27
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN _______________________ Nguyn Thu Trang NGHIÊN CỨU CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY BIỀN THIÊN HÀNG NGÀY ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SPREAD F XÍCH ĐẠO Chuyên ngành: Vật lý địa cầu Mã số: 62 44 15 01 (DỰ THẢO) TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÝ Hà Nội – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI - hus.vnu.edu.vn tat Luan an_Nguyen...vô tuyến phản xạ hay truyền xuyên qua tầng điện ly. Do không có biện pháp kỹ thuật giúp

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

_______________________

Nguyễn Thu Trang

NGHIÊN CỨU CÁC NGUYÊN NHÂN

GÂY BIỀN THIÊN HÀNG NGÀY ĐỐI VỚI

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SPREAD F XÍCH ĐẠO

Chuyên ngành: Vật lý địa cầu

Mã số: 62 44 15 01

(DỰ THẢO) TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÝ

Hà Nội – 2015

Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Tự

nhiên (ĐHQG Hà Nội)

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Huy Minh

TS. Roland Takuya Tsunoda

Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia

chấm luận án tiến sĩ họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

. . . . . . . . . . . . . .

vào hồi giờ ngày tháng năm 20...

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

1

MỞ ĐẦU

Spread F xích đạo (Equatorial Spread F - ESF) là hiện tượng

bất ổn định theo phương ngang của cấu trúc plasma điện ly lớp F

vào ban đêm. Hiện tượng gây ảnh hưởng đến chất lượng tín hiệu

vô tuyến phản xạ hay truyền xuyên qua tầng điện ly. Do không

có biện pháp kỹ thuật giúp giảm thiểu tác hại này, bài toán đặt ra

là nâng cao khả năng dự báo sự xuất hiện của hiện tượng để thiết

lập và điều khiển chế độ phát – truyền thông tin thích hợp nhằm

tránh các khu vực bất ổn định điện ly. Vì vậy, việc mô tả đúng

bản chất của ESF là mục tiêu cơ bản nhất - đã và đang là câu hỏi

cho các nhà khoa học toàn cầu trong hơn tám thập kỷ qua và ngày

càng trở nên cấp thiết do sự phát triển nhanh chóng của nhu cầu

ứng dụng công nghệ không gian vào cuộc sống.

Cho đến hiện nay, vẫn chưa có lý thuyết hoàn chỉnh về nguyên

nhân gây hoạt động ESF hàng ngày tại một vị trí địa lý cụ thể.

Các nghiên cứu vẫn đang đi theo hướng tìm hiểu vai trò của hai

yếu tố điều khiển ESF là sự nâng lên của lớp F sau hoàng hôn

(Post-SunSet Rise of F layer – PSSR) và cấu trúc dạng sóng quy

mô lớn (Large-Scale Wave Structure - LSWS). Trong khi PSSR

có lịch sử nghiên cứu khoảng 80 năm với nguồn số liệu dồi dào

từ thăm dò mặt đất (máy thăm dò điện ly) và nhiều vệ tinh thì

LSWS mới được chú ý trong 10 năm gần đây với nguồn số liệu

hạn chế từ quan trắc trong khoảng thời gian ngắn của một thiết

bị mặt đất (radar ALTAIR) và vệ tinh chuyên dụng (C/NOFS).

Vì thế, việc tìm kiếm các nguồn số liệu giúp mô tả gián tiếp

LSWS là rất cần thiết trong hướng nghiên cứu về yếu tố điều

khiển này nói riêng và nghiên cứu ESF nói chung.

2

ESF là chủ đề khá mới và chưa được nghiên cứu thỏa đáng ở

nước ta do thiếu thiết bị và cơ sở vật chất cần thiết, mặc dù kết

quả nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra một số đặc tính khác biệt chưa

thể giải thích của hoạt động spread F tại khu vực quanh Việt

Nam. Có ba đài - trạm quan trắc trên lãnh thổ Việt Nam đã từng

có các máy thăm dò điện ly và hệ thu tín hiệu vệ tinh GRBR

(GNU Radio Beacon Receiver) từ C/NOFS hoạt động; tuy nhiên,

hiện nay chỉ còn duy nhất 1 thiết bị thăm dò thẳng đứng tại Bạc

Liêu, được vận hành và khai thác bởi các nhà khoa học Nhật Bản.

Do vậy, cần có biện pháp khai thác hiệu quả số liệu hiện có ở

nước ta theo các hướng nghiên cứu mới, đặc biệt là số liệu từ máy

thăm dò điện ly thẳng đứng. Lợi ích của nghiên cứu ESF không

chỉ giúp tìm kiếm thêm hiểu biết cơ bản về hiện tượng mà còn

hướng đến mục tiêu từng bước ứng dụng vào thực tiễn trong nước

nhằm nâng cao hiệu quả của truyền thông - định vị vệ tinh. Tuy

nhiên, câu hỏi đặt ra là làm cách nào tham gia vào quá trình

nghiên cứu hiện tượng này với điều kiện thực tế với số liệu quan

trắc tại Việt Nam? Nghiên cứu sinh chọn giải pháp là nghiên cứu

ESF tại khu vực khác (Trung tâm Thái Bình Dương), nơi có nhiều

nguồn số liệu - đặc biệt dồi dào về số liệu thăm dò thẳng đứng -

để hiểu rõ hơn hiện tượng và sau đó áp dụng phương pháp nghiên

cứu với số liệu trong nước.

Đề tài “Nghiên cứu các nguyên nhân gây biến thiên hàng ngày

đối với sự phát triển của spread F xích đạo” được chọn xuất phát

từ nhu cầu tiếp cận hướng nghiên cứu đang rất được quan tâm về

ESF, bước đầu trang bị và nâng cao năng lực nghiên cứu chủ đề

này bằng việc sử dụng tất cả các nguồn số liệu, tài liệu hiện có

thu thập được tại cùng một khu vực để nghiên cứu đồng thời hai

3

nguồn kích thích trong việc tìm kiếm thêm đặc tính hình thành -

xuất hiện ESF ở quy mô thời gian ngắn hơn so với tất cả các báo

cáo đã công bố. Đây là bước trung gian hướng đến mục tiêu cuối

cùng là nghiên cứu biến thiên ESF hàng ngày.

Mục đích của luận án: bao gồm hai phần. Thứ nhất, luận án

làm sáng tỏ phương pháp trích lọc thông tin từ thăm dò thẳng

đứng (điện ly đồ) cho việc nghiên cứu cấu trúc dạng sóng quy

mô lớn và cấu trúc bong bóng plasma xích đạo (Equatorial

Plasma Bubbles - EPB). Đây là điểm quan trọng trong phương

pháp sử dụng điện ly đồ cho mô tả gián tiếp hai hình thái phát

triển ESF vào giai đoạn đầu tiên và cuối cùng trong bối cảnh khan

hiếm số liệu quan trắc trực tiếp. Thứ hai, luận án đóng góp thêm

một vài bằng chứng nhằm tiếp tục làm sáng tỏ các quan điểm

hiện tại về nguyên nhân gây biến thiên hoạt động ESF hàng ngày

tại khu vực nghiên cứu và đánh giá vai trò của các yếu tố điều

khiển ESF.

Đối tượng nghiên cứu của luận án: bao gồm hiện tượng

spread F và hai nguồn gây ra sự biến đổi hoạt động này theo thời

gian trong phạm vi các đảo thuộc Trung tâm Thái Bình Dương

và hoạt động của spread F - cấu trúc bong bóng plasma xích đạo

tại Việt Nam và khu vực lân cận.

Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án: là góp

phần làm sáng tỏ lý thuyết về yếu tố điều khiển hoạt động ESF ở

quy mô thời gian hàng tháng, hướng đến việc áp dụng phương

pháp nghiên cứu cho các quy mô thời gian ngắn hơn; ý nghĩa

thực tiễn của luận án là khả năng áp dụng kết quả nghiên cứu vào

dự báo ESF trong mối quan hệ với hoạt động của hệ thống truyền

thông - định vị vệ tinh tương lai.

4

Những điểm mới của luận án:

- Khẳng định bằng chứng mới về vết phản xạ nhiều lần là dấu

hiệu điện ly đồ của cấu trúc dạng sóng quy mô lớn.

- Nghiên cứu đồng thời vai trò của hai yếu tố kích thích đối

với spread F ở quy mô thời gian hàng tháng cho thấy vận tốc

nâng lên thẳng đứng cực đại của lớp F đóng vai trò quan trọng,

trong đó có thể tồn tại hai nguồn kích thích khác nhau gây ra giá

trị vận tốc cực đại là sự biến đổi độ lớn của dòng điện xích đạo

vào phân điểm và lực triều số sóng 2 vào chí điểm.

- Dấu hiệu điện ly đồ của cấu trúc bong bóng plasma xích đạo

là các dạng spread F phức hợp quan trắc tại các trạm xa xích đạo

phân biệt với các dạng spread F xảy ra tại khu vực xích đạo từ.

Cấu trúc của luận án gồm bốn chương - ngoài phần mở đầu,

kết luận và kiến nghị về các nghiên cứu tiếp theo.

- Chương một: giới thiệu tổng quan về đặc tính của plasma

khu vực xích đạo từ, hiện tượng spread F và thiết bị nghiên cứu.

- Chương hai: giới thiệu kết quả nghiên cứu vai trò của cấu

trúc dạng sóng quy mô lớn đối với spread F.

- Chương ba: giới thiệu kết quả nghiên cứu về vai trò của hai

yếu tố điều khiển đối với spread F.

- Chương bốn giới thiệu kết quả nghiên cứu cấu trúc bong

bóng plasma cho khu vực Việt Nam theo hướng mở rộng và bổ

sung các nghiên cứu đã có.

Kết quả của luận án đã được công bố trong 1 báo cáo poster

tại hội nghị chuyên đề quốc tế, 2 bài báo quốc tế và 1 bài báo

trong nước.

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ ĐIỆN LY VÙNG XÍCH

ĐẠO VÀ SPREAD F

5

1.1. Điện ly vùng xích đạo

Tầng điện ly của Trái Đất là khu vực khí quyển bị ion hóa một

phần nằm ở khoảng độ cao từ 60 đến 1000 km trên mặt đất. Vào

ban đêm, chỉ còn lớp F tồn tại ở khoảng độ cao 250 – 500 km.

1.2. Spread F xích đạo

1.2.1. Spread F xích đạo và quan trắc spread F xích đạo

Hình 1.5: Vết trải rộng độ cao (bên trái) và tần số (bên phải)

ESF (phát hiện năm 1934, bắt đầu được nghiên cứu từ năm

1938) trong báo cáo về các vết F “khuếch tán” về độ cao và tần

số qua số liệu thăm dò thẳng đứng thay vì là một vết mảnh bình

thường. Hiện nay, ESF được chứng minh là hiện tượng bất đồng

nhất plasma lớp F theo phương ngang (cấu trúc từ dưới 11 cm

đến hơn 3000 km).

1.2.2. Sự hình thành và phát triển spread F xích đạo

Giả sử có điện trường nhiễu loạn nhỏ ở vùng đáy đang ổn

định, làm các ion di chuyển theo hướng của nó gây ra sự tích tụ

điện tích tại rìa của khu vực có điện trường nhiễu loạn này. Điện

trường phân cực cảm ứng ngay lập tức được hình thành để đảm

bảo dòng jo liên tục. Điện trường này cùng với từ trường làm

plasma dịch chuyển theo hướng như được chỉ ra trong hình 1.9.

Kết quả của quá trình trao đổi plasma làm điện trường nhiễu loạn

6

ban đầu ngày càng mạnh và cả hệ thống càng bất ổn thêm. Tốc

độ phát triển bất ổn định có giá trị càng lớn khi gradient mật độ

điện tử tăng càng nhanh và vận tốc hấp dẫn càng lớn. Hai điều

kiện này đồng thời được thỏa mãn khi độ cao của lớp điện ly càng

tăng. Hai yếu tố điều khiển sự xuất hiện ESF là:

- Mầm mống nhiễu loạn (nguồn kích thích).

- Vận tốc dịch chuyển thẳng đứng cực đại của lớp F.

Hình 1.9: Mô tả quá trình xảy ra bất ổn định trao đổi ở đáy lớp

F

1.3. Hai nguyên nhân gây biến thiên sự xuất hiện spread F

xích đạo hàng ngày

1.3.1. Sự nâng lên của lớp F sau hoàng hôn (PSSR): ngay

trước khi sự đảo chiều chuyển động thẳng đứng của lớp F xảy ra,

vào khoảng sau hoàng hôn, vận tốc dịch chuyển hướng lên trên

tăng đột ngột (PSSR).

1.3.1.3. Nghiên cứu mối quan hệ giữa sự nâng lên của lớp F

sau hoàng hôn và spread F xích đạo

c. Lý thuyết về biến thiên spread F xích đạo theo mùa: khi

đường phân cách ngày – đêm thẳng hàng với đường sức từ trường

thì hoàng hôn xảy ra đồng thời trên hai lớp E liên hợp ở hai nửa

bán cầu. Lý thuyết STBA giải thích được hầu hết đặc tính biến

7

thiên theo mùa và theo kinh độ của sự xuất hiện ESF, trừ ba khu

vực Nam Mỹ, Châu Phi và Trung tâm Thái Bình Dương.

1.3.2. Nguồn kích thích - mầm mống nhiễu loạn: Cấu trúc dạng

sóng quy mô lớn (LSWS) là những biến điệu dạng sóng theo độ

cao của các đường đẳng mật độ plasma điện ly đáy lớp .

c. Lý thuyết về vai trò của cấu trúc dạng sóng quy mô lớn: độ

lớn của sự kích thích plasma phụ thuộc vào kết quả kết hợp ion

– hạt trung hòa, trong đó nhiễu loạn của gió trung hòa được

chuyển thành điện trường phân cực mà đến lượt nó lại giúp vận

chuyển plasma trượt thẳng đứng lên phía trên để tạo thành mầm

mống nhiễu loạn. Lý thuyết được gọi tên là “sự thẳng hàng theo

đường sức từ của mặt đầu sóng trọng lực”. Lý thuyết chưa áp

dụng được cho vấn đề ESF yếu tại Việt Nam.

1.3.3.1. Sự kết hợp giữa sự nâng lên của lớp F sau hoàng hôn

và cấu trúc dạng sóng quy mô lớn

Việc cả hai lý thuyết dựa chủ yếu vào vai trò điều khiển của

riêng PSSR hoặc LSWS không hoàn toàn giải thích được biến

thiên mùa của ESF đã gợi ý đến khả năng kết hợp của cả hai yếu

tố, trong đó LSWS xuất hiện và phát triển trong quá trình diễn ra

PSSR (theo Tsunoda, 2015).

1.4. Các phương pháp thăm dò khí quyển - điện ly sử dụng

trong luận án

1.4.1. Thăm dò thẳng đứng

1.4.1.1. Nguyên lý: Gồm một máy phát và máy thu. Thiết bị phát

thẳng đứng sóng vô tuyến tần số cao (1- 30 MHz). Các sóng có

tần số trùng với tần số plasma điện ly sẽ bị phản xạ lại, sóng có

tần số cao hơn sẽ truyền qua. Thiết bị thu đo thời gian tín hiệu từ

lúc phát đi đến khi nhận về sẽ cho biết độ cao biểu kiến nơi sóng

8

bị phản xạ trên tầng điện ly. Đường biểu diễn tần số sóng vô

tuyến phát đi theo độ cao phản xạ gọi là điện ly đồ.

1.4.1.2. Spread F xích đạo trên điện ly đồ: là vết trải rộng độ

cao/tần số khi độ dày của vết phản xạ lớn hơn 30 km và 0,3 MHz.

1.4.1.3. Dấu hiệu điện ly đồ của cấu trúc dạng sóng quy mô

lớn: là các vết phản xạ nhiều lần (Multi-reflected Echo – MRE)

và vết phụ (Satellite Trace – ST). Các vết được ghi nhận từ những

năm 1970 nhưng chỉ mới được nghiên cứu gần đây (năm 2008)

bằng một vài công trình công bố.

1.4.2. Tính toán nồng độ điện tử tổng cộng (TEC) từ vệ tinh

C/NOFS

1.4.2.2. Cấu trúc dạng sóng quy mô lớn từ TEC: sự biến điệu

quan trắc được trong biểu diễn TEC theo phương ngang được

xem như thành phần nhiễu loạn tương tự với cấu trúc LSWS.

1.4.3. Đo bức xạ sóng dài (OLR) phát ra từ Trái Đất: giá trị

thông lượng OLR 230 W/m2 có thể được sử dụng như ngưỡng để

phân biệt khu vực có hoặc không có hoạt động đối lưu.

CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC DẠNG SÓNG

QUY MÔ LỚN TỪ ĐIỆN LY ĐỒ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ

ĐỐI VỚI SPREAD F

2.1. Trọng tâm nghiên cứu, khu vực và số liệu nghiên cứu

2.1.1. Trọng tâm nghiên cứu

Làm rõ hai điểm cơ bản:

- Khẳng định mối liên quan MREs – LSWS.

- Tính chất của MREs để đại diện cho sự xuất hiện LSWS.

2.1.2. Khu vực và số liệu nghiên cứu

9

hChương 2 và 3 của luận án sử dụng số liệu thu thập tại khu

vực trung tâm Thái Bình Dương. Vị trí (tọa độ địa lý và vĩ độ từ

niên đại 2011) và thiết bị hiện có tại các địa điểm Bảng 1 và minh

họa ở hình 2.1. Chương này sử dụng điện ly đồ và thông số TEC

cho đêm 24/04/2011.

Hình 2.1: Bản đồ các trạm có thiết bị quan trắc mô tả trong

Bảng 1 (thêm trạm Baguio trong so sánh ở Chương 4)

Bảng 1: Các địa điểm có số liệu sử dụng trong luận án

STT Tên trạm

(viết tắt)

Quốc gia

(Vùng lãnh

thổ)

Kinh

độ địa

lý -

Đông

Vĩ độ

địa lý -

Bắc

Vĩ độ

từ -

Bắc

Thiết bị

1 Kosrae

(KOS) Liên bang

Micronesia

1630 5,30 - 0,50 GRBR

2 Pohnpei

(PNI) 158,20 6,960 0,40 - Thăm dò

thẳng đứng

- GRBR 3 Kwajalein

(KWA) Cộng hòa

Marshall

167,40 90 4,30

4 Majuro

(MAJ) 171,50 7,10 2,90 GRBR

10

5 Phú Thụy

(PTH) Việt Nam

21,030 105,90 14,3

70

Thăm dò

thẳng đứng

6 Bạc Liêu

(BCL) 105,710 9,30 1,60

7 Chiang Mai

(CMU) Thái Lan

98,930 18,760 11,80

8 Chumphon

(CPN) 99,370 10,720 30

2.1.3. Các thông tin sử dụng trong nghiên cứu

2.1.3.2. Thông tin từ điện ly đồ

Sử dụng điện ly đồ từ 05h00 UT (16h10 LT) đến 11h00 UT

(22h10 LT) với các thông tin về: vết phản xạ bình thường (chiều

cao biểu kiến (h’) ứng với mỗi tần số nhất định 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9

và 10 MHz), MRE (thời gian và tần số nhỏ nhất - lớn nhất của

vết), ST (thời gian xuất hiện), vận tốc trượt thẳng đứng cực đại,

ESF mạnh (ESF(5 MHz)).

2.1.3.3. Thông tin từ vệ tinh C/NOFS: vận tốc dịch chuyển

ngang của ion điện ly và LSWS tính từ nhiễu loạn TEC qua 3

đường bay.

2.2. Kết quả và bàn luận

2.2.1. Vết phản xạ nhiều

lần - dấu hiệu điện ly đồ

của cấu trúc sóng quy mô

lớn

2.2.1.1. Đặc tính cùa tầng

điện ly đêm 24/04/2011

11

Hình 2.2: Diễn biến của tầng điện ly tại Kwajalein trong đêm

24/04/2011; các đường nối với chấm tròn cho biết sự thay đổi độ

cao theo thời gian của các tần số phản xạ (từ 3 đến 10 MHz), hai

đường thẳng đứng màu xanh cho biết hai thời điểm hoàng hôn,

MREs xảy ra trong vòng tròn đánh dấu xanh đậm, các thành màu

nâu thẳng đứng cho biết RSF tại 5 MHz và ba thanh màu xanh

nằm ngang cho biết thời gian có đường bay C/NOFS với LSWS

xảy ra ở 2 đường đầu tiên.

Đêm hoạt động ESF điển hình với PSSR mạnh, MRE và ST.

2.2.1.2. Tính chất của vết phản xạ nhiều lần

MREs xuất hiện liên tục trên điện ly đồ từ 18h40 - 19h25 LT

ở khoàng 3-6 MHz, đa số là vết kép.

2.2.1.3. Tính chất của biến thiên nồng độ điện tử tổng cộng

a. Kết quả quan trắc

Hình 2.5. Ba đường

bay của C/NOFS (a)

và thành phần nhiễu

loạn TEC tương ứng

từ ba đường bay

(theo giờ địa

phương) lúc 17h47

(b), 19h31 (c) và

21h15 (d)

- LSWS xuất hiện

và phát triển với bước

sóng khoảng 270 -

410 km.

12

- Sự suy giảm TEC không định xứ ngay trên vị trí quan trắc

mà xuất hiện về hai phía, gợi ý cho mô hình đáy điện ly mới giải

thích sự tạo thành vết kép phản xạ nhiều lần.

b. Minh giải về biến thiên nồng độ điện tử tổng cộng

Hình 2.6. Đáy điện ly giả định từ tính toán theo đường cong

thành phần nhiễu loạn TEC thu được lúc 19h28 (giờ địa phương)

Xây dựng thành công mô hình đơn giản đáy điện ly có biên

độ nhiễu loạn 6 km để tạo thành các vết phản xạ nhiều lần bậc 5

đến 7, chứng minh mối liên hệ LSWS – MRE.

2.2.2.2. Tính chất của cấu trúc dạng sóng quy mô lớn

a. Dịch chuyển ngang: gần bằng không trong giai đoạn ban đầu

b. Sự hình thành và phát triển của cấu trúc sóng quy mô lớn:

LSWS xuất hiện vào chiều muộn và phát triển trong quá trình

diễn ra PSSR.

c. So sánh với nhiễu loạn điện ly di chuyển: hai cấu trúc hoàn

toàn khác biệt về cơ chế hình thành và phương thức dịch chuyển.

2.3. Kết luận

- MREs và STs bậc cao nhiều khả năng liên quan đến LSWS.

- LSWS là cấu trúc không biến đổi theo không gian trong suốt

quá trình phát triển ban đầu của nó.

13

- Chúng tôi đề nghị quá trình bao gồm mầm mống nhiễu loạn

do LSWS xuất hiện trước thời gian xảy ra PSSR theo sau bởi sự

phát triển ESF (EPB).

CHƯƠNG 3: SỰ NÂNG LÊN CỦA LỚP F SAU HOÀNG

HÔN, CẤU TRÚC DẠNG SÓNG QUY MÔ LỚN VÀ

SPREAD F XÍCH ĐẠO

3.1. Trọng tâm nghiên cứu, khu vực và số liệu nghiên cứu

3.1.2. Trọng tâm nghiên cứu

- Vai trò điều khiển của PSSR, đặc biệt vào điểm chí?

- Vai trò của LSWS đối với ESF và PSSR (nếu có)

3.1.3. Khu vực và số liệu nghiên cứu

Số liệu thăm dò thẳng đứng và bản đồ OLR ở Kwajalein, thời

gian 1/2011 - 1/2012. Các kết quả tham khảo khác dùng trong so

sánh được mô tả trong Bảng 2 và 3.

Bảng 2: Kết quả đã công bố về ESF/EBP và nhấp nháy điện ly

STT Vệ tinh Chuỗi số liệu SSN

1 TACSAT 11/197 – 06/1972 67 - 69

2 Wideband 10/1976-10/1977 28

3 AE-E 01/1978 – 9/1980 93

4 DMSP

1989–1992

1993

1998

1999–2002

2000

2003

2011

135

55

64

107

120

64

50

5 ROCSAT-1 03/1999 – 6/2004 89

14

2000

2003

120

64

6 CHAMP 01/2001 – 2/2004 104

7 INTERSAT 09/1970 – 10/1971 67

8 MARISAT 02/197 – 12/1979 155

Bảng 3: Các kết quả đã công bố về PSSR

STT Thiết bị Chuỗi số liệu SSN

1 AE-E 5,6,7,8/1978-1979 93

2 ROCSAT-1

03/1999 – 6/2004

2000

2003

89

120

64

3 ALTAIR 07-08/1990 143

24/7/1979 125

3.2. Các thông tin sử dụng trong nghiên cứu

3.2.1. Tính toán thời điểm xảy ra hoàng hôn lớp E tại hai vùng

liên kết: phát triển từ Tsunoda (1985) cho Kwajalein.

3.2.2. Thông tin về spread F xích đạo

3.2.2.1. Thông tin từ các công trình đã công bố: bảng 2

3.2.2.2. Thông tin từ điện ly đồ: RSF (3MHz) trong giai đoạn

trước nửa đêm, tính trung bình tháng.

3.2.3. Thông tin về sự nâng lên sau hoàng hôn của lớp F

3.2.3.1. Thông tin từ các công trình đã công bố: bảng 3

3.2.3.2. Thông tin từ điện ly đồ: cực đại vận tốc dịch chuyển

VPSSR (18h10–20h10 LT).

3.2.3.4. Thông tin từ mô hình: mô hình toàn cầu cho giá trị

VPSSR cực đại được xây dựng bởi Scherliess và Fejer (1999), ký

hiệu là SF99 trong hình vẽ.

15

3.2.4. Thông tin về vết phản xạ nhiều lần: tần suất xuất hiện

tính trung bình tháng.

3.2.5 Thông tin về gió trung hòa; về vận tốc của thành phần vĩ

hướng của gió trung hòa tính từ mô hình tính vận tốc của thành

phần nằm ngang- HWM93.

3.2.6. Thông tin về độ hoạt động mặt trời: số vệt đen mặt trời

trung bình tháng trong thời gian khảo sát.

3.2.7. Thông tin về hoạt động đối lưu: sử dụng bản đồ OLR

trung bình tháng (1/2011 – 1/2012).

3.3. Kết quả và bàn luận

hHình 3.6: Kết quả

so sánh tổng hợp:

tỉ lệ EPB từ DMSP

(a-f); ESF, nhấp

nháy điện ly, vận

tốc trượt thẳng

đứng cực đại (g)

Hình 3.6 thể

hiện kết quả quan

trắc và trích lọc từ

tất cả các công

trình đã công bố

liên quan đến

ESF/EPB/nhấp

nháy điện ly và vận

tốc trượt thẳng

đứng cực đai. Hình

3.7 thể hiện kết quả so sánh vận tốc trượt thẳng đứng đại quan

16

trắc và từ các công trình công bố, đồng thời với MRE. Hình 3.10

cho biết sự xuất hiện của vùng hoạt động đối luu.

Hình 3.7. So sánh

tổng hợp giữa (a) vận

tốc cực đại PSSR từ

mô hình của Scherliss

và Fejer (1999), (b) tỉ

lệ phần trăm sự xuất

hiện RSF trong mối

quan hệ với MRE và

(c) tỉ lệ phần trăm sự

xuất hiện MRE trong

mối quan hệ với RSF

Hình 3.10. Bản đồ

OLR cho khu vực

Kwajalein từ tháng

01/2011 đến tháng

01/2012

3.3.6.1. Các kết quả chính

a) Biến thiên của tần suất xuất hiện spread F xích đạo theo

tháng: cực đại phân điểm (xung quanh hạ chí) giai đoạn độ hoạt

động mặt trời mạnh (yếu).

17

b) Mối liên hệ giữa POFESF với VPSSR: sự không thẳng hàng của

biến thiên POFESF và VPSSR. Phát hiện này dẫn đến hai giải thích:

(1) VPSSR không hoàn toàn điều khiển POFESF và (2) sự khác biệt

trong thể hiện của VPSSR vào phân điểm và hạ chí chỉ ra hai nguồn

khác nhau gây ra biến thiên VPSSR.

c) Cấu trúc sóng quy mô lớn: mầm mống kích thích: Cực đại

rõ rệt của POFMRE vào tháng 7 phù hợp với sự hiện diện của vùng

hoạt động đối lưu sâu. POFRSF+MRE cho thấy sự liên quan đến hoạt

động EPBs và nhấp nháy ở dải siêu cao tần. POFMRE+RSF có ưu

thế trong giai đoạn diễn ra PSSR trong khi POFMRE-RSF có ưu thế

vào các giờ sau khi PSSR kết thúc.

3.3.6.2. Giả thuyết kiến nghị

a. Biến thiên theo tháng của POFESF tại Kwajalein: biến thiên

của POFESF ở khu vực KWA thể hiện kết quả của ảnh hưởng bởi

hai quá trình.

b. Vai trò của lực triều và thời điểm xảy ra nút hoàng hôn

vào thời kỳ phân điểm: kết quả về sự không thẳng hàng của hai

cực đại đang xét với nút hoàng hôn – là điểm không phù hợp với

kết quả dự báo từ lý thuyết. Từ đây có thể suy ra rằng giá trị nền

của VPSSR không phải bất biến theo tháng; thay vào đó, nó có thể

thay đổi và đạt cực đại tại các thời điểm không trùng với nút

hoàng hôn: biến thiên theo độ lớn dòng điện xích đạo.

c. Lực triều vào hạ chí: lực triều số so1ng 2 giải thích cực đại

ESF vào hạ chí, tương ứng với khu vực đang xét và Châu Phi.

d. Vai trò của vùng đối lưu và cấu trúc sóng quy mô lớn: liên

quan chặt chẽ.

3.5. Kết luận

18

- Nguồn gây ra ESF vào giai đoạn chí điểm: giá trị VPSSR lớn

đồng thời với sự xuất hiện cấu trúc sóng quy mô lớn.

- VPSSR không có tác động hoàn toàn đến POFESF.

- Các nguồn khác nhau gây ra các giá trị VPSSR khác nhau vào

chí điểm (lực triều số sóng 2) và phân điểm (sự biến đổi độ lớn

của dòng điện xích đạo).

- LSWS ảnh hưởng đến POFESF

- LSWS có khả năng gây ảnh hưởng đến giá trị đo đạc của

VPSSR.

CHƯƠNG 4: CẤU TRÚC BONG BÓNG PLASMA XÍCH

ĐẠO QUAN TRẮC TẠI VIỆT NAM

4.1. Trọng tâm nghiên cứu, khu vực và số liệu nghiên cứu

4.1.1. Trọng tâm nghiên cứu

-Sự phát triển và dịch chuyển của EPB từ xích đạo đến các

vùng vĩ độ cao hơn.

- Làm rõ sự xuất hiện EPB ở vị trí quan trắc.

4.1.2. Khu vực và số liệu nghiên cứu

Số liệu thăm dò thẳng đứng tại Việt Nam (Phú Thụy, Bạc

Liêu), Thái Lan (Chiang Mai, Chumphon), so sánh với kết quả

tại Philippines (Baguio giai đoạn 1953 – 1955) và quan trắc EPB

từ vệ tinh (DMSP, C/NOFS) cho khu vực kinh độ qua Việt Nam

(1050E). Các giai đoạn độ hoạt động mặt trời thấp, yên tĩnh từ

trong khoảng thời gian 18h00 – 05h45 LT.

4.2. Kết quả và bàn luận

4.2.1. Spread F tại khu vực xa xích đạo và bong bóng plasma

tại khu vực xích đạo từ

19

Chúng tôi tính được giá trị độ cao EPB khoảng 761 km để có

thể thấy SF tại Phú Thụy.

Hình 4.1. Hình 2b trong Whalen et al. (1997) với các ký hiệu bổ

sung cho biết vị trí của trạm Phú Thụy trong mặt phẳng kinh

tuyến từ, mũi tên màu đỏ chỉ hướng của tín hiệu thăm dò thẳng

đứng, mũi tên màu xanh lá cây chỉ hướng của dịch chuyển với

các đường sức từ của cấu trúc plasma điện ly ngay trên xích đạo

từ

Hình vẽ mô tả mặt phẳng kinh tuyến từ. Nhận thấy rằng thông tin

ta thu được từ tia phản xạ không giống như trường hợp đối với

hướng mũi tên màu xanh do cấu trúc điện ly theo hai hướng này

là hoàn toàn khác nhau - đặc biệt trong trường hợp có EPBs định

xứ trong khu vực lân cận.

4.2.2. Quan hệ giữa spread F tại Phú Thụy và cấu trúc bong

bong plasma xích đạo

Hình 4.2 biểu diễn tổng hợp tất cả các kết quả quan trắc biến

thiên theo tháng của EPBs và SF cho khu vực kinh tuyến qua Phú

Thụy. Các hình a-c là kết quả từ C/NOFS (05/2007 – 03/2009),

các hình d-f là từ DMSP (2007 - 2009) và hình g tổng hợp kết

quả cho SF từ thiết bị tại Phú Thụy (2007 - 2010) và kết quả công

bố của Marasigan. Kết quả cho thấy rõ cực đại nổi bật của cả

POFEPB và POFSF vào xung quanh hạ chí, với SF tại Phú Thụy ít

20

nhất. Có thể nhận xét rằng các kết quả thăm dò thẳng đứng tại

chỗ phù hợp với giải thích về sự phụ thuộc của hoạt động của

EPBs theo độ cao, tương ứng với sự phụ thuộc của hoạt động SF

vào vĩ độ từ - vĩ độ từ càng cao, hoạt động SF càng thấp.

Hình 4.2. So sánh tổng hợp giữa EPBs từ C/NOFS (a, b, c),

DMSP (d, e, f) trong khoảng kinh tuyến khu vực Việt Nam, POFSF

tại Phu Thuy các năm 2007–2010 và tại Baguio các năm 1953–

1955 (g)

4.2.3. Giải thích mới về dạng spread F tại Phú Thụy

Các kết quả đã công bố đều sử dụng kiểu phân loại đặc trưng

cho vùng xích đạo từ trong định dạng SF quan trắc tại trạm xa

xích đạo. Vì thế, câu hỏi đặt ra là, dạng trải rộng độ cao thực sự

21

tại trạm xa xích đạo có hình thái thế nào. Và, liệu rằng còn những

dạng SF nào khác được quan trắc tại trạm ngoài xích đạo?

Hình 4.4. Một vài điện ly đồ cho thấy các cấu trúc plasma

phức hợp khác nhau quan trắc ở Phú Thụy (các vết phụ được tô

đậm bằng vệt tương tự màu đỏ)

Vì EPBs có thể đến Phú Thụy bằng cả hai đường (trượt dọc

theo đường sức từ trường từ xích đạo, dịch chuyển tới từ hướng

Tây) nên tia phản xạ nghiêng quay trở lại máy thăm dò có thể đã

bị phản xạ trước đó bởi hai mặt phản xạ nghiêng tương ứng theo

hướng Đông – Tây và Bắc – Nam, tạo ra hình thái SF phức hợp.

Ba điện ly đồ tiêu biểu có sự xuất hiện đồng thời của vết chính

(SF và không SF) cho thấy trải rộng độ cao bị nghiêng, có khi

xuất hiện 2 vết phụ hoàn toàn khác nhau “dấu hiệu EPB”.

4.2.4. Ví dụ về nguồn gây spread F tại Phú Thụy

Chúng tôi xác định các kiểu SF tại Phú Thụy (độ cao, tần số,

hỗn hợp và “dấu hiệu EPB”), kết quả thể hiện trong hình 4.5 cho

biết diễn biến chính của tầng điện ly trong 2 đêm khảo sát với

dạng SF mới chỉ thị sự hoạt động của EPBs.

Đêm 24/06/2007, có khả năng tồn tại 3 mảng hoạt động EPBs

– hình thành tại phía Đông Chumphon - đi qua khu vực Phú Thụy

trong suốt thời gian xảy ra SF trên điện ly đồ, phù hợp với ESF

tại Bạc Liêu và chỉ có vết phụ yếu tại Chumphon.

22

Đêm 25/10/2010, có thể tồn tại hai nhánh EPB hình thành phía

Đông Chiang Mai, phù hợp với việc không quan trắc thấy ESF ở

Bạc Liêu và Chiang Mai.

Hình 4.5. Các diễn biến xảy ra trong tầng điện ly quan trắc

tại Phú Thụy trong hai đêm 24/06/ 2007 (a) và 25/10/2010 (b).

Các thanh màu ngắn thẳng đứng cho biết: vết phụ – màu vàng,

kiểu trải rộng độ cao – màu đỏ, kiểu hỗn hợp – màu tím, kiểu

trải rộng tần số – màu xanh dương, kiểu khác (dấu hiệu EPB) –

màu đen

4.3. Kết luận

23

- Cực đại sau nửa đêm địa phương và xung quanh hạ chí của SF

cho thấy bằng chứng chắc chắn về mối liên hệ giữa SF tại Phú

Thụy với EPB phát triển tại vùng xích đạo từ.

- SF dạng trải rộng độ cao tại các trạm xa xích đạo là kết quả

của sự kết hợp phức tạp các phản xạ nghiêng do cấu trúc EPB

định xứ tại điểm quan trắc hoặc tồn tại trong khu vực lân cận.

- Chúng tôi đề nghị một dạng SF mới với tên gọi “dấu hiệu

EPB” xuất hiện trên điện ly đồ xa khỏi vùng xích đạo từ và phải

được phân biệt với ESF - hiện tượng ở vùng xích đạo.

- Để tiến đến dự báo sự xuất hiện EPB tại một vị trí cụ thể, cần

tính đến sự dịch chuyển của cấu trúc nhiễu loạn từ phía Đông.

KẾT LUẬN

Sử dụng số liệu quan trắc từ thiết bị thăm dò thẳng đứng, từ

thiết bị thu tín hiệu vệ tinh C/NOFS, kết hợp với các tài nguyên

sẵn có trong cộng đồng nghiên cứu thế giới (bản đồ OLR, mô

hình về gió trung hòa, mô hình về vận tốc dịch chuyển thẳng

đứng cực đại), đồng thời trích lọc và so sánh tổng hợp với tất cả

các kết quả nghiên cứu đã công bố về hoạt động ESF và EPB tại

xích đạo, hoạt động SF tại các trạm xa xích đạo, chúng tôi đi đến

các kết luận sau:

Việc trích lọc thông tin điện ly đồ cho nghiên cứu biến

thiên hoạt động spread F cho các kết quả sau:

- Các vết phản xạ nhiều lần (đơn hoặc kép) ở khu vực xích

đạo từ là dấu hiệu cho thấy có sự xuất hiện của biến điệu đáy điện

ly liên quan đến cấu trúc dạng sóng quy mô lớn.

- Spread F mạnh trên điện ly đồ vùng xích đạo cho biết sự

phát triển của cấu trúc bong bóng plasma và liên quan đến spread

F ở vùng xa xích đạo.

24

- Vận tốc dịch chuyển thẳng đứng cực đại tính từ biến thiên

theo thời gian của độ cao đáy điện ly vùng xích đạo từ là tham số

tốt cho quá trình nâng lên của lớp F sau hoàng hôn.

Hai yếu tố điều khiển biến thiên hoạt động spread F

thể hiện vai trò trong các kết quả sau:

- Cấu trúc dạng sóng quy mô lớn: có mối liên hệ rõ ràng giữa

ESF với hoạt động đối lưu sâu trong lớp khí quyển bên dưới vào

các tháng mùa hè giai đoạn độ hoạt động mặt trời thấp khi quá

trình nâng lên của lớp F sau hoàng hôn không thể hiện vai trò chủ

đạo.

- Sự nâng lên của lớp F sau hoàng hôn: sự biến thiên của cực

đại vận tốc dịch chuyển thẳng đứng có vai trò quan trọng trong

biến thiên hoạt động theo tháng của spread F với nguồn gây ra

giá trị cực đại có thể khác nhau vào chí điểm (tác dụng của lực

triều số sóng 2) và phân điểm (biến thiên của độ lớn dòng điện

xích đạo).

- Sự kết hợp của cả hai yếu tố điều khiển thể hiện trong trường

hợp nghiên cứu cụ thể khi cấu trúc dạng sóng quy mô lớn xuất

hiện và tiếp tục phát triển trong bối cảnh có hoạt động nâng lên

của đáy lớp F.

Việc nghiên cứu sự xuất hiện của spread F tại vị trí

cụ thể (khu vực xích đạo và ngoài xích đạo) là bài toán tổng

hợp của sự kết hợp hai yếu tố điều khiển địa phương (sự

nâng lên của lớp F sau hoàng hôn và cấu trúc dạng sóng quy

mô lớn) và sự dịch chuyển hoặc xuất hiện của cấu trúc nhiễu

loạn trong khu vực lân cân.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyen T. T., R. T. Tsunoda, and M. Yamamoto (2012), “On

the relationship of multi-reflected echoes to large-scale wave

structure and equatorial spread F”, poster presented at 13th

International Symposium on Equatorial Aeronomy, Inst.

Geofis. del Peru, Paracas, Peru, 12–16 March 2012.

2. Roland T. Tsunoda, Smitha V. Thampi, Thu Trang Nguyen,

and Mamoru Yamamoto, (2013), “On validating the

relationship of ionogram signatures to large-scale wave

structure”, Journal of Atmosphere and Solar-Terrestrial

Physics 103 (30), pp 30-35,

http://dx.doi.org/10.1016/j.jastp.2012.11.003.

3. Roland T. Tsunoda, Trang T. Nguyen, and Minh Huy Le,

(2015), “Effects of tidal forcing, conductivity gradient, and

active seeding on the climatology of equatorial spread F over

Kwajalein”, Journal of Geophysical Research: Space Physics

120, pp 632–653, doi:10.1002/2014JA020762.

4. Nguyen T. T., R. T. Tsunoda, M. H. Le, (2015), “On new

detailed ionogram signatures of equatorial plasma bubbles from

non-equatorial station during low solar activity”, Vietnam

Journal of Earth Sciences (đã chấp nhận đăng).