Upload
others
View
15
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Lê Thị Mai Ngân
CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT
VÀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Lê Thị Mai Ngân
CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT
VÀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO THỊ VÂN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa từng ai công bố trong bất
kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LÊ THỊ MAI NGÂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
6. Cấu trúc của luận văn
Chƣơng 1 : CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC
SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN TÍN HIỆU HỌC
1.1. Một số vấn đề lí thuyết có liên quan
1.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhìn từ phƣơng diện cái biểu hiện
(tức mặt hình thức của tín hiệu)
1.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhìn từ phƣơng diện cái đƣợc
biểu hiện (tức mặt nội dung của tín hiệu)
Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC
SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG HỌC
2.1. Một số vấn đề lí thuyết có liên quan
2.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét từ phƣơng diện thể hiện hành
động ngôn trung (hành vi ở lời)
2.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét từ phƣơng diện chủ thể sử dụng
2.4. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét từ phƣơng diện hoàn cảnh sử
dụng
2.5. Vai trò của phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Chƣơng 3: VAI TRÒ CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI
NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN
CHƢƠNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
3.1. Tình hình sử dụng các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong một
số tác phẩm văn chƣơng Việt Nam hiện đại
3.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ góp phần thể hiện tính chân thực
và sinh động cho cuộc thoại của các nhân vật
3.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ góp phần khắc họa tính cách nhân
vật
KẾT LUẬN
THƢ MỤC THAM KHẢO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngôn ngữ bằng lời là phƣơng tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con ngƣời
nhƣng không phải là duy nhất. Trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp, đặc biệt là giao
tiếp đƣơng diện (mặt đối mặt), ngƣời ta có thể dùng các phƣơng tiện nhƣ cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt, hành động,…của cơ thể, các tín hiệu màu sắc, âm thanh, các vật
thể để phụ trợ cho lời. Thậm chí các phƣơng tiện phi ngôn ngữ này còn có khả
năng dùng độc lập để giao tiếp. Trong đó phổ biến nhất, đƣợc sử dụng thƣờng
xuyên nhất phải kể đến là các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, hành động…của cơ thể.
Ngƣời ta đã gọi những phƣơng tiện giao tiếp ngoài ngôn ngữ nhƣ trên bằng
nhiều thuật ngữ khác nhau nhƣ ngôn ngữ cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể (body
languague), tín hiệu kèm ngôn ngữ, ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ, các phương tiện á
ngữ học,… Sau đây xin đƣợc gọi chúng là các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
(PTGTPNN) và sẽ luận giải tên gọi này rõ hơn ở phần sau.
Các PTGTPNN đƣợc sử dụng đồng thời với phƣơng tiện ngôn ngữ bằng lời
trong giao tiếp là hiện tƣợng có thật, hơn nữa còn rất phổ biến và có vai trò quan
trọng trong giao tiếp xã hội. Về mức độ phổ biến của PTGTPNN, nhà tâm lý học
ngƣời Anh, Michael Archil đã quan sát và nhận thấy rằng trong một giờ trò
chuyện, một ngƣời Phần Lan chỉ sử dụng điệu bộ có 1 lần, trong khi đó ngƣời Italia
dùng đến 80 lần, ngƣời Pháp 120 lần và ngƣời Mêhicô 180 lần. Về vai trò của
PTGTPNN, Birdwhistell đã phát hiện ra trong một cuộc trò chuyện trực diện thì
yếu tố lời nói chiếm chƣa đến 35% còn trên 65% là giao tiếp không lời. Albert
Maerabian, một nhà nghiên cứu tiên phong về ngôn ngữ cơ thể vào thập niên 50
của thế kỉ 20, đã nghiên cứu và cũng đƣa ra những số liệu đáng lƣu tâm: trao đổi
thông tin diễn ra qua các phƣơng tiện bằng lời (chỉ bằng lời) chiếm có 7%, qua các
phƣơng tiện âm thanh (bao gồm giọng nói, ngữ điệu và các âm thanh khác) chiếm
38%, còn qua các phƣơng tiện không lời thì chiếm tới 55% (Dẫn theo Allan và
Barbara Pease [17])
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
Phương tiên không lời
(55%)
Phương tiện bằng lời (7%)
Phương tiện âm thanh
(38%)
PTGTPNN, do vậy, là vấn đề rất đáng đƣợc quan tâm và đi sâu nghiên cứu.
Sở dĩ PTGTPNN không thể trở thành phƣơng tiện giao tiếp chung của nhân loại
bởi nhiều lý do, trong đó có một lý do quan trọng là bởi chúng chịu sự chi phối của
yếu tố văn hóa. Cùng một cử chỉ, điệu bộ,… nhƣng ở các dân tộc khác nhau nó có
thể đƣợc gán cho những ý nghĩa biểu hiện khác nhau. Nghiên cứu PTGTPNN
trong hoạt động giao tiếp của ngƣời Việt và tìm hiểu những dấu ấn văn hóa Việt
Nam trong các phƣơng tiện giao tiếp đặc biệt này là một công việc đầy hứng thú và
cũng rất hữu ích. Đây là lí do quan trọng khiến chúng tôi lựa chọn đề tài này để đi
sâu tìm hiểu.
Lẽ ra luận văn cần quan sát ghi lại hoặc sao chụp các cuộc giao tiếp tự nhiên
diễn ra trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp khác nhau để làm tƣ liệu nghiên cứu. Tuy
nhiên, công việc đó quả thật vô cùng khó khăn và phức tạp. Hơn nữa, rải rác trong
một vài công trình, các nhà nghiên cứu đã tiến hành công việc này. Là một giáo
viên dạy văn ở trƣờng phổ thông, tác giả đề tài mong muốn gắn những kiến thức
học đƣợc từ ngôn ngữ học với tác phẩm văn chƣơng nên đã tìm hiểu về PTGTPNN
thông qua các cuộc hội thoại của các nhân vật trong tác phẩm đƣợc nhà văn miêu
tả. Bởi một mặt, việc làm này vẫn đáp ứng đƣợc mục đích tìm hiểu PTGTPNN
trong hoạt động giao tiếp và những dấu ấn văn hóa Việt Nam trong các phƣơng
tiện ấy. Mặt khác, cũng bởi ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn chƣơng chính là
sự ánh xạ ngôn ngữ đời thƣờng. Nghiên cứu cử chỉ, điệu bộ…của nhân vật trong
tác phẩm văn chƣơng còn giúp thấy đƣợc vai trò của loại phƣơng tiện giao tiếp đặc
biệt này trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật của các nhà văn.
Biểu đồ 1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Với những lí do trên, chọn đề tài “Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
được sử dụng trong một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại” để
nghiên cứu thiết nghĩ là một công việc cần thiết và nên làm.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhƣ đã nói, PTGTPNN có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống con ngƣời.
Lời nói bắt đầu đƣợc phát triển cách đây khoảng 500.000 đến 2 triệu năm, là
khoảng thời gian mà kích cỡ não bộ con ngƣời tăng gấp ba. Trƣớc đó, PTGTPNN
và những âm phát ra từ cổ họng là các phƣơng tiện chủ yếu để chuyển tải cảm xúc,
tình cảm. Điều đó có nghĩa, PTGTPNN là phƣơng tiện giao tiếp cổ xƣa nhất của
loài ngƣời. Tuy nhiên, sự nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc, mang tính hệ thống, khoa
học về loại phƣơng tiện này cũng mới chỉ đƣợc tiến hành vài chục năm trở lại đây
(kể từ thập niên 50 của thế kỉ 20) trong một số giáo trình và bài báo khoa học, và
đa số công chúng biết đến sự tồn tại của loại phƣơng tiện này chỉ mới từ năm 1978,
thời điểm Allan Pease xuất bản cuốn sách Ngôn ngữ cơ thể.
Có thể điểm qua một số công trình, các bài nghiên cứu của tác giả trong và
ngoài nƣớc về đối tƣợng nghiên cứu này.
2.1. Các công trình, các bài nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nƣớc
2.1.1.Các tác giả trong nƣớc
2.1.1.1. PTGTPNN đã đƣợc thừa nhận bên cạnh phƣơng tiện giao tiếp chính là
ngôn ngữ trong các giáo trình nghiên cứu về ngôn ngữ học.
Các giáo trình phong cách học tiếng Việt và ngữ dụng học chính thức thừa
nhận sự tồn tại của các PTGTPNN (mà các tác giả gọi bằng thuật ngữ khác nhau)
bên cạnh ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
a. Trong các giáo trình phong cách học tiếng Việt, hầu hết các nhà nghiên
cứu đã đề cập đến sự phân biệt giữa nói và viết, cho rằng nói và viết là “hai phong
cách ngôn ngữ”- phong cách nói và phong cách viết (Hồ Lê), hay “hai dạng của lời
nói” - dạng nói và dạng viết (Định Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa), hoặc gọi là
“những hình thức truyền tin” (Cù Đình Tú). Dù gọi nói và viết bằng thuật ngữ nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
thì các nhà phong cách học, về cơ bản, đều thống nhất phân biệt hình thức nói và
viết trƣớc hết là ở phƣơng tiện biểu hiện:
Bảng 1
tiêu chí so sánh dạng nói đạng viết
định hƣớng vào
nhân vật giao tiếp
hƣớng vào sự tri giác và phản
ứng trực tiếp cuả ngƣời nhận
không hƣớng vào sự tri giác
và phản ứng trực tiếp của
ngƣời nhận.
phƣơng tiện
biểu hiện
có thể dùng âm thanh, ngữ điệu
gắn liền với vẻ mặt, cử chỉ,
dáng điệu của ngƣời nói
dùng văn tự, do đó không có
khả năng sử dụng các
PTGTPNN .
Nhƣ vậy, đề cập đến các phƣơng tiện biểu hiện của phong cách nói, các nhà
phong cách học thừa nhận có loại phƣơng tiện là vẻ mặt, cử chỉ, dáng điệu,... –
PTGTPNN. Không chỉ thừa nhận sự tồn tại của PTGTPNN, các nhà phong cách
học còn nhấn mạnh đến ý nghĩa và vai trò quan trọng của loại phƣơng tiện này
trong hoạt động giao tiếp.
Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa: “Muốn nói tốt, không những phải biết
suy nghĩ tốt mà còn phải biết cách sử dụng lời nói với cách phát âm đúng và rõ kết
hợp với ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, dáng điệu để ngƣời nghe có thể hiểu ngay, hiểu
hết ý tứ mình. Còn muốn nghe tốt thì cần phải biết tổng hợp ý nghĩa của lời nói với
sắc thái cảm xúc, bình giá thông qua ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, dáng điệu của
ngƣời nói để có thể hiểu hết ngay, hiểu hết tình ý của ngƣời nói” [7,tr.45].
Hồ Lê: “Ngôn hiệu (điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, ánh mắt…) là yếu tố không thể
thiếu trong phong cách nói”, “Ngôn hiệu có tác dụng phối hợp với lời để diễn đạt ý
nghĩa (...) Nó cũng sẽ góp phần tạo ra phong cách nói của từng ngƣời”, “Nếu lạm
dụng ngôn hiệu sẽ không tránh khỏi sự thái quá, thậm chí sự lố bịch. Song nếu
không biết sử dụng ngôn hiệu để đến nỗi lúc nào cũng chỉ “nói chay” thì sẽ dễ bị
rơi vào tình trạng nói đều đều, kém sinh động và kém hiệu quả”. [8,tr.465]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
b. Trong tài liệu về lí thuyết hội thoại, về hoạt động giao tiếp hay hoạt động
ngôn giao (hoạt động giao tiếp bằng lời) - thuộc lĩnh vực nghiên cứu của ngữ dụng
học, các nhà nghiên cứu cũng bàn đến PTGTPNN và thừa nhận chúng là loại
phƣơng tiện giao tiếp phổ biến, quan trọng trong hoạt động giao tiếp, bên cạnh
ngôn ngữ.
Trong giáo trình “Đại cương về ngôn ngữ học” - Tập 2 - Ngữ dụng học [1],
ở phần chƣơng V - Lí thuyết hội thoại, tác giả Đỗ Hữu Châu bàn về các vận động
hội thoại nhƣ sau:
Trong số các vận động hội thoại có vận động trao lời, vận động trao đáp và
tƣơng tác hội thoại.
Vận động trao lời: Là vận động của ngƣời nói A nói ra và hƣớng lời nói của
mình về phía B. A có những vận động cơ thể (điệu bộ, cử chỉ, nét mặt) hướng tới
người nhận hoặc tự hướng về mình để bổ sung cho lời nói.
Vận động trao đáp: Ngƣời nói B đáp lời ngƣời nói A, B có thể hồi đáp bằng
những yếu tố kèm ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười, …
Cũng trong giáo trình này, Đỗ Hữu Châu đã dẫn ra ý kiến của Arbercrombie
bàn về sự có mặt của cử chỉ (hành vi kèm ngôn ngữ) trong hội thoại và sự cần thiết
phải nghiên cứu chúng: “Chúng ta nói bằng các cơ quan cấu âm nhƣng chúng ta
cũng hội thoại với cả cơ thể chúng ta. Những sự kiện kèm ngôn ngữ xuất hiện với
ngôn ngữ nói, hòa lẫn vào ngôn ngữ và cùng với ngôn ngữ nói hình thành nên một
hệ thống giao tiếp trọn vẹn (...). Nghiên cứu về các hành vi kèm ngôn ngữ là một
bộ phận của sự nghiên cứu về ngôn ngữ cần đƣợc chú ý đầy đủ” [1,tr.223]
Trong giáo trình “Quy luật ngôn ngữ” - Quyển II - Tính quy luật của cơ chế
ngôn giao [8], phần bàn về cơ chế ngôn giao, tác giả Hồ Lê cũng phát biểu rằng:
Những cử chỉ điệu bộ và những phƣơng tiện phi ngôn ngữ nói chung kèm theo lời
đƣợc gọi là ngôn hiệu, là 1 trong 7 thành tố của ngữ huống phát ngôn. Trong quá
trình tƣơng tác hội thoại những ngƣời đối thoại có thể tác động lẫn nhau bằng lời,
bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, bằng thái độ khi nói năng và bằng bối cảnh - điều
kiện, không khí đƣợc tạo ra cho sự đối thoại. Trong số này, nội dung của lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
thƣờng đƣợc coi là phƣơng tiện/công cụ tƣơng tác quan trọng nhất. Nhƣng trong
thực tế không nhất thiết luôn luôn nhƣ thế. Mà có khi, những phƣơng tiện/công cụ
khác lại tỏ ra quan trọng hơn. Thí dụ, cũng là câu nói “Mời anh sang nhà tôi chơi”
nhƣng kết hợp với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt có ý mỉa mai hay không chân thành thì
nội dung câu nói tất bị hiểu khác hẳn [8,tr.112, 113].
Do vậy, Hồ Lê khẳng định: “Văn hóa giao tiếp – mà phép lịch sự trong giao
tiếp là một biểu hiện – đòi hỏi sự nhất quán giữa nội dung của lời và các phƣơng
tiện/công cụ khác đi kèm theo. Nếu không có sự nhất quán đó, thậm chí có sự
ngƣợc chiều nhau, thì nội dung hàm ẩn của lời đƣợc phát ra sẽ khác hay sẽ trái
ngƣợc hẳn với nội dung hiển hiện của lời. Lúc ấy, văn hóa giao tiếp sẽ bị vi phạm”
[ 8,tr.114].
Tiếp tục bàn về nghi thức ngôn giao, Hồ Lê còn nói rõ thêm: “Cử chỉ, điệu
bộ, nét mặt có khả năng biểu hiện trực tiếp nghi thức ngôn giao. Nhìn vào cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt ngƣời ta thấy ngay nghi thức ngôn giao mà những ngƣời giao tiếp
đã sử dụng với nhau ngụ ý điều gì. Coi trọng hay coi thƣờng, lễ độ với nhau hay xấc
xƣợc, yêu mến hay ghét bỏ, thành thật hay mỉa mai, châm biếm” [8,tr 260, 261].
Nhƣ vậy, trong các giáo trình nghiên cứu về ngôn ngữ học đã dẫn,
PTGTPNN chính thức đƣợc thừa nhận và bƣớc đầu đƣợc xem xét về ý nghĩa, vai
trò của chúng. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để tiến hành nghiên cứu về loại
phƣơng tiện giao tiếp này.
2.1.1.2. PTGTPNN đƣợc bàn đến trong các bài báo khoa học và trong các công
trình nghiên cứu về văn hóa giao tiếp.
Sau đây xin đƣợc giới thiệu một cách sơ lƣợc thành tựu nghiên cứu về
PTGTPNN trong một số bài báo khoa học và các công trình nghiên cứu tiêu biểu .
a. Trong bài viết “Thử tìm hiểu về ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ” [5], Phi
Tuyết Hinh đã bàn về ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ, điệu mặt (thuật ngữ đƣợc tác
giả sử dụng) trên các phƣơng diện sau:
- Về vai trò: Tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của một loại
PTGTPNN là điệu bộ, cử chỉ. “Trong giao tiếp không lời, cử chỉ điệu bộ và điệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
mặt có vai trò quan trọng hơn cả. Cử chỉ điệu bộ là những yếu tố tự nhiên trong
hành vi giao tiếp của con ngƣời (...). Thật khó tƣởng tƣợng đƣợc rằng con ngƣời có
thể giao tiếp mà không cử động, không ra hiệu, không thay đổi nét mặt”.
- Về chức năng: Tác giả cũng đã chỉ ra chức năng của ngôn ngữ cử chỉ điệu
bộ trong mối quan hệ với ngôn ngữ âm thanh. Theo tác giả, cử chỉ điệu bộ có hai
chức năng cơ bản:
+ Chức năng thay lời: Nói đến chức năng thay lời của ngôn ngữ cử chỉ
là nói tới khả năng làm công cụ giao tiếp một cách độc lập của cử chỉ điệu bộ trong
hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt (hoàn cảnh giao tiếp mà ngƣời ta không có khả năng
nói hay không đƣợc phép nói) và cả trong hoàn cảnh giao tiếp bình thƣờng (vì
không tiện nói, không muốn nói hay để truyền đạt có hiệu quả hơn điều cần nói).
Ví dụ thay vì nói “Tôi đồng ý”, “Tôi bằng lòng”, ngƣời ta có thể gật đầu.
+ Chức năng kèm lời: Khi cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, điệu mặt đi kèm
với lời nói, nó có tác dụng bổ sung cho lời, tác động qua lại với lời nhằm đạt đƣợc
hiệu quả cao nhất trong giao tiếp. Cụ thể, cử chỉ điệu bộ có thể lặp lại thông tin (ví
dụ vừa nói “Tôi đồng ý” vừa gật đầu), nhấn mạnh thông tin (ví dụ vừa khẳng định
vừa đập tay xuống bàn hay đặt tay lên ngực), dự báo thông tin (khi chƣa tìm đƣợc
cách diễn đạt ý tứ bằng lời, ngƣời ta dùng cử chỉ để mô phỏng), phủ định thông tin
(ví dụ lời nói là “Đi đi!” nhƣng đôi mắt lại tha thiết mời gọi thì cần hiểu là “Xin
hãy ở lại!”), để đạt tới tính một nghĩa trong giao tiếp (khi lời nói đa nghĩa), và để
truyền đạt thông tin đến đối tƣợng khác (nói với ngƣời này nhƣng lại nháy mắt với
ngƣời kia).
Bên cạnh những vai trò trên, ở chức năng kèm lời, tác giả đã phân tích thêm:
Cử chỉ điệu bộ còn có vai trò liên kết hành động giao tiếp (bổ sung hay giải thích
các thời điểm im lặng trong cuộc thoại), duy trì mối quan hệ giữa những ngƣời
tham gia hội thoại, điều chỉnh dòng ngữ lƣu để phân đoạn thông báo (ví dụ vung
tay để tách thông báo thành từng điểm riêng biệt) và gánh tải lƣợng lớn tình thái và
cảm xúc của ngƣời nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
- Về bản chất: Cũng giống nhƣ ngôn ngữ, theo tác giả, cử chỉ điệu bộ mang
bản chất tín hiệu, có hai mặt hình thức và nội dung – ý nghĩa. Mối quan hệ giữa hai
mặt này có thể là 1:1 nhƣng cũng có khi không phải nhƣ vậy. Cử chỉ điệu bộ cũng
có tính đồng nghĩa (nhiều cử chỉ điệu bộ cùng biểu thị một nội dung ý nghĩa) và đa
nghĩa (một cử chỉ điệu bộ có thể biểu thị nhiều ý nghĩa khác nhau).
- Về đặc tính văn hoá: Tác giả cũng chú ý tới đặc tính văn hóa của cử chỉ
điệu bộ và lƣu ý mọi ngƣời hãy chú ý sử dụng cử chỉ điệu bộ sao cho bảo đảm
đƣợc tính văn hóa, và phải phù hợp với văn hóa giao tiếp của từng cộng đồng ngôn
ngữ khác nhau.
b. Đồng quan điểm với Phi Tuyết Hinh, Thục Khánh trong bài viết “Bước
đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ điệu bộ của người Việt trong giao tiếp”
[6] cũng khẳng định vai trò và ý nghĩa quan trọng của loại phƣơng tiện giao tiếp cử
chỉ điệu bộ: “Ngoài ngôn ngữ âm thanh, con ngƣời còn dùng nhiều hệ thống tín
hiệu phi lời hay còn gọi là ngôn ngữ không lời (neverbal’nyj jazyk) (silent
languague) để tiến hành hoạt động giao tiếp của mình. Trong nói năng, đặc biệt là
trong đối thoại, ngôn ngữ và cử chỉ điệu bộ nhƣ hai mặt của một chỉnh thể giao
tiếp”.
Tác giả Thục Khánh cũng đề cập đến hai chức năng cơ bản của cử chỉ điệu
bộ là chức năng thay lời và chức năng trợ lời.
Trong bài viết, Thục Khánh đi sâu phân tích loạt cử chỉ điệu bộ biểu thị hành
vi tán đồng và hành vi không tán đồng của ngƣời Việt rồi khẳng định: Nhiều khi
ngƣời ta không sử dụng riêng rẽ một cử chỉ điệu bộ nào đó mà phối hợp sử dụng
nhiều cử chỉ điệu bộ để biểu thị các cung bậc khác nhau của trạng thái tình cảm.
Đồng thời cũng nhƣ Phi Tuyết Hinh, Thục Khánh cũng đi đến kết luận về tính đa
nghĩa của cử chỉ điệu bộ và cả khả năng đồng nghĩa hay trái nghĩa của chúng.
c. Trong cuốn sách “Nỗi oan thì, là, mà” [3], Nguyễn Đức Dân cũng dành
một phần để nói về “Cử chỉ: Thứ ngôn ngữ không lời”. Tác giả khẳng định cử chỉ
là một công cụ để giao tiếp. Có những cử chỉ là bẩm sinh, vô thức, và có nhiều cử
chỉ là do học hỏi, do đƣợc giáo dục mà hình thành ở ngƣời nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Về ý nghĩa của cử chỉ điệu bộ: Nguyễn Đức Dân cũng nói đến tính đa nghĩa
và đồng nghĩa của chúng. Tác giả khẳng định: “Cùng một cử chỉ có thể biểu hiện
những ý nghĩa khác nhau” [3,tr.224], và “có thể dùng những cử chỉ khác nhau để
biểu hiện cùng một ý nghĩa” [3,tr.225].
Đóng góp đáng chú ý của Nguyễn Đức Dân khi bàn về ngôn ngữ cử chỉ
(thuật ngữ đƣợc tác giả sử dụng) là đã bƣớc đầu chỉ ra những yếu tố ảnh hƣởng đến
cử chỉ với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp, đó là:
- Cử chỉ mang đậm nét đặc thù dân tộc và phụ thuộc từng nền văn hóa. Bên
cạnh những cử chỉ giao tiếp chính và vô thức hầu nhƣ không khác nhau trên toàn
thế giới, mỗi dân tộc còn có những quy ƣớc riêng về hệ thống kí hiệu cử chỉ.
- Cử chỉ phụ thuộc vào vị thế, nghề nghiệp và uy tín xã hội của một ngƣời.
Ngƣời có vị thế cao hay có tri thức rộng, ngôn từ phong phú thì cử chỉ thƣờng
chậm rãi, ít bộc lộ. Ngƣợc lại, một ngƣời ít học, vị thế xã hội thấp thƣờng phải sử
dụng cử chỉ để diễn đạt rõ hơn lời nói của mình. Cử chỉ của họ thƣờng phong phú
hơn. Những nhà ngoại giao, chính trị, luật sƣ,…thƣờng biết sử dụng cử chỉ có hiệu
quả và biết che giấu những cử chỉ không có lợi,…
- Cử chỉ và mức độ rõ ràng của chúng thƣờng cũng phụ thuộc vào tuổi tác và
khí chất cá nhân.
- Khoảng cách trong giao tiếp – một đặc điểm của ngôn ngữ cử chỉ, thuộc
phạm trù “không gian cá nhân” - phụ thuộc vào tuổi tác (ví dụ ngƣời lớn có thể xoa
đầu một em bé vì lãnh địa của em bé còn nhỏ, nhƣng dù là cán bộ cao cấp thì cũng
không thể xoa đầu một cụ già 80 tuổi), phụ thuộc vị thế xã hội (vị thế xã hội càng
cao thì lãnh địa càng lớn), phụ thuộc quan hệ thân sơ giữa những ngƣời đối thoại,
phụ thuộc địa phƣơng và văn hóa của từng dân tộc (khoảng cách trong giao tiếp
của ngƣời châu Á khác với ngƣời châu Âu,…)
d. Năm 2005, tác giả Trần Thị Nga đã tiến hành một đề tài khoa học nghiên
cứu một cách khá hệ thống về một lọai PTGTPNN mà tác giả gọi là ngôn ngữ cử
chỉ, đó là “Nghiên cứu đặc điểm văn hóa ngôn ngữ cử chỉ của người Việt” [9].
Trong công trình này, tác giả đã tìm hiểu ngôn ngữ cử chỉ dƣới lí thuyết của tín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
hiệu học, lí thuyết giao tiếp và ngữ dụng học để thấy đƣợc bản chất tín hiệu của
ngôn ngữ cử chỉ, tính đồng nghĩa, đa nghĩa, đơn nghĩa của cử chỉ; thấy đƣợc ý
nghĩa cử chỉ trong việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ. Đóng góp lớn của đề tài là
đã mô tả và thiết lập đƣợc hệ thống danh sách ngôn ngữ cử chỉ của ngƣời Việt dựa
trên những quan sát trong thực tiễn hoạt động giao tiếp và dựa trên những cứ liệu
trong các tác phẩm văn học, đồng thời so sánh khái quát sự tƣơng đồng và dị biệt
giữa cử chỉ của ngƣời Việt với ngƣời Anh, ngƣời Nga.
Những thành tựu nghiên cứu của những nhà khoa học nƣớc ta về PTGTPNN
rất đáng trân trọng, đã tạo tiền đề lí thuyết cơ bản cho luận văn tiếp tục tìm hiểu về
vấn đề này.
2.1.2. Các tác giả nƣớc ngoài.
Có khá nhiều tác giả nƣớc ngoài quan tâm đến PTGTPNN là cử chỉ điệu bộ,
đã trình bày những ý tƣởng của mình trong các bài báo khoa học hay các công
trình viết về ngôn ngữ cơ thể - ngôn ngữ cử chỉ trong văn hóa giao tiếp.
a. J.Vendryes (1990) cho rằng: “Có thể đƣa ra một định nghĩa chung nhất
cho ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu”, và “nên hiểu kí hiệu là bất kì
phù hiệu nào mà con ngƣời có thể dùng để giao tiếp qua lại với nhau”. Do vậy,
“mọi giác quan đều có thể là cơ sở để tạo ra ngôn ngữ. Có ngôn ngữ khứu giác và
ngôn ngữ xúc giác, ngôn ngữ thính giác và ngôn ngữ thị giác. Chúng ta nói đến
ngôn ngữ khi hai cá thể quy ƣớc gán cho một hành động nào đó một nghĩa nhất
định và thực hiện hành động này nhằm mục đích giao tiếp qua lại với nhau” [20].
Trong số đó, ngôn ngữ thính giác (ngôn ngữ phát âm) là quan trọng nhất, chiếm ƣu
thế hơn về các hình thái biểu đạt. Ngôn ngữ thính giác đôi khi đi kèm hoặc thƣờng
đƣợc thay thế bằng ngôn ngữ thị giác (cử chỉ, điệu bộ, điệu mặt,...)
J.Vendryes khẳng định cử chỉ, điệu bộ cũng là một loại ngôn ngữ nếu hiểu
“ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu”. Và do vậy, mối quan hệ giữa nội dung và ý
nghĩa của cử chỉ điệu bộ là một sự quy ƣớc.
b. F.de.Saussure (1973) cũng viết: “Mọi phƣơng tiện đƣợc chấp nhận trong
một xã hội về nguyên tắc mà nói, đều dựa trên thói quen tập thể, hoặc – chung quy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
cũng vẫn thế – trên sự quy ƣớc. Nghĩa là những dấu hiệu để tỏ lễ độ chẳng hạn,
thƣờng có một tính biểu hiện tự nhiên nhất định (Ta hay nghĩ đến ngƣời Trung
Quốc chào vua bằng cách sụp lạy chín lần sát đất). Song những dấu hiệu ấy thật ra
vẫn do một quy tắc ấn định; chính các quy tắc ấy buộc ta phải dùng nó chứ không
phải cái giá trị nội tại của bản thân nó” [19,tr.123].
c. K.A.Pshenko trong bài “Huấn luyện các phương tiện á ngữ học ở các
khóa tiếng Nga ngắn hạn” đã sử dụng thuật ngữ “phương tiện á ngữ học” để chỉ
loại phƣơng tiện không lời, ngôn ngữ cử chỉ - điệu mặt: “Xuất phát từ quan điểm
ký hiệu học, cần thừa nhận rằng toàn bộ cử chỉ và các phƣơng tiện biểu cảm qua
điệu mặt đƣợc sử dụng trong quá trình giao tiếp chính là các đơn vị kí hiệu quy
ƣớc. Ngôn ngữ tự nhiên liên quan chặt chẽ (và thậm chí đôi khi hòa lẫn với một hệ
thống kí hiệu khác gần gũi với nó – đó là hệ thống các cử chỉ điệu bộ )”.
d. Bài viết “Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ” của Atenla Alenikova cũng bàn đến
vai trò, nguồn gốc của cử chỉ điệu bộ và khẳng định đặc tính dân tộc của loại
phƣơng tiện giao tiếp này.
Bên cạnh những bài viết trên còn có những cuốn sách bàn sâu hơn về ý
nghĩa, cách thức, tính văn hóa của các cử chỉ điệu bộ khi giao tiếp nhƣ:
Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể (2008)- Allan và Barbara Pease.
Cử chỉ - những điều nên làm và nên tránh trong ngôn ngữ chỉ khắp thế giới–
Roger E.Axtell.
Ngôn ngữ cơ thể - Julias Fast.
2.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc và những vấn đề
còn bỏ ngỏ
Tuy mới đƣợc quan tâm nghiên cứu vài chục năm gần đây song những
nghiên cứu về ngôn ngữ cử chỉ cũng rất đáng kể. Có thể tóm tắt nhƣ sau:
- Các tác giả đều thừa nhận có sự tồn tại thƣờng xuyên của loại PTGTPNN
(ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ, ngôn ngữ không lời, ngôn ngữ thị giác,…) bên cạnh
ngôn ngữ trong giao tiếp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
- Bƣớc đầu chỉ ra chức năng cơ bản của PTGTPNN trong hoạt động giao
tiếp cũng nhƣ vai trò thông tin của nó.
- Phân tích đƣợc bản chất tín hiệu của PTGTPNN, những yếu tố ảnh hƣởng,
chi phối việc sử dụng loại phƣơng tiện giao tiếp này trong hoạt động giao tiếp.
- Thiết lập đƣợc hệ thống danh sách ngôn ngữ cử chỉ của ngƣời Việt. Bƣớc
đầu chỉ ra ý nghĩa biểu hiện của chúng trên phƣơng diện tín hiệu học và ngữ dụng
học.
- Phần nào chỉ ra đƣợc sự khác nhau giữa các PTGTPNN dùng trong mỗi
quốc gia, dân tộc, mỗi nền văn hóa.
Một số vấn đề chƣa đƣợc xem xét hoặc xem xét chƣa kĩ nhƣ sau:
- Các tác giả chủ yếu xem xét PTGTPNN là các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt –
mà chƣa quan tâm nhiều đến các yếu tố nhƣ sự thay đổi không gian tƣơng tác giữa
các nhân vật giao tiếp, các hành động nhân vật sử dụng trong quá trình giao tiếp,...
cũng có giá trị thông tin và chức năng trợ lời .
- Các tác giả chƣa đặt những PTGTPNN là cử chỉ, điệu bộ,… vào những
hoàn cảnh giao tiếp cụ thể để chỉ ra những sắc thái biểu cảm và nội dung thông tin
tinh tế của chúng.
- Các tác giả đã chỉ ra vai trò của PTGTPNN song chƣa thực sự đầy đủ và
sâu sắc.
- Chƣa có công trình nào nghiên cứu về PTGTPNN với tƣ cách là một
phƣơng tiện thể hiện những dụng ý nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm văn học
Việt Nam.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các PTGTPNN đƣợc các nhân vật sử
dụng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, đƣợc nhà văn miêu tả trong tác phẩm
văn chƣơng. Các tác phẩm đƣợc chọn khảo sát là một số tiểu thuyết và truyện ngắn
Việt Nam hiện đại mà trong đó các nhà văn thƣờng chú trọng miêu tả PTGTPNN
nhân vật sử dụng trong quá trình giao tiếp. Những tác phẩm này sẽ cho luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
một nguồn tƣ liệu phong phú để tìm hiểu vấn đề. Thêm nữa, luận văn cũng có ý
chọn những tác phẩm gần gũi với nhà trƣờng phổ thông, đƣợc chọn giảng hoặc
đƣợc nhắc đến nhiều trong chƣơng trình Ngữ văn ở trƣờng phổ thông nhằm hƣớng
tới một mục đích của luận văn là để phục vụ cho quá trình giảng dạy. Cụ thể các
tác phẩm đƣợc chọn khảo sát gồm:
Bảng 2
STT tác giả tác phẩm thể loại Năm
sáng tác
1. Vũ Trọng Phụng
Giông tố tiểu thuyết 1936
2. Số đỏ tiểu thuyết 1936
3.
Nam Cao
Chí Phèo tiểu thuyết 1941
4. Lão Hạc truyện ngắn 1943
5. Sống mòn truyện ngắn 1944
6. Đôi mắt truyện ngắn 1948
7. Kim Lân Vợ nhặt truyện ngắn 1954
8. Lê Lựu Thời xa vắng tiểu thuyết 1984
9. Ma Văn Kháng
Mùa lá rụng trong vườn tiểu thuyết 1985
10. Đám cưới không có giấy giá thú tiểu thuyết 1988
11. Nguyễn Minh
Châu Chiếc thuyền ngoài xa truyện ngắn 1987
12. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh tiểu thuyết 1987 (?)
(Xuất xứ tác phẩm: xin xem thƣ mục tham khảo)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên tƣ liệu là các PTGTPNN đƣợc các nhân vật sử dụng và nhà văn
miêu tả lại trong các tác phẩm văn chƣơng, luận văn sẽ xem xét PTGTPNN trên
bình diện tín hiệu học – cái biểu hiện (mặt hình thức vật chất) và cái đƣợc biểu
hiện (ngữ nghĩa) cùng một số bình diện thuộc dụng học nhƣ chủ thể sử dụng, hoàn
cảnh sử dụng, đích giao tiếp… Khác với các nghiên cứu trƣớc đây, PTGTPNN sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
đƣợc đặt vào những tình huống giao tiếp cụ thể đƣợc miêu tả trong tác phẩm văn
chƣơng để phân tích.
Từ việc nghiên cứu PTGTPNN với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp, luận
văn tìm hiểu những dụng ý nghệ thuật cuả nhà văn khi tập trung miêu tả cử chỉ,
điệu bộ, hành động,… của các nhân vật trong quá trình giao tiếp.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ chỉ ra những đặc tính, ý nghĩa của PTGTPNN đƣợc miêu tả
trong các tác phẩm văn học và từ đó phát hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn khi
“gán cho” nhân vật các PTGTPNN ở những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những khía cạnh lí thuyết làm cơ sở lí luận cho đề tài và xác định
đối tƣợng nghiên cứu.
- Chỉ ra các biểu hiện của PTGTPNN đƣợc sử dụng trong các tiểu thuyết và
truyện ngắn Việt Nam hiện đại đã đƣợc chọn là đối tƣợng nghiên cứu.
- Miêu tả, phân tích, đánh giá những biểu hiện của PTGTPNN đã thu thập
đƣợc.
- Chỉ ra những dụng ý nghệ thuật chính của các nhà văn khi miêu tả các
PTGTPNN của nhân vật trong tác phẩm của mình.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phƣơng pháp miêu tả: Việc phân tích và tổng hợp nhằm chỉ ra các đặc
trƣng trong sử dụng PTGTPNN ở tác phẩm văn chƣơng
- Phƣơng pháp thống kê – phân loại: Phân loại PTGTPNN theo tiêu chí nhất
định, thống kê cụ thể các PTGTPNN trong một số trƣờng hợp cần thiết phục vụ
cho mục đích nghiên cứu
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về mặt lí luận:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
Luận văn khẳng định thêm về sự phong phú, đa dạng và hiệu quả sử dụng
của PTGTPNN. Góp phần làm sáng tỏ hơn nữa PTGTPNN của ngƣời Việt về
phƣơng diện lí thuyết cũng nhƣ thực hành.
- Về mặt thực tiễn:
+ Luận văn có thể làm tƣ liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu
về PTGTPNN, giúp mọi ngƣời khi tham gia giao tiếp biết nên sử dụng những cử
chỉ, điệu bộ nào và tránh những cử chỉ điệu bộ không đẹp mắt, không phù hợp với
hoàn cảnh giao tiếp.
+ Luận văn có thể làm cơ sở cho phân tích cử chỉ, hành động,…của
nhân vật trong tác phẩm văn chƣơng.
7. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tƣ liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm
3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong
một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại nhìn từ bình diện Tín hiệu
học.
- Chƣơng 2: Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong
một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại nhìn từ bình diện Ngữ dụng
học.
- Chƣơng 3: Vai trò của các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đƣợc sử
dụng trong tác phẩm văn chƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Chƣơng 1
CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC
SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN TÍN HIỆU HỌC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN
1.1.1. Về khái niệm “phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ”
1.1.1.1. Hiện đã có nhiều công trình, bài viết tìm hiểu về loại phƣơng tiện giao tiếp
là cử chỉ, điệu bộ, song nhìn chung chƣa thấy có một định nghĩa cụ thể, đầy đủ về
loại phƣơng tiện giao tiếp này. Các tác giả mới chỉ nêu ra các tên gọi “cử chỉ điệu
bộ”, “ngôn ngữ cử chỉ”, “ngôn ngữ cơ thể”, “ngôn hiệu”, “hệ thống tín hiệu phi
lời”, “phƣơng tiện á ngữ học”, …và chỉ ra những gì thuộc về loại phƣơng tiện giao
tiếp này (nhƣ điệu bộ, vận động của tay, chân, nét mặt, tƣ thế, khoảng cách,…) chứ
chƣa đƣa ra một sự xác định đủ rõ cho khái niệm này.
Trong cuốn “Đại cương về ngôn ngữ học” [1], ở phần “Ngữ dụng học” Đỗ
Hữu Châu quan niệm “yếu tố kèm lời” và “yếu tố phi lời” là những tín hiệu thƣờng
xuất hiện cùng yếu tố ngôn ngữ trong những cuộc đối thoại và hiểu chúng nhƣ sau:
- Yếu tố kèm lời (paraverbal) là những yếu tố siêu đoạn tính nhƣng đi kèm với
yếu tố đoạn tính, đó là những yếu tố nhƣ ngữ điệu, trọng âm, cƣờng độ, độ dài,
đỉnh giọng.
- Yếu tố phi lời (non verbal) là những yếu tố không phải là những yếu tố kèm
lời đƣợc dùng trong đối thoại mặt đối mặt, đó là những yếu tố cử chỉ, khoảng
không gian tƣơng tác, những tiếp xúc cơ thể, tƣ thế cơ thể, định hƣớng cơ thể, vẻ
mặt, ánh mắt,… Đó còn là những tín hiệu âm thanh nhƣ tiếng gõ, tiếng kéo bàn, xô
ghế, tiếng huýt sáo, tiếng còi,… Những yếu tố trang phục, không gian thoại trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
cũng thuộc những yếu tố phi lời. Tác giả còn gọi đây là những “tín hiệu phi lời” và
nói rõ thêm:
+ Các yếu tố cơ thể - vận động đƣợc tiếp nhận bằng thị giác là những tín
hiệu xuất hiện trong hội thoại nhƣ: sự thay đổi cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, sự thay đổi
khoảng cách (không gian tƣơng tác), tƣ thế của những ngƣời trò chuyện trong quá
trình giao tiếp.
+ Các yếu tố tĩnh nhƣ diện mạo, trang phục…cung cấp thông tin về giới
tính, tuổi tác, dân tộc, thành phần xã hội, tính cách (“trông mặt mà bắt hình dong”)
của ngƣời đối thoại. Những thông tin này bƣớc đầu tạo ra thiện cảm hay gây ác
cảm ở ngƣời đối thoại. Những tín hiệu cung cấp thông tin về thoại trƣờng làm
thành điều kiện tiên khởi cho hội thoại.
Theo Đỗ Hữu Châu, những yếu tố phi lời cũng là một loại tín hiệu có
mặt trong các cuộc đối thoại, dùng làm phƣơng tiện giao tiếp, bên cạnh tín hiệu
ngôn ngữ.
Trong công trình “Nghiên cứu đặc điểm văn hóa ngôn ngữ cử chỉ của người
Việt”, Trần Thị Nga có đƣa ra một định nghĩa về ngôn ngữ cử chỉ nhƣ sau:
“Thuộc về ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ của con ngƣời là tất cả những điệu bộ, cử
chỉ mà con ngƣời đã dùng một cách cố ý hay không cố ý trong khi giao tiếp với
ngƣời khác. Do tính độc lập và hiệu quả mạnh của phƣơng tiện này, nên khác với
các phƣơng tiện đi kèm khác trong giao tiếp, trong nhiều điều kiện cụ thể của giao
tiếp, cử chỉ, điệu bộ có thể dùng độc lập không có ngôn ngữ bằng lời đi kèm nhƣng
vẫn có nội dung tƣơng tự khi phải hiển ngôn hóa bằng lời. Chúng là những phù
hiệu trong hoạt động giao tiếp và luôn gắn liền với ngôn ngữ bằng lời.” [9,tr.19]
Cử chỉ, điệu bộ mang tính văn hóa, tạo thành hệ thống và đƣợc xác lập, đƣợc
quy ƣớc hóa cao.
Theo mục đích nghiên cứu của công trình trên thì có thể xem đây là một định
nghĩa tƣơng đối đầy đủ và phù hợp, bởi dựa vào định nghĩa có thể nhận diện đƣợc
ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ với những đặc điểm phản ánh đƣợc bản chất của loại
phƣơng tiện giao tiếp này nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
- Là tất cả những điệu bộ, cử chỉ đƣợc con ngƣời dùng một cách cố ý hay
không cố ý trong khi giao tiếp với ngƣời khác.
- Cử chỉ, điệu bộ có thể dùng kèm ngôn ngữ hay có thể dùng độc lập, không
có ngôn ngữ bằng lời đi kèm nhƣng vẫn có nội dung tƣơng đƣơng một phát ngôn.
- Có tính phù hiệu (đƣợc quy ƣớc hóa cao).
- Mang tính văn hóa.
- Tạo thành hệ thống.
1.1.1.2. Tham khảo cách định nghĩa khái niệm của ngƣời đi trƣớc, dựa vào cách
hiểu về yếu tố phi lời (tín hiệu phi lời) của Đỗ Hữu Châu, căn cứ vào mục đích
nghiên cứu riêng của đề tài, trong luận văn này xin đƣợc dùng khái niệm “phương
tiện giao tiếp phi ngôn ngữ” với cách hiểu nhƣ sau:
Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ là các tín hiệu cơ thể - vận động có thể
tiếp nhận đƣợc bằng thị giác, thính giác, xúc giác, thƣờng xuất hiện trong quá trình
hội thoại, do con ngƣời cố ý hay không cố ý tạo ra, có tác dụng mang lại cho ngƣời
tiếp nhận một giá trị thông báo thay lời hoặc một giá trị thông báo bổ sung, kèm
lời.
Xin đƣợc làm rõ định nghĩa trên nhƣ sau:
a. Các tín hiệu cơ thể - vận động (xin đƣợc gọi sự thay đổi các cử chỉ, điệu
bộ, tƣ thế, khoảng cách,... nhân vật tạo ra trong quá trình giao tiếp là các tín hiệu
hay các yếu tố cơ thể - vận động nhƣ cách gọi của Đỗ Hữu Châu) đƣợc hiểu là
những vận động do các bộ phận cơ thể con ngƣời tạo ra trong quá trình giao tiếp,
có thể đƣợc tiếp nhận bằng thị giác, thính giác hay xúc giác. Tóm lại, đây là loại
phƣơng tiện xét trong sự đối lập với ngôn ngữ lời nói. Đó có thể là:
+ Những cử chỉ, điệu bộ, hành động, động tác con ngƣời tạo ra trong
quá trình hội thoại nhƣ: nháy mắt, cười, cau mày, nhăn trán, vỗ tay, vung tay,
đánh, đấm, tát,…
+ Những sự thay đổi về khoảng cách, tƣ thế của ngƣời tham gia hội
thoại - những yếu tố thuộc về không gian tƣơng tác nhƣ: đang ngồi bỗng đứng phắt
dậy, đang nằm bỗng bật dậy, tiến lại gần/lùi ra xa người đối thoại,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
b. Các yếu tố cơ thể - vận động ấy có thể do con ngƣời cố ý hoặc không cố
ý tạo ra trong quá trình giao tiếp nhƣng có giá trị bổ sung cho lời.
Nhƣ vậy khái niệm PTGTPNN ở đây được quan niệm rộng, gồm cả những
tín hiệu cơ thể - vận động do con ngƣời chủ động (cố ý) tạo ra để làm phƣơng tiện
giao tiếp, chẳng hạn nhƣ gật đầu (đồng ý), lắc đầu (không đồng ý), bĩu môi (mỉa
mai),... – ý nghĩa của chúng đƣợc nhận ra ngay cả khi không có lời nói đi kèm, và
cả những yếu tố cơ thể - vận động vô ý thức của nhân vật nhƣng mang lại cho
ngƣời tiếp nhận (ngƣời đối thoại) một giá trị thông báo nào đó. Giá trị thông báo ấy
đƣợc ngƣời nghe suy ra từ thói quen, kinh nghiệm giao tiếp và bằng sự am hiểu về
văn hoá giao tiếp của cộng đồng. Cũng đƣợc xem xét là cả những yếu tố cơ thể -
vận động vô ý thức bởi nghiên cứu trên tƣ liệu là các tác phẩm văn chƣơng thì
những cử chỉ, điệu bộ, hành động ấy có thể là vô ý thức với nhân vật - chủ thể của
hành động nhƣng không vô thức với nhà văn, và nhà văn miêu tả chúng trong tác
phẩm thì không phải không có ý đồ nghệ thuật nào.
c. Khái niệm PTGTPNN đƣợc quan niệm có chỗ hẹp hơn khái niệm tín hiệu
phi lời của Đỗ Hữu Châu. Tín hiệu phi lời còn gồm các yếu tố tĩnh nhƣ diện mạo,
trang phục,... của ngƣời đối thoại và cả các tín hiệu vật chất nhƣ màu sắc, âm
thanh,... Những tín hiệu này cũng coi là phƣơng tiện giao tiếp không phải là ngôn
ngữ, song ở đây chƣa có điều kiện tìm hiểu. Thêm nữa, loại phƣơng tiện này trong
các tác phẩm văn chƣơng nhìn chung hiếm gặp.
d. Những yếu tố cơ thể - vận động có thể đƣợc con ngƣời tạo ra một cách cố
ý hoặc không cố ý (cử chỉ vô thức – ngoài ý thức của con ngƣời) theo thói quen.
Việc sử dụng các cử chỉ trong giao tiếp phần lớn là cố ý song ngƣời sử dụng
không cần thiết phải suy nghĩ lựa chọn lâu, cũng không ý thức thật nhiều về nó.
Các cử chỉ nhƣ vậy dần xuất hiện trong quá trình con ngƣời tham gia giao tiếp, sau
trở nên quen thuộc đến mức trở thành phản xạ tự nhiên. Ngƣời sử dụng biết ở
trƣờng hợp này, tình huống giao tiếp này, để diễn tả nội dung ý nghĩa này thì
phải/nên sử dụng cử chỉ này chứ không phải/không nên sử dụng cử chỉ kia. Thao
tác lựa chọn ấy diễn ra rất nhanh chóng, gần nhƣ đồng thời với phản xạ lời nói.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
VD1: “- Khoan, chƣa hết – Lý xua tay, tranh lời Phƣợng – (…)”[29,tr.15]
Cử chỉ xua tay trong ví dụ trên là nhân vật cố ý tạo ra
VD2: “- Có tin tức gì mới không, bác?
Luận cố làm cho ông già ra khỏi mặc cảm. Ông gãi cái cái cổ mƣớt mồ hôi:
- Dạ, chỉ có tin tức về giá cả thôi ạ. (…)” [29,tr.261]
VD3: “- Mời thủ trƣởng uống bia ạ.
Ông thƣờng trực lại vào, đặt một cốc chè tƣơi nữa lên bàn, mời ông Tổng
biên tập, rồi lại gãi gãi đầu đi ra”. [29,tr.262]
Ở ví dụ 2, 3, cử chỉ gãi đầu, gãi cổ của ông thƣờng trực không phải là cố ý,
mà là do thói quen, trong lúc bối rối, thiếu tự tin vì bị bắt gặp làm việc không chính
đáng ngƣời ta thƣờng một cách vô thức, sử dụng cử chỉ này. Nhờ cử chỉ này mà
nhân vật Luận “đọc” đƣợc tâm trạng bối rối, thái độ ngƣợng ngùng của ông khi bị
Luận bắt gặp đánh máy thuê trong giờ làm việc.
Việc phân biệt các cử chỉ, điệu bộ là do cố ý hay không cố ý tạo ra đôi lúc
không phải là dễ dàng. Cần nắm vững hoàn cảnh giao tiếp và thói quen giao tiếp,
tính cách nhân vật giao tiếp mới phân biệt đƣợc những cử chỉ điệu bộ này.
e. Thiết nghĩ, việc phân biệt các yếu tố cơ thể - vận động là cố ý hay không
không thật quan trọng bằng việc xét xem chúng có tạo ra đƣợc một giá trị thông
báo nào đó cho ngƣời tiếp nhận hay không. Khả năng đem lại giá trị thông báo là
đặc tính quan trọng khiến các yếu tố cơ thể - vận động có thể trở thành phương
tiện giao tiếp. Giá trị thông báo của PTGTPNN này có thể là do ngƣời nói cố tình
gửi tới ngƣời nghe, hoặc cũng có thể do ngƣời nói vô tình biểu lộ qua các cử chỉ
điệu bộ của mình. Giá trị thông báo đó có thể là thay lời hoặc bổ sung cho lời.
VD4: “- Thôi thì ác cũng đƣợc! Anh cứ trả lời thế đi!
San bàn nhƣ vậy bằng một giọng đùa. Thứ lắc đầu, cười. Cả hai cùng cho
rằng chẳng khi nào họ hèn đến nỗi dám dùng cái lối vừa bàn” [32,tr.227].
Cử chỉ lắc đầu, cười của nhân vật Thứ có giá trị thay lời. Đó là một lời từ
chối đề nghị của San, đồng thời Thứ cũng hiểu ý đồ đùa cợt của bạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
VD5: “Phƣợng ra sân, nhìn Đông, nhỏ nhẻ mời. Đông gãi cái gáy rậm, ngập
ngừng:
- Ông đi chơi hội bên Bắc Ninh sáng nay (…). Tôi …tôi ăn rồi.
- Anh ăn lúc nào! Thôi, vào ăn với em cho vui đi.
Lại gãi gãi gáy, mặt Đông ngô nghê hẳn đi:
- Phiền quá nhỉ? À, nhƣng mà cô có nấu cơm tôi đâu” [29,tr.162].
Cử chỉ gãi gãi gáy nói trên không phải do nhân vật Đông cố ý tạo ra mà do
thói quen, bản tính của nhân vật (sẽ phân tích sau). Nhờ cử chỉ ấy mà Phƣợng biết
rằng Đông đang nói dối và ngại ngần, nửa muốn ăn, nửa lại ngại làm phiền
Phƣợng.
Chính ý nghĩa quan trọng của các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt cùng khả năng
diễn đạt tinh tế của chúng đã khiến ngƣời ta ngày càng phải quan tâm nghiên cứu
nhiều hơn về loại PTGTPNN này. Đặc biệt, trong nghiệp vụ điều tra, xét hỏi tội
phạm, các nhà chức trách thƣờng chú ý đến những PTGTPNN đƣợc tạo ra một
cách cố ý hay vô thức này để thu nhận đƣợc những thông tin quý báu.
Các PTGTPNN ở các ví dụ trên có thể đối chiếu theo các tiêu chí nhận diện
ở khái niệm nhƣ Bảng 2 dƣới đây:
VD PTGTPNN giác quan
tiêp nhận
cơ sở tạo lập
(cố ý/ko cố
ý)
giá trị thông báo
VD
1 xua tay thị giác cố ý
kèm lời và phụ họa nội
dung ở lời, là dấu hiệu
cắt ngang lời ngƣời đối
thoại
VD
2,3
gãi cổ
gãi đầu thị giác
không cố ý
kèm lời - bối rối, thiếu
tự tin, ngƣợng ngùng
VD
4 lắc đầu, cƣời
thị giác (và
có thể cả
thính giác)
cố ý
thay lời – không tán
đồng
VD
5 gãi gáy thị giác không cố ý
kèm lời
- biểu thị sự bối rối
- ngƣợng ngùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Với quan niệm nhƣ trên về PTGTPNN, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nhận
diện và nghiên cứu về loại phƣơng tiện giao tiếp này trên hai bình diện tín hiệu học
và ngữ dụng học.
1.1.2. Bản chất tín hiệu của phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
● Khái niệm “tín hiệu”
Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” [2], các tác giả Mai Ngọc
Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến đã giới thuyết về tín hiệu:
Tín hiệu là một sự vật (hay một thuộc tính vật chất, một hiện tƣợng) kích
thích vào giác quan của con ngƣời, làm cho ngƣời ta tri giác đƣợc và lí giải, suy
diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật ấy.
Theo đó, một sự vật đƣợc gọi là tín hiệu nếu thỏa mãn các yêu cầu sau:
- Phải có thuộc tính vật chất để có thể cảm nhận đƣợc bằng giác quan của
con ngƣời. Nói cách khác, cái biểu hiện - mặt hình thức của tín hiệu phải là vật
chất và con ngƣời có thể cảm nhận đƣợc nó bằng các giác quan.
- Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra một cái gì đó không phải là chính
nó.
- Phải nằm trong hệ thống để đƣợc xác định tƣ cách tín hiệu của mình cùng
với các tín hiệu khác.
Ví dụ: Đèn đỏ trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông xanh – vàng – đỏ là
một tín hiệu bởi nó thỏa mãn 3 yêu cầu trên: có thuộc tính vật chất, đƣợc con ngƣời
cảm nhận bằng thị giác; đại diện cho “một cái gì đó” không phải là chính nó - ở
đây là thông điệp “dừng lại”, nằm trong hệ thống.
Cái quan trọng nhất của tín hiệu là phải có hai mặt: hình thức vật chất – cái
biểu hiện, và nội dung ý nghĩa – cái đƣợc biểu hiện (cái mà nó gợi ra, đại diện
cho). Giữa hai mặt của tín hiệu có mối quan hệ võ đoán - dựa trên sự qui ƣớc
chung của tập thể ngƣời sử dụng tín hiệu. Nói nhƣ Saussure: “…mọi phương tiện
biểu hiện đƣợc chấp nhận trong một xã hội, về nguyên tắc mà nói, đều dựa trên
thói quen tập thể hoặc – chung quy cũng vẫn thế - trên sự quy ƣớc” [19,tr.123]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
Một sự vật, hiện tƣợng nào đó có thuộc tính vật chất muốn trở thành phƣơng
tiện dùng để giao tiếp chung trong xã hội thì phải đƣợc cộng đồng sử dụng hiểu và
chấp nhận. Nói cách khác, phải là một tín hiệu và phải mang bản chất tín hiệu.
Phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời là ngôn ngữ, nói nhƣ
J.Vendryes: “Chúng ta nói đến ngôn ngữ khi hai cá thể quy ƣớc gán cho một hành
động nào đó một ý nghĩa nhất định và thực hiện hành động này nhằm mục đích
giao tiếp qua lại với nhau”[20]. Căn cứ vào điều này thì cử chỉ, điệu bộ, nét mặt
cũng là một loại ngôn ngữ đặc biệt - ngôn ngữ thị giác (J.Vendryes)
● Bản chất tín hiệu của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Là một công cụ, thƣờng là để hỗ trợ ngôn ngữ bằng lời trong hoạt động giao
tiếp, PTGTPNN mang bản chất tín hiệu, bởi nó đáp ứng đƣợc cả 3 yêu cầu cần có
của một tín hiệu, đó là:
- Mặt hình thức – cái biểu hiện của PTGTPNN – hoàn toàn cảm nhận đƣợc
bằng các giác quan nhƣ thị giác, thính giác, xúc giác. Ví dụ nhƣ lắc đầu (thị giác),
cười (thị giác, thính giác), bắt tay, ôm hôn (thị giác, xúc giác), …
- Đằng sau cái biểu hiện của PTGTPNN là cái đƣợc biểu hiện. Mỗi động tác
cơ thể đƣợc dùng trong giao tiếp có thể diễn tả một nội dung ý nghĩa ngoài nó. Ví
dụ lắc đầu biểu thị ý nghĩa “không tán đồng”, cười có thể biểu thị ý nghĩa “tán
đồng” hoặc diễn tả cảm xúc “vui vẻ”, bắt tay biểu thị sự “thân thiện” khi gặp gỡ…
Xin đƣợc đi sâu phân tích cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện của
PTGTPNN ở các phần sau của luận văn.
- PTGTPNN cũng có tính hệ thống, tuy nó không chặt chẽ và phức tạp nhƣ
các hệ thống ngôn ngữ bằng lời. Mỗi PTGTPNN cũng chỉ xác định ý nghĩa và tƣ
cách tín hiệu của mình khi đứng trong hệ thống. Ví dụ cử chỉ gật đầu chẳng hạn,
chỉ mang tƣ cách là tín hiệu giao tiếp với ý nghĩa “đồng ý”, “tán thành” trong hoạt
động giao tiếp của ngƣời Việt ở một tình huống giao tiếp cụ thể, bên cạnh các tín
hiệu giao tiếp không lời khác nhƣ lắc đầu, cau mày, nghiến răng, cười… Nó có thể
không mang ý nghĩa này trong hệ thống PTGTPNN của cộng đồng nói năng khác
(chẳng hạn với ngƣời Bungari thì gật đầu lại có nghĩa là “không đồng ý”). Nó cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
không mang ý nghĩa nói trên khi đặt bên cạnh các động tác khác của một bài tập
thể dục (cúi gập đầu có thể là một tƣ thế tập của đầu và cổ).
Nguyễn Đức Dân đã viết: “Một cử chỉ đặt bên cạnh hàng loạt cử chỉ khác và
đặt trong những tình huống cụ thể mới có thể lộ rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Một
chiều mùa đông lạnh lẽo, trên ghế chờ ở một bến xe buýt có một ngƣời ngồi hai
chân bắt chéo và đầu hơi cúi xuống: Ngƣời đó bị lạnh. Nhƣng trong một cuộc
thƣơng lƣợng làm ăn buôn bán, một ngƣời cũng tƣ thế nhƣ vậy: Ngƣời này có thái
độ phòng vệ, thận trọng và nói chung là tiêu cực với vấn đề đang thảo luận”
[3,tr.222].
Tác giả Trần Thị Nga [9] thì cho rằng các cử chỉ điệu bộ tạo nên tính hệ
thống theo hai cách khác nhau:
Một mặt, cơ thể con ngƣời là một khối thống nhất, những biểu hiện ở trên
một phần cơ thể bao giờ cũng tìm đƣợc những phản ánh phù hợp và tƣơng ứng ở
những phần còn lại. Sự tƣơng hợp nhƣ vậy tạo nên tính nhất thể của cử chỉ điệu bộ
đƣợc sử dụng nhƣ một đơn vị tín hiệu. (Ví dụ sự tƣơng hợp của cử chỉ cau mày với
nghiến răng và nắm chặt bàn tay; sự tƣơng hợp của các cử chỉ cười - chắp tay –
cúi đầu,… - LTMN)
Mặt khác, nội dung ý nghĩa của các điệu bộ này lại là những phát ngôn,
những ý nhất thể không có khả năng phân nhỏ hơn, gọi là tính nguyên thể của ý
nghĩa điệu bộ cử chỉ (ví dụ không thể tách cử chỉ cau mày - nghiến răng - nắm
chặt bàn tay để xem chúng tƣơng ứng với phần nào của phát ngôn “Câm ngay, đồ
khốn!”, hay cũng không thể chia nhỏ các cử chỉ cười - chắp tay - cúi đầu để xem
mỗi cử chỉ tƣơng ứng với phần nào của phát ngôn“Con chào cụ ạ!”).
Các yếu tố cơ thể - vận động đƣợc dùng trong giao tiếp rõ ràng là có mối
quan hệ với nhau, thiết lập nên hệ thống tạo thành hệ thống PTGTPNN, gắn bó mật
thiết và hỗ trợ tích cực cho hệ thống phƣơng tiện giao tiếp là ngôn ngữ bằng lời.
Do mục đích nghiên cứu, luận văn không đi sâu vào tìm hiểu tính hệ thống của
PTGTPNN mà tập trung vào mặt cái biểu hiện (hình thức của tín hiệu) và cái được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
biểu hiện (nội dung của tín hiệu) của các phƣơng tiện giao tiếp này trong một số
tác phẩm văn chƣơng Việt Nam hiện đại.
1.2. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG
DIỆN CÁI BIỂU HIỆN (TỨC MẶT HÌNH THỨC CỦA TÍN HIỆU)
Có thể phân loại PTGTPNN dựa vào các tiêu chí khác nhau nhƣ dựa vào
chức năng biểu hiện, dựa vào các bộ phận cơ thể tạo ra PTGTPNN, dựa vào tính
chất đơn lẻ hay tính chất phối hợp của các yếu tố thuộc về PTGTPNN,… Ở đây,
xét PTGTPNN với tƣ cách tín hiệu, có thể phân loại các tín hiệu này theo khả năng
tiếp nhận của các giác quan đối với cái biểu hiện.
Cần lƣu ý rằng sự tiếp nhận đƣợc xét ở đây là sự tiếp nhận từ phía ngƣời
nghe, chứ không phải từ phía chủ thể phát ngôn. Các PTGTPNN thu thập đƣợc
trong các tác phẩm văn chƣơng rất phong phú, có thể là một yếu tố cơ thể - vận
động, cũng có thể phối hợp nhiều yếu tố cơ thể - vận động; có khi cùng một cái
đƣợc biểu hiện chẳng hạn nhƣng nhà văn lại dùng nhiều cách miêu tả khác nhau
(ví dụ: bĩu môi, giẩu mỏ, chúm môi, thưỡn cái môi dưới,…). Ở phần này chỉ xin
liệt kê các PTGTPNN mà nhân vật có sử dụng trong hội thoại, không kể đến tính
chất phối hợp của các yếu tố cơ thể vận động, nhằm giúp ngƣời đọc hình dung ra
phần nào sự phong phú của PTGTPNN đƣợc sử dụng trong hoạt động giao tiếp của
ngƣời Việt. Có nhiều yếu tố cơ thể - vận động gần giống nhau thì luận văn chỉ dẫn
một ví dụ đại diện, hoặc giới thiệu chung trong một mục. Sự sắp xếp theo phạm trù
bộ phận cơ thể tạo ra PTGTPNN nhƣ sau đây là để tiện theo dõi (ví dụ PTGTPNN
dùng mắt, dùng tay, dùng nét mặt,…)
Kết quả khảo sát cho thấy: cái biểu hiện của PTGTPNN có thể đƣợc tiếp
nhận bằng nhiều giác quan, tập trung là thị giác, thính giác, xúc giác (sự tiếp xúc
cơ thể). Các yếu tố cơ thể - vận động không tạo ra mùi vị, do đó không có sự tiếp
nhận bằng khứu giác, vị giác. Thêm nữa trong giao tiếp đƣơng diện (mặt đối mặt)
luôn luôn có sự quan sát bằng mắt (trừ khi cuộc hội thoại diễn ra trong bóng đêm,
lúc này cần sử dụng nhiều PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng thính giác, xúc giác),
do vậy thị giác luôn tham gia tiếp nhận PTGTPNN. Cũng vì vậy mà PTGTPNN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
đƣợc tiếp nhận bằng giác quan này nhiều hơn cả. Các yếu tố đƣợc tiếp nhận bằng
thính giác, xúc giác phần lớn đồng thời đƣợc cảm nhận bằng cả giác quan này (bởi
không mấy ai lại nhắm mắt khi hội thoại, cũng vì vậy mà PTGTPNN mới trở nên
có ý nghĩa quan trọng trong giao tiếp đƣơng diện). Trong số các tín hiệu khảo sát
đƣợc, không có PTGTPNN nào đƣợc tiếp nhận đơn thuần bằng thính giác. Chỉ có
một cuộc hội thoại diễn ra trong đêm giữa nhân vật Thứ và San trong tác phẩm
“Sống mòn” có sử dụng cử chỉ véo tai, hích tay đƣợc tạm xếp vào loại đƣợc tiếp
nhận bằng xúc giác, mặc dù hai cử chỉ này nếu sử dụng trong điều kiện ánh sáng
thì hoàn toàn có thể trở thành tín hiệu hỗn đồng (tín hiệu đƣợc cảm nhận đồng thời
bằng nhiều giác quan, ở đây là thị giác và xúc giác).
Sau đây là bảng liệt kê các PTGTPNN khảo sát đƣợc.
a. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng thị giác
Bảng 4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
b. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng xúc giác
Bảng 5: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng xúc giác
c. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng tổng hợp
nhiều giác quan
Đỗ Hữu Châu gọi loại tín hiệu này là tín hiệu hỗn đồng
STT PTGTPNN Mô tả của nhà văn
[tp,
trang]
1. Hích tay
(Đêm, nghe tiếng cái Hà gọi thằng Mô), San hích
khuỷu tay vào cạnh sƣờn y một cái và khẽ hỏi: -
Anh có nghe thấy gì không?
Y lại hích San để tỏ rằng mình có biết.
32,
Tr.93
2. Véo tai (Đang đêm, nghe tiếng cái Hà gọi thằng Mô bên
ngoài), San véo vào tai Thứ một cái thật đau
32,
Tr.93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
Bảng 6: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng tổng hợp nhiều
giác quan
Giác
quan
tiếp
nhận
STT PTGTPNN
Ví dụ mô tả của nhà văn
[tp,
trang]
thị
giác
+ xúc
giác
1 siết tay
Hiền cƣời to, siết chặt tay bà: “Mẹ ơi, bộ
đội chúng con mà rèn thì có dữ nhƣ hùm
nhƣ gấu cũng phải lành nhƣ thỏ, mẹ lo
gì.”
27,
tr.162
2 bắt tay
- Cảm ơn cô nhé! - Cần bắt tay cô gái,
(...)
29,
tr.289
3
nắm tay ngƣời đối
thoại
Chị Hoài nắm tay Phƣợng, xót xa: - (...) 29,
tr.114
4
đặt tay lên vai, nắm
lấy vai ngƣời đối
thoại
Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn
bảo: - Chẳng kiếp gì sung sƣớng thật (...)
31,
tr.91
5
phát, véo,… ngƣời
đối thoại
- Khỉ gió! - Thị phát đánh đét vào lƣng
hắn, khoặm mặt lại
26,
tr.108
6
giơ tay gõ vào trán
ngƣời đối thoại
Thị giơ tay củng vào trán hắn: - Chỉ
đƣợc cái thế là nhanh. Dơ!
26,
tr.114
7
bịt miệng ngƣời đối
thoại
Y bịt lấy miệng Liên: - Ai bắt mình thề?
Tôi có trách gì mình mà mình phải thề
bồi?
32,
tr.276
8
vỗ vai, vỗ lưng, lay
vai,… ngƣời đối
thoại
Sau cùng, Hải Vân vỗ hai vai con, nói
gọn: - Thôi, ở lại và sống cho can đảm!
33,
tr.502
9
Vuốt tóc ngƣời đối
thoại
Kiên! – Nàng thì thào, sát vào anh, nhè
nhẹ vuốt tóc anh. - Tội nghiệp anh!
25,
tr.175
10 xoa vai
Xoa vai vợ nhè nhẹ, Luận hơi cúi xuống:
- (...)
29,
tr.175
11 tát
(...) Một cái tát nhƣ trời giáng đã dập tắt
cái thói giả dối của anh ta.
27,
tr.234
12 ôm hôn
Cụ cố Hồng bèn bá cổ ông con để
hôn, rồi đáp:
- Cảm ơn vô cùng! Hân hạnh tạm biệt!
Toa ăn ở đến thế với Moa thì quý hóa
34,tr.
489,490
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
lắm".
thị
giác
+
thính
giác
13 vỗ đùi
Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi
kêu: - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là
cùng! (...)
26,tr.73
14
gõ bút, gõ ngón tay
lên mặt bàn, lên
tƣờng,…
Viên thẩm phán dỗ dỗ đầu bút xuống
mặt giấy nhƣ gõ nhịp: - Chị đã nghe rõ ý
kiến của anh Sài chƣa?
27,tr.33
5
15
đập bàn (đập chiếu,
đấm tay vào cửa,…)
Quan lớn Lại đập bàn: - Im đi! (...) 28,
tr.114
16
cười thành tiếng với
các điệu thái khác
nhau
Y ran rả, cười sằng sặc
Nhƣng San lại cười xoà, bảo: - Ai để cho
bà béo biết mà anh sợ
San bỗng lại phì cười, y bảo: - Chúng
mình khổ thật (...)
Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm
cả ngƣời tôi, hỏi: - Anh sống ở nhà quê
nhiều, anh có hiểu tâm lí của họ không?
(...)
32,tr.84
32,tr.82
32,tr.71
26,
Tr.66
17 thở dài
Y thở dài và bảo: - Thế nào rồi tôi cũng
phải đi Sài Gòn chuyến nữa (...)
32,Tr.7
9
18 chép miệng
Y chép miệng: - Giá chúng mình chƣa
có vợ con gì cả!... 32,tr.79
19 tặc lưỡi (tắc lưỡi)
Thứ nghĩ ngợi một lát rồi tặc lưỡi: - Kể
thì cũng hơi phiền (...)
32,
tr.111
20 giậm chân
Xuân Tóc Đỏ giậm chân xuống đất,
chán đời: - (...)
34,Tr.3
70
1.3. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG
DIỆN CÁI ĐƢỢC BIỂU HIỆN (TỨC MẶT NỘI DUNG CỦA TÍN HIỆU)
Mặt hình thức của PTGTPNN là do hoạt động của các bộ phận trên cơ thể
ngƣời tạo ra. Chúng có thể đƣợc thống kê và phân loại. Những biểu hiện của
PTGTPNN là hữu hạn song những “cái biểu hiện” của nó lại vô cùng lớn và vô
cùng tinh tế. Có thể dễ dàng “đọc hiểu” đƣợc ngôn ngữ lời nói song không dễ nắm
bắt và “đọc hiểu” đƣợc PTGTPNN. “Cử chỉ và ngôn ngữ cơ thể truyền đạt hiệu
quả không thua gì ngôn từ - thậm chí có thể còn hiệu quả hơn” - Axtell [23,tr.16].
Trong các tác phẩm văn chƣơng, việc “nắm bắt” các phƣơng tiện ấy (nhiều khi
chúng đƣợc nhân vật giao tiếp sử dụng thoáng qua rất nhanh, có sự phối hợp rất
phức tạp) đã đƣợc nhà văn quan sát và miêu tả khá sinh động. Ở đây, cần đặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
32
PTGTPNN vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể trong tác phẩm để tìm hiểu ý nghĩa
của chúng.
Là phƣơng tiện giao tiếp chung của cả cộng đồng, giống nhƣ ngôn ngữ bằng
lời, PTGTPNN có số lƣợng hữu hạn nhƣng lại phải đáp ứng nhu cầu biểu hiện lớn.
Do vậy, ở loại phƣơng tiện giao tiếp này thƣờng xảy ra hiện tƣợng đồng nghĩa
(nhiều PTGTPNN có chung ý nghĩa biểu hiện), đa nghĩa (một PTGTPNN có thể
biểu hiện nhiều ý nghĩa khác nhau), bên cạnh số lƣợng không nhiều các PTGTPNN
đơn nghĩa (tỉ lệ cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện là 1:1). Trong khi tìm hiểu cái
đƣợc biểu hiện của tín hiệu này, các tín hiệu còn đƣợc phân loại theo mối quan hệ
giữa mặt hình thức và nội dung của tín hiệu.
1.3.1. Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đồng nghĩa về cái đƣợc biểu
hiện
a. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là
“chào”
“Lời chào (…) là một tín hiệu ngôn ngữ. Phát ra tín hiệu ấy là muốn thiết lập
hay duy trì quan hệ với ngƣời mình chào, với một đối tƣợng giao tiếp.
Trong hoàn cảnh nhất định, chỉ lời chào là đủ. Trong hoàn cảnh khác, lời
chào còn kèm theo cái bắt tay, và có thể cả nụ cƣời” - Hoàng Tuệ [14].
Khi phân tích đặc trƣng cơ bản trong giao tiếp của ngƣời Việt Nam. Trần
Ngọc Thêm đã chỉ ra: “Ngƣời Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và
rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng,
chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến ngƣời Việt Nam đặc biệt coi trọng
việc giao tiếp và rất thích giao tiếp” [12]. Trong giao tiếp xã hội, ngƣời Việt Nam
rất coi trọng nghi lễ chào (“Lời chào cao hơn mâm cỗ”). Nghi thức chào có thể
diễn ra mọi lúc, mọi nơi với những cử chỉ và lời nói rất phong phú. Trong những
tác phẩm văn chƣơng đƣợc khảo sát, tƣ liệu cho thấy có những PTGTPNN biểu thị
ý nghĩa “chào” sau đây:
- Cúi (chào) (cúi đầu (chào))
VD6: “Long cúi chào rồi quay ra…” [33,tr.239]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
- Chắp tay vái (chào)
VD7: “Nghị Hách, mặc lòng mặc bộ áo trào vào ngày dạ tiệc, cũng chắp tay
vái dài, lƣng cúi thật khom mà rằng: - Bẩm lạy cụ lớn ạ.” [33,tr.206]
- Nghiêng đầu
VD8: “Thiếu niên tiến đến chỗ tám ngƣời, nghiêng đầu chào cả
lũ…”[33,tr.190]
- Nghiêng mình
VD9: “- Chào các em. Các em ngồi xuống!
Tự hơi nghiêng mình, đáp lại cái cúi chào của bốn mƣơi ngƣời học trò”
[28,tr.14]
- Đứng lên
VD10: “Đến đây thì bà phó Đoan vừa lúc bƣớc vào. Xuân Tóc Đỏ vùng đứng
lên” [34,tr.303].
- Gật đầu (chào )
VD11: “- Lạy bà ạ
Bà Văn Minh gật đầu đáp lại Xuân” [34,tr.296]
- Giơ tay (chào)
VD12“Tay kia sách cái cặp da trâu, tay này giơ cao chào mọi ngƣời, Cẩm
nhƣ phởn chí, oang oang từ cửa: - Chào tất cả các đồng chí” [28,tr.57]
- Khoanh tay( chào)
VD13: “Thiếu niên kia khi đến gần Xuân, liền vòng tay vái chào nhƣ những
nhà thâm nho.” [34,tr.446]
- Hất hàm
VD 14: “Nó nhăn nhở, hất hàm: - A! Ngƣời chị em! (…)” [32,tr.99]
- Bắt tay
VD15: “…bà Typn (…) trông trƣớc nhìn sau, thấy rõ ràng là phố vắng ngƣời
rồi, mới dám bạo dạn đƣa tay nhƣ một tân nữ lƣu tập sự mà bắt tay Xuân Tóc Đỏ”
[34,tr.413].
- Cười
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
VD16: “Tú Anh tươi cười đến bên cạnh giƣờng mà rằng:
-Thƣa dì, tôi xin kính chào dì.” [33,tr.368]
Nhận xét
Có khá nhiều PTGTPNN có thể sử dụng với ý nghĩa “chào”. Hầu hết các
phƣơng tiện đều dùng kèm với lời chào nhƣng cũng có phƣơng tiện có thể dùng
độc lập thay lời. Ví dụ các PTGTPNN nhƣ: đứng lên, cúi đầu, nghiêng mình,
khoanh tay (vòng tay vái)… trong các tình huống giao tiếp dẫn ra ở trên có thể
dùng độc lập thay lời. Ngƣời chào không cần phải nói thêm lời nào thì ngƣời tiếp
nhận vẫn hiểu là mình đang đƣợc chào. Các PTGTPNN nhƣ bắt tay, hất hàm
thƣờng dùng kèm với lời nói để biểu thị ý nghĩa “chào”. Trong văn hoá giao tiếp
của ngƣời Việt, nụ cười cũng đƣợc dùng làm PTGTPNN phổ biến để biểu thị ý
nghĩa “chào”, có thể kèm lời hoặc không cần kèm lời. Các cử chỉ thuộc về
PTGTPNN biểu hiện ý nghĩa “chào” của ngƣời Việt hầu hết đều có thể dùng khi
mới gặp mặt và cả khi tạm biệt.
Các PTGTPNN dùng để chào cũng thay đổi theo thời gian, do sự tiếp xúc văn
hóa. Các cử chỉ nhƣ chắp tay, khoanh tay, cúi đầu đƣợc sử dụng phổ biến trong xã
hội Việt Nam xƣa, tỏ thái độ cung kính của ngƣời dƣới (vị thế thấp) với ngƣời trên.
Cử chỉ gật đầu thƣờng đƣợc ngƣời có địa vị xã hội cao hơn sử dụng để chào ngƣời
dƣới. Ngày nay, đƣợc dùng phổ biến trong giao tiếp xã hội lại là “lời chào với cái
bắt tay và nụ cƣời”, do sự giao lƣu tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây. Cử chỉ bắt
tay đƣợc ƣa dùng ở các nƣớc phƣơng Tây, với nhiều kiểu khác nhau. Kiểu chào hỏi
này có lẽ xâm nhập vào Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Khi tác phẩm “Số đỏ” của
Vũ Trọng Phụng ra đời, cử chỉ này còn xa lạ với bộ phận lớn ngƣời Việt Nam, chủ
yếu mới đƣợc sử dụng trong tầng lớp thƣợng lƣu thành thị, và cũng chủ yếu dùng
trong tình huống chào hỏi giữa nam với nam. Việc nữ chủ động bắt tay nam còn
quá xa lạ với văn hóa ngƣời Việt, vì vậy bà Typn trƣớc khi bắt tay Xuân Tóc Đỏ
phải “trông trƣớc nhìn sau”, thấy không có ngƣời mới dám bạo dạn đƣa tay ra.
Ngày nay, trong rất nhiều cuộc giao tiếp, nghi thức bắt tay giữa nam với nam, nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
với nữ, nữ với nữ, ngƣời dƣới với ngƣời trên (thƣờng thƣờng ngƣời trên chủ động
đƣa tay ra trƣớc), …trở nên rất phổ biến và hữu dụng.
Có một nghi thức chào nữa cũng rất phổ biến ở phƣơng Tây là ôm hôn,
nhƣng ở Việt Nam (và các nƣớc châu Á nói chung) do quan niệm riêng về không
gian cá nhân, nghi thức này có đƣợc xâm nhập song không trở nên phổ biến.
Các PTGTPNN dùng để chào dẫn ra ở trên tuy có cùng ý nghĩa biểu hiện là
“chào” song sắc thái biểu cảm của mỗi cử chỉ rất tinh tế, sử dụng tùy thuộc hoàn
cảnh giao tiếp (không gian, văn hóa…), vai giao tiếp,…
b. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “tán
đồng, tán thưởng”
Từ điển Tiếng Việt [10] định nghĩa:
“Tán đồng”: tán thành ý kiến và ủng hộ [10,tr.874]
“Tán thƣởng”: tỏ thái độ đồng tình và khen ngợi [10,tr.874]
Sự tán đồng, tán thƣởng là sự chấp thuận, đồng ý và ủng hộ, khen ngợi một ý
kiến, một đề xuất nào đó. Tán đồng, tán thƣởng dẫn đến những cảm xúc tích cực,
do vậy chỉ biểu hiện bằng lời thôi chƣa đủ, hầu hết các ý nghĩa này còn đƣợc biểu
hiện bằng các PTGTPNN đi kèm. Tƣ liệu thống kê cho thấy có những PTGTPNN
sau đây có cùng nội dung biểu hiện là sự tán đồng, tán thƣởng:
- Vỗ đùi
VD17: “Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa nghe. Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại
vỗ đùi kêu: - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sƣ anh Tào Tháo!”
[26,tr.73].
- Gật gù
VD18: “- Đẹp đấy! Đẹp đấy các con ạ (…) – Ông Bằng thì thào gật gù”
[29,tr.21].
- Gật đầu lia lịa (động tác nhƣ gật gù nhƣng cử động mạnh hơn)
VD19: “Xuân gật đầu lia lịa:
- Vâng ạ! Vâng ạ! Thế thì cổ lắm, chƣa đƣợc âu hóa mấy!” [34,tr.309].
- Gật đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
VD20: “Văn Minh gật đầu: - Phải đấy!” [34,tr.324].
- Vỗ tay
VD21: “Xuân Tóc Đỏ vỗ tay đôm đốp (…)
- Đúng ghê! Đúng ghê! (…)” [34,tr.263].
- Cười
VD22: “- Hay! Hay! Bravo!
- Bis! Bis! Một lần nữa
(…) Ngƣời ta vỗ tay hoặc cười lăn lộn” [tr.510].
Nhận xét
Khi gặp một ý kiến hay, một tƣ tƣởng đúng, một điều mình tâm đắc, ngƣời ta
thƣờng có cảm xúc vui mừng, phấn khởi và hay tỏ sự tán đồng, tán thƣởng của
mình. Có nhiều PTGTPNN là các yếu tố cơ thể vận động cơ thể dùng để phụ trợ
với lời biểu thị ý nghĩa “tán đồng, tán thƣởng”. Phân tích các ngữ liệu trên có thể
thấy, các lời nói bày tỏ sự tán đồng, tán thƣởng thƣờng đƣợc lặp lại (“Tài thật! Tài
thật!”, “Vâng ạ! Vâng ạ!”, “Đúng ghê! Đúng ghê!”, “Hay! Hay!”, … ), và tần số
lặp lại động tác biểu hiện ý nghĩa này cũng thƣờng lớn hơn một. Ví nhƣ gật đầu lia
lịa (gật đầu nhiều lần, tốc độ lặp lại động tác nhanh), gật gù (gật nhẹ và nhiều lần,
biểu thị thái độ đồng tình, tán thƣởng), vỗ tay (đập hai lòng bàn tay vào nhau cho
phát thành tiếng, thƣờng liên tiếp, để tỏ ý hoan nghênh, tán thành). Khi niềm vui
càng lớn, đến càng bất ngờ, mức độ tán đồng, tán thƣởng càng cao thì thành phần
lặp lại của lời nói, tần số lặp lại và cƣờng độ của động tác đi kèm càng lớn.
Động tác vỗ đùi biểu thị sự tán thƣởng khi bất ngờ bắt gặp điều mình tâm đắc,
mong muốn. Song cử chỉ này chỉ dùng đƣợc ở những hoàn cảnh giao tiếp phi nghi
thức, mang tính thân mật, suồng sã. Tình huống giao tiếp ở ví dụ 17 dẫn ra ở trên là
giao tiếp giữa nhân vật Hoàng với Độ và ngƣời vợ của anh trong một cuộc trò
chuyện thân mật tại gia đình
PTGTPNN gật đầu, trong văn hóa nhiều nƣớc, đều đƣợc dùng để tỏ ý “phải”
hoặc “đồng ý”. Phƣơng tiện này có thể dùng độc lập để biểu thị ý nghĩa này, cũng
có thể dùng kèm với lời nói có nội dung ý nghĩa tƣơng tự. (Tác giả Phi Tuyết Hinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
37
gọi đây là chức năng lặp lại thông tin của PTGTPNN). Ở ví dụ 20, lời nói kèm theo
của bà Văn Minh là “Phải đấy!”
Động tác gật gù không chỉ biểu hiện sự tán đồng, tán thƣởng, nó còn biểu
hiện rằng ngƣời nghe đang ngẫm nghĩ, tâm đắc và “nhâm nhi” điều mình vừa đƣợc
nghe thấy, do đó nó cũng khích lệ ngƣời nói tiếp tục trình bày vấn đề. PTGTPNN
đƣợc ông Bằng sử dụng trong ví dụ 18 không chỉ có ý nghĩa tán thƣởng việc làm
của Lí, mà đối với nhân vật Lí, nó còn có ý nghĩa động viên, khích lệ.
Động tác vỗ tay tán thƣởng đƣợc dùng phổ biến trong hầu hết các hoàn cảnh
giao tiếp, nghi thức và phi nghi thức. Tần số và cƣờng độ vỗ tay cũng phản ánh
mức độ hài lòng, tán thƣởng. Vỗ tay nhiệt liệt với cƣờng độ lớn (tạo ra âm thanh
tiếng vỗ tay to, giòn giã) biểu thị mức độ tán thƣởng cao; ngƣợc lại, tiếng vỗ tay
yếu ớt, rời rạc biểu thị sự tán đồng một cách gƣợng gạo. Tiếng vỗ tay đôm đốp của
Xuân Tóc Đỏ là vỗ tay nhiệt liệt, biểu thị mức độ tán đồng rất cao.
Nụ cười cũng là một PTGTPNN biểu thị ý nghĩa tán đồng, tán thƣởng, có thể
dùng độc lập thay lời hoặc kèm lời để phụ trợ cho lời. Nụ cƣời của đám đông trong
ví dụ 22 chính là biểu thị ý nghĩa này.
c. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “không
tán đồng, từ chối”
Không tán đồng là không đồng ý, không tán thành đối với ý kiến nào đó, từ
đó mà dẫn đến sự bác bỏ, phủ định ý kiến. Sự không tán đồng, không hƣởng ứng
có thể dẫn tới những cảm xúc tiêu cực nhƣ buồn rầu, chán nản, ngao ngán. Các
PTGTPNN biểu hiện ý nghĩa này có thể thay lời hoặc kèm lời, và cũng không sinh
động bằng các phƣơng tiện biểu hiện sự tán đồng.
- Lắc dầu
VD23: “- Thôi thì ác cũng đƣợc! Anh cứ trả lời thế đi!
San bàn nhƣ vậy bằng một giọng đùa. Thứ lắc đầu, cƣời. Cả hai cũng cho
rằng chẳng khi nào họ hèn đến nỗi dám dùng cái lối vừa bàn” [32,tr.227]
- Xua tay
VD24: “Nhà mỹ thuật xua tay: - Biết rồi! Biết rồi…Câm đi!” [34,tr.312]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
- Nguẩy đầu
VD25: “Xuân lƣỡng lự rồi nguẩy đầu:
- Tôi chả thế. Thế là giết ngƣời! Tôi không muốn làm kẻ sát nhân! (…)”
[34,tr.412]
- Khoanh tay
VD26: “Chừng nhƣ sợ mình chỉ nói thế chƣa đủ là văn minh tân tiến, Tuyết
lại bảo:
- Tôi cho phép ông khám mà xem!
Tinh quái, Xuân Tóc Đỏ còn khoanh tay sau lƣng. ” [34,tr.350]
(Cử chỉ khoanh tay sau lƣng của Xuân Tóc Đỏ biểu hiện ý nghĩa từ chối)
- Giơ tay ngăn
VD27: “Long đứng dậy: - Thƣa ông hay là tôi về?
Ông giám đốc Đại Việt học hiệu giơ tay ngăn:
- Không, ông cứ nằm xuống (…)” [33,tr.344]
Trong số các PTGTPNN có nội dung biểu thị sự từ chối, không tán đồng, phổ
biến nhất là cử chỉ lắc đầu. Các nhà sinh vật học khi nghiên cứu về quá trình tiến
hóa đã chỉ ra rằng đó là một động tác mang tính bẩm sinh. Lí do là khi một đứa trẻ
sơ sinh bú no sữa, nó lắc đầu từ bên này sang bên kia để từ chối vú mẹ, hay để
tránh bị đút cho ăn. Từ đó, ở rất nhiều cộng đồng ngôn ngữ, lắc đầu đƣợc quy ƣớc
là biểu thị ý nghĩa từ chối, không hƣởng ứng, không tán thành. Cử chỉ này có thể
dùng trong nhiều cảnh huống giao tiếp khác nhau, kèm lời hoặc không kèm lời.
Khi lắc đầu đi kèm nụ cƣời, mức độ phản đối cũng bớt gay gắt hơn. Ở ví dụ 23, cái
lắc đầu của nhân vật Thứ biểu thị ý nghĩa từ chối, không hƣởng ứng đề nghị của
San. Nụ cười kèm theo cái lắc đầu của Thứ giúp San hiểu rằng Thứ từ chối nhƣng
cũng hiểu đƣợc ý kiến của San chỉ là sự đùa cợt.
Động tác xua tay, giơ tay ngăn ngoài nét nghĩa không tán đồng còn thêm nét
nghĩa đề nghị ngƣời nói không nên tiếp tục lời nói hay hành động đang tiến hành.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Động tác khoanh tay sau lƣng của Xuân Tóc Đỏ ở ví dụ 26 có ý nghĩa từ chối
đề nghị của Tuyết. Bàn tay là công cụ để thực hiện việc “khám”, do đó khoanh tay
lại, giấu ra sau lƣng là biểu thị ý nghĩa từ chối trong tình huống giao tiếp này.
d. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “Đừng
nói nữa”, “Hãy im lặng”
Ngƣời nói có thể sử dụng PTGTPNN khi có ý muốn bảo ngƣời đối thoại
“Hãy im lặng” hoặc “Đừng nói, hãy nghe tôi nói tiếp (hay “Tôi đã hiểu”)”.
Những phƣơng tiện giao tiếp này hay đƣợc sử dụng trong giao tiếp thông thƣờng
của ngƣời Việt nhƣng ít thấy đƣợc nhắc đến trong các sách nƣớc ngoài bàn về
ngôn ngữ cơ thể. Đó là các phƣơng tiện nhƣ sau:
- Đặt dọc ngón tay trỏ lên môi
VD28: “…nếu cha anh là ngƣời cùng thời, là anh, thì em sẽ yêu cha anh, chứ
không phải là yêu anh. – Kiên rùng mình. Nhƣng Phƣơng không để anh nói, cô đặt
dọc ngón tay trỏ lên môi anh, tiếp: - Anh ít giống cha và ngày càng ít giống (…)”
[25,tr.163].
VD29: “- Này, quái nhỉ! Trông bà có vẻ vợ Tây lắm!
Xuân để tay lên mồm làm một cái suỵt rồi khẽ đáp: - Chính đấy” [34,tr.284].
Giữa mặt hình thức (cái biểu hiện - đặt dọc ngón trỏ lên môi) và mặt nội dung
(cái đƣợc biểu hiện – “đừng nói”) ở tín hiệu giao tiếp này có mối dây liên hệ tự
nhiên. Môi (miệng) đƣợc nhìn nhận là cơ quan để nói (cách hiểu đơn giản), đặt dọc
một ngón tay lên môi sẽ dễ dàng đƣợc hiểu là “đừng nói”.
- Bịt miệng người đối thoại
VD30: “…Y bịt lấy miệng Liên:
- Ai bắt mình thề? Tôi có trách gì mình mà mình phải thề bồi?” [32,tr.276]
Cử chỉ này gần giống đặt dọc ngón trỏ lên môi, có tác dụng ngay lập tức yêu
cầu “đừng nói” đƣợc thực hiện song nó có liên quan đến vấn đề xâm phạm vào
lãnh thổ và không gian cá nhân nên không thể áp dụng cho mọi trƣờng hợp khi
giao tiếp. Tình huống trên đây là cuộc giao tiếp giữa hai vợ chồng (Liên và Thứ)
nên họ có thể dễ dàng xâm phạm vào không gian cá nhân của nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
- Giơ một ngón tay lên mũi
Cử chỉ này có biển đổi một chút về hình thức so với cử chỉ đặt ngón tay lên
môi song có cùng ý nghĩa biểu hiện. Tính chất nghiêm túc, cấp thiết của yêu cầu
“im lặng” dƣờng nhƣ có phần tăng hơn so với cử chỉ trên.
VD31: “Đang nói chuyện thì bỗng một thằng đứng phắt lên, trợn mắt, giơ một
ngón tay lên ngang mũi: - Im lặng! Im lặng!” [32,tr.296]
VD32: “Ông già nghiêm mặt giơ ngón tay trỏ trước mũi Long mà rằng:
- Ngay từ bây giờ không đƣợc nói gì cả! Không đƣợc hỏi gì cả!” [33,tr.384]
- Yêu cầu im lặng bằng một hành động đe dọa
VD33: “Ông Bằng đập cạch cái thước vào cạnh bàn, điệu bộ, giọng nói y hệt
ông giáo ngày xƣa: - Trật tự nào! Không đƣợc xƣng ông. (…)” [29,tr.211]
Đây là hành động quen thuộc của các thầy cô giáo ngày xƣa, để yêu cầu học
sinh giữ trật tự. Có thể khái quát đây là tín hiệu dùng âm thanh để thực hiện hành
vi yêu cầu, ra lệnh. Thay cho đập thước xuống bàn ngƣời ta có thể đập tay xuống
bàn hay dùng bất kì vật dụng nào gõ vào đâu đó để phát ra âm thanh.
Ngoài dùng PTGTPNN tạo âm thanh để yêu cầu “im lặng”, tuỳ tình huống
giao tiếp, ngƣời ta còn có thể dùng các PTGTPNN khác có tính chất đe doạ để thực
hiện yêu cầu này, chẳng hạn nhƣ tình huống sau:
VD34: “Mỗi ngƣời vào một lời, thành thử nhà nhƣ là có cuộc loạn đả (…)
ông chánh hội phải vớ lấy một cái gậy mà rằng:
- Thôi cả đấy nhé! Cấm không ai đƣợc nói nửa nhời đấy, kẻo không có mà
thằng này phang cả cho một lƣợt chứ chẳng từ ai đâu!” [33,tr.186]
e. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “Tôi
đang suy nghĩ”
Trong quá trình diễn ra hoạt động giao tiếp, có nhiều khi nhân vật giao tiếp bị
đặt vào một tình huống phải suy nghĩ kĩ rồi mới nói, hoặc vừa nói chậm rãi vừa
tiếp tục suy nghĩ, phân vân về vấn đề trình bày. Những lúc nhƣ thế, qua các
PTGTPNN, một cách vô tình hay cố ý, ngƣời ta thƣờng biểu lộ rằng mình đang suy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
nghĩ. Trên thực tế tƣ liệu khảo sát, các PTGTPNN biểu hiện ý nghĩa này thƣờng
liên quan đến phần đầu và nét mặt.
- Đặt tay lên trán
VD 35: “Nghị Hách để tay lên trán, làm ra vẻ nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp:
- Bẩm vâng” [33,tr.228]
Cử chỉ đặt tay lên trán của nghị Hách cho ngƣời đang đối thoại nhận biết là
ông ta đang suy nghĩ rất thận trọng trƣớc khi quyết định. Nhân vật có thể cố tình sử
dụng PTGTPNN này để ngƣời nghe nhận thấy điều đó, cũng có thể là sử dụng do
thói quen.
Ngoài cử chỉ này, để biểu thị ý nghĩa “Tôi đang suy nghĩ (đang cân nhắc vấn
đề)” còn có:
- Vỗ trán
VD36: “Nhà thẩm mĩ đã ấp úng, phải vỗ tay vào trán mấy cái, rồi mới nói:
Nghĩa là…nghĩa là cái thích, cái sở thích, cái…cái quan niệm về mĩ thuật.”
[34,tr.305]
- Nhíu mày, cau mày
VD37: “Lần này thì chính ông Bằng bị anh con trai hấp dẫn vì sự uyên bác
của anh ta. Ông nhíu mày, đăm đăm:
- Đúng, đúng. Ba nhớ…danh từ familia, theo tiếng La Mã, thoạt đầu là chỉ
đoàn ngƣời nô lệ thuộc quyền sở hữu của một ngƣời nào đó.” [29,tr.62]
VD38: “Đến đây, Nghị Hách cau mày nghĩ ngợi, vỗ trán mấy cái rồi nói:
- À phải! Đấy là tại thằng tài Nhì vào tiệm hút kháo chuyện đấy!” [33,tr.277]
Trong lúc mải mê suy nghĩ, ngƣời nói có thể không kiểm soát đƣợc những
PTGTPNN mình đã sử dụng song ngƣời nghe vẫn nhận biết đƣợc các phƣơng tiện
ấy và “đọc” đƣợc ở đó một ý nghĩa, do vậy các PTGTPNN dù đƣợc sử dụng một
cách vô thức vẫn đƣợc xem là các phƣơng tiện giao tiếp.
g. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “Tôi
đang nói dối”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
Trong “Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể”, Allan và Barbara Pease
viết : “Những dấu hiệu khó bị phát hiện nhất khi nói dối là những dấu hiệu đƣợc
ngƣời nói kiểm soát nhiều nhất, chẳng hạn nhƣ lời nói, bởi vì ngƣời ta có thế tập đi
tập lại chúng nhiều lần. Ngƣợc lại, các manh mối đáng tin cậy nhất chứng tỏ ngƣời
khác đang nói dối chính là điệu bộ mà họ thực hiện một cách vô thức, ít đƣợc kiểm
soát hoặc không thể kiểm soát đƣợc do chúng là những điều quan trọng nhất, đối
với họ, xét về phƣơng diện cảm xúc” [17,tr.178]. Tác giả cũng thống kê vài điệu bộ
nói dối thƣờng gặp nhƣ che miệng, sờ mũi, giụi mắt, gãi cổ, kéo cổ áo, đút ngón
tay vào miệng,..
Quá trình khảo sát tƣ liệu cho thấy có vài cử chỉ của ngƣời Việt biểu hiện
“Tôi đang nói dối” (nội dung này có thể do ngƣời nghe tình cờ nhận ra, hoặc do
ngƣời nói cố tình cho ngƣời nghe nhận biết) nhƣ sau:
- Gãi gáy (gãi cổ)
VD39: “- Anh Đông, em mời anh với ông vào xơi cơm.
Phƣợng ra sân, nhìn Đông, nhỏ nhẻ mời. Đông gãi cái gáy rậm, ngập ngừng:
- Ông đi chơi hội bên Bắc Ninh sáng nay. (…) Tôi…tôi ăn rồi
- Anh ăn lúc nào! Thôi, vào ăn với em cho vui đi” [29,tr.162]
Cử chỉ gãi gáy của Đông khiến Phƣợng nhận biết đƣợc là Đông đang nói dối
rằng mình ăn cơm rồi. Phƣợng hiểu là Đông không muốn làm phiền Phƣợng.
- Tủm tỉm cười
Ở tình huống giao tiếp sau, điệu bộ tủm tỉm cười lại giúp ngƣời nghe nhận
biết đƣợc rằng ngƣời nói đang che giấu sự thật.
VD40: “Thấy Liên dọn cơm cho Thứ, bà mẹ chực đứng lên, lảng vào buồng.
Thứ hỏi:
- Nhà chƣa ăn kia ạ?
- Chƣa, lát nữa mới ăn.
Bà mẹ y vừa nói vừa tủm tỉm cười. Mấy đứa em y ngồi gần đấy cũng tủm tỉm
cười. Y chợt đoán ra:
- Ở nhà không ăn?” [32,tr.120]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
- Lảng tránh cái nhìn của người đối thoại
“Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Nhìn vào đôi mắt, ngƣời ta có thể “thấy” đƣợc
thế giới tâm hồn của con ngƣời. Cũng vì thế, trong khi đối thoại, để tạo sự tin cậy
và thân thiện, ngƣời ta thƣờng nhìn vào mắt nhau. Những ngƣời “nói dối chuyên
nghiệp” luôn cố gắng nhìn thẳng vào ngƣời đối thoại khi đang nói dối để tránh sự
nghi ngờ. Nhƣng với ngƣời không quen nói dối, hay bất ngờ bị đặt vào tình thế
buộc phải nói dối, họ thƣờng có phản ứng che giấu “thế giới tâm hồn” của mình
bằng cách ngay lập tức lảng tránh cái nhìn của ngƣời đối thoại. Và cử chỉ này đã
“tố cáo” họ.
VD 41: “Thứ làm nhƣ sực nhớ:
- À thế nào? Việc gì mà cần kíp thế?
Sau một thoáng ngập ngừng, San bảo:
- Chẳng có việc gì. Ở nhà không muốn gửi măng đa, viết thƣ bảo tôi về để
lấy. Với lại có lẽ họ cũng muốn tra mình về con Dung nữa (…)
Trong khi nói San tránh cái nhìn của Thứ. Thứ ngờ ngay câu chuyện San vừa
nói là câu chuyện bịa.” [32,tr.86]
- Nháy mắt với người thứ ba
VD42: “(…) Vạn tóc mai nháy Long một cái mà rằng:
- Đây là ông Long làm chứng nhé: vừa rồi ông có thấy tôi đả động gì đến ông
cụ nhà tôi không? Họ chỉ nói láo!” [33,tr.86]
Nhân vật Tú Anh trách Vạn về việc đã đem chuyện của bố mình là nghị Hách
ra nói ở tiệm hút. Việc đó là có thật, Long đã đƣợc chứng kiến. Nhƣng Vạn đã nói
dối Tú Anh và nháy mắt cho Long để Long hiểu mình đang nói dối, hãy bao che
cho lời nói dối của Vạn. Điệu bộ nháy mắt có thể biểu thị nhiều ý nghĩa, nhƣng
trong tình huống giao tiếp này Long có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của nó là Vạn
đang nói dối Tú Anh.
h. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là các
trạng thái tình cảm, cảm xúc của con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
Trong giao tiếp, con ngƣời không chỉ có nhu cầu trao đổi thông tin mà còn
trao đổi tình cảm, cảm xúc. Các trạng thái tình cảm, cảm xúc của con ngƣời có thể
đƣợc thể hiện bằng lời, hoặc bằng các phƣơng tiện phi lời. Quan sát PTGTPNN mà
nhân vật sử dụng trong hoạt động giao tiếp sẽ giúp “đọc” đƣợc rất nhiều những
“thông tin” thú vị, cần thiết về thế giới tình cảm của con ngƣời.
Các PTGTPNN có nội dung biểu hiện là các trạng thái tình cảm, cảm xúc của
con ngƣời rất phong phú. Chẳng hạn nhƣ:
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự chán nản, đau
khổ
- Cười (theo giọng điệu có chủ ý)
Tiếng cƣời đƣợc sử dụng phổ biến trong giao tiếp của ngƣời Việt. Tìm hiểu
các đặc trƣng cơ bản trong giao tiếp của ngƣời Việt, Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra
cách thức giao tiếp của ngƣời Việt Nam là ƣa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận.
Đây là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tƣ duy coi trọng các mối quan hệ.
Lối sống và lối tƣ duy này dẫn đến thói quen cân nhắc kỹ càng khi nói năng. Thói
quen này lại dẫn đến một nhƣợc điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh khỏi quyết
đoán đồng thời giữ đƣợc sự hòa thuận, ngƣời Việt Nam rất hay cƣời. Có thể gặp nụ
cƣời Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất.
Tiếng cƣời trong giao tiếp của ngƣời Việt thể hiện nhiều nét nghĩa tình thái
khác nhau. Cƣời không chỉ để thể hiện sự tán đồng, sự vui vẻ, không chỉ để tạo
không khí thân thiện cho cuộc thoại, cƣời trong rất nhiều trƣờng hợp, lại để bộc lộ
sự chán nản, sự chua chát, đau khổ, ngao ngán,…- nói chung là những sắc thái biểu
cảm tiêu cực.
Tiếng cười gằn của Thứ sau đây biểu lộ sự mỉa mai, chua chát và đau khổ:
VD43: “- (…) Tại sao chú không dạy ở trƣờng khác mà lại dạy ở trƣờng
chúng tôi?
Thứ đã cười gằn:
- Tại sao? Tại thế này: chƣa có trƣờng nào thuê tôi.” [32,tr.166]
Tiếng cười ăng ắc của San trong tình huống dƣới đây biểu lộ sự đau đớn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
VD44: “- (…) Đích nằm trên đi văng với Oanh, cứ làm nhƣ trời rét, xo ro
ngƣời nằm sát lại với Oanh, mồm thì rên “hu…hu…hu…u…u…”. Mình, vợ con
hẳn hoi, bỏ ở nhà trên đấy, xa vợ luôn mấy tháng rồi. Họ làm thế thì có chết mình
không? (…)
Giọng y nửa đứng đắn, nửa đùa. Nói xong, y cười ăng ắc. Tiếng cƣời thái quá
ấy, nghe còn đau đớn hơn tiếng khóc.” [32,tr.174]
VD45: “Y (San) cười cái cƣời của một ngƣời điên, bảo bằng một cái giọng hả
hê giả dối:
- Tôi bằng lòng lắm! Phen này sẽ biết nhau… Sống thì sống hẳn mà chết thì
chết hẳn” [32,tr.288].
Tiếng cƣời trong tình huống này lại biểu lộ sự đau khổ xen lẫn chua chát, cay
đắng và chán nản.
- Thở dài
Điệu bộ thở dài thƣờng đƣợc tạo ra do thói quen hoặc do nhân vật giao tiếp
cố tình tạo ra để biểu lộ sự ngao ngán, sự chán nản.
VD46: “Nghị Hách thở dài ngán ngẩm” [33,tr.415]
VD47: “Nghĩ thế, Xuân bèn thở dài:
- Rõ thật đa nhân duyên, nhiều phiền, lắm não!” [34,tr.415]
- Giậm chân
Động tác giậm chân của nghị Hách trong tình huống sau biểu lộ sự đau đớn
trong lòng:
VD48: “Nghị Hách cử thỉnh thoảng lại giậm chân, kêu lên một cách hèn hạ lạ
lùng:
- Giời ơi! Giời ơi là giời ơi…” [33,tr.409]
- Ôm ngực
VD49: “Sau khi đứng lặng ngƣời ra để nhận mặt ngƣời đàn bà đã rõ, nghị
Hách ấp úng, nghẹn ngào, hậm hực nuốt nƣớc bọt mãi mới nói đƣợc:
- Bác ơi…! Vợ tôi! Giời ơi! Bà nghị Hách bị bắt cóc thế kia!
Rồi lão ôm ngực nhƣ bị đạn giữa quả tim.” [33,tr.472]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
- Lắc đầu
VD50: “- Chƣa đủ tiền nhà. Chết cha! -
Oanh lắc đầu, chán nản, kêu lên vậy.” [32,tr.294]
VD51: “Chị Hoàng (…) chép miệng, lắc đầu:
- Giá mà bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cƣời đến chết (…)” [26,tr.68]
- Giơ tay lên trời
Cử chỉ này thƣờng đi kèm với những lời than (những câu cảm thán), biểu lộ
sự chán nản, thất vọng.
VD52: “Nhà mỹ thuật giơ tay lên trời mà than dài:
- Ôi! Phong hóa suy đồi!” [34,tr.311]
VD53: “Nhà viết báo giơ hai tay lên không khí, ra vẻ sốt ruột:
- Giời ơi! Thì chỉ có thế mà mãi không hiểu?” [34,tr.313]
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự tức giận
Tức giận là những trạng thái bực mình, khó chịu, giận dữ, phẫn nộ (“căm giận
đến mức có những biểu hiện mạnh mẽ, không kìm giữ đƣợc” [10,tr.764]). Những
PTGTPNN biểu thị sự tức giận khá phong phú, từ những điệu bộ của nét mặt đến
những vận động của tay, chân, kết hợp vận động của cơ thể, cả sự thay đổi tƣ thế
đột ngột, và sự xâm phạm không gian cá nhân của ngƣời đối thoại. Sau đây là một
số PTGTPNN biểu hiện sự tức giận tìm thấy trong các tác phẩm đƣợc khảo sát:
- Đập bàn
Hành động này phát ra âm thanh mạnh, vừa giải tỏa sự tức giận của ngƣời
nói, vừa có giá trị trấn áp đối phƣơng.
VD52: “Mặt co rút trong một nỗi đau sinh tử, Đông đập bàn gào lên thống
thiết và uất hận: - Khốn nạn! Tôi ghê tởm. (…)” [29,tr.312]
VD53: “Quan huyện xung thiên chỉ nộ, đập bàn mà rằng:
- Con Mịch kia! Trƣớc pháp luật việc mày nhƣ thế là một việc làm đĩ không
môn bài, vậy mày có muốn làm nhà thổ suốt đời không?” [33,tr.273]
- Ném (dằn,vứt) vật gì xuống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
Thay cho động tác đập bàn, khi tức giận, ngƣời ta cũng có thể biểu lộ cho
ngƣời đối thoại biết sự tức giận của mình bằng động tác ném, dằn mạnh hay vứt
thứ đang cầm sẵn trên tay xuống. Ví dụ:
VD54: “Mới chỉ lƣớt qua hàng đầu danh sách lƣơng, bà đã dằn quyển sổ
xuống bàn:
- Cô làm ăn thế này là thế nào? (…) Tại sao cô lại trừ nợ một trăm đồng của
ông giám đốc?” [29,tr.237]
VD55: “…Đông ném tạch quyển sổ nhỏ đang cầm ở tay xuống sàn nhà, nói
nhƣ quát: - Thƣ nó nói: nó không thể chung sống đƣợc với tôi. Nhƣng cậu xem
những tờ cuối ở quyển sổ này sẽ rõ hết. Khốn nạn đến thế là cùng. (…)” [29,tr.318]
- Thay đổi tư thế đột ngột, xâm phạm không gian cá nhân của người đối
thoại
Khi bất ngờ ở vào trạng thái giận dữ, ngƣời ta có thể đột ngột thay đổi tƣ thế,
thậm chí xâm phạm vào không gian cá nhân của ngƣời đối thoại.
Sau đây là vài ví dụ về những cử chỉ, hành động thuộc PTGTPNN biểu hiện
sự tức giận liên quan đến sự thay đổi tƣ thế, xâm phạm không gian cá nhân:
VD56: “Đập thình thình cái bàn, giậm chân bình bịch, rồi bà trƣởng phòng
hùng hùng hổ hổ đi đi lại lại và cuối cùng rít dài một hồi giận dữ:
- Đừng tƣởng tôi không biết! Vải thƣa che mắt thánh, hả! Đừng có xỏ lá bao
que! Đừng có cậy tài, cậy giỏi. Đại học mà đã là cái gì! Ôi giời! Có giỏi, đấu trực
diện với tôi đây này! Tôi thách đấy! Thách đấy!” [29,tr.141]
VD57: “Xuân vẫn đi đi lại lại, giận dữ nói:
- Tôi mà đã nổi giận thì có ngƣời chết! Tôi xấu thì cũng chả ai đẹp!”
[34,tr.28]
Hành động thay đổi tƣ thế - đi đi lại lại – của bà trƣởng phòng và nhân vật
Xuân Tóc Đỏ trong hai ví dụ trên cũng đƣợc xem là PTGTPNN, hiểu theo nghĩa
rộng (có mang lại cho ngƣời nghe một nội dung thông tin). Nhân vật trong lúc bực
tức cực điểm đã không thể ngồi hay đứng yên một chỗ mà đi đi lại lại để tỏ cho
ngƣời đối thoại biết rõ sự bực tức của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
Ở ví dụ tiếp theo, nhân vật bà mẹ trong lúc tức giận đã đột ngột thay đổi tƣ
thế, đứng lên, tiến lại gần kết hợp với động tác xỉa xói (giơ ngón tay xỉa liên tiếp
vào mặt ngƣời khác) vào mặt con để biểu lộ sự tức giận của mình cùng những lời
chửi rủa.
VD58: “Bà mẹ đứng lên, tiến đến xỉa xói vào mặt ông con:
- Là vì ông Xuân đã ngủ với em mày rồi, mày biết chƣa, thằng khốn nạn!”
[34,tr.34]
VD59: “- Mày bỏ tao ra! – Lý giãy giụa. – Nó nhổ bọt ai? Tao phải sòng
phẳng với nó (…) Nó cậy nó là thằng nhà báo, hả? Chúng mày không sống nổi với
tao đâu! Ôi giời ơi, sao thân tôi khổ thế này, hả giời!
Lý lăn đùng ra đất, mắt sặc tiết, chân đạp, tay đấm, rồi ôm mặt khóc hức hức
một cách rất oan uổng, xót xa” [29,tr.257].
Sự thay đổi tƣ thế đột ngột của Lý (lăn đùng ra đất) kết hợp các động tác
chân đạp, tay đấm,... là để biểu lộ sự đau đớn, tức giận.
Cũng xem những hành động nhƣ đánh, đấm, tát,... là PTGTPNN, liên quan
đến vấn đề xâm phạm vào không gian cá nhân. Cụ thể là xâm phạm thân thể ngƣời
đối thoại. Trong thực tế cuộc sống, có nhiều khi ngƣời ta không thể “giải quyết”
vấn đề bằng lời nói mà phải “giải quyết” vấn đề bằng PTGTPNN, hoặc dùng
phƣơng tiện này kèm lời nói.
VD60: “Ông đồ tát con gái đánh bốp một cái, Mịch loạng choạng ngã ngồi
xuống đất. Ông đồ xỉa xói: - Đồ đĩ dại! Đồ nhà thổ! Đồ chó!” [33,tr.293]
Xin nói thêm về khái niệm “không gian cá nhân” (“không gian riêng”).
Không gian cá nhân đƣợc hiểu là lãnh thổ, khu vực hay không gian xung quanh
một ngƣời mà ngƣời đó tự cho là của mình, nhƣ thể đó là phần nới thêm từ cơ thể
họ. Khi đề cập đến những yếu tố phi lời – một loại tín hiệu đƣợc sử dụng trong
giao tiếp mặt đối mặt – tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đề cập đến yếu tố không gian
tƣơng tác cá nhân và xem đây cũng là một loại tín hiệu dùng trong giao tiếp. Theo
Allan Bacbara & Pease [17], ngƣời ta chia ra 4 vùng khoảng cách tính từ cơ thể
ngƣời:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
- Vùng thân mật: từ 15cm – 46cm. Đây là vùng ngƣời ta canh giữ nhƣ thể nó
là tài sản riêng của họ. Chỉ những ngƣời gần gũi nhƣ ngƣời yêu, cha mẹ, vợ chồng,
con cái, bạn thân…mới đƣợc phép bƣớc vào. Vùng cách cơ thể dƣới 15cm gọi là
vùng “tối thân mật”.
- Vùng riêng tƣ: Từ 46cm – 1.22m, là khoảng cách giữa ta và ngƣời trong các
bữa tiệc, các cuộc họp,…
- Vùng xã giao: Từ 1.22m – 3.6m, là khoảng cách tiếp xúc giữa ta với ngƣời
lạ và những ngƣời mới quen khi có nhu cầu giao tiếp.
- Vùng công cộng: Trên 3.6m, là khoảng cách mà ta chọn đứng khi phát biểu
trƣớc đông ngƣời.
Quan niệm về vùng không gian cá nhân cũng tùy thuộc nền văn hóa mỗi
nƣớc. Thƣờng thì một ngƣời khác có thể bƣớc vào vùng thân mật của chúng ta với
một trong hai lí do: để bày tỏ những cử chỉ âu yếm thân mật hay để sắp tấn công
thân thể chúng ta. Một ngƣời đang cơn tức giận mà xâm phạm vùng thân mật của
ngƣời khác thì thƣờng là để tấn công, đe dọa.
- Cau mày
Điệu bộ cau mày, trong nhiều tình huống, cũng biểu lộ thái độ tức giận,
không bằng lòng trƣớc một điều gì:
VD61: “Nghe đến đây, Văn Minh cau mày, giận hết sức.” [34,tr.390]
- Giậm chân
Động tác giậm chân cũng biểu lộ thái độ tức giận nhƣng diễn tả sự tức giận ở
mức độ cao hơn.
VD62: “...không đáp lời, bà Đoan chỉ bƣng mặt khóc, khiến Xuân Tóc Đỏ
phải giậm chân quát thét:
- Gớm! Vừa vừa chứ! Mợ làm nũng thế thì không ai chịu đƣợc nữa. (…)”
[34,tr.472]
Cũng biểu hiện ý nghĩa này còn có các PTGTPNN nhƣ:
- Đập tay vào ngực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
VD63: “Ông chánh hội, mặt lầm lầm, nhìn mọi ngƣời ngồi ở chiếc chiếu gần
đấy rồi đứng dậy, đập vào ngực thình thịch một cách đáng sợ, lại nói:
- Thằng này đã đem công tâm ra để giữ thể diện cho làng, thằng này đã mất
ăn mất ngủ vì nay quan đòi, mai quan hỏi, mà lại còn không biết cho, thế thì có
thằng nào muốn bắt bẻ, muốn chê bai (…) thì nói ngay đi! (…) Nói ngay ở đây,
ông xem cái gan của nó có to không nào!” [33,tr.257]
- Trợn mắt, so vai, chỉ tay vào mặt
VD64: “Nhà mỹ thuật trợn mắt, so vai, trỏ mặt Xuân:
- Lạm quyền! Lạm quyền! Đây là công việc của tay-ơ, là của tôi! Là của một
mình tôi! Một mình tôi mà thôi! (…)” [34,tr.305]
Cách mở căng mắt ra hết cỡ, ít hoặc hoàn toàn không chớp mắt, phần lòng
đen chuyển dịch lên phía trên trong ổ mắt (gọi là “trợn mắt”, “trợn mắt lên”…)
biểu lộ trạng thái rất tức giận, hay rất khó chịu, ngạc nhiên, nghi ngờ, sợ hãi. Liên
quan tới điệu bộ này còn có “trợn ngược mắt lên”, “trợn trừng mắt”, “quắc mắt”,
“mắt long lên”,… biểu lộ sự tức giận, bất bình hay đe dọa. Điệu bộ chỉ tay vào mặt
mà ông Typn sử dụng trong cảnh huống trên vừa biểu lộ sự tức giận vừa hàm ý đe
dọa. Theo các tài liệu nghiên cứu đã có thì điệu bộ lòng bàn tay nắm chặt và ngón
tay chỉ ra là một nắm đấm với ngón trỏ đƣợc dùng giống nhƣ hình tƣợng chiếc dùi
cui mà ngƣời nói dùng nó để ép ngƣời nghe phải quy phục.
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự khó chịu
Khó chịu: “Có cảm giác hoặc làm cho có cảm giác không thoải mái vì cơ thể
hoặc tinh thần phải chịu đựng một điều gì đó không hay, không hợp, không thích”
[10,tr.500]. Khi đối thoại, vì lí do nào đó (vì ngƣời nghe, vì một câu nói, một tin
tức không tốt lành, không hợp,…) mà ngƣời tham gia giao tiếp khó chịu thì thái độ
đó sẽ đƣợc biểu hiện. Thái độ này thƣờng đƣợc biểu lộ bằng các PTGTPNN (mà
ngƣời đối thoại đôi khi phải tinh ý mới nhận ra) nhiều hơn là bằng lời. Chẳng hạn
các PTGTPNN sau đây:
- Cau mày, cau mặt, nhăn mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
Bằng điệu bộ cau mày, nhăn mặt, cau mặt mà các nhân vật trong những tình
huống giao tiếp sau biểu hiện đƣợc sự khó chịu của mình về ngƣời đối thoại. Sự
khó chịu ấy, nếu chỉ căn cứ vào lời nói thì ngƣời nghe có thể sẽ không nhận ra:
VD65: “Ông con cau mày, hỏi gắt:
- Nhƣng sao mà me lại thiết tha vào việc ấy đến thế chứ?” [34,tr.391]
VD66: “Thứ cau mặt, đẩy y ra: - Anh điên đấy à?” [32,tr.164]
VD67: “Ra vẻ sốt ruột, Tú Anh nhăn mặt khó chịu, gạt đi mà rằng:
- Thôi, nếu chú không nói gì thì thôi! (…)” [33,tr.250]
- Nhăn trán, bóp trán
VD68: “Đông nhăn trán:
- Có gì mà phức tạp. Nó nhiễm độc tƣ tƣởng tƣ sản, hƣởng lạc. Có vậy thôi!”
[29,tr.35].
VD69: “Ông Bằng cắn môi dưới, đưa tay lên bóp thái dương. Không hề hay
biết ông bố chồng đang khó chịu về cách ăn nói của mình, Lý càng hăng hái: -
(…)” [29,tr.26]
Dễ nhận thấy là các điệu bộ dùng để biểu hiện thái độ khó chịu chủ yếu là
các điệu bộ dùng nét mặt. Cũng vì thế mà phải tinh ý ngƣời nghe mới nhận biết
đƣợc. Trong quá trình giao tiếp, các nhân vật giao tiếp cần đặc biệt chú ý những
phƣơng tiện phi ngôn ngữ này để xem nên hay không nên tiếp tục cuộc thoại, hoặc
chuyển hƣớng cuộc thoại để hoạt động giao tiếp có hiệu quả.
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự ngạc nhiên, sửng
sốt
Từ điển Tiếng Việt [10] định nghĩa:
Ngạc nhiên: “Rất lấy làm lạ, cảm thấy là hoàn toàn bất ngờ với mình”
[10,tr.662]
Sửng sốt: “Ngạc nhiên tới mức ngẩn ngƣời ra” [10,tr.864]
Kết quả khảo sát tƣ liệu cho thấy thái độ ngạc nhiên, sửng sốt có thể đƣợc
biểu hiện qua những PTGTPNN sau:
- Đột ngột thay đổi tư thế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
VD70: “Nghị Hách ngồi nhổm lên mà rằng:
- Chết! Vài trăm bạc! Mày điên! (…)” [33,tr.278]
VD71: “Xuân đứng dừng lại, kinh ngạc hỏi dồn:
- Tôi? Phỉ nhổ vào mặt tôi? Tát tôi? (…)” [34,tr.417]
Đang nằm bỗng đột ngột ngồi nhổm lên, đang đi bỗng đứng dừng lại, đó là
những tín hiệu nhân vật sử dụng để biểu lộ sự ngạc nhiên, sửng sốt của mình trƣớc
điều nghe thấy.
- Nhíu mày
VD72: “Luận nhíu nhíu cặp mày: - Sao chị lại bảo vợ thằng Cừ dại?”
[29,tr.45]
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự chế giễu, coi
thƣờng, khinh bỉ
Để biểu hiện sự chế giễu hay coi thƣờng, khinh bỉ, ngƣời ta có thể dùng
những PTGTPNN nhƣ:
- Cười
Tùy điệu thái của tiếng cƣời mà ta có thể hiểu đó là tiếng cƣời chế giễu hay
khinh bỉ, mỉa mai.
+ Cƣời để biểu lộ sự khinh bỉ:
VD73: “Ngẫm nghĩ một lát, Xuân Tóc Đỏ cười nhạt mà rằng:
- Ghê nhỉ! Ấy là tôi mà họ còn dám nói thế, còn những kẻ khác thì biết bị
đến thế nào nữa? (…)” [34,tr.416]
+ Cƣời để biểu lộ sự chế giễu:
VD74: “Quan huyện lại ngồi dựa đầu vào ghế, cười nức nở một hồi rồi mới
nói:
- Thế mà nó bán 5 đồng nửa gánh rạ!
Quan cười một hồi dài nữa làm cho lũ ngƣời ấy ngao ngán chỉ còn biết đƣa
mắt nhìn nhau…” [33,tr.271]
VD75: “Lão cười sằng sặc một hồi dài mà rằng:
- Tơ hồng! Tơ hồng… ha ha ha ha! Lại còn tế tơ hồng!” [33,tr.372]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
+ Cƣời để biểu lộ sự mỉa mai:
VD76: “Ngƣời Tây cười nhạt một hồi rồi khẽ nói:
- Ngài nên nói vì ngài đầy túi rồi thì hơn” [33,tr.389]
- Bĩu môi
Cái bĩu môi (chúm mỏ) của nhân vật trong các ví dụ sau thể hiện sự chế giễu,
mỉa mai:
VD77: “Thứ bĩu môi, chế nhạo:
- Thôi! Nói dễ nghe chƣa! Đến nhà ngƣời ta hỏi trọ, rồi đến lúc ngƣời ta nói
số tiền, lại thôi! Sao mà anh thôi tài thế? Tôi thì tôi xin chịu (…)” [32,tr.129].
VD78: “Mô chúm mỏ, lắc đầu, nói tiếp:
- Chịu! Nội đời con, con chƣa thấy ai kiệt nhƣ cô giáo. Trong tay lúc nào
cũng có bạc trăm mà cấm chi li đi đâu mất một xu (…).” [32,tr.124]
Hoặc để biểu lộ sự khinh bỉ:
VD79: “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thƣờn
thƣợt. Mũi anh nhăn lại nhƣ ngửi thấy mùi xác thối.” [26,tr.66]
- Hất hàm
Động tác hất hàm của Xuân Tóc Đỏ sau đây biểu lộ thái độ kẻ cả, coi
thƣờng ngƣời đang đối thoại với mình.
VD80: “Xuân Tóc Đỏ hất hàm hỏi: - Ông hỏi gì? Mời ông ngồi!” [34,tr.405]
- Vênh mặt
VD81: “Hải và Thụ vênh mặt khinh bỉ cái ý kiến hủ hậu” [34,tr.469]
- Nguýt
Cái nguýt dài của Lý trong ví dụ dƣới đây thể hiện sự mỉa mai:
VD82: “Ngồi phịch xuống giƣờng nhìn Đông cầm đôi đũa gạt chéo qua
miệng, mắt Lý kéo một vệt nguýt sắc lẻm:
- Để sẵn thịt gạo đấy, chỉ có việc nấu mà cũng lƣời!” [29,tr.168]
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự bối rối, ngƣợng
ngập, xúc động
Bối rối đƣợc hiểu là lúng túng, mất bình tĩnh, không biết nên xử trí thế nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
Xúc động có nghĩa là cảm xúc mạnh mẽ và trong thời gian tƣơng đối ngắn,
nhiều khi làm tê liệt nhận thức.
Ngƣợng ngập là tự cảm thấy bối rối, mất tự nhiên trƣớc ngƣời khác, thƣờng
thấy mình có điều gì đó không nên, không phải hay không xứng đáng, khi đó
ngƣời ta thƣờng có những cử động, cử chỉ không đƣợc tự nhiên
Bối rối, ngƣợng ngập, xấu hổ là những trạng thái cảm xúc gần nhau, có liên
quan đến nhau, thƣờng đƣợc biểu lộ qua các PTGTPNN. Sự xúc động cũng vậy:
Nhiều khi nhân vật cố tình che giấu sự xúc động, bối rối bằng các điệu bộ này
khác, và do đó những cảm xúc này càng lộ ra rõ ràng.
- Cúi mặt hoặc nhìn xuống, quay đi che giấu cái nhìn
Cúi mặt để biểu lộ sự ngƣợng ngập, xấu hổ:
Nhân vật Mịch đi trộm ngô khoai, chợt gặp ngƣời yêu (Long) nên cô hết sức
xầu hổ, ngƣợng ngập. Cảm xúc này đƣợc biểu lộ bằng cử chỉ cúi mặt:
VD83: “Mịch cúi mặt lặng im một lúc rồi mới đáp, và chỉ đáp dƣới cái mặt
cúi:
- Em đi bới khoai, bẻ ngô.” [33,tr.323]
Cúi mặt hay nhìn xuống, lảng tránh cái nhìn của ngƣời đối thoại để biểu lộ
sự bối rối, mất tự nhiên:
VD84: “- Bởi vì…Bởi vì…- San cúi mặt và bỏ tiếng ta, dùng tiếng Pháp -
ngƣời ta lừa dối anh…” [32,tr.139]
VD85: “San nhìn xuống. Thứ thấy cử chỉ cỏn con ấy đầy ý nghĩa. Ít lâu nay,
động nói đến chuyện vợ con, chuyện yêu đƣơng, chuyện ghen, chuyện ngoại
tình… là San mất tự nhiên.” [32,tr.225]
VD86: “Nét mặt Thứ cũng tự nhiên biến đổi. Đôi mắt Thứ lúng túng tránh
cái nhìn của San.” [32,tr.139]
Để che giấu sự xúc động, ngƣời ta cũng có thể dùng PTGTPNN là quay
nhìn đi phía khác:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
VD87: “Long tái mặt, vội quay nhìn ra phía khác, rồi cúi xuống đất nhặt
một cái đanh ghim để giấu sự xúc động rất mạnh đã hiện ra cả thần thái.”
[33,tr.241]
- Gãi đầu, gãi cổ, gãi tai
Khi lúng túng, bối rối, ngƣợng ngập, ngƣời ta thƣờng cảm thấy chân tay nhƣ
“thừa”, không biết che giấu nó đi đâu, do đó càng vô tình tạo ra những cử chỉ điệu
bộ biểu thị sự bối rối, ngƣợng ngùng của họ.
Ông thƣờng trực bị Luận bắt gặp đánh máy thuê trong giờ làm việc nên rất
bối rối, ngƣợng ngùng và vô tình biểu lộ điều này bằng cử chỉ gãi đầu, gãi cổ.
VD88: “- Có tin tức gì mới không bác?
Luận cố làm cho ông già ra khỏi mặc cảm. Ông gãi cái cổ mƣớt mồ hôi:
- Dạ, chỉ có tin tức về giá cả thôi ạ.
(...)- Mời thủ trƣởng uống bia ạ.
Ông thƣờng trực lại vào, đặt một cốc chè tƣơi nữa lên bàn, mời ông tổng
biên tập, rồi gãi gãi đầu đi ra” [29,tr.261,263]
● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện thái độ ân cần, âu
yếm, tình cảm yêu thƣơng
Thái độ ân cần, tình cảm yêu thƣơng, sự âu yếm,… thƣờng đƣợc biểu hiện
bằng ánh nhìn, những cử chỉ vuốt ve, chăm sóc - bƣớc vào vùng thân mật của
không gian cá nhân. Đó là những tình cảm, thái độ mà ngƣời thân, bạn bè, vợ
chồng, ngƣời yêu, anh em ruột thịt,… dành cho nhau. Những cử chỉ, hành động
thuộc loại phƣơng tiện này khá đa dạng, khó liệt kê vào những “loại” lớn. Xin dẫn
ra vài ví dụ trong các tác phẩm văn học đƣợc khảo sát:
VD89: “Dừng lại, nhìn vợ thiết tha, Luận tiếp:
- Phƣợng à, cuộc sống thật kì lạ vì con ngƣời vẫn là một cái gì bí ẩn. Dân
mình cũng có cái gì đó bí ẩn lạ lắm, em ạ. (…)” [29,tr.172, 173].
VD90: “Hai ngƣời cầm tay nhau, nhìn nhau một cách rất đỗi yêu thƣơng”
[33,tr.225].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
VD91: “Gần tới đuờng cái, anh dừng bƣớc. Nắm nhẹ một bàn tay Lan, anh
nâng lên, cúi xuống, áp môi, chầm chậm hôn rất lâu:
- Em ở lại, bình yên sống, đừng buồn nhé, em mến thƣơng! (…)” [25, tr.62]
VD92: “Âu yếm, Lan vuốt vuốt cái áo anh và hôn lên mái tóc của anh đã
điểm bạc.
- Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi và hãy sống cho thỏa.(…)” [25,
tr.62]
Bằng những PTGTPNN trong các ví dụ trên, ngƣời ta có thể trao cho nhau
tình cảm yêu thƣơng, trìu mến, sự âu yếm, ân cần thiết thực và hiệu quả hơn rất
nhiều so với lời nói.
1.3.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đa nghĩa về cái đƣợc biểu hiện
Nhƣ đã nói, PTGTPNN do các tín hiệu cơ thể - vận động tạo ra, do vậy
chúng là hữu hạn, hoàn toàn có thể liệt kê đƣợc, trong khi ý nghĩa biểu hiện của
chúng lại rất lớn. Do vậy, nếu trong ngôn ngữ bằng lời có quy luật tiết kiệm thì ở
PTGTPNN cũng vậy. Phần lớn các PTGTPNN có đặc tính đồng nghĩa hay đa
nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Sau đây xin dẫn ra vài PTGTPNN để chứng minh đặc
tính đa nghĩa của chúng.
- Cười nhạt
+ Cười nhạt để tỏ sự trải đời, hiểu đời (cái cƣời của ngƣời đa mƣu):
VD93: (Binh Chức vác dao đến nhà Lí Kiến đòi tiền)
“Lí Kiến hiểu rằng: “chúng nó” đây có thể gồm cả ông. Ông cười nhạt bảo
rằng: - Thế này này, anh Binh ạ: chị ấy gửi tôi thì quả là không có…” [30,tr.21].
+ Cười nhạt để tỏ thái độ mỉa mai:
VD94: “Ngƣời Tây cười nhạt một hồi rồi khẽ nói:
- Ngài nên nói vì ngài đầy túi rồi thì hơn” [33,tr.389].
+ Cười nhạt để tỏ thái độ thách thức:
VD95: “Lạnh lùng, viên tri huyện đứng lên.
Nghị Hách cũng cười nhạt đứng lên cầm cái mũ quả dƣa, mặt bẽn lẽn:
- Bẩm quan lớn, ngài muốn trị tôi thẳng tay đó hay sao?” [33,tr.229]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
+ Cười nhạt để tỏ sự khinh bỉ:
VD96: “Ngẫm nghĩ một lát, Xuân Tóc Đỏ cười nhạt mà rằng:
- Ghê nhỉ! Ấy là tôi mà họ dám nói thế, còn những kẻ khác thì không biết bị
đến thế nào nữa? (…)” [34,tr.416]
+ Cười nhạt để biểu thị tâm trạng đau đớn, chán chƣờng:
VD97: “- Ngƣời ta biết rõ là hai đứa đóng cửa phòng lại ngủ trƣa với nhau
rồi, ông đã biết chƣa?
- Sao! Sao nữa?
Cụ bà cười nhạt đau đớn:
- Lại còn sao nữa?” [34,tr.384]
- Hất hàm
+ Hất hàm để tỏ thái độ vênh váo, coi thƣờng ngƣời đối thoại:
VD98: “Xuân vênh váo ra ngoài, hất hàm hỏi Văn Minh:
- Từ độ tôi không lại giúp đƣợc thì cửa hàng vẫn đông khách chứ?”
[34,tr.419]
+ Hất hàm để tỏ vẻ quyền thế và thân mật:
VD99: “- Cậu nghe lỏm chuyện tôi với cô Phƣợng vừa rồi, hả? Dơ!
Thấy Luận đăm chiêu, Lý quay lại, hất hàm trịch thƣợng: - Thế nào? Sai à?”
[tr.47]
+ Hất hàm để biểu hiện ý nghĩa chào một cách suồng sã, thân mật:
VD100: “Nó (Mô) nhăn nhở, hất hàm: - A! ngƣời chị em!...” [32,tr.99]
+ Hất hàm để khoanh vùng đối tƣợng ngƣời nghe, mời gọi đối thoại:
VD101: “Phấn khởi vì mình tung có kẻ hứng, Dƣơng đứng thẳng dậy, vỗ tay
bộp bộp ngay khi ông Thống vừa dứt lời:
- Hay lắm! Đồng chí Thống nói là không biết chính trị. Nhƣng, nhƣ thế là
chính trị đấy. Chính trị là gì nữa, các đồng chí? – Dƣơng hất hàm về phía các cô
giáo trẻ.” [28,tr.210]
+ Hất hàm có ý nghĩa chiếu vật, chỉ dẫn cho ngƣời nghe biết điều đƣợc nói
đến trong lời cụ thể là cái gì:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
VD102: “- Kìa Đông, con trông chữ hai đứa nhỏ nó tô. Cái đuôi chữ y hệt
nét chữ các con hồi nhỏ.
Ông Bằng ngồi ở bàn nƣớc với Đông, hất hàm về phía bàn làm việc, ở đó
thằng Quân anh và thằng Quân em đang tập làm quen với bút sách.” [29,tr.210]
Cử chỉ hất hàm của ông Bằng chỉ dẫn cho Đông biết “hai đứa nhỏ” đƣợc nói
đến trong lời là thằng Quân anh và Quân em.
- Vỗ tay
Ngoài ý nghĩa biểu lộ sự tán đồng, tán thƣởng, vỗ tay còn có ý nghĩa:
+ Hƣớng sự chú ý của ngƣời nghe để kêu gọi ngƣời nghe thực hiện một yêu
cầu nào đó:
VD101: “Ngồi trong phòng, ông Dƣơng (…) nghe tiếng ba ngƣời trò
chuyện, liền quay ra, vỗ tay bôm bốp:
- Các đồng chí ơi! Khe khẽ cái miệng một tí nào. Vào trong này! Vào trong
này mà trao đổi! (…)” [28,tr.50]
VD102: “Bà trƣởng phòng (…) đứng giữa phòng, bà vỗ tay đôm đốp:
- Nào các cô! Mỗi ngƣời một tay chuyển giúp giấy trên ô tô vào kho nào. Cố
một tí cho nhanh kẻo đổ mƣa xuống thì khốn. Nào, tôi yêu cầu!” [29,tr.143]
+ Biểu lộ thái độ vui sƣớng, khoái trá:
VD103: “Há há!...Đẹp mặt chƣa! - Vỗ tay đôm đốp, Lý cƣời ha hả - Chị em
tôi mà tin ông thì có ngày rã họng. (…)” [29,tr.29]
- Lắc đầu:
Ngoài ý nghĩa biểu hiện thị sự không tán đồng, lắc đầu còn có ý nghĩa:
+ Lắc đầu biểu hiện sự thất vọng:
VD104: “Chồng lắc đầu thất vọng rồi thở dài: - (…)” [34,tr.395]
+ Lắc đầu biểu hiện sự chán nản:
VD105: “Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi: - Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông
giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi.” [30,tr.89]
- Gật đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
Ngoài ý nghĩa biểu thị sự tán đồng, tán thƣởng, gật đầu còn đƣợc dùng để
biểu hiện các ý nghĩa:
+ Gật đầu biểu hiện ý nghĩa chào:
VD106: “- Lạy bà ạ.
Bà Văn Minh gật đầu đáp lại Xuân” [34,tr.296]
+ Gật đầu biểu hiện ý nghĩa “Lại đây” (tựa nhƣ vẫy tay, ngoắc ngoắc tay)
VD107: “Long gật mụ chủ lại, dặn:
- Hết đĩa này thì lại bảo hộ các ông ấy là ở gác trên các ông chờ để mở sâm
banh” [33,tr.507].
- Xòe bàn tay:
+ Xòe bàn tay biểu hiện ý nghĩa “Không có gì, không còn gì!”
VD108: “Ông Thống đứng ở đầu bàn, xòe bàn tay:
- Báo cáo là kinh phí không còn một trinh một kẽm ạ.” [28,tr.59]
+ Xòe bàn tay biểu hiện ý nghĩa “Số 5”
VD109: “- Mày còn ngu lắm! mày có biết ở những nơi phồn hoa đô hội nhƣ
Hà Nội, Hải Phòng, ngƣời ta bán chữ trinh của ngƣời ta bao nhiêu không? - Đến
đây, lão xòe bàn tay ếch ra – Năm đồng!” [33,tr.279]
1.3.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đơn nghĩa về cái biểu hiện
Các PTGTPNN mà mối quan hệ giữa mặt hình thức của tín hiệu (cái biểu
hiện) và mặt nội dung (cái đƣợc biểu hiện) là một đối một (1:1) không nhiều. Bởi
nhƣ đã nói, các PTGTPNN do các bộ phận cơ thể con ngƣời tạo ra không nhiều,
trong khi nhu cầu biểu hiện của chúng lại rất lớn. Những phƣơng tiện phi ngôn ngữ
đơn nghĩa về cái đƣợc biểu hiện thƣờng do mối quan hệ giữa mặt hình thức và nội
dung của chúng mang tính cụ tƣợng nhiều hơn là tính phù hiệu (quy ƣớc), do vậy
nhìn vào nó ngƣời ta chỉ có thể liên hệ đến ý nghĩa này mà không (hay khó) liên hệ
với ý nghĩa khác. Có thể chỉ ra vài ví dụ:
- Bịt tai: Không muốn nghe
VD110: “- Đừng nói nữa
Lý thét, áp tay vào tai, ngực dội lên dẹp xuống.” [29,tr.170]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
- Bịt miệng người đối thoại: Không cho nói nữa
VD111: “Y bịt lấy miệng Liên: - Ai bắt mình thề? (…)” [32,tr.276]
- Đặt dọc ngón trỏ lên môi người đối thoại: Không cho nói
VD112: “Phƣợng không để anh nói, cô đặt dọc ngón tay trỏ lên môi anh
(…)” [29,tr.163]
TIỂU KẾT
Tìm hiểu về PTGTPNN, luận văn đã nêu cách hiểu về loại phƣơng tiện này
và xây dựng đƣợc những tiêu chí cần thiết để nhận diện các PTGTPNN. Khái niệm
PTGTPNN ở đây đƣợc quan niệm rộng, gồm những tín hiệu cơ thể - vận động do
con ngƣời cố ý hay hay không cố ý tạo ra trong quá trình giao tiếp mà có khả năng
mang lại cho ngƣời tiếp nhận một giá trị thông báo bổ sung nào đó.
PTGTPNN mang bản chất tín hiệu, đáp ứng những yêu cầu cần có của một
tín hiệu: có tính hai mặt – cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện, có thể cảm nhận
đƣợc bằng các giác quan, có tính hệ thống.
Xét PTGTPNN ở phƣơng diện cái biểu hiện, luận văn phân loại chúng theo
khả năng tiếp nhận của các giác quan đối với cái biểu hiện. Kết quả tìm hiểu cho
thấy, các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng thị giác là phong phú nhất, tiếp đến là
các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng nhiều giác quan (thị giác và thính giác, thị
giác và xúc giác). Giác quan thị giác hầu nhƣ luôn đƣợc dùng để nhận biết các
PTGTPNN bởi không mấy ai lại “nhắm mắt” khi đối thoại.
Xét PTGTPNN ở phƣơng diện cái đƣợc biểu hiện, luận văn phân loại các
PTGTPNN thành: PTGTPNN đồng nghĩa (nhiều PTGTPNN cùng biểu thị một ý
nghĩa), PTGTPNN đa nghĩa (một PTGTPNN có thể biểu thị nhiều ý nghĩa khác
nhau, tùy tình huống giao tiếp mà nhận biết) và PTGTPNN đơn nghĩa về cái đƣợc
biểu hiện (một PTGTPNN chỉ biểu thị một ý nghĩa duy nhất). Do số lƣợng hữu hạn
trong khi nhu cầu biểu hiện lại rất lớn nên hầu hết các PTGTPNN là đồng nghĩa và
đa nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Các PTGTPNN đơn nghĩa rất ít. Giữa cái biểu hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
và cái đƣợc biểu hiện của PTGTPNN đơn nghĩa thƣờng có mối liên hệ tự nhiên mà
nhìn vào đó, ngƣời ta chỉ có thể hiểu một nghĩa duy nhất.
Ý nghĩa biểu hiện của PTGTPNN là rất phong phú và tinh tế. Ngƣời tham gia
giao tiếp nếu chú ý quan sát sẽ thu đƣợc nhiều thông tin thú vị.
Chƣơng 2
CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ
DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG HỌC
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
2.1.1. Ngữ dụng học là bộ môn chuyên ngành của ngôn ngữ học. Tuy mới ra đời
nhƣng nó đã mở ra một lĩnh vực nghiên cứu đầy hứa hẹn – nghiên cứu ngôn ngữ
trong sự hành chức. Khác với ngôn ngữ học tiền dụng học – nghiên cứu ngôn ngữ
trong sự tĩnh tại, cô lập, ngữ dụng học đặt lời nói vào vị trí trung tâm nghiên cứu
và theo đó, đã trả ngôn ngữ về với cái “nôi đời”– nơi mà ở đó nó sinh ra và vì đó,
nó tồn tại. Ngữ dụng học có nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ trong sự thực hiện
chức năng giao tiếp xã hội.
Nhìn nhận các PTGTPNN từ bình diện ngữ dụng học, trƣớc hết cần làm rõ
một số vấn đề lí thuyết có liên quan.
2.1.2. Các nhân tố giao tiếp
Theo Đỗ Hữu Châu [1], các nhân tố giao tiếp đƣợc hiểu là các nhân tố có
mặt trong một cuộc giao tiếp, chi phối cuộc giao tiếp đó và chi phối diễn ngôn về
hình thức cũng nhƣ nội dung.
Các nhân tố giao tiếp bao gồm: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn. Ở đây xin
đi sâu làm rõ hai nhân tố ngữ cảnh và diễn ngôn.
a. Ngữ cảnh
Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhƣng nằm
ngoài diễn ngôn. Ngữ cảnh là yếu tố động, thay đổi trong quá trình diễn ra cuộc
giao tiếp. Bất kì cái gì muốn trở thành ngữ cảnh của một cuộc giao tiếp cần phải
đƣợc nhân vật giao tiếp ý thức.
Ngữ cảnh gồm các nhân tố:
● Nhân vật giao tiếp: là những ngƣời tham gia vào một cuộc giao tiếp.
Giữa các nhân vật giao tiếp có mối quan hệ liên cá nhân và quan hệ vai giao
tiếp.
- Vai giao tiếp:
Trong một cuộc giao tiếp có sự phân vai thành vai phát diễn ngôn – Sp1
(nói/viết) và vai tiếp nhận diễn ngôn – Sp2 (nghe/đọc). Trong giao tiếp đƣơng diện
(mặt đối mặt) hai vai nói và nghe thƣờng có sự luân chuyển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
Khi tham gia giao tiếp, các vai giao tiếp đều có ý định hay còn gọi là đích
giao tiếp và niềm tin (tin điều mình nói ra là đúng, tin điều mình nói ra ngƣời nghe
chƣa biết, tin ngƣời nghe sẵn sàng nghe lời mình,...).
- Quan hệ liên cá nhân: là quan hệ so sánh xét trong tƣơng quan xã hội, hiểu
biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau.
Để HĐGT có hiệu quả thì các nhân vật giao tiếp phải hiểu biết lẫn nhau về
các mặt sau:
+ Hiểu biết về vị thế: Vị thế ở đây đƣợc hiểu là vị thế xã hội và vị thế
giao tiếp
Nói đến vị thế xã hội là nói các nhân vật giao tiếp ở vị trí nào trong xã
hội. Cao hay thấp? Trên hay dƣới? Bình đẳng hay không bình đẳng? Vị thế xã hội
đƣợc quy định bởi tuổi tác, chức vụ, nghề nghiệp, giai cấp,...
Nói đến vị thế giao tiếp của nhân vật giao tiếp tức là xem các nhân vật
giao tiếp ở vào thế chủ động hay bị động trong điều hành hoạt động giao tiếp.
Nhìn chung vị thế xã hội và vị thế giao tiếp không phải lúc nào cũng
đồng nhất. Không phải cứ ngƣời ở vị thế cao là nắm quyền chủ động trong giao
tiếp và ngƣợc lại.
+ Hiểu biết về mức độ thân cận (quan hệ thân sơ) : mức độ thân cận có
thể tỉ lệ thuận với mức độ hiểu biết về nhau của những ngƣời tham gia giao tiếp
nhƣng không nhất thiết là đã hiểu nhau thì sẽ thân nhau (có khi kẻ thù lại hiểu nhau
rất kĩ). Trong tiến trình giao tiếp, mức độ thân sơ có thể thay đổi (kéo gần lại hay
càng giãn xa hơn)
+ Hiểu biết về trình độ tri thức (tri thức cuộc sống và tri thức khoa học)
Trong một cuộc giao tiếp, các nhân vật tham gia giao tiếp phải xây dựng các
hình ảnh tinh thần về nhau nhƣ đặc điểm, trạng thái năng lực, vị thế, trình độ tri
thức, quan hệ thân sơ,... Những yếu tố thuộc về quan hệ liên cá nhân này chi phối
nhiều đến việc lựa chọn đề tài, nội dung giao tiếp, phƣơng tiện giao tiếp,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
● Hiện thực ngoài diễn ngôn: Trừ nhân vật giao tiếp, tất cả những yếu tố vật
chất, xã hội, văn hoá,... đƣợc nói đến trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp đƣợc
gọi là hiện thực ngoài diễn ngôn. Cụ thể, hiện thực ngoài diễn ngôn bao gồm:
- Đề tài: Đề tài là mảng hiện thực ngoài diễn ngôn đƣợc các nhân vật giao
tiếp thoả thuận chọn làm đối tƣợng để trao đổi trong giao tiếp. Đó có thể là những
cái tồn tại, diễn tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ, những cảm xúc, tƣ tƣởng, ý
định, nguyện vọng,... của cá nhân. Hiện thực - đề tài của diễn ngôn có thể còn
chính là bản thân ngôn ngữ hay thậm chí là chính các cuộc giao tiếp, các diễn ngôn
đã có hay đang thực hiện.
- Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu: Thế giới khả hữu là thế giới đƣợc lấy
làm hệ quy chiếu cho các diễn ngôn. Có vô số thế giới khả hữu, trong đó thế giới
thực tại, ở thời điểm hiện tại mà ngƣời nói thuộc vào chỉ là một. Xem xét một phát
ngôn/diễn ngôn là đúng hay sai, có nghĩa hay vô nghĩa là phụ thuộc vào thế giới
khả hữu mà diễn ngôn đƣợc quy chiếu vào.
● Hoàn cảnh giao tiếp:
Hoàn cảnh giao tiếp gồm hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp
hẹp.
- Hoàn cảnh giao tiếp rộng (hay còn gọi là tri thức văn hoá nền) bao gồm
toàn bộ những hiểu biết về lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế, tôn giáo, khoa học,
nghệ thuật,... ở thời điểm và không gian trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp.
- Hoàn cảnh giao tiếp hẹp (thoại trƣờng) là không gian, thời gian cụ thể mà
cuộc giao tiếp diễn ra, ví dụ nhà thờ - ngày chủ nhật, nhà thờ - các ngày thƣờng,
lớp học - giờ học, lớp học - giờ ra chơi, chợ - ngày phiên, chợ - một thời điểm nào
đó trong ngày,... là những thoại trƣờng.
● Ngữ huống giao tiếp: Ngữ huống giao tiếp là tác động tổng hợp của các
yếu tố tạo nên ngữ cảnh ở từng thời điểm của cuộc giao tiếp nhƣ nhân tố đề tài,
nhân vật giao tiếp, hiện thực ngoài diễn ngôn, thoại trƣờng, quan hệ liên cá nhân,...
Nói nhƣ vậy nghĩa là, ngữ cảnh giao tiếp là một yếu tố động, nó không phải nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
thành bất biến mà thay đổi trong quá trình giao tiếp. Và sự thay đổi của ngữ cảnh ở
mỗi thời điểm cụ thể ấy của cuộc giao tiếp chính là ngữ huống.
b. Diễn ngôn
● Diễn ngôn: Theo cách hiểu của Đỗ Hữu Châu thì:
- Diễn ngôn là lời của từng ngƣời nói ra trong một cuộc giao tiếp. Cũng có
những diễn ngôn do hai hoặc hơn hai nhân vật giao tiếp xây dựng nên (nhƣ trong
một cuộc hội thoại tay ba, hai ngƣời liên kết với nhau để chống lại ngƣời thứ ba)
- Tổng những lời nói của một ngƣời trong một cuộc hội thoại có thể là một
diễn ngôn liên tục hay ngắt quãng mà cũng có thể là một số diễn ngôn. Tiêu chí để
phân định diễn ngôn là hành động giao tiêp chủ đạo. Đích của diễn ngôn sẽ đƣợc
thực hiện bởi hành động giao tiếp chủ đạo này.
(Về khái niệm diễn ngôn, xin xem thêm tài liệu tham khảo [1, tr.29-34])
● Thành tố nội dung, hình thức và đích của diễn ngôn.
Hình thức của diễn ngôn đƣợc tạo thành bởi các yếu tố của ngôn ngữ, các
đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học, các hành vi ngôn ngữ tạo nên diễn ngôn. Các
yếu tố kèm lời và phi lời cũng đƣợc xem là các yếu tố thuộc hình thức của diễn
ngôn.
Diễn ngôn có hai thành tố nội dung: nội dung thông tin và nội dung liên cá
nhân. Nội dung thông tin (nội dung miêu tả, tái hiện hiện thực) bị quy định bởi tính
đúng – sai lôgic, hình thành do quan hệ giữa diễn ngôn với hiện thực đƣợc nói tới.
Nội dung liên cá nhân bao gồm tất cả các nội dung của diễn ngôn không bị quy
định bởi tính đúng – sai lôgic. Hai thành tố nội dung này có thể hiện diện một cách
tƣờng minh qua câu chữ của diễn ngôn, cũng có thể tồn tại một cách hàm ẩn.
Đích của diễn ngôn có thể chia thành các kiểu: đích thuyết phục (do thành tố
nội dung thông tin đảm nhiệm), đích truyền cảm (làm thay đổi trạng thái cảm xúc,
tình cảm của nhân vật giao tiếp), đích hành động (thúc đẩy hành động). Đích
truyền cảm và đích hành động do thành tố liên cá nhân đảm nhiệm.
2.1.3. Các hành vi ở lời (các hành động ngôn trung)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
Trƣớc đây, các nhà ngôn ngữ học khi nghiên cứu về câu thƣờng chỉ quan
tâm tới những câu khảo nghiệm (khẳng định, trần thuyết, xác tín, miêu tả). Đến
giữa thế kỉ XX, J.L. Austin đã phát hiện ra bản chất hành động của ngôn ngữ. Nói
cũng là làm – nói năng cũng là một dạng hành động. Khi nói năng là ta cũng thực
hiện một hành động nhƣ thực hiện các hành động vật lí khác. Hỏi, sai khiến, cầu
xin, hứa hẹn, cam kết, tuyên bố, xin lỗi, cảm ơn,… cũng là những hành động, đƣợc
thực hiện bằng lời nói. Từ đó, Austin đã khởi xƣớng ra lí thuyết hành vi ngôn ngữ.
Theo Austin, có ba loại hành động ngôn ngữ (hành vi ngôn ngữ) lớn, đó là
hành vi tạo lời, hành vi mƣợn lời và hành vi ở lời.
Ở đây xin đƣợc quan tâm nhiều hơn tới hành vi ở lời.
● Hành vi ở lời là những hành vi ngƣời nói thực hiện ngay khi nói năng.
Hiệu quả của chúng là gây ra một phản ứng ngôn ngữ tƣơng ứng ở ngƣời nhận. (về
vấn đề này, xin xem thêm tài liệu tham khảo [1,tr.89,90]
● Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.
- Hành vi ở lời trực tiếp là những hành vi ngôn ngữ đƣợc thực hiện đúng với
đích ở lời và đúng với điều kiện sử dụng chúng.
- Hành vi ở lời gián tiếp là hành vi ngôn ngữ trong đó ngƣời nói thực hiện
một hành vi ở lời này nhƣng lại nhằm làm cho ngƣời nghe dựa vào những hiểu biết
ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác.
Sau đây luận văn sẽ xem xét PTGTPNN trên một vài phƣơng diện của ngữ
dụng học.
2.2. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƢƠNG
DIỆN THỂ HIỆN HÀNH ĐỘNG NGÔN TRUNG (HÀNH VI Ở LỜI)
PTGTPNN là một loại tín hiệu đƣợc sử dụng phổ biến trong đối thoại, bên
cạnh ngôn ngữ bằng lời. Chúng có thể đƣợc sử dụng với chức năng thay lời, khi đó
PTGTPNN mang giá trị tƣơng đƣơng một phát ngôn. PTGTPNN cũng đƣợc dùng
với chức năng trợ lời, khi đó, PTGTPNN đi kèm phát ngôn và bổ sung ý nghĩa nào
đó cho phát ngôn. Xem xét chức năng của PTGTPNN trong hoạt động giao tiếp có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
thể thấy rằng, PTGTPNN cũng thể hiện hành vi ở lời nhƣ một phát ngôn. Xin dẫn
ra vài loại hành vi ở lời tiêu biểu mà PTGTPNN có thể thể hiện nhƣ sau:
2.2.1. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi phản đối, bác bỏ
Bác bỏ đƣợc hiểu là “bác đi, gạt đi, không chấp nhận” [10,tr.37]
Khi bác bỏ một ý kiến, một đề nghị nào đó, ngƣời ta có thể sử dụng những
PTGTPNN sau:
- Lắc đầu
VD1: “- Chƣa hẳn đâu. – Đông lắc đầu – (…)” [29,tr.354]
Động tác lắc đầu của nhân vật Đông thể hiện hành vi bác bỏ, đi kèm và bổ
trợ cho phát ngôn “Chưa hẳn đâu” – cũng là phát ngôn có hành vi ở lời là bác bỏ.
VD2: “- Thôi thì ác cũng đƣợc! Anh cứ trả lời thế đi!
San bàn nhƣ vậy bằng một giọng đùa. Thứ lắc đầu, cười.” [32,tr.227]
Cử chỉ lắc đầu, cười của Thứ có giá trị tƣơng đƣơng với một phát ngôn -
một hành vi bác bỏ “Tôi không đồng ý.”
- Xua tay
Hành động xua tay của nhân vật ông Bằng trong ví dụ sau cũng để thể hiện
hành vi bác bỏ, đi kèm lời nói cũng thể hiện hành vi này:
VD3: “- Không đƣợc! không đƣợc … Không nên nhƣ thế. Thế này…
Ông Bằng xua xua tay.” [29,tr.28]
Để tăng mức độ biểu hiện hành vi bác bỏ, ngƣời ta còn phối hợp nhiều động
tác cùng lúc:
- Cử chỉ phối hợp: lắc đầu, xua tay, nhắm mắt
VD4: “- Mặc cậu! Mặc cậu! Chúng tôi không biết…
(…) San vừa lắc đầu, vừa xua tay, vừa nhắm nghiền hai mắt, nhất định
không nghe gì khác nữa…” [32,tr.146]
2.2.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi yêu cầu, ra lệnh
Để thể hiện hành vi yêu cầu hay ra lệnh cho ai làm một điều gì, cùng với lời
nói, ngƣời ta còn có thể dùng các PTGTPNN:
- Vỗ tay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
VD5: “Đứng giữa phòng, bà vỗ tay đôm đốp:
- Nào các cô! Mỗi ngƣời một tay chuyển giúp giấy trên ô tô vào kho
nào.(…) Nào, tôi yêu cầu!” [29,tr.143]
Hành động vỗ tay của bà trƣởng phòng là để yêu cầu mọi ngƣời chú ý,
không lộn xộn để nghe lệnh.
- Chỉ tay
Điệu bộ chỉ tay thƣờng đƣợc dùng khi yêu cầu hay ra lệnh cho ai làm việc gì
(ngƣời ở vị thế cao yêu cầu, ra lệnh cho ngƣời ở vị thế thấp).
VD6: “Đến cửa phòng khách, bà phó chỉ tay:
- Các ngƣời ngồi đây chờ tôi.” [tr.283]
Động tác chỉ tay của bà phó Đoan trong tình huống này vừa biểu thị hành vi
yêu cầu, vừa cụ thể hóa hành vi này: “ngồi đây” nghĩa là ngồi ở nơi đƣợc ngƣời nói
định vị trƣớc.
VD7: “…Long bỗng đứng phắt lên, trỏ tay ra cửa:
- Ông đi đi! Ông đi ngay đi!” [33,tr.314]
Động tác trỏ tay ra phía cửa có ý nghĩa biểu thị yêu cầu “đi” theo hƣớng “ra
khỏi cửa”.
- Đập bàn
Hành động đập bàn trong ví dụ sau để biểu thị hành vi yêu cầu im lặng, vừa
nhằm để thị uy đồng thời thể hiện cả hành vi biểu cảm (biểu lộ sự tức giận)
VD8: “Quan lớn Lại đập bàn:
- Im đi! Vừa phong kiến vừa sặc mùi tƣ bản là anh! Cút!” [28,tr.114]
- Lừ mắt
VD9: “Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông Bằng, Lý vội bƣớc lại, lừ mắt
nhìn chồng:
- Anh Đông, ông bị cao huyết áp đấy.” [29,tr.94]
Điệu bộ lừ mắt của Lý là để ngầm yêu cầu Đông không nên chúc rƣợu ông
Bằng nữa bởi lí do nhƣ đƣợc nêu trong lời nói đi kèm.
2.2.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi mời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
Mời ai đó làm một việc gì khác với yêu cầu, ra lệnh ở chỗ hành vi mời
thƣờng luôn kèm trong đó sự tôn kính, tôn trọng, thái độ lịch sự của ngƣời mời.
Yêu cầu, ra lệnh đôi khi không thể hiện sắc thái biểu cảm này. Ví dụ:
- Dùng tay chỉ dẫn (thường trong tình huống mời ngồi)
Mời ai đó làm một việc gì, ngƣời ta thƣờng dùng tay chỉ dẫn tận nơi để
ngƣời đƣợc mời biết mà làm theo nhƣ lời mời. Những cử chỉ dang tay, chỉ vào
chiếc ghế mây trƣớc mặt, vỗ xuống giƣờng của ngƣời mời trong các ví dụ dẫn ra
sau đây là nhằm mục đích này. Để tăng thêm tính lịch sự cho hành vi mời, ngƣời ta
thƣờng dùng lời mời kèm theo. Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, nhiều khi ngƣời
ta chỉ cần dùng PTGTPNN, không cần lời mời kèm theo nhƣng ngƣời đối thoại
cũng vẫn hiểu đƣợc ý định mời của đối phƣơng.
VD10: “…Tú Anh ngồi xuống phản, dang tay mời ông đồ cùng ngồi.”
[33,tr.336]
VD11: “Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây
trƣớc mặt, cố làm ra vẻ thân mật:
- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này…” [31,tr.341]
VD12: “(…) Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:
- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên …” [26,tr.109]
- Dâng chén bằng hai tay (trong tình huống mời uống nước)
VD13: “- Bố xơi nƣớc ạ. - Phƣợng dâng chén trà bằng hai tay, nhỏ nhẻ”
[29tr.24].
2.2.4. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi cầu xin
Cầu xin: “Xin với ai điều gì một cách khẩn khoản, thiết tha, nhẫn nhục”
[10,tr.139]
Khi cầu xin ai một điều gì một có thể là ta sẽ vi phạm vào “thể diện âm tính”
của ngƣời đó (J.Thomas: “Thể diện âm tính là mong muốn không bị can thiệp,
mong muốn đƣợc hành động tự do theo nhƣ cách mình đã lựa chọn”, là “nhu cầu
đƣợc độc lập đƣợc tự do trong hành động, không bị ngƣời khác áp đặt” (G.Yule),
nó bao gồm “quyền tự do hành động mà không bị can thiệp” (G.M.Green)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
[1,tr.264]). Do vậy ngƣời cầu xin thƣờng dùng những điệu bộ hạ thấp cơ thể, tỏ ra
hết sức nhún nhƣờng trƣớc ngƣời đƣợc cầu xin, mong phần nào bù đắp phần thể
diện đã mất của ngƣời đó.
Trong số tƣ liệu đƣợc khảo sát có những PTGTPNN thể hiện hành vi cầu xin
của ngƣời Việt nhƣ sau:
- Chắp tay
VD14: “Con bé run đây đẩy, chắp hai tay kêu van:
- Bẩm lạy hai quan lớn!” [33,tr.471]
VD15: “Ngƣời đàn bà hƣớng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng đƣợc, phạt tù con cũng đƣợc,
đừng bắt con bỏ nó…” [31,tr.342]
- Quỳ
VD16: “Thằng ngụy cao lớn quỳ sụp dƣới chân Kiên, nƣớc mắt tuôn ròng:
- Anh thƣơng tình em! Em còn trẻ quá mà anh! Em còn mẹ già…em sắp
cƣới vợ…chúng em thƣơng nhau…xin anh!” [25,tr.43]
- Ngồi thụp xuống, ngước mắt lên
VD17: “Bà Nghị đến ngồi thụp dƣới chân Hải Vân ngước mắt lên nhƣ kêu
van, rồi the thé nói:
- Tôi xin lỗi ông! (…) Ông xá cho tôi cái tội nhục nhã này!...Xin ông nói
nốt! Ông đã nói thì nói nốt cho cai Hách nó nghe!...” [33,tr.476]
2.2.5. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi chấp thuận
Chấp thuận: “Chấp nhận điều yêu cầu hoặc đề nghị” [10,tr.154]
Gật đầu là PTGTPNN phổ biến dùng để thể hiện hành vi chấp thuận một ý
kiến một yêu cầu hay một đề nghị
VD18: “Luận nhƣ hiểu tâm tình cha, hơi cúi xuống:
- Ba đừng nghĩ ngợi nữa, ba ạ
Ông Bằng gật đầu.” [29,tr.300]
2.3. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƢƠNG
DIỆN CHỦ THỂ SỬ DỤNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
PTGTPNN là loại phƣơng tiện giao tiếp mang đậm dấu ấn văn hóa của các
cộng đồng khác nhau. Các yếu tố thuộc về nhân vật giao tiếp nhƣ vị thế xã hội, vị
thế giao tiếp, quan hệ thân sơ, trình độ tri thức chi phối việc sử dụng PTGTPNN.
Xét PTGTPNN ở phƣơng diện ngƣời sử dụng (nhân vật giao tiếp), luận văn
tập trung xem xét sự chi phối của yếu tố vị thế xã hội đối với việc sử dụng
PTGTPNN. Các nhân tố khác nhƣ quan hệ thân sơ, trình độ tri thức,... cuả nhân vật
giao tiếp ảnh hƣởng đến việc sử dụng PTGTPNN sẽ đƣợc kết hợp phân tích khi xét
PTGTPNN ở phƣơng diện hoàn cảnh giao tiếp và phân tích vai trò của PTGTPNN
trong hoạt động giao tiếp
Qua xem xét các tình huống giao tiếp của các nhân vật trong tác phẩm, có
thể lập đƣợc bảng một số PTGTPNN thƣờng dùng trong giao tiếp của ngƣời Việt
có sự chi phối khá rõ của nhân tố vị thế xã hội giữa các nhân vật giao tiếp. (Các
tình huống giao tiếp cụ thể xin xem Phụ lục). Cần lƣu ý, sự phân biệt vị thế xã hội
cao/thấp/ngang bằng giữa các nhân vật chỉ mang tính chất tƣơng đối, tùy thuộc vào
tƣ cách mà nhân vật tự đặt mình vào trong từng cuộc giao tiếp cụ thể (ví dụ: Nhân
vật Long và Tú Anh trong tác phẩm “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, trong công
việc họ là ông chủ và ngƣời làm công – vị thế cao/thấp, nhƣng trong cuộc sống đời
thƣờng, họ là bạn bè – vị thế ngang hàng), tùy thuộc quan niệm từng thời đại ( ví
dụ xƣa kia quan hệ vợ chồng đƣợc xem là không bình đẳng thì nay vợ chồng đƣợc
quan niệm là bình đẳng về vị thế xã hội). Vị thế của nhân vật trong suốt diễn biến
câu chuyện trong tác phẩm cũng thay đổi. Vì thế, cần đặt nhân vật vào các tình
huống giao tiếp cụ thể để xác định đúng vị thế xã hội của nhân vật.
Sau đây, sẽ đƣợc xem xét là: PTGTPNN đƣợc ngƣời có vị thế xã hội cao chủ
động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời có vị thế xã hội thấp hơn, PTGTPNN đƣợc
ngƣời có vị thế xã hội thấp chủ động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời có vị thế xã
hội cao hơn, PTGTPNN đƣợc những ngƣời có vị thế xã hội ngang bằng chủ động
sử dụng khi giao tiếp với nhau, ở hai mức độ - thƣờng đƣợc sử dụng và ít đƣợc sử
dụng. Thƣờng đƣợc sử dụng hay ít đƣợc sử dụng ở đây là xét về phƣơng diện văn
hóa giao tiếp mà cộng đồng chấp nhận, không xét đến các tình huống hội thoại mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
các nhân vật cố tình xâm phạm thể diện của nhau, vi phạm phƣơng châm lịch sự
(nhƣ khi chửi nhau chẳng hạn, lúc đó họ không cần quan tâm PTGTPNN nào thì
đƣợc hay không đƣợc sử dụng).
Bảng 6
vị thế giao tiếp
và sự chủ động
giao tiếp
PTGTPNN
cao – thấp thấp -cao ngang bằng
bắt tay + - +
bĩu môi + +
cúi (chào), khoanh
tay/ chắp tay (vái
chào)
+ -
chỉ tay vào mặt
người đối thoại + -
gật đầu + + +
hất hàm + +
lắc đầu + + +
lừ mắt + +
lườm, nguýt + +
vỗ đùi +
vỗ tay + + +
vỗ vai + +
xoa hai bàn tay + -
(+: thƣờng đƣợc sử dụng, -: ít đƣợc sử dụng)
2.4. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƢƠNG
DIỆN HOÀN CẢNH SỬ DỤNG
Hoàn cảnh sử dụng là hoàn cảnh không gian, thời gian diễn ra cuộc giao
tiếp, có chịu sự chi phối của yếu tố văn hóa và những qui ƣớc xã hội.
PTGTPNN đƣợc sử dụng trong giao tiếp xã hội phải đảm bảo đƣợc tính văn
hóa, phù hợp với hoàn cảnh sử dụng. Xét PTGTPNN ở phƣơng diện hoàn cảnh sử
dụng là ta xét xem trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp đặc thù thì những PTGTPNN nào
đƣợc coi là thích hợp để sử dụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
Có hoàn cảnh giao tiếp mang tính nghi thức xã hội và hoàn cảnh giao tiếp
không mang tính nghi thức xã hội.
Do tìm hiểu PTGTPNN trên tƣ liệu là các tác phẩm văn chƣơng chứ không
phải trong thực tế hoạt động giao tiếp ngoài đời sống cho nên các tƣ liệu khảo sát
đƣợc không bao quát hết các hoàn cảnh sử dụng PTGTPNN. Xin tạm xếp các
PTGTPNN tiêu biểu đã thu thập đƣợc vào hai hoàn cảnh sử dụng là hoàn cảnh
mang tính nghi thức xã hội và hoàn cảnh không mang tính nghi thức xã hội (sinh
hoạt đời thƣờng), nhằm mục đích chứng minh rằng PTGTPNN xét ở bình diện ngữ
dụng học cũng có sự phân biệt ở hoàn cảnh sử dụng.
Bảng 7: PTGTPNN được sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp trang trọng, mang
tính nghi thức xã hội và hoàn cảnh sinh hoạt đời thương, phi quy thức
Hoàn cảnh giao tiếp
PTGTPNN
trang trọng, mang tính
nghi thức xã hội
sinh hoạt đời thƣờng,
phi quy thức
bắt tay + +
bĩu môi +
chắp tay vái + +
chép miệng +
cúi chào + +
cúi đầu + +
cười tủm tỉm, cười gượng, cười
mỉm + +
cười khanh khách, cười rầm rĩ,
cười ồ ồ, cười hí hí, cười hi
hi,...
+
đập bàn +
gãi đầu, gãi tai, gãi gáy +
gật đầu + +
giơ tay chào + +
hất hàm +
lắc đầu + +
lườm, nguýt +
nghiến răng +
nháy mắt +
nhăn mặt +
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
nhún vai + +
phát, véo vào đùi, vào tay,... +
so vai +
tặc lưỡi +
thở dài + +
trợn mắt +
vênh mặt +
vỗ đùi +
vỗ tay + +
vỗ trán + +
vung tay, giơ tay lên, đập tay
xuống, chém tay vào không
khí,...
+ +
xoa tay + +
xua tay + +
Dễ nhận thấy là hầu hết những PTGTPNN sử dụng đƣợc trong hoàn cảnh
trang trọng, nghi thức đều có thể dùng trong hoàn cảnh sinh hoạt đời thƣờng,
nhƣng nhiều PTGTPNN sử dụng đƣợc trong hoàn cảnh sinh hoạt đời thƣờng lại
không đƣợc sử dụng trong hoàn cảnh nghi thức, trang trọng. Nếu sử dụng sẽ bị coi
là không phù hợp, không đảm bảo tính văn hóa. Các PTGTPNN dùng trong hoàn
cảnh sinh hoạt đời thƣờng thƣờng là những yếu tố cơ thể vận động rất tự nhiên
thoải mái, rất sinh động và đa dạng. Các PTGTPNN dùng trong hoàn cảnh trang
trọng thƣờng chừng mực hơn về mức độ biểu hiện và số lƣợng cũng hạn chế.
2.5. VAI TRÕ CỦA PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ TRONG
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
Hoạt động giao tiếp bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau. Có thể kể ra những nhân tố cơ bản: nhân vật giao tiếp, đối tƣợng giao tiếp –
đề tài của phát ngôn/diễn ngôn, hoàn cảnh giao tiếp (hoàn cảnh rộng, hoàn cảnh
hẹp) mục đích giao tiếp, phát ngôn/diễn ngôn (gọi chung là lời).
(Về vấn đề này, xin xem thêm tài liệu tham khảo [1,tr.15-39])
Trong các nhân tố trên, nhân vật giao tiếp phân đƣợc thành vai phát diễn ngôn
(vai nói/viết – kí hiệu sp1) và vai tiếp nhận diễn ngôn (vai nghe/đọc – kí hiệu sp2).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
Theo Đỗ Hữu Châu, diễn ngôn có thành tố nội dung và hình thức. Hình thức của
diễn ngôn gồm các yếu tố ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học (cú
pháp), các hành vi ngôn ngữ tạo nên phát ngôn/diễn ngôn và cả các yếu tố kèm lời
và phi lời. Theo đó, PTGTPNN là thuộc về nhân tố phát ngôn/diễn ngôn - nhân tố
không thể thiếu trong một hoạt động giao tiếp, có liên quan chi phối và chịu sự chi
phối của các nhân tố khác trong hoạt động giao tiếp.
Thuộc về nhân tố trung tâm của hoạt động giao tiếp, PTGTPNN đóng một vai
trò quan trọng cùng với lời nói để cấu thành hoạt động này. Đồng thời, là phƣơng tiện
giao tiếp quan trọng bên cạnh lời (phát ngôn, diễn ngôn, trong giao tiếp đƣơng diện),
PTGTPNN cũng có ý nghĩa hỗ trợ đắc lực cho lời nói trong hoạt động giao tiếp.
2.5.1. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thay thế cho một phát ngôn
Trong hoạt động giao tiếp, nhiều khi vì lí do nào đó (không tiện dùng lời hoặc
dùng lời kém hiệu quả hơn) các nhân vật trong tác phẩm đƣợc khảo sát đã dùng
PTGTPNN thay cho việc dùng một phát ngôn để diễn đạt nội dung giao tiếp. Khi
đó, PTGTPNN có chức năng thay thế cho một phát ngôn (chức năng thay lời).
VD20: “... phóng viên nói xong thì nghiêng đầu cúi chào một cách ranh mãnh,
rồi quay gót định cáo lui. Ông huyện đập cái thước kẻ lên bàn giấy đánh chát một
cái, làm cho thiếu niên lại quay lại. Ông huyện đỏ mặt nói:
- Anh muốn gây sự với quan trƣờng đấy phải không?” [33,tr.265].
Hành động đập cái thước kẻ lên bàn giấy có giá trị tƣơng đƣơng với phát
ngôn “Anh kia quay lại!” nhƣng có tính hiệu lực cao hơn phát ngôn ở hoàn cảnh
này. Nó khiến ngƣời phóng viên đã “quay gót định cáo lui” phải lập tức “lại quay
trở lại” tiếp tục cuộc giao tiếp.
VD21: “Nghị Hách nói xong nhìn Thị Tín một cái mà lắc đầu. Cô ả này ra
khỏi gian phòng khép cửa lại” [33,tr.277].
Chào hỏi Long xong, nghị Hách ra hiệu cho cô nàng hầu bằng cử chỉ nhìn và
lắc đầu. Cử chỉ này tƣơng đƣơng với phát ngôn “Cô hãy đi ra ngoài”. Dùng
PTGTPNN trong tình huống giao tiếp này, nghị Hách vừa đảm bảo đƣợc sự tế nhị
trƣớc mặt khách, vừa bộc lộ đƣơc uy quyền của mình trƣớc nàng hầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
VD22: “Đông bƣng chén trà đặt trƣớc mặt ông Bằng:
- Ba có đi chơi chợ hoa không, ba?
Ông Bằng lắc đầu:
- Mấy hôm nay ba có hứng thú làm việc. Vào tuổi ba, tạo đƣợc hứng thú khó
lắm.” [29,tr.60]
Nếu không quan tâm đến PTGTPNN, ở tình huống hội thoại trên, ta thấy câu
hỏi của Đông và lời đáp của ông Bằng dƣờng nhƣ chẳng ăn nhập gì với nhau.
Đông hỏi “Ba có đi chơi chợ hoa không?”, lẽ ra ông Bằng phải trả lời “có” hoặc
“không”. Ở đây ông Bằng đã dùng cử chỉ lắc đầu thay cho phát ngôn hồi đáp là
“Ba không đi”, sau đó ông lí giải nguyên nhân của việc ông không đi chợ là vì
mấy hôm nay đang có hứng thú làm việc.
VD23: “San chỉ cho Thứ thấy cái lỗ đục tít mãi ở trên đầu hồi, khẽ bảo:
- Kể thì cũng đủ lối cho không khí ra vào.” [tr.159].
Hành động “chỉ cho Thứ thấy cái lỗ đục tít mãi ở trên đầu hồi” đã thay cho
phát ngôn “Anh hãy trông cái lỗ trên kia”. Nếu không có cử chỉ này thì phát ngôn
của San nói với Thứ thì sẽ không thể hiểu đƣợc.
VD24: Sau đây là một cuộc đối thoại tay ba hết sức thú vị giữa ba nhân vật
Long, Mịch và Tú Anh trong tác phẩm “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, hoàn toàn
bằng PTGTPNN. Tình huống truyện dẫn đến cuộc gặp giữa ba nhân vật là: Sau khi
nghị Hách cƣới Mịch về làm vợ lẽ thì Long đã đôi khi lén đến thăm Mịch và hai
ngƣời đã có quan hệ bất chính với nhau. Lần này Long đến, sau khi khéo léo sai
đứa ở ra ngoài mà không nghi ngờ gì, Mịch để nguyên áo ngắn quần trong ngồi
tiếp chuyện Long. Đƣơng lúc ấy thì Tú Anh đến bất chợt.
“... Trong lúc bối rối , Mịch chỉ biết đứng ngây mặt ra. Nhanh trí khôn hơn,
Long lại ngồi xuống ghế ôm đầu ủ rủ, để chờ cho Tú Anh đã bƣớc vào phòng
khách rồi mới ngước mắt thẫn thờ nhìn lên, làm nhƣ không hề có một chút cảm
động.
Tú Anh, thấy quang cảnh nhƣ thế, cũng đứng ngây ra. Chàng phải dùng đến
cặp mắt của một viên chánh mật thám để nhìn thẳng vào hai mắt Mịch để bắt trọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
cái tinh thần khó hiểu ấy, Mịch tức thì mất hết cả can đảm, để lộ sự sợ hãi, tay run
lên, mặt tái đi. Cái tinh thần của Mịch lúc ấy đã đủ tố cáo Mịch, đủ để Anh đoán
nổi đến chín phần mƣời mọi sự rồi. Tú Anh so vai một cái, quay lại nhìn Long, thì
Long đánh bài lảng bằng cách cứ cúi mặt xuống đất. Sau cùng, Tú Anh hỏi gắt
Long bằng tiếng pháp:
- Ông? Ồ, ông Long ở đây?” [33,tr.428]
Bất chợt bị bắt gặp khi đang làm một việc không đàng hoàng, Mịch với bản
tính đàn bà yếu đuối, nông cạn chỉ có những phản ứng sinh lí, bản năng nhƣ đứng
ngây mặt ra, chân tay run lên, mặt tái đi. Còn Long, bình tĩnh và nhanh trí hơn đã
khéo léo giấu cảm xúc và việc làm của mình bằng các phƣơng tiện phi ngôn ngữ.
Tú Anh thấy trƣớc mắt những hình ảnh đáng ngờ nhƣng vì chƣa rõ sự thực nên
không thể hỏi trực tiếp bằng lời mà chỉ có thể dò hỏi hai ngƣời bằng PTGTPNN.
Có thể tạm “diễn đạt lại” cuộc gặp gỡ trên nhƣ sau: Thấy Tú Anh vào, Mịch và
Long chạy xa nhau ra, trong lúc Mịch run rẩy sợ hãi thì Long cứ ôm đầu đau khổ,
và khi Tú Anh vào thì Long ngước mắt thẫn thờ nhìn lên, tỏ ra rằng hai ngƣời chỉ
gặp nhau để than thở chuyện cũ chứ không làm gì xấu, do vậy Tú Anh vào thì
Long cũng không có gì phải bối rối, hốt hoảng. Tú Anh nghi ngờ, dùng con mắt dò
xét nhìn thẳng vào hai mắt Mịch nhƣ muốn hỏi: “Dì hãy giải thích tại sao lại thế
này?” Vẻ run rẩy sợ hãi của Mịch đã tố cáo tất cả. Tú Anh so vai ái ngại, tiếp tục
nhìn Long dò hỏi “Tại sao anh lại đến đây? Anh đã hứa với tôi những gì?”. Long
tránh câu hỏi của Tú Anh bằng cách nhìn xuống đất, để cuối cùng, Tú Anh đành
phải hỏi thẳng Long một câu bằng tiếng Pháp.
Rõ ràng trong ví dụ trên, chỉ bằng PTGTPNN, Tú Anh đã hỏi và thu đƣợc
những thông tin chính xác cần thiết. Long và Mịch tuy cố tình giấu đi câu trả lời
nhƣng qua các PTGTPNN, họ đã để lộ tất cả sự thực.
2.5.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ mô phỏng và minh họa nội dung của
lời
Cùng với lời nói, ngƣời ta có thể dùng PTGTPNN để mô phỏng, minh họa
điều đƣợc nói đến. Ví dụ: các chính trị gia dang hai tay để đo tầm cỡ của vấn đề,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
vẽ một vòng tròn khi nói đến số không, giơ ngón tay để minh họa các con số, …
Có thể thấy vài ví dụ trong các tác phẩm đƣợc khảo sát chứng minh cho vai trò, ý
nghĩa này của PTGTPNN.
Để minh họa cho ý nghĩa “số 1”, ngƣời ta giơ một ngón tay lên:
VD25: "- Thế đăng ký thôi nhé. Một con thôi. - Bà giơ một ngón tay lên,
miệng cƣời rất tƣơi…"[ 29,tr.138]
Để minh họa cho ý nghĩa “số 5”, ngƣời ta xòe năm ngón tay:
VD26: " Nghị Hách cƣời ha hả một hồi, cứ vỗ mãi vào vai Long, cƣời nhƣ
một điều gì thú vị lắm. Sau cùng Lão mới vừa nấc nấc, vừa nói.
- Mày còn ngu lắm! Mày có biết ở những nơi phồn hoa đô hội nhƣ Hà Nội,
Hải Phòng, ngƣơi ta bán chữ trinh của ngƣời ta bao nhiêu không? - Đến đây, Lão
xòe bàn tay ếch ra. - Năm đồng! (…)" [ tr. 279]
Để diễn đạt ý nghĩa “không có gì, không còn gì”, ngƣời ta có thể xòe bàn tay
hoặc dang rộng hai tay:
VD27: "Ông Thống đứng ở đầu bàn, xòe bàn tay: - Báo cáo là kinh phí không
còn một trinh, một kẽm ạ." [28,tr.58]
VD28: " Luận (..) dang rộng hai cánh hai cánh tay, thở phù một hơi:
- Chằng có gì cả! Bị tịch thu hết rồi!"[29,tr.29]
Loại PTGTPNN mô phỏng, minh họa nội dung của lời khá phổ biến trong
hoạt động giao tiếp, đặc biệt đƣợc các diễn giả sử dụng nhiều khi diễn thuyết, giúp
cho sự diễn đạt thêm sinh động, dễ hiểu.
2.5.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ làm biến đổi nghĩa lời nói và giúp nhận
biết hành vi ở lời gián tiếp
Chúng ta giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ âm thanh nhƣng nhiều khi, những
thông tin mà ngôn ngữ cơ thể mang lại mới chứa đựng đích thực sự mà ngƣời nói
chuyện muốn truyền báo. Trong rất nhiều cuộc giao tiếp (khi phỏng vấn các nhân
vật quan trọng, khi xét hỏi tội phạm hay khi tỏ tình chẳng hạn), việc bỏ qua các
PTGTPNN có thể làm ngƣời nghe mất đi cơ hội nắm bắt các thông tin cần thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
PTGTPNN có thể làm biến đổi ý nghĩa của lời nói và giúp nhân vật biết hành vi
ngôn ngữ gián tiếp ở lời.
VD29: (Thấy Liên dọn cơm tối cho Thứ, bà mẹ đứng lên, lảng vào buồng)
"Thứ hỏi:
- Nhà chƣa ăn kia à?
- Chƣa, lát nữa mới ăn.
Bà mẹ y vừa nói vừa tủm tỉm cười." [ 32,tr.120.]
Phát ngôn hồi đáp của bà mẹ sẽ đƣợc hiểu đúng nghĩa nếu không có
PTGTPNN là điệu bộ tủm tỉm cười. Nhờ quan sát đƣợc điệu bộ này của bà mẹ mà
Thứ hiểu rằng bà đang nói dối, thực ra bà mẹ nhịn bữa cơm tối.
VD30: "- Năm Quí hợi chắc anh viết về con lợn! - Phƣợng đùa. Luận gật đầu
hồn nhiên:
- Còn rộng hơn nữa. Về vũ trụ, thời tiết, mặt trời. (…) có một bài ký gửi tặng
chiến sỹ biên giới phía bắc.
- Tham thế! -Phƣợng nguýt yêu chồng.
Luận cƣời". [29,tr.347]
"Tham thế!" là một lời trách, nhƣng vì có thêm cái "nguýt yêu" của vợ nên
Luận hiểu ngay rằng đó chỉ là một lời trách yêu, một lời bông đùa, do vậy anh đã
đáp lại vợ bằng một nụ cƣời.
VD31: " Thứ mở to đôi mắt nhìn San: - Trọ ở nhà Hải Nam ấy à?"[32,tr.129]
Nếu không có cử chỉ mở thật to đôi mắt thì phát ngôn của Thứ sẽ đƣợc hiểu là
biểu thị hành vi hỏi - hành vi trực tiếp, nhƣng vì có thêm cử chỉ này, nên phát ngôn
cần đƣợc hiểu là biểu thị hành vi biểu cảm (sự ngạc nhiên, sửng sốt) - hành vi ở lời
gián tiếp.
VD32: " Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông Bằng, Lý vội bƣớc lại lừ mắt
nhìn chồng: - Anh Đông, ông bị cao áp huyết đấy" [29,tr.94]
Phát ngôn của Lý có hành vi ở lời trực tiếp là hành vi thông báo, nhƣng cử chỉ
"lừ mắt" của Lý khiến Đông hiểu đấy là hành vi nhắc nhở.
VD33: ( San nói chuyện với Thứ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
"- Tôi chim gái cũng cứ đấy chứ! (…)
Thứ bĩu môi cười nhạt hỏi:
- Anh có chân trong Độc lập văn đoàn đấy ƣ?" [32,tr.83]
Điệu bộ bĩu môi, cười nhạt của Thứ khiến San buộc phải hiểu phát ngôn của
Thứ có hành vi gián tiếp là giễu cợt, mỉa mai. (Các văn sĩ trong Độc lập văn đoàn
rất hay tự khen mình).
2.5.4. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ góp phần cụ thể hóa hành vi ngôn
ngữ
Ở vai trò này, PTGTPNN có chức năng phối hợp với lời để diễn đạt rõ nội
dung ở lời, giúp ngƣời nghe hiểu đƣợc đầy đủ, chính xác nội dung thông điệp từ
phía ngƣời nói.
VD34: " - (…) Vừa rồi gặp một ông sành thuốc, ông bảo cách thƣởng thức
thuốc lá ngon. Thế này, anh Đông - Luận châm điếu thuốc, rít một hơi dài, rút điếu
thuốc khỏi miệng, giơ lên. - Hút khoảng hai xăng ti mét nhƣ thế này, lúc ấy mới thật
là khói của nó. Thế! Hút tiếp, không thở ra, đƣa khói lên mũi, vào chỗ này. - Luận chỉ
vào đoạn sống mũi gần hai khóe mắt, (…)" [29,tr 32]
Sở dĩ ở phát ngôn có hành vi miêu tả, Luận có thế dùng đại từ "này" (vào chỗ
này) là vì "này" đã đƣợc cụ thể hóa, đƣợc làm rõ bằng PTGTPNN là chỉ vào đoạn
sống mũi gần hai khóe mắt.
VD35: " Y (Oanh) lần lƣợt nhìn Thứ rồi San, tiếp:
- Đây là bà cả, đây là bà hai" [32,tr.164].
Trong phát ngôn khẳng định dùng đại từ "đây", và từ này đã đƣợc cụ thể hoá
bằng cái nhìn: Oanh nhìn Thứ và bảo "Đây là bà cả", tiếp đó nhìn San và bảo "Đây
là bà hai".
VD36: " Đẩy cửa phòng, bà phó chỉ tay:
- Các ngƣời ngồi đây chờ tôi." [34,tr.283].
Phát ngôn của bà phó chứa đựng hành vi yêu cầu. Điệu bộ chỉ tay vừa biểu thị
hành vi yêu cầu vừa cụ thể hoá hành vi này: "ngồi đây" tức là ngồi nơi đƣợc chỉ định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
VD37: "… bỗng Long đứng phắt lên, trỏ tay ra cửa: - Ông đi đi! (...)”
[33,tr.314]
Long yêu cầu Tú Anh "đi đi" kèm cử chỉ "trỏ tay ra cửa" có ý nghĩa là "đi ra
khỏi cửa!"
2.5.5. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhấn mạnh hành vi ở lời
Tác giả Phi Tuyết Hinh [5] gọi đây là chức năng lặp lại thông tin của
PTGTPNN. Ví dụ cùng với lời nói là "không" thì dùng kèm cử chỉ lắc đầu, cùng
với lời nói là "có" thì sử dụng cử chỉ gật đầu…
PTGTPNN có vai trò này là những PTGTPNN có cái biểu hiện tƣơng đồng
với hành vi ở lời. Ví dụ: Hành vi lời nói là tán đồng thì phƣơng tiện phi lời đi kèm
cũng có cái đƣợc biểu hiện là sự tán đồng; hành vi ở lời là biểu cảm (vui vẻ, tức
giận, ngạc nhiên,...) thì phƣơng tiện phi lời dùng kèm cũng có cái đƣợc biểu hiện là
các sắc thái tình cảm, cảm xúc của con ngƣời. Nhờ sự tƣơng đồng ấy mà hành vi
lời đƣợc nhấn mạnh.
VD38: "- Mặc cậu! Mặc cậu! Chúng tôi không biết…
San vừa lắc đầu, vừa xua tay, vừa nhắm nghiền hai mắt (…)" [32,tr.146].
VD39: " Đông gật : - Đƣợc đấy. ( …)" [29,tr.356].
VD40: " Vạn tóc mai vỗ đùi: - Chính đấy! "[33,tr.440].
VD41: " Ông huyện đập bàn một cái, giận dữ nói:
- Thế nào, quan đùa với mày đấy à?" [33,tr.266].
Cử chỉ lắc đầu, xua tay, nhắm mắt biểu hiện sự phủ định, bác bỏ, đi kèm với
phát ngôn có hành vi bác bỏ, phủ định và góp phần nhấn mạnh hành vi này ở lời. Ở
ví dụ 38, 39, cử chỉ gật đầu, vỗ đùi đi kèm hành vi tán đồng. Cử chỉ đập bàn ở ví
dụ 41 biểu thị sự tức giận đi kèm với hành vi trách mắng, thị uy. Sự tƣơng đồng
giữa PTGTPNN với hành vi ở lời góp phần nhấn mạnh hành vi ở lời.
2.5.6. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ bắt nhịp cho lời nói, thu hút sự tập
trung chú ý của người nghe, tạo không khí thân thiện, cởi mở cho cuộc thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
a. PTGTPNN có thể mang ý nghĩa trợ lời, bắt nhịp cho lời nói, chẳng hạn nhƣ
vừa tán thƣởng vừa gật gù, vừa nói vừa vỗ tay xuống bàn, vừa nói vừa vung tay,
"chém'' tay vào không khí,…
VD42: "- Giỏi ! Giỏi ! Bà này lí luận nghe cũng đƣợc đấy. – Luận gật gật
đầu" [29, tr. 273].
VD43: "Đẹp đấy. Đẹp đấy, các con ạ. (…) - Ông Bằng thì thào gật gù"
[29,tr.21].
VD44: " Bà khách gật gù: - Phải ! Phải đấy ! Dễ phải đến thế thì mới có
công hiệu" [34,tr.300].
Cử chỉ gật gật đầu, gật gù gồm nhiều cái gật đầu liên tiếp, bắt nhịp cho lời nói
nên các lời nói đi kèm cũng thƣờng có thành phần lặp lại.
b. Các diễn giả khi đăng đàn diễn thuyết thƣờng sử dụng cử chỉ bắt nhịp cho
lời nói để tạo sự sinh động cho cuộc diễn thuyết, đồng thời thu hút sự chú ý của
ngƣời nghe hƣớng về mình.
Đây là đoạn văn Vũ Trọng Phụng miêu tả cảnh Xuân Tóc Đỏ diễn thuyết
trƣớc công chúng. Nhà văn rất chú ý miêu tả các PTGTPNN mà Xuân đã sử dụng,
vừa để nhấn mạnh nội dung của lời, vừa để bắt nhịp cho lời và thu hút sự tập trung
chú ý của ngƣời nghe. Nhờ biết sử dụng các PTGTPNN mà bài diễn thuyết của Xuân
đã đƣợc hoan nghênh nhiệt liệt:
VD45:"- Hỡi công chúng ! Mi chƣa hiểu rõ những lời lẽ cực kỳ to tát nó khiến
ta phải nhƣờng giải cho nhà vô địch Xiêm La! Quần chúng nông nổi ơi! Mi biết
đâu cái lòng hy sinh cao thƣợng vô cùng (nó vỗ vào ngực) nó khiến ta phải từ chối
danh vọng riêng của ta đi, để góp một phần vào công việc tiến bộ trong trật tự và
hòa bình của tổ quốc ! Giữa cái giờ phút nghiêm trọng này, điều cốt yếu của ngƣời
xả thân cứu nƣớc không phải là chỉ nghĩ đến mình (…) mà là cốt giữ cái mối thiện
cảm của một nƣớc lân bang (nó đấm vào không khí) (…) ta (nó giơ cao tay lên)
không muốn cho hàng vạn mạng ngƣời làm mồi cho binh đao, mắc lừa bọn buôn
súng ! (Nó đập tay xuống) Hỡi quần chúng ! (…) Hòa bình vạn tuế ! Hội Quốc
liên vạn tuế !
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
Xuân Tóc Đỏ diễn thuyết vừa xong, tiếng vỗ tay của nhân dân ran lên nhƣ
mƣa rào ! (…) Nhƣ một bậc vĩ nhân nhũn nhặn, nó giơ quả đấm chào loài ngƣời,
nhảy xuống đất, lên xe hơi" [34,tr.484, 485].
c. Để tạo không khí thân thiện, cởi mở trong giao tiếp hàng ngày, ngƣời ta
thƣờng dùng nụ cƣời. Có khi đó là nụ cƣời tự nhiên, cũng có khi chỉ là cƣời gƣợng
để tỏ sự tôn trọng với ngƣời đối thoại và tạo không khí cởi mở cho cuộc giao tiếp.
VD46: " Mô ngừng một lát, rồi lại bĩu môi
- Con nói thật có cậu chứ đợi đến lúc cậu Đích cho con đồng bạc ăn quà thì
con cũng đến chết già rồi (…)
Nó cƣời hừng hực. Thức cũng cười để khỏi lộ vẻ lạnh lùng" [32,tr.124].
VD47: " Mịch lấy tách ra, rót một chén nƣớc, để ở bàn. Long vẫn đứng
nguyên nhƣ thế. Mịch phải có giấu sự sợ hãi, gượng cười mời một lần nữa
- Kìa, mời anh ngồi xuống chứ sao lại cứ đứng thế !
Long thẫn thờ ngồi xuống ghế. Mịch hỏi qua những cái cười giòn:
- Đƣơng ngồi một mình buồn quá, may sao anh lại đến chơi…" [33,tr.402].
2.5.7. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu thị tình cảm, cảm xúc người nói
PTGTPNN truyền tải lƣợng lớn tình cảm, cảm xúc của ngƣời nói. Ngƣời ta có
thể che giấu các trạng thái tình cảm, cảm xúc qua lời nói nhƣng rất khó có thể che
giấu đƣợc qua các PTGTPNN. Hoàn cảnh giao tiếp đƣơng diện (mặt đối mặt) sẽ giúp
ta nhận biết đƣợc tình cảm thật của đối phƣơng, nếu biết "đọc" ngôn ngữ cử chỉ. Cũng
vì lí do này mà trong nhiều tình huống, để che giấu cảm xúc của mình ngƣời ta
thƣờng chọn cách viết thƣ, gọi điện thoại thay cho gặp mặt trực tiếp.
PTGTPNN có thể biểu thị cảm xúc, tình cảm của ngƣời nói, điều này đã đƣợc
trình bày ở mục h, 1.3.1 (chƣơng 1). Ở đây chỉ xin phân tích một ví dụ chứng minh cho
hiệu quả nói trên của PTGTPNN.
VD48: (...)Đến lúc nói với quý quan ngƣời đồng bào thì nghị Hách nói một
cách hùng hồn không ngờ.
“Thƣa các bà. Thƣa các cô. Thƣa các ngài.
(...)“Thực ra, lòng tôi rất chân thành mà phát chẩn. Tôi đã đi thăm khắp các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
vùng quê (...)Tôi đã thấy những cảnh lầm than, những cảnh ai oán, những cảnh não
lòng! Tôi... tôi cũng là ngƣời, tôi không thể... không thể... không sao...”.
Đến đây, nghị Hách nghẹn ngào, hậm hực, tay đưa lên giữ cổ, không nói
đƣợc nữa. (...)Nghị Hách để hai tay chống bàn, cúi mặt xuống. Trong óc lão hiện
ra cái cảnh tƣợng vợ lão lõa lồ thân thể nằm ôm thằng cung văn. Lão nghĩ đến
Long là con lão, đến Tú Anh là con riêng của vợ lão, đến những câu nói ghê gớm
của khóa Hiền... Bất giác nƣớc mắt lão ở đâu ứa ra lã chã...
Nghị Hách lắc đầu một cái, không lau nƣớc mắt, ngẩng cao mặt lên. Các
quan khách sụt sùi cảm động, đánh trống ngực mà nghe lão nói tiếp:
“Thật vậy, tôi thƣơng xót đồng bào tôi quá, tôi thấy tôi không hy sinh một
ít tài sản thì là có tội to! Do thế có hai buổi phát chẩn vừa rồi. Do thế mà tờ báo
xƣa nay vẫn hô đòi kiểm soát nƣớc mắm để định chiếm độc quyền, cứ công kích
tôi là buôn dân, là làm cộng sản, là ăn tiền của nƣớc Nga! Ha ha ha!...
Nghị Hách thở dài, cười nhạt rất to, lại nói:
“Nhƣng tôi bỏ mặc ngoài tai dƣ luận. Tôi đã có lƣơng tâm tôi xét xử tôi. Đẻ
ra là bình dân, tôi xin giữ lòng trung thành với bình dân cho đến chết!”
Rồi ngừng hẳn. Các quan khách vỗ tay kêu ran” [33, tr.487]
Trong quá trình diễn thuyết trƣớc công chúng nghị Hách đã sử dụng
PTGTPNN biểu hiện nỗi đau khổ (đưa tay giữ cổ), kìm nén đau khổ (lắc đầu một
cái ,ngẩng mặt lên), cả sự khinh bỉ (thở dài, cười nhạt). Nỗi đau khổ của nghị Hách
là chân thật, nhƣng đó chỉ là vì lão nghĩ đến cảnh ngộ riêng của mình (vợ ngoại
tình, đứa con lão yêu mến, tin tƣởng thì nay biết là không phải con lão…). Nỗi đau
khổ ấy xuất phát từ đáy lòng nên mọi ngƣời không nhận ra sự giả dối trong đó, hơn
nữa, nó còn làm cho ngƣời nghe hết sức cảm động và nhiệt liệt tán thƣởng. Ta càng
thấy sự gian manh của nghị Hách khi lão sẵn sàng lợi dụng cả nỗi đau cuả riêng
mình để đánh lừa công chúng, đóng kịch trƣớc công chúng hòng đạt đƣợc tham
vọng thăng quan tiến chức, tham vọng bội thu trong sự nghiệp kinh doanh của
mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
2.5.8. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ giúp ngƣời nghe nhận biết được độ
tin cậy, tính nghiêm túc, chân thành của lời nói
Nhờ các PTGTPNN nhƣ nghiêm nét mặt, nhìn thẳng vào ngƣời đối thoại…
trong các ví dụ sau mà ngƣời nghe có thể nhận biết đƣợc mức độ nghiêm túc, chân
thành, độ tin cậy của lời nói phát ra từ phía ngƣời phát (vai nói).
VD49: "Hãy nghe tao, Can! Đi thế này là tự sát và nhục nhã lắm!
- Sát, thì tôi đã sát nhiều rồi, có tự sát thì cũng chẳng biết ghê tay đâu. Thành thật
đấy, còn nhục? - Can từ từ đứng dậy, đối diện nhìn thẳng mắt Kiên. - Cả đời đi đánh
nhau, thú thật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh (…)" [25,tr.25]
VD50: "Mô ngửa mặt lên cƣời rồi lại nghiêm nét mặt và hạ giọng nói cho thấp
xuống: - Thƣa cậu, không phải là con nói đùa, nhƣng cứ kể ăn uống nhƣ nhà ta thì
không đƣợc bằng những nhà thuyền thợ thật (…)" [32,tr126]
VD51: "Đúng nhƣ Luận dự đoán, anh cán bộ tổ chức sau khi hỏi qua về vợ
chồng Đông - Lý, nhìn thẳng vào mặt Đông, giọng thật nghiêm trang.
- Xin báo để anh biết, hiện giờ chị Lý sống chung nhƣ vợ chồng chính thức
với một ngƣời đàn ông (…). Chúng tôi đã giáo dục nhiều lần. Tƣởng chị ấy hối lỗi
nên chúng tôi đã cho chị ấy vào công tác ở trạm thƣờng trực trong Sài Gòn (…)
nhƣng, thật không ngờ! Nay, tình hình nhƣ vậy, chúng tôi quyết định kỷ luật sa thải
chị ấy. Về việc này gia đình ta có ý kiến gì không?" [29,tr322]
2.5.9. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ giúp nhận biết thông tin về quan hệ
liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp
Bên cạnh lời nói, PTGTPNN cũng giúp ta nhận biết thông tin về quan hệ liên
cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp nhƣ thông tin về vị thế xã hội, vị thế giao tiếp,
về quan hệ thân cận hay xa lạ, trình độ tri thức, văn hóa…
Chẳng hạn, quan sát PTGTPNN mà các nhân vật sử dụng trong ví dụ 52, 53
sau đây ta dễ dàng nhận ra quan hệ giữa họ là quan hệ tình cảm thân mật. Những
cử chỉ rất tự nhiên, thoải mái đƣợc sử dụng cũng giúp nhận biết phần nào vị thế xã
hội của họ. Đây thƣờng là cách bày tỏ tình cảm của những đôi nam nữ bình dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
VD52: "Hắn bẹo Thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn ngƣời lên và hắn cười, hắn
lại bảo: - Đằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?
Thị phát khẽ hắn một cái, làm ra vẻ không ƣa đùa. Sao mà e lệ thế! Xấu mà e
lệ cũng đáng yêu. Hắn cười ngất, và muốn là thị thẹn thùng hơn nữa, hắn vẹo thị
một cái thật đau vào đùi" [30,tr.41].
VD53: "Hắn chặc lưỡi:
- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chƣa tối đã
rúc vào ngay, hì hì…
- Khỉ gió. - Thị phát đánh đét vào lƣng hắn, khoặm mặt lại.
Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách" [26,tr.108]
Qua PTGTPNN và lời nói mà Xuân Tóc Đỏ dùng để giao tiếp với đốc tờ Trực
Ngôn và ông Văn Minh trong ví dụ sau, ta nhận biết đƣợc vị thế xã hội của Xuân
đã đƣợc đẩy lên ngang hàng với hai nhân vật trong giới thƣợng lƣu tƣ sản của xã
hội "Số đỏ".
VD 54: "Xuân Tóc Đỏ vỗ vai rất thân mật ông đốc tờ Trực Ngôn, nháy ông ta
ra cửa sổ để thì thào:
- Tuy tôi không đƣợc mời đến khám bệnh nhƣ ngài, nhƣng tôi biết cậu bé lắm.
Này ngài, chỗ anh em mình với nhau. thì tôi xin mách ngài rằng quả là cậu đến tuổi
dậy thì đấy mà thôi (…)" [34,tr.402]
VD55: "Sau cùng thì cũng nhƣ những kẻ tài trí vững tin ở mình, Xuân Tóc Đỏ
thỉnh thoảng lại vỗ vai Văn Minh một cách thân mật mà rằng:
- Rồi tôi cũng cất nhắc anh lên đƣờng công danh nhƣ Chim, Giao cất nhắc ông
bầu Yên! (…)" [34,tr.440]
2.5.10. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ là tín hiệu chuyển giao lượt lời hay
cắt ngang lượt lời, báo cho người nghe biết là lượt lời này dành cho họ
a. Khi muốn tỏ cho ngƣời đối thoại biết là mình đang chuyển giao lƣợt lời này
cho họ, đang chờ nghe họ nói, ngƣời ta có thể dùng PTGTPNN:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
VD56: "Nghe anh nói tội nghiệp nhƣ một đứa trẻ mắc lỗi. Cô vẫn nhìn anh chằm
chằm, đôi mắt nhƣ lúc nào cũng bốc lên ngọn lửa ngùn ngụt sức trẻ trung, nhìn anh nhƣ
một lời cầu khẩn: Nói đi, anh nói nữa cho em nghe đi" [27,tr.499].
VD57: "Cô gái tủm tỉm cƣời nhƣ đã đọc đƣợc tất cả những gì anh vẫn tƣởng
mình chƣa thể hiện ra ngoài.
- Em bảo nhé:
Anh ngẩng lên nhìn vào mắt cô, hứng đợi một lời nói tiếp:
- Có yêu em thật không?" [27,tr.198]
b. Khi muốn cắt ngang lƣợt lời của ai, ngƣời ta có thể dùng lời nói mà cũng có
thể dùng kèm PTGTPNN.
VD58: "Khoan, chƣa hết - Lý xua tay, tranh lời Phƣợng" [29,tr.15]
c. Theo Đỗ Hữu Châu: "nói không phải là nói giữa khoảng trống. Nói là nói
với ai đó. Ngƣời nói dùng những tín hiệu báo cho ngƣời nghe biết là mình đang nói
với hoặc dành cho ngƣời này lƣợt lời sẽ nói ra nhƣ từ ngữ hô gọi, cái nghiêng
mình, cái nhìn hướng vào người nghe. Ngƣời nói cũng phải đƣợc đoán chắc rằng
mình đang đƣợc nghe, đƣợc đảm bảo rằng ngƣời nghe đang chú ý đến lƣợt lời của
mình" [1,tr.212].
Trong các cuộc hội thoại tay đôi (song thoại) việc báo cho ngƣời nghe biết là
lƣợt lời này dành cho họ không thật quan trọng bởi chỉ có một ngƣời nói và một
ngƣời nghe, luân phiên lƣợt lời. Để thiết lập một cuộc hội thoại, ngƣời này chỉ cần
dùng một lời hô gọi (VD: A này!) hay một cái hất hàm, một nụ cười... Sau đó, khi
một ngƣời nói thì ngƣời kia sẽ luôn hiểu là lƣợt lời này dành cho mình. Nhƣng
trong các cuộc hội thoại đa thoại thì tình hình trở nên phức tạp hơn. Có lúc ta muốn
nói với tất cả mọi nguời, có lúc chỉ muốn nói với một ngƣời trong số đó, lại có lúc
nói với ngƣời này nhƣng lại muốn gửi thông điệp tới ngƣời kia… Khi đó, nguời ta
thƣờng dùng PTGTPNN làm tín hiệu báo cho ngƣời nghe biết là lƣợt ngày này
dành cho họ.
Cử chỉ đƣợc dùng phổ biến nhất để báo hiệu “mình đang muốn nói chuyện với
bạn”, là dùng ánh mắt - cái nhìn vào mắt ngƣời đối thoại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
VD59: "Để ba nói mấy câu. - Mắt chớp chầm chậm, ông Bằng ngần ngừ lướt
qua Đông, Luận, Lý: - Các con ạ, sang năm mới, ba chúc tất cả các con cái may
mắn, cái tốt đẹp sẽ đến nhiều và vững bền mãi mãi" [29tr.97].
Ông Bằng dùng cái nhìn lƣớt qua Đông, Luận, Lý để bảo rằng, lƣợt lời này
ông dành cho tất cả ba ngƣời họ.
Ngƣời đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lại dùng
cái nhìn thẳng vào ngƣời đối thoại để báo cho ngƣời đối thoại biết là lƣợt lời này
dành cho họ:
VD60: "Đang ngồi gục xuống, ngƣời đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào
chúng tôi, lần lƣợt từng ngƣời một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cảm ơn các chú! (…) đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú (…)"
[31,tr.342].
Cùng với cái nhìn thẳng, khi nói với ngƣời này nhƣng lại muốn đồng thời
truyền thông tin tới một ngƣời khác, ngƣời ta có thể nháy mắt.
VD61: "Vạn tóc mái nháy Long một cái mà rằng:
- Đây là ông Long làm chứng nhé: Vừa rồi ông có thấy tôi đã động gì đến ông
cụ nhà tôi không? Họ chỉ nói láo!" [33]
Vạn đang nói dối Tú Anh nhƣng lại nháy mắt với Long (ngƣời đã chứng kiến
Vạn nói xấu nghị Hách) với thông điệp mong Long hãy bao che cho hành động của
Vạn.
VD62: "Cụ Bá biết rằng mình đã thắng, đƣa mắt nháy con một cái, quát.
- Lý Cƣờng đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo ngƣời nhà đun nƣớc, mau
lên!" [30,tr.15].
Cụ bá nói với Chí Phèo nhƣng lại nháy mắt với lý Cƣờng, tỏ cho lí Cƣờng biết
rằng hai cha con họ chỉ đóng kịch thôi, thực ra không phải cụ mắng lí Cƣờng.
Để báo cho ngƣời nghe biết lƣợt lời dành cho họ, ngoài ánh mắt, ngƣời ta còn
có thể dùng nhiều điệu bộ, cử chỉ khác nhƣ chỉ tay, hất hàm...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
VD63: “ Hay lắm! Đồng chí Thống nói là không biết chính trị. Nhƣng nhƣ thế
là chính trị đấy. Chính trị là gì nữa, các đồng chí ? – Dƣơng hất hàm về phía các cô
giáo trẻ” [28,tr.168].
Trong cuộc bàn luận rất đông ngƣời, đủ các thành phần, Dƣơng nêu câu hỏi
rồi hất hàm về phía các cô giáo trẻ là để báo rằng lƣợt lời này đang dành cho họ.
TIỂU KẾT
Dựa vào cơ sở lí thuyết là một số vấn đề thuộc về lí thuyết giao tiếp và hành
vi ngôn ngữ, ở chƣơng này, luận văn đã tìm hiểu về PTGTPNN trên một số bình
diện của ngữ dụng học và rút ra đƣợc một số kết luận chính nhƣ sau:
- Xét từ phƣơng diện thể hiện hành động ngôn trung (hành vi ở lời): Các
PTGTPNN cũng có khả năng thể hiện các hành vi ở lời, giống nhƣ ngôn ngữ bằng
lời. Chẳng hạn gật đầu thể hiện hành vi chấp thuận, lắc đầu thể hiện hành vi phản
đối, vỗ tay – hành vi tán thƣởng,... Tuy nhiên, vì số lƣợng các PTGTPNN hạn chế
hơn nhiều so với ngôn ngữ bằng lời nên khả năng thể hiện hành vi ở lời của
PTGTPNN, trong nhiều trƣờng hợp, cần có lời nói đi kèm.
- Xét từ phƣơng diện chủ thể sử dụng: Chủ thể sử dụng, đặc biệt là vị thế xã
hội của ngƣời sử dụng chi phối việc sử dụng các PTGTPNN. Có những PTGTPNN
thƣờng đƣợc ngƣời ở vị thế cao chủ động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời ở vị thế
thấp (ví dụ vỗ vai, chỉ tay,...) . Lại có những PTGTPNN chỉ ngƣời ở vị thế thấp chủ
động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời ở vị thế cao (ví dụ khoanh tay, cúi đầu,...).
Những PTGTPNN mà những ngƣời có vị thế ngang hàng sử dụng khi giao tiếp với
nhau phong phú hơn cả.
- Xét từ phƣơng diện hoàn cảnh sử dụng: Việc sử dụng PTGTPNN cũng chịu
sự chi phối của hoàn cảnh giao tiếp. Có những PTGTPNN chỉ có thể dùng trong
sinh hoạt đời thƣờng mà không thể sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp mang tính
trang trọng, nghi thức. Những PTGTPNN dùng trong hoàn cảnh trang trọng, nghi
thức hầu hết đều dùng đƣợc trong sinh hoạt đời thƣờng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
- Xét trong hoạt động giao tiếp: PTGTPNN, theo tác giả Đỗ Hữu Châu, nằm
trong thành tố hình thức của diễn ngôn. Chúng có vai trò rất quan trọng trong hoạt
động giao tiếp. Luận văn khái quát đƣợc 10 vai trò của PTGTPNN trong hoạt động
giao tiếp. Song có thể quy vào ba loại vai trò (chức năng) chính, đó là vai trò thay
lời, vai trò trợ lời và vai trò điều hành hội thoại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
Chƣơng 3
VAI TRÕ CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ
ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
3.1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN
NGỮ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Tác phẩm văn chƣơng phản ánh thế giới bằng hình tƣợng nghệ thuật. Tính
thuyết phục, sức hấp dẫn của một tác phẩm là tùy thuộc vào tính chân thực, sinh
động của hình tƣợng nghệ thuật. Hình tƣợng nghệ thuật có thể đƣợc xây dựng với
nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, bằng chất liệu ngôn ngữ. Ở đây xin không đi
sâu bàn về khái niệm hình tƣợng nghệ thuật nói chung mà chỉ nói đến một thủ pháp
xây dựng hình tƣợng nhân vật xƣa nay ít đƣợc bàn đến, đó là thủ pháp miêu tả
PTGTPNN mà nhân vật sử dụng trong hội thoại.
Nhƣ đã nói, trong suốt quá trình diễn ra hoạt động giao tiếp, rất ít khi ngƣời ta
giữ nguyên tƣ thế và hoàn toàn bất động. Thực tế những ngƣời đối thoại luôn sử
dụng các PTGTPNN kèm theo lời nói. Do vậy, để hình tƣợng nhân vật trong tác
phẩm hiện lên chân thực và sinh động, các nhà văn cần chú ý miêu tả PTGTPNN
đƣợc các nhân vật sử dụng.
Dễ nhận thấy là các nhà văn Việt Nam hiện đại đã chú tâm đến việc miêu tả
PTGTPNN của nhân vật. Trong bất kì một cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam
hiện đại nào cũng có thể bắt gặp ít nhiều những PTGTPNN đƣợc các nhân vật sử
dụng trong hội thoại. Trong vài tác phẩm, số lần nhân vật sử dụng PTGTPNN
trong hội thoại đƣợc thống kê nhƣ sau (Bảng 8):
TÁC PHẨM Số lần/trang truyện
Mùa lá rụng trong vƣờn 381/359
Giông tố 312/350
Số đỏ 241/235
Sống mòn 200/243
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
Các tác phẩm đƣợc chọn khảo sát là những tác phẩm trong đó nhà văn rất
quan tâm miêu tả PTGTPNN. Việc miêu tả PTGTPNN của nhân vật trong tác
phẩm văn chƣơng đã mang lại những hiệu quả nghệ thuật nhƣ sẽ trình bày sau đây.
3.2. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ GÓP PHẦN THỂ HIỆN
TÍNH CHÂN THỰC VÀ SINH ĐỘNG CHO CUỘC THOẠI CỦA CÁC
NHÂN VẬT
Hãy so sánh cách miêu tả hội thoại của một số nhà văn Việt Nam trung đại
với nhà văn hiện đại trong vài đoạn trích sau:
VD 1: Trích đoạn: "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (Ngô gia văn phái)
"Lúc gặp Chỉnh ngƣời ấy chƣa kịp nói gì thì Chỉnh đã hỏi:
- Chú lận đận trèo đèo lội suối tới đây làm gì?
Ngƣời em rể chỉ còn biết cúi đầu nín lặng, không dám nói gì nữa. Chỉnh lại
hỏi:
- (…) chú hãy kể cho ta xem kể từ sau khi Huy quận công bị nạn thì công
chúa và các vị công tử lƣu lạc đi đâu?
Ngƣời ấy đáp:
- Khi ấy công chúa bị Dƣơng Thái phi giam vào hậu cung. Còn hai công tử
nghe tin có biến bỏ chạy về huyện Yên Dũng, dấy quân trả thù (…)
Chỉnh nghe xong, than rằng:
- Tuổi trẻ bồng bột, hèn nào không hỏng việc (…)
Rồi Chỉnh lại hỏi:
- Thế đƣa về kinh rồi sau ra sao?
Ngƣời ấy trả lời:
- Triều đình bàn định hai công tử đều đáng tội chết .(…)
Chỉnh có vẻ ngậm ngùi mà rằng:
- Thƣơng thay! Phá tổ đổ trứng! Ngƣời ta có tội tình gì?
Lại hỏi:
- Còn công chúa, từ khi bị giam vào hậu cung thì việc ăn ở ra sao?
Đáp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
- Chúa cũng nghĩ tình cô ruột không hành hạ gì cả (…)
Chỉnh thở dài hồi lâu rồi nói:
- Công chúa chết cũng phải (…)
Lại hỏi:
- Thế còn Đặng Tuyên Phi thì thế nào?
Đáp:
- Đến ngày giỗ "đại tƣờng" của tiên vƣơng, tuyên phi bèn uống thuốc độc mà
chết (…)
Chỉnh nói:
- Chết đƣợc đấy! (…)
Đáp:
- Bởi vì khi chúa lên ngôi đƣợc một năm (…)
Lại hỏi:
- Ngoài mấy việc ấy, còn chuyện báo ân, báo oán gì khác nữa không?
Đáp: - (…)
Chỉnh nói:
- Bãi bỏ mệnh của cha giữa triều đình, phơi bày lỗi của cha với cả nƣớc, đó là
việc đại bất hiếu!
Hỏi:
- Tham tụng, bồi tụng bây giờ là những ai?
Đáp: - (…)
Hỏi:
- Từ bấy đến nay có điềm lành, điềm gở gì không?
- Điềm lành không thấy, chỉ có điểm gở thì nhiều (…)
Chỉnh nói:
- Đó là tiếng trống trời
Ngƣời ấy kể tiếp: (…) " [24,tr.596-601]
VD 2: Trích đoạn "Việt Nam tiểu sử" (Lê Hoan)
"Bá Nhạc nói:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
- Con cáo có vết tên bắn, sao con nai không có vết tên?
Đán thƣa rằng:
- May quá! Tôi (…) lẻn lại rồi bắt sống trói lại, (…)
Hiến mừng nói rằng:
- Tuy nhiên thế, nhƣng cũng bởi ngƣời có thần lực mới bắt đƣợc.
Nhạc nói:
- Tim cáo về tháng chạp là vị rất ngon, nên cho làm rƣợu đánh chén.
Đán thƣa rằng:
- (…) xin nguyên súy cho cả ba quân uống rƣợu (…)
Hiến nói:
- Hợp ý ta lắm. " [24,tr.1106,1107]
VD 3: Trích đoạn "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng)
"Lý quay phắt đầu lại phía Luận, hất hàm:
- Tƣởng tối mịt mới về! Đậu xanh gói bánh đâu?
Luận đứng sững (…) dang rộng hai cánh tay, thở phù một hơi:
- Chẳng có gì cả! Bị tịch thu hết rồi!
Lý nhảy ra khỏi ghế, giậm chân, xỉa tay:
- Bịa! Bịa! Tịch thu! Nói dễ nghe nhỉ? (…) ai tịch thu?
Luận nhệch miệng cười nhƣ mếu:
- Ai tịch thu? Thuế vụ chứ còn ai nữa! (…)
- Há! Há! - Đẹp mặt chƣa! - Lý vỗ tay đồm độp, cười ha hả. " [29,tr.29]
VD 4: Trích đoạn: "Số đỏ" (Vũ Trọng Phụng)
"Cụ Hồng giẫy hai bàn chân nhăn nhó kêu:
- Khổ lắm, nói mãi, gọi bồi nó lên tiêm cho ngƣời ta đi! Khỉ ơi là khỉ!
Cáu tiết, cụ bà đập xuống bàn đánh thình một cái, gắt:
- Tôi không gọi! Ông hãy nhịn đi một chốc! Hút vào để cái gì cũng biết rồi,
biết rồi ấy à?
Tức thì ông cụ ngồi nhổm dậy cả quyết:
- À, giỏi nhé? Đƣợc lắm! Rồi mà xem! (…)" [34,tr.386]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
Các trích đoạn ở ví dụ 1 và ví dụ 2 là trích đoạn tác phẩm tự sự Việt Nam
trung đại. Do đặc điểm nổi bật của thi pháp văn học trung đại là tính công thức,
ƣớc lệ trong xây dựng nhân vật nên ngoại hình và các cử chỉ, điệu bộ của nhân vật
rất ít đƣợc các nhà văn chú tâm miêu tả. Trong hai trích đoạn đã dẫn, dễ nhận thấy
là các nhà văn miêu tả hội thoại của các nhân vật rất đơn điệu. Các nhân vật chỉ
“hỏi”, “đáp”, “trả lời”, “lại hỏi”, “thưa rằng”,... Tìm đọc các tác phẩm đƣợc
tuyển chọn trong cuốn “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại” do Nguyễn Đăng
Na giới thiệu và tuyển soạn [24] ngƣời đọc sẽ dễ dàng bắt gặp những cuộc đối
thoại đƣợc miêu tả nhƣ thế này. Chính vì vậy mà các cuộc thoại trong văn xuôi
Việt Nam trung đại đƣợc xây dựng thiếu hẳn tính chân thực và sinh động. Phƣơng
tiện giao tiếp của các nhân vật hầu nhƣ chỉ là lời nói, do vậy các nhân vật chủ yếu
chỉ truyền thông tin cho nhau, còn các sắc thái tình cảm, cảm xúc, các nội dung
thông tin liên cá nhân,… đƣợc biểu đạt rất hạn chế.
Không thể phủ nhận rằng, việc miêu tả PTGTPNN cũng là một thủ pháp góp
phần hình tƣợng hóa nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên sống động, rõ nét hơn.
Cũng chính vì ít chú ý miêu tả cử chỉ, điệu bộ,… của nhân vật mà trong văn học
trung đại, các nhân vật chỉ hiện lên ở số phận, hành động chứ rất ít ở dáng điệu.
Ngoại hình nhân vật mang nặng tính công thức, ƣớc lệ và cũng vì thế mà cá tính
nhân vật bị mờ hóa, ít để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời đọc.
Ví dụ 3.4 là trích đoạn tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Các nhà văn hiện đại đã
xóa bỏ tính công thức ƣớc lệ trong xây dựng nhân vật, kéo nhân vật về với đời
thƣờng bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó phải kể đến sự nỗ lực trong việc
xây dựng các đoạn hội thoại đậm chất sống, từ lời đối thoại đến việc miêu tả
PTGTPNN khi nhân vật đối thoại. Cũng nhờ thế mà nhân vật đƣợc cá tính hóa đậm
nét. Đọc "Số đỏ" (Vũ Trong Phụng) nguời đọc không thể quên cử chỉ cúi gập
người xuống nhƣ một cái máy với câu "Chúng tôi rất hân hạnh!" của Xuân Tóc
Đỏ; khó quên cụ cố Hồng với động tác vờ ôm ngực ho sù sụ và đôi mắt nhắm
nghiền cùng câu nói cửa miệng "Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi! ". Đọc "Chí Phèo"
(Nam Cao) ta rất ấn tƣợng về cái cƣời Tào Tháo của cụ bá - tiếng cười khanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
khách, cười ha hả và điệu cười nhạt nham hiểm. Đọc "Mùa lá rụng trong vƣờn"
(Ma Văn Kháng) ta thấy bắt gặp đâu đó trong đời thƣờng một nhân vật Lý rất quen
thân với cái bĩu môi và vệt nguýt sắc lẻm,…Xin đƣợc đi sâu phân tích điều này ở
phần dƣới đây.
3.3 PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ GÓP PHẦN KHẮC HỌA
TÍNH CÁCH NHÂN VẬT
3.2.1 Theo cách hiểu thông thƣờng, "tính cách" đƣợc hiểu là những đặc điểm, những
phẩm chất nào đó của nhân vật đƣợc thể hiện tƣơng đối rõ nét.
Trong giáo trình "Lí luận văn học" [4 ], khái niệm "tính cách" đƣợc hiểu rộng
hơn: Tính cách cũng là nhân vật, nhƣng là nhân vật đƣợc thể hiện với một chất
lƣợng tƣ tƣởng và nghệ thuật cao hơn. Tính cách vừa mang những nét chung tiêu
biểu cho nhiều ngƣời lại vừa mang những nét riêng, độc đáo của một con ngƣời cá
biệt, cụ thể. Để khắc họa tính cách nhân vật, ngƣời ta thƣờng dùng đến các phƣơng
tiện nhƣ sau:
Trƣớc hết, phƣơng tiện cơ bản để thực hiện xây dựng tính cách nhân vật là
các chi tiết, những nét cụ thể đƣợc nhà văn chú ý đến khi miêu tả ngoại hình, nội
tâm và hành động của nhân vật cũng nhƣ những gì liên quan đến nhân vật. Chi tiết
đóng vai trò quan trọng trong miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật. Trong
đó, ngoại hình nhân vật là khái niệm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ,
điệu bộ, động tác, tác phong,… của nhân vật. Ngoại hình nhân vật đƣợc thể hiện
sinh động sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật. Đăc biệt nó còn có tác dụng cá
biệt hóa nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên rõ nét, sống động, khó bị trộn lẫn.
Ngoài sử dụng chi tiết mô tả ngoại hình, nội tâm, các nhà văn còn sử dụng
phƣơng tiện khác là ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật cũng đóng vai trò cá
biệt hóa nhân vật.
Khái niệm "tính cách" trong lí luận văn học nhấn mạnh đến những nét cá biệt
hóa, nét riêng có của mỗi nhân vật. Khi xem xét ý nghĩa của việc miêu tả
PTGTPNN đối với việc xây dựng tính cách nhân vật, có thể xem xét ý nghĩa của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
PTGTPNN với việc khắc họa những đặc điểm, phẩm chất nào đó của nhân vật,
đồng thời tìm hiểu vai trò của chúng đối với việc cá biệt hóa nhân vật.
3.2.2. Hầu hết các nhà văn Việt Nam hiện đại đều có ý thức miêu tả PTGTPNN khi
xây dựng các cuộc hội thoại giữa các nhân vật nhằm tạo tính chân thực và sinh
động cho tác phẩm. Tuy nhiên, đặc biệt chú trọng miêu tả PTGTPNN và xem đó
nhƣ một thủ pháp để khắc họa tính cách nhân vật và cá biệt hóa nhân vật thì trong
số các nhà văn có tác phẩm đƣợc khảo sát phải kể đến là các nhà văn nhƣ Nam
Cao, Vũ Trọng Phụng, Ma Văn Kháng. Phần này sẽ đi sâu phân tích ba tác phẩm
"Số đỏ" (Vũ Trọng Phụng), "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng) và "Sống
mòn" (Nam Cao), với hy vọng chỉ ra đƣợc vai trò của loại phƣơng tiện này trong
xây dựng hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm văn chƣơng.
a. Tác phẩm "Số đỏ" (Vũ Trọng Phụng)
Tác phẩm dựng lên bức tranh nhiều màu sắc của xã hội những bọn trọc phú,
hình thức và kiểu cách, chạy theo Âu hóa một cách nhố nhăng và lố bịch, một xã
hội của bọn dâm đãng, lũ con cháu bất hiếu và bọn ngƣời sẵn sàng vì đồng tiền mà
chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức và danh dự. Sự nhố nhăng, kệch cỡm, lố bịch và rởm
đời của xã hội ấy thể hiện ở ngay cách thức nhân vật giao tiếp với nhau.
Đặc biệt ấn tƣợng là nhân vật Xuân Tóc Đỏ. Đọc tác phẩm, ngƣời đọc không
thể quên hình ảnh Xuân Tóc Đỏ với cái cúi đầu kính cẩn và câu nói "Chúng tôi rất
hân hạnh". Có tới 4 lần nhà văn nhắc lại gần nhƣ nguyên vẹn các câu:
"Xuân Tóc Đỏ cúi xuống rất thấp:
- Chúng tôi rất đƣợc hân hạnh" [34, tr.310, 373,446,489]
Học đƣợc câu nói cùng cử chỉ đƣợc xem là rất lịch sự ấy, Xuân áp dụng ở mọi
nơi mọi lúc, cả trong những tình huống không nên dùng. Ví nhƣ khi Xuân và Tuyết
đang dạo chơi thì gặp ngƣời tình cũ của Tuyết, anh này chào theo lối cổ điển
(khoanh tay vái chào) liền bị Xuân gạt phăng đi và cho rằng thế là hủ lậu, chƣa
đƣợc tiến hóa mấy. Liền sau đó Xuân thể hiện lối chào "cải cách" của mình:
"Xuân Tóc Đỏ cúi đầu:
- Chúng tôi rất hân hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
Rồi ưỡn ngực mà tiếp:
- Me sừ Xuân, giáo sƣ quần vợt, cái hi vọng của Bắc Kỳ" [34,tr.446]
Gặp gỡ tình địch mà giới thiệu nhƣ vậy thì quả thật là hết sức kì khôi, xƣa nay
chƣa từng có. Nhân vật nhƣ một cái máy, bắt chƣớc một cách máy móc, mà chẳng
hiểu gì về ý nghĩa của hành động mình làm. Chính sự bắt chƣớc kệch cỡm đó đã
làm bật lên tiếng cƣời. Vũ Trọng Phụng miêu tả có đến 4 lần Xuân dùng động tác
ƣỡn ngực khi giới thiệu về mình:
+ "Xuân Tóc Đỏ ưỡn ngực lên, giấu cái chổi lông gà sau lƣng, nghiêm trang:
- Tôi? Là…là… một ngƣời dự một phần trong việc Âu hóa" [34,tr.308]
+ "Xuân ưỡn ngực lên, dõng dạc nói:
- Còn tôi thì tôi đang giáo dục cái xác thịt cho cậu ấy, và cả bà mẹ cậu ấy"
[34,tr.408]
+ "Xuân Tóc Đỏ ưỡn ngực ra mà rằng:
- Me sừ Xuân, giáo sƣ quần vợt, cái hy vọng của Bắc Kỳ" [34,tr.440]
Đối với ngƣời Việt Nam, cử chỉ ưỡn ngực thể hiện thái độ kiêu căng, tự phụ,
hợm hĩnh. Nhƣng có đến 3 lần (ở các trang 345, 370, 420) Xuân đã dùng cử chỉ
này chỉ để nói với ông Phán rằng: "- Thƣa ngài, ngài là một ngƣời chồng mọc
sừng". Ví dụ:
+ “Xuân Tóc Đỏ bắt tay xong, ưỡn ngực lên cất giọng lanh lảnh nói to:
- Thƣa ngài, ngài là một ngƣời chồng mọc sừng!” [34,tr.345]
Miêu tả các PTGTPNN hết sức máy móc, nhố nhăng và lố bịch mà Xuân Tóc
Đỏ thƣờng sử dụng khi giao tiếp, nhà văn muốn khắc họa tính cách nhân vật này là
kẻ vênh váo, tự phụ, kiểu cách nhƣng lại hết sức ngu dốt. Xuân chỉ là một hình
nộm rỗng tuếch mà mọi giá trị đều không do tự bản thân mình tạo ra mà do xã hội
khoác vào.
Ngoài Xuân Tóc Đỏ, rất nhiều nhân vật trong xã hội trƣởng giả tƣ sản ấy cũng
có những cử chỉ, điệu bộ hết sức kệch cỡm, nực cƣời. Ví nhƣ nhân vật ông Phán
mọc sừng. Ông này bắt gặp vợ đang ngủ với tình nhân trong khách sạn thì bực tức
và chửi bậy. Ngƣợc đời thay, ngƣời tình nhân lại tỏ thái độ rất lịch sự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
"Ngƣời tình nhân lại cúi đầu kính cẩn có ý công kích ông Phán về mục xã
giao: - Chúng tôi rất hân hạnh (…)" [34,tr.371].
Sợ rằng sẽ bị mang tiếng là ngƣời thƣợng lƣu mà mất lịch sự, trƣớc sự nhã
nhặn của tình địch, ông Phán liền chuyển sang thái độ nhã nhặn, nói chuyện thân
tình, cởi mở với ngƣời tình nhân của vợ mình. Và kết thúc cuộc gặp gỡ đó:
"Ông Phán bèn nháy mắt với ngƣời yêu, bắt tay tình nhân vợ ông, lễ phép nói:
- Thôi, kính chào ngài, rất mong có phen tái ngộ" [34,tr.373]
Thái độ, ứng xử của một ngƣời chồng trƣớc một ngƣời tình của vợ nhƣ ông
Phán quả thực xƣa nay hiếm!
Cử chỉ bắt tay đƣợc du nhập từ phƣơng Tây hiện đƣợc sử dụng khá phổ biến
trong giao tiếp xã giao của ngƣời Việt hoặc giao tiếp khi bạn bè thân tình gặp mặt.
Nhƣng cử chỉ ôm hôn thì ít đƣợc sử dụng. Cha con có thể bắt tay, ôm hôn trong vài
tình huống đặc biệt - lúc chia xa chẳng hạn. Nhƣng trong tình huống giao tiếp của
cha con cụ cố Hồng sau đây, thì cử chỉ này lại trở nên kệch cỡm và lố bịch khác
thƣờng:
"Văn Minh đến bắt tay ông bố một cách thân mật mà rằng:
- Toa tốt lắm. Để tối nay lên ăn cơm trên quan giám đốc, Moa sẽ xin chính
phủ cho Toa cái long bội tinh.
Cụ cố Hồng bèn bá cổ ông con để hôn, rồi đáp:
- Cảm ơn vô cùng! Hân hạnh tạm biệt! Toa ăn ở đến thế với Moa thì quý hóa
lắm" [34,tr.489,490].
So sánh với cử chỉ mà cha con Tú Anh (trong "Giông tố" - Vũ Trọng Phụng)
sử dụng lúc chia tay:
"Ông già quay lại, giơ tay ra bắt tay con.
Tú Anh, quên cả vũng nƣớc dƣới chân, quỳ xuống hôn tay bố, gục đầu vào hai
bàn tay…
Khi thấy tay mình có vài giọt lệ nóng thì Hải Vân lôi Tú Anh đứng lên, hôn
hai bên má. Sau cùng Hải Vân vỗ hai vai con nói gọn:
- Thôi, ở lại và sống cho can đảm!" [33,tr.502]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
Cũng sử dụng cử chỉ bắt tay, ôm hôn, nhƣng cuộc chia tay của cha con Tú
Anh lại khiến ngƣời đọc cảm động bởi nó xuất phát từ tấm chân tình - tình cha con
và xen lẫn cả tình đồng chí.
Nam nữ bắt tay nhau trong xã hội hiện đại là chuyện thông thƣờng, nhƣng ở
thời Vũ Trọng Phụng viết "Số đỏ" - thời kỳ đang diễn ra cuộc Âu hóa, cũ mới tranh
nhau, Á Âu xáo lộn, thì việc nam nữ bắt tay nhau còn quá mới mẻ, hơn nữa việc nữ
chủ động bắt tay nam càng "khó coi". Nhân vật bà Typn gây ấn tƣợng cho ngƣời
đọc ở chi tiết gặp Xuân trên đƣờng, bà "trông trƣớc nhìn sau thấy rõ ràng là phố
vắng ngƣời rồi, mới dám bạo dạn đưa tay ra nhƣ một tân nữ lƣu tập sự mà bắt tay
Xuân Tóc Đỏ".[34,tr.413]
Do trong xã hội vẫn nặng quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", bà Typn học
đòi bắt tay bạn trai nhƣng vẫn ngại mọi nguời trông thấy nên phải ngó trƣớc ngó
sau thấy không có ngƣời rồi mới dám chào bạn bằng cử chỉ hết sức tân tiến ấy.
Việc miêu tả PTGTPNN của các nhân vật đã giúp Vũ Trọng Phụng khắc họa
một cách chân thực và đậm nét hình ảnh một xã hội trƣởng giả, kệch cỡm, một xã
hội của những kẻ trọc phú, đua nhau chạy theo Âu hóa một cách mù quáng. Xã hội
ấy sản sinh ra một Xuân Tóc Đỏ cũng là dễ hiểu.
b. Tác phẩm "Sống mòn" (Nam Cao)
Thứ và San là hai nhân vật điển hình cho bi kịch sống mòn của ngƣời trí thức
trƣớc cách mạng. Họ là ngƣời trí thức có nhân cách, có tâm hồn, ôm ấp những ƣớc
mơ, hoài bão cao đẹp nhƣng lại bị cuộc sống áo cơm ghì sát đất. Suốt cuộc đời họ
theo đuổi những ƣớc vọng nhƣng rồi từng bƣớc từng bƣớc lại phải thỏa thuận, đầu
hàng số phận, chấp nhận những thất bại cay đắng. Nhân vật thƣờng trĩu nặng suy
tƣ và những day dứt trong đời sống nội tâm mà ít hành động. Khắc họa kiểu tính
cách này, Nam Cao rất chú ý miêu tả các PTGTPNN đƣợc họ sử dụng trong giao
tiếp hàng ngày.
Thứ và San giống nhau ở bi kịch tinh thần - bi kịch “sống mòn”, nhƣng tính
cách họ có phần khác nhau. Thứ điềm tĩnh, kín đáo, giàu suy tƣ, nhiều day dứt; San
sôi nổi, bồng bột, nông cạn hơn, tuy cả hai đều nếm trải những vị chát đắng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
cuộc đời. Để cá biệt hoá tính cách hai nhân vật, Nam Cao chú ý miêu tả sự khác
nhau trong cử chỉ, điệu bộ của họ.
Miêu tả Thứ và San, nhà văn đặc tả tiếng cười. Ngoài tiếng cƣời và điệu bộ
tặc lưỡi, bĩu môi, hai nhân vật rất ít đƣợc miêu tả thêm các cử chỉ, điệu bộ khác.
Có thể phân tích điệu thái tiếng cƣời của họ để thấy sự khác nhau về tính cách giữa
hai nhân vật này.
● Nhân vật Thứ
Thứ sử dụng khá nhiều điệu bộ, cử chỉ để giao tiếp nhƣng tiếng cười và hành
động tặc lưỡi đƣợc nhân vật sử dụng nhiều hơn cả.
- Về điệu cƣời của Thứ:
Nhật vật Thứ đƣợc miêu tả 12 lần điệu mỉm cười khi nói chuyện [32,tr.71,
144, 158, 165, 193, 201, 118, 214, 253, 271, 136]; 6 lần cười [32,tr.227, 112, 82,
237, 238, 96]; 6 lần cười nhạt [32,tr.272, 83, 124, 109, 262, 161]. Ngoài ra còn có
cười nhã nhặn [32,tr.107], cười ranh mãnh [32,tr.84,224], cười xòa [32,tr.130],
cười tủm tỉm [32,tr.207], cười gượng [32,tr.229],…
Thứ mỉm cười có khi là để chế giễu, đùa vui, nhƣng rất nhiều khi các điệu cƣời
của Thứ là để biểu lộ sự mỉa mai, chua chát, sự cay đắng, sự xấu hổ,… Xin dẫn một
vài trƣờng hợp:
+ "Thứ cười chua chát:
- Mày tính cơm nƣớc thế nào mà chúng tao ăn chả đƣợc! Cơm nhà mày còn
nuốt đƣợc nữa là!..." [32,tr.114]
+ "Thứ mỉm cười:
- Anh tin vào luật thừa trừ, nghĩa là ông trời ông ấy cứ nhè những ngƣời nào đƣợc
hƣởng sự học thức nhiều để phân phát cho nhiều đau khổ hay sao?" [32,tr.193].
+ "San mà hôm nay cũng thâm thúy thế ƣ ? Thứ mỉm cười. Y kết luận hộ San:
- À, thế thì ra tại anh chỉ ăn rau nên cũng suốt đời è cổ làm cho ngƣời khác,
phải không?" [32,tr.163]
+ "Thứ hơi đỏ mặt. Y cố cười thật to làm nhƣ chỉ thấy trong những lời của Mô
một câu chuyện ngộ nghĩnh, buồn cƣời. Thật ra thì y xấu hổ vô cùng" [32,tr.115]…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
- Về cử chỉ tặc lưỡi của Thứ:
Cùng với các điệu cƣời, Thứ còn thƣờng sử dụng cử chỉ tặc lưỡi để buông
xuôi, thỏa hiệp, đồng ý, để xuê xoa cho xong chuyện.
+ "Thứ tặc lưỡi: - Cũng hơi dễ chịu" [32,tr.172]
+ "Thứ nghĩ ngợi một lát, rồi tặc lưỡi: - Kể thì cũng hơi phiền (….)"
[32,tr.111]
+ "Thứ tặc lưỡi một cái và nói tiếp:
- Với lại, cô mày chịu đƣợc thì chúng tao cũng chịu đƣợc" [32,tr.126]
Tổng hợp các cử chỉ, điệu bộ mà nhân vật thƣờng sử dụng ta cũng thấy đƣợc
phần nào tính cách nhân vật. Đó là con ngƣời sống thiên về nội tâm, nhiều dằn vặt
và rất nhạy cảm. Thứ thể trạng yếu đuối (Thứ đã lăn lộn ở Sài Gòn 3 năm với hi
vọng luyện tài, nhƣng một trận ốm thập tử nhất sinh đã đem y về trả cho đất chôn
rau cắt rốn), lại sống nội tâm nên con ngƣời này dè dặt trong từng cử chỉ và hành
động. Bày tỏ sự vui mừng, Thứ cũng chỉ cười; khó chịu và tức giận, Thứ cũng chỉ
bĩu môi, nhún vai, cười gằn; ngạc nhiên, Thứ cũng chỉ biểu hiện bằng đôi mắt mở
to,… các điệu thái tiếng cƣời của Thứ cũng đơn điệu với cƣờng độ âm thanh nhỏ.
Thanh tƣớng học chỉ ra: Những ngƣời hay cƣời gƣợng, thanh âm không tự nhiên,
âm lƣợng không đáng kể, là ngƣời nhu nhƣợc, ít ƣa giao tiếp, sợ bị chú ý, tự ti,
mặc cảm mạnh, nhƣng có khát vọng ngầm [11,tr.467]. Thứ mang hoài bão lớn
nhƣng thể trạng và bản tính yếu đuối cùng gánh nặng cơm áo đã không cho phép
nhân vật bứt phá khỏi hoàn cảnh để đạt đƣợc mục đích của đời mình.
● Nhân vật San
Cũng ôm những mộng đẹp nhƣng số phận San bế tắc vì không gặp thời. Con
ngƣời San phức tạp hơn Thứ. San cũng nhiều lúc mỉm cười, cười nhạt biểu lộ sự
chua chát, cũng hay tặc lưỡi, chép miệng,… tỏ ra là con ngƣời ƣa suy nghĩ, không
thanh thản trong tâm hồn. Nhƣng San nông nổi hơn, bồng bột và dễ nổi loạn hơn,
hay nhƣ chính Nam Cao nhận xét: "Anh chàng ấy nhiều thú tính, thƣờng không
nén nổi sự bồng bột của lòng mình". Các điệu thái tiếng cƣời của San rất phong
phú, có âm lƣợng lớn và âm sắc đa dạng: cười ăng ắc, cười gằn, cười mũi, cười hơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
hớ, cười toe toét, cười rũ, cười sằng sặc, cười tít mắt, cười phì,… Đặc biệt San có
lối cƣời riêng khi y ngƣợng, đƣợc nhà văn nhắc tới 5 lần, đó là cười xì/phì/khì ra
đằng mũi [32,tr.71,86,136,161, 109]
+ "Thứ mỉm cƣời:
- Ý hẳn suốt đêm qua cu cậu không đƣợc ngủ.
San đáp, bằng một tiếng cười phì ra đằng mũi, cái lối cƣời của riêng y khi y
cƣời gƣợng" [32,tr. 86]
Khác với Thứ dè dặt trong từng cử chỉ, San lại khá thoải mái khi dùng cử chỉ
để biểu lộ các trạng thái tình cảm, cảm xúc.
Khi đau đớn San biểu hiện cảm xúc bằng tiếng cƣời của kẻ điên:
+ "Y cười cái cƣời của một ngƣời điên, bảo bằng một cái giọng hả hê, giả dối.
- Tôi bằng lòng lắm! Phen này sẽ biết nhau…Sống thì sống hẳn mà chết thì
chết hẳn (…)" [32,tr.288].
+ "Nói xong, y cười ăng ắc. Tiếng cƣời thái quá ấy nghe còn đau đớn hơn
tiếng khóc" [32,tr.174].
Khi vui sƣớng, hả hê, khoái trá, San bộc lộ bằng các cử chỉ, động tác rất đa dạng:
+ "- Chúng tôi đánh lừa cô ấy, chúng tôi chƣa đi đâu! - Y đập tay xuống
chiếu, giãy lên đành đạch, để cười" [32,tr 164]
+ "Y cười rũ lên, gục mặt vào đùi Thứ: - Nhỉ? Anh Thứ nhỉ?" [32,tr.164]
+ "San vỗ tay xuống đùi cười hô hô. - Phải rồi, tôi biết mà!" [32,tr.138]
+ "Y trâng tráo bảo:
- Tôi cố làm cho nó chửa, bà béo tất nhiên phải van tôi mà gả nó cho tôi. Bấy
giờ, dù có biết tôi một vợ, hai con rồi, cũng chẳng làm gì, vẫn phải gả nhƣ thƣờng
(…).
Y ran rả, cười sằng sặc" [32,tr.83,84]
Tiếng cƣời của San dù là khi vui thì cũng chất chứa một nỗi buồn, một sự nổi
loạn. Nó khác với tiếng cƣời của Mô. Nhân vật Mô là ngƣời ở ít học, bản tính thật
thà, hiền lành, chất phác, tâm hồn cũng đơn giản, không có những suy tƣ, day dứt,
vì thế mà Nam Cao miêu tả cử chỉ của nhân vật này cũng rất tự nhiên, thoải mái:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
toét môi/mồm cười, cười hi hí, cười hừng hực, cười cười, cười hi hi, cười nhăn
nhở, cười khanh khách…
Trong tác phẩm "Sống mòn", bằng việc chú trọng miêu tả PTGTPNN (cử chỉ,
điệu bộ, động tác,…) Nam Cao đã thành công trong việc khắc họa đậm nét tính
cách và cá biệt hóa nhân vật.
c. Tác phẩm "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng)
Nhà văn Ma Văn Kháng rất quan tâm đến việc miêu tả và đã miêu tả hết sức
sinh động PTGTPNN của nhân vật. Nhờ vậy, tính cách của các nhân vật trong
"Mùa lá rụng trong vườn" đƣợc khắc họa rất đậm nét. Đặc biệt, hai nhân vật Đông
và Lý đƣợc cá tính hóa cao độ, để lại ấn tƣợng đậm nét trong lòng ngƣời đọc cũng
bởi họ đƣợc nhà văn quan tâm miêu tả PTGTPNN trong giao tiếp hàng ngày.
Nhân vật Lý có một tính cách rất phức tạp. Con ngƣời chị có lúc sâu sắc, lại
có khi rất nông nổi; có lúc nhân hậu, sáng trong, lại có khi nhỏ nhen, ti tiện đến
mức cay nghiệt. Là ngƣời phụ nữ nhanh nhẹn, đảm đang, tháo vát trong mọi công
việc, hội tụ những phẩm chất cần thiết của con ngƣời vào thời kỳ đổi mới, nhƣng ở
chị lại cũng đồng thời thiếu hụt một nền tảng tri thức văn hóa cơ bản, vì vậy mà chị
sống thiên về bản năng nhiều hơn lí trí. Trong con ngƣời chị lẫn lộn cả cái tốt và cái
xấu, lại thiếu ngƣời hƣớng đạo nên vốn đã chông chênh lại càng chông chênh, cuối
cùng sa ngã của Lý là không tránh khỏi.
Lý là nhân vật nữ đa sắc màu, không chỉ phức tạp ở tính cách mà cả ở hành
động, đồng thời có những cử chỉ, điệu bộ rất đa dạng. Các PTGTPNN đƣợc Lý sử
dụng trong giao tiếp hàng ngày rất phong phú, cùng các yếu tố cơ thể vận động
đơn bộ phận, phối hợp các bộ phận, sự thay đổi tƣ thế, không gian cá nhân, các
hành động. Con ngƣời Lý có thể thoắt vui, thoắt buồn, thoắt thiên thần rồi cũng
ngay đó lại thoắt thành trần tục đến mức lỗ mãng, đầy dục vọng. Khi vui khi buồn,
nhiều lúc nhân vật bộc lộ với các PTGTPNN khác nhau.
Ví dụ: "Lý bật chồm dậy, siết chặt tay Phƣợng, giọng đang nhuốm vẻ bỡn cợt
bỗng cao vóng lên và có mùi vị cay chua thế nào:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
105
- Chẳng thà cứ nhƣ hồi ông ấy ở chiến trƣờng tôi lại thích, lại sung sƣớng
(…). Lý khoanh tay, ngả đầu vào lƣng ghế. Mặt chị mất hẳn cái vẻ sắc sảo, lịch
lãm, cả cái sắc tƣơi ròn cũng mất. Chị lờ đờ bâng khuâng và vẻ nhƣ khó hiểu với
cả chính mình" [29,tr.16]
Để biểu lộ sự xúc động chân thành, Lý có thể "ngước lên, chớp chớp hai con
mắt mở to, đen láy, chân tình"; "ôm chầm lấy ngƣời phụ nữ đã một thời là dâu
trƣởng, nức nở"…; để mỉa mai, giễu cợt, Lý có thể trề môi, dẩu môi, giậm chân,
xỉa tay, mắt kéo một vệt nguýt sắc lẻm…; để đay nghiến, nguyền rủa, thách thức,
Lý có thể "nhếch mép cười nhạt"; "hếch mép và bĩu môi", "nghiến răng". Đặc biệt
phong phú ở Lý là các PTGTPNN biểu lộ sự vui sƣớng, đắc ý: "Lý cười ré lên, đắc
chí và mãn nguyện", "cười rung cả ngực", "phì cười", "vỗ tay đồm độp, cười ha
hả", "cười khành khạch"… Khi tức giận, Lý cũng biểu lộ bản tính mạnh mẽ, ƣa
hành động của mình qua các cử chỉ, hành động và lời nói.
+ "- À, thế thì tôi cũng xin nói thẳng vào cái mặt anh rằng: các ngƣời cũng
chẳng tốt đẹp, mĩ miều gì đâu. - Bỏ tay xoắn tóc, rút hai bàn tay lên sƣờn, môi Lý
cong vênh đẩy vẻ thách đố và ngực chị nhô hẳn về phía trước nhƣ sẵn sàng lao vào
trận chiến sinh tử, (…) sau vài giây yên lặng, chị nhƣ bỗng hóa thân, biến thành
một kẻ khác trong động tác nhảy chồm chồm về phía Luận hết sức dữ tợn và những
câu rủa xả trôi chảy, tựa nhƣ những câu học thuộc lòng (…) [29,tr.255].
Lý lăn đùng ra đất, mắt sặc tiết, chân đạp, tay đấm rồi ôm mặt khóc hức hức
một cách rất oan uổng, xót xa" [29,tr.257].
+ "… mắt Lý đã giần giật tia lửa man dại. Chị nhảy vào giữa đống chăn màn,
đồ dùng mới đem từ buồng ông Bằng xuống, chân giẫm đạp liên hồi và giọng giật
từng hồi, đành hanh và trợn trạo (…)" [29,tr.252]
(Các PTGTPNN đƣợc Lý sử dụng rất phong phú, bộc lộ tính cách riêng của
nhân vật này, xin đƣợc trích dẫn đầy đủ ở Phụ lục 2).
Trong tác phẩm, Ma Văn Kháng đã để nhân vật Luận phân tích con ngƣời
Đông và Lý. Nếu nhƣ Lý nhanh nhẹn, tháo vát, thực tế, năng động, là cuộc sống tự
nhiên đa sắc màu thì Đông, trái lại, chậm chạp, thản nhiên, ụ ị, mù mờ, dƣờng nhƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
106
khách quan với tất cả mọi sự kiện, kể cả việc quan thiết đến mình. Đông bản chất
tốt lành nhƣng vô tình, vô tích sự. Hai ngƣời quá khác nhau về gốc gác, tâm lí, sở
trƣờng, sở nguyện. Đông chỉ quen với sự đơn giản nên khi đối mặt với tình huống
phức tạp, rối ren là Đông bối rối mất phƣơng hƣớng, mất tự chủ ngay. Câu nói cửa
miệng quen thuộc của Đông là: "Đời đơn giản lắm chứ không có gì phức tạp
đâu!”. Sau bao năm chiến đấu vì Tổ quốc, trở về sống bên vợ trong cuộc đời
thƣờng, Đông tự cho mình quyền hƣởng thụ mà không bỏ công vun trồng cho cái
cây hạnh phúc mà anh đã có. Đã vậy còn sống chểnh mảng trong sự ỷ lại đã tập
nhiễm thành bản tính. Sống bên ngƣời vợ đầy ƣu điểm nhƣng cũng pha trộn đầy
cái xấu, đầy dục vọng tầm thƣờng, Đông đã không thành ngƣời hƣớng đạo cho vợ
lại còn thờ ơ, vô tình, vô trách nhiệm nên kết cục đau đớn xảy ra là không tránh
khỏi.
Bản tỉnh hiền lành, chất phác của Đông bộc lộ rõ qua điệu cƣời và tiếng cƣời của
anh: "Đông cười trong cổ họng nhìn ngƣời phụ nữ trẻ", "ngả người, cười khì khì thật
hồn nhiên", "vỗ đùi cười hà hà", "cười khì một tiếng ngắn ngủn"…
Con ngƣời Đông vốn đơn giản nên khi đối mặt với tình huống phức tạp của
cuộc sống là anh bối rối ngay. Không biết giải quyết ra sao trƣớc việc của vợ con
Cừ, Đông chỉ biết "thở hắt ra", "thở dài", "ngáp một cái, nhìn Phượng than thở",
"gãi đầu, gãi tai, gãi gáy"… kèm câu "Gay đấy!". Khi vợ chồng Luận góp ý việc
của Lý, Đông cũng chỉ biết gãi đầu, gãi tai ậm ừ. Có đến 6 lần nhà văn miểu tả cử
chỉ gãi gãi chỏm đầu, gãi tai, gãi gáy, vò đầu của Đông khi nói chuyện. Cử chỉ này
cho thấy sự bối rối, bất lực và cả sự căng thẳng, buồn chán. "Mỗi khi chúng ta lặp
đi lặp lại một hay nhiều điệu bộ đơn giản, nghĩa là chúng ta đang cảm thấy buồn
chán hoặc căng thẳng. Sờ hoặc xoắn tóc liên tục là một ví dụ thƣờng gặp, nhƣng
nếu tách biệt nó với các điệu bộ khác thì động tác này rất có thể là dấu hiệu cho
thấy ngƣời đó đang cảm thấy không chắc chắn hoặc lo âu. Ngƣời ta vuốt tóc hay
vò đầu bởi vì đó là cách họ đƣợc mẹ an ủi khi còn nhỏ" [17,tr.46]
Cũng vì suy nghĩ quá đơn giản về cuộc sống nên khi đối mặt với bi kịch xảy
đến với mình (vợ ngoại tình, bỏ nhà đi), Đông lại có những phản ứng hết sức tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
107
cực. Anh không khoan dung mà chỉ biết căm giận vợ, cho rằng mình không có gì
sai. Anh bằng lòng để cơ quan kỉ luật Lý. Hiền lành vậy nhƣng khi tức giận và đau
khổ, Đông cũng có những cử chỉ, hành động đáng sợ:
+ "Đông chồm lên, và thật bất ngờ, giáng nắm đấm xuống mặt cái bàn
nƣớc".[tr.35]
+ "Mặt co rút trong nỗi đau sinh tử, Đông đập bàn gào lên thống thiết và uất
hận: - Khốn nạn! Tôi ghê tởm…(…)" [tr.312]
+ "Cuối cùng, đến cao điểm, Đông tiến đến trước mặt Luận, hai mắt đỏ nọc
và giọng lạc đi". [tr.321]
(Về các PTGTPNN đƣợc nhân vật Đông sử dụng trong tác phẩm, xin xem
Phụ lục 2)
Những phản ứng tiêu cực của Đông là hệ quả tất yếu của cách sống và cách
nghĩ giản đơn, thụ động, một chiều anh vốn quen thuộc. Nhà văn MaVăn Kháng
bằng tài năng nghệ thuật của mình đã xây dựng chân dung hai nhân vật chính, hai
con ngƣời của thời đại mới, hết sức chân thực, sống động và hấp dẫn.
TIỂU KẾT
PTGTPNN xuất hiện thƣờng xuyên trong hội thoại. Các nhà văn Việt Nam
hiện đại đã chú ý miêu tả các PTGTPNN đƣợc nhân vật sử dụng trong tác phẩm
văn chƣơng. Nhờ đó, các cuộc hội thoại của nhân vật trong tác phẩm đƣợc tái hiện
hết sức chân thực và sinh động.
Nhiều nhà văn hiện đại còn chú ý miêu tả PTGTPNN đƣợc nhân vật sử dụng
trong hội thoại và xem đây nhƣ là một thủ pháp nghệ thuật để khắc họa tính cách
nhân vật. Trong số các nhà văn có tác phẩm đƣợc khảo sát, đặc biệt phải kể đến là
các nhà văn Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ma Văn Kháng. Nhờ miêu tả các
PTGTPNN của nhân vật, các nhà văn đã thành công trong việc xây dựng tính cách
và cá biệt hóa nhân vật trong tác phẩm của mình. Luận văn chƣa có điều kiện đi
sâu phân tích hết tất cả các tác phẩm đƣợc khảo sát, cũng chƣa có điều kiện tìm
hiểu xem PTGTPNN góp phần định hình phong cách nhà văn nhƣ thế nào. Mặc dù
qua phân tích phần nào có thể nhận thấy sự khác biệt trong khuynh hƣớng lựa chọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
108
miêu tả PTGTPNN của nhân vật. Chẳng hạn, Nam Cao chú ý miêu tả các
PTGTPNN bộc lộ nội tâm nhân vật trong những tình huống bi kịch; Vũ Trọng
Phụng chú ý nhiều hơn đến các PTGTPNN trong giao tiếp xã giao; Ma Văn Kháng
thiên về miêu tả PTGTPNN nhân vật sử dụng trong sinh hoạt đời thƣờng nhằm bộc
lộ các trạng thái tình cảm phong phú của nhân vật. Ngƣời nghiên cứu xem những
kết quả nghiên cứu ở chƣơng này nhƣ một sự gợi ý để ngƣời đọc thấy đƣợc vai trò
của PTGTPNN trong tác phẩm văn chƣơng. Hy vọng sẽ có thêm những công trình
tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
109
KẾT LUẬN
1. PTGTPNN là loại phƣơng tiện xuất hiện thƣờng xuyên trong giao tiếp trực
diện của con ngƣời. Khó có thể hình dung ra một cuộc đối thoại mà trong suốt quá
trình trao đổi, ngƣời nói và ngƣời nghe lại không hề có một sự thay đổi, dù là nhỏ
nhất, về nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, tƣ thế, hành động,... PTGTPNN, cùng với lời nói,
đã đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, tình cảm của con ngƣời một cách hiệu quả.
Nghiên cứu về các PTGTPNN cũng chính là một bộ phận của sự nghiên cứu
về hội thoại, là một công việc cần thiết và nên làm.
2. Cử chỉ, điệu bộ, hành động, tƣ thế,... của con ngƣời đƣợc sử dụng nhƣ một
phƣơng tiện giao tiếp, bên cạnh ngôn ngữ bằng lời, đã đƣợc những ngƣời nghiên
cứu đi trƣớc gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau. Luận văn xin gọi là “phƣơng tiện
giao tiếp phi ngôn ngữ” và đƣa ra một cách hiểu riêng. PTGTPNN đƣợc quan niệm
rộng, gồm những tín hiệu cơ thể - vận động do con ngƣời cố ý hay hay không cố ý
tạo ra trong quá trình giao tiếp mà có khả năng mang lại cho ngƣời tiếp nhận một
giá trị thông báo bổ sung nào đó.
Luận văn nghiên cứu PTGTPNN ở góc độ tín hiệu học bởi PTGTPNN mang
bản chất tín hiệu, đáp ứng những yêu cầu cần có của một tín hiệu: có tính hai mặt –
cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện, có thể cảm nhận đƣợc bằng các giác quan, có
tính hệ thống.
Xét ở phƣơng diện cái biểu hiện, các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng thị giác
là phong phú nhất, tiếp đến là các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng nhiều giác quan
(thị giác và thính giác, thị giác và xúc giác). Giác quan thị giác hầu nhƣ luôn đƣợc
dùng để nhận biết các PTGTPNN bởi không mấy ai lại “nhắm mắt” khi đối thoại.
Xét ở phƣơng diện cái đƣợc biểu hiện, các PTGTPNN đƣợc tìm hiểu theo
tính chất đồng nghĩa, đa nghĩa và đơn nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Do số lƣợng
hữu hạn trong khi nhu cầu biểu hiện lại rất lớn nên hầu hết các PTGTPNN là đồng
nghĩa và đa nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Các PTGTPNN đơn nghĩa rất ít.
Ý nghĩa biểu hiện của PTGTPNN là rất phong phú và tinh tế. Ngƣời tham gia
giao tiếp nếu chú ý quan sát sẽ thu đƣợc nhiều thông tin thú vị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
110
3. Tìm hiểu về PTGTPNN trên một số bình diện ngữ dụng học, luận văn đã
và rút ra đƣợc một số kết luận:
- Các PTGTPNN cũng có khả năng thể hiện các hành vi ở lời, giống nhƣ
ngôn ngữ bằng lời. Vì số lƣợng các PTGTPNN hạn chế nên khả năng thể hiện
hành vi ở lời của PTGTPNN, trong nhiều trƣờng hợp, cần có lời nói đi kèm.
- Chủ thể sử dụng, đặc biệt là vị thế xã hội của ngƣời sử dụng, cũng chi phối
việc sử dụng các PTGTPNN.
- Việc sử dụng PTGTPNN cũng chịu sự chi phối của hoàn cảnh giao tiếp. Có
những PTGTPNN chỉ có thể dùng trong sinh hoạt đời thƣờng mà không thể sử
dụng trong hoàn cảnh giao tiếp mang tính trang trọng, nghi thức. Những
PTGTPNN dùng trong hoàn cảnh trang trọng, nghi thức hầu hết đều dùng đƣợc
trong sinh hoạt đời thƣờng.
- Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, PTGTPNN nằm trong thành tố hình thức của
diễn ngôn. Chúng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Luận văn đã
chỉ ra và làm rõ đƣợc ba loại vai trò (chức năng) chính của PTGTPNN, đó là vai
trò thay lời, vai trò trợ lời và vai trò điều hành hội thoại.
4. Khảo sát PTGTPNN trên tƣ liệu là một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt
Nam hiện đại, luận văn còn nhận thấy một số vai trò của việc miêu tả PTGTPNN
trong tác phẩm văn chƣơng:
Các nhà văn Việt Nam hiện đại đã chú ý miêu tả các PTGTPNN đƣợc nhân
vật sử dụng trong tác phẩm văn chƣơng. Nhờ đó, các cuộc hội thoại của nhân vật
trong tác phẩm đƣợc tái hiện hết sức chân thực và sinh động.
PTGTPNN còn đƣợc miêu tả nhằm mục đích khắc họa tính cách nhân vật.
Nhờ miêu tả các PTGTPNN của nhân vật mà các nhà văn Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng, Ma Văn Kháng đã thành công trong việc xây dựng tính cách và cá biệt hóa
nhân vật trong tác phẩm của mình.
5. Tìm hiểu về PTGTPNN nhƣ đã tiến hành, là một công việc thú vị nhƣng
cũng khó khăn bởi quan niệm về loại phƣơng tiện này còn nhiều điều chƣa thống
nhất (chẳng hạn về thuật ngữ, khái niệm, sự nhận diện). Tìm hiểu về PTGTPNN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
111
trên tƣ liệu là các tác phẩm văn chƣơng còn nhiều điều cần khám phá, chẳng hạn
khái quát về văn hóa của ngƣời Việt trong việc sử dụng loại PTGTPNN, về phong
cách nhà văn trong việc phát huy sở trƣờng miêu tả PTGTPNN,... Ngƣời nghiên
cứu hy vọng có điều kiện tiếp tục đƣợc tìm hiểu vấn đề và đƣợc đón đọc những
công trình nghiên cứu của các tác giả quan tâm đến loại phƣơng tiện giao tiếp này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
112
THƢ MỤC THAM KHẢO
I/ Giáo trình và tài liệu tham khảo
A. Giáo trình và tài liệu tiếng Việt
1. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1992), Đại cương về Ngôn ngữ học, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
2. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2007), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Đức Dân (2002), Nỗi oan thì, là, mà, Nxb Trẻ, TP HCM
4. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Lí luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
5. Phi Tuyết Hinh (1996), “Thử tìm hiểu ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ”, Tạp
chí Ngôn ngữ - Viện Ngôn ngữ học, (số 4, 1/1996)
6. Thục Khánh (1990), “Bƣớc đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ, điệu
bộ ở ngƣời Việt trong giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ - Viện Ngôn ngữ học,
(số 3, 1/1990)
7. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà (1998), Phong cách học tiếng Việt, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
8. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, Quyển hai – Tính quy luật của cơ chế
ngôn giao, Nxb Khoa học – Xã hội.
9. Trần Thị Nga (2005), Nghiên cứu đặc điểm văn hoá ngôn ngữ cử chỉ của
người Việt, Đề tài NCKH cấp ĐHQG, Hà Nội.
10. Hoàng Phê chủ biên (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn
ngữ, Hà Nội.
11. Nhiều tác giả (1997), Almanach – Những nền văn minh thế giới, Nxb VH-
TT, Hà Nội.
12. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Tạ Văn Thông ( 2009), “Con mắt liếc lại”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống –
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (số 5 /2009)
14. Hoàng Tuệ (1984), “Lời chào với cái bắt tay và nụ cƣời”, Tạp chí Ngôn ngữ
- Viện Ngôn ngữ học, (số phụ, 2/1984)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
113
15. Việt Văn Books biên soạn (2006), Vận dụng khoa học nhân dạng trong cuộc
sống, Nxb Lao Động, Hà Nội.
B. Tài liệu dịch từ tiếng nƣớc ngoài
16. (Không rõ tên tác giả )(Nguyễn Thu Hằng dịch), “Ngôn ngữ cử chỉ”, thuộc
cuốn Ngôn ngữ và nền văn hoá (Không rõ Nxb và năm xuất bản)
17. Allan & Barbara Pease (Lê Huy Lâm dịch) (2008), Cuốn sách hoàn hảo về
ngôn ngữ cơ thể (The Definitive book of body languague), Nxb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh
18. Atenla Alenikova (Đặng Công Toại dịch), “Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ”, Tạp
chí Sputnik (số tháng 3/1986)
19. Fecdinand de Saussure (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương (dịch
theo bản tiếng Pháp), Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội.
20. J. Vendryes (1990)(Nguyễn Thục Khánh dịch), “Về Ngôn ngữ thính giác và
thị giác”, trong cuốn Funosemanticheskie idei v zarubezhnom jazykoznanii,
LGU, L.,
21. Julius Fast (Phạm Anh Tuấn biên dịch) (không có năm xuất bản), Ngôn ngữ
của cơ thể, Nxb Trẻ.
22. K.A. Pshenko (1989) (Nguyễn Thục Khánh dịch), “Huấn luyện các phƣơng
tiện á ngữ học ở các khoa tiếng Nga ngắn hạn”, trong cuốn Tiếng Nga ở
nước ngoài, (không rõ Nxb)
23. Roger E. Axtell (Y Nhã LST biên dịch) (không có năm xuất bản), Cử chỉ -
những điều nên làm và nên tránh trong ngôn ngữ cử chỉ khắp thế giới, Nxb
Trẻ.
II/ Tác phẩm đƣợc chọn khảo sát
24. Nguyễn Đăng Na (giới thiệu và tuyển soạn) (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại, tập 3 – Tiểu thuyết chƣơng hồi, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
25. Bảo Ninh (2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
26. Hoàng Nhƣ Mai - Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (2000) SGK Văn học 12,
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
114
27. Lê Lựu (2002), Thời xa vắng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
28. Ma Văn Kháng (2002), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Văn Học, Hà
Nội.
29. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Lao Động, Hà Nội.
30. Nam Cao (1998), Truyện ngắn tuyển chọn, Nxb Văn Học, Hà Nội
31. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Tuyển tập Nam Cao, tập 2 (2008), Nxb Thanh Niên, Hà Nội,
33. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1 (1996), Nxb Văn học
34. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 2 (1996), Nxb Văn học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN
CHỦ THỂ SỬ DỤNG
STT PTGTPL VÍ DỤ MIÊU TẢ CỦA NHÀ VĂN [TP,tr.]
1. vỗ vai
Xuân Tóc Đỏ thỉnh thoảng lại vỗ vai Văn Minh một cách
thân mật (...)
34,
Tr.440
Nghị Hách cười ha hả một hồi, cứ vỗ mãi vào vai Long,
cười như cười một điều gì thú vị lắm.
33,
Tr.279
Xuân Tóc Đỏ vỗ vai rất thân mật ông đốc tờ Trực Ngôn,
nháy ông ta ra cửa sổ để thì thào: (...)
34,
Tr.402
Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo tôi:
- Ngõ này đây, ông Hoàng ở đây.
- Cám ơn anh nhé. Lát nữa tôi sẽ sang nhà anh chơi.
Tôi vỗ vai anh bảo vậy.
26,
Tr.62
Anh Hoàng vỗ vai bảo tôi: - Anh nghĩ có buồn không? (...) 26,
Tr.70
Cụ bá (...) đứng lên vỗ vai hắn mà bảo rằng: (...) 30,Tr.25
Người Tây vỗ vai nghị Hách, nói khẽ: - (...) 33,
Tr.392
2. hất hàm
Người coi ga, (...) sau khi nhận được vé, hất hàm hỏi Long:
- Về đâu khuya khoắt còn đi một mình thế?
33,
Tr.315
Xuân Tóc Đỏ hất hàm hỏi: - Ông hỏi gì? Mời ông ngồi! 34,
Tr.405
Thấy Luận đăm chiêu, Lý quay lại, hất hàm, trịch thượng: -
Thế nào? Sai à?
29,
Tr.47
- Nào! – kiên giật AK khỏi vai, hất hàm. – Một hàng
ngang!
28,
Tr.44
- Hồ Cá Sấu à! Thì ra đây là nơi cô muốn đưa chúng tôi đến
để vãn cảnh phải không? – Kiên hất hàm hỏi (...)
25,
Tr.235
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
- (...) Chính trị là gì nữa, các đồng chí? – Dương hất hàm về
phía các cô giáo trẻ.
28,
Tr.168
Lý ôm cái ví đứng ngoài rìa đám khách, mặt vênh vênh (...)
hất hàm rất quyền thế và thân thuộc: - Hai ba mươi nhé!
29,
Tr.149
3. bắt tay
Bác sĩ bắt tay nó rất vui vẻ rồi giới thiệu: - Đây, giáo sư
Xuân, một nhà quần vợt (...)
34,
Tr.463
Ông Victor Ban kinh hãi cúi đầu rất thấp, bắt tay Xuân Tóc
Đỏ (...)
34,
Tr.356
Một cô gái mới đứng lên bắt tay Tuyết và Xuân, rồi giới
thiệu (...)
34,
Tr.355
... một thiếu niên khác (...) vừa đến chào thiếu niên trông
nom việc đặt bảng hiệu kia. Hai người bắt tay nhau, tiếng
Tây ngậu sị cả phố.
34,
Tr.294
Văn Minh đến bắt tay ông bố một cách thân mật (...) 34,
Tr.489
4.
cúi chào,
khoanh
tay /chắp
tay vái
chào
Ông kia chắp tay vái chào: - Bẩm lạy quan lớn ạ! 33,
Tr.492
Nghị Hách (...) chắp tay vái dài, lưng cúi thật khom mà
rằng: - Bẩm lạy cụ lớn ạ.
33,
Tr.206
Cô Kiểm (...) đến bên ngay xe, và trước khi người thiếu
niên xuống xe, đã kính cẩn vái dài một cái: - Lạy cậu ạ!
Cậu mới lên chơi.
33,
Tr.200
Thiếu niên kia khi đến gần Xuân, liền vòng tay vái chào
như những nhà thâm nho. Xuân Tóc Đỏ gạt phăng đi rằng: -
Hủ lậu! Chưa được tiến hóa mấy!(...)
34,
Tr.446
5.
xoa xoa
hai bàn
tay
Lý (...) xoa xoa hai bàn tay rất ý tứ trước ông Bằng: - Ông
ạ, con đề nghị thế này (...) mời ông lại khấn cho lễ cúng gia
tiên bắt đầu ạ.
29,
Tr.85
Long xoa tay, lễ phép hỏi lại: - Bẩm xin ông tha lỗi cho, thế
ngộ nhỡ người ta không bằng lòng thì sao?
33,
Tr.241
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
Sư ông lại xoa hai bàn tay: - Ấy ngài chớ trả rẻ nhà chùa
mà phải tội.
34,
Tr.409
Xuân lúng túng, xoa tay: - Bẩm... bẩm... bà lớn Phó Đoan,
hôm qua...
34,
Tr.296
Thứ vừa xoa tay vừa cố nói lấp tiếng cười của San đi: - Im
đã nào! Anh dốt lắm. Anh để tôi cắt nghĩa cho anh hiểu.
32,
Tr.138
6. chỉ tay
Rồi nhà mĩ thuật quay lại chỉ vào mặt Xuân: - Tôi đã bắt
được quả tang anh dùng những thứ văn chương bóng bẩy ra
mê hoặc vợ tôi, (...)
34,
Tr.313
(...) bà Phó chỉ tay: - Các người ngồi đây chờ tôi. 34,
Tr.283
Nhà mĩ thuật trợn mắt, so vai, trỏ mặt Xuân 34,
Tr.305
Ông Thống (...) chỉ tay vào mặt Thuật, cười khặc khặc: -
Thầy đoán sai toét cả. (...) Tôi chỉ có nhõn hai mươi cái răng.
28,
Tr.56
Bà cô Thị Nở chỉ tận mặt cháu mà đay nghiến: - Phúc đời
nhà mày, con nhé. (...)
30,
Tr.47
7. gật đầu
- Thế hai cậu cho đồng rưỡi nhé? (...)
Nó (Mô) cười hi hi, gật gật đầu.
32,
Tr.168
Cần gật đầu, đầy vẻ hiểu biết: - Em không phản đối anh.
(...)
29,
Tr.355
Đông gật: - Được đấy. Nhân thể cậu chuyể lá thư nông
trường gửi cho cô Cừ, (...)
29,
Tr.356
Luận (...): - Ba đừng nghĩ ngợi nữa, ba ạ.
Ông Bằng gật đầu.
29,
Tr.300
8. lắc đầu
Cần ngẩng lên, lắc lắc cái đầu rậm, đầy vẻ quả quyết:
- Em cho rằng công nghiệp hóa xong thì sẽ thanh toán hàng
loạt cái xấu!
- Chưa hẳn đâu. – Đông lắc đầu.
29,
Tr.354
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
- Ba có di chơi chợ hoa không ba?
Ông Bằng lắc đầu.
29,
Tr.60
9. bĩu môi
Cụ cố Hồng bĩu môi mà rằng;
- Thua! Nhưng mà có năm bảy thứ thua! (...) Thưa bà, xin
bà làm ơn tìm cách mắng tôi nữa đi! (...)
34,
Tr.486
Tuyết bĩu môi (...): - Ê! Ê! Thôi đốt anh đi! (...) 34,
Tr.449
Mô (...) bĩu môi ra và bảo: - Không cho con vay cũng chả
xong. (...)
32,
Tr.90
Luận nhận ra cái bĩu môi của Lý ngay sau khi Đông dứt lời. 29,
Tr.285
10. vỗ đùi
Đông không tự ái, lại vỗ đùi cười hà hà nhắc lại cái câu cửa
miệng muôn thuở: “Đời không phức tạp lắm đâu, ông ơi!”
29,
Tr.68
Ông già ngồi lên, điềm tĩnh đáp: - Bà vợ cả là người hư chứ gì!
Vạn tóc mai vỗ đùi: - Chính đấy!
33,
Tr.441
Xuân Tóc Đỏ bèn để kết thúc bài diễn văn (...), Joseph
Thiết vỗ đùi kêu to lên: - Hay! Hay! Bravo!
34,
Tr.381
Anh Hoàng (...).Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi kêu: -
Tài thật! Tài thật! (...)
26,
Tr.73
San vỗ tay xuống đùi cười hô hô: - Phải rồi! Tôi biết mà!
Y khoái trá vì tưởng Thứ ngơ ngẩn không hiểu y mỉa mai.
32,
Tr.138
Quan huyện xung thiên chỉ nộ đập bàn mà rằng: - (...) 33,
Tr.273
Quan huyện đập bàn một cái, giận giữ nói: - Thế nào, quan
đùa với mày đấy à?
33,
Tr.266
- Tôi yêu cầu! – Đập tay xuống bàn đánh chát, bà trưởng
phòng đứng dậy bỏ ra giữa phòng.
29,
Tr.238
Quan lớn Lại đập bàn: Im đi! (...) Cút! 28,
Tr.114
Cáu tiết, cụ bà đập xuống bàn đánh thình một cái, gắt: - Tôi 34,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
không gọi! Ông hãy nhịn đi một chốc! (...) Tr.385
11. vỗ tay
- Há há!... Đẹp mặt chưa!- Vỗ tay đồm độp, Lý cười ha hả.
Chị em tôi mà tin ông thì có ngày rã họng.
29,
Tr.29
Đứng giữa phòng, bà vỗ tay đôm đốp:
- Nào các cô! Mỗi người một tay chuyển giúp giấy trên ô tô
vào kho nào. (...)
29,
Tr.142
Ngồi trong phòng, ông Dương (...) quay ra, vỗ tay bồm bộp:
- Các đồng chí ơi! Khe khẽ cái miệng một tí nào. (...)
28,
Tr.50
12. lừ mắt
Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông Bằng, Lý vội bước
lại, lừ mắt nhìn chồng:
- Anh Đông, ông bị cao huyết áp đấy.
29,
Tr.94
Đông lừ mắt: - Cô này ăn nói hay nhỉ? 29,
Tr.250
13. lườm,
nguýt
Tham thế! – Phượng nguýt yêu chồng. 29,
Tr.347
Ngồi phịch xuống giường nhìn Đông (...), mắt Lý kéo một
vệt nguýt sắc lẻm: - Để sẵn thịt gạo đấy, chỉ có việc nấu mà
cũng lười!
29,
Tr.168
Dương lườm anh giáo toán tếu táo (...) 28,
Tr.60
Phượng lườm yêu chồng: - Thế mới cần có nam giới, mới
cần có anh chứ!
29,
Tr.205
Ông đò Uẩn lườm con rồi chán đời (...) 33,
Tr.262
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phụ lục 2 PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ CỦA NHÂN VẬT ĐÔNG, LÝ ĐƯỢC
MIÊU TẢ TRONG TÁC PHẨM “MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN”
NHÂN VẬT ĐÔNG Trang
Đông cười trong cổ họng, nhìn người phụ nữ trẻ:
- Ăn được, ngủ được là tiên, cô Phượng ạ. Ở Trường Sơn, tôi đặt mình xuống
bao giờ cũng hẹn đồng đội: Thấy tớ ngáy, cứ việc đấm, cho tha hồ đấm.
10
(...)Đông nhăn trán: - - Có gì mà phức tạp. Nó nhiễm độc tư tưởng tư sản,
hưởng lạc. Có vậy thôi! 35
- Thôi, cậu đừng có bênh che nó. - Đông chồm lên, và thật bất ngờ, giáng nắm
đấm xuống mặt cái bàn nước. 35
Đông lừ mắt, như bồi thêm một phát đạn nữa cùng với một cú đập bàn nhỏ
hơn:
- Nó là một thằng phản động! (...) Theo nghĩa chính xác của từ đó. - Đông ngồi
thẳng dậy. - Cậu hiểu không?
35
Đông chép miệng: - Ba nên dưỡng sức ba ạ. 61
(...)Đông quay vào nhà, bỗng nhiên vằng tay, cau có:
- Tôi cho là ngốc và vô lí hết chỗ nói là cái câu này: No ba ngày Tết, đói ba
tháng hè
66
(...)Đông không hề phật ý vì cái giọng gay gắt như lên án của Luận, ngả người,
cười khì khì thật hồn nhiên: - Ông ơi, ông đọc sách đã nhiều mà chưa thấy
được ý nghĩa câu này: Làm trai mà đánh tổ tôm. Uống chè mạn hảo, ngâm
nôm Thuý Kiều. Ông đã biết thế nào là ù chi nhảy chưa? (...)
68
Đông không tự ái, lại vỗ đùi cười hà hà nhắc lại cái câu cửa miệng muôn thuở:
"Đời không phức tạp lắm đâu, ông ơi". 68
Đông đã tỉnh, chống tay ngồi dậy, gãi gãi chỏm đầu, lờ mờ:
- Ồ, cô bói bài tây đấy à? Mặc áo vào chứ không là cảm lạnh đấy. 125
Đã tỉnh hẳn, Đông đứng dậy nhét vạt áo vào trong quần, chậc chậc lưỡi: 126
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Sao hồi này cô cứ hay tạo ra những chuyện tức tối không đâu thế?
Đông ngồi phịch xuống giường, ôm đầu kêu khe khẽ:
- Trời, sao cô lại nghĩ thế! 127
(...)Thấy cô em dâu, Đông nhệch một cái cười như mếu mà mặt vẫn ngơ ngơ
như vừa ngủ đậy: - Ơ, xe đạp đâu mà cô đi bộ về? 157
Phượng ra sân, nhìn Đông, nhỏ nhẻ mời. Đông gãi cái gáy rậm, ngập ngừng:
- Ông đi chơi hội bên Bắc Ninh sáng nay. Hồi này nghe đâu ông ăn ở cửa hàng ăn.
(...)- Anh ăn lúc nào! Thôi, vào ăn với em cho vui đi.
Lại gãi gãi gáy, mặt Đông ngô nghê hẳn đi:
- Phiền quá nhỉ? À, nhưng mà cô có nấu cơm tôi đâu.
(...)Đông cười hiền lành, chân thật.
162
- Há! Thằng này khá! - Đông cười, nhưng môi vẫn mím, hai má phồng miếng
cơm đang nhai. 164
(...)- Anh cứ nói thế. Anh Luận em mà ăn được như anh, giả dụ có thiếu, em
cũng nhường hết cho anh ấy ăn. (...)
Đông gật gật đầu. Không hiểu anh nghĩ gì. Nhưng rõ ràng là anh vui.
165
Phượng cười, Đông bật cười theo và công nhận rằng mình đuểnh đoảng,
không quen tỉ mẩn, cụ thể. 166
(...)Đông hơi cúi xuống, mặt bất thần, ngắc ngứ một lát rồi như bị thúc ép, tọt ra
một câu nói nghe như một người khác vậy: - Phải có cách sinh lợi, cô Phượng ạ. 166
(...)Đông chống tay, đứng dậy, cười khì một tiếng ngắn ngủn:
- Thôi, bà ơi. Hỏi thế làm gì? Nó là cái duyên cái số mà. 169
- Hừ, thế thì gay đấy! - Đông lại thở dài. - Bây giờ trước mắt là ăn ở ngủ nghê
ở đâu, học hành của trẻ con thế nào. 195
Phượng đáp hơi sẵng. Đông đập tay vào đùi:
- Ờ, nhưng còn việc làm? Gay đấy. (...)
Mặt Đông đờ ra, những lúc khác thì Phượng thấy rất tội nghiệp, nhưng lúc này
thì cô thật sự giận ông anh chồng quá
195
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phượng đứng dậy theo Đông, dứt khoát:
- Cụ đi hội về, anh phải gặp cụ nói ngay. Nói, cụ phải thương chúng, chúng vô
tội, chúng là nạn nhân, phải cứu giúp chúng.
Đông gật đầu, lừng lững đi ra cửa, lên gác.
197
(...) nghe Phượng kể lại câu chuyện bi đát của vợ con Cừ, Đông đưa mắt nhìn
lướt qua khuôn mặt của ba con người đáng thương nọ, rồi ngồi xuống, thở hắt ra:
- Cái thằng Cừ khốn nạn thật!
Sau khi xổ ra cái câu ấy với một giọng nói gần như bình thản, Đông gãi gãi
gáy, lẩm nhẩm một câu gì đó, rồi Đông ngồi im.
214
Đông gãi gãi gáy:
- Bây giờ lớp trẻ nó thế đấy, ba ạ. Con cũng không hiểu nó nghĩ thế nào. Đời
thì giản dị mà chúng cứ làm rối tinh lên. Được ở lại học thì phải ở lại học chứ
sao lại thế được.
214
Đông thở một hơi dài, nhẹ nhõm:
- Kể cũng gay đấy. Nhưng, con chắc là lo được, Phượng nó đảm đang, cứng
cáp chứ không mềm yếu như trước đây con tưởng đâu, ba ạ.
215
(...)Đông vò đầu, bực dọc: - Tôi không tin nó. 228
(...)- Cậu nói ai?
Bất ngờ, thật rất bất ngờ, Đông chồm lên, với một độ nhạy cảm kì thường, túm
chặt cổ áo Luận. Mặt Đông bệch bạc mà hùng hổ.
229
Đông lừ mắt: - Cô này ăn nói hay nhỉ? 250
- Câm ngay! Tôi cấm cô động đến chuyện ông cụ và bà Chí. Đồ vô đạo đức!
Đấm mạnh vào bậu cửa, Đông quát to rồi đi ra khỏi phòng, xuống thang. 252
(...)Đông ra sau cánh cửa, mặc quần dài, chép miệng:
- Thôi thì cũng là một chút kỉ niệm. Vả lại mình có thiếu thốn gì. 294
(...)Đông vụt đứng dậy, ngay lúc ấy, gào lên hai câu mà sau này nghĩ lại vừa
thấy đúng, vừa thấy không nên: "Cút ngay đi! Đồ nhẫn tâm!” 297
Mặt Đông hằm hằm khi Luận nhắc tới Cừ. Đông nhếch mép: 300
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Cũng chẳng có gì phải buồn, ba ạ. Hình như mỗi gia đình phải có nhiệm vụ
cung cấp cho xã hội một hai đứa khốn nạn, ba ạ. Không thì xã hội tốt quá!
(...) Mặt co rút trong một nỗi đau sinh tử. Đông đập bàn gào lên thống thiết và
uất hận: - Khốn nạn! Tôi ghê tởm. Nó ăn phải bả tư sản, bả thực dân mới. (...) 312
Đông bị choáng, cơn giận dữ đau xé, biến đổi con người từ bản tính, Luận định
lựa lời khuyên giải thì Đông ném tạch quyển sổ nhỏ đang cầm ở tay xuống sàn
nhà, nói như quát:
- Thư nó nói: nó không thể sống chung được với tôi. Nhưng cậu xem những tờ
cuối ở quyển sổ này sẽ rõ hết. Khốn nạn đến thế là cùng. (...)
319
Nhưng, Đông vụt đứng dậy: - Chẳng lẽ tôi là thằng khốn nạn à? 320
Cuối cùng, đến cao điểm, Đông tiến đến trước mặt Luận, hai mắt đỏ nọc và giọng
lạc đi.
- Cậu mà con bênh con đĩ ấy hả? Trời ơi sao tôi không chết luôn lúc tiến đến
cửa ngõ Sài Gòn cho rồi! - (...) Đông đứng lặng, to lớn, run rẩy, đầu bạc
phếch, nước mắt xối trên hai gò má xám
321
- Cuộc sống phức tạp lắm chứ không đơn giản đâu.
Đông chép miệng. Luận như chồm lên. Đông đã tiến một bước dài từ câu nói
cửa miệng quen thuộc một năm trước đây: "Đời có gì phức tạp lắm đâu" tới
câu nói vừa rồi,
353
- Chưa hẳn đâu. - Đông lắc đầu. - Mức sống và lối sống là hai vấn đề khác nhau. 354
Đông gật: - Được đấy. (...) 356
(...) Đông như bất động trong lòng ghế, bàn tay dày xoà rộng úp vào mặt, trong
khi hai ngón cái và ngón trỏ bấm chặt vào hai bên thái dương. Đông đang tê
dại trước một sự thật kinh dị và phũ phàng. (...)Nhưng, Đông đã buột bàn tay
che mặt. (...). Mặt Đông nùng nục bỗng nghiêm lại một cách ngờ nghệch, biến
thái của cơn đau thất thần, lạc trí và môi Đông hé mở, thoát ra một giọng nói
gần như tuyệt vọng:
- Cái đó thì… tuỳ các đồng chí thôi!
323
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(...)Phượng (...) yêu cầu Luận giục Đông đến xí nghiệp Lý hỏi han trao đổi tình
hình Lý. (...)Nhưng ông anh lại ngần ngừ, rồi gãi đầu gãi tai ầm ừ: "Ừ, kể
cũng được… Nhưng chuyện này cũng có cái khó của nó. Với lại đây là chuyện
gia đình… ".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bảng 4: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng thị giác
Phân loại STT PTGTPNN ví dụ mô tả của nhà văn [tác phẩm,
trang]
phương
tiện
dùng
mắt
1 1
tránh cái nhìn
của người đối
thoại
(...) Trong khi nói San tránh cái nhìn của
Thứ. Thứ ngờ ngay câu chuyện San nói là
chuyện bịa.
32,
Tr.86
2 nhìn xuống
San nhìn xuống, bảo: - Khi ấy anh vẫn còn là
anh. Chẳng bao giờ chúng mình có thể liều
được đâu.
32,
tr.260
3 nhìn vào mặt
người đối thoại Thứ nhìn mặt San để dò ý tứ (...)
32,
Tr.110
4 nhìn vào mắt
người đối thoại
(...) Can từ từ đứng dậy, đối diện, nhìn
thẳng mắt Kiên: - cả đời đi đánh nhau, thú
thật tôi chả thấy trò này là có gì vinh (...)
29,
tr.25
5 đưa mắt nhìn
nhau
Họ đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý kiến
nhau.
32,
tr. 157
6 trợn mắt Hắn trợn mắt lên quát: - Thế thì thằng nào
ăn đi?
30,
tr.21
7 mở to mắt Thứ mở thật to đôi mắt nhìn San: - Trọ ở
nhà Hải Nam ấy à?
32,
tr.129
8 nháy nháy mắt
Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất
hất về phía người đàn bà, hóm hỉnh: - Cánh
nào đấy?
26,
tr.107
9 lườm - Gớm sao lúc nãy nói chuyện dai thế, đợi
sốt cả ruột. - Thị lườm hắn, không trả lời.
26,
tr.114
10 lừ mắt
Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông
Bằng, Lý vội bước lại, lừ mắt nhìn chồng: -
Anh Đông, ông bị cao huyết áp đấy!
29,
tr.96
11 nguýt Lý kéo tay chị Hoài, nguýt ông em chồng: -
(...) 29,tr.15
12 nhắm nghiền
mắt
- Mặc cậu! Mặc cậu! Chúng tôi không
biết…
(...) San vừa lắc đầu, vừa xua tay, vừa
nhắm nghiền hai mắt, nhất định không
nghe gì nữa.
32,
tr.146
phương 13 xua tay Khoan, chưa hết. – Lý xua tay, tranh lời 29,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiện
dùng
tay
Phượng tr.15
14 xoa tay
Lý (...) xoa xoa hai bàn tay rất ý tứ trước
ông Bằng: - Ông ạ, con đề nghị thế này,
(...)
29,
tr.85
15 dang tay
Luận (...) dang rộng hai cánh tay, thở phù
một hơi: - Chẳng có gì cả! Bị tịch thu hết
rồi!
29,
Tr.29
16 hất tay San đỏ mặt, hất tay một cái, nói như người
giận dỗi:- Thôi! Thế này này (...)
32,
Tr.149
17 xỉa tay, xỉa xói
Lí nhảy ra khỏi ghế, giậm chân, xỉa tay: -
Bịa! Bịa! (...)
29,
Tr.29
Bà mẹ đứng lên, tiến đến xỉa xói vào mặt
ông con:
- Là vì ông Xuân đã ngủ với em mày rồi,
mày biết chưa, thằng khốn nạn!
34,tr.34
18 chống nạnh
San chống nạnh tay, ngửa mặt lên trần nhà,
cười mũi, bảo: - Phải nói rằng: Bố mẹ
chúng mình sinh chúng mình ra không cho
chúng mình ăn thịt nên chúng mình không
biết ăn thịt, thì đúng hơn
32,
tr.163
19 giơ ngón tay - (...) Một con thôi. – Bà giơ một ngón tay
lên, miệng cười rất tươi.
29,
Tr.138
20 để tay lên mồm
Xuân để tay lên mồm làm một cái suỵt rồi
khẽ đáp: - Chính đấy
34,
tr.284
21
đập tay lên trán
(vỗ trán, bóp
trán)
Đập tay lên trán, mặt nhăn nhăn, miệng Lí
lẩm bẩm: - Bánh, kẹo, mứt mua rồi. Pháo
mua rồi. (...)
29,
tr.19
22 ôm đầu Đông ngồi phịch xuống giường, ôm đầu
kêu khe khẽ: - Trời! Sao cô lại nghĩ thế!
29,
Tr.127
23 bịt tai - Đừng nói nữa! – Lý thét, áp tay vào tai,
ngực dội lên dội xuống
29,
Tr.
24 vung tay Tự hào hứng vung tay cao giọng: - (...)Ông
nghe tôi trình bày nốt cái ý này đã (...)
28,
tr.8
25 giơ nắm đấm (...)ông chánh hội xắn tay áo, giơ một quả
đấm lên trần nhà hăng hái nói: - (...)
33,
tr.184
26 giơ tay Thuật đắc ý, giơ tay, cao giọng: - Bây giờ 28,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tôi nói về ông hiệu trưởng của chúng ta.
(...)
tr.55
27 ngoắc ngón tay,
vẫy tay
Hắn đưa ngón tay ngoắc ngoắc: - Lên đây!
Lẹ lên! (...)
25,
tr.232
28 chỉ tay Hắn trợn mắt, chỉ tay vào mặt cụ: - Tao
không đến đây xin năm hào.
30,
tr.45
29 xoè bàn tay
Ông Thống đứng ở đầu bàn, xoè bàn tay: -
Báo cáo là kinh phí không còn một trinh
một kẽm ạ.
28,
tr.85
30 gãi gáy Lại gãi gáy, mặt Đông ngô nghê hẳn đi: -
Phiền qúa nhỉ? (...)
29,
tr.162
31 gãi đầu, gãi tai Đông vò đầu, bực dọc: - Tôi không tin nó.
Cẩm gãi tai tiu nghỉu: - (...)
29,
tr.228
28,
tr.120
32
giơ tay gõ vào
trán người đối
thoại
Thị giơ tay củng vào trán hắn. - Chỉ được
cái thế là nhanh. Dơ! 26,
tr.114
33 đập tay vào
ngực
Ông chánh hội (...)đập tay vào ngực thình
thịch một cách đáng sợ, lại nói: - (...) 33, tr.257
34 vỗ đùi
“Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa
nghe. Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại kêu: -
Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên
sư anh Tào Tháo!” [26,tr.73]
26,
tr.73
35 khoanh tay (...) Quan tổng đốc nói đến đấy thì đứng
lên, tay khoanh trước ngực
33,
tr.234
36 chắp tay
“Nghị Hách, mặc lòng mặc bộ áo trào
vào ngày dạ tiệc, cũng chắp tay vái dài,
lưng cúi thật khom mà rằng: - Bẩm lạy cụ
lớn ạ.”
33,
tr.206
37
dùng tay chỉ,
gõ,… vào sự vật
được nói đến
trong phát ngôn
San chỉ cho Thứ thấy cái lỗ đục mãi tít trên
đầu hồi, khẽ bảo: - Kể thì cũng đủ lối cho
không khí ra vào.
32,
tr.158
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phương
tiện
dùng
đầu-cổ
38 cúi chào San và Thứ cúi chào: - Bà ạ. 32,tr.152
39 cúi mặt
- Bởi vì… Bởi vì… - San cúi mặt, bỏ tiếng
ta, dùng tiếng Pháp. - Người ta lừa dối
anh…
32,
tr.139
40 cúi đầu Thứ cười nhã nhặn, khẽ cúi đầu, như đáp
chuyện một phu nhân: - (...)
32,tr.170,
171
41 vênh mặt Oanh đã vênh cái mặt đỏ bừng lên: - Chưa
hẳn đúng. (...)
32,
tr.166
42 lắc đầu, nguẩy
đầu
San lắc đầu: - Không đợi được
“Xuân lưỡng lự rồi nguẩy đầu: - Tôi chả
thế. Thế là giết người! Tôi không muốn
làm kẻ sát nhân! (…)”
32,
Tr.85
34,tr.412
43 gật đầu (...) Thứ gật đầu. Bởi vì đó là sự thật. 32,
Tr.89
44 gật gù (Nghe Lý nói) ông Bằng gật gù 29,tr.25
45 hất hàm Nó nhăn nhở, hất hàm: - A! người chị em!
… Không đi à?
32,
tr.99
46 so vai, nhún vai, Ông chủ trẻ tuổi so vai, nghiêm khắc mà
rằng: - Thày đừng nói càn! (...)
33,
tr.241
47 nghiêng đầu
“Thiếu niên tiến đến chỗ tám người,
nghiêng đầu chào cả lũ…”
33,
tr.190
phương
tiện
dùng
nét mặt
48 chúm môi Mô chúm mỏ, nói tiếp: - Chịu! Nội đời con,
con chưa thấy ai kiệt như cô giáo. (...)
32,
tr. 124
49 bĩu môi (dẩu
môi, trề môi)
Thứ bĩu môi, cười nhạt hỏi: - Anh có chân
trong Độc lập văn đoàn đấy ư?
32,
Tr.83
50 nhăn mặt Tú Anh nhăn mặt khó chịu (...) 33,
tr.250
51 cau mặt Thứ cau mặt, đẩy y ra: - Anh điên đấy à? 32,
tr.164
52
cười nhạt, mỉm
cười, tủm tỉm
cười, cười
gượng,…
Thứ mỉm cười: - Thừa đủ. Chúng mình có hai
người, và xưa nay cũng sẻn mãi không khí,
quen rồi.
32,
tr.158
53 nhăn trán Đông nhăn trán: - Có gì mà phức tạp. 29,
tr.35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bảng 5: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng tổng hợp
nhiều giác quan
Giác
quan STT
PTGTPNN
Ví dụ mô tả của nhà văn
[tp,
trang]
54 nhíu mày Luận nhíu nhíu cặp mày: - sao chị bảo vợ
thằng Cừ dại?
29,
tr.45
55 nghiêm nét mặt … Phượng đã thôi cười, mặt nghiêm hẳn đi: -
Em nói đùa thế thôi (...)
29,
tr. 166
56 nhếch mép Hoàng nhếch một khoé môi lên, gay gắt: -
(...) 26,tr.68
thay
đổi tư
thế
(vận
động
toàn
thân)
57 vái lạy Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên
chắp tay vái lia lịa: - Con lạy quý toà.
31,
tr.342
58 quỳ Luận quỳ xuống cạnh giường cha, (...),
nghẹn ngào: - (...)
29,
tr.306
59 nghiêng mình
- Chào các em. Các em ngồi xuống! - Tự
hơi nghiêng mình, đáp lại cái chào của 40
người học trò.
28,
tr.14
60 ưỡn ngực
Xuân Tóc đỏ bắt tay xong, ưỡn ngực lên
cất giọng lanh lảnh nói to: - Thưa ngài,
ngài là một người chồng mọc sừng
34,
tr.345
61 đứng lên Thứ và San vào nhà (...). một người đàn bà
(...) mải mốt ẵm đứa nhỏ nhất, đứng lên
32,
tr.152
62
đứng phắt dậy,
ngồi nhổm dậy,
đi đi lại lại…
(thay đổi tư thế)
Ông Phán đứng phắt dậy như bị một cái lò
xo đẩy lên, kêu thất thanh: - Giời ơi! Thế
thì tôi chết mất! (...)
Hừ! – Lão chủ đi đi lại lại trên đường, bực
tức cực điểm
34,
tr.346
33,
tr.173
thay đổi
không gian
tương tác
63
tiến lại gần, ghé
lại gần, ghé tai
người đối
thoại,…
Bây giờ cụ bá mới lại gần hắn, khẽ lay và
gọi: - Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?
31,
tr.14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiếp
nhận
thị
giác
+ xúc
giác
1 siết tay
Hiền cười to, siết chặt tay bà: “Mẹ ơi,
bộ đội chúng con mà rèn thì có dữ như
hùm như gấu cũng phải lành như thỏ,
mẹ lo gì.”
27,
tr.162
2 bắt tay
- Cảm ơn cô nhé! - Cần bắt tay cô gái,
(...)
29,
tr.289
3
nắm tay người đối
thoại
Chị Hoài nắm tay Phượng, xót xa: -
(...)
29,
tr.114
4
đặt tay lên vai, nắm
lấy vai người đối
thoại
Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn
bảo: - Chẳng kiếp gì sung sướng thật
(...)
31,
tr.91
5
phát, véo,… người
đối thoại
- Khỉ gió! - Thị phát đánh đét vào lưng
hắn, khoặm mặt lại
26,
tr.108
6
giơ tay gõ vào trán
người đối thoại
Thị giơ tay củng vào trán hắn: - Chỉ
được cái thế là nhanh. Dơ!
26,
tr.114
7
bịt miệng người đối
thoại
Y bịt lấy miệng Liên: - Ai bắt mình
thề? Tôi có trách gì mình mà mình
phải thề bồi?
32,
tr.276
8
vỗ vai, vỗ lưng, lay
vai,… người đối
thoại
Sau cùng, Hải Vân vỗ hai vai con, nói
gọn: - Thôi, ở lại và sống cho can đảm!
33,
tr.502
9
Vuốt tóc người đối
thoại
Kiên! – Nàng thì thào, sát vào anh, nhè
nhẹ vuốt tóc anh. - Tội nghiệp anh!
25,
tr.175
10 xoa vai
Xoa vai vợ nhè nhẹ, Luận hơi cúi
xuống: - (...)
29,
tr.175
11 tát
(...) Một cái tát như trời giáng đã dập
tắt cái thói giả dối của anh ta.
27,
tr.234
12 ôm hôn
Cụ cố Hồng bèn bá cổ ông con
để hôn, rồi đáp:
- Cảm ơn vô cùng! Hân hạnh tạm biệt!
Toa ăn ở đến thế với Moa thì quý hóa
lắm".
34,tr.
489,490
thị 13 vỗ đùi Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi 26,tr.73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giác
+ thính
giác
kêu: - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là
cùng! (...)
14
gõ bút, gõ ngón tay
lên mặt bàn, lên
tường,…
Viên thẩm phán dỗ dỗ đầu bút xuống
mặt giấy như gõ nhịp: - Chị đã nghe rõ
ý kiến của anh Sài chưa?
27,tr.33
5
15
đập bàn (đập chiếu,
đấm tay vào cửa,…)
Quan lớn Lại đập bàn: - Im đi! (...) 28,
tr.114
16
cười thành tiếng với
các điệu thái khác
nhau
Y ran rả, cười sằng sặc
Nhưng San lại cười xoà, bảo: - Ai để
cho bà béo biết mà anh sợ
San bỗng lại phì cười, y bảo: - Chúng
mình khổ thật (...)
Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm
cả người tôi, hỏi: - Anh sống ở nhà quê
nhiều, anh có hiểu tâm lí của họ
không? (...)
32,tr.84
32,tr.82
32,tr.71
26,
Tr.66
17 thở dài
Y thở dài và bảo: - Thế nào rồi tôi
cũng phải đi Sài Gòn chuyến nữa (...)
32,Tr.7
9
18 chép miệng
Y chép miệng: - Giá chúng mình chưa
có vợ con gì cả!... 32,tr.79
19 tặc lưỡi (tắc lưỡi)
Thứ nghĩ ngợi một lát rồi tặc lưỡi: -
Kể thì cũng hơi phiền (...)
32,
tr.111
20 giậm chân
Xuân Tóc Đỏ giậm chân xuống đất,
chán đời: - (...)
34,Tr.3
70