99
HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 1

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

  • Upload
    others

  • View
    14

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

1

Page 2: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

2

LỜI TỰA

Hoa Dương Thiền Sư người làng Hồng Đô, mộ Phật từ lúc còn nhỏ. Nguyện vào chốn Phật,

nên mãi bảo hoài, tức được thấy Tăng lòng mừng hớn hở.

Một hôm được nghe Trưởng lão nói: Xưa đức Ngũ Tổ vào lúc canh ba riêng trao bí pháp cho

Lục Tổ. Có người ở phòng bên cạnh được nghe lòng rất hân hoan vì được nghe rõ, tợ như

nằm mộng mà biết sự thật. Từ đó mới biết các nhà tu luyện đều nhờ thầy truyền, rồi quyết tầm

mãi mãi. Chân dày gai góc nơi nào cũng đến, mà chưa được gặp! Sau đó mới vào Hoàn thủy,

tới chùa Song Liên. Lòng buồn vô hạn, tóc rụng càng tăng, mới hỏi lấy lòng: các vị thầy trong

Tam Giáo, có ai chẳng tham cứu kinh thơ, đều không ngoài Chân chỉ của Huệ Mạng.

Nhân đó mới than rằng: thân người khó được, sao nỡ luống không! Thoạt phát một niệm, vào

những buổi chiều, hai gối 5 thể đều gieo xuống đất minh thệ chí thành, khấu đầu đấng thương

xanh, mong cầu cho được toại nguyện.

Sau đó nửa năm, may được gặp Hồng Xung Hư Tổ sư, truyền cho ta bí chỉ, ta mới hoát nhiên

thông ngộ, mới biết cái đạo Huệ Mạng, là linh vật sở hữu của ta.

Tiếp đến Khuông lô lại gặp Hồ Vân Lão sư, trộm nghe người đàm luận mối mang, mới biết là

bậc phi thường, mới quyết chí siêng năng khẩn cầu nghe chịu. Tiếp đó là sự khẩn cầu ai thiết,

do đó Thầy ta mới động lòng đại phát hồng từ, khai ngộ vi mật bên trong do khiếu, thảy thảy

ta đều thông triệt.

Rồi một ngày kia ta phải ra đi, Thầy ta có dặn Phật giáo song tu nay đã mất rồi! con nên tiếp

tục theo pháp Mạng mạch để độ những người có duyên.

Ta đến ẩn tích ở Giang tả, cùng với hai ba người bạn theo đó mà tịnh tu và khẩn thiết tham

cứu.

Lại nhân được gặp Bích Thiềm, Liễu Nhiên, Quỳnh Ngọc và Chân Nguyên, khổ tu đã thành Xá

Lợi mặc khế sư truyền, tập nhóm sách này mệnh danh là “Huệ Mạng Kinh”. Trong kinh có vẽ

ra một số đồ hình gọi là tương pháp để minh thị phần bí mật của thiên cơ. Kinh nầy nhằm khải

thị về phần huyền cơ bí yếu, tiết lộ nguyên cơ của Tổ sư để làm phương tiện cứu vớt hậu học

khỏi bị rơi vào tà đạo.

Ta thấy ngày nay người mong cầu chánh đạo lại gặp ở phần tông ngữ lục, có Chân thiệt, có

vọng ngữ, lại vì hạ học nên chẳng biết cái đạo Huệ Mạng của Như Lai, khiến phải ngộ nhập

sáo ngữ của khẩu Thiền, cuối cùng cũng bị cái hại của kẻ hạ ngu chuyển trao ngữ lục!

Page 3: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

3

Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với Lăng Nghiêm kinh,

Hoa Nghiêm kinh, Pháp Bảo Đàn kinh đều là thiệt ngữ, đều là Chân truyền. Còn về các loại

như Thiền sư ngữ lục, Hòa thượng ngữ lục đều là vọng ngữ.

Luyện tu theo chánh đạo, nếu chẳng phải thiệt ngữ, thì lấy gì để chứng minh là chân lý. Chẳng

phải thiệt ngữ thì lấy gì tịch trừ hư vọng. Hư vọng thắng thì ma chướng sinh. Tuy là người trí

hiền cũng không biết chỗ nào để tùng nhập.

Như vậy, trăm ngàn năm sau, cái đạo thâm bí riêng truyền khó mà dòm thấy.

Nay ta dùng lời trót lọt, đem của báu của Phật tư truyền, hoàn toàn nêu ra khiến cho người tu

học khi xem đến Huệ Mạng Kinh tợ như thân khẩu tương truyền.

Chỉ cần gắng chí tinh cần, bất tất tha sơn cầu trợ, Phật quả cũng có thể chứng.

Đây là sự khổ tâm của ta đối với bản nguyện cầu Chân sư hiểu thông Chánh đạo.

Càn Long, Giáp Dần, mùa hè tại Hồ Trung, Truyền Lô, Liễu Hoa Dương viết tựa. Nơi hoàn

thành: Trung khiết am tự.

Page 4: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

4

MỤC LỤC

1. LẬU TẬN ĐỒ ......................................................................................... 5

2. LỤC HẦU ĐỒ ......................................................................................... 7

3. NHÂM ĐỐC MẠCH LẠC ĐỒ ............................................................... 9

4. ĐẠO THAI ĐỒ ...................................................................................... 10

5. XUẤT ĐỊNH ĐỒ ................................................................................... 11

6. HÓA THÂN ĐỒ .................................................................................... 12

7. DIỆN BÍCH ĐỒ ..................................................................................... 13

8. HƯỜN HƯ ĐỒ ...................................................................................... 13

9. TẬP THUYẾT HUỆ MẠNG KINH ..................................................... 15

10. CHÁNH ĐẠO TU LUYỆN TRỰC LUẬN ........................................... 68

11. CHÁNH ĐẠO CÔNG PHU TRỰC LUẬN .......................................... 74

12. CHÁNH ĐẠO THIỀN CƠ TRỰC LUẬN ............................................ 82

13. TẠP LOẠI THUYẾT ............................................................................ 88

14. QUYẾT NGHI ....................................................................................... 94

Page 5: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

5

TỐI THƯỢNG NHẤT THỪA

HUỆ MẠNG KINH

Giang Hữu, Chu Lâm Kiều, Truyền Lô Lư, Liễu Hoa Dương soạn và chú. Sơn âm hậu học

Nhất Dương tham đính.

1. LẬU TẬN ĐỒ

Dục thành lậu tận Kim Cang thể

Định chiếu mạc li hoan hỷ địa

Cần tu phanh luyện Huệ Mạng căn

Thời tương Chân Ngã ẩn tàng cư

Page 6: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

6

Cơ tinh vi của nền chánh đạo, không gì bằng Tánh Mạng. Tu luyện về Tánh Mạng không gì

bằng quy nhất. Cổ Thánh, Cao hiền đem cái Thần chỉ Tánh Mạng quy nhất xảo dụ là ngoại

vật, chẳng khứng minh thị trực luận. Cho nên đời sau không biết song tu.

Ta lập ra đồ hình nầy chẳng phải dám vọng tiết chính đồn hình này là tượng hình về cơ lậu

tận tôn Lăng Nghiêm kinh, là nêu cái áo chỉ của Hoa Nghiêm, là tập nhóm lời rải rác của chư

kinh, mới tập quy thành Chánh đồ nầy.

Do đây mới biết Huệ Mạng chẳng ngoài Tổ Khiếu Huyền Quan.

Lý do thành lập ra đồ hình nầy là mong cho các đồng chí, các chí sĩ hiểu rõ được Thiên cơ

song tu nầy, chẳng bị đọa lạc bàng môn.

Từ đó mới biết: Chân chủng do đây mà được bảo hoài, Lậu tận do đây mà thành, Xá lợi do

đây mà luyện, đạo đạo do đây mà nên.

Tổ Khiếu nầy vốn là cái hang hư vô, vô hình, vô ảnh. Chân khí phát ra thì thành khiếu Thiên

cơ, dừng lại thì mờ mịt. Là chỗ tàng Chân. Là nền móng của Huệ Mạng. Tên gọi: Hải để,

Long cung, Tuyết sơn giới địa, Tây phương, Nguyên quan, Cực lạc quốc, Vô cực hương…

Tên tuy có nhiều, chung quy cũng là một Tổ Khiếu, Huyền Quan.

Tu sĩ chẳng minh Tổ Khiếu nầy, dầu cho ngàn sanh muôn kiếp, Huệ Mạng cũng không tầm

được, Tổ Khiếu nầy vô cùng lớn lao.

Cha mẹ chưa sanh thân nầy, lúc mới thọ vựng trước tiên là sanh khiếu nầy, Tánh Mạng cũng

thiệt ngụ trong đó. Lúc nầy 2 thành phần nầy vốn dung hiệp làm một, sáng chói rực rỡ, tợ như

oai lửa trong lò. Tượng nên một khối thái hòa Thiên lý, cho nên gọi: Tiên Thiên hữu vô cùng

chi tiêu tức. Còn nói trước khi cha mẹ sinh ra thân nầy thì Chân khí sung mãn, thai vựng viên

dung.

Đến lúc thoát thai mà ra, thân hình cử động xé rách bào thai, tợ như người leo lên núi cao bị

trượt chân, thình lình ré lên một tiếng, thì Tánh và Mạng đến đây bị phân làm hai. Từ đây về

sau, Tánh chẳng được thấy Mạng, Mạng không được thấy Tánh. Thiếu niên rồi tráng niên, rồi

lão thành. Lão rồi ô hô!

Cho nên Như Lai mới phát Đại từ bi mà tiết lậu pháp môn Tu luyện. Dạy người trở lại vào

bào thai, cùng thẳng tới Chân Tánh Mạng của ta, đem Thần Khí ta quy nhập về Tổ Khiếu hiệp

lại làm một để thành Chân chủng, tỷ như Chân khí của cha mẹ nhập vào khiếu nầy, hiệp lại

làm một để thành thai vựng. Lý vốn có một.

Trong khiếu thì có Quân Hỏa, ngôi đầu có Tướng Hỏa, châu thân là Dân Hỏa. Quân Hỏa phát

thì Tướng Hỏa thừa. Tướng Hỏa động thì Dân Hỏa tùng. Tam Hỏa thuận hành thì thành người,

Page 7: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

7

đi nghịch thì thành Đạo. Thánh phàm do đây dấy lên. Chẳng tu theo đạo nầy mà tu theo nẻo

khác thì vô ích.

Cũng vì Thiên Môn vạn hộ không biết khiếu nầy, trong có Huệ Mạng chủ tể nên tầm bên

ngoài, tận phí Tâm cơ cũng vô thành.

2. LỤC HẦU ĐỒ

Đại đạo tùng trung xuất

Nhất khắc hội nguyên đầu

Nguyên cơ mạc ngoại cầu

Phân minh Phật Tổ nguyên đầu lộ

Page 8: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

8

Pháp luân hấp chuyển triều Thiên giá

Hiện xuất Tây phương cực lạc thành

Tiêu tức hô Lai vãng địa quy

Cơ diệu dụng của chánh đạo không gì sánh bằng Pháp luân. Châu Thiên vận hành theo đường

tắt không đường nào bằng Đạo lộ. Chậm hay nhanh chẳng theo cấp bậc, không gì bằng quy

tắc. Số hạn chẳng sai thất, chẳng gì bằng hầu pháp.

Cả đầy đủ pháp môn mới nương theo đó mà từ Tây lại (Tây trạch). Chân diện mục hoàn toàn

ở tại nơi nầy.

Cơ huyền diệu ở nơi trong, lúc hành trì phải lấy hô hấp làm chủ. Cơ tiêu tức vãng Lai chính

là hạp tịch. Chẳng đi ngoài Đạo lộ, là do Chân ý làm chủ. Có chỗ khởi chỉ, đó chính là giới

địa.

Chẳng vì cái Ngã mà là vị tha nên mới toàn bị đồ nầy, toàn tiết Thiên cơ. Tục nhơn phàm phu

mà đạt ngộ Được tất sẽ thành công. Giả như có người còn thiếu đức mà được gặp, Trời cũng

không phụ.

Đức đối với Đạo như chim có cánh, thiếu một tức vô dụng. Tất phải Trung, Hiếu, Nhân,

Nghĩa…

Ngũ giới tinh tấn, sau đó mới có chỗ hy vọng.

Còn trong tinh vi áo diệu, trọn đủ kinh Huệ Mạng và Kim Tiên chứng luận.

Tham học cho suốt thông hai quyển kinh nầy thì nhất định sẽ nắm được Chân truyền.

Page 9: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

9

3. NHÂM ĐỐC NHỊ MẠCH ĐỒ

Hiện xuất Nguyên quan tiêu tức lộ

Thường giao hỏa dưỡng Trương sinh quậc

Hưu vong bách mạch Pháp Luân hành

Kiểm điểm Minh Châu bất tử môn

Đồ hình nầy với 2 đồ hình trước nguyên là một. Tại sao lại vẽ thêm đồ hình nầy?

Là sợ người tu học không biết được đường Đạo lộ trong thân mình là đường Pháp Luân, cho

nên mới vẽ thêm đồ hình nầy để các đồng chí được thấu hiểu.

Con Lộc lúc ngủ thở đến gian môn. Con Hạc, con Quy lúc ngủ thì thở đến tận gốc của mạch

Nhâm. Do đó nên chúng sống đến ngàn tuổi. Còn con người lại…?

Tu sĩ tu luyện phải chuyển Pháp Luân để vận Huệ Mạng, lo gì chẳng được trường thọ và thành

chánh quả.

Page 10: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

10

4. ĐẠO THAI ĐỒ

Thập ngoạt đạo thai hỏa

Nhất niên Mộc Dục ôn

Hữu pháp vô công cần chiếu triệt

Vong hình cố lý trợ Chân linh

Đồ hình nầy biểu thị cái diệu chỉ của kinh Lăng Nghiêm.

Tục Tăng chẳng biết Đạo thai, là do cái lỗi lúc đầu chưa tiếp nối với đồ hình. Nay mới xiển

dương, Tu sĩ tất biết được Như Lai có công phu Đạo thai Chân thật ở tại đây. Thai đây chẳng

có hình có tượng mà do một bửu vật, mà thành ra thật. Tức là Thần Khí của ta.

Trước vận Thần nhập vào Khí huyệt, sau đó mới dùng Chân khí mà bao lấy Thần. Thần Khí

tương kết, mà ý thị tịch nhiên bất động, nên gọi là Thai.

Chân Khí có ngưng thì sau đó Thần mới linh.

Cho nên lời kinh nói: Thân phụng giác ứng.

Hai Khí bồi dưỡng nên nói: Nhật ích tăng trưởng.

Page 11: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

11

Khí tức Thai viên, thì theo Thượng điền là Nê Hườn Cung mà ra. Nên nói: hình thành xuất

Thai thân vi Phật tử.

5. XUẤT THAI ĐỒ

Thân ngoại hữu thân danh Phật tướng

Niệm linh vô niệm tức Bồ đề

Thiên diệp Liên Hoa xuất khí hóa

Bá quang cảnh diệu giả Thần ngưng

Page 12: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

12

6. HÓA THÂN ĐỒ

Page 13: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

13

DIỆN BÍCH ĐỒ

Tánh quang phản chiếu phục nguyên Châu

Thần Hỏa hóa hình không sắc tướng

Tâm ấn huyền không nguyệt ảnh tịnh

Phiệt châu đáo ngạn nhật quang thanh.

HƯ KHÔNG PHẤN TOÁI ĐỒ

Bất sanh bất diệt, vô khứ vô lai

Nhất phiến quang huy châu thế giới

Page 14: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

14

Song vong tịch tịch tối linh hư

Hư không lãng triệt Thiên tâm diệu

Hải thủy trùng thanh đàm nguyệt dung

Vân tán bích không sơn sắc tịnh

Huệ quy Thiền định nguyệt luân cô

HÓA THÂN ĐỒ

Phân niệm thành hình khuy sắc tướng

Cộng linh hiển tích hóa hư vô

Xuất hữu nhập vô thừa diệu đạo

Phân hình lộ thể cộng Chân nguyên

XUẤT THAI ĐỒ

Lăng Nghiêm chú: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ Thượng Đơn Điền phóng ra trăm báu hào

quang, ánh quang phóng xuất ngàn lá sen báu, có Như Lai tọa trong Bửu hoa. Còn trên đỉnh

đầu thì phóng mười đường bá bửu quang minh thị hiện khắp cả. Đại chúng ngửa xem, phóng

quang Như Lai tuyên thuyết thần chú, tức là Dương Thần xuất hiện, cho nên gọi Phật tử.

Chỉ vì chẳng đắc được cái đạo Huệ Mạng nên bị khô tịch khẩu Thiền, làm sao có được cái tự

thân của Như Lai ngồi trên bửu hoa nầy, và phóng ra Pháp thân rực rỡ xuất hiện. Còn có kẻ

nói: Dương thần thuộc tiểu Đạo thì cái Đạo của đức Thế Tôn cũng là tiểu Đạo sao?

Đồ hình nầy tiết lộ bí mật của Lăng Nghiêm để hậu học được hiểu rõ cái Đạo nầy, lập tức

siêu phàm nhập Thánh, mãi mãi chẳng bị đọa lạc nơi chốn phàm trần.

Page 15: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

15

HUỆ MẠNG KINH Giang hữu, Lâm lâm kiều, Truyền Lô

Liễu Hoa Dương soạn chú

TẬP THUYẾT HUỆ MẠNG KINH

Hoa Dương viết: Thành Phật tác Tổ thị bản Tánh linh quang, bất đắc Huệ Mạng Lậu

tận, bất đắc liễu Đạo, trực nhập ư Như Lai chi Thái không.

Bản Tánh, Linh Quang danh tuy hai nhưng nguyên đầu là một. Tại tịnh định thì gọi là Tánh,

Huệ chiếu vào trong tịnh định thì gọi là Linh Quang.

Huệ Mạng là diệu pháp Thể thủ đầu tiên của Như Lai, là mượn danh để khải thị cho người tu

học, là phạn ngữ của Tây phương. Trung hoa gọi là cái Bổn nguyên của con người. Nho gọi

Tiên Thiên Chân khí.

Đó là phương tiện tu Phật, là quyền bỉnh tác Tổ. Thầy Mạnh Tử gọi: Thiên dưỡng Hạo nhiên

chi khí.

Lậu tận là cái danh, do đức Thế Tôn dùng để khải thị cho A Nan, cũng là phạn ngữ của Tây

phương. Trung hoa gọi là tẩu lậu. Nho gọi là tẩu Tinh. Y học gọi tiết Nguyên Khí.

Lậu tận là cơ biến hóa của Huệ Mạng.

Thiên cơ trong người lúc chưa phát động vốn là Chân mạng cho đến lúc thiên cơ phát động

mà không biết, nên nó hóa thành hữu hình Tinh mà xuất quan, gọi là Lậu tận.

Tình huống đó nhà Nho gọi là Khí hóa Tinh.

Trong thuở đồng Chân Mạng căn vốn kiên cố, vốn không có tình trạng lậu tận, Thận quang

vốn viên dung rực rỡ. Lúc này nếu gặp được Chân sư, chẳng cần dùng pháp thể thủ lậu tận, mà

chỉ vận khối Thận quang viên dung sáng rỡ đó thâu quy Trung cung, với công phu: thời thời

tỉnh ngộ khắc khắc giác chiếu, hộ trì mười tháng Đạo thai tức Lăng Nghiêm kinh gọi Ký du

Đạo thai, thân phụng giác ứng.

Công phu siêng năng, Chân khí sung túc, tự nhiên sẽ được xuất Thai.

Đạt đến Pháp thân quảng đại, Lăng Nghiêm gọi hình thành xuất Thai, thân vi Phật tử.

Đó gọi là Đốn pháp.

Nếu những người đã đến lứa tuổi 16 trở lên, lúc 16 tuổi thì Mạng báu mãn túc. Túc mãn thì

có lậu! Từ đó về sau, lậu lậu không dừng. Cho nên đức Như Lai gọi là lậu tận.

Page 16: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

16

Người đời học Phật, nếu chẳng hư tâm cầu cho được bậc Chân sư chỉ điểm Chân quyết Hỏa

hóa mà cứ theo: Tham Thiền, đả thất, trường tọa hành trì, thì vạn vô nhất bảo. Đã vạn vô sở

bảo thì làm sao thành công trên đường tu học được!

Cho nên Hoa Nghiêm kinh nói: Chẳng cầu pháp huyền diệu nầy, cuối cùng cũng không

chứng quả bồ đề, cho nên đấng Như Lai mới phát đại từ bi, khải thị cho người hạ thủ, tiếp tục

phát thiên dung để bổ túc cho khối Thần quang viên dung sáng rực rỡ xưa của Huệ Mạng, trở

lại quy về Trung cung. Đó gọi là Tiệm pháp.

Cho nên đức Quang Minh Như Lai mới nói:

Lão tăng hội tiếp vô căn thọ

Năng tục vô du hải để trừng

Lại phải thật siêng năng tu luyện, vì chẳng phải một sớm một chiều mà thành chánh Đạo.

Cho nên đức Thế Tôn mới bảo A Nan: Đệ nhất lậu tận nan thành!

Lậu tận là biệt danh do Phật thí dụ, là pháp song tu Tánh Mạng.

Nếu chỉ tu Tánh mà không luyện Mạng thì tập khí khó tiêu. Dẫu cho có đạt được cái Tướng

đồ sộ cũng chẳng thành Quỷ Ngũ thông, chẳng được khế hạp với Lục thông của Như Lai.

Cho nên Đại Phật phương đẳng đại tập kinh mới nói: Chỉ tu tập theo Ngũ thông làm sao đắc

được lậu tận. Là lý do làm sao?

Cũng vì lòng bi mẫn của Như Lai đối với chúng sanh nên mới đem phát Lậu tận thông ra

khải thị để người được thoát ra khỏi cõi phàm phu tục địa.

Thái không: là Pháp Tánh viên dung hư cực.

Cho nên Liên Hoa kinh có nói: Tánh như Hư không. Đức Thiệu Khương Tiết tiên sinh nói:

sở vị Đạo, thông thiên địa hữu hình ngoại. Tư nhập phong vân biến thái trung.

Nhi Huệ Mạng lậu tận bất đắc Phong Hỏa luyện pháp, bất năng hòa hiệp ngưng tập nhi

thành Đại Đạo.

Phong là gió, là năng lực hỗ trợ cho lửa hừng lên. Hỏa là lửa, là công năng huân hóa Âm khí

cho đạt đến Thuần Dương.

Cho nên đức Như Lai có nói: Hỏa hóa dĩ hậu thâu thủ Xá Lợi. Lại nói: Vi Phong xuy động.

Phong Hỏa với lậu tận phải kiêm dụng, thì tự nhiên được hòa hiệp ngưng tập mà thành Chánh

Đạo.

Page 17: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

17

Thị dĩ Phật pháp thứ đệ dụng công chi Chân truyền khởi vô bằng chứng.

Cái đạo Chân thiệt, thì có Chân thiệt thứ đệ công phu. Nếu như tiền hậu hỗn tạp, tức chẳng

phải là Chánh đạo của Như Lai mà là bàng môn tả đạo mà thôi.

Tứ đệ công phu như: Lúc hạ thủ, có công phu hòa hiệp Chân chủng. Lúc chuyển thủ (chuyển

bá nhật trên mười tháng), có công phu luyện Xá Lợi. Lúc đã thành Xá Lợi, có công phu ôn

dưỡng Thánh Thai. Lúc đã tản thủ (buông tay), thì có công phu xuất Thần hiển hóa và Cửu

niên diện bích.

Nhưng về thứ đệ công phu chẳng dám vọng luận chỉ là hội tập bí cơ về thứ đệ dụng công của

Phật, của Tổ, lại phóng đại ra để làm bằng chứng cho sự phân chia tiết đệ.

Cứ sau mỗi câu chính văn thêm chú cước, để dụ hiểu đồng chí chứng thành Chánh giác và

không còn mê ngộ.

Vọng dĩ nhất ngôn, bán cú, nhi vi Đạo tai.

Như trong Thiền môn ngày nay, bản thân vốn chưa đắc Chân truyền mà chỉ dùng hư vọng ngữ

gọi là để cảm hóa người. Có kẻ nói: trước khi cha mẹ sanh có kẻ nói niệm Phật … Tất cả đều

là hư vọng, chẳng có chi để đem ra thực dụng thực tế cho con người, mà chỉ là điều hoặc thế

vu nhơn, phỉnh gạt kẻ mê để đồ danh trục lợi mua lấy địa vị riêng mình, chẳng khác nào kẻ

đạo tặc trong cửa tu hành.

Lại phóng lên chủ trương Đông vấn Tây tầm để tham cầu Phật pháp, cuối cùng cũng là nhất

trường không lão, làm sao đủ gọi là Chánh đạo.

Người có chí hãy quán xét lẽ nầy để cùng được lý mới thật là Chân lão bà Thiền.

Thiền khẩn đầu chẳng phải là Chân Thiền mà là Thiền hổ bì, hổ tử, y phục!

Thả thiên cổ chí kim, mạc bất dĩ manh dẫn manh, khanh hãm vô số chi Thiện tín thâm

nhập Cửu Trùng, cánh bất năng xuất đầu kiến Phật chi quang hoa.

Phật pháp từ đời Hán Minh đế mới nhập vào nước Trung Hoa. Trước Tần Thủy Hoàng đã có

Phạn Tăng đến, Tần Vương không tiếp nhận. Từ đó cho đến lúc Phật pháp du nhập, số người

lầm lạc xa rời chánh đạo vô số. Có cơ duyên tốt là nhờ Tổ sư Đạt-Ma đến đất nầy, mới chứng

minh được chánh tà, chân ngụy.

Thiền tông truyền ở đây được sáu đời. Sau Lục Tổ một thời gian, người Trung Hoa trở lại con

đường lầm lạc nên có 96 ngoại đạo và 24 pháp quán bàng môn. Chỉ có môn đả thất, tợ như

thuốc độc hại người, chôn người trong hầm lửa.

Page 18: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

18

Thích giáo từ Tây phương 28 Tổ, Đông độ 6 đời vốn không có môn nầy. Đó là do nhóm Cao

Phong sơn du đạo, công phu của nhóm nầy chuyên bế tức bàng môn, chẳng phải Chánh đạo

của Như Lai.

Có kẻ hỏi: làm sao để thấy rõ?

Đáp: Cao Phong môn chuyên dùng pháp bế tức, là ngưng hẳn hơi thở, công phu như vậy lâu

ngày sẽ bị chứng thổ huyết, mười người chết chín. Lại còn dùng phương đả thất, là đánh vào

Tích Lạc (xương sống), lâu ngày sinh ra chứng lao, khổ não mà chết, há không đau xót sao.

Người không biết được khí huyết mạch lạc trong người thì làm sao biết được Đạo.

Thân người suốt ngày lao quyện, đêm đến chỉ còn chờ Tâm Thận Hậu Thiên giao hòa, để tư

nhuận phần căn bản của thân nầy. Nếu dạy người 49 ngày đêm không ngủ, lại gọi là pháp môn

của đại Đạo. Lại bị lao chứng, khổ não mà chết, là điều vu hoặc.

Y học có nói: người mà suốt 49 đêm liền không ngủ, thì Tâm và Thận không giao tiếp với

nhau tất sinh chứng lao.

Lại thêm việc đánh vào Tích Lạc, gây sự tổn thương cho Tạng phủ.

Than ôi, hình phạt nầy đến Đường đế mới giải tỏa. Từ đó về sau chẳng ai dám dùng nữa.

Lúc đầu nhà vua thấy hình pháp nầy mười người chết hết chín. Vua mới khảo duyệt lại các y

thư, thấy trong Ngũ tạng con người có mạch lạc, có sự liên hệ của Tích (xương sống) với tổng

Lạc, mới thông khí huyết mới vận hành để nuôi dưỡng phần căn bản của thân hình.

Nếu cứ đánh vào cột sống nầy, tức là cản trở khí huyết phải đi ngược trở lên, cuối cùng lư y,

Biển Thước cũng vô phương khả cứu. Cho nên nhà vua mới nghiêm giải các hình phạt nầy là

trách nhiệm theo đúng y học.

Lại còn dùng cái danh mổ tăng, mổ tăng trên tấm vải vàng gọi là truyền pháp, để hư truyền mà

mê hoặc thế nhơn, khanh hãm hàng sơ học. Lại còn dùng Thiền ngữ lục truyền khắp thế giới.

Dù có người nào gắng chí cũng không biết chỗ Chân cầu.

Lại còn cho Phật, cho Tổ là những đấng thiên sinh, cũng trong lý thuyết không đâu. Như vậy

là biến cái ánh sáng huy hoàng của diệu hoa Như Lai trở thành hắc ám.

Cái đại tạng chi pháp bửu, bổn thị chỉ. Nại hà đương cơ học giả, hữu thiện thâm căn,

hữu lợi đốn ngộ. Thử tiền hậu hỗn tạp, thiệt bất khả thành kỳ trục tiết chi thứ đệ.

Đại tạng giáo có quyền pháp, có thiệt pháp, có pháp vô vi, có pháp hữu vi, há đâu phải chỉ một

khái luận. Chính tại ở người có học hay không học, dĩ nhiên là học cái đạo Tánh Mạng.

Page 19: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

19

Nhi hậu lai chi Tổ, sở dĩ đắc, dĩ thành quả, diệc bất khả định tiết nhi đồng luận.

Chư Tổ hậu lai có chỗ được trao, hoặc là chẳng có thể trao cho công đồng đại chúng. Đại

chúng chỉ lấy quyền pháp chế phục.

Tục tăng gọi ngộ Tánh, chỉ tránh khỏi ở đa sự, và sinh biệt niệm là đủ, thật là sai lầm.

Thiệt pháp đắc ngộ là do ở tư phụ mật ngữ, nên gọi: Giáo ngoại biệt truyền, riêng thông tiêu

tức. Thí dụ như đức Thế Tôn không truyền cho đồ đệ A Nan mà tư phụ cho Ca Diếp thành Nhị

Tổ. Ngũ Tổ chẳng truyền cho Thủ tọa Thần Tú mà tư phụ cho Lô Năng làm Lục Tổ.

Cho nên cái đại bửu để thành Phật, thành Tổ há truyền cho người vô chí sao. Tất yếu là phải

lựa người có chí khí lớn làm Phật làm Tổ. Thông suốt được Chân lý nầy mới có thể tư phụ.

Cho nên bí ngữ của Phật pháp rất khó được nghe.

Hoặc hiển ư vô vi, nhi ẩn ư hữu vi.

Vô vi là diệu pháp dụng công từ mười tháng dưỡng Thánh thai đến nửa thời gian Cửu niên

diện bích.

Chẳng phải như ngày nay tục Tăng lấy khô tọa làm vô vi.

Còn hữu vi là nửa công pháp ở ngưng tập hòa hiệp của Huệ Mạng trước tiên.

Có bằng có cớ là cơ diệu dụng của Tiên Thiên Chân Khí, chẳng phải như hữu vi của thế gian,

Bửu Tích kinh nói: Nhất thiết chư pháp, thị mê ảo hóa.

Chính trong đó có một pháp là: Hòa hiệp ngưng tập, quyết định thành tựu.

Trong kinh tụng có nói:

Đại sĩ tu hành giải thoát môn

Chuyển ích từ bi cầu Phật pháp

Tri chi hữu vi, hòa hiệp tác

Chí lạc quyết định cầu hành đạo

Lời kinh còn nói: chỉ vì Nhị thừa bị đọa lạc vào vô vi, chôn sâu cái tinh thần quảng đại, nên

chẳng được chứng quả siêu thoát.

Cổ đức nói: Hữu vi tuy là hư ngụy, nhưng nếu bỏ đi thì công phu chẳng thành, vô vi túc chân

thiệt, nhưng nếu đem lòng thích thú thì Chánh hỏa khó chứng.

Page 20: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

20

Thiền môn ngày nay nghe đến hữu vi gọi là tri tướng nên bỏ đi mà chẳng dùng. Thù bất tri

hữu vi nầy là trong cơ định tịnh, là Diệu đạo hữu vi. Thí dụ như Trời đất vốn ở tinh thần vô vi,

sinh ra vạn vật là hữu vi. Đó là tối thượng nhứt thừa của Phật pháp.

Cũng như Tâm con người lúc đã đạt được trạng thái vô vi, thì trong đó có một bửu vật siêu

nhiên xuất hiện. Nếu chẳng dùng chân Ý thâu thủ lấy bửu vật đó, há chẳng bị phát tán ra ngoại

cảnh sao. Tức là chẳng còn là bửu vật của ta. Do đó mà có pháp thủ quy, nên gọi là pháp hữu

vi. Lục tổ gọi: vãng Bắc tiếp độ.

Hoặc hiển vô vật, nhi ẩn ư hữu vật

Vô vật là nói về một nửa sau của Tánh công.

Có vật là nói về một nửa trước của Mạng công.

Giả Thiền đạo ngày nay nghe đến hữu vật liền sanh tâm nhàm chán. Thù bất tri, vật đó là căn

bản của Đạo, là rường cột của pháp, người người đều có. Cái có đã chẳng phải là vật do tư lự

niệm tưởng mà có. Cái có đó là một bửu vật nơi Tổ Khiếu Huyền quan.

Lục Tổ nói: Ngô hữu nhất vật, vô đầu vô vỹ, vô danh, vô tự, vô bối vô diện.

Phó Thái sư nói:

Hữu vật Tiên Thiên địa

Vô hình bổn tịch liêu

Năng vi vạn vật chủ

Bất trục tứ thời điêu

Đó là bửu vật của Tiên Thiên, làm chủ tể và dưỡng dục Hậu Thiên. Tán phát ra thì không có

hình có ảnh. Lúc tụ lại thì thành Xá Lợi.

Viên Ngộ Thiền sư nói: Hà vật cao vu Thiên, sanh Thiên giả thị. Hà vật hậu vu Địa, dục Địa

giả thị. Hà vật khoan vu hư không, bao hư khổng giả thị. Hà vật siêu Phật việt Tổ, thực (gieo

trồng) Phật Tổ giả thị. Nải hóa dục chi bản. Vật ngả đồng đồ, cho nên nói: Ta và vật đồng một

đại phụ mẫu. Thuận theo đó thì sanh người, sanh vật, nghịch lại đó thì thành Phật thành Tổ.

Thuận theo đó thì người đều biết, nghịch lại lẽ đó nên không nhờ Chân sư chỉ truyền thì không

thể nào hiểu được.

Vân Phong Thiền sư nói: có một bửu vật cứu người rất bí mật, nhưng ít người được biết. Đó

là Tiên Thiên thuần Dương chí cương Khí.

Page 21: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

21

Chân Khí này lúc tán phát ra thì châu lưu khắp cơ thể con người, lúc rút lại thì quy tụ về Tổ

Khiếu Huyền quan.

Hàn Tử nói: khả quý thiên nhiên vật. Độc nhật vô bạn lữ. Mích (tầm) tha bất khả kiến xuất

ngoại, vô môn hộ. Xúc (thu lại) chi tại phương thôn. Duyên (kéo dài ra) chi nhất thiết (tất cả)

xứ. Nể (ngươi) nhược bất tín thọ.

Tương phùng (gặp mặt) bất tương ngộ (gặp lòng). Đại tắc bao tàng pháp giới. Tế (thu nhỏ lại)

lật mễ (hạt gạo) vi trần.

Tuyết Phong Thiền sư nói: Trời đất mà tóm thâu lại thì nhỏ như hạt gạo. Tuy là như vậy

nhưng trước phải nên hòa hiệp ngưng tập, sau đó mới có báu vật, đức Thế Tôn gọi là Bồ đề

chủng tử là báu vật mà Pháp Hoa hội thượng Long nữ đã hiến.

Hoặc hiển ư vô sự, nhi ẩn hữu sự.

Vô sự là pháp của Tổ sư để chế phục chúng nhơn, có sự là pháp Thượng thừa của Tổ sư ẩn

tàng mật thọ.

Kẻ phàm phu không có thiện căn không bao giờ tin. Cho nên đức Thế Tôn mới nói: Ta giáng

sanh vào đời Ngũ trược ác thế nhờ có việc khó đó mà chứng quả Vô Thượng Chánh đẳng

Chánh giác. Các thuyết của Thế gian đối với pháp nầy, thì pháp nầy thật rất khó khăn.

Lại nói: sự việc của đức Thế Tôn như vậy, nên đời khó tin.

Tổ sư nếu cùng lớp người hạ căn mà thuyết tất gặp sự phản đối, cho là lời nói không phải.

Cho nên Pháp Hoa kinh mới nói: lúc đó Phật bảo Xá Lợi Phất hãy dừng lại, đừng nói thuyết

đó nữa. Nếu thuyết việc đó thì tất cả các cõi Người, các cõi Trời đều kinh nghi.

Lại còn nói: chỉ có một việc nầy mà thôi, còn ngoài ra đều chẳng phải Chân.

Có việc ở đây, chẳng phải là việc của bàng môn mà là việc do báu vật phát động nơi ải

Huyền quan, lấy Chân Ý của ta mà chủ tể báu vật nầy dùng hô hấp để thâu thủ và hòa hiệp

Chân chủng để vận chuyển Pháp luân. Thể thủ huân chưng đều là Chân Ý đồng hô hấp dụng

công của Huệ Mạng. Cho nên có danh là hữu sự.

Huệ Mạng là tên riêng của Nguyên Khí.

Lúc Chân Dược phát sinh mà không Thể thủ há không bị tán thất sao.

Cho nên Hưng Dương Thiền sư mới nói: Tiến tới một bước, về lý được sáng suốt (được). Lui

một bước thì việc phải bị sai lầm.

Page 22: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

22

Hoặc hiển ư Tiểu Thừa, nhi ẩn ư Đại Thừa.

Tiểu Thừa pháp là pháp của Thiền sư thực thi về quyền pháp như: tham thiền, đả tọa, niệm

kinh, tụng kinh, xem kinh… là để gieo nhân quả cho Thiện căn.

Đại Thừa pháp là do Tổ sư mật ngữ như: Huệ Mạng, Lậu tận, Quy túc và cái quả siêu phàm

nhập Thánh.

Trên đây là những lời luận đại khái về Đạo.

Hoặc hữu ngôn chi dị, nhi dục chi thiển, đương trục tiết dĩ thục ngoạn, bất khả mạo thị.

Tham ngộ vô nghi, tái cầu ấn chứng, sử đồ chấp kỳ thiên kiến, thủ tông ư vọng nhơn chi

khẩu hà kỳ vu đa.

Lời nói thiển cận dễ hiểu tức là Chân phương của Tánh Mạng, chưa đắc được Chân quyết thì

khó mà hiểu rõ. Tất phải trước sau dung hiệp và quán xét cho tận cùng từng thứ đệ, rồi phải

cầu Chân sư ấn chứng để khỏi bị cái lỗi một kiếp tu luyện không ra gì.

Như nay phái Tòng Lâm sở truyền, sở đắc, sở chứng đều chẳng phải Chánh pháp của Như

Lai mà là giả danh truyền trên tấm vải vàng mà gọi là Phật pháp, nếu nhìn nhận theo đó là lầm.

Đó là hiện trạng sau thời Lục Tổ, là không đắc Chân truyền, là kế hư vọng tạo sự của Phương

trượng, lấy hư ngôn dối người hậu học nên có ít nhiều Thiện tín lầm theo. Chẳng phải là Phật

pháp mà là mối manh của sự tranh tụng.

Dư Cố viết:

Thoát tục ly trần mích quá tri

Đoạn dâm ngộ Đạo quý Chân sư

Nhẫm tha chỉ thuyết vạn ban pháp

Dữ ngã thân tâm nan tự quy

Cách ngoại cao đàm phi Chí đạo

Phiến ngôn ám điểm thị Lương y

Đắc lai tạm thí tùng đầu khán

Nhất khắc công phu quả tự hi

Tạm dịch:

Page 23: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

23

Thoát tục lìa trần hỏi quá tri

Đoạn dâm đúng đạo thật Chân sư

Còn ra chỉ thuyết bao la pháp

Đối với thân tâm có ích gì

Lời nói mông lung đâu phải Đạo

Nửa lời bí mật thật Lương y

Được rồi nên theo từ đầu tập

Một khắc công phu tự mỉm cười

Cổ nhân nói: dục đăng sơn thượng đảnh, tu vấn vãng Lai nhơn.

Quá tri: là người đã đắc Chân quyết, hoặc đã thành, hoặc chưa thành, hay chưa hạ thủ đều là

người đã đắc được Chân quyết tu luyện.

Đoạn Dâm là giới đầu tiên của Thủ Lăng Nghiêm, là rường cột thành Phật tác Tổ.

Dầu cho những người mình mặc cà sa, tay cầm tích trượng mà chẳng đoạn dâm lại xưng tu

hành, há chẳng làm trò cười cho các bậc Cao nhân sao.

Ngoài hình tướng uy nghi mà bên trong chẳng khác phàm phu tục tử, thật lấy làm xấu hổ vậy.

Chỉ có một việc đoạn dâm, nếu chẳng cầu Chân sư thì làm sao đoạn được.

Cầu chân sư trước tiên là hỏi về pháp nầy, còn những pháp khác đều là bàng môn.

Thích giáo ngày nay chỉ là khán kinh, niệm kinh, tụng kinh, tham khảo Thiền, đánh vào cột

sống hỏi ngữ đầu… còn những gì chủ yếu của Thiền gia thì không hề nghĩ đến. Tình huống đó

có khác gì các tên phù thủy dùng lá vàng để cấm em bé khóc đêm, nên đối với Thân Tâm ta

chẳng có ích lợi gì cả.

Người nay học Phật chẳng đắc Chân truyền mà dám tự xưng ta là Bồ Tát, ta là Thiền sư, còn

bao lý thuyết đều là ngữ lục, đều là hư ngụy ngôn! lại còn nói Tăng là lúc chết sẽ thành Chánh

quả.

Nếu nói như vậy thì tất cả những người trong thiên hạ đều thành Phật hết sao?

Thù bất tri, người đã đắc chân truyền của nền Thánh đạo thì lúc còn sống vẫn thực thi những

gì như Bồ Tát đã thực thi, hoặc nói những gì đều là tinh hoa của Tam giáo.

Page 24: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

24

Phiến ngôn là Chân thiệt ngữ chứ không phải là nói văn hoa phù phiếm, thi phú, trường thiên.

Tức là những gì nói hoa ngôn xảo ngữ.

Cho nên Ngũ Tổ mới nói: Sư sư mật phụ bản âm.

Ám điểm: như lúc canh ba Ngũ Tổ ám điểm cho Lục Tổ, như Thế Tôn ám điểm cho Ca Diếp.

Đắc được Chân đạo thì bệnh nghi ngờ mới tận tuyệt và suốt thông tất cả kinh văn của Tạng

giáo cho nên gọi lương y.

Đã đắc Chân quyết thì lập tức hạ thủ tu khởi. Nếu quả thiệt là Chân đạo thì biết rõ lúc dâm

căn mới bắt đầu manh nha lập tức hồi quang phản chiếu, ngưng Thần tại Khí huyệt mà chờ.

Chờ đến lúc Nguyên Tinh triền động thì dùng hô hấp mà thổi vào, và phải theo đúng pháp thể

Dược quy Lư, trong khoảnh khắc Dâm căn tự rút, Chân Ý và Chân Khí tự hiệp, Tâm tịnh và

Thận sảng nên tự mỉm cười.

Ứt văn chi Tâm kinh viết: Quán Tự Tại Bồ Tát.

Hoa Dương Thiền sư nói: đây là cảnh giới rất quan trọng thiết yếu của Như Lai rũ Thiên âm

dạy về chánh pháp khởi thủ song tu Tánh Mạng.

Chỉ vì kẻ phàm phu chẳng đắc Chân truyền bèn gọi lấy niệm quán niệm, tức là Quán Tự Tại

Bồ Tát. Thật là điều rất lầm lẫn!

Thù bất tri, cái niệm nầy có năng lực duyên tập hữu thức chủng kết lại, chẳng phải là bản

nguyên của Đạo.

Trình Tử nói: Chánh đạo định lý, quả thị Tâm hồ, ứt phi Tâm hồ.

Đó là để khải thị cho Tu sĩ riêng thông về cơ Tiêu tức đến cùng tột.

Quán với Bồ Tát là đích chỉ diệu dụ của 2 bửu vật song tu của Như Lai. Sao gọi là một vật

được, tức gọi Niệm là Đạo thì là sự xa vời vậy.

Cho nên kinh Viên Giác mới nói: tất cả chúng sanh quấy nhận Tứ đại là tự thân của mình và

đem lục trần làm nhiều mối của tâm mình.

Huyền diệu Tông lại nói: Linh Đài, Trí Tánh không phải là cội nguồn của sinh tử. Nếu vọng

nhận duyên khí chỉ nhân tiền trần mà có phân biệt là chẳng phải. Cho nên Truyền pháp Như

Lai có nói: không vương điện nội vô tông tích.

Nếu nhận Niệm là chân thật thì Bồ Tát phải nương theo đường củ và bị Chân giấu nơi Cửu

địa, chẳng được xuất đầu biến hóa để thành diệu tướng của Như Lai, rồi không phí thân sanh

nầy trong một đại kiếp nhân duyên.

Page 25: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

25

Niệm nầy là do thành phần âm trong Tâm Hậu thiên, là Thức Tánh biến hóa, vạn kiếp ngàn

sanh đều do thành phần nầy nhiếp lý khiến cho Bồ Tát mê lộng rồi rơi vào nẻo tham trần biến

dục, chẳng được giải thoát, cũng chẳng được chứng quả.

Sự chuyển kiếp mê thất nầy là do chẳng biết được chỗ xuất xứ của Bồ Tát, và do sự quấy

nhận thành phần Thức nầy.

Cho nên Cảnh Thiền sư mới nói:

Học đạo chi nhơn bất Thức Chân

Chỉ vì tùng tiền nhận Thức Thần

Vô thỉ kiếp Lai sanh tử bản

Sơ nhơn hoán (gọi) tác bản Lai thân

Nam Tuyền Thiền sư nói: Tâm bất thị Phật. Trí bất thị Đạo. Khởi bất lạc không vong, man

nhiên vô chủ tai?

Có kẻ hỏi: lấy gì để tu luyện?

Đáp: Quán nầy là chánh niệm trong Linh quang của ta. Chưa đắc Chân truyền sao gọi là bản

Tánh được. Chính là Bồ Tát trụ cư Tịnh độ, hai báu vật là Thần với Khí ở cách nhau tám tấc

bốn phân xa, nếu chẳng Quán nhất thì làm sao hai bửu vật đó tương hội được. Cho nên phần

hạ văn sẽ nói về hòa hiệp, ngưng tập, quyết định, thành tựu.

Bồ Tát tức là Huệ Mạng, gọi là Phật Tánh.

Từ lúc lìa khỏi bụng mẹ nơi lòng đất phát lên một tiếng, lúc đó là Quán và Bồ Tát hai thành

phần phải lìa nhau. Bồ Tát thì ẩn vào nơi thâm mật, nếu chẳng cầu Chân sư thân chỉ dù có

thông minh linh ngộ cũng không thấy được.

Chỉ vì đạo Tâm duy vi, từ đó về sau những gì mà ngày đêm mưu lự, dù là thông minh trí tuệ

cũng do Thức thần dụng sự.

Tổ sư có nói: các ngươi đều có Phật Tánh, đó là Như Lai phát đại từ bi dạy chúng sanh nơi

đại địa: thời thời khắc khắc quán chiếu lấy Bồ Tát nầy.

Bồ Tát mà thọ được Linh quang của Huệ lực, lâu ngày thì đạt được trạng thái Thái Cực, như

nửa giác nửa mộng, dung hóa khắp châu thân tợ như huân chưng, linh động hoạt bát tợ như

viên ngọc Châu nằm trong bồn nước hoát nhiên linh tĩnh phóng đại quang minh. Thần lực đã

đủ thì thời đến. Chợt vậy, tợ như có một làn thủy triều dâng lên cùng với thức Tánh của ta hiệp

lại làm một.

Page 26: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

26

Đến đây thì Thức Tánh chết, Phật Tánh linh hiệu linh linh như lúc cũ. Đó là Chủ nhơn có ánh

hào quang chiếu soi khắp cõi Ta Bà. Lục thông toàn vẹn hết vương trần cấu, chỉ còn một Tánh

viên dung như thân không. Cho nên mới gọi: cả thảy hàm linh đều có Phật Tánh.

Tuy nhiên nếu sống thuận theo quy luật diễn biến âm dương Hậu Thiên thì sinh người sinh

vật, nếu sống ngược lại là theo cơ tiến hóa một chiều của Trung Thiên thì thành Phật thành Tổ.

Phàm Thánh hai nẻo cũng do chỗ nầy. Đó là một bửu vật, một Thái Cực.

Có được Thái Cực nầy thì tri giác, ngôn ngữ đều thị hiện đúng với đặc tính Thái Cực.

Lúc nầy mắt khép, miệng khóa, y gia gọi là Chân Hỏa. Chân Hỏa thiệt vô hình vô ảnh, ẩn

tàng nơi sau Rún, trước 2 quả Thận, ở dưới 1 tí, treo lững lờ một huyệt, Cổ nhân gọi là Tịnh độ

gia hương, Cực lạc quốc, Diệu hữu, Chân không.

Có được Chân Hỏa nầy mới huân chưng toàn thể âm khí, dâm khí trong người, hóa thành

Thuần dương. Nếu không có Chân Hỏa nầy thì Chân Tức sẽ bị gián đoạn hoặc bị chấm dứt, thì

thân hữu hình sẽ bị hủy hoại.

Lục Tổ nói: Tâm thị địa, Tánh thị vương. Vương cư Tâm địa thượng. Vương tại Thân tâm tại.

Vương khứ Thân Tâm hoại.

Tâm nầy chẳng phải là quả tim thịt mà là Đạo Tâm. Cho nên mới nói: Đạo Tâm cư ư Bắc

cực, nhi chúng tinh triều củng.

Người trong thiên hạ học Phật, nếu chẳng tu lấy Bồ Tát nầy mà tu theo nẻo khác thì vô ích.

Tu theo nẻo khác tức hệ thuộc bàng môn ngoại đạo.

Chẳng phải là Chánh pháp Quán tự tại Bồ Tát.

Bửu tích kinh vân: Hòa hiệp, ngưng tập, quyết định, thành tựu.

Đây là lời mật ngữ của đức Thế Tôn, là bí văn của Đại tạng nhất giáo, là pháp bửu Tánh

Mạng song tu. Cho nên nói: quyết định thành tựu.

Đạo nầy từ Hán Minh đế đến nay chưa có một người hiển bị. Chỉ riêng có Đạt Ma và Tịch

Vô, 2 Tổ sư mật truyền bí pháp nên nhục thân của người tu sĩ mới được biến hóa và thăng lên

cõi Thái Không mà doãn chứng Kim Thân.

Tổ sư Đạt Ma về cơ nhiệm mầu chỉ mới hé lộ, còn Tịch Vô Tổ sư lại nói rõ trong kinh điển,

xiển dương cái Đạo nầy. Nhưng vì môn nhơn lại tàng bế kinh thơ chẳng để tiết lộ ra ngoài.

Nay ta giải thích minh bạch đầy đủ là mong đồng chí khái thông để đạt chứng quả hầu khỏi

bị rơi lạc vào nẻo bàng môn, hay bị tật bệnh mà yểu tử và sớm đạt thành chánh quả.

Page 27: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

27

Hòa là khí Âm trong Tâm hạ hòa với khí Dương trong Thận. Khí Âm mà đắc được khí

Dương nầy mới có cơ sở an Tâm, lập Mạng nên gọi là Hòa.

Hiệp là khí Dương trong Thận thừa thọ khí Âm trong Tâm. Khí Dương được thọ nhận lấy

Âm khí nầy thì được liễm thu thành cái Thể kiên cố nên gọi là Hiệp. Dịch kinh gọi: Nhất Âm

Nhất Dương chi vị Đạo, Thiên Âm Thiên Dương chi vị tật.

Từ xưa đến nay chư Phật chư Tổ đều theo đích hướng Tánh Mạng song tu, chỉ có phàm Tăng

mới bị thiên tu!

Ngưng là pháp ngưng Thần.

Tập là phương gom góp Chân Khí lại.

Chân Khí nếu không tụ tập lại làm sao thành bồ đề. Mạnh Tử gọi: Tập nghĩa nhi sanh.

Đó là Tánh Mạng đều tu, là dưỡng Thần dưỡng Khí, giản dị mà dễ thành.

Chỉ vì chẳng biết song tu nên đức Như Lai mới nói: Hòa Hiệp.

Con người từ khi lìa khỏi bụng mẹ thì Thần chẳng hề cố đoái đến Khí, Khí cũng chẳng hề cố

đoái đến Thần. Thần ẩn tàng nơi Tâm rồi Phật hiện ra 2 mắt, mà bảy khiếu kia đồng công dụng

rồi theo ban ngày tháng mà thượng hao.

Mạng thì ẩn tàng nơi Thận rồi phát hiện ra dâm căn, rồi theo ban đêm mà hạ hao mãi thì bẩm

thọ con người như thế nào? Tiêu hao đến cùng, tức sẽ ô hô! Nếu chẳng cầu Chân sư chỉ điểm

ngưng tập dầu cho có tu cũng chỉ tu một điểm Âm Thần mà thôi. Thù bất tri, Thần nầy là Thần

của Hậu Thiên nên không thành chánh đạo được. Cho nên đức Thế Tôn mới dạy: trong 12 giờ

hành, trụ, tọa, ngọa đều dùng chánh Niệm mà thu liễm cái Thần vi tế ngưng nhập vào trong

Thận Mạng.

Thận Mạng mà đắc được Thần nầy chẳng khác Trung thần gặp được Thánh quân. Thần Khí

cùng nhau củng phục, cũng chẳng dám tự riêng mình thiên ngụy ngoại hao.

Cứ như vậy mà dụng công, lại thêm công phu cùng lý, thì sau đó dùng pháp thể thủ Nguyên

tinh sẽ thành công. Lứa tuổi thiếu niên chẳng tròn một tháng, trung niên không quá 5 tháng thì

Tổ Khiếu Huyền quan thình lình không trở nên có, không biết từ đâu lại. Thoạt vậy Chân cơ

phát động, hết sức vui sướng, đối với sự mầu nhiệm chẳng biết dùng ngôn ngữ gì mà diễn tả

được. Đến đây phải lo bảo thủ và nhanh chóng chuyển bánh Pháp Luân. Cho nên đức Thế Tôn

mới dạy: cứ y theo pháp ngưng tập mà tu luyện thì quyết định sẽ được thành tựu.

Lục Tổ Đàn kinh viết: Hữu tình Lai hạ chủng.

Page 28: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

28

Tình ở đây là sự hé lộ thiên cơ về công phu hạ thủ của Huệ Mạng. Nếu không có Tình nầy thì

không thể nào thành Phật. Thí dụ như nông dân không có giống thóc, nếu muốn thu hoạch có

phải là việc kỳ lạ không.

Thiền Tăng ngày nay chẳng được thành Phật là do cái lỗi không biết được Tình nầy.

Ngày xưa Ngũ Tổ là Tài Tòng đạo nhơn (đời trước) đến cầu đạo nơi Tứ Tổ. Tứ Tổ trông thấy

Ngũ Tổ hình hài đã già và không còn Tình bèn nói: ngươi hãy chờ chuyển hết kiếp đạo nhơn

nầy đã. Kết quả là Ngài đã viên tịch và nhập vào Châu thị và đạt được Chánh đạo. Theo việc

nầy mà nói là chẳng cần đến cha mà tự đầu vào hoài thai, cũng là do cái lý hữu Tình nầy.

Lục Tổ nói: Dâm Tánh thị Phật Tánh.

Mã Tổ nói: cũng chỉ có một báu vật nầy đó là 2 vị Tổ đã tiết lộ Thiên cơ.

Long Nha Thiền sư nói:

Nhơn tình nồng hậu, Đạo tình vi

Đạo dụng nhơn tình thế hãn tri

Không hữu nhơn tình vô đạo dụng

Nhơn tình năng đắc kỷ đa thì (thời)

Chỉ một chữ Tình nầy mà từ Hán Minh đế đến nay khiến học giả phân tách lăng xăng vẫn

chưa được minh bạch.

Nếu chẳng đắc được pháp Huệ Mạng mà gọi là Tình, thì đó là thế Tình.

Có kẻ mới học vài câu sáo ngữ cơ phong thoại đầu mà đã tự cho ta suốt thông chánh đạo. Lại

lấy đó mà hoặc thế vu dân, sao khỏi phải lo để trò cười cho các bậc cao nhân hậu thế!

Ngũ Tổ và Lục Tổ mới là đích thống của Như Lai, là đích truyền cái đạo Huệ Mạng.

Có cái lý cấm bế là chẳng truyền cho kẻ vô đức vốn là sự thật, mà từ xưa đến nay đã có.

Có kẻ hỏi: cái Tình nầy là Tình gì?

Đáp: Tình nầy là cơ hóa dục của Huệ Mạng, là guồng máy đốn khai Nguyên quang. Huệ

Mạng tuy ẩn tàng nơi Huyền quang, lúc tịnh cực thì sẽ phát sinh, rồi y phụ ngoại hình mà dấy

lên, rồi khởi hứng cái Ý trong Tâm ta như có sự tình cờ mà biết. Tình đó đã đến tột thì ngoại

hình hưng động, đó gọi là Tình.

Cho nên về pháp bế Dương quan, Như Lai có nói: bất Thức động Tịnh, học Đạo vô ích.

Page 29: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

29

Có người lại hỏi: thế nào là hạ chủng?

Hoa Dương đáp: Tình nầy là cơ thuận nghịch sanh Người và sanh Tiên Phật.

Cái đoan đích của cơ tạo hóa, nếu chẳng phải Chân Ý thì làm sao nghịch quy được.

Tu sĩ học Phật nếu đã hiểu được cơ hình động thì đem cái Chân Ý vào trong cơ tịnh của ta

ngưng nhập nơi Trung cung lúc Tình lại là lúc phải ngưng. Lâu ngày thì Thiên cơ phát động,

thình lình Mạng cũng sẽ sản xuất Bồ Đề, nên gọi: hạ chủng.

Có kẻ hỏi: tu luyện ở chỗ nào?

Đáp: đã biết ngưng pháp thì phải biết luyện pháp. Luyện là nung nấu. Nung nấu phải dùng

lửa. Lửa chẳng có gió thì không hừng lên, cũng chẳng được huân hóa vật sản. Cho nên đức

Thế Tôn mới nói: Vi Phong xuy động. Lại nói: Hỏa hóa dĩ hậu, thâu thủ Xá Lợi.

Tu sĩ cần phải sai sử cái gió hô hấp mà nghịch xuy cái Chân Hỏa nơi Mạng cung, là từ chỗ

phát sinh ra cái ngoại căn của Huệ Mạng, rồi dùng hô hấp mà nhiếp hồi bản địa mà ngưng tụ,

đoạn lấy cái lửa trong lư để huân để luyện cho đến khi nào hữu hình hóa thành vô hình. Tu

luyện được như vậy chẳng chỉ Huệ Mạng nơi bản cung không bị ngoại hao, lại còn đem cái

động cơ nầy bổ trợ cho bất túc của Huệ Mạng. Tức gọi Tạo hóa sanh sanh vô cùng. Lâu ngày

thì Mạng cơ mãn túc. Lại gọi là Huệ Mạng bất tử. Cho nên đức Như Lai được Ca Diếp gọi bất

tử A La Hán.

Hựu Ma ha bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh viết: Thời.

Trong các kinh thư, hầu hết cứ mỗi câu thơ có vài ý, tối thiểu là có vài chữ, đặc biệt ở đây lại

chỉ có một chữ “Thời”, há chẳng lạ sao?

Đây là lời nhắc nhở của Như Lai dặn dò hộ nhơn nên nhớ: Thời là chí thiết, chí thiết.

Thời đây chẳng phải là thời hầu, thời gian mà là cái thời của Dương động trong lúc tu sĩ dụng

công Thiền định cực tịnh. Cổ Đức nói:

Nhược ngôn kỳ thời vô định thời

Thanh phong minh nguyệt tự gia tri

Nho giáo có nói:

Nguyệt đáo thiên tâm xứ

Phong lai thủy diệu thư

Chư ông tuy nhiên diệu

Page 30: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

30

Dục phát kỳ thiên cơ

Khước khổng bất khẳn thuyết

Xuất thị cá thẩm

Thời Lai thả giáo nhơn

Tương hà sở dụng hồ?

Dư bất tích tội quá.

Dử chư nhơn thông nhất tuyến,

Miễn đọa bàng môn,

Tảo chứng đạo quả,

Khởi bất diệu tai.

Thích nghĩa:

Trăng kia đã đến cốc thần

Gió về mặt nước trong ngần thời Lai

Là cơ tạo hóa an bài

Nhiệm mầu hiển hiện không ngoài Thiên cơ

Từ xưa lời mãi lặng tờ

Cũng là Chân Dược Chân cơ nơi người

Thời Lai chớ khá dễ người

Lấy chi thể dụng vẹn mười mới nên.

Tám câu thơ trên là lời tiết tận Thiên cơ của ta mà không sợ tội lỗi, là muốn cùng tu sĩ đồng

theo chánh pháp để khỏi đọa bàng môn, sớm thành chánh quả, há chẳng huyền diệu sao.

Thời đây là lúc Huệ Mạng trong thân ta tự động. Cổ Đức gọi là hượt Tí thời.

Cái cơ phát sanh của khí Chơn Dương tợ như lửa phựt, mạnh tợ gió lửa. Nếu không có Chân

sư truyền trao về Chân Ý và Chân Tức thì lấy gì để chế phục.

Page 31: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

31

Nó có biệt danh là mãnh Hổ, chuyên nuốt Tánh Mạng người, hút lấy cốt tủy người. Có biết

bao anh hùng hào kiệt trong Tam giáo vì chưa đắc Chân truyền nên bị nó gây hại!

Các vị cao nhơn chí sĩ ngày xưa trước nhất đều lo chế phục con mãnh Hổ nầy mới đắc thành

Chánh quả.

Lúc nó phát động ra hình dung, thì cơ thể ta như tươi tỉnh vui vui, như lặng mình tắm trong

bồn nước ấm, Đơn Điền hừng hừng như lửa muốn phát có một tín hiệu như một mạch tráng

vượng cường liệt. Chân Dược được huân chưng thấu tận dâm căn, tức hóa thành tinh hoa, oai

trấn độc lập khắp châu thân, tất cả đều thính lệnh theo nó. Y gia gọi ngoại Thận hưng, là diệu

quyết thành Phật tác Tổ, đều do ở công phu hạ thủ nầy.

Nếu đã đắc Chân truyền, hà tất phải còn nghi hoặc. Thời đây là bí cơ của Phật giáo.

Thế Tôn viết: Ư Kiệt Đà Long Cung thuyết pháp

Thượng văn một tiết, nói về chỗ thiệt xứ của tất cả đều tại chỗ Thiệt xứ nầy. Lại sợ người đời

sau rơi vào nẻo Không, nên ở đây chuyên nói về chỗ Chân thiệt đó, khiến cho người tu không

lạc vào nẻo Không.

Long Cung: là phạn ngữ của Tây phương, thí dụ Trung Hoa gọi Đơn Điền khí huyệt, Y gia

gọi Tinh khiếu. Tây Thiên còn gọi là Tịnh Độ, Khí Hải, Hải Đề, Cực Lạc quốc, Ưu Đà Na.

Tên tuy có nhiều nhưng chỉ có một chỗ là chỗ Chân Chủng sở sản.

Thiên Thai chỉ quán tập có nói: tiếng phạn là Ưu Đà Na, tức là Đơn Điền.

Cận đại, những bậc đắc đạo sợ người không hiểu nên lại nói: Lư.

Đó là lòng từ bi của các vị Tổ sư nên thí dụ thiết cận nhất để cho người biết được chỗ Chân

thiệt. Thí dụ như người thợ rèn muốn làm ra vật dụng khéo phải nhờ có cái lò mới thành công,

sự tu luyện cũng như vậy.

Lư là gì? Là nơi huân hóa vật hữu hình thành bửu vật, là luyện Nguyên Tinh thành Xá Lợi.

Tâm kinh giải có nói:

Thâu Lai phóng tại Đơn Lư nội

Luyện đắc kim ô nhất dạng hồng

Quang Minh Như Lai nói:

Lư trung phát hỏa tiết thiên cơ

Bất ngộ Tây Lai tức thị mê

Page 32: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

32

Viên Thông Thiền sư viết: Bắc đẩu lý tàng thân.

Bắc đẩu là Long cung, tàng thân là ngưng tập. Tổ sư thường dạy ta phải đem cái Chân niệm trí

tàng nơi Long cung thì Tâm tự hư không, Mạng tự kiên cố. Phó Đại sử nói: Tâm không cực

địa quy.

Tịch Vô Thiền sư viết: ngưng Thần thâu nhập thử khiếu chi trung, tắc khí tùy Thần

vãng, tự nhiên quy ư thử xứ.

Tịch Vô Thiền sư đắc được toàn chỉ của Như Lai, của Đạt Ma Tổ sư, là đích truyền của Huệ

Mạng. Cho nên ngài mới được ẩn hiện mạc trắc, biến hóa vô cùng. Vào thời vua Ung Chánh

thường đến thái ấp, hóa dương thân vài mươi nhà đều có Tịch vô đàm tiếu, ẩm thực, ẩn hiện

không có tông tích, hoặc cho người kim ngân, mỹ nữ, hoặc hiện hổ báo, thủy hỏa.

Còn những người tu học mà phàm Tâm cứ mãi vọng niệm về tình dục thì làm sao đắc đạo

được.

Ngưng là Thần ngưng, là cái Chân Ý an trụ nơi Tổ khiếu, còn gọi là Tịch, là Chỉ, là Trụ.

Thần ngưng để thể Dược quy Lư. Thần ngưng để tịch chiếu, để huân chưng, để phong cố, để

thâu thủ Tiên Thiên chân Khí về Trung Cung.

Chân Khí nầy Thích gia gọi là Trị trượng, Tích trượng, Thiền na, Trích lô, Bạch tuyết, Kim

liên, Tây giang thủy, Tào khê thủy, Lư trung hỏa… Tên tuy nhiều nhưng chỉ có một là Tiên

Thiên Chân Khí.

Cho nên Huỳnh Tiết Thiền sư sau khi tham cầu nơi Lục Tổ được đắc đạo, là sau lúc công phu

tu luyện được viên mãn mới nói: cũng chỉ là Tiên Thiên Chân Khí mà thôi. Lời nói nầy đã tiết

tận Thiên cơ.

Hựu viết: công phu bất gián đoạn, tức tức quy căn. Hoặc nhất nguyệt, tiện năng tự giác,

khiếu trung dung, noãn khí triền động.

Tức: là khí hô hấp, Phật thí dụ là gió. Còn có tên là Trụ trượng, như vị lão thành chống gậy

đi.

Tu Huệ Mạng nếu không có khí hô hấp nầy đi hà để thổi thì Lậu tận chẳng hóa, Xá Lợi chẳng

thành. Có một Thiền sư nói:

Vị đáo thủy cùng sơn tận xứ

Thả tương tác bạn quá thời quang

Page 33: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

33

Khí hô hấp của con người nguyên căn vốn tại Đơn Điền, chỉ vì người biết xuất mà chẳng biết

tấn.

Người đắc được Chân truyền thì Thần của Đơn Điền mới hay tiếp thu lấy hơi thở. Cho nên

Thiền sư nói: vô khổng địch (ống sáo trống) điên đảo lưỡng đầu hề xuy, cảnh đắc Thần Khí

tương hiệp, cửu tắc tự noản (ấm), Pháp luân tự chuyển. Niên lão niên thiếu cho phân biệt.

Thiếu niên nguyệt nội, Lư trung tự hửu hiệu nghiệm chi cơ xâm. Niên lão hoặc sổ ngoạt

phương hửu hồn hiệp chi tín chí, noãn khí tự hửu động cơ.

Tịnh Quang Như Lai viết:

Kim đồng nhất tĩnh khí hoàng cung

Bất giác trỉ ngưu pháp hải trung

Dục yếu mích tha quy cố lý

Linh sơn tháp hạ thủy tri tông

Tạm dịch:

Kim đồng mới tỉnh bỏ hoàng cung

Chẳng ngờ Chân khí đến Hải trung

Muốn được Thần về nơi xóm cũ

Linh sơn tháp hạ mới rành tông

Kim đồng là Thái tử, là đức Thế Tôn.

Thái tử vừa phát tâm xuất gia tu hành, Thiên thần liền biến hình Bạch mã đưa ra khỏi hoàng

cung đằng không lên núi Tuyết sơn, rồi tự lấy đao vàng cắt tóc.

Lúc đầu chưa đắc Chân truyền, nên tu theo bàng môn, cho nên Lậu tận không thành mà hình

hài thì gầy ốm! Sau đó mới được A Tư Đà trao truyền chánh pháp Huệ Mạng mới thành Phật

vị.

Cho nên Pháp Hoa kinh mới nói: Tiên trưởng trao cho Phật diệu pháp, nên Thái tử mới thành

Phật.

Thích gia phổ có nói: Tư Đà thấy Thái tử hình hài ốm gầy mới bảo Thái tử: có thể thực ngưu

nhủ thì sẽ được phản phục lại như ngày trước.

Page 34: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

34

Thái tử sau khi thực ngưu nhủ rồi thì tự nhiên phát hiện ra 32 Phật tướng, đạo quả viên mãn.

Ngài mới cầu đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho.

Thế Tôn sơ hạ công phu, tu luyện theo chánh đạo, chỉ trong 49 ngày thì có Minh Tinh chiếu

hiện, mới tự than rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.

Chỉ vì người chẳng đắc được cái đạo nầy mới bị lỗi lầm và lạc theo nẻo ngoại đạo bàng môn.

Thế Tôn nói: Phật Tánh tức Huệ Mạng.

Trỉ ngưu hay ngưu nhủ: là Tiên Thiên Chân Khí

Hải Trung: là Đơn Điền

Như Lai dạy người tu luyện phải tu tại Linh sơn tháp hạ, sau đó mới có hiệu nghiệm là Trỉ

ngưu quy cố lý.

Cho nên trong tạng kinh có ghi:

Nhơn nhơn hữu cá Linh sơn tháp

Hảo hướng linh san tháp hạ tu

Tri tông: trong Đơn Điền, hốt nhiên vô trung sanh hữu. Chẳng chở gì cả, từ trong ý niệm giác

với tri dung hòa làm một, tợ như quang cảnh mùa xuân, vui sướng khôn cùng.

Mã Tổ nói: suốt cả bì mao, sướng đến tứ chi.

Cố lý: là Đơn Điền, là Tâm Điền, mới do Trung Hạ quy Thượng, hóa Thức tánh thành Phật

tánh, đốt tạp niệm thành Chánh niệm, rạng ngời một Chủ nhơn ông, nên gọi: quy cố lý.

Viên Thông Thiền sư viết: Quần Âm bác tận nhất Dương phục sinh. Dục kiến thiên địa

chi tâm, tu thức thừa ân chi pháp.

Quần Âm bác tận: Theo dịch lý, con người Hậu Thiên có nhân phẩm thấp nhất, Thánh nhân

tượng quy Sơn Địa Bác, quẻ này trong có 5 âm, ngoài có 1 dương, còn 1 dương tức còn kiếp

sống con người, nếu kẻ nào đã toàn âm thì tuy còn mang hình vóc con người nhưng tâm hồn là

cầm thú.

Vì lẽ con người có 5 âm nên phải ra công huân hóa từng một trong 5 âm, nên mới gọi Ngũ

thiền.

Còn một lý nữa là vũ trụ bên trong con người và vũ trụ bên ngoài thế giới Hậu Thiên đều có

1 thời Âm cực, đó là thời Tuất Hợi Thái cực.

Page 35: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

35

Thế giới bên ngoài, như trong một ngày đêm có 2 giờ Tuất Hợi Thái cực là thời thuần Âm,

rồi đến Thái cực thì có nhất Dương phục sinh.

Nhờ có 1 Dương nầy trở lại sinh nên có cơ tạo hóa tiếp nối sự sống còn của vạn hữu vũ trụ

trong thời gian kế tiếp.

Trong một tháng có 5 ngày Thái cực là từ 26 đến 30 Âm lịch. Trong một năm có 2 tháng

Tuất Hợi Thái cực. Trong một đại nguyên có 2 hội Tuất Hợi Thái cực. Nhờ có thời Thái cực

nầy mà thế giới Hậu Thiên được tiếp nối sự sống còn.

Thời Thái cực nầy chỉ thị hiện có 3 thời là: Thành, trụ và hoại. Cuối cùng đến thời kỳ không

thì không có thời Thái cực thị hiện nữa, rồi đến cực thời thế giới nầy nổ tung thành vô số đơn

cực vi tế. Số đơn cực vi tế nầy phải chờ đến vị cực vi tế. Số đơn vị cực vi tế nầy phải chờ đến

thời kỳ Thành tiếp nối mới họp thành một thế giới mới. Cứ như vậy mà tạo mà hóa mãi.

Con người lại có 2 thời Thái cực là thời Thái cực thiên nhiên và thời Thái cực tự tạo.

Thời Thái cực thiên nhiên là 2 giờ Tuất Hợi.

Thời Thái cực tự tạo là do công phu Thiền định.

Thiên địa chi tâm: là Đơn Điền, là Tổ khiếu.

Thiệu Khương Tiết nói: Đông chí Tý chi bán Thiên Tâm vô cải di.

Muốn thấy được Tâm nầy phải dụng công Thiền định đến cực Tịnh thì thấy được, đó là

Huyền quan Tổ khiếu xuất hiện và Chân chủng tử sẽ phát sinh. Đó là pháp thừa âm của chủ

đích Thuần Dương.

Cơ tạo tác Phật Tiên cũng không ngoài chủ đích Thuần Dương, hay còn gọi là Cao Đài hóa.

Lăng Nghiêm Kinh vân: nguyên lập đạo tràng tiên thủ Tuyết sơn đại lực Bạch ngưu, khả

thủ kỳ phấn dĩ nê kỳ địa.

Thí dụ: đạo tràng là nói về chỗ khởi thủ của công phu tu luyện.

Ngưu Phấn: là nói về căn bản tu Huệ Mạng, là Thuần Dương hóa. Thế Tôn dạy người tu

luyện trước phải tu Huệ Mạng là Thuần Dương Hóa, lấy Tánh Mạng của kiếp người Hậu

Thiên để trở thành Chân chánh Mạng Tiên Thiên bất sanh bất tử. Nếu chỉ tu đơn độc một

thành phần Âm trong Tâm Ly Hỏa của Hậu thiên, Lăng Nghiêm Kinh cho rằng: chỉ thành âm

ma mà thôi.

Thiền môn ngày nay không hiểu nên chỉ tu Tánh mà không tu Huệ Mạng, rồi thường thường

điên đảo và biến thành tật bệnh! đến chết!

Page 36: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

36

Lại còn nói về đốn ngộ thập địa, tam thừa cuối cùng cũng thành hư lão.

Chẳng biết chỗ đẹp của Tuyết sơn đại lực bạch ngưu phẩm mà nói tu luyện, thì có khác gì kẻ

mài gạch mà nói để làm gương. Lại còn quấy lấy sự nhóm tuyết là gạo, gây cho nhiều người

ngộ nhận.

Đã không tạo lập căn cơ của Mạng thì đâu có cái lý sẽ thành Tánh đạo.

Tuyết là chỉ cho màu trắng, là chính sắc của Tây phương, là thí dụ về Chân Khí trong Thận

Mạng. Cho nên mới nói: Như Lai tu luyện là tu Tây phương Cực lạc.

Lương y lại nói rõ: Lưỡng Thận chi tiền, không huyền nhất bạch quyện.

Tiên Thiên Chân Tánh Mạng và Thủy Hỏa đều ở trong đó, vốn vô hình vô tướng, không

không lộng lộng có Huệ Mạng ở trong đó. Nếu chẳng gấp tự luyện làm sao kéo dài tuổi thọ

được.

Rồi cứ mãi: buôn danh lợi nên hao tán, theo sắc dục mà thất Chân!

Còn người xuất gia cứ mãi niệm tụng, khô tọa phân ly! ô hô! Dầu khô đèn tắt, chẳng đến nửa

trăm mà đã Mạng vong!

Cho nên Thánh nhân mới lấy Tuyết Sơn để thí dụ cho Tiên Thiên Chân khí là thuốc trường

sinh của con người. Thuốc nầy vốn không tỳ không sắc trong ngần như tuyết nên gọi: đại lực

Bạch ngưu.

Chân khí nầy lúc ẩn lúc hiện, bao hàm trời đất, chuyên chở muôn vật. Quảng đại thì vốn vô

biên, tế vi thì nhỏ hơn hạt bụi. Tìm nó thì không thấy hình ảnh, tu lấy nó thì kết quả hiện tiền.

Siêu Phật, vượt Tổ đều do Chân khí nầy.

Mạnh Tử gọi: Chí đại chí cương, há lại lầm sao.

Chân khí nầy có cơ biến hóa, tuổi niên tráng thì lại mong chầu ải quan, lúc tịnh cực thì nó tự

sanh.

Chẳng biết bảo thủ thì nó tự hao tán nên gọi Phẩn. Cứ để hao tán mãi mà chẳng trúc cơ cố

Mạng thì tuổi thọ sẽ được là bao.

Nho Gia nói: nếu biết dụng công để nuôi lấy Chân khí nầy, khác gì kẻ dụng công thì chẳng

có đường đi, lại bị gai tranh lấp kín.

Chân Khí (Phẩn) là loại đao chém chết quần ma, mà còn là bệ là cấp để lên Tiên lên Phật.

Page 37: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

37

Chẳng giữ lấy Chân khí nầy mà nói tu nói luyện, ngàn đời cũng hóa thành không! Thí dụ như

người muốn kiến tạo một ngôi nhà mà chẳng có nền móng thì lấy chỗ nào để ở, và kiến thiết

có được không?

Các bậc Chí nhân ngày xưa biết được chỗ xuất xứ của Chân khí, rồi lúc tịnh thì dưỡng, lúc

động thì thể thủ, là thâu nhiếp Chân Dược về bản địa rồi dùng Chân Hỏa hà luyện trúc cơ. Tự

hoàn cơ chỉ nên gọi nê đạo tràng.

Đã có được Tràng cơ, lại không thể thiếu Thiện tri thức. Thời khắc đem Chân Ý của ta tọa cư

nơi trong. Một niệm chẳng dấy lên thì Bát Phong làm sao diêu động được. Cho nên Thiệu

Khương Tiết mới nói: nhất niệm bất khởi quỷ Thần mạc tri, bất do hồ ngã, cánh do hồ thùy

độc độc duy duy, nhậm tha thiên ma bá quái.

Ngã tại giá lý, ẩn thân an nhiên tự tại, cho nên gọi hòa thượng đạo tràng, và chẳng còn gặp

ma loại nữa, tức A Nan gọi: Tọa nơi trung lưu thủy diện, kiết già mà nhập diệt.

Lăng Nghiêm kinh hựu viết: Tất sử dâm cờ thâm tâm cu đoạn đoạn. Tánh diệc vô ư Phật

Bồ đề tư khả hi ký.

Từ xưa đến nay những vị đã thành Chánh quả, không vị nào trước chẳng lo đoạn diệt Dâm cơ

và sau đó mới siêu Phật vượt Tổ.

Thích tử ngày nay không hề biết đến pháp đoạn dâm. Chỉ có một chữ Dâm cơ mà đời ít có

người biết. Chẳng những chẳng biết pháp tu luyện là việc sở dĩ nhiên, mà Tâm với Thân cũng

không thiệt khiến chẳng dâm. Tại sao vậy?

Dâm cơ khi phát tra hình tướng tợ như cục lửa đỏ rực, nhanh tợ như con gió lửa nếu chẳng

đắc pháp thì lấy gì để thâu lấy cục lửa đỏ nầy về, mà còn cái lo nguy hiểm cho thâm tâm. Còn

nếu không có Dâm cơ nầy phát động thì có gì lo lắng nữa. Cho nên đức Thế Tôn đã biết về sự

lợi hại của Dâm cơ nầy. Khó tự mình hoàn tất được mà phải cầu Chân sư chỉ truyền cho Chân

thiệt pháp mới đoạn được Dâm cơ toàn vẹn.

Cho nên Sát Thiền sư mới nói:

Tổ ý như không thị bất không

Linh cơ tranh đoạt hữu vi công

Pháp nầy rất giản dị, nếu chẳng có túc duyên về thiện căn, dù đã đối diện với Chân sư cũng

không nghe được chánh pháp thì dâm cơ làm sao đoạn được.

Nếu không tiếp đến luyện hư tâm, cầu Chân sư chỉ truyền, dù cho có thiên tu vạn luyện cũng

không tránh khỏi cái hoạn tẩu thất.

Page 38: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

38

Cho nên phái Tòng Lâm ngày nay vì đã mang nghiệp chướng nên chẳng đắc pháp, và không

có một người được thành tựu!

Tăng sung quân hỏi: Dâm cơ là vật gì vậy?

Đáp: Dâm cơ là hình ở trong, Dâm căn là hình bên ngoài. Chẳng biết tu luyện thì Thân và

Tâm đều bị kéo lôi theo cơ Dâm đó. Cho nên Mạnh Tử mới nói: Khí cũng hay làm dao động

đến Chí.

Hỏi: Có pháp gì để chế phục?

Đáp: nếu đắc được Chân quyết, lập tức lấy Thần chủ sử thì Dâm cơ tự dừng. Mạnh Tử mới

nói: Chí là một vị tướng soái. Lấy hô hấp thu nhiếp thì Khí tự quy. Đạt Ma Tổ sư gọi là Thể

thủ.

Thần tức là Lửa, Hơi thở là Gió.

Cơ phát tuy là Khí mà bên trong thực có vật tư của Lậu tận. Nếu chẳng tại đây hà luyện thì

Thân và Tâm sẽ bị dẫn theo Dâm cơ.

Lấy Đơn Điền làm lò, lấy Hạp tịch làm ống bể, lấy Lửa mà luyện, lấy Gió mà thổi, lấy hơi

ấm làm hiệu nghiệm, lấy sướng khoái làm vô sự.

Lâu lâu hà luyện thì Dâm cơ tự chết, dâm tính tự đoạn. Đoạn cho đến còn một rồi không thì

Thân Tâm thái bình, ba giống dâm sự chẳng còn tập nhóm nơi Bồ Đề, có khó gì đâu.

Đây là bí pháp ngàn đời Phật và Tổ chẳng truyền mà nay Ta đã tận tiết lậu.

Là con nhà Thích mà chẳng tu đoạn Dâm sẽ lại gọi là Thiện trí thức, Lăng Nghiêm kinh gọi

đó là 53 giống ma vậy.

Tịch Vô Thiền sư viết: Kỳ cơ ký phát, ngưng Thần nhập ư đơn điền, đương dụng Võ Hỏa

thâu nhiếp nhi quy, dĩ huân dĩ luyện. Cơ chi vị phát, dĩ thần chiếu chi đơn điền, đương

dụng văn hỏa bất ly nhi thủ, dĩ phanh dĩ luyện. Tợ thử ngộ nhập, tài đắc Chân chủng

phát sinh.

Cơ tức là Thận động. Thận động là Chân khí động. Chân khí đã động lập tức hồi quang phản

chiếu, ngưng Thần nhập Khí huyệt thì Thần với Khí chẳng lìa nhau, tợ như đá nam châm hút

sắt, rồi vượt qua mọi chướng ngại và giấu kín rồi hanh thông, hiệp lại làm một.

Tổ sư lại còn sợ lúc lâm thời Chân Dược sinh tợ như con mãnh Hổ khó chế phục nên phải

dùng võ hỏa, đó là tiết tận Thiên cơ với lòng đầy đức từ bi vị chúng. Tu sĩ đời sau học Phật

đều nhờ cái ân mưa móc nầy.

Page 39: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

39

Võ Hỏa là một pháp tu luyện, là bí cơ thành Phật. Phật Phật tâm thọ, Tổ Tổ khẩu truyền hiểu

thẳng thật khó! Cho nên Ngũ Tổ mới nói: Sư Sư mật phụ bản âm.

Thế Tôn và Đạt Ma tuy nêu hỏa hóa phong xuy nhưng văn hỏa và võ hỏa chưa chép rõ nơi

tre lụa. Cho nên người trong giới tu hành đã không song tu mà cũng không tin tưởng.

Từ sau Đạt Ma và Tịnh Vô là những bậc cao Tăng đã được hình Thần cu diệu.

Có người hỏi: sao gọi là Võ Hỏa nhiếp quy?

Đáp: là dùng Khí hô hấp mạnh thu nhiếp Chân Dược quy Lư, và chẳng hề xa lìa Chân Ý, lấy

Chân Ý làm chủ tể, cho nên nói Chân Ý theo đuổi 2 khí, rồi cổ vũ, rồi nhiếp quy cũng đều tại

Chân Ý, năng lực của Chân Ý.

Chân Dược sau khi sinh ra có đặc tính hạ lưu thuận xuất, nên mượn khí hô hấp mà nhiếp thu.

Nếu chẳng dùng khí hô hấp mà cổ vũ thì một phần khó nhiếp mà Chân Dược cũng khó quy. 2

khí nguyên có kiêm dụng, cho nên Thiền sư mới nói: nhà ngươi có cái Trụ thượng tử. Ta và

ngươi đồng có một Trụ thượng tử. Đó là thí dụ 2 khí ở cơ đồng dụng.

Theo đúng cơ hô hấp, Chân Ý của ta ra từ ngoài Âm Kiều mà nghinh tiếp Chân Dược quy

Lư, Đạt Ma gọi Thể thủ. Thể thủ hoặc mươi nghinh, hoặc vài mươi nghinh, nghinh cho đến

khi nào ngoại hình đảo thế mới nghỉ. Tiên Gia gọi quy Túc. Suốt thông được 2 khí nầy về cơ

hạp tịch và tiêu tức, thì Chân Tinh tự quy Lư.

Lúc vận dụng 2 khí, Chân Ý nơi Lư trung không được chấp trước ở hô hấp mà chỉ nương

theo Chân Dược mà Thể thủ. Chẳng qua cũng chỉ là mượn cơ hô hấp để làm công cụ Thể thủ.

Lục Tổ gọi: vãng Bắc tiếp độ.

Chân Dược đã quy Lư, còn phải huân chưng, lấy Chân Ý tịnh định mà làm Hỏa, lấy hơi thở

để thổi mà hóa làm Gió, nung nấu một lúc thì vật tư của Lậu tận hóa thành Chân Khí. Công

phu nầy phải dùng sức mạnh của Chân Ý với dạng trì trọng, gọi là võ Hỏa.

Hỏi: sao gọi là văn Hỏa?

Đáp: là bất tồn nhi thủ, bất tức nhi khu. Thời thời khắc khắc bất muội tỉnh ngộ, miên miên

bất đoạn, tức tức quy Lư.

Cổ Đức có nói: trượng vãng trượng Lai vô gián đoạn.

Xá Lợi thành toàn hiệp với bản sơ. Tối kỵ hôn mê tán loạn, một niệm chẳng khởi, một khí

chẳng tán, tợ như giống lửa trong lò.

Page 40: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

40

Tu luyện được như vậy lo gì Chân chủng chẳng sinh, Xá Lợi chẳng kết, Chánh giác chẳng

thành.

Thích gia phổ Thế Tôn viết: Đối đẩu Minh tinh nhi ngộ đạo.

Đối: Trung Hoa gọi là Phản quán.

Đẩu: là Bắc đẩu, là thí dụ Đơn Điền.

Minh tinh: là Chơn Khí nơi Đơn Điền phát sinh. Chính là cảnh Chân chủng sở sản.

Hưng Dương Thiền sư nói: Tạp (một vòng) địa hồng luân (bánh xe) tú.

Hải để tức khai hoa.

Viên Thông Thiền sư viết:

Bắc đẩu tàng thân tuy hữu ngộ

Xuất Thần tiêu tức thiểu nhơn tri.

Tàng thân: là Chân Khí ẩn tàng nơi Đơn Điền. Chân Khí ẩn tàng nơi nào thì Chơn Thần cũng

ẩn tàng nơi đó. Đó là cách dụng công như vậy, nếu chẳng như vậy thì làm sao xuất ly cõi trần

được, xuất trần là Quá quan phục thực, là một bí quyết thâm mật không được khinh truyền.

Nếu chẳng Quá quan hay không biết pháp Quá quan thì Xá Lợi phải bị hao tán, tận phế tiền

công. Cho nên Hưng Dương Thiền sư mới nói: Thối nhất bộ tắc thất sự. Nên nói: xuất trần tiêu

tức thiểu nhơn tri!

Thử thượng số giả, Huệ Mạng kinh chi diệu pháp, hòa hiệp Chân chủng chi Thiên cơ,

thả tại tư dư, nhi kỳ Phong Hỏa chi công, diệc bất ngoại thị hỉ.

Đây là tiết tổng kết phần văn trên nói về pháp hòa hiệp Chân chủng nơi Phong Hỏa, cổ Thánh

chẳng khứng toàn lộ, nên người tu luyện đành bị rơi vào nẻo vạy.

Nay ta lại nói cạn lời, phân tích tỏ rõ hầu mong đồng chí được suốt thông, trước khỏi lạc nẻo

bàng môn, sau thành Chánh giác. Còn người đời nếu có ai thích Phật thì tiềm tâm nơi kinh

nầy, rồi tự tu tự chứng để thành chánh quả, há chẳng vui sao.

Dư Cố viết: Tự thủy ngưng Thần phản chiếu Long cung, hồn nhiên nhi định tịnh.

Dĩ song vong nhi đải động. Dĩ Ý Khí nhi đồng dụng. Dĩ Thần Hỏa nhi hóa. Dĩ tức phong

nhi xuy. Dĩ võ nhi luyện, dĩ văn nhi thủ. Cửu cửu huân chưng, khắc khắc vô gián. Ý Khí

lưỡng bất tương ly. Tắc hòa hiệp ngưng tập chi pháp đắc hỷ.

Page 41: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

41

Đoạn văn nầy tổng kết về pháp hòa hiệp Chân chủng phong hỏa, mà cổ Thánh chẳng khứng

toàn lộ.

Long cung: là Đơn Điền, trong đó có nước. Long cung có nước, nước có đặc tính trầm trọng

và luôn luôn hạ lưu.

Thần tức là Hỏa, hỏa có đặc tính kinh phù, thường thường thượng xung.

Cũng như người đời Tâm Hỏa thì thượng xung, Thận Thủy thì hạ lậu, 2 thành phần đó

thường ly cách nhau, hằng phân tán nên không thành Đạo. Thánh nhân mới dạy lấy Tâm Hỏa

giáng nhập vào Thận Thủy thì Tâm tự hư không, mà Hỏa cũng không còn thượng lậu. Còn

Thủy đắc được Hỏa, Thủy cũng không còn hạ lậu và hóa thành Chân khí. Chân khí sẽ được

thượng thăng.

Trong lúc ngưng Thần thì nội niệm bất xuất, ngoại niệm bất nhập, không không lộng lộng,

chẳng trước chẳng trệ. Lúc Chân Dược sản lập tức hồi quang phản chiếu thì quên hình quên ý.

Nếu dụng Ý tức là chẳng quên, nếu quên thì không được lấy Ý mà chiếu. Tâm đã hư không

mới gọi là chiếu. Lòng dục đã mất hết mới gọi là vong. Chiếu với vong tuy một mà hai, tuy hai

mà một.

Lúc đáng quên thì Tâm phải thật thanh tịnh mà luôn luôn phải chiếu. Lúc đương chiếu thì

một mảy hình tướng cũng không tạo lập, luôn luôn là quên. Chiếu với vong đã thuần nhất định

tịnh, thiên địa nhơn ngã chẳng cần biết đi về đâu.

Còn trạng thái công phu chờ động phải thật cực tịnh, thình lình trong người có trạng thái

dung dung hòa hòa, ngoại hình vụt cử. Lập tức dùng Chân Ý mà nghinh Chân Dược quy Lư,

rồi lấy Thần trụ định nơi trong, lấy hô hấp mà thổi. Lại phải nhớ là chớ trợ lực, và chớ nên

quên. Hành trụ tọa ngọa cũng không được lìa báu vật, lo gì Chân chủng chẳng sản.

Bất văn đắc đạo cổ Nho chi ngôn hồ.

Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa

Nhân ôn thiên địa sạ hồi triền.

Từ đây trở xuống nói về thời Chân chủng sở sản.

Cổ Nho tức Tiên sinh Thiệu Khương Tiết.

Chúng ta là con nhà Thích giáo, thế mà không hiểu biết về điều Thiên cơ bí mật nầy, lại cho

môn đệ của Nho giáo không biết Chân truyền của nền Đại Đạo. Còn bản thân mình cứ mãi lo

đả thất, quỳ hương tham khẩu đầu, luận công án … và gọi là đắc đạo. Thật là trò cười vậy!

Page 42: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

42

Hoảng hốt: là trong cơ tịnh định đã đạt thành một khối hồn nhiên, ngoài chẳng thấy có thân,

trong không thấy Tâm. Là trạng thái Thái Cực cực tịnh, người xưa nửa thức nửa ngủ. Công

phu đến trạng thái nầy thì không khí Chân Dương bắt đầu động và phát sinh Nguyên khí. Cho

đến lúc Chân Dương khí bắt đầu triền động thì sinh Nguyên Tinh.

Nếu người nào đắc được Chơn truyền, lập tức thể Chân Dược nầy thâu quy về Lư. Thường

nhơn không biết nên Chân Dược nầy biến thành hữu hình tinh rồi tẩu xuất.

Lục Tổ Đàn kinh viết: Nhân địa quả hườn sinh.

Địa: là Đơn Điền, là Thần thất, là linh địa, là nơi quả sinh.

Quả hườn sinh: tiết trước đã nói: Hữu tình Lai hạ chủng là do cơ hòa hiệp mà có. Công phu

đến đây mới có quả sinh. Quả tức Bồ đề chủng tử, là Xá Lợi tử.

Vô Lượng Quang Minh Như Lai viết:

Phân minh động tịnh ưng vô tướng

Bất giác Long cung hộng nhất thinh.

Vô tướng: Thích giáo gọi là Oai âm, Nho giáo gọi Vô cực.

Bửu vật nầy nguyên từ đầu vốn không hình không tướng do tịnh định mới sinh.

Long cung: là Đơn điền, là Tổ khiếu, là nhơn địa, là Cốc thần…

Hộng nhất thinh: là quả sinh. Nho gọi: Đổ vũ nhất thinh Xuân hiểu. Là Dương khí sinh. Biết

được cơ Hộng nhất thinh thì nước động Thủy (Khảm cung) có thể nối dòng, nước Tây giang

(Ly cung) có thể thu hút, nước bể (Khảm Thủy) có thể gội đầu.

Lại nói: Địa lôi chấn động tốn môn khai.

Lại nói: Lôi tùng địa hướng (gầm).

Tử Ma Kim Quang Như Lai viết: Hải để nê tự lộ bán hình.

Hải để là Đơn điền. Hoa Dương Thiền sư cũng nói: Hải để là nguyên quật tàng chứa Huệ

Mạng. Thế Tôn gọi: Ma Ni. Là nơi Thần Khí hòa hiệp để luyện thành Chân chủng tử.

Lộ bán hình: là Pháp tượng Chân chủng gần sản.

Lúc Chân chủng tử mới lộ nửa hình, Tu sĩ phải tịnh, Thần trụ nơi Cốc Thần để chờ, không

được gấp Thể thủ. Chờ cho Trâu nọ lộ toàn hình mới hạ công Thể thủ, nếu gấp và niệm động

thì Trâu nọ kinh hoảng rồi ẩn tàng vô tông tích.

Page 43: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

43

Viên Thông Thiền sư gọi là bất sanh.

Tịch Vô Thiền sư nói: Tất tu nguyên khiếu sinh vật. Tư khả dương Lư phát hỏa. Cố mạc vi

chi tiên, diệc mạc vi chi hậu. Nhược Thiên cơ vị chí nhi tiên trợ trưởng, tắc ngoại tương tuy

hành, nhi nội phù vị ứng. Thích tư thủ phàn khu chi hung! Nghĩa là:

Cần phải tạo cho Huyền quan khiếu sinh bửu vật, lúc đó thì Dương Lư mới phát Hỏa. Cho

nên chẳng được Thể thủ trước, mà cũng không được Thể thủ sau. Nếu Thiên cơ chưa đến mà

lo phát hỏa, dù ngoại tướng tuy có vận hành nhưng nội phù cũng không ứng theo.

Ngoại tướng nói về đường Đốc Mạch.

Nội phù nói về đường Nhâm Mạch.

Như vậy chỉ là thiêu đốt cơ thể mà thôi.

Viên Thông Thiền sư viết:

Mai hoa vị phát thái tảo sanh

Mai hoa dĩ phát thái trì sanh

Mai hoa là tín hiệu báo thời Xuân dương sắp đến. Còn trong người thì thí dụ cái cảnh khí

Chân Dương phát sinh.

Vị phát: là khí Chân Dương mới gần phát động, chứ chưa phát động. Lúc này nếu vội Thể

thủ là sai lầm vì Chân Dược còn non sẽ không kết đơn, nên gọi: thái tảo sanh.

Dĩ phát: là khí Chân Dương đã phát hiện toàn hình, gọi là triền động, lập tức Thể thủ quy Lư.

Nếu Chân Dược đã lộ toàn hình mà không Thể thủ đem về Trung cung thì nó sẽ biến thành

hữu hình tinh, gọi là thuốc già sẽ không kết Xá Lợi, nên gọi: thái trì sanh.

Viên Ngộ Thiền sư nói: Tấn nhất bộ tắc hữu mê lý thối nhất bộ tắc sự bất thành.

Hựu viết: Nhẩm ma tắc phong sương đô khiết tận, độc chiếm phổ Thiên xuân.

Nhẩm ma: là thí dụ thời cơ đúng lệnh.

Phong sương khiết tận: là thí dụ Âm khí đã tận tuyệt.

Xuân Dương: là thí dụ khí Thuần Dương nơi Đơn Điền. Cảnh tượng nầy, cơ thể ta tợ như

tắm như gội, châu thân dung hòa sướng khoái, chẳng có gì sánh bằng. Trong ngoài thảy đều

Thiên Thái đó là Chân cảnh của Chân chủng sở sản.

Hựu viết: Thiết tu đạo trước.

Page 44: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

44

Đây là lời nói của Tổ sư dặn dò Tu sĩ nếu thấy được cảnh nầy đến, tức phải hưng công thâu

thủ, nếu chẳng thâu thủ ắt có lỗi lầm trước mắt, là bửu vật nầy sẽ theo đường thục lộ mà ra

ngoài.

Hưng Dương Thiền sư nói: Thối hậu tắc thất sự.

Công phu Thể thủ Chân Dược tợ như kẻ trộm cưỡng đoạt bửu vật, nên gọi là: thiết tu đạo

trước. Lúc nầy Chân Ý phải thật dũng mãnh, dùng hơi thở để thu nhiếp, đem Chân chủng nầy

trở về đơn Lư. Sau đó phải dụng công Pháp luân.

Tịch Vô Thiền sư viết: Chí ư lục hiệp đồng xuân, vật vật đắc sở.

Lục hiệp: là châu thân con người.

Xuân: là nói về dạng ấm ấm trong người.

Vật: là tên riêng biệt của Thích giáo, Nho giáo gọi là Nguyên khí.

Công đáo thời chí: là lúc Chân Dược sản, hốt nhiên Đơn Điền tợ như âm dương hòa hiệp

thấm thấu, mạch sống trong người khoái sướng, tất cả tám vạn bốn ngàn khiếu nhỏ có dạng

ngứa ngáy. Thân Tâm dường như vô chủ, Đơn Điền lần lần mở, ngoại Thận đột nhiên cất lên,

Long cung hốt nhiên có một tiếng gầm, hô hấp tự nhiên đứt đoạn, Tâm và bửu vật hút nhau

như đá nam châm hút sắt. Chân Ý và hơi thở bao hàm với nhau như loài trùng ẩn trốn, thình

lình tâm hồn nhập vào trạng thái Thái cực, như nửa tỉnh nửa mê. Thiên địa, nhơn ngã chẳng

biết về đâu. Thần với Khí như xen lẫn chìm ngấm, chẳng phải như Thiền khô tịch ngày nay.

Tâm hồn tợ như hoảng hoảng hốt hốt. Tâm chẳng khứng lìa bỏ linh vật, linh vật chẳng khứng

lìa bỏ Tâm, tương thân tương luyến kết thành một khối. Cảnh tượng nơi trong tợ như 2 khí

Tiên Thiên và Hậu Thiên cùng nhau thở hút, nhưng thiệt chưa thấy thở thấy hút. Tợ tiết tợ lậu,

mà thiệt cũng chưa thấy tiết lậu. Cơ huyền diệu không thể lấy ngôn ngữ để hình dung.

Cho nên Tâm kinh giải mới nói: một khí Chân Dương mới động trong đó vốn có vô số hơi

thở vi vi, rồi chỉ trong giây lát hóa thành trạng thái Thái cực, Tâm này trở lại linh diệu. Cơ hô

hấp dấy lên từ Chân Khí nơi Đơn Điền, tại Giáng Hạ rồi ra sau đến Vỹ Lư, lên Giáp Tích, lên

Ngọc Chẩm.

Lúc nào Chân Khí thật sung mãn thì Nhâm Đốc tự khai. Khi tấn thì nhanh Thể thủ quy

nguyên chuyển đại Pháp luân.

Nếu chẳng dụng công như vậy thì Nguyên Tinh sẽ tràn đầy và tiết lậu ra ngoài, ắt tiền công

tận phế.

Thiên nầy toàn tiết thiên cơ.

Page 45: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

45

Ta đã trải qua 30 năm mới đắc diệu đạo.

Tu sĩ đời sau thành công đến chỗ nầy phải nên nhớ kỹ, chẳng nên coi thường lúc có cảnh

tượng tín báo, chỉ được Dương quan tam hiện, tức là Chân chủng sở sản. Chẳng cần phải theo

quy tắc nào khác, lại còn phân biệt bẩm thọ, hình thọ đồng nhau hay khác biệt.

Đạt Ma Tổ sư viết: Nhị hầu thể Mâu Ni.

Tiền hượt Tý thời là một hầu. Chân chủng sở sản là một hầu, là nhị hầu thể Mâu Ni.

Hựu viết: Nhị hầu thể Mâu Ni, tứ hầu hữu diệu dụng, lục hầu biệt Thần công.

Tiết trước nói 2 hầu là hầu sanh và hầu sản. Còn đây gọi 2 hầu là hầu Thể thủ và hầu Phong

cố. Tu sĩ học Phật cần nên hiểu rõ chẳng chỉ có 1 khái luận, như trong Pháp luân lục hầu đồ đã

nói minh bạch rồi.

Còn ở đây 2 hầu là: lúc Chân chủng sản, thể quy Lư là một hầu. Lư trung phong cố là một

hầu. Cộng lại là 2 hầu.

Linh vật đã quy Lư thì phải thăng giáng. Thăng là một hầu, giáng là một hầu.

Cộng với 2 hầu Mộc dục Mẹo Dậu là 6 hầu.

Tứ hầu hữu diệu dụng là: thăng, giáng và 2 giờ mộc dục.

Lục hầu biệt Thần công là tổng số hầu.

Lục Tổ viết: Vãng Bắc tiếp độ.

Vãng: là dùng Chân Ý mà đi đến.

Bắc: là Thận Mạng, là Cốc Thần.

Tiếp: là dùng Chân Ý mà tiếp thu Linh vật.

Độ: là thăng, giáng vãng lai.

Tịch Vô Thiền sư viết: Thể thủ dĩ thăng giáng, tùng Đốc Mạch thượng đảnh Nê Hườn,

tùng Nhâm Mạch giáng hạ Đơn Điền.

Nhâm và Đốc 2 mạch là đạo lộ của Pháp luân vãng lai.

Nhâm Mạch khởi hành từ huyệt Hội Âm đi lên, đến Thừa Tương, rồi vào đường trong mà trở

về.

Page 46: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

46

Đốc Mạch khởi hành từ Ngân Xỉ lên Thiên Môn, ra Ngọc Chẩm, xuống Giáp Tích, xuống

Trường Cường rồi theo con đường trong mà về.

Đó là quy luật vận chuyển Âm Dương Hậu Thiên tợ như kim đồng hồ, Tiên gia gọi: Thuận

chuyển hà xa.

Thuận chuyển hà xa thì sanh người sanh vật.

Nghịch chuyển hà xa thì tác Phật tác Tiên.

Nghịch chuyển hà xa Tiên gia gọi Châu thiên vận, Thiền gia gọi Pháp luân thường chuyển,

Nho gia gọi Hành đình.

Châu thiên vận mục đích để điều hòa nội Dược để khai thông đạo lộ chờ ngày quá quan, để

đạt trường sinh bất lão.

Lúc 2 mạch nầy thông thì trăm mạch cũng đều thông.

Dịch kinh viết: Hạp hộ vị chi Khôn, tịch hộ vị chi Càn. Nhất hạp tịch vị chi biến, vãng lai

bất cùng vị chi thông.

Đây là sở dụng cơ tiêu tức đối với 2 khí để chuyển Pháp luân.

Phần kinh văn nói về sự tu luyện của Thích tạng, Tiền bối cũng nói như vậy. Lại là công phu

đầu tiên của kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa.

Còn Nho gia lại lấy kinh Dịch làm thủ vụ, thái ấp, chùa Hải Hội. Phương trượng Long Giang

hỏi: Tây phương phạn ngữ, chưa thấy chỗ nào nói đến Dịch, nay lại chép ra đây, là điều chẳng

hạp với Thích giáo chăng?

Đáp: Nếu chấp ở một thì chẳng minh ở hai. Chỗ tu học của nhà ngươi chỉ là bàng môn mà

thôi. Cái đạo của Thích ca không phải như vậy. Trăm ngàn đời về trước, trăm ngàn đời về sau

đối với người đời: Tam giáo há có 2 đường sao?

Thù bất tri, nguyên đầu của Dịch là Tổ của Đạo.

Lại hỏi: đã là Đơn kinh, mà ngày nay nho sĩ lấy Dịch làm sách bói toán, chưa từng nghe họ

nói đó là sách tu luyện, là tại sao vậy?

Đáp: thời văn bốc phệ là của tục Nho, chẳng phải là bậc xuất chúng của Nho chánh thống.

Lại hỏi: kinh ấy dạy tu luyện như thế nào?

Đáp: Đạo dụng Tiên Thiên và mượn khí Hậu Thiên để chuyển Pháp luân. Hạp hộ tức là hấp

cơ, hấp cơ vãng hạ nên gọi Khôn.

Page 47: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

47

Tịch hô tức hô cơ, hô cơ vãng thượng nên gọi Càn. Đó là cái lý nhất biên của Hậu Thiên.

Biến cơ là tiêu tức của 2 quẻ Càn Khôn.

Thí dụ như chiếc xe, Càn Khôn là 2 bánh xe biến làm trục xe. Trục xe vốn không chuyển

động, chỉ nhờ ở 2 đầu trục, 2 đầu trục lại nhờ ở 2 bánh, 2 bánh lại nhờ ở Hạp tịch thổi thúc.

Xe chờ trục mà chuyển động, trục lại chờ bánh mà vận triền. Bánh xe lại chờ Hạp tịch mà

thôi bức. Thì sở dụng của xe mới hoàn toàn.

Nếu như chưa thấu hiểu thì tham khảo nơi lục hầu đồ. Chẳng còn gì kỳ diệu bằng.

Vãng lai bất cùng: là cơ tiêu tức của 2 khí Tiên Thiên và Hậu Thiên vận chuyển.

Thông: là thông đạt được Huyền quan Tổ khiếu, là cơ Càn Khôn cộng vận.

Nếu dùng hô hấp của miệng mũi, và gọi một hô hấp là vãng Lai bất cùng thì cách xa với Tiên

Thiên Đại Đạo vậy.

Hỏi: như vậy thì phải dụng công như thế nào?

Đáp: lấy Hậu Thiên phàm tức chế hóa ra Tiên Thiên Chân tức. Hô hấp cơ vi tịch vi Càn. Hấp

cơ vi hạp vi không.

Càn Khôn là định vị của Thiên Địa.

Ngôi đầu của con người là Càn, phần bụng gọi là Khôn.

Cơ biến thuộc chủ tể của Càn Khôn, là Chân Ý của tể chủ sử cho 2 khí vận chuyển. Lúc lên

lúc xuống, lên xuống mãi mãi nên gọi: Vãng lai bất cùng.

Lúc thăng giáng, Chân Ý tuy là chủ thể ở Cốc Thần, mà Thần lại chú trọng cùng với Tiên

Thiên Chân Tức đồng hành, chẳng qua là mượn cơ hạp tịch của Hậu Thiên để vận chuyển Tiên

Thiên Khí vậy.

Hỏi: đệ tử ngu muội, mong cầu lão sư chỉ truyền chí lý mới dám tự dụng.

Chỉ thiệt là điều có lỗi mà nói ra đây, đức Thế Tôn có nói: độ tận chúng sanh, rồi mới tự độ

thì đâu có lỗi. Huống chi Thiền giáo ngày nay lại không có song tu?

Đáp: đây là bí cơ chuyển pháp luân ngàn đời chẳng khứng minh ngôn, trăm Tổ không lời chỉ

phá. Trong diệu lại diệu, trong vi lại vi chẳng phải phàm phu mới có thể nghe. Chẳng có túc

duyên thiện căn làm sao nghe được.

Lại nói: đệ tử khẩn cầu hòa thượng tùy ân.

Page 48: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

48

Đáp: hạ hấp tuy là hạ Khôn mà nguyên khí ở nơi không lại thăng lên Càn. Tịch hô tuy là lên

Càn, mà nguyên khí nơi Càn lại giáng xuống Khôn.

Đều do 2 khí thăng giáng nơi đường đạo lộ, cộng với Cốc trụ của Càn Khôn, thông với Tiêu

tức của Nguyên quan mà chủ tể tại nơi Chân Ý.

Vận hành đều ở nơi Thần, một hấp một thăng, một hô một giáng, chẳng được sai một mảy

lông. Tuân theo quy tắc, hành đúng độ số, cũng không được thái quá. Càn cửu không lục, tứ

diệp thành chương, hiệp hồ tạo hóa, đồng với chuyển luân, chẳng thiên chẳng ỷ, chánh chánh

đường đường, nương theo Tam giáo. Tất cả đều do ở đây.

Hựu viết: Càn hào dụng cửu, Khôn hào dụng lục.

Tiết này gọi về quy tắc và hạn số của pháp luân Càn dụng cửu là: 4x9=36, Khôn dụng lục là:

4x6=24.

Từ xưa Cổ nhân gọi: từ nhất quy đến lục quy gọi là thăng. Thăng để hiệp với Càn, nên dùng

Càn hào Càn sách.

Càn hào dụng cửu, mà tứ điệp là 36. Cho nên Pháp luân thăng cũng dụng cửu, đồng với tứ

điệp của Càn sách. Tổng cộng lục hào tứ điệp là 216. Cho nên về thăng tổng cộng ở lục quy

cũng 216 gọi là thăng.

Theo như trước đã nói: từ quy nhất đến lục quy gọi là giáng. Giáng để hiệp với Khôn, nên

dùng khí hào khôn sách.

Khôn hào dụng lục, hiệp với tứ điệp là 24. Cho nên Pháp luân giáng cũng dụng lục, đồng với

tứ điệp của Khôn sách. Tổng cộng với lục hào tứ điệp là 144. Cho nên giáng tổng cộng ở lục

quy cũng là 144, gọi là giáng. Cộng chung lại là 360 tức hoa toàn bộ số của chuyển Pháp luân.

Trong đó có mộc dục 2 quy, nếu chẳng dùng cửu lục tứ điệp thì không đủ 360.

Còn số nhuận dư Châu Thiên 24 mới gọi là viên mãn Châu Thiên, hạp với 384 hào của Dịch

lý.

Số nhuận dư Châu Thiên 24 là số gia vào 2 giờ Mộc Dục bình quân.

Hoa Nghiêm kinh viết: Cư Phật định năng ứng thời chuyển diệu Pháp luân.

Đây là pháp thí dụ về mộc dục nhị quy.

Định năng ứng thời: là 2 giới địa mộc dục, Nho gọi là 2 giờ Mẹo Dậu, Thích cũng gọi là thời.

Nếu chẳng nói thời, thì nhân duyên nào có ứng thời.

Page 49: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

49

Định: là gọi 2 thời chẳng vận hành hô hấp. Thần với Khí nương nhau giữ nhau, định rồi lại

vận chuyển. Nho gọi 2 giờ đó là phương sanh sát, hại đức, tương phản, chẳng nên hữu sự hay

định giữ việc không đâu.

Lúc vận hành Pháp luân, trong từng mỗi quy đều có pháp mộc dục.

Có kẻ hỏi: chỉ nghe đông tây có mộc dục, nhưng chưa được nghe từng mỗi quy đều có mộc

dục, câu xin lão sư khải thị?

Hoa Dương nói: lúc chuyển Pháp luân thì cái khí của hô hấp tợ như xe nước bờ sông, cứ một

bậc là có một miếng ván, một tấm vận lên, một tấm vận xuống. Nếu như công phu mà chẳng

có từng quy thì lấy gì mà vận cho tới Càn thiên. Cho dù có vận cũng chẳng hiệp với cốt tủy

của Pháp luân và chẳng thành bộ vị của quy tắc. Nếu cứ luyện hỗn loạn như vậy thì không

thành.

Lại hỏi: đệ tử ngu muội nên khó ngộ nhập, xin cầu thỉnh vấn?

Đáp: lúc vận hành Pháp luân thì cái khí hô hấp có cơ hồi chuyển. Cứ tới chỗ hồi chuyển là có

mộc dục.

Lại hỏi: sao gọi là mộc dục?

Đáp: hô hấp thối là mộc dục, hô hấp tấn cũng là mộc dục. Là do sự chia ra trước sau.

Thích gia phổ Thế Tôn viết: Nhập trì mộc dục.

Trì: là ao phía Đông phía Tây. Thế Tôn sau khi thấy minh tinh lập tức vào 2 ao mà mộc dục

và huân chưng. Pháp nầy từ Hán đến nay, những người đắc được đều giấu kín, chỉ có Tịch Vô

Tổ sư mới lộ.

Hoa Nghiêm kinh viết: Vi tiển Như Lai sở hành chi đạo, bất trì bất tốc, sát đế kinh hành.

Đạo: là đạo lộ, là đường Nhâm Đốc.

Bất trì bất tốc: chẳng chậm chẳng nhanh, lấy hô hấp mà định pháp tắc.

Sát đế kinh hành: phàm vận hành Pháp luân Thần với Khí tất phải đồng hành đồng trụ. Nếu

đi lạc đường khác, mịt mờ chẳng theo đúng đại lộ mà vận hành thì không thể nào thành Xá

Lợi.

Như Lai viết: bất đắc cần, bất đắc đãi.

Page 50: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

50

Phàm vận hành Pháp luân hiệp với tự nhiên đồng với đại Đạo. Nếu siêng năng đến độ thái

quá thì Phong Hỏa pháp luân chẳng được vận chuyển, và lửa hừng lên không phương chế

phục.

Còn giải đãi thì bất cập, tức gió yếu luốc làm sao có công trưởng vượng và biến hóa được.

Nhiên Đăng Phật viết: Thường chuyển Pháp luân.

Pháp luân là tiếng phạn của chữ Tây Phương. Trung Hoa gọi tấn thối, thăng giáng. Tiên gia

gọi Châu Thiên vận. Là nói về cơ vận hành Chân Khí theo đường đạo lộ Nhâm Đốc.

Các giờ công phu, lúc thể Chân Dược quy Lư đều chuyển Pháp luân.

Lúc Chân Dược phát sinh, nếu không dụng công chuyển Pháp luân thì Chân Dược sẽ bị tán

thất, lậu tận không thành, Xá Lợi không kết.

Thế Tôn viết: Thường chuyển như thị diệu Pháp luân.

Diệu: là huyền diệu, mầu nhiệm, không thể dùng ngôn từ diễn tả thành hình dung được, cho

nên nói: Diệu. Còn nếu không nói ra thì hậu học làm sao ngộ nhập được, chỉ có 2 lẽ là đắc sư

với không đắc sư. Đại đạo quá huyền diệu nên có vị nào dám toàn tiết đâu.

Ta thấy trong đời chẳng có người nào song tu nên đặc biệt chỉ xuất ra, để hậu học tấn thấu

đến chỗ tinh vi.

Diệu ở đây là nói về cơ Tiêu tức. Biết rõ được thì thấy rất giản rất dị. Chẳng hiểu rõ thì thật

khó thật khó! Thí dụ tự đánh vào chuông có tiếng vang tức là Pháp luân. Thiên địa tạo hóa đều

quy vào Pháp luân. Chúng ta có thể xem cái cối xay kia cũng như cái chuông thì hiểu được

Pháp luân.

Có kẻ hỏi: chuông với cối xay, sao ví là Đạo?

Đáp: chuông có tiếng chuông vang là thí dụ hô hấp. Lúc đánh chuông thì trong lòng chuông

có một chủng tử xoay tròn, tức là Nguyên Khí. Còn cối xay kia cũng thí dụ về hô hấp. Cối lúc

vận chuyển tương tợ như Chân Khí vận chuyển theo đường đạo lộ. Cơ hạp tịch Tiêu tức cũng

vậy.

Cối xay thì thấy tấn mà không thấy thối, nhưng thực trong đó có một luồng không khí thối.

Còn chuông lúc đánh thì trong lòng có một luồng loang tử, là có thuận chuyển gọi là tấn, và có

nghịch chuyển gọi là thối.

Lục Tổ viết: Ngô hữu nhất vật thượng trụ thiên, hạ trụ địa.

Vật: Nho gọi Nguyên Khí

Page 51: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

51

Trụ thiên: tức từ dưới thăng lên Càn đảnh.

Trụ địa: tức từ Càn đảnh giáng xuống Khôn phương.

Thích gia phổ viết: Hải thủy quán Thái tử đảnh.

Hải: là Đơn Điền. Thủy: là Nguyên Khí, Thích gia thí dụ là Tào khê thủy, Động thủy, Tây

giang thủy.

Quán đảnh: là thượng thăng.

Thái tử: là đức Thích Ca.

Thế Tôn viết: Hỏa hỏa dĩ hậu, thâu thủ Xá Lợi.

Lời nói nầy là nói về lúc Xá Lợi gần thành Hỏa là Thần. Xá Lợi toàn đắc quả nầy mới thành

công. Sự thành công nầy tức là hiệu nghiệm chẳng phải không hư mà không biết. Lúc Xá Lợi

thành thì nhà trống lúc ban đêm được trắng sáng, Đơn Điền nóng, Quy túc, thì lập tức dùng

pháp quá quan phục thực đưa về Trung đình để lo công phu thập ngoạt hoài thai, gọi là Thâu

thủ.

Hoa Nghiêm kinh viết: Cụ trượng phu hình thành tựu Như Lai, mã âm tàng tướng.

Mã âm tàng tướng: thí dụ như con rùa rúc đầu vào mai, nên Tiên gia gọi Quy túc.

Lúc nào ngoại Thận xem như không còn tông tích là Xá Lợi đã thành. Nếu chỉ còn một mảy

vi động cũng chưa thành. Tất còn phải vận Pháp luân, còn luyện. Nếu chẳng vận chẳng luyện

thì Chân Dược phải còn non, sức còn vi nhược, khó mà xung quan, lúc nào có cảnh hiệu

nghiệm đến phải lập tức chỉ Hỏa. Nếu chẳng biết mà cứ mãi vọng hành, dù Xá Lợi đã thành

cũng bị Hỏa bức lậu có khác gì tục tử phàm phu!

Còn những vị lão thành hoặc người đã liệt dương nên ngoại Thận không hề dấy lên mà cũng

gọi là đã thành công là điều lầm lỗi.

Có những người do tinh khí quá yếu nên tinh khí không cử động, tức phải gia công tu luyện

cho chuyên cần thì tinh khiếu ắt động và có hy vọng.

Thế Tôn viết: Năng bất tử A La Hán.

Bất tử: là không chết, tức là chân Tánh Mạng Tiên Thiên không bao giờ chết, là nói về những

người tu luyện đã được kết Xá Lợi thì đạt bất tử như đức Phật.

Page 52: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

52

Đệ tử của đức Thích Ca là Ca Diếp trụ thế 700 năm, sau nhờ đức Thế Tôn truyền pháp quá

quan mới được lên ngôi nhị Tổ. Bửu Chưởng hòa thượng trụ thế 1712 năm, sau gặp Đạt Ma

Tổ sư truyền pháp quá quan mới thành Chánh quả.

Thử dĩ thượng giai ngôn chuyển Pháp luân thành Xá Lợi chi công, nhi Huệ Mạng chi

đạo tận tại tư dư.

Tiết nầy tổng kết thượng văn về pháp tu luyện thành Xá Lợi bất tử.

Dư viết: thành Xá Lợi chi dạo, công pháp thậm đa, viết Chơn Thần, viết Chân Ý, viết

Chân Khí, viết Hô hấp, viết Chủ tể, viết Vận hành, nan dĩ bị ký.

Phàm lâm cơ chuyển Pháp luân chi tế, nhất Ý ngự nhị Khí, nhi vận hành chi pháp, hựu

hồ Thần hiệp dử Chân khí nhi đồng hành, bất khả khởi du tha.

Kiến ư thập nhị quy, toàn trượng hô hấp thôi bức, Dĩ tức số định kỳ pháp tắc tử thể, dĩ

chí ư quy căn bất khả tu du lị dả. Ly tắc đoạn nhi bất tục, bất thành Xá Lợi hỷ.

Công pháp luyện thành Xá Lợi tuy có nhiều mà thiệt rất giản dị. Lúc mới công phu thì khó,

nhưng khi đã thuần thục thì dễ. Thí dụ như người dệt vải lúc mới bắt đầu vào việc, tay chân

đầu mắt trên dưới tả hữu đều chiếu tiếp trợ. Sơ học sơ tu cũng như vậy, lúc chuyển Pháp luân,

Chân Ý chủ tại Đơn Điền mà làm luân tâm, Thần vận Chân Khí mà làm luân qua, hô hấp thôi

bức mà làm luân cảo. Cũng đều tự cơ tiêu tức tự nhiên như nhiên mà ra, có gì là khó.

Tâm không hề nghĩ đến việc khác ngoài công phu vận chuyển Pháp luân. Trong dứt tư lự,

ngoài trừ tay mắt chỉ có một điểm Chân Thần đều lẫn Chân Khí tuần hườn. Nếu có một mảy tư

niệm thì Chân Khí sẽ bị tán thất nơi đường biệt lộ, hóa ra không chuyển luống thành vô ích.

Về độ số thì mỗi bộ có tứ điệp. Thăng lên là Dương, Dương là Càn, Càn dụng cửu: 4x9=36.

Càn sách thì tổng cộng tứ điệp của sáu hào là 216. Giáng là Âm, Âm là Khôn, Khôn dụng lục:

4x6=24. Khôn sách thì tổng cộng tứ điệp của sáu hào là 144. Cộng thành 360 là độ số của cơ

vận chuyển Pháp luân bộ hạn. Chẳng có một mảy sai lầm về quy tắc thì có huyền diệu, nếu

chẳng dụng công đúng y như vậy thì vạn vô nhất thành. Pháp nầy từ nhà Hán đến nay bí mật

không truyền chỉ trong Phật Phật tương ấn, Tổ Tổ khẩu truyền. Ta nay toàn bị tiết tận, mong

người có chí sớm thành Đại Đạo.

Về độ số 360, thiệt ra chẳng phải là số 360 mà chỉ là con số thí dụ mà thôi. Thí dụ như cái

bánh xe có 24 cây chống, nhưng nếu trước sau vận chuyển một hồi thì thành ra 48 cây tăm gọi

là nhất hồi Pháp luân, mà luân của ngoại luân là 360 số thiệt không sai thất, cho nên gọi 360 số

vậy.

Bất văn Thế Tôn dử Ca Diếp chi nhơn hồ: Chánh pháp nhãn tạng.

Page 53: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

53

Đây là bí thiên cơ thể Xá Lợi nên gọi là Chánh pháp. Nhãn là con mắt là nơi Thần nương tựa,

con mắt đến đâu thì Thần đến đó.

Hửu dử A Nan viết: Nhược bất tri Tâm mục sở tại, tắc bất năng hàng phục trần lao.

Đây là diệu chỉ của Lăng Nghiêm và là bí cơ thể thủ Xá Lợi. Nếu chẳng dùng Tâm mục mà

Thể thủ thì Xá Lợi làm sao quy Lư, cũng như không biết chỗ sở tại của Tâm mục thì Xá Lợi

quy về đâu. Sở tại ở đây là Chánh pháp nhãn tạng, như tiết trên đã nói.

Công phu Thể thủ thiệt có cái lạ: Thể thủ liên tục, vào khoảng 7 ngày thì Đơn Điền lần lần ôn

non, kết thành Xá Lợi, hình dáng tợ như Hỏa châu, hiệu nghiệm lần lần, đến cảnh huyền diệu

chẳng khá ví kịp.

Lúc Thể thủ, Thần quang chuyên thị Đơn Điền không được giây phút gián đoạn xa lìa, nếu xa

lìa thì lửa lạnh khí tán, chẳng thành Xá Lợi. Cho nên mới nói: Thất (7) nhật tư duy, há có thể

xem thường sao. Nếu chẳng dùng pháp nầy mà dùng pháp khác thì Xá Lợi vạn vô sở kết, và

cũng không đạt được kết quả trường sinh.

Pháp Hoa kinh viết: Ngã kim vị nhử bảo nhiệm thử sinh, kinh bất hư dả. Nhử đương cần

tâm tinh tấn, hành thử tam muội, ư thất nhật trung, tư duy như thị sự.

Sự ở đây là tên riêng của Thích giáo, là Chân khí của Nho gia. Chân khí nhờ đắc được pháp

Phong Hỏa mà thành Xá Lợi, cho nên gọi: Bất hư. Lại còn ngày đêm không dứt, niệm tư tại tư

nên gọi cần tâm tinh tấn, muôn điều tư lự thảy đều không, một điểm Linh quang chăm chăm

Xá Lợi, nên nói: Tư duy như thị sự.

Thất nhật là tổng quyết thể Xá Lợi, tức Nho gia gọi: Thất nhật phục kiến Thiên Địa chi tâm.

Lại nói: Thất nhật nhất Dương lai phục.

Còn công phu Thể thủ Chân Dược vốn không có kỳ hạn, hoặc 5 ngày, hoặc 7 ngày không

định hạn.

Thế Tôn viết: Lục chủng chấn động.

Đây là nói cái cảnh Xá Lợi sở sản. Lục chủng là nói về sáu nơi trong thân ta, chẳng phải là

sáu nơi của thế giới bên ngoài. Con mắt có kim quang, lỗ tai có tiếng gió, lỗ mũi có khí rúc,

sau não có tiếng chim thứu kêu, toàn thân có dũng lực động, Đơn Điền có hỏa châu. Đó là lục

chủng phát động.

Hựu viết: Mi gian thường phóng bạch hào quang.

Đây là lúc Xá Lợi thành.

Page 54: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

54

Thường: là nói về ám thất thường thấy bạch hào quang phát hiện, hoặc 1 lần, hoặc 2 lần, 4

lần, 5 lần, nếu Thể thủ thì được. Thích đạo diệu dụng chính là lúc nầy. Lúc Xá Lợi gần xuất

Lư thì từ Sơn Căn đến Đơn Điền có 1 luồng bạch quang sáng tợ ánh trăng. Lúc bấy giờ thì

ngoại Thận tợ như Quy túc.

Thế Tôn viết: Lô nha xuyên tấc.

Lô nha xuyên tấc là xảo dụ về pháp quá quan, là xuyên quá Tam quan, là dùng Chân Ý dẫn

đại Dược vượt qua 3 ải: Vỹ Lư, Giáp Tích và Ngọc Chẩm, Thiên môn rồi xuống Trung điền,

và trụ ở đây.

Trong đó có Thiên cơ, phải nhờ Chân sư chỉ truyền, không nên tự dụng. Đây là bí quyết chí

yếu của ngàn Phật muôn Tổ, phải nên khấn thiết cầu sư, sau đó mới có hy vọng.

Đạt Ma Tổ sư viết: Chiết lô độ giang.

Chiết lô độ giang cũng là thí dụ về pháp quá quan phục thực, phàm Tăng không biết cho là

Tổ sư bẻ lá lau làm thuyền qua sông để đến chân núi Lủng sơn.

Tổ sư giáng sinh nơi nước Thiên Trúc, đã đắc pháp, muốn qua Đông độ để độ người. Trước

tiên gặp Lương Võ đế bất thành. Sau gặp Thần Quang mới trao chân truyền.

Chiết: là thể thủ, Lô: là Xá Lợi.

Độ: là vận hành, Giang: là đạo lộ Nhâm Đốc.

Thế Tôn viết: Nhất tiển xạ thuấn cửu trùng thiếc cổ.

Tiển: là đại Dược, là Xá Lợi.

Cửu trùng: thân con người có đường Đốc Mạch, đường nầy có 3 quan: Vỹ Lư, Giáp Tích,

Ngọc Chẩm. Mỗi quan ải có 3 khiếu nên gọi Cửu trùng. Tiên gia gọi Cửu khúc minh châu.

Nho gia gọi ngọc Cửu thiên khai hóa.

Quá quan phục thực phải theo con đường nầy, nếu theo con đường khác thì vạn vô nhất thành,

uổng phí tiền công.

Hựu viết: Thiền duyệt vi thực.

Thiền duyệt: là sự vui đẹp ở công phu Thiền định.

Thực: là ăn, là thí dụ đưa Xá Lợi quá Tam quan trở về Trung điền nuôi dưỡng mười tháng.

Con đường phục thực, Tổ sư gọi là đường Tào khê, khúc khuất nguy hiểm cần phải đề phòng.

Page 55: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

55

Trước tiên có Hạ Thước kiều, trên hết có Thượng Thước kiều. 2 Thước kiều nầy là nơi nguy

hiểm, nếu chẳng biết đề phòng nguy lự hiểm thì Xá Lợi phải bị rơi xuống Thước kiều, tiền

công tận phế.

Hựu viết: Pháp hỷ sung mãn.

Công phu Thiền định đạt đến tột gọi là Pháp hỷ sung mãn. Lúc nầy Chân Khí trong người

được sung mãn, lần lần không còn muốn ăn, rồi không muốn uống, cũng không muốn ngủ. Là

do định tịnh Thiền công được chuyên chú. Chân khí sung mãn thì Chơn Thần định, tự nhiên

chẳng còn ăn uống.

Là điều rất vui mừng.

Thế Tôn bản hành kinh viết: Nhược chí hằng hà thủy, Nam ngạn yên ổn, trụ định như

Tu Di.

Thủy: là nước, là thí dụ Xá Lợi.

Nam ngạn: là nói về Trung điền.

Xá Lợi đã về Trung điền thì Thần với Khí tợ đá nam châm và sắt hút nhau, 2 thành phần nầy

không còn lìa nhau như trước, Chân Khí và Chân Tinh đều an trụ nơi Trung điền, không còn

vọng trì, an ổn tự tại. Nho gia gọi: Doãn chấp khuyết Trung thức Tánh lần lần tiêu ma. Chân

Tánh lần lần linh giác, chẳng còn vọng niệm, chánh niệm tự tồn. Hoa Nghiêm kinh gọi: yến

tọa tịnh thất.

Lăng Nghiêm kinh viết: Hành dử Phật, đồng thọ Phật khí nhân như trung âm thân, tự

cầu phụ mẫu, âm tính minh thông, nhập Như Lai chủng, danh sinh quý trụ.

Hành: là dụng hành nội công. Chẳng phải là hành lộ, hành sự mà là tu dưỡng Thánh Thai. Xá

Lợi đã về Trung cung thì Thần Dược thọ tiếp Phật Khí, và được chế phục nên không còn

buông ruỗi ra ngoài. Thần đắc mà Khí định, Khí đắc mà Thần trụ. Tương thân tương luyến

dung hóa hiệp làm một. Nên gọi: hành dử Phật, đồng thọ Phật khí.

Phân Tánh tức thuộc âm nên gọi âm thân Phật khí. Tức là cha, khí hô hấp tức là mẹ.

Công phu đến đây không còn gọi là khô tích Phật khí có cái lý sanh hoạt. Hô hấp có cái cơ tư

dưỡng, nên cần phải dùng Chân Ý mà cầu lấy sự hoàn bị của 2 khí.

Lúc Phật khí sinh phải khiến cho nó quy nguyên để trợ Thánh thai viên mãn. Còn cơ hô hấp

miên miên là để trợ cơ hóa dục cho Thánh thai. Nên gọi: tự cầu phụ mẫu. Lại không được chấp

nhất mà mê ở nhị.

Page 56: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

56

Công phu đến đây thì có một luồng Chân Khí từ Minh đường lại, rồi quy về Trung cung,

Chân Ý liền cổ động cơ hạp tịch khiến quy nhập vào châu thân, trục khử toàn bộ Âm khí trong

châu thân, hay còn gọi là huân hóa Âm Khí trong châu thân thành Dương Khí, và thành thuần

Dương Chân Khí, 360 đốt xương, tám vạn bốn ngàn mao khiếu thấy đều thông đạt, nên gọi:

âm tính minh thông.

Lúc nầy xác phàm xem như đã được quên, Thánh thai tự còn một mạch Thiên chân, Phật thể,

gọi là Như Lai chủng. Tuy là còn ở trạng thái Đạo thai vô hình vô tượng nhưng Định Huệ viên

minh, nên gọi: sanh quý trụ.

Thế Tôn viết: ư Dục, Sắc thiên nhị giới, trung gian hóa thất bửu phòng, như Tam thiên

Đại thiên thế giới, thuyết thậm thâm Phật pháp, linh pháp cửu trụ.

Dục giới, Sắc giới là danh từ của 2 cõi do Thích giáo mệnh danh. Trung Hoa gọi Trung điền

và Hạ điền. Sách chỉ quán gọi: Tây phạn ưu đà na.

Hóa: thần cơ diệu dụng, là pháp dưỡng Thánh thai.

2 cõi nầy hiệp lại thành một cảnh Hư không.

Nếu Chân Ý chấp trụ ở Trung điền thì Thánh thai sẽ bị trệ ngại, chẳng phải là Thất bửu

phòng.

Tam thiên Đại thiên thế giới: là lúc Xá Lợi thành, Chân Ý trụ từng nơi Đơn Điền, mỗi điền

dụng một ngàn thuyết pháp. Tục Tăng gọi Tam thiên là quá khứ một ngàn, hiện tại một ngàn,

vị lai một ngàn, há chẳng lầm sao.

Lúc dưỡng Thánh thai, Chân Ý trụ nơi Trung điền có công phu mười tháng, nên gọi: Linh

cửu trụ, cũng gọi là nhất thiên thuyết pháp.

Lúc xuất Thần hiển hóa, Chân Ý trụ nơi Thượng điền, có công phu tam niên nhũ bộ, cũng gọi

là nhất thiên thuyết pháp.

Thời gian nhập đại định, Chân Ý cũng trụ nơi Thượng điền, có công phu tam niên nhũ bộ,

cũng gọi là nhất thiên thuyết pháp.

Hoa Nghiêm kinh viết: Dĩ định phục tâm cứu cảnh vô dư.

Định: chẳng phải là ngồi tọa khô Thiền ngoan không cưỡng chế mà được định. Thiết có cơ

tịnh định tự nhiên.

Xá Lợi đã quy về Trung cung thì Thức Tánh chết, Chân Tánh sống, pháp được vui mừng,

Thần được đẹp lòng, chân an diệu lạc, vô nội vô ngoại, hồn nhiên một khối. Thiền định nầy,

Page 57: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

57

lúc hiệu nghiệm thì rực sáng tợ trăng thu, dung hòa khắp châu thân tợ như say khói, Tâm mục

nội quán, Xá Lợi huân chưng, cả xương thịt như tắm như gội, Tâm và Tánh rỗng như Thái hư,

đạt đến vô vi và an lặng, Lục căn tịnh chiếu, tám Thức đều không, Ngũ uẩn tuy còn có tuần

hoàn nhưng Chân Tánh an nhiên vô dư.

Thế Tôn viết: Như lý nhi lai, như lý nhi khứ.

Tiết văn trên nói về sự chứng nghiệm của Xá Lợi.

Tiết nầy nói về tu pháp lúc mới thành Thánh Thai.

Lai và khứ là thí dụ về khí hô hấp, là khải thị cho Tu sĩ lúc dưỡng Thánh thai, phải nương theo

hơi thở của mình là Chân Tức, sau đó mới được xuất ly trần cảnh và đạt đến Tịnh diệt, nên gọi

như lý nhi lai, như lý nhi khứ.

Có một Thiền sư nói:

Vị đáo thủy cùng sơn tận xứ

Thả tương tác bạn quá thời quang.

Con người lúc mới rời khỏi bụng mẹ, chỉ dùng khí hô hấp Hậu Thiên mà sống, còn Tiên

Thiên Chân khí thì lần lần phát tán ra ngoài. Cứ như thế mà ngày ngày thường dụng, Đơn Điền

vốn không có một Chân Tức nào được trọn vẹn. Chỉ nhờ có Thần ngưng mà Chân khí mới tụ.

Chân Khí tụ đến sung mãn mới thành Xá Lợi, và khí hô hấp cũng quy về đây.

Chân Khí là nguồn gốc kết nên Thánh thai, còn khí hô hấp cũng là nguồn tư dưỡng Thánh

thai.

Tu sĩ cần phải dùng Chân Ý là chủ tể mà định Chân Tức.

Lúc Chân Tức chưa định thì lấy Chân Ý để điều Chân Tức. Chẳng điều chẳng định thì không

chứng quả.

Lúc mới nhập thai không thể thiếu pháp điều Chân Tức được.

Như lý nhi lai, như lý nhi khứ cũng là ý nghĩa điều Chân Tức. Cho nên Phó Đại sĩ nói:

Lục niên tuyết lảnh vi hà đồ

Chí định điều hòa Khí dữ Thần

Nhất bá khắc trung độ nhất tức

Phương tri Đạo Đạo hiển tam thừa.

Page 58: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

58

Như Lai viết: Hữu dư Niết bàn.

Hữu: là có, là có Chân Tức.

Lúc mới nhập Thánh thai, Chân Ý phải nương theo Chân Tức. Chân Ý là Tâm. Tâm nương

theo Chân Tức. Chân Ý là Tâm. Tâm chẳng nương theo Tức, Tức tùy theo Tâm. Chẳng gấp

chẳng buông, lóng nghe ở tự nhiên, lại cũng chẳng nên theo hướng mênh mông trôi nổi.

Chẳng biết Chân Tức nơi trong, là vốn có Chân Tức của Thánh thai, mà tợ như không có

Chân Tức. Chẳng phải hỏa không có mà là thiệt có.

Cho nên kinh Kim Cang có giải thích:

Bất trị thùy giải cưỡng an bài

Niết tụ y nhiên hựu phóng khai

Mạc vị Như Lai thành đoạn diệt

Nhất thinh hườn tục nhất thinh thai

Niết: là nắn lại, gom lại.

Lời nói trên là lời nói về Tâm Tức tương y.

Phạn cương giới kinh viết: Như như nhất đế nhi hành, ư vô sinh không. Nhất thiết Phật

Hiền Thánh, giai đồng vô sinh không.

Như như nhất đế nhi hành: là Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí ôn tư bổ cho Thai nguyên.

Chẳng gấp chẳng buông, thung dung vận hành.

Như ngày nay phàm Tăng đả thất tham thiền cũng gọi là nhất đế nhi hành, há chẳng lầm sao.

Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: cái đạo của Như Lai của Đại Tiên rất vi diệu, khó có thể biết

được.

Chính lúc khí nhân khí ôn là 2 khí Tiên Thiên phát sinh, thì Thần với Khí hỗn hợp, thân

người tợ như tắm, tợ như say, xương với thịt tợ như dung hòa, Chơn Thần như đứng giữa 2 cõi

Dục giới và Sắc giới, chẳng chấp chẳng trệ, không không lồng lộng, cho nên nói: vô sanh

không.

Thế Tôn viết: Nhi không bất không, Như Lai tạng.

Tiết trên nói: Vô sinh không, lại sợ người theo đó mà dứt sự kiến tri, nên tiết nầy nói: không

bất không. Sở dĩ không nhi bất không là tịch nhi thường chiếu.

Page 59: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

59

Nhiên Đăng Phật viết: sanh diệt diệt dĩ.

Sanh diệt diệt dĩ là: Chân tức trong thai chưa tột tịnh định, nhưng còn có cái lý khuất thân (co

duỗi). Cho nên nói: sanh diệt phải giữ đến tận không, là không còn co còn duỗi nữa, nên nói:

Diệt dĩ. Chỉ biết có Thần mà chẳng biết có Khí trong Thai gọi là vạn pháp quy nhất.

Cái pháp luyện cho Tâm Dược được trọn vẹn, phải nương nơi Thai mà trụ, còn gọi quy vu

pháp, là quy ở đây.

Nếu như chưa có linh Thai mà Chân Ý cưỡng Xá Lợi, hay Chân Nguyên Khí trụ, và gọi là

diệt dĩ là chứng đạo, tức là sai quấy vậy.

Kim Cang kinh viết: Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ.

Bồ Tát tu Phật tâm, tất nên ưng như sở giáo trụ, mà sau mới chứng Phật, cho nên lời kinh nói:

Bồ Tát muôn tu Phật, thì Tâm phải ứng theo lời Phật đã dạy. Trụ giáo: tức là Linh thai.

Còn muốn đắc Linh thai và trụ định viên mãn, là trước trụ cái Tâm. Trọng yếu của trụ Tâm,

điều tất yếu là nương Chân tức tam muội mà tịnh định, thì chẳng bị đọa vào lục trần và chạy

theo nẻo mê hoặc.

Được như vậy gọi là Chánh định và thành Chánh giác, tức Hoa Nghiêm kinh gọi: sơ thiền

Niệm trụ, nhị thiền Tức trụ. Là như vậy.

Lăng Nghiêm kinh viết: Ký quy Đạo thai, thân phụng giác ứng.

Lời kinh nầy nói: Thần nhập vào Khí thì Khí bao bọc lấy Thần, tạo thành trạng thái mờ mờ

lặng lặng, còn trong bản thể uyên nguyên, tợ như cảnh tượng con còn trong thai mẹ, cho nên

nói: Đạo thai. Lại nói: trước khi cha mẹ chưa sanh vốn tự tạo tự hóa, đều là Đại tổng trì, nên

gọi Thân phụng giác ứng.

Kim Cang kinh viết: Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí.

Tiết trước nói về sự luyện Tâm chưa trọn vẹn thì phải nương theo Thai Tức mà trụ Tâm. Tâm

đã trụ, ta chớ nên tham trước nơi Chân Tức. Nếu niệm niệm chẳng xóa trụ nơi Chân Tức thì

Chân Tức bị trói buộc lấy Tâm, đồng như Lục Căn buộc trói lấy Tâm, đó là Tâm chưa được

trọn vẹn. Cho nên nói: vu pháp ưng vô sở trụ, hành ư bố thí pháp tức là Chân tức vậy.

Tâm đã trụ, thì nên buông bỏ hơi thở đi.

Cổ Đức nói: quá hà tu dụng phiệt. Đáo ngạn bất tu châu (qua sông phải dùng đò, đến bờ rồi

phải bỏ đò đi)

Hoa Nghiêm kinh viết: An trụ tịch tịnh chư thiền định, trí nhập bất tử đạo.

Page 60: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

60

An trụ tịch tịnh chư thiền định: lỗ mũi không không xuất khí hai tay sáo mạch trụ hồn nhiên

đại định. Tuyệt vô sanh diệt. Lăng nghiêm gọi: Tam thiền mạch trụ. Các căn đã trụ gọi là

Thiền lạc ngã tịnh trí, là trong thiền định được Chánh giác vậy.

An trụ tịch tịch Thiền định thì thành bậc Chánh giác, là cái đạo bất tử của Chân nhân. Cũng

như thiệt chứng Như Lai.

Thế Tôn viết: vô dư Niết Bàn.

Vô dư: vô dư Niết Bàn

Vô dư: là hơi thở không còn xuất nhập.

Niết Bàn: là sự vui vẻ của Thiền định tam muội, là lục Căn diệt tận, các duyên chẳng còn,

một Tánh viên dung, Huệ quang rạng chiếu pháp giới. Đó là cảnh mầu nhiệm của vô dư Niết

Bàn. Cũng như nói về sự thọ ký của đức Nhiên Đăng thọ ký cho đức Thích Ca, tự có Linh

quang rực sáng cổ kim.

Hoa Nghiêm kinh viết: Hằng dĩ tịch niệm, trụ Vô thượng giác.

Tịch niệm: chẳng trụ vào trần vọng, cũng chẳng trụ nơi pháp trói buộc. Là cái trí niệm bất

sanh bất diệt của Thiền định. Hoa Nghiêm kinh gọi: Tứ thiền diệt tận định.

Vô thượng giác: là chứng quả Chánh giác viên mãn của Phật đạo.

Huệ quang lãng triệt: là không ngày không đêm được đại tự tại, đều đủ lục thông. Gọi là Vô

thượng giác.

Lúc Niệm trụ thì Huệ phát minh, và tất cả Huệ cũng không được sử dụng.

Nếu chẳng thủ định mà Tâm còn tham lam háo thắng, là dùng Huệ thì bị dính mắc vào ma

cảnh, bị Thức Thần gây tổn hại, tận phế tiền công.

Nhiên Đăng Phật viết: Tịch diệt vi lạc.

Tịch diệt: chẳng phải là tử vong mà là sự thiệt chứng của Thai viên Tánh triệt. Lăng Nghiêm

kinh gọi: Giác đạo viên mãn.

Phật tánh, cảnh tượng tịch diệt đều do Huệ Mạng sáng soi khắp cả. Rực rỡ vậy là do ở Tâm

vô vi định giác. Cũng không còn hư vọng, Tánh không còn sanh còn diệt. Lục Tổ gọi: Thiền

Tâm vô tưởng, thiền Tánh vô sanh, lục mạch toàn vô, hơi thở nơi mũi đã diệt tận nên gọi là

tịch diệt.

Page 61: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

61

Thánh thai, Phật Tánh dung dung, như mặt trời ở giữa không trung, nên gọi: vi lạc. Lại còn

nói chân không vô vi.

Chứng quả đến đây có cảnh lành lạnh, có hoa tuyết bay rơi.

Cảnh xuất định đến thì dời niệm ra ngoài Tu Di sơn. Chưa đến Đại định, không có cảnh xuất

định đến mà vọng xuất thì bị nhập vào ma đạo.

Có cảnh đến mà chẳng xuất gọi là giữ lấy thây quỷ, cũng không có trí huệ Thần thông mà là

một ngư phu. Cho nên kinh Di Đà có nói: Nhiên quân bát vạn kiếp, chung thị lạc không vong.

Dư Tổ viết: Xá Lợi quá quan chi diệu pháp, dĩ tịch nhi chiếu, dĩ nhu di dụng, khê lộ hiểm

nguy, phòng thượng hạ chi trì tán, đảo động nhi dẫn, nhu hộ nhi hành, tắc đạo thai chi

pháp đắc hỷ.

Tiết nầy nói lại pháp dụng công sau khi đắc Linh thai.

Tịch chiếu: là chánh công bảo thủ Xá Lợi.

Tu sĩ nếu chẳng tịnh thì Xá Lợi chẳng phát động.

Chẳng chiếu thì Xá Lợi chẳng xuất Lư.

Cho nên pháp bảo thủ Xá Lợi không thể thiếu tịch thiếu chiếu.

Cho nên đức Thế Tôn mới nói: Tâm mục sở tại.

Khê lộ: còn gọi là đường Tào khê, đường nầy vốn khuất khúc hiểm nguy. Đầu đường có Hạ

Thước Kiều, cuối đường có Thượng Thước Kiều, là 2 nơi Xá Lợi thường bị lọt cầu!

Tất phải dùng Pháp khí mà đóng kín 2 cầu, là để bảo hộ di họa hoạn nguy hiểm lậu kiều.

Còn một đường dương quan, còn gọi là thục lộ, là đường quen thuộc tiết lậu.

Cộng là 3 khiếu nguy hiểm, nếu không có Chân sư truyền thọ thì khó tránh cái cảnh vọng trì

phách tán nếu chẳng có Chân Ý điều dẫn, thì Xá Lợi làm sao vận hành thông suốt, nên gọi:

Thiện hộ bửu Chân.

Đúng lúc nầy, Xá Lợi như đi qua cầu nhỏ bé nên nói: Chờ động mà dẫn, nhu hộ mà Xá Lợi

đi. Linh thai nhờ có khí hô hấp hóa dục mà được xuất định. Cũng như lúc thai nhi còn trong

bụng mẹ, hễ mẹ một hấp thì thai nhi một hấp, mẹ một hô thì thai nhi một hô. Linh thai cũng

như vậy.

Lúc Linh thai mới kết phải mượn cái Hỏa hô hấp để huân dưỡng. Linh thai đến 5, 6 tháng thì

2 khí lần lần tế vi, đến 8, 9 tháng thì 2 khí toàn định.

Page 62: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

62

Lúc nầy chỉ biết có Thần mà không nên biết có Khí.

Chính lúc nên không mà quyết định là không, thì sa vào đoạn kiến. Cho nên không mà tợ như

chẳng không, đó mới thiệt là tịnh mà thường chiếu.

Đương lúc chẳng không, mà chỉ biết chẳng không tức đọa vào trường kiếp. Cho nên chẳng

không mà lại như không, đó là chiếu mà thường tịch.

Lúc đã đến đại định thì Thần với Khí hồn nhiên hợp nhất, và cảnh xuất định sẽ đến.

Tất cả những lời nói trên đều là Chân quyết, ngoài đời chẳng khứng nói rõ mà chỉ điên đảo

thí dụ khiến cho người khó hiểu.

Ta nay gom góp và phân ra từng tiết để thành toàn chỉ, thật là phương tiện tốt cho người học

thiền.

Bất văn Hoa Nghiêm kinh ngũ thập quyển chi ngôn hồ: Thế Tôn tùng bạch hào tướng

trung phóng đại quang minh, danh Như Lai xuất hiện.

Từ đây dĩ hạ đều nói về cảnh xuất định.

Thượng ngôn chỉ nói dưỡng Thai, mà lúc xuất định thì chưa nói rõ nên Như Lai sợ hậu thế

chẳng biết lý nầy, mới phát đại từ bi và nói Tùng bạch hào quang xuất.

Sau đó muôn đời mới biết có bằng cớ nầy:

Thiên cơ xuất định, tục Tăng không thể biết được.

Từ đời Hán đến nay có mấy ai hiểu thấu.

Đương thời của Như Lai, tự có hiệu nghiệm ở chỗ thủ chứng xuất định.

Lúc xuất định, hoặc phóng Bạch quang, hoặc phóng Kim quang, bản Tánh ta đều thấy được.

Chủ yếu là phải cầu Chân sư chỉ truyền pháp Thâu quang. Nếu như chẳng thâu hào quang đó

thì phải bị trì tán vậy. Rồi hữu hình chẳng hóa thành vô hình, Tánh tuy diệu mà hình không

diệu. Đó là chẳng đắc được toàn pháp của Thích Ca, Đạt Ma và Tịch Vô.

Tu sĩ nên gấp tìm chân sư, nếu không sẽ bị lầm lỗi về Thiên cơ, cuối cùng không cũng hoàn

không.

Tịch Vô Thiền sư viết:

Thai viên tiết chí tuyết hoa phi

Page 63: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

63

Niệm động phiêu không thượng đảnh ky (cơ)

Mạc vị Như Lai khô tịch đạo

Pháp thân xuất tịch hựu quy y.

Tiết nầy Thiền sư nói về lúc xuất định.

Đáng xuất mà chẳng xuất thì trệ nơi Pháp thân, tức định sẽ bị trói buộc. Chẳng được thần

thông, là biến hóa thành Thiên bá ức hóa thân.

Thai viên tiết chí: là nói lúc Linh thai đã tột viên mãn.

Thấy tuyết hoa rơi xuống phàm thể, thì Chân Ý hướng vào Thái không. Chẳng biết được

Thiên cơ nầy vì chưa gặp được Chân sư.

Như ngày nay nhóm Tòng Lâm khô tọa, lấy sự thu nhiếp cái Tâm làm chánh pháp, tự cao tự

đại, lừa dối người tu. Tự mình đã lầm, lại đem cái lầm đó trao cho người. Chẳng biết về bạch

hào quang của Như Lai, về tuyết hoa của Tổ sư. Luống tự làm Tăng nhờ cửa Phật nương thân

ăn của đàn việt, quên đại ân của cha mẹ.

Làm thân nam tử đầu đội trời, chân đạp đất, nếu chẳng hiểu được chánh đạo há không hổ

sao?

Lúc Pháp thân xuất định lìa phàm thể phải lập tức nương theo đó mà quy về nơi hườn dưỡng

Thần bảy ngày.

Lại lúc sơ xuất mà thấy cảnh đẹp có Phật, có Tổ, có Bồ Tát nhất thiết không được vui nhận.

Đó là do ma biến hóa ra. Nếu vui nhận tức bị dính mắc với ma và sẽ bị ma dụ mê thất. Đó là

do cơ quy tịch Phật quả chưa được viên mãn, và khó tự nương chân, làm sao khỏi tái sanh về

hậu thế!

Như vậy phải quyết chí tu trì, từ cửu địa đến thập địa, cho đến thập nhất địa đẳng giác để siêu

xuất lên trên cảnh vô sắc giới.

Lúc mới xuất định, Chơn Thần mới lìa phàm thể từ 3 đến 5 thước, phải cẩn thận chớ nên kinh

khủng.

Tất cả những gì đã thấy đã nghe nhất thiết không được tiếp nhận, chỉ chờ đến cảnh có một

vầng Kim quang như bánh xe lớn, mới dùng Chân Ý nhập vào vầng Kim quang rồi thu nhiếp

vào Chân Tánh. Đó là căn bản hình được huyền diệu.

Lăng Nghiêm kinh viết: hình thành xuất thai, thân vi Phật tử.

Page 64: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

64

Thập ngoạt Linh thai được 2 khí tư dưỡng mà viên mãn, Tánh định, gọi là hình thành xuất

định, trí huệ quảng đại, trông thấy được tất cả, hiểu biết được tất cả, xuất hữu nhập vô, tụ lại

thì thành hình, tán pháp ra thì không còn tông tích, hào quang chiếu khắp Pháp giới thần quỷ

chầu hộ, cho nên nói: thân vi Phật tử.

Pháp Hoa kinh viết: Thế Tôn phóng bạch hào tướng quang, chiếu kiến Đông phương,

vạn bát thiên thế giới, mị bất châu biến. Hạ chí A tỳ địa ngục. Thượng chí A ca ni yêu

thiên Nam Bắc Tây Đông, giai như thị. Chiếu kiến châu biến.

Pháp thân đã xuất định lâu ngày thì thấy tất cả như thấy trong bàn tay.

A ca ni yêu thiên: là tên của cõi trời Sắc giới. Linh thai mười tháng được định, cộng hành đã

đến cõi Trời nên mới được xuất định. Sở dĩ nói đến cõi Trời, vì tứ phương thượng hạ tất cả

đều thấy.

Đại Giác Kim Tiên Như Lai viết: Tùng nhục cật trung dũng bá bửu quang, Quang trung

dũng xuất thiên diệp bửu liên, hữu hóa Như Lai tọa bửu hoa trung.

Tiết văn nầy Lăng Nghiêm dạy người sớm tối nên tụng lấy. Phàm Tăng chẳng biết cội nguồn

từ đâu lại nên chỉ lấy câu đó để tụng niệm.

Kim Tiên là do đức Thế Tôn tự xưng.

Liễu Nhiên hỏi: chư Tăng trong Phật giáo ngày nay gọi Tiên là tiểu đạo. Như Lai sao gọi là

Tiên? Đáp: Phật và Tiên vốn không phân bỉ thử, chia phân là do phàm Tăng. Như Lai đã nói:

Tiên là để cho người tu hành theo đạo và không còn chấp môn hộ nữa. Còn để tổng quy về cái

đạo Huệ Mạng của đức Thế Tôn.

Lại hỏi: Lăng Nghiêm còn gọi mười giống Tiên cũng còn bị đọa, là sao vậy?

Đáp: sở dĩ mười giống Tiên mà còn bị đọa vì lúc khởi thủ tu luyện nguyên chẳng tu theo Huệ

Mạng mà lại tu theo tiểu pháp của bàng môn, còn có thành cũng chỉ thành tiểu quả, cho nên

còn phải đọa.

Nếu đắc Huệ Mạng khởi thủ thì không còn gọi Thập chủng Tiên mà gọi là Kim Tiên.

Kim là vật báu của Tây phương, tức là Chân Khí. Chân Khí thuộc Dương, còn Thần Hậu

Thiên thuộc Âm. Âm được Dương nên thành Dương Thần.

Thế Tôn viết: sơ thành Chánh giác, nải nhập Long cung nhập định thất nhật, quán Bồ

Tát thọ Dương. Nhập định thất nhập chí nhị thất, tam thất ư nhủ bộ lâm nhập định thất

thất tứ thập cửu nhật bất thực.

Page 65: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

65

Lúc mới xuất định phải tư dưỡng đủ bảy ngày rồi lại xuất lại tư dưỡng đủ 14 ngày rồi lại

xuất. Cứ như vậy mà tư dưỡng, mà xuất. Cho đủ 49 ngày mới chẳng còn ăn.

Tam niên nhũ bộ: là 3 năm bú mớm, tỷ như em bé từ lúc mới ra đời cho đến khi tròn 3 tuổi.

Từ cái ngồi, cái đi, đứng, ăn uống, nói năng, mẹ đều luôn luôn bên cạnh dạy dỗ hướng dẫn.

Cho đến khi nào em bé đầy đủ năng lực đi, chạy, nói năng rành mạch, biết bưng chén cơm để

ăn. Tất cả đều có thể lo lắng được. Chỉ trừ những việc nặng nhọc mới nhờ mẹ.

Tam niên xuất Thần hiển hóa, biến thiên ức hóa thân, cũng như em bé tam niên nhũ bộ vậy.

Có người hỏi: Ngũ Đăng Hội Nguyên, gọi nhập định là ngoại sự. Nay nói nhập định, há

chẳng phải là ngoại đạo sao?

Đáp: Hội Nguyên gọi nhập định, là ngoại đạo, đó là chưa đắc cái đạo Huệ Mạng Xá Lợi,

luống theo không mà nhiếp Tâm mà nhập định, đó là kế thuật của Âm thần Hậu Thiên, chẳng

phải là Tiên Thiên Dương thần, nên nói ngoại đạo.

Tiết nầy đức Thế Tôn nói nhập định, là đắc cái đạo Huệ Mạng mà thành Linh thai Xá Lợi.

Sau khi xuất thai rồi nhập định, Hội Nguyên không minh được Chánh pháp nên hỗn luyện

làm một, đó là điều mê hoặc hậu nhơn.

Chính vì cái đạo Huệ Mạng, từ Lục Tổ về sau thuộc bí truyền.

Thế Tôn lại nói: Tám vạn kiếp chỉ trong một định. Há là ngoại đạo sao?

Tiết nầy nói 49 ngày rồi mới không còn ăn, đó là Thế Tôn đã tự chứng vậy.

Tu sĩ cần phải cầu Chân sư chỉ điểm về Huệ Mạng, về Xá Lợi, về Linh thai. Sau đó mới có

hy vọng.

Chẳng được như vậy thì thập luyện cửu không, cam chịu chết khô, dầu cho có huyền diệu

cũng chỉ là cô tính quỷ mà thôi.

Thế Tôn viết: Hộ niệm pháp linh cửu trụ.

Tiết văn nầy nói về công phu nhủ dưỡng của thời tam niên xuất Thần hiển hóa.

Tiết trên nói về nhủ chấp, tức là pháp hộ niệm.

Cửu trụ: Chân Ý thường định trụ nơi Thượng điền, nên gọi: Đại định.

Hoa Nghiêm kinh viết: tuy chứng tịch diệt cần tu tập, năng siêu như không bất động địa

Phật. Khuyển linh tùng tịch diệt khởi. Quảng tu chủng chủng chư trí nghiệp.

Page 66: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

66

Tiết trên nói: Cửu trụ đắc sanh diệt diệt dĩ mà được tịch diệt. Tuy vậy, nhưng phải cần gia

thêm công phu tu luyện thì tịch diệt mới được dài lâu, tợ như hư không là chốn toàn nhiên bất

động.

Phật có dạy: tất yếu là phải theo đây: sơ đắc tịch diệt, cần gia tu tập, trí huệ tiến mãi không

ngừng. Không mà lại không, hư mà lại hư, nên nói: Hư không giới tận. Sự tu hành của Ta

(Phật) không có chỗ tận cùng.

Hoa Nghiêm kinh hựu viết: Hằng trụ Niết Bàn như hư không.

Tánh như hư không, mà chẳng trụ ở hư không.

Nếu dính mắc hư không tướng, tức có cái hư không tại, và bị hư không gây chướng ngại thì

chẳng phải là hư không, mà hư không là tự nhiên như nhiên, nhưng chẳng phải là tự nhiên như

nhiên, cho nên nói Như hư không.

Hựu viết: Tâm thường chánh định, diệt trừ giác quán, nhi dĩ nhất thiết trí giác, quán

tùng thử bất động, nhập vô sắc định.

Tiết nầy nói về Tánh hườn Hư, được đến cảnh giới Hư không. Chân Tâm đã định thì tất cả trí

quán đều diệt trừ, hồn nhiên vô cực, hoặc một định 3 năm hoặc một định 9 năm, và có một

điểm Linh quang Chân Hỏa thâm tàng nơi trong. Lâu ngày dày tháng Tâm thường chánh định

thì thân phàm cũng hóa thành Khí, rồi Thần đã diệu và hình cũng diệu. Như đức Thế Tôn đã

diệt độ cho mẹ, lại còn buồn than thân đến hư không, lại cùng mẹ thuyết pháp. Như Đạt Ma tại

Thiếu Lâm, vai quảy chiếc dép đi về hướng Tây, trên đường đi thân đến quan tể tướng cùng

nói năng rồi từ biệt mà lên Thiếu Lâm tự. Quan tể tướng sanh nghi và đào mã khai quan,

nhưng chỉ thấy một quan tài trống không, tuyệt hình vô hài.

Tịch Vô Thái ấp, phàm thân biến hóa trăm ngàn nhưng lúc ẩn thì vô tông tích. Cho người

kim ngân, hoặc cho người mỹ nữ, hoặc hiện long hổ, hoặc chỉ một lúc mà hồi chuyển muôn

dặm. Thiền sư ẩn nơi Lô sơn, để hườn hư đó là Tâm thường chánh định, há có thiếu sao. Cho

nên đức Thế Tôn mới nói bát vạn kiếp nhất định.

Viên Giác kinh viết: Như Lai viên giác.

Viên giác là Chân Tánh đã hườn hư, và hư đã đến tột. Lúc nầy thì không phàm không Thánh,

không ngày không đêm, chỉ còn một Tánh Thái hư, tức Thiệu tử nói: Đạo thông thiên địa hữu

hình ngoại. Tư nhập phong vân biến thái trung. Trời đất theo kiếp số mà bị hủy hoại, nhưng

cái nầy chẳng hề bị hủy hoại. Co nên trong kinh Di Đà có nói: Thành Phật dĩ lai chí kim thập

kiếp.

Hoa Nghiêm kinh viết: Pháp Tánh như hư không, chư Phật ư trung trụ.

Page 67: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

67

Tánh đã như hư không thì không có việc gì cả. Lại còn nói: Vu trung trụ. Thực tại có một đạo

lý nhưng nhiều người chẳng hiểu. Thù bất tri, đó là diệu pháp luyện hườn Hư. Chân Tánh phục

quy Trung cung là bí quyết. Trung cung: Như Lai gọi Tỳ lô Tánh Hải. Đem cái chân Tánh nầy

mà trụ nơi Tánh Hải, tợ như Long dưỡng ngọc châu. Tất cả chẳng nhiễm nương diệt tận định

mà tịch diệt. Nếu có hào quang phát hiện phải thâu về tàng giấu đi.

Định mà lại định, lâu ngày thì Tánh sáng, hóa thành Xá Lợi quang, rồi từ Tánh Hải xung xuất

hóa vạn vạn đạo hào quang, quán suốt nơi Thái không, cùng với Cổ Phật Như Lai tương hội.

Cho nên Đại Giác Thiền sư mới nói: Nhất đỏa Xá Lợi quang hoa hoa. Chiếu tận ức vạn vô

cùng kiếp. Đại thiên thế giới tổng quy y. Hà Trạch Thiền sư lại nói:

Bản lai diện mục thị Chân sư

Xá Lợi quang trung nhận đắc cừ

Vạn kiếp mê đầu kim thủy ngộ (hiểu)

Phương tri tự Tánh thị Văn Thù.

Thử dĩ thượng, giai ngôn Xá Lợi chi quá quan, dưỡng Đạo Thai, xuất định, hườn hư chi diệu

pháp, nhi Huệ Mạng chi đạo tại tư dư.

Dư bất cảm vị thử tập vi tự luận chi diệu đạo.

Thị giai hội tụy Tiên Thánh chi chân truyền!

Tức hậu lai vạn kiếp lệ chí giả, ngộ Phật đạo tu Huệ Mạng chi căn bản. Sử kiến chi giả tức tự

liễu ngộ, khế hạp Phật, Tổ chi Chân chỉ, như thành kỷ hựu thành nhơn, tắc Phật đạo chi quả

chứng hỷ.

Page 68: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

68

10. CHÁNH ĐẠO TU LUYỆN TRỰC LUẬN

CHÁNH VĂN:

Hoa Dương viết: Tu giả dĩ phá nhi bổ luân. Luyện giả dĩ hỏa nhi hóa vật. Hỏa phi phong bản

thược. Vật vô sở tắc vô cư. Cố thị: chí nhơn tham hồ Đại đạo, tu hồ Tánh Mạng, Phong hỏa

vật, sở tịnh nhi đồng dụng.

Thượng hạ vạn cổ thành kỳ đạo giả, mạc bất dĩ thử nhi vị yếu dả.

Nại hà, tri chi giả hi yên, muội chi giả chúng yên.

Chấp Tánh phiếm Mạng, bất thức động tịnh vãng vãng đáo đầu hư lão. Mạng động nhi ngọc

hao, hao tận. Ô hô! Tánh hà cư tai! Đạo hà tổn tai! Thị dĩ chí nhơn sát hồ động tịnh chi tiêu tức

hiệp hồ tịnh tu.

Mạng giả căn ư Thận. Thận động tắc Thủy dả dĩ.

Tánh dả căn ư tâm tâm động tắc hỏa dả dĩ hỏa nhập ư thủy trung, tắc Huệ Mạng nhi bất ngoại

hao. Dĩ phong hỏa (xuy) hóa vi chân chủng. Kỳ pháp giản dị. Ngộ chi giả, tu chân chủng nhi

thành Xá Lợi. Tịnh thời nhi hầu động hành hồ Như Lai chi đạo lộ. Túc hồ Thế Tôn chi thọ hạ.

Tư vị chi hành trụ hỷ.

Thả hỏa chi hành trụ, thiệt tùy vật chi biến hóa.

Âm ma hiện thời tức đương dụng võ Hỏa nhi hườn luyện, miễn kỳ bôn trì, lậu tận chi nguy

hiểm.

Định tịnh thái bình, thường tự nhu hòa chi ôn dưỡng, dĩ vi hộ trì bửu châu chi kiên cố.

Thả như chuyển pháp luân chi tế, văn võ kiệm nhi tịnh dụng, kỳ trung tinh vi chi áo diệu, tại

sư truyền nhi tự ngộ.

Xá Lợi thành chi thời, chỉ võ đới văn chi huân tụ. Minh châu hiện nhi bá quái diệt, nhu vận

tào khê chi đại lộ.

Đạo thai lập nhi thiên trí sinh. Ôn dưỡng doãn chứng Như Lai định huệ.

Phù huệ như bất dụng, cần tu thiền ma, tuân gia Linh trí chi quang huy. Tịch, chiếu thường tự

giác ngộ, hưu tùy hôn trầm, tán loạn chi hối không.

Trì thủ định lực, tại hồ không Tánh, nhất niệm chi thành dả.

Tánh pháp định thời, tuyết hoa loạn phi. Tư vị chi xuất định hỷ.

Page 69: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

69

Cái đại đạo tịnh cực chi trung, nhi hựu sanh hồ động cơ. Sở vị triền cơ phục kiến ư Tý, Chân

vật tái động ư cực tịnh.

Sở dị trùng thứu hồ diệu đạo, tái lập hồ giới, định, huệ.

Định định bất dĩ, chí ư vô cực, nhi chí cực.

THÍCH GIẢI

Con người nguyên sinh, bẩm thụ hoàn toàn cái thể của Tánh Mạng. Cho đến tuổi niên tráng

khí mãn thì tự lậu. Đương lúc chưa phá (tức chưa lậu) nếu được gặp Chân sư chỉ điểm thì

chẳng cần bổ pháp mà chỉ dùng đốn pháp vượt thẳng vào cõi Như Lai. Còn người đã bị phá

phải nên bổ hoàn toàn thể (bổ luân). Bổ là thâu hồi Chân Khí vãng hoại để bổ chỗ bất túc của

Chân Khí. Bổ mãi cho đến lúc nào Chân Khí được sung mãn thì sanh cơ bất động, tức thành

hiện tượng Quy Túc (Linh Quy tàng đầu), gọi là Bất tử A La Hán.

Vật ở đây là Nguyên Khí của ta. Nguyên Khí tuy tàng nơi Khí huyệt nhưng lúc động thì

hướng ngoại biến thành chất lậu tận. Nay đã quy nguyên thì dùng Chân Hỏa để huân hóa cho

thành Chân Khí.

Lửa để huân chưng phải nhờ có gió. Gió là khí hô hấp. Lửa nhờ có gió mới hừng lên, và cái

khí chất kia mới được huân hóa thành Chân Nguyên Khí.

Sở là Đơn Điền, là chỗ sở cư của Chân Khí (vật lúc sanh cũng từ nơi đây xuất phát). Sử dụng

Phong Hỏa cũng từ nơi đây. Thể thủ quy Lư là quy về nơi đây Chân Ý nhập vào khí huyệt

dùng khí hô hấp thổi ngược lại, đó là cơ động dụng mà các bậc chí nhơn đã đắc.

Ngàn trăm đời về trước, ngàn trăm đời về sau cũng người nầy, cũng Tâm nầy muốn thành

Chân đạo không ngoài Tánh Mạng. Nhưng Tánh Mạng hiệp nhất không ngoài Phong Hỏa.

Cho nên nói: Thiên hạ vô nhị Đạo, Thánh nhân vô nhị Tâm.

Người đời học Phật chỉ biết niệm kinh bái Phật, thọ giới của vị Phương trượng, còn tối cao

thì tham thiền, đả tọa, số người nầy rất đông.

Còn 2 chữ Tánh Mạng thì ít người biết.

Cũng như trong giới tu hành ngày nay chỉ biết tu Tánh mà không biết tu Mạng. Thù bất tri,

trong Đại tạng giáo của Như Lai đã chép: Tánh Mạng song tu hữu vô, nguyên thị tịnh dụng. Vì

chấp tử thiền nên chẳng biết cơ động tịnh Âm Dương, Tánh Mạng. Cuối cùng dù cho vạn kiếp

tu luyện cũng vạn vô nhất thành, nên nói: vãng vãng đáo đầu hư lão.

Người tu luyện ngày nay chẳng đắc Chân truyền của Như Lai nên chấp Tánh mà chẳng biết

Mạng, nên chẳng biết khí Chân Dương phát động và chẳng biết pháp Thể thủ quy Lư, dầu

Page 70: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

70

không bị lậu tận cũng bị ngoại hao. Nếu hao tận làm sao không chết, nếu đã chết rồi thì Đạo có

còn không?

Tu sĩ tu luyện ngày nay lìa cha mẹ, bỏ vợ con rồi thâm nhập vào thâm sơn cùng cốc, chùa

lớn am cao để tu luyện, để Thiền tịnh, thật là trò cười.

Vì chưa đắc Chân truyền nên phải cô tu, khô tịnh, chẳng biết cơ động tịnh khác nào mèo điên

rình hang không có chuột, có ích gì đâu.

Tử Ma Quang Như Lai: bất Thức động tịnh, học đạo vô ích.

Các bậc chí nhân tịnh cái Tâm để chờ Thận động, Chân Ý liền chỗ động rồi liên hiệp lại mà

luyện. Tâm với Thận hiệp nhau, tức Tánh Mạng hiệp nhất.

Mạng tức là Nguyên Khí, Nguyên Khí động thì biến làm nước.

Tánh tức là Chân Ý, Chân Ý động thì biến làm lửa. Lấy Chân Ý trong Tâm tức là Chân Hỏa

nhập vào Chân Khí trong Thận.

Chân Khí được Chân Ý hiệp trụ thì Huệ Mạng chẳng bị ngoại hao.

Phong là hơi thở của hô hấp. Tiết trên đã nói: Chân Khí được Chân Ý hiệp trụ thì Chân Khí

không bị ngoại hao. Nhưng trong đó còn có cái bóng dáng của khí Hậu Thiên tợ như khí mù

chưa được huân hóa, nên phải dùng hơi thở hô hấp thổi ngược lửa vào lò để huân hóa cho hết

cái khí mù còn lại biến làm Chân Khí. Chẳng dụng công như vậy thì cái khí mù đó sẽ tác quái

gây bát loạn tâm quân rồi phát ra tư tưởng dục tình. Thầy Mạnh tử nói: khó diệt động chí.

Lăng Nghiêm kinh gọi là Âm ma.

Chủ yếu là miên miên, là lâu lâu hà luyện, tức là hà luyện cho liên tục, cho lâu ngày.

Luyện cái Âm ma nầy hóa thành Dương quang thì thâm tâm tự an lạc, tình dục tự nhiên

chẳng còn quy động, tức đức Thế Tôn gọi: nhập Tam muội hỏa trung nhi hàng Hỏa long. Đây

là bí cơ của thiền môn.

Các chí sĩ đắc được pháp nầy rồi cứ theo đó mà luyện.

Nếu dụng công đắc lực thì lòng dục chẳng trừ mà tiêu trừ. Tâm chẳng dụng tịnh mà tự tịnh.

Cho nên lấy đạo chế Tâm mà Tâm trở ra đạo.

Công phu như vậy được lâu ngày thì Thiên cơ hốt nhiên phát động, vô trung sanh hiểu, tức

danh: Chân chủng.

Tu luyện khó thành là do trọn theo ngoại đạo. Tu sĩ nào có duyên đắc được Chân đạo, là cái

Đạo rất giản dị, nên nói 80 tuổi mà gặp được Chân đạo cũng thành Chánh quả.

Page 71: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

71

Ngộ là hiểu, chẳng phải vô quyết vô truyền như thiền môn ngày nay rỗng không dạy người.

Nếu hiểu biết theo đó là lầm lạc vậy.

Ngộ ở đây thiệt có chân công, chân truyền, chân pháp, chân đạo. Thí như Thể thủ Chân Dược

để thành Xá Lợi.

Cơ chưa đến lúc phát động phải giữ lấy tịnh để chờ.

Cơ đã phát động thì dùng Chân Ý mà Thể thủ.

Chân Ý và Chân Khí hiệp lại một chỗ, là đồng Lư.

Thế Tôn gọi là Hỏa hóa. Có lửa mới huân hóa tất cả các đơn vị Âm trong người thành

Dương, rồi hoàn toàn Thuần Dương.

Lộ: là 2 đường đạo lộ Nhâm Đốc, còn gọi là Pháp luân lộ.

Thọ hạ: là Đơn Điền. Ngày xưa Thế Tôn tu luyện dưới cây Bồ đề là thí dụ Đơn Điền.

Đạo Nhất Thiền sư nói: vị hữu hành nhi bất trụ, vị hữu trụ nhi bất hành. Là nói về hành trụ.

Vật đây là Chân Khí, Chân Khí hành thì Chân Ý cũng hành, Chân Khí trụ thì Chân Ý cũng

trụ.

Âm ma là âm khí trong thân người. Âm khí cũng biến hiện, hoặc mộng mị thấy âm nhơn,

hoặc thân thể phát chướng, hoặc lúc thiền tọa thấy âm nhơn, hoặc mộng mị thấy hổ báo. Đều

là bệnh hủy hoại do âm khí biến hóa tẩu lậu, tất phải dùng phong hỏa mãnh phanh cực luyện,

thiêu tận âm khí, âm ma thì không còn cái họa hoạn nguy hiểm nữa.

Thân thể nhờ định tịnh mà được thái bình, lúc nầy phải dùng toàn văn Hỏa để ôn dưỡng và để

hộ trì Xá Lợi cho thật kiên cố.

Công phu chuyển Pháp luân phải kiêm dụng văn võ, nếu bỏ văn dụng võ tức bị tẩu hỏa nhập

ma, nếu chỉ dụng văn thì Chân Khí không chuyển.

Văn võ phải sư truyền, còn chỗ tinh vi thì do ta tự ngộ.

Lúc Xá Lợi thành, dùng văn Hỏa để đoàn tụ.

Nếu chẳng chấm dứt võ Hỏa thì Xá Lợi sẽ bị võ Hỏa bức tán, chỗ nầy phải biết nguy hiểm, là

điều chí yếu, chí yếu.

Minh Châu tức Xá Lợi, Xá Lợi thành có hiển nhiên lộ tượng.

Page 72: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

72

Bá quái là trăm thứ quái bệnh trong thân người, Xá Lợi đã hiện ra thì trăm thứ quái bệnh đều

tiêu trừ, cho nên gọi: bá quái diệt.

Tào khê: là đường tủy lộ của cột sống.

Lúc thể Xá Lợi quá quan phải theo đường nầy.

Lúc vận quá quan phải nhu hưởn.

Nếu theo đường khác thì Xá Lợi sẽ bị mất. Xá Lợi đã quy Trung cung thì tóc trắng trở lại

đen, răng rụng lại mọc, trí huệ quảng đại, quá khứ vị Lai chẳng còn biết. Tối kỵ là không được

dùng Huệ.

Đến thời ôn dưỡng đều dùng văn Hỏa để huân chưng thì không bị lỗi lầm, nên gọi: nhất

chứng doãn chứng.

Thường phải định giác nơi Trung ương, và dùng Huệ mà chiếu vào Tánh Hải.

Thiền: là tịnh. Na: là hơi thở.

Đến đây chỉ tu phần định của ta.

Lúc Tánh đã điều được thành phần Tức và Hỏa thì trở thành Linh Tánh, tất cả sự tri giác của

Linh Tánh như họa phúc của thời dĩ vãng và thời tương lai không được dùng đến.

Huệ mà chẳng dùng thì Linh Trí của Thánh thai càng gia tăng sự quang huy, tức càng linh

thông vậy.

Thường tịch lại thường chiếu thì Linh thai càng được linh giác. Trong cơ Thiền định, tất yếu

là phải có chánh giác, chánh tri kiến, sau đó mới phục hoàn lại Tánh thể được. Hoa Nghiêm

kinh có nói: hằng dĩ tịnh niệm trụ vô thường giác. Nếu bị hôn trầm thì Linh thai không có

Chân Tức, sẽ bị đọa vào vô tri, lụy thuộc vào khô tịch ngoan không ngoại đạo. Nếu theo ở tán

loạn thì Linh thai vô chủ, hỏa lạnh, khí kiệt, vô sở thành!

Linh thai có định lực là do niệm đã đạt chí thành. Linh thai mười tháng, tất phải niêm niệm

tại thai.

Niệm trụ, Tức trụ thì thai được viên mãn.

Hoa Nghiêm kinh gọi: an trụ tịch tịch chư Thiền định, Trí nhập bất tử đạo.

Trong tịnh thất tình cờ có Tuyết hoa phi phóng, đó là thời Thánh thai đã được viên mãn.

Thấy được cảnh xuất định thì phải xuất, nếu chẳng xuất thì trệ cho thai, không có thần thông

biến hóa.

Page 73: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

73

Chân vật là Nguyên Khí. Nguyên Khí đến cực tịnh thì động sanh, đó là cái lý âm chưa lọc

sạch.

Các bậc chí nhơn đã đạt đến chỗ âm dương nhật nguyệt hiệp nhất, thôi thúc tình hiệp với tán

chuyển đến tương dung.

Sở vị trùng thức hồ diệu đạo, là một đoạn công phu cổ nhân chẳng hề tiết lộ, hoặc là sợ tiết

lậu Thiên cơ, hoặc là chưa phải là chân sĩ tu luyện.

Đã được Chân Dược rồi, lập tức Thể thủ quy Lư, Chân Ý cũng quy Lư. 2 thành phần nầy

hiệp lại làm một, và nhập đại định lâu dài.

Định và định mãi, định cho đến trạng thái vô cực, và đến trạng thái trên vô cực mới là viên

mãn công phu.

Page 74: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

74

11. CHÁNH ĐẠO CÔNG PHU TRỰC LUẬN

CHÁNH VĂN:

Hoa Dương viết: Hạ công chi thời, xử ư tịnh thất. Thâm như cảo mộc, tâm tợ hàn khôi. Dĩ

linh quang vi dụng tịnh Tánh Mạng nhi đồng cung thị vị đạo chi thủ dả.

Thả tịnh cực nhi động giả, đại đạo căn miêu, Tạo vật chi chủ tể. Khí triền khiếu khai. Huệ

Mạng chi tình hỷ hướng hồ kỳ ngoại, nhiếp hồ lỳ nội miên miên nhược tồn, niệm tư tại tư, hòa

hiệp dung hóa, nhi vi Chân chủng chi thai, nguyên thiệt vị: Chánh đạo chi chân truyền.

Cổ chi viết: hỏa hóa, viết: hòa hiệp, viết: đối đẩu, viết: già phò. Thị xuyễn minh thử đạo chi

dụng.

Công đáo thời chí, vô vật chi trung, nhi vật linh yên. Tư thời nhi hiệp, kỳ thuận nhi nghịch

chi Đạt Ma vị chi thể thủ.

Vật ký qui vu kỳ nguyên, tắc hửu Pháp luân chi diệu vận.

Khởi hạp tịch chi tiêu tức, bồi hồi thượng hạ, lập hồ Thiên tâm, y hồ Nhâm Đốc, quy căn

phục Mạng, cố vị chi tứ hầu, lục hầu.

Số tức vật linh, tắc hửu thể thủ quá quan chi quyết tại yên.

Phù, hoặc thể nhi bất sanh, hoặc sanh nhi bất thủ, thị bất đắc quyết chi chân, cố dả.

Thả dục đắc quyết chi chân, hựu đương hư cầu sư, cửu đải hộ trì, bồi đức xả lực, nhiên hư

Đại đạo hửu sở đắc.

Cái xuất lư chi tiêu tức, hựu lại ý dĩ tịch quán, vật tắc sanh yên, Như Lai vị chi hỏa phần. Tư

thời mâu ni lộ tượng, bất cụ bất kinh, động nhi tịnh hành, thiết phòng nguy hiểm chi hoạn.

Độ quá Hằng hà chi độ khẩu, do Tào khê thượng thứu lảnh, đạt tu di nhi hạ Trùng lầu vãng

nam hoa, hoa thế giới, tọa đăng Phật quang bửu điện, hốt nhiên dung dung như cốc vi mị mị tợ

xuân nhụ bàn triền, liễm tụ ư Trung tư vị chi kết đạo thai, an lạc thái bình chi thi định, vật trợ

vật vong nhi dưỡng, vật Tịch vật chiếu nhi ôn.

Định tịnh chi trung, hốt giác nhất luân hao nguyệt, huyền ư không trung, lưu nhi đải chi

nguyệt, huyền ư không trung, lưu nhi đải chi.

Nhất luận hồng nhật thăng ư nguyệt trung thâu nhi tàng chi.

Định tịnh chi trung, tập hồ tịch diệt, hửu vô trường hườn hồ hồn nhiên, cố viết: Vô vi.

Page 75: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

75

Thả đại đạo vô cùng yên. Tịch cực nhi sa hồ động, nhất vật thượng hiệp ư đạo thai, như pháp

luân chi hựu trùng chuyển.

Tịnh nhi hựu tịnh, diệt nhi hựu diệt.

Thai viên khí túc, thiên hoa loạn trụy, tắc Phật tử chi định niệm, đương di nhi siêu xuất Tam

giới Thị vị Như Lai chi xuất hiện thả xuất định chi sơ, phòng bị ngoại ma chướng xâm nhiểu.

Nhất luân kim quang, bổn thị ngã sở hữu chi linh vật, thủ nhi quy chi, vi hóa hình chi diệu

Dược, thân nhi dưỡng chi, tử hiệu sanh hồ kỳ tôn.

Nguyệt bị hành mãn chi thời, ẩn ư thâm cốc, tuyệt tích hườn hư, hiệp hồ diệu đạo. Thị vị Như

Lai mạc hậu chi sự.

Dư nguyện đồng chí, hưu ngộ nhập ư khẩu đầu Thiền tam muội chi ngoại đạo, tắc phi chánh

đạo dả.

THÍCH GIẢI

Tịnh thất là nơi công phu của Tu sĩ.

Tịnh thất là nơi yên tĩnh ít người qua lại, là nơi có không khí trong lành, không có lò sát sanh,

rất xa nghĩa địa, không có người ác ở gần, không có cường hào ác bá cùng bọn du thử du thực

lai vãng.

Thân như cảo mộc: lúc ngồi thiền toàn thân bất động, thân tợ cây khô, Tâm tợ hàn khôi: Tâm

như đống tro lạnh, là một niệm cũng chẳng dấy lên.

Còn gọi: Tọa thì quên hình, tịnh thì quên ý.

Linh quang: là ánh hào quang của đôi mắt, ở hồi quang phản chiếu, là dùng Chân Ý cùng

Linh quang nhập vào Mạng cung.

Đó là Tánh Mạng song tu, là đầu mối của Chánh đạo.

Công phu đến lúc chân tịnh, là chân thời, chân cơ tức có khí chân Dương phát động, chẳng

phải là Tâm động, hay Ý động mà chỉ có chân Khí nơi Thận Mạng động, còn gọi là Đơn Điền

dưỡng động.

Ngũ Tổ nói: Tình lai. Lục Tổ nói: Dâm tâm thị Phật tâm.

Tu sĩ nếu chẳng biết cơ động nầy thì không biết được chỗ động, dù có tu luyện cũng vô ích.

Page 76: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

76

Phật và Tổ biết rõ cơ nầy lại, nên dùng pháp thâu hồi về Đơn Điền luyện thành Xá Lợi. Siêu

phàm nhập Thánh cũng do đây mà khí thủ, cho nên nói: Đại đạo căn miêu.

Kẻ phàm phu chẳng biết phương tu luyện, nên cơ nầy đã động mà không biết pháp chế phục,

nên Tâm cũng động theo. Tức Mạnh Tử nói: khí diệc năng động chí.

Chỉ vì chẳng biết nên nam nữ giao hiệp mà sanh ra người, vạn vật như thư hùng cũng nhân

cơ động rồi tự hiệp mà sanh ra vạn vật.

Phật và Tổ chờ cho cơ nầy vừa động chẳng đặt Tâm ở chuyên niệm, lấy Lửa mà luyện, lấy

Gió mà thổi ngoại Thận tự rút, lòng như nước lạnh nào có hiếu sắc.

Đó là cái đạo hóa dục, là chân cơ của trời đất.

Tự nhiên như nhiên, chẳng hề có Tâm. Thánh phàm biến hóa đều do cơ thuận nghịch mà ra.

Khí triền: Cổ nhân gọi khí là vật, là nước…

Khiếu: là Đơn Điền, khí huyệt.

Khai: tức Mệnh Môn, Y thư gọi trung gian 2 quả Thận là Mệnh Môn.

Huệ Mạng là tên riêng do Thế Tôn mệnh danh. Trung Hoa gọi là Nguyên Khí.

Con người từ lúc bẩm sinh đã có Nguyên Khí nơi trong, Phật Tánh cũng đã có nơi trong, nên

nói: Thiên Mạng chi vị Tánh. Lúc nầy tám mạch đều thông, cùng mẹ hô hấp liên hệ nhau,

miệng mũi tuyệt nhiên không có hơi thở.

Đến lúc Lôi Địa chi thời, chấn động một tiếng, ra khỏi bụng mẹ thì mũi miệng đều thông,

tám mạch lại chẳng thông, Nguyên Khí nội tàng, cho đến tuổi tráng niên thì Nguyên Khí chầu

ải quan mà xuất ngoại. Lăng Nghiêm kinh gọi Lậu tận.

Chín khiếu đều khai. Từ đây về sau cơ nầy một phát đủ đường mà ra.

Con người phàm phu có 3 dâm: dâm tâm, dâm thân và dâm căn. Lăng Nghiêm kinh có nói:

người tu hành mà 3 dâm không đoạn khác nào nấu cát trong cơm, dù trải qua trăm ngàn kiếp

cũng vẫn là cát nấu. Tất nhập ma đạo, chuyển luân tam đồ, cuối cùng cũng không có lối ra.

Cái đạo Huệ Mạng của Thế Tôn, Phật Phật tương ấn, Tổ Tổ tương truyền. Nếu được tự dụng

thì 3 giống dâm sự cũng tự tiêu. Trong đó thực có thâm chỉ.

Nhiếp nội: lấy hô hấp thu vào. Hô hấp nếu không có Chân Ý thì không có chủ.

Nội: là Đơn Điền, là khí huyệt.

Page 77: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

77

Công phu ôn dưỡng Xá Lợi phải miên miên nhược tồn, niệm tư tại tư. Xá Lợi đã quy nguyên

phải nên thời thời hô hấp xuy khư, khắc lấy Chân Ý mà lưu thủ, tợ như lửa trong lò. Chân Ý

và Chân Khí dung hòa nhau biến làm Chân Chủng, thiệt là Tánh Mạng song tu. Tu luyện như

vậy được lâu ngày thì vô trung sanh hữu. Trừ phương pháp tu luyện nầy ra, tất cả đều là bàng

môn ngoại đạo, cuối cùng cũng chẳng được thành công.

Cổ nhân nói: Hỏa hóa. Hỏa đây là Chân Hỏa là Chân Ý. Chân Hỏa huân hóa tất cả các đơn vị

Âm trong người cho thành Dương, cuối cùng là thuần Dương, và thuần thiện, thuần chân vô

Ngã.

Có thuần Dương thì Tánh Mạng mới hòa hiệp, mới hiệp nhất.

Chủ yếu là phản quán nội chiếu vào Đơn Điền, gọi là đối đẩu.

Già phò: Chân Ý chân tọa nơi Bắc phương Thủy diện trong thân ta. Là pháp nhập diệt sơ

quan hạ thủ. Xưa Thương Na Hòa cũng tu theo Thiền tông, thấy A Nan ngồi trên giữa dòng

nước mà nhập diệt, ba lần đến thỉnh cầu, sau đó A Nan mới ban cho chánh pháp nhãn tạng, và

được lên ngôi Tam Tổ. Xiển minh cái Đạo nầy, dù có xảo dụ thiên ban vạn sự cũng không

ngoài 2 thành phần Tánh và Mạng, Thần và Khí.

Công đáo: chẳng phải một sớm một chiều mà là ngày tích tháng lũy, rồi sau đó mới có hy

vọng. Lại còn ở già trẻ, siêng nhác mà có sự phân biệt.

Thời ở đây chẳng phải là thiên thời, mà là thời của Chân Dược sản trong thân ta, nên gọi: thời

chí vật sản là Chân Dược sản, Tâm phải biết nếu ngột tọa ngoan không ắt có lỗi lầm trước mắt.

Tư thời: là lúc Chân Dược sản, có đặc tính hạ lưu cho nên phải dùng Chân Ý hiệp với Chân

Tức mà Thể thủ.

Thể thủ là nghịch hồi, thuận theo thì bị tẩu lậu.

Nguyên: tức là Đơn Điền.

Pháp luân: tức là hậu thăng, tiền giáng.

Hạp tịch: là nội ngoại hô hấp. Ngoại diện hô hấp là giáng, nội diện hô hấp là thăng.

Bồi hồi: là Chân Ý hoạt động.

Thượng hạ: thượng là Càn đảnh, hạ là Khôn phúc.

Lục Tổ nói: ngô hữu nhất vật, thượng trụ thiên hạ trụ địa.

Page 78: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

78

Lập hồ thiên tâm: Thiên Tâm có tên Trung Huỳnh cư tại Chánh trung của trời, còn có tên là

Thiên Can là Đẩu bỉnh. Tại trời là Thiên Tâm, tại người là Chân Ý, Tu sĩ nếu mất Chân Ý như

trung Thần mất Thánh quân. Lúc chuyển Pháp luân tất phải dùng Chân Ý tọa nơi Trung cung,

mà làm cái tâm của trục xe khiến cho bánh xe được vận chuyển.

Lúc chuyển Pháp luân, Chân Ý Chân Khí phải nương theo đạo lộ Nhâm Đốc mà vận hành.

Hoặc Chân Ý hành mà Chân Khí không hành đều không thành Xá Lợi.

Quy căn phục Mạng: Căn và Mạng đều là Đơn Điền.

Lục hầu: Thể thủ, phong cố, thăng, giáng và 2 giờ mộc dục là 6 hầu.

Đã hiểu rõ được pháp dụng công đã nói trên rồi hành trì cho lâu ngày thì Chân Khí nơi Tổ

khiếu sung mãn, tiến hành một tịnh tức Thiên cơ phát động, châu thân dung hòa khoái lạc,

dương vật toàn nhiên bất cử, nên nói: số túc vật linh. Vật đây là Xá Lợi. Vật đã linh thì dụng

pháp quá quan lên Thiên Môn rồi quy về Trung điền. Quá quan có diệu quyết rất bí mật, chẳng

dám nói toạc ra vậy.

Chẳng nên Thể thủ mà thể, là thể thuốc non, nên nói: Thể thuốc non, nên nói: Thể nhi bất

sanh.

Chân Dược sanh mà chẳng biết là điều lỗi lầm trước mắt, đều do chẳng biết Chân quyết.

Người học Thiền không nắm được Chân quyết, đa phần đều do lòng tự cao tự đại, tự cho sở

tri sở năng của mình đã viên mãn nên không cầu Chân sư chỉ điểm. Nếu được Hư tâm khẩn

thiết giữ cái đúng lễ của đệ tử, làm hết cái phận sự của đệ tử, mãi mãi thật lòng hộ cho thầy

thành chánh quả, há chẳng đắc toàn quyết sao.

Đức là cái thể của Đạo, là hạt giống lành của Tánh. Muốn tầm cho được cái đạo âm dương

Tánh Mạng mà không tu đức làm sao gặp được. Đức đối với Đạo như chim có cánh, nếu thiếu

một là vô sở dụng.

Lực là tài sản. Cổ vân: pháp, tài lưỡng thì bỉ thử đồng thành Chánh giác. Nếu nói ta đây là

người tu hành theo chánh đạo mà lại cầu lấy danh vị, mua lấy tiếng khen, mượn Phật che thân,

có phải tự mình làm cho các bậc cao nhân chẳng muốn đoái hoài đến sao.

Có nhiều người tu Thiền mà nói cứ ngồi mãi là được thành Chánh quả! há chẳng lầm sao.

Còn như Lưu Chí Lược tọa hoài mà đắc là do sự kết giao với Lục Tổ rất thâm thiết, nào có lực

gì.

Chân Ý tịnh quán, Như Lai có nói: nhược bất tri Tâm mục sở tại, tắc bất năng hàng phục trần

lao. Chân Dược, hoặc xuất Lư, hoặc chẳng xuất Lư đều do thần lực của Chân Ý.

Page 79: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

79

Tử Ma Quang Như Lai nói: hỏa giả noãn giả, phát động dã. Là cảnh Xá Lợi sản.

Tư thời Mâu Ni lộ tượng: lộ tượng là ngoại cảnh, lửa ấm là nội cảnh.

Thoạt thấy cảnh nầy, nếu chưa đắc Chân truyền mà nhận lấy cảnh nầy nên đem lòng sợ hãi

thì Tâm động, Thần trì, Xá Lợi cũng bị tán thất. Nếu muốn thành Chánh quả há chẳng xa vời

sao.

Chân Khí trụ thì Chân Ý cũng trụ, nên nói: tịnh hành.

Khê lộ: là đường Tào khê, khúc khúc hiểm nguy.

Hằng hà: là đường tủy lộ cùa xương sống, trên dưới có chỗ chẳng thông, tất phải dùng Chân

Ý độ, dẫn Xá Lợi đi qua con đường ấy, nên nói: độ khẩu.

Thứu lảnh: là ngôi đầu, tại Ngọc Chẩm.

Tu Di: là đỉnh đầu.

Trùng Lầu: là yết hầu.

Vãng: là Chân Dược đi qua. Ngày xưa Long hoa thượng hội Long nữ hiến châu, trụ Nam

phương, nữ chuyển nam thân, chứng thành Phật vị.

Nam phương: là Tâm khiếu. Tâm thích động mà chẳng thích tịnh, thích mới mà chẳng thích

cũ, lại hay đổi dời theo từng thời khắc. Tới lui không biết lúc nào nên không biết được quê

hương của nó. Từ vô thỉ đến nay mãi chịu theo kiếp tứ sanh (noãn, thai, thấp, hóa) và lục đạo

luân hồi (tứ sanh cộng với thiên đường và địa ngục) chẳng có lúc nào ngừng nghỉ! Cho nên

mới nói: người đến lúc chết mà không biết được lòng mình.

Nay may được đạo Huệ Mạng đến chế phục, biến Chủng Tánh thành Chân Tánh, luyện Thức

Thần thành Ngươn Thần, cũng như chì chế với thủy ngân thì thủy ngân chết mà không có đặc

tính trì lỏng.

Nếu chẳng được Huệ Mạng Lai nhập Tâm khiếu và cũng chẳng được tự định, dù có tu luyện

cũng chỉ là Thức Tánh Hậu Thiên, chẳng phải là Tiên Thiên Chân Tánh.

Tiên Thiên Chân Tánh, lúc lôi Địa chấn nhất thinh thì rơi vào Mạng trung, nên nói: Thiên

Mạng chi vị Tánh. Người học Phật tự phải tỉnh ngộ về Tánh Tiên Thiên và Tánh Hậu Thiên.

Nếu không tự tỉnh, cuối cùng cũng không thành công.

Lúc Xá Lợi lên Trung cung, khắp châu thân có dạng tợ như mây vượt lên, tợ như sửa buông

ra, trăm mạch xung hòa, thơ sướng cả tứ chi. Lập tức dùng Tâm mục vận hành theo tả triền

Page 80: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

80

hữu chuyển, bốn mươi chín ngày mới được định, và hữu truyền tả chuyển mới được định. Lúc

nầy Tánh và Mạng đều bàng tụ nơi Trung cung kết thành Linh thai.

Công phu đến đây thì được an lạc thái bình thiên định. Lúc nầy không còn tổn thất mà cũng

không còn sanh nữa, một đã đắc, và một chứng nghiệm đầy tin tưởng. Như vậy làm sao chẳng

được an lạc thái bình tự nhiên của Thiền định tịch tịnh.

Lúc mới kết Thánh thai thì hơi thở của Hậu Thiên tuy còn, nhưng không được chấp trước hơi

thở đó, nên nói: Vật vong.

Đạo Thai đã kết thì Chân Ý thường tại nơi trong tịch nhiên bất động.

Lại chẳng nên tùy thuộc hôn muội. Tâm phải thường giác thường ngộ, nên nói: Vật chiếu.

Tịch định chi trung… thoạt thấy một vầng trăng tròn treo giữa không trung, đó là khí Chân

Âm phát xuất từ nơi Đơn Điền lên hai mắt.

Thấy được cảnh nầy phải dùng Chân Ý mà lưu thủ lại.

Nhất luân hồng nhật thăng ư nguyệt trung: là nói về hiện tượng nhật nguyệt tịnh hội, thì thâu

thủ mà tàng trữ nơi Trung cung và một niệm chẳng sinh.

Hồn nhiên: là Chân Tánh hư vô.

Vô vi: là không hư đến tột. Vạn vật đến tột thì hườn nguyên, và đại đạo cũng vậy.

Tịnh đã đến tột thì sanh động cơ, tức có một vật Thuần Dương, từ huyệt Dũng Tuyền thăng

lên Trung cung, cùng Linh thai tương thân tương luyến, hòa hòa hiệp hiệp làm một.

Pháp luân trùng chuyển: Chân Khí đã quy vào Linh thai thì tự vãng hạ, qua Tam kỳ lộ vượt

Vỹ Lư, qua Giáp Tích, xuyên Ngọc Chẩm, lên Thiên Môn, xuống Sơn Căn, hạ Trùng Lầu rồi

về Trung đình. Dụng công đúng pháp gọi là: Trợ thai chi chí bửu.

Lúc nầy mũi không còn hô hấp, tay không còn sáu mạch, tức là Đại định vậy.

Thai viên thì có thiên hoa loạn rơi, là biết Thánh thai đã viên mãn. Chẳng có Thiên hoa loạn

rơi là Linh thai chưa viên mãn.

Thấy được cảnh nầy thì dùng Chân Ý xuất định.

Tam giới: tức Thượng điền, Trung điền và Hạ điền.

Như Lai xuất hiện: Hoa Nghiêm kinh nói: Thế Tôn tùng bạch hào tướng trung phóng quang

minh gọi là Như Lai xuất hiện.

Page 81: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

81

Lúc mới xuất định, sợ có chư Phật, Bồ Tát đến nói năng, nhất thiết không được đàm đáp, chỉ

đề chánh niệm mà chế ngự, rồi trở vào, không được diễn du.

Lúc mới xuất định, Tâm không được chấp trước vạn vật, chỉ chờ trong thân có một vầng Kim

quang xuất hiện nơi không trung, thì đem Pháp thân đến gần Kim quang rồi dùng pháp Tụ

quang và lưu thủ nơi trong Pháp thân rồi Pháp thân nhập vào phàm thân. Cứ như vậy mà công

phu cho lâu ngày theo nhũ bộ thì phàm thân có thể hóa thành khí. Chỉ sợ chẳng được Kim

quang nầy thì phàm thân không được hóa làm khí. Cho nên có cái thuyết lưu thân. Lại còn do

ở đức hạnh mà ra. Tức vạn cổ không hề tiết lộ thiên cơ, mà nay mới tiết lộ.

Lúc mới xuất định, nguyên là một thân. Nếu định được lâu ngày thì có Thiên bá ức hóa thân.

Công đã viên mãn thì ẩn nhập vào thâm sơn cổ động không người vãng lai, ngột nhiên đoan

tọa, luyện hình hóa khí, luyện Thần hườn hư.

Page 82: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

82

12. THIỀN CƠ LUẬN

CHÁNH VĂN

Hoa Dương viết: Phật đạo Tánh Mạng dụ Long Hổ, Long Hổ dụ động tịnh, động tịnh dụ

thiên cơ. Hà dụ chi tạp dả?

Cổ Phật viết: bất thức Tánh Mạng, tắc đại đạo vô sở thành.

Phật Phật Tổ Tổ, mạc bất do thử Tánh Mạng nhi vi tu luyện.

Phù ký việt: Tánh Mạng, nhi hựu viết: Thiền cơ giả, hà dả?

Thả nhơn tùng bẩn thị Tánh Mạng nguyên thị nhất đoàn, cập kỳ sanh giả phân vi nhị.

Đương kỳ tiết chí, thể vượng chi thời, nhị Huệ Mạng chi nguyên bửu, tức hửu biến hóa cũng

quang hướng ngoại chi cơ giả tại yên. Bất linh kỳ thuận xuất tấn thử chi cơ, hồi quang phản

chiếu, ngưng ý nhập vu Bắc hải, tắc nguyên bửu diệc tùy ý, nhi hườn ư Bắc hải. Cố vị chi hòa

hiệp ngưng tập.

Nhân kỳ hửu biến hóa chi thuận nghịch, cổ viết: Cơ. Nhược bất viết cơ, tắc nhơn bất tri Huệ

Mạng sở động chi chí bửu, dĩ ngột tọa ngoan không, mê khước Tánh Mạng phối hiệp chi chân

cơ? Cấp kỳ cơ chi tức giả, mặc chiếu hồn nhiên, cố viết Thiền.

Thời chí hốt nhiên nhi động hựu viết: Cơ.

Cấp đương Thể thủ, viên thông vị chi đạo. Khởi hạp tịch chi tiêu tức, vận Pháp luân chi

huyền cơ. Chân chủng linh bửu đương quy căn thâm tàng. Cổ nhân vị chi phản bản phục

Mạng. Nhiên đắc thử chủng lai, tư vị chi Xá Lợi. Phiếm kỳ hữu vi chi công, dung kỳ vô vi chi

pháp, tịnh mặc nhi hựu tịch chiếu chi, hựu viết: Thiền.

Tư vị chi Tâm mục sở tại, thả Mâu ni chi châu thành, hình như châu sa quang tợ tuyết, dung

tợ than tiển, vị như mật, hượt hượt bát bát, lưu thông nhi xuất, hựu viết: Cơ.

Bất kinh bất nghi, đải động nhi thủ, thiệt vị chi thiên pháp diệu thủ chi phương.

Tấn thử động cơ, từ từ xuyên quá tam quan chi thiệc quan, tư vị chi: siêu phàm nhập Thánh.

Mâu ni chi bửu châu ký quy trung ương, nhu thủ nhi định chiếu vi, hựu viết: Thiền.

Thiền định chi trung, dung dung vô vi chi lạc, thả vô vi chi trung, hốt hữu vi, hựu viết: Cơ

phù viết: Vô vi, nhi hựu viết: Cơ. Hà dả?

Nhược bất viết cơ, tắc nhơn bất tri hửu thử diệu vật, cô thủ ư thai noan.

Page 83: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

83

Thuận thử cơ chi diệu vật, thâu phụ ư thai trung tịch chiếu nhi trường định chi, hựu viết:

Thiền tư vị chi sanh diệt diệt dĩ.

Phù tịnh định chi trung, nhất vật siêu nhiên nhi xuất, hựu viết: Cơ.

Sảo sảo nhi đải chi, hựu viết: Thiền.

Tùy nhi hựu xuất, hựu viết: Cơ.

Thâu nhi tàng chi, tịch chiếu. Nhu nhi mặc thủ, hựu viết: Thiền.

Tịnh chiếu nhu mặc chi trung, nhị vật tùng dũng tuyền nhi xuất, hựu viết: Cơ.

Thủ nhi tịnh định, hựu viết: Thiền.

Tư vị chi tịch diệt. Thả tịch diệt chi định, cửu phân phân, bạch tuyết mãn không, hựu viết: Cơ.

Tứ thời xuất định chi biện cơ, bất linh kỳ thì trở, nhược phù trệ ư thai trung, khuyết thiểu thần

thông chi biến hóa, tức dương nhi xuất chi tư vị chi: siêu xuất Tam giới, ninh nhi đải chi, hựu

viết: Thiền.

Nhất phiến kim quang lai huyền ư đương không hựu viết: Cơ.

Thâu nhi nhập chi, định nhi hựu định, hựu viết Thiền cửu cử trường định hình thần cu hóa

nhi thiền cơ chi thuyết tùng thử tất hỷ.

Dư nguyện học Phật giả, hưu ngộ nhập ư tà sư khẩu đầu chi Thiền cơ, nhận vi chân Thiền cơ,

tắc phi Thiền cơ.

THÍCH GIẢI

Con người lúc sanh ra chẳng bẩm thụ lấy 2 thành phần Tánh và Mạng, ngoài ra có còn gì nữa

đâu. Còn muốn thành Chánh đạo trước cũng phải bảo thủ lấy Tánh Mạng mình. Tánh mạng

tàng tại Cốc Thần có tên là Long Hổ. Long Hổ có vận và an trụ gọi là động tịnh. Động gọi là

Cơ, tịnh gọi là Thiền. Thiên danh vạn dụ không ngoài Tánh Mạng. Trừ 2 thành phần nầy ra

đều bị lọt vào cửa ngõ của kẻ dối gạt người ngu.

Thiên hộ vạn môn, dù cho phí tận Tâm cơ cũng không hiểu rõ được diệu lý của Tánh Mạng.

Hoặc biết Tánh mà chẳng biết Mạng, hay tu Tánh mà không tu Mạng nên vạn vô nhất thành.

Từ xưa đến nay, những người tu luyện chưa có người nào không tu Tánh luyện Mạng mà

thành Chánh quả.

Tâm tịnh gọi là Thiền, Thận động gọi là Cơ.

Page 84: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

84

Con người mới lúc thai sanh, 2 khí của cha mẹ hiệp lại làm một khí. Linh quang một điểm

của Tánh tức tại nơi trong, cổ nhân gọi là Tam gia hòa hiệp mới có thân nầy, thật là lời chí lý.

Con người lúc mới lọt khỏi bụng mẹ, Lôi Địa nhất thinh thì Tánh phân nơi Tâm, Mạng phân

nơi Thận, 2 thành phần cách nhau tám tấc bốn phân, đến già cũng chẳng gặp nhau.

Người tuổi đến 15, 16 thì Chân Khí nơi Đơn Điền tự động.

Nguyên Bửu tức Tiên Thiên Nguyên Khí.

Tiên Thiên Nguyên Khí ẩn tại Đơn Điền.

Hậu Thiên khí sung mãn thì Tiên Thiên Khí tự động. Chân Khí đã động, nếu chẳng biết cách

tu luyện thì biến thành Chân Tinh, rồi biến thành hữu hình Tinh rồi chầu cửa ải mà xuất ngoại.

Thiên cơ nơi người là Dương động. Cơ động có nội cảnh là Tâm động, có ngoại cảnh là Thận

động.

Tịch Vô Thiền sư nói: ngưng Thần thâu nhập vu thử khiếu chi trung, tắc khí tùy Thần vãng tự

nhiên quy vu thử khiếu.

Thế Tôn lại nói: Tâm mục sở tại.

Lấy Tâm hiệp với Thận gọi là ngưng tập.

Thuận thì Chân Khí biến thành Chân Tinh rồi biến thành hữu hình Tinh và có cơ lậu tận.

Nghịch thì hữu hình Tinh hóa thành Chân Tinh, rồi hóa thành Chân Khí và có cơ vô lậu.

Cơ là động, Mạng là Nguyên Khí. Nguyên Khí dù không tiết lậu cũng bị ngoại hao. Ngoại

hao tận tuyệt thì ô hô! Tu luyện là nhiếp thu phần Chân Khí ngoại hao đó thâu tàng vào nơi

trong, thì thành công.

Sanh người cũng là khí nầy, nên nói: Chí bửu.

Thiền môn ngày nay chẳng biết Huệ Mạng, nhiếp tâm tử tọa, thật là lầm lạc!

Chẳng biết Tánh Mạng ngưng hiệp khác nào như kẻ mài gạch làm gương có ích gì đâu!

Chẳng biết pháp hòa hiệp ngưng tập thì không có cái cảnh Chân chủng sở sản.

Cơ tức là Mạng chẳng động, dương chẳng khởi. Cơ đã dừng thì lập tức Hồi quang phản chiếu

vô sự vô vi, nên gọi là Thiền.

Thời ở đây không phải là Thiên thời mà là thời của Chân chủng sở sản.

Page 85: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

85

Thể thủ là thâu thủ Chân Dược về bản cung, nếu chẳng biết là điều rất lỗi lầm.

Viên Thông nói đạo, tức là thâu lấy Chân Dược.

Hạp tịch là nội ngoại hô hấp. Tiểu tức là cái cơ của nguyên quan.

Vận Pháp luân: là Chân chủng vận hành theo đạo lộ Nhâm Đốc, do hô hấp thôi bức nên gọi

Pháp luân nguyên cơ.

Chân Khí vận hành đều quy về Mạng là Cốc Thần.

Do công phu Pháp luân như ý nên có Chân chủng là Chân Khí đắc được Chân Ý mà luyện

thành Xá Lợi.

Công phu hữu vi là dùng gió mà thổi, thổi cho Chân Khí vận hành.

Pháp vô vi là hồi quang phản chiếu.

Tịnh mặc là hoàn toàn tịnh, là thiền. Tịch chiếu là động tịnh kiêm dụng, là thiền cơ.

Tâm mục sở tại là Huyền quan tổ khiếu, là Cốc Thần Mâu Ni châu, mặt trong thì hồng, lúc

phóng quang thì màu trắng.

Xá Lợi thành thì Đơn Điền ấm, tân dịch ngọt như men.

Lúc xuất Lư thì Xá Lợi hoạt bát lưu thông.

Lấy Chân Ý để định tịnh thì không còn kinh sợ.

Chân Ý tịnh để chờ, Chân Khí động thì Thể thủ.

Trừ pháp nầy ra không còn pháp nào là Chân. Lúc Thể thủ phải biết dụng nhu chế cương.

Động cơ là Chân Khí động phải lập tức Thể thủ, quá quan phải từ từ. Từ từ là chẳng trước

chẳng sau, trước gọi là đạo dẫn bàng môn, sau là tồn tưởng ngoại đạo. Cho nên phải nương

nhau và đồng hành.

Tam tan là cửu khiếu của Tam quan trên đường Đốc Mạch.

Luyện Chân Dược tại Đơn Điền. Lúc đã thành Xá Lợi phải lập tức cho nó thoát ly ảo cảnh,

chẳng cho nó siêu thoát tất có họa hoạn. Thoát ly ảo cảnh gọi là siêu phàm nhập Thánh.

Mâu Ni bửu châu đã về Trung ương, tức là Cốc Thần, phải dùng văn Hỏa là nhu thủ và định

chiếu thường phải ôn dưỡng.

Page 86: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

86

Trong cơ thiền định có một trạng thái Thái hòa gọi là dung dung vô vi chi lạc, tợ như say, tợ

như ung lửa, Phật gọi Thiền định chi trung tam muội.

Trong vô vi lại có hữu vi, đó là một điểm cam lộ trong Thái không.

Có nói cơ, người mới biết trong thân có diệu vật là Chân Dược, nếu chẳng biết rõ cơ nầy gọi

là: cô thủ ư thai noan. Cơ còn có cơ nhơn tương trợ mới thành Xá Lợi.

Thuận theo cơ nầy của diệu vật là thâu phụ Chân Khí vào trong Linh thai.

Tịch chiếu trường định là công phu từ thập ngoạt về sau, gọi là dụng văn Hỏa để ôn dưỡng.

Gọi là: sanh diệt diệt dĩ, là 2 khí đã định trong tịch định có một vật vượt giới hạn mà ra xuất

phát từ Đơn Điền, có hoa mà vô hình, treo ở Thái không.

Sảo sảo đại chi: là trung khoảng 2, 3 hơi thở.

Tùy theo đó mà xuất phát: tức từ Đơn Điền xuất phát, cũng có hoa mà không có hình, cùng

với Chân Dược đã có trước tương hiệp.

Châu nhi tàng chi: là thâu Chân Khí nhập vào Linh thai để tư dưỡng Linh thai được trường

vượng.

Tịch chiếu, nhu nhi mặc thủ: tịch là Chân Ý tịch trụ nơi Tổ khiếu, là Chân Ý thuộc tịnh.

Chiếu là song mâu trực chiếu huyền quan, Chân Ý thuộc động. Trong tịch có chiếu, trong

chiếu có tịch, là động tịnh kiêm dụng, là một công pháp trọng yếu trong công phu thiền định.

Tịch chiếu liên tục độ vài trăm ngày có thể trừ Bạch Hổ và trảm Xích Long.

Nhu: là dụng văn Hỏa.

Thủ: là ôn dưỡng Linh thai, không để cho Linh thai vì một lý do gì mà gặp nguy hiểm.

Nhị vật tùng dũng tuyền xuất: là 2 đạo thuần Dương từ Dũng Tuyền trực thăng lên Càn đảnh

rồi giáng xuống Trung cung.

Thủ nhi tịnh định: là mũi không xuất khí, sáu mạch đều an. Tư vị chi tịch diệt: Công phu

Thiền định có luyện Tinh chi hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hườn Hư, luyện Hư

hườn Vô, mới chỉ đến bậc tư tư của thiền. Còn một thiền nữa là luyện vô hư đạo, gọi là Tịch

diệt. Tịch diệt là từ vô mà xuất mà nhập.

Tịch diệt là công phu cuối cùng, Tịch diệt đã định lâu ngày thì có tuyết trăng rơi lăn đầy

không gian nơi tịnh thất. Lúc nầy là lúc xuất định.

Xuất định phải kịp thời mới tránh được sự trì.

Page 87: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

87

Nếu không xuất định là để Dương Thần trong Linh thai, thì một thần thông biến hóa. Là nên

xuất thì phải xuất. Linh thần xuất nhập nơi cửa Thiên môn thứ nhất là Thượng Đơn Điền.

Đó gọi là siêu xuất Tam giới, Tam giới ở đây là cõi thứ 3, tức là vô sắc giới.

Cơ xuất nhập nầy có động tịnh kiêm dụng.

Lúc Dương Thần chưa xuất thì Chân Ý an trụ nơi Thượng Đơn Điền để chờ, gọi là tịnh.

Chờ đến khi nào Dương Thần xuất hai hay ba thước (là lúc mới luyện xuất thần) Chân Ý lập

tức thầu về, gọi là động.

Cơ động tịnh kiêm dụng trong lúc nầy còn có một vầng kim quang treo nơi không trung, phải

thâu lấy và đem về nơi Thượng Đơn Điền, gọi là cơ là động. Lúc đã thâu về rồi thì định và lại

định, gọi là thiền là tịnh.

Cứ như thế để trường định mãi mãi.

Trường định cho đến khi nào Hình và Thần đều hóa, đều huyền diệu thì công phu Thiền định

mới hoàn tất. Thuyết Thiền cơ đến đây đã trọn đủ.

Từ vạn cổ thuyết Thiền cơ cổ Thánh không hề tiết lộ, nay mới tiết lộ.

Ta nguyện cho những người học Phật không lầm nhập theo tà sư ở khẩu đầu thiền cơ, mà gọi

là chân thiền cơ, tức chẳng phải thiền cơ.

Page 88: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

88

13. TẠP LOẠI THUYẾT

Hoa Dương viết: Thành hồ kỳ Đại đạo, mạc bất nhân túc duyên chi đắc. Phù, hựu tại linh tâm

quyết đoán chi lực. Bất bị bàng môn sở hoặc bất hiếu tiểu pháp sở năng, thiện tự hư tâm cung

nghinh, bất chấp môn hộ, sưu tầm cổ chi di ngôn, cầu sư ngộ đạo, dĩ thử ấn chứng chân ngụy.

Thọ thọ chi tế, tất tu thẩm sát trục tiết, khả hiệp, bất khả chi công pháp.

Như quả chân, nhiên hậu hành chi, khả thành dả.

Bất tất cựu tập sở lộng, bất bị ma chướng sơ xâm, nghi tâm đốn thoát, chân tâm thường tồn,

vị lai, quá khứ, hiện tại hồn nhiên. Kiến vật nội tĩnh nhi bất mê. Văn thinh nội định nhi bất

nhập, thản thản như kiểu nhật đương không. Tịch tịch phản chiếu lãng nhiên. Bát phong vô sở

diêu động tắc đại đạo hửu sở vọng hỷ.

Phù chí đạo bất cô hành, lực vi khí nhược, vô sở thành yên.

Tu trượng hữu đức, đồng quy tri giác.

Phỏng lữ hộ chi chân ngụy, tu đương cử thán chi bỉ chi hoài nhân: hoặc hiếu thắng tâm, hoặc

đồ nhữu vi phúc đức, hoặc vị Phật tổ thiên sanh. Giá đẳng thiết mạc lộ cơ.

Hoặc trọng tài nhi kinh nghĩa. Hoặc thủy thủy nhi vô chung. Hoặc ngôn thiện nhi tâm ác.

Hoặc ân cần nhi du hộng. Hoặc tổ tông vô đức.

Quán thử thâm bí tàng chân.

Nhược đắc kỳ Trượng phu chi Chân. Bỉ tự cứu cảnh căn nguyên: lụy sưu Phật tổ chi bí mật.

Sanh hoài trung hiếu nhân nghĩa.

Từ bi tế vật. Ngũ giới toàn chân. Tôn sư trọng pháp. Thệ lập nguyện thâm. Tư vị chi đạo lữ

hộ pháp. Nhi hậu lộ Như Lai chi bí mật. Tiết Tổ sư chi huyền cơ. Sở vị thi giả thọ giả đồng

thành chánh giác.

Hựu vân: Tài, pháp lưỡng thí, đồng đăng bỉ ngạn.

Phù, hạ đại công chi tế, khứ ư tịnh địa danh sơn phòng ốc bất nghi cao đại tường bích kiên

hậu minh ám đắc nghi. Ẩm thực tối đương khiết tịnh bị cấu chư ban pháp khí.

Nhập thất chi thời, sư đồ lập thệ đồng tâm.

Công thành Đạo bị, dương dĩ hí nhơn gian, tiếp dẫn quần mê.

Quảng thí từ bi cho pháp vỏ, phổ tế đăng ngạn chi diệu Dược. Vật ngã đồng đồ. Thị vị: Cổ

Phật, Thánh, Hiền chi nguyện.

Page 89: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

89

THÍCH GIẢI

Đại đạo là Tánh Mạng song tu. Là pháp hàng Long phục Hổ.

Nếu chỉ khô tu khô Tánh thì chẳng phải Đại đạo.

Túc duyên là cái nhân duyên đã tu luyện nhiều kiếp, rồi đời nầy may gặp song tu, như: Châu

Đồ tu hành trong thuở đồng chân, là con nhà phú quý sống trong phòng cao nhà đẹp nên chẳng

được hỏi ai về phương chánh đạo. Tình cờ may gặp Chân sư mà được quán thông về cơ tiêu

tức.

Ta nay nói rõ: sở dĩ những người tu luyện được thành Chánh quả là do cái nhân lành kiếp

trước.

Thời nhà Tấn, Tổ sư Lưu Ký có nói: Nhất Thiên tứ bá hữu di chi niên, Đồ tử đồng chân tảo

tận nghinh. Há chẳng phải do kiếp trước đã tu sao.

Thành Chánh quả là do cái lực của Linh tâm quyết đoán. Tất yếu là do cái tâm được linh ngộ,

chẳng nương theo lời nói của mọi người. Tóm lại là do ở sự Chân tri của ta.

Người có chí tu luyện thấy bàng môn tiểu pháp tự nhiên chẳng thích và chẳng bị lầm lẫn.

Thiện tự Hư tâm cung nghinh: có hư được tâm mới có thể cầu được Chân sư để thỉnh giáo.

Chẳng chấp môn hộ là chẳng chia đây đó Phật Tiên mà nhận chân trong Tam giáo đều có

Chân sư.

Có duyên mới gặp được Chân sư thì cung nghinh để thính giáo, không phân môn hộ.

Lúc chưa gặp được Chân sư, chưa đắc chân truyền thì lo sưu tầm tất cả những di ngôn của

Thánh xưa để tham khảo. Lại quyết chí cầu cho được Chân sư để cầu bí quyết để hiểu rõ về

chánh lý, chánh pháp và chánh đạo.

Sưu tầm di ngôn là bát lãm quần thư của tam đại Thánh nhân trong Tam giáo. Chủ yếu của

Chánh đạo là Tánh Mạng song tu. Ngoài ra đều chẳng phải làm thế nào mà quyết định là Chân

đạo?

Cũng hơi khó nói, chỉ có bậc Thượng sĩ nghe Chân sư chỉ điểm lập tức quán thông, còn một

hạng tuy chưa phải Thượng sĩ nhưng nhiều kiếp trước đã tu theo hướng Tánh Mạng song tu

nên kiếp nầy mới nghe qua hướng tu nầy liền đem lòng thích thú như hướng đã quen thuộc từ

lâu.

Page 90: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

90

Công pháp có thể hạp hay không thể hạp. Nếu biết được rõ ràng là do 2 nguyên nhân đã nói ở

trên.

Nếu chẳng phải Chân đạo là Tánh Mạng song tu, dầu cho có luyện đến muôn kiếp cũng vạn

vô nhất thành. Có tu cũng vô ích.

Thánh nhân nói: có Tri chân thì hành mới chân. Có hành chân thì quả mới chân.

Tri chân, Nho giáo là trí tri. Trí tri là do cách vật. Có trí tri, chân tri hay chân giác mới có

chân Ý, có chân Ý mới chủ tể cho công phu Thiền định.

Làm sao biết được Chân quyết? cũng như câu hỏi trên là làm thế nào để quyết định là Chân

đạo.

Câu trả lời sau đã được một nửa là như trên đã trả lời, còn một nửa nữa là lấy chứng nghiệm

làm bằng, thiết tưởng đã đủ lý. Chứng nghiệm là công phu một bước thì có chứng quả một

bước.

Cửu tập sở lộng: là do những gì trong nhiều kiếp trước đã làm. Nếu ngày nay luyện Tâm đã

được thuần thục thì những cựu tập đó không dấy lên, chờ ngày chứng quả thuần Dương thì

những cựu tập đó không còn.

Công phu Thiền định, cứ một đoạn công phu thì có một đoạn ma chướng, hoặc nội ma hoặc

ngoại ma. Lập tức dùng một điểm chân niệm: ta với ma vô can, và tàng nơi Mạng cung.

Dầu cho có đủ loại ma khảo mà lòng ta vẫn tịch nhiên bất động thì ma phải lui. Đó là công

phu tu luyện Tâm đã thật thuần thục.

Có đạt được chân Tri thì nghi tâm mới đốn thoa. Có đạt được chân quyết của Chân sư thì

chân Tâm mới thường còn và mới làm chủ trì cho chân đạt.

Luyện Kỷ phải đoạn diệt tam Tâm: là việc dĩ vãng chẳng nhớ, là việc hiện tại chớ lo chớ

mừng, là việc vị lai chớ nghĩ đến. Thường giữ trạng thái hồn nhiên.

Thường tình thấy vật, thấy sắc, thấy của thì mờ mắt, tức muội tâm. Lục Tổ mới dạy: thấy vật

mà lòng dấy nhanh.

Tai nghe nói nếu lòng đã định thì tiếng nói không.

Tâm kinh có nói: Nhậm tha thế sự phân phân loạn, đường thượng gia tôn trấn nhật an.

Thản thản như mặt trời treo giữa hư không, là ý nói 12 giờ một điểm Linh quang thường bất

muội.

Page 91: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

91

Tịch tịch phản chiếu lãng nhiên: là Tâm cực tịnh, là song mâu trực chiếu Huyền quan.

Bát phong: là nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý, khẩu, nghiệp chẳng dấy động, là Tâm cực tịnh.

Luyện Tâm được thật thuần thục thì Đại đạo mới mong có hy vọng, công phu tu luyện mới

có hiệu nghiệm.

Lực vi khí nhược, vô sở thành: lực đây là tài sản, có tài sản thì công đức thí pháp mới được

viên mãn, Lục Tổ nhờ Thần Hội Thiền sư cấp phó tài sản, 27 tổ nhờ tài sản của quốc vương

trong các thời đại.

Thí tài cho thí pháp, 2 công đức không sai biệt, đồng thành chánh giác.

Có những kẻ chứa vàng đầy tủ, chứa tiền như núi nhưng chẳng biết phương lập công đức

chân chính là thí tài cho thí pháp, chẳng qua là hạng thủ tài chi lỗ mà thôi.

Tu hành có bạn lữ, đều phải nương theo đức mới đồng quy tri giác.

Đức vốn khó được, như Lục Tổ vừa mới đến Thiều Châu, trên đường gặp Lưu Chí Lược bèn

kết làm bạn tâm giao, đó là đồng tri giác.

Là bạn lữ trong Thiền môn không như bằng hữu của thế tình nên cần phải xem xét thật cẩn

thận để biết người lữ hộ là chân tu hay giả tu. Cần phải có thời gian lâu dài để tìm người bạn

nầy trong lòng đang ôm ấp những gì.

Nếu gặp những kẻ có tâm hiếu thắng, thích khen chán chê, thích địa vị, hay tự tôn tự đại…

người nầy không thể học đạo được.

Còn có những người ưa thích hữu vi, lấy việc xem kinh bái Phật, tu kiều, bồi lộ, tu miếu, thọ

giới để cầu phúc đức, người nầy chưa phải là tông thống của chân đạo. Lục Tổ nói: có phúc và

nghiệp nơi người, há có thể toan lo những gì.

Chẳng đắc chân truyền nên nói có những bậc đắc đạo là do Trời sinh. Thù bất tri, Đại đạo

được thành là do những người có chí lớn.

Bốn hạng người trên, một lời chẳng nên lộ.

Còn có:

- kẻ trọng tài mà khinh nghĩa

- có người hữu thủy và vô chung

- có kẻ miệng thì nói tợ điều lành mà tâm độc ác

Page 92: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

92

- có người có vẻ ân cần mà lòng hay dối lừa

- có kẻ từ ông đến cha là người không đức

Quán xét cho đến cõi lòng thâm bí, 5 hạng người trên đều không thể nào tu hành được.

Nếu được một người chân trượng phu cũng phải xét đến tận cùng căn nguyên, quả là người

đã thích, đã tự ngộ về hướng Tánh Mạng song tu, là người quý.

Nếu có được một người chuyên sưu tầm những bí mật của Phật, của Tổ về hướng tu Tánh

luyện Mạng thì có thể trao họ chánh pháp chân truyền.

Nếu gặp được một người bình sanh hằng ôm ấp Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa thì có thể trao cho

họ pháp môn thượng thừa.

Nếu có được một người Tâm đầy từ thiện hằng lo tế nhơn lợi vật thì có thể trao cho họ bí mật

thiên cơ.

Nếu gặp được một người ngũ giới toàn chân, tôn Sư trọng Pháp, thệ lập nguyện thâm thì có

thể kết giao với họ thành bạn lữ tâm giao để làm hộ pháp giúp ta hạ thủ công phu trong thời

nhập thất.

Sau đó mới tiết lộ cho họ về bí mật của Như Lai và chỉ điểm huyền cơ của Tổ sư.

Cuối cùng người thí pháp và người thọ pháp đồng thành chánh giác. Thí tài cho thí pháp và

thí pháp là 2 công đức vô lượng vô biên, đồng đăng giác ngạn.

Lúc hạ đại công là quá quan rồi mười tháng tư dưỡng Linh thai. Phải đến nơi tịnh địa danh sơ

là nơi rất ít người qua lại. Phải thật xa nghĩa địa để phòng âm khí lai xâm. Là nơi không có lò

sát sanh, không có những phần tử du hí du thực ở gần. Một nơi hoàn toàn yên tịnh chung

quanh có nhiều người hiền cư trú. Là nơi có thể có chánh Thần.

Phòng ốc chẳng cần cao lớn để tránh tiếng thị phi, tường vách phải thật kiên cố để phòng thú

dữ. Cách thiết kế không quá sáng cũng không quá tối, quá sáng thì thương Phách, quá tối thì

thương Hồn.

Chuyên ăn những rau quả, tốt hơn hết là gạo lứt muối mè (vừng). Thứ đến là gạo trắng. Nấu

với đậu xanh, ăn với muối mè, các loại quá thơm nên tránh.

Lúc nhập thất, dưới giường đặt một cân Hùng Hoàng để trừ tà khí. Treo trước mặt một cái

gương cũ để có ma lại thấy hiện trong gương. Làm một cái gươm bằng gỗ đay để trừ ngoại

ma. Tọa cụ phải mềm.

Lúc nhập thất, thầy trò cùng lập thệ đồng tâm.

Page 93: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

93

Lúc đã thành chánh quả chẳng nên du hí mà phải lo tiếp dẫn quần mê.

Quảng thí pháp từ bi như mưa móc rưới khắp.

Lấy diệu dược độ người có phúc được lên bỉ ngạn. Ta với người đồng đường.

Đó là cái nguyện của cổ Phật, của Thánh xưa.

Page 94: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

94

14. QUYẾT NGHI

LIỂU NHIÊN LỤC VẤN

1. Hỏi: lạy Phật chẳng thấy thành Đạo. Là sao vậy?

- Đáp: Phật tại Thái không, nào cần lạy. Kim Cang kinh nói: nhược dĩ sắc kiến ngã, thế nhơn

hành tà đạo, tắc bất năng kiến Như Lai.

Lại hỏi: lạy cũng vô dụng sao?

- Đáp: lạy dù thành ý, đối với đạo cũng vô can.

2. Hỏi: Niệm kinh, tại sao cũng chẳng thấy thành Đạo?

- Đáp: kinh là do Phật làm ra, nếu niệm ấy để cho Phật nghe thì làm sao nghe được, nếu niệm

ấy để cho ta nghe cũng bất tất phải niệm.

Kim Cang kinh có nói: nhược dĩ âm thanh cầu ngã, thế nhơn hành tà đạo, tắc bất năng kiến

Như Lai.

Phật là danh tự của người Tây phương, Khổng tử là tên họ của người Trung Hoa. Phật có tội gì

với ngươi, nếu ngươi niệm khác nào quan khảo thí xướng danh thí sinh có ích gì.

Lục Tổ nói: người phương Đông tạo nghiệp, niệm Phật cầu sinh Tây phương. Vậy người Tây

phương tạo nghiệp thì cầu sanh phương nào?

Cho nên niệm có ích gì đâu.

3. Hỏi: thọ giới, nhưng chẳng thấy thành Đạo là sao vậy?

- Đáp: giới là để răn phạm nhơn. Xưa sau khi Như Lai thành đạo, người theo rất đông nên Văn

Thù cầu xin Như Lai đặt ra giới luật để làm pháp chế phục người hạ đẳng khỏi mắc phải đa sự.

Lục Tổ nói: Tâm hảo tà tu dụng giới.

Đại đạo Tánh Mạng ở nơi trong, còn giới nầy ở ngoài bì phu. Lương bất tương can, nên vô

thành.

4. Hỏi: đả thất một môn, Thích giáo ngày nay xưng là tối thượng cũng chẳng thấy thành, lại

nhiều người bị thổ huyết, là sao vậy?

- Đáp: từ Như Lai khai hóa, Tây phương 28 Tổ, Đông độ 6 đời đều không có môn nầy, đây là

do nhóm Tăng ở Cao phong vu thuyết, chôn hại biết bao Tánh Mạng người đời sau. Cao

phong là nhóm người theo cái học văn tự, chẳng phải là cái đạo của Như Lai. Sở tập của họ là

Page 95: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

95

chuyên bế tức bàng môn. Thổ huyết là do quỳ hương nén khí nên bị tổn thương đến tạng phủ.

Tỏa đả thương bảng thì tổn thương Tích lạc. Dù cho lư y Biến Thước cũng không cứu được.

Môn nầy nhờ có một bậc chí nhơn chấm dứt được mới cứu được vô số Tánh Mạng.

5. Hỏi: có người đả thất lại xưng đốn ngộ Phật Tánh, hiện tại cũng bị thổ huyết, lại đi dạy

người khác tu tập. Như vậy có ngộ được Phật pháp không?

- Đáp: Hoa Dương hè hè cả cười rồi nói: phàm đắc đạo thì trăm mạch đều lưu thông, một khới

thái hòa Dương khí, hoàn toàn không bị Âm khí gây trở tắc. Thổ huyết là do âm dương bất

hòa, do cái lỗi hỏa khí mạnh, âm khí trở tắc nên không bảo vệ được cái Mạng.

Hiểu được Phật Tánh, chẳng chờ tính toán mà tự minh.

6. Hỏi: Lục Tổ nghe câu: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, liền đốn ngộ là hà tất cầu Ngũ Tổ.

- Đáp: Lục Tổ được ngộ là ngộ về Tánh đạo, còn cái đạo Huệ Mạng thì chưa được biết. Cho

nên phải vượt qua vài ngàn dặm đường để cầu Chân sư để xin truyền Huệ Mạng. Huệ Mạng

tất phải do thầy truyền, nếu không gặp được Chân sư thì làm sao đắc.

GIỚI ẤP, TÚ TÀI LÝ TƯ BẠCH, DANH LÀ DỤC DẠ HIỆU QUỲNH NGỌC, LỤC VẤN

1. Hỏi: ngày xưa đệ tử không hề tin ở Phật đạo vì nghe Châu tử nói: Thích đạo chỉ là thuyết hư

tịch. Cho nên bỏ đi và không dùng. Sau đó được nhờ bạn Trạc trao cho tôi quyển sách của lão

sư. Lúc đầu không muốn xem, sau đó mới cố gắng xem mới thấy có công phu chân thiệt, rồi

mới có lòng tin tưởng không còn nghi ngại nữa. Còn hành trì chỉ trong nửa tháng thì có cảnh

chân chi sanh. Liền biết nội thân tám mạch đều mở, có những bệnh tật ngày xưa nay đều được

lành mạnh, Xá Lợi kết, thật là hạnh phúc vậy.

Đệ tử được nghe những người xuất gia ngày nay thường nói là đã ngộ tự tánh chẳng cần tu

luyện, là hủy hoại lời nói nầy có phải như vậy không?

- Đáp: đó là mưu kế toan cầu ẩm thực, lại xem người khác nói họ là kẻ vô đạo, nên làm như

vậy là để mọi người đoái tưởng đến. Cho nên mới dùng pháp câu liên, hà tàng có thực.

Nếu chẳng cần tu luyện, Thế Tôn hà tất phải ở trên núi Tuyết sơn 6 năm, Đạt Ma hà tất phải ở

Thiếu Lâm 9 năm, Lục Tổ hà tất phải ẩn danh 15 năm. Đều là có bằng cớ. Kẻ kia nói mình đã

đốn ngộ là phương mê hoặc người đời. Đến lúc một hơi thở không còn, cũng ô hô vậy.

2. Hỏi: thành Đạo chỉ có một pháp tu luyện sao?

- Đáp: Thiên vạn Phật cũng đều có một pháp. Chưa đắc Huệ Mạng tất có nhiều thuyết môn hộ,

được rõ Huệ Mạng đều quy nhất. Thế Tôn gọi nếu dư ra 2 chẳng gọi là chân.

Page 96: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

96

3. Hỏi: Thiền môn ngày nay truyền pháp có chân không?

Lại hỏi: người xuất gia làm đến Phương trưởng chẳng cầu người, tự tạo ra Hòa thượng, lên

Phật vị, thay Phật thuyết pháp, chẳng biết đó là pháp gì?

- Đáp: từ Tây thiên đến Đông độ, Đạt Ma, Lục Tổ đều dùng khẩu truyền tâm thọ, cho nên Ngũ

Tổ mới nói: Sư sư mật phụ bản âm. Ngày nay vì thất chân truyền nên mổ Tăng chỉ là cái danh

trên giấy rồi gọi là truyền pháp, chẳng khác những kép hát tự xưng Hán Cao Tổ, Sở Bá Vương

mà thôi. Trí giả xem đó làm sao khỏi cười.

4. Hỏi: quán thoại đầu, tham Thiền có phải là chân đạo không?

- Đáp: Thích giáo thuộc bàng môn, nên nói: quán thoại thoại đầu, tham thiền, để tranh phần

thắng về mình. Chánh đạo của Thích giáo là trước song tu, thực hành công phu thực tại mà

chẳng hỏi đến thoại đầu.

5. Hỏi: người đả tọa lại có tẩu lậu, là sao vậy?

- Đáp: thanh niên đến 15, 16 tuổi tinh khí sung mãn thì tự nhiên có tẩu tiết. Chẳng đắc chân

truyền nên chẳng dụng đại công. Đã chẳng hiểu về đại công thì làm gì có cái lý tự trụ. Nếu

muốn chẳng bị tẩu tiết phải chú ý chỗ tẩu tiết mà thu hồi rồi dùng chân Hỏa hà luyện khiến

cho tinh hóa thành khí, khí thượng thăng thì hết tẩu lậu.

6. Hỏi: Thiền môn ngày nay nói: cứ lo tu luyện còn việc tẩu lậu không quan ngại. Lời nói đó

có đúng không?

- Đáp: đó là đệ nhất ngoại đạo. Lăng Nghiêm kinh nói: dâm tâm, dâm thân và dâm căn không

đoạn tất bị rơi vào ma đạo, trải trăm ngàn muôn kiếp không thể nào thoát được quỹ đạo sanh

tử.

Còn tẩu lậu thì có khác gì phàm phu tục tử.

Trên cõi thiên đường không có một vị Phật, vị Tổ nào tẩu lậu cả. Còn như Xá Lợi tử từ đâu lại,

kẻ đó là hạng người hạ đẳng, bất tất luận.

TĂNG CHÂN NGUYÊN THẬP TAM VẤN

1. Hỏi: Chánh đạo theo đâu mà khởi thủ?

- Đáp: Tâm mục sở tại. Lại nói: ngưng tập hòa hiệp tất có chỗ sở tại, là một nơi huyền diệu. Cổ

nhân nói: hồi quang phản chiếu, ngưng tập hòa hiệp phải có chỗ, tức là Cốc thần.

2. Hỏi: Lúc nào hạ thủ?

Page 97: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

97

- Đáp: Có Chân Dược phát sinh thì lập tức hạ thủ. Tổ sư nói: khả quý thiên nhiên vật, độc nhất

vô bạn lữ. Lại chẳng phải Tâm, lại chẳng phải Ý, vật đó ẩn tàng trong Khí Hải. Lúc động thì

có tri giác, tới thời đó thì hạ thủ.

3. Hỏi: Cổ nhân gọi hàng Long phục Hổ, sao gọi là Long Hổ?

- Đáp: Long tức là Linh niệm trong Tâm, còn gọi là nội Dược. Hổ tức là Noãn tín nơi Khí Hải,

còn gọi là ngoại Dược. Nếu muốn hàng Long phục Hổ, trước phải dẫn Long đầu nhập vào Hổ

quật, sau đó Cọp mới quy về Long huyệt. Đó là pháp hàng phục tự nhiên.

4. Hỏi: Tại sao là Cọp mạnh ra khỏi rừng?

- Đáp: Tức dương vật cử động.

Lại hỏi: sao gọi là phục?

Tức lấy Long chế ngự, lấy gió mà thổi.

5. Hỏi: Sao gọi là Chân chủng?

- Đáp: Tức Long Hổ hiệp luyện thành Linh Dược, sau đó mới có cơ động, nên gọi: Chân

chủng.

6. Hỏi: Sao gọi là Xá Lợi tử?

- Đáp: Tức Chân chủng sở sản, là do đã đắc diệu pháp của Châu thiên, số hạn của Châu thiên

đã đủ. Ngoại Thận bất cử nên gọi Xá Lợi tử.

7. Hỏi: Sao gọi là Mâu Ni châu?

- Đáp: Là Xá Lợi tử sở sản rồi vận quá Tam quan, về Trung đình, gọi là Mâu Ni châu. Cổ nhân

nói: tiền tam tam, hậu tam tam là đây.

8. Hỏi: Sao gọi là Đại đạo thai?

- Đáp: Mâu Ni châu đã về Trung cung, cùng với chân Ý tương hiệp. Chân Ý trong châu thí dụ

như đá nam châm hút sắt, nên gọi Đạo thai.

9. Hỏi: Sao gọi là Lục thông?

- Đáp: Trước được thành Lậu tận thông rồi sau mới có ngũ thông. Nếu chỉ tu Tánh mà không

tu Huệ Mạng thì chỉ được ngũ thông mà không có Lậu tận thông. Thiếu Lậu tận thông thì

không thành Phật, chỉ là Linh quỷ chuyển kiếp mà thôi.

10. Hỏi: Sao gọi là xuất định?

Page 98: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

98

- Đáp: Là Châu trong thai đã luyện thành một linh vật. Công phu đã viên mãn gọi là số túc, thì

từ Thượng Đơn Điền xuất.

11. Hỏi: Sao gọi là Hóa thân?

- Đáp: Tức là thân xuất định biến hóa.

Lại hỏi: đến bậc nào mới dùng pháp mà biến hóa?

Cũng như mười ngón tay động, dù một ngón động hay mười ngón động đều do niệm mà có.

12. Hỏi: Chánh đạo với bàng môn, lúc thành có hiệu nghiệm gì?

- Đáp: Bàng môn nói thành là do ở lời nói chứ không có bằng cớ. Chánh đạo thành thì có Xá

Lợi, ngoại Thận không còn cử động, tức thành Thánh thai. Lúc nầy tu sĩ nếu tóc đã trắng bạc

thì trở lại đen, răng rụng lại mọc. Lúc xuất định thì bên ngoài có nhiều thân nữa, cầu chân sư

nên hỏi chỗ nầy.

13. Hỏi: Chẳng đắc Chánh đạo, ngày sau thế nào?

- Đáp: Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.

THÁI ẤP HẢI HỘI TỰ PHƯƠNG TRƯỞNG LONG GIANG

1. Hỏi: Từ lâu tôi đã dùng chánh pháp mà tịnh tu có thể chẳng còn lậu tận thông không?

- Đáp: Tịnh tu chỉ đoạn dâm tâm và dâm thân mà thôi, còn dâm căn thì chưa đoạn được. Dâm

căn chưa đoạn thì Lậu tận chưa thành.

Nếu muốn thành Lậu tận phải dụng công phong hỏa. Như Lai nói: hỏa hóa. Lại nói: phong

xuy. Thật có chân truyền.

2. Hồng Đô Dược sư viện Phương trưởng Thạch Tàng Hòa thượng hỏi: thoạt nhiên đốn ngộ vô

phàm vô Thánh, một niệm viên dung tợ như thái không. Tịnh lâu ngày thì hạ thân được lưu

thông, cho đến ngoại Thận được lưu thông, cho đến ngoại Thận cũng không động, là nguyên

cớ gì vậy?

- Đáp: Đó là chỗ huyền diệu của Thiền cơ. Lúc hạ thủ tu Huệ Mạng thường dùng pháp để thâu

hồi về bản xứ nên gọi là song tu.

CHUNG

---oOo---

Page 99: HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ · HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ 3 Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với

HUỆ MẠNG KINH HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

99

Tập “Huệ Mạng Kinh” này là phần II của cuốn “Đơn Kinh” mà trong đó gồm có “Kim Tiên Chứng Luận và

Huệ Mạng Kinh của Hoa Dương Hòa Thượng”. Phần này có được là do công lao của cô Ngô Mỹ Hạnh đã gửi

bản copy và Đoàn Vũ Thúy ở Biên Hòa đã bỏ công đánh lại vào máy vi tính để có thể đưa lên mạng phân phát

cho mọi người cùng đọc và tìm hiểu.

Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi lầm. Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng

thời xin chỉ bảo những chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.

Xin chân thành cảm tạ,

Viễn Lưu, Oct/20/2015.

Email: [email protected]