135
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Lê Thị Mai Ngân CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC THÁI NGUYÊN - 2009

Lê Thị Mai Ngân CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮdulieu.tailieuhoctap.vn/.../581603_giao_tiep_phi_ngon_ngu.pdf · Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét

  • Upload
    others

  • View
    15

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Lê Thị Mai Ngân

CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ

ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT

VÀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Lê Thị Mai Ngân

CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ

ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT

VÀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO THỊ VÂN

THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa từng ai công bố trong bất

kì công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ THỊ MAI NGÂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

6. Cấu trúc của luận văn

Chƣơng 1 : CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC

SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN TÍN HIỆU HỌC

1.1. Một số vấn đề lí thuyết có liên quan

1.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhìn từ phƣơng diện cái biểu hiện

(tức mặt hình thức của tín hiệu)

1.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhìn từ phƣơng diện cái đƣợc

biểu hiện (tức mặt nội dung của tín hiệu)

Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC

SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG HỌC

2.1. Một số vấn đề lí thuyết có liên quan

2.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét từ phƣơng diện thể hiện hành

động ngôn trung (hành vi ở lời)

2.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét từ phƣơng diện chủ thể sử dụng

2.4. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ xét từ phƣơng diện hoàn cảnh sử

dụng

2.5. Vai trò của phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

Chƣơng 3: VAI TRÒ CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI

NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN

CHƢƠNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

3.1. Tình hình sử dụng các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong một

số tác phẩm văn chƣơng Việt Nam hiện đại

3.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ góp phần thể hiện tính chân thực

và sinh động cho cuộc thoại của các nhân vật

3.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ góp phần khắc họa tính cách nhân

vật

KẾT LUẬN

THƢ MỤC THAM KHẢO

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Ngôn ngữ bằng lời là phƣơng tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con ngƣời

nhƣng không phải là duy nhất. Trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp, đặc biệt là giao

tiếp đƣơng diện (mặt đối mặt), ngƣời ta có thể dùng các phƣơng tiện nhƣ cử chỉ,

điệu bộ, nét mặt, hành động,…của cơ thể, các tín hiệu màu sắc, âm thanh, các vật

thể để phụ trợ cho lời. Thậm chí các phƣơng tiện phi ngôn ngữ này còn có khả

năng dùng độc lập để giao tiếp. Trong đó phổ biến nhất, đƣợc sử dụng thƣờng

xuyên nhất phải kể đến là các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, hành động…của cơ thể.

Ngƣời ta đã gọi những phƣơng tiện giao tiếp ngoài ngôn ngữ nhƣ trên bằng

nhiều thuật ngữ khác nhau nhƣ ngôn ngữ cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể (body

languague), tín hiệu kèm ngôn ngữ, ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ, các phương tiện á

ngữ học,… Sau đây xin đƣợc gọi chúng là các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ

(PTGTPNN) và sẽ luận giải tên gọi này rõ hơn ở phần sau.

Các PTGTPNN đƣợc sử dụng đồng thời với phƣơng tiện ngôn ngữ bằng lời

trong giao tiếp là hiện tƣợng có thật, hơn nữa còn rất phổ biến và có vai trò quan

trọng trong giao tiếp xã hội. Về mức độ phổ biến của PTGTPNN, nhà tâm lý học

ngƣời Anh, Michael Archil đã quan sát và nhận thấy rằng trong một giờ trò

chuyện, một ngƣời Phần Lan chỉ sử dụng điệu bộ có 1 lần, trong khi đó ngƣời Italia

dùng đến 80 lần, ngƣời Pháp 120 lần và ngƣời Mêhicô 180 lần. Về vai trò của

PTGTPNN, Birdwhistell đã phát hiện ra trong một cuộc trò chuyện trực diện thì

yếu tố lời nói chiếm chƣa đến 35% còn trên 65% là giao tiếp không lời. Albert

Maerabian, một nhà nghiên cứu tiên phong về ngôn ngữ cơ thể vào thập niên 50

của thế kỉ 20, đã nghiên cứu và cũng đƣa ra những số liệu đáng lƣu tâm: trao đổi

thông tin diễn ra qua các phƣơng tiện bằng lời (chỉ bằng lời) chiếm có 7%, qua các

phƣơng tiện âm thanh (bao gồm giọng nói, ngữ điệu và các âm thanh khác) chiếm

38%, còn qua các phƣơng tiện không lời thì chiếm tới 55% (Dẫn theo Allan và

Barbara Pease [17])

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

Phương tiên không lời

(55%)

Phương tiện bằng lời (7%)

Phương tiện âm thanh

(38%)

PTGTPNN, do vậy, là vấn đề rất đáng đƣợc quan tâm và đi sâu nghiên cứu.

Sở dĩ PTGTPNN không thể trở thành phƣơng tiện giao tiếp chung của nhân loại

bởi nhiều lý do, trong đó có một lý do quan trọng là bởi chúng chịu sự chi phối của

yếu tố văn hóa. Cùng một cử chỉ, điệu bộ,… nhƣng ở các dân tộc khác nhau nó có

thể đƣợc gán cho những ý nghĩa biểu hiện khác nhau. Nghiên cứu PTGTPNN

trong hoạt động giao tiếp của ngƣời Việt và tìm hiểu những dấu ấn văn hóa Việt

Nam trong các phƣơng tiện giao tiếp đặc biệt này là một công việc đầy hứng thú và

cũng rất hữu ích. Đây là lí do quan trọng khiến chúng tôi lựa chọn đề tài này để đi

sâu tìm hiểu.

Lẽ ra luận văn cần quan sát ghi lại hoặc sao chụp các cuộc giao tiếp tự nhiên

diễn ra trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp khác nhau để làm tƣ liệu nghiên cứu. Tuy

nhiên, công việc đó quả thật vô cùng khó khăn và phức tạp. Hơn nữa, rải rác trong

một vài công trình, các nhà nghiên cứu đã tiến hành công việc này. Là một giáo

viên dạy văn ở trƣờng phổ thông, tác giả đề tài mong muốn gắn những kiến thức

học đƣợc từ ngôn ngữ học với tác phẩm văn chƣơng nên đã tìm hiểu về PTGTPNN

thông qua các cuộc hội thoại của các nhân vật trong tác phẩm đƣợc nhà văn miêu

tả. Bởi một mặt, việc làm này vẫn đáp ứng đƣợc mục đích tìm hiểu PTGTPNN

trong hoạt động giao tiếp và những dấu ấn văn hóa Việt Nam trong các phƣơng

tiện ấy. Mặt khác, cũng bởi ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn chƣơng chính là

sự ánh xạ ngôn ngữ đời thƣờng. Nghiên cứu cử chỉ, điệu bộ…của nhân vật trong

tác phẩm văn chƣơng còn giúp thấy đƣợc vai trò của loại phƣơng tiện giao tiếp đặc

biệt này trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật của các nhà văn.

Biểu đồ 1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

Với những lí do trên, chọn đề tài “Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ

được sử dụng trong một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại” để

nghiên cứu thiết nghĩ là một công việc cần thiết và nên làm.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Nhƣ đã nói, PTGTPNN có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống con ngƣời.

Lời nói bắt đầu đƣợc phát triển cách đây khoảng 500.000 đến 2 triệu năm, là

khoảng thời gian mà kích cỡ não bộ con ngƣời tăng gấp ba. Trƣớc đó, PTGTPNN

và những âm phát ra từ cổ họng là các phƣơng tiện chủ yếu để chuyển tải cảm xúc,

tình cảm. Điều đó có nghĩa, PTGTPNN là phƣơng tiện giao tiếp cổ xƣa nhất của

loài ngƣời. Tuy nhiên, sự nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc, mang tính hệ thống, khoa

học về loại phƣơng tiện này cũng mới chỉ đƣợc tiến hành vài chục năm trở lại đây

(kể từ thập niên 50 của thế kỉ 20) trong một số giáo trình và bài báo khoa học, và

đa số công chúng biết đến sự tồn tại của loại phƣơng tiện này chỉ mới từ năm 1978,

thời điểm Allan Pease xuất bản cuốn sách Ngôn ngữ cơ thể.

Có thể điểm qua một số công trình, các bài nghiên cứu của tác giả trong và

ngoài nƣớc về đối tƣợng nghiên cứu này.

2.1. Các công trình, các bài nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nƣớc

2.1.1.Các tác giả trong nƣớc

2.1.1.1. PTGTPNN đã đƣợc thừa nhận bên cạnh phƣơng tiện giao tiếp chính là

ngôn ngữ trong các giáo trình nghiên cứu về ngôn ngữ học.

Các giáo trình phong cách học tiếng Việt và ngữ dụng học chính thức thừa

nhận sự tồn tại của các PTGTPNN (mà các tác giả gọi bằng thuật ngữ khác nhau)

bên cạnh ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.

a. Trong các giáo trình phong cách học tiếng Việt, hầu hết các nhà nghiên

cứu đã đề cập đến sự phân biệt giữa nói và viết, cho rằng nói và viết là “hai phong

cách ngôn ngữ”- phong cách nói và phong cách viết (Hồ Lê), hay “hai dạng của lời

nói” - dạng nói và dạng viết (Định Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa), hoặc gọi là

“những hình thức truyền tin” (Cù Đình Tú). Dù gọi nói và viết bằng thuật ngữ nào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

thì các nhà phong cách học, về cơ bản, đều thống nhất phân biệt hình thức nói và

viết trƣớc hết là ở phƣơng tiện biểu hiện:

Bảng 1

tiêu chí so sánh dạng nói đạng viết

định hƣớng vào

nhân vật giao tiếp

hƣớng vào sự tri giác và phản

ứng trực tiếp cuả ngƣời nhận

không hƣớng vào sự tri giác

và phản ứng trực tiếp của

ngƣời nhận.

phƣơng tiện

biểu hiện

có thể dùng âm thanh, ngữ điệu

gắn liền với vẻ mặt, cử chỉ,

dáng điệu của ngƣời nói

dùng văn tự, do đó không có

khả năng sử dụng các

PTGTPNN .

Nhƣ vậy, đề cập đến các phƣơng tiện biểu hiện của phong cách nói, các nhà

phong cách học thừa nhận có loại phƣơng tiện là vẻ mặt, cử chỉ, dáng điệu,... –

PTGTPNN. Không chỉ thừa nhận sự tồn tại của PTGTPNN, các nhà phong cách

học còn nhấn mạnh đến ý nghĩa và vai trò quan trọng của loại phƣơng tiện này

trong hoạt động giao tiếp.

Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa: “Muốn nói tốt, không những phải biết

suy nghĩ tốt mà còn phải biết cách sử dụng lời nói với cách phát âm đúng và rõ kết

hợp với ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, dáng điệu để ngƣời nghe có thể hiểu ngay, hiểu

hết ý tứ mình. Còn muốn nghe tốt thì cần phải biết tổng hợp ý nghĩa của lời nói với

sắc thái cảm xúc, bình giá thông qua ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, dáng điệu của

ngƣời nói để có thể hiểu hết ngay, hiểu hết tình ý của ngƣời nói” [7,tr.45].

Hồ Lê: “Ngôn hiệu (điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, ánh mắt…) là yếu tố không thể

thiếu trong phong cách nói”, “Ngôn hiệu có tác dụng phối hợp với lời để diễn đạt ý

nghĩa (...) Nó cũng sẽ góp phần tạo ra phong cách nói của từng ngƣời”, “Nếu lạm

dụng ngôn hiệu sẽ không tránh khỏi sự thái quá, thậm chí sự lố bịch. Song nếu

không biết sử dụng ngôn hiệu để đến nỗi lúc nào cũng chỉ “nói chay” thì sẽ dễ bị

rơi vào tình trạng nói đều đều, kém sinh động và kém hiệu quả”. [8,tr.465]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7

b. Trong tài liệu về lí thuyết hội thoại, về hoạt động giao tiếp hay hoạt động

ngôn giao (hoạt động giao tiếp bằng lời) - thuộc lĩnh vực nghiên cứu của ngữ dụng

học, các nhà nghiên cứu cũng bàn đến PTGTPNN và thừa nhận chúng là loại

phƣơng tiện giao tiếp phổ biến, quan trọng trong hoạt động giao tiếp, bên cạnh

ngôn ngữ.

Trong giáo trình “Đại cương về ngôn ngữ học” - Tập 2 - Ngữ dụng học [1],

ở phần chƣơng V - Lí thuyết hội thoại, tác giả Đỗ Hữu Châu bàn về các vận động

hội thoại nhƣ sau:

Trong số các vận động hội thoại có vận động trao lời, vận động trao đáp và

tƣơng tác hội thoại.

Vận động trao lời: Là vận động của ngƣời nói A nói ra và hƣớng lời nói của

mình về phía B. A có những vận động cơ thể (điệu bộ, cử chỉ, nét mặt) hướng tới

người nhận hoặc tự hướng về mình để bổ sung cho lời nói.

Vận động trao đáp: Ngƣời nói B đáp lời ngƣời nói A, B có thể hồi đáp bằng

những yếu tố kèm ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười, …

Cũng trong giáo trình này, Đỗ Hữu Châu đã dẫn ra ý kiến của Arbercrombie

bàn về sự có mặt của cử chỉ (hành vi kèm ngôn ngữ) trong hội thoại và sự cần thiết

phải nghiên cứu chúng: “Chúng ta nói bằng các cơ quan cấu âm nhƣng chúng ta

cũng hội thoại với cả cơ thể chúng ta. Những sự kiện kèm ngôn ngữ xuất hiện với

ngôn ngữ nói, hòa lẫn vào ngôn ngữ và cùng với ngôn ngữ nói hình thành nên một

hệ thống giao tiếp trọn vẹn (...). Nghiên cứu về các hành vi kèm ngôn ngữ là một

bộ phận của sự nghiên cứu về ngôn ngữ cần đƣợc chú ý đầy đủ” [1,tr.223]

Trong giáo trình “Quy luật ngôn ngữ” - Quyển II - Tính quy luật của cơ chế

ngôn giao [8], phần bàn về cơ chế ngôn giao, tác giả Hồ Lê cũng phát biểu rằng:

Những cử chỉ điệu bộ và những phƣơng tiện phi ngôn ngữ nói chung kèm theo lời

đƣợc gọi là ngôn hiệu, là 1 trong 7 thành tố của ngữ huống phát ngôn. Trong quá

trình tƣơng tác hội thoại những ngƣời đối thoại có thể tác động lẫn nhau bằng lời,

bằng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, bằng thái độ khi nói năng và bằng bối cảnh - điều

kiện, không khí đƣợc tạo ra cho sự đối thoại. Trong số này, nội dung của lời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

8

thƣờng đƣợc coi là phƣơng tiện/công cụ tƣơng tác quan trọng nhất. Nhƣng trong

thực tế không nhất thiết luôn luôn nhƣ thế. Mà có khi, những phƣơng tiện/công cụ

khác lại tỏ ra quan trọng hơn. Thí dụ, cũng là câu nói “Mời anh sang nhà tôi chơi”

nhƣng kết hợp với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt có ý mỉa mai hay không chân thành thì

nội dung câu nói tất bị hiểu khác hẳn [8,tr.112, 113].

Do vậy, Hồ Lê khẳng định: “Văn hóa giao tiếp – mà phép lịch sự trong giao

tiếp là một biểu hiện – đòi hỏi sự nhất quán giữa nội dung của lời và các phƣơng

tiện/công cụ khác đi kèm theo. Nếu không có sự nhất quán đó, thậm chí có sự

ngƣợc chiều nhau, thì nội dung hàm ẩn của lời đƣợc phát ra sẽ khác hay sẽ trái

ngƣợc hẳn với nội dung hiển hiện của lời. Lúc ấy, văn hóa giao tiếp sẽ bị vi phạm”

[ 8,tr.114].

Tiếp tục bàn về nghi thức ngôn giao, Hồ Lê còn nói rõ thêm: “Cử chỉ, điệu

bộ, nét mặt có khả năng biểu hiện trực tiếp nghi thức ngôn giao. Nhìn vào cử chỉ,

điệu bộ, nét mặt ngƣời ta thấy ngay nghi thức ngôn giao mà những ngƣời giao tiếp

đã sử dụng với nhau ngụ ý điều gì. Coi trọng hay coi thƣờng, lễ độ với nhau hay xấc

xƣợc, yêu mến hay ghét bỏ, thành thật hay mỉa mai, châm biếm” [8,tr 260, 261].

Nhƣ vậy, trong các giáo trình nghiên cứu về ngôn ngữ học đã dẫn,

PTGTPNN chính thức đƣợc thừa nhận và bƣớc đầu đƣợc xem xét về ý nghĩa, vai

trò của chúng. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để tiến hành nghiên cứu về loại

phƣơng tiện giao tiếp này.

2.1.1.2. PTGTPNN đƣợc bàn đến trong các bài báo khoa học và trong các công

trình nghiên cứu về văn hóa giao tiếp.

Sau đây xin đƣợc giới thiệu một cách sơ lƣợc thành tựu nghiên cứu về

PTGTPNN trong một số bài báo khoa học và các công trình nghiên cứu tiêu biểu .

a. Trong bài viết “Thử tìm hiểu về ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ” [5], Phi

Tuyết Hinh đã bàn về ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ, điệu mặt (thuật ngữ đƣợc tác

giả sử dụng) trên các phƣơng diện sau:

- Về vai trò: Tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của một loại

PTGTPNN là điệu bộ, cử chỉ. “Trong giao tiếp không lời, cử chỉ điệu bộ và điệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

9

mặt có vai trò quan trọng hơn cả. Cử chỉ điệu bộ là những yếu tố tự nhiên trong

hành vi giao tiếp của con ngƣời (...). Thật khó tƣởng tƣợng đƣợc rằng con ngƣời có

thể giao tiếp mà không cử động, không ra hiệu, không thay đổi nét mặt”.

- Về chức năng: Tác giả cũng đã chỉ ra chức năng của ngôn ngữ cử chỉ điệu

bộ trong mối quan hệ với ngôn ngữ âm thanh. Theo tác giả, cử chỉ điệu bộ có hai

chức năng cơ bản:

+ Chức năng thay lời: Nói đến chức năng thay lời của ngôn ngữ cử chỉ

là nói tới khả năng làm công cụ giao tiếp một cách độc lập của cử chỉ điệu bộ trong

hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt (hoàn cảnh giao tiếp mà ngƣời ta không có khả năng

nói hay không đƣợc phép nói) và cả trong hoàn cảnh giao tiếp bình thƣờng (vì

không tiện nói, không muốn nói hay để truyền đạt có hiệu quả hơn điều cần nói).

Ví dụ thay vì nói “Tôi đồng ý”, “Tôi bằng lòng”, ngƣời ta có thể gật đầu.

+ Chức năng kèm lời: Khi cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, điệu mặt đi kèm

với lời nói, nó có tác dụng bổ sung cho lời, tác động qua lại với lời nhằm đạt đƣợc

hiệu quả cao nhất trong giao tiếp. Cụ thể, cử chỉ điệu bộ có thể lặp lại thông tin (ví

dụ vừa nói “Tôi đồng ý” vừa gật đầu), nhấn mạnh thông tin (ví dụ vừa khẳng định

vừa đập tay xuống bàn hay đặt tay lên ngực), dự báo thông tin (khi chƣa tìm đƣợc

cách diễn đạt ý tứ bằng lời, ngƣời ta dùng cử chỉ để mô phỏng), phủ định thông tin

(ví dụ lời nói là “Đi đi!” nhƣng đôi mắt lại tha thiết mời gọi thì cần hiểu là “Xin

hãy ở lại!”), để đạt tới tính một nghĩa trong giao tiếp (khi lời nói đa nghĩa), và để

truyền đạt thông tin đến đối tƣợng khác (nói với ngƣời này nhƣng lại nháy mắt với

ngƣời kia).

Bên cạnh những vai trò trên, ở chức năng kèm lời, tác giả đã phân tích thêm:

Cử chỉ điệu bộ còn có vai trò liên kết hành động giao tiếp (bổ sung hay giải thích

các thời điểm im lặng trong cuộc thoại), duy trì mối quan hệ giữa những ngƣời

tham gia hội thoại, điều chỉnh dòng ngữ lƣu để phân đoạn thông báo (ví dụ vung

tay để tách thông báo thành từng điểm riêng biệt) và gánh tải lƣợng lớn tình thái và

cảm xúc của ngƣời nói.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

10

- Về bản chất: Cũng giống nhƣ ngôn ngữ, theo tác giả, cử chỉ điệu bộ mang

bản chất tín hiệu, có hai mặt hình thức và nội dung – ý nghĩa. Mối quan hệ giữa hai

mặt này có thể là 1:1 nhƣng cũng có khi không phải nhƣ vậy. Cử chỉ điệu bộ cũng

có tính đồng nghĩa (nhiều cử chỉ điệu bộ cùng biểu thị một nội dung ý nghĩa) và đa

nghĩa (một cử chỉ điệu bộ có thể biểu thị nhiều ý nghĩa khác nhau).

- Về đặc tính văn hoá: Tác giả cũng chú ý tới đặc tính văn hóa của cử chỉ

điệu bộ và lƣu ý mọi ngƣời hãy chú ý sử dụng cử chỉ điệu bộ sao cho bảo đảm

đƣợc tính văn hóa, và phải phù hợp với văn hóa giao tiếp của từng cộng đồng ngôn

ngữ khác nhau.

b. Đồng quan điểm với Phi Tuyết Hinh, Thục Khánh trong bài viết “Bước

đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ điệu bộ của người Việt trong giao tiếp”

[6] cũng khẳng định vai trò và ý nghĩa quan trọng của loại phƣơng tiện giao tiếp cử

chỉ điệu bộ: “Ngoài ngôn ngữ âm thanh, con ngƣời còn dùng nhiều hệ thống tín

hiệu phi lời hay còn gọi là ngôn ngữ không lời (neverbal’nyj jazyk) (silent

languague) để tiến hành hoạt động giao tiếp của mình. Trong nói năng, đặc biệt là

trong đối thoại, ngôn ngữ và cử chỉ điệu bộ nhƣ hai mặt của một chỉnh thể giao

tiếp”.

Tác giả Thục Khánh cũng đề cập đến hai chức năng cơ bản của cử chỉ điệu

bộ là chức năng thay lời và chức năng trợ lời.

Trong bài viết, Thục Khánh đi sâu phân tích loạt cử chỉ điệu bộ biểu thị hành

vi tán đồng và hành vi không tán đồng của ngƣời Việt rồi khẳng định: Nhiều khi

ngƣời ta không sử dụng riêng rẽ một cử chỉ điệu bộ nào đó mà phối hợp sử dụng

nhiều cử chỉ điệu bộ để biểu thị các cung bậc khác nhau của trạng thái tình cảm.

Đồng thời cũng nhƣ Phi Tuyết Hinh, Thục Khánh cũng đi đến kết luận về tính đa

nghĩa của cử chỉ điệu bộ và cả khả năng đồng nghĩa hay trái nghĩa của chúng.

c. Trong cuốn sách “Nỗi oan thì, là, mà” [3], Nguyễn Đức Dân cũng dành

một phần để nói về “Cử chỉ: Thứ ngôn ngữ không lời”. Tác giả khẳng định cử chỉ

là một công cụ để giao tiếp. Có những cử chỉ là bẩm sinh, vô thức, và có nhiều cử

chỉ là do học hỏi, do đƣợc giáo dục mà hình thành ở ngƣời nói.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

11

Về ý nghĩa của cử chỉ điệu bộ: Nguyễn Đức Dân cũng nói đến tính đa nghĩa

và đồng nghĩa của chúng. Tác giả khẳng định: “Cùng một cử chỉ có thể biểu hiện

những ý nghĩa khác nhau” [3,tr.224], và “có thể dùng những cử chỉ khác nhau để

biểu hiện cùng một ý nghĩa” [3,tr.225].

Đóng góp đáng chú ý của Nguyễn Đức Dân khi bàn về ngôn ngữ cử chỉ

(thuật ngữ đƣợc tác giả sử dụng) là đã bƣớc đầu chỉ ra những yếu tố ảnh hƣởng đến

cử chỉ với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp, đó là:

- Cử chỉ mang đậm nét đặc thù dân tộc và phụ thuộc từng nền văn hóa. Bên

cạnh những cử chỉ giao tiếp chính và vô thức hầu nhƣ không khác nhau trên toàn

thế giới, mỗi dân tộc còn có những quy ƣớc riêng về hệ thống kí hiệu cử chỉ.

- Cử chỉ phụ thuộc vào vị thế, nghề nghiệp và uy tín xã hội của một ngƣời.

Ngƣời có vị thế cao hay có tri thức rộng, ngôn từ phong phú thì cử chỉ thƣờng

chậm rãi, ít bộc lộ. Ngƣợc lại, một ngƣời ít học, vị thế xã hội thấp thƣờng phải sử

dụng cử chỉ để diễn đạt rõ hơn lời nói của mình. Cử chỉ của họ thƣờng phong phú

hơn. Những nhà ngoại giao, chính trị, luật sƣ,…thƣờng biết sử dụng cử chỉ có hiệu

quả và biết che giấu những cử chỉ không có lợi,…

- Cử chỉ và mức độ rõ ràng của chúng thƣờng cũng phụ thuộc vào tuổi tác và

khí chất cá nhân.

- Khoảng cách trong giao tiếp – một đặc điểm của ngôn ngữ cử chỉ, thuộc

phạm trù “không gian cá nhân” - phụ thuộc vào tuổi tác (ví dụ ngƣời lớn có thể xoa

đầu một em bé vì lãnh địa của em bé còn nhỏ, nhƣng dù là cán bộ cao cấp thì cũng

không thể xoa đầu một cụ già 80 tuổi), phụ thuộc vị thế xã hội (vị thế xã hội càng

cao thì lãnh địa càng lớn), phụ thuộc quan hệ thân sơ giữa những ngƣời đối thoại,

phụ thuộc địa phƣơng và văn hóa của từng dân tộc (khoảng cách trong giao tiếp

của ngƣời châu Á khác với ngƣời châu Âu,…)

d. Năm 2005, tác giả Trần Thị Nga đã tiến hành một đề tài khoa học nghiên

cứu một cách khá hệ thống về một lọai PTGTPNN mà tác giả gọi là ngôn ngữ cử

chỉ, đó là “Nghiên cứu đặc điểm văn hóa ngôn ngữ cử chỉ của người Việt” [9].

Trong công trình này, tác giả đã tìm hiểu ngôn ngữ cử chỉ dƣới lí thuyết của tín

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

12

hiệu học, lí thuyết giao tiếp và ngữ dụng học để thấy đƣợc bản chất tín hiệu của

ngôn ngữ cử chỉ, tính đồng nghĩa, đa nghĩa, đơn nghĩa của cử chỉ; thấy đƣợc ý

nghĩa cử chỉ trong việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ. Đóng góp lớn của đề tài là

đã mô tả và thiết lập đƣợc hệ thống danh sách ngôn ngữ cử chỉ của ngƣời Việt dựa

trên những quan sát trong thực tiễn hoạt động giao tiếp và dựa trên những cứ liệu

trong các tác phẩm văn học, đồng thời so sánh khái quát sự tƣơng đồng và dị biệt

giữa cử chỉ của ngƣời Việt với ngƣời Anh, ngƣời Nga.

Những thành tựu nghiên cứu của những nhà khoa học nƣớc ta về PTGTPNN

rất đáng trân trọng, đã tạo tiền đề lí thuyết cơ bản cho luận văn tiếp tục tìm hiểu về

vấn đề này.

2.1.2. Các tác giả nƣớc ngoài.

Có khá nhiều tác giả nƣớc ngoài quan tâm đến PTGTPNN là cử chỉ điệu bộ,

đã trình bày những ý tƣởng của mình trong các bài báo khoa học hay các công

trình viết về ngôn ngữ cơ thể - ngôn ngữ cử chỉ trong văn hóa giao tiếp.

a. J.Vendryes (1990) cho rằng: “Có thể đƣa ra một định nghĩa chung nhất

cho ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu”, và “nên hiểu kí hiệu là bất kì

phù hiệu nào mà con ngƣời có thể dùng để giao tiếp qua lại với nhau”. Do vậy,

“mọi giác quan đều có thể là cơ sở để tạo ra ngôn ngữ. Có ngôn ngữ khứu giác và

ngôn ngữ xúc giác, ngôn ngữ thính giác và ngôn ngữ thị giác. Chúng ta nói đến

ngôn ngữ khi hai cá thể quy ƣớc gán cho một hành động nào đó một nghĩa nhất

định và thực hiện hành động này nhằm mục đích giao tiếp qua lại với nhau” [20].

Trong số đó, ngôn ngữ thính giác (ngôn ngữ phát âm) là quan trọng nhất, chiếm ƣu

thế hơn về các hình thái biểu đạt. Ngôn ngữ thính giác đôi khi đi kèm hoặc thƣờng

đƣợc thay thế bằng ngôn ngữ thị giác (cử chỉ, điệu bộ, điệu mặt,...)

J.Vendryes khẳng định cử chỉ, điệu bộ cũng là một loại ngôn ngữ nếu hiểu

“ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu”. Và do vậy, mối quan hệ giữa nội dung và ý

nghĩa của cử chỉ điệu bộ là một sự quy ƣớc.

b. F.de.Saussure (1973) cũng viết: “Mọi phƣơng tiện đƣợc chấp nhận trong

một xã hội về nguyên tắc mà nói, đều dựa trên thói quen tập thể, hoặc – chung quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

13

cũng vẫn thế – trên sự quy ƣớc. Nghĩa là những dấu hiệu để tỏ lễ độ chẳng hạn,

thƣờng có một tính biểu hiện tự nhiên nhất định (Ta hay nghĩ đến ngƣời Trung

Quốc chào vua bằng cách sụp lạy chín lần sát đất). Song những dấu hiệu ấy thật ra

vẫn do một quy tắc ấn định; chính các quy tắc ấy buộc ta phải dùng nó chứ không

phải cái giá trị nội tại của bản thân nó” [19,tr.123].

c. K.A.Pshenko trong bài “Huấn luyện các phương tiện á ngữ học ở các

khóa tiếng Nga ngắn hạn” đã sử dụng thuật ngữ “phương tiện á ngữ học” để chỉ

loại phƣơng tiện không lời, ngôn ngữ cử chỉ - điệu mặt: “Xuất phát từ quan điểm

ký hiệu học, cần thừa nhận rằng toàn bộ cử chỉ và các phƣơng tiện biểu cảm qua

điệu mặt đƣợc sử dụng trong quá trình giao tiếp chính là các đơn vị kí hiệu quy

ƣớc. Ngôn ngữ tự nhiên liên quan chặt chẽ (và thậm chí đôi khi hòa lẫn với một hệ

thống kí hiệu khác gần gũi với nó – đó là hệ thống các cử chỉ điệu bộ )”.

d. Bài viết “Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ” của Atenla Alenikova cũng bàn đến

vai trò, nguồn gốc của cử chỉ điệu bộ và khẳng định đặc tính dân tộc của loại

phƣơng tiện giao tiếp này.

Bên cạnh những bài viết trên còn có những cuốn sách bàn sâu hơn về ý

nghĩa, cách thức, tính văn hóa của các cử chỉ điệu bộ khi giao tiếp nhƣ:

Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể (2008)- Allan và Barbara Pease.

Cử chỉ - những điều nên làm và nên tránh trong ngôn ngữ chỉ khắp thế giới–

Roger E.Axtell.

Ngôn ngữ cơ thể - Julias Fast.

2.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc và những vấn đề

còn bỏ ngỏ

Tuy mới đƣợc quan tâm nghiên cứu vài chục năm gần đây song những

nghiên cứu về ngôn ngữ cử chỉ cũng rất đáng kể. Có thể tóm tắt nhƣ sau:

- Các tác giả đều thừa nhận có sự tồn tại thƣờng xuyên của loại PTGTPNN

(ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ, ngôn ngữ không lời, ngôn ngữ thị giác,…) bên cạnh

ngôn ngữ trong giao tiếp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

14

- Bƣớc đầu chỉ ra chức năng cơ bản của PTGTPNN trong hoạt động giao

tiếp cũng nhƣ vai trò thông tin của nó.

- Phân tích đƣợc bản chất tín hiệu của PTGTPNN, những yếu tố ảnh hƣởng,

chi phối việc sử dụng loại phƣơng tiện giao tiếp này trong hoạt động giao tiếp.

- Thiết lập đƣợc hệ thống danh sách ngôn ngữ cử chỉ của ngƣời Việt. Bƣớc

đầu chỉ ra ý nghĩa biểu hiện của chúng trên phƣơng diện tín hiệu học và ngữ dụng

học.

- Phần nào chỉ ra đƣợc sự khác nhau giữa các PTGTPNN dùng trong mỗi

quốc gia, dân tộc, mỗi nền văn hóa.

Một số vấn đề chƣa đƣợc xem xét hoặc xem xét chƣa kĩ nhƣ sau:

- Các tác giả chủ yếu xem xét PTGTPNN là các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt –

mà chƣa quan tâm nhiều đến các yếu tố nhƣ sự thay đổi không gian tƣơng tác giữa

các nhân vật giao tiếp, các hành động nhân vật sử dụng trong quá trình giao tiếp,...

cũng có giá trị thông tin và chức năng trợ lời .

- Các tác giả chƣa đặt những PTGTPNN là cử chỉ, điệu bộ,… vào những

hoàn cảnh giao tiếp cụ thể để chỉ ra những sắc thái biểu cảm và nội dung thông tin

tinh tế của chúng.

- Các tác giả đã chỉ ra vai trò của PTGTPNN song chƣa thực sự đầy đủ và

sâu sắc.

- Chƣa có công trình nào nghiên cứu về PTGTPNN với tƣ cách là một

phƣơng tiện thể hiện những dụng ý nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm văn học

Việt Nam.

3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các PTGTPNN đƣợc các nhân vật sử

dụng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, đƣợc nhà văn miêu tả trong tác phẩm

văn chƣơng. Các tác phẩm đƣợc chọn khảo sát là một số tiểu thuyết và truyện ngắn

Việt Nam hiện đại mà trong đó các nhà văn thƣờng chú trọng miêu tả PTGTPNN

nhân vật sử dụng trong quá trình giao tiếp. Những tác phẩm này sẽ cho luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

15

một nguồn tƣ liệu phong phú để tìm hiểu vấn đề. Thêm nữa, luận văn cũng có ý

chọn những tác phẩm gần gũi với nhà trƣờng phổ thông, đƣợc chọn giảng hoặc

đƣợc nhắc đến nhiều trong chƣơng trình Ngữ văn ở trƣờng phổ thông nhằm hƣớng

tới một mục đích của luận văn là để phục vụ cho quá trình giảng dạy. Cụ thể các

tác phẩm đƣợc chọn khảo sát gồm:

Bảng 2

STT tác giả tác phẩm thể loại Năm

sáng tác

1. Vũ Trọng Phụng

Giông tố tiểu thuyết 1936

2. Số đỏ tiểu thuyết 1936

3.

Nam Cao

Chí Phèo tiểu thuyết 1941

4. Lão Hạc truyện ngắn 1943

5. Sống mòn truyện ngắn 1944

6. Đôi mắt truyện ngắn 1948

7. Kim Lân Vợ nhặt truyện ngắn 1954

8. Lê Lựu Thời xa vắng tiểu thuyết 1984

9. Ma Văn Kháng

Mùa lá rụng trong vườn tiểu thuyết 1985

10. Đám cưới không có giấy giá thú tiểu thuyết 1988

11. Nguyễn Minh

Châu Chiếc thuyền ngoài xa truyện ngắn 1987

12. Bảo Ninh Nỗi buồn chiến tranh tiểu thuyết 1987 (?)

(Xuất xứ tác phẩm: xin xem thƣ mục tham khảo)

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Dựa trên tƣ liệu là các PTGTPNN đƣợc các nhân vật sử dụng và nhà văn

miêu tả lại trong các tác phẩm văn chƣơng, luận văn sẽ xem xét PTGTPNN trên

bình diện tín hiệu học – cái biểu hiện (mặt hình thức vật chất) và cái đƣợc biểu

hiện (ngữ nghĩa) cùng một số bình diện thuộc dụng học nhƣ chủ thể sử dụng, hoàn

cảnh sử dụng, đích giao tiếp… Khác với các nghiên cứu trƣớc đây, PTGTPNN sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

16

đƣợc đặt vào những tình huống giao tiếp cụ thể đƣợc miêu tả trong tác phẩm văn

chƣơng để phân tích.

Từ việc nghiên cứu PTGTPNN với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp, luận

văn tìm hiểu những dụng ý nghệ thuật cuả nhà văn khi tập trung miêu tả cử chỉ,

điệu bộ, hành động,… của các nhân vật trong quá trình giao tiếp.

4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn sẽ chỉ ra những đặc tính, ý nghĩa của PTGTPNN đƣợc miêu tả

trong các tác phẩm văn học và từ đó phát hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn khi

“gán cho” nhân vật các PTGTPNN ở những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu những khía cạnh lí thuyết làm cơ sở lí luận cho đề tài và xác định

đối tƣợng nghiên cứu.

- Chỉ ra các biểu hiện của PTGTPNN đƣợc sử dụng trong các tiểu thuyết và

truyện ngắn Việt Nam hiện đại đã đƣợc chọn là đối tƣợng nghiên cứu.

- Miêu tả, phân tích, đánh giá những biểu hiện của PTGTPNN đã thu thập

đƣợc.

- Chỉ ra những dụng ý nghệ thuật chính của các nhà văn khi miêu tả các

PTGTPNN của nhân vật trong tác phẩm của mình.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phƣơng pháp miêu tả: Việc phân tích và tổng hợp nhằm chỉ ra các đặc

trƣng trong sử dụng PTGTPNN ở tác phẩm văn chƣơng

- Phƣơng pháp thống kê – phân loại: Phân loại PTGTPNN theo tiêu chí nhất

định, thống kê cụ thể các PTGTPNN trong một số trƣờng hợp cần thiết phục vụ

cho mục đích nghiên cứu

6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Về mặt lí luận:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

17

Luận văn khẳng định thêm về sự phong phú, đa dạng và hiệu quả sử dụng

của PTGTPNN. Góp phần làm sáng tỏ hơn nữa PTGTPNN của ngƣời Việt về

phƣơng diện lí thuyết cũng nhƣ thực hành.

- Về mặt thực tiễn:

+ Luận văn có thể làm tƣ liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu

về PTGTPNN, giúp mọi ngƣời khi tham gia giao tiếp biết nên sử dụng những cử

chỉ, điệu bộ nào và tránh những cử chỉ điệu bộ không đẹp mắt, không phù hợp với

hoàn cảnh giao tiếp.

+ Luận văn có thể làm cơ sở cho phân tích cử chỉ, hành động,…của

nhân vật trong tác phẩm văn chƣơng.

7. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tƣ liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm

3 chƣơng:

- Chƣơng 1: Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong

một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại nhìn từ bình diện Tín hiệu

học.

- Chƣơng 2: Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong

một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam hiện đại nhìn từ bình diện Ngữ dụng

học.

- Chƣơng 3: Vai trò của các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đƣợc sử

dụng trong tác phẩm văn chƣơng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

18

Chƣơng 1

CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC

SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN TÍN HIỆU HỌC

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN

1.1.1. Về khái niệm “phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ”

1.1.1.1. Hiện đã có nhiều công trình, bài viết tìm hiểu về loại phƣơng tiện giao tiếp

là cử chỉ, điệu bộ, song nhìn chung chƣa thấy có một định nghĩa cụ thể, đầy đủ về

loại phƣơng tiện giao tiếp này. Các tác giả mới chỉ nêu ra các tên gọi “cử chỉ điệu

bộ”, “ngôn ngữ cử chỉ”, “ngôn ngữ cơ thể”, “ngôn hiệu”, “hệ thống tín hiệu phi

lời”, “phƣơng tiện á ngữ học”, …và chỉ ra những gì thuộc về loại phƣơng tiện giao

tiếp này (nhƣ điệu bộ, vận động của tay, chân, nét mặt, tƣ thế, khoảng cách,…) chứ

chƣa đƣa ra một sự xác định đủ rõ cho khái niệm này.

Trong cuốn “Đại cương về ngôn ngữ học” [1], ở phần “Ngữ dụng học” Đỗ

Hữu Châu quan niệm “yếu tố kèm lời” và “yếu tố phi lời” là những tín hiệu thƣờng

xuất hiện cùng yếu tố ngôn ngữ trong những cuộc đối thoại và hiểu chúng nhƣ sau:

- Yếu tố kèm lời (paraverbal) là những yếu tố siêu đoạn tính nhƣng đi kèm với

yếu tố đoạn tính, đó là những yếu tố nhƣ ngữ điệu, trọng âm, cƣờng độ, độ dài,

đỉnh giọng.

- Yếu tố phi lời (non verbal) là những yếu tố không phải là những yếu tố kèm

lời đƣợc dùng trong đối thoại mặt đối mặt, đó là những yếu tố cử chỉ, khoảng

không gian tƣơng tác, những tiếp xúc cơ thể, tƣ thế cơ thể, định hƣớng cơ thể, vẻ

mặt, ánh mắt,… Đó còn là những tín hiệu âm thanh nhƣ tiếng gõ, tiếng kéo bàn, xô

ghế, tiếng huýt sáo, tiếng còi,… Những yếu tố trang phục, không gian thoại trƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

19

cũng thuộc những yếu tố phi lời. Tác giả còn gọi đây là những “tín hiệu phi lời” và

nói rõ thêm:

+ Các yếu tố cơ thể - vận động đƣợc tiếp nhận bằng thị giác là những tín

hiệu xuất hiện trong hội thoại nhƣ: sự thay đổi cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, sự thay đổi

khoảng cách (không gian tƣơng tác), tƣ thế của những ngƣời trò chuyện trong quá

trình giao tiếp.

+ Các yếu tố tĩnh nhƣ diện mạo, trang phục…cung cấp thông tin về giới

tính, tuổi tác, dân tộc, thành phần xã hội, tính cách (“trông mặt mà bắt hình dong”)

của ngƣời đối thoại. Những thông tin này bƣớc đầu tạo ra thiện cảm hay gây ác

cảm ở ngƣời đối thoại. Những tín hiệu cung cấp thông tin về thoại trƣờng làm

thành điều kiện tiên khởi cho hội thoại.

Theo Đỗ Hữu Châu, những yếu tố phi lời cũng là một loại tín hiệu có

mặt trong các cuộc đối thoại, dùng làm phƣơng tiện giao tiếp, bên cạnh tín hiệu

ngôn ngữ.

Trong công trình “Nghiên cứu đặc điểm văn hóa ngôn ngữ cử chỉ của người

Việt”, Trần Thị Nga có đƣa ra một định nghĩa về ngôn ngữ cử chỉ nhƣ sau:

“Thuộc về ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ của con ngƣời là tất cả những điệu bộ, cử

chỉ mà con ngƣời đã dùng một cách cố ý hay không cố ý trong khi giao tiếp với

ngƣời khác. Do tính độc lập và hiệu quả mạnh của phƣơng tiện này, nên khác với

các phƣơng tiện đi kèm khác trong giao tiếp, trong nhiều điều kiện cụ thể của giao

tiếp, cử chỉ, điệu bộ có thể dùng độc lập không có ngôn ngữ bằng lời đi kèm nhƣng

vẫn có nội dung tƣơng tự khi phải hiển ngôn hóa bằng lời. Chúng là những phù

hiệu trong hoạt động giao tiếp và luôn gắn liền với ngôn ngữ bằng lời.” [9,tr.19]

Cử chỉ, điệu bộ mang tính văn hóa, tạo thành hệ thống và đƣợc xác lập, đƣợc

quy ƣớc hóa cao.

Theo mục đích nghiên cứu của công trình trên thì có thể xem đây là một định

nghĩa tƣơng đối đầy đủ và phù hợp, bởi dựa vào định nghĩa có thể nhận diện đƣợc

ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ với những đặc điểm phản ánh đƣợc bản chất của loại

phƣơng tiện giao tiếp này nhƣ sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

20

- Là tất cả những điệu bộ, cử chỉ đƣợc con ngƣời dùng một cách cố ý hay

không cố ý trong khi giao tiếp với ngƣời khác.

- Cử chỉ, điệu bộ có thể dùng kèm ngôn ngữ hay có thể dùng độc lập, không

có ngôn ngữ bằng lời đi kèm nhƣng vẫn có nội dung tƣơng đƣơng một phát ngôn.

- Có tính phù hiệu (đƣợc quy ƣớc hóa cao).

- Mang tính văn hóa.

- Tạo thành hệ thống.

1.1.1.2. Tham khảo cách định nghĩa khái niệm của ngƣời đi trƣớc, dựa vào cách

hiểu về yếu tố phi lời (tín hiệu phi lời) của Đỗ Hữu Châu, căn cứ vào mục đích

nghiên cứu riêng của đề tài, trong luận văn này xin đƣợc dùng khái niệm “phương

tiện giao tiếp phi ngôn ngữ” với cách hiểu nhƣ sau:

Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ là các tín hiệu cơ thể - vận động có thể

tiếp nhận đƣợc bằng thị giác, thính giác, xúc giác, thƣờng xuất hiện trong quá trình

hội thoại, do con ngƣời cố ý hay không cố ý tạo ra, có tác dụng mang lại cho ngƣời

tiếp nhận một giá trị thông báo thay lời hoặc một giá trị thông báo bổ sung, kèm

lời.

Xin đƣợc làm rõ định nghĩa trên nhƣ sau:

a. Các tín hiệu cơ thể - vận động (xin đƣợc gọi sự thay đổi các cử chỉ, điệu

bộ, tƣ thế, khoảng cách,... nhân vật tạo ra trong quá trình giao tiếp là các tín hiệu

hay các yếu tố cơ thể - vận động nhƣ cách gọi của Đỗ Hữu Châu) đƣợc hiểu là

những vận động do các bộ phận cơ thể con ngƣời tạo ra trong quá trình giao tiếp,

có thể đƣợc tiếp nhận bằng thị giác, thính giác hay xúc giác. Tóm lại, đây là loại

phƣơng tiện xét trong sự đối lập với ngôn ngữ lời nói. Đó có thể là:

+ Những cử chỉ, điệu bộ, hành động, động tác con ngƣời tạo ra trong

quá trình hội thoại nhƣ: nháy mắt, cười, cau mày, nhăn trán, vỗ tay, vung tay,

đánh, đấm, tát,…

+ Những sự thay đổi về khoảng cách, tƣ thế của ngƣời tham gia hội

thoại - những yếu tố thuộc về không gian tƣơng tác nhƣ: đang ngồi bỗng đứng phắt

dậy, đang nằm bỗng bật dậy, tiến lại gần/lùi ra xa người đối thoại,...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

21

b. Các yếu tố cơ thể - vận động ấy có thể do con ngƣời cố ý hoặc không cố

ý tạo ra trong quá trình giao tiếp nhƣng có giá trị bổ sung cho lời.

Nhƣ vậy khái niệm PTGTPNN ở đây được quan niệm rộng, gồm cả những

tín hiệu cơ thể - vận động do con ngƣời chủ động (cố ý) tạo ra để làm phƣơng tiện

giao tiếp, chẳng hạn nhƣ gật đầu (đồng ý), lắc đầu (không đồng ý), bĩu môi (mỉa

mai),... – ý nghĩa của chúng đƣợc nhận ra ngay cả khi không có lời nói đi kèm, và

cả những yếu tố cơ thể - vận động vô ý thức của nhân vật nhƣng mang lại cho

ngƣời tiếp nhận (ngƣời đối thoại) một giá trị thông báo nào đó. Giá trị thông báo ấy

đƣợc ngƣời nghe suy ra từ thói quen, kinh nghiệm giao tiếp và bằng sự am hiểu về

văn hoá giao tiếp của cộng đồng. Cũng đƣợc xem xét là cả những yếu tố cơ thể -

vận động vô ý thức bởi nghiên cứu trên tƣ liệu là các tác phẩm văn chƣơng thì

những cử chỉ, điệu bộ, hành động ấy có thể là vô ý thức với nhân vật - chủ thể của

hành động nhƣng không vô thức với nhà văn, và nhà văn miêu tả chúng trong tác

phẩm thì không phải không có ý đồ nghệ thuật nào.

c. Khái niệm PTGTPNN đƣợc quan niệm có chỗ hẹp hơn khái niệm tín hiệu

phi lời của Đỗ Hữu Châu. Tín hiệu phi lời còn gồm các yếu tố tĩnh nhƣ diện mạo,

trang phục,... của ngƣời đối thoại và cả các tín hiệu vật chất nhƣ màu sắc, âm

thanh,... Những tín hiệu này cũng coi là phƣơng tiện giao tiếp không phải là ngôn

ngữ, song ở đây chƣa có điều kiện tìm hiểu. Thêm nữa, loại phƣơng tiện này trong

các tác phẩm văn chƣơng nhìn chung hiếm gặp.

d. Những yếu tố cơ thể - vận động có thể đƣợc con ngƣời tạo ra một cách cố

ý hoặc không cố ý (cử chỉ vô thức – ngoài ý thức của con ngƣời) theo thói quen.

Việc sử dụng các cử chỉ trong giao tiếp phần lớn là cố ý song ngƣời sử dụng

không cần thiết phải suy nghĩ lựa chọn lâu, cũng không ý thức thật nhiều về nó.

Các cử chỉ nhƣ vậy dần xuất hiện trong quá trình con ngƣời tham gia giao tiếp, sau

trở nên quen thuộc đến mức trở thành phản xạ tự nhiên. Ngƣời sử dụng biết ở

trƣờng hợp này, tình huống giao tiếp này, để diễn tả nội dung ý nghĩa này thì

phải/nên sử dụng cử chỉ này chứ không phải/không nên sử dụng cử chỉ kia. Thao

tác lựa chọn ấy diễn ra rất nhanh chóng, gần nhƣ đồng thời với phản xạ lời nói.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

22

VD1: “- Khoan, chƣa hết – Lý xua tay, tranh lời Phƣợng – (…)”[29,tr.15]

Cử chỉ xua tay trong ví dụ trên là nhân vật cố ý tạo ra

VD2: “- Có tin tức gì mới không, bác?

Luận cố làm cho ông già ra khỏi mặc cảm. Ông gãi cái cái cổ mƣớt mồ hôi:

- Dạ, chỉ có tin tức về giá cả thôi ạ. (…)” [29,tr.261]

VD3: “- Mời thủ trƣởng uống bia ạ.

Ông thƣờng trực lại vào, đặt một cốc chè tƣơi nữa lên bàn, mời ông Tổng

biên tập, rồi lại gãi gãi đầu đi ra”. [29,tr.262]

Ở ví dụ 2, 3, cử chỉ gãi đầu, gãi cổ của ông thƣờng trực không phải là cố ý,

mà là do thói quen, trong lúc bối rối, thiếu tự tin vì bị bắt gặp làm việc không chính

đáng ngƣời ta thƣờng một cách vô thức, sử dụng cử chỉ này. Nhờ cử chỉ này mà

nhân vật Luận “đọc” đƣợc tâm trạng bối rối, thái độ ngƣợng ngùng của ông khi bị

Luận bắt gặp đánh máy thuê trong giờ làm việc.

Việc phân biệt các cử chỉ, điệu bộ là do cố ý hay không cố ý tạo ra đôi lúc

không phải là dễ dàng. Cần nắm vững hoàn cảnh giao tiếp và thói quen giao tiếp,

tính cách nhân vật giao tiếp mới phân biệt đƣợc những cử chỉ điệu bộ này.

e. Thiết nghĩ, việc phân biệt các yếu tố cơ thể - vận động là cố ý hay không

không thật quan trọng bằng việc xét xem chúng có tạo ra đƣợc một giá trị thông

báo nào đó cho ngƣời tiếp nhận hay không. Khả năng đem lại giá trị thông báo là

đặc tính quan trọng khiến các yếu tố cơ thể - vận động có thể trở thành phương

tiện giao tiếp. Giá trị thông báo của PTGTPNN này có thể là do ngƣời nói cố tình

gửi tới ngƣời nghe, hoặc cũng có thể do ngƣời nói vô tình biểu lộ qua các cử chỉ

điệu bộ của mình. Giá trị thông báo đó có thể là thay lời hoặc bổ sung cho lời.

VD4: “- Thôi thì ác cũng đƣợc! Anh cứ trả lời thế đi!

San bàn nhƣ vậy bằng một giọng đùa. Thứ lắc đầu, cười. Cả hai cùng cho

rằng chẳng khi nào họ hèn đến nỗi dám dùng cái lối vừa bàn” [32,tr.227].

Cử chỉ lắc đầu, cười của nhân vật Thứ có giá trị thay lời. Đó là một lời từ

chối đề nghị của San, đồng thời Thứ cũng hiểu ý đồ đùa cợt của bạn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

23

VD5: “Phƣợng ra sân, nhìn Đông, nhỏ nhẻ mời. Đông gãi cái gáy rậm, ngập

ngừng:

- Ông đi chơi hội bên Bắc Ninh sáng nay (…). Tôi …tôi ăn rồi.

- Anh ăn lúc nào! Thôi, vào ăn với em cho vui đi.

Lại gãi gãi gáy, mặt Đông ngô nghê hẳn đi:

- Phiền quá nhỉ? À, nhƣng mà cô có nấu cơm tôi đâu” [29,tr.162].

Cử chỉ gãi gãi gáy nói trên không phải do nhân vật Đông cố ý tạo ra mà do

thói quen, bản tính của nhân vật (sẽ phân tích sau). Nhờ cử chỉ ấy mà Phƣợng biết

rằng Đông đang nói dối và ngại ngần, nửa muốn ăn, nửa lại ngại làm phiền

Phƣợng.

Chính ý nghĩa quan trọng của các cử chỉ, điệu bộ, nét mặt cùng khả năng

diễn đạt tinh tế của chúng đã khiến ngƣời ta ngày càng phải quan tâm nghiên cứu

nhiều hơn về loại PTGTPNN này. Đặc biệt, trong nghiệp vụ điều tra, xét hỏi tội

phạm, các nhà chức trách thƣờng chú ý đến những PTGTPNN đƣợc tạo ra một

cách cố ý hay vô thức này để thu nhận đƣợc những thông tin quý báu.

Các PTGTPNN ở các ví dụ trên có thể đối chiếu theo các tiêu chí nhận diện

ở khái niệm nhƣ Bảng 2 dƣới đây:

VD PTGTPNN giác quan

tiêp nhận

cơ sở tạo lập

(cố ý/ko cố

ý)

giá trị thông báo

VD

1 xua tay thị giác cố ý

kèm lời và phụ họa nội

dung ở lời, là dấu hiệu

cắt ngang lời ngƣời đối

thoại

VD

2,3

gãi cổ

gãi đầu thị giác

không cố ý

kèm lời - bối rối, thiếu

tự tin, ngƣợng ngùng

VD

4 lắc đầu, cƣời

thị giác (và

có thể cả

thính giác)

cố ý

thay lời – không tán

đồng

VD

5 gãi gáy thị giác không cố ý

kèm lời

- biểu thị sự bối rối

- ngƣợng ngùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

24

Với quan niệm nhƣ trên về PTGTPNN, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nhận

diện và nghiên cứu về loại phƣơng tiện giao tiếp này trên hai bình diện tín hiệu học

và ngữ dụng học.

1.1.2. Bản chất tín hiệu của phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ

● Khái niệm “tín hiệu”

Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” [2], các tác giả Mai Ngọc

Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến đã giới thuyết về tín hiệu:

Tín hiệu là một sự vật (hay một thuộc tính vật chất, một hiện tƣợng) kích

thích vào giác quan của con ngƣời, làm cho ngƣời ta tri giác đƣợc và lí giải, suy

diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật ấy.

Theo đó, một sự vật đƣợc gọi là tín hiệu nếu thỏa mãn các yêu cầu sau:

- Phải có thuộc tính vật chất để có thể cảm nhận đƣợc bằng giác quan của

con ngƣời. Nói cách khác, cái biểu hiện - mặt hình thức của tín hiệu phải là vật

chất và con ngƣời có thể cảm nhận đƣợc nó bằng các giác quan.

- Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra một cái gì đó không phải là chính

nó.

- Phải nằm trong hệ thống để đƣợc xác định tƣ cách tín hiệu của mình cùng

với các tín hiệu khác.

Ví dụ: Đèn đỏ trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông xanh – vàng – đỏ là

một tín hiệu bởi nó thỏa mãn 3 yêu cầu trên: có thuộc tính vật chất, đƣợc con ngƣời

cảm nhận bằng thị giác; đại diện cho “một cái gì đó” không phải là chính nó - ở

đây là thông điệp “dừng lại”, nằm trong hệ thống.

Cái quan trọng nhất của tín hiệu là phải có hai mặt: hình thức vật chất – cái

biểu hiện, và nội dung ý nghĩa – cái đƣợc biểu hiện (cái mà nó gợi ra, đại diện

cho). Giữa hai mặt của tín hiệu có mối quan hệ võ đoán - dựa trên sự qui ƣớc

chung của tập thể ngƣời sử dụng tín hiệu. Nói nhƣ Saussure: “…mọi phương tiện

biểu hiện đƣợc chấp nhận trong một xã hội, về nguyên tắc mà nói, đều dựa trên

thói quen tập thể hoặc – chung quy cũng vẫn thế - trên sự quy ƣớc” [19,tr.123]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

25

Một sự vật, hiện tƣợng nào đó có thuộc tính vật chất muốn trở thành phƣơng

tiện dùng để giao tiếp chung trong xã hội thì phải đƣợc cộng đồng sử dụng hiểu và

chấp nhận. Nói cách khác, phải là một tín hiệu và phải mang bản chất tín hiệu.

Phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời là ngôn ngữ, nói nhƣ

J.Vendryes: “Chúng ta nói đến ngôn ngữ khi hai cá thể quy ƣớc gán cho một hành

động nào đó một ý nghĩa nhất định và thực hiện hành động này nhằm mục đích

giao tiếp qua lại với nhau”[20]. Căn cứ vào điều này thì cử chỉ, điệu bộ, nét mặt

cũng là một loại ngôn ngữ đặc biệt - ngôn ngữ thị giác (J.Vendryes)

● Bản chất tín hiệu của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ

Là một công cụ, thƣờng là để hỗ trợ ngôn ngữ bằng lời trong hoạt động giao

tiếp, PTGTPNN mang bản chất tín hiệu, bởi nó đáp ứng đƣợc cả 3 yêu cầu cần có

của một tín hiệu, đó là:

- Mặt hình thức – cái biểu hiện của PTGTPNN – hoàn toàn cảm nhận đƣợc

bằng các giác quan nhƣ thị giác, thính giác, xúc giác. Ví dụ nhƣ lắc đầu (thị giác),

cười (thị giác, thính giác), bắt tay, ôm hôn (thị giác, xúc giác), …

- Đằng sau cái biểu hiện của PTGTPNN là cái đƣợc biểu hiện. Mỗi động tác

cơ thể đƣợc dùng trong giao tiếp có thể diễn tả một nội dung ý nghĩa ngoài nó. Ví

dụ lắc đầu biểu thị ý nghĩa “không tán đồng”, cười có thể biểu thị ý nghĩa “tán

đồng” hoặc diễn tả cảm xúc “vui vẻ”, bắt tay biểu thị sự “thân thiện” khi gặp gỡ…

Xin đƣợc đi sâu phân tích cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện của

PTGTPNN ở các phần sau của luận văn.

- PTGTPNN cũng có tính hệ thống, tuy nó không chặt chẽ và phức tạp nhƣ

các hệ thống ngôn ngữ bằng lời. Mỗi PTGTPNN cũng chỉ xác định ý nghĩa và tƣ

cách tín hiệu của mình khi đứng trong hệ thống. Ví dụ cử chỉ gật đầu chẳng hạn,

chỉ mang tƣ cách là tín hiệu giao tiếp với ý nghĩa “đồng ý”, “tán thành” trong hoạt

động giao tiếp của ngƣời Việt ở một tình huống giao tiếp cụ thể, bên cạnh các tín

hiệu giao tiếp không lời khác nhƣ lắc đầu, cau mày, nghiến răng, cười… Nó có thể

không mang ý nghĩa này trong hệ thống PTGTPNN của cộng đồng nói năng khác

(chẳng hạn với ngƣời Bungari thì gật đầu lại có nghĩa là “không đồng ý”). Nó cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

26

không mang ý nghĩa nói trên khi đặt bên cạnh các động tác khác của một bài tập

thể dục (cúi gập đầu có thể là một tƣ thế tập của đầu và cổ).

Nguyễn Đức Dân đã viết: “Một cử chỉ đặt bên cạnh hàng loạt cử chỉ khác và

đặt trong những tình huống cụ thể mới có thể lộ rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Một

chiều mùa đông lạnh lẽo, trên ghế chờ ở một bến xe buýt có một ngƣời ngồi hai

chân bắt chéo và đầu hơi cúi xuống: Ngƣời đó bị lạnh. Nhƣng trong một cuộc

thƣơng lƣợng làm ăn buôn bán, một ngƣời cũng tƣ thế nhƣ vậy: Ngƣời này có thái

độ phòng vệ, thận trọng và nói chung là tiêu cực với vấn đề đang thảo luận”

[3,tr.222].

Tác giả Trần Thị Nga [9] thì cho rằng các cử chỉ điệu bộ tạo nên tính hệ

thống theo hai cách khác nhau:

Một mặt, cơ thể con ngƣời là một khối thống nhất, những biểu hiện ở trên

một phần cơ thể bao giờ cũng tìm đƣợc những phản ánh phù hợp và tƣơng ứng ở

những phần còn lại. Sự tƣơng hợp nhƣ vậy tạo nên tính nhất thể của cử chỉ điệu bộ

đƣợc sử dụng nhƣ một đơn vị tín hiệu. (Ví dụ sự tƣơng hợp của cử chỉ cau mày với

nghiến răng và nắm chặt bàn tay; sự tƣơng hợp của các cử chỉ cười - chắp tay –

cúi đầu,… - LTMN)

Mặt khác, nội dung ý nghĩa của các điệu bộ này lại là những phát ngôn,

những ý nhất thể không có khả năng phân nhỏ hơn, gọi là tính nguyên thể của ý

nghĩa điệu bộ cử chỉ (ví dụ không thể tách cử chỉ cau mày - nghiến răng - nắm

chặt bàn tay để xem chúng tƣơng ứng với phần nào của phát ngôn “Câm ngay, đồ

khốn!”, hay cũng không thể chia nhỏ các cử chỉ cười - chắp tay - cúi đầu để xem

mỗi cử chỉ tƣơng ứng với phần nào của phát ngôn“Con chào cụ ạ!”).

Các yếu tố cơ thể - vận động đƣợc dùng trong giao tiếp rõ ràng là có mối

quan hệ với nhau, thiết lập nên hệ thống tạo thành hệ thống PTGTPNN, gắn bó mật

thiết và hỗ trợ tích cực cho hệ thống phƣơng tiện giao tiếp là ngôn ngữ bằng lời.

Do mục đích nghiên cứu, luận văn không đi sâu vào tìm hiểu tính hệ thống của

PTGTPNN mà tập trung vào mặt cái biểu hiện (hình thức của tín hiệu) và cái được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

27

biểu hiện (nội dung của tín hiệu) của các phƣơng tiện giao tiếp này trong một số

tác phẩm văn chƣơng Việt Nam hiện đại.

1.2. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG

DIỆN CÁI BIỂU HIỆN (TỨC MẶT HÌNH THỨC CỦA TÍN HIỆU)

Có thể phân loại PTGTPNN dựa vào các tiêu chí khác nhau nhƣ dựa vào

chức năng biểu hiện, dựa vào các bộ phận cơ thể tạo ra PTGTPNN, dựa vào tính

chất đơn lẻ hay tính chất phối hợp của các yếu tố thuộc về PTGTPNN,… Ở đây,

xét PTGTPNN với tƣ cách tín hiệu, có thể phân loại các tín hiệu này theo khả năng

tiếp nhận của các giác quan đối với cái biểu hiện.

Cần lƣu ý rằng sự tiếp nhận đƣợc xét ở đây là sự tiếp nhận từ phía ngƣời

nghe, chứ không phải từ phía chủ thể phát ngôn. Các PTGTPNN thu thập đƣợc

trong các tác phẩm văn chƣơng rất phong phú, có thể là một yếu tố cơ thể - vận

động, cũng có thể phối hợp nhiều yếu tố cơ thể - vận động; có khi cùng một cái

đƣợc biểu hiện chẳng hạn nhƣng nhà văn lại dùng nhiều cách miêu tả khác nhau

(ví dụ: bĩu môi, giẩu mỏ, chúm môi, thưỡn cái môi dưới,…). Ở phần này chỉ xin

liệt kê các PTGTPNN mà nhân vật có sử dụng trong hội thoại, không kể đến tính

chất phối hợp của các yếu tố cơ thể vận động, nhằm giúp ngƣời đọc hình dung ra

phần nào sự phong phú của PTGTPNN đƣợc sử dụng trong hoạt động giao tiếp của

ngƣời Việt. Có nhiều yếu tố cơ thể - vận động gần giống nhau thì luận văn chỉ dẫn

một ví dụ đại diện, hoặc giới thiệu chung trong một mục. Sự sắp xếp theo phạm trù

bộ phận cơ thể tạo ra PTGTPNN nhƣ sau đây là để tiện theo dõi (ví dụ PTGTPNN

dùng mắt, dùng tay, dùng nét mặt,…)

Kết quả khảo sát cho thấy: cái biểu hiện của PTGTPNN có thể đƣợc tiếp

nhận bằng nhiều giác quan, tập trung là thị giác, thính giác, xúc giác (sự tiếp xúc

cơ thể). Các yếu tố cơ thể - vận động không tạo ra mùi vị, do đó không có sự tiếp

nhận bằng khứu giác, vị giác. Thêm nữa trong giao tiếp đƣơng diện (mặt đối mặt)

luôn luôn có sự quan sát bằng mắt (trừ khi cuộc hội thoại diễn ra trong bóng đêm,

lúc này cần sử dụng nhiều PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng thính giác, xúc giác),

do vậy thị giác luôn tham gia tiếp nhận PTGTPNN. Cũng vì vậy mà PTGTPNN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

28

đƣợc tiếp nhận bằng giác quan này nhiều hơn cả. Các yếu tố đƣợc tiếp nhận bằng

thính giác, xúc giác phần lớn đồng thời đƣợc cảm nhận bằng cả giác quan này (bởi

không mấy ai lại nhắm mắt khi hội thoại, cũng vì vậy mà PTGTPNN mới trở nên

có ý nghĩa quan trọng trong giao tiếp đƣơng diện). Trong số các tín hiệu khảo sát

đƣợc, không có PTGTPNN nào đƣợc tiếp nhận đơn thuần bằng thính giác. Chỉ có

một cuộc hội thoại diễn ra trong đêm giữa nhân vật Thứ và San trong tác phẩm

“Sống mòn” có sử dụng cử chỉ véo tai, hích tay đƣợc tạm xếp vào loại đƣợc tiếp

nhận bằng xúc giác, mặc dù hai cử chỉ này nếu sử dụng trong điều kiện ánh sáng

thì hoàn toàn có thể trở thành tín hiệu hỗn đồng (tín hiệu đƣợc cảm nhận đồng thời

bằng nhiều giác quan, ở đây là thị giác và xúc giác).

Sau đây là bảng liệt kê các PTGTPNN khảo sát đƣợc.

a. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng thị giác

Bảng 4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

29

b. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng xúc giác

Bảng 5: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng xúc giác

c. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng tổng hợp

nhiều giác quan

Đỗ Hữu Châu gọi loại tín hiệu này là tín hiệu hỗn đồng

STT PTGTPNN Mô tả của nhà văn

[tp,

trang]

1. Hích tay

(Đêm, nghe tiếng cái Hà gọi thằng Mô), San hích

khuỷu tay vào cạnh sƣờn y một cái và khẽ hỏi: -

Anh có nghe thấy gì không?

Y lại hích San để tỏ rằng mình có biết.

32,

Tr.93

2. Véo tai (Đang đêm, nghe tiếng cái Hà gọi thằng Mô bên

ngoài), San véo vào tai Thứ một cái thật đau

32,

Tr.93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

30

Bảng 6: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng tổng hợp nhiều

giác quan

Giác

quan

tiếp

nhận

STT PTGTPNN

Ví dụ mô tả của nhà văn

[tp,

trang]

thị

giác

+ xúc

giác

1 siết tay

Hiền cƣời to, siết chặt tay bà: “Mẹ ơi, bộ

đội chúng con mà rèn thì có dữ nhƣ hùm

nhƣ gấu cũng phải lành nhƣ thỏ, mẹ lo

gì.”

27,

tr.162

2 bắt tay

- Cảm ơn cô nhé! - Cần bắt tay cô gái,

(...)

29,

tr.289

3

nắm tay ngƣời đối

thoại

Chị Hoài nắm tay Phƣợng, xót xa: - (...) 29,

tr.114

4

đặt tay lên vai, nắm

lấy vai ngƣời đối

thoại

Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn

bảo: - Chẳng kiếp gì sung sƣớng thật (...)

31,

tr.91

5

phát, véo,… ngƣời

đối thoại

- Khỉ gió! - Thị phát đánh đét vào lƣng

hắn, khoặm mặt lại

26,

tr.108

6

giơ tay gõ vào trán

ngƣời đối thoại

Thị giơ tay củng vào trán hắn: - Chỉ

đƣợc cái thế là nhanh. Dơ!

26,

tr.114

7

bịt miệng ngƣời đối

thoại

Y bịt lấy miệng Liên: - Ai bắt mình thề?

Tôi có trách gì mình mà mình phải thề

bồi?

32,

tr.276

8

vỗ vai, vỗ lưng, lay

vai,… ngƣời đối

thoại

Sau cùng, Hải Vân vỗ hai vai con, nói

gọn: - Thôi, ở lại và sống cho can đảm!

33,

tr.502

9

Vuốt tóc ngƣời đối

thoại

Kiên! – Nàng thì thào, sát vào anh, nhè

nhẹ vuốt tóc anh. - Tội nghiệp anh!

25,

tr.175

10 xoa vai

Xoa vai vợ nhè nhẹ, Luận hơi cúi xuống:

- (...)

29,

tr.175

11 tát

(...) Một cái tát nhƣ trời giáng đã dập tắt

cái thói giả dối của anh ta.

27,

tr.234

12 ôm hôn

Cụ cố Hồng bèn bá cổ ông con để

hôn, rồi đáp:

- Cảm ơn vô cùng! Hân hạnh tạm biệt!

Toa ăn ở đến thế với Moa thì quý hóa

34,tr.

489,490

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

31

lắm".

thị

giác

+

thính

giác

13 vỗ đùi

Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi

kêu: - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là

cùng! (...)

26,tr.73

14

gõ bút, gõ ngón tay

lên mặt bàn, lên

tƣờng,…

Viên thẩm phán dỗ dỗ đầu bút xuống

mặt giấy nhƣ gõ nhịp: - Chị đã nghe rõ ý

kiến của anh Sài chƣa?

27,tr.33

5

15

đập bàn (đập chiếu,

đấm tay vào cửa,…)

Quan lớn Lại đập bàn: - Im đi! (...) 28,

tr.114

16

cười thành tiếng với

các điệu thái khác

nhau

Y ran rả, cười sằng sặc

Nhƣng San lại cười xoà, bảo: - Ai để cho

bà béo biết mà anh sợ

San bỗng lại phì cười, y bảo: - Chúng

mình khổ thật (...)

Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm

cả ngƣời tôi, hỏi: - Anh sống ở nhà quê

nhiều, anh có hiểu tâm lí của họ không?

(...)

32,tr.84

32,tr.82

32,tr.71

26,

Tr.66

17 thở dài

Y thở dài và bảo: - Thế nào rồi tôi cũng

phải đi Sài Gòn chuyến nữa (...)

32,Tr.7

9

18 chép miệng

Y chép miệng: - Giá chúng mình chƣa

có vợ con gì cả!... 32,tr.79

19 tặc lưỡi (tắc lưỡi)

Thứ nghĩ ngợi một lát rồi tặc lưỡi: - Kể

thì cũng hơi phiền (...)

32,

tr.111

20 giậm chân

Xuân Tóc Đỏ giậm chân xuống đất,

chán đời: - (...)

34,Tr.3

70

1.3. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG

DIỆN CÁI ĐƢỢC BIỂU HIỆN (TỨC MẶT NỘI DUNG CỦA TÍN HIỆU)

Mặt hình thức của PTGTPNN là do hoạt động của các bộ phận trên cơ thể

ngƣời tạo ra. Chúng có thể đƣợc thống kê và phân loại. Những biểu hiện của

PTGTPNN là hữu hạn song những “cái biểu hiện” của nó lại vô cùng lớn và vô

cùng tinh tế. Có thể dễ dàng “đọc hiểu” đƣợc ngôn ngữ lời nói song không dễ nắm

bắt và “đọc hiểu” đƣợc PTGTPNN. “Cử chỉ và ngôn ngữ cơ thể truyền đạt hiệu

quả không thua gì ngôn từ - thậm chí có thể còn hiệu quả hơn” - Axtell [23,tr.16].

Trong các tác phẩm văn chƣơng, việc “nắm bắt” các phƣơng tiện ấy (nhiều khi

chúng đƣợc nhân vật giao tiếp sử dụng thoáng qua rất nhanh, có sự phối hợp rất

phức tạp) đã đƣợc nhà văn quan sát và miêu tả khá sinh động. Ở đây, cần đặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

32

PTGTPNN vào từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể trong tác phẩm để tìm hiểu ý nghĩa

của chúng.

Là phƣơng tiện giao tiếp chung của cả cộng đồng, giống nhƣ ngôn ngữ bằng

lời, PTGTPNN có số lƣợng hữu hạn nhƣng lại phải đáp ứng nhu cầu biểu hiện lớn.

Do vậy, ở loại phƣơng tiện giao tiếp này thƣờng xảy ra hiện tƣợng đồng nghĩa

(nhiều PTGTPNN có chung ý nghĩa biểu hiện), đa nghĩa (một PTGTPNN có thể

biểu hiện nhiều ý nghĩa khác nhau), bên cạnh số lƣợng không nhiều các PTGTPNN

đơn nghĩa (tỉ lệ cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện là 1:1). Trong khi tìm hiểu cái

đƣợc biểu hiện của tín hiệu này, các tín hiệu còn đƣợc phân loại theo mối quan hệ

giữa mặt hình thức và nội dung của tín hiệu.

1.3.1. Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đồng nghĩa về cái đƣợc biểu

hiện

a. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là

“chào”

“Lời chào (…) là một tín hiệu ngôn ngữ. Phát ra tín hiệu ấy là muốn thiết lập

hay duy trì quan hệ với ngƣời mình chào, với một đối tƣợng giao tiếp.

Trong hoàn cảnh nhất định, chỉ lời chào là đủ. Trong hoàn cảnh khác, lời

chào còn kèm theo cái bắt tay, và có thể cả nụ cƣời” - Hoàng Tuệ [14].

Khi phân tích đặc trƣng cơ bản trong giao tiếp của ngƣời Việt Nam. Trần

Ngọc Thêm đã chỉ ra: “Ngƣời Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và

rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng,

chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến ngƣời Việt Nam đặc biệt coi trọng

việc giao tiếp và rất thích giao tiếp” [12]. Trong giao tiếp xã hội, ngƣời Việt Nam

rất coi trọng nghi lễ chào (“Lời chào cao hơn mâm cỗ”). Nghi thức chào có thể

diễn ra mọi lúc, mọi nơi với những cử chỉ và lời nói rất phong phú. Trong những

tác phẩm văn chƣơng đƣợc khảo sát, tƣ liệu cho thấy có những PTGTPNN biểu thị

ý nghĩa “chào” sau đây:

- Cúi (chào) (cúi đầu (chào))

VD6: “Long cúi chào rồi quay ra…” [33,tr.239]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

33

- Chắp tay vái (chào)

VD7: “Nghị Hách, mặc lòng mặc bộ áo trào vào ngày dạ tiệc, cũng chắp tay

vái dài, lƣng cúi thật khom mà rằng: - Bẩm lạy cụ lớn ạ.” [33,tr.206]

- Nghiêng đầu

VD8: “Thiếu niên tiến đến chỗ tám ngƣời, nghiêng đầu chào cả

lũ…”[33,tr.190]

- Nghiêng mình

VD9: “- Chào các em. Các em ngồi xuống!

Tự hơi nghiêng mình, đáp lại cái cúi chào của bốn mƣơi ngƣời học trò”

[28,tr.14]

- Đứng lên

VD10: “Đến đây thì bà phó Đoan vừa lúc bƣớc vào. Xuân Tóc Đỏ vùng đứng

lên” [34,tr.303].

- Gật đầu (chào )

VD11: “- Lạy bà ạ

Bà Văn Minh gật đầu đáp lại Xuân” [34,tr.296]

- Giơ tay (chào)

VD12“Tay kia sách cái cặp da trâu, tay này giơ cao chào mọi ngƣời, Cẩm

nhƣ phởn chí, oang oang từ cửa: - Chào tất cả các đồng chí” [28,tr.57]

- Khoanh tay( chào)

VD13: “Thiếu niên kia khi đến gần Xuân, liền vòng tay vái chào nhƣ những

nhà thâm nho.” [34,tr.446]

- Hất hàm

VD 14: “Nó nhăn nhở, hất hàm: - A! Ngƣời chị em! (…)” [32,tr.99]

- Bắt tay

VD15: “…bà Typn (…) trông trƣớc nhìn sau, thấy rõ ràng là phố vắng ngƣời

rồi, mới dám bạo dạn đƣa tay nhƣ một tân nữ lƣu tập sự mà bắt tay Xuân Tóc Đỏ”

[34,tr.413].

- Cười

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

34

VD16: “Tú Anh tươi cười đến bên cạnh giƣờng mà rằng:

-Thƣa dì, tôi xin kính chào dì.” [33,tr.368]

Nhận xét

Có khá nhiều PTGTPNN có thể sử dụng với ý nghĩa “chào”. Hầu hết các

phƣơng tiện đều dùng kèm với lời chào nhƣng cũng có phƣơng tiện có thể dùng

độc lập thay lời. Ví dụ các PTGTPNN nhƣ: đứng lên, cúi đầu, nghiêng mình,

khoanh tay (vòng tay vái)… trong các tình huống giao tiếp dẫn ra ở trên có thể

dùng độc lập thay lời. Ngƣời chào không cần phải nói thêm lời nào thì ngƣời tiếp

nhận vẫn hiểu là mình đang đƣợc chào. Các PTGTPNN nhƣ bắt tay, hất hàm

thƣờng dùng kèm với lời nói để biểu thị ý nghĩa “chào”. Trong văn hoá giao tiếp

của ngƣời Việt, nụ cười cũng đƣợc dùng làm PTGTPNN phổ biến để biểu thị ý

nghĩa “chào”, có thể kèm lời hoặc không cần kèm lời. Các cử chỉ thuộc về

PTGTPNN biểu hiện ý nghĩa “chào” của ngƣời Việt hầu hết đều có thể dùng khi

mới gặp mặt và cả khi tạm biệt.

Các PTGTPNN dùng để chào cũng thay đổi theo thời gian, do sự tiếp xúc văn

hóa. Các cử chỉ nhƣ chắp tay, khoanh tay, cúi đầu đƣợc sử dụng phổ biến trong xã

hội Việt Nam xƣa, tỏ thái độ cung kính của ngƣời dƣới (vị thế thấp) với ngƣời trên.

Cử chỉ gật đầu thƣờng đƣợc ngƣời có địa vị xã hội cao hơn sử dụng để chào ngƣời

dƣới. Ngày nay, đƣợc dùng phổ biến trong giao tiếp xã hội lại là “lời chào với cái

bắt tay và nụ cƣời”, do sự giao lƣu tiếp xúc với văn hóa phƣơng Tây. Cử chỉ bắt

tay đƣợc ƣa dùng ở các nƣớc phƣơng Tây, với nhiều kiểu khác nhau. Kiểu chào hỏi

này có lẽ xâm nhập vào Việt Nam từ thời Pháp thuộc. Khi tác phẩm “Số đỏ” của

Vũ Trọng Phụng ra đời, cử chỉ này còn xa lạ với bộ phận lớn ngƣời Việt Nam, chủ

yếu mới đƣợc sử dụng trong tầng lớp thƣợng lƣu thành thị, và cũng chủ yếu dùng

trong tình huống chào hỏi giữa nam với nam. Việc nữ chủ động bắt tay nam còn

quá xa lạ với văn hóa ngƣời Việt, vì vậy bà Typn trƣớc khi bắt tay Xuân Tóc Đỏ

phải “trông trƣớc nhìn sau”, thấy không có ngƣời mới dám bạo dạn đƣa tay ra.

Ngày nay, trong rất nhiều cuộc giao tiếp, nghi thức bắt tay giữa nam với nam, nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

35

với nữ, nữ với nữ, ngƣời dƣới với ngƣời trên (thƣờng thƣờng ngƣời trên chủ động

đƣa tay ra trƣớc), …trở nên rất phổ biến và hữu dụng.

Có một nghi thức chào nữa cũng rất phổ biến ở phƣơng Tây là ôm hôn,

nhƣng ở Việt Nam (và các nƣớc châu Á nói chung) do quan niệm riêng về không

gian cá nhân, nghi thức này có đƣợc xâm nhập song không trở nên phổ biến.

Các PTGTPNN dùng để chào dẫn ra ở trên tuy có cùng ý nghĩa biểu hiện là

“chào” song sắc thái biểu cảm của mỗi cử chỉ rất tinh tế, sử dụng tùy thuộc hoàn

cảnh giao tiếp (không gian, văn hóa…), vai giao tiếp,…

b. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “tán

đồng, tán thưởng”

Từ điển Tiếng Việt [10] định nghĩa:

“Tán đồng”: tán thành ý kiến và ủng hộ [10,tr.874]

“Tán thƣởng”: tỏ thái độ đồng tình và khen ngợi [10,tr.874]

Sự tán đồng, tán thƣởng là sự chấp thuận, đồng ý và ủng hộ, khen ngợi một ý

kiến, một đề xuất nào đó. Tán đồng, tán thƣởng dẫn đến những cảm xúc tích cực,

do vậy chỉ biểu hiện bằng lời thôi chƣa đủ, hầu hết các ý nghĩa này còn đƣợc biểu

hiện bằng các PTGTPNN đi kèm. Tƣ liệu thống kê cho thấy có những PTGTPNN

sau đây có cùng nội dung biểu hiện là sự tán đồng, tán thƣởng:

- Vỗ đùi

VD17: “Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa nghe. Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại

vỗ đùi kêu: - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sƣ anh Tào Tháo!”

[26,tr.73].

- Gật gù

VD18: “- Đẹp đấy! Đẹp đấy các con ạ (…) – Ông Bằng thì thào gật gù”

[29,tr.21].

- Gật đầu lia lịa (động tác nhƣ gật gù nhƣng cử động mạnh hơn)

VD19: “Xuân gật đầu lia lịa:

- Vâng ạ! Vâng ạ! Thế thì cổ lắm, chƣa đƣợc âu hóa mấy!” [34,tr.309].

- Gật đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

36

VD20: “Văn Minh gật đầu: - Phải đấy!” [34,tr.324].

- Vỗ tay

VD21: “Xuân Tóc Đỏ vỗ tay đôm đốp (…)

- Đúng ghê! Đúng ghê! (…)” [34,tr.263].

- Cười

VD22: “- Hay! Hay! Bravo!

- Bis! Bis! Một lần nữa

(…) Ngƣời ta vỗ tay hoặc cười lăn lộn” [tr.510].

Nhận xét

Khi gặp một ý kiến hay, một tƣ tƣởng đúng, một điều mình tâm đắc, ngƣời ta

thƣờng có cảm xúc vui mừng, phấn khởi và hay tỏ sự tán đồng, tán thƣởng của

mình. Có nhiều PTGTPNN là các yếu tố cơ thể vận động cơ thể dùng để phụ trợ

với lời biểu thị ý nghĩa “tán đồng, tán thƣởng”. Phân tích các ngữ liệu trên có thể

thấy, các lời nói bày tỏ sự tán đồng, tán thƣởng thƣờng đƣợc lặp lại (“Tài thật! Tài

thật!”, “Vâng ạ! Vâng ạ!”, “Đúng ghê! Đúng ghê!”, “Hay! Hay!”, … ), và tần số

lặp lại động tác biểu hiện ý nghĩa này cũng thƣờng lớn hơn một. Ví nhƣ gật đầu lia

lịa (gật đầu nhiều lần, tốc độ lặp lại động tác nhanh), gật gù (gật nhẹ và nhiều lần,

biểu thị thái độ đồng tình, tán thƣởng), vỗ tay (đập hai lòng bàn tay vào nhau cho

phát thành tiếng, thƣờng liên tiếp, để tỏ ý hoan nghênh, tán thành). Khi niềm vui

càng lớn, đến càng bất ngờ, mức độ tán đồng, tán thƣởng càng cao thì thành phần

lặp lại của lời nói, tần số lặp lại và cƣờng độ của động tác đi kèm càng lớn.

Động tác vỗ đùi biểu thị sự tán thƣởng khi bất ngờ bắt gặp điều mình tâm đắc,

mong muốn. Song cử chỉ này chỉ dùng đƣợc ở những hoàn cảnh giao tiếp phi nghi

thức, mang tính thân mật, suồng sã. Tình huống giao tiếp ở ví dụ 17 dẫn ra ở trên là

giao tiếp giữa nhân vật Hoàng với Độ và ngƣời vợ của anh trong một cuộc trò

chuyện thân mật tại gia đình

PTGTPNN gật đầu, trong văn hóa nhiều nƣớc, đều đƣợc dùng để tỏ ý “phải”

hoặc “đồng ý”. Phƣơng tiện này có thể dùng độc lập để biểu thị ý nghĩa này, cũng

có thể dùng kèm với lời nói có nội dung ý nghĩa tƣơng tự. (Tác giả Phi Tuyết Hinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

37

gọi đây là chức năng lặp lại thông tin của PTGTPNN). Ở ví dụ 20, lời nói kèm theo

của bà Văn Minh là “Phải đấy!”

Động tác gật gù không chỉ biểu hiện sự tán đồng, tán thƣởng, nó còn biểu

hiện rằng ngƣời nghe đang ngẫm nghĩ, tâm đắc và “nhâm nhi” điều mình vừa đƣợc

nghe thấy, do đó nó cũng khích lệ ngƣời nói tiếp tục trình bày vấn đề. PTGTPNN

đƣợc ông Bằng sử dụng trong ví dụ 18 không chỉ có ý nghĩa tán thƣởng việc làm

của Lí, mà đối với nhân vật Lí, nó còn có ý nghĩa động viên, khích lệ.

Động tác vỗ tay tán thƣởng đƣợc dùng phổ biến trong hầu hết các hoàn cảnh

giao tiếp, nghi thức và phi nghi thức. Tần số và cƣờng độ vỗ tay cũng phản ánh

mức độ hài lòng, tán thƣởng. Vỗ tay nhiệt liệt với cƣờng độ lớn (tạo ra âm thanh

tiếng vỗ tay to, giòn giã) biểu thị mức độ tán thƣởng cao; ngƣợc lại, tiếng vỗ tay

yếu ớt, rời rạc biểu thị sự tán đồng một cách gƣợng gạo. Tiếng vỗ tay đôm đốp của

Xuân Tóc Đỏ là vỗ tay nhiệt liệt, biểu thị mức độ tán đồng rất cao.

Nụ cười cũng là một PTGTPNN biểu thị ý nghĩa tán đồng, tán thƣởng, có thể

dùng độc lập thay lời hoặc kèm lời để phụ trợ cho lời. Nụ cƣời của đám đông trong

ví dụ 22 chính là biểu thị ý nghĩa này.

c. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “không

tán đồng, từ chối”

Không tán đồng là không đồng ý, không tán thành đối với ý kiến nào đó, từ

đó mà dẫn đến sự bác bỏ, phủ định ý kiến. Sự không tán đồng, không hƣởng ứng

có thể dẫn tới những cảm xúc tiêu cực nhƣ buồn rầu, chán nản, ngao ngán. Các

PTGTPNN biểu hiện ý nghĩa này có thể thay lời hoặc kèm lời, và cũng không sinh

động bằng các phƣơng tiện biểu hiện sự tán đồng.

- Lắc dầu

VD23: “- Thôi thì ác cũng đƣợc! Anh cứ trả lời thế đi!

San bàn nhƣ vậy bằng một giọng đùa. Thứ lắc đầu, cƣời. Cả hai cũng cho

rằng chẳng khi nào họ hèn đến nỗi dám dùng cái lối vừa bàn” [32,tr.227]

- Xua tay

VD24: “Nhà mỹ thuật xua tay: - Biết rồi! Biết rồi…Câm đi!” [34,tr.312]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

38

- Nguẩy đầu

VD25: “Xuân lƣỡng lự rồi nguẩy đầu:

- Tôi chả thế. Thế là giết ngƣời! Tôi không muốn làm kẻ sát nhân! (…)”

[34,tr.412]

- Khoanh tay

VD26: “Chừng nhƣ sợ mình chỉ nói thế chƣa đủ là văn minh tân tiến, Tuyết

lại bảo:

- Tôi cho phép ông khám mà xem!

Tinh quái, Xuân Tóc Đỏ còn khoanh tay sau lƣng. ” [34,tr.350]

(Cử chỉ khoanh tay sau lƣng của Xuân Tóc Đỏ biểu hiện ý nghĩa từ chối)

- Giơ tay ngăn

VD27: “Long đứng dậy: - Thƣa ông hay là tôi về?

Ông giám đốc Đại Việt học hiệu giơ tay ngăn:

- Không, ông cứ nằm xuống (…)” [33,tr.344]

Trong số các PTGTPNN có nội dung biểu thị sự từ chối, không tán đồng, phổ

biến nhất là cử chỉ lắc đầu. Các nhà sinh vật học khi nghiên cứu về quá trình tiến

hóa đã chỉ ra rằng đó là một động tác mang tính bẩm sinh. Lí do là khi một đứa trẻ

sơ sinh bú no sữa, nó lắc đầu từ bên này sang bên kia để từ chối vú mẹ, hay để

tránh bị đút cho ăn. Từ đó, ở rất nhiều cộng đồng ngôn ngữ, lắc đầu đƣợc quy ƣớc

là biểu thị ý nghĩa từ chối, không hƣởng ứng, không tán thành. Cử chỉ này có thể

dùng trong nhiều cảnh huống giao tiếp khác nhau, kèm lời hoặc không kèm lời.

Khi lắc đầu đi kèm nụ cƣời, mức độ phản đối cũng bớt gay gắt hơn. Ở ví dụ 23, cái

lắc đầu của nhân vật Thứ biểu thị ý nghĩa từ chối, không hƣởng ứng đề nghị của

San. Nụ cười kèm theo cái lắc đầu của Thứ giúp San hiểu rằng Thứ từ chối nhƣng

cũng hiểu đƣợc ý kiến của San chỉ là sự đùa cợt.

Động tác xua tay, giơ tay ngăn ngoài nét nghĩa không tán đồng còn thêm nét

nghĩa đề nghị ngƣời nói không nên tiếp tục lời nói hay hành động đang tiến hành.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

39

Động tác khoanh tay sau lƣng của Xuân Tóc Đỏ ở ví dụ 26 có ý nghĩa từ chối

đề nghị của Tuyết. Bàn tay là công cụ để thực hiện việc “khám”, do đó khoanh tay

lại, giấu ra sau lƣng là biểu thị ý nghĩa từ chối trong tình huống giao tiếp này.

d. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “Đừng

nói nữa”, “Hãy im lặng”

Ngƣời nói có thể sử dụng PTGTPNN khi có ý muốn bảo ngƣời đối thoại

“Hãy im lặng” hoặc “Đừng nói, hãy nghe tôi nói tiếp (hay “Tôi đã hiểu”)”.

Những phƣơng tiện giao tiếp này hay đƣợc sử dụng trong giao tiếp thông thƣờng

của ngƣời Việt nhƣng ít thấy đƣợc nhắc đến trong các sách nƣớc ngoài bàn về

ngôn ngữ cơ thể. Đó là các phƣơng tiện nhƣ sau:

- Đặt dọc ngón tay trỏ lên môi

VD28: “…nếu cha anh là ngƣời cùng thời, là anh, thì em sẽ yêu cha anh, chứ

không phải là yêu anh. – Kiên rùng mình. Nhƣng Phƣơng không để anh nói, cô đặt

dọc ngón tay trỏ lên môi anh, tiếp: - Anh ít giống cha và ngày càng ít giống (…)”

[25,tr.163].

VD29: “- Này, quái nhỉ! Trông bà có vẻ vợ Tây lắm!

Xuân để tay lên mồm làm một cái suỵt rồi khẽ đáp: - Chính đấy” [34,tr.284].

Giữa mặt hình thức (cái biểu hiện - đặt dọc ngón trỏ lên môi) và mặt nội dung

(cái đƣợc biểu hiện – “đừng nói”) ở tín hiệu giao tiếp này có mối dây liên hệ tự

nhiên. Môi (miệng) đƣợc nhìn nhận là cơ quan để nói (cách hiểu đơn giản), đặt dọc

một ngón tay lên môi sẽ dễ dàng đƣợc hiểu là “đừng nói”.

- Bịt miệng người đối thoại

VD30: “…Y bịt lấy miệng Liên:

- Ai bắt mình thề? Tôi có trách gì mình mà mình phải thề bồi?” [32,tr.276]

Cử chỉ này gần giống đặt dọc ngón trỏ lên môi, có tác dụng ngay lập tức yêu

cầu “đừng nói” đƣợc thực hiện song nó có liên quan đến vấn đề xâm phạm vào

lãnh thổ và không gian cá nhân nên không thể áp dụng cho mọi trƣờng hợp khi

giao tiếp. Tình huống trên đây là cuộc giao tiếp giữa hai vợ chồng (Liên và Thứ)

nên họ có thể dễ dàng xâm phạm vào không gian cá nhân của nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

40

- Giơ một ngón tay lên mũi

Cử chỉ này có biển đổi một chút về hình thức so với cử chỉ đặt ngón tay lên

môi song có cùng ý nghĩa biểu hiện. Tính chất nghiêm túc, cấp thiết của yêu cầu

“im lặng” dƣờng nhƣ có phần tăng hơn so với cử chỉ trên.

VD31: “Đang nói chuyện thì bỗng một thằng đứng phắt lên, trợn mắt, giơ một

ngón tay lên ngang mũi: - Im lặng! Im lặng!” [32,tr.296]

VD32: “Ông già nghiêm mặt giơ ngón tay trỏ trước mũi Long mà rằng:

- Ngay từ bây giờ không đƣợc nói gì cả! Không đƣợc hỏi gì cả!” [33,tr.384]

- Yêu cầu im lặng bằng một hành động đe dọa

VD33: “Ông Bằng đập cạch cái thước vào cạnh bàn, điệu bộ, giọng nói y hệt

ông giáo ngày xƣa: - Trật tự nào! Không đƣợc xƣng ông. (…)” [29,tr.211]

Đây là hành động quen thuộc của các thầy cô giáo ngày xƣa, để yêu cầu học

sinh giữ trật tự. Có thể khái quát đây là tín hiệu dùng âm thanh để thực hiện hành

vi yêu cầu, ra lệnh. Thay cho đập thước xuống bàn ngƣời ta có thể đập tay xuống

bàn hay dùng bất kì vật dụng nào gõ vào đâu đó để phát ra âm thanh.

Ngoài dùng PTGTPNN tạo âm thanh để yêu cầu “im lặng”, tuỳ tình huống

giao tiếp, ngƣời ta còn có thể dùng các PTGTPNN khác có tính chất đe doạ để thực

hiện yêu cầu này, chẳng hạn nhƣ tình huống sau:

VD34: “Mỗi ngƣời vào một lời, thành thử nhà nhƣ là có cuộc loạn đả (…)

ông chánh hội phải vớ lấy một cái gậy mà rằng:

- Thôi cả đấy nhé! Cấm không ai đƣợc nói nửa nhời đấy, kẻo không có mà

thằng này phang cả cho một lƣợt chứ chẳng từ ai đâu!” [33,tr.186]

e. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “Tôi

đang suy nghĩ”

Trong quá trình diễn ra hoạt động giao tiếp, có nhiều khi nhân vật giao tiếp bị

đặt vào một tình huống phải suy nghĩ kĩ rồi mới nói, hoặc vừa nói chậm rãi vừa

tiếp tục suy nghĩ, phân vân về vấn đề trình bày. Những lúc nhƣ thế, qua các

PTGTPNN, một cách vô tình hay cố ý, ngƣời ta thƣờng biểu lộ rằng mình đang suy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

41

nghĩ. Trên thực tế tƣ liệu khảo sát, các PTGTPNN biểu hiện ý nghĩa này thƣờng

liên quan đến phần đầu và nét mặt.

- Đặt tay lên trán

VD 35: “Nghị Hách để tay lên trán, làm ra vẻ nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp:

- Bẩm vâng” [33,tr.228]

Cử chỉ đặt tay lên trán của nghị Hách cho ngƣời đang đối thoại nhận biết là

ông ta đang suy nghĩ rất thận trọng trƣớc khi quyết định. Nhân vật có thể cố tình sử

dụng PTGTPNN này để ngƣời nghe nhận thấy điều đó, cũng có thể là sử dụng do

thói quen.

Ngoài cử chỉ này, để biểu thị ý nghĩa “Tôi đang suy nghĩ (đang cân nhắc vấn

đề)” còn có:

- Vỗ trán

VD36: “Nhà thẩm mĩ đã ấp úng, phải vỗ tay vào trán mấy cái, rồi mới nói:

Nghĩa là…nghĩa là cái thích, cái sở thích, cái…cái quan niệm về mĩ thuật.”

[34,tr.305]

- Nhíu mày, cau mày

VD37: “Lần này thì chính ông Bằng bị anh con trai hấp dẫn vì sự uyên bác

của anh ta. Ông nhíu mày, đăm đăm:

- Đúng, đúng. Ba nhớ…danh từ familia, theo tiếng La Mã, thoạt đầu là chỉ

đoàn ngƣời nô lệ thuộc quyền sở hữu của một ngƣời nào đó.” [29,tr.62]

VD38: “Đến đây, Nghị Hách cau mày nghĩ ngợi, vỗ trán mấy cái rồi nói:

- À phải! Đấy là tại thằng tài Nhì vào tiệm hút kháo chuyện đấy!” [33,tr.277]

Trong lúc mải mê suy nghĩ, ngƣời nói có thể không kiểm soát đƣợc những

PTGTPNN mình đã sử dụng song ngƣời nghe vẫn nhận biết đƣợc các phƣơng tiện

ấy và “đọc” đƣợc ở đó một ý nghĩa, do vậy các PTGTPNN dù đƣợc sử dụng một

cách vô thức vẫn đƣợc xem là các phƣơng tiện giao tiếp.

g. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là “Tôi

đang nói dối”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

42

Trong “Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể”, Allan và Barbara Pease

viết : “Những dấu hiệu khó bị phát hiện nhất khi nói dối là những dấu hiệu đƣợc

ngƣời nói kiểm soát nhiều nhất, chẳng hạn nhƣ lời nói, bởi vì ngƣời ta có thế tập đi

tập lại chúng nhiều lần. Ngƣợc lại, các manh mối đáng tin cậy nhất chứng tỏ ngƣời

khác đang nói dối chính là điệu bộ mà họ thực hiện một cách vô thức, ít đƣợc kiểm

soát hoặc không thể kiểm soát đƣợc do chúng là những điều quan trọng nhất, đối

với họ, xét về phƣơng diện cảm xúc” [17,tr.178]. Tác giả cũng thống kê vài điệu bộ

nói dối thƣờng gặp nhƣ che miệng, sờ mũi, giụi mắt, gãi cổ, kéo cổ áo, đút ngón

tay vào miệng,..

Quá trình khảo sát tƣ liệu cho thấy có vài cử chỉ của ngƣời Việt biểu hiện

“Tôi đang nói dối” (nội dung này có thể do ngƣời nghe tình cờ nhận ra, hoặc do

ngƣời nói cố tình cho ngƣời nghe nhận biết) nhƣ sau:

- Gãi gáy (gãi cổ)

VD39: “- Anh Đông, em mời anh với ông vào xơi cơm.

Phƣợng ra sân, nhìn Đông, nhỏ nhẻ mời. Đông gãi cái gáy rậm, ngập ngừng:

- Ông đi chơi hội bên Bắc Ninh sáng nay. (…) Tôi…tôi ăn rồi

- Anh ăn lúc nào! Thôi, vào ăn với em cho vui đi” [29,tr.162]

Cử chỉ gãi gáy của Đông khiến Phƣợng nhận biết đƣợc là Đông đang nói dối

rằng mình ăn cơm rồi. Phƣợng hiểu là Đông không muốn làm phiền Phƣợng.

- Tủm tỉm cười

Ở tình huống giao tiếp sau, điệu bộ tủm tỉm cười lại giúp ngƣời nghe nhận

biết đƣợc rằng ngƣời nói đang che giấu sự thật.

VD40: “Thấy Liên dọn cơm cho Thứ, bà mẹ chực đứng lên, lảng vào buồng.

Thứ hỏi:

- Nhà chƣa ăn kia ạ?

- Chƣa, lát nữa mới ăn.

Bà mẹ y vừa nói vừa tủm tỉm cười. Mấy đứa em y ngồi gần đấy cũng tủm tỉm

cười. Y chợt đoán ra:

- Ở nhà không ăn?” [32,tr.120]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

43

- Lảng tránh cái nhìn của người đối thoại

“Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Nhìn vào đôi mắt, ngƣời ta có thể “thấy” đƣợc

thế giới tâm hồn của con ngƣời. Cũng vì thế, trong khi đối thoại, để tạo sự tin cậy

và thân thiện, ngƣời ta thƣờng nhìn vào mắt nhau. Những ngƣời “nói dối chuyên

nghiệp” luôn cố gắng nhìn thẳng vào ngƣời đối thoại khi đang nói dối để tránh sự

nghi ngờ. Nhƣng với ngƣời không quen nói dối, hay bất ngờ bị đặt vào tình thế

buộc phải nói dối, họ thƣờng có phản ứng che giấu “thế giới tâm hồn” của mình

bằng cách ngay lập tức lảng tránh cái nhìn của ngƣời đối thoại. Và cử chỉ này đã

“tố cáo” họ.

VD 41: “Thứ làm nhƣ sực nhớ:

- À thế nào? Việc gì mà cần kíp thế?

Sau một thoáng ngập ngừng, San bảo:

- Chẳng có việc gì. Ở nhà không muốn gửi măng đa, viết thƣ bảo tôi về để

lấy. Với lại có lẽ họ cũng muốn tra mình về con Dung nữa (…)

Trong khi nói San tránh cái nhìn của Thứ. Thứ ngờ ngay câu chuyện San vừa

nói là câu chuyện bịa.” [32,tr.86]

- Nháy mắt với người thứ ba

VD42: “(…) Vạn tóc mai nháy Long một cái mà rằng:

- Đây là ông Long làm chứng nhé: vừa rồi ông có thấy tôi đả động gì đến ông

cụ nhà tôi không? Họ chỉ nói láo!” [33,tr.86]

Nhân vật Tú Anh trách Vạn về việc đã đem chuyện của bố mình là nghị Hách

ra nói ở tiệm hút. Việc đó là có thật, Long đã đƣợc chứng kiến. Nhƣng Vạn đã nói

dối Tú Anh và nháy mắt cho Long để Long hiểu mình đang nói dối, hãy bao che

cho lời nói dối của Vạn. Điệu bộ nháy mắt có thể biểu thị nhiều ý nghĩa, nhƣng

trong tình huống giao tiếp này Long có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của nó là Vạn

đang nói dối Tú Anh.

h. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có nội dung biểu hiện là các

trạng thái tình cảm, cảm xúc của con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

44

Trong giao tiếp, con ngƣời không chỉ có nhu cầu trao đổi thông tin mà còn

trao đổi tình cảm, cảm xúc. Các trạng thái tình cảm, cảm xúc của con ngƣời có thể

đƣợc thể hiện bằng lời, hoặc bằng các phƣơng tiện phi lời. Quan sát PTGTPNN mà

nhân vật sử dụng trong hoạt động giao tiếp sẽ giúp “đọc” đƣợc rất nhiều những

“thông tin” thú vị, cần thiết về thế giới tình cảm của con ngƣời.

Các PTGTPNN có nội dung biểu hiện là các trạng thái tình cảm, cảm xúc của

con ngƣời rất phong phú. Chẳng hạn nhƣ:

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự chán nản, đau

khổ

- Cười (theo giọng điệu có chủ ý)

Tiếng cƣời đƣợc sử dụng phổ biến trong giao tiếp của ngƣời Việt. Tìm hiểu

các đặc trƣng cơ bản trong giao tiếp của ngƣời Việt, Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra

cách thức giao tiếp của ngƣời Việt Nam là ƣa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận.

Đây là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tƣ duy coi trọng các mối quan hệ.

Lối sống và lối tƣ duy này dẫn đến thói quen cân nhắc kỹ càng khi nói năng. Thói

quen này lại dẫn đến một nhƣợc điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh khỏi quyết

đoán đồng thời giữ đƣợc sự hòa thuận, ngƣời Việt Nam rất hay cƣời. Có thể gặp nụ

cƣời Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất.

Tiếng cƣời trong giao tiếp của ngƣời Việt thể hiện nhiều nét nghĩa tình thái

khác nhau. Cƣời không chỉ để thể hiện sự tán đồng, sự vui vẻ, không chỉ để tạo

không khí thân thiện cho cuộc thoại, cƣời trong rất nhiều trƣờng hợp, lại để bộc lộ

sự chán nản, sự chua chát, đau khổ, ngao ngán,…- nói chung là những sắc thái biểu

cảm tiêu cực.

Tiếng cười gằn của Thứ sau đây biểu lộ sự mỉa mai, chua chát và đau khổ:

VD43: “- (…) Tại sao chú không dạy ở trƣờng khác mà lại dạy ở trƣờng

chúng tôi?

Thứ đã cười gằn:

- Tại sao? Tại thế này: chƣa có trƣờng nào thuê tôi.” [32,tr.166]

Tiếng cười ăng ắc của San trong tình huống dƣới đây biểu lộ sự đau đớn:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

45

VD44: “- (…) Đích nằm trên đi văng với Oanh, cứ làm nhƣ trời rét, xo ro

ngƣời nằm sát lại với Oanh, mồm thì rên “hu…hu…hu…u…u…”. Mình, vợ con

hẳn hoi, bỏ ở nhà trên đấy, xa vợ luôn mấy tháng rồi. Họ làm thế thì có chết mình

không? (…)

Giọng y nửa đứng đắn, nửa đùa. Nói xong, y cười ăng ắc. Tiếng cƣời thái quá

ấy, nghe còn đau đớn hơn tiếng khóc.” [32,tr.174]

VD45: “Y (San) cười cái cƣời của một ngƣời điên, bảo bằng một cái giọng hả

hê giả dối:

- Tôi bằng lòng lắm! Phen này sẽ biết nhau… Sống thì sống hẳn mà chết thì

chết hẳn” [32,tr.288].

Tiếng cƣời trong tình huống này lại biểu lộ sự đau khổ xen lẫn chua chát, cay

đắng và chán nản.

- Thở dài

Điệu bộ thở dài thƣờng đƣợc tạo ra do thói quen hoặc do nhân vật giao tiếp

cố tình tạo ra để biểu lộ sự ngao ngán, sự chán nản.

VD46: “Nghị Hách thở dài ngán ngẩm” [33,tr.415]

VD47: “Nghĩ thế, Xuân bèn thở dài:

- Rõ thật đa nhân duyên, nhiều phiền, lắm não!” [34,tr.415]

- Giậm chân

Động tác giậm chân của nghị Hách trong tình huống sau biểu lộ sự đau đớn

trong lòng:

VD48: “Nghị Hách cử thỉnh thoảng lại giậm chân, kêu lên một cách hèn hạ lạ

lùng:

- Giời ơi! Giời ơi là giời ơi…” [33,tr.409]

- Ôm ngực

VD49: “Sau khi đứng lặng ngƣời ra để nhận mặt ngƣời đàn bà đã rõ, nghị

Hách ấp úng, nghẹn ngào, hậm hực nuốt nƣớc bọt mãi mới nói đƣợc:

- Bác ơi…! Vợ tôi! Giời ơi! Bà nghị Hách bị bắt cóc thế kia!

Rồi lão ôm ngực nhƣ bị đạn giữa quả tim.” [33,tr.472]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

46

- Lắc đầu

VD50: “- Chƣa đủ tiền nhà. Chết cha! -

Oanh lắc đầu, chán nản, kêu lên vậy.” [32,tr.294]

VD51: “Chị Hoàng (…) chép miệng, lắc đầu:

- Giá mà bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cƣời đến chết (…)” [26,tr.68]

- Giơ tay lên trời

Cử chỉ này thƣờng đi kèm với những lời than (những câu cảm thán), biểu lộ

sự chán nản, thất vọng.

VD52: “Nhà mỹ thuật giơ tay lên trời mà than dài:

- Ôi! Phong hóa suy đồi!” [34,tr.311]

VD53: “Nhà viết báo giơ hai tay lên không khí, ra vẻ sốt ruột:

- Giời ơi! Thì chỉ có thế mà mãi không hiểu?” [34,tr.313]

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự tức giận

Tức giận là những trạng thái bực mình, khó chịu, giận dữ, phẫn nộ (“căm giận

đến mức có những biểu hiện mạnh mẽ, không kìm giữ đƣợc” [10,tr.764]). Những

PTGTPNN biểu thị sự tức giận khá phong phú, từ những điệu bộ của nét mặt đến

những vận động của tay, chân, kết hợp vận động của cơ thể, cả sự thay đổi tƣ thế

đột ngột, và sự xâm phạm không gian cá nhân của ngƣời đối thoại. Sau đây là một

số PTGTPNN biểu hiện sự tức giận tìm thấy trong các tác phẩm đƣợc khảo sát:

- Đập bàn

Hành động này phát ra âm thanh mạnh, vừa giải tỏa sự tức giận của ngƣời

nói, vừa có giá trị trấn áp đối phƣơng.

VD52: “Mặt co rút trong một nỗi đau sinh tử, Đông đập bàn gào lên thống

thiết và uất hận: - Khốn nạn! Tôi ghê tởm. (…)” [29,tr.312]

VD53: “Quan huyện xung thiên chỉ nộ, đập bàn mà rằng:

- Con Mịch kia! Trƣớc pháp luật việc mày nhƣ thế là một việc làm đĩ không

môn bài, vậy mày có muốn làm nhà thổ suốt đời không?” [33,tr.273]

- Ném (dằn,vứt) vật gì xuống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

47

Thay cho động tác đập bàn, khi tức giận, ngƣời ta cũng có thể biểu lộ cho

ngƣời đối thoại biết sự tức giận của mình bằng động tác ném, dằn mạnh hay vứt

thứ đang cầm sẵn trên tay xuống. Ví dụ:

VD54: “Mới chỉ lƣớt qua hàng đầu danh sách lƣơng, bà đã dằn quyển sổ

xuống bàn:

- Cô làm ăn thế này là thế nào? (…) Tại sao cô lại trừ nợ một trăm đồng của

ông giám đốc?” [29,tr.237]

VD55: “…Đông ném tạch quyển sổ nhỏ đang cầm ở tay xuống sàn nhà, nói

nhƣ quát: - Thƣ nó nói: nó không thể chung sống đƣợc với tôi. Nhƣng cậu xem

những tờ cuối ở quyển sổ này sẽ rõ hết. Khốn nạn đến thế là cùng. (…)” [29,tr.318]

- Thay đổi tư thế đột ngột, xâm phạm không gian cá nhân của người đối

thoại

Khi bất ngờ ở vào trạng thái giận dữ, ngƣời ta có thể đột ngột thay đổi tƣ thế,

thậm chí xâm phạm vào không gian cá nhân của ngƣời đối thoại.

Sau đây là vài ví dụ về những cử chỉ, hành động thuộc PTGTPNN biểu hiện

sự tức giận liên quan đến sự thay đổi tƣ thế, xâm phạm không gian cá nhân:

VD56: “Đập thình thình cái bàn, giậm chân bình bịch, rồi bà trƣởng phòng

hùng hùng hổ hổ đi đi lại lại và cuối cùng rít dài một hồi giận dữ:

- Đừng tƣởng tôi không biết! Vải thƣa che mắt thánh, hả! Đừng có xỏ lá bao

que! Đừng có cậy tài, cậy giỏi. Đại học mà đã là cái gì! Ôi giời! Có giỏi, đấu trực

diện với tôi đây này! Tôi thách đấy! Thách đấy!” [29,tr.141]

VD57: “Xuân vẫn đi đi lại lại, giận dữ nói:

- Tôi mà đã nổi giận thì có ngƣời chết! Tôi xấu thì cũng chả ai đẹp!”

[34,tr.28]

Hành động thay đổi tƣ thế - đi đi lại lại – của bà trƣởng phòng và nhân vật

Xuân Tóc Đỏ trong hai ví dụ trên cũng đƣợc xem là PTGTPNN, hiểu theo nghĩa

rộng (có mang lại cho ngƣời nghe một nội dung thông tin). Nhân vật trong lúc bực

tức cực điểm đã không thể ngồi hay đứng yên một chỗ mà đi đi lại lại để tỏ cho

ngƣời đối thoại biết rõ sự bực tức của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

48

Ở ví dụ tiếp theo, nhân vật bà mẹ trong lúc tức giận đã đột ngột thay đổi tƣ

thế, đứng lên, tiến lại gần kết hợp với động tác xỉa xói (giơ ngón tay xỉa liên tiếp

vào mặt ngƣời khác) vào mặt con để biểu lộ sự tức giận của mình cùng những lời

chửi rủa.

VD58: “Bà mẹ đứng lên, tiến đến xỉa xói vào mặt ông con:

- Là vì ông Xuân đã ngủ với em mày rồi, mày biết chƣa, thằng khốn nạn!”

[34,tr.34]

VD59: “- Mày bỏ tao ra! – Lý giãy giụa. – Nó nhổ bọt ai? Tao phải sòng

phẳng với nó (…) Nó cậy nó là thằng nhà báo, hả? Chúng mày không sống nổi với

tao đâu! Ôi giời ơi, sao thân tôi khổ thế này, hả giời!

Lý lăn đùng ra đất, mắt sặc tiết, chân đạp, tay đấm, rồi ôm mặt khóc hức hức

một cách rất oan uổng, xót xa” [29,tr.257].

Sự thay đổi tƣ thế đột ngột của Lý (lăn đùng ra đất) kết hợp các động tác

chân đạp, tay đấm,... là để biểu lộ sự đau đớn, tức giận.

Cũng xem những hành động nhƣ đánh, đấm, tát,... là PTGTPNN, liên quan

đến vấn đề xâm phạm vào không gian cá nhân. Cụ thể là xâm phạm thân thể ngƣời

đối thoại. Trong thực tế cuộc sống, có nhiều khi ngƣời ta không thể “giải quyết”

vấn đề bằng lời nói mà phải “giải quyết” vấn đề bằng PTGTPNN, hoặc dùng

phƣơng tiện này kèm lời nói.

VD60: “Ông đồ tát con gái đánh bốp một cái, Mịch loạng choạng ngã ngồi

xuống đất. Ông đồ xỉa xói: - Đồ đĩ dại! Đồ nhà thổ! Đồ chó!” [33,tr.293]

Xin nói thêm về khái niệm “không gian cá nhân” (“không gian riêng”).

Không gian cá nhân đƣợc hiểu là lãnh thổ, khu vực hay không gian xung quanh

một ngƣời mà ngƣời đó tự cho là của mình, nhƣ thể đó là phần nới thêm từ cơ thể

họ. Khi đề cập đến những yếu tố phi lời – một loại tín hiệu đƣợc sử dụng trong

giao tiếp mặt đối mặt – tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đề cập đến yếu tố không gian

tƣơng tác cá nhân và xem đây cũng là một loại tín hiệu dùng trong giao tiếp. Theo

Allan Bacbara & Pease [17], ngƣời ta chia ra 4 vùng khoảng cách tính từ cơ thể

ngƣời:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

49

- Vùng thân mật: từ 15cm – 46cm. Đây là vùng ngƣời ta canh giữ nhƣ thể nó

là tài sản riêng của họ. Chỉ những ngƣời gần gũi nhƣ ngƣời yêu, cha mẹ, vợ chồng,

con cái, bạn thân…mới đƣợc phép bƣớc vào. Vùng cách cơ thể dƣới 15cm gọi là

vùng “tối thân mật”.

- Vùng riêng tƣ: Từ 46cm – 1.22m, là khoảng cách giữa ta và ngƣời trong các

bữa tiệc, các cuộc họp,…

- Vùng xã giao: Từ 1.22m – 3.6m, là khoảng cách tiếp xúc giữa ta với ngƣời

lạ và những ngƣời mới quen khi có nhu cầu giao tiếp.

- Vùng công cộng: Trên 3.6m, là khoảng cách mà ta chọn đứng khi phát biểu

trƣớc đông ngƣời.

Quan niệm về vùng không gian cá nhân cũng tùy thuộc nền văn hóa mỗi

nƣớc. Thƣờng thì một ngƣời khác có thể bƣớc vào vùng thân mật của chúng ta với

một trong hai lí do: để bày tỏ những cử chỉ âu yếm thân mật hay để sắp tấn công

thân thể chúng ta. Một ngƣời đang cơn tức giận mà xâm phạm vùng thân mật của

ngƣời khác thì thƣờng là để tấn công, đe dọa.

- Cau mày

Điệu bộ cau mày, trong nhiều tình huống, cũng biểu lộ thái độ tức giận,

không bằng lòng trƣớc một điều gì:

VD61: “Nghe đến đây, Văn Minh cau mày, giận hết sức.” [34,tr.390]

- Giậm chân

Động tác giậm chân cũng biểu lộ thái độ tức giận nhƣng diễn tả sự tức giận ở

mức độ cao hơn.

VD62: “...không đáp lời, bà Đoan chỉ bƣng mặt khóc, khiến Xuân Tóc Đỏ

phải giậm chân quát thét:

- Gớm! Vừa vừa chứ! Mợ làm nũng thế thì không ai chịu đƣợc nữa. (…)”

[34,tr.472]

Cũng biểu hiện ý nghĩa này còn có các PTGTPNN nhƣ:

- Đập tay vào ngực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

50

VD63: “Ông chánh hội, mặt lầm lầm, nhìn mọi ngƣời ngồi ở chiếc chiếu gần

đấy rồi đứng dậy, đập vào ngực thình thịch một cách đáng sợ, lại nói:

- Thằng này đã đem công tâm ra để giữ thể diện cho làng, thằng này đã mất

ăn mất ngủ vì nay quan đòi, mai quan hỏi, mà lại còn không biết cho, thế thì có

thằng nào muốn bắt bẻ, muốn chê bai (…) thì nói ngay đi! (…) Nói ngay ở đây,

ông xem cái gan của nó có to không nào!” [33,tr.257]

- Trợn mắt, so vai, chỉ tay vào mặt

VD64: “Nhà mỹ thuật trợn mắt, so vai, trỏ mặt Xuân:

- Lạm quyền! Lạm quyền! Đây là công việc của tay-ơ, là của tôi! Là của một

mình tôi! Một mình tôi mà thôi! (…)” [34,tr.305]

Cách mở căng mắt ra hết cỡ, ít hoặc hoàn toàn không chớp mắt, phần lòng

đen chuyển dịch lên phía trên trong ổ mắt (gọi là “trợn mắt”, “trợn mắt lên”…)

biểu lộ trạng thái rất tức giận, hay rất khó chịu, ngạc nhiên, nghi ngờ, sợ hãi. Liên

quan tới điệu bộ này còn có “trợn ngược mắt lên”, “trợn trừng mắt”, “quắc mắt”,

“mắt long lên”,… biểu lộ sự tức giận, bất bình hay đe dọa. Điệu bộ chỉ tay vào mặt

mà ông Typn sử dụng trong cảnh huống trên vừa biểu lộ sự tức giận vừa hàm ý đe

dọa. Theo các tài liệu nghiên cứu đã có thì điệu bộ lòng bàn tay nắm chặt và ngón

tay chỉ ra là một nắm đấm với ngón trỏ đƣợc dùng giống nhƣ hình tƣợng chiếc dùi

cui mà ngƣời nói dùng nó để ép ngƣời nghe phải quy phục.

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự khó chịu

Khó chịu: “Có cảm giác hoặc làm cho có cảm giác không thoải mái vì cơ thể

hoặc tinh thần phải chịu đựng một điều gì đó không hay, không hợp, không thích”

[10,tr.500]. Khi đối thoại, vì lí do nào đó (vì ngƣời nghe, vì một câu nói, một tin

tức không tốt lành, không hợp,…) mà ngƣời tham gia giao tiếp khó chịu thì thái độ

đó sẽ đƣợc biểu hiện. Thái độ này thƣờng đƣợc biểu lộ bằng các PTGTPNN (mà

ngƣời đối thoại đôi khi phải tinh ý mới nhận ra) nhiều hơn là bằng lời. Chẳng hạn

các PTGTPNN sau đây:

- Cau mày, cau mặt, nhăn mặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

51

Bằng điệu bộ cau mày, nhăn mặt, cau mặt mà các nhân vật trong những tình

huống giao tiếp sau biểu hiện đƣợc sự khó chịu của mình về ngƣời đối thoại. Sự

khó chịu ấy, nếu chỉ căn cứ vào lời nói thì ngƣời nghe có thể sẽ không nhận ra:

VD65: “Ông con cau mày, hỏi gắt:

- Nhƣng sao mà me lại thiết tha vào việc ấy đến thế chứ?” [34,tr.391]

VD66: “Thứ cau mặt, đẩy y ra: - Anh điên đấy à?” [32,tr.164]

VD67: “Ra vẻ sốt ruột, Tú Anh nhăn mặt khó chịu, gạt đi mà rằng:

- Thôi, nếu chú không nói gì thì thôi! (…)” [33,tr.250]

- Nhăn trán, bóp trán

VD68: “Đông nhăn trán:

- Có gì mà phức tạp. Nó nhiễm độc tƣ tƣởng tƣ sản, hƣởng lạc. Có vậy thôi!”

[29,tr.35].

VD69: “Ông Bằng cắn môi dưới, đưa tay lên bóp thái dương. Không hề hay

biết ông bố chồng đang khó chịu về cách ăn nói của mình, Lý càng hăng hái: -

(…)” [29,tr.26]

Dễ nhận thấy là các điệu bộ dùng để biểu hiện thái độ khó chịu chủ yếu là

các điệu bộ dùng nét mặt. Cũng vì thế mà phải tinh ý ngƣời nghe mới nhận biết

đƣợc. Trong quá trình giao tiếp, các nhân vật giao tiếp cần đặc biệt chú ý những

phƣơng tiện phi ngôn ngữ này để xem nên hay không nên tiếp tục cuộc thoại, hoặc

chuyển hƣớng cuộc thoại để hoạt động giao tiếp có hiệu quả.

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự ngạc nhiên, sửng

sốt

Từ điển Tiếng Việt [10] định nghĩa:

Ngạc nhiên: “Rất lấy làm lạ, cảm thấy là hoàn toàn bất ngờ với mình”

[10,tr.662]

Sửng sốt: “Ngạc nhiên tới mức ngẩn ngƣời ra” [10,tr.864]

Kết quả khảo sát tƣ liệu cho thấy thái độ ngạc nhiên, sửng sốt có thể đƣợc

biểu hiện qua những PTGTPNN sau:

- Đột ngột thay đổi tư thế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

52

VD70: “Nghị Hách ngồi nhổm lên mà rằng:

- Chết! Vài trăm bạc! Mày điên! (…)” [33,tr.278]

VD71: “Xuân đứng dừng lại, kinh ngạc hỏi dồn:

- Tôi? Phỉ nhổ vào mặt tôi? Tát tôi? (…)” [34,tr.417]

Đang nằm bỗng đột ngột ngồi nhổm lên, đang đi bỗng đứng dừng lại, đó là

những tín hiệu nhân vật sử dụng để biểu lộ sự ngạc nhiên, sửng sốt của mình trƣớc

điều nghe thấy.

- Nhíu mày

VD72: “Luận nhíu nhíu cặp mày: - Sao chị lại bảo vợ thằng Cừ dại?”

[29,tr.45]

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự chế giễu, coi

thƣờng, khinh bỉ

Để biểu hiện sự chế giễu hay coi thƣờng, khinh bỉ, ngƣời ta có thể dùng

những PTGTPNN nhƣ:

- Cười

Tùy điệu thái của tiếng cƣời mà ta có thể hiểu đó là tiếng cƣời chế giễu hay

khinh bỉ, mỉa mai.

+ Cƣời để biểu lộ sự khinh bỉ:

VD73: “Ngẫm nghĩ một lát, Xuân Tóc Đỏ cười nhạt mà rằng:

- Ghê nhỉ! Ấy là tôi mà họ còn dám nói thế, còn những kẻ khác thì biết bị

đến thế nào nữa? (…)” [34,tr.416]

+ Cƣời để biểu lộ sự chế giễu:

VD74: “Quan huyện lại ngồi dựa đầu vào ghế, cười nức nở một hồi rồi mới

nói:

- Thế mà nó bán 5 đồng nửa gánh rạ!

Quan cười một hồi dài nữa làm cho lũ ngƣời ấy ngao ngán chỉ còn biết đƣa

mắt nhìn nhau…” [33,tr.271]

VD75: “Lão cười sằng sặc một hồi dài mà rằng:

- Tơ hồng! Tơ hồng… ha ha ha ha! Lại còn tế tơ hồng!” [33,tr.372]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

53

+ Cƣời để biểu lộ sự mỉa mai:

VD76: “Ngƣời Tây cười nhạt một hồi rồi khẽ nói:

- Ngài nên nói vì ngài đầy túi rồi thì hơn” [33,tr.389]

- Bĩu môi

Cái bĩu môi (chúm mỏ) của nhân vật trong các ví dụ sau thể hiện sự chế giễu,

mỉa mai:

VD77: “Thứ bĩu môi, chế nhạo:

- Thôi! Nói dễ nghe chƣa! Đến nhà ngƣời ta hỏi trọ, rồi đến lúc ngƣời ta nói

số tiền, lại thôi! Sao mà anh thôi tài thế? Tôi thì tôi xin chịu (…)” [32,tr.129].

VD78: “Mô chúm mỏ, lắc đầu, nói tiếp:

- Chịu! Nội đời con, con chƣa thấy ai kiệt nhƣ cô giáo. Trong tay lúc nào

cũng có bạc trăm mà cấm chi li đi đâu mất một xu (…).” [32,tr.124]

Hoặc để biểu lộ sự khinh bỉ:

VD79: “Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thƣờn

thƣợt. Mũi anh nhăn lại nhƣ ngửi thấy mùi xác thối.” [26,tr.66]

- Hất hàm

Động tác hất hàm của Xuân Tóc Đỏ sau đây biểu lộ thái độ kẻ cả, coi

thƣờng ngƣời đang đối thoại với mình.

VD80: “Xuân Tóc Đỏ hất hàm hỏi: - Ông hỏi gì? Mời ông ngồi!” [34,tr.405]

- Vênh mặt

VD81: “Hải và Thụ vênh mặt khinh bỉ cái ý kiến hủ hậu” [34,tr.469]

- Nguýt

Cái nguýt dài của Lý trong ví dụ dƣới đây thể hiện sự mỉa mai:

VD82: “Ngồi phịch xuống giƣờng nhìn Đông cầm đôi đũa gạt chéo qua

miệng, mắt Lý kéo một vệt nguýt sắc lẻm:

- Để sẵn thịt gạo đấy, chỉ có việc nấu mà cũng lƣời!” [29,tr.168]

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện sự bối rối, ngƣợng

ngập, xúc động

Bối rối đƣợc hiểu là lúng túng, mất bình tĩnh, không biết nên xử trí thế nào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

54

Xúc động có nghĩa là cảm xúc mạnh mẽ và trong thời gian tƣơng đối ngắn,

nhiều khi làm tê liệt nhận thức.

Ngƣợng ngập là tự cảm thấy bối rối, mất tự nhiên trƣớc ngƣời khác, thƣờng

thấy mình có điều gì đó không nên, không phải hay không xứng đáng, khi đó

ngƣời ta thƣờng có những cử động, cử chỉ không đƣợc tự nhiên

Bối rối, ngƣợng ngập, xấu hổ là những trạng thái cảm xúc gần nhau, có liên

quan đến nhau, thƣờng đƣợc biểu lộ qua các PTGTPNN. Sự xúc động cũng vậy:

Nhiều khi nhân vật cố tình che giấu sự xúc động, bối rối bằng các điệu bộ này

khác, và do đó những cảm xúc này càng lộ ra rõ ràng.

- Cúi mặt hoặc nhìn xuống, quay đi che giấu cái nhìn

Cúi mặt để biểu lộ sự ngƣợng ngập, xấu hổ:

Nhân vật Mịch đi trộm ngô khoai, chợt gặp ngƣời yêu (Long) nên cô hết sức

xầu hổ, ngƣợng ngập. Cảm xúc này đƣợc biểu lộ bằng cử chỉ cúi mặt:

VD83: “Mịch cúi mặt lặng im một lúc rồi mới đáp, và chỉ đáp dƣới cái mặt

cúi:

- Em đi bới khoai, bẻ ngô.” [33,tr.323]

Cúi mặt hay nhìn xuống, lảng tránh cái nhìn của ngƣời đối thoại để biểu lộ

sự bối rối, mất tự nhiên:

VD84: “- Bởi vì…Bởi vì…- San cúi mặt và bỏ tiếng ta, dùng tiếng Pháp -

ngƣời ta lừa dối anh…” [32,tr.139]

VD85: “San nhìn xuống. Thứ thấy cử chỉ cỏn con ấy đầy ý nghĩa. Ít lâu nay,

động nói đến chuyện vợ con, chuyện yêu đƣơng, chuyện ghen, chuyện ngoại

tình… là San mất tự nhiên.” [32,tr.225]

VD86: “Nét mặt Thứ cũng tự nhiên biến đổi. Đôi mắt Thứ lúng túng tránh

cái nhìn của San.” [32,tr.139]

Để che giấu sự xúc động, ngƣời ta cũng có thể dùng PTGTPNN là quay

nhìn đi phía khác:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

55

VD87: “Long tái mặt, vội quay nhìn ra phía khác, rồi cúi xuống đất nhặt

một cái đanh ghim để giấu sự xúc động rất mạnh đã hiện ra cả thần thái.”

[33,tr.241]

- Gãi đầu, gãi cổ, gãi tai

Khi lúng túng, bối rối, ngƣợng ngập, ngƣời ta thƣờng cảm thấy chân tay nhƣ

“thừa”, không biết che giấu nó đi đâu, do đó càng vô tình tạo ra những cử chỉ điệu

bộ biểu thị sự bối rối, ngƣợng ngùng của họ.

Ông thƣờng trực bị Luận bắt gặp đánh máy thuê trong giờ làm việc nên rất

bối rối, ngƣợng ngùng và vô tình biểu lộ điều này bằng cử chỉ gãi đầu, gãi cổ.

VD88: “- Có tin tức gì mới không bác?

Luận cố làm cho ông già ra khỏi mặc cảm. Ông gãi cái cổ mƣớt mồ hôi:

- Dạ, chỉ có tin tức về giá cả thôi ạ.

(...)- Mời thủ trƣởng uống bia ạ.

Ông thƣờng trực lại vào, đặt một cốc chè tƣơi nữa lên bàn, mời ông tổng

biên tập, rồi gãi gãi đầu đi ra” [29,tr.261,263]

● Các phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu hiện thái độ ân cần, âu

yếm, tình cảm yêu thƣơng

Thái độ ân cần, tình cảm yêu thƣơng, sự âu yếm,… thƣờng đƣợc biểu hiện

bằng ánh nhìn, những cử chỉ vuốt ve, chăm sóc - bƣớc vào vùng thân mật của

không gian cá nhân. Đó là những tình cảm, thái độ mà ngƣời thân, bạn bè, vợ

chồng, ngƣời yêu, anh em ruột thịt,… dành cho nhau. Những cử chỉ, hành động

thuộc loại phƣơng tiện này khá đa dạng, khó liệt kê vào những “loại” lớn. Xin dẫn

ra vài ví dụ trong các tác phẩm văn học đƣợc khảo sát:

VD89: “Dừng lại, nhìn vợ thiết tha, Luận tiếp:

- Phƣợng à, cuộc sống thật kì lạ vì con ngƣời vẫn là một cái gì bí ẩn. Dân

mình cũng có cái gì đó bí ẩn lạ lắm, em ạ. (…)” [29,tr.172, 173].

VD90: “Hai ngƣời cầm tay nhau, nhìn nhau một cách rất đỗi yêu thƣơng”

[33,tr.225].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

56

VD91: “Gần tới đuờng cái, anh dừng bƣớc. Nắm nhẹ một bàn tay Lan, anh

nâng lên, cúi xuống, áp môi, chầm chậm hôn rất lâu:

- Em ở lại, bình yên sống, đừng buồn nhé, em mến thƣơng! (…)” [25, tr.62]

VD92: “Âu yếm, Lan vuốt vuốt cái áo anh và hôn lên mái tóc của anh đã

điểm bạc.

- Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi và hãy sống cho thỏa.(…)” [25,

tr.62]

Bằng những PTGTPNN trong các ví dụ trên, ngƣời ta có thể trao cho nhau

tình cảm yêu thƣơng, trìu mến, sự âu yếm, ân cần thiết thực và hiệu quả hơn rất

nhiều so với lời nói.

1.3.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đa nghĩa về cái đƣợc biểu hiện

Nhƣ đã nói, PTGTPNN do các tín hiệu cơ thể - vận động tạo ra, do vậy

chúng là hữu hạn, hoàn toàn có thể liệt kê đƣợc, trong khi ý nghĩa biểu hiện của

chúng lại rất lớn. Do vậy, nếu trong ngôn ngữ bằng lời có quy luật tiết kiệm thì ở

PTGTPNN cũng vậy. Phần lớn các PTGTPNN có đặc tính đồng nghĩa hay đa

nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Sau đây xin dẫn ra vài PTGTPNN để chứng minh đặc

tính đa nghĩa của chúng.

- Cười nhạt

+ Cười nhạt để tỏ sự trải đời, hiểu đời (cái cƣời của ngƣời đa mƣu):

VD93: (Binh Chức vác dao đến nhà Lí Kiến đòi tiền)

“Lí Kiến hiểu rằng: “chúng nó” đây có thể gồm cả ông. Ông cười nhạt bảo

rằng: - Thế này này, anh Binh ạ: chị ấy gửi tôi thì quả là không có…” [30,tr.21].

+ Cười nhạt để tỏ thái độ mỉa mai:

VD94: “Ngƣời Tây cười nhạt một hồi rồi khẽ nói:

- Ngài nên nói vì ngài đầy túi rồi thì hơn” [33,tr.389].

+ Cười nhạt để tỏ thái độ thách thức:

VD95: “Lạnh lùng, viên tri huyện đứng lên.

Nghị Hách cũng cười nhạt đứng lên cầm cái mũ quả dƣa, mặt bẽn lẽn:

- Bẩm quan lớn, ngài muốn trị tôi thẳng tay đó hay sao?” [33,tr.229]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

57

+ Cười nhạt để tỏ sự khinh bỉ:

VD96: “Ngẫm nghĩ một lát, Xuân Tóc Đỏ cười nhạt mà rằng:

- Ghê nhỉ! Ấy là tôi mà họ dám nói thế, còn những kẻ khác thì không biết bị

đến thế nào nữa? (…)” [34,tr.416]

+ Cười nhạt để biểu thị tâm trạng đau đớn, chán chƣờng:

VD97: “- Ngƣời ta biết rõ là hai đứa đóng cửa phòng lại ngủ trƣa với nhau

rồi, ông đã biết chƣa?

- Sao! Sao nữa?

Cụ bà cười nhạt đau đớn:

- Lại còn sao nữa?” [34,tr.384]

- Hất hàm

+ Hất hàm để tỏ thái độ vênh váo, coi thƣờng ngƣời đối thoại:

VD98: “Xuân vênh váo ra ngoài, hất hàm hỏi Văn Minh:

- Từ độ tôi không lại giúp đƣợc thì cửa hàng vẫn đông khách chứ?”

[34,tr.419]

+ Hất hàm để tỏ vẻ quyền thế và thân mật:

VD99: “- Cậu nghe lỏm chuyện tôi với cô Phƣợng vừa rồi, hả? Dơ!

Thấy Luận đăm chiêu, Lý quay lại, hất hàm trịch thƣợng: - Thế nào? Sai à?”

[tr.47]

+ Hất hàm để biểu hiện ý nghĩa chào một cách suồng sã, thân mật:

VD100: “Nó (Mô) nhăn nhở, hất hàm: - A! ngƣời chị em!...” [32,tr.99]

+ Hất hàm để khoanh vùng đối tƣợng ngƣời nghe, mời gọi đối thoại:

VD101: “Phấn khởi vì mình tung có kẻ hứng, Dƣơng đứng thẳng dậy, vỗ tay

bộp bộp ngay khi ông Thống vừa dứt lời:

- Hay lắm! Đồng chí Thống nói là không biết chính trị. Nhƣng, nhƣ thế là

chính trị đấy. Chính trị là gì nữa, các đồng chí? – Dƣơng hất hàm về phía các cô

giáo trẻ.” [28,tr.210]

+ Hất hàm có ý nghĩa chiếu vật, chỉ dẫn cho ngƣời nghe biết điều đƣợc nói

đến trong lời cụ thể là cái gì:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

58

VD102: “- Kìa Đông, con trông chữ hai đứa nhỏ nó tô. Cái đuôi chữ y hệt

nét chữ các con hồi nhỏ.

Ông Bằng ngồi ở bàn nƣớc với Đông, hất hàm về phía bàn làm việc, ở đó

thằng Quân anh và thằng Quân em đang tập làm quen với bút sách.” [29,tr.210]

Cử chỉ hất hàm của ông Bằng chỉ dẫn cho Đông biết “hai đứa nhỏ” đƣợc nói

đến trong lời là thằng Quân anh và Quân em.

- Vỗ tay

Ngoài ý nghĩa biểu lộ sự tán đồng, tán thƣởng, vỗ tay còn có ý nghĩa:

+ Hƣớng sự chú ý của ngƣời nghe để kêu gọi ngƣời nghe thực hiện một yêu

cầu nào đó:

VD101: “Ngồi trong phòng, ông Dƣơng (…) nghe tiếng ba ngƣời trò

chuyện, liền quay ra, vỗ tay bôm bốp:

- Các đồng chí ơi! Khe khẽ cái miệng một tí nào. Vào trong này! Vào trong

này mà trao đổi! (…)” [28,tr.50]

VD102: “Bà trƣởng phòng (…) đứng giữa phòng, bà vỗ tay đôm đốp:

- Nào các cô! Mỗi ngƣời một tay chuyển giúp giấy trên ô tô vào kho nào. Cố

một tí cho nhanh kẻo đổ mƣa xuống thì khốn. Nào, tôi yêu cầu!” [29,tr.143]

+ Biểu lộ thái độ vui sƣớng, khoái trá:

VD103: “Há há!...Đẹp mặt chƣa! - Vỗ tay đôm đốp, Lý cƣời ha hả - Chị em

tôi mà tin ông thì có ngày rã họng. (…)” [29,tr.29]

- Lắc đầu:

Ngoài ý nghĩa biểu hiện thị sự không tán đồng, lắc đầu còn có ý nghĩa:

+ Lắc đầu biểu hiện sự thất vọng:

VD104: “Chồng lắc đầu thất vọng rồi thở dài: - (…)” [34,tr.395]

+ Lắc đầu biểu hiện sự chán nản:

VD105: “Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi: - Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông

giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi.” [30,tr.89]

- Gật đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

59

Ngoài ý nghĩa biểu thị sự tán đồng, tán thƣởng, gật đầu còn đƣợc dùng để

biểu hiện các ý nghĩa:

+ Gật đầu biểu hiện ý nghĩa chào:

VD106: “- Lạy bà ạ.

Bà Văn Minh gật đầu đáp lại Xuân” [34,tr.296]

+ Gật đầu biểu hiện ý nghĩa “Lại đây” (tựa nhƣ vẫy tay, ngoắc ngoắc tay)

VD107: “Long gật mụ chủ lại, dặn:

- Hết đĩa này thì lại bảo hộ các ông ấy là ở gác trên các ông chờ để mở sâm

banh” [33,tr.507].

- Xòe bàn tay:

+ Xòe bàn tay biểu hiện ý nghĩa “Không có gì, không còn gì!”

VD108: “Ông Thống đứng ở đầu bàn, xòe bàn tay:

- Báo cáo là kinh phí không còn một trinh một kẽm ạ.” [28,tr.59]

+ Xòe bàn tay biểu hiện ý nghĩa “Số 5”

VD109: “- Mày còn ngu lắm! mày có biết ở những nơi phồn hoa đô hội nhƣ

Hà Nội, Hải Phòng, ngƣời ta bán chữ trinh của ngƣời ta bao nhiêu không? - Đến

đây, lão xòe bàn tay ếch ra – Năm đồng!” [33,tr.279]

1.3.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ đơn nghĩa về cái biểu hiện

Các PTGTPNN mà mối quan hệ giữa mặt hình thức của tín hiệu (cái biểu

hiện) và mặt nội dung (cái đƣợc biểu hiện) là một đối một (1:1) không nhiều. Bởi

nhƣ đã nói, các PTGTPNN do các bộ phận cơ thể con ngƣời tạo ra không nhiều,

trong khi nhu cầu biểu hiện của chúng lại rất lớn. Những phƣơng tiện phi ngôn ngữ

đơn nghĩa về cái đƣợc biểu hiện thƣờng do mối quan hệ giữa mặt hình thức và nội

dung của chúng mang tính cụ tƣợng nhiều hơn là tính phù hiệu (quy ƣớc), do vậy

nhìn vào nó ngƣời ta chỉ có thể liên hệ đến ý nghĩa này mà không (hay khó) liên hệ

với ý nghĩa khác. Có thể chỉ ra vài ví dụ:

- Bịt tai: Không muốn nghe

VD110: “- Đừng nói nữa

Lý thét, áp tay vào tai, ngực dội lên dẹp xuống.” [29,tr.170]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

60

- Bịt miệng người đối thoại: Không cho nói nữa

VD111: “Y bịt lấy miệng Liên: - Ai bắt mình thề? (…)” [32,tr.276]

- Đặt dọc ngón trỏ lên môi người đối thoại: Không cho nói

VD112: “Phƣợng không để anh nói, cô đặt dọc ngón tay trỏ lên môi anh

(…)” [29,tr.163]

TIỂU KẾT

Tìm hiểu về PTGTPNN, luận văn đã nêu cách hiểu về loại phƣơng tiện này

và xây dựng đƣợc những tiêu chí cần thiết để nhận diện các PTGTPNN. Khái niệm

PTGTPNN ở đây đƣợc quan niệm rộng, gồm những tín hiệu cơ thể - vận động do

con ngƣời cố ý hay hay không cố ý tạo ra trong quá trình giao tiếp mà có khả năng

mang lại cho ngƣời tiếp nhận một giá trị thông báo bổ sung nào đó.

PTGTPNN mang bản chất tín hiệu, đáp ứng những yêu cầu cần có của một

tín hiệu: có tính hai mặt – cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện, có thể cảm nhận

đƣợc bằng các giác quan, có tính hệ thống.

Xét PTGTPNN ở phƣơng diện cái biểu hiện, luận văn phân loại chúng theo

khả năng tiếp nhận của các giác quan đối với cái biểu hiện. Kết quả tìm hiểu cho

thấy, các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng thị giác là phong phú nhất, tiếp đến là

các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng nhiều giác quan (thị giác và thính giác, thị

giác và xúc giác). Giác quan thị giác hầu nhƣ luôn đƣợc dùng để nhận biết các

PTGTPNN bởi không mấy ai lại “nhắm mắt” khi đối thoại.

Xét PTGTPNN ở phƣơng diện cái đƣợc biểu hiện, luận văn phân loại các

PTGTPNN thành: PTGTPNN đồng nghĩa (nhiều PTGTPNN cùng biểu thị một ý

nghĩa), PTGTPNN đa nghĩa (một PTGTPNN có thể biểu thị nhiều ý nghĩa khác

nhau, tùy tình huống giao tiếp mà nhận biết) và PTGTPNN đơn nghĩa về cái đƣợc

biểu hiện (một PTGTPNN chỉ biểu thị một ý nghĩa duy nhất). Do số lƣợng hữu hạn

trong khi nhu cầu biểu hiện lại rất lớn nên hầu hết các PTGTPNN là đồng nghĩa và

đa nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Các PTGTPNN đơn nghĩa rất ít. Giữa cái biểu hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

61

và cái đƣợc biểu hiện của PTGTPNN đơn nghĩa thƣờng có mối liên hệ tự nhiên mà

nhìn vào đó, ngƣời ta chỉ có thể hiểu một nghĩa duy nhất.

Ý nghĩa biểu hiện của PTGTPNN là rất phong phú và tinh tế. Ngƣời tham gia

giao tiếp nếu chú ý quan sát sẽ thu đƣợc nhiều thông tin thú vị.

Chƣơng 2

CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ ĐƢỢC SỬ

DỤNG TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NGỮ DỤNG HỌC

2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

62

2.1.1. Ngữ dụng học là bộ môn chuyên ngành của ngôn ngữ học. Tuy mới ra đời

nhƣng nó đã mở ra một lĩnh vực nghiên cứu đầy hứa hẹn – nghiên cứu ngôn ngữ

trong sự hành chức. Khác với ngôn ngữ học tiền dụng học – nghiên cứu ngôn ngữ

trong sự tĩnh tại, cô lập, ngữ dụng học đặt lời nói vào vị trí trung tâm nghiên cứu

và theo đó, đã trả ngôn ngữ về với cái “nôi đời”– nơi mà ở đó nó sinh ra và vì đó,

nó tồn tại. Ngữ dụng học có nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ trong sự thực hiện

chức năng giao tiếp xã hội.

Nhìn nhận các PTGTPNN từ bình diện ngữ dụng học, trƣớc hết cần làm rõ

một số vấn đề lí thuyết có liên quan.

2.1.2. Các nhân tố giao tiếp

Theo Đỗ Hữu Châu [1], các nhân tố giao tiếp đƣợc hiểu là các nhân tố có

mặt trong một cuộc giao tiếp, chi phối cuộc giao tiếp đó và chi phối diễn ngôn về

hình thức cũng nhƣ nội dung.

Các nhân tố giao tiếp bao gồm: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn. Ở đây xin

đi sâu làm rõ hai nhân tố ngữ cảnh và diễn ngôn.

a. Ngữ cảnh

Ngữ cảnh là những nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp nhƣng nằm

ngoài diễn ngôn. Ngữ cảnh là yếu tố động, thay đổi trong quá trình diễn ra cuộc

giao tiếp. Bất kì cái gì muốn trở thành ngữ cảnh của một cuộc giao tiếp cần phải

đƣợc nhân vật giao tiếp ý thức.

Ngữ cảnh gồm các nhân tố:

● Nhân vật giao tiếp: là những ngƣời tham gia vào một cuộc giao tiếp.

Giữa các nhân vật giao tiếp có mối quan hệ liên cá nhân và quan hệ vai giao

tiếp.

- Vai giao tiếp:

Trong một cuộc giao tiếp có sự phân vai thành vai phát diễn ngôn – Sp1

(nói/viết) và vai tiếp nhận diễn ngôn – Sp2 (nghe/đọc). Trong giao tiếp đƣơng diện

(mặt đối mặt) hai vai nói và nghe thƣờng có sự luân chuyển.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

63

Khi tham gia giao tiếp, các vai giao tiếp đều có ý định hay còn gọi là đích

giao tiếp và niềm tin (tin điều mình nói ra là đúng, tin điều mình nói ra ngƣời nghe

chƣa biết, tin ngƣời nghe sẵn sàng nghe lời mình,...).

- Quan hệ liên cá nhân: là quan hệ so sánh xét trong tƣơng quan xã hội, hiểu

biết, tình cảm giữa các nhân vật giao tiếp với nhau.

Để HĐGT có hiệu quả thì các nhân vật giao tiếp phải hiểu biết lẫn nhau về

các mặt sau:

+ Hiểu biết về vị thế: Vị thế ở đây đƣợc hiểu là vị thế xã hội và vị thế

giao tiếp

Nói đến vị thế xã hội là nói các nhân vật giao tiếp ở vị trí nào trong xã

hội. Cao hay thấp? Trên hay dƣới? Bình đẳng hay không bình đẳng? Vị thế xã hội

đƣợc quy định bởi tuổi tác, chức vụ, nghề nghiệp, giai cấp,...

Nói đến vị thế giao tiếp của nhân vật giao tiếp tức là xem các nhân vật

giao tiếp ở vào thế chủ động hay bị động trong điều hành hoạt động giao tiếp.

Nhìn chung vị thế xã hội và vị thế giao tiếp không phải lúc nào cũng

đồng nhất. Không phải cứ ngƣời ở vị thế cao là nắm quyền chủ động trong giao

tiếp và ngƣợc lại.

+ Hiểu biết về mức độ thân cận (quan hệ thân sơ) : mức độ thân cận có

thể tỉ lệ thuận với mức độ hiểu biết về nhau của những ngƣời tham gia giao tiếp

nhƣng không nhất thiết là đã hiểu nhau thì sẽ thân nhau (có khi kẻ thù lại hiểu nhau

rất kĩ). Trong tiến trình giao tiếp, mức độ thân sơ có thể thay đổi (kéo gần lại hay

càng giãn xa hơn)

+ Hiểu biết về trình độ tri thức (tri thức cuộc sống và tri thức khoa học)

Trong một cuộc giao tiếp, các nhân vật tham gia giao tiếp phải xây dựng các

hình ảnh tinh thần về nhau nhƣ đặc điểm, trạng thái năng lực, vị thế, trình độ tri

thức, quan hệ thân sơ,... Những yếu tố thuộc về quan hệ liên cá nhân này chi phối

nhiều đến việc lựa chọn đề tài, nội dung giao tiếp, phƣơng tiện giao tiếp,...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

64

● Hiện thực ngoài diễn ngôn: Trừ nhân vật giao tiếp, tất cả những yếu tố vật

chất, xã hội, văn hoá,... đƣợc nói đến trong diễn ngôn của một cuộc giao tiếp đƣợc

gọi là hiện thực ngoài diễn ngôn. Cụ thể, hiện thực ngoài diễn ngôn bao gồm:

- Đề tài: Đề tài là mảng hiện thực ngoài diễn ngôn đƣợc các nhân vật giao

tiếp thoả thuận chọn làm đối tƣợng để trao đổi trong giao tiếp. Đó có thể là những

cái tồn tại, diễn tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ, những cảm xúc, tƣ tƣởng, ý

định, nguyện vọng,... của cá nhân. Hiện thực - đề tài của diễn ngôn có thể còn

chính là bản thân ngôn ngữ hay thậm chí là chính các cuộc giao tiếp, các diễn ngôn

đã có hay đang thực hiện.

- Thế giới khả hữu và hệ quy chiếu: Thế giới khả hữu là thế giới đƣợc lấy

làm hệ quy chiếu cho các diễn ngôn. Có vô số thế giới khả hữu, trong đó thế giới

thực tại, ở thời điểm hiện tại mà ngƣời nói thuộc vào chỉ là một. Xem xét một phát

ngôn/diễn ngôn là đúng hay sai, có nghĩa hay vô nghĩa là phụ thuộc vào thế giới

khả hữu mà diễn ngôn đƣợc quy chiếu vào.

● Hoàn cảnh giao tiếp:

Hoàn cảnh giao tiếp gồm hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao tiếp

hẹp.

- Hoàn cảnh giao tiếp rộng (hay còn gọi là tri thức văn hoá nền) bao gồm

toàn bộ những hiểu biết về lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế, tôn giáo, khoa học,

nghệ thuật,... ở thời điểm và không gian trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp.

- Hoàn cảnh giao tiếp hẹp (thoại trƣờng) là không gian, thời gian cụ thể mà

cuộc giao tiếp diễn ra, ví dụ nhà thờ - ngày chủ nhật, nhà thờ - các ngày thƣờng,

lớp học - giờ học, lớp học - giờ ra chơi, chợ - ngày phiên, chợ - một thời điểm nào

đó trong ngày,... là những thoại trƣờng.

● Ngữ huống giao tiếp: Ngữ huống giao tiếp là tác động tổng hợp của các

yếu tố tạo nên ngữ cảnh ở từng thời điểm của cuộc giao tiếp nhƣ nhân tố đề tài,

nhân vật giao tiếp, hiện thực ngoài diễn ngôn, thoại trƣờng, quan hệ liên cá nhân,...

Nói nhƣ vậy nghĩa là, ngữ cảnh giao tiếp là một yếu tố động, nó không phải nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

65

thành bất biến mà thay đổi trong quá trình giao tiếp. Và sự thay đổi của ngữ cảnh ở

mỗi thời điểm cụ thể ấy của cuộc giao tiếp chính là ngữ huống.

b. Diễn ngôn

● Diễn ngôn: Theo cách hiểu của Đỗ Hữu Châu thì:

- Diễn ngôn là lời của từng ngƣời nói ra trong một cuộc giao tiếp. Cũng có

những diễn ngôn do hai hoặc hơn hai nhân vật giao tiếp xây dựng nên (nhƣ trong

một cuộc hội thoại tay ba, hai ngƣời liên kết với nhau để chống lại ngƣời thứ ba)

- Tổng những lời nói của một ngƣời trong một cuộc hội thoại có thể là một

diễn ngôn liên tục hay ngắt quãng mà cũng có thể là một số diễn ngôn. Tiêu chí để

phân định diễn ngôn là hành động giao tiêp chủ đạo. Đích của diễn ngôn sẽ đƣợc

thực hiện bởi hành động giao tiếp chủ đạo này.

(Về khái niệm diễn ngôn, xin xem thêm tài liệu tham khảo [1, tr.29-34])

● Thành tố nội dung, hình thức và đích của diễn ngôn.

Hình thức của diễn ngôn đƣợc tạo thành bởi các yếu tố của ngôn ngữ, các

đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học, các hành vi ngôn ngữ tạo nên diễn ngôn. Các

yếu tố kèm lời và phi lời cũng đƣợc xem là các yếu tố thuộc hình thức của diễn

ngôn.

Diễn ngôn có hai thành tố nội dung: nội dung thông tin và nội dung liên cá

nhân. Nội dung thông tin (nội dung miêu tả, tái hiện hiện thực) bị quy định bởi tính

đúng – sai lôgic, hình thành do quan hệ giữa diễn ngôn với hiện thực đƣợc nói tới.

Nội dung liên cá nhân bao gồm tất cả các nội dung của diễn ngôn không bị quy

định bởi tính đúng – sai lôgic. Hai thành tố nội dung này có thể hiện diện một cách

tƣờng minh qua câu chữ của diễn ngôn, cũng có thể tồn tại một cách hàm ẩn.

Đích của diễn ngôn có thể chia thành các kiểu: đích thuyết phục (do thành tố

nội dung thông tin đảm nhiệm), đích truyền cảm (làm thay đổi trạng thái cảm xúc,

tình cảm của nhân vật giao tiếp), đích hành động (thúc đẩy hành động). Đích

truyền cảm và đích hành động do thành tố liên cá nhân đảm nhiệm.

2.1.3. Các hành vi ở lời (các hành động ngôn trung)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

66

Trƣớc đây, các nhà ngôn ngữ học khi nghiên cứu về câu thƣờng chỉ quan

tâm tới những câu khảo nghiệm (khẳng định, trần thuyết, xác tín, miêu tả). Đến

giữa thế kỉ XX, J.L. Austin đã phát hiện ra bản chất hành động của ngôn ngữ. Nói

cũng là làm – nói năng cũng là một dạng hành động. Khi nói năng là ta cũng thực

hiện một hành động nhƣ thực hiện các hành động vật lí khác. Hỏi, sai khiến, cầu

xin, hứa hẹn, cam kết, tuyên bố, xin lỗi, cảm ơn,… cũng là những hành động, đƣợc

thực hiện bằng lời nói. Từ đó, Austin đã khởi xƣớng ra lí thuyết hành vi ngôn ngữ.

Theo Austin, có ba loại hành động ngôn ngữ (hành vi ngôn ngữ) lớn, đó là

hành vi tạo lời, hành vi mƣợn lời và hành vi ở lời.

Ở đây xin đƣợc quan tâm nhiều hơn tới hành vi ở lời.

● Hành vi ở lời là những hành vi ngƣời nói thực hiện ngay khi nói năng.

Hiệu quả của chúng là gây ra một phản ứng ngôn ngữ tƣơng ứng ở ngƣời nhận. (về

vấn đề này, xin xem thêm tài liệu tham khảo [1,tr.89,90]

● Hành vi ở lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.

- Hành vi ở lời trực tiếp là những hành vi ngôn ngữ đƣợc thực hiện đúng với

đích ở lời và đúng với điều kiện sử dụng chúng.

- Hành vi ở lời gián tiếp là hành vi ngôn ngữ trong đó ngƣời nói thực hiện

một hành vi ở lời này nhƣng lại nhằm làm cho ngƣời nghe dựa vào những hiểu biết

ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác.

Sau đây luận văn sẽ xem xét PTGTPNN trên một vài phƣơng diện của ngữ

dụng học.

2.2. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƢƠNG

DIỆN THỂ HIỆN HÀNH ĐỘNG NGÔN TRUNG (HÀNH VI Ở LỜI)

PTGTPNN là một loại tín hiệu đƣợc sử dụng phổ biến trong đối thoại, bên

cạnh ngôn ngữ bằng lời. Chúng có thể đƣợc sử dụng với chức năng thay lời, khi đó

PTGTPNN mang giá trị tƣơng đƣơng một phát ngôn. PTGTPNN cũng đƣợc dùng

với chức năng trợ lời, khi đó, PTGTPNN đi kèm phát ngôn và bổ sung ý nghĩa nào

đó cho phát ngôn. Xem xét chức năng của PTGTPNN trong hoạt động giao tiếp có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

67

thể thấy rằng, PTGTPNN cũng thể hiện hành vi ở lời nhƣ một phát ngôn. Xin dẫn

ra vài loại hành vi ở lời tiêu biểu mà PTGTPNN có thể thể hiện nhƣ sau:

2.2.1. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi phản đối, bác bỏ

Bác bỏ đƣợc hiểu là “bác đi, gạt đi, không chấp nhận” [10,tr.37]

Khi bác bỏ một ý kiến, một đề nghị nào đó, ngƣời ta có thể sử dụng những

PTGTPNN sau:

- Lắc đầu

VD1: “- Chƣa hẳn đâu. – Đông lắc đầu – (…)” [29,tr.354]

Động tác lắc đầu của nhân vật Đông thể hiện hành vi bác bỏ, đi kèm và bổ

trợ cho phát ngôn “Chưa hẳn đâu” – cũng là phát ngôn có hành vi ở lời là bác bỏ.

VD2: “- Thôi thì ác cũng đƣợc! Anh cứ trả lời thế đi!

San bàn nhƣ vậy bằng một giọng đùa. Thứ lắc đầu, cười.” [32,tr.227]

Cử chỉ lắc đầu, cười của Thứ có giá trị tƣơng đƣơng với một phát ngôn -

một hành vi bác bỏ “Tôi không đồng ý.”

- Xua tay

Hành động xua tay của nhân vật ông Bằng trong ví dụ sau cũng để thể hiện

hành vi bác bỏ, đi kèm lời nói cũng thể hiện hành vi này:

VD3: “- Không đƣợc! không đƣợc … Không nên nhƣ thế. Thế này…

Ông Bằng xua xua tay.” [29,tr.28]

Để tăng mức độ biểu hiện hành vi bác bỏ, ngƣời ta còn phối hợp nhiều động

tác cùng lúc:

- Cử chỉ phối hợp: lắc đầu, xua tay, nhắm mắt

VD4: “- Mặc cậu! Mặc cậu! Chúng tôi không biết…

(…) San vừa lắc đầu, vừa xua tay, vừa nhắm nghiền hai mắt, nhất định

không nghe gì khác nữa…” [32,tr.146]

2.2.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi yêu cầu, ra lệnh

Để thể hiện hành vi yêu cầu hay ra lệnh cho ai làm một điều gì, cùng với lời

nói, ngƣời ta còn có thể dùng các PTGTPNN:

- Vỗ tay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

68

VD5: “Đứng giữa phòng, bà vỗ tay đôm đốp:

- Nào các cô! Mỗi ngƣời một tay chuyển giúp giấy trên ô tô vào kho

nào.(…) Nào, tôi yêu cầu!” [29,tr.143]

Hành động vỗ tay của bà trƣởng phòng là để yêu cầu mọi ngƣời chú ý,

không lộn xộn để nghe lệnh.

- Chỉ tay

Điệu bộ chỉ tay thƣờng đƣợc dùng khi yêu cầu hay ra lệnh cho ai làm việc gì

(ngƣời ở vị thế cao yêu cầu, ra lệnh cho ngƣời ở vị thế thấp).

VD6: “Đến cửa phòng khách, bà phó chỉ tay:

- Các ngƣời ngồi đây chờ tôi.” [tr.283]

Động tác chỉ tay của bà phó Đoan trong tình huống này vừa biểu thị hành vi

yêu cầu, vừa cụ thể hóa hành vi này: “ngồi đây” nghĩa là ngồi ở nơi đƣợc ngƣời nói

định vị trƣớc.

VD7: “…Long bỗng đứng phắt lên, trỏ tay ra cửa:

- Ông đi đi! Ông đi ngay đi!” [33,tr.314]

Động tác trỏ tay ra phía cửa có ý nghĩa biểu thị yêu cầu “đi” theo hƣớng “ra

khỏi cửa”.

- Đập bàn

Hành động đập bàn trong ví dụ sau để biểu thị hành vi yêu cầu im lặng, vừa

nhằm để thị uy đồng thời thể hiện cả hành vi biểu cảm (biểu lộ sự tức giận)

VD8: “Quan lớn Lại đập bàn:

- Im đi! Vừa phong kiến vừa sặc mùi tƣ bản là anh! Cút!” [28,tr.114]

- Lừ mắt

VD9: “Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông Bằng, Lý vội bƣớc lại, lừ mắt

nhìn chồng:

- Anh Đông, ông bị cao huyết áp đấy.” [29,tr.94]

Điệu bộ lừ mắt của Lý là để ngầm yêu cầu Đông không nên chúc rƣợu ông

Bằng nữa bởi lí do nhƣ đƣợc nêu trong lời nói đi kèm.

2.2.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi mời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

69

Mời ai đó làm một việc gì khác với yêu cầu, ra lệnh ở chỗ hành vi mời

thƣờng luôn kèm trong đó sự tôn kính, tôn trọng, thái độ lịch sự của ngƣời mời.

Yêu cầu, ra lệnh đôi khi không thể hiện sắc thái biểu cảm này. Ví dụ:

- Dùng tay chỉ dẫn (thường trong tình huống mời ngồi)

Mời ai đó làm một việc gì, ngƣời ta thƣờng dùng tay chỉ dẫn tận nơi để

ngƣời đƣợc mời biết mà làm theo nhƣ lời mời. Những cử chỉ dang tay, chỉ vào

chiếc ghế mây trƣớc mặt, vỗ xuống giƣờng của ngƣời mời trong các ví dụ dẫn ra

sau đây là nhằm mục đích này. Để tăng thêm tính lịch sự cho hành vi mời, ngƣời ta

thƣờng dùng lời mời kèm theo. Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, nhiều khi ngƣời

ta chỉ cần dùng PTGTPNN, không cần lời mời kèm theo nhƣng ngƣời đối thoại

cũng vẫn hiểu đƣợc ý định mời của đối phƣơng.

VD10: “…Tú Anh ngồi xuống phản, dang tay mời ông đồ cùng ngồi.”

[33,tr.336]

VD11: “Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây

trƣớc mặt, cố làm ra vẻ thân mật:

- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này…” [31,tr.341]

VD12: “(…) Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:

- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên …” [26,tr.109]

- Dâng chén bằng hai tay (trong tình huống mời uống nước)

VD13: “- Bố xơi nƣớc ạ. - Phƣợng dâng chén trà bằng hai tay, nhỏ nhẻ”

[29tr.24].

2.2.4. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi cầu xin

Cầu xin: “Xin với ai điều gì một cách khẩn khoản, thiết tha, nhẫn nhục”

[10,tr.139]

Khi cầu xin ai một điều gì một có thể là ta sẽ vi phạm vào “thể diện âm tính”

của ngƣời đó (J.Thomas: “Thể diện âm tính là mong muốn không bị can thiệp,

mong muốn đƣợc hành động tự do theo nhƣ cách mình đã lựa chọn”, là “nhu cầu

đƣợc độc lập đƣợc tự do trong hành động, không bị ngƣời khác áp đặt” (G.Yule),

nó bao gồm “quyền tự do hành động mà không bị can thiệp” (G.M.Green)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

70

[1,tr.264]). Do vậy ngƣời cầu xin thƣờng dùng những điệu bộ hạ thấp cơ thể, tỏ ra

hết sức nhún nhƣờng trƣớc ngƣời đƣợc cầu xin, mong phần nào bù đắp phần thể

diện đã mất của ngƣời đó.

Trong số tƣ liệu đƣợc khảo sát có những PTGTPNN thể hiện hành vi cầu xin

của ngƣời Việt nhƣ sau:

- Chắp tay

VD14: “Con bé run đây đẩy, chắp hai tay kêu van:

- Bẩm lạy hai quan lớn!” [33,tr.471]

VD15: “Ngƣời đàn bà hƣớng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:

- Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng đƣợc, phạt tù con cũng đƣợc,

đừng bắt con bỏ nó…” [31,tr.342]

- Quỳ

VD16: “Thằng ngụy cao lớn quỳ sụp dƣới chân Kiên, nƣớc mắt tuôn ròng:

- Anh thƣơng tình em! Em còn trẻ quá mà anh! Em còn mẹ già…em sắp

cƣới vợ…chúng em thƣơng nhau…xin anh!” [25,tr.43]

- Ngồi thụp xuống, ngước mắt lên

VD17: “Bà Nghị đến ngồi thụp dƣới chân Hải Vân ngước mắt lên nhƣ kêu

van, rồi the thé nói:

- Tôi xin lỗi ông! (…) Ông xá cho tôi cái tội nhục nhã này!...Xin ông nói

nốt! Ông đã nói thì nói nốt cho cai Hách nó nghe!...” [33,tr.476]

2.2.5. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thể hiện hành vi chấp thuận

Chấp thuận: “Chấp nhận điều yêu cầu hoặc đề nghị” [10,tr.154]

Gật đầu là PTGTPNN phổ biến dùng để thể hiện hành vi chấp thuận một ý

kiến một yêu cầu hay một đề nghị

VD18: “Luận nhƣ hiểu tâm tình cha, hơi cúi xuống:

- Ba đừng nghĩ ngợi nữa, ba ạ

Ông Bằng gật đầu.” [29,tr.300]

2.3. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƢƠNG

DIỆN CHỦ THỂ SỬ DỤNG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

71

PTGTPNN là loại phƣơng tiện giao tiếp mang đậm dấu ấn văn hóa của các

cộng đồng khác nhau. Các yếu tố thuộc về nhân vật giao tiếp nhƣ vị thế xã hội, vị

thế giao tiếp, quan hệ thân sơ, trình độ tri thức chi phối việc sử dụng PTGTPNN.

Xét PTGTPNN ở phƣơng diện ngƣời sử dụng (nhân vật giao tiếp), luận văn

tập trung xem xét sự chi phối của yếu tố vị thế xã hội đối với việc sử dụng

PTGTPNN. Các nhân tố khác nhƣ quan hệ thân sơ, trình độ tri thức,... cuả nhân vật

giao tiếp ảnh hƣởng đến việc sử dụng PTGTPNN sẽ đƣợc kết hợp phân tích khi xét

PTGTPNN ở phƣơng diện hoàn cảnh giao tiếp và phân tích vai trò của PTGTPNN

trong hoạt động giao tiếp

Qua xem xét các tình huống giao tiếp của các nhân vật trong tác phẩm, có

thể lập đƣợc bảng một số PTGTPNN thƣờng dùng trong giao tiếp của ngƣời Việt

có sự chi phối khá rõ của nhân tố vị thế xã hội giữa các nhân vật giao tiếp. (Các

tình huống giao tiếp cụ thể xin xem Phụ lục). Cần lƣu ý, sự phân biệt vị thế xã hội

cao/thấp/ngang bằng giữa các nhân vật chỉ mang tính chất tƣơng đối, tùy thuộc vào

tƣ cách mà nhân vật tự đặt mình vào trong từng cuộc giao tiếp cụ thể (ví dụ: Nhân

vật Long và Tú Anh trong tác phẩm “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, trong công

việc họ là ông chủ và ngƣời làm công – vị thế cao/thấp, nhƣng trong cuộc sống đời

thƣờng, họ là bạn bè – vị thế ngang hàng), tùy thuộc quan niệm từng thời đại ( ví

dụ xƣa kia quan hệ vợ chồng đƣợc xem là không bình đẳng thì nay vợ chồng đƣợc

quan niệm là bình đẳng về vị thế xã hội). Vị thế của nhân vật trong suốt diễn biến

câu chuyện trong tác phẩm cũng thay đổi. Vì thế, cần đặt nhân vật vào các tình

huống giao tiếp cụ thể để xác định đúng vị thế xã hội của nhân vật.

Sau đây, sẽ đƣợc xem xét là: PTGTPNN đƣợc ngƣời có vị thế xã hội cao chủ

động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời có vị thế xã hội thấp hơn, PTGTPNN đƣợc

ngƣời có vị thế xã hội thấp chủ động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời có vị thế xã

hội cao hơn, PTGTPNN đƣợc những ngƣời có vị thế xã hội ngang bằng chủ động

sử dụng khi giao tiếp với nhau, ở hai mức độ - thƣờng đƣợc sử dụng và ít đƣợc sử

dụng. Thƣờng đƣợc sử dụng hay ít đƣợc sử dụng ở đây là xét về phƣơng diện văn

hóa giao tiếp mà cộng đồng chấp nhận, không xét đến các tình huống hội thoại mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

72

các nhân vật cố tình xâm phạm thể diện của nhau, vi phạm phƣơng châm lịch sự

(nhƣ khi chửi nhau chẳng hạn, lúc đó họ không cần quan tâm PTGTPNN nào thì

đƣợc hay không đƣợc sử dụng).

Bảng 6

vị thế giao tiếp

và sự chủ động

giao tiếp

PTGTPNN

cao – thấp thấp -cao ngang bằng

bắt tay + - +

bĩu môi + +

cúi (chào), khoanh

tay/ chắp tay (vái

chào)

+ -

chỉ tay vào mặt

người đối thoại + -

gật đầu + + +

hất hàm + +

lắc đầu + + +

lừ mắt + +

lườm, nguýt + +

vỗ đùi +

vỗ tay + + +

vỗ vai + +

xoa hai bàn tay + -

(+: thƣờng đƣợc sử dụng, -: ít đƣợc sử dụng)

2.4. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƢƠNG

DIỆN HOÀN CẢNH SỬ DỤNG

Hoàn cảnh sử dụng là hoàn cảnh không gian, thời gian diễn ra cuộc giao

tiếp, có chịu sự chi phối của yếu tố văn hóa và những qui ƣớc xã hội.

PTGTPNN đƣợc sử dụng trong giao tiếp xã hội phải đảm bảo đƣợc tính văn

hóa, phù hợp với hoàn cảnh sử dụng. Xét PTGTPNN ở phƣơng diện hoàn cảnh sử

dụng là ta xét xem trong mỗi hoàn cảnh giao tiếp đặc thù thì những PTGTPNN nào

đƣợc coi là thích hợp để sử dụng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

73

Có hoàn cảnh giao tiếp mang tính nghi thức xã hội và hoàn cảnh giao tiếp

không mang tính nghi thức xã hội.

Do tìm hiểu PTGTPNN trên tƣ liệu là các tác phẩm văn chƣơng chứ không

phải trong thực tế hoạt động giao tiếp ngoài đời sống cho nên các tƣ liệu khảo sát

đƣợc không bao quát hết các hoàn cảnh sử dụng PTGTPNN. Xin tạm xếp các

PTGTPNN tiêu biểu đã thu thập đƣợc vào hai hoàn cảnh sử dụng là hoàn cảnh

mang tính nghi thức xã hội và hoàn cảnh không mang tính nghi thức xã hội (sinh

hoạt đời thƣờng), nhằm mục đích chứng minh rằng PTGTPNN xét ở bình diện ngữ

dụng học cũng có sự phân biệt ở hoàn cảnh sử dụng.

Bảng 7: PTGTPNN được sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp trang trọng, mang

tính nghi thức xã hội và hoàn cảnh sinh hoạt đời thương, phi quy thức

Hoàn cảnh giao tiếp

PTGTPNN

trang trọng, mang tính

nghi thức xã hội

sinh hoạt đời thƣờng,

phi quy thức

bắt tay + +

bĩu môi +

chắp tay vái + +

chép miệng +

cúi chào + +

cúi đầu + +

cười tủm tỉm, cười gượng, cười

mỉm + +

cười khanh khách, cười rầm rĩ,

cười ồ ồ, cười hí hí, cười hi

hi,...

+

đập bàn +

gãi đầu, gãi tai, gãi gáy +

gật đầu + +

giơ tay chào + +

hất hàm +

lắc đầu + +

lườm, nguýt +

nghiến răng +

nháy mắt +

nhăn mặt +

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

74

nhún vai + +

phát, véo vào đùi, vào tay,... +

so vai +

tặc lưỡi +

thở dài + +

trợn mắt +

vênh mặt +

vỗ đùi +

vỗ tay + +

vỗ trán + +

vung tay, giơ tay lên, đập tay

xuống, chém tay vào không

khí,...

+ +

xoa tay + +

xua tay + +

Dễ nhận thấy là hầu hết những PTGTPNN sử dụng đƣợc trong hoàn cảnh

trang trọng, nghi thức đều có thể dùng trong hoàn cảnh sinh hoạt đời thƣờng,

nhƣng nhiều PTGTPNN sử dụng đƣợc trong hoàn cảnh sinh hoạt đời thƣờng lại

không đƣợc sử dụng trong hoàn cảnh nghi thức, trang trọng. Nếu sử dụng sẽ bị coi

là không phù hợp, không đảm bảo tính văn hóa. Các PTGTPNN dùng trong hoàn

cảnh sinh hoạt đời thƣờng thƣờng là những yếu tố cơ thể vận động rất tự nhiên

thoải mái, rất sinh động và đa dạng. Các PTGTPNN dùng trong hoàn cảnh trang

trọng thƣờng chừng mực hơn về mức độ biểu hiện và số lƣợng cũng hạn chế.

2.5. VAI TRÕ CỦA PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ TRONG

HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP

Hoạt động giao tiếp bao gồm nhiều nhân tố có quan hệ qua lại, tác động lẫn

nhau. Có thể kể ra những nhân tố cơ bản: nhân vật giao tiếp, đối tƣợng giao tiếp –

đề tài của phát ngôn/diễn ngôn, hoàn cảnh giao tiếp (hoàn cảnh rộng, hoàn cảnh

hẹp) mục đích giao tiếp, phát ngôn/diễn ngôn (gọi chung là lời).

(Về vấn đề này, xin xem thêm tài liệu tham khảo [1,tr.15-39])

Trong các nhân tố trên, nhân vật giao tiếp phân đƣợc thành vai phát diễn ngôn

(vai nói/viết – kí hiệu sp1) và vai tiếp nhận diễn ngôn (vai nghe/đọc – kí hiệu sp2).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

75

Theo Đỗ Hữu Châu, diễn ngôn có thành tố nội dung và hình thức. Hình thức của

diễn ngôn gồm các yếu tố ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học (cú

pháp), các hành vi ngôn ngữ tạo nên phát ngôn/diễn ngôn và cả các yếu tố kèm lời

và phi lời. Theo đó, PTGTPNN là thuộc về nhân tố phát ngôn/diễn ngôn - nhân tố

không thể thiếu trong một hoạt động giao tiếp, có liên quan chi phối và chịu sự chi

phối của các nhân tố khác trong hoạt động giao tiếp.

Thuộc về nhân tố trung tâm của hoạt động giao tiếp, PTGTPNN đóng một vai

trò quan trọng cùng với lời nói để cấu thành hoạt động này. Đồng thời, là phƣơng tiện

giao tiếp quan trọng bên cạnh lời (phát ngôn, diễn ngôn, trong giao tiếp đƣơng diện),

PTGTPNN cũng có ý nghĩa hỗ trợ đắc lực cho lời nói trong hoạt động giao tiếp.

2.5.1. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ thay thế cho một phát ngôn

Trong hoạt động giao tiếp, nhiều khi vì lí do nào đó (không tiện dùng lời hoặc

dùng lời kém hiệu quả hơn) các nhân vật trong tác phẩm đƣợc khảo sát đã dùng

PTGTPNN thay cho việc dùng một phát ngôn để diễn đạt nội dung giao tiếp. Khi

đó, PTGTPNN có chức năng thay thế cho một phát ngôn (chức năng thay lời).

VD20: “... phóng viên nói xong thì nghiêng đầu cúi chào một cách ranh mãnh,

rồi quay gót định cáo lui. Ông huyện đập cái thước kẻ lên bàn giấy đánh chát một

cái, làm cho thiếu niên lại quay lại. Ông huyện đỏ mặt nói:

- Anh muốn gây sự với quan trƣờng đấy phải không?” [33,tr.265].

Hành động đập cái thước kẻ lên bàn giấy có giá trị tƣơng đƣơng với phát

ngôn “Anh kia quay lại!” nhƣng có tính hiệu lực cao hơn phát ngôn ở hoàn cảnh

này. Nó khiến ngƣời phóng viên đã “quay gót định cáo lui” phải lập tức “lại quay

trở lại” tiếp tục cuộc giao tiếp.

VD21: “Nghị Hách nói xong nhìn Thị Tín một cái mà lắc đầu. Cô ả này ra

khỏi gian phòng khép cửa lại” [33,tr.277].

Chào hỏi Long xong, nghị Hách ra hiệu cho cô nàng hầu bằng cử chỉ nhìn và

lắc đầu. Cử chỉ này tƣơng đƣơng với phát ngôn “Cô hãy đi ra ngoài”. Dùng

PTGTPNN trong tình huống giao tiếp này, nghị Hách vừa đảm bảo đƣợc sự tế nhị

trƣớc mặt khách, vừa bộc lộ đƣơc uy quyền của mình trƣớc nàng hầu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

76

VD22: “Đông bƣng chén trà đặt trƣớc mặt ông Bằng:

- Ba có đi chơi chợ hoa không, ba?

Ông Bằng lắc đầu:

- Mấy hôm nay ba có hứng thú làm việc. Vào tuổi ba, tạo đƣợc hứng thú khó

lắm.” [29,tr.60]

Nếu không quan tâm đến PTGTPNN, ở tình huống hội thoại trên, ta thấy câu

hỏi của Đông và lời đáp của ông Bằng dƣờng nhƣ chẳng ăn nhập gì với nhau.

Đông hỏi “Ba có đi chơi chợ hoa không?”, lẽ ra ông Bằng phải trả lời “có” hoặc

“không”. Ở đây ông Bằng đã dùng cử chỉ lắc đầu thay cho phát ngôn hồi đáp là

“Ba không đi”, sau đó ông lí giải nguyên nhân của việc ông không đi chợ là vì

mấy hôm nay đang có hứng thú làm việc.

VD23: “San chỉ cho Thứ thấy cái lỗ đục tít mãi ở trên đầu hồi, khẽ bảo:

- Kể thì cũng đủ lối cho không khí ra vào.” [tr.159].

Hành động “chỉ cho Thứ thấy cái lỗ đục tít mãi ở trên đầu hồi” đã thay cho

phát ngôn “Anh hãy trông cái lỗ trên kia”. Nếu không có cử chỉ này thì phát ngôn

của San nói với Thứ thì sẽ không thể hiểu đƣợc.

VD24: Sau đây là một cuộc đối thoại tay ba hết sức thú vị giữa ba nhân vật

Long, Mịch và Tú Anh trong tác phẩm “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, hoàn toàn

bằng PTGTPNN. Tình huống truyện dẫn đến cuộc gặp giữa ba nhân vật là: Sau khi

nghị Hách cƣới Mịch về làm vợ lẽ thì Long đã đôi khi lén đến thăm Mịch và hai

ngƣời đã có quan hệ bất chính với nhau. Lần này Long đến, sau khi khéo léo sai

đứa ở ra ngoài mà không nghi ngờ gì, Mịch để nguyên áo ngắn quần trong ngồi

tiếp chuyện Long. Đƣơng lúc ấy thì Tú Anh đến bất chợt.

“... Trong lúc bối rối , Mịch chỉ biết đứng ngây mặt ra. Nhanh trí khôn hơn,

Long lại ngồi xuống ghế ôm đầu ủ rủ, để chờ cho Tú Anh đã bƣớc vào phòng

khách rồi mới ngước mắt thẫn thờ nhìn lên, làm nhƣ không hề có một chút cảm

động.

Tú Anh, thấy quang cảnh nhƣ thế, cũng đứng ngây ra. Chàng phải dùng đến

cặp mắt của một viên chánh mật thám để nhìn thẳng vào hai mắt Mịch để bắt trọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

77

cái tinh thần khó hiểu ấy, Mịch tức thì mất hết cả can đảm, để lộ sự sợ hãi, tay run

lên, mặt tái đi. Cái tinh thần của Mịch lúc ấy đã đủ tố cáo Mịch, đủ để Anh đoán

nổi đến chín phần mƣời mọi sự rồi. Tú Anh so vai một cái, quay lại nhìn Long, thì

Long đánh bài lảng bằng cách cứ cúi mặt xuống đất. Sau cùng, Tú Anh hỏi gắt

Long bằng tiếng pháp:

- Ông? Ồ, ông Long ở đây?” [33,tr.428]

Bất chợt bị bắt gặp khi đang làm một việc không đàng hoàng, Mịch với bản

tính đàn bà yếu đuối, nông cạn chỉ có những phản ứng sinh lí, bản năng nhƣ đứng

ngây mặt ra, chân tay run lên, mặt tái đi. Còn Long, bình tĩnh và nhanh trí hơn đã

khéo léo giấu cảm xúc và việc làm của mình bằng các phƣơng tiện phi ngôn ngữ.

Tú Anh thấy trƣớc mắt những hình ảnh đáng ngờ nhƣng vì chƣa rõ sự thực nên

không thể hỏi trực tiếp bằng lời mà chỉ có thể dò hỏi hai ngƣời bằng PTGTPNN.

Có thể tạm “diễn đạt lại” cuộc gặp gỡ trên nhƣ sau: Thấy Tú Anh vào, Mịch và

Long chạy xa nhau ra, trong lúc Mịch run rẩy sợ hãi thì Long cứ ôm đầu đau khổ,

và khi Tú Anh vào thì Long ngước mắt thẫn thờ nhìn lên, tỏ ra rằng hai ngƣời chỉ

gặp nhau để than thở chuyện cũ chứ không làm gì xấu, do vậy Tú Anh vào thì

Long cũng không có gì phải bối rối, hốt hoảng. Tú Anh nghi ngờ, dùng con mắt dò

xét nhìn thẳng vào hai mắt Mịch nhƣ muốn hỏi: “Dì hãy giải thích tại sao lại thế

này?” Vẻ run rẩy sợ hãi của Mịch đã tố cáo tất cả. Tú Anh so vai ái ngại, tiếp tục

nhìn Long dò hỏi “Tại sao anh lại đến đây? Anh đã hứa với tôi những gì?”. Long

tránh câu hỏi của Tú Anh bằng cách nhìn xuống đất, để cuối cùng, Tú Anh đành

phải hỏi thẳng Long một câu bằng tiếng Pháp.

Rõ ràng trong ví dụ trên, chỉ bằng PTGTPNN, Tú Anh đã hỏi và thu đƣợc

những thông tin chính xác cần thiết. Long và Mịch tuy cố tình giấu đi câu trả lời

nhƣng qua các PTGTPNN, họ đã để lộ tất cả sự thực.

2.5.2. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ mô phỏng và minh họa nội dung của

lời

Cùng với lời nói, ngƣời ta có thể dùng PTGTPNN để mô phỏng, minh họa

điều đƣợc nói đến. Ví dụ: các chính trị gia dang hai tay để đo tầm cỡ của vấn đề,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

78

vẽ một vòng tròn khi nói đến số không, giơ ngón tay để minh họa các con số, …

Có thể thấy vài ví dụ trong các tác phẩm đƣợc khảo sát chứng minh cho vai trò, ý

nghĩa này của PTGTPNN.

Để minh họa cho ý nghĩa “số 1”, ngƣời ta giơ một ngón tay lên:

VD25: "- Thế đăng ký thôi nhé. Một con thôi. - Bà giơ một ngón tay lên,

miệng cƣời rất tƣơi…"[ 29,tr.138]

Để minh họa cho ý nghĩa “số 5”, ngƣời ta xòe năm ngón tay:

VD26: " Nghị Hách cƣời ha hả một hồi, cứ vỗ mãi vào vai Long, cƣời nhƣ

một điều gì thú vị lắm. Sau cùng Lão mới vừa nấc nấc, vừa nói.

- Mày còn ngu lắm! Mày có biết ở những nơi phồn hoa đô hội nhƣ Hà Nội,

Hải Phòng, ngƣơi ta bán chữ trinh của ngƣời ta bao nhiêu không? - Đến đây, Lão

xòe bàn tay ếch ra. - Năm đồng! (…)" [ tr. 279]

Để diễn đạt ý nghĩa “không có gì, không còn gì”, ngƣời ta có thể xòe bàn tay

hoặc dang rộng hai tay:

VD27: "Ông Thống đứng ở đầu bàn, xòe bàn tay: - Báo cáo là kinh phí không

còn một trinh, một kẽm ạ." [28,tr.58]

VD28: " Luận (..) dang rộng hai cánh hai cánh tay, thở phù một hơi:

- Chằng có gì cả! Bị tịch thu hết rồi!"[29,tr.29]

Loại PTGTPNN mô phỏng, minh họa nội dung của lời khá phổ biến trong

hoạt động giao tiếp, đặc biệt đƣợc các diễn giả sử dụng nhiều khi diễn thuyết, giúp

cho sự diễn đạt thêm sinh động, dễ hiểu.

2.5.3. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ làm biến đổi nghĩa lời nói và giúp nhận

biết hành vi ở lời gián tiếp

Chúng ta giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ âm thanh nhƣng nhiều khi, những

thông tin mà ngôn ngữ cơ thể mang lại mới chứa đựng đích thực sự mà ngƣời nói

chuyện muốn truyền báo. Trong rất nhiều cuộc giao tiếp (khi phỏng vấn các nhân

vật quan trọng, khi xét hỏi tội phạm hay khi tỏ tình chẳng hạn), việc bỏ qua các

PTGTPNN có thể làm ngƣời nghe mất đi cơ hội nắm bắt các thông tin cần thiết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

79

PTGTPNN có thể làm biến đổi ý nghĩa của lời nói và giúp nhân vật biết hành vi

ngôn ngữ gián tiếp ở lời.

VD29: (Thấy Liên dọn cơm tối cho Thứ, bà mẹ đứng lên, lảng vào buồng)

"Thứ hỏi:

- Nhà chƣa ăn kia à?

- Chƣa, lát nữa mới ăn.

Bà mẹ y vừa nói vừa tủm tỉm cười." [ 32,tr.120.]

Phát ngôn hồi đáp của bà mẹ sẽ đƣợc hiểu đúng nghĩa nếu không có

PTGTPNN là điệu bộ tủm tỉm cười. Nhờ quan sát đƣợc điệu bộ này của bà mẹ mà

Thứ hiểu rằng bà đang nói dối, thực ra bà mẹ nhịn bữa cơm tối.

VD30: "- Năm Quí hợi chắc anh viết về con lợn! - Phƣợng đùa. Luận gật đầu

hồn nhiên:

- Còn rộng hơn nữa. Về vũ trụ, thời tiết, mặt trời. (…) có một bài ký gửi tặng

chiến sỹ biên giới phía bắc.

- Tham thế! -Phƣợng nguýt yêu chồng.

Luận cƣời". [29,tr.347]

"Tham thế!" là một lời trách, nhƣng vì có thêm cái "nguýt yêu" của vợ nên

Luận hiểu ngay rằng đó chỉ là một lời trách yêu, một lời bông đùa, do vậy anh đã

đáp lại vợ bằng một nụ cƣời.

VD31: " Thứ mở to đôi mắt nhìn San: - Trọ ở nhà Hải Nam ấy à?"[32,tr.129]

Nếu không có cử chỉ mở thật to đôi mắt thì phát ngôn của Thứ sẽ đƣợc hiểu là

biểu thị hành vi hỏi - hành vi trực tiếp, nhƣng vì có thêm cử chỉ này, nên phát ngôn

cần đƣợc hiểu là biểu thị hành vi biểu cảm (sự ngạc nhiên, sửng sốt) - hành vi ở lời

gián tiếp.

VD32: " Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông Bằng, Lý vội bƣớc lại lừ mắt

nhìn chồng: - Anh Đông, ông bị cao áp huyết đấy" [29,tr.94]

Phát ngôn của Lý có hành vi ở lời trực tiếp là hành vi thông báo, nhƣng cử chỉ

"lừ mắt" của Lý khiến Đông hiểu đấy là hành vi nhắc nhở.

VD33: ( San nói chuyện với Thứ)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

80

"- Tôi chim gái cũng cứ đấy chứ! (…)

Thứ bĩu môi cười nhạt hỏi:

- Anh có chân trong Độc lập văn đoàn đấy ƣ?" [32,tr.83]

Điệu bộ bĩu môi, cười nhạt của Thứ khiến San buộc phải hiểu phát ngôn của

Thứ có hành vi gián tiếp là giễu cợt, mỉa mai. (Các văn sĩ trong Độc lập văn đoàn

rất hay tự khen mình).

2.5.4. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ góp phần cụ thể hóa hành vi ngôn

ngữ

Ở vai trò này, PTGTPNN có chức năng phối hợp với lời để diễn đạt rõ nội

dung ở lời, giúp ngƣời nghe hiểu đƣợc đầy đủ, chính xác nội dung thông điệp từ

phía ngƣời nói.

VD34: " - (…) Vừa rồi gặp một ông sành thuốc, ông bảo cách thƣởng thức

thuốc lá ngon. Thế này, anh Đông - Luận châm điếu thuốc, rít một hơi dài, rút điếu

thuốc khỏi miệng, giơ lên. - Hút khoảng hai xăng ti mét nhƣ thế này, lúc ấy mới thật

là khói của nó. Thế! Hút tiếp, không thở ra, đƣa khói lên mũi, vào chỗ này. - Luận chỉ

vào đoạn sống mũi gần hai khóe mắt, (…)" [29,tr 32]

Sở dĩ ở phát ngôn có hành vi miêu tả, Luận có thế dùng đại từ "này" (vào chỗ

này) là vì "này" đã đƣợc cụ thể hóa, đƣợc làm rõ bằng PTGTPNN là chỉ vào đoạn

sống mũi gần hai khóe mắt.

VD35: " Y (Oanh) lần lƣợt nhìn Thứ rồi San, tiếp:

- Đây là bà cả, đây là bà hai" [32,tr.164].

Trong phát ngôn khẳng định dùng đại từ "đây", và từ này đã đƣợc cụ thể hoá

bằng cái nhìn: Oanh nhìn Thứ và bảo "Đây là bà cả", tiếp đó nhìn San và bảo "Đây

là bà hai".

VD36: " Đẩy cửa phòng, bà phó chỉ tay:

- Các ngƣời ngồi đây chờ tôi." [34,tr.283].

Phát ngôn của bà phó chứa đựng hành vi yêu cầu. Điệu bộ chỉ tay vừa biểu thị

hành vi yêu cầu vừa cụ thể hoá hành vi này: "ngồi đây" tức là ngồi nơi đƣợc chỉ định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

81

VD37: "… bỗng Long đứng phắt lên, trỏ tay ra cửa: - Ông đi đi! (...)”

[33,tr.314]

Long yêu cầu Tú Anh "đi đi" kèm cử chỉ "trỏ tay ra cửa" có ý nghĩa là "đi ra

khỏi cửa!"

2.5.5. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ nhấn mạnh hành vi ở lời

Tác giả Phi Tuyết Hinh [5] gọi đây là chức năng lặp lại thông tin của

PTGTPNN. Ví dụ cùng với lời nói là "không" thì dùng kèm cử chỉ lắc đầu, cùng

với lời nói là "có" thì sử dụng cử chỉ gật đầu…

PTGTPNN có vai trò này là những PTGTPNN có cái biểu hiện tƣơng đồng

với hành vi ở lời. Ví dụ: Hành vi lời nói là tán đồng thì phƣơng tiện phi lời đi kèm

cũng có cái đƣợc biểu hiện là sự tán đồng; hành vi ở lời là biểu cảm (vui vẻ, tức

giận, ngạc nhiên,...) thì phƣơng tiện phi lời dùng kèm cũng có cái đƣợc biểu hiện là

các sắc thái tình cảm, cảm xúc của con ngƣời. Nhờ sự tƣơng đồng ấy mà hành vi

lời đƣợc nhấn mạnh.

VD38: "- Mặc cậu! Mặc cậu! Chúng tôi không biết…

San vừa lắc đầu, vừa xua tay, vừa nhắm nghiền hai mắt (…)" [32,tr.146].

VD39: " Đông gật : - Đƣợc đấy. ( …)" [29,tr.356].

VD40: " Vạn tóc mai vỗ đùi: - Chính đấy! "[33,tr.440].

VD41: " Ông huyện đập bàn một cái, giận dữ nói:

- Thế nào, quan đùa với mày đấy à?" [33,tr.266].

Cử chỉ lắc đầu, xua tay, nhắm mắt biểu hiện sự phủ định, bác bỏ, đi kèm với

phát ngôn có hành vi bác bỏ, phủ định và góp phần nhấn mạnh hành vi này ở lời. Ở

ví dụ 38, 39, cử chỉ gật đầu, vỗ đùi đi kèm hành vi tán đồng. Cử chỉ đập bàn ở ví

dụ 41 biểu thị sự tức giận đi kèm với hành vi trách mắng, thị uy. Sự tƣơng đồng

giữa PTGTPNN với hành vi ở lời góp phần nhấn mạnh hành vi ở lời.

2.5.6. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ bắt nhịp cho lời nói, thu hút sự tập

trung chú ý của người nghe, tạo không khí thân thiện, cởi mở cho cuộc thoại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

82

a. PTGTPNN có thể mang ý nghĩa trợ lời, bắt nhịp cho lời nói, chẳng hạn nhƣ

vừa tán thƣởng vừa gật gù, vừa nói vừa vỗ tay xuống bàn, vừa nói vừa vung tay,

"chém'' tay vào không khí,…

VD42: "- Giỏi ! Giỏi ! Bà này lí luận nghe cũng đƣợc đấy. – Luận gật gật

đầu" [29, tr. 273].

VD43: "Đẹp đấy. Đẹp đấy, các con ạ. (…) - Ông Bằng thì thào gật gù"

[29,tr.21].

VD44: " Bà khách gật gù: - Phải ! Phải đấy ! Dễ phải đến thế thì mới có

công hiệu" [34,tr.300].

Cử chỉ gật gật đầu, gật gù gồm nhiều cái gật đầu liên tiếp, bắt nhịp cho lời nói

nên các lời nói đi kèm cũng thƣờng có thành phần lặp lại.

b. Các diễn giả khi đăng đàn diễn thuyết thƣờng sử dụng cử chỉ bắt nhịp cho

lời nói để tạo sự sinh động cho cuộc diễn thuyết, đồng thời thu hút sự chú ý của

ngƣời nghe hƣớng về mình.

Đây là đoạn văn Vũ Trọng Phụng miêu tả cảnh Xuân Tóc Đỏ diễn thuyết

trƣớc công chúng. Nhà văn rất chú ý miêu tả các PTGTPNN mà Xuân đã sử dụng,

vừa để nhấn mạnh nội dung của lời, vừa để bắt nhịp cho lời và thu hút sự tập trung

chú ý của ngƣời nghe. Nhờ biết sử dụng các PTGTPNN mà bài diễn thuyết của Xuân

đã đƣợc hoan nghênh nhiệt liệt:

VD45:"- Hỡi công chúng ! Mi chƣa hiểu rõ những lời lẽ cực kỳ to tát nó khiến

ta phải nhƣờng giải cho nhà vô địch Xiêm La! Quần chúng nông nổi ơi! Mi biết

đâu cái lòng hy sinh cao thƣợng vô cùng (nó vỗ vào ngực) nó khiến ta phải từ chối

danh vọng riêng của ta đi, để góp một phần vào công việc tiến bộ trong trật tự và

hòa bình của tổ quốc ! Giữa cái giờ phút nghiêm trọng này, điều cốt yếu của ngƣời

xả thân cứu nƣớc không phải là chỉ nghĩ đến mình (…) mà là cốt giữ cái mối thiện

cảm của một nƣớc lân bang (nó đấm vào không khí) (…) ta (nó giơ cao tay lên)

không muốn cho hàng vạn mạng ngƣời làm mồi cho binh đao, mắc lừa bọn buôn

súng ! (Nó đập tay xuống) Hỡi quần chúng ! (…) Hòa bình vạn tuế ! Hội Quốc

liên vạn tuế !

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

83

Xuân Tóc Đỏ diễn thuyết vừa xong, tiếng vỗ tay của nhân dân ran lên nhƣ

mƣa rào ! (…) Nhƣ một bậc vĩ nhân nhũn nhặn, nó giơ quả đấm chào loài ngƣời,

nhảy xuống đất, lên xe hơi" [34,tr.484, 485].

c. Để tạo không khí thân thiện, cởi mở trong giao tiếp hàng ngày, ngƣời ta

thƣờng dùng nụ cƣời. Có khi đó là nụ cƣời tự nhiên, cũng có khi chỉ là cƣời gƣợng

để tỏ sự tôn trọng với ngƣời đối thoại và tạo không khí cởi mở cho cuộc giao tiếp.

VD46: " Mô ngừng một lát, rồi lại bĩu môi

- Con nói thật có cậu chứ đợi đến lúc cậu Đích cho con đồng bạc ăn quà thì

con cũng đến chết già rồi (…)

Nó cƣời hừng hực. Thức cũng cười để khỏi lộ vẻ lạnh lùng" [32,tr.124].

VD47: " Mịch lấy tách ra, rót một chén nƣớc, để ở bàn. Long vẫn đứng

nguyên nhƣ thế. Mịch phải có giấu sự sợ hãi, gượng cười mời một lần nữa

- Kìa, mời anh ngồi xuống chứ sao lại cứ đứng thế !

Long thẫn thờ ngồi xuống ghế. Mịch hỏi qua những cái cười giòn:

- Đƣơng ngồi một mình buồn quá, may sao anh lại đến chơi…" [33,tr.402].

2.5.7. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ biểu thị tình cảm, cảm xúc người nói

PTGTPNN truyền tải lƣợng lớn tình cảm, cảm xúc của ngƣời nói. Ngƣời ta có

thể che giấu các trạng thái tình cảm, cảm xúc qua lời nói nhƣng rất khó có thể che

giấu đƣợc qua các PTGTPNN. Hoàn cảnh giao tiếp đƣơng diện (mặt đối mặt) sẽ giúp

ta nhận biết đƣợc tình cảm thật của đối phƣơng, nếu biết "đọc" ngôn ngữ cử chỉ. Cũng

vì lí do này mà trong nhiều tình huống, để che giấu cảm xúc của mình ngƣời ta

thƣờng chọn cách viết thƣ, gọi điện thoại thay cho gặp mặt trực tiếp.

PTGTPNN có thể biểu thị cảm xúc, tình cảm của ngƣời nói, điều này đã đƣợc

trình bày ở mục h, 1.3.1 (chƣơng 1). Ở đây chỉ xin phân tích một ví dụ chứng minh cho

hiệu quả nói trên của PTGTPNN.

VD48: (...)Đến lúc nói với quý quan ngƣời đồng bào thì nghị Hách nói một

cách hùng hồn không ngờ.

“Thƣa các bà. Thƣa các cô. Thƣa các ngài.

(...)“Thực ra, lòng tôi rất chân thành mà phát chẩn. Tôi đã đi thăm khắp các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

84

vùng quê (...)Tôi đã thấy những cảnh lầm than, những cảnh ai oán, những cảnh não

lòng! Tôi... tôi cũng là ngƣời, tôi không thể... không thể... không sao...”.

Đến đây, nghị Hách nghẹn ngào, hậm hực, tay đưa lên giữ cổ, không nói

đƣợc nữa. (...)Nghị Hách để hai tay chống bàn, cúi mặt xuống. Trong óc lão hiện

ra cái cảnh tƣợng vợ lão lõa lồ thân thể nằm ôm thằng cung văn. Lão nghĩ đến

Long là con lão, đến Tú Anh là con riêng của vợ lão, đến những câu nói ghê gớm

của khóa Hiền... Bất giác nƣớc mắt lão ở đâu ứa ra lã chã...

Nghị Hách lắc đầu một cái, không lau nƣớc mắt, ngẩng cao mặt lên. Các

quan khách sụt sùi cảm động, đánh trống ngực mà nghe lão nói tiếp:

“Thật vậy, tôi thƣơng xót đồng bào tôi quá, tôi thấy tôi không hy sinh một

ít tài sản thì là có tội to! Do thế có hai buổi phát chẩn vừa rồi. Do thế mà tờ báo

xƣa nay vẫn hô đòi kiểm soát nƣớc mắm để định chiếm độc quyền, cứ công kích

tôi là buôn dân, là làm cộng sản, là ăn tiền của nƣớc Nga! Ha ha ha!...

Nghị Hách thở dài, cười nhạt rất to, lại nói:

“Nhƣng tôi bỏ mặc ngoài tai dƣ luận. Tôi đã có lƣơng tâm tôi xét xử tôi. Đẻ

ra là bình dân, tôi xin giữ lòng trung thành với bình dân cho đến chết!”

Rồi ngừng hẳn. Các quan khách vỗ tay kêu ran” [33, tr.487]

Trong quá trình diễn thuyết trƣớc công chúng nghị Hách đã sử dụng

PTGTPNN biểu hiện nỗi đau khổ (đưa tay giữ cổ), kìm nén đau khổ (lắc đầu một

cái ,ngẩng mặt lên), cả sự khinh bỉ (thở dài, cười nhạt). Nỗi đau khổ của nghị Hách

là chân thật, nhƣng đó chỉ là vì lão nghĩ đến cảnh ngộ riêng của mình (vợ ngoại

tình, đứa con lão yêu mến, tin tƣởng thì nay biết là không phải con lão…). Nỗi đau

khổ ấy xuất phát từ đáy lòng nên mọi ngƣời không nhận ra sự giả dối trong đó, hơn

nữa, nó còn làm cho ngƣời nghe hết sức cảm động và nhiệt liệt tán thƣởng. Ta càng

thấy sự gian manh của nghị Hách khi lão sẵn sàng lợi dụng cả nỗi đau cuả riêng

mình để đánh lừa công chúng, đóng kịch trƣớc công chúng hòng đạt đƣợc tham

vọng thăng quan tiến chức, tham vọng bội thu trong sự nghiệp kinh doanh của

mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

85

2.5.8. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ giúp ngƣời nghe nhận biết được độ

tin cậy, tính nghiêm túc, chân thành của lời nói

Nhờ các PTGTPNN nhƣ nghiêm nét mặt, nhìn thẳng vào ngƣời đối thoại…

trong các ví dụ sau mà ngƣời nghe có thể nhận biết đƣợc mức độ nghiêm túc, chân

thành, độ tin cậy của lời nói phát ra từ phía ngƣời phát (vai nói).

VD49: "Hãy nghe tao, Can! Đi thế này là tự sát và nhục nhã lắm!

- Sát, thì tôi đã sát nhiều rồi, có tự sát thì cũng chẳng biết ghê tay đâu. Thành thật

đấy, còn nhục? - Can từ từ đứng dậy, đối diện nhìn thẳng mắt Kiên. - Cả đời đi đánh

nhau, thú thật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh (…)" [25,tr.25]

VD50: "Mô ngửa mặt lên cƣời rồi lại nghiêm nét mặt và hạ giọng nói cho thấp

xuống: - Thƣa cậu, không phải là con nói đùa, nhƣng cứ kể ăn uống nhƣ nhà ta thì

không đƣợc bằng những nhà thuyền thợ thật (…)" [32,tr126]

VD51: "Đúng nhƣ Luận dự đoán, anh cán bộ tổ chức sau khi hỏi qua về vợ

chồng Đông - Lý, nhìn thẳng vào mặt Đông, giọng thật nghiêm trang.

- Xin báo để anh biết, hiện giờ chị Lý sống chung nhƣ vợ chồng chính thức

với một ngƣời đàn ông (…). Chúng tôi đã giáo dục nhiều lần. Tƣởng chị ấy hối lỗi

nên chúng tôi đã cho chị ấy vào công tác ở trạm thƣờng trực trong Sài Gòn (…)

nhƣng, thật không ngờ! Nay, tình hình nhƣ vậy, chúng tôi quyết định kỷ luật sa thải

chị ấy. Về việc này gia đình ta có ý kiến gì không?" [29,tr322]

2.5.9. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ giúp nhận biết thông tin về quan hệ

liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp

Bên cạnh lời nói, PTGTPNN cũng giúp ta nhận biết thông tin về quan hệ liên

cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp nhƣ thông tin về vị thế xã hội, vị thế giao tiếp,

về quan hệ thân cận hay xa lạ, trình độ tri thức, văn hóa…

Chẳng hạn, quan sát PTGTPNN mà các nhân vật sử dụng trong ví dụ 52, 53

sau đây ta dễ dàng nhận ra quan hệ giữa họ là quan hệ tình cảm thân mật. Những

cử chỉ rất tự nhiên, thoải mái đƣợc sử dụng cũng giúp nhận biết phần nào vị thế xã

hội của họ. Đây thƣờng là cách bày tỏ tình cảm của những đôi nam nữ bình dân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

86

VD52: "Hắn bẹo Thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn ngƣời lên và hắn cười, hắn

lại bảo: - Đằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?

Thị phát khẽ hắn một cái, làm ra vẻ không ƣa đùa. Sao mà e lệ thế! Xấu mà e

lệ cũng đáng yêu. Hắn cười ngất, và muốn là thị thẹn thùng hơn nữa, hắn vẹo thị

một cái thật đau vào đùi" [30,tr.41].

VD53: "Hắn chặc lưỡi:

- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chƣa tối đã

rúc vào ngay, hì hì…

- Khỉ gió. - Thị phát đánh đét vào lƣng hắn, khoặm mặt lại.

Hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách" [26,tr.108]

Qua PTGTPNN và lời nói mà Xuân Tóc Đỏ dùng để giao tiếp với đốc tờ Trực

Ngôn và ông Văn Minh trong ví dụ sau, ta nhận biết đƣợc vị thế xã hội của Xuân

đã đƣợc đẩy lên ngang hàng với hai nhân vật trong giới thƣợng lƣu tƣ sản của xã

hội "Số đỏ".

VD 54: "Xuân Tóc Đỏ vỗ vai rất thân mật ông đốc tờ Trực Ngôn, nháy ông ta

ra cửa sổ để thì thào:

- Tuy tôi không đƣợc mời đến khám bệnh nhƣ ngài, nhƣng tôi biết cậu bé lắm.

Này ngài, chỗ anh em mình với nhau. thì tôi xin mách ngài rằng quả là cậu đến tuổi

dậy thì đấy mà thôi (…)" [34,tr.402]

VD55: "Sau cùng thì cũng nhƣ những kẻ tài trí vững tin ở mình, Xuân Tóc Đỏ

thỉnh thoảng lại vỗ vai Văn Minh một cách thân mật mà rằng:

- Rồi tôi cũng cất nhắc anh lên đƣờng công danh nhƣ Chim, Giao cất nhắc ông

bầu Yên! (…)" [34,tr.440]

2.5.10. Phƣơng tiện giao tiếp phi ngôn ngữ là tín hiệu chuyển giao lượt lời hay

cắt ngang lượt lời, báo cho người nghe biết là lượt lời này dành cho họ

a. Khi muốn tỏ cho ngƣời đối thoại biết là mình đang chuyển giao lƣợt lời này

cho họ, đang chờ nghe họ nói, ngƣời ta có thể dùng PTGTPNN:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

87

VD56: "Nghe anh nói tội nghiệp nhƣ một đứa trẻ mắc lỗi. Cô vẫn nhìn anh chằm

chằm, đôi mắt nhƣ lúc nào cũng bốc lên ngọn lửa ngùn ngụt sức trẻ trung, nhìn anh nhƣ

một lời cầu khẩn: Nói đi, anh nói nữa cho em nghe đi" [27,tr.499].

VD57: "Cô gái tủm tỉm cƣời nhƣ đã đọc đƣợc tất cả những gì anh vẫn tƣởng

mình chƣa thể hiện ra ngoài.

- Em bảo nhé:

Anh ngẩng lên nhìn vào mắt cô, hứng đợi một lời nói tiếp:

- Có yêu em thật không?" [27,tr.198]

b. Khi muốn cắt ngang lƣợt lời của ai, ngƣời ta có thể dùng lời nói mà cũng có

thể dùng kèm PTGTPNN.

VD58: "Khoan, chƣa hết - Lý xua tay, tranh lời Phƣợng" [29,tr.15]

c. Theo Đỗ Hữu Châu: "nói không phải là nói giữa khoảng trống. Nói là nói

với ai đó. Ngƣời nói dùng những tín hiệu báo cho ngƣời nghe biết là mình đang nói

với hoặc dành cho ngƣời này lƣợt lời sẽ nói ra nhƣ từ ngữ hô gọi, cái nghiêng

mình, cái nhìn hướng vào người nghe. Ngƣời nói cũng phải đƣợc đoán chắc rằng

mình đang đƣợc nghe, đƣợc đảm bảo rằng ngƣời nghe đang chú ý đến lƣợt lời của

mình" [1,tr.212].

Trong các cuộc hội thoại tay đôi (song thoại) việc báo cho ngƣời nghe biết là

lƣợt lời này dành cho họ không thật quan trọng bởi chỉ có một ngƣời nói và một

ngƣời nghe, luân phiên lƣợt lời. Để thiết lập một cuộc hội thoại, ngƣời này chỉ cần

dùng một lời hô gọi (VD: A này!) hay một cái hất hàm, một nụ cười... Sau đó, khi

một ngƣời nói thì ngƣời kia sẽ luôn hiểu là lƣợt lời này dành cho mình. Nhƣng

trong các cuộc hội thoại đa thoại thì tình hình trở nên phức tạp hơn. Có lúc ta muốn

nói với tất cả mọi nguời, có lúc chỉ muốn nói với một ngƣời trong số đó, lại có lúc

nói với ngƣời này nhƣng lại muốn gửi thông điệp tới ngƣời kia… Khi đó, nguời ta

thƣờng dùng PTGTPNN làm tín hiệu báo cho ngƣời nghe biết là lƣợt ngày này

dành cho họ.

Cử chỉ đƣợc dùng phổ biến nhất để báo hiệu “mình đang muốn nói chuyện với

bạn”, là dùng ánh mắt - cái nhìn vào mắt ngƣời đối thoại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

88

VD59: "Để ba nói mấy câu. - Mắt chớp chầm chậm, ông Bằng ngần ngừ lướt

qua Đông, Luận, Lý: - Các con ạ, sang năm mới, ba chúc tất cả các con cái may

mắn, cái tốt đẹp sẽ đến nhiều và vững bền mãi mãi" [29tr.97].

Ông Bằng dùng cái nhìn lƣớt qua Đông, Luận, Lý để bảo rằng, lƣợt lời này

ông dành cho tất cả ba ngƣời họ.

Ngƣời đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lại dùng

cái nhìn thẳng vào ngƣời đối thoại để báo cho ngƣời đối thoại biết là lƣợt lời này

dành cho họ:

VD60: "Đang ngồi gục xuống, ngƣời đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào

chúng tôi, lần lƣợt từng ngƣời một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.

- Chị cảm ơn các chú! (…) đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú (…)"

[31,tr.342].

Cùng với cái nhìn thẳng, khi nói với ngƣời này nhƣng lại muốn đồng thời

truyền thông tin tới một ngƣời khác, ngƣời ta có thể nháy mắt.

VD61: "Vạn tóc mái nháy Long một cái mà rằng:

- Đây là ông Long làm chứng nhé: Vừa rồi ông có thấy tôi đã động gì đến ông

cụ nhà tôi không? Họ chỉ nói láo!" [33]

Vạn đang nói dối Tú Anh nhƣng lại nháy mắt với Long (ngƣời đã chứng kiến

Vạn nói xấu nghị Hách) với thông điệp mong Long hãy bao che cho hành động của

Vạn.

VD62: "Cụ Bá biết rằng mình đã thắng, đƣa mắt nháy con một cái, quát.

- Lý Cƣờng đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo ngƣời nhà đun nƣớc, mau

lên!" [30,tr.15].

Cụ bá nói với Chí Phèo nhƣng lại nháy mắt với lý Cƣờng, tỏ cho lí Cƣờng biết

rằng hai cha con họ chỉ đóng kịch thôi, thực ra không phải cụ mắng lí Cƣờng.

Để báo cho ngƣời nghe biết lƣợt lời dành cho họ, ngoài ánh mắt, ngƣời ta còn

có thể dùng nhiều điệu bộ, cử chỉ khác nhƣ chỉ tay, hất hàm...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

89

VD63: “ Hay lắm! Đồng chí Thống nói là không biết chính trị. Nhƣng nhƣ thế

là chính trị đấy. Chính trị là gì nữa, các đồng chí ? – Dƣơng hất hàm về phía các cô

giáo trẻ” [28,tr.168].

Trong cuộc bàn luận rất đông ngƣời, đủ các thành phần, Dƣơng nêu câu hỏi

rồi hất hàm về phía các cô giáo trẻ là để báo rằng lƣợt lời này đang dành cho họ.

TIỂU KẾT

Dựa vào cơ sở lí thuyết là một số vấn đề thuộc về lí thuyết giao tiếp và hành

vi ngôn ngữ, ở chƣơng này, luận văn đã tìm hiểu về PTGTPNN trên một số bình

diện của ngữ dụng học và rút ra đƣợc một số kết luận chính nhƣ sau:

- Xét từ phƣơng diện thể hiện hành động ngôn trung (hành vi ở lời): Các

PTGTPNN cũng có khả năng thể hiện các hành vi ở lời, giống nhƣ ngôn ngữ bằng

lời. Chẳng hạn gật đầu thể hiện hành vi chấp thuận, lắc đầu thể hiện hành vi phản

đối, vỗ tay – hành vi tán thƣởng,... Tuy nhiên, vì số lƣợng các PTGTPNN hạn chế

hơn nhiều so với ngôn ngữ bằng lời nên khả năng thể hiện hành vi ở lời của

PTGTPNN, trong nhiều trƣờng hợp, cần có lời nói đi kèm.

- Xét từ phƣơng diện chủ thể sử dụng: Chủ thể sử dụng, đặc biệt là vị thế xã

hội của ngƣời sử dụng chi phối việc sử dụng các PTGTPNN. Có những PTGTPNN

thƣờng đƣợc ngƣời ở vị thế cao chủ động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời ở vị thế

thấp (ví dụ vỗ vai, chỉ tay,...) . Lại có những PTGTPNN chỉ ngƣời ở vị thế thấp chủ

động sử dụng khi giao tiếp với ngƣời ở vị thế cao (ví dụ khoanh tay, cúi đầu,...).

Những PTGTPNN mà những ngƣời có vị thế ngang hàng sử dụng khi giao tiếp với

nhau phong phú hơn cả.

- Xét từ phƣơng diện hoàn cảnh sử dụng: Việc sử dụng PTGTPNN cũng chịu

sự chi phối của hoàn cảnh giao tiếp. Có những PTGTPNN chỉ có thể dùng trong

sinh hoạt đời thƣờng mà không thể sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp mang tính

trang trọng, nghi thức. Những PTGTPNN dùng trong hoàn cảnh trang trọng, nghi

thức hầu hết đều dùng đƣợc trong sinh hoạt đời thƣờng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

90

- Xét trong hoạt động giao tiếp: PTGTPNN, theo tác giả Đỗ Hữu Châu, nằm

trong thành tố hình thức của diễn ngôn. Chúng có vai trò rất quan trọng trong hoạt

động giao tiếp. Luận văn khái quát đƣợc 10 vai trò của PTGTPNN trong hoạt động

giao tiếp. Song có thể quy vào ba loại vai trò (chức năng) chính, đó là vai trò thay

lời, vai trò trợ lời và vai trò điều hành hội thoại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

91

Chƣơng 3

VAI TRÕ CỦA CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ

ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG

VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

3.1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN

NGỮ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN CHƢƠNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Tác phẩm văn chƣơng phản ánh thế giới bằng hình tƣợng nghệ thuật. Tính

thuyết phục, sức hấp dẫn của một tác phẩm là tùy thuộc vào tính chân thực, sinh

động của hình tƣợng nghệ thuật. Hình tƣợng nghệ thuật có thể đƣợc xây dựng với

nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, bằng chất liệu ngôn ngữ. Ở đây xin không đi

sâu bàn về khái niệm hình tƣợng nghệ thuật nói chung mà chỉ nói đến một thủ pháp

xây dựng hình tƣợng nhân vật xƣa nay ít đƣợc bàn đến, đó là thủ pháp miêu tả

PTGTPNN mà nhân vật sử dụng trong hội thoại.

Nhƣ đã nói, trong suốt quá trình diễn ra hoạt động giao tiếp, rất ít khi ngƣời ta

giữ nguyên tƣ thế và hoàn toàn bất động. Thực tế những ngƣời đối thoại luôn sử

dụng các PTGTPNN kèm theo lời nói. Do vậy, để hình tƣợng nhân vật trong tác

phẩm hiện lên chân thực và sinh động, các nhà văn cần chú ý miêu tả PTGTPNN

đƣợc các nhân vật sử dụng.

Dễ nhận thấy là các nhà văn Việt Nam hiện đại đã chú tâm đến việc miêu tả

PTGTPNN của nhân vật. Trong bất kì một cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam

hiện đại nào cũng có thể bắt gặp ít nhiều những PTGTPNN đƣợc các nhân vật sử

dụng trong hội thoại. Trong vài tác phẩm, số lần nhân vật sử dụng PTGTPNN

trong hội thoại đƣợc thống kê nhƣ sau (Bảng 8):

TÁC PHẨM Số lần/trang truyện

Mùa lá rụng trong vƣờn 381/359

Giông tố 312/350

Số đỏ 241/235

Sống mòn 200/243

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

92

Các tác phẩm đƣợc chọn khảo sát là những tác phẩm trong đó nhà văn rất

quan tâm miêu tả PTGTPNN. Việc miêu tả PTGTPNN của nhân vật trong tác

phẩm văn chƣơng đã mang lại những hiệu quả nghệ thuật nhƣ sẽ trình bày sau đây.

3.2. PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ GÓP PHẦN THỂ HIỆN

TÍNH CHÂN THỰC VÀ SINH ĐỘNG CHO CUỘC THOẠI CỦA CÁC

NHÂN VẬT

Hãy so sánh cách miêu tả hội thoại của một số nhà văn Việt Nam trung đại

với nhà văn hiện đại trong vài đoạn trích sau:

VD 1: Trích đoạn: "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (Ngô gia văn phái)

"Lúc gặp Chỉnh ngƣời ấy chƣa kịp nói gì thì Chỉnh đã hỏi:

- Chú lận đận trèo đèo lội suối tới đây làm gì?

Ngƣời em rể chỉ còn biết cúi đầu nín lặng, không dám nói gì nữa. Chỉnh lại

hỏi:

- (…) chú hãy kể cho ta xem kể từ sau khi Huy quận công bị nạn thì công

chúa và các vị công tử lƣu lạc đi đâu?

Ngƣời ấy đáp:

- Khi ấy công chúa bị Dƣơng Thái phi giam vào hậu cung. Còn hai công tử

nghe tin có biến bỏ chạy về huyện Yên Dũng, dấy quân trả thù (…)

Chỉnh nghe xong, than rằng:

- Tuổi trẻ bồng bột, hèn nào không hỏng việc (…)

Rồi Chỉnh lại hỏi:

- Thế đƣa về kinh rồi sau ra sao?

Ngƣời ấy trả lời:

- Triều đình bàn định hai công tử đều đáng tội chết .(…)

Chỉnh có vẻ ngậm ngùi mà rằng:

- Thƣơng thay! Phá tổ đổ trứng! Ngƣời ta có tội tình gì?

Lại hỏi:

- Còn công chúa, từ khi bị giam vào hậu cung thì việc ăn ở ra sao?

Đáp:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

93

- Chúa cũng nghĩ tình cô ruột không hành hạ gì cả (…)

Chỉnh thở dài hồi lâu rồi nói:

- Công chúa chết cũng phải (…)

Lại hỏi:

- Thế còn Đặng Tuyên Phi thì thế nào?

Đáp:

- Đến ngày giỗ "đại tƣờng" của tiên vƣơng, tuyên phi bèn uống thuốc độc mà

chết (…)

Chỉnh nói:

- Chết đƣợc đấy! (…)

Đáp:

- Bởi vì khi chúa lên ngôi đƣợc một năm (…)

Lại hỏi:

- Ngoài mấy việc ấy, còn chuyện báo ân, báo oán gì khác nữa không?

Đáp: - (…)

Chỉnh nói:

- Bãi bỏ mệnh của cha giữa triều đình, phơi bày lỗi của cha với cả nƣớc, đó là

việc đại bất hiếu!

Hỏi:

- Tham tụng, bồi tụng bây giờ là những ai?

Đáp: - (…)

Hỏi:

- Từ bấy đến nay có điềm lành, điềm gở gì không?

- Điềm lành không thấy, chỉ có điểm gở thì nhiều (…)

Chỉnh nói:

- Đó là tiếng trống trời

Ngƣời ấy kể tiếp: (…) " [24,tr.596-601]

VD 2: Trích đoạn "Việt Nam tiểu sử" (Lê Hoan)

"Bá Nhạc nói:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

94

- Con cáo có vết tên bắn, sao con nai không có vết tên?

Đán thƣa rằng:

- May quá! Tôi (…) lẻn lại rồi bắt sống trói lại, (…)

Hiến mừng nói rằng:

- Tuy nhiên thế, nhƣng cũng bởi ngƣời có thần lực mới bắt đƣợc.

Nhạc nói:

- Tim cáo về tháng chạp là vị rất ngon, nên cho làm rƣợu đánh chén.

Đán thƣa rằng:

- (…) xin nguyên súy cho cả ba quân uống rƣợu (…)

Hiến nói:

- Hợp ý ta lắm. " [24,tr.1106,1107]

VD 3: Trích đoạn "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng)

"Lý quay phắt đầu lại phía Luận, hất hàm:

- Tƣởng tối mịt mới về! Đậu xanh gói bánh đâu?

Luận đứng sững (…) dang rộng hai cánh tay, thở phù một hơi:

- Chẳng có gì cả! Bị tịch thu hết rồi!

Lý nhảy ra khỏi ghế, giậm chân, xỉa tay:

- Bịa! Bịa! Tịch thu! Nói dễ nghe nhỉ? (…) ai tịch thu?

Luận nhệch miệng cười nhƣ mếu:

- Ai tịch thu? Thuế vụ chứ còn ai nữa! (…)

- Há! Há! - Đẹp mặt chƣa! - Lý vỗ tay đồm độp, cười ha hả. " [29,tr.29]

VD 4: Trích đoạn: "Số đỏ" (Vũ Trọng Phụng)

"Cụ Hồng giẫy hai bàn chân nhăn nhó kêu:

- Khổ lắm, nói mãi, gọi bồi nó lên tiêm cho ngƣời ta đi! Khỉ ơi là khỉ!

Cáu tiết, cụ bà đập xuống bàn đánh thình một cái, gắt:

- Tôi không gọi! Ông hãy nhịn đi một chốc! Hút vào để cái gì cũng biết rồi,

biết rồi ấy à?

Tức thì ông cụ ngồi nhổm dậy cả quyết:

- À, giỏi nhé? Đƣợc lắm! Rồi mà xem! (…)" [34,tr.386]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

95

Các trích đoạn ở ví dụ 1 và ví dụ 2 là trích đoạn tác phẩm tự sự Việt Nam

trung đại. Do đặc điểm nổi bật của thi pháp văn học trung đại là tính công thức,

ƣớc lệ trong xây dựng nhân vật nên ngoại hình và các cử chỉ, điệu bộ của nhân vật

rất ít đƣợc các nhà văn chú tâm miêu tả. Trong hai trích đoạn đã dẫn, dễ nhận thấy

là các nhà văn miêu tả hội thoại của các nhân vật rất đơn điệu. Các nhân vật chỉ

“hỏi”, “đáp”, “trả lời”, “lại hỏi”, “thưa rằng”,... Tìm đọc các tác phẩm đƣợc

tuyển chọn trong cuốn “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại” do Nguyễn Đăng

Na giới thiệu và tuyển soạn [24] ngƣời đọc sẽ dễ dàng bắt gặp những cuộc đối

thoại đƣợc miêu tả nhƣ thế này. Chính vì vậy mà các cuộc thoại trong văn xuôi

Việt Nam trung đại đƣợc xây dựng thiếu hẳn tính chân thực và sinh động. Phƣơng

tiện giao tiếp của các nhân vật hầu nhƣ chỉ là lời nói, do vậy các nhân vật chủ yếu

chỉ truyền thông tin cho nhau, còn các sắc thái tình cảm, cảm xúc, các nội dung

thông tin liên cá nhân,… đƣợc biểu đạt rất hạn chế.

Không thể phủ nhận rằng, việc miêu tả PTGTPNN cũng là một thủ pháp góp

phần hình tƣợng hóa nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên sống động, rõ nét hơn.

Cũng chính vì ít chú ý miêu tả cử chỉ, điệu bộ,… của nhân vật mà trong văn học

trung đại, các nhân vật chỉ hiện lên ở số phận, hành động chứ rất ít ở dáng điệu.

Ngoại hình nhân vật mang nặng tính công thức, ƣớc lệ và cũng vì thế mà cá tính

nhân vật bị mờ hóa, ít để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng ngƣời đọc.

Ví dụ 3.4 là trích đoạn tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Các nhà văn hiện đại đã

xóa bỏ tính công thức ƣớc lệ trong xây dựng nhân vật, kéo nhân vật về với đời

thƣờng bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, trong đó phải kể đến sự nỗ lực trong việc

xây dựng các đoạn hội thoại đậm chất sống, từ lời đối thoại đến việc miêu tả

PTGTPNN khi nhân vật đối thoại. Cũng nhờ thế mà nhân vật đƣợc cá tính hóa đậm

nét. Đọc "Số đỏ" (Vũ Trong Phụng) nguời đọc không thể quên cử chỉ cúi gập

người xuống nhƣ một cái máy với câu "Chúng tôi rất hân hạnh!" của Xuân Tóc

Đỏ; khó quên cụ cố Hồng với động tác vờ ôm ngực ho sù sụ và đôi mắt nhắm

nghiền cùng câu nói cửa miệng "Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi! ". Đọc "Chí Phèo"

(Nam Cao) ta rất ấn tƣợng về cái cƣời Tào Tháo của cụ bá - tiếng cười khanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

96

khách, cười ha hả và điệu cười nhạt nham hiểm. Đọc "Mùa lá rụng trong vƣờn"

(Ma Văn Kháng) ta thấy bắt gặp đâu đó trong đời thƣờng một nhân vật Lý rất quen

thân với cái bĩu môi và vệt nguýt sắc lẻm,…Xin đƣợc đi sâu phân tích điều này ở

phần dƣới đây.

3.3 PHƢƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ GÓP PHẦN KHẮC HỌA

TÍNH CÁCH NHÂN VẬT

3.2.1 Theo cách hiểu thông thƣờng, "tính cách" đƣợc hiểu là những đặc điểm, những

phẩm chất nào đó của nhân vật đƣợc thể hiện tƣơng đối rõ nét.

Trong giáo trình "Lí luận văn học" [4 ], khái niệm "tính cách" đƣợc hiểu rộng

hơn: Tính cách cũng là nhân vật, nhƣng là nhân vật đƣợc thể hiện với một chất

lƣợng tƣ tƣởng và nghệ thuật cao hơn. Tính cách vừa mang những nét chung tiêu

biểu cho nhiều ngƣời lại vừa mang những nét riêng, độc đáo của một con ngƣời cá

biệt, cụ thể. Để khắc họa tính cách nhân vật, ngƣời ta thƣờng dùng đến các phƣơng

tiện nhƣ sau:

Trƣớc hết, phƣơng tiện cơ bản để thực hiện xây dựng tính cách nhân vật là

các chi tiết, những nét cụ thể đƣợc nhà văn chú ý đến khi miêu tả ngoại hình, nội

tâm và hành động của nhân vật cũng nhƣ những gì liên quan đến nhân vật. Chi tiết

đóng vai trò quan trọng trong miêu tả ngoại hình và hành động của nhân vật. Trong

đó, ngoại hình nhân vật là khái niệm chỉ hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ,

điệu bộ, động tác, tác phong,… của nhân vật. Ngoại hình nhân vật đƣợc thể hiện

sinh động sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật. Đăc biệt nó còn có tác dụng cá

biệt hóa nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên rõ nét, sống động, khó bị trộn lẫn.

Ngoài sử dụng chi tiết mô tả ngoại hình, nội tâm, các nhà văn còn sử dụng

phƣơng tiện khác là ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật cũng đóng vai trò cá

biệt hóa nhân vật.

Khái niệm "tính cách" trong lí luận văn học nhấn mạnh đến những nét cá biệt

hóa, nét riêng có của mỗi nhân vật. Khi xem xét ý nghĩa của việc miêu tả

PTGTPNN đối với việc xây dựng tính cách nhân vật, có thể xem xét ý nghĩa của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

97

PTGTPNN với việc khắc họa những đặc điểm, phẩm chất nào đó của nhân vật,

đồng thời tìm hiểu vai trò của chúng đối với việc cá biệt hóa nhân vật.

3.2.2. Hầu hết các nhà văn Việt Nam hiện đại đều có ý thức miêu tả PTGTPNN khi

xây dựng các cuộc hội thoại giữa các nhân vật nhằm tạo tính chân thực và sinh

động cho tác phẩm. Tuy nhiên, đặc biệt chú trọng miêu tả PTGTPNN và xem đó

nhƣ một thủ pháp để khắc họa tính cách nhân vật và cá biệt hóa nhân vật thì trong

số các nhà văn có tác phẩm đƣợc khảo sát phải kể đến là các nhà văn nhƣ Nam

Cao, Vũ Trọng Phụng, Ma Văn Kháng. Phần này sẽ đi sâu phân tích ba tác phẩm

"Số đỏ" (Vũ Trọng Phụng), "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng) và "Sống

mòn" (Nam Cao), với hy vọng chỉ ra đƣợc vai trò của loại phƣơng tiện này trong

xây dựng hình tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm văn chƣơng.

a. Tác phẩm "Số đỏ" (Vũ Trọng Phụng)

Tác phẩm dựng lên bức tranh nhiều màu sắc của xã hội những bọn trọc phú,

hình thức và kiểu cách, chạy theo Âu hóa một cách nhố nhăng và lố bịch, một xã

hội của bọn dâm đãng, lũ con cháu bất hiếu và bọn ngƣời sẵn sàng vì đồng tiền mà

chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức và danh dự. Sự nhố nhăng, kệch cỡm, lố bịch và rởm

đời của xã hội ấy thể hiện ở ngay cách thức nhân vật giao tiếp với nhau.

Đặc biệt ấn tƣợng là nhân vật Xuân Tóc Đỏ. Đọc tác phẩm, ngƣời đọc không

thể quên hình ảnh Xuân Tóc Đỏ với cái cúi đầu kính cẩn và câu nói "Chúng tôi rất

hân hạnh". Có tới 4 lần nhà văn nhắc lại gần nhƣ nguyên vẹn các câu:

"Xuân Tóc Đỏ cúi xuống rất thấp:

- Chúng tôi rất đƣợc hân hạnh" [34, tr.310, 373,446,489]

Học đƣợc câu nói cùng cử chỉ đƣợc xem là rất lịch sự ấy, Xuân áp dụng ở mọi

nơi mọi lúc, cả trong những tình huống không nên dùng. Ví nhƣ khi Xuân và Tuyết

đang dạo chơi thì gặp ngƣời tình cũ của Tuyết, anh này chào theo lối cổ điển

(khoanh tay vái chào) liền bị Xuân gạt phăng đi và cho rằng thế là hủ lậu, chƣa

đƣợc tiến hóa mấy. Liền sau đó Xuân thể hiện lối chào "cải cách" của mình:

"Xuân Tóc Đỏ cúi đầu:

- Chúng tôi rất hân hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

98

Rồi ưỡn ngực mà tiếp:

- Me sừ Xuân, giáo sƣ quần vợt, cái hi vọng của Bắc Kỳ" [34,tr.446]

Gặp gỡ tình địch mà giới thiệu nhƣ vậy thì quả thật là hết sức kì khôi, xƣa nay

chƣa từng có. Nhân vật nhƣ một cái máy, bắt chƣớc một cách máy móc, mà chẳng

hiểu gì về ý nghĩa của hành động mình làm. Chính sự bắt chƣớc kệch cỡm đó đã

làm bật lên tiếng cƣời. Vũ Trọng Phụng miêu tả có đến 4 lần Xuân dùng động tác

ƣỡn ngực khi giới thiệu về mình:

+ "Xuân Tóc Đỏ ưỡn ngực lên, giấu cái chổi lông gà sau lƣng, nghiêm trang:

- Tôi? Là…là… một ngƣời dự một phần trong việc Âu hóa" [34,tr.308]

+ "Xuân ưỡn ngực lên, dõng dạc nói:

- Còn tôi thì tôi đang giáo dục cái xác thịt cho cậu ấy, và cả bà mẹ cậu ấy"

[34,tr.408]

+ "Xuân Tóc Đỏ ưỡn ngực ra mà rằng:

- Me sừ Xuân, giáo sƣ quần vợt, cái hy vọng của Bắc Kỳ" [34,tr.440]

Đối với ngƣời Việt Nam, cử chỉ ưỡn ngực thể hiện thái độ kiêu căng, tự phụ,

hợm hĩnh. Nhƣng có đến 3 lần (ở các trang 345, 370, 420) Xuân đã dùng cử chỉ

này chỉ để nói với ông Phán rằng: "- Thƣa ngài, ngài là một ngƣời chồng mọc

sừng". Ví dụ:

+ “Xuân Tóc Đỏ bắt tay xong, ưỡn ngực lên cất giọng lanh lảnh nói to:

- Thƣa ngài, ngài là một ngƣời chồng mọc sừng!” [34,tr.345]

Miêu tả các PTGTPNN hết sức máy móc, nhố nhăng và lố bịch mà Xuân Tóc

Đỏ thƣờng sử dụng khi giao tiếp, nhà văn muốn khắc họa tính cách nhân vật này là

kẻ vênh váo, tự phụ, kiểu cách nhƣng lại hết sức ngu dốt. Xuân chỉ là một hình

nộm rỗng tuếch mà mọi giá trị đều không do tự bản thân mình tạo ra mà do xã hội

khoác vào.

Ngoài Xuân Tóc Đỏ, rất nhiều nhân vật trong xã hội trƣởng giả tƣ sản ấy cũng

có những cử chỉ, điệu bộ hết sức kệch cỡm, nực cƣời. Ví nhƣ nhân vật ông Phán

mọc sừng. Ông này bắt gặp vợ đang ngủ với tình nhân trong khách sạn thì bực tức

và chửi bậy. Ngƣợc đời thay, ngƣời tình nhân lại tỏ thái độ rất lịch sự.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

99

"Ngƣời tình nhân lại cúi đầu kính cẩn có ý công kích ông Phán về mục xã

giao: - Chúng tôi rất hân hạnh (…)" [34,tr.371].

Sợ rằng sẽ bị mang tiếng là ngƣời thƣợng lƣu mà mất lịch sự, trƣớc sự nhã

nhặn của tình địch, ông Phán liền chuyển sang thái độ nhã nhặn, nói chuyện thân

tình, cởi mở với ngƣời tình nhân của vợ mình. Và kết thúc cuộc gặp gỡ đó:

"Ông Phán bèn nháy mắt với ngƣời yêu, bắt tay tình nhân vợ ông, lễ phép nói:

- Thôi, kính chào ngài, rất mong có phen tái ngộ" [34,tr.373]

Thái độ, ứng xử của một ngƣời chồng trƣớc một ngƣời tình của vợ nhƣ ông

Phán quả thực xƣa nay hiếm!

Cử chỉ bắt tay đƣợc du nhập từ phƣơng Tây hiện đƣợc sử dụng khá phổ biến

trong giao tiếp xã giao của ngƣời Việt hoặc giao tiếp khi bạn bè thân tình gặp mặt.

Nhƣng cử chỉ ôm hôn thì ít đƣợc sử dụng. Cha con có thể bắt tay, ôm hôn trong vài

tình huống đặc biệt - lúc chia xa chẳng hạn. Nhƣng trong tình huống giao tiếp của

cha con cụ cố Hồng sau đây, thì cử chỉ này lại trở nên kệch cỡm và lố bịch khác

thƣờng:

"Văn Minh đến bắt tay ông bố một cách thân mật mà rằng:

- Toa tốt lắm. Để tối nay lên ăn cơm trên quan giám đốc, Moa sẽ xin chính

phủ cho Toa cái long bội tinh.

Cụ cố Hồng bèn bá cổ ông con để hôn, rồi đáp:

- Cảm ơn vô cùng! Hân hạnh tạm biệt! Toa ăn ở đến thế với Moa thì quý hóa

lắm" [34,tr.489,490].

So sánh với cử chỉ mà cha con Tú Anh (trong "Giông tố" - Vũ Trọng Phụng)

sử dụng lúc chia tay:

"Ông già quay lại, giơ tay ra bắt tay con.

Tú Anh, quên cả vũng nƣớc dƣới chân, quỳ xuống hôn tay bố, gục đầu vào hai

bàn tay…

Khi thấy tay mình có vài giọt lệ nóng thì Hải Vân lôi Tú Anh đứng lên, hôn

hai bên má. Sau cùng Hải Vân vỗ hai vai con nói gọn:

- Thôi, ở lại và sống cho can đảm!" [33,tr.502]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

100

Cũng sử dụng cử chỉ bắt tay, ôm hôn, nhƣng cuộc chia tay của cha con Tú

Anh lại khiến ngƣời đọc cảm động bởi nó xuất phát từ tấm chân tình - tình cha con

và xen lẫn cả tình đồng chí.

Nam nữ bắt tay nhau trong xã hội hiện đại là chuyện thông thƣờng, nhƣng ở

thời Vũ Trọng Phụng viết "Số đỏ" - thời kỳ đang diễn ra cuộc Âu hóa, cũ mới tranh

nhau, Á Âu xáo lộn, thì việc nam nữ bắt tay nhau còn quá mới mẻ, hơn nữa việc nữ

chủ động bắt tay nam càng "khó coi". Nhân vật bà Typn gây ấn tƣợng cho ngƣời

đọc ở chi tiết gặp Xuân trên đƣờng, bà "trông trƣớc nhìn sau thấy rõ ràng là phố

vắng ngƣời rồi, mới dám bạo dạn đưa tay ra nhƣ một tân nữ lƣu tập sự mà bắt tay

Xuân Tóc Đỏ".[34,tr.413]

Do trong xã hội vẫn nặng quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân", bà Typn học

đòi bắt tay bạn trai nhƣng vẫn ngại mọi nguời trông thấy nên phải ngó trƣớc ngó

sau thấy không có ngƣời rồi mới dám chào bạn bằng cử chỉ hết sức tân tiến ấy.

Việc miêu tả PTGTPNN của các nhân vật đã giúp Vũ Trọng Phụng khắc họa

một cách chân thực và đậm nét hình ảnh một xã hội trƣởng giả, kệch cỡm, một xã

hội của những kẻ trọc phú, đua nhau chạy theo Âu hóa một cách mù quáng. Xã hội

ấy sản sinh ra một Xuân Tóc Đỏ cũng là dễ hiểu.

b. Tác phẩm "Sống mòn" (Nam Cao)

Thứ và San là hai nhân vật điển hình cho bi kịch sống mòn của ngƣời trí thức

trƣớc cách mạng. Họ là ngƣời trí thức có nhân cách, có tâm hồn, ôm ấp những ƣớc

mơ, hoài bão cao đẹp nhƣng lại bị cuộc sống áo cơm ghì sát đất. Suốt cuộc đời họ

theo đuổi những ƣớc vọng nhƣng rồi từng bƣớc từng bƣớc lại phải thỏa thuận, đầu

hàng số phận, chấp nhận những thất bại cay đắng. Nhân vật thƣờng trĩu nặng suy

tƣ và những day dứt trong đời sống nội tâm mà ít hành động. Khắc họa kiểu tính

cách này, Nam Cao rất chú ý miêu tả các PTGTPNN đƣợc họ sử dụng trong giao

tiếp hàng ngày.

Thứ và San giống nhau ở bi kịch tinh thần - bi kịch “sống mòn”, nhƣng tính

cách họ có phần khác nhau. Thứ điềm tĩnh, kín đáo, giàu suy tƣ, nhiều day dứt; San

sôi nổi, bồng bột, nông cạn hơn, tuy cả hai đều nếm trải những vị chát đắng của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

101

cuộc đời. Để cá biệt hoá tính cách hai nhân vật, Nam Cao chú ý miêu tả sự khác

nhau trong cử chỉ, điệu bộ của họ.

Miêu tả Thứ và San, nhà văn đặc tả tiếng cười. Ngoài tiếng cƣời và điệu bộ

tặc lưỡi, bĩu môi, hai nhân vật rất ít đƣợc miêu tả thêm các cử chỉ, điệu bộ khác.

Có thể phân tích điệu thái tiếng cƣời của họ để thấy sự khác nhau về tính cách giữa

hai nhân vật này.

● Nhân vật Thứ

Thứ sử dụng khá nhiều điệu bộ, cử chỉ để giao tiếp nhƣng tiếng cười và hành

động tặc lưỡi đƣợc nhân vật sử dụng nhiều hơn cả.

- Về điệu cƣời của Thứ:

Nhật vật Thứ đƣợc miêu tả 12 lần điệu mỉm cười khi nói chuyện [32,tr.71,

144, 158, 165, 193, 201, 118, 214, 253, 271, 136]; 6 lần cười [32,tr.227, 112, 82,

237, 238, 96]; 6 lần cười nhạt [32,tr.272, 83, 124, 109, 262, 161]. Ngoài ra còn có

cười nhã nhặn [32,tr.107], cười ranh mãnh [32,tr.84,224], cười xòa [32,tr.130],

cười tủm tỉm [32,tr.207], cười gượng [32,tr.229],…

Thứ mỉm cười có khi là để chế giễu, đùa vui, nhƣng rất nhiều khi các điệu cƣời

của Thứ là để biểu lộ sự mỉa mai, chua chát, sự cay đắng, sự xấu hổ,… Xin dẫn một

vài trƣờng hợp:

+ "Thứ cười chua chát:

- Mày tính cơm nƣớc thế nào mà chúng tao ăn chả đƣợc! Cơm nhà mày còn

nuốt đƣợc nữa là!..." [32,tr.114]

+ "Thứ mỉm cười:

- Anh tin vào luật thừa trừ, nghĩa là ông trời ông ấy cứ nhè những ngƣời nào đƣợc

hƣởng sự học thức nhiều để phân phát cho nhiều đau khổ hay sao?" [32,tr.193].

+ "San mà hôm nay cũng thâm thúy thế ƣ ? Thứ mỉm cười. Y kết luận hộ San:

- À, thế thì ra tại anh chỉ ăn rau nên cũng suốt đời è cổ làm cho ngƣời khác,

phải không?" [32,tr.163]

+ "Thứ hơi đỏ mặt. Y cố cười thật to làm nhƣ chỉ thấy trong những lời của Mô

một câu chuyện ngộ nghĩnh, buồn cƣời. Thật ra thì y xấu hổ vô cùng" [32,tr.115]…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

102

- Về cử chỉ tặc lưỡi của Thứ:

Cùng với các điệu cƣời, Thứ còn thƣờng sử dụng cử chỉ tặc lưỡi để buông

xuôi, thỏa hiệp, đồng ý, để xuê xoa cho xong chuyện.

+ "Thứ tặc lưỡi: - Cũng hơi dễ chịu" [32,tr.172]

+ "Thứ nghĩ ngợi một lát, rồi tặc lưỡi: - Kể thì cũng hơi phiền (….)"

[32,tr.111]

+ "Thứ tặc lưỡi một cái và nói tiếp:

- Với lại, cô mày chịu đƣợc thì chúng tao cũng chịu đƣợc" [32,tr.126]

Tổng hợp các cử chỉ, điệu bộ mà nhân vật thƣờng sử dụng ta cũng thấy đƣợc

phần nào tính cách nhân vật. Đó là con ngƣời sống thiên về nội tâm, nhiều dằn vặt

và rất nhạy cảm. Thứ thể trạng yếu đuối (Thứ đã lăn lộn ở Sài Gòn 3 năm với hi

vọng luyện tài, nhƣng một trận ốm thập tử nhất sinh đã đem y về trả cho đất chôn

rau cắt rốn), lại sống nội tâm nên con ngƣời này dè dặt trong từng cử chỉ và hành

động. Bày tỏ sự vui mừng, Thứ cũng chỉ cười; khó chịu và tức giận, Thứ cũng chỉ

bĩu môi, nhún vai, cười gằn; ngạc nhiên, Thứ cũng chỉ biểu hiện bằng đôi mắt mở

to,… các điệu thái tiếng cƣời của Thứ cũng đơn điệu với cƣờng độ âm thanh nhỏ.

Thanh tƣớng học chỉ ra: Những ngƣời hay cƣời gƣợng, thanh âm không tự nhiên,

âm lƣợng không đáng kể, là ngƣời nhu nhƣợc, ít ƣa giao tiếp, sợ bị chú ý, tự ti,

mặc cảm mạnh, nhƣng có khát vọng ngầm [11,tr.467]. Thứ mang hoài bão lớn

nhƣng thể trạng và bản tính yếu đuối cùng gánh nặng cơm áo đã không cho phép

nhân vật bứt phá khỏi hoàn cảnh để đạt đƣợc mục đích của đời mình.

● Nhân vật San

Cũng ôm những mộng đẹp nhƣng số phận San bế tắc vì không gặp thời. Con

ngƣời San phức tạp hơn Thứ. San cũng nhiều lúc mỉm cười, cười nhạt biểu lộ sự

chua chát, cũng hay tặc lưỡi, chép miệng,… tỏ ra là con ngƣời ƣa suy nghĩ, không

thanh thản trong tâm hồn. Nhƣng San nông nổi hơn, bồng bột và dễ nổi loạn hơn,

hay nhƣ chính Nam Cao nhận xét: "Anh chàng ấy nhiều thú tính, thƣờng không

nén nổi sự bồng bột của lòng mình". Các điệu thái tiếng cƣời của San rất phong

phú, có âm lƣợng lớn và âm sắc đa dạng: cười ăng ắc, cười gằn, cười mũi, cười hơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

103

hớ, cười toe toét, cười rũ, cười sằng sặc, cười tít mắt, cười phì,… Đặc biệt San có

lối cƣời riêng khi y ngƣợng, đƣợc nhà văn nhắc tới 5 lần, đó là cười xì/phì/khì ra

đằng mũi [32,tr.71,86,136,161, 109]

+ "Thứ mỉm cƣời:

- Ý hẳn suốt đêm qua cu cậu không đƣợc ngủ.

San đáp, bằng một tiếng cười phì ra đằng mũi, cái lối cƣời của riêng y khi y

cƣời gƣợng" [32,tr. 86]

Khác với Thứ dè dặt trong từng cử chỉ, San lại khá thoải mái khi dùng cử chỉ

để biểu lộ các trạng thái tình cảm, cảm xúc.

Khi đau đớn San biểu hiện cảm xúc bằng tiếng cƣời của kẻ điên:

+ "Y cười cái cƣời của một ngƣời điên, bảo bằng một cái giọng hả hê, giả dối.

- Tôi bằng lòng lắm! Phen này sẽ biết nhau…Sống thì sống hẳn mà chết thì

chết hẳn (…)" [32,tr.288].

+ "Nói xong, y cười ăng ắc. Tiếng cƣời thái quá ấy nghe còn đau đớn hơn

tiếng khóc" [32,tr.174].

Khi vui sƣớng, hả hê, khoái trá, San bộc lộ bằng các cử chỉ, động tác rất đa dạng:

+ "- Chúng tôi đánh lừa cô ấy, chúng tôi chƣa đi đâu! - Y đập tay xuống

chiếu, giãy lên đành đạch, để cười" [32,tr 164]

+ "Y cười rũ lên, gục mặt vào đùi Thứ: - Nhỉ? Anh Thứ nhỉ?" [32,tr.164]

+ "San vỗ tay xuống đùi cười hô hô. - Phải rồi, tôi biết mà!" [32,tr.138]

+ "Y trâng tráo bảo:

- Tôi cố làm cho nó chửa, bà béo tất nhiên phải van tôi mà gả nó cho tôi. Bấy

giờ, dù có biết tôi một vợ, hai con rồi, cũng chẳng làm gì, vẫn phải gả nhƣ thƣờng

(…).

Y ran rả, cười sằng sặc" [32,tr.83,84]

Tiếng cƣời của San dù là khi vui thì cũng chất chứa một nỗi buồn, một sự nổi

loạn. Nó khác với tiếng cƣời của Mô. Nhân vật Mô là ngƣời ở ít học, bản tính thật

thà, hiền lành, chất phác, tâm hồn cũng đơn giản, không có những suy tƣ, day dứt,

vì thế mà Nam Cao miêu tả cử chỉ của nhân vật này cũng rất tự nhiên, thoải mái:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

104

toét môi/mồm cười, cười hi hí, cười hừng hực, cười cười, cười hi hi, cười nhăn

nhở, cười khanh khách…

Trong tác phẩm "Sống mòn", bằng việc chú trọng miêu tả PTGTPNN (cử chỉ,

điệu bộ, động tác,…) Nam Cao đã thành công trong việc khắc họa đậm nét tính

cách và cá biệt hóa nhân vật.

c. Tác phẩm "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng)

Nhà văn Ma Văn Kháng rất quan tâm đến việc miêu tả và đã miêu tả hết sức

sinh động PTGTPNN của nhân vật. Nhờ vậy, tính cách của các nhân vật trong

"Mùa lá rụng trong vườn" đƣợc khắc họa rất đậm nét. Đặc biệt, hai nhân vật Đông

và Lý đƣợc cá tính hóa cao độ, để lại ấn tƣợng đậm nét trong lòng ngƣời đọc cũng

bởi họ đƣợc nhà văn quan tâm miêu tả PTGTPNN trong giao tiếp hàng ngày.

Nhân vật Lý có một tính cách rất phức tạp. Con ngƣời chị có lúc sâu sắc, lại

có khi rất nông nổi; có lúc nhân hậu, sáng trong, lại có khi nhỏ nhen, ti tiện đến

mức cay nghiệt. Là ngƣời phụ nữ nhanh nhẹn, đảm đang, tháo vát trong mọi công

việc, hội tụ những phẩm chất cần thiết của con ngƣời vào thời kỳ đổi mới, nhƣng ở

chị lại cũng đồng thời thiếu hụt một nền tảng tri thức văn hóa cơ bản, vì vậy mà chị

sống thiên về bản năng nhiều hơn lí trí. Trong con ngƣời chị lẫn lộn cả cái tốt và cái

xấu, lại thiếu ngƣời hƣớng đạo nên vốn đã chông chênh lại càng chông chênh, cuối

cùng sa ngã của Lý là không tránh khỏi.

Lý là nhân vật nữ đa sắc màu, không chỉ phức tạp ở tính cách mà cả ở hành

động, đồng thời có những cử chỉ, điệu bộ rất đa dạng. Các PTGTPNN đƣợc Lý sử

dụng trong giao tiếp hàng ngày rất phong phú, cùng các yếu tố cơ thể vận động

đơn bộ phận, phối hợp các bộ phận, sự thay đổi tƣ thế, không gian cá nhân, các

hành động. Con ngƣời Lý có thể thoắt vui, thoắt buồn, thoắt thiên thần rồi cũng

ngay đó lại thoắt thành trần tục đến mức lỗ mãng, đầy dục vọng. Khi vui khi buồn,

nhiều lúc nhân vật bộc lộ với các PTGTPNN khác nhau.

Ví dụ: "Lý bật chồm dậy, siết chặt tay Phƣợng, giọng đang nhuốm vẻ bỡn cợt

bỗng cao vóng lên và có mùi vị cay chua thế nào:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

105

- Chẳng thà cứ nhƣ hồi ông ấy ở chiến trƣờng tôi lại thích, lại sung sƣớng

(…). Lý khoanh tay, ngả đầu vào lƣng ghế. Mặt chị mất hẳn cái vẻ sắc sảo, lịch

lãm, cả cái sắc tƣơi ròn cũng mất. Chị lờ đờ bâng khuâng và vẻ nhƣ khó hiểu với

cả chính mình" [29,tr.16]

Để biểu lộ sự xúc động chân thành, Lý có thể "ngước lên, chớp chớp hai con

mắt mở to, đen láy, chân tình"; "ôm chầm lấy ngƣời phụ nữ đã một thời là dâu

trƣởng, nức nở"…; để mỉa mai, giễu cợt, Lý có thể trề môi, dẩu môi, giậm chân,

xỉa tay, mắt kéo một vệt nguýt sắc lẻm…; để đay nghiến, nguyền rủa, thách thức,

Lý có thể "nhếch mép cười nhạt"; "hếch mép và bĩu môi", "nghiến răng". Đặc biệt

phong phú ở Lý là các PTGTPNN biểu lộ sự vui sƣớng, đắc ý: "Lý cười ré lên, đắc

chí và mãn nguyện", "cười rung cả ngực", "phì cười", "vỗ tay đồm độp, cười ha

hả", "cười khành khạch"… Khi tức giận, Lý cũng biểu lộ bản tính mạnh mẽ, ƣa

hành động của mình qua các cử chỉ, hành động và lời nói.

+ "- À, thế thì tôi cũng xin nói thẳng vào cái mặt anh rằng: các ngƣời cũng

chẳng tốt đẹp, mĩ miều gì đâu. - Bỏ tay xoắn tóc, rút hai bàn tay lên sƣờn, môi Lý

cong vênh đẩy vẻ thách đố và ngực chị nhô hẳn về phía trước nhƣ sẵn sàng lao vào

trận chiến sinh tử, (…) sau vài giây yên lặng, chị nhƣ bỗng hóa thân, biến thành

một kẻ khác trong động tác nhảy chồm chồm về phía Luận hết sức dữ tợn và những

câu rủa xả trôi chảy, tựa nhƣ những câu học thuộc lòng (…) [29,tr.255].

Lý lăn đùng ra đất, mắt sặc tiết, chân đạp, tay đấm rồi ôm mặt khóc hức hức

một cách rất oan uổng, xót xa" [29,tr.257].

+ "… mắt Lý đã giần giật tia lửa man dại. Chị nhảy vào giữa đống chăn màn,

đồ dùng mới đem từ buồng ông Bằng xuống, chân giẫm đạp liên hồi và giọng giật

từng hồi, đành hanh và trợn trạo (…)" [29,tr.252]

(Các PTGTPNN đƣợc Lý sử dụng rất phong phú, bộc lộ tính cách riêng của

nhân vật này, xin đƣợc trích dẫn đầy đủ ở Phụ lục 2).

Trong tác phẩm, Ma Văn Kháng đã để nhân vật Luận phân tích con ngƣời

Đông và Lý. Nếu nhƣ Lý nhanh nhẹn, tháo vát, thực tế, năng động, là cuộc sống tự

nhiên đa sắc màu thì Đông, trái lại, chậm chạp, thản nhiên, ụ ị, mù mờ, dƣờng nhƣ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

106

khách quan với tất cả mọi sự kiện, kể cả việc quan thiết đến mình. Đông bản chất

tốt lành nhƣng vô tình, vô tích sự. Hai ngƣời quá khác nhau về gốc gác, tâm lí, sở

trƣờng, sở nguyện. Đông chỉ quen với sự đơn giản nên khi đối mặt với tình huống

phức tạp, rối ren là Đông bối rối mất phƣơng hƣớng, mất tự chủ ngay. Câu nói cửa

miệng quen thuộc của Đông là: "Đời đơn giản lắm chứ không có gì phức tạp

đâu!”. Sau bao năm chiến đấu vì Tổ quốc, trở về sống bên vợ trong cuộc đời

thƣờng, Đông tự cho mình quyền hƣởng thụ mà không bỏ công vun trồng cho cái

cây hạnh phúc mà anh đã có. Đã vậy còn sống chểnh mảng trong sự ỷ lại đã tập

nhiễm thành bản tính. Sống bên ngƣời vợ đầy ƣu điểm nhƣng cũng pha trộn đầy

cái xấu, đầy dục vọng tầm thƣờng, Đông đã không thành ngƣời hƣớng đạo cho vợ

lại còn thờ ơ, vô tình, vô trách nhiệm nên kết cục đau đớn xảy ra là không tránh

khỏi.

Bản tỉnh hiền lành, chất phác của Đông bộc lộ rõ qua điệu cƣời và tiếng cƣời của

anh: "Đông cười trong cổ họng nhìn ngƣời phụ nữ trẻ", "ngả người, cười khì khì thật

hồn nhiên", "vỗ đùi cười hà hà", "cười khì một tiếng ngắn ngủn"…

Con ngƣời Đông vốn đơn giản nên khi đối mặt với tình huống phức tạp của

cuộc sống là anh bối rối ngay. Không biết giải quyết ra sao trƣớc việc của vợ con

Cừ, Đông chỉ biết "thở hắt ra", "thở dài", "ngáp một cái, nhìn Phượng than thở",

"gãi đầu, gãi tai, gãi gáy"… kèm câu "Gay đấy!". Khi vợ chồng Luận góp ý việc

của Lý, Đông cũng chỉ biết gãi đầu, gãi tai ậm ừ. Có đến 6 lần nhà văn miểu tả cử

chỉ gãi gãi chỏm đầu, gãi tai, gãi gáy, vò đầu của Đông khi nói chuyện. Cử chỉ này

cho thấy sự bối rối, bất lực và cả sự căng thẳng, buồn chán. "Mỗi khi chúng ta lặp

đi lặp lại một hay nhiều điệu bộ đơn giản, nghĩa là chúng ta đang cảm thấy buồn

chán hoặc căng thẳng. Sờ hoặc xoắn tóc liên tục là một ví dụ thƣờng gặp, nhƣng

nếu tách biệt nó với các điệu bộ khác thì động tác này rất có thể là dấu hiệu cho

thấy ngƣời đó đang cảm thấy không chắc chắn hoặc lo âu. Ngƣời ta vuốt tóc hay

vò đầu bởi vì đó là cách họ đƣợc mẹ an ủi khi còn nhỏ" [17,tr.46]

Cũng vì suy nghĩ quá đơn giản về cuộc sống nên khi đối mặt với bi kịch xảy

đến với mình (vợ ngoại tình, bỏ nhà đi), Đông lại có những phản ứng hết sức tiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

107

cực. Anh không khoan dung mà chỉ biết căm giận vợ, cho rằng mình không có gì

sai. Anh bằng lòng để cơ quan kỉ luật Lý. Hiền lành vậy nhƣng khi tức giận và đau

khổ, Đông cũng có những cử chỉ, hành động đáng sợ:

+ "Đông chồm lên, và thật bất ngờ, giáng nắm đấm xuống mặt cái bàn

nƣớc".[tr.35]

+ "Mặt co rút trong nỗi đau sinh tử, Đông đập bàn gào lên thống thiết và uất

hận: - Khốn nạn! Tôi ghê tởm…(…)" [tr.312]

+ "Cuối cùng, đến cao điểm, Đông tiến đến trước mặt Luận, hai mắt đỏ nọc

và giọng lạc đi". [tr.321]

(Về các PTGTPNN đƣợc nhân vật Đông sử dụng trong tác phẩm, xin xem

Phụ lục 2)

Những phản ứng tiêu cực của Đông là hệ quả tất yếu của cách sống và cách

nghĩ giản đơn, thụ động, một chiều anh vốn quen thuộc. Nhà văn MaVăn Kháng

bằng tài năng nghệ thuật của mình đã xây dựng chân dung hai nhân vật chính, hai

con ngƣời của thời đại mới, hết sức chân thực, sống động và hấp dẫn.

TIỂU KẾT

PTGTPNN xuất hiện thƣờng xuyên trong hội thoại. Các nhà văn Việt Nam

hiện đại đã chú ý miêu tả các PTGTPNN đƣợc nhân vật sử dụng trong tác phẩm

văn chƣơng. Nhờ đó, các cuộc hội thoại của nhân vật trong tác phẩm đƣợc tái hiện

hết sức chân thực và sinh động.

Nhiều nhà văn hiện đại còn chú ý miêu tả PTGTPNN đƣợc nhân vật sử dụng

trong hội thoại và xem đây nhƣ là một thủ pháp nghệ thuật để khắc họa tính cách

nhân vật. Trong số các nhà văn có tác phẩm đƣợc khảo sát, đặc biệt phải kể đến là

các nhà văn Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ma Văn Kháng. Nhờ miêu tả các

PTGTPNN của nhân vật, các nhà văn đã thành công trong việc xây dựng tính cách

và cá biệt hóa nhân vật trong tác phẩm của mình. Luận văn chƣa có điều kiện đi

sâu phân tích hết tất cả các tác phẩm đƣợc khảo sát, cũng chƣa có điều kiện tìm

hiểu xem PTGTPNN góp phần định hình phong cách nhà văn nhƣ thế nào. Mặc dù

qua phân tích phần nào có thể nhận thấy sự khác biệt trong khuynh hƣớng lựa chọn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

108

miêu tả PTGTPNN của nhân vật. Chẳng hạn, Nam Cao chú ý miêu tả các

PTGTPNN bộc lộ nội tâm nhân vật trong những tình huống bi kịch; Vũ Trọng

Phụng chú ý nhiều hơn đến các PTGTPNN trong giao tiếp xã giao; Ma Văn Kháng

thiên về miêu tả PTGTPNN nhân vật sử dụng trong sinh hoạt đời thƣờng nhằm bộc

lộ các trạng thái tình cảm phong phú của nhân vật. Ngƣời nghiên cứu xem những

kết quả nghiên cứu ở chƣơng này nhƣ một sự gợi ý để ngƣời đọc thấy đƣợc vai trò

của PTGTPNN trong tác phẩm văn chƣơng. Hy vọng sẽ có thêm những công trình

tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

109

KẾT LUẬN

1. PTGTPNN là loại phƣơng tiện xuất hiện thƣờng xuyên trong giao tiếp trực

diện của con ngƣời. Khó có thể hình dung ra một cuộc đối thoại mà trong suốt quá

trình trao đổi, ngƣời nói và ngƣời nghe lại không hề có một sự thay đổi, dù là nhỏ

nhất, về nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, tƣ thế, hành động,... PTGTPNN, cùng với lời nói,

đã đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, tình cảm của con ngƣời một cách hiệu quả.

Nghiên cứu về các PTGTPNN cũng chính là một bộ phận của sự nghiên cứu

về hội thoại, là một công việc cần thiết và nên làm.

2. Cử chỉ, điệu bộ, hành động, tƣ thế,... của con ngƣời đƣợc sử dụng nhƣ một

phƣơng tiện giao tiếp, bên cạnh ngôn ngữ bằng lời, đã đƣợc những ngƣời nghiên

cứu đi trƣớc gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau. Luận văn xin gọi là “phƣơng tiện

giao tiếp phi ngôn ngữ” và đƣa ra một cách hiểu riêng. PTGTPNN đƣợc quan niệm

rộng, gồm những tín hiệu cơ thể - vận động do con ngƣời cố ý hay hay không cố ý

tạo ra trong quá trình giao tiếp mà có khả năng mang lại cho ngƣời tiếp nhận một

giá trị thông báo bổ sung nào đó.

Luận văn nghiên cứu PTGTPNN ở góc độ tín hiệu học bởi PTGTPNN mang

bản chất tín hiệu, đáp ứng những yêu cầu cần có của một tín hiệu: có tính hai mặt –

cái biểu hiện và cái đƣợc biểu hiện, có thể cảm nhận đƣợc bằng các giác quan, có

tính hệ thống.

Xét ở phƣơng diện cái biểu hiện, các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng thị giác

là phong phú nhất, tiếp đến là các PTGTPNN đƣợc tiếp nhận bằng nhiều giác quan

(thị giác và thính giác, thị giác và xúc giác). Giác quan thị giác hầu nhƣ luôn đƣợc

dùng để nhận biết các PTGTPNN bởi không mấy ai lại “nhắm mắt” khi đối thoại.

Xét ở phƣơng diện cái đƣợc biểu hiện, các PTGTPNN đƣợc tìm hiểu theo

tính chất đồng nghĩa, đa nghĩa và đơn nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Do số lƣợng

hữu hạn trong khi nhu cầu biểu hiện lại rất lớn nên hầu hết các PTGTPNN là đồng

nghĩa và đa nghĩa về cái đƣợc biểu hiện. Các PTGTPNN đơn nghĩa rất ít.

Ý nghĩa biểu hiện của PTGTPNN là rất phong phú và tinh tế. Ngƣời tham gia

giao tiếp nếu chú ý quan sát sẽ thu đƣợc nhiều thông tin thú vị.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

110

3. Tìm hiểu về PTGTPNN trên một số bình diện ngữ dụng học, luận văn đã

và rút ra đƣợc một số kết luận:

- Các PTGTPNN cũng có khả năng thể hiện các hành vi ở lời, giống nhƣ

ngôn ngữ bằng lời. Vì số lƣợng các PTGTPNN hạn chế nên khả năng thể hiện

hành vi ở lời của PTGTPNN, trong nhiều trƣờng hợp, cần có lời nói đi kèm.

- Chủ thể sử dụng, đặc biệt là vị thế xã hội của ngƣời sử dụng, cũng chi phối

việc sử dụng các PTGTPNN.

- Việc sử dụng PTGTPNN cũng chịu sự chi phối của hoàn cảnh giao tiếp. Có

những PTGTPNN chỉ có thể dùng trong sinh hoạt đời thƣờng mà không thể sử

dụng trong hoàn cảnh giao tiếp mang tính trang trọng, nghi thức. Những

PTGTPNN dùng trong hoàn cảnh trang trọng, nghi thức hầu hết đều dùng đƣợc

trong sinh hoạt đời thƣờng.

- Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, PTGTPNN nằm trong thành tố hình thức của

diễn ngôn. Chúng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Luận văn đã

chỉ ra và làm rõ đƣợc ba loại vai trò (chức năng) chính của PTGTPNN, đó là vai

trò thay lời, vai trò trợ lời và vai trò điều hành hội thoại.

4. Khảo sát PTGTPNN trên tƣ liệu là một số tiểu thuyết và truyện ngắn Việt

Nam hiện đại, luận văn còn nhận thấy một số vai trò của việc miêu tả PTGTPNN

trong tác phẩm văn chƣơng:

Các nhà văn Việt Nam hiện đại đã chú ý miêu tả các PTGTPNN đƣợc nhân

vật sử dụng trong tác phẩm văn chƣơng. Nhờ đó, các cuộc hội thoại của nhân vật

trong tác phẩm đƣợc tái hiện hết sức chân thực và sinh động.

PTGTPNN còn đƣợc miêu tả nhằm mục đích khắc họa tính cách nhân vật.

Nhờ miêu tả các PTGTPNN của nhân vật mà các nhà văn Nam Cao, Vũ Trọng

Phụng, Ma Văn Kháng đã thành công trong việc xây dựng tính cách và cá biệt hóa

nhân vật trong tác phẩm của mình.

5. Tìm hiểu về PTGTPNN nhƣ đã tiến hành, là một công việc thú vị nhƣng

cũng khó khăn bởi quan niệm về loại phƣơng tiện này còn nhiều điều chƣa thống

nhất (chẳng hạn về thuật ngữ, khái niệm, sự nhận diện). Tìm hiểu về PTGTPNN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

111

trên tƣ liệu là các tác phẩm văn chƣơng còn nhiều điều cần khám phá, chẳng hạn

khái quát về văn hóa của ngƣời Việt trong việc sử dụng loại PTGTPNN, về phong

cách nhà văn trong việc phát huy sở trƣờng miêu tả PTGTPNN,... Ngƣời nghiên

cứu hy vọng có điều kiện tiếp tục đƣợc tìm hiểu vấn đề và đƣợc đón đọc những

công trình nghiên cứu của các tác giả quan tâm đến loại phƣơng tiện giao tiếp này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

112

THƢ MỤC THAM KHẢO

I/ Giáo trình và tài liệu tham khảo

A. Giáo trình và tài liệu tiếng Việt

1. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1992), Đại cương về Ngôn ngữ học, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội.

2. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2007), Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

3. Nguyễn Đức Dân (2002), Nỗi oan thì, là, mà, Nxb Trẻ, TP HCM

4. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Lí luận văn học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

5. Phi Tuyết Hinh (1996), “Thử tìm hiểu ngôn ngữ của cử chỉ, điệu bộ”, Tạp

chí Ngôn ngữ - Viện Ngôn ngữ học, (số 4, 1/1996)

6. Thục Khánh (1990), “Bƣớc đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ, điệu

bộ ở ngƣời Việt trong giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ - Viện Ngôn ngữ học,

(số 3, 1/1990)

7. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà (1998), Phong cách học tiếng Việt, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội.

8. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, Quyển hai – Tính quy luật của cơ chế

ngôn giao, Nxb Khoa học – Xã hội.

9. Trần Thị Nga (2005), Nghiên cứu đặc điểm văn hoá ngôn ngữ cử chỉ của

người Việt, Đề tài NCKH cấp ĐHQG, Hà Nội.

10. Hoàng Phê chủ biên (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn

ngữ, Hà Nội.

11. Nhiều tác giả (1997), Almanach – Những nền văn minh thế giới, Nxb VH-

TT, Hà Nội.

12. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Tạ Văn Thông ( 2009), “Con mắt liếc lại”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống –

Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (số 5 /2009)

14. Hoàng Tuệ (1984), “Lời chào với cái bắt tay và nụ cƣời”, Tạp chí Ngôn ngữ

- Viện Ngôn ngữ học, (số phụ, 2/1984)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

113

15. Việt Văn Books biên soạn (2006), Vận dụng khoa học nhân dạng trong cuộc

sống, Nxb Lao Động, Hà Nội.

B. Tài liệu dịch từ tiếng nƣớc ngoài

16. (Không rõ tên tác giả )(Nguyễn Thu Hằng dịch), “Ngôn ngữ cử chỉ”, thuộc

cuốn Ngôn ngữ và nền văn hoá (Không rõ Nxb và năm xuất bản)

17. Allan & Barbara Pease (Lê Huy Lâm dịch) (2008), Cuốn sách hoàn hảo về

ngôn ngữ cơ thể (The Definitive book of body languague), Nxb Tổng hợp

thành phố Hồ Chí Minh

18. Atenla Alenikova (Đặng Công Toại dịch), “Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ”, Tạp

chí Sputnik (số tháng 3/1986)

19. Fecdinand de Saussure (1973), Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương (dịch

theo bản tiếng Pháp), Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội.

20. J. Vendryes (1990)(Nguyễn Thục Khánh dịch), “Về Ngôn ngữ thính giác và

thị giác”, trong cuốn Funosemanticheskie idei v zarubezhnom jazykoznanii,

LGU, L.,

21. Julius Fast (Phạm Anh Tuấn biên dịch) (không có năm xuất bản), Ngôn ngữ

của cơ thể, Nxb Trẻ.

22. K.A. Pshenko (1989) (Nguyễn Thục Khánh dịch), “Huấn luyện các phƣơng

tiện á ngữ học ở các khoa tiếng Nga ngắn hạn”, trong cuốn Tiếng Nga ở

nước ngoài, (không rõ Nxb)

23. Roger E. Axtell (Y Nhã LST biên dịch) (không có năm xuất bản), Cử chỉ -

những điều nên làm và nên tránh trong ngôn ngữ cử chỉ khắp thế giới, Nxb

Trẻ.

II/ Tác phẩm đƣợc chọn khảo sát

24. Nguyễn Đăng Na (giới thiệu và tuyển soạn) (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam

thời trung đại, tập 3 – Tiểu thuyết chƣơng hồi, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

25. Bảo Ninh (2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

26. Hoàng Nhƣ Mai - Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (2000) SGK Văn học 12,

tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

114

27. Lê Lựu (2002), Thời xa vắng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

28. Ma Văn Kháng (2002), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Văn Học, Hà

Nội.

29. Ma Văn Kháng (2007), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Lao Động, Hà Nội.

30. Nam Cao (1998), Truyện ngắn tuyển chọn, Nxb Văn Học, Hà Nội

31. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Tuyển tập Nam Cao, tập 2 (2008), Nxb Thanh Niên, Hà Nội,

33. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1 (1996), Nxb Văn học

34. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 2 (1996), Nxb Văn học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN

CHỦ THỂ SỬ DỤNG

STT PTGTPL VÍ DỤ MIÊU TẢ CỦA NHÀ VĂN [TP,tr.]

1. vỗ vai

Xuân Tóc Đỏ thỉnh thoảng lại vỗ vai Văn Minh một cách

thân mật (...)

34,

Tr.440

Nghị Hách cười ha hả một hồi, cứ vỗ mãi vào vai Long,

cười như cười một điều gì thú vị lắm.

33,

Tr.279

Xuân Tóc Đỏ vỗ vai rất thân mật ông đốc tờ Trực Ngôn,

nháy ông ta ra cửa sổ để thì thào: (...)

34,

Tr.402

Anh thanh niên làng chỉ một cái cổng gạch nhỏ, quay lại bảo tôi:

- Ngõ này đây, ông Hoàng ở đây.

- Cám ơn anh nhé. Lát nữa tôi sẽ sang nhà anh chơi.

Tôi vỗ vai anh bảo vậy.

26,

Tr.62

Anh Hoàng vỗ vai bảo tôi: - Anh nghĩ có buồn không? (...) 26,

Tr.70

Cụ bá (...) đứng lên vỗ vai hắn mà bảo rằng: (...) 30,Tr.25

Người Tây vỗ vai nghị Hách, nói khẽ: - (...) 33,

Tr.392

2. hất hàm

Người coi ga, (...) sau khi nhận được vé, hất hàm hỏi Long:

- Về đâu khuya khoắt còn đi một mình thế?

33,

Tr.315

Xuân Tóc Đỏ hất hàm hỏi: - Ông hỏi gì? Mời ông ngồi! 34,

Tr.405

Thấy Luận đăm chiêu, Lý quay lại, hất hàm, trịch thượng: -

Thế nào? Sai à?

29,

Tr.47

- Nào! – kiên giật AK khỏi vai, hất hàm. – Một hàng

ngang!

28,

Tr.44

- Hồ Cá Sấu à! Thì ra đây là nơi cô muốn đưa chúng tôi đến

để vãn cảnh phải không? – Kiên hất hàm hỏi (...)

25,

Tr.235

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

- (...) Chính trị là gì nữa, các đồng chí? – Dương hất hàm về

phía các cô giáo trẻ.

28,

Tr.168

Lý ôm cái ví đứng ngoài rìa đám khách, mặt vênh vênh (...)

hất hàm rất quyền thế và thân thuộc: - Hai ba mươi nhé!

29,

Tr.149

3. bắt tay

Bác sĩ bắt tay nó rất vui vẻ rồi giới thiệu: - Đây, giáo sư

Xuân, một nhà quần vợt (...)

34,

Tr.463

Ông Victor Ban kinh hãi cúi đầu rất thấp, bắt tay Xuân Tóc

Đỏ (...)

34,

Tr.356

Một cô gái mới đứng lên bắt tay Tuyết và Xuân, rồi giới

thiệu (...)

34,

Tr.355

... một thiếu niên khác (...) vừa đến chào thiếu niên trông

nom việc đặt bảng hiệu kia. Hai người bắt tay nhau, tiếng

Tây ngậu sị cả phố.

34,

Tr.294

Văn Minh đến bắt tay ông bố một cách thân mật (...) 34,

Tr.489

4.

cúi chào,

khoanh

tay /chắp

tay vái

chào

Ông kia chắp tay vái chào: - Bẩm lạy quan lớn ạ! 33,

Tr.492

Nghị Hách (...) chắp tay vái dài, lưng cúi thật khom mà

rằng: - Bẩm lạy cụ lớn ạ.

33,

Tr.206

Cô Kiểm (...) đến bên ngay xe, và trước khi người thiếu

niên xuống xe, đã kính cẩn vái dài một cái: - Lạy cậu ạ!

Cậu mới lên chơi.

33,

Tr.200

Thiếu niên kia khi đến gần Xuân, liền vòng tay vái chào

như những nhà thâm nho. Xuân Tóc Đỏ gạt phăng đi rằng: -

Hủ lậu! Chưa được tiến hóa mấy!(...)

34,

Tr.446

5.

xoa xoa

hai bàn

tay

Lý (...) xoa xoa hai bàn tay rất ý tứ trước ông Bằng: - Ông

ạ, con đề nghị thế này (...) mời ông lại khấn cho lễ cúng gia

tiên bắt đầu ạ.

29,

Tr.85

Long xoa tay, lễ phép hỏi lại: - Bẩm xin ông tha lỗi cho, thế

ngộ nhỡ người ta không bằng lòng thì sao?

33,

Tr.241

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Sư ông lại xoa hai bàn tay: - Ấy ngài chớ trả rẻ nhà chùa

mà phải tội.

34,

Tr.409

Xuân lúng túng, xoa tay: - Bẩm... bẩm... bà lớn Phó Đoan,

hôm qua...

34,

Tr.296

Thứ vừa xoa tay vừa cố nói lấp tiếng cười của San đi: - Im

đã nào! Anh dốt lắm. Anh để tôi cắt nghĩa cho anh hiểu.

32,

Tr.138

6. chỉ tay

Rồi nhà mĩ thuật quay lại chỉ vào mặt Xuân: - Tôi đã bắt

được quả tang anh dùng những thứ văn chương bóng bẩy ra

mê hoặc vợ tôi, (...)

34,

Tr.313

(...) bà Phó chỉ tay: - Các người ngồi đây chờ tôi. 34,

Tr.283

Nhà mĩ thuật trợn mắt, so vai, trỏ mặt Xuân 34,

Tr.305

Ông Thống (...) chỉ tay vào mặt Thuật, cười khặc khặc: -

Thầy đoán sai toét cả. (...) Tôi chỉ có nhõn hai mươi cái răng.

28,

Tr.56

Bà cô Thị Nở chỉ tận mặt cháu mà đay nghiến: - Phúc đời

nhà mày, con nhé. (...)

30,

Tr.47

7. gật đầu

- Thế hai cậu cho đồng rưỡi nhé? (...)

Nó (Mô) cười hi hi, gật gật đầu.

32,

Tr.168

Cần gật đầu, đầy vẻ hiểu biết: - Em không phản đối anh.

(...)

29,

Tr.355

Đông gật: - Được đấy. Nhân thể cậu chuyể lá thư nông

trường gửi cho cô Cừ, (...)

29,

Tr.356

Luận (...): - Ba đừng nghĩ ngợi nữa, ba ạ.

Ông Bằng gật đầu.

29,

Tr.300

8. lắc đầu

Cần ngẩng lên, lắc lắc cái đầu rậm, đầy vẻ quả quyết:

- Em cho rằng công nghiệp hóa xong thì sẽ thanh toán hàng

loạt cái xấu!

- Chưa hẳn đâu. – Đông lắc đầu.

29,

Tr.354

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

- Ba có di chơi chợ hoa không ba?

Ông Bằng lắc đầu.

29,

Tr.60

9. bĩu môi

Cụ cố Hồng bĩu môi mà rằng;

- Thua! Nhưng mà có năm bảy thứ thua! (...) Thưa bà, xin

bà làm ơn tìm cách mắng tôi nữa đi! (...)

34,

Tr.486

Tuyết bĩu môi (...): - Ê! Ê! Thôi đốt anh đi! (...) 34,

Tr.449

Mô (...) bĩu môi ra và bảo: - Không cho con vay cũng chả

xong. (...)

32,

Tr.90

Luận nhận ra cái bĩu môi của Lý ngay sau khi Đông dứt lời. 29,

Tr.285

10. vỗ đùi

Đông không tự ái, lại vỗ đùi cười hà hà nhắc lại cái câu cửa

miệng muôn thuở: “Đời không phức tạp lắm đâu, ông ơi!”

29,

Tr.68

Ông già ngồi lên, điềm tĩnh đáp: - Bà vợ cả là người hư chứ gì!

Vạn tóc mai vỗ đùi: - Chính đấy!

33,

Tr.441

Xuân Tóc Đỏ bèn để kết thúc bài diễn văn (...), Joseph

Thiết vỗ đùi kêu to lên: - Hay! Hay! Bravo!

34,

Tr.381

Anh Hoàng (...).Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi kêu: -

Tài thật! Tài thật! (...)

26,

Tr.73

San vỗ tay xuống đùi cười hô hô: - Phải rồi! Tôi biết mà!

Y khoái trá vì tưởng Thứ ngơ ngẩn không hiểu y mỉa mai.

32,

Tr.138

Quan huyện xung thiên chỉ nộ đập bàn mà rằng: - (...) 33,

Tr.273

Quan huyện đập bàn một cái, giận giữ nói: - Thế nào, quan

đùa với mày đấy à?

33,

Tr.266

- Tôi yêu cầu! – Đập tay xuống bàn đánh chát, bà trưởng

phòng đứng dậy bỏ ra giữa phòng.

29,

Tr.238

Quan lớn Lại đập bàn: Im đi! (...) Cút! 28,

Tr.114

Cáu tiết, cụ bà đập xuống bàn đánh thình một cái, gắt: - Tôi 34,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

không gọi! Ông hãy nhịn đi một chốc! (...) Tr.385

11. vỗ tay

- Há há!... Đẹp mặt chưa!- Vỗ tay đồm độp, Lý cười ha hả.

Chị em tôi mà tin ông thì có ngày rã họng.

29,

Tr.29

Đứng giữa phòng, bà vỗ tay đôm đốp:

- Nào các cô! Mỗi người một tay chuyển giúp giấy trên ô tô

vào kho nào. (...)

29,

Tr.142

Ngồi trong phòng, ông Dương (...) quay ra, vỗ tay bồm bộp:

- Các đồng chí ơi! Khe khẽ cái miệng một tí nào. (...)

28,

Tr.50

12. lừ mắt

Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông Bằng, Lý vội bước

lại, lừ mắt nhìn chồng:

- Anh Đông, ông bị cao huyết áp đấy.

29,

Tr.94

Đông lừ mắt: - Cô này ăn nói hay nhỉ? 29,

Tr.250

13. lườm,

nguýt

Tham thế! – Phượng nguýt yêu chồng. 29,

Tr.347

Ngồi phịch xuống giường nhìn Đông (...), mắt Lý kéo một

vệt nguýt sắc lẻm: - Để sẵn thịt gạo đấy, chỉ có việc nấu mà

cũng lười!

29,

Tr.168

Dương lườm anh giáo toán tếu táo (...) 28,

Tr.60

Phượng lườm yêu chồng: - Thế mới cần có nam giới, mới

cần có anh chứ!

29,

Tr.205

Ông đò Uẩn lườm con rồi chán đời (...) 33,

Tr.262

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phụ lục 2 PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP PHI NGÔN NGỮ CỦA NHÂN VẬT ĐÔNG, LÝ ĐƯỢC

MIÊU TẢ TRONG TÁC PHẨM “MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN”

NHÂN VẬT ĐÔNG Trang

Đông cười trong cổ họng, nhìn người phụ nữ trẻ:

- Ăn được, ngủ được là tiên, cô Phượng ạ. Ở Trường Sơn, tôi đặt mình xuống

bao giờ cũng hẹn đồng đội: Thấy tớ ngáy, cứ việc đấm, cho tha hồ đấm.

10

(...)Đông nhăn trán: - - Có gì mà phức tạp. Nó nhiễm độc tư tưởng tư sản,

hưởng lạc. Có vậy thôi! 35

- Thôi, cậu đừng có bênh che nó. - Đông chồm lên, và thật bất ngờ, giáng nắm

đấm xuống mặt cái bàn nước. 35

Đông lừ mắt, như bồi thêm một phát đạn nữa cùng với một cú đập bàn nhỏ

hơn:

- Nó là một thằng phản động! (...) Theo nghĩa chính xác của từ đó. - Đông ngồi

thẳng dậy. - Cậu hiểu không?

35

Đông chép miệng: - Ba nên dưỡng sức ba ạ. 61

(...)Đông quay vào nhà, bỗng nhiên vằng tay, cau có:

- Tôi cho là ngốc và vô lí hết chỗ nói là cái câu này: No ba ngày Tết, đói ba

tháng hè

66

(...)Đông không hề phật ý vì cái giọng gay gắt như lên án của Luận, ngả người,

cười khì khì thật hồn nhiên: - Ông ơi, ông đọc sách đã nhiều mà chưa thấy

được ý nghĩa câu này: Làm trai mà đánh tổ tôm. Uống chè mạn hảo, ngâm

nôm Thuý Kiều. Ông đã biết thế nào là ù chi nhảy chưa? (...)

68

Đông không tự ái, lại vỗ đùi cười hà hà nhắc lại cái câu cửa miệng muôn thuở:

"Đời không phức tạp lắm đâu, ông ơi". 68

Đông đã tỉnh, chống tay ngồi dậy, gãi gãi chỏm đầu, lờ mờ:

- Ồ, cô bói bài tây đấy à? Mặc áo vào chứ không là cảm lạnh đấy. 125

Đã tỉnh hẳn, Đông đứng dậy nhét vạt áo vào trong quần, chậc chậc lưỡi: 126

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Sao hồi này cô cứ hay tạo ra những chuyện tức tối không đâu thế?

Đông ngồi phịch xuống giường, ôm đầu kêu khe khẽ:

- Trời, sao cô lại nghĩ thế! 127

(...)Thấy cô em dâu, Đông nhệch một cái cười như mếu mà mặt vẫn ngơ ngơ

như vừa ngủ đậy: - Ơ, xe đạp đâu mà cô đi bộ về? 157

Phượng ra sân, nhìn Đông, nhỏ nhẻ mời. Đông gãi cái gáy rậm, ngập ngừng:

- Ông đi chơi hội bên Bắc Ninh sáng nay. Hồi này nghe đâu ông ăn ở cửa hàng ăn.

(...)- Anh ăn lúc nào! Thôi, vào ăn với em cho vui đi.

Lại gãi gãi gáy, mặt Đông ngô nghê hẳn đi:

- Phiền quá nhỉ? À, nhưng mà cô có nấu cơm tôi đâu.

(...)Đông cười hiền lành, chân thật.

162

- Há! Thằng này khá! - Đông cười, nhưng môi vẫn mím, hai má phồng miếng

cơm đang nhai. 164

(...)- Anh cứ nói thế. Anh Luận em mà ăn được như anh, giả dụ có thiếu, em

cũng nhường hết cho anh ấy ăn. (...)

Đông gật gật đầu. Không hiểu anh nghĩ gì. Nhưng rõ ràng là anh vui.

165

Phượng cười, Đông bật cười theo và công nhận rằng mình đuểnh đoảng,

không quen tỉ mẩn, cụ thể. 166

(...)Đông hơi cúi xuống, mặt bất thần, ngắc ngứ một lát rồi như bị thúc ép, tọt ra

một câu nói nghe như một người khác vậy: - Phải có cách sinh lợi, cô Phượng ạ. 166

(...)Đông chống tay, đứng dậy, cười khì một tiếng ngắn ngủn:

- Thôi, bà ơi. Hỏi thế làm gì? Nó là cái duyên cái số mà. 169

- Hừ, thế thì gay đấy! - Đông lại thở dài. - Bây giờ trước mắt là ăn ở ngủ nghê

ở đâu, học hành của trẻ con thế nào. 195

Phượng đáp hơi sẵng. Đông đập tay vào đùi:

- Ờ, nhưng còn việc làm? Gay đấy. (...)

Mặt Đông đờ ra, những lúc khác thì Phượng thấy rất tội nghiệp, nhưng lúc này

thì cô thật sự giận ông anh chồng quá

195

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phượng đứng dậy theo Đông, dứt khoát:

- Cụ đi hội về, anh phải gặp cụ nói ngay. Nói, cụ phải thương chúng, chúng vô

tội, chúng là nạn nhân, phải cứu giúp chúng.

Đông gật đầu, lừng lững đi ra cửa, lên gác.

197

(...) nghe Phượng kể lại câu chuyện bi đát của vợ con Cừ, Đông đưa mắt nhìn

lướt qua khuôn mặt của ba con người đáng thương nọ, rồi ngồi xuống, thở hắt ra:

- Cái thằng Cừ khốn nạn thật!

Sau khi xổ ra cái câu ấy với một giọng nói gần như bình thản, Đông gãi gãi

gáy, lẩm nhẩm một câu gì đó, rồi Đông ngồi im.

214

Đông gãi gãi gáy:

- Bây giờ lớp trẻ nó thế đấy, ba ạ. Con cũng không hiểu nó nghĩ thế nào. Đời

thì giản dị mà chúng cứ làm rối tinh lên. Được ở lại học thì phải ở lại học chứ

sao lại thế được.

214

Đông thở một hơi dài, nhẹ nhõm:

- Kể cũng gay đấy. Nhưng, con chắc là lo được, Phượng nó đảm đang, cứng

cáp chứ không mềm yếu như trước đây con tưởng đâu, ba ạ.

215

(...)Đông vò đầu, bực dọc: - Tôi không tin nó. 228

(...)- Cậu nói ai?

Bất ngờ, thật rất bất ngờ, Đông chồm lên, với một độ nhạy cảm kì thường, túm

chặt cổ áo Luận. Mặt Đông bệch bạc mà hùng hổ.

229

Đông lừ mắt: - Cô này ăn nói hay nhỉ? 250

- Câm ngay! Tôi cấm cô động đến chuyện ông cụ và bà Chí. Đồ vô đạo đức!

Đấm mạnh vào bậu cửa, Đông quát to rồi đi ra khỏi phòng, xuống thang. 252

(...)Đông ra sau cánh cửa, mặc quần dài, chép miệng:

- Thôi thì cũng là một chút kỉ niệm. Vả lại mình có thiếu thốn gì. 294

(...)Đông vụt đứng dậy, ngay lúc ấy, gào lên hai câu mà sau này nghĩ lại vừa

thấy đúng, vừa thấy không nên: "Cút ngay đi! Đồ nhẫn tâm!” 297

Mặt Đông hằm hằm khi Luận nhắc tới Cừ. Đông nhếch mép: 300

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Cũng chẳng có gì phải buồn, ba ạ. Hình như mỗi gia đình phải có nhiệm vụ

cung cấp cho xã hội một hai đứa khốn nạn, ba ạ. Không thì xã hội tốt quá!

(...) Mặt co rút trong một nỗi đau sinh tử. Đông đập bàn gào lên thống thiết và

uất hận: - Khốn nạn! Tôi ghê tởm. Nó ăn phải bả tư sản, bả thực dân mới. (...) 312

Đông bị choáng, cơn giận dữ đau xé, biến đổi con người từ bản tính, Luận định

lựa lời khuyên giải thì Đông ném tạch quyển sổ nhỏ đang cầm ở tay xuống sàn

nhà, nói như quát:

- Thư nó nói: nó không thể sống chung được với tôi. Nhưng cậu xem những tờ

cuối ở quyển sổ này sẽ rõ hết. Khốn nạn đến thế là cùng. (...)

319

Nhưng, Đông vụt đứng dậy: - Chẳng lẽ tôi là thằng khốn nạn à? 320

Cuối cùng, đến cao điểm, Đông tiến đến trước mặt Luận, hai mắt đỏ nọc và giọng

lạc đi.

- Cậu mà con bênh con đĩ ấy hả? Trời ơi sao tôi không chết luôn lúc tiến đến

cửa ngõ Sài Gòn cho rồi! - (...) Đông đứng lặng, to lớn, run rẩy, đầu bạc

phếch, nước mắt xối trên hai gò má xám

321

- Cuộc sống phức tạp lắm chứ không đơn giản đâu.

Đông chép miệng. Luận như chồm lên. Đông đã tiến một bước dài từ câu nói

cửa miệng quen thuộc một năm trước đây: "Đời có gì phức tạp lắm đâu" tới

câu nói vừa rồi,

353

- Chưa hẳn đâu. - Đông lắc đầu. - Mức sống và lối sống là hai vấn đề khác nhau. 354

Đông gật: - Được đấy. (...) 356

(...) Đông như bất động trong lòng ghế, bàn tay dày xoà rộng úp vào mặt, trong

khi hai ngón cái và ngón trỏ bấm chặt vào hai bên thái dương. Đông đang tê

dại trước một sự thật kinh dị và phũ phàng. (...)Nhưng, Đông đã buột bàn tay

che mặt. (...). Mặt Đông nùng nục bỗng nghiêm lại một cách ngờ nghệch, biến

thái của cơn đau thất thần, lạc trí và môi Đông hé mở, thoát ra một giọng nói

gần như tuyệt vọng:

- Cái đó thì… tuỳ các đồng chí thôi!

323

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(...)Phượng (...) yêu cầu Luận giục Đông đến xí nghiệp Lý hỏi han trao đổi tình

hình Lý. (...)Nhưng ông anh lại ngần ngừ, rồi gãi đầu gãi tai ầm ừ: "Ừ, kể

cũng được… Nhưng chuyện này cũng có cái khó của nó. Với lại đây là chuyện

gia đình… ".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bảng 4: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng thị giác

Phân loại STT PTGTPNN ví dụ mô tả của nhà văn [tác phẩm,

trang]

phương

tiện

dùng

mắt

1 1

tránh cái nhìn

của người đối

thoại

(...) Trong khi nói San tránh cái nhìn của

Thứ. Thứ ngờ ngay câu chuyện San nói là

chuyện bịa.

32,

Tr.86

2 nhìn xuống

San nhìn xuống, bảo: - Khi ấy anh vẫn còn là

anh. Chẳng bao giờ chúng mình có thể liều

được đâu.

32,

tr.260

3 nhìn vào mặt

người đối thoại Thứ nhìn mặt San để dò ý tứ (...)

32,

Tr.110

4 nhìn vào mắt

người đối thoại

(...) Can từ từ đứng dậy, đối diện, nhìn

thẳng mắt Kiên: - cả đời đi đánh nhau, thú

thật tôi chả thấy trò này là có gì vinh (...)

29,

tr.25

5 đưa mắt nhìn

nhau

Họ đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý kiến

nhau.

32,

tr. 157

6 trợn mắt Hắn trợn mắt lên quát: - Thế thì thằng nào

ăn đi?

30,

tr.21

7 mở to mắt Thứ mở thật to đôi mắt nhìn San: - Trọ ở

nhà Hải Nam ấy à?

32,

tr.129

8 nháy nháy mắt

Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất

hất về phía người đàn bà, hóm hỉnh: - Cánh

nào đấy?

26,

tr.107

9 lườm - Gớm sao lúc nãy nói chuyện dai thế, đợi

sốt cả ruột. - Thị lườm hắn, không trả lời.

26,

tr.114

10 lừ mắt

Thấy Đông vừa hỉ hả nâng cốc với ông

Bằng, Lý vội bước lại, lừ mắt nhìn chồng: -

Anh Đông, ông bị cao huyết áp đấy!

29,

tr.96

11 nguýt Lý kéo tay chị Hoài, nguýt ông em chồng: -

(...) 29,tr.15

12 nhắm nghiền

mắt

- Mặc cậu! Mặc cậu! Chúng tôi không

biết…

(...) San vừa lắc đầu, vừa xua tay, vừa

nhắm nghiền hai mắt, nhất định không

nghe gì nữa.

32,

tr.146

phương 13 xua tay Khoan, chưa hết. – Lý xua tay, tranh lời 29,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tiện

dùng

tay

Phượng tr.15

14 xoa tay

Lý (...) xoa xoa hai bàn tay rất ý tứ trước

ông Bằng: - Ông ạ, con đề nghị thế này,

(...)

29,

tr.85

15 dang tay

Luận (...) dang rộng hai cánh tay, thở phù

một hơi: - Chẳng có gì cả! Bị tịch thu hết

rồi!

29,

Tr.29

16 hất tay San đỏ mặt, hất tay một cái, nói như người

giận dỗi:- Thôi! Thế này này (...)

32,

Tr.149

17 xỉa tay, xỉa xói

Lí nhảy ra khỏi ghế, giậm chân, xỉa tay: -

Bịa! Bịa! (...)

29,

Tr.29

Bà mẹ đứng lên, tiến đến xỉa xói vào mặt

ông con:

- Là vì ông Xuân đã ngủ với em mày rồi,

mày biết chưa, thằng khốn nạn!

34,tr.34

18 chống nạnh

San chống nạnh tay, ngửa mặt lên trần nhà,

cười mũi, bảo: - Phải nói rằng: Bố mẹ

chúng mình sinh chúng mình ra không cho

chúng mình ăn thịt nên chúng mình không

biết ăn thịt, thì đúng hơn

32,

tr.163

19 giơ ngón tay - (...) Một con thôi. – Bà giơ một ngón tay

lên, miệng cười rất tươi.

29,

Tr.138

20 để tay lên mồm

Xuân để tay lên mồm làm một cái suỵt rồi

khẽ đáp: - Chính đấy

34,

tr.284

21

đập tay lên trán

(vỗ trán, bóp

trán)

Đập tay lên trán, mặt nhăn nhăn, miệng Lí

lẩm bẩm: - Bánh, kẹo, mứt mua rồi. Pháo

mua rồi. (...)

29,

tr.19

22 ôm đầu Đông ngồi phịch xuống giường, ôm đầu

kêu khe khẽ: - Trời! Sao cô lại nghĩ thế!

29,

Tr.127

23 bịt tai - Đừng nói nữa! – Lý thét, áp tay vào tai,

ngực dội lên dội xuống

29,

Tr.

24 vung tay Tự hào hứng vung tay cao giọng: - (...)Ông

nghe tôi trình bày nốt cái ý này đã (...)

28,

tr.8

25 giơ nắm đấm (...)ông chánh hội xắn tay áo, giơ một quả

đấm lên trần nhà hăng hái nói: - (...)

33,

tr.184

26 giơ tay Thuật đắc ý, giơ tay, cao giọng: - Bây giờ 28,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tôi nói về ông hiệu trưởng của chúng ta.

(...)

tr.55

27 ngoắc ngón tay,

vẫy tay

Hắn đưa ngón tay ngoắc ngoắc: - Lên đây!

Lẹ lên! (...)

25,

tr.232

28 chỉ tay Hắn trợn mắt, chỉ tay vào mặt cụ: - Tao

không đến đây xin năm hào.

30,

tr.45

29 xoè bàn tay

Ông Thống đứng ở đầu bàn, xoè bàn tay: -

Báo cáo là kinh phí không còn một trinh

một kẽm ạ.

28,

tr.85

30 gãi gáy Lại gãi gáy, mặt Đông ngô nghê hẳn đi: -

Phiền qúa nhỉ? (...)

29,

tr.162

31 gãi đầu, gãi tai Đông vò đầu, bực dọc: - Tôi không tin nó.

Cẩm gãi tai tiu nghỉu: - (...)

29,

tr.228

28,

tr.120

32

giơ tay gõ vào

trán người đối

thoại

Thị giơ tay củng vào trán hắn. - Chỉ được

cái thế là nhanh. Dơ! 26,

tr.114

33 đập tay vào

ngực

Ông chánh hội (...)đập tay vào ngực thình

thịch một cách đáng sợ, lại nói: - (...) 33, tr.257

34 vỗ đùi

“Anh Hoàng vừa hút thuốc lá vừa

nghe. Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại kêu: -

Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên

sư anh Tào Tháo!” [26,tr.73]

26,

tr.73

35 khoanh tay (...) Quan tổng đốc nói đến đấy thì đứng

lên, tay khoanh trước ngực

33,

tr.234

36 chắp tay

“Nghị Hách, mặc lòng mặc bộ áo trào

vào ngày dạ tiệc, cũng chắp tay vái dài,

lưng cúi thật khom mà rằng: - Bẩm lạy cụ

lớn ạ.”

33,

tr.206

37

dùng tay chỉ,

gõ,… vào sự vật

được nói đến

trong phát ngôn

San chỉ cho Thứ thấy cái lỗ đục mãi tít trên

đầu hồi, khẽ bảo: - Kể thì cũng đủ lối cho

không khí ra vào.

32,

tr.158

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phương

tiện

dùng

đầu-cổ

38 cúi chào San và Thứ cúi chào: - Bà ạ. 32,tr.152

39 cúi mặt

- Bởi vì… Bởi vì… - San cúi mặt, bỏ tiếng

ta, dùng tiếng Pháp. - Người ta lừa dối

anh…

32,

tr.139

40 cúi đầu Thứ cười nhã nhặn, khẽ cúi đầu, như đáp

chuyện một phu nhân: - (...)

32,tr.170,

171

41 vênh mặt Oanh đã vênh cái mặt đỏ bừng lên: - Chưa

hẳn đúng. (...)

32,

tr.166

42 lắc đầu, nguẩy

đầu

San lắc đầu: - Không đợi được

“Xuân lưỡng lự rồi nguẩy đầu: - Tôi chả

thế. Thế là giết người! Tôi không muốn

làm kẻ sát nhân! (…)”

32,

Tr.85

34,tr.412

43 gật đầu (...) Thứ gật đầu. Bởi vì đó là sự thật. 32,

Tr.89

44 gật gù (Nghe Lý nói) ông Bằng gật gù 29,tr.25

45 hất hàm Nó nhăn nhở, hất hàm: - A! người chị em!

… Không đi à?

32,

tr.99

46 so vai, nhún vai, Ông chủ trẻ tuổi so vai, nghiêm khắc mà

rằng: - Thày đừng nói càn! (...)

33,

tr.241

47 nghiêng đầu

“Thiếu niên tiến đến chỗ tám người,

nghiêng đầu chào cả lũ…”

33,

tr.190

phương

tiện

dùng

nét mặt

48 chúm môi Mô chúm mỏ, nói tiếp: - Chịu! Nội đời con,

con chưa thấy ai kiệt như cô giáo. (...)

32,

tr. 124

49 bĩu môi (dẩu

môi, trề môi)

Thứ bĩu môi, cười nhạt hỏi: - Anh có chân

trong Độc lập văn đoàn đấy ư?

32,

Tr.83

50 nhăn mặt Tú Anh nhăn mặt khó chịu (...) 33,

tr.250

51 cau mặt Thứ cau mặt, đẩy y ra: - Anh điên đấy à? 32,

tr.164

52

cười nhạt, mỉm

cười, tủm tỉm

cười, cười

gượng,…

Thứ mỉm cười: - Thừa đủ. Chúng mình có hai

người, và xưa nay cũng sẻn mãi không khí,

quen rồi.

32,

tr.158

53 nhăn trán Đông nhăn trán: - Có gì mà phức tạp. 29,

tr.35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bảng 5: Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được tiếp nhận bằng tổng hợp

nhiều giác quan

Giác

quan STT

PTGTPNN

Ví dụ mô tả của nhà văn

[tp,

trang]

54 nhíu mày Luận nhíu nhíu cặp mày: - sao chị bảo vợ

thằng Cừ dại?

29,

tr.45

55 nghiêm nét mặt … Phượng đã thôi cười, mặt nghiêm hẳn đi: -

Em nói đùa thế thôi (...)

29,

tr. 166

56 nhếch mép Hoàng nhếch một khoé môi lên, gay gắt: -

(...) 26,tr.68

thay

đổi tư

thế

(vận

động

toàn

thân)

57 vái lạy Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên

chắp tay vái lia lịa: - Con lạy quý toà.

31,

tr.342

58 quỳ Luận quỳ xuống cạnh giường cha, (...),

nghẹn ngào: - (...)

29,

tr.306

59 nghiêng mình

- Chào các em. Các em ngồi xuống! - Tự

hơi nghiêng mình, đáp lại cái chào của 40

người học trò.

28,

tr.14

60 ưỡn ngực

Xuân Tóc đỏ bắt tay xong, ưỡn ngực lên

cất giọng lanh lảnh nói to: - Thưa ngài,

ngài là một người chồng mọc sừng

34,

tr.345

61 đứng lên Thứ và San vào nhà (...). một người đàn bà

(...) mải mốt ẵm đứa nhỏ nhất, đứng lên

32,

tr.152

62

đứng phắt dậy,

ngồi nhổm dậy,

đi đi lại lại…

(thay đổi tư thế)

Ông Phán đứng phắt dậy như bị một cái lò

xo đẩy lên, kêu thất thanh: - Giời ơi! Thế

thì tôi chết mất! (...)

Hừ! – Lão chủ đi đi lại lại trên đường, bực

tức cực điểm

34,

tr.346

33,

tr.173

thay đổi

không gian

tương tác

63

tiến lại gần, ghé

lại gần, ghé tai

người đối

thoại,…

Bây giờ cụ bá mới lại gần hắn, khẽ lay và

gọi: - Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?

31,

tr.14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tiếp

nhận

thị

giác

+ xúc

giác

1 siết tay

Hiền cười to, siết chặt tay bà: “Mẹ ơi,

bộ đội chúng con mà rèn thì có dữ như

hùm như gấu cũng phải lành như thỏ,

mẹ lo gì.”

27,

tr.162

2 bắt tay

- Cảm ơn cô nhé! - Cần bắt tay cô gái,

(...)

29,

tr.289

3

nắm tay người đối

thoại

Chị Hoài nắm tay Phượng, xót xa: -

(...)

29,

tr.114

4

đặt tay lên vai, nắm

lấy vai người đối

thoại

Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn

bảo: - Chẳng kiếp gì sung sướng thật

(...)

31,

tr.91

5

phát, véo,… người

đối thoại

- Khỉ gió! - Thị phát đánh đét vào lưng

hắn, khoặm mặt lại

26,

tr.108

6

giơ tay gõ vào trán

người đối thoại

Thị giơ tay củng vào trán hắn: - Chỉ

được cái thế là nhanh. Dơ!

26,

tr.114

7

bịt miệng người đối

thoại

Y bịt lấy miệng Liên: - Ai bắt mình

thề? Tôi có trách gì mình mà mình

phải thề bồi?

32,

tr.276

8

vỗ vai, vỗ lưng, lay

vai,… người đối

thoại

Sau cùng, Hải Vân vỗ hai vai con, nói

gọn: - Thôi, ở lại và sống cho can đảm!

33,

tr.502

9

Vuốt tóc người đối

thoại

Kiên! – Nàng thì thào, sát vào anh, nhè

nhẹ vuốt tóc anh. - Tội nghiệp anh!

25,

tr.175

10 xoa vai

Xoa vai vợ nhè nhẹ, Luận hơi cúi

xuống: - (...)

29,

tr.175

11 tát

(...) Một cái tát như trời giáng đã dập

tắt cái thói giả dối của anh ta.

27,

tr.234

12 ôm hôn

Cụ cố Hồng bèn bá cổ ông con

để hôn, rồi đáp:

- Cảm ơn vô cùng! Hân hạnh tạm biệt!

Toa ăn ở đến thế với Moa thì quý hóa

lắm".

34,tr.

489,490

thị 13 vỗ đùi Mỗi khi đến đoạn hay, anh lại vỗ đùi 26,tr.73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giác

+ thính

giác

kêu: - Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là

cùng! (...)

14

gõ bút, gõ ngón tay

lên mặt bàn, lên

tường,…

Viên thẩm phán dỗ dỗ đầu bút xuống

mặt giấy như gõ nhịp: - Chị đã nghe rõ

ý kiến của anh Sài chưa?

27,tr.33

5

15

đập bàn (đập chiếu,

đấm tay vào cửa,…)

Quan lớn Lại đập bàn: - Im đi! (...) 28,

tr.114

16

cười thành tiếng với

các điệu thái khác

nhau

Y ran rả, cười sằng sặc

Nhưng San lại cười xoà, bảo: - Ai để

cho bà béo biết mà anh sợ

San bỗng lại phì cười, y bảo: - Chúng

mình khổ thật (...)

Anh cười gằn một tiếng, nhìn bao trùm

cả người tôi, hỏi: - Anh sống ở nhà quê

nhiều, anh có hiểu tâm lí của họ

không? (...)

32,tr.84

32,tr.82

32,tr.71

26,

Tr.66

17 thở dài

Y thở dài và bảo: - Thế nào rồi tôi

cũng phải đi Sài Gòn chuyến nữa (...)

32,Tr.7

9

18 chép miệng

Y chép miệng: - Giá chúng mình chưa

có vợ con gì cả!... 32,tr.79

19 tặc lưỡi (tắc lưỡi)

Thứ nghĩ ngợi một lát rồi tặc lưỡi: -

Kể thì cũng hơi phiền (...)

32,

tr.111

20 giậm chân

Xuân Tóc Đỏ giậm chân xuống đất,

chán đời: - (...)

34,Tr.3

70