

46 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Bình Trị Đông cũng như nhân dân Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn và cả nước quyết tâm một lòng đấu tranh chống giặc xâm lược.

Th áng 5 năm 1941, Hội nghị lần thứ 8 Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ngày 19 tháng 5 năm 1941, Mặt trận Việt Minh ra đời, giương cao cờ đỏ sao vàng kêu gọi toàn dân đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật.

Cuối năm 1941, có nhiều đảng viên vượt ngục trở về địa phương hoạt động nên ở Nam kỳ tổ chức cơ sở Đảng dần dần được phục hồi. Đến năm 1942, ở Trung Quận, đồng chí Nguyễn Văn Tuôi được chỉ định làm Bí thư Quận ủy. Các chi bộ ở các xã được khôi phục sinh hoạt Đảng, nhiều đảng viên ở các nơi lần lượt trở về địa phương gầy dựng phong trào, khí thế cách mạng của quần chúng dần được củng cố.

Th áng 10 năm 1943, một số đảng viên trong chi bộ nhà tù Tà Lài vượt ngục trở về hoạt động, các đồng chí này sau khi gây dựng cơ sở đã bắt liên lạc được với đảng viên ở 21 tỉnh và tổ chức hội nghị ở Chợ Gạo (Mỹ Th o) để thành lập Xứ ủy Nam kỳ do đồng chí Trần Văn Giàu làm Bí thư và ra báo Tiền Phong làm cơ quan ngôn luận của Xứ ủy. Vì chưa liên lạc được với Trung ương nên hoạt động của Xứ ủy (sau này gọi là Xứ ủy Tiền Phong) theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VI (tháng 11 năm 1939). Cuối năm 1943, Xứ ủy Nam kỳ hình thành hai hệ thống tổ chức Đảng gọi là Xứ ủy Tiền Phong và

Page 47: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 47

Xứ ủy Giải phóng đều cùng xây dựng lực lượng chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Trong thời gian này, Quận ủy Trung Quận được tăng cường thêm nhiều cán bộ mới vượt ngục trở về để củng cố các cơ sở đảng ở địa phương.

Sau khi Xứ ủy ra đời, hệ thống tổ chức Đảng ở Chợ Lớn được xây dựng lại. Trung Quận và các quận trong tỉnh Chợ Lớn đều có Quận ủy. Hệ thống chỉ đạo từ Xứ ủy đến tỉnh, quận, tổng, làng đều thông suốt. Đồng chí Nguyễn Văn Trân (Bảy Trân) tham gia Xứ ủy và từ năm 1942 đến năm 1944 đóng vai trò là người mở thông liên lạc, bảo vệ, nuôi nấng các đồng chí ra tù về. Nhà đồng chí Trân và vùng Phú Lạc xã Phong Phú là nơi đi về của cán bộ Đảng các cấp.

Cuối năm 1944, ngày càng có nhiều dấu hiệu Nhật sẽ hất cẳng Pháp tại Đông Dương. Đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Th ường vụ Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị mở rộng và nhận định cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình thế khủng hoảng chính trị sâu sắc. Hội nghị dự đoán sự thất bại của quân đội Pháp, sự thắng lợi tạm thời của quân đội Nhật và cho rằng sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể, trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương; đề ra khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” để thành lập “chính quyền cách mạng của nhân dân”. Xuất phát từ nhận định trên, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Đảng ta đã ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, quyết định “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”

Page 48: LSDB Binh Tri Dong B_size

48 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

và “sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện”.

Ở Sài Gòn, lợi dụng thế công khai, hợp pháp, Xứ ủy (Tiền Phong) chủ trương tập hợp những người yêu nước vào một mặt trận mới. Ngày 1 tháng 6 năm 1945, Chính phủ Trần Trọng Kim lệnh cho bác sĩ Phạm Ngọc Th ạch tổ chức thanh niên để lôi kéo lực lượng trong mặt trận thân Nhật, thực hiện chính sách Đại Đông Á. Tận dụng cơ hội này, Xứ ủy Nam kỳ chỉ đạo lập tổ chức Th anh niên Tiền phong để lấy danh nghĩa hoạt động công khai. Tổ chức Th anh niên Tiền phong là nơi tập hợp những thanh niên yêu nước. Trụ sở đặt tại Sở Th anh niên và Th ể thao Nam kỳ trên đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ), do bác sĩ Phạm Ngọc Th ạch làm Tổng Th ư ký. Th anh niên Tiền phong được tổ chức theo địa bàn hành chính, có bốn cấp: Nam kỳ, tỉnh (thành), huyện (quận) và xã. Cờ của Th anh niên Tiền phong với nền vàng sao đỏ, cơ quan ngôn luận là tờ báo “Tiến”. Những người tham gia trong tổ chức mặc đồng phục mũ vàng, áo trắng, quần short, vũ khí là dao găm, gậy tầm vông, dây thừng… Nhiệm vụ của tổ chức là huấn luyện chính trị cho các thủ lĩnh thanh niên; huấn luyện quân sự cho đoàn viên; tổ chức hoạt động xã hội. Phong trào Th anh niên Tiền phong ngày càng lớn mạnh đã thực sự trở thành một mặt trận tập hợp nhân dân yêu nước rộng rãi. Th anh niên Tiền phong ngày đêm học tập, canh gác, giữ gìn trật tự, dạy bình dân học vụ, đi quyên tiền, quyên gạo tiếp tế đồng bào miền Bắc đang bị đói.1

1. Xem thêm: Hà Minh Hồng, Thanh niên Tiền phong ở Nam bộ, trong Nam Bộ đất và người, tập II, Nxb. Trẻ, 2003, trang 388.

Page 49: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 49

Đầu tháng 6 năm 1945, đồng chí Nguyễn Văn Hiền, Tỉnh ủy viên Chợ Lớn, chỉ đạo cho chi bộ Bình Trị Đông thành lập tổ chức Th anh niên Tiền phong do đồng chí Lê Văn Quê làm thủ lĩnh. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Chợ Lớn, Th anh niên Tiền phong Bình Trị Đông cùng các nơi khác đến làm lễ tuyên thệ tại Chợ Đệm. Trong buổi lễ này có đồng chí Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Th ạch và các đồng chí khác đến dự. Trong một thời gian ngắn, lực lượng Th anh niên Tiền phong đã tuyên truyền, vận động khoảng 80% thanh niên trong làng tham gia vào phong trào yêu nước. Các thành viên được huấn luyện quân sự, võ nghệ, rèn luyện thể dục thể thao, tập dượt văn nghệ… Sau đó, Hội thiếu niên của làng Bình Trị Đông được thành lập lại do Bùi Văn Vàng làm đội trưởng và Nguyễn Văn Tám làm đội phó.

Ngày 9 tháng 5 năm 1945, phát xít Đức ký bản đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện. Ngày 9 tháng 6 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Trong vòng một tuần lễ, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1.000.000 quân Quan Đông thiện chiến của Nhật. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô và các lực lượng chống phát xít đối với quân phiệt Nhật đã chấm dứt chiến tranh thế giới thứ hai, tạo điều kiện cho các nước thuộc địa và nửa thuộc địa ở châu Á gìanh độc lập.

Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Đảng ta họp Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) và thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Sau khi thành lập, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa.

Page 50: LSDB Binh Tri Dong B_size

50 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, tin Nhật đầu hàng Đồng minh được lan truyền nhanh chóng trên khắp cả nước, thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn.

Tại Nam kỳ, ngày 15 tháng 8 năm 1945, Xứ ủy Tiền Phong lập Ủy ban khởi nghĩa. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Xứ ủy Tiền Phong họp Hội nghị mở rộng tại Tân Kiên thuộc Chợ Đệm (huyện Bình Chánh) quyết định phát động cuộc khởi nghĩa.

Ngày 19 tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa ở Hà Nội giành thắng lợi.

Ngày 23 tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa ở Huế giành thắng lợi.

Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh ra công khai ở Sài Gòn. Một khí thế cách mạng hừng hực lan toả trong tất cả các tầng lớp nhân dân thành phố nói chung và nhân dân Trung Quận nói riêng. Tại Bình Trị Đông đêm ngày 20 tháng 8, các đồng chí Lý Văn Hiền, Lê Văn Quê và một số đồng chí ở các nơi khác họp tại ấp Tân Khai, tổ chức phân công khởi nghĩa cướp chính quyền ở địa bàn Bình Trị Đông, Tân Tạo và quận 4 (nay là quận 5).

Ngày 23 tháng 8, khởi nghĩa ở Tân An giành thắng lợi, Xứ ủy quyết định chọn tối ngày 24 tháng 8 bắt đầu khởi nghĩa ở Sài Gòn và lục tỉnh. Bình Trị Đông cùng với các thôn xã ngoại vi Sài Gòn Chợ Lớn được giao nhiệm vụ cướp chính quyền tại địa phương đồng thời kéo về Sài Gòn tham gia khởi nghĩa tại trung tâm đầu não của địch.

Page 51: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 51

Th ực hiện kế hoạch, đêm ngày 23 rạng sáng ngày 24 tháng 8 năm 1945, toàn bộ lực lượng Th anh niên Tiền phong Bình Trị Đông do đồng chí Lê Văn Quê lãnh đạo nổi dậy cướp Nhà Hội Bình Trị Đông đồng thời tiêu diệt một số tên ác ôn. Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, bọn tề gian bỏ chạy, chính quyền về tay nhân dân, cờ nước, cờ Đảng tung bay trên nóc Nhà Hội. Sau đó nhân dân Bình Trị Đông tăng cường lực lượng cho làng Tân Tạo, kết quả là đã chiếm được bót quận 4 (nay là quận 5), Nhà Hội ở Tân Tạo, kho bạc Chợ Lớn, lấy được nhiều vũ khí các loại. Các làng Tân Kiên, Tân Nhựt, Tân Tạo, Bình Trị Đông, An Phú Tây, Tân Túc được Quốc gia tự vệ cuộc Nam bộ trang bị cho mỗi nơi 10 súng các loại (súng trường, súng hai nòng, súng lục).

Một giờ sáng ngày 25, đồng chí Lý Văn Hiền, Nguyễn Văn Hoành lãnh đạo đông đảo nhân dân Bình Trị Đông mang tầm vông, giáo mác, cờ, khẩu hiệu đến tập trung tại ấp Tân Khai rồi theo đường Bà Hom tiến vào Sài Gòn, hòa mình cùng hàng chục vạn đồng bào thành phố đã tập trung ở khắp các ngả đường. Từng đoàn người biểu tình hô vang các khẩu hiệu: “đả đảo phát xít Đức - Ý- Nhật”, “đả đảo đế quốc Pháp”, “Cách mạng Th áng Tám muôn năm”. Đoàn người ở Bình Trị Đông đã hoà cùng đông đảo nhân dân thuộc khu vực Bình Chánh tiến thẳng về nội thành Sài Gòn để tham gia giành chính quyền.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hàng ngàn người dân Trung Quận – Chợ Lớn (trong đó có nhân dân làng Bình Trị Đông) cùng nhân dân thành phố tham dự mít tinh

Page 52: LSDB Binh Tri Dong B_size

52 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

tại quảng trường Nôrôđôm (nay là Công viên 30 tháng 4) mừng thắng lợi và chờ nghe Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

** *

Cách mạng Th áng Tám thành công đã mở ra một trang sử mới cho nhân dân Việt Nam nói chung và người dân ở Bình Trị Đông nói riêng. Như vậy, sau hơn 80 năm sống trong cảnh nô lệ của sự áp bức, xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Bình Trị Đông đã đứng lên phá tan xiềng xích, giành quyền làm chủ, giành lại độc lập cho quê hương.

Ngay từ khi thành lập, Chi bộ Bình Trị Đông đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua thực tiễn đấu tranh, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam bộ, Tỉnh ủy Chợ Lớn, Quận ủy Trung Quận, Chi bộ Bình Trị Đông đã linh hoạt trong từng hoàn cảnh, phối hợp tốt giữa công khai và bí mật để xây dựng và củng cố lực lượng. Từ đó, Chi bộ Bình Trị Đông được tôi luyện vượt qua thời kỳ khó khăn, thử thách và hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng. Th ắng lợi của Cách mạng Th áng Tám là tiền đề cho Chi bộ Bình Trị Đông tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh chống sự xâm lược trở lại của thực dân Pháp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.

Page 53: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 53

II. CHI BỘ ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN BÌNH TRỊ ĐÔNG TRONG

KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC LẦN THỨ

II (1945 - 1954)

1. Kháng chiến bảo vệ thành quả cách mạng và đấu tranh chống phá âm mưu “bình định Nam bộ” của thực dân Pháp (1945 - 1950)

1.1 Kháng chiến, chống phá âm mưu “Nam kỳ tự trị”, bảo vệ thành quả cách mạng (1945-1946)

Sau Cách mạng Th áng Tám năm 1945, Ủy ban hành chánh lâm thời xã Bình Trị Đông được thành lập, trụ sở ủy ban đặt tại nhà Giảng (nay là Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B) do đồng chí Nguyễn Văn Lợt là Chủ tịch và đồng chí Nguyễn Văn Giá (Mười Giá) làm Phó Chủ tịch. Xã thành lập các đội quân sự, đội quốc gia tự vệ cuộc với trang bị vũ khí, đạn dược lấy được của Pháp - Nhật.

Đồng chí Nguyễn Văn Nhung

Bí thư chi bộ (1930 – 1931)Bí thư chi bộ (1945 – 1947)Chủ tịch Hội Liên Việt (1946)

Page 54: LSDB Binh Tri Dong B_size

54 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Trong thời gian này các ấp có ban ấp, mỗi ban ấp có 5 người, trong đó có ủy viên quân sự được trang bị súng. Ấp Nghi Xuân do Nguyễn Văn Giá, ấp Tân Khai do Nguyễn Văn Hà, Ấp Chánh do Ba Tăng, ấp Nghi Hòa do Nguyễn Văn Luông, ấp Tân Th ới do Nguyễn Văn Cánh và ấp Bình Đông do Nguyễn Văn Tâm phụ trách.

Phong trào Th anh niên Tiền phong hoạt động rất mạnh, trụ sở đặt tại đình Bình Trị Đông do Lê Văn Quê làm thủ lĩnh, Nguyễn Văn Cử làm Tổng thư ký, Nguyễn Văn Mai phụ trách giáo dục và Nguyễn Văn Linh làm xã đoàn trưởng. Mỗi ấp có đội Th anh niên Tiền phong do ủy viên quân sự các ấp phụ trách. Th anh niên Tiền phong mỗi ấp chia ra nhiều phân đội, có trang bị vũ khí, tầm vông vạt nhọn, giáo, mác… để canh gác, bảo vệ an ninh trật tự cho xã, ấp.

Không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngày 21 tháng 9 năm 1945, quân Đồng minh Anh đã bất ngờ chiếm đóng trụ sở Cảnh sát Quận 3 và ban bố lệnh thiết quân luật. Tiếp đó chúng chiếm đóng Đài Phát thanh vào lúc 0 giờ ngày 23 tháng 9 năm 1945. Lợi dụng lệnh giới nghiêm, quân Pháp – Anh được tăng cường một số lính Nhật đã nổ súng đánh úp nhiều cơ sở chính quyền của ta tại Sài Gòn. Các vị trí quan trọng như: Sở Cảnh sát, Trụ sở Quốc gia Tự vệ cuộc, Nhà Bưu điện, Nhà đèn, Khám Lớn, Trụ sở Ủy ban hành chánh Nam bộ và các khu vực xung quanh bị quân địch lần lượt chiếm đóng, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai. Diễn biến nhanh chóng của tình hình đặt Sài Gòn nói riêng và Nam

Page 55: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 55

bộ nói chung trong cuộc đối đầu với sự xâm lược mới của thực dân Pháp.

Sáng ngày 23 tháng 9, Xứ ủy và Ủy ban hành chánh Nam bộ tổ chức hội nghị khẩn cấp tại đường Cây Mai thuộc Chợ Lớn (nay là đường Nguyễn Trãi, Quận 5). Hội nghị chủ trương kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược và thành lập Ủy ban kháng chiến Nam bộ do đồng chí Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Ủy ban kháng chiến Nam bộ đã phát đi bản Tuyên cáo quốc dân và Lời kêu gọi kháng chiến đến toàn thể đồng bào Nam bộ.

Tại Trung Quận – Chợ Lớn, Hội nghị củng cố tổ chức được họp tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Trấn ở Tân Nhựt, có đồng chí Phạm Hùng đại diện Xứ uỷ về dự. Hội nghị đã bầu đồng chí Hồ Văn Long làm Bí thư, đồng chí Trần Trung Tam làm Phó Bí thư. Quận ủy Trung Quận do đồng chí Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí) làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Ngọc Hay làm Phó Bí thư. Ủy ban hành chánh lâm thời Trung Quận được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Mẹo làm Chủ tịch. Ủy ban hành chánh lâm thời đóng trụ sở tại Chợ Đệm (Tân Túc). Mặt trận Việt Minh do đồng chí Nguyễn Văn Kỳ làm Chủ tịch. Mỗi xã đều thành lập các chi bộ và chính quyền nhân dân, lực lượng võ trang được trang bị súng, giáo, mác, tầm vông vạt nhọn… chuẩn bị kháng chiến.

Hưởng ứng Lời kêu gọi kháng chiến và lệnh Tiêu thổ kháng chiến của Xứ ủy, Đội Th anh niên Tiền phong, đội Quốc gia tự vệ cuộc, đội quân sự Bình Trị Đông tập

Page 56: LSDB Binh Tri Dong B_size

56 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

trung lực lượng phong tỏa ngã tư Cây Da Sà, góp phần ngăn chặn luồng tiếp tế lương thực, thực phẩm của địch vào thành phố.

Ngày 3 tháng 10, bộ phận quân chi viện của Pháp tiến đến Sài Gòn thực hiện mưu đồ đánh chiếm Nam bộ, với kế hoạch đánh từ Sài Gòn ra các tỉnh Tây Nam bộ. Sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp bắt đầu tổ chức đánh ra các vùng xung quanh thành phố nhằm mở rộng địa bàn hoạt động và tạo hành lang an toàn cho Sài Gòn – Chợ Lớn.

Ủy ban kháng chiến Nam bộ quyết định tổ chức 4 mặt trận bao vây Sài Gòn, ngăn chặn sự đánh chiếm của địch. 4 mặt trận bao gồm: mặt trận Sài Gòn – Gia Định, mặt trận Th am Lương, mặt trận Phú Lâm – Chợ Đệm, mặt trận Tân Th uận – Th ủ Th iêm.

Mặt trận Phú Lâm – Chợ Đệm (mặt trận số 3) kéo dài từ Tân Th ới Hòa, Tân Hòa Đông, Phú Định ra An Lạc, Chợ Đệm. Tuyến đường này ngăn chặn đường hành lang chiến lược từ Sài Gòn đến đồng bằng sông Cửu Long. Mặt trận này do đồng chí Nguyễn Lưu chỉ huy. Th áng 10 năm 1945, đồng chí Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn) Chỉ huy trưởng Quốc gia tự vệ cuộc được điều về chỉ huy mặt trận Bình Điền, với nhiệm vụ quấy rối và chặn địch không cho chúng mở rộng ra ngoại ô. Mặt trận Chợ Đệm có khoảng 300 quân, gồm du kích địa phương An Lạc, Tân Kiên, Tân Túc, Tân Nhựt (bao gồm Quốc gia tự vệ cuộc địa phương), đơn vị Trần Quốc Toản từ Phú Lâm xuống.

Page 57: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 57

Ngày 10 tháng 10 năm 1945, bộ đội Chợ Đệm (tiền thân của Quốc vệ đội Nam bộ) được thành lập và được phiên chế thành 5 Đại đội (Đại đội An Lạc, Đại đội Trần Quốc Toản, Đại đội Bình Điền, Đại đội Tân Túc và Đại đội Tân Kiên) do đồng chí Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn) chỉ huy chiến đấu trong 3 tháng 10 ngày làm tiêu hao lực lượng sinh lực địch. Ngoài ra còn có đơn vị vũ trang của Tổng Công đoàn do đồng chí Nguyễn Lưu chỉ huy đóng án ngữ ở Tân Túc.

Để hỗ trợ cho mặt trận này, đầu tháng 10 năm 1945, một tiểu đội Vệ quốc đoàn đầu tiên của xã Bình Trị Đông được thành lập do đồng chí Huỳnh Văn Lắm làm tiểu đội trưởng, Nguyễn Văn Hà làm tiểu đội phó và Lê Văn Phiên làm chính trị viên. Đội được trang bị một số súng hai nòng nhưng vũ khí chủ yếu là tầm vông vạt nhọn, giáo mác. Cuối năm 1945, thực dân Pháp cho xe tăng vào Phú Lâm, chạy về hướng Bình Trị Đông. Chi bộ và Ủy ban xã chỉ đạo tổ chức chiến đấu do đồng chí Huỳnh Văn Lắm chỉ huy. Trận đánh được triển khai làm 3 chốt, có hầm công sự: đồng chí Nguyễn Văn Sang chịu trách nhiệm chốt gần chợ Bình Trị Đông, đồng chí Tăng Văn Di chịu trách nhiệm chốt ở đình Nghi Hòa và đồng chí Bùi Văn Đượm chịu trách nhiệm chốt ở Cầu Tre – ngã tư Tám Quyến, đóng phía sau chốt của đồng chí Bùi Văn Đượm. Chốt của đồng chí Bùi Văn Đượm phòng ngự không nổi phải rút về Nghi Hòa. Nhưng sau đó do hỏa lực địch quá mạnh nên hai chốt còn lại cũng rút về Tân Khai. Địch tổ chức càn quét trong phạm vi từ Cây Da Sà đến chợ Bình

Page 58: LSDB Binh Tri Dong B_size

58 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Trị Đông. Trước khi thực dân Pháp rút đi, chúng đã đốt sạch nhà dân ở hai bên Tỉnh lộ 10, rồi bắn pháo làm một số người chết và bị thương.

Ngoài ra còn có trận đánh ở Cầu Chùa (Bà Hom) do Vệ quốc đoàn của xã phối hợp với quân của Liên hiệp công đoàn do đồng chí Nguyễn Lưu chỉ huy, dùng dao găm xáp lá cà, giết chết một số tên Pháp, tịch thu 1 trung liên và 5 súng trường. Trận đánh này làm cho địch bất ngờ, hoảng sợ vì sức tấn công chớp nhoáng, táo bạo của quân ta. Sau trận đánh này tiểu đội vệ quốc đoàn của Bình Trị Đông được sát nhập vào chi đội 12 của tỉnh Gia Định.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, nhân dân ta lần đầu tiên trong lịch sử được tham gia cuộc bầu cử đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ủy ban hành chánh xã Bình Trị Đông dù gặp nhiều khó khăn vẫn thành lập từng tổ, chia nhau đi xuống các hộ để vận động bầu cử. Nhân dân trong xã có hơn 90% đi bầu, đặc biệt là đồng chí Tám Lầu đã tích cực đi vận động nhân dân bỏ phiếu bầu cử. Nhân dân Trung Quận đã bầu hai đồng chí Nguyễn Văn Tiến (Bảy Tiến, Chợ Đệm) và Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn, Phú Lạc) ứng cử vào Quốc hội khoá I1.

Đến giữa năm 1946, thực dân Pháp tăng cường xây dựng bộ máy thống trị, nhiều Ủy ban hành chánh của ta

1. Kết quả bầu cử Quốc hội khóa 1 khu vực Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có các đại biểu trúng cử là: Huỳnh Văn Tiểng, Lý Chính Thắng, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Đôn Văn.

Page 59: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 59

bị tan rã. Tỉnh ủy Chợ Lớn đã chỉ đạo chi bộ và ủy ban xã thành lập Th ôn bộ Việt Minh do đồng chí Lê Văn Th ăng làm chủ nhiệm, Nguyễn Văn Cầm làm phó chủ nhiệm. Các hội như: Th anh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Lão thành cứu quốc, Nông dân cứu quốc được thành lập. Ngoài ra cả Hội Phật giáo cứu quốc ở các chùa Vạn Phước và Mai Sơn cũng được thành lập. Một số người Công giáo cũng tham gia vào các hội cứu quốc.

Vào tháng 5 năm 1946, nhằm mở rộng khối đoàn kết toàn dân, vận động những người ngoài Mặt trận Việt Minh tham gia kháng chiến theo chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam được thành lập do chí sĩ Huỳnh Th úc Kháng làm Chủ tịch. Mặt trận Liên Việt đoàn kết tất cả các lực lượng chính trị cũng như các nhân sĩ trí thức để kháng chiến thắng lợi theo chính sách mặt trận của Đảng. Hưởng ứng chủ trương trên, thôn bộ Việt Minh của Bình Trị Đông trở thành Hội Liên Việt do đồng chí Nguyễn Văn Nhung làm chủ tịch và đồng chí Lê Văn Chiếm làm phó chủ tịch. Hội chủ trương vận động các tầng lớp nhân dân ủng hộ kháng chiến chống Pháp, giáo dục lòng yêu nước và căm thù giặc cho nhân dân. Hội Liên Việt đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động phong phú có tác dụng tích cực đến cuộc kháng chiến. Ngay từ năm 1946, Hội đã vận động quần chúng xây dựng làng xã chiến đấu, đào hầm nuôi giấu cán bộ, đào giao thông hào, kêu gọi quần chúng biểu tình chống thực dân, chống chiến tranh xâm lược. Hội cũng thành lập “Quỹ kháng chiến”, “Hũ gạo nuôi quân”, vận

Page 60: LSDB Binh Tri Dong B_size

60 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

động nhân dân đóng góp tiền, gạo và động viên các chiến sĩ chiến đấu. Nhân dân đóng góp nguyên liệu để chế tạo vũ khí, máy tiện, khoan, đồng thau, thuốc súng, thu gom đạn giúp du kích. Phong trào tòng quân giết giặc được thanh niên tích cực hưởng ứng. Các đoàn thể cứu quốc cũng hoạt động sôi nổi có nề nếp.

Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ta và Pháp ký Tạm ước ngày 14 tháng 9, trong thời gian này ta tranh thủ củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.

Cuối năm 1946, thực hiện chủ trương củng cố chính quyền cách mạng và Mặt trận của Trung ương, Ủy ban hành chánh xã được đổi thành Ủy ban kháng chiến hành chánh. Ủy ban gồm có: Nguyễn Văn Lợt, Chủ tịch; Trịnh Văn Mạnh, Phó Chủ tịch; Nguyễn Văn Hợi, Tổng thư ký; Út Diêu, ủy viên quân sự; Lê Văn Th ường (Tư Th ường), ủy viên công an; Trần Văn Dệt, ủy viên tài chánh và Bùi Văn Đượm, ủy viên tuyên truyền.

Trụ sở của Ủy ban xã đặt tại ấp Tân Khai. Ủy ban kháng chiến hành chánh xã còn lập thêm các Ban Y tế và Ban Th ương binh xã hội. Ban Y tế có nhiệm vụ cấp phát thuốc và điều trị bệnh cho nhân dân; Ban Th ương binh xã hội xây dựng cơ sở xuống từng ấp cứu trợ gia đình nghèo, neo đơn, thương binh, vận động phong trào nhường cơm xẻ áo, động viên các gia đình cho con em tham gia kháng chiến.

Bình Trị Đông còn thành lập du kích xã do đồng chí Nguyễn Văn Già (Mười Già) làm xã đội trưởng, Nguyễn Văn Tửng (Ba Tửng) làm xã đội phó và Trịnh Hoàng Bảy

Page 61: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 61

làm chính trị viên. Quân số chừng một tiểu đội, mỗi chiến sĩ được trang bị một cây súng hai nòng và một số đạn dược.

Ngoài ra xã còn thành lập đội tự vệ có hơn 30 người do đồng chí Nguyễn Văn Quới chỉ huy. Đội công an có khoảng 16 người do đồng chí Lê Văn Th ường (Võ Công Tần – Tư Th ường) chỉ huy. Hai đội này thường xuyên tổ chức tuần tra, canh gác bắt gián điệp, giết lính Pháp ở các đồn.

Chi bộ Bình Trị Đông lúc này do đồng chí Nguyễn Văn Nhung làm Bí thư, ngoài ra còn có các đồng chí khác như Trịnh Văn Mạnh, Trương Đó, Nguyễn Văn Gần, Nguyễn Văn Lợt và Lê Văn Chiếm. Chi bộ đã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn học tập chủ nghĩa Mác – Lênin và các chủ trương, chỉ thị của Đảng cho đảng viên và cán bộ.

Với sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Nam bộ, việc hoàn thành kế hoạch “Nam kỳ tự trị” đến cuối năm 1946 của thực dân Pháp có nguy cơ thất bại.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Pháp nổ súng gây hấn tại Hà Nội nhằm tiếp tục thực hiện kế hoạch tái chiếm Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi, du kích xã Bình Trị Đông phối hợp với quân Bình Xuyên thực hiện các trận đánh ở Gò Vấp - Bình Hưng Hòa tiêu diệt 17 tên lính Pháp, hơn 10 tên Việt gian, trận đánh ở Gò Xoài diệt 10 tên địch. Du kích xã ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu, phối hợp với các đơn vị bạn tổ chức tấn công góp phần làm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Sau

Page 62: LSDB Binh Tri Dong B_size

62 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nhiều lần bị phục kích, tấn công, quân Pháp ra sức càn quét, khủng bố mạnh nên đội du kích xã tạm thời lui vào hoạt động bí mật.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng và hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Trung Quận nói chung, Bình Trị Đông nói riêng đã bước vào cuộc kháng chiến chống sự xâm lược trở lại của thực dân Pháp với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

1.2 Đấu tranh chống phá kế hoạch “bình định” Nam bộ của thực dân Pháp (1947 - 1950)

Đầu năm 1947, Pháp đề ra kế hoạch “Bình định Nam bộ”, bổ sung lính đánh thuê Âu - Phi trên chiến trường Nam bộ, thực hiện âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh”, tăng cường gián điệp đánh vào căn cứ cách mạng, triệt phá cơ sở cách mạng ở địa phương.

Th áng 4 năm 1947, Nghị quyết của Hội nghị mở rộng của Đảng xác định chủ trương thực hiện cuộc kháng chiến chống Pháp là “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, xây dựng thực lực trên cả 3 mặt: chính trị, quân sự, địch vận đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích.

Tại Bình Trị Đông, vào năm 1947 đồng chí Nguyễn Văn Lợt bị địch bắt nên Ủy ban xã cử đồng chí Lê Văn Chiếm làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Châu (Mười Châu) làm Phó Chủ tịch. Đồng chí Lê Văn Th ường được rút về công an huyện; đồng chí Lùi, Phó công an xã hy sinh nên đồng chí Nguyễn Văn Hinh được cử làm Trưởng

Page 63: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 63

công an; đồng chí Nguyễn Văn Lầu làm Phó công an xã Bình Trị Đông.

Ủy ban kháng chiến hành chánh xã tiếp tục vận động nhân dân tham gia các Hội cứu quốc. Trong thời gian này ta đã vận động được bác sĩ Hoa, thầy giáo Lý Văn Phát về chiến khu công tác. Về công tác địch vận, đã vận động thành công vợ chồng quan ba Nhật Bản cộng tác với cách mạng.

Chi bộ xã kết nạp thêm 17 đảng viên. Hội Liên Việt của xã tổ chức nhiều lớp hướng dẫn học tập các tài liệu của Mặt trận Việt Minh cho những thành viên trong các Hội cứu quốc. Phong trào Bình dân học vụ được thực hiện ở nhiều nơi, nhất là tại các ấp Tân Khai, Tân Th ới, Nghi Xuân nhân dân tham gia rất đông. Các ban y tế, xã hội, tài chính hoạt động tích cực nhằm chống bệnh dịch, chăm sóc sức khỏe và đời sống cho nhân dân.

Trên địa bàn xã có nhiều đơn vị đặt cơ sở tại đây, như chi đội 15, Ban Công tác Th ành, Chi đội 13, Ban tuyên truyền Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn, Ban Công tác 6 và Công an Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Tất cả những cơ sở của các đơn vị này được Chi bộ, Ủy ban và nhân dân giúp đỡ, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để hoạt động tại địa phương.

Đội du kích xã lúc này với quân số trên một trung đội do đồng chí Nguyễn Văn Hà làm xã đội trưởng, Nguyễn Văn Diệp và Th ái Th ị Phấn làm xã đội phó. Đội thường xuyên canh phòng xã, ấp, quan sát tình hình hoạt động

Page 64: LSDB Binh Tri Dong B_size

64 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

của địch để báo cho lực lượng trên mỗi khi chúng đi càn quét hoặc phục kích. Ngoài ra còn phá cầu, đường, gài mìn, và phối hợp với bộ đội đánh vào các đồn địch.

Ủy ban kháng chiến hành chánh xã lãnh đạo đội tự vệ tổ chức bắt và diệt nhiều tên ác ôn tại chợ Bình Trị Đông, giết chết 2 tên Pháp và một số Việt gian, tịch thu 2 khẩu súng... Đội du kích xã phối hợp với chi đội 15 đánh nhiều trận, tiêu diệt nhiều tên địch. Đặc biệt là trận diệt tên Huyện Phụng (Nguyễn Văn Phụng) là quận trưởng Bình Chánh vào ngày 25-9-1947 tại nhà hắn ở gần chợ Bình Trị.1 Huyện Phụng (trước đây là Hương Cả của làng Bình Trị Đông) cùng tay sai đang đánh bạc tại nhà thì bất ngờ đồng chí Xuyên Văn Lùi xuất hiện, ném lựu đạn vào sòng bạc. Lựu đạn nổ, huyện Phụng chết ngay tại chỗ, tên tay sai Biện Nhu bỏ chạy cũng bị bắn chết. Lực lượng ta rút về đình Tân Khai an toàn. Sau khi huyện Phụng bị trừng trị, cháu của hắn là cai Quý nổi lên làm ác ôn trả thù nhưng cũng bị lực lượng du kích trừng trị. Từ đó bọn Việt gian không dám ra mặt hống hách ở Bình Trị Đông. Trận tiêu diệt tên huyện Phụng được nhân dân tại Bình Trị Đông hân hoan, vui mừng đặt một bài vè như sau:

“Ba bên bốn phía tứ bềĐều nói huyện Phụng mắc lời thề Việt MinhCho nên lựu đạn tìm mình”.2

1. Nay gần Nhà thờ Tin Lành của phường Bình Trị Đông.2. Năm 1940 vào trưa ngày cúng đình, ông Ba Tròn (Đào Văn Tròn) trên đường đi ra đình Bình Trị thì bị tên Việt gian Bảy Lon nhận diện, báo

Page 65: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 65

Ủy ban còn thành lập Ban sản xuất do đồng chí Nguyễn Văn Dưỡng và Trương Văn Đỏ phụ trách. Ban có nhiệm vụ tăng gia sản xuất, mua bán gây quỹ chăm lo đời sống nhân dân và nuôi quân đánh giặc. Ủy ban kháng chiến hành chánh cũng vận động nhân dân trong xã nộp thuế. Hầu hết các loại thuế như thuế ruộng, thuế môn bài, thuế nhập thị… đều được nhân dân tự giác nộp bằng tiền.

Cuối năm 1947, đồng chí Nguyễn Văn Nhung được rút về huyện làm ủy viên tài chánh, bàn giao cương vị Bí thư chi bộ cho đồng chí Lê Văn Chiếm (Ba Muôn).

Tình hình ngày càng khó khăn, thực dân Pháp ngày càng càn quét và khủng bố khốc liệt, đốt phá nhà cửa, tàn sát cán bộ, nhân dân. Nhưng các đơn vị cứu quốc vẫn hoạt động đều, phong trào phát triển mạnh mẽ với hình thức nửa công khai và bí mật. Ủy ban kháng chiến hành chánh xã và Hội Liên Việt tổ chức cho nhân dân đào hầm, giao thông hào, tập trung nhiều nhất ở Tân Khai đi qua ấp Nghi Xuân, Tân Th ới, Tây Lân… đến Bình Hưng, tổng cộng giao thông hào dài trên 10 km, nhân dân xây dựng

cho huyện Phụng (lúc này làm Hương Cả làng Bình Trị Đông). Hương cả Phụng liền đánh trống gọi lính đến bắt ông Ba Tròn. Để thưởng công, thực dân Pháp cho tên Phụng thăng chức làm Trưởng huyện. Ông Ba Tròn bị kết án tử hình. Cha ông phải bán ruộng đất để lo giảm án xuống tù chung thân, ông Ba Tròn bị đày đi Côn Đảo. Đến năm 1945, cách mạng thành công, ông được trở về Bình Trị Đông. Ông đến đòi huyện Phụng số tiền trước đây gia đình đã hao tốn, tên huyện Phụng liền thề độc là sẽ không tiếp tục làm việc cho thực dân nữa. Tuy nhiên, sau khi quân Pháp quay lại thì huyện Phụng lại theo làm việc cho Pháp, phá bỏ lời thề.

Page 66: LSDB Binh Tri Dong B_size

66 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nhiều cơ sở nuôi giấu cán bộ, chỉ đường cho bộ đội các nơi về đánh Pháp, trừ gian. Do địch tăng cường càn quét nên trụ sở Ủy ban xã phải dời đi dời lại nhiều lần qua Tân Nhựt, về Tân Khai nhưng nhân dân trong xã vẫn kiên trì đấu tranh, bám trụ giữ làng. Dân quân du kích ấp Tân Th ới đã phối hợp cùng Trung đoàn 308 chặn đánh bọn Pháp ở chi khu Phú Lâm đi tuần về đến đình Tân Th ới. Với thế trận tấn công chớp nhoáng, quân ta đánh xong liền rút lui ngay trong khi địch chưa kịp bày binh bố trận. Vì vậy, sau trận đánh này, quân Pháp đã về chiếm đình Tân Khai để kiểm soát tình hình trong xã.

Giữa năm 1948, du kích xã sau nhiều ngày phục kích đã bắn chết hai tên Pháp ngay tại chợ Bình Trị thu một khẩu Th ompson và một khẩu Colt. Dù bị Pháp và tay sai chống phá nhưng các cơ sở của xã vẫn được bảo toàn. Từ giữa năm 1948, các lực lượng vũ trang tập trung của huyện đã tấn công hệ thống đồn bót giặc trên địa bàn Trung Huyện và Chợ Lớn nhằm ngăn cản sự càn quét của địch vào xóm làng. Bên cạnh đó, Đội du kích xã còn tổ chức các trận đánh đột xuất ở các nơi khác và vận động dân quân tích cực canh gác bảo vệ xã ấp. Chiến tranh nhân dân của xã phát triển mạnh nên thực dân Pháp và tay sai không thể phá nổi cơ sở hoạt động cách mạng của ta.

Cuối năm 1948, đồng chí Lê Văn Chiếm bị bắt. Đến đầu năm 1949, đồng chí Nguyễn Văn Quới lên thay làm Bí thư kiêm Chủ tịch xã Bình Trị Đông; đồng chí Trần Văn Dệt làm Phó Bí thư chi bộ xã và đồng chí Lê Văn Hiệp làm Phó Chủ tịch xã. Ban Chỉ huy xã đội gồm có

Page 67: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 67

đồng chí Xã đội trưởng Nguyễn Văn Hà, hai Xã đội phó là Th ái Th ị Phấn, Nguyễn Văn Diệp và đồng chí Nguyễn Văn Chẳn làm chính trị viên.

Mặc dù thực dân Pháp liên tiếp càn quét, khủng bố, đốt phá nhà cửa, tài sản nhưng nhân dân xã Bình Trị Đông vẫn kiên cường bám trụ xã ấp, nhà này bị đốt thì dân dựng nhà khác, hầm này bị phá sập thì hầm khác được đào mới. Phong trào vận động nhân dân đào giao thông hào, xây dựng xã ấp chiến đấu, xây dựng cơ sở bí mật để nuôi giấu cán bộ và thực hiện chiến tranh du kích của xã, củng cố và thúc đẩy phong trào cách mạng ở xã.

Một trong những trận đánh tiêu biểu của ta diệt gọn quân địch là trận đánh do đồng chí Nguyễn Văn Hà chỉ huy. Du kích xã phối hợp với bộ đội Trung Huyện tổ chức đặt mìn phá sập tua bót của Pháp tại ấp Chánh, tiêu diệt một số tên địch. Hệ thống tháp canh của Pháp được xây dựng dày đặc. Với hệ thống này chúng hy vọng có thể kiểm soát được nông thôn nhằm làm tê liệt mọi hoạt động của du kích. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, ta đã phát hiện chỗ yếu, chỗ sơ hở của hệ thống này đó là dùng mìn để tiêu diệt tháp canh. Chiến thuật tháp canh De la tour của Pháp bị phá sản.

Cuối năm 1949, đồng chí Xã đội trưởng Nguyễn Văn Hà bị thương nặng được đưa về căn cứ điều trị. Ta bổ sung đồng chí Nguyễn Văn Lon làm xã đội trưởng, Trịnh Văn Đủ làm xã đội phó và Nguyễn Văn Chẳn làm chính trị viên. Xã đội tăng cường vận động nhân dân đào

Page 68: LSDB Binh Tri Dong B_size

68 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

đường, đắp mô, đào giao thông hào, trồng tre, gài chông để chống lại sự khủng bố, càn quét của địch đồng thời tổ chức tăng gia sản xuất để góp phần nuôi quân đánh giặc.

Du kích xã còn mở nhiều trận đánh, cướp súng của địch để trang bị cho dân quân xã. Trong các trận đánh ấy có trận Mả Ngồi gây tiếng vang lớn.1 Th ực dân Pháp đã làm một đường xe lửa từ Gò Cát qua Bình Trị Đông đến Phú Lâm để vận chuyển cát đi san lấp các vùng ven sông Bến Nghé và rải đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Th o. Đến năm 1950, do không còn nhu cầu về cát, chúng dỡ bỏ đường ray. Lính gác Bình Trị Đông có nhiệm vụ đi canh gác công việc tháo dỡ này. Lính gác đa số là người Miên và người Th ổ do tên Th ực chỉ huy. Th ông thường khoảng 11 giờ 30, lính Miên và lính Th ổ vào chỗ đồng mả để canh gác việc dỡ đường ray. Ngày hôm đó có 8 tên lính Miên và lính Th ổ đưa khoảng hơn 50 người đến làm việc. Các chiến sĩ gồm đồng chí Văn, Ấn (là hai du kích tập trung) và đồng chí Lang (Công an) do đồng chí Trần Văn Vuông chỉ huy đã đến trận địa ém quân vào các giao thông hào đã đào. Đồng chí Năm Vuông và đồng chí Lang núp gần ngôi Mả Ngồi. Hai người còn lại núp trong giao thông hào cách

1. Mả Ngồi là một nghĩa địa nhỏ (nằm trên đường từ ấp 6 đi ra trụ sở Ủy ban nhân dân xã Bình Trị Đông trước đây, nay là trụ sở của phường Bình Trị Đông A). Khu nghĩa địa này có nhiều mả, đặc biệt có ba ngôi mả hình tháp nên được nhân dân đặt tên là Mả Ngồi. Vào khoảng đầu năm 1950, thực dân Pháp có kế hoạch tháo dỡ đường ray xe lửa chạy qua Mả Ngồi. Đường ray xe lửa này vốn được thực dân Pháp xây dựng lên để khai thác cát ở Bình Hưng Hòa. Nguyên tại Bình Hưng Hòa có một ngọn đồi toàn là cát trắng gọi là Gò Cát, có giá trị lớn trong việc xây dựng.

Page 69: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 69

phía sau khoảng 7 mét. Đồng mả là nơi trống trải, giáp với khu ruộng lúa. Rặng tre gần nhất cũng cách đó 300 mét. Chính vì vậy bọn lính không ngờ du kích lại có thể phục kích nên hoàn toàn bất ngờ, bị động. Bọn lính phân tán ra nhiều phía để canh gác, có 2 tên đi về phía đồng chí Vuông và Lang. Đồng chí Vuông liền bắn tên này và hô xung phong. Đồng chí Lang ném lựu đạn và xông lên lấy súng của lính Miên. Hai đồng chí còn lại cũng nổ súng yểm trợ. Bọn lính còn lại thấy vậy chạy dạt ra phía xa. Các chiến sĩ bèn rút lui theo các giao thông hào. Riêng đồng chí Văn chạy dọc theo đường ray xe lửa và bị lính trên tháp canh bót Bình Trị bắn bị thương ở chân. Ở khu gần đó có nhà chị Hai Th ì nhìn thấy anh Văn bị thương nên chị vội chạy ra cõng anh trốn thoát. Sau đó lính ở bót Bình Trị đi ruồng bố khu vực này, chúng đốt một số nhà dân và bắn chết bà Th êu (cô ruột của đồng chí Năm Vuông).

Để ghi nhớ đến trận đánh này, người dân Bình Trị Đông vẫn còn truyền miệng những câu vè sau:

Năm mươi mặt trận Mả NgồiLàm cho bọn Th ổ bồi hồi một khi…Việt Minh nó đánh hết tìnhGiả như Đại Th ánh loạn Th iên đình ngày xưa.Đầu năm 1950, Pháp dồn quân viễn chinh ra chiến

trường Bắc bộ và Trung bộ, để lại một bộ phận viện binh Pháp trên chiến trường Nam Bộ, đẩy mạnh ngụy quân, tăng cường chiến tranh tâm lý, gián điệp trong vùng tạm chiếm.

Page 70: LSDB Binh Tri Dong B_size

70 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Huyện ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chánh chủ trương phát huy thế trận phục kích tiêu hao sinh lực địch đồng thời tránh đối đầu với địch trên quy mô lớn nhằm bảo toàn lực lượng cách mạng.

Năm 1950 tuy không có trận đánh lớn ở Trung Huyện nhưng công tác trừ gian, diệt tề rất mạnh. Ở Bình Trị Đông, tháng 5 năm 1950, đồng chí Th ái và đồng chí Bửu tổ chức bắt hai tên Nguyễn Văn Tăng và Lâm Văn Hiếu là nhân viên Phòng nhì Phú Lâm chỉ cách bót Bình Trị Đông có 500m. Đồng chí Lý Văn Liễu cán bộ Công an Trung Huyện phối hợp với công an xã bắt tên Tiếp.1

Vào giữa năm 1950 tại Bình Trị Đông, đồng chí Nguyễn Văn Quới hy sinh, đồng chí Trần Văn Dệt lên làm Chủ tịch kiêm Bí thư chi bộ và đồng chí Lê Văn Hiệp làm Phó Chủ tịch xã. Cũng trong năm này lực lượng du kích xã đánh sập tua gác ở chợ Bình Trị Đông, diệt nhiều tên lính gác bên trong. Cuối năm 1950, du kích xã do đồng chí Nguyễn Văn Lon chỉ huy đánh địch tại Cầu Chùa (Tân Tạo) trong lúc chúng đi rà mìn tiêu diệt được 5 tên, thu 6 khẩu súng dài. Trận thắng này do du kích xã chủ động tấn công chớp nhoáng, bất ngờ, tiêu diệt địch nhanh gọn, làm cho chúng trở tay không kịp. Trình độ đánh địch của du kích xã ngày càng được nâng lên, biết lợi dụng địa thế, thời cơ và sáng tạo cách đánh làm cho lính Pháp và tay sai khiếp sợ.

1. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản năm 2012, trang 104.

Page 71: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 71

Giặc càng ra sức khủng bố, cán bộ càng ra sức bám trụ, du kích càng đánh giặc giữ làng, ban ngày ở hầm, ban đêm hoạt động, nhân dân hết lòng thương yêu bảo vệ cán bộ, nhà nhà đều đào hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ. Ở Bình Trị Đông đến 10 giờ đêm, cán bộ đều xuống hầm ngủ rất an toàn. Nhiều bà mẹ, chị đã dũng cảm nuôi giấu, che chở cán bộ như má Lê Th ị Diệu (má Hai), Nguyễn Th ị Lành, Út Diệu, má Tư… Nhiều gia đình vì nuôi giấu cán bộ mà bị địch bắt tra tấn chết đi sống lại nhưng vẫn nhất quyết không khai, vẫn kiên trung với cách mạng.

Trên chiến trường Bắc bộ, quân ta mở chiến dịch Biên giới giải phóng hoàn toàn vùng biên giới Việt Trung. Tình hình thế giới trong năm 1950 có nhiều chuyển biến lớn tác động đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Hệ thống xã hội chủ nghĩa được củng cố và tăng cường. Phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ hòa bình trên thế giới tiếp tục phát triển. Trong lúc đó, đế quốc Mỹ tìm mọi cách can thiệp vào Đông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp ở Đông Dương nhằm duy trì cuộc chiến có lợi cho Mỹ.

2. Khắc phục khó khăn, giữ vững và phát triển phong trào kháng chiến (1951-1954)

2.1 Khắc phục khó khăn, xây dựng củng cố hoạt động cách mạng

Đầu năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Bình Trị Đông nói riêng, nhân dân Nam bộ nói chung ngày càng khó khăn, ác liệt. Nam bộ được giao nhiệm vụ phá tan âm mưu của thực dân Pháp, chuẩn bị “tiến tới

Page 72: LSDB Binh Tri Dong B_size

72 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

tổng phản công thắng lợi”. Đầu năm 1951, dưới sự giúp sức của Mỹ, Pháp tăng cường đánh vào chiến thuật chiến tranh du kích ở khắp nơi, dồn mọi nỗ lực thực hiện chính sách bình định.

Th áng 2 năm 1951 để thích ứng với chiến trường, Xứ ủy sắp xếp lại các đơn vị. Chợ Lớn được sáp nhập với Bà Rịa thành tỉnh Chợ Lớn - Bà Rịa. Tây Ninh kết hợp với một phần Gia Định thành Gia Định Ninh. Xã Bình Trị Đông lúc này trực thuộc Trung Huyện, tỉnh Gia Định Ninh. Sự điều chỉnh này tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh sử dụng lực lượng vũ trang và phong trào chiến tranh du kích có điều kiện phát triển dễ dàng hơn.

Năm 1952, thực dân Pháp bị thất bại nặng nề trên chiến trường chính ở Bắc bộ nên ở chiến trường Nam bộ, địch thường xuyên tổ chức ruồng bố, đánh phá ác liệt, mở rộng khu vực chiếm đóng. Chúng xây dựng một hệ thống đồn bót dày đặc trên các trục giao thông và vào sâu các căn cứ cách mạng. Huyện Trung Huyện cũng như hầu hết các huyện khác ở tỉnh Gia Định Ninh đều nằm trong vòng kiểm soát của địch. Tình hình ở Bình Trị Đông cũng gặp nhiều khó khăn, nhân dân ngày đêm phải đối đầu với sự bắt bớ, thăm dò, tra hỏi, hăm dọa của địch. Phong trào cách mạng tại xã Bình Trị Đông gặp nhiều tổn thất. Một số lãnh đạo của xã như đồng chí Trần Văn Dệt, Nguyễn Văn Lon, Nguyễn Văn Sáu (Sáu Rán) và nhiều đồng chí khác đã hy sinh … Từ tháng 4 năm 1952, Chi bộ và Ủy ban kháng chiến hành chánh xã tan rã, phong trào đấu tranh cách mạng hầu như không thể duy trì được nữa.

Page 73: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 73

Đến tháng 10 năm 1952, ở miền Đông Nam bộ xảy ra một trận bão lụt lớn. Trung Huyện cũng chịu ảnh hưởng của bão lụt, nhà cửa, kho tàng, vườn ruộng bị tàn phá nên bộ đội thiếu lương thực… Địch ra sức càn quét vào căn cứ, đánh phá khu du kích, ngăn chặn các đường tiếp tế. Dù thiên tai, địch họa gây ra nhiều khó khăn nhưng nhân dân Trung Huyện nói chung và Bình Trị Đông nói riêng đã cương quyết chiến đấu với địch, vượt qua mọi khó khăn, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố lực lượng, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của địch, cùng với nhân dân trong tỉnh bước vào giai đoạn chiến đấu mới.

2.2 Phát triển phong trào chiến tranh du kích, thực hiện quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp xâm lược

Từ giữa năm 1953 so sánh lực lượng giữa ta và địch trong cả nước đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Th áng 9 năm 1953, Bộ Chính trị họp bàn nhiệm vụ quân sự đông xuân 1953 - 1954 với hướng đưa quân chủ lực lên Tây Bắc, mở cuộc tiến công chiến lược tạo thời cơ cho ta tiêu diệt, tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích. Bộ Chính trị, Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của chiến trường Nam bộ là đẩy mạnh chiến tranh du kích, lợi dụng địch tập trung lực lượng trên các hướng khác mà tăng cường hoạt động, tiêu diệt, làm tiêu hao nhiều bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh công tác địch vận1, mở rộng căn

1. Vận động binh lính địch giác ngộ cách mạng để tiếp tế, chuyên chở, cung cấp vũ khí, thuốc men cho lực lượng ta.

Page 74: LSDB Binh Tri Dong B_size

74 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

cứ. Trong hoàn cảnh địch phải rút lực lượng ở Nam bộ để thành lập khối chủ lực cơ động chi viện cho chiến trường Bắc bộ, từ cuối năm 1953 trở đi, tổ chức Đảng và các đoàn thể ở Trung Huyện được khôi phục và phát triển. Các chi bộ cũng được thành lập lại. Vì thế phong trào đấu tranh chống thực dân xâm lược của nhân dân nơi đây vẫn liên tục diễn ra.

Đến tháng 3 năm 1954, ta tiếp tục mở rộng vùng du kích, thu hẹp vùng tạm chiếm. Một tiểu đội địa phương đã luồn sâu về Bình Trị Đông, xây dựng được ba tổ du kích, củng cố được xã đội và cấp ủy xã. Lực lượng cách mạng của xã Bình Trị Đông dần dần được phục hồi. Về sau đồng chí Lê Văn Chiếm (Ba Muôn) trở về, móc nối với các cơ sở thành lập lại chi bộ xã Bình Trị Đông. Chi bộ do đồng chí Lê Văn Chiếm làm Bí thư, Huỳnh Văn Lắm làm Phó Bí thư, Nguyễn Văn Cảnh làm Th ường vụ và đồng chí Bảy Nhỏ làm ủy viên. Bình Trị Đông từ vùng tạm chiếm trở thành vùng du kích.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân Pháp thất bại trên chiến trường Điện Biên Phủ, lực lượng địch trên các chiến trường khác hoang mang. Tin chiến thắng ở Điện Biên Phủ được nhân dân Nam bộ hồ hởi đón nhận đã là động lực thúc giục đồng bào Nam bộ tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh một cách toàn diện công cuộc kháng chiến, giành thắng lợi cao nhất.

Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng đã làm cho địch suy yếu và tạo điều kiện cho việc ký kết

Page 75: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 75

Hiệp định Genève. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.

Tại xã Bình Trị Đông, phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các lực lượng cách mạng kết hợp với nhân dân địa phương chống càn, phục kích, tập kích, thực hiện địch ngụy vận làm chết nhiều quân địch, bức rút đồn bót, gây tan rã phần lớn lực lượng tề ngụy.

** *

Chín năm kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ đảng viên và nhân dân Bình Trị Đông đã đoàn kết trên một mặt trận, từng bước phá tan âm mưu của thực dân Pháp, góp phần cùng nhân dân cả nước giữ vững thành quả cách mạng.

Chi bộ và chính quyền cách mạng xã Bình Trị Đông đã chấp hành đường lối kháng chiến của Đảng, đề ra những biện pháp thiết thực, huy động một cách linh hoạt mọi khả năng của quần chúng vào cuộc kháng chiến. Chi bộ chủ động, kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng những hình thức chính trị, vũ trang, kinh tế… không ngừng phát triển các hội cứu quốc, đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng giao thông hào, xã chiến đấu với nhịp độ khẩn trương trong tình hình hết sức khó khăn, phức tạp. Phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và bộ đội. Cán bộ, đảng

Page 76: LSDB Binh Tri Dong B_size

76 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

viên Bình Trị Đông đã thực hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên, vượt qua mọi khó khăn gian khổ nhất là trong những năm 1951-1953, kiên trì bám đất, bám dân, gây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, lãnh đạo nhân dân đấu tranh hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhân dân trong xã vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đã đoàn kết nhất trí theo Đảng làm cách mạng. Nhân dân đã quyết tâm bám đất giữ làng, đào hầm nuôi giấu cán bộ, kiên trung không khai báo trước kẻ thù. Lực lượng dân quân du kích xã chiến đấu anh dũng, chủ yếu bằng vũ khí thô sơ đã chống trả lại địch, lấy súng địch đánh địch. Dù có lúc trải qua giai đoạn khó khăn, bị khủng bố, đàn áp, có lúc phải chịu tổn thất nặng nề nhưng những người lãnh đạo cách mạng ở Bình Trị Đông, lớp người này ngã xuống đã có lớp khác đứng lên, tiếp tục giữ vững cơ sở cách mạng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đến ngày thắng lợi hoàn toàn, đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù. Th ắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, ý chí quật cường của nhân dân, những người yêu chuộng độc lập tự do, khẳng định thành quả của cách mạng đã xóa bỏ ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Th ắng lợi này còn củng cố niềm tin vững chắc của toàn thể nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm theo Đảng kháng chiến chống Mỹ để hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Page 77: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 77

Đồng chí Lê Văn Chiếm

(Ba Muôn)

Phó Chủ tịch Hội Liên Việt (1946), Bí thư kiêm Chủ tịch (1947 – 1948) Bí thư (1954 – chống Pháp), Bí thư (4/1956 – 1957, chống Mỹ)

Đồng chí Huỳnh Văn Lắm

Phó Bí thư (1954)

Page 78: LSDB Binh Tri Dong B_size

78 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 79: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 79

CHI BOÄ ÑAÛNG VAØ NHAÂN DAÂN BÌNH TRÒ ÑOÂNG TRONG CUOÄC KHAÙNG CHIEÁN CHOÁNG MYÕ CÖÙU NÖÔÙC (1954-1975)

CHÖÔNG HAI

Page 80: LSDB Binh Tri Dong B_size

80 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

I. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ, ĐẨY MẠNH BA MŨI GIÁP CÔNG

CHỐNG CHIẾN TRANH MỘT PHÍA CỦA MỸ - NGỤY (1954-1965)

1. Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève tiến tới Đồng khởi (1954-1960)

Th eo nội dung Hiệp định Genève, Pháp công nhận chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương. Việt Nam được chia làm hai miền Nam Bắc lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Nghiêm chỉnh tuân thủ theo điều khoản của Hiệp định Genève, lực lượng cách mạng miền Nam tiến hành tập kết ra Bắc, lòng dân Nam bộ phấn khởi đợi hai năm sau tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Th ế nhưng Mỹ đã cố tình vi phạm Hiệp định Genève, nhanh chóng “hất cẳng” Pháp, đơn phương phá bỏ hiệp định, thực hiện chính sách thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Ngày 7 tháng 7 năm 1954, Mỹ lập chính phủ tay sai Ngô Đình Diệm tiến hành các hoạt động “chống cộng”, thực hiện âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

Tại Bình Trị Đông lúc này ngoài những đảng viên trong chi bộ xã trước đây, nay còn có thêm một số đảng viên công tác ở nơi khác không đi tập kết trở về địa phương nên có đến hàng chục đảng viên bám trụ. Chi bộ xã lúc này do đồng chí Nguyễn Văn Cánh (Huỳnh Long) làm Bí thư; Tỉnh ủy Chợ Lớn điều động đồng chí Mười Bắc, Tỉnh ủy viên, về phụ trách công tác xây dựng lực lượng cùng với đồng chí Ba Muôn.

Page 81: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 81

Chi bộ phân công đảng viên củng cố và xây dựng lại các tổ chức quần chúng; cài cắm người vào trong bộ máy chính quyền xã ấp của địch như “bảo vệ hương thôn”, “dân vệ”. Th ực hiện chủ trương của Xứ ủy, Chi bộ Bình Trị Đông lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị chống khủng bố, chống cướp ruộng đất… đòi thực hiện Hiệp định Genève.

Bắt đầu là cuộc đấu tranh của hơn 400 người, tập trung tại đồn Bình Trị Đông vào cuối tháng 10 năm 1954. Đồng chí Nguyễn Văn Tửng (Ba Tửng) đã đại diện nhân dân trong xã đưa ra yêu cầu chính quyền Diệm phải tôn trọng và thi hành Hiệp định, lập lại quan hệ Nam Bắc, bảo đảm việc trao đổi thư từ giữa hai miền. Tên đồn trưởng hứa sẽ đề đạt những ý kiến này lên cấp trên của chúng.

Cuối năm 1954, tại ấp Tân Khai hơn 1.000 người dự cuộc mít tinh dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Văn Chiếm đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định. Nhân dân đồng thanh hô to khẩu hiệu: “Đả đảo phá hoại”. Sau đó vài ngày, bọn lính đồn Bình Trị Đông kết hợp với lính ở đồn Phú Lâm đi càn quét và bắt một số người tham gia kháng chiến trước đây.

Th áng 4 năm 1955, đồng chí Nguyễn Văn Nhung đã vận động, tổ chức hơn 200 người tập trung tại chợ Bình Trị Đông rồi kéo đến đồn giặc1. Đoàn biểu tình giương

1. Nay là trụ sở phường Bình Trị Đông B.

Page 82: LSDB Binh Tri Dong B_size

82 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

cao biểu ngữ và hô to khẩu hiệu “Chính quyền Ngô Đình Diệm phải thi hành Hiệp định Genève, lập lại quan hệ bình thường Nam Bắc”. Đồng chí Nguyễn Văn Nhung đại diện nhân dân đứng ra kiến nghị với địch về những yêu cầu trên và cũng được hứa sẽ chuyển kiến nghị này về Quận.

Trong thời gian này, đồng chí Nguyễn Văn Cánh đem về xã một số tài liệu hướng dẫn học tập Hiệp định cho cán bộ và nhân dân. Số tài liệu này được chi bộ bí mật triển khai học tập theo từng nhóm từ 3 đến 5 người trong nhiều địa điểm với điều kiện thích hợp nhằm quán triệt sâu sắc tinh thần Hiệp định cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, tố cáo mạnh mẽ các vi phạm trắng trợn của địch về những điều khoản đã quy định trong Hiệp định; đồng thời kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định để tiến tới hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Th áng 6 năm 1955, đồng chí Nguyễn Văn Hiền công tác trong Cục Quân báo khu Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với các đồng chí Huỳnh Văn Lắm và Nguyễn Văn Tửng ở chi bộ của xã chỉ đạo tổ chức nhân dân đấu tranh đòi Ngô Đình Diệm thi hành Hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước với khẩu hiệu: “Đả đảo chiến tranh, ủng hộ hòa bình”. Cuộc biểu tình tập trung càng lúc càng đông người dân tại nhà làng ở ấp Chánh. Bọn lính đồn ra sức ngăn cản, không cho nhân dân đến gửi thư đòi hiệp thương. Được sự chỉ đạo bí mật của chi bộ, hai học sinh đại diện quần chúng đã dùng lý luận sắc bén đứng

Page 83: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 83

ra tranh luận, đòi gửi thư hiệp thương. Chính vì vậy, tên Lê Văn Hiếu và đồn trưởng xã Bình Trị Đông phản ứng mạnh mẽ, nhưng quần chúng vẫn xông tới, vượt qua cả hàng lính gác của địch, để đưa thư ủng hộ hòa bình, thống nhất nước nhà.

Băng cờ, khẩu hiệu, truyền đơn được treo và rải ở nhiều nơi trong xã, nhất là tại nơi đông người như chợ Bình Trị Đông, nhà máy xay lúa Ba Chu, đồn Bình Trị Đông. Những người thường xuyên thực hiện công tác này là Nguyễn Văn Út, Nguyễn Văn Biển, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Th ị Th anh… Những hoạt động này làm cho bọn lính ở đồn hoang mang, lo sợ. Cuộc vận động đấu tranh chính trị của chi bộ đã được quần chúng tích cực hưởng ứng.

Đồng chí Lê Văn Chiếm và Nguyễn Th ị Th anh (Tám Th anh) đã vận động quần chúng nòng cốt, tích cực lập thành từng tổ 3 người (tam tam chế) làm lực lượng đấu tranh chính trị. Sau đó hơn 40 người già và phụ nữ trong xã do đồng chí Tám Th anh lãnh đạo tập trung tại chợ Bình Trị Đông đấu tranh với khẩu hiệu “chống chiến tranh đòi Hiệp thương thống nhất hai miền Nam Bắc”, đồng thời kêu gọi binh lính trong đồn quay về với nhân dân. Cuộc biểu tình bị địch thẳng tay đàn áp nên phải giải tán.

Ngoài ra chi bộ xã còn tổ chức đưa cán bộ, đảng viên vào Hội đồng hương chính của Diệm như đồng chí Nguyễn Văn Cực giữ chức Hương hào, Nguyễn Văn Tại giữ chức Hương bộ để nắm tình hình hoạt động của địch.

Page 84: LSDB Binh Tri Dong B_size

84 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Bên cạnh đó, chi bộ cũng tích cực vận động nhân dân quyên góp tiền của nuôi quân, tiếp tế, liên lạc với cán bộ địa phương đang hoạt động cách mạng.

Cuối năm 1955, địch bắt đầu khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, bắt những người hồi cư, những gia đình có chồng con đi tập kết và quần chúng cách mạng ra trình diện tại đồn Bình Trị Đông (nay là trụ sở phường Bình Trị Đông B). Sau đó, chúng tổ chức bọn lính dân vệ, mật vụ, chỉ điểm, lập thành từng tiểu đội. Các tiểu đội này được trang bị súng, lựu đạn đi lùng sục vào ban đêm để bắt hoặc thủ tiêu cán bộ, đảng viên. Chi bộ xã bí mật tổ chức cho nhân dân làm mỏ, rèn dao găm, giáo mác. Mỗi khi quần chúng phát hiện được chúng đi bắt bớ hoặc cướp phá tài sản của nhân dân thì kịp thời đánh mỏ, đập thùng thiếc để báo động làm cho chúng hốt hoảng phải chạy về đồn. Nhân dân rất phẫn nộ trước những hành động khiêu khích của địch, kiên quyết đấu tranh buộc chúng không được mang vũ khí vào xóm ấp, thực hiện đúng những điều quy định của Hiệp định. Bọn lính trong đồn ngày càng ra sức khủng bố và bắt đi hơn 100 người trong xã đem về huyện Gò Đen (Long An). Nhân dân đã nêu cao ý thức cách mạng, đoàn kết đấu tranh mạnh mẽ nên chỉ trong một tuần giam giữ, chúng buộc phải thả những người bị bắt.

Khoảng đầu năm 1956, cố vấn Mỹ đến xã Bình Trị Đông. Chi bộ đã tích cực tuyên truyền giáo dục và không ngừng nâng cao ý thức cách mạng cho cán bộ và quần chúng thấy rõ chính đế quốc Mỹ là kẻ chủ mưu phá hoại

Page 85: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 85

Hiệp định, chia cắt lâu dài đất nước, chia rẽ lợi ích dân tộc, đi ngược lại xu hướng phát triển của đất nước Việt Nam. Đối với binh lính của chính quyền Diệm, Đảng ta tuyên truyền ý thức giáo dục dân tộc và kêu gọi họ buông súng, quay về với nhân dân, không bắn giết đồng bào, cùng với nhân dân cả nước đánh đế quốc Mỹ và chế độ độc tài tay sai Ngô Đình Diệm. Đồng thời chi bộ lãnh đạo nhân dân xây dựng cơ sở cách mạng, tích cực bám trụ đấu tranh chống mọi thủ đoạn phá hoại của địch.

Ngày 4 tháng 3 năm 1956, Mỹ - ngụy tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến và đưa Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống. Trước ngày bầu cử diễn ra, cán bộ, đảng viên xã Bình Trị Đông đã tích cực tuyên truyền vạch trần bộ mặt thâm độc của chế độ Diệm, giải thích cho nhân dân và vận động nhân dân đấu tranh đòi hiệp thương. Do được giải thích, vận động nên nhân dân Bình Trị Đông đã không đi bỏ phiếu đúng giờ với lý do đi làm đồng, bị bệnh nên không đi bầu được.

Th áng 4 năm 1956, đồng chí Nguyễn Văn Cánh, Bí thư chi bộ được rút về huyện, đồng chí Lê Văn Chiếm làm Bí thư chi bộ xã Bình Trị Đông. Đến năm 1957, đồng chí Lê Văn Chiếm được rút về huyện, bàn giao nhiệm vụ Bí thư chi bộ xã cho đồng chí Nguyễn Văn Tửng (Ba Tửng).

Th áng 5 năm 1957, Diệm ban hành dự luật “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, chúng tổ chức nhiều đợt “tố cộng”, “diệt cộng”, mở nhiều cuộc càn quét lớn, khủng bố

Page 86: LSDB Binh Tri Dong B_size

86 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

trắng vùng ngoại ô Sài Gòn để “tiêu diệt cán bộ cộng sản nằm vùng”, giết hại những người yêu nước, đánh phá các cơ sở, bắt bớ tù đày các chiến sĩ cách mạng.

Trong thời gian này, Huyện ủy Trung Huyện và Tỉnh ủy Chợ Lớn đóng tại xã Bình Trị Đông. Giặc khủng bố và bắt đi nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Để giữ gìn lực lượng, Tỉnh ủy Chợ Lớn ra Chỉ thị 17 điều lắng một số đồng chí đi nơi khác, đồng thời thâm nhập vào quần chúng tiếp tục xây dựng cơ sở chờ thời cơ nổi dậy; các đồng chí tại chỗ còn lại phải rút vào hoạt động bí mật.

Ngày 6 tháng 5 năm 1959, Ngô Đình Diệm ban bố luật 10/59. Với đạo luật này, chúng được phép xử chém bất cứ ai bị nghi là cộng sản. Không khí khủng bố bao trùm khắp miền Nam. Máy chém được mang đến đâu là ở đó có đầu rơi máu đổ. Các cuộc ruồng bố, rình rập xảy ra liên tục, nhiều cán bộ bị giết chết, nhiều quần chúng cốt cán bị bắt bớ, kể cả những người dân lương thiện cũng không được yên. Mỹ - Diệm tăng cường các hoạt động “tố cộng”, “diệt cộng”, thực hiện “tâm lý chiến”, tiến hành khủng bố nhân dân nhằm cô lập lực lượng cách mạng. Chúng cho xây dựng hệ thống mật vụ dày đặc, lê máy chém đi khắp nơi, sát hại bất cứ ai được cho là “cộng sản”. Tại Bình Trị Đông, chúng treo giá năm ngàn đồng cho ai chỉ điểm để bắt hoặc giết đồng chí Lê Văn Chiếm, Bí thư chi bộ xã. Chúng bắt nhân dân phải đề khẩu hiệu “Đả đảo cộng sản”, “Ngô Tổng thống muôn năm” trước cửa nhà mình. Những gia đình bị xếp loại C, loại D, đêm phải ngủ

Page 87: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 87

tập trung ở các điếm canh, đêm phải treo đèn trước cửa. Ngoài tề điệp còn có liên gia trưởng theo dõi kiểm soát từng gia đình. Nhiều khu trù mật (thực chất là trại tập trung) được xây dựng, dân chúng ban ngày bị lùa đi học tố cộng, suy tôn Ngô Tổng thống.1

Tại xã Bình Trị Đông, các đồng chí còn lại phải nằm hầm bí mật để chống càn quét của địch. Những hầm bí mật này đều được ngụy trang tức là phải đào ở địa điểm bên dưới của gốc tre hoặc gốc rơm và chỉ chứa được 1 hoặc 2 đồng chí. Có người ở lâu ngày trong hầm bị bệnh tật như đồng chí Nguyễn Văn Tửng. Giặc tăng cường lục soát, moi hầm, bắt đi nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân đem giam ở bót Hàng Keo để tra tấn, khai thác nhằm tìm ra cơ sở của cách mạng. Có nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh để giữ gìn khí tiết cách mạng. Đến cuối năm 1959, ở xã không còn đồng chí nào có điều kiện hoạt động nữa, phong trào đấu tranh phải tạm lắng.

Trước những khó khăn của cách mạng miền Nam, tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương, chiến lược nhằm đưa phong trào cách mạng bước sang giai đoạn mới. Hội nghị xác định con đường của cách mạng miền Nam là phải sử dụng bạo lực cách mạng trong đó lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền của đế quốc và phong kiến.

1. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản năm 2012, trang 128.

Page 88: LSDB Binh Tri Dong B_size

88 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Từ khi Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời, chủ trương đấu tranh bằng ba mũi giáp công (chính trị, quân sự và binh vận), khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân phát triển mạnh. Sự ra đời của Nghị quyết đã mở đường cho các hoạt động đấu tranh vũ trang của các lực lượng cách mạng và quần chúng trước sự khủng bố tàn bạo của Mỹ ngụy. Phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam có sự chuyển biến mới. Đảng viên và quần chúng nhân dân càng nỗ lực kiên trì vượt qua khó khăn để xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa. Cách mạng miền Nam bước vào thời kỳ đấu tranh mới, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.

Th áng 9 năm 1959, Xứ ủy họp hội nghị mở rộng nhằm phổ biến Nghị quyết Trung ương lần thứ 15. Đồng thời Xứ ủy quyết định thành lập Khu Sài Gòn - Gia Định, trên cơ sở sáp nhập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư.1

Ngày 17 tháng 1 năm 1960, phong trào Đồng khởi

1. Sau khi hợp nhất, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức hội nghị mở rộng tại xã An Thành, Bến Cát (thuộc tỉnh Bình Dương ngày này), nhằm sắp xếp tổ chức, ra nghị quyết về nhiệm vụ công tác và chuẩn bị cho Đồng khởi. Để thực hiện kế hoạch Đồng khởi, Khu ủy đã chỉ đạo tỉnh Gia Định tiến hành đồng thời việc củng cố, phát triển Đảng và cơ sở quần chúng với việc tổ chức lực lượng vũ trang, hình thành các đội tự vệ ở xã, ấp. Tổ chức vũ trang của Bình Tân (Bình Chánh – Tân Bình) lúc đầu chỉ có 3 người gọi là đơn vị 301, sau phát triển thành D6. Các quận lần lượt thành lập Ban quân sự, các chi bộ xã lần lượt được củng cố và phát triển, từng bước có phụ trách quân sự, phát động phong trào sản xuất vũ khí, súng tự tạo, mã tấu, đinh chông, xây dựng xã, ấp chiến đấu.

Page 89: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 89

ở Bến Tre giành thắng lợi gây sức vang lớn trên toàn miền Nam, cổ vũ cho phong trào đấu tranh của nhân dân khắp nơi. Đến ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Cũng trong năm 1960, Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định được Xứ ủy sáp nhập thành Khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Bình Chánh được chia làm hai: một bộ phận kết hợp với Nhà Bè gọi là Bình Chánh - Nhà Bè; một bộ phận sáp nhập với Tân Bình gọi là Bình Tân.1 Lúc này, Bình Trị Đông chịu sự lãnh đạo của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định và Huyện ủy Bình Tân. Huyện ủy Bình Tân nhanh chóng tổ chức học tập phổ biến Nghị quyết 15 và cương lĩnh của Mặt trận Giải phóng xuống cơ sở và đồng bào. Tin chiến thắng của các lực lượng vũ trang ở Đồng Th áp Mười, miền Đông Nam bộ và cuộc Đồng khởi ở Bến Tre đưa về đã làm nức lòng nhân dân. Huyện ủy Bình Tân chấp hành chủ trương chung đã phát động quần chúng nổi dậy diệt tề, phá thế kiềm kẹp của địch. Hưởng ứng phong trào Đồng khởi, nhân dân tham gia đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, tiêu diệt nhiều tên trong bộ máy nguỵ quyền. Ta còn tổ chức đốt phá nhiều trạm gác của địch. Các gia đình bị địch xếp

1. Năm 1960, do yêu cầu của tình hình, hệ thống tổ chức Đảng có thay đổi, quận Tân Bình và Bắc Bình Chánh nhập lại hình thành quận Bình Tân. Quận Bình Tân bao gồm các xã: Tân Thới Nhứt, Xuân Thới Thượng, Tân Túc, Bình Chánh, Tân Nhựt, Tân Hòa, Tân Kiên, An Lạc, Tân Tạo, Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa, Vĩnh Lộc, Phú Thọ Hòa, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hòa, Phú Nhuận. Ban Chấp hành Đảng bộ quận gồm 12 đồng chí, do đồng chí Võ Minh Thuận làm Bí thư và đồng chí Lê Văn Chiếm (Ba Muôn) làm Phó Bí thư, căn cứ đặt tại Vườn Thơm.

Page 90: LSDB Binh Tri Dong B_size

90 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

vào loại C và loại D không phải ra ngủ tập trung ở trụ sở của địch nữa.

Tiếp theo, tháng 3 - 1961, Mặt trận Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định cũng được thành lập. Từ đây, cách mạng miền Nam được lãnh đạo theo con đường kháng chiến để giải phóng quê hương, thống nhất đất nước. Cuộc đấu tranh của nhân dân được chuyển sang một giai đoạn mới.

2. Kiên trì bám trụ địa bàn, góp phần phá vỡ quốc sách ấp chiến lược của Mỹ - ngụy (1961 - 1965)

Th ất bại trong việc thực hiện “chiến tranh một phía”, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, thực hiện quốc sách “ấp chiến lược” nhằm đưa người dân vào sống tập trung tại các khu biệt lập để chúng dễ dàng kiểm soát, chặt đứt chỗ dựa của các lực lượng cách mạng.

Nhằm phối hợp hoạt động đấu tranh giữa vùng nội thành Sài Gòn và vùng nông thôn ven đô cũng như tạo thế đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo, cuối năm 1959, Xứ ủy Nam kỳ sáp nhập hai Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định thành Khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Th áng 9 năm 1961, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định mở hội nghị ra Nghị quyết “Về công tác quân sự” trong khu. Một trong những chủ trương của Nghị quyết là: Đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị kết hợp với nhau ở vùng tranh chấp ngoại thành hỗ trợ nhau nhằm đẩy lùi địch từng bước, đánh bại từng âm mưu thủ đoạn của địch tiến lên giành quyền làm chủ với các mức độ khác nhau.

Page 91: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 91

Khu ủy Sài Gòn – Gia Định đã phân chia khu thành ba vùng: vùng nông thôn căn cứ, vùng ven đô có thể tranh chấp và vùng nội thành. Th áng 11 năm 1961, Huyện ủy Bình Tân mở hội nghị quán triệt nghị quyết của khu ủy về công tác quân sự1.

Trong thời gian này, đồng chí Lê Văn Chiếm (Sáu Nâu, Sáu Ngàn) trong Ban Th ường vụ Huyện ủy Bến Lức, tỉnh Long An được cử về phụ trách khu Long Hưng Th ượng, gồm các xã Bình Chánh, Tân Túc, Tân Kiên, An Lạc, Tân Tạo và Bình Trị Đông để xây dựng lại cơ sở Đoàn, Đảng cho các xã. Tại xã Bình Trị Đông ta đã xây dựng được chi đoàn thanh niên.

Th ực hiện Nghị quyết của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Lê Văn Chiếm được phân công cùng đi với đồng chí Hai Sang, Khu ủy viên, trực tiếp chỉ đạo một trung đội vũ trang xuống xã Bình Trị Đông vận động

1. Huyện ủy chủ trương vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh của huyện mà chia ra làm 3 vùng:

Vùng ven đô, gồm có các xã: Xuân Thới Thượng, Tân Thới Nhứt, Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa, Bình Trị Đông, An Lạc đấu tranh chính trị là chính, kết hợp với vũ trang hỗ trợ phục vụ cho các yêu cầu nhiệm vụ chính trị.

Vùng có thể tranh chấp, bao gồm các xã: Tân Hòa, Tân Kiên, Tân Nhựt, Tân Tạo, Tân Túc, Bình Chánh, An Phú Tây, Vĩnh Lộc, đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau nhằm đánh bại từng bước các âm mưu thủ đoạn của địch, để tiến lên giành quyền làm chủ từng xóm, ấp đến liên ấp.

Vùng có thể tranh chấp mạnh: Hai xã Tân Bình, Tân Lợi (Vườn Thơm). Ta đã làm chủ nhiều ấp và là căn cứ của huyện nên ở đây đấu tranh vũ trang là chính, có thể kết hợp đấu tranh chính trị bằng 3 mũi giáp công, bao vây đồn địch, tiến tới buộc địch rút đồn Gò Xoài, Lý Văn Mạnh giải phóng hai xã.

Page 92: LSDB Binh Tri Dong B_size

92 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kềm. Gần 1.000 người các nơi kéo về tập trung tại đình Tân Th ới dự mít tinh lên án tội ác bọn gián điệp, mật vụ làm tay sai cho giặc để giết hại nhân dân.

Cũng trong đợt này đồng chí Lê Văn Chiếm (Phó Bí thư Quận ủy Quận Bình Tân) đứng ra tập hợp tổ chức chi bộ bí mật xã Bình Trị Đông gồm ba đảng viên: Nguyễn Th ị Th ùa (Năm Hồng), Trần Văn Hiệp (Tư Phi) và Nguyễn Văn Trung (Bảy Trung) do đồng chí Nguyễn Th ị Th ùa làm bí thư chi bộ; đồng chí Nguyễn Văn Trung (Bảy Trung) làm xã đội trưởng. Đến đây chi bộ xã Bình Trị Đông đã vượt qua giai đoạn khó khăn của khủng bố trắng, sẵn sàng cho bước phát triển mới.

Do tình hình lúc này địch đang thiết lập hệ thống ấp chiến lược tại xã Bình Trị Đông nên muốn bám trụ địa bàn đồng chí Lê Văn Chiếm và Nguyễn Th ị Th ùa phải nằm hầm ở vùng trắng, ngay gần khu vực ngã tư Cầu Sắt - Cống Lở. Trong giai đoạn này, chi bộ xã chú trọng vào việc vận động nhân dân đấu tranh chống phá ấp chiến lược.

Cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Trị Đông chống Mỹ - Diệm lập ấp chiến lược diễn ra giằng co, quyết liệt và lâu dài. Ngụy quyền ra sức mở nhiều cuộc càn quét, khủng bố, phá nhà, ủi vườn. Cuộc đàn áp tập trung chủ yếu ở các ấp Tân Khai, Nghi Xuân, Tây Lân, Tân Th ới, làm cho nhân dân ở đây lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Chi bộ xã đã vận động nhân dân làm đơn lên tỉnh Gia Định

Page 93: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 93

đòi chúng không được ủi đất, phá nhà, bãi bỏ ấp chiến lược. Lực lượng thanh niên cũng đấu tranh tố cáo những hành động xấu xa của bọn tề xã. Một số người do làm đơn tố cáo đã bị chúng bắt giữ. Song tinh thần đoàn kết của nhân dân buộc nguỵ quyền xã phải thả những người này ra. Trước tình hình đó, chi bộ đã thành lập tổ giao liên do hai đồng chí Nguyễn Th ị Đúng và Nguyễn Th ị Bảy đảm nhận để liên lạc từ xã này đến xã khác, hoặc nhận chỉ thị của tỉnh, huyện chỉ đạo công tác đấu tranh chính trị và vũ trang tại xã.

Th áng 4 năm 1962, quốc sách ấp chiến lược ra đời. Ngoài tề, điệp, cảnh sát, mật thám, bảo an, dân vệ, chúng còn đưa về vùng thí điểm 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7, một sư đoàn bộ binh của ngụy để hỗ trợ (bắt đầu địch làm thí điểm ở cửa ngõ Tây Nam Sài Gòn tại các xã Tân Nhựt, Tân Hòa, Vĩnh Lộc của huyện Bình Tân). Huyện Bình Tân cũng là nơi đầu tiên chúng áp dụng chiến thuật thiết xa vận và trực thăng vận.

Năm 1962, hơn 200 người đã tham gia cuộc biểu tình chống chính sách dồn dân lập ấp chiến lược ở xã do các đồng chí Ba Th ùa, Tư Phi, Bảy Trung lãnh đạo đấu tranh. Cuộc đấu tranh này bị chúng đàn áp và bắt đi một số người, nhưng trước sự đấu tranh kiên trì của đoàn biểu tình, chúng phải thả những người bị bắt vào chiều ngày hôm đó.

Địch càng ra sức đẩy nhân dân vào ấp chiến lược bao nhiêu thì càng gặp phải sức phản kháng của quần

Page 94: LSDB Binh Tri Dong B_size

94 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

chúng bấy nhiêu. Dù bị dồn đẩy vào ấp chiến lược, nhưng phần đông nhân dân vẫn quyết tâm ở lại bám ruộng giữ đất. Chi bộ tiếp tục vận động bà con đào hầm đặt chông ở các đường chính dẫn vào ấp, ngăn chặn địch bắt bớ cán bộ, đánh phá cơ sở cách mạng hoặc lùa dân vào ấp chiến lược. Những hầm chông ở ấp Tân Khai do chị Nguyễn Th ị Đúng (Tư Đúng), anh Nguyễn Văn Nước (Hai Nước), Kim Nhật… làm cùng những hầm chông ở các nơi khác trong xã đã có tác dụng hạn chế sự đi lại, càn quét của địch trong những ấp trọng điểm mà chúng cố ý tạo thành vùng trắng.

Nhờ sự lãnh đạo của Đảng và sự đùm bọc của nhân dân, đội du kích ngày càng phát triển mạnh, tích cực diệt ác, phá kềm, góp phần đưa cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng lên cao. Năm 1960, bộ đội Miền phối hợp với du kích xã đánh đồn Bình Trị Đông, đội du kích xã tổ chức đánh lô cốt ở ngã tư Cây Da Sà, tiêu diệt 4 tên. Đầu năm 1961, Tiểu đoàn 301 (quân số khoảng 1 trung đội) của Bình Tân1 tổ chức tập kích diệt một trung đội dân vệ ở ấp 3 xã Bình Trị Đông. Năm 1961, đồng chí Nguyễn Văn Trung (Bảy Trung), xã đội trưởng chỉ huy du kích tiêu diệt 2 tên dân vệ ở ấp Tân Th ới. Ta còn tổ chức bắn chết tên Hai Chó, một tên ác ôn đã nhiều lần chỉ điểm đánh phá cơ sở của ta vào năm 1962. Tiếp đó ta đã tổ chức diệt Cách, một tên có nợ máu với nhân dân tại chợ Bình

1. Đồng chí Phạm Văn Hai đã có công góp phần xây dựng lực lượng vũ trang tập trung Bình Tân từ 3 chiến sĩ lên đến gần một đại đội, được trang bị đầy đủ vào năm 1962, xây dựng phát triển trên 20 đảng viên.

Page 95: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 95

Trị Đông. Đội du kích xã còn tổ chức đi rải truyền đơn, treo băng rôn, khẩu hiệu, biểu ngữ, các đồng chí tham gia cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Văn Nhì (Hai Nhì), Trần Văn Lộc, Nguyễn Văn Lầu và Tô Văn Mười đã tổ chức in truyền đơn từ năm 1960 đến 1962 tại nhà ông Nguyễn Văn Lầu (Sáu Lầu) và Tô Văn Mười (Mười Heo) thuộc ấp 2 Bình Trị Đông. Nội dung của truyền đơn nhằm đả đảo đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, kêu gọi binh lính của địch rã ngũ, buông súng, quay về với nhân dân.

Từ năm 1962 chính quyền địch ở xã ra sức gom dân, bắt lính đã bị nhân dân trong xã chống lại. Công tác binh vận thu được kết quả, ta đã vận động được 5 binh lính ở đồn Bình Trị Đông quay về với nhân dân và mang theo 3 khẩu súng trường. Đội du kích xã do đồng chí Nguyễn Văn Trung (Bảy Trung) làm xã đội trưởng, lực lượng càng phát triển mạnh, đồng thời cũng trưởng thành hơn cả về năng lực, tinh thần và nghệ thuật chiến đấu chống địch. Đến năm 1964, có hơn một tiểu đội với một số thành viên như: Tư Phi, Kim Nhật, Hai Đúng, Sáu Tre, Lẹ (Bùi Văn Lẹ), Tám Hanh (Mai Văn Hanh), Vũ, Th ân, Chín Dìa, Bé Chút, Sáu Hùng, Sáu Siều, Năm Xích, Tư Cu, Lắm (Ba Quăng), Hai Tèo,… tự trang bị vũ khí đầy đủ.1

Sang năm 1963, phong trào chống Mỹ - Diệm của các tầng lớp nhân dân ở khắp Nam bộ nổi lên mạnh mẽ,

1. Năm 1962, hai đồng chí Mai Văn Hanh, Bùi Văn Lẹ bị bắn hy sinh ở ngã ba Tân Khai khoảng 7 giờ tối lúc đi công tác về.

Page 96: LSDB Binh Tri Dong B_size

96 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

quốc sách “ấp chiến lược” đứng trước nguy cơ sụp đổ, chính quyền Việt Nam Cộng hòa rơi vào thời kỳ khủng hoảng.

Hòa trong khí thế đấu tranh của mặt trận Sài Gòn – Gia Định, chi bộ Bình Trị Đông lãnh đạo nhân dân phá ấp chiến lược, trừng trị ác ôn. Trong năm 1963, nổi lên cuộc đấu tranh của nhân dân ở ấp Nghi Xuân do bà Năm Đất, Mười Lê dẫn đầu đòi ở lại ấp để làm ăn sinh sống, không đi vào vùng chiến lược của địch. Địch đàn áp và bắt đi một số người giam ở đồn Bình Trị Đông. Sau đó bà Năm Bảy vận động nhân dân trong ấp kéo lên đồn Bình Trị Đông yêu cầu chúng thả những người bị bắt. Th ấy quần chúng đấu tranh mạnh, địch buộc phải nhượng bộ, thả những người bị bắt ra. Sau đó, địch tiến hành khủng bố nhằm trấn áp tinh thần đấu tranh của nhân dân. Lúc này, tên Hai Tăng, Trưởng ban tâm lý chiến, cùng bọn lính tâm lý chiến tổ chức chiếu phim tuyên truyền chống cộng sản tại trường học đối diện Nhà thờ Tin Lành. Du kích Bình Trị Đông tổ chức ném lựu đạn nhằm tiêu diệt tên Hai Tăng nhưng hắn chỉ bị thương. Tên Hai Tăng chỉ huy toán lính của đồn Bình Trị Đông xâm nhập vào vùng Tân Khai, Tân Th ới, Nghi Xuân để càn quét và bắt bớ nhân dân ở đây buộc dân phải vào ấp chiến lược. Đồng thời, chúng ra sức đốt phá nhà cửa, tài sản của nhân dân làm cho dân không còn tài sản, nhà cửa để ở tại đó nữa.

Chính quyền ngụy đã xây dựng ấp chiến lược tập trung ven Tỉnh lộ 10, gồm các ấp Nghi Hòa, Bình Đông, ấp Chánh và chia khu vực gom dân này thành 4 ấp từ ấp

Page 97: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 97

1 đến ấp 4 để kềm kẹp, khống chế nhân dân, tạo ra vùng trắng bằng “vành đai ấp chiến lược”. Chúng hy vọng sẽ cô lập dân với cách mạng và tách cán bộ ra khỏi quần chúng. Nhưng chúng đã lầm, vì tại vùng trắng, nơi mà chúng cho là có thể đánh phá và tiêu diệt được cách mạng, cũng chính là nơi cơ sở cách mạng vẫn tồn tại và phát triển trong sự giúp đỡ và đùm bọc của nhân dân. Ấp chiến lược, nơi mà chúng dùng mọi biện pháp, thủ đoạn để cách ly cách mạng với nhân dân; nơi đặt dưới quyền kiểm soát của chúng lại là nơi phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển rất mạnh mẽ.

Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Huỳnh Văn Tạo (Sáu Giò), Huyện ủy viên huyện Bình Tân, đồng chí bí thư Nguyễn Th ị Th ùa (Năm Hồng) và đồng chí Trần Văn Hiệp (Tư Phi) đã vận động nhân dân ở ấp chiến lược làm đơn xin về vườn cũ. Nhân dân đã tổ chức đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ cách mạng ngay trong nhà của mình. Tuy bọn lính của xã không cho nhân dân ra vùng trắng cất nhà để ở, làm ruộng nhưng nhân dân bất kể nguy hiểm, vất vả vẫn làm, người dân tiếp tục cất chòi tại ấp Tân Th ới dù sau đó bị giặc đốt nhiều lần. Ban ngày địch bắt nhân dân đào mương, trồng cột sắt, rào kẽm gai, cắm chông tre trên bờ đê ấp chiến lược. Nhưng ban đêm nhân dân lại phá rào, phá cột sắt, lấp mương, nhổ chông tre. Sự việc cứ giằng co, kéo dài dai dẳng nhiều năm. Trong lúc đấu tranh cho quyền lợi của người dân trong xã, nhân dân Bình Trị Đông còn phối hợp với các xã khác đấu tranh chống dỡ nhà để xây dựng đồn bót, mở rộng sân bay Tân

Page 98: LSDB Binh Tri Dong B_size

98 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Sơn Nhất và quân trường huấn luyện Quang Trung. Nhân dân xã Bình Trị Đông, nhất là thanh niên, phụ nữ và các bậc phụ huynh còn ủng hộ hoặc tham gia vào phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

Tuy tình hình cách mạng có nhiều khó khăn nhưng chi bộ xã Bình Trị Đông thường xuyên vận động nhân dân đóng góp tiền gạo, thuốc men… đưa về huyện giúp bộ đội đánh giặc. Đối với du kích xã, nhân dân hết lòng giúp đỡ và nuôi giấu. Phong trào tháo gỡ lựu đạn cho du kích diệt ác, phá kềm do đồng chí Sáu Bé, Huyện ủy viên Bình Tân phụ trách xã, chỉ đạo được nhân dân hưởng ứng rất đông.

Cũng trong năm 1963, du kích xã Bình Trị Đông do đồng chí Bảy Trung, Tư Phi chỉ huy đánh bọn lính dân vệ ở quán ông Ba Trinh, diệt hai tên Đũa và Tể, lấy hai khẩu súng và làm bị thương một số tên khác. Đồng chí Trần Văn Hiệp (Tư Phi) và đồng chí Bảy Trung đã tổ chức đột nhập vào nơi đóng quân của địch ở chùa Mai Sơn lấy được 2 khẩu súng, bắn chết 2 tên bảo an và làm bị thương một số tên khác.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Mỹ làm đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Sự tan rã của chính quyền Diệm cùng với sự tan rã từng mảng của ấp chiến lược. Từ “bình định” tràn lan, địch chuyển sang “bình định” có trọng điểm cố gắng tiêu diệt một bộ phận lực lượng và kiềm chế hoạt động của ta.

Page 99: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 99

Là một xã ven đô, Bình Trị Đông trở thành trọng điểm bình định và đánh phá của địch. Cuối năm 1964, địch cơ bản hoàn thành việc xây dựng ấp chiến lược và biến phần đất còn lại thành vùng trắng rộng lớn. Đồng chí Sáu Bé, Huyện ủy viên Bình Tân kiêm Bí thư chi bộ xã Bình Trị Đông, vận động nhân dân trong xã chia thành từng đoàn đến kiến nghị với chính quyền xã của địch nhằm chấm dứt phá hủy cây trái và đất đai của người dân. Tại vùng trắng, nhiều bộ phận cơ sở cách mạng bị đánh phá ác liệt, nhiều hầm bí mật, giao thông hào ở các ấp Nghi Xuân, Tây Lân bị phá hủy. Các đồng chí du kích và đảng viên hoạt động trong xã lúc này rất khó khăn, tạm thời lắng xuống để bảo toàn lực lượng.

Từ tháng 12 năm 1964 đến đầu năm 1965, chiến thắng Ba Gia, Đồng Xoài, Bình Giã, Pleiku và sự lớn mạnh của quân giải phóng (được thành lập ngày 15 tháng 2 năm 1961) chủ động tiến công trong các cuộc nổi dậy vũ trang khắp miền Nam làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Những thắng lợi trên đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân dân khắp nơi, trong đó có Bình Trị Đông.

Năm 1965, tại xã Bình Trị Đông, Trung đội C.10 biệt động do đồng chí Nguyễn Văn Huỳnh (Bảy Huỳnh) làm Trung đội trưởng có nhiệm vụ bám trụ để nhận quân từ ngoại thành đưa vào thành phố. Đội du kích xã đã phối hợp với lực lượng vũ trang, biệt động đánh phá nhiều cơ sở của địch, mở rộng phạm vi hoạt động trên địa bàn.

Page 100: LSDB Binh Tri Dong B_size

100 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Đồng thời hỗ trợ để đưa phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển hơn.

Cuộc biểu tình do đồng chí Tư Phấn lãnh đạo, đã kéo đến trụ sở của địch, phản đối bắt thanh niên xã đi lính, chống sưu cao thuế nặng. Chi bộ xã tổ chức treo biểu ngữ với khẩu hiệu: “Đả đảo bắt lính”, “Đả đảo sưu cao thuế nặng” nhất là vào những ngày lễ lớn của địch, làm bọn chúng lo sợ. Chi bộ còn chỉ đạo đồng chí Trịnh Văn Tiến (Tám Tiến) tổ chức hội quyên tiền hàng tháng và ủy lạo nhân dịp Tết Nguyên đán cho bộ đội đang chiến đấu. Hội này được triển khai rộng rãi đến các ấp, như ấp 1 do đồng chí Huỳnh Thị Sinh phụ trách, ấp 2 do đồng chí Phạm Văn Cư và ấp 3 do đồng chí Tám Cui phụ trách được quần chúng hưởng ứng rất đông, góp phần cung cấp thuốc men, tiền, quà, bánh cho bộ đội.

Như vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là chi bộ xã Bình Trị Đông, thường xuyên củng cố, xây dựng lực lượng, đưa phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang của nhân dân trong xã từng bước phát triển mạnh hơn. Sự phối hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, cùng sự nổi dậy diệt ác phá kềm của nhân dân trong xã đã phá vỡ từng mảng “ấp chiến lược” của địch, góp phần làm thất bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của chúng ở Bình Tân nói riêng và miền Nam nói chung.

Page 101: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 101

II. ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC GÓP

PHẦN “ĐÁNH CHO MỸ CÚT” (1965 - 1973)

1. Phong trào toàn dân đánh giặc chống chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - ngụy, tiến đến nổi dậy Tết Mậu Th ân (1965 - 1968)

Trong điều kiện so sánh lực lượng và cục diện chiến trường phát triển theo chiều hướng có lợi cho ta, chính quyền Johnson buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh nhằm cứu vãn tình thế, làm thay đổi cục diện trên chiến trường hòng cứu nguy cho quân nguỵ và dập tắt phong trào cách mạng ở miền Nam. Mỹ chuyển hướng sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân Mỹ và quân chư hầu trực tiếp tham chiến tại chiến trường cùng với vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại nhằm “tìm diệt” và “bình định”, thực hiện âm mưu xâm chiếm miền Nam.

Th áng 7 năm 1965, tổng thống Mỹ Johnson đã chuẩn y cho quân chiến đấu Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam với 34 tiểu đoàn gồm khoảng 10 vạn quân. Chúng lên kế hoạch dùng bọn tề ngụy, biệt kích, các đoàn xây dựng nông thôn làm lực lượng trực tiếp “bình định”, kềm kẹp quần chúng nhân dân; quân Mỹ và quân chư hầu là lực lượng nòng cốt làm nhiệm vụ “tìm và diệt” tạo thành một vành đai an toàn bảo vệ Sài Gòn.

Địch chia Sài Gòn - Gia Định thành 4 vùng: vùng A là vùng địch kiểm soát mà chúng gọi là vùng phát triển; vùng B là vùng tranh chấp yếu, vùng trọng điểm bình định của địch; vùng C là vùng tranh chấp mạnh có căn

Page 102: LSDB Binh Tri Dong B_size

102 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

cứ du kích; vùng D là vùng giải phóng và căn cứ của ta, là vùng tìm diệt, tự do oanh tạc của địch.

Năm 1965, một số đồng chí trong lực lượng du kích xã Bình Trị Đông được rút về huyện như đồng chí Nguyễn Văn Trung (Bảy Trung), Tư Phi, Hai Đúng, Kim Nhật…; lực lượng du kích còn bị tổn thất khi một số đồng chí như Sáu Tre, Tư Cu, Sáu Siều, Lắm (Ba Quăng), Hai Tèo… đã hy sinh. Đến năm 1966, đồng chí Hai Đậu cũng đã hy sinh.

Qua năm 1966, lực lượng du kích xã được bổ sung thêm một số thành viên mới như Chiến, Tây Đen, Hoàng… do đồng chí Lý Diệp Hồng là xã đội trưởng và đồng chí Ba Cò (Huỳnh Th ị Quạt) là Bí thư xã. Để tăng thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh của nhân dân chống phá ấp chiến lược, tháng 10 năm 1966, du kích xã Bình Trị Đông phối hợp với biệt động Tiểu đoàn 6 Bình Tân đánh chốt ngã tư Cây Da Sà. Tại đây thường trực có mật vụ, chỉ điểm, cảnh sát đứng xét giấy tờ tùy thân để bắt bớ những người mà chúng tình nghi là “Việt cộng” hoặc trốn quân dịch. Chốt này gây khó khăn và hạn chế về liên lạc của cán bộ ta từ Đức Hòa, Đức Huệ, Vườn Th ơm, Bà Hom vào nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Xã đội lên kế hoạch bố trí đồng chí Huỳnh Văn Hoàng và Hai Th ắng đón xe tải của ông Lắm làm phương tiện di chuyển đến ngã tư Cây Da Sà đánh bất ngờ, chớp nhoáng vào bọn mật vụ, cảnh sát… làm một số tên bị thương. Hai du kích rút lui an toàn vào ấp chiến lược ở vùng trắng thuộc ấp Nghi Xuân (vùng cầu sắt Ngã tư bốn xã).

Page 103: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 103

Th áng 10 năm 1967, Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền quyết định tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy Sài Gòn - Gia Định làm trọng điểm. Để chuẩn bị thực hiện cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa Tết Mậu Th ân 1968, Trung ương Cục đã quyết định giải thể các quân khu ở miền Đông Nam bộ để thành lập “khu trọng điểm”, gồm 6 phân khu như những mũi tiến công vào nội đô Sài Gòn. Huyện Bình Tân1 thuộc Phân khu II do đồng chí Phan Văn Hân (Hai Sang) làm Bí thư. Phân khu II chia huyện Bình Chánh làm 3 vùng. Vùng 1 gồm các xã: Vĩnh Lộc, Bình Hưng Hòa. Vùng 2 gồm các xã: Tân Nhựt, Tân Kiên, Tân Túc, Tân Lợi, Tân Bình, Tân Tạo Bình Chánh, Bình Trị Đông và An Lạc. Vùng 3 gồm các xã thuộc Tân Phong Hạ và Phước Điền Th ượng. Phân Khu ủy thành lập Ban cán sự các vùng. Chính vì có sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự và chi bộ xã nên phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang của quần chúng phát triển mạnh mẽ và đồng bộ hơn.

Đồng chí Huỳnh Văn Hoàng chỉ huy du kích xã, phối hợp với lực lượng biệt động thành đặt mìn tại sân tập bắn của địch thuộc xã Bình Trị Đông, tiêu diệt được 12 tên, trong đó có cả cảnh sát dã chiến, cảnh sát áo trắng và lính bảo an, tịch thu 10 khẩu súng. Trận đánh này làm cho địch hốt hoảng, rất hoang mang, lo sợ. Sau đó chúng

1. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản năm 2012, trang 171.

Page 104: LSDB Binh Tri Dong B_size

104 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

không dám tập trung lực lượng tại đây.1 Đồng chí Sáu Th anh lãnh đạo chi bộ xã vận động nhân dân tiếp tục đào hầm, nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ, cất giấu vũ khí, đạn dược, tích lũy lương thực, đồng thời chỉ đạo đồng chí Út Tý (Huỳnh Văn Tý), cán bộ du kích xã vận động nhân dân làm hũ gạo nuôi quân, nhất là vận động các bậc lão thành và phụ nữ.

Cuối năm 1967, Bình Trị Đông được Huyện ủy Bình Tân phân công làm công tác chuẩn bị hậu cần và chuẩn bị địa điểm ém quân cho cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Th ân 1968. Đồng chí Lê Công Minh, Huyện ủy viên kiêm Bí thư chi bộ, đã chỉ đạo chi bộ xã Bình Trị Đông lãnh đạo cán bộ, đảng viên gấp rút chuẩn bị lực lượng, cơ sở tổ chức để tiến tới tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Th ân 1968. Nhanh chóng thực hiện các nhiệm vụ: đưa lực lượng về bám sát cơ sở, xây dựng hầm bí mật để ém quân tiến hành diệt ác, phá lỏng thế kềm kẹp, tranh thủ làm chủ từng xóm, ấp, tuyên truyền vận động quần chúng để xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng vũ trang bí mật. Đồng thời, chi bộ cũng chuẩn bị lãnh đạo lực lượng du kích xã phối hợp với lực lượng biệt động chỉ huy đánh địch trong những ngày tổng tiến công ở địa phương.

Đến đầu năm 1968, đồng chí Lê Công Minh (Sáu Th anh), Huyện ủy viên kiêm Bí thư chi bộ xã, thành lập tổ giao liên gồm có đồng chí Nguyễn Văn Cơ và Trần Th ị Mạnh với nhiệm vụ móc nối xây dựng thêm cơ sở cách

1. Năm 1967, đồng chí Dơi bị địch bắn phục kích nên đã hy sinh.

Page 105: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 105

mạng trong xã và vận động quần chúng ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Chuẩn bị cho Mậu Th ân, Huyện ủy Bình Tân chỉ đạo cho Bình Trị Đông xây dựng các hầm bí mật. Hơn 30 cái lu có khả năng chứa được 2 người được mua để nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ ở vùng trắng ra và những người hiện vẫn hoạt động hợp pháp trong ấp chiến lược. Xã Bình Trị Đông được chọn làm nơi ém quân chủ lực và địa phương thuộc cánh Bình Tân để tấn công vào Sài Gòn – Chợ Lớn. Các đơn vị của đồng chí Nguyễn Văn Kịp (Đồng Đen) và Năm Lang thuộc Tiểu đoàn 6, do anh hùng Lê Minh Xuân chỉ huy, đóng quân tại ấp 3. Đơn vị biệt động FK.6 và nhiều đơn vị khác đặt cơ sở tại xã1.

Chuẩn bị về mặt hậu cần, xã gói hàng trăm đòn bánh tét. Có những cá nhân như chị Ba Gai (vợ anh Tư Còn) đóng góp 80 đòn bánh tét. Bông băng, thuốc cầm máu và một số loại thuốc thông dụng khác cũng được một cơ sở của xã là chị Nguyễn Th ị Cặn (Tư Cặn) chuẩn bị đầy đủ. Khí thế cách mạng náo nức, mọi công tác được tiến hành khẩn trương và rất bí mật. Nhân dân trong xã đã phát huy tinh thần tự giác cao, tất cả đều chung lòng chung sức đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Nhân dân thực hiện việc hướng dẫn đưa lực lượng về vùng tập kết, nuôi giấu che chở, bảo vệ cán bộ, vũ khí. Quần chúng

1. Một trong những người tham gia tổ chức FK.6 là đồng chí Đào Văn Phước công tác tại Phòng Cảnh sát Giao thông thuộc Sở Công an TP. Hồ Chí Minh sau ngày giải phóng.

Page 106: LSDB Binh Tri Dong B_size

106 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

được tổ chức thành các tổ cứu thương, chuyển và chăm sóc thương bệnh binh, tiếp lương, tải đạn, dẫn đường và chuẩn bị lực lượng chính trị, cờ, băng rôn, khẩu hiệu để hợp đồng nổi dậy diệt ác, phá kềm, giành chính quyền.

Đến ngày 30 tháng 1 năm 1968, các lực lượng chủ lực và địa phương thuộc cánh Bình Tân thực hiện tấn công vào Sài Gòn - Chợ Lớn như Tiểu đoàn 6, đơn vị biệt động FK6… đã tập trung đầy đủ tại các điểm ém quân trên địa bàn xã.

Chiều 30 tháng 1 (chiều 30 Tết), các đơn vị ém quân tại xã bắt đầu nổ súng tấn công vào nội thành. Lực lượng du kích xã do đồng chí Huỳnh Văn Tý (Út Tý), xã đội trưởng, làm trung đội trưởng dẫn đường tổ chức đánh vào đồn Bình Trị Đông làm bị thương 7 tên.

Th áng 2 năm 1968, Trung đoàn 3 Công trường 9 (Sư đoàn 9) do đồng chí Lê Văn Sinh chỉ huy và đoàn 10 Long An về đóng quân tại xã. Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 cũng lấy xã Bình Trị Đông làm bàn đạp tấn công vào Phú Th ọ trong đợt 2 Mậu Th ân.

Đêm mùng 4 rạng ngày 5 tháng 3 năm 1968, tiếng súng nổ khắp nơi, bắt đầu tấn công đợt 2. Trong đợt hai của cuộc tổng công kích, nhân dân xã Bình Trị Đông đã đào hầm nuôi dưỡng 50 thương binh. Đồng chí Lê Văn Th anh đã mưu trí dùng xe GMC chuyển dần các thương binh về đến căn cứ Vườn Th ơm an toàn. Bà con trong xã còn kéo cờ trắng đấu tranh đòi địch cho chôn cất cán bộ, bộ đội hy sinh đang phơi xác ngoài trời. Địch buộc phải

Page 107: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 107

chấp nhận yêu cầu để bà con chôn cất và tiến hành 5 đến 7 ngày mới xong.

Quân Mỹ và chư hầu đóng ở Mả Lò kết hợp với lính xã, huyện truy lùng đánh phá cơ sở cách mạng và ra sức bắt lính đôn quân ở chiến trường miền Nam để thực hiện chiến tranh “tìm diệt” đẫm máu, đã bị lực lượng ta đánh tại vùng trắng ở ấp Tân Khai vào ngày 10 tháng 5 năm 1968.

Trên phần đất Gò Mồ Côi phía Tây Nam xã nối liền với căn cứ quân sự Mỹ (trại tên lửa của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay), lực lượng Trung đoàn 3 Sư đoàn 9 Miền, phối hợp chặt chẽ với đội du kích xã, tổ chức phục kích và tiêu diệt khoảng 100 tên Mỹ - ngụy. Trận này chúng dùng cả lực lượng không quân ném bom xuống trận địa.

Trong chiến dịch Mậu Th ân, lực lượng ta ở Bình Tân nói chung và xã Bình Trị Đông nói riêng đã thu được nhiều thắng lợi. Ta đã tiêu diệt lực lượng địch trong một thời gian ngắn nhưng sau đó địch phản kích quyết liệt và từng bước đưa tay sai, lực lượng quân sự trở lại. Ngoài lực lượng lính ngụy, các sư đoàn thiện chiến của quân viễn chinh Mỹ cũng thường xuyên được điều động hành quân, đóng và càn quét ở khu vực này. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 là một đòn mạnh giáng vào âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Paris.

Page 108: LSDB Binh Tri Dong B_size

108 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

2. Từng bước khôi phục lực lượng và phong trào kháng chiến (1969 - 1973)

Sức vang của cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Th ân đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chiến lược “chiến tranh cục bộ” bị thất bại. Mỹ buộc phải thực hiện “học thuyết Nixon”, chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chuyển từ “tìm diệt” sang “quét và giữ”. Th eo chiến lược này, quân Mỹ và chư hầu rút dần khỏi miền Nam Việt Nam, tăng cường quân nguỵ để âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. Để thực hiện chiến lược này, Mỹ - ngụy đã sử dụng sức mạnh của bom đạn, rải chất độc hoá học có tính chất huỷ diệt, kết hợp với những thủ đoạn về quân sự, chính trị, kinh tế, chiến tranh tâm lý, tình báo, gián điệp tạo thành sức mạnh tổng hợp tàn bạo nhằm thực hiện 2 chính sách lớn là đôn quân bắt lính và bình định nông thôn miền Nam.

Sau Tết Mậu Th ân, lực lượng cách mạng Nam bộ nói chung, lực lượng cách mạng Bình Trị Đông nói riêng bị tổn thất nặng nề, địch phản công ác liệt. Từ năm 1969, trên địa bàn xã, địch ráo riết tăng cường đồn bót, kiểm soát chặt các nút giao thông, trạm gác, chợ búa. Các toán lính nghĩa quân, biệt cách, biệt kích, mật thám, chỉ điểm lùng sục khắp nơi trong xóm ấp nhằm truy lùng cán bộ cách mạng còn bám trụ trong dân, chúng quyết tâm quét sạch cộng sản khỏi vùng đất này. Chính quyền ngụy ở Bình Tân đã mở nhiều cuộc càn quét lớn tại xã Bình Trị

Page 109: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 109

Đông và nhiều nơi khác với quyết tâm thâm độc là phá vỡ các cơ sở cách mạng từ trong dân ra ngoài vùng trắng để tiêu diệt cộng sản. Để bảo toàn lực lượng cách mạng và tránh tổn thất, chi bộ chỉ đạo một số đồng chí tạm lánh đi nơi khác công tác, số còn lại tiếp tục bám trụ để xây dựng cơ sở hoạt động.

Sau Mậu Th ân, đồng chí Nguyễn Th ị Khởi (Hai Khởi), lúc này đã là Bí thư chi bộ xã, phải thoát ly hẳn ra vùng trắng. Lực lượng du kích xã thiệt hại nặng nề, xã đội trưởng Huỳnh Văn Tý và nhiều du kích khác như đồng chí Hai Lo, Huỳnh Văn Hoàng, Hai Hồng, Cu, Chiến… lần lượt hy sinh.

Trong những năm 1969 - 1971, địch tăng cường đánh phá ác liệt trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định, trọng điểm là vùng ven đô trong đó có cửa ngõ vành đai phía Bắc và Tây Bắc Sài Gòn (nằm trong phạm vi huyện Bình Chánh chiếm gần phân nửa). Mỹ - ngụy quyết tâm bình định cho được huyện Bình Chánh1, trong đó có xã Bình Trị Đông.

Lúc này, lực lượng vũ trang Bình Tân và Bến Lức tập hợp lại thành bộ đội Liên Huyện tổ chức nhiều trận đánh phục kích và tiêu diệt địch. Th ực hiện chủ trương của cấp trên năm 1970, Huyện ủy Bình Chánh ra sức xây dựng,

1. Sau Mậu Thân 1968 ta lập lại huyện Bình Chánh (không còn huyện Bình Tân). Bình Chánh chia làm hai phần gồm Bắc lộ 4 gọi là Bắc Bình Chánh và Nam lộ 4 gọi là Nam Bình Chánh gồm có các xã thuộc Tân Phong Hạ và Tổng Phước Điền.

Page 110: LSDB Binh Tri Dong B_size

110 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

củng cố lực lượng du kích các xã kể cả xây dựng các tổ du kích mật trong nhân dân tự vệ của địch, đẩy mạnh công tác binh vận, diệt ác phá tề, phá thế kềm kẹp của địch. Th ực hiện theo chủ trương của Th ành ủy, Huyện ủy Bình Chánh, Chi bộ Đảng xã Bình Trị Đông đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, phát huy sức mạnh toàn dân đánh giặc, nhân dân Bình Trị Đông quyết tâm bám trụ, ra sức diệt ác, phá kềm, từng bước khôi phục lực lượng cách mạng.

Năm 1969, đồng chí Nguyễn Th ị Khởi, một mặt củng cố chi bộ và các cơ sở, mặt khác cử đồng chí Chín Mạnh, Tám Th anh đứng ra tổ chức, lãnh đạo phụ nữ xã tham gia Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống của bà Ngô Bá Th ành và các phong trào đòi hòa bình và trung lập khác. Những người của xã tham gia Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống như Chín Hóa, Tư Cặn, Tư Bốc, Sáu Du, Ba Th oi, Mười Cửu, Tư Dần, Nguyễn Th ị Sự…1 Lực lượng này đã cùng nhân dân thành phố đấu tranh đòi quyền bình đẳng, chống sự kềm kẹp, áp bức của Mỹ - ngụy và tham gia phong trào đấu tranh chính trị của xã, để hỗ trợ du kích đấu tranh vũ trang, chống đôn quân, bắt lính và bình định của địch.

Lực lượng du kích xã Bình Trị Đông từng bước được phục hồi. Năm 1970, đồng chí Nguyễn Văn Hóa (Mười Hóa), Xã đội trưởng Bình Trị Đông, nhận của đồng chí Huỳnh Việt Tứ, cán bộ phong trào thanh niên Sài Gòn - Gia Định khoảng 2.000 tờ truyền đơn và một khẩu súng

1. Bà Dương Thị Một bị bắt trong cuộc đấu tranh này.

Page 111: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 111

ngắn K54. Bà Nguyễn Th ị Bi được phân công đem rải truyền đơn: “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đả đảo tên độc tài phát xít Nguyễn Văn Th iệu” tung bay nhiều nơi trong xã và các xã khác bên cạnh.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Bình Chánh về chủ trương hạ quyết tâm đánh phá chương trình bình định, tháo bỏ kềm kẹp của địch, trừng trị bọn phản động, chỉ điểm, bọn ác ôn tề điệp có nợ máu với cách mạng, với nhân dân. Cùng với sự hỗ trợ, giúp đỡ của quần chúng, đồng chí Mười Hóa lãnh đạo đội du kích xã tổ chức diệt một số tên ác ôn như Hai Hải, Bảy Tăng, Ba Mặn1. Một mình đồng chí Mười Hóa đột nhập vào trụ sở dân vệ ấp 2 bắn chết tên Trưởng ấp Năm Be và một số tên khác.

Sau Mậu Th ân 1968, quân ngụy lập chốt để khám xét các xe lưu thông bằng hàng rào dây kẽm gai tại khu vực ngã tư Da Sà (nay thuộc phường An Lạc A), đưa chỉ điểm ra để nhận diện cán bộ cách mạng về đây hoạt động, đến năm 1970, du kích xã đã tổ chức trận đánh vào chốt cảnh sát ngụy tiêu diệt lực lượng đóng chốt tại đây và buộc địch phải tháo dỡ chốt.

Ngày 20 tháng 12 năm 1970, đồng chí Nguyễn Văn Hóa bị bắn ở Mả Lò, đồng chí Huỳnh Th ị Hồng (Năm Hồng) lên thay làm Xã đội trưởng. Du kích xã lúc này

1. Hai Hải, Bảy Tăng là những tên chiêu hồi đã từng chỉ điểm một số cơ sở cách mạng, giúp địch đàn áp cán bộ ta, còn tên Ba Mặn là cảnh sát nổi tiếng ác ôn trong vùng đã gây nhiều tội ác với nhân dân.

Page 112: LSDB Binh Tri Dong B_size

112 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

ngoài đồng chí Năm Hồng còn có các đồng chí Trần Văn Tuấn (Lý), Kỉnh, Sơn, Ba Th anh, Cúc.

Trong những ngày rằm, ngày Tết Nguyên đán, nhân dân thường tụ tập rất đông tại các chùa trong xã như chùa Vạn Phước để cúng Phật, đồng chí Chín Mạnh đã tranh thủ tuyên truyền các chính sách, chủ trương của Đảng đến quần chúng để giác ngộ và nâng cao ý thức cách mạng cho quần chúng.

Ngụy quân ra sức bình định và mở “chiến dịch Phượng Hoàng” nhằm tìm và diệt cơ sở cách mạng, đánh vào các cơ sở của ta như các gia đình cách mạng, những cán bộ đảng viên còn bám trụ với khẩu hiệu: “Th à giết lầm còn hơn bỏ sót”. Số người bị địch bắt và tù đày ngày càng tăng. Trong năm 1967, đồng chí Dương Văn Nghĩ, một cán bộ cơ sở nòng cốt của du kích xã bị địch bắt và tra tấn đến chết nhưng vẫn không khai địa điểm nuôi giấu cán bộ và cất giấu vũ khí. Ở Bình Trị Đông, số thanh niên bị bắt đi quân dịch ngày càng nhiều dẫn đến phong trào trốn lính của thanh niên trong xã diễn ra khắp nơi, phần đông thanh niên trong xã không đi lính cho ngụy.

Năm 1972, tình hình chiến trường Bình Chánh có nhiều thay đổi, lực lượng cách mạng đã vượt qua thời kỳ khó khăn, khẩn trương chuẩn bị “giành thắng lợi quyết định trong năm 1972” theo chỉ đạo của Bộ Chính trị. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại.

Tại Bình Trị Đông năm 1972 chi bộ xã được củng

Page 113: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 113

cố lại, có 6 đảng viên hoạt động vừa bí mật vừa công khai. Huyện Bình Chánh cử đồng chí Sáu Cuống về làm công an xã.

Th áng 8 năm 1972, các đồng chí Hai Khởi, Năm Hồng, Trần Văn Tuấn (Lý) cùng với bộ đội huyện tổ chức cuộc họp tại nhà chị Trần Th ị Mạnh thảo luận về cách đánh đồn Bình Trị Đông, trụ sở của địch. Đến tháng 11 năm 1972 trận đánh được thực hiện, ta phá trụ sở, một số nhân dân tự vệ đầu hàng xin đi theo, được ta đưa về trên huyện.

Hội hũ gạo nuôi quân của xã do đồng chí Chín Mạnh làm Hội trưởng ngày càng phát triển mạnh. Hội viên gồm có Tư Trang, Ba Não, Tám Bo, Sáu Nụ, Bốn Bấc, Tư Đúng, Tư Cặn, Tám Th anh… đã vận động được nhiều nhân dân trong xã đóng góp gạo hoặc tiền hỗ trợ cho cán bộ cách mạng.

Đội du kích do đồng chí Trần Văn Tuấn (Lý), xã đội trưởng, vận động được một số quần chúng tích cực thành lập tổ tuyên truyền, liên lạc và làm công tác binh địch vận trong xã. Tổ này do Ba Việt làm tổ trưởng, Huỳnh Văn Ngơi tổ phó và các tổ viên như Bảy Tứ, Huỳnh Hồng Lưu, Nguyễn Văn Đồng. Cơ sở đặt tại vùng trắng, thường xuyên liên lạc với du kích để đưa tin tức, địa chỉ của những tên gây nợ máu với nhân dân. Chỉ trong thời gian ngắn, tổ này đã cung cấp những thông tin quan trọng, kịp thời, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho du kích xã tiêu diệt 10 tên ác ôn. Ngoài việc vận động 3 tên lính ngụy buông

Page 114: LSDB Binh Tri Dong B_size

114 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

súng về với cách mạng tổ còn đi rải truyền đơn trong xã, kêu gọi nhân dân tích cực chống chính sách bắt lính và bình định nông thôn.

Đến giữa năm 1972 trên chiến trường miền Nam, những chiến công vang dội của quân và dân ta đã đẩy quân Mỹ vào tình thế nguy kịch. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ nằm bên bờ vực thẳm, quyền chủ động trên chiến trường đã thuộc về ta. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ buộc phải rút hết quân về nước. Cách mạng miền Nam đứng trước những thay đổi lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân miền Nam và nhân dân xã Bình Trị Đông tiến lên đánh bại hoàn toàn chính quyền tay sai, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

III. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO KHÁNG

CHIẾN, TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (1973 - 1975)

1. Đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Paris, chống địch lấn chiếm, bình định nông thôn

Hiệp định Paris được ký kết buộc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Th ế nhưng chúng không từ bỏ âm mưu xâm lược, tiếp tục để lại cố vấn quân sự, duy trì viện trợ kinh tế cho chính quyền ngụy. Để thực hiện kế hoạch chia cắt lâu dài đất nước ta, chính quyền Nguyễn Văn Th iệu đã đề ra kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ” và tiến

Page 115: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 115

hành đẩy mạnh bình định đặc biệt nhằm giữ thế chủ động trên chiến trường. Chính quyền ngụy mở các đợt hành quân càn quét, lấn chiếm lớn nhằm chiếm lại các vùng ta mới giải phóng và một số vùng giải phóng từ trước.

Th áng 7 năm 1973, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 bàn về tình hình cách mạng miền Nam sau Hiệp định Paris. Chấp hành chỉ đạo của Trung ương Đảng, Trung ương Cục tổ chức hội nghị lần thứ 12 để xác định nhiệm vụ của toàn Miền là: “Ra sức tạo thế mới, tạo và nắm thời cơ giành thắng lợi lớn”.

Ở vùng xung quanh Sài Gòn - Gia Định, tại huyện Bình Chánh, tháng nào địch cũng mở các cuộc càn quét, mỗi phân chi khu (xã) có từ trung đội đến đại đội nguỵ quân thường trực, chưa kể còn có lực lượng lính nghĩa quân khá đông, mỗi xã có 1 trung đội, có xã lên đến 1 đại đội.

Th áng 8 năm 1973, chấp hành nghị quyết của Th ường vụ Th ành ủy, Đảng bộ huyện Bình Chánh đã họp dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Văn Th anh, Bí thư Huyện ủy, triển khai kế hoạch chống phá bình định, xây dựng lực lượng, tạo lực đón thời cơ giành thắng lợi mới.

Trên cơ sở đó, cán bộ và nhân dân xã Bình Trị Đông đã đấu tranh chính trị đòi địch thi hành Hiệp định Paris, chống lấn chiếm, kêu gọi binh lính về với nhân dân bên cạnh hoạt động vũ trang chống địch càn quét. Lực lượng du kích xã Bình Trị Đông được tăng cường và phát triển, tổ chức phối hợp với hoạt động của lực lượng du kích

Page 116: LSDB Binh Tri Dong B_size

116 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

huyện đánh phá đồn địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Hoạt động vũ trang của bộ đội huyện và du kích xã đã tạo thế cho phong trào đấu tranh của nhân dân ở Bình Trị Đông và các xã thuộc huyện Bình Chánh nhằm mở mảng, mở vùng, bảo vệ xóm ấp. Khoảng tháng 9 năm 1973, du kích xã Bình Trị Đông gồm có các đồng chí Năm Hồng, Sáu Tiêu tổ chức ém quân tại nhà chị Tảo diệt tên Nhô, cảnh sát xã Bình Trị Đông tại ấp 3.

Th áng 2 năm 1974, đồng chí Trần Văn Tuấn, lúc này đã là Xã đội trưởng, kết hợp với tiểu đội huyện do đồng chí Ba Công chỉ huy, tổ chức đánh vào trụ sở dân vệ ấp 2 của địch. Ta tiêu diệt 2 tên Th àng và Sến, vận động hơn 30 thanh niên về với cách mạng, góp phần làm thất bại chủ trương đôn quân bắt lính và quân sự hóa thanh niên ở xã.

Th áng 10 năm 1974, Tiểu đội huyện Bình Chánh do đồng chí Ba Điệp chỉ huy được sự phối hợp của đồng chí Trần Văn Tuấn dẫn đường đã đánh vào trụ sở dân vệ ấp 2, bắt đi 15 nhân dân tự vệ và đặt chất nổ phá sập trụ sở của chúng. Sau đó địch xây dựng lại trụ sở, nhưng ta đã tổ chức thêm hai trận đánh nữa làm cho chúng lo sợ, hoang mang. Bọn nhân dân tự vệ không dám tập trung đông ở đây nữa.

Th áng 11 năm 1974, địch tập trung 1 trung đội gồm có cảnh sát, địa phương quân và lính nghĩa quân tại sân bắn xã Bình Trị Đông, nơi đây có hàng rào kẽm gai bao bọc và công sự chiến đấu. Đồng chí Trần Văn Tuấn phối

Page 117: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 117

hợp với tiểu đội huyện tổ chức đánh và tiêu diệt tại chỗ 2 tên cảnh sát, một số tên bị thương. Trận đánh này làm cho địch từ đó về sau không dám sử dụng sân bắn để tập luyện nữa.

Bình Chánh là bàn đạp của quân ta tiến công vào nội đô, đây cũng là trạm giao liên gần nhất từ Ba Th u về thành phố Sài Gòn. Vì vậy, hoạt động diệt ác, phá tề, đánh cho địch phải co cụm lại, mật thám phải bị tiêu diệt để ta dễ dàng ém quân. Du kích các xã và bộ đội huyện đã phối hợp đánh bót địch ở các xã như bót Chồi Ký, vây ép bọn dân vệ ở Hưng Long, Đa Phước, Tân Quý Tây, vây bót Chợ Đệm, phá rã bọn phòng vệ dân sự ở Tân Tạo, uy hiếp tề xã ở phân chi khu Bình Trị Đông.1

Cuối năm 1974, đồng chí Huỳnh Việt Tứ được huyện cử bổ sung về phụ trách phía Bắc Bình Chánh trong đó có xã Bình Trị Đông để tiếp tục xây dựng cơ sở, chống địch phá hoại Hiệp định Paris. Cùng với hoạt động vũ trang, công tác binh vận, xây dựng nội tuyến cũng được chú trọng. Bên cạnh xóm ấp, các cơ sở cách mạng cũng đã bám rễ vào quần chúng, công tác địch ngụy vận được đẩy mạnh, quần chúng rất tin tưởng vào cuộc kháng chiến, những phần tử lưng chừng đã được giác ngộ, một số toán phòng vệ dân sự đã hợp tác với cách mạng. Đến cuối năm 1974, bộ đội huyện Bình Chánh kết hợp với du kích xã mở thêm nhiều trận đánh, tiêu diệt nhiều tên địch ở các

1. Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930 - 1975), xuất bản 2012, trang 210.

Page 118: LSDB Binh Tri Dong B_size

118 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

ấp, vận động hơn 50 thanh niên về với cách mạng, thu được nhiều vũ khí các loại, phá hủy công sự chiến đấu của địch tại xã, đẩy chúng vào tình thế khủng hoảng, tinh thần hoang mang, dao động, tan rã về ý chí chiến đấu. Đồng thời còn tạo cho quần chúng trong xã thêm tin tưởng vào sự phát triển của lực lượng vũ trang địa phương.

2. Nổi dậy phối hợp với quân giải phóng tiến công trong mùa xuân 1975

Đến cuối năm 1974, phong trào đấu tranh cách mạng ngày càng lên cao. Ngày 6 tháng 1 năm 1975, chiến thắng Phước Long đã mở đầu cho việc giải phóng một tỉnh và mở ra khả năng giải phóng cho cả miền Nam. Ngày 27 tháng 1 năm 1975, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền họp quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị về quyết tâm thực hiện chiến lược giải phóng miền Nam. Bên cạnh đó, Trung ương Cục đã đề ra kế hoạch đẩy mạnh hoạt động trong mùa khô, tạo thế, tạo lực phối hợp toàn miền Nam thực hiện quyết tâm giải phóng đất nước. Chỉ trong một thời gian ngắn ta đã giải phóng nhiều vùng đất quan trọng, trong đó có vùng chiến lược Tây Nguyên, phá thế phòng ngự chiến lược của địch, buộc địch rút lui co cụm chiến lược.

Chi bộ xã từng bước phát triển lực lượng du kích, thành lập được một trung đội (24 đồng chí) có trang bị đầy đủ vũ khí, vững về tinh thần và khả năng chiến đấu. Bên cạnh đó, chi bộ vận động, tổ chức quần chúng thành lực lượng đấu tranh chính trị đông đảo, mạnh mẽ và

Page 119: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 119

rộng khắp, tiếp tục xây dựng cơ sở bên trong (bí mật) và củng cố lại cơ sở cách mạng cũ trước đây, vận động thanh niên gia nhập vào bộ đội, xây dựng đội dân công gần 100 người, gồm những thanh niên tốt và tích cực hoạt động cách mạng.

Ở vùng ven thành phố, sau hai đợt mở cuộc tiến công (đợt 1 từ ngày 5 tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975 và đợt hai từ ngày 9 tháng 3 năm 1975), các đơn vị bộ đội của ta tạo thế đứng sát vùng địch ở Gò Vấp, Tân Bình, Bình Chánh, Nhà Bè, Th ủ Đức.

Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị họp hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam trong năm 1975 và xác định phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu sắp tới sẽ là Sài Gòn. Tiếp theo chiến dịch Tây Nguyên, quân ta tiến công như vũ bão trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị họp nhận định về giai đoạn phát triển nhảy vọt của cục diện quân sự và chính trị ở miền Nam, từ đó xác định “Th ời cơ chiến lược đã tới”. Ngày 14 tháng 4, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch giải phóng Sài Gòn – Gia Định, lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.

Ngày 12 tháng 4 năm 1975, Th ường vụ Th ành ủy Sài Gòn – Gia Định ra Nghị quyết chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đồng chí Mười Th ơ, Th ường vụ Th ành ủy phụ trách các huyện ngoại thành mời đồng chí Ba Th ọ, Bí thư Huyện ủy Bình Chánh, về họp đánh giá tình hình các

Page 120: LSDB Binh Tri Dong B_size

120 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

mặt của huyện và có kế hoạch triển khai để phục vụ cho chiến dịch Hồ Chí Minh.

Để chuẩn bị cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, chiến dịch tấn công vào Bình Chánh được chia làm hai hướng: cánh phía Bắc Bình Chánh do đồng chí Lê Th ọ, Bí thư Huyện ủy, chỉ huy tập kết tại Tân Tạo, Tân Kiên và cánh phía Nam Bình Chánh do đồng chí Năm Đông, Phó Bí thư, chỉ huy tập kết tại Hưng Long, Phong Phú. Chiều 27 tháng 4 năm 1975, hai tiểu đoàn chủ lực Long An (Tiểu đoàn 1 và 2) do đồng chí Tư Th ân chỉ huy và Trung đoàn 88 đã về đến các xã Nam Bình Chánh.

Tại Bình Chánh, làn sóng tiến công ồ ạt của các cánh quân chủ lực trên tất cả các hướng cùng với sự nổi dậy hưởng ứng của đông đảo nhân dân ở các địa phương. Ngày 28 tháng 4 năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Bình Trị Đông, do đồng chí Trần Văn Cuốn (Sáu Cuốn) làm bí thư chi bộ, đã phân công đồng chí Võ Th ị Kim Liên (Tuyết) và một số cơ sở cách mạng vận động và tổ chức nhân dân nổi dậy làm chủ vùng trắng và nhiều nơi khác trong xã, tạo thế ém quân cho bộ đội địa phương áp sát Chợ Lớn, Sài Gòn và trung đội du kích kềm chân địch tại địa phương làm hạn chế sự hoạt động và đẩy chúng vào tình thế co cụm và bị động.

Trên hướng tây và tây nam - hướng Đoàn 2321, đêm

1. Sư đoàn 3, Đoàn 232 vào lúc 10 giờ 10 ngày 29 tháng 4 năm 1975 đã làm chủ thị xã Hậu Nghĩa, sau đó tổ chức đánh chiếm chi khu Đức Hòa, chi khu Đức Huệ (lúc 14 giờ 30), căn cứ Trà Cú (lúc 18 giờ 20) và tổ chức

Page 121: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 121

29 tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 3, bộ phận đi đầu của Sư đoàn 9 đã triển khai ở khu vực Bà Lác - tuyến đê Đại Hàn, bắc Bà Hom 2km. Sư đoàn 5 và sư đoàn 8 tiếp tục cắt lộ 4, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Trung đoàn 24 và 88 đã phát triển đến bắc Cần Giuộc, Hưng Long. Phía bên trong, lực lượng vùng ven cũng tăng cường hoạt động: Trung đoàn đặc công 429 tiến đánh Tiểu đoàn 8 biệt động ngụy tại Tân Tạo, Bà Hom, khu ra đa Phú Lâm; đánh chiếm ấp 2 (xã Bình Trị Đông), ấp Bình Hưng, Ký Th ủ Ôn và cầu Nhị Th iên Đường; Trung đoàn đặc công 117 bắn 200 viên ĐKB vào sân bay Tân Sơn Nhất; bộ đội địa phương Bình Chánh đánh chiếm các phân chi khu Tân Túc, Tân Hào (Tân Bình).

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, một đơn vị chủ lực 117 bộ đội đặc công của đoàn 232 kết hợp với bộ đội huyện, du kích xã cùng tiến công và nổi dậy tại các điểm trong xã, làm chủ hoàn toàn Bình Trị Đông. Bọn lính ngụy hoảng sợ bỏ súng tháo chạy khỏi đồn Bình Trị Đông. Hơn 200 tên lính ngụy thuộc Liên đoàn Biệt động quân số 8 từ Tân Tạo chạy về vùng trắng Bình Trị Đông được chi bộ xã Bình Trị Đông mà cụ thể là các đồng chí Ba Th anh, Tư Khéo, Tuyết vận động đến 15 giờ cùng ngày đã ra hàng và được đưa về tập trung tại khuôn viên nhà ông Huỳnh Văn Tiếp (ấp 1) để nghe chính sách

vượt sông Vàm Cỏ Đông. Tàn quân địch ở Hậu Nghĩa chạy về Củ Chi bị Trung đoàn 1 Gia Định từ Xuân Thới Thượng vận động ra diệt và bắt hàng trên 1.000 tên. Sư đoàn 9 đưa toàn bộ lực lượng vào Mỹ Hạnh, sau đó thọc sâu về hướng Bà Quẹo.

Page 122: LSDB Binh Tri Dong B_size

122 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

khoan hồng của cách mạng. Bình Trị Đông hoàn toàn được giải phóng.

** *

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam: thời kỳ xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trải qua 21 năm kháng chiến, cán bộ và nhân dân Bình Trị Đông đã vượt qua một chặng đường dài vô cùng khó khăn, gian khổ với nhiều hy sinh, mất mát. Cán bộ, quần chúng nhân dân đã cống hiến sức người, sức của cho phong trào đấu tranh cách mạng tại địa phương. Qua thực tế đấu tranh, các đồng chí trong Chi bộ Bình Trị Đông đã từng bước trưởng thành, ngày càng nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững vai trò lãnh đạo trong các cuộc đấu tranh với kẻ thù xâm lược và nguỵ quyền tay sai. Quần chúng nhân dân đã luôn một lòng tin tưởng vào con đường cách mạng, hỗ trợ, giúp đỡ cán bộ bám trụ và chiến đấu chống địch, lập nên nhiều thành tích vẻ vang, góp phần đưa phong trào cách mạng ở địa phương phát triển vững mạnh. Những chiến lược chiến tranh được Mỹ - ngụy áp dụng trên địa bàn xã Bình Trị Đông đều gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ của quần chúng nhân dân. Quốc sách “ấp chiến lược” tuy đã làm cho Bình Trị Đông trở thành vùng trắng nhưng không ngăn được phong trào cách mạng nơi đây. Các hầm bí mật, các lõm căn cứ

Page 123: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 123

vẫn tồn tại để nuôi giấu cán bộ, đảng viên tiếp tục hoạt động. Chi bộ xã đã kiên trì bám trụ trong dân chỉ đạo các phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang, liên tiếp đánh địch càn quét, diệt ác, phá tề, vận động thanh niên chiến đấu, phòng vệ dân sự rã ngũ về với cách mạng; hỗ trợ bộ đội huyện và bộ đội chủ lực trong cuộc tổng công kích và nổi dậy Mậu Th ân 1968 và cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Những đóng góp của chi bộ và nhân dân xã Bình Trị Đông góp phần cùng quân và dân cả nước giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Đây là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Bình Trị Đông, tạo cơ sở vững chắc trong mối quan hệ giữa quần chúng và Đảng trong giai đoạn sau khi Bình Trị Đông cùng cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Page 124: LSDB Binh Tri Dong B_size

124 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Đồng chí Nguyễn Thị Thùa

(Năm Hồng)

Bí thư (1961 – 1964)

Đồng chí Nguyễn Văn Định

(Sáu Bé)

Huyện ủy viên kiêm Bí thư chi bộ xã

(1964)

Đồng chí Huỳnh Thị Quạt

(Ba Cò)

Bí thư (1966)

Đồng chí Nguyễn Thị Khởi

(Hai Khởi)

Bí thư (1968 - 1970), (1972 – 1973)

Đồng chí Huỳnh Việt Tứ

Phụ trách phía Bắc Bình Chánh trong đó có xã Bình Trị Đông

(1974)

Page 125: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 125

ÑAÛNG BOÄ LAÕNH ÑAÏO NHAÂN DAÂNTHÖÏC HIEÄN SÖÏ NGHIEÄP PHAÙT TRIEÅNKINH TEÁ - XAÕ HOÄI (1975-2013)

Phần thứ hai

Page 126: LSDB Binh Tri Dong B_size

126 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Page 127: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 127

CHI BOÄ BÌNH TRÒ ÑOÂNG LAÕNH ÑAÏONHAÂN DAÂN THÖÏC HIEÄN SÖÏ NGHIEÄPXAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ - XAÕ HOÄI (1975-2003)

CHÖÔNG BA

Page 128: LSDB Binh Tri Dong B_size

128 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Quốc hội khóa VI (trong kỳ họp ngày 02/07/1976)

đã Quyết định đổi tên Th ành phố Sài Gòn thành Th ành phố Hồ Chí Minh. Phường Bình Trị Đông lúc này vẫn là một bộ phận trong tổng thể tự nhiên thuộc xã Bình Trị Đông, huyện Bình Chánh ngoại thành Th ành phố Hồ Chí Minh.

Nhân dân xã Bình Trị Đông đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ mới trong thời bình đó là khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng chính quyền và phát triển văn hóa – xã hội, ổn định an ninh – chính trị ở địa phương.

I. CHI BỘ LÃNH ĐẠO KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH,

CẢI TẠO VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1975 – 1985)

1. Chi bộ lãnh đạo xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, phục vụ sản xuất, ổn định đời sống nhân dân (1975 – 1977)

1.1. Tình hình Bình Trị Đông sau ngày thống nhất đất nước

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ hết sức khó khăn lại phải tiến hành trong điều kiện đất nước vừa trải qua những năm tháng chiến tranh liên miên nên càng gian nan hơn. Ở miền Nam kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối và phầ n lớ n lệ thuộc vào viện trợ bên ngoài. Vì vậy, khi Mỹ rút quân,

Page 129: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 129

cắt giảm viện trợ, nề n kinh tế miền Nam lập tức rơi vào khủng hoảng. Nhiệm vụ khôi phục và phát triển một nền kinh tế vốn mang tính lệ thuộc cao như vậy trở nên hết sức khó khăn.

Bình Trị Đông là mộ t xã vù ng ven trong suố t 30 năm đã hứng chịu nhiều hậ u quả củ a chiế n tranh để lạ i hế t sứ c nặ ng nề trên cá c mặ t kinh tế , chí nh trị , tư tưở ng, văn hó a – xã hộ i.

Về kinh tế : Đa số diệ n tí ch đấ t bị hoang hó a, cơ sở vậ t chấ t kỹ thuậ t phụ c vụ cho sả n xuất nông nghiệp hầ u như chưa có gì đá ng kể , hệ thố ng kênh mương tướ i tiêu rấ t í t, lạ i cò n bị hư hỏ ng nặ ng, bã i mì n hố bom chưa đượ c thá o dỡ . Nề n kinh tế lú c nà y chủ yếu dựa vào sả n xuấ t nông nghiệ p mà cụ thể là cây lúa, nhưng cò n mang nặ ng tậ p quá n là m ăn cá thể , sả n xuấ t tiể u thủ công nghiệ p cò n nhỏ lẻ ,...

Về chí nh trị : Một số hoạt động phá hoại của bọn phản động trong hàng ngũ ngụy quân ngụy quyền trước đây với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Điều này đã gây khó khăn cho chính quyền cách mạng ngay trong buổi đầu xây dựng địa phương.

Về văn hó a – xã hộ i: Do ả nh hưở ng tà n dư phong kiế n, tệ nạ n xã hộ i và văn hó a nô dị ch, đồ i trụ y mà chủ nghĩ a thự c dân mớ i để lạ i, cũ ng như ả nh hưở ng củ a tư tưở ng tiể u tư sả n cò n nặ ng nề trong xã hộ i. Nhiều vấn đề cần phải giải quyết trước sự gia tăng dân số một cách đột biế n, trong điều kiện thiếu phương tiện sản xuất, nhà cửa

Page 130: LSDB Binh Tri Dong B_size

130 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

thì không chắc chắn, nghề nghiệp không ổn định, tệ nạn xã hội vẫn còn tồn tại do mộ t bộ phậ n dân cư nộ i thà nh hồ i cư về xã . Bên cạ nh đó , dù Nhà nướ c đã có nhữ ng chí nh sá ch, chủ trương ưu đã i, chăm lo cho cá c gia đì nh chí nh sá ch, gia đì nh có công vớ i cá ch mạ ng, thì vẫ n không thể bù đắ p lạ i hế t nhữ ng nỗ i đau, mấ t má t mà ngườ i thân củ a họ phả i trả i qua,...

Về tổ chứ c quả n lý : Bướ c và o thờ i kỳ mớ i nên nhiệ m vụ cũ ng mớ i và cũ ng rấ t khó khăn. Tình hình này đò i hỏ i chú ng ta vừ a phả i khôi phụ c kinh tế , hà n gắ n vế t thương chiế n tranh; vừ a cả i tạ o và xây dự ng phá t triể n nề n kinh tế mớ i xã hộ i chủ nghĩ a. Trong khi đó, Chi bộ và chí nh quyề n nhân dân xã chưa có kinh nghiệ m tổ chứ c quả n lý kinh tế – xã hộ i do cá n bộ Đả ng, chí nh quyề n đoà n thể xuấ t thân từ nông dân tham gia khá ng chiế n, nay về nắ m chí nh quyề n thực hiện nhiệm vụ quả n lý Nhà nướ c, quả n lý xã hộ i nhưng chưa có kinh nghiệ m và cũng chưa đượ c bồ i dưỡ ng nghiệ p vụ . Qua đó , cán bộ, đảng viên đều phả i từ ng bướ c là m và dần dần rú t ra kinh nghiệ m từ thực tiễn.

Bên cạnh những khó khăn chồng chất do chiến tranh để lại, Bình Trị Đông lại có những thuận lợi rất cơ bản, đó là:

Sau ngà y giả i phó ng, chí nh quyề n cá ch mạ ng và cá c đoà n thể đã nhanh chó ng đượ c thiế t lậ p từ xã đế n ấ p vớ i nhiề u nguồn cá n bộ phong phú : nhữ ng ngườ i khá ng chiế n là nhữ ng ngườ i cá n bộ , bộ độ i trở về , nhữ ng cơ sở

Page 131: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 131

cá ch mạ ng đượ c trui rè n và thử thá ch trong chiế n đấ u, nay lạ i tiế p tụ c lã nh đạ o trong xây dự ng, lự c lượ ng tạ i chỗ đã xây dự ng thà nh mộ t lự c lượ ng chính quyền xã thậ t sự củ a nhân dân, vì nhân dân;... đã đưa nhân dân xã Bì nh Trị Đông từ vị trí người bị bó c lộ t lên vị trí là m chủ . Chí nh quyề n xã đã bắ t tay và o cá c lĩ nh vự c chí nh trị , kinh tế , văn hó a, xã hộ i, an ninh trậ t tự ,... từ ng bướ c thự c hiệ n chứ c năng quả n lý củ a Nhà nướ c.

Chi bộ Đả ng củ a xã vẫ n hoạ t độ ng liên tụ c kể từ ngà y thà nh lậ p Đả ng, số lượ ng đả ng viên không ngừ ng đượ c bổ sung và trưở ng thà nh. Cá c đả ng viên thoá t ly đi khá ng chiế n cù ng vớ i đồ ng bà o trong xã đồ ng cam cộ ng khổ , chấ p nhậ n nhữ ng hy sinh mấ t má t, đã về cù ng nhân dân xây dự ng chi bộ xã , ấ p, lao và o nhiệ m vụ mớ i vớ i tinh thầ n phấ n khở i, hồ hở i. Vớ i kinh nghiệ m gầ n dân, nắ m bắ t tì nh hì nh chung mộ t cá ch sá t thự c, lự c lượ ng đả ng viên và cơ sở Đả ng hoạ t độ ng bí mậ t trướ c đây đã tham gia và o các công việ c điều hành các hoạt động chung củ a xã . Bên cạ nh đó , nhân dân xã Bình Trị Đông có truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất đã đượ c thử thá ch trong hai cuộ c khá ng chiế n chố ng Phá p và chố ng Mỹ , mộ t lò ng theo Đả ng, có xu hướng tiến bộ, nhạy bén trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật mới. Cán bộ, đảng viên được tôi luyện, thử thách trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ.

Vớ i đặ c điể m củ a mộ t xã anh hù ng có bề dà y về truyề n thố ng cá ch mạ ng, vấ n đề an ninh chí nh trị , trậ t tự xã hộ i trong xã luôn đượ c ổ n đị nh, ngườ i dân luôn chấ p

Page 132: LSDB Binh Tri Dong B_size

132 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

hà nh tốt cá c chủ trương chí nh sá ch củ a Đả ng và Nhà nướ c trên mọ i lĩ nh vự c, sẵ n sà ng đó ng gó p công sứ c và o việ c xây dự ng lạ i xã , tham gia cá c phong trà o sả n xuấ t, khôi phụ c lạ i đờ i số ng, đấ u tranh chố ng lạ i cá c biể u hiệ n tiêu cự c và nhữ ng hà nh độ ng cố ý phá hoại, chố ng lạ i chí nh quyề n cá ch mạ ng.

Ðứ ng trướ c nhiệ m vụ mớ i củ a cá ch mạ ng, vớ i nhữ ng thuận lợi và khó khăn nêu trên, với truyền thống cách mạng kiên cường đã được thử thách và tôi luyện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chi bộ Đả ng và nhân dân xã Bì nh Trị Đông luôn nỗ lự c, kiên trì phấ n đấ u, từ ng bướ c khắ c phụ c nhữ ng khó khăn. Đó chính là cơ sở vững chắc để chi bộ Đảng và nhân dân Bình Trị Đông đề ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng phát triển địa phương theo con đường xã hội chủ nghĩa.

1.2. Tiếp quản, xây dựng hệ thống chính trị

Trưa ngà y 30 tháng 4 năm 1975 cù ng vớ i lự c lượ ng bộ độ i chủ lự c, chi bộ và nhân dân trong xã đã nổ i dậ y già nh chí nh quyề n Bì nh Trị Đông về tay nhân dân. Sau đó lự c lượ ng cá n bộ , đả ng viên củ a xã cù ng vớ i cá c lự c lượ ng vũ trang đã nhanh chó ng tiế p quả n tấ t cả cá c cơ sở quân sự , hà nh chí nh củ a đị ch ở đị a phương và tổ chứ c giữ gì n trậ t tự , ổ n đị nh đờ i số ng cho nhân dân. Ngay sau khi giải phóng, chính quyền cách mạng đã được thành lập để tiếp quản địa phương.

Để lã nh đạ o cá ch mạ ng đị a phương bướ c và o thờ i

Page 133: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 133

kỳ mớ i, bả o vệ thà nh quả cá ch mạ ng mớ i già nh đượ c và duy trì điề u hà nh mọ i hoạ t độ ng củ a nhân dân trong xã theo sự chỉ đạ o thố ng nhấ t chung củ a Th à nh phố . Ngà y 10/05/1975, Th ườ ng vụ Th à nh ủ y họ p và thố ng nhấ t tên gọ i cá c quậ n huyệ n trong Th à nh phố . Hộ i nghị đã quyế t đị nh Th à nh phố Sà i Gò n – Gia Đị nh có 21 quậ n, huyện trong đó có 14 quậ n nộ i thà nh và 7 huyện ngoạ i thà nh, Bì nh Trị Đông là mộ t xã củ a huyện Bì nh Chá nh (là mộ t trong 7 huyện ngoạ i thà nh)1.

1. Trong đó 14 quận nội thành: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, Phú Nhuận, Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây; 7 huyện ngoại thành: Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn, Củ Chi.

Đến năm 1976, địa bàn Thành phố về cơ bản giống như nghị quyết ngày 10 tháng 5 năm 1975 của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định và có một số điều chỉnh. Các quận ngoại thành Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi đổi thành các huyện. Sáp nhập một phần nhỏ thuộc tỉnh Long An vào huyện Hóc Môn. Giải thể quận Gò Vấp cũ và thành lập quận Gò Vấp mới trên cơ sở 3 xã Hạnh Thông, An Nhơn và Thông Tây Hội. Quận Tân Bình cũ cũng bị giải thể và thành lập quận Tân Bình mới trên cơ sở xã Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì của quận Tân Bình cũ. Hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây hợp lại thành quận Bình Thạnh. Quận 9 giải thể, trả 2 phường (đổi thành 2 xã) về huyện Thủ Đức, quận 1 và quận 2 nhập thành quận 1 mới, quận 8 và quận 7 nhập thành quận 8 mới.

Ngày 29 tháng 12 năm 1977, thành phố sáp nhập thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Ngày 18 tháng 12 năm 1991, huyện Duyên Hải đổi tên thành Cần Giờ.

Ngày 6 tháng 1 năm 1997 theo Nghị định 03/CP của Chính phủ, Thành phố Hồ Chí Minh có 17 quận (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Gò Vấp, Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức); có 5 huyện ( Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ).

Ngày 5 tháng 11 năm 2003, theo Nghị định 130/2003/NĐ-CP của Chính phủ, hai quận mới là Bình Tân và Tân Phú được thành lập, nâng tổng số quận của Thành phố là 19.

Page 134: LSDB Binh Tri Dong B_size

134 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Bì nh Trị Đông trướ c năm 1975 có 4 ấ p Tân Sinh (ấ p Chiế n lượ c xếp theo số thứ tự 1, 2, 3, 4), từ sau năm 1975 xã có 6 ấ p vớ i tên gọ i theo thứ tự từ 1 đế n 6. Năm 1978 diệ n tí ch đấ t củ a xã cũ ng đã thu hẹ p lạ i cò n 1.260 ha, trong đó đất nông nghiệp là hơn 800 ha. Để phù hợp về điều kiện kinh tế, địa lý, dân số trong quả n lý , khi thành lập thị trấn An Lạc (trước là xã An Lạc), mộ t phầ n đấ t củ a xã đượ c cắ t nhậ p và o thị trấ n An Lạ c và ấp 1 của An Lạc trở thành ấp 5 của xã Bình Trị Đông.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, mộ t trong nhữ ng nhiệ m vụ cấ p bá ch đầ u tiên phả i đượ c tiế n hà nh đó là nhanh chó ng thiế t lậ p chí nh quyề n cá ch mạ ng để giữ gì n an ninh trậ t tự và ổ n đị nh đờ i số ng củ a nhân dân. Vì vậ y, trên cơ sở thự c hiệ n chỉ đạ o củ a Th à nh ủ y và Huyện ủ y, Ủ y ban quân quả n củ a xã Bì nh Trị Đông đượ c thà nh lậ p, gồm có:

+ Đồng chí Lê Công Duyên làm Chủ tịch xã lâm thời kiêm Bí thư chi bộ xã.

+ Đồng chí Trần Văn Cuốn (Sáu Cuốn) làm Phó chủ tịch xã lâm thời đồng thời là Trưởng công an xã.

+ Đồng chí Nguyễn Th ị Khéo (Tư Khéo) làm Trưởng ban Phụ nữ xã.

+ Đồng chí Võ Hữu Đức làm Trưởng ban Nông hội xã.

Trong thờ i gian đầ u mới giả i phó ng, Bì nh Trị Đông vẫ n duy trì tổ chứ c hà nh chí nh theo chế độ cũ và phá t triể n

Page 135: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 135

mạ nh mẽ cá c lự c lượ ng vũ trang, bộ độ i đị a phương, công an, du kí ch xã , ấ p. Dướ i sự lã nh đạ o củ a Đả ng bộ huyện, bộ má y chí nh quyề n xã đã bắ t tay ngay và o thự c hiệ n chứ c năng giữ gì n trậ t tự , ổ n đị nh đờ i số ng nhân dân.

Dâng hương tưởng niệm tại di tích lịch sử cách mạng phường Bình Trị Đông

Trên cơ sở thự c hiệ n yêu cầ u củ a Đả ng bộ huyện: “Yêu cầ u trướ c mắ t là ổ n đị nh tì nh hì nh, khôi phụ c và cả i tạ o kinh tế – xã hộ i huyện mộ t cá ch toà n diệ n, quan trọ ng hơn hế t là phả i khôi phụ c nề n kinh tế để có đượ c cơ sở đả m bả o cho huyện phá t triể n thuậ n lợ i trong nhữ ng chặ ng đườ ng đầ u khi mớ i đượ c giả i phó ng”. Cá c chi bộ trong xã đã sắ p xế p phân công lạ i đả ng viên phụ trá ch từ ng mặ t công tá c như chí nh quyề n, đoà n thể , xó m, ấ p... để nắ m đượ c tì nh hì nh quầ n chú ng.

Đượ c sự lã nh đạ o trự c tiế p củ a Th à nh ủ y, Ủ y ban quân quả n Th à nh phố và Đả ng bộ huyện, trong nhữ ng

Page 136: LSDB Binh Tri Dong B_size

136 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

thá ng đầ u sau giả i phó ng, Chi bộ Đảng và chí nh quyề n cá ch mạ ng xã Bì nh Trị Đông đã dồ n sứ c tậ p trung cho việ c thự c hiệ n ba công tá c lớ n đó là : Truy qué t tà n binh đị ch, trấ n á p bọ n phả n cá ch mạ ng thiế t lậ p trậ t tự trị an tạ i đị a phương; Xây dự ng chí nh quyề n cá ch mạ ng, chủ yế u là chí nh quyề n cá ch mạ ng cơ sở và cá c đoà n thể quầ n chú ng; Ổ n đị nh đờ i số ng nhân dân, cứ u tế đồ ng bà o thiế u ăn, đưa dầ n mộ t bộ phậ n nhân dân từ cá c vù ng bị đị ch dồ n dân về trướ c giả i phó ng hồ i cư. Trong đó , nhiệ m vụ hà ng đầ u là gắ n chặ t vớ i việ c phá t độ ng phong trà o quầ n chú ng, xây dự ng chí nh quyề n cá ch mạ ng. Do đó , song song vớ i việ c tổ chứ c lạ i chí nh quyề n, Chi bộ xã đã thà nh lậ p đượ c cá c lự c lượ ng quầ n chú ng như Th anh niên, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ , các Ủy ban nhân dân cách mạng ấp cũng đã được thành lập là m nò ng cố t cho cá c phong trà o trong xã , nắ m lạ i cá c đả ng viên đứ t liên lạ c trong cá c thờ i kỳ để tập hợp và phân công nhiệ m vụ mớ i... Ủy ban nhân dân cách mạng ấp lúc này thực sự là một tổ chức chính quyền gần dân, giải quyết các công việc chức năng của một nhà nước, đã vận động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia xây dựng kinh tế, nhưng cũng không quên nhiệm vụ bảo vệ quê hương, đất nước. Bộ máy Nhà nước đã từng bước được xây dựng và không ngừng được phát triển.

Như vậ y, ngay nhữ ng ngà y đầ u chi bộ Đả ng đã là m nò ng cố t giữ vai trò lã nh đạ o chí nh quyề n, đoà n thể quầ n chú ng và cá c phong trà o trong xã . Cá c đả ng viên trong từng ấ p đã giú p chí nh quyề n nắ m lạ i danh sá ch cá c nhân

Page 137: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 137

viên binh lí nh chế độ cũ , tổ chứ c cho họ c tậ p, cả i tạ o từ ng loạ i đố i tượ ng theo quy đị nh củ a Đả ng và Nhà nướ c. Qua đó , đã thanh lọ c và phân loạ i họ c tậ p dà i hạ n hay ngắ n hạ n, mỗ i ngườ i cũ ng nêu rõ nhậ n thứ c sai lầ m trong thờ i gian qua, cam kế t sẽ khắ c phụ c nhữ ng sai lầ m và trở lạ i hò a nhậ p vớ i cuộ c số ng tạ i đị a phương, gó p công sứ c và o xây dự ng cuộ c số ng mớ i.

1.3. Lãnh đạo ổn định, phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia

Vớ i vị trí là mộ t xã vù ng ven đô, lạ i là nơi có phong trà o cá ch mạ ng ở xã phá t triể n liên tụ c, nơi lự c lượ ng cá ch mạ ng bá m chặ t để là m đị a bà n và o thà nh phố hoạ t độ ng, cho nên trong chiế n tranh, tại Bình Trị Đông, kẻ đị ch đã liên tụ c đà n á p, thự c hiệ n nhiề u đợ t hà nh quân truy qué t đá nh phá cá ch mạ ng,... Với quốc sách ấp chiến lược của chính quyền ngụy, một phần ruộng vườn của nhân dân xã Bì nh Trị Đông trở thành “vùng trắng” là vù ng tự do bắ n phá , ruộ ng vườ n bị chú ng đưa xe ủ i tà n phá hủ y diệ t đị a hì nh; phầ n lớ n vù ng đấ t này sau giải phóng trở thành vùng đất bị hoang hó a nhiề u năm, nông dân bá m đấ t sả n xuấ t nhưng năng suấ t không cao. Vì vậ y, đờ i số ng củ a ngườ i dân trong xã gặ p rấ t nhiề u khó khăn, hà ng năm đế n kỳ giá p hạ t nhiề u hộ gia đì nh bị thiế u ăn. Bên cạ nh đó , dân số lại tăng mộ t cá ch độ t biế n do sau giải phóng, mộ t số người dân thà nh thị kéo nhau trở về quê cũ .

Do đó , công tác khôi phụ c sả n xuấ t ổ n đị nh đờ i số ng nhân dân là mộ t trong nhữ ng nhiệ m vụ trọ ng tâm

Page 138: LSDB Binh Tri Dong B_size

138 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

củ a Đả ng bộ xã sau giả i phó ng. Trong đó vấn đề đầu tiên mà chi bộ Đảng và nhân dân xã Bình Trị Đông cần quan tâm và giải quyết là ổn định chỗ ở cho người dân, khuyế n khí ch nhân dân dời nhà về vườ n cũ , thuậ n tiệ n cho việ c sả n xuấ t. Năm 1975 – 1976 tỷ lệ nhà ngói trong ấp là 10-15%, số còn lại là nhà lợp lá dừ a phải 3 năm làm lại một lần nên rất tốn kém về cả công sức và tiền của. Th ực hiện chỉ thị củ a Trung ương, của Th à nh ủ y và chỉ đạ o củ a Huyện ủ y là không để mộ t ngườ i dân thiế u ăn, chi bộ xã đã tiế n hà nh điề u tra cơ bả n để cấp phát gạ o đế n tay ngườ i thiếu ăn thậ t sự , ngăn chặ n kị p thờ i nguy cơ thiế u ăn của mộ t số gia đì nh, từ đó tạ o thêm đượ c lò ng tin củ a nhân dân vào chí nh quyề n. Ngoà i việ c cứ u đó i, chi bộ xã cò n chủ trương phá t độ ng phong trà o “nhườ ng cơm xẻ á o”, đã tạ o đượ c sự phấ n khở i trong quầ n chú ng nông dân lao độ ng.

Sau khi ổn định đời sống, người dân bắt đầu tập trung vào sản xuất. Lú c nà y sả n xuấ t chủ yế u là mộ t vụ lú a và mộ t vụ hoa mà u, tuy nhiên năng suất lú a chưa cao, năng suấ t chỉ đạ t từ 1,2 đế n 1,8 tấ n/ha do sử dụ ng giố ng lú a nộ i đị a theo tậ p quá n địa phương.

Trong công tác sản xuất, giai đoạn đầu nhân dân xã Bình Trị Đông đã tự khôi phục lại sản xuất. Để phụ c hồ i sả n xuấ t tiể u thủ công nghiệ p, nông nghiệ p nhân dân trong xã cù ng vớ i chí nh quyề n ra sứ c khắ c phụ c việ c thiế u thốn nguyên vậ t liệ u (bằ ng cá ch khai thá c nguyên vậ t liệ u tạ i chỗ ) và dù ng sứ c ngườ i thay thế má y mó c, đẩ y mạ nh việ c khai hoang phụ c hó a, mở rộ ng diệ n tí ch gieo trồ ng

Page 139: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 139

cây lương thự c và rau mà u cá c loạ i; chí nh quyề n đã tìm cách tháo gỡ bom mìn, huy độ ng nhân dân là m cá c công trì nh thủ y lợ i vừ a và nhỏ , san lấp các hố bom, cải tạo lại đồng ruộng... Năm 1976, chi bộ và chí nh quyề n xã cho sử a lạ i kênh Chiế n lượ c (đã đượ c đà o từ năm 1963 khi chí nh quyề n Việ t Nam Cộ ng hò a xây dự ng ấ p chiế n lượ c để thoá t nướ c). Qua đó , đã tăng diệ n tí ch canh tá c và năng suấ t lú a. Phong trà o chăn nuôi phá t triể n mạ nh mẽ trong nhân dân bằ ng cá ch đầ u tư cho vay tí n dụ ng dà i hạ n, ngắ n hạ n và độ ng viên khai thá c nguồ n thứ c ăn trong nhân dân. Sả n xuấ t tiể u thủ công nghiệ p cơ bả n đượ c củ ng cố và phụ c hồ i mộ t số ngà nh nghề có phá t triể n hơn so vớ i trướ c giả i phó ng.

Nhữ ng hoạ t độ ng trong nông nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p... đã gó p phầ n và o việ c giả i quyế t đượ c cá c nhu cầ u về lương thự c thự c phẩ m trong xã , cá c tổ sả n xuấ t đoà n kế t đượ c thà nh lậ p tạ o đượ c tinh thầ n tương trợ lẫ n nhau trong sả n xuấ t, từ ng bướ c hà n gắ n đượ c cá c vế t thương chiế n tranh, cù ng nhau xây dự ng cuộ c số ng mớ i.

Dướ i sự lã nh đạ o củ a Chi bộ và chí nh quyề n xã , tà n dư văn hó a nô dị ch củ a chế độ cũ dầ n dầ n bị đẩ y lù i, nề n văn hó a mớ i từ ng thâm nhậ p và o quầ n chú ng trở thà nh mó n ăn tinh thầ n, đáp ứng nhu cầ u thiế t yế u về văn hóa của nhân dân, các phong trào xó a mù chữ , bổ tú c văn hó a được phá t triể n mạ nh trong toà n xã . Đế n cuố i năm 1975, về cơ bả n đã xó a đượ c trên 90% diệ n ngườ i không biế t chữ , nhiề u trườ ng lớ p đã đượ c sử a sang và mở rộ ng thêm. Chương trì nh giá o dụ c mớ i xã hộ i chủ nghĩ a đã đượ c đưa

Page 140: LSDB Binh Tri Dong B_size

140 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

và o nhà trườ ng, bướ c đầ u tạ o đượ c kế t quả tố t, là m thay đổ i hoà n toà n nề n giá o dụ c phả n độ ng củ a chế độ cũ .

Phong trà o văn nghệ , thể dụ c thể thao đượ c xây dự ng và phá t triể n nhằ m phụ c vụ cho nhu cầ u giả i trí củ a cá c tầ ng lớ p nhân dân. Trong nhà trườ ng cá c phong trà o nà y đã gó p phầ n tạ o bầ u không khí sôi nổ i trong sinh hoạ t, học tập.

Công tá c y tế đượ c Chi bộ tập trung lã nh đạ o. Đế n cuố i năm 1976, mạ ng lướ i y tế đã hì nh thà nh đề u khắ p trên đị a bà n xã , phụ c vụ tố t công tá c chăm só c sứ c khỏ e cho nhân dân lao độ ng. Phong trà o vệ sinh phò ng dị ch đượ c đông đả o quầ n chú ng hưở ng ứ ng tí ch cự c, đã ngăn chặ n kị p thờ i nhiề u bệ nh dị ch nguy hiể m.

Đối với những gia đình chính sách, tham gia cách mạng, Chi bộ chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách ưu đãi, như xét công nhận liệt sĩ, thương binh và được hưởng trợ cấp. Đồ ng thờ i, đối với những người từng làm việc cho chế độ cũ, những người lầm đường lỡ bước nhưng đã nhận thức được sai lầm... ta cũng có những chính sách khoan hồng, tiến hành cải tạo đưa về sum họp với gia đình.

Với truyền thống “tương thân tương ái”, trong chiến tranh biên giới Tây Nam và thực hiện nghĩa vụ quốc tế, Chi bộ xã Bình Trị Đông lúc đó đã vận động nhiều thanh niên hăng hái tòng quân, tham gia nghĩa vụ quân sự… để bảo vệ đất nước và giúp đỡ nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

Page 141: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 141

Cùng với công tác quân sự, quốc phòng, phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc cũng phát triển rộng khắp. Các tổ an ninh nhân dân được củng cố và hoạt động có hiệu quả, làm nòng cốt trong công tác giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương và từng cơ quan đơn vị.

Nhì n chung, qua 3 năm hoạ t độ ng củ a chí nh quyề n cá ch mạ ng dướ i sự lã nh đạ o củ a Chi bộ xã, Bì nh Trị Đông đã thay đổ i hoà n toà n. Ta đã là m thay đổ i cơ bả n về nhiề u mặ t ở nông thôn chuyể n từ cá ch mạ ng dân tộ c dân chủ sang cá ch mạ ng xã hộ i chủ nghĩ a, xá c lậ p quyề n là m chủ tậ p thể củ a nhân dân lao độ ng, giữ vữ ng an ninh chí nh trị và xã hộ i, đưa đờ i số ng của nhân dân lao độ ng đi dầ n và o ổ n đị nh. Bộ má y Đả ng, Nhà nướ c đã từ ng bướ c đượ c xây dự ng và không ngừ ng phá t triể n. Qua đó, thể hiệ n đượ c sự vữ ng và ng củ a mộ t nhà nướ c cấ p xã , thự c hiệ n đượ c vai trò quản lý củ a Nhà nướ c đố i vớ i nhân dân, xuấ t phá t từ nhân dân, vì nhân dân mà phụ c vụ .

Bên cạ nh nhữ ng kế t quả mà Chi bộ và nhân dân xã Bì nh Trị Đông đạ t đượ c sau 3 năm giả i phó ng, vẫ n cò n tồn tại mộ t số , khó khăn: Trong công tá c xây dự ng và tổ chứ c hệ thố ng chí nh trị củ a xã tuy đã đượ c xây dự ng và củ ng cố , chấ n chỉ nh mộ t bướ c nhưng vẫ n cò n yế u ké m cả về số lượ ng lẫn chấ t lượ ng. Đặc biệt là trì nh độ, năng lự c cá n bộ chưa đá p ứ ng kị p yêu cầ u trong giai đoạ n mớ i; công tá c đà o tạ o, bồ i dưỡ ng cá n bộ , đả ng viên tuy có nhiề u cố gắ ng song vẫ n chưa đá p ứ ng đượ c yêu cầ u, chưa sử dụ ng và phá t huy hế t tiề m năng số cá n bộ hiệ n có trong xã ; trong

Page 142: LSDB Binh Tri Dong B_size

142 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

công tá c chỉ đạ o chưa thậ t sự sâu sá t, có lú c lơi là buông lỏ ng; cá c kế hoạ ch thự c hiệ n cò n mang tí nh chung chung, chưa cụ thể ...

2. Chi bộ lãnh đạo thực hiện ổn định chính trị, từng bước phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân (1977-1985)

2.1. Củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và ổn định trật tự xã hội

Th á ng 5 năm 1977 huyệ n Bì nh Chá nh tiế n hà nh Đạ i hộ i Đả ng bộ lần thứ nhất. Đây là mộ t sự kiệ n chí nh trị đặ c biệ t trong đờ i số ng củ a cá n bộ , đả ng viên và cá c tầ ng lớ p nhân dân Bì nh Chá nh nó i chung, nhân dân xã Bì nh Trị Đông nó i riêng. Trước khi Đại hội Đảng bộ huyện Bình Chánh được tổ chức, các chi bộ ở các xã của huyện đã tiến hành đại hội chi bộ. Chi bộ xã Bình Trị Đông đã tổ chức Đại hội và bầu đồng chí Đào Th ị Sàng làm Bí thư chi bộ, đây là đạ i hộ i công khai đầ u tiên kể từ khi Chi bộ chí nh thứ c đượ c thà nh lậ p. Trên cơ sở đó , cũ ng trong năm 1977, xã Bì nh Trị Đông đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân khóa 1. Sau bầu cử, Ủy ban nhân dân xã được thành lập do đồng chí Huỳnh Th anh Liêm, Phó Bí thư thường trực làm Chủ tịch xã; đồng chí Nguyễn Th ị Đúng làm Phó Chủ tịch xã phụ trách Tài mậu và đồng chí Võ Hữu Đức làm Phó Chủ tịch phụ trách Sản xuất.

Th ự c hiệ n Nghị quyế t số 28-NQ/BCH củ a Th à nh ủ y về phá t huy quyề n là m chủ tậ p thể củ a nhân dân lao độ ng trong công tá c quả n lý và phụ c vụ trong cá c cơ quan nhà

Page 143: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 143

nướ c, Chi bộ xã Bì nh Trị Đông đã giả i quyế t đồ ng thờ i nhiề u vấ n đề về quan điể m và tổ chứ c, lề lố i là m việ c, phá t độ ng thà nh phong trà o quầ n chú ng rộ ng rã i từ trong nộ i bộ cá n bộ đả ng đế n quần chúng nhân dân.

Được sự quan tâm và chỉ đạ o củ a Huyệ n ủ y, hoạ t độ ng củ a công tá c dân vậ n và xây dự ng cá c đoà n thể ở xã Bì nh Trị Đông đã có nhiề u tiế n bộ , nhấ t là trong việ c thự c hiệ n cá c chủ trương, chí nh sá ch củ a Đả ng và Nhà nướ c. Điề u nà y đượ c thể hiệ n qua cá c phong trà o “ba xung kí ch”, phong trà o phụ nữ xây dự ng và bả o vệ Tổ quố c... Qua đó , cá c đoà n thể đã phá t huy đượ c vai trò nò ng cố t. Hộ i Phụ nữ vậ n độ ng chị em trên mặ t trậ n lao độ ng sả n xuấ t, trồ ng trọ t chăn nuôi, là m nò ng cố t cho việ c sả n xuấ t kinh tế phụ gia đì nh, tích cực tham gia phong trà o sinh đẻ có kế hoạ ch. Hộ i Nông dân xã phố i hợ p vớ i chí nh quyề n và cá c đoà n thể khá c vậ n độ ng cứ u đó i trong nông dân nghè o và vậ n độ ng nhườ ng cơm xẻ á o cấ p ruộ ng đấ t cho gia đì nh chí nh sá ch nghè o, phá t huy đượ c vai trò củ a nông dân trong quá trì nh phá t triể n xây dự ng xã , huyệ n.

Mặ t trậ n Tổ quố c xã Bì nh Trị Đông nhiề u năm liề n giữ cờ luân lưu “tuổ i cà ng cao chí khí cà ng cao”. Đây là trung tâm đoà n kế t tậ p hợ p rộ ng rã i cá c tầ ng lớ p nhân dân. Mặ t trậ n luôn chú trọ ng công tá c tôn giá o, trí thứ c, Hoa vậ n... phổ biế n cá c chủ trương đú ng đắ n củ a Đả ng, Mặ t trậ n gó p phầ n lớ n trong việ c xây dự ng đoà n kế t toà n dân.

Trong công tá c Đả ng: Từ ng bướ c nâng lên chấ t lượ ng lã nh đạ o, trì nh độ tổ chứ c thự c hiệ n. Từ đó , vừ a gó p phầ n xây dự ng Đả ng vừ a xây dự ng chí nh quyề n, kiể m tra cá n

Page 144: LSDB Binh Tri Dong B_size

144 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

bộ đả ng viên. Trong công tá c tổ chứ c Đả ng luôn đượ c củ ng cố và kiệ n toà n – đây là nhiệ m vụ hà ng đầ u củ a Chi bộ . Năm 1980, xã Bì nh Trị Đông đã tiế n hà nh Đại hộ i Chi bộ nhiệm kỳ 1980-1982. Đồ ng chí Nguyễ n Th ị Khở i (Hai Khở i) được bầu là m Bí thư, đồ ng chí Huỳ nh Th anh Liêm là m Chủ tị ch xã.

Sau giả i phó ng, dân số củ a Bì nh Trị Đông có khoảng 14.000 dân (năm 1979), trong đó khu Da Sà tập trung đông người Hoa nhất 1. Từ năm đầ u nhữ ng năm 1980 trở đi tình hình khu vực Da Sà ngày càng phức tạp, đây trở thành khu vực tập trung của các đối tượng bán dâm, cờ bạc, hút chích,… Để lập lại tình hình trật tự xã hội, trong nhiệ m kỳ III năm 1983, đồng chí Phan Văn Th ảo (Tám Th ảo) đượ c bầ u là m Bí thư Đảng ủy xã Bình Trị Đông, đã trực tiếp nắm tình hình cơ sở, báo cáo và phối hợp với Sở Công an Th ành phố Hồ Chí Minh để có giải pháp giải quyết. Đầu năm 1984, Công an Th ành phố dùng lực lượng bất ngờ đánh úp vào khu vực này. Sau đó tình hình an ninh trật tự trên địa bàn xã nói chung và khu vực Da Sà nói riêng được đảm bảo.

Cù ng vớ i việ c giữ gì n an ninh trậ t tự an toà n xã hộ i, Chi bộ xã cũ ng đã chú ý đế n công tá c quân sự đị a phương. Th ực hiện Lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Lệnh Tổng

1. Những năm 1978-1979, tì nh hì nh an ninh chí nh trị , trậ t tự an toà n xã hộ i ở Bì nh Trị Đông có nhiề u diễ n biế n phứ c tạ p: mộ t số vụ nhen nhó m bọ n phả n độ ng có tăng lên. Hì nh thứ c củ a chú ng là tậ p trung đi sâu nhằ m lôi ké o nhữ ng phầ n tử bấ t mã n trong sĩ quan, binh lí nh và viên chứ c chế độ cũ .

Page 145: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 145

động viên của Chủ tịch nước phục vụ cho chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, xã Bì nh Trị Đông đã động viên thanh niên lên đường nhập ngũ. Trước nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đả ng ủy xã chỉ đạo các ngành, các cấp tập trung cao nhất cho công tác nghĩa vụ quân sự với mức huy động lực lượng năm sau cao hơn năm trước.

Như vậ y, vớ i việ c củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, mạ ng lướ i an ninh nhân dân củ a xã cũ ng đã đượ c củ ng cố và phá t triể n, xây dự ng đượ c cá c phong trà o bả o vệ Tổ quố c và quố c phò ng toà n dân ngà y cà ng vữ ng chắ c hơn, đả m bả o tì nh hì nh trậ t tự tạ i đị a phương của xã Bình Trị Đông, gó p phầ n giữ vữ ng an ninh trậ t tự cho huyệ n Bình Chánh và của Th ành phố.

2.2. Th ực hiện cơ chế mới, phát huy tính chủ động trong sản xuất nông nghiệp và các hoạt động khác của xã.

Từ năm 1976 trở đi, nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, sản xuất trì trệ, mất cân đối, hàng hóa khan hiếm, thêm vào đó là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp quá dài, quản lý nhà nước lại theo kiểu mệnh lệnh không tuân theo điều kiện thực tế khách quan và lợi ích của người lao động,... Tất cả đã ảnh hưởng đến tình hình sản xuất một cách nghiêm trọng.

Trong bối cảnh chung đó của cả nước, tình hình kinh tế - xã hội của xã Bình Trị Đông cũng còn gặp rất nhiều khó khăn, chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội chưa được nâng cao, sản xuất bị giảm sút nghiêm trọng, đời sống, nông dân thiếu phấn khởi, xã viên lo lắng không

Page 146: LSDB Binh Tri Dong B_size

146 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

ra đồng sản xuất. Hiện tượng tiêu cực trong kinh tế và trong đời sống văn hóa xã hội vẫn còn tồn tại, công tác điều hành chưa đồng bộ, hiệu lực còn thấp....

Trước tình hình đó, vấn đề cấp bách đặt ra cho Chi bộ xã Bình Trị Đông lúc này là phải thật nhạy bén, chủ động, từng bước tháo gỡ những khó khăn.

Trên tinh thần đó đồng thời thực hiện theo chủ trương của Đảng, Chi bộ và nhân dân xã Bình Trị Đông đã từng bước tháo gỡ khó khăn và ổn định lại đời sống nhân dân. Về sản xuất, chi bộ tiến hành chỉ đạo các hoạt động chủ yếu sau:

Chi bộ và chí nh quyề n xã đã vậ n độ ng nhân dân trong xã và o cá c tậ p đoà n sả n xuấ t. Lú c đầ u xã thà nh lập được 4 tập đoàn, tên gọi được đặt theo thứ tự từ 1 đến 4. Từ năm 1977 – 1978, số tập đoàn của xã đã được tăng lên 11 tập đoàn, đến năm 1979 xã có tất cả 13 tập đoàn (sau khi điề u chỉ nh đị a giớ i giữ a xã Bì nh Trị Đông và An Lạ c, để An Lạ c lên thị trấ n và o năm 1978). Tên gọi của 13 tập đoàn này cũng được đánh số theo thứ tự từ 1 đến 13. Giữ a năm 1979 thự c hiệ n Chỉ thị 15 củ a Bộ Chính trị (03/02/1979) và Chỉ thị số 28 củ a Ban Bí thư Trung ương Đả ng, cá c tỉ nh phí a Nam tổ chứ c lạ i cá c tậ p đoà n và hợ p tá c xã nông nghiệ p thí điể m để tiế n hà nh công tá c hợ p tá c hó a nông nghiệ p. Đồ ng thờ i Nghị quyết Đại hội lần thứ hai của thành phố cũ ng xá c đị nh phả i tiế n hà nh hợ p tá c hó a nông nghiệ p, trong đó Th à nh phố Hồ Chí Minh phả i đi trướ c mộ t bướ c và hoà n thà nh hợ p tá c hó a nông nghiệ p và o năm 1979. Trên tinh

Page 147: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 147

thầ n đó Chi bộ xã Bình Trị Đông đã quyết định thành lập hai tập đoàn sản xuất thí điểm1.

Trong nhữ ng ngà y đầ u mớ i thà nh lậ p tậ p đoà n, mọ i việ c cò n rất mớ i mẻ , đố i vớ i nhân dân thì đây là lầ n đầ u tiên tiế p thu đườ ng lố i là m chung ăn chia, tuy nhiên dù hoạ t độ ng trong tậ p đoà n nhưng tư tưở ng cá thể vẫ n cò n tồ n tạ i trong suy nghĩ củ a mỗ i ngườ i dân. Chí nh vì vậ y, Ban quả n lý tậ p đoà n đã phố i hợ p cù ng vớ i cá c ban ngà nh khá c có nhữ ng chủ trương và phá t độ ng cá c phong trà o nhằ m giá o dụ c tư tưởng, vậ n độ ng giả i thí ch cho cá n bộ , đả ng viên, ngườ i dân lắ ng nghe và chấ p hà nh cá c chủ trương củ a Đả ng, tham gia và o tậ p đoà n sả n xuấ t với tinh thầ n phấ n khở i.

Vớ i mụ c đí ch điề u hà nh và quả n lý cá c tậ p đoà n sả n xuấ t, ban quả n lý đã đượ c thà nh lậ p tạ i cá c tậ p đoà n. Vì là tậ p đoà n thí điể m nên nhữ ng ngà y đầ u, đố i vớ i ban quả n lý , mọ i việ c đề u mớ i từ tổ chứ c sả n xuấ t đế n bì nh công chấ m điể m, quan hệ chạ y lo cá c mặ t vậ t tư, phân bó n...nhưng vớ i tinh thầ n hăng há i, ý thứ c chấ p hà nh củ a nhân dân, vừ a là m vừ a rú t kinh nghiệ m. Ban quả n lý tậ p đoà n đã đạ t đượ c nhữ ng kế t quả đá ng ghi nhậ n trong công tá c

1. Phương châm hoạt động của tập đoàn: “làm chung ăn chia” xã hội chủ nghĩa, trên tinh thần mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau (không phân biệt về diện tích, quyền lợi, trong phân chia sả n phẩ m tù y thuộ c và o số lao độ ng, mộ t số công trì nh đò i hỏ i phả i có sự đó ng gó p củ a tậ p thể nay đượ c mọ i ngườ i đề u lo, đề u cù ng chung sứ c thự c hiệ n...), tinh thần tập thể của các tập đoàn viên được nâng lên (mọ i ngườ i ai cũ ng cố gắ ng lao độ ng để có công ngà y khi phân chia sả n phẩ m, sả n phẩ m đượ c bả o quả n và phân chia công bằ ng). Các khâu vật tư, phân bón đều được Nhà nước cung cấp đầy đủ.

Page 148: LSDB Binh Tri Dong B_size

148 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

quả n lý . Cuố i năm 1977 cá c tậ p đoà n đã thu hoạ ch và chia sả n phẩ m vụ đầ u tiên, tuy sả n lượ ng không cao hơn cá c năm trướ c nhưng cũ ng đã dầ n dầ n khẳ ng đị nh đượ c vị thế củ a tậ p đoà n sả n xuấ t trong hoạ t độ ng sả n xuấ t củ a ngườ i dân.

Đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX, Việ t Nam ngà y cà ng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh. Th u nhập quốc dân chưa đảm bảo đáp ứng được tiêu dùng xã hội. Nguyên nhân là do hậu quả của cuộc chiến tranh chống Mỹ chưa khắc phục triệt để thì đất nước lại phải đương đầu với chiến tranh ở biên giới Tây – Nam, biên giới phía Bắc và chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù; cộng với những khó khăn về kinh tế do sai lầm, chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội và thiên tai, mất mùa liên tiếp xảy ra.

Trong điều kiện khó khăn như vậy, ngày 13 tháng 01 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị 100). Phương pháp hoàn chỉnh chế độ “ba khoán” (khoán chi phí sản xuất, khoán công điểm và khoán sản phẩm) là chế độ thưởng phạt công minh đối với xã viên, xác định mức khoán hợp lý và ngăn ngừa tình trạng “khoán trắng”. Đối với các hợp tác xã ở miền núi và tập đoàn sản xuất ở miền Nam thì cần làm thử, rút kinh nghiệm trước khi mở rộng.

Page 149: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 149

Chỉ thị 100 chuyển từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán theo đội sang khoán theo nhóm lao động và người lao động nên đã đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi của người nông dân. Người nông dân bước đầu giành lại quyền chủ động trong sản xuất. Như vậ y, Chỉ thị 100 mở ra một hướng đi mới, cho phép bước đầu khôi phục quyền tự chủ trong sử dụng ruộng đất và lao động của từng hộ xã viên, khuyến khích người lao động hăng hái, tích cực sản xuất, tận dụng đất đai, phân bón, thâm canh nâng cao năng suất cây trồng để có thêm phần sản phẩm vượt khoán, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả xã viên và hợp tác xã.

Chỉ thị 100 được nông dân cả nước nói chung và Bì nh Trị Đông nói riêng phấn khởi đón nhận và nhanh chóng thực hiện rộng rãi. Chi bộ xã tìm hướng vận dụng sáng tạo Chỉ thị 100 vào thực tế địa phương, đồng thời tiến hành sắp xếp, tổ chức lại quy mô các tập đoàn sản xuất cả về diện tích và lao động cho phù hợp với từng vùng. Trên tinh thầ n đó , Chi bộ xã Bình Trị Đông cũng tiến hành khoán sản phẩm đến hộ và người lao động, ruộng đất trong các tập đoàn sản xuất được phân ra khoán theo số lao động của từng hộ, biệ n phá p nà y đã giú p cá c tậ p đoà n sả n xuấ t giao ruộ ng đấ t cho từ ng hộ vớ i diệ n tí ch tù y thuộ c và o số lao độ ng và nhân khẩ u trong từ ng hộ . Khoá n sả n phẩ m đã giú p cho nông dân tí ch cự c trong sả n xuấ t, phầ n giao nộ p theo quy đị nh để tậ p đoà n là m cá c nghĩ a vụ thuế , quỹ tá i sả n xuấ t... số cò n lạ i đượ c nhân dân toà n quyề n sử dụ ng. Chí nh sá ch khoá n đã tạ o đượ c không khí phấ n khở i trong nhân dân, cá c tậ p đoà n ngà y

Page 150: LSDB Binh Tri Dong B_size

150 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

cà ng đượ c củ ng cố và ngà y cà ng trang bị đượ c cá c công cụ sả n xuấ t mớ i, điệ n đượ c ké o về thắ p sá ng và đưa và o mộ t số tậ p đoà n sả n xuấ t. Lúc này, năng suất, sản lượng tăng lên gấp nhiều lần so với trước đây.

Trong nhữ ng năm nà y, điệ n đã đượ c ké o về xã tuy chưa đủ nhưng đế n năm 1982 cá c trụ c lộ giao thông chủ yế u đề u có điệ n ké o về cá c hộ dân để phụ c vụ cho sả n xuấ t. Nhờ có điện và được sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn, cơ cấ u cây trồ ng ở xã Bì nh Trị Đông đã đượ c thay đổ i. Trướ c đây, nông dân chỉ sả n xuấ t mộ t vụ lú a là chí nh, lú c nà y đã tăng thêm vụ hè thu, tạ o ra mộ t số lượ ng lương thự c lớ n phụ c vụ cho cuộ c số ng củ a ngườ i dân. Cá c loạ i lú a ngắ n ngà y vớ i cá c đặ c tí nh chố ng hạ n, khá ng sâu rầ y, năng suấ t cao đượ c đưa xuố ng đồ ng ruộ ng tạ o sự đổ i mớ i trong cây lú a.

Vớ i kế t quả sả n xuấ t đó , đờ i số ng củ a ngườ i dân đã dầ n đượ c ổ n đị nh và có bướ c phá t triể n. Diệ n tí ch ruộ ng đấ t cơ cấ u cây trồ ng tuy có nhiề u biế n đổ i nhưng cây lú a cây lương thự c cơ bả n giữ vai trò chủ đạ o. Cá c loạ i cây trồ ng khá c củ a xã tuy có thay đổ i nhưng nguồ n thu nhậ p chưa ổ n đị nh và chưa cao.

Ngoà i trồ ng lú a và cá c loạ i rau mà u, hoạ t độ ng sả n xuấ t tiể u thủ công nghiệ p trong giai đoạ n nà y tạ i xã rấ t í t, chưa phá t triể n. Chủ yế u là là m đồ nhôm gia dụ ng (đồ nhôm, đú c nhôm), se nhang và may già y gia công.

Bên cạnh đó các hoạt động về xã hội - văn hóa – giáo dục cũng được chăm lo, chú trọng hơn. Ngà nh giá o

Page 151: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 151

dụ c ngà y cà ng đượ c phá t triể n, công tá c bổ tú c văn hó a cho khố i công chứ c, ngườ i lớ n và trẻ em đượ c duy trì và thự c hiệ n thườ ng xuyên. Ban xóa mù chữ trong thời kỳ này hoạt động rất mạnh với chủ trương học ở mọi nơi, mọi địa điểm, mọi lúc... Mạ ng lướ i y tế đượ c tổ chứ c mở rộ ng xuố ng tậ n cá c ấ p, thuố c chữ a bệ nh đượ c kế t hợ p giữ a đông y và tây y, trong xã đã có trạ m y tế để phụ c vụ chăm só c sứ c khỏ e cho ngườ i dân.

Hoạ t độ ng văn nghệ - thể dụ c thể thao sôi nổi, đặc biệt là những ngày lễ lớn, mỗi khối phố đều tổ chức các hoạt động.1 Công tá c thương binh xã hộ i có nhiề u cố gắ ng, như ưu tiên cấ p ruộ ng đấ t cho gia đì nh thương binh liệ t sĩ , đưa con em liệ t sĩ và o làm việ c trong cơ quan nhà nướ c và từ ng bướ c hoà n chỉ nh hồ sơ thương binh liệ t sĩ .

II. ĐẢNG BỘ BÌNH TRỊ ĐÔNG THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI

MỚI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GẮN VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1986 – 2003)

1. Đảng bộ xã lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội (1986-1996)

1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong những năm đầu thực hiện đổi mới.

Dù đã có rấ t nhiề u cố gắ ng trong việ c hà n gắ n vế t thương chiế n tranh nhưng tì nh hì nh kinh tế - xã hộ i cả

1. Khối phố được đổi thành khu phố vào năm 1985.

Page 152: LSDB Binh Tri Dong B_size

152 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nước 10 năm sau giải phóng vẫn còn kém và chưa ổn định, đã gây ra nhữ ng bấ t lợ i không nhỏ đế n công cuộ c xây dự ng đấ t nướ c củ a nhân dân ta.

Th áng 12/1986 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Th ủ đô Hà Nội, tại Đại hội, Đảng ta đã nghiêm tú c phân tí ch sâu sắ c nhữ ng khuyế t điể m, sai lầ m trong 10 năm (1975 – 1985), tổ chứ c chỉ đạ o xây dự ng đấ t nướ c. Từ đó tì m ra nhữ ng giả i phá p đổ i mớ i cá ch nghĩ , cá ch là m để đưa đấ t nướ c thoá t khỏ i cuộ c khủ ng hoả ng kinh tế – xã hộ i. Đạ i hộ i khẳng định: “Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”,...

Trên tinh thần đổi mới “tư duy về kinh tế”, Đả ng nhấ n mạ nh: Chú ng ta phả i lấ y đổ i mớ i kinh tế là m trọ ng tâm. Nế u đổ i mớ i kinh tế có kế t quả sẽ tạ o ra bầ u không khí là nh mạ nh để ổ n đị nh chí nh trị , gó p phầ n tạ o dự ng niề m tin cho nhân dân và tạ o thuậ n lợ i để đổ i mớ i cá c mặ t khá c củ a đờ i số ng xã hộ i.

Thực hiện Nghị quyết Đạ i hộ i Đạ i biể u toà n quố c lầ n thứ VI của Đảng, căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, Đảng bộ xã Bình Trị Đông đã xác định cơ cấu kinh tế của xã là: “nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ”. Trong đó nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu, với những chủ trương, biện pháp là: Đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Vận động nhân dân thực hiện và áp dụng các giống lúa mới kháng

Page 153: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 153

rầy, lúa đặc sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó , đã phá t huy tí ch cự c đế n sả n xuấ t nông nghiệ p trên đị a bà n xã .

- Về sả n xuấ t nông nghiệ p, giao thông thủ y lợ i: Trong nhữ ng năm đầ u thự c hiệ n đườ ng lố i đổ i mớ i, Đả ng bộ xã đã xá c đị nh, nhiệ m vụ trọ ng tâm là thự c hiệ n hợ p tá c nông nghiệ p. Do đó , trên mặ t trậ n nông nghiệ p đã xó a bỏ nhữ ng rà ng buộ c củ a cơ chế cũ , mở rộ ng quyề n tự chủ đố i vớ i nông dân từ sả n xuấ t đế n phân phố i; đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; vận động nhân dân thực hiện và áp dụng các giống lúa mới kháng rầy, lúa đặc sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ năm 1986 trở đi, nông dân trong xã đã trồng một số giống lúa 3 tháng của vụ hè thu như B41, Th ần Nông 36, năng suất đã được tăng lên đá ng kể . Năm 1990 do tì nh hì nh thờ i tiế t là m ả nh hưở ng đế n vụ Đông xuân, sâu rầ y phá t triể n mạ nh, phá hoạ i là m ả nh hưở ng đế n thu hoạ ch, năng suấ t thấ p, khó khăn cho việ c thu thuế . Th ự c hiệ n hế t quý 2 năm 1990, thu thuế đượ c quy ra lú a là 4.147 kg. Từ đó , rú t kinh nghiệ m cho vụ lú a hè thu; Về rau mà u: diệ n tí ch rau muố ng khoả ng 12ha, năng suấ t 12 tấ n/ha sả n lượ ng. Cá c loạ i rau ăn lá , diệ n tí ch 18ha, đạ t sả n lượ ng 10 tấ n/ha. Rau ăn quả 1ha, sả n lượ ng 10 tấ n/ha. Trong chăn nuôi, chủ yế u là nuôi cá vớ i diệ n tí ch 60ha, năng suấ t 5 tấ n/ha, đạ t sả n lượ ng 325 tấ n. Nhằ m đẩ y mạ nh sả n xuấ t nông nghiệ p, lã nh đạ o xã đã tạ o mọ i thuậ n lợ i cho phân ruộ ng và thuố c trừ sâu, đá p ứ ng kị p thờ i yêu cầ u sản xuất của nông dân. Ngoài ra, chính sách phát triển kinh tế

Page 154: LSDB Binh Tri Dong B_size

154 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nhiều thành phần, cũng đã thúc đẩy nhân dân làm kinh tế khá sôi nổi1.

Bên cạnh các loại cây hoa màu (chủ yếu là sen), củ quả được trồng nhiều, không chỉ phục vụ nhu cầu của nhân dân trên địa bàn xã mà còn phục vụ cho người dân ở đây nội thành, hoạt động chăn nuôi cá tại xã cũng rất phát triển2.

Cù ng vớ i việ c năng độ ng, sá ng tạ o, nhạ y bé n trướ c tì nh hì nh phá t triể n củ a kinh tế thị trườ ng, nhiề u hộ nông dân là m ăn có hiệ u quả và mộ t số hộ là m già u vì là m thêm cá c nghề phụ khá c: dị ch vụ câu cá , giả i trí , se nhang... và cá c nghề lao độ ng thủ công khá c. Chí nh vì vậ y, giá trị đấ t đai ngà y cà ng tăng cao cù ng vớ i nhữ ng thay đổ i về mặ t chủ trương, chí nh sá ch củ a Đả ng và Nhà nướ c đố i vớ i vấ n đề ruộ ng đấ t. Lú c nà y cơ cấ u kinh tế nông nghiệ p có sự chuyể n dị ch thí ch hợ p theo hướ ng công nghiệ p nhẹ , tiể u thủ công nghiệ p, dị ch vụ ứ ng vớ i quá trì nh đô thị hó a. Gắ n vớ i việ c thú c đẩ y phá t triể n nông nghiệ p, Đả ng bộ vẫ n ưu tiên tậ p trung giả i quyế t tranh chấ p đấ t đai. Bên cạ nh đó công tá c giao thông thủ y lợ i cũ ng đượ c lã nh

1. Năm 1995, trên toàn xã đã gieo trồng được 70ha vụ Hè thu đạt năng suất 2,5 tấn/ha; vụ Mùa gieo trồng được 722 ha, năng suất đạt 2,8 tấn/ha; vụ Đông Xuân xã cũng gieo trồng được 5 ha với năng suất 2,5 tấn/ha.2. Năm 1995, toàn xã có 70 ha nuôi cá, năng suất 5 tấn/ha, đạt tổng sản lượng là 359 tấn; chăn nuôi gia sú c gia cầ m có hướ ng phá t triể n tố t, nhưng do giá cả thị trườ ng không ổ n đị nh nên trong chăn nuôi có lú c tăng lú c giả m khá c nhau. Trong năm 1995 cũ ng xuấ t hiệ n mô hì nh nuôi cá và é p cá giố ng, nuôi gà công nghiệ p, cú t và vị t đẻ trong nhân dân.

Page 155: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 155

đạ o xã quan tâm: Ủy ban nhân dân xã đã vậ n độ ng nhân dân cù ng nâng cấ p, sử a chữ a cá c tuyế n đườ ng giao thông trong thôn đã bị xuố ng cấ p, để phụ c vụ cho nhân dân đi lạ i. Để đẩ y mạ nh sả n xuấ t nông nghiệ p, trong nhiệ m kỳ lầ n thứ VII (1994 – 1996) Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông đã tổ chứ c đượ c 4 lớ p tập huấn IPM về chương trì nh khuyế n nông và chăn nuôi, đề xuấ t vay vố n mở thêm nhiề u cử a hà ng vậ t tư nông nghiệ p, đồ ng thờ i vậ n độ ng và khuyế n khí ch nông dân mạ nh dạ n sử dụng giố ng lú a mớ i cả i tạ o và chuyể n đổ i cây trồ ng í t có mầ m bệ nh cho năng suấ t cao, tậ n dụ ng hế t ao hồ để nuôi cá và vị t đẻ , kế t hợ p giữ nuôi cá và trồ ng lú a.

- Về Th ương mạ i dị ch vụ – Công nghiệ p – Tiể u thủ công nghiệ p: Vớ i vị trí là xã ven đô, nơi có Quố c lộ 1A và Tỉ nh lộ 10, cắ t xuyên qua, vị trí thuậ n lợ i cho việ c phá t triể n thương mạ i, dị ch vụ , công nghiệ p và tiể u thủ công nghiệ p; Đả ng bộ xã đã phá t huy thế mạ nh, năng độ ng phá t triể n đồ ng loạ t về sả n xuấ t kinh doanh. Từ đó , tạ o điề u kiệ n cho nhân dân trong xã tiến hành làm ăn và có các hình thức kinh doanh mới khá sôi nổi. Cho đế n năm 1995, tạ i chợ Bì nh Trị Đông và Chợ Da Sà có trên 100 tiể u thương buôn bá n, vớ i đủ cá c loạ i mặ t hà ng từ lương thự c đến thự c phẩ m để phụ c vụ bà con. Trên tuyế n Quố c lộ 1A và Tỉ nh lộ 10 đã có cá c tiể u chủ tậ n dụ ng mặ t bằ ng trong gia đì nh để tổ chứ c kinh doanh bá n sỉ và lẻ cá c mặ t hà ng tiêu dù ng đa dạ ng: đồ gỗ , nhự a, đồ nhôm, và hà ng ngà n mặ t hà ng khá c. Số lượng các hộ này đã tăng từ 50 hộ (năm 1990) đế n 250 hộ (năm 1995). Ngoà i ra, còn có 3 dị ch vụ

Page 156: LSDB Binh Tri Dong B_size

156 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

sử a xe ô tô, 17 điểm sửa xe mô tô, 10 điể m bá n gỗ xẻ xây dự ng và 13 điể m bá n vậ t liệ u xây dự ng cá c loạ i từ tre lá đế n sắ t thé p, có hà ng trăm dị ch vụ cắ t, uố n tó c, may mặ c và sử a chữ a điệ n tử . Trong nhữ ng năm 1990 – 1995, cá c ngà nh công nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p tạ i xã chủ yế u là xay xá t, cưa xẻ gỗ , đú c, se nhang1...

Nhờ đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, nông dân là m ăn có hiệ u quả và có hướ ng phá t triể n tố t nên năm 1994 thuế nông nghiệ p thu 115/114 triệ u đồ ng đạ t 101%. Năm 1995, thuế nông nghiệ p là 145.190.000 đồ ng, đạ t 112% kế hoạ ch củ a năm; thuế nhà đấ t là 376.890.000 đồng đạ t 110% kế hoạ ch; thuế công thương nghiệ p là 1 tỷ đồ ng đạ t 100% kế hoạ ch...

- Công tá c xây dự ng cơ sở hạ tầ ng: Tuy là giai đoạ n đầ u thự c hiệ n đườ ng lố i đổ i mớ i của Đả ng, nhưng Đả ng bộ xã đã quyế t tâm thự c hiệ n đượ c mộ t số công trì nh: Năm 1988 lắp 3,5km đườ ng dây điệ n và thiế t lậ p đượ c cá c trạ m biế n á p hai pha, ba pha... Năm 1993 đã xây thêm đượ c 3 trạ m. Bên cạ nh đó , cò n thực hiện mộ t số công trì nh như: nạ o vé t rạ ch Bà Tiế ng và mương thoá t nướ c liên ấ p dà i 315m, vớ i kinh phí là 12.000.000 đồ ng; lắ p đặ t 20 cố ng thoá t nướ c vớ i kinh phí 1.200.000 đồ ng. Nhữ ng kế t quả đã đượ c nhân dân hoan nghênh và đồ ng

1. Tính đến năm 1995, toàn xã có 189 đơn vị công nghiệp, thủ công nghiệp trong đó doanh nghiệp nhà nước chỉ có 4 đơn vị, 185 đơn vị còn lại là các hộ tư nhân, có 203 đơn vị kinh doanh dịch vụ thì tất cả đều là các hộ tư nhân.

Page 157: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 157

tì nh ủ ng hộ , gó p phầ n phát triển bộ mặ t mớ i về cơ sở hạ tầng củ a xã .

Kế t quả bướ c đầ u thự c hiệ n công cuộ c đổ i mớ i đã đạ t đượ c nhữ ng thà nh tự u quan trọ ng, đờ i số ng củ a nhân dân đượ c cả i thiệ n theo hướ ng ổ n đị nh, cơ bả n đã xó a đượ c hộ đó i, giả m đượ c hộ nghè o, tì nh là ng nghĩ a xó m tương trợ đoà n kế t nhau tố t hơn. Song bên cạ nh đó vẫ n cò n tồ n tạ i mộ t số khiếm khuyế t: sả n xuấ t nông nghiệ p cò n lệ thuộ c nhiề u và o thiên nhiên, thay đổ i giố ng và cả i tạ o cây trồ ng ở mứ c thấ p, thiế u vố n đầ u tư, giá cả đầ u và o ở sả n xuấ t và đầ u ra củ a sả n phẩ m cò n bấ p bênh, chưa ổ n đị nh; Việ c quả n lý cá c công trì nh thủ y lợ i chưa tố t, á p dụ ng tiế n bộ khoa học kỹ thuật ở đồ ng ruộ ng cò n í t, cơ giớ i hó a nông nghiệ p cò n thấ p, lự c lượ ng sả n xuấ t nông nghiệ p ngà y cà ng í t đi, bở i sự thu hú t củ a lĩ nh vự c công nghiệ p; Việ c phá t triể n tự phá t cá c khu dân cư và cá c công trì nh công nghệ chưa có quy hoạ ch cụ thể , trong xây dự ng chưa có kế hoạ ch thoá t nướ c, gây ngậ p ú ng ở mộ t số đồ ng ruộ ng bị ả nh hưở ng rấ t lớ n trong sả n xuấ t nông nghiệ p. Trong chăn nuôi chưa đượ c đầ u tư đú ng mứ c nên vẫn còn tình trạng là m ăn mang tí nh may rủ i; Công nghiệ p và tiể u thủ công nghiệ p cò n chậ m so vớ i mậ t độ phá t triể n dù xã đã có nhiề u biệ n phá p ngăn chặ n; Mộ t số công trì nh về điệ n, quả n lý thiế u chặ t chẽ , đườ ng sá nông thôn, cố ng rã nh, thoá t nướ c nhiề u nơi bị xuố ng cấ p trầ m trọ ng, gây khó khăn, á ch tắ c trong việ c sinh hoạ t đi lạ i.

Page 158: LSDB Binh Tri Dong B_size

158 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

1.2 Xây dựng đời sống văn hóa – xã hộiNhữ ng thà nh tự u đã đạ t đượ c về kinh tế , bướ c đầ u đã

ả nh hưở ng tí ch cự c và là m thay đổ i đế n đờ i số ng củ a ngườ i dân Bì nh Trị Đông, theo đó là lò ng tin củ a nhân dân và o công cuộ c đổ i mớ i đượ c củ ng cố và đồ ng tì nh ủ ng hộ .

Về công tác giáo dục – đào tạo: Vớ i quan điể m giá o dụ c là sự nghiệ p củ a toà n dân, toà n Đả ng bộ đã quyế t tâm đưa ra cá c Chương trì nh hà nh độ ng thông qua Nghị quyế t cụ thể , và sự chỉ đạ o sâu sá t, kị p thờ i. Đượ c sự quan tâm củ a cá c cấ p lã nh đạ o, trong thờ i gian qua cơ sở vậ t chấ t giá o dụ c đã đượ c chỉ nh trang, sử a chữ a, đả m bả o cho nhu cầ u họ c tậ p củ a cá c chá u, không cò n lớ p họ c ca 3. Chấ t lượ ng thầ y dạ y tố t, trò họ c tố t, tỷ lệ họ c sinh bỏ họ c cũ ng đã giả m, đồ ng thờ i huy độ ng đượ c 56 em ra lớ p họ c phổ cậ p. Họ c bổ ng đượ c duy trì 30.000 đồ ng/suấ t cho 5 chá u, 20.000 đồ ng/suấ t cho 30 chá u. Việ c quả n lý họ c sinh ở trườ ng, gia đì nh, xã hộ i đượ c thự c hiệ n tố t thông qua sổ liên lạ c củ a họ c sinh và họ p đị nh kỳ giữ a hộ i đồ ng giá o dụ c vớ i phụ huynh để kị p thờ i uố n nắ n nhữ ng yế u ké m củ a nhà trườ ng và họ c sinh từ bậ c tiể u họ c đế n mẫ u giá o. Công tá c giá o dụ c phổ thông ở xã tuy đã có nhiề u tiế n bộ , nhưng vẫ n chưa đá p ứ ng yêu cầ u cả i cá ch giá o dụ c, phò ng họ c nhiề u nơi chưa thoá ng má t, bà n ghế chưa đả m bả o, có lớ p sĩ số họ c sinh khá đông, nhấ t là lớ p 1, do ả nh hưở ng bở i tăng dân số cơ họ c. Đế n năm 1995 mẫ u giá o đã xây mớ i đượ c 3 phò ng, sử a chữ a lớ n 3 phò ng họ c phụ c vụ cho năm họ c 1995 – 1996, huy độ ng ra lớ p đượ c 56 chá u đạ t 20% kế hoạ ch. Như vậ y, mặ t bằ ng giá o dụ c

Page 159: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 159

và dân trí củ a xã Bì nh Trị Đông không ngừ ng đượ c nâng cao, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổ i đi họ c mẫ u giá o và lớ p 1 tăng lên không ngừ ng.

Về văn hóa thông tin và thể dục thể thao: Đảng bộ xã đã có những chủ trương vận động, phát động phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, giáo dục nhân dân nâng cao ý thức chống các loại hình văn hóa xấu, độc hại, nêu cao xây dự ng nề n văn hó a dân tộ c, tích cực bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn không được lành mạnh khá c1. Bên cạ nh đó cò n phá t độ ng cá c phong trà o: bả o vệ an ninh Tổ quố c, không xả rá c, vậ n độ ng trẻ em ra lớ p, phò ng chố ng tệ nạ n xã hộ i...

Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân: Ngà nh y tế tích cực quan tâm chăm sóc sứ c khỏ e củ a nhân dân2 - Công tác y tế, bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em được

1. Năm 1995, Qua họ p bì nh bầ u trong nhân dân đã công nhậ n 80 gia đì nh văn hó a mớ i và 87 gia đì nh thự c hiệ n tố t 5 điề u quy ướ c “Phong trà o Bả o vệ an ninh Tổ quố c”, có 36 gương ngườ i tố t việ c tố t và sả n xuấ t giỏ i. 2. Năm 1992: hoà n thà nh cá c mặ t công tá c, tỷ lệ đạ t cao từ 93,5% đế n 95,7%, đượ c tặ ng thưở ng 1 bằ ng khen, 1 giấ y khen, đượ c chọ n trạ m điể m cho toà n huyệ n, trong đó công tá c sinh đẻ có kế hoạ ch không đạ t (cao hơn so vớ i năm trướ c); Năm 1993, đã hoà n thà nh mộ t số mặ t, đạ t tỉ lệ cao, chăm só c sứ c khỏ e ban đầ u, khá m thai, tiêm ngừ a uố n vá n, nhưng công tá c kế hoạ ch hó a gia đì nh đạ t kế t quả thấ p, tỷ lệ sinh con thứ 3 trên 30%; Tỷ lệ suy dinh dưỡ ng giả m đá ng kể ở lứ a tuổ i 1 – 3 tuổ i, từ 17% (năm 1992) cò n 35% (năm 1993). Tiêm chủ ng cũ ng đạ t 85% so vớ i chỉ tiêu, uố ng sa bin đợ t 1 đạ t 116%, lầ n 2 đạ t 100%; 397/456 em đạ t 87% kế hoạ ch củ a năm, đạ t 100% so vớ i chỉ tiêu ở trên giao; chăm só c sứ c khỏ e cho 15.000 lượ t ngườ i, đạ t 60% kế hoạ ch, giả m 7,14% so vớ i cù ng kỳ năm 1994.

Page 160: LSDB Binh Tri Dong B_size

160 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

đẩy mạnh, đảm bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân trên địa bàn. Hoạt động tuyên truyền Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em, vận động toàn dân sử dụng muối I-ốt, kế hoạch hóa gia đình, giảm suy dinh dưỡng ở trẻ... được triển khai thực hiện tốt tại xã; thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân phòng chống dịch bệnh bằ ng biệ n phá p khai thông cố ng rã nh, diệ t trừ ruồ i muỗ i, đả m bả o ăn sạ ch ở sạ ch.

Chính sách xã hội và hoạt động xóa đói giảm nghèo: Trên đị a bà n xã hiệ n có 565 gia đì nh liệ t sĩ , 63 thương binh, 74 ngườ i có công vớ i cá ch mạ ng, 25 bà mẹ đượ c phong tặ ng bà mẹ Việ t Nam anh hù ng. Đả ng bộ xã đã có nhữ ng hà nh độ ng cụ thể trong hoạ t độ ng thương binh xã hộ i. Trong nhữ ng ngà y lễ tế t có cá c phầ n quà cho gia đì nh

Thăm viếng bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Tư

Page 161: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 161

chí nh sá ch, đố i tượ ng cá ch mạ ng, đã i ngộ và cứ u trợ cho nhữ ng gia đì nh quá khó khăn1.

Vớ i sự nỗ lự c và cố gắ ng không ngừ ng củ a Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông, trong công tá c xây dự ng đờ i số ng văn hó a – xã hộ i đã có sự chuyể n biế n đá ng khí ch lệ , đạ i bộ phậ n nhân dân gia đì nh chí nh sá ch có đờ i số ng vậ t chấ t và tinh thầ n đượ c cả i thiệ n mộ t bướ c, cá c phong trà o hoạ t độ ng phá t triể n, ngườ i dân thì đoà n kế t gắ n bó vớ i nhau trong tì nh là ng nghĩ a xó m, cá c tệ nạ n xã hộ i cũ ng đượ c đẩ y lù i.

1.3. Kiện toàn hệ thống chính trị và quốc phòng an ninh

Trước tình hình sụ p đổ củ a các nướ c xã hộ i chủ nghĩ a ở Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô, một số cán bộ đảng viên và nhân dân xã có băn khoăn về tư tưởng. Nhằm chấn chỉnh lại công tác tư tưởng cũng như công tác Đảng trên địa bàn, tại Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ IV (1986 – 1988) và V (1989 – 1991) đã nêu rõ công tác ổn định lập trường tư tưởng và nâng cao tính chiến đấu cho đội ngũ đảng viên, chăm lo phát triển đội ngũ đảng viên trẻ là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng bộ. Đồ ng thờ i, trên tinh thần quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

1. Năm 1990 cấ p quà tế t cho 521 ngườ i vớ i số tiề n là 10.630.000 đồ ng, trợ cấ p khó khăn diệ n xã hộ i trong dị p tế t 15 hộ , mỗ i hộ 20.000 đồ ng, trợ cấ p khó khăn cho hưu trí loạ i D từ thá ng 1 – 5 đượ c 4 hộ , mỗ i hộ 1 thá ng 30.000 đồ ng; tổ chứ c họ p mặ t gia đì nh chí nh sá ch Tế t nguyên đá n năm 1990 đượ c 532.000 đồ ng.

Page 162: LSDB Binh Tri Dong B_size

162 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nhằm làm cho Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đảng bộ xã Bình Trị Đông đã từng bước củng cố đoàn kết trong Đảng trên cơ sở phải tập trung dân chủ cùng hướng về chương trình mục tiêu Nghị quyết của Đảng bộ, mỗi đảng viên tự rèn luyện gắn bó và vươn lên theo khả năng, trình độ và năng lực, điều kiện của mình cùng hòa một nhịp là xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

- Công tá c xây dự ng Đả ng: Tính đến thá ng 07 năm 1995 Đả ng bộ xã có 96 đả ng viên, trong đó nghỉ hưu mấ t sứ c là 57 đồ ng chí , ra quân 21 đồ ng chí , phụ c viên 7 đồ ng chí , đương chứ c 23 đồ ng chí , đượ c chia là m 6 chi bộ . Trong đó , số lượ ng đả ng viên đương chứ c chỉ bằ ng 1/3. Th ự c hiệ n Nghị quyế t Trung ương 3 về đổ i mớ i và chỉ nh đố n Đả ng, Đả ng ủ y đã kiệ n toà n tổ chứ c, xây dự ng Đả ng tạ o sự chuyể n biế n quan trọ ng về mặ t nhậ n thứ c, xá c đị nh vị trí vai trò hạ t nhân lã nh đạ o củ a Đả ng, xây dự ng và hoạ t độ ng theo quy chế , xây dự ng nghị quyế t, là m nò ng cố t công tá c tư tưở ng, công tá c phân công đả ng viên, xây dự ng Đả ng gắ n liề n vớ i phá t triể n kinh tế – xã hộ i và giữ vữ ng chí nh trị ổ n đị nh. Sinh hoạ t đị nh kỳ đượ c duy trì đú ng, đề u đặ n, đả ng viên có ý thứ c hơn trong việ c tham gia sinh hoạ t và họ c tậ p nghị quyế t, thự c hiệ n tố t sự phân công củ a đả ng viên.

Page 163: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 163

Th á ng 10/1994 Ban Chấ p hà nh Đả ng bộ đượ c thay đổ i gầ n như toà n bộ . Trong năm 1995, xã đã xây dự ng quy chế là m việ c củ a cấ p ủy, phân công phân nhiệ m từ ng đồ ng chí , xá c đị nh nhiệ m vụ vai trò củ a cấ p ủ y, trá ch nhiệ m củ a từ ng cấ p ủ y viên, mố i quan hệ giữ a cấ p ủ y vớ i chi bộ , bộ má y nhà nướ c và cá c tổ chứ c quầ n chú ng trong hệ thố ng chí nh trị và thự c hiệ n nhiệ m vụ theo quy chế . Đổi mới phong cá ch lã nh đạ o củ a Đả ng, đi sâu và o nghiên cứ u nghị quyế t, cụ thể hó a thà nh mụ c tiêu, chương trì nh hà nh độ ng trên từ ng lĩ nh vự c, theo từ ng thờ i gian cụ thể phù hợ p vớ i tì nh hì nh đị a phương.

Về sinh hoạ t chi bộ , đả m bả o chế độ sinh hoạ t đị nh kỳ củ a chi bộ , có biên bả n họ p chi bộ hà ng thá ng gử i về Đả ng ủ y xã , để Đả ng ủ y nắ m đượ c nộ i dung kiế n nghị củ a cá c chi bộ , kị p thờ i bổ sung và o kế hoạ ch cho thá ng tớ i và kiể m tra việ c thự c hiệ n cá c nghị quyế t, chỉ thị cấ p trên đố i vớ i Chi bộ . Nhiề u chi bộ ấ p đã tạ o điề u kiệ n thuậ n lợ i cho Đả ng viên tham gia sinh hoạ t chi bộ...

Công tá c phá t triể n đả ng viên và quy hoạ ch nguồ n cá n bộ kế cậ n củ a xã , trong năm 1994 và 6 thá ng đầ u năm 1995, phá t triể n mớ i 3 đồ ng chí ; Quy hoạ ch nguồ n cá n bộ có 2 đồ ng chí tố t nghiệ p trung cấ p quả n lý nhà nướ c, 2 đồ ng chí tố t nghiệ p trung cấ p chí nh trị trườ ng Đả ng Nguyễ n Văn Cừ ; 11 đồ ng chí dự lớ p bồ i dưỡ ng công tá c cấ p ủ y do Huyệ n tổ chứ c và 5 đồ ng chí tố t nghiệ p cấ p 3. Ngoà i ra, cấ p ủ y cò n quả n lý 14 đố i tượ ng Đả ng do các tổ chứ c đoà n thể giớ i thiệ u đố i tượ ng Đả ng là 11 đồ ng

Page 164: LSDB Binh Tri Dong B_size

164 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

chí 1. Năm 1995, qua phân loại chi bộ ấp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, kết quả chi bộ ấp 1, 2, 6 đạt loại khá; chi bộ 3, 4, 5 đạt trong sạch vững mạnh.

Công tá c kiể m tra Đả ng đượ c kiệ n toà n. Ủ y ban Kiể m tra Đả ng đã thự c hiệ n tố t Nghị quyế t củ a Đả ng bộ , chủ yế u là tiế n hà nh kiể m tra chế độ sinh hoạ t đị nh kỳ và chấ t lượ ng sinh hoạ t củ a chi bộ . Đồ ng thờ i kiể m tra việ c chấ p hà nh Điề u lệ Đả ng, việ c thự c thi chủ trương, chí nh sá ch củ a Đả ng, phá p luậ t của Nhà nướ c... Năm 1995 có 3 đồ ng chí đượ c tậ p huấ n và bồ i dưỡ ng công tá c kiể m tra nên công tá c kiểm tra đi và o nề nế p theo quy chế kiể m tra đị nh kỳ , kiể m tra độ t xuấ t về cá c chế độ sinh hoạ t đả ng. Tuy nhiên, vì kiêm nhiệ m nhiề u việ c nên trong công tá c kiể m tra chưa là m hế t chứ c năng, cò n tồ n đọ ng nhiề u vụ việ c chưa giả i quyế t.

- Công tác xây dự ng chí nh quyề n: Th ự c hiệ n Nghị quyế t Trung ương 3 và Quyế t đị nh số 1852 củ a UBND Th à nh phố quy định tạm thời chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy của UBND xã, việ c cả i cá ch hà nh chí nh đượ c kiệ n toà n mộ t bướ c theo hướ ng tinh gọ n và hoạ t độ ng có hiệ u quả . Bộ má y xã , ấ p, tổ nhân dân đượ c kiện toàn, bố trí cá n bộ đú ng, đủ theo biên chế , tạ o đượ c sự chuyể n biế n trên nhiề u lĩ nh vự c, gó p phầ n nâng cao hiệ u quả quả n lý củ a Nhà nướ c, tạ o đượ c niề m tin quầ n chú ng ngà y mộ t cao hơn.

1. Bá o cá o về việ c phân tí ch đá nh giá phân loạ i Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông – ngà y 4/7/1995.

Page 165: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 165

+ Hộ i đồ ng nhân dân xã thể hiệ n đượ c trá ch nhiệ m, gầ n gũ i, lắ ng nghe ý kiế n và nguyệ n vọ ng củ a cử tri, thự c hiệ n tố t quy chế hoạ t độ ng, cả văn phò ng tiế p dân và giả i quyế t nhữ ng vấ n đề bứ c xú c củ a nhân dân. Năm 1995, Hội đồng nhân dân xã có 35 đạ i biể u, đã chia 6 tổ đạ i biể u.

+ Ủy ban nhân dân đượ c kiệ n toà n về tổ chứ c bộ má y nhà nướ c theo hướ ng gọ n nhẹ , tăng cườ ng trá ch nhiệ m, đả m bả o là m việ c 8 giờ/ngà y. Độ i ngũ cá n bộ được cử đi họ c, bồ i dưỡ ng kiế n thứ c, nâng cao đượ c trì nh độ và năng lự c là m việ c. Giữ a Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân và Mặt trận và cá c đoà n thể có mố i quan hệ mậ t thiế t, gắ n bó vớ i nhau1.

- Công tá c quầ n chú ng: Th ực hiện Nghị quyế t Trung ương 8B khó a VI, Đả ng ủ y xã đã xá c đị nh trong tì nh hì nh hiệ n nay, công tá c quầ n chú ng là hế t sứ c quan trọ ng; tậ p thể Đả ng ủ y tậ p trung sự lã nh đạ o dồ n sứ c và o việ c kiệ n toà n củ ng cố cá c tổ chứ c đoà n thể , mặ t trậ n, hưu trí , Cự u chiế n binh, Phụ nữ ,... Qua củ ng cố , vai trò củ a Mặt trận và các đoà n thể , từ ng bướ c đượ c phá t huy trong việ c đó ng gó p và xây dự ng Đả ng, xây dự ng chí nh quyề n nhấ t là việ c giớ i thiệ u đoà n viên, hộ i viên cho Đả ng bồ i dưỡ ng xem xé t kế t nạ p.

Mặ t trậ n Tổ quố c và cá c đoà n thể luôn đổ i mớ i nộ i

1. Trong nhiệ m kỳ 1994 – 1996 củ a Ban Chấ p hà nh Đả ng bộ khó a VII, đã đổ i mớ i 3 trưở ng ban nhân dân ấ p, bố trí công tá c khá c 1 đồ ng chí và thay 36 tổ trưở ng nhân dân do hoạ t độ ng ké m hiệ u quả .

Page 166: LSDB Binh Tri Dong B_size

166 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

dung và phương thứ c hoạt động. Mặ t trậ n cùng các đoà n thể hướ ng và o mụ c tiêu chăm lo, gó p phầ n đá p ứ ng nhu cầ u lợ i í ch chí nh đá ng củ a nhân dân. Đồ ng thờ i, giá o dụ c kêu gọ i nhân dân hưở ng ứ ng và tí ch cự c tham gia và o cá c phong trà o yêu nướ c, bằ ng chương trì nh hà nh độ ng cụ thể củ a từ ng đoà n thể , đã trở thà nh phong trà o quầ n chú ng rộ ng rã i như: phong trà o khuyế n nông, phong trà o dạ y nghề , phong trà o từ thiệ n xã hộ i, bả o tồ n văn hó a văn nghệ dân tộ c, xây dự ng nế p số ng văn minh, gia đì nh văn hó a,... Qua đó , chú trọ ng xây dự ng lự c lượ ng chí nh trị nò ng cố t đa dạ ng hó a, cá c hì nh thứ c theo nhu cầ u củ a tì nh hì nh.1

Bên cạ nh đó , Mặ t trậ n và cá c đoà n thể cò n tậ p trung vậ n độ ng đồ ng bà o tí n đồ và cá c chứ c sắ c hà nh đạ o theo đú ng chủ trương củ a Đả ng và Nhà nướ c, trên cơ sở chấ p hà nh thự c hiệ n Nghị quyế t 4 củ a Bộ Chí nh trị và Nghị đị nh 69 củ a Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chí nh Phủ ) về công tá c tôn giá o và hò a hợ p cá c dân tộ c. Đồ ng thờ i hỗ

1. Theo Bá o cá o Chí nh trị “Mộ t năm thự c hiệ n nhiệ m vụ củ a Ban Chấ p hà nh Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông khó a VII, nhiệ m kỳ 1994 – 1996”, cho thấy:

+ Mặ t trậ n Tổ quố c có 476 hộ i viên và thà nh lậ p 6 ban công tá c Mặ t trậ n ấ p. Mỗ i tổ hộ i đề u tổ chứ c sinh hoạ t đị nh kỳ đưa ra cá c biệ n phá p hoạ t độ ng thí ch hợ p theo sở trườ ng và năng lự c đa dạ ng hó a cá c hì nh thứ c, có sự gắ n bó hỗ trợ lẫ n nhau theo quy chế củ a Mặ t trậ n xã .+ Hộ i Cự u chiế n binh có 63 hộ i viên đượ c chia là m 6 phân hộ i.+ Hộ i Hưu trí có 51 hộ i viên đượ c chia là m 5 phân hộ i.+ Hộ i Nông dân có 807 hộ i viên đượ c chia là m 10 chi hộ i, 81 tổ .+ Hộ i Phụ nữ có 460 hộ i viên đượ c chia là m 6 tổ .+ Đoà n TNCS Hồ Chí Minh có 7 đoà n viên mớ i 4 ấ p chia ra 4, 5, 6.

Page 167: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 167

trợ , tạ o điề u kiệ n giú p đỡ đồ ng bà o dân tộ c, đặ c biệ t là đồ ng bà o ngườ i Hoa, giú p họ phá t triể n kinh tế , hò a nhậ p và o cộ ng đồ ng Việ t.

Thăm đồng bào dân tộc

- Về tì nh hì nh an ninh chí nh trị : Bì nh Trị Đông là mộ t xã ngoạ i thà nh tiế p giá p vớ i nộ i thà nh là Quậ n 6 và Quậ n Tân Bì nh, ở điể m biên ranh nà y rấ t có điề u kiệ n cho bọ n tộ i phạ m cũ ng như cá c tệ nạ n xã hộ i phá t triể n (đặ c biệ t là ở khu chợ Da Sà , nơi mà tộ i phạ m xã hộ i như ma tú y, mạ i dâm, bia ôm, mua bá n sả n xuấ t hà ng giả , trộ m cướ p, lậ p thà nh băng nhó m đá nh nhau gây rố i,... thường tập trung, hoạt động). Trướ c tì nh hì nh đó tậ p thể công an xã quyế t tâm bằ ng mọ i biệ n phá p phả i giữ vữ ng an ninh chí nh trị và trậ t tự an toà n xã hộ i. Th ông qua sự lã nh đạ o và chỉ đạ o trự c tiế p củ a Đả ng bộ và Ủy ban nhân dân xã Bì nh Trị Đông cù ng vớ i sự tham gia nhiệ t tì nh củ a Mặ t

Page 168: LSDB Binh Tri Dong B_size

168 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

trậ n Tổ quố c - cá c đoà n thể và sự đồng thuận của nhân dân trong xã , tì nh hì nh an ninh chí nh trị và trậ t tự an toà n xã hộ i đã có nhữ ng chuyể n biế n tí ch cự c. Điển hình cuối năm 1980 đầ u 1990, việ c giải thể cá c tậ p đoà n sản xuất trên địa bàn xã phát sinh một số vấn đề như phân chia lại ruộng đất tại một số khu đất mà Nhà nước quản lý, sử dụng trước đây tại xã,... điển hình là Trại cá 19 tháng 8. Đảng bộ xã đã tổ chức nhiều phiên họp giải quyết, phải họp liên tục đến 21 ngày, sau đó đến quyết định giải tán Trại cá 19 tháng 8 và giao lại phần lớn diện tích cho các xã viên.

Qua cá c phong trà o và hoạ t độ ng ở đị a phương, lự c lượ ng công an xã từ ng bướ c đượ c trưở ng thà nh về trì nh độ nghiệ p vụ , bướ c đầ u đá p ứ ng đượ c yêu cầ u của nhiệ m vụ mớ i, khố ng chế đượ c cá c băng nhó m quấ y rố i, không cò n điể m nó ng, không có trọ ng á n xả y ra, tỷ lệ phá á n cao,... Đến cuối năm 1995, toàn xã có 6 ấp với 98 tổ nhân dân tự quản an ninh trật tự theo 5 điều quy ước phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tuy nhiên, tại xã vẫ n cò n mộ t số hạn chế như: trậ n đị a an ninh văn hó a tư tưở ng chưa chặ t, xuấ t hiệ n tì nh trạ ng văn hó a phẩ m đồ i trụ y ở mộ t số nơi, tì nh trạ ng trộ m vẫ n xả y ra, tệ nạ n rượ u chè , công tá c quả n lý đố i tượ ng và nhân hộ khẩ u cò n lỏ ng lẻ o, quả n lý trậ t tự đô thị chưa nghiêm,...

Công tá c quố c phò ng tạ i đị a phương luôn chú trọng nâng cao ý thức sẵ n sà ng chiế n đấ u, là m tố t công tá c hậ u phương quân độ i và công tá c tuyể n quân, hàng

Page 169: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 169

năm giao quân đều vượt chỉ tiêu do cấp trên giao. Không ngừ ng củ ng cố , xây dựng lực lượng quân sự phường với Ban Chỉ huy gồm 4 đồ ng chí (1 trưở ng, 2 phó và 1 Bí thư kiêm chí nh trị viên), duy trì 6 ấ p độ i theo biên chế 6 đồng chí/ấp, xây dự ng đượ c 1 đạ i độ i dân quân cơ độ ng, 1 trung độ i 12 ly 7. Th ường xuyên kết hợp lực lượng công an tuầ n tra canh gá c đi và o cá c khu vự c trọ ng điể m (Cây Da Sà , ngã tư 4 xã , Mả Lò , khu vự c ấ p 5), tổ chức truy qué t tộ i phạ m và tệ nạ n xã hộ i. Nhưng, lự c lượ ng dân quân tự vệ trên đị a bà n tuy đông nhưng chấ t lượ ng cò n ké m, tổ chứ c chưa chặ t, í t sinh hoạ t, chưa nắ m chắ c tư tưởng hoà n cả nh củ a từ ng thanh niên trong độ tuổ i nghĩa vụ quân sự,...

Trong những năm đầ u thự c hiệ n đườ ng lố i đổ i mớ i củ a Đả ng, trả i qua cá c kỳ Đạ i hộ i, đặ c biệ t là việ c thự c hiệ n Nghị quyế t Đạ i hộ i Đả ng bộ xã lầ n thứ VII, tuy có nhiều khó khăn và thá ch thứ c, nhưng vớ i sự cố gắ ng nỗ lự c phấ n đấ u củ a toà n Đả ng bộ và nhân dân trong xã , Bình Trị Đông đã đạ t đượ c nhữ ng thà nh tự u quan trọng: kinh tế đi dầ n và o ổ n đị nh, hệ thố ng chí nh trị đượ c quan tâm củ ng cố đã đem lạ i nhữ ng kế t quả bướ c đầ u, tạ o đượ c lò ng tin trong nhân dân,... Song bên cạ nh đó vẫ n cò n tồ n tạ i nhữ ng khó khăn, thiế u só t: Quả n lý Nhà nướ c ở mộ t số lĩ nh vự c cò n yế u ké m; mộ t số đả ng ủy viên do năng lự c, trình độ hạn chế nên chưa mạ nh dạ n nhậ n nhiệ m vụ , khiến Đảng ủy khó khăn trong phân công nhiệm vụ; năng lự c lã nh đạ o tậ p thể củ a Đả ng ủ y cò n hạ n chế và không đồ ng đề u; lã nh đạ o, chỉ đạ o chưa cao so vớ i yêu

Page 170: LSDB Binh Tri Dong B_size

170 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

cầ u nhiệ m vụ xây dựng và phá t triể n địa phương; Trong sinh hoạ t Đả ng đôi khi chưa nghiên cứ u sâu nộ i dung, chưa đi sâu và o vấ n đề trọ ng tâm để thả o luậ n thố ng nhấ t, nhằ m tậ p trung lã nh đạ o: vai trò trá ch nhiệ m, trí tuệ và kiế n thứ c củ a từ ng đả ng viên chưa phá t huy hế t tí nh năng độ ng sá ng tạ o so vớ i yêu cầ u nhiệ m vụ đổ i mớ i và phá t triể n...

2. Đảng ủy lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới (1996 – 2003)

Sau 10 năm đổi mới, Bình Trị Đông là xã có tốc độ phát triển nhanh về kinh tế, chuyển biến tích cực về văn hóa - xã hội, có tiềm năng về lao động, đất đai phong phú, đa dạng. Cơ cấ u kinh tế chuyể n dị ch theo hướ ng: Công nghiệ p – Tiể u thủ công nghiệ p – Th ương mại dị ch vụ và nông nghiệ p, đượ c Th à nh phố và Huyệ n đầ u tư, quy hoạ ch nhiề u khu dân cư mớ i. Năm 2000, Bì nh Trị Đông có 9.512 hộ vớ i 45.285 nhân khẩ u, trong đó : hộ nông nghiệ p chiế m 14%; hộ sả n xuấ t công nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p – thương mạ i dị ch vụ 62%, số cò n lạ i là là m cá c nghề khá c1.

Tuy nhiên, trong những năm 1996 – 2000 Bình Trị Đông vẫn còn nhiều khó khăn. Là một xã có tốc độ đô thị hóa nhanh nhưng lại mang tính tự phát, nhiều

1. Theo Bá o cá o kiể m điể m việ c tổ chứ c thự c hiệ n Nghị quyế t Đạ i hộ i Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông nhiệ m kỳ VIII (1996-2000) và phương hướ ng nhiệ m kỳ IX (2001-2005).

Page 171: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 171

khu quy hoạch kéo dài thời gian chưa tổ chức thực hiện, hiệu quả đạt được trên các lĩnh vực còn thấp nếu so với tiềm năng hiện có của xã, tổ chứ c bộ má y trong hệ thố ng chí nh trị củ a xã còn yếu, chưa ngang tầm với sự phát triển của xã.

Với tình hình thực tế đó, Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Bình Trị Đông nhiệm kỳ VIII (1996 – 1998) đã khai mạc ngày 5 tháng 2 năm 1996. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 1996-20001 gồm 11 đồng chí do đồ ng chí Huỳ nh Văn Mẫ n là m Bí thư.

Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ phường đã nêu rõ: “Đảng bộ xã Bình Trị Đông tiến hành đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội địa phương theo cơ cấu kinh tế nông nghiệp – công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – thương mại – dịch vụ đồng thời giữ vững ổn định về chính trị củng cố không ngừng về quốc phòng để xây dựng địa phương theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Th ực hiện mục tiêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ phường đã đề ra chủ trương lãnh đạo địa phương nhằm phát huy những thuận lợi, cố gắng từng bước khắc phục những khó khăn, tồn tại.

1. Nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ phường khoá VIII (1996-1998) là 2 năm rưỡi theo quy định của Điều lệ Đảng. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996-2000) của Đảng, tổ chức từ ngày 28/6/1996 đến ngày 1/7/1996, nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ phường (đảng bộ cơ sở) được tăng lên là 5 năm (1996-2000).

Page 172: LSDB Binh Tri Dong B_size

172 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Phường đã tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội địa phương theo cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giữ vững ổn định chính trị xã hội, củng cố không ngừng về quốc phòng, đưa xã Bình Trị Đông chuyển biến tích cực, có tốc độ phát triển nhanh ở nhiều lĩnh vực, thu hút nhiều nhà đầu tư phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Trong đị nh hướ ng phá t triể n kinh tế – văn hó a – xã hộ i giai đoạn 1998 – 2005, Ủy ban nhân dân xã đã xá c định : Từ nay đế n năm 2000 cơ cấ u nông nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p, công nghiệ p và dị ch vụ là cơ cấ u chủ yế u để phá t triể n kinh tế xã Bì nh Trị Đông. Trong đó , ngoà i khu công nghiệ p PouYuen, Cơ khí Hai Th à nh và cá c cơ sở công nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p nằ m xen kẽ trong khu dân cư hiệ n hữ u sẽ tiế p tụ c tạ o điề u kiệ n để thu hú t đầ u tư phá t triể n công nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p, thương nghiệ p, dị ch vụ , đưa nhữ ng cơ sở sả n xuấ t ô nhiễ m và o khu quy hoạ ch củ a huyện. Cò n từ năm 2000 -2010, dự kiế n cơ cấ u công nghiệ p, công nghiệ p, tiể u thủ công nghiệ p, thương nghiệ p, dị ch vụ , nông nghiệ p. Số diệ n tí ch đấ t nông nghiệ p không lớ n, do đó cầ n phả i chuyể n sang cây trồ ng vậ t nuôi khá c đem lạ i hiệ u quả kinh tế cao hơn, trên cơ sở á p dụ ng nhữ ng thà nh tự u khoa họ c kỹ thuậ t và o lĩ nh vự c nông nghiệ p1.Vớ i đị nh hướ ng phá t triể n đó là:

1. Bá o cá o tó m tắ t: Quy hoạ ch mặ t bằ ng cả i tạ o và xây dự ng xã Bì nh Trị Đông huyệ n Bì nh Chá nh đế n năm 2010 và cá c năm tiế p theo

Page 173: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 173

2.1 Sản xuất nông nghiệp: Th ự c hiệ n chủ trương Nghị quyế t VIII củ a Đả ng bộ xã , nông nghiệ p là mặ t trậ n hà ng đầ u, cơ giớ i hó a nông nghiệ p là tiề n đề để đi lên công nghiệ p hó a, hiệ n đạ i hó a trong tương lai, Đả ng bộ xã đã có nhiề u biệ n phá p để hỗ trợ sả n xuấ t nông nghiệ p: nâng cấ p đườ ng nông thôn, nạ o vé t kênh thủ y lợ i vớ i tổ ng kinh phí là 1.334.900.000 đồ ng (các nguồn vốn vay là 1,136 tỷ, vốn của xã là 198.900.000 đồng)1. Bên cạ nh đó , đị a phương cò n đẩy mạnh tuyên truyề n khuyế n nông, tậ p trung giả i quyế t cá c khiế u nạ i ruộ ng đấ t trong nộ i bộ nông dân và cấ p quyề n sử dụ ng đấ t,... Do đó , cơ cấ u cây trồ ng vậ t nuôi đã đem lạ i giá trị cao hơn2. Tuy nhiên, việ c quả n lý cá c công trì nh thủ y lợ i chưa tố t, á p dụ ng tiế n bộ

1. Theo Bá o cá o tì nh hì nh nhiệ m vụ chí nh trị năm 1996 củ a Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông, ngà y 05/01/1997.2. Năm 2001, đấ t nông nghiệ p đã giả m xuố ng đá ng kể nhườ ng chỗ cho nhà ở và cơ sở sả n xuấ t. Từ đầ u nhiệ m kỳ Đạ i hộ i VIII là 607 ha đấ t lú a theo chỉ tiêu, đế n năm 2000 là 150 ha nhưng thự c tế sạ cấ y khoả ng 50% tậ p trung ở ấ p 6, số cò n lạ i trồ ng rau muố ng, sen vì nướ c tù và ô nhiễ m nguồ n nướ c, cho năng suấ t thấ p, sả n lượ ng không đá ng kể . Trong chăn nuôi, cá vớ i 17,5 ha mặ t nướ c ao hồ tậ p trung khu phố ấ p 6, hơn 10 tấ n/năm, kế t hợ p nuôi cá là ngườ i nông dân đã thả khoả ng 5.000 con vị t đẻ siêu trứ ng mỗ i năm đưa ra thị trườ ng trên 200.000 con vị t con. Nướ c ô nhiễ m luôn lan rộ ng là m khả năng chăn nuôi khó phá t triể n. Trong 6 thá ng đầ u năm 2002, diệ n tí ch đấ t nông nghiệ p giả m nhiề u, chỉ cò n lạ i ở cá nh đồ ng ấ p 6, việ c đầ u tư cho sả n xuấ t nông nghiệ p hầ u như không cò n, chủ yế u chuyể n sang trồ ng rau muố ng nướ c và sen. Xã khuyế n khí ch cá c hộ nông dân tậ n dụ ng đấ t gò vườ n, diệ n tí ch đấ t nông nghiệ p hiệ n cò n để chăn nuôi, trồ ng trọ t nhữ ng cây trồ ng vậ t nuôi thí ch hợ p có hiệ u quả để tạ o thu nhậ p hộ gia đì nh. Hiệ n đà n gia sú c gia cầ m cá c loạ i có 500 con, rau mà u 100ha, 30ha gieo cấ y lú a vụ hè thu.

Page 174: LSDB Binh Tri Dong B_size

174 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

khoa họ c kỹ thuậ t ở đồ ng ruộ ng cò n í t, cơ giớ i hó a nông nghiệ p cò n thấ p, diện tích đất nông nghiệ p ngà y cà ng í t đi bở i quá trình công nghiệ p hóa. Việ c phá t triể n tự phá t cá c khu dân cư và cá c công trì nh công nghiệp chưa quy hoạ ch cụ thể , nên trong xây dự ng không có cống thoá t nướ c, gây ngậ p ú ng mộ t số đồ ng ruộ ng, bị ả nh hưở ng rấ t lớ n đến sả n xuấ t nông nghiệ p.

2.2 Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – thương mại dịch vụ: Khuyến khích phát triển các hình thức mua bán dịch vụ trong nhân dân; chỉ đạo sắp xếp việc mua bán bảo đảm trật tự vệ sinh và văn minh trong giao dịch thương nghiệp. Năm 1997, xã có 230 điể m thương mạ i, dị ch vụ chủ yế u ở dọc hai bên đường Tỉ nh lộ 10 và cá c đườ ng liên ấ p, trong đó có 2 chợ (chợ Da Sà và chợ Bình Trị Đông). Tuy nhiên việ c triể n khai đầ u tư cá c chợ cò n chậ m, chiếm lộ giớ i ả nh hưở ng đế n an toà n giao thông cũng gặp những khó khăn nhất định.

Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, hì nh thà nh nhiều cơ sở sả n xuấ t theo hướ ng tự phá t theo chủ trương di dờ i củ a Th à nh phố từ nộ i thà nh ra ngoạ i thà nh. Năm 2000, số lượ ng công ty trách nhiệm hữu hạn tăng 3 lầ n so vớ i năm 1996, doanh nghiệp tư nhân tăng 8 lầ n so vớ i năm 1995 và có 241 cơ sở sả n xuấ t nhỏ , vớ i nhiề u mặ t hà ng phong phú , đa dạ ng: kim khí , vả i sợ i, nhự a công nghiệ p và gia dụ ng, vậ t liệ u xây dự ng, mỹ phẩ m, giấ y,... Trong đó , ngà nh cơ khí , keo dá n sắ t, khung nhà thé p lắ p rá p, tiệ n... phá t triể n là m ăn có hiệ u quả . Phường đã giả i quyế t việc làm cho khoả ng 3.000 lao độ ng đị a phương, 5.000 lao

Page 175: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 175

độ ng từ nhiề u nơi khá c đế n, hà ng năm là m nghĩ a vụ thuế đố i vớ i Nhà nướ c 5,3 tỷ đồ ng.

2.3 Công tác quy hoạch, quản lý đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng: Cá c tuyế n đườ ng Hương lộ 2, Mã Lò , đườ ng 21, Tỉ nh lộ 10 theo phân cấ p thuộ c cấ p huyệ n, thà nh phố quả n lý , xã đã chủ độ ng kiế n nghị cơ quan chủ quản nâng cấ p, sử a chữ a để phụ c vụ việ c đi lạ i củ a nhân dân. Trong năm 2002, xã đã xây dự ng văn phò ng Ban nhân dân ấ p 5, 10, 11 bằ ng nguồ n ngân sá ch Nhà nước và sự đóng góp thêm của nhân dân là 140.790.000 đồ ng. Việ c phá t triể n kết cấu hạ tầ ng đã giả i quyế t đượ c tì nh trạ ng ngậ p ú ng, gó p phầ n thiết thực cho đờ i số ng dân cư cũng như tạo thuậ n lợ i cho hoạ t độ ng sả n xuấ t kinh doanh trên đị a bà n xã . Tuy nhiên việ c hì nh thà nh cá c khu dân cư tự phá t không đả m bả o về cơ sở hạ tầ ng, tì nh trạ ng xe vậ n tả i lưu thông quá tả i trong cá c con đườ ng nộ i bộ làm đường sá mau hư hỏ ng, xuố ng cấ p. Cho đế n năm 2000, xã đã điệ n khí hó a toà n phầ n, 100% dân sử dụ ng nướ c sạ ch, trong đó 20% sử dụ ng nướ c má y, cá c hộ đề u đã lắ p thủ y điệ n kế .

2.4 Ngân sách – tài chính – thuế: Th ực hiện theo quy định và phân cấp của huyện, trong giai đoạn 1996-2000, xã đã thu ngân sá ch được 2.943.650.432 đồ ng; trong đó tổ ng chi là 2.849.067.982 đồ ng1.

1. Theo Bá o cá o kiể m điể m việ c tổ chứ c thự c hiệ n Nghị quyế t Đạ i hộ i Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông nhiệ m kỳ VIII 1996-2000 và phương hướ ng nhiệ m kỳ IX 2001-2005.

Page 176: LSDB Binh Tri Dong B_size

176 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Như vậ y, trong giai đoạ n 1996 – 2003, tì nh hì nh phá t triể n kinh tế củ a xã tuy có nhữ ng lú c tăng giảm khá c nhau nhưng về cơ bả n vẫ n giữ đượ c tí nh ổ n đị nh và tăng trưở ng theo tinh thầ n củ a Nghị quyế t Đạ i hộ i VIII (1996-2000) và giai đoạn đầu của Nghị quyết Đại hội IX (2000-2005) của Đảng bộ phường. Cơ cấ u kinh tế tiế p tụ c chuyể n dị ch vớ i tố c độ nhanh, đú ng hướ ng và phù hợ p vớ i xu thế công nghiệ p hó a. Vớ i nhữ ng kế t quả đã đạ t đượ c, trong Kế hoạ ch phá t triể n kinh tế – văn hó a xã hộ i – an ninh quố c phò ng năm 2002 củ a Ủy ban nhân dân xã Bì nh Trị Đông, lã nh đạ o xã đã chí nh thứ c khẳ ng đị nh: “Năm 2002 xá c đị nh việ c chuyể n đổ i cơ cấ u kinh tế theo hướ ng chủ yế u là công nghiệ p, dị ch vụ thương mạ i và mua bá n nhỏ ”. Từ đây, kinh tế củ a Bì nh Trị Đông đã có nhữ ng hướ ng đi mớ i phù hợ p vớ i đườ ng lố i công nghiệ p hó a, hiệ n đạ i hó a mà Đả ng đã đề ra.

2.5 Giữ vững, ổn định văn hóa – xã hội

Về công tác giáo dục, Đảng bộ luôn chủ trương phối hợp ba môi trường hoạt động: nhà trường – gia đình – xã hội để chăm lo sự nghiệp giáo dục, chất lượng giảng dạy của đội ngũ cán bộ và thầy cô giáo và kết quả học tập của các em học sinh đã được nâng lên. Bên cạ nh đó , xã phố i hợ p vớ i ngà nh giá o dụ c thự c hiệ n tố t việ c quả n lý họ c sinh ở nhà trườ ng, gia đì nh và xã hộ i thông qua sổ liên lạ c củ a họ c sinh và cá c cuộ c họ p đị nh kỳ giữ a giữ a hộ i đồ ng giá o dụ c vớ i phụ huynh. Điều kiện cơ sở vật chất cho giáo dục được cải thiện.

Page 177: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 177

Trong năm họ c 1999 – 2000, Trườ ng cấ p II Bì nh Trị Đông chí nh thứ c đượ c đưa và o hoạ t độ ng vớ i 9 phò ng họ c, phò ng nghiệ p vụ , phò ng thí nghiệ m, phò ng vi tí nh đú ng theo hệ chí nh quy, tỷ lệ họ c sinh chuyể n cấ p đạ t 97,04% (131/135 em thi đỗ chuyể n cấ p 3). Trong suố t nhiệ m kỳ VIII, hà ng năm xã đã huy độ ng đượ c trẻ 6 tuổ i và o lớ p 1 (đạ t 100% chỉ tiêu), bì nh quân tỷ lệ họ c sinh tiể u họ c bỏ họ c 0,5% em/năm; họ c lự c giỏ i 19,3%, khá 52,1%, trung bì nh 27%. Trì nh độ nghiệ p vụ củ a độ i ngũ giá o viên ngà y đượ c nâng cao, phẩ m chấ t đạ o đứ c tố t, thá i độ yêu ngà nh nghề cao. Hà ng năm tỷ lệ họ c sinh thi chuyể n cấ p I đạ t bì nh quân 95% (riêng năm 1998 đạ t 100%); huy động trẻ 5 tuổ i và o họ c mẫ u giá o luôn đạ t và vượ t chỉ tiêu, phò ng họ c đủ , rộ ng rã i và thoá ng má t tạ o điề u kiệ n thuậ n lợ i cho trẻ đế n trườ ng vớ i 13 lớ p họ c. Hà ng năm tổ chứ c cá c hoạ t độ ng: thi bé khỏ e bé ngoan (cấ p huyệ n đạ t 75%, cấ p thà nh phố đạ t 0,79%)1. Qua 7 năm thự c hiệ n phổ cậ p giá o dụ c bậ c Trung họ c cơ sở (1996 – 2002) ở huyệ n Bì nh Chá nh, đã có hà ng nghì n em họ c sinh tố t nghiệ p hệ Bổ tú c Trung họ c cơ sở .

Về công tác xã hộ i, chăm só c sứ c khỏ e cho cộng đồ ng, xó a đó i giả m nghè o: Tậ p thể cá n bộ công nhân viên trạ m xá luôn có tinh thầ n thá i độ phụ c vụ tố t sứ c khỏ e ban đầ u cho nhân dân, quan tâm chăm só c sứ c khỏ e cộng đồ ng, tậ p trung tuyên truyề n chố ng suy dinh dưỡ ng

1. Theo Bá o cá o kiể m điể m việ c tổ chứ c thự c hiệ n Nghị quyế t Đạ i hộ i Đả ng bộ xã Bì nh Trị Đông nhiệ m kỳ VIII (1996 – 2000) và phương hướ ng nhiệ m kỳ IX (2000 – 2005) củ a Đả ng ủ y xã Bì nh Trị Đông 07/2000.

Page 178: LSDB Binh Tri Dong B_size

178 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

ở trẻ em, phò ng chố ng ma tú y, vậ n độ ng kế hoạ ch hó a gia đì nh (năm 2002 đạ t 53,02%), tiêm chủ ng mở rộ ng (đạ t 123,89%), khá m chữ a bệ nh 17.581 lượ t ngườ i. Khá m và điề u trị bệ nh xã hộ i (lao và bệ nh tâm thầ n) 104 lượ t ngườ i. Công tác chăm lo đời sống cho nhân dân trên địa bàn, nhất là các đối tượng chính sách, được thực hiện tố, hàng năm tổ chứ c tố t họ p mặ t gia đì nh chí nh sá ch trong dị p tế t cổ truyề n, đả m bả o cấ p phá t đú ng, đủ , kị p thờ i cá c chế độ , quà tặ ng đế n cá c đố i tượ ng chí nh sá ch có hoà n cả nh khó khăn, cá c bà mẹ Việ t Nam anh hù ng. Tí nh đế n thá ng 6/2000 xã đã vậ n độ ng xây mớ i đượ c 14 căn nhà tì nh nghĩ a, 12 căn nhà tì nh thương, hỗ trợ chố ng dộ t 6 căn, đưa đượ c 57 hà i cố t liệ t sĩ về nghĩ a trang. Chú trọng đến việc dạy nghề và các công tác giải quyết việc làm cho người dân trên địa bàn xã. Năm 2002, vậ n độ ng xây dự ng gia đì nh văn hó a mớ i có 2.440 hộ đạ t tiêu chuẩ n công nhậ n gia đì nh văn hó a, 120 gương ngườ i tố t việ c tố t.

Xó a đó i giả m nghè o, tậ p trung hỗ trợ vố n từ nguồ n quỹ xó a đó i giả m nghè o để cá c hộ có điề u kiệ n là m ăn, vượ t nghè o. Năm 2002, số vốn hỗ trợ là 223.900.000 đồ ng. Bên cạ nh việc hỗ trợ vố n xã còn quan tâm chăm lo cho cá c trườ ng hợ p neo đơn, già yế u ở đị a phương, thự c hiệ n tì nh là ng nghĩ a xó m trong xó m ấ p, giú p đỡ nhau trong sinh hoạt hàng ngày.

Về công tác văn hóa thông tin – thể dục thể thao: Tập trung tuyên truyền các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền công tác bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa X, khó a XI. Th am gia hội diễn văn nghệ quần chúng,

Page 179: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 179

giải bóng đá truyền thống do huyện tổ chức. Tí nh đế n năm 2000, trên đị a bà n xã có hai trạ m truyề n thanh và mạ ng lướ i tuyên truyề n viên từ xã đế n ấ p, phá t độ ng cá c phong trà o gương tố t, ngườ i tố t; xây dự ng gia đì nh văn hó a, thự c hiệ n gia đì nh chuẩ n mự c; khu dân cư xuấ t sắ c,... Hệ thố ng thông tin liên lạ c củ a xã đượ c củ ng cố vớ i 4 trạ m bưu điệ n dân lậ p hợ p tá c vớ i Bưu điệ n Bì nh Chá nh phụ c vụ nhân dân, gó p phầ n xã hộ i hó a về thông tin. Đà i truyề n thanh xã đả m bả o giờ giấ c tiế p âm phá t só ng, phổ biế n kị p thờ i cá c thông tin, tuyên truyề n phá p luậ t.

Cá c hoạ t độ ng vui chơi giả i trí cho thanh thiế u niên: cá c giả i bó ng đá truyề n thố ng, hộ i thao thiế u nhi hè ,... đề u đượ c tổ chứ c hà ng năm.

Vớ i phương châm tố t đờ i đẹ p đạ o các tín đồ tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động của xã. Việ c tranh chấ p củ a chù a Mai Sơn ké o dà i mấ y năm liề n là m cho thà nh phố , Huyệ n, xã tố n nhiề u công sứ c giả i quyế t, nhưng đượ c sự quan tâm củ a các cấp lãnh đạo và của Đả ng ủ y, mối quan hệ vớ i các chứ c sắ c, tí n đồ và phậ t tử ngày càng gắn bó; Công tá c Hoa vậ n đượ c chú trọ ng nhấ t là trong việ c tuyên truyề n chủ trương, đườ ng lố i củ a Đả ng và Nhà nướ c; ưu tiên đầ u tư kinh phí chăm lo đờ i số ng vậ t chấ t của bà con người Hoa ở áp 4, Cây Da Sà, chăm lo cho đồ ng bà o ngườ i Hoa nghè o có điề u kiệ n ăn tế t, tổ chứ c hỗ trợ vố n phá t triể n kinh tế gia đì nh...

2.6 Củng cố hệ thống chính trị, an ninh – quốc phòng

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) và Nghị quyết 8 của Bộ Chính trị (khóa XI) về Chiến

Page 180: LSDB Binh Tri Dong B_size

180 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong nhiệm kỳ 2001-2005, Đảng bộ đã lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với củng cố an ninh, quốc phòng. Trong đó xác định rõ nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc gia, chống âm mưu ‘‘diễn biến hòa bình’’ là nhiệm vụ trọng yếu. Hướng đến mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân nên hàng năm, Đảng bộ xã đều có các nghị quyết quân sự địa phương và nghị quyết giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tổ chứ c xây dự ng lự c lượ ng dân quân và tham gia huấ n luyệ n theo chương trì nh củ a Huyệ n ủ y. Xây dự ng phương á n tá c chiế n xã , cụ m liên xã , quả n lý tố t lự c lượ ng thanh niên trong độ tuổ i và thự c hiệ n nghĩa vụ quân sự hà ng năm đề u đạ t 100% chỉ tiêu đượ c giao. Trong nhiệ m kỳ VIII củ a Đả ng bộ xã , xây dự ng lự c lượ ng dân quân đạ t 2,5% so vớ i dân số (chỉ tiêu 3,5%).

Để giữ vữ ng an ninh chí nh trị trên đị a bà n xã , công tá c sẵ n sà ng chiế n đấ u thườ ng xuyên đượ c duy trì , vớ i chế độ trự c theo quy đị nh hà ng ngày(1). Trong năm 2001, đã có 4.333 lượ t đồ ng chí tham gia trự c tạ i chỗ là m công tá c sẵ n sà ng chiế n đấ u. Hỗ trợ Ủy ban nhân dân xã 49 đợ t, có 199 đồ ng chí tham gia công tá c giữ gì n an ninh, trật tự an toàn xã hội và phò ng chố ng tộ i phạ m; Ngoà i ra, đơn vị cò n phố i hợ p giữ trậ t tự giao thông ở cá c khu

1. chỉ huy, 2 ấ p độ i, 9 dân quân, các đợ t cao điể m có lị ch phân công trự c ban chỉ huy thố ng nhấ t đủ thà nh phầ n.

Page 181: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 181

dân cư, bả o vệ khu vự c vui chơi, ca nhạ c trên đị a bà n; bổ sung kế hoạ ch hoạ t độ ng tá c chiế n trị an, kế hoạ ch bả o vệ mụ c tiêu, kế hoạ ch phò ng không nhân dân, kế hoạ ch phò ng chố ng chá y nổ ,... Năm 2001, là đơn vị hoà n thà nh tố t nhiệ m vụ “diễ n tậ p – phò ng thủ ” có 68 đồ ng chí và cá n bộ chiế n sĩ trong đơn vị tham gia, đượ c huyệ n đá nh giá tố t và tặ ng giấ y khen.

Đượ c sự quan tâm củ a Đả ng ủ y, Ủ y ban, hà ng năm Ban chỉ huy quân sự xã đã tổ chứ c tậ p huấ n giá o dụ c chí nh trị tư tưở ng cho lự c lượ ng dân quân củ a xã ; tham mưu cho Đả ng ủ y, Ủy ban nhân dân xã tổ chứ c họ p mặ t truyề n thố ng kỷ niệ m ngà y thà nh lậ p Dân quân tự vệ , ngà y thà nh lậ p Quân độ i nhân dân Việ t Nam,... Để độ ng viên thanh niên trên đị a bà n xã tham gia nghĩ a vụ quân sự , Ban Chỉ huy quân sự xã đã tổ chứ c tuyên truyề n, vậ n độ ng thanh niên từ 17 – 27 tuổ i đủ điề u kiệ n đi khá m sứ c khỏ e. Năm 2001, tổ ng số thanh niên khá m sứ c khỏ e 122/142 đạ t tỷ lệ 85,91%, trong đó 31 thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự đạ t 157,14% (vượ t chỉ tiêu củ a huyệ n giao)...

Vớ i việ c củ ng cố và đà o tạ o, bồ i dưỡ ng lự c lượ ng công an từ xã đế n ấ p về trì nh độ văn hó a, chí nh trị , phá p luậ t giỏ i về nghiệ p vụ và có tí nh kỷ luậ t cao. Xây dự ng hoà n chỉ nh mạ ng lướ i tổ an ninh nhân dân, tổ dân phố , lự c lượ ng dân phò ng, thự c hiệ n tố t phong trà o bả o vệ an ninh tổ quố c, bả o đả m tỷ lệ phá á n cao,... Trong công tá c quố c phò ng luôn thự c hiệ n tố t phò ng thủ đị a phương, phò ng thủ cụ m và khu vự c, quả n lý tố t thanh niên trong độ tuổ i nghĩ a vụ quân sự , quân nhân xuấ t ngũ , phụ c viên,

Page 182: LSDB Binh Tri Dong B_size

182 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

luôn đả m bả o tỷ lệ tuyể n quân hà ng năm đạ t 100%... Tì nh hì nh an ninh chí nh trị – an toà n xã hộ i trên đị a bà n xã đã đượ c giữ vữ ng, chấ t lượ ng phong trà o đượ c nâng cao, phá t triể n lự c lượ ng nò ng cố t đề u trên đị a bà n dân cư.

Tuy nhiên, do đặ c thù củ a mộ t xã đang trong quá trì nh đô thị hó a cao, nhiề u vấ n đề phứ c tạ p đã nả y sinh trên đị a bà n dân cư xã và đang có chiề u hướ ng gia tăng, tì nh trạ ng thanh niên phạ m phá p cò n nhiề u, dân nhậ p cư từ cá c nơi khá c đế n quá đông... đò i hỏ i Đả ng bộ và cá c cấ p chí nh quyề n phả i có đườ ng lố i đú ng đắ n, phù hợ p vớ i tì nh hì nh củ a xã . Là m đượ c điề u đó , trướ c hế t phả i có sự thố ng nhấ t và ổ n đị nh trong hệ thố ng chí nh trị .

2.7 Về công tá c xây dự ng Đả ng: Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về tập trung nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Tiến hành kiểm điểm, phân loại đảng viên; tổ chức động viên giáo dục để đảng viên vươn lên,... Chú ý kiện toàn chi ủy chi bộ ấp. Nội dung sinh hoạt phải phù hợp với điều kiện cụ thể của xóm ấp. Xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết nội bộ, phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an để đảm bảo quốc phòng, an ninh, phối hợp với đoàn thể làm tốt công tác quần chúng. Giữ vững tình hình an ninh – quốc phòng trên địa bàn. Chủ động xây dựng kế hoạch phòng chống mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Đồng thời Có kế hoạch phòng thủ sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa phương.

Đảng bộ xác định trong bất cứ hoàn cảnh nào: cũng

Page 183: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 183

đặc biệt xem trọng công tác xây dựng Đảng. Mục tiêu là xây dựng Đảng bộ thật trong sạch và vững mạnh, phấn đấu 4 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh toàn diện và có từ 60% đảng viên đạt loại 1, số còn lại đạt loại 2, không có đảng viên nào đạt loại 3,4... Do đó, Đảng bộ đã đề ra một số giải pháp:

+ Công tác chí nh trị tư tưởng: Cầ n nâng cao nhậ n thứ c chí nh trị , tăng cườ ng và giữ vữ ng bả n chấ t giai cấ p công nhân, kiên đị nh lậ p trườ ng quan điể m chủ nghĩ a Má c – Lênin, tư tưở ng Hồ Chí Minh, quá n triệ t mụ c tiêu củ a Đả ng trên con đườ ng đổ i mớ i theo đị nh hướ ng xã hội chủ nghĩa, khẳ ng đị nh vai trò lã nh đạ o củ a Đả ng là nhiệ m vụ quan trọ ng hà ng đầ u củ a Đả ng bộ . Mỗi đảng viên tự rèn luyện phẩm chất, tư cách gương mẫu, trong sáng của mình, Đồng thời phải thực hiện công tác vận động quần chúng; luôn thể hiệ n tinh thầ n gương mẫ u chấ p hà nh nghị quyế t, đườ ng lố i củ a Đả ng, phá p luậ t củ a Nhà nướ c, có ý thứ c cả nh giá c đố i vớ i âm mưu diễ n biế n hòa bì nh củ a cá c thế lự c thù đị ch.

+ Công tác tổ chức: Tập trung xây dựng củng cố các chi bộ, nâng cao chất lượng sinh hoạt, nâng cao và phát huy vai trò lãnh đạo của chi bộ ở ấp.

Năm 2000, Đả ng bộ xã có 6 chi bộ ấ p với 135 đả ng viên, trong đó đả ng viên nữ là 24. Năm 2002, Đả ng bộ xã có 11 chi bộ ấ p, 1 chi bộ giá o dụ c, 1 chi bộ quân sự vớ i tổ ng số đả ng viên là 185 đồ ng chí . Từ ng chi bộ ấ p đề u duy trì chế độ sinh hoạ t đị nh kỳ mỗ i thá ng mộ t lầ n, thự c hiệ n

Page 184: LSDB Binh Tri Dong B_size

184 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Quy đị nh 326 củ a Th à nh ủ y, hoạ t độ ng củ a đả ng viên đượ c phân công rõ rà ng. Nộ i dung sinh hoạ t củ a chi bộ ấ p mang tí nh thiế t thự c trọ ng tâm gắ n vớ i tì nh hì nh thự c tế tạ i xó m, ấ p.

Kế t quả phân loạ i đá nh giá chấ t lượ ng đả ng viên, phân tí ch chấ t lượ ng cơ sở Đả ng năm 2001: Đả ng viên tham gia phân loạ i 165 đồ ng chí , đả ng viên đủ tư cá ch 162 đồ ng chí , đả ng viên vi phạ m tư cá ch 3 đồ ng chí . Đố i vớ i phân tí ch chấ t lượ ng tổ chứ c cơ sở Đả ng, có 6 chi bộ trong sạ ch vữ ng mạ nh, 5 chi bộ đạ t loạ i khá , toàn Đả ng bộ loạ i khá .

Trong sinh hoạt cần chú trọng nâng cao phê bình và tự phê bình, có nội dung phong phú trọng tâm. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, có kiểm điểm phân loại đảng viên định kỳ, những đảng viên loại yếu kém cần tổ chức động viên giáo dục, giúp đỡ để khắc phục vươn lên. Đả ng ủ y xã thự c hiệ n quy chế là m việ c củ a Đả ng ủ y, có phân công, phân nhiệ m từ ng đồ ng chí trong Ban Chấp hành, chế độ họ p Ban Th ườ ng vụ đượ c duy trì nề nế p.

Công tá c phá t triể n, kiể m tra đả ng viên: Th ường xuyên cải tiến phương pháp và nội dung kiểm tra. Trong nhiệ m kỳ 1996 – 2000, đã kế t nạ p đượ c 16 đồ ng chí , có kế hoạ ch bồ i dưỡ ng chuẩ n bị nguồ n phá t triể n Đả ng là 15 đồ ng chí . Đả ng bộ thự c hiệ n nhiệ m vụ kiể m tra Đả ng theo Điề u lệ Đả ng, kiể m tra việ c chấ p hà nh nguyên tắ c tổ chứ c, việ c thự c hiệ n quy chế là m việ c củ a Đả ng ủ y, chi ủ y cá c chi bộ . Ủy ban Kiểm tra Đả ng ủ y thự c hiệ n nhiệ m vụ kiể m tra

Page 185: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 185

đả ng viên trong việ c chấ p hà nh ý thứ c tổ chứ c kỷ luậ t, kiể m tra đả ng viên có dấ u hiệ u vi phạ m, ngăn ngừ a cá c tiêu cự c trong đả ng viên,... từ đó kị p thờ i chấ n chỉ nh nhữ ng hạ n chế thiế u só t củ a cá c đả ng viên, củ a cá c chi bộ

ấ p1 Đả ng

bộ đượ c đá nh giá trong sạ ch vữ ng mạ nh hai năm (1996 – 1997), hai năm khá (1998 – 1999).

2.8 Trong công tác xây dựng, tổ chức hoạt động chính quyền: Không ngừng củng cố, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội. Tăng cường khối đại đoàn kết thống nhất theo Nghị quyết 7 của Trung ương Mặt trận Tổ quốc và Nghị quyết 7 khóa VII của Bộ Chính trị. Mặt trận phải đặt chủ đề dân sinh dân chủ làm điểm tương đồng để tập hợp thành một khối thống nhất. Chú trọng gần gũi, giáo dục vận động các chức sắc tu sĩ, tôn giáo theo phương châm “tốt đời đẹp đạo”.

1. Qua phân tí ch đá nh giá chấ t lượ ng đả ng viên và chấ t lượ ng chi bộ ấ p trong nhiệ m kỳ 1996 – 2000.

Năm 1995: Tổ ng số đả ng viên 88 đồ ng chí , tham gia phân loạ i 82 đồ ng chí : Loạ i 1: 34 đồ ng chí , loạ i 2: 48 đồ ng chí , Chi bộ TSVM: 4, Chi bộ khá : 2.Năm 1996: Tổ ng số đả ng viên 88 đồ ng chí , tham gia phân loạ i 88 đồ ng chí : Loạ i 1: 61 đồ ng chí , loạ i 2: 26 đồ ng chí , loạ i 3: 1 đồ ng chí , Chi bộ TSVM: 6.Năm 1997: Tổ ng số đả ng viên 102 đồ ng chí , tham gia phân loạ i 102 đồ ng chí : Loạ i 1: 81 đồ ng chí , loạ i 2: 21 đồ ng chí , Chi bộ TSVM: 4, Chi bộ khá : 2.Năm 1998: Tổ ng số đả ng viên 114 đồ ng chí , tham gia phân loạ i 114 đồ ng chí : Loạ i 1: 87 đồ ng chí , loạ i 2: 32 đồ ng chí , loạ i 3: 3 đồ ng chí , chưa phân loạ i 1 đồ ng chí , Chi bộ TSVM: 4, Chi bộ khá : 2.

Page 186: LSDB Binh Tri Dong B_size

186 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

- Về xây dự ng chí nh quyề n: Tiế p tụ c thự c hiệ n và đẩ y mạ nh tố c độ cả i cá ch hà nh chí nh, tậ p trung và o công tá c đà o tạ o và nâng cao kiế n thứ c, năng lự c cá n bộ , phá t huy vai trò trá ch nhiệ m củ a từ ng cá nhân, thự c hiệ n việ c kiệ n toà n tổ chứ c đú ng theo quy đị nh:

+ Hội đồng nhân dân thự c hiệ n Nghị quyế t Đạ i hộ i Đả ng bộ xã , căn cứ và o quy đị nh củ a phá p luậ t, Hội đồng nhân dân xã đã thể hiệ n vai trò củ a cơ quan quyề n lự c Nhà nướ c ở đị a phương tạ i cá c kỳ họ p thườ ng kỳ Hội đồng nhân dân xã tậ p trung cá c vấ n đề trọ ng tâm trong phá t triể n kinh tế – xã hộ i – an ninh quố c phò ng củ a đị a phương. Xây dự ng Nghị quyế t Hội đồng nhân dân phù hợ p vớ i tì nh hì nh đị a phương. Th ự c hiệ n chứ c năng giá m sá t Ủy ban nhân dân xã trong việ c điề u hà nh tổ chứ c thự c hiệ n Nghị quyế t Hội đồng nhân dân cá c cấ p, Nghị quyế t Hội đồng nhân dân xã .

+ Ủy ban nhân dân xã thự c hiệ n chứ c năng quả n lý nhà nướ c, đã xây dự ng kế hoạ ch tổ chứ c thự c hiệ n nhiệ m vụ chí nh trị kinh tế – xã hộ i – an ninh quố c phò ng củ a đị a phương. Ủy ban nhân dân xã có nhiề u nỗ lự c trong việ c điề u hà nh cá c ban ngà nh trự c thuộ c thự c hiệ n quy chế là m việ c củ a Ủy ban nhân dân xã , củ ng cố nhân sự , nâng cao trì nh độ chuyên môn khả năng công tá c củ a cá c bộ phậ n chứ c năng để đảm đương nhiệ m vụ đượ c giao. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân cầ n phả i tậ p trung cả i tiế n lề lố i là m việ c, thủ tụ c hà nh chí nh mộ t cá ch tí ch cự c chủ độ ng hơn để nâng cao hiệ u lự c củ a cơ quan quả n lý nhà nướ c ở đị a phương.

Page 187: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 187

Trong khối dân vận: Tổ chức triển khai Nghị quyết Trung ương 5 và thực hiện 11 chương trình cụ thể hóa Nghị quyết Đảng bộ Huyện nhiệm kỳ VIII trong Mặt trận và các đoàn thể của khối dân vận, phát động và triển khai tốt các phong trào: vận động học bổng cho các em học sinh nghèo hiếu học, vận động hoạt động xây dựng nhà tình thương cho những hộ nghèo, khó khăn, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, đền ơn đáp nghĩa...

+ Mặ t trậ n Tổ quố c và các đoà n thể : Đả ng bộ lã nh đạ o Mặ t trậ n Tổ quố c và các đoà n thể chú trọ ng đế n công tá c củ ng cố về mặ t tổ chứ c, phá t triể n đoà n viên, hộ i viên, triể n khai cá c cuộ c vậ n độ ng cá c phong trà o quầ n chú ng có ý nghĩ a thiế t thự c trong đờ i số ng xã hộ i.

Mặ t trậ n Tổ quố c xã đã củ ng cố hệ thố ng tổ chứ c Mặ t trậ n từ xã đế n ấ p, trưở ng ban công tá c ở 11 ấ p đi và o hoạ t độ ng. Trong cuộ c vậ n độ ng “Toà n dân đoà n kế t xây dự ng đờ i số ng văn hó a ở khu dân cư”, Mặ t trậ n Tổ quố c đã thể hiệ n đượ c vai trò nò ng cố t, tậ p trung phổ biế n 6 chuẩ n mự c thi đua, vậ n độ ng cá c hộ gia đì nh phấ n đấ u thực hiện, tổ chứ c tố t việ c bì nh xé t gia đì nh văn hó a, gương ngườ i tố t việ c tố t để qua đó tổ chứ c tuyên dương, khen thưở ng nhân rộ ng phong trà o. Trong công tá c bầ u cử Đạ i biể u Quố c hộ i khó a XI, Mặ t trậ n Tổ quố c xã tậ p trung tuyên truyề n Luậ t bầ u cử cử Đạ i biể u Quố c hộ i, tổ chứ c mạ n đà m tiể u sử ứ ng cử viên và tham gia giá m sá t công tá c bầ u cử tạ i đị a bà n, đố i vớ i việ c triể n khai thự c hiệ n quy chế dân chủ ở cơ sở xã . Mặ t trậ n Tổ quố c xã tham gia công tá c bầ u cử Ban nhân dân cá c ấ p, tổ chứ c

Page 188: LSDB Binh Tri Dong B_size

188 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Đạ i hộ i thanh tra nhân dân. Kế t hợ p vớ i Th ương binh xã hộ i, Ban nhân dân ấ p chăm lo gia đì nh chí nh sá ch, thự c hiệ n cuộ c vậ n độ ng “vì nguờ i nghè o”, vậ n độ ng nhân dân đó ng gó p xây đề n tưở ng niệ m.

+ Đoà n Th anh niên xã xây dự ng kế hoạ ch tậ p hợ p nhanh niên tổ chứ c cá c độ i nhó m thanh niên đặ c thù , độ i hì nh nhanh niên tì nh nguyệ n, thu hú t đượ c lự c lượ ng đoà n viên, thanh niên tham gia: Độ i hì nh phò ng chố ng ma tú y (20 ngườ i), độ i ca khú c cá ch mạ ng (12 thanh niên), 2 độ i nhó m thanh niên nhà trọ (80 thanh niên tham gia). Th ông qua cá c chương trì nh về nguồ n, giao lưu văn nghệ , phong trà o ngà y chủ nhậ t xanh đoà n thanh niên xã đã có nhiề u hoạ t độ ng thiế t thự c phụ c vụ nhiệ m vụ chí nh trị củ a đị a phương, nâng cao chấ t lượ ng đoà n viên.

+ Hộ i Phụ nữ tậ p trung công tá c tuyên truyề n vậ n độ ng Kế hoạ ch hó a gia đì nh, phò ng chố ng tệ nạ n xã hộ i cho lự c lượ ng hộ i viên, thự c hiệ n chương trì nh hỗ trợ phụ nữ phá t triể n kinh tế , tổ chứ c cá c nhó m tí n dụ ng tiế t kiệ m, tổ tiể u thương... năm 2002, hỗ trợ vay vố n 162.500.000đồng. Tổ ng số hộ i viên phụ nữ xã là 973 chia thà nh 11 chi hội vớ i 38 tổ hộ i.

+ Hộ i Nông dân tổ chứ c tuyên truyề n xây dự ng chi tổ hộ i vữ ng mạ nh, hộ i viên nông dân nò ng cố t xây dự ng nông thôn văn minh tiế n bộ . Th ự c hiệ n 9 cuộ c sinh hoạ t, tuyên truyề n vớ i 540 lượ t ngườ i tham dự , độ ng viên phong trà o sả n xuấ t phá t triể n kinh tế , hỗ trợ vay vố n quỹ hỗ trợ nông dân. Th ự c hiệ n chương trì nh 3 giả m, hộ i đã cả m hó a

Page 189: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 189

3 đố i tượ ng nghiệ n ma tú y, tham gia hò a giả i tranh chấ p đấ t đai trong nhân dân (năm 2002).

+ Hộ i Cự u chiế n binh liên tị ch vớ i Xã độ i trong công tá c xây dự ng nề n quố c phò ng toà n dân, tí ch cự c vậ n độ ng thanh niên thi hà nh NVQS. Th ườ ng xuyên tuyên truyề n nhắ c nhở hộ i viên Cự u chiế n binh đề cao cả nh giá c, không để con em mì nh dí nh lí u đế n ma tú y, mạ i dâm, trộ m cắ p. Th ông tin phả n á nh tố giá c kị p thờ i cho công an đị a phương xử ý cá c vụ phạ m phá p cá c tụ điể m hú t hí t ma tú y, mạ nh dạ n đấ u tranh chố ng mọ i biể u hiệ n tiêu cự c, tham nhũ ng. Đề cao quy chế dân chủ cơ sở , gó p phầ n xây dự ng Đả ng, xây dự ng chí nh quyề n ngà y cà ng trong sạ ch vữ ng mạ nh. Năm 2002, tổ ng số hộ i viên củ a hộ i là 116 đồ ng chí .

+ Hộ i Ngườ i cao tuổi năm 2002 đã tiế n hà nh Đạ i hộ i bầ u cử Ban Chấ p hà nh nhiệ m kỳ 2002 – 2004. Đã kế t nạ p 98 hộ i viên ở ấ p 9, 42 hộ i viên ở ấ p 2, nâng tổ ng số hộ i viên Ngườ i cao tuổ i là 825 hộ i viên. Vớ i phong trà o: “Số ng vui, số ng khỏ e, số ng có í ch cho xã hộ i, cho gia đì nh”, tổ chứ c Hộ i Ngườ i cao tuổ i xã tậ p trung xây dự ng điể n hì nh ông bà cha mẹ mẫ u mự c, con chá u hiế u thả o. Hội viên trong hộ i thườ ng xuyên thăm hỏ i, độ ng viên nhau, cá c cụ cao tuổ i tuyên truyề n việ c vậ n độ ng giữ gì n bả n sắ c văn hó a truyề n thố ng dân tộ c, bà i trừ cá c hủ tụ c mê tí n dị đoan.

Nhìn chung, Mặt trận và cá c đoà n thể có nhiề u nỗ lự c trong đổ i mớ i phương thứ c hoạ t độ ng, thự c hiệ n công tá c vậ n độ ng quầ n chú ng theo tinh thầ n Nghị quyế t 8B

Page 190: LSDB Binh Tri Dong B_size

190 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

củ a Ban Chấp hành, tạ o đượ c nhữ ng phong trà o quầ n chú ng sôi nổ i, phong phú gó p phầ n thự c hiệ n hoà n thà nh nhiệ m vụ chí nh trị củ a đị a phương.

Những kế t quả đạ t đượ c trong việ c phá t triể n kinh tế – văn hó a xã hộ i – an ninh quố c phò ng, xây dự ng tổ chứ c Đả ng, vữ ng mạ nh là kết quả giữa quá trì nh nỗ lự c phấ n đấ u củ a cá c chi bộ Đả ng, củ a độ i ngũ cá n bộ đả ng viên trong Đả ng bộ là sự đồ ng tâm hợ p lự c củ a Mặ t trậ n và các Đoà n thể , chí nh quyề n đị a phương để hoà n thà nh nhiệ m vụ chí nh trị mà Nghị quyế t Đạ i hộ i Đả ng bộ đề ra. Qua đó , thể hiệ n đượ c vai trò trá ch nhiệ m củ a tậ p thể Đả ng ủ y xã trong việ c xá c đị nh đượ c chương trì nh công tá c phù hợ p thự c tế tì nh hì nh đị a phương ở từ ng giai đoạ n cụ thể . Tuy nhiên chấ t lượ ng sinh hoạ t chi bộ cá c ấ p chưa đồ ng đề u, mộ t số í t đả ng viên cò n thiế u gương mẫ u trong việ c thự c hiệ n nhiệ m vụ ngườ i đả ng viên, việ c phá t huy vai trò quầ n chú ng trong tham gia xây dự ng chí nh quyề n chưa đượ c rộ ng khắ p, chưa thậ t sự nhuầ n nhuyễ n; công tá c quả n lý nhà nướ c chưa chủ độ ng, cò n nặ ng tí nh sự vụ sự việ c, nhiề u lĩ nh vự c cò n lỏ ng lẻ o, nhấ t là trong việ c quả n lý đấ t công, quả n lý đô thị , chưa có biệ n phá p đồ ng bộ , hữ u hiệ u để đẩ y lù i cá c tệ nạ n xã hộ i.

** *

Trong buổi đầu thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhân dân ta đã gặp rất nhiều khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh để lại, nhưng chủ yếu là do

Page 191: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 191

thiếu kinh nghiệm và thiếu đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, năng lực để lãnh đạo, xây dựng, quản lý kinh tế - xã hội trước yêu cầu của cuộc cách mạng mới: Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phát huy truyền thống “tự lực, tự cường” Đảng bộ xã Bình Trị Đông đã lãnh đạo nhân dân nỗ lực vươn lên, từng bước khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội, ổn định đời sống nhân dân, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (11/1986) đề ra, Đảng bộ xã Bình Trị Đông đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp tích cực nhằm khắc phục những yếu kém của cơ chế cũ, góp phần thúc đẩy kinh tế Th ành phố Hồ Chí Minh phát triển. Năm 2000, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Bình Trị Đông vinh dự được Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại xã Bình Trị Đông được Đảng bộ và nhân dân tổ chức trọng thể.

Với những thành tựu đạt được trong 15 năm thực hiện đổi mới bộ mặt xã Bình Trị Đông đã thay đổi hoàn toàn. Đảng bộ và nhân dân xã Bình Trị Đông đã thực hiện được những bước đột phá lớn, tạo nên sự thay đổi khá sâu sắc về diện mạo của xã Bình Trị Đông so với trước đây. Từ một xã nông thôn ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, Bình Trị Đông đã trở thành một xã phát triển kinh tế và đô thị hóa nhanh của Th ành phố Hồ Chí Minh. Các hoạt

Page 192: LSDB Binh Tri Dong B_size

192 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

động sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trở thành hoạt động kinh tế chính của địa phương. Bộ mặt đô thị, đời sống của nhân dân trong xã có sự thay đổi vượt bậc. Đó chính là cơ sở ban đầu để phường Bình Trị Đông sau này, trên cơ sở kế thừa một phần xã Bình Trị Đông trước đây tiếp tục đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại địa phương, đưa Bình Trị Đông vững bước vào thời kỳ xây dựng mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế của xã vẫn còn nhiều yếu tố chưa thật ổn định, việc phát triển kinh tế hàng hóa còn chậm. Tỷ lệ lao động chưa có và thiếu việc làm còn cao. Các dịch vụ về y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao chưa đáp ứng yêu cầu. Những hạn chế đó đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân trong xã phải nhanh chóng khắc phục và nỗ lực nhiều hơn để vững bước vào thế kỷ mới, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Page 193: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 193

ÑAÛNG BOÄ PHÖÔØNG BÌNH TRÒ ÑOÂNG BRA ÑÔØI, TIEÁP TUÏC GIÖÕ VÖÕNG OÅN ÑÒNHCHÍNH TRÒ, ÑAÅY NHANH TIEÁN TRÌNH ÑOÂ THÒ HOÙA VAØ PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ -XAÕ HOÄI TRONG THÔØI KYØ HOÄI NHAÄPVAØ PHAÙT TRIEÅN (2003-2013)

CHÖÔNG BOÁN

Page 194: LSDB Binh Tri Dong B_size

194 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

I. XÂY DỰNG, CỦNG CỐ HỆ THỐ NG CHÍ NH TRỊ

1. Công tác xây dựng tổ chức ĐảngCông tác tổ chức Đảng: Ngày 01/12/2003 Ban

Th ường vụ Quận ủy Bình Tân ban hành Quyết định số 03-QĐ/QU thành lập Đảng bộ phường Bình Trị Đông B chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời phường Bình Trị Đông B gồm 8 đồng chí, trong đó đồng chí Trịnh Th ị Th u Th úy làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Th anh Sơn làm Phó Bí thư Th ường trực Đảng ủy, đồng chí Hoàng Công Hợp làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. Ngay sau khi thành lập, Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ phường đã tập trung lãnh đạo xây dựng bộ máy hệ thống chính trị phường; kiện toàn các bộ phận trực thuộc Ủy ban nhân dân phường, thành lập Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể phường đi vào hoạt động. Đến đầu năm 2014 tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị từ phường đến khu phố được kiện toàn, củng cố và đi vào hoạt động, bước đầu phát huy tính chủ động, nâng cao được trách nhiệm phục vụ nhân dân, bên cạnh đó cũng đã xác định được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, đơn vị, tạo mối quan hệ phối hợp trên cơ sở quy chế làm việc và chương trình hành động do Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ phường đề ra.

Đảng bộ phường khi được thành lập có 07 chi bộ trực thuộc (trong đó: 05 chi bộ khu phố, 02 chi bộ cơ

Page 195: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 195

quan) với 101 đảng viên sinh hoạt chính thức, 15 đảng viên sinh hoạt tạm. Đến năm 2013 đã xây dựng được 26 chi, đảng bộ trực thuộc (trong đó 14 chi, đảng bộ khu phố, 5 chi bộ ngoài quốc doanh, 7 chi bộ cơ quan, đơn vị) với 486 đảng viên.

Sau khi thành lập, Đảng ủy phường đã xác định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, đã tổ chức quán triệt lại các Nghị quyết của Đảng, xây dựng Chương trình hành động thực hiện, đặc biệt tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 06-CT/TW của Bộ chính trị về thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”. Qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên trên địa bàn, đa số đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với công việc được giao, ý thức tiết kiệm, thay đổi phương pháp làm việc, sâu sát cơ sở, gần dân, nghe dân, giải quyết công việc nhanh, hiệu quả hơn, ý thức hơn trong việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống.

Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ phường đã tổ chức 02 lần Đại hội: Đại hội lần thứ X, nhiệm kỳ 2005 – 2010 đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ phường gồm 11 đồng

Page 196: LSDB Binh Tri Dong B_size

196 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

chí, trong đó đồng chí Trịnh Th ị Th u Th úy được Ban Chấp hành bầu làm Bí thư Đảng ủy phường, đồng chí Nguyễn Th anh Sơn làm Phó Bí Th ư Th ường trực Đảng ủy phường, đồng chí Nguyễn Kim Xuyến làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. Đại hội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2005 – 2010 đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ phường gồm 15 đồng chí, trong đó đồng chí Nguyễn Văn Hương được Ban Chấp hành bầu làm Bí thư Đảng ủy phường, đồng chí Nguyễn Th ị Kim Hương làm Phó Bí thư Th ường trực Đảng ủy phường, đồng chí Nguyễn Th anh Sơn làm Phó Bí thư – Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường.

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường, Ban Chấp hành Đảng bộ đã xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch chi tiết, cụ thể, lãnh đạo, tổ chức thực hiện và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, liên tục nhiều năm đạt Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

Ban Chấp hành Đảng bộ phường Bình Trị Đông B nhiệm kỳ 2005 – 2010

Page 197: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 197

Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ phường Bình Trị Đông B lần 1 nhiệm kỳ 2010 – 2015

Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ phường nhiệm kỳ 2005-2010

Page 198: LSDB Binh Tri Dong B_size

198 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

2. Công tác xây dựng bộ máy chính quyền: Cuối năm 2003, theo Quyết định của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Ủy ban nhân dân lâm thời phường Bình Trị Ðông B được thành lập; đồng chí Hoàng Công Hợp, Phó Bí thư Đảng ủy làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, đồng chí Trần Th ị Nhiều làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. Đảng ủy thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp xếp kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền, bố trí nhân sự phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường nhằm phát huy tiềm năng đội ngũ cán bộ, công chức giải quyết kịp thời các yêu cầu, nhu cầu của nhân dân và doanh nghiệp. Đến năm 2009, nhà nước chỉ đạo thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân phường, Đảng ủy đã tăng cường lãnh đạo việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy Ủy ban nhân dân phường theo hướng tinh gọn, hiệu quả; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội trong việc tham gia xây dựng chính quyền theo điều 14, Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 của Ủy ban Th ường vụ Quốc hội khóa XII, các cuộc họp của Ủy ban nhân dân phường đều có sự tham gia của người đứng đầu các tổ chức chính trị- xã hội nhằm phát huy dân chủ, tạo điều kiện để Ủy ban nhân dân phường thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước đồng thời qua đó nắm bắt để tuyên truyền trong nhân dân về các chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan. Với các việc làm trên đã làm cho các quyết tâm chính trị của Đảng bộ phường được thực hiện có hiệu quả hơn như: công tác nâng cấp chỉnh trang hẻm; phong trào tạo quỹ “Vì người nghèo”; công tác cải cách hành chính; giải quyết các yêu cầu, nhu cầu, bức xúc của nhân dân và doanh nghiệp…

Page 199: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 199

từ đó đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận của nhân dân trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Lễ công bố thành lập phường Bình Trị Đông B (03/12/2003)

Kỳ họp Hội đồng nhân dân phường Bình Trị Đông B nhiệm kỳ 2004 – 2009

Page 200: LSDB Binh Tri Dong B_size

200 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Ngoài ra, Đảng ủy phường còn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có trình độ và năng lực, phẩm chất đạo đức để tiếp dân, giải quyết thủ tục hành chính cho nhân dân; số cán bộ công chức phường tăng lên từng năm; đến năm 2013 toàn phường có 49 cán bộ, công chức và không chuyên trách (Cán bộ chuyên trách 10 người, Công chức 12 người, không chuyên trách 27 người) trong đó trình độ đại học 23/49 người chiếm tỷ lệ 46,9%, cao đẳng chiếm 4/49 người chiếm tỷ lệ 8,2%, trung cấp 18/49 người chiếm tỷ lệ 36,7%, còn lại 7,1% có trình độ phổ thông trung học. Phường cũng thường xuyên giáo dục đội ngũ cán bộ công chức, cử tham gia tập huấn nghiệp vụ chuyên môn, phong các ứng xử tiếp dân đồng thời nhắc nhở, xử lý đối với cán bộ công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, kém năng lực trong thực hiện công tác giải quyết hành chính cho nhân dân.

Công tác tổ chức bộ máy vận động nhân dân: Đảng bộ phường lãnh đạo thành lập Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể từ phường đến khu phố, chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động đối với công tác vận động nhân dân phù hợp với từng giai đoạn; mục tiêu hướng tới chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng các lĩnh vực kinh tế văn hóa xã hội. Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ phường đến khu phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong đoàn viên, hội viên và các giới, phát huy vai trò nòng cốt vận động nhân dân “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thực hiện tốt các phong trào

Page 201: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 201

“Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phong trào “Vì người nghèo”,… Qua đó phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và huy động được nguồn lực trong nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ phường, chủ động vào cuộc thực hiện các quyết tâm chính trị do Quận, Phường phát động.

Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể phường tổ chức nhiều phong trào, chương trình chăm lo hỗ trợ cho đoàn viên, hội viên và nhân dân như hỗ trợ vay vốn, giới thiệu việc làm, chăm lo cho người nghèo và các hoạt động xã hội… Hàng năm các Đoàn thể chính trị - xã hội phường được quận đánh giá là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Phối hợp hoạt động giữa Công an với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phường

Page 202: LSDB Binh Tri Dong B_size

202 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

II. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ, TỪNG BƯỚC HOÀN

CHỈNH CƠ SỞ HẠ TẦNG, PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THEO HƯỚNG

VĂN MINH, HIỆN ĐẠI

1. Phát triển kinh tếTừ thực tiễn phát triển của Bình Trị Đông B qua

những năm đầu thành lập1 Ban Chấ p hà nh Đả ng bộ phườ ng đã nhậ n đị nh đây sẽ là thờ i kỳ có nhiề u vậ n hộ i mớ i nhưng cũ ng đầ y khó khăn, thá ch thứ c mớ i. Điều này, đòi hỏi Đả ng bộ Phườ ng phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc để có những giải pháp phù hợp nhằm tận dụng được những cơ hội, vượt qua thách thức, biến những thách thức thành cơ hội để phát triển,... Chính vì vậy, trong 10 năm qua, để xây dựng và phát triển thành phường đô thị như hiện nay, Đảng bộ phường đã xác định các nhiệm vụ, mục tiêu giải pháp cụ thể đối với từng lĩnh vực cụ thể, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.

Đại hội Đảng bộ Phường lần thứ X (2005 – 2010) xác định: đến 2010 phát triển kinh tế theo cơ cấu “dịch vụ - công nghiệp và nông nghiệp”. Trong đó, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành dịch vụ bình quân tăng 40%/năm,

1. Tính đến năm 2005, giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn là 536 tỷ 994 triệu đồng . Toàn phường có 1.783 cơ sở, hộ kinh doanh cá thể và 01 chợ có 81 tiểu thương với doanh thu năm 2004 là 233,77 tỉ đồng và 6 tháng đầu năm 2005 là 177,4 tỉ đồng tăng 79,19% so với cùng kỳ. Công nghiệp trên địa bàn có 80 cơ sở sản xuất chuyên ngành may mặc, bao bì, in lụa, cơ khí có giá trị sản xuất năm 2004 là 76,08 tỉ đồng và 6 tháng đầu năm 2005 là 49,62 tỉ đồng tăng 38,75% so cùng kỳ. Do quá trình đô thị hoá nhanh, nên giá trị sản xuất nông nghiệp không đáng kể (năm 2004 giá trị sản xuất là 108,95 triệu đồng, đến 6 tháng đầu năm 2005 chỉ còn 15,44 triệu đồng).

Page 203: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 203

công nghiệp tăng 30%/năm. Khai thác các loại hình dịch vụ nhà trọ, ăn uống, văn hóa v.v... trên các trục đường Tỉnh lộ 10, Vành Đai Trong, Đường số 7, đường Tên Lửa. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp quy hoạch ổn định các ngành hàng hiện có trên địa bàn (may mặc, bao bì...), khuyến khích đầu tư công nghệ tiên tiến, có giá trị sản xuất gia tăng cao.

Bước vào giai đoạn 2010 – 2015 Đảng bộ phường nhận định đây sẽ là giai đoạn Phường phát triển nhanh hơn về kinh tế - văn hóa - xã hội, đời sống của nhân dân sẽ không ngừng được cải thiện theo hướng nâng cao chất lượng về vật chất lẫn tinh thần. Do đó Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường lần thứ XI đề ra trong thời gian 5 năm tới (2010 – 2015) phải hoàn thành và vượt các chỉ tiêu về kinh tế, ngân sách1.

Để thực hiện các chỉ tiêu trên, Đại hội XI đã nêu rõ nhiệm vụ trong chiến lược phát triển kinh tế: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện môi trường sống. Tạo điều kiện thuận lợi thu hút, phát triển sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chuyển dịch kinh tế sang các ngành dịch vụ cao cấp,

1. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm tăng bình quân hàng năm 30%; Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành dịch vụ bình quân hàng năm 45%; Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp bình quân hàng năm 20%; Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng cùa ngành nông nghiệp bình quân hàng năm 1%; Thu ngân sách cấp Phường tăng bình quân hàng năm 20%; Thu thuế công thương nghiệp tăng bình quân 20%.

Page 204: LSDB Binh Tri Dong B_size

204 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

dịch vụ hỗ trợ sản xuất, nhằm tạo sự chuyển biến về chất. Về Dịch vụ: duy trì và phát triển hành lang dịch vụ dọc các trục đường chính, chú ý phát triển dịch vụ cao cấp; tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các điểm kinh doanh dịch vụ ngành nghề nhạy cảm, dịch vụ nhà cho thuê thực hiện đúng quy chế hoạt động, đảm bảo vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế. Về Công nghiệp: tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh xen cài trong khu dân cư phù hợp với qui hoạch, không gây ô nhiễm môi trường. Về Nông nghiệp: đẩy mạnh sản xuất theo hướng hình thành nền nông nghiệp sinh thái, xanh, sạch, gắn với thị trường liền kề.”

Với những chủ trương trên, hàng năm kinh tế của phường đều tiếp tục phát triển nhanh, ổn định, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với Nghị quyết Đại hội đề ra, đó là: Dịch vụ - Th ương mại, Tiểu thủ công nghiệp và Nông nghiệp; đã phát huy được tiềm năng, lợi thế của phường trong điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng kỹ ngày càng hoàn thiện đã tạo ra bước đột phá quan trọng. Kinh tế hàng năm của phường đều tiếp tục tăng trưởng ở mức cao1. Dịch vụ: tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của các ngành dịch vụ bình quân hàng năm 45%. Công nghiệp:

1. Năm 2004 phường có 305 công ty, Doanh nghiệp, 181 cơ sở sản xuất, 1.377 hộ kinh doanh cá thể. Sau 10 năm phát triển hiện nay đã có 1.667 công ty, doanh nghiệp; 1407 cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh cá thể, phường hiện có 02 Siêu thị là Big C và Coop mart; 03 chợ; 134 khách sạn, nhà nghỉ; 683 hộ kinh doanh nhà trọ với 9.903 phòng trọ và 27.603 người trọ.

Page 205: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 205

tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm 29,5%, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh xen cài trong khu dân cư phù hợp với quy hoạch, không gây ô nhiễm môi trường; các ngành sản xuất chủ yếu là may mặc, giày da, điện máy, điện tử, cơ khí nhỏ. Nông nghiệp, hiện nay chỉ còn một số ít hộ còn đất nông nghiệp trong các dự án chưa triển khai (khu tây Tên Lửa) và đất xen cài trong khu dân cư, tập trung sản xuất những cây ăn trái, nuôi cá cảnh và trồng rau mầm, tốc độ tăng trưởng không đáng kể, bình quân chiếm 1% tổng giá trị sản xuất.

Về quản lý và thu - chi ngân sách: Ngoài việc tập trung cho nguồn thu của phường,

phường còn tập trung cho việc thu các nguồn thu thuế khác (thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thuế môn bài, thuế phi công nghiệp…) đảm bảo hàng năm hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch quận giao.

Th u ngân sách: Năm 2004: 1,744 tỷ đồng/1,008 tỷ đồng đạt 173% chỉ tiêu giao. Năm 2013: 13,071 tỷ đồng/10,322 tỷ đồng đạt 127%. Qua đó cho thấy nguồn thu qua các năm đều tăng và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao, đảm bảo thu ngân sách phường và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách cấp trên.

Việc chi ngân sách: Đảm bảo thực hiện đúng luật, đúng chế độ chính sách theo quy định, cơ cấu chi hợp lý, ưu tiên chi các công trình hạ tầng kỹ thuật và đầu tư phát triển; sử dụng ngân sách có hiệu quả, có tiết kiệm chi, bình quân chi ngân sách hàng năm tăng 28,88%, trong

Page 206: LSDB Binh Tri Dong B_size

206 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

đó chi cho đầu tư phát triển chiếm 20,07%. Ngoài ra để góp phần hỗ trợ cho nguồn ngân sách của phường và theo quy định phường còn vận động nhân dân thu các loại quỹ công chuyên dùng: Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ hoạt động xã hội, Quỹ an ninh quốc phòng, Quỹ phòng chống lụt bão, Quỹ xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt Quỹ an ninh quốc phòng tổng thu trong 10 năm đạt 5,826.320 tỷ đồng.

2. Công tác quản lý – phát triển đô thịKhi thành lập, trên địa bàn Phường có 2 khu dân

cư riêng biệt: khu dân cư mới với các dự án xây dựng có cơ sở hạ tầng khá tốt, tương đối hoàn chỉnh, còn có khu dân cư hiện hữu hầu hết cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, đường đất, hẻm nhỏ, kết nối giao thông không thuận lợi, do đó Đảng ủy phường đã chỉnh trang và nâng cấp các tuyến hẻm thuộc khu dân cư hiện hữu để tạo sự hài hòa phù hợp phát triển đô thị; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường lần thứ X, XI đã xác định phải chỉnh trang, nâng cấp, bê tông hóa toàn bộ hệ thống hẻm đất trên địa bàn phường với phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã được đông đảo nhân dân trên địa bàn tích cực hưởng ứng bằng cách đóng góp tiền làm cống, nền hạ và tự nguyện hiến đất, di dời vật kiến trúc,… góp phần cùng chính quyền địa phương đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa toàn diện trên địa bàn phường. Đến cuối năm 2010 có 100% tuyến hẻm (130/130 tuyến) đã được chỉnh trang, nâng cấp với tổng kinh phí gồm 42,119 tỷ đồng, trong đó: vốn Quận 16,510 tỷ đồng, vốn Phường 1,04 tỷ đồng, phần còn lại nhân dân tự nguyện đóng góp 24,569 tỷ đồng; từ

Page 207: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 207

Trung tâm thương mại trên địa bàn phường

việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đã tạo điều kiện thành lập mới 432 cơ sở, hộ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho 1.504 lao động có việc làm, tăng thu nhập, hỗ trợ cho công tác giảm nghèo trên địa bàn phường, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn, giải quyết cơ bản tình trạng tắt nghẽn giao thông, ngập úng đô thị, làm thay đổi diện mạo phường theo hướng văn minh đô thị ngày càng rõ nét, tạo hài hòa trong sự phát triển giữa các khu vực trên địa bàn Phường. Ngoài ra, quận còn đầu tư xây dựng tuyến đường Sinco nối dài (đoạn từ cống Bà Mua đến Hồ Học Lãm) và Công trình nút thắt cổ chai đường Tên Lửa, đưa vào sử dụng góp phần nâng cao chất lượng sống, giúp người dân thuận tiện trong đi lại, kinh doanh nâng cao đời sống.

Page 208: LSDB Binh Tri Dong B_size

208 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Một góc khu dân cư mới

Biểu dương các hộ dân hiến đất mở đường trong lễ khởi công xây dựng tuyến hẻm liên tổ khu phố 13, 14

Page 209: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 209

Về chương trình cấp nước sạch cho người dân: Năm 2004 có 40% hộ dân sử dụng nước thủy cục, đến năm 2010 còn 1.256 hộ chưa có nước thủy cục, chiếm 25,61% tổng hộ dân; thực hiện sự chỉ đạo của Quận ủy - Ủy ban nhân dân Quận, Đảng ủy - Ủy ban nhân dân phường đã kiến nghị quận hỗ trợ kinh phí gắn đồng hồ tổng ở những nơi chưa có đường ống thủy cục đi, nhân dân tự đóng góp tiền gắn đường ống và đồng hồ đến từng hộ và đã lắp đặt được 6.036 mét ống với kinh phí 1,753.122 tỷ đồng, lắp đồng hồ tổng bằng ngân sách Quận 240.741.000đ. Đến nay phường đã có 6.705/6.817 hộ sử dụng nước sạch chiếm tỷ lệ 98%, số hộ còn lại do mới chuyển đến chưa đăng ký, và một số hộ chưa có đường ống dẫn nước đến phải sử dụng nước giếng khoan.

Chăm lo nguồn nước sạch cho nhân dân khu phố 11, 12, 13, 14

Page 210: LSDB Binh Tri Dong B_size

210 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Về hệ thống chiếu sáng: Đến nay phường đã hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống chiếu sáng dân lập trên các tuyến hẻm của khu dân cư, đảm bảo tình hình an ninh trật tự và giao thông đi lại của nhân dân, phường có 512 bóng đèn đã được thay mới bằng bóng compact đảm bảo được thắp sáng trong các tuyến đường trên địa bàn phường. Để đảm bảo vệ sinh môi trường trong khu dân cư phường đã tổ chức 14 tổ rác dân lập vận động 6.960 hộ dân và 822 doanh nghiệp, cơ sở đăng ký thu gom rác thải. Ngoài ra, để thực hiện tốt nếp sống văn minh đô thị, chống ô nhiễm môi trường phường đã chỉ đạo khu phố, cán bộ môi trường thường xuyên kiểm tra, xử lý rác ở các bãi đất trống, công viên, dãy phân cách, tổ chức thu gom rác, cắt cỏ, phát hoang thường xuyên, tuyên truyền vận động người dân không đổ rác bừa bãi đảm bảo vệ sinh môi trường trên địa bàn phường.

III. NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, ĐẢM BẢO AN SINH

XÃ HỘI TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ

Sau khi thành lập phường, lĩnh vực giáo dục đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu phát triển dân số trên địa bàn, Đảng bộ phường đã đề ra chủ trương: “Tăng cường đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, khuyến khích phát triển loại hình trường lớp ngoài công lập, tập trung vào giáo dục mầm non: huy động 50% trẻ vào nhà trẻ, 90% trẻ vào mẫu giảo, trong đó trẻ 5 tuổi là 99%; 100% trẻ 6 tuổi vào lớp một, hiệu suất đào tạo cấp Tiểu học đạt 98%”, thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, Đảng ủy phường đã lãnh đạo tổ

Page 211: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 211

chức thực hiện, kết quả chất lượng giáo dục - đào tạo có chuyển biến tích cực, đảm bảo mục tiêu nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực trên địa bàn, không phân biệt giữa con em của người nhập cư và nhân dân tại chỗ, kể cả các lớp học tình thương, đã tạo môi trường học tập hài hòa ổn định, chất lượng dạy và học không ngừng được nâng lên, đến năm 2013 phường có 01 trường Mầm non công lập, 05 trường Mầm non tư thục và 08 nhóm lớp mầm non tư thục đã được cấp phép1; 01 trường tiểu học công lập với 40 phòng học và 05 phòng chức năng; giải quyết chổ học cho 2.495 học sinh trên địa bàn phường2, 01 trường tiểu học Ngôi Sao Nhỏ với 20 phòng học, 07 phòng chức năng; lĩnh vực giáo dục trung học phổ thông có 02 trường dân lập cấp 2 và cấp 3 với 73 phòng học, 12 phòng chức năng, giải quyết chổ học cho 2.879 học sinh trên địa bàn phường và các phường lân cận. Hiệu suất đào đạo năm sau cao hơn năm trước. Bên cạnh đó, trên địa bàn phường còn có 2 trường dạy nghề (Trung học Quang Trung và Trung tâm dạy nghề quận).

Về xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn dân cư, xây dựng khu phố, tổ dân phố, gia đình văn hóa; Đảng ủy phường chỉ đạo tiếp tục nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn dân cư” gắn với phong trào thi đua “Người tốt

1. Hàng năm phường đều huy động trẻ ra lớp đạt hiệu quả cao, trong 10 năm (2004 – 2013) đã huy động được hơn 100% cháu 5 tuổi ra lớp;2. Huy động 100% trẻ 6 tuổi ra lớp.

Page 212: LSDB Binh Tri Dong B_size

212 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

việc tốt”, xây dựng nếp sống văn minh đô thị và chương trình mục tiêu “3 giảm”, bình quân hàng năm có 97,47% gia đình được công nhận gia đình văn hóa, có 13/14 khu phố đạt khu phố văn hóa. Phường có 4 điểm sáng văn hóa, 04 công sở văn minh sạch đẹp, 07 đơn vị văn hóa. Phường được công nhận phường đạt chuẩn văn minh đô thị giai đoạn 2009-2011.

Hoạt động thể dục thể thao cũng được chú trọng, duy trì, đẩy mạnh phát triển và đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất; vận động, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng các thiết chế văn hóa - thể thao nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, thể dục - thể thao đa dạng, phong phú của nhân dân1.

1. Phường có 10.408 lượt người tham gia tập luyện thể dục thường xuyên, đạt tỷ lệ 20,1% trên tổng sổ dân, đã xây dựng 05 sân bóng đá mini cỏ nhân tạo; 04 cơ sở tập thể hình, 03 sân tennis theo hình thức xã hội

Trường Tiểu học Bình Trị 2

Page 213: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 213

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, công tác chăm lo gia đình chính sách luôn đảm bảo, chi trả kịp thời các chế độ cho đối tượng chính sách, thường xuyên vận động các nguồn lực xã hội chăm lo gia đình chính sách, đã vận động xây dựng mới 12 căn nhà, sửa chữa 07 căn nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 351.073.000 đồng. Ngoài ra, trong các dịp Tết nguyên đán Đảng ủy phường tổ chức thăm và tặng quà cho các đảng viên 40, 50, 60 tuổi Đảng; nhân các ngày lễ lớn như: 30/4, 27/7, 2/9, phối hợp khám chữa bệnh miễn phí cho Th ương binh, thân nhân Liệt sĩ, thăm tặng quà thương binh 1/41.

Công tác xoá đói giảm nghèo được chú trọng, Đảng ủy phường lãnh đạo khai thác mọi tiềm lực của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tham gia giảm nghèo, tăng hộ khá; Năm 2004 toàn phường có 355 hộ nghèo phường đã hoàn thành thoát nghèo giai đoạn 2 năm 2009 và chuyển sang giai đoạn 3 theo tiêu chí Th ành phố phường có 267 hộ nghèo, đến tháng 8 năm 2013 phường được Quận, Th ành phố phúc tra công nhận phường không còn hộ nghèo giai đoạn 3 (2009 - 2013); đang thực hiện công tác giảm nghèo giai đoạn 4 theo chỉ đạo của Th ành phố.

hóa, đã phát huy được hiệu quả, tạo sân chơi lành mạnh cho thanh niên, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp xen cài trong khu dân cư, nâng cao thu nhập của người dân, giải quyết vệ sinh môi trường, trật tự lòng lề đường trên địa bàn.1. Phường hiện có 388 người thuộc diện chính sách có công, cán bộ hưu trí, 27 thân nhân liệt sĩ; 51 thương binh; 02 bệnh binh; 01 con thương binh; 11 người nhiễm chất độc hóa học.

Page 214: LSDB Binh Tri Dong B_size

214 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Họp mặt chăm lo cho dân nghèo ở phường Bình Trị Đông B

Chuơng trình văn nghệ tạo quỹ vì người nghèo năm 2009

Page 215: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 215

Lễ trao tặng nhà tình thương cho hộ nghèo phường Bình Trị Đông B

Tặng quà cho các em thiếu nhi nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 năm 2011

Page 216: LSDB Binh Tri Dong B_size

216 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và phòng chống dịch bệnh được chú trọng; trạm y tế phường được xây dựng và trang bị đạt tiêu chuẩn quốc gia. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình văn hóa ấm no, bình đẳng và tiến bộ được quan tâm thực hiện. Đẩy mạnh hoạt động phòng chổng HIV/AIDS; tuyên truyền, phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết và các dịch bệnh, không để xảy ra ổ dịch trên địa bàn phường. Hàng năm có 100% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn dưới 0,69%; (phường có 2 bệnh viện tư nhân: Bệnh viện Minh Anh và bệnh viện quốc tế Th ành Đô). Trạm Y tế phường đạt chuẩn quốc gia về y tế, đội ngũ nhân viên theo quy định.

Bệnh viện quốc tế Thành Đô

Page 217: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 217

Bên cạnh việc xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn dân cư, phường còn tập trung cho công tác phòng chống văn hóa độc hại, bài trừ tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo đức xã hội trên địa bàn. Th ường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về an ninh trật tự, phòng chống tệ nạn xã hội và các quy định trong kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực văn hóa cho các cơ sở, hộ kinh doanh nắm bắt để kinh doanh đúng theo quy định của pháp luật.

IV. VỀ CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG – AN NINH VÀ TRẬT TỰ

AN TOÀN XÃ HỘI

Đảng bộ đã lãnh đạo tăng cường công tác xây dựng Quốc phòng – an ninh, đảm bảo thực hiện tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị - trật tự an toàn xã hội; chỉ đạo thực hiện tốt công tác phối hợp với công an theo Quyết định 107/CP trong tổ chức trực chỉ huy, trực ban, trực chiến sẵn sàng chiến đấu tại chỗ theo quy định.

1. Về công tác Quốc phòng: Đã kiện toàn Ban Chỉ huy Quân sự phường, thực hiện tốt công tác tuyển quân, phương án bảo vệ, tác chiến, tăng cường công tác huấn luyện, cũng cố thế trận Quốc phòng toàn dân. Hằng năm phường đều thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu từ 100% đến 180%; xây dựng lực lượng dân quân phường đạt 100% chỉ tiêu Quận giao hàng năm.

Page 218: LSDB Binh Tri Dong B_size

218 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Ngoài ra Ban Chỉ huy Quân sự phường còn quan tâm kiện toàn, cũng cố xây dựng lực lượng dân quân tự vệ; làm tốt vai trò tham mưu, chủ động phối hợp với Công an và các ngành có liên quan phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các loại tội phạm, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội. Chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên và công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt được thực hiện thường xuyên theo đúng quy định. Trực sẵn sàng chiến đấu, tham gia tích cực, có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của phường.

2. Công tác giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội: Hàng năm phường triển khai các Nghị quyết, chương trình hành động của Th ành ủy, Quận ủy về nhiệm vụ an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, xác định mục tiêu là giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chỉ đạo của Quận ủy về xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc từ tổ dân phố, khu phố và phát huy các thế mạnh trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, chương trình mục tiêu “3 giảm” về kéo giảm tội phạm trên địa bàn và nâng cao tỷ lệ khám phá án theo chỉ tiêu đã đề ra. Huy động sức mạnh của toàn dân, phát huy tác dụng của các mô hình quần chúng tự quản về an ninh trật tự (như: Tổ công nhân tự quản về an ninh trật tự khu nhà trọ, Tổ Honda ôm tự quản về an ninh trật tự…) để góp phần chuyển hóa các địa bàn, các tụ điểm phức

Page 219: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 219

tạp về an ninh trật tự, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy phong trào toàn dân tham gia công tác phòng chống tội phạm ở từng nhóm hộ, tổ dân phố. Đến năm 2013, trên địa bàn có: 14 khu phố, 118 tổ dân phố; xây dựng 14 Tổ Bảo vệ dân phố với 98 đội viên; 36 đội viên dân phòng. Đã xây dựng được: 305 nhóm hộ tự quản gồm 3.531 hộ; 14 tổ hoà giải với 126 thành viên và củng cố xây dựng tổ xe honđa ôm tự quản về an ninh trật tự, chia thành 09 nhóm gồm 83 thành viên; xây dựng 49 Tổ công nhân tự quản bước đầu đã đi vào hoạt động góp phần giữ vững an ninh trật tự, phòng chống tội phạm ma túy và mại dâm trên địa bàn phường.1

1. Số vụ phạm pháp hình sự: Năm 2004 xảy ra 117 vụ (tăng 79 vụ so với cùng kỳ 2003), khám phá 30 vụ bắt 51 tên đạt tỷ lệ 25,6%; Năm 2005, phạm pháp hình sự trên địa bàn phường xảy ra 110 vụ, giảm 07 vụ so với cùng kỳ năm 2004, khám phá được 43 vụ, bắt 70 tên (đạt tỷ lệ 39,09%). Năm 2006 xảy ra 131 vụ, khám phá 39 vụ đạt tỷ lệ 29,8%; Năm 2007 xảy ra 160 vụ khám phá được 42 vụ đạt 26,25%; Năm 2008 xảy ra 129 vụ khám phá 44 vụ đạt 34,1%; Năm 2009, phạm pháp hình sự xảy ra 112 vụ, khám phá 44 vụ, đạt tỷ lệ khám phá án là 39,28%, giảm 17 vụ so với cùng kỳ năm 2008, đạt tỷ lệ kéo giảm là 13,17%; Năm 2010, phạm pháp hình sự xảy ra 81 vụ (giảm 31 vụ so với cùng kỳ, tỷ lệ giảm 27,67%); Năm 2011, phạm pháp hình sự xảy ra 68 vụ (giảm 13 vụ so với cùng kỳ 2010). Đã khám phá 29 vụ bắt 48 tên (tỷ lệ khám phá chung đạt 45,31%). Năm 2012, phạm pháp hình sự xảy ra 61 vụ (giảm 07 vụ so với cùng kỳ, tỷ lệ giảm 10,29%). Đã khám phá 40 vụ bắt 50 tên (tỷ lệ khám phá chung đạt 65,57%). Năm 2013, phạm pháp hình sự xảy ra 55 vụ (giảm 06 vụ so với cùng kỳ, tỷ lệ giảm 9,8%). Đã khám phá 35 vụ (tỷ lệ khám phá chung đạt 63,63%).

Page 220: LSDB Binh Tri Dong B_size

220 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Lễ ra mắt Ban bảo vệ khu phố

Lễ phát động ra quân thực hiện cuộc vận động “Toàn dân tham gia đảm bảo trật tự an toàn giao thông – bảo vệ môi trường” năm 2011

Page 221: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 221

Nhì n chung, trong 10 năm qua, Đả ng bộ phường đã lã nh đạ o, chỉ đạ o cả hệ thống chính trị nỗ lực vượt qua khó khăn, triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường đề ra. Kinh tế phường tăng trưởng ở mức cao chuyển dịch đúng định hướng “Dịch vụ - Tiểu thủ công nghiệp – Nông nghiệp”; văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là gia đình chính sách, người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định, công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, vận động nhân dân tiếp tục được chú trọng gắn với Nghị quyết

Tặng giấy khen cho tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác chuyển hóa địa bàn phức tạp về an ninh trật tự

Page 222: LSDB Binh Tri Dong B_size

222 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Viếng Nhà bia ghi danh liệt sĩ của phường

Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, với việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã đạt được kết quả thiết thực thể hiện qua năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền, tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ, công chức từng bước được nâng lên. Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể chính trị - xã hội phường đã chủ động tham gia thực hiện các nhiệm vụ, quyết tâm chính trị của phường; vận động nhân dân tích cực hưởng ứng và tham gia các phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn.

Page 223: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 223

Tặng quà lưu niệm cho các đồng chí lãnh đạo qua các thời kỳ nhân Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập phường

Phường Bình Trị Đông B đang phát triển đô thị hóa

Page 224: LSDB Binh Tri Dong B_size

224 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm của Đảng bộ Bình Trị Đông B có thể rút ra một số bài học chủ yếu:

Th ứ nhất, Mọi chủ trương, Nghị quyết, kế hoạch, chương trình hành động của Đảng bộ phải phù hợp với tình hình cụ thể của Phường, đánh giá đúng tiềm năng và lợi thế đề ra những nhiệm vụ và giải pháp phù hợp gắn với sự nỗ lực trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành của UBND phường, phối hợp của MTTQ và Đoàn thể phường trong công tác giám sát, vận động tuyên truyền thực hiện, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội phường nhanh, bền vững.

Th ứ hai, Th ường xuyên củng cố, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; chú trọng xây dựng, củng cố và phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của các chi bộ khu phố.

Th ứ ba, Mở rộng, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, phát huy vai trò của nhân dân; xây dựng, thực hiện đồng bộ quy chế phối hợp giữa chính quyền, Mặt trận và đoàn thể kết hợp các phong trào của nhân dân với công tác quản lý nhà nước của chính quyền phường, bảo đảm giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc của nhân dân, tổ chức bàn bạc dân chủ với nhân dân, dựa vào dân, thực hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Th ứ tư, Th ường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ về số lượng và không ngừng nâng

Page 225: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 225

cao năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu cách mạng ở mọi thời kỳ. Việc tăng cường năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng bộ có ý nghĩa quyết định; cán bộ đảng viên phải thường xuyên được bồi dưỡng nhận thức chính trị tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế cận, tạo ra những thế hệ cán bộ gắn bó trong quá trình lãnh đạo cách mạng địa phương. Đặc biệt, phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức tận tụy, liêm chính, chống tham ô, cửa quyền...

Page 226: LSDB Binh Tri Dong B_size

226 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

KẾT LUẬN

Vù ng đấ t Bì nh Trị Đông B ngà y nay đượ c biế t đế n đã có lịch sử hơn 300 năm hình thành và

phát triển. Gắ n liề n vớ i đó là sự hì nh thà nh vù ng đấ t Nam Bộ . Trả i qua cá c giai đoạ n lị ch sử khá c nhau, tên gọ i cũ ng đượ c thay đổ i cho phù hợ p. Nhưng nơi đây, vẫ n luôn đượ c biế t đế n như mộ t đị a bà n có vị trí chiế n lượ c quan trọ ng, cù ng vớ i nhữ ng truyề n thố ng tố t đẹ p củ a ngườ i dân Nam bộ .

Chặng đường hơn tá m mươi năm cùng nhân dân cả nước tiến bước qua các thời kỳ cách mạng đầy thăng trầm, sóng gió, Đảng bộ và nhân dân Bì nh Trị Đông B đã giành được những thành tựu to lớn. Th ành tựu đó được bồi đắp qua từng giai đoạn cách mạng, là kết quả của quá trình phát triển liên tục, dù có những lúc gặp khó khăn, song mạch chủ đạo vẫn là xu thế đi lên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bì nh Trị Đông B vùng lên thoát khỏi kiếp nô lệ, làm chủ cuộc đời, làm chủ quê hương. Những giá trị trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tiếp tục được chuyển hóa thành kinh nghiệm, thành sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng quê hương, để nhân dân Bì nh Trị Đông B chiến thắng đói nghèo. Giá trị tiếp nối giá trị

Page 227: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 227

khi Bì nh Trị Đông B chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; chuyển hóa tiềm năng và nội lực của địa phương để kết nối với nguồn ngoại lực trong quá trình phát triển; chuyển hóa những giá trị văn hóa truyền thống. Đó là nền tảng để Bì nh Trị Đông B tiếp tục tiếp thu những giá trị mới, hiện đại.

Những thành công nối tiếp cho đến thắng lợi cuối cùng trong đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, đi theo tiếng gọi của Đảng, nhân dân Bì nh Trị Đông B một lòng tin tưởng, bảo vệ, chở che các cơ sở cách mạng, để rồi cùng với nhân dân cả nước vùng lên tiến hành cuộc khởi nghĩa long trời lở đất, đập tan ách thực dân phong kiến để sống một cuộc đời mới, trở thành những con người mới, công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Những thành tựu trong phát triển kinh tế, đó là sự chuyển biến liên tục trong sự vận động của cơ chế, chính sách. Từ lối sản xuất cá thể, nhỏ lẻ tiến lên xây dựng tậ p đoà n sả n xuấ t, từ nếp nghĩ, cách làm xơ cứng của thời kỳ bao cấp sang tư duy năng động, sáng tạo gắn với cơ chế thị trường. Đó là quá trình thích ứng nhanh chóng, phù hợp, đón trước được xu hướng để chuyển hướng lãnh đạo. Cơ chế quản lý kinh tế mới được xác lập trong tư duy của Đảng bộ với quá trình phát triển từ thấp đến cao, bắt đầu từ nông nghiệp; từ những vấn đề cơ bản của khai thác tiềm năng, thế mạnh từng đồng đất, từng cây con. Cơ chế

Page 228: LSDB Binh Tri Dong B_size

228 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

quản lý kinh tế mới đã tìm được động lực cách mạng từ quần chúng, phát lộ những tiềm năng, sức mạnh vốn bị che khuất bấy lâu trong cơ chế cũ, khơi nguồn cho sự phát tán và lan tỏa các giá trị văn hóa truyền thống.

Th ành tựu về kinh tế còn thể hiện ở sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng tích cực “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”. Kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận, phát huy mạnh mẽ sức sản xuất, khai thác các tiềm năng, thế mạnh của Bì nh Trị Đông B. Điều đó không chỉ mở ra khả năng xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của đại bộ phận nhân dân, mà còn xuất hiện những nhân tố mới có khả năng cấu trúc lại nền sản xuất theo cung cách mới của mô hình cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, công ty cổ phần,... để tạo ra khả năng cạnh tranh, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật tốt hơn và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, đóng góp ngày càng lớn cho phát triển kinh tế và tăng thu ngân sách của Quận.

Những chuyển biến quan trọng của văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục - thể thao: cá c phong trào xây dựng gia đình văn hóa phát triển sâu rộng trong phườ ng, vừa bảo tồn, phát huy các giá trị, bản sắc truyền thống tốt đẹp và đặc trưng văn hóa của địa phương, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa tiến bộ và hiện đại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nó không chỉ biểu hiện ở bề nổi qua số lượng khu phố , gia đình “văn hóa” mà quan trọng hơn là sự chuyển hoá các giá trị văn hóa thành ý thức tự giác của mỗi người dân Bì nh Trị Đông B về thoát khỏi đói nghèo, làm giàu chính

Page 229: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 229

đáng, ý chí đấu tranh với những trở lực trên con đường đi tới. Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế có những bước phát triển mới gắn với hàng loạt chủ trương như: xã hội hoá giáo dục, mở rộng y tế cộng đồng, phát triển thể thao quần chúng kết hợp với thể thao nâng cao,... Kết quả đó có tác động tích cực đến nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Giải quyết thành công nhiều mục tiêu xã hội, mà bao trùm lên trên hết là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã có những cải thiện rất căn bản từ nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành. Các vấn đề xã hội đã được lồng ghép, giải quyết trong mục tiêu kinh tế, nổi bật là kết quả của công tác xóa đói giảm nghèo. Công tác an sinh xã hội như vận động các chủ nhà trọ không tăng giá cho thuê nhà; thu tiền điện nước đúng quy định. Th ực hiện tốt công tác tạo quỹ “Vì người nghèo”, chăm lo hỗ trợ cho người nghèo... Đến tháng 8 năm 2013 phường Bình Trị Đông B là phường đầu tiên của Quận không còn hộ nghèo theo tiêu chí dưới 12 triệu/người/năm. Các chính sách đền ơn đáp nghĩa, hậu phương quân đội, lao động và việc làm, an sinh xã hội và an toàn xã hội,... có nhiều tiến bộ vượt bậc.

Không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Từ lực lượng du kích nhỏ bé những ngày đầu cách

Page 230: LSDB Binh Tri Dong B_size

230 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

mạng đảm bảo bổ sung lực lượng bộ đội cho chiến trường với khả năng chiến đấu không hề thua kém lực lượng chính quy. Các lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên,... được quan tâm chăm lo, xây dựng củng cố, phối hợp tốt với bộ đội trong huấn luyện, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng công an nhân dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố trở thành nhân tố quyết định đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phườ ng, đảm bảo công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế diễn ra thuận lợi.

Hệ thống chính trị không ngừng được xây dựng củng cố, phát triển vững mạnh toàn diện. Cùng với sự vận động của cách mạng, hệ thống chính trị không ngừng được xây dựng, củng cố kịp thời thích ứng với sự lãnh đạo trong điều kiện phát triển không ngừng. Trong những năm kháng chiến, hệ thống chính trị được xây dựng hoạt động đan xen trong nhân dân, hòa bình lập lại, hệ thống chính trị được củng cố toàn diện, thực sự là trụ cột của phong trào cách mạng, của toàn thể nhân dân, cùng cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, sự vận hành của hệ thống chính trị không những đáp ứng được sự thay đổi mà đã đi trước một bước: Cải cách, đổi mới phương thức hoạt động, tạo ra năng lực lãnh đạo cao hơn, điều hành quản lý năng động hơn, phát huy quyền dân chủ nhân dân rộng mở hơn.

Page 231: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 231

Những kết quả tích cực của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ngay từ những ngày còn hoạt động bí mật, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng bộ Bì nh Trị Đông B coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Sau ngày đất nước thống nhất, nhận thức vấn đề mang tính quyết định đến năng lực lãnh đạo, Đại hội Đảng bộ xã Bì nh Trị Đông B qua các nhiệm kỳ đều nhấn mạnh đến yêu cầu, nhiệm vụ và đề ra các biện pháp xây dựng Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, với mỗi bước chuyển biến của cách mạng, Đảng bộ phườ ng đều coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là gắn với các cuộc vận động thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII), thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu lần 2 (khoá VIII). Nhờ coi trọng công tác xây dựng đảng mà năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được tăng cường, bảo đảm vai trò lãnh đạo của mình trên địa bàn. Có thể nói, những thành tựu đạt được trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh đều gắn liền với vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Đặc biệt trong chặng đường 10 năm thực hiện phát triển kinh tế - xã hội theo hướng đô thị hóa (2003 – 2013), Đảng bộ Phường Bình Trị Đông B đã nỗ lực đưa địa phương phát triển vươn lên ngày càng mạnh mẽ. Khi được chia tá ch từ một xã nông thôn nghè o, kinh tế có phát triển nhưng chưa vững chắc, bền vững, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ phường bướ c đầ u đã chuyển biến tích cực, kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, chuyển dịch

Page 232: LSDB Binh Tri Dong B_size

232 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước đây, làm không đủ ăn nhưng nay đã biết tận dụng đất đai để phát triển sản xuất - kinh doanh, xây nhà trọ cho thuê - đây là một hình thức dịch vụ lớn ở phường, tăng thêm thu nhập, nhiều hộ đã có tích lũy và thích nghi với điều kiện kinh tế mới của phường. Điều này chứng tỏ chủ trương của Đảng tách xã Bình Trị Đông thành lập phường là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển, đưa phường Bình Trị Đông B từ một phần của xã nông nghiệp làm không đủ ăn đến nay đã có của ăn của để… Từ xã chuyên hoạt động sản xuất nông nghiệp chuyển lên thành phường dịch vụ thương mại đã giúp người dân thay đổi cách phát triển làm ăn khi họ không còn đất nông nghiệp nữa phải chuyển hướng sang làm dịch vụ để phù hợp với định hướng phát triển đô thị hóa của phường. Đến nay, Bì nh Trị Đông B đã có một nền kinh tế khá phát triển, trong đó tập trung là dịch vụ, thương mại, tiểu thủ công nghiệp, tăng nguồn thu ngân sách hàng năm. Do hiện nay là một phường đang đô thị hóa cho nên người lao động nhập cư đã đến đây làm ăn, sinh sống và góp phần đẩy mạnh kinh tế của phường phát triển đi lên. Đến nay, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Bì nh Trị Đông B đã đổi thay toàn diện và tích cực. Giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ được coi trọng và có bước phát triển vượt bậc; giáo dục – đào tạo phát triển toàn diện; y tế, văn hóa, thông tin phát triển cả về loại hình và chất lượng; các thiết chế văn hóa, thể thao được đầu tư xây tương đối đồng bộ; chăm lo gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc

Page 233: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 233

trong phườ ng. Các chính sách an sinh xã hội được bảo đảm, góp phần nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Từ ngày đầu thành lập chi bộ xã chỉ với vài đảng viên, đến nay xã tách ra thành 03 Đảng bộ phường, phường Bình Trị Đông B đã có Đảng bộ với 26 chi, đảng bộ trực thuộc với 486 đảng viên, phườ ng đã xây dựng được nền quốc phòng toàn dân gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, công an khu vực khá đông đảo, có sức chiến đấu cao, là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở và tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Trong công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ quận Bình Tân, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân phường Bì nh Trị Đông B đã luôn đổi mới cách nghĩ, cách làm, tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có, huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.

Nhìn lại chặng đường hơn tá m thập kỷ xây dựng và phát triển Đảng bộ phường đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:

Mộ t là , ở mỗ i giai đoạ n lị ch sử khá c nhau, Đả ng bộ phả i vậ n dụ ng đú ng quy luậ t khá ch quan, quá n triệ t và vậ n dụ ng sá ng tạ o cá c quan điể m, chủ trương, đườ ng lố i

Page 234: LSDB Binh Tri Dong B_size

234 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

củ a Đả ng sát với tì nh hì nh đặ c điể m cụ thể củ a đia phương: đá nh giá đú ng tiề m năng và lợ i thế củ a phườ ng để đề ra nhữ ng nhiệ m vụ và giả i phá p phù hợ p, đú ng đắ n nhằ m thú c đẩ y tì nh hì nh phá t triể n nhanh và bề n vữ ng; không rậ p khuôn má y mó c, chố ng bệ nh quan liêu, nó ng vộ i, chủ quan duy ý chí . Ở từng giai đoạn lịch sử, trước mỗi nhiệm vụ cách mạng, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, Đảng bộ phải có trách nhiệm quán triệt nghiêm túc, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng cấp trên phù hợp với điều kiện thực tế địa phương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội và cũng cố vững chắc hệ thống chính trị trên địa bàn phường.

Hai là , Đảng bộ, cán bộ, đảng viên phải nắm vững ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, có Nghị quyết đúng, sát với tình hình thực tế. Xây dựng Đảng bộ thực sự vững mạnh cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức; thật sự phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dựa vào giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc của người dân, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhất là bệnh quan liêu, xa dân, tham nhũng và lãng phí.

Ba là , Th ường xuyên kiện toàn, củng cố vững chắc hệ thống chính trị phường đủ sức thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định. Đặc biệt cần phá t huy hiệ u lự c, hiệ u quả quả n lý , điề u hà nh củ a chí nh quyề n, coi trọ ng vai trò củ a Mặ t trậ n và cá c đoà n thể trong công tá c

Page 235: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 235

tuyên truyề n, vậ n độ ng quầ n chú ng từ đó huy động được nhân dân trên địa bàn phường cùng thực hiện nhiệm vụ do Đảng bộ phường đề ra. Đồ ng thờ i phả i thườ ng xuyên tiế n hà nh công tá c kiể m tra, giám sát nhằ m bả o đả m cá c chủ trương, chí nh sá ch củ a Đả ng thự c sự đi và o thự c tiễ n trong nhân dân.

Bố n là , luôn luôn thắ t chặ t mố i quan hệ máu thịt giữ a Đả ng vớ i nhân dân, thự c sự dự a và o dân, tôn trọ ng, lắ ng nghe ý kiế n và chăm lo lợ i í ch, chí nh đá ng củ a nhân dân; xây dự ng và củ ng cố niề m tin củ a nhân dân và o sự lã nh đạ o củ a Đả ng bộ và chí nh quyề n. Xác định rõ “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể, các cấp ủy Đảng luôn đi sâu, đi sát cơ sở, lắng nghe ý kiến và tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, từ đó có biện pháp hợp lý, giải quyết kịp thời quyền lợi hợp pháp cho nhân dân.

Năm là , thườ ng xuyên khơi dậ y và phá t huy mạ nh mẽ truyề n thố ng đấ u tranh cá ch mạ ng, ý chí tự lự c tự cườ ng, năn độ ng sá ng tạ o của nhân dân trên địa bàn phường. Lịch sử Đảng bộ Bì nh Trị Đông B qua nhiều thập kỷ đã cho chú ng ta thấy: nhiều giai đoạn, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, có tính đột phá giành được thắng lợi, xuất phát từ sự đồng thuận cao của nhân nhân.

Năm tháng qua đi, nhưng những giá trị lịch sử, những thắng lợi vẻ vang, những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ sẽ còn mãi mãi với thời gian. Các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Bì nh Trị Đông B tự hào về những

Page 236: LSDB Binh Tri Dong B_size

236 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

thành quả đạt được trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ phường. Th ế hệ hôm nay và con cháu mai sau sẽ đời đời ghi nhớ công lao của bao lớp cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập dân tộc, giải phóng quê hương; lao động cần cù, sáng tạo, cống hiến công sức, trí tuệ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng Bì nh Trị Đông B giàu đẹp trong thế kỷ XXI. Trước mắt, những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống yêu nước, cách mạng đó là hành trang tinh thần vô giá để Đảng bộ và nhân dân thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ Phườ ng lần thứ XI nhiệ m kỳ 2010 – 2015 đề ra.

Page 237: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 237

PHỤ LỤC

Page 238: LSDB Binh Tri Dong B_size

238 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

THÀNH TÍCH KHEN THƯỞNG CỦA PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

(2003 – 2013)

Stt Tên đơn vị được tặng

Th ành tích Hình thức Ngày ký

1 Phường Bình Trị Đông B

Phường Văn minh đô thị (2009 – 2011)

Giấy Chứng nhận

11/3/2013

2 Phường Bình Trị Đông B

Công sở Văn minh sạch đẹp (2006 –

2007)

Giấy Chứng nhận

01/9/2008

3 Phường Bình Trị Đông B

Tập thể lao động xuất sắc năm 2008,

Giấy Chứng nhận

13/02/2009

4 Phường Bình Trị Đông B

Tập thể lao động xuất sắc năm 2009

Giấy Chứng nhận

3/02/2010

5 Phường Bình Trị Đông B

Tập thể lao động xuất sắc năm 2010

Giấy Chứng nhận

19/01/2011

6 Phường Bình Trị Đông B

Bằng khen (2004 – 2009) có thành tích xuất sắc nhiều năm

liền

Bằng khen 05/9/2009

7 Phường Bình Trị Đông B

Bằng khen đạt thành tích Xóa đói giảm nghèo và việc làm 2008 trên địa bàn

phường

Bằng khen 16/5/2009

8 Phường Bình Trị Đông B

Đạt chuẩn Phổ cập giáo dục giai đoạn

2003 - 2009

Bằng khen 20/3/2010

Page 239: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 239

9 Phường Bình Trị Đông B

Phường văn minh sạch đẹp (2008 –

2009)

Giấy chứng nhận

07/6/2010

10 Phường Bình Trị Đông B

Tập thể lao động xuất sắc năm 2012

Giấy chứng nhận

23/02/2013

11 Phường Bình Trị Đông B

Đã có thành tích xuất sắc trong hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch địa

phương năm 2012

Bằng khen Bộ VHTT

31/01/2013

12 Phường Bình Trị Đông B

Tập thể lao động xuất sắc năm 2013

Giấy chứng nhận

10/02/2012

13 Phường Bình Trị Đông B

Cờ thi đua Quyết định 10/02/2014

Page 240: LSDB Binh Tri Dong B_size

240 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

DANH SÁCH CHI ỦY LÂM THỜI XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG (1975-1977)

1. Đồng chí Lê Công Diên (Duyên) Bí thư kiêm Chủ tịch (1975-1977)2. Đồng chí Nguyễn Văn Ninh (Tám Linh) Bí thư kiêm Chủ tịch (1977)3. Đồng chí Trần Văn Cuốn (Sáu Cuốn) Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Công an4. Đồng chí Nguyễn Văn Hậu Phó Chủ tịch

DANH SÁCH CHI ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ I (1977-1979)

1. Đồng chí Đào Th ị Sàng Bí thư2. Đồng chí Huỳnh Th anh Liêm Phó Bí thư thường trực kiêm Chủ tịch3. Đồng chí Nguyễn Văn Hậu Chủ tịch (1978-1979)

DANH SÁCH CHI ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ II (1980-1982)

1. Đồng chí Nguyễn Th ị Khởi Bí thư2. Đồng chí Huỳnh Th anh Liêm Chủ tịch3. Đồng chí Nguyễn Th ị Đúng Phó Chủ tịch

DANH SÁCH CHI ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ III (1983-1985)

1. Đồng chí Phan Văn Th ảo Bí thư2. Đồng chí Phan Chí Th ạnh Phó Bí thư3. Đồng chí Huỳnh Th anh Liêm Chủ tịch4. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Phó Chủ tịch

Page 241: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 241

DANH SÁCH CHI ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ IV (1986-1988)

1. Đồng chí Trương Văn Dư Bí thư2. Đồng chí Võ Văn Dõng Phó Bí thư Th ường trực (1986 -1987)3. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Chủ tịch (1986-1987)4. Đồng chí Trần Văn Vuông Chủ tịch (1987-1988)5. Đồng chí Bùi Th ị Bửu Phó Chủ tịch

DANH SÁCH CHI ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ V (1989-1991)

1. Đồng chí Nguyễn Văn Hòa Bí thư2. Đồng chí Võ Hữu Đức Bí thư (1991)3. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Phó Bí thư4. Đồng chí Đặng Văn Ẩn Q. Chủ tịch4. Đồng chí Mai Văn Được Phó Chủ tịch

DANH SÁCH ĐẢNG ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ VI

(1992-1993)

1. Đồng chí Võ Hữu Đức Bí thư Đảng ủy2. Đồng chí Đỗ Văn Điện Phó Bí thư Th ường trực3. Đồng chí Mai Văn Được Chủ tịch UBND xã4. Đồng chí Nguyễn Văn Hòa Phó Chủ tịch UBND xã5. Đồng chí Đặng Văn Ẩn Phó Chủ tịch UBND xã

Page 242: LSDB Binh Tri Dong B_size

242 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

DANH SÁCH ĐẢNG ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ VII

(1994-1995)

1. Đồng chí Huỳnh Văn Mẫn Bí thư Đảng ủy2. Đồng chí Trần Văn Hòa Chủ tịch UBND xã3. Đồng chí Võ Th ị Kim Liên Phó Bí thư Đảng ủy Th ường trực4. Đồng chí Nguyễn Chí Th iện Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân5. Đồng chí Lê Văn Sớm Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND xã6. Đồng chí Diệp Văn Sang Đảng ủy viên - Phụ trách Khối vận7. Đồng chí Nguyễn Lệ Th ủy Đảng ủy viên - Ủy viên Th ư ký UBND xã8. Đồng chí Dương Văn Nghĩa Đảng ủy viên - Trưởng Công an xã9. Đồng chí Nguyễn Văn Th ành Đảng ủy viên - Xã đội trưởng10. Đồng chí Trương Minh Nam Đảng ủy viên - Bí thư Chi bộ ấp 511. Đồng chí Nguyễn Đức Lập Đảng ủy viên - Bí thư Chi bộ ấp 4

DANH SÁCH ĐẢNG ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ VIII

(1996-2000)

1. Đồng chí Huỳnh Văn Mẫn Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã2. Đồng chí Trần Văn Hòa Chủ tịch UBND xã3. Đồng chí Võ Th ị Kim Liên Phó Bí thư Đảng ủy Th ường trực4. Đồng chí Nguyễn Chí Th iện Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã5. Đồng chí Lê Văn Sớm Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND xã

Page 243: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 243

6. Đồng chí Tống Hữu Luân Đảng ủy viên - Chủ tịch UB MTTQ VN xã7. Đồng chí Dương Văn Nghĩa Đảng ủy viên - Trưởng Công an8. Đồng chí Nguyễn Văn Th ành Đảng ủy viên - Xã đội trưởng9. Đồng chí Trương Minh Nam Đảng ủy viên, Bí thư chi bộ ấp 5, cán bộ Tiểu thủ công nghiệp xã10. Đồng chí Nguyễn Đức Lập Đảng ủy viên, Bí thư chi bộ ấp 4, phụ trách xóa đói giảm nghèo11. Đồng chí Nguyễn Th ị Hạnh Đảng ủy viên, Bí thư chi bộ ấp 2

DANH SÁCH ĐẢNG ỦY XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG NHIỆM KỲ IX (2000-2003)

1. Đồng chí Võ Th ị Kim Liên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã2. Đồng chí Lê Văn Sớm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND xã3. Đồng chí Nguyễn Th ị Hạnh Phó Bí thư Th ường trực Đảng ủy4. Đồng chí Nguyễn Chí Th iện Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã5. Đồng chí Trương Minh Nam Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UBND xã6. Đồng chí Nguyễn Văn Th ành Đảng ủy viên - Ủy viên UBND xã 7. Đồng chí Nguyễn Đức Lập Đảng ủy viên - Phụ trách Khối vận8. Đồng chí Dương Văn Nghĩa Đảng ủy viên - Trưởng Công an xã9. Đồng chí Nguyễn Quốc Khánh Đảng ủy viên - Xã đội trưởng10. Đồng chí Nguyễn Th ị Bạch Th u Đảng ủy viên - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã11. Đồng chí Nguyễn Duy Dũng Đảng ủy viên - Bí thư chi bộ ấp 412. Đồng chí Huỳnh Th ị Hồng Đảng ủy viên - Phó Chủ tịch UB MTTQ VN xã

Page 244: LSDB Binh Tri Dong B_size

244 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

13. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Đảng ủy viên - Bí thư chi bộ ấp 314. Đồng chí Nguyễn Xuân Phang Đảng ủy viên - Bí thư chi bộ ấp 915. Đồng chí Lê Th ị Vân Lan Đảng ủy viên - Bí thư chi bộ ấp 6

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ LÂM THỜI

PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B NHIỆM KỲ IX (2003-2005)

1. Đồng chí Trịnh Th ị Th u Th úy Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND phường2. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Phó Bí thư thường trực Đảng ủy3. Đồng chí Hoàng Công Hợp Phó Bí thư, Chủ tịch UBND phường4. Đồng chí Trương Công Cừu Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND phường5. Đồng chí Nguyễn Xuân Phang Đảng ủy viên, Chủ tịch UB MTTQ VN phường 6. Đồng chí Bùi Ngọc Bé Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường7. Đồng chí Nguyễn Văn Liêm Đảng ủy viên, Trưởng Công an phường8. Đồng chí Trần Th ị Nhiều Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch UBND phường

DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ

PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B NHIỆM KỲ X (2005-2010)

1. Đồng chí Trịnh Th ị Th u Th úy Bí thư Đảng ủy2. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Phó Bí thư thường trực Đảng ủy3. Đồng chí Nguyễn Kim Xuyến Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND phường

Page 245: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 245

4. Đồng chí Trương Công Cừu Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND phường5. Đồng chí Lê Văn Hiền Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch UBND phường6. Đồng chí Nguyễn Nghiêm Đức Đảng ủy viên, Chủ tịch UB MTTQ VN phường7. Đồng chí Bùi Ngọc Bé Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường8. Đồng chí Nguyễn Văn Liêm Đảng ủy viên, Trưởng Công an phường9. Đồng chí Huỳnh Th ái Huyền Đảng ủy viên, Chỉ huy trưởng BCH Quận sự phường10. Đồng chí Dương Ngọc Vĩnh Đảng ủy viên, Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy11. Đồng chí Trần Hùng Đảng ủy viên, Trưởng Trạm Y tế phường

DANH SÁCH THAY ĐỔI, BỔ SUNG

- Đồng chí Nguyễn Th ị Kim Hương Phó Bí thư thường trực (20/7/2008)- Đồng chí Trương Th ị Minh Tín Đảng ủy viên, Công chức kế toán UBND phường (23/9/2008)- Đồng chí Huỳnh Ngọc Sơn Đảng ủy viên, Bí thư Đoàn Th anh niên phường (23/9/2008)- Đồng chí Nguyễn Th ị Bạch Th u Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội LHPN phường (23/3/2009 -6/2010)

Page 246: LSDB Binh Tri Dong B_size

246 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

- Đồng chí Nguyễn Ngọc Toàn Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch UBND phường (03/12/2009 - 01/2011)- Đồng chí Trần Văn Liêm Đảng ủy viên, Trưởng Công an phường (03/12/2009)- Đồng chí Nguyễn Văn Hương Quận ủy viên, Bí thư Đảng ủy (30/12/2009) DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ PHƯỜNG BÌNH TRỊ

ĐÔNG B NHIỆM KỲ XI (2010-2015)

1. Đồng chí Nguyễn Văn Hương Quận ủy viên, Bí thư Đảng ủy2. Đồng chí Nguyễn Th ị Kim Hương Phó Bí thư Th ường trực Đảng ủy3. Đồng chí Nguyễn Th anh Sơn Phó Bí thư, Chủ tịch UBND phường4. Đồng chí Huỳnh Ngọc Sơn UV BTV Đảng ủy, Chủ tịch UB MTTQ VN phường5. Đồng chí Trần Văn Liêm UV BTV Đảng ủy, Trưởng Công an phường6. Đồng chí Trương Th ị Minh Tín Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch UBND phường7. Đồng chí Nguyễn Ngọc Toàn Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch UBND phường8. Đồng chí Hà Văn Nam Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường9. Đồng chí Võ Th ị Vàng Đảng ủy viên, Bí thư Đoàn Th anh niên phường

Page 247: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 247

10. Đồng chí Trần Th ị Hồng Vân Đảng ủy viên, Th ường trực khối vận phường11. Đồng chí Phan Ngọc Hà Đảng ủy viên, Cán bộ Tổ chức, Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy12. Đồng chí Huỳnh Công Đức Đảng ủy viên, Hiệu trưởng trường Tiểu học Bình Trị 213. Đồng chí Huỳnh Th ái Huyền Đảng ủy viên, Chỉ huy trưởng BCH Quân sự phường14. Đồng chí Nguyễn Tấn Hòa Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ Khu phố 715. Đồng chí Nguyễn Nghiêm Đức Đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ Khu phố 11

DANH SÁCH THAY ĐỔI, BỔ SUNG

- Đồng chí Nguyễn Th ái Th ùy Hương Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch UBND phường (16/9/2011)- Đồng chí Ngô Văn Tuyên Đảng ủy viên, Hiệu trưởng trường Tiểu học Bình Trị 2 (16/9/2011)- Đồng chí Trần Th ị Hồng Vân Đảng ủy viên, Cán bộ Văn phòng Đảng ủy (tháng 01/2013)- Đồng chí Võ Th ị Vàng Đảng ủy viên, Bí thư Đoàn Th anh niên phường (từ tháng 6/2010 đến tháng 3/2013, được Quận điều động sang phường Bình Trị Đông A)

Page 248: LSDB Binh Tri Dong B_size

248 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

- Đồng chí Phan Ngọc Hà Đảng ủy viên, Chủ tịch Hội LHPN phường (5/2013)- Đồng chí Lê Doãn Luyến Đảng ủy viên, PCT UBND phường (22/1/2013)- Đồng chí Nguyễn Văn Hương Quận ủy viên, Bí thư Đảng ủy phường (30/12/2010 đến tháng 10/2013 được điều động về Quận)

Page 249: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 249

CÁ C ĐỒ NG CHÍ BÍ THƯ XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG

(1975 – 2003)

Đồng chí Lê Công Diên (Duyên)

Bí thư kiêm Chủ tịch (1975 - 1977)

Đồng chí Nguyễn Văn Ninh (Tám Linh)

(1977)

Đồng chí Đào Thị Sàng

(1977 - 1979)Đồng chí Nguyễn Thị Khởi

(1980 - 1982)

Page 250: LSDB Binh Tri Dong B_size

250 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Đồng chí Phan Văn Thảo

(1983 - 1985)

Đồng chí Trương Văn Dư

(1986 - 1988)

Đồng chí Nguyễn Văn Hòa

(1989 - 1991)

Đồng chí Võ Hữu Đức

(1992 - 1993)

Đồng chí Huỳnh Văn Mẫn

(1994 – 2000)

Đồng chí Võ Thị Kim Liên

(2000 – 2003)

Page 251: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 251

CÁ C ĐỒ NG CHÍ BÍ THƯ PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

(2003 – 2013)

Đồng chí Trịnh Thị Thu Thúy

QUV, Bí Thư Đảng ủy (2003 – 12/2009)

Đồng chí Nguyễn Thị Kim Hương

Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy (8/2008 – 2/2014)

Bí thư Đảng ủy (2/2014 – nay)

Đồng chí Nguyễn Văn Hương

QUV, Bí thư Đảng ủy (01/2010 – 10/2013)

Page 252: LSDB Binh Tri Dong B_size

252 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

CÁ C ĐỒ NG CHÍ CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN

XÃ BÌNH TRỊ ĐÔNG (1975 – 2003)

Đồng chí Nguyễn Văn Hậu

(1977 – 1979)Đồng chí Huỳnh Thanh Liêm

(1979 – 1985)

Đồng chí Nguyễn Thanh Sơn

Phó Chủ tịch (1983 - 1985)Chủ tịch (1986-1987)

Đồng chí Trần Văn Vuông

(1987 - 1988)

Page 253: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 253

Đồng chí Đặng Văn Ẩn

Quyền Chủ tịch (1988 – 1989)Đồng chí Mai Văn Được

(1989 - 1993)

Đồng chí Trần Văn Hòa

(1994 - 2000)Đồng chí Lê Văn Sớm

Phó Bí thư, Chủ tịch UBND (2000 - 2003)

Page 254: LSDB Binh Tri Dong B_size

254 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

CÁ C ĐỒ NG CHÍ CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN

PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B (2003 – 2013)

Đồng chí Hoàng Công Hợp

Phó Bí thư, Chủ tịch UBND phường

(2003 – 7/2005)

Đồng chí Nguyễn Kim Xuyến

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND phường (2004 – 7/2005)

Phó Bí thư, Chủ tịch UBND phường (8/2005 – 7/2007)

Đồng chí Nguyễn Thanh Sơn

Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy (2003 – 8/2007) Phó Bí thư, Chủ tịch UBND phường (2007 – nay)

Page 255: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 255

CÁ C ĐỒ NG CHÍ PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC,

PHÓ CHỦ TỊCH PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

(2003 – 2013)

Đồng chí Trần Thị Nhiều

Phó Chủ tịch UBND phường (12/2003 – 9/2007)

Đồng chí Lê Văn Hiền

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND phường(7/2005 – 8/2008)

Đồng chí Nguyễn Ngọc Toàn

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND phường(8/2007 – 02/2011)

Đồng chí Trương Thị Minh Tín

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND phường (3/2009 - nay)

Page 256: LSDB Binh Tri Dong B_size

256 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Đồng chí Nguyễn Thái Thùy Hương

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND phường(02/2011 – nay)

Đồng chí Lê Doãn Luyến

ĐUV, Phó Chủ tịch UBND phường (3/2013 - nay)

Page 257: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 257

DANH SÁCH BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

STT Họ và tên Năm sinh

Địa chỉ Phong tặng

Còn sống

Đã từ trần

1 Phạm Th ị Mai 1916 Bình Trị Đông B

X

2 Huỳnh Th ị Nghiêm Bình Trị Đông B

X

3 Dương Th ị Th ảo 1891 Bình Trị Đông B

X

4 Châu Th ị Mười 1900 Bình Trị Đông B

X

5 Dương Th uận Huê 1917 Bình Trị Đông B

X

6 Phạm Th ị Mực 1902 Bình Trị Đông B

X

7 Dương Th ị Bửu Bình Trị Đông B

X

Page 258: LSDB Binh Tri Dong B_size

258 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

DANH SÁCH LIỆT SĨ PHƯỜNG BÌNH TRỊ ĐÔNG B

I. THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)

Số TT

Họ và tên Liệt sĩ

(Bí danh)

Năm sinh

Nguyên quán

Ngày nhập ngũ

Ngày hy sinh

Đơn vị/Chức vụ

01 Nguyễn Văn Bảy

1927 Bình Trị Đông

1945 12/5/1949 Th ư ký BCH

Th anh niên

02 Đào Văn Cánh

1924 Bình Trị Đông

1946 18/12/1948 Công an xã

03 Nguyễn Văn Hai

1927 Bình Trị Đông

8/1945 10/7/1950 Trung đội

trưởng04 Hùynh

Văn ĐỏBình Trị

Đông19/8/1945 7/8/1948 Tiểu đội

trưởng05 Bùi Văn

Th iểu1911 Bình Trị

Đông8/1945 10/4/1954 Trung

đội phó06 Ngô Th ị

Chón1915 Bình Trị

Đông1945 15/2/1951 Công an

mật vùng B, du kích

07 Nguyễn Văn Nai

1906 Lộc Giang 8/1945 21/1/1948 Chiến sĩ Trung

đoàn 30808 Hùynh

Văn Hưu1910 Bình Trị

Đông6/10/1952 Th ư ký

Page 259: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 259

09 Hùynh Văn Dạ

1925 Bình Hưng Hòa

1/1946 1/1946 Chiến sĩ Chi đội

1210 Nguyễn

Văn Lợi1930 Bình Trị

Đông1948 23/9/1952 Du kích

11 Nguyễn Văn Lợt

1900 Bình Trị Đông

1930 6/1949 Chủ tịch xã

12 Lê Văn Kẽm

1929 Bình Trị Đông

1947 1948 Công an

13 Nguyễn Văn Lẹ

1930 Bình Trị Đông

1/1949 4/12/1952 Chiến sĩ QK7

14 Nguyễn Văn

Được

1933 Bình Trị Đông

1/1949 1/12/1953 Chiến sĩ

15 Nguyễn Văn Hán

1919 Bình Trị Đông

1945 1952 Cán bộ

16 Nguyễn Văn Hơn

(Hên)

1913 Bình Trị Đông

8/1945 Tiểu đội trưởng C3824

Sài Gòn – Gia Định

17 Hùynh Văn Lý

1922 Gò Vấp 8/1945 1948 Quốc gia tự vệ

cuộc18 Lê Văn

Đinh1920 Bình Trị

Đông12/1947 Chủ

tịch ấp Chánh

Page 260: LSDB Binh Tri Dong B_size

260 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

19 Mai Văn Phùng

1929 Bình Trị Đông

1/1946 1/1/1947 Chiến sĩ Đội

quyết tử 950 Sài Gòn –

Gia Định20 Nguyễn

Văn Vị1931 Bình Trị

Đông2/1948 2/12/1953 Tiểu

đội phó Trung

đoàn 30021 Phan Văn

Châu1923 Bình Trị

Đông11/1945 30/2/1954 Tiểu đội

phó Tiểu đoàn 925

Trung đoàn 312

22 Dương Văn

Th ắng

1925 Bình Trị Đông

8/1945 5/4/1947 Tiểu đội trưởng

Ban công tác 3

Th ành phố SG

23 Nguyễn Văn

Hưng

1918 Bình Trị Đông

1/1947 7/5/1948 Tiểu đội phó Chi đội 12

24 Nguyễn Văn

Phính

1926 Bình Hưng Hòa

1/1947 17/7/1950 Công an xã Bình Hưng Hòa

25 Nguyễn Văn Khuê

1923 Bình Trị Đông

8/1945 13/7/1947 Sinh viên Sài Gòn – Chợ Lớn

Page 261: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 261

26 Lê Văn Non

1923 Bình Hưng Hòa

10/1945 1/12/1946 Tiểu đội trưởng

Quốc vệ đội

27 Nguyễn Văn Đối

1925 Tân Tạo 8/1945 18/8/1952 Công an

28 Phan Văn Chân

1923 Bình Trị Đông

11/1945 30/2/1954 Tiểu đội phó Tiểu đoàn 35 Trung

đoàn 31227 Võ Văn

Xính1917 An Lạc 1948 Công an

xã28 Lý Văn

Châu1902 An Lạc 1950 Xã đội

trưởng29 Nguyễn

Văn Tường

1921 Bình Trị Đông

6/1951 Kinh tài xã

30 Lý Văn Th ới

1906 An Lạc 1953 Ủy viên Quân sự

31 Trần Văn Th ường

1927 An Lạc 2/1950 Du kích xã

32 Võ Văn Ó 1915 An Lạc 9/1946 B Trưởng33 Võ Văn

Diều1919 An Lạc 8/1951

34 Phạm Văn Bưng

1917 An Lạc 8/1951 Du kích xã

35 Trịnh Văn Th ái

1917 Bình Trị Đông

8/1945 Nhân viên công

an

Page 262: LSDB Binh Tri Dong B_size

262 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

36 Nguyễn Văn Tiễn

1901 An Lạc 1948 Công an xã

37 Nguyễn Văn

Được

1933 Bình Trị Đông

12/1953 Chiến sĩ

II. THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954-1975)

Số TT

Họ và tên Liệt sĩ (Bí

danh)

Năm sinh

Nguyên quán

Ngày nhập ngũ

Ngày hy sinh

Đơn vị/Chức vụ

01 Đào Văn Th ân

1936 Bình Trị Đông

1956 1961 Xã đội trưởng

02 Tiền Kiều Sanh

1944 Bình Trị Đông

3/1963 22/8/1966 Chiến sĩ

03 Tiền Kiều Mạnh

1945 Bình Trị Đông

12/1962 22/12/1963 Chiến sĩ

04 Nguyễn Văn Tư

1938 Bình Trị Đông

5/1961 2/7/1969 Tiểu đội phó

05 Du Văn Song

1933 Bình Trị Đông

1/1961 23/5/1967 Tiểu đội phó

06 Lê Văn Tước

1930 Bình Trị Đông

1960 2/8/1968 Tổ viên Tổ trinh sát Tân Nhựt

07 Hùynh Văn

Th ành

1937 Bình Trị Đông

1/1962 15/5/1968 Tiểu đội trưởng

08 Nguyễn Văn Hóa

1951 Bình Trị Đông

1968 Phó Bí thư chi

bộ

Page 263: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 263

09 Phan Văn Hớn

1929 Cửu Long 21/1/1968 Phó Ban tài chánh

10 Nguyễn Th ị Chối

1947 Bình Trị Đông

12/1971 Chiến sĩ

11 Nguyễn Văn Tiều

1943 Bình Trị Đông

1/1963 20/2/1966 Tiểu đội trưởng

12 Phạm Văn Tám

1940 An Lạc 1/1963 16/9/1967 Tiểu đội trưởng

13 Nguyễn Tấn

Th ành

1931 Long An 1/1956 16/2/1966 Đại đội trưởng

14 Nguyễn Tấn Dũng

1941 Bình Trị Đông

11/1961 3/2/1968 Tiểu đội phó

15 Hùynh Dương

1931 Bến Tre 1950 6/5/1969 Tiểu đoàn phó

16 Lê Văn Nhi

1940 Bình Trị Đông

1/1962 10/1/1964 Chiến sĩ

17 Th ái Văn Khoái

1934 Bình Trị Đông

1/1954 31/9/1969 Trung đội phó

18 Tạ Văn Quyền

1930 Bình Trị Đông

1/1949 8/6/1974 Tiểu đội phó Tiểu đoàn 512

19 Nguyễn Văn Gần

1915 Bình Trị Đông

1/1960 Tổ công tác mật

ấp20 Nguyễn

Văn Cu1948 Bình Trị

Đông1965 28/5/1968 Du kích

Bình Trị Đông

Page 264: LSDB Binh Tri Dong B_size

264 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

21 Phan Văn Tư

1932 Bình Trị Đông

1/1962 12/10/1966 Tiểu đội trưởng Đại đội 2200 Y5

22 Nguyễn Văn Sẻng

Bình Trị Đông

1/1961 31/12/1964 Chiến sĩ Trung

đoàn 76123 Nguyễn

Văn ĐồngBình Trị

Đông13/5/1969 Chiến sĩ

Tiểu đoàn 6

24 Nguyễn Văn

Quang

1945 Bình Trị Đông

1962 28/7/1969 Du kích Bình Trị

Đông25 Nguyễn

Văn Tám1937 Tân Túc 5/1967 17/8/1968 Tiểu đội

phó Bộ đội địa phương

26 Nguyễn Văn Huệ

1944 Bình Trị Đông

1962 1963 Du kích xã

27 Nguyễn Văn Tiến

1942 Bình Trị Đông

1/1968 20/6/1968 Du kích Bình Trị

Đông28 Nguyễn

Văn Tượng

1938 Bình Trị Đông

1/1964 22/12/1969 Tiểu đội trưởng

giao bưu (Long An)

29 Lê Minh Th ượng

1917 Phú Hưng 12/1960 25/1/1968 Tiểu đội phó LLVT

Bến Tre

Page 265: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 265

30 Trần Văn Có

1953 Bình Trị Đông

1/1970 28/10/1970 Chiến sĩ

31 Nguyễn Văn Đực

1944 Bình Trị Đông

2/1964 5/4/1966 Tiểu đội phó Đại đội 218

32 Nguyễn Văn Út

1942 Bình Trị Đông

1/1964 30/12/1964 Chiến sĩ LLVT SG-GĐ

33 Trần Văn Dũng

1942 Bình Hưng Hòa

2/1964 6/1966 Tiểu đội trưởng

34 Huỳnh Văn Hải

1951 Bình Trị Đông

12/1972 14/4/1974 Du kích Bình Trị

Đông35 Nguyễn

Văn Ta1941 Bình Trị

Đông12/1960 11/11/1964 Tiểu đội

phó36 Dương

Văn Xinh1953 Bình Trị

Đông1974 8/10/1974 Du kích

xã37 Nguyễn

Văn Đực1944 Bình Trị

Đông2/1962 10/9/1968 Tiểu đội

phó C4, D3, F9

38 Nguyễn Văn Lẹ

1926 Bình Trị Đông

1947 1956 Đảng viên

39 Nguyễn Văn Hạng

1934 Vĩnh Lộc 1/1950 11/7/1963 Tiểu đội trưởng

Bảo vệ T440 Nguyễn

Hữu Trừ1948 Bình Trị

Đông2/1963 Tiểu đội

phó, Đại đội 1,

Tiểu đoàn 65

Page 266: LSDB Binh Tri Dong B_size

266 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

41 Võ Văn Tâm

1942 Bình Trị Đông

2/1961 15/12/1970 Tiểu đội trưởng Đại đội

21 Trung đoàn 4

42 Võ Văn Đằng

1917 Bình Trị Đông

1945 11/1974 Chiến sĩ giao liên

43 Nguyễn Văn Sẻng

1940 12/1964 Chiến sĩ

44 Phạm Tấn Sao

1945 Tân Tạo 1968 Công an

45 Nguyễn Văn Tốt

1922 8/1968 Cán bộ thanh niên

46 Phạm Văn Chí

1951 An Lạc 4/1968 Cán bộ thanh niên

47 Bùi Văn Đực

1952 An Lạc 5/1973 Tiểu đội trưởng

48 Nguyễn Văn Tửa

1950 Long An 6/1968 B Phó

49 Bùi Văn Lợi

1942 An Lạc 9/1969 C Phó

50 Lê Th ị Hằng

1931 An Lạc 4/1968 Trung úy QK 8

51 Trần Ngọc

Th ành

1943 An Lạc 3/1969 B Phó

Page 267: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 267

52 Bùi Văn Lẹ

1936 2/1961 Tiểu đội trưởng võ trang du

kích53 Huỳnh

Văn Hồ1926 An Lạc 5/1970 Phó Ban

Kinh tài54 Nguyễn

Ngọc Th ành

1943 An Lạc 3/1969 B Phó

55 Lê Tấn Săn

1949 An Lạc 1/1967 Chiến sĩ

56 Võ Văn Lên

1940 An Lạc 11/1969 Du kích xã An Lạc

57 Lê Công Dơn

1943 An Lạc 5/1969 Bí thư Chi bộ

58 Lê Văn Bảy

1941 Bình Trị Đông

1968 Binh nhất

59 Nguyễn Văn

Dưởng

1938 An Lạc 2/1967 Chi ủy Xã

60 Trương Văn Bền

1949 An Lạc 12/1967 A Trưởng

61 Trần Văn Hơn

1942 An Lạc 12/1969 Tiểu đội trưởng

62 Mai Văn Hết

1950 An lạc 2/1968 Du kích

64 Nguyễn Văn Lữ

1926 An Lạc 1971

65 Đoàn Văn Hai

1941 An Lạc 5/1969 A Trưởng

Page 268: LSDB Binh Tri Dong B_size

268 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

III. THỜI KỲ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM (1978 – 1989)

Số TT

Họ và tên Liệt sĩ (Bí

danh)

Năm sinh

Nguyên quán

Ngày nhập ngũ

Ngày hy sinh

Đơn vị/Chức vụ

01 Nguyễn Văn Việt

1961 Bình Trị Đông

13/5/1981 Hạ sĩ QK7

02 Nguyễn Văn Mãnh

1958 Bình Trị Đông

26/4/1979 Hạ sĩ Đại đội Th ông

tin03 Lê Công Bội 1960 An Lạc 12/1978 Chiến sĩ04 Trương

Minh Hoàng1960 An Lạc 5/1983 Th ượng

Page 269: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 269

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Truyền thống đấu tranh cách mạng xã Bình Trị Đông (1930-1975).

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bình Chánh - Th ành phố Hồ Chí Minh, Sơ thảo Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Bình Chánh (1930-1975), Bình Chánh năm 1995.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bình Chánh - Th ành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Chánh (1930-1975), Bình Chánh tháng 11 năm 2012.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bình Chánh - Th ành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ huyện Bình Chánh (1975-2005), Nxb Tổng hợp Th ành phố Hồ Chí Minh, 2010.

5. Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hồ sơ địa giới hành chính phường Bình Trị Đông B quận Bình Tân Th ành phố Hồ Chí Minh.

6. Đại hội đại biểu Đảng bộ phường Bình Trị Đông B lần thứ XI - nhiệm kỳ 2010-2015, Báo cáo chính trị Ban

Page 270: LSDB Binh Tri Dong B_size

270 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

Chấp hành Đảng bộ phường tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ phường Bình Trị Đông B lần thứ XI, nhiệm kỳ 2010 – 2015.

7. Đại hội đại biểu Đảng bộ phường Bình Trị Đông B lần thứ XI - nhiệm kỳ 2010-2015, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường Bình Trị Đông B lần thứ XI, nhiệm kỳ 2010 – 2015.

8. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo Kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị năm 2011 và nhiệm vụ trọng tâm, các chỉ tiêu, giải pháp chủ yếu năm 2012 của Đảng bộ phường Bình Trị Đông B.

9. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tổng kết công tác năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005 của Đảng bộ phường Bình Trị Đông B.

10. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo kết quả lãnh đạo của Đảng bộ phường Bình Trị Đông B năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006.

11. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết TW 5 khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở phường Bình Trị Đông B.

12. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện chuyên đề về an ninh cơ sở.

13. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng phường Bình Trị Đông năm 2008.

Page 271: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 271

14. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo lãnh đạo công tác năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007.

15. Đảng ủy phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tổng kết năm 2007 và chương trình công tác năm 2008.

16. Ủy ban nhân dân xã Bình Trị Đông, báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch năm 2003 của Ủy ban nhân dân xã Bình Trị Đông, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thực hiện năm 2004 của Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông.

17. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế - xã hội năm 2007.

18. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tình hình triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ IX; nghị quyết Đại hội Đảng bộ phường Bình Trị Đông B lần thứ X nhiệm kỳ 2005-2010.

19. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2008 và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2009.

20. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2009 và kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2010.

21. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế văn hóa - xã hội năm 2010.

22. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2011.

Page 272: LSDB Binh Tri Dong B_size

272 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

23. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013.

24. Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông B, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 9 tháng đầu năm 2013.

25. Viện Nghiên cứu phát triển Th ành phố Hồ Chí Minh - Viện Quy hoạch xây dựng, Th uyết minh tổng hợp quy hoạch chung xây dựng quận Bình Tân, Th ành phố Hồ Chí Minh.

Page 273: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 273

MỤC LỤC

trang

Lời nói đầu ......................................................................................................................7

Mở đầu: Vùng đất – con người và truyền thống yêu nước

của nhân dân Bình Trị Đông B ..........................................................................13

I. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên .............................................14

II. Đặc điểm của cư dân Bình Trị Đông B. .................................21

III. Truyền thống yêu nước của nhân dân Bình Trị Đông B trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời...............................23

Phần thứ nhất: Bình Trị Đông trong sự nghiệp đấu tranh giành

độc lập dân tộc (1930-1975) ............................................................................27

Chương một: Phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Trị Đông từ khi có Đảng đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1930-1954) ...............................................................29

I. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Bình Trị Đông từ khi có Đảng đến Cách mạng Tháng Tám thành công (1930 – 1945) .............................................................30II. Chi bộ Đảng và nhân dân Bình Trị Đông trong kháng chiến chống thực dân pháp xâm lượclần thứ II (1945 - 1954) ...................................................................53

Chương hai: Chi bộ Đảng và nhân dân Bình Trị Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) .......................79

I. Đấu tranh chính trị, đẩy mạnh ba mũi giáp công chống chiến tranh một phía của Mỹ - ngụy (1954-1965)................80

Page 274: LSDB Binh Tri Dong B_size

274 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ÐẢNG BỘ

II. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đánh giặc góp phần “đánh cho Mỹ cút” (1965 - 1973) ............................................. 101

III. Xây dựng và phát triển phong trào kháng chiến, tiến tới giải phóng quê hương (1973 - 1975) ...................... 114

Phần thứ hai: Ðảng bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện

sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội (1975 - 2013) ................. 125

Chương ba: Chi bộ Bình Trị Đông lãnh đạo nhân dân thực hiện sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội (1975 - 2003) .... 127

I. Chi bộ lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội (1975 – 1985) ......................... 128

II. Đảng bộ Bình Trị Đông thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1986 – 2003). ................... 151

Chương bốn: Đảng bộ phường Bình Trị Đông B ra đời, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập và phát triển (2003-2013) ....................................................................... 193

I. Xây dựng, củng cố hệ thố ng chí nh trị . .............................. 194

II. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại ............................................................................................. 202

III. Nâng cao đời sống văn hóa, đảm bảo an sinh xã hội trong cộng đồng dân cư. ........................................................... 210

IV. Về công tác quốc phòng – an ninh và trật tự an toàn xã hội ................................................................................................. 217

Kết luận ................................................................................................................. 226

Phụ lục ................................................................................................................... 237

Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 269

Page 275: LSDB Binh Tri Dong B_size

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930-2013) 275

Chòu traùch nhieäm xuaát baûn:Huyønh Thò Xuaân Haïnh

Bieân taäp: Huyønh Trung KieânSöûa baûn in: Taân Phong

Trình baøy, bìa: Laâm Ñeä Huøng

In laàn thöù nhaát. Soá löôïng: 500cuoán, Khoå 14,5 x 20,5 cm. Taïi Coâng ty Coå phaàn In Khuyeán hoïc phía Nam.

Soá ñaêng kyù KHXB: 1789-2013/CXB/06-119/VHVN.Quyeát ñònh xuaát baûn soá: 398/QÑ-NXBVHVN ngaøy 05/12/2013.

In xong vaø noäp löu chieåu Quyù II naêm 2014.

NHAØ XUAÁT BAÛN VAÊN HOÙA - VAÊN NGHEÄ TP.HCM88-90 Kyù Con, P.Nguyeãn Thaùi Bình, Quaän 1 - TP.HCM

ÑT: (08) 38216009 - 39142419 Fax: (08) 39142890

Email: [email protected] [email protected]

Website: nxbvanhoavannghe.org.vn

LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ

VÀ NHÂN DÂN PHƯỜNG BÌNH TRỊ ÐÔNG B (1930 - 2013)